
KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH AN
TOÀN THỰC PHẨM
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Vấn đề tìm hiểu về kiến thức và thực hành của người dân về
VSATTP là rất cần thiết, đây là cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo nhằm góp
phần cải thiện sức khoẻ người dân.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ người trực tiếp chế biến thức ăn trong hộ
gia đình tại xã Mỹ An năm 2008 có kiến thức – thực hành đúng về VSATTP và mối
liên quan giữa tuổi, giới, trình độ học vấn, thông tin tuyên truyền VSATTP, tình trạng
kinh tế gia đình với kiến thức – thực hành đúng về VSATTP trong chế biến thức ăn
tại hộ gia đình.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả
của 403 người tại xã Mỹ An. Nghiên cứu được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực
tiếp người nội trợ chính trong gia đình theo bộ câu hỏi được soạn sẵn.

Kết quả nghiên cứu: Về trình độ học vấn: các đối tượng trong mẫu có trình
độ học vấn từ cấp I chiếm tỉ lệ 48,11% (trong đó mù chữ 4,22%), người có trình độ
học vấn cấp II là 34,74%, học vấn cấp III là 13,90% và trên cấp III là 3,23%. Về
truyền thông giáo dục sức khỏe: Có 84% đối tượng được phỏng vấn có tiếp xúc với
thông tin về VSATTP. Đa số họ có nguồn thông tin từ tivi, radio (chiếm tỉ lệ 89%).
Về kiến thức: Tỉ lệ người có kiến thức đúng về VSATTP là 1,50%. Trong đó, tỉ lệ
người có kiến thức đúng về vệ sinh nguồn nước là 17,66%, về NĐTP chỉ có 14,64%.
Về thực hành: Tỉ lệ người chế biến có thực hành đúng về VSATTP là 8,23%. Trong
đó, 15,38% có thực hành đúng thùng rác đựng rác thực phẩm có nắp đậy. Tỉ lệ hộ gia
đình có dụng cụ chứa nước hợp vệ sinh là 65,01%.
Kết luận: Kiến thức và thực hành đúng về VSATTP của người trực tiếp chế
biến thức ăn nơi khảo sát còn rất thấp. Trình độ học vấn có ảnh hưởng rất lớn đến sự
thay đổi về kiến thức và thực hành. Tác động của truyền thông hiện tại có thay đổi về
mặt kiến thức về VSATTP của người dân.
ABSTRACT
Background: Measuring the knowledge and practice of people on hygiene
and safety food is fairly necessary. The result of research will be the firm bases for the
next steps in health improvement.
Objective: To determine the proportion of people processing food directly in
household in My An commune, Mang Thit district, Vinh Long province in 2008 have

right knowledge, practice on hygiene and safety food and the association between
age, ethnic, gender, level of education, information about hygiene and safety food
propagandized, household economic status and right knowledge, practice on hygiene
and safety food.
Methods: This is a cross-sectional study. The person processing food directly
at household participate in the research was selected randomly.
Result: The level of education: The proportion of people has low education
level. Among these people, there were 48.11% having level of education I (in which
illiterate: 4.22%), people with level of education II was 34.74%, people with
education level III was 13.90% and people with intermediate level, college, university
and postgraduate level was 3.23%. Communication and Health education: There are
84% of participants in the research have known the information about hygiene and
safety food. The majority of them got the information through television, radio (89%).
Knowledge: The proportion of people who have right knowledge on hygiene and
safety food was 1.50%. Among these people, there were 17.66% having right
knowledge hygiene water, especially small proportion of people having right
knowledge on food poisoning was 14.64%. Practice: The proportion of people having
right practice on hygiene and safety food was 8.23%. Among these people, there were
15.38% having the lip on their food rubbish basket. There were 65.01% having
hygiene reservoir.

Conclusion: The right knowledge and practice on hygiene and safety food of
people participate directly in processing food was still low. The level of education had
an affect toward changes on knowledge and practice. There were effects of current
mass media on changing the knowledge of people on hygiene and safety food.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực phẩm luôn có một ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe con người, sử
dụng thực phẩm không hợp vệ sinh, không an toàn đều có thể bị ngộ độc. Trong
những năm qua, công tác vệ sinh thực phẩm ở nước ta đang đứng trước nhiều thách
thức. Nhiều vụ ngộ độc cấp tính gây chết người đã xảy ra rất đáng tiếc ở các bữa ăn
gia đình và tập thể làm xôn xao dư luận xã hội(6).
Theo báo cáo của WHO (1997), ở Mỹ cứ 1.000 dân có 175 ca ngộ độc thực
phẩm và mỗi năm có 5.000 người chết vì ngộ độc thực phẩm. Ở Anh cứ 1.000 dân có
190 ca ngộ độc thực phẩm(5).
Tại Việt Nam theo thống kê của Cục an toàn vệ sinh thực phẩm, trong giai
đoạn 01/01/2006 đến 05/11/2008 đã có 473 vụ ngộ độc thực phẩm với 18.146 người
mắc và 201 người chết(1). Đó là chưa kể tình trạng ngộ độc mãn tính do thức ăn bị
nhiễm các hoá chất độc tích lũy, gây hại trong cơ thể chưa ai lường hết được. Vì vậy
việc tìm hiểu kiến thức và thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm của người dân và
hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về an toàn vệ sinh thực phẩm tác động như
thế nào đến kiến thức và thực hành của người dân là rất quan trọng và cần thiết.

Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ người trực tiếp chế biến thức ăn trong hộ gia đình có kiến thức –
thực hành đúng về VSATTP và mối liên quan giữa tuổi, giới, trình độ học vấn, thông
tin tuyên truyền VSATTP, tình trạng kinh tế gia đình với kiến thức – thực hành đúng
về VSATTP trong chế biến thức ăn tại hộ gia đình.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Địa điểm và Thời gian nghiên cứu
Xã Mỹ An, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Từ tháng 02/2008 đến tháng
08/2008
Đối tượng nghiên cứu
Người trực tiếp chế biến thức ăn trong hộ gia đình tại xã Mỹ An, huyện
Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long.
Cỡ mẫu
403 người.