LONG ĐỞM THẢO
(Kỳ 2)
Tác dụng dược lý:
+Tác dụng đối với Vị Trường: Liều thấp, Long đởm thảo uống trước bữa ăn
1/2 giờ làm tăng dịch vị, nhưng nếu dùng sau bữa ăn, ngược lại, làm giảm dịch vị.
Chất Gentiopicrin có tác dụng làm tăng dịch vị khi bơm trực tiếp vào dạ dày chó
nhưng uống hoặc tiêm tĩnh mạch thì không có tác dụng, điều này cho thấy nó có
tác dụng trực tiếp. Long đởm thảo làm giảm thời gian chuyển vận đường ruột của
thỏ. Cho chuột dùng Long đởm thảo thấy không có sự thay đổi khẩu vị hoặc trọng
lượng gì cả (Trung Dược Học).
+Tác dụng kháng khuẩn: Trong thí nghiệm, dịch tiêm Long đởm thảo có
tác dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn gây bệnh thông thường. Gentiopicrin có tác
dụng mạnh đối với ký sinh trùng sốt rét (Trung Dược Học).
+ Dùng nước sắc Long đởm thảo hợp với thuốc Tây thông thường Điều trị
23 cas viêm não B (11 cas nặng, 6 trung bình, 6 nhẹ) bằng nước sắc Long đởm
thảo, thay cho thuốc Tây thông thường. Trong số này, có 15 cas nhiệt độ bình
thường vào ngày thứ 3, và chỉ có 1 cas có di chứng (Trung Dược Học).
+ Theo Ebeling, Long đởm thảo có tác dụng phòng sự lên men, uống ít
(nửa giờ trước bữa ăn) có tác dụng kích thích sự bài tiết dịch tiêu hóa, làm khỏa dạ
dày, ngược lại, uống sau khi ăn cơm hay uống quá nhiều, lại làm cho tiêu hóa kém
sút, nhức đầu, hoa mắt, mặt đỏ (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Theo Nội Điên Trang Thái Lang (Nhật Bản -1938), nghiên cứu tác dụng
chất đắng của Long đởm thảo trên dạ dày nhỏ của chó thì thấy cho chó uống Long
đởm thảo sự bài tiết dịch vị tăng tiến và lượng acid tự do cũng tăng hơn (Những
Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tính vị:
+Vị đắng, tính sáp, hàn, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Học).
+Vị đắng, tính rất hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+Vào kinh Can, Đởm, Bàng quang (Trung Dược Học).
+Vào kinh Can, Đởm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tham khảo:
+ “Long đởm thảo vị đắng, tính hàn, khí vị đều hậu, trầm mà giáng. Thuộc
âm. Là thuốc của kinh túc quyết âm (Can) và thiếu dương (Đởm). Dùng Long đởm
thảo có 4 tác dụng: 1 là trừ phong thấp ở hạ bộ; 2 là trừ thấp nhiệt; 3 là trị từ rốn
đến chân nặng, đau; 4 là trị hàn nhiệt cước khí. Thuốc đi xuống, dùng Phòng kỷ
tẩm rượu thì thuốc đi lên và đi ra ngoài. Dùng Sài hồ làm chủ, Long đởm làm sứ
là thuốc trị bệnh về mắt (Trân Châu Nang).
+ “Tướng hỏa ở tại Can Đởm, chỉ tả chứ không bổ. Dùng Long đởn\m để
ích khí cho Can Đởm, tả tà nhiệt ở Can Đởm. Vì Long đởm rất đắng và rất hàn,
nếu uống quá nhiều sẽ làm tổn thương Vị, làm cho khí thoát. Sách ‘Biệt Lục’ cho
rằng uống Long đởm thảo lâu ngày làm cho cơ thể nhẹ nhàng thì e rằng không thể
tin được (Bản Thảo Cương Mục).
+ “Vị khí hư mà uống Long đởm thảo sẽ nôn, Tỳ khí hư mà uống Long
đởm thảo thì sẽ tiêu chảy (Bản Kinh Phùng Nguyên).
+ “Long đởm thảo vị rất đắng, tính rất lạnh, lạnh lắm, giống như mùa
Đông giá rét, ảm đạm, điêu tàn. Người xưa cho rằng vị đắng lạnh – tính khắc phạt,
vì vậy dùng tạm thời mà không dùng lâu, giống như nhà vua không bỏ hình phạt
cho nên mượn lấy đức, ý thật vô cùng. Nếu không phải là người khỏe mạnh, có
bệnh thực nhiệt mà cho uống bừa bãi thì nhất định sẽ bị tổn hại…. Long đởm thảo,
nếu tẩm rượu, dùng Sài hồ làm tá thì đi lên, chữa được tất cả các bệnh mắt đỏ đau,
mắt có mộng, có màng, mây” (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ “Long đởm thảo, uống nhiều thì hại dạ dày. Đừng nên uống lúc bụng đói
vì sẽ làm cho tiểu tiện không cầm được” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
“Nước Long đởm đắng như nước mật, vị lại rất đắng, tính rất hàn, dùng
nhiều thì hại dạ dày, hơn nữa lại khó uống, phải cho thêm ít Cam thảo để làm dịu
vị đắng. Long đởm thảo tẩm với rượu thì đi lên, đi ra ngoài phần biểu. Dùng Sài
hồ làm chủ, Long đởm thảo làm sứ là thuốc cần dùng chữa bệnh về mắt (Đông
Dược Học Thiết Yếu).
+ “Long đởm thảo và Hoàng bá đều là vị thuốc đắng, tính hàn, dùng để
thanh nhiệt, táo thấp, thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu. Nhưng Hoàng bá hay thanh hỏa
ỏa Thận, có khả năng làm mạnh và chắc cho chân âm mà trừ hư nhiệt, thiên về
dùng cho hạ tiêu, bệnh ở Thân, Bàng quang, Đại trường. Long đởm thảo tả thực
hỏa ở Can, Đởm, hay khứ hỏa để ổn định máu, trong điều trị, thiên về dùng cho
Can Đởm, Bàng quang (Trung Dược Lâm Sàng Giám Dụng Chỉ Mê).
Phân biệt:
Thường nhầm với rễ Bạch vi: rễ này cứng, đen, không đắng. Người ta cũng
dùng cả cây Thanh ngâm (Curanga amara, họ Hoa mõm chó) làm nam Long đởm
thảo, cây này rễ trắng ngà, không có tua, chỉ giống Long đởm thảo ở chất đắng mà
thôi (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Chú thích:
Ngoài vị Long đởm kể trên, trong đông y còn dùng nhiều loại Long đởm
khác, những vị thuốc gần giống và gồm những rễ nhỏ. Nhưng trong tây Y lại
dùng một loài khác (Gentiana lutca L) có hoa màu vàng, rễ to hơn, thái thành từng
miếng mỏng, có người dịch nhầm là Khổ sâm vì là thuốc bổ mà lại đắng.
Tất cả những cây này đều chưa thấy ở nước ta.