ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN TUẤN VIỆT ĐÁNH GIÁ SỰ HIỆN DIỆN MỘT SỐ KIM LOẠI NẶNG TRONG NGHÊU TRẮNG Meretrix lyrate VÀ MÔI TRƯỜNG SỐNG CỦA CHÚNG
Chuyên ngành: Quản lý Tài nguyên và Môi trường Mã số chuyên ngành: 9850101
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020
Công trình được hoàn thành tại Người hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS. Nguyễn Phước Dân Người hướng dẫn khoa học 2: TS. Emilie Strady Phản biện độc lập 1: Phản biện độc lập 2: Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại ............................................................................................................................... ............................................................................................................................... vào lúc giờ ngày tháng năm Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM - Thư viện Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU
1.1 Phần mở đầu
Kim loại vết trong môi trường nước thường có nguồn gốc từ cả tự nhiên và các
hoạt động của con người. Các nguồn tự nhiên chủ yếu do các quá trình xói mòn,
các hoạt động của núi lửa hay rò rỉ từ môi trường đất. Trong khi đó, các nguồn từ
con người có thể kể đến các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, chảy tràn từ
các vùng đô thị, hoạt động sinh hoạt của con người, v.v… Khi các kim loại đi vào
sông, suối, kênh, rạch sẽ đổ ra vùng ven biển, cửa sông. Những vùng này có thể
trữ nhiều thông tin về chất lượng của môi trường xung quanh [1]. Một trong
những vẫn đề nghiêm trọng nhất do việc ô nhiễm kim loại ảnh hưởng tới hệ sinh
thái vùng này đó chính là khả năng tích lũy sinh học của một số loài có thể dẫn
tới nguy cơ gây ảnh hưởng lên môi trường và sức khỏe con người [2], [3].
Có nhiều loài hai mảnh vỏ sống ở vùng ven biển cửa sông đã được chứng minh
khả năng tích lũy sinh học các kim loại vết từ môi trường [3], [4]. Để ước lượng
và đánh giá lượng kim loại tích lũy trong cơ thể sinh vật người ta thường sử dụng
các hệ số tích lũy. Những hệ số này được tính dựa vào tỉ số giữa nồng độ chất ô
nhiễm trong sinh vật và trong môi trường sống của chúng [5]–[7]. Trong một số
trường hợp, mức độ tích lũy sinh học trong những bộ phận khác nhau của những
loài hai mảnh vỏ thường được quan tâm hơn do những cơ quan cụ thể có những
mức nhạy cảm khác nhau đối với mức độ ô nhiễm từ môi trường sống của chúng
[8], [9]. Chính vì vậy, mối tương quan giữa nồng độ kim loại trong môi trường
và trong các cơ quan của sinh vật lại đôi lúc được chọn nghiên cứu nhiều [9],
[10]. Do một số đặc tính như vậy, các nghiên cứu đã thực hiện nhằm xem xét khả
năng ứng dụng sinh vật hai mảnh vỏ làm công cụ đánh giá mức độ ô nhiễm khu
vực ven biển cửa sông [11]. Theo đó, những sinh vật hai mảnh vỏ là một trong
những chỉ thị phổ biến ứng dụng vào quan trắc môi trường do có nhiều khả năng
chứa các thông tin về chất lượng môi trường hoặc một phần của môi trường [12].
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) là một trong những “siêu đô thị” ở khu vực
Đông Nam Á với rất nhiều các thành phố vệ tinh bao quanh. Những lượng chất
1
thải lớn từ TPHCM và các vùng lân cận đang thải vào sông Sài Gòn – Đồng Nai
(SG-ĐN) đang là một mối nguy hại lớn cho môi trường nước vùng này [13], [14].
Vùng ven biển cửa sông Soài Rạp của sông SG-ĐN bao gồm Cần Giờ (TPHCM)
và Tân Thành (tỉnh Tiền Giang) ghi nhận có nhiều hoạt động nuôi nghêu Bến
Tre, tên khoa học Meretrix lyrata (G. B. Sowerby II, 1851). Theo số liệu Phòng
kinh tế huyện Cần Giờ, năm 2015 diện tích nuôi nghêu ở đây là 800 ha, sản lượng
9.600 tấn/năm (trong đó xuất khẩu 7.877,5 tấn). Còn phía bờ phải cửa Soài Rạp,
nơi gần cửa Tiểu sông Mekong, nổi tiếng với vùng nuôi nghêu Tân Thành (Gò
Công, Tiền Giang), tổng diện tích nuôi nghêu ven biển khoảng 2.000 ha. Trong
đó nghêu thu hoạch (50-80 con/kg) là 600 ha tương tương 6.500 tấn/năm; nghêu
trung (100-800 con/kg) chiếm 900 ha, nghêu giống (4.500-8.000 con/kg) khoảng
500 ha [15]. Loài nghêu trắng này được thu hoạch ở độ tuổi 10-12 tháng. Tuy
nhiên ở một số nơi giữ tới 18 tháng hoặc hơn mới thu hoạch. Cho đến nay, chủ
yếu các nghiên cứu về nghêu M. lyrata tập trung vào ảnh hưởng của môi trường
đến đời sống và phát triển nghêu như dinh dưỡng, vật chất lơ lửng, nhiệt độ, độ
mặn, nước mưa, bãi triều [16] và về gen [17], [18]. Trong khoảng 15 năm qua,
có một số nghiên cứu tập trung vào nồng độ kim loại trong nghêu M. lyrata được
công bố như nghiên cứu về sự tích lũy và đào thải Cd, As và Pb trong nghêu trắng
[19], nồng độ một số kim loại trong nghêu trắng vùng ven bờ biển Việt Nam
[20]–[22]. Tuy nhiên, những nghiên cứu này được thực hiện trong những đợt lấy
mẫu ngắn, một số chỉ tập trung vào một vài kim loại, một số chỉ phân tích trên
các mẫu mua ở chợ. Năm 2017, nghiên cứu về tích lũy sinh học trong nghêu trắng
M. lyrata đối với các phần khác nhau của trầm tích tại Tân Thành đã được công
bố nhưng những mẫu trong nghiên cứu này lấy làm ba đợt rơi vào tháng 6, 9 và
12 đều nằm trong mùa mưa, và các tác giả cũng không thực hiện phân tích các
kim loại trong các bộ phận khác nhau của nghêu hay phân tích tương quan giữa
nồng độ kim loại trong nghêu và các điều kiện thể chất của chúng [23].
Như vậy, có hay không những ảnh hưởng từ môi trường vùng cửa sông này tới
loài nghêu Meretrix lyrata là câu hỏi đã được nhiều nhóm quan tâm nghiên cứu
bên cạnh việc khảo sát khả năng tích lũy kim loại hay một số cơ chế tích lũy đào 2
thải kim loại. Còn rất nhiều các khoảng trống trong nghiên cứu về những mối
quan hệ giữa kim loại trong nghêu và môi trường đang cần được bổ sung như (1)
Sự hiện diện và mức độ biến đổi nồng độ kim loại trong các thành phần môi
trường khu vực nuôi nghêu ven biển gần cửa sông SG-ĐN cũng như trong con
nghêu M. lyrata theo mùa như thế nào? (2) Các mối tương quan giữa nồng độ
kim loại trong nghêu và các yếu tố thể chất hay nồng độ kim loại trong môi trường
có tồn tại? Liệu nghêu M. lyrata có khả năng được sử dụng làm sinh vật quan
trắc ô nhiễm kim loại tại vùng ven biển cửa sông không? (3) Khả năng tích lũy
các kim loại khác nhau trong nghêu M. lyrata có khác nhau ở những bộ phận
khác nhau? (4) Sử dụng nghêu M. lyrata làm thực phẩm liệu có bị ảnh hưởng gì
từ các kim loại tích lũy trong cơ thể chúng?
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này đặt ra những mục tiêu là:
- Tìm hiểu được mức độ hiện diện và biến đổi theo thời gian của hàm lượng các
kim loại Mn, Fe, Co, Ni, Cu, Zn, As, Se, Cd, Hg, và Pb trong các thành phần môi
trường khu vực nuôi nghêu Meretrix lyrata ven biển cửa sông Sài Gòn – Đồng
Nai;
- Đánh giá được khả năng tích lũy các kim loại khác nhau trong nghêu M. lyrata
và ứng dụng loài nghêu này làm sinh vật quan trắc môi trường;
- Xác định ước lượng mức độ rủi ro tới sức khỏe con người do ảnh hưởng của
một số kim loại khi sử dụng nghêu M. lyrata làm thực phẩm.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu đặt ra, nghiên cứu này tập trung thực hiện các nội
dung chính như sau:
Nội dung 1: Khảo sát sơ bộ sự hiện diện kim loại trong môi trường và nghêu
trắng vùng hạ lưu sông Sài Gòn – Đồng Nai
3
Nội dung 2: Đánh giá sự hiện diện và biến đổi theo thời gian của một số kim loại
trong nghêu M. lyrata và môi trường sống của chúng
Nội dung 3: Tìm hiểu khả năng tích lũy của một số kim loại trong nghêu M.
lyrata và ứng dụng loài này làm sinh vật quan trắc
Nội dung 4: Ước tính mức độ rủi ro tới sức khỏe con người do ảnh hưởng của
kim loại khi sử dụng nghêu M. lyrata làm thực phẩm.
Tóm tắt các nội dung nghiên cứu được trình bày trong Hình 1.1
Chuyên đề 1
Nội dung 1: Khảo sát sơ bộ sự hiện diện kim loại trong môi trường và nghêu trắng vùng hạ lưu sông Sài Gòn – Đồng Nai Sự hiện diện một số kim loại nặng trong môi trường nước mặt, cặn lơ lửng, bùn đáy và nghêu (Meretrix lyrata) vùng hạ lưu sông Sài Gòn
Chuyên đề 2
Nội dung 2: Đánh giá sự hiện diện và biến đổi theo thời gian của một số kim loại trong nghêu M. lyrata và môi trường sống của chúng Kim loại vết trong các bộ phận khác nhau của nghêu Meretrix lyrata nuôi tại Cần Giờ và Tân Thành
Nội dung 3: Phân tích và Tìm hiểu khả năng tích lũy của một số kim loại trong nghêu M. lyrata và ứng dụng loài này làm sinh vật quan trắc
Nội dung 4: Ước tính mức độ rủi ro tới sức khỏe con người do ảnh hưởng của kim loại khi sử dụng nghêu M. lyrata làm thực phẩm
Đánh giá sự hiện diện một số kim loại nặng trong nghêu trắng Meretrix lyrata và môi trường sống của chúng
Hình 1.1 Sơ đồ nội dung nghiên cứu
4
CHƯƠNG 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phạm vi nghiên cứu
Hình 2.1 Khung logic của nghiên cứu
2.2 Khảo sát sơ bộ sự hiện diện các kim loại trong nghêu trắng M. lyrata và môi trường vùng hạ lưu sông Sài Gòn – Đồng Nai
2.2.1 Khu vực nghiên cứu
Các mẫu bùn đáy, SPM, nước mặt được lấy tại 3 trạm dọc hệ thống bao gồm (1)
Bạch Đằng (sông Sài Gòn); (2) Hóa An (sông Đồng Nai); (3) Lý Nhơn (gần cửa
sông) vào các tháng 4, 5, 6, 7 và 9 năm 2015. Riêng tại khu vực ven biển Cần 5
Thạnh, ngoài các loại mẫu bùn đáy, SPM, nước mặt như các trạm trên sông thì
mẫu nghêu Bến Tre được thu thập trong các đợt từ tháng 3, 4, 5, 6, 7 và 9. Mẫu
tại khu vực Tân Thành – Tiền Giang được lấy 2 đợt tháng 3 và tháng 9 nhằm so
sánh với khu vực Cần Thạnh.
2.2.2 Phương pháp lấy mẫu và phân tích
Mẫu nước sử dụng phân tích kim loại được lọc tại chỗ bằng giấy lọc Whatman®
cellulose acetate (WCA) đường kính lỗ 0,45 µm đã sấy và cân trước tại phòng
thí nghiệm (PTN). Nước sau lọc được thêm a xít HNO3 đến pH<2 và đựng trong
chai nhựa đã được rửa bằng a xít tại PTN. Các mẫu sau đó được bảo quản lạnh
mang về PTN tiếp tục phân tích các thông số kim loại Cd, Pb, Zn, Cu bằng ICP-
OES theo USEPA 200.7.
Mẫu bùn được lấy bằng gàu Ekman tại các khu vực sông và trực tiếp bằng thìa
nhựa tại vùng bãi nghêu. Mẫu bùn được để trong túi nylon và bảo quản lạnh mang về PTN bảo quản trong tủ đông -18oC đến khi được thực hiện các bước tiếp theo.
Nghêu được lấy trực tiếp tại bãi bằng tay hoặc dụng cụ cào nghêu sau đó mang về PTN bảo quản trong tủ đông -18oC đến khi được tách vỏ xử lý sơ bộ. Mẫu
nghêu được đo đạc kích thước và khối lượng trước khi tách phần thịt nghêu để
xử lý. Phân loại kích cỡ nghêu theo độ tuổi khác nhau dựa vào kích thước chiều dài của chúng theo phương trình tương quan (với R2 = 0,9755) của nghêu
Meretrix lyrata như sau [24]:
(2.1) 𝐿 = 69 ∗ [1 − 𝑒{0,474𝑡+0.0519 [sin 2𝜋(𝑡−0,109)]+0,0457}]
Trong đó: L là chiều dài nghêu (mm); t là tuổi nghêu (năm).
Bùn đáy, SPM và thịt nghêu được xác định tỉ lệ khối lượng khô bằng cách sấy
tới khối lượng không đổi sau đó nghiền mịn và đồng nhất. Các mẫu đã nghiền
đồng nhất được cân 0,5 g cho vào ống phân hủy, thêm 1mL nước cất, 2 mL hỗn
hợp (HNO3– HClO4 1:1 vv) và 5 mL H2SO4. Toàn bộ ống được đặt vào hệ reflux nung 200oC trong 30 phút. Các mẫu sau quá trình xử lý được lọc qua giấy lọc
WCA 0,45 µm. Dung dịch sau lọc được định mức vào bình 50mL bằng dung dịch
6
HNO3 2%. Mẫu sau khi xử lý được phân tích kim loại Cd, Pb, Zn, Cu bằng ICP-
OES theo USEPA 200.7.
2.3 Đánh giá sự hiện diện và biến đổi theo thời gian của một số kim loại trong nghêu M. lyrata và môi trường sống của chúng
2.3.1 Khu vực nghiên cứu
Các mẫu nghêu và môi trường được thu thập tại 3 khu vực thuộc huyện Cần Giờ,
TP.HCM và huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang (Hình 3.2):
Hình 2.3 Lấy mẫu nghêu và dụng cụ khai thác nghêu của dân địa phương
2.3.2 Phương pháp lấy mẫu và phân tích
Tại mỗi vị trí lấy mẫu, các loại mẫu nước mặt, nước lỗ rỗng, vật chất lơ lửng,
bùn cát ven biển và nghêu trắng được thu thập mỗi tháng từ tháng 3 đến tháng 9
năm 2016 (Tháng 3,4: mùa khô; Tháng 5,6,7: giao mùa; Tháng 8,9: mùa mưa).
Mẫu nước mặt được sử dụng phân tích kim loại được lọc qua giấy lọc PTFE 0,2
µm khoảng 50 mL sau đó được đưa vào lọ nhựa P.P và bảo quản bằng a xít HNO3
(65 %, Merck, Suprapur®) tới pH < 2 (tỉ lệ về thể tích HNO3/ mẫu là 1/1000)
[15], [34], [35]. Mẫu bảo quản về phòng thí nghiệm được phân tích các kim loại
trên thiết bị ICP-MS (Agilent 7700x series). Vật chất lơ lửng được lấy bằng cách
cho lọc khoảng 150-200 mL nước mặt qua giấy lọc đã được cân sẵn có kích thước
lỗ 0,45 µm (Whatman®).
Khi nước triều rút xuống, nghêu được lấy tại vị trí lấy mẫu nước mặt và SPM.
Mỗi mẫu nghêu thu thập khoảng 30-40 cá thể có độ tuổi từ 12 tháng trở lên
7
(nghêu thu hoạch). Nghêu được bảo quản trong túi nylon và vận chuyển ngay về
phòng thí nghiệm. Tất cả các cá thể nghêu đều được rửa sạch bằng nước cất và bảo quản ở -20oC cho tới khi thực hiện các bước tiếp theo [27].
Mẫu bùn cát đáy được lấy khoảng 500 g được trộn từ 5 vị trí ngẫu nhiên khu vực
lấy mẫu nghêu, mỗi vị trí cách nhau 5 m. Tại các vị trí lấy mẫu bùn cát đáy tạo
thành hố nhỏ, nước lỗ rỗng từ các hố này được thu thập và xử lý qua lọc [9], bảo
quản như nước mặt để thực hiện phân tích các kim loại.
Tại PTN, mẫu bùn cát và SPM được xác định khối lượng ướt sau đó làm khô
bằng thiết bị đông khô Freeze-Dryer (Alpha 1-2 LDplus) trong ít nhất 24 giờ cho
tới khi có khối lượng không đổi. Mẫu bùn cát khô sau đó được làm mịn bằng
chày và cối đá và trộn đều để đồng nhất. Một lượng khoảng 100 mg đối với bùn
cát hay tấm giấy lọc chứa vật chất lơ lửng được cho vào lọ nhựa PTFE (lọ
Savilex). Mỗi lọ được thêm một lượng 2mL a xít HNO3 (65%, Merck,
Suprapur®) và 4 mL HCl (35%, Merck, Suprapur®) [28], [29]. Các lọ được đóng
chặt rồi cho vào máy ultrasonic trong 20 phút trước khi để vào hệ đĩa nóng ở 120oC trong 4 giờ. Mẫu sau đó được làm nguội xuống 60oC, nắp lọ mở ra cho
dung dịch trong lọ bay hơi đến khô. Tiếp tục cho 10 mL nước cất Mili-Q va 0,5 mL HNO3 (65%, Merck, Suprapur®) vào lọ, đưa về 65oC trong 30 phút. Cuối cùng, hút 3,5 mL dung dịch trong lọ cho vào ống nghiệm nhựa polypropylene (PP) đã chứa sẵn 6,5 mL nước cất Mili-Q. Ống này được bảo quản ở 4oC đến khi
phân tích các kim loại trên ICP-MS (Agilent 7700x series).
Mẫu nghêu được đo đạc kích thước vỏ, cân khối lượng ướt nguyên con (cả vỏ và
thịt). Nghêu có độ tuổi 12 tháng trở lên được lựa chọn để phân tích (dựa vào
phương trình 3.1). Đối với các mẫu phân tích nguyên con, mẫu nghêu là tổ hợp
của 2 – 5 con tùy kích cỡ, đối với các mẫu phân tích từng bộ phận thì mẫu là tổ
hợp của các bộ phận của từ 3-5 cá thể nghêu khác nhau. Các mẫu nghêu được
phân ra mẫu nguyên con (WB), mẫu mang (Gills – G), mẫu tuyến tiêu hóa
(Digestive gland – DG) và phần mô mềm còn lại (Remaining tissues – R) bằng
cách sử dụng dao làm thép không rỉ [20], [30]. Các mẫu được bảo quản trong túi
8
nylon đã được cân khối lượng trước và tiến hành cân trước khi bảo quản tiếp ở - 20oC. Các mẫu nghêu sau đó được làm khô bằng thiết bị đông khô (Christ Model
Alpha 1-2 LDplus) đến khối lượng không đổi, xác định khối lượng khô, giã
nhuyễn bằng chày và cối đá và trộn đều thành hỗn hợp đồng nhất [31]. Tiếp theo,
các mẫu nghêu được xử lý bằng phương pháp nhiệt với a xít HNO3 65% loại rất
tinh khiết (65%, Merck, Suprapur®). Cụ thể lượng mẫu nghêu khô đã đồng nhất
được cân 100-200 mg cho vào lọ nhựa chịu nhiệt (Savillex jar) đã được rửa kỹ
lần lượt bằng a xít HNO3 10%, 2% và nước cất MiliQ. Một lượng 5 mL a xít
HNO3 65% được đưa vào lọ, đóng chặt nắp và bỏ vào đĩa nhiệt trong tủ hút [32]. Hỗn hợp được nung trong 3,5 giờ trên đĩa nhiệt ở 110oC và đưa về nhiệt độ phòng (25-30oC) [33], [34]. Một lượng 4 mL dung dịch trong lọ savillex được hút cho vào lọ nhựa PP đã chứa 30 mL nước cất MiliQ. Mẫu được bảo quản ở 4oC trước khi phân tích trên ICP-MS (Agilent 7700x series).
2.3.3 Phân tích số liệu
a) Xác định giá trị sử dụng của phương pháp
Để xác định độ chính xác (Accuracy) của phương pháp phân tích các kim loại
trong mẫu sinh vật sử dụng kết quả phân tích mẫu CRMs [35]. Mẫu CRMs trong
nghiên cứu này là TORT-3 của Hội đồng nghiên cứu quốc gia Canada (NRCC)
với nền mẫu là nội tạng tôm hùm. Kết quả của mẫu CRMs cho phép tính toán và
đánh giá được các chỉ số thống kê như độ chệch Bias, hiệu suất thu hồi R, và
phép thử thống kê t.
b) Ước lượng rủi ro đến sức khỏe người tiêu thụ nghêu làm thực phẩm
Đánh giá mức độ rủi ro đến sức khỏe con người được tính toán dựa trên giá trị
hệ số nguy hại (Hazard Quotient – HQ) theo công thức:
𝐸𝐷𝐼 𝑅𝑓𝐷
(2.5) 𝐻𝑄 =
Trong đó:
9
- RfD là hệ số liều lượng tham chiếu (Reference dose factor – RfD, đơn
vị là µg/kg_cơ_thể/thời_gian)
- EDI là mức độ phơi nhiễm với kim loại được xác định dựa trên việc
ước tính mức ăn vào hàng ngày (the Estimated daily intake – EDI)
(µg/kgcơthể/ngày) theo công thức:
𝐸𝐹∗𝐸𝐷 𝐴𝑇
𝑑𝑐𝑏𝑖𝑣𝑎𝑙𝑣𝑒 𝑏𝑤
(2.6) 𝐸𝐷𝐼 = 𝐶𝑏𝑖𝑣𝑎𝑙𝑣𝑒 ∗
Trong đó: Cbivalve là nồng độ trung bình của kim loại trong nghêu (µg/kg
ướt); dcbivalve là mức tiêu thụ nghêu hàng ngày (4,97 g/người/ngày – số liệu ước
tính của FAO cho loại thực phẩm hai mảnh vỏ nói chung của người Việt Nam
năm 2013 [36]); ED là khoảng thời gian phơi nhiễm – ước tính 30 năm cho người
trưởng thành theo US. EPA; EF là tần suất phơi nhiễm – ước tính 350 ngày theo
US. EPA; AT là thời gian phơi nhiễm thực tế = 365 ngày x ED = 10.950 ngày;
và bw là trọng lượng cơ thể (60kg).
Lượng nghêu ăn vào tối đa cho con người xét trên mức lo ngại về nồng độ các
kim loại trong nghêu ở mức an toàn là khi HQ = 1, khi đó lượng tiêu thụ tối đa
hàng ngày của thịt nghêu (dcmax, g/người/ngày) sẽ là:
𝐴𝑇∗𝑅𝑓𝐷∗𝑏𝑤 𝐸𝐹∗𝐸𝐷 ∗ 𝐶𝑏𝑖𝑣𝑎𝑙𝑣𝑒
(2.7) 𝑑𝑐𝑚𝑎𝑥 =
Vì HQ chỉ ước lượng được rủi ro tới sức khỏe do một nguyên tố hayhợp chất,
US. EPA đã đề xuất sử dụng hệ số nguy hại tổng THI để đánh giá:
(2.8) 𝑇𝐻𝐼 = ∑ 𝐻𝑄
c) Tính toán hệ số điều kiện (Condition index – CI) theo công thức [37]:
𝑚𝑡𝑖𝑠𝑠𝑢𝑒 𝑚𝑠ℎ𝑒𝑙𝑙
(2.9) 𝐶𝐼 = 100
Trong đó: CI là chỉ số điều kiện (%); mtissue là khối lượng ướt của nghêu (g); mshell
là khối lượng của vỏ nghêu (g).
d) Tính nồng độ của mẫu nghêu dựa vào nồng độ của mẫu từng bộ phận của
nghêu theo công thức sau:
10
(2.10) 𝐶𝑑𝑖𝑠𝑠𝑒𝑐𝑡𝑖𝑜𝑛 = 𝐶𝐺 ∗ 𝑝𝐺 + 𝐶𝐷𝐺 ∗ 𝑝𝐷𝐺 + 𝐶𝑅 ∗ 𝑝𝑅
Trong đó: Cdissection là tổng nồng độ kim loại trong nghêu (mg/kg khô); CG, CDG,
CR lần lượt là nồng độ của từng mẫu mang (G), tuyến tiêu hóa (DG) và phần mô
còn lại (R); pG, pDG, pR lần lượt là tỉ lệ khối lượng khô của từng thành phần G,
DG, R trên tổng khối lượng khô của các phần của mẫu. Các kết quả phân tích
tương quan và ANOVA cho thấy nồng độ nghêu tính theo nhóm 1 (WB) và 2
(Các mẫu được chia ra các bộ phận khác nhau, bao gồm: mẫu mang Gills – G;
tuyến tiêu hóa Digestion gland – DG; và phần mô còn lại Remaining tissues – R)
tương đồng nhau.
e) Tính toán tích lũy sinh học trong nghêu dựa vào hệ số tích lũy sinh học từ vật
chất lơ lửng (BSPMAF) đối với sinh vật và hệ số tích lũy sinh học từ trầm tích
𝐵𝑆𝑃𝑀𝐴𝐹 =
𝐵𝑆𝐴𝐹 =
(BSAF) đối với sinh vật dựa vào công thức sau [7]:
𝐶𝑐𝑙𝑎𝑚 𝐶𝑆𝑃𝑀
𝐶𝐶𝑙𝑎𝑚 𝐶𝑆𝑒𝑑𝑖𝑚𝑒𝑛𝑡
(2.11) (2.12)
g) Phân tích phương sai một chiều và hai chiều sử dụng kiểm tra sự sai khác có
tính thống kê giữa giá trị trung bình của từ hai nhóm số liệu độc lập với mức ý
nghĩa p < 0,05. Với những so sánh từ 3 dãy số liệu độc lập thì làm thêm thủ tục
Post Hoc với kiểm định Tukey.
h) Phân tích tương quan giữa các dãy số liệu sử dụng phép phân tích tương quan
Pearson (với p<0,05 là mức tin cậy chấp nhận) trên phần mềm SPSS 16.
11
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Sự hiện diện một số kim loại trong môi trường và nghêu trắng vùng hạ lưu sông Sài gòn – Đồng nai
Kết quả phân tích kim loại trong các mẫu môi trường tại bãi nghêu Cần Thạnh
phát hiện có dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng, tiềm tàng nhiều khả năng gây hại
đến môi trường và thủy sinh của vùng. Khi so sánh với một số các tiêu chuẩn trên
thế giới ghi nhận nồng độ các kim loại trong môi trường nước tại khu vực nghiên
cứu dao động ở mức trung bình cao. Cụ thể nồng độ các kim loại phần lớn kết
quả đạt theo chất lượng nước mặt của EPA Ireland nhưng lại ở mức cao so với
quy định chất lượng nước bảo vệ thủy sinh của Canada hay của EPA Mỹ. Đối
với nước biển, nồng độ Cu và Zn dao động ở mức cao và đa số đều vượt giá trị
có thể gây độc cấp tính cho thủy sinh được quy định bởi EPA Mỹ. Ngoài ra, khi
so sánh với các giới hạn cho phép theo quy định của Việt Nam, nồng độ Pb và
Cd đều phát hiện mức ô nhiễm cao.
Kết quả phân tích cho thấy nông độ kim loại hòa tan trong môi trường nước luôn
rất nhỏ dao động từ 85 – 3.000 lần nhỏ hơn các kim loại tương tự trong SPM và
bùn đáy. Không phát hiện quy luật rõ ràng về thứ tự nồng độ kim loại trong mẫu
SPM và bùn đáy, giá trị kết quả trong các mẫu này thường dao động gần nhau.
Kết quả này cho thấy có sự ảnh hưởng qua lại giữa SPM và bùn đáy.
Xét tổng nồng độ kim loại trong ba môi trường thành phần là nước, SPM và bùn
đáy cho thấy nồng độ Cd, Cu và Zn tăng dần theo thứ tự từ thượng nguồn tới biển
là Hóa An
kết quả phân tích cho thấy khu vực Bạch Đằng có tổng nồng độ và nồng độ trong
từng thành phần môi trường cao hơn Hóa An, Lý Nhơn và xấp xỉ bằng Cần Thạnh
(Hình 3.4). Kết quả này có thể do ảnh hưởng của một số hoạt động phát sinh kim
loại thải từ các hoạt động đô thị hay các hoạt động của cảng biển gần Bạch Đằng
gây ra.
12
Hình 3.1 Nồng độ trung bình Cu trong các môi trường tại khu vực nghiên cứu năm 2015 Hình 3.2 Nồng độ trung bình Zn trong các môi trường tại khu vực nghiên cứu năm 2015
Hình 3.4 Nồng độ trung bình Pb trong các môi trường tại khu vực nghiên cứu năm 2015 Hình 3.3 Nồng độ trung bình Cd trong các môi trường tại khu vực nghiên cứu năm 2015
Tại khu vực Cần Thạnh, nơi có tổng nồng độ các kim loại đều cao nhất trong các
vị trí quan trắc, kết quả phân tích cho thấy nồng độ các kim loại trong các mẫu
nghêu luôn cao hơn trong môi trường nước nhưng lại thấp hơn trong SPM và bùn
đáy (Hình 3.5). Tuy nhiên, mức chênh lệch của các kim loại là khác nhau, cụ thể
nông độ Cu và Zn cho kết quả nồng độ trong nghêu và SPM, bùn đáy xấp xỉ
nhau. Trong khi đó, nồng độ Cd và Pb trong nghêu thấp gần ½ lần so với trong
SPM và bùn đáy. Kết quả này cho thấy mức độ tích lũy các kim loại khác nhau
trong nghêu là khác nhau.
Tháng 3 và tháng 9, các mẫu nghêu tại Tân Thành được thu thập với mục đích so
sánh nồng độ các kim loại với nghêu tại Cần Thạnh. Theo đó, hầu hết nồng độ
từng kim loại trong mẫu nghêu tại Cần Thạnh luôn cao hơn tại Tân Thành vào
các khoảng thời gian tương ứng.
13
Hình 3.5 Nồng độ trung bình các kim loại trong các môi trường và nghêu tại Cần Thạnh năm 2015 Kết quả của đợt khảo sát năm 2015 cho thấy nồng độ các kim loại trong môi
trường (nước, trầm tích mặt, vật chất lơ lửng) khu vực ven bờ cửa sông Sài Gòn
– Đồng Nai có dấu hiệu cao hơn các vị trí lấy mẫu tại thượng nguồn sông. Nồng
độ các kim loại Cd và Pb ở trong nước biển vùng bãi nghêu Cần Thạnh có nhiều
đợt phát hiện cao hơn một số giới hạn quy định cho vùng nước bảo tồn thủy sinh.
Chưa tìm được sự khác biệt rõ rệt giữa nồng độ các kim loại trong nghêu cỡ lớn,
trung bình và nhỏ; Mức độ tích lũy kim loại nặng trong nghêu cũng chưa phát
hiện rõ ràng. Và nồng độ Zn trong nghêu phát hiện có dấu hiệu cao hơn quy định
trong thực phẩm của một số nước; tương ứng cũng phát hiện nồng độ Zn trong
trầm tích khu vực Cần Thạnh ở mức cao và vượt một số giới hạn cho phép.
3.2 Sự hiện diện và biến đổi theo không gian, thời gian của một số kim loại trong nghêu M. lyrata và môi trường sống của chúng
Theo Hình 3.7, nồng độ hầu hết các kim loại trong trầm tích đều biến động ở biên
độ thấp trong suốt các mùa của năm, trong khi đó kim loại trong SPM và nghêu
có nhiều biến đổi.
14
Phân tích phương sai 2 chiều được sử dụng kiểm chứng sự khác nhau về nồng độ
các kim loại trong nghêu M. lyrata giữa ba vị trí và ba giai đoạn mùa. Kết quả
cho thấy 8/11 kim loại (trừ Fe, As, Pb) có khác nhau mang ý nghĩa thống kê giữa
nồng độ trong nghêu lấy tại các vị trí khác nhau và 7/11 kim loại (trừ Mn, Fe, As,
Pb) có khác nhau mang ý nghĩa thống kê giữa nồng độ kim loại trong nghêu lấy
ở những mùa khác nhau. Kết quả khẳng định sự ảnh hưởng của không gian cũng
như giai đoạn mùa đến nồng độ kim loại trong cơ thể nghêu.
Hình 3.7 Nồng độ trung bình các kim loại trong nghêu, SPM và trầm tích tại khu vực nghiên cứu năm 2016 Ghi chú biểu đồ: Cột màu đen biểu thị nồng độ kim loại vào mùa mưa, cột gạch chéo là giao mùa, và cột chấm đen là mùa mưa.
15
Kết quả kiểm định Post Hoc Tukey cho kết quả nồng độ bảy kim loại Co, Ni, Cu,
Zn, Se, Cd và Hg tại ba vị trí (n=94) có nồng độ thấp nhất vào mùa khô. Xét nồng
độ trung bình của các kim loại trong nghêu trắng được biểu diễn trong biểu đồ
Hình 4.7 cho thấy bảy kim loại này có nồng độ trong nghêu trắng tăng cao vào
Tháng 5 (bắt đầu mưa) so với tháng 3-4 trước đó. Hơn thế nữa, nồng độ kim loại
trong mẫu SPM, trầm tích (Hình 3.7) và nồng độ TSS tại ba vị trí lấy mẫu đều
ghi nhận có xu hướng tăng vào thời điểm Tháng 5. Sự gia tăng nồng độ một số
kim loại trong môi trường (trầm tích, SPM) và gia tăng TSS vào môi trường nước
khi bắt đầu mùa mưa đã được ghi nhận trong các nghiên cứu ở Việt Nam [14]
cũng như một số khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa [38]. Ảnh hưởng của gió
mùa cũng gây ra những thay đổi trong nồng độ một số kim loại trong loài hai
mảnh vỏ như Villorita cyprinoides ở vùng biển Cochin (Ấn độ) [39].
Kết quả phân tích thứ bậc bằng Tukey Post Hoc thể hiện rằng nồng độ các kim
loại Co, Ni, Zn, Se, Cd và Hg trong nghêu trắng cao nhất ở Tân Thành. Ngoài ra,
khi phân tích thứ bậc nồng độ các kim loại trong nghêu tại từng vị trí nghiên cứu,
kết quả cho thấy khu vực Tân Thành nồng độ kim loại trong nghêu sắp xếp theo
các thứ tự khác so với khu vực Đồng Hòa và Cần Thạnh.
Nghêu hay các loài hai mảnh vỏ ăn lọc khác thường có khả năng tích lũy một số
kim loại từ môi trường sống của chúng [40] và những cá thể sống ở khu vực ô
nhiễm kim loại thường ghi nhận có nồng độ kim loại trong cơ thể cao hơn khu
vực khác [41]. Giả thuyết đặt ra là nồng độ một số kim loại ghi nhận cao hơn tại
Tân Thành là do nồng độ các kim loại trong môi trường tại đây cao hơn khu vực
Cần Giờ (bao gồm Cần Thạnh và Đông Hòa). Thật vậy, có 9/11 kim loại (trừ Hg
và Pb) trong trầm tích và cả 11 kim loại trong SPM ghi nhận cao hơn tại Tân
Thành.
Sự khác nhau về xu hướng phân bố nồng độ kim loại trong nghêu có thể được
giải thích dựa vào ảnh hưởng của dòng hải lưu khu vực ven biển gần cửa sông
Soài Rạp. Hướng chính của dòng hải lưu khu vực này chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ gió mùa, hay nói cách khác nó cũng thay đổi theo mùa mưa và mùa khô [42].
16
Trong giai đoạn mùa khô, nồng độ TSS phát hiện cao ở Tân Thành trong khi thấp
tại Cần Giờ và ngược lại, song song với đó, tổng nồng độ kim loại trong nước
(bao gồm kim loại hòa tan trong nước biển và kim loại bám trên SPM) tại Tân
Thành và Cần Giờ có xu hướng trái chiều nhau trong cùng một khoảng thời gian
[25], [26]. Nói cách khác, trong thời gian mùa khô, dòng hải lưu chảy từ hướng
Bắc xuống Nam, và tổng nồng độ kim loại trong nước (trừ Ni, Zn, và Cd) trong
nghêu trắng M. lyrata phát hiện cao hơn tại khu vực Tân Thành, xu hướng này
thay đổi ngược lại vào mùa mưa.
Tóm lại, kết quả phân tích và thống kê cho thấy loài nghêu M. lyrata thể hiện các
dấu hiệu nhạy cảm với sự thay đổi mức độ ô nhiễm kim loại trong môi trường.
Cụ thể những dấu hiệu biến đổi theo mùa và theo vị trí có nhiều tác động đến
mức độ tích lũy kim loại trong loài nghêu này.
3.3 Phân tích tương quan và dự đoán khả năng sử dụng nghêu M. lyrata làm sinh vật quan trắc
Để đánh giá một loài có khả năng sử dụng làm sinh vật quan trắc, các nhà khoa
học đưa ra nhiều các phương thức và tiêu chí thực hiện. Năm 1982, Martin và
Coughtrey đã đưa ra các các tiêu chí để nhận biết loài quan trắc và loài chỉ thị
[43]. Những loài có khả năng sử dụng làm sinh vật quan trắc cần phải xác định
được mối quan hệ giữa nồng độ chất ô nhiễm với (1) sự thay đổi về hình thái
hoặc (2) mức độ tích lũy chất ô nhiễm trong cơ thể chúng. Những mối tương
quan đó cần được xác định trong khoảng chịu đựng của sinh vật để có thể định
lượng được mức độ ô nhiễm trong môi trường.
Tương quan nồng độ kim loại trong nghêu M. lyrata và thể trạng của chúng
Trong nghiên cứu này, phân tích tương quan giữa kích thước nghêu và nồng độ
các kim loại cho kết quả mối tương quan thuận chỉ có ý nghĩa thống kê ở kim
loại Co, Ni và Cd và mối tương quan nghịch với As (Bảng 4.7). Tương quan giữa
chiều dài sinh vật hai mảnh vỏ và nồng độ kim loại phần nào phản ảnh khả năng
tích tụ kim loại trong cơ thể chúng theo thời gian, chính vì vậy cũng được nhiều
nhóm nghiên cứu thực hiện và tìm ra ở những mức độ khác nhau và kim loại khác
17
nhau [39]. Một nghiên cứu trên mẫu Meretrix lyrata dọc bờ biển từ Bà Rịa Vũng
Tàu đến Cà Mau cũng tìm thấy mối tương quan thuận của một số kim loại trong
đó có Ni và Cd với chiều dài vỏ nghêu, nghiên cứu này cũng chỉ ra nhiều mối
tương quan không rõ ràng và cả tương quan nghịch, trong đó cũng có As, nhưng
không đưa ra bình luận gì cho kết quả [20].
Tuy nhiên khi phân tích sâu vào nồng độ các kim loại trong các bộ phận khác
nhau của nghêu thì mối tương quan xuất hiện rõ rệt hơn. Cụ thể tương quan thuận
với nhiều kim loại nhất là nồng độ trong Mang (G) với 6/11 kim loại (Co, Ni,
Cu, Zn, Se, Cd); kế đến là Tuyến tiêu hóa (DG) có 4 kim loại Co, Zn, Se và Cd;
Cuối cùng nồng độ kim loại trong phần mô còn lại (R) chỉ tương quan với duy
nhất Co. (Bảng 3.7)
Bảng 3.7 Hệ số tương quan Pearson giữa nồng độ kim loại trong nghêu/các bộ phận nghêu M. lyrata và chiều dài vỏ
0,224’
0,292” 0,215’ 0,311”
0,217’
0,347”
-
Kim loại Co Ni Cu Zn As Se Cd
Mang
0,230’
-
-
-
0,276’
0,403” 0,281”
Tuyến tiêu
hóa
0,278”
-
-
-
-
-
-
Phần mô
-
còn lại
0,309”
0,244’
-
-
-
0,276”
0,243’
Nguyên
con
Ghi chú: ’Mức tin cậy p < 0,05; ” Mức tin cậy p < 0,01.
Mối tương quan khác nhau giữa chiều dài vỏ nghêu và nồng độ các kim loại trong
các bộ phận khác nhau của nghêu chỉ ra khả năng sử dụng 1 phần thay vì toàn bộ
cơ thể nghêu ứng dụng vào quan trắc chất lượng môi trường. Việc phát hiện mối
tương quan giữa chiều dài nghêu và nồng độ 6/11 kim loại trong mang cho thấy
khả năng ứng dụng mang làm quan trắc sinh học cho các kim loại hòa tan trong
môi trường nước biển. Ngoài ra, các kim loại trong bộ phận tiêu hóa có mối tương
18
quan với chiều dài nghêu cũng cho thấy khả năng ứng dụng vào quan trắc nồng
độ kim loại bám vào vật chất lơ lửng. Trong nghiên cứu của Ahn Young In và
cộng sự, các kết quả tương đồng với 8/10 kim loại nghiên cứu trong mang loài
Laternula elliptica phát hiện tương quan với kích thước cơ thể [44]. Niksa Odzak
và cộng sự cũng đã công bố nồng độ kim loại trong mang của loài Mytilus
galloprovincialis tăng khi tăng nồng độ các kim loại Cd và Pb trong thí nghiệm
của mình [45].
Tuy kích thước (chiều dài vỏ) và nhóm tuổi nghêu không có nhiều tương quan rõ
ràng với nồng độ kim loại trong nghêu như trình bày ở trên, chỉ số điều kiện CI
và nồng độ của 8/11 kim loại trong nghêu có kết quả tương quan mang ý nghĩa
thống kê (p<0,05). Tuy nhiên các tương quan này đều là tương quan nghịch với
hệ số tương quan thấp dao động từ -0,423 đến -0,203. Kết quả cho thấy, những
cá thể ở điều kiện thể chất tốt sẽ ghi nhận nồng độ kim loại trong cơ thể thấp hơn
những cá thể khác. Kết quả này tương đồng với kết quả của T. Borchartdt và
cộng sự thực hiện tại vùng cửa sông, ven biển và ngoài khơi biển Bắc của nước
Đức đối với các kim loại Hg, Cd, Cu, Ag, Zn, Pb trong Mytilus edulis (blue
mussel) [46]. Kết quả tương quan nghịch giữa nồng độ kim loại (Zn, As, Cd, Pb,
Hg, Cu, Ni, Cr) và CI cũng được phát hiện trong nghiên cứu của Bruno Andral
và cộng sự trên trai Mytilus galloprovincialis tại biển Địa Trung Hải
(Mediterranean) [47].
Tương quan giữa nồng độ kim loại trong nghêu M. lyrata và trong môi trường
sống của chúng
Kết quả phân tích tương quan giữa nồng độ kim loại trong cơ thể nghêu M. lyrata
và môi trường sống của chúng cho thấy rất ít giá trị có ý nghĩa thống kê. Sở dĩ
như vậy có thể do các kim loại được tích lũy trong nghêu đến từ nhiều nguồn
khác nhau chứ không phải đi trực tiếp từ một nguồn cụ thể [48]. Không phải lúc
nào các nghiên cứu cũng tìm được mối tương quan giữa kim loại trong trầm tích
hay môi trường khác với nồng độ kim loại trong sinh vật [48], [49]. Để tìm ra các
19
mối tương quan, nhiều nhóm nghiên cứu đã phân tích kim loại trong các bộ phận
khác nhau của sinh vật và/hoặc các pha khác nhau của trầm tích [10], [27].
Trong nghiên cứu này, các mối tương quan phát hiện nhiều nhất là giữa nồng độ
kim loại (Co, Ni, Cu, Zn, Se) bám trên SPM với các kim loại đó trong Mang
hoặc/và Hệ tiêu hóa của nghêu. Kết quả này có thể sử dụng để làm tiền đề cho
các nghiên cứu khác nhằm tìm ra những mối liên kết để sử dụng loài nghêu này
như một sinh vật quan trắc. Điều đặc biệt là, như đã nêu ra trong phần tổng quan,
các kim loại bám trên SPM thường có nguồn gốc từ đất liền, theo nước chảy tràn
hoặc theo nước thải đi vào sông suối và chảy ra biển. Chính vì vậy, mức độ dao
động của nồng độ kim loại trong SPM lớn và thay đổi theo mùa, như đã trình bày
phần trên. Kết quả này cho thấy, kim loại trong các bộ phận của loài nghêu M.
lyrata tại khu vực nghiên cứu biểu hiện sự nhạy cảm với những biến động của
nồng độ kim loại trong môi trường, cụ thể là bám trên vật chất lơ lửng SPM.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng loài nghêu M. lyrata có thể ứng
dụng làm sinh vật quan trắc nồng độ kim loại trong môi trường. Bên cạnh những
mối tương quan rõ rệt giữa hình thái sinh vật và nồng độ kim loại trong nghêu,
các mối tương quan mang ý nghĩa thống kê cũng phát hiện giữa nồng độ kim loại
trong nghêu và môi trường. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa các khu vực nghiên
cứu lại cho thấy có ảnh hưởng lớn tới các kết quả nghiên cứu.
3.4 Khả năng tích lũy kim loại trong nghêu M. lyrata
Kết quả tính toán cho thấy giá trị lớn nhất của BSAF và BSPMAF ghi nhận đối
với kim loại Cd cho thấy nó có khả năng tích lũy sinh học cao nhất trong nghêu
trắng M. lyrata. Ngược lại, các giá trị BSAF và BSPMAF của kim loại Mn, Fe,
Co và Pb đều nhỏ hơn 1 cho thấy những kim loại này ít khả năng tích lũy trong
loài nghêu này, trong khi BSAF của Cd đạt mức tích lũy cao nhất trong các kim
loại (5,44 – 444,3 đối với BSAF và 4,11 – 207 đối với BSPMAF). Kết quả tính
toán BSAF này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Văn Hợp và đồng nghiệp
trên nghêu M. lyrata tại Tân Thành [23].
20
Kết quả BSAF và BSPMAF của kim loại Hg là mức độ dao động với biên độ rất
lớn, tuy nhiên giá trị trung vị lại nhỏ hơn 1. Điều này cho thấy chỉ một số lượng
nhỏ các kết quả ghi nhận BSAF và BSPMAF của Hg lớn hơn 1 kéo theo giá trị
trung bình cao hơn 1. Bên cạnh đó, tỉ lệ phân tử gram Hg:Se trong nghêu trắng
M. lyrata được tính toán dao động trong khoảng 0,0065 đến 0,0374 cho thấy Se
có thể trung hòa độc tính của Hg trong nghêu M. lyrata [50], [51].
Hình 4.10 biểu thị kết quả BSAF và BSPMAF của các kim loại nghiên cứu trong
các bộ phân khác nhau của nghêu M. lyrata. Kết quả cho thấy giá trị hầu hết
BSAF và BSPMAF trong G và/hoặc DG cao hơn trong mẫu mô còn lại – R. Nồng
độ một số kim loại (Co, Ni, Zn, As, Se, Cd) phát hiện cao hơn trong mang-G cho
thấy loài nghêu M. lyrata có khả năng lấy các kim loại này từ nguồn hòa tan trong
nước [9]. Còn các kim loại Mn, Fe, Cu, Pb phát hiện cao hơn trong tuyến tiêu
hóa cho thấy khả năng nguồn gốc của các kim loại này là bám trên thực ăn hoặc
các vật chất lơ lửng rồi đi vào cơ thể nghêu [44].
Hình 3.10 Giá trị BSAF và BSPMAF của các kim loại nghiên cứu đối với
bộ phần mang – G (sọc chéo), tuyến tiêu hóa - DG (màu đen) và phần mô
còn lại – R (chấm đen) của nghêu M. lyrata khu vực gần cửa sông SG-DN.
Mặc dù BSAF của kim loại Co tính trên cả cơ thể nghêu M. lyrata có giá trị trong
mức an toàn là nhỏ hơn 1, giá trị BSAF của Co trong bộ phận mang – G lại ghi
21
nhận cao hơn 1. Bên cạnh đó, BSPMAF của các kim loại Ni, Zn và Se trong
mang cũng lớn hơn 1 trong khi các bộ phận khác thì ngược lại. Các kết quả này
cho thấy, trong một số trường hợp, các kim loại chỉ tích lũy trong mang của
nghêu. Những kết quả tương tự cũng được phát hiện trong một số nghiên cứu
trước đây, mức độ tích lũy kim loại cao trong mang và/hoặc tuyến tiêu hóa đã
được phát hiện và công bố với các loại nghêu Bắc Cực Laternula elliptica [8],
loài Tapes decussatus và Mytilus galloprovincialis [31], hoặc trong hàu Thái
Bình Dương [33].
Tóm lại, trong các kim loại nghiên cứu, Cd là kim loại ghi nhận có mức tích lũy
trong nghêu cao nhất. Kết quả cũng cho thấy, nghêu M. lyrata tích lũy các kim
loại khác nhau với mức độ khác nhau, và chúng cũng thể hiện sự tích lũy cao
trong các bộ phận mang và tuyến tiêu hóa như một số loài hai mảnh vỏ khác.
Hiểu rõ mức độ tích lũy kim loại trong loài nghêu này có thể mang tới những
thông tin quan trọng trong việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường đến
chúng cũng như là cơ sở để đề xuất các giải pháp quản lý cho vấn đề ô nhiễm
kim loại hay đánh giá rủi ro khi sử dụng loài nghêu này làm thực phẩm.
3.5 Ước tính mức độ rủi ro đến sức khỏe con người khi sử dụng nghêu M. lyrata làm thực phẩm
Các giá trị HQ tính toán đều dao động ở mức rất thấp, tương tự với giá trị chỉ số
nguy hại tổng HI cũng ở mức 0,087 (Đông Hòa) đến 0,107 (Tân Thành). Điều
này đồng nghĩa với việc loài nghêu M.lyrata vẫn nằm trong mức giới hạn an toàn
để dùng làm thực phẩm khi xét trên khía cạnh đánh giá ảnh hưởng của các kim
loại đến sức khỏe của người tiêu thụ.
Giá trị HQ cao nhất tại cả 3 vị trí lấy mẫu là tính từ mức ảnh hưởng của kim loại
As. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này chỉ phân tích tổng As, trong khi mức độ rủi
ro do độc tính của As được tham khảo từ WHO là sử dụng chỉ cho As vô cơ do
khả năng gây độc của chúng [52]. Mặc dù HQ tính cho kim loại Cd nhỏ xếp sau
As, giá trị BSAF và BSPMAF của Cd, như đã trình bày phía trên, là cao nhất.
Điều đó cho thấy Cd là kim loại quan trọng nhất, trong số 11 kim loại được
22
nghiên cứu, trong đánh giá rủi ro sức khỏe con người khi sử dụng nghêu M.lyrata
làm thực phẩm.
Kết quả của nghiên cứu của Nguyễn Phúc Cẩm Tú và cộng sự [20] cũng cho thấy
giá trị HQ rất nhỏ so với 1. Các tác giả cũng đưa ra nhận định về sự an toàn của
loài nghêu này khi dùng làm thực phẩm, xét trên khía cạnh độc tính của kim loại.
Trong một nghiên cứu khác tại vùng ven biển Trung Quốc, các giá trị HQ rất nhỏ
đối với một số kim loại cũng được công bố đối với loài nghêu Ruditapes
philippinarum [41]. Giá trị HQ là giá trị ước lượng, nó phụ thuộc lớn vào thói
quen ăn uống của địa phương cũng như tầm vóc/cân nặng của người tiêu thụ. Tuy
nhiên, chỉ số quan trọng nhất vẫn là nồng độ kim loại trong thực phẩm và môi
trường xung quanh chúng. Trong một số khu vực có mức ô nhiễm cao, nồng độ
kim loại trong các loài hai mảnh vỏ thường được ghi nhận, chính vì vậy, giá HQ
tính toán được cũng thường rất cao [31].
Lượng nghêu ăn vào tối đa (dcmax) cho con người xét trên mức lo ngại về nồng
độ các kim loại trong nghêu ở mức an toàn là khi HQ = 1 được tính toán theo
công thức (2.7) cho nghêu ở từng khu vực. Theo đó, với mỗi giá trị nồng độ kim
loại sẽ cho kết quả lượng nghêu ăn vào tối đa tương ứng. Giá trị ghi nhận sẽ là
dcmax nhỏ nhất trong các kim loại khảo sát. Cụ thể đới với nghêu Cần Thạnh mức
ăn vào tối đa khuyên dùng với người 60 kg là 119 g/ngày (tương đương khoảng
815g nghêu nguyên vỏ); nghêu Tân Thành là 137 g/ngày (tương đương 875g
nghêu nguyên vỏ); và nghêu Đông Hòa 123 g/ngày (tương đương 800 g nghêu
nguyên vỏ).
Kết quả ước lượng mức độ rủi ro trong phần này sử dụng các công cụ ước lượng
của các tổ chức WHO/FAO nên các giá trị nhận định chỉ mang tính chất tham
khảo. Tuy nhiên, các kết quả rất nhỏ của HQ và HI cho thấy mức độ tích lũy kim
loại trong nghêu M. lyrata vẫn nằm ở giá trị trong ngưỡng an toàn khi xét tới khả
năng gây rủi ro đến sức khỏe người tiêu thụ nghêu làm thực phẩm
23
CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Nghiên cứu đã đưa ra một bức tranh toàn diện với các số liệu khoa học tin cậy về
mức độ tích lũy 11 nguyên tố kim loại trong loài nghêu M. lyrata và môi trường
sống của chúng theo không gian, thời gian, cũng như phân tích các ảnh hưởng
của điều kiện khí tượng, thủy văn, tính chất của nước. Cụ thể nghiên cứu đã đạt
được một số kết quả đáng chú ý như sau:
- Đã có dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của những biến động về mức độ ô
nhiễm kim loại trong môi trường khu vực thượng nguồn hệ thống sông SG-ĐN
đến môi trường và sinh vật vùng cửa sông, ven biển. Sự hiện diện của các kim
loại trong môi trường và nghêu thay đổi theo mùa tương đồng với những biến
đổi về lượng mưa, dòng hải lưu và nồng độ vật chất lơ lửng tại khu vực nghiên
cứu.
- Loài nghêu trắng M. lyrata là loài nhạy cảm với những biến đổi về hàm
lượng kim loại trong môi trường, sự nhạy cảm đó thể hiện ở:
+ Mức tích lũy các kim loại trong nghêu thay đổi theo mùa (khi có sự thay
đổi về lượng mưa) cũng như khác nhau ở những vùng khác nhau (ảnh hưởng của
hướng chảy dòng hải lưu). Kết quả này cho thấy việc khai thác nghêu có thể xem
xét giảm vào giai đoạn giao mùa khi những biến động về hàm lượng kim loại
diễn ra trong môi trường và nghêu phức tạp.
+ Kết quả cho thấy nghêu M. lyrata có khả năng sử dụng làm sinh vật quan
trắc môi trường cho việc quan trắc Co, Ni, Cu, Zn và Se trong SPM; As trong
trầm tích. Với tương quan có ý nghĩa thống kê giữa CI và hàm lượng kim loại
trong nghêu, chỉ số điều kiện CI là một tham số quan trọng khi xây dựng phương
trình tương quan trong nghiên cứu sử dụng loài nghêu này làm sinh vật quan trắc
môi trường tại vùng cửa sông Soài Rạp.
24
- Kim loại Cd có mức độ tích lũy trong nghêu M. lyrata cao nhất dựa vào
kết quả tính toán BSAF và BSPMAF. Các kim loại có xu hướng tích lũy cao
trong mang hoặc tuyến tiêu hóa của nghêu.
- Các giá trị chỉ số nguy hại do độc tính của các kim loại nghiên cứu cho
sức khỏe của người ăn nghêu M. lyrata nuôi tại Cần Thạnh và Tân Thành đều
nằm trong khoảng an toàn.
4.2 Kiến nghị
Từ kết quả trình bày trong nghiên cứu này, một số các đề xuất cho việc ứng dụng
chúng phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo là:
- Thực hiện các nghiên cứu sâu hơn (về thời gian, về các những động của
các yếu tố môi trường, thời tiết, dòng chảy, chế độ thủy triều, …) để xác định
phương trình tương quan giữa hàm lượng kim loại trong nghêu M. lyrata và trong
các môi trường xung quanh nhằm cụ thể hóa khả năng ứng dụng loài nghêu này
trong quan trắc môi trường. Chỉ số điều kiện CI cần được đưa vào làm tham số
trong phương trình tương quan vì những kết quả từ đề tài này đã chỉ ra sự ảnh
hưởng của điều kiện thể chất đến khả năng tích lũy các kim loại trong nghêu.
- Mối tương quan giữa chỉ số điều kiện CI với hàm lượng kim loại trong
nghêu nên được chú trọng nghiên cứu sâu hơn như có mối quan hệ nào giữa một
chỉ số về thể chất của nghêu với khả năng đào thải hay tích lũy kim loại hoặc
những hợp chất chứa kim loại không. Sự khác nhau về mối tương quan của CI
tại các khu vực khác nhau cũng cần được chứng minh bằng các thực nghiệm hoặc
thí nghiệm khoa học.
- Các cơ chế tích lũy sinh học của các kim loại độc như Cd, Hg, Pb, As
trong nghêu Meretrix lyrata đã được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, tuy
nhiên trong điều kiện tích lũy kim loại ở những khu vực ô nhiễm ngoài tự nhiên
vẫn chưa được thực hiện. Nghiên cứu khả năng quan trắc thụ động của loài này
ở những vùng môi trường ô nhiễm kim loại chắc chắn đóng góp lớn cho các dữ
liệu nghiên cứu khả năng quan trắc môi trường của loài nghêu này.
25
- Nghiên cứu các loài sinh vật cùng sống trong hệ sinh thái vùng ven biển
cửa sông SG-ĐN để tìm những loài có thể cùng ứng dụng trong quan trắc môi
trường, bổ sung các thông tin còn thiếu.
- Nghiên cứu nguồn gốc các kim loại tồn tại trong nghêu M. lyrata để tìm
phương án ứng dụng chúng trong việc phát hiện nhanh các biến động về ô nhiễm
kim loại trong môi trường.
- Việc xác định khả năng nghêu M. lyrata hay các sinh vật khác có thể ứng
dụng làm sinh vật quan trắc sẽ trở nên vô nghĩa nếu chưa xây dựng được các bộ
“tiêu chuẩn” về sinh vật quan trắc cũng như khung pháp lý cho việc ứng dụng
các loài sinh vật quan trắc trở thành công cụ quan trắc “thực thụ”.
26
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
TẠP CHÍ KHOA HỌC
1. Tran Tuan Viet, Nguyen Duy Khanh, Nguyen Phu Bao, Nguyen Nhu Sang, Dinh Quoc Tuc, Nguyen Phuoc Dan, Emilie Strady and Seunghee Han, "Distribution of heavy metals in surface water, suspended particulate matter, sediment and clam (Meretrix lyrata) from downstream of Saigon-Dong Nai River, Vietnam," Journal of Science and Technology, vol. 54, no. 2A, pp. 207- 213, 2016.
2. Trần Tuấn Việt, Trương Ngọc Việt và Nguyễn Phước Dân, “Tích lũy sinh học kim loại nặng trong cơ thể một số loài hàu và nghêu, “Tích lũy sinh học kim loại nặng trong cơ thể một số loài hàu và nghêu,” Tạp chí nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Quân sự, vol. 09-2007, Special issue, 142-152, 2017.
3. Tran Tuan Viet, Nguyen Duy Khanh, Duong Duc Thinh, Nguyen Phuoc Dan, Seunghee Han and Emilie Strady, "Trace metals analysis of marine benthos certified reference materials by inductively coupled plasma mass spectrometry following hot plate heating digestion method," Journal of Military Science and Technology, vol. 05-2018, no. 54A, pp. 79-85, 2018.
4. Tran Tuan Viet, Emilie Strady, Nguyen Phuoc Dan, “Bioaccumulation of trace elements in the hard clam, Meretrix lyrata, reared downstream of a developing megacity, the Saigon-Dongnai Rivers Estuary, Vietnam,” Environmental Monitoring and Assessment [IF 5 năm: 2.273; Có email xác nhận 13/7/2020].
HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC TẾ
1. Tran Tuan Viet, Nguyen Phuoc Dan, Nguyen Duy Khanh, Nguyen Phu Bao, Emilie Strady, Dinh Quoc Tuc, Nguyen Nhu Sang, Dang Vu Bich Hanh and Seunghee Han, "Mornitoring heavy metals in water, suspended particulates, sediment and clam flesh at clam farms in coastal area of Ho Chi Minh City, Vietnam," 18th International Conference on Heavy Metals in the Environment, Ghent, Belgium, 12-15 September, 2016.
2. Tran Tuan Viet, Nguyen Duy Khanh, Nguyen Nhu Sang, Dinh Quoc Tuc, Nguyen Phuoc Dan, Emilie Strady and Seunghee Han, “Heavy metals contaminated in white hard clam Meretrix lyrata and the coastal environment near Saigon River estuary, Vietnam," Society of Environmental Toxicology and Chemistry Asia/Pacific 2016 Conference, Singapore, 17-19 September, 2016.
3. Tran Tuan Viet, Nguyen Phuoc Dan, Nguyen Duy Khanh, Duong Khanh Minh, Emilie Strady, Dinh Quoc Tuc, Nguyen Nhu Sang, Nguyen Thanh Luan, Nguyen Van Minh, Duong Duc Thinh and Seunghee Han, “Metal
bioaccumulation in Meretix lyrata reared in downstream of the Megacity Ho Chi Minh City, Vietnam," The 3rd International Conference on Environmental Pollution, Restoration, and Management, Quy Nhon, 06-10 March, 2017.
4. Tran Tuan Viet, Nguyen Duy Khanh, Duong Duc Thinh, Nguyen Phuoc Dan, Emilie Strady and Seunghee Han, “Trace metals concentrations in various parts of the white hard clam Meretrix lyrata near Saigon-Dong Nai River estuary," The 5th International Symposium on Environmental Analytical Chemistry, Ho Chi Minh City, Vietnam, 16-20 May, 2017.
5. Tran Tuan Viet, Nguyen Phuoc Dan and Emilie Strady, “Bioaccumulation of trace metals in the hard clam, Meretrix lyrata, along coastal areas in the South of Vietnam," The 10th Annual Conference on Challenges in Environmental Science and Engineering, Kunming, China, 11-15 November, 2017.
6. Tran Tuan Viet, Nguyen Phuoc Dan and Emilie Strady, “Bioaccumulation of trace metals in Meretrix lyrata near the Saigon-Dong Nai River estuary, Vietnam," The Conference on Remediation of Chlorinated and Recalcitrant Compounds, Palm Springs, CA-USA, 08-12 April, 2018. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] J. R. Schubel and V. S. Kennedy, “The Estuary As A Filter: An Introduction,” in The Estuary As a Filter, Orlando, Florida 32887: ACADEMIC PRESS, 1984, pp. 1–11.
[2] Y. Tao, Z. Yuan, H. Xiaona, and M. Wei, “Distribution and bioaccumulation of heavy metals in aquatic organisms of different trophic levels and potential health risk assessment from Taihu lake, China,” Ecotoxicol. Environ. Saf., vol. 81, pp. 55–64, Jul. 2012.
[3] A. Sakellari, S. Karavoltsos, D. Theodorou, M. Dassenakis, and M. Scoullos, “Bioaccumulation of metals (Cd, Cu, Zn) by the marine bivalves M. galloprovincialis, P. radiata, V. verrucosa and C. chione in Mediterranean coastal microenvironments: Association with metal bioavailability,” Environ. Monit. Assess., vol. 185, no. 4, pp. 3383–3395, 2013.
[4] M. Baudrimont et al., “Geochemical survey and metal bioaccumulation of three bivalve species (Crassostrea gigas, Cerastoderma edule and Ruditapes philippinarum) in the Nord Médoc salt marshes (Gironde estuary, France),” Sci. Total Environ., vol. 337, no. 1–3, pp. 265–280, Jan. 2005.
[5] P. Rzymski, P. Niedzielski, P. Klimaszyk, and B. Poniedziałek, “Bioaccumulation of selected metals in bivalves (Unionidae) and Phragmites australis inhabiting a municipal water reservoir,” Env. Monit Assess, vol. 186, no. 5, pp. 3199–3212, 2014.
[6] B. E. Belabed, X. Laffray, A. Dhib, M. Fertouna-Belakhal, S. Turki, and L. Aleya, “Factors contributing to heavy metal accumulation in sediments and in the intertidal mussel Perna perna in the Gulf of Annaba (Algeria),” Mar. Pollut. Bull., vol. 74, no. 1, pp. 477–489, 2013.
[7] P. Antunes, O. Gil, and M. A. Reis-Henriques, “Evidence for higher biomagnification factors of lower chlorinated PCBs in cultivated seabass,” Sci. Total Environ., vol. 377, no. 1, pp. 36–44, 2007.
[8] C. Vodopivez, A. Curtosi, E. Villaamil, P. Smichowski, E. Pelletier, and W. P. Mac Cormack, “Heavy metals in sediments and soft tissues of the Antarctic clam Laternula elliptica: More evidence as a ? Possible biomonitor of coastal marine pollution at high latitudes?,” Sci. Total Environ., vol. 502, no. October 2014, pp. 375–384, 2015.
[9] Q. Tarique, J. Burger, and J. R. Reinfelder, “Metal Concentrations in Organs of the Clam Amiantis umbonella and Their Use in Monitoring Metal Contamination of Coastal Sediments,” Water, Air, Soil Pollut., vol. 223, no. 5, pp. 2125–2136, Jun. 2012.
[10] C. K. Yap, F. B. Edward, and S. G. Tan, “Concentrations of heavy metals in different tissues of the bivalve Polymesoda erosa: Its potentials as a biomonitor and food safety concern,” Pertanika J. Trop. Agric. Sci., vol. 37, no. 1, pp. 19–38, 2014.
[11] T. V. Tran, N. V. Truong, and P. D. Nguyen, “TÍCH LŨY SINH HỌC KIM LOẠI NẶNG TRONG CƠ THỂ MỘT SỐ LOÀI HÀU VÀ NGHÊU,” J. Mil. Sci. Technol., vol. 09-2017, pp. 142–152, 2017.
[12] B. A. Markert, A. M. Breure, and H. G. Zechmeister, Bioindicators and biomonitors: principles, concepts and applications. The Netherlands: Elsevier science, 2003.
[13] P. Le Vo, “Urbanization and water management in Ho Chi Minh City, Vietnam-issues, challenges and perspectives,” GeoJournal, vol. 70, no. 1, pp. 75–89, Sep. 2007.
[14] E. Strady et al., “Baseline seasonal investigation of nutrients and trace metals in surface waters and sediments along the Saigon River basin impacted by the megacity of Ho Chi Minh (Vietnam),” Environ. Sci. Pollut. Res., vol. 24, no. 4, pp. 3226–3243, 2017.
[15] N. Thủy, “Tiền Giang: Nghề nuôi nghêu không còn ‘dễ ăn,’” 2016. [Online]. http://vasep.com.vn/Tin-Tuc/1021_43629/Tien-Giang-Nghe- Available: nuoi-ngheu-khong-con-de-an.htm.
[16] P. H. S. Tong and T. T. Nguyen, “The Relationship Between Natural Conditions and the Formation and Development of Clam Grounds (Meretrix lyrata) in the Mekong Delta,” in Environmental Change and Agricultural Sustainability in the Mekong Delta, vol. 45, M. A. Stewart and P. A.
Coclanis, Eds. Springer Netherlands, 2011, pp. 303–333.
[17] Y. Dong, H. Yao, Z. Lin, C. Sun, and Z. You, “Development of 53 novel polymorphic EST-SSR markers for the hard clam Meretrix meretrix and cross-species amplification,” Conserv. Genet. Resour., vol. 5, no. 3, pp. 811–816, Sep. 2013.
[18] X. Wu, S. Xiao, X. Li, L. Li, W. Shi, and Z. Yu, “Evolution of the tRNA gene family in mitochondrial genomes of five Meretrix clams (Bivalvia, Veneridae),” Gene, vol. 533, no. 1, pp. 439–446, 2014.
[19] K. P. Pham, “The accumulation and excretion of heavy metals (Cd, As, Pb) in clam Meretrix lyrata and the change of those metals compounds in the hard clam body,” 2007.
[20] P. C. T. Nguyen et al., “Concentrations of trace elements in Meretrix spp. (Mollusca: Bivalva) along the coasts of Vietnam,” Fish. Sci., vol. 76, no. 4, pp. 677–686, 2010.
[21] T. K. P. Nguyen and C. K. Nguyen, “Evaluation of Heavy Metals in Tissue of Shellfish from Can Gio Coastline in Ho Chi Minh City, Vietnam,” Asian J. Chem., vol. 25, no. 15, pp. 8552–8556, 2013.
[22] X. S. Le, “Determination of Mercury Accumulation Factor in Hard Clam (Meretrix lyrata) at Bach Dang Estuary, Viet Nam,” Environ. Nat. Resour. Res., vol. 6, no. 3, p. 18, Jul. 2016.
[23] V. H. Nguyen, T. Q. D. Hoang, and H. P. Nguyen, “Metal speciation in sediment and bioaccumulation in Meretrix lyrata in the Tien Estuary in Vietnam,” Environ. Monit. Assess., pp. 189–299, Jun. 2017.
[24] Q. P. Truong, “Biological and bio-chemical characteristics of Meretrix lyrata (Sowerby) and the high productivity hard clams farming methods,” Nha Trang University, Nha Trang, 2000.
[25] N. Thanh-Nho, E. Strady, T. Nhu-Trang, F. David, and C. Marchand, “Trace metals partitioning between particulate and dissolved phases along a tropical mangrove estuary (Can Gio, Vietnam),” Chemosphere, vol. 196, pp. 311– 322, 2018.
[26] E. Strady et al., “Spatial variation and risk assessment of trace metals in water and sediment of the Mekong Delta,” Chemosphere, vol. 179, no. March, pp. 367–378, Jul. 2017.
[27] K. W. Wong et al., “Effects of anthropogenic activities on the heavy metal levels in the clams and sediments in a tropical river,” Environ. Sci. Pollut. Res., vol. 24, no. 1, pp. 116–134, Jan. 2016. [28] P. Quevauviller, Methodologies for Soil and Sediment Fractionation Studies . UK: The Royal Society of Chemistry, 2002.
[29] K. Sekabira, H. O. Origa, T. A. Basamba, G. Mutumba, and E. Kakudidi, “Assessment of heavy metal pollution in the urban stream sediments and its
tributaries,” Int. J. Environ. Sci. Tech., vol. 7, no. 3, pp. 435–446, 2010. [30] P. D. Nguyen et al., “Trace metals (Cu, Zn, Pb and Cr) in Mollusca, sediment and water at Tien river estuary-Mekong delta in Viet Nam,” in The 12th annual UNU & GIST Joint Programme Symposium: Issues on Environmental multi-Pollutants, 2014. [31] M. Bilgin and E. Uluturhan-Suzer, “Assessment of
trace metal concentrations and human health risk in clam (Tapes decussatus) and mussel (Mytilus galloprovincialis) from the Homa Lagoon (Eastern Aegean Sea),” Environ. Sci. Pollut. Res., vol. 24, no. 4, pp. 4174–4184, Feb. 2017.
[32] M. das G. Andrade Korn et al., “Sample Preparation for the Determination of Metals in Food Samples Using Spectroanalytical Methods—A Review,” Appl. Spectrosc. Rev., vol. 43, no. 2, pp. 67–92, Feb. 2008.
[33] E. Strady, G. Blanc, M. Baudrimont, J. Schäfer, S. Robert, and V. Lafon, “Roles of regional hydrodynamic and trophic contamination in cadmium bioaccumulation by Pacific oysters in the Marennes-Oléron Bay (France),” Chemosphere, vol. 84, no. 1, pp. 80–90, 2011.
[34] Z. Fang, R. Y. H. Cheung, and M. H. Wong, “Heavy metals in oysters, mussels and clams collected from coastal sites along the Pearl river delta, South China,” J. Environ. Sci., vol. 15, no. 1, pp. 9–24, 2003.
[35] C. S. Tran, X. Đ. Pham, T. H. T. Le, and T. T. Nguyen, The validation of chemical and microbiological analytical method. Ha Noi: Science and Technics Publishing House, 2010.
[36] FAOSTAT, “Food Supply - Livestock and Fish Primary Equivalent,” FAO, http://www.fao.org/faostat/en/#data/CL. [Online]. Available: 2017. [Accessed: 03-May-2017].
[37] J. S. Rainer and R. Mann, “A comparison of methods for calculating condition index in eastern oyster, Crasostrea virginica (Gmeilin, 1791),” J. Shellfish Res., vol. 11, no. 1, pp. 55–58, 1992.
[38] K. K. Satpathy, A. K. Mohanty, M. V. R. Prasad, U. Natesan, and S. K. Sarkar, “Studies on the variations of heavy metals in the marine sediments off Kalpakkam, East Coast of India,” Environ. Earth Sci., vol. 65, no. 1, pp. 89–101, 2011.
[39] R. George, G. D. Martin, S. M. Nair, and N. Chandramohanakumar, “Biomonitoring of trace metal pollution using the bivalve molluscs, Villorita cyprinoides, from the Cochin backwaters,” Environ. Monit. Assess., vol. 185, no. 12, pp. 10317–10331, 2013.
[40] H. Wu, C. Ji, Q. Wang, X. Liu, J. Zhao, and J. Feng, “Manila clam Venerupis philippinarum as a biomonitor to metal pollution,” Chinese J. Oceanol. Limnol., vol. 31, no. 1, pp. 65–74, Jan. 2013. [41] F. Yang, L. Zhao, X. Yan, and Y. Wang, “Bioaccumulation of Trace
Elements in Ruditapes philippinarum from China: Public Health Risk Assessment Implications,” Int. J. Environ. Res. Public Health, vol. 10, no. 4, pp. 1392–1405, Apr. 2013.
[42] G. Fang, G. Wang, Y. Fang, and W. Fang, “A review on the South China Sea western boundary current,” Acta Oceanol. Sin., vol. 31, no. 5, pp. 1–10, 2012.
[43] B. A. Whitton, D. J. H. Phillips, and P. S. Rainbow, “Biomonitoring of Trace Aquatic Contaminants,” J. Appl. Ecol., vol. 31, no. 3, p. 595, Aug. 1994. [44] I. Y. Ahn, J. Kang, and K. W. Kim, “The effect of body size on metal accumulations in the bivalve Laternula elliptica,” Antarct. Sci., vol. 13, no. 4, pp. 355–362, 2001.
[45] N. Odẑak, D. Martinčić, T. Zvonarié, and M. Branica, “Bioaccumulation rate of Cd and Pb in Mytilus galloprovincialis foot and gills,” Mar. Chem., vol. 46, no. 1–2, pp. 119–131, Apr. 1994.
[46] T. Borchardt, S. Burchert, H. Hablizel, L. Karbe, and R. Zeitner, “Trace metal concentrations in mussels: comparison between estuarine, coastal and offshore regions in the southeastern North Sea from 1983 to 1986,” Mar. Ecol. Prog. Ser., vol. 42, pp. 17–31, 1988.
[47] B. Andral et al., “Monitoring chemical contamination levels in the Mediterranean based on the use of mussel caging,” Mar. Pollut. Bull., vol. 49, no. 9–10, pp. 704–712, 2004.
[48] H. A. Madkour, K. A. Obirikorang, S. Amisah, F. A. Otchere, and D. Adjei- Boateng, “Relationship between Heavy Metal Concentrations in Bottom Sediments and the Clam, Galatea Paradoxa (Born 1778) from the Volta Estuary, Ghana,” J. Environ. Prot. (Irvine,. Calif)., vol. 02, no. 06, pp. 720– 728, 2011.
[49] L. R. de Astudillo, I. C. Yen, and I. Bekele, “Heavy metals in sediments, mussels and oysters from Trinidad and Venezuela,” Int. J. Trop. Biol., vol. 53, no. 1, pp. 41–53, 2005.
[50] J. Burger, M. Gochfeld, C. Jeitner, M. Donio, and T. Pittfield, “Interspecific and intraspecific variation in selenium:mercury molar ratios in saltwater fish from the Aleutians: Potential protection on mercury toxicity by selenium,” Sci. Total Environ., vol. 431, pp. 46–56, 2012.
[51] P. Olmedo, A. F. Hernández, A. Pla, P. Femia, A. Navas-Acien, and F. Gil, “Determination of essential elements (copper, manganese, selenium and zinc) in fish and shellfish samples. Risk and nutritional assessment and mercury-selenium balance,” Food Chem. Toxicol., vol. 62, pp. 299–307, 2013. [52] R. N. Ratnaike, “Acute and chronic arsenic toxicity,” Postgr. Med J., vol. 79, pp. 391–396, 2003.