BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRẦN THỊ PHƯỢNG

KINH TÕ N¤NG NGHIÖP TØNH S¥N LA Tõ §ÇU THÕ KØ XIX §ÕN N¡M 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRẦN THỊ PHƯỢNG KINH TÕ N¤NG NGHIÖP TØNH S¥N LA Tõ §ÇU THÕ KØ XIX §ÕN N¡M 1945

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 9.22.90.13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ VĂN SEN

PGS.TS. NGUYỄN DUY BÍNH

HÀ NỘI - 2022

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là kết quả

nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong công trình này là trung thực. Kết quả nghiên cứu này không trùng với

bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.

Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.

Tác giả luận án

Trần Thị Phượng

ii

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ........... 8 ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 8 1.1. Những nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 ............................................................. 8 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời trung đại ............................................................. 8 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc ....................................................... 10

1.2. Những nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp, về các tộc người, về tộc người Thái ở Tây Bắc và Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 ........................................................................................ 16 1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp ........................................................................................................ 16 1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về các tộc người ở Tây Bắc ..................... 19 1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về người Thái ở Tây Bắc, Sơn La ............ 21

1.3. Những vấn đề nghiên cứu đã được làm rõ và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết ............................................................................................. 25 1.3.1. Những vấn đề nghiên cứu đã được làm rõ ............................................. 25 1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết ........................................ 26

CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH SƠN LA TRƯỚC NĂM 1945 ............... 28 2.1. Sự thay đổi đơn vị hành chính ........................................................................ 28 2.1.1. Sơn La trước thế kỉ XIX .......................................................................... 28 2.1.2. Sơn La dưới triều Nguyễn (từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1885) ................ 29 2.1.3. Sơn La từ năm 1886 đến năm 1945 ........................................................ 31 2.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên ........................................................................ 32 2.3. Dân cư - xã hội .................................................................................................. 35 2.3.1. Dân cư .................................................................................................... 35 2.3.2. Xã hội...................................................................................................... 39 Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 49

CHƯƠNG 3: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA TỪ ĐẦU THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1895 ......................................................................................... 50 3.1. Chính sách của nhà Nguyễn đối với kinh tế nông nghiệp ............................ 50

iii

3.1.1. Phân loại ruộng đất ................................................................................ 50 3.1.2. Đo đạc ruộng đất và lập địa bạ trong cả nước ...................................... 50 3.1.3. Chính sách ban cấp ruộng đất ............................................................... 51 3.1.4. Chính sách khai hoang ........................................................................... 52 3.1.5. Chính sách tô thuế ruộng đất ................................................................. 53 3.2. Tình hình ruộng đất ......................................................................................... 55 3.2.1. Qua địa bạ .............................................................................................. 55 3.2.2. Qua các nguồn tài liệu khác ................................................................... 68 3.3. Hoạt động sản xuất nông nghiệp .................................................................... 83 3.3.1. Trồng trọt................................................................................................ 84 3.3.2. Chăn nuôi ............................................................................................... 95 3.3.3. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ............................................................. 98

3.4. Nhận xét về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 .......................................................................................................... 99 Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 109

CHƯƠNG 4: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA TỪ NĂM 1895 ĐẾN NĂM 1945 ..................................................................................................... 111 4.1. Những điều kiện lịch sử mới tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La..................................................................................................................... 111 4.1.1. Thực dân Pháp đánh chiếm và đặt ách cai trị tại Sơn La .................... 111 4.1.2. Chính sách nông nghiệp của chính quyền thuộc địa ............................ 114 4.2. Tình hình ruộng đất ....................................................................................... 119 4.2.1. Diện tích và phân bố ............................................................................ 119 4.2.2. Các loại hình ruộng đất ........................................................................ 121 4.3. Hoạt động sản xuất nông nghiệp .................................................................. 129 4.3.1. Trồng trọt.............................................................................................. 129 4.3.2. Chăn nuôi ............................................................................................. 140 4.3.3. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ........................................................... 145

4.4. Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945 ................................................................................................ 151 Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 164

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 165 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 170 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 171 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 1 PL

iv

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Viết đầy đủ

AFC 1

Phông Nha Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thương mại Đông Dương

Chủ biên CB 2

Đại học sư phạm ĐHSP 3

Gia Long 4 GL4 4

KHXH Khoa học xã hội 5

KHXH&NV Khoa học xã hội và nhân dân 6

Minh Mệnh 21 MM21 7

Nghiên cứu lịch sử NCLS 8

Nhà xuất bản Nxb 9

Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ RST 10

Tự Đức 1 TĐ1 11

Thiệu Trị 1 TT1 12

Thiệu Trị 3 TT3 13

Thiệu Trị 4 TT4 14

15 TTLTQG I Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

16 tr Trang

17 66.8.13.2.0 66 mẫu 8 sào 13 thước 2 tấc 0 phân

(1 mẫu = 10 sào, 1 sào = 15 thước, 1 thước = 10 tấc, 1 tấc = 10 phân)

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Phân bố dân cư theo tộc người của các vùng thuộc tỉnh Sơn La

năm 1935 - 1936 ................................................................................. 36

Bảng 2.2. Sự phân tầng xã hội trong thể chế xã hội mường – so sánh giữa

người Mường và người Thái ............................................................... 46 Bảng 3.1. Danh mục địa bạ Sơn La (Trung tâm lưu trữ quốc gia I) ................... 55

Bảng 3.2. Phân bố địa bạ Sơn La theo châu và niên đại ..................................... 57

Bảng 3.3. Tình hình ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805) ............ 58

Bảng 3.4. Tình hình ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ....... 60

Bảng 3.5. Quy mô sở hữu ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805) ......... 63 Bảng 3.6. Quy mô sở hữu ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ..... 64

Sở hữu ruộng đất của các họ ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805) .......... 65

Bảng 3.7. Bảng 3.8. Sở hữu ruộng đất của các họ ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh

21 (1840) ..................................................................................... 66

Bảng 3.9. Sở hữu ruộng đất của các chức dịch ở Sơn La qua địa bạ Gia

Long 4 (1805) ..................................................................................... 67

Bảng 3.10. Sở hữu ruộng đất của các chức dịch ở Sơn La qua địa bạ Minh

Mệnh 21 (1840) ................................................................................... 68

Bảng 3.11. Lệ nộp thóc lười của 4 mường phìa ngoài Mai Sơn (Sơn La) ................... 74

Bảng 3.12. Ngày công và thu nhập bằng canh tác trên nương của người Khơ mú ..... 95

Bảng 4.1. Diện tích ruộng của Sơn La năm 1919 phân theo các châu .............. 120

Bảng 4.2. Ruộng chức dành cho phìa tạo và các chức dịch thời Pháp thuộc .... 123

Bảng 4.3. Sản lượng cánh kiến của tỉnh Sơn La bán ra ngoài tỉnh từ năm

1929 đến năm 1931, phân bổ theo các châu (đơn vị: kg) ................. 138

Bảng 4.4. Đàn gia cầm ở Sơn La giai đoạn 1929 – 1938 (đơn vị: con) ............ 145 Bảng 4.5. Thương mại xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Sơn La từ

năm 1901 đến năm 1931 ................................................................... 145

Bảng 4.6. Thương mại xuất khẩu cánh kiến của tỉnh Sơn La từ năm 1901

đến năm 1931 .................................................................................... 146

Bảng 4.7. Thương mại xuất khẩu da động vật của tỉnh Sơn La từ năm 1901

đến năm 1931 .................................................................................... 149

vi

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 4.1.Diện tích lúa tỉnh Sơn La (1917 - 1941) .................................................. 132

Hình 4.2. Sản lượng lúa tỉnh Sơn La (1917 - 1941) ................................................ 133

Hình 4.3. Năng suất lúa tỉnh Sơn La (1917 - 1941) ................................................ 135 Hình 4.4. Diện tích ngô tỉnh Sơn La (1917 - 1941) ................................................ 135

Hình 4.5. Sản lượng ngô tỉnh Sơn La (1917 - 1941) .............................................. 136

Hình 4.6. Năng suất ngô tỉnh Sơn La (1917 - 1941) ............................................... 137

Hình 4.7. Tổng đàn gia súc, gia cầm ở Sơn La giai đoạn 1929 – 1938 (con) ......... 141

Hình 4.8. Tổng đàn trâu, bò Sơn La giai đoạn 1929 – 1939 (Đơn vị: con) ............ 143

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam xuất phát điểm là một nền nông nghiệp lâu đời. Trước khi tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước thì nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của nông nghiệp Việt Nam nói chung và mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có những nét khác biệt và biến đổi theo từng thời kì do những tác động của các điều kiện lịch sử cụ thể. Ở khu vực miền núi hay các vùng biên viễn do điều kiện tự nhiên, đặc điểm tổ chức xã hội có nhiều nét đặc trưng nên tình hình ruộng đất, tập quán canh tác, kỹ thuật sản xuất, phương thức trao đổi… và kinh tế nông nghiệp nói chung cũng có những nét khác biệt. Cho đến nay, hoạt động nông nghiệp ở những khu vực này mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn.

Sơn La là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, nơi tụ cư của nhiều tộc người cùng sinh sống nhưng đa phần là người Thái. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đây vẫn là khu vực nằm dưới quyền cai quản chủ yếu của các dòng họ quý tộc người Thái. Do tính chất và tổ chức xã hội có nhiều nét riêng biệt cộng với chính sách quản lý của nhà nước phong kiến Nguyễn cũng như chính quyền thực dân Pháp có sự phân biệt đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 trên nhiều phương diện.

Ở Sơn La hiện nay, hầu hết các tộc người vẫn lấy sản xuất nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ đạo, tuyệt đại đa số cư dân sống dựa vào kinh tế nông nghiệp. Song trong thực tế, những nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp của tỉnh Sơn La trong lịch sử còn mờ nhạt. Với mục đích đi sâu nghiên cứu nhằm phục dựng lại bức tranh kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La với những biến đổi cụ thể qua hai thời kỳ (từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 và từ năm 1895 đến năm 1945), đề tài luận án có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rõ rệt. Đề tài góp phần lấp dần những khoảng trống và làm phong phú thêm bức tranh nhiều màu sắc về kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Qua đó góp phần lý giải nguyên nhân của sự phát triển chậm chạp ở các khu vực miền núi như tỉnh Sơn La. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án góp phần tạo dựng cơ sở, nền tảng và để lại nhiều bài học kinh nghiệm nhằm ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào phát triển nền kinh tế nông nghiệp ở Sơn La – Tây Bắc theo hướng bền vững và hiện đại.

Với những lý do trên tôi lựa chọn vấn đề “Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ

đầu thế kỉ XIX đến năm 1945” làm luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án phục dựng lại tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế

kỉ XIX đến năm 1945.

Luận án rút ra những đặc điểm của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công trong cả nước (năm 1945) trong sự đối sánh với khu vực Tây Bắc nói chung và một số địa phương cụ thể như Hòa Bình, Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những yếu tố tác động tới kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La (từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945): sự thay đổi đơn vị hành chính, vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cư, đời sống xã hội, các chính sách của nhà Nguyễn, các chính sách của thực dân Pháp…

- Phục dựng tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 qua 2 giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 (mốc thành lập tỉnh Sơn La); từ năm 1895 đến năm 1945, trên các lĩnh vực: tình hình ruộng đất, các loại hình kinh tế (trồng trọt, chăn nuôi), hoạt động trao đổi buôn bán các sản phẩm nông nghiệp, một số tác động đến đời sống nhân dân, tình hình chính trị - xã hội…

- Chỉ ra những biến đổi về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La giữa hai giai đoạn trong phạm vi nghiên cứu, rút ra một số đặc điểm của kinh tế nông nghiệp địa phương trên cơ sở đặt tỉnh Sơn La trong không gian chung của vùng Tây Bắc và so sánh giữa tỉnh Sơn La với một số địa phương cụ thể như Lai Châu, Hòa Bình, Cao Bằng, Hà Giang. Tác giả luận án sẽ tiến hành nhiệm vụ này lồng ghép trong từng nội dung của luận án để có minh chứng cụ thể thông qua những dẫn chứng trực tiếp nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu của luận án là kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 (bao gồm chế độ ruộng đất, kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, xuất khẩu nông sản). 3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Phạm vi không gian nghiên cứu của luận án là địa bàn tỉnh Sơn La đầu thế kỉ XIX, từ thời Gia Long, Sơn La thuộc trấn Hưng Hóa gồm các châu: Thuận, Sơn La, Mộc, Phù Hoa, Mai Sơn, Việt. Theo cải cách hành chính của vua Minh Mệnh, địa phận Sơn La thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa gồm 6 châu:

3

Phù Yên, Mộc, Thuận, Mai Sơn, Sơn La, Yên. Dưới thời Pháp thuộc, theo Nghị định 10/10/1895, phạm vi Sơn La gồm 12 châu: Mộc, Phù Yên, Sơn La, Yên, Mai Sơn, Thuận, Tuần Giáo, Điện Biên, Lai, Luân, Quỳnh Nhai, Phong Thổ. Tuy nhiên, ngày 28/6/1909, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách châu Quỳnh Nhai, Điện Biên, Tuần Giáo, Lai, Luân thành lập một tỉnh mới lấy tên là Lai Châu (thuộc đạo Quan binh 4); tách tổng Nghĩa Lộ nhập vào địa bàn tỉnh Yên Bái. Địa hạt Sơn La còn lại 6 châu: Sơn La (hay Mường La và địa phận Thành phố Sơn La hiện nay), Thuận Châu, Mai Sơn, Yên, Mộc, Phù Yên (gồm cả Bắc Yên ngày nay) và được duy trì đến hết thời Pháp thuộc. Địa phận tỉnh Sơn La bao gồm 6 châu như trên chính là không gian nghiên cứu của luận án.

Về thời gian: Luận án nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945, tương ứng với giai đoạn từ khi nhà Nguyễn tiến hành lập địa bạ trong cả nước thời Gia Long năm 1805 đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945.

Về nội dung: Kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nhiều ngành: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Còn theo nghĩa hẹp kinh tế nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Với các tộc người ở tỉnh Sơn La, ngoài hai ngành trồng trọt và chăn nuôi, các tộc người còn đánh bắt và nuôi cá (người Thái) cũng như khai thác các sản vật trong rừng. Tuy nhiên trong quá trình khảo sát các tài liệu lưu trữ bằng tiếng Pháp và các nguồn tài liệu trong nước, chúng tôi chỉ tiếp cận được với những số liệu và ghi chép về hoạt động trồng trọt, chăn nuôi là chủ yếu. Còn những tài liệu về hoạt động khai thác rừng, đánh bắt cá của người Thái rất ít, nếu có cũng chỉ là một số nhận xét về thói quen dựa vào tự nhiên của các tộc người. Mặc dù đây là một trong những hoạt động giúp các tộc người nhất là người Thái đảm bảo nguồn thực phẩm nhưng những hoạt động này mang tính chất tự phát, theo mùa, phục vụ nhu cầu từng gia đình và cống nạp cho bộ phận thống trị… Hay nói cách khác, nuôi trồng thủy sản ở trong ao, ruộng của người Thái chỉ như sinh kế bổ sung của tộc người này; còn lâm nghiệp chủ yếu là khai thác các sản vật lâm nghiệp và lâm nghiệp ngoài gỗ để tiêu dùng trong gia đình nên chúng tôi không đủ dữ liệu để phân tích, đánh giá. Vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu kinh tế nông nghiệp truyền thống tỉnh Sơn La bao gồm hai ngành trồng trọt và chăn nuôi qua hai giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến khi tỉnh Sơn La được thành lập (năm 1895) và từ năm 1895 đến năm 1945. 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Với đề tài “Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945”, tác giả luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac –

4

Lênin, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu về những yếu tố tác động tới kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La, thực trạng kinh tế nông nghiệp tỉnh trong phạm vi nghiên cứu, chỉ ra những biến đổi của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La qua hai giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 và từ năm 1895 đến năm 1945, rút ra một số đặc điểm của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời kì từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945.

Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện thông qua việc sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của chuyên ngành Lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu... Trong đó, hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.

Phương pháp lịch sử giúp tác giả luận án tái hiện lại một cách chính xác, có hệ thống các vấn đề kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La theo tiến trình thời gian và đặt trong hoàn cảnh cụ thể.

Phương pháp lôgic giúp tác giả luận án phân tích và trình bày các vấn đề nghiên cứu cần phải giải quyết hay các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra đối với luận án được chặt chẽ, liền mạch và hợp lý nhằm đạt được mục đích nghiên cứu.

Phương pháp thống kê nhằm thu thập tài liệu bởi luận án sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau (nguồn tài liệu tiếng Pháp, nguồn tài liệu Hán – Nôm, nguồn tài liệu sưu tầm, điền dã tại địa phương, các công trình nghiên cứu sách chuyên khảo, luận án...), xử lý và chắt lọc dẫn chứng và tài liệu quan trọng.

Phương pháp so sánh được sử dụng để tìm hiểu những thay đổi về kinh tế nông nghiệp của Sơn La qua 2 giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 và từ năm 1895 đến năm 1945, đồng thời có so sánh chọn điểm với một số tỉnh ở miền núi phía Bắc.

Phương pháp sưu tầm và xử lý tư liệu được tác giả sử dụng trong suốt quá trình tiến hành làm luận án. Tác giả tiến hành sưu tầm các nguồn tài liệu tiếng việt, tiếng Thái, Hán Nôm, tiếng Pháp có liên quan đến luận án. Từ những tài liệu sưu tầm được tác giả tiến hành phân định mức độ liên quan đến luận án và tiến hành sắp xếp, xử lí các nguồn tư liệu phù hợp với từng nội dung cụ thể trong luận án.

Ngoài ra, tác giả luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành nhất là dân tộc học, địa lý học… kết hợp điều tra, phỏng vấn, điền dã tại địa phương. Bởi trong luận án, các nghiên cứu dân tộc học về các tộc người đặc biệt là các hoạt động kinh tế nông nghiệp được mô tả, phục dựng qua hàng loạt quá trình điền dã, thu thập tư liệu của các nhà dân tộc học. Từ đó, tác giả luận án cũng tiến hành phỏng vấn những nhà nghiên cứu, những người cao tuổi của các tộc người,

5

tiến hành điền dã, khảo sát tại địa phương để có thêm những dữ liệu và đối chứng với những tài liệu lưu trữ nhằm phục dựng một cách hoàn chỉnh nhất về kinh tế nông nghiệp truyền thống của các tộc người tại tỉnh Sơn La. 4.2. Nguồn tài liệu

Trong luận án tác giả sử dụng ba nguồn tài liệu: nguồn tài liệu lưu trữ được lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (TTLTQG I), Hà Nội bao gồm nguồn tài liệu địa bạ dưới triều Nguyễn và nguồn tài liệu tiếng Pháp; nguồn tài liệu sưu tầm, điền dã tại địa phương; nguồn tài liệu tham khảo là các công trình nghiên cứu, sách, luận án, luận văn, các bài viết đăng trên các tạp chí, hội thảo… Cụ thể:

- Thứ nhất, với nguồn tài liệu lưu trữ: + Nguồn tài liệu địa bạ trong luận án tác giả sử dụng các bản địa bạ của tỉnh Sơn La được lưu tại TTLTQG I, Hà Nội. Với 34 địa bạ bằng chữ Hán Nôm của tỉnh Sơn La là 34 động, xã thuộc các thời điểm khác nhau. Địa bạ thời Gia Long thuộc 5 châu (Phù Yên, Thuận, Sơn La, Mai Sơn, Mộc). Địa bạ thời Minh Mệnh thuộc 5 châu (Phù Yên, Thuận, Yên, Sơn La, Mai Sơn). Thông tin do địa bạ cung cấp rất phong phú, không chỉ gồm các số liệu về diện tích ruộng đất theo các loại hình sở hữu, chủ sở hữu, các xứ đồng mà còn chứa đựng những tư liệu về địa giới các đơn vị hành chính, về từng thửa ruộng, những tư liệu liên quan đến cảnh quan tự nhiên, như: các loại địa hình, sông, hồ, ao đầm, đồi gò, chất lượng ruộng đất...; liên quan đến chỗ ở của một số nhân vật lịch sử... của tỉnh Sơn La thời Nguyễn. Có thể nói, đối với kinh tế nông nghiệp, ruộng đất có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, nên những tư liệu địa bạ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với luận án. Tuy nhiên, những tư liệu địa bạ này chủ yếu tập trung ở thời Gia Long 4 (1805) với 19 địa bạ và cũng là niên đại địa bạ triều Nguyễn sớm nhất ở Sơn La. Kế đến là địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840) với tổng số 11 địa bạ, địa bạ năm Thiệu Trị 1 (1841), Thiệu Trị 3 (1843), Thiệu Trị 4 (1844), Tự Đức 1 (1848) mỗi năm có 1 địa bạ. Niên đại địa bạ triều Nguyễn muộn nhất ở Sơn La là địa bạ năm Tự Đức 1 (1848). Như vậy, hạn chế của luận án khi nói tới vấn đề ruộng đất ở Sơn La sẽ thiếu các số liệu từ năm 1848 đến 1895. Thêm vào đó, các tư liệu địa bạ này được lập không phải ở tất cả các động, xã cùng một thời điểm nên không thể thấy được tính liên tục cũng như sự thay đổi của tình hình ruộng đất. Trong thông tin do địa bạ Sơn La cung cấp, các vấn đề liên quan đến kinh tế nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi… lại rất ít. Như vậy, nguồn tư liệu gốc như địa bạ không thể nghiên cứu hết tình hình nông nghiệp ở Sơn La thời kỳ này, tác giả luận án buộc phải phục dựng lại bức tranh kinh tế nông nghiệp Sơn La thời phong kiến thông qua các nguồn tài liệu như các công trình

6

chính sử thời Nguyễn để hiểu chính sách chung về nông nghiệp, những công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp cả nước đầu thế kỉ XIX như các công trình sách báo, luận án mà tác giả sẽ làm rõ ở phần Tổng quan, thêm vào đó là các tài liệu địa phương như phần tài liệu sưu tầm, điền dã tác giả luận án sẽ làm rõ ngay sau đây.

+ Nguồn tài liệu lưu trữ bằng tiếng Pháp được lưu tại TTLTQG I, Hà Nội. Tài liệu được tác giả khai thác chủ yếu thuộc về các nội dung: báo cáo kinh tế (từ năm 1902 đến năm 1941), báo cáo tình hình chung của tỉnh hàng năm, các phiên họp hội đồng tỉnh, các biên bản chuyển nhượng, các đơn xin cấp đất… chủ yếu ở phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (với kí hiệu RST) và phông Nha Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thương mại Đông Dương (với kí hiệu AFC). Tuy nhiên, các tài liệu tiếng Pháp cũng bị gián đoạn, thiếu các số liệu thống kê mang tính chất liên tục.

– Thứ hai, đối với nguồn tài liệu sưu tầm, điền dã tại địa phương: Nguồn tài liệu quan trọng được sử dụng trong luận án là luật tục của người Thái ở các địa phương như Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu, Mai Sơn… đã được Cầm Trọng, Ngô Đức Thịnh sưu tầm, dịch ra tiếng Việt và tập hợp lại trong công trình Luật tục Thái ở Việt Nam [155]. Thông qua các bản luật tục này, tác giả luận án có những đối sánh với tài liệu gốc nhất là thời kì phong kiến nhà Nguyễn để xem xét mức độ thực hiện chính sách nông nghiệp và ruộng đất của triều đình trung ương với các tộc người ở Sơn La. Đặc biệt, qua luật tục của người Thái cũng làm rõ được những loại hình sở hữu ruộng đất ở Sơn La thời kì trước khi bị thực dân Pháp xâm chiếm. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn sử dụng các cuốn Chuyện kể bản mường (Quam tô mương) của người Thái tại các động/xã thuộc các châu ở Sơn La như Mai Sơn, Thuận, Mộc, Phù Yên, Yên…, các sách ghi chép lai lịch các dòng họ chúa đất ở từng địa phương như Lai lịch dòng họ Bạc Cầm ở Mường Muổi (Thuận Châu), Danh sách tổ tiên họ Lò Cầm ở Mai Sơn… cũng đã cung cấp cho tác giả luận án những căn cứ quan trọng khi nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp các tộc người, đặc biệt là người Thái ở Sơn La. Ngoài ra còn có những tư liệu truyền miệng và tư liệu phỏng vấn những nhà nghiên cứu Thái học, những nghệ nhân người Thái, người cao tuổi của các tộc người am hiểu lịch sử… Tuy nhiên, tất cả các nguồn tư liệu này đều viết về người Thái là chủ yếu, các tộc người khác có được nhắc đến nhưng với tư cách là những bộ phận lệ thuộc vào người Thái, chỉ có người Thái nơi đây mới có những ghi chép thông qua các bản luật tục đến trước năm 1945. Vì vậy, đối với những nghiên cứu về nông nghiệp tỉnh Sơn La nhất là thời kì phong kiến khi bị khuyết các tài liệu gốc như địa bạ, tác giả luận án đã sử dụng đến luật tục của người Thái để minh chứng, phác họa những luận điểm đưa ra trong tài liệu gốc, tìm ra những điểm tương đồng, khác

7

biệt, từ đó chỉ ra những đặc trưng trong kinh tế nông nghiệp cũng như tình hình ruộng đất của tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945.

- Thứ ba, đối với nguồn tài liệu là các công trình nghiên cứu, sách, luận án, luận văn, các bài viết đăng trên các tạp chí, hội thảo… đây là những tài liệu tham khảo đề cập đến hàng loạt các vấn đề liên quan đến kinh tế nông nghiệp cả nước nói chung, vùng Tây Bắc và tỉnh Sơn La nói riêng trên những khía cạnh khác nhau. 5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án được coi là một trong những công trình đầu tiên tái hiện lại một cách tương đối toàn diện, có hệ thống về thực trạng kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945.

- Luận án phân tích và đánh giá các nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La như: điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử hình thành, các chính sách của nhà nước phong kiến và thực dân Pháp từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945.

- Kết quả nghiên cứu của Luận án đã góp phần làm rõ những đặc điểm của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La nói riêng, khu vực Tây Bắc nói chung từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 như: ruộng đất manh mún; mang nặng tính chất tự cung tự cấp, phụ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên; phương thức canh tác lạc hậu, chủ yếu là lao động thủ công theo kiểu “chọc lỗ tra hạt”, năng suất lao động và năng suất cây trồng vật nuôi thấp kém; phương thức bóc lột đặc trưng chủ yếu là “cống nạp sản vật và phu phen tạp dịch không công”…

- Luận án góp phần bổ sung và làm phong phú thêm tài liệu nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp Sơn La nói riêng, Tây Bắc nói chung; kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là tài liệu tham khảo để biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương trong các trường Đại học, Cao đẳng và Phổ thông ở khu vực Tây Bắc và cả nước.

- Kết quả nghiên cứu về “Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945” góp phần tạo dựng cơ sở, nền tảng và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí báu để ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào phát triển nền kinh tế nông nghiệp ở Sơn La – Tây Bắc hiện đại và bền vững, nhất là bài học về quản lý đất đai trong giai đoạn hiện nay. 6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của

luận án gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Khái quát về tỉnh Sơn La trước năm 1945 Chương 3: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 Chương 4: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945

8

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945

Từ trước đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm đến vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Vì vậy, vấn đề này đã được nhiều tác giả đề cập tới trong hàng loạt các công trình nghiên cứu. 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời trung đại

Trước hết phải kể đến công trình Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (thế kỷ XV) của tác giả Phan Huy Lê [129]. Với nguồn tư liệu chủ yếu là các bộ sử cũ của các sử gia phong kiến, tác giả đã trình bày khái quát những nét lớn về chính sách ruộng đất và tình hình kinh tế nông nghiệp của nước ta thế kỷ XV. Đây được coi là công trình đặt nền móng cho việc nghiên cứu vấn đề ruộng đất của Việt Nam trong suốt thời kì phong kiến.

Với vấn đề ruộng đất, nông dân dưới triều Nguyễn thế kỉ XIX, tác giả Nguyễn Kiến Giang đã xuất bản công trình Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng Tháng Tám [118]. Đây được coi là công trình phác họa đầy đủ, sâu sắc những vấn đề liên quan đến kinh tế nông nghiệp, sở hữu ruộng đất, thực trạng nông dân Việt Nam thời phong kiến và sự bóc lột của đế quốc... Khi nhắc tới tình hình nông dân thuộc các dân tộc thiểu số tác giả đã khẳng định “thời phong kiến, ở vùng tồn tại chế độ thổ ty, lang đạo, phìa tạo... mà ruộng đất căn bản là của công (tức là của thổ ty, lang đạo) song “ruộng đất ở các vùng này tuy gọi căn bản là của công song thực tế đều do bọn thống trị chiếm giữ và phân phối” [118, tr.234]. Có thể nói, tác phẩm này đã chỉ rõ những nét đặc trưng bao trùm trong quyền sở hữu ruộng đất của các tộc người Thái, Tày – Nùng, Mường. Từ đó tác giả luận án có thể đi vào tìm hiểu, làm rõ những đặc trưng này diễn biến như thế nào ở tỉnh Sơn La - nơi mà chế độ phìa tạo của người Thái có ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc trong xã hội cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong các thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX, chúng ta thấy xuất hiện một số chuyên khảo lớn, đánh dấu một bước tiến mới trong việc nghiên cứu vấn đề ruộng đất – kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Trong đó đáng chú ý là cuốn Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của tác giả Vũ Huy Phúc (1979) [135].

9

Trong tác phẩm này tác giả đã hệ thống hóa những chính sách ruộng đất lớn của nhà Nguyễn, các biểu ngạch về tô thuế ruộng đất, những tác động qua lại và hậu quả của chính sách ruộng đất đối với yêu cầu phát triển của lịch sử nửa đầu thế kỷ XIX... Trong tình hình chung của cả nước qua các đời vua Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức đã thấy được những thay đổi trong chính sách ruộng đất, tình hình sở hữu ruộng đất công tư, đời sống nông dân, tô thuế ruộng đất của từng khu vực… Sơn La nửa đầu thế kỉ XIX nằm trong khu vực Hưng Hóa đã được đề cập tới với những thay đổi trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX. Dĩ nhiên khi nghiên cứu tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp tại một địa phương cụ thể như Sơn La phải đặt trong bối cảnh chung của cả nước, đặt trong những chính sách chung của nhà Nguyễn.

Công trình Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của các tác giả Trương Hữu Quýnh – Đỗ Bang (chủ biên) [150] đã nghiên cứu địa bạ thời Nguyễn và tình hình ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, làm rõ được tình hình kinh tế nông nghiệp và đời sống nông dân dưới thời Nguyễn (1802 – 1884), cũng như chỉ ra những chuyển biến kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX khi thực dân Pháp xâm lược. Nhiều vấn đề liên quan đến Sơn La trong thời kì này được làm sáng tỏ trên cơ sở nghiên cứu tình hình chung của cả nước như: Vì sao địa bạ Sơn La tập trung phần lớn vào niên đại Gia Long 4 (1805)? “Phần lớn địa bạ (59%) có niên đại Gia Long 4 (1805) tập trung các tỉnh thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ” [150, tr.11]. Cũng lí giải vì sao địa bạ tập trung thời kì này “địa bạ Bắc Kỳ gồm 4.296 tập với 8.704 địa bạ của 162 huyện đương thời thuộc 9 tỉnh, thành phố vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ…, và 10 tỉnh miền núi…” trong đó có Sơn La [150, tr.12]. Với số lượng 7.225 bản có niên đại Gia Long 4 (1805) chiếm 83%, “Đây là năm triều Nguyễn tiến hành đợt làm địa bạ đầu tiên, trên đất Bắc Hà” [150, tr.12]. Đây là một trong số rất ít tác phẩm đề cập cụ thể, chi tiết đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn. Có thể nói tác phẩm này đã cung cấp cho tác giả luận án những cơ sở tiền đề để đặt vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Sơn La trong sự phát triển chung của cả nước.

Bên cạnh các cuốn sách nói trên, còn có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này được đăng trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu kinh tế, Dân tộc học của các tác giả: Nguyễn Hồng Phong, Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, NCLS, 1/1959, tr. 42-55 [236]. Trương Hữu Quýnh, Vấn đề ruộng đất bỏ hoang ở đồng bằng Bắc Bộ buổi đầu thời Nguyễn, NCLS, 261/1992, tr. 26-30 [242]. Vũ Minh Quân với Khái quát về tình hình ruộng đất và giải quyết vấn đề ruộng đất của Nhà nước ở nửa đầu thế kỷ XIX, NCLS, số 4 (914), tr. 52 – 58 [239]... Các bài

10

viết trên đề cập đến rất nhiều vấn đề khác nhau trong chế độ ruộng đất ở Việt Nam thời phong kiến. Điều này đã giúp tác giả có những nhận định ban đầu khi đặt chế độ ruộng đất của Sơn La trong sự vận động của chế độ sở hữu ruộng đất của cả nước nói chung và bên cạnh các vùng miền khác nói riêng.

Khi nhắc đến sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở các địa phương cụ thể qua các thời điểm đã xuất hiện nhiều công trình, tiêu biểu trong số này phải kể đến các luận án đã được bảo vệ thành công: Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải – Luận án Phó Tiến sĩ của tác giả Bùi Quý Lộ (1987) [233], Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn – Luận án Phó Tiến sĩ của tác giả Đào Tố Uyên [257]. Gần đây xuất hiện một số luận án Tiến sĩ về ruộng đất, kinh tế nông nghiệp của một số huyện, tỉnh trong cả nước như: Luận án của tác giả Bùi Việt Hùng, Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, ĐHSP Hà Nội, 1999 [227]. Tác giả Trịnh Thị Thủy, Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) nửa đầu thế kỉ XIX, Hà Nội, 2002 [247]. Tác giả Thái Quang Trung, Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX, ĐHSP Hà Nội, 2009 [253]. Tác giả Đàm Thị Uyên (2000), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến giữa thế kỷ XIX, ĐHSP Hà Nội [258]. Luận án Kinh tế, văn hóa huyện La Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) nửa đầu thế kỷ XIX của tác giả Lê Hiến Chương (2013), ĐHSP Hà Nội [218]. Tác giả Nguyễn Thành Lương (2016), Vấn đề sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa đầu thế kỷ XIX, Học viện KHXH, Hà Nội [235]… Các luận án trên giúp tác giả có định hướng nhất định khi nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp địa phương đồng thời thông qua các luận án, tác giả có thể rút ra những đặc trưng của kinh tế nông nghiệp Sơn La với các địa phương khác trong cả nước. 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc

* Nhóm công trình nghiên cứu của người Pháp Nông nghiệp Việt Nam đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của chính quyền và các nhà thực dân Pháp từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt liên quan tới chế độ ruộng đất, thủy lợi và sản xuất nông nghiệp (cây trồng, sản lượng, năng suất, xuất khẩu nông sản).

Về chế độ ruộng đất, đã có một số công trình chuyên khảo đề cập tới chế độ ruộng đất trước khi người Pháp xâm lược Việt Nam và những can thiệp, thay đổi của chế độ ruộng đất trong thời kỳ thuộc địa. Trong số đó phải kể tới các nghiên cứu

11

của Albert Boudillon công bố năm 1915 và năm 1927; nghiên cứu của Pierre Aquarone năm 1915; Nghiên cứu của E. Rény năm 1931; của P. de Feyssal năm 1931.

Trong hai nghiên cứu của mình với tựa đề, Le régime de la propriété foncière en Indochine: ce qui à été fait, ce qu'il faudrait faire, Émile Larose, Libraire-éditeur, Paris, 1915 (Chế độ sở hữu ruộng đất ở Đông Dương, việc đã làm và sẽ cần phải làm) [183] và La réforme du régime de la propriété foncière en Indochine, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï, 1927 (Cải cách chế độ sở hữu ruộng đất ở Đông Dương) [184], Albert Boudillon đề cập chi tiết các chính sách can thiệp của chính quyền thuộc địa Pháp vào chế độ ruộng đất ở Việt Nam, đặc biệt là các quy định liên quan tới chế độ sở hữu đất nhượng trong toàn cõi Đông Dương, trong đó có Việt Nam, như: quy định về thủ tục cấp nhượng, vai trò chính quyền các cấp, số diện tích được cấp nhượng, trách nhiệm và quyền sở hữu của người nhận đất nhượng trong lĩnh vực nông nghiệp.

Cùng liên quan tới cải cách chế độ ruộng đất ở Đông Dương, trong tác phẩm La réforme foncière en Indochine (Cải cách ruộng đất ở Đông Dương), Paris, 1931, tác giả P. de Feyssal [201] cũng đề cập tới những thay đổi trong chính sách ruộng đất của chính quyền thuộc địa ở Đông Dương và Việt Nam, đặc biệt là chế độ đất nhượng cho cá nhân và công ty Pháp để lập đồn điền.

Nếu như Albert Boudillon tập trung nghiên cứu về quyền sở hữu đất nhượng thì E. Rény tập trung nghiên cứu, khảo sát về thực tiễn, hiệu quả của việc quản lý ruộng đất thông qua địa bạ. Trong các công trình Monographie générale du cadastre en Indochine, Éditeur Scientique, Paris, 1931 (Chuyên khảo chung về địa bạ ở Đông Dương) [191], E. Rény đề cập tới lịch sử thiết lập địa bạ, quản lý ruộng đất ở Việt Nam trước và trong thời kỳ thuộc địa, trong đó có đề cập tới địa bạ và quản lý đất đai ở các tỉnh Bắc Kỳ.

Cũng liên quan tới quản lý ruộng đất, Pierre Aquarone đề cập tới vấn đề an ninh trong sở hữu ruộng đất và bất động sản ở Đông Dương nhìn từ phương diện luật pháp. Trong công trình nghiên cứu Les sûretés immobilières en Indochine: essai théorique et critique, Université de Bordeaux, 1936 (An ninh bất động sản ở Đông Dương, lý thuyết và phê phán) [205]. Pierre Aquarone phê phán những hạn chế trong chính sách quản lý ruộng đất và đề xuất thiết chặt thực hiện các quy định liên quan tới việc đầu cơ ruộng đất, vấn đề sở hữu ruộng đất của người nước ngoài ở Đông Dương và Việt Nam.

Liên quan tới chế độ ruộng đất và chính sách quản lý ruộng đất của chính quyền thuộc địa, năm 1930, chính quyền Đông Dương cho công bố một cuốn sách

12

gồm tất cả các Sắc lệnh, Nghị định và Thông tri của Chính phủ Pháp, chính quyền thuộc địa Đông Dương (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ) về chế độ ruộng đất ở Việt Nam thời kỳ thuộc địa cho đến năm 1929. Cuốn sách có tựa đề Recueil des décrets, arrêtés et circulaires relatifs au régime de la propriété foncière en Cochinchine et dans les concessions françaises en Annam et au Tonkin, Imprimerie d’Extrême- Orient, Hanoï, 1930 (Tập hợp các Sắc lệnh, Nghị định, Thông tư về chế độ sở hữu ruộng đất ở Nam Kỳ, trong các vùng nhượng địa, Trung Kỳ và Bắc Kỳ) [194]. Trong số các Nghị định về chế độ ruộng đất, có các Nghị định quan trọng ngày 19/9/1926, ngày 4/11/1928 quy định về quyền sở hữu đất nhượng của người bản xứ, công dân Pháp, công dân và các công ty nước ngoài trong lĩnh vực thuộc địa hóa nông nghiệp ở Đông Dương.

Về phân bố và sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam thời Pháp thuộc, năm 1940, tác giả Pierre Gourou công bố tác phẩm L’utilisation du sol en Indochine, Paris (Sử dụng đất ở Đông Dương) [206]. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đề cập tới phân bố đất trồng, diện tích trồng, hiện trạng sử dụng và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng.

Khía cạnh thứ hai quan trọng của nông nghiệp Việt Nam thời thuộc địa được các nhà nghiên cứu Pháp quan tâm đó là vấn đề thủy lợi. Đã có một số chuyên khảo về thủy lợi, trong đó phải kể tới cuốn L’Hydraulique agricole en Indochine của tác giả Constantin, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï, 1918 (Thủy lợi cho phát triển nông nghiệp ở Đông Dương) [190]; Nghiên cứu của Pétayvin, La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en 1915, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi, 1916 (Lũ sông hồng và lụt ở Bắc Kỳ năm 1915) [204]… Các nghiên cứu trên đề cập tới tình trạng lũ lụt, vỡ đê, hạn hán và chính sách phát triển nông nghiệp của chính quyền thuộc địa, trong đó có việc nghiên cứu, xây dựng các công trình thủy lợi: đào kênh, đắp đê, xây dựng hệ thống tưới tiêu, xây cống, trạm bơm của chính quyền thuộc địa Pháp trong các tỉnh ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, trong đó có đề cập tới hạn hán, lụt lội ở tỉnh Sơn La năm 1915 gây ra sự sụt giảm sản xuất nông nghiệp trong tỉnh. Tuy nhiên, những thông tin liên quan tới tỉnh Sơn La rất ít và không tập trung.

Sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa còn được đề cập rải rác trong các nghiên cứu của người Pháp về tình hình kinh tế Đông Dương. Kinh tế Việt Nam trước năm 1929 có các nghiên cứu như: La situation de l’Indochine de 1902 à 1907, Saigon, 1908 của Paul Beau (Tình hình kinh tế Đông Dương từ 1902 đến 1907) [202]; Note sur la situation économique de l’Indochine depuis le début de la guerre, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï, 1915 của George Guerrier (Ghi

13

chép về tình trạng kinh tế của Đông Dương từ đầu chiến tranh thế giới) [195]; Indochine années vingt: Le balcon de la France sur le Pacifique 1918-1928, 2001, Les Indes Savantes, Paris của Patrice Morla (Đông Dương những năm 20, Ban công của Pháp ở Thái Bình Dương) [203]. Các nghiên cứu này trình bày quá trình thiết lập cơ sở hạ tầng, thâm nhập của tư bản Pháp vào các lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam, trong đó có nông nghiệp, đặc biệt là chiếm đất, lập đồn điền cao su, lúa gạo và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.

Từ năm 1929 đến năm 1945, kinh tế Đông Dương tiếp tục thu hút sự nghiên cứu của người Pháp, trong đó quan trọng nhất phải kể tới Henri Yves, Charles Robequin, André Touzet.

Henri Yves đã hệ thống hóa toàn bộ ruộng đất các tỉnh trong toàn quốc và đưa ra những tỷ lệ về sở hữu ruộng đất ở các tỉnh miền Bắc – Trung – Nam của nước ta qua tác phẩm Economic Agricole de l’Indochine (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương), xuất bản năm 1932 [119]. Đây được coi là nghiên cứu quan trọng về kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời Pháp thuộc bởi qua công trình này người đọc có thể phác họa được bức tranh toàn cảnh về kinh tế Việt Nam thời thuộc địa. Phần tác giả luận án tập trung nghiên cứu là phần đầu tiên “nông nghiệp bản xứ - khai thác thuộc địa Pháp” bởi ngoài việc hệ thống hóa toàn bộ dân số, tổng diện tích, diện tích ruộng, mật độ dân số... của các tỉnh ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thì hàng loạt các vấn đề khác như nhân công, tiền công, thuê khoán ruộng đất, quyền sở hữu ruộng đất, sự phân chia đất đai... đều được tác phẩm này tái hiện. Trong bảng thống kê vào năm 1932 đã thống kê số liệu tỉnh Sơn La như sau: về dân số 90.003 người, tổng diện tích 10.865 km2, diện tích ruộng 8.000 ha, bình quân đầu người về diện tích ruộng 0,088 ha, mật độ dân số 8 người/1km2, mật độ dân số về lương thực 1.125 [119, tr.1-2]. Ở các phần còn lại, tác giả luận án chỉ có thể sử dụng khi so sánh, tìm ra những đặc trưng trong kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La với các địa phương khác ở Bắc Kỳ khi sử dụng những số liệu, những dẫn chứng thông qua việc nghiên cứu tài liệu lưu trữ. Mặc dù vậy, công trình này là một trong số rất ít tài liệu đề cập đến số liệu ruộng đất, dân số Sơn La thời Pháp thuộc. Từ đây, tác giả luận án có cơ sở khai thác các nguồn tài liệu khác đặt trong sự so sánh đối chiếu.

Trong cuốn L'évolution économique de l'Indochine

française, Paul Hartmann-éditeur, Paris, 1939 [189], Charles Robequin phân tích các yếu tố tác động tới kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng của Việt Nam, như lao động, kỹ thuật, vốn đầu tư, đồng thời chỉ ra những bước phát triển, đặc biệt trong thuộc địa hóa nông nghiệp của Pháp ở Việt Nam.

14

Về kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới, hai công trình nghiên cứu của Andre Hibon với tựa đề La crise économique en Indochine, Société générale d'Imprimerie et d'édition, Paris, 1934 (Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Đông Dương) [185] và của Andre Touzet với tựa đề L’économie en Indochine et grande crise, Paris, 1934 (Kinh tế Đông Dương trong cuộc đại khủng hoảng) [186]. Hai tác giả tập trung phân tích những tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng ở Đông Dương và Việt Nam. Trong đó, đề cập tới sự sụt giá các sản phẩm nông nghiệp, sự thoái lui đầu tư của tư bản Pháp trong lĩnh vực nông nghiệp, sự phá sản của các công ty nông nghiệp, những khó khăn liên quan tới tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.

Mặc dù các nghiên cứu trên không đề cập trực tiếp tới kinh tế nông nghiệp Sơn La, nhưng những nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng, tạo cơ sở nền tảng và khung cảnh chung về kinh tế nông nghiệp của Việt Nam thời kỳ thuộc địa. Qua đó có thể thấy chính sách kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng của Pháp ở Việt Nam, trong đó có Sơn La, đặc biệt là chính sách quản lý ruộng đất, cấp đất nhượng, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, chính sách thuế ruộng đất,… * Nhóm công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước Sau cách mạng tháng Tám, đặc biệt sau năm 1954, tình hình nghiên cứu vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp đã được chú ý nhiều hơn. Hàng loạt các công trình của các tác giả trong nước được công bố, mở ra những vấn đề quan trọng về ruộng đất, về kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời thuộc Pháp.

Công trình Đồn điền người Pháp ở Bắc Kỳ 1884 – 1918 [157] của tác giả Tạ Thị Thúy đã phục dựng bức tranh toàn cảnh về quá trình nhượng đất nông nghiệp, thiết lập đồn điền ở các tỉnh Bắc Kỳ. Tỉnh Sơn La chỉ được đề cập tới với một đồn điền duy nhất: “1 đồn điền 9.000 ha nhượng cho Morand và Gros ở Sơn La” [157, tr.103]. Tiếp nối công trình trên, năm 2001 Tạ Thị Thúy đã công bố công trình Việc nhượng đất, khẩn hoang ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945 [158]. Trong công trình này theo thống kê sự phân bố theo tỉnh của các đồn điền được thiết lập theo quy chế nhượng đất ở Bắc Kỳ từ năm 1919 đến năm 1945 thì không có đồn điền tại tỉnh Sơn La [158, tr.106]. Ở Sơn La chỉ xuất hiện nhượng đất cho người bản xứ theo tinh thần nghị định ngày 7/6/1939 về việc thiết lập các tiểu đồn điền khẩn hoang theo quy chế nhượng tiểu đồn điền cho người bản xứ “phạm vi áp dụng của Nghị định 13-11-1925 còn được mở rộng ra trên cả tỉnh Sơn La” [158, tr.393]. Những thay đổi trong việc thiết lập đồn điền tại tỉnh Sơn La đã gợi mở cho tác giả luận án những vấn đề cần giải quyết khi nghiên cứu về hình thức đất nhượng tại Sơn La thời

15

Pháp thuộc. Đồng thời có sự so sánh với các địa phương khác như Lai Châu, Hòa Bình, Cao Bằng, Hà Giang...

Với những ảnh hưởng to lớn từ chế độ thuế của thực dân Pháp đến vùng Bắc Kỳ, tác giả Hồ Tuấn Dung trong cuốn Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ từ 1897 đến 1945 [114] đã trình bày chi tiết toàn bộ chính sách thuế của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ từ năm 1897 đến năm 1945 và những tác động của thuế đến kinh tế, xã hội Bắc Kỳ. Hàng loạt các loại thuế liên quan đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La cũng được đề cập đến trong khung cảnh chung của Bắc Kỳ đặc biệt là thuế ruộng đất và thuế đối với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp…

Trong cuốn sách Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 – 1945) [124], Nguyễn Văn Khánh đã chỉ ra những chính sách chung của thực dân Pháp về kinh tế - xã hội đối với Việt Nam cũng như Bắc Kỳ, chỉ ra những chính sách đặc trưng đối với miền núi trong đó dĩ nhiên có Tây Bắc và Sơn La. Từ đây tác giả có sự so sánh, đối chiếu, đặt Sơn La trong mối quan hệ tương quan với Bắc Kỳ, với cả nước để tìm ra những điểm chung, cũng như những đặc trưng cơ bản riêng biệt, nhất là về kinh tế nông nghiệp và ruộng đất, cũng như các vấn đề liên quan khác tới luận án.

Với công trình Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945 [147], tác giả Dương Kinh Quốc đứng trên góc độ nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, tác giả đã tập trung làm rõ cơ sở lịch sử - xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp thống trị. Nhiều vấn đề liên quan đến Sơn La đã được đề cập tới trong tác phẩm này như: quá trình thiết lập chế độ quân sự ở Sơn La thành lập theo hình thức Đạo quan binh… “Ngày 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương đã ra nghị định thành lập tại Bắc Kỳ 4 Đạo quan binh…, Đạo quan binh 4 Sơn La” [147, tr.168]; sự thay đổi địa giới Đạo quan binh Sơn La qua các thời điểm… Liên quan trực tiếp đến vấn đề kinh tế nông nghiệp ở Bắc Kỳ và Sơn La có rất nhiều vấn đề đã được đề cập đến như: Các chính sách của triều Nguyễn thời Tự Đức: tăng thuế ruộng, bãi bỏ lệnh cấm hút thuốc phiện để chuyển sang việc đánh thuế thuốc phiện, bán ruộng đất công, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang ở vùng rừng núi Bắc Kỳ…

Tác giả Nguyễn Văn Khánh (2013) với công trình Ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thời kỳ cận – hiện đại [126] đã khái quát những chính sách ruộng đất thời Pháp thuộc được thực hiện trong cả nước, trong đó liên quan trực tiếp đến Sơn La với hai chính sách tiêu biểu là việc thiết lập đồn điền và việc duy trì chế độ công điền, chế độ sở hữu nhỏ trong sở hữu ruộng đất ở Bắc Kỳ, “riêng ở Bắc Kỳ, theo thống kê của chính quyền Pháp vào năm 1937 có tới 90% các chủ sở hữu từ 0

16

– 5 ha” [126, tr.41]. Khi đánh giá về tiềm năng phát triển kinh tế của các tỉnh trong vùng thượng du, tác giả nhận định “dưới con mắt của các nhà tài chính và địa chính, khu vực đất đai dù rất rộng lớn này chẳng mấy quan trọng” [126, tr.32]. Đồng thời, tác giả đã đề cập đến những biến đổi về kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số phía Bắc và Tây Nguyên, chỉ ra thủ đoạn trong quá trình cai trị mới của thực dân Pháp đối với các dân tộc thiểu số phía Bắc đó là lôi kéo, mua chuộc bọn chúa đất phong kiến và tù trưởng lớn ở địa phương, biến bọn này thành chỗ dựa xã hội và công cụ tay sai cho chúng. Điều này dẫn tới quyền sở hữu ruộng đất tại các vùng này có những biến đổi sâu sắc. “Tại vùng Sơn La, chúng hết sức tranh thủ bọn Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Oai, đồng thời đặc biệt chú ý lôi kéo, mua chuộc Đèo Văn Trì (một thổ ty ở Lai Châu). Một mặt vừa tăng cường các thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, mặt khác thực dân Pháp vừa tìm cách hạn chế quyền lực của bọn chúa đất, phìa, tạo, và cả những tên tay sai của chúng. Quyền nắm các lực lượng vũ trang địa phương trước kia nằm trong tay bọn lãnh chúa phong kiến và tù trưởng lớn, đến nay cũng bị tước đoạt và tập trung vào trong tay bọn thực dân…” [126, tr.104]. 1.2. Những nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp, về các tộc người, về tộc người Thái ở Tây Bắc và Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến kinh tế nông nghiệp

* Nhóm công trình nghiên cứu của người Pháp Qua tìm hiểu và kiểm tra kĩ lưỡng các nguồn khác nhau bằng tiếng Pháp, tác giả luận án thấy rằng, trong thời kỳ thuộc địa không có một nghiên cứu nào chuyên khảo về Sơn La nói chung và nông nghiệp Sơn La nói riêng. Đây là điều khá đặc biệt, vì nhiều tỉnh ở Bắc Kỳ thường có Địa chí do người Pháp biên soạn, nhưng Sơn La thì cho tới hiện nay vẫn chưa tìm thấy văn bản nào.

Chính vì lý do trên nên, những thông tin về kinh tế - xã hội của Sơn La, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp của tỉnh này chủ yếu được đề cập trong một số nghiên cứu chung về Bắc Kỳ. Trước hết là những ghi chép của người Pháp trong quá trình xâm lược và bình định vùng thượng du Bắc Kỳ trong những năm cuối thế kỷ XIX, như nghiên cứu của Edouar Petit về “Le Tonkin”, H. Lecène – H. Oudin - Édieurs, Paris, 1887 (Xứ Bắc Kỳ) [192], hay nghiên cứu của Philippe Henri d’Orléans về “Autour du Tonkin”, Camann Lévy – Édieurs, Paris, 1894 (Vòng quanh Bắc Kỳ) [207].

Trong ghi chép của mình, Edouar Petit ghi chép khá chi tiết về vùng sông Đà, các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp và thương mại của Bắc Kỳ và của vùng thượng sông Đà nói riêng. Tuy nhiên, những thông tin về nông nghiệp Sơn La rất ít

17

và mờ nhạt. Philippe Henri d’Orléans thì tập trung đề cập tới mạng lưới giao thông từ Hà Nội lên Vạn Bú bằng đường bộ và bằng đường thủy qua sông Đà. Theo ông, đây là tuyến đường huyết mạch về thương mại, kinh tế của vùng thượng du, trong đó có phát triển nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của Sơn La. Mặt khác, Philippe Henri d’Orléans cũng tập trung đề cập tới vấn đề dân cư, thành phần các dân tộc ở tỉnh Vạn Bú, như người người Thái, Mán, Mèo, đặc tính văn hóa, thói quen làm nông nghiệp của họ.

Trong số những nghiên cứu của người Pháp về Tây Bắc, trong đó có vùng Sơn La thì vấn đề tộc người thu hút sự quan tâm nhất. Trên thực tế số lượng các nghiên cứu này chiếm phần lớn các sách nghiên cứu của người Pháp trong thời kỳ thuộc địa. Trong số này phải kể tới các nghiên cứu của Auguste Pavie về “Montagnards du Tonkin”, Augustin Chalamelle Editeurs, Paris, 1908 (Những người vùng núi Bắc Kỳ) [188] hay nghiên cứu của Maurice Abadie về ”Les races du Haut Tonkin de Phong-Tho à Lang-Son”, Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales, Paris,1924 (Những tộc người vùng thượng du Bắc Kỳ từ Phong Thổ đến Lạng Sơn) [199] hoặc nghiên cứu của DUSSAULT, Léon Dussault về “Les populations du Tonkin occidental et du Haut Laos», Cahiers de la Société de Géographie de Hanoï, 1924 (Dân cư vùng Tây Bắc Kỳ và vùng Thượng Lào) [198],… Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào vấn đề chủng tộc, tâm tính, đặc tính văn hóa, thói quen canh tác, sản xuất của các dân tộc ở vùng Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng. Trong đó có so sánh tập quán, thói quen canh tác và sự khác nhau giữa các tộc người, Thái, Mèo, Mán, Xá,…

Về thiết lập cơ sở hạ tầng, giao thông cho phát triển kinh tế, trong đó có nông nghiệp của Tây Bắc và Sơn La, vấn đề này cũng được đề cập trong một số nghiên cứu, như nghiên cứu của KUNITZ. F, La haute Rivière Noire. Ses voies de communication avec le haut Fleuve Rouge, Bulletin de la société de géographie de Rochefort, X, 1888-1889 (Thượng sông Đà: Các con đường kết nối giữa vùng này với vùng thượng sông Hồng) [200]. Tiếp đến là nghiên cứu của Alfred Léon Bouchet với tựa đề De Hanoi à Lai Châu par Son La, Extrême Asie, t. VIII, no 81, 1934 (Từ Hà Nội đến Lai Châu qua Sơn La) [187] hay nghiên cứu của Paul Boudet về “Saint-Poulof et la route Sonla – Laichau”, Indochine hebdomadaire illustré, no 129, 1933 (Saint- Poulof và đường Sơn La – Lai Châu) [208]. Ba nghiên cứu này đề cập tới những hạn chế, khó khăn về giao thông kết nối giữa vùng Sơn La, Lai Châu, Điện Biên với các vùng khác, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng thượng Lào. Hạn chế giao thông cũng là khó khăn lớn nhất đối với phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp nói

18

riêng và thương mại của vùng này. Các tác giả cũng đề cập tới cố gắng của chính quyền thuộc địa trong việc đầu tư cải tạo, làm mới một số tuyến đường kết nối giữa Sơn La và Hà Nội, Sơn La đi các châu,… nhằm phát triển công cuộc thuộc địa hóa.

* Nhóm công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước Nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Đinh Xuân Lâm với công trình Điện Biên trong lịch sử [174]. Đây được coi là công trình đã cung cấp cho tác giả cái nhìn toàn cảnh về những chính sách chung của thực dân Pháp tại Tây Bắc, từ đó tác giả có thể xem xét và tìm ra những đặc trưng trong chính sách đối với vùng Sơn La nói riêng, cũng như có thể biết được sự biến động phần nào về các loại hình sở hữu ruộng đất ở Sơn La.

Trong công trình Sơn La 110 năm (1895 – 2005) [160] với Phần mở đầu: Sơn La – miền đất và con người đã khái quát về lịch sử hình thành vùng đất Sơn La, những đặc trưng về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử của vùng đất này. Nhất là trong Chương 1: Thành lập tỉnh Sơn La – Những biến đổi đời sống xã hội và cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1895 – 1945) đã phác họa về những chính sách của thực dân Pháp đối với tỉnh Sơn La cũng như chỉ ra những biến đổi cơ bản của tỉnh Sơn La khi Pháp xâm lược về kinh tế, về đời sống văn hóa – xã hội. Trong tác phẩm này đã nhận định “Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Sơn La chưa có giai cấp công nhân” [160, tr.79]. Điều này chứng tỏ, xã hội cổ truyền ở Sơn La kể từ khi thực dân Pháp vào xâm lược chưa có những biến động lớn, nhất là về kinh tế, quan hệ bóc lột cũ vẫn tiếp tục được duy trì.

Tác giả Phạm Văn Lực với công trình Phong trào đấu tranh chống Pháp ở Sơn La từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 [134] đã dành một chương đầu tiên để khái quát về Sơn La trước khi thực dân Pháp xâm lược bao gồm: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội… Bằng việc tổng hợp, nghiên cứu kĩ những tài liệu sưu tầm, điền dã tại Sơn La, tác giả đã phục dựng lại khung cảnh xã hội Sơn La trước và sau khi thực dân Pháp xâm chiếm khu vực này. Chỉ ra những mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân với quý tộc thống trị người Thái, cũng như mâu thuẫn của hầu hết nhân dân các tộc người với Pháp là nguyên nhân dẫn đến bùng nổ hàng loạt các phong trào đấu tranh. Từ đó tác giả đi sâu nghiên cứu những phong trào đấu tranh với nhiều hình thức khác nhau ở Sơn La trong giai đoạn từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945.

Tác giả Tống Thanh Bình đã có nhiều bài viết đề cập đến Sơn La với những vấn đề liên quan trực tiếp đến luận án của tác giả trên các khía cạnh khác nhau như: Về cây lương thực tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc, NCLS, 8 (484)/2016 [213]; Bàn về đơn vị hành chính của tỉnh Sơn La qua các thời kỳ lịch sử, Nghiên cứu Đông Nam

19

Á, số 12 (201)/2016 [214]; Vấn đề đầu tư của thực dân Pháp ở tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945, Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 2, 2017 [215]… Đặc biệt, Luận án tiến sĩ sử học với vấn đề Kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945, Hà Nội, 2017 [216] là một công trình nghiên cứu công phu, đầy đủ về vấn đề kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La trong phạm vi nghiên cứu mà tác giả luận án tiến hành. Nội dung luận án tập trung nghiên cứu toàn diện về kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc trên nhiều khía cạnh trong đó có những phác hoạ về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp cuối thế kỉ XIX, đặc biệt đã chỉ ra thực trạng, đánh giá về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn từ năm 1895 đến năm 1945 vì đây là ngành kinh tế chủ đạo của tỉnh. Có thể coi đây là bức tranh toàn cảnh về Sơn La thời thuộc Pháp.

Đề cập trực tiếp đến vấn đề ruộng đất của Sơn La gần đây nhất có 2 bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy: Địa giới hành chính và tình hình ruộng đất ở Sơn La thế kỷ XIX qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn, Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2018 [248], Tình hình ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805), Nghiên cứu lịch sử, 11(511), 2018 [249]. Hai bài viết đã làm rõ địa giới hành chính của Sơn La thông qua việc khảo sát 28 bản địa bạ thuộc TTLTQG I Hà Nội, thống kê số lượng ruộng đất công tư ở Sơn La dưới thời Gia Long, Minh Mệnh; đặc biệt đã làm rõ các vấn đề liên quan đến ruộng đất Sơn La thông qua địa bạ Gia Long 4 (1805) ở các khía cạnh: các loại ruộng đất, chất lượng ruộng đất, quy mô sở hữu ruộng đất, sở hữu ruộng đất của các dòng họ, sở hữu ruộng đất của các chức dịch trong động… Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, qua nghiên cứu địa bạ đã khẳng định: “… Cho đến những năm nửa đầu thế kỉ XIX, ruộng đất ở Sơn La 100% là ruộng tư, không có ruộng đất công, đều là ruộng hạng ba. Tỉ lệ ruộng đất bỏ hoang ở Sơn La khá lớn, khoảng gần 40% trên tổng số diện tích ruộng đất” [249, tr.60]. Đây là cơ sở để tác giả luận án có thể kế thừa khi nghiên cứu về vấn đề ruộng đất cũng như kinh tế nông nghiệp của Sơn La nửa đầu thế kỉ XIX. 1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về các tộc người ở Tây Bắc

Khu vực Tây Bắc đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều tác giả về nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nổi lên là những nghiên cứu về các tộc người. Bởi tỉnh Sơn La nói riêng, khu vực Tây Bắc nói chung là nơi tụ cư của nhiều tộc người cùng sinh sống thuộc các nhóm ngữ hệ khác nhau. Điều này đã hình thành những nét đặc trưng về kinh tế - xã hội mang tính vùng miền rõ rệt.

Nhóm tác giả Cầm Trọng, Bùi Tịnh, Nguyễn Hữu Ưng trong Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam [164] khi đề cập tới tính chất của kinh tế nông nghiệp Tây Bắc đã

20

khẳng định: “Nông nghiệp Tây Bắc với tính chất độc canh lương thực, trong đó tập trung nhất vào cây lúa là cơ sở chủ yếu của nền kinh tế tự cung, tự cấp” [164, tr.59]. Về loại hình canh tác “… ở Tây Bắc đã tồn tại cả việc làm ruộng và việc làm nương rẫy, với hai loại hình canh tác: loại hình nông nghiệp dùng cuốc trên nương rẫy và loại hình nông nghiệp dùng cày trên ruộng nước và trên đất khô” [164, tr.59]. Trong vấn đề sử dụng ruộng đất, cách thức canh tác, đặc biệt vấn đề tổ chức xã hội… tác phẩm tập trung làm rõ các vấn đề liên quan đến tộc người Thái thông qua các sơ đồ tổ chức các đơn vị châu mường [164, tr.101]; sơ đồ tổ chức hành chính của mường phìa trong (Mường La) [164, tr.106]; sơ đồ tổng hợp hệ thống bộ máy của mường phìa trong nơi trung tâm châu mường (Mường La) [164, tr.113]… Khi nói tới ruộng đất của người Thái, công trình khẳng định “Ruộng của mường nói chung đều là ruộng công thuộc quyền quản lí tối cao của tạo đứng đầu mường…” [164, tr.111].

Dựa trên kết quả thu được từ các cuộc điều tra, điền dã dân tộc học trong một số năm, kết hợp với các tài liệu thống kê dân số ở Trung ương và địa phương, mặt khác có sử dụng những tư liệu đã công bố trên các sách báo trong và ngoài nước từ trước tới nay, tác giả Khổng Diễn (1996) đã công bố công trình Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi phía Bắc[112]. Trong Chương 2: Một số vấn đề cơ bản về kinh tế truyền thống đã nhắc đến các loại hình canh tác truyền thống của một số dân tộc tiêu biểu bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi. Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về kinh tế miền núi phía Bắc ở hai vùng cảnh quan: vùng rẻo cao và rẻo giữa; vùng thung lũng chân núi đã được phục dựng, tái hiện. Trong Chương 3: Tổ chức xã hội đã cung cấp cho tác giả luận án những hiểu biết về xã hội cổ truyền của một số tộc người như H’mông, Tày, Dao, Khơ mú. Từ đây tác giả luận án có thể so sánh những điểm giống và khác nhau trong cách thức tổ chức xã hội của các tộc người này với nhau. Trong mục 3.2. trong phần chương 3, Vấn đề đất đai trong xã hội truyền thống, Khổng Diễn đã đưa ra những nét đặc thù trong chế độ ruộng đất, cách thức phân chia các loại ruộng đất của người Mường, người Tày, Nùng, người Thái. Khổng Diễn khẳng định: “Đối với người Thái, cho đến trước 1945, họ chưa có khái niệm về tư hữu ruộng đất. Việc quản lý ruộng đất tập trung vào bộ máy thống trị quí tộc ở các châu mường” [112, tr.186].

Với khu vực Tây Bắc nói chung, tỉnh Sơn La nói riêng, nhóm cư dân Môn – Khơme là một trong những nhóm dân cư chủ yếu, có tác động lớn đến các vấn đề kinh tế, xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu về các tộc người trong nhóm này đã được các tác giả chú trọng, hàng loạt các công trình nghiên cứu được xuất bản như Dân tộc Khơ mú ở Việt Nam [113] do Khổng Diễn chủ biên, Dân tộc Xinh mun ở Việt

21

Nam do Trần Bình chủ biên [107], Dân tộc Kháng ở Việt Nam do Phạm Quang Hoan, Đặng Thị Hoa chủ biên [121]. Trong cả ba công trình đều đề cập cụ thể đến các hoạt động kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, trao đổi buôn bán của những tộc người này. Về cơ bản cả ba tộc người Kháng, Xinh mun, Khơ mú đều lấy kinh tế trồng trọt trên nương rẫy là hoạt động sản xuất chủ yếu, ngoài ra còn có chăn nuôi và khai thác các sản vật tự nhiên. Đặc biệt, cả ba tộc người này đều phụ thuộc vào người Thái nên bị người Thái gọi với tên gọi chung là Xá.

Tác giả Trần Bình (2001) với công trình Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam [108] đã phục dựng hoạt động kinh tế của các dân tộc La Hủ, Si La, Xinh mun, Khơ mú, Thái trên các khía cạnh: Trồng trọt, chăn nuôi, thủ công, khai thác các nguồn lợi tự nhiên, trao đổi mua bán, cách thức phân chia ruộng đất, chế độ ruộng đất trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Công trình này đã đề cập tới các vấn đề mà luận án cần nghiên cứu về các tộc người trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp. Trên cơ sở công trình này, tác giả luận án đã có cái nhìn tổng quát về hoạt động kinh tế nông nghiệp ở Tây Bắc, từ đó cần chỉ ra những đặc trưng của Sơn La so với tình hình chung của vùng.

Viện Dân tộc học trong Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) [176] đã nghiên cứu về tất cả các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, Môn – Khơ me, Tày – Thái, H’mông – Dao, Tạng – Miến, Hoa… Đặc biệt trong Chương 3: Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái đã nghiên cứu về dân tộc Thái trên các lĩnh vực: Hình thái kinh tế, Văn hóa vật chất, Quan hệ xã hội, Quan hệ dòng họ, gia đình, hôn nhân; Tôn giáo tín ngưỡng, văn nghệ dân gian. Tác phẩm khẳng định trong xã hội Thái, về hình thức mà xét, tất cả đất đai, ruộng nương, nguồn nước, rừng rú… đều thuộc về quyền sở hữu công cộng. Đây cũng là một trong số rất ít công trình nhắc đến số liệu ruộng đất thời Pháp thuộc ở Sơn La: “đến trước ngày giải phóng, ở Lai Châu đã có 40% ruộng tư (không kể số đồn điền của Pháp) và ở Sơn La, tỷ lệ đó lại thấp hơn nhiều (2%)” [176, tr.219]. Tác phẩm này đã cung cấp cho tác giả những hiểu biết về người Thái nhất là vấn đề ruộng đất, cũng như sự phân hóa xã hội dưới tác động của ruộng đất, đồng thời cũng là một trong số ít công trình đề cập trực tiếp tới tỷ lệ ruộng đất công – tư ở Sơn La thời Pháp thuộc. Từ đó đặt trong tổng quan nội dung công trình này, tác giả cũng có sự so sánh với các tộc người khác có quan hệ mật thiết với tộc người Thái ở Sơn La như tộc người H’mông, Mường, Kháng, Khơ mú, Xinh mun… 1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về người Thái ở Tây Bắc, Sơn La

Sơn La, đến năm 1932 vẫn có 74,5 % bộ phận dân cư là người Thái [216, tr.82]

22

nên những nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp cũng như vấn đề ruộng đất của người Thái có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Rất nhiều công trình nghiên cứu về người Thái đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến kinh tế nông nghiệp. Cụ thể:

Tác giả Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn với Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày – Nùng – Thái ở Việt Nam [131]. Trong chương thứ tư: Tình hình xã hội, dòng họ, gia đình, hôn nhân, khi nói tới chế độ ruộng đất của người Thái đã nhận định: “Ruộng tư ở đây hầu như không có hoặc có chăng cũng là không đáng kể và bị coi là bất hợp pháp. Chúa đất phân phối ruộng đất trong công xã (kể cả ruộng cũ và những mảnh ruộng mới được khai phá) cho toàn thể thành viên trong công xã theo luật lệ đã được quy định sẵn. Thời hạn phân phối lại ruộng đất tùy theo ý định của chúa đất” [131, tr.215]. Để khẳng định thêm, tác giả đã viết “… kể cả chúa đất, không ai có quyền sở hữu mà chỉ có quyền chiếm hữu mà thôi… Số ruộng chúa được hưởng gọi là ruộng chúa; số ruộng chức dịch được hưởng là ruộng chức. Ruộng gánh vác hay ruộng hàng mường là ruộng công xã phân cho nông dân muốn nhận cày cấy để hưởng lợi với điều kiện phải làm nhiệm vụ gánh vác công việc của bản mường tức là phải phục dịch không công cho bọn thống trị, đóng góp một số thuế nhất định bằng tô hiện vật hay lao dịch, phải hoàn thành các việc chung của công xã…” [113, tr.216]. Thông qua công trình này, tác giả luận án tiếp tục có thêm căn cứ để xem xét tỷ lệ các loại ruộng đất trong chế độ ruộng đất của người Thái nói chung, người Thái ở Sơn La nói riêng. Đồng thời, tác giả luận án cũng có thêm những hiểu biết về cách thức phân chia ruộng công, các loại hình ruộng công của người Thái. Tuy nhiên, giống một số công trình khác, cuốn sách này không có những số liệu ruộng đất cụ thể. Đây cũng là những khó khăn lớn đối với tác giả khi nghiên cứu vấn đề ruộng đất của người Thái nhất là ở một địa phương cụ thể như Sơn La.

Tác giả Cầm Trọng, Hữu Ưng với bài viết Chế độ ruộng công và hình thái xã hội của người Thái Tây Bắc trước đây [251] đã phân tích chi tiết về nguồn gốc và cơ sở xã hội của chế độ ruộng công cũng như hình thái xã hội của người Thái ở Tây Bắc. Các tác giả nhận định “quyền sở hữu công cộng về ruộng đất hay chế độ ruộng công là hình thái cơ bản cho đến trước cải cách dân chủ (1959)” [251, tr.52]. Chế độ ruộng công ấy có nguồn gốc từ quyền sở hữu công cộng về ruộng đất dựa trên quan hệ huyết thống từ lâu đời. Khi người Thái vào Tây Bắc, quyền sở hữu công cộng về ruộng đất cũng phát triển – sở hữu của mường phìa và châu mường. Từ đó hình thành nên một hình thái xã hội mới dựa trên cơ sở sự phân chia ruộng công cho các bộ phận khác nhau trong xã hội và quyền quản lý thuộc về tầng lớp quý tộc thống trị Thái. Quý tộc thống trị tiến hành bóc lột trực tiếp mọi thành viên của bản mường bằng tô

23

lao dịch và tô hiện vật. Thời Pháp thống trị vẫn duy trì hình thái và cơ cấu xã hội cũ, bắt nông dân phải nộp thuế, đi phu và đi lính. Vì vậy, xã hội của người Thái dưới thời Pháp thuộc về cơ bản chưa có gì thay đổi đáng kể [251, tr.56].

Trong công trình Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái [173], đứng trên góc độ nghiên cứu Dân tộc học Đặng Nghiêm Vạn đã làm rõ được rất nhiều vấn đề liên quan đến lĩnh vực mà luận án cần làm rõ. Ở phần thứ nhất: Phần tổng hợp của các truyện kể bản mường từ khi người Thái di cư vào Việt Nam để tìm đất đai, dựng bản mường cho đến thời kì bị thực dân Pháp thống trị. Phần thứ hai: Lai lịch dòng họ Hà Công, lệ mường và luật mường. Trong phần lệ mường, luật mường đều có những nội dung liên quan đến vấn đề ruộng đất như điều 1 trong lệ mường đã quy định về việc tranh chấp ruộng đất. Tác giả luận án đã sử dụng bản dịch Tục lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu - được coi là một trong những trung tâm quan trọng của người Thái ở Sơn La với tên gọi châu Mường Muổi. Tác giả luận án cũng đã sử dụng phần phụ lục thứ 2 của tác phẩm này để làm rõ nhiều tên địa danh theo tiếng Thái cổ, cũng như những chú thích, những khái niệm chung về xã hội Thái. Thực sự, điều này vô cùng quý giá với luận án của tác giả khi nghiên cứu về vấn đề ruộng đất của người Thái nói riêng, ruộng đất Sơn La nói chung.

Với công trình Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử kinh tế xã hội cổ đại người Thái Tây Bắc Việt Nam [166], Cầm Trọng đã cung cấp cho tác giả luận án những hiểu biết về nội hàm của nhiều thuật ngữ Thái liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt ở Phần 3: Sự phát triển của kinh tế - xã hội cổ truyền, với 3 chương tác giả đã làm rõ được sự phát triển của hoạt động sản xuất qua các thời kì từ chiếm đoạt đến kinh tế sản xuất, từ hình thức sở hữu của “đẳm” tới sở hữu của bản mường và làm rõ được xã hội cổ truyền Thái bước vào giai đoạn hình thành bộ máy thống trị - sự xuất hiện chế độ Phìa Tạo. Xét về góc độ nghiên cứu các loại hình ruộng đất, trong tác phẩm này, tác giả đã làm rõ được quá trình xuất hiện, cách phân chia của loại hình ruộng đất đặc trưng trong xã hội Thái cổ truyền là loại ruộng toàn mường - “ná háng mướng”.

Cuốn sách Văn hóa Thái Việt Nam [167], Cầm Trọng, Phan Hữu Dật đã khẳng định “Riêng ở hai tỉnh Sơn La, Lai Châu, một phần vùng tả ngạn sông Hồng thuộc Yên Bái và Lào Cai (khu Tây Bắc cũ), cho đến năm 1954 vẫn giữ chế độ ruộng đất chung, người Thái gọi gộp trong thành ngữ: “đất của người đứng đầu mường, ruộng của người đứng đầu bản” (đin annha, na quan bản) [167, tr.276]. Đồng thời, tác phẩm này đã làm rõ lịch sử của các mường Thái ở miền Tây Bắc từ cuối thiên niên kỷ I đến đầu thiên niên kỷ II, tới trước năm 1954; cũng như đề cập đến mối quan hệ giữa văn hóa Thái với văn hóa các dân tộc thiểu số nói tiếng Môn

24

– Khơ me ở Tây Bắc và một số dân tộc ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy, công trình đã cung cấp cho người viết cái nhìn tổng quan về các chặng đường lịch sử của người Thái ở miền Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng và một lần nữa khẳng định chế độ ruộng đất chung được duy trì ở Sơn La tới tận năm 1954.

Công trình Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam [115] đã tập hợp rất nhiều bài viết của các tác giả nghiên cứu về các vấn đề khác nhau trong đời sống kinh tế, xã hội của người Thái trên khắp các vùng, miền. Trong đó, bài viết số 18, Vài nét về ruộng đất của dân tộc Thái ở Sơn La, Tây Bắc của tác giả Hà Văn Thu đã đề cập đến vấn đề mà luận án đang nghiên cứu. Tác giả đã đề cập đến 2 loại hình canh tác chủ yếu của đồng bào Thái nơi đây là nương và đồng ruộng, chỉ ra mối quan hệ giữa bộ máy thống trị và ruộng đất.

Nhóm tác giả Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng đã sưu tầm, dịch, chú giải và giới thiệu công trình Luật tục Thái ở Việt Nam (tập quán pháp) [155]. Đây là tác phẩm tập hợp những tài liệu về luật tục của đồng bào Thái mà các soạn giả Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng đã sưu tập được. Trong đó có 2 bản Luật tục liên quan trực tiếp tới vấn đề ruộng đất của người Thái ở Sơn La là bản Lệ luật người Thái Đen ở Thuận Châu (Sơn La) [155, tr.66-183] và bản Luật lệ bản mường ở Mai Sơn [155, tr.184-332]. Hai bản Luật tục này được sưu tập, dịch và giới thiệu rất chi tiết, đầy đủ, sát nghĩa bao gồm cả tiếng Thái gốc và phần dịch nội dung cũng như chú thích các thuật ngữ tiếng Thái. Rất nhiều điều luật liên quan đến vấn đề ruộng đất đã được đề cập tới trong hai bản luật tục. Như trong bản Lệ luật người Thái Đen ở Thuận Châu từ điều 28 đến điểu 69 đều nói tới quyền lợi được hưởng của các Án nha, Phìa, và các chức dịch liên quan đến việc phân chia ruộng đất trong các bản, mường tại nơi đây; từ điều 99 đến điều 105 nói tới việc dân làm ruộng, làm nương cho Án nha và các chức dịch; từ điều 115 đến điều 120 nói tới việc làm cuông, nhốc trong các bản, mường… Trong Luật lệ bản mường ở Mai Sơn, từ điều 31 đến điều 45 đã quy định rất cụ thể chi tiết về bổng lộc cho Tạo và ông quan trong châu đều chủ yếu liên quan đến vấn đề ruộng đất. Nhìn chung, đây là hai bản luật tục vô cùng quan trọng, có tính xác thực cao, đã cung cấp cho tác giả luận án những vấn đề cần thiết nhất để làm rõ được quyền sở hữu ruộng đất, các loại hình ruộng đất, cách thức phân chia ruộng đất trong các bản, mường Thái trước năm 1930.

Tác giả Nguyễn Duy Thiệu với bài viết Thể chế xã hội Mường truyền thống: nghiên cứu so sánh giữa Mường của người Mường và Mường của người Thái Việt Nam, in trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 2003 [244] đã giải thích nội hàm thuật ngữ “Thái” và “Mường”, so sánh mường của người Thái và mường của người

25

Mường để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt ở các khía cạnh: không gian tồn tại của các mường; chế độ ruộng đất trong từng mường; các tầng lớp xã hội; cơ cấu hành chính và thiết chế chính trị xã hội của các mường; các hình thức bóc lột; mường trong vũ trụ luận của người Mường và người Thái. Liên quan đến vấn đề ruộng đất của người Thái, tác giả nhận định “… dù là mường của người Mường hay là mường của người Thái thì chế độ ruộng đất trên cơ bản là công hữu. Lấy mốc thời gian là trước cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Tại Việt Nam, tài liệu Dân tộc học cho thấy ngoại trừ các mường không ở khu vực trung tâm của người Thái (thí dụ như các nhóm Thái ở Nghệ An) do họ ở phân tán, khi thiên di đi tới đâu thì các gia đình, các dòng họ khai hoang rồi chiếm hữu tư nhân tới đó, còn ở vùng trung tâm, mặc dù ruộng tư đã xuất hiện, nhưng với tỷ lệ không nhiều, còn lại trên cơ bản hình thức ruộng công vẫn phổ biến” [244, tr.21]. Từ đó tác giả kết luận: “1. Tầng lớp quí tộc của người Mường và của người Thái đều xây dựng quyền lợi của mình trên cơ sở của ruộng nước. 2. Hình thức bóc lột chính là tô lao dịch. Sự bóc lột ấy được thiết lập trên cơ sở của ruộng công. 3. Sự thống trị được thiết lập bằng sức mạnh của tông tộc, thế tập theo nguyên tắc phụ quyền” [244, tr.28]. Bài báo đã cung cấp cho tác giả những hiểu biết cần thiết trong việc so sánh giữa mường của người Mường và mường của người Thái, nhất là trong vấn đề chế độ ruộng đất.

Luận án “Quản lý cộng đồng về đất đai của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam” của tác giả Lương Thị Thu Hằng [223] là luận án Tiến sĩ Nhân học văn hóa – xã hội đầu tiên nghiên cứu về vấn đề đất đai. Mặc dù tập trung vào lĩnh vực quản lý cộng đồng nhưng luận án đã làm rõ một số đặc điểm quan trọng trong chế độ sở hữu ruộng đất của người Thái ở khu vực này: “Trước thời kỳ cải cách ruộng đất năm 1954-1956, dù ở mường nào, bản nào, thì quyền sở hữu công về ruộng đất ở người Thái vẫn là tuyệt đối, là nguyên tắc bất di bất dịch” [223, tr.79]. 1.3. Những vấn đề nghiên cứu đã được làm rõ và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 1.3.1. Những vấn đề nghiên cứu đã được làm rõ

Các công trình sách chuyên khảo, luận án, bài báo của các tác giả người

Pháp và trong nước đã làm rõ được các vấn đề sau:

- Các nghiên cứu của các tác giả người Pháp chủ yếu là những công trình liên quan đến chế độ ruộng đất, thủy lợi và sản xuất nông nghiệp của cả Đông Dương nói chung và một số công trình nghiên cứu chung về Bắc Kỳ. Hay nói cách khác, bức tranh toàn cảnh về kinh tế nông nghiệp Đông Dương nhất là vùng Bắc Kỳ đã được các tác giả phục dựng, tái hiện. Đây chính là khung cảnh của luận án khi nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc.

26

- Đã có những công trình chuyên khảo về ruộng đất của cả nước thời phong kiến, thời Pháp thuộc và kinh tế nông nghiệp các địa phương cụ thể như Thái Bình, Nam Định, Cao Bằng, Thanh Hóa, Hà Tĩnh... Đây là cơ sở nền tảng quan trọng để tác giả luận án có hướng nghiên cứu chính xác, đặt kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La trong sự phát triển chung của cả nước, cũng như có sự đối sánh với các địa phương khác.

- Nhóm các công trình nghiên cứu về vùng Tây Bắc nói chung, các tộc người thiểu số, tộc người Thái nói riêng đã tập trung làm rõ những nghiên cứu trên lĩnh vực đời sống tinh thần, đời sống vật chất, những nét văn hóa đặc trưng, tổ chức xã hội… của các tộc người ở khu vực Tây Bắc thời kì này và dĩ nhiên tỉnh Sơn La cũng nằm trong sự phát triển chung đó.

- Trong những công trình của các tác giả trong nước liên quan đến kinh tế nông nghiệp vùng Tây Bắc nói chung, tỉnh Sơn La nói riêng, các tác giả như Cầm Trọng, Đặng Nghiêm Vạn đã đứng trên khía cạnh dân tộc học để nghiên cứu, phác họa, phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về kinh tế nông nghiệp của các tộc người nhất là người Thái ở Tây Bắc. Gần đây, các tác giả như Tống Thanh Bình, Nguyễn Thị Thu Thủy đã có những nghiên cứu trực tiếp về vấn đề ruộng đất của tỉnh Sơn La thời phong kiến hay kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc. Đặc biệt, trong luận án của tác giả Tống Thanh Bình đã có phần nghiên cứu sâu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La trước năm 1895 và nông nghiệp tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc, đưa ra những nhận xét về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc trong chương 4 “Nhận xét về kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945”. Tác giả luận án sẽ kế thừa và tiếp tục làm rõ bức tranh kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945.

Như vậy, về tổng thể chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách chi tiết vấn đề Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỷ XIX đến năm 1945, nên tác giả lựa chọn vấn đề này làm đề tài luận án. 1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết

Với mục tiêu nghiên cứu về “Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945” qua hai giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 và từ năm 1895 đến năm 1945, trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước và các tác giả người Pháp, luận án cần tiếp tục giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất: Làm rõ những yếu tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La: sự thay đổi đơn vị hành chính, vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, chính sách của nhà Nguyễn, chính sách của thực dân Pháp.

27

Thứ hai: Phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về tình hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 qua hai giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 và từ năm 1895 đến năm 1945 bao gồm: ruộng đất (cơ sở của kinh tế nông nghiệp), hoạt động sản xuất của hai ngành kinh tế chủ đạo: trồng trọt và chăn nuôi, hoạt động trao đổi, buôn bán các sản phẩm nông nghiệp.

Thứ ba: Rút ra những nhận xét, những đặc điểm, những biến đổi của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La qua hai giai đoạn. Đồng thời có sự so sánh đặc điểm trong sở hữu ruộng đất, trong loại hình canh tác giữa các tộc người với nhau, rộng hơn là đặt tỉnh Sơn La trong sự đối sánh với khu vực Tây Bắc và một số địa phương như cụ thể như Lai Châu, Hòa Bình, Cao Bằng, Hà Giang.

Thư tư: Chỉ ra những tác động của kinh tế nông nghiệp đến các vấn đề xã hội

của tỉnh trong phạm vi nghiên cứu.

28

CHƯƠNG 2 KHÁI QUÁT VỀ TỈNH SƠN LA TRƯỚC NĂM 1945

2.1. Sự thay đổi đơn vị hành chính 2.1.1. Sơn La trước thế kỉ XIX

Đơn vị hành chính của tỉnh Sơn La trong lịch sử được căn cứ theo địa vực tỉnh Hưng Hóa dưới triều Nguyễn. Theo Đại Nam nhất thống chí, ghi chép về dựng đặt và diên cách tỉnh Hưng Hóa như sau: “Đời Hùng Vương xưa là bộ Tân Hưng, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán là đất Nam Trung (Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép: Hưng Hóa là bộ Tân Hưng xưa, đời Hán là Nam Trung); đời Ngô là đất các huyện Lâm Tây và Tây Đạo, thuộc quận Tân Hưng; đời Đường là huyện Tân Xương, lệ vào châu Phong. Nước ta đời Lí là đất đạo Lâm Tây và châu Đăng; đời Trần đặt làm đạo Đà Giang, lại đặt làm trấn, cuối đời Trần đổi làm trấn Thiên Hưng” [148, tr.253].

Sang thời Lê, đến năm Quang Thuận thứ 7 (1466) Lê Thánh Tông mới chia nước ra làm 12 đạo là Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê Thánh Tông lại định lại bản đồ toàn quốc, phân rõ 12 thừa tuyên, trong đó “thừa tuyên thứ 10 chính là Hưng Hóa gồm 3 phủ, 4 huyện, 17 châu” [162, tr.71].

Khoảng niên hiệu Vĩnh Hựu (1735 – 1740), thời Lê Ý Tông, Hoàng Công Chất khởi nghĩa chiếm cứ vùng này. Bọn phong kiến nhà Thanh nhân cơ hội chiếm lấy 6 châu Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phi, Lễ Toàn, Tuy Phụ, Khiêm Châu, lệ thuộc vào tỉnh Vân Nam. Về sau lại đặt thêm 6 châu: Ninh Biên, Tuần Giáo, Mai Sơn, Sơn La, Đà Bắc, Mã Nam. Tên gọi Sơn La lần đầu tiên xuất hiện.

Theo các tài liệu Quam tô mương của người Thái (bộ phận dân cư chủ yếu ở Sơn La) trong thời gian từ thế kỷ IX đến XIII, người Thái ở cao nguyên Thanh Tạng (Tây Tạng - Trung Quốc) vì nhiều lý do khác nhau đã tìm đường thiên di xuống phía Nam vào vùng Tây Bắc. Theo Quam tô mương Mường La kể về quá trình Lạng Chượng và một bộ phận người Thái lên miền Sơn La, Lai Châu, địa điểm đầu tiên Lạng Chượng đến chiếm cứ là Mường La (Sơn La). Khi đến đây đã xảy ra mâu thuẫn với người Xá ở Mường La: “Ở đây Chúa đã phải đánh nhau với người Xá do tướng Khun Quàng cầm đầu. Cuối cùng Chúa đã thắng, nhưng đất đai Mường La quá hẹp, bản mường lại nhỏ bé nên không thể chiếm được” [139]. Vì thế, Lạng Chượng kéo quân về Mường Muổi (Thuận Châu), bắt thủ lĩnh người Xá

29

là Ăm poi phải nộp thuế cho Chúa. Sau đó Chúa tiếp tục tiến đến Mường Quài, Mường Ẳng, Mường Thanh (Điện Biên), cho quân lính phá rừng làm ruộng định cư ở đây. Đến giữa thế kỉ XI, tạo Lò Lẹt hiệu là Ngu Hấu bắt đầu xây dựng bản mường ở Mường Muổi (Thuận Châu). Mường Muổi (Thuận Châu) trở thành trung tâm của người Thái tại Sơn La. Con của Ngu Hấu là Nho Cằm lên làm chúa Mường Sang (Mộc Châu). Còn Ta Cằm, con trưởng của Ngu Hấu tiếp tục xây dựng trung tâm Mường Muổi, tiến hành phân chia bản mường cho các con trai và họ hàng mình đi chiếm đóng, cai quản các mường: Mường Lằm, Mường La, Mường Mụak... Về sau dưới thời chúa Ta Ngần (thế kỉ XIV), Mường Muổi trở thành trung tâm hùng mạnh bắt đầu mở rộng đất đai. Do sự tin cẩn của vua Lào (Phạ Chẩu) được vua Lê tín nhiệm, vua Lê Thái Tông đã ban sắc phong cho Ta Ngần làm chúa cả một vùng rộng lớn, các chúa đất các mường phải xin làm đất chư hầu của Mường Muổi [163, tr.25]. Sau thời Ta Ngần, trên vùng đất cư trú của người Thái đã dần dần phân chia thành 16 đơn vị châu mường. Đây là sự phân chia lãnh địa của các dòng quý tộc Thái, hoàn toàn không có ý nghĩa phân chia thành các tộc người riêng biệt. Như vậy, người Thái vào Tây Bắc - Sơn La sau quá trình tranh chấp với các tộc người bản địa đã thần phục triều đình phong kiến, trở thành những đơn vị hành chính trong hệ thống chính quyền của cả nước.

Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu như Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, trước thế kỉ XIX các châu mường Thái được tập hợp thành khu vực gọi là mười sáu châu Thái (Xíp hốc châu Tay) (trong đó có 6 châu thuộc địa bàn Sơn La theo phạm vi nghiên cứu gồm: Mường Tấc (Phù Yên), Mường Xang (Mộc Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Mụak (Mai Sơn), Mường La, Mường Muổi (Thuận Châu)) [164, tr, 312- 327]. Khu vực này có một châu mường đóng vai trò trung tâm và mười lăm châu mường khác được tập hợp dưới hình thức thần phục hay quy phục. Đơn vị trung tâm ấy người Thái gọi là mường luông (mường lớn). Đây mới là đơn vị trực thuộc triều đình phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam trong các triều đại: Lý, Trần, Lê và đầu Nguyễn. Các triều đại phong kiến ấy gọi đơn vị tổ chức xã hội này là đại tri châu [155, tr.24]. 2.1.2. Sơn La dưới triều Nguyễn (từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1885)

Năm Gia Long thứ nhất (1802) địa phận Sơn La thuộc trấn Hưng Hóa. Theo Đại Nam nhất thống chí, “… năm Gia Long thứ 1 vẫn để trấn như cũ, lãnh 3 phủ, 4 huyện và 16 châu (phủ Gia Hưng lãnh huyện Thanh Xuyên và 10 châu là Sơn La, Tuần Giáo, Thuận, Mai, Việt, Ninh Biên, Mộc, Đà Bắc, Phù Hoa, Mai Sơn; phủ Qui Hóa lãnh 3 huyện Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Lập, và 2 châu Thủy Vĩ, Văn Bàn; phủ

30

An Tây lãnh 4 châu Chiêu Tấn, Luân, Quỳnh Nhai và Lai” [148, tr.254]. Trong đó, địa phận Sơn La gồm: Châu Sơn La có 4 động: Hiếu Điều, Chiềng La, Mường Xóm, Mường Mỏ. Châu Thuận có 5 động: Hoàng Mai, Trịnh Bắc, Quái Khoái, Thanh Bình, Nam Trịnh. Châu Mai Sơn có 5 động: Chiềng Ban, Chiềng Bôn, Chiềng Cát, Lô Ty, Chiềng Chanh. Châu Việt có 3 động: Sách Lâm, Bác Nhĩ, Trịnh Nho. Châu Mộc có 5 động: Xuân Nha, Cẩm Nang, Hướng Càn, Mộc Thượng, Mộc Hạ. Châu Phù Hoa có 3 động: Quang Hoa, Tường Phù, Tường Phong. Như vậy, thời Gia Long, địa phận Sơn La thuộc phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa bao gồm 6 châu: Sơn La, Thuận, Mai Sơn, Việt, Mộc, Phù Hoa với 25 động.

Năm 1831 – 1832, Minh Mệnh đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính địa phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh. Bấy giờ cả nước có 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên. Năm 1831, Minh Mệnh cho đổi các trấn phía Bắc thành 18 tỉnh trong đó có tỉnh Hưng Hóa [151, tr.439]. Đại Nam nhất thống chí quyển XXII ghi chép về tỉnh Hưng Hóa như sau: “Năm Minh Mệnh thứ 12 chia tỉnh hạt, đổi làm tỉnh Hưng Hóa, đem huyện Tam Nông thuộc tỉnh Sơn Tây lệ vào tỉnh này… Năm thứ 14 tách 2 huyện Thanh Sơn và Thanh Thủy… Năm Thiệu Trị thứ 1, đặt thêm phủ Điện Biên, năm Tự Đức 4, huyện Thanh Sơn kiêm nhiếp Thanh Thủy, châu Mộc kiêm nhiếp châu Yên, châu Mai kiêm nhiếp châu Đà Bắc, đổi châu Quỳnh Nhai lệ vào phủ Điện Biên và do châu Lai kiêm nhiếp; năm thứ 5 đổi châu Luân lệ vào phủ Điện Biên và do châu Tuần Giáo kiêm nhiếp. Nay lãnh 6 huyện 16 châu” [148, tr.254]. Phủ Gia Hưng lãnh 3 huyện, 8 châu gồm huyện: Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Thủy và 8 châu: Phù Yên, Mộc, Yên, Mai, Thuận, Mai Sơn, Đà Bắc, Sơn La. Theo tác giả Tống Thanh Bình đã thống kê:

“Châu Phù Hoa đổi làm Phù Yên (1838) gồm 2 tổng 5 xã: Tổng Quang Huy gồm xã Quang Huy, Tường Phù; tổng Tường Phong gồm 3 xã: Gia Phù, Tường Phong, Tân Phong. Châu Mộc gồm 2 tổng 6 xã. Tổng Mộc Thượng gồm 3 xã: Mộc Thượng, Cẩm Nang, Xuân Nha; tổng Mộc Hạ gồm 3 xã: Mộc Hạ, Hướng Càn, Quy Hướng. Châu Thuận gồm 5 động: Hoàng Mai, Nam Trịnh, Thanh Bình, Trịnh Bắc, Khinh Khoán. Châu Mai Sơn gồm 5 động: Trình Ban, Trình Thụy, Trình Cát, Trình Bôn, Lô Ty. Năm 1838, đổi động làm xã, đặt tổng là Trình Cát, gồm 1 tổng 5 xã. Châu Yên trước là châu Việt có 3 động: Sách Lâm, Bác Nhĩ, Trịnh Nho. Châu Sơn La gồm 4 động: Hiếu Điều, Trình La, Nhân Lý (trước là Mường Châm), Hướng Mô (trước là Mường Mỗ). Châu Mai gồm 3 động: Bao La, Mai Thượng, Mai Hạ. Châu Đà Bắc gồm 5 động: Hiền Lương, Thanh Nhàn, Hào Tráng, Tân An, Dĩ Lý. Cải cách hành chính của Minh Mệnh năm 1838 đều đổi các động thành xã” [214, tr.53].

31

Như vậy, thời Minh Mệnh, địa phận Sơn La thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa gồm 6 châu: Phù Yên, Mộc, Yên, Sơn La, Mai Sơn, Thuận với 28 động, xã. Để thấy rõ địa giới hành chính của Sơn La nửa đầu thế kỉ XIX xin xem phụ lục 2.1. 2.1.3. Sơn La từ năm 1886 đến năm 1945

Tháng 2/1886, thực dân Pháp bắt đầu đánh lên Tây Bắc. Ngày 24/5/1886, Tổng trú sứ Trung – Bắc Kỳ đã ra nghị định chuyển châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa) thành một cấp tương đương với cấp tỉnh, nhưng đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của một sĩ quan gọi là Phó công sứ [134, tr.11]. Với việc chính quyền đô hộ cho thiết lập một số đạo quan binh vào tháng 8/1891, địa bàn tỉnh Hưng Hóa cũ thuộc đạo quan binh 4. “Ngày 9/9/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đưa địa hạt Sơn La vào địa bàn của đạo Quan binh 4 mới thành lập. Thủ phủ đặt tại Sơn La” [105, tr.10].

Ngày 27/2/1892, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lập một tiểu quân khu trực thuộc đạo Quan binh thứ tư Sơn La với thủ phủ đặt tại Vạn Bú. Ngày 10/10/1895, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuyển Tiểu quân khu Vạn Bú thuộc đạo Quan binh 4 là vùng đất quân quản sang chế độ dân sự với tên gọi tỉnh Vạn Bú. Lỵ sở của tỉnh vẫn đặt tại Pá Giang, tổng Hiếu Trai – thủ phủ của tiểu Quân khu Vạn Bú. Với việc chuyển Vạn Bú sang chế độ dân sự, chính quyền thuộc địa cho rằng địa bàn này đã được bình định. “Ngày 10/10/1895 trở thành thời điểm ra đời của tỉnh Sơn La” [160, tr.52].

Cùng với đó, chính quyền thuộc địa nhập toàn bộ Tiểu quân khu phụ Lai Châu (được thành lập theo nghị định ngày 5/6/1893 của Toàn quyền Đông Dương) vào địa hạt này. Do đó, địa bàn của tỉnh Vạn Bú bao gồm: phủ Vạn Yên với các châu Mộc, châu Phù Yên; phủ Sơn La với các châu: Sơn La, châu Yên, châu Mai Sơn, châu Thuận, châu Tuần Giáo, châu Điện Biên (thuộc Tiểu quân khu Vạn Bú cũ); châu Lai, châu Luân, châu Quỳnh Nhai, Phong Thổ (thuộc Tiểu quân khu phụ Lai Châu cũ). Đến ngày 7/4/1904, trụ sở hành chính được chuyển từ Vạn Bú đến Sơn La. Sơn La trở thành lỵ sở của tỉnh Vạn Bú. Đồng thời với việc chuyển trụ sở hành chính đến ngày 23/8/1904, Phái bộ Vạn Bú được đổi thành Phái bộ Sơn La. Từ đây tên tỉnh Vạn Bú được đổi thành tỉnh Sơn La.

Vì địa bàn Sơn La quá rộng, địa hình lại phức tạp, khó khăn cho việc quản lý, thêm vào đó thực hiện chính sách “chia để trị”, ngày 28/6/1909, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách châu Quỳnh Nhai, Điện Biên, Tuần Giáo, Châu Lai, Luân Châu thành lập một tỉnh mới lấy tên là Lai Châu (thuộc đạo Quan binh 4); tách tổng Nghĩa Lộ nhập vào địa bàn tỉnh Yên Bái. Trong Luật lệ bản mường ở Mai

32

Sơn ghi chép về sự kiện này như sau: “Đến năm Mậu Thân năm 1908, người Pháp đã ngự dinh trên đồi Khau Cả, Mường La. Đất Thái phân chia cho 4 tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Yên Bái và Lào Cai. Từ đó châu Mường Mụak cũng như các châu mường Thái Đen khác đều phải nộp thuế cho quan công sứ tây tỉnh Sơn La. Thời đó, đất Thái chia làm 12 châu mường để quản đạo Cầm Văn Oai Mường Mụak đứng đầu” [155, tr.234]. Như vậy, địa hạt Sơn La còn lại 6 châu: Sơn La (hay Mường La và địa phận Thành phố Sơn La hiện nay), Thuận Châu, Mai Sơn, Châu Yên, Châu Mộc, Phù Yên (gồm cả Bắc Yên ngày nay). Năm 1932, Sơn La gồm 6 châu, 29 mường, 1.180 bản và Trung tâm hành chính Vạn Yên. Các đơn vị hành chính trên tồn tại đến hết thời kỳ Pháp thuộc [160, tr.53]. 2.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

Cuối thế kỉ XIX, tỉnh Sơn La giáp Đạo quan binh số 4 ở phía Tây và phía Bắc, ở phía Bắc Sơn La còn giáp tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía Đông Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và Sầm Nưa của Lào. Diện tích tự nhiên của Sơn La khoảng 12.000 km2 [8] phần lớn được bao phủ bởi núi, cùng một vài thung lũng.

Về địa hình: trên bình đồ kiến tạo vùng Tây Bắc, tỉnh Sơn La nằm ở miền kiến tạo có vỏ lục địa được nâng, hạ nhiều lần trong lịch sử địa chất kiến tạo. Địa hình bị chia cắt mạnh bởi các đứt gãy sâu thành các dãy núi và thung lũng, kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam. Trong Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về hình thế tỉnh Hưng Hóa như sau: “Tỉnh Hưng Hóa ở về mặt thượng du Bắc Kỳ, hình thế rộng rãi mênh H’mông, đồng nội ít mà phần nhiều là thung lũng rừng núi” [148, tr.282]. Về cơ bản, tỉnh Sơn La có 3 kiểu địa hình chính: Kiểu địa hình núi đá vôi, phân bố chạy dọc các dòng sông, suối và phát triển theo hướng tây bắc – đông nam. Kiểu địa hình thung lũng ven sông và bãi cát bồi ven suối nằm kẹp giữa hai bên là núi đồi, giữa là sông với các bãi bồi ven sông và suối lớn. Kiểu địa hình bình nguyên và cao nguyên tương đối bằng phẳng như cao nguyên Nà Sản (Mai Sơn), cao nguyên Mộc Châu. Sự phân hóa thành các kiểu địa hình khác nhau ảnh hưởng lớn đến sự phân bố dân cư trong tỉnh, đồng thời cũng quy định các loại hình kinh tế nông nghiệp phù hợp với địa vực cư trú của từng tộc người. Bên cạnh đó, địa hình dốc cũng tiết kiệm sức lực của cư dân Thái trong việc trồng lúa nước, lợi dụng độ dốc của địa hình dẫn nước vào ruộng thông qua hệ thống “mương, phai, lái, lín”.

Địa hình bị chia cắt phức tạp dẫn đến những khó khăn về giao thông trong tỉnh cũng như việc liên kết với các địa phương khác. “Ở Sơn La đến năm 1917, chỉ có 2 con đường có thể di chuyển được. Đó là đường từ Sơn La đi Tạ Bú dọc theo

33

sông Đà nhưng cũng chỉ có thể di chuyển dễ trong 15km đầu tiên. Đường thứ hai từ Sơn La đi Điện Biên, nhưng cũng chỉ có thể di chuyển dễ trong 40km” [30]. Địa hình cũng gây những cản trở lớn đối với việc xây dựng các tuyến giao thông: “Năm 1917, chính quyền cho xây dựng tuyến đường đi Sơn La – Tạ Bú dọc theo sông Đà. Con đường này rất khó khăn trong khi xây dựng, vì vấp phải những dãy đá lớn chắn ngang, chi phí rất lớn” [47]. Điều này ảnh hưởng lớn đến kinh tế nông nghiệp đặc biệt là trao đổi sản phẩm trong và ngoài tỉnh: “trong các tháng 5, 6, 7 hoạt động thương mại của Sơn La gần như bị gián đoạn vì tất cả các tuyến giao thông gần như không thể di chuyển được. Trao đổi thương mại chỉ bắt đầu từ tháng 11, khi mà mùa khô bắt đầu” [27].

Đặc biệt, với địa hình chủ yếu là núi cao, gây khó khăn cho việc tưới tiêu, điều này khiến cho tình trạng hoang hóa ruộng đất trở nên phổ biến. Theo tác giả luận án thống kê qua 19 bản địa bạ thời Gia Long 4 năm 1805, diện tích ruộng lưu hoang chiếm tới 49,2% tổng số diện tích ruộng đất. Đặc điểm nổi bật của địa hình Sơn La là độ dốc lớn, trên 87% diện tích tự nhiên của tỉnh có độ dốc từ 25o trở lên và gần 13% diện tích tự nhiên có độ dốc dưới 25o. Do đó phần lớn đồng ruộng ở địa phương nhỏ hẹp và là ruộng bậc thang, rất khó để hình thành các vùng chuyên canh lớn. Tuy nhiên, Sơn La có cánh đồng Mường Tấc (Phù Yên) là một trong bốn cánh đồng lớn ở khu vực Tây Bắc. Trong Hưng Hóa xứ phong thổ lục ghi chép về châu Phù Hoa như sau: “địa thế rộng phẳng, bốn xung quanh đều là núi đất… Đất ưa trồng lúa nếp. Có thứ lúa cao một trượng, làm việc ít mà được thóc nhiều. Ruộng nương béo tốt, sản xuất được nhiều thóc…” [109, tr.3]. Đồng thời, Sơn La có hai cao nguyên đem lại giá trị kinh tế đó là cao nguyên Mộc Châu và cao nguyên Nà Sản (Mai Sơn). Như trong các bản Báo cáo kinh tế của Pháp đều thừa nhận tiềm năng phát triển của hai cao nguyên này. “Không gian rộng lớn trên các cao nguyên Mai Sơn, Mộc Châu rất lý tưởng cho chăn thả gia súc” [47].

Về khí hậu: địa bàn tỉnh Sơn La thuộc kiểu gió mùa chí tuyến của miền khí hậu phía Bắc, vùng khí hậu núi Tây Bắc, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình từ 23 – 250C, lượng mưa từ 1400 – 1800mm/ năm. Mùa đông trùng với mùa khô lạnh, ít mưa, khô hanh từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của độ cao địa lý và địa hình nên khí hậu Sơn La có sự phân hóa thành nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau:

+ Tiểu vùng khí hậu phía bắc bao gồm huyện Mường La và một số vùng núi cao của huyện Bắc Yên. Đặc điểm nổi bật của vùng này là ít bị ảnh hưởng của bão,

34

gió mùa đông bắc và gió tây khô nóng. Đây là vùng mưa nhiều, lượng mưa trung bình trong năm trên 2000mm, mùa đông ấm, ít bị ảnh hưởng của sương muối.

+ Tiểu vùng khí hậu phía tây và tây nam bao gồm các huyện Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu. Đây là vùng bị ảnh hưởng của gió tây khô nóng, ít mưa hơn các vùng khác, lượng mưa trung bình trong năm là 1400mm, có nơi mưa 1200mm, mùa đông thường hay bị ảnh hưởng của sương muối, nhất là vùng cao nguyên Sơn La.

+ Tiểu vùng khí hậu phía đông và đông nam bao gồm các huyện Mộc Châu, Phù Yên và phần còn lại của Bắc Yên. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của bão và gió mùa đông bắc, ảnh hưởng của gió tây nhưng không nhiều. Địa hình thấp nhưng mùa đông lạnh, thường hay có sương muối [134, tr.14-15].

Với nhiều tiểu vùng khí hậu, Sơn La thích hợp với nhiều loại cây trồng, tạo điều kiện phát triển nền sản xuất nông, lâm nghiệp đa dạng. Việc phân hai mùa rõ rệt rất thích hợp với sản xuất nương rẫy “mùa khô hanh là mùa phát, đốt nương, đầu mùa mưa là vụ gieo trồng và suốt trong mùa mưa là thời kỳ cây cối sinh trưởng, đến đầu mùa khô lại là lúc thu hoạch” [164, tr.63-64]. Nhưng khí hậu phân mùa rõ rệt cũng gây không ít những khó khăn: mùa đông trùng mùa khô, lượng mưa ít, thường gây khô hạn, thiếu nước cho sinh hoạt và sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp nên người Thái chủ yếu chỉ làm ruộng một vụ là vụ lúa tháng 10. Mùa mưa kéo dài trong 5 tháng, nên bên cạnh những thuận lợi cho tưới tiêu trong nông nghiệp còn gây ra tình trạng lũ lụt, ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống nhân dân. “Hễ khi mưa nhiều, nước đọng lại thì hoa màu sút kém ngay, bởi vì chỗ nào cũng có núi rừng ngăn trở, mà khe cừ vừa hẹp vừa nông, nên nước tiêu rất chậm” [148, tr.284]. Vào mùa đông thường có sương muối gây thiệt hại cho hoa màu.

Về thủy văn: Tỉnh Sơn La là một trong những tỉnh có hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng phân bố không đều. Trên địa bàn tỉnh Sơn La có 2 hệ thống sông lớn là hệ thống Sông Đà và hệ thống Sông Mã, kèm theo là hệ thống các hồ, các suối nhỏ. Đặc biệt hệ thống sông Đà, sông Mã không chỉ là nguồn cung cấp nước cho đời sống, sản xuất mà còn là tuyến giao thông quan trọng trong việc đi lại, trao đổi hàng hoá trong và ngoài tỉnh. “Trong lịch sử chiến đấu và xây dựng tỉnh Sơn La, sông Đà và sông Mã là huyết mạch giao lưu kinh tế giữa các vùng, là đường vận chuyển lương thực, vũ khí, đảm bảo cho lực lượng vũ trang tác chiến trên địa bàn tỉnh, góp phần chi viện quốc tế với nước bạn Lào, đảm bảo cho chiến lược phòng thủ miền Tây Bắc của tổ quốc” [105, tr.18] Tuy nhiên, “mưa lũ kéo dài 5 tháng trên một năm khiến hoạt động đi lại, vận chuyển trên sông Đà bị ngưng trệ, đồng thời vào mùa cạn việc đi lại có phần thuận tiện hơn song sức nước chảy xiết, nhiều vực xoáy, lắm thác ghềnh” [216, tr.27], bình thường chỉ di chuyển trên sông Đà trong 4 tháng mùa

35

hè. Tất cả những khó khăn đó đã tạo ra cản trở lớn đối với việc phát triển của thương nghiệp là việc “phần lớn các sản phẩm của địa phương đều được vận chuyển theo tuyến sông Đà để đưa đến các vùng đồng bằng” [40].

Bên cạnh hai hệ thống sông chính tỉnh Sơn La còn có nhiều con suối lớn, nhỏ nằm trên địa bàn dốc với nhiều thác nước. Đại bộ phận sông suối ở Sơn La đều chảy trên các sườn dốc, thung lũng hẹp. Do vậy, Sơn La là địa bàn nhiều thác, ghềnh và chế độ thủy văn nhiều biến động. Cũng giống như toàn khu vực Tây Bắc, Sơn La là tỉnh có chế độ thủy văn chia mùa rõ rệt: mùa mưa nước dâng cao, chảy xiết đe dọa mùa màng và cuộc sống con người; mùa khô (tháng 10 đến tháng 4 năm sau) nước rất cạn, không thể đi lại bằng đường thủy.

Mặc dù hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng do địa hình chia cắt mạnh mẽ, tính biệt lập cao không tạo nên những đồng bằng đủ lớn để dân cư quần tụ đông đúc như vùng hạ lưu. Những cánh đồng của Sơn La phần lớn nhỏ hẹp (trừ cánh đồng Mường Tấc ở Phù Yên) điều này dẫn tới khó khăn trong việc mở rộng diện tích canh tác nhất là ruộng nước.

Về thổ nhưỡng, trên địa bàn tỉnh Sơn La có 6 nhóm đất và 26 loại đất chính [254, tr.65] gồm: nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất đen, nhóm đất đỏ vàng, nhóm đất mùn đỏ vàng, nhóm đất thung lũng dốc tụ (Xin xem phụ lục 2.2). Trong đó, các loại đất chính là đất đỏ vàng, phân bố ở vùng đồi núi thấp nằm giữa dãy Hoàng Liên Sơn và cao nguyên đá vôi; đất mùn trên núi phân bố ở vùng núi phía nam có độ dốc lớn, quá trình rửa trôi mạnh vì mùa lũ và mùa khô cạn có sự phân biệt rõ rệt phù hợp với chế độ mưa. Với nhiều loại đất khác nhau phân bố trên nhiều kiểu địa hình dẫn tới sự đa dạng trong nông nghiệp tỉnh Sơn La. Đặc biệt độ phì trong đất ở Sơn La tương đối lớn, cung cấp nguồn phân bón tự nhiên cho cây trồng “đặc điểm chung của thổ nhưỡng Sơn La là tầng đất khá dày, thấm nước tốt, tỷ lệ đạm và lân trong đất cao” [160, tr.28]. 2.3. Dân cư - xã hội 2.3.1. Dân cư

Về dân số và mật độ dân số: Nhóm tác giả Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vĩ Liễn, Phạm Văn Thư trong Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, ghi nhận Sơn La có tổng cộng 86.000 người trong đó “nhiều nhất là người Tày đen (58.800), Tày trắng (6.400), rồi đến người Mèo (7.100), người Mường (4.720), người Xá (8.670), người Mán (370) và ít người Khách” [130, tr.660]. Dân số Sơn La từ 5 vạn vào năm 1904 tăng lên 8,6 vạn vào năm 1921 và lên hơn 10 vạn người vào năm 1939 [160, tr.78]. Công sứ Sevenier trong Chuyên khảo về tỉnh Vạn Bú viết hồi tháng 9 – 1901 cho biết địa phương vào đầu thế kỷ XX có khoảng 70.000 người. Diện tích tự nhiên của Sơn La

36

khoảng 12.000km2. Mật độ dân số thưa thớt, chỉ khoảng 6 người/km2 [8]. Trong các tài liệu lưu trữ dân số Sơn La được đề cập đến không liên tục: năm 1926 là 86.407 người [56], năm 1934 khoảng 100.782 người [60]. Henri Yves đã thống kê diện tích các tỉnh trong toàn quốc, trong bảng thống kê vào năm 1932 đã thống kê số liệu tỉnh Sơn La với dân số 90.003 người, tổng diện tích 10.865 km2, diện tích ruộng 8.000 ha, bình quân đầu người về diện tích ruộng 0,088 ha, mật độ dân số 8 người/1km2, mật độ dân số về lương thực 1.125 [119, tr.1-2]. Xét về tổng diện tích tỉnh Sơn La đứng thứ hai ở Bắc Kỳ chỉ sau Lai Châu với 20.116 km2 nhưng mật độ dân số thuộc nhóm thấp nhất bởi trong 29 tỉnh được thống kê, tỉnh Sơn La chỉ có mật độ dân số cao hơn 3 tỉnh lần lượt là Lào Cai 7 người/km2, Hà Giang 5 người/km2, Lai Châu 3 người/km2. Có thể thấy, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Sơn La thuộc tỉnh đất rộng, người thưa.

Về cơ cấu dân số: Tác giả Tống Thanh Bình đã tổng hợp về cơ cấu dân số tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc như sau: “Năm 1921, thành phần dân cư gồm: người Thái (64.400), người H’mông (7.100), người Mường (4.720), người Xá (8.670), người Mán (370) và người Kinh, người Hoa. Năm 1932, người Thái (72.600), người H’mông (7.800), người Mường (7500), người Xá (7.200), người Mán (1.500), người Hoa (500), người Kinh (300), người Âu (6). Năm 1943, phân theo các nhóm dân tộc, dân tộc Kinh chỉ chiếm 1.000 người, người Pháp 18 người, trong khi các dân tộc ít người là 117.727 người trên tổng số 118.745 người” [216, tr.81]. Như vậy, người Thái là bộ phận dân cư đông đảo nhất tại Sơn La.

Về phân bố các tộc người trong tỉnh: Trong chuyên khảo về tỉnh Sơn La ghi chép: “Hầu hết dân cư là người Thái, họ tập trung trong các thung lũng, kinh tế chủ yếu là trồng lúa. Trên các vùng đồi núi khác chủ yếu là nơi sinh sống của người Mèo, Mán” [8]. Về phân bố tộc người trong tỉnh theo địa phương xin xem bảng sau: Bảng 2.1. Phân bố dân cư theo tộc người của các vùng thuộc tỉnh Sơn La năm 1935 - 1936

Số gia đình

Tổng

Tăng

Tên châu

Thái

Mèo

1935

1936

1935 1936 1935 1936 1935

1936 1935 1936

3528

3605

421

426

250

240

4199

4271

23

72

1853 2258 4577 1015 1163

2147 2686 5610 1390 1239

2127 2686 5565 1384 1193

30 438 386 358 13

264 0 647 17 63

30 432 392 352 12

Mường La và Ngọc Chiến Mai Sơn Phù Yên Thuận Châu Mộc Châu Yên Châu Tổng

147 270 1827 34 0 2254 87 655 4518 48 17 1015 1115 18 66 14257 14471 16639 1641 1258 1231 17154 17343 357

20 0 45 6 46 189 Nguồn: [20]

37

Theo bảng thống kê trên, ở Sơn La có 3 nhóm tộc người chính: người Thái, người Mèo (tên gọi trước đây của người H’mông) và người Xá (tên gọi chung trước kia chỉ những tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơme lệ thuộc vào người Thái bao gồm người Xinh mun, Khơ mú, Kháng, La Ha). Nằm trong khu vực Tây Bắc, các tộc người ở Sơn La cũng cư trú tương đối tập trung ở ba loại địa hình chính: vùng cao chủ yếu là người H’mông, vùng giữa chủ yếu là người Xá, còn vùng thấp chủ yếu là người Thái.

Bộ phận người Thái cư trú thành những bản mường, sống tập trung nhất ở Mường La và Thuận Châu. Đây là những thung lũng vùng thấp, những nơi trù phú nhất của tỉnh Sơn La bấy giờ. Ở Sơn La, dân tộc Thái về cơ bản có hai ngành: Thái trắng và Thái đen. Ngành Thái trắng có thể chia làm hai nhóm: Nhóm thứ nhất cư trú ở phía bắc thuộc Ngọc Chiến (Mường La). Nhóm thứ hai phân bố ở phía nam thuộc các huyện Mộc Châu, Phù Yên. Ngành Thái đen có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần nhất. Cư dân Thái đen phân bố ở các huyện Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn. Một nhóm Thái đen có hơi khác về tập quán và thổ ngữ cư trú ở huyện Yên Châu nên thường gọi là Thái Yên Châu.

Người H’mông: cư trú ở những vùng núi cao, hiểm trở, độ chia cắt lớn, độ cao cách mặt biển trung bình từ 800 – 1700m [112, tr.141]. Họ tập trung chủ yếu ở các châu Phù Yên, Mường La, Thuận Châu. Căn cứ vào những khác biệt về mặt dân tộc học và ngôn ngữ họ được chia thành 4 nhóm: H’mông trắng, H’mông đen, H’mông hoa và H’mông đỏ. Theo Đặng Nghiêm Vạn, Đinh Xuân Lâm, người H’mông đến Tây Bắc cũng như Sơn La vào giữa thế kỉ XIX và sau đó được nhà Nguyễn thừa nhận quyền cư trú ở Việt Nam, “cho họ tự quản với điều kiện phải tuân theo luật lệ của triều đình và của địa phương đồng thời phải nộp một số thuế nhất định” [174, tr.88]. Trong các bản người H’mông không có cư trú đan xen hỗn hợp dân tộc như người Thái. Bản của người H’mông được gọi là jiao, được hợp thành chủ yếu từ các dòng họ, trong đó thường có một họ gốc và cũng có những bản chỉ có một dòng họ [112, tr.142]. Tuy có một số ruộng nước nhưng người H’mông vẫn coi làm nương rẫy là phương thức sản xuất và nguồn sống chính.

Nhóm người nói ngôn ngữ Môn - Khơme đều tập trung ở vùng rẻo giữa (theo cách gọi của dân tộc học) và lấy kinh tế nông nghiệp nương rẫy làm nguồn sinh sống chính. Cụ thể:

Người Khơ mú ở Sơn La sống thành từng bản xen kẽ với các tộc người khác, tập trung nhiều nhất ở Mai Sơn, Thuận Châu, Yên Châu, Mường La. Người Khơ mú còn có tên gọi khác là Xả hay Xá [113, tr.21]. Theo quan điểm của rất nhiều nhà

38

nghiên cứu như Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng, Khổng Diễn… người Khơ mú vào Tây Bắc khoảng cuối thế kỉ XIX “người Khơ mú di cư từ Thượng Lào vào Tây Bắc khoảng cuối thế kỷ XIX, không có ruộng phải sống bằng nương rẫy, nên buộc lòng phải nhập vào lớp người làm pụa pái cho nhà tạo” [165, tr.209].

Người Xinh mun còn có tên gọi khác theo sự phân chia đẳng cấp trong xã hội là Xá Puộc (người Xá chịu sự che chở của người Thái), Xá Poọng (người Xá ở các bản ngoài, do con cháu phìa, tạo quản lý [107, tr.12]). Ở Sơn La, người Xinh mun được chia thành 2 nhóm: Xinh mun nghẹt và Xinh mun dạ, cư trú ở những vùng xa xôi, hẻo lánh thuộc rẻo sườn đồi, sườn núi thấp ở Yên Châu, Mai Sơn, Mộc Châu. Người Xinh mun chỉ có một đơn vị cư trú duy nhất là “col” (bản, làng), họ không có đơn vị hành chính từ cấp trên bản trở lên [107, tr.108].

Người Kháng theo sự phân chia của người Thái xưa có: Xá Puộc, Xá Pụa, Xá Cuông… (người làm tôi tớ cho phìa tạo Thái), Xá Poọng (người phụ thuộc con cháu phìa tạo Thái ở các bản ngoài trung tâm mường)… [121, tr.26]. Người Kháng cư trú tập trung ở Thuận Châu, Mường La. Các bản người Kháng chủ yếu ở các sườn đồi hoặc ven các thung lũng nhỏ hẹp, nơi điều kiện đi lại khó khăn. Tuy nhiên, trước đây do lối sống du canh du cư nên người Kháng thường cư trú rải rác, xen kẽ với nhiều tộc người khác.

Người La Ha có nhiều nét tương đồng về kinh tế, xã hội và văn hóa với người Kháng. Họ cư trú chủ yếu ở Thuận Châu, Mường La. Khi người Khơ mú từ Lào vào Tây Bắc thế kỉ XIX đã thấy người Kháng và La Ha ở Mường Muổi đang bị quý tộc thống trị và bộ máy chính quyền của nó bắt làm pụa. Dó đó, họ đã gọi hai dân tộc này bằng tên Thái là Pụa [165, tr.211].

Ngoài các bộ phận dân cư như trên, tỉnh Sơn La còn là nơi tụ cư của các tộc người khác như Mường, Dao, Tày, Hoa, Kinh, Lào sống rải rác trên khắp lãnh thổ của tỉnh [160, tr.36].

Người Mường là bộ phận dân cư có số lượng đông đảo tại Sơn La, sống tập trung ở những vùng thấp với địa hình tương đối bằng phẳng, ở ven sông Đà, suối Lập, suối Văn, suối Ếch, suối Dâng ở Phù Yên, Mộc Châu; tụ cư trong những mường độc lập hoặc sống xen kẽ với các tộc người khác. Việc người Mường sống chung một bản với người Thái là khá phổ biến. Người Mường ở Sơn La sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và làm nương rẫy, trồng màu (ngô, khoai, sắn), giỏi chăn nuôi và làm nghề thủ công (dệt vải, dệt thổ cẩm, đan lát), có kinh nghiệm làm thủy lợi nhỏ (đắp mương phai, làm cọn lấy nước) [160, tr.38]. Người Mường ở Sơn La cũng theo chế độ xã hội của người Thái chứ không tách biệt theo chế độ nhà

39

lang như ở Hòa Bình. “Ở các châu Phù Yên, Mộc Châu, vùng người Mường sống tập trung không theo chế độ lang đạo, mà tổ chức bộ máy hành chính như người Thái. Quý tộc Mường cũng giữ quyền thế tập “làm phìa”, song họ chỉ giữ chức phìa mường ngoài như ở Tân Phong (Phù Yên), Quy Hướng (Mộc Châu)...” [164, tr.107]. Điều nãy dẫn tới, mặc dù dân số đông nhưng những tác động của người Mường tới hoạt động sản xuất nông nghiệp trong tỉnh đã lồng ghép với người Thái rất khó để phân biệt.

Người Dao (trước đây gọi là người Mán) sống tập trung ở các vùng núi thấp, dọc các con suối với mật độ thưa thớt. Căn cứ vào trang phục của phụ nữ, người Dao chia thành nhiều ngành (Dao đỏ, Dao tiền, Dao quần chẹt, Dao quần trắng, Dao thanh y, Dao áo dài...). Người Dao trước đây đều du canh du cư, nguồn sống chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp nương rẫy không bền vững [112, tr.135].

Người Tày ở Sơn La có số lượng không nhiều, thường sinh sống đan xen với các dân tộc khác ở khắp các địa phương trong tỉnh. Theo quan điểm của Phạm Văn Lực, người Tày đến Sơn La từ thời Pháp thuộc, chủ yếu “do thực dân Pháp bổ nhiệm các chức như: tri châu, đội, phán, thông ngôn. Cũng có một số ít người sang theo con đường làm ăn, hoặc hôn nhân”, họ làm ruộng nước, nương rẫy và phát triển chăn nuôi [134, tr.28].

Người Hoa và người Kinh ở Sơn La chủ yếu tham gia vào hoạt động buôn bán, tuy nhiên số lượng không nhiều. Phần lớn họ sống tập trung ở khu vực tỉnh lỵ, trung tâm các châu mường. Những tác động của 2 bộ phận dân cư này đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La chủ yếu thông qua trao đổi các sản phẩm nông nghiệp chứ hầu như họ không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.

Người Lào số lượng ở Sơn La ít, phân bố rải rác trong các châu, mường. Họ

chủ yếu dựa vào làm nương rẫy, khai thác lâm sản, săn bắn, hái lượm.

Nhìn chung, ở Sơn La có ba nhóm dân cư chính bao gồm: người Thái, người H’mông, và nhóm người bị gọi là Xá (Khơ mú, Xinh mun, Kháng, La Ha). Đây là ba nhóm dân cư tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất nông nghiệp và có những ảnh hưởng lớn đến kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Việc địa bàn sinh sống của các nhóm dân cư có sự phân hóa rõ nét như trên sẽ ảnh hưởng lớn đến loại hình canh tác kinh tế nông nghiệp tương ứng với từng vùng, từng tộc người cụ thể. 2.3.2. Xã hội

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, quan hệ xã hội ở Sơn La một mặt bị chi phối bởi quan hệ thực dân nửa phong kiến, mặt khác, tùy từng vùng dân tộc mà bị chi phối bởi quan hệ khác nhau. Vùng tồn tại chế độ phìa, tạo (vùng người Thái),

40

thống quán, thống lý, quan sự (vùng người H’mông), sen, quản, khun (vùng người Khơ mú) [160, tr.43]. Song sự thống trị của quý tộc Thái với chế độ phìa, tạo đã bao trùm lên toàn bộ xã hội nơi đây. Thông qua lệ nộp đối với các tộc người chuẩn bị cho lễ xên cha (lễ cúng mường) ở Mường Muổi thể hiện rõ sự chi phối của quý tộc Thái: “Còn các khoản thịt rau quả cần phải có cho lễ cúng mường thì án nha phải kê ra để phân cho dân Thái, Xá, Mèo, Hán, Kinh trong mường mình phải nộp đầy đủ… đặt cho ai đóng góp thì phải đóng góp không được từ chối” [155, tr.160]. Ở vùng người H’mông trong các Cang Y chủa tế (một đơn vị hành chính lớn hơn bản (jiao) người đứng đầu các vùng đó gọi là Thống lý (như ở Thuận Châu). Vùng Cang Y chủa tế lại chia thành vùng nhỏ có người đứng đầu là Thống quán và vùng đất ấy gọi là ý tu thống quán tế. Song trong thực tế, tất cả những người đứng đầu jiao hay Cang Y chủa tế đều bị lệ thuộc vào hệ thống hành chính của người Thái [112, tr.155].

Tổ chức xã hội của các tộc người ở Sơn La nói riêng, vùng Tây Bắc nói chung vừa thể hiện tính chất thống nhất của cả nước vừa thể hiện tính chất cát cứ địa phương [164, tr.98]. Triều đình trung ương coi các đơn vị châu mường tương đương với cấp huyện nên đã đặt các châu mường ở Tây Bắc trực thuộc tỉnh (Hưng Hóa) hoặc lộ (Đà Giang) hoặc trấn (Thiên Hưng). Song, việc triều đình phong kiến muốn can thiệp vào công việc quản lý tỉnh Sơn La - thực hiện chính sách lưu quan nhưng không thành công thể hiện rõ tính tự trị, cát cứ của khu vực này:”… ở một số tỉnh miền núi như Tây Bắc từ Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu chế độ lưu quan không thành công, ảnh hưởng của quan được triều đình cử lên cai trị chỉ ở một phần lưu vực sông Hồng” [216, tr.76]. Tổ chức châu mường tương đối thống nhất gồm:

- Mường trung tâm (mường luông) (đứng đầu mường luông là Pú chẩu – triều đình đặt là đại tri châu). Mường luông không có đầy đủ tính chất như một cấp tỉnh mà chủ yếu làm nhiệm vụ truyền đạt và đôn đốc châu mường thực hiện chiếu chỉ của triều đình. Sau cải cách Minh Mệnh năm 1834, các châu mường đặt dưới sự cai quản trực tiếp của quan tỉnh Hưng Hóa, không cho phép có mường luông nữa.

- Các châu mường - Đứng đầu là các phìa – chúa đất (chẩu mường, chủ

mường hay án nha) (thời Tự Đức, chúa đất gọi là Tri châu).

- Mỗi châu mường thường có một mường phìa trong và bốn mường phìa ngoài (thời Minh Mệnh gọi mường phìa là xã đứng đầu đứng đầu là lý trưởng, giúp việc là phó lý – người Thái gọi là phìa lý, phìa phó), không kể mường nhỏ gọi là lộng, quen. Chúa đất lại thông qua những người con cả để cai quản mường trong và con cháu họ hàng trông nom mường ngoài. Xét về mặt hình thức, trong bộ máy hành chính của cả nước, các châu mường chỉ có vị trí như cấp huyện, xong trong

41

thực tế mỗi châu mường như một triều đình nhỏ được triều đình phong kiến Trung ương công nhận quyền thế tập của quý tộc, cũng như quyền tổ chức bộ máy hành chính và cai quản địa phương theo tập quán và luật lệ riêng.

- Dưới châu mường, lộng, quen là các xổng. Nhà Nguyễn gọi xổng là ngũ, tương đương với cấp thôn ở miền xuôi. Chia thành 2 ngạch quan lại: Bốn ông đứng đầu xổng gọi là kỳ mục (người Thái gọi là các ông xổng (bốn ông lớn) ở Mường Muổi (Thuận Châu) gồm xen, pọng, ho luông, pọng cang; ở Mường La gọi là pằn, pọng, ho luông, quan cuông); bậc dưới gọi là hàng quan gọi chung là bốn ông bé gồm “bốn xự, bốn lô, bốn pách, bốn chiêng” ở Mường Mụak (Mai Sơn), ở Thuận Châu bốn ông kỳ mục hạng hai gọi là ho cang, ho hé, pụa, chá hươn luông [131, tr.225].

- Đơn vị hành chính cuối cùng của châu mường là bản. Bản hầu hết là nơi cư trú thuần nhất của một tộc người, một số ít bản có sự cộng cư giữa những tộc người khác nhau. Theo lệ, “con Tạo ở bản nào đều phải là người đứng đầu bản đó. Người đứng đầu bản thuộc người của dòng họ nhà Tạo thì gọi là Tạo bản. Người đứng đầu bản thuộc người họ dân thì gọi là quan bản” [155, tr.210].

Trong từng đơn vị châu mường thường có nhiều tộc người cư trú cho nên quý tộc Thái cùng với bộ máy hành chính của họ không những thống trị nhân dân lao động Thái mà cả các tộc người khác. Để thấy rõ cách thức tổ chức châu mường xin xem phụ lục 2.3.

Sang thời Pháp thuộc, để dễ bề thống trị và bóc lột đối với các tộc người ở Sơn La, thực dân Pháp áp dụng chính sách chia để trị. Chúng duy trì và khoét sâu thêm sự kì thị dân tộc, bằng cách thừa nhận sự áp bức của dân tộc Thái, dân tộc Mường đối với các dân tộc thiểu số ở vùng cao như La Ha, Khơ mú, Xinh mun, H’mông… Việc làm này đã gây chia rẽ và hằn thù giữa các dân tộc ở Sơn La [134, tr.63]. Thực dân Pháp ở Sơn La vẫn giữ nguyên bộ máy thống trị, bóc lột của quý tộc phong kiến phìa tạo trước đây, duy trì sự bóc lột bằng cống nạp sản vật và lao động không công. Quam tô mương Mường Muổi (Thuận Châu) ghi: “… Ở vùng người Mèo phải chịu sự sai bảo của dân tộc Thái, hàng năm người Mèo phải cống nạp cho quý tộc (phìa, tạo) Thái và quan Tây nhiều thuốc phiện, bạc trắng và gái đẹp (ỷ sao)” [140]. Thực dân Pháp lập nên xứ Thái tự trị như trong lời Công sứ Saint Poulof nói với viên thủ lĩnh Mộc Châu đã định nghĩa rằng: “Đất ông là tấm bình phong vững chắc của xứ Thái, người Kinh khó có thể lọt qua, tránh được sự trà trộn vào xứ Thái” [165, tr.478]. Đồng thời, có thể thấy thực dân Pháp muốn cô lập Sơn La, ngăn chặn người Kinh lên khu vực này, điều này khiến kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La càng cách biệt với miền xuôi. Riêng đối với đồng bào H’mông, thực

42

dân Pháp dùng thủ đoạn tuyên truyền mị dân hết sức thâm độc gọi là “khu Mèo tự quản” [133, tr.71]. Hay nói cách khác, kể cả khi thực dân Pháp xâm chiếm và đặt cách cai trị tại tỉnh Sơn La thì chế độ phìa tạo không những không suy yếu mà còn được củng cố dưới sự dung túng, bảo hộ của thực dân Pháp. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới sự tồn tại phổ biến của chế độ ruộng đất công thời Pháp thuộc.

Cơ cấu xã hội ở Sơn La trước khi có thực dân Pháp vào xâm chiếm về cơ bản

gồm 2 giai cấp: thống trị và bị trị.

- Giai cấp thống trị bao gồm quý tộc phong kiến người Thái: Tri châu, Kì mục, phìa, tạo; trong đồng bào H’mông là thống lí, thống quán. Cộng thêm bộ máy chức dịch giúp việc trong hệ thống quản lý bản mường. Đây là bộ phận giai cấp có đặc quyền, nắm trong tay toàn bộ các chức trong xã hội từ châu, mường đến các bản. Ngoài ra, xã hội Sơn La còn có tầng lớp mo mường chuyên làm nhiệm vụ cúng lễ, thống trị nhân dân về mặt thần quyền. Tầng lớp này có số lượng khá đông đảo, được hình thành đồng bộ từ trên xuống dưới, từ phủ đến châu, mường, bản. Dựa vào uy quyền trong xã hội và tập tục truyền thống, giai cấp thống trị đã áp bức, bóc lột nhân dân hết sức tàn bạo về tất cả các mặt: kinh tế, chính trị xã hội và cả về tinh thần.

+ Quý tộc Quam tô mương Mường Chanh có đoạn ghi: “Khi người Thái đến Mường Lò, các họ Lò, Lường, Cà, Vi, Mè, Lềm…, đã tôn sùng họ Lường làm “mo” họ Lò làm “tạo”. Lịch sử phát triển của xã hội Tây Bắc đã diễn biến trên một quá trình vô cùng phức tạp và cuối cùng một ngành của họ Lò đã tiến lên chiếm địa vị thống trị. Một ngành của họ Lò ấy đã trở thành quý tộc, được xã hội ghi nhận bằng một thành ngữ “họ trời sinh ra để làm chủ đất vàng” (tiếng Thái: “họ bẩu chẩu cắm”). Họ Lò Cằm (hay Khằm) tức Lò Vàng đã tách khỏi họ Lò nói chung nên được người ta đặt cho tên họ Lò Luông nghĩa là Lò bé và Lò lặc nghĩa là Lò có tục “ăn cắp”“ [137].

Sau khi được giữ vị trí thống trị trong các châu mường, lớp quý tộc họ Lò Cằm đã lấy các họ công khai là: Cầm (hay Khằm), Bạc Cầm, Hoàng, Đèo (hay Điêu Khằm), Tao (hay Đèo, Đào). Tuy nhiên những tên ghi trong gia phả quý tộc vẫn ghi họ Lò Cầm (hay Khằm). Các châu mường ở Sơn La do các dòng họ quý tộc nắm mọi quyền hành: họ Cầm, họ Lò ở Mai Sơn, Mường La, Phù Yên; họ Hoàng ở Yên Châu, họ Sa ở Mộc Châu; họ Bạc ở Thuận Châu [160, tr.43].

Theo luật tục, quý tộc phải giữ những chức vụ đứng đầu mường về nguyên tắc “chức vị chúa đất thuộc về một dòng họ quý tộc nhất định, cha truyền con nối. Người dân không thể làm chúa trong bất kỳ trường hợp nào. Nếu dòng họ quý tộc tuyệt tự hay vì có tội với triều đình bị trừng phạt, dân phải đi tìm chúa ở nơi khác về

43

làm” [262, tr.29]. Như trường hợp ở châu Mường Mụak (Mai Sơn) “Cằm Phằn mất, không có con trai nối dõi. Bô lão toàn mường phải đi đón người anh là ông Cằm Nguyên ở Mường Chanh (một mường ngoài của châu Mường Mụak) về thay” [155, tr.192]. Chính vì vậy, dòng họ quý tộc có trách nhiệm quản lý bản mường. Đại diện cho dòng họ quý tộc là một vị chúa đất “chúa đất cầm đầu bộ máy thống trị về các mặt quân sự, kinh tế, văn hóa và cả tôn giáo nữa” [131, tr.219].

Vì những trách nhiệm đó cho nên họ có một suất bổng lộc khá hậu. Bộ phận quý tộc có những đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị và được luật tục ghi nhận như đối với chủ mường (phìa, tạo):

- Làm chủ vùng đất, hưởng ruộng chức. - Hưởng ruộng công ích toàn dân đến làm và nương riêng người cuông đến làm. - Được dân cuông, pụa pái đến hầu hạ. - Làm chủ các khúc suối lớn có nhiều cá. - Hưởng thịt các thú lớn, các của ngon trên rừng. - Làm chủ các hang và vách đá có tổ ong. - Hưởng mật gấu, nhung nai, lợn lòi, hươu, voi, tê giác nhân dân trong

mường săn được.

- Làm chủ rừng tre, măng quý. - Thu tiền phạt các vụ vi phạm luật tục hôn nhân. - Được tham gia cử tạo, dựng quan. [164, tr.114-115] Đối với thống lý, thống quán ở vùng người H’mông, ngoài việc được sử dụng một số người giúp việc (sáo pang, sú clơ) như cuông nhốc của người Thái, cũng được “độc chiếm việc khai thác các hang và vách đá có nhiều tổ ong, các khúc suối có nhiều cá…; cũng có quyền phạt, thậm chí tịch thu tài sản những người vi phạm luật; cũng có quyền yêu cầu các hộ trong vùng nộp một số tiền, thóc, thuốc phiện…; hoặc giúp một số ngày công nhất định sau khi đã bàn bạc với các chức dịch trong vùng” [164, tr.115-116].

+ Chức dịch hay “bô lão toàn mường” Trừ ông mo là chức dành cho họ Lường [155, tr.112] còn tất cả các chức dịch khác không nhất thiết phải tập trung vào một họ. Giúp việc cho chúa đất là chức dịch, họ xuất thân từ dòng họ quý tộc hay dòng họ dân. Những chức dịch cao cấp cũng cha truyền con nối, hợp với dòng họ chúa thành giai cấp thống trị. Tuy nhiên “nếu như thành viên dòng họ chúa được miễn phu phen và được hưởng ruộng, thì thành viên các chức dịch cao cấp không được hưởng quyền đó” [262, tr.30].

Đối với người H’mông, đứng đầu các bản là seo phải, giúp việc cho seo phải

44

là các seo pháo, thường là anh em họ hàng với seo phải. Giúp việc cho các seo pháo là các tỷ sủng, mỗi tỷ sủng đảm nhiệm một công việc cụ thể chủ yếu là gọi dân đến họp, lo việc an ninh, thu thuế…

- Giai cấp bị trị ở các châu mường có thể gọi chung là lớp nông dân lao động, lực lượng đông đảo nhất và lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất trong xã hội. Tầng lớp này gồm nhiều thành phần dân tộc, chia làm ba loại:

+ Bộ phận nông dân tự do Bộ phận này còn có tên gọi là nông dân gánh vác hay những ông gánh bà vác. Đây là lớp nông dân chiếm tuyệt đại đa số cư dân sống trong các châu mường. “Trong số nông dân lao động, nông dân tự do chiếm số đông hơn cả. Họ là lực lượng chủ yếu trong sản xuất, thường chiếm 2/3 tổng số người lao động” [131, tr.220]. Họ là những người lao động có quyền nhận hoặc bỏ suất ruộng công được phân chia bởi “người dân trong công xã (trừ số tôi đòi, tù binh trong chiến tranh, các dân tộc khác ngụ cư...) đều có quyền hưởng ruộng. Nhưng nếu vì phải gánh vác quá nặng nề, họ có quyền trả ruộng và tìm nương rẫy khai phá hay bỏ đi nơi khác” [131, tr.216]. Nhận được suất ruộng mà bản mường phân chia cho đồng nghĩa với việc họ phải gánh vác việc mường do bộ máy thống trị đặt ra tức là phải nộp một số tô hiện vật, thực hiện một số lao dịch như làm hệ thống thủy lợi “mương, phai, lái, lín”, làm đường, đóng góp trong các dịp lễ tế, đi lính khi có chiến tranh... Thêm vào đó, họ trực tiếp bị cưỡng bức làm ruộng toàn mường tới làm và nộp các cống vật khác cho người đứng đầu châu mường. Nếu không nhận ruộng, họ vẫn được coi là thành viên của bản mường, họ có thể làm nương để sinh sống và chỉ thực hiện nghĩa vụ với bản mường.

+ Bộ phận nông dân bán tự do (cuông, nhốc) Khác với nông dân tự do, cuông, nhốc là những người bị lệ thuộc vào một chủ đất nhất định, phải cha truyền con nối. Bộ phận nông dân này bao giờ cũng ít hơn nông dân “gánh vác”. Họ không có nghĩa vụ đi “việc mường” và đóng góp các loại nghĩa vụ khác mà phải chịu sự cưỡng bức lao dịch trên ruộng của nhà quý tộc (ruộng cuông) và tầng lớp thống trị khác hoặc phải nộp hiện vật thay thế công lao dịch (khẩu nguột). Họ cư trú ở bản riêng và lấy ruộng công ở bản đó để phân cho nhau cày cấy. Nếu ở chung với bản người Thái họ được cấp một số ruộng công ít ỏi (ná nọi) hay được phát rừng làm rẫy. Nói cách khác, ngoài việc sản xuất để nuôi mình, họ còn phải đi làm ruộng cho nhà chủ. Ngoài ra, họ còn phục vụ tất cả nhu cầu sống của nhà chủ. Cuông, nhốc không có quyền tham dự công việc của bản, mường, hay nói một cách khác, bị tước đoạt quyền chính trị. Họ chỉ được coi là tự

45

do khi được chủ cho phép hoặc tự mình mua được một số ruộng nhất định, tự làm để sinh sống. Quá trình xuất hiện cuông, nhốc, pụa pái vô cùng phức tạp và được Cầm Trọng khái quát lại như sau:

Cuông = người trong nhà của “tạo” - Cuông 1: chiến tù bị bắt làm ruộng cho nhà “tạo”. Ruộng đó mang tên

là ná cuông.

- Cuông 2: “Pụa pái”, ở riêng, nhưng vẫn phải làm “ná cuông”. Cuông 1 biến thành “người đày tớ trong nhà” (tiếng Thái “cốn hướn”). - Cuông 3: Bản cuông được quy thành cố định. Cuông 2 theo lệ nộp “thóc giá” (khẩu nguột). - Cuông 4: Cuông phải làm thêm việc của “pụa pái” tức là “cuông 3” biến

thành “cuông 2”.

- Cuông 5: “Nhốc”, người nông dân hưởng suất ruộng công nhưng phải làm

ruộng gọi là “ná cuông” cho quý tộc.

- Nông dân Thái phải làm “cuông, nhốc”. - Nông dân khác Thái, con cháu của “cuông 1” và “cuông 2” phải làm “pụa”.

[165, tr.211-212].

Việc làm cuông nhốc và cống nạp được luật tục của người Thái quy định rất rõ ràng đặc biệt với các tộc người khác Thái (Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun, H’mông). Để hiểu rõ hơn về việc làm cuông, nhốc xin xem phụ lục 2.4.

+ Bộ phận gia nô Thành ngữ Thái dùng để chỉ lớp nông dân này là khỏi dảo cốn hướn nghĩa là tôi đòi trong nhà. So với nông dân ở trong châu mường thì cốn hướn chiếm số lượng ít hơn cả (thường chiếm tỷ lệ từ 6% đến 9% số dân Thái trong các châu mường). Những quý tộc lớn đứng đầu châu mường có thể có 15, 20 cốn hướn gái, trai. Những quý tộc nhỏ và chức dịch… thường cũng có dăm, ba người cốn hướn [165, tr.257]. Đặc trưng cơ bản của gia nô là mất tự do về thân thể, phải sống kiếp tôi đòi cho nhà chủ. Chủ được quyền sở hữu họ, nên có quyền đánh đập, đổi chác, hoặc mua bán nhưng không được phép chém giết; phải thường xuyên sống trong nhà chủ để làm ruộng, nương và để cho chủ sai vặt. Do có những đặc trưng cơ bản đó nên cốn hướn là hạng người thấp hèn nhất trong xã hội. Phần lớn những người “cốn hướn” trước đây là người Xá [232, tr. 44].

Sự phân tầng trong xã hội người Thái có nhiều nét tương đồng với xã hội của

người Mường. Cụ thể xin xem bảng 2.2.

46

Bảng 2.2. Sự phân tầng xã hội trong thể chế xã hội mường – so sánh giữa người Mường và người Thái

Tầng lớp Gia nô: “Mọi Bi”

Tầng lớp bán tự do: “Tứa rọong” (chỉ canh tác nương rẫy)

Các tầng lớp cư dân trong mường của người Mường Bình dân: “Jân” (những người được nhận ruộng công)

Quý tộc: Lang Cun, Lang Đạo

Quý tộc: Phìa, Tạo

Các tầng lớp cư dân trong mường của người Thái Bình dân (Táy hoặc Páy) những người được nhận ruộng công Tầng lớp gia nô (“Khỏi hươn”, “Côn hươn”)

Tầng lớp bán tự do: “Cuông”, Nhốc (Xá/Khạ) các cư dân khác tộc với Chậu mường, cư trú ở các vùng ngoại vi.

Nguồn: [244, tr.23]

Giai cấp bị trị với những bộ phận nông dân như trên chủ yếu là người Thái và các tộc người được gọi chung là Xá (Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun), đối với người H’mông trong lớp người bị trị cũng được chia làm nhiều loại:

Bộ phân nông dân lao động (pề sềnh). Đây là bộ phận đông đảo nhất trong xã hội người H’mông. Giống như lớp nông dân gánh vác trong xã hội người Thái, họ là những người phải nộp thuế, đi phu, phải góp công làm nhà mới cho thống lý, thống quán, phải nộp cho thống lý, thống quán những khoản thu theo tục lệ hàng năm và khi vi phạm luật tục... Song vì lấy kinh tế nương rẫy làm nguồn sống chính, cộng thêm việc cư trú không ổn định tại một địa vực nhất định như người Thái nên “mọi người dân lao động đều có quyền khai phá ruộng, làm nương (trừ những khu vực rừng cấm dành riêng cho thống lý, thống quán)” [164, tr.118].

Bộ phận mang tính chất gần như cuông, nhốc ở vùng người Thái có hai loại: người giúp việc gọi là sáo pang và dân trắng (sú clơ). Sáo pang được các chức dịch lựa chọn trong nhân dân lao động để giúp đỡ gia đình họ sản xuất, sửa chữa nhà cửa... Khi cần còn phải giúp đỡ họ một phần lương thực, thực phẩm để tiếp khách. Sáo pang được phân phối riêng cho từng chức dịch với số lượng tùy theo cấp bậc. Sú clơ cũng phải làm việc như sáo pang song là những hộ không phân phối riêng cho từng chức dịch, mà do thống lý, hoặc thống quán trực tiếp quản lý và điều động đi giúp đỡ các chức dịch trong vùng khi xét thấy cần thiết. Cả sáo pang và sú clơ đều được miễn thuế, phu và vẫn được hưởng các quyền lợi như dân thường [164, tr.118-119].

Đến khi thực dân Pháp vào, quyền thống trị cao nhất thuộc về Công sứ, nhân viên, binh lính Tòa Công Sứ; sau đó mới đến Tri châu và các chức dịch người Việt.

47

Đã xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản nhưng số lượng ít. Công nhân Sơn La số lượng ít vì đồn điền cũng như các ngành công nghiệp không phát triển [Xem thêm 216, tr 85 – 95]. Đặc biệt trong xã hội người Thái càng có sự phân hóa sâu sắc. Theo quan điểm của Lã Văn Lô xã hội người Thái thời Pháp thuộc có thể chia thành 5 đẳng cấp [232, tr. 44]:

Đẳng cấp thứ nhất là “phìa tạo” cha truyền con nối thống trị từng mường, nắm mọi quyền kinh tế, chính trị, tư pháp trong tay và trước khi Pháp sang có cả tổ chức võ trang. Về sau, khi thực dân Pháp vào quyền quản lý quân sự ở các địa phương đã thuộc về Tòa công sứ. Những phìa tạo đầu hàng thực dân Pháp được chúng cho giữ một số chức vụ như tri châu, tri phủ, quản đạo, bố chánh... cai quản một châu hay một tỉnh, nhưng phạm vi bóc lột hạn chế chỉ trong phạm vi “mường gốc”. Như trường hợp của Cầm Văn Oai được Pháp phong cho làm quản đạo cai quản 12 châu mường, nhưng thực chất quyền hạn chỉ ở Mường Mụak (Mai Sơn). Ở Lai Châu cũng diễn ra tình trạng tương tự “Đèo Văn Trì sau khi hàng giặc được chúng cho làm Quản đạo, mỗi tháng được cấp 1200 đồng” [126, tr.104].

Đẳng cấp thứ hai là kỳ mục (tuy nhiên với người Thái gọi là chức Ông), tức là bộ máy cai trị của “phìa tạo”, có từ 4 đến 12 chức việc khác nhau, chịu trách nhiệm về mọi công việc hành chính trong tổng, xã, bản, bắt nông dân đóng góp, phục dịch cho “phìa tạo”, đi phu, đi lính, đóng thuế cho đế quốc. Về cơ bản bộ phận này vẫn được duy trì như cũ.

Đẳng cấp thứ ba là “mo chang” cũng có cả một hệ thống tổ chức từ châu đến tổng, xã, bản. Theo lệ thì cứ họ Lường sẽ được làm mo. Tính có tới trên mười chức “mo chang” khác nhau, trông nom việc cúng bái cho gia đình phìa tạo và cho nhân dân, được hưởng những đặc quyền, đặc lợi riêng, tùy theo cấp bậc của họ, được quy định rõ trong luật tục của các châu mường. Đây là bộ phận giúp cho phìa tạo thống trị nhân dân về mặt thần quyền. Các buổi lễ cúng mường rất được coi trọng và trong các buổi lễ đó các mo chang sẽ nhắc nhở nhân dân nhớ đến công ơn nhờ có tạo mới có mường, có bản.

Đẳng cấp thứ tư là nông dân công xã. So với thời kì phong kiến thì bộ phận nông dân tự do trong xã hội bị đè nén nhiều hơn cả. Ngoài nghĩa vụ gánh vác việc mường như trước giờ họ lại phải đi phu, đóng thuế, đi lính cho chính quyền thực dân. Bộ phận nông dân bán tự do không phải đi phu cho Pháp nên càng bị bộ phận phìa tạo và chức dịch tăng cường bóc lột. “Số ngày làm không công cho chúng hàng năm tăng lên. Nếu có ruộng được chúng chia cho thì ruộng bị cắt xén, có nơi bị mất

48

hẳn” [131, tr.231]. Hay nói cách khác, kể cả khi thực dân Pháp vào Sơn La vẫn duy trì chế độ bóc lột cũ bằng cống nạp sản vật và lao động không công.

Đẳng cấp thứ năm là một số “cốn hướn” về cơ bản không có sự thay đổi so

với trước kia.

Nhìn chung, trước khi thực dân Pháp xâm lược và cả thời Pháp thuộc, xã hội Sơn La chậm phát triển và phát triển không đồng đều giữa các tộc người. Cơ cấu giai cấp có nơi đã phân hóa rõ rệt (vùng người Thái, người H’mông), nhưng có nơi phân hóa chưa rõ rệt (hầu hết các tộc người khác tổ chức xã hội không vượt quá phạm vi bản và bị lệ thuộc vào người Thái như trong nội bộ người Khơ mú “chưa có sự phân hóa giai cấp” [172, tr.90]). Sơn La mới đang ở thời kỳ đầu của chế độ phong kiến [105, tr.25].

49

Tiểu kết chương 2

Lịch sử hình thành vùng đất Sơn La cho thấy, Sơn La luôn là địa phương có mối quan hệ mật thiết, nằm trong hệ thống hành chính của chính quyền trung ương. Là một đơn vị hành chính có nhiều biến động, nhưng so sánh từ thời phong kiến nhà Nguyễn đến khi thực dân Pháp đặt ách cai trị, Sơn La vẫn gồm 6 châu: Mộc, Sơn La, Yên, Phù Yên, Mai Sơn, Thuận.

Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên của Sơn La đều có những tác động hai chiều tới nền kinh tế nông nghiệp của địa phương. Địa hình Sơn La dốc, ¾ là núi nên người dân nơi đây hoàn toàn có thể tận dụng sức chảy của nước trong canh tác nông nghiệp, không mất công sức tát nước, dẫn nước, tưới tiêu như đồng bằng. Tuy nhiên, địa hình dốc đã tạo ra sự chia cắt lớn, dẫn tới ruộng đất trở nên manh mún, khó khăn cho việc canh tác, khó khăn trong giao thông, khó khăn trong trao đổi buôn bán. Khí hậu thuận lợi tạo ra sự phát triển phong phú của các thảm thực vật rừng, phù hợp với nhiều giống cây trồng, vật nuôi khác nhau. Nhưng khí hậu thường xuyên thay đổi dẫn tới mùa mưa hay xảy ra thiên tai lũ lụt, mùa hè nắng nóng kéo dài gây bất lợi lớn đối với sản xuất nông nghiệp, dịch bệnh thường xuyên diễn ra. Sơn La có nhiều hệ thống sông suối, nhưng do độ dốc lớn, nên mùa hè khô cạn, mùa mưa quá nhiều nước dẫn dễ xảy ra lũ lụt, trong khi đó việc di chuyển trên các hệ thống sông khó khăn, nguy hiểm, đây cũng là một trong những trở ngại đối với nền kinh tế nông nghiệp nơi đây. Tuy nhiên, lợi thế lớn nhất của Sơn La là nguồn lợi tự nhiên từ rừng, từ sông suối rất lớn nên thuận lợi để con người có thể săn bắt, hái lượm, đánh cá, khai thác gỗ, tre, nứa làm dụng cụ, đồ thủ công…

Sơn La có 12 tộc người cư trú, tạo nên sự đa dạng trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần. Trong đó, người Thái chiếm số lượng đông đảo nhất, chi phối mọi tộc người khác trong vùng. Mỗi tộc người lại có một kinh nghiệm sản xuất, canh tác khác nhau tạo nên sự đa dạng trong nền kinh tế nông nghiệp nơi đây. Tuy nhiên, sự chênh lệch về số lượng, về vị trí, vai trò, về trình độ đã gây cản trở đối với sự phát triển kinh tế trong vùng. Nhiều tộc người vì nhiều lí do khác nhau trở thành lệ thuộc vào người Thái.

Cơ cấu xã hội ở Sơn La trước năm 1945 về cơ bản đã có sự phân hóa sâu sắc thành hai bộ phận: giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Giai cấp thống trị nổi lên vai trò của các chẩu mường Thái hay các chúa đất, các phìa tạo. Tất cả đã tạo nên một chế độ phìa tạo điển hình tại nơi đây. Mọi quan hệ kinh tế, xã hội đều bị chi phối bởi chế độ này đến khi thực dân Pháp xâm lược.

50

CHƯƠNG 3 KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA TỪ ĐẦU THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1895

3.1. Chính sách của nhà Nguyễn đối với kinh tế nông nghiệp 3.1.1. Phân loại ruộng đất

Nhà Nguyễn có ba chế độ khác nhau đối với ruộng đất: chế độ ruộng đất nhà nước, chế độ ruộng đất công làng xã, chế độ ruộng đất tư hữu. Nhưng nhìn chung, nửa đầu thế kỷ XIX vẫn tồn tại hai loại hình sở hữu ruộng đất chủ yếu là sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân.

Ở nửa đầu thế kỷ XIX, tỷ lệ ruộng đất công thu hẹp, phân bố không đều giữa các địa phương. Có những vùng, có những làng ruộng công vẫn là tư liệu sản xuất chủ yếu của cư dân nhưng ở nhiều nơi khác ruộng đất công đã hoàn toàn mất vai trò trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, quá trình tư hữu hóa ruộng đất vẫn tiếp tục diễn ra. “Đến đầu thế kỷ XIX sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm vị trí bao trùm… chiếm tỷ lệ 82,92%” [150, tr.35]. Tuy vậy, tốc độ và cường độ của quá trình tư hữu hóa ruộng đất không còn mạnh và quyết liệt như các giai đoạn khác. Nguyên nhân của tình hình trên là do quỹ ruộng công đến lúc này đã thu hẹp và quan trọng hơn là do sức cản từ phía Nhà nước. “Chế độ ruộng đất Việt Nam vẫn đang ở chặng đường đầu của quá trình tiến hóa. Tư hữu hóa vẫn còn là một xu thế dù nó đã ở những bước đi cuối cùng” [150, tr.38]. 3.1.2. Đo đạc ruộng đất và lập địa bạ trong cả nước

Nhà Nguyễn sau khi bình định xong cả nước (1802) đã ý thức ngay được tầm quan trọng của việc lập địa bạ. Năm 1803, tức chỉ một năm sau khi lên ngôi, Gia Long đã sai lập địa bạ các trấn Bắc Hà, tức vùng Đàng Ngoài thuộc quyền cai trị của chúa Trịnh trước đây. Công việc cơ bản hoàn thành năm 1805 (trừ 2 huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận thuộc nội thành Hà Nội và ba trấn đạo Ninh Bình, Thanh Hóa và Nghệ An). Năm Gia Long thứ 9 (1810) quyết định triển khai công việc tại các tỉnh từ Quảng Bình trở vào đến cực nam Trung Bộ. Tuy nhiên việc lập địa bạ ở đây tiến hành chậm nên phải tới những năm cuối thời Minh Mệnh mới xong. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) lại cho lập địa bạ ba trấn Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, các địa phương “không biết vì sao” đã có lệnh từ năm Gia Long thứ 3 (1804) mà “giữa chừng lại thôi”. Công việc được hoàn thành trong hai năm, năm 1832 và năm 1834. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832) tiếp tục hoàn thành địa bạ hai huyện nội thành Hà

51

Nội – Công việc dở dang từ đầu thế kỷ XIX. Năm 1836, Minh Mệnh thực hiện một quyết định lớn: đo lại toàn bộ ruộng đất Nam Kỳ và lập sổ địa bạ các làng xã ở đây. Kế hoạch được triển khai nhanh, triệt để và đạt kết quả rất tốt. Như vậy, cho đến hết thời Minh Mệnh về cơ bản nhà Nguyễn đã lập xong sổ địa bạ trên toàn quốc. Từ thời Thiệu Trị (1841) cho đến hết thời Bảo Đại (1945) công việc còn lại chỉ là bổ sung thêm một số địa phương vì một lý do này hay một lý do khác mà trong việc làm địa bạ lớn chưa thực hiện được. Vì thế, trong tổng số 18.519 đơn vị địa bạ hiện còn lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Cục lưu trữ Nhà nước, hai sưu tập địa bạ lớn nhất nước ta hiện nay, số địa bạ có niên đại Gia Long, Minh Mệnh là 17.604 đơn vị, chiếm tỷ lệ 95,06% [150, tr.8]. 3.1.3. Chính sách ban cấp ruộng đất

Do tình hình ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng, nên dưới triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX, chính sách ban cấp ruộng đất cho quan lại không còn nhiều như vương triều Lê sơ, về cơ bản chỉ còn lại một loại ruộng đất ban cấp là ruộng thờ (tự điền). Số lượng dùng để ban cấp không nhiều. Người được cấp tự điền là thân vương, tước công, hầu (16%), hai họ Lê và họ Trịnh (72%), các lăng miếu, chùa chiền (12%). Ruộng dùng để ban cấp là quan điền, quan trại (10%), ruộng công làng xã (83%) [150, tr.40]... Đối với tự điền được cấp có nguồn gốc là quan điền, quan trại thì người được ban cấp có quyền sử dụng như ruộng đất tư hữu và có thể được miễn hay không được miễn tô thuế tùy theo sự ưu đãi của Nhà nước. Bộ phận có nguồn gốc là ruộng đất công ở các làng xã thì người được ban cấp chỉ có quyền thu tô thuế.

Việc nhà Nguyễn bãi bỏ các hình thức ban cấp ruộng đất khác và duy trì ở mức độ hạn chế hình thức ban cấp tự điền là xuất phát từ quỹ ruộng đất công ở nửa đầu thế kỷ XIX bị thu hẹp và đặc biệt là do chủ trương chung của Nhà nước nhằm ngăn chặn quá trình tư hữu ruộng đất công bắt đầu từ việc ban cấp ruộng đất vốn đã có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam.

Tuy nhiên, để thay thế cho chế độ cấp lộc điền, nhà Nguyễn tiến hành chia ruộng khẩu phần ở làng xã cho quan lại. Thời Nguyễn, “tất cả quan lại từ nhất phẩm trở xuống đều được chia ruộng khẩu phần, cao nhất là 18 phần” [136, tr.19]. Dĩ nhiên, với chính sách này đã khiến cho ruộng của dân thường ở làng xã càng bị thu hẹp, điều này dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng chặt chẽ của nông dân vào bộ phận quan lại, địa chủ. Đồng thời, trói buộc người nông dân vào tổ chức làng xã, bắt họ thực hiện nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch với triều đình phong kiến.

52

3.1.4. Chính sách khai hoang

Bước sang thế kỉ XIX, xu thế phát triển của xã hội Việt Nam đang có những chuyển biến mới. Sau một thời kỳ loạn lạc kéo dài, vấn đề phục hồi nông nghiệp và phát triển công thương nghiệp trở thành những yêu cầu hết sức cấp bách. Trải qua hàng chục năm chiến tranh, tình trạng chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ, cường hào cùng nạn ruộng đất bỏ hoang và nông dân lưu tán trong những năm cuối thế kỷ XVIII lại diễn ra, một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra cho triều Nguyễn là phải nhanh chóng đưa nông dân trở về với ruộng đất, ngăn chặn nạn cướp đoạt ruộng đất của địa chủ, cường hào.

Thêm vào đó, đầu thế kỷ XIX tiềm năng đất đai của nước ta còn khá phong phú, đặc biệt là vùng Nam bộ và dải sa bồi ven biển miền Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong điều kiện của thế kỷ XIX, tiềm năng đó có được khai thác hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của Nhà nước. Các vua Nguyễn, từ Gia Long đến Tự Đức; đặc biệt là Minh Mệnh đều rất chú ý đến việc khai hoang.

Ngay sau khi lên nắm chính quyền Gia Long đã chú ý ngay đến việc khai hoang. Một mặt, Gia Long tiếp tục biện pháp “dinh điền” (di dân lập ấp), như “năm 1803 sai các quan trấn ở Gia Định chiêu tập dân nghèo cấp thóc cho đi khẩn hoang hoặc cho khôi phục ruộng đất phế canh bằng cách chiêu tập dân phiêu tán trở về; mặt khác vẫn tiếp tục tuyển mộ hạng dân thường đi khai khẩn đồn điền ở các trấn Gia Định và Nam Trung Bộ, hoặc cho quan lại địa phương chiêu mộ dân nghèo không có ruộng và tù phạm đi lập trai ấp khẩn hoang ven rừng, ven biển” [136, tr.10].

Đến thời Minh Mệnh, ngoài những biện pháp như thời Gia Long, Minh Mệnh “cho phép cường hào, hoặc sai quan mộ dân lưu vong đi khai hoang lập làng và lập đồn điền cho nhà nước” [136, tr.10]. Song những biện pháp này không có hiệu quả dẫn tới tình trạng ruộng đất bỏ hoang vẫn còn nghiêm trọng. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ đề xuất chủ trương khai hoang quy mô theo hình thức doanh điền và được Minh Mệnh cho phép thi hành. Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ được nhiều dân lưu vong đi khai phá miền bãi biển hoang lập thành huyện Tiền Hải (Thái Bình), đến cuối năm 1829 thì thành lập huyện Kim Sơn (Ninh Bình). Thấy biện pháp doanh điền của Nguyễn Công Trứ mang lại kết quả, triều đình cho mở rộng hình thức này ở các tỉnh, nhất là ở Nam Kỳ.

Biện pháp thứ hai là việc lập đồn điền, tiến hành bằng hình thức mộ dân nghèo và sử dụng tù nhân, tổ chức thành đội ngũ, đưa đi khai hoang. Đồn điền được tổ chức nhiều nhất ở vùng Gia Định và các vùng Trung Bộ. Điều đáng chú ý là các đồn điền (chủ yếu ở Nam Kỳ) được hình thành trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về ruộng đất và nhanh chóng biến thành sở hữu lớn của những viên quan đồn điền.

53

Nhìn chung, chính sách khai hoang của triều Nguyễn có tác động nhất định đến tình hình ruộng đất của cả nước, nhiều địa phương diện tích đất hoang hóa được phục hồi trong đó có Sơn La. Theo các bản địa bạ tác giả luận án đã khai thác được tại Sơn La, đến thời Minh Mệnh tất cả ruộng hoang hóa trước đây ở các châu đều được phục hồi đưa vào sản xuất. 3.1.5. Chính sách tô thuế ruộng đất

Cho đến thế kỷ XIX có ba thứ thuế ruộng đất khác nhau bao gồm: thuế ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, thuế ruộng đất công làng xã, thuế ruộng tư. Thuế ruộng đất thời Nguyễn khá phức tạp và biến đổi theo địa phương, theo triều vua. Trong đó có hai loại thuế phổ biến và liên quan mật thiết đến phạm vi nghiên cứu của luận án gồm:

Thuế ruộng đất công làng xã: Ngay từ đầu năm 1803, biểu thuế ruộng đất công làng xã đã được quy định rõ rệt. Gia Long chia cả nước thành 4 khu vực đánh thuế. Mỗi khu vực chịu một mức thuế khác nhau:

- Khu vực I bao gồm: các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng

Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Định, Diên Khánh.

- Khu vực II bao gồm: Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương,

Sơn Nam thượng, hạ và phủ Phụng Thiên.

- Khu vực III bao gồm 6 trấn: Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn,

Tuyên Quang, Cao Bằng.

- Khu vực IV bao gồm Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên, Kiên

Giang [135, tr.164].

Như vậy, các châu mường của Sơn La thuộc phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa, nằm trong phạm vi đánh thuế khu vực III với mức thuế ruộng trên đơn vị mẫu gồm ruộng hạng nhất - 60 bát, ruộng hạng nhì - 42 bát, ruộng hạng 3 - 25 bát. Thêm vào đó các thứ tiền cũng theo đơn vị mẫu gồm: tiền thập vật – 1 tiền, tiền khoán khố: 15 đồng, tiền mao nha – 10 đồng [135, tr.165].

So với thuế ruộng đất thuộc Nhà nước, thì thuế ruộng đất công làng xã được quy định một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn, ngay từ những năm đầu thống trị. Căn cứ chính để đánh thuế là số điền bạ của các làng (Xin xem phụ lục 3.1). Đại bộ phận thuế nộp bằng hiện vật, chỉ những phần phụ thu mới nộp bằng tiền. Riêng thuế đất, so với thuế ruộng thì phần nộp bằng tiền có nhiều hơn chút ít (Xin xem phụ lục 3.2).

Bước sang thời Minh Mệnh, Minh Mệnh gộp khu vực đánh thuế II, III thời

Gia Long làm một, do đó cả nước chỉ còn 3 khu vực (kể từ năm 1836):

- Khu vực I, các tỉnh từ Quảng Trị đến Khánh Hòa. - Khu vực II, các tỉnh từ Nghệ An ra Bắc.

54

- Khu vực III, các tỉnh từ Bình Thuận trở vào Nam. Tổng số thuế thu được dưới thời Minh Mệnh (từ năm 1836) tăng 16 lần so với thời kỳ trước đó ở khu vực III [135, tr.174-175]. Thực chất việc sáp nhập khu vực II, III của Minh Mệnh là việc tăng thuế gấp đôi ở vùng mấy tỉnh miền núi phía Bắc (Xin xem phụ lục 3.3).

Năm 1851, Tự Đức thực hiện một số thay đổi trong chế độ thuế ruộng đất,

chia cả nước làm 5 khu vực đánh thuế, gồm:

- Khu vực I: Tỉnh Thừa Thiên (nằm trong khu vực I thời Minh Mệnh). - Khu vực II: Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định,

Phú Yên, Khánh Hòa (tức khu vực I thời Minh Mệnh).

- Khu vực III: Bình Thuận, Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Long, Định Tường,

An Giang, Hà Tiên (tức khu vực III thời Minh Mệnh).

- Khu vực IV: Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định,

Hưng Yên, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh (trong khu vực II thời Minh Mệnh).

- Khu vực V: Quảng Yên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng

Sơn, Cao Bằng (trong khu vực II thời Minh Mệnh) [135, tr.177].

Về cơ bản thuế ruộng đất công thời Tự Đức có hai điểm khác biệt so với các thời gian trước, thứ nhất việc tách tỉnh Thừa Thiên ra thành một biểu thuế riêng, thứ hai là đặt ra lệ nộp thuế thay bằng tiền với khu vực II và khu vực IV (bởi tuyệt đại bộ phận các loại đất không trồng lúa thì không thể nộp thóc được, thêm vào đó 2 khu vực này nông dân không đủ thóc gạo để nộp thuế) (Xin xem phụ lục 3.4, 3.5).

Nhìn chung, thuế ruộng đất công làng xã thuộc loại nặng nề và ngày càng tăng lên. Mức thuế này biểu hiện quyền sở hữu bộ phận của nhà nước đối với ruộng công làng xã.

Thuế ruộng đất tư: Đối với ruộng tư, từ năm 1802 đến năm 1827, giai đoạn đầu nhà Nguyễn, ruộng tư và ruộng công đều được miễn thuế và đền tiền theo một mức độ ngang nhau [135, tr.255].

Dưới thời Gia Long, thuế ruộng đất tư cũng được chia ra 4 khu vực như ruộng đất công. Mức thuế cụ thể Xin xem phụ lục 3.6, 3.7. Trong đó khu vực III (6 trấn miền núi và ven biển Bắc Kỳ là vùng thuế ruộng tư nhẹ nhất toàn quốc, cao nhất là khu vực IV. Sang thời Minh Mệnh, Tự Đức thuế ruộng tư cũng có những thay đổi nhất định theo khu vực đánh thuế ruộng đất công nhưng về căn bản thuế ruộng tư thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào quyền tư hữu ruộng đất, nhằm mục đích tăng cường sự vơ vét, bóc lột của nhà nước đối với bộ phận ruộng đất này khi xu hướng ngày càng mở rộng về diện tích về sau.

55

Tóm lại, thuế ruộng đất thời Nguyễn về cơ bản theo nguyên tắc là thuế thu bằng hiện vật. Chính sách thuế triều Nguyễn là chính sách có lợi cho địa chủ đặc biệt ở miền Bắc – nơi công điền tồn tại nhiều nhất trong cả nước. Thêm vào đó, sự phân chia nhỏ của quyền sở hữu tư nhân, địa chủ vừa và nhỏ chiếm số lượng đông, người nông dân tiểu tư hữu tự canh bị tước đoạt hầu hết ruộng đất biến thành không ruộng, chỉ trông vào công điền và đi lĩnh canh của địa chủ. Ở đây thuế ruộng công luôn luôn đạt mức cao nhất trong khi thuế ruộng tư luôn ở mức thấp nhất. Điều này tất nhiên dẫn tới hệ quả là nông dân không có ruộng vốn nhờ công điền mà sống phải chịu sự bóc lột nặng nề nhất. Họ nhận công điền đã phải chịu thuế, nếu lĩnh canh thêm công điền của địa chủ phát canh lại càng chịu địa tô nặng hơn nữa. Trên cơ sở mức thuế cao của công điền, giai cấp địa chủ tất yếu sẽ lợi dụng việc đó mà phát canh thu tô, nộp lại cho Nhà nước ở mức thấp. Phần sản phẩm thặng dư trên ruộng tư vì vậy càng tăng thêm. Do đó, chính sách thuế ở miền Bắc tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp địa chủ thu được địa tô cao, kích thích mở rộng sở hữu địa chủ vừa và nhỏ bằng cách xâm chiếm công điền và làm phá sản sở hữu nhỏ của nông dân tự canh. 3.2. Tình hình ruộng đất 3.2.1. Qua địa bạ

Khái quát về địa bạ Sơn La Trong sưu tập địa bạ ở Trung tâm lưu trữ quốc gia I có 34 địa bạ thuộc địa

phận tỉnh Sơn La ngày nay. Danh mục địa bạ cụ thể như sau:

Bảng 3.1. Danh mục địa bạ Sơn La (Trung tâm lưu trữ quốc gia I)

TT Động/ Xã Niên đại Ký hiệu Số tờ

Châu Phù Yên

1 Xã Tường Phù MM21 1911 14

2 Động Tường Phong GL4 1913 10

3 Xã Tường Phong MM21 1914 11

4 Động Quang Hoa GL4 1915 8

Châu Thuận

5 Động Khinh Khoái GL4 1957 8

6 Xã Khinh Khoái MM21 1958 8

7 Động Nam Trịnh GL4 1959 8

8 Xã Nam Trịnh MM21 1960 8

9 Xã Nam Trịnh TT4 1961 9

56

TT Động/ Xã Niên đại Ký hiệu Số tờ

10 Động Thanh Bình GL4 1962 8

11 Xã Thanh Bình MM21 1963 7

12 Động Hoàng Mai GL4 1964 8

13 Động Trịnh Bắc GL4 1965 8

Châu Yên

14 Xã Bác Nhĩ MM21 1885 16

15 Xã Trịnh Nho MM21 1886 15

Châu Sơn La

16 Xã Nhân Lý MM21 2059 8

17 Động Hiếu Trại GL4 2060 8

18 Xã Trình La MM21 2065 20

19 Xã Hướng Bạo MM21 2063 11

20 Động Cột Kham GL4 2062 14

21 Động Trình La GL4 2064 28

22 Xã Hiếu Sán TT1 2061 9

Châu Mai Sơn

23 Động Lô Ty GL4 1887 8

24 Xã Lô Ty MM21 1888 8

25 GL4 1891 19 Động Trình [Chiềng] Ban

26 GL4 1893 8 Động Trình [Chiềng] Bôn

27 GL4 1892 12 Động Trình [Chiềng] Chanh

28 TT3 1894 11 Xã Trình [Chiềng] Cát

Châu Mộc

29 TĐ1 2022 10 Xã Quy Hướng

30 GL4 2023 10 Động Hướng Càn

31 GL4 2024 12 Động Mộc Hạ

32 GL4 2025 10 Động Mộc Thượng

33 GL4 2026 8 Động Xuân Nha

(Nguồn: Theo 34 tư liệu dịa bạ thuộc của các châu thuộc địa phận tỉnh Sơn La

ngày nay, TTLTQG I, Hà Nội)

34 GL4 2021 16 Động Cẩm Nông

57

Theo các bảng thống kê trên, năm Gia Long 4 (1805) có nhiều địa bạ nhất (19 địa bạ) và cũng là niên đại địa bạ triều Nguyễn sớm nhất ở Sơn La. Theo địa bạ Gia Long thống kê Sơn La gồm 5 châu (Phù Yên, Thuận, Sơn La, Mai Sơn, Mộc) với 19 động. Kế đến là địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840) với tổng số 11 địa bạ thống kê diện tích ruộng đất thuộc 5 châu (Phù Yên, Thuận, Sơn La, Mai Sơn, Yên) với 11 xã. Địa bạ năm Thiệu Trị 1 (1841) Thiệu Trị 3 (1843), Thiệu Trị 4 (1844), Tự Đức 1 (1848) mỗi năm có 1 địa bạ. Niên đại địa bạ triều Nguyễn muộn nhất ở Sơn La là địa bạ năm Tự Đức 1 (1848).

Về phân bố địa bạ theo các châu của Sơn La theo niên đại các vua triều

Nguyễn (Xin xem bảng 3.2)

Bảng 3.2. Phân bố địa bạ Sơn La theo châu và niên đại

Châu

Gia Long 4 (1804)

Minh Mệnh 21 (1840)

Thiệu Trị 1 (1841)

Thiệu Trị 3 (1843)

Thiệu Trị 4 (1844)

Tự Đức 1 (1848)

Phù Yên 2 2

Thuận 5 3 1

Yên 2

Sơn La 3 3 1

Mai Sơn 4 1 1

Mộc 5 1

(Nguồn: Theo 34 tư liệu dịa bạ thuộc của các châu thuộc địa phận tỉnh Sơn La

ngày nay, TTLTQG I, Hà Nội)

Tổng cộng 19 11 1 1 1 1

Tình hình ruộng đất ở Sơn La Các loại ruộng đất: Qua nghiên cứu các bản địa bạ tập trung chủ yếu ở hai niên đại Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) có thể thấy toàn bộ các loại ruộng đất ở các động, xã của Sơn La theo thống kê 100% là ruộng tư. Tuy nhiên tỷ lệ phân bố ruộng đất tư không đồng đều giữa các địa phương (Xin xem bảng 3.3, 3.4).

58

Bảng 3.3. Tình hình ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805)

TT Xã Tư điền Thực canh Lưu hoang Hạng Niên đại Phục hóa thành công

Châu Phù Yên

1 Động Tường Phong GL4 66.8.13.2.01 60.8.13.2.0 90,9% 6.0.00.0.0 9,1% Tam đẳng

2 Động Quang Hoa GL4 115.0.05.8.0 100.0.05.8.0 87% 15.0.00.0.0 13% Tam đẳng

Châu Thuận

3 Động Khinh Khoái GL4 19.9.04.8.0 6.7.04.0.0 31,6% 13.2.00.8.0 68,4% Tam đẳng

4 Động Nam Trịnh GL4 49.7.03.2.0 14.7.00.0.0 28,6% 35.0.03.2.0 71,4% Tam đẳng

5 Động Thanh Bình GL4 61.6.12.6.0 13.3.05.0.0 21,3% 48.3.07.6.0 78,7% Tam đẳng

6 Động Hoàng Mai GL4 58.7.13.1.0 13.6.10.0.0 22,4% 45.1.03.1.0 77,6% Tam đẳng

7 Động Trịnh Bắc GL4 60.6.00.3.0 12.5.00.0.0 20,6% 48.1.00.3.0 79,4% Tam đẳng

Châu Sơn La

8 Động Hiếu Trại GL4 165.0.03.8.0 96.5.00.0.0 58,5% 68.5.03.8.0 41,5% Tam đẳng

9 Động Cột Kham GL4 96.8.05.6.0 31.8.05.0.0 32,9% 65.0.00.6.0 67,1% Tam đẳng

1 Viết tắt của 66 mẫu 8 sào 13 thước 2 tấc 0 phân

10 Động Trình La GL4 418.7.09.7.0 105.7.00.0.0 25,2% 313.0.09.7.0 74,8% Tam đẳng

59

TT Xã Tư điền Thực canh Lưu hoang Hạng Niên đại Phục hóa thành công

Châu Mai Sơn

11 Động Lô Ty GL4 18.7.14.0.0 18.7.14.0.0 Tam đẳng

12 Động Trình [Chiềng] Ban GL4 169.6.09.0.0 81.5.00.0.0 48,1% 88.1.09.0.0 51,9% Tam đẳng

13 Động Trình [Chiềng] Bôn GL4 17.0.00.0.0 17.0.00.0.0 Tam đẳng

14 Động Trình [Chiềng] Chanh GL4 52.5.02.1.0 47.6.02.1.0 90,7% 4.9.00.0.0 9,3% Tam đẳng

Châu Mộc

15 Động Hướng Càn GL4 73.8.09.7.0 30.4.05.7.0 41,2% 43.4.04.0.0 58,8% Tam đẳng

16 Động Mộc Hạ GL4 91.4.01.8.0 37.2.01.8.0 40,7% 54.2.00.0.0 59,3% Tam đẳng

17 Động Mộc Thượng GL4 91.4.01.8.0 40.2.00.0.0 44% 51.2.01.8.0 56% Tam đẳng

18 Động Xuân Nha GL4 20.2.05.7.0 15.2.00.7.0 75,2% 5.0.05.0.0 24,8% Tam đẳng

19 Động Cẩm Nông GL4 12.1.09.2.0 7.1.00.0.0 58,6% 5.0.09.2.0 43.4% Tam đẳng

Tổng 1660.3.06.3.0 750.9.07.3.0 45,2% 816.3.04.1.0 49,2% 93.0.09.9.0 5,6%

(Nguồn: Theo tư liệu đại bạ Gia Long 4 (1805) của 19 động thuộc địa phận tỉnh Sơn La ngày nay)

60

Bảng 3.4. Tình hình ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

TT Xã Niên đại Tư điền Thực canh Hạng Lưu hoang Phục hóa thành công

Châu Phù Yên

1 Xã Tường Phù 2 Xã Tường Phong MM21 MM21 78.3.07.4.0 66.8.13.2.0 70.3.07.4.0 60.8.13.2.0 8.0.00.0.0 6.0.00.0.0 10,2% 9,0% Tam đẳng Tam đẳng 89,8% 91%

Châu Thuận

3 Xã Khinh Khoái 4 Xã Nam Trịnh 5 Xã Thanh Bình MM21 MM21 MM21 19.9.04.8.0 49.7.03.2.0 61.6.12.6.0 6.7.04.0.0 14.7.00.0.0 13.3.05.0.0 13.2.00.8.0 35.0.03.2.0 48.3.07.6.0 66,3% 70,4% 78,4% Tam đẳng Tam đẳng Tam đẳng 33,7% 29,6% 21,6%

Châu Yên

6 Xã Bác Nhĩ 7 Xã Trịnh Nho MM21 MM21 171.9.02.0.0 182.2.05.9.0 100.2.10.0.0 100.2.00.9.0 58,3% 55% 71.6.07.0.0 82.0.05.0.0 41,7% 45% Tam đẳng Tam đẳng

Châu Sơn La

8 Xã Nhân Lý 9 Xã Trình La 10 Xã Hướng Bạo MM21 MM21 MM21 111.8.14.7.0 418.7.09.7.0 96.8.05.6.0 39.0.14.0.0 105.7.00.0.0 31.8.05.0.0 34,9% 25,2% 32,9% 72.8.00.7.0 313.0.09.7.0 65.0.00.6.0 65,1% 74,8% 67,1% Tam đẳng Tam đẳng Tam đẳng

Châu Mai Sơn

11 Xã Lô Ty Tổng MM21 18.7.14.0.0 1277.0.03.1.0 18.7.14.0.0 561.8.13.5.0 100% 44% 715.1.04.6.0 56% Tam đẳng

(Nguồn: Theo tư liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) của 11 xã thuộc địa phận tỉnh Sơn La ngày nay)

61

Qua các bảng thống kê chúng ta có thể nhận thấy sự chênh lệch rõ nét về tỷ lệ phân bố ruộng đất giữa các châu trong tỉnh Sơn La. Như trong bảng 3.3, dưới thời Gia Long, động có nhiều ruộng đất nhất là động Trình La (châu Sơn La) với 418.7.09.7.0, trong số đó có 105.7.00.0.0 là diện tích ruộng đất thực canh. Diện tích ruộng đất ít nhất là động Cẩm Nông (châu Mộc) 12.1.09.2.0. Trong bảng thống kê dưới thời Minh Mệnh, xã có nhiều ruộng đất nhất là xã Trình La 418.7.09.7.0, phục hóa thành công 313.0.09.7.0. Xã có ít ruộng đất nhất là xã Lô Ty 18.7.14.0.0 toàn bộ là ruộng thực canh.

Diện tích giữa các động/xã trong từng châu cũng có sự chênh lệch: một số động, xã diện tích ruộng đất chỉ khoảng vài chục mẫu, như: động Cẩm Nông, động Trình Bôn, động Lô Ty, xã Lô Ty, động Xuân Nha, động Khinh Khoái, xã Khinh Khoái, xã Quy Hướng, động Nam Trịnh, xã Nam Trịnh, động Trình Chanh, xã Trình Cát, động Tường Phong, động Tường Phù, xã Tường Phù... Một số động, xã diện tích ruộng đất khá lớn, trên 100 mẫu, như: động Trình La, xã Trình La, động Trình Ban, động Hiếu Trại, xã Bác Nhĩ, xã Trịnh Nho... Diện tích ruộng đất chênh lệch lớn giữa các địa phương như trên, nguyên nhân chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm địa lý của từng vùng.

Chất lượng ruộng đất Ruộng đất của các động, xã thuộc Sơn La ở nửa đầu thế kỷ XIX chỉ canh tác một vụ thu, không canh tác vào vụ hè. Diện tích ruộng thu là 100% [249, tr.57]. Theo địa bạ Gia Long 4 (1805), ruộng đất ở Sơn La nửa đầu thế kỷ XIX có khoảng 45,2% là ruộng thực canh (750.9.07.3.0), đều là loại ba, không có loại một và loại hai. Số lượng ruộng đất lưu hoang tương đối lớn, chiếm khoảng 49.2% (816.3.04.1.0) đều là ruộng hoang. Như vậy, dưới thời Gia Long tỉ lệ ruộng phục hóa thành công thấp chỉ chiếm 5,6% (Xin xem bảng 3.3). Hầu hết các động thuộc Sơn La thời kỳ này đều có ruộng đất lưu hoang. Trong số đó, các động thuộc châu Thuận (Khinh Khoái, Nam Trịnh, Thanh Bình, Hoàng Mai, Trịnh Bắc), châu Sơn La (Cột Kham, Trình La) và một số động thuộc châu Mộc (Hướng Càn, Mộc Hạ, Mộc Thượng, Cẩm Nông) diện tích ruộng đất bỏ hoang rất lớn, đều chiếm tỷ lệ trên 50%, đặc biệt các động thuộc châu Thuận, ruộng đất bỏ hoang lên đến hơn 70%, cao nhất là động Trịnh Bắc với 79,4% (Xin xem bảng 3.3).

Theo địa bạ năm Gia Long 4 (1805), diện tích ruộng phục hóa thành công ở Sơn La là 93.0.09.9.0 (chiếm 5,6% trong tổng số diện tích ruộng đất) nằm ở hai động Trình [Chiềng] Ban và Trình [Chiềng] Chanh thuộc châu Mai Sơn. Đặc biệt, Châu Mai Sơn là châu duy nhất không có ruộng đất lưu hoang ở cả bốn động: Lô

62

Ty, Trình [Chiềng] Ban, Trình [Chiềng] Bôn, Trình [Chiềng] Chanh. Nguyên nhân được lí giải “do Mai Sơn có địa hình cao nguyên đá vôi khá bằng phẳng, điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp trong so sánh với nhiều địa phương khác của Sơn La. Do vậy, diện tích ruộng đất Mai Sơn khá lớn, không có diện tích ruộng đất bỏ hoang mà còn phục hóa thành công ruộng đất” [249, tr.57].

11 địa bạ năm Minh Mệnh 21 ở Sơn La (1840) cũng cho biết trong tổng diện tích ruộng đất Sơn La là 1277.0.03.1.0, trong đó phần ruộng thực canh là 561.8.13.5.0 (chiếm 44%). Điều đáng lưu ý là ruộng đất ở Sơn La đến năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) không còn ruộng bỏ hoang. Tỉ lệ ruộng phục hóa thành công chiếm 56% (Xin xem bảng 3.4).

Tỷ lệ phục hóa thành công cao nhất ở châu Thuận và châu Sơn La chiếm trên 60% đến trên 70%, cao nhất là xã Thanh Bình 78,4%. Châu Mai Sơn không còn ruộng hoang vì quá trình phục hóa diễn ra ở giai đoạn trước. Điều này cho thấy, bước sang thời Minh Mệnh ruộng đất ở các châu được khai thác triệt để, thúc đẩy quá trình mở rộng ruộng thực canh. Tuy nhiên, đến thời điểm này sau gần 40 năm ruộng đất Sơn La vẫn chỉ có ruộng hạng ba và vẫn chỉ canh tác một vụ. Như vậy, chất lượng ruộng đất Sơn La không tốt, theo thống kê chỉ có duy nhất xã Trình [Chiềng] Cát, niên đại Thiệu Trị 3, năm 1843 có 18.2.05.0.0 là ruộng loại hai (nhị đẳng điền).

Địa bạ các năm Thiệu Trị 1 (1841), Thiệu Trị 3 (1843), Thiệu Trị 4 (1844), Tự Đức 1 (1848) cũng cho biết vào thời điểm lập địa bạ ở Sơn La cũng không còn ruộng đất lưu hoang.

Về quy mô: Về quy mô ruộng đất theo diện tích các động/xã Quy mô ruộng đất của các động/xã của Sơn La nửa đầu thế kỉ XIX không có sự biến đổi. Theo thống kê, địa bạ của các động/xã được lập vào các thời điểm khác nhau không cho thấy có sự thay đổi quy mô ruộng đất trong phạm vi một địa phương. Ví dụ, địa bạ Nam Trịnh được lập vào 3 thời điểm Gia Long 4 (1805), Minh Mệnh 21 (1840), Thiệu Trị 4 (1844), tổng diện tích ruộng đất của Nam Trịnh vẫn chỉ là 49.7.03.2.0, chỉ khác là 35.0.03.2.0 ruộng đất bỏ hoang đã được phục hóa vào năm Minh Mệnh 21 (1840) và Thiệu Trị 4 (1844). Một số địa phương có địa bạ lập vào hai thời điểm Gia Long 4 (1805), Minh Mệnh 21 (1840), như: động/xã Trình La, động/xã Tường Phong, động/xã Khinh Khoái, động/xã Thanh Bình, động/xã Lô Ty, quy mô ruộng đất cũng không thay đổi, chỉ là diện tích ruộng đất bỏ hoang năm Gia Long 4 (1805) được phục hóa thành công vào năm Minh Mệnh 21 (1840).

63

Về quy mô sở hữu ruộng đất theo chủ sở hữu Theo thống kê, số lượng sở hữu ruộng đất dưới thời Gia Long thuộc về khoảng 206 chủ, trung bình, mỗi chủ sở hữu khoảng 3,6 mẫu ruộng. Trong đó, các chủ sở hữu dưới 4 mẫu khá lớn gồm 156 chủ, chiếm tổng số 75,72%, sở hữu diện tích ruộng đất là 419.3.02.9.0 (chiếm khoảng 56,35% tổng diện tích ruộng đất). Các chủ sở hữu diện tích ruộng đất trên 6 mẫu ít, đặc biệt các chủ sở hữu diện tích trên 10 mẫu rất ít, chỉ có 6 chủ, chiếm 2,93%, sở hữu diện tích ruộng đất là 79.0.07.0.0 (khoảng 10,61% tổng diện tích đất). Chủ sở hữu cao nhất là 15.1.00.0.0, chủ sở hữu thấp nhất là 1 mẫu. Ngoài ra, trong tổng số 206 chủ sở hữu thì không có chủ sở hữu nào là nữ và cũng không có chủ phụ canh (Xin xem bảng 3.5)

Bảng 3.5. Quy mô sở hữu ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805)

Số chủ Diện tích sở hữu

Quy mô sở hữu 1 – 2 mẫu 2 – 3 mẫu 3- 4 mẫu 4 – 5 mẫu 5 – 6 mẫu 6 – 7 mẫu 7 – 8 mẫu 8 – 9 mẫu 9 – 10 mẫu 10 – 11 mẫu 11- 12 mẫu 12- 13 mẫu 13 – 14 mẫu 14 – 15 mẫu 15 – 16 mẫu 21 81 54 17 16 3 6 0 2 0 1 2 1 1 1 10,19% 39,32% 26,21% 8,25% 7,77% 1,46% 2,91% 0,00% 0.97% 0,00% 0,49% 0.97% 0,49% 0,49% 0,49% 3,78% 27,22% 25,35% 10,58% 11,43% 2,54% 5,96% 0,00% 2,47% 0,00% 1,48% 3,40% 1,78% 1.92% 2,03%

(Nguồn: Theo tư liệu đại bạ Gia Long 4 (1805) của 19 động thuộc địa phận tỉnh

Sơn La ngày nay)

100% 28.1.11.0.0 202.5.06.7.0 188.6.00.2.0 78.7.11.4.0 85.0.00.0.0 18.9.07.0.0 44.3.12.0.0 0 18.4.08.0.0 0 11.0.00.0.0 25.3.06.0.0 13.2.07.0.0 14.3.09.0.0 15.1.00.0.0 743.9.03.3.02 100% Tổng 206

2 Do địa bạ động Nam Trịnh và địa bạ động Mộc Hạ có một số tờ bị mất chữ, không thể thống kê được chủ ruộng và diện tích ruộng đất những tờ này, vì vậy, tổng diện tích ruộng đất trong bảng này có chênh lệch so với bảng 3.3.

Bước sang thời Minh Mệnh, quy mô sở hữu ruộng đất chủ yếu là dưới 6 mẫu

64

chiếm đến 160 số chủ chiếm 70,18%, sở hữu diện tích ruộng đất là 614.8.02.4.0 (chiếm khoảng 48,13% tổng diện tích ruộng đất). Các chủ sở hữu từ 6 mẫu trở lên đến 10 mẫu có 49 chủ sở hữu chiếm 21.5%, sở hữu diện tích ruộng đất là 435.7.03.0.0 (chiếm khoảng 34,11% tổng diện tích ruộng đất. Còn lại các chủ sở hữu trên 10 mẫu so với thời Gia Long đã chiếm tỉ lệ cao hơn với 19 chủ sở hữu chiếm 8,34%, sở hữu diện tích ruộng đất là 226.4.12.7.0 (chiếm khoảng 17,73% tổng diện tích ruộng đất). Cao nhất là chủ sở hữu 14.7.00.0.0, chủ sở hữu thấp nhất là 1.0.05.0.0. Như vậy có thể thấy, ở Sơn La không có chủ sở hữu ruộng trên 16 mẫu, chủ yếu là sở hữu dưới 10 mẫu (cho thấy tính chất manh mún trong sở hữu ruộng đất ở Sơn La). Xin xem bảng 3.6. Bảng 3.6. Quy mô sở hữu ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Số chủ Diện tích sở hữu

Quy mô sở hữu 1 – 2 mẫu 2 – 3 mẫu 3- 4 mẫu 4 – 5 mẫu 5 – 6 mẫu 6 – 7 mẫu 7 – 8 mẫu 8 – 9 mẫu 9 – 10 mẫu 10 – 11 mẫu 11- 12 mẫu 12- 13 mẫu 13 – 14 mẫu 14 – 15 mẫu 15 – 16 mẫu 8 32 56 45 19 8 10 2 29 10 0 3 5 1 0 3,51% 14,04% 24,56% 19,74% 8,33% 3,51% 4,39% 0,88% 12,72% 4,39% 0,00% 1,32% 2,19% 0,44% 0,00% 12.7.08.0.0 82.4.06.3.0 202.7.09.8.0 209.0.02.2.0` 107.8.06.1.0 52.4.00.6.0 76.0.02.4.0 17.3.00.0.0 290.0.00.0.0 104.8.07.7.0 0 39.0.00.0.0 67.9.05.0.0 14.7.00.0.0 0 1,00% 6,45% 15,87% 16,37% 8,44% 4,10% 5,95% 1,35% 22,71% 8,21% 0,00% 3,05% 5,32% 1,15% 0,00%

(Nguồn: Theo tư liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) của 11 xã thuộc địa phận tỉnh

Sơn La ngày nay)

Tổng 228 100% 1277.0.03.1.0 100%

Quyền sở hữu ruộng đất Sở hữu ruộng đất của các họ Theo thống kê địa bạ Gia Long 4 (1805), trong số 206 chủ sở hữu gồm khoảng hơn 20 họ, nhưng chủ sở hữu trong các họ là không đồng đều, tập trung

65

nhiều vào các họ: Danh, Hà, Cầm, Nguyễn, Đinh, Văn, Hoàng… Những họ trên đều có trên 10 chủ sở hữu, trong đó nhiều nhất là họ Danh với 33 chủ sở hữu (chiếm 16,02%). Tuy nhiên, họ Danh chỉ xuất hiện ở 2 động là động Trình La (chiếm 26/27 chủ sở hữu) và động Cột Kham (chiếm 7/8 chủ sở hữu). Họ sở hữu diện tích ruộng đất nhiều nhất là họ Danh 128.3.01.0.0 (chiếm 17,25%), sau đó là họ Cầm với 87.0.01.0.0 (chiếm khoảng 11,70%), kế đến là họ Hà với 63.1.04.0.0 (chiếm 8,48%). Mặc dù là những họ sở hữu ruộng đất nhiều nhất, nhưng bình quân ruộng đất của họ Danh, họ Cầm và họ Hà không lớn. Bình quân mỗi chủ họ Danh sở hữu 3,9 mẫu, họ Cầm chiếm bình quân mỗi chủ cao nhất chỉ sở hữu khoảng 4,6 mẫu ruộng, bình quân mỗi chủ họ Hà sở hữu 2,5 mẫu ruộng. Trong khi đó, chủ họ Lò sở hữu diện tích ruộng đất khá lớn, bình quân mỗi chủ sở hữu khoảng hơn 12 mẫu ruộng. Nhiều họ chỉ có một chủ sở hữu, như họ Bàn, Đào, Lưu, Ma, Nghiêm, Tòng, Tương, Vũ…

Sự chênh lệch về số lượng chủ ruộng đất, bình quân diện tích ruộng đất của các chủ sở hữu, diện tích ruộng đất giữa các họ ở Sơn La cũng cho thấy vị thế của các họ ở đây. Trong số đó, vị thế các họ người Thái như họ Cầm, họ Lò, họ Hà khá lớn [249, tr.59]. (Xin xem bảng 3.7)

Bảng 3.7. Sở hữu ruộng đất của các họ ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805)

Tổng số chủ Diện tích sở hữu Họ

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Cầm Lò Hà Danh Nguyễn Hoàng Văn Đinh Bạc Trần Lý Xa Lường Phạm Quảng 19 5 25 33 18 10 11 12 6 8 6 6 3 4 5 9,22% 2,43% 12,14% 16,02% 8,74% 4,85% 5,34% 5,83% 2,91% 3,88% 2,91% 2,91% 1,46% 1,94% 2,43% 87.0.01.0.0 60.8.12.0.0 63.1.04.0.0 128.3.01.0.0 51.0.08.5.0 46.7.05.0.0 43.9.06.0.0 36.6.09.8.0 35.4.10.0.0 19.8.04.2.0 18.4.00.0.0 17.7.03.2.0 12.2.04.0.0 12.6.02.0.0 11.6.13.1.0 11,70% 8,17% 8,48% 17,25% 6,86% 6,28% 5,90% 4,92% 4,76% 2,66% 2,47% 2,38% 1,64% 1,69% 1,56%

66

Họ Tổng số chủ Diện tích sở hữu

TT 16 17 18 19 20 21 Bùi Chu Thự Đỗ Tiền Các họ khác 4 4 3 4 2 18 1,94% 1,94% 1,46% 1,94% 0,97% 8,74% 1,37% 1,23% 1,14% 1,17% 0,63% 7,64%

(Nguồn: Theo tư liệu đại bạ Gia Long 4 (1805) của 19 động thuộc địa phận tỉnh

Sơn La ngày nay)

Tổng 206 100% 10.2.00.0.0 9.1.14.0.0 8.5.00.0.0 8.7.01.1.0 4.7.00.0.0 56.8.14.4.0 743.9.03.3.03 100%

Khi nghiên cứu địa bạ Sơn La thời Minh Mệnh tình trạng chênh lệch trong sở hữu ruộng đất giữa các họ càng được thể hiện rõ nét. Tổng số chủ sở hữu là 228 chủ thuộc 24 họ khác nhau. Trong đó, những họ có số chủ sở hữu lớn phải kể đến họ Lò với 72 chủ sở hữu chiếm 374.1.01.7.0 (chiếm 29,30%), họ Hà với 38 chủ sở hữu chiếm 208.1.14.3.0 (16,30%). Ngược lại có những họ chỉ có một chủ sở hữu như họ Lê, họ Đông, họ Lăng, họ Quảng, họ Vinh, họ Phu. Xin xem bảng 3.8.

Bảng 3.8. Sở hữu ruộng đất của các họ ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Tổng số chủ Diện tích sở hữu Họ

Lò Hà Cầm Hoàng Lương La Bạc Danh Tập Tùng

3 Do địa bạ động Nam Trịnh và địa bạ động Mộc Hạ có một số tờ bị mất chữ, không thể thống kê được chủ ruộng và diện tích ruộng đất những tờ này, vì vậy, tổng diện tích ruộng đất trong bảng này có chênh lệch so với bảng 1.

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Ma 12 13 14 Khuông Đường Bùi 72 38 21 18 12 10 9 6 6 5 5 4 4 3 31,58% 16,67% 9,21% 7,89% 5,26% 4,39% 3,95% 2,63% 2,63% 2,19% 2,19% 1,75% 1,75% 1,32% 374.1.01.7.0 208.1.14.3.0 102.7.05.2.0 128.2.06.8.0 44.1.12.1.0 97.0.00.0.0 50.0.08.2.0 31.0.00.0.0 49.4.11.1.0 21.2.00.9.0 34.4.07.0.0 16.6.00.0.0 24.5.02.0.0 20.7.05.9.0 29,30% 16,30% 8,04% 10,04% 3,45% 7,60% 3,92% 2,43% 3,87% 1,66% 2,69% 1,30% 1,92% 1,62%

67

Họ Tổng số chủ Diện tích sở hữu

TT 15 16 17 18 19

(Nguồn: Theo tư liệu đại bạ Minh Mệnh 21 (1840) của 11 xã thuộc địa phận tỉnh

Sơn La ngày nay)

Đinh Ngô Nguyễn Lưu Các họ khác Tổng 3 2 2 2 6 228 1,32% 0,88% 0,88% 0,88% 2,63% 100% 19.6.00.0.0 8.2.00.0.0 6.5.02.5.0 3.8.00.0.0 36.4.00.0.0 1277.0.03.1.0 1,53% 0,64% 0,51% 0,30% 2,85% 100%

Sở hữu ruộng đất của các chức dịch trong động Theo thống kê địa bạ Gia Long năm thứ 4 (1805), trong 19 động của Sơn La nửa đầu thế kỷ XIX có 59 chức dịch, trong đó có 23 hào mục, 21 trưởng động, 4 danh thự, 4 xã trưởng, 2 thổ động, 3 trưởng châu, 1 phó châu và 1 diệp châu. Đại đa số các chức dịch ở Sơn La sở hữu diện tích ở mức vừa và nhỏ. Có 6 chức dịch không sở hữu ruộng đất, 42 chức dịch sở hữu ruộng diện tích ruộng đất từ 1 – 5 mẫu (chiếm khoảng 71,19%). Số lượng các chức dịch sở hữu ruộng đất trên 5 mẫu có 9 người (chiếm 15,25%), chức dịch sở hữu ruộng đất trên 10 mẫu chỉ có 2 người (chiếm 3,39%). Như vậy, nếu so sánh với tổng số chủ sở hữu dưới thời Gia Long là 206 chủ thì người có sở hữu ruộng đất lớn nhất không phải là chức dịch trong động. (Xin xem bảng 3.9)

Bảng 3.9. Sở hữu ruộng đất của các chức dịch ở Sơn La qua địa bạ Gia Long 4 (1805)

Chức dịch 1 – 5 mẫu 5 – 10 mẫu Số chủ Không sở hữu 10 – 15 mẫu

Danh thự 4 0 0,00% 4 100% 0 0,00% 0 0,00%

Diệp châu 1 0 0,00% 1 100% 0 0,00% 0 0,00%

13,04% 15 65,22% Hào mục 23 3 3 13,04% 2 8,70%

Phó châu 1 0 0,00% 1 100% 0 0,00% 0 0,00%

Thổ động 2 0 0,00% 2 100% 0 0,00% 0 0,00%

Trưởng châu 3 1 33,33% 2 66,67% 0 0,00% 0 0,00%

Trưởng động 21 2 6 28,57% 0 0,00% 9,52% 13 61,90%

Xã trưởng 4 0 4 0 0,00% 0 0,00% 0,00% 100%

Tổng 10,17% 42 71,19% 59 6 9

Sơn La ngày nay)

15,25% 2 3,39% (Nguồn: Theo tư liệu đại bạ Gia Long 4 (1805) của 16 động thuộc địa phận tỉnh

68

Đến địa bạ Minh Mệnh 21 (1840), trong tổng số 28 chức dịch của 11 xã đã có sự thay đổi nhất định. Đứng đầu các xã đều là lý trưởng (11), giúp việc có các phó lý (3), hào mục (4), dịch mục (9), hương mục (1). Như vậy, đến thời Minh Mệnh các chức dịch được sắp xếp khá thống nhất trong hệ thống hành chính quản lý các xã. Theo thống kê tương tự như thời Gia Long, đại đa số các dịch dưới thời Minh Mệnh đều là các chủ sở hữu ruộng đất vừa và nhỏ. Có 4 chức dịch không có ruộng đất (chiếm 14,29%), có 13 chủ sở hữu diện tích ruộng đất từ 1 đến 5 mẫu (chiếm 46,43%). Số chủ sở hữu ruộng đất trên 5 mẫu đến 10 mẫu chỉ có 3 người (chiếm 10,71%). So với thời Gia Long chủ sở hữu là chức dịch chiếm trên 10 đến 15 mẫu tăng lên với 7 chủ (chiếm 25%), có 1 chủ số hữu từ trên 15 mẫu (chiếm 3.57%). Xin xem bảng 3.10.

Bảng 3.10. Sở hữu ruộng đất của các chức dịch ở Sơn La qua địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Chức dịch

1 – 5 mẫu 5 - 10 mẫu 10 - 15 mẫu 15 - 20 mẫu

Không sở hữu

Lý trưởng

Số chủ 11 2 18,18% 5 45,45% 1 9,09%

3 27,27%

0

0,00%

Phó lý trưởng

3 1 33,33% 1 33,33% 1 33,33% 0

0,00%

0

0,00%

Hào mục

4 0 0,00%

1 25,00% 0 0,00%

2 50,00%

1 25,00%

Dịch mục

9 1 11,11% 5 55,55% 1 11,11% 2 22,22%

0

0,00%

0

0,00%

Hương mục

1 0 0,00%

1

100% 0 0,00%

0

0,00%

Tổng

28 4 14,29% 13 46,43% 3 10,71% 7 25,00% 1

3,57%

(Nguồn: Theo tư liệu đại bạ Minh Mệnh 21 (1840) của 11 xã thuộc địa phận tỉnh

Sơn La ngày nay)

3.2.2. Qua các nguồn tài liệu khác

Ở Sơn La, như phần thống kê về dân số cũng như vai trò lịch sử, xã hội thì bộ phận người Thái nơi đây đóng vai trò chủ yếu trong một thời kì dài của lịch sử. Để nghiên cứu, làm rõ thêm cho địa bạ, cũng như thẩm định, đối chiếu các thông tin từ phía nhà nước thông qua địa bạ thì luật tục của người Thái có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu toàn bộ bức tranh kinh tế, xã hội cổ truyền nơi đây. Trong luật tục không chỉ đề cập tới người Thái mà còn có cả các tộc người khác (người H’mông, các tộc người bị gọi là Xá…) và sự chi phối của người Thái tới các tộc người khác vô cùng sâu sắc.

Về cơ bản hiện nay Luật tục Thái đã sưu tầm, dịch nghĩa được ở Sơn La gồm 2 bản: bản Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu và Luật lệ bản mường ở Mai Sơn

69

có cả bản tiếng Thái nguyên gốc, bản phiên âm, dịch nghĩa. Thông qua 2 bản luật tục này chúng ta sẽ nghiên cứu và làm rõ thêm những vấn đề liên quan đến ruộng đất của người Thái nói riêng, các tộc người ở Sơn La nói chung. 3.2.2.1. Các loại hình ruộng đất

Các tộc người ở Sơn La lấy kinh tế trồng trọt làm chỗ dựa chủ yếu bao gồm làm ruộng nước và trồng trọt trên nương. Đặc trưng của kinh tế nông nghiệp ruộng nước khiến người Thái sớm định cư ở những vùng thấp, thuận lợi cho tưới tiêu và sản xuất. Trong khi đó, người Thái là tộc người chiếm tuyệt đại bộ phận dân cư ở Sơn La, các tộc người khác nhất là Kháng, Xinh mun, La Ha, Khơ mú bị lệ thuộc phải làm cuông, nhốc, pụa pái cho người Thái, người H’mông không phải làm cuông nhưng cũng phải nộp thuế bằng hiện vật cho chẩu mường. Người Hoa, người Kinh nếu ở trong các bản người Thái đều phải nộp hiện vật khi được yêu cầu. Cho nên, dù ruộng của người Thái số lượng không nhiều như nương nhưng lại là cơ sở quyết định mọi quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, từ cơ sở là ruộng khiến cho xã hội phân hóa thành kẻ giàu và người nghèo, kẻ bóc lột và người bị bóc lột, kẻ thống trị và người bị trị.

Trong hầu khắp các châu mường ở miền Tây Bắc trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, toàn bộ ruộng có thể chia làm hai loại: Ruộng loại một là ruộng vỡ hoang (na tí). Đây là loại ruộng của những người mới vỡ hoang, chủ nhân của nó còn đương chiếm hữu chưa đến hạn theo lệ sáp nhập vào ruộng loại hai (ruộng toàn mường). Loại ruộng này nói chung nhỏ hẹp, nằm rải rác ở vùng hẻo lánh, trước sau rồi cũng thành ruộng toàn mường. Loại ruộng hai là, ruộng toàn mường (ná háng mướng). Đây là loại ruộng công chiếm toàn bộ ruộng ở trong các châu mường [165, tr.172].

Sự tồn tại của chế độ ruộng công được luật tục của người Thái công nhận. Thông qua việc nghiên cứu Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu và Luật lệ bản mường ở Mai Sơn, trong toàn bộ nội dung các bản Luật lệ không hề đề cập tới loại ruộng tư nhân nào mà chỉ đề cập tới việc phân chia ruộng đất công hay người Thái gọi là ruộng toàn mường. Giống như nhận định của Cầm Trọng trong Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, “ruộng toàn mường (ná háng mướng). Đây là loại ruộng công chiếm toàn bộ ruộng ở trong các châu mường” [165, tr.172]. Hay, “… Dù là mường của người Mường hay là mường của người Thái thì chế độ ruộng đất trên cơ bản là công hữu” [244, tr.21].

Trên những thửa ruộng toàn mường, chủ ruộng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu. “Ruộng đất của bản dùng để phân cho từng hộ gia đình trong bản, người nhận ruộng được sử dụng từ đời này qua đời khác những vẫn là

70

ruộng đất công, người dân cho đến người đứng đầu bản mường chỉ được quyền chiếm hữu chứ không có quyền sở hữu, không được phép mua bán” [216, tr.29]. Tập quán pháp cho phép chủ ruộng kéo dài thời gian sử dụng ruộng đồng thời thừa nhận quyền chủ ruộng sử dụng sản phẩm (ngoài nghĩa vụ đóng góp cho mường) lấy từ ruộng mình cày cấy. Như vậy, chủ ruộng gần như hoàn toàn tư hữu về sản phẩm làm ra và những tư liệu để sản xuất ra sản phẩm, chứ không được quyền tư hữu ruộng đất.

Ruộng toàn mường được tạo, phìa, chẩu mường (là người đứng đầu cai quản toàn bộ một mường) thông qua tổ chức bô lão quản lý rất chặt. Từ sự quản lý đó mà xã hội mới nảy sinh chế độ phân bổ ruộng gọi là “tánh ná” (sắp đặt ruộng) ở trong các châu mường. Ruộng toàn mường không theo công thức chia lẻ cho các gia đình nông dân mà theo công lao động đóng góp vào việc chung của mỗi gia đình. Việc chung ấy cũng được biểu thị bằng thuật ngữ việc mường (vịa háng mướng). Các tạo sẽ căn cứ vào số công lao động cần thiết đề ra cho các bản. Các bản sẽ phân bổ theo khả năng lao động của từng đơn vị thành viên của mình mà phân suất ruộng cần thiết cho họ.

Như vậy, khởi nguyên của ruộng toàn mường phải là ruộng công mà người sản xuất trên ruộng đó do điều kiện thiên nhiên, đất đai và đặc biệt công cụ lao động còn thô sơ, năng suất lao động còn quá thấp nên buộc người sản xuất phải thực sự là một tập thể bắt buộc. Lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh rằng tập thể bắt buộc là những khối cộng đồng có tính chất huyết thống tức là cộng đồng đẳm. Ở người Thái hình thức sở hữu cổ xưa nhất mà hiện nay trong các thư tịch cổ chữ Thái hoặc ở dân gian truyền miệng, khiến chúng ta có thể nhận thức được hình thức sở hữu ruộng chung đầu tiên là ná đẳm (ruộng của đẳm hay ruộng huyết tộc) [166, tr.267].

Ruộng huyết tộc là tài sản chung của một tổ chức xã hội mà người Thái gọi là “đẳm”. “Đẳm” là một cộng đồng người cùng huyết thống tính theo cha. Cộng đồng người đó cư trú trong một ngôi nhà lớn từ 15 – 20 gian gọi là nhà “đẳm” (hướn đẳm). Ngôi nhà đó, tập trung đến bốn, năm thế hệ với hàng chục cặp vợ chồng của các thế hệ gồm hàng trăm nhân khẩu. Đứng đầu “đẳm” là một người đàn ông được gọi là “phủ cốc đẳm” (người đứng đầu đẳm) hoặc “trưởng cốc” - người có toàn quyền chi phối toàn bộ công việc của “đẳm”. Trên cơ sở quyền sở hữu chung về ruộng đất và những công cụ sản xuất chủ yếu (trâu, bò, cày…) toàn “đẳm” cùng sản xuất, sở hữu chung sản phẩm để tạo ra kho thóc chung gọi là “día khẩu đẳm”. Rõ ràng đây là một hình thức của một đại gia đình phụ hệ, tồn tại trên cơ sở của tổ chức xã hội người Thái. Ngày nay trong nhiều vùng người Thái Tây

71

Bắc, đẳm đã trở thành khái niệm để chỉ tổ tiên xa xưa tính theo cha và ruộng của những người chủ xa xưa đó.

Như vậy, ngay từ thời công xã thị tộc, khi con người còn sống ràng buộc nhau trong quan hệ huyết thống, người Thái đã lấy ruộng làm gốc. Và dĩ nhiên ruộng đẳm là ruộng chung vì lúc đó chưa thể có được phương thức sản xuất theo gia đình riêng biệt. Quyền sở hữu công cộng về ruộng đất dựa trên quan hệ huyết thống (ná đẳm và đẳm) là một trong những cơ sở xã hội của quyền sở hữu công cộng về ruộng đất sau này của người Thái ở Tây Bắc nói chung, ở Sơn La nói riêng. Ruộng toàn mường còn chứa đựng những ruộng gốc không phải của người Thái. Trong thời gian từ thế kỷ IX đến XIII, người Thái ở cao nguyên Thanh Tạng (Tây Tạng - Trung Quốc) vì nhiều lý do khác nhau đã tìm đường thiên di xuống phía Nam vào vùng Tây Bắc. Như việc Lạng Chượng và một bộ phận người Thái lên miền Sơn La, Lai Châu xuất hiện mâu thuẫn với người Xá đã được nhắc đến ở Quam tô mương Mường La. Những cuộc chinh chiến của người Thái với các tộc người khác đặc biệt là người Xá đã tạo nên những khu vực đất đai mới của họ hay chính là sự thiết lập những bản, mường. Sau khi các bản, mường Thái được hình thành sẽ do các Chúa (chỉ chúa đất, người Thái gọi là Chẩu, hay Pú Chẩu) cai quản. Chúa cử con cháu đi đến các vùng đất khác nhau để lập bản, dựng mường và tiếp quản các vùng đất mới. Từ đó, toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở hữu chung của bản mường và người đứng đầu là Chúa. Tất cả ruộng, dù xuất hiện từ nguồn nào (khai phá tập thể thời kì chinh chiến, giành giật được của cư dân bản địa, khai phá thêm…) của bất kỳ ai sau này đều là ruộng của mường (ruộng công). “Ruộng tư ở đây hầu như không có hoặc có chăng cũng là không đáng kể và bị coi là bất hợp pháp” [131, tr.215].

Đại bộ phận ruộng toàn mường là những ruộng khai phá trong các đợt di dân và tiếp tục khai phá về sau. Công việc khai phá đó có thể diễn ra trên hai hình thức: Một là khai phá có tổ chức và bắt buộc của thời kì chinh chiến và di dân, ban đầu phải tiến hành theo thể thức tập thể trên một quy mô tương đối lớn ví dụ như quang cảnh vỡ hoang của cánh đồng Mường Thanh, Mường Lò. Hai là dưới quyền quản lí của “bô lão” đứng đầu là “tạo”, các cộng đồng người có quan hệ huyết thống dần dần di cư tới vùng đất mới để khai phá đất làm ruộng.

Tóm lại, ruộng toàn mường của người Thái ở Tây Bắc nói chung, ở Sơn La nói riêng là sự kết hợp giữa hai loại ruộng: ruộng của những nhóm dân tộc trong đó có cả những nhóm Thái đã khai phá trước các thế kỷ thiên di của các ngành Thái tới Tây Bắc và ruộng của người Thái và các tộc người khác khai phá từ ngày thiên di

72

đến khu vực này và kéo dài cho tới sau này. Sự kết hợp của hai loại ruộng này rõ ràng gắn liền với quá trình lập bản, dựng mường của người Thái.

Ruộng toàn mường được phân chia cho hai bộ phận sau: thứ nhất: ruộng phân chia cho quý tộc và chức dịch bao gồm người đứng đầu mường, các chức dịch trong bản mường; thứ hai: ruộng phân chia nông dân bao gồm nông dân gánh vác và nông dân cuông, nhốc, pụa pái. 3.2.2.2. Các hình thức sở hữu ruộng đất

Hình thức 1: Ruộng phân chia cho quý tộc và chức dịch Ruộng toàn mường tới làm Hầu hết các mường phìa và các châu mường đều có loại ruộng gọi là ná nả háy háng mướng nghĩa là ruộng toàn mường tới làm. Loại ruộng này ở mường phìa trong châu thì gọi là ná nả háy háng chu hay còn gọi là ná mướng. Như trong quy định của Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu như sau:

Điều 101: “Dân ở bốn xổng thuộc chiềng, ăn hưởng ruộng gánh vác phải dắt

trâu đến cày bừa ở “ruộng toàn mường tới làm” gọi là “thửa Xạ, thửa Lạn”:

- Mỗi đầu nhà “ông gánh bà vác” phải làm một buổi sáng. - Các “ông gánh bà vác” làm rồi thì người ở bản nhốc cuông mới làm tiếp

[155, tr.122].

Các loại ruộng toàn mường tới làm vốn là những thửa ruộng tốt nhất mà toàn mường dành ra để chi dùng vào việc chinh chiến và di dân. Đây là ruộng “của mường” nên mọi người có nghĩa vụ phải cày cấy. Người Thái quan niệm việc tới làm ruộng toàn mường tới làm cũng như đi việc mường. Thóc lúa thu hoạch được nhập vào kho chung gọi là “día khẩu háng mướng” có nghĩa là kho thóc toàn mường do viên quan ná trực tiếp phụ trách.

Khi đã có bản, mường người đứng đầu các mường để người lao động yên tâm theo lệ đóng góp công trực tiếp, hoặc đóng góp vào kho thóc chung. Mặt khác, bởi họ là người đại diện cho bản mường mà coi kho thóc toàn mường là của riêng. Việc đó lặp đi, lặp lại nhiều năm và dần dần biến thành luật tục. Đã là chẩu mường, phìa, tạo lộng, tạo quen có toàn quyền sử dụng sản phẩm trong kho thóc toàn mường. Họ quản lý mọi việc trong bản mường nên họ buộc phải sử dụng số thóc đó vào những công việc chung khi cần thiết như nuôi lính, tiếp khách, mở mang đường và đặc biệt là làm các công trình thủy lợi... Song những công việc được gọi là chung đó lại được tập quán coi như việc riêng của họ. Do đó, khi sử dụng số thóc trong kho chung vào công việc hoàn toàn riêng, cũng được coi như hợp lệ. Chẳng hạn như các châu mường đều có lệ khi con cái chẩu mường, phìa, tạo dựng nhà, cưới vợ thì

73

bản mường hoàn toàn phải lo chi phí. Trong Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu quy định:

Điều 57: Dưới quan phòng, mỗi xổng còn có thêm hai quan chiềng, chuyên

trông coi các công việc sau:

- Khi các chức quyền hàng mường dựng nhà phải xuống đốc thúc dân các

bản làm tới nơi tới chốn...

- Khi nào có “cúng mường”, tế trâu đen trâu trắng (cho thần nước và thần đất (núi) phải đến nhà ông mo, ông xổng để nhận tiền đi mua trâu, bò, lợn, chó gà, vịt và những vật cần thiết để phục vụ...

- Khi con phìa, tạo, án nha lấy vợ người khác mường mình, quan chiềng phải đi xem xét rượu, gạo, trâu, lợn, gà, cơm nước, thức ăn, mọi của ngon, mặc đẹp phải đầy đủ đúng với mọi phong tục tập quán [155, tr.84-86].

Tất cả những chi phí gọi là bản mường đó không thể lấy ở đâu khác ngoài kho chung toàn mường. Do đó, ruộng toàn mường tới làm, về mặt pháp lý vẫn là của chung, nhưng về mặt sử dụng thành phẩm, lại là riêng. Ruộng toàn mường tới làm vẫn không gọi là tư điền vì chủ ruộng không được phép mua, bán và chỉ có thể sử dụng khi còn làm người đứng đầu mường. Bởi vậy, ruộng toàn mường tới làm trở thành một thứ bổng lộc mà bản mường đã dành cho người đứng đầu mường. Điều này khiến cho lao động việc mường của người nông dân đã biến thành một loại địa tô. Người nông dân vì phải lĩnh canh trên đất của châu mường nên phải đóng tô, lao dịch. Theo Nguyễn Duy Thiệu “Hình thức bóc lột chính là tô lao dịch. Sự bóc lột ấy được thiết lập trên cơ sở của ruộng công” [244, tr.28].

Cho đến khi châu mường hình thành, việc làm ruộng toàn mường tới làm đã cản trở cho việc sản xuất và ổn định nơi cư trú của những người trong các “mường phìa” ở xa. Theo Cầm Trọng đã nghiên cứu về quá trình xuất hiện hình thức cống nạp “khẩu chạn” (thóc lười) như sau:

“Khi xưa Mường La chỉ là một mường phìa của Mường Muổi. Trung tâm Mường Muổi dưới thời Lò Lẹt đặt ở Mường Sại. Ở đó cũng có những thửa ruộng toàn mường phải tới làm (do ở trung tâm nên gọi loại ruộng này là ná nả háy háng chu), mà Mường La và nhiều mường xa khác như Mường Mụak, Mường Quài... phải đi từ 2 đến 5 ngày đường để đến cày cấy. Việc đó tất nhiên dẫn đến tình trạng lãn công ở các nơi. Nhân đó “phìa” Mường La và “bô lão” bèn xin tách ra thành “châu mường” riêng để theo lệ nộp cống hàng năm như các mường lệ thuộc khác, nhưng không được chấp nhận. Quý tộc Mường Muổi thời đó gọi người Mường La và các mường xa khác là dân “lười” không chịu đến làm ruộng toàn mường tới làm

74

ở trung tâm. Và để tạo điều kiện thuận lợi cho hai bên, họ bèn quy định lệ nộp thóc lên mường luông để bù công. Thóc đó gọi là thóc lười (“khẩu chạn”)” [165, tr.192].

Về sau, trong các bản luật tục đều quy định thành lệ. Trong Luật lệ bản mường ở Mai Sơn quy định: “Dân các mường phìa ngoài do vì ở xa, không đến cày bừa trực tiếp được nên theo lệ nộp “thóc lười” để thay công. Căn cứ vào tổng số “gánh ruộng đất” của toàn châu mường đã có từ thời xưa truyền lại mà phân cho dân các mường phìa ngoài phải nộp “thóc lười” [155, tr.249-250] – một gánh đất ruộng theo Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng thì bằng 30kg thóc [155, tr.329].

Như vậy, tất cả nông dân Thái tự do của bốn xổng mường phìa trong thì phải bỏ công trực tiếp cày ruộng toàn mường tới làm. Dân các mường phìa ngoài do vì ở xa không đến cày bừa trực tiếp được nên nộp theo lệ thóc lười để thay công. Về số lượng nộp Xin xem bảng 3.11.

Bảng 3.11. Lệ nộp thóc lười của 4 mường phìa ngoài Mai Sơn (Sơn La)

STT Tên mường Số lượng

1 Mường Chanh 500 gánh thóc

2 Mường Hung 300 gánh thóc

3 Chiềng Cang 200 gánh thóc

4 Mường Bon 150 gánh thóc

(Nguồn: [155, tr.249])

Ngoài ra mỗi một mường thường dành hẳn một bản gần chiềng để làm nhiệm vụ phục dịch những nông dân đến làm ruộng toàn mường tới làm và nộp “thóc lười”. Dân bản đó người ta gọi là “táy lính na” (người túc trực ruộng) như ở Mường La có bản Hài, Mường Muổi có bản Nà Lính, Mường Mụak có bản Cuộm…

Ruộng cuông và lệ nộp thóc giá Ruộng cấp cho án nha và phìa do có lao động trực tiếp của người làm cuông nên được gọi là ruộng cuông. Ruộng cuông là suất ruộng khẩu phần của nhà tạo, bởi vậy sản phẩm sau khi thu hoạch xong đem nhập vào kho riêng của nhà tạo gọi là día khẩu hướn luông (kho thóc nhà lớn). Cùng với sự xuất hiện các châu mường việc làm ruộng cuông đối với dân cuông đã trở thành thông lệ.

Về cơ bản, chỉ có những chức dịch thượng đẳng mới có nhốc hay cuông hay pụa làm. Như “Án nha có chín bản nhốc người Thái, bảy bản cuông người Xá, Thư lại được hưởng ba bản nhốc Thái… đến ông pọng cang được hưởng một bản nhốc Thái” [155, tr.74-78].

75

Trong bản Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu cũng quy định cụ thể

như sau:

Điều 102. Dân bản ai lãnh ruộng gánh vác phải làm ruộng cho các ông, quan, tạo, phìa, án nha. Bản nào ruộng nhiều thì làm nhiều lần, bản nào có ít ruộng thì làm ít lần. Chẳng hạn bản có 10 mẫu ruộng thì phải đến làm ruộng cho ông, quan, tạo, phìa và án nha một mẫu, bản có 3-4 mẫu ruộng thì đến làm cho ông, quan, tạo, phìa, án nha 3-4 sào.

- Dân gánh vác ruộng mường thì chỉ cày và bừa. - Dân cuông nhốc thì tiếp tục làm các khâu việc sau đó. - Bởi vậy, người là dân “ông nương bà ruộng” thì phải làm từ việc “nắm bắp cày, quay cán mai” cho đến mùa gặt lúa nhập kho cho nhà người làm chức làm quyền để họ có ngày tháng lo công việc chung của bản mường.

Điều 103. Dân cuông nhốc còn phải làm nương bông cho nhà ông, quan, tạo, phìa. Chẳng hạn làm cho án nha từ 3 đến 5 sào đất. Dân cuông nhốc còn phải làm vườn của án nha có tới 2-3 sào đất [155, tr.122].

Ruộng của các chức dịch hạ đẳng do người trong nhà làm. Ngoài những chức lớn trong bản, mường các chức dịch khác chỉ được hưởng ruộng bớt, không được hưởng người làm cuông, nhốc. Trong Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu thì từ ông quan sự trở xuống là chỉ được hưởng ruộng bớt, về pháp lý bộ phận này đều phải tự cày cấy. Song vì có khoản ngoại lệ nên tùy từng năm những bộ phận chức dịch này có thể xin phép người đứng đầu mường lấy một số bà con gần gũi để làm ruộng. Những người đó tất nhiên được miễn việc mường để cày cấy ruộng bớt cho chức dịch.

Thời kỳ đầu khi người Thái mới đến khu vực Tây Bắc, bộ phận cuông lao động trực tiếp trên ruộng cuông cho chủ (chủ yếu là các chiến tù). Nhưng về sau, khi họ tách ra đặc biệt là lớp pụa pái cũng có thể làm ruộng cuông xong việc chủ yếu là nộp thóc giá (khẩu nguột) và làm tất cả những công việc có tính chất tạp dịch để phục vụ cho đời sống riêng của gia đình chủ. Pụa pái thường rơi vào các bản thuộc những dân tộc khác Thái sống xen kẽ ở vùng thung lũng của các châu mường. Những dân tộc này lấy nương rẫy nguồn sống chủ yếu. Bên cạnh nương rẫy họ còn làm một ít ruộng nước để thu thêm lương thực. Khi lớp pụa pái là các tộc người khác Thái như Khơ mú, Kháng, La Ha… do sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy nay bản này mai bản khác nên tạo cho phép họ nộp một khoản hiện vật ngang giá lao động trên ruộng gọi là khẩu nguột (thóc giá).

Thông qua hai loại ruộng toàn mường tới làm và ruộng cuông, người nông

76

dân trong châu mường đã bị lớp quý tộc thống trị dựa vào tập quán nguyên gốc cưỡng bức lao dịch và bắt nộp hiện vật. Ngoài việc lao động để tự nuôi mình và gia đình, người sản xuất còn phải làm ruộng không công để nuôi quý tộc thống trị và người nhà của họ. Sự cưỡng bức và tước đoạt sức lao động của quý tộc đối với nhân dân lao động trong châu mường được hợp pháp hóa trên cơ sở bản mường đặt ra các luật tục bắt nhân dân lao động phải tuân theo.

Ruộng bớt cho quý tộc (ná bớt tạo) Không phải quý tộc nào cũng có chức để có ruộng toàn mường tới làm và ruộng cuông, bởi vậy ở châu mường nào cũng có loại ruộng bớt cho quý tộc. Như ở Mường Mụak loại ruộng này thường xuyên bớt ra một suất 1000 gánh tương đương 3000kg chiếm 1/5 số ruộng cuông của họ hàng con cháu gần của chẩu mường [165, tr.217]. Số ruộng bớt cho quý tộc thường dành cho những quý tộc họ hàng xa của chẩu mường, những tạo, phìa hay chẩu mường mới bị mất chức... Việc canh tác trên những thửa ruộng này có thể có ba cách:

- Được chẩu mường đương chức bớt một số nông dân tới làm ruộng toàn mường sang cày cấy cho ruộng của tạo bớt (được gọi là táy ná nọi). Chẩu mường đương chức cũng có thể bớt cho họ một số nông dân làm cuông, nhốc với điều kiện những cuông, nhốc này phải nằm trong số bản mường đã dành cho chẩu mường. Hoặc nếu không có táy ná nọi, cuông, nhốc, những quý tộc này cũng còn có một số cốn hướn đảm nhiệm việc cày cấy. Bản thân những quý tộc có ruộng bớt ít phải trực tiếp tham gia sản xuất.

- Cũng có nhiều quý tộc có ruộng bớt nhưng tự cày cấy không có cuông, nhốc, cốn hướn và cũng chẳng có táy ná nọi tới làm. Bộ phận này chỉ hơn nông dân là không phải đi nghĩa vụ việc mường.

- Cũng là hình thức ruộng bớt cho quý tộc nhưng người đứng đầu mường không lấy từ ruộng cuông để chia cho quý tộc mà dùng cách phân bổ quý tộc đi chiếm cứ những vùng đất và cư dân. Từ đó lại dựng lên những mường mới. Và trong số ruộng công của mường mới đó đã có ná bớt tạo do chẩu mường trực tiếp trao cho quý tộc được phân bổ tới. Đó là một hình thức thông thường được ghi lại trong Quam tô mương: “con tạo phân vào ruộng, con quý tộc phân vào mường vào bản”.

Trong thực tế, bản nào có tạo đến chiếm ruộng thì bản đó thường được miễn việc mường mà trở thành dân làm ruộng cho tạo. Tạo đó được gọi là tạo bớt và bản đó gọi là bản tạo bớt. Thường những bản tạo bớt đã tách khỏi đơn vị xổng để trực thuộc phìa. Từ một bản tạo bớt quý tộc thống trị đã phát triển ảnh hưởng ra vùng

77

xung quanh để hình thành đơn vị quen và tạo bớt thành tạo quen. Quen lớn thành lộng và lộng lớn thành mường phìa.

Ruộng bớt (ná bớt) và sự xuất hiện ruộng chức Giúp việc cho các chúa đất là chức dịch, họ xuất thân từ dòng dõi quý tộc hay dòng họ dân. Những chức dịch cao cấp cũng cha truyền con nối, hợp với dòng họ chúa thành một giai cấp thống trị. Nếu như, thành viên dòng họ chúa được miễn gánh vác, được miễn phu phen và được hưởng ruộng, thì thành viên các chức dịch cao cấp không được hưởng quyền đó [262, tr.30]. Để trả lương cho những chức dịch trong bô lão toàn mường, người đứng đầu mường đã phân phát cho mỗi một ông, quan, hay quảng một suất ruộng tương đương với chức trách của họ. Trong Luật lệ bản mường Mai Sơn quy định: “Tất cả những người tham gia công việc của bản mường, xếp theo thứ tự những chức vụ thấp nhất như ông chá bản, quan (tạo) bản lên đến bậc án nha, chức nào cũng được bản mường phân cấp một suất ruộng tương đương với trách nhiệm của họ” [155, tr.246]. Ruộng đó tiếng Thái gọi là ná bớt và mất chức cũng mất luôn suất ruộng này. Nguyên tắc này đặt ra với chức dịch có phần khác với trường hợp quý tộc. Quý tộc mất chức còn có suất ná bớt tạo, còn chức dịch mất chức rõ ràng phải hoàn toàn trở thành nông dân, chịu nghĩa vụ việc mường để lĩnh suất ruộng công tương đương chứ không còn suất ruộng bớt nữa.

Trong bản Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu đã quy định như sau: “Những người làm chức làm quyền được “ăn ruộng bớt” của bản mường phân cho” [155, tr.70]. Tùy theo thứ bậc cao thấp khác nhau và số ruộng có thực ở trong bản, trong mường mà người ta cấp nhiều hay ít cho các chức dịch trong toàn mường coi như một suất lương bổng để họ điều khiển mọi công việc trong mường. Để thấy được cấp bậc các chức dịch trong châu mường của người Thái xin xem phụ lục 3.8. Thông thường những chức dịch ở bản nào thì hưởng ruộng ở bản đó. Luật lệ bản mường Mai Sơn quy định “Quan tạo bản ở bản nào thì ăn suất ruộng ở bản đó” [155, tr.246]. Như vậy, bản nào nhiều ruộng thì quan (tạo) bản sẽ có nhiều ruộng và ngược lại. Về tỷ lệ phân chia ruộng đất cho các chức dịch trong bản, mường được quy định cụ thể trong các bản luật tục (Xin xem phụ lục 3.9).

Việc bớt lại suất ruộng toàn mường như vậy cho các quan lại đương chức dần dần về sau hình thành một loại ruộng với tên gọi ruộng chức. Như vậy, ruộng chức là ruộng để trả công cho chức dịch. Các chức dịch chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng không có quyền sở hữu. “Kể cả chúa đất không ai có quyền sở hữu mà chỉ có quyền chiếm hữu mà thôi” [131, tr.216].

78

Sự phân chia ruộng bớt cho các chức dịch tùy thuộc vào sự phân phối của

chẩu mường. Nhìn chung có thể chia làm hai hạng:

- Một là ruộng của những chức dịch có người làm nhốc của chức ông đứng đầu đơn vị xổng ở một số châu mường Thái Đen và ông mo. Như châu Mường Muổi có 5 mường phìa: Mường Muổi (Chiềng Pha) – mường trong mường và 4 mường phìa ngoài (Mường Lầm, Mường Sại, Mường Piêng, Mường Pấc). Mỗi một mường phìa chia thành nhiều xổng. Mường trong Mường Muổi có 4 xổng, những mường phìa ngoài có 3 xổng. Đồng thời họ Lường được làm mo. Các chức Ông lớn sẽ được hưởng bản cuông, nhốc như Ông Xen hưởng 5 bản nhốc người Thái ở Bản Mòn, Ông Pọng hưởng 4 bản nhốc người Thái ở Bản Thôm, Ông Ho luông hưởng 2 bản cuông người Xá ở bản Lụa, Ông Pọng cang hưởng 1 bản nhốc người Thái ở bản Cọ [155, tr.76].

- Hai là, ngoài những chức ông lớn trên các chức dịch khác chỉ được hưởng ruộng bớt không được hưởng người làm cuông, nhốc. Như vậy về pháp lý, những chức việc này đều phải tự cày cấy. Song vì có khoản ngoại lệ người ta có quyền dùng táy ná nọi cho nên tùy từng năm những chức dịch này có thể xin phép người đứng đầu mường lấy một số bà con gần gũi để làm ruộng. Những người đó tất nhiên được miễn việc mường để cày cấy ruộng bớt cho chức dịch.

Như vậy, việc phân bổ ruộng bớt cho chức dịch là việc làm thường xuyên của những người đứng đầu mường. Bởi vậy ruộng bớt cho chức dịch không cố định một nơi như ruộng toàn mường tới làm và ruộng cuông của quý tộc vì mỗi một người đứng đầu mường khi nhận chức đều có quyền tiến cử chức dịch khác với các chức dịch đã có ở thời kỳ người đứng đầu mường trước. Mặt khác, những người chức dịch không nhất thiết phải cha truyền con nối (trừ dòng họ ở Mường Muổi). Lấy ví dụ chức ông pằn ở Mường La qua ba đời thủ lĩnh của châu mường đã thay đổi như sau: Bun Quảng (1830 - 1855) cho Trưởng Nhạc làm pằn ăn ruộng ở Bản Hùn (nay thuộc xã Chiềng Cọ). Bun Yêu (1866) cho ông Quyền Nó làm pằn ăn ruộng ở bản Hôm (nay thuộc xã Chiềng Cọ). Đến Bun Hoan (1881 - 1907), ông Quyền Nọ bị cách, cho anh vợ là Chưởng Văn thay và ăn ruộng ở bản Cọ (nay thuộc xã Chiềng An) [165, tr.225]. Như vậy, ruộng chức là loại ruộng được cấp cho tất cả các thủ lĩnh, quan tạo, mo mường và chẩu mường Thái theo tập tục truyền thống của hàm phẩm và chức tước. Về diện tích rộng hay hẹp tùy theo chức tước, hàm phẩm của người được cấp.

Dòng họ Bạc (Bạc Cầm Châu, Bạc Cầm Quý...) cha truyền con nối 17 đời nắm quyền thống trị ở Thuận Châu (Sơn La) và cũng có lượng ruộng đất rộng bát

79

ngát “gấp 1,5 lần các tạo bản, chẩu mường và mo mường của Mường Chanh (Mai Sơn – Sơn La), nhưng chỉ bằng ½ các quan tạo và chẩu mường của vùng Mường Thanh (Điện Biên)...” [140].

Hoặc họ Điêu ở Quỳnh Nhai (Sơn La), họ Đèo ở Mường Lay (Lai Châu), họ Sa ở vùng Mường Sang (Mộc Châu), Họ Hoàng ở Yên Châu... tầng lớp qúy tộc Thái đều nắm trong tay số phần lớn ruộng đất của bản... Quam tô mương Mường Sang (Mộc Châu) viết: “đầu mường, cuối bản chỗ nào cũng là ruộng đất của nhà tạo” [142].

Điều đặc biệt của loại ruộng này là ở chỗ các gia đình tạo bản hay chẩu mường không những không phải nộp tô, thuế cho ai mà ngược lại còn được các hộ nông dân trong bản phải thay nhau đến làm không công cho chủ ruộng. Tình cảnh này cũng được phản ánh trong Quam tô mương của Mường La (Sơn La) như sau: “Làm cho chẩu mường thì áo rách, làm cho nhà tạo thì không mảnh cót che lưng...” [139].

Hình thức ruộng chức của người Thái giống với ruộng ậu của người Mường nơi tồn tại chế độ lang đạo. Nhà Lang (quý tộc) lựa chọn một số người trong tầng lớp bình dân vào bộ máy thống trị, làm giúp việc cho Cun ở Chiềng hoặc cho Đạo ở bản. Vì vậy thông thường họ hay nhận được ruộng công tốt nhất. “Ậu chức càng to thì được hưởng nhiều ruộng và nhiều ruộng tốt, còn những ậu nhỏ được hưởng ruộng ít hơn... Khi còn làm ậu thì được hưởng ruộng ậu, khi không làm ậu nữa thì không được nhận ruộng và số ruộng này được chuyển cho những người thay thế” [112, tr.182].

Hình thức 2: Ruộng phân chia cho nông dân Ruộng phân chia cho nông dân tự do Đại bộ phận ruộng toàn mường tập trung vào loại ná háp bé (ruộng gánh vác). Người nông dân muốn cày cấy trên những thửa ruộng này bắt buộc phải gánh vác nghĩa vụ việc mường. Rõ ràng vì phải sống bám trên ruộng nên người nông dân phải làm nghĩa vụ việc mường, và ngược lại chính vì làm nghĩa vụ việc mường nên người nông dân có quyền làm chủ một suất ruộng trong toàn bộ ruộng toàn mường. Do đó người ta coi việc mường là tiêu chuẩn, đồng thời là nguyên tắc để phân bổ ruộng gánh vác và người nông dân ở trong diện này người ta gọi là ông gánh, bà vác (po háp, me bé), hoặc cũng có thể gọi bằng tên thường dùng nông dân gánh vác.

Tập quán pháp quy định: “Tất cả nông dân Thái được gọi chung là “ông kéo bà hao” hay “ông gánh bà vác” có danh hiệu Quản hay Xự người nào cũng có quyền tìm kế sinh nhai trên mặt nương mặt ruộng của bản mường phân cấp” [155, tr.254]. Những hộ nông dân này trước hết được toàn quyền lĩnh suất ruộng trong phạm vi bản của mình. Trường hợp cần thiết cũng có thể lĩnh thêm một ít ruộng ở bản khác sau khi được người đứng đầu bản đó và xổng cho phép. Đây là trường hợp rất hãn

80

hữu, chỉ cho phép người được lĩnh sử dụng tạm số ruộng trong khi bản đó chưa có người dùng đến. Vì ranh giới ruộng của bản đã rõ rệt nên trong khi tạm giao cho người bản khác sử dụng, người lĩnh ruộng không được phép đem số ruộng đó sáp nhập sang phạm vi bản của mình. Như vậy, ruộng gánh vác thường phụ thuộc vào diện tích số ruộng của từng bản. Trừ số ruộng đã bớt cho chức dịch, nếu diện tích ruộng mà rộng, số nông dân gánh vác có ít thì họ sẽ được hưởng nhiều, ngược lại nếu phạm vi hẹp, mà số hộ gánh vác đông thì ruộng sẽ phải ít đi.

Trong bản Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu quy định: Điều 64. Đất ruộng trong bản còn bao nhiêu thì đem phân chia cho dân mường gánh vác theo lệ truyền lại. Ai lĩnh ít ruộng thì đi việc mường ít; ai nhận nhiều ruộng thì gánh vác việc mường nhiều; ai không nhận đất ruộng thì không đi việc mường, như câu tục ngữ xưa đã định sẵn: “gánh ruộng thì mang thêm việc” (mường) [155, tr.94].

Điều 105. “Người đã là dân thì phải phụng sự quan bản, quan bản phải bận tâm chia “ruộng hàng mường” để cho dân trong bản làm và hưởng. Ngoài những ruộng đã bớt cho ông, quan, tạo, phìa, đất bản còn bao nhiêu ruộng thì chia cho dân bấy nhiêu.

- Một mặt người là dân thì phải xem đủ mặt, làm đủ việc, đủ đường do ông, quan, tạo, phìa, án nha. Họ phải chịu làm thân tôi đòi, làm người chịu mọi sự sai khiến. Ông, quan, tạo, phìa, án nha sai thì họ phải giúp để cởi mở, ngược lại đúng và thắng thì họ cũng giúp thể thu phạt vạ. Họ “muốn ăn phải đợi, họ muốn mổ gia súc thì phải hỏi”.

- Dân muốn đi đâu phải xin phép, người có chức có quyền cho đi mới đi. Dân muốn làm gì, người có chức có quyền cho mới làm. Dân luôn luôn phải theo phép theo tắc, tuân theo các lệ luật đã ghi ra ở trên” [155, tr.124].

Như vậy, ngoài số ruộng chia cho quý tộc, chức dịch, số ruộng còn lại là ruộng gánh vác chia cho dân trong bản mường còn gọi là ruộng hàng mường. Đây là ruộng công xã phân cho nông dân có chức Quảng hay Xự, muốn nhận cày cấy để hưởng hoa lợi với điều kiện phải làm nhiệm vụ gánh vác công việc của bản mường. Nếu không đi việc mường thì chỉ còn cách không ăn theo ruộng, mà theo con đường nương rẫy để sống trong cảnh “năm được trâu, năm bán con”. Án nha, phìa cùng với bô lão toàn mường hàng năm phải đặt ra được tổng số lượt việc mường để chia xuống cho các mường phìa; mường phìa phân xuống xổng để xổng tiếp tục phân cho bản. Quan (tạo) bản nhận lấy lượt việc mường của mình tiếp tục phân vào đầu các “ông kéo bà hao”. Theo Luật lệ bản mường ở Mai Sơn, việc mường gồm các

81

khoản không thể thiếu: “đi lính, đi làm các công trình thủy lợi: mương, phai, lái, lín (đào mương, đắp phai, đặt cọn và các đập nước phụ, đặt hệ thống máng), làm ruộng toàn mường đến làm và đóng thóc lười; đi làm đường xá; cầu cống, đi vận chuyển hàng hóa…” [155, tr.256]. Như vậy có thế thấy, ở đây ruộng được chia ra từng suất. Đây không phải là suất đinh như vùng Kinh mà là suất nghĩa vụ. Mỗi suất nghĩa vụ được cấp một suất ruộng. Hay nói cách khác, đây là loại ruộng công của bản, mường chia cho mỗi hộ nông dân theo quy định truyền thống, giống như ruộng công làng xã ở xuôi. Cũng có bản chia theo đầu hộ trong bản, cũng có nơi chia theo suất đinh (con trai), cũng có nơi lại chia theo nhân khẩu (tổng số người trong hộ), diện tích rộng hay hẹp tùy theo quỹ đất của bản.

Người dân trong châu mường (trừ số tôi đòi, tù binh trong chiến tranh, các dân tộc ngụ cư khác…) đều có quyền hưởng ruộng nên có nghĩa vụ tham gia xây dựng bản mường. Ngược lại, bản mường sẽ đảm bảo quyền sở hữu toàn dân về ruộng đất. Mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi này, người Thái đã quy định thành câu ngạn ngữ: Gánh ruộng thì phải mang việc (háp na, pa vịa). Người có ruộng thì phải tham gia việc mường và ngược lại đã tham gia việc mường thì đều có ruộng. Ở đây, rõ ràng nghĩa vụ quy định quyền lợi và quyền lợi bắt buộc phải có nghĩa vụ. Muốn được hưởng nhiều quyền lợi – nhiều ruộng thì việc mường nặng và ngược lại. Nghĩa vụ và quyền lợi – việc mường và ruộng có tỷ lệ thuận với nhau, đó là nguyên tắc đã được quy định tóm tắt trong câu ngạn ngữ “phân phối ngang bằng” (tánh lâng châng to). Tuyệt đại bộ phận nhân dân Thái là những người thực hiện nghĩa vụ và hưởng quyền lợi như thế. Nhưng nếu vì phải gánh vác quá nặng nề, họ cũng có quyền trả ruộng và tìm nương rẫy khai phá hay bỏ đi nơi khác.

Mỗi bản có quyền sở hữu phần ruộng của bản mình. Do đó, ruộng của bản nào chỉ phân phối cho dân bản đó, không ai có quyền, kể cả chẩu mường hoặc phìa mường lấy ruộng bản này phân phối cho bản khác. Trừ trường hợp chẩu mường lấy ruộng bản cấp cho quý tộc hoặc chức dịch của bản đó. Hiện tượng này vừa có tính chất tăng cường bóc lột, vừa có tính chất điều hòa ruộng đất. Do đó, nó chỉ xảy ra ở những bản có nhiều ruộng [251, tr.57].

Thực tế ruộng công phần lớn bị chúa đất và chức dịch chiếm đoạt. Thường số ruộng bình quân của một nhân khẩu trong một hộ chúa đất gấp 10 lần số ruộng bình quân nhân khẩu trong một hộ nông dân lao động đủ ruộng và gấp 20 lần một hộ nông thiếu ruộng. Ruộng đất bình quân của một nhân khẩu trong hộ chức dịch thường gấp từ 3 đến 5 lần ruộng bình quân nhân khẩu trong một hộ nông dân lao động [131, tr.216-217].

82

Ruộng gánh vác do các hộ nông dân lĩnh canh để cày cấy còn phụ thuộc vào sản lượng quy định. Không cần biết đồng ruộng của bản rộng hay hẹp như thế nào nếu như bản đó có ít ruộng nhưng lại sản lượng cao, bao giờ cũng có lợi hơn những bản có nhiều ruộng mà sản lượng thấp. Ví dụ thời Bun Yêu (1866) ở bản Cá có 10 hộ nông dân gánh vác hưởng một vùng có sản lượng 560 gánh tương đương 16.800 kg, bình quân một suất ruộng là 56 gánh tương đương 1.680 kg. Trái lại ruộng của bản Thẳm Tông Lạnh có thể có diện tích ruộng rộng gấp từ 2 đến 3 bản Cá nhưng sản lượng dành cho 10 hộ nông dân gánh vác là 500 gánh, bình quân một suất ruộng là 50 gánh tương đương 1.500 kg [165, tr.220]. Số sản lượng ruộng quy định cho các bản có lẽ đã được các nông dân gánh vác định ra và được ghi lại ở sổ Đinh điền thời Minh Mệnh (1820) (Xin xem phụ lục 3.10).

Như vậy, việc phân bổ ruộng gánh vác của các hộ nông dân luôn luôn phải căn cứ trên ba yếu tố: nghĩa vụ việc mường, số diện tích của ruộng trong đơn vị cư trú là bản hay mường, số sản lượng đã được quy định. Yếu tố việc mường có tác dụng chi phối, trong đó yếu tố sản lượng sẽ định ra số công cần thiết của nghĩa vụ việc mường, và yếu tố diện tích khống chế cường độ lao động của các hộ nông dân gánh vác.

Để định ra số công cho các thành viên trong bản mường phải làm nghĩa vụ việc mường ở các châu mường có nhiều kiểu đặt khác nhau. Nói chung vẫn theo nguyên tắc: đóng góp công nghĩa vụ nhiều thì được phân bổ nhiều ruộng (tính sản lượng không tính diện tích) và ngược lại đóng góp ít công nghĩa vụ thì phân bổ ít đi. Sự quy định việc mường chi phối người nông dân lĩnh ruộng để cày cấy là một thủ đoạn của chính quyền phìa, tạo thường xuyên dùng để khống chế và lợi dụng để bóc lột quần chúng nông dân.

Ruộng phân chia cho nông dân bán tự do Theo Cầm Trọng trong Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam về quá trình hình thành lớp cuông, nhốc, pụa pái trong xã hội Thái thì bản thân cuông ban đầu do là các chiến tù trong quá trình người Thái thiên di đến khu vực Tây Bắc trong đó có Sơn La. Như vậy, lúc đầu cuông là những tộc người khác Thái thường được gọi với tên chung là Xá. Bản thân họ không có ruộng đất vì ruộng đất đã bị người Thái chiếm. Về sau khi số lượng chiến tù đông lên, cộng với việc có thể xuất hiện những mâu thuẫn với quý tộc Thái nên những cuông này đòi ra ở riêng trong một bản mới được gọi là pụa hay pụa pái. Còn những cuông bị giữ lại trở thành gia nô cho chủ gọi là cốn hướn. Như vậy pụa pái là dân ở các bản khác Thái, họ có một ít ruộng để canh tác (gọi là ruộng bé (ná nọi) nhưng vẫn nằm trong tổng thể của ruộng toàn

83

mường), song chủ yếu phải sống dựa vào nương rẫy. Họ phải lao động không công trên ruộng cuông của tạo và phải phục vụ tạp dịch cho nhà chủ nếu sống dựa vào ruộng bé. Còn đại bộ phận sống dựa vào nương do không cố định ở một bản cụ thể nên tạo quy định lệ nộp khoản hiện vật ngang giá lao động trên ruộng. Hiện vật đó chủ yếu bằng thóc, ngoài ra còn có bông và nhiều thứ khác gọi là thóc giá hay khẩu nguột. Về sau, khi con cháu nhà tạo đông lên, ruộng cuông ở chiềng không đủ, người đứng đầu mường phải phân chia họ đi các nơi để khai phá lập nên những bản mới. Ở những vùng đất mới này vừa có bản cuông của lớp người gọi là pụa pái, vừa có cả bản của dân Thái nhưng không phải cuông. Xuất hiện những bản cuông của người Thái được đặt cố định và do quan cuông (hay ông pụa) phụ trách. Họ phải làm ruộng cuông cho tạo bởi họ cư trú ở bản được quy định là “dân làm pụa cho nhà tạo”. Hay nói cách khác cuông lúc này là bộ phận không phải gánh vác việc mường mà lấy việc làm ruộng cuông cho tạo để thay thế nghĩa vụ đó. Sự xuất hiện của lớp cuông này tức là xác định các bản người Thái phải làm ruộng cuông cho tạo. Điều đó cũng có nghĩa việc làm cuông không nhất thiết phải bó hẹp trong phạm vi một số bản đã quy định từ trước, tùy theo sự cần thiết của quý tộc và bộ máy thống trị đã miễn việc mường cho một số dân cư để họ làm cuông – được gọi là nhốc (nhúp lấy). Như vậy, những nông dân Thái vốn là dân tự do trong các bản để gánh vác nghĩa vụ việc mường nay lại phải làm ruộng cuông cho tạo và chức dịch khác [Xem thêm 165, tr.198-212]. Trong luật tục quy định rất rõ: “Những nông dân là người Thái hoặc những dân tộc Xá, Puộc được miễn việc mường để thay vào đó là làm cuông (nhốc) pụa pai. Họ được coi như người nhà của án nha, phìa, các chức dịch được bản mường cấp phát” [155, tr.256]. Tóm lại, bản thân cuông, nhốc, pụa pái hầu như không được chia ruộng, phải làm ruộng cuông cho tạo và các chức dịch, hoặc sống bằng việc làm nương rồi nộp thóc giá cho tạo. Chỉ có một số ít bản khác Thái (bản của lớp pụa pái) khai khẩn ruộng bé để canh tác và nằm trong ruộng toàn mường. 3.3. Hoạt động sản xuất nông nghiệp

Sơn La có 12 tộc người gồm: Thái, Kinh, H’mông, Mường, Dao, Khơ mú, Xinh mun, Kháng, La Ha, Lào, Tày, Hoa sống rải rác trên khắp lãnh thổ của tỉnh. Tuy nhiên, với việc các nhóm cư dân phân bố trên những địa hình khác nhau đã hình thành nên những hoạt động sản xuất nông nghiệp tương xứng. Với việc người Thái làm chủ ruộng nước nên việc trồng lúa trên ruộng của tộc người Thái vẫn là những hoạt động sản xuất tiêu biểu nhất. Song, so với ruộng nước, nương rẫy có tỉ lệ diện tích lớn hơn rất nhiều và là nguồn sống của hầu hết các tộc người trong tỉnh

84

kể cả người Thái. Về cơ bản, các tộc người ở Sơn La lấy trồng trọt làm ngành sản xuất chính, và tư liệu sản xuất của trồng trọt là ruộng và nương. Người Thái gọi lớp nông dân mình là “ông nương bà ruộng” (po hay, mẹ na). 3.3.1. Trồng trọt

Các loại cây trồng Trên cơ sở những đặc điểm về tự nhiên, về địa vực cư trú, về tập quán và kỹ thuật sản xuất... rõ ràng kinh tế trồng trọt là yếu tố quyết định sự tồn tại xã hội cổ truyền của các tộc người ở Sơn La. Ở Sơn La, bộ phận cư dân Thái do sống chủ yếu dựa vào ruộng nước nên họ có nhiều kinh nghiệm trong loại hình sản xuất này, họ được coi là chủ nhân của những kĩ thuật trồng lúa ở ruộng nước. Nền nông nghiệp mang tính độc canh rõ rệt, ruộng nước chỉ trồng lúa, không xen canh các loại cây khác và chỉ là lúa một vụ. Thậm chí người Thái chỉ trồng lúa nếp bởi thói quen trong sinh hoạt. Theo quá trình điền dã, tác giả luận án đã phỏng vấn ông Hà Văn Thu, dòng họ nhiều đời làm mo của người Thái ở bản Giảng – Sơn La, ông đã nghiên cứu nhiều về vấn đề ruộng đất người Thái và cũng là người Thái sinh sống trong thời Pháp thuộc, ông miêu tả: “người Thái chỉ trồng một vụ mùa và chỉ cấy nguyên lúa nếp”. Cũng như nhận định của Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, đồng bào Thái ưa trồng lúa nếp và “họ coi việc ăn nếp là một đặc trưng để phân biệt dân tộc họ với các dân tộc láng giềng như dân tộc Kinh ăn tẻ, dân tộc Mèo ăn ngô...” [131, tr.167]. Thóc gạo trở thành sản phẩm chủ đạo của nền sản xuất. Mọi hoạt động sản xuất đều xoay quanh việc làm ra thóc gạo. Nếu như người Kinh có câu: “quý hồ nhiều lúa là tiên” thì người Thái có câu: “thóc lúa ngồi trên, bạc tiền ngồi dưới”.

Ngược lại với ruộng nước, nương trồng nhiều loại cây khác nhau. Nương lúa cùng với ruộng nước giải quyết nhu cầu thóc, gạo. Nương ngô giải quyết nhu cầu về thức ăn cho con người và gia súc. Nương còn giải quyết nhiều thức ăn có chất bột khác như các loại cây có củ: khoai sọ, khoai lang..., những cây có chất dầu như vừng, lạc; và đặc biệt trồng bông, chàm để giải quyết nhu cầu mặc, làm chăn, đệm... Ngoài ra, cánh kiến là cây trồng chủ đạo trong việc tạo ra các sản phẩm nông nghiệp để trao đổi buôn bán cuối thế kỉ XIX. Không có số liệu nào thời kì này nói đến sản lượng hay diện tích trồng cánh kiến nhưng thông qua thương mại xuất khẩu cánh kiến những năm đầu thế kỉ XX hoàn toàn có thể chứng minh được đây là cây trồng chiếm diện tích lớn và có sản lượng cao, chủ yếu làm hàng hóa (Xin xem thêm mục 4.3.3. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp). Sau này, chủ tịch Hội đồng hàng tỉnh Sơn La khẳng định: “đối ngược với lúa chỉ đủ để tiêu thụ của người dân, không vì mục đích thương mại, việc trồng cánh kiến hoàn toàn vì mục đích thương mại” [59].

85

Đặc biệt, người H’mông còn trồng thuốc phiện trên nương và có những quy định cụ thể với nương trồng thuốc phiện: “... Riêng nương trồng thuốc phiện được sử dụng lâu dài, là tài sản thừa kế từ đời này sang đời khác” [112, tr.149].

Như vậy, trong khi ruộng nước chỉ độc canh cây lúa, canh tác nương rẫy đã cho phép các tộc người ở Sơn La mở rộng trồng trọt với ý nghĩa kinh tế có tầm quan trọng. Đây là một trong những lợi thế của việc làm nương cổ truyền. Nương và ruộng do đó trở thành hai đối tượng lao động của các tộc người và đặc biệt “tầng lớp quý tộc với bộ máy thống trị của nó chỉ thực hiện quyền bóc lột nhân dân lao động trên nền tảng ruộng nước chứ không dựa trực tiếp trên những mảnh nương của người sản xuất” [165, tr.111]. Nương là đất tự do của người sản xuất. Đây là yếu tố xã hội đã góp phần đẩy một bộ phận người lao động tách hẳn khỏi ruộng để làm nương, hoặc chỉ làm một phần ruộng còn lại sinh sống bằng nương. Thêm vào đó, Sơn La sự chia cắt về địa hình, sự khó khăn về thủy văn, nên việc thiếu nước tưới cũng như khó khăn trong việc hình thành ruộng nước ở nhiều vùng, nên nhiều nhóm cư dân đã sinh sống bằng nương rẫy. Việc sinh sống bằng ruộng nước là chủ yếu, kèm theo kinh tế nương rẫy bổ trợ cho cuộc sống khiến người Thái có cuộc sống định cư. Trong khi các tộc người khác như người H’mông, Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun... tính định cư mất đi do phải thường xuyên thay đổi chỗ canh tác, như câu nói của người H’mông “ngon không ngon cũng ăn ba thìa, tốt không tốt cũng ở ba năm”. Và thế là người bộ phận cư dân lấy nương rẫy làm nguồn sống chủ yếu thường xuyên du canh du cư qua hàng loạt các thế hệ.

Kỹ thuật trồng trọt Bộ phận cư dân Thái đã tạo ra lịch để tính thời gian cũng như quy trình trồng trọt. Để hiểu được tính mùa vụ của cư dân Thái trong trồng trọt chúng ta cần hiểu cách tính lịch cũng như nông lịch của người Thái Đen (bộ phận cư dân chủ yếu ở Sơn La). (Xin xem phụ lục 3.11, 3.12). Trong toàn bộ quá trình sản xuất, người Thái ở Sơn La đều dựa theo cách tính lịch này để tiến hành các khâu trong sản xuất.

Ruộng nước Phương pháp canh tác trên ruộng nước nằm trong loại hình nông nghiệp dùng cày. Đặc điểm của loại hình nông nghiệp này là việc sử dụng sức kéo của gia súc. Xưa nay khái niệm về ruộng thường được dùng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Ở đây không nghiên cứu tất cả những gì mà người ta cho là ruộng; mà chỉ bàn tới thứ ruộng nước, người Thái gọi là “na”. “Na” của họ là khoảng đất bằng, xung quanh có bờ ngăn giữ nước, để trồng lúa. Như vậy, muốn có ruộng con người phải đem sức lao động tác động vào các khâu kỹ thuật: tạo mặt bằng, đập bờ ngăn, dẫn nước

86

và làm nhiều công việc khác để tạo điều kiện cho cây lúa mọc tươi tốt. Từ đất ruộng, lúa nước sẽ có một năng suất lương thực cung cấp cho con người để có thể tái sản xuất được.

Trong loại hình canh tác ruộng nước thủy lợi giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nước là yếu tố hàng đầu trong việc làm ruộng. Người Thái có câu “có nước mới nên ruộng, có ruộng mới nên lúa”. Nguồn nước chính thường là nước mưa và nước của các con suối chảy xuôi giữa các thung lũng, các khe mạch thường xuyên hay định kỳ. Muốn sử dụng tốt nguồn nước, người ta phải tìm cách giữ nước và tưới tiêu, trên cơ sở địa hình của từng vùng cảnh quan mà hình thành nên các hệ thống thủy lợi khác nhau. Trải qua hàng chục thế kỷ trên đồng ruộng nước, hệ thống thuỷ lợi của người Thái đã tóm tắt trong câu thành ngữ: “mương, phai, lái, lín, lốc, cọn”.

Mương là đường khai để dẫn nước vào ruộng. Nước đổ vào mương thường bắt đầu từ hai phai. Phai là một loại đập ngăn suối do người Thái dựng bằng gỗ, tre, nứa và đất để dâng nước đổ vào mương chảy tới ruộng. Phai quyết định lưu lượng nước trong mương. Phai vững thì mương có nước tưới cho ruộng và mùa màng đảm bảo thu hoạch tốt. Ngược lại phai vỡ, mương, ruộng khô, mùa màng thất bát. Lái là hệ thống kè phụ của phai, dùng để ngăn nước ở khúc mương hay bị vỡ; tiếp tục dâng nước lên cao cho chảy vào ruộng; dẫn nước mương chảy qua những chướng ngại vật to như tảng đá, cây cối... Hệ thống này thường chỉ có ở những trường hợp mương nhiều, phai lớn. Lín là hệ thống máng dẫn nước vào ruộng. Hệ thống này người Thái thường làm bằng các loại cây có gióng như bương, tre, vầu; thân gỗ đục hoặc vỏ cứng bên ngoài của cây báng, cây móc. Lốc là nguồn nước tự động làm bằng tre, gỗ theo nguyên tắc lợi dụng sức nước chảy của nguồn nước suối tác động lên các cánh phên đẩy guồng cùng hệ thống gáo quay tự động múc nước đưa lên cao. Cọn là hệ thống máng tiếp thu nước từ những gáo múc của lốc. Nếu như phai có hệ thống mương, lái, lín thì lốc có hệ thống cọn để đưa nước vào ruộng. Hệ thống thuỷ lợi “mương, phai, lái, lín, lốc, cọn” đã xuất hiện cùng với việc ổn định nơi cư trú, lập bản dựng mường của người Thái ở Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng từ khoảng thế kỷ XIII.

Người Thái rất coi trọng việc làm thủy lợi, chính vì vậy việc làm thủy lợi được quy định cụ thể trong luật tục. Làm thủy lợi là nghĩa vụ bắt buộc đối với những nông dân nhận ruộng gánh vác. Như trong Luật lệ bản mường ở Mai Sơn quy định việc mường gồm các khoản không thể thiếu: “đi lính, đi làm các công trình thủy lợi: mương, phai, lái, lín (đào mương, đắp phai, đặt cọn và các đập nước phụ, đặt hệ thống máng)…” [155, tr.256].

87

Phân bón Khi nhận xét về vấn đề phân bón ở ruộng nước của người Thái, Cầm Trọng nhận định: “Họ chưa đạt được một thành tựu gì trên lĩnh vực này, nên cũng chưa có tập quán làm phân bón” [165, tr.103]. Phân bón tự nhiên có thể có ba nguồn chủ yếu: từ những trận mưa xối xả hàng năm đã tải phù sa, mùn từ các khu rừng, núi ra sông, suối nhập vào mương chảy về bón cho ruộng… Cũng do những trận mưa lớn nước cuốn từ bản, mường vét phân, mùn đổ vào mương, máng ra ruộng... Cuối cùng còn một nguồn phân mùn không kém quan trọng là những đống rơm, gốc rạ, phân gia súc sau những tháng cánh đồng bỏ hoá đã mục rũa [165, tr.104]. Cho nên với việc canh tác trên ruộng nước của người Thái với họ “có nước thì thành ruộng và nếu có ruộng thì người ta chỉ cần tiến hành các khâu sản xuất liên hoàn: cày, bừa, gieo trồng đúng thời vụ, làm cỏ, chăm sóc là được thu hoạch lúa” [164, tr.91]. Đây là điểm khác so với kĩ thuật canh tác ở các vùng đồng bằng bởi với họ “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” thì người Thái chỉ chú trọng khâu nước còn không có khâu bón phân cho ruộng.

Giống: Sống với nghề trồng lúa nếp, người Thái đã chọn được hàng trăm thứ thích nghi từng loại ruộng: tốt – nhiều mùn, trung bình – độ mùn vừa, xấu – độ mùn kém. Theo truyền thuyết, từ khi sinh ra “người trên cõi trần gian” đã có “330 giống lúa ở dưới ruộng” [140]. Lúa nếp có hai loại chính: giống nếp tan phải cấy trên các thửa ruộng tốt và giống nếp nhoi thường cấy trên các thửa ruộng trung bình. Đồng thời, người Thái cũng có những giống lúa tẻ mang tên chăm hay sẻ, song gạo tẻ là để ăn lúc đói kém hoặc để tiếp khách người Kinh… chưa được coi như lương thực chính.

Người Thái tiến hành phân loại lúa để cấy cho hợp thời vụ: “Lúa mùa cấy vụ chính vào tháng 11 lịch Thái [tháng 5 âm lịch – tháng 6 dương lịch] thu hoạch vào tháng 3, 4 lịch Thái [tháng 9 âm lịch – tháng 10 dương lịch]. Lúa sớm mang tên lo cấy vào tháng 10 lịch Thái [tháng 4 âm lịch – 5 dương lịch]. Lúa muộn mang tên cang cấy vào tháng 12 lịch Thái [tháng 6 âm lịch – tháng 7 dương lịch], thu hoạch vào tháng 5 lịch Thái [tháng 11 âm lịch – tháng 12 dương lịch]. Vì chỉ làm có một vụ nên cấy vụ này rồi thôi vụ kia” [170, tr.68].

Như vậy có thể thấy, thời gian canh tác của họ trên ruộng không nhiều, đồng thời do ruộng chỉ làm một vụ nên hiện tượng bỏ hóa cũng diễn ra thường xuyên. “Đồng bào xưa hàng năm chỉ làm một vụ. Hết mùa, ruộng để hóa, đợi vụ sau. Ngày làm thực tế trong một năm tính ra chỉ khoảng 100, 150 ngày” [131, tr.168]. Dĩ nhiên với cách lao động như vậy dẫn tới hiện tượng thiếu lương thực diễn ra thường xuyên.

88

Các biện pháp kỹ thuật khác Trước khi cấy, người Thái sẽ tiến hành các bước: cày – giãy cỏ - phát bụi rậm - đắp bờ và bừa sau khi đã dẫn nước tới ruộng. Để hoàn thành các khâu trong giai đoạn này, họ đã dùng bốn công cụ chủ yếu: dao – cày – mai - bừa. Trong bốn công cụ này người Thái chỉ có dao và bừa, còn lưỡi cày và mai đều phải du nhập từ Mường Puồn (Sầm Nưa - Thượng Lào). Biện pháp cày ải cũng được người Thái áp dụng từ lâu. Tục ngữ có câu “làm nương thì ủ cây, làm ruộng thì cày ải”. Trâu được sử dụng để kéo cày, bừa. Tuy nhiên, ở một số nơi chưa dùng cày mà còn dùng lối “hỏa canh thủy nậu”. “Đồng bào đốt rơm rạ, cỏ ở ruộng rồi tháo nước vào cho trâu quần sục bùn hoặc bừa thẳng bằng bừa răng gỗ rồi cấy lúa” [131, tr.171]. Sau khi cày xong, người Thái tiến hành đắp bờ giữ nước để bừa. Do đặc điểm địa hình dốc, chủ yếu là ruộng bậc thang nên việc đắp bờ để giữ nước là rất quan trọng. Muốn đắp bờ công cụ quan trọng nhất là mai. “Đó là công cụ có thể thay thế được cuốc, đồng thời thay được cả xẻng. Nó có tác dụng đào sâu trên đất mùn, hót đất đắp bờ thấp, cao khác nhau và cũng có thể dùng để giãy cỏ bờ ruộng được. Ở những thửa ruộng sâu, trũng không cày được, người ta dùng mai để đào xới thay thế” [165, tr.105-106]. Đồng thời với họ, “sạch bờ tốt ruộng” nên việc đắp bờ, làm sạch bờ trong suốt quá trình làm ruộng được tiến hành liên tục nhằm đảm bảo ánh sáng cho lúa, cũng như tránh sự phá hoại của sâu bọ, chuột. Để hoàn thành giai đoạn trước khi cấy, người Thái tiến hành “bừa kỹ” (ban nuốn), “có những mảnh ruộng họ bừa tới chục lượt mới cấy” [108, tr.187]. Tuy chiếc bừa của người Thái còn thô sơ, răng bừa bằng gỗ và ngắn, nhưng đã làm cho đất nhuyễn tạo điều kiện cho rễ lúa phát triển.

Khâu cấy được người Thái quan tâm, chú ý bởi đây là khâu quyết định đúng sai thời vụ, đảm bảo cho sự phát triển của cây lúa nước. Kinh nghiệm cấy cổ truyền của họ thì phải thực hiện dặm mạ (xắm), nhổ mạ (dầm) và đi cấy (đăm). Nên với việc cấy lúa, người Thái có câu “dầm mạ, cấy mạ” (pú xắm, đăm cả). Với người Thái “lúa tốt bởi phân, mạ tốt bởi dầm” (khẩu chăn pưa há, cả chăn pưa xắm) nên họ có cách tính thời gian chính xác: “bốn mươi ngày mạ, năm mươi ngày dầm” (xí xíp cả, hả xíp xắm). Phương pháp cấy này rất phù hợp với cây lúa nếp.

Sau khi cấy người Thái thực hiện các biện pháp chăm sóc để rồi thu hoạch và kết thúc mùa vụ. Thường cấy xong họ sẽ tháo nước để ruộng cạn, khô để mạ bám chắc vào đất. Rồi tiến hành chăm sóc như trông coi nước, làm cỏ, phát bờ rồi thu hoạch.

Nương rẫy Nếu ruộng nước là cơ sở chủ yếu đảm bảo cuộc sống của người Thái ở vùng thấp, thì nương rẫy là nguồn sống của hầu hết các tộc người trong tỉnh. Trong đó

89

nhóm Kháng, La Ha, Xinh mun, Khơ mú và người H’mông là hai bộ phận chủ yếu trong canh tác nương rẫy ở Sơn La.

Để áp dụng các biện pháp kỹ thuật phù hợp với từng loại nương rẫy, các tộc

người có nhiều cách phân biệt:

- Căn cứ vào thời gian canh tác: có nương định canh và nương du canh. Nương định canh thường ở gần nhà; bề mặt nương tương đối bằng phẳng, đất tốt nhiều màu, dễ có điều kiện chăm sóc cây trồng và sử dụng trong nhiều năm. Nương du canh ở xa nhà nằm trên các triền núi, chỉ canh tác một số năm khi độ màu mỡ của nương đã kém tiến hành bỏ hóa hoặc để lưu canh một thời gian.

- Căn cứ vào giống cây trồng: Nương trồng cây lương thực, thực phẩm và nương trồng cây công nghiệp. Loại nương trồng cây công nghiệp gồm nương bông, nương tràm… Nương trồng cây lương thực gồm nương lúa, nương ngô, khoai, sắn,…

- Căn cứ vào công cụ, nương rẫy chia thành 2 loại: + Loại hình nông nghiệp dùng cuốc hay dùng tay trên nương rẫy: Loại hình canh tác này phổ biến ở hầu khắp các tộc người phân bố ở các địa hình khác nhau. Đó là cách sinh sống chủ yếu của những tộc người cư trú ở vùng rẻo giữa (Khơ mú, Kháng, Xinh mun, La Ha), của một bộ phận những tộc người sống ở vùng cao như H’mông, Dao và cả trong một bộ phận những tộc người sống ở vùng thấp như Thái, Mường. Ở loại hình này có hai cách làm nương là dùng cuốc và không dùng cuốc. Tuy nhiên, các tộc người Khơ mú, Kháng, Xinh mun, La Ha, Thái chỉ làm nương bằng cách “chọc lỗ bỏ hạt” với công cụ chủ yếu là dao, rìu, gậy chọc lỗ để tra hạt, chưa dùng cuốc mà chỉ dùng những chiếc cào đơn giản để giẫy cỏ hoặc vun gốc. “Trong ngôn ngữ Khơ mú, Thái, La Ha, Kháng không có từ chỉ cuốc mà chỉ có loại công cụ xới cỏ gọi là cờ ve rơ (Khơ mú), cờ vẹ (Thái)” [164, tr.72].

+ Loại hình nông nghiệp dùng cày trên đất khô, đây là lối canh tác dùng trâu kéo cày, bừa trên đất khô không có bờ ngăn nước, thường gọi là nương cày, nương canh tác nhiều vụ. Điển hình là người H’mông. Trong khi các tộc người khác ở Tây Bắc chưa giải quyết được khâu cày, kể cả người Thái thì người H’mông với kĩ thuật đúc gang bằng phương pháp thủ công đã đúc được lưỡi cày. Theo đánh giá “lưỡi cày Mèo rất nổi tiếng, vì nó có khả năng cày đất khô với độ sâu 10-15 phân. Nó có khả năng cắt đứt các rễ cây, cỏ dại, nhất là rễ cỏ gianh. Nó còn thích nghi với đất có độ dốc thoai thoải và với cả đất có độ dốc tương đối cao” [164, tr.80].

Riêng đối với người Thái, bên cạnh việc trồng lúa nước, người Thái cũng canh tác nương rẫy khá phổ biến. Họ phân nương thành hai loại hình: Một là nương cày – do học được phương pháp canh tác của người H’mông, người Thái Trắng ở

90

một số nơi thuộc miền Bắc tỉnh Lai Châu, Sơn La cũng thực hiện; Hai là, nương thuộc loại hình nông nghiệp dùng cuốc hay dùng tay rất phổ biến ở nhiều dân cư vùng nhiệt đới gió mùa ẩm ướt. Loại nương này có từ thời kỳ nguyên thủy khi con người mới biết trồng trọt đầu tiên. Lối canh tác này được người Hán ghi, người Kinh đọc theo âm Hán – Việt là “đao canh hỏa chủng” (canh tác bằng dao, đốt bằng lửa rồi trồng). Tiếng Thái gọi nương này là hay, tiếng Khơ mú gọi là hrê, tiếng Việt gọi là rẫy, tiếng Mường là hong, tiếng Kháng là kăi.

Theo lối làm ăn của người Thái xưa, có thể có những loại nương chuyên

canh đồng thời xen canh như sau:

- Nương lúa, trồng xen vừng, lạc, dưa bở, bầu, bí, khoai sọ. - Nương ngô trồng xen đậu nho nhe, bí, bầu. - Nương kê trồng xen vừng, lúa miến và dành khoảnh để trồng lạc. - Nương bông trồng xen dưa. - Nương chàm có hai loại mang tên chăm và hỏm [170, tr.74-75]. Tất cả các loại nương rẫy trên, người nông dân của tộc người đã thực hiện thông qua các biện pháp kỹ thuật liên hoàn: chọn đất, phát rừng, đốt và dọn xới đất (người Thái làm nương không cuốc lật đất), trồng trọt, chăm sóc và thu hoạch. Trong đó “chặt đốt cây rừng là công việc quan trọng nhất của chu trình làm nương. Sau khi đốt mặt nương sẽ được phủ tro và lớp tro này thay cho việc bón phân” [112, tr.78]. Song mỗi tộc người lại có quy trình cụ thể khác nhau tạo nên những tập quán sản xuất riêng biệt.

Người H’mông do quen sống ở vùng núi cao, quanh năm sương mù bao phủ, khí hậu mát mẻ, nên từ xa xưa họ đã biết tận dụng đất đai ở các sườn núi để làm nương rẫy theo kiểu riêng của mình không giống với nhóm cư dân Kháng, Khơ mú, La Ha, Xinh mun và người Thái, là dùng dao phát cỏ, chặt cây, chờ khô, dùng lửa đốt, rồi cày ải qua đông, rồi cày lần hai và bừa dọn cho sạch cỏ, sau đó mới tiến hành trồng trọt.

Nhóm cư dân Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun là những cư dân có biệt tài trong việc làm kinh tế nương rẫy ở các ven sườn núi dốc cao theo kiểu truyền thống “đao canh hỏa chủng”, dùng dao phát cỏ, cây sau đó để khô dùng lửa đốt lấy tro, đợi đến đầu mùa mưa dùng gậy “chọc lỗ tra hạt”. Họ còn biết căn cứ vào độ dốc của từng sườn núi để gieo trồng những loại cây lúa, ngô, hoặc đậu đỗ, khoai, sắn… cho phù hợp.

Lấy nương rẫy làm nguồn sống chính nên việc chọn đất, chọn rừng là quan trọng nhất đối với các tộc người bởi việc này sẽ quyết định năng suất và thời gian canh tác. Người đi chọn đất để làm nương thường là chủ nhà hoặc người có tuổi

91

trong gia đình có nhiều kinh nghiệm quan sát, xem xét, phân tích đất. Nơi hay được chọn làm nương thường là những vùng có thảm thực vật tươi tốt, khi phát đốt mới có nhiều tro than làm nguồn phân bón. Theo tập quán của người Dao thì chọn sườn đồi, chân núi phía mặt trời mọc hoặc phía mặt trời lặn để làm nương. Như vậy cây trồng sẽ tốt tươi do có nhiều ánh sáng. Để chắc chắn xem đất tốt hay xấu, ở một vài tộc người còn có cách thử đất có vị chát hay mặn, chua hay đắng. Người H’mông cũng có tập quán chọn và phân loại theo từng chất đất: đất đen, đất mùn, đất đỏ, đất vàng, đất cát và mỗi loại đất lại thích hợp với từng loại cây trồng. Khi đã chọn được nơi làm nương vừa ý, người ta đánh dấu chỗ đó để khẳng định là đã có chủ. Như người Khơ mú thường thì họ đan ta leo (ta le), một loại phên tre, nứa đan theo kiểu lóng mốt, các lỗ mắt cáo có hình bát giác, cắm vào đó, hoặc lấy cành cây kẹp lá xanh cắm vào chòm đã phát thử [108, tr.143].

Mỗi tộc người có cách canh tác trên nương khác nhau tùy theo địa thế của nương. Nương của người Thái thường tương đối bằng phẳng ở ven suối hay trong các lòng núi thì họ có thể tiến hành cày, bừa gieo hạt song ở người Thái vẫn phổ biến việc làm nương theo phương thức đơn giản “chọc lỗ bỏ hạt” của loại hình nông nghiệp dùng cuốc [164, tr.60]. Nương của nhóm Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun thường ở chỗ đất dốc, sườn núi thì chủ yếu dùng gậy chọc lỗ để tra hạt. Thậm chí “người H’mông và người Dao còn làm nương thổ canh hốc đá và cũng phải tốn nhiều công sức để khai phá và cải tạo đất bằng cách dọn các hòn đá con, đá cuội xếp thành bờ, thành những ô, những mảnh nhỏ” [112, tr.76]. Đồng thời các tộc người cũng tiến hành làm các đường tránh nước để khi mưa xuống nước sẽ thoát theo những đường rãnh đó hạn chế được sự xói lở làm hại đến cây trồng.

Để thực hiện các biện pháp liên hoàn trong quá trình canh tác trên nương hầu hết các tộc người chỉ cần sử dụng những công cụ đơn giản: cuốc bướm với tên Thái có gốc Môn – Khơme: kchóp (kchốp), Kvẹ (kver), gậy chọc lỗ (đủng hay kđủng) để tra hạt giống xuống đất; dao, rìu và các công cụ phục vụ cho việc thu hoạch như: liềm, nhíp, néo… Trong đó dao nổi lên như một loại công cụ vạn năng: thay rìu phá chặt rừng, cạo vỏ cây làm bùi nhùi để làm mồi cho vật cọ sát bật ra lửa để đốt nương, tham gia việc dọn nương, chặt cây làm gậy chọc lỗ gieo hạt, thay liềm gặt hái… Đặc biệt với người Khơ mú công cụ chủ yếu của họ là gậy chọc lỗ. Bên cạnh đó, với người H’mông cày và bừa là những công cụ quan trọng, có tính chất vượt trội trong quá trình canh tác trên nương. “Họ là một trong những cư dân đưa cày lên trên rẻo cao, gắng thâm các thửa ruộng bậc thang bằng cách xen canh gối vụ và bón phân” [174, tr.29].

92

Mỗi tộc người đều có cách tính thời gian canh tác trên nương riêng. Theo Trần Bình, người Khơ mú không theo âm lịch, dương lịch và cũng không giống lịch của người Thái. Theo lịch của họ, tháng giêng sớm hơn âm lịch 2 tháng, muộn hơn lịch của người Thái ở Sơn La 4 tháng. Mùa gieo trồng trên nương của họ thường vào tháng Ba (lịch Khơ mú) tức là vào tháng Hai dương lịch [108, tr.142]. Nhìn chung các tộc người Thái, Khơ mú, Kháng, Xinh mun, La Ha có thời gian canh tác trên nương như sau:

Bắt đầu từ tháng 2 dương lịch (tháng 7 lịch Thái) khi thời tiết khô ráo người ta bắt đầu phát nương, chặt cây, để khô, ủ cây. Công việc này được so sánh với việc cày ải ở ruộng nước “làm nương ủ cây, làm ruộng cày ải”. Mục đích là để cây cỏ khô, không có khả năng tái sinh, đồng thời ủ cây còn tạo điều kiện cho đất có độ ẩm, thuận lợi cho việc gieo trồng.

Sang tháng 3 (tháng 8 lịch Thái), họ bắt đầu đốt và dọn nương bởi lúc này là thời điểm mùa hanh khô nhất. Để chống lửa cháy, lan rừng cư dân làm nương rẫy đã tạo ra một đường sạch cỏ cây bao quanh nương để khi lửa cháy tới sẽ không có cây cỏ khô để bắc cầu lan vào rừng. Khi đốt, người ta áp dụng biện pháp đốt ở phần trên nương, nơi đầu dốc trước, sau đó đốt ở chân nương, phía dưới dốc. Lửa bốc cháy từ chân nương đến chỗ cháy của đầu nương sẽ hạ dần và tắt [108, tr.197]. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ là hạn chế phần nào, cháy rừng vẫn xảy ra liên tục thậm chí gây ảnh hưởng đến nhà cửa, gia súc thậm chí là cả con người. Sau khi đốt đợi than tro nguội, họ bắt đầu dọn sạch nương, rồi xới qua đất để trải tro than cho đều.

Khoảng cuối tháng 4, 5 (tháng 9, 10 lịch Thái) khi những trận mưa đầu mùa liên tiếp đổ xuống làm tăng độ ẩm của đất, hạt cây cỏ ở rừng bắt đầu nảy mầm, người làm nương cũng bắt đầu mùa gieo. Cách tra hạt của họ cũng rất đơn giản. Đàn ông đi trước dùng gậy vót nhọn đầu chọc xuống đất, đàn bà theo sau tra hạt vào hố.

Riêng đối với người H’mông, ngoài bộ phận canh tác theo hình thức phổ biến “chọc lỗ tra hạt” như người Thái và nhóm Khơ mú, Xinh mun, Kháng, La Ha thì họ sử dụng cày, bừa đối với nương rẫy. Lịch canh tác trên nương của họ cũng có những nét khác biệt. Cứ đến mùa thu họ tiến hành phát nương, để đến cuối mùa thu, đầu đông “trong khi các tộc người làm nương rẫy với công cụ gậy chọc lỗ, hoặc dùng cuốc mới bắt đầu phát rừng thì họ đã bắt đầu đốt nương” [164, tr.81]. Sau đó, người H’mông tiến hành cày hai lần. Lần cày ải đầu tiên với mục đích để cho rễ cây, cỏ đứt, sau đó họ để đất cày đó hết mùa đông rồi cỏ, cây mục nát trở thành phân bón tự nhiên cho đất, đất được tăng độ ẩm, trở nên tơi xốp, đồng thời diệt trừ sâu bọ tránh phá hoại mùa màng. Sang mùa xuân, họ tiếp tục cày lần thứ hai, rồi

93

tiến hành bừa để xáo trộn đất và phân mùn do cỏ cây mục nát trước đó, đồng thời hạn chế việc tái sinh của cỏ dại. Đặc biệt, khác với các tộc người khác, với các nương ngô gần nhà và nhất là mảnh nương trồng lanh, hoặc thuốc phiện, người H’mông đã sử dụng bón phân chuồng cho đất trước khi bừa. Theo đánh giá, bừa của người H’mông rất thích hợp với việc làm đất khô “đó là một loại bừa có hai hàng răng, được bố trí so le trên hai đoạn gỗ song song ghép thành một khung, khi làm trên đất bằng, người ta có thể ngồi trên đó mà điều khiển trâu kéo” [164, tr.81]. Sau khi đã cày, bừa xong thì mùa mưa đến họ tiến hành gieo hạt. Người H’mông sẽ dùng trâu kéo cày lật cỏ sau khi gieo nên thường họ tiến hành gieo hạt theo luống, theo hàng (riêng đối với lúa họ quải hạt như kiểu gieo mạ). Cuối cùng họ tiến hành làm cỏ, rồi đợi thu hoạch.

Để tận dụng hợp lý độ phì của đất hầu hết các tộc người làm nương rẫy đều có cách thức luân canh. Với một đám nương mới thường hai năm đầu trồng lúa. Năm thứ ba thứ tư trồng ngô, sắn. Người Khơ mú thường có qui trình luân canh, hưu canh như sau: 1-2 năm đầu trồng lúa, 1-2 năm tiếp theo trồng ngô, 1-2 năm cuối trồng sắn, 3-8 năm tiếp bỏ hoang (hưu canh), sau đó lại tiếp tục canh tác [108, tr.149]. Người H’mông cũng tiến hành luân canh bỏ hóa để đất có thời gian nghỉ ngơi đồng thời họ tiến hành xen canh như người Thái nhằm tạo ra lớp che phủ đất, chống xói mòn. họ kết hợp xen canh cây họ đậu với ngô để bồi dưỡng cải tạo đất.

Trên một diện tích nương, các tộc người Thái và Khơ mú thường chỉ thực hiện ba vụ cũng là ba năm hay ba mùa. Trong ngôn ngữ của người Khơ mú nương vụ 1, 2, 3 lần lượt là Hrê rươn, Hrê tu, Hrê ta. Với người Thái là Hay lao, Hay lộc, Hay lựm. Đến vụ thứ tư, dù có làm thì cũng không có từ để chỉ nữa [164, tr.64]. Như vậy trên một diện tích chỉ gieo trồng được 3 năm = 3 vụ = 3 mùa. Đến năm thứ tư thì phải phá rừng làm nương mới bởi độ màu mỡ của đất nương đã kém. Từ đó có thể thấy, người Thái, người Khơ mú chỉ cần phá rừng làm 4 đám nương luân chuyển đã khép kín trong chu kỳ 12 năm. Đó cũng là thời gian đảm bảo cho rừng nhiệt đới tái sinh và người nông dân có thể trở lại canh tác trên diện tích ban đầu. Thuật ngữ nông nghiệp gọi đây là cách làm nương rẫy theo phương pháp: luân canh bỏ hóa trong vòng (chu kỳ) khép kín. Với phương pháp nương rẫy như thế - theo luật tục – trong phạm vi đất chung do mường quản lý, người ta khoanh hẳn một vùng đất rừng rộng hàng chục hecta mang tên đất nương (đin hay) để các gia đình sống chung trong một bản tự do làm rẫy. Do đó, với người Thái hình thức canh tác nương rẫy chiếm phần quan trọng sau ruộng, nằm trong lãnh thổ của bản (đin bản). Các tộc người đều có những cách thức để bảo vệ, chăm sóc nương rẫy như

94

rào nương để ngăn trâu bò, xua đuổi những con thú phá hoại như chim, chuột, sóc, tiến hành làm cỏ. Đặc biệt người H’mông đã có những quy định cụ thể với việc bảo vệ mùa màng, bảo vệ nương rẫy và họ coi đó như luật lệ và dân trong bản phải tuân theo. “Vào thời điểm gieo trồng mọi nhà phải chăn dắt trâu bò thật cẩn thận hoặc thả vào khu qui định chăn nuôi chung của cả làng, không thả rông, nghiêm cấm các gia đình đến đó để phát đốt, làm nương. Những nhà nuôi lợn ở gần ruộng, nương phải nhốt. Khi mới gieo trồng vào lúc lúa trổ bông, đàn gia cầm của các gia đình phải nhốt ở trong chuồng cho đến lúc thu hoạch xong. Người nào vi phạm, để gia súc phá hoại mùa màng sẽ bị phạt” [112, tr.149]. Đến mùa thu hoạch họ lại quy định cụ thể thời gian thu hoạch: “trâu bò phải chăn dắt, không được thả rông cho đến ngày 15 tháng 10 (âm lịch) là mùa gặt hái, hẹn cho mọi người phải thu hoạch xong mới được thả trâu bò. Quá hạn ai còn chưa thu hoạch xong, trâu bò ăn lúa không phải đền” [112, tr.146].

Việc thu hoạch trên nương vẫn là các biện pháp thủ công với những công cụ đơn giản, thô sơ. Điều này khiến người lao động phải tốn rất nhiều thời gian, công sức vào khâu này. Như người Khơ mú “xưa kia họ thường tuốt từng bông lúa (họt ngo), với công cụ chính là hai chiếc que tre giống như một đôi đũa. Họ kẹp bông lúa vào giữa hai que và tuốt. Nhiều nơi dùng nhíp (ăn híp) để cắt từng bông lúa” [108, tr.146].

Quy mô (năng suất và sản lượng) Dựa trên quy mô sở hữu ruộng đất, chúng ta hoàn toàn có thể đoán định, các

hình thức trồng trọt ở Sơn La manh mún, không có đồn điền chuyên canh.

“Vào cuối thế kỉ XIX, bản Cá, xã Chiềng An, thị xã Sơn La có 10 hộ với 40 khẩu được canh tác trên 24 ha đất nương rẫy + 8 ha ruộng cấy một vụ nếp. Như vậy, bình quân mỗi hộ có 3,2 ha gieo trồng trên 2 loại đất ruộng và nương. Với một không gian sản xuất tương đối rộng rãi, dân bản Cá thời đó đủ điều kiện để đảm bảo kinh tế tự túc tự cấp ổn định. Bản này vẫn được xếp loại nghèo khó, không giàu” [170, tr.77].

Nếu so sánh về quy mô thì nương rẫy bao giờ cũng có diện tích lớn hơn so với ruộng nước, nhưng xét về sản lượng thì ruộng nước cao hơn nhiều. “1 ha ruộng nước xưa cấy một vụ thường có năng suất 2 tấn đến 3 tấn, trái lại 1 ha nương chỉ có năng suất từ 6 tạ đến khoảng hơn 1 tấn” [165, tr.112].

Chúng ta có thể thấy sản lượng nương thấp hơn ruộng nước thông qua một

số cách tính của các nhà nghiên cứu trước đấy. Xin xem bảng 3.12

95

Bảng 3.12. Ngày công và thu nhập bằng canh tác trên nương của người Khơ mú

Ghi chú Loại cây trồng Tổng ngày công bỏ ra Tổng thu hoạch (kg)

Lúa Ngô Diện tích (tính theo kg giống) 30 30 180 70 600 – 1000 1200 – 1800

(Nguồn: 172, tr.62)

Theo cách tính của người Khơ mú thì cứ 1kg thóc giống có thể thu hoạch được 10 – 20kg thóc, năm được mùa có thể thu hoạch được 30 – 40kg. Theo cách tính toán của nhiều nhà nghiên cứu thì 1 ha lúa nương có thể thu hoạch được 600 – 1200kg thóc. Năng suất này chỉ bằng 1/3 – 1/6 năng suất lúa ruộng. Vì thế họ có câu: “nương rộng vượt tầm mắt, cũng không bằng một mảnh ruộng đầu bản” [108, tr.147].

So sánh trong chính bộ phận làm nương rẫy của các tộc người hoàn toàn có thể nhận thấy, người H’mông với việc dùng cày trên nương rẫy, biết bón phân chuồng cho đất, rõ ràng có những tiến bộ lớn so với phương thức canh tác “chọc lỗ bỏ hạt” và dựa vào nguồn phân có sẵn trong tự nhiên của hầu hết các tộc người khác. Vì vậy năng suất cũng cao hơn. Theo đánh giá “việc sử dụng trâu kéo cày đã tăng năng suất ở khâu làm đất khoảng 10 lần so với sử dụng cuốc” [164, tr.82], và dĩ nhiên con số ước lượng đó còn cao hơn với bộ phận các tộc người dùng gậy chọc lỗ. Đặc biệt, người H’mông xác định được cơ cấu cây trồng, họ lựa chọn ngô là cây trồng chủ yếu, kết hợp xen canh các loại cây họ đậu để giải quyết nhu cầu lương thực cũng như làm thức ăn cho chăn nuôi. 3.3.2. Chăn nuôi

Các loại vật nuôi Đối với người Thái, trước đây trong mỗi gia đình đều nuôi gia súc, gia cầm. Phổ biến là nuôi trâu, bò, lợn, ngựa, dê, chó, mèo, gà, vịt, cá… với mục đích chính để cung cấp sức kéo cho nông nghiệp, để tăng cường lượng thực phẩm cho các bữa ăn, để phục vụ cho các nghi lễ cúng tế, để tiếp khách… và khi cần thiết cũng đem ra trao đổi buôn bán.

Đối với người H’mông, trâu là vật nuôi phổ biến để cung cấp sức kéo cho nông nghiệp, chăn nuôi tiểu gia súc phát triển với nhiều giống lợn, gia cầm sinh sản nhanh cho năng suất cao. Mặc dù chăn nuôi chưa trở thành ngành chuyên canh, mà vẫn chủ yếu để tự giải quyết nhu cầu về thịt và mỡ, đáp ứng yêu cầu lao động nặng nhọc và để chống rét ở vùng cao, vẫn chỉ là ngành thứ yếu sau trồng trọt song “nhìn

96

chung trước ngày giải phóng, người Mèo có thể là tộc người phát triển chăn nuôi cao nhất trong khu Tây Bắc” [164, tr.83].

Đối với Người Khơ mú và người Kháng chăn nuôi khá đa dạng bao gồm chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò, ngựa), chăn nuôi gia súc nhỏ (lợn, chó, dê) và gia cầm (chủ yếu gà và vịt). Còn người Xinh mun do “trước đây phần lớn sống phân tán trong rừng, đời sống kinh tế gắn chặt với canh tác nương rẫy, và chiếm đoạt các sản phẩm tự nhiên” [107, tr.104], nên hoạt động chăn nuôi chỉ dừng ở mức chăn thả gia cầm.

Kỹ thuật chăn nuôi Các tộc người thường chăn nuôi gia súc, gia cầm theo lối nửa chăm sóc, nửa tự nhiên. Hầu hết vật nuôi đều tự kiếm ăn, đến chiều tối, hoặc đến mùa vụ mới được dắt, lùa về nhà.

Nuôi lợn phổ biến trong hầu khắp các gia đình nhất là người Thái, người H’mông, Khơ mú. Hầu hết lợn đều được nuôi theo hình thức thả rông, tự kiếm ăn là chính. Đối với người Thái, đàn lợn thường chỉ tiếp xúc với chủ trong một hai bữa cám, rồi vào rừng, ra suối kiếm ăn “trong các loại vật nuôi chỉ có lợn được họ cho ăn một ngày hai lần” [108, tr.200].

Các tộc người hầu hết đều nuôi trâu theo lối thả rông. Trong đời sống sản xuất nông nghiệp, trâu vẫn tiếp tục được dùng làm sức kéo. Xưa việc chăn dắt trâu không thực hiện thường xuyên, quanh năm mà chỉ thực hiện trong vụ cày, bừa. Sau đó người ta lùa trâu vào những khu vực chăn thả chung của bản, mường. Người Thái gọi là Púng. Từ nếp đó người Thái có câu tục ngữ “trâu, bò chung púng cỏ; voi, ngựa cùng púng cỏ xuân”. Trong từng bản của người H’mông cũng quy định chỗ chăn thả trâu, bò riêng gọi là “lút xá xia”, xung quanh được rào cẩn thận [112, tr.153]. Người Khơ mú cũng có khu vực chăn thả trâu, bò riêng. Vào mùa khô, không phải vụ cày kéo làm đất trồng, trâu bò được thả thường xuyên trong rừng. Khi mùa mưa tới hoặc vào vụ làm đất trồng, trâu bò thường được dồn về nhốt trong bản vào ban đêm. “Người Khơ mú chưa có tập quán làm chuồng trại chăn nuôi, các loại gia súc đều được nhốt dưới gầm sàn nhà” [113, tr.93]. Do chăn thả chung trong rừng quy định của bản, các gia đình có cách làm dấu riêng đối với trâu bò của họ như người Thái thường đeo vào cổ trâu cái mõ để dễ tìm kiếm. Các tộc người rất coi trọng việc bảo vệ trâu bò, cũng như bảo vệ sức kéo cho sản xuất nông nghiệp. Mặc dù trâu là tài sản riêng của các gia đình nhưng nếu giết mổ trâu phải được sự đồng ý của người đứng đầu mường. Trong Luật lệ của người Thái Đen ở Thuận Châu quy định: “Dân chúng hoặc các quan bản ai định mổ trâu cũng phải lên xin nơi án nha và các phìa

97

trước. Họ cho phép mới mổ, họ không cho phép không được mổ. Nếu ai làm sai thì phải nộp phạt vạ, mỗi con trâu phải nộp 1,2 nén bạc” [155, tr.134].

Đàn gà, vịt cũng được chăn thả theo lối nửa tự nhiên, nửa chăm sóc. Ban ngày, chúng tự kiếm ăn giống như vịt trời nhưng chiều đến được lùa nhốt trong chuồng. Việc chăn nuôi gia cầm thường do phụ nữ trong các gia đình đảm nhiệm. Trong đó giống gà của người Thái được đánh giá thơm ngon hơn cả “gà của người Thái có giống nhỏ, thịt thơm và chắc” [108, tr.201]. Ngoài sử dụng làm thức ăn trong các gia đình, gà còn được dùng trong rất nhiều nghi lễ của các tộc người: cầu cúng, cưới xin, tang lễ. Nên chăn nuôi gia cầm chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu chăn nuôi của các tộc người.

Người Thái nuôi ngựa, dê khá phổ biến. Ngoài hình thức thả rông như trâu, bò thì ngựa, dê còn được người Thái chăn theo lối buộc dây dài treo trên ngọn một cần bẩy ở bãi, đồi cỏ gọi là lối chăn buộc. “Cách buộc này có tác dụng làm cho dây buộc con vật luôn luôn ở thế căng và treo trên cao, như thế sẽ không bị cuốn rối vào bụi cây rậm rạp. Nó có thể co duỗi để con vật không những ăn cỏ ở gần mà còn vươn ra ăn cỏ ở nơi xa, với tới cho hết chiều dài của dây buộc với cần bật” [165, tr.143].

Đặc biệt, người Thái còn nuôi cá ở ruộng. Việc nuôi cá ở ruộng chủ yếu ở Thuận Châu, Mường La, Mai Sơn. Đây là “một yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày – Thái. Ở Việt Nam xưa không có dân tộc nào có tập quán này” [131, tr.178]. Ruộng thả cá thường được để ngập nước trong khoảng 20-30cm, và nước được lưu thông giữa các ruộng với nhiệt độ vừa mức cá có thể sống. Để tránh nắng to, trong ruộng thường có hố đề trà cho cá trú. Gắn liền với việc nuôi cá, phải kể tới việc quy định các vũng cấm của bản, mường để cá có nơi sinh sống tự nhiên, ổn định, đó là nguồn cá giống. Luật lệ bản mường ở Mai Sơn quy định: “Bản nào, mường nào cũng có vũng lớn hoặc ao lớn để nuôi cá cho phìa mường mở hội đánh bắt cá… Phải nuôi thả cho nó phát triển thành đàn… Mường Mụak ta, có vũng tên là Dăm là nơi nuôi cá là thế” [155, tr. 256]. Tại các vũng cấm đó, về mùa cá sinh sản, người ta lấy vài rễ cây vứt xuống làm tổ cho cá đẻ, sau đó họ vớt rễ cây có trứng cá mang về ao. Người Thái thường ương cá chép giống ở chiếc ao nhỏ từ khoảng tháng ba đến tháng năm thì thả cá con vào ruộng. Đến tháng bảy lại bắt cá vào ao để tránh mưa lũ. Việc nuôi thả cá ở ruộng đã cung cấp lượng thực phẩm ổn định hơn trong các hoạt động sinh hoạt của người Thái đồng thời có tác dụng sục bùn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa.

Phương pháp chăn nuôi thả rông đã sản sinh một vài giống tương đối tốt ở một số vùng. Bởi vậy, trâu, bò, ngựa… nhất là trâu của người Thái đã bước đầu trở

98

thành sản phẩm hàng hóa. “Ngày trước ở nhiều nơi như Mường Tấc, Mường Pùa (Phù Yên), Mường Vạt (Yên Châu), Mai Sơn… đã có những đoàn buôn đại gia súc đi khá xa. Có những người đã đi đến tận Xíp Xoong Pắn Ná và những vùng người Lự giáp Miến Điện để đổi gia súc lấy gươm Lự, nông cụ và bạc, vàng” [165, tr.146]. Song, sau khi các đoàn buôn bán xong, họ lại quay về với ruộng đồng. Vì vậy, xã hội Thái chưa xuất hiện lớp người chuyên chăn nuôi để có sản phẩm hàng hóa và cũng chưa có ai sống hoàn toàn bằng việc buôn bán sản phẩm chăn nuôi.

Trước đây khi các khu rừng tự nhiên còn rộng, đất trồng trọt chưa nhiều, trong khi dân cư lại thưa nên phương pháp chăn nuôi nửa chăm sóc, nửa hoang dại là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên về sau, khi diện tích đất trồng trọt tăng lên do dân cư đông đúc, thì những mâu thuẫn giữa trồng trọt và chăn nuôi xuất hiện (không còn nhiều vùng chăn thả tự nhiên để tránh vật nuôi phá hoại mùa màng như trước). Song, người Thái vốn lấy trồng trọt làm chỗ dựa vững chắc đảm bảo cuộc sống của họ nên cư dân Thái chỉ có thể có được một ngành chăn nuôi hỗ trợ cho trồng trọt, chưa bao giờ chăn nuôi tách thành một ngành độc lập để thường xuyên đem sản phẩm trao đổi với trồng trọt.

Như vậy, thông qua phương thức chăn thả chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy, chăn nuôi mang tính chất hộ gia đình là chủ yếu, chưa xuất hiện những hình thức chăn nuôi lớn. Mục tiêu chính của chăn nuôi là phục vụ nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân hay chăn nuôi của các tộc người ở Sơn La thời kì này mang tính tự cấp tự túc rõ nét. Điều này dẫn đến số lượng các sản phẩm từ chăn nuôi trong trao đổi buôn bán thấp. 3.3.3. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp

Kinh tế Sơn La thời kỳ này vẫn mang tính chất tự túc, tự cấp, làm tới đâu tự người sản xuất tiêu dùng tới đó. Các sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra phần lớn để phục vụ nhu cầu của các hộ gia đình. Trao đổi buôn bán có diễn ra nhưng chủ yếu là giữa các tộc người trong vùng với nhau. Như “thường thì người Khơ mú đổi đồ đan lát lấy: bông, vải, quần áo, gạo… của người Thái, lấy lợn, gà, súng, đồ rèn… của người H’mông” [108, tr.180].

Hình thức trao đổi chủ yếu là sản vật đổi lấy sản vật, có định giá hoặc không có định giá. Như người ở Mường Chanh (Mai Sơn) “đã dùng thời kì nhàn rỗi sản xuất ra chum, vại. Có thời kỳ họ đã đổi chum lấy thóc bằng cách đổ thóc đầy chum, một bên lấy chum, một bên lấy thóc” [164, tr.58].

Cư dân thường mang các sản phẩm đan lát, thổ sản quý… đổi lấy các thứ cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày, thậm chí là đổi lấy ngày công lao động trên nương. Điển hình như phương thức trao đổi sản phẩm đan của người Khơ mú.

99

Một ép mah đổi lấy hai ngày công lao động Một plum (bem) đổi lấy ba ngày công lao động Một mâm mây đổi lấy năm ngày công lao động Một ghế mây đổi lấy hai ngày công lao động… [108, tr.180] Đối với người Xinh mun “có thể nói người Xinh mun là một trong các dân tộc có hoạt động trao đổi buôn bán kém phát triển nhất ở Tây Bắc” [107, tr.101], mọi trao đổi chỉ dừng lại ở mức độ vật đổi vật là chủ yếu và cũng chỉ là sản phẩm dư thừa như đồ đan, các loại lâm thổ sản quý hay thuốc phiện.

Xuất hiện tiền trong trao đổi, ở vùng Tây Bắc phổ biến loại bạc móng ngựa, ngoài ra còn có tiền vỏ ốc (kxoong). “cho đến những năm đầu của thập niên 70 (thế kỷ XX) ở Điện Biên giá trị mỗi con ốc (tiền vỏ ốc) từ 2 – 3 đồng Việt Nam, ở Thuận Châu là 5 đồng và Nghĩa Lộ là 10 đồng)” [172, tr.70].

Thời kỳ này không có số liệu thống kê cụ thể số lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Sơn La nhưng dựa trên tình hình xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp những năm đầu thế kỉ XX chúng ta có thể nhận thấy sản phẩm của trồng trọt lớn hơn chăn nuôi rất nhiều, điều này hoàn toàn phù hợp với thực trạng sản xuất nông nghiệp của tỉnh Sơn La như đã trình bày ở trên.

Chợ tỉnh lỵ cũng xuất hiện, có tên là chợ Chiềng Lề, họp vào tất cả các ngày trong tuần. Nơi đây đã thu hút một số thương nhân người Hoa đến buôn bán từ cuối thế kỉ XIX. Họ chủ yếu đến sinh sống và làm nghề buôn bán hàng xén, bốc thuốc bắc, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra còn có một số gia đình người Kinh làm công chức hoặc buôn bán. Xung quanh là các gia đình người Thái [216, tr.64]. 3.4. Nhận xét về kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895

Sau khi tìm hiều, phân tích toàn bộ những khía cạnh khác nhau của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời kì này, tác giả luận án nhận thấy một số đặc điểm của nền kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895:

Thứ nhất, vấn đề cốt lõi của kinh tế nông nghiệp chính là ruộng đất, tuy nhiên khi nghiên cứu về vấn đề ruộng đất của tỉnh Sơn La thời kì này có thể thấy sự khác biệt giữa tính chất tư hữu được đề cập đến trong địa bạ triều Nguyễn và tính chất công hữu trong các bản luật tục địa phương của người Thái (theo luật tục 100% ruộng đất đều là công điền, công thổ không có tư điền, tư thổ. Nhưng theo thống kê của địa bạ 100% ruộng đất là tư điền), song tựu chung lại đều nổi lên vai trò của các họ người Thái trong vấn đề sở hữu ruộng đất nơi đây.

Đứng trên khía cạnh của rất nhiều nhà nghiên cứu đã xem xét, nghiên cứu về ruộng đất của người Thái ở các vùng miền nhất là Tây Bắc trong đó có Sơn La đều

100

khẳng định, ruộng đất ở đây đều là công điền, công thổ. Mà người Thái là bộ phận dân cư đông đảo nhất ở Sơn La, chiếm toàn bộ ruộng nước để canh tác. Các tộc người khác đều canh tác trên nương, hoặc đi làm cuông, nhốc cho người Thái. Hầu hết các tộc người đều phụ thuộc vào người Thái. Điều này đã được ghi chép lại thông qua hàng loạt các bản luật tục như đã được trình bày ở phía trên.

Khi nghiên cứu địa bạ của tỉnh Sơn La xuất hiện một số vấn đề sau: thứ nhất diện tích được thống kê không đầy đủ. Địa bạ của các châu được thống kê dưới thời Gia Long là 5/6 châu thiếu châu Yên, thậm chí trong từng châu không đầy đủ các động (chỉ thống kê được 19 động/25 động). Thời Minh Mệnh cũng chỉ có 5/6 châu thiếu châu Mộc (chỉ thống kê được 11 xã/28 động, xã). Bên cạnh đó, đến thời Pháp, riêng diện tích ruộng Sơn La được thống kê năm 1932 là 8.000 ha theo Henri trong Kinh tế nông nghiệp Đông Dương [119, tr.2]. Thứ hai, việc thống kê dựa trên tên chủ sở hữu đất đai tuy nhiên như đã trình bày, luật tục người Thái quy định phân chia đất cho quý tộc đến dân thường nhưng chỉ có quyền chiếm hữu không được sở hữu. Có thể sự thống kê này chỉ mang tính đại diện, cứ có người được phân đất thì mặc nhiên theo địa bạ là tư điền.

Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu kết hợp phỏng vấn, điền dã các nhà nghiên cứu Thái học, các nghệ nhân người Thái... tác giả đồng tình quan điểm cho rằng ruộng đất của người Thái ở Sơn La trước năm 1895 đều là ruộng đất công. Bởi nếu là tư điền phải có quyền mua bán, chuyển nhượng thì điều này không hề được luật tục nhắc đến. Trong luật tục của người Thái chỉ nhắc đến quyền phân chia ruộng đất công của những người đứng đầu bản mường cho các thành viên trong bản. Thậm chí sau này khi thực dân Pháp vào chiếm đóng Sơn La cũng khẳng định: Trước năm 1925 “Sở hữu tư nhân về ruộng đất không tồn tại ở tỉnh Sơn La” [55]. Hoặc theo nhận định trong bản Báo cáo kinh tế năm 1939 của tỉnh Sơn La “cho tới năm 1925, người ta chỉ biết đến ở Sơn La một loại hình sở hữu, đó là sở hữu công, ruộng đất công” [44]. Như vậy, toàn bộ ruộng đất thời kì trước năm 1925 đều là sở hữu công.

Tựu chung lại, sự phân định công hay tư trong quyền sở hữu ruộng đất ở các quốc gia phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng còn tồn tại nhiều quan điểm cho đến hiện nay chưa thống nhất bởi tính chất đặc thù trong sở hữu ruộng đất thời phong kiến. Song dù là địa bạ hay tập quán pháp đều khẳng định vị thế, vai trò của các họ người Thái trong quyền sở hữu ruộng đất thời kỳ này. Và trong quyền sở hữu ruộng đất của người Thái khi nhận định về chế độ sở hữu ruộng đất nơi đây có thể thấy đây là chế độ: công hóa tư, tư nằm trong giới hạn của công [165, tr.73]. Rõ

101

ràng chúng ta nhận thấy, bộ phận ruộng đất của quý tộc “chẩu mường” và con cháu của họ có loại ruộng thế nghiệp không bị mất quyền sở hữu; chức dịch cứ có chức thì có ruộng, chức cao phần ruộng nhiều; ruộng đất của người H’mông, người Mường theo chế độ tự quản sau đó nộp tô, thuế cho phìa tạo; nương rẫy, rừng rú, người dân trong bản được quyền khai thác; rồi nông dân cứ gánh vác nhiều công việc của mường, của bản thì nhận được nhiều ruộng đất canh tác… Vậy về hình thức đây chính là ruộng đất tư. Nhưng tất cả những ruộng đất được coi là tư đó đều bị sự chi phối của phìa tạo, kể cả săn bắt thú rừng cũng phải nộp lại theo quy định. Như vậy tư lại nằm trong giới hạn của công. Đặc trưng chế độ ruộng đất này duy trì xuyên suốt trong xã hội nơi đây.

Đặc điểm của ruộng đất tỉnh Sơn La thời kì này chính là vai trò quản lý, phân phối ruộng đất thuộc về các dòng họ người Thái. Những phìa, tạo theo hình thức thế tập, được sự chấp thuận của triều đình trung ương tiến hành phân chia ruộng đất cho con cháu. Từ mường trung tâm hình thành các mường nhỏ do con cháu phìa, tạo nắm quyền quản lý, sau đó phân phối ruộng đất cho các bản. Ở các bản có bộ phận chức dịch (giúp việc cho phìa, tạo) tiến hành phân chia ruộng đất cho nhân dân trong bản. Cơ sở chủ yếu để phân chia là ruộng và phụ thuộc vào địa vị trong xã hội. Đây là đặc trưng trong chế độ ruộng đất của người Thái ở Sơn La.

So sánh chế độ ruộng đất của người Thái ở Sơn La với chế độ ruộng đất của người Mường ở Hòa Bình có rất nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là quyền quản lý, phân phối ruộng đất đều thuộc về quí tộc địa phương. “Nếu ở Sơn La, cơ sở của chế độ phìa tạo là ruộng toàn mường thì ở Hòa Bình là chế độ ruộng lang, ở các tỉnh miền núi Đông Bắc cũng tồn tại chế độ ruộng đất tương tự với nguyên tắc bất di bất dịch: thế lực phìa tạo, nhà lang, thổ ty là người có quyền quyết định tuyệt đối trong việc phân chia, chiếm hữu toàn bộ ruộng đất trong phạm vi mình quản lý” [216, tr.75-76]. Như vậy, người Thái ở Sơn La đặc trưng là chế độ phìa, tạo gắn liền với chế độ ruộng đất thì người Mường ở Hòa Bình là chế độ lang đạo hay còn gọi là nhà lang. Ở người Mường (Hòa Bình) quyền phân phối ruộng đất nằm trong tay của nhà lang [112, tr.180]. Lang đạo thuộc dòng dõi quí tộc địa phương, được cha truyền con nối. Hơn thế nữa, việc phân chia ruộng đất của người Mường cũng phụ thuộc vào địa vị của các thành viên trong bản, mường. Lang phân phối ruộng đất đến người dân cũng theo địa vị trong xã hội gồm ruộng lang, ruộng ậu (giúp việc cho lang đạo), ruộng dân (phân cho lao động bình thường). Người nhận ruộng của nhà lang phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định đối với nhà lang, đối với mường, xóm.

102

Đây cũng là nét tương đồng đối với vùng người Tày, Nùng ở Hà Giang, Cao Bằng - nơi tồn tại chế độ thổ ty. Ở những vùng này, ruộng đất, rừng núi đều do thổ ty chi phối, bất kể ruộng đó tổ tiên để lại hay bản thân tự khai phá. Tiêu biểu nhất là chế độ thổ ty ở châu Bảo Lạc. “Thổ ty làm chủ cả ruộng đất, núi non, sông ngòi. Ruộng đất trên nguyên tắc là công do thổ ty quản trị và phân phối” [131, tr.79]. Ruộng đất cũng được chia theo địa vị trong xã hội gồm: ruộng thổ ty, ruộng chức, ruộng lính, ruộng mo then, ruộng chùa, ruộng phần phu…

Thứ hai, chế độ ruộng công – ruộng toàn mường ở tỉnh Sơn La là một trong những nguyên nhân dẫn đến “sức ì” trong sản xuất nông nghiệp. Bộ phận người Thái là cư dân chủ yếu ở Sơn La, đồng thời chi phối các tộc người khác, và họ là chủ nhân của hệ thống ruộng nơi đây. Tuy nhiên, việc ruộng đất được phân chia theo địa vị trong xã hội đã khiến cho bộ phận quý tộc phong kiến thống trị nhất là dòng dõi nhà tạo chiếm được nhiều ruộng và là những thửa ruộng tốt trong các bản mường để rồi tiến hành bóc lột bộ phận cuông, nhốc, pụa pái đến lao động không công. Ngược lại bộ phận nông dân tự do – lực lượng sản xuất chính trong xã hội được nhận ruộng với chất lượng kém hơn, số lượng nhiều hay ít lại phụ thuộc vào sự phân chia của bộ phận quý tộc phong kiến và hệ thống chức dịch địa phương cũng như khả năng gánh vác nghĩa vụ việc mường. Điều này dẫn tới nông dân vừa phải canh tác trên thửa ruộng được phân chia để nuôi sống bản thân, gia đình; lại vừa phải thực hiện lao động không công cho bản mường mà đại diện là quý tộc phong kiến. Họ chỉ lo làm sao đi đủ nghĩa vụ việc mường để giữ được phần ruộng đất đã được chia chứ chưa từng nghĩ đến phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động “xưa nay chưa thấy họ tự mình tìm ra những giống lúa để tăng vụ trên một diện tích gieo trồng” [170, tr.68]. Thậm chí việc làm nghĩa vụ như làm ruộng toàn mường tới làm tính bằng ngày công lao động chứ không hề tính bằng sản lượng tạo ra. Bộ phận quý tộc chỉ chú trọng đến việc bóc lột lao động không công để xây dựng kho thóc toàn mường với danh nghĩa của chung nhưng bản chất là để phục vụ nhu cầu của quý tộc Thái chứ chưa hề chú trọng hiệu suất trong lao động. Và dĩ nhiên đối với người nông dân vì là việc chung nên chỉ cần làm đủ công lao động theo số ngày quy định để đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ việc mường. Họ cố gắng giữ lấy mảnh ruộng được phân chia từ đời này qua đời khác vì đó bản chất là tài sản duy nhất họ có nếu thực hiện đủ nghĩa vụ việc mường. Còn nếu không lại phải sống bằng nương rẫy với cuộc sống bấp bênh. Một vòng luẩn quẩn trong xã hội Thái xuyên suốt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thống trị lâu dài của bộ phận phìa, tạo đối với nhân dân. Bên cạnh đó, nếu

103

như việc làm ruộng thiếu họ sẽ dựa vào nương rẫy hoặc khai thác tự nhiên. Nhưng đến cả săn bắt, hái lượm trong rừng cũng bị lệ thuộc vào quy định của luật tục do bộ phận quý tộc đề ra. Trong những bản luật tục của người Thái đều quy định rất cụ thể về việc phân chia nếu săn bắn được thú rừng, rồi sáp ong phải biếu cho án nha và các chức dịch bởi họ là “người đứng trên vị trí nắm vận mệnh bản mường; đồng thời cũng là người tiêu biểu cho quyền làm chủ của nước và đất. Tất cả những nơi có của ngon vật lạ trong tự nhiên đều phải được phân nhau mà hưởng” [155, tr.260]. Tất cả đã tạo nên đặc trưng của chế độ bóc lột nơi đây, chế độ bóc lột toàn dân bằng cống nạp sản vật và lao động không công.

Thứ ba, đặc trưng của sản xuất nông nghiệp tỉnh Sơn La nói riêng và cả khu vực Tây Bắc nói chung là mỗi tộc người đều có thế mạnh riêng trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp trên những địa bàn khác nhau. Điều này xuất phát chủ yếu từ việc địa bàn cư trú của các tộc người có sự phân vùng rõ rệt tùy theo địa hình, dẫn tới điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng cư trú lại khác nhau, các loại cây trồng cũng mang tính đặc trưng theo từng nhóm tộc người, dần dần dẫn tới hình thành nên những kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, những phương thức sản xuất cũng khác nhau. Điều này đã được khẳng định trong câu ngạn ngữ Thái:

“Xá ăn theo lửa Thái ăn theo nước H’mông ăn theo sương mù”

Bộ phận người Thái sinh sống chủ yếu dựa vào kinh tế ruộng nước, tuy nhiên do diện tích ruộng nước không nhiều nên họ vẫn canh tác cả nương rẫy. Người Thái vì canh tác ruộng nước nên dân gắn liền với bản, với mường hay nói cách khác bản, mường của người Thái cố định. Cuộc sống của người nông dân Thái gắn chặt với bản, mường và những quyền lợi, nghĩa vụ với bản, mường. Bộ phận người Xá (Kháng, Khơ mú, Xinh mun, La Ha), và người H’mông chủ yếu dựa vào canh tác nương rẫy để sinh sống. Song nếu so sánh giữa các tộc người lấy kinh tế nương rẫy làm nguồn sống chính thì người H’mông với việc làm nương cày họ có điều kiện kéo dài thời gian sử dụng nương rẫy nên bản làng của họ cũng ổn định hơn so với các tộc người dùng gậy chọc lỗ như Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun. Đồng thời năng suất lao động cao hơn, công cụ lao động tiến bộ hơn, đời sống ổn định hơn dẫn tới sự phân chia xã hội của họ sâu sắc hơn so với các tộc người sống dựa vào nương rẫy khác. Điều này là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các tộc người lấy nương rẫy làm nguồn sống chính bị lệ thuộc vào người Thái theo những mức độ khác nhau với những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, do thường xuyên phải thay

104

đổi nơi canh tác trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới lối du canh du cư của các tộc người lấy nương rẫy làm ngành kinh tế chính. Hay “những cư dân chuyên sống bằng nương rẫy không thể nào định cư, đời sống nghèo đói thiếu thốn và luôn không ổn định” [172, tr.26]. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý, ổn định đời sống cư dân. Việc du canh du cư của các tộc người làm nương rẫy diễn ra ở hầu khắp các tỉnh trong vùng Tây Bắc.

Thứ tư, kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời kì này là một nền sản xuất lạc hậu, trì trệ, mang nặng tính tự cung tự cấp, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Bức tranh chung về kinh tế truyền thống của các tộc người ở miền núi phía Bắc trong đó có Sơn La xét về cơ cấu kinh tế bao gồm: “trồng trọt + chăn nuôi + tiểu thủ công nghiệp + khai thác các nguồn lợi tự nhiên. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế đó cho thấy bản chất tự cung, tự cấp vẫn còn đậm nét” [112, tr.114]. Người nông dân phải làm đủ nghề từ làm ruộng, nương, đến đan lát, dệt vải, rèn nông cụ, làm gốm… Họ sản xuất những thứ này để dùng, hoặc để trao đổi lấy những sản phẩm cần thiết khác trong cuộc sống. “Ở nhiều vùng người ta đã tự túc được hết các vật dụng hàng ngày, chỉ thiếu có muối ăn” [164, tr.58-59]. Việc các tộc người sản xuất ra chủ yếu để tự cung tự cấp cộng thêm tình trạng giao thông ở Sơn La vô cùng khó khăn dẫn đến việc trao đổi buôn bán gần như không phát triển. Thị trường tập trung cao nhất chỉ là chợ. Trong đó sản phẩm trao đổi hầu hết là của trồng trọt, chăn nuôi và thủ công với hai hình thức trao đổi vật lấy vật và vật lấy tiền cùng xảy ra. Có chợ nhưng sản phẩm trao đổi cũng ít, nên hầu hết đều là chợ phiên. Bởi vậy, trước khi thực dân Pháp xâm lược, họ chưa có khái niệm để phân biệt giữa thành thị và nông thôn. “Trong ngôn ngữ của họ cũng không có từ thành thị và nông thôn, chỉ có bản, mường, trong đó ruộng đất đã bao trùm lên tất cả” [165, tr.165]. Điều này càng khiến kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La đóng kín thêm lần nữa.

Từ những đặc trưng về ruộng đất (chủ yếu là ruộng đất xấu (hạng tam đẳng), ruộng hoang hóa thời kì đầu còn nhiều, hầu hết là ruộng một vụ), đồng thời tình trạng ruộng đất manh mún, chủ yếu là sở hữu vừa và nhỏ, dẫn tới nông nghiệp Sơn La thời kì này vẫn là nền sản xuất chậm phát triển. Ruộng nước chỉ canh tác một vụ, chỉ độc canh cây lúa. Quá trình canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, nhất là nguồn nước. Trong khi kỹ thuật canh tác lạc hậu, dẫn đến năng suất sản lượng không cao. Tình trạng thiếu lương thực thường xuyên diễn ra. “Ở Tây Bắc, trước ngày giải phóng, cứ sáu năm thì hai năm được mùa, một năm kém, một năm rất kém và hai năm mất trắng” [131, tr.168]. Nương rẫy đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất của cư dân nơi đây nhưng chủ yếu là nương theo hình thức canh tác

105

đốt rừng, chọc lỗ tra hạt. Năng suất, sản lượng còn thấp hơn cả ruộng nước. Điều này dẫn tới đời sống của bộ phận dân cư sinh sống dựa vào nương rẫy không ổn định, bấp bênh. Theo Đặng Nghiêm Vạn “đó là một hình thức trồng trọt với công cụ thô sơ, lao động rất nặng nhọc mà năng suất rất bấp bênh và thấp kém gắn liền với một nền kinh tế tự cấp tự túc, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên” [172, tr.26]. Trong khi đó, chăn nuôi được coi là nghề phụ, chưa phải một ngành kinh tế. Chăn nuôi chủ yếu phục vụ nhu cầu của các hộ gia đình, với hình thức chủ yếu là thả rông nên năng suất không cao.

Trong quá trình làm nông nghiệp, các khâu trong sản xuất trồng trọt chưa hoàn chỉnh, thể hiện rõ tính chất phụ thuộc vào tự nhiên. Làm ruộng thì chỉ có biện pháp về nước, tuy nhiên người Thái chỉ dẫn nước nhờ có trọng lực dựa trên sự chênh lệch địa hình, chỉ cấy một vụ “mùa khô người Thái không trồng bất cứ cây gì” [23]. Họ không bón phân cho ruộng vì đã sẵn nguồn phân tự nhiên. Họ chỉ lựa chọn những giống thích nghi với từng loại đất chứ chưa đặt ra thành một biện pháp kỹ thuật về giống cho từng vụ. Khi làm nương vẫn theo lối “đao canh hỏa chủng”, “chọc lỗ tra hạt”. Lối canh tác đó phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên, rừng cây, thời tiết, chất đất... Làm nương kiểu này thường không phải qua các biện pháp thủy lợi, phân bón... Vấn đề nước ở đây chỉ trông vào trời, nhờ mưa mà đất có độ ẩm, khiến cho rễ cây trồng có thể phát triển được. Còn việc bồi bổ cho đất thì rõ ràng chỉ dựa vào một nguồn duy nhất là mùn và tro của rừng cây đã bị đốt dẫn tới năng suất lao động trên nương thấp. Đây là hình thức trồng trọt mang bóng dáng của lối sản xuất khi loài người mới bước vào ngưỡng cửa nông nghiệp. Với lối làm đó con người chỉ cần những thứ công cụ thô sơ chế tác bằng hai bàn tay, chứ ít khi cần đến một loại công cụ do một nền công nghiệp sản xuất ra. Nhưng với điều kiện đất rộng, người thưa thì các công cụ lao động giản đơn đó cũng giúp con người giải quyết được các vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Kể cả với nương cày của người H’mông, việc đào xới đất trên địa hình có độ dốc lớn không kết hợp chặt chẽ với việc xây dựng mặt bằng, đắp bờ chống xói lở, trôi màu, để tạo ra cơ sở định canh và thâm canh, do đó hàng năm đất đai đã bị bào mòn nghiêm trọng. Việc này kết hợp với hình thức bỏ hóa trong canh tác dẫn tới nhiều cánh rừng bị tàn phá nghiêm trọng, không có khả năng canh tác, tình trạng đất trống, đồi núi trọc ngày càng tăng lên.

Tuy nhiên kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp lấy cơ sở trồng trọt làm gốc, nhìn chung đã đem lại cho mỗi gia đình nơi đây sự cân đối nhất định trong cuộc sống. Những phần thiếu trong lao động sản xuất bởi tình trạng sản xuất theo mùa lại được thiên nhiên ưu đãi, bù đắp. Họ vẫn phụ thuộc vào tự nhiên, khai thác tự nhiên thông

106

qua hái lượm, săn bắn, đánh cá… Địa hình và khí hậu của Sơn La đã tạo nên sự phong phú của các loại động vật, thực vật, thủy sản (cá, tôm) có sẵn trong các cánh rừng, trong các ao, hồ, sông suối điều này dẫn tới khi mùa vụ thất bát, khi không đủ thức ăn, khi chưa tới mùa thu hoạch… các tộc người thường vào rừng săn bắt, hái lượm, xuống sông, suối đánh bắt cá. Như câu của người Thái “cơm nước ở mặt đất, thức ăn ở trong rừng” nên “bản nào cũng có phạm vi đất bản bao gồm khúc sông nơi có vũng cấm; rừng núi rộng lớn cây mọc san sát và đồng ruộng” [155, tr.240]. Họ coi săn bắn và đánh bắt cá là hoạt động không thể thiếu bên cạnh trồng trọt và chăn nuôi. Tình trạng này càng phổ biến với các tộc người lấy nương rẫy làm nguồn sống chính bởi họ cư trú chủ yếu ở vùng rừng núi. “Trong hoạt động kinh tế, cũng như đời sống kinh tế truyền thống của người Khơ mú hái lượm là một hoạt động kinh tế quan trọng không thể thiếu” [108, tr.168]. Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến mức độ phát triển của tỉnh Sơn La so với các tỉnh lân cận trong vùng và nhất là với khu vực đồng bằng. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho kinh tế nông nghiệp truyền thống của các tộc người tại đây ít có sự biến đổi, không thoát khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp.

Thứ năm, dưới tác động của vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp đã khiến cho xã hội có sự phân hóa rõ nét với đặc trưng là sự tồn tại lâu dài của chế độ phìa tạo trong các bản mường. Xã hội đã phân hoá thành hai bộ phận: một bên là giai cấp thống trị đại diện là quý tộc với trách nhiệm quản lý bản mường; một bên là giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân trong bản mường với trách nhiệm lao động để gánh vác việc mường. Nếu so sánh giữa quý tộc (phìa tạo) trong xã hội người Thái với giai cấp địa chủ trong xã hội phong kiến có thể thấy, đây đều là những bộ phận có khả năng bóc lột người lao động dựa trên cơ sở là ruộng đất. Địa chủ là những người sở hữu nhiều ruộng đất, quyền sở hữu xác định trong các văn tự nên họ có quyền mua bán ruộng đất. Địa chủ tiến hành phát canh thu tô đối với những nông nô, hoặc tá điền vì có rất ít hoặc không có ruộng đất phải đi lĩnh canh và nộp tô lao dịch hay hiện vật (thóc, tiền) cho địa chủ. Hay nói cách khác, địa chủ thu được tô của nông dân khi họ nhận ruộng đất của địa chủ. Quan hệ giữa địa chủ và nông nô, tá điền chỉ là quan hệ bóc lột về kinh tế. Trái lại, phìa tạo không chiếm lấy đối tượng lao động mà chiếm lấy con người lao động. Dân là của tạo vì tạo là đại diện cho bản mường. Nói cách khác đây là sự thống trị, bóc lột cả về thể xác lẫn linh hồn. “Người dân lúc sống làm nông nô cho chúng; khi chết đi họ vẫn do “hồn” chúa đất cai quản. Số kiếp họ phụ thuộc hoàn toàn vào chúa đất” [131, tr.219]. Như vậy, quý tộc Thái dựa vào chức năng quản lý bản mường đã lấy được toàn bộ lao

107

động và con người lao động. Một kiểu bóc lột toàn dân “bằng cống nạp sản vật và lao dịch không công” với những mức độ khác nhau giữa các bộ phận dân cư, phụ thuộc vào địa vị của họ trong xã hội như đã trình bày ở trên về quyền lợi và trách nhiệm khi nhận ruộng toàn mường. Theo Cầm Trọng, “đây là lối vừa thống trị vừa bóc lột rất thâm hiểm. Nó đánh thẳng vào quan hệ giữa người với người. Nó trực tiếp bắt người ta phải cúi đầu chịu sự bất công. Nó không cần phải đi từ việc nắm chặt những đối tượng lao động để tước đoạt lao động, bắt người lao động phải tuân thủ, vì không có đối tượng sản xuất. Nó đi từ cái chung nhất là nhà nước, dùng cái chung đó để tước đoạt sức sản xuất” [165, tr.265].

Tuy nhiên, khi tiếp cận các nguồn tài liệu khác nhau, tác giả luận án nhận thấy, cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược, ở Sơn La không có những phong trào đấu tranh của nông dân các tộc người chống lại chế độ phìa tạo. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

Với người Thái, họ coi chế độ phìa tạo là tối cao. Phìa tạo là những người đã dẫn dắt họ chiếm đất, tạo mường, giúp họ có cuộc sống ổn định nơi đây. Người Thái coi luật tục chính là luật pháp, họ tuân thủ chặt chẽ luật tục do bộ phận phìa tạo đặt ra. Họ coi sự bóc lột của phìa tạo, của quý tộc, của chức dịch đối với người dân là nghĩa vụ. Người dân phải có nghĩa vụ để đền đáp công ơn tạo mường, dựng bản cũng như giúp đỡ, cai quản để họ có cuộc sống ổn định. “Khái niệm mường và chúa đất được coi như đồng nhất. Muốn lập mường phải có tạo; Chúa có mạnh mường mới vững” [131, tr.218].

Còn đối với các tộc người khác Thái nhất là nhóm Khơ mú, Kháng, La Ha, Xinh mun “hầu như không có một bộ phận nào cư trú trong một khu vực tập trung đông và được xây dựng thành một đơn vị hành chính cấp trên bản” [172, tr.27]. Họ không có bản mường nên phải thần phục các chúa đất phong kiến Thái, sống trong các lãnh địa Thái và họ chấp nhận việc lao dịch và cống nạp sản phẩm không định mức của tầng lớp phong kiến Thái.

Riêng với người H’mông, họ xuất hiện ở Sơn La muộn hơn các tộc người khác, người Thái lại tiến hành cách thức bóc lột khác bởi bản của người H’mông ổn định hơn, tổ chức xã hội được phân chia rõ ràng hơn, kinh tế nương rẫy phát triển hơn so với các tộc người Khơ mú, Kháng, Xinh mun, La Ha. Họ được “… quản lý rừng rú, nương rẫy, khai thác các lâm thổ sản ở địa phương. Họ được tổ chức các bản làng riêng, do các tù trưởng của họ cầm đầu, với những luật lệ phép tắc riêng” [174, tr.88]. Trong khi các tộc người bị gọi chung là Xá phải làm cuông, nhốc, pụa pái cho bộ phận thống trị người Thái thì người H’mông chỉ phải nộp quỹ thuế bằng

108

hiện vật. Trong Luật lệ bản mường Mai Sơn quy định: “Người Mèo đến sau người Thái mới được khoảng 300 năm lại đây. Họ làm nương trên núi cao, không bắt họ làm cuông cho một chức dịch nào, nhưng họ phải nộp quỹ thuế cho án nha. Mỗi khi mường cần việc thể như cúng lễ, họ phải nộp lợn, nộp gà. Khi án nha, thư, thông lại làm nhà họ phải đem ván đến nộp để làm cửa, vách, cửa sổ. Những việc mường khác, trong đó có việc đi phu đi phen, họ không phải đi” [155, tr.136].

Như vậy, dựa trên công sức khai phá lập bản dựng mường, cũng như chính sách cai trị khéo léo với từng bộ phận dân cư nên những mâu thuẫn giữa các tộc người với người Thái, cũng như mâu thuẫn giữa chính những cư dân trong tộc người Thái dĩ nhiên có xuất hiện nhưng không sâu sắc như các khu vực khác. Điều này khiến xã hội Sơn La ít biến động, ít mâu thuẫn, ít xung đột. Sau này, khi thực dân Pháp vào thống trị Sơn La vì những ưu việt này nên về cơ bản vẫn giữ nguyên bộ máy thống trị cũ theo chế độ phìa tạo.

109

Tiểu kết chương 3

Trong sở hữu ruộng đất tại tỉnh Sơn La nổi lên vai trò quan trọng của bộ phận người Thái nhất là các dòng họ quý tộc Thái và chức dịch phục vụ trong bộ máy chính quyền. Vai trò của bộ phận quý tộc này càng được thể hiện rõ nét thông qua các bản luật tục của người Thái. Về đại thể, ruộng đất thuộc quyền sở hữu chung của bản mường do quý tộc Thái (Phìa, tạo, chẩu mường) cai quản, sau đó tiến hành phân chia cho các bản. Ở các bản đều có hệ thống chức dịch trông coi các lĩnh vực khác nhau tiếp tục tiến hành phân chia ruộng đất cho các bộ phận dân cư trong xã hội (kể cả người Thái cũng như các tộc người khác). Như vậy, từ ruộng toàn mường sau khi tiến hành phân chia cho bộ phận quý tộc, đến chức dịch, đến nông dân dẫn tới sự xuất hiện của nhiều loại hình ruộng đất. Mỗi một loại hình lại tương xứng với một bộ phận cư dân cụ thể trong xã hội. Đặc biệt, để duy trì bộ máy thống trị, bộ phận phìa tạo, chức dịch dựa vào ruộng gánh vác hay dựa vào bóc lột nông dân tự do trong các bản mường làm cơ sở cho sự tồn tại. Và bộ phận nông dân tự do người Thái chấp nhận nghĩa vụ gánh vác việc bản mường để nhận ruộng đất canh tác, tuân thủ luật tục do bộ phận thống trị đặt ra. Sự phân chia ruộng đất và tổ chức canh tác trên các loại ruộng đất như trong luật tục của người Thái khiến cho sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, nông nghiệp chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu tại chỗ mà không trở thành mặt hàng xuất khẩu thường xuyên. Hay nói cách khác, sản xuất nông nghiệp thời kì này mang tính tự cung tự cấp.

Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895 gồm hai ngành: trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó, trồng trọt giữ vị trí chủ đạo, chăn nuôi chỉ là nghề phụ trong các gia đình. Tuy nhiên với lối canh tác lạc hậu dẫn tới năng suất thấp, tình trạng thiếu lương thực thường xuyên diễn ra, cư dân trong tỉnh phụ thuộc nhiều vào khai thác các sản vật có sẵn trong tự nhiên để duy trì cuộc sống. Trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp trồng trọt chiếm giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Chăn nuôi chưa phải là một ngành kinh tế độc lập, vẫn được coi là ngành phụ. Chưa có bộ phận dân cư nào sống phụ thuộc hoàn toàn nhờ vào chăn nuôi. Chăn nuôi chủ yếu phục vụ sức kéo cho nông nghiệp hoặc làm phân bón cho sản xuất. Các hoạt động chăn nuôi khác nhất là gia cầm chỉ phục vụ thức ăn cho các gia đình.

Sự phân chia ruộng đất của người Thái nói riêng, các tộc người ở Sơn La nói chung gắn liền với sự phân hóa xã hội. Xã hội Sơn La bao gồm hai bộ phận: thống trị (quý tộc, chức dịch); bị trị (nông dân tự do, nông dân bán tự do, gia nô). Hay nói cách khác, vị thế xã hội quyết định quyền lợi trong sở hữu ruộng đất của các bộ phận dân cư thời kì này.

110

Chế độ phìa tạo là chế độ tồn tại lâu dài trong thiết chế xã hội ở Sơn La, chi phối mọi mối quan hệ khác ở nơi đây cho đến trước năm 1945. Phìa tạo là những người sở hữu cao nhất về ruộng đất trong xã hội bởi là bộ phận quản lý “ruộng toàn mường”, sau đó tiến hành phân chia cho con cháu quý tộc, các chức dịch, nông dân theo những mức độ khác nhau để canh tác. Sự phân chia này làm nảy sinh hàng loạt các hình thức sở hữu ruộng đất khác nhau dẫn tới sự phân hóa xã hội dựa trên cơ sở của ruộng đất trở nên sâu sắc.

111

CHƯƠNG 4 KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH SƠN LA TỪ NĂM 1895 ĐẾN NĂM 1945

4.1. Những điều kiện lịch sử mới tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La 4.1.1. Thực dân Pháp đánh chiếm và đặt ách cai trị tại Sơn La

Ngày 31/8/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta ở Đà Nẵng, sau đó nhanh chóng mở rộng phạm vi đánh chiếm ra các tỉnh Nam Bộ. Ngày 20/11/1873, thực dân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Ngày 25/4/1882, thực dân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai. Để nhanh chóng hoàn thành công cuộc xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp một mặt tăng cường mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các địa phương, mặt khác tăng cường dùng vũ lực ép buộc triều đình phong kiến Nguyễn kí kết Điều ước Patơnốt (Patenôtre) ngày 6/6/1884 thừa nhận quyền “bảo hộ” của thực dân Pháp đối với nước ta và thoả thuận với triều đình phong kiến Mãn Thanh kí kết Quy ước Thiên Tân ngày 11/5/1884 (sau này sửa đổi lại thành Hiệp ước Thiên Tân ngày 9/6/1885), buộc nhà Thanh phải thừa nhận quyền thống trị của Pháp ở Việt Nam và rút hết các lực lượng quân sự ở Bắc Kỳ về nước. Với những việc làm đó, thực dân Pháp đã có thể tập trung lực lượng để “bình định” vùng Tây Bắc và Thượng lưu sông Đà.

Cuối tháng 3/1884, từ Sơn Tây thực dân Pháp bắt đầu tập trung lực lượng đánh chiếm Hưng Hoá - vị trí tiền tiêu của Tây Bắc. Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp, Đốc Ngữ, Đề Kiều, các lực lượng kháng chiến của ta đã chiến đấu dũng cảm bẻ gãy nhiều đợt tiến quân của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại... Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, quân Pháp lại dùng đại bác công phá dữ dội thành Hưng Hoá và các tuyến phòng thủ của ta ở ngoài cửa sông nên các lực lượng kháng chiến không thể cầm cự lâu dài ở trong thành được mà phải chủ động tìm cách rút ra ngoài về các căn cứ chống Pháp đã được xây dựng từ trước ở Thanh Sơn, Thu Cúc, Lai Đồng. Một bộ phận rút lên Lào Cai và tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới quyết liệt hơn... Đến ngày 12/4/1884, thực dân Pháp đánh chiếm được thành Hưng Hoá và đến cuối 4/1884, về cơ bản thực dân Pháp đã “bình định” được toàn bộ khu vực Hưng Hoá và dọc hai bên bờ sông Thao [133, tr.56].

Sau khi đánh chiếm được thành Hưng Hoá và triệt phá được các căn cứ chống Pháp của ta ở dọc sông Thao (1884), thực dân Pháp triệt để sử dụng các thủ lĩnh và nghĩa quân ra đầu thú (Cầm Bun Hoan - thủ lĩnh nghĩa quân Mường La (Sơn La), Nguyễn Văn Quang - thủ lĩnh nghĩa quân Văn Bàn, Văn Chấn - Yên Bái) đưa đường tiếp tục đánh mạnh vào vùng trung tâm Tây Bắc và Thượng lưu sông Đà từ

112

nhiều hướng. Ngày 3/12/1887, từ Bảo Hà (Lào Cai) được sự dẫn đường của Cầm Bun Hoan (thủ lĩnh nghĩa quân Mường La đã ra đầu thú thực dân Pháp năm 1884) tên quan tư Pháp Uđơri (Ouderie) dẫn đầu đội quân xâm lược theo đường Ngọc Chiến, It Ong, Tạ Bú, Mường Bú (Mường La) đánh chiếm Sơn La [133, tr. 62].

Mặc dù có nhiều trận đánh của nhân dân địa phương nhằm cản bước chân xâm lược của thực dân Pháp nhưng do phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, lại không có ưu thế về quân sự, vũ khí thô sơ, sự tiếp ứng của các địa phương không kịp thời... đến cuối tháng 1/1888, thực dân Pháp đánh chiếm được châu lị Mường La. Đến giữa tháng 2/1888, sau khi có quân tiếp viện từ Thuận Châu, Mường La, Tà Hộc đến thực dân Pháp tiếp tục cho quân tiến đánh châu lị Mai Sơn. Từ đầu tháng 4/1888, thực dân Pháp bắt đầu tập trung lực lượng đánh chiếm Yên Châu, Mộc Châu. Về cơ bản, đến tháng 4/1888, thực dân Pháp đã chiếm đóng được các châu mường ở Sơn La.

Ngày 10/10/1895, thực dân Pháp chuyển Sơn La sang chế độ dân sự bằng việc thành lập đơn vị hành chính tỉnh Vạn Bú và bắt đầu xúc tiến việc thiết lập và hoàn chỉnh bộ máy cai trị từ cấp tỉnh xuống tận các mường, bản nhằm phục vụ cho việc áp bức về chính trị; khai thác, bóc lột về kinh tế. Quyền quản lý thuộc về Tòa công sứ đặt tại tỉnh lỵ, đứng đầu là viên công sứ người Pháp nắm cả quyền hành pháp lẫn tư pháp. Giúp việc trực tiếp cho công sứ là một Phó công sứ người Pháp. Ngoài ra, còn có một số viên chức người Pháp làm đại diện cho công sứ Sơn La ở Trung tâm hành chính Vạn Yên và Tạ Bú. Chính quyền thuộc địa sử dụng những nhân viên giúp việc người bản xứ, gồm các thư ký, các tùy phái làm các công việc văn thư, chạy giấy tờ, phiên dịch tiếng Thái, tiếng Hoa, làm kế toán... Đồng thời cho thiết lập những cơ quan chuyên trách về các vấn đề kinh tế, xã hội nhằm giúp việc cho Tòa sứ như Sở thương chính, Sở công chính, ngân khố, thuế. Đứng đầu các cơ quan này là các viên cai trị, các công chức người Pháp, ngoài ra còn có các nhân viên người bản xứ làm phụ tá.

Chính quyền thuộc địa tiếp tục duy trì bộ máy hành chính phong kiến rất phức tạp. Đứng đầu là Tuần phủ, quản đạo nhưng chỉ là sự thừa hành, quyền hành rất hạn chế. Giúp việc cho tuần phủ có một số bộ phận chuyên lo những công việc về mặt hành chính, lễ nghi, văn hóa, xã hội… Còn ở địa phương: các châu, mường, bản gần như thực dân Pháp giữ nguyên bộ máy thống trị của quý tộc phong kiến trước đây. “Âm mưu của chúng là thông qua bộ máy phong kiến cũ bên dưới để nắm dân, không đụng chạm đến hoặc có khi còn khuyến khích trong một phạm vi nhất định những quan hệ phong kiến cũ để ràng buộc người dân với chúa đất, và

113

thông qua hình thức phong kiến và nửa phong kiến để ráo riết bóc lột nhân dân lao động” [174, tr.124]. Với hệ thống hành chính này, chính quyền thuộc địa muốn thực thi các chính sách cai trị bằng cách biến các lãnh địa phong kiến dần thành các đơn vị hành chính, biến các quan lại địa phương từ cấp tỉnh xuống cấp châu, phủ thành những quan chức ăn lương, được hưởng đặc quyền, đặc lợi. Chúng duy trì chế độ đẳng cấp để giữ nguyên những bất bình đẳng về lợi ích kinh tế, chính trị để ngăn chặn sự đoàn kết thống nhất của nhân dân trong tỉnh. Sự duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đất của các thế lực phong kiến tay sai, duy trì chế độ “cuông”, “nhốc”, duy trì hệ thống chính quyền phức tạp, chồng chéo kể trên thể hiện rõ điều đó.

Ngoài bộ máy hành chính phức tạp trên, chính quyền thuộc địa vẫn sử dụng hệ thống chính quyền có tính chất tự trị của các dân tộc H’mông, Xá, Dao: “Đứng đầu người H’mông là một thống lý, chúa tể cai quản 75 bản người H’mông. Dưới thống lý có các sùng quan (chánh tổng), quan sư (phó tổng) do các séo phải (trưởng bản) và mù lao (phó bản) bầu lên. Một số bản gộp lại thành một khối do 1 chá thào đứng đầu. Đối với 115 bản người Xá: chúa tể Sen cầm đầu dân Xá Ten (ở Sơn La); Quan sít đứng đầu dân Xá Puộc (ở Mộc Châu); Khun đứng đầu dân Xá Cẩu (ở Mai Sơn). Đối với 59 bản của người Dao đứng đầu là 1 quan bản” [160, tr.57].

Người Pháp đã nắm quyền chỉ huy quân sự ở địa phương. Trong cả một thời thống trị, chính quyền thuộc địa luôn luôn dùng người địa phương trấn áp người địa phương, lấy lính người Thái đánh nhân dân Thái và các tộc người khác. Quam tô mương Mường La ghi: “… Tây vào mường cho tuyển ngay mỗi châu mường 50 lính Thái. Các tri châu đã hàng Pháp được giữ lại 30, còn 20 Tây cho đóng ở các đồn binh để điều khiển” [139]. Với chính sách này, thực dân Pháp đã gây ra sự thù hằn dân tộc, làm tan rã mối liên hệ giữa các tộc người với nhau. Đồng thời, chính sách này đã cắt đứt quyền chỉ huy quân sự trực tiếp của các thủ lĩnh châu mường, biến họ thành tay sai cho chế độ thực dân. Bởi vậy, ngay từ cuối thế kỷ XIX, đã xuất hiện những đội lính địa phương bao gồm hầu hết là người Thái dưới sự chỉ huy trực tiếp của sĩ quan Pháp được Phìa tạo đầu hàng dẫn đường, chỉ lối đi đàn áp các phong trào yêu nước của người Hoa, H’mông, Dao, Thái… ở vùng tả ngạn sông Đà.

Thực dân Pháp tiến hành chính sách chia để trị, được coi là quốc sách trong chính sách cai trị tại Sơn La nói riêng, Tây Bắc nói chung. Đối với người Thái, thực dân Pháp gây ra sự tách biệt giữa Thái Đen và Thái Trắng, tiến hành ly gián khối đồng nhất giữa các châu mường. Điều này thể hiện rõ rệt trong việc phân chia khu vực hành chính dưới quyền cai trị trực tiếp của thực dân Pháp. Như việc tách Lai Châu và Sơn La. Lai Châu được Pháp coi như xứ sở của người Thái Trắng, Sơn La

114

là xứ sở của người Thái Đen. Lai Châu đặt dưới sự cai trị trực tiếp của đạo quan binh thứ tư, còn Sơn La lại theo chế độ công sứ. Chẳng những thế, bị thực dân Pháp cai trị trực tiếp, các châu mường Thái về thực chất không còn là đơn vị hành chính của nhà Nguyễn. Mối liên hệ giữa triều đình với địa phương không còn là hệ thống thống nhất. Thực dân Pháp luôn gọi với tên “xứ Thái tự trị”, “khu Mèo tự quản”… Chính quyền thuộc địa hành chính sách chia để trị, gây thù hằn, chia rẽ và khoét sâu sự kỳ thị giữa các dân tộc, chia rẽ người Kinh với các tộc người thiểu số, chia rẽ giữa các tộc người thiểu số với nhau. Chúng thừa nhận sự áp bức của người Thái đối với các tộc người thiểu số khác. Quam tô mương của Mường Muổi (Thuận Châu) viết: “Ở vùng người Mèo phải chịu sự sai bảo của dân tộc Thái; hàng năm người Mèo phải cống nạp cho quý tộc (phìa tạo) Thái và quan Tây nhiều thuốc phiện, bạc trắng và gái đẹp (ỷ sao)” [140].

Những chính sách chính trị của thực dân Pháp kết hợp với những biện pháp

kinh tế đã khiến cho xã hội Sơn La có nhiều biến chuyển sâu sắc. 4.1.2. Chính sách nông nghiệp của chính quyền thuộc địa

Chính sách ruộng đất Ngay sau khi kết thúc các hoạt động quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường công cuộc cướp đoạt ruộng đất dẫn tới sự xuất hiện ngày càng nhiều của các đồn điền rộng lớn. Cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền là chủ trương lớn nhất của thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp đã ban hành hàng loạt các nghị định để thúc đẩy quá trình thiết lập đồn điền, trong đó có hai nghị định quan trọng là Nghị định 5/9/1888 và Nghị định ngày 18/8/1896, với mục đích duy nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho việc chiếm đất của các nhà thực dân [157, tr.33]. Đối tượng chính được hưởng qui chế nhượng đất nông nghiệp ở Bắc Kỳ là người Pháp. Cho đến cuối thế kỉ XIX, phần lớn diện tích đất nhượng để lập đồn điền đều nằm ở Bắc Kỳ “chiếm 61% tổng số đất đồn điền của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam và Đông Dương” [126, tr.16].

Bước sang đầu thế kỉ XX, với Nghị định ngày 27/12/1913 về việc nhượng đất nông nghiệp (và đất trong thành phố) chung cho toàn Đông Dương, đây là lần đầu tiên người bản xứ được tham gia quy chế nhượng đất dành cho người Pháp với tư cách là thần dân và dân bảo hộ. Về sau, việc nhượng đất cho người bản xứ được thực hiện theo các quy định 7/7/1888; 8/11/1910 và 13/11/1925. “Nhìn chung, quyền xin cấp nhượng của họ rất hạn chế. Diện tích mà họ được xin không quá 5 ha và phải được khai thác toàn bộ trong thời hạn 1 năm. Sau 2 năm những

115

phần chưa được trồng cấy sẽ bị Nhà nước thu hồi. Thuế đối với toàn bộ đất nhượng sẽ bị đánh từ năm thứ ba trở đi” [157, tr.40]. Ruộng đất được cấp cho người bản xứ đều là đất xấu, khó khai thác bởi vì, sau hàng chục năm thực hiện chính sách đồn điền những đất tốt, để trồng cấy, thuận tiện giao thông đều đã được cấp hết cho các điền chủ người Pháp.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình có nhiều thay đổi, nông nghiệp được đặt lên hàng đầu, việc nhượng đất, di dân, khẩn hoang được chú trọng, chính quyền thuộc địa tiếp tục thực hiện và mở rộng những biện pháp đã sử dụng trước đây để thúc đẩy công cuộc này. Sau năm 1920, chính quyền thực dân đã phải ban hành liên tiếp những văn bản khác để hoàn chỉnh chế độ nhượng địa ở Đông Dương: từ Nghị định 13/4/1924 đến Nghị định 19/9/1926, Sắc lệnh 26/3/1927 được thay thế bởi Sắc lệnh 5/7/1927… cuối cùng Sắc lệnh ngày 4/11/1928 (gồm 38 điều khoản) hoàn thành gần như cơ bản chế độ nhượng đất ở Đông Dương, quản lý việc nhượng đất công nông nghiệp ở Đông Dương cho đến mãi sau này [158, tr.55]. Sắc lệnh này được áp dụng vào Đông Dương bằng Nghị định 28/3/1929 và sau đó được bổ sung bằng hàng loạt các văn bản. Mục đích chung của các văn bản này nhằm “tạo điều kiện cho bọn địa chủ người Âu mặc sức cướp đoạt ruộng đất của nhân dân ta” [126, tr.16]. Đến công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2, các đồn điền được thiết lập chủ yếu ở Nam Kỳ (chiếm 59,2% toàn bộ diện tích đồn điền của người Pháp ở Đông Dương) [126, tr.16]. Việc thiết lập đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ giảm đi. Ở Bắc Kỳ giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ nhất chủ yếu là việc nhượng đất và khẩn hoang của người Việt dưới nhiều hình thức khác nhau: “khẩn hoang tại chỗ”, “tiểu đồn điền di dân tự do”, “di dân tập thể”, “đồn điền di dân” [158, tr.57]. “Sự thay đổi trong chính sách nhượng đất, di dân, khẩn hoang của thực dân Pháp thời kì này chủ yếu nhằm khai thác nhiều nhất nền nông nghiệp thuộc địa và những sản phẩm nhiệt đới mà công nghiệp và thương mại Pháp đang cần, bố trí lại lao động trên toàn lãnh thổ để cung cấp nhân công cho các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp của người Pháp, để giảm bớt dân ở những vùng đồng bằng quá đông, có thể gây ra sự bất ổn về chính trị và xã hội cho chế độ thuộc địa. Cũng như vậy, quy chế này còn nhằm xoa dịu bớt mâu thuẫn giữa dân “bản xứ” với chính quyền thực dân thông qua vấn đề ruộng đất” [158, tr. 82].

Chúng ta có thể thấy về cơ bản đối với khu vực Bắc Kỳ, thực dân Pháp thực hiện hai chính sách lớn về ruộng đất tương ứng với hai giai đoạn khác nhau. Giai đoạn 1, từ khi xâm chiếm Bắc Kỳ đến hết chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 – 1918) chủ yếu là chính sách cướp đất lập đồn điền nhằm bình định các khu vực mới

116

chiếm đóng. Giai đoạn 2 từ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất đến năm 1945 (1918 – 1945) là chính sách nhượng đất, khẩn hoang với mục đích tăng cường khai thác nơi đây. Sự thay đổi trong chính sách ruộng đất của thực dân Pháp ảnh hưởng lớn đến tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp của toàn bộ khu vực Bắc Kỳ trong đó dĩ nhiên có Sơn La.

Bên cạnh đó, ở Bắc Kỳ - nơi chế độ ruộng công tồn tại lâu đời, thực dân Pháp chủ trương duy trì, thậm chí phát triển chế độ sở hữu công, cấm các làng xã không được bán công điền công thổ nhằm “duy trì sự tồn tại của chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất” [126, tr.22], “buộc người nông dân phải phụ thuộc vào diện tích công điền ít ỏi của các làng xã, chấp nhận thân phận nô lệ cho bọn địa chủ bản xứ” [126, tr.23-24]. Chính sách này đã đẩy nông dân Bắc Kỳ rơi vào tình cảnh phá sản, bần cùng và bế tắc.

Chính sách khai thác nông nghiệp thuộc địa Theo tác giả Tạ Thị Thúy, trong thời gian từ năm 1884 đến năm 1918, “ở Đông Dương không có cơ quan chuyên trách phụ trách vấn đề khai thác thuộc địa về nông nghiệp của người Âu. Lĩnh vực này phụ thuộc vào các cơ quan chịu trách nhiệm về vấn đề kinh tế nói chung hay kinh tế nông nghiệp nói riêng, tiêu biểu là Phòng canh nông Bắc Kỳ” [157, tr.60]. Phòng canh nông Bắc Kỳ được thành lập vào năm 1894. Sau đó đến năm 1897, Sở Canh nông Bắc Kỳ ra đời (về sau năm 1901 được đổi tên thành Nha Nông, Lâm và Thương mại Đông Dương, năm 1911 đổi tên thành Sở Kinh tế Đông Dương). Bên cạnh Phòng canh nông Bắc Kỳ, có một số cơ quan khác được thành lập với mục đích hỗ trợ việc khai thác nông nghiệp của người Âu cũng như khuyến khích nông nghiệp bản xứ phát triển như: Nha Khí tượng Đông Dương (năm 1897), Sở Thú y và chăn nuôi Đông Dương (năm 1901), Hội đồng cải tiến chăn nuôi (năm 1904)… Đồng thời, chính quyền thuộc địa cho lập những trại nuôi ngựa giống, bò giống, dê giống, cừu… ở Cao Bằng, Huế, An Khê, Thủ Dầu Một… [150, tr.180].

Sau chiến tranh Thế giới thứ nhất, tại Đại hội thuộc địa năm 1920, Bộ trưởng Bộ thuộc địa quyết định lập ra Ủy ban Hành động Nông nghiệp thuộc địa. Một số cơ quan tư vấn về nông nghiệp cũng đã được thành lập trên Đông Dương để nghiên cứu tất cả những vấn đề do nền kinh tế nông nghiệp ở Đông Dương đặt ra như: Sở Nông nghiệp Đông Dương, Tổng Thanh tra Nông – Lâm nghiệp và Chăn nuôi, Viện nghiên cứu nông nghiệp Đông Dương. Đặc biệt để hỗ trợ cho quá trình phát triển của nhượng địa, khẩn hoang trên phạm vi toàn xứ Bắc Kỳ sau chiến tranh Thế giới thứ nhất 1918, người Pháp đã lập ra một hệ thống các Hội đồng khai thác thuộc địa để cố vấn cho chính quyền trong việc điều khiển công việc này. Đồng thời, để

117

khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là khai thác, mở rộng đồn điền, ngay từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX chính quyền thuộc địa đã thực hiện hàng loạt các biện pháp như chính sách thuế nông nghiệp, chính sách khen thưởng, chính sách trợ cấp cho việc trồng trọt và chăn nuôi của các điền chủ. Sau năm 1918, những chính sách này tiếp tục được thực hiện, thêm vào đó chính quyền thuộc địa còn tiến hành các biện pháp khác nhằm nâng đỡ các nông gia người Pháp và trợ giúp ít nhiều cho việc di dân, khẩn hoang, phát triển nông nghiệp [158, tr.46].

Ngày 8/4/1932, chính phủ Pháp ra Đạo luật cho Đông Dương vay tiền. Đạo luật này được ban hành ở Đông Dương bằng Nghị định 14/6/1932 của Toàn quyền Đông Dương nhằm khuyến khích và tăng cường sự đầu tư của chính quốc vào Đông Dương, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Số tiền được cho vay là 250 triệu franc. Tháng 6/1932, Quỹ Bảo trợ nông gia được thành lập ở Hà Nội để đứng làm trung gian cho các nông gia điền chủ trong việc vay tiền. Sắc lệnh ngày 10/10/1933, lập ra Quỹ tín dụng Nông phố hỗ tương Bắc Kỳ của người Pháp… [158, tr.46].

Ngoài ra chính quyền thuộc địa còn cho xây dựng các hệ thống thủy nông, các công trình giao thông, đường sắt, đường bộ… Trong một chừng mực nhất định, những việc làm này đã có tác động tích cực đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp ở Bắc Kỳ.

Chính sách thuế Thuế đối với ruộng đất nông nghiệp: Thuế ruộng đất cũng là nguồn thu chính của ngân sách địa phương. Ngày 2/6/1897, chính quyền thuộc địa đã ban hành Nghị định, quy định cụ thể, rõ ràng về thể lệ thuế ruộng đất tương đối thống nhất cho cả 3 kỳ có kèm theo một số biện pháp hỗ trợ. Ở Bắc Kỳ, chính quyền thực dân áp đặt hai biểu thuế ruộng đất: một biểu thuế riêng cho người bản xứ; một biểu thuế áp dụng đối với người châu Âu (kể cả người Pháp) và những người châu Á nước ngoài. Riêng biểu thuế ruộng đất áp dụng đối với người bản xứ (người An Nam) chia ruộng đất làm hai loại:

“Loại 1: là ruộng chỉ dùng để trồng lúa. Loại 2: là đất để trồng các loại cây trồng khác, đất ở, đất hoang, đầm, ao, hồ… Ruộng dùng trồng lúa: được chia làm 3 hạng, theo độ màu mỡ của đất, với các mức thuế: Ruộng hạng 1: 1đ50/1 mẫu/1 năm; Ruộng hạng 2: 1đ10/1 mẫu/1 năm; Ruộng hạng 3: 0đ80/1 mẫu/1 năm. Đất trồng các loại cây khác, đất nhà ở, đất hoang, đầm, hồ, ao, được chia làm 4 hạng: Hạng 1: 2đ00/1 mẫu/ 1 năm, là đất trồng các loại cây: thuốc lá, trầu, cau, dừa, mía; Hạng 2: 0đ50/1 mẫu/1 năm, là đất trồng các loại cây: dâu tằm, bông, chè, đay bản xứ, gai, thầu dầu; Hạng 3: 0đ30/1 mẫu/1 năm, là đất trồng các loại cây: ngô,

118

vừng, khoai, đỗ, lạc, cói, rau các loại, cây ăn quả, đất làm nhà ở; Hạng 4: 0đ10/1 mẫu/1 năm, là các loại đất bỏ hoang, ao, đầm, hồ” [114, tr.43].

Nhà nước miễn thuế đất cho các khu vực dùng làm nghĩa địa, đền, đình, nhà thờ, chùa chiền và công trình tôn giáo khác cùng với đất ở trong khuôn viên của các công trình này. Đồng thời tạm miễn thuế cho những vùng đất trồng cây cà phê và các loại cây được đưa từ nước ngoài vào; những vùng đất trồng đay ngoại nhập với điều kiện đất đó bị bỏ hoang trước khi trồng đay.

Để hỗ trợ thực hiện chế độ thuế mới, từ năm 1897, chính quyền thực dân đã đưa ra biện pháp thống nhất đơn vị đo lường và thực hiện “chính sách đạc điền” trên toàn Đông Dương. Đơn vị đo lường mới được đưa ra áp đặt là đơn vị đo lường quốc tế (m2, ha). Đồng thời chính quyền ban hành Nghị định, quy định 1 mẫu = 3600 m2 và quy định tiêu chuẩn 1 thước An Nam = 0,40 m làm cơ sở cho việc tiến hành đo đạc lại toàn bộ ruộng đất [114, tr.48].

Tóm lại, sau năm 1897 thuế ruộng đất ở Bắc Kỳ về mặt thể thức được duy trì như thời Nguyễn nhưng thuế tăng vọt về cả mức thuế và số diện tích ruộng đất phải đóng thuế. Đến năm 1925, chính quyền Bảo hộ chính thức đưa ra hai biểu thuế ruộng đất mới áp dụng ở Bắc Kỳ, thực hiện từ năm 1926. Một biểu thuế suất chung cho người bản xứ, người Á kiều và những người đồng hóa. Một biểu thuế cho những người Âu (kể cả Pháp kiều). Định suất trong các biểu thuế này tăng hơn thời kì trước. Riêng biểu thuế áp dụng đối với người bản xứ, người Á kiều và nguồn đồng hóa gồm các mức sau:

“Ruộng trồng lúa: Hạng 1: 1đ9/1 mẫu/1 năm; Hạng 2: 1đ5/1 mẫu/1 năm; Hạng 3: 1đ1 mẫu/1 năm. Đất trồng các loại cây khác: Hạng 1: 2đ3/1 mẫu/1 năm, cho các loại đất trồng thuốc lá, trầu, cau, dừa, mía đường; Hạng 2: 1đ/1 mẫu/1 năm, cho các loại đất trồng dâu tằm, bông, đay bản xứ, gai, thầu dầu; Hạng 3: 0đ5/1 mẫu/1 năm, cho đất trồng cà phê, chè, ngô, vừng, lạc, khoai lang, khoai sọ, đậu, rau các loại, cây ăn quả, cói, đất ở; Hạng 4: 0đ17/1 mẫu/1 năm, cho đất hoang, đất bỏ không, đầm, ao, hồ, ruộng muối; Hạng 5: 0đ02/1 mẫu/1 năm, cho đất hoang không thể trồng trọt hoặc không có khả năng phục hồi rừng thường xuyên. Miễn thuế cho các loại đất dành cho nghĩa trang, đền, chùa, nhà thờ, các công trình tôn giáo khác và đất nằm trong khuôn viên công trình đó. Đất trồng cà phê miễn thuế 6 năm đầu, đất trồng chè được miễn thuế 4 năm đầu, sau các thời điểm trên đóng thếu đất hạng 3 (0đ50)…” [114, tr.121].

Biểu thuế trên được chính quyền bảo hộ thực thi và duy trì cho tới tận năm 1945. Thuế đối với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: ở Sơn La, bên cạnh đường bộ,

119

hệ thống đường thủy trên sông Đà là con đường chủ yếu trong việc giao thương với bên ngoài, đặc biệt trong việc trao đổi buôn bán các sản phẩm nông nghiệp. Việc thực dân Pháp đánh thuế tàu thuyền đi lại trên sông dĩ nhiên có ảnh hưởng nhất định tới việc buôn bán của các bộ phận dân cư nhất là người Hoa, người Kinh – những thương nhân chủ yếu ở Sơn La. Năm 1889, thực dân Pháp đã lập sắc thuế đánh vào các loại tàu có trọng tải từ 50 tạ trở lên (1 tạ = 60kg) với mức thuế đồng nhất là là 1đ00/1 năm. Còn các loại tàu dưới 50 tạ được miễn thuế. Biểu thuế này lại liên tục được thay đổi vào các năm 1897, 1902. Đến năm 1902, kể cả các loại tàu thuyền từ 10 tạ đến 20 tạ sẽ đóng thuế hàng năm là 1đ00, tàu thuyền 20 tạ trở lên thì cứ tăng 1 tạ sẽ phải đóng thêm 0đ50 [114, tr.58]. Nhà nước yêu cầu các chủ tàu phải khai báo, đăng ký và nộp thuế cho các trạm đăng kiểm đường sông. Trên các tuyến đường sông đều có các trạm kiểm tra, kiểm soát. Chủ tàu phải xuất trình biên lai nộp thuế khi cần thiết. Mọi hành động vi phạm đều bị xử lý theo hình phạt do Nhà nước quy định.

Suốt cả thời kì thống trị, mục tiêu căn bản của thực dân Pháp là biến Việt Nam thành một xứ thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn vào nước Pháp. Việt Nam phải là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu béo bở, nguồn nhân công rẻ mạt cho tư bản Pháp, là nơi Pháp độc quyền mua rẻ hàng nông sản, xuất cảng kiếm lời và bán đắt hàng công nghiệp, là mảnh đất tự do cho những nhà tư bản tài chính tha hồ “cho vay nặng lãi”. Với chủ trương không phát triển công nghiệp nặng, việc phát triển kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi của người Pháp ở Việt Nam chủ yếu dựa vào những biện pháp có tính chất thực dân thuần túy.

Hệ thống chính quyền và các chính sách của thực dân Pháp thiết lập và thi hành như trên tồn tại đến tháng 3 – 1945 thì bị thay thế bởi chính quyền và các chính sách của phát xít Nhật. Sau khi đảo chính Pháp, quân đội Nhật giữ nguyên bộ máy hành chính cũ của Pháp, tăng cường chính sách bóc lột, vơ vét tàn bạo, phục vụ cho quân đội Nhật kéo dài chiến tranh, đẩy nhân dân Sơn La vào cảnh điêu đứng, khổ cực “nhiều làng bị đốt phá, đồng ruộng bị bỏ hoang, nhân dân thiếu đói, bệnh tật… Cuộc sống của các dân tộc trở nên cùng cực không lúc nào bằng” [105, tr.64]. 4.2. Tình hình ruộng đất 4.2.1. Diện tích và phân bố

Để xác định chính xác diện tích ruộng đất của Sơn La từ khi thực dân Pháp vào xâm lược đến năm 1945 chỉ có thể thông qua một số tài liệu và số liệu cực kì khan hiếm.

Theo thống kê của Henri trong “Kinh tế nông nghiệp ở Đông Dương” tổng diện tích của tỉnh Sơn La là 10.865 km2 trong đó diện tích ruộng là 8.000 ha, với

120

dân số 90.003 người thì bình quân ruộng đất là 0,088 ha/ người. So với trung bình bình quân đầu người của cả Bắc Kỳ là 0,147 ha thì diện tích ruộng bình quân đầu người của Sơn La ở mức thấp. Nếu so với các tỉnh lân cận như Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái thì diện tích ruộng của Sơn La ở mức cao nhất, trong khi Sơn La là 8.000 ha các tỉnh khác như Yên Bái 6.300 ha, Hòa Bình 4.600 ha, Lai Châu 4.500 ha [119, tr.1-2] (Xin xem phụ lục 4.1).

Về phân bổ diện tích ruộng đất trong tỉnh (Xin xem bảng 4.1) Bảng 4.1. Diện tích ruộng của Sơn La năm 1919 phân theo các châu

Châu Tổng (mẫu) Số hộ

Mai Sơn Thuận Châu Sơn La Yên Châu Mộc Châu Phù Yên Diện tích được tưới nước (mẫu) 545 1.175 1.069 571 457 945 Diện tích không được tưới nước (mẫu) 799 944 860 458 373 362 1.334 2.119 1.929 1.029 830 1.307 1.542 2.225 2.260 1.138 1.239 2.150

Tổng 4.762 3.796 8.558 10.554

(Nguồn: [33])

Như vậy, trong tổng số diện tích ruộng của tỉnh năm 1919 là 8.558 mẫu thì diện tích ruộng được tưới nước (ruộng lúa) chiếm tỉ lệ lớn hơn (chiếm 56%) so với ruộng nương (diện tích ruộng không được tưới nước). Diện tích ruộng đất lớn nhất ở châu Thuận, châu Sơn La; thấp nhất ở châu Mộc Châu. Điều này phần nhiều do yếu tố địa hình, điều kiện tự nhiên quy định. Trung bình mỗi hộ ở Sơn La nhận được 0,81 mẫu ruộng/hộ. Bình quân ruộng đất các hộ nhận được tính theo địa phương cao nhất là Thuận Châu 0,95 mẫu ruộng/hộ, thấp nhất là Phù Yên 0,61 mẫu ruộng/hộ.

Diện tích đất hoang hóa mặc dù không có số liệu thống kê cụ thể nhưng thông qua khả năng khai hoang ở một số địa phương có thể khẳng định diện tích này còn nhiều. Đất hoang vẫn còn chiếm tỉ lệ lớn ở một số địa phương tiêu biểu như châu Phù Yên, Mộc Châu. Ngày 6/7/1896, Toàn quyền Đông Dương ban hành công văn số 25 yêu cầu Ủy viên đại diện của chính quyền tại Vạn Bú tiến hành điều tra về tình hình đất đai chưa được khai thác. Ủy viên này đã tới tất cả các Châu của Vạn Bú đề điều tra và báo cáo:

Ở châu Phù Yên, còn nhiều đất chưa được khai hoang thuộc làng Tân Phong.

121

Đất này có thể cấp nhượng cho người Pháp và người bản địa. Ở làng Vạn Yên, gần sông Đà, nhiều ruộng đất trồng lúa ở chân núi đã bị bỏ hoang trong thời gian dài. Ở đây có khoảng 100 ha có thể cấp nhượng. Ở đây có thể trồng thử nghiệm một vài loại cây trồng khác nhau, như cà phê.

Ở Mộc Châu, chúng tôi thấy ở làng Mộc Hạ có nhiều lô đất với diện tích khoảng 100 ha. Cách làng Mộc Hạ khoảng 1 km trên đường từ chợ Bờ đê Vạn Yên cũng có khoảng 100 ha, một phần được trồng lúa. Làng Mộc Hạ có rất ít dân, khoảng 7 gia đình nghèo sinh sống. Lao động ở đây rất hiếm và khó khăn hơn ở Phù Yên [53].

4.2.2. Các loại hình ruộng đất

- Chế độ ruộng công (từ năm 1896 đến năm 1925) Trước năm 1925, trong các báo cáo thống kê về vấn đề ruộng đất của Sơn La đã khẳng định “Sở hữu tư nhân về ruộng đất không tồn tại ở tỉnh Sơn La” [55]. Vai trò của quý tộc Thái vẫn vô cùng lớn đối với sở hữu đất đai. Trong bản Báo cáo kinh tế năm 1940, Jean Cousseau, quyền Công sứ Đông Dương đã chỉ rõ: “Đất đai gần như nằm trong tay và là tài sản cha truyền con nối theo kiểu phong kiến của một số dòng họ lớn, như họ Cầm, họ Bạc, họ Sa. Người ta không có thể bán hoặc trao đổi thứ gì mà không thông qua các thành viên của một trong các dòng họ phong kiến trên. Họ không chỉ là những quan lại của địa phương mà còn là lý dịch trong các làng” [45].

Như vậy, toàn bộ ruộng ruộng thời kì này là sở hữu công. Lí giải về vấn đề này, trong bản báo cáo đã làm rõ: “Tất cả những người có quyền lực ở các Châu- Phìa đều chứng minh khẳng định các làng có thân phận nông nô, tổ tiên của họ và họ đã khai hoang đất đai và trên thực tế ruộng đất này là thuộc về họ” [45]. Quyền sở hữu đất hoàn toàn là quyền sở hữu công. Đó là một sự hạn chế, hạn chế này nó tạo ra tài sản chung về đất đai. Hoặc theo nhận định trong bản Báo cáo kinh tế năm 1939 của tỉnh Sơn La “cho tới năm 1925, người ta chỉ biết đến ở Sơn La một loại hình sở hữu, đó là sở hữu công, ruộng đất công” [44].

Mặc dù đều là sở hữu công về ruộng đất nhưng chính quyền thuộc địa chủ trương thu hẹp quyền bóc lột trên cơ sở ruộng công của tầng lớp “phìa, tạo”, biến “phìa, tạo” thành những công chức ăn lương. Duy trì cơ bản chế độ “phìa, tạo” biến nó thành bộ máy tay sai của chính quyền thực dân. Chính quyền thuộc địa tiến hành hạn chế, kiểm soát số lượng ruộng đất công cũng như quyền hành của bộ phận tri châu nơi đây. “Không nên chấp nhận tất cả những ý kiến của Tri châu, vì họ là

122

“những lãnh chúa phong kiến thế tập”. Họ có quyền lực và sức mạnh để cho phép họ hưởng những lợi ích từ sự thừa kế” [55].

Việc phân bổ ruộng đất được tiến hành thường xuyên giữa những người dân cùng với việc cấp ruộng đất cho thân hào và những người có quyền lực cao. Về phần những người trong biên chế của chính quyền làng xã, họ nhận lương điền (trả lương bằng ruộng) và cũng lương tiền (trả lương bằng tiền) hoặc bằng thóc. Lương tiền hoặc thóc do toàn bộ người dân trong làng đóng góp. Đối với Tri châu và Châu úy, họ cũng nhận một khoản tiền hàng tháng từ sự đóng góp của người dân, như: Thuế thân, thuế sưu dịch, thuế đất trồng.

Chính quyền thuộc địa can thiệp vào chế độ ruộng công rất khôn khéo, tiến hành phân bổ lại ruộng đất công với mục đích xén bớt các phần ruộng của chẩu mường do luật mường cũ quy định, rồi đền bù sự hao hụt đó bằng cách trả lương. Điều này trong các bản Quam tô mương đã ghi chép lại: “... Tạo Mường Lay hàng Tây, được làm quản đạo, mỗi tháng Tây cấp cho 1.200 đồng tiền Tây và cho ăn đất Thái ba đời. Từ đó Tây rất tin yêu tạo Mường Lay...” [139]. Sau việc làm này, quyền lợi của chẩu mường gắn chặt với quyền lợi của chính quyền thuộc địa. Biện pháp này chỉ thực hiện đối với người đứng đầu mường hay nói cách khác thực dân Pháp vẫn duy trì tổ chức xã hội cũ và nâng một số thổ tù thân tín lên giữ các chức vị đứng đầu tỉnh như Cầm Văn Oai làm bố chánh. Hệ thống chức dịch chủ yếu được nuôi dưỡng bằng hình thức bóc lột cũ, trở thành tay sai cho Pháp. Chẩu mường và các quý tộc Thái vẫn được hưởng chế độ cuông, nhốc, pụa pái, cốn hướn và phần dân đóng góp bằng hiện vật gọi là khẩu chạn, khẩu nguột. Chẩu mường và phìa vẫn có suất ruộng toàn mường tới làm; các chức dịch trong bộ máy châu mường vẫn được hưởng chế độ ruộng chức và một số chức dịch cao vẫn có quyền hưởng cuông, nhốc... Song tất cả các quyền lợi đó phải do chính quyền thực dân quyết định. Như vậy, dưới sự thống trị của Pháp, chế độ phìa tạo có bị thu nhỏ về mặt không gian, nhưng nó vẫn được thực dân Pháp nuôi dưỡng.

Trên thực tế, ruộng đất trong xã hội Thái từ khi thực dân Pháp xâm lược về cơ bản vẫn là ruộng công do bộ phận phìa tạo nắm quyền quản trị và phân phối. Ruộng công được chia thành hai loại:

Loại thứ nhất bao gồm các ruộng phìa tạo, ruộng chức là loại ruộng đất tốt nhất, chiếm khoảng 50% toàn bộ ruộng đất địa phương, dành riêng cho phìa tạo và các chức giúp việc trong bộ máy cai trị của phìa tạo. Ruộng đất của phìa tạo và ruộng chức được phân phối như sau. Xin xem bảng 4.2

123

Bảng 4.2. Ruộng chức dành cho phìa tạo và các chức dịch thời Pháp thuộc

Chức vụ

Số bản cuông

Ghi chú

Số ruộng công (mẫu)

“Án nha” (tức là tri phủ, tri châu) 10

Từ 10 đến 50 bản

Được chính quyền thực dân trả lương theo ngạch bậc quan lại.

“Nha úy” (tức là Châu úy) Từ 2 đến 5

Từ 5 đến 10 bản

Được chính quyền thực dân trả lương theo ngạch bậc quan lại.

Từ 2 đến 5

Từ 5 đến 10 bản

“Phìa tổng” (tương đương với Chánh tổng)

Từ 2 đến 3

Từ 2 đến 5 bản

“Phìa phó” (tương đương với Phó tổng)

“Sồng” (Kỳ mục thứ nhất) Từ 2 đến 5

Từ 2 đến đến 5

“Sự” (Kỳ mục thứ hai)

Từ 2 đến 3

“Chiềng” (Kỳ mục thứ ba) Từ 1 đến 2

“Chá” (Kỳ mục thứ tư)

1

Các “Mo chang”

Được hưởng một phần tích ruộng chức, diện nhiều hay ít tùy thuộc vào cấp bậc to hay nhỏ.

(Nguồn: [232, tr.43- 44])

Loại thứ hai là ruộng gánh vác, chiếm khoảng 50% toàn bộ ruộng đất, đại bộ phận là những ruộng xấu hơn, phân chia cho các hộ nông dân để đóng góp phục dịch cho phìa tạo, đồng thời đi phu, đi lính, đóng thuế cho đế quốc vẫn trên nguyên tắc nhận ruộng phải gánh vác việc mường.

Như vậy, tầng lớp thống trị với khoảng 5% nhân khẩu, chiếm tới 50% ruộng đất, còn nông dân đông tới 95% nhân khẩu, mới chiếm 50% ruộng đất còn lại. Trung bình một nhân khẩu trong tầng lớp thống trị chiếm gấp 20 lần ruộng đất của một nhân khẩu nông dân.

Phương thức bóc lột của bọn thống trị chủ yếu bắt nông dân làm cuông và nộp cống phẩm (khẩu nguột). “Các hộ “cuông” phải bảo đảm mọi công việc cày cấy, gặt hái, phục dịch cho tầng lớp thống trị, trung bình mỗi hộ “cuông” bị bóc lột hàng năm từ 70 đến 240 ngày lao dịch. Nộp “nguột” tức là nộp cống phẩm. Gia đình nào không làm nhiệm vụ “cuông” thì phải nộp “nguột” cho tầng lớp thống trị, hàng năm phải nộp từ 100 đến 200 kg thóc, hoặc 30 đến 60 kg ngô, 10 đến 20 kg bông. Tầng

124

lớp thống trị còn bóc lột nông dân bằng nhiều cách như bắt vạ, ăn biếu xén mỗi khi có việc kiện tụng, việc ma chay cưới xin, khi săn được muông thú...” [232, tr.44].

Thực dân Pháp tiến hành thống trị nhân dân Thái bằng cách quy định cụ thể thêm nội dung việc mường thành hai khoản phu và thuế. Cày cấy loại ruộng gánh vác này người nông dân phải nộp tô, thuế, đi phu, đi lính và phục dịch không công cho chẩu mường và tạo bản từ 1 đến 3 tháng. Quam tô mương của Mường Muổi (Thuận Châu - Sơn La) ghi: “Ngoài tô, thuế phải nộp bằng 1/3 hoa lợi làm ra, một năm người dân còn phải thay nhau đến phục dịch cho chẩu mường và tạo bản 3 tháng…” [140]. Hoặc, Quam tô mương của Mường La (Sơn La) cũng viết: “khi nhận ruộng khẩu phần, dân bản phải làm đầy đủ các nghĩa vụ như nộp tô, thuế, đi phu, đi lính và phục dịch cho chẩu mường, ai không làm đủ thì chịu phạt và có khi bị thu lại ruộng” [139].

Chính quyền thực dân đã đặt lệ: “ai đi phu đóng thuế mới được hưởng ruộng công” (so với quy định trong luật mường dưới chế độ “phìa tạo” tức là “ai đi việc mường mới được hưởng ruộng toàn mường”). Như vậy, theo quy định này, bộ phận nông dân gánh vác chiếm tuyệt đại bộ phận trong thành phần nông dân Thái vì sống trên mảnh ruộng của bản mường, nên bị thực dân Pháp trực tiếp bắt phu và thu thuế. Quam tô mương của Mường La ghi: “Năm 1932 Tây cho mở đường đi Thượng Lào và từ Mộc Châu đi Suối Rút. Người Thái đã đặt tên cho nó là “Đường Pha lỉ - Pha tổ cơ cực”. Con trai đi phu chết, con gái phải ở góa sớm. Bản mường không yên vui...” [139].

Gánh nặng thuế với người nông dân cũng không kém, người nông dân Thái trước đây phải đóng rất nhiều loại thuế, Quam tô mương của Mường La ghi: “Thuế có đủ các loại như: thuế ruộng (Quý hay ná), thuế thổ trạch (Quí hua hướn), thuế đinh (Quí đôi), mà loại thuế nào cũng rất nặng...” [139]. Như vậy, người nông dân ngoài khoản đóng góp cho phìa tạo, chẩu mường còn phải đóng thuế cho thực dân Pháp với ba loại cơ bản: thuế thân, thuế ruộng nương và thuế đầu nhà (Xin xem phụ lục 4.2). Năm 1932, số phần trăm thu thêm cộng vào thuế thân là 10% mức quy định chung; của thuế ruộng nương là 15%; của thuế nóc nhà là 3% cho người Thái, 6% cho người Xá, 10% cho người Dao và H’mông [160, tr.64]. Riêng đối với các dân tộc vùng cao như H’mông, Khơ mú, La Ha thực dân Pháp bắt phải nộp thuế bằng bạc trắng và thuốc phiện. Quam tô mương của Mường Muổi ghi: “… Quan Tây đốc thúc các thống lí, thống quán đi thu thuế bằng bạc trắng và thuốc phiện rất nặng nề. Những ai chưa có đều bị đánh đập tàn nhẫn” [140]. Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa bắt nhân dân phải đi phu một thời gian ngang bằng hoặc hơn thời

125

gian làm lao dịch cho chúa. “Số ngày đi phu tính theo từng hộ trong một năm thường là ba tháng, có khi tới 5 – 6 tháng” [174, tr.127].

Quam tô mương của Mường Piềng đã ghi: “... Thuở đó dân trong mường rất túng tiền. Bán một gánh thóc (tương đương với 30 kg) mới thu được có 0,22 đồng và bán một con trâu mộng mới được có 12 đồng. Nhưng người ta vẫn phải bán để nộp thuế và các khoản đóng góp khác. Nhiều người không có tiền đã phải bán cả vợ, cả con...” [141].

Với những chính sách tàn bạo đó, cho nên dưới chế độ thực dân Pháp thống trị thường có tình trạng xã hội trái ngược. Ở thời kỳ không có thực dân Pháp, lớp nông dân Thái làm cuông, nhốc cho phìa tạo so với lớp nông dân gánh vác (nông dân tự do) là những người mất tự do về thân thể, lệ thuộc với chủ về mặt sức lao động. Họ bị chủ lấy luật mường bắt phải làm ruộng, làm nương và đóng góp tất cả những gì chủ cần thiết. Còn nông dân tự do là những người về mặt pháp lý được thừa nhận là những thành viên làng xã của chế độ phìa tạo. Về danh nghĩa, luật mường đã quy định nghĩa vụ phải xây bản, dựng mường bằng việc gánh vác việc mường (tức là công ích). Do đó luật mường cho phép họ được hưởng ruộng toàn mường. Trái lại dưới chế độ thực dân Pháp, địa vị của những nông dân tự do bị thay đổi, họ vừa phải đi phu, vừa phải đóng thuế cho đế quốc Pháp, lại vừa phải đảm bảo nghĩa vụ gánh vác suất ruộng toàn mường tới làm và đóng góp thóc lười cho châu mường và phìa. Như vậy, nông dân gánh vác phải chịu hai tầng áp bức bóc lột, một bên thực dân Pháp áp bức và một bên vẫn tiếp tục bị phìa tạo bóc lột. Tuy nhiên, nghĩa vụ gánh vác cho phìa tạo so với hai khoản phu và thuế cho đế quốc có vẻ nhẹ hơn, nên nhiều bản nông dân gánh vác đã đi xin với phìa tạo để làm cuông, nhốc. Đây là một sự ngược đảo về mặt lô gic của sự phát triển. Hiện tượng này không chỉ diễn ra ở Sơn La mà ở Lai Châu nông dân lao động cũng trở nên thua kém so với cuông nhốc thậm chí “nông dân tự do phải đút lót cho các chức dịch, cho nhà chúa để xin được làm cuông nhốc” [174, tr.128]. - Sự xuất hiện ruộng đất tư Để thúc đẩy nông nghiệp của Sơn La phát triển, từ năm 1925, chính quyền thuộc địa ban hành Nghị định ngày 13/11/1925 quy định về khai thác nông nghiệp của người bản xứ. Chính quyền tỉnh đã cho phép và khuyến khích khai thác nông nghiệp theo hướng hàng hóa của người bản địa, gọi là chương trình thuộc địa hóa nông nghiệp người bản xứ ở Sơn La. Nghị định ngày 13/11/1925, được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 7/6/1939 là chính sách đầu tiên của chính quyền thuộc địa về việc thiết lập quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Sơn La [44]. Ở đây theo tác giả luận án quy chế này chủ

126

yếu áp dụng với bộ phận ruộng đất của người Thái bởi “trong cộng đồng người H’mông, sở hữu công vốn dĩ không tồn tại. Họ tự do làm nương rẫy bên cạnh bản của họ hoặc sâu trong rừng và bên cạnh các bản khác. Tất cả nương rẫy coi như là sở hữu tư trong thời gian mà người ta tới khai thác, có thể nói thường trong 3 năm. Năm đầu tiên họ trồng ngô, năm thứ hai thường trồng lúa nương, năm thứ 3 trồng thuốc phiện. Sau đó bỏ hoang một thời gian và tiếp tục trồng lại” [33].

Tuy nhiên, từ sau năm 1925, chế độ tư hữu ruộng đất đã bắt đầu xuất hiện ở Sơn La, mặc dù không phổ biến. Ruộng đất tư nhân xuất hiện ngay từ chính các loại ruộng đất truyền thống, cụ thể:

Thứ nhất, do tác động của chế độ thực dân tư bản chủ nghĩa, những mầm mống đầu tiên của ruộng tư đã xuất hiện. Vì không đóng đủ tô thuế cho chính quyền thuộc địa, cộng thêm nghĩa vụ gánh vác việc mường, nhiều gia đình nông dân đã thoái thác phần việc mường để bỏ suất ruộng công của mình chuyển sang sinh sống trên nương rẫy, hoặc phải tự bán mình làm cốn hướn cho phìa tạo và chức dịch. Một số quý tộc Thái đã lợi dụng sự cùng quẫn này của các nông dân gánh vác mà khai man, khai khống số ruộng công ở vùng mình, tiến hành cướp đoạt ruộng công của bản mường. “Phìa Bạc Cầm Đuống dựa vào quyền uy quý tộc của dòng họ đã cướp đoạt một khu ruộng tốt nhất ở gần châu lị Thuận Châu làm ruộng tư...” [134, tr.99-100]. Tuy hiện tượng này chưa trở nên phổ biến nhưng đã xuất hiện chiếm ruộng công thành ruộng tư, phát canh thu tô đối với lớp nông dân gánh vác trong các bản mường. Như vậy, ruộng đất tư bắt đầu xuất hiện trong xã hội người Thái nói riêng, tỉnh Sơn La nói chung xuất phát từ những chính sách bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và sự lợi dụng thâm hiểm của chế độ phìa tạo.

Ngoài ra, từ ruộng bớt cho quý tộc trước kia đã nảy sinh việc chiếm hữu ruộng đất: “khoảng những năm 1937 – 1938, một số quý tộc nhất là ở vùng Phù Yên, Thuận Châu… đã biến ruộng bớt dành cho quý tộc từ lâu đời thành ruộng tư, cho phát canh thu tô dưới hình thức mà họ gọi là thuê làm ruộng với phần để lại sau khi trả công, thực chất là tô khoảng trên dưới 50%” [251, tr.56].

Chế độ tư hữu xuất hiện đồng thời cho vay thóc lấy lãi cũng lác đác xuất hiện ở một vài địa phương trong những năm 1936 - 1945 như ở Mường Chanh (Mai Sơn), Thuận Châu và xung quanh thị xã Sơn La... nên ở những nơi này cũng đã bắt đầu có một vài gia đình có xu hướng phát triển thành phú nông [165, tr.219].

Thứ hai, quan cai trị người Pháp cũng can dự vào hình thức bóc lột cuông nhốc của người Thái như chánh sứ Sơn La Saint Poulov lấy cả tổng Ngọc Chiến làm “cuông” [251, tr.57].

127

Như vậy, về cơ bản thực dân Pháp đã nắm quyền quản lý ruộng - cơ sở chủ yếu của nông nghiệp Sơn La, buộc quảng đại quần chúng nông dân phải chịu ách áp bức, bóc lột nặng nề. Đồng thời, do chính sách dung dưỡng và duy trì sự cai trị, bóc lột của bộ máy Phìa tạo người Thái với quảng đại quần chúng nhân dân nên bộ phận này vẫn nắm giữ trong tay số lượng ruộng đất lớn, tiếp tục thực hiện bóc lột toàn dân như trước đây thông qua cống nạp sản vật, phu phen, tạp dịch không công. Bên cạnh đó, dưới thời Pháp thuộc, ruộng tư đã xuất hiện thông qua các hình thức mới trong sở hữu ruộng đất tiêu biểu là cấp nhượng, mua bán ruộng đất với số lượng lớn…

Cấp nhượng đất cho người bản xứ Trước năm 1930, thực dân Pháp không cấp nhượng đất cho người bản xứ ở Sơn La. Theo báo cáo việc cấp nhượng sẽ tạo ra chế độ tư hữu về ruộng đất trong cộng đồng. Các đề nghị cấp nhượng đất của người bản xứ và các công ty của người bản xứ đều không được chấp thuận. Điều khoản của Nghị định ngày 27/12/1913 và 6/3/1914, không cho phép cấp nhượng đất theo luật áp dụng cho người bản xứ.

Quan điểm không cấp nhượng đất này được thể hiện rõ nét thông qua yêu cầu cấp nhượng một miếng đất ở bản Giảng, tổng Mường La, Sơn La của Cầm Văn Quê, Tri châu ở Sơn La, 1920. Cuối cùng Thống sứ Bắc Kỳ đã từ chối cấp nhượng đất này cho Cầm Văn Quê [3].

Không chỉ cá nhân mà cả các công ty cũng không được chấp thuận đất nhượng. Công ty nông nghiệp Bến Bô có trụ sở tại huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang đã gửi hồ sơ vào ngày 29/9/1926 để yêu cầu cấp nhượng một khu đất rộng 3.500 ha ở Mộc Châu cho việc chăn thả gia súc [4]. Tuy nhiên, chính quyền tỉnh Sơn La và Thống sứ Bắc Kỳ đã từ chối yêu cầu này vì lý do hồ sơ không cung cấp đủ các giấy tờ liên quan theo hai Nghị định mới: Nghị định ngày 19/9/1926 và Nghị định ngày 19/10/1927, đặc biệt là liên quan tới tư cách pháp nhân của cá nhân và của công ty Bến Bô. Trong thư gửi cho Thống sứ Bắc Kỳ ngày 11/7/1930, Công sứ Sơn La viết: Cho tới nay chưa có một đất nhượng nào trong tỉnh Sơn La. Duy nhất chỉ có một yêu cầu cấp nhượng đất của Công ty nông nghiệp Bến Bô nộp ngày 29/9/1926.

Ngày 8/8/1931, Thống sứ Bắc Kỳ chỉ đồng ý cho Công ty nông nghiệp Bến Bô thuê khu đất này, chứ không cấp nhượng chính thức. Với lý do, Thống sứ căn cứ vào Nghị định 30/12/1931, Nghị định này quy định, đất chăn thả gia súc chỉ có thể cho thuê, không cấp nhượng vĩnh viễn. Tuy nhiên, công ty này tiếp tục xin cấp nhượng chính thức, chứ không thuê.

128

Như vậy, ở Sơn La đến trước những năm 30 của thế kỉ XX, không có nhượng đất cho người bản xứ. Điều này cho thấy, nhượng đất ở Sơn La xuất hiện muộn hơn so với các địa phương khác. Như đã đề cập đến các nghị định liên quan đến việc khai thác nông nghiệp của người bản xứ trong phần những chính sách về ruộng đất của thực dân Pháp thì “chính sách “tiểu đồn điền” đã vội tỏ ra kém kết quả và những quy định của Nghị định 7/7/1888 đã sớm trở nên vô hiệu” [158, tr.390], ngày 13/11/1925, Thống sứ Bắc Kỳ Krauthéier ban hành một nghị định về việc di dân tự do dưới hình thức tiểu đồn điền nhằm thúc đẩy sự phát triển của tiểu đồn điền nhượng cho những người Việt ở vùng đồng bằng trên các vùng trung du và thượng du Bắc Kỳ (với phạm vi áp dụng rộng nhưng không có tỉnh Sơn La [158, tr.391-392]. Tuy nhiên, để thúc đẩy nông nghiệp của Sơn La phát triển, từ năm 1925, chính quyền tỉnh đã cho phép và khuyến khích khai thác nông nghiệp theo hướng hàng hóa của người bản địa, gọi là chương trình thuộc địa hóa nông nghiệp người bản xứ ở Sơn La. Điều này dẫn tới, trong năm 1937, đã có 50 đơn xin cấp nhượng đất để khai thác nông nghiệp của người bản xứ được gửi tới văn phòng Công sứ Sơn La. Sau khi tiến hành xét hồ sơ, điều tra thực tế, chính quyền tỉnh đã cấp phép cho 12 người với tổng diện tích 72 mẫu [44]. Đây chỉ là bước đầu của chính sách khuyến khích khai thác nông nghiệp của tỉnh.

Về sau, chế độ cấp nhượng ruộng đất ở Sơn La bắt đầu trở nên phổ biến bởi theo tinh thần Nghị định ngày 7/6/1939 là nghị định bổ sung về việc nhượng tiểu đồn điền cho người “bản xứ” ở Bắc Kỳ thì phạm vi áp dụng của Nghị định 13/11/1925 còn được mở rộng ra trên cả tỉnh Sơn La [158, tr.393]. Trong Báo cáo của Jean Cousseau (Công sứ Sơn La) gửi cho Thống sứ Bắc Kỳ ngày 22/1/1941, chỉ rõ: Những gia đình quan lại ở Sơn La đã mua chuộc chính quyền để mua vét và cướp đoạt tất cả những ruộng đất tốt và ruộng lúa thuộc sở hữu công. Theo báo cáo, cho tới năm 1940, trên toàn tỉnh Sơn La, chính quyền đã cấp 52 đất nhượng quy mô nhỏ cho người bản địa theo quy định tại Nghị định 13/11/1925 cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Tổng diện tích của 52 đất nhượng này là 350 mẫu (129,63 ha). Trong đó, có 6 đất nhượng được cấp năm 1940. Toàn bộ đất nhượng này là cấp tạm thời. Chưa có đất nhượng nào được cấp vĩnh viễn. Cho đến năm 1941, tổng số đất nhượng nhỏ cấp cho người bản địa tăng lên 58 với tổng diện tích 400 mẫu (148 ha) cho trồng trọt và chăn nuôi [62]. So với tổng diện tích của tỉnh gần 10.865km2 riêng ruộng 8.000 ha như thống kê của Henri năm 1932 [119, tr.2] thì hoạt động nhượng đất theo hình thức tiểu đồn điền cho người bản xứ ở Sơn La không có hiệu quả.

129

Xuất hiện hình thức mua bán ruộng đất lớn lên đến hàng nghìn m2. Trường hợp bán cho Vandaele mảnh đất hoang ở Chiềng Lề lên tới 3500m2 để xây dựng một nhà thờ và một nhà cho cha xứ. Mảnh đất này có giá 50 đồng (Có hợp đồng và bản đồ khu đất trong hồ sơ, Xin xem phụ lục 4.3). Người đứng tên trên hợp đồng bán là Thống sứ Bắc Kỳ [65].

Trường hợp bán cho Jean Fune, Mục sư thuộc Hội tin lành ở Sơn Tây hai mảnh đất, 1.935m2 và 1.417m2 ở Chiềng Lề năm 1938-1940 [66]. Mục đích xin mua khu đất này để xây dựng một khu nhà, với giá 30 đồng đối với miếng đất 1.935m2. Ngày 20/10/1938, Hội đồng bảo hộ Bắc Kỳ họp và thông qua hợp đồng mua bán này. Hồ sơ sau đó được chuyển qua Sở Trước bạ để hoàn thành thủ tục đóng các chi phí của việc mua này (Có hợp đồng và bản đồ kèm theo trong hồ sơ, Xin xem phụ lục 4.4). Tuy nhiên, sau khi xây dựng một nhà ở, khu đất này không đủ để làm một cái vườn nên Jean Fune tiếp tục yêu cầu mua thêm 1.417m2 vào năm 1939. Ngày 22/1/1940, Hội đồng bảo hộ Bắc Kỳ sau khi họp đã đưa ra ý kiến đồng ý bán thêm cho Jean Fune mảnh đất thứ hai với diện tích 1.417 m2 với giá 20 đồng. Hồ sơ sau đó tiếp tục được chuyển sang Sở Trước bạ để người mua nộp các khoản chi phí (Có bản đồ kèm theo trong hồ sơ, Xin xem phụ lục 4.5). Người đứng tên trên hợp đồng bán là Thống sứ Bắc Kỳ.

Hình thức bán đấu giá đất cũng được tiến hành, tiêu biểu như việc bán đấu giá công 2 mảnh đất hoang ở Sơn La cho Công ty Vận tải thượng Bắc Kỳ 1940- 1944 [67]. Hai người đại diện mua là Ferriere và Costemalle, là nhà kinh doanh vận tải ở Sơn La. Đất thuộc diện đất hoang đô thị. Một mảnh rộng 422m2, một mảnh rộng 392 m2 nằm ở trung tâm đô thị Sơn La. Giá cơ sở hai mảnh đất này là 250 đồng. Tuy nhiên, sau khi mở bán, đã không có ai tham gia. Chính vì thế hai người này đã mua được hai miếng đất với giá cơ sở ban đầu là 250 đồng. Mục đích mua hai mảnh đất này để xây dựng gara ô tô.

4.3. Hoạt động sản xuất nông nghiệp 4.3.1. Trồng trọt

- Các loại cây trồng Bước sang thế kỉ XX, về cơ bản các loại cây trồng ở Sơn La vẫn bao gồm cây lương thực: lúa và ngô, ngoài ra là các loại sắn, khoai, đậu đỗ và rau quả. Cây ăn quả lâu năm được nhân dân trồng là xoài, mít, na, chanh, đào, mận… và một số cây công nghiệp như chè, cánh kiến, dâu tằm, bông, gai dầu… Đồng thời trồng các loại cây thảo dược, nấm… phục vụ nhu cầu trong tỉnh và bán ra bên ngoài.

130

Ở ruộng nước người Thái vẫn độc canh cây lúa “Ở các cánh đồng trong thung lũng, ngoài lúa, người Thái không trồng gì khác. Lúa chỉ trồng 1 vụ duy nhất, mặc dù điều kiện khí hậu cho phép trồng các loại cây khác và có thể tăng vụ” [30]. Ngoài ra, lúa nếp nương, ngô cũng thu hoạch khá tốt được trồng trên các nương của người Thái. Phần lớn gạo tẻ, ngô phục vụ cho nhu cầu của người dân địa phương. Chỉ có lúa nếp là được bán cho người Việt.

Những cây trồng khác, như cây thuốc phiện, bông, tràm thì được trồng trên các nương rẫy sau khi đã phá và đốt rừng. Bông và tràm trồng để dệt vải và nhuộm vải màu xanh, tuy nhiên diện tích không lớn lắm. Người dân luôn trồng thuốc phiện, đặc biệt là người H’mông. Họ trồng chủ yếu trong các làng dọc sông Đà. Một phần thuốc phiện thu được phục vụ cho nhu cầu, phần còn lại đem bán. Diện tích cây thuốc phiện khá lớn. Theo quy định, việc trồng cây thuốc phiện phải khai báo cho chính quyền. Ngoài ra, Người Thái còn trồng cây thầu dầu để cung cấp chất đốt, thắp sáng. Chính quyền khuyến khích phát triển mở rộng diện tích thầu dầu ở Sơn La.

Thời gian này, “người Pháp đã cho thành lập thành lập một ban chuyên nghiên cứu về giống lúa. Họ đã thử nghiệm giống lúa Đồng Mô – giống lúa mẫu ở Cao Bằng trên đất khô ở tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, các giống lúa mới vẫn chưa trở nên phổ biến, do thói quen canh tác nên người dân sử dụng giống lúa bản địa là chính” [216, tr.130]. Đầu những năm 20 của thế kỉ XX, người Pháp đã thử nghiệm trồng lúa mì tại Sơn La. Mặc dù kết quả thu hoạch được Tòa công sứ nhìn nhận là khá tốt, song việc gieo trồng không được triển khai ra diện rộng [160, tr.66]. Bắt đầu từ năm 1924, một vài người Pháp bắt đầu trồng thử nghiệm cà phê, chè ở Mộc Châu [34].

Chính quyền Pháp ở Sơn La đã tìm cách nghiên cứu để đưa một số cây trồng mới cho người dân thay cho cây thuốc phiện như củ cải, bắp cải, chè. Hơn thế nữa, người H’mông không hút thuốc phiện, nếu đưa các cây trồng mới vào họ sẽ thấy được lợi ích lớn hơn là trồng cây thuốc phiện [16]. Năm 1933, bắt đầu trồng thử nghiệm khoai tây ở một số nơi. Chính quyền thuộc địa cũng nghiên cứu để đưa nho và một số cây ăn quả từ Pháp vào trồng ở Mộc Châu [18].

- Kỹ thuật trồng trọt So với giai đoạn từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895, thời Pháp thuộc việc trồng lúa ở Sơn La vẫn chủ yếu là lúa 1 vụ. “Hầu hết vào mùa khô, người Thái không trồng bất cứ cây gì, cuộc sống nông nghiệp gần như tạm ngừng trong tất cả các mùa đông. Mùa trồng trọt chỉ thực sự bắt đầu tháng 2 hoặc tháng 3 hàng năm” [23].

Tuy nhiên thời kì này bắt đầu xuất hiện lúa 2 vụ nhưng diện tích ít, chỉ có ở

131

Phù Yên. Trong các bản Báo cáo kinh tế đề cập rất rõ vấn đề này. “Chỉ duy nhất ở Phù Yên người dân mới có thể trồng và thu hoạch được 2 vụ lúa là vụ tháng 5 và vụ tháng 10. Còn tất cả khu vực khác chỉ trồng duy nhất 1 vụ lúa vào tháng 10. Chính vì thế, sản lượng lúa tháng năm luôn chiếm không đáng kể trong tổng sản lượng lúa cả năm của tỉnh” [44]. Trong tỉnh Sơn La, châu Phù Yên có cánh đồng Mường Tấc rộng lớn, thích hợp cho sản xuất nông nghiệp nhất là việc trồng lúa. Đồng thời, xét về vị trí địa lí, Phù Yên tiếp giáp với vùng cư trú của người Kinh nên đã làm hai vụ [131, tr.168]. Tình trạng ruộng cấy lúa 2 vụ ít là điểm chung của cả nước thời Pháp thuộc, “tính đến năm 1930, ruộng hai vụ mới chiếm 29% và năm 1939 tăng lên 35%” [150, tr.190].

Đến thời kì này, việc trồng trọt vẫn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nhất là nguồn nước. “Người Thái chỉ trồng trọt trên những vùng đất có thể được tưới nước bằng trọng lực. Tuy nhiên, phần lớn những vùng đất có thể dẫn nước tưới theo cách của người Việt thì vẫn bị bỏ hoang. Kết quả là diện tích lúa được trồng theo kiểu của người Thái không đủ cho nhu cầu lương thực của người dân. Những nương rẫy cũng thế, sản lượng thu được chưa thể đáp ứng nhu cầu của người dân” [47].

“Người Thái quả thực là quá lười biếng. Họ thích có một vụ mùa thu hoạch kém, hơn là việc chuyên tâm vào một công việc nặng nhọc và liên tục (Ông ta muốn nói tới, người Thái không muốn tát nước bằng tay như người Việt, mà chỉ trông chờ vào nước từ núi chảy xuống. Dù cho là mùa màng thất thu đi chăng nữa, thì họ cũng không thích tát nước vì nó quá nặng nhọc)” [14, tr.11].

Trong việc trồng chăm sóc các loại cây trồng khác như lúa nương, ngô, bông, tràm về cơ bản không thay đổi, vẫn không chăm sóc, không có các biện pháp kỹ thuật mới mà chỉ phụ thuộc vào tự nhiên. Để đảm bảo cuộc sống, người dân phải “phá rừng vào cuối mùa đông, để cho cây cỏ khô rồi đốt từ tháng 2 đến tháng 4 để trồng trọt tùy theo mong muốn của họ, chủ yếu là lúa lương, ngô, bông, tràm. Sau khi gieo hạt, gần như họ không còn quan tâm đến nữa. Họ không bao giờ nhổ cỏ. Sau mỗi mùa thu hoạch, họ lại bỏ đi chỗ khác” [8]. Chính vì thế, một số cánh rừng đã biến mất một cách nhanh chóng vì lối canh tác này.

- Thực trạng một số loại cây trồng tiêu biểu Trồng lúa Trên cơ sở thống kê các tài liệu lưu trữ, diện tích trồng lúa ở Sơn La có nhiều

biến chuyển theo từng năm.

132

(Nguồn: [63], [33], [19], [35] [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44],

[45], [46])

Hình 4.1: Diện tích lúa tỉnh Sơn La (1917 - 1941)

Nhìn vào biểu đồ chúng ta có thể nhận thấy, diện tích lúa của tỉnh Sơn La trong thời gian này không ổn định, có xu hướng giảm mạnh so với thời kì đầu, càng về sau diện tích lúa hầu như không có sự biến động lớn. Ngay từ những năm 1919, 1927 là những năm diện tích lúa ở Sơn La ở mức cao nhất lần lượt là 8.558 ha và 7.132 ha. Nhưng có những thời điểm diện tích lúa xuống thấp như năm 1917 chỉ có 2.700 ha, 1933 là 2.858 ha, 1934 là 2.855 ha. Đến những năm 1941 diện tích lúa còn 3.300 ha. Theo đánh giá “Sơn La trở thành tỉnh có diện tích trồng lúa thấp nhất Bắc Kỳ những năm 1942 – 1943 chỉ có 3000 ha trong khi Hòa Bình là 10.000 ha, Lai Châu 7.000 ha, Lào Cai 5.000 ha, Yên Bái 11.000 ha” [216, tr.38-39]. Diện tích lúa gần như không có xu hướng tăng, thậm chí còn suy giảm. Tác giả Tống Thanh Bình đã lí giải nguyên nhân là do: “nông nghiệp chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của chính quyền thực dân; khủng hoảng kinh tế và sự bấp bênh của thị trường đầu những năm 30; tập quán sản xuất và sinh hoạt” [216, tr.41-43]. Ngoài những nguyên nhân trên, tác giả luận án nhận thấy diện tích lúa suy giảm còn do việc trồng lúa chủ yếu để đảm bảo nhu cầu của người dân chứ không phải là mặt hàng để trao đổi buôn bán với bên ngoài, cũng như việc canh tác ruộng nước ở Sơn La phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên nhất là nguồn nước, khí hậu... dẫn đến diện tích không ổn định.

Theo đánh giá của người Pháp, người Thái không biết đơn vị mẫu, mà chỉ biết đơn vị này qua các sổ thuế do chính quyền lập nên để thu thuế. Về dân số, tính chung dân số Sơn La năm 1919 khoảng 50.000 người, trong khi đó diện tích lúa chỉ

133

là hơn 8.000 mẫu. Trung bình diện tích lúa trên đầu người là tương đối thấp. Chính vì thế, phần lớn người dân vào độ tháng 8 và tháng 9 bị thiếu đói, cuộc sống chủ yếu dựa vào một số loại rễ và củ khai thác trong rừng [33].

Trong tổng diện tích lúa mùa, diện tích lúa tháng 5 luôn chiếm không đáng kể so với diện tích lúa tháng 10. Năm 1934, lúa tháng 10 chiếm 2.680 ha, trong khi đó, lúa tháng 5 chỉ chiếm 175 ha [39]. Năm 1935, tổng diện tích lúa là 3.170 ha trong đó, lúa tháng 5 là 109 ha; lúa tháng 10 là 3.061 ha [40]. Năm 1936, cũng tương tự lúa tháng 5 là 567,5 ha; lúa tháng 10 là 3.138 ha [41].

Sản lượng lúa tỉnh Sơn La thường xuyên có sự biến động.

(Nguồn: [30], [18], [19], [64], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43],

[44], [45], [46])

Hình 4.2. Sản lượng lúa tỉnh Sơn La (1917 - 1941)

Sản lượng lúa tăng dần từ năm 1917 đến năm 1928, đạt mức cao nhất trong khoảng thời gian từ tháng 6/1925 đến 6/1927, đạt trên 19.000 tấn, bởi đây là năm diện tích trồng lúa của tỉnh Sơn La nhiều với 7.132 ha. Sản lượng lúa sụt giảm nghiêm trọng vào năm 1933 đến năm 1937, năm thấp nhất là 1935 chỉ đạt 4.239 tấn. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thu hẹp diện tích lúa như ở trên đã trình bày, đồng thời là do những ảnh hưởng nhất định của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933. “Năm 1931, cuộc khủng khoảng kinh tế tác động tai hại tới nông nghiệp Việt Nam và Sơn La. Điền chủ các tỉnh khác được chính quyền Pháp đưa ra các khoản trợ cấp, vay tín dụng nông nghiệp. Riêng ở Sơn La, không có một bất kì trợ cấp hoặc tín dụng nông nghiệp nào được tiến hành” [37].

134

Nhưng tại sao diện tích lúa từ năm 1935 đến năm 1937 tăng trong khi sản lượng lại sụt giảm nghiêm trọng? Điều này có thể xuất phát từ nhiều lí do nhưng chủ yếu do điều kiện thời tiết, hạn hán kéo dài. Cụ thể: Sản lượng lúa năm 1935 thấp hơn nhiều những năm trước đó. Nguyên nhân là do mưa đến muộn, dẫn tới tình trạng khô hạn kéo dài. Một phần lớn diện tích lúa cấy đã bị chết khô, làm cho năng suất giảm. Thiệt hại nặng nề nhất là ở châu Sơn La. Chỉ riêng diện tích lúa nước ở Phù Yên do có đủ nước tưới nên thu hoạch không bị ảnh hưởng [41]. Trong năm 1936, năng suất và sản lượng lúa rất tồi tệ. Lý do là trong 3 tháng liền từ tháng 10 đến tháng 12 không có mưa. Khi mà lúa đang vào hạt, thiếu nước và hạn hán đã làm giảm năng suất lúa. Sản lượng lúa nương chiếm 1/3 sản lượng lúa của tỉnh. Sản lượng ngô cũng thấp hơn năm 1935 do ảnh hưởng của hạn hán [42]. Từ đó chúng ta có thể thấy việc trồng lúa ở Sơn La phụ thuộc vào tự nhiên rất lớn, đặc biệt là nguồn nước. Điều này được đề cập đến rất nhiều lần trong hàng loạt các bản Báo cáo.

Từ năm 1938 đến năm 1941, sản lượng lúa của tỉnh liên tục tăng trong khi diện tích về cơ bản không thay đổi. Tuy nhiên, trong suốt thời kì dài sản lượng lúa không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân trong vùng. Tình trạng thiếu lương thực thường xuyên xảy ra. Trong các Báo cáo liên tục đề cập đến tình trạng này. “Việc trồng lúa ở Sơn La luôn luôn không đáp ứng đủ nhu cầu cuộc sống của người dân” [15]. “Đầu năm 1919, tình trạng thiếu lương thực, đặc biệt là lúa gạo trở nên trầm trọng” [31]. Tác giả Tống Thanh Bình cũng đã chỉ ra “năm 1935, thu hoạch 4.145.982 kg trong khi nhu cầu địa phương là 6.848.177kg, năm 1940 thu hoạch đạt 16.438 tấn trong khi nhu cầu của địa phương là 19.471 tấn” [216, tr.40]. Kể cả năm 1939 diện tích kèm sản lượng tăng ổn định vẫn thể hiện rõ điều đó. Năm 1939, tổng diện tích cấy lúa cả năm đạt 3.939 ha. Đây là năm mà năng suất và sản lượng tốt đạt 14.155 tấn, nhưng cũng không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân, trên thực tế là 20.000 tấn thóc/năm [44].

Tỉ lệ với diện tích lúa mùa, sản lượng lúa tháng 5 chiếm một tỉ lệ nhỏ so với sản lượng lúa tháng 10. “Năm 1939, lúa tháng 5 chỉ đạt 206 tấn, lúa tháng 10 đạt 12.698 tấn. Ngoài ra còn một số lúa nương” [44]. Đồng thời, lúa nước bao giờ sản lượng cũng cao hơn nhiều so với lúa nương. “Sản lượng thóc thu được của Sơn La đạt khoảng 14.000 tấn. Trong số đó, 12.000 tấn thu hoạch được ở các cánh đồng thuộc các thũng lũng (lúa nước), chỉ có 2.000 tấn thu được từ lúa nương” [30]. Năng suất lúa của tỉnh Sơn La ở mức thấp. Theo công thức tính: Năng suất = Sản lượng/diện tích. Ta có biểu đồ:

135

Hình 4.3. Năng suất lúa tỉnh Sơn La (1917 - 1941)

Ngô là cây trồng chủ đạo thứ hai tại Sơn La, chiếm một diện tích trồng trọt

khá lớn và có vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân nơi đây.

Hình 4.4. Diện tích ngô tỉnh Sơn La (1917 - 1941) (Nguồn: [63], [32], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [42], [43], [44], [46])

Diện tích trồng ngô giai đoạn 1924 - 1931 khá lớn, đạt trên 2000 ha, cao nhất là năm 1924 với 2.690 ha. Tuy nhiên càng về sau, diện tích trồng ngô có xu hướng giảm ở mức từ 500 ha đến 600 ha, chỉ duy nhất có năm 1935 là 1.110 ha. Sỡ dĩ, diện tích trồng ngô giảm bởi sự gia tăng của một số loại cây trồng như khoai sắn, đỗ… chúng ta có thể xem các bảng phụ lục để thấy rõ hơn. Hơn thế nữa, diện tích

136

ngô không ổn định còn xuất phát từ tập tục canh tác của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc nói chung, tỉnh Sơn La nói riêng, việc luân canh, hưu canh các loại cây trồng trên nương khiến cho diện tích, sản lượng đều không ổn định. Thêm vào đó, ngô phần lớn được trồng trên nương rẫy chủ yếu bởi người Thái, người H’mông trong khi đó người H’mông thường xuyên thay đổi vị trí canh tác do tập quán du canh du cư, dẫn tới diện tích trồng ngô có nhiều biến động. Nếu so sánh với diện tích trồng lúa và các loại cây trồng khác chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy vị trí, vai trò của cây ngô trong đời sống sản xuất của người dân Sơn La. Hay nói cách khác, ngô là cây trồng có vị trí quan trọng thứ hai sau lúa đối với các tộc người ở Sơn La. Song, với tính chất độc canh cây lúa ở ruộng nước nên các cây trồng khác kể cả ngô chỉ mang tính phụ trợ “ngô và rau, sắn, khoai là cây trồng để bù đắp vào sự thiếu hụt lương thực của tỉnh” [44].

Sản lượng ngô cũng liên tục thay đổi qua các năm. Tuy nhiên, có thể thấy được sự thất thường trong sản lượng. Có những năm đạt trên 2000 tấn như từ 6/1925 đến tháng 6/1926, năm 1929, năm 1930, năm 1931. Song có những năm như từ tháng 6/1926 đến tháng 6/1927 chỉ đạt 300 tấn, năm 1941 chỉ đạt 450 tấn. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào sự thay đổi diện tích, yếu tố thời tiết hàng năm hoặc nhu cầu cuộc sống của người dân địa phương.

Hình 4.5. Sản lượng ngô tỉnh Sơn La (1917 - 1941) (Nguồn: [18], [19], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [42], [43], [44], [46])

Từ diện tích và sản lượng ngô của Sơn La thời kì này vẫn theo công thức

tính: Năng suất = Sản lượng/diện tích. Ta có biểu đồ

137

Hình 4.6. Năng suất ngô tỉnh Sơn La (1917 - 1941)

Năng suất ngô ở Sơn La nhìn chung thấp, hầu hết từ 1 tấn đến hơn 2 tấn/ ha, có năm chỉ đạt 0,85 tấn/ ha. Trong khi lúa có những năm đạt trên 5 tấn/ha. Nguyên nhân được lí giải là do “giống ngô được gieo trồng chủ yếu là giống ngô địa phương, chất lượng hạt có thể thơm, ngon nhưng năng suất không cao. Trong khi trình độ kĩ thuật lạc hậu, không được đầu tư về phân bón, thuốc trừ sâu, việc trồng ngô không đem lại hiệu quả kinh tế cao” [213, tr.53].

Các loại cây trồng như khoai lang, sắn, rau, cây ăn quả, đỗ cũng đóng góp những sản lượng nhất định trong tổng sản lượng trồng trọt của tỉnh Sơn La hàng năm (Xin xem các bảng phụ lục 4.6, 4.7, 4.8, 4.9). Trong đó, sản lượng rau, cây ăn quả của tỉnh chiếm tỉ lệ lớn, đặc biệt từ năm 1933 đến năm 1938 luôn đạt từ 150 đến 170 tấn. Việc làm vườn rau cho các quý tộc người Thái cũng được nhắc đến nhiều trong các quy định của luật tục Thái cũng như những ghi chép của các tác giả dân tộc học, chứng tỏ người Thái rất chú trọng đến sự cân bằng trong các bữa ăn, đồng thời sản lượng rau, cây ăn quả lớn cũng chứng tỏ khả năng của tỉnh Sơn La trong lĩnh vực này cần được chú trọng và phát triển. Tuy nhiên, trong việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ra bên ngoài tỉnh trong các Báo cáo kinh tế đã thống kê về các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu ra ngoài tỉnh Sơn La từ năm 1901 đến trước năm 1931 không có các sản phẩm này trừ đỗ xuất hiện trong hai năm 1929, 1931 với sản lượng bán ra bên ngoài lần lượt chỉ có 3 tạ [35] và 2,1 tạ [37]. Có thể nhận thấy, đây là những cây trồng nhằm đáp ứng nhu cầu của địa phương là chủ yếu.

138

Các loại cây công nghiệp chủ yếu ở Sơn La phải kể đến như cánh kiến, chè,

bông, gai dầu…

Cây cánh kiến là mặt hàng chủ yếu trong việc trao đổi buôn bán với bên ngoài bởi “việc trồng cánh kiến hoàn toàn vì mục đích thương mại” [59]. Mặc dù không có số liệu thống kê về diện tích, sản lượng cánh kiến trong toàn tỉnh nhưng đây là mặt hàng có số lượng xuất khẩu cao nhất tỉnh Sơn La giai đoạn này. Lợi nhuận từ việc bán cánh kiến khá lớn, tuy nhiên không ổn định, phụ thuộc nhiều vào nhu cầu bên ngoài (Xin xem thêm mục 4.3.3). Cánh kiến là một trong những cây trồng mang lại nhiều nguồn lợi nhất, trong khi nó không đòi hỏi quá nhiều công chăm sóc. Tỉnh Sơn La đã xuất khẩu cánh kiến với số lượng tương đối lớn là 62.909 kg vào năm 1901; 131.440 kg vào năm 1902 và 81.606 kg vào năm 1903 [23]. Đây được coi là mặt hàng chủ đạo trong việc tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp ra bên ngoài tỉnh những năm đầu thế kỉ XX. Phần lớn cánh kiến được trồng ở Lào. Ở Sơn La, người Thái trồng nhiều ở Mường Lầm. Do có giá trị kinh tế cao nên chính quyền Pháp đã tìm cách khuyến khích người dân mở rộng trồng cánh kiến ra các vùng khác. Sau đó, cánh kiến được trồng 2 ha ở vùng Nam sông Mã. Về sau, cánh kiến được trồng ở hầu khắp các châu chủ yếu là Tạ Chan, khu Chiềng Lề của người Hoa, Mai Châu, Thuận Châu, Vạn Yên…. Cụ thể Xin xem bảng 4.3.

Bảng 4.3. Sản lượng cánh kiến của tỉnh Sơn La bán ra ngoài tỉnh từ năm 1929 đến năm 1931, phân bổ theo các châu (đơn vị: kg)

Khu vực Năm 1929 Năm 1930 Năm 1931

Mai Châu 11.640 10.200 3.000

Yên Châu 180 4.800 720

Sơn La 1.500 1.500 1.500

Thuận Châu 18.000 1.800 1.200

Khu Chiềng Lề người Hoa 60.000 40.200 5.040

Khu Chiềng Lề người Việt 3.000 1.980 225

Tạ Chan 61.380 17.400 4.920

Vạn Yên 11.460 10.800

Tạ Khoa 4.500

Tổng sản lượng 167.160 93.180 16.605

(Nguồn: [35], [36], [37])

139

Tuy nhiên, sản lượng cánh kiến thu hoạch hàng năm cũng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên nhất là khí hậu. Các Báo cáo kinh tế liên tục đề cập đến tình trạng khô hạn ảnh hưởng đến diện tích trồng cánh kiến vào năm 1906, năm 1912… Cây chè chủ yếu thu hoạch trong tự nhiên. Điều này được đề cập đến trong bản Báo cáo kinh tế 6 tháng cuối năm 1924 của tỉnh Sơn La [32], Chính quyền thuộc địa đã đưa giống chè mới vào để trồng thử nghiệm từ năm 1924, điều này cho thấy, trước năm 1924, việc trồng chè vẫn chưa phổ biến ở Sơn La. Năm 1925, việc trồng chè bắt đầu mở rộng ở Mộc Châu trên những khu đất hoang. Theo thống kê diện tích trồng chè năm 1929 là 63 ha trong đó một phần nhỏ trồng, còn lại là hoang [35].

Số liệu diện tích chè được thống kê bắt đầu từ năm 1934 với 19 ha, sản lượng 2 tấn. Liên tục các năm sau đó sản lượng cũng như diện tích đều thấp (Xin xem phụ lục 4.10). Từ đó có thể thấy chè sản xuất ra được thu từ tự nhiên là chủ yếu, thứ hai nhu cầu của địa phương thấp, trồng chủ yếu để bán ra bên ngoài.

Cây bông được trồng để phục vụ nhu cầu trong các gia đình bởi “dâu tằm và bông được trồng không nhiều. Sản phẩm của nó là để phục vụ nhu cầu tại chỗ, hầu như không được bán ra thị trường, và không phải là sản phẩm thương mại” [34]. Từ năm 1926 đến năm 1931, diện tích trồng bông lớn gần 500 ha đã cung cấp sản lượng bông cao, có tính chất ổn định đạt trên 100 tấn mỗi năm. Tuy nhiên, từ năm 1933, cả diện tích và sản lượng đều có sự sụt giảm nhanh chóng, thậm chí năm 1937 diện tích trồng bông chỉ còn 100 ha với sản lượng 45 tấn (Xin xem phụ lục 4.11).

Ngoài ra, các cây khác như tràm, dâu tằm, gai dầu cũng được trồng liên tục các năm. Trong đó có gai dầu số lượng diện tích, sản lượng lớn trong những năm 1929 – 1931 với diện tích các năm 1929 là 158 ha, năm 1930 là 160 ha, năm 1931 là 160 ha; sản lượng tương ứng các năm đạt 187 tấn, 190 tấn và 179 tấn (Xin xem phụ lục 4.12). Giống như bông, các loại cây trồng này chủ yếu chỉ để phục vụ nhu cầu trong tỉnh. Như gai dầu với sản lượng năm 1929 là 187 tấn nhưng bán ra bên ngoài tỉnh chỉ có 8 tạ [35]. Năm 1930 số lượng bán ra chỉ là 58 tạ [36], năm 1931 chỉ bán 45 tạ [37].

Dâu tằm được trồng ở Thuận Châu và ở một số tổng giáp Lào. Việc nuôi tằm không được chăm sóc tốt và cũng không có phương pháp hiệu quả nên sản lượng không cao (Xin xem phụ lục 4.13). Việc trồng dâu tằm, bông chủ yếu phục vụ nhu cầu sản xuất tơ, bông vải và nhuộm vải của người dân trong tỉnh.

Tràm được trồng với mục đích chủ yếu làm dược liệu, diện tích càng về sau càng tăng. Năm 1940, diện tích trồng tràm lên tới 150 ha cho thu hoạch 50 tấn [45] (Xin xem phụ lục 4.14). Việc trồng tràm và một số cây dược liệu khác ở Sơn La đã

140

khiến dược liệu trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong cán cân thương mại xuất khẩu nông sản của tỉnh Sơn La ra thị trường bên ngoài (Xin xem thêm mục 4.3.3).

Thuốc phiện là một trong những cây trồng đặc biệt tại Sơn La. Trong các Báo cáo có đề cập tới việc người H’mông trồng nhiều loại cây, đặc biệt là cây thuốc phiện. Việc trồng cây này được quy định bởi Chính quyền thuộc địa. Theo nhận xét của Công sứ Sơn La, “người H’mông rất chịu khó, người ta trồng trọt và không cho đất nghỉ ngơi. Họ chủ yếu trồng lúa, ngô, đỗ, thuốc phiện, rau trên nương rẫy quanh bản làng của họ” [16]. Cây thuốc phiện được trồng chủ yếu trong các làng dọc sông Đà. Một phần thuốc phiện thu được phục vụ cho nhu cầu, phần còn lại đem bán. Diện tích cây thuốc phiện khá lớn. Năm 1941, diện tích trồng thuốc phiện toàn tỉnh được thống kê là 295,6 ha, sản lượng đạt 880 kg [46]. Theo quy định, việc trồng cây thuốc phiện phải khai báo cho chính quyền [30]. Sản lượng thuốc phiện phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là thời tiết. Năm 1919, sản lượng cây thuốc phiện giảm hơn năm trước, vì mùa đông năm trước đó không lạnh, khô hạn và nắng nóng đã gây thiệt hại đáng kể diện tích. Nhiều nơi, như ở Thuận Châu, nhiều diện tích cây thuốc phiện bị thiệt hại nặng nề vì hạn hán, nhiều diện tích bị bỏ hoang sau khi trồng [31]. Nhưng quan trọng nhất, diện tích, sản lượng hay khả năng trao đổi buôn bán thuốc phiện vẫn phụ thuộc vào chính sách, quy định của chính quyền thuộc địa. “Năm 1922, chính quyền yêu cầu cấm tất cả việc mua bán thuốc phiện, ngoại trừ chính quyền” [33]. Tuy nhiên, các hoạt động buôn lậu vẫn diễn ra. Người H’mông giàu hơn người Thái và người Mán vì họ trồng và buôn bán thuốc phiện. 4.3.2. Chăn nuôi

Chăn nuôi là thế mạnh của các tỉnh miền núi trong đó có Sơn La. Dưới thời Pháp thuộc, chăn nuôi đã được chú trọng và từng bước có sự phát triển cả về phương thức sản xuất lẫn chất lượng sản phẩm, song còn gặp nhiều khó khăn. Do có cơ sở thức ăn phong phú, nhất là từ diện tích các đồng cỏ tự nhiên, từ phụ phẩm của ngành trồng trọt nên ngành chăn nuôi đã có điều kiện mở rộng quy mô và nâng cao giá trị sản xuất, hình thành nên sản phẩm mang tính hàng hóa rất sớm từ thời bấy giờ.

Đàn gia súc, gia cầm của Sơn La giai đoạn 1929 - 1939 phát triển tương đối

ổn định.

Với những ưu thế về điều kiện tự nhiên như khí hậu, đất đai, chăn nuôi Sơn La phát triển khá toàn diện cả về quy mô và cơ cấu đàn. Xét trong cả giai đoạn 1929 – 1939 thì tổng đàn vật nuôi của Sơn La có xu hướng tăng đều. Đàn gia súc lớn tăng từ 21.822 con năm 1929 lên 23.041 con năm 1939 (tăng 1.219 con, tương đương

141

tăng 5,6% trong 10 năm). Đàn gia súc nhỏ tăng từ 22.485 con lên 25.527 con trong cùng thời kì (tăng 3.042 con, tương đương 13,5% trong 10 năm và với tốc độ gần 1,4%/năm). Đàn gia cầm tăng từ 79.389 con năm 1929 lên 97.200 con năm 1938 (tăng 17.811 con, tăng 22,4% trong 9 năm, tương ứng gần 2,5%/năm).

Hình 4.7. Tổng đàn gia súc, gia cầm ở Sơn La giai đoạn 1929 – 1938 (con)

(Nguồn: [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44])

(Do nhiều nguyên nhân trong đó có thống kê chưa đầy đủ nên năm 1930, 1931 và 1931 không có số liệu của gia cầm, vì vậy các năm này tác giả không thể hiện lên biểu đồ)

Tuy nhiên, do duy trì phương thức và kỹ thuật chăn nuôi sơ sài trong thời gian dài, lại thiếu các biện pháp khoa học nên dịch bệnh thường xuyên diễn ra, đã làm chết hàng gia súc, gia cầm, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế Sơn La nói chung cũng như ngành chăn nuôi của tỉnh nói riêng. “Hầu hết trâu, bò thả tự do, đôi khi bán hoang dã trong rừng. Chỉ tới mùa vụ, người ta mới vào rừng tìm gia súc. Nó không hiếm khi thấy người Thái dẫn từ rừng về những con trâu cái, cùng những con nghé được đẻ trong rừng. Nhưng nhiều khi, họ cũng không còn tìm thấy đàn gia súc trong rừng vì nhiều lý do: bị ăn trộm, hoặc chết do dịch bệnh” [39]. Việc chăn nuôi

142

gia súc thiếu phương pháp khoa học, đặc biệt là thiếu sự lựa chọn giống hợp lý. Khi nhắc đến thực trạng chăn nuôi, trong bản Báo cáo kinh tế năm 1935 nhận xét: “Thực sự mà nói, người Thái không phải là những người chăn nuôi gia súc chuyên nghiệp, họ chăn nuôi chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, không chăm sóc tốt và không có phương pháp, kĩ thuật. Quan trọng là nhận thức của họ về chăn nuôi, coi chăn nuôi chỉ là phụ trợ cho những công việc khác nhau của họ, như cung cấp sức kéo, vận chuyển hàng hóa, và người. Họ không quan tâm nhiều tới chăn nuôi, chủ yếu thả rông đàn gia súc trong rừng, họ không cho ăn, không chăm sóc và chỉ đi tìm gia súc khi mùa vụ tới” [40].

Trong các Báo cáo kinh tế hàng năm tại tỉnh Sơn La liên tục đề cập đến tình hình dịch bệnh ở gia súc, gia cầm. Điển hình như: Năm 1908, dịch hạch ở bò hoành hành trong tỉnh Sơn La, đặc biệt ở Thuận Châu, ngay từ đầu năm dịch hạch đã bùng phát. Sau đó lan rộng ra châu Mai Sơn, châu Sơn La [23]. Năm 1911 là một năm khó khăn và khủng hoảng của hoạt động chăn nuôi gia súc ở Sơn La. Dịch bệnh, đặc biệt là dịch hạch và dịch tả đã giết hại nhiều đàn gia súc (ngựa và bò) ở Mộc Châu [27].

Dịch gia súc diễn ra trầm trọng ở một số tổng, như tổng Gia Phù (châu Phù Yên), tổng Mộc Thương (Mộc Châu), tổng Mường Vạt, Mường Khoa (Yên Châu), và tổng Mường Piềng (Thuận Châu). Dịch bệnh trầm trọng đến nỗi Thống sứ Bắc Kỳ phải ban hành 2 Nghị định ngày 28/4 và 27/5/1925 công bố tình trạng tồi tệ ở Sơn La về dịch hạch ở bò [34].

Năm 1925, dịch hạch bò bùng phát và tàn phá tệ hại các đàn gia súc ở Sơn La. Trong năm 1925, đã có 2.000 con trâu, 58 con bò, 2.900 con lợn chết vì dịch bệnh. Số lượng gia súc bị chết vì dịch bệnh tính đến tháng 6/1926 lên tới 3.072 con trâu, 72 con bò, 3.762 con lợn, gây thiệt hại ước tính 100.000 đồng. Thiệt hại do dịch bệnh gây ra đến nỗi Thống sứ Bắc Kỳ phải ban hành Nghị định số 1900-A ngày 20/5/1926 công bố dịch bệnh dịch hạch tồi tệ ở Sơn La, và cấm di chuyển các loại gia súc, da của gia súc từ Sơn La đi nơi khác [18].

Bước sang năm 1927 và 1929, nạn dịch hạch và bệnh khuẩn than tiếp tục tàn phá nặng nề các đàn gia súc ở châu Mai Sơn, Sơn La, và Thuận Châu. Tổng số lượng gia súc chết gồm: 3.274 con bò và 3.764 con lợn [19].

Khó khăn trong chăn nuôi ở tỉnh Sơn La là thiếu cơ sở vật chất kĩ thuật, thị trường tiêu thụ và ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh nhưng tổng đàn vật nuôi vẫn tăng đều và khá ổn định, không chỉ đáp ứng nhu cầu về thực phẩm cho người dân mà còn góp phần cung cấp sức kéo, phân bón, sức vận chuyển và là mặt hàng xuất khẩu sang các địa phương gần trong nước. Ở những thập niên đầu tiên của thế kỉ

143

XX, trong các Báo cáo kinh tế, Báo cáo tình hình chung hàng năm không có thống kê số lượng cụ thể của các loại vật nuôi, nhưng thông qua bảng số liệu sản phẩm nông nghiệp xuất ra bên ngoài tỉnh, đã cho thấy được sản lượng thời kì này đủ để cung ứng nhu cầu trong tỉnh. Ví dụ: Trong tháng 2 và tháng 3 (năm 1902), trong tỉnh Vạn Bú đã bán xuống Hà Nội 316 con lợn, 109 bò và 36 trâu bán xuống Hưng Hóa và Yên Bái [21]. Thời kì này xuất khẩu lợn hàng năm lên đến hàng con, trâu bò số lượng khá lớn. Nội dung này sẽ được phân tích rõ hơn trong phần thương mại xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp.

Chăn nuôi gia súc Chăn nuôi gia súc ở Sơn La chiếm ưu thế hơn chăn nuôi gia cầm, trong đó

phải kể đến trâu, bò, lợn. - Trâu, bò Đàn trâu ở Sơn La được nuôi chủ yếu để lấy sức kéo, phân bón, phục vụ sản

xuất nông nghiệp. Trâu có số lượng lớn, chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu vật nuôi.

Năm

con

Hình 4.8: Tổng đàn trâu, bò Sơn La giai đoạn 1929 – 1939 (Đơn vị: con)

Số lượng trâu khá ổn định qua các năm, cao nhất là năm 1931 với 22.791 con, thấp nhất là năm 1938, 17.100 con, luôn chiếm khoảng 40% trong tổng đàn gia súc và gấp trung bình 3-4 lần đàn bò, do trâu thích nghi tốt hơn bò trong điều kiện khí hậu lạnh vùng núi cao. Tuy vậy, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế

144

thế giới năm 1933 dẫn tới giá gia súc giảm một cách nhanh chóng, giá mỗi con gia súc giảm tới 40% so với trước, thậm chí là 50%. Giá một con trâu cỡ trung bình trước kia bán 40 đồng, thì nay chỉ bán được 20 đồng bạc [38]. Vì vậy năm 1933, 1934, đàn trâu giảm khá nhanh so với các năm trước. Trâu được nuôi nhiều nhất tại Mộc Châu, Phù Yên. Sơn La cũng là tỉnh sớm làm quen với việc chăn nuôi đàn bò cho thịt, sữa, sức khéo, phân bón từ sớm. Tuy nhiên thời kì này kỹ thuật chăn nuôi còn lạc hậu nên số lượng và chất lượng đàn bò chưa cao. Bò được nuôi tập trung chủ yếu ở Mộc Châu, Thuận Châu.

- Lợn Lợn là loại vật nuôi khá dễ tính nên được nuôi phổ biến ở Sơn La. Đàn lợn cũng chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu các loại gia súc (khoảng 40%). Số lượng lợn tăng nhanh chóng, từ 19.142 con năm 1929 lên 23.767 con năm 1939, tăng 24,2% trong 10 năm, tương đương 2,4%/năm; trong đó cao nhất là năm 1939 với 23.767 con, thấp nhất năm 1933 là 13.000 con. Nguyên nhân chủ yếu là do năm 1932, dịch hạch hoành hành trầm trọng đối với chăn nuôi bò và lợn. Đàn lợn được nuôi ở khắp các địa phương trong tỉnh, tập trung nhiều nhất ở Mai Sơn, Thuận Châu, Mộc Châu.

- Ngoài trâu, bò, lợn, thời kì này ở Sơn La còn chú ý phát triển ngựa, dê và cừu. Báo cáo kinh tế của tỉnh Sơn La từ năm 1904 đến năm 1909 đã đề cập đến việc từ năm 1904, việc nuôi ngựa bắt đầu được hình thành trong tỉnh Sơn La [23]. Năm 1939, đàn ngựa có 1.574 con để phục vụ vận chuyển hàng hóa và nhu cầu đi lại của nhân dân vùng cao. Ngựa được nuôi tập trung tại Phù Yên. Dê có 1.583 con, được nuôi nhiều ở các vùng núi đá và cao nguyên đá vôi tại Thuận Châu, Mai Sơn. Thấp nhất là cừu với số lượng chỉ vài trăm con một năm. Thậm chí có những năm như 1929 chỉ có 161 con, năm 1939 chỉ có 177 con. Nguyên nhân do cừu là một giống vật nuôi mới đối với các tộc người ở Sơn La, hơn nữa cừu lại ưu khí hậu nóng và khô nên không thực sự thích hợp với vùng đất này. Địa bàn nuôi cừu tại Sơn La chủ yếu chỉ có vùng cao nguyên Mộc Châu.

Chăn nuôi gia cầm Chăn nuôi gia cầm của tỉnh tăng khá nhanh trong những năm 1929 – 1938, từ 79.389 con lên 97.200 con. Trong cơ cấu đàn gia cầm thì gà chiếm ưu thế. Ví dụ như: năm 1929, số lượng gia cầm là 79.389 con, trong đó gà 58.547 con, chiếm 73,7% tổng đàn. Năm 1930, số lượng gia cầm là 73.267 con, riêng gà là 48.115 con, chiếm 65.7%. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch bệnh nên đàn gia cầm cũng có biến động giữa các năm.

145

Gia cầm phù hợp với nền kinh tế hộ gia đình nên được nuôi phổ biến ở tất cả

các địa phương, song tập trung nhiều nhất ở Mai Sơn, Mộc Châu.

Bảng 4.4. Đàn gia cầm ở Sơn La giai đoạn 1929 – 1938 (đơn vị: con)

Năm 1929 1930 1934 1935 1936 1937 1938

(Nguồn: [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44])

1929 79.389 73.267 93.796 73.000 99.390 110.246 97.200

Chăn nuôi Sơn La mang tính chất hộ gia đình. Chăn nuôi chủ yếu đáp ứng nhu cầu của trồng trọt, như trâu bò chủ yếu làm sức kéo, lấy phân bón. Còn ngựa chủ yếu phục vụ nhu cầu đi lại, thồ hàng. Gia cầm chủ yếu đáp ứng nhu cầu thức ăn của người dân là chính. Sơn La có tiềm năng rất lớn để phát triển các đàn gia súc, gia cầm lớn. Song kể cả khi số lượng nhiều thì vấn đề đầu ra của sản phẩm chăn nuôi là một trở ngại lớn. Ngựa, bò, trâu và lợn sẽ là nguồn lợi lớn của tỉnh nếu giao thông phát triển. Hiện nay, người Thái chăn nuôi số lượng lớn gia súc, tuy nhiên họ gặp một vài khó khăn về đầu ra của sản phẩm. Điều này thực sự khó, vì đầu ra của chăn nuôi gia súc chủ yếu trông chờ vào việc mua gia súc phục vụ cho sức kéo là chính. Trong khi đó, số lượng gia súc được chăn nuôi trong cộng đồng người Thái luôn cao hơn nhu cầu sức kéo cho sản xuất nông nghiệp [29]. 4.3.3. Tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp

Nông nghiệp Sơn La từ đầu thế kỉ XX đã mang tính chất hàng hóa hay nói cách khác từ đầu thế kỉ XX các sản phẩm nông nghiệp ngoài mục đích chính là phục vụ nhu cầu trong tỉnh đã được bán ra thị trường bên ngoài. Tổng sản lượng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của tỉnh liên tục có những biến đổi theo từng năm. Cụ thể xin xem bảng 4.5.

Bảng 4.5. Thương mại xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Sơn La từ năm 1901 đến năm 1931

Thời gian Trồng trọt Chăn nuôi Tổng sản lượng

Năm 1901 480.032 kg 2.442 kg 482.474 kg

Năm 1903 62.806 kg 4.148 kg + 2.721 con 66.234 kg + 2.721 con

Tháng 7+8/1904 32.160 kg 1.740 kg + 520 con 33.900 kg + 520 con

224.248 kg 4.198 kg + 2.113 con 228.446 kg + 2.113 con Tháng 1+2+3+4+5+6+11+12/1905

Tháng 11+12/1906 56.536 kg 4.510 kg + 894 con 61.604 kg + 894 con

146

Thời gian Trồng trọt Chăn nuôi Tổng sản lượng

Tháng 3+4+5+6+10+11/1907 286.098 kg 31.586 kg + 730 con 317.684 kg + 730 con

Tháng 6/1925 – 6/1926 8.520 kg 4.320 kg 12.840 kg

Tháng 6/1926 – 6/1927 3.084.720 kg 0 3.084.720 kg

Năm 1929 323.560 kg 8.220 kg 331.780 kg

Năm 1930 185.220 kg 10.800 kg 196.020 kg

(Nguồn: [21], [22], [24], [25], [26], [23], [19], [35], [36], [37])

Năm 1931 223.791 kg 5.796 kg 229.587 kg

Nhìn vào bảng thống kê chúng ta có thể nhận thấy, sản lượng xuất khẩu sản phẩm của ngành trồng trọt bao giờ cũng cao hơn so với chăn nuôi. Điều này chứng tỏ trồng trọt là ngành kinh tế chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Sơn La thời kì này. Tuy số liệu thống kê có được từ các bản Báo cáo còn thiếu một số tháng, một số năm nhưng chúng ta hoàn toàn có thể thấy thương mại xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của Sơn La không ổn định, sản lượng xuất khẩu thấp, có sự chênh lệch lớn giữa sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi.

Sản phẩm trồng trọt Theo số lượng thống kê từ các bản Báo cáo kinh tế, Báo cáo tình hình chung của tỉnh Sơn La lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I thì các sản phẩm nông sản xuất khẩu tiêu biểu của Sơn La ra bên ngoài gồm: cánh kiến, củ nâu, đậu khấu, dược liệu, thóc, gạo, chè, ngô, sắn, đỗ, bông, nấm… Trong đó cánh kiến được coi là mặt hàng chủ đạo của ngành xuất khẩu nông sản.

Cánh kiến là một trong những cây trồng mang lại nhiều nguồn lợi nhất, trong khi nó không đòi hỏi quá nhiều công chăm sóc. Tỉnh Sơn La đã xuất khẩu cánh kiến tương đối khá (Xin xem bảng 4.6).

Bảng 4.6. Thương mại xuất khẩu cánh kiến của tỉnh Sơn La từ năm 1901 đến năm 1931

Thời gian Năm 1901 Năm 1903 Tháng 7+8/1904 Tháng 1+2+3+4+5+6+11+12/1905 Tháng 1+2+3+4+11+12/1906 Sản lượng (kg) 25.710 37.806 1.560 155.980 146.340

147

(Nguồn: [21], [22], [24], [25], [26], [23], [19], [35], [36], [37])

Thời gian Tháng 3+4+5+6+10+11/1907 Tháng 6/1925 đến tháng 6/1926 Tháng 6/1926 đến tháng 6/1927 Năm 1929 Năm 1930 Năm 1931 Sản lượng (kg) 161.954 5.640 39.060 167.160 93.180 16.605

Về cơ bản cánh kiến được dùng làm nguyên liệu trong chế tạo thuốc, dùng trong hương liệu. Sơn La chủ yếu xuất khẩu cánh kiến đỏ. Giá trị mang lại từ xuất khẩu cánh kiến tăng từ 10.694 đồng vào năm 1901 lên 22.344 năm 1902 và 47.576 đồng năm 1903 [23]. Tạ Khoa ở gần sông Đà là trung tâm mua bán cánh kiến sôi động ở Sơn La, giá mỗi tạ (60 kg) là khoảng 40 đồng bạc Đông Dương [33]. Tuy nhiên, thông qua bảng thống kê cho thấy sản lượng cánh kiến xuất khẩu không có từ năm 1907 đến năm 1925. Nguyên nhân được xác định là do thiếu thị trường tiêu thụ. Xuất khẩu cánh kiến khởi sắc trở lại bởi từ năm 1922, Toàn quyền Đông Dương gửi thư yêu cầu chính quyền Sơn La chú ý mở rộng diện tích trồng cánh kiến vì giá trị lớn của sản phẩm này. Công sứ Sơn La sau đó đã yêu cầu tất cả các tri châu của Sơn La quan tâm và giúp đỡ người dân trồng và thu hoạch cánh kiến. Đặc biệt, cánh kiến là một trong những cây trồng có diện tích lớn và giá trị lớn của Sơn La trước năm 1929 thì từ năm 1931 giảm một cách nhanh chóng, thậm chí năm 1937 không còn một ha nào. Nguyên nhân là do giá cánh kiến giảm một cách thảm hại, do đó thu hoạch không đủ cho chi phí trồng, thậm chí là thua lỗ. Trong giai đoạn 1927-1931, giá mỗi tạ cánh kiến là 60 đồng, từ sau năm 1931 chỉ còn 10 đến 12 đồng/tạ [44].

Hoạt động thu mua cánh kiến chủ yếu nằm trong tay người Hoa. Họ mua hầu như tất cả cánh kiến được sản xuất ở châu Sơn La, Thuận Châu và một phần ở Mai Sơn. Một số thương nhân người Việt cũng tham gia vào hoạt động này: “Một số thương nhân người Việt đến Tạ Khoa, Tạ Chan, Tạ Hộc để mua cánh kiến, cạnh tranh với người Hoa. Sau đó, họ bán lại cho người Hoa. Thương nhân người Việt cũng sang tận Lào để mua cánh kiến ở Sầm Nưa (Mường Xiêng – kho, Mường Het” [32].

Ngoài cánh kiến, các sản phẩm khác cũng có sản lượng lớn như đậu khấu, chè và dược liệu. Sản lượng của các sản phẩm này luôn chiếm số lượng lớn trong tổng sản phẩm trồng trọt được xuất khẩu, tuy nhiên số lượng không ổn định. Đặc

148

biệt, từ năm 1906, chè đã xuất hiện trong trao đổi thương mại và được trồng chủ yếu ở Mộc Châu. Có thể chè được trồng từ năm 1904. Càng về sau sản lượng càng lớn: trong 4 tháng đầu năm 1906 sản lượng mới đạt 1500 kg, tháng 5, tháng 6/1907 đạt 9420 kg, năm 1929 đạt 15.120 kg, năm 1930 đạt 15.000 kg. Như vậy, thời Pháp thuộc Sơn La đã có những giống cây trồng mới mang lại giá trị kinh tế cao.

Thời kì đầu thế kỉ XX, tỉnh Sơn La chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm liên quan đến dược liệu, chế tạo thuốc như cánh kiến, thao vàng…; các cây phục vụ cho thủ công nghiệp, công nghiệp như song, cao su, sợi gai… Càng về sau các sản phẩm lương thực, thực phẩm như thóc, gạo, ngô, đỗ trở nên phổ biến (Xin xem phụ lục 4.15). Đồng thời các sản phẩm xuất khẩu cũng trở nên phong phú hơn. Ít nhất, ở một khía cạnh nào đó cũng chứng tỏ kinh tế nông nghiệp Sơn La đã có bước phát triển nhất định.

Theo thống kê trong các Báo cáo kinh tế từ năm 1901 đến năm 1941, Sơn La có một số sản phẩm xuất khẩu chỉ xuất hiện một vài năm với số lượng vô cùng lớn nhưng không được duy trì liên tục, tiêu biểu như củ nâu. Từ tháng 5 đến tháng 6/1905 xuất khẩu củ nâu đạt 67.250kg, từ 6/1926 đến tháng 6/1927 xuất khẩu 3.000.000 kg, năm 1931 xuất khẩu 180.000kg củ nâu. Như vậy, trong tổng số thời gian thống kê khoảng 30 năm, xuất khẩu củ nâu chỉ xuất hiện trong 3 năm ngắt quãng nhưng với số lượng lớn. Lý do được gợi mở trong các bản Báo cáo, bởi củ nâu mọc hoang tại các vùng rừng núi được thu hoạch bán cho thương nhân Hoa dùng để nhuộm vải hoặc làm thuốc. Hay nói cách khác, tính hàng hóa ở Sơn La thực sự rất kém, họ chỉ khai thác tự nhiên, chưa có những vùng canh tác lớn.

Các sản phẩm tùy từng thời điểm sẽ có sản lượng xuất khẩu khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó được nhắc đến nhiều trong các bán Báo cáo là do chính sách trưng mua của chính quyền thực dân “đầu năm 1919, trồng thầu dầu có xu hướng tăng hơn trước do chính quyền thực hiện trưng mua sản phẩm này” [31]. Hay “Cánh kiến được chính quyền thuộc địa trưng mua, người dân có ý định mở rộng diện tích cánh kiến hơn nữa” [30].

Đến khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 xảy ra, tỉnh Sơn La cũng chịu tác động lớn của cuộc khủng hoảng này. Trong khi điền chủ các tỉnh khác được chính quyền Pháp đưa ra các khoản trợ cấp, vay tín dụng nông nghiệp, riêng ở Sơn La, không có bất kì một trợ cấp hoặc tín dụng nông nghiệp nào được tiến hành [37]. Nhiều nông sản của Sơn La không thể bán được như cánh kiến, da động vật không có người mua. Đây là một trong những thiệt hại lớn được ghi nhận ở Sơn La năm 1933.

149

Sản phẩm chăn nuôi So với các sản phẩm trồng trọt được xuất khẩu, các sản phẩm chăn nuôi số lượng ít chỉ có: da động vật, sừng hươu, sừng trâu, trâu, bò, lợn. Trong đó da động vật là mặt hàng chủ đạo. (Xin xem bảng 4.7)

Bảng 4.7. Thương mại xuất khẩu da động vật của tỉnh Sơn La từ năm 1901 đến năm 1931

Sản lượng (kg) Thời gian

Năm 1901 2.400

Năm 1903 3.198

Tháng 7+8/1904 120

Tháng 1+2+3+4+5+6+11+12/1905 3.781

Tháng 1+2+3+4+11+12/1906 11.260

Tháng 3+4+5+6+10+11/1907 28.640

Tháng 6/1925 đến tháng 6/1926 3.660

Tháng 6/1926 đến tháng 6/1927 0

Năm 1929 5.520

Năm 1930 8.880

(Nguồn: [21], [22], [24], [25], [26], [23], [19], [35], [36], [37])

Năm 1931 2.376

Nhìn vào bảng thống kê chúng ta có thể thấy, năm 1907 có sản lượng da động vật (chủ yếu là trâu, bò) xuất khẩu ra thị trường bên ngoài cao nhất là do thời tiết thuận lợi, mưa thuận, đều đặn, không xảy ra dịch bệnh, thiên tai. Vì thế sản lượng nông nghiệp xuất khẩu năm này đạt tỉ lệ cao nhất mặc dù chưa thống kê được đầy đủ số liệu các tháng trong năm. Da trâu được người Trung Quốc và chính quyền Pháp ở Sơn La ưa chuộng, giá thành ban đầu khoảng 10 đồng, sau đó tăng dần lên đến 20 đồng/1 tạ [35]. Tuy nhiên, sản lượng xuất khẩu da động vật không ổn định, nguyên nhân chủ yếu là do dịch bệnh thường xuyên diễn ra đối với ngành chăn nuôi gia súc ở Sơn La, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng thương mại xuất khẩu gia súc.

Theo bảng thống kê có năm Sơn La không có sản lượng chăn nuôi xuất khẩu như từ tháng 6 năm 1926 đến tháng 6 năm 1927, nguyên nhân như trong bản Báo cáo năm về tình hình chung của tỉnh Sơn La năm 1927 đã đưa ra: “Đối với thương mại da trâu, bò, từ một năm nay bị tê liệt vì sự bùng phát của dịch hạch trên các

150

đàn gia súc”. Trong năm này, nạn dịch hạch tiếp tục tàn phá nặng nề đàn gia súc ở châu Mai Sơn, Sơn La và Thuận Châu. Tổng số gia súc chết gồm 3.274 con bò và 3.764 con lợn [19].

Thị trường xuất khẩu gia súc theo thống kê chủ yếu được đem bán ở chợ Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình và trung tâm tỉnh Sơn La. Ngoài ra, có bán cho một số địa phương ở miền xuôi như Hà Nội, Hưng Yên... “Trong tháng 2 và tháng 3, trong tỉnh Vạn Bú đã bán xuống Hà Nội 316 con lợn, xuống Hưng Yên và Yên Bái 109 lợn và 36 trâu” [21]. Giá bán gia súc cũng khá lời. “Một con trâu để cày có giá khoảng 35 đồng, để giết thịt thì khoảng 25 đồng… Ngựa ở Sơn La tuy bé, nhưng béo, giá lại tốt, một con ngựa trưởng thành có giá 100 đồng” [16].

Đồng thời càng về sau thương nhân đến mua trâu, bò, lợn với số lượng ngày càng lớn. Có những năm số lượng trâu bò lợn được xuất khẩu lên đến hàng nghìn con như năm 1903, 1905 (Xin xem bảng 4.11). Điều này chứng tỏ, Sơn La có khả năng phát triển ngành chăn nuôi với mục đích xuất khẩu chứ không chỉ dừng lại ở một ngành phụ của nông nghiệp, chỉ để cung cấp sức kéo.

Thương mại hầu hết là các thương nhân người Hoa, một số thương nhân người Việt cũng mở các cửa hàng ở trung tâm tỉnh, ven bờ sông Đà, tuy nhiên với số vốn và quy mô rất nhỏ. Họ bán những hàng hóa có nguồn gốc từ đồng bằng [47]. Người Thái cũng tham gia vào hoạt động thương mại nhưng phần lớn tập trung thành từng nhóm, mua những đồ thiết yếu: vải, muối, thuốc lá Hiền Lương (Phú Thọ) [47], nên trong các bản Báo cáo nhận định “không có thương nhân người Thái” [36].

Trong những năm diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, tỉnh Sơn La cũng chịu những ảnh hưởng nhất định. Trong năm 1931, không có bất kì một chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp nào được chính quyền thuộc địa đưa ra, thậm chí đối với cả việc chăn thả gia súc. Một trong những khó khăn trong năm 1933 là giá gia súc giảm một cách nhanh chóng, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Giá mỗi con gia súc giảm tới 40% so với trước, thậm chí là 50%. Giá một con trâu cỡ trung bình trước kia bán 40 đồng, thì nay chỉ bán được 20 đồng bạc [38].

Như vậy, sau khi nghiên cứu về tình hình tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp

của tỉnh Sơn La thời kì này có thể nhận thấy:

Thứ nhất, trồng trọt là ngành kinh tế chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Sơn La thời kì này. Điều đó dẫn tới các sản phẩm của trồng trọt phong phú, đa dạng, chiếm số lượng, sản lượng nhiều hơn trong tỉ trọng thương mại xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Sơn La từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945.

151

Thứ hai, thương mại xuất khẩu da động vật và cánh kiến là yếu tố trao đổi buôn bán chủ yếu trong thương mại ở Sơn La. Đây được coi là 2 mặt hàng chủ đạo, chiếm sản lượng cao liên tục trong suốt khoảng 30 năm đầu thế kỉ XX.

Thứ ba, hoạt động thương mại xuất khẩu của Sơn La chủ yếu nằm trong tay người Hoa, và một số người Việt. Người Thái chỉ bán các sản phẩm tại địa phương chứ không tham gia hoạt động thương mại xuất khẩu. Người Hoa tập trung mua sản phẩm tại đây sau đó vận chuyển bán cho các địa phương như Hà Nội, Hải Phòng… Thứ tư, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã gây nên những thiệt hại nhất định đối với thương mại xuất khẩu tỉnh Sơn La tuy nhiên mức ảnh hưởng không quá sâu sắc. Thậm chí đối với người Thái (bộ phận dân cư đông đảo nhất ở Sơn La) chịu rất ít tác động. Căn bản họ không tham gia vào hoạt động buôn bán, thêm vào đó các sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt và đủ để đóng thuế cho chính quyền. Kinh tế của người Thái gần như khép kín và sơ khai.

Thứ năm, thương mại xuất khẩu nông sản của tỉnh Sơn La không ổn định, chịu nhiều tác động bởi các yếu tố như điều kiện tự nhiên, dân cư, nguồn lao động, vốn, dịch bệnh, giao thông vận tải,… Về căn bản, các sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chủ yếu vẫn để phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng. Nền kinh tế vẫn chủ yếu mang tính chất tự cấp, tự túc. 4.4. Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945

Những chính sách mới trong kinh tế nông nghiệp của thực dân Pháp thời kì

này đã khiến cho kinh tế nông nghiệp Sơn La có những biến chuyển nhất định:

Thứ nhất, trong vấn đề ruộng đất, chế độ công hữu về ruộng đất vẫn phổ biến cùng với sự tồn tại vững chắc của chế độ phìa tạo trong xã hội ở Sơn La thời thuộc Pháp. Tổng số ruộng công ở đây còn chiếm tỷ lệ rất cao, như ở Thuận Châu số ruộng công chiếm 98% tổng số diện tích ruộng đất [131, tr.230]. Thậm chí, khi cách mạng tháng Tám thành công ở Sơn La “trong điều kiện Sơn La thiếu cán bộ cốt cán, nên chính quyền cách mạng lâm thời từ châu đến bản hầu hết vẫn giao cho các tri châu, phìa, tạo cũ nắm giữ” [134, tr.174]. Ruộng đất vẫn thuộc quyền quản lý và phân phối của phìa, tạo, chẩu mường. Từ năm 1925 chế độ tư hữu bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên diện tích của các chủ sở hữu hầu hết nhỏ, manh mún. Trong khi đó ở các vùng tồn tại chế độ lang đạo, thổ ty dưới thời Pháp thuộc đều có những chuyển biến lớn trong chế độ sở hữu ruộng đất. Ở vùng tồn tại chế độ thổ ty “cho tới năm 1930, chế độ ruộng công chấm dứt sau khi lập sổ địa bạ xác nhận quyền sở hữu ruộng đất trên cơ sở nguyên canh của nông dân cũng như của tầng lớp

152

thống trị” [131, tr.80 – 81]. Nguyên nhân chủ yếu là do sự xuất hiện sớm của chế độ tư hữu ruộng đất. Ở vùng người Mường nơi tồn tại chế độ lang đạo điển hình như ở Hòa Bình, cho đến trước năm 1945 ở Lương Sơn, Lạc Thủy chế độ lang đạo đã không còn tồn tại, “đã xuất hiện nhiều trích lục ruộng đất và nhiều văn tự bán ruộng của các thành viên trong làng xóm” [112, tr.183-184]. Số lượng ruộng tư của các phìa tạo ở Sơn La không nhiều trong khi đó ở Lai Châu “Ở Mường Lay và Quỳnh Nhai số ruộng tư chiếm tới 40%. Có tên như Đèo Văn Long (con trai Đèo Văn Trì) chiếm hàng trăm mẫu ruộng. Các tên khác cũng có từ 10 đến 50 mẫu ruộng. Số ruộng đó được giao cho nông dân cày cấy, nộp tô hiện vật và tô lao dịch” [104, tr.25].

Trong khi thiết lập đồn điền là đặc trưng của kinh tế Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thì với phạm vi nghiên cứu tỉnh Sơn La gồm 6 châu: Sơn La, Thuận, Yên, Mộc, Mai Sơn, Phù Yên thì ở Sơn La thời Pháp thuộc không tồn tại những đồn điền rộng lớn của người Pháp mà chỉ xuất hiện các tiểu đồn điền của người bản xứ, xuất hiện mua bán đất đai với diện tích lớn. Theo thống kê của Tạ Thị Thúy, trước 1896, ở Sơn La không có đồn điền [245], thời kì từ 1897 đến 1918 theo thống kê các đồn điền Bắc Kỳ, ở Sơn La chỉ có một trường hợp: “1 đồn điền 9.000 ha nhượng cho Morand và Gros ở Sơn La” [157, tr.103]. Tuy nhiên, 9000 ha đất đó được phân bố ở Na Tan, Điện Biên Phủ. Đồng thời đến năm 1909, đồn điền của Morand và Gros bị tách ra khỏi tỉnh Sơn La để thành lập tỉnh Lai Châu, vậy nên ở giai đoạn sau, các tài liệu lưu trữ đều khẳng định không có đồn điền tại Sơn La [216, tr.38]. Phải đến những năm 30, các tiểu đồn điền mới được mở theo nghị định ngày 13/11/1925 và nghị định bổ sung ngày 7/6/1939. Giai đoạn sau 1919 - 1945, theo thống kê số lượng, phân bố các đồn điền được thiết lập dưới những hình thức khẩn hoang khác nhau ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945, ở Sơn La không có đồn điền nào (Xin xem phụ lục 4.16). Giai đoạn này ở Sơn La chủ yếu phổ biến việc nhượng đất cho người bản xứ dẫn đến sự xuất hiện các tiểu đồn điền nhỏ như đã trình bày ở trên. Như vậy, nếu như đồn điền là một đặc trưng của kinh tế Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cưỡng đoạt ruộng đất để lập đồn điền là chính sách lớn nhất của thực dân Pháp thì ở Sơn La hoạt động này không diễn ra. Đây chính là một trong những điểm khác biệt của tỉnh Sơn La so với các tỉnh thành khác. Trong khi đó Hòa Bình với 26 đồn điền, Hà Giang 8 đồn điền, Cao Bằng 3 đồn điền [157, tr.111]. Với các hình thức khẩn hoang khác nhau nhằm thiết lập đồn điền từ năm 1919 đến năm 1945, Sơn La không có đồn điền nào. Trong khi đó ở Cao Bằng có tới 19 đồn điền, Hà Giang 4 đồn điền, Lai Châu có 4 đồn điền, Hòa Bình có 8 đồn điền [158, tr.544]. Trong các tài liệu lưu trữ liên tục khẳng định “thuộc địa hóa nông nghiệp không tồn

153

tại ở Sơn La” [41]. Sự yếu kém và chậm chạp của việc nhượng đất ở Sơn La nằm trong tổng thể chung của vùng thượng du. Theo Tạ Thị Thúy nếu so sánh trong diện tích đồn điền ở Bắc Kỳ trong ba khu vực (đồng bằng, trung du, thượng du) thì khu vực thượng du luôn luôn xếp cuối cùng cả về số đồn điền cũng như diện tích đồn điền [157, tr.116] (Xin xem phụ lục 4.17). Nguyên nhân là do: “đất hoang nhiều nhưng khó khai thác, xa trung tâm, giao thông khó khăn, nguồn nhân công khan hiếm, điều kiện vệ sinh, y tế tồi tệ. Trước những khó khăn ấy, các điền chủ không muốn tiến vào vùng này. Chính quyền thuộc địa lại không muốn thực hiện những biện pháp cần thiết và có hiệu quả cho việc khai thác” [157, tr.117]. Bên cạnh đó, trong các tài liệu lưu trữ thời Pháp thuộc cũng lí giải: “tất cả đất đai có thể trồng trọt được đã được người Thái khai thác và sử dụng. Họ gần như là bảo vệ và cấm người ngoài vào chiếm đất. Rừng thì không đưa ra nhiều khả năng để khai thác vì nhiều khó khăn liên quan tới địa hình hiểm trở, đặc biệt là khí hậu rất khắc nghiệt” [41]. Cùng quan điểm đó, tác giả Tống Thanh Bình nhận định: “các nhà đầu tư vùng đồng bằng không muốn mở đồn điền ở Sơn La vì đất canh tác nhỏ hẹp, chất đất rắn, khí hậu thất thường, giao thông đi lại hiểm trở. Vì những lí do đó, không chỉ chính quyền mà cả các nhà đầu tư cũng ngần ngại trong việc đầu tư ở Sơn La” [216, tr.124]. Việc không có những đồn điền rộng lớn thêm vào đó là những tiểu đồn điền của người bản xứ hoạt động không hiệu quả tạo nên những ảnh hưởng nhất định đến sản xuất nông nghiệp. “Đồn điền hoạt động không hiệu quả, nên việc đầu tư phân bón, kĩ thuật, mở rộng diện tích canh tác, sử dụng công nhân nông nghiệp cũng hạn chế” [213, tr.55].

Thứ hai, dưới những tác động từ chính sách nông nghiệp của chính quyền đô hộ đã khiến cho hoạt động sản xuất nông nghiệp xuất hiện nhiều điểm mới, khác biệt so với thời kì phong kiến.

Tác giả Tống Thanh Bình đã làm rõ sự xuất hiện của những kĩ thuật mới trong nông nghiệp như sự xuất hiện các tiểu đồn điền của người bản xứ, việc thử nghiệm các giống cây trồng; trong chăn nuôi đã hướng dẫn nhân dân cách chăm sóc gia súc, gia cầm, thực hiện các kĩ thuật mới như thiến, lựa chọn giống, lai tạo giống, nuôi thử nghiệm các loại vật nuôi mới như la, cừu, tăng cường công tác phòng chữa bệnh cho gia súc, gia cầm, đề xuất mở các chợ gia súc và hội chợ gia súc…; xuất hiện cho vay tín dụng nông nghiệp; chú trọng việc theo dõi thời tiết và khí hậu [216, tr. 130-132]. Tác giả luận án hoàn toàn đồng ý với những nhận định trên đồng thời trong quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy một số điểm mới, cũng như có những đánh giá mang tính hệ thống nhằm làm rõ những yếu tố có tác động

154

tích cực đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời kì này đặc biệt trong lĩnh vực chăn nuôi và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp:

Trong chăn nuôi, Chính quyền thuộc địa đã chú ý đến khâu quản lý việc chăn nuôi tại Sơn La bằng cách cho lập Sở Thú y ở Sơn La vào năm 1925, để chịu trách nhiệm quản lý việc chăn nuôi gia súc, đặc biệt là phòng, chữa bệnh cho gia súc [18]. Cơ quan của Sở gia súc được thiết lập ở Sơn La nhìn chung còn khá sơ sài. Năm 1935, đã xây dựng một khu mới, gồm nhà cho nhân viên, văn phòng, phòng lâm sàng, nơi nhốt gia súc bị bệnh cho phép nhốt và chữa cho nhiều gia súc bị bệnh. Xuất hiện đội ngũ chuyên phụ trách công việc chăn nuôi trong toàn tỉnh. Năm 1940, tỉnh đã đào tạo được 27 học sinh gọi là Kiêm Mục để phụ trách chăn nuôi của tỉnh [45]. Trong khi tổng số học sinh ở Sơn La năm 1935 – 1936 là 485 học sinh [216, tr.115] thì việc xuất hiện đội ngũ học sinh trong lĩnh vực chăn nuôi chứng tỏ chính quyền thuộc địa rất chú trọng đến lĩnh vực này, đồng thời cũng cho thấy khả năng lớn của tỉnh Sơn La trong việc phát triển chăn nuôi.

Chính quyền thuộc địa đã cho xây dựng lò giết mổ gia súc tập trung ở trung tâm của tỉnh, thường xuyên tiến hành thanh kiểm tra vệ sinh tại các cửa hàng thịt. Mục tiêu chủ yếu nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và ngăn chặn lây lan của dịch bệnh trong gia súc và có thể lây sang người. Việc làm này đưa tới những kết quả nhất định như trong năm 1935-1936 không có dịch bệnh xảy ra trên đàn gia súc ở Sơn La [20].

Việc cấm xuất khẩu gia súc về các tỉnh đồng bằng có thể là biện pháp duy nhất và triệt để để tăng số lượng và phát triển gia súc ở Sơn La [44]. Tuy nhiên, điều này sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của người dân. Nguyên nhân sự phát triển chậm chạp của chăn nuôi gia súc ở Sơn La còn vì nó thiếu phương pháp và sự chỉ đạo của người Âu.

Từ năm 1933, Chính quyền tổ chức hội chợ gia súc hàng năm ở Sơn La, ở đó, người ta đưa đến nhiều giống bò, ngựa có khả năng chống chọi được bệnh tật, thích nghi với điều kiện khí hậu và địa hình của Sơn La, đặc biệt là khả năng thồ hàng và di chuyển trên địa hình đồi núi cao [39]. Đặc biệt, Công sứ Sơn La đề xuất thành lập một trung tâm nuôi gia súc quy mô lớn và hiện đại ở các châu thuộc Sơn La [20].

Trong tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: xuất khẩu nông sản được đẩy mạnh, phải nhấn mạnh rằng, tất cả các sản phẩm xuất khẩu ra bên ngoài tỉnh Sơn La thời kì này đều là các sản phẩm từ nông nghiệp (Xin xem phụ lục 4.18). Đồng thời các sản phẩm nông nghiệp phong phú, có giá trị kinh tế cao. Điều này xuất phát từ ba yếu tố chính: chính quyền thuộc địa chú trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm; năng

155

suất, sản lượng nông nghiệp tạo ra nhiều mặt hàng; các chợ để trao đổi buôn bán cũng như hệ thống giao thông vận tải được tăng cường…

Bước sang thời Pháp thuộc, để nắm được kinh tế ở các địa phương, chính quyền thuộc địa hủy bỏ việc dùng bạc móng ngựa (loại tiền tệ thông dụng trước kia) và cho lưu hành một đơn vị tiền tệ thống nhất [174, tr.125]. Trong một chừng mực nhất định, việc lưu hành đồng Đông Dương đã góp phần thúc đẩy việc hình thành và phát triển một số trung tâm trao đổi buôn bán – nơi tập trung của tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ cũng như sự xuất hiện và phổ biến một số hình thức trao đổi hàng hóa bằng tiền tệ. Và tất yếu, những yếu tố mới xuất hiện này đã thu hẹp dần phạm vi trao đổi theo kiểu hàng đổi hàng trước kia, phá vỡ dần nền kinh tế tự cung tự cấp của các tộc người trong tỉnh, thúc đẩy trao đổi hàng hóa phát triển.

Ngoài chợ tỉnh lỵ là Chiềng Lề từ cuối thế kỉ XIX, chính quyền đã cố gắng cải thiện tình trạng buôn bán tại Sơn La bằng việc lập một chợ ở Tạ Khoa (Bắc Yên) bên bờ sông Đà. Trên thực tế, để mua, bán hàng hóa cần thiết, người dân phải đi rất xa, ví dụ muốn mua thuốc lá phải đi mãi tới chợ Hiền Lương (Phú Thọ), muốn mua dao phải tới chợ Yên Bái hoặc Lào Cai, muốn mua dụng cụ nông nghiệp phải đi mãi chợ Xiêng Khoảng [14]. Ở các chợ, người dân mang các sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp tới để bán và trao đổi lấy muối, thuốc lá, dầu hỏa. Họ bán gạo, rau, thịt, chè ở chợ Vạn Yên, da động vật ở Chiềng Lề và Vạn Yên. Những chợ này phân bố ở những trung tâm đông dân cư, đặc biệt là người Việt và người Hoa [41].

Với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, thời kì này đã xuất hiện việc tham gia vào hội chợ. Ngày 17/6/1926, Thống sứ Bắc Kỳ có Thông tri gửi tỉnh Sơn La tham gia vào Hội chợ tại Hà Nội. Công sứ Sơn La quyết định tham gia hội chợ. Tại Hội chợ, Sơn La xây dựng 3 gian hàng, 2 của người Thái và 1 của người Mán. Tại các gian hàng này, Sơn La giới thiệu và bán các sản phẩm của tỉnh, bao gồm: vải, cánh kiến, chè, đậu khấu, nấm, dược liệu, tơ, bông, tràm,… Đại diện cho chính quyền Sơn La tại hội chợ là Tri châu Thuận Châu và Mộc Châu [56].

Hệ thống giao thông vận tải nhất là hệ thống đường bộ được thực dân Pháp chú trọng đầu tư. Năm 1917, chính quyền cho xây dựng tuyến đường Sơn La - Tạ Bú dọc theo sông Đà. Con đường này rất khó khăn khi xây dựng vì vấp phải những dãy đá lớn chặn ngang, chi phí rất lớn. Một số tuyến đường cũng được cải tạo, như tuyến Sơn La - Điện Biên, Sơn La - Sầm Nưa [47].

Để cải thiện giao thông, trong năm 1922, chính quyền tiếp tục triển khai xây dựng 3 tuyến giao thông quan trọng: Tạ Bú - Sơn La; Sơn La - Thuận Châu và Sơn La - Mộc Châu - Bản Nót. Từ tháng 6/1922 đến 6/1923, chính quyền tỉnh Sơn La đã nỗ

156

lực cải tạo và duy tu một số tuyến đường giao thông quan trọng. Tuy nhiên, do thiếu vốn nên công việc chủ yếu là cải tạo, mở rộng nhưng vẫn chưa hoàn thành [17].

Đến năm 1927, đường từ Sơn La đi Tạ Bú đã được dọn dẹp và rải mặt đường phẳng, một phần đã được rải đá. Tuyến đường từ Sơn La đi Tuần Giáo và Điện Biên Phủ cũng được dọn dẹp và mở rộng. Cùng với đó, tiến hành xây dựng một con đường tránh dài 200m để giảm thiểu rủi ro ở đoạn đường dốc đứng. Tiến hành xây tuyến đường mới ở Vạn Yên thuộc Mộc Châu, mặt đường rộng 3m cho phép ô tô di chuyển thuận lợi. Việc xây dựng một số cầu cũng được tiến hành: 2 cầu gỗ trên đường Tạ Bú, một cầu dài 12m, cầu khác dài 4m đã bị cuốn trôi trong trận lũ năm 1926 [19].

Năm 1928, đã tiến hành cải tạo tuyến đường ở Khao Pha, gồm xây đường hầm dài 17m, cao 8m, một đường tránh dài 35m trong núi đá. Đường Tạ Bú đã xây dựng được 5.000m. Một tuyến đường khác từ Mường Het đi Sầm Nưa được xây dựng dài 15km [58].

Cho tới năm 1933, mạng lưới giao thông của Sơn La đã được cải thiện đáng kể. Vào tháng 2/1933, hoàn thành tuyến đường từ Sơn La đi Mộc Châu và Lai Châu, cho phép đi từ Hà Nội qua Sơn La lên Lai châu chỉ mất 1 ngày bằng ô tô. Tuyến đường này đưa ra những kì vọng lớn cho khai thác mỏ và nông nghiệp ở Sơn La. Thương mại Sơn La cũng sẽ có những lợi ích lớn nhờ vào việc di chuyển dễ dàng và nhanh chóng, vận chuyển hàng hóa dễ dàng, đặc biệt là lâm sản [38]. Kết quả cho đến năm 1936, hệ thống đường bộ ở Sơn La gồm: + Đường liên tỉnh số 41 dài 251km, trong đó 125 km đã được rải đá; + Đường Sơn La - Tạ Bú dài 29,5km, trong đó 22 km đã được rải đá; + Đường Tạ Khoa - biên giới với Lào (Sầm Nưa) dài 77,6km, qua địa phận

châu Phù, châu Mộc và đến biên giới Lào, sau này là đường quốc lộ 43;

+ Đường Mộc Châu về Sầm Nưa dài 31 km; + Đường Tú Nang dài 5 km; + Đường Mai Sơn dài 26 km; Tổng cộng các tuyến đường dài 420,1 km. Ngoài ra còn có 600 km đường mòn chính, kết nối các thung lũng đông dân với các khu vực và các tỉnh bên cạnh, cho phép thâm nhập vào các điểm xa của tỉnh tạo điều kiện cho trao đổi thương mại. Một số đường mòn chính gồm: Vạn Yên - Phú Thọ; Mai Sơn - Tạ Chan - Tạ Khoa; Tạ Bú - Yên Bái về Nghĩa Lộ; Mộc Châu - Lào [41].

Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa cũng cố gắng để khai thác, sử dụng đường thủy nối Hà Nội – Sơn La – Lai Châu trên hệ thống sông Đà. Tuy nhiên, với

157

những khó khăn nhất định liên quan đến điều kiện tự nhiên của tỉnh Sơn La khiến cho đường thủy chỉ có thể di chuyển được trong 8 tháng mỗi năm [45].

Việc thực dân Pháp cố gắng tiến hành thiết lập, tu sửa hệ thống giao thông đường bộ kết hợp khai thác, sử dụng đường thủy là một trong những chuyển biến tích cực trong việc tăng cường sự trao đổi giữa Sơn La với các địa phương khác, điều này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của trao đổi buôn bán trong kinh tế nông nghiệp nói riêng, của các ngành kinh tế khác nói chung.

Tóm lại, nông nghiệp tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc đã có những biến đổi nhất định, mặc dù còn chậm chạp, không toàn diện. Quá trình chuyển biến tuy chậm và kéo dài, nhưng thực sự đã khiến cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh có những thay đổi theo hướng tích cực. Một số biện pháp kỹ thuật và giống cây trồng, vật nuôi mà thực dân Pháp du nhập vào Sơn La thời kỳ từ năm 1895 đến năm 1945 thực chất là một phương thức sản xuất mới tư bản chủ nghĩa tiến bộ hơn hẳn so với cách thức sản xuất nông nghiệp cổ hủ, lạc hậu theo kiểu “chọc lỗ tra hạt” ở Sơn La trước đây. Đồng thời, các sản phẩm nông nghiệp trở thành hàng hóa để buôn bán với các tỉnh bên ngoài đã phần nào phá vỡ tính chất đóng kín của kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La nói riêng.

Thứ ba, dù có thay đổi nhất định so với thời kì phong kiến (từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1885) nhưng về tổng thể kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945, không có sự thay đổi mang tính chất toàn diện. Hay nói cách khác, những chính sách của chính quyền đô hộ trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp tại tỉnh Sơn La thời kì này chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm, không được phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong nhân dân. Vì thế, suốt thời thuộc Pháp, kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La vẫn chìm đắm trong cảnh nghèo nàn, lạc hậu và trì trệ, vẫn là một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên.

Trong lĩnh vực trồng trọt, xuyên suốt từ đầu thế kỉ XIX dưới triều Nguyễn cho đến khi thực dân Pháp cai trị, về cơ bản những biến đổi trong trồng trọt không nhiều, chỉ dừng lại ở mức độ thử nghiệm một số giống cây trồng nhưng không phải trên diện rộng và kết quả đạt được chưa cao. Việc canh tác ruộng 2 vụ ở Phù Yên cũng học hỏi từ các vùng đồng bằng trên cơ sở điều kiện tự nhiên thuận lợi chứ không phải hệ quả từ chính sách kinh tế của Pháp. Thậm chí, hoàn toàn không thấy sự can thiệp của chính quyền thuộc địa vào vấn đề nương rẫy (bộ phận kinh tế chiếm diện tích canh tác lớn và là nguồn sống của hầu hết các tộc người nơi đây). Các tộc người lấy kinh tế nương rẫy làm nguồn sống chính vẫn duy trì lối canh tác cũ, tập quán du canh du cư vẫn diễn ra. Đây cũng là một trong những nguyên nhân

158

lí giải vấn đề chính quyền đô hộ vẫn phải duy trì sự thống trị của bộ máy phìa tạo của người Thái, thống lý, thống quán ở vùng người H’mông trước kia trong suốt thời kì cai trị tỉnh Sơn La.

Trong lĩnh vực chăn nuôi, chính quyền thuộc địa đã nhìn thấy khả năng to lớn của tỉnh Sơn La trong lĩnh vực này nên có nhiều biện pháp thúc đẩy chăn nuôi phát triển như lai tạo giống, tiêm vacxin... Nhưng những biện pháp này đều không được thực hiện trên diện rộng và không được tiến hành thường xuyên. Chăn nuôi của tỉnh vẫn chủ yếu dừng lại ở mức độ hộ gia đình và mang tính tự phát.

Trong trao đổi buôn bán các sản phẩm nông nghiệp, việc chuyên chở hàng hóa vẫn còn lạc hậu, chủ yếu dùng sức người và sức ngựa. “Năm 1921, trên tuyến đường từ Tạ Bú đến Sơn La, hàng hóa được vận chuyển tổng số là 226.042kg, trong đó 65.386kg do phu mang vác và 160.656kg do ngựa kéo” [160, tr.71]. Điều này chứng tỏ, các hoạt động vận tải của tỉnh chưa phát triển. Thậm chí, chính quyền thuộc địa đã thống nhất dùng tiền giấy để thay thế tiền kim loại trước kia nhưng ở nhiều vùng vẫn duy trì hình thức trao đổi ngang giá “vật đổi vật”. “Người Dao, H’mông không muốn sử dụng tiền giấy. Người Thái chỉ dùng một lượng nhỏ tiền giấy để nộp thuế, họ vẫn quen dùng tiền kim loại” [160, tr.70].

Trồng trọt của Sơn La vẫn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, diện tích, sản lượng các loại cây trồng không ổn định, tình trạng thiếu lương thực thường xuyên diễn ra. Theo điều tra dân số chính thức năm 1926, dân số tỉnh Sơn La là 86.407 người. Nếu tính trung bình lương thực tối thiểu cho cuộc sống của mỗi người dân là 600g gạo mỗi ngày, thì năng suất và sản lượng lương thực ở Sơn La hiện tại không đủ cho cuộc sống của người dân địa phương [56]. Theo đánh giá “người dân vẫn sản xuất theo cách thức truyền thống, manh mún, năng suất thấp, sản lượng thậm chí không đủ nhu cầu địa phương” [215, tr.143]. Sơn La thời kì này ruộng nước vẫn độc canh cây lúa, chủ yếu là ruộng một vụ trừ Phù Yên. Ngoài một số ít ruộng nước, phần lớn là nương rẫy. Các biện pháp canh tác vẫn như truyền thống không có nhiều thay đổi. Phần đông tộc người thiểu số vẫn còn sống bằng săn bắn, hái lượm, du canh, du cư. Về cơ bản, thời kỳ thực dân Pháp vào cai trị Sơn La vẫn không có những biện pháp kỹ thuật mới được ứng dụng trong nông nghiệp, vẫn là hệ thống thủy lợi phụ thuộc vào tự nhiên, công cụ lao động không có sự cải tiến, phân bón vẫn chủ yếu từ tự nhiên, kỹ thuật làm đất, gieo cấy không thay đổi... Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

Chính quyền đô hộ đầu tư vào lĩnh vực kinh tế nông nghiệp cho tỉnh Sơn La rất ít, chủ yếu là khai thác. Mặc dù thực dân Pháp thiết lập ách thống trị ở Sơn La

159

nhưng đầu tư khai thác nông nghiệp ở Sơn La ít và muộn. Theo Báo cáo năm về tình hình chung của tỉnh Sơn La từ tháng 6/1922 đến tháng 12/1922 khẳng định: “Không có một tư bản Pháp nào đầu tư khai thác nông nghiệp ở Sơn La” [16]. Đến các bản Báo cáo tiếp theo năm 1925 – 1926, 1927 vẫn tiếp tục khẳng định điều này. Đến năm 1922, “ở Sơn La chưa có bất kì cơ sở trạm, vườn thí nghiệm nào. Chính quyền khẳng định, địa bạ cũng không có, thanh tra nông nghiệp cũng không” [33]. Điều này khiến cho kinh tế tỉnh Sơn La không có những cải thiện so với trước. Nguyên nhân chủ yếu là do: Thứ nhất, địa hình chia cắt, giao thông kết nối với các vùng khác khó khăn. Thứ hai, thời tiết cũng là rào cản ngăn trở sự thâm nhập, đầu tư của người ngoài tỉnh vào Sơn La, đặc biệt là người Âu. Thứ ba chính là tâm lý của người Thái, đây là yếu tố quan trọng nhất. “Họ không mấy quan tâm tới thương mại. Họ chỉ sản xuất những gì cần thiết cho cuộc sống của họ. Kinh tế của họ gần như khép kín và sơ khai” [41].

Tình trạng hạn hán thường xuyên được đề cập đến trong các bản Báo cáo hàng năm: Trong năm 1919, lượng mưa giảm hơn, đó là điều lo ngại cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Tình trạng hạn hán đã diễn ra, nhiều nơi ruộng lúa đã bị khô, cây héo vàng do thiếu nước. Thậm chí cả những cánh đồng lúa ở khu vực thấp trong các thung lũng cũng không đủ nước tưới [14]. Trong năm 1936, năng suất và sản lượng lúa rất tồi tệ. Lý do là trong 3 tháng liền từ tháng 10 đến tháng 12 không có mưa. Khi mà lúa đang vào hạt, thiếu nước và hạn hán đã làm giảm năng suất lúa [41].

Xuất phát từ thực trạng đời sống của nhân dân Sơn La, đặc biệt là thói quen dựa vào tự nhiên, việc các tộc người ở Sơn La thường xuyên thiếu lương thực và phụ thuộc vào việc khai thác các sản vật có sẵn trong tự nhiên thông qua hoạt động săn bắn, hái lượm đã được nhắc đến ở phần đặc điểm của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1895. Dưới thời Pháp thuộc, tình trạng này vẫn được duy trì bởi “việc trồng lúa ở Sơn La luôn luôn không đáp ứng đủ nhu cầu cuộc sống của người dân. Người dân sống trong cảnh đói kém nhờ vào rễ cây, ấu trùng và măng rừng” [15]. Ngoài ra, bộ phận người Thái là cư dân đông đảo nhất ở Sơn La nhưng “người Thái tỏ ra tự hài lòng với việc họ chỉ trồng một vụ lúa trong một năm và chỉ cần đủ nhu cầu cuộc sống của họ trong một năm. Nếu năng suất thấp hơn dự tính của họ, người Thái lại trông chờ vào những thực phẩm khai thác được trong rừng để bổ sung nguồn thức ăn cần thiết cho cuộc sống của họ. Thói quen này dẫn tới, người Thái thường thiếu ăn 3 tháng mỗi năm” [34]. Thói quen dựa vào tự nhiên của các tộc người ở Sơn La đã dẫn tới những hình thức đấu tranh bất hợp tác rất đặc biệt: “Tây vào mường mọi người bảo nhau bỏ nhà cửa, ruộng vườn chạy

160

lên núi. Người già và trẻ con ở nhà lo chỗ ở, người lớn đi vào rừng tìm kiếm thức ăn. Đói khát vô cùng cực khổ, nhưng không ai chịu ra hàng Tây…” [142]. “Đồng bào H’mông đã phá nhà cửa, ruộng vườn, nhiều nơi đồng bào còn đốt nhà cửa mang đồ đạc chạy vào rừng, hoặc vào những nơi heo hút để ở chứ nhất định không chịu ra hàng Tây” [140]. Đồng bào La Ha “họ đã bỏ cả nhà cửa chạy trốn vào chỗ heo hút nhất của rừng sâu để ở…” [134, tr.93].

Đồng thời, trong suốt thời Pháp thuộc, kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La vẫn không thoát khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp, sản xuất ra chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không có bộ phận dân cư chuyên sinh sống nhờ trao đổi buôn bán. Nguyên nhân chủ yếu là do:

Tính hàng hóa của Sơn La rất kém, sản xuất chủ yếu để phục vụ nhu cầu cuộc sống. Theo Báo cáo của Công sứ Sơn La khi nhắc đến thương mại: “Việc trao đổi theo kiểu vật đổi vật, hàng đổi hàng là cách giao dịch thường xuyên và phổ biến của người dân” [18]. Kể cả về sau thị trường buôn bán của Sơn La rất hẹp chỉ có chợ Chiềng Lề là nơi sinh sống chủ yếu của người Hoa, một số người Kinh, đây là chợ tỉnh lỵ trung tâm của Sơn La. Thứ hai là chợ phiên Tạ Khoa thành lập năm 1918. Cộng thêm vào đó là một số cảng sông như Tạ Chan, Tạ Bú… Đồng thời, sản xuất nông nghiệp chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng: “Tất cả việc trồng ngô, bông, lúa, tràm của người bản xứ là rất đẹp. Người bản xứ chỉ trồng những cây này cho nhu cầu của họ. Người Thái cũng chỉ trồng và sản xuất những sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng của họ” [23].

Giao thông của tỉnh Sơn La vô cùng khó khăn. Thời kì đầu thế kỉ XX, gần như toàn bộ hoạt động với bên ngoài đều phụ thuộc vào đường thủy sông Đà “trong tháng 7 và tháng 8/1904, giao dịch thương mại ở Sơn La gần như bị ngưng trệ do nước trên sông Đà dâng cao” [22]. Sông Đà là một tuyến giao thông quan trọng nhưng một vài thời điểm không di chuyển được, bình thường chỉ di chuyển trên sông Đà trong 4 tháng mùa hè. Vận chuyển hàng hóa chủ yếu là mang vác, ngựa thồ. Chính vì thế thương mại lớn khó có thể thực hiện được trong tỉnh vì chi phí vận chuyển đắt đã đẩy cao giá thành của hàng hóa. Ở Sơn La đến năm 1917 chỉ có 2 con đường có thể di chuyển được đó là đường từ Sơn La đi Tạ Bú dọc theo sông Đà nhưng cũng chỉ có thể di chuyển dễ trong 15 km đầu tiên. Đường thứ hai từ Sơn La đi Điện Biên, nhưng cũng chỉ có thể di chuyển dễ trong 40 km. Điều này khiến cho hoạt động thương mại ở Sơn La gần như là con số không. Hầu hết các sản phẩm sản xuất chủ yếu là cung cấp nhu cầu của người dân trong vùng.

Mật độ dân cư ở Sơn La thưa thớt, chỉ khoảng 6 người/km2 [8]. Trong khi đó

161

lao động lại không thể tuyển mộ lao động địa phương. Trong báo cáo về tình hình chung của tỉnh Sơn La từ tháng 6/1922 đến tháng 12/1922 viết: “Lao động ở Sơn La vô cùng hiếm hoi, phần lớn lao động đều phải tuyển mộ ở đồng bằng lên. Giá trị sử dụng lao động thì tương đối thấp, trong khi đó giá thuê người lao động rất đắt. Đây là lí do khiến việc xây dựng các công trình của tỉnh gặp nhiều khó khăn và luôn chậm chạp… Việc tuyển mộ người Thái thì không thành công, họ chỉ làm việc trên công trường một vài ngày rồi bỏ trốn” [16]. Đây là một trong những nguyên nhân khiến kinh tế đồn điền ở Sơn La không phát triển như các khu vực khác. Cộng thêm vào đó, đời sống kinh tế của Sơn La luôn bị chi phối bởi điều kiện địa lý, khí hậu không mấy thuận lợi.

Trong khi trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành kinh tế chính đảm bảo nguồn sống cho dân cư thì trồng trọt thời kì này vẫn sử dụng những kĩ thuật canh tác lạc hậu “về cơ bản, người Pháp không đầu tư cho hệ thống thủy nông, thủy lợi…, về phân bón, không được sử dụng trên đồng ruộng… người nông dân vẫn làm ruộng với lối canh tác cũ, sử dụng sức kéo trâu bò, công cụ thô sơ…” [215, tr.141]. Điều này dẫn tới năng suất lao động thấp, trong khi đó chỉ có một diện tích rất nhỏ ruộng lúa được tưới nước ở giữa các thung lũng, năng suất không đáng kể để có thể nuôi sống người dân. Phần lớn người dân vào tháng 8 và tháng 9 bị thiếu đói, cuộc sống chủ yếu dựa vào một số loại rễ và củ khai thác trong rừng [33]. Việc chăn thả gia súc không có quy mô lớn và thiếu những phương pháp khoa học. Chăn nuôi chủ yếu vẫn mang tính tự phát, gia súc không được chăm sóc tốt dẫn tới dịch bệnh thường xuyên xảy ra. Các sản phẩm chăn nuôi chủ yếu để phục vụ nhu cầu của các gia đình, đồng thời là cung cấp sức kéo cho trồng trọt.

Nếu xét theo thành phần tộc người ở Sơn La, người Thái luôn chiếm số lượng đông đảo, chiếm hầu hết ruộng đất nơi đây nhưng “người Thái không hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Thương mại thực sự và hoàn toàn nằm trong tay người Hoa và một vài người Việt” [29]. Họ sản xuất nông nghiệp chỉ để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và đóng thuế nên kể cả khi người Pháp có chủ trương mở rộng một số cây trồng mới nhưng cũng khó khi người dân không chấp nhận “người Thái gần như thờ ơ với cây bông. Họ không muốn thay đổi thói quen trồng trọt của họ, chủ yếu là ngô và lúa” [23]. Đồng thời, người Thái cũng không mua những sản phẩm của người Hoa vì đắt “Tất cả người dân ở Sơn La đều bị người Hoa và người Việt bóc lột qua việc cân điêu, gian dối chất lượng hàng hóa và rất nhiều trò lừa đảo trong quá trình mua bán” [14]. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn tới thương mại Sơn La chậm phát triển.

162

Thứ tư, tất cả những thay đổi về kinh tế nông nghiệp đã có những tác động nhất định đến đời sống nhân dân khiến cho cơ cấu xã hội tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc càng có sự phân hóa rõ nét:

Giai cấp nông dân vừa phải đi phu và nộp thuế cho chính quyền thực dân vừa phải đảm bảo nghĩa vụ đóng góp cho châu mường và phìa. “Tất cả số đóng góp tính theo sản lượng có khi chiếm quá nửa tổng số thu nhập của gia đình cả năm” [131, tr.231]. Do bị hai tầng áp bức bóc lột, đời sống của họ vô cùng cơ cực. “Có từ 75 – 80% hộ thiếu ăn hay tạm đủ ăn bao gồm gia đình nông dân và cuông nhốc. Và có từ 6 – 8 % hộ thuộc lớp người cực khổ bao gồm gia đình côn hươn và một số gia đình khác” [131, tr.232]. Như vậy, sản xuất lương thực không đủ đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tỉnh, cộng thêm bị bóc lột nặng nề dẫn tới mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp phong kiến và mâu thuẫn giữa nông dân với chủ nghĩa đế quốc. Hai mâu thuẫn này cần được giải quyết và trở thành nhiệm vụ phản đế, phản phong cho các phong trào đấu tranh.

Giai cấp phong kiến thống trị vẫn như thời kì trước bao gồm tầng lớp quý tộc người Thái (phìa, tạo, chẩu mường), các thống lý, thống quán người H’mông…, các chức dịch giúp việc từ châu, đến tổng, mường, bản. Song dưới thời Pháp thuộc, bộ phận này phụ thuộc vào chính quyền thuộc địa với đại diện cao nhất là viên Công sứ người Pháp, quyền lợi của họ gắn liền với chế độ thực dân. Được thực dân Pháp dung túng các chức dịch tự ban bố chức sắc cho con em, họ hàng thuộc tầng lớp trên để hưởng bổng lộc và không phải đi phu. Tuy nhiên, giai cấp này cũng bị phân hóa, một bộ phận ít nhiều có tinh thần dân tộc, không chịu khuất phục dưới ách cai trị của thực dân Pháp. “Những nông dân khá giả không có quyền chức và một số quý tộc lớp trên bị mất chức, lép vế đã lôi kéo những nông dân bị tri châu, phìa, tạo ức hiếp… tự liên kết nhau lại thành lập “Hội kết nghĩa anh em”… cùng nhau đấu tranh chống phìa tạo cùng bọn chức dịch ở địa phương” [105, tr.68].

Ngoài hai giai cấp chính, còn có tầng lớp tiểu tư sản mới xuất hiện gồm công chức, giáo viên, những người buôn bán nhỏ, phần lớn họ có tinh thần dân tộc, căm thù thực dân, phong kiến, về sau bộ phận này có những đóng góp lớn đối với phong trào cách mạng tại Sơn La. Công nhân số lượng ít bởi ở Sơn La thời Pháp thuộc không có những đồn điền rộng lớn cũng như “không tồn tại bất kì một lĩnh vực công nghiệp nào ở Sơn La” [14].

Ngoài ra, ở Sơn La còn có một bộ phận các quan chức người Pháp, người Việt của chính quyền thực dân và tay sai. Tuy nhiên số lượng của bộ phận này không ổn định và thường xuyên biến đổi.

163

Chế độ phìa tạo – chế độ thống trị điển hình ở Sơn La cũng có sự phân hóa sâu sắc hơn trước (vừa phụ thuộc vào thực dân Pháp, vừa tăng cường bóc lột nhân dân các tộc người, tăng cường biến ruộng đất công thành ruộng tư), cộng thêm chế độ tô thuế, áp bức của chính quyền thuộc địa, người nông dân vừa phải đóng tô thuế, vừa đảm bảo nghĩa vụ việc mường, cộng thêm tình trạng thiếu lương thực thường xuyên diễn ra do nông nghiệp không đủ đáp ứng nhu cầu lương thực tại địa phương…, tất cả đã làm bùng nổ hàng loạt các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân các tộc người với nhiều hình thức khác nhau. Tiêu biểu cho cuộc đấu tranh liên quan đến mâu thuẫn xuất phát từ chế độ ruộng đất ở Sơn La cộng thêm chế độ tô, thuế nặng nề của thực dân Pháp chính là phong trào “chiêu dân tống thẻ” (“tống” là do đọc chệch của chữ “chống”, còn “thẻ” là thẻ thuế thân, nên được gọi là “tống thẻ”) [134, tr.99]. Như phía trên đã trình bày về những thay đổi ruộng đất thời Pháp thuộc, đặc biệt việc các quý tộc ra sức cướp đoạt ruộng công của bản mường biến thành của riêng, chia cho họ hàng nên quần chúng nhân dân đã đồng loạt cùng nhau gửi yêu sách cho Chánh sứ Pháp ở Sơn La, cử đại diện về Hà Nội để gửi bản yêu sách lên Phủ thống sứ: đòi giảm bớt thuế khóa, phu phen tạp dịch; đòi phìa tạo không được chiếm đoạt ruộng đất công, đòi cắt chức các quan địa phương áp bức nhân dân… Khởi đầu từ Yên Châu, sau đó phong trào lan rộng ra các địa phương trong tỉnh: Thuận Châu, Mường La, Phù Yên, Bắc Yên… và đạt được những thắng lợi nhất định, đặc biệt “tầng lớp tri châu, phìa, tạo địa phương buộc phải trả lại ruộng đất công cho dân bản và không dám ức hiếp nhân dân như trước” [134, tr.101]. Chiêu dân tống thẻ là đỉnh cao của phong trào yêu nước chống Pháp ở Sơn La dưới hình thức không vũ trang vào những năm 20 của thế kỉ XX. Phong trào phản ánh rõ nét những tác động từ kinh tế nông nghiệp, cốt lõi là mâu thuẫn trong vấn đề ruộng đất cần được giải quyết.

Về sau, trong phong trào đấu tranh chống Pháp, Nhật giai đoạn 1939 – 1945 ở Sơn La luôn có sự tham gia đấu tranh của các tộc người dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Cộng sản nhà ngục Sơn La đã đưa tới sự thành công của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại địa phương vào tháng Tám năm 1945.

164

Tiểu kết chương 4

Những chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa đã khiến cho kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945 có những biến chuyển nhất định: Trong vấn đề sở hữu ruộng đất đã xuất hiện sở hữu tư nhân từ năm 1925 thông qua hàng loạt các hình thức như chiếm hữu ruộng công của quý tộc Thái cũng như quan cai trị người Pháp, xuất hiện các tiểu đồn điền của người bản xứ, xuất hiện mua bán đất đai với diện tích lớn... Trong trồng trọt chủ yếu là việc thử nghiệm một số giống cây trồng ở một số địa phương. Trong chăn nuôi là việc du nhập một số giống vật nuôi mới, chú trọng khâu chăm sóc gia súc, gia cầm. Trong tiêu thụ nông sản, các sản phẩm nông nghiệp đã trở thành hàng hóa thúc đẩy việc mở rộng việc buôn bán với bên ngoài tỉnh chủ yếu dựa vào việc thiết lập chợ và mở rộng giao thông vận tải.

Tuy nhiên, nông nghiệp tỉnh Sơn La thời kì này vẫn là một nền sản xuất lạc hậu, chậm phát triển kể cả khi có những yếu tố mới du nhập vào thời Pháp thuộc. Ruộng đất (cơ sở của kinh tế nông nghiệp) vẫn chủ yếu là ruộng đất công, nằm dưới sự quản lý, phân phối của quý tộc người Thái. Trong trồng trọt, Sơn La vẫn là vùng độc canh cây lúa, xuyên suốt đến trước năm 1945. Quá trình canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, nhất là nguồn nước nên ruộng lúa ở Sơn La hầu hết chỉ canh tác một vụ, trừ Phù Yên. Trong khi kỹ thuật canh tác lạc hậu, dẫn đến năng suất và sản lượng không cao. Diện tích canh tác nương rẫy lớn nhưng sản lượng, năng suất thấp với tình trạng thường xuyên đốt rừng, di canh di cư. Chăn nuôi nhỏ lẻ theo hộ gia đình, chủ yếu là thả rông, nên số lượng và các sản phẩm từ chăn nuôi không lớn. Điều này dẫn tới tình trạng thiếu lương thực triền miên trong các bộ phận dân cư.

Những thay đổi trong kinh tế nông nghiệp đã tạo ra những biến đổi tác động sâu sắc đến xã hội Sơn La. Trong khi ở các địa phương khác với nền kinh tế đồn điền phổ biến, các xí nghiệp, nhà máy chế biến nông sản xuất hiện đã đưa đến sự ra đời của giai cấp công nhân thì ở Sơn La không có giai cấp công nhân cho đến trước năm 1945. Điều này dẫn đến vai trò của công nhân ở Sơn La rất mờ nhạt trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong kinh tế nông nghiệp nhất là trong xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đã góp phần dẫn tới sự xuất hiện của một số tầng lớp mới trong xã hội đặc biệt là tiểu tư sản với bộ phận những người buôn bán nhỏ, thị dân chủ yếu là người Hoa, người Kinh… Bộ phận này về sau đã có những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Sơn La. Đồng thời, những mâu thuẫn trong vấn đề sở hữu ruộng đất, nhất là chế độ thuế khóa nặng nề của thực dân Pháp và bộ phận phìa tạo thống trị đã làm bùng nổ các phong trào đấu tranh liên tiếp của quần chúng nhân dân dưới nhiều hình thức khác nhau.

165

KẾT LUẬN

1. Sơn La là một tỉnh thuộc vùng núi Tây Bắc có nhiều điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo và có tác động lớn đến đời sống nhân dân các tộc người nơi đây.

Là một trong 5 tỉnh của vùng Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái), Sơn La có điều kiện tự nhiên hết sức đa dạng, phong phú. Nhìn chung, bên cạnh những khó khăn, bất cập và sự khắc nghiệt của khí hậu, thời tiết (địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, tình trạng lũ quét, lũ ống, sạt lở đất đá vào mùa mưa; sương muối, băng giá trong mùa lạnh), điều kiện đất đai, sông ngòi, khí hậu của Sơn La rất thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt và chăn nuôi. Sơn La không chỉ trù phú với đồng ruộng phì nhiêu, thảm rừng nhiệt đới quanh năm xanh tốt, mà còn đa dạng về nông sản hàng hóa. Đặc biệt, vị trí địa lý của Sơn La đã khiến cho vùng này trở thành chiếc cầu nối tự nhiên cho sự giao lưu trao đổi hàng hóa, nông sản giữa Đông Bắc với Tây Bắc, giữa miền xuôi với miền ngược. Từ Sơn La theo quốc lộ 6, hoặc Sông Đà đều có thể ngược Tuần Giáo lên Lai Châu, xuôi xuống Hoà Bình, sang Nghĩa Lộ (Yên Bái) một cách dễ dàng, đặc biệt từ Sơn La có thể giao lưu thuận lợi với tỉnh Hủa Păn của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào qua hai cửa khẩu Pa Háng (Mộc Châu), Chiềng Khương (Sông Mã)…

Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên có nhiều ưu đãi đã khiến cư dân các tộc người ở Sơn La lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ đạo. Các ngành kinh tế khác như thủ công nghiệp hay thương nghiệp chỉ mang tính chất bổ trợ cho nông nghiệp. Trong thủ công nghiệp, chỉ nhằm mục đích tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của cư dân. Trong thương nghiệp, các sản phẩm trao đổi buôn bán ra bên ngoài tỉnh đều là các sản phẩm của nông nghiệp. Thêm vào đó, ở Sơn La thời kì này không có ngành công nghiệp, điều này càng khiến vai trò của nông nghiệp thêm chắc chắn trong đời sống nhân dân. Mọi biến đổi trong lĩnh vực ruộng đất và kinh tế nông nghiệp đều có ảnh hưởng nhất định đến tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh.

2. Đặc trưng cơ bản, điển hình của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La trong lịch sử cũng như thời kì từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 là nền nông nghiệp độc canh, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, phụ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên.

Kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La với hai ngành sản xuất chính là trồng trọt và chăn nuôi; trong đó trồng trọt luôn giữ vị trí chủ yếu để đảm bảo cung ứng lượng lương thực cần thiết cho cuộc sống cư dân cũng như tạo ra các sản phẩm để trao đổi

166

buôn bán. Ngoài ra cuộc sống của cư dân Sơn La còn dựa vào khai thác lâm sản ở trong rừng và đánh bắt cá ở ven các sông suối. Công thương nghiệp ở Sơn La hầu như chưa phát triển. Trước khi người Pháp vào đô hộ và thiết lập ách cai trị, do tính đặc thù của địa phương (địa hình hiểm trở cắt xẻ hết sức phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, có nhiều tộc người thiểu số sinh sống, cộng với tập tục sản xuất cổ truyền theo kiểu đốt nương làm rẫy lâu đời của cư dân...) nền nông nghiệp Sơn La trong tình trạng hết sức nghèo nàn lạc hậu; hầu hết ruộng đất, rừng núi tư liệu sản xuất của xã hội đều thuộc quyền chiếm hữu của tầng lớp quý tộc Thái, Mường, H’mông; trong khi đó sản xuất phân tán, độc canh, lệ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên, mang nặng tính chất tự cung, tự cấp. Về cách thức sản xuất, cho đến năm 1895, cư dân Sơn La vẫn áp dụng phương thức sản xuất cổ truyền: “đao canh hỏa chủng và đao canh thủy nậu”, lao động thủ công theo kiểu “chọc lỗ tra hạt”, cây trồng vật nuôi chủ yếu là giống cũ, năng suất lao động và năng suất cây trồng vật nuôi hết sức thấp kém... Về phương thức bóc lột và sự giao lưu trao đổi hàng hóa, cho đến khi người Pháp vào đô hộ, hoạt động giao lưu trao đổi hàng hóa ở Sơn La vẫn theo phương thức cổ truyền ngang giá “vật đổi vật”; phương thức bóc lột đặc trưng là “cống nạp sản vật và phu phen tạp dịch không công”.

Từ khi người Pháp vào đô hộ và thiết lập ách cai trị, để đạt được mục đích thống trị và “vơ vét bóc lột được càng nhiều càng tốt”, bên cạnh việc duy trì bộ máy thống trị bóc lột và chế độ ruộng đất cổ truyền trong xã hội Thái, xã hội H’mông ở Sơn La trước đây; người Pháp cũng có một số chính sách đầu tư khai thác, bóc lột mới theo kiểu tư bản ở Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng, như: ban hành nhiều chính sách về ruộng đất nhằm khuyến khích các điền chủ người Pháp, người Việt mở các đồn điền ở Sơn La và khu vực Tây Bắc; ngoài ra, họ cũng chú ý đến việc du nhập một số cây trồng vật nuôi mới vào Sơn La, bước đầu chú trọng áp dụng một số biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, hình thành một số trạm quan sát trắc địa, theo dõi khí hậu, thủy văn ở dọc sông Đà; hình thành các trạm phòng dịch cho trâu bò, vật nuôi và đặc biệt năm 1925, Thống sứ Bắc Kỳ cho phép hình thành Sở Thú y Sơn La.

Thế nhưng, tất cả những việc làm tiến bộ, tích cực đó vẫn mang tính chất đơn lẻ, thiếu đồng bộ, thiếu hệ thống, chủ yếu mới chỉ là thực nghiệm; hơn nữa do trình độ dân trí hết sức thấp kém của đồng bào các dân tộc nên việc tiếp thu và ứng dụng những yếu tố mới đó vào sản xuất là chưa thể. Điều đó dẫn tới hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp không cao và những tác động của những yếu tố mới này cũng không đủ sức để có thể chuyển đổi được cách thức sản xuất cổ truyền lạc hậu trong

167

đồng bào các dân tộc cũng như không thể tạo ra những chuyển biến mới trong cơ cấu cây trồng vật nuôi ở Sơn La. Vì thế, trong suốt thời kỳ thuộc Pháp cho đến năm 1945, kinh tế nông nghiệp của tỉnh Sơn La nhìn chung vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, mang nặng tính chất độc canh, tự cung tự cấp, lệ thuộc chặt chẽ vào tự nhiên. Đây chính là đặc trưng cơ bản và điển hình nhất của kinh tế Sơn La nói chung, kinh tế nông nghiệp Sơn La nói riêng thời thuộc Pháp.

3. Thời kỳ từ năm 1895 đến năm 1945, kinh tế nông nghiệp của Sơn La tuy còn trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu nhưng đã xuất hiện một số yếu tố mới, đặc biệt là sự giao lưu trao đổi các mặt hàng nông sản được mở rộng với các tỉnh miền xuôi và một số nước trong khu vực đã phá vỡ tính chất đóng kín của nông nghiệp Sơn La thời kỳ này.

Từ đầu thế kỉ XIX cho đến năm 1895, sự giao lưu trao đổi các sản phẩm nông nghiệp ở Sơn La vẫn thuần túy mang tính chất đóng kín theo kiểu cổ truyền ngang giá “vật đổi vật” chứ chưa phải là hoạt động giao lưu trao đổi hàng hóa – tiền tệ. Đây là đặc thù trong sự giao lưu trao đổi các sản phẩm nông nghiệp ở Sơn La trước năm 1895; tàn dư của phương thức trao đổi này thậm chí còn tồn tại kéo dài đến tận năm 1954 khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.

Từ năm 1895, để đạt được mục đích thống trị và vơ vét bóc lột “được càng nhiều càng tốt”, một mặt người Pháp vẫn duy trì bộ máy thống trị bóc lột và chế độ ruộng đất cổ truyền trong xã hội Thái, xã hội H’mông ở Sơn La trước đây; mặt khác chính quyền thuộc địa cũng áp đặt chính sách đầu tư khai thác, bóc lột mới theo kiểu tư bản vào Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng, đồng bộ từ tỉnh đến các châu (huyện), mường (xã). Từ đầu thế kỷ XX, người Pháp đã cho mở mang giao thông, xây dựng nhiều tuyến đường, nhất là đường 41 xuyên Tây Bắc từ Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Lai Châu – Thượng Lào, cùng một số cầu cống ở các tuyến đường nội tỉnh ở Sơn La để tăng cường sự giao lưu trao đổi hàng hóa nội vùng, liên vùng Sơn La – Tây Bắc và giữa Tây Bắc với miền xuôi và khu vực Bắc Lào. Ngoài ra, thời kỳ này người Pháp cũng cho mở một số chợ dân sinh ở thị xã Sơn La, vùng Vạn Yên và tạo điều kiện để Sơn La tham gia các hội chợ ở Hà Nội. Cùng với những việc làm đó, người Pháp cũng chú ý đến đánh thuế các mặt hàng nông sản, hàng hóa ở một số địa phương có nhiều tiềm năng phát triển (đây chính là sự manh nha để đi đến hình thành các vùng chuyên canh), như thuốc phiện, cánh kiến, nhựa thông, sơn... Mục đích của những việc làm đó là để quảng bá, kích thích những tiềm năng đa dạng, phong phú của nông nghiệp, lâm nghiệp Sơn La nhằm thu hút,

168

khuyến khích các điền chủ người Việt, người Pháp tăng cường đầu tư khai thác vào vùng Sơn La - Tây Bắc.

Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử một số nhân tố mới tiến bộ đã được tạo lập trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Sơn La, như: Sở giống cây trồng; Cơ sở thực nghiệm các giống cây trồng, vật nuôi; Bộ phận theo dõi và xử lý dịch bệnh cho gia súc; Trạm theo dõi khí hậu, trắc địa; Trung tâm tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm nông nghiệp đã được trưng bày, quảng bá tại các chợ và hội chợ... Đây là một sự biến đổi hết sức tích cực (hệ quả khách quan của chính sách khai thác nông nghiệp thuộc địa của thực dân Pháp ở Sơn La – Tây Bắc) mà không ai có thể phủ nhận được.

4. Vấn đề cốt lõi của kinh tế nông nghiệp chính là ruộng đất. Ở Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945, xét về tính chất, loại hình, cách thức phân chia… ruộng đất đều mang những nét đặc thù. Đồng thời vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp đã có những tác động nhất định đến tình hình xã hội tỉnh Sơn La.

Sau khi nghiên cứu về vấn đề ruộng đất của tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945, xét về quyền sở hữu ruộng đất mang tính chất “công hoá tư, tư nằm trong giới hạn của công”. Sự phân định công, tư chỉ mang ý nghĩa tương đối. Trong đó, ruộng công luôn chiếm tỉ lệ lớn và nằm dưới quyền kiểm soát của người Thái. Trong các bản, mường, người Thái có quyền chi phối mạnh mẽ tới các tộc người khác dựa trên cơ sở quyền quản lý ruộng công. Vì vậy, trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp mặc dù số lượng ruộng nước ít nhưng lại là cơ sở chi phối mọi quan hệ xã hội trong xã hội truyền thống ở Sơn La trước năm 1945. Điểm này đến khi thực dân Pháp vào và thiết lập ách cai trị tại đây cũng không có sự thay đổi. Sự can thiệp của chính quyền thuộc địa cũng chủ yếu trên cơ sở ruộng nước hay trên cơ sở dựa vào bộ máy quản lý trước đây nhất là hệ thống phìa tạo trong xã hội Thái, thống lý, thống quán trong cộng đồng người H’mông… Đến thời Pháp thuộc, diện tích ruộng tư có tăng lên thông qua hàng loạt các hình thức mới như tiểu đồn điền của người bản xứ, mua bán ruộng đất, bán đấu giá... nhưng về cơ bản ruộng công vẫn chiếm tỉ lệ lớn. Việc ruộng đất công nằm trong tay quản lý của hệ thống phìa tạo người Thái đã khiến vai trò của bộ phận này trong xã hội vô cùng lớn, thiết lập sự thống trị từ kinh tế đến chính trị, xã hội và cả tư tưởng của người dân. Họ coi luật tục chính là luật pháp mà toàn bộ dân cư phải tuân theo. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của kinh tế nông nghiệp tỉnh Sơn La thời kì này. Quá trình sản xuất chủ yếu chỉ để phục vụ nhu cầu cuộc sống, đủ để làm nghĩa vụ việc mường cũng như đóng tô thuế dưới thời Pháp cai trị. Đây là một trong những nguyên nhân căn bản khiến

169

cho kinh tế nông nghiệp nói riêng, kinh tế tỉnh Sơn La nói chung mang tính tự cung tự cấp rõ nét, trao đổi buôn bán có diễn ra nhưng chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của bộ phận thống trị hoặc những sản phẩm dư thừa chứ không hình thành các vùng chuyên canh hay các đồn điền rộng lớn.

Các loại hình ruộng đất được phân chia đều gắn liền với thân phận, địa vị của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Hay nói cách khác quyền lợi kinh tế mang lại cho hệ thống những người đứng đầu quản lý bản, mường gắn liền với ruộng đất. Vì là ruộng đất chung của bản, mường nên những người nhận ruộng bị lệ thuộc cả về thân thể và linh hồn với vùng đất đó. Hay sự thống trị mang tính chất thần quyền kết hợp với kinh tế, chính trị đã tạo ra sợi dây xích vô hình trói buộc chặt chẽ bộ phận nông dân vào các bản, mường. Kiểu bóc lột toàn dân này càng khiến cho kinh tế nông nghiệp của tỉnh Sơn La chậm phát triển, ít biến đổi và khó biến đổi trong thời gian dài. Chính quyền thuộc địa đã nhận thấy điểm này nên vẫn tiếp tục duy trì các hình thức bóc lột cũ dựa trên bộ máy thống trị của quý tộc Thái trước đây. Vì vậy, rất khó để Sơn La có sự thay đổi mang tính chất toàn diện như các vùng miền khác. Thêm vào đó, những khó khăn về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, sự đầu tư ít ỏi của chính quyền thuộc địa… tất cả trở thành nguyên nhân đưa đến một nền kinh tế chậm phát triển, ít biến đổi về cơ cấu cũng như tốc độ của tỉnh Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945.

5. Nghiên cứu về hoạt động sản xuất nông nghiệp ở Sơn La từ đầu thế kỉ XIX đến năm 1945 góp phần thiết thực bổ sung và làm phong phú thêm tài liệu nghiên cứu về Sơn La, Tây Bắc – nơi vốn có rất ít những công trình chuyên khảo được công bố. Đồng thời những kết luận, bài học kinh nghiệm được rút ra còn góp phần tạo cơ sở, nền tảng và để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho việc quản lý đất đai, hình thành, phát triển khoa học nông nghiệp ở Sơn La, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội; trồng, chăm sóc, lai tạo, áp dụng những tiến bộ mới vào sản xuất nông nghiệp; lựa chọn các giống, cây trồng, vật nuôi phù hợp với địa phương; tạo nên các vùng chuyên canh… Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài luận án còn là tài liệu tham khảo để triển khai chính sách khuyến nông ở địa phương; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo để phục vụ công tác biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương trong các trường ttrung học chuyên nghiệp dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học và các trường phổ thông ở Sơn La, Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay.

170

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thị Phượng (2019), “Các hình thức sở hữu ruộng đất của người Thái ở Sơn

La trước năm 1930 (qua nghiên cứu luật lệ của người Thái đen ở Thuận Châu”,

Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.43-51.

2. Trần Thị Phượng (2020), “Tình hình xuất khẩu nông sản của tỉnh Sơn La trong

30 năm đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 8 (532), tr.48-56.

3. Trần Thị Phượng (2021), Nguồn gốc chế độ ruộng công của người Thái ở Sơn La

(trước năm 1887), Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Tây Bắc, tr.94-99.

4. Trần Thị Phượng, Trịnh Thị Thu Hằng (2022), “Land Ownership of Families in Son La: A View from Cadastral Recods in the Minh Menh’s Year”, Journal of

Social and Political Sciences, ISSN 2615-3718 (Online), ISSN 2621-5675

(Print), tr.116-128.

171

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TƯ LIỆU LƯU TRỮ

Tư liệu tiếng Pháp

1. Autorisation d’occupation de la concession provisoire de terrain domanial à Dien Bien, Province de Van Bu, accordée à Morand, négociant à Saigon, domicile à Haiphong, 1898, hồ sơ số M7/543.AFC, TTLTQG I, Hà Nội. 2. Au sujet de l’occupation par l’Administration du protectorat du Tonkin du plateau de Mộc (Sơn La), 1932-1933, hồ sơ số M7/67323. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

3. Demande de concession d’un terrain sur territoire de Ban Giang, Mường La (Sơn La), formulé par Cam Van Que, Sơn La, 1920, hồ sơ số M7/54687. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

4. Demande de concession d’un terrain du plateau de Moc Chau (Son La), formulé par la Société agricole de Ben Bo 1919-1932, hồ sơ số M7/67326. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

5. Demande de concession d’un terrain domanial sis Mộc Châu (Sơn La) formulé par Nguyễn Thuy Tri et Nguyễn Thông 1942-1943, hồ sơ số M4/67322. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

6. Demande de concession d’un terrain domanial sis au plateau de Phiêng Luông (Sơn La) formulé par Société Guglielmi et Cie, 1943-1944, hồ sơ số M4/67320. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 7. Demande de concession d’un terrain sis à Sơn La formulée par Pauleau et Compagnie 1943, hồ sơ số M7/67321. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

8. Monographie de la province de Son La, hồ sơ số 75499. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 9. Notice sur la province de Son La, hồ sơ số 54774. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 10. Notice sur la province de Son La. 1932, hồ sơ số 78459. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 11. Projets sur les récoltes aux propriétaires de rizières de la province de Van Bu.

1901-1904, hồ sơ số 78142. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 12. Projets sur les récoltes aux propriétaires de rizières de la province de Son La. 1904-1906, hồ sơ số 78142-1. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

13. Projets sur les récoltes aux propriétaires de rizières de la province de Bac Ninh, Ha Giang, Hung Hoa, Lang Son, Nam Dinh, Phuc Yen, Son La, Vinh Yen. 1905-1909, hồ sơ số 78143. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 14. Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La du 1er Juillet au 30 Juin 1920, hồ sơ số 36535-07. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

15. Rapport annuel sur la situation générale des provinces de Phu Tho, Phuc Yen, Quang Yen, Son La de 1920 à 1921, hồ sơ số 36542-12. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 16. Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La du de Juin 1922 à Décembre 1922, hồ sơ số 36544-22. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 17. Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La (1922- 1923), hồ sơ số 36550-21. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

172

18. Rapport annuel sur la situation générale des provinces de Son La, Son Tay, de 1925 à 1926, hồ sơ số 36562-14. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 19. Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La pour l’année 1927, hồ sơ số 36567-21. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

20. Rapport annuel sur la situation politique générale du 1er Juin 1935 au 31 Mai 1936 de la province de Son La, hồ sơ số 74292. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 21. Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces de Thai Nguyen, Tuyen Quang, Van Bu, Van Linh, Vinh Yen, Yenbay 1902, hồ sơ số 72575 – 02. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

22. Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces: Phu Lien, Phu Lo, Quang Yen, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Van Bu, Vinh Yen, Yen Bay en 1903, hồ sơ số 72470 – 03. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 23. Rapports économiques de la province de Son La 1904 – 1909, Hồ sơ số 69.AFC, TTLTQG I, Hà Nội.

24. Rapports économiques et politiques et statistiques commerciales provinces: Phu Lien, Phuc Yen, Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh 1904, hồ sơ số 72540– 03. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

25. Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces: Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen, Yenbay en 1905, hồ sơ số 72541 – 04. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

26. Rapports économiques et statistiques commerciales des provinces du Tonkin: Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen 1905-1906, hồ sơ số 72583 – 05. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

27. Rapports économiques des provinces du Tonkin de Ninh Binh, Phu Tho, Phuc Yen, Son La, Son Tay, Vinh Yen en 1911, hồ sơ số 72553 – 01. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

28. Rapports économiques des provinces de Ninh Binh, Phu Tho, Phuc Yen, Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Bình, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen, Yen Bay du Tonkin pendant l’année 1912, hồ sơ số 72560 – 03. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

29. Rapports économiques du 1er semestre 1917 des provinces du Tonkin: Bac Giang, Bac Kan, Ha Giang, Hanoi, Hai Duong, Hoa Binh, Phuc Yen, Kien An, Nam Dinh, Ninh Binh, Phuc Yen, Phu Tho, Quang Yen, Son La, Thai Binh, hồ sơ số 72586. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

30. Rapports économiques du 2e semestre 1917 des provinces du Tonkin: Ninh Bình, Phu Tho, Quang Yen, Son La, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen 1917, hồ sơ số 72586-02. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

31. Rapports économiques du 1er semestre 1919 des provinces du Tonkin: Ha Dong, Ha Nam, Hai Duong, Hoa Binh, Hung Yen, Lai Chau, Nam Dinh, Phuc Yen, Phu Tho, Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Yenbay 1919, hồ sơ số 72586-06. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

32. Rapports économiques semestriels des provinces du Tonkin (Phu Tho, Phuc Yen, Quang Yen, Son La) 1922 - 1924, hồ sơ số 72584 - 06. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

173

33. Rapports économiques des provinces du Tonkin: Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen, Yenbay 1920 – 1922, hồ sơ số 72587 – 04. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

34. Rapports économiques des provinces du Tonkin: Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Yenbay 1924 - 1925, hồ sơ số 72582 – 03. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 35. Rapports économiques annuels des provinces de Phuc Yen, Phu Tho, Quang Yen, Son La et Son Tay de l’année 1929, hồ sơ số 78473-02. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

36. Rapports économiques annuels de 1930 des provinces de Ninh Binh, Phu Tho, Phuc Yen, Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen et Yenbay 1931, hồ sơ số 69622-02. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 37. Rapports économiques de la province de Son La de 1931 – 1933, hồ sơ số 74288. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 38. Rapports économiques de la province de Son La de 1933, hồ sơ số 74289. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

39. Rapports économiques de la province de Son La de 1934, hồ sơ số 74290. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 40. Rapports économiques de la province de Son La de 1935, hồ sơ số 74291. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

41. Rapports économiques de la province de Son La de 1936, hồ sơ số 74293. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 42. Rapports économiques de la province de Son La de 1937, hồ sơ số 74294. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 43. Rapports économiques de la province de Son La de 1938, hồ sơ số 74295. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 44. Rapports économiques de la province de Son La de 1939, hồ sơ số 74296. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 45. Rapports économiques de la province de Son La de 1940, hồ sơ số 74297. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

46. Rapports économiques de la province de Son La de 1941, hồ sơ số 74298. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

47. Rapports généraux annuels des provinces de Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang et Yen Bay de 1917 à 1918 au Conseil de Gouvernement de l’Indochine (session 1918), hồ sơ số 36531-06. RST, TTTQG I, Hà Nội.

48. Rapports généraux annuels des provinces de Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen de 1923 à 1924 au Conseil de Gouvernement de l’Indochine (session 1924), hồ sơ số 36554-05. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 49. Rapports politiques et économiques mensuels et annuels de la province de Son La 1913-1915, hồ sơ số 81545. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

50. Rapports politiques et économiques des provinces de Nam Dinh, Ninh Binh, Phu Tho, Quang Yen et Son La 1915, hồ sơ số 46479-03. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 51. Rapport sur la situation de la province de Van Bu 1902, hồ sơ số 55027. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

174

52. Rapport sur la situation de la province de Van Bu 1902, hồ sơ số 74. AFC,

TTLTQG I, Hà Nội.

53. Relevé exact des causés au cour de la dernière saison des pluies de la province

de Son La 1928, hồ sơ số 39851. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

54. Rendement definitif de la récolte de paddy du 5e mois et 10e mois de l’année 1940 des provinces de Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen, Tuyen Quang, Vinh Yen, Yenbay au Tonkin, hồ sơ số 75342-11. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 55. Renseignements sur le ré gime foncier dans la province de Sơn La, 1922, hồ sơ

số M2/68983. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

56. Réunions des Conseils provinciaux des provinces de Ninh Binh, Phu Tho, Quang Yen, Son La du Tokin de la session 1926, hồ sơ số 78526-03. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

57. Réunions des Conseils provinciaux des provinces de Moncay, Nam Dinh, Phu Tho, Quang Yen, Son La, Son Tay, Vinh Yen du Tokin de la session 1927, hồ sơ số 78527-01. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

58. Réunions des Conseils provinciaux des provinces de Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen du Tokin en 1928, hồ sơ số 78528-01. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 59. Réunions des Conseils provinciaux des provinces de Phu Tho, Quang Yen, Son La, Son Tay, Thai Nguyen, Tuyen Quang du Tokin en 1929, hồ sơ số 78529-02. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

60. Réunions des Conseils provinciaux de Kien An, Lang Son, Laokay, Nam Dinh, Thai Binh, Phu Tho, Phuc Yen, Son La en 1934, hồ sơ số 78538-01. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

61. Statistiques des concessions dans la province de Sơn La en 1898, hồ sơ số

543.AFC, TTLTQG I, Hà Nội.

62. Statistiques des concessions dans la province de Sơn La en 1941, hồ sơ số

M7/67318. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

63. Statistiques des cultures par les Europeén et Indigène 1914 – 1918, hồ sơ số

73. NNBK, TTLTQG I, Hà Nội.

64. Statistiques rizicoles annuelles des provinces du Tokin: Son La, Son Tay, Thai Binh, Thai Nguyen 1923 – 1935, hồ sơ số 75331 – 04. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 65. Vente de gré à gré à Vandaele de paracelles de terrain du domaine local sises au quatier de Chieng Le (Sơn La) 1938-1939, hồ sơ số M7/63508. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

66. Vente de gré à gré à Jean Fune, pasteur de la Mission Évangélique à Sơn Tây de paracelles de terrain d’une superficie de 1.935 m2 et de 1.417 m2 à Chieng Le (Sơn La), 1938-1940, hồ sơ số M7/63507. RST, TTLTQG I, Hà Nội. 67. Vente par adjudication aux encheres publiques de 2 paracelles de terrain du domaine local sises à Sơn La, 1940-1944, déclaré par Société des Transports du Haut-Tonkin, hồ sơ số M7/63502. RST, TTLTQG I, Hà Nội.

175

Tư liệu Hán nôm

68. 興化處嘉興府扶安州祥符社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Phù Yên Châu, Tường Phù xã, năm Minh Mệnh 21 (1840),Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1911.

69. 興化處嘉興府扶安州祥風 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Phù Yên Châu, Tường Phong xã, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1913.

70. 興化處嘉興府扶安州祥風 社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Phù Yên Châu, Tường Phong xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1914.

71. 興化處嘉興府扶安 州光花 峒, Địa bạ triều Nguyễn: Động Quang Hoa, châu Phù Hoa, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa, Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Phù Yên Châu, Quang Hoa động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1915.

72. 興化處嘉興府順 州輕快峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Khinh Khoái động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1957.

73. 興化處嘉興府順 州輕快社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Khinh Khoái xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1958.

74. 興化處嘉興府順 州南鄭峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Nam Trịnh động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1959.

75. 興化處嘉興府順 州南鄭社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Nam Trịnh xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1960.

76. 興化處嘉興府順 州南鄭社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Nam Trịnh xã, năm Thiệu Trị 4 (1844),Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1961.

77. 興化處嘉興府順州青平峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Thanh Bình động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1962.

78. 興化處嘉興府順州青平社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Thanh Bình xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1963.

79. 興化處嘉興府順州黃枚峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Hoàng Mai động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1964.

176

80. 興化處嘉興府順州郑北 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Thuận Châu, Trịnh Bắc động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1965.

81. 興化處嘉興府安 州博珥 社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Yên Châu, Bác Nhĩ xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1885.

82. 興化處嘉興府安 州郑儒社Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Yên Châu, Trịnh Nho xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1886.

83. 興化處嘉興府枚山州爐卑峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mai Sơn châu, Lô Ty động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1887.

84. 興化處嘉興府枚山州爐卑社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mai Sơn châu, Lô Ty xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1888.

85. 興化處嘉興府枚山州呈班峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mai Sơn châu, Trình Ban động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1891.

86. 興化處嘉興府枚山州呈棦峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mai Sơn châu, Trình Chanh động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1892.

87. 興化處嘉興府枚山州呈奔峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mai Sơn châu, Chiềng Bôn động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1893.

88. 興化處嘉興府枚山州呈吉社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mai Sơn châu, Trình Cát xã, năm Thiệu Trị 3 (1843), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 1894.

89. 興化處嘉興府木州錦農峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mộc Châu, Cẩm Nông động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2021.

90. 興化處嘉興府木州歸向社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mộc Châu, Quy Hướng xã, năm Tự Đức 1 (1848), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2022.

91. 興化處嘉興府木 州向乾 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mộc Châu, Hướng Càn động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2023.

177

92. 興化處嘉興府木 州木下 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mộc Châu, Mộc Hạ động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2024.

93. 興化處嘉興府木 州木上 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mộc Châu, Mộc Thượng động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2025.

94. 興化處嘉興府木 州春牙峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Mộc Châu, Xuân Nha động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2026.

95. 興化處嘉興府山羅 州仁里社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Sơn La châu, Nhân Lý xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2059.

96. 興化處嘉興府山羅 州孝寨峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Sơn La châu, Hiếu Trại động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2060.

97. 興化處嘉興府山羅 州孝粲社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Sơn La châu, Hiếu Sán xã, năm Thiệu Trị 1 (1841), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2061.

98. 興化處嘉興府山羅 州扢堪 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Động Cột Kham, châu Sơn La, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2062.

99. 興化處嘉興府山羅 州向暴社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Sơn La châu, Hướng Bạo xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2063.

100. 興化處嘉興府山羅 州呈羅 峒. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Sơn La châu, Trình La động, năm Gia Long 4 (1805), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2064.

101. 興化處嘉興府山羅 州呈羅 社. Địa bạ triều Nguyễn: Hưng Hóa xứ, Gia Hưng phủ, Sơn La châu, Trình La xã, năm Minh Mệnh 21 (1840), Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Tập: 2065.

SÁCH CHUYÊN KHẢO, THAM KHẢO

Tiếng Việt 102. Vi Văn An (1995), Một số tư liệu về xã hội truyền thống của người Thái ở

miền Tây Nghệ An, Viện Dân tộc học, Hà Nội.

103. Đỗ Hoàng Anh, Hoàng Thị Hằng, Đào Thị Ngọc Nhàn (2013), Tổ chức bộ máy các cơ quan trong chính quyền thuộc địa ở Việt Nam qua tài liệu và tư liệu lưu trữ (1862 – 1945), Cục văn thư và lưu trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia.

178

104. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu (2009), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu

(1945 – 2009), Nxb Chính trị Quốc Gia.

105. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2002), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La tập

1 (1939 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

106. Đỗ Bang (chủ biên) 1997, Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai đoạn

1802 – 1884, Nxb Thuận Hóa, Huế.

107. Trần Bình (1999), Dân tộc Xinh mun ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 108. Trần Bình (2001), Tập quán hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở Tây Bắc

Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

109. Hoàng Bình Chính, Hưng Hóa xứ phong thổ lục, Bản lưu từ Trung tâm

UNESCO Thông tin Tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội.

110. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, Dư địa chí, tập 1, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

111. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số học tộc người, Nxb KHXH, Hà Nội. 112. Khổng Diễn (1996), Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi

phía Bắc, Nxb KHXH, Hà Nội.

113. Khổng Diễn (1999), Dân tộc Khơ mú ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 114. Hồ Tuấn Dung (2003), Chế độ thuế của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ từ 1897 đến

1945, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

115. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa, chương trình Thái học Việt Nam (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

116. Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Việt Nam học và khoa học phát triển (2012), Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kadai ở Việt Nam truyền thống, hội nhập và phát triển, Hội nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI, Thanh Hóa, Nxb Thế giới.

117. Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền (1996), Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến

đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Nguyễn Kiến Giang (1959), Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông

dân trước cách mạng tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội.

119. Henri (1932), Kinh tế nông nghiệp Đông Dương (Économic agricole de l’Indochine, Ha Noi), bản dịch lưu tại Thư viện Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội. 120. Nguyễn Văn Hòa (2010), Quam tô mương (truyện kể biên niên sử của người

Thái Đen ở vùng Tây Bắc), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

121. Phạm Quang Hoan, Đặng Thị Hoa (chủ biên) (2011), Dân tộc Kháng ở Việt

Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

122. Việt Hồng (1946), Tư bản Pháp với nền kinh tế ở Việt Nam, Nxb Xã hội, Hà Nội. 123. Vũ Thị Minh Hương (1999), Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

124. Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa

(1858 – 1945), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

125. Nguyễn Văn Khánh (2007), Việt Nam 1919 – 1930: thời kỳ tìm tòi và định

hướng, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

179

126. Nguyễn Văn Khánh (2013), Ruộng đất, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thời kỳ cận – hiện đại, Nxb Thế giới, Hà Nội.

127. Vũ Khánh (chủ biên) (2008), Người Thái ở Tây Bắc, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 128. Lò Văn Lả (2016), Truyện nhỏ của bản mường (chép và dịch, đã đối chiếu với tư liệu lưu tại Bảo tàng tỉnh Sơn La, Thư viện tỉnh Sơn La). 129. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (thế kỷ XV), Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội. 130. Ngô Vĩ Liễn, Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thư (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 131. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày – Nùng – Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 132. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb KHXH, Hà Nội. 133. Phạm Văn Lực (CB) (2011), Một số vấn đề về lịch sử và văn hóa Tây Bắc, Nxb ĐHSP, Hà Nội.

134. Phạm Văn Lực (2013), Phong trào chống Pháp ở Sơn La từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945, Nxb ĐHSP, Hà Nội. 135. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb KHXH, Hà Nội.

136. Nguyễn Phan Quang (1986), Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 137. Quam tô mương của Mường Chanh – Mai Sơn, (Kể chuyện bản mường của Mường Chanh – Mai Sơn), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 138. Quam tô mương của Mường É – Thuận Châu (Kể chuyện bản mường của Mường É), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 139. Quam tô mương của Mường La (Kể chuyện bản mường của Mường La), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 140. Quam tô mương của Mường Muổi – Thuận Châu (Kể chuyện bản mường của Mường Muổi), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La.

141. Quam tô mương của Mường Piềng – Thuận Châu (Kể chuyện bản mường ở Mường Piềng), Tài liệu lưu tại bảo tàng Sơn La. 142. Quam tô mương của Mường Sang – Mộc Châu (Kể chuyện bản mường của Mường Sang), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 143. Quam tô mương của Mường Tấc – Phù Yên (Kể chuyện bản mường của Mường Tấc), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 144. Quam tô mương của Mường Tè – Mộc Châu (Kể chuyện bản mường của Mường Tè – Mộc Châu), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 145. Quam tô mương của Mường Vạt – Yên Châu (Kể chuyện bản mường của Mường Vạt), Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La. 146. Dương Kinh Quốc (1999), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), Nxb

Giáo dục, Hà Nội. 147. Dương Kinh Quốc (2005), Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nxb KHXH, Hà Nội.

180

148. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb

KHXH, Hà Nội.

149. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

150. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Nguyễn Quang Trung Tiến (1997), Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

151. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

152. Chu Thái Sơn (CB) (2005), Người Thái, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 153. Chu Thái Sơn (CB) (2016), Văn hóa tộc người Thái, Nxb Quân đội nhân dân,

Tp. Hồ Chí Minh.

154. Nguyễn Khắc Sử, Võ Quý, Nguyễn Thị Lan (2003), Khảo cổ học tiền sử và sơ

sử Sơn La, Nxb KHXH, Hà Nội.

155. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1999), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa

Dân tộc, Hà Nội.

156. Ngô Đức Thịnh (2014), Luật tục trong đời sống các tộc người ở Việt Nam,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

157. Tạ Thị Thúy (1996), Đồn điền người Pháp ở Bắc Kỳ 1884 – 1918, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

158. Tạ Thị Thúy (2001), Việc nhượng đất, khẩn hoang ở Bắc Kỳ từ 1919 đến

1945, Nxb Thế giới, Hà Nội.

159. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình (2005), Địa chí

Hòa Bình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

160. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2005), Tỉnh Sơn

La 110 năm (1895 – 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

161. Tổng cục Thống kê (2004), Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX tập I, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

162. Nguyễn Trãi (1960), Ức Trai di tập Dư địa chí, Phan Huy Tiếp dịch, Hà Văn

Tấn hiệu đính và chú thích, Nxb Sử học, Hà Nội.

163. Cầm Trọng, Cầm Quynh (dịch) (1960), Quắm tố mướn (Kể chuyện bản

mường), Nxb Sử học, Hà Nội.

164. Cầm Trọng, Bùi Tịnh, Nguyễn Hữu Ưng (1975), Các tộc người ở Tây Bắc Việt

Nam, Ban Dân tộc Tây Bắc, Hà Nội.

165. Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 166. Cầm Trọng (1987), Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử kinh tế xã hội cổ đại người

Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.

167. Cầm Trọng, Phan Hữu Dật (1995), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb VHDT, Hà Nội. 168. Cầm Trọng (chủ biên) (1998), Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam, Nxb

VHDT, Hà Nội.

169. Cầm Trọng – Kashinaga Masao sưu tầm, nghiên cứu và dịch (2003), Danh

sách tổ tiên họ Lò Cầm Mai Sơn – Sơn La, Nxb Thế giới, Hà Nội.

181

170. Cầm Trọng (2005), Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam (sách tham

khảo), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.

171. Trung tâm UNESCO Thông tin Tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam (2000), Phạm Thận Duật toàn tập, Hưng Hóa kí lược, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

172. Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Trúc Bình, Nguyễn Văn Huy, Thanh Thiên (1972), Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 173. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Nxb KHXH, Hà Nội.

174. Đặng Nghiêm Vạn, Đinh Xuân Lâm (1979), Điện Biên trong lịch sử, Nxb KHXH, Hà Nội. 175. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, TPHCM. 176. Viện Dân tộc học (2004), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 177. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Hà Nội.

178. Viện sử học (1977), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập I, Hà Nội, 179. Viện sử học (1978), Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập II, Hà Nội. 180. Viện sử học (1990), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 181. Viện sử học (1992), Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 182. Viện sử học (2001), Việt Nam những sự kiện lịch sử từ khởi thủy đến 1858, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Tiếng Pháp 183. Albert Boudillon (1915), Le régime de la propriété foncière en Indochine: ce qui à été fait, ce qu'il faudrait faire” Émile Larose, Libraire-éditeur, Paris. 184. Albert Boudillon (1927), La réforme du régime de la propriété foncière en Indochine, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï. 185. Andre Hibon (1934), La crise économique en Indochine, Société générale d'Imprimerie et d'édition, Paris.

186. Andre Touzet (1934), L’économie en Indochine et grande crise, Paris. 187. Alfred Léon Bouchet (1934), De Hanoi à Lai Châu par Son La, Extrême Asie, t. VIII.

188. Auguste Pavie (1908), Montagnards du Tonkin, Augustin Chalamelle Editeurs, Paris. 189. Charles Robequin (1939), L'évolution économique de l'Indochine française, Paul Hartmann-éditeur, Paris. 190. Constantin (1918), L’Hydraulique agricole en Indochine, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï. 191. E. Rény (1931), Monographie générale du cadastre en Indochine, Éditeur Scientique, Paris. 192. Edouar Petit (1887), Le Tonkin, H. Lecène – H. Oudin - Édieurs, Paris.

182

193. G. Dauphinot (1909), Le Tonkin en 1909 (Bắc Kỳ năm 1909), Ha Noi – Hai Phong Imprimerie d’Extreme-Orient, Thư viện Quốc gia, kí hiệu M1045. 194. Gouvernement général de l’Indochine (1930), Recueil des décrets, arrêtés et circulaires relatifs au régime de la propriété foncière en Cochinchine et dans les concessions françaises en Annam et au Tonkin”, Imprimerie d’Extrême- Orient, Hanoï. 195. George Guerrier (1915), Note sur la situation économique de l’Indochine depuis le début de la guerre, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï. 196. Indochine Francaise, Résidence Supériuere au Tokin (1940), Impôt par famille, Hanoi Imprimerie G. Taupin & Cie. 197. (1908), Les Montagnard du Tonkin, Colonel E. Diguet Paris Augustin Challamel, editeur, Rue Jacob Librairie Maritime et Coloniale. 198. Léon Dussault (1924), Les populations du Tonkin occidental et du Haut Laos, Cahiers de la Société de Géographie de Hanoï. 199. Maurice Abadie (1924), Les races du Haut Tonkin de Phong-Tho à Lang-

Son, Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales, Paris.

200. KUNITZ. F (1889), La haute Rivière Noire. Ses voies de communication avec le haut Fleuve Rouge, Bulletin de la société de géographie de Rochefort, X, 1888-1889.

201. P. de Feyssal (1931), La réforme foncière en Indochine, Paris. 202. Paul Beau (1908), La situation de l’Indochine de 1902 à 1907”, Saigon. 203. Patrice Morla (2001), Indochine années vingt: Le balcon de la France sur le Pacifique 1918-1928, 2001, Les Indes Savantes, Paris. 204. Pétayvin (1916), La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en 1915, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi. 205. Pierre Aquarone (1936), Les sûretés immobilières en Indochine: essai théorique et critique”, Université de Bordeaux.

206. Pierre Gourou (1940), L’utilisation du sol en Indochine”, Paris. 207. Philippe Henri d’Orléans (1894), Autour du Tonkin, Camann Lévy – Édieurs, Paris. 208. Paul Boudet (1933), Saint-Poulof et la route Sonla - Laichau, Indochine

hebdomadaire illustré.

Tạp chí, Luận án 209. Vi Văn An (1998), Thiết chế bản mường truyền thống của người Thái ở miền Tây,

Nghệ An, Luận án Tiến sỹ Dân tộc học, Viện Dân tộc học, Hà Nội. 210. Nguyễn Lương Bích (1968), “Mấy suy nghĩ về vấn đề sở hữu ruộng đất trong xã hội phong kiến Việt Nam”, NCLS, số 109, tr. 27-35. 211. Nguyễn Lương Bích (1968), “Phương thức sản xuất châu Á tại miền núi Việt Nam trong các thời đại trước”, NCLS, số 117, tr. 4-19. 212. Cao Văn Biền (1983), “Về bản xã công điền, công thổ ở Bắc Bộ trước cách mạng tháng Tám 1945”, Nghiên cứu lịch sử, số 2(209).

213. Tống Thanh Bình (2016), “Về cây lương thực ở tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc”, NCLS, 8 (484), tr. 49-59. 214. Tống Thanh Bình (2016), “Bàn về đơn vị hành chính của tỉnh Sơn La qua các thời kỳ lịch sử”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 12, tr. 51-59.

183

215. Tống Thanh Bình (2017), “Vấn đề đầu tư của thực dân Pháp ở tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945”, Tạp chí Khoa học, ĐHSP Hà Nội, số 2, tr. 134-144. 216. Tống Thanh Bình (2017), Kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La từ năm 1895 đến năm 1945, Luận án Tiến sĩ sử học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

217. Tòng Văn Cấp (2012), “Đời sống văn hóa Thái qua một số tác phẩm văn học trong sách Thái cổ tại thư viện tỉnh Sơn La”, Kỷ yếu Hội nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI, Nxb Thế giới, tr. 235-243. 218. Lê Hiến Chương (2013), Kinh tế, văn hóa huyện La Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) nửa đầu thể kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐHSP Hà Nội. 219. Phan Đại Doãn, “Về tính chất sở hữu ruộng đất công làng xã”, NCLS, 4/1981, tr. 22-25. 220. Hồ Tuấn Dung (2001), “Tìm hiểu hệ thống thuế thực dân Pháp áp dụ ng ở Việt Nam trước 1945”, NCLS, số 4, tr. 69-74. 221. Nguyễn Khắc Đạm (1981), “Vấn đề ruộng công và ruộng tư trong lịch sử Việt Nam”, NCLS, số 4 (199).

222. Lê Sỹ Giáo (1992), “Các đặc điểm của nông nghiệp truyền thống của người Thái ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr. 36-41.

223. Lương Thị Thu Hằng (2007), “Truyền thống quản lý cộng đồng về đất đai của người Thái tại xã Chiềng La, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La”, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr. 38-46. 224. Ngô Văn Hòa (1987), “Vài suy nghĩ về quyền tư hữu ruộng đất ở Việt Nam hồi thế kỷ XIX”, NCLS, số 1+2, tr. 33-42. 225. Nguyễn Thế Huệ (1991), “Về dân số Việt Nam thời cổ trung đại”, NCLS, số 6 (259), tr.60-65. 226. Nguyễn Thế Huệ (1992), “Về dân số Việt Nam từ thập kỷ 20 đến trước Cách mạng Tháng Tám”, NCLS, 6 (265), tr. 49-52.

227. Bùi Việt Hùng (1999), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐHSP Hà Nội.

228. Vũ Thị Minh Hương (2002), Nội thương Bắc Kỳ thời kỳ 1919 – 1939, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện sử học.

229. Nguyễn Văn Khánh (1995), “Quá trình chuyển biến của cơ cấu xã hội Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám 1945”, NCLS, số 4 (281), tr. 14-29. 230. Nguyễn Văn Khánh (1999), “Chính sách ruộng đất của thực dân Pháp ở Việt Nam: Nội dung và hệ quả”, NCLS, 6(307), tr.3 – 14. 231. Đinh Xuân Lâm (1987), “Nông thôn Việt Nam trong thời kì cận đại”, NCLS, số I-II, tr. 26-32. 232. Lã Văn Lô (1964), “Bước đầu nghiên cứu về chế độ xã hội ở vùng Tày, Nùng, Thái dưới thời Pháp thuộc”, NCLS, tháng 11, tr. 38-46. 233. Bùi Quý Lộ (1987), Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải (1828),

Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, ĐHSP Hà Nội. 234. Hoàng Lương (2008), “Mối quan hệ giữa người Khơ mú và người Thái ở Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc học, số 6, tr. 49-58.

184

235. Nguyễn Thành Lương (2016), Vấn đề sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa đầu thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ sử học, Học viện KHXH.

236. Nguyễn Hồng Phong (1959), “Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong

kiến Việt Nam”, NCLS, số 1, tr. 42-55

237. Vũ Huy Phúc (1978), “Mấy ý kiến về chính sách nông nghiệp của Nhà nước

thời trung đại Việt Nam”, NCLS, số 3 (180), tr. 54-63.

238. Nguyễn Phan Quang (1996), Phong trào nông dân và các dân tộc miền núi dưới

triều Nguyễn nửa đầu thê kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐHSP Hà Nội.

239. Vũ Minh Quân (1993), “Khái quát về tình hình ruộng đất và giải quyết vấn đề ruộng đất của Nhà nước ở nửa đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu kinh tế, số 4 (194), tr. 52-58.

240. Vũ Văn Quân (1999), Chế độ ruộng đất – kinh tế nông nghiệp Việt Nam (nửa đầu thế kỷ XIX), Luận án Phó Tiến sĩ sử học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. 241. Dương Kinh Quốc (1983), “Quá trình thiết lập và cơ cấu tổ chức chính quyền của thực dân Pháp ở Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng 8-1945”, NCLS, số 3, tr. 55-70.

242. Trương Hữu Quýnh (1992), “Vấn đề ruộng đất bỏ hoang ở đồng bằng Bắc Bộ

buổi đầu thời Nguyễn”, NCLS, số 2 (261), tr. 26-30.

243. Hoàng Ngọc Sứu (2012), “Đôi nét về lịch sử và văn hóa của người Thái ở Tây

Bắc”, Kỷ yếu Hội nghị Thái học toàn quốc lần thứ VI, Nxb Thế giới, tr. 113-126.

244. Nguyễn Duy Thiệu (2003), “Thể chế xã hội Mường truyền thống: nghiên cứu so sánh giữa Mường của người Mường và Mường của người Thái Việt Nam”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, tr. 16-29.

245. Tạ Thị Thúy (1988), “Việc thiết lập đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ

1884 – 1896”, NCLS, số 1-2 (238-239), tr.98-107.

246. Tạ Thị Thúy (1999), “Việc trồng lúa ở Bắc Kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế

Kỷ XX”, NCLS, 5 (306), tr.48-63.

247. Trịnh Thị Thủy (2002), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) nửa đầu thế kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐHSP Hà Nội. 248. Nguyễn Thị Thu Thủy (2018), “Địa giới hành chính và tình hình ruộng đất ở Sơn La thế kỷ XIX qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn”, Nghiên cứu Hán Nôm, Nxvb Thế giới.

249. Nguyễn Thị Thu Thủy (2018), “Tình hình ruộng đất ở Sơn La qua địa bạ Gia

Long 4 (1805)”, NCLS, 11 (511), tr. 56-60.

250. Vũ Văn Tỉnh (1970), “Những thay đổi về địa lý hành chính các tỉnh Bắc Kỳ

trong thời kỳ Pháp thuộc”, NCLS, số 133, tr. 43-52.

251. Cầm Trọng, Hữu Ưng (1973), “Góp phần tìm hiểu chế độ ruộng công và hình

thái xã hội của người Thái Tây Bắc trước đây”, NCLS, tháng 7 và 8, tr. 50-57.

252. Cầm Trọng (1975), “Một số ý kiến về: Nương rẫy người Thái”, NCLS, số 1, tr. 81-86. 253. Thái Quang Trung (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp Thừa

Thiên Huế nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ sử học, ĐHSP Hà Nội.

185

254. Phạm Anh Tuân (2017), Nghiên cứu, đánh giá cảnh quan phục vụ định hướng không gian phát triển các vùng chuyên canh cây lâu năm tại tỉnh Sơn La, Luận án Tiến sĩ Địa lí, Trường Đại học sư phạm Hà Nội. 255. Vương Hoàng Tuyên (1960), “Vấn đề chế độ nô lệ ở Việt Nam qua tài liệu dân tộc học”, NCLS, 17. 256. Trần Từ (1970), “Xung quanh các hình thức khai thác ruộng Lang”, NCLS, số 133, tr. 16-31. 257. Đào Tố Uyên (1991), Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn (1829), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, ĐHSP Hà Nội. 258. Đàm Thị Uyên (2000), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến giữa thế kỷ XIX, Luận án Tiến sỹ Lịch sử, ĐHSP Hà Nội. 259. Đàm Thị Uyên (2006), “Tầng lớp thổ ty của người Tày ở Cao Bằng đầu thế kỷ XX”, NCLS, 4, tr. 35-45. 260. Đặng Nghiêm Vạn (1965), “Sơ lược về sự thiên di của các bộ tộc Thái vào Tây Bắc Việt Nam”, NCLS, số 78, tr. 40-48.

261. Đặng Nghiêm Vạn (1968), “Sơ bộ bàn về Quá trình hình thành các nhóm dân tộc Tày – Thái ở Việt Nam. Mối quan hệ với các nhóm ở Nam Trung Quốc và Đông Dương”, NCLS, số 108, tr.24 – 36.

262. Đặng Nghiêm Vạn (1987), “Về vai trò của chúa đất trong xã hội tồn tại chế độ thổ ty, lang đạo, phìa tạo, chúa đất (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX)”, NCLS, số 5+6, tr. 29-34. 263. Đặng Nghiêm Vạn (1987), “Tổ chức bản mường cổ truyền của người Thái ở Mường Thanh – Điện Biên Phủ”, NCLS, số 1+2, tr. 43-53.

1PL

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Bản đồ hành chính tỉnh Sơn La hiện nay

(Nguồn: https://bandohanhchinh.wordpress.com)

Địa đồ tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc

(Nguồn: [130, tr.659])

2PL

Bản đồ khu vực Tây Bắc miền Bắc Việt Nam kèm theo tên

các huyện hiện nay và tên các huyện gọi theo dân tộc

(Nguồn: [173, tr.48])

3PL

Bản đồ địa hình tỉnh Sơn La

(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sơn La)

4PL

Bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Sơn La

(Nguồn: Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp)

5PL

DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ BẰNG TIẾNG THÁI

STT Tên thường gọi Tên gọi khác Ý nghĩa

1 Án nha

Tên gọi của người đứng đầu mường. Tên này có thể bắt nguồn từ chữ “ph’nhá” – một tên chỉ thủ lĩnh của các mường của người Thái xưa. Về sau có lẽ “ph’nha” đã biến âm thành án nha hoặc phìa. Nghĩa của án nha hay phìa đều là thủ lĩnh.

2 Châu mường

Là một lãnh địa tập hợp từ bốn “mường nhỏ” trở lên. Những mường nhỏ này có một tên Thái cố định và rất thông dụng là mường phìa. Ví dụ: châu Mường La có 5 mường phìa: Mường La hay Chiềng An, Mường Bú hay Chiềng Biên, Mường Chùm, Mường Trái hay Chiềng Nghiêm, Mường Chiến hay Ngọc Chiến. Mường phìa xuất hiện đầu tiên gọi là lộng. Mỗi một châu mường có một mường phìa sở tại gọi là mường phìa trong châu (mường phìa cuông chu) và các mường phìa ngoài (mường phìa nọ). Lỵ sở của mường phìa người Thái gọi là mường hay chiềng.

Chẩu mường 3

Là người đứng đầu, cai quản toàn bộ một mường. Còn có tên gọi khác là án nha. Chẩu mường luông gọi là pú chẩu (dịch là cụ chủ). Chẩu mường hay án nha còn được gọi là tri châu. Chẩu mường luông gọi là đại tri châu.

Chiềng 4 Mường chính, mường trung tâm. Xưa kia, tên mường thường bắt đầu bằng chữ chiềng. Chiềng Vai là Mường Lay; Chiềng Pha là Mường Muổi.

5 Côn hươn Cốn hướn Tôi tớ ở trong nhà tạo, tạo chỉ có quyền mua bán, không được phép chém giết.

6 Cuông Cốn cuông hướn tạo

Người trong nhà của tạo: những tù binh trong thời kỳ chinh chiến được hình thành trong đợt thiên di của ngành người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai tới Mường Lò và từ Mường Lò tới Mường Thanh và miền đất đai khác thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, với thời gian tương đương khoảng thế kỉ XI - XII..

6PL

STT Tên thường gọi Tên gọi khác Ý nghĩa

Kho thóc toàn mường 7 Día khẩu háng mướng

Kho thóc riêng của nhà tạo (kho thóc nhà lớn) 8 Día khẩu hướn luông

9 Đẳm

Đẳm là một cơ cấu thị tộc huyết thống. Ở người Thái có thị tộc dòng nam – đẳm pú. Thuật ngữ pú lúc này là chồng, cha, ông… hay là một nhóm đàn ông của một đẳm. Thị tộc dòng nữ là đẳm nái. Thuật ngữ nái lúc đó là vợ, mẹ, bà… hay là một nhóm đàn bà của một đẳm khác.

10 Đin Đất

11 Khẩu chạn Thóc lười: Số thóc dân các mường lệ thuộc và trực thuộc nộp cho mường trung tâm

12 Khẩu nguột Thóc giá: nộp bằng hiện vật thóc hay bông…

13 Lộng

Mường phìa xuất hiện đầu tiên gọi là lộng. Lộng thường là một mường do một chúa đất dòng dõi quý tộc cầm đầu nhưng chịu phụ thuộc vào một mường lớn. Ví dụ ở Mường Muổi có lộng Chiềng La, ở Mường La có lộng Mường Bằng… Người đứng đầu lộng gọi là tạo lộng. Người đứng đầu quen gọi là tạo quen.

14 Mường

Mường phiên âm tiếng Hán là mạnh hay H’mông. Mỗi mường thông thường bao gồm một mường chính, trung tâm là chiềng và các mường ngoài. Ví dụ Mường Muổi bao gồm Mường Muổi (trung tâm) và bốn mường ngoài: Mường Xại, Mường Piềng, Mường Lầm, Chiềng Pấc và một số lộng. Mỗi mường lại chia ra nhiều xổng bao gồm nhiều bản. Mường nhỏ gọi là lộng.

15 Mường luông Mường trung tâm

16 Na

Trong tiếng Thái hiện nay ná được dịch nghĩa tương đương sang tiếng Kinh là ruộng. Đó là miếng đất đã được con người tạo ra mặt bằng, đắp bờ ngăn xung quanh để giữ nước. Trong đó, người ta bắt đầu thực hiện các biện pháp kĩ thuật làm cho đất tơi hòa nhuyễn với nước thành bùn để cấy lúa

7PL

STT Tên thường gọi Tên gọi khác Ý nghĩa

17 Ná bớt

Những suất ruộng mà tổ chức bản mường phân cho những gia đình chức dịch trong toàn mường từ cấp thấp nhất là chá, quan bản đến cao nhất là án nha. Đương nhiên khi phân như thế, tùy theo thứ bậc cao thấp khác nhau và số ruộng có thực ở trong bản, trong mường mà người ta cấp nhiều hay ít cho các chức dịch trong toàn mường coi như một suất lương bổng để họ điều khiển mọi công việc trong mường

18 Ná bớt tạo

Đây là loại ruộng mà người đứng đầu mường đã nhân danh “bản mường” đem ruộng gọi là “ná cuông” hoặc “ruộng ở các bản” chia cho con cháu, họ hàng không tham gia làm các chức dịch trong bộ máy chính quyền ở các châu mường. Bởi vậy ruộng này mang tên là “ná bớt tạo” hay còn gọi là “ná cám” có nghĩa là bớt từ ruộng của “chẩu mường, phìa” ra cho quý tộc khác hưởng.

19 Ná cuông

Nghĩa đen là ruộng trong – một loại ruộng mà quý tộc Thái với bộ máy thống trị ở các châu mường đã bắt một bộ phận nông dân mang danh nghĩa “người trong nhà” làm (cuông = người trong nhà của tạo)

Ná háng mướng Ruộng toàn mường 20

Ruộng của bộ phận pụa pái, vẫn là một loại ruộng nằm trong ruộng toàn mường. 21 Ná nọi

Ruộng khai hoang 22 Na tí

Ruộng toàn mường tới làm 23 Ná nả háy háng mướng

24 Ná nả háy háng chu Ná mướng Cũng là loại ruộng toàn mường tới làm nhưng nằm ở mường phìa trong châu

25 Ná háp bé Ruộng gánh vác. Người nông dân muốn cày cấy trên những thửa ruộng toàn mường buộc phải gánh vác nghĩa vụ việc mường được gọi là những “ông gánh, bà vác”.

Người nông dân hưởng suất ruộng công nhưng phải làm ruộng “ná cuông” cho quý tộc 26 Nhốc

8PL

STT Tên thường gọi Tên gọi khác Ý nghĩa

27 Ông

Dưới phìa, tạo lộng, tạo quen có các chức gọi là ông. Ở lộng, quen thì chỉ có 1,2 chức ông, còn ở mường phìa ngoài có 2 đến 3 chức ông, riêng mường phìa trong có 4 chức ông được xếp đắt làm những nhiệm vụ chức trách khác nhau: Ông pằn, Ông Poọng, Ông Ho luông, Ông Lam ho.

28 Phìa (phaya)

1.Chức chúa đất đứng đầu một mường trong phạm vi một mường lớn thuộc dòng họ quý tộc. Ví dụ như Mường Xại, phìa Mường Lầm… Ở Lào từ phìa thường gặp đứng trước tên kể cả các vị vua chúa, ví dụ phìa Souvanna Khăm Pong, phìa Phạ Ngùm. Ở Tây bắc Việt Nam, chức chúa đất coi toàn bộ vùng Thái được gọi là chảu phen đin hay chảu phen căm; chức chúa đất coi một mường lớn (tương đương một châu) là án nha.

2.Phìa tạo: từ chỉ chung đẳng cấp quý tộc thống trị trong xã hội Thái Tây Bắc.

29 Phìa mường Người đứng đầu mường phìa.

30 Pụa Pụa pái

Là bộ phận của các chiến tù được gọi là “người trong nhà của tạo” do số lượng đông lên tách ra lập bản riêng dần dần thành dân trong bản mường, được bản mường thừa nhận quyền cư trú. đẳng cấp nông dân giống như cuông, nhốc. Nhưng pụa pai khác cuông nhốc là không phải người Thái, mà là người khác tộc, bị phụ thuộc vào chúa đất Thái. Họ là thành phần các dân tộc bị gọi chung là Xá là dân tộc “mồ côi không có chúa của mình”. Nên thái độ đối xử cũng như mức độ bóc lột của chúa đất đối với họ có khác đối với các cuông nhốc Thái. Họ rất ít khi được chia ruộng công, mà chỉ được quyền cư trú và khai phá nương rẫy và ngược lại lại bị nộp các thứ cống nạp và làm lao dịch không kể mức qui định tùy theo yêu cầu của chủ.

Chuyện kể bản mường của người Thái 31 Quam tô mương Quám tố mướng

Quản, Xự 32 Quảng, Xự - Con trai Thái (trừ bộ phận cốn hướn) khi trưởng thành phải bỏ tiền của làm thủ tục theo lệ luật xin bản mường đặt cho danh hiệu Quảng hay Xự với một tên mới kèm theo. Phải có danh

9PL

STT Tên thường gọi Tên gọi khác

Ý nghĩa vị Quảng hay Xự mới được lĩnh suất ruộng toàn mường về để cày cấy. Hoặc nếu không có danh vị Quảng hay Xự kèm theo tên bản mường đặt cho thì không được xin làm chức quyền trong hội đồng bô lão toàn mường. Khi đã có danh vị Quảng hay Xự và tên riêng kèm theo và nhận được suất ruộng để gánh vác việc mường rồi thì người ta gọi họ bằng một thành ngữ “ông kéo bà hao”.

-Quảng: còn là chức Kỳ mục, chức vị phong cho một người nào đó có chút hiểu biết hay làm ăn khá giả ở nông thôn Thái, giống như chức nhiêu ở dưới xuôi.

33 Quen Quén Một lộng nhỏ. Quén thường bao gồm 2 – 3 bản.

Tên gọi có tính chất tôn kính với toàn thể con trai dòng họ quý tộc. Có nơi chỉ là tên gọi riêng con trai dòng họ quý tộc đương chức đứng đầu một mường, một bản. 34 Tạo (thao)

Từ tạo đi đối với từ phìa (phìa tạo) dùng để chỉ toàn bộ đẳng cấp quý tộc Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam.

35 Táy ná nọi Những người nông dân được chuyển từ ruộng toàn mường tới làm sang cày cấy cho ruộng bớt cho quý tộc.

Người túc trực ruộng 36 Táy lính na

37 Xá Tên chỉ không phải một dân tộc nhất định nào mà cả một cộng đồng chính trị bao gồm nhiều dân tộc khác nhau dù thuộc ngôn ngữ Môn – Khơ me, Việt – Mường hay Tạng – Miến, dù là cư dân bản địa ở miền bắc và tây bắc bán đảo Đông Dương hay là mới từ nơi khác di cư tới sau các nhóm người Lào hay người Thái, nhưng chịu chung một số phận lệ thuộc vào những tập đoàn phong kiến quý tộc Lào hay Thái. Ở Lào, từ này gọi chệch đi là Khạ…

Ở Tây Bắc Việt Nam, những dân tộc bị gọi là Xá có các nhóm sau đây: thuộc ngữ hệ Nam Á có Khơ mú, Xinh mun, La Ha, Kháng, Mảng; thuộc ngôn ngữ Tạng – Miến có Hà Nhì, La

10PL

STT Tên thường gọi Tên gọi khác

Ý nghĩa Hủ, Si La, Cống, Bồ Khô Pạ (Phu Lá). Đó là không kể những nhóm hiện nay tuy còn giữ lại được ít nhiều nét khác biệt nhưng đã nhận là Thái.

Bộ phận của một mường bao gồm nhiều bản có thể không liền đất nằm trong phạm vi trông coi của một chức dịch hàng mường, một bô lão (thảu ké). Xổng không phải một đơn vị hành chính. Ví dụ: Mường Muổi bao gồm 4 xổng: xổng pằn (hay xen), xổng pọng, xổng ho luông, xổng pọng cang.

38 Xổng

(Chú ý: khái niệm xổng ở đây không trùng lặp với khái niệm tổng và đổng ở Mai Châu. Tổng hay đổng là một bộ phận của một châu bao gồm nhiều mường, nhiều xã. Còn xổng là một bộ phận của môi trường có thể tương ứng với gần một châu, có thể chỉ bằng một xã bao gồm nhiều bản mà thôi). Trên thực tế một xổng có khi to hơn một tổng vì diện tích ở miền núi rất rộng. Nhưng không phải vì thế mà coi xổng là một khái niệm tương ứng với tổng được.

11PL

PHỤ LỤC 2

2.1. Địa giới hành chính của Sơn La qua địa bạ

Qua 28 địa bạ cổ Sơn La lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I cho biết địa giới hành chính các động/xã của Sơn La ở thế kỉ XIX

như sau: 2.1.1. Châu Phù Yên

- Xã Tường Phù thuộc châu Phù Yên, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp động Quang Hoa và động Tường Phong của bản châu. Tây giáp sông Đà. Nam giáp núi Gà, sách Xuân Đài, huyện Thanh Thủy và động Tường Phong bản châu. Bắc giáp động Hiếu Trại, châu Sơn La.

- Động Tường Phong thuộc châu Phù Yên, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp hang Khoáng, động Đức Nhàn, châu Đà Bắc và

suối Khoáng sông Đà. Tây giáp suối Bắc Văn, động Tường Phù bản châu. Nam giáp sông Đà. Bắc giáp Tà Miệt, động Tường Phù bản châu.

- Xã Tường Phong thuộc châu Phù Yên, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp hang Khoáng, động Đức Nhàn, châu Đà Bắc và

suối Khoáng sông Đà. Tây giáp suối Bắc Văn, xã Tường Phù bản châu. Nam giáp sông Đà. Bắc giáp Tà Miệt, xã Tường Phù bản châu.

- Động Tường Phong thuộc châu Phù Yên, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp sách Hoàng Cúc, huyện Thanh Sơn, lấy ngã hai suối Lạo làm giới. Tây giáp động Tường Phù bản châu. Nam giáp núi Gà, sách Xuân Đài, huyện Thanh Thủy và núi Tộ, động Tường Phù bản châu. Bắc giáp đèo Đao, suối Ngang, sách Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn. 2.1.2. Châu Thuận

- Động Khinh Khoái thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp Mưỡng Muỗi thuộc châu Sơn La, lấy núi Bán Đá Đỏ làm giới. Tây giáp động Thanh Bình của bản châu, lấy Ngòi Trại làm giới. Nam giáp động Trình [Chiềng] Bắc của bản châu, lấy đèo Tiên làm giới. Bắc giáp động Phù Tây châu Quỳnh Nhai, lấy suối Lâu làm giới.

- Xã Khinh Khoái thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp động Mường Mỏ, châu Sơn La, lấy núi Đá Đỏ làm giới. Tây giáp xã Thanh Bình của bản châu, lấy trại Ngòi làm giới. Nam giáp xã Trình [Chiềng] Bắc của bản châu, lấy đèo Tiên làm giới. Bắc giáp xã Phù Tây, châu Quỳnh Nhai, lấy suối Lâu làm giới.

- Động Nam Trịnh thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp cửa Đá, động Trình [Chiềng] Ban và núi Kiều Cô, động Trình [Chiềng] Chanh, châu Mai Sơn. Tây giáp động Mường Thanh, châu Ninh Biên, lấy núi Lai làm giới. Nam giáp động Mường Viên, châu Ninh Biên, lấy suối Hô làm giới. Bắc giáp động Trịnh Bắc bản châu, lấy đỉnh núi Thán làm giới.

12PL

- Xã Nam Trịnh thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp cửa Đá Động, xã Trình [Chiềng] Ban và xã Trình [Chiềng] Chanh, châu Mai Sơn của bản tỉnh, lấy núi Kiều Cô làm giới. Tây giáp xã Mường Thanh, châu Ninh Biên của bản tỉnh, lấy núi Lai làm giới. Nam giáp xã Mường Viên, châu Ninh Biên của bản tỉnh, lấy núi Hô làm giới. Bắc giáp xã Trịnh Bắc của bản tỉnh, lấy đỉnh núi Thán làm giới.

- Động Thanh Bình thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp động Khinh Khoái của bản châu, lấy ngòi Trại làm giới. Tây giáp động Hoàng Mai của bản châu, lấy mỏ Thiêm làm giới. Nam giáp động Hoàng Mai của bản châu, lấy núi Đỉnh Thổ làm giới. Bắc giáp động Phù Tây châu Quỳnh Nhai lấy suối Lâu làm giới.

- Xã Thanh Bình thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp xã Khinh Khoái của bản châu, lấy ngòi Trại làm giới. Tây giáp xã Hoàng Mai của bản châu lấy mỏ Thiêm làm giới. Nam giáp xã Hoàng Mai của bản châu, lấy núi Đỉnh Thổ làm giới. Bắc giáp động Phù Tây châu Quỳnh Nhai lấy suối Lâu làm giới.

- Động Hoàng Mai thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp từ ải Ninh Sơn, Thanh Tịnh, động Trịnh Bắc và động Lô Ty, châu Mai Sơn. Tây giáp núi Khâu Ca, động Quy Mộ, châu Tuần Giáo. Nam giáp sông Mã, bắc giáp núi Nậm Quyết, từ động Thanh Bình bản châu đến động Trình [Chiềng] Chanh, châu Mai Sơn.

- Động Trịnh Bắc thuộc Thuận Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp đá Rồng, động Trình [Chiềng] La, châu Mai Sơn. Tây giáp núi Ải Ninh, động Hoàng Mai bản châu. Nam giáp đỉnh núi Thán, động Nam Trịnh bản châu. Bắc giáp chân đèo Tiên, động Khinh Khoái bản châu. 2.1.3. Châu Yên

- Xã Bác Nhĩ thuộc Yên Châu, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp xã Sách Lâm của bản châu, lấy Suối Hy làm giới. Tây giáp xã Trình [Chiềng] Ban thuộc châu Mai Sơn, lấy núi Nùng Man làm giới. Nam giáp xã Cẩm Nang của bản châu, lấy núi Đỉnh thạch làm giới. Bắc giáp xã Trịnh Nhu của bản châu, lấy suối Việt [Vượt] làm giới.

- Xã Trịnh Nho thuộc châu Yên, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp xã Sách Lâm của bản châu, lấy suối Hy làm giới. Tây giáp xã Trình [Chiềng] Ban thuộc châu Mai Sơn, lấy núi Nùng làm giới. Nam giáp xã Bác Nhĩ của bản châu, lấy Suối Việt [Vượt] làm giới. Bắc giáp sông Đà. 2.1.4. Châu Sơn La

- Xã Nhân Lý thuộc châu Sơn La, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp núi Nịch Cô, xã Trình [Chiềng] Bôn, châu Mai Sơn. Tây giáp động Trình [Chiềng] Bắc, Thuận Châu và động Mường Chiêm bản châu. Nam giáp các động Trình [Chiềng] Chanh, Trình [Chiềng] Ban, châu Mai Sơn. Bắc giáp động Mường Mỏ bản châu. - Động Hiếu Trại thuộc châu Sơn La, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp sách Hương Sơn, huyện Văn Chấn. Tây giáp động Ngọc Tiên, châu Quỳnh Nhai. Nam giáp động Tường Phù, châu Phù Yên. Bắc giáp động Thanh Quỳ, châu Chiêu Tấn.

13PL

2.1.5. Châu Mai Sơn

- Động Lô Ty thuộc châu Mai Sơn, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp động Trình [Chiềng] Cát bản châu, lấy núi Bố làm giới. Tây giáp động Hoàng Mai, Thuận Châu, lấy núi Nậm Quyết làm giới. Nam giáp động Trình [Chiềng] Cát bản châu, lấy núi Khố Phường làm giới. Bắc giáp động Trình [Chiềng] Chanh bản châu, lấy núi Tam Tài làm giới.

- Xã Lô Ty thuộc châu Mai Sơn, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp xã Trình [Chiềng] Cát của bản châu, lấy núi Bố làm giới. Tây giáp xã Hoàng Mai, Thuận Châu, lấy núi Nậm Quyết làm giới. Nam giáp xã Trình [Chiềng] Cát của bản châu, lấy núi Khố Phường làm giới. Bắc giáp xã Trình [Chiềng] Nho của bản châu, lấy núi Tam Tài làm giới.

- Động Trình [Chiềng] Ban thuộc châu Mai Sơn, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp các động Trịnh Nho, Bác Nhĩ, Việt Châu (Yên Châu) và động Cẩm Nang, Mộc Châu. Tây giáp động Nam Trịnh, Thuận Châu và động Trình [Chiềng] Bôn bản châu. Nam giáp động Trình [Chiềng] Cát châu Mai Sơn. Bắc giáp động Trình [Chiềng] La, châu Sơn La và động Trình [Chiềng] Bôn, châu Mai Sơn.

- Động Trình [Chiềng] Bôn thuộc châu Mai Sơn, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp động Trình [Chiềng] Ban của bản châu. Tây giáp núi Mục Đô, động Mường Chiêm, châu Sơn La và núi Nặc Lô, động Trình [Chiềng] La bản châu. Nam giáp động Trình [Chiềng] Ban của bản châu, lấy núi Cô Tắm, Nà Vặc làm giới. Bắc giáp động Mường Chiêm, châu Sơn La, lấy núi Thạch Lữ làm giới.

- Động Trình [Chiềng] Chanh thuộc châu Mai Sơn, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp động Trình [Chiềng] Ban của bản châu, lấy núi Na Cộng Mang làm giới. Tây giáp động Nam Trịnh, Thuận Châu, lấy núi Kéo Đó làm giới. Nam giáp động Hoàng Mai, Thuận Châu, lấy núi Nậm Quyết và núi Tam Tà động, Lô Ty của bản châu làm giới. Bắc giáp động Trình [Chiềng] La, châu Sơn La.

- Xã Trình [Chiềng] Cát thuộc châu Mai Sơn, phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hóa. Đông giáp xã Chấp Yết, huyện Trình [Chiềng] Cố, tỉnh Thanh Hóa, lấy núi Bố làm giới. Tây giáp xứ Đâu Có, xã Nam Trịnh, Thuận Châu đến núi Bố xã Lô Ty bản châu, lấy núi Nậm Quyết làm giới, lại giáp xã Cẩm Phia, châu Ninh Biên Phía Tây giáp xã Hoàng Mai, Thuận Châu. Nam giáp vực Vầng Anh, xã Cẩm Phia, châu Ninh Biên. Bắc giáp xã Lô Ty bản châu, lấy núi Khố Phường làm giới, đến xã Trình [Chiềng] Ban bản châu, lấy núi Nậm Niệm làm giới. 2.1.6. Châu Mộc Châu

- Động Hướng Càn thuộc Mộc Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp động Mộc Thượng bản châu. Tây giáp động Mộc

Thượng bản châu. Nam giáp rừng. Bắc giáp sông Đà.

- Động Mộc Hạ thuộc Mộc Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp núi Ba Thản, động Mai Thượng, Mai Châu. Tây giáp

động Hướng Càn bản châu. Nam giáp núi Long, động Mộc Thượng bản châu và các động Mai Hạ, Bao La, Mai Châu. Bắc giáp sông Đà.

- Động Mộc Thượng thuộc Mộc Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp động Xuân Nha và động Hướng Càn bản châu. Tây giáp động Cẩm Nang bản châu và động Sách Lân, Việt Châu. Nam giáp sông Mã, động Hàm Man bản châu. Bắc giáp núi Long, động Mộc Hạ bản châu và động Sách Lâm, Việt Châu.

14PL

- Động Xuân Nha thuộc Mộc Châu, phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hóa. Đông giáp núi Cô Mâu, động Bao La, Mai Châu. Tây giáp động

Mộc Thượng bản châu. Nam giáp động Hàm Man, sông Mã. Bắc giáp rừng.

(Nguồn: [248])

2.2. Các loại đất chính ở Sơn La

Tên đất Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)

TT I 1 II 1 2 III 1 2 3 4 IV 1 2 3 4 5 6 7 8 9 V NHÓM ĐẤT CÁT Bãi cát bằng ven sông NHÓM ĐẤT PHÙ SA Đất phù sa không được bồi đắp hàng năm Đất phù sa ven suối NHÓM ĐẤT ĐEN Đất đen trên secpentin Đất nâu thẫm trên sản phẩm đá bọt và đá bazơ Đất đen cacbonat Đất đen trên sản phẩm bồi tụ cacbonat NHÓM ĐẤT ĐỎ VÀNG Đất nâu tím trên đá sa phiến màu tím Đất nâu đỏ trên đá macma ba zơ và trung tính Đất đỏ nâu trên đá vôi Đất nâu vàng trên macma ba zơ và trung tính Đất đỏ vàng trên đá phiến sét và biến chất Đất vàng đỏ trên đá macma axit Đất vàng nhạt trên đá cát Đất nâu vàng trên phù sa cổ Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước NHÓM ĐẤT MÙN ĐỎ VÀNG Kí hiệu C Cb P Pc Py R Rr Ru Rv Rdv F Fe Fk Fv Fu Fs Fa Fq Fp Fl H 65 65 7.786 3.980 3.806 6.862 46 1.230 3.842 1.744 759.715 90.298 77.490 58.938 61.647 376.186 66.993 89.628 695 8.511 531.564 0,01 0,01 0,59 0,28 0,31 0,49 0,01 0,09 0,27 0,12 54,43 7,06 5,51 4,19 4,39 26,77 4,77 6,38 0,05 0,61 37,6

15PL

Tên đất Diện tích (ha) Tỉ lệ (%)

TT 1 2 3 4 5 1 VI 1 2 Đất mùn nâu đỏ trên đá macma bazơ và trung tính Đất mùn đỏ nâu trên đá vôi Đất mùn đỏ vàng trên đá phiến sét và biến chất Đất mùn vàng đỏ trên đá macma axit Đất mùn vàng nhạt trên đá cát Đất mùn Alit NHÓM ĐẤT THUNG LŨNG DỐC TỤ Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ Đất cacbonat Kí hiệu Hk Hv Hs Ha Hq A D K

Tổng diện tích các nhóm đất Mặt nước Núi đá Sông suối Tổng diện tích tự nhiên 20.429 67.366 251.312 83.941 82.557 25.959 8.391 8.315 76 1.314.581 23.600 64.376 9.793 1.412.350 1,45 4,79 17,88 5,97 5,87 1,85 0,60 0,59 0,01 93,12 1,6 4,58 0,70 100,00

Nguồn: [254, tr.69]

16PL

Châu mường

Mường phìa trong

Mường phìa ngoài

Cang y chủa tế

Lộng quen

Í tu thống quán tế

Xổng

Í tu thống quán tế

Xổng

Xổng

Vùng chống chủa

Các bản

Các giào

Các bản

Các giào

Các giào

Các bản

2.3. Sơ đồ tổ chức các đơn vị châu mường

(Nguồn: [164, tr101])

17PL

2.4. Quy định về việc làm cuông, nhốc ở châu Thuận 115. Những bản làm cuông, làm nhốc trong mường theo lệ đã phân chia cho án nha và chức dịch chu đáo và đầy đủ cả rồi. Bây giờ còn có những bản ở xa mường, ở nơi rừng sâu núi thẳm, người là dân là chúng ở nơi ấy không đáng là dân hàng mường. Bởi thế họ ở đất xổng nào thì phải là cuông nhốc cho xổng đó. 116. Án nha chia bản cuông, bản nhốc cho các chức dịch. Ai được bản nào thì chức dịch đó phải dẫn dắt họ vỡ ruộng, làm mương, làm phai, dựng thành vùng đất, thành bản thành làng ở nơi ấy.

Người Xá Khao ở nơi nào, bản của họ luôn luôn là cuông, nhốc cho chức dịch.

117. Bản người Xá Cẩu ở không thành nơi chốn, lại nằm trong vực sâu núi thẳm, chiêu dụ họ khó. Bởi vậy, họ thích làm cuông, nhốc cho ai thì chức dịch đó phải nhận lấy. Các việc bản việc mường một khi cần đến hàng cuông nhốc thì họ không được thiếu. 118. Người Mèo đến sau người Thái mới được khoảng 300 năm lại đây. Họ làm nương trên núi cao, không bắt họ làm cuông cho một chức dịch nào, nhưng họ phải nộp quỹ thuế cho án nha. Mỗi khi mường cần việc thể như cúng lễ, họ phải nộp lợn, nộp gà. Khi án nha, thư, thông lại làm nhà họ phải đem ván đến nộp để làm cửa, vách, cửa sổ. Những việc mường khác, trong đó có việc đi phu đi phen, họ không phải đi. 119. Cứ đúng 10 ngày người bản cuông, bản nhốc phải “lên lam”, “nộp lam” một lần. “Nộp lam” thì phải lên nhà ông pọng; “Nộp lam” thì phải dẫn vật tiêu dùng như: củi, lá, hoa cây sẹ, quả chua, quả ngọt, rau xanh ở trong rừng, măng cây đủ loại lên nhà chủ của cuông nhốc.

- Hàng năm cuông nhốc phải nộp cho chủ: cán mai, thân bắp cày, bừa, cót, giỏ đựng rau, giỏ đeo bên mình, chiếc giỏ phễu để vo gạo

nếp, rá đựng chiếc giỏ phễu.

- Hàng năm người làm cuông nhốc phải đến sửa sang nhà cửa, sửa sang nơi rửa ráy, đựng nước phóng uế và nếu có phải dựng nhà cho chủ cũng bắt tay làm. Họ phải dựng nhà để thóc, làm nương bông, nương ngô; làm nương lúa ruộng đồng; làm vườn rau trồng củ. Nếu chủ cuông nhốc phải đi đâu thì người làm cuông làm nhốc phải đi để hầu hạ, gánh đồ nặng nhọc. 120. Người làm cuông nhốc làm những công việc trên đây là để cai chức quyền bỏ công bỏ sức vào “việc bản việc mường” như thể thay cho mình. Tuy không phải đi “việc mường”, nhưng đã là người dân sống trong bản trong mường thì dù là cuông nhốc hay “ông gánh bà vác”, khi cần thiết đều phải đóng góp tiền của như nhau.

(Nguồn: 155, tr.134-138)

18PL

PHỤ LỤC 3

3.1. Tô thuế ruộng công thời Gia Long Khu vực Đẳng hạng

Các thứ tiền khác (đơn vị mẫu) Tiền thẻ tre, khoán khố điền mẫu, thường tân và cung đốn đều mỗi mẫu 3 tiền I

II

II

Tô thuế trên đơn vị mẫu 40 thăng thóc 30 thăng thóc 20 thăng thóc 10 thăng thóc 120 bát đồng 84 bát đồng 50 bát đồng 15 thưng 60 bát 42 bát 25 bát Tiền thập vật: 1 tiền Tiền mao nha: 30 đồng Tiền thập vật: 1 tiền Tiền khoán khố: 15 đồng Tiền mao nha 10 đồng

Tiền khoán khố: tiền để làm kho Tiền điền mẫu: thuế phụ đánh vào từng mẫu Tiền thường tân: tiền thuế về lễ cơm mới Tiền cung đốn: tiền chi phí cho quan lại Tiền mao nha: tiền tranh tre làm nhà Tiền thập vật: tiền lặt vặt

Ruộng hạng nhất Ruộng hạng nhì Ruộng hạng ba Ruộng mùa (thu) Ruộng hạng nhất Ruộng hạng nhì Ruộng hạng ba Ruộng các hạng (ruộng mùa) Ruộng hạng nhất Ruộng hạng nhì Ruộng hạng ba Theo thể lệ năm 1801 có biểu riêng IV

(Nguồn: [135, tr.165])

19PL

3.2. Tô thuế đất công thời Gia Long

Loại và hạng đất Mức thuế (đơn vị mẫu)

Khu vực I II

III

IV

10 thăng 120 bát 3 tiền + tiền lúa cánh 30 đồng 1 quan + 2 tiền (mỗi sở) 2 tiền + tiền lúa cánh 1 tiền 7 phương muối, hoặc nộp thay bằng tiền mỗi phương 4 tiền 2 quan 5 tiền (1 thửa) 2 quan (1 thửa) 1 quan 5 tiền (1 thửa)

Đất trồng mía Đất bãi trồng lúa Đất các loại Cửa đình Đất muối ở Quảng Yên Ruộng đất làm muối Đất vườn trồng dừa: Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba

(Nguồn: [135, tr.169])

3.3. Tô thuế ruộng công thời Minh Mệnh

Khu vực

I

II

III Đẳng hạng Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Thảo điền Sơn điền Mức thuế (trên đơn vị mẫu) 40 thăng 30 thăng 20 thăng 80 thăng 56 thăng 33 thăng 26 thăng + 3 tiền (thập vật) 23 thăng + 3 tiền (thập vật)

(Nguồn: [135, tr.172-173])

20PL

3.4. Tô thuế ruộng công thời Tự Đức

Khu vực Thuế tô (đơn vị mẫu) Các thứ tiền phụ thu (đơn vị mẫu) Đẳng hạng

28 thưng 2 tiền 6 đồng (tiền thập vật) Hạng nhất

-

I Hạng nhì 21 - -

Hạng ba 14 - -

Thu hạng 7 -

Hạng nhất 40 thưng 3 tiền (tiền thập vật)

II Hạng nhì 30 - -

Hạng ba 20 - -

Ruộng cỏ 26 thưng 3 tiền (tiền thập vật) III Ruộng núi 23 - -

IV 1 tiền thập vật + 15 đồng khoán khố + 10 đồng mao nha

Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 120 bát 84 – 50 -

Hạng nhất 120 bát 1 tiền 30 đồng (tiền lúa cánh) - V -

Hạng nhì Hạng ba 84 – 50 -

(Nguồn: [135, tr.178])

21PL

3.4. Lệ nộp thay tô thuế ruộng công bằng tiền thời Tự Đức

Khu vực

II Tiền phụ thu các loại (đơn vị mẫu) 4 tiền lúa cánh + tiền lúa cánh + 50 đồng thập vật 3 tiền lúa cánh + tiền lúa cánh + 50 đồng thập vật 2 tiền lúa cánh + tiền lúa cánh + 50 đồng thập vật

IV Đẳng hạng Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Ruộng các hạng Tiền thuế (đơn vị mẫu) 4 quan 3 quan 2 quan 4 quan 1 tiền (tiền lúa cánh)

(Nguồn: [135, tr.179])

3.5. Thuế tô ruộng tư thời Gia Long

Khu vực Đẳng hạng Tô thuế trên đơn vị mẫu

I Các thứ tiền khác (đơn vị mẫu) Tiền thẻ tre, khoán khố điền mẫu, thường tân và cung đốn đều mỗi mẫu 3 tiền

II Bố chính ngoại châu

Tiền thập vật: 1 tiền Tiền mao nha: 30 đồng

II

40 thăng thóc 30 thăng thóc 20 thăng thóc 10 thăng thóc 40 bát 30 bát 20 bát 15 thưng 20 bát 15 bát 10 bát 1 tiền + tiền lúa cánh 30 đồng

IV Ruộng hạng nhất Ruộng hạng nhì Ruộng hạng ba Ruộng mùa (thu) Ruộng hạng nhất Ruộng hạng nhì Ruộng hạng ba Ruộng các hạng (ruộng mùa) Ruộng hạng nhất Ruộng hạng nhì Ruộng hạng ba Ruộng muối Theo thể lệ năm 1801 có biểu riêng

(Nguồn: [135, tr.275])

22PL

3.6. Thuế tô đất tư thời Gia Long

Loại và hạng đất Mức thuế (đơn vị mẫu)

Khu vực I II III

IV

Đất trồng mía Đất bãi trồng lúa Đất các loại Vườn trồng dừa: Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 10 thăng 1 tiền + tiền lúa cánh 30 đồng 2 quan 5 tiền (mỗi thửa) 2 quan (mỗi thửa) 1 quan 5 tiền (mỗi thửa)

(Nguồn: [135, tr.276])

3.7. Bộ máy quản lý châu Mường Muổi trước năm 1954

(Nguồn: [170, tr.186])

23PL

3.8. Tỷ lệ được hưởng ruộng bớt của các chức dịch ở Thuận Châu

Chức dịch Phạm vi bản Số lượng ruộng (mẫu)

Án nha Thư lại Thông lại Phìa lý Phìa phó Ông xen Ông pọng Ông ho luông Ông pọng cang Ông quan sự Ông ho hé Ông pụa Ông chá hươn Chiềng Đi Chiềng Ly Chiềng Ly Chiềng Ly Chiềng Ly Bản Mòn Bản Thôm Bản Lụa Bản cọ Bản Lè Bản Lăng Luông Bản Púng Bản Lẹng 10 6 5 5 3 8 6 4 3 2 2 2 2 Số lượng bản nhốc người Thái 9 3 3 3 2 5 4 0 1 0 0 0

Số lượng bản cuông người Xá 7 2 3 2 2 0 0 2 0 0 0 0 (Nguồn: [155, tr.74-78])

3.9. Sản lượng của các bản trong “mường phìa trong” ở Mường Muổi năm 1820

STT 1 2 3 4 5 6 7 Tên bản Bản Chọ Bán Ngá Bản Khoang Bản Chạy Bản Ná Cọ Bản Siểu Bản Bỉa Sản lượng 400 gánh 1100 - 300 - 100 - 500 - 350 - 400 - STT 33 34 35 36 37 38 39 Tên bản Bản Ná Nọi Bản Lăng Nọi Bản Lăng Luong Bản Toong Bản Dửn Bản Món Bản Pẹn Sản lượng 500 gánh 400 - 1100 - 300 - 400 - 2500 - 500 -

24PL

STT 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 Tên bản Bản Cong Bản Ná Hi Bản Ná Đeng Bản Na Cái Bản Pán Bản Huông Bản Cẳm Bản Ná Ỏ Bản Ná Hin Bản Pắn Ná Bản Thẳm Bản Cuông Mương Bản Táng Bản Hình Bản Lào Bản Phé Bản Dạy Bản De Bản Pú Bản Mua Chiếng Ngám Bản Cụ Bản Cún Bản Lái Co Tóng Sản lượng 500 - 250 - 200 - 700 - 700 - 200 - 500 - 500 - 500 - 600 - 600 - 700 - 600 - 700 - 500 - 600 - 200 - 40 - 400 - 50 - 400 - 50 - 200 - 400 - 600 - STT 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 Tên bản Bản Puốc Bản Pá Bản Cha Bản Púng Bản Thôm Bản Lựa Bản Na Háy Bản Ná Anh Bản Lạnh Bản Cụ Bản Tốm Bản Na Tiêng Bản Bai Bản Cọ Bản Lé Bản Thúm Bản Hán Bản Xát Bản Huối Bản Chao Bản Cang Bản Mo Bản Bó Bản Nghịu Sản lượng 600 - 500 - 400 - 1000 - 2000 - 1500 - 400 - 500 - 800 - 600 - 600 - 400 - 500 - 1400 - 1200 - 700 - 400 - 400 - 50 - 50 - 200 - 100 - 1200 - 400 -

(Nguồn: [165, tr.231])

25PL

3.10. Cách tính lịch của người Thái Đen Tính năm: Năm âm lịch và năm Thái tính cùng như nhau, tức là 60 năm lại quay về tên cũ.

Bên can (10 tiếng) Bên chi (12 tiếng)

Tiếng Thái Cắp Hặp Hai Mâng Pấc Cắt Khốt Huộng Tău Cá Tiếng Việt Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Tiếng Thái Châự Pậu Nhi Mậu Xi Xậư Xa Ngạ Một Xăn Hậu Mệt Cậư Tiếng Việt Tí Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi

Tính tháng: So ngày trong tháng theo như âm lịch nhưng cách tính lại chênh với âm lịch 6 tháng. Nên vì vậy nếu tính từ đầu năm

đến cuối năm thì thứ tự các mùa là thu, đông, xuân, hạ.

Mùa

Thu

Đông

Tháng Thái Tháng giêng Tháng hai Tháng ba Tháng tư Tháng năm Tháng sáu Tháng âm lịch Tháng bảy Tháng tám Tháng chín Tháng mười Tháng mười một Tháng chạp

26PL

Xuân

Hạ

Tháng bảy Tháng tám Tháng chín Tháng mười Tháng mười một Tháng chạp Tháng giêng Tháng hai Tháng ba Tháng tư Tháng năm Tháng sáu

Tính ngày: Cách tính cũng như tính năm, cứ sau 60 ngày lại trùng với tên cũ và cũng do can ghép trước chi theo thứ tự định sẵn Tính giờ: Mỗi ngày chia làm 12 canh theo chu kỳ chi giống như cách tính âm lịch Giờ Thái Châự Pậu Nhi Mậu Xi Xậư Xa Ngạ Một Xăn Hậu Mệt Cậư Quy ra giờ Từ 23 giờ đến 01 giờ Từ 01 - 03 - Từ 03 - 05 - Từ 05 - 07 - Từ 07 - 09 - Từ 09 - 11 - Từ 11 - 13 - Từ 13 - 15 - Từ 15 - 17 - Từ 17 - 19 - Từ 19 - 21 - Từ 21 - 23 - Giờ âm lịch Tí Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi

(Nguồn: [173, tr. 487-489])

27PL

3.11. Lịch sản xuất của người Thái

Tháng theo lịch Tháng âm lịch Tháng dương lịch Các công việc ở ruộng, nương Thái

Làm cỏ nương, nửa tháng đầu tranh thủ cấy chay cho kịp thời vụ, thu 1 7 8 ngô ở nương

8 9 Thu lúa nương, tháo nước bắt cá ở ruộng 2

9 10 Nghỉ ngơi hoặc thu lúa sớm 3

10 11 Thu lúa ruộng 4

11 12 Tiếp tục thu nốt lúa ruộng rồi nghỉ ngơi 5

12 1 Nghỉ ngơi 6

1 2 Phát nương. Gieo ngô sớm 7

2 3 Đốt nương. Làm thủy lợi. Đắp bờ ruộng. Gieo lúa và ngô nương. Gieo mạ. 8

3 4 9 Thu lúa nương. Cày, bừa, đắp bờ ruộng. Làm cỏ nương ngô sớm. Ương trứng cá thả ruộng

4 5 10 Làm cỏ nương. Bừa ruộng và tiếp tục làm ruộng cấy chay. Cấy lúa sớm, thu hoạch sớm.

5 6 Cấy. Làm cỏ nương ngô 11

6 7 Cấy ruộng. Làm cỏ nương lúa, ngô 12

(Nguồn: [165, tr.121])

28PL

PHỤ LỤC 4

4.1. Bảng thống kê dân số, diện tích các tỉnh Bắc Kỳ năm 1932

Diện tích ruộng tính bằng ha Mật độ dân số

Tỉnh Dân số Tổng diện tích km2 Tổng cộng Theo km2 Về lương thực

Bắc Giang Bắc Ninh Hà Đông Hải Dương Hà Nam Hưng Yên Kiến An Nam Định Ninh Bình Phúc Yên Phú Thọ Quảng Yên Sơn Tây Thái Bình Thái Nguyên Tuyên Quang Vĩnh Yên Yên Bái 256.000 418.000 940.000 707.000 446.000 439.000 353.000 1.011.000 360.000 173.000 263.000 92.000 270.000 927.000 83.000 49.000 215.000 72.000 5.063 1.098 1.637 2.249 1.140 881 864 1.494 1.592 692 3.724 3.726 914 1.561 3.425 5.903 1.136 7.412 Bình quân đầu người 0,416 0,195 0,088 0,191 0,125 0.159 0,166 0,123 0,175 0,248 0,146 0,043 0,158 0,127 0,125 0,355 0,195 0,087 50 380 574 314 390 498 408 676 236 250 70 24 295 593 24 8 189 9 106.600 81.700 83.500 135.200 56.000 70.200 58.900 124.900 63.200 43.000 38.400 4.000 42.800 118.100 17.900 17.400 12.100 6.300 240 512 1.126 523 796 625 599 809 569 402 685 2.300 631 785 463 281 510 1.143

29PL

Diện tích ruộng tính bằng ha Mật độ dân số

Tỉnh Dân số Tổng diện tích km2 Tổng cộng Theo km2 Về lương thực

Tp Hà Nội Tp Hải Phòng Bắc Cạn Cao Bằng Hà Giang Hòa Bình Lạng Sơn Lào Cai Lai Châu Móng Cái Sơn La Tổng cộng và bình quân 135.000 130.000 52.000 100.000 61.000 56.000 119.000 45.000 66.000 77.000 90.003 6.005.000 5.087 6.657 10.769 4.195 6.252 5.850 20.116 3.203 10.865 117.435 Bình quân đầu người 0,121 0,108 0,107 0,082 0,132 0,117 0,067 0,104 0,088 0,147 6.300 10.900 6.500 4.600 15.700 5.300 4.500 8.000 8.000 1.180.000 10 15 5 13 19 7 3 24 8 146 825 917 938 1.217 758 849 1.467 962 1.125 678

(Nguồn: [119, tr.1-2])

4.2. Ba loại thuế chính người dân Sơn La phải nộp cho chính quyền thực dân Pháp giai đoạn 1917 – 1922

STT 1 2 3 Loại thuế Thuế thân (Quý đôi) Thuế ruộng nương (Quý hua hướn) Thuế đầu nhà (Quý hay ná) Số tiền (đồng) 3,5 3,2 2,4

(Nguồn: [134, tr.65])

30PL

4.3. Hợp đồng và bản đồ khu đất bán cho Vandaele

31PL

32PL

33PL

34PL

35PL

36PL

37PL

38PL

4.4. Hợp đồng và bản đồ khu đất 1.935m2 bán cho Jean Fune

39PL

40PL

41PL

42PL

43PL

4.5. Hợp đồng và bản đồ khu đất 1.417 m2 bán cho Jean Fune

44PL

45PL

4.6. Diện tích và sản lượng khoai tỉnh Sơn La (1926 – 1941)

Năm 6/1926-6/1927 1929 1930 1931 1933 1934 Diện tích (ha) - 52 52 53 27 30 Sản lượng (tấn) 30 78 78 78 60 60 Năm 1935 1936 1937 1938 1939 1941 Diện tích (ha) 25 25 20 31,6 44,2 35 Sản lượng (tấn) 55 55 50 79 113 50

(Nguồn: [19], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

4.7. Diện tích và sản lượng sắn của tỉnh Sơn La (1926 – 1941)

Năm 6/1926 – 6/1927 1929 1930 1931 1934 1935 1936 1937 1938 1939 1941 Sản lượng (tấn) 46 72 72 73 14 14 14 10 25 78,6 60 Diện tích (ha) - 151 155 150 20 20 18 10 24,4 41,3 45

(Nguồn: [19], [35], [36], [37], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

46PL

4.8. Diện tích và sản lượng rau, cây ăn quả của tỉnh Sơn La (1929 – 1941)

Năm 1929 1930 1931 1933 1934 1935 1936 1937 1938 1939 1941 Diện tích (ha) 123 124 125 80 80 80 57,9 60 65 39,7 50 Sản lượng (tấn) 34 35 35 150 150 150 150 160 170 57,6 60

(Nguồn: [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

4.9. Diện tích và sản lượng đỗ của tỉnh Sơn La (1926 – 1941)

Năm 6/1926 – 6/1927 1929 1930 1931 1937 1938 1939 1941 Diện tích (ha) - 134 133 133 15 15,3 16,3 10 Sản lượng (tấn) 15 25 27 28 4 4,5 4,7 7

(Nguồn: [19] [35], [36], [37], [42], [43], [44], [46])

47PL

4.10. Diện tích và sản lượng chè tỉnh Sơn La (1934 – 1941)

Năm 1934 1935 1936 1937 1938 1939 1941 Diện tích (ha) 19 19 12 10 12,9 11,7 10 Sản lượng (tấn) 2 2 1,5 1 1,5 1,1 12

(Nguồn: [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

4.11. Diện tích và sản lượng bông của tỉnh Sơn La (1926 – 1941)

Năm 6/1926 – 6/1927 1929 1930 1931 1933 1934 1935 1936 1937 1938 1939 1941 Diện tích (ha) 478 498 494 144 152 150 110 100 128,5 198 200 Sản lượng (tấn) 150 155 160 140 50 53 50 40,5 45 57,8 79 150

(Nguồn: [19], [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

48PL

4.12. Diện tích và sản lượng gai dầu của tỉnh Sơn La (1929 – 1931)

Diện tích (ha) 158 160 Sản lượng (tấn) 187 190 Năm 1929 1930

160 179 1931

(Nguồn: [35], [36], [37])

4.13. Diện tích và sản lượng dâu tằm của tỉnh Sơn La (1929 – 1941)

Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Năm

31 10 1929

32 10 1930

32 10 1931

20 15 1934

20 15 1935

20 15 1936

5 3 1937

7,10 4,3 1938

7,3 14,6 1939

1 8 1941

(Nguồn: [35], [36], [37], [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

49PL

4.14. Diện tích và sản lượng tràm của tỉnh Sơn La (1933 – 1941)

Diện tích (ha) 10 92 90 53 60 72,6 95,3 150 Năm 1933 1934 1935 1936 1937 1938 1939 1941 Sản lượng (tấn) 45 46 45 20 25 30 50 50

(Nguồn: [38], [39], [40], [41], [42], [43], [44], [46])

4.15. Thương mại xuất khẩu gạo của Sơn La (1901 – 1931)

Thời gian

Năm 1901 Tháng 7+8/1904 Tháng 1+2+5+6+11+12/1905 Tháng 1+2+3+4+11+12/1906 Tháng 3+4+5+6+10+11/1907 Tháng 6/1926 đến tháng 6/1927 Năm 1929 Năm 1930 Năm 1931 Sản lượng (kg) 2.530 540 7.640 16.380 5.642 3.600 46.740 36.000 23.400

(Nguồn: [21], [24], [25], [26], [23], [19], [35], [36], [37])

50PL

4.16. Sự phân bố của những đồn điền được thiết lập dưới những hình thức khẩn hoang khác nhau ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945

Tổng cộng Theo quy chế nhượng đất chung Theo quy chế đồn điền di dân tập thể Tỉnh Theo quy chế quản lý đất phủ rừng Theo quy chế nhượng bãi bồi ven biển

ĐĐ 40 18 3 2 4 4 49 8 4 4 6 17 11 38 DT (ha) 3.514,8839 551,7503 988,8374 75,9300 244,4811 631,9000 974,5901 3.359,0180 1012,2950 40,4030 482,3400 743,8900 2.623,5680 5.840,5584 ĐĐ 5 8 3 4 32 DT (ha 133,2880 1140,0000 26,0000 60,0000 1.617,1836 ĐĐ 1 2 1 2 4 DT (ha) 34,0000 650,0000 44,4400 692,4600 1.235,0880 ĐĐ 123 53 25 60 10 DT (ha) 734,5185 1.208,3990 3.561,3941 5.691,0300 8.107,5701 ĐĐ 45 19 3 4 12 128 105 8 29 4 6 17 60 27 74 DT (ha) 3.648,1719 585,7503 988,8374 725,9300 1.384,4811 1.410,8585 2.208,9891 3.359,0180 4.573,6891 40,4030 482,3400 743,8900 5.691,0300 11.483,5981 8.692,8300 Bắc Giang Cao Bằng Hà Đông Hà Giang Hà Nam Hải Dương Hải Ninh Hòa Bình Kiến An Lai Châu Lạng Sơn Lào Cai Nam Định Ninh Bình Phú Thọ

2 397,4000 2 397,4000 Phúc Yên

29 6.048,9900 2 22,0000 4 1.440,0000 6 1.117,6200 41 8.628,6100 Quảng Yên

37 2.622,5749 1 0,7400 1 184,8000 39 2.807,3143 Sơn Tây

51PL

Tổng cộng Theo quy chế nhượng đất chung Theo quy chế đồn điền di dân tập thể Tỉnh Theo quy chế quản lý đất phủ rừng Theo quy chế nhượng bãi bồi ven biển

ĐĐ DT (ha) ĐĐ DT (ha DT (ha) ĐĐ 8 DT (ha) 1.395,0200 ĐĐ 8 DT (ha) 1.395,0200 ĐĐ Thái Bình

10 4.181,8227 2 52,0000 7.284,4585 40 11.518,2812 28 Thái Nguyên

24 3.069,4176 15 879,8512 1.413,8600 45 5.363,1288 6 Tuyên Quang

8 1.133,2343 3 101,9200 11 1.235,1543 Vĩnh Yên

17 1.527,1700 25 925,3273 1.797,6500 56 4.250,1473 14 Yên Bái

Tổng cộng 335 40.065,0547 100 4.958,3101 14.776,7400 285 21.815,5517 783 81.615,6565 63

(Nguồn [158, tr.544])

52PL

4.17. Đồn điền của người Pháp được thiết lập ở các tỉnh và các vùng của Bắc Kỳ từ 1884 đến 1914

(Trong phần ghi chú là các đồn điền không biết diện tích)

Tổng cộng Trên 50 ha

Ghi chú 1- 2-

3- 7- 1- 1- 1- 1-

Từ 0 đến 50 ha Diện tích ĐĐ ĐĐ Diện tích ĐĐ Diện tích 13271,2150 23 13095,2050 10 1275,0000 4 1275,0000 0 10160,5683 24 10010,1300 8 524,3786 13 427,0000 11 2844,5500 6 2802,0900 2 3298,3820 23 3149,9360 13 2648,9486 6 2607,9300 4 16612,6625 12 16606,6625 1 7052,2187 0 7052,2187 7 57026,1722 121 57687,9237 49 77158,6000 63 77036,1000 8 2798,0000 11 2717,0000 4 6986,4520 26 6718,7800 10 49660,2592 42 49401,0400 19 14297,0550 36 14037,0550 9 20706,0000 17 20591,0000 3 17939,7643 26 17791,3100 10 80756,5625 24 80696,1525 3 32414,1125 43 32207,5525 9 176,0100 0,0000 150,4383 97,3786 42,4600 148,4460 41,0186 6,0000 0,0000 661,7515 122,5000 81,0000 267,6720 259,2192 260,0000 115,0000 148,4543 60,4100 206,5600 13 4 16 2 4 10 2 11 7 69 55 7 16 23 27 14 16 21 34

1520,8155 213 301195,9900 299 302716,8060 11-

819,0000 2946,7136 5289,2550 17261,4000 9000,0000 21974,7100 57246,0786 819,0000 2946,7136 4997,5000 17150,0000 9000,0000 21690,2700 56603,4836 3 8 4 4 1 10 30 3 8 17 7 1 20 56

Tỉnh và vùng Bắc Ninh Hà Đông Hải Dương Hà Nội Hưng Yên Kiến An Nam Định Phúc Yên Vĩnh Phúc Đồng bằng Bắc Giang Hà Nam Hòa Bình Hưng Hóa Ninh Bình Quảng Yên Sơn Tây Thái Nguyên Tuyên Quang Trung du Cao Bằng Hà Giang Lạng Sơn Lào Cai Sơn La Yên Bái Thượng du Tổng cộng 75 0 0 13 3 0 10 26 150 0,0000 0,0000 291,7550 66,4000 0,0000 284,4400 0- 642,5950 2825,1620 312 414.825,6460 476 417.650,8080 14-

(Nguồn: [157, tr. 111])

53PL

4.18. Trao đổi thương mại ở Sơn La

Trao đổi thương mại ở Sơn La từ tháng 1 và 2/1905

Xuất khẩu

Nhập khẩu

STT

SẢN PHẨM

Sản phẩm

Số lượng (kg)

Số lượng (kg)

1

Cánh kiến

17620

Muối

61260 kg

2

Dược liệu

Thuốc lá

10135 gói

160

3

Da động vật

133

Diêm

3140 gói

4

Đậu khấu

1106

Dao

9792 cái

5

Sợi gai

460

chiếu

3058 cái

6

Sừng hươu

84

Vải các loại

492 mảnh

7

Chè (từ Vân Nam)

1800

Rìu

142 cái

8

Nấm khô

4362

Dầu

141 thùng

9

Gạo nếp

3200

Gạo

1020

10

Lợn

3 kg

1472 con

Đường

11

37

39 con

Đèn các loại

12

Trâu

302

10 con

Nồi đồng

(Nguồn: [25])

Trao đổi thương mại ở Sơn La trong 4 tháng đầu năm 1906

Xuất khẩu Nhập khẩu

STT SẢN PHẨM Số lượng (kg) Sản phẩm Số lượng (kg)

1 Cánh kiến 99060 Muối 355140 kg

2 Dược liệu 480 Thuốc lá 11314 gói

3 Da động vật 6840 Diêm 4962 gói

4 Đậu khấu 1420 Dao 11245 cái

54PL

Sợi gai 4020 5 chiếu 3949 cái

Sừng hươu 240 6 Vải các loại 300 mảnh

Chè (trồng trong tỉnh) 1.500 7 Rìu 20 cái

Nấm khô 6240 8 Dầu 244 thùng

9 Gạo 15600 Đường 480 kg

10 Lợn 848 con Đèn các loại 12

11 Bò 218 con Nồi đồng 706

12 Trâu 317 con Chậu 399

(Nguồn: [26])

4.19. Danh sách những người cung cấp thông tin

TT HỌ VÀ TÊN NGHỀ NGHIỆP ĐỊA CHỈ ĐIỆN THOẠI

Tổ 2, phường Quyết 1 Ông Hà văn Thu Nguyên giáo viên 0356.367.743 Thắng, tp Sơn La

Nhà nghiên cứu Phường Tô Hiệu, Tp 2 Ông Vi Trọng Liên 0368.970.632 Thái học Sơn La

Tổ 7, phường Tô 3 Ông Lò Văn Lả Nghệ nhân ưu tú 0834.203.425 Hiệu, Tp Sơn La

Chiềng Mai, Mai 4 Ông Cầm Văn Sạch Nguyên giáo viên Sơn, Sơn La