
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 489 - THÁNG 4 - SỐ 2 - 2020
51
MInh. 17(4), tr. 223-228.
5. Nguyễn Thống và Đặng Tất Thắng (2015),
"Đánh giá thực trạng tai nạn bỏng trẻ em tại khoa
Bỏng, Bệnh viện Saint Paul Hà Nội trong 5 năm từ
2010-2014", Tạp chí Y hc thảm ha và bỏng. 2.
6. Alomar, M., Rouqi, F. A., and Eldali, A.
(2016), "Knowledge, attitude, and belief
regarding burn first aid among caregivers
attending pediatric emergency medicine
departments", Burns. 42(4), pp. 938-43.
7. Chirongoma, F., Chengetanai, S., and
Tadyanemhandu, C. (2017), "First aid practices,
beliefs, and sources of information among
caregivers regarding paediatric burn injuries in
Harare, Zimbabwe: A cross-sectional study",
Malawi Med J. 29(2), pp. 151-154.
8. Fadeyibi, I. O., et al. (2015), "Practice of first
aid in burn related injuries in a developing
country", Burns. 41(6), pp. 1322-32.
9. Fiandeiro, D., Govindsamy, J., and Maharaj,
R. C. (2015), "Prehospital cooling of severe
burns: Experience of the Emergency Department
at Edendale Hospital, KwaZulu-Natal, South
Africa", S Afr Med J. 105(6), pp. 457-60.
LẤY DỊ VẬT TRONG TIM BẰNG DỤNG CỤ QUA ỐNG THÔNG
KINH NGHIỆM TỪ 25 BỆNH NHÂN TRƯỞNG THÀNH TẠI BV CHỢ RẪY
Nguyễn Thượng Nghĩa*
TÓM TẮT13
Cơ sở nghiên cứu: Dị vật trong buồng tim và các
mạch máu lớn trong tim xảy ra thường do biến chứng
của các thủ thuật xâm lấn như đặt catheter tĩnh mạch
trung tâm để nuôi ăn hoặc truyền thuốc,… và có thể
gây biến chứng nặng: nhiễm trùng, thuyên tắc, tử
vong. Tại BV Chợ rẫy, chúng tôi đó tổng kết 25 trường
hợp dị vật trong buồng tim và các mạch máu lớn từ
4/2006 tới 11/2019. Thiết kế nghiên cứu: hồi cứu,
mô tả loạt ca. Tại khoa Tim mạch Can thiệp từ
04/2006 đến 11/2019, chúng tôi đó thực hiện thành
công 23/25 trường hợp (92%) lấy dị vật nội mạch qua
da bằng thòng lng gập góc (goose neck snare). Dị
vật là một đoạn ống thông tĩnh mạch trung tõm bị gãy
hoặc dây dẫn bị tụt rồi di chuyển và kẹt lại trong tim
phải và tĩnh mạch chủ hoặc stent, dù bít thông liên
nhĩ, thông liên thất hoặc ống động mạch bị rớt trong
quá trình can thiệp.
Kết quả: Lấy thành công dị vật trong buồng tim
và các mạch máu lớn 23/25 (92%) trường hợp bằng
thòng lng gập góc qua da. Không có tai biến trong
quá trình làm thủ thuật.
Kết luận Lấy dị vật trong buồng tim và mạch máu
lớn qua ống thông có tính an toàn, hiệu quả với tỉ lệ
thành công cao (92%) và không có ca nào bị biến
chứng. Nên kỹ thuật lấy dị vật qua da bằng thòng lng
được xem là phương pháp chn lựa đầu tiên để lấy dị
vật trong buồng tim và các mạch máu lớn.
SUMMARY
PERCUTANEOUS RETRIEVAL OF FOREIGN
BODIES IN THE HEART AND MAJOR VESSELS
Background: We reviewed our recent
experiences with percutaneous retrieval of
intravascular foreign bodies and the tools available to
*Bệnh viện Chợ Rẫy
Chịu trách nhiệm chính: Hoàng Văn Sỹ
Email: nghia2000@gmail.com
Ngày nhận bài: 10.2.2020
Ngày phản biện khoa hc: 2.4.2020
Ngày duyệt bài: 10.4.2020
retrieve in Cho Ray hospital. Materials and
methods: Since 4/2006-11/2019, we attempted
retrievals successfully 23/25 (92%) intravascular
foreign bodies in 25 patients including: catheter
(Cavafix), Implantofix (used in chemotherapy in
Cancer patient), a fragment of catheter CVP in intra-
arterial, one renal stent & 4 devices for closure of
ASD, VSD, PDA. The percutaneous retrieval of foreign
bodies in the heart and major vessels could be
achieved with a combination of guide catheter, and
snare. Not any complication occured during procedures.
Results: Percutaneous retrieval was successful in
23/25 patients (92%) with the use of goose neck snare.
No complication occurred during the procedures.
Conclusion: Percutaneous retrievals with goose
neck snares is an effective and safe technique that
should be the first choice for removal of foreign bodies
in the heart and major vessels.
Keyword:
Retrieval foreign body snare
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dị vật trong buồng tim và các mạch máu lớn
trong tim xảy ra thường do các biến chứng của
các thủ thuật xâm lấn như đặt catheter tĩnh
mạch trung tâm để nuôi ăn hoặc truyền thuốc,…
và có thể gây biến chứng nặng như: Huyết khối,
Lấp mạch phổi hoặc các máu máu ngoại biên. Do
đó, chúng phải được lấy ra khỏi hệ tim mạch
hoặc bằng phẫu thuật tim hở rất phức tạp nhiều
biến chứng, hoặc bằng kỹ thuật lấy bằng dụng
cụ qua da đơn giản hơn. Lấy dị vật bằng dụng cụ
trong tim và các mạch máu lớn đó được thực
hiện cách đây hơn 40 năm. Từ ca dị vật đầu tiên
được lấy qua da là đoạn dây dẫn mềm bị gãy rơi
vào trong tĩnh mạch chủ trên và nhĩ phải [5].
Tuy nhiên, do số ca rớt dị vật, rải rác nên cho
đến ngày nay vẫn chưa nhiều tổng kết về lấy dị
vật bằng dụng cụ qua da [1,2,3]. Tại Việt Nam
chúng ta, do kỹ thuật can thiệp qua da chỉ phát
triển gần đây từ năm 1999 nên số lượng ca lấy