Lịch sử thuốc gây mê – Phần 1
Quan Công đánh Phàn Thành, bị Tào Nhân bắn tên có thuốc độc, cánh
tay bị liệt, Hoa Ðà nghe tin, đến xin chữa giúp, vì mộ tiếng trung nghĩa của
Ông.
- Chữa bằng cách gì bây giờ ? Quan Công hỏi.
- Giờ phải vào một chỗ kín đáo, chôn một cái cột thật chắc, bên trên
xuyên một cái vòng sắt lớn, để Ngài lồng cánh tay vào đấy, dùng dây thừng
buộc chặc vào cột, lại lấy cái chăn trùm kín đầu, nhiên hậu tôi mới dùng dao
nhọn, rạch da, khoét miếng thịt, gọt thẳng vào chỗ bị bắn, nạo hết chỗ xương
nhấm độc đi, lấy thuốc rịt vào và dùng chỉ khâu lại thì khỏi được. (Tử vi
Lang, trang 1373) Quan Công không cần các điều đó, vén áo, đưa tay cho
Hoa Ðà mổ, trong khi Ông vẫn đánh cờ và nói cười cùng Mã Lương. Nhưng
cách Hoa Ðà đã trình bày là cách thông thường để giải phẫu thời Tam Quốc
bên Tàu vào khoảng năm 250 Tây lịch.
Cho đến nửa đầu thập niên 1840, những cuộc giải phẫu ở trên
thế giới, từ Á sang Âu và Bắc Mỹ đều tương tự như thế. Ngoài người y sĩ
giải phẫu, còn cần hai, ba người lực lưỡng, để đè giữ người được giải phẫu.
Người được giải phẫu tỉnh táo, nghe tiếng cưa, dao cắt qua thịt, qua xương,
và la hét rên rĩ vì đau đớn. Nhà giải phẫu phải rất nhanh tay, cưa chân chỉ
mất có 25 đến 27 giây, vì nếu làm lâu hơn, bịnh nhân có thể chết vì chịu
không nỗi sự đau đớn. Những tiếng la hét vì đau đớn có thể vang dôi đến
độ người đi ngoài đường cũng nghe được. Darwin còn phải nhìn nhận là các
cuộc giải phẩu rất ghê rợn và hai trường hợp giải phẫu mà ông đã chứng
kiến khi chưa có thuốc mê vẫn ám ảnh ông trong nhiều năm. (Darwin &
Barlow, 1958)
1- Ether : (CH3CH2)2O
Mãi đến ngày thứ sáu 16 tháng 10 năm 1846, mọi việc mới thay đổi.
Ngày đó, tại bịnh viện Tổng quát tiểu bang Massachusetts ở Boston, thuốc
gây mê đã được áp dụng trong một ca mổ, mở đường cho những bước tiến
nhảy vọt của y khoa, và giải phẫu. Ngày đó, Bác sĩ John Collins Warren
(1753–1815) trưởng khoa giải phẫu bịnh viện tổng quát Massachusett
(Massachusetts General Hospital) đã mời nha sĩ William T. G. Morton
(1819 - 1868). đến phụ giúp ông để cắt bỏ cái bướu ở cổ của Gilbert
Abbott. Thường thì trường hợp này chỉ là một ca mổ không quan trọng, và
chỉ mất khoảng 3 phút đồng hồ. Ðiều khác biệt là bác sĩ Warren muốn dùng
một phương thức mới : sự gây mê nơi bịnh nhân trong suốt cuộc giải phẫu,
và Morton là người phụ trách việc này. Morton đã cho Abbott hít ê te
(ether) và ngay sau đó, bác sĩ Warren đã tiến hành việc cắt bỏ cái bướu. Sau
đó Abbott xác nhận:
- Tôi không hề cảm thấy đau đớn chút nào trong suốt thời gian giải
phẫu, chỉ có lúc gần hết, tôi có cảm tưởng như có một vật gì hơi cùn, cà vào
da tôi. (Fenster, 2001, tr. 80)
Bấm vào để xem hình giải phẫu bứu cổ của Abbott do Morton thực
hiện
Ngày 16 tháng 10 năm 1846 được chính thức ghi nhận là Ngày ê te
(Ether Day), và tòa nhà có phòng giải phẫu đó được đặt tên lại là Vòm ê te
(Ether Dome). Ngày 17 đã có thêm một cuộc giải phẫu cắt bỏ một cái bướu
trên cánh tay của một phụ nữ. Theo đề nghị của bác sĩ Warren, bác sĩ
George Hayward đã nhờ nha sĩ Morton dùng ê te gây mê cho bịnh nhân.
Cuộc giải phẫu này kéo dài đến bảy phút, nhưng nha sĩ Morton đã theo dõi
và cho bịnh nhân hít ê te nhiều lần. Sau khi mổ xong, bịnh nhân xác nhận là
không hề cảm thấy đau đớn gì hết, và đã vui vẻ kể chuyện về đứa con của
bà, đang chờ đợi bà ở nhà. Giải phẫu với thuốc gây mê ê te đã thành công,
và mở đầu kỷ nguyên mới cho ngành giải phẫu. Nhưng nếu nha sĩ Morton và
các bác sĩ Warren và Hayward là những người chính thức dùng ê te để gây
mê trong các cuộc giải phẫu thì đã có nhiều người khác đã biết đến ê te và
những thuốc gây mê tương tự. Chính Morton đã dùng ê te để gây tê ở trên
mặt và nhổ răng thật sự không đau vào ngày 30 tháng 9 năm 1846. Nhờ đó
mà bác sĩ Warren mới mời ông phụ giúp việc gây mê ngày 16 tháng 10 như
đã nói ở trên.
Những người khai phá:
Theo tài liệu trích dẫn trong
http://www.anesthesia-nursing.com/ether2.html
dược sĩ Raymundus Lullius, người Tây ban nha đã tìm ra ê te ngay
từ năm 1275 và gọi hơi này là "lưu toan dịu" (sweet vitriol. Vitriol là tên cũ
của acid sulfuric).
Ðến năm 1540 khoa học gia Valerius Cordus, người Ðức đã ghi lại
phân chất của chất lưu toan dịu này. Và cùng thời gian đó Paracelsus, nhà
vật lý và luyện kim người Thụy sĩ đã phát hiện tác dụng thôi miên của lưu
toan dịu.
Mãi đến năm 1730, W.G. Frobenius, một khoa học gia người Ðức
mới đổi tên "lưu toan dịu" thành ê te (CH3CH2)2O..
E te được điều chế từ sự khử nước của rượu ethanol ở 140°C dưới sự
hiện diện của acid sulfuric
2H3C-CH2OH ---[H2SO4], (140°C)--> -H2O (CH3CH2)2O
Các nhà vật lý và khoa học gia đã dùng ê te trong nhiều việc khác
nhau, nhưng không ai biết dùng ê te như một chất hơi gây mê. Ngay từ năm
1794, các y sĩ người Anh như Richard Pearson và Thomas Lovell
Beddoes (1803-1849), đã dùng ê te để trị một chứng lao, bịnh sạn ở bọng
đái và bịnh phù thủng. Ðầu thế kỷ thứ 19, vài y sĩ Hoa kỳ dùng ê te để trị
một vài chứng sưng ở trong phổi.
Michael Faraday (1791 - 1867) , nhân viên bào chế trong dược
phòng đã tìm ra khả năng làm mê của hơi ê te. Faraday là nhà vật lý học
kiêm hoá học người Anh, nổi tiếng nhờ những khám phá về sự cảm ứng
điện từ (induction électromagnétique) và những định luật điện giải (**).
Y sĩ Henry Hill Hickman đã thử nghiệm một cách cẩn thận ảnh
hưởng của hai chất hơi ê te và "khi' chọc cười" trên thú vật. Ông có ghi
lại trạng thái lơ lửng của thú vật giúp cho việc giải phẫu chữa trị chúng tiến
hành được dễ dàng. Tiếc là ông mất quá sớm khi mới 29 tuổi, nên không có
đóng góp được nhiều.
2- Protoxyd nitơ: N2O
Những người khám phá
Trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ thứ 18 (1773), Joseph
Priestley, mục sư Anh giáo ở Leeds và là một người mê say Hóa học đã cô
lập được thán khí (CO2, gaz carbonique), tách dưỡng khí trong không khí, và
tạo ra được oxyd ni tơ (oxyde d'azote) thuần chất. Ông lại tạo ra được
protoxyd ni tơ (protoxyde d'azote; N2O) mà sau đó được gọi là "khí chọc
cười" (laughing gas hay gaz hilarant). Khí này có tác dụng làm cho người
hít nó ở trong một trạng thái phiêu diêu, lơ lửng, và cảm thấy vui vẻ, yêu
đời, nhiều khi cười cợt như điên. Ông mất năm 71 tuổi, mà chưa nhận thức
được khả năng làm dịu hay giảm bớt đau của chất "khí chọc cười".
N2O (protoxyde d'azote, Nitrous Oxide)
Khối lượng phân tử: 44,01g
Nhiệt độ sôi: -88,5°C
Độ nóng chảy: -90,8°C
Mặc dù là chất khí không cháy, nhưng ở 650°c nó cháy nổ
N2O được điều chế từ sự khử nước của nitrat ammonium ở 250°C:
NH4NO3 ---- (250°C)---> -2H2O N2O
Ngoài việc dùng làm thuốc tê để nhổ răng, N2O còn dùng làm chất
bán dẫn. Người ta cũng dùng N2O để tăng công suất cho xe hơi (xem phụ
chú 1) và hỗn hợp 50% oxy và 50% N2O hít vô sẽ giảm đau và bớt stress..
Năm 1788 Humphrey Davy, một dược sĩ tập sự đã tiếp tục
công trình nghiên cứu của Priestley trên "khí chọc cười". Ông đã chế tạo
một bộ máy nhỏ, gồm một bao bằng lụa, có chốt mở, đóng để dễ điều khiển
việc cung cấp chất khí đó. Ông đề ra giả thuyết là "khí chọc cười" có thể
dùng làm cho người bịnh mất cảm giác, do đó không bị đau đớn trong các
cuộc giải phẩu. Nhưng không có ai trong ngành y khoa để ý đến giả thuyết
này.
Horace Wells (1815-1848) là một nha sĩ ở Hartford, Connecticut,
Hoa kỳ. Ông đã nhờ Gardner Q. Colton cho ông hít protoxyde d'azote N2O
trước khi để đồng nghiệp là nha sĩ John Riggs nhổ răng cho ông vào tháng
12 năm 1844. Kết quả đã hết sức tốt đẹp vì ông đã không hề cảm thấy đau
đớn khi bị nhổ răng. Ông quyết định áp dụng việc hít protoxyde d'azote
cho các bịnh nhân của ông, và thân chủ đã đổ xô đến để cho ông nhổ răng.
Nhưng ông đã thất bại khi ông thử áp dụng lối gây mê với protoxyde d'azote
trong một cuộc giải phẩu với bác sĩ Warren trong năm 1845.