
7
Parasuraman (1988) rút gọn lại mô hình SERVQUAL mới chỉ còn 5 nhân tố: Sự tin
cậy, khả năng đáp ứng, năng lực đảm bảo, sự đồng cảm và tính hữu hình.
Mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ của Cronin và Taylor (1992)
Cronin và Taylor (1992) phản đối việc sử dụng SERVQUAL và đề xuất
một mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ mới là SERVPERF, đánh giá dựa trên hiệu
quả. Mô hình SERVPERF, đánh giá dựa trên hiệu quả CLDV với 22 nhân tố, và
dường như mô hình này được nhiều tác giả thừa nhận nhiều hơn trong đánh giá
CLDV khối dịch vụ.
Mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ của Firdaus (2005)
Mô hình HEdPERF được Firdaus (2005) đưa ra để đánh giá CLDV trong
giáo dục đại học. Ông đưa ra 5 nhân tố đo lường CLDV của giáo dục đại học, bao
gồm: khía cạnh phi học thuật, khía cạnh học thuật, uy tín, khả năng tham dự và
chương trình ứng dụng. Tuy nhiên nó chỉ được phân tích ở một phạm vi hẹp và chưa
đủ cơ sở để chứng minh trên một phạm vi nghiên cứu bao chùm.
Mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ của Parasuraman và Zeithaml (2005)
Nghiên cứu của Parasuraman và Zeithaml (2005) đưa ra hai mô hình đánh
giá CLDV điện tử. E-S-QUAL dùng để đo lường các dịch vụ cốt lõi, gồm 4 nhân tố
(22 tiêu chí): độ tin cậy, tính hiệu quả, tính đảm bảo và tính bảo mật. Mô hình 2, E-
RecS-QUAL đo lường CLDV phục hồi, gồm 3 nhân tố (11 tiêu chí): tính đáp ứng,
bồi thường và liên lạc. Ngoài ra, một số mô hình đo lường CLDV điện tử trong các
lĩnh vực khác như: WebQual, Site-Qual, eTailQ, PirQual, E-SelfQual cũng được
xem xét trong nghiên cứu này.
Mô hình đánh giá CLDV ngân hàng trực tuyến của Jun và Cai (2001)
Nghiên cứu của Jun và Cai (2001)đã chỉ ra 17 nhân tố chính đánh giá
chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử được chia ra làm 3 thành tố chính: Chất
lượng dịch vụ hỗ trợ khách hàng, chất lượng hệ thống trực tuyến và chất lượng
sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Chất lượng hệ thống trực tuyến được đánh giá bởi
8
6 nhân tố bao gồm: Nội dung thông tin, tính chính xác, dễ dàng sử dụng, tính
cập nhật, hình ảnh, bảo mật.
Mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ trực tuyến của Han và Baek (2004)
Trong nghiên cứu của Han và Baek (2004) đã vận dụng công cụ SERQUAL
để đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Kết quả của nghiên cứu này đã
chỉ ra rằng SERQUAL phần nào đã đáp ứng được tính phù hợp để đo lượng chất
lượng dịch vụ của ngân hàng trực tuyến, kết quả chỉ ra gồm 4 trong 5 thang đo là phù
hợp đó là: tính hữu hình, tính tin cậy, khả năng đáp ứng và sự đồng cảm
Đo lường CLDV trong đào tạo từ xa E-Learning theo nhận định sơ bộ của tác
giả luận án
Đánh giá chất lượng dịch vụ trong đào tạo từ xa E-Learning được đo
bằng 3 nhân tố chính, đó là: Chất lượng hệ thống công nghệ thông tin trực
tuyến; Chất lượng đội ngũ giảng viên hướng dẫn; Chất lượng dịch vụ hỗ trợ
đào tạo.
2.2. Sự hài lòng
Theo Hunt(1997), Zeitham (2000), “sự hài lòng là tổng thể các phán
đoán, đánh giá và thái độ đối với một dịch vụ của khách hàng”. Theo Oliver
(1981): sự hài lòng của khách hàng = hiệu quả thực tế - kỳ vọng”. Sự hài lòng
của sinh viên là nhận thức hay cảm nhận của họ liên quan đến trải nghiệm học
đại học và giá trị giáo dục nhận được khi tham gia học tập tại một cơ sở giáo
dục (Astin, 1993). Sự hài lòng của sinh viên là yếu tố quyết định đến lòng trung
thành của họ đối với một tổ chức giáo dục.
2.3. Lòng trung thành
Theo Bowen và Chen (2001), sự thỏa mãn không đồng nhất với lòng
trung thành của khách hàng. Oliver (1996) chỉ ra: Sự hài lòngtrung thành
nhận thứctrung thành cảm xúc trung thành hành vi. Nhận thức dựa trên