BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ LY NA CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG

THÔNG BÁO - HỒI ĐÁP TRONG GIAO TIẾP

CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ LY NA CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG

THÔNG BÁO - HỒI ĐÁP TRONG GIAO TIẾP

CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 92 22 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS. TS. ĐỖ THỊ KIM LIÊN

2. PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH

NGHỆ AN - 2020

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu

trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai

công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Trần Thị Ly Na

ii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT ................................................................................. v

DANH MỤC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ ................................................................... vi

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Lý do lựa chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 2

3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................ 3

4. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ................................................................. 3

5. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu........................................................................ 4

6. Đóng góp của luận án ............................................................................................ 5

7. Cấu trúc của luận án ............................................................................................... 5

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ

THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI ................................................................................................ 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ .................................. 6

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ............................................................... 6

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................... 9

1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài ................................................................................... 13

1.2.1. Lí thuyết hội thoại ..................................................................................... 13

1.2.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ ............................................................. 19

1.2.3. Hành động ngôn ngữ thông báo ................................................................ 29

1.2.4. Khái quát về Nghệ Tĩnh và phương ngữ Nghệ Tĩnh ................................ 34

1.3. Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 38

CHƯƠNG 2. CẤU TẠO CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG THÔNG

BÁO - HỒI ĐÁP TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH .................... 40

2.1. Cấu tạo của cặp thoại và tham thoại ................................................................. 40

2.1.1. Cấu tạo của cặp thoại ................................................................................ 40

2.1.2. Cấu tạo của tham thoại ............................................................................. 42

2.2. Thống kê và mô tả cấu tạo cặp thoại thông báo - hồi đáp trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh ....................................................................................... 44

iii

2.2.1. Cấu tạo của tham thoại trao chứa hành động thông báo .................................. 44

2.2.2. Cấu tạo của tham thoại hồi đáp cho tham thoại trao chứa hành động

thông báo .................................................................................................. 62

2.3. Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 73

CHƯƠNG 3. NGỮ NGHĨA CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG THÔNG

BÁO - HỒI ĐÁP TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH .................... 75

3.1. Khái niệm ngữ nghĩa trong ngôn ngữ ............................................................... 75

3.1.1. Ý kiến của các tác giả đi trước.................................................................. 75

3.1.2. Phân biệt nghĩa, ý nghĩa, ngữ nghĩa ......................................................... 78

3.2. Các nhân tố chi phối ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động thông báo

- hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh ................................................ 80

3.2.1. Quan hệ liên cá nhân ................................................................................. 81

3.2.2. Trạng thái tâm lí tích cực hoặc tiêu cực của người thông báo và

người nhận thông báo ............................................................................... 92

3.2.3. Ngữ cảnh ................................................................................................... 93

3.3. Thống kê, mô tả ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động ngôn ngữ

thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh ............................... 95

3.3.1. Thống kê định lượng các tiểu nhóm ngữ nghĩa của tham thoại trao

thông báo và tham thoại hồi đáp .............................................................. 95

3.3.2. Mô tả các tiểu nhóm ngữ nghĩa của cặp tương tác trao - đáp chứa

hành động thông báo - hồi đáp ................................................................. 99

3.4. Tiểu kết chương 3 ........................................................................................... 113

CHƯƠNG 4. MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA NGÔN TỪ CỦA

NGƯỜI NGHỆ TĨNH QUA CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG THÔNG

BÁO - HỒI ĐÁP ........................................................................................................115

4.1. Khái quát về văn hóa và ngôn ngữ .................................................................. 115

4.1.1. Khái niệm văn hóa .................................................................................. 115

4.1.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy, văn hóa ........................................... 117

4.2. Những nét đặc trưng văn hóa của người Nghệ Tĩnh qua cặp thoại thông

báo - hồi đáp ................................................................................................... 119

iv

4.2.1. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề ................. 119

4.2.2. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói gần gũi, xích gần quan hệ ...................... 123

4.2.3. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói bộc lộ tình cảm, gây sự chú ý tới người nghe ........ 134

4.2.4. Người Nghệ Tĩnh thường sử dụng các từ ngữ còn lưu giữ sắc thái

địa phương cổ ......................................................................................... 141

4.3. Tiểu kết chương 4 ........................................................................................... 144

KẾT LUẬN ................................................................................................................145

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....................149

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................150

v

BẢNG CHÚ THÍCH VIẾT TẮT

Kí hiệu viết tắt Nội dung viết tắt

BTNV : Biểu thức ngữ vi

Đg : Động từ thực hiện hành động

ĐTNV : Động từ ngữ vi

HĐNN : Hành động ngôn ngữ

Nxb : Nhà xuất bản

P : Nội dung mệnh đề

PNNV : Phát ngôn ngữ vi

Sp1 : Người nói

Sp2 : Người nghe

Sp3 : Đối tượng được nói tới

(nằm ngoài người nói và người nghe)

TT : Thứ tự

TTTT : Tiểu từ tình thái

V : Thành phần biểu thị nội dung thông báo

X : Chủ thể của nội dung mệnh đề

vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Trang

Bảng 2.1. Thống kê số lượng các dạng tham thoại chứa hành động thông báo

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh .......................................................... 45

Bảng 2.2. Thống kê số lượng các dạng tham thoại có thành phần phụ đi kèm

biểu thức ngữ vi thông báo ......................................................................... 54

Bảng 2.3. Dạng tham thoại hồi đáp trong cặp thoại chứa tham thoại dẫn nhập

thông báo ..................................................................................................... 63

Bảng 2.4. Dạng tham thoại hồi đáp trong quan hệ tương tác với tham thoại trao

chưa hành động thông báo .......................................................................... 63

Bảng 2.5. Các dạng tham thoại hồi đáp nhiều hành động trong quan hệ tương

tác với tham thoại trao thông báo ............................................................... 68

Bảng 3.1. Thống kê các mối quan hệ thân cận giữa vai thông báo và vai nhận

thông báo ..................................................................................................... 82

Bảng 3.2. Thống kê số lượng hành động thông báo của nam và nữ trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh ........................................................................... 86

Bảng 3.3. Thống kê số lượng hành động thông báo xét theo quan hệ vị thế trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh ................................................................... 89

Bảng 3.4. Các nhóm ngữ nghĩa của tham thoại trao chứa hành động thông báo ........ 96

Bảng 3.5. Các tiểu nhóm ngữ nghĩa của tham thoại đáp ............................................. 97

Bảng 3.6. Những thông tin hành chính công vụ xuất hiện trong cặp thoại thông

báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh .......................................................... 105

Bảng 3.7. Những thông tin hành chính công vụ liên quan đến tập thể ..................... 105

Bảng 3.8. Những thông tin về đời sống thường nhật xuất hiện trong cặp thoại

thông báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh ................................................ 110

Bảng 4.1. Tiểu từ tình thái thuộc phương ngữ ........................................................... 131

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Nghiên cứu ngôn ngữ trong hoạt động hành chức là xu hướng chủ đạo của ngôn

ngữ học hiện đại. Chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu cặp thoại chứa hành động

thông báo - hồi đáp là vì những lí do sau:

1.1. Cặp thoại là “đơn vị có cấu trúc quan trọng bậc nhất trong tổng thể hệ thống

cấu trúc hội thoại” [86, 1], có khả năng biểu hiện đầy đủ và tập trung các đặc trưng cơ

bản của quan hệ tương tác. Do đó, lựa chọn đối tượng nghiên cứu là hành động thông

báo và hồi đáp trong sự tương tác ở các cặp thoại đối ứng là một hướng nghiên cứu có

ý nghĩa khoa học. Và những kết luận có hệ thống rút ra từ đó sẽ có sức thuyết phục

hơn so với khảo sát từng hành động độc lập trong chuỗi lời nói.

1.2. Cặp hành động thông báo - hồi đáp là một trong những cặp hành động lời nói

phổ biến trên thế giới và cả trong tiếng Việt. Theo J. R. Searle (1976), hành động thông

báo nằm trong tiểu nhóm hành động lời nói tái hiện, có đích ngôn trung là miêu tả lại sự

tình đang được nói đến. Như vậy, mục đích của người nói khi tạo ra các phát ngôn thông

báo là cung cấp cho người nghe một thông tin nhất định mà người nói biết để người

nghe cũng nắm được thông tin này và từ đó nhận được sự hồi đáp từ phía người nghe

đối với các phát ngôn thông báo đó. Tuỳ vào hoàn cảnh giao tiếp, vai giao tiếp, nội dung

giao tiếp, mục đích giao tiếp cũng như văn hoá ứng xử mà cặp thoại chứa hành động

ngôn ngữ thông báo - hồi đáp cũng có nhiều cách thức khác nhau, với những biểu hiện

hết sức phong phú. Do đó, việc nghiên cứu bản chất của hành động thông báo - hồi đáp;

các phương tiện thể hiện chúng; ngữ nghĩa và tác nhân quyết định hiệu quả của hành

động thông báo - hồi đáp… là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ và hết sức cần thiết.

Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu những vấn đề nói trên về

cặp thoại thông báo - hồi đáp một cách hệ thống và toàn diện.

1.3. Trong thực tế đời sống, người dân ở ba miền Bắc, Trung, Nam khi giao tiếp

với nhau, không phải ai cũng dùng tiếng Việt toàn dân như một thứ ngôn ngữ văn hóa

chung, mà có hiện tượng người dân ở mỗi vùng nói thứ ngôn ngữ mang màu sắc địa

phương của vùng đó. Chính cách thức giao tiếp của con người góp phần tạo nên bản

sắc văn hóa vùng miền và đồng thời, văn hóa vùng miền lại chi phối sâu sắc tới cách

2

thức giao tiếp của con người trong từng trường hợp cụ thể. Cũng là hành động thông

báo - hồi đáp, nhưng người ở vùng phương ngữ Nghệ Tĩnh có cách thức thực hiện

không hoàn toàn giống với người ở các vùng phương ngữ Nam Bộ, Bắc Bộ. Vì vậy,

qua cách hiện thực hoá hành động thông báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh (cách

thức thể hiện, phương tiện thể hiện, ngữ nghĩa), chúng ta sẽ nhận thấy những nét đặc

trưng văn hóa riêng Nghệ Tĩnh.

1.4. Trong bức tranh Việt ngữ, phương ngữ Nghệ Tĩnh có một vị trí riêng, màu

sắc riêng không thể lẫn lộn. Điều này được thể hiện qua các yếu tố ngữ âm, hệ thống

từ vựng, cú pháp, cách thức nói năng, văn hóa ứng xử trong giao tiếp. Đã có nhiều

công trình nghiên cứu các bình diện của phương ngữ Nghệ Tĩnh rất có giá trị, có đóng

góp thiết thực, và nhờ vậy, bản sắc văn hóa của con người xứ Nghệ ngày càng được

nhận thức rõ nét hơn. Vì vậy, đặt vấn đề nghiên cứu cặp thoại chứa hành động thông

báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi không chỉ nhằm làm

sáng tỏ cách thức thể hiện, các phương tiện thể hiện chúng; ngữ nghĩa và tác nhân

quyết định hiệu quả của hành động thông báo - hồi đáp trên bình diện dụng học, mà

còn làm sáng tỏ những nét văn hóa trong giao tiếp của con người ở vùng đất này.

Chính những lí do trên thôi thúc chúng tôi chọn đề tài để đi sâu nghiên cứu là

“Cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm sáng tỏ một số đặc điểm của cặp thoại thông báo hồi đáp trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh trên phương diện cấu tạo và ngữ nghĩa.

- Đồng thời hướng đến việc chỉ ra một số đặc trưng văn hóa ứng xử của người

Nghệ Tĩnh khi hiện thực hoá cặp thoại này. Từ đó, định hướng việc sử dụng hành động

thông báo - hồi đáp trong giao tiếp một cách có cơ sở lý thuyết và thực tiễn.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ:

- Điểm lại lịch sử vấn đề, hệ thống hoá những vấn đề lí thuyết có liên quan đến

đề tài, đó là những vấn đề lí luận làm cơ sở phù hợp cho việc đi sâu phân tích các

chương chính 2, 3, 4.

- Phân tích, miêu tả để chỉ ra cấu tạo, ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động

thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

3

- Rút ra những đặc trưng văn hóa - ngôn ngữ của người Nghệ Tĩnh qua cặp

thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi

đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh mà chúng tôi thống kê được.

4. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

4.1. Phạm vi nghiên cứu

- Hành động thông báo có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo

khảo sát của chúng tôi, hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh chủ

yếu được thực hiện trực tiếp, ít xuất hiện hình thức gián tiếp. Do đó, luận án chỉ tập

trung xem xét cách thực hiện hành động thông báo trực tiếp tức hành động thông báo

có những dấu hiệu tường minh.

- Nội hàm khái niệm thông báo rất rộng, có thể do nhiều động từ ngữ vi biểu thị.

Những động từ ngữ vi được sử dụng phổ biến nhất để thực hiện hành động thông báo

là: thông báo, thông cáo, thông tin, báo... Nhưng trong luận án này, hành động thông

báo được chúng tôi xem xét với tư cách là một hành động ngôn trung giúp người nói

thực hiện được ý đồ, ý định cung cấp thông tin tới người nghe và hành động thông báo

do động từ “thông báo” gọi tên. Những sự tình do động từ “thông báo” biểu thị là

những sự tình chưa xảy ra nhưng chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai gần.

- Luận án chỉ xem xét cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh trên hai phương diện cấu tạo và ngữ nghĩa. Từ đó, chúng tôi hướng

đến chỉ ra một số đặc trưng văn hoá - ngôn ngữ của người Nghệ Tĩnh khi hiện thực hoá cặp

thoại này. Vấn đề so sánh, đối chiếu kết quả nghiên cứu cặp thoại chứa hành động thông

báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh với cặp thoại này khi được thực hiện ở

các vùng miền khác cần được thực hiện bằng một công trình khác có quy mô lớn hơn.

4.2. Nguồn ngữ liệu

- Luận án sử dụng 1210 cặp thoại tương ứng với 2420 lời thoại chứa hành động

thông báo - hồi đáp. Địa điểm mà chúng tôi tiến hành khảo sát, thu thập ngữ liệu là hai địa

bàn Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát tư liệu ở ba vùng:

thành phố, nông thôn và miền biển. Cụ thể, ở Nghệ An, chúng tôi khảo sát 8 huyện: Hưng

Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương, Nghi Lộc, Cửa Lò, Diễn Châu, Quỳnh Lưu và thành

4

phố Vinh; ở Hà Tĩnh, chúng tôi khảo sát 8 huyện: Nghi Xuân, Thị xã Hồng Lĩnh, Đức Thọ,

Can Lộc, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Thành phố Hà Tĩnh.

- Cách thu thập ngữ liệu: Bằng cách ghi âm, ghi chép trực tiếp trong suốt thời

gian thực hiện đề tài, chúng tôi thu được 1210 cặp thoại tương ứng với 2420 lời thoại

chứa hành động thông báo - hồi đáp. Sau đó, tất cả các cặp thoại được chuyển thành

văn bản Word. Trong từng chương của luận án, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà

chúng tôi lựa chọn ngữ liệu phù hợp với những vấn đề liên quan.

5. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng đồng thời các phương pháp, thủ pháp

nghiên cứu sau:

5.1. Phương pháp nghiên cứu

a. Phương pháp điều tra điền dã

Chúng tôi tiến hành thu thập ngữ liệu bằng hai cách: ghi âm và ghi chép trực

tiếp các cuộc thoại trong cuộc sống hàng ngày của những đối tượng được khoanh vùng

nghiên cứu là người Nghệ Tĩnh; phân biệt đối tượng theo những tiêu chí sau:

a. Giới tính: nam - nữ

b Quan hệ: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm, người mua kẻ bán…

c. Độ tuổi: từ 17, 18 tuổi trở lên.

d. Hoàn cảnh phát ngôn: các cuộc giao tiếp tự nhiên diễn ra trong gia đình và

ngoài xã hội.

đ. Nội dung phát ngôn: là những nội dung diễn ra trong cuộc sống như tình cảm

gia đình, bạn bè, công việc…

b. Phương pháp miêu tả

Phương pháp này được vận dụng để miêu tả từ ngữ liệu đã thống kê được, sau

đó phân tích cấu trúc, cách thức, sự tương tác của các cặp thoại có hành động thông

báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh, đồng thời tổng hợp lại quá trình nghiên cứu để từ

đó đưa ra những kết luận mang giá trị thực tiễn phù hợp với mục đích nghiên cứu của

luận án.

c. Phương pháp phân tích diễn ngôn

Phương pháp này được chúng tôi luôn gắn việc phân tích những tham thoại cụ thể

với những nhân tố liên quan như: không gian, thời gian, nhân vật giao tiếp đặt trong các

tình huống, ngữ cảnh khác nhau, từ đó nhận ra đúng nội dung ngữ nghĩa mà vai giao

5

tiếp hướng tới, qua đó rút ra vai trò của hành động thông báo - hồi đáp trong hành chức.

Bên cạnh các phương pháp nêu trên, trong luận án chúng tôi còn sử dụng một số

thủ pháp sau:

5.2. Thủ pháp nghiên cứu

a. Thủ pháp thống kê, phân loại

Thủ pháp này được sử dụng để thống kê các dạng cấu tạo, ngữ nghĩa của cặp

thoại thông báo - hồi đáp, sau đó phân loại thành các nhóm nhỏ phục vụ cho từng mục

đích nghiên cứu cụ thể.

b. Thủ pháp mô hình hoá

Chúng tôi sử dụng thủ pháp này để cụ thể hoá các mô hình cấu tạo của tham

thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

6. Đóng góp của luận án

Khác với những tác giả khác chỉ nghiên cứu về hành động thông báo được sử dụng

độc lập, do một vai giao tiếp - vai trao - sử dụng, còn với đề tài của chúng tôi, có thể xem

đây là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu cặp tham thoại chứa hành động thông báo trao -

hồi đáp do hai vai (cả vai trao và vai đáp riêng) sử dụng gắn với ngữ cảnh, đặt trong quan hệ

tương tác khi giao tiếp của người Nghệ Tĩnh trên tư liệu điều tra điền dã.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung Luận án

được triển khai thành 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài

Chương 2: Cấu tạo cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh

Chương 3: Ngữ nghĩa cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh

Chương 4: Một số đặc trưng văn hoá ngôn từ của người Nghệ Tĩnh qua cặp thoại

chứa hành động thông báo - hồi đáp

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

J.L. Austin là người có công đầu trong việc phát hiện ra bản chất hành động của

sự nói năng và xây dựng lí thuyết về hành động ngôn từ. Trong cuốn How to do thing

with words (1962), ông đã bày tỏ quan điểm “To say is to do something”, nghĩa là, khi

chúng ta nói là chúng ta đã thực hiện một hành động bằng ngôn ngữ. Ông nhấn mạnh,

nói năng là một hành động giống như các hành động khác của con người, có điều đây

là hành động được thực hiện bằng lời nói, nó gây ra biến đổi nào đó trong thực tế và

ảnh hưởng đến đối tượng tiếp nhận [123].

J. L. Austin là người đầu tiên đã phân biệt hai kiểu câu: câu tường thuật và câu

ngôn hành. Câu tường thuật là câu dùng để thông báo về cái gì đó với ý nghĩa tương

đối ổn định và người ta có thể nhận xét câu nói đó là đúng hay sai; còn câu ngôn hành

là câu mà người nói không nhằm để nói một cái gì đó mà là để thực hiện hành động.

Điểm khác giữa câu ngôn hành và câu tường thuật là câu ngôn hành không thể đánh

giá được đúng hay sai theo chân lí. Ông đặc biệt chú ý đến câu ngôn hành. Ông viết:

“tất cả câu nói đều là ngôn hành, tức nói cũng là hành động” [123]. Đồng thời tác giả

cũng phân biệt ngôn hành tường minh là trường hợp có dấu hiệu ngôn ngữ chỉ ra loại

hành động đang được thực hiện và ngôn hành nguyên cấp là trường hợp không có dấu

hiệu ngôn ngữ đặc thù chỉ có thể nhận biết nhờ ngữ cảnh).

Sau này, ông đi vào các nhóm cụ thể. Dựa trên ý nghĩa của động từ ngữ vi, J. L.

Austin đã chia các hành động ở lời thành 5 phạm trù: (1) Phán xử (verdictives); (2)

Hành xử (exrcitives); (3) Cam kết (commissives); (4) Ứng xử (behabitives) và (5)

Trình bày (expositives). Trong đó, hành động thông báo được ông xếp vào nhóm trình

bày [123]. Có thể nói lí thuyết HĐNN của J. L. Austin chính là “nền móng” để xây

dựng hướng nghiên cứu ngữ nghĩa - ngữ dụng với các hợp phần của nó.

Nhà triết học người Mĩ J. R. Searle đã tiếp tục phát triển lí thuyết hành động

ngôn ngữ của J.L. Austin. Năm 1969, trong công trình Speech Acts [140], ông cho

7

rằng cần phải xác lập cho được một hệ thống các tiêu chí trước khi đưa ra kết quả phân

loại các hành động ngôn ngữ. J. R. Searle đã đưa ra 12 tiêu chí, trong đó 4 tiêu chí

quan trọng nhất là: Đích ở lời, Hướng khớp ghép lời - hiện thực, Trạng thái tâm lí, Nội

dung mệnh đề. Căn cứ vào 4 tiêu chí này (và một số các tiêu chí khác), ông đã phân

loại các hành động ngôn ngữ thành 5 nhóm lớn: (1) Tái hiện (representatives); (2)

Điều khiển (directives); (3) Cam kết (commissives); (4) Biểu cảm (expressives); (5)

Tuyên bố (declarations). Trong đó, hành động thông báo được ông xếp vào nhóm tái

hiện. Đến năm 1975, với công trình Indirect Speech Acts Syntax and Sematics (Cú

pháp và ngữ nghĩa hành động nói gián tiếp) [141] và sự hoàn thiện khái niệm hành

động ngôn ngữ gián tiếp, J. R. Searle đã có công lớn trong việc hoàn chỉnh lí thuyết

hành động ngôn từ, trong đó có hành động thông báo (thuộc nhóm tái hiện).

Cả hai công trình của J.L Austin và J.R Searle đều có mục đích nghiên cứu về

hành động ngôn từ. Điểm khác cơ bản của hai công trình này là J.L. Austin quan tâm

đến hiệu quả nhiều hơn cách bày tỏ của người nói còn với J. R. Searle thì hành động

ngôn từ chính là dùng lời nói để bày tỏ ý của mình, J. R. Searle quan tâm đến cách bày

tỏ của người nói nhiều nội dung và cần người nghe cắt nghĩa.

K. Bach và R.M. Harnish (1979) trong Linguistic Communicational Speech Acts

[124] đã sử dụng hầu hết các tiêu chí của J.R. Searle, ngoại trừ tiêu chí hướng khớp

ghép đồng thời nhấn mạnh vào trạng thái tâm lý của Sp1 để phân loại hành động ngôn

ngữ. Từ đó, hai tác giả này đã xác định 6 loại hành động ngôn ngữ và phân thành hai

loại lớn là hành động ở lời giao tiếp và hành động ở lời quy ước. Trong đó hành động

ở lời giao tiếp là hành động có tính chất liên cá nhân với đặc trưng tiêu biểu là hướng

vào cá nhân, gồm 4 loại: khảo nghiệm, điều khiển, cam kết và biểu lộ; còn hành vi quy

ước gồm 2 loại: thực thi và tuyên cáo (Dẫn theo [17, tr.127-130]).

J.R. Searle, F. Kiefer và M. Bierwisch (đồng chủ biên) (1980) trong công trình

Speech Act Theory and Pragmatics (Lí thuyết về Hành động ngôn ngữ và Ngữ dụng

học) [143] đã tập hợp những bài viết cụ thể liên quan đến lí thuyết hành động ngữ của

một số tác giả, đó là: M. Bierwisch với bài viết Cấu trúc ngữ nghĩa và lực ngôn trung

(Semantic Structure and Illocutionary Force); F. Recanati với bài Một số nhận xét về

câu ngôn hành tường minh, hành động ở lời gián tiếp, ý nghĩa tạo lời và chân trị

(Some Remarks on Explicit Performatives, Indirect Speech Acts, Locutionary Meaning

8

and Truth - Value) đã đề cập đến dấu hiệu trong câu ngôn hành tường minh, hành

động ngôn ngữ gián tiếp, ý nghĩa tạo lời và chân trị, đặc biệt là chân trị trong một số

câu ngôn hành; W. Motsch với bài viết Ngôn cảnh tình huống và hiệu lực của hành

động ở lời (Situational Context and Illocutionary Force) bàn về quan hệ giữa ngữ cảnh

và lực ngôn trung; D. Vanderveken với bài Logic của hành động ở lời và thất sách của

hành động (Illocutionary logic and Self - Defeating) đã bàn đến logic của hành động ở

lời, liên quan đến cái gọi là “thất sách” của hành động…

S. C. Levinson (1983) trong cuốn Pragmatics (Ngữ dụng học) [136] ở các

chương 3, 5, 6 đã bàn về các vấn đề như hàm ý hội thoại, hành động ngôn ngữ và cấu

trúc hội thoại….

M.L. Geis (1995) trong cuốn Speech Acts and Coversational Interaction (Hành

động ngôn ngữ và tương tác hội thoại) [127] đã tập trung bàn về hành động ngôn ngữ

gián tiếp (Indirect speech act), tương tác hội thoại, cấu trúc của tương tác hội thoại và

ảnh hưởng của sự tương tác trong hội thoại. Về hành động ngôn ngữ gián tiếp, M.L.

Geis đã dựa vào quan điểm lí thuyết của J.R. Searle và cho rằng hành động ngôn ngữ

gián tiếp được thực hiện trong một phát ngôn mà phát ngôn này đã có lực ngôn trung

(illocutionary focre) là một loại hành động ở lời nào đó.

Bên cạnh việc bổ sung những tiền đề quan trọng về mặt lí thuyết, các nhà ngữ

dụng còn vận dụng lí thuyết hành động ngôn ngữ vào việc xem xét một ngôn ngữ cụ

thể, như tiếng Anh. Chúng ta có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như:

G. N. Leech (1983) trong cuốn Principles of Pragmatics (Những nguyên lí Ngữ

dụng học) [135] đã dành 2 chương 8, 9 để trình bày về câu ngữ vi và động từ ngữ vi

trong tiếng Anh.

A. Weirzbicka (1987) với cuốn English speech act verb (Động từ nói năng

tiếng Anh) [148] đã miêu tả cấu trúc ngữ nghĩa và điều kiện sử dụng của tất cả các

động từ nói năng trong tiếng Anh. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của các động

từ nói năng trong việc thực hiện các hành động ngôn ngữ và trong mối tương quan

với văn hoá: Hệ thống những động từ ngôn hành trong tiếng Anh phản ánh cách lí

giải thế giới của những hành động và tương tác của con người. Muốn sống trong xã

hội nói tiếng Anh và nắm bắt được văn hoá của thế giới đó thì cần nắm được sự lí

giải đó được ghi lại trong từ vựng tiếng Anh. Tất nhiên có những hành động ngôn

9

ngữ mà tiếng Anh không có tên gọi… nhưng những phạm trù mà tiếng Anh đã cung

cấp tên gọi thì rõ ràng có tầm quan trọng đặc biệt đối với người nói tiếng Anh. Các

động từ đó đã khuôn định cách nhận thức của họ về thái độ của con người và quan

hệ giữa người với người [148, tr.10].

Những nội dung trên còn được tiếp tục đề cập và phát triển trong các công trình

như: Pragmatics: An Introduction (Khái luận Ngữ dụng học) của J. May (1993);

Meaning in Interaction: An introduction to Pragmatics (Ý nghĩa trong tương tác ngôn

ngữ: Khái luận ngữ dụng học) của J. Thomas (1995) và Pragmatics (Ngữ dụng học)

của G. Yule (1996) …

Có thể thấy, vấn đề hành động ngôn ngữ với tư cách là một trong những nội

dung chủ yếu, trụ cột của Ngữ dụng học hiện đại đã được các nhà nghiên cứu trên thế

giới quan tâm gần 50 năm và khẳng định là một hướng tiếp cận ngôn ngữ mới trong

giao tiếp.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, Ngữ dụng học, trong đó có

hành động ngôn ngữ cũng đã dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho

đến nay đã 20 năm trôi qua, hướng tiếp cận này phát triển ngày một sâu rộng, có thể

chia thành các khuynh hướng đi sâu sau:

a. Hướng nghiên cứu lý thuyết

Đỗ Hữu Châu (1993), trong “Đại cương ngôn ngữ học” (viết chung cùng Bùi

Minh Toán) [17], ở phần Ngữ dụng học, tác giả đã đưa ra khái niệm HĐNN, phân biệt

biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi và nêu ra một số dấu hiệu ngữ dụng đánh dấu

hiệu lực ở lời của các HĐNN.

Nguyễn Đức Dân (1998), trong Ngữ dụng học [32] đã nêu những cơ sở lí thuyết

căn bản về ngữ dụng học trong đó có HĐNN. Song tác giả không phân biệt biểu thức ngữ

vi và phát ngôn ngữ vi mà cho rằng biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi là một.

Nguyễn Thiện Giáp (2000) trong cuốn Dụng học Việt ngữ [42] đã trình bày

những vấn đề về ngữ dụng học như: Lí thuyết hành động ngôn từ; lí thuyết hội thoại,

lịch sự và giao tiếp; diễn ngôn và phân tích diễn ngôn; diễn ngôn và văn hoá…và ứng

dụng chúng vào nghiên cứu tiếng Việt.

Đỗ Thị Kim Liên (2005) trong công trình Giáo trình ngữ dụng học [72], bên

cạnh việc trình bày các vấn đề dụng học cũng như hành động ngôn ngữ dựa trên quan

10

điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước, tác giả đã dành nhiều công

phu đi sâu tìm hiểu các nhóm hành động tiêu biểu: hành động trần thuật, hành động

ứng xử, hành động ý chí, hành động nói năng và hành động cầu khiến - mệnh lệnh

bằng sự phân tích các ngữ liệu tiếng Việt cụ thể.

Nguyễn Văn Hiệp (2008), trong Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp [59] khi

trình bày về nghĩa mục đích phát ngôn đã nêu khái quát lí thuyết hành động ngôn ngữ

của J.L Austin, phân loại hành động ngôn ngữ và đặc biệt tác giả đã phân tích mối

quan hệ giữa đánh dấu mục đích phát ngôn và đánh dấu kiểu câu, vai trò của các tiểu

từ tình thái trong việc đánh dấu hiệu lực ở lời của phát ngôn.

Đỗ Việt Hùng (2011) trong cuốn Ngữ dụng học [61] ngoài phần trình bày lí

thuyết chung về hành động ngôn ngữ, tác giả cho rằng sự kiện lời nói được tạo thành

bởi một nhóm các hành động ngôn ngữ, thống nhất với nhau để thực hiện một hành

động ngôn ngữ trung tâm.

Nguyễn Văn Khang (2012), trong Ngôn ngữ học xã hội [67], khi trình bày về tính

xã hội của sự nói năng đã nêu khái quát lí thuyết của J. L. Austin, J. R. Searle và hướng

nghiên cứu HĐNN như một hành động xã hội của một số nhà nghiên cứu như Reinach,

G. N. Leech …

b. Hướng ứng dụng lí thuyết hành động ngôn ngữ vào nghiên cứu các hành

động ngôn ngữ cụ thể trong tiếng Việt

Theo hướng ứng dụng lí thuyết này có thể kể đến số đông các công trình sau:

- Nghiên cứu phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của các nhóm động từ nói năng thực

hiện hành động ngôn ngữ. Có thể điểm qua một số nghiên cứu tiêu biểu như: “Cấu

trúc ngữ nghĩa của động từ ngôn ngữ: bàn, tranh luận, cãi” (Luận văn Thạc sĩ của

Đinh Thị Hà, 1994); “Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng nhóm thông tin”

(Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Ngận, 1996); “Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm động

từ nói năng nhóm khen, tặng, chê” (Luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Thu Hoa, 1996);

“Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng nhóm bàn, khuyên, ra lệnh, nhờ”

(Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thái Hoà, 1997); “Hành vi ngôn ngữ thề (swear)

trong tiếng Việt” (Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Thu Nga, 2013); “Đặc điểm cấu

trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi quan lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt

Nam” (Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Hoàng Yến, 2014)… Các công trình theo hướng

11

này tập trung nghiên cứu động từ nói năng về phương diện ngữ nghĩa, từ đó xây dựng

mô hình cấu trúc ngữ nghĩa cho nhóm động từ này.

- Nghiên cứu các hành động ngôn ngữ như một sự kiện lời nói trong tương tác hội

thoại. Về hướng này, có thể kể đến một số sự kiện lời nói được nghiên cứu như: “Hành

động cho, tặng và sự kiện lời nói cho, tặng” (Luận văn Thạc sĩ của Chử Thị Bích, 2001);

“Cặp thoại thỉnh cầu (xin) trong sự kiện lời nói thỉnh cầu” (Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn

Thị Vân Anh, 2001); “Hành động ngôn ngữ trách và sự kiện lời nói trách” (Luận án Thạc

sĩ của Nguyễn Thu Hạnh, 2005); “Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt” (Luận án Tiến sĩ

của Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2006); “Hành động nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong tiếng

Việt” (Luận án Tiến sĩ của Dương Tuyết Hạnh, 2007), “Sự kiện lời nói cam kết trong hội

thoại” (Luận án Tiến sĩ của Vũ Tố Nga, 2009)… Nét chính của các công trình này là

nghiên cứu xây dựng khái niệm của một HĐNN cụ thể, xây dựng cấu trúc biểu thức ngữ

vi của hành động ngôn ngữ đó, xác định cấu trúc đặc thù của từng sự kiện lời nói với các

tham thoại dẫn nhập, tham thoại hồi đáp, bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố văn

hoá đến sự thể hiện của HĐNN được nghiên cứu.

- Nghiên cứu các hành động ngôn ngữ trong mối quan hệ dụng học - văn hóa.

Về hướng này, có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Hành động

xin lỗi: một phân tích dụng học - văn hóa” (Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thế

Dương, 2006); “Khảo sát hành vi rào đón trong tiếng Việt” (Luận án Tiến sĩ của Vũ

Thị Nga, 2010); “Hành vi ngôn ngữ thề (swear) trong tiếng Việt” (Luận án Tiến sĩ,

của Nguyễn Thị Thu Nga, 2013); “Đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi

qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam” (Luận án Tiến sĩ của Trần Thị

Hoàng Yến, 2014)…

- Nghiên cứu so sánh đối chiếu phương tiện thực hiện hành động ngôn ngữ giữa

tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác. Có thể điểm một số công trình tiêu biểu như:

“Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mĩ trong cách thức khen và tiếp nhận lời

khen” (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Văn Quang, 1998); “Một số đặc điểm

văn hoá ứng xử của hành động từ chối trong tiếng Việt” (có sự đối chiếu với tiếng

Anh) (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Phương Chi, 2004); “Phương thức biểu

hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)” (Luận án

Tiến sĩ, Trần Chi Mai, ĐHQGHN, 2005); “Cách biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ

12

vực trong tiếng Anh và tiếng Việt” (Luận văn Thạc sĩ, Tạ Thị Phương Quyên, 2008)…

Trong các công trình này, các tác giả chủ yếu miêu tả, phân tích sự khác biệt về

phương tiện và cách thức thực hiện HĐNN giữa tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác,

bước đầu lí giải sự khác biệt đó từ góc độ văn hoá.

- Nghiên cứu liên quan đến hành động ngôn ngữ trong mối quan hệ với dụng

học, văn hoá, phương ngữ: Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:

Đặc điểm cuộc thoại mua bán ở chợ Nghệ Tĩnh (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trịnh Thị

Mai, 2006); Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh,

(Luận án Tiến sĩ, Hoàng Thúy Hà, 2008); Chiến lược rào đón và nghĩa liên nhân của

hành động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh (Luận án Tiến sĩ, Nguyễn Thị

Khánh Chi, 2017), Cặp thoại chứa hành động cầu khiến - từ chối trong giao tiếp của

người Nam Bộ (Luận án Tiến sĩ, Nguyễn Văn Đồng, 2018)…

c. Hướng nghiên cứu liên quan đến hành động thông báo

Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến các

hành động thuộc nhóm thông tin như: Hành vi ngôn ngữ mách và sự kiện lời nói mách

(Nguyễn Thị Hoài Linh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, 2003); Hành vi kể, diễn ngôn kể và

sự kiện lời nói kể (Phạm Hùng Linh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, 2001). Số lượng các công

trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến hành động ngôn ngữ thông báo chưa nhiều.

Trong luận văn “Cấu trúc ngữ nghĩa của động từ nói năng: nhóm “thông tin”,

Nguyễn Thị Ngận đã xây dựng cấu trúc ngữ pháp, cấu trúc ngữ nghĩa cho 65 động từ

nói năng nhóm “thông tin” theo ba nhóm: nhóm động từ thông tin trực tiếp, nhóm

động từ thông tin gián tiếp và nhóm động từ thông tin chỉ dẫn; đồng thời chỉ ra những

nét nghĩa đặc trưng cơ bản và những nét nghĩa khu biệt cho từng động từ trong nhóm.

Tác giả kết luận “cùng làm một nhiệm vụ đưa tin từ nhân vật đưa tin đến nhân vật

nhận tin nhưng cách thức đưa tin và mục đích đưa tin của mỗi động từ có sự khác

nhau” [87, tr.101]. Theo tác giả, động từ “thông báo” là một động từ ngữ vi nằm trong

nhóm động từ thông tin trực tiếp. Tuy vậy, tác giả cũng mới chỉ dừng lại ở những luận

giải bước đầu về động từ “thông báo”, so sánh những điểm giống nhau và khác nhau

của động từ này với những động từ ngữ vi cùng nhóm. Còn thông báo ở phương diện

hành động ngôn ngữ thì chưa được đề cập.

Công trình nghiên cứu tác phẩm văn học có đề cập đến hành động thông báo là

“Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,

13

Chu Lai, Lê Lựu” (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Cao Xuân Hải, 2010) [51]. Ở chương

3 của luận án, tác giả có đề cập đến hành động trần thuật thông báo trên các phương

diện: đặc trưng sự kiện, ngữ nghĩa; rút ra một số nhận xét về nhóm hành động trần

thuật thông báo qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai,

Lê Lựu. Tuy nhiên, luận án mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu hành động thông báo

trong tác phẩm văn chương; hành động thông báo trong môi trường giao tiếp hết sức

sống động, độc đáo là đời sống thường ngày thì hoàn toàn chưa được tác giả đề cập.

Trong luận án “Nghiên cứu ngôn ngữ trong văn bản hành chính tiếng Việt từ

góc độ dụng học”, Đỗ Thị Thanh Nga (2016) đã nghiên cứu văn bản hành chính từ góc

độ dụng học trên các mặt: hành động ngôn ngữ, cách thức lập luận, sự chi phối của

ngữ cảnh tới cách thức sử dụng hành động ngôn ngữ và lập luận để từ đó định hướng

cho việc sử dụng ngôn ngữ khi soạn thảo văn bản hành chính. Trong phần phân loại

hành động tái hiện trong văn bản hành chính (chương 2), tác giả có đề cập một cách sơ

lược đến khái niệm và phạm vi sử dụng của hành động thông báo [82, tr.79-80].

Tóm lại, cho đến nay tuy đã có những công trình nghiên cứu về các hành động

ngôn ngữ cụ thể trong tiếng Việt theo hướng Ngữ dụng học nhưng vẫn chưa có một

công trình cụ thể nào tìm hiểu về hành động thông báo trong sự tương tác với hành

động hồi đáp của người Nghệ Tĩnh. Vì vậy, đây là vấn đề để ngỏ để chúng tôi đi sâu

nghiên cứu: Cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh.

1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài

1.2.1. Lí thuyết hội thoại

1.2.1.1. Khái niệm hội thoại

Trong cuộc sống hằng ngày, con người phải thường xuyên giao tiếp trao đổi

thông tin với nhau. Quá trình giao tiếp này được thực hiện bằng nhiều phương tiện và

hình thức khác nhau. Trong đó, giao tiếp hội thoại là hình thức căn bản nhất, thường

xuyên nhất và phổ biến nhất của ngôn ngữ.

Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa: “Hội thoại là hoạt động

giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung

miêu tả và liên cá nhân theo mục đích được đặt ra” [115, tr. 122].

Theo Đỗ Hữu Châu, “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến

của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ” [17, tr. 201].

14

Nguyễn Thiện Giáp xem “Giao tiếp hội thoại là hoạt động cơ bản của ngôn ngữ.

Trong giao tiếp hội thoại luôn có sự hồi đáp giữa người nói và người nghe, chẳng

những người nói và người nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của từng người cũng tác

động lẫn nhau” [42, tr. 63].

Tác giả Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên

kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe trở thành

bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại” [32, tr. 76].

Mỗi tác giả đứng ở những góc nhìn khác nhau để đưa ra khái niệm về hội thoại.

Tác giả Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh vai trò chức năng của hội thoại trong sự hành

chức. Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Đức Dân nhìn hội thoại từ cách thức hành chức

của nó.

Tiếp thu quan điểm của tác giả Đỗ Thị Kim Liên [72], chúng tôi cho rằng: “Hội

thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật

trực tiếp, trong một hoàn cảnh nhất định, giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi

ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định” [72, tr. 18].

Như vậy, nhờ hội thoại, các hoạt động xã hội của loài người được thiết lập, duy

trì và vận động phát triển. Trong thực tế, hội thoại được tổ chức dưới hai dạng: lời ăn

tiếng nói trong sinh hoạt hàng ngày của con người hay còn gọi là khẩu ngữ, chúng xuất

hiện thành cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại (giữa hai nhân vật ) và lời trao - đáp của

các nhân vật đã được chủ thể nhà văn sáng tạo và thể hiện trong tác phẩm văn học hay

còn gọi là lời thoại nhân vật.

Đề tài của chúng tôi chỉ nghiên cứu cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi

đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

1.2.1.2. Cấu trúc hội thoại

a. Cuộc thoại

Cuộc thoại là đơn vị bao trùm nhất của hội thoại, bao gồm một số cặp trao đáp

tạo nên, có sự thống nhất về đề tài diễn ngôn, hình thức biểu đạt và ngữ cảnh.

Một cuộc thoại được xác định bởi những nhân tố:

- Sự thống nhất về nhân vật hội thoại: một cuộc thoại được xác định bởi sự

đương diện liên tục của hai hay nhiều người tham gia. Khi số lượng hay tính chất của

người hội thoại thay đổi thì có cuộc thoại mới.

15

- Sự thống nhất về thời gian và vị trí diễn ra hội thoại: thời gian có thể là ban

ngày, ban đêm, chiều tối, hôm qua...; còn không gian có thể là ở góc sân, mảnh vườn,

lớp học, phòng làm việc, một khu chợ... Tuy nhiên, trong quá trình hội thoại, thời gian

và không gian có thể thay đổi.

- Sự thống nhất về chủ đề, đề tài: “Chủ đề là cái chủ đích mà người nói, người

nghe cùng đề cập đến trong toàn bộ cuộc thoại”; còn “đề tài là phạm vi hiện thực mà

người nói đề cập đến” [72, tr. 189].

Mỗi cuộc thoại bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc, chúng làm nên ranh

giới của một cuộc thoại. Thông thường, trên bề mặt hình thức, có phần mở thoại, thân

thoại, kết thoại.

b. Đoạn thoại

Đoạn thoại là một đoạn của cuộc thoại do một hoặc một số cặp thoại liên kết với

nhau về đề tài và về đích có tính hoàn chỉnh bộ phận để có thể cùng các đoạn thoại

khác làm cho cuộc thoại thành công (đạt được đích). Cũng có thể nói một đoạn thoại là

một lập luận bộ phận (có kết luận tường minh hoặc hàm ẩn) góp phần vào lập luận

chung của cuộc thoại.

Ranh giới giữa đoạn thoại và cuộc thoại nhiều khi không rõ ràng nhưng nhìn

chung, cuộc thoại có thể bao gồm nhiều đoạn thoại. Trong những cuộc thoại mang tính

nghi thức và chuẩn mực, có thể chia thành: đoạn thoại mở đầu (mở thoại), đoạn thoại thân

cuộc thoại (thân thoại), đoạn thoại kết thúc (kết thoại). Thông thường, đoạn mở và kết

thoại có cấu trúc tương đối ổn định, dễ nhận ra hơn các đoạn thoại tạo nên thân thoại.

Đoạn mở thoại thường có tính công thức và đưa đẩy, nhằm mục đích tạo lập

quan hệ là cơ bản. Đoạn thân thoại có thể chỉ một đoạn thoại hoặc một số đoạn thoại.

Mỗi một đoạn thoại có sự thống nhất về chủ đề, phạm vi hiện thực. Tuy nhiên, trong

một cuộc thoại có nhiều đoạn thoại, thì mỗi đoạn thoại có thể có những chủ đề nhỏ,

phản ánh những mặt, những khía cạnh, bình biện khác nhau nhằm làm sáng tỏ chủ đề

lớn. Đoạn kết thoại thường là tổng kết cuộc thoại, kết luận về một đề tài kèm theo lời

cảm ơn, lời chúc, từ biệt... Nhìn chung, tổ chức của đoạn thoại mở đầu và đoạn thoại

kết thúc phần lớn được nghi thức hóa và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: hoàn

cảnh giao tiếp, nền văn hóa của dân tộc, mục đích giao tiếp, quan hệ liên nhân cũng

như tính chất của cuộc thoại.

16

c. Cặp thoại (cặp trao đáp)

Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu mà “với chúng, cuộc trao đổi, tức cuộc

hội thoại chính thức được tiến hành” [17, tr.301]. Thông thường, một cặp thoại gồm

có: một tham thoại có chức năng dẫn nhập (gọi là tham thoại dẫn nhập) và một tham

thoại có chức năng hồi đáp (gọi là tham thoại hồi đáp). Chúng làm thành một cặp thoại

do hai nhân vật - vai giao tiếp - thực hiện.

- Tham thoại dẫn nhập: theo trật tự tuyến tính, đây là tham thoại thứ nhất của

cặp thoại. Tham thoại dẫn nhập do vai nói (chúng tôi ghi là Sp1- Speaker, người nói

trước, chủ động) chủ động đưa ra với những hiệu lực ở lời buộc người nghe (chúng tôi

ghi là Sp2 - người đáp lại lời trao của Sp1) phải hồi đáp lại bằng hành động ngôn ngữ

tương ứng với nó.

- Tham thoại hồi đáp: Chức năng hồi đáp là chức năng của một tham thoại

hướng vào hiệu lực ở lời của tham thoại dẫn nhập trong cặp thoại.

(1). Lan: Chiều ni (nay) đi Cửa Lò nhởi (chơi) đi.

Mai: Ok, rủ thêm mấy đứa nựa (nữa) ta đi cho vui hè (nhỉ).

Lượt lời của Lan (Sp1) là tham thoại dẫn nhập có hiệu lực ở lời rủ; lượt lời của

Mai (Sp2) là tham thoại hồi đáp đáp lại hành động rủ của Sp1 bằng hành động đồng ý.

Nếu tham thoại hồi đáp (nói đầy đủ là hành động chủ hướng của tham thoại có

chức năng hồi đáp) thoả mãn được đích của tham thoại dẫn nhập (nói đầy đủ là thoả

mãn được đích của hành động chủ hướng trong tham thoại có chức năng dẫn nhập) ta

sẽ có hồi đáp tích cực. Ngược lại khi tham thoại hồi đáp đi ngược lại với đích của tham

thoại dẫn nhập ta gọi đó là hồi đáp tiêu cực.

Căn cứ vào tính chất của tham thoại hồi đáp, chúng ta có thể phân chia cặp thoại

ra làm hai nhóm: Cặp thoại tích cực (có chứa tham thoại hồi đáp tích cực) và cặp thoại

tiêu cực (có chứa thm thoại hồi đáp tiêu cực).

(2). Sp1: Thông báo với mi (mày) là túi ni (tối nay) đội văn nghệ lớp ta tập nha,

7 giờ, trước sân kí túc xá A1.

Sp2: (1) - Ừ, cố tập cho xong mi (mày)ạ.

(2) - Chi mà (sao mà) bựa mô (hôm nào) cụng (cũng) tập rứa (thế)?

Túi ni (tối nay) tau (tao) bận rồi tau nỏ (không) đi mô (đâu).

Tham thoại dẫn nhập trong lượt lời Sp1 nhận được hai hồi đáp, trong đó hồi đáp

17

Sp2(1) là hồi đáp tích cực, còn hồi đáp Sp2(2) là hồi đáp tiêu cực. Cặp thoại Sp1 -

Sp2(1) là cặp thoại tích cực còn cặp thoại Sp1- Sp2(2) là cặp thoại tiêu cực.

Nếu Sp2 không hồi đáp (bằng lời hoặc cử chỉ đi kèm) ta có cặp thoại hẫng.

Các cặp thoại như đã miêu tả gồm 1 tham thoại dẫn nhập và 1 tham thoại hồi đáp

cho nó lập thành cặp kế cận. Đây là cặp thoại thường được sử dụng trong giao tiếp. Tuy

nhiên trong thực tế không phải bao giờ một hành động ở lời đưa ra cũng nhận ngay được

sự hồi đáp ở người nghe. Tuỳ từng hoàn cảnh giao tiếp, trước khi đưa ra lời hồi đáp người

nghe có thể “dẫn dắt” người nói cùng với mình làm rõ một số điều có liên quan đế nội

dung nêu ra ở tham thoại dẫn nhập. Chúng tạo thành các cặp chêm xen.

(3). Sp1: Con sang nhà bà Hoà mượn cho bố cái cưa.

Sp2: Bà Hoà nào bố?

Sp1: Bà Hoà nhà ông Minh ấy.

Sp2: Vâng, con đi ngay ạ.

Ở ví dụ trên cặp “Sp2- Bà Hoà nào bố? và Sp1- Bà Hoà nhà ông Minh ấy.” tạo

thành cặp chêm xen.

Luận án chỉ tập trung tìm hiểu cặp thoại có tham thoại dẫn nhập thông báo và

tham thoại hồi đáp đáp lại hành động thông báo tạo thành cặp kế cận.

d. Tham thoại

“Tham thoại là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại

nhất định” [17, tr.316]. Đỗ Hữu Châu cho rằng: “một lượt lời có thể gồm nhiều tham

thoại mà cũng có thể nhỏ hơn tham thoại (một tham thoại gồm nhiều lượt lời)” [17, tr.

316]. Ông phân biệt rạch ròi hai khái niệm “lượt lời” và “tham thoại” chứ không đồng

nhất như quan điểm của Nguyễn Đức Dân.

Như vậy, tham thoại là đơn vị trực tiếp cấu thành cặp thoại. Nếu cặp thoại là

đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất thì tham thoại là đơn vị đơn thoại. Tham thoại có thể

trùng, lớn hơn hoặc nhỏ hơn lượt lời.

Theo lí thuyết của các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ - Pháp, đơn vị nhỏ nhất của hội

thoại là hành động ngôn ngữ. Hành động ngôn ngữ là đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên tham

thoại. Vậy, cấu tạo của tham thoại được hiểu là cách tổ chức, sắp xếp các yếu tố ngôn từ

tạo nên một hành động hay chuỗi các hành động tạo lời của nhân vật hướng đến người

nghe theo chức năng nhất định. Trong thực tế giao tiếp, một tham thoại không chỉ chứa

một hành động ngôn ngữ mà có thể do nhiều hành động ngôn ngữ tạo nên.

18

(4). Sp1: Chào cậu!

Sp2: Chào bác! Bác cho cháu hỏi một tí từ đây xuống Xuân Song có xa

nựa (nữa) không bác?

Ở ví dụ trên, tham thoại của Sp1 chứa 1 hành động (hành động chào); còn tham

thoại đáp của Sp2 chứa 2 hành động (hành động chào + hành động hỏi).

Trong tham thoại chứa nhiều hành động sẽ có một hành động nòng cốt hay còn

gọi là hành động chủ hướng. Theo trường phái Geneve, một tham thoại có 1 hành

động chủ hướng (direction viết tắt là CH) và các hành động phụ thuộc đi kèm

(subordination viết tắt là PT). Như vậy, cấu trúc của tham thoại có thể là:

CH

PT CH

CH PT

PT CH PT

PT PT CH PT

Tương tự, khi nghiên cứu cấu tạo của tham thoại, Dương Tuyết Hạnh cho rằng:

“Cấu tạo của tham thoại gồm hai thành tố: thành tố mở rộng và thành tố cốt lõi; trong

đó, thành tố cốt lõi bao gồm hành động chủ hướng và các hành động phụ thuộc”. Tác

giả cũng đã phân biệt hành động phụ thuộc và hành động mở rộng trong cấu tạo của

tham thoại. “Hành động phụ thuộc trong mối liên hệ với hành động chủ hướng là hành

động có chức năng củng cố, biện minh, đánh giá, lập luận… nhằm hỗ trợ cho hành

động chủ hướng” [53, tr.31]. Còn hành động mở rộng là “hành động thuần tuý ngữ

dụng, chủ yếu có chức năng duy trì quan hệ liên cá nhân trong hội thoại” [53, tr.67].

(5). Sp1: Hằng ơi (MR), trời túi (tối) rồi (PT) mi (mày) bật giúp tau (tao) cấy

(cái đèn) lên với (CH).

Sp2: Để tau bật cho (CH).

Trong (5), lượt lời của Sp1 là một tham thoại có hành động chủ hướng là nhờ

vả, hành động phụ thuộc nêu lí do và hành động mở rộng có chức năng thu hút sự chú

ý của người nghe (Hằng). Lượt lời của Sp2 có chức năng hồi đáp vào hành động chủ

hướng nhờ vả của Sp1.

Có thể thấy, các tác giả khi đề cập đến tham thoại đều nhấn mạnh đến vai trò trụ

cột của hành động chủ hướng trong tham thoại, nó là yếu tố “quyết định hướng của

tham thoại và quyết định hành vi đáp thích hợp với người đối thoại” [17, tr.317-318].

19

Như vậy, khi nghiên cứu tham thoại, người nghiên cứu không chỉ xét nó ở dạng cô lập

mà phải đặt nó vào trong sự tương tác hội thoại để có thể hiểu nó một cách đầy đủ và

bản chất nhất.

(6). Sp1: Len ơi, túi ni (tối nay) Phòng ta tập văn nghệ nha, sắp thi rồi nên tích

cực tập cho xong, 7 giờ, trước sân Sở nhé.

Sp2: Dạ chị, túi ni (tối nay) em đưa con đi học em xin phép đến muộn 20

phút nha.

1.2.2. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ

1.2.2.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ

Hành động ngôn ngữ là vấn đề được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nó

được khởi xướng bởi nhà triết học - ngôn ngữ học người Anh - J.L. Austin; sau đó

được J.R. Searle và một số nhà nghiên cứu khác kế thừa và phát triển. Tư tưởng cơ bản

của lý thuyết này là: nói năng là hành động.

J. L. Austin cho rằng có thể phân chia hoạt động nói năng của con người thành

ba loại hành động: hành động tạo lời, hành động ở lời và hành động mượn lời.

- Hành động tạo lời (Locutionary act): Hành động tạo lời là hành động vận động

các cơ quan phát âm, sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, vốn từ, quy tắc kết

hợp để tạo thành những phát ngôn (đúng về hình thức và cấu trúc) hay những văn bản

có thể hiểu được… Nhờ hành động tạo lời, chúng ta hình thành nên các biểu thức đủ

nghĩa để trao đổi thông tin, tư tưởng với nhau.

- Hành động mượn lời (Perlocutionary act): Hành động mượn lời là hành động

mượn phương tiện ngôn ngữ, mượn các phát ngôn để tạo ra sự tác động hay hiệu quả

ngoài ngôn ngữ đối với người nghe. Với những người nghe khác nhau, ta có hiệu quả

lời nói khác nhau. Loại hành động này có đích tác động cụ thể. Tuy nhiên, nó không

gây ra một phản ứng đồng nhất đối với các người nghe khác nhau.

- Hành động ở lời (Illocutionary act): Hành động ở lời là hành động mà người

nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những tác động thuộc ngôn

ngữ, nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người

nhận. Dấu hiệu của hiệu quả ở lời là sự hồi đáp của người nghe khi tiếp nhận hành

động ở lời. Khác với hành động mượn lời, hành động ở lời có ý định hay có đích, quy

ước và có thể chế quy ước dù rằng quy ước và thể chế của chúng không hiển ngôn mà

20

quy tắc vận hành của chúng được mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một

cách tự giác.

Trong ba loại hành động này thì hành động ở lời chính là đối tượng nghiên cứu

của ngữ dụng học.

Theo O. Ducrot, “Hành động ở lời khác hành động tạo lời và hành động mượn

lời ở chỗ chúng thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại. Chúng đặt người nói

và người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi

thực hiện hành vi ở lời đó” (dẫn theo [18, tr. 477]). Chẳng hạn, khi ta đưa ra hành động

hứa, ta phải có trách nhiệm về điều mình nói ra, còn người nghe sẽ chờ đợi và có

quyền yêu cầu người nói thực hiện lời hứa.

J. R. Searle nhấn mạnh: “Đối với bất kì sự giao tiếp nào, điều cốt lõi là phải bao

hàm một hành động ngôn từ. Đơn vị của giao tiếp ngôn ngữ không phải là một kí hiệu,

từ hay câu, hay thậm chí là vật sở chỉ cụ thể (tocken) của kí hiệu, của từ hay của câu

như người ta vẫn thường nghĩ thế mà chính sự sản sinh (production) ra cái sở chỉ cụ

thể khi thực hiện hành động ngôn trung mới là đơn vị cơ bản của giao tiếp bằng ngôn

ngữ. Nói một cách chính xác hơn, sự tạo sinh ra cái sở chỉ của câu trong những điều

kiện nhất định chính là hành động ngôn trung, và chính hành động này là đơn vị nhỏ

nhất của sự giao tiếp bằng ngôn ngữ” [97, tr.88 - 89].

Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi

một người nói (hoặc viết) Sp1 nói ra một phát ngôn U (Utterance) cho người nghe

(người đọc) Sp2 trong ngữ cảnh C” [17, tr.88]. Hành động ngôn ngữ là một hành động

có tính chủ đích, nó hướng đến những hiệu quả nhất định và tạo nên những phán ứng

của người nhận.

Tác giả Đỗ Thị Kim Liên sau khi đã phân tích các phát ngôn và nêu tên các

hành động trong các phát ngôn đó đã khẳng định: “Khi miêu tả, kể, nhận xét,

khuyên… là chúng ta đang hành động - hành động bằng ngôn ngữ. Ta có thể dùng

thuật ngữ hành động ngôn ngữ (hành vi ngôn ngữ) để chỉ những hành động bộ phận

bằng ngôn ngữ của con người” [72, tr.69].

Trong luận án này, chúng tôi dựa vào cách hiểu của J. R. Searle về hành động

ngôn ngữ để tiến hành phân tích, miêu tả cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

21

1.2.2.2. Điều kiện thực hiện hành động ngôn ngữ

Điều kiện sử dụng hành động ở lời là “những điều kiện mà một hành động

ngôn từ phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh phát ngôn ra nó”

[16, tr. 111]. Thực chất của việc nghiên cứu điều kiện sử dụng là tìm hiểu cơ chế

vận hành của một hành động ngôn ngữ. Theo J.L. Austin, một HĐNN muốn thành

công thì phải thỏa mãn điều kiện may mắn. Những điều kiện may mắn đó được xác

định như sau:

a- (i) Phải có thủ tục có tính chất quy ước và thủ tục này phải có hiệu quả cũng

có tính quy ước.

(ii) Hoàn cảnh và con người phải thích hợp với những điều quy định trong thủ tục.

b- Thủ tục phải được thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ.

c- Thông thường thì (i) những người thực hiện hành vi ở lời phải có ý nghĩ, tình

cảm và ý định đúng như được đề ra trong thủ tục và (ii) khi hành động diễn ra thì ý

nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có (dẫn theo [17, tr. 112]).

Kế sau Austin, J. Searle đã chỉnh sửa, bổ sung nhằm hệ thống hóa và dạng thức

hóa các điều kiện may mắn này và gọi chúng là các điều kiện sử dụng. Bằng cách phân

tích hành động hứa hẹn, J. Searle đã đề xuất 4 điều kiện sử dụng cho một hành động

ngôn ngữ, đó là:

- Điều kiện nội dung mệnh đề (Propositional content rule): Chỉ ra bản chất

nội dung của hành động. Nội dung của mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản,

hay một hàm mệnh đề, có thể là một hành động của người nói hay một hành động

của người nghe.

- Điều kiện chuẩn bị (Preparatory rule): Là những hiểu biết của người thực hiện

hành động về những tri thức nền của người tiếp nhận hành động, về quyền lợi, trách

nhiệm, năng lực, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người nghe.

- Điều kiện chân thành (Sincerity rule): Chỉ ra các trạng thái tâm lý tương ứng

của người phát ngôn về năng lực, lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ

giữa người nói và người nghe, như xác tín đòi hỏi niềm tin, mệnh lệnh đòi hỏi mong

muốn, hứa hẹn đòi hỏi ý định người nói. Điều kiện này có nghĩa là người nói thực sự

chân thành mong đợi hiệu quả của hành động ở lời mà mình thực hiện.

- Điều kiện căn bản (Essential rule): Là đưa ra trách nhiệm mà người nói hoặc

người nghe bị ràng buộc khi hành động ở lời đó được phát ra. (dẫn theo [17, tr.116-117]

22

Chẳng hạn, điều kiện thực hiện hành vi ở lời nhóm xác tín, tuyên bố, khẳng định

(assert, state (that), affirm) được J.R. Searle miêu tả như sau:

- Nội dung mệnh đề: Bất cứ mệnh đề (p) nào

- Chuẩn bị:

1) Có bằng chứng chứng tỏ (p) đúng.

2) Cả đối với S (speaker), cả đối với H (hearer) không chắc rằng H đã biết (p)

nếu không nói ra.

- Chân thành: S tin vào (p)

- Căn bản: Nhằm đảm bảo rằng (p) phản ánh một sự tình thực có.

(Dẫn theo [18, tr. 470])

Với 4 điều kiện trên, chúng tôi đã vận dụng để xét đến tham thoại trao chứa

động từ thông báo.

1.2.2.3. Phân loại hành động ngôn ngữ

Cho đến nay, ngữ dụng học đã ghi nhận hai hướng phân loại hành động ngôn

ngữ: phân loại hành động ngôn ngữ căn cứ vào các động từ biểu thị hành động ở lời

(đại diện tiêu biểu là J. Austin) và phân loại theo hành động ngôn ngữ (đại diện tiêu

biểu là J. Searle). Dưới đây, chúng tôi xin đề cập cách phân loại của hai tác giả này.

a. Cách phân loại của J.L. Austin

Trên cơ sở các động từ ngữ vi trong tiếng Anh, J.L. Austin đã phân loại các

HĐNN thành 5 phạm trù lớn: phán xử, hành xử, cam kết, trình bày, ứng xử.

- Phán xử (verditifs): là những hành động đưa ra những lời phán xét về một sự

kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào lí lẽ vững chắc

như: xử trắng án, xem là, đánh giá, phân loại, ước lượng…

- Hành xử (exercitice): là những hành động đưa ra những quyết định thuận lợi

hay chống lại một chuỗi những hành động nào đó như: ra lệnh, chỉ huy, giới thiệu...

- Cam kết (commissifs): là những hành động ràng buộc người nói vào một chuỗi

những hành động nhất định, như: hứa hẹn, giao ước, bảo đảm, thề nguyền, bày tỏ lòng

mong muốn…

- Trình bày (expositifs): là những hành vi được dùng để trình bày các quan

niệm, lập luận, giải thích từ ngữ, như: khẳng định, phủ định, trả lời, phản bác…

- Ứng xử (behabitives): là những hành động phản ứng với cách xử sự của người

khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với

23

hành vi hay số phận của người khác, như: xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi, chào mừng, phê

phán, chia buồn, thách thức, nghi ngờ…

Tuy nhiên, sau này, chính J. L. Austin cũng thấy bảng phân loại của mình còn

nhiều điều chưa thỏa đáng, có chỗ còn chồng chéo, chưa xác định được một cách rõ

ràng sự khác biệt giữa những động từ cụ thể.

Thực chất, Austin đã phân loại theo hướng từ vựng, tức là phân loại các hành

động từ ngữ vi. Cùng theo hướng phân loại này, còn có các nhà ngôn ngữ học khác

như: Vendler (1972), Ballmer và Brennestuhl (1981),Wierzbicka (1987). Vendler đã

tách 5 phạm trù của Austin thành 7 phạm trù. Cụ thể, phạm trù hành xử được chia nhỏ

thành phát vấn (interrogatives) và hành xử; phạm trù phán xử được chia thành phán xử

và thi hành (operatives). Ballmer và Brennestuhl lại chia 4800 động từ nói năng mà

mình tập hợp được thành 600 nhóm thuộc 24 kiểu phân phối trong 8 phạm trù. Còn

Wierzbicka, sau khi tiến hành phân tích nghĩa tường minh của 270 động từ nói năng

(speech act verb), đã nhóm chúng lại thành 37 loại.

b. Cách phân loại của J.R. Searle

Khác với J. L. Austin, J.R. Searle cho rằng trước hết phải phân loại các hành

động ở lời chứ không phải phân loại các động từ gọi tên chúng. Việc phân loại này

muốn thành công được thì trước hết phải định ra được bộ tiêu chí. Ông đã đề xuất 12

điểm khác biệt giữa các hành động ngôn ngữ và sử dụng 4 điểm như là các tiêu chí cơ

bản nhất để phân loại. Đó là: tiêu chí đích; tiêu chí hướng khớp ghép; tiêu chí trạng

thái tâm lý và tiêu chí nội dung mệnh đề. Từ 4 tiêu chí này, tác giả phân loại các hành

động ở lời thành 5 phạm trù như sau:

- Tái hiện (representatives): là hành động mà mệnh đề của chúng có thể đánh

giá theo tiêu chuẩn đúng - sai lôgic như: miêu tả, tường thuật, khẳng định…

- Điều khiển (directives): là những hành động đặt người nghe vào trách nhiêm

thực hiện một hành động trong tương lai như: ra lệnh, yêu cầu, hỏi…

- Cam kết (commissives): Là những hành động mà người nói dùng để ràng

buộc chính mình vào một hành động nào đó trong tương lai như: hứa hẹn, thề nguyền,

cam kết…

- Biểu cảm (expressives): là hành động bày tỏ những trạng thái tâm lý như: sự

hài lòng, vui thích, khó chịu, mong muốn, rẫy bỏ…

24

- Tuyên bố (declaratifs): là những hành động mà khi nói ra chúng người nói làm

thay đổi hiện thực được nói đến như: tuyên bố, buộc tội…

Hướng phân loại của J. R. Searle căn cứ vào những tiêu chí phân loại cụ thể nên

đã hạn chế được sự chồng chéo. Theo cách phân loại của Searle, hành động thông báo

thuộc nhóm tái hiện.

Tuy nhiên, cũng giống như Austin, cách phân loại của Searle cũng chỉ xem xét

HĐNN trong cấu trúc ở dạng tĩnh mà chưa nói đến sự hồi đáp, sự câu thúc lẫn nhau

giữa các HĐNN trong cuộc thoại. Chính Wunderlich và đặc biệt là Francis Jacques đã

nhìn thấy hạn chế này. Họ cho rằng: “Không một hành vi nào được thực hiện một cách

cô lập cả. Các hành vi ở lời xuất hiện trong hội thoại, trong sự trao đáp hằng ngày qua

lại giữa những người hội thoại. Các nhân vật giao tiếp và các hành vi mà họ phát ra

tương tác lẫn nhau, cái này khởi phát cho cái kia, cứ thế cho đến khi kết thúc cuộc

thoại” (Dẫn theo [17, tr. 141]).

1.2.2.4. Hành động ngôn ngữ trực tiếp và gián tiếp

Hành động ngôn ngữ trực tiếp là hành động được thực hiện đúng với đích ở lời,

có sự tương ứng giữa cấu trúc bề mặt với hiệu lực mà nó gây nên. Những hành động ở

lời được nhận diện một cách trực tiếp qua nội dung mệnh đề của phát ngôn, thực hiện

đúng với điều kiện thoả mãn, đúng với các đích của chúng thì sẽ thuộc vào loại hành

động ở lời trực tiếp, nằm ở tầng hiển ngôn (tường minh) của phát ngôn. Nó được hiểu

như một sự nói thẳng, công khai, không dấu diếm. Xuất phát từ góc độ hình thái cấu

trúc và chức năng tổng quát của các hành động ngôn từ, G.Yule cho rằng: “Chừng nào

có mối liên hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng, thì ta có một hành động

nói trực tiếp” [121, tr.110].

Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, khi thực hiện một hành động ngôn ngữ,

không phải lúc nào ý định của người nói cũng trùng với những điều được nói ra mà

hướng tới một mục đích khác. Khi đó, chúng ta có hành động ngôn ngữ gián tiếp. J. R.

Searle quan niệm về hành động ngôn ngữ gián tiếp: “một hành vi tại lời được thực

hiện gián tiếp thông qua một hành vi tại lời khác sẽ được gọi là một hành vi gián tiếp”

(Dẫn theo [32, tr. 60]. Còn theo G. Yule, “khi nào có một quan hệ gián tiếp giữa một

cấu trúc và một chức năng thì ta có một hành động nói gián tiếp” [121, tr.110].

Đỗ Hữu Châu có quan niệm rõ ràng hơn về hành động gián tiếp: “Một hành vi

được sử dụng gián tiếp là một hành vi trong đó người nói thực hiện một hành vi ở lời

25

này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa vào những hiểu biết về ngôn ngữ chung

cho hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác” [17, tr.146].

Chẳng hạn, khi sử dụng hình thức hỏi để thực hiện hành động hỏi thì đó là hành

động ngôn từ trực tiếp. Nhưng nếu dùng hình thức hỏi để cầu khiến, bộc lộ thì đó lại là

hành động gián tiếp. Trong ứng xử ngôn ngữ, hình thức nói gián tiếp được sử dụng rất

phổ biến, tự nhiên. Bởi vì, trên thực tế, hành động ngôn từ gián tiếp có thể giúp người

nói diễn đạt được nhiều hơn, tạo ra được hiệu quả tu từ hơn. Nhưng để phát hiện ra

hiệu lực gián tiếp thì người nghe phải dựa vào “những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài

ngôn ngữ” như tác giả Đỗ Hữu Châu đã khẳng định.

Khảo sát cặp thoại chứa HĐNN thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh, chúng tôi nhận thấy, hành động này chủ yếu xuất hiện ở dạng trực tiếp,

nên luận án chỉ khảo sát các cặp thoại chứa hành động thông báo trực tiếp.

1.2.2.5. Động từ ngữ vi

Trong số các động từ nói năng, biểu thị hành động ở lời, có một số động từ mà

khi sử dụng nó, người ta đồng thời thực hiện hành động mà động từ đó gọi tên. J. L.

Austin là người đầu tiên chỉ ra điều này và gọi chúng là các ĐTNV (performative

verb) (dẫn theo [121, tr. 99]). Chẳng hạn,

(7). (a) Em xin lỗi cô vì đã đến lớp muộn ạ.

(b) Em cảm ơn cô vì tất cả những gì cô đã làm cho em.

Qua ví dụ trên, người nói đã thực hiện (a) hành động xin lỗi và (b) hành động

cảm ơn.

Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào ĐTNV cũng được dùng theo chức

năng ngữ vi. “Austin cho rằng động từ ngữ vi chỉ được dùng trong chức năng ngữ vi

(có hiệu lực ngữ vi) khi trong phát ngôn nó được dùng ở ngôi thứ nhất (người nói Sp1)

thời hiện tại, thể (voice) chủ động và thức (mode) thực thi (indicative)” [18, tr. 454].

Tác giả Đỗ Thị Kim Liên cho rằng để xem một động từ là ĐTNV cần có đủ 3

điều kiện sau:

- Vai đưa ra phát ngôn phải ở ngôi thứ nhất, số ít (có thể sử dụng ngôi thứ nhất

số nhiều nhưng được hiểu là ngôi thứ nhất, số ít) và người tiếp nhận hành vi ở lời phải

ở ngôi thứ 2.

- Động từ luôn ở thời hiện tại: Sở dĩ động từ luôn ở thời hiện tại, bởi vì động từ

đó được thực hiện ngay khi nói ra.

26

- Trước động từ không có các phụ từ tình thái như: không, chưa, chẳng, sẽ, vừa,

mới.. [72, tr. 81].

(8). (a) Tôi xin thông báo với các đoàn viên công đoàn Khoa là chiều mai, đúng

2 giờ chúng ta họp nhé.

(b) Tôi vừa mới thông báo với các đoàn viên công đoàn là chiều mai, đúng

2 giờ công đoàn ta họp rồi đấy.

Trong (8) thì phát ngôn (a) là phát ngôn ngữ vi còn phát ngôn (b) là phát ngôn

miêu tả bởi nó thuật lại việc tôi vừa mới thông báo một điều gì đó chứ không phải tôi

thực hiện hành động thông báo ngay trong lời nói.

Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp, không phải lúc nào một hành động ngôn ngữ

cũng có một (hoặc các) ĐTNV tương ứng. Vì vậy, để nhận diện người nói đang thực hiện

HĐNN nào thì cần phải có những dấu hiệu nhất định. Theo khảo sát của chúng tôi thì

hành động thông báo có nhiều ĐTNV biểu thị như: báo tin, thông báo, thông tin, thông

cáo… nhưng luận án chỉ đi sâu tìm hiểu các phát ngôn ngữ vi chứa ĐTNV “thông báo”.

1.2.2.6. Biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi

a. Biểu thức ngữ vi

BTNV “là những thể thức nói năng đặc trưng cho một hành vi ở lời, là dấu hiệu

ngữ pháp - ngữ nghĩa của các hành vi ở lời” [18, tr. 449]. Một BTNV được đánh dấu

bởi các dấu hiệu chỉ dẫn. Searle gọi các dấu hiệu chỉ dẫn này là các phương tiện chỉ

dẫn hiệu lực ở lời (illocutionary force indicating devices, viết tắt IFIDs). Đóng vai trò

IFIDs là:

- Động từ ngữ vi

- Các kiểu kết cấu

- Các từ ngữ chuyên dùng trong các biểu thức ngữ vi

- Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể tạo nên nội dung

mệnh đề được nêu trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố của ngữ cảnh.

- Ngữ điệu [Theo 17, tr 92-95].

Trong tiếng Anh, các chỉ tố chức năng gồm động từ, thức, ngữ điệu. Trong tiếng

Việt, ngoài các động từ ngữ vi còn có các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời khác như

ngữ điệu, các phụ từ, tình thái từ... Nhờ các biểu thức ngữ vi mà chúng ta nhận biết

được các hành động ở lời.

27

Tuy vậy cần phân biệt BTNV nguyên cấp (hay còn gọi là hàm ấn) và BTNV

tường minh. Căn cứ vào sự xuất hiện hay không xuất hiện của động từ ngữ vi, J. R.

Searle đã phân biệt biểu thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi nguyên cấp. Nếu

các động từ được sử dụng trong những chức năng khác nhau thì sẽ mang lại kết quả là

tạo ra các biểu thức ngữ vi tường minh hay biểu thức ngữ vi nguyên cấp.

BTNV tường minh là BTNV có sử dụng ĐTNV. Trong tiếng Việt, những hành

động ở lời được thể hiện bằng biểu thức ngữ vi tường minh có các động từ ngữ vi. Đó

là những hành động như mời, tuyên án, xin lỗi, cám ơn, thề, cam đoan, cấm, đề nghị,

yêu cầu,... Ví dụ: Tớ hứa sẽ đến dự sinh nhật của cậu. Hành động hứa có động từ ngữ

vi hứa.

Thường thì các ĐTNV đã trực tiếp xác nhận tên gọi HĐNN. HĐNN thông báo

cũng là trường hợp như vậy. Cho nên sự xuất hiện của ĐTNV thông báo chính là một

IFIDs quan trọng giúp chũng tôi nhận diện BTNV thông báo tường minh.

(9). Sp1: Cô thông báo với Nga là thứ 7 tuần này, em chấm thi nghiệp vụ sư phạm

phần hùng biện nhé, 7 giờ em có mặt ở văn phòng khoa để nhận biểu điểm nha.

Sp2: Dạ cô.

Mặt khác thực tế cho thấy có những hành động không có ĐTNV tương ứng

dùng trong chức năng ngữ vi, chẳng hạn là các hành động như rủ, khoe, chửi,… trong

tiếng Việt. Người ta nhận biết bản chất ngôn hành của chúng nhờ các dấu hiệu còn lại

trong danh sách IFIDs đã nêu và biểu thức ngữ vi tương ứng với chúng gọi là các biểu

thức ngữ vi nguyên cấp (primary) hay biểu thức ngữ vi hàm ẩm (implicit). Nói ngắn

gọn hơn, biểu thức ngữ vi nguyên cấp là biểu thức ngữ vi không có động từ ngữ vi.

Ví dụ, các kết cấu có...không?, đã...chưa? và các từ ngữ đặc thù như: ở đâu, tại

sao, bao giờ, thế nào... là dấu hiệu nhận biết hành động hỏi. Với hành động thông báo

thì các cấu trúc như: “biết tin... chưa?”; “có tin... đây”; “tin... nóng” (hót, buồn, giật

gân...); “P, thông báo… biết…” cũng là các kết cấu đặc thù của biểu thức ngữ vi thông

báo nguyên cấp nếu tham thể chủ thể thực hiện hành động thông báo là người nói

(ngôi thứ nhất).

(10). Sp1: Tin hót, tin hót, tin hót cả lớp ơi! Thứ 7, chủ nhật tuần sau lớp ta đi

thực tế ở hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình nha. Lịch chắc chắn rồi, lên giây

cót tinh thần để tuần sau xách ba lô lên đường thôi.

Sp2: Dê… Tuyệt vời ông mặt trời!

28

Tuy nhiên, bên cạnh đó, có những hành động ở lời vừa được thể hiện bằng BTNV

nguyên cấp, vừa được thực hiện bằng BTNV tường minh. Đó là các hành động như hứa,

khen, công bố,…

Ví dụ: - Tớ hứa sẽ đến dự sinh nhật của cậu. (BTNV tường minh)

- Tớ sẽ đến dự sinh nhật của cậu. (BTNV nguyên cấp)

Việc xác định được BTNV tường minh và BTNV nguyên cấp có ý nghĩa rất

quan trọng đối với việc nghiên cứu HĐNN. Đây sẽ là những chỉ dẫn quan trọng để

chúng tôi xem xét hiệu lực ở lời của các phát ngôn thông báo trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh.

b. Phát ngôn ngữ vi (Performative utterance)

Nguyễn Đức Dân xem PNNV cũng là BTNV, ông viết: “Các phát ngôn ngữ vi

cũng được gọi là các biểu thức ngữ vi” [32, tr.47].

Tác giả Đỗ Hữu Châu lại phân biệt BTNV và PNNV: “Phát ngôn ngữ vi là phát

ngôn - sản phẩm của một hành vi ở lời nào đó khi hành vi này được thực hiện một cách

trực tiếp chân thực [...]. PNNV có một kết cấu lõi đặc trưng cho hành vi ở lời tạo ra nó.

Kết cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi” [17, tr. 91].

Theo Đỗ Thị Kim Liên: “Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn mà khi người ta nói

chúng thì đồng thời người ta cũng thực hiện luôn cái việc biểu thị trong phát ngôn”

[72, tr.75].

Chẳng hạn, những phát ngôn sau đây người nói không nhằm mục đích khẳng

định, phủ định hay miêu tả về hiện thực khách quan mà nhằm bộc lộ cảm xúc (a), hỏi

(b), hứa hẹn (c), yêu cầu (d)...

(a). - Trời ơi!

(b). - Anh cho biết đây là ở đâu vậy?

(c). - Mình hứa sẽ giữ kín chuyện này.

(d). - Cấm vào!

Đây là những phát ngôn mà khi nói ra thì người nói đồng thời cũng thực hiện

luôn chúng ở chính ngay trong lời. Những phát ngôn này gọi là PNNV. Phát ngôn

chứa HĐNN thông báo được xem là PNNV vì người nói đã thực hiện luôn hành động

thông báo khi chúng được sử dụng làm phương để truyền tải thông tin và bộc lộ thái

độ, quan điểm, tình cảm của chủ thể trước sự tình.

29

Chúng tôi cho rằng việc phân biệt BTNV và PNNV khi nghiên cứu HĐNN là

rất cần thiết cũng như phân biệt câu và phát ngôn trong chuyên ngành ngữ pháp học.

Bởi nếu như “phát ngôn chính là câu trong hoạt động giao tiếp” [76, tr. 20] thì PNNV

là sự hiện thực hóa của BTNV trong những tình huống giao tiếp cụ thể, “là sản phẩm

của hành vi ngôn ngữ, hành vi ở lời” [18, tr. 489]. Người ta nhận diện một HĐNN

thông qua việc giải mã bản chất ngôn hành của BTNV nhưng tiếp nhận hiệu lực ở lời

của HĐNN đó lại thông qua việc nắm bắt toàn bộ nội dung ngữ nghĩa mà người nói

thể hiện qua một PNNV cụ thể.

Theo J.R. Searle, một PNNV bao gồm hai thành phần ngữ nghĩa: hiệu lực ở lời và

nội dung mệnh đề được biểu thị một cách khái quát là F(p) hoặc F(RP), trong đó p/RP là

nội dung mệnh đề. Hiệu lực ở lời (F) trong các phát ngôn chính là sự khác biệt về bản chất

ngôn hành mà người nói muốn truyền đạt tới người nghe (dẫn theo [18, tr. 463]). Điều này

có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu HĐNN nói chung và cặp thoại chứa

hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh của nói riêng.

1.2.3. Hành động ngôn ngữ thông báo

1.2.3.1. Khái niệm hành động thông báo

Hành động thông báo là một hình thức thông tin đặc biệt xuất hiện rất phổ biến

trong giao tiếp.

Hành động thông báo thuộc nhóm hành động thông tin. Hành động thông tin

bao gồm các hành động có chức năng “truyền tin cho nhau để biết” [90, tr. 953]. Nằm

trong nhóm hành động thông tin là những hành động như: mách, báo cáo, báo, trình,

trình bày, xác nhận, khẳng định, giải thích, kể, thông báo… Như vậy, nhóm các hành

động thuộc nhóm thông tin là rất rộng. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi giới hạn

phạm vi đối tượng nghiên cứu là hành động thông báo.

Theo J.L. Austin, hành động thông báo nằm trong nhóm trình bày (expositives);

còn J.R. Searle (1977), xếp hành động thông báo vào nhóm tái hiện (representatives),

hành động này trước đó được ông gọi là xác tín (assertives). Austin cho rằng nằm

trong nhóm trình bày là những hành động được dùng để trình bày một quan niệm, dẫn

dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như khẳng định, phủ định, trả lời… Còn J.R.

Searle cho rằng nhóm tái hiện được xác định bởi 4 tiêu chí phân loại: 1) Đích ở lời là

miêu tả một sự tình đang được nói đến; 2) Hướng khớp ghép là lời - hiện thực; 3)

30

Trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều mình xác tín; 4) Nội dung mệnh đề là một mệnh

đề, có thể đánh giá theo tiêu chuẩn đúng - sai logic.

Cùng với sự phân loại của Austin, Searle, A. Wierzbica (1987) đã dùng nhân

tử ngữ nghĩa (một thứ siêu ngôn ngữ mà tác giả xây dựng nên) để giải nghĩa và

miêu tả các động từ nói năng theo cách dùng cấu trúc ngữ nghĩa. “Thông báo” được

bà xếp vào nhóm thông tin. Các động từ trong nhóm thông tin - Inform được bà mô

tả như sau:

1. Tôi giả sử rằng bạn muốn biết điều gì đó về X

2. Tôi biết vài điều về X và tôi nghĩ bạn nên biết

3. Tôi cho rằng tôi nên làm cho bạn hiểu và biết điều đó

4. Tôi nói: (...)

5. Tôi nói điều này bởi vì tôi muốn bạn biết điều đó

6. Tôi cho rằng bạn sẽ hiểu rằng đây không phải là điều có thể sai sự thật

7. Tôi cho rằng bạn sẽ biết điều đó bằng cách nói ra điều này.

[147, tr. 301]

Nhưng qua quá trình khảo sát nghiên cứu các phát ngôn thông báo, chúng tôi

nhận thấy, hành động thông báo không chỉ nhằm đạt tới đích trình bày một nhận định

với một niềm tin, đem lại thông tin cần thiết mà còn dẫn người nghe tới một phản

ứng tâm lí hoặc thực hiện một hành động nhất định. Từ đây, chúng tôi đưa ra cấu

trúc ngữ nghĩa cho hành động thông báo như sau:

1. X là tin tức Sp1 biết

2. Sp1 cho rằng Sp2 muốn biết X

3. Sp1 cho rằng Sp1 có trách nhiệm nói X cho Sp2

4. Sp1 nói X

5. Sp1 cho rằng nếu Sp1 không nói X thì Sp2 sẽ không biết X

6. Sp1 cho rằng, khi Sp1 nói X, Sp2 sẽ có phản ứng tâm lí hoặc hành động Y

tương ứng với với X mà Sp1 cung cấp.

Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa về hành động

thông báo trong tiếng Việt như sau: Thông báo là hành động mà trong một ngữ cảnh

nhất định, người phát ngôn Sp1 cung cấp thông tin gây hiệu lực đối với người tiếp

nhận Sp2 về nội dung sự tình.

31

Những ĐTNV được sử dụng phổ biến nhất để thực hiện hành động thông báo là:

thông báo, thông cáo, thông tin, báo, báo tin...

Theo Đại từ điển tiếng Việt [117, tr. 1524], động từ “thông báo” có nghĩa:

I đgt. Báo cho mọi người biết: thông báo cho các cán bộ trong cơ quan biết.

II dt. Bản thông báo: thông báo của nhà trường - đọc thông báo viết ở bảng tin.

Trong luận án, chúng tôi dùng nghĩa I.

1.2.3.2. Điều kiện sử dụng

Vận dụng 4 điều kiện J.R. Searle đưa ra (đã được trình bày ở [tr. 23] của luận

án), chúng tôi cho rằng điều kiện để thực hiện hành động thông báo là:

a. Điều kiện nội dung mệnh đề

Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất của HĐNN. Đối với hành động thông

báo thì nội dung mệnh đề chính là một sự tình đang được nói đến. Nội dung mệnh đề là

một mệnh đề, mệnh đề này có thể được đánh giá theo tiêu chuẩn đúng - sai logic.

(11). Sp1 (người trao): Thông báo với em chiều ni (nay) 1 giờ Khoa ta tập

trung đi viếng bố cô Chiên. Nhà Chiên ở xa nên cụng (cũng) không nhiều

người đi được, chị em ta cố gắng đi động viên, chia buồn cùng gia đình

Chiên em nhé. Có mặt ở cổng cơ sở 1 xe trường chở đi nha.

Sp1 (người tiếp nhận): Dạ.

Ở ví dụ (9), thông tin “chiều ni 1 giờ Khoa ta tập trung đi viếng bố cô Chiên” là

nội dung mệnh đề.

b. Điều kiện chuẩn bị

Khi thực hiện hành động thông báo, người nói cần có những hiểu biết nhất định

về sự tình; nguyện vọng, mong muốn, tâm thế, niềm tin, ý định, lợi ích... của người

nghe và mối quan hệ giữa người nói với người nghe. Trên cơ sở những hiểu biết này,

người nói mới xây dựng nội dung mệnh đề thông báo phù hợp với trạng thái tâm lí,

tinh thần của người tiếp nhận. Điều kiện chuẩn bị của hành động thông báo là:

1) Hiểu biết của người nói Sp1 về sự tình sẽ cung cấp; gây hiệu lực với người

nghe Sp2.

2) Người nói không chắc rằng người nghe biết nội dung thông tin nếu người nói

không nói ra.

32

c. Điều kiện chân thành

Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của người thực hiện

hành động thông báo.

Sp1 thực sự chân thành mong muốn Sp2 tiếp nhận thông tin; Sp2 có tâm thế sẵn

sàng tiếp nhận nội dung thông báo.

d. Điều kiện căn bản

Khi đưa ra nội dung thông báo, người nói phải chịu trách nhiệm về những điều

mình nói ra và phải nói như thế nào để nhằm dẫn Sp2 tin tưởng vào nội dung sự tình

Sp1 cung cấp.

1.2.3.3. Cơ sở nhận diện hành động thông báo - hồi đáp

Để nhận diện cặp hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp nói chung trong

đó có giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng ta có thể dựa vào:

a. Dựa vào việc người nói Sp1 sử dụng động từ ngữ vi “thông báo” trong phát

ngôn thông báo; người nghe Sp2 có phản ứng hồi đáp bằng ngôn ngữ.

Qua khảo sát cặp thoại thông báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi

nhận thấy, ĐTNV “thông báo” xuất hiện 545/1210 cặp thoại, chiếm 44,97%. ĐTNV là

dấu hiệu cơ bản, quan trọng để nhận diện tham thoại trao chứa BTNV thông báo tường

minh. Còn người nghe hồi đáp bằng ngôn ngữ (không phải hồi đáp bằng hành động

như tham thoại trao chứa động từ cầu khiến).

(12). Sp1: Thông báo với chị Nhung là năm ni (nay) những chị 50 tuổi trở lên

không phải trực tết nựa (nữa) nhé.

Sp2: Vui quá sếp ơi, các chị cảm ơn sếp nhiều nghe (nhé).

Trong ví dụ trên, hành động ngôn ngữ: “Thông báo với chị Nhung là năm ni

(nay) những chị 50 tuổi trở lên không phải trực tết nựa (nữa) nhé” của Sp1 là hành

động thông báo. Dấu hiệu đặc trưng của hành động này là ĐTNV “thông báo”, vai nói

được dùng ở ngôi thứ nhất, đứng ở vị trí đầu câu (tôi), người nghe ở ngôi thứ hai (anh)

và nội dung thông báo là “năm ni (nay) những chị 50 tuổi trở lên không phải trực tết”

được nói ở thời hiện tại. Về phía người nghe Sp2 đáp lại bằng ngôn ngữ bộc lộ cảm

xúc tích cực “vui” và hành động lịch sự “cảm ơn”.

Tuy nhiên, trong 1210 cặp thoại, trong đó tham thoại trao chứa hành động thông

báo của người Nghệ Tĩnh thu thập được, BTNV thông báo còn xuất hiện ở dạng

nguyên cấp (hàm ẩn): 665/1210 cặp thoại /lần, chiếm 55,03%. Các phát ngôn dạng này

33

do các phát ngôn có kết cấu trần thuật tạo ra và chúng (gần như) không có IFIDs đặc

trưng cho nên rất dễ lẫn với các BTNV nguyên cấp của các hành động khác. Do vậy,

để nhận diện ý nghĩa đích thực của hành động thông báo, bên cạnh việc dựa vào cấu

trúc ngữ nghĩa của nội dung mệnh đề, chúng tôi còn căn cứ vào những tiêu chí:

b. Dựa vào các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời - IFIDs

b1) Sử dụng các yếu tố dẫn nhập trong thành phần mở rộng của tham thoại

thông báo.

Tham thoại dẫn nhập cho hành động thông báo thường có cấu trúc: Sp2 biết tin

chưa?; Có tin vui/ Tin buồn/ Tin nóng hổi (của Sp1)+đây/ này (nè/nì…). Đây cũng là

một dấu hiệu quan trọng giúp nhận diện BTNV thông báo nguyên cấp trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh. Về phía người nghe, thường đáp lại bằng các hành động biểu thị

sự đồng tình/ không đồng tình/ ngờ vực hoặc biểu thị tình cảm, cảm xúc, cách ứng xử

với sự tình được Sp1 cung cấp.

(13). Sp1: Biết tin chi chưa? Thứ 7, chủ nhật ni đi học Tuần sinh hoạt công

dân mi nha. Kế hoạch về quê của tau mi tan tành mây khói rùi.

Sp2: Ừ, choa cụng nghe lớp trưởng lớp choa thông báo khi sáng rồi. Sầu

cả vạt (sầu quá).

Sp1 đã đưa vào kết cấu “Biết tin chi chưa?” nhằm báo trước sự xuất hiện của

hành động thông báo và thu hút sự chú ý của người nghe. Sp2 đã hồi đáp bằng ngôn

ngữ hướng đến đích (hiệu lực ở lời) để Sp1 biết Sp2 đã nghe thông báo.

b2) Sử dụng các từ ngữ chỉ nơi chốn, thời gian cụ thể sự tình diễn ra trong phát

ngôn thông báo.

Đây là yếu tố rất quan trọng giúp nhận diện hiệu lực thông báo trong các BTNV

thông báo nguyên cấp. Sp1 khi thông báo sẽ cung cấp thông tin rất cụ thể, rõ ràng về

địa điểm, thời gian sẽ diễn ra của sự tình để Sp2 biết và thực hiện.

(14). Sp1: Thu ơi, sáng mai, 6 giờ, đội bóng chuyền tập trung ở sân bóng thôn

tập nha. Tuần nựa (nữa) thi đấu rồi. O (cô) nhớ mà đi chơ (chứ) o (cô) là

hay quên, hay trốn lắm đo (đó).

Sp2: Ầy, em biết rồi đo (đó), sáng mai, 6 giờ không quên mô (đâu) mà ả

(chị) lo.

Ở ví dụ (14), người nói đã sử dụng các từ ngữ chỉ thời gian, nơi chốn cụ thể sự tình

34

diễn ra trong phát ngôn thông báo. Về phía người nghe, chú ý thực hiện hành động vào

đúng thời gian (sáng mai, 6 giờ) và địa điểm (sân bóng thôn) mà Sp1 cung cấp.

Trường hợp Sp1 không cung cấp rõ các yếu tố này, trong lời đáp Sp2 thường

xuất hiện hành động hỏi sau hành động đồng ý, đồng tình để biết cụ thể về thời gian,

địa điểm xảy ra sự việc.

(15). Sp1: Sáng thứ 7, lớp ta lao động dọn vệ sinh khu vực sân vận động của

trường em nhé.

Sp2: Dạ cô. Nhưng mà mấy giờ ta tập trung ạ?

b3) Sử dụng các tiểu từ tình thái gắn với nội dung mệnh đề: P + tiểu từ tình thái.

Trong phát ngôn thông báo, ta có thể thấy sự xuất hiện của một số tiểu từ tình thái

ở cuối phát ngôn có khả năng làm tăng sắc thái khẳng định cho hành động thông báo, báo

hiệu phát ngôn đã kết thúc như: đấy/ nhé/ nha/ nhá/ nghe/ nạ /nè…; hoặc tổ hợp từ tình

thái: rồi đấy/ rùi đấy, rồi đó/ rùi đó… Đặt trong ngữ cảnh, chúng cũng là một IFIDs để

nhận diện BTNV thông báo, đặc biệt là dạng nguyên cấp (không có ĐTNV).

(16). Sp1: Tin nóng hổi, tin nóng hổi mi ơi, con Thuỷ cuối tháng ni cưới nhá.

Sp2: Ừ, mừng cho hấn. 34 tuổi rồi chơ (chứ) ít chi mô nựa (gì nữa).

1.2.4. Khái quát về Nghệ Tĩnh và phương ngữ Nghệ Tĩnh

1.2.4.1. Khái quát về Nghệ Tĩnh

a. Điều kiện tự nhiên

Con người và môi trường tự nhiên luôn gắn bó mật thiết với nhau. Điều kiện tự

nhiên của Nghệ Tĩnh ảnh hưởng nhất định đến đời sống văn hóa của con người nơi đây.

Về vị trí địa lí: Xứ Nghệ bao gồm đất Nghệ An và Hà Tĩnh, thuộc khu vực Bắc

Trung Bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hóa; phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình; phía Đông

giáp Biển Đông và phía Tây giáp nước Lào. Tuy hai vùng hành chính khác nhau

nhưng đều là một, một tiểu vùng văn hóa thống nhất.

Về địa hình: Nghệ Tĩnh có chiều dài kéo dài từ Khe Nước Lạnh (Thị xã Hoàng

Mai) ở phía Bắc cho tới đèo Ngang ở phía Nam với chiều dài khoảng 200 km; chiều

ngang (rộng) từ bờ biển Đông đến biên giới Việt - Lào. Địa hình hẹp và dốc, nghiêng

từ Tây sang Đông. Tuy diện tích vừa phải nhưng hội đủ các vùng sinh thái: vùng rừng

núi, vùng đồng bằng, vùng ven biển. Sự đa dạng về môi trường sinh thái là yếu tố góp

phần tạo nên sự đa dạng về văn hóa.

35

Về khí hậu: Ngoài ảnh hưởng của nhiệt đới gió mùa, Nghệ Tĩnh còn chịu ảnh

hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền và miền Bắc Nam nên khí hậu thời tiết ở đây

rất khắc nghiệt.

b. Điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử văn hóa

Nghệ Tĩnh là một vùng đất nghèo, công nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ, nông nghiệp

giữa vai trò chủ đạo. Vì vậy, người dân nơi đây rất cần kiệm, chịu khó và ham học hỏi.

Đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp chính là tính cộng đồng.

Nghệ Tĩnh là mảnh đất có truyền thống lịch sử hào hùng gắn liền với quá trình

dựng nước và giữa nước của dân tộc. Nơi đây còn nổi danh là mảnh đất “địa linh nhân

kiệt” nơi sinh ra nhiều danh nhân văn hóa, nhiều tấm gương lớn về đạo đức và tài

năng: Đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Tự, Phan Bội Châu, Lê

Hồng Phong, Xuân Diệu,... và không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh -

danh nhân kiệt xuất được sinh ra trên mảnh đất này. Nghệ Tĩnh còn là nơi tạo dựng

nên bản sắc văn hóa phi vật thể độc đáo như: ca trù, dân ca Ví-Giặm, các lễ hội và

những giá trị văn hóa vật thể khác như: đền chùa, miếu mạo, danh lam thắng cảnh.

d. Thói quen trong tư duy, ứng xử

Những vấn đề lịch sử văn hóa mang nét riêng biệt, điều kiện tự nhiên khắc

nghiệt và hoàn cảnh kinh tế khó khăn đã tôi luyện nên một cộng đồng người Nghệ

Tĩnh có đặc điểm tâm lí, cốt cách văn hóa riêng.

Người Nghệ ham hiểu biết, học giỏi, đỗ đạt cao, có nhiều cống hiến cho đất nước;

chăm làm, cần cù, nhẫn nại, chịu khổ, chịu khó nên có thể sống và lập nghiệp được ở bất

cứ nơi nào; khẳng khái, trọng danh dự, đàng hoàng, dũng cảm, có bản lĩnh, sẵn sàng hi

sinh quyền lợi vật chất để có được sự thanh thản trong đời sống tinh thần; hào sảng, hài

hước, lạc quan trong mọi tình huống nên thường làm chủ được tình hình; Yêu nước, yêu

quê, mộc mạc, chân thành, tình nghĩa, có tinh thần đoàn kết bảo vệ lẫn nhau nên thường

tạo lập những cộng đồng người Nghệ mạnh nơi xa xứ; coi trọng nề nếp gia đình, cần

kiệm, chắt chiu, biết lo toan nên luôn luôn vượt qua gian khó… Đây chính là những tính

cách đã làm nên vẻ đẹp, chất lý tưởng, sự thanh tao của con người xứ Nghệ.

1.2.4.2. Phương ngữ Nghệ Tĩnh

a. Khái niệm phương ngữ

Thuật ngữ phương ngữ (dialect) đã có từ rất lâu trong ngôn ngữ học. Ở Việt

Nam, phương ngữ đồng nghĩa với các thuật ngữ lâu nay đã dùng: tiếng địa phương,

36

phương ngôn. Phương ngữ là biến thể địa phương của ngôn ngữ văn hóa. Những biến

thể địa phương này có liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ văn hóa và được thể hiện rõ ở

tính thống nhất và tính khác biệt, trong đó tính thống nhất đóng vai trò chủ đạo và nó

là cơ sở tạo nên tính thống nhất của một ngôn ngữ. Tuy nhiên, khi nghiên cứu phương

ngữ, các nhà nghiên cứu thường tập trung khai thác những biểu hiện của sự khác biệt -

điều làm nên nét riêng của các vùng phương ngữ.

Theo Hoàng Thị Châu: “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự

biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những những nét khác

tiếng địa phương là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng dân cư tại một

vùng, miền nhất định trên một lãnh thổ một nước” [20, tr.29].

Còn theo các tác giả Từ điển đối chiếu từ địa phương: “Phương ngữ hay còn

gọi là tiếng địa phương là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng dân cư

tại một vùng, miền nhất định trên một lãnh thổ một nước” [116, tr.3].

Như vậy, khái niệm phương ngữ tuy chưa có cách hiểu thống nhất ở các nhà

nghiên cứu song có thể nhận thấy phương ngữ là biến thể của ngôn ngữ toàn dân,

không tách rời ngôn ngữ toàn dân. Có thể hiểu phương ngữ là tập hợp những sự khác

biệt về tiếng nói của một vùng so với các vùng khác trong một quốc gia.

b. Phương ngữ Nghệ Tĩnh

Phương ngữ Nghệ Tĩnh được hình thành từ lâu đời, thuộc tiểu vùng phương ngữ

Bắc Trung Bộ, nơi còn bảo lưu được nhiều yếu tố cổ của tiếng Việt. Tiếng mà người

Nghệ An và Hà Tĩnh sử dụng tạo nên phương ngữ Nghệ Tĩnh.

Tác giả Hoàng Trọng Canh đã chỉ ra rằng: “Do phương ngữ Thanh Hóa và

phương ngữ Bình Trị Thiên mang đặc điểm chuyển tiếp nên có thể xem phương ngữ

Nghệ Tĩnh là phương ngữ đại diện tiêu biểu cho vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ.

Khác với vùng phương ngữ Bắc được hình thành do sự biến đổi chia tách ngôn ngữ

Việt Mường chung dưới sự tác động của tiếng Hán, vùng phương ngữ Trung là “vùng

Việt Mường cũung bị Việt hóa mạnh nên trở thành Việt” [11, tr.65].

Do đặc điểm tự nhiên, môi trường cư trú, điều kiện giao lưu tiếp xúc ngôn ngữ

trong lịch sử đã tạo cho phương ngữ Nghệ Tĩnh những nét riêng về mặt ngữ âm, từ

vựng, ngữ pháp so với ngôn ngữ toàn dân và các phương ngữ khác. Các kết quả

nghiên cứu đã chỉ ra những đặc trưng nổi bật của phương ngữ Nghệ Tĩnh như sau:

37

- Về ngữ âm

Về mặt ngữ âm, ấn tượng đầu tiên khi tiếp xúc ngôn ngữ với người Nghệ là

“giọng Nghệ”. Làm nên những nét riêng đó là do sự khác biệt về hệ thống thanh điệu,

hệ thống âm đầu, hệ thống vần và hệ thống âm cuối của phương ngữ Nghệ Tĩnh trong

tương quan với tiếng Việt toàn dân và các vùng phương ngữ khác.

Thanh điệu (tonality) được coi là một âm vị siêu âm đoạn, nó trải dài trên toàn

bộ âm tiết. Tiếng Việt có 6 thanh điệu: ngang, huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng. Tuy nhiên, 6

thanh điệu này không tồn tại một cách đầy đủ trong phương ngữ Nghệ Tĩnh. Theo

Hoàng Thị Châu, phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh không phân biệt thanh ngã với thanh

nặng. Cả 5 thanh tạo thành hệ thống thanh điệu khác với phương ngữ Bắc, có độ trầm

lớn hơn [20, tr.95]. Chẳng hạn: Hà Tĩnh thành Hà Tịnh, suy nghĩ thành suy nghị... Ở

một số địa phương, thanh ngã còn được phát âm thành thanh hỏi (đỗ đạt thành đổ đạt,

vĩ nhân thành vỉ nhân...). Hệ thống phụ âm đầu trong phương ngữ Nghệ Tĩnh xét về số

lượng khá phong phú, chỉ vắng mặt phụ âm /r/ rung. Phương ngữ Nghệ Tĩnh có mặt

đầy đủ ba phụ âm đầu quặt lưỡi /t, s, r/. So với phụ âm đầu, phần vần trong phương

ngữ Nghệ Tĩnh diễn biến rất phức tạp, có những vần phổ biến cho cả vùng, nhưng

cũng có những vần chỉ giới hạn trong những khu vực riêng...

Tóm lại, phương ngữ Nghệ Tĩnh, xét về mặt ngữ âm, có nhiều nét riêng như

trầm, âm vực thấp, đằm và phần đoạn tính có nhiều biến đổi, đối ứng cực kì phức tạp.

- Về hệ thống từ vựng

Từ địa phương được hiểu là vốn từ cư trú ở một địa phương cụ thể có sự khác

biệt với ngôn ngữ văn hóa hoặc với địa phương khác về ngữ âm và ngữ nghĩa [8, tr.

338]. Hệ thống từ vựng trong phương ngữ Nghệ Tĩnh là phương diện thu hút được sự

quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Bằng việc khảo sát các lớp từ cụ thể (lớp từ

xưng hô, lớp từ chỉ thời gian, lớp từ chỉ quan hệ họ hàng làng xóm, lớp tiểu từ tình

thái, lớp từ chỉ một số nghề nghiệp...) trên các phương diện hình thức cấu tạo và nội

dung ngữ nghĩa, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được cách nhìn nhận, lí giải về mô hình

thế giới, cách ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội người Nghệ Tĩnh.

Hoàng Trọng Canh trong [11] đã tiến hành thu thập vốn từ phương ngữ Nghệ

Tĩnh từ những nguồn ngữ liệu khác nhau (lời ăn tiếng nói hàng ngày và các tác phẩm

thơ ca dân gian do chính người địa phương sáng tạo nên). Kết quả khảo sát gồm các từ

38

và ngữ cố định, trong đó 6.188 đơn vị là từ, bao gồm các loại từ khác nhau. Qua nghiên

cứu, tác giả đi đến kết luận: Từ địa phương Nghệ Tĩnh được hình thành với một số lượng

phong phú, có tính hệ thống cho thấy ở đây những vấn đề về phân cắt thực tại, về đặc

điểm định danh, về cách nhìn, cách phản ánh thực tại của vốn từ địa phương tương ứng

với chủ nhân của vốn từ đó... Phân tích thực tại, cấu tạo, cách dùng, cách biểu hiện của

từ địa phương đã cho ta thấy quan hệ vốn từ với văn hóa vùng, với đặc trưng hành vi

ngôn ngữ trong lời nói giao tiếp ở địa phương [11, tr. 348].

- Về cách nói năng

Các nghiên cứu đã chỉ ra những nét khác biệt trong cách biểu đạt của người Nghệ

Tĩnh. Nguyễn Nhã Bản cho rằng, “cách tư duy, giao tiếp trong ngôn ngữ cho thấy người

Nghệ Tĩnh rất thông minh, sắc sảo nhưng cũng rất rõ ràng, dứt khoát trong các kiểu ứng

xử” [8, tr. 416]. Còn Đặng Lưu đưa ra nhận xét: “Người Nghệ thường có thói quen nói

cho rốt ráo, nói đến tận cùng những cảm nhận, những khen chê của mình. Dường như nói

như thế mới đã, mới gây ấn tượng, thu hút sự chú ý của người đối thoại”.

Tóm lại, những đặc điểm về điều kiện tự nhiên; lịch sử văn hóa; thói quen tư

duy, ứng xử; phương ngữ đã tạo nên những nét riêng trong văn hóa giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh nói chung và cách thức thực hiện hành động ngôn ngữ trong đó có cặp

thoại chứa hành động ngôn ngữ thông báo - hồi đáp nói riêng. Trong luận án, người

viết cũng sẽ cố gắng tìm hiểu, phân tích, lí giải và rút ra được những dấu ấn văn hóa

đặc trưng của người Nghệ Tĩnh khi thực hiện cặp thoại tương tác thông báo - hồi đáp.

Kế thừa và tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, đề tài chúng tôi vận

dụng lý thuyết ngữ dụng học, đặc biệt là lý thuyết hội thoại và lý thuyết hành động ngôn

từ để khảo sát cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh với hi vọng góp phần hoàn thiện thêm bức tranh phương ngữ Nghệ Tĩnh.

1.3. Tiểu kết chương 1

Qua những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi rút ra môt số nội dung chính

như sau:

a. Điểm lại ý kiến của những tác giả trong và ngoài nước về hành động ngôn

ngữ nói chung trong đó có hành động thông báo, chúng tôi nhận thấy hành động thông

báo trong tiếng Việt có được đề cập đến nhưng còn riêng lẻ, chưa xuất hiện thành cặp

tương tác trao - đáp, nhất là ở phương ngữ Nghệ Tĩnh.

39

b. Hành động ngôn ngữ thông báo trong hội thoại là hoạt động giao tiếp giữa vai

trao lời và vai đáp lời. Để tìm hiểu đặc điểm của cặp thoại chứa hành động thông báo -

hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi trình bày một số vấn đề về lí

thuyết hội thoại; lí thuyết hành động ngôn từ; vài nét về Nghệ Tĩnh và phương ngữ

Nghệ Tĩnh làm tiền đề lí thuyết quan trọng cho luận án.

c. Một số vấn đề lí thuyết cơ bản liên quan đến hành động trao - đáp trong hội

thoại cũng được trình bày: khái niệm hành động ngôn ngữ, các loại hành động ngôn

ngữ, phân loại hành động ở lời, điều kiện sử dụng hành động ở lời, phát ngôn ngữ vi,

biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi và các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời... (ở hai

chương tiếp theo, chúng tôi tiến hành nhận diện, miêu tả cấu tạo và ngữ nghĩa của

cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh).

d. Kế thừa quan điểm của một số tác giả đi trước về giao tiếp, các nhân tố giao

tiếp, các đơn vị hội thoại, quan hệ liên cá nhân trong hội thoại, luận án hướng đến chỉ

rõ sự chi phối của mối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại, sự phụ thuộc vào các nhân

tố giao tiếp như: nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, cách thức

giao tiếp... đối với việc thực hiện và tiếp nhận hành động thông báo.

đ. Luận án cũng đề cập đến cơ sở để nhận diện cặp hành động thông báo - hồi

đáp trong giao tiếp nói chung và của người Nghệ Tĩnh làm cơ sở để chúng tôi đi sâu

phân tích, mô tả cấu tạo, ngữ nghĩa của chúng ở chương 2, chương 3.

40

Chương 2

CẤU TẠO CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG THÔNG BÁO - HỒI ĐÁP

TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

2.1. Cấu tạo của cặp thoại và tham thoại

2.1.1. Cấu tạo của cặp thoại

Như đã trình bày ở chương 1, cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại tối thiểu nhưng

chưa phải là đơn vị nhỏ nhất. Cặp thoại được cấu tạo bởi các tham thoại. Thông

thường một cặp thoại gồm có một tham thoại có chức năng dẫn nhập (tham thoại trao)

và một tham thoại có chức năng hồi đáp (tham thoại hồi đáp).

Với tư liệu 2420 lời thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp, chúng tôi thấy

cấu tạo của cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh phổ biến gồm hai tham thoại: tham thoại trao và tham thoại đáp.

(17). Sp1: - Thông báo với em là chiều mai, 2 giờ ta họp chi bộ nha.

Sp2: - Chán chị hè, đợt ni (này) cuối năm học chơ (chứ) thấy họp suốt.

Ở ví dụ (17), tham thoại trao chứa hành động thông báo; tham thoại hồi đáp

chứa 2 hành động: hành động than vãn (chán) + hành động giải thích lí do (họp suốt)

(18). Sp1: - Mệ ơi, con thông báo với mệ một tin cực cực vui luôn (này) là con

được nhận danh hiệu nhà giáo trẻ Nghệ An tiêu biểu 2015 do Tỉnh đoàn

trao tặng đó mệ, thứ 7 ni (này) trao mệ nì (này).

Sp2: - (a) Chúc mừng con. (b) Con gấy mẹ khi mô (lúc nào) cụng (cũng)

giỏi. (c) Cố gắng tiếp tục phấn đấu nghe (nhé) con.

Trong (18), tham thoại trao chứa hành động thông báo; tham thoại hồi đáp

của Sp2 gồm ba hành động: (a) hành động chúc mừng, (b) hành động khen và (c)

hành động khuyến khích động viên.

Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau, các tham thoại có thể lớn hơn hai hoặc ít

hơn hai. Có trường hợp chỉ tồn tại một tham thoại: tham thoại trao là hành động thông

báo, không có tham thoại đáp. Trường hợp này xảy ra trong tình huống người nói (đại

diện tập thể, một tổ chức chính trị xã hội: thôn, xóm, y tế, hội phụ nữ, hội cự chiến

binh...) thông báo một thông tin (hành chính công vụ, hoạt động văn hóa, thể thao, hội

41

họp...) thường liên quan đến tập thể. Tuy vắng tham thoại hồi đáp nhưng khi nghe,

chúng ta vẫn xác định được đối tượng mà người nói hướng tới.

(19). Sp1: Thông báo với các chị em là đến hạn nộp phí công đoàn rồi nha. Tí

nộp giúp mình với.

Sp2: (mang tiền lại nộp)

Có trường hợp tồn tại ba tham thoại trở lên: tham thoại thứ nhất gây chú ý

khiến người nghe tập trung hơn vào điều mình sắp thông báo, tham thoại thứ 2 là phản

ứng của người nghe về điều mà người nói sắp thông báo (thường là hành động hỏi/cầu

khiến) và tham thoại thứ ba là tham thoại người nói đưa ra nội dung thông báo.

(20). Sp1: - Thông báo với em tin vui...

Sp2: - Chiều ni không phải đi họp dưới cơ sở 1 nữa hả chị?

Sp1: - Để chị nói hết đạ mô (cười). Thông báo với em chiều ni vẫn họp

bình thường, nhưng không phải 14 giờ mà là 14 giờ 30 em nha.

Hoặc tham thoại thứ nhất chỉ có một hành động, đó là hành động hỏi gây chú ý

ở người nghe; tham thoại thứ 2 cũng chỉ có 1 hành động hỏi lại là hành động đáp cho

thấy phản ứng của người nghe về điều người nói sắp thông báo và tham thoại thứ 3:

chứa động từ thông báo + nội dung thông báo.

(21). Sp1:- Biết tin chi chưa em?

Sp2: - Tin chi mà có vẻ bí mật rứa em?

Sp1: - Thông báo với em tin mật là Lý Mĩ thuật có quyết định chuyển vô

Xuân Lịnh (Lĩnh), đầu tháng sau là chuyển đó.

Như vậy, các cặp thoại chứa hành động ngôn ngữ thông báo - hồi đáp trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh đa dạng, linh hoạt về kết cấu. Tuy vậy, do kết quả tư

liệu, chúng tôi chỉ đi vào phân tích cặp thoại có hai tham thoại, trong đó tham thoại thứ

nhất là tham thoại trao (tham thoại chứa hành động thông báo), tham thoại thứ hai là

tham thoại hồi đáp (tham thoại chứa các hành động đáp lại hành động thông báo).

(22). Sp1: Chi ơi, thông báo với cậu là ngày mai lớp cậu lao động nha, 7 giờ

tập trung dọn sạch cỏ ở xung quanh sân vận động.

Sp2: Ok, cảm ơn cậu nhiều nhé.

Ví dụ (22) có cặp tham thoại trao - đáp, trong đó tham thoại trao có hành động

thông báo (chứa động từ ngữ vi thông báo) + nội dung mệnh đề (ngày mai lao động)

42

+ tiểu từ tình thái (tiểu từ tình thái nha thể hiện thái độ nói của Sp1 thân mật, gần gũi

có tính chất dặn dò với người nghe Sp2) + thành phần phụ đi kèm (hành động phụ

thuộc) nêu thời gian, nội dung công việc và địa điểm lao động (7 giờ tập trung dọn

sạch cỏ ở xung quanh sân vận động). Tham thoại đáp có hai hành động: hành động

đồng ý và hành động cảm ơn (lịch sự).

(23). Sp1: Cô thông báo với em là chiều thứ 4, lúc 2 giờ, tổ văn ta tổng duyệt

lần 1 câu lạc bộ Ngữ văn em nhé.

Sp2: Dạ, em dạy tiết 1, 2, 3 nên em xin phép lên muộn cô nhé.

Ví dụ (23) có cặp tham thoại trao - đáp. Tham thoại trao có hành động thông

báo (chứa động từ ngữ vi thông báo) + nội dung mệnh đề: chiều thứ 4, lúc 2 giờ, tổ

văn ta tổng duyệt lần 1 câu lạc bộ Ngữ văn + tiểu từ tình thái (tiểu từ tình thái nhé thể

hiện thái độ nói thân mật của S11 có tính chất dặn dò với người nghe Sp2). Tham thoại

đáp có hai hành động: hành động đồng ý và hành động xin phép.

(24). Sp1: 7 giờ 30 túi ni (tối nay) họp chi bộ nhé.

Sp2: Dạ, cảm ơn bác. Sáng ni (nay) cháu cụng (cũng) nghe chị Cúc thông

báo rồi ạ.

Ví dụ (24) có cặp tham thoại trao - đáp. Tham thoại trao có hành động thông báo

dạng nguyên cấp (không có động từ ngữ vi) chỉ gồm nội dung mệnh đề: 7 giờ tối nay

họp chi bộ + tiểu từ tình thái (tiểu từ tình thái nhé thể hiện thái độ nói của Sp1 thân

mật có tính chất dặn dò với người nghe Sp2). Tham thoại đáp có ba hành động: hành

động đồng ý, hành động cảm ơn (lịch sự) và hành động nhắc lại hành động thông báo.

Sau đây, xét trên bình diện cấu tạo, chúng tôi lần lượt đi sâu tìm hiểu cấu tạo

của tham thoại chứa hành động trao - đáp.

2.1.2. Cấu tạo của tham thoại

Tham thoại là cách tổ chức, sắp xếp các yếu tố ngôn từ tạo nên một hành động hay

chuỗi các hành động tạo lời của nhân vật hướng đến người nghe theo chức năng nhất định.

Về cấu tạo, một tham thoại gồm: hành động chủ hướng (viết tắt là HĐCH) +

các thành phần phụ (bao gồm hành động phụ thuộc - viết tắt HĐPT và các thành phần

mở rộng - viết tắt TPMR). Trong đó HĐCH là thành phần cốt lõi của tham thoại, là

yếu tố không thể vắng mặt trong cấu trúc tham thoại. Tuy nhiên, trong thực tế giao

tiếp, một tham thoại không phải bao giờ cũng xuất hiện ở dạng đầy đủ các yếu tố trên

43

mà cấu tạo của một tham thoại được quy định bởi đích giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp

và rất nhiều yếu tố ngoại tại khác. Việc sử dụng các thành phần phụ kết hợp với

HĐCH một cách hợp lí sẽ tạo điều kiện cho tham thoại đạt hiệu quả giao tiếp.

Qua thống kê cấu tạo tham thoại dẫn nhập thông báo và tham thoại hồi đáp

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi thấy:

Đối với tham thoại dẫn nhập thông báo, chúng có 2 dạng: a) tham thoại đơn

(tham thoại chỉ có 1 hành động đứng độc lập) và b) tham thoại phức (gồm hai hành

động ngôn ngữ trở lên, trong đó có HĐCH, các HĐPT và TPMR đi kèm).

Đối với tham thoại hồi đáp, chúng cũng có 2 dạng: a) 1 hành động và b) 2 hoặc

nhiều hơn 2 hành động.

(25). Sp1: Chiều ni sau khi họp Khoa xong ở lại họp Tổ luôn Huệ nha.

Sp2: Dạ cô.

(26). Sp1: (a) Lịch chụp kỉ yếu của lớp ta chuyển sang thứ 7 tuần sau nha cả

lớp, (b) tuần ni phải lao động rồi.

Sp2: Chán thế.

(27). Sp1: Lịch họp chi bộ chuyển sang 14 giờ chiều ni chú Hồng nha.

Sp2: (a) Được rứa (thế) thì còn chi nựa (còn gì nữa) bác. (b) Em đang lo

mất trận bóng túi ni (tối nay) đây bác.

Ví dụ (25), tham thoại trao được cấu tạo gồm 1 hành động: hành động thông

báo và tham đáp cũng gồm 1 hành động: hành động đồng ý.

Ví dụ (26), tham thoại trao được cấu tạo gồm 2 hành động: HĐCH thông báo (a) +

HĐPT giải thích lí do (b); tham thoại đáp được cấu tạo gồm một hành động: hành động bộc lộ

(than vãn).

Còn ở ví dụ (27), tham thoại trao chỉ bao gồm HĐCH thông báo còn tham thoại

đáp được cấu tạo từ 2 hành động: HĐCH đồng ý (a) + HĐPT giải thích lí do (b).

Trong nhiều trường hợp, cả tham thoại trao thông báo và tham thoại hồi đáp đều

được cấu tạo gồm nhiều hành động. Chẳng hạn,

(28). Sp1: - (a) Mệ ơi, (b) con thông báo với mệ một tin cực cực vui luôn nì

(này): con được nhận danh hiệu nhà giáo trẻ Nghệ An tiêu biểu 2015 do

Tỉnh đoàn trao tặng đó mệ, (c) thứ 7 ni (này) trao mệ nì (này).

Sp2: - (a) Chúc mừng con. (b) Con gấy mệ khi mô (lúc nào) cụng (cũng)

giỏi. (c) Cố gắng tiếp tục phấn đấu nghe (nhé) con.

44

Ở ví dụ (28), tham thoại trao thông báo ngoài thành phần chính là BTNV thông

báo (b) còn có TPMR hô gọi (a) thu hút sự chú ý của người nghe “mệ ơi” và HĐPT (c)

có chức năng làm rõ thời gian cụ thể diễn ra sự tình mà người nói đề cập. Những thành

phần này đã giúp cho hành động đạt hiệu quả giao tiếp như mong muốn được thể hiện

qua tham thoại hồi đáp tích cực của Sp2 bằng 3 hành động: hành động chúc mừng (a)

+ hành động khen (b) + hành động khuyến khích động viên.

Tìm hiểu cấu tạo của cặp thoại chứa hành động thông báo và hồi đáp trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi không chỉ quan tâm đến HĐCH mà còn chú ý đến

các HĐPT và các TPMR. Ngoài ra, sự tương tác giữa tham thoại chứa hành động

thông báo và các tham thoại hồi đáp cũng quan trọng trong việc đánh giá thái độ của

người nghe, chỉ ra sự chi phối của nhân tố ngữ cảnh, mối quan hệ liên nhân, nội dung

mệnh đề trong việc hiện thực hoá cặp thoại này.

2.2. Thống kê và mô tả cấu tạo cặp thoại thông báo - hồi đáp trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh

2.2.1. Cấu tạo của tham thoại trao chứa hành động thông báo

2.2.2.1. Thống kê định lượng

Cấu tạo tham thoại chứa hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ

Tĩnh thường gồm một hành động thông báo và có một hoặc nhiều thành phần phụ đi

kèm. Tùy thuộc vào mục đích của người nói và tùy vào ngữ cảnh cụ thể, thành phần

phụ đi kèm có thể đứng trước hoặc sau hành động thông báo.

Trong 1210 cặp thoại ngữ liệu thu thập được, tham thoại chứa hành động thông

báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh xuất hiện dưới 2 dạng:

1. Tham thoại thông báo có hành động thông báo đứng độc lập

2. Tham thoại thông báo có hành động thông báo và các thành phần phụ đi kèm.

Kết quả khảo sát cấu tạo tham thoại thông báo trong giao tiếp của người Nghệ

Tĩnh như sau:

45

Bảng 2.1. Thống kê số lượng các dạng tham thoại chứa hành động thông báo

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

Tham thoại Số lượng Tỷ lệ % TT

Tham thoại thông báo có hành động thông báo 325 26,86 1 đứng độc lập

Tham thoại thông báo có hành động thông báo và 885 73,14 2 các thành phần phụ đi kèm.

Tổng 1210 100

Từ bảng 2.1, chúng ta thấy: có 325 tham thoại chỉ có thành phần BTNV của

HĐCH thông báo đứng độc lập (chiếm 26,86%) và 885 tham thoại có chứa HĐCH

thông báo và một/ một số thành phần phụ đi kèm (chiếm 73,14%). Như vậy, trong giao

tiếp thực tế, số tham thoại có HĐCH thông báo và các thành phần phụ đi kèm nhiều gấp

2,7 lần so với số tham thoại chỉ có BTNV của HĐCH thông báo đứng độc lập. Điều này

cho thấy mức độ phổ biến, thông dụng của các thành phần phụ đi kèm HĐCH thông báo

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh nói riêng, người Việt nói chung.

2.2.2.2. Mô tả hành động thông báo và thành phần phụ đi kèm

a. Hành động thông báo

Tham thoại chứa hành động thông báo đứng độc lập là tham thoại có lõi là

BTNV thông báo. Căn cứ vào sự có mặt/ không có mặt của ĐTNV “thông báo”,

chúng tôi thấy BTNV thông báo được thể hiện ở hai dạng: nguyên cấp và tường

minh. BTNV thông báo tường minh là công thức nói năng của hành động thông báo,

trong đó, động từ “thông báo” được dùng với chức năng ngữ vi. Còn BTNV thông

báo nguyên cấp là công thức nói năng có hiệu lực ngữ vi “thông báo” nhưng không

sử dụng ĐTNV. Mô tả hành động thông báo đứng độc lập chính là mô tả các thành tố

cấu tạo nên BTNV thông báo tường minh và nguyên cấp. Chúng tôi nhận thấy BTNV

thông báo nguyên cấp ứng với thành tố nội dung mệnh đề - nội dung thông báo của

BTNV thông báo tường minh. Vì có sự trùng lặp như vậy nên khi phân tích cấu tạo

của BTNV thông báo tường minh, chúng tôi coi việc mô tả các đặc điểm của thành tố

nội dung mệnh đề - nội dung thông báo, cũng chính là mô tả các đặc điểm của BTNV

thông báo nguyên cấp.

46

BTNV thông báo tường minh ở dạng đầy đủ gồm 4 thành tố: động từ ngữ vi

thông báo (kí hiệu là Đg); người nói - chủ thể thông báo (kí hiệu là Sp1); người nghe -

đối tượng tiếp nhận nội dung thông báo (kí hiệu là Sp2); nội dung mệnh đề - nội dung

thông báo: thông tin nhất định về người hay sự vật, sự việc, hiện tượng được Sp1 nói

đến (kí hiệu là P). Tùy vào tình huống giao tiếp, quan hệ liên cá nhân, thành tố Sp1 và

Sp2 có thể vắng mặt.

Mô hình đầy đủ của BTNV thông báo tường minh được xác định như sau:

(Chú thích: + luôn xuất hiện; ± có thể xuất hiện hoặc có thể không)

± Sp1 + Đg ± Sp2 + P

(29). Sp1: Tôi xin thông báo với các đồng chí là đã đến hạn nộp tiền công

đoàn phí quý II rồi nha.

Sp1 Sp2 Đg P

(xin) (là) đã đến hạn nộp tiền công đoàn phí Tôi (với) các đồng chí thông báo quý II rồi (nha).

Ở tham thoại thông báo, hành động chính là hành động thông báo. Hành động

này là chỗ dựa, là cơ sở cho hồi đáp bằng lời hoặc không bằng lời do quan hệ liên

nhân chi phối. Trên thực tế, hành động thông báo được người nói thực hiện linh hoạt

bằng nhiều hình thức biểu đạt khác nhau. Mỗi hình thức thể hiện đó cho phép chủ

ngôn hiện thực hoá nội dung mệnh đề bằng lời nhằm tăng hiệu lực tác động đến người

tiếp ngôn. Dưới đây, chúng tôi lần lượt miêu tả từng yếu tố này.

a1) Người nói Sp1

Trong một BTNV thông báo tường minh, thành tố Sp1 là chủ thể thực hiện

hành động thông báo, luôn xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít và số nhiều. Người Nghệ

Tĩnh không chỉ sử dụng các từ xưng hô trong tiếng Việt toàn dân mà còn sử dụng các

từ xưng hô thuộc phương ngữ Nghệ Tĩnh.

- Sp1 được cấu tạo là từ, bao gồm đại từ và danh từ

Các đại từ được sử dụng để xưng: tôi/ tui/ tau/ tớ/ mình/ chúng tôi/ choa

(30). Tôi xin thông báo là 7h30, sáng thứ 7 tuần này, chúng ta sẽ học Nghị

quyết Trung ương VIII, Khóa XI tại hội trường các đồng chí nha.

47

- Các nhóm danh từ dùng để xưng bao gồm: danh từ chỉ quan hệ thân tộc (ông/

bà/ o/ chú/ dì/ dượng/ anh/ ả/ em…); danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (tổ trưởng/ thầy/

cô/ hiệu trưởng/ trưởng Khoa…); danh từ chỉ đơn vị, tổ chức chính trị xã hội (công

đoàn, chi bộ...). Ở thành phần Sp1, không thấy có sự xuất hiện của danh từ riêng.

(31). Chị thông báo với em là sáng mai, 7 giờ 30 đội ta họp em nhé!

(32). Công đoàn xin thông báo là đã đến hạn nộp tiền công đoàn phí rồi các

đồng chí nhé.

- Sp1 được cấu tạo là tổ hợp từ (cụm danh từ), bao gồm: các tổ hợp từ chỉ chức

vụ, nghề nghiệp (chủ tịch công đoàn, bí thư chi bộ...) và các tổ hợp từ chỉ đơn vị, tổ

chức chính trị, xã hội (Liên chi đoàn Khoa, Đoàn trường,...).

(33). Liên chi đoàn Khoa xin thông báo với các đồng chí trong Ban chấp hành

là vào tối ngày 24 tháng 9 năm 2018, Liên chi đoàn ta sẽ tổ chức đại hội

chi đoàn cho sinh viên năm hai và ba. Các đồng chí thông báo, đốc thúc

và giúp đỡ để các chi đoàn tổ chức tốt đại hội.

Sự có mặt của Sp1 trong mô hình cấu tạo của BTNV thông báo tường minh thể

hiện sự tôn trọng của Sp1 với Sp2; làm tăng tính trang trọng, lịch sự và quan trọng cho nội

dung thông báo. Tuy nhiên sự hiện diện của thành phần này không bị coi là bắt buộc.

(34). Thông báo với cả Phòng, chiều thứ 7 tuần ni (này) Phòng ta đi Cửa Lò nha.

(35). Thông báo ở đây cấm lửa.

Chủ thể thông báo bị tỉnh lược có thể là người nói như ví dụ (32); hoặc đại diện

cho tổ chức có quyền lực có hiệu lực đối với Sp2 như ví dụ (33): Sp1 ẩn đi là tổ chức

có quyền ra lệnh cấm).

Còn đối tượng tiếp nhận thông báo Sp2 có thể xuất hiện hoặc bị tỉnh lược.

a2) Người nghe Sp2

Sp2 là đối tượng tiếp nhận nội dung thông báo, luôn ở ngôi thứ 2 (số ít và số

nhiều). Sp2 luôn đứng sau động từ “thông báo” và luôn có mặt khi hành động thông

báo được thực hiện.

Xét về mặt cấu tạo: Sp1 được cấu tạo là từ hoặc tổ hợp từ. Người Nghệ Tĩnh

không chỉ sử dụng các từ/ tổ hợp từ xưng hô trong tiếng Việt toàn dân mà còn sử dụng

từ/ tổ hợp từ thuộc phương ngữ Nghệ Tĩnh để xưng hô tạo nên màu sắc riêng khi thực

hiện hành động thông báo.

48

- Sp2 được cấu tạo là danh từ hoặc tổ hợp từ:

+ Là danh từ

Theo khảo sát của chúng tôi, ở vị trí tiếp ngôn, Sp2 xuất hiện 43 danh từ bao

gồm danh từ riêng (An, Huệ, Nga…); danh từ thân tộc (ênh/ ả/ o/ chị/ em…, không kể

người nói Sp1); danh từ chỉ chức vụ nghề nghiệp (thầy/ cô/ sếp); danh từ chỉ quan hệ

xã hội (bờm/ nàng/ hàng xóm).

+ Là tổ hợp từ

Dùng để gọi Sp2, trong tư liệu xuất hiện 19 tổ hợp từ như: danh từ + động từ

(chồng yêu/ chị yêu…); danh từ + tính từ (ngài đẹp/ bạn hiền); Danh từ thân tộc +

danh từ thân tộc (chị em/ ênh ả/ cậu mự…); danh từ thân tộc + danh từ riêng (thầy

Sơn/ cô Huệ…); từ chỉ lượng + danh từ (cả lớp/ toàn Khoa/ các chị em/ các đồng

chí…); Danh từ thân tộc + danh từ thân tộc + danh từ chỉ đơn vị, tổ chức (chị em chi

hội/ chị em chi hội phụ nữ…).

(36). Thông báo với ả là chủ nhật ni (này) đội bóng chuyền hơi thôn Bàu Láng

ta có trận giao lưu với thôn Thống Nhất chào mừng ngày 30 tháng 4,

mồng 1 tháng 5, 3 giờ chiều có mặt ỏ sân bóng thôn ta ả nha.

(37). Xin thông báo với các đồng chí đảng viên trong chi bộ là vào lúc 7 giờ,

ngày 24 tháng 10, chi bộ ta tổ chức đại hội chi bộ tại phòng họ 2, tầng 4,

nhà hiệu bộ nhé; trang phục nam quần đen, áo trắng, cà vạt; nữ áo dài

truyền thống. Đề nghị các đồng chí có mặt đúng giờ nhé.

- Khi diễn tả đối tượng tiếp nhận hành động thông báo, Sp2 thường nối với

động từ “thông báo” bằng quan hệ từ với, để, cho: thông báo với chị em, thông báo để

toàn khoa,… theo mô hình: Sp1… thông báo để/với/cho/để cho Sp2 biết/là… Sp2 có

thể là cá thể (đồng chí An/ cô Hoa/ chị Ngà…) hoặc tập thể (các đồng chí/ các đoàn

viên/ cả phòng…). Sự có mặt của Sp2 trong cấu trúc thông báo làm cụ thể hoá đối

tượng tiếp nhận, tăng sự trang trọng, lịch sự, sự chú ý của người nghe về tầm quan

trọng của nội dung thông báo. Tuy nhiên, sự có mặt của Sp2 trong BTNV thông báo

tường minh là không bắt buộc; Sp2 có thể vắng mặt.

(38). Tôi xin thông báo, 7h30, sáng thứ 7 tuần này, chúng ta sẽ học Nghị quyết

Trung ương VIII, Khoá XI tại hội trường, các đồng chí nhớ có mặt đúng giờ.

Trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định, thành tố Sp1 và Sp2 có thể được

tỉnh lược chỉ còn ĐTNV và nội dung mệnh đề.

49

(39). Thông báo, thông báo xóm ta vừa có một em hót gơn (hotgirl) chuyển đến

mi (mày) ơi.

a3) Động từ ngữ vi

Động từ “thông báo” là động từ có hiệu lực ngữ vi (cùng với nội dung thông

báo đứngg sau) là hạt nhân cấu thành nên biểu thức ngôn ngữ biểu thị hành động thông

báo trực tiếp, không thể lược bỏ trong bất kì hoàn cảnh nào.

Động từ “thông báo” được sử dụng trong chức năng ngữ vi khi và chỉ khi chủ thể

thông báo ở ngôi thứ nhất (số ít) (nếu dùng số nhiều theo nguyên tắc lịch sự: “chúng ta,

chúng tôi”), đối thể nhận thông báo ở ngôi thứ hai, thời điểm nói hiện tại. Ngoài những

tiêu chí trên, để tạo nên hiệu lực ngữ vi, trước động từ “thông báo”, người nói (SP1)

không được sử dụng các phụ từ chỉ thời gian như: đã, đang, sẽ… bởi vì, nếu thêm vào

các phụ từ trước động từ thông báo thì chúng không còn được sử dụng ở chức năng ngữ

vi mà chỉ có thể sử dụng với chức năng miêu tả.

Thông thường, hiệu lực ngữ vi của một BTNV tường minh được tập trung ở

ĐTNV. Riêng với các nhóm động từ nói năng nhóm thông tin, cụ thể ở đây là động từ

“thông báo”, chúng tôi nhận thấy: Hiệu lực ngữ vi của BTNV thông báo tường minh

không tập trung ở ĐTNV mà được tập trung chủ yếu ở nội dung thông tin (Cao Xuân

Hạo gọi là nội dung sự tình). Đây là điểm khác biệt với các nhóm ĐTNV khác trong

tiếng Việt như nhóm biểu thị hành động cảm ơn, xin lỗi, thề, thỉnh cầu… Với các

nhóm động từ này, trong ngữ cảnh cho phép có thể tỉnh lược, rút gọn thành tố nội dung

mệnh đề chỉ giữ lại động từ ngữ vi nhưng hành động đó vẫn có được hiệu lực ngữ vi

của nó. Chẳng hạn:

Sp1: Anh phải hứa với em là sẽ không hút thuốc nữa nhé.

Sp2: Anh hứa.

Ngược lại, với hành động thông báo, chúng tôi nhận thấy rằng trong bất cứ

hoàn cảnh giao tiếp nào thì thành tố nội dung thông tin cũng không thể được tỉnh lược.

Bởi nếu không có nội dung thông tin thì hành động thông báo sẽ không có hiệu lực ở

lời của nó.

Sở dĩ nội dung thông tin không thể tỉnh lược là do: Hành động thông báo có

đích là chuyển tải thông tin tới đối tượng tiếp nhận và tác động vào tình cảm, nhận

thức, hành động của đối tượng, mà thông tin lại nằm ở thành tố nội dung miêu tả. Một

50

điểm nữa là thông tin miêu tả trong hành động thông báo theo người nói Sp1 là mới,

có giá trị đối với người nghe. Nếu như hành động hứa ở ví dụ trên, trong ngữ cảnh cho

phép, có thể lược bỏ nội dung mà vẫn có hiệu lực ngữ vi và được người nghe chấp

nhận, vì đã hiểu được đối phương hứa điều gì. Nội dung mệnh đề ở các biểu thức ngữ

vi do động từ hứa, thề, đảm báo, xin… là cái đối ngôn đã biết, đã được thống nhất. Nội

dung mệnh đề của các hành động hứa, thề, cầu xin, cam kết biểu thị hiện thực trong

tương lai mà người nói SP1 cần thực hiện đã được tạo ra bởi chính người tiếp nhận

(người đưa ra yêu cầu với Sp2). Hiện thực được người tiếp nhận hứa, cầu xin, cam kết

(Sp1- người yêu cầu) tạo ra và đem áp đặt cho chính người hứa. Do vậy, nội dung

mệnh đề của hứa trong trường hợp này là cái đã biết, đã được thống nhất giữa các đối

ngôn - nó không quan trọng với người nói mà quan trọng với Sp1 là sự thực hiện hành

động hứa, thề, cầu xin, cam kết về hành động được thực hiện trong tương lai được biểu

thị trong nội dung mệnh đề đó do Sp2 thực hiện. Vì thế, nó có thể tỉnh lược mà tham

thoại chứa hành động ngôn ngữ hứa do Sp2 tạo ta vẫn có hiệu lực ngữ vi.

Đối với hành động thông báo thì khác, hiện thực trong nội dung miêu tả không

được tạo ra bằng chính hành động thông báo mà nó là cái có trước, độc lập với hành

động thông báo. Không có hành động thông báo thì nó vẫn tồn tại. Người thông báo là

người biết về hiện thực này và thấy rằng có trách nhiệm phải thông báo hiện thực đó cho

người nghe (vì người nói cho rằng nếu không thông báo thì người nghe sẽ không biết).

Hiện thực này được phản ánh qua nội dung miêu tả chứ không phải động từ thông báo.

Chính vì vậy, một điều lí thú là hành động thông báo chỉ được thực hiện bằng nội dung

miêu tả hiện thực. Động từ thông báo trong tham thoại chứa BTNV thông báo tường

minh chỉ có chức năng phản ánh cách thức thông tin về hiện thực trong nội dung miêu tả

của người nói Sp1 đối với người nghe Sp2 mà thôi. Cho nên khi người nói nói với người

nghe BTNV thông báo tường minh như: “Tôi thông báo với anh…” mà không đưa ra

nội dung miêu tả của hành động này thì rõ ràng người nói không thể được coi là đã thực

hiện hành động thông báo với người nghe.

Đây cũng chính là điểm khác biệt giữa nhóm thông báo nói riêng và thông tin

nói chung với nhiều hành động khác như cam kết, thỉnh cầu,… Điều này cũng lí giải vì

sao hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh được sử dụng nhiều ở

dạng nguyên cấp (665 lần).

51

Cũng như các động từ thuộc nhóm thông tin khác, động từ thông báo có thể kết

hợp với một số từ như xin, xin được, xin trân trọng… ở phía trước nhằm tăng sự chân

thành và tính trang trọng của hành động và tăng thêm hiệu lực ngữ vi của tham thoại

chứa BTNV thông báo tường minh. Đi sau thường xuất hiện các từ chỉ đặc điểm, tính

chất của thông tin ở phía sau như tin vui, tin buồn, tin giật gân, tin sốt dẻo, tin hot, tin

cực hot… nhằm chuẩn bị trước về mặt tâm lí cho người tiếp nhận nội dung thông báo.

(40). Cháu xin trân trọng thông báo với bà một tin cực kì vui là tết năm ni

(nay) cả nhà Bác Xoan, Chú Lam, o Lài đều về mừng thọ 90 của bà đấy.

(41). Thông báo tin vui cho chị Thảo là năm ni (nay) quy định trực hè có thay

đổi, những chị từ 50 tuổi trở lên không phải đi trực nữa chị nghe (nhé).

a4) Nội dung mệnh đề

Đây là thành tố quan trọng, tập trung thể hiện hiệu lực ngữ vi của BTNV thông

báo. Trong bất cứ hoàn cảnh giao tiếp nào, thành tố này cũng không bị tỉnh lược, bởi nếu

không có nội dung mệnh đề thì ngay lập tức hành động thông báo sẽ mất đi hiệu lực ở lời

của nó cho dù BTNV vẫn có ĐTNV và ĐTNV vẫn đảm bảo các tiêu chí về ngôi, thời…

Những thông tin trong nội dung mệnh đề thường được nêu một cách tường

minh, rõ ràng để người nghe có thể căn cứ vào đó nhận thức rõ và nếu được sẽ đưa ra

hành động phù hợp đúng như mong muốn của người nói khi thực hiện hành động

thông báo.

Tin tức trong nội dung mệnh đề là những tin tức chính xác và Sp1 phải chịu

trách nhiệm về độ tin cậy của thông tin mà mình thông báo. Đây cũng là điểm khác

biệt của hành động này so với một số hành động thông tin khác như: đồn, phao, tung

tin… Có thể nói cấu trúc nghĩa của nội dung mệnh đề chính là IFIDs quan yếu nhất để

nhận diện hành động thông báo bên cạnh IFIDs đặc biệt đánh dấu cho BTNV thông

báo tường minh là ĐTNV biểu thị hành động thông báo.

Nội dung mệnh đề thông báo trong BTNV thông báo xuất hiện sau Sp2. Cấu tạo

của nội dung mệnh đề thông báo trong BTNV gồm hai thành tố: X là chủ thể trong nội

dung mệnh đề thông báo do người nói đưa ra, X có thể là Sp1, Sp2 hoặc đối tượng

nằm ngoài Sp1, Sp2 (Sp3) nhưng cả Sp1 và Sp2 đều biết và có liên quan; V là thành

phần (từ, cụm từ) biểu thị nội dung thông báo. Ở dạng này, chúng ta có thể quy về mô

thức: P = X + V

52

X trong nội dung mệnh đề thông báo có thể có mặt hoặc vắng mặt. Biểu thức có

mặt X gồm các dạng sau đây:

- X là một từ, đại từ hoặc danh từ:

(42). Thông báo với mi (mày) tin vui là mi (mày) có tên trong danh sách khen

thưởng những học sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc của xạ (xã) ta

đó. Sướng nha!

(43). Cô ơi, em thông báo với cô tin vui là em chuẩn bị có quyết định đi dạy

rồi cô ạ.

- X là một tổ hợp từ, gồm các dạng như: danh từ thân tộc + danh từ riêng (chị

Hương, Cô Hoa… - nằm ngoài Sp1, Sp2); từ chỉ lượng + danh từ (toàn Khoa, cả

Phòng…); danh từ + đại từ (lớp mình, đội ta, mấy đứa bây…); danh từ + danh từ (vợ

chồng con, bộ phim “Hậu duệ mặt trời”, chị em phụ nữ thôn 7…); đại từ + quan hệ từ

+ đại từ (tau với mi); danh từ + quan hệ từ + danh từ (K36A và K 36 B); danh từ + đại

từ (vợ chồng tau, gia đình choa…)…

(44). Trong cuộc họp hôm nay, tôi cụng (cũng) xin thông báo với bà con thôn

Mỹ Lộc ta tin vui là đội bóng đá nam thôn ta đạ (đã) vô (vào) đến trận

chung kết,15 giờ thứ 7 tuần ni (này) sẽ đá trận chung kết với đội bóng

đá nam thôn Nam Cát. Mời bà con đến cổ vủ (vũ) thật đông để các cầu

thủ có tinh thần chiến đấu giành chức vô địch nhé.

(45). Thông báo với mi (mày) tin bùn (buồn) là tau với mi (tao với mày) phải

phụ trách cấy (cái) phần công nghệ thông tin trong Hội thi văn nghệ

chào mừng năm mới Mậu Tuất của Phường ta mi nì (mày này).

Điều đặc biệt là trong thành phần X của nội dung mệnh đề thường xuất hiện

hiện tượng kiêm ngôi khi X là số đông. Chẳng hạn: lớp ta, phòng mình, Khoa ta, chị

em ta, anh em mình…

(46). Thông báo với cả lớp là thứ 7, chủ nhật tuần ni (này) K37 ta học Tuần

sinh hoạt công dân nhé.

Các danh từ chỉ chức vụ, vị thế xã hội không thấy xuất hiện trong thành phần X

của nội dung mệnh đề.

V trong nội dung mệnh đề thông báo được cấu tạo là tổ hợp từ (có lao động

đấy/ có lịch coi thi tuần sinh hoạt công dân vào sáng thứ 7 đấy/ đổi tiền mừng tuổi cho

53

chị rồi đấy/ mua xe ô tô rồi đấy, họp lúc 2 giờ nhé…). V là thành tố quan trọng cho

thấy được sự đa dạng về sự tình mà người nói muốn thông báo và định hướng người

nghe có hành động, thái độ phù hợp.

(47). Thông báo với Huệ là sáng thứ 7, em có buổi họp trên Sở nha, 7 giờ 30

có mặt, em nhớ đi cho đúng giờ đó.

Ngoài hai yếu tố là X và V, trong nội dung mệnh đề còn xuất hiện yếu tố chỉ

thời gian, địa điểm làm cụ thể hóa cho nội dung thông báo. Yếu tố này xuất hiện nhằm

gia tăng tính chính xác và độ tin cậy cho nội dung mà Sp1 thông báo. Đây cũng là 1

IFIDs quan trọng giúp nhận diện BTNV thông báo nguyên cấp. BTNV thông báo

nguyên cấp như chúng tôi đã nói ứng với thành tố nội dung mệnh đề - nội dung thông

báo của BTNV thông báo tường minh. Cho nên có thể dựa vào quan hệ giữa các thành

tố trong cấu trúc vị từ - tham thể tạo nên nội dung mệnh đề để xác định BTNV thông

báo nguyên cấp. Chẳng hạn, một số cấu trúc điển hình sau đây:

- Cấu trúc “Thời gian (tương lai gần) + V + địa điểm sẽ xảy ra sự tình ”

(48). 8 giờ sáng thứ 5 tuần ni (này), họp Ban chấp hành Liên chi đoàn ở văn

phòng Khoa Diệu nghe (nhé).

- Cấu trúc “Thời gian (tương lai gần) + X + V+ địa điểm sẽ xảy ra sự tình”

(49). 2 giờ, chiều thứ tư, Phòng ta tập trung để chuyển đồ lên trụ sở mới nha.

Tóm lại, trong một tham thoại bao giờ cũng tồn tại ít nhất một hành động chính,

mang đích giao tiếp hay thể hiện chủ đề của phát ngôn. Nó có chức năng định hướng

và quyết định hành động đáp lời thích hợp với người đối thoại nếu nó ở phần dẫn

nhập. Nó đòi hỏi sự đáp lại hay gây ra sự đáp lại. Trong mọi trường hợp, hành động

chính của tham thoại luôn đóng vai trò trụ cột, làm chỗ dựa cho sự tồn tại của tham

thoại. Ở tham thoại thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, hành động chính

là hành động thông báo. Hành động này là chỗ dựa, là cơ sở cho hồi đáp bằng lời hoặc

không bằng lời do quan hệ liên nhân chi phối.

b. Mô tả hành động đi kèm hành động thông báo

Trong tham thoại thông báo, ngoài thành phần hạt nhân là hành động thông báo

với cốt lõi là BTNV thông báo thì có thể còn có một số thành phần phụ đi kèm. Thành

phần phụ này là thành phần có liên kết về lập luận với hành động chủ hướng thông báo

54

và thực hiện chức năng bổ sung, hỗ trợ cho hành động chủ hướng thông báo, nhưng

không bắt buộc người nghe phải hồi đáp lại thông tin. Ví dụ:

(50). Tin sốt dẻo đây! Phòng ta chính thức có “sếp” mới nhé.

Các thành phần phụ đi kèm phụ thuộc vào HĐCH thông báo đồng thời chịu chi

phối bởi ngữ cảnh giao tiếp, vì thế hình thức biểu đạt, vị trí và chức năng của chúng

trong tham thoại thông báo cũng rất đa dạng, linh hoạt. Việc sử dụng các thành phần

phụ kết hợp với BTNV thông báo một cách hợp lí trong tham thoại thông báo sẽ giúp

tăng cường hiệu quả giao tiếp.

b1) Thống kê định lượng

Trong 885 tham thoại có thành phần phụ đi kèm hành động chủ hướng thông

báo, chúng tôi nhận thấy có những tham thoại chỉ có một thành phần phụ và có những

tham thoại chứa nhiều thành phần phụ. Ví dụ:

- Tham thoại thông báo có một thành phần phụ:

(51). Thông báo với cả Đội là chiều ni (nay) Đội ta đi thăm mẹ chị Hoa đội

trưởng ốm nhé, 5 giờ tập trung ở cổng bệnh viện Ba Lan nha mọi người.

- Tham thoại thông báo có nhiều thành phần phụ:

(52). Ả (chị) Thanh ơi, ngày 19, 20 ni (này) điện lực Nghi Xuân cắt điện đó.

Cắt từ 7 giờ sáng đến 17 giờ túi. Cắt điện để sửa chữa với bảo dượng

(dưỡng) đường dây ả (chị) ạ.

Kết quả thống kê cụ thể như sau, thể hiện qua bảng 2.2:

Bảng 2.2. Thống kê số lượng các dạng tham thoại có thành phần phụ

đi kèm biểu thức ngữ vi thông báo

Tham thoại thông báo có chứa thành phần phụ Số lượng Tỉ lệ %

Tham thoại thông báo có một thành phần phụ 587 66,33

Tham thoại thông báo có nhiều thành phần phụ 298 33,67

Tổng 885 100%

Như vậy, tỉ lệ tham thoại có thành phần phụ đi kèm hành động chủ hướng thông

báo trong giao tiếp rất cao, 885/1210 cặp thoại, chiếm 73,14%. Trong đó, dạng tham

thoại có một thành phần phụ đi kèm hành động chủ hướng thông báo chiếm số lượng

vượt trội so với dạng tham thoại có nhiều thành phần phụ đi kèm hành động thông báo,

xuất hiện 587/885, chiếm 66,33%.

55

b2) Đặc điểm các nhóm thành phần phụ đi kèm hành động thông báo trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh

Như đã nêu trên, tuy không phải là thành phần chính, trọng tâm, mang tính quyết

định đích giao tiếp của tham thoại, song các thành phần phụ này vẫn thường được sử

dụng và có những vai trò nhất định trong mỗi tham thoại thông báo. Chức năng chung

của các thành phần phụ trong tham thoại thông báo là để bổ sung, mở rộng, hỗ trợ cho

hành động chủ hướng thông báo. Tuy nhiên, quy chiếu vào những ngữ cảnh giao tiếp cụ

thể, có thể nhận thấy có các nhóm thành phần phụ khác nhau, đảm nhiệm những chức

năng cụ thể và có hình thức biểu đạt khác nhau, chẳng hạn: thành phần phụ hô gọi có

chức năng thu hút sự tập trung, chú ý của người nghe SP2 vào nội dung thông báo;

thành phần phụ mở rộng thường có chức năng giải thích rõ hơn nội dung thông báo;

thành phần phụ bổ sung có chức năng nhấn mạnh, đánh giá hay bày tỏ cảm xúc khi SP1

đưa ra nội dung thông báo...

Sau đây là một số thành phần phụ trong tham thoại thông báo được phân nhóm

theo chức năng và hình thức biểu đạt.

b2(1) Thành phần phụ có chức năng dẫn nhập, thu hút sự tập trung, chú ý của

người nghe SP2 vào nội dung thông báo:

Hành động thông báo luôn hướng tới đối tượng tiếp nhận thông báo cụ thể và

người nói bao giờ cũng muốn người nghe tập trung, chú ý để nắm bắt nội dung thông

báo và có những phản ứng tâm lí hay những hành động tương tác phù hợp. Để dẫn

nhập và thu hút sự tập trung, chú ý của người nghe SP2 tới nội dung thông báo, người

nói SP1 thường sử dụng một số thành phần phụ trợ và những thành này thường xuất

hiện trước BTNV thông báo. Điển hình là các trường hợp sau:

- Thành phần phụ là hành động hô gọi để dẫn nhập và thu hút sự tập trung của

người nghe SP2 vào nội dung thông báo

Thành phần phụ là biểu thức hô gọi thường đứng ngay trước BTNV thông báo,

có vai trò thu hút sự tập trung của người nghe vào nội dung thông báo. Nó có thể được

cấu tạo là từ: này (đại từ hô gọi); ê, e hèm (tiểu từ tình thái) hoặc tổ hợp từ: này Lan,

mi ơi, mẹ yêu quý của con ơi, Huệ này…

(53). Mẹ Lê ơi, cô thông báo với mẹ là chương trình Halloween cho các con sẽ

được tổ chức vào lúc 15 giờ, thứ 5, ngày 26 tháng 10 năm 2017 mẹ nhé. Mẹ

thu xếp thời gian đến tham gia lễ hội hóa trang với các con cho vui nha.

56

- Thành phần phụ là hành động hỏi dẫn nhập để gây sự chú ý của người nghe

SP2 vào nội dung thông báo

Thành phần phụ là hành động hỏi nhưng không nhằm để hỏi mà để dẫn nhập và

gây sự chú ý của người nghe vào nội dung thông báo được đưa ra ngay tiếp sau đó.

Kiểu cấu trúc thường gặp của hành động này là: “Biết/ nghe/ hay tin gì chưa?”.

(54). Biết tin chi chưa? Năm ni trường ta đi coi thi tốt nghiệp trung học phổ

thông ở Thanh Hóa nha, bắt đầu từ 24 tháng 5 đó. Chuẩn bị tinh thần đi nha.

- Thành phần phụ là hành động đánh giá để dẫn nhập và gây sự chú ý của

người nghe SP2 vào nội dung thông báo

Thành phần phụ là hành động đánh giá để gây sự chú ý của người nghe vào nội

dung thông báo cũng thường đứng trước hành động thông báo. Kiểu cấu trúc thường

gặp của hành động phụ đi kèm này là: “(Có) tin + A + đây (này, nè, nhé...)!”; hoặc

“A!” (A là tính từ/ động từ mang tính đánh giá về thông tin, như: nóng/ nóng hổi/ hót/

nóng sốt/ sốt dẻo, gấp, khẩn/ khẩn cấp, mật/ bí mật, mới, vui, buồn,...).

Ví dụ:

(55). Tin nóng hổi, tin nóng hổi mi ơi! Thằng Tuyên cuối tháng ni cưới nha.

(56). Khẩn cấp! Đoàn thanh tra đang đi kiểm tra lao động, sắp đi đến Phòng

ta rồi.

Trong ví dụ (55), hành động dẫn nhập được Sp1 thực hiện là hành động biểu

cảm (nhận xét, đánh giá), tính từ “nóng hổi” được lặp lại hai lần nhằm gia tăng độ mới,

độ sốt dẻo của tin tức đồng thời thu hút sự chú ý ở người nghe tới nội dung thông tin

mà người nói sắp đưa ra. Ở ví dụ (56), Sp1 cũng thực hiện hành động biểu cảm song

được biểu đạt ngắn gọn với chỉ một từ duy nhất “Khẩn cấp!” cùng ngữ điệu lên cao,

một mặt thu hút sự chú ý của Sp2, mặt khác chuẩn bị sẵn tâm lí để Sp2 tiếp nhận tin

tức mà theo Sp1 là không mấy tích cực.

Hành động biểu cảm dẫn nhập cho hành động chủ hướng thông báo như trên

thường xuất hiện trong những trường hợp mà người nói cho rằng những tin tức mình

sắp đưa ra mang tính bất thường và người nghe cần được chuẩn bị trước về mặt tâm lí.

- Thành phần phụ là ngữ khí từ và hành động điều khiển yêu cầu sự tập trung,

chú ý ở đối tượng (thường là số đông) tiếp ngôn. Thành phần này cũng thường đứng

trước BTNV thông báo. Ví dụ:

57

(57). È hèm, chú ý nghe đây này! Tôi xin thông báo với các anh chị từ tuần

sau bắt đầu thực hiện việc kiểm tra đeo thẻ nhân viên. Ai không đeo thẻ,

không được vào cổng cơ quan.

b2(2) Thành phần phụ là cụm từ liên kết vừa có vai trò dẫn nhập vào hành

động chủ hướng thông báo vừa có chức năng nối kết tham thoại thông báo với các

tham thoại khác trong toàn bộ cuộc thoại. Các cụm từ liên kết thường dùng là: trước

hết, đầu tiên, thứ nhất, mở đầu, tiếp theo, cuối cùng, kết thúc,... được đặt trước

BTNV thông báo. Ví dụ:

(58). Trước khi vào cuộc họp, tôi xin thông báo một tin rất mừng là trong đợt

giảm biên lần này, quân số cán bộ nhân viên của Phòng ta vẫn được bảo

toàn nguyên vẹn. Phòng Tổ chức Cán bộ vừa có thông báo chính thức rồi.

Nhìn chung, các thành phần phụ có chức năng dẫn nhập, thu hút sự tập trung,

chú ý của người nghe vào nội dung thông báo đồng thời chúng cũng là một dấu hiệu

quan trọng giúp nhận diện hành động chủ hướng thông báo được đưa ra ngay tiếp sau

đó và thường là ở dạng BTNV thông báo nguyên cấp.

b2(3) Thành phần phụ có chức năng chú thích, bổ sung, làm rõ hơn thông tin

trong nội dung thông báo

Các thành phần phụ thuộc nhóm này thường là phần mở rộng đứng sau BTNV

thông báo để bổ sung thông tin, giúp cho người nghe biết rõ hơn về một nội dung nào đó

trong hành động chủ hướng thông báo. Các nội dung thông tin bổ sung, chú thích thường là:

- Thông tin bổ sung, chú thích về thời gian, địa điểm diễn ra sự việc, hiện

tượng, hoạt động được nói tới trong nội dung thông báo.

(59). Thông báo với cả lớp là thứ 7 tuần ni (này) lớp ta lao động dọn vệ sinh ở

khu vực cổng trường nha, 7 giờ bắt đầu đấy.

(60). Thông báo với em tin vui là Linh Chi sinh khi túi (tối) rồi, sinh ở Bệnh

viện Sản nhi em nì (này).

- Thông tin chú thích, nói rõ thêm về đối tượng được đề cập đến trong nội dung

thông báo.

(61). Thông báo cho vợ một tin vui, anh Điền mới được điều động sang phụ

trách phân xưởng của nhông (chồng) nha, anh Điền con bà Phước ấy.

58

Các thành phần phụ thuộc loại này nhằm cung cấp cho người nghe biết rõ thêm

thông tin trong nội dung thông báo, đồng thời tăng cường độ tin tưởng đối với sự việc

được thông báo.

b2(4) Thành phần phụ là hành động xác tín đi kèm khẳng định tính chân thực

của nội dung thông báo

Khi thực hiện hành động thông báo, để củng cố niềm tin của người nghe đối với

nội dung thông báo, người nói thường đồng thời đưa ra lời khẳng định về tính chân

thực của thông tin, nhất là đối với những thông tin mà người nghe thường không ngờ

tới. Các cụm từ mang tính chất xác tín thường dùng là: chính xác một trăm phần trăm,

tuyệt đối chính xác... Ví dụ:

(62). Thông báo với em tin mới là tháng 7 ni (này) Sở ta có giám đốc mới rồi

đó. Chính xác trăm phần trăm nha. Chị nghe anh Dũng bên Sở nội vụ

nói nì (này).

b2(5) Thành phần phụ là hành động giải thích đi kèm nêu lí do, nguyên nhân

của sự việc, hiện tượng được nói tới trong nội dung thông báo

(63). Vợ ơi, tuần ni (này) túi (tối) thứ 6 chồng mới về nhá. Chiều thứ 6 chồng

vẫn học 5 tiết nên 6 giờ mới ra bến xe được vợ ạ. Thông báo với vợ

trước như rứa (như thế) khỏi vợ lại trông.

Trong tham thoại trên, phần giải thích thêm sau BTNV thông báo: “chiều thứ 6

chồng vẫn học 5 tiết nên 6 giờ mới ra bến xe được vợ ạ. Thông báo với vợ trước như

rứa (như thế) khỏi vợ lại trông” đã cho biết lí do của nội dung thông báo.

(64). Tuần sau nghỉ học 3 tiết môn thể dục của thầy các em nhé. Thầy đi họp

trên Sở.

Ở tham thoại trên, phần đi kèm: Thầy đi họp trên Sở có vai trò là hành động

giải thích lý do tại sao có nội dung thông báo: Tuần sau nghỉ học 3 tiết môn thể dục

của thầy.

Hành động giải thích đi kèm hành động chủ hướng thông báo có thể đứng sau

hoặc đứng trước BTNV thông báo, chúng có chức năng nêu ra lí do, nguyên nhân của

sự việc, hiện tượng được nói tới trong nội dung thông báo, đồng thời thuyết phục, tạo

sự cảm thông ở người nghe.

59

b2(6) Thành phần phụ là hành động biểu cảm đi kèm để bày tỏ cảm xúc, thái

độ, sự đánh giá đối với sự vật, sự việc, hiện tượng được nói đến trong nội dung

thông báo

Khi đưa ra một nội dung thông báo, trong nhiều trường hợp, người nói có thể

bày tỏ cảm xúc (vui, thích, buồn, chán, lo lắng, ngạc nhiên…) của mình, hoặc khơi gợi

cảm xúc của nghe đối với thông tin trong nội dung thông báo. Hành động biểu cảm đi

kèm có thể đứng trước hoặc đứng sau BTNV thông báo, kiểu cấu trúc thường gặp là:

“A quá đi mất!”; “A thế không biết!”, “A ghê!” ... (A thường là từ ngữ bộc lộ tâm trạng

như: vui, thích, buồn, chán, tức,... hoặc từ ngữ đánh giá mang tính biểu cảm). Ví dụ:

(65). Con Mận đậu Trường Sư phạm rồi mệ ơi. Mừng quá đi mất! Con xem

trên mạng xong là chạy vô (vào) thông báo với mẹ ngay lập tức đo (đó).

(66). Chị ơi, thông báo với chị tin buồn là năm ni (này) em vẩn (vẫn) phải đi

coi thi tuyển sinh chị ạ, đi học mà có được miễn mô. Chán rứa (thế) nỏ

(không) biết!

(67). Thông báo với nàng là chị nhận được váy nàng gưởi (gửi) khi sáng rồi

nha, đẹp mộng mơ luôn nè (này).

b2(7) Thành phần phụ là hành động cầu khiến đi kèm có chức năng định hướng

hành động của người tiếp nhận nội dung thông báo.

Hành động điều khiển đi kèm thường xuất hiện sau nội dung thông báo là

những tin tức mang tính hành chính công vụ. Khi nhận được những tin tức loại này,

Sp2 phải có hành động phù hợp trong tương lai để thực hiện những nội dung được

thông báo. Ví dụ:

(68). Bố Anh ơi, thông báo với bố là 15 giờ, thứ 5 ni (này), trường của Tô tổ

chức lễ hội Halloween cho các con. Bố sắp xếp công việc đến tham gia

với con cho vui nha. Cả bố cả mẹ mà đến thì Tô Tô vui lắm luôn.

(69). Tối mai, ngày 15 tháng 10, đúng 19 giờ, các bạn trong Ban chấp hành

Liên chi đoàn, Liên chi hội có mặt ở hội trường cơ sở 1 đề dự Hội nghị

tổng kết phong trào thanh niên tình nguyện năm học 2016-2017 và triển

khai nhiệm vụ năm học 2017-2018 Quỳnh Anh nhé. Em thông báo tới các

bạn nha.

(70). Chị thông báo cho em một tin mật, sếp nhà mình sẻ (sẽ) tham gia đấu thầu

xây dựng khu chợ mới. Cẩn thận giữ kín, cấm nói cho ai biết nghe chưa.

60

Hành động đi kèm hành động chủ hướng thông báo trong ví dụ (68) là hành

động đề nghị, trong ví dụ (69) là hành động dặn dò, còn trong ví dụ (70) là hành động

yêu cầu và ngăn cấm.

b2(8) Thành phần phụ là hành động đi kèm có chức năng liên nhân, thể hiện

phép lịch sự xã giao khi đưa ra nội dung thông báo

Trong giao tiếp, nhất là ở những ngữ cảnh mang tính nghi thức, khi thông báo

một nội dung thông tin nào đó đến người nghe, người nói cũng thường chú ý, quan

tâm tới những nội dung có tính liên nhân hoặc thể hiện phép lịch sự xã giao để xây

dựng, củng cố quan hệ, hay để tạo thiện cảm, thiện chí đối với người nghe. Vì vậy,

người nói thường sử dụng hành động thuộc nhóm ứng xử đi kèm với hành động chủ

hướng thông báo, chẳng hạn: khen ngợi, khích lệ, cảm ơn, chúc mừng... (đi kèm những

thông tin vui); hay: an ủi, động viên... (đối với những thông tin buồn). Ví dụ:

(71). Xin thông báo với tất cả các đồng chí đoàn viên thanh niên trong hội nghị

là tại Đại hội Tỉnh Đoàn Nghệ An nhiệm kì 2017-2020, đồng chí Lê Văn

Lương đã được tín nhiệm bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh đoàn. Xin

chúc mừng đồng chí!

(72). Mở đầu cuộc họp, tôi xin thông báo kế hoạch Hội thảo của Khoa ta do

đồng chí Phó Trưởng khoa thiết kế đã được Ban Giám hiệu phê duyệt.

Xin cảm ơn đồng chí Phó Trưởng khoa đã vất vả, nỗ lực!

b2(9) Thành phần phụ có chức năng kết thúc tham thoại

(73). Ung (ông) Nghi ơi, bựa mốt hội cựu chiến binh ta đi tham quan, 5 rượi (rưỡi)

sáng xe đón ở nhà văn hoá thôn để 6 giờ xuất phát đó. Rứa (thế) ung (ông) nha.

Như vậy, mỗi thành phần phụ xuất hiện trong tham thoại thông báo sẽ tường

minh ý định nào đó của chủ ngôn: hoặc để dẫn nhập, thu hút sự chú ý, tập trung của

nghe vào nội dung thông báo; hoặc để bổ sung, làm rõ hơn cho nội dung thông báo;

hoặc để giải thích, nêu lí do của nội dung thông báo để thuyết phục, tranh thủ sự đồng

thuận, thông cảm ở người nghe; hoặc để bày tỏ thái độ, tình cảm, sự đánh giá của chủ

ngôn với nội dung thông báo hoặc với đối tượng tiếp nhận thông báo... Các thành phần

phụ có sự liên kết chặt chẽ với hành động chủ hướng thông báo, thực hiện chức năng

bổ sung, hỗ trợ cho hành động thông báo nhằm đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.

61

c. Liên kết giữa hành động thông báo và thành phần phụ đi kèm hành động

thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

Như đã trình bày ở trên, trong giao tiếp, tham thoại thông báo có thể chỉ có hành

động thông báo đứng độc lập hoặc có thể có thêm các thành phần phụ đi kèm hành động

chủ hướng thông báo. Vai trò của hành động chủ hướng thông báo là định hướng giao

tiếp của cả tham thoại: cung cấp thông tin mới tới đối tượng tiếp ngôn, và theo đó, các

thành phần còn lại trong tham thoại đều hướng về mục đích chính, trọng tâm này.

Tuy không giữ vai trò trọng tâm trong việc định hướng mục đích giao tiếp,

song các thành phần phụ, đi kèm hành động chủ hướng thông báo trong tham thoại

thông báo xuất hiện thường xuyên và hết sức linh hoạt. Mỗi tham thoại thông báo

có thể có một hoặc nhiều thành phần phụ, đi kèm hành động chủ hướng thông báo.

Thành phần phụ có thể là thành phần mở rộng của BTNV thông báo, song cũng có

thể tạo thành một hành động ngôn ngữ khác, phụ thuộc, bên cạnh hành động chủ

hướng thông báo.

Nếu thành phần phụ đi kèm là các hành động phụ thuộc thì đương nhiên các

hành động đó sẽ liên kết trực tiếp, chặt chẽ với nhau và với hành động thông báo.

Chúng thực hiện vai trò giải thích, trình bày sự tình có ảnh hưởng, liên quan. Còn nếu

thành phần phụ đi kèm là các thành phần mở rộng thì các thành phần này có quan hệ

khá độc lập, riêng rẽ với nhau. Chúng đều liên kết với hành động thông báo, tuy vậy

mỗi thành phần thể hiện một thông tin khác nhau, phụ thuộc vào hành động thông báo

một cách độc lập và thực hiện chức năng chủ yếu là chức năng liên nhân. Do vậy, xem

xét mối quan hệ, liên kết hành vi giữa thành phần phụ đi kèm với hành động thông báo

của phát ngôn, chúng tôi cho rằng cần chỉ ra mức độ và kiểu quan hệ giữa các thành

phần này với hành động thông báo. Chẳng hạn,

(74). (a) Tuần sau nghỉ học 3 tiết của cô các em nhé. (b) Cô đi họp.

Ở ví dụ (74), hành động đi kèm (b) “Cô đi họp” là hành động phụ thuộc. Nó đứng

sau BTNV thông báo và có vai trò giải thích lý do tại sao có hành động thông báo (a)

“Tuần sau nghỉ học 3 tiết của cô”. Do đó, thành phần phụ đi kèm này liên kết chặt chẽ,

trực tiếp với hành động thông báo.

(75). (b) Này! Này! (a) Thông báo với bà là khóa luận của bà là Khóa luận

duy nhất trong Khoa ta được 10 điểm đó. (c) Bà siêu thật. (d) Chúc

mừng bà. (e) Cuối tuần mần (làm) chầu ốc khao hè (nhé).

62

Ở ví dụ (75) có bốn hành động (b), (c), (d) và (e) đi kèm hành động thông báo

(a). Chúng là các thành phần mở rộng cho BTNV thông báo cho nên (b), (c), (d) và (e)

không bắt buộc hiện diện bên nhau vì mỗi hành động có một nội dung ở lời riêng. Bốn

hành động đi kèm này có quan hệ đẳng lập, xét trong mối liên kết với hành động thông

báo, chúng đóng vai trò hô gọi thu hút sự chú ý (b), khen (c), chúc mừng (d) và gợi ý

(e) giúp vai thông báo thể hiện thái độ, tình cảm với nội dung thông báo và với người

nghe nhằm thực hiện hành động thông báo theo chủ ý một cách hiệu quả. (b), (c), (d)

và (e) là các thành phần mở rộng cho BTNV thông báo.

Như vậy, có thể xem liên hành vi giữa các hành động ở lời là biểu hiện về mặt

hình thức cấu tạo tham thoại. Chúng chứng minh cho mối quan hệ chặt chẽ, logic giữa

các hành động cùng hướng về một mục đích giao tiếp mà chủ ngôn đã xác định, lựa

chọn và thực hiện.

2.2.2. Cấu tạo của tham thoại hồi đáp cho tham thoại trao chứa hành động

thông báo

2.2.2.1. Thống kê định lượng

“Tất cả các hành vi ngôn ngữ đều đòi hỏi sự hồi đáp. Sự hồi đáp có thể bằng hành

vi ngôn ngữ tương thích với hành vi dẫn nhập thành cặp thoại… và cũng có thể thực hiện

bằng những hành vi bất kì, không tương thích với hành vi dẫn nhập” [17, tr. 208].

Trong cặp thoại có tham thoại thông báo xuất hiện với tư cách là một tham

thoại dẫn nhập, tham thoại hồi đáp đóng vai trò hết sức quan trọng. Trước hết, tham

thoại hồi đáp giúp duy trì cuộc thoại, giúp cuộc thoại phát triển một cách bình thường.

Nó cũng cho biết thái độ, cách đánh giá của đối ngôn với hành động thông báo mà chủ

ngôn thực hiện. Mặt khác, tham thoại hồi đáp cũng là một IFIDs quan trọng trong việc

khẳng định hiệu lực ở lời của hành động thông báo (đặc biệt là BTNV thông báo dạng

nguyên cấp).

Tương tác với hành động thông báo ở tham thoại trao là các hành động ở tham

thoại hồi đáp. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, tham thoại hồi đáp có thể là một

hành động đứng độc lập cũng có thể gồm nhiều hành động; các hành động có thể trực

tiếp trả lời nội dung hành động thông báo, cũng có thể để bộc lộ thái độ, tình cảm, cảm

xúc người nghe đối với hành động chủ hướng và các thành phần phụ đi kèm hành

động chủ hướng. Chúng tôi thể hiện qua bảng 2.3 và 2.4.

63

Bảng 2.3. Dạng tham thoại hồi đáp trong cặp thoại chứa

tham thoại dẫn nhập thông báo

TT Dạng tham thoại hồi đáp Số lượng Tỉ lệ%

457 37,77 1 Tham thoại hồi đáp gồm 1 hành động ngôn ngữ đứng độc lập

753 62,23 2 Tham thoại hồi đáp gồm nhiều hành động ngôn ngữ

Tổng 1210 100

Bảng thống kê 2.3 cho thấy số lượng tham thoại hồi đáp cho tham thoại trao chứa

hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh. Ứng với 1210 tham thoại trao

chứa hành động thông báo thì có 1210 tham thoại hồi đáp tương ứng, trong đó: tham thoại

hồi đáp có nhiều hành động xuất hiện 753 lần, chiếm 62,23%; tham thoại hồi đáp có một

hành động xuất hiện 457 lần, chiếm 37,77%. Như vậy, dạng tham thoại hồi đáp nhiều

HĐNN được người Nghệ Tĩnh sử dụng gấp 1,65 lần tham thoại hồi đáp gồm 1 HĐNN

đứng độc lập. Chúng làm thành cặp tương tác về hình thức cấu tạo như sau:

Bảng 2.4. Dạng tham thoại hồi đáp trong quan hệ tương tác

với tham thoại trao chưa hành động thông báo

Dạng tham thoại hồi đáp trong quan hệ tương tác với Số TT Tỉ lệ% tham thoại trao thông báo lượng

1 Tham thoại thông báo có Tham thoại hồi đáp gồm 187 15,45

hành động thông báo đứng 1 hành động đứng độc lập

độc lập Tham thoại hồi đáp gồm 138 11,40

nhiều hành động

2 Tham thoại thông báo có Tham thoại hồi đáp gồm 270 22,31

hành động thông báo và 1 hành động đứng độc lập

các thành phần phụ đi kèm Tham thoại hồi đáp gồm 615 50,84

nhiều hành động

Tổng 1210 100

64

Sau đây chúng tôi đi sâu xét thành cặp trao - đáp về hình thức cấu tạo.

2.2.2.2. Mô tả cấu tạo của tham thoại hồi đáp trong quan hệ tương tác với tham

thoại thông báo

a. Cấu tạo của tham thoại hồi đáp chỉ có một hành động đứng độc lập

Dạng tham thoại hồi đáp gồm một một hành động đứng độc lập xuất hiện

457/1210 lần, chiếm 37,77%; được sử dụng trong trường hợp:

- Khi tham thoại trao chỉ bao gồm BTNV, nội dung thông báo chủ yếu là các

thông tin, thuộc lĩnh vực hành chính công vụ. Hồi đáp kiểu này được sử dụng 187/457

lần, chiếm 40,92%.

- Khi tham thoại trao bao gồm BTNV có nội dung thông báo chủ yếu là các

thông tin, thuộc lĩnh vực hành chính công vụ và một thành phần phụ đi kèm. Chúng

bao gồm: Tham thoại trao thông báo là BTNV + hành vi phụ thuộc nêu lí do/ chú

thích; tham thoại trao thông báo gồm BTNV + thành phần mở rộng hô gọi/ các hành vi

thuộc nhóm điều khiển. Hồi đáp kiểu này xuất hiện 270/457 lần.

Tham thoại hồi đáp trong trường hợp này sẽ hồi đáp trực tiếp vào BTNV thông

báo của Sp1, không hồi đáp vào các thành phần phụ đi kèm trong tham thoại. Chúng

thường có 6 dạng sau:

a1. Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động đồng ý, đồng tình

Tham thoại hồi đáp dạng này chủ yếu nhằm bộc lộ những suy nghĩ hay bộc lộ

thái độ, tình cảm của người nghe với nội dung thông báo mà người nói cung cấp.

Chúng được hiện thực hóa qua các tình thái từ như: dạ, ok (tiếng Anh, có nghĩa là

đồng ý), ừ (ừm/ ày) hoặc tổ hợp (dạ + từ xưng hô).

(76). Sp1: Tối ni (nay) 8 giờ có mặt ở hội trường thôn tập văn nghệ nàng nha,

thông báo sớm để nàng còn lo mà đi cho đúng giờ chơ (chứ)nàng là hay

lề mà lề mề lắm.

Sp2: Ày.

(77). Sp1: Sáng thứ 4, ngày mồng 8 tháng 11, đúng 8 giờ các em có mặt ở hội

trường để tham gia vòng thi sơ khảo Hội thi văn nghệ chào mừng ngày

Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 nhé. Em nói các bạn phải đúng giờ không

là không kịp mô nha (đâu nhé).

Sp2: Dạ thầy.

65

Ở ví dụ (76), hành động thông báo đã được người nói (phụ trách văn nghệ của

chi đoàn thôn) thực hiện với người nghe (thành viên trong chi đoàn thôn). Giữa hai

nhân vật giao tiếp có quan hệ ngang vai, là bạn bè của nhau. Cho nên khi nhận được

nội dung thông báo ngắn gọn chỉ bao gồm BTNV thông báo từ Sp1, Sp2 đã hồi đáp

trực tiếp bằng hành động đồng tình được biểu thị bằng một tình thái từ “ày”.

Còn ở ví dụ (77), tham thoại thông báo của Sp1 bao gồm hành động chủ hướng

thông báo + thành phần phụ đi kèm là hành động dăn dò. Người thông báo là thầy,

người nhận thông báo là trò. Giữa hai nhân vật giao tiếp có sự khác biệt về vị thế và

tuổi tác. Do đó, Sp2 đã đáp lại hành động thông báo bằng là tổ hợp tình thái từ kết hợp

với danh từ “dạ thầy” để trực tiếp thể hiện sự đồng ý.

a2. Hồi đáp cho hành động thông báo là các hành động lịch sự như cảm ơn, chúc mừng

Khi Sp1 thông báo các tin tức (tích cực), Sp2 thường hồi đáp lại bằng các hành

động mang tính lịch sự như cảm ơn, chúc mừng.

(78). Sp1: Ngày mai có lương hưu tháng 5 rồi cô Tính nha, cô lên hội trường

xạ (xã) mà nhận.

Sp2: Cảm ơn bác nhiều ạ.

(79). Sp1: Xin thông báo với cả Khoa tin vui là trong đợt xét khen thưởng nhân

dịp kỉ niệm 60 thành lập trường, cả tôi và cô Hảo đều được xét đề nghị

UBND tỉnh tặng Bằng khen nhé.

Sp2: Chúc mừng sếp và cô Hảo.

Ở ví dụ (78), lời trao của Sp1 có hành động chủ hướng thông báo thông tin về

lương (tin vui đối với Sp2) + hành động phụ thuộc chú thích địa điểm nhận lương. Sp2

đã đáp lại hành động thông báo tích cực này bằng hành động cảm ơn. Còn ở dụ (79),

tin tức mà Sp1 thông báo là tin vui liên quan đến khen thưởng của cá nhân trong tập

thể. Sp1 với cương vị là Trưởng Khoa đã thông báo và chia sẻ tin vui này tới người

nghe. Sp2 đã đáp lại hành động thông báo bằng hành động chúc mừng.

a3. Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động biểu cảm

Đây là các hành động nhằm thể hiện tình cảm, cảm xúc của Sp2 đối với hành

động thông báo của Sp1. Đó có thể là cảm xúc tích cực (vui, sướng, hạnh phúc…)

cũng có thể là cảm xúc tiêu cực (buồn, chán…).

66

(80). Sp1: Thông báo với cả lớp là đợt lễ 30 tháng 4 ni ta được nghỉ bốn ngày

luôn nha.

Sp2: (Zêeee…) Sướng quá!

(81). Sp1: Thông báo với nàng là cuối tuần ni (này) học Tuần sinh hoạt công

dân nha. Lo mà đi học chơ điểm danh khiếp lắm đo (đó).

Sp2: Chán rứa bây!

Ở ví dụ (80), Sp2 bộc lộ cảm xúc tích cực “Sướng quá” về nội dung sự tình

nhận được từ Sp1 là “đợt lễ 30 tháng 4 ni ta được nghỉ bốn ngày”; ví dụ (81), Sp2 lại

bộc lộ cảm xúc tiêu cực “chán” về nội dung sự tình do Sp1 cung cấp “cuối tuần ni học

Tuần sinh hoạt công dân”, Sp2 có tâm trạng chán nản vì ngày nghỉ mà vẫn phải đi học.

a4. Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động nhận xét, đánh giá

(82). Sp1: Bà Hoa ơi, thông báo với bà là mai bắt đầu ra giống để rạ (ngâm

lúa để gieo mạ) bà nghe.

Sp2: Năm ni mần (làm) sớm chú hè.

(83). Sp1: Thông báo với mi là cuối tuần ni (này) tau (tao) mua xe máy, ma ma

(mẹ) nói mua cho cấy (cái) để đi học cho đợ (đỡ) tội mi (mày) nì (này).

Sp2: Mi là sướng nhứt (nhất) quả đất ni (này) rồi đó.

a5. Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động xác tín:

(84). Sp1: Túi (tối) mai, Ban cán sự thôn ta tổ chức cuộc họp mở rộng để bàn

một số vấn đề quan trọng trước, trong và sau tết nguyên đán ung Tiu

nghe, 7 giờ 30 có mặt ở hội trường thôn ta họp nhé.

Sp2: Sáng tui cụng (cũng) nghe loa thôn thông báo rồi.

a6. Hồi đáp cho hành động thông báo là các hành động cầu khiến

+ Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động đề nghị:

(85). Sp1: Thông báo với các thầy cô là chiều ni (nay) cô Hoa bị tai nạn xe

máy, hiện đang nằm tại bệnh viện Ba Lan, phòng 317, dãy C3 nhé.

Sp2: Rứa khi mô đi thăm chị gọi em với nha.

+ Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động xin phép:

(86). Sp1: An ơi, chiều thứ 4 tổ ta tổng duyệt lần 1 Câu lạc bộ ngữ văn lúc 2

giờ, ở hội trường em nhé.

Sp2: Em xin phép lên muộn chị nha.

67

+ Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động hứa hẹn:

(87). Sp1: Thông báo với em là còn chắc (mỗi) lớp em chưa nộp sổ đầu bài

nựa (nữa) thôi.

Sp2: Chiều ni em nói sinh viên lên nộp ạ.

+ Hồi đáp cho hành động thông báo là hành động hỏi:

(88). Sp1: Thông báo với em là lịch họp chuyển qua chiều mai nha.

Sp2: Mấy giờ rứa chị?

Ở ví dụ (88), hành động thông báo của Sp1 chưa rõ thông tin về thời gian họp

nên Sp2 sau khi nhận tin đã dùng hành động hỏi để biết về thời gian nhằm có hành

động tương lai phù hợp là đi họp đúng giờ.

b. Cấu tạo của tham thoại hồi đáp gồm nhiều hành động

Dạng tham thoại hồi đáp gồm nhiều hành động xuất hiện 753/1210 lần, chiếm

62,23%. Trong đó: các tham thoại hồi đáp nhiều hành động đáp lại tham thoại thông

báo có hành động thông báo và các thành phần phụ đi kèm được người Nghệ sử dụng

với số lượng vượt trội 615/753 lần, chiếm 81,67% nhiều gấp 4,5 lần số lượng các tham

thoại hồi đáp nhiều hành động đáp lại tham thoại thông báo có hành động thông báo

đứng độc lập (138/753 lần, chiếm 18,33%).

Các tham thoại hồi đáp nhiều hành động đáp lại tham thoại dẫn nhập thông

báo bao giờ cũng có thành phần cốt lõi và thành phần đi kèm.Thành phần cốt lõi

hướng về đích của phát ngôn thông báo, diễn đạt cụ thể và rõ ràng ý định của người

nghe. Còn thành phần đi kèm thường hồi đáp vào các thành phần mở rộng được nêu

trong tham thoại trao. Chúng đóng vai trò giải thích, nêu lí do hoặc có tính chất duy

trì quan hệ liên cá nhân. Tham thoại hồi đáp nhiều hành động xuất hiện hai dạng:

tham thoại hồi đáp có hai hành động và tham thoại hồi đáp có ba hành động. Trong

đó, người Nghệ Tĩnh chủ yếu sử dụng dạng hồi đáp 2 hành động với 679/753 lần

xuất hiện, chiếm 90,17%; dạng hồi đáp 3 hành động xuất hiện ít chỉ 74/753 lần,

chiếm 9,83%. Chúng làm thành cặp tương tác với tham thoại dẫn nhập về hình thức

cấu tạo như sau:

68

Bảng 2.5. Các dạng tham thoại hồi đáp nhiều hành động

trong quan hệ tương tác với tham thoại trao thông báo

Dạng tham thoại hồi đáp trong quan hệ tương tác TT Số lượng Tỉ lệ% với tham thoại trao thông báo

1 Tham thoại thông báo có Tham thoại hồi đáp có 2 135 17,93

hành động thông báo đứng hành động

độc lập Tham thoại hồi đáp có 3 3 0,40

hành động

2 Tham thoại thông báo có Tham thoại hồi đáp có 2 544 72,24

hành động thông báo và hành động

các thành phần phụ đi kèm Tham thoại hồi đáp có 3 71 9,43

hành động

Tổng 753 100

Dưới đây, chúng tôi sẽ chỉ ra đặc điểm của tham thoại hồi đáp nhiều hành động

đặt trong sự tương tác với hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

b1. Hồi đáp cho tham thoại thông báo có hành động thông báo đứng độc lập:

Nhìn vào bảng 2.6, có thể thấy: Tham thoại hồi đáp nhiều hành động đáp lại

tham thoại thông báo có hành động thông báo đứng độc lập chủ yếu là dạng hồi đáp

gồm 2 hành động (135/138, chiếm 97,83%). Chúng thường bao gồm các dạng sau:

- Hồi đáp bằng cách sử dụng các tình thái từ biểu thị sự đồng tình, đồng ý và

hành động cảm ơn.

(89). Sp1: 7 giờ 30 túi ni (tối nay) họp chi bộ bà Vỵ nghe.

Sp2: (a) Dạ, (b) em cảm ơn bác.

- Hồi đáp bằng cách sử dụng các tình thái từ biểu thị sự đồng tình, đồng ý và

hành động xác tín.

(90). Sp1: Sáng mai, 8 giờ họp Khoa, sau đó họp tổ luôn Hiền nha.

Sp2: (a) Dạ, (b) sáng ni em cụng (cũng) nghe chị Quyên thông báo rồi ạ.

(91). Sp1: Cuối tuần ni tau về Vinh nha, thông báo trước để mi (mày) chuẩn bị

tinh thần mà đón tiếp nạ.

Sp2: (a) Ok. (b) An tâm, chu đáo hết mức có thể. (cười)

69

Ở ví dụ (90), Sp1 thông báo về thông tin họp, Sp2 hồi đáp lại bằng hành động đồng ý

(a) và hành động đi kèm trình bày (b) để cho thấy thông tin này Sp2 đã biết và chắc chắn sẽ

có hành động trong tương lai là đi họp đúng với thời gian trong thông báo của Sp1.

Còn trong ví dụ (91), Sp2 đã đáp lại nội dung thông báo “cuối tuần về Vinh” và

mong muốn được tiếp đón nhiệt tình của Sp1 bằng tham thoại hồi đáp gồm hai hành

động: hành động đồng tình (a) và hành động đi kèm khẳng định thái độ đón tiếp của

Sp2 dành cho Sp1 (b).

- Hồi đáp bằng các từ ngữ bộc lộ thái độ, tình cảm của Sp2 về nội dung thông

báo của Sp1 và hành động đi kèm giải thích lí do cho thái độ, tình cảm đó.

(92). Sp1: Thông báo, thông báo: em Tâm nhà mềnh (mình) cuối tháng ni (này)

chính thức về quê mần (làm) rồi.

Sp2: (a) Tin vui! Tin vui! (b) Hội độc thân của ta lại có thêm thành

viên mới.

(93). Sp1: Thứ 7, chủ nhật ni học tuần sinh hoạt công dân cả lớp nha.

Sp2: (a) Chán rứa lớp trưởng. (b) Tau đang tính về quê đây nì.

Để đáp lại nội dung thông tin tích cực của Sp1, Sp2 trong ví dụ (92) đã sử dụng

2 hành động: (a) hành động đánh giá tính chất tích cực “Tin vui! Tin vui!” và hành

động đi kèm (b) giải thích lí do cho sự đánh giá đó. Còn trong ví dụ (93), thông tin mà

Sp2 nhận được từ Sp1 theo sự đánh giá của Sp2 là tiêu cực vì ngày nghỉ mà phải đi

học. Do đó, Sp2 đã hồi đáp hành động thông báo đứng độc lập của Sp1 bằng hai hành

động: (a) bộc lộ cảm xúc tiêu cực “chán” và (b) giải thích cho cảm xúc tiêu cực đó.

- Hồi đáp bằng các từ ngữ biểu thị hành động xin phép và hành động đi kèm giải

thích lí do cho thái độ, tình cảm đó.

(94) Sp1: Sáng thứ 6, 8 giờ họp chi bộ, 9 giờ họp Khoa Hiệp nha.

Sp2: (a) Em xin phép lên muộn cô nha,(b) em dạy tiết 1,2,3 ạ.

b2. Hồi đáp cho tham thoại thông báo có hành động thông báo và thành phần

phụ đi kèm:

b2(1) Tham thoại hồi đáp gồm hai hành động

Đây là dạng hồi đáp được sử dụng chủ yếu để đáp lại tham thoại thông báo có

thành phần phụ đi kèm. Tham thoại hồi đáp gồm hai hành động có các dạng sau đây:

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là hành động đồng tình, đồng ý

và hành động cảm ơn.

70

(95) Sp1: (a) Hiểu ơi, (b) chị thông báo để em biết là sáng mai đồng chí Lương dạy

thao giảng tiết 2 môn Toán ở lớp 3A em nhé. (c) Em sắp xếp thời gian tới

dự nha.

Sp2: (a) Dạ, (b) bựa nớ (sáng mai) em đi ạ.

Tham thoại trao trong ví dụ (95) gồm hành động chủ hướng thông báo (b) và hai

thành phần phụ đi kèm: hô gọi (a) và đề nghị (c); tham thoại đáp gồm 2 hành động: (a)

đồng ý với nội dung thông báo trong hành động chủ hướng (b) và hành động hứa (b)

đáp lại thành phần phụ đi kèm đề nghị (c).

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là hành động bộc lộ, ứng xử và

hành động đi kèm giải thích.

(96). Sp1: (a) Chị Trang ơi, (b) ngày mai chị Tuyến bảo vệ luận án tiến sĩ cấp

cơ sở lúc 7 giờ 30 ở phòng họp A, tầng 4, nhà A1 chị nha.

Sp2: (a) Chị Tuyến siêu thật, (b) luận án làm có 3 năm.

Còn ở ví dụ (96), tham thoại thông báo của Sp1 chỉ gồm BTNV thông báo

nguyên cấp (b) và thành phần phụ hô gọi (a). Sp2 đã hồi đáp bằng 2 hành động: (a)

hành động nhận xét hồi đáp vào BTNV thông báo và (b) hành động giải thích cho lí do

vì sao có nhận xét đó.

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là hành động ứng xử/ bộc lộ;

bộc lộ kết hợp hành động bộc lộ/ ứng xử/ điều khiển.

(97). Sp1: Mẹ ơi, con thông báo với mẹ một tin vui ơi là vui luôn, con xin được

việc rồi, công ty lớn mẹ ạ. Họ gọi điện thông báo sáng nay mẹ ạ.

Sp2: (a) Mẹ vui quá con ơi! (b) Chúc mừng con trai.

(98). Sp1: Thảo ơi, anh Thông nhà choa có quyết định bổ nhiệm làm phó phòng

giao thông rồi. Tau vui quá! Tau thông báo với mi đầu tiên đó.

Sp2: (a) Chúc mừng vợ chồng mi. (b) Khao to, khao to hè.

(99). Sp1: Cô thông báo với Nga là từ tuần sau em không phải làm cố vấn học

tập K36 nữa nhé. Huệ sẽ làm thay em. Cô tạo điều kiện để em có thời

gian tập trung viết luận án.

Sp2: (a) Mừng quá cô ơi! (2) Em cảm ơn cô nhiều ạ.

Ví dụ (97), hồi đáp gồm 2 hành động: hành động bộc lộ (a) đáp lại thành phần

phụ nêu tính chất thông tin “một tin vui ơi là vui” trong tham thoại trao và (b) hành

động chúc mừng đáp lại liên quan đến thành phần Sp1 “con” trong BTNV thông báo.

71

Ví dụ (98), tham thoại hồi đáp gồm 2 hành động: chúc mừng (a) và đề nghị (b);

ví dụ (99) là hành động bộc lộ (a) và hành động cảm ơn (b)

b2(2) Dạng tham thoại hồi đáp gồm 3 hành động

Qua nguồn tư liệu thu thập được, chúng tôi chỉ bắt gặp 71 tham thoại hồi đáp

được cấu tạo bởi ba hành động nhằm đáp lại tham thoại trao thông báo gồm hành động

thông báo và các thành phần phụ đi kèm. Dạng hồi đáp này thường xuất hiện khi tham

thoại trao thông báo có nhiều thành phần phụ đi kèm. Chúng gồm các dạng kết hợp sau:

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo gồm: hành động đồng ý + hành

động cảm ơn + hành động hứa.

(100). Sp1: Cô Nga ơi, tui thông báo với cô là túi ni thôn ta họp để bình xét gia

đình văn hóa, 7 giờ 30 ở hội trường thôn cô nha. Cô là mấy tháng ni

không đi họp rồi đó.

Sp2: (a) Dạ, (b) Cảm ơn bác. (c) Tối em đi họp ạ.

Tham thoại hồi đáp trong ví dụ (100) là sự kết hợp của ba hành động: (a) đồng

ý đáp lại nội dung thông báo, (b) hành động cảm ơn thể hiện lịch sự của Sp2 với Sp1

và (c) hứa đáp lại hành động mở rộng phê bình “Cô là mấy tháng ni không đi họp rồi”

trong tham thoại trao.

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là sự kết hợp của ba hành động:

trình bày + hứa + cảm ơn.

(101). Sp1: Lam ơi, sáng mai, chi đoàn thanh niên xóm ta làm tổng vệ sinh

đường làng ngọ (ngõ) xóm chào mừng xuân Mậu Thân em nha, bắt đầu

lúc 6 giờ 30 đo (đó). Em đi sớm ti (tí) chơ (chứ) em phụ trách khu vực

phía nhà văn hoá nha.

Sp2: (a) Em biết rồi. (b) Mai em đi sớm ạ. (c)Em cảm ơn anh.

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là sự kết hợp của ba hành động:

đồng ý + giải thích + hứa.

(102). Sp1: Chị thông báo với em tin ni (này) em nghe xong đừng buồn Lý nhé:

em có tên trong danh sách luân chuyển giáo viên trong huyện đợt ni

(này), muộn nhất là sang tuần có quyết định em ạ.

Sp2: (a) Dạ, vi phạm kế hoá gia đình thì chắc chắn bị luân chuyển

thôi chị. (b) Chơ mà nỏ (không) buồn mô (đâu) chị được mùa con non

mùa đồng. (c) Vài năm nựa (nữa) em lại xin về với các chị.

72

Ở ví dụ (102), tham thoại trao thông báo được cấu tạo gồm: BTNV thông báo

“Chị thông báo với em tin ni (này) em có tên trong danh sách luân chuyển giáo viên

trong huyện đợt ni (này)” + thành phần phụ rào đón “em nghe xong đừng buồn Lý nhé”

để người nghe chuẩn bị trước về mặt tâm lí + hành động phụ thuộc chú thích rõ thời

gian nội dung thông báo có hiệu lực. Sp2 đã hồi đáp lại tham thoại trao bằng 3 hành

động: hành động đồng ý với nội dung Sp1 thông báo trong BTNV (a) + hành động

khẳng định hồi đáp lại biểu thức rào đón (b) và hành động hứa hẹn (c).

- Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là sự kết hợp của ba hành động:

biểu cảm + trình bày + cầu khiến.

(103). Sp1: Thông báo với mi (mày) tin vui là tau (tao) và anh Tế đạ (đã) chọn

được ngày ăn hỏi với cưới rồi, mồng 6 tháng 11 âm lịch ăn hỏi, cưới vô

(vào) mồng 10 tháng 11 âm lịch.

Sp2: (a) Chúc mừng mi (mày). (b) Cần phải chuẩn bị nhiều thứ lắm

đo (đó). (c) Cần giúp chi (gì) thì nói nghe (nhé).

+ Tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo là sự kết hợp của ba hành động:

biểu cảm + giải thích + cầu khiến.

(104). Sp1: Tâm ơi, tau (tao) thông báo với mi (mày) một tin rất chi là vui luôn, tau

(tao) bắt đầu đi mần (làm) từ thứ 2 tuần sau mi ạ. Tau được tuyển chính

thức vô (vào) làm ý tế học đường của Trường tiểu học Xuân Lịnh (Lĩnh).

Sp2: (a) Chúc mừng mi.(b) Thời buổi ni (này) xin vô (vào) nhà nước

khó lắm. (c) Khi mô nhận lương ta mần chầu ốc hè.

Ở ví dụ (104), Sp2 hồi đáp lại tham thoại thông báo của Sp1 bằng 3 hành động:

hành động bộc lộ (a) + thành phần phụ đi kèm hành động bộc lộ nhằm giải thích lí do

cho cảm xúc tích cực của Sp2 (b) + hành động gợi ý (c).

Tóm lại, mỗi dạng hồi đáp đều có những vai trò, chức năng nhất định trong

tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo.

Đối với tham thoại hồi đáp chỉ có một hành động thì đương nhiên hành động

đó sẽ trả lời trực tiếp vào đích của tham thoại trao chứa hành động thông báo. Chúng

thường phản ánh thái độ, cách đánh giá của người nghe đối với sự việc được người nói

thông báo.

Đối với tham thoại hồi đáp gồm nhiều hành động thì mức độ và sự liên kết giữa

các hành động để hướng về đích hồi đáp cho hành động thông báo là không giống nhau.

73

Trong một số tham thoại, các hành động thông báo có quan hệ khá độc lập,

riêng rẽ với nhau. Chẳng hạn,

(105). Sp1: Thông báo với mi (mày) là tau (tao) độ (đỗ) công chức rồi, về làm

kế toán cho xạ (xã) Xuân Viên nhà mi (mày) đó.

Sp2: (a) Chúc mừng mi. (b) Bựa mô (hôm nào) mời chầu cà phê hè.

Tham thoại hồi đáp gồm hai hành động (a) và (b) hồi đáp cho hành động thông

báo trong tham thoại trao. Thế nhưng, hành động (a) và (b) không bắt buộc hiện diện

bên nhau vì mỗi hành động có một nội dung ở lời riêng. Hai hành động đi kèm này có

quan hệ đẳng lập, chúng đóng vai trò chúc mừng và đề nghị giúp vai nghe thể hiện thái

độ, tình cảm với tin vui mà vai nói cung cấp và định hướng người nói thực hiện một

hành động trong tương lai.

(106). Sp1: Đạo ơi, Đạo ơi! Tau biết điểm thi Đại học rồi, được 28 điểm mi ơi.

Sp2: (a) Điểm ni có lẹ (lẽ) cao nhứt (nhất) lớp ta rồi đo (đó), (b) chúc

mừng mi. (c) Khao to, khao to nha.

Còn ở ví dụ (106) có ba hành động hồi đáp (a), (b) và (c) hồi đáp cho hành

động thông báo. Hành động (a) và (b) có quan hệ chặt chẽ, (a) nêu lí do cho hành động

chúc mừng (b). Còn hành động chúc mừng (b) và đề nghị (c) có quan hệ bình đẳng, do

đó chúng không bắt buộc hiện diện bên nhau.

2.3. Tiểu kết chương 2

Từ những vấn đề trình bày trên, chúng tôi rút ra một số kết luận cơ bản sau:

a. Việc đi sâu nghiên cứu cấu tạo cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh có vai trò quan trọng giúp chúng ta thấy được nhu

cầu giao tiếp của người Nghệ Tĩnh là luôn muốn thể hiện, trao đổi thông tin với nhau

theo lối nói đặc trưng “xứ Nghệ” (gồm sự thêm bớt thành tố hoặc tỉnh lược), nhất là

những người thân, người quen biết, có quan hệ gần gũi thông qua sự tương tác.

b. Tham thoại có mục đích thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

thường có cấu tạo gồm hai dạng: 1) chỉ có hành động thông báo, 2) hành động thông

báo kết hợp hành động đi kèm. Dạng tham thoại chỉ có hành động thông báo có lõi là

một BTNV tường minh hoặc nguyên cấp. Mô hình cấu tạo tham thoại trao chứa BTNV

thông báo tường minh đầy đủ gồm 4 thành tố: chủ thể thực hiện hành động thông báo

Sp1, ĐTNV, đối tượng tiếp nhận hành động thông báo Sp2 và nội dung mệnh đề; tùy

74

ngữ cảnh giao tiếp mà Sp1 và Sp2 (hoặc cả Sp1 và Sp2) đều có thể bị tỉnh lược. Dạng

tham thoại có hành động thông báo và các thành phần phụ đi kèm được chúng tôi mô

tả là sự mở rộng của BTNV thông báo bao gồm tham thoại thông báo có một thành

phần phụ và tham thoại thông báo có nhiều thành phần phụ đi kèm.

c. Ứng với 1210 tham thoại trao chứa hành động thông báo thì có 1210 tham

thoại hồi đáp tương ứng. Tham thoại hồi đáp cho tham thoại trao chứa hành động

thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh có thể được cấu tạo từ một hành động

hoặc nhiều hành động, trong đó, dạng hồi đáp nhiều hành động được người Nghệ Tĩnh

sử dụng nhiều hơn. Chúng tạo thành các cặp tương tác: (1) tham thoại trao chứa hành

động thông báo đứng độc lập - tham thoại đáp gồm một hành động; (2) tham thoại trao

chứa hành động thông báo đứng độc lập - tham thoại đáp gồm nhiều hành động; (3)

tham thoại trao chứa hành động thông báo có thành phần phụ đi kèm - tham thoại đáp

gồm một hành động; (4) tham thoại trao chứa hành động thông báo có thành phần phụ

đi kèm - tham thoại hồi đáp gồm nhiều hành động. Trong đó, dạng hồi đáp nhiều hành

động đáp lại tham thoại trao chứa hành động thông báo và thành phần phụ đi kèm xuất

hiện nhiều nhất trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

75

Chương 3

NGỮ NGHĨA CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG

THÔNG BÁO - HỒI ĐÁP TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

3.1. Khái niệm ngữ nghĩa trong ngôn ngữ

3.1.1. Ý kiến của các tác giả đi trước

Cho đến nay, việc nghiên cứu ngữ nghĩa trong ngôn ngữ đã có nhiều tác giả trong

và ngoài nước quan tâm nhưng chưa thật thống nhất. Có thể chia ra 4 hướng chính:

a. Nghiên cứu ngữ nghĩa theo hướng truyền thống

Hướng này quan niệm ngữ nghĩa là mặt thứ hai của tín hiệu ngôn ngữ (từ ngữ,

câu, phát ngôn) đối lập với mặt thứ nhất là hình thức.

Ngay từ những năm 1870, F.de Saussure (1857-1913) đã bàn đến vấn đề nghĩa,

ý nghĩa của ngôn ngữ. Nghĩa theo F.de Saussure là quan hệ giữa cái biểu hiện

(significant) và cái được biểu hiện (signifie), trong đó, cái biểu hiện không phải là bản

thân tổ hợp ngữ âm cụ thể mà là hình ảnh tâm lí của nó và cái được biểu hiện là tư

tưởng [96].

Theo John Lyons (2006), “Nghĩa học là sự nghiên cứu về nghĩa; và ngữ nghĩa

học là sự nghiên cứu về nghĩa trong một chừng mực, nó đã được mã hóa một cách hệ

thống trong từ vựng và ngữ pháp của các ngôn ngữ (được gọi là) tự nhiên” [78, tr. 12].

Từ quan niệm về ngữ nghĩa học, tác giả đã trình bày các nội dung về nghĩa từ vựng,

nghĩa của câu và nghĩa phát ngôn. Trong đó, ông đặc biệt chú trọng đến nghĩa học về

câu và nghĩa học về phát ngôn bằng việc chỉ ra mối quan hệ cũng như nét phân biệt

giữa câu và phát ngôn: “nghĩa của câu có quan hệ với nghĩa của phát ngôn thông qua

khái niệm về cách dùng đặc trưng, nhưng lại phân biệt ở chỗ: nghĩa của câu thì độc lập

với cái ngữ cảnh cụ thể mà câu đó được sử dụng, trong khi đó, để xác định nghĩa của

phát ngôn thì phải xem xét đến các yếu tố tình huống. Nghĩa của câu là nghĩa tự thân

còn nghĩa của phát ngôn là kết quả của việc dùng câu đó trong ngữ cảnh cụ thể”. Đồng

thời ông cũng đưa ra sự phân loại một cách toàn diện về nghĩa miêu tả và nghĩa biểu

lộ. Để “làm thành cái tri thức nền” cho nghiên cứu về nghĩa, John Lyons đã nêu ra một

số lý thuyết triết học khác nhau về nghĩa, như: thuyết quy chiếu hay sở thị; thuyết ý

niệm hay tâm lý; thuyết hành vi; thuyết nghĩa - là - cách - dùng; thuyết thẩm định;

thuyết điều kiện chân trị [78, tr. 75].

76

Ở trong nước, theo thời gian, thời kì sau 1954, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam

đã đi theo hướng này khá đông, như Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,

Nguyễn Như Ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng…

Ngữ nghĩa là đối tượng nghiên cứu của ngành ngôn ngữ nói chung, ngữ nghĩa

học nói riêng.

b. Nghiên cứu ngữ nghĩa theo hướng tâm lý học

Dấu ấn tâm lý học biểu hiện rõ ràng nhất trong một sơ đồ biểu thị mối quan hệ

giữa từ (kí hiệu) và ý nghĩa, thường được gọi là “tam giác ngữ nghĩa”, do Ogden và

Richards (1923) đưa ra, và được trích dẫn cũng như diễn giải trong nhiều công trình

nghiên cứu ngữ nghĩa học.

L. Bloomfield (1935), Ch. W. Morris (1938) và Osgood (1957) quan niệm hẹp

hơn cho rằng ý nghĩa của một tín hiệu ngôn ngữ chỉ còn là “sự ứng xử của con người”

khi phản ứng trước tín hiệu nghe được đó, bởi vì sự ứng xử của con người được coi là

chỉ báo khách quan duy nhất để hiểu các phát ngôn. Đây chính là quan niệm trong

hành vi luận (behaviourism), vốn đã có những ảnh hưởng rộng lớn không chỉ trong

nghiên cứu ngữ nghĩa học mà còn cả trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác, mặc dầu bị

nhiều ý kiến phê phán (dẫn theo [47]).

Những quan niệm triết - tâm lí học về ý nghĩa nêu trên đã được áp dụng vào

ngôn ngữ học nói chung và ngữ nghĩa học nói riêng. Điều đáng nói là lập trường của

nhiều nhà ngôn ngữ học trong vấn đề bản chất của ý nghĩa rất gần với quan điểm của

thuyết liên tưởng tâm lí học.

Dik Geeraerts (2004) trong Các lí thuyết ngữ nghĩa học từ vựng cho rằng:

“Nghĩa ngôn ngữ được định nghĩa như là một hiện tượng tâm lí học, và đặc biệt hơn

nữa, nghĩa chính là kết quả của quá trình tâm lý học, tức là các loại tư duy hay tư

tưởng” [34, tr. 35].

c. Nghiên cứu ngữ nghĩa theo hướng ngữ dụng

Ngữ nghĩa, theo H. Paul, lại gắn với ngữ cảnh và cách dùng, đó là: a) Trụ cột đầu

tiên liên quan đến sự phân biệt giữa nghĩa “thường dùng” và nghĩa “tạm thời” của biểu

thức ngôn ngữ. Nghĩa thường dùng là nghĩa đã được cố định hóa, được các thành viên

của cộng đồng ngôn ngữ chia sẻ. Nghĩa tạm thời liên quan tới những điều chỉnh mà

nghĩa thường dùng có thể kinh qua ở lời nói; b) Trụ cột thứ hai liên quan đến ngữ cảnh

77

là một cái gì đó tối quan trọng đối với việc nhận hiểu sự chuyển đổi từ nghĩa thường

dùng sang nghĩa tạm thời. Chúng ta có thể dễ dàng định giá đúng luận điểm này nếu

chúng ta để mắt tới hàng loạt những kiểu loại ngữ cảnh khác nhau về nghĩa tạm thời và

cái cách mà chúng thường được hình thành từ nghĩa thường dùng; c) Trụ cột thứ ba nói

về mối quan hệ biện chứng giữa cấu trúc ngôn ngữ và việc sử dụng ngôn ngữ: các nghĩa

tạm thời được sử dụng thường xuyên có thể trở thành nghĩa thường dùng, tức là chúng

có thể đạt được một vị thế độc lập. Những nghĩa thường dùng, một mặt, là cơ sở cho sự

hình thành những nghĩa tạm thời, nhưng mặt khác, các nghĩa đã được ngữ cảnh hóa có

thể trở thành nghĩa quy ước và phi ngữ cảnh [34, tr.40].

Ở Việt Nam có thể kể đến những nhà ngôn ngữ theo hướng tiếp cận này là Đỗ

Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Lê Đông, Đỗ Thị Kim Liên,

Nguyễn Đức Tồn, Phạm Hùng Việt, Nguyễn Văn Hiệp…

d. Nghiên cứu ngữ nghĩa học theo hướng tri nhận (Cognitive science)

Năm 1980, Lakoff. G cùng với nhà triết học Johnson M, công bố cuốn Metafors

We Live By (Những ẩn dụ mà chúng ta đang sống) đã xem ẩn dụ là công cụ tạo nghĩa

cho những phạm vi khái niệm mới gần với kinh nghiệm trực tiếp của con người. Năm

1989, Lakoff. G cùng các đồng nghiệp của mình đưa ra danh sách cơ sở những ẩn dụ

tiếng Anh theo phương pháp tri nhận đã thu hút sự chú ý của đông đảo nhà nghiên cứu

trên thế giới (dẫn theo [28]).

Ở Việt Nam, hai nhà ngôn ngữ nổi tiếng là Lý Toàn Thắng và Trần Văn Cơ đã

đã tiếp cận hướng đi mới này. Trần Văn Cơ trong Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và

suy ngẫm), viết: “Ngôn ngữ học tri nhận quan tâm đến hai khái niệm: mô hình tri nhận

và khoa học ý niệm. Khoa học ý niệm là một khái niệm rất chung. Trong khi đó mô

hình tri nhận chỉ là một lớp riêng của khoa hoc ý niệm. Mô hình tri nhận là một dạng

đặc biệt của các quan niệm khoa học, nó có nhiệm vụ tổ chức việc quan sát, gán cho

việc quan sát một ý nghĩa nào đó, tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố xuất phát từ

những quan sát này, phát triển những giả thuyết dự đoán các sự kiện chưa được quan

sát. Mô hình tri nhận được hiểu như một ẩn dụ có cơ sở trong các quan sát và kết luận

được rút ra từ các quan sát đó và miêu tả thông tin được phát hiện, lưu trữ và sử dụng

như thế nào [27, tr.52].

78

3.1.2. Phân biệt nghĩa, ý nghĩa, ngữ nghĩa

Từ quan điểm của các tác giả đi trước về nghĩa, ý nghĩa và ngữ nghĩa, chúng tôi

nhận thấy đây là ba khái niệm dễ gây sự hiểu lầm. Cho đến nay, vấn đề phân biệt ba

khái niệm nghĩa, ý nghĩa và ngữ nghĩa vẫn chưa rạch ròi, còn nhiều tranh cãi.

Nguyễn Thiện Giáp (1998) trong Từ vựng học tiếng Việt đã tổng hợp tương đối

đầy đủ các quan niệm về nghĩa của từ. “Chúng ta thấy nổi lên 2 khuynh hướng: 1) Cho

nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm, sự phản ánh..); 2) Cho nghĩa

của từ là một bản thể nào đó (quan hệ của từ với đối tượng hoặc quan hệ của từ với

khái niệm…)” [40, tr.122]. Từ đó tác giả cho rằng “Nghĩa của từ cũng là một đối

tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn” [40, tr.125] gồm: “nghĩa sở

chỉ”, “nghĩa sở biểu”, “nghĩa sử dụng”, “nghĩa kết cấu”. Cũng như các tác giả đi trước,

Nguyễn Thiện Giáp xem ngữ nghĩa học nghiên cứu nghĩa từ vựng và sau này cả nghĩa

của các đơn vị cụm, câu, đoạn trong sử dụng.

Nguyễn Như Ý (chủ biên) trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học

quan tâm theo hướng truyền thống. Ông đã có sự phân biệt 3 khái niệm nghĩa, ý nghĩa

và ngữ nghĩa trong ngôn ngữ. Theo ông, nghĩa là: 1. Sự phản ánh đối tượng của hiện

thực (các hiện tượng, các quan hệ, phẩm chất, quá trình) vào trong nhận thức, trở

thành một yếu tố của ngôn ngữ nhờ việc tạo nên mối liên hệ thường trực liên tục với

một chuỗi âm thanh nhất định nhờ đó sự phản ánh hiện thực trong nhận thức được

hiện thực hoá. Sự phản ánh hiện thực này tham gia trong cấu trúc của từ như là mặt

bên trong, mặt nội dung trong quan hệ với mặt âm thanh như là vỏ vật chất cần thiết

không chỉ để biểu hiện nghĩa và thông báo nó cho người khác, mà còn cần thiết cho

chính sự hình thành, nảy sinh, tồn tại và phát triển của nó. 2. Toàn bộ các chức năng

của đơn vị ngôn ngữ; tất cả những điều được các đơn vị ngôn ngữ này biểu hiện, phản

ánh là mặt nội dung của chúng. Ví dụ: nghĩa chuyển; nghĩa số lượng; nghĩa nguyên

nhân [115, tr.143]. Ý nghĩa là: 1. Sự phản ánh đối tượng của hiện thực (hiện tượng,

quan hệ, phẩm chất, qua trình) vào nhận thức, trở thành yếu tố ngôn ngữ do hình

thành mối liên hệ thường xuyên liên tục với một âm tố nhất định mà trong đó nó được

biểu hiện; sự phản ánh này về hiện thực xâm nhập vào cấu trúc từ như là mặt bên

trong (mặt nội dung) của từ, và quan hệ với mặt nội dung của từ, thì mặt bên ngoài

(mặt hình thức), tức vỏ vật chất của từ lại cần thiết không những để biểu thị ý nghĩa và

79

sự thông báo của từ mà còn cần cho chính sự nảy sinh, hình thành, tồn tại và phát

triển của từ. Ý nghĩa là nội dung của từ, phản ánh trong nhận thức và cố định trong

nhận thức một biểu tượng về đối tượng, thuộc tính, quá trình, hiện tượng, v.v... Ý nghĩa

thường gắn liền với khái niệm, nhưng không đồng nhất với khái niệm. 2. Đặc trưng

chung cho tất cả cảnh huống trong đó người nói có thể phát âm một đơn vị ngôn ngữ

(một từ) nào đó, và cho tất cả những phản ứng mà sự phát âm đơn vị ngôn ngữ đó

trong các cảnh huống kiểu như thế gây ra ở người nghe. 3. Toàn bộ các chức năng

của các đơn vị ngôn ngữ học, tất cả những cái mà những đơn vị ấy biểu thị, thể hiện,

là nội dung của chúng. Ý nghĩa thời gian, Ý nghĩa số lượng. ý nghĩa nguyên nhân

[115, tr. 432]. Còn ngữ nghĩa là: Toàn bộ nội dung, thông tin được ngôn ngữ truyền

đạt hoặc được đơn vị nào đó của ngôn ngữ thể hiện (như từ, hình thái ngữ pháp của

từ, cụm từ, câu) [115, tr. 183]. Như vậy, nghĩa, ý nghĩa và ngữ nghĩa, theo Nguyễn

Như Ý, là ba phạm trù không hoàn toàn đồng nhất.

Theo Lê Quang Thiêm, “Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường gặp các từ

nghĩa, ý nghĩa. Nội dung của các từ này thường là khó xác định… Phạm vi nghiên cứu

nghĩa trong ngôn ngữ học dù rất đa dạng, phức tạp thì cũng được xác định hẹp hơn. Về

đại thể, phạm vi ngôn ngữ học quan tâm là giải thích, là trả lời câu hỏi: từ có nghĩa là

gì? Câu có nghĩa là gì? Nếu liệt kê cho đầy đủ thì đó là: “các hình thức ngôn ngữ, các

biểu thức ngôn ngữ, các văn bản, diễn ngôn… có nghĩa gì?” [105, tr. 54]. Ông cho

rằng: “Nghĩa là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ

của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện chức năng công cụ giao tiếp và tư duy cũng như

mọi loại chức năng cụ thể, đa dạng khác, đặc biệt trong lời nói, trong văn bản diễn

ngôn” [105, tr.11].

Lê Quang Thiêm, đề xuất các tầng chức năng tương ứng ngữ nghĩa như sau:

a. Tầng chức năng - ngữ nghĩa trí tuệ.

b. Tầng chức năng - ngữ nghĩa phản ánh, miêu tả.

c. Tầng chức năng - ngữ nghĩa tương tác.

d. Tầng chức năng - ngữ nghĩa biểu cảm văn hóa [105, tr. 99 - 100].

Tác giả giải thích, chức năng không phải là nghĩa. Chức năng là cơ sở, là biểu

hiện của nghĩa. Nghĩa là cái được tổng hợp từ một chuỗi, một loại lớp chức năng. Nghĩa

cũng không phải là cách dùng mà là sự tổng hợp từ cách dùng. Nghĩa gắn với hoạt động

80

chức năng, nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp, tư duy, hoạt động có ý thức của

con người. Nghĩa có mối liên hệ bản chất với giao tiếp, tư duy và chức năng của các loại

đơn vị, yếu tố, biểu thức của ngôn ngữ trong cấu tạo cũng như trong hoạt động của

chúng thể hiện ở các loại hình phong cách chức năng ngôn ngữ đa dạng khác nhau mà

trước đây là tu từ học và nay là ngữ dụng học chú ý khám phá [105, tr. 100].

Chúng tôi phân biệt ba khái niệm này như sau:

Nghĩa là mặt thứ hai của lời nói, là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại

trong mọi biểu hiện, mọi cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện chức năng công

cụ giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức năng cụ thể, đa dạng khác, đặc biệt

trong lời nói, trong văn bản diễn ngôn.

Ý nghĩa là nội dung của từ, phản ánh trong nhận thức và cố định trong nhận

thức. Là sự phản ánh hiện thực vào trong nhận thức, sự phản ánh này như là mặt bên

trong của từ (mặt nội dung) và quan hệ với mặt nội dung của từ. Ý nghĩa thường gắn

liền với khái niệm nhưng không đồng nhất với khái niệm.

Ngữ nghĩa là toàn bộ nội dung mà người nói muốn hướng tới người nghe, ứng

với các tầng chức năng: tầng chức năng - ngữ nghĩa trí tuệ; tầng chức năng - ngữ nghĩa

phản ánh miêu tả; tầng chức năng - ngữ nghĩa tương tác; tầng chức năng - ngữ nghĩa

biểu cảm văn hóa. Như vậy, ngữ nghĩa là cái được tổng hợp từ một chuỗi, một loạt lớp

chức năng.

Như vậy, nghĩa là cái trừu tượng tồn tại trong mọi cấp độ của ngôn ngữ. Ý nghĩa là

mặt nội dung của từ được biểu thị qua vỏ vật chất của từ. Còn ngữ nghĩa là toàn bộ nội

dung của ngôn ngữ mà người nói hướng tới người nghe, gắn với các tầng chức năng.

Chúng tôi tìm hiểu ngữ nghĩa của hành động thông báo trong giao tiếp của

người Nghệ Tĩnh theo cách nhìn ngữ dụng. Nó là toàn bộ nội dung của ngôn ngữ mà

người nói hướng tới người nghe, được đặt trong ngữ cảnh, quan hệ liên nhân, trong

mục đích tạo ngôn của chủ thể.

3.2. Các nhân tố chi phối ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động thông

báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

Việc xác định nghĩa của phát ngôn, của hành động ngôn ngữ cần phải dựa vào

một số nhân tố. Song nhân tố hàng đầu là sự nhận thức, sự tri nhận của con người về

81

tín hiệu với văn cảnh, ngữ cảnh biểu hiện chúng khi thực hiện chức năng trong lời nói

cũng như trong kiểu cấu tạo cấu trúc hệ thống ngôn ngữ.

Tìm hiểu ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi cho có ba nhân tố quan trọng chi phối đích ở

lời của phát ngôn thông báo: một là quan hệ liên cá nhân; hai là thái độ của người nói

và ba là ngữ cảnh, trong đó nhân tố quan trọng nhất là quan hệ liên cá nhân.

3.2.1. Quan hệ liên cá nhân

Trong hội thoại, sự tương tác bằng lời là một hoạt động tác động duy trì hay

làm phương hại tới quan hệ giữa những người đối thoại trong giao tiếp. Vì thế, chúng

ta có thể nghiên cứu sự tương tác ngôn ngữ dựa trên quan hệ giữa những người đối

thoại với nhau.

Quan hệ liên cá nhân là một trong những nhân tố cơ bản quyết định cách thức

thông báo và hồi đáp, thể hiện sự tương tác trong các mối quan hệ xã hội, gia đình…

giữa các nhân vật giao tiếp. Các mối quan hệ này được xem xét trên hai trục: trục

ngang và trục dọc. Trục ngang là trục của quan hệ khoảng cách hay quan hệ thân sơ,

thân cận. Trục dọc là trục vị thế xã hội, hay còn gọi là trục quyền uy.

Quan hệ liên cá nhân là một bộ phận nghĩa của phát ngôn. Quan hệ liên cá nhân

của hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh được biểu hiện như sau:

a. Quan hệ thân cận

Quan hệ thân cận được đặc trưng bởi yếu tố “khoảng cách”, các nhân vật có thể

gần gũi hoặc xa cách nhau. Quan hệ này có thể thay đổi trong khi các nhân vật tiến

hành các cuộc thoại từ sơ giao đến thân mật hoặc ngược lại. Thông thường, mức độ

thân cận tỉ lệ thuận với mức độ hiểu biết về nhau của những người tham gia giao tiếp.

Tìm hiểu 1210 cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi nhận thấy hầu hết các nhân vật tham gia thực hiện

hành động thông báo đều có mối quan hệ thân cận. Dưới đây là bảng thống kê cụ thể

số lượng cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp xuất hiện trong giao tiếp của

người Nghệ Tĩnh có mối quan hệ thân cận.

82

Bảng 3.1. Thống kê các mối quan hệ thân cận giữa vai thông báo

và vai nhận thông báo

TT Quan hệ Số lượng Tỉ lệ (%)

1 Cơ quan, đồng nghiệp 262 21,65

2 Người học - người học 216 17,85

3 Hàng xóm láng giềng 179 14,79

4 Bạn bè 167 13,80

5 Huyết thống 126 10,41

Thầy - trò 6 91 7,52

7 Thủ trưởng - nhân viên 63 5,21

8 Vợ chồng 38 3,14

9 Bác sĩ - bệnh nhân 32 2,64

10 Giáo viên - phụ huynh 15 1,24

11 Chủ trọ - người thuê trọ 13 1,07

12 Người mua - người bán 8 0,68

Tổng 1210 100%

Bảng thống kê 3.1. trên cho thấy các kiểu quan hệ mà người Nghệ Tĩnh đề cập

đến khi thực hiện hành động thông báo khá đa dạng, từ trong gia đình đến ngoài xã hội

nhưng sự tương tác ngữ nghĩa vai giao tiếp thể hiện quan hệ thân cận giữa người thông

báo và người nhận thông báo ở phạm vi ngoài xã hội chiếm số lượng vượt trội: 10/12

nhóm, với số lượng 1026/1210, chiếm 84,79%, chúng gồm 12 tiểu nhóm: thứ nhất,

giữa những người có quan hệ đồng nghiệp, hành động thông báo xuất hiện với số

lượng cao nhất, có 262 tham thoại, chiếm 21,65%. Thứ hai, quan hệ giữa người học -

người học, có 216 tham thoại, chiếm 17,85%. Thứ ba, quan hệ hàng xóm láng giềng,

có 179 tham thoại, chiếm 14,79%. Thứ tư, quan hệ bạn bè, có 167 tham thoại, chiếm

13,80%. Thứ năm, quan hệ huyết thống, có 126 tham thoại, chiếm 10,41%. Thứ sáu,

quan hệ giữa giáo viên với học sinh, sinh viên, có 91 tham thoại, chiếm 7,52%. Thứ

bảy, quan hệ giữa thủ trưởng với nhân viên, có 63 tham thoại, chiếm 5,21%. Thứ tám,

quan hệ vợ chồng, có 38 tham thoại, chiếm 3,14%. Thứ chín, quan hệ giữa bác sĩ với

bệnh nhân, có 32 tham thoại, chiếm 2,64%. Thứ mười, quan hệ giữa giáo viên và phụ

83

huynh, có 15 tham thoại, chiếm 1,24%. Thứ mười một, quan hệ giữa chủ trọ và người

thuê trọ, có 13 tham thoại, chiếm 1,07%. Cuối cùng là quan hệ giữa người mua - người

bán có số lượng ít nhất, có 8 tham thoại, chiếm 0,68%.

Sau đây, chúng tôi phân tích sự tương tác ngữ nghĩa vai giao tiếp thể hiện quan

hệ thân cận giữa người thông báo và người nhận thông báo xảy ra ở một số nhóm hành

động thông báo chiếm tỷ lệ lớn.

a1) Quan hệ đồng nghiệp

Quan hệ đồng nghiệp là quan hệ giữa những người cùng làm việc trong một cơ

quan, một đơn vị tổ chức nhất định. Vì cùng sinh hoạt tại một nơi, có cơ hội tiếp xúc,

chứng kiến và tham gia công việc cùng nhau nên ở họ không chỉ có tình đồng nghiệp

mà còn có tình thân. Nên rất dễ hiểu khi nội dung thông báo trong kiểu quan hệ này

bên cạnh nội dung công việc mang tính hành chính công vụ thì còn có các nội dung

liên quan đến đời sống cá nhân (gia đình, con cái, hiếu hỉ…).

Qua ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy, vì các thông tin trong kiểu quan hệ này chủ

yếu là các sự kiện, sự tình chung, mang tính tập thể, thuộc lĩnh vực hành chính công

vụ nên người thông báo thường là những người có một vị trí nhất định trong cơ quan

(tổ trưởng, trưởng phòng, trưởng Khoa, chủ tịch công đoàn…). Đó là các tin tức liên

quan đến công việc, các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao của cơ quan, thanh kiểm

tra, bổ nhiệm, thi đua khen thưởng, kỉ luật… Đích mà Sp1 hướng tới Sp2 là đích nhận

thức và hành động. Vì vậy, khi nhận được thông báo Sp2 chắc chắn phải thực hiện một

hành động trong tương lai. Do đó, tham thoại hồi đáp cho tham thoại trao thông báo

chứa kiểu kiểu quan hệ này thường là hồi đáp thể hiện sự đồng ý, đồng tình.

(107). Sp1: Nga ơi, cô thông báo với em là chiều thứ tư tuần ni, tiết 2,3 Dung

thao giảng ở lớp K36A, Phòng C301. Em thu xếp thời gian tới dự nha.

Sp2: Dạ.

Ở tham thoại trao, Sp1 với cương vị là tổ trưởng thông báo tới Sp2 một sự tình

liên quan đến công việc (hoạt động thao giảng và dự giờ thăm lớp). Khi nhận được

thông báo này, hành động trong tương lai của Sp2 là phải đến dự giờ của đồng nghiệp

theo thời gian, địa điểm trong thông báo. Sp2 thể hiện điều này bằng hành động hồi

đáp biểu thị sự đồng ý.

84

a2) Quan hệ giữa học sinh, sinh viên - học sinh, sinh viên

Công sở, trong đó có trường học là một trong những đối tượng chính trong

phạm vi khảo sát của chúng tôi. Do đó, rất dễ hiểu khi quan hệ học sinh, sinh viên -

học sinh, sinh viên xuất hiện nhiều thứ 2 trong các kiểu quan hệ thân cận được khảo

sát. Đây là kiểu quan hệ giữa những người cùng học (đồng khóa hoặc khác khóa), có

quan hệ với nhau chủ yếu trên phương diện học tập và các hoạt động đoàn hội trong

khuôn khổ trường học. Cho nên các sự kiện sự tình trong kiểu quan hệ này chủ yếu

thuộc lĩnh vực hành chính công vụ: học tập, thời khóa biểu, lịch thi, các phong trào

văn hóa, văn nghệ, thể thao, khen thưởng, kỉ luật… Hành động hồi đáp cho kiểu quan

hệ này gồm hai dạng: hồi đáp biểu thị sự đồng tình, đồng ý và hồi đáp biểu thị cảm

xúc, cách ứng xử của Sp2 với hành động thông báo của Sp1.

(108). Sp1: Thông báo với mi là nhà trường đã cập nhật lịch thi trên trang cá

nhân của tất cả các sinh viên rồi đó. Mi về lo xem rồi mà ôn thi cho kịp tề.

Sp2: Ày, cảm ơn mi nhiều.

a3) Quan hệ hàng xóm láng giềng

Quan hệ hàng xóm láng giềng là quan hệ giữa những người ở cùng một xóm,

một làng, những người ở bên cạnh nhà với nhau. Quan hệ hàng xóm láng giềng từ xưa

đến nay theo quan điểm của người Việt là kiểu quan hệ thân thiết “tối lửa tắt đèn có

nhau” nhiều khi còn gần gũi hơn cả họ hàng “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Với

người Nghệ Tĩnh, một mảnh đất rất trọng tình, đoàn kết đến mực cục bộ thì kiểu quan

hệ này lại càng được coi trọng. Nên cũng rất dễ hiểu khi kiểu quan hệ hàng xóm láng

giềng trở thành một trong các kiểu quan hệ trung tâm chi phối ngữ nghĩa của cặp thoại

chứa hành động thông báo (đứng vị trí thứ 3 trong 12 quan hệ; với 179 tham thoại,

chiếm 14,79% kiểu quan hệ xuất hiện) trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh. Những sự

kiện, sự tình liên quan đến khối xóm được người Nghệ Tĩnh thông báo rất phong phú

và đa dạng: từ những vấn đề chung (chính trị, kinh tế, văn hóa, nông nghiệp nông

thôn…) đến những sự kiện, sự tình riêng tư (ma chay, cưới hỏi, gia đình, con cái…)

đều được đề cập. Hồi đáp cho hành động thông báo thuộc kiểu qua hệ này thường có

hai dạng: với các vấn đề chung, mang tính hành chính công vụ, đích thông báo là nhận

thức và hành động thì hồi đáp chủ yếu biểu thị sự đồng ý, đồng tình; còn với các sự

kiện, sự tình liên quan đến vấn đề riêng tư, hồi đáp chủ yếu bộc lộ cảm xúc, cách ứng

xử giữa những người hàng xóm với nhau.

85

(109). Sp1: Cô Tính ơi, thông báo với cô là túi ni (tối nay) cụm dân cư ta tập

trung ở nhà tui (tôi) để họp nhé. Cuộc họp có nhiều nội dung quan trọng

đó cô nhớ đi nha.

Sp2: Dạ, em biết rồi ạ.

(110). Sp1: Thông báo với nhà ôông (ông) bà Tiu tin vui là gia đình ôông bà

được chọn là một trong năm gia đình hiếu học tiêu biểu của huyện ta đó.

Chuẩn bị tinh thần bựa mô (hôm nào) mà xuống huyện nhận biểu dương nha.

Sp2: Có thật không bác? Được rứa thì còn chi (còn gì) bằng nựa (nữa)

bác hè. Cảm ơn bác nhiều ạ.

a4) Quan hệ bạn bè

Quan hệ bạn bè là quan hệ có nhiều sự tác động, ảnh hưởng đến việc chi phối

ngữ nghĩa hành động thông báo. Hành động thông báo xảy ra khá nhiều giữa các đối

tượng có quan hệ bằng hữu thân thiết này. Do có quan hệ gần gũi, thân mật nhiều khi

suồng sã nên ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động thông báo dạng này bao gồm:

tham thoại trao là hành động thông báo biểu thị các sự kiện, sự tình mang tính riêng tư,

liên quan đến cá nhân (tình cảm, tình yêu; công việc, cưới hỏi, ma chay, hiếu hỉ, chồng

con, gặp mặt, liên hoan…); tham thoại đáp xuất hiện cả bốn nhóm ngữ nghĩa: đồng

tình/ phủ định bác bỏ, không đồng tình, ngờ vực không tin tưởng và bộc lộ cảm xúc,

cách ứng xử (chủ yếu) của Sp2 vào hành động thông báo của Sp1.

(111). Sp1: Thông báo với nàng là tháng sau tui theo chồng bỏ cuộc chơi nha,

mồng 6 tháng 11 ăn hỏi, mồng 10 tháng 11 cưới.

Sp2: Chúc mừng mi trước nha. Cưới xin lắm (nhiều) việc cần giúp chi

(gì) thì ới (gọi) nghe (nhé).

a5) Quan hệ huyết thống

Quan hệ huyết thống gồm quan hệ giữa cha mẹ - con cái, ông bà - cháu, anh/chị

- em, người thân trong dòng họ. Đó là những người có quan hệ gần gũi, gắn bó máu

thịt nên họ khá hiểu nhau ở nhiều mặt: từ công việc, học tập đến tâm lý, tính cách,

hành động. Giữa các nhân vật có một quan hệ huyết thống này thường có cơ hội tiếp

xúc, chứng kiến và tham gia công việc cùng nhau. Vì vậy, trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh, kiểu quan hệ này cũng chi phối ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động

thông báo. Nó xuất hiện nhiều thứ 5 trong 12 kiểu quan hệ, với 126 lần, chiếm 10,

41%. Các sự kiện, sự tình được thông báo trong quan hệ huyết thống rất đa dạng

86

nhưng chủ yếu mang tính riêng tư liên quan đến cá nhân, gia đình, dòng họ: cưới xin,

ma chay, hiếu hỉ (giỗ chạp, xây/ tu sửa nhà thờ, họp mặt gia đình, mừng thọ, lễ tết…),

học hành, công ăn việc làm… Hồi đáp cho tham thoại thông báo chứa quan hệ huyết

thống thường gồm hai dạng: Hồi đáp bằng các hành động thể hiện sự đồng ý, đồng

tình hoặc hồi đáp bằng các hành động thể hiện cảm xúc, cách ứng xử của các thành

viên trong gia đình, dòng họ.

(112). Sp1: Thông báo với mẹ là cuối tuần ni con đưa con du (con dâu) tương

lai về ra mắt nha.

Sp2: (cười) Rứa thì (thế thì) con nhớ nói với cha con nghe.

b) Quan hệ vị thế

Đây là quan hệ tôn ti xã hội tạo thành các vị thế trên dưới xếp thành tầng bậc

trên một trục dọc. Vì vậy, quan hệ này được đặc trưng bằng yếu tố quyền lực. Quan hệ

vị thế có tính chất tương đối. A có thể có vị thế cao hơn B nhưng lại ở vị thế thấp hơn

so với C. Thậm chí, A có thể ở vị thế cao hơn so với B về phương diện này nhưng lại ở

vị thế thấp hơn B ở phương diện khác.

Tìm hiểu 1210 cặp thoại chứa hành động thông báo trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh, chúng tôi thấy quan hệ vị thế được thể hiện trên hai phương diện: quan hệ

về giới và quan hệ về địa vị, thứ bậc, tuổi tác.

b1) Quan hệ về giới

Nam giới và nữ giới có đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, cho nên, lời thoại của

họ cũng mang những đặc điểm riêng biệt, ít khi lẫn lộn. Khảo sát hành động thông báo

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi nhận thấy mỗi giới có những cách

chọn lựa ngôn ngữ, cách tổ chức phát ngôn để biểu đạt đích ngôn trung phù hợp với

tính cách bản thân. Kết quả thống kê hành động thông báo của nam và nữ trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh được thể hiện ở bảng 3.2. như sau:

Bảng 3.2. Thống kê số lượng hành động thông báo của nam và nữ

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

TT Giới tính Số lượng Tỉ lệ (%)

Nữ 763 63,06 1

Nam 447 36,94 2

Tổng 1210 100%

87

Từ kết quả thống kê 3.2 trên, chúng tôi nhận thấy có 763 tham thoại chứa hành

động thông báo của nữ giới, chiếm 63,06% và 447 tham thoại thông báo của nam giới,

chiếm 36,94%. Như vậy, trong phạm vi ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát, nữ giới đã

thực hiện hành động thông báo nhiều hơn nam giới. Có thể giải thích, sở dĩ, nữ giới sử

dụng hành động thông báo nhiều hơn nam giới là vì nữ giới thường nói nhiều, đồng

thời rất thích quan sát, quan tâm để ý những hiện thực diễn ra xung quanh, từ việc lớn,

quan trọng lẫn việc nhỏ nhặt, không đáng để ý.

- Các nhóm ngữ nghĩa thông báo được nữ giới đề cập rất đa dạng từ các thông

tin về công việc ở cơ quan, đoàn thể đến các thông tin cá nhân riêng tư; từ các thông

tin lớn, quan trọng đến các thông tin nhỏ nhặt. Trong 763 tham thoại thông báo của nữ

giới các vấn đề liên quan đến cưới hỏi, tình cảm riêng, mua sắm, ăn uống, con cái, gia

đình, hàng xóm, vợ chồng xuất hiện nhiều.

(113). Sp1: Thông báo với mi tin vui là chồng tau có quyết định lên làm

Trưởng phòng giao dịch của huyện Nghi Xuân rồi.

Sp2: Chà, chúc mừng vợ sếp, nhớ khao đó nha.

Vấn đề mà Sp1 thông báo cho Sp2 trong ví dụ (111) liên quan đến công danh sự

nghiệp của chồng Sp1, một vấn đề thuộc cá nhân, có tính riêng tư trong gia đình.

Căp thoại chứa hành động thông báo của nữ giới thường xuất hiện nhiều hành

động đi kèm. Lời trao xuất hiện nhiều các từ ngữ yếu tố rào đón, đưa đẩy; các từ ngữ

nhấn mạnh; các tình thái từ ở cuối phát ngôn. Còn lời đáp thường xuất hiện các từ ngữ

biểu thị tình cảm, cảm xúc; cách ứng xử.

(114). Sp1: Ánh Nga ơi, thông báo với em tin buồn là em phải vô đội bóng

chuyền thay chị Hương hành chính, chị Hương bựa qua (hôm qua) bị

tai nạn xe máy, chân bong gân rồi.

Sp2: Khổ thân chị Hương chưa nạ. Dạ, để em vô thay cho.

Lời thông báo của Sp1 trong ví dụ (112) là một thông tin mà Sp1 nghĩ là khi

thông báo sẽ gây ra phản ứng tiêu cực ở Sp2. Do đó, Sp1 đã chủ động đưa ra từ ngữ

nhấn mạnh (tin buồn) và hành động đi kèm giải thích lí do để Sp2 chủ động tiếp nhận

thông tin, tránh phản ứng tiêu cực từ Sp2.

- Đối với nhân vật nam, hành động thông báo của họ có tần số xuất hiện thấp hơn.

Tuy không chênh lệch nhiều về số lượng, nhưng sắc thái ngữ nghĩa và cấu trúc tham thoại

88

của nam giới cũng có một số đặc điểm riêng, cần chú ý. Có thể nói, những đặc điểm này

được xem là nhân tố chi phối nội dung ngữ nghĩa của hành động thông báo.

Nam giới vốn tính “kiệm lời” hơn nữ giới. Họ chủ yếu quan tâm những vấn đề

xã hội rộng lớn hơn là vấn đề thuộc giới hạn gia đình. Mảng hiện thực được phản ánh

qua tham thoại thông báo gắn liền với các vấn đề cơ bản như: công việc cơ quan, khối

xóm; những việc lớn của bản thân (công danh sự nghiệp, thăng tiến…); những việc

gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ của người đàn ông trong gia đình, dòng họ (nhà cửa,

đất đai, xe cộ, thờ phụng…); những việc liên quan đến sở thích (thể thao, gặp gỡ, giao

lưu…) trong mối quan hệ với đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng, bạn bè, huyết thống.

(115). Sp1: Thông báo với Ngọc là 8 giờ sáng mai Chi ủy cũ và mới họp nha.

Sp2: Dạ. Em cảm ơn anh.

Lời thông báo của nam giới thường ngắn gọn, ít dùng rào đón đưa đẩy, các từ

ngữ nhấn mạnh, các tình thái từ ở cuối phát ngôn. Họ cũng đáp lại một cách ngắn gọn

bằng các từ ngữ biểu thị sự đồng tình, đồng ý/ không đồng tình, đồng ý; ít sử dụng các

từ ngữ biểu thị tình cảm, cảm xúc hay tỏ ý ngờ vực như nữ giới.

(116). Sp1: Chiều thứ 7, 2 giờ có mặt ở hội trường tập văn nghệ em nhé.

(a) Sp2 (nam): Dạ chị.

(b) Sp1 (nữ): Chán rứa (thế) chị, chiều mô (nào) cụng (cũng) phải ở lại

tập rồi mà cuối tuần cụng (cũng) nỏ (không) được nghỉ nựa (nữa) ạ.

Trong ví dụ (116), cùng một nội dung thông báo “Chiều thứ 7, 2 giờ có mặt ở

hội trường tập văn nghệ em nhé.” nhưng hồi đáp giữa nam (a) và nữ (b) có sự khác

nhau. Nam giới khi nhận được thông tin liên quan đến công việc (lịch tập văn nghệ để

chuẩn bị cho hội thi văn nghệ của Sở) đã đáp lại nội dung thông báo một cách ngắn

gọn bằng tình thái từ “dạ” để biểu thị sự đồng ý tuyệt đối. Ngược lại nữ giới đáp lại

nội dung thông báo nhận được bằng hành động than vãn “chán” và hành động giải

thích lí do cho tâm trạng chán nản đó.

b2) Quan hệ về địa vị, thứ bậc, tuổi tác

Quan hệ về địa vị, thứ bậc, tuổi tác cũng là biểu hiện của quan hệ vị thế. Cũng

như quan hệ thân sơ, quan hệ vị thế giữa các nhân vật được tri nhận bằng một số yếu

tố đặc trưng như ngữ cảnh, quan hệ liên cá nhân, nội dung mệnh đề.

Dựa vào các cơ sở này, chúng tôi thống kê kết quả về mối quan hệ liên cá nhân

xét theo góc độ quan hệ vị thế ở bảng 3.3 như sau:

89

Bảng 3.3. Thống kê số lượng hành động thông báo

xét theo quan hệ vị thế trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

TT Quan hệ vị thế Số lượng Tỉ lệ %

525 43,39 1 Trên - dưới

495 40,91 2 Ngang hàng

190 15,70 3 Dưới - trên

Qua bảng thống kê 3.3. trên, ta thấy vai thông báo có vị thế cao chiếm số lượng

1210 100% Tổng

nhiều nhất, có 525 tham thoại, chiếm 43,39%. Thứ hai là vai giao tiếp ngang hàng, có

495 tham thoại, chiếm 40,91%. Thấp nhất là vai thông báo có vị thế thấp, có 190 tham

thoại, chiếm 15,7%.

Dấu ấn của quan hệ vai trên thông báo cho vai dưới thể hiện rõ qua cách dùng

từ xưng hô và nội dung thông báo. Về cách xưng hô, vai thông báo thường sử dụng

đại từ xưng hô: tôi; các danh từ chỉ chức vụ, vị thế: chủ tịch công đoàn, tổ trưởng...;

các danh từ thân tộc thể hiện tuổi tác: anh, chị, ông, bà, bố, mẹ,… và gọi vai dưới

nhận thông báo bằng các từ: đồng chí An, các đồng chí, toàn thể đảng viên trong chi

bộ; các đồng chí đoàn viên công đoàn, anh chị em; em, con, cháu… tạo thành cặp

xưng gọi như: tôi - các đồng chí, chủ tịch công đoàn - các đồng chí đoàn viên, tôi -

anh chị em, anh/chị - em, ông/bà - cháu, bố/mẹ - con… Hiện tượng khuyết từ xưng

hô vai trao xuất hiện phổ biến. Nội dung thông báo trong kiểu quan hệ vai trên - vai

dưới này thường là những tin tức, sự kiện chung, mang tính hành chính công vụ gắn

với môi trường công sở và khối xóm; các tin tức trong phạm vi gia đình ít xuất hiện.

Sp2 với vai giao tiếp thấp hơn thường đáp lại lời thông báo một cách ngắn gọn nhằm

biểu thị sự đồng tình một cách tuyệt đối, ít sử dụng hành động đi kèm và các từ ngữ

biểu thị tình cảm, cảm xúc.

(117). Sp1: Xin thông báo với các đồng chí đảng viên trong chi bộ là thứ 4

tuần sau, ngày 24 tháng 10 Chi bộ ta tổ chức đại hội. Đúng 7 giờ các

đồng chí có mặt ở phòng 105 thư viện, nữa áo dài truyền thống, nam áo

sơ mi trắng quần âu tối màu nhé.

Sp2: Dạ.

90

Kiểu quan hệ ngang vai cũng được thể hiện rất rõ qua cấu tạo và nội dung ngữ

nghĩa của cặp thoại chứa hành động ngôn ngữ thông báo. Cấu trúc hành động thông

báo thường xuất hiện dạng tỉnh lược vai trao, thậm chí tỉnh lược cả vai trao và vai

nhận. Các từ xưng hô được sử dụng luôn thể hiện sự gần gũi, thân mật giữa người

thông báo và người nhận thông báo: tau, mi, tui, ung, nàng, bồ, hàng xóm, bạn hiền, o,

cậu…, thậm chí, có khi nghiêng về bổ bã, suồng sã tạo thành các cặp như: tau-mi, tui-

bà, tui-ung, mềnh (mình)- ả/ eng… Ngữ nghĩa mà kiểu quan hệ này biểu hiện thường

là các nội dung mang tính cá nhân riêng tư: tình cảm, cưới hỏi, công việc, gia đình…

vì có quan hệ ngang hàng nên Sp2 thoải mái đáp lại lời thông báo của Sp1. Cấu trúc

của lời đáp đa dạng, sử dụng nhiều các hành động đi kèm và các từ ngữ biểu thị cảm

xúc với nội dung ngữ nghĩa: đồng tình, không đồng tình, ngờ vực, phủ định bác bỏ,

bộc lộ thái độ, cách ứng xử.

(118). Sp1: Thông báo với nàng là cuối tuần ni (này) e Hoa xinh đẹp nhà

mình về quê, hấn (hắn) nói tau mi (tao mày) lo mà lên lịch đón tiếp tề (đó).

Sp2: Ầy, lâu lắm nỏ (không) gặp chắc (gặp nhau) hè (đó). Lên lịch mạnh chơ.

Người ở vị thế thấp cũng thực hiện hành động thông báo hướng đến người

thuộc vị thế cao. Dạng quan hệ này chủ yếu xuất hiện trong phạm vi gia đình, đôi khi

có xuất hiện ở đồng nghiệp. Sp1 và Sp2 lúc này ít bị chi phối bởi tính tôn ti thứ bậc mà

chịu ảnh hưởng của quan hệ tình cảm. Nội dung thông báo thường là các sự kiện cá

nhân, mang tính riêng tư, thuộc về Sp1 (tin vui/ tin buồn). Sp1 thông báo cho Sp2 biết

để Sp2 chia sẻ, đồng cảm với mình.

(119). Sp1: Mẹ ơi, thông báo với mẹ một tin trên cả tuyệt vời là con đã thi đỗ

công chức rồi, con vừa xem kết quả trên mạng mẹ ơi.

Sp2: Mừng quá! Mừng quá con ơi! Mẹ chúc mừng con.

Quan hệ vị thế chi phối ngữ nghĩa của tham thoại trao thông báo và tham thoại hồi

đáp. Cùng một nội dung thông báo nhưng tuổi tác khác nhau, địa vị khác nhau thì người

thông báo và người nhận thông báo sẽ có cách thức thông báo và hồi đáp khác nhau.

(120). Sp1: Tôi xin thông báo với các đồng chí là chiều thứ 7, 14 giờ, có mặt ở

hội trường để học Nghị quyết nhé.

Sp2: Dạ.

91

(121). Sp1: Này, chiều thứ 7, 14 giờ có mặt ở hội trường học Nghi quyết mi

(mày) nha. Mi (mày) lo mà đi cho đúng giờ chơ (chứ) tính mi hay lề mề lắm.

Sp2: Chán rứa hề (thế nhỉ)? Rứa (thế) là mất toi ngày cuối tuần.

(122). Sp1: Chị Hảo ơi, chiều thứ 7, 14 giờ có mặt ở hội trường học Nghi quyết

chị nha.

Sp2: Ừ, chị biết rồi, chị cảm ơn em.

Có thể thấy ví dụ (120), (121) và (122) có cùng nội dung thông báo là “chiều

thứ 7, 14 giờ có mặt ở hội trường học Nghi quyết” nhưng cách thức thông báo và hồi

đáp không giống nhau.

Ở ví dụ (120), vì Sp1 và Sp2 có quan hệ vai trên và vai dưới (thủ trưởng - nhân

viên) nên Sp1 đã thông báo sự tình đến Sp2 bằng BTNV thông báo tường minh “Tôi

xin thông báo với các đồng chí là chiều thứ 7, 14 giờ, có mặt ở hội trường để học Nghị

quyết”, Sp1 xưng “tôi” gọi Sp2 bằng “các đồng chí”; trước động từ “thông báo” có

động từ “xin” cho thấy vị thế của Sp1 cũng như tính khách quan, chính xác của nội

dung thông báo. Sp2 ở vị thế giao tiếp thấp hơn (vai dưới) đã đáp lại hành động thông

báo của Sp2 bằng hồi đáp tích cực (dạ) cho thấy thái độ đồng ý ở mức cao của mình.

Ở ví dụ (121), Sp1 và Sp2 bằng tuổi, là đồng nghiệp nhưng có mối quan hệ thân

thiết. Vì vậy, Sp1 đã cung cấp nội dung sự tình đến Sp2 bằng một BTNV thông báo

nguyên cấp kết hợp hai thành phần phụ đi kèm: hô gọi “này” + hành động cầu khiến

“khuyên”. Còn Sp2 đã hồi đáp lại tham thoại trao thông báo của Sp1 bằng hành động

hồi đáp tiêu cực: hành động than vãn + hành động giải thích lí do than vẫn.

Còn ở ví dụ (122), Sp1 và Sp2 là đồng nghiệp, nhưng xét về tuổi tác Sp1 ở vai

dưới so với Sp2. Vì vậy, khi thông báo sự tình đến Sp1, Sp1 đã sử dụng biểu thức hô

gọi “chị Hảo ơi” và cách xưng hô “chị - em” trong tham thoại trao thông báo nhằm thể

hiện sự gần gũi nhưng lịch sự. Sp2 đã đáp lại tham thoại trao của Sp1 bằng ba hành

động: hành động đồng y + hành động trình bày + hành động lịch sự. Cặp thoại thông

báo - hồi đáp này cho thấy sự gần gũi nhưng lịch sự đúng với vị thế giao tiếp giữa Sp1

và Sp2.

Tóm lại, mỗi cặp thoại chứa hành động ngôn ngữ thông báo - hồi đáp được thực

hiện đều thể hiện quan hệ liên cá nhân người nói - người nhận. Qua tham thoại, chúng ta

nhận thấy đặc trưng giới tính, cương vị xã hội, tuổi tác, thứ bậc của các nhân vật hội thoại.

92

3.2.2. Trạng thái tâm lí tích cực hoặc tiêu cực của người thông báo và người

nhận thông báo

Như đã phân tích trên, liên quan trực tiếp đến việc hình thành ngữ nghĩa tham

thoại thông báo là trạng thái tâm lí của người nói và người tiếp lời.

Mỗi hành động ngôn ngữ đều gắn liền với những đặc điểm, trạng thái, nhu cầu

biểu đạt nhận thức, bày tỏ xúc cảm của người nói về hiện thực mà mình thực sự quan

tâm. Khi thực hiện hành động thông báo, bao giờ vai thông báo cũng ở một trạng thái

tâm lý nhất định. Xét trên phương diện tâm lý con người, nếu trạng thái tâm lý chán

nản, khó chịu, buồn, thất vọng thì đó là trạng thái tâm lý âm tính còn khi con người có

được cảm giác vui vẻ, phấn khởi, thoải mái thì đó là trạng thái tâm lý dương tính. Tùy

vào tính chất của sự kiện, sự tình thông báo mà vai trao và vai nhận thông báo sẽ có

trạng thái tâm lí âm tính hay dương tính tương ứng được thể hiện qua các tổ hợp từ cố

định hay các quán ngữ quen thuộc.

Trạng thái tâm lí dương tính thường được vai trao và vai nhận thông báo thể

hiện qua các từ ngữ chỉ cảm xúc tích cực (thường xuất hiện ở vai trao) như tin vui, tin

cực vui, tin vui ơi là vui, tin trên cả tuyệt vời, tin sốt dẻo, tin hót đây… đứng trước nội

dung mệnh đề hay các hành động đi kèm (thường xuất hiện ở vai nhận) như hành động

chúc mừng, hành động bộc lộ cảm xúc vui, mừng, phấn khích… Khi sự kiện sự tình

mà người nói thông báo tới người nghe là thông tin tích cực thì tâm trạng của người

nói và người nghe bao giờ cũng vui vẻ, phấn khởi, thoải mái và không cần rào đón đưa

đẩy khi nói.

(123). Sp1: Thông báo với mi tin vui vui vui là chồng tau (tao) thứ 2 ni (này)

vô tỉnh nhận quyết định bổ nhiệm giám đốc Sở rồi mi ơi.

Sp2: Trời ơi, quá vui luôn! Chúc mừng vợ chồng mi (mày) nha.

Còn trạng thái tâm lí tiêu cực thường được vai trao và vai nhận thông báo thể

qua các từ ngữ chỉ cảm xúc tiêu cực (thường xuất hiện ở vai trao) như tin buồn, tin

xấu, tin nỏ (không) được vui cho lắm, tin buồn thúi rọt thúi gan, tin chó chết… hay các

hành động đi kèm (thường xuất hiện ở vai nhận) như hành động chia buồn, hành động

bộc lộ cảm xúc chán nản, buồn, thất vọng… Khi sự kiện, sự tình thông báo là các

thông tin tiêu cực thì tâm trạng của người thông báo và người nhận thường là chán

nản, buồn bã, khó chịu.

93

(124). Sp1: Thông báo với bà tin nỏ (không) vui cho lắm là sáng thứ 7 tuần ni

(này) lớp ta lao động nha.

Sp2: Trời đất ơi, chán như con gián rứa (thế) mi hè (nhỉ). Mất ngày nghỉ.

Hoặc:

Sp1: Thông báo với bà tin nỏ (không) buồn nói là thằng Nam đã có bồ

ngay rồi.

Sp2: Ối trời đất ơi, rõ là chán như cơm nếp nát.

Trạng thái tâm lí, tình cảm khác nhau thì hồi đáp cũng khác nhau. Thông

thường nếu nội dung thông báo tích cực thì hồi đáp nhận được là hồi đáp tích cực; còn

nếu nội dung thông báo tiêu cực thì hồi đáp nhận được là hồi đáp tiêu cực. Tuy nhiên,

có những trường hợp cùng một nội dung thông báo tích cực/ tiêu cực nhưng lại nhận

được những hồi đáp không giống nhau. Chẳng hạn,

(125). Sp1: Thông báo với mi (mày) là con Lan cuối tháng ni (này) cưới đó.

(a) Sp2: Ừ, mừng cho hấn (hắn).

(b) Sp2: Cấy (cái) con nớ (ấy) tài lừa chi nựa (gì nữa), như hấn mà vẫn

lấy được nhông (chồng) là siêu rồi.

Nội dung thông báo trong ví dụ (125) mang tính tích cực này (con Lan cuối

tháng ni (này) cưới). Nội dung này thuộc về Sp3 nhưng có liên quan đến Sp1 và Sp2

(bạn học cấp 3). Sp1 thông báo cùng một nội dung sự tình đến hai người nhận (a), (b)

và nhận được hai tham thoại hồi đáp khác nhau. Sp2 (a) hồi đáp lại nội dung thông báo

tích cực bằng hành động bộc lộ cảm xúc tích cực (hồi đáp tích cực); còn Sp2 (b) hồi

đáp lại nội dung thông báo tích cực bằng hành động đánh giá, nhận xét tiêu cực (hồi

đáp tiêu cực). Sở dĩ có điều này là do mối quan hệ vè tình cảm giữa Sp2 (a)/ Sp2(b) –

Sp1 và Sp2(a)/ Sp2(b) - Sp3 là không giống nhau.

3.2.3. Ngữ cảnh

Giao tiếp không phải là một hoạt động diễn ra đơn thuần chỉ giữa các nhân vật

tham gia giao tiếp mà nó còn phải thể hiện trong những môi trường giao tiếp cụ thể và

chịu tác động của môi trường giao tiếp ấy (ngữ cảnh).

“Ngữ cảnh là một loại môi trường phi ngôn ngữ trong đó ngôn ngữ được sử

dụng” [45, tr.318]. Ngữ cảnh bao gồm ngữ cảnh văn hoá và ngữ cảnh tình huống.

94

Ngữ cảnh văn hoá bao gồm những hiểu biết về thế giới vật lí, sinh lí, tâm lí, xã

hội, văn hóa, tôn giáo lịch sử các ngành khoa học, nghệ thuật... ở thời điểm và ở không

gian trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp. Nó không tham gia trực tiếp vào giao tiếp

mà tham gia dưới dạng hiểu biết về thế giới có trước hoạt động giao tiếp trong tư duy

của các nhân vật giao tiếp. Những hiểu biết về thế giới trên hợp thành tiền giả định

giao tiếp hay tiền giả định bách khoa. Tiền giả định bách khoa là điều kiện để cuộc

giao tiếp diễn ra bình thường, mặt khác nó giúp các nhân vật giao tiếp có thể lược bỏ

nhiều nội dung không cần thiết trong giao tiếp.

Ngữ cảnh tình huống bao gồm sự hiểu biết về vị thế của người nói, người nghe;

sự hiểu biết về vị trí, thời gian, không gian; sự hiểu biết về phép xã giao trong xã hội

và mã ngôn ngữ được dùng; sự hiểu biết về nội dung giao tiếp và bối cảnh giao tiếp để

hoạt động giao tiếp diễn ra.

Ngữ cảnh giúp chúng ta hiểu đúng nội dung giao tiếp, giúp chúng tôi xác định cặp

thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp một cách cụ thể, chính xác. Có khi người nói

đưa ra cùng một thông báo với nội dung như nhau, nhưng với người tiếp nhận có hoàn

cảnh giao tiếp khác nhau, kéo theo hiệu lực tham thoại đáp khác nhau (Tui thông báo với

hai cậu tuần sau nghỉ học 3 ngày thì Sp2 ở Vinh (khoảng không gian về nhà gần) nên

đáp: Thích thật, còn Sp2 ở Kì Anh (xa) lại đáp: Chán ơi là chán.)

Hoàn cảnh giao tiếp được chia ra: hoàn cảnh quy thức hay phi quy thức.

Ở hoàn cảnh giao tiếp quy thức, phạm vi giao tiếp chỉ diễn ra trong phạm vi

công ty, công sở, trường học, khối xóm, quan hệ liên nhân chịu sự chi phối của trục

quyền uy, vai thông báo luôn ở vị thế cao hơn vai nhận thông báo; nội dung thông báo

luôn là những tin tức hành chính công vụ liên quan đến tập thể (chủ yếu) hoặc cá nhân;

cách thức thông báo ngắn gọn, rõ ràng nhưng đầy đủ các thành tố, từ xưng hô thường

là đại từ, các danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp, đơn vị, tổ chức (tôi, công đoàn, các

đồng chí, toàn thể chi bộ…).

(126). Sp1: Tôi xin thông báo là đúng 7 giờ 30 sáng thứ 4 tuần này, các đồng

chí có mặt ở hội trường UBND Phường để tham dự buổi lễ tổng kết

phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc năm 2017 nhé.

Sp2: Dạ sếp.

95

Ở hoàn cảnh giao tiếp phi quy thức, phạm vi giao tiếp rất đa dạng từ gia đình

đến làng xóm, cơ quan, công sở, trường học, chợ búa… Nội dung thông báo cũng vô

cùng đa dạng từ việc chung đến việc riêng (việc nhà, việc làng, việc xóm, ma chay,

cưới xin, mua sắm, tình cảm…) của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm láng

giềng… Cách thức thông báo cũng thể hiện được sự thân mật, gần gũi có lúc suồng sã

giữa người trao và người nhận thông báo, cấu trúc tỉnh lược (tỉnh lược vai trao/ vai

nhận/ cả vai trao và vai nhận) phổ biến.

(127). Sp1: Thông báo với em yêu là 22 ni (này) chị lấy CR-V nè, đổi sang cấy

7 chộ (chỗ) để đi mô (đâu) cả nhà đi cho tiện.

Sp2: Chúc mừng gia đình anh chị. Rứa là (thế là) năm ni (nay) thắng lợi

trên mọi mặt trận chị hẹ (nhỉ).

Tóm lại, các nhân tố: quan hệ liên cá nhân, trạng thái tâm lý người thông báo và

người nhận thông báo, ngữ cảnh có vai trò quan trọng, chi phối ngữ nghĩa hành động

thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh. Tìm hiểu ngữ nghĩa hành động thông

báo cần thiết phải dựa vào các nhân tố này. Bởi bất kì hành động ngôn ngữ nào của

nhân vật cũng xảy ra trong sự tương tác người nói và người tiếp lời với mục đích xác

định. Và những nhân tố này là tiền đề vật chất và tinh thần để chủ thể phản ánh những

phạm vi ngữ nghĩa phù hợp.

3.3. Thống kê, mô tả ngữ nghĩa của cặp thoại chứa hành động ngôn ngữ

thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

3.3.1. Thống kê định lượng các tiểu nhóm ngữ nghĩa của tham thoại trao

thông báo và tham thoại hồi đáp

Ở cặp thoại thông báo - hồi đáp, nội dung ngữ nghĩa nằm ở tham thoại trao

chứa hành động thông báo còn tham thoại đáp chủ yếu chỉ bộc lộ thái độ; thể hiện tình

cảm, cảm xúc, cách ứng xử và hành động trong tương lai của người đáp phù hợp với

nội dung thông tin được thông báo từ người trao.

3.3.1.1. Thống kê định lượng các tiểu nhóm ngữ nghĩa của tham thoại trao

Khi xem xét nghĩa của hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ

Tĩnh, chúng tôi cho rằng: nghĩa của hành động thông báo chính là nghĩa phát ngôn

được đặt trong ngữ cảnh, quan hệ liên nhân, trong mục đích tạo ngôn của chủ ngôn.

Dựa trên các tiêu chí là chủ thể của thông tin; tính chất của thông tin và đề tài mà

96

thông tin được đề cập, chúng tôi đã thống kê số lượng các nhóm ngữ nghĩa cơ bản thể

hiện trong bảng sau:

Bảng 3.4. Các nhóm ngữ nghĩa của tham thoại trao chứa hành động thông báo

Tiêu chí Nhóm ngữ nghĩa Số lượng Tỉ lệ % TT |phân loại

Các thông tin liên quan đến 212 17,52 người nói Tiêu chí

chủ thể của Các thông tin liên quan đến 437 1 1210 100% người nghe 36,12 nội dung

thông tin Các thông tin liên quan đến 561 46,36 cả người nói và người nghe

Theo tiêu chí Các thông tin mang tính tích cực 495 40,91

tình chất của 1210 100% 2 Các thông tin mang tính tiêu cực 715 59,09 thông tin

Các thông tin hành chính công vụ 552 45,62 Theo tiêu chí 3 Các thông tin về đời sống 1210 100% đề tài 54,38 658 thường nhật

Từ bảng 3.4, có thể thấy:

Theo tiêu chí chủ thể của nội dung thông tin, ngữ nghĩa hành động thông báo trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh được chia làm 3 nhóm. Nhóm thông tin liên quan đến cả

người nói và người nghe chiếm tỷ lệ cao nhất (561 cặp thoại, chiếm 46,36%); thứ hai là

nhóm thông tin liên quan đến người nghe với 437 cặp thoại, chiếm 36,12% và xuất hiện ít

nhất là nhóm thông tin thuộc về người nói có 212 cặp thoại, chiếm 17,52%.

Theo tiêu chí tính chất của thông tin, dựa vào đích tác động tích cực/ tiêu cực

của thông tin tới chủ ngôn và đối ngôn, chúng tôi chia ngữ nghĩa hành động thông báo

làm hai nhóm: những thông tin mang tính tích cực và nhưng thông tin mang tính tiêu

cực. Trong đó, những thông tin mang tính tích cực xuất hiện 495 lần, chiếm 40,91%;

những thông tin mang tính tiêu cực xuất hiện nhiều hơn 715 lần, chiếm 59,09 %.

Theo tiêu chí đề tài, ngữ nghĩa của hành động thông báo trong giao tiếp của

người Nghệ Tĩnh được chia thành hai nhóm: những thông tin hành chính công vụ và

97

những thông tin về đời sống thường nhật. Trong đó, những thông tin hành chính công

vụ xuất hiện 552, chiếm 45,62%; những thông tin về đời sống thường nhật xuất hiện

nhiều hơn 658, chiếm 54,38%.

3.3.1.2. Thống kê định lượng các tiểu nhóm ngữ nghĩa của tham thoại đáp

Tùy vào nội dung thông báo cũng như mối quan hệ và cách ứng xử giữa các

nhân vật giao tiếp mà lời đáp của Sp2 cho tham thoại trao chứa hành động thông báo

của Sp1 có thể là đồng tình/ không đồng tình; thể hiện tình cảm, cảm xúc, cách ứng

xử; phủ định bác bỏ hoặc ngờ vực. Kết quả khảo sát cụ thể như sau:

Bảng 3.5. Các tiểu nhóm ngữ nghĩa của tham thoại đáp

Các nhóm ngữ nghĩa của tham thoại Số lượng Tỉ lệ %

TT hồi đáp trong quan hệ tương tác

với hành động thông báo

Tham thoại hồi đáp thể hiện đứng độc lập 226 18,68

1 tình cảm, cảm xúc, 534 44,13 có hành động 308 25,45

cách ứng xử đi kèm

2 Tham thoại hồi đáp thể hiện đứng độc lập 236 19,50

thái độ đồng tình 470 38,84 có hành động 234 19,34

đi kèm

3 Tham thoại hồi đáp thể hiện đứng độc lập 3 0,25

thái độ không đồng tình, 114 9,42 có hành động 111 9,17

phủ định bác bỏ đi kèm

4 Tham thoại hồi đáp đứng độc lập 4,22 7,61 51

thể hiện thái độ ngờ vực 92 có hành động 3,39 41

đi kèm

Bảng thống kê 3.5 cho thấy tỉ lệ 4 nhóm ngữ nghĩa hồi đáp cho hành động

Tổng 1210 100%

thông báo ở tham thoại trao trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh.

Thứ nhất là dạng hồi đáp thể hiện tình cảm cảm xúc, cách ứng xử được Sp2,

được sử dụng nhiều với 534/1210, chiếm 44,13%. Trong đó, tham thoại hồi đáp bộc lộ

tình cảm, cảm xúc đứng độc lập xuất hiện 226/534 lần, chiếm 42,32%. Hành động hồi

98

đáp dạng này bao gồm các hành động bộc lộ và các hành động thuộc nhóm ứng xử.

Tham thoại hồi đáp thể hiện tình cảm, cảm xúc có hành động đi kèm xuất hiện nhiều

hơn 308/534 lần, chiếm 57,68%. Tham thoại đáp dạng này gồm 2 bộ phận: 1) bộ phận

thể hiện cảm xúc, cách ứng xử (tích cực/ tiêu cực) và 2) bộ phận đi kèm. Phần đi kèm

có thể đứng trước hoặc đứng sau phần thể hiện cảm xúc, cách ứng xử. Phần lớn ở các

hành động đi kèm thường có vai trò giải thích, nêu lí do cho cảm xúc, cách ứng xử của

đối ngôn (Sp2) với hành động thông báo trong tham thoại trao. Việc hồi đáp bằng

tham thoại thể hiện tình cảm, cách ứng xử cho thấy được mối quan hệ thân thiết, gần

gũi giữa Sp2 với Sp1 khi đáp lại hành động thông báo.

Thứ hai là dạng hồi đáp thể hiện thái độ đồng ý, đồng tình với 470/1210 lượt,

chiếm 38,78%, nhằm thể hiện sự thống nhất giữa Sp1 và Sp2 về một nội dung, một sự

kiện, sự tình nào đấy. Trong đó: đồng tình đứng độc lập xuất hiện 236 lần, chiếm

50,21%; đồng tình có hành động đi kèm xuất hiện 234 lần, chiếm 49,79%. Thông

thường những tham thoại kết thúc bằng sự đồng tình từ đối ngôn (Sp2) thể hiện tính

chất tích cực của cuộc thoại. Những tham thoại kết thúc mang màu sắc tích cực đó

thường diễn ra với sự đi kèm của các hành động: giải thích, ủng hộ, hứa hẹn, gợi ý...

Thứ ba là dạng hồi đáp có nghĩa phủ định, không đồng tình với 114/1210 lần,

chiếm 9,49%. Trong đó, người Nghệ Tĩnh chủ yếu sử dụng các hành động phủ định,

bác bỏ/ không đồng tình có hành động đi kèm. Đây là những tham thoại có tính chất

tiêu cực nhưng nhờ những yếu tố đi kèm mà nó làm mềm hóa hiệu lực phủ định, bác

bỏ/ không đồng tình và vẫn đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp, giúp Sp2 tránh được

những xung đột không cần thiết với Sp1. Hành động phủ định bác bỏ được thực hiện

trực tiếp qua các phụ từ phủ đinh: không, không có, làm gì có... hoặc gián tiếp qua các

hành động khác như nhận xét, trình bày, hỏi...

Thứ tư là dạng hồi đáp biểu thị thái độ ngờ vực, không tin tưởng vào hành động

thông báo ở lời trao, xuất hiện ít nhất với 92/1210 lần, chiếm 7,61%. Tham thoại có

ngữ nghĩa này thường được biểu thị bằng những hành động như: trình bày, nhận xét

đánh giá, hành động hỏi... Thông thường những tham thoại kết thúc bằng sự ngờ vực,

không tin tưởng vào đối ngôn (Sp2) thể hiện tính chất tiêu cực của cuộc thoại. Trong

đó, tham thoại hồi đáp thể hiện thái độ ngờ vực đứng độc lập xuất hiện 51/92 lần,

chiếm 55,43%; còn tham thoại hồi đáp thể hiện thái độ ngờ vực có hành động đi kèm

xuất hiện 41/92, chiếm 44,57%.

99

3.3.2. Mô tả các tiểu nhóm ngữ nghĩa của cặp tương tác trao - đáp chứa

hành động thông báo - hồi đáp

3.3.2.1. Theo tiêu chí chủ thể của nội dung thông tin

Theo tiêu chí chủ thể của nội dung thông tin, liên quan đến vai giao tiếp Sp1,

Sp2, ta có 3 nhóm ngữ nghĩa: nhóm nội dung thông tin liên quan đến người nói, nhóm

nội dung liên quan đến người nghe và nhóm nội dung thông tin liên quan đến cả người

nói và người nghe. Sau đây, chúng tôi sẽ đi vào miêu tả từng nhóm:

a. Thông báo nội dung thông tin liên quan đến người nói (Sp1)

Trong trường hợp này thì người nói là chủ thể của tin tức được thông báo. Người

nghe thường là những người có mối quan hệ mật thiết, gần gũi với Sp1 (gia đình; bạn

thân; đồng nghiệp thân thiết…). Sp1 thông báo cho Sp2 biết để Sp2 chia sẻ, đồng cảm với

mình. Các thông tin liên quan đến cá nhân người nói rất đa dạng từ học hành, công việc,

sự nghiệp, thành tích, khen thưởng đến cưới hỏi, ma chay, đời sống tình cảm…

(128). Sp1: Cô ơi, em thông báo với cô tin mừng là em chuẩn bị có quyết định

đi dạy rồi cô ạ.

Sp2: Quá tốt rồi! Cô chúc mừng em.

Trong ví dụ (128), sự tình em chuẩn bị có quyết định đi dạy là thông tin thuộc

người nói. Đây là tin vui về công việc của Sp1 và Sp1 đã thông báo cho Sp2 (người

giáo viên mà Sp1 rất yêu quý) biết. Với tham thoại trao mang ý nghĩa này, Sp2 đã hồi

đáp lại bằng hành động bộc lộ và hành động chúc mừng.

b. Thông báo nội dung thông tin liên quan đến người nghe (Sp2)

Trong trường hợp này, Sp1 là người biết/ chứng kiến những sự kiện, sự tình có

liên quan đến Sp2. Sp1 cho rằng đây là những tin tức Sp2 nên và cần biết vì nếu Sp2

không biết có thể sẽ làm ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống, tình cảm… của Sp2. Vì

vậy, Sp1 phải nói cho Sp2 biết để Sp2 có sự chuẩn bị trước về mặt tâm lí hoặc có hành

động trong tương lai phù hợp. Sp1 thường là những người có vị thế cao hơn Sp2 (hiệu

trưởng, trưởng phòng, thôn trưởng, lớp trưởng…), những tin tức được cung cấp chủ

yếu liên quan đến lĩnh vực hành chính, công vụ.

(129). Sp1: Lý ơi, chị thông báo với em tin ni (này), em đừng buồn nhé: em có tên

trong danh sách thuyên chuyển đợt ni (này) em ạ, đầu tuần sau có quyết

định rồi.

100

Sp2: (a) Được mùa con non mùa đồng nên (b) cụng (cũng) phải chấp nhận đi

miền núi mấy năm chơ (chứ) giừ (giờ) biết làm răng (sao). (c) Chỉ tiếc là nỏ

(không) được ở cùng với chị với mấy chị em trường mình nựa (nữa) thôi.

Ví dụ trên, sự tình được thông báo thuộc Sp2. Thông tin về công việc (bị thuyên

chuyển) rất quan trọng và Sp2 cần phải biết. Sp1 với tư cách là hiệu trưởng của

trường, nơi Sp2 đang làm việc là người biết và có trách nhiệm cung cấp cho Sp2 thông

tin này. Vì là thông tin tiêu cực nên trong lời thông báo, Sp1 đã sử dụng rào đón đưa

đẩy “em đừng buồn nhé” để động viên, an ủi đồng thời chuẩn bị trước về mặt tâm lí cho

người nghe trước khi nhận tin. Với tham thoại trao mang ý nghĩa như vậy, Sp2 đã hồi đáp

bằng tham thoại hành động thể hiện sự đồng tình, chấp nhận nội dung thông tin (b) và

hành động đi kèm nêu lí do (a) và hành động bộc lộ “tiếc” (c).

Các thông tin liên quan đến Sp2 cũng có thể là những sự kiện, sự tình kiểu như:

một buổi biểu diễn thời trang, một buổi biểu diễn văn nghệ, một bộ phim… (không

liên quan đến trực tiếp). Ở đây, Sp1 là người biết tin tức X, tin tức này theo Sp1 là hấp

dẫn, lí thú, đáng quan tâm và Sp2 muốn biết. Do đó, Sp1 có trách nhiệm cung cập

thông tin này cho Sp2.

(130). Sp1: Tin hot (nóng) đây nì (này), nàng nghe xong đừng có mà phát

cuồng đó, thông báo với nàng là cấy (cái) bộ phim “Hậu duệ mặt trời”

mà nàng đang ao ước í (ấy) sẽ được chiếu độc quyền trên kênh HTV lúc

21 giờ, bắt đầu từ 21 tháng 4 nha.

Sp2: (a) Trời đất ơi! (b) Phim ni (này) ratting (tỉ suất người xem) ở Hàn

cao ngất ngưởng, tạo cơn sốt khắp châu Á đó. (c) Mi (mày) cụng (cũng)

xem đi, trên mạng nói là tuyệt hay đó.

Trong ví dụ (130), nội dung thông tin mà Sp1 cung cấp về lịch chiếu, kênh

truyền hình chiếu bộ phim “Hậu duệ mặt trời” ở Việt Nam có liên quan đến người

nghe. Vì đây là bộ phim Sp2 yêu thích và rất muốn xem nên khi nhận được tin từ Sp1,

ở lời đáp - tham thoại đáp hô ứng - Sp2 đã bày tỏ thái độ ngạc nhiên, vui mừng (a) đi

kèm hành động đánh giá, ngợi khen sự nổi tiếng của bộ phim (b) và hành động khuyên

Sp1 cũng nên xem (c).

c. Thông báo nội dung thông tin liên quan đến cả Sp1 và Sp2

Những thông tin thuộc về cả Sp1 và Sp2 thường là những tin tức thuộc phạm vi

giao tiếp ngoài xã hội (công sở, khối xóm). Ở tham thoại hồi đáp, Sp2 thường thể hiện

101

sự đồng tình/ không đồng tình của Sp2. Trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, ta

thường bắt gặp cách xưng hô kiêm ngôi khi thông báo những tin tức loại này.

(131). Sp1: Thông báo với em là tối ni, 19 giờ 30, Ban chấp hành chi đoàn thôn ta

họp để bàn về các nội dung sinh hoạt hè cho các em thiếu nhi em nhé.

Sp2: Dạ anh.

Tin tức Sp1 cung cấp trong ví dụ (131) liên quan đến cả người nói và người

nghe; có hiệu lực buộc người trao và người đáp phải thực hiện hành động phù hợp

trong tương lai (đúng 19 giờ 30 họp Ban chấp hành chi đoàn thôn). Và trong lời đáp,

Sp2 đã thể hiện thái độ đồng tình, đồng ý với nội dung thông báo.

Mặt khác, nội dung thông tin trong nhóm ngữ nghĩa này cũng có thể là các tin

tức thuộc về người thứ ba (Sp3) nhưng có liên quan đến Sp1 và Sp2. Người thứ ba

được nói tới trong nội dung thông tin có thể là người quen của Sp1 và Sp2; hoặc là

người có quan hệ gần gũi với Sp2 mà Sp1 chỉ biết chứ không có quan hệ thân cận.

Người thứ ba nhiều khi là người không quen biết với Sp1 và Sp2 như: diễn viên điện

ảnh, ngôi sao ca nhạc… Đối với trường hợp này, sở dĩ Sp1 thông báo cho Sp2 về

người thứ ba không quen vì Sp1 cho rằng thông tin thuộc Sp3 là sự kiện lí thú, đáng

quan tâm và cần biết đối với cả Sp1 và Sp2.

(132). Sp1: Hiểu ơi, chị thông báo với em là sáng mai, đồng chí Mai tổ ta dạy

thao giảng tiết 2 môn tiếng Việt ở lớp 3C nhé.

Sp2: Dạ, em cảm ơn chị.

(133). Sp1: Này, nàng fangirl (người hâm mộ) đã biết chi (gì) chưa? Tau thông

báo cho mi một tin hót hòn họt (hot tiếng Anh có nghĩa là nóng) đây nì

(này): túi thứ 7, Sơn Tùng và Noo Phước Thịnh biểu diện (diễn) ở sân

trước nhà hiệu bộ Đại học Vinh đó.

Sp2: Trời đất ơi, thật rứa hả mi? Quá tuyệt luôn, chắc chắn tau mi phải

đi coi (xem) bằng mọi giá chơ (chứ).

Trong ví dụ (132), sự kiện được thông báo “sáng mai, đồng chí Mai tổ ta dạy

thao giảng tiết 2 môn tiếng Việt ở lớp 3C” thuộc Sp3; chủ thể của sự kiện là đồng

nghiệp (đồng chí Mai tổ ta), người mà Sp1 và Sp2 đều biết. Với tham thoại trao mang

nghĩa này, Sp2 đã hồi đáp lại bằng hành động đồng ý và hành động lịch sự (cảm ơn).

Còn trong ví dụ (133), sự kiện được thông báo “túi thứ 7, Sơn Tùng và Noo

Phước Thịnh biểu diện (diễn) ở sân trước nhà hiệu bộ Đại học Vinh” thuộc Sp3 là hai

102

ca sĩ thần tượng, người mà Sp1 và Sp2 rất hâm mộ. Với tham thoại trao mang nghĩa

này, ở tham thoại đáp, Sp2 đã bộc lộ thái độ ngạc nhiên đi kèm hành động đánh giá

ngợi khen tin tức nhận được và hành động cam kết (tau mi sẽ đi xem bằng mọi giá).

3.3.2.2. Theo tiêu chí tính chất của nội dung thông tin

Theo tiêu chí tính chất của nội dung thông tin, có các nhóm ngữ nghĩa sau:

a. Nội dung thông tin mang tính tích cực

Những thông tin mang tính tích cực là những thông tin đem lại những lợi ích

nhất định cho chủ thể. Chúng tôi thấy, người Nghệ Tĩnh thường dùng các từ, cụm từ

mang nghĩa tích cực (tin vui, tin rất vui, vô cùng vui, tin mừng, tin hot, tin tuyệt vời…,

những từ này được sử dụng 108 lần), đứng trước nội dung mệnh đề để làm rõ hơn cho

tính tích cực của nội dung thông tin Sp1 cung cấp tới Sp2.

Lợi ích này có thể là lợi ích vật chất như tiền hay vật có giá trị… hay là những

lợi ích về tinh thần như được khen thưởng, được nghỉ học… Các thông tin đem lại

trạng thái tâm lí tích cực (vui vẻ, phấn khởi, sung sướng…) cho chủ thể hay là những

sự kiện có tính chất tôn vinh thể diện chủ thể: được kết nạp Đảng, nhận danh hiệu Sinh

viên giỏi… Thông tin tích cực được thông báo có thể thuộc Sp1, Sp2 (hoặc thuộc cả

Sp1 và Sp2) cũng có thể thuộc về người thứ ba được nói tới trong cặp thoại.

(134). Sp1: Thông báo với chị em tin mừng là chiều ni có tiền thể dục rồi nha.

Sp2: (a) Mừng quá sếp ơi, (b) chờ mại (mãi).

(135). Sp1: Thông báo với cả lớp là tiết 4,5 của cô Hạnh được nghỉ nha, cô có

việc đột xuất.

Sp2: Dê ê ê…………….. !

(136). Sp1: Bà Bình ơi, thông báo với bà và gia đình tin vui là gia đình ta được

chọn là một trong năm gia đình đại diện cho huyện đi tham dự Lễ tuyên

dương gia đình hiếu học cấp tỉnh bà nha. Chúc mừng gia đình, thời gian

địa điểm cụ thể tui sẽ đến thông báo sau nha.

Sp2: Dạ, cảm ơn bác thôn trưởng nhiều ạ.

Thông tin trong ví dụ (134) là tin tức về việc Sp2 chuẩn bị có tiền thể dục. Theo

đó, lợi ích vật chất mà Sp2 được hưởng là tiền bạc. Thông tin này là thông tin tích cực

đem lại lời ích vật chất cho chủ thể tin tức. Do đó, Sp2 đã đáp lại nội dung thông tin

tích cực nhận được bằng hành động bộc lộ cảm xúc vui mừng và hành động đi kèm

giải thích lí do cho cảm xúc đó.

103

Ở ví dụ (135), người nói cung cấp thông tin được nghỉ học và lí do được nghỉ.

Sự tình này đem lại niềm vui cho cả Sp1 và Sp2. Sp2 đã đáp lại bằng hành động bộc lộ

thái độ vui quá của mình thông qua tiểu từ tình thái “dê ê ê ê………”.

Còn tin tức trong ví dụ (136) lại là một sự kiện có tính chất tôn vinh thể diện

của người nghe (gia đình được chọn tham gia lễ tuyên dương gia đình hiếu học cấp

tỉnh). Vì vậy, Sp2 đã hồi đáp lại bằng hành động bộc lộ thái độ đồng tình và hành động

lịch sự (cảm ơn).

Ngoài ra, cũng có những sự kiện, sự tình mà lợi ích chủ thể được hưởng bao

gồm cả vật chất lẫn tinh thần, cả niềm vui và sự tôn vinh thể diện như: đi du học, được

vào làm ở công ti lớn…

(137). Sp1: Mẹ ơi, con thông báo với mẹ một tin trên cả tuyệt vời, con được

tuyển vô mần (vào làm) cho tập đoàn FPT rồi, họ vừa gọi điện xong mẹ

nì, thứ hai bắt đầu mẹ ạ.

Sp2: Mừng quá con ơi. Mẹ chúc mừng con trai.

Trong ví dụ (137), Sp1 cung cấp nội dung thông tin và nguồn gốc biết tin cho

Sp2. Sự tình (con được tuyển vô mần (vào làm) cho tập đoàn FPT) trong tham thoại

trao vừa có tính chất tôn vinh thể diện (tinh thần - Sp1 được vào làm việc cho tập đoàn

FPT - một công ty công nghệ uy tín) vừa đem lại lợi ích vật chất (vật chất - Sp1 sẽ

được hưởng nhiều quyền lợi: mức lương, chế độ đãi ngộ…). Do đó, Sp2 (mẹ) đã hồi

đáp lại bằng hai hành động: hành độc bộc lộ cảm xúc vui mừng đối với thông tin tích

cực về công việc của Sp1 và hành động chúc mừng Sp1 (con trai).

b. Nội dung thông tin mang tính tiêu cực

Thông tin mang tính tiêu cực là những thông tin gây tổn hại về vật chất hay gây

ra những trạng thái tâm lí không mấy dễ chịu cho chủ thể. Chúng tôi căn cứ vào đích

tác động tiêu cực của thông tin tới chủ ngôn và đối ngôn, hồi đáp của Sp2 và những từ

ngữ mang nghĩa tiêu cực trong phát ngôn thông báo như: tin buồn, tin không vui, tin

hơi buồn, tin không được vui cho lắm… để nhận diện nhóm ngữ nghĩa này.

Những thông tin tiêu cực về tinh thần bao gồm những thông tin gây ra cảm giác

không mấy dễ chịu cho chủ thể như lo lắng, thất vọng, buồn chán… hay những thông

tin khiến chủ thể bị xâm phạm thể diện âm tính hoặc bị đe dọa thể diện dương tính như

phải thi lại, bị điểm kém, phải đi họp, đi lao động… Còn những thông tin tiêu cực về

104

vật chất như mất tiền, mất xe… Những thông tin tiêu cực này có thể thuộc về Sp1, Sp2

hoặc cả Sp1 và Sp2.

(138). Sp1: Thông báo với mi là Hương Khê nhà mi mưa thúi đất thúi cát (thối đất

thối cát), nhà cựa (cửa), đường sá chi (gì) cụng (cũng) ngập hết rồi.

Sp2: Ầy, tau cụng (cũng) nghe mẹ gọi điện thông báo rồi. Chán rứa

(thế) chơ (chứ), 3 tháng rồi nỏ (không) về nhà.

(139). Sp1: Thông báo với mi (mày) tin buồn là kì ni (này) mi (mày) nỏ (không)

được thi môn tiếng Việt của cô Huệ mô (đâu), mi nghỉ quá số tiết quy

định nì.

Sp2: Ừ, tau cụng (cũng) đoán rứa. Thôi, bựa mô (hôm nào) học lại chơ

răng (chứ sao).

Thông tin được thông báo trong ví dụ (138) là tin xấu gây ảnh hưởng về tinh

thần cho Sp2. Sp2 đã hồi đáp lại bằng 3 hành động: hành động đồng tình, hành động

bộc lộ cảm xúc chán nản và hành động giải thích cho cảm xúc tiêu cực đó.

Còn trong ví dụ (139), Sp1 cung cấp nội dung thông tin và nguyên nhân cho

Sp2. Sự tình “kì ni (này) mi (mày) nỏ (không) được thi môn tiếng Việt của cô Huệ mô

(đâu)” là tin xấu, dễ gây cho Sp2 trạng thái tâm lí buồn bã, thất vọng và có nguy cơ đe

dọa thể diện âm tính của Sp2. Sp2 đã hồi đáp bằng tham thoại có hai hành động: hành

động biểu thị sự đồng tình và hành động trình bày.

Sự phân biệt và chia nhỏ các thông tin tiêu cực (giống như đã nói về thông tin

tích cực) cũng chỉ là tương đối. Bởi có những sự kiện được thông báo vừa làm cho chủ

thể thiệt hại về vật chất vừa gây ra những tác động tiêu cực về tinh thần.

3.3.2.3. Theo tiêu chí đề tài

Theo tiêu chí đề tài, chúng tôi chia ngữ nghĩa của hành động thông báo trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh thành hai nhóm: những thông tin hành chính công vụ

và những thông tin về đời sống thường nhật. Trong đó, những thông tin hành chính

công vụ xuất hiện 552, chiếm 45,62%; những thông tin về đời sống thường nhật xuất

hiện nhiều hơn 658, chiếm 54,38%.

a. Thông báo chứa nội dung thông tin về hành chính công vụ

Những thông tin hành chính công vụ là những thông tin thuộc lĩnh vực xã hội,

liên quan đến tập thể hoặc cá nhân. Cụ thể:

105

Bảng 3.6. Những thông tin hành chính công vụ xuất hiện trong cặp thoại

thông báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh

TT Những thông tin hành chính công vụ Số lượng Tỉ lệ %

1 Những thông tin hành chính công vụ 484 87,68

liên quan đến tập thể

2 Những thông tin hành chính công vụ 68 12,32

liên quan đến cá nhân

Tổng 552 100

a1) Nội dung thông tin hành chính công vụ liên quan đến tập thể:

Trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, những

thông tin hành chính công vụ chủ yếu liên quan đến tập thể, được sử dụng 484/552 lần,

chiếm 87,68%. Những sự kiện này có sự tham gia của nhiều người. Chúng xuất hiện

trong giao tiếp trường học, công sở và khối xóm, cả giao tiếp quy thức và phi quy

thức. Ngữ nghĩa của nhóm thông tin này rất đa dạng và phong phú, được thể hiện bằng

bảng 3.7 dưới đây:

Bảng 3.7. Những thông tin hành chính công vụ liên quan đến tập thể

TT Những thông tin hành chính công vụ liên Số lượng Tỉ lệ %

quan đến tập thể

Công việc, chuyên môn nghiệp vụ 1 165 34,09

Họp hành 2 115 23,76

Chính trị, văn hóa, văn nghệ, thể thao 3 104 21,49

Nông nghiệp, nông thôn 4 43 8,88

Phí, quỹ 5 17 3,51

Thi đua, khen thưởng, kỉ luật 6 16 3,30

Thanh kiểm tra 7 14 2,89

Những tin tức khác 8 9 2,08

Từ bảng 3.7, có thể rút ra những nhận xét cho từng tiểu nhóm như sau:

Tổng 484 100%

a1(1) Những thông tin về công việc, chuyên môn nghiệp vụ

Tiểu nhóm ngữ nghĩa này xuất hiện nhiều nhất với 165/484 lần, chiếm 34,09%.

106

Đó là các thông tin liên quan đến đặc thù công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Chẳng hạn, ở trường học, các công việc được thông báo thường là giảng dạy và học

tập, lịch thi, thao giảng, dự giờ thăm lớp, sinh hoạt chuyên môn…

(140). Sp1: Thầy xin thông báo với cả lớp là giờ này, tuần sau các em tập

trung ở hội trường đón sinh viên lào nhé.

Sp2: Dạ ạ ạ ạ ạ…………….

(141). Sp1: Thông báo với anh tin vui là công trình dưới Cửa Lò sẽ hoàn thành

vô (vào) cuối tháng ni (này), vượt tiến độ ba tháng anh ạ.

Sp2: Tốt quá! Chú vất vả rồi.

Thông tin được thông báo trong ví dụ (140) là thông tin về công việc của tập

thể (tiếp đón sinh viên Lào). Vì người nghe có vị thế thấp hơn người nói (học sinh

trong mối quan hệ với thầy giáo) nên khi nhận được tin, Sp2 đã hồi đáp lại bằng hành

động biểu thị thái độ đồng tình ở mức cao (thông qua tình thái từ “dạ”).

Còn nội dung được thông báo trong ví dụ (141) là về chuyên môn nghiệp vụ

(công trình dưới Cửa Lò sẽ hoàn thành vô (vào) cuối tháng ni (này)), thuộc phạm vi

giao tiếp công sở (công ty xây dựng). Người nhận thông báo có vị thê cao hơn người

thông báo (nhân viên trong quan hệ với sếp) nên Sp2 đã hồi đáp lại bằng hành động

khen và hành động chia sẻ, động viên Sp1.

a1(2) Những thông tin về việc họp hành ở cơ quan, trường học, khối xóm

Tiểu nhóm ngữ nghĩa này xuất hiện nhiều thứ hai với 115 lần, chiếm 23,76%. Nội

dung các cuộc họp cũng rất phong phú: ở trường học có họp chi bộ, họp Khoa, họp tổ,

họp công đoàn…; ở công sở có họp phòng, họp cơ quan, họp chi bộ, họp giao ban; họp

bàn về vấn đề đặc thù công việc của cơ quan (giao thông, xây dựng, an ninh trật tự…); ở

khối xóm, xã phường có họp chị bộ thôn/ khối, họp Ban cán sự thôn/ khối, họp chi đoàn

thanh niên khối/ thôn, họp chi hội phụ nữ khối/ thôn, họp chi hội người cao tuổi khối/

thôn… Cùng ngữ nghĩa là họp hành nhưng mỗi phạm vi giao tiếp sẽ có các đặc thù riêng:

nội dung họp hành ở trường học khác ở khối xóm và cũng khác các cơ quan công sở.

(142). Sp1: Thông báo với em là sáng mai 7 giờ 30 họp Khoa, sau đó ta họp Tổ

luôn nhé.

Sp2: Dạ, họp luôn một lèo rứa (thế) cho khỏe đợ (đỡ) mất công đi cô ạ.

107

(143). Sp1: Thông báo với cả phòng là đúng 13 giờ 45 phút, thứ 4, ngày 23

tháng 1, Phòng mình ở Hội trường tầng 3 để tham dự “Hội nghị tổng kết

công tác quản lí, bảo trì đường bộ và đường thủy năm 2017, triển khai

nhiệm vụ kế hoạch năm 2018” nhé.

Sp2: Dạ.

(144). Sp1: Bà Hương ơi, thông báo với bà là 8 giờ sáng mai, tổ dân phố ta

họp bàn về việc bầu khối trưởng bà nghe.

Sp2: Chà bầu có tí khối trưởng mà mại (mãi) nỏ (không) xong bác hè.

Ví dụ (142) tham thoại trao chứa nội dung thông tin về lịch họp Khoa và tổ

trong phạm vi giao tiếp trường học; tham thoại đáp gồm hai hành động: hành động

biểu thị thái độ đồng tình và hành động giải thích lí do cho thái độ đó.

Ví dụ (143) tham thoại trao chứa nội dung thông tin về lịch dự hội nghị của Sở

Giao thông vận tải Nghệ An; tham thoại đáp biểu thị thái độ đồng tình ở mức cao

(hành động biểu thị sự đồng tình đứng độc lập).

Ví dụ (144) nội dung thông tin người nói (tổ trưởng cụm dân cư) cung cấp là

lịch họp bầu khối trưởng ở khối xóm. Sp2 (thành viên trong tổ) đã hồi đáp bằng hành

động than phiền.

a1(3) Những sự kiện chính trị, văn hoá, văn nghệ, thể thao

Tiểu nhóm ngữ nghĩa này được sử dụng 104 lần, chiếm 21,49%. Đó là lịch tổ

chức những buổi mít tinh chào mừng các ngày lễ lớn; các giải thi đấu bóng chuyền,

bóng đá; các hoạt động văn nghệ chào mừng các ngày trọng đại của Trường, của

ngành, của thôn xóm, xã phường, của đất nước…). Chẳng hạn, trong giao tiếp trường

học là lịch tổ chức các buổi mít tinh, các hội thi văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo

Việt Nam 20 tháng 11; ở các sở ban ngành là các buổi mít tinh chào mừng ngày thành

lập ngành (giao thông, tài chính, công an nhân dân, quân đội nhân dân…); ở khối xóm

là các buổi mít tinh, các chương trình văn nghệ chào mừng thôn văn hóa, hoàn thành

việc xây dựng nông thông mới, chào mừng các ngày lễ trọng đại của đất nước (cách

mạng tháng Tám, ngày đất nước thống nhất 30 tháng 4…). Những sự kiện đó được

thông báo theo tiến trình thời gian diễn ra sự kiện.

(145). Sp1: Mẹ Trang ơi, cô thông báo với mẹ là Chương trình Halloween cho các

bé sẽ được tổ chức vào lúc 15 giờ, thứ 6 ngày 27 tháng 10 năm 2017 mẹ nhé.

Sp2: Vui quá cô hè. Mẹ sẽ nhất định phải tới tham gia.

108

(146). Sp1: Thông báo với chị em là để chào mừng ngày quốc tế phụ nữ mồng

8 tháng 3, sáng mai, đúng 6 giờ 30 chi hội phụ nự (nữ) thôn ta sẽ có trận

giao lưu bóng chuyền hơi với chi hội phụ nự (nữ) thôn 8 tại sân bóng

nhà văn hóa thôn. Chị em tới dự cỗ vụ nhé.

Sp1: Dạ.

Trong ví dụ (145), nội dung thông tin trong tham thoại trao là tin tức về sự kiện

văn hoá (chương trình Halloween), người trao là giáo viên. Người đáp (phụ huynh) đã

phản hồi lại thông tin nhận được bằng hành động bộc lộ thái độ thích thú (vui) và đưa

ra ý kiến thực hiện hành động trong tương lai.

Còn ở ví dụ (146), thông tin do Sp1 (chủ tịch chi hội phụ nữ thôn) cung cấp liên

quan đến hoạt động văn hoá, thể thao ở thôn xóm. Sp2 (thành viên trong chi hội) đã

phản hồi bằng hành động biểu thị sự đồng tình ở mức cao (dạ).

a1(4) Những tin tức về nông nghiệp, nông thôn

Tiểu nhóm ngữ nghĩa này xuất hiện 43 lần, chiếm 8,88%. Những tin tức này chỉ

xuất hiện trong phạm vi giao tiếp khối xóm. Đó là các thông tin về lịch gieo trồng, thu

hoạch, thủy lợi, phòng dịch bệnh, phòng trừ sâu bệnh… Những tin tức này giúp bà con

nông dân trong việc trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả cao nhất.

(147). Sp1: Thông báo để bà con biết là sáng mai 5 giờ mở nước, nước chỉ mở

trong ba ngày nên bà con lo lấy nước vô rọng (ruộng) nhà mình đi nha.

Sp2: Năm ni hạn chơ mở nước sớm chú hè.

Thông tin Sp1 cung cấp là tin tức liên quan đến thuỷ lợi. Sp2 đã đáp lại thông

tin nhận được bằng hành động nhận xét.

Ngoài ra, trong các phát ngôn thông báo của người Nghệ Tĩnh còn xuất hiện các thông tin

về tiền bạc (17 lần, chiếm 3,51%); thi đua, khen thưởng, kỉ luật (16 lần, chiếm 3,30%) về thanh

kiểm tra (14 lần, chiếm 2,89%) và một số thông tin khác (9 lần, chiếm 2,08%).

(148). Sp1: Cô Tính ơi, thông báo với cô là chiều ni là hạn cuối khối ta tổ chức

thu phí giao thông đường bộ đối với phương tiện mô tô, xe máy trên địa

bàn cô nhé. Còn nhà cô với mấy nhà nựa (nữa) chưa nộp.

Sp2: Dạ, cảm ơn bác khối trưởng. Chiều cháu lên nộp ạ.

(149). Sp1: Trước khi bắt đầu cuộc họp, tôi xin thông báo với các đồng chí

trong chi bộ ta tin vui là năm 2017 chi bộ ta là một trong hai chi bộ

được đảng bộ trường công nhận là chi bộ trong sạch, vững mạnh.

Sp2: Chi bộ ta quá xứng đáng sếp ơi.

109

Thông tin trong ví dụ (148) liên quan đến phí quỹ. Sp2 đã hồi đáp tin tức nhận

được từ Sp1 bằng hành động biểu thị sự đồng tình + hành động lịch sự (cảm ơn) +

hành động biểu thị sự hưởng ứng thực hiện.

Thông tin trong ví dụ (149) liên quan đến thành tích của tập thể (chi bộ

trong sách vững mạnh). Sp2 đã hồi đáp thông tin tích cực này bằng hành động

khen, đồng tình.

a2) Những thông tin hành chính công vụ liên quan đến cá nhân

Những thông tin này xuất hiện không nhiều, chỉ 68/552 lần, chiếm 12,32%, chủ

yếu liên quan đến công việc thuộc phạm vi giao tiếp nhà trường hoặc công sở. Sp1

thông báo cho Sp2 để Sp2 tiếp nhận thông tin và chủ động thực hiện.

(150). Sp1: Thông báo với mi tin buồn là lớp xác suất thống kê A mà mi đăng

kí mọi bựa (hôm) không mở được lớp mô (đâu), số lượng sinh viên đăng

kí không đủ. Mi cần học thì mần đơn (làm) đơn xin chuyển đổi với khóa

56 hoặc đợi vô học kì hè nhà trường mở lớp rồi học nì (này).

Sp2: Rứa (thế) tau (tao) đợi vô hè tau (tao) đăng kí học. Cảm ơn mi

(mày) nha.

Thông tin trong ví dụ (150) là thông tin liên quan đến việc đăng kí học của Sp2.

Sp1 biết rõ về thông tin này, Sp1 và Sp2 là bạn, do đó Sp1 cung cấp thông tin cụ thể

về việc đăng kí môn học cho Sp2 để Sp2 biết và chủ động về thời gian học tập. Sp2 đã

hồi đáp bằng hành động bộc lộ thái độ hưởng ứng (vô hè đăng kí học) và cảm ơn.

(151). Sp1: Ung (ông) Tiu ơi, sáng mai gia đình ung (ông) lên hội trường xạ

(xã) họp bàn về việc đền bù đất đai trên Nhà Chàng nghe (nhé), 8 giờ.

Sp2: Chà cuối cùng họ cụng (cũng) chịu họp! Cảm ơn ung đã thông báo

nghe (nhé).

Thông tin mà Sp1 (trưởng thôn) cung cấp là thông tin hành chính công vụ (họp

bàn về việc đền bù đất đai). Thông tin này liên quan đến quyền lợi Sp2 (đối tượng

được nhận đền bù) nên Sp1 đã thông báo để Sp2 biết và chủ động tham dự. Sp2 đã hồi

đáp lại bằng hành động nhận xét, đánh giá và cảm ơn.

b. Những thông tin về đời sống thường nhật

Những thông tin về đời sống thường nhật là những thông tin thuộc về đời sống

cá nhân như công việc, tình cảm, cưới xin, ma chay, hiếu hỉ, tiền bạc, mua sắm, học

110

tập, vui chơi… Khảo sát 1210 tham thoại trao chứa hành động thông báo trong giao

tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi thấy ngữ nghĩa của nhóm thông tin này chiếm ưu

thế: xuất hiện 658 lần, chiếm 54,38%, thể hiện qua bảng 3.8.

Bảng 3.8. Những thông tin về đời sống thường nhật xuất hiện trong cặp thoại

thông báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh

TT Nhóm thông tin Số lượng Tỉ lệ %

1 công việc 194 29,48

2 đời sống văn hóa 155 23,56

3 hiếu hỉ 116 17,63

4 tình cảm 55 8,36

5 công danh, sự nghiệp, thành tích 43 6,53

6 mua sắm 37 5,62

7 tiền bạc 30 4,56

8 khác 13 4,26

Tổng 658 100%

Nhìn vào bảng 3.8, ta thấy, những thông tin về đời sống thường nhật lại được

chia làm 8 tiểu nhóm.

Thứ nhất là các sự kiện, sự tình liên quan đến công việc, số lượng là 194 lần,

chiếm 29,48%; thứ hai là các sự kiện về đời sống văn hóa, số lượng 155 lần, chiếm 23,

56%; thứ ba là các sự kiện về việc hiếu hỉ, số lượng là 116 lần, chiếm 17,63%; thứ tư

là các sự kiện về tình cảm cá nhân, số lượng 55 lần, chiếm 8,63%; thứ năm là các sự

kiện về công danh, sự nghiệp, thành tích, số lượng 43 lần, chiếm 6, 53%; thứ sáu là

mua sắm có số lượng 37 lần, chiếm 5,62%; thứ bảy là tiền bạc xuất hiện 30 lần, chiếm

4, 56%; và thứ tám là những sự kiện, sự tình khác có số lượng 28 lần, chiếm 4,26%.

Những sự kiện, sự tình về đời sống cá nhân được người Nghệ Tĩnh thông báo từ

trong gia đình đến ngoài xã hội phản ánh nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau: quan hệ

bạn bè, quan hệ đồng nghiệp, quan hệ gia đình, quan hệ làng xóm… Những sự kiện

này liên quan tới Sp1, Sp2 hoặc cả Sp1 và Sp2.

b2(1) Công việc được thông báo trong đời sống thường nhật là các sự kiện, sự

tình về công ăn việc làm, học tập, công tác, thuyên chuyển được Sp1 thông báo cho

Sp2 nhằm tác động vào nhận thức và tình cảm của Sp2.

111

(152). Sp1: Thông báo với mi (mày) tin vui là thứ hai tuần sau tau (tao) chính

thức đi làm rồi, tau (tao) được tuyển vô (vào) làm kế toán của xạ (xã)

Xuân Mỵ (Mỹ) mi (mày) ạ.

Sp2: Tau chúc mừng mi. Không chi bằng vô mần nhà nước mô (đâu).

Ở ví dụ (152), Sp1 thông báo cho Sp2 thông tin liên quan đến công việc của Sp1. Đó

là sự tình Sp1 được tuyển dụng làm tại một cơ quan nhà nước. Sp1 thông báo cho Sp2 biết

để Sp2 chia sẻ niềm vui với Sp1. Với tham thoại trao mang ý nghĩa này, Sp2 đã hồi đáp

bằng hành động chúc mừng và giải thích lí do vì sao có hành động hồi đáp đó.

b2(2) Tiểu nhóm ngữ nghĩa là các thông tin về đời sống văn hóa. Đó có thể là

sự kiện liên quan đến du lịch, giải trí, thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ, gặp gỡ giao

lưu với bạn bè, đồng nghiệp… Những sự kiện này cho thấy được đời sống tinh thần

phong phú, nhiều màu sắc của chủ thể.

(153). Sp1: Xin thông báo với mọi người là thứ 7, chủ nhật tuần ni (này) bà

con ta đi du xuân nha, Ninh Bình thẳng tiến thôi đả (đã) có nhà tài trợ

xe rồi.

Sp2: Cuối tuần ni (này) đi du xuân là chuẩn không cần chỉnh rồi ả ơi,

thời tiết quá đẹp luôn.

Thông tin được thông báo trong ví dụ (153) là sự kiện đi du xuân đầu năm. Chủ

thể của sự kiện là cả Sp1 và Sp2. Sp1 (chủ tịch chi hội phụ nữ thôn) là người chủ trì

hoạt động này. Do đó, Sp1 có trách nhiệm phải thông báo thời gian, địa điểm đi du

xuân đến Sp2 để Sp2 chủ động tham gia hoạt động. Và Sp2 đã đáp lại nội dung thông

báo nhận được bằng hành động thể hiện sự đồng tình ở mức cao (chuẩn không cần

chỉnh) và giải thích lí do vì sao có thái độ đó.

b2(3) Tiểu nhóm ngữ nghĩa hiếu hỉ bao gồm các thông tin như cưới hỏi, ma

chay, thăm nom… Các sự kiện nhóm này xuất hiện cho thấy sự quan tâm, chia sẻ niềm

vui, nỗi buồn giữa các cá nhân trong quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, làng xóm.

Nó cho thấy nét đẹp trong lối sống trọng tình của người Nghệ Tĩnh nói riêng cũng như

người Việt ta nói chung.

(154). Sp1: Thông báo với cả Khoa là thầy Thắng, chồng cô Nhung ốm nằm

viện một tuần rồi, chiều ni (nay), họp Khoa xong ta đến Bệnh viện 4 để

thăm thầy luôn nhé.

Sp2: Dạ chị.

112

Tin tức mà Sp1 cung cấp thuộc Sp3 nhưng có liên quan đến cả Sp1 và Sp2 (lịch

đi hỏi thăm sức khoẻ của chồng đồng nghiệp). Sp1 với cương vị là chủ tịch công đoàn

đã thông báo thời gian, địa điểm cụ thể để các thành viên trong Khoa tới thăm hỏi

nhằm thể hiện sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau. Nhận được nội dung thông tin này, Sp2

đã thể hiện thái độ đồng ý thực hiện ở tham thoại hồi đáp.

b2(4) Tiểu nhóm ngữ nghĩa là các sự kiện về đời sống tình cảm riêng tư: tình

yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình đồng nghiệp, tình làng nghĩa xóm…. Những nội

dung thông tin này thường được thông báo trong trường hợp Sp1 và Sp2 có mối quan

hệ vô cùng thân thiết, gần gũi.

(155). Sp1: Thông báo với Hiền là chồng cụ (cũ) của Trà chuẩn bị cưới vợ mới

rồi. Bựa qua thấy hấn nhắn tin cho Trà rứa (thế).

Sp2: Cấy (cái) thằng ra rứa (như thế) mà cụng (cũng) lấy được vợ hai,

tài thật. Tin chi (gì) chơ (chứ) tin ni (này) là đáng để liên hoan đó Trà ơi.

Sp1 biết thông tin chồng cũ sắp cưới vợ. Sp1 thông báo cho Sp2 biết để Sp2

chia sẻ cùng mình. Và vì Sp2 hiểu rõ chồng cũ của Sp1 là người như thế nào (Sp1 và

Sp2 là bạn thân), nên khi nhận được sự tình từ Sp1, Sp2 đã hồi đáp bằng hành động

đánh giá, nhận xét về Sp3 (không tốt) và hành động bộc lộ cảm xúc vui mừng (đáng để

liên hoan) cho Sp2.

b2 (5) Ngoài ra còn có các tiểu nhóm xuất hiện với số lượng ít như: công danh

sự nghiệp, tiền bạc, mua sắm …

(156). Sp1: Thảo ơi, thông báo với mi (mày) tin vui là chồng tau (tao) lên Phó

Phòng giao thông rồi, nhận quyết định bựa (hôm) qua.

Sp2: Chúc mừng phu nhân sếp. Bựa mô (hôm nào) đưa tau (tao) đi khao

đi nha.

(157). Sp1: Thông báo với em tin vui là tuần sau nhà chị lấy xe, anh Hạnh

quyết con Camry rồi, giừ (giờ) chỉ chờ ngày đẹp là rước ẻm (em ấy) về

dinh (nhà) thôi.

Sp2: Chúc mừng gia đình anh chị. Rửa xe là phải ới ới ới (gọi) gấy

nhông (vợ chồng) nhà em đó nha.

Sự kiện được đề cập đến trong ví dụ (156) là tin vui liên quan đến sự nghiệp

thăng tiến (chồng của Sp1 được thăng chức). Do đó, Sp2 đã hồi đáp bằng hành động

chúc mừng và hành động đề nghị (khao).

113

Sự kiện trong ví dụ (157) liên quan đến mua sắm (gia đình Sp1 chuẩn bị mua xe

ô tô). Sp1 là chủ thể của sự kiện, Sp1 thông báo cho Sp2 biết với mục đích là tác động

vào tình cảm của Sp2 để Sp2 chia sẻ niềm vui với gia đình mình. Với ý nghĩa như vậy,

Sp2 đã hồi đáp bằng hành động chúc mừng và hành động đề nghị (rửa xe).

Tóm lại, với ba tiêu chí là chủ thể của thông tin; tính chất của thông tin và đề

tài mà thông tin đề cập, chúng tôi đã xác định các nhóm ngữ nghĩa của hành động

thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh. Có thể nói, ngữ nghĩa của hành động

thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh là vô cùng phong phú từ công việc, học

tập; chính trị, văn hóa, thể thao; thi đua khen thưởng đến nông nghiệp, nông thôn; rồi

ma chay, cưới hỏi; đời sống tình cảm, đời sống tinh thần cá nhân… Đó là các sự kiện,

sự tình thuộc lĩnh vực hành chính công vụ hay đời sống cá nhân thường nhật; mang

tính tích cực hoặc tiêu cực; thuộc về Sp1, Sp2 hoặc cả Sp1 và Sp2. Nó cho thấy cách

nhìn đời sống đa dạng của người Nghệ Tĩnh.

3.4. Tiểu kết chương 3

Từ những vấn đề đã trình bày, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:

a. Về các nhân tố chi phối đặc điểm ngữ nghĩa hành động thông báo, chúng tôi

xác định gồm có quan hệ liên nhân, trạng thái tâm lý của người thông báo và người

nhận thông báo và ngữ cảnh. Qua các nhân tố này, chúng tôi nhận thấy tần số xuất

hiện và khả năng hành chức của hành động thông báo trong các quan hệ vai thông báo,

vai tiếp lời có vị thế, tuổi tác, giới tính khác nhau biểu hiện mức độ đậm nhạt khác

nhau. Quan hệ thân cận gồm 11 nhóm, trong đó quan hệ đồng nghiệp; quan hệ người

học - người học; quan hệ hàng xóm láng giềng, quan hệ bạn bè và quan hệ huyết thống

xuất hiện nhiều nhất. Quan hệ thân cận được chúng tôi xem xét trên hai phương diện:

giới tính và vị thế, thứ bậc, tuổi tác. Xét trên phương diện giới tính, nữ giới sử dụng

hành động thông báo nhiều hơn nam giới. Họ cũng có những cách thức lựa chọn ngôn

ngữ, cách tổ chức phát ngôn để biểu đạt nội dung ngữ nghĩa thông báo phù hợp với

tính cách, tâm lí của mình. Trên phương diện vị thế, thứ bậc, tuổi tác, chúng tôi xác lập

thành 3 nhóm: nhóm trên - dưới (người thông báo có vị thế cao hơn người được thông

báo); nhóm ngang hàng (người thông báo và người nhận thông báo có vị thế ngang

bằng nhau) và nhóm dưới - trên (người thông báo có vị thế thấp hơn người nhận thông

báo). Tương ứng với mỗi kiểu quan hệ, trạng thái tâm lí và ngữ cảnh, người Nghệ Tĩnh

có cách sử dựng từ xưng hô, kiểu cấu tạo và lựa chọn nội dung thông báo phù hợp.

114

b. Ngữ nghĩa cặp thoại trao chứa hành động thông báo rất đa dạng, bao gồm những

nội dung trong gia đình đến khối xóm, công sở, trường học, mua bán, bệnh viện. Dựa vào

các tiêu chí khác nhau, chúng tôi đã xếp hành động thông báo vào các nhóm ngữ nghĩa

khác nhau. Theo tiêu chí chủ thể của nội dung thông tin, ngữ nghĩa của hành động thông

báo gồm 3 nhóm: các thông tin thuộc về Sp1, các thông tin thuộc về Sp2 và các thông tin

thuộc về cả Sp1 và Sp2. Theo tiêu chí tính chất của thông tin, ngữ nghĩa của hành động

thông báo gồm hai nhóm: các thông tin mang tính tích cực và các thông tin mang tính tiêu

cực. Theo tiêu chí đề tài, ngữ nghĩa của hành động thông báo cũng gồm hai nhóm: các

thông tin mang tính hành chính công vụ và các thông tin về đời sống thường nhật.

c. Về ngữ nghĩa của hành động hồi đáp đặt trong sự tương tác với hành động

thông báo (tham thoại trao), và dựa vào đích tác động của hành động thông báo và cách

thức tiếp nhận thông báo của Sp2, chúng tôi chia ngữ nghĩa của hành động hồi đáp trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh thành 4 nhóm: a/ Hồi đáp thể hiện cảm xúc, cách ứng xử

của Sp2; b/ Hồi đáp thể hiện thái độ đồng tình; c/ Hồi đáp thể hiện thái độ không đồng

tình, phủ định, bác bỏ và d/ Hồi đáp thể hiện thái độ ngờ vực, không tin tưởng.

Với các thông tin thuộc phạm vi công sở, khối xóm, tham thoại hồi đáp chỉ xuất

hiện 3 dạng: hồi đáp thể hiện cảm xúc, cách ứng xử của Sp2; hồi đáp thể hiện thái độ

đồng tình; hồi đáp thể hiện thái độ không đồng tình, phủ định, bác bỏ. Trong 3 dạng

đó, người Nghệ Tĩnh chủ yếu sử dụng hai dạng hồi đáp: đồng tình để đáp lại các thông

tin thuộc phạm vi công sở, khối xóm và bộc lộ cảm xúc, cách ứng xử để đáp lại để đáp

lại các thông tin trong đời sống thường nhật.

115

Chương 4

MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA NGÔN TỪ CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

QUA CẶP THOẠI CHỨA HÀNH ĐỘNG THÔNG BÁO - HỒI ĐÁP

4.1. Khái quát về văn hóa và ngôn ngữ

4.1.1. Khái niệm văn hóa

Trên thế giới, từ năm 1952, trong cuốn Culture, a critical review of concepts

and definitions (Điểm lại các khái niệm và định nghĩa của văn hóa), hai nhà nhân loại

học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa

khác nhau về văn hóa [63, tr. 313] và cho đến nay, người ta đã tính có hơn 400 định

nghĩa về văn hóa, có người cho là 500 định nghĩa (dẫn theo [104; tr. 30]). Điều này

cho thấy, khái niệm “văn hóa” chưa thống nhất, mặc dù đây là vấn đề được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm.

Về mặt thuật ngữ khoa học: văn hóa được bắt nguồn từ chữ La tinh “Cultus”

mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo trồng ruộng

đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn

con người”. Từ thuật ngữ với cách hiểu đầu tiên này, dần dần theo thời gian, khái niệm

văn hoá được định nghĩa theo các góc nhìn sau:

- Từ góc nhìn dân tộc học: Nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor

(1832 - 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: “văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa

rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật,

đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người

thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội” [110, tr. 13)].

- Từ góc nhìn tâm lí học: Theo hướng này có William Graham Sumner (1840 -

1910), viện sĩ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, cộng sự của ông cho:

“Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là

văn hóa, hay văn minh...Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp

những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa” [111, tr.11-12].

- Từ góc nhìn về nguồn gốc hình thành:

Theo hướng này có Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội

học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard: “Với

116

nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi

hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác

động đến lối ứng xử của nhau” (dẫn theo [111, tr.12]).

Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: “a. Văn

hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã

hội; b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các thành

viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa” (dẫn theo [111, tr.12]).

- Từ góc nhìn xã hội - ngôn ngữ:

Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mỹ cho

rằng: “văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất

sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử

và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống” (dẫn theo [111, tr.12]).

William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi “văn hóa là

các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản

ứng cư xử, ...)” (dẫn theo [111, tr.11]).

Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên

được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri

thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,

ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,

truyền thống và đức tin” [Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng của văn hoá].

Ở Việt Nam, vấn đề văn hóa được các nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu

muộn hơn, vào những năm đầu thế kỷ XX và đưa ra nhiều định nghĩa văn hóa theo

những hướng tiếp cận khác nhau.

Tác giả đầu tiên là Đào Duy Anh, định nghĩa còn đơn giản, gồm một yếu tố là

phương tiện sinh hoạt. Ông cho rằng: “Hai tiếng văn hóa chẳng qua chỉ chung tất cả

các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh

hoạt” [1; tr. 13].

Hồ Chí Minh cũng đưa ra khái niệm văn hóa phù hợp với quan điểm của các tác

giả trên thế giới như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người

sáng tạo phát minh ra văn học, chữ viết, đạo đức pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

học nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở, ... và các phương

thức sử dụng, toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó chính là văn hóa” [79, tr.431]

117

Và đây cũng là quan điểm của nhà văn hoá học Trần Ngọc Thêm. Trong cuốn

Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Trần Ngọc Thêm (2001) định nghĩa: “Văn

hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và

tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi

trường tự nhiên và xã hội của mình” [103, tr. 27].

Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên (2007), văn hoá được

dùng với 5 nghĩa sau: 1. Những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử:

nền văn hoá của các dân tộc. kho tàng văn hoá dân tộc. 2. Đời sống tinh thần của con

người: phát triển kinh tế và văn hoá. chú ý đời sống văn hoá của nhân dân. 3. Tri thức

khoa học, trình độ học vấn: trình độ văn hoá. học các môn văn hoá. 4. Lối sống, cách ứng

xử có trình độ cao, biểu hiện văn minh: người có văn hoá. gia đình văn hoá mới. 5. Nền

văn hoá một thời kì lịch sử cổ xưa, xác định được nhờ tổng thể các di vật tìm được có

những đặc điểm chung: văn hoá Đông Sơn. văn hoá rìu hai vai [117; tr.1744].

Như vậy, tính đa diện về văn hóa đã làm nên sự phong phú trong cách định

nghĩa về khái niệm này song, chúng tôi nhận thấy có hai luận điểm thống nhất: a) văn

hóa là lĩnh vực tinh thần và b) văn hoá là sáng tạo của con người, đồng thời là sự tác

động vào tự nhiên và môi trường sống để tạo ra giá trị vật chất và tinh thần góp phần

thúc đẩy sự phát triển của xã hội tiến bộ.

Từ đó, chúng tôi nêu quan điểm văn hoá của mình như sau: Văn hóa là một hệ

thống tất cả những giá trị vật chất và tinh thần mang tính biểu tượng do con người tạo ra

qua quá trình đấu tranh sinh tồn và phát triển. Văn hóa được tạo ra bởi cộng đồng người

theo từng nơi cư trú và làm cho cộng đồng người đó có những đặc trưng riêng biệt.

4.1.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy, văn hóa

4.1.2.1. Quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy

Từ lâu các nhà ngôn ngữ học, các nhà triết học công nhận mối quan hệ mật thiết

giữa ngôn ngữ và tư duy. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng bậc nhất của

con người, nó vừa là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để biểu đạt tư duy, vừa

là “công cụ của hoạt động tư duy. Ngôn ngữ tham gia trực tiếp vào quá trình hình

thành và phát triển tư duy” [25; tr.22].

Mọi suy nghĩ của con người đều được tiến hành thông qua ngôn ngữ và nhờ vào

ngôn ngữ. Vốn tri thức của con người tích lũy được qua quá trình tác động vào bản

118

thân, vào tự nhiên và xã hội “được ghi lại, được tàng trữ, được bảo toàn trong bộ não

người chủ yếu nhờ ngôn ngữ; và cũng nhờ ngôn ngữ mà con người có thể truyền đạt

những tri thức, những sự hiểu biết ấy của mình cho người khác, sang địa phương

khác” [25; tr. 22]. Giữa hai đối tượng này có sự tác động qua lại với nhau. Không có

ngôn ngữ thì không có tư duy, ngược lại không có tư duy cũng không thể có ngôn ngữ

bởi lúc ấy “ngôn ngữ” chỉ là thứ âm thanh trống rỗng và vô nghĩa.

Chính vì thế, quan hệ tương hỗ giữa ngôn ngữ và tư duy (ngôn ngữ và nhận

thức) ngày càng được quan tâm, thậm chí trở thành “trung tâm của tâm lí ngôn ngữ

học tộc người” hiện nay (dẫn theo [109; tr.19]). Sapir và Whorf cho rằng “tư duy của

con người bị quy định bởi ngôn ngữ mà anh ta nói và anh ta không thể vượt thoát ra

khỏi phạm vi ngôn ngữ này, bởi vì toàn bộ sự hiểu biết của một con người về thế giới

đều được biểu hiện bằng tiếng mẹ đẻ của người đó” (dẫn theo [109; tr. 20]). Các tác

giả này trình bày thuyết tương đối ngôn ngữ của mình với hai biến thể mạnh và yếu.

Biến thể mạnh: ngôn ngữ quyết định cái cách thức một dân tộc suy nghĩ, cảm thụ và

chia cắt thế giời khách quan (thành các phạm trù). Ngôn ngữ khác nhau thì tư duy khác

nhau. Biến thể yếu: ngôn ngữ phản ánh những giới hạn ràng buộc về văn hóa đối với

lối suy nghĩ của dân tộc, thể hiện cách mà ngôn ngữ đó chia cắt hiện thực và phạm trù

hóa kinh nghiệm. Có không ít ý kiến phản bác lại giả thuyết này song thực tế cho thấy

“từ góc độ phát sinh cá thể, giả thuyết Sapir - Whorf là hoàn toàn có lí” [109; tr.24].

Tuy nhiên điều này không có nghĩa con người không có khả năng nhận thức được

những thứ không có trong ngôn ngữ của mình. Vấn đề này liên quan tới sự giao lưu

ngôn ngữ, văn hóa giữa các dân tộc.

Trần Văn Cơ (2007) trong cuốn Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy ngẫm)

cũng góp phần đáng kể trong việc tìm hiểu các đặc trưng tư duy, văn hóa cộng đồng

thông qua các cứ liệu ngôn ngữ.

4.1.2.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hóa

Giữa văn hóa và ngôn ngữ có mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Nhà ngôn ngữ học

V. Humboltd đã đưa ra nhận xét về mối quan hệ này như sau: “ngôn ngữ là linh hồn

của dân tộc, linh hồn của dân tộc là ngôn ngữ” (dẫn theo [63; tr. 37]). Việc xem ngôn

ngữ như là thành tố quan trọng nhất của văn hóa và chú ý tới chức năng xã hội của nó,

nhấn mạnh mối liên hệ giữa ngôn ngữ và “linh hồn” dân tộc được coi là cống hiến lớn

của Humboltd cho ngôn ngữ học thế kỉ XIX.

119

Ngôn ngữ quyết định sự tồn tại của một nền văn hóa (bằng ngôn ngữ) và cũng

lại là một thành tố độc lập của nền văn hóa dân tộc. Nó cũng là phương tiện tất yếu và

là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong

văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những thành phần đặc trưng nhất của bất cứ nền văn

hóa dân tộc nào và ngược lại, chính trong ngôn ngữ, người ta thấy đặc điểm của một

nền văn hóa dân tộc được lưu giữ lại rõ ràng nhất. A.G. Agaep, nhà nghiên cứu người

Nga, nhận xét: “Chính ngôn ngữ được một dân tộc sáng tạo ra và của riêng dân tộc này

đã thực hiện chức năng đặc trưng dân tộc” [109; tr.47].

Tất cả các hiểu biết văn hóa được kí ức hóa ở tất cả các hợp phần của ngôn ngữ,

trong đó, ngữ dụng học là một trong những hợp phần mà sự kí ức hóa đó được thể hiện

rõ rệt hơn cả. Anna Wierzbicka đã chỉ rõ những định hướng của nghiên cứu dụng học

dưới góc độ văn hóa như sau:

1. Ở các xã hội khác nhau, các cộng đồng khác nhau người ta nói năng khác nhau.

2. Những khác biệt trong cách nói này là cơ bản và có tính hệ thống.

3. Những khác biệt này phản ánh những giá trị văn hóa khác nhau, hoặc ít nhất

phản ánh những thứ bậc đánh giá khác nhau.

4. Các cách nói khác nhau, các phong cách giao tiếp khác nhau có thể giải thích

bởi các giá trị văn hóa khác nhau, những giá trị và những ưu tiên văn hóa được thiết

lập một cách độc lập đối lập với nhau [15, tr.1-16]

Như vậy, khi tìm hiểu về ngôn ngữ của một dân tộc không thể không tìm hiểu

về văn hóa của dân tộc ấy. Ngôn ngữ cũng là một thành tố của văn hóa, là một trong

những hợp phần quan trọng nhất của văn hóa. Văn hóa chi phối đến mọi hành động

của con người trong xã hội trong đó có các hành động ngôn ngữ.

4.2. Những nét đặc trưng văn hóa của người Nghệ Tĩnh qua cặp thoại thông

báo - hồi đáp

4.2.1. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề

Người Nghệ Tĩnh rất bộc trực, thẳng thắn, ít khi nói chuyện văn hoa dài dòng.

Đây là một nét tính cách đặc thù trong mối quan hệ giữa người với người. Tính mộc

mạc, thẳng thắn được người Nghệ Tĩnh thể hiện trong lối sống, trong lời ăn, tiếng

nói. Văn hoá bộc trực, thẳng thắn cũng được họ thể hiện khi hiện thực hoá cặp thoại

thông báo - hồi đáp.

120

4.2.1.1. Về phía người trao

Thứ nhất, người Nghệ Tĩnh chủ yếu sử dụng hành động thông báo trực tiếp, ít

sử dụng cách thông báo gián tiếp. Khi muốn thông báo sự tình gì, họ thường đi thẳng

vào vấn đề, không vòng vo, quanh co.

(158). Sp1: Túi ni (tối nay) họp Ban cán sự thôn ung Tình nghe (ông Tình nhé).

Sp2: Tui biết rồi. Sáng ni (sáng nay) tui (tôi) cụng (cũng) nghe thông

báo trên loa rồi.

(159). Sp1: Thông báo với cả lớp là chiều ni (nay) nghị (nghỉ) học môn Tư

tưởng nha.

Sp2: Mừng quá bay (chúng mày) ơi.

Ở ví dụ (158), Sp1 đi thẳng vào nội dung thông báo thông qua BTNV thông báo

nguyên cấp; còn ví dụ (159) Sp1 thực hiện hành động thông báo bằng BTNV thông

báo tường minh.

Thứ hai, khi thông báo, người Nghệ Tĩnh sử dụng các từ ngữ chỉ tình cảm, cảm

xúc nhằm trực tiếp bày tỏ tình cảm, thái độ với Sp2 hoặc với nội dung thông báo.

Khi bày tỏ tình cảm với Sp2, người Nghệ Tĩnh thường sử dụng các tổ hợp từ

xưng hô trìu mến, thân mật như: danh từ thân tộc + yêu/ iu/ yêu quý/ thân yêu; danh từ

+ yêu/ iu… (chồng yêu, chị yêu, em gái yêu quý, bố yêu…)

(160). Sp1: Thông báo với chị yêu là chiều ni đi dạy về em sẻ (sẽ) ra lấy cấy

(cái) áo dạ lông cừu mà bựa qua (hôm qua) chị em mình xem mới được.

Em mà không mua được cấy ni (cái này) là em mất ăn mất ngủ chị ơi.

(hu hu)

Sp2: (cười) Biết ngay mà, đẹp nỏ chịu được chơ chi. Chơ mà (nhưng

mà) chị thấy rành đắt.

Sp1 và Sp2 là đồng nghiệp, thông qua cách mà Sp1 gọi Sp2 khi thông báo, ta

thấy được sự Sp1 và Sp2 có mối quan hệ vô cùng gần gũi, thân thiết. Sp1 cho thấy tình

cảm, sự yêu quý của mình đối với Sp2 khi gọi Sp2 như vậy.

Khi bày tỏ thái độ đối với nội dung mệnh đề nhằm tác động đến tình cảm, nhận

thức hay hành động của Sp2, người Nghệ Tĩnh thường sử dụng các yếu tố cho thấy

tính chất của thông tin như: tin buồn, tin vui, tin hót, tin giật gân…

121

(161). Sp1: Có tin vui thông báo cho chị em đây: chị em chuẩn bị được nhận

tiền thể dục nhé, sáng ni (sáng nay) cô Hạnh đi nhận rồi.

Sp2: Chà, chờ mại (mãi) cuối cùng cũng có sếp hè.

Thông tin trong ví dụ (161) mà Sp1 cung cấp là một thông tin tích cực, đem lại lợi

ích vật chất (chuẩn bị được nhận tiền) cho Sp2. Sp1 nghĩ rằng thông tin này sẽ mang đến

niềm vui cho Sp2. Vì vậy Sp1 đã dùng từ ngữ nhấn mạnh tính chất tích cực của thông tin

“tin vui” để Sp2 chuẩn bị tinh thần thoải mái, vui vẻ trước khi tiếp nhận thông tin.

Có khi, trong một tham thoại thông báo, người Nghệ Tĩnh sử dụng cả hai yếu

tố: các tổ hợp từ xưng hô bày tỏ tình cảm trực tiếp với Sp1 và các từ ngữ thể hiện quan

điểm, cách đánh giá về nội dung thông báo nhằm gây hiệu lực đến Sp2 giúp Sp2 chuẩn

bị tinh thần sẵn sàng đón nhận.

(162). Sp1: Thông báo với chồng yêu tin buồn là dới (dưới) trường em mất

điện, khả năng cao là chiều ni thao giảng em phải dạy chay rồi nì (này).

Sp2: (Hai zà) Vợ lo chi (đừng lo), chìu (chiều) có nớ/ ấy mà, vợ cứ

chuẩn bị tinh thần chiều dạy cho tốt là được nè (này).

4.2.1.2. Về phía người đáp:

Người Nghệ Tĩnh khi đáp lại hành động thông báo cũng sử dụng các phương

tiện ngôn ngữ bộc lộ tình cảm cảm xúc trực tiếp với người nói và với nội dung thông

báo của Sp1. Hồi đáp bộc lộ tình cảm cảm xúc như đã nói ở chương 3, xuất hiện 534

lần, chiếm 44,13%, được sử dụng nhiều nhất trong tổng số 1210 cặp tham thoại đáp lại

tham thoại trao thông báo mà đề tài khảo sát.

- Để thể hiện tình cảm với Sp1, Sp2 thường sử dụng các hành động thuộc nhóm

ứng xử như chúc mừng, khen ngợi, động viên, chia buồn…

(163). Sp1: Mẹ ơi, con thông báo với mẹ một tin trên cả tuyệt vời mẹ nì, sáng

thứ 2 tuần sau con bắt đầu đi làm mẹ ạ, con được tuyển chính thức rồi,

họ vừa gọi điện thông báo lúc nại (nãy) đó mẹ.

Sp2: Mẹ chúc mừng con. Mẹ biết kiểu chi (kiểu gì) con cụng độ (cũng

đỗ) mà.

(164). Sp1: Thông báo với chị iu là cuối tháng ni (này) em vẩn (vẫn) phải đi

coi thi tốt nghiệp trung học phổ thông, nghiên cứu sinh có được miển

(miễn) mô (đâu) chị. (hu hu)

122

Sp2: Chia buồn với con em. Trách nhiệm và nghĩa vụ nên em cứ rứa mà

đi thôi. (cười)

Ở ví dụ (163), Sp2 sử dụng hành động chúc mừng; còn ở ví dụ (164), Sp2 sử dụng

hành động chia buồn nhằm bộc lộ trực tiếp tình cảm, sự quan tâm của mình với Sp1.

- Để bộc lộ thái độ, tình cảm với nội dung thông báo nhận được, Sp2 thường sử

dụng các từ ngữ bộc lộ cảm xúc như vui, buồn, chán nản, ngạc nhiên…

(165). Sp1: Thông báo, thông báo: em Kiều Hoa nhà ta cuối tháng ni về quê

mần (làm) rồi bây (chúng mày) ơi.

Sp2: Vui! Vui! Vui! Hội độc thân nhà mềng (mình) lại có thêm thành

viên mới.

Ở ví dụ (165), Sp2 hồi đáp lại hành động thông báo của Sp1 bằng hành động

bộc lộ cảm xúc vui mừng (vui quá là vui) vì nội dung thông tin nhận được (em Kiều

Hoa nhà ta cuối tháng ni về quê mần (làm) rồi);

- Sp2 còn sử dụng các ngữ cố định, thành ngữ, tục ngữ để bộc lộ tình cảm một

cách trực tiếp với nội dung thông báo và với Sp1. Chẳng hạn: mắt rọt mát gan, nẫu rọt

nẫu gan, chán như con gián …

(166). Sp1: Cuối tuần ni đi cổ vụ (vũ) bóng đá đó nha, có điểm danh đo (đó),

thông báo trước cho mà biết mà chuẩn bị chơ về quê là troạng đó.

Sp2: Răng mà chán như con gián rứa mi hề. Cả tuần đạ phẩy (đã

phải) đi hoọc (học), cuối tuần cụng nỏ (không) được nghỉ luôn.

(167). Sp1: Huynh ơi, chiều 2 giờ lớp ta tập trung ở cổng Trường Nguyễn Trãi

để đi viếng cô Hảo mi nha.

Sp2: Ừ, mặc dù biết trước sau chi cụng xảy ra nhưng sáng ni tau nghe

con Loan thông báo mà buồn nẫu rọt nẫu gan (nẫu ruột nẫu gan), cô đi

nhanh quá mi ơi.

(168). Sp1: Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi, con biết điểm thi đại học, được 29 điểm mẹ ơi.

Con coi (xem) trên mạng xong là chạy ngay xuống thông báo cho mệ nì.

Sp2: Mẹ nghe mà mát cả rọt cả gan (mát ruột mát gan), còn chi vui hơn

nựa con ơi.

Ở ví dụ (166), Sp2 hồi đáp lại sự tình được thông báo bằng một tham thoại hồi

đáp tiêu cực, Sp2 đã sử dụng thành ngữ “chán như con gián” để bộc lộ cảm xúc chán

123

nản, không mong muốn về nội dung thông tin được Sp1 cung cấp “cuối tuần ni đi cộ

vụ (vũ) bóng đá đó”.

Ví dụ (167), nội dung sự tình mà người nói cung cấp là tin buồn (cô giáo chủ

nhiệm cũ mất). Với tham thoại trao mang ý nghĩa như vậy, người nghe đã hồi đáp lại

bằng hành động biểu thị tâm trạng vô cùng buồn bã thông qua việc sử dụng thành ngữ

“nẫu rọt nẫu gan” (cách nói hoán dụ: lấy bộ phận cơ thể người là ruột để chỉ tình cảm)

và hành động giải thích lí do của tẩm trạng đó.

Ví dụ (168), nội dung sự tình người nói cung cấp là tin vui (thi đại học điểm rất cao,

đồng nghĩa chắc chắn đỗ đại học), chủ thể của tin tức là Sp1 (con). Khi nhận được thông

báo, Sp2 đã hồi đáp bằng hành động bộc lộ niềm vui thông qua việc sử dụng thành ngữ

“mát rọt mát gan” (cách nói hoán dụ: lấy bộ phận cơ thể người là ruột để chỉ tình cảm).

4.2.2. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói gần gũi, xích gần quan hệ

Đối với người Nghệ Tĩnh từ lâu đời, nền kinh tế của họ phụ thuộc gần như hoàn

toàn vào nghề nông - vốn là nghề phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết. Nếu xét về điều kiện

tự nhiên, Nghệ Tĩnh là vùng đất có khí hậu khắc nghiệt vào bậc nhất so với những

vùng khác trong cả nước, vậy nên, dù nổi tiếng cần cù chịu thương chịu khó, cuộc

sống của người dân nơi đây vẫn luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Nhưng

cũng chính cái khó khăn, gian khổ của đời sống sinh hoạt vật chất đã làm cho người

Nghệ xích lại gần nhau hơn để yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Chính vì vậy, người

Nghệ luôn coi trọng tình cảm, luôn lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử, cả trong ứng

xử ngôn ngữ. Cách nói gần gũi, kéo gần quan hệ được người Nghệ Tĩnh thể hiện qua

việc sử dụng từ xưng hô và tiểu từ tình thái.

4.2.2.1. Từ xưng hô

Trong mỗi phát ngôn, các từ xưng hô “phản ánh trình độ nhận thức, thái độ tình

cảm của người nói với người nghe, thậm chí còn có thể bộc lộ nhân cách con người...”

[92, tr. 387].

Cách xưng hô thể hiện văn hoá trọng tình không chỉ đối với người Nghệ Tĩnh

mà cả với người Nam bộ hay Bắc bộ nói chung. Tuy vậy, tìm hiểu các từ xưng hô là

vai giao tiếp được người Nghệ Tĩnh dùng để xưng mình (Sp1) và gọi người nghe ở

ngôi thứ 2 (Sp2) và đến lượt mình, người nghe hồi đáp lại ở ngôi thứ nhất khi họ thực

hiện hành động thông báo, chúng tôi thấy số lượng từ xưng hô được người Nghệ Tĩnh

124

sử dụng khi thực hiện hành động thông báo rất phong phú với 2416 lần xuất hiện

(1280 lần được sử dụng ở tham thoại trao và 1136 lần được sử dụng ở tham thoại đáp).

Bên cạnh việc sử dụng các từ xưng hô trong tiếng Việt toàn dân, họ còn sử dụng các từ

xưng hô mang đậm sắc thái địa phương. Tuỳ hoàn cảnh thông báo, nội dung thông

báo, đối tượng thông báo cụ thể mà họ có thể lựa chọn từ ngữ xưng hô khác nhau để

đạt được đích giao tiếp. Đặc biệt, đáng chú ý là số lượng từ ngữ xưng hô không mang

tính nghi thức chiếm tỉ lệ cao. Vì thế, cách xưng gọi của người Nghệ Tĩnh trong cặp

thoại tương tác thông báo - hồi đáp có xu hướng xích gần quan hệ và mang sắc thái địa

phương đậm nét. Điểm riêng của người Nghệ Tĩnh khi sử dụng từ xưng hô thể hiện lối

nói gần gũi, xích gần quan hệ trong hành động thông báo là:

- Thứ nhất, cách xưng hô của người Nghệ có tính thân mật hoá cao khi trao đáp.

Khi thông báo, danh từ thân tộc được người Nghệ sử dụng chiếm gần một nửa

trong 1210 ngữ liệu được khảo sát, với 1175/2416 lần, chiếm 48,63%, trong đó, danh

từ thân tộc trong tham thoại trao xuất hiện 590 lần và tham thoại đáp xuất hiện 585 lần

như: anh/ênh-em, chị/ả-em, con-o/dì/chú/bác, ông/bà-cháu/con... Với cách xưng hô

này, tất cả mọi người trong cộng đồng cư trú không có quan hệ máu mủ, ruột thịt đều

trở thành bà con họ hàng trong một gia đình. Chẳng hạn,

(169). Sp1: Cậu ơi, cuối tuần ni o Thuận tổ chức đầy tháng cho bé Ổi đọ (đó).

Sp2: Rứa thì (thế thì) cậu với o thu xếp lên tí chúc mừng mẹ con nhà o

Thuận hề (nhỉ).

Trong ví dụ (169), Sp1 gọi Sp2 là o và xưng cậu. Với người Nghệ Tĩnh, o-cậu

thường được dùng cho những người bạn khác giới thân thiết, khi họ đã lập gia đình:

người bạn nam sẽ gọi bạn nữ là o (bên bố/bên nội), người bạn nữ sẽ gọi người bạn nam

là cậu (bên mẹ/bên ngoại). Với người Nghệ, bạn bè thân thiết cũng như anh chị em

trong gia đình nên cách gọi o-cậu không chỉ chứa nét nghĩa giới tính mà còn hàm chứa

cả nét văn hóa trọng tình, đề cao, coi trọng tình cảm của người dân trên mảnh đất này.

Tính thân mật hoá cao còn thể hiện ở cách xưng hô bằng các tổ hợp từ. Ở giao

tiếp khối xóm, để đáp lại lời thông báo trong tham thoại trao, người Nghệ thường sử

dụng cách kết hợp danh từ thân tộc + danh từ chỉ chức vụ (bác xóm trưởng/ bác

trưởng thôn/ bác khối trưởng/ bác bí thư...) để hô gọi. Cách gọi này vừa đảm bảo được

vị thế của người thông báo vừa cho thấy sự gần gũi, thân tình giữa người nhận thông

125

báo và người thông báo trong mối quan hệ tình làng nghĩa xóm. Nó cũng cho thấy sự

tinh tế của người Nghệ trong giao tiếp.

(170). Sp1: Bà Lan ơi, thông báo với bà là túi bựa ni (tối hôm nay), 7 giờ ta

họp chi bộ ở nhà văn hoá thôn bà nghe.

Sp2: Dạ, cảm ơn bác bí thư. Sáng ni tui cụng nghe trên loa thôn rồi ạ.

Ở ví dụ (170), người nói gọi người nghe bằng danh từ thân tộc “bà”; người

nghe khi đáp lời đã gọi người nói bằng tổ hợp danh từ thân tộc “bác” đứng trước và

danh từ chỉ chức vụ “bí thư” đứng sau. Nó cho thấy nét văn hoá trọng tình của người

Nghệ Tĩnh, trên cơ sở lấy tình cảm làm đầu. Tình cảm trong quan hệ xóm giềng được

đặt cao hơn vị thế xã hội. Cách gọi này cân bằng được quan hệ thân cận và quan hệ vị

thế, vừa thể hiện được sự tôn trọng vị thế của đối ngôn vừa lại rất gần gũi, thân thiết.

Khi sử dụng đại từ nhân xưng để thông báo, người Nghệ chỉ sử dụng “tôi” trong

trường hợp giao tiếp quy thức, các hoàn cảnh giao tiếp còn lại đều sử dụng “tui” thay

“tôi”, “tau - mi” thay “mày-tao”.

Tui theo Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, được thay thế cho tôi trong tiếng

Việt toàn dân. Qua khảo sát, chúng tôi thấy đại từ tui xuất hiện 81 lần (33 lần ở tham

thoại trao và 48 lần ở tham thoại đáp lời), chiếm 33,02% trong tổng số các đại từ được

người Nghệ Tĩnh sử dụng. Là biến thể của tôi trong tiếng Việt toàn dân, nhưng sắc thái

nghĩa và phạm vi sử dụng của tui hoàn toàn khác tôi. Tui trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh không chỉ mang sắc thái biểu cảm trung hoà của tôi mà còn được sử dụng

với sắc thái thân mật, có phần dân dã, suồng sã với người trong gia đình hay trong các

mối quan hệ thân thiết, gần gũi. Trong công trình nghiên cứu Từ địa phương Nghệ

Tĩnh về một khía cạnh ngôn ngữ văn hoá, tác giả Hoàng Trọng Canh nhận định “Trong

phương ngữ Nghệ Tĩnh, tui là biến thể ngữ âm tương ứng với tôi. Nhưng trong cách

dùng của người Nghệ Tĩnh cũng như sắc thái biểu cảm của từ tui khác rất rõ. Con cái

có thể xưng hô tui với cha, mẹ, ông, bà và những người lớn tuổi hơn mình với sắc thái

biểu cảm không trung tính như tôi” [11; tr.239].

(171). Sp1: O Hà ơi, tui (tôi) thông báo với o (cô) một việc quan trọng ni nì:

mai là hết hạn nộp hồ sơ kê khai dân công hỏa tuyến đó o (cô). O (cô)

nhanh nhanh mần đi rồi mai lên xạ mà nạp, không là bựa sau mất quyền

lợi đó o ơi.

Sp2: May có cậu không thì tui (tôi) nỏ (không) biết chi (gì).

126

Ở ví dụ (171), người trao lời xưng “tui” và gọi người nghe bằng “o”; và ngược

lại người đáp lời cũng xưng “tui” và gọi người nghe bằng “cậu”. Cách xưng gọi trong

cặp thoại thông báo - hồi đáp này cho chúng ta thấy sự gần gũi, thân thiết giữa các

nhân vật giao tiếp.

Đại từ tui được dùng cho mọi đối tượng giao tiếp mà không phân biệt địa vị,

tuổi tác. Người có địa vị và tuổi tác thấp hơn xưng tui với đối tượng có địa vị hoặc tuổi

tác cao hơn mà không bị coi là hỗn láo, ngược lại nó mang sắc thái gần gũi, dân dã,

thân mật. Chẳng hạn, ở ví dụ (171), người thông báo với cương vị là trưởng thôn,

nhiều tuổi hơn người nhận thông báo nhưng vẫn xưng “tui”, gọi người nghe bằng “o”;

người nhận thông báo khi đáp lời cũng xưng “tui” và gọi người thông báo bằng “cậu”.

Rõ ràng, với người Nghệ Tĩnh, tình làng nghĩa xóm cũng như tình anh em trong gia

đình nên trong mối quan hệ xóm làng, tình nghĩa (quan hệ thân sơ) dường như được

đặt lên trên địa vị xã hội (quan hệ vị thế). Xét về sắc thái nghĩa và phạm vi sử dụng, tui

trong phương ngữ Nam Bộ rất gần với tui trong phương ngữ Nghệ Tĩnh.

- Thứ 2, cách xưng hô của người Nghệ nghiêng về cái chung, cộng đồng.

Như đã nói, người Nghệ sống chủ yếu bằng nghề nông và phải canh tác trong

điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu vô cùng khắc nghiệt cho nên, để làm ra “hạt lúa củ khoai”

họ phải nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau vượt qua những khó khăn, trở

ngại đó. Vì vậy, tính tập thể, tính cộng đồng là đặc trưng văn hoá chung của người Việt

nhưng có thể nói, không ở đâu, tính tập thể, tính cộng đồng được thể hiện đậm đặc như

trong lối sống, ứng xử của người Nghệ Tĩnh. Nét văn hoá này cũng được người Nghệ

thể hiện rất rõ trong xưng hô khi thực hiện hành động thông báo. Đó là việc xuất hiện

hiện tượng kiêm ngôi, người Nghệ thường sử dụng tổ hợp: danh từ + đại từ (ta/mình)

như: lớp ta, thôn ta, khối ta, xóm ta, xã ta, khoa ta, phòng ta, gia đình mình, bà con thôn

ta... hay từ choa để chỉ số đông trong đó có Sp1 và Sp2, có khi chỉ cá nhân người nói.

(172). Sp1: Thông báo với bà con thôn ta tin vui là nhà văn hoá thôn sẽ hoàn

thành và đưa vào sử dụng trong tháng 10 này.

Sp2: Tốt quá, có không gian khang trang, sạch đẹp để dùng rồi bác

trưởng thôn ơi.

- Thứ 3, người Nghệ Tĩnh thường sử dụng cách xưng hô xích gần quan hệ, lấy con

làm yếu tố trung tâm khi thực hiện cặp thoại thông báo - hồi đáp. Nét văn hoá này thể hiện:

127

Khi thông báo một nội dung nào đó, bên cạnh việc sử dụng các cặp xưng gọi

đúng vai, ta còn bắt gặp hiện tượng các vai khác nhau nhưng có cùng một kiểu xưng

gọi: ông/ bà - con; bác/ chú/ o/ dì/ dượng/ cậu/ mự - con. Đây là cách gọi không đúng

vai, “bỏ vai”, “nhập vai” rất phổ biến trong giao tiếp đời sống của người Nghệ Tĩnh.

Khi đáp, vai Sp2 cũng xưng hô theo nguyên tắc này.

(173). Sp1: Lê ơi, dì thông báo với con tin vui là tháng 9 ni (này) anh Tịnh nhà

ta cưới vợ đó con.

Sp2: Chà, năm ni gia đình ta nhiều tin vui quá. Ngày cụ thể răng dì

thông báo sớm bựa nớ (hôm đó) vợ chồng con về dì nghe.

Ngược lại, cháu cũng tự xưng với ông, bà, bác, chú, mự, o, dì, dượng bằng con.

Có thể thấy, trong các quan hệ gia đình xét về mặt tôn ti thì quan hệ cha/mẹ -

con là quan hệ máu mủ, gần nhất, gắn bó mật thiết nhất so với các quan hệ: ông/ bà -

cháu; chú/ bác/ o/ mự/ dì/ dượng - cháu. Vì vậy, việc người Nghệ khi xưng gọi lấy con

làm yếu tố trung tâm là xuất phát từ nét văn hóa đề cao tình cảm, lấy tình cảm làm

nguyên tắc ứng xử. Cho nên ông, bà hay bác, chú, cậu, dì khi thực hiện hành động

thông báo gọi cháu bằng con và ngược lại cháu xưng với ông, bà, chú, bác, cậu, dì

bằng con đều là “bỏ vai”, “nhập vai” để xích gần quan hệ, xưng gọi một cách tự nhiên,

như một tất yếu tình cảm trong lòng mình, theo quan hệ gần nhất là cha mẹ-con cái.

Việc lấy con làm yếu tố trung tâm để xưng gọi còn được thể hiện rất rõ ở cách

sử dụng từ xưng hô quan hệ vai vợ và chồng (đã có con) của người Nghệ Tĩnh khi họ

thực hiện hành động thông báo, với các cặp xưng gọi mẹ/ bố - bố/ mẹ; mẹ/ bố - bố/ mẹ

+ tên con /tên bố/ tên mẹ; mẹ/ bố - bố/ mẹ + thằng/ con + tên con

(174). Sp1: Thông báo với bố là chiều ni (nay) cơ quan mẹ liên hoan nên mẹ

không ăn cơm ở nhà mô (đâu) nha, bố con tự lo cơm nước nhé.

Sp2: Mẹ cứ đi mái thoải đi, nỏ phải lo chi cho bố con mô.

Cặp: bố - mẹ; bố/ mẹ - mẹ/bố + tên bố/ tên mẹ/ tên con; mẹ/ bố - bố/ mẹ +

thằng/ con + tên con thường được các các vợ chồng trẻ đã có con và vợ chồng trung

niên dùng. Tuy nhiên cặp bố-mẹ; bố/ mẹ - mẹ/ bố + tên bố /tên mẹ/ tên con được sử

dụng khi vợ chồng người Nghệ cần thông báo một nội dung (thường là tin vui) với tình

cảm thân thiết, cử chỉ âu yếm. Còn cặp mẹ/bố - bố/mẹ + thằng/con + tên con mang sắc

thái dân giã, mộc mạc phổ biến hơn ở các vùng nông thôn Nghệ Tĩnh.

128

Xưng hô giữa vợ chồng đã sinh con ở Nghệ Tĩnh không phải là anh - em như

cách xưng hô thường thấy ở Bắc Bộ mà là bố - mẹ. Đây là kiểu xưng gọi thay vai,

xưng gọi theo quan hệ gần nhất về huyết thống để thể hiện tình cảm ấm áp, gắn bó.

Người chồng và vợ khi đã có con thì sẽ chuyển từ cách xưng gọi anh-em (cùng thế hệ,

khác bậc) sang xưng gọi bố-mẹ (ngang bậc, lấy con làm trung tâm), gọi thay con

(ngầm ẩn xưng gọi con - bố và con - mẹ). Điều này một lần nữa khẳng định, yếu tố

tình cảm chi phối rất mạnh đến việc lựa chọn từ xưng hô của người Nghệ Tĩnh khi họ

hiện thực hóa HĐNN thông báo.

- Thứ 4, cách xưng hô của người Nghệ Tĩnh khi thực hiện hành động thông báo

rất giàu sắc thái biểu cảm.

Khi thông báo những nội dung trong hoàn cảnh giao tiếp thân mật thì từ xưng

hô được người Nghệ Tĩnh sử dụng rất đa dạng với nhiều màu sắc: lúc thân thiết, trìu

mến; lúc mộc mạc, bình dân; lúc bỗ bã, suồng sã. Chẳng hạn, chỉ trong một quan hệ

nhỏ là quan hệ vợ - chồng (phạm vi gia đình) người Nghệ cũng đã sử dụng rất nhiều

cách hô gọi:

Trong tình huống giao tiếp bình thường hoặc thân mật thì dùng anh - em:

(175). Sp1: Anh thông báo với em một tin trên cả tuyệt vời là anh đã được đề

bạt giữ chức phó tổng tập đoàn, thứ 6 nhận này quyết định em ạ.

Sp2: Chúc mừng anh. Bố mẹ mà biết thì vui lắm đây.

Khi thân mật, suồng sã thì dùng tui - ông/ ung/ ôông; tui - bà; tau - mẹ/ mệ mi

(176). Sp1: Ung ơi, tui thông báo với ung tin mừng ni (này) nì: tháng sau gấy

nhông (vợ chồng) nhà thằng Quân về Việt Nam một tháng đó, hấn mới

gọi điện cho tui lúc sáng ung (ông) ơi.

Sp2: Thật rứa hả ung? Tui mừng quá, năm năm rồi chơ (chứ) phải ít ỏn

chi mô nựa (ít đâu nữa) ung.

Lúc thân thiết, tình cảm, trìu mến thì dùng bố - mẹ; bố/ mẹ - mẹ/ bố + tên; bố/

mẹ + tên con; vợ - chồng/ nhông; chồng/ vợ; trìu mến hơn, yêu thương hơn thì dùng

chồng yêu - vợ yêu.

(177). Sp1: Thông báo với mẹ Kem tin vui là bố được thăng chức rồi nha, được

bổ nhiệm làm giám đốc Nissan Vinh mẹ Kem ạ.

Sp2: Chúc mừng bố Kem, một năm đại thắng lợi bố hè.

129

(178). Sp1: Vợ yêu ơi, thông báo với vợ yêu một tin trên cả tuyệt vời là chồng

đã có quyết định bổ nhiệm giữ chức Phó Trưởng công an Phường Hưng

Dũng rồi, chồng vui quá!

Sp2: Thật thế hả chồng? Tuyệt quá! Chúc mừng chồng yêu!

Ở phạm vi giao tiếp ngoài xã hội, các từ xưng hô cũng rất đa dạng về sắc thái

biểu cảm. Lấy từ xưng hô biểu thị quan hệ bạn bè làm ví dụ ta sẽ thấy ngay điều đó.

Trong quan hệ bạn bè, khi thông báo, người Nghệ sử dụng rất nhiều các từ xưng hô từ

các từ chuyên dụng đến không chuyên dụng như đại từ: tau, tui, tớ, ung, ông, mình,

choa, bây, bọn bây, hội bây, mi, bọn mi,...; danh từ thân tộc: o, cậu, chú, chị, em...;

danh từ: tên riêng, nàng, bồ, bạn hiền, hàng xóm... cùng một loạt các tổ hợp khác:

thằng + tên, con + tên,... và người Nghệ sẽ lựa chọn từ xưng hô biểu thị quan hệ bạn

bè sao cho phù hợp với hoàn cảnh, nội dung, đối tượng, phạm vi thông báo.

Trong hoàn cảnh giao tiếp trang trọng hay bình thường, người Nghệ thường sử

dụng các cặp xưng gọi như: tớ - cậu / tên; tên - tên; mình - cậu / tên / bạn / các bạn.

(179). Sp1: Tớ thông báo tin này, nghe xong cậu đừng buồn nhé, cậu nghỉ học

nhiều quá nên không được thi môn Tư tưởng Hồ Chí Minh của cô Vân đâu.

Sp2: Ừ, tớ cũng đoán trươc được nì (này). Cảm ơn cậu.

Trong hoàn cảnh giao tiếp thân mật, có phần mộc mạc, dân giã, suồng sã thì

người Nghệ lại ưa dùng tui - ông/ ung/ ôông; tui - bà; tau - mi; tau - bây (bay)/ mấy

đứa bây (bay)/ bọn bây (bay).

(180). Sp1: Thông báo với ung là cuối tuần ni tui về quê, chuẩn bị tinh thần mà

đón tiếp nha.

Sp2: An tâm, ai chơ bà mà về thì tui (tao) đây phải đón tiếp chu đáo hết

mức có thể.

(181). Sp1: Thông báo với mi là cấy (cái) iphone 6 của tau truốt (hỏng) rồi.

Sp2: Chia buồn với mi (mày). Tau đạ (đã) nói rồi cứ dùng cấy (cái) cục

gạch như tau (tao) đây có phải đợ (đỡ) tiếc không.

Tau - mi là biến thể tương ứng với cặp xưng gọi tao - mày (thường dùng ở miền

Bắc) nhưng sắc thái ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Nếu như cặp xưng gọi tao - mày bị

đẩy hoàn toàn về phía biểu thị sắc thái tiêu cực, thường dùng trong tình huống căng

thẳng thì cặp xưng gọi tau - mi trong phương ngữ Nghệ Tĩnh lại biểu thị sắc thái thân

130

mật có phần bình dị, dân giã. Với bạn bè, người Nghệ không dùng tao - mày mà gọi

tau -mi vì người Nghệ cho rằng bạn bè thân thiết thì không phải khách sáo, câu nệ mà

chỉ cần xưng hô sao cho thoải mái.

Còn khi thông báo trong hoàn cảnh giao tiếp thân mật, với những người bạn

thân để thể hiện sự thân thiết, gần gũi người Nghệ dùng các từ như: bồ, nàng, o, cậu,

dì… để xưng hô.

(182). Sp1: O Thuận ơi, túi thứ 7 tuần ni cậu mời cà phê ra mắt vợ tương lai

nha. Thông báo trước cho o để o chuẩn bị tinh thần (cười)

Sp2: Chà chà, cậu ta thẩm lẩm thầm lầm mà giết chết voi hẹ (nhỉ). Chi

chơ (gì chứ) sự kiện trọng đại ra ri (như thế này) thì vợ chồng nhà o

(tao) phẩy (phải) có mặt đầy đủ chơ (chứ).

(183). Sp1: Nàng ơi, thông báo với nàng là tui (tôi) đã nhận được túi xách với

mĩ phẩm nàng gửi về rùi. Long lanh luôn. Cảm ơn nàng nhiều nghe.

Sp2: Nàng ưng là tui (tôi) mừng rồi (cười).

Nàng là một từ cũ thường được dùng trong sự tương ứng với chàng thành cặp

xưng gọi chàng - nàng, dùng để xưng hô trong xã hội xưa, hiện nay được thay thế bằng

cặp xưng gọi anh - em. Tuy nhiên, trong xưng hô bạn bè, nàng không được dùng để chỉ

em trong quan hệ với anh mà được chuyển nghĩa dùng để gọi bạn bè với sắc thái gần

gũi, thân mật. Như trong ví dụ (183) là cặp xưng hô “tui - nàng” và “nàng - tui”.

Như vậy, xưng hô trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh khi thực hiện hành động

thông báo vừa có tính thống nhất cao với xưng hô toàn dân vừa mang những sắc thái

riêng biệt, đặc trưng cho văn hóa giao tiếp trọng tình của con người xứ Nghệ.

4.2.2.2. Dùng tiểu từ tình thái địa phương

Khảo sát 1210 tham thoại chứa hành động động thông báo trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi bắt gặp 10 TTTT, xuất hiện cuối 736 phát ngôn;

trong đó, có 3 tiểu từ tình thái thuộc tiếng Việt toàn dân, 7 tiểu từ tình thái thuộc

phương ngữ Nghệ Tĩnh. Trong đó, nhóm tiểu từ tình thái thuộc phương ngữ Nghệ

Tĩnh chiếm tỷ lệ lớn hơn so với nhóm tiểu từ tình thái trong tiếng Việt toàn dân,

xuất hiện 390/736 lần, chiếm 52,99%. Chính hệ thống TTTT phương ngữ này góp

phần quan trọng trong việc tạo sắc thái tình cảm gần gũi riêng cho hành động thông

báo của người Nghệ Tĩnh so với các vùng miền khác, đồng thời làm nên sự phong

phú cho hệ thống TTTT trong tiếng Việt.

131

Bảng 4.1. Tiểu từ tình thái thuộc phương ngữ

TT 1 2 4 5 7 Tiểu từ tình thái nha/nhá nghe nả/ nạ nì đo

Tổng Số lần 297 63 17 8 5 390 Tỉ lệ % 76,15 16,15 4,36 2,05 1,29 100

Qua bảng 4.1, chúng ta thấy các tiểu từ nha, nghe, nhá xuất hiện nhiều. Bên

cạnh đó, có những tiểu từ tình thái xuất hiện rất ít như nả 11 lần, nì 8 lần, nạ 6 lần, đo

5 lần. Chúng xuất hiện ở cuối các phát ngôn thông báo với vai trò nhấn mạnh thái độ

người nói, hướng sự chú ý của người nghe về nội dung thông báo. Tuy nhiên, tuỳ vào

ngữ cảnh giao tiếp cụ thể, tần số xuất hiện mà mỗi tiểu từ tình thái lại có vai trò, giá trị

riêng trong hành chức. Ở đây, chúng tôi căn cứ vào ngữ cảnh giao tiếp điển hình trong

sự hành chức của từng từ để đưa ra một số cách hiểu như sau:

- Nha được dùng như nhé trong tiếng Việt toàn dân. Qua khảo sát, chúng tôi bắt gặp

tiểu từ nha xuất hiện với tần số cao nhất (270 lần, 69,24%). Hai từ nha và nhé đều thể

hiện sự thân mật; được sử dụng với ý nghĩa là mong muốn lời nói của mình được người

nghe chú ý và mong muốn người đối thoại đồng ý, đồng tình với nội dung thông tin mà

mình cung cấp. Tuy nhiên, nha và nhé khác nhau về sắc thái biểu cảm, nha cho thấy sự

gần gũi thân mật, chuyển tải tình cảm tha thiết hơn nhé. Đây cũng là lí do mà trong tham

thoại trao chứa hành động ngôn ngữ thông báo, người Nghệ Tĩnh ưa dùng nha hơn nhé

(270/174; gấp hơn 1,55 lần) để tạo sự gần gũi, thân tình giữa người nói và người nghe.

(184). Sp1: Tối ni họp khối nha bác.

Sp2: Sáng ni bác cụng (cũng) nghe thông báo trên loa rồi.

- Nhá được sử dụng nhá xuất hiện nhiều thứ 3 (27 lần, chiếm 6,92%). Cũng

giống như nha, khi được sử dụng, nhá tạo không khí thoải mải, gần gũi thân tình giữa

người nói và người nghe. Tuy nhiên, trong hành động thông báo, nếu như nha được

người Nghệ sử dụng cho tất cả các kiểu quan hệ (ngang vai, trên vai, dưới vai) thì nhá

chỉ được dùng cho quan hệ ngang vai, giữa những người bạn thân thiết với nhau.

(185). Sp1: Huyền ơi, sáng mai hoạn (hoãn) kiểm tra môn âm nhạc nhá.

Sp3: Chà mừng chi chi trời.

132

- Nghe, xuất hiện 63 lần, chiếm 16,15% trong các tham thoại thông báo của

người Nghệ Tĩnh. Nghe chủ yếu được dùng trong các BTNV thông báo nguyên cấp.

Khi thông báo, tiểu từ tình thái nghe được dùng cuối phát ngôn bổ sung nét nghĩa rằng

Sp1 mong muốn Sp2 đồng tình với nội dung Sp1 thông báo. Cũng như tiểu từ nha,

nghe thể hiện sắc thái nhẹ nhàng, thân mật, tỏ ý chân tình khi giao tiếp. Nếu như trong

giao tiếp của người Nam Bộ, nghe thường được người có địa vị cao hơn hoặc ngang

bằng sử dụng thì trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh từ nghe thường được sử dụng

cho cả quan hệ ngang vai và không ngang vai, trong giao tiếp gia đình và khối xóm

đặc biệt là ở vùng nông thôn.

(186). Sp1: Ả (chị) Thanh ơi, sáng mai 6 giờ ta tập trung ở nhà văn hóa thôn

để tổng vệ sinh đường làng ngọ (ngõ) xóm ả (chị) nghe.

Sp2: Ừ, ừ, ả biết rồi.

- Nả xuất hiện 11 lần. Khi sử dụng ở cuối phát ngôn thông báo, Sp1 muốn nhấn

mạnh vào sự tình mà mình cung cấp và hướng sự chú ý vào Sp2. Nả tạo sắc thái thân

mật, có phần suồng sã khi giao tiếp.

(187). Sp1: Lịch kiểm tra môn thể dục có thay đổi nha, chuyển sang thứ 2 tuần

sau mi nả, thầy vừa gọi điện xong.

Sp2: Tin vui nhất tuần luôn, tau hại (sợ) nhất môn thể dục.

- Nạ được người nói sử dụng với mục đích để người nghe chú ý lưu tâm hơn về

tin tức, sự tình mà mình thông báo đồng thời thể hiện mối quan hệ giữa người nói và

người nghe là hết sức thân tình.

(188). Sp1: Thông báo với mi tin vui là 11giờ, chủ nhật tuần sau bạn Thành lớp

ta cưới nạ. Bạn í (ấy) nhờ tau thông báo với gửi thiệp mời mi, hấn sẽ gọi

cho mi sau.

Sp2: Ừ, bựa nớ đi ới (gọi) tau nha.

- Nì tức là này trong tiếng Việt toàn dân. Trong tiếng Việt toàn dân, này có

những ý nghĩa sau: “1. Biểu thị ý nhấn mạnh tính cụ thể và xác định của những sự vật,

sự việc, tính chất nào đó dang được liệt kê ra. 2. Biểu thị ý nghĩa nhấn mạnh thêm về

điều vừa nêu ra, với ý bảo người đối thoại hãy chú ý làm theo. 3. Biểu thị thái độ

nghiêm khắc của lời nói, có hàm ý đe dọa trước một sự chống đối nào đó của người

đối thoại.” [TĐTV, tr. 813-814].

133

Nhưng theo khảo sát của chúng tôi, trong 8 lần xuất hiện ở tham thoại trao chứa

hành động thông báo, nì chỉ được người Nghệ Tĩnh sử dụng với ý nghĩa là gây sự chú

ý ở người nghe và biểu thị mối quan hệ gần gũi, thân tình giữa người nói và người

nghe, không mang những nét nghĩa của này trong tiếng Việt toàn dân.

(189). Sp1: Thông báo với nàng là túi (tối) thứ hai ta nỏ phải đi tập huấn sư

phạm nựa mô (nữa đâu) nì.

Sp2: May quá, chơ thứ 2 học cả ngay (ngày) mà túi (tối) còn đi nựa

(nữa) thì chết chắc.

- Đo tức là đó trong tiếng Việt toàn dân. Đo được người nghệ Tĩnh sử dụng

trong phát ngôn thông báo với sắc thái thân mật và suồng sã.

(190). Sp1: Thông báo với mi tin vui là tháng ni (này) chủ trọ bớt cho mỗi phòng

100 k (nghìn) tiền phòng đo.

Sp2: Thật không đo (đó)? Bà Lam là khu đỉn (keo kiệt) nhất mừ (mà).

Khi thông báo, nếu như TTTT trong tiếng Việt toàn dân được sử dụng trong giao

tiếp quy thức và phi quy thức thì TTTT địa phương lại chỉ được người Nghệ sử dụng

trong giao tiếp phi quy thức.

Việc sử dụng nhiều tiểu từ tình thái ở cuối phát ngôn thông báo cho thấy bên

cạnh việc cung cấp thông tin, người Nghệ Tĩnh còn chú ý bộc lộ thái độ, cách đánh giá

của mình về nội dung P, đồng thời thể hiện thái độ, tình cảm đối với người nghe. Việc

sử dụng tiểu từ tình thái ở cuối phát ngôn thông báo có khả năng làm tăng sắc thái

khẳng định cho hành động thông báo. Những tình thái từ này xuất hiện thường xuyên

bên cạnh nội dung mệnh đề trong BTNV khiến cho tham thoại trao chứa hành động

thông báo có tính hướng đến người đối thoại một cách hiển nhiên. Và đặt trong ngữ

cảnh, các tình thái từ này cũng là một IFIDs để nhận diện BTNV thông báo, đặc biệt là

dạng nguyên cấp (không có ĐTNV).

Như vậy, tiểu từ tình thái được sử dụng trong các tham thoại chứa hành động của

người Nghệ Tĩnh khá đa dạng; trong đó, đáng chú ý là những tiểu từ tình thái chỉ được

dùng ở phương ngữ Nghệ Tĩnh như nả, nạ, nì, đo. Ngoài ra, các tiểu từ thuộc tiếng Việt

toàn dân và phương ngữ khác cũng đươc người Nghệ Tĩnh sử dụng với một sắc thái

riêng. Những tình thái từ này góp phần tạo nên nét gần gũi, mộc mạc bình dân, đôi khi

còn có phần suồng sã, bỗ bã của người Nghệ Tĩnh khi thực hiện hành động thông báo.

134

4.2.3. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói bộc lộ tình cảm, gây sự chú ý tới người nghe

Để tăng hiệu quả, khi thực hiện hành động thông báo đặc biệt là thông báo các

nội dung riêng tư thuộc về cá nhân trong đời sống thường nhật, người Nghệ Tĩnh thường

sử dụng các từ ngữ nhằm nhấn mạnh, tô đậm sự đánh giá ý nghĩa tích cực/ tiêu cực của

Sp1 về nội dung thông báo cũng như thu hút triệt để sự quan tâm chú ý của người nghe.

Việc xuất hiện các từ ngữ nhấn mạnh, có tính chất gia tăng về mức độ trong phát ngôn

thông báo cho thấy nét văn hóa của người Nghệ Tĩnh trong sử dụng ngôn ngữ. Đó là

cách nói rốt ráo, nói đến tận cùng những cảm nhận của mình. Dường như với người

Nghệ, nói như thế mới đã, mới gây ấn tượng, mới thu hút sự chú ý của người đối thoại.

Điều này xuất phát từ nét văn hoá bộc lộ tình cảm, cảm xúc nghiêng về mức độ “quá”,

“thái quá” của người Nghệ Tĩnh. Cách nói gây chú ý ở người nghe trong cặp thoại thông

báo - hồi đáp của người Nghệ Tĩnh được biểu hiện ở các phương diện sau:

4.2.3.1. Sử dụng yếu tố có tính chất ngăn ngừa phản ứng tâm lí nghiêng về mức

độ “quá”, “thái quá” của người Nghệ Tĩnh

Trong 1210 tham thoại thông báo, yếu tố dạng này được người Nghệ Tĩnh sử

dụng 96 lần, chiếm 7,93%. Chúng tôi nhận thấy, yếu tố có tính chất ngăn ngừa phản

ứng tâm lí nghiêng về mức độ “quá”, “thái quá” chỉ được người Nghệ Tĩnh sử dụng ở

lời trao. Nó có thể đứng ngay trước nội dung (P) hoặc đứng trước BTNV thông báo. Khi

thực hiện hành động thông báo, người Nghệ Tĩnh sử dụng yếu tố này với hai mục đích:

1) Tránh những phản ứng tâm lí tiêu cực từ phía người nghe (quá vui/ quá buồn…); 2)

Thể hiện sự quan tâm, chia sẻ của người nói đối với người nghe về các sự kiện, sự tình

thuộc về người nghe hoặc có liên quan tới người nghe.

Yếu tố có tính chất ngăn ngừa phản ứng tâm lí nghiêng về mức độ “quá”, “thái

quá” trong tham thoại chứa hành động thông báo của người Nghệ Tĩnh thường được

cấu tạo theo kiểu: nghe xong B đừng buồn/ giận…; nghe xong B đừng vui/ phấn

khích/…hoá rồ/ điên…

(191). Sp1: Ả (chị) ơi, cậu thông báo với ả tin ni ả nghe xong đừng buồn ả

nghe, ả nỏ (không) được về hiu (hưu) theo Nghị định 108 mô (đâu),

trường ả cũng nỏ (không) được ai cả.

Sp2: Vô lí cậu hè (nhỉ). Ả (chị) thấy hồ sơ của ả đủ tận răng rồi mà. Cậu

lên cậu coi (xem) lại cho ả coi (xem) vì răng (sao) mà nỏ (không) được

cậu nghe.

135

(192). Sp1: Mẹ ơi, mẹ nghe xong đừng chưởi (chửi) con đo (đó), con thông

báo với mẹ là hết tháng ni con nghỉ việc ở Hà Nội để vô (vào) Sài Gòn

mần (làm) mẹ ạ.

Sp2: Mi có bị chi (bị gì) không rứa (thế)? Công ty nớ (ấy) trả lương cao

như rứa (như thế) mi còn đòi chi nựa (gì nữa), chạy vô (vào) Sài Gòn

mần chi (làm gì) cho xa xôi rứa (thế) con hè (con ơi).

(193). Sp1: Tau thông báo với mi tin ni, mi nghe xong đừng có mà vui quá hóa

rồ nghe chưa, túi thứ 7 ni Mít tơ (Mr) Đàm về Vinh biểu diện (biểu diễn),

quán cà phê chộ (chỗ) giao nhau giửa (giữa) Lê Hồng Phong với Minh

Khai đo (đó). Lo mua vé sớm đi khôông (không) là hết nì (này).

Sp2: Trời đất ơi! Chi chơ (gì chứ) anh Đàm về thì sôống (sống) chết chi

(gì) tau (tao) cụng (cũng) phẩy (phải) đi mi (mày) ơi.

Ở ví dụ (191), (192), Sp1 cho rằng sự tình mà mình thông báo là tiêu cực,

không như mong đợi của Sp2 (không được nghỉ hưu theo Nghị định 108)/ chuyển vào

Sài Gòn làm việc). Do đó, người nghe dễ có những phản ứng tâm lí tiêu cực trên mức

bình thường. Lường trước điều này, Sp1 đã dùng yếu tố: “ả nghe xong đừng buồn ả

nghe/ mẹ nghe xong đừng chưởi (chửi) con đo (đó)” như một yếu tố “giảm xóc” nhằm

hạn chế những phản ứng tâm lí không tốt ở Sp2.

Còn ở ví dụ (193), mặc dù thông tin mà Sp1 cung cấp là tin vui đối với Sp2 (ca

sĩ Đàm Vĩnh Hưng, thần tượng của Sp2 về Vinh biểu diễn) nhưng Sp1 nghĩ rằng khi

nhận được tin này Sp2 sẽ quá vui mà dễ dẫn đến những phản ứng tâm lí thái quá. Vì

vậy, Sp1 đã sử dụng yếu tố “mi nghe xong đừng có mà vui quá hóa rồ nghe chưa” để

ngăn chặn phản ứng “quá”, “thái quá” về mặt tâm lí “vui quá hoá rồ” (thành ngữ ẩn dụ

hoá chỉ người không tự chủ được như người rồ) của Sp2.

Người trả lời sử dụng các hành động để phản bác cũng nghiêng về mức độ “thái

quá” để đáp lại nội dung thông tin do Sp1 cung cấp. Ở ví dụ (192), mặc dù Sp1 đã dùng

rào đón để ngăn chặn phản ứng “quá” của Sp2 nhưng Sp2 vẫn đáp lại bằng hành động

hỏi “Mi có bị chi (bị gì) không rứa (thế)?” (bị tâm thần/ bị thần kinh) để chửi Sp1 của

mình. Hành động này cho thấy sự rất không đồng tình của Sp2 với sự tình Sp1 cung cấp.

Còn ở ví dụ (193), Sp1 đã dùng yếu tố để tránh phản ứng tâm lí thái quá “vui quá hoá

rồ” của Sp2 nhưng Sp2 vẫn cho thấy tâm lí “hoá rồ” của mình khi nhận được tin tức từ

136

Sp1. Phản ứng tâm lí “quá” này đã được Sp1 thể hiện bằng lối nói ẩn dụ hoá “sôống

(sống) chết chi (gì) tau (tao) cụng (cũng) phẩy (phải) đi” tức dù sống hay chết cũng đi

xem Đàm Vĩnh Hưng biểu diễn. Đây là cách đáp lại hành động thông báo của Sp1 bằng

hành động khẳng định ở mức độ cao của Sp2 đối với sự tình nhận được.

Như vậy, việc sử dụng các yếu tố có tính chất ngăn ngừa phản ứng tâm lí

nghiêng về mức độ “quá”, “thái quá” trong lời trao của Sp1 và tham thoại hồi đáp của

Sp2 khi thực hiện cặp thoại tương tác thông báo - hồi đáp là cách người Nghệ Tĩnh thể

hiện nét văn hoá bộc lộ cảm xúc nghiêng vê mức độ “quá”, “thái quá” của mình.

4.2.3.2. Sử dụng cách thức lặp

Người Nghệ Tĩnh còn sử dụng các từ ngữ lặp lại để biểu hiện cảm xúc nghiêng

về “quá”, “thái quá”. Theo khảo sát của chúng tôi, yếu tố này xuất hiện 51 lần, bằng

cách: lặp lại cách gọi đối tượng Sp2; lặp lại động từ ngữ vi; lặp lại từ chỉ mức độ/ hiệu

lực của nội dung thông tin hay trạng thái cảm xúc con người.

a. Lặp lại cách gọi đối tượng Sp2: Yếu tố lặp lại là các biểu thức hô gọi.

Về cấu tạo, biểu thức hô gọi được cấu tạo từ một từ: danh từ thân tộc/ danh từ

riêng (Lan, chị…); tình thái từ (này) hoặc tổ hợp từ: danh từ thân tộc + ơi/ danh từ

riêng + ơi (Lan ơi, chị ơi).

Về vị trí: Các biểu thức hô gọi được lặp lại thường đứng trước BTNV thông

báo; nhưng đôi khi chúng đứng sau hoặc xuất hiện cả trước và sau BTNV thông báo.

Cách thức lặp lại cách gọi đối tượng Sp2 chỉ xuất hiện ở tham thoại trao trong

cặp thoại thông báo - hồi đáp. Sp1 sử dụng cách thức lặp này với mục đích nhấn mạnh,

thu hút triệt để sự chú ý của người nghe vào sự tình mà mình sắp thông báo.

(194). Sp1: Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi, thông báo với mẹ một tin trên cả tuyệt vời con

tốt nghiệp loại xuất sắc đó, điểm tổng những 3 chấm 84 mẹ ơi. Con vui

quá là vui luôn.

Sp2: Mẹ chúc mừng con gái. Quá tuyệt vời con ơi.

(195). Sp1: Thảo, Thảo, Thảo, tin nóng hổi đây: mi (mày) có tên trong danh

sách của sinh viên Khoa ta được đề nghị lên Đoàn trường xét kết nạp

đảng đợt 1 ni (này) đó, tau vừa đi họp về xong nên chạy ngay về thông

báo với mi luôn nè (này). Vui chi (chứ)?

Sp2: Thật thế hả mi (mày)? Cảm ơn mi (mày) nhiều.

137

(196). Sp1: Vợ ơi, thông báo với vợ tin vui là chồng có quyết định chuyển về

công an thành phố Vinh rồi, bắt đầu đi làm từ thứ hai tuần sau vợ ơi.

Sp2: Tốt quá rồi chồng ơi. Nỏ chi (không gì) bằng làm gin (gần) nhà

chồng ạ.

Ở ví dụ (194), biểu thức hô gọi được cấu tạo là tổ hợp gồm danh từ thân tộc +

ơi, đứng trước BTNV thông báo. Khả năng thu hút sự tập trung chú ý của Sp2 vào sự

tình Sp1 thông báo được gia tăng tối đa nhờ việc Sp1 sử dụng lặp lại biểu thức hô gọi

“mẹ ơi” đến 3 lần. Ở ví dụ (195), biểu thức hô gọi được lặp lại 3 lần, là danh từ riêng

và đứng trước biểu thức ngữ vi, còn ở ví dụ (196), biểu thức hô gọi được lặp lại 2 lần,

đứng trước và đứng sau biểu thức ngữ vi thông báo.

b. Lặp lại động từ ngữ vi “thông báo”

Trong BTNV thông báo, động từ ngữ vi “thông báo” là thành tố quan trọng

nhất giúp nhận diện BTNV thông báo tường minh. Một điều rất lí thú khi chúng tôi

khảo sát cặp thoại tương tác thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

đó là việc xuất hiện hiện tượng lặp lại động từ ngữ vi “thông báo”. Việc lặp lại động từ

ngữ vi thông báo nhiều lần cũng là một cách nhấn mạnh sự xuất hiện của hành động

thông báo, đặc biệt tập trung sự chú ý của người nghe vào thành tố nội dung mệnh đề

đi sau động từ thông báo.

(197a). Sp1: Thông báo: túi ni (tối nay) 7 giờ tụ tập ở cà phê Điện ảnh nhá,

thằng Tùng giới thiệu ngài yêu.

Sp2: Thật không rứa bây? Thằng Hùng cụng (cũng) có ngài (người) yêu

cơ á (cơ à). Tau (tao) tưởng là hấn ế toàn tập chơ (chứ). (cười)

(197b). Sp1: Thông báo, thông báo, thông báo: túi ni (tối nay) 7 giờ tụ tập ở cà

phê Điện ảnh nhá, thằng Tùng giới thiệu ngài yêu.

Sp2: Thật không rứa bây? Thằng Hùng cụng (cũng) có ngài (người) yêu

cơ á (cơ à). Tau (tao) tưởng là hấn ế toàn tập chơ (chứ). (cười)

So sánh ví dụ (197a) và (197b), ta thấy khả năng nhấn mạnh, thu hút sự chú ý

của Sp2 vào nội dung thông báo ở (197b) rõ ràng hơn hẳn nhiều lần so với (197a) nhờ

việc Sp1 sử dụng cách thức lặp lại động từ ngữ vi “thông báo” đến 3 lần.

138

c. Lặp lại từ ngữ chỉ mức độ/ hiệu lực của nội dung thông tin hoặc trạng thái

cảm xúc của con người

Để tăng hiệu quả thông báo, trong các BTNV thông báo, người Nghệ Tĩnh còn

sử dụng cách thức lặp lại các từ chỉ mức độ/ hiệu lực nhằm nhấn mạnh, tô đậm ý nghĩa

đánh giá tích cực/ tiêu cực của thông tin đồng thời cho thấy cách bộc lộ tình cảm, cảm

xúc nghiêng về mức độ “quá”, “thái quá” của mình. Các yếu tố lặp lại dạng này

thường được cấu tạo gồm một từ hoặc tổ hợp từ, bao gồm: lặp lại phụ từ chỉ mức độ;

lặp lại tính từ chỉ hiệu lực, tính chất thông tin hoặc động từ chỉ trạng thái cảm xúc con

người và lặp lại tổ hợp phụ từ chỉ mức độ + tính từ chỉ hiệu lực, tính chất thông tin

hoặc động từ chỉ trạng thái cảm xúc con người.

Nếu là từ (từ đơn/ từ ghép), chúng do các tính từ chỉ tính chất (nóng, hót,

khẩn…); các động từ chỉ trạng thái tình cảm, cảm xúc của con người (vui/ mừng…) hay

các phụ từ chỉ mức độ (cực/ rất/ rành…) đảm nhiệm. Nếu là tổ hợp từ, chúng gồm động

từ/ tính từ và phụ từ chỉ mức độ (mừng quá/ vui quá…) đảm nhiệm. Cách thức lặp lại

các từ chỉ mức độ/ hiệu lực của thông tin được cả người trao và người đáp sử dụng.

(198). Sp1: Thông báo với mi (mày) tin vui vui vui là tau (tao) chuẩn bị có xe

mới rùi, cuối tuần nì lấy, quà sinh nhật của ma ma tổng quản (mẹ) nhà

tau (tao) đó.

Sp2: Sướng nhất mi (mày), được mẹ chiều thôi rồi.

(199). Sp1: Mẹ ơi, có tin cực cực vui thông báo cho mẹ đây: con đỗ công chức

rồi mẹ ơi.

Sp2: Thật rứa (thế) hả con? Mẹ mừng quá, mừng quá con ơi.

Ở ví dụ (198) yếu tố lặp lại là động từ chỉ tính chất của thông tin “tin vui” được

lặp lại 3 lần “vui vui vui”. Còn ở ví dụ (199), yếu tố lặp lại xuất hiện ở cả tham thoại

trao và đáp: tham thoại trao lặp lại 2 lần phụ từ chỉ mức độ “cực” (cực cực vui); tham

thoại đáp lặp lại tổ hợp từ bộc lộ tình cảm cảm xúc “mừng” trên mức bình thường của

người nghe khi tiếp nhận thông tin (mừng quá, mừng quá).

Trong một vài trường hợp người Nghệ Tĩnh còn phối hợp sử dụng các kiểu lặp

nhằm gia tăng tối đa hiệu quả thông báo trong cặp thoại tương tác thông báo - hồi đáp.

Chẳng hạn:

139

(200). Sp1: Thông báo, thông báo: em Hải cuối tháng ni về quê mần việc nha

(làm việc).

Sp2: Vui, vui, vui, hội độc thân lại có thêm thành viên mới.

Ví dụ (200), người Nghệ Tĩnh sử dụng đồng thời cả hai kiểu lặp: lặp động từ

ngữ vi ở tham thoại trao và lặp từ ngữ chỉ trạng thái cảm xúc của con người ở tham

thoại đáp.

Như vậy, việc sử dụng các yếu tố lặp: lặp lại đối tượng thông báo Sp2, lặp lại

động từ ngữ vi, lặp lại các từ ngữ chỉ mức độ/ hiệu lực của nội dung thông tin/ trạng

thái cảm xúc con người nhằm mục đích thu hút triệt để sự chú ý của người nghe, gia

tăng hiệu quả giao tiếp khi thực hiện cặp thoại thông báo - hồi đáp cũng là cách người

Nghệ Tĩnh thể hiện nét văn hoá bộc lộ tình cảm, cảm xúc nghiêng về mức độ “quá”,

“thái quá” của mình.

4.2.3.3. Dùng phụ từ chỉ mức độ đứng trước hoặc sau tính từ/ động từ chỉ tính

chất thông tin hoặc trạng thái cảm xúc con người

Thống kê cho thấy, trong 1210 cặp thoại thông báo - hồi đáp được khảo sát thì

xuất hiện 88 trường hợp người Nghệ Tĩnh sử dụng các phụ từ chỉ mức độ cao.

Trong ngữ liệu, các phụ từ biểu thị mức độ cao được dùng trong cặp thoại thông

báo - hồi đáp là: rất, lắm, quá, vô cùng, cực, cực kì và hai phụ từ thuộc phương ngữ Nghệ

Tĩnh rành và chi chi. Rành cũng giống rất trong tiếng Việt toàn dân nhưng ý nghĩa mức

độ được nhấn mạnh hơn, còn chi chi trong trường hợp này không phải là gì như trong

tiếng Việt toàn dân mà giống với quá/ lắm nhưng đậm sắc thái địa phương Nghệ Tĩnh

(chẳng hạn Người Nghệ nói “mừng chi chi” có nghĩa là mừng quá/ mừng lắm). Ngoài ra,

cách biểu thị mức độ cao trong hành động thông báo của người Nghệ Tĩnh còn có thể là

những ngữ đoạn dùng yếu tố tình thái như rất chi là A, rất rất chi là A, A ơi là A, A quá là

A, A chi mà A rứa… Các yếu tố này được cả người nói và người nghe sử dụng.

(201). Sp1: Tin cực hot Hiếu ơi, con Trang lớp bây (chúng mày) chuẩn bị theo

chồng bỏ cuộc chơi rồi đo (đó), thông báo cho mi (mày) biết để bỏ nhợn

(lợn) dần mà đi cưới nha.

Sp2: Mi nói rờ rờ rận rận (nói lung tung), hấn (hắn) cưới tau (tao) phẩy

biết đầu tiên chơ (chứ).

140

(202). Sp1: Hồng ơi, thông báo với mi tin ni sốt dẻo lắm luôn nì: năm ni xạ (xã)

ta có tổ chức trao phần thưởng cho học sinh giỏi, học sinh độ (đỗ) cao

đẳng, đại học trong năm đó, mi sướng nhứt (nhất) năm đầu tiên đọ (đó),

tết ni nhận xong nhớ chia sẻ tau với đó (cười).

Sp2: Chà, xạ ta (xã ta) năm ni (nay) tiến bộ ghê hè (ghê nhỉ), rành vui đó.

(203). Sp1: Thông báo với vợ một tin vô cùng vui luôn: sáng ni chồng nhận

quyết định lên làm Trưởng phòng giao dịch Việt com (Vietcombank) ở

Thái Hòa rồi.

Sp2: Một tin trên cả tuyệt vời chồng ơi, chúc mừng chồng của vợ.

(204). Sp1: Có tin vui ơi là vui thông báo mi đây: tau chuẩn bị được về mần

(làm) việc cùng với mi rồi đọ (đó), ngày mốt bắt đầu nì.

Sp2: Đúng là quá vui luôn. Lại có đứa qua chở đi mần (làm) rồi.

(205). Sp1: Này, có tin nóng hổi vừa thổi vừa thổi vừa ăn thông báo Hiền nì

(này): chồng Trà tháng sau lấy vợ mới đó.

Sp2: Oà, còn chi (gì) vui hơn nựa (nữa) Trà ơi. Cấy ni là Hiền phảy chúc

mừng Trà. Cuối cùng cụng được sống trong yên ổn, sống cho mình.

Ở ví dụ (201), yếu tố chỉ mức độ được sử dụng là “cực + hot”; ví dụ (202) là

“sốt dẻo + lắm” ở lời trao và “rành + vui” ở lời đáp; ví dụ (203) là “vô cùng + vui” ở

vai trao và “trên cả + tuyệt vời” ở vai đáp; ví dụ (104) là ngữ đoạn có chứa yếu tố tình

thái “vui ơi là vui” ở vai trao và “quá + vui” ở vai nhận; ví dụ (205) là ngữ đoạn chứa

yếu tố tình thái “nóng hổi vừa thổi vừa ăn” ở vai trao và “còn chi (gì) vui hơn” ở vai

đáp. Việc sử dụng các từ ngữ chỉ mức độ cho thấy cảm xúc mạnh mẽ của người Nghệ

Tĩnh khi thực hiện hành động thông báo, góp phần tăng hiệu quả thông báo lên cao.

Các yếu tố nhấn mạnh này chủ yếu được người Nghệ Tĩnh dùng trong giao tiếp

phi quy thức, giữa những người bạn, người đồng nghiệp có mối quan hệ vô cùng gần

gũi, thân tình. Nét hấp dẫn và thú vị thể hiện ở chỗ, người Nghệ Tĩnh khi sử dụng các

từ ngữ này luôn có tính gia tăng về mức độ theo sự đánh giá của người nói/ người nghe

về tính chất của thông tin. Chẳng hạn: vui có các mức độ như rất vui, rất rất vui, vui ơi

là vui…; nóng: nóng hổi rồi mức độ cao hơn là tin hót hòn họt, tin cực hót…

(206). Sp1: Thông báo với bà tin hót (hot) là con Phương chuẩn bị lấy chồng

mà thằng chồng hấn (hắn) lại chính là ngài iu của con Nga bạn thân bà.

141

Sp2: Ôi dào, hấn (hắn) lấy được nhông (chồng) thì mừng quá rồi, chơ

(chứ) quan trọng chi (gì) ai. Bựa mô (hôm nào) mời thì đi cười mà không

mời thì thôi.

(207). Sp1: Chị Huệ, chị Huệ, thông báo với chị tin cực hót (nóng) ni nì (này):

trường ta chuẩn bị có hiệu trưởng mới về rồi đọ (đó).

Sp1: Mừng quá em hè (nhỉ). Chờ mại (mãi) rồi đó.

(208). Sp1: Này, này, này, thông báo với mi một tin hót (nóng) ơi là hót (nóng)

đây nì (này), nghe xong đừng có mà ngất xỉu nha: con Loan tuần sau

cưới, mà mi có biết chồng hấn là ai không, là chồng cụ (cũ) của con

Thanh đó.

Sp2: Tin ni (này) tau biết lâu rồi, thời ni (nay) lắm (nhiều) điều bất ngờ

lắm mi ơi.

Ở ví dụ (206), (207), (208) đều sử dụng yếu tố nhấn mạnh hot nhưng rõ ràng

mức độ nhấn mạnh tăng dần từ ví dụ (206) đến (207) và cao nhất là ví dụ (208).

Việc xuất hiện các từ ngữ nhấn mạnh, có tính chất gia tăng về mức độ trong cặp

thoại chứa hành động thông báo (một hành động đòi hỏi tính chính xác và khách quan

cao) một lần nữa cho thấy nét văn hóa của người Nghệ Tĩnh trong sử dụng ngôn ngữ.

Đó là cách bộc lộ tình cảm, cảm xúc nghiêng về mức độ “quá”, “thái quá”.

Nhiều khi trong một cặp thoại thông báo - hồi đáp người Nghệ còn sử dụng

phối hợp các yếu tố rào đón đưa đẩy, lặp, các từ ngữ chỉ mức độ lại với nhau nhằm

biểu hiện đến tận cùng những cảm nhận, cảm xúc của mình. Chẳng hạn, ở ví dụ (208),

người Nghệ đã sử dụng kết hợp cả ba yếu tố: lặp tình thái từ “này” 3 lần, từ ngữ chỉ

mức độ là ngữ đoạn chứa yếu tố tình thái “hot ơi là hot” và yếu tố rào đón “nghe xong

đừng có mà ngất xỉu” trong lời trao nhằm thể hiện cảm xúc nghiêng về “quá” của

người nói đối với sự tình sắp nói ra và đối với người nghe.

4.2.4. Người Nghệ Tĩnh thường sử dụng các từ ngữ còn lưu giữ sắc thái địa

phương cổ

4.2.4.1. Dùng từ ngữ chỉ thời gian

Như chúng tôi đã trình bày, hành động ngôn ngữ thông báo, trong nội dung thông

báo bao giờ cũng có yếu tố chỉ thời gian. Yếu tố chỉ thời gian này nhằm tăng độ chính xác

và sự tin tưởng ở người nghe về các sự tình được người nói thông báo. Bên cạnh việc sử

142

dụng các từ ngữ chỉ thời gian trong ngôn ngữ toàn dân (ngày, hôm) thường dùng trong

giao tiếp quy thức, người Nghệ Tĩnh còn dùng các từ ngữ chỉ thời gian đậm sắc thái địa

phương khi thông báo các nội dung trong đời sống hằng ngày, không mang tính quy thức.

Đó là các từ ngữ: bựa ni, bựa mai, bựa mốt, mốt tê, mốt tề, mốt tệ…

Theo Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh:

- Bựa d. Hôm, ngày, buổi, lần.

Bựa mai d. ngày mai, hôm mai. Bựa mai tui đi cày (ngày mai tôi đi cày).

Bựa mốt d. Ngày kia, hôm kia. Bựa mốt ông bà ngoại vô (Ngày kia ông bà ngoại vô).

Bựa ni d. Hôm nay.

[7, tr. 50, 51]

- Mốt d. ngày kia

Mốt tê d. Chỉ thờ gian trong ngày, sau ngày kia

Mốt tề d. Chỉ thời gian trong ngày của ngày thứ năm trong tương lai (sau mốt tệ)

Mốt tệ d. Chỉ thời gian trong ngày của ngày thứ tư trong tương lai (trước mốt tề)

[7, tr. 258]

Những từ ngữ chỉ thời gian này thường được người Nghệ Tĩnh sống ở những vùng

nông xa trung tâm sử dụng khi thực hiện hành động thông báo. Có thể nói cách sử dụng

thời gian trên nằm ngay trong tâm thức người Nghệ. Đó là một biểu hiện của nền văn

hoá lúa nước, sống gần gũi, hoà hợp với thiên nhiên (bựa/ bữa phải chăng liên quan đến

bựa ăn/ bựa cơm (bữa ăn, bữa cơm) trong đời sống hằng ngày của người Nghệ). Nó cho

thấy sự độc đáo trong tâm thức của người Nghệ trong sự nhìn nhận hiện thực.

(209). Sp1: Ả chắt ơi, sáng bựa mai (ngày mai) phụ nự (phụ nữ) xóm ta dọn vệ

sinh đàng xá (đường sá) quanh xóm để chào mờng(mừng) ngày mùng

(mồng) 2 tháng 9 ả nghe (nhé), mô 6 giờ chi đó (khoảng 6 giờ gì đó) ta

mần (làm).

Sp2: Ày, mai tui ra (Ừ. Mai tôi ra).

(210). Sp1: Ung Thân ơi, thông báo với ung là mốt tê xạ ta đánh vực ung

nghe. Lôi nơm, lôi vó ra coi có hư hỏng chi không rồi bựa nớ ta đi hè.

(ông Thân ơi, thông báo với ông là ngày kia xã ta đánh vực. Đưa nơm,

đưa vó ra xem có hư hỏng gì không rồi hôm ấy ta đi nhỉ.

Sp2: Mội năm được có một lần phải đi chơ ung (Mỗi năm được có một

lần phải đi chứ ông).

143

Ở ví dụ (209), Sp1 dùng từ “sáng bựa mai”; ở ví dụ (210), Sp1 dùng từ “mốt tê”

nhằm thông báo về thời gian diễn ra sự tình cho Sp2 biết để Sp2 chủ động thực hiện.

4.2.4.2. Sử dụng các từ, ngữ cố định, thành ngữ mang đặc trưng phương ngữ

Yếu tố này chủ yếu xuất hiện ở cả vai trao Sp1 và vai đáp Sp2. Đó là cách dùng

từ như: thúi đất thúi cát, mát rọt mát gan, thầm lầm mà đấm chết voi, tròn như vại

nhút, mập như con trùn phân, được mùa con non mùa đồng...

Khi sử dụng ở tham thoại trao, các yếu tố trên giúp người nói nhấn mạnh tính chất

của thông tin, gây sự chú ý ở người nghe; còn khi được dùng ở tham thoại đáp, chúng giúp

bộc lộ thái độ, tình cảm, cách đánh giá của người nghe về nội dung thông báo nhận được.

(211). Sp1: Thông báo với mi là Hương Khê nhà mi mưa thúi đất thúi cát

(thối đất thối cát), nhà cựa (cửa), đường sá chi (gì) cụng (cũng) ngập

hết rồi.

Sp2: Ầy, tau cụng (cũng) nghe mẹ gọi điện thông báo rồi. Chán rứa

(thế) chơ (chứ), 3 tháng rồi nỏ (không) về nhà.

(212). Sp1: Thông báo, thông báo em Liên xinh đẹp chuẩn bị chuyển đến xóm

trọ ta mi ơi. Rứa là suốt ngay (cả ngày) tau được ngắm ngài (người) đẹp rồi.

Sp2: Mình tròn như cấy vại nhút mà mi bảo là đẹp. Có lẹ (có lẽ) mắt

mi bị lác rồi.

Thông tin được thông báo trong ví dụ (211) là tin xấu về thời tiết gây ảnh

hưởng về tinh thần cho Sp2. Sp1 đã sử dụng cách nói về thời tiết gần gũi trong đời

sống con người xứ Nghệ “thúi đất thúi cát” (mưa to, mưa lâu) để nhấn mạnh, gây sự

chú ý ở Sp2 về nội dung thông tin để Sp2 nhận thức và có hành động phù hợp.

Còn ở ví dụ (212), tham thoại trao chứa nội dung thông tin về Sp3 “em Liên

xinh đẹp chuẩn bị chuyển đến xóm trọ ta” nhưng có liên quan đến Sp1 và Sp2. Vì

trong nội dung thông báo chứa thành tố cho thấy sự đánh giá của Sp1 về hình thức bên

ngoài của Sp3 (xinh đẹp) nên Sp2 đã đáp lại bằng hành động biểu thị sự không đồng

tình với cách đánh giá của Sp1 qua thành ngữ ẩn dụ hoá “mình tròn như vại nhút”, (lấy

hình dáng vại nhút, vật chỉ có ở Nghệ Tĩnh để chỉ hình dáng của con người vừa thấp

vừa béo; theo Sp2 thấp và béo thì không thể gọi là đẹp được) và hành động giải thích lí

do vì sao có thái độ đó.

Việc sử dụng các từ ngữ chỉ thời gian, các từ, ngữ cố định, thành ngữ mang đặc

trưng phương ngữ khi thực hiện cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp cho

thấy sự mộc mạc, dân giã, gần gũi của người Nghệ Tĩnh trong giao tiếp.

144

4.3. Tiểu kết chương 4

Tìm hiểu nét văn hoá của người Nghệ Tĩnh qua cặp thoại tương tác thông báo -

hồi đáp, chúng tôi rút ra một số kết luận chính:

a. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề. Họ ít khi sử

dụng cách thông báo gián tiếp mà đi thẳng vào vấn đề, không quanh co, vòng vo.

Người nói thì bày tỏ thái độ trực tiếp về nội dung thông báo nhằm gây hiệu lực đến

người nghe và để người nghe chuẩn bị tinh thần tiếp nhận sự tình. Người nghe ngược

lại, cũng trực tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc; thái độ, quan điểm của mình với Sp1 hoặc

với nội dung thông báo nhận được từ Sp1.

b. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói gần gũi, xích gần quan hệ. Nét văn hoá này

được thể hiện chủ yếu qua việc sử dụng từ xưng hô và tiểu từ tình thái. Điểm riêng của

người Nghệ Tĩnh khi sử dụng từ xưng hô trong hành động thông báo là: cách xưng hô

của người Nghệ có tính thân mật hoá cao khi trao đáp; cách xưng hô của người Nghệ

nghiêng về cái chung, cộng đồng; người Nghệ Tĩnh thường sử dụng cách xưng hô xích

gần quan hệ, lấy con làm yếu tố trung tâm khi thực hiện cặp thoại thông báo - hồi đáp;

cách xưng hô của người Nghệ Tĩnh khi thực hiện hành động thông báo rất giàu sắc

thái biểu cảm. Tiểu từ tình thái được sử dụng vừa cho thấy sự thân mật, gần gũi vừa

mộc mạc, bình dân nhiều khi có phần bỗ bã, suồng sã như cách sống của người Nghệ.

c. Người Nghệ Tĩnh ưa cách nói bộc lộ tình cảm, gây sự chú ý đến người nghe.

Họ thường sử dụng các yếu tố ngôn ngữ: có tính chất ngăn ngừa phản ứng tâm lí

nghiêng về mức độ “quá”, “thái quá” ở người nghe; lặp lại cách gọi đối tượng Sp2, lặp

lại động từ ngữ vi, lặp lại từ chỉ mức độ/ hiệu lực của nội dung thông tin; dùng các phụ

từ chỉ mức độ đứng trước hoặc sau từ chỉ tính chất/ trạng thái khi thực hiện hành động

thông báo. Việc xuất hiện các từ này trong cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi

đáp cho thấy nét văn hóa bộc lộ tình cảm, cảm xúc nghiêng về mức độ “quá”, “thái

quá”, nói rốt ráo, nói đến tận cùng những cảm nhận của con người xứ Nghệ.

d. Người Nghệ Tĩnh ưa dùng các từ ngữ còn lưu giữ sắc thái địa phương cổ.

Việc sử dụng các từ ngữ chỉ thời gian; các từ, ngữ cố định, thành ngữ mang đặc

trưng phương ngữ cho thấy sự mộc mạc, dân giã, gần gũi của người Nghệ Tĩnh

trong giao tiếp cũng như sự độc đáo trong cách nhìn nhận hiện thực của con người

xứ Nghệ.

145

KẾT LUẬN

Qua việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra ở đề tài Cặp thoại chứa

hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, chúng tôi rút ra

một số kết luận chính sau:

1. Hội thoại là một phạm trù phổ quát của ngôn ngữ đời sống. Trong hội thoại,

thông qua các hành động ngôn ngữ, mỗi thứ tiếng, mỗi phương ngữ mới có điều kiện

biểu hiện rõ nhất những nét đặc thù của nó về ngữ âm, từ vựng, cú pháp, lối ứng xử,

đặc trưng văn hóa… Các hành động ngôn ngữ được thể hiện ở hội thoại rất phong phú,

trong đó có hành động thông báo và hồi đáp. Hồi đáp lại hành động thông báo như thế

nào cho phù hợp cho thấy thái độ, cách ứng xử của nhân vật giao tiếp trong hội thoại.

Luận án đã chỉ ra rằng, nghiên cứu hành động thông báo và hồi đáp trong sự tương tác

ở các cặp thoại đối ứng là một hướng nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và cần thiết. Và

những điều rút ra từ đó sẽ có sức thuyết phục hơn so với khảo sát từng hành động độc

lập trong chuỗi lời nói.

2. Để có được ngữ liệu cần thiết cho việc triển khai đề tài, chúng tôi đã tiến

hành khảo sát, thu thập các cuộc thoại của người dân hiện đang sinh sống, làm việc ở 2

tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh (gồm các đối tượng từ 17 tuổi trở lên, không phân biệt giới

tính, địa vị xã hội). Luận án tiến hành khảo sát bằng cách ghi âm và ghi chép trực tiếp

từ lời nói sinh động trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ. Nhờ đó, chúng tôi có

được những ngữ liệu đáng tin cậy, là cơ sở cho các luận điểm và kết luận được rút ra

trong các chương sau của luận án. Trong khối lượng lớn và bề bộn các cuộc thoại thu

thập được, chúng tôi đã tách ra để nhận diện 1210 cặp thoại gồm 2420 tham thoại có

chứa hành động thông báo - hồi đáp, theo hướng nghiên cứu mà luận án đã xác định.

Từ việc xây dựng khái niệm hành động thông báo và hồi đáp, với việc sử dụng

các khái niệm công cụ của lí thuyết hành động ngôn ngữ và lí thuyết hội thoại cùng

với hệ thống ngữ liệu thu thập được, luận án đã tiến hành mô tả cấu tạo và ngữ nghĩa

của cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

một cách khá đầy đủ và súc tích.

3. Xét về mô hình cấu tạo, chúng tôi thấy cặp thoại thông báo - hồi đáp trong

giao tiếp của người Nghệ Tĩnh đa dạng, mỗi cặp được tạo nên bởi hai tham thoại trao

146

và đáp. Giữa tham thoại trao và tham thoại đáp có sự liên kết chặt chẽ về mặt hình

thức để tạo nên cặp thoại thông báo - hồi đáp hoàn chỉnh. Trong đó, cấu tạo của tham

thoại hồi đáp luôn chịu sự chi phối của tham thoại trao chứa hành động thông báo.

3.1. Mô hình cấu tạo của tham thoại trao chứa hành động thông báo thường gồm

hai dạng: 1) Tham thoại có hành động thông báo đứng độc lập và 2) Tham thoại có hành

động thông báo và các thành phần phụ đi kèm. Dạng tham thoại thông báo chỉ có hành

động thông báo đứng độc lập có lõi là một BTNV tường minh hoặc nguyên cấp. Mô hình

cấu tạo của BTNV thông báo tường minh đầy đủ gồm 4 thành tố: vai trao (Sp1), ĐTNV

(Đg) “thông báo”, vai nhận (Sp2) và nội dung mệnh đề (P); tùy ngữ cảnh giao tiếp mà Sp1

và Sp2 (hoặc cả Sp1 và Sp2) đều có thể bị tỉnh lược. Nội dung mệnh đề P trong BTNV

thông báo tường minh được cấu tạo gồm hai thành tố: X và V. Trong đó, X là là chủ thể

trong nội dung mệnh đề thông báo do người nói đưa ra, X có thể là Sp1, Sp2 hoặc đối

tượng nằm ngoài Sp1, Sp2 (Sp3) nhưng cả Sp1 và Sp2 đều biết và có liên quan; V là

thành phần (từ, cụm từ) biểu thị nội dung thông báo. Mô hình cấu tạo của tham thoại trao

chứa BTNV thông báo nguyên cấp ứng với thành tố nội dung mệnh đề trong BTNV thông

báo tường minh. Dạng tham thoại có hành động thông báo và các thành phần phụ đi kèm

được chúng tôi mô tả là sự mở rộng của biểu thức ngữ vi thông báo bao gồm: tham thoại

thông báo có một thành phần phụ và tham thoại thông báo có nhiều thành phần phụ đi

kèm. Các thành phần phụ đáng chú ý nhất là: thành phần phụ có chức năng chú thích, bổ

sung, làm rõ hơn thông tin trong nội dung thông báo; thành phần phụ có chức năng dẫn

nhập, thu hút sự tập trung, chú ý của người nghe vào nội dung thông báo và thành phần

phụ là các biểu thức biểu thị tình thái.

3.2. Tham thoại hồi đáp cho tham thoại trao chứa hành động thông báo có thể

được cấu tạo từ một hành động hoặc nhiều hành động. Các dạng hồi đáp này được

biểu hiện bằng nhiều hành động như: đồng tình, đồng ý, chúc mừng, khen, bộc lộ,

nhận xét đánh giá, đề nghị… Mỗi dạng hồi đáp đều có những vai trò, chức năng nhất

định trong tham thoại hồi đáp cho hành động thông báo. Tham thoại trao thông báo

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh nhận được những phản hồi rất đa dạng và tạo nên

những cặp thoại như: thông báo - cảm ơn; thông báo - chúc mừng; thông báo - khen;

thông báo - đồng tình; thông báo - bộc lộ; thông báo - chúc mừng + giải thích; thông

báo - đồng tình + cảm ơn; thông báo - đồng ý + cảm ơn + hứa; thông báo + chúc mừng

147

+ giải thích + đề nghị… Đối với phát ngôn hồi đáp chỉ có một hành động thì đương

nhiên hành động đó sẽ trả lời trực tiếp vào đích của tham thoại trao chứa hành động

thông báo. Chúng thường phản ánh thái độ, cách đánh giá của người nghe đối với sự

việc được người nói thông báo. Còn trong tham thoại hồi đáp gồm nhiều hành động thì

mức độ và sự liên kết giữa các hành động để hướng về đích hồi đáp cho hành động

thông báo là không giống nhau. Trong một số tham thoại, các hành động thông báo có

quan hệ khá độc lập, riêng rẽ với nhau.

4. Trong ngôn ngữ, một dạng thức cấu tạo nào đó bao giờ cũng biểu đạt một ý

nghĩa nhất định. Các cặp thoại thông báo - hồi đáp không phải là ngoại lệ.

4.1. Về các nhân tố chi phối đặc điểm ngữ nghĩa hành động thông báo, chúng

tôi xác định gồm có quan hệ liên nhân, ngữ cảnh và trạng thái tâm lý của người thông

báo và người nhận thông báo. Qua các nhân tố này, chúng tôi nhận thấy tần số xuất

hiện và khả năng hành chức của hành động thông báo trong các quan hệ vai thông báo,

vai tiếp lời có vị thế, tuổi tác, giới tính khác nhau biểu hiện mức độ ít nhiều, đậm nhạt

khác nhau. Quan hệ thân cận được xét trên hai phương diện: giới tính và vị thế, thứ

bậc, tuổi tác. Tương ứng với mỗi kiểu quan hệ, ngữ cảnh, trạng thái tâm lí, người Nghệ

Tĩnh có cách sử dụng từ xưng hô, kiểu cấu tạo và lựa chọn nội dung thông báo phù hợp.

4.2. Về phương diện ngữ nghĩa, tham thoại trao chứa hành động thông báo rất

đa dạng. Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chúng tôi đã xếp hành động thông báo vào

các nhóm ngữ nghĩa khác nhau. Theo tiêu chí chủ thể của nội dung thông tin, ngữ

nghĩa của hành động thông báo gồm 3 nhóm: các thông tin thuộc về Sp1, các thông tin

thuộc về Sp2 và các thông tin thuộc về cả Sp1 và Sp2. Theo tiêu chí tính chất của

thông tin, ngữ nghĩa của hành động thông báo gồm hai nhóm: các thông tin mang tính

tích cực và các thông tin mang tính tiêu cực. Theo tiêu chí đề tài, ngữ nghĩa của hành

động thông báo cũng gồm hai nhóm: các thông tin mang tính hành chính công vụ và

các thông tin về đời sống thường nhật.

4.3. Về ngữ nghĩa của hành động hồi đáp đặt trong sự tương tác với hành động

thông báo, có thể chia ngữ nghĩa của hành động hồi đáp trong giao tiếp của người

Nghệ Tĩnh thành 4 nhóm: Hồi đáp thể hiện cảm xúc, cách ứng xử của Sp2; hồi đáp thể

hiện thái độ đồng tình; hồi đáp thể hiện thái độ phủ định, bác bỏ, không đồng tình và

hồi đáp thể hiện thái độ ngờ vực, không tin tưởng. Trong đó người Nghệ Tĩnh chủ yếu

148

sử dụng hai dạng hồi đáp: đồng tình và bộc lộ cảm xúc, cách ứng xử để đáp lại tham

thoại trao thông báo.

5. Cặp thoại thông báo - hồi đáp trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh bị chi

phối mạnh mẽ bởi đặc điểm tư duy, thói quen, nếp sống, cách ứng xử của con người

xứ Nghệ. Những đặc trưng văn hoá ngôn từ của người Nghệ Tĩnh khi hiện thực hoá

hành động thông báo được thể hiện ở những điểm sau: 1) người Nghệ ưa lối nói trực

tiếp, đi thẳng vào vấn đề; 2) người Nghệ ưa cách nói gần gũi, xích gần quan hệ; 3)

người Nghệ ưa cách nói nghiêng về mức độ “quá”, gây sự chú ý tới người nghe; 4)

người Nghệ Tĩnh ưa sử dụng các từ ngữ còn lưu giữ sắc thái địa phương cổ.

Những luận điểm được trình bày trên đây được chúng tôi rút ra từ sự phân tích ngữ

liệu đã thu thập được trong thực tế điều tra điền dã. Đó dĩ nhiên là kết quả của một điểm

nhìn trong nghiên cứu. Để hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn các khía cạnh trong phương ngữ

Nghệ Tĩnh cũng như bản sắc văn hóa của cư dân nơi đây thể hiện trong giao tiếp, đòi hỏi

phải hướng tới nhiều nội dung phong phú khác. Hy vọng chúng ta sẽ được tiếp xúc với

những vấn đề ấy trong các công trình nghiên cứu về phương ngữ trong tương lai.

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Thị Ly Na (2015), “Bước đầu tìm hiểu cấu trúc hành động thông báo trong

giao tiếp trường học”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, Tập 44, số 1B.

2. Trần Thị Ly Na (2017), “Xưng hô giữa vợ và chồng trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

thể hiện qua hành động ngôn ngữ thông báo”, Kỉ yếu Hội thảo ngữ học Toàn quốc

2017, Nxb Dân trí, Hà Nội.

3. Trần Thị Ly Na (2019), “Vài nét văn hoá của người Nghệ Tĩnh thể hiện qua từ xưng hô

khi thực hiện hành động ngôn ngữ thông báo”, Kỉ yếu Hội thảo ngữ học Toàn quốc

2019, Nxb Dân trí, Hà Nội.

4. Trần Thị Ly Na (2019), “Hành động thông báo trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh”,

Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10.

5. Trần Thị Ly Na (2019), “Các thành phần phụ trong tham thoại thông báo”, Tạp chí

Ngôn ngữ, số 10.

150

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Bằng tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Vân Anh (2001), Cặp thoại thỉnh cầu (xin) trong sự kiện lời nói

thỉnh cầu, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

3. Diệp Quang Ban (2001), “Ứng dụng cách dùng dụng học vào việc giải thích một

số yếu tố có mặt trong câu - phát ngôn”, Ngôn ngữ, số 7.

4. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

6. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học (sơ khảo), Nxb Giáo dục.

7. Nguyễn Nhã Bản (chủ biên) (1999), Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh, Nxb

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

8. Nguyễn Nhã Bản (2001), Bản sắc văn hóa của người Nghệ Tĩnh, Nxb Nghệ An,

Nghệ An.

9. Chử Thị Bích (2008), Cấu trúc của sự kiện lời nói cho, tặng trong tiếng Việt,

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

10. Brown và Yule (1983), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuật dịch, 2002), Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

11. Hoàng Trọng Canh (2009), Từ địa phương Nghệ Tĩnh - về một số khía cạnh ngôn

ngữ văn hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

12. Nguyễn Huy Cẩn (chủ biên) (2002), Ngôn ngữ văn hoá giao tiếp, Nxb Thông tin

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Huy Cẩn (chủ biên) (2005), Việt ngữ học dưới ánh sáng các lý thuyết

hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

14. Chafe W. L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Đỗ Hữu Châu (2000), Tìm hiểu văn hoá qua ngôn ngữ, Ngôn ngữ, số 10.

16. Đỗ Hữu Châu (2002), Cơ sở ngữ dụng học, tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

17. Đỗ Hữu Châu (2003), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 (Tái bản lần thứ nhất),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Đỗ Hữu Châu (Đỗ Việt Hùng tuyển chọn và giới thiệu) (2005), Đỗ Hữu Châu

tuyển tập, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

151

19. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

20. Hoàng Thị Châu (2009), Phương ngữ học tiếng Việt (in lần thứ hai), Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Khánh Chi (2017), Chiến lược rào đón và nghĩa liên nhân của hành

động rào đón trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học Vinh.

22. Nguyễn Phương Chi (2004), Một số đặc điểm ngôn ngữ văn hoá ứng xử của

hành vi từ chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với tiếng Anh), Luận án Tiến sĩ

Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt (nghiên cứu dụng học và

dân tộc học giao tiếp), Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.

24. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2000), Cơ sở ngôn ngữ

học và tiếng Việt (tái bản lần 3), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh

Toán (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26. Nguyễn Hồng Cổn, “Bàn thêm về cấu trúc thông báo của câu tiếng Việt”, Ngôn

ngữ, số 5.

27. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy ngẫm)”, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

28. Trần Văn Cơ (2009), Ẩn dụ tri nhận (Khảo luận), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

29. David Lee (2016), Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận (Người dịch: Nguyễn Văn Hiệp,

Nguyễn Hoàng An), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

30. Nguyễn Đức Dân (1987), Logic - Ngữ nghĩa - Cú pháp, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

31. Nguyễn Đức Dân (1998), Logic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Trương Thị Diễm (2002), Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc trong giao

tiếp tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

34. Dik Geeraerts (2004), Các lí thuyết ngữ nghĩa học từ vựng (Phạm Văn Lam dịch),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

35. Nguyễn Thế Dương (2006), Hành động xin lỗi: một phân tích dụng học - văn hóa,

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

152

36. Hữu Đạt (2000), Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

37. Nguyễn Văn Độ (1999), Các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Độ (2004), Tìm hiểu mối liên hệ ngôn ngữ và văn hoá, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

39. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,

Hà Nội.

40. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 41. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. 42. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 43. Nguyễn Thiện Giáp (2006), Những lĩnh vực ứng dụng của Việt ngữ học, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

44. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ

(tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

45. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

46. Nguyễn Thiện Giáp (2014), Phân biệt nghĩa và ý nghĩa trong ngôn ngữ học hiện đại, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 30, Số 3, 1-13.

47. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Nghĩa học Việt ngữ (tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

48. Đinh Thị Hà (1004), Cấu trúc ngữ nghĩa của động từ ngôn ngữ: bàn, tranh luận,

cãi, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

49. Hoàng Thúy Hà (2008), Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp

của người Nghệ Tĩnh, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

50. Halliday M.A.K (2001), Dẫn luận ngữ pháp chức năng (Hoàng Văn Vân dịch),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

51. Cao Xuân Hải (2010), Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn

Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu”, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

52. Nguyễn Thu Hạnh (2005), Hành động ngôn ngữ trách và sự kiện lời nói trách,

Luận án Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

53. Dương Tuyết Hạnh (1999), Cấu trúc của tham thoại, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

153

54. Dương Tuyết Hạnh (2007), Hành vi nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong giao tiếp

bằng tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

55. Phạm Văn Hảo (chủ biên) (2009), Từ điển phương ngữ tiếng Việt, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

56. Cao Xuân Hạo (2006), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng (tái bản lần thứ nhất),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Lê Thị Thu Hoa (1996), Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng nhóm

khen, tặng, chê, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

58. Nguyễn Thị Thái Hoà (1997), Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm động từ nói năng

nhóm bàn, khuyên, ra lệnh, nhờ, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội.

59. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

60. Đỗ Việt Hùng (2011), Nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

61. Đỗ Việt Hùng (2011), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

62. Lương Văn Hy (chủ biên) (2000), Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn

tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

63. Phạm Khiêm Ích (2001), Văn hoá học và văn hoá thế kỉ XX, Viện Thông tin

Khoa học Xã hội.

64. Lương Văn Kế (2007), Thế giới đa chiều, Nxb Thế giới, Hà Nội.

65. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (1996), Ứng xử ngôn ngữ trong giáo tiếp gia đình

người Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

66. Nguyễn Văn Khang (2003), “Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã trong

giao tiếp hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ xã hội ở Việt Nam)”,

Ngôn ngữ, số 1.

67. Nguyễn Văn Khang (2014), Ngôn ngữ học xã hội (tái bản lần thứ nhất),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

68. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ (những khác biệt về từ vựng

ngữ nghĩa giữa phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ), Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

69. Trần Thị Ngọc Lang (chủ biên) (2005), Một số vấn đề về phương ngữ xã hội,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

70. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb Giáo dục.

71. Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

154

72. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

73. Nguyễn Thị Hoài Linh (2003), Hành vi ngôn ngữ mách và sự kiện lời nói mách,

Luận vă n Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

74. Phạm Hùng Linh (2001), Hành vi kể, diễn ngôn kể và sự kiện lời nói kể, Luận văn

Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

75. Nguyễn Thị Lương (1996), Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu

thijcacs hành vi ngôn ngữ, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội.

76. Nguyễn Thị Lương (2006), Câu tiếng Việt, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

77. Lyons, J. (2001), (2002), “Các hành động ngôn từ và lực ngôn trung”

(Người dịch: Nguyễn Văn Hiệp), Ngôn ngữ, số 15/2001, số 1/2002.

78. Lyons, J (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận (Người dịch: Nguyễn Văn Hiệp),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

79. Nhiều tác giả (2000), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

80. John J. Macionis (1987), Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội.

81. Trịnh Thị Mai (2006), Đặc điểm cuộc thoại mua bán ở chợ Nghệ Tĩnh, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

82. Đỗ Thị Thanh Nga (2016), Nghiên cứu ngôn ngữ trong văn bản hành chính

tiếng Việt từ góc độ Dụng học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Khoa học Xã hội

Việt Nam.

83. Vũ Tố Nga (2000), Phát ngôn cam kết, biểu thức ngữ vi cam kết trong hội thoại,

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

84. Nguyễn Thị Thu Nga (2013), Hành vi ngôn ngữ thề (swear) trong tiếng Việt,

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.

85. Vũ Thị Nga (2010), Khảo sát hành vi rào đón trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

86. Nguyễn Thị Hồng Ngân (2012), Cặp thoại trong hội thoại dạy học, Luận án Tiến sĩ

Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

87. Nguyễn Thị Ngận (1996), Cấu trúc ngữ nghĩa của động từ nói năng: nhóm

“thông tin”, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

88. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa - Văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh niên.

89. Nguyễn Hoài Nguyên (2002), Đặc trưng ngữ âm phương ngữ Nghệ Tĩnh, Luận án

Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

155

90. Hoàng Phê (chủ biên) (2008), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 91. Đào Nguyên Phúc (2013), Lịch sự trong giao tiếp tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

92. Nguyễn Thị Diễm Phương (2011), Văn hoá xưng hô của người Việt, Kỷ yếu Hội thảo Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb KHXH, Hà Nội. 93. Nguyễn Văn Quang (1998), Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mĩ trong cách thức khen và tiếp nhận lời khen, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

94. Tạ Thị Phương Quyên (2008), Cách biểu đạt ngôn ngữ của hành vi ngờ vực trong tiếng Anh và tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

95. Rodjestvenxki I.U.R (1999), Những bài giảng về ngôn ngữ học đại cương

(Đỗ Việt Hùng dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

96. Saussure, F. De (2007), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

97. Searle J.R (1964), “Thế nào là một hành động ngôn từ”, Ngôn ngữ, văn hóa và xã hội - Một cách tiếp cận liên ngành (Người dịch: Vũ Thị Thanh hương, Hoàng Tử Quân; Hiệu đính: Cao Xuân Hạo, Lương Văn Hy, Lý Toàn Thắng, 2006), Nxb Thế giới, Hà Nội.

98. Shaefer, Richard T. (2003), Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 99. Võ Thị Thảo (2009), Hành động cầu khiến - từ chối trong giao tiếp của người

Hà Tĩnh, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Vinh.

100. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn

tiếng Việt, Nxb Phương Đông, Tp Hồ Chí Minh.

101. Phạm Văn Thấu (2000), Cấu trúc liên kết của cặp thoại (trên ngữ liệu tiếng Việt),

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

102. Trần Ngọc Thêm (2001), Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh

103. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh.

104. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lí luận và ứng dụng, Nxb

Văn hóa - Văn nghệ.

105. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 106. Lê Quang Thiêm (2014), Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2006,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

156

107. Phạm Văn Tình (1999), Xưng hô dùng chức danh, Ngôn ngữ và đời sống, số 11. 108. Phạm Văn Tình (2003), “Tỉnh lược và văn hoá giao tiếp”, Ngôn ngữ và Đời sống, số 4. 109. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và

tư duy ở người Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

110. Tylor, E.B. (2001), “Văn hóa nguyên thủy” (người dịch: Huyền Giang), Tạp

chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

111. Phạm Thái Việt và Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa Việt nam, Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

112. Trần Quốc Vượng (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 113. Wallace, Chafe, L. (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ (Nguyễn Văn Lai

dịch, 1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội

114. Xteponop, I.U. (1977), Những cơ sở ngôn ngữ học đại cương, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

115. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,

Nxb Giáo dục.

116. Nguyễn Như Ý (2001), Từ điển đối chiếu từ địa phương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 117. Nguyễn Như Ý (chủ biên), (2007), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh.

118. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt (cấu trúc và

ngữ nghĩa), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

119. Trần Thị Hoàng Yến (2014), Đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.

120. George Yule (2002), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuật dịch), Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

121. George Yule (2003), Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

B. Bằng tiếng Anh 122. R.E. Asher (1996), The Encyclopedia of Language and Linguistics, Pergamon Press. 123. J.L. Austin (1965), How to Do Things with Words, Oxford University Press,

Oxford - New York.

124. Back, K.& Harnish, M. (1984), Linguistic Communication and Speech Acts,

Springer Science & Business Media.

125. P. Brown and S.C. Levinson (1987), Politeness: Some Universals in Language

Usage, Cambridge University Press.

157

126. C.S. Dilk (1989), The Theory of Functional Grammar, Park I, “The Structure of

the Clause”, Foris Publication.

127. M.L. Geis (1995), Speech Acts and Coversational Interaction, Cambridge University Press. 128. A.J. Green (1989), Pragmatics and Natural Language Understanding, LEA

London.

129. H.D. Grice (1975), Logic and Conversation “syntax and semantic”, Vol III,

Speed acts, New York and London.

130. H.P. Grice (1978), Logic and Conversation, in P.J.L. Cole & J.L. Morgan (eds)

Syntax and Semantics, Vol 9, Pragmatics, New York, Academic Press. 131. M.A.K. Halliday (1985), An Introduction to Functional Grammar, London: Arnold. 132. D. Humer (1972), Foundation in Sociolinguistics, University of Pennsylvania

Press, Park 1.

133. S. Hunston (2011), Corpus Approaches to Evaluation: Phraseology and

Evaluative Language, Routledge, UK.

134. Kovecses, Z. (1986), Metaphors of Anger, Pride, and Love: A Lexical Aproach

to the Structure of Concepts, Amsterdam: John Benjamins.

135. G. N. Leech (1983), Principles of Pragmatics, Longman, London & New York. 136. S. C. Levinson (1983), Pragmatics, Cambridge University Press. 137. J. Lyons (1981), Language and Linguistics, Cambridge University Press. 138. J. Lyons (1997), Semantics, V. I, II, Cambridge University Press. 139. Ch.W. Morris (1938), Foudation of the Theory of Sins. International

Encyclopendia of United Science, Chicago Press.

140. J.R. Searle (1969), Speech Acts, Cambridge University Press, Cambridge. 141. J.R. Searle (1975), Indirect Speech Acts, Syntax and Sematic, (vol. 3), New York. 142. J.R. Searle (1979) “A taxonomy of Illocutionary Acts”, in: the Philosophy of Language, 3rd edition, A.P Martinich (ed), Oxford University Press, 1996. 143. Searle J.R, Kiefer F. & Bierwisch M. (1980), Speech Act Theory and

Pragmatics, Dordrecht, Netherlands.

144. E. Sweetser (1990), From Etymology to Pragmatics, Cambridge University Press. 145. J. Thomas (1995), Meaning in Interaction: An Introduction to Pragmatics,

Longman Malaysia PP.

146. R. Wardhaugh (1991), How Conversation Works, Basil Blackwell, UK. 147. A. Wierzbicka (1987), English Speech Act Verbs, Academic Press Autralia,

Marrickville.

148. G. Yule (1969), Pragmatics, Oxford University Press.

158

PHỤ LỤC

Phụ lục là kết quả khảo sát 1210 cặp thoại chứa hành động thông báo - hồi đáp

trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh. Tuy nhiên, do phần phụ lục có số lượng trang

nhiều nên tác giả luận án đóng thành quyển riêng.