BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------
CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5. 04. 33
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN ĐÌNH PHÙNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TUẤN
TP. Hồ Chí Minh - 2000
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------
CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 5. 04. 33
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN ĐÌNH PHÙNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TUẤN
TP. Hồ Chí Minh - 2000
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ và tri ân sự nhiệt tình giúp , đỡ của Ban Giám Hiệu Trường
Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa Học Công Nghệ - Sau Đại Học, tập
thể Thầy, Cô Khoa Ngữ Văn, cùng tất cả các bạn đồng học, đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn tất
luận án.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng Giáo Sư Trần Hữu Tả - một người thầy gương mẫu
đã tận tụy hướng dẫn cho tôi trong quá trình nghiên cứu - học tập và hoàn thành luận án.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với nỗ lực của bản thân cùng sự
giúp đỡ tận tình của quý Thầy Cô và các bạn, tôi đã tiếp thu được một số kiến thức vô Cùng
quý báu.
Vấn đề của đề tài, đã được một số nhà nghiên cứu bàn luận và đánh giá. Luận án đã kế
thừa và phát triển những ý kiến của người đi trước để xây dựng một hệ thống luận điểm
tương đối hoàn chỉnh về những quan điểm và nội dung
Một lần nữa xin chân thành cảm tạ. .
An Giang - Tháng 05/2000
Nguyễn Đình Phùng
3
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ ...................................................................................................................... 3 MỤC LỤC ........................................................................................................................... 4
PHẨN MỞ ĐẨU .................................................................................................................. 5 1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................................... 5 2. Lịch sử vấn đề: .............................................................................................................. 5
3. Nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn đề tài: ........................................................................ 8 4. Phương pháp nghiên cứu: .............................................................................................. 8
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................ 10 Chương 1: Chủ nghĩa nhân đạo và con đường sáng tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng .... 10 1.1. Từ thế giới của những người khốn khổ: ................................................................ 10 1.2. Nhà văn hiện thực với chủ nghĩa nhân đạo: ........................................................... 13
1.3. Sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân tộc và thế giới: ............................................................................................................................. 15
1.4. Sự gặp gỡ giữa Nguyên Hồng và lý tưởng cách mạng: .......................................... 16 Chương 2: Chủ nghĩa nhân đạo và nhân vật của Nguyên Hồng ........................................ 19 2.1. Nhân vật đau thương:............................................................................................ 19
2.2. Nhân vật thánh thiện: ............................................................................................ 22 2.2.1. Sự chống trả mãnh liệt trước tình trạng tha hoá: ............................................. 22 2.2.2. Người phụ nữ thánh thiện:.............................................................................. 25 2.2.3. Những con người có niềm tin mãnh liệt: ........................................................ 29
Chương 3: Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trong việc thể hiện chủ nghĩa nhân đạo .................................................................................................................................. 33
3.1. Cốt truyện, tình huống: ......................................................................................... 33 3.1.1. Cốt truyện, tình huống trữ tình: ...................................................................... 33 3.1.2. Tình huống truyện là một chuỗi bất hạnh tăng cấp: ........................................ 41
3.2. Nghệ thuật trần thuật: ........................................................................................... 43 3.2.1. Cách trần thuật giàu tình cảm chủ quan và chất trữ tình: ................................. 43 3.2.2. Độc thoại nội tâm được sử dụng như là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng: . 47
3.2.3. Lời trữ tình ngoại đề: ..................................................................................... 50 3.2.4. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật: ................................................................ 52 3.3. Cách thức xây dựng nhân vật: ............................................................................... 59
3.3.1. Nhân vật tích cực: .......................................................................................... 59 3.3.2. Nhân vật giàu chất tự truyện: ......................................................................... 61
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 66
4
PHẨN MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài:
Nguyên Hồng là một h iện tượng tiêu b iểu cho trào lưu v ăn học h iện thực ở nước ta
trước Cách mạng tháng Tám (1945). Đó là một cây bút nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện
đại mà tên tuổi và tác phẩm từ bao năm nay đã rất thân thiết và đã làm rung động bao nhiêu
thế hệ người đọc Việt Nam. Đó còn là một nhà văn mà sự nghiệp văn học và cuộc đời lao
động sáng tạo mãi mãi là một tấm gương sáng cho tất cả những người làm công tác nghệ
thuật. Bằng một giọng văn tha thiết sôi nổi tràn đầy cảm xúc cất lên từ một trái tim dạt dào
yêu thương, Nguyên Hồng đã đem lại cho người đọc niềm tin yêu con người, tin yêu cuộc
đời, tin yêu ngày mai. Đọc tác phẩm của Nguyên Hồng, người đọc thấy nổi trội lên hai đặc
điểm, không thấy ở các nhà văn hiện thực cùng thời với ông. Hai đặc điểm ấy xuất hiện ngay
từ những sáng tác đầu tay cho đến những trang viết cuối cùng của nhà văn. Đó là:
- Một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết hướng về những tầng lớp cùng khổ nhất, "dưới
đáy" của xã hội thành thị ngày trước.
- Một niềm tin không bao giờ lụi tắt ở phía ánh sáng của tâm hồn con người (29,18,19).
Vì vậy, nghiên cứu về chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm của Nguyên Hồng là đề
cập đến phần cốt lõi, phần cơ bản nhất trong sáng tác của nhà văn này. Chính vì thế, chúng
tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyên
Hồng ưước Cách mạng tháng Tám". Nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc
hơn, toàn diện hơn vấn đề chủ nghĩa nhân đạo đã đưa Nguyên Hồng đến với con đường sáng
tạo văn chương như thế nào, ảnh hưởng ra sao đến phong cách nghệ thuật của ông, và đặc
biệt là chủ nghĩa nhân đạo với nội dung cảm động và sâu sắc ấy đã tạo ra một thế giới nhân
vật - thế giới của những con người cùng khổ trong đếm trường tăm tối của xã hội thực dân -
phong kiến.
Ngoài ra, khi nghiên cứu đ ề tài này, chúng tôi có đ iều kiện đ ể giảng d ạy tố t hơn tác
phẩm của ông trong chương trình phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề:
Quá trình sáng tác củ a Ng uyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám ch ỉ có chín năm
(1936 - 1945) nhưng đã để lại cho nền văn học dân tộc một di sản đầy đặn, trong đó có nhiều
tác phẩm bền vững với thời gian.
5
Từ trước đến nay, có nhiều bài phê bình nghiên cứu về Nguyên Hồng và tác phẩm của
ông. Những người viết đã nhìn nhận và đánh giá con người và sự nghiệp Nguyên Hồng từ
nhiều góc độ: Cuộc đời, tác phẩm, thế giới quan, phương pháp sáng tác, thể loại, phong cách,
những kỷ niệm riêng của người viết với nhà văn.. Có thể nói ở bất cứ góc độ nào các bài viết
đều đề cập đến tư tưởng nhân đạo của Nguyên Hồng.
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà phê bình văn học, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: "Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng là một quyển tiểu thuyết chứa chan nhân đạo, nó làm ta thương xót đến
cả những kẻ đầy tội lỗi... " "Đọc tập truyện ngắn Bảy Hựu tôi phải nhớ ngay đến những nhân
vật trong Bỉ vỏ , đến hạng người sống âm thầm, lẩn lút trong xã hội, mà người đời thường coi
là hạng táng tận lương tâm" (30, 63).
Vũ Ngọc Phan cũng đã khẳng định lòng yêu nhân loại và sự "thiết tha đến những người
bị xã hội ruồng bỏ" của Nguyên Hồng.
Nhà văn Thạch Lam, bằng cảm nhận tinh tế đã tìm thấy trong hồi ký Những Ngày Thơ
Ấu "sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại". Qua những trang viết của Nguyên
Hồng, ông thấy tình yêu tha thiết của con người.
Từ sau năm 1954 và nhất là từ ngày Nguyên Hồng qua đời (2/5/1982) cho đến nay
người ta thấy xuất hiện một loạt bài viết của các nhà phê bình, nghiên cứu văn học, nhà văn,
nhà thơ về Nguyên Hồng như: Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung,
Nguyễn Đức Đàn, Chu Nga, Nguyễn Tuân, Kim Lân, Như Phong, Lê Lựu, Nguyễn Minh
Châu, Huy Cận. Vũ Tú Nam..
Những bài nghiên cứu có giá trị và gây tiếng vang là các bài của các nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Nguyễn Đức Đàn, Chu Nga, của các nhà văn như Nguyễn
Minh Châu, Như Phong..
Nguyễn Đức Đàn trong " Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam" (NXB
KHXH Hà Nội 1968) đã nhận xét Nguyên Hồng "có cái nhìn đồng cảm của các nhân vật bị
tha hóa. Sáng tác của Nguyên Hồng thể hiện lý tưởng cách mạng và tinh thần lạc quan cách
mạng, nhà văn gần gũi với cách mạng và đó chính là đóng góp lớn nhất của ông cho dòng
văn học hiện thực phê phán".
Chu Nga trong hai bài viết "Đọc lại một số tác p hẩm củ a Ng uyên Hồng ( TCVH số
6/1971) và "Nguyên Hồng và quá trình sáng tác củ a anh" (Tác giả văn xuôi Việt Nam hiện
đại - NXB KHXH, Hà Nội 1977) đặc biệt chú ý đến vai trò mà bà cho là quyết định của tư
tưởng ch ín h trị đ ối v ới giá trị củ a tác phẩm củ a n hà văn. Ch ia tác phẩm chủ yếu theo nội
6
dung chính trị, xã hội, Chu Nga đã đánh giá c ác tác phẩm như Hơi Thở Tàn , Cuộc Sống ,
Miếng Bánh .. là nhạt nhẽo. Nhưng ý kiến đó chưa thật thỏa đáng.
Đọc bài viết "Vô cùng thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng" của Nguyễn Minh Châu thì
thấy ông có sự nhận xét và đánh giá sâu sắc, rõ ràng hơn khi ông so sánh quan điểm nghệ
thuật của Nguyên Hồng với quan điểm của Tự lực văn đoàn và một số cây bút tư sản, tiểu tư
sản cùng thời. Theo Nguyễn Minh Châu, Nguyên Hồng "không nghiêng xuống những người
nghèo khổ mà thương hại hoặc tô vẽ cho cuộc sống lao động cực nhọc một vẻ dịu dàng, nên
thơ, mà ông đã mô tả cho đến đã đời, cho đến mức thỏa thuê những nỗi cực khổ vô cùng vô
tận của những tầng lớp người "dưới đáy" đặc biệt là những kiếp người bị xã hội thực dân,
phong kiến giày đạp tàn nhẫn và đẩy đến bước đường cùng". (30,192).
Năm 1984, ưong Từ điển Văn học, ở mục từ Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Nguyễn
Hoành Khung đã khẳng định vị trí đầy vinh dự của Nguyên Hồng trong nền văn học nước
nhà. Ông đặc biệt lưu ý đến phong cách và bút pháp "chân thực giản dị và thấm đượm trữ
tình" của Nguyên Hồng.
Phan Cự Đệ trong giáo trình văn học Việt Nam 1900 - 1945 (NXB GD„ Hà Nội 1998 )
và lời giới th iệu Tuyển tập Ng uyên Hồng , Tập I, NXB VH, Hà Nội 1997 đã cho rằng chủ
nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyên Hồng kết hợp được truyền thống dân tộc và hiện
đại. Đó là "chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc" "chủ nghĩa nhân đạo thức tỉnh", "chủ nghĩa nhân đạo
lạc quan". Ông còn nhận xét, nhà văn Nguyên Hồng có phong cách "trữ tình lãng mạn", "trữ
tình sôi nổi".
Phan Cự Đệ cũng chỉ ra những hạn chế của tác phẩm Nguyên Hồng: "Do lối viết miêu
tả quá rườm rà chi tiết về ngoại cảnh, do một số nhân vật bị cường điệu hóa về tình cảm hoặc
bị chìm đi trong những hồi ức lãng mạn về quá khứ nên đọc những trang viết Nguyên Hồng
"...người ta có cảm giác nặng nề" và "không phải lúc nào Nguyên Hồng cũng viết bằng một
bút pháp hiện thực tỉnh táo và nói chung, ít khi anh sử dụng một lối viết nghiêng về trí tuệ. ở
anh, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt dào từ bên trong đôi lúc cứ muốn lấn
lướt, trùm lên cái hiện thực khách quan được miêu tả" (9,34)
Nguyễn Đăng Mạnh đã có những nhận định chính xác sâu sắc và tổng quát hơn cả về
tác giả Nguyên Hồng. ông nhận định toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng "thấm đượm một
tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha" và Nguyên Hồng là "nhà văn của những người cùng
khổ" (30.38). Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng "nhiều nhân vật của Nguyên Hồng in đậm vào
cảm quan người đọc như những con người có tầm vóc thật lớn, không phải nhờ vào những tư
tưởng vĩ đại, nhờ những sự nghiệp, những chiến công phi thường, mà vì mang trái tim lớn có
sức hứng chịu những khổ đau chồng chất, những bất hạnh dồn dập" (29,21). Ông cũng nhận
7
thấy phong cách của Nguyên Hồng mang đậm màu sắc trữ tình và cảm hứng lãng mạn." Văn
của Nguyên Hồng bao giờ cũng đầy cảm xúc, đầy chất thơ. Ngòi bút ấy đã chế tạo cho mình
một chất thơ độc đáo, không phải từ mây gió trăng hoa, mà luyện bằng than bụi những nhà
máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi khô cỏ cháy, hòa với mồ hôi mặn chát và nóng
bỏng của những người lao động"( 30,38 ). Chất thơ trong văn xuôi là nét đặc sắc mà Nguyễn
Đăng Mạnh đã phát hiện ra trong tác phẩm của Nguyên Hồng.
Về cách xây dựng tình huống, tình tiết trong các tác phẩm của Nguyên Hồng, Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá: "Nguyên Hồng có thiên hướng xây dựng [(...)] những tình huống dữ
dội (..) phù hợp với giọng văn thống thiết của tâm hồn nồng nhiệt giải bày trực tiếp trên trang
sách (30,42) Và truyện của Nguyên Hồng:" ...có sự đối lập dữ dội giữa ánh sáng và bóng tối,
giữa bão táp và nắng vàng, giữa quỉ dữ và thiên thần, giữa địa ngục và lò lửa" (30,44)
Nhìn lại toàn bộ các bài nghiên cứu về Nguyên Hồng, đặc biệt chung quanh vấn đề chủ
nghĩa nhân đạo ta thấy còn thiếu một công trình tập trung giải quyết sâu sắc và có hệ thống.
Tuy nhiên, những bài viết ch ung về con người và sự nghiệp của Nguyên Hồng thì khá phong
phú. Những bài viết này thường có cái nhìn tổng hợp, bao quát về Nguyên Hồng, trong đó có
nhiều ý kiến sâu sắc về tư tưởng chủ đạo, về thế giới nghệ thuật, về cá tính và phong cách
nghệ thuật của Nguyên Hồng. Những ý kiến ấy soi sáng rất nhiều cho chúng tôi khi nghiên
cứu đề tài "Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng trước Cách
mạng tháng Tám".
3. Nhiệm vụ nghiên cứu và giới hạn đề tài:
Mục đích chủ yếu của luận án này là nghiên cứu "Chủ nghĩa nhân đạo trong văn xuôi
nghệ thuật của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám".
Nguyên Hồng sáng tác tương đối liền mạch cả trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Song trong luận án này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những sáng tác của Nguyên Hồng
trước cách mạng mà thôi.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp hệ thống
Sáng tác của mỗi nhà văn là một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn, là một hệ thống chịu sự
quy định của tư tưởng và phong cách nghệ thuật của tác giả. Muốn tìm ra những nét đặc sắc,
những sáng tạo nghệ thuật có giá trị và nổi trội của nhà văn, tất nhiên phải bao quát toàn bộ
thế giới nghệ thuật của nhà văn ấy như là một hệ thống.
8
Phương pháp phân tích – So sánh
Khi phân tích các tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng tôi cố gắng so sánh Nguyên Hồng
với các sáng tác của một số tác giả cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao
để thấy được khía cạnh độc đáo trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng.
Phương pháp thống kê phân loại
Phân loại thống kê các biểu hiện cụ thể của văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng
trước cách mạng, luận án có thể cung cấp những cứ liệu xác thực giúp cho việc trình bày vấn
đề trở nên rõ ràng và có sức thuyết phục hơn.
Các phương pháp trên liên quan chặt chẽ và có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau, được sử dụng
phối hợp trong quá trình nghiên cứu.
9
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Chủ nghĩa nhân đạo và con đường sáng tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng
1.1. Từ thế giới của những người khốn khổ:
Nói đến Nguyên Hồng, trước hết là nói đến một trong những đại diện xuất sắc nhất của
nền vãn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Người ta gọi Nguyên
Hồng là nhà văn của những người cùng khổ. Điều này hoàn toàn có cơ sở vì thế giới nhân vật
của Nguyên Hồng toàn là những người thuộc loại cùng đinh trong xã hội. Bản thân tác giả
cũng là người nghèo khổ. Mở đầu Những Ngày Thơ Ẩu, Nguyên Hồng kể lại một cách giản
dị gia cảnh nhà mình:"Thầy tôi làm cai ngục. Mẹ tôi con một nhà buôn bán rau đậu, trầu cau
lần hồi ở các chợ và trên đường sông Nam Đinh - Hải Phòng. Tuổi thầy tôi hơn ba mươi. gấp
đôi tuổi mẹ tôi" (12,193). Đứa trẻ là Nguyên Hồng, éo le thay, lại là kết quả của mối duyên
ép uổng, lớn lên trong sự xa lánh và thù ghét của họ hàng.
Mười hai tuổi, người bố chết vì bệnh lao, mẹ lại đi bước nữa, xuôi ngược kiếm sống, có
lúc phải vào Vinh ở vú cho một viên Tây đoan. Đó là một người đàn bà xinh đẹp, dịu hiền
nhưng phải sống với chồng già nghiện ngập bằng một cuộc hôn nhân gượng ép. Thương con
vô bờ bến nhưng do cảnh ngộ ngang trái nên một thời gian dài sau khi chồng mất bà không
được gần con. Có thể nói những trang viết về người mẹ của Nguyên Hồng luôn luôn làm xúc
động lòng người . Truyện ngấn Mợ Du đã nói lên tâm trạng đau đớn của người mẹ trẻ bị gia
đình nhà chồng khinh ghét xua đuổi, không cho phép tự do gần gũi con mình. Viết thiên
truyện cảm động này tác giả gián tiếp giải bày nỗi niềm xót xa của mình đối với người mẹ bất
hạnh. Còn thân phận của một đứa bé mồ côi thì nhà văn đã thuật lại trong những trang tự
truyện thâm đâm nước mắt: Những Ngày Thơ Ấu " Ngày 12-11-1931! Phải nhớ cái tát và
câu rủa sả này cho đến chết:" Hồng ơi ! Bố mày nó chết đi, nhưng còn có mẹ mày nó dạy
mày. Cầm bằng mẹ mày đánh đĩ theo giai bỏ mày lêu lổng thì đã có chúng tao".
Mẹ ơi ! con khổ quá mẹ ơi ! Sao mẹ đi lâu thế ? Mãi không về ! Người ta đánh con vì
con dám cướp lại đồ chơi của con mà người ta đã giằng lấy. Người ta lại còn chửi con, chửi
cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không ?
Ngày 20-11-1931. Giá ai cho tôi một xu nhỉ ? Chỉ mội xu thôi ! Để tôi mua xôi hay
bánh khúc. Giời rét thế này, đi học một mình , vừa đi vừa cắn ngon xiết bao ! Không! Không
ai cho Tôi cả , vì người ta có phải là mẹ tôi đâu ".
10
Hoàn cảnh ấy đã xô đẩy Nguyên Hồng vào môi trường những người nghèo khổ nhất
trong xã hội, chung đ ụng với đ ủ các hạng trẻ ng hèo đ ói d u đãng : Mư ời lăm tuổi, vừa đậu
xong tiểu học đã bị đày đọa trong các nhà lao Nam Định, Hà Nội, Phúc Yên. Đoạn đời bị hà
hiếp, bị đánh đập tàn nhẫn đó nhà văn đã viết trong tập ký - tiểu thuyết Tù Trẻ Con hơn 300
trang, năm 1939 khi Nguyên Hồng đi tù, bản thảo đã bị bọn mật thám đốt mất. Họ hàng nhà
chồng khinh bỉ người mẹ " cải giá" và những người xung quanh ghê sợ đứa con trai mới dúm
tuổi mà đã trải qua hết nhà lao này đến nhà lao khác.
Để tránh mọi thành kiến hẹp hòi, gia đình Nguyên Hồng tìm ra Hải Phòng - một thành
phố công nghiệp ồn ào đông đúc - tìm kế sinh nhai. Ông nhập hẳn vào cuộc sống của người
nghèo" dưới đáy" của xã hội thành thị. Những ngày lang thang nơi bến tàu Sáu Kho, nhà máy
xi măng, sở dầu Thượng Lý, hoặc chầu chực ở cổng các nhà máy cốt phát, Máy tơ, Máy chỉ,
Máy ống, lân la ở đầu đường xó chợ để tìm việc. "Vườn hoa đưa người "là nơi nghỉ sau cả
ngày chầu chực, xin việc, sau những buổi cơm chiều không có, đèn nhà hết dầu.. Ông đau
khổ buồn bã vô cùng. Nhìn dòng người thất nghiệp trên Hà Nội xuống, ở Nam Định ra, ngoài
Hòn Gai, Cẩm Phả về tụ tập tại đấy chầu chực kiếm ăn, trong những chuyến xe chở vội
những xác chết vô thừa nhận và những đám tù giải đi xử án, Nguyên Hồng lại càng buồn
thảm.
Tuy cuộc đời buồn khổ, cơ cực như vậy, nhưng Nguyên Hồng đã yêu cuộc sống một
cách thiết tha, say đắm. Ông yêu cuộc sống bằng tất cả tâm hồn và các giác quan của mình.
Ông yêu cả những cảnh vật thiên nhiên và những hoạt động của con người. Nhà văn Như
Phong trong bài viết Người bạn từ thuở đôi mươi đã kể lại: "Biết bao lần tôi đã thấy anh đứng
sững nhìn như nhìn thấy lần đầu trong đời một đứa trẻ lẫm chẫm đi, một vạt nắng rung rinh
trên mặt nhà quét vôi trắng, một cột khói lẩn vẩn tàn lửa phụt ra từ một đầu máy xe lửa, một
góc chợ đầy ắp hoa quả mùa hạ thơm lừng. Những thuyền bè, xà lan chen chúc nhau Ưên
khúc sông Hạ Lý trong ráng chiều đỏ rực, những dòng người từ các xưởng máy, kho hàng
bến cảng tỏa ra về sau tiếng còi tan tầm, lem luốc bụi than, dầu máy và mồ hôi, mệt mỏi, bơ
phờ nhưng vẫn phải hối hả, tất bật.. Chỉ riêng có Nguyên Hồng mới tìm thấy tất cả những cái
có vẻ tầm thường của cuộc sống ấy, một chất đẹp, một chất thơ mà người khác không nhìn
thấy " (29,74,75).
Chính lòng yêu cuộc sống và yêu con người là động lực thúc giục Nguyên Hồng cầm
bút viết văn.
Như thế là sau bao nhiêu tháng ngày bị đày đọa, tù tội lại thêm cảnh đói khổ, thất
nghiệp kéo dài, Nguyên Hồng càng đau khổ, bối rối, tưởng mình sẽ chết ở tuổi mười sáu. Và
người thanh niên khao khát tha thiết thèm sống lạ thường ấy đã nghĩ rằng dù có chết đi cũng
11
phải để lại cho cõi đời mà anh yêu mến một cái gì vừa tinh khiết, vừa tha thiết yêu thương
nhất của tâm hồn.
Lúc bấy giờ, với học thức nhỏ nhoi, gia cảnh suy tàn, Nguyên Hồng nghĩ chỉ có thể có
một cách tồn tại trong cuộc sống bằng cái cao quý. trong sạch của văn chương. Như vậy là từ
thế giới những người lao động cực khổ nhất trong xã hội, Nguyên Hồng đã đến với nghề văn.
Và ông bắt đầu viết, viết cả ngày lẫn đêm, say mê sáng tác bất chấp cái đói ê ẩm thấm thía vô
cùng trong đêm mưa hoang vắng. Ngu yên Hồng mải mê viết trong bất kỳ hoàn cảnh nào:
"một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của bãi đất lấp dỡ dang và
một chuồng lợn ngập ngụa phân tro". Ông viết giữa tiếng tranh giành đay nghiến của những
người dân nghèo và ngay cả những ngày tháng lao tù ở trại tập trung Bắc Mê, dưới ánh đèn
dầu lạc tù mù. Viết văn đối với Nguyên Hồng là nguồn vui, lẽ sống, trách nhiệm, là hiến dâng
mọi tâm huyết và sức lực cho đời.
Cho đến những năm dài sau này, khát vọng sáng tạo vẫn cứ luôn luôn thôi thúc ông một
cách mạnh mẽ đến mức nhà văn nghĩ mình có thể chết dần chết mòn nếu không cầm bút được
nữa. Có thể nói Nguyên Hồng là một tấm gương sáng về tinh thần say mê lao động nghệ
thuật. Nói như Nguyên Đăng Mạnh: "ông là chúa Cơ đốc đã hiến dâng trọn vẹn cả thể xác lẫn
linh hồn cho một sự nghiệp văn chương vì cuộc sống, vì nhân dân (30,16). Con đườngsáng
tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng thật đáng khâm phục, ông viết say sưa, viết như " cào xuống
giấy, những dòng chữ bị cằn xuống nét chữ thật to, thật đậm, gẩy góc, có chỗ rách cả giấy, có
chỗ mực chấm đầy quá rớt xuống xanh lè. Những dòng chữ xô vào nhau, gập ghềnh lên
xuống....''( 26,19 ). Còn sống là còn viết, ông đã nợ suốt đời và suốt đời tìm cách để trang trải
những " món nợ lòng". Nhà văn Nguyễn Tuân kể lại: "Nguyên Hồng là một người kiên trì
trong công việc sáng tác, có những ngày anh không hứng thú gì lắm - nói một cách văn hoa
thì chúng tôi gọi là " đầu ngòi bút không thấy động gió" - nhưng Nguyên Hồng vẫn cặm cụi
viết tự coi mình như một người thợ của ngôn ngữ phải hàng ngày đứng máy cho đủ giờ.
Riêng tôi những lúc gặp phải khó khăn về việc phản ánh thực tế tờ giấy trắng cứ như hất
ngang ngòi bút mình đi, cứ lặng tờ mà khước từ bất cứ ý tình câu cú nào định ươm ướm thả
xuống - thì tôi phải nghĩ đến Nguyên Hồng, lấy cái chịu thương chịu khó ở anh ra mà tự động
viên mình" ( 11,69,70 ). Quả thật để có được một bề dày văn hóa cần thiết, cách học chủ yếu
của Nguyên Hồng là ở trường đời, ở cuộc sống. Khao khát văn hóa, cần cù học hỏi, đó cũng
là nét quan trọng của cá tính Nguyên Hồng. Vừa học vừa viết, cặm cụi đọc sách tiếng Việt đã
đành, lại vật lộn với những trang sách tiếng Pháp. Với cuốn từ điển trong tay, người thanh
niên nghèo đói mới q ua trìn h đ ộ tiểu học ấy đ ã đ ọc k há n h iều tiểu thuyết và thơ củ a : H.
Malot, V. Hugo, A. Musset, A.Daudet, C.Dickens, M.Gorki ... Hình ảnh Nguyên Hồng tự học
làm ta nhớ đến cậu bé Aliôsa thời nhỏ đọc sách giữa trăng, cố tìm ra tiếng nói giữa các dòng
12
chữ. Ông "Gorki của Việt Nam " đã bắt đầu bước đường viết văn một cách khó nhọc như
vậy đấy.
1.2. Nhà văn hiện thực với chủ nghĩa nhân đạo:
Nguyên Hồng đã xác định: "Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những sự áp bức, về
những nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về những con người bị lầm than, đày đọa, bị lăng
nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược lộng hành của
xã hội thời bấy giờ. Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng" (18,107). Tự nguyện làm nhà văn của những
người cùng khổ, Nguyên Hồng muốn dùng ngòi bút tát cho cạn bớt cái bể khổ của cuộc đời,
phải viết ra thành chữ tất cả những gì chứa đựns, nung nấu, quằn quại, đau xót, bay bổng và
bát ngát của tâm hồn, của suy nghĩ.
Có thể nói ngay từ buổi đầu. những vầng sáng lung linh, choáng ngợp của Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, V. Hugo, A. Musset.. cộng với xúc cảm thiết tha, cái hưng phấn mãnh liệt của con
người, Nguyên Hồng sẽ kéo ngòi bút của ông về phía chủ nghĩa lãng mạn nhưng cuộc đời
khổ sở, cực nhọc và nhất là tấm lòng thương yêu vô hạn đối với con người đã giúp cho ngòi
bút của ông ngày càng cắm chắc vào mảnh đất của chủ nghĩa hiện thực.
Con đường sáng tạo nghệ thuật của Nguyên Hồng là con đường của một nhà văn hiện
thực với chủ nghĩa nhân đao mãnh liệt, lạc quan. Ông bước vào nghề văn là do sự thôi thúc
của nhu cầu vô tận nói lên sâu sắc nỗi thống khổ của loài người.
Trong hàng ngũ của các nhà văn hiện thực có tài thời bấy giờ cũng có nhiều người viết
về những con người nghèo khổ, bị đày đọa, áp bức và những nỗi ngang trái của xã hội, đã
đóng góp vào nền vãn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám những tác phẩm đầy giá trị,
trong đó có cả những kiệt tác, tuy vậy ít có ngòi bút nào đề cập đến những con người ấy một
cách da diết đến mức như ngòi bút Nguyên Hồng. Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu:
"Nhà văn của thập loại chúng sinh ấy từ trong lòng của xã hội thập loại chúng sinh bước ra,
cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình mà viết ra văn chương của
mình" (6,192).
Tác phẩm của Nguyên Hồng đã phơi bày cuộc sống bần cùng, lam lũ của những người
lao động nghèo khổ ở các ngõ hẻm, các vùng ngoại ô của các thành phố lớn như ô Yên Phụ,
bãi Phúc Xá ở Hà Nội hay xóm cấm, xóm chùa Đông Khê ỡ Hải Phòng. Họ thường sống
trong những mái nhà tồi tàn, tối tâm với những ngọn đèn leo lết, mà chỉ với một cơn mưa
chiều nước đã ngập vào tận giường ngủ. Những nơi ấy luôn luôn ồn ào bởi tiếng cãi cọ, tiếng
kêu cướp giật, tiếng cười khiêu khích.
13
Khác với Ngô Tất Tố, Nam Cao..., Nguyên Hồng không miêu tả quá trình bần cùng hóa
của người nông dân, nhưng ông thấy rất rõ số đông dân nghèo ở Hải Phòng, Hà Nội là những
người phải lìa bỏ quê hương lên đây "sau mấy năm lụt lội, đói khát dịch tả liên tiếp, họ đâu
như đã bán nốt miếng đất cuối cùng của ông cha cho bọn kỳ Lý, cho Nhà Chung để gỡ nợ, để
chạy kiện, để thoát vạ rươu, để khỏi nhìn những cảnh đau tủi, uất ức mà đi tha hương cầu
thực, thử xem ngoài những nơi chôn nhau cắt rốn của họ đời họ có thay đổi được chút nào
không ?" (Ngọn Lửa)
Đó là những cô gái quê hiền lành, ngoan đạo bị gã bán, bị đày đọa bởi các hủ tục nặng
nề đã phải bỏ làng ra thành phố để rồi lại bị lừa gạt, trở thành lưu manh gái điếm như Tám
Bính trong Bỉ vỏ, Muống trong Quán Nải.
Nỗi khổ của loài người là một đề tài vô tận của văn học nghệ thuật. Biết bao nhà văn đã
khai thác nhưng có lẽ cho đến nay cũng chưa vơi cạn đi nhiều lắm. Ngay cả nh ững nhà văn vĩ
đại cũng mới chỉ nói được phần nào. Đạo Phật gọi là bể khổ, là biển trầm luân. Xuân Diệu đã
mượn ý tưởng ấy để sáng tạo nên hình ảnh.
Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi như giọt lệ giữa không trung
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết thật hay về nổi khổ của con người.
Nước mắt của chúng sinh đã đông thành những
lầu cao lóng lánh thủy tinh
(Rome - hoàng hôn)
Nguyên Hồng cũng góp phần khai thác đề tài ấy. Ông đặc biệt đi sâu vào những cuộc
đời như vợ chồng Nhân (Đây, Bóng Tối) mà hạnh phúc dù bé nhỏ và phải "gây dựng trên
từng vũng mồ hôi, vũng máu, vũng nước mắt " (11,84).
Có thể nói trước năm 1945, Nguyên Hồng chưa có ý thức rõ rệt về sự bóc lột, đến tận
xương tủy của giai cấp thống trị, mối quan hệ chó sói giữa người với người trong xã hội vô
nghĩa lý đương thời nhưng ông đã miêu tả trung thực sự bần cùng hóa và lưu manh hóa của
người dân nghèo thành thị. Những truyện Đây Bóng Tối; Hai Mẹ Con; Hơi Thở Tàn; Người
Con gái; Vực Thẳm; Giọt Máu., cho ta thây nhà văn là chứng nhân của những cảnh đời đầy
nước mắt ấy.
Nhà văn hiện thực Nguyên Hồng không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà đi vào bản
chất bên trong của sự việc giúp người đọc nhìn vào cái sâu thẳm của cuộc đời họ, do đó càng
thông cảm với những đau khổ mà họ phải chịu đựng trong xã hội cũ. Với bút pháp hiện thực.
14
nhà văn đã phản ảnh sinh động cuộc sống quằn quại trong khổ đau của người dân nghèo
thành thị nhưng bao giờ họ cũng khát khao một cuộc sống công bằng, tốt đẹp, một sự đổi đời.
Dù bị dìm dưới bùn đen nhưng họ vẫn muốn "ngoi lên ánh sáng như những mầm cây xanh"
(Ngọn Lửa)
1.3. Sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân
tộc và thế giới:
Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Nguyên Hồng đã kế tục và phát huy truyền
thống nhân đạo chủ nghĩa trong văn học dân tộc. Những cô Kiều "ba chìm bảy nổi chín lênh
đênh", những người đàn bà mà "kiếp sinh ra thế biết là tại đâu" trong "Văn chiêu hồn" của
Nguyễn Du, những Ngọc Hoa, Cúc Hoa, Nguyệt Nga dịu hiền chung thủy và cả người vợ
đảm đang, tần tảo trong thơ Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Lúc bấy giờ, Nguyên Hồng cũng có điều kiện tiếp xúc với những tác phẩm nhân đạo
chủ nghĩa của phương Tây như Những Người Khốn Khổ của V.Hugo, David Copperfield
của C.Dickens, Thời Thơ Âu của M.Gorki và những truyện ngắn của A.Daudet...
Đọc những tác phẩm như Bỉ vỏ, Những Ngày Thơ ấu và những truyện ngắn đặc sắc
của Nguyên Hồng ta thấy ông ít nhiều chịu ảnh hưởng các tác phẩm kể trên.
Những nhân vật như Tám Bính (Bỉ vỏ), mụ Mão (Người Mẹ Không Con), nhà sư nữ
(Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn) ... đều mang trái tim nhân hậu có sức chịu đựng những khổ đau
chồng chất, những bất hạnh dồn dập. Đó là tầm vóc của những nhân vật bất hạnh của tiểu
thuyết V.Huygo, M.Gorki ... Giữa Tám Bính và Fantile (Những người khốn khổ) có một cái
gì giống nhau về số phận và phẩm chất.
Tuổi thơ bất hạnh, bị đày đọa là một đề tài văn học khá phổ biến, được vận dụng khai
thác rộng rãi sâu sắc bởi nhiều tài năng dưới nhiều phương trời khác nhau. Văn chương nhân
loại đã có những tác phẩm Ưu tú của M.Gorki, C.Dickens, H.Malot, A.Daudet ... Người đọc
hôi ký tuyệt diệu Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng hết sức cảm động trước cuộc đời
xót xa, cay đắng của bé Hồng và cũng thấy sự tiếp thu có sáng tạo của nhà văn trước những
hình tượng độc đáo: David Copperfield trong tác phẩm cùng tên của Dickens, Aliôsa trong
Thời Thơ Ấu của M.Gorki
Trong phạm vi đề tài này, người ta thường nói đến sự gặp gỡ ở một mức độ nào đó giữa
Nguyên Hồng với Gorki. Hai nhà văn này đều xây dựng được những hình tượng rất đẹp về
15
những bà mẹ đau khổ từ trong bóng tối của cuộc đời cũ vươn lên ánh sáng, đều quan tâm sâu
sắc đến vận mệnh những em bé bị vứt ra ngoài lề của xã hội, đi kiếm ăn lang thang dọc các thành phố lớn ... Cả hai nhà văn từ buổi thiếu niên đã từng l ăn lộn trong tầng lớp phu phen, thợ truyền, do đó họ đã viết rất say mê về lao động. Chính nguồn suối yêu thương đó của
những người đã từng lam lũ vất vả, từng đổ mồ hôi để tạo nên cuộc sống đã tạo nên ở họ một
chủ nghĩa lạc quan đầy sức sống, một nguồn tin yêu thắm thiết ở CON NGƯỜI.
Cầm bút viết văn, Nguyên Hồng chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo . Trong sáng tác
Nguyên Hồng, trở đi trở lại nhiều lần hình ảnh Chúa Giêsu chịu nạn, khi thì "vác cây thánh
giá rất nặng, khi thì đầu đội mũ gai, hai bàn tay hai nốt đinh ròng ròng máu, một bên sườn
cũng ròng ròng máu", khi thì Giêsu với vẻ mặt nhân từ khiêm nhường, tay chỉ vào ngực áo
phanh ra, nơi ấy có một trái tim máu chảy với hàng chục lưỡi gươm xuyên qua.
Như vậy là việc Giêsu, thánh thiện gánh chịu đau thương, khước từ sự cám dỗ của ma
quỷ, khổ hạnh với một tinh thần khắc kỷ nghiêm ngặt nhưng vẫn đầy tin tưởng.., có ảnh
hưởng sâu sắc đến Nguyên Hồng, khiến ông dựng nên một hành trình nhất quán của con
người với đức tin: Đau thương - sức cám dỗ ma quỷ - tinh thần khắc kỉ - niềm lạc quan tin
tưởng.
Nhân vật và con người Nguyên Hồng đều chung một hành trình như thế và bao giờ
cũng đến đích.
Đúng là trong sự tiếp thu tôn giáo, Nguyên Hồng không bị cuốn đi bởi sự mê muội, mà
luôn luôn chắt lọc lấy phần nhân văn ca o cả của nó. Đó là tinh thần tôn giáo hiểu theo nghĩa
như là đức tin tuyệt đối và hy sinh cao cả. Ông đã đến với tinh thần ấy một cách hồn nhiên
nhất, như tiếp thu truyện cổ tích khi còn nhỏ, vì sấn trong thẳm sâu con người ông, trái tim
lúc nào cũng chỉ một nhịp đập dành cho những rung cảm của con người.
1.4. Sự gặp gỡ giữa Nguyên Hồng và lý tưởng cách mạng:
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng vốn chứa đựng một cốt lõi lạc quan vững chắc,
được củns cố mạnh mẽ khi nhà văn tiếp nhận lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.
Từ mùa thu năm 1937, ở trụ sở chi nhánh báo "Thời Thế" ở Hải Phòng, Nguyên Hồng
đã tìm gặp những tù chính trị từ Côn Đảo, Sơn La trở về, đã vui sướng tìm đọc Tuyên ngôn
cộng sản của Mác và Ănghen, vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Ngục Kontum
của Lê văn Hiến và những tác phẩm của M.Gorki.
Năm 1938, Nguyên Hồng sinh hoạt ở Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương và ở
trong ban biên tập củ a các báo "Thế Giới", "Người Mới", "Mới". Các tờ báo trên cũng đã
16
đăng những truyện ngắn: Những Giọt Sữa, Những Mầm sống, Người Đần Bà Tàu ... của
Nguyên Hồng. Các đồng chí lãnh đạo cũng rất quan tâm đến việc bồi dưỡng chủ nghĩa Mác
Lênin cho những đoàn viên thanh niên.
Trong bài viết "Vài kỷ niệm về Nguyên Hồng" nhà văn Như Phong đã kể lại " Đầu tiên
anh Phan Bôi (tức là Hoàng Hữu Nam sau này) đưa cho tôi và Nguyên Hồng tập tuyển Mác
và Ănghen: "Về văn học nghệ thuật" và thỉnh thoảng chỉ dẫn thêm cho cách nghiên cứu. Rồi
đến lớp huấn luyện của anh Võ Nguyên Giáp mở đều đặn ở ngay nhà anh ở phố Ngõ Trạm.
Rồi đến những cuộc nói chuyện của anh Trường Chinh với chúng tôi, có thể coi là những
buổi huấn luyện sinh động và phong phú ở ngoài trời, trong những buổi đi tản bộ trên con
đường Phùng Hưng, trước cửa tòa soạn báo "Tin tức" . Anh Trường Chinh biết chúng tôi đã
có hoạt động văn học nên nói nhiều với chúng tôi về những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về văn hóa, văn nghệ và vận dụng những quan điểm ấy để đánh giá, nhận xét và phê
phán một số tác phẩm văn học đương thời, rất sinh động, khúc triết, đầy sức thuyết phục".
Tiếp nhận được ánh sáng của lý tưởng, ngòi bút Nguyên Hồng hướng về các đề tài
chính trị, về đời sống thơ thuyền (Bụi Đen, Người Đàn Bà Tàu), nông dân (Đến Cây số 13)
và những người nghèo khổ bị áp bức (Tù Trẻ Con, Tết Của Tù Đàn Bà). Ông thức tỉnh tinh
thần đấu tranh để tự giải phóng, hướng con người đến một niềm tin lãng mạn cách mạng ngày
mai (Những Mầm sống) . Nguyên Hồng cũng là nhà văn đầu tiên xây dựng hình tượng người
phụ nữ công nhân đấu tranh rất dũng cảm, giàu tình thương yêu giai cấp và tinh thần quốc tế
vô sản. (Người Đàn Bà Tàu).
Có thể nói một số tác phẩm của Nguyên Hồng thời kỳ này (Người Đà n Bà Tà u,
Những Giọt Sữa, Những Mầm sống ...) đã tiến gần với văn học cách mạng.
Năm 1939, báo chí tiến bộ bị đàn áp, ngày 29/9/1939 Nguyên Hồng bị thực dân Pháp
bắt giam ở Hải Phòng về tội truyền bá tư tưởng cộng sản và tàng trữ sách báo cách mạng.
Trong nhà tù, Nguyên Hồng được đồng chí Tô Hiệu hướng dẫn nghiên cứu Đề cương cách
mạng tư sản dân quyền. Chính nhờ vốn sống quý giá đó mà sau này Nguyên Hồng có tài liệu
để viết Địa Ngục Và Lò Lửa.
Tháng 6/1940 Nguyên Hồng bị giải lên trại tập trung Bắc Mê, Hà Giang. Nguyên Hồng
viết cả trưa, sau khi đi làm cỏ vê và gánh đá về, cả đêm khuya trên một cái hòm gỗ và dưới
ánh đèn dầu lạc tù mù. Thật đáng t iếc vì ba trăm trang của tiểu thuyết Xóm Cháy đã bị thực
dân Pháp thủ tiêu. Nguyên Hồng lại cặm cụi viết những mẩu ngắn giả làm thư và nhật ký. Đó
là những chất liệu giúp nhà văn viết thành tập Cuộc Sống.
17
Mùa hè năm 1943, Nguyên Hồng tham gia tổ chức Văn h óa cứu quốc và đọc Đề cương
văn hóa của Đảng. Những truyện Hơi Thở Tàn, Miếng Bánh, Ngọn Lửa, Buổi Chiều Xám ...
đã có những ảnh hưởng rõ rệt của Đề cương văn hóa. Đọc những thiên truyện này, chúng ta
cảm nhận được không khí bức bối của một xã hội đang ngạt thở và cái xã hội ấy đang chuyển
mình, hy vọng ở tương lai.
Từ khi tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc, chủ nghĩa nhân đạo mang tính chất chiến
đấu nỗi lên rất rõ trong tác phẩm của Nguyên Hồng. Những tác phẩm như Hai Dòng Sữa ,
Ngọn Lửa và Một Trưa Nắng là những truyện ngắn có luận đề. Người đọc thấy cảnh một nhà
văn nghèo khổ, một người đàn bà buôn thúng bán bưng, một người thợ không có việc làm,
một ông già kéo xe lê từng bước một trên con đường ra tỉnh " dưới thác lửa ngùn ngụt chói
lóa mặt trời". Cái xã hội tù túng, vô nghĩa lý ấy được miêu tả tượng trưng bằng nắng lóa hầm
hập " một biển lửa mênh mông" đang thiêu đốt hàng triệu người. Chủ nghĩa hiện thực chân
chính đó đã nói lên được những đau buồn, thương xót , mừng vui, khao khát, mong ước và tin
tưởng của đại chúng. Và không chỉ có lên án, tố cáo, nó còn phải "tìm thấy một con đường,
một chân trời êm mát tốt tươi qua những ngày mưa dầu nắng lửa".
Đặc biệt là khi viết Buổi Chiều Xám Nguyên Hồng tung hoành ngọn bút như chưa bao
giờ được như thế. Nhà văn tố cáo đanh thép chiến tranh phát xít đã làm cho hàng triệu người
dân lương thiện bị biến thành "bia thịt, những máy bắn chém người không tiếc tay, giày xéo
lên xác chết để làm giàu cho một lũ lái súng, khát vàng và máu". Lần đầu tiên ngòi bút
Nguyên Hồng đã kích trực diện vào thực dân Pháp và phát xít Nhật kêu gọi quần chúng đứng
lên khởi nghĩa: "Sự khốn nạn đã đến tột cùng rồi ! Đi bắn giết người, đi cướp đất người, đi
bóc lột của cải, vơ vét thóc gạo trong khi mùa màng mất và sự đói kém tàn hại hàng triệu sinh
linh, chưa đủ, lại còn hãm hiếp đàn bà một cách công nhiên nữa. A! Đồng bào Xan! Hơn hai
mươi triệu linh hồn máu mủ với Xan còn phải đợi những điều kiện nào mới vùng dậy, đập tan
những thống khổ".
Nguyên Hồng đã ghi lại những cảm xúc khi Buổi Chiều Xám được đăng trên tạp chí
Tiên Phong: "Tôi không ứa nước mắt như những năm tôi bắt đầu vào đời văn, khi xong
những truyện ngắn, tiểu thuyết mà tôi đặt hết hy vọng của mình vào. Nhưng nước mắt vẫn vỡ
ra ở trong lòng tôi. Tôi vừa nghe thấy nước mắt rỉ mặn trong người, vừa cất thầm lên những
tiếng hát, vừa nghe dội lại rùng rùng, vang chuyển không biết bao nhiêu tiếng hát... " (16,27).
Có thể nói chính sự tiếp thu chủ nghĩa Mác, tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc đã làm
cho tác phẩm Nguyên Hồng chứa đựng một chủ nghĩa nhân đạo có tính chiến đấu mạnh mẽ.
18
Chương 2: Chủ nghĩa nhân đạo và nhân vật của Nguyên Hồng
Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng bao giờ cũng là sự thể hiện tập trung cảm quan
nghệ thuật của nhà văn. Nguyên Hồng là nhà văn của những người khốn khổ nhất trong xã
hội.
Viết về đòi sống thực của những người khổ đau với cả sự bất hạnh và vẻ đẹp trong bất
hạnh của họ, ngòi bút Nguyên Hồng rung lên thành những trang viết thống thiết, nồng ấm và
sâu sắc.
2.1. Nhân vật đau thương:
Thế giới nhân vật của Nguyên Hồng là cái nhân loại "dưới đáy" của xã hội thành thị
ngày trước. Đó là ông lão ăn mày, những dân "chạy vỏ" sống cuộc đời lang thang lẩn lút,
những phu bến tàu Sáu Kho, suốt ngày đun goòng, khuân vác. Đó là những người công nhân
mà chế độ lao động khổ sai đã khiến họ "như một cái máy, chỉ có cử động, chứ không một lời
nói", những người nông dân mà chế độ thuế khóa và thiên tai đã đẩy họ ra thành phố để bán
sức lao động một cách rẻ mạt, những gái điếm thân tàn ma dại, những người tù bị hành hạ vô
cùng tàn nhẫn trong các nhà lao đế quốc, những người đàn bà buôn thúng bán bưng đi hết
chợ này đến chợ khác bước chân "liền liền như dính vào nhau và quấn quít lấy mặt đất ...hết
năm này sang năm khác, những người trí thức nghèo cuộc sống bơ vơ, thất nghiệp, dù có ho ài
bão, có lý tưởng cũng thấy đời mình "càng đi sâu vào càng thấy trống rỗng và thê thảm".
Thật ra trong trào lưu văn học hiện thực phê phán ở nước ta không phải chỉ có Nguyên
Hồng mới là nhà văn của những người cùng khổ. Ngô Tất tố với Tắt Đèn, Mớ Rau Trong
Hòm, Cái Bánh Chưng ...Vũ Trọng Phụng với Vỡ Đê, Không Một Tiếng Vang, Cơm thầy
Cơm Cò .., Nam Cao với Chí Phèo, Lão Hạc, Một Đám Cưới, Đói : cũng xứng đáng với
danh hiệu ấy.
Nét độc đáo của nhân vật đau thương của Nguyên Hồng, trước hết là tinh thần chịu nạn,
tự nguyện gánh lấy những nỗi khổ trên đời, giống như đức Chúa vậy.
Trong tiểu thuyết Bỉ Vỏ, qua nhân vật Tám Bính, nhà văn muốn nói về nỗi thống khổ đã dìm một cô gái trong trắng, lương thiện xuống bùn đen dơ bẩn. Những đoạn đời gái điếm,
lưu manh của Tám Bính như địa ngục trần gian mà cô gái bất hạnh bị ném vào.
Cũng trong tiểu thuyết này, Nguyên Hồng đã gợi lên trong tâm trí nhân vật Tám Bính
hình ảnh "Đức chúa Giêsu đứng lên an ủi dân vùng Giêruydalem giữa khi chính mình không
được ai ngỏ một câu ái ngại mà lại còn bị xỉ vả lại còn phải vác cây thập ác nặng nề". Có thể
19
nói tinh thần chịu nạn của nhân vật Nguyên Hồng chắc chắn có chịu ảnh hưởng của tinh thần
đức Chúa tự nguyện hành xác để chuộc tội cho chúng sinh.
Những nhân vật như mụ Đen trong Bố Con Lão Đen, mụ Mão trong Người Mẹ Không
Con đều có thể gọi là những nhân vật chịu nạn nhưng tiêu biểu nhất là nhân vật nhà sư nữ
trong truyện Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn.
Đây là một thiên truyện hết sức ly kỳ. Nhân vật chịu nạn ở đây là một cô gái lấy chồng
mắc bệnh phong. Bố mẹ khuyên cô bỏ chồng về nhà. Cô không nghe bị bố chặt tay phải. Cô
gái cố luyện tập bàn tay trái làm lụng nuôi chồng. Nhà nước bắt chồng cô vào trại phong. Cô
liền đem chồng đi trốn. Cuối cùng cô giả làm một nhà sư của một ngôi chùa gọi là chùa Âm
Hồn và kín đáo giấu chồng ở đó. Ban ngày cô tụng kinh niệm Phật, ban đêm chăm sóc người
chồng hủi, bệnh tình càng ngày càng nặng hơn. Khi chồng chết cô tự nguyện chết theo chồng.
"Vào một đêm tối trời, nhà sư nữ đã đổ dầu vào đống củi, ngồi lên trên rồi châm lửa. Tới khi
ngọn lửa đã bốc lên cháy sáng rực một góc trời dân làng mới biết và chạy đến cứu chữa,
nhưng họ chỉ dập lửa bén sang nhà thờ chính , mà không dám động đến vị sư nhập định trong
khói lửa và một mùi khét lẹt.
Người chồng hủi kia chắc chết. Nhà sư nữ cụt tay muốn giữ kín bí mật thiêng liêng của
đời mình cùng cái xác thịt gớm ghiếc kia tự thiêu đi". (13-63)
Đây có lẽ là trường hợp cực đoan nhất của hình tượng chịu nạn của nhân vật Nguyên
Hồng. Một sự tự nguyện chịu mọi cực hình một cách gan góc đến kỳ lạ bởi tình nghĩa, một
tinh thần hy sinh xả kỷ được đẩy lên tới mức thần thánh. Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn - có thể
xem là một truyện tử vì đạo của Nguyên Hồng, đạo tình nghĩa thủy chung.
Trong truyện Tiếng Nói , Nguyên Hồng lại tạo ra một hình tượng khác cũng rất kỳ lạ.
Giữa năm đói, người chết đầy đường đầy chợ, lúc đó miếng ăn không còn là chuyện bình
thường mà là chuyện sinh mệnh, chuyện sống chết và cho một người khác một miếng ăn là cả
một nghĩa cử to lớn.
Vậy mà có một người đói không chịu xin ăn, người ta cho cũng không ăn, thậm chí
cháo kề tận miệng vẫn kiên quyết từ chối. Con người đó cứ lặng lẽ ngồi bên hè phố, mọi
người "lấy làm lạ cho cái người đói ấy bị bệnh gì hành mà ngồi như thế, không ăn gì, không
xin ai", "hai hố mắt kia cứ nhì n, nhìn mà không hiểu để làm gì mà chẳng thấy ngước lên, lạy
van ai một tiếng".
Đây là một con người tự nguyện ngồi đợi cái chết đến dần, vì anh ta không muốn xin
ăn, không muốn ăn của bố thí, anh ta muốn đi làm, có việc làm.. Anh nói với mấy người đàn
bà đem đến cho anh bát cháo: "Các bà, xin cám ơn các bà ... Các bà cho tôi ... Xin cám ơn các
20
bà ... Nhưng tôi đã thề tôi không ăn tí gì nữa ... Giờ các bà thương tôi ... Nhưng mai ... mai thì
sao? Hay cho dẫu tôi lại được ăn ngày mai thì lại còn ... lại còn ngày kia ... Ngày kia ... Ngày
kìa các bà ... và mọi người có thể thương ... thương cho tôi mãi được đâu? kém đói! ăn mày ...
ăn mày ... không ! ... không ! ... Chúng tôi chỉ muốn đi làm ... đi làm thôi!".
Đây cũng có thể coi là một chuyện tử vì đạo khác của Nguyên Hồng. Hình ảnh một con
người ngồi lặng lẽ không nói một lời, không chịu ăn uống, không van xin ai, chỉ muốn được
làm việc, đã trở thành một biểu tượng độc đáo của con người tự nguyện hành xác chịu nạn để
nói lên tiếng nói câm lặng mà hùng hồn đòi quyền sống chính đáng, quyền sống trong nhân
phẩm của người lao động. Một nhân vật như thế chỉ có dưới ngòi bút Nguyên Hồng. Có thể
nói hầu hết nhân vật của Nguyên Hồng trước sự đau thương tột cùng của mình đều mang tinh
thần chịu nạn ở những mức độ khác nhau với những lý do khác nhau. Chẳng hạn như Bảy
Hựu, Chín Huyền trong những truyện ngắn cùng tên, tinh thần hy sinh mang dòng máu anh
hùng hảo hán kiểu Nguyên Hồng. Với Chín Huyền, một "bỉ vỏ" đã hoàn lương, vậy mà vì
tình xưa nghĩa cũ đã cởi trói cứu th oát một người "bạn giang hồ" dù có biết chắc chắn sẽ phải
trả giá bằng xiềng xích tù đày.
Ở nhân vật bà mẹ trong truyện Nhà Bố Nấu thì chấp nhận sự đau thương do xuất phát
từ lòng tự trọng. Bà cụ tự nguyện sống với con trai nghèo, hàng ngày chui ra chui vào một
túp lều rách nát, ban ngày thì mù mịt khói, ban đêm thì đầy muỗi, tuy rằng bà cụ hoàn toàn có
thể được sống nơi nhà cao cửa rộng với một cô con gái tuy làm "nghề me Tây" nhưng vẫn
yêu thương mẹ. Quan niệm của bà cụ là "đói cho sạch rách cho thơm". C ụ thẳng thừng bảo
con gái: "Cô sung sướng mặc cô. Tôi có rách mặc rách, quần lành áo tốt cô may cho tôi đấy
cô đem đi cho ai thì cho. Và tôi chẳng dám cầu cô đem tôi đi mà phụng dưỡng báo đáp. Tôi
chỉ ở chết già với thằng bố Nấu và các con của nó thôi".
Ở chị cu Năng trong Sông Máu, tinh thẫn "ch ịu nạn " lại gắn v ới tìn h mẫu tử, còn ở
nhân vật Tâm trong Lớp Học Lẩn Lút, tinh thần ấy lại được nuôi dưỡng bằng tình nghĩa đối
với những người lao động nghèo khổ nhưng tốt bụng ... Sau này khi Nguyên Hồng đã giác
ngộ cách mạng, thì nhân vật của ông sẽ là những chiến sĩ cộng sản tự nguyện chịu đựng mọi
gian khổ thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình vì giai cấp và dân tộc
Nhắc đến nhân vật đau thương của Nguyên Hồng không thể không nhắc đến những trẻ
em nhà nghèo. Đó là những số phận tội nghiệp mà ông đã trải qua thời thơ ấu. Những Ngày
Thơ Ấu là tập hồi ký ghi lại những "rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài
trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn" (Thạch Lam). Đàn Chim Non là tình
cảm thương yêu của ông dành cho những em bé mồ côi phải sớm bước vào đời để kiếm sống.
Trong bút ký Cuộc sống có những trang đầy rung cảm vẽ lại chân dung của một loạt đứa trẻ
21
nhà nghèo được gợi lên từ những tấm ảnh (Những mầm non). Trong Hơi Thở Tàn cũng có
những hình ảnh em bé hết sức đáng thương, chúng bồng bế nhau lê la trong cát bụi, lại bắt
chước cả giọng van xin thê thảm của người đàn ông mù dắt con đi ăn mày, nghe "rợn cả tâm
trí".
Đặc biệt là thiên truyện Giọt Máu viết về một em bé nhà nghèo. Cuộc sống cực khổ, tối
tăm, đầy những đe dọa của đói rét, của áp bức đã làm cho em lúc nào cũng rụt rè. sợ hãi ngay
cả khi ăn uống hay vui chơi. Bố mẹ đi làm cả ngày, em ở nhà làm đủ mọi việc: quét nhà, rửa
bát, bế em. Em còn cặm cụi vun xới hai luống ngô, mơ ước đến khi bẻ bắp sẽ đem ra phố bán
cho các cô thợ ở Máy Tơ, Sáu Kho để lấy tiền may áo tết cho em nhưng mụ chủ nhà độc ác,
tàn bạo đã bẻ trụi những bắp ngô non để trừ nợ tiền nhà của bố mẹ em. Chiều hôm ấy, dưới
trời mưa rét "cháu bé lẩn quẩn hết gốc ngô này đến gốc ngô khác, vuốt vuốt, chắp chắp, nối
nối và khóc. Nó khóc chỉ có tiếng nức nở chứ không thấy nước mắt. Nước mắt của nó bị hòa
hẳn dưới những trận mưa đổ rào rào xuống người nó run cầm cập và xám ngắt". (11 - 384)
Nguyên Hồng xứng đáng được gọi là nhà văn của trẻ em bị chà đạp, áp bức trong xã
hội cũ. Nhà văn đã tha thiết kêu gọi mọi người quan tâm một cách thiết thực đến đối tượng
đáng thương ấy. ông đòi phải có sữa cho trẻ em nghèo: "Sữa! Sữa! Hỡi những thiếu nữ! Hãy
dừng tiếng cười, dừng chân nhảy một phút! Kìa! Những bàn tay bé nhỏ đương vẫy các bạn,
những con mắt lờ đờ ướt át đương van lơn các bạn, những cặp môi mỏng đã héo quắt lại
trước khi cười với các bạn, những nụ cười ngây thơ và xinh tươi..."
"Sữa ! Sữa !
Người ta đang chờ ở một thi sĩ một bài thơ, ở một nhà văn một trang truyện kêu đòi sữa
cho trẻ con".(l2,2l4)
2.2. Nhân vật thánh thiện:
2.2.1. Sự chống trả mãnh liệt trước tình trạng tha hoá:
Đọc Nguyên Hồng, dường như thấy ông chồng chất lên vai nhân vật của mình những
nỗi thống khổ để thử thách sức bền của đức tin và lòng nhẫn nại gan góc của họ, để vĩnh cửu
hóa vẻ đẹp thánh thiện trong tâm hồn họ. về phương diện này, Nguyên Hồng đã tạo ra trong
các tác phẩm của mình " những tính cách lớn, không phải lớn về trí tuệ, về cải tạo thế giới mà
lớn về trái tim sục sôi, mãnh liệt, lớn về niềm tin yêu vô cùng đối với sự sống và lớn về sức
gánh chịu phi thường, những khổ đau oan trái ở đời " (29 - 41)
Trong đêm trường tăm tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng, đói nghèo, tù túng là
căn nguyên của sự hủy hoại nhân tính, biến chất của tâm hồn con người. Cuộc sống cùng
22
kiệt, khốn quẫn có lúc biến họ thành ác quỷ đến nỗi Vũ Trọng Phụng đã quan niệm "Loài
người chỉ là lũ ăn cắp, hiếp dâm" (Giông Tố) "cái tiếng ăn gian, ăn cắp là cá tính của loài
người" (Cạm Bầy Người). Còn Nam Cao lại có cách nhìn con người mà "sự tha hóa đã làm
biến dạng đi, phải nhìn kỹ, suy ngẫm mới nhận ra được cái phẩm chất bên trong, vẻ đẹp tâm
hồn của họ như Lão Hạc, Chí Phèo
Hoàn toàn khác với quan niệm của Vũ Trọng Phụng và c ũng không thật giống Nam
Cao, nhân vật trong tác phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng không để cho hoàn cảnh
biến họ thành con vật, họ đấu tranh để giữ cho được bản chất người lương thiện của mình.
Đôi lú c họ đứng chênh vênh bên bờ vực thẳm của sự tha hóa, nhưng cuối cùng bao giờ họ
cũng chiến thắng.
Trong thế giới nhân vật của Nguyên Hồng có một loại người được ôns đặc biệt quan
tâm, nhất là trong những tác phẩm đầu tay: loại lưu manh gái điếm. Nhưng dưới ngòi bút
Nguyên Hồng, những con người ấy dù sống tr ong bùn, tâm hồn vẫn không chịu hoàn toàn
"hôi tanh mùi bùn", ở chỗ này, Ng uyên Hồng có một cái gì rất g ần g ũi v ới n hà v ăn Nga
M.Gorki. Có thể lấy thí dụ như truyện Con Chó Vàng chẳng hạn. ở truyện này có hai nhân
vật là hai đứa bé ăn cắp ( Điều, Tý Sáu ) rắp tâm cướp túi tiền của một ông lão ăn mày.
Chúng đã đánh bả chết con chó vàng và khi túi tiền đã nằm gọn trong tay, nhìn ông lão vật vã
bên xác con chó, chúng đã xúc động ném trả túi tiền và "ôm mặt khóc"
Ở những truyện như Bảy Hưu, Chín Huyền có những nhân vật lưu manh, chẳng những
tâm hồn không bị vấy bùn mà càng tỏ ra có nghĩa khí hơn người. Bảy Hưu là một người đàn
bà ăn cắp nhưng trước cảnh tượng nhục nhã của cánh đàn ông trong bọn. Bảy Hưu đã quyết
rửa nhục bằng một thủ đoạn sát nhân, việc không thành và Bảy Hưu bị hại. Chín Huyền là
một con người nghĩa khí, lòng thương bạn làm nàng quên cả thân đau ốm, quên cả sự hiểm
nghèo.
Biểu hiện sinh động nhất là Tám Bính trong Bỉ Vỏ. Cô phải chọn lựa giữa hai con
đường: sống yên ổn với thằng chồng mật thám hay mở cửa ngục cho Năm Sài Gòn và cùng
với hắn trở về cuộc sống đầy nguy hiểm. Tám Bính đã cứu Năm Sài Gòn vì bản chất vị tha và
tình nghĩa thủy chung của cô. Như vậy qua Bỉ Vỏ người ta thấy Nguyên Hồng không bao giờ
đánh mất niềm tin ở bản chất tốt đẹp của những người lao động.
Viết về những người phụ nữ làm nghề "mua vui cho thiên hạ bằng xác thịt của mình",
Nguyên Hồng cũng có cách nhìn nhận khác hẳn với nhiều nhà văn khác. Trọng Lang đã tàn
nhẫn khi viết "Đối đãi với gái nhảy với cô đầu, gái đĩ bằng tình thương người ta sẽ là nhà đạo
đức dớ dẩn (Hà Nội lầm than). Nhìn họ bằng con mắt kinh tởm, Trọng Lang chỉ thấy ở họ
cái bẩn thỉu, cái vô nghĩa trong kiếp sống của người đàn bà. Ngay cả Vũ Trọng Phụng cũng
23
thấy sự sa đọa của những người phụ nữ làm nghề này là do nguyên nhân sinh lý và sự lười
biếng, lao động mà thôi. (Làm đĩ, Lục xì) Nguyên Hồng không quan niệm như vậy. Trong
truyện ngắn "Một truyện bên người đàn bà" cũng có một nhân vật gái điếm. Nhưng đây là cô
gái tha hóa vì số phận, vì hoàn cảnh xã hội chứ không phải do bản chất, do tính cách. Trước
tình cảnh một thanh niên do ăn chơi lêu lổng quá đà đến nỗi phải thắt cổ tự vẫn, cô đã nói
những lời thật là đích đáng: "Mà việc gì phải tự tử ! Thân làm tội đời chứ ai làm mình ? Đua
đòi ăn mặc rồi đâm đầu đi chơi bời cho sung sướng lắm vào, chứ đói khổ, rách rưới, lo bữa
sớm, mất bữa tối, vì người này, người nọ nắng mưa, đêm hôm vất vả đầy đọa gì, Và chìm
đắm đau đớn, tủi nhục đến thế nào để đến nỗi phải tự tử ? Những hạng này mà như thiên hạ
thì chắc phải tự tử đến nghìn lần rồi, hay thiên hạ cũng thế thì người ta đến chết hết mất. Thôi
tỉnh dậy đi... chết làm gì ! ... Đời trai trẻ còn dài còn sung sướng chán mà !"
Cũng phải nói rằng, chất lưu manh côn đồ ở nhiều nhân vật của Nguyên Hồng dường
như hình thàn h do hoàn cảnh sống đặc biệt của những người dân tứ chiếng trên một thành
phố cảng. Là dân tứ chiếng gặp nhau, phần lớn lâm vào tình cảnh cùng đường mạt lô phải tha
phương cầu thực, cùng tự ném mình vào một cuộc vật lộn quyết liệt kiếm sống trên đồng đất
xứ người, họ chỉ còn trong cậy chủ yếu ở tài trí đảm lược của mình. Tình thế ấv buộc họ phải
can đảm đến táo tợn liều lĩnh. Nhân vật Nguyên Hồng vì thế thường có những "anh hùng hảo
hán" hay nói nôm na hơn là "chất anh chị" (...). Những người phụ nữ cũng vậ y. Chẳng hạn
như vợ lão Đen làm phu khuân vác ở bến tàu Sáu Kho: "quại băng băng trên vai cả một tạ
gạo, thích cùi tay vào mạng mỡ người ta, đâm xỉa vào lá mía và cứ nhè chỗ hiểm lên gối"
(29,85,86)
Đó cũng là đặc điểm rất riêng của nhiều nhân vật Nguyên Hồng. Có thể nói, nhiều nhân
vật gọi là lưu manh trong tác phẩm của Nguyên Hồng đều ít nhiều có mang dòng máu hảo
hán và tinh thần nghĩa khí, nghĩa hiệp của người dân lao động thành phố cảng. Họ hung hăng
táo tợn phần nhiều là do cuộc sống bon chen, căng thẳng buộc phải thế. Đó là gai góc chĩa ra
ngoài hơn là bản chất bên trong của họ.
Từ khoảng 1939 đến 1945, ngòi bút Nguyên Hồng thường hướng về tầng lớp tiểu sản
trí thức nghèo và ta thấy nhiều khi ông cũng đặt nhân vật của mình vào tình huống như
thường thấy trong tác phẩm của Nam Cao về loại nhân vật này (Đời Thừa, Quên Điều Độ,
Nước Mắt...) Đó là tình huống "áo cơm gh ì sát đ ất". Nhưng kh ác với Nam Cao, Ng uyên
Hồng thường đặt nhân vật của mình trước cái đói và miếng ăn theo nghĩa đen của nó, nghĩa là
tình cảnh của những lớp người cùng khổ nhất, giống như nhân vật bà cái Tý trong Một Bữa
No củ a Nam Cao. Nhân vật củ a Ng uyên Hồng dù là tiểu tư sản cũng v ẫn thu ộc lớp ng ười
"dưới đáy" của xã hội thực dân phong kiến. Trong tình huống ấy, người ta thấy nhân vật của
24
Nguyên Hồng tuy nhiều khi cũng không giữ nỗi bản lĩnh, nhưng không bao giờ chịu chết hẳn
phần người như trường hợp bà cái Tý trong Một Bữa No, anh cu Lộ trong Tư Cách Mõ, hay
gã thèm rượu mất hẳn tư cách làm cha trong Trẻ Con Không Biết Ăn Thịt Chó. Người đọc
thấy trường hợp của nhân vật Hưng trong truyện Miếng Bánh đã hối hận đến đau đớn như thế
nào khi ăn vụng vợ một tấm bánh. Nhân vật Giang trong Ngọn Lửa cũng thế. Nhịn đói đã ba
bốn ngày, anh ta đành nhắm mắt đánh liều thò tay bốc trộm cơm nguội trong cái nồi của nhà
chủ đặt ở gầm giường ngủ của anh ta. Anh ta đã phải trả giá bằng biết bao đau đớn nhục nhã.
Nhưng khác nhân vật Nam Cao, nếu có xấu hổ thì cũng chỉ xấu hổ cho cái nhân cách hèn hạ
của bản thân mình thôi. ở nhân vật Nguyên Hồng sự xấu hổ còn có những lý do rộng lớn hơn:
xấu hổ khi nghĩ đến nhân dân, đến những người cách mạng nữa: "Không thể được! không thể
được! Tôi đã đến nỗi chết đói đâu mà phải ăn uống với sự nhắm mắt như thế? Tôi nghĩ đến
những thôn quê cùng cực trong những tháng ba ngày tám, mất mùa và lụt lội, hàng tháng chỉ
được có bát cháo cám, lưng củ chuối luộc. Tôi nghĩ đến em gái tôi bị tù đày tra tấn. Tôi nghĩ
đến những cuộc tuyệt thực năm ngày, bảy ngày ở những địa ngục Sơn La, Côn Lôn, Kontum,
Lao Bảo ... tôi nghĩ đến ... không! không! Tôi mới nhịn cơm có bốn ngày. Tôi còn nhịn được
năm ngày hay sáu bảy ngày nữa không ăn mới chết. Những người đói khổ kiệt quệ và ốm yếu
kia còn có thể chịu đựng cái đói như thế thì tôi ... ( 14, 51,52 )
Nhân vật của Nguyên Hồng bên bờ vực của sự t ha hóa thường có những cơn sám hối
dữ dội như thế. ở đây cũng có thể có ảnh hưởng của đạo Cơ đốc chăng? Có thể xem đó là
những giây phút thiên khải, thần khải từng biến kẻ sát nhân thành thánh nhân trong sự tích
các thánh của đạo Gia Tô? Có thể kể đến những nhân vật trong Ông Già Nghiện, Năm Dòng
Chữ Máu, Miếng Bánh, Sau Hai Mươi Năm, Ngọn Lửa ... và nhiều nhân vật khác trong Cửa
Biển sau này.
2.2.2. Người phụ nữ thánh thiện:
Có thể nói Nguyên Hồng xứng đáng là nhà văn của phụ nữ thuộc các tầng lớp bị bóc lột
trong xã hội cũ . Hìn h tượng ng ười phụ nữ ch iếm v ị trí nổi bật nhất trong các sáng tác củ a
Nguyên Hồng. Người ta thấy Nguyên Hồng đã dùng 3/4 số tác phẩm của mình để viết về phụ
nữ với tư cách là nhân vật chính.
Trước Cách mạng tháng Tám Nguyên Hồng có 2/3 tiểu thuyết viết về phụ nữ. Riêng về
truyện ngắn người ta thấy tập Bảy Hưu có 9/12 truyện, tập Miếng Bánh 5/6 truyện, Hai Dòng
Sữa 6/8 truyện ...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh viết "Nguyên Hồng đã tạo ra trong nhiều tác phẩm
của mình những tính cách lớn, không phải lớn về tư tưởng, về trí tuê, về hành động cải tạo
25
thế giới mà lớn về trái tim sôi sục, mãnh liệt" (29,41). Đúng như vậy, đây là một đặc điểm cơ
bản của nhân vật Nguyên Hồng.
Ta đã nói đến sức gánh chịu phi thường của những nhân vật này, đã nói đến đức hy sinh
xả kỷ kỳ lạ của họ. Sức mạnh tinh thần ấy bắt nguồn từ đâu? Thực chất là gì? Tất cả là do trái
tim lớn của nhân vật, đặc biệt là nhân vật phụ nữ. Nói chung truyện ngắn hay tiểu thuyết của
Nguyên Hồng cũng thế. Có thể gọi đó là những bài ca về trái tim lớn của người phụ nữ lao
động, của những bà mẹ, những người vợ nghèo khổ mà đầy nội lực tinh thần. Họ không có
những thành tích vĩ đại, những chiến công lừng lẫy. Họ chỉ âm thầm làm những công việc
nhỏ mọn hàng ngày mà đời không biết đến những đòi hỏi ở họ biết bao hy sinh bền bỉ, biết
bao đau đớn về thể xác và tinh thần. Công lao vĩ đại của họ chính là đã duy trì sự tồn tại của
sự sống thường nhật của hàne triệu con người vô danh trên đất nước này. Họ đã sinh con, đẻ
cái, nuôi chồng, nuôi co n trong những hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn cực khổ dưới đủ thứ tai
ách của Tâv, của Nhật, của địa chủ, tư sản, của lính tráng cai ký, của sưu cao thuế nặng, của
bão lụt, hạn hán... của những phong tục mê muội trong một xã hội còn đầy tàn tích phong
kiến và của cả những thằng chồng vũ phu, hung bạo vì thua bạc, rượu chè, đã chửi mắng,
đánh đập họ một cách hết sức vô lý ...
Chẳng hạn như nhân vật vợ Hưng trong truyện Miếng Bánh. Tác giả gọi nhân vật này
bằng một đại từ trung tính vô cảm là y, nhưng thực ra có biết bao xót thương, trân trọng đã
đặt cả vào nhân vật này. "Cuộc đời thân thể và sự sống của y như không có đối với y, chỉ
bàng bạc một hình ảnh: đó là gia đình, gia đình của mẹ y, chị y, em gái y, Gia đình của mẹ
chồng và một người cha già khắc khổ (...) và cái gia đình sau này. Cái gia đình hiện đang
nhóm rau, nhóm bếp và chưa biết sẽ thành ở đâu đây - với Hưng, với những con Hưng ...
Ngoài những con người ấy, chồng con và cháu ấy, bất cứ cái gì xảy ra, lôi cuốn hay chồng
lên đời y cũng được, đói rét, ốm đau, chợ xa đường vắng, ngày mưa ngày nắng dầu dãi khác,
gánh rau, gánh đất làm thuê làm mướn ... những gì thay đổi nữa y cũng xin cúi đầu chịu lấy
hết, nếu những người kia sống và y sống ..." (11, 270)
Nhân vật Mũn trong truyện Đây Bóng Tối cũng là một người đàn bà như thế. Từ bé,
Mũn đã nhẫn nại giúp Nhân trong tiếng cười nhạo báng chung quanh. Họ yêu nhau và mong
ước bằng chính lao động của mình có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Nhưng tai họa liên tiếp
ập xuống cái gia đình nhỏ bé ấy, phá tan những ngày êm ấm trong gia đình họ. Trong hoàn
cảnh ấy Mun vẫn vui vẻ động viên chồng con vui sống. Những người lao động vốn có tấm
lòng yêu thương, chung thủy, bền vững. Hơn Nhân, Mun còn chịu đựng nhiều ức hiếp bất
công củ a x ã hội đ ể kiếm miếng ăn mà Mùn vẫn vui vẻ, vẫn không hề cất tiếng than vãn.
26
Những kẻ yếu đuối sẩn có một tấm lòng yêu thương giản dị, rất chân thật, nhưng thấm thía vô
cùng.
Trong truyện ngắn Nguyên Hồng, người đàn ông trụ cột trong gia đình thường bị mù
lòa, chết sớm, rượu chè cờ bạc trở nên vô tích sự, vì thế nến người phụ nữ phải lo toan gánh
vác tất cả và trở thàn h trụ cộ t trong gia đìn h n h ư: Quyến (Trong cảnh Khốn Cùng) Mũn
(Đây Bóng Tối), chị cu Năng (Sông Máu), Huyền (Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn). Người phụ
nữ của Nguyên Hồng không chịu bó tay trước hoàn cảnh, nhiều gia đình nghèo khổ sở dĩ vẫn
tồn tại được là nhờ ở sự cần cù đảm đang đầy ý chí phấn đấu của họ.
Tinh thần nhẫn nại, đức hy sinh âm thầm bền bỉ của người phụ nữ trong các trang viết
của Nguyên Hồng hoàn toàn không có nghĩa đó là những con người hèn yếu, tiêu cực, con đẻ
của lễ giáo phong kiến.
Trong một số tác phẩm, người ta thấy ông không chấp nhận sự trói buộc tình cảm của
người phụ nữ trong quan hệ luyến ái. Như trong truyện Người Con Gái chẳng hạn, Lệ Hà là
một cô gái hết sức nết na nhưng cô đã yêu một cách nhiệt tình, thẳng thắn, một tình yêu tự do
và chân thật đến táo bạo. Người yêu gởi cho cô thư, cô trả lời và chạy theo tiếng gọi của trái
tim mà tự thấy không có chút gì tội lỗi. Truyện Lúc Chiều Xuống còn cho thấy quan điểm
tiến bộ hơn nữa của Nguyên Hồng đối với người phụ nữ trong gia đình. ông cho rằng vợ
chồng phải hoàn toàn bình đẳng, bình đẳng cả trong quan hệ xã hội. Ông không tán thành
quan niệm của n hững ông chồng coi phụ nữ ch ỉ là ng ười của bếp nú c, củ a nội trợ ... Lúc
Chiều Xuống là chuyện vợ chồng một nhân vật tên là Lưu. Lưu rất yêu vợ nhưng là một thứ
tình yêu ban ơn, thí bỏ, một tình yêu chứa đựng trong đó một thái độ rẻ rúng với người yếu.
Vợ Lưu đã nhận ra điều ấy và không chấp nhận, dù chị rất yêu chồng: "Chịu sao được cái
tình thương thừa thãi, thí bỏ của kẻ vuốt ve người ta mà vẫn rẻ rúng người ta, lợi dụng rất
nhiều người ta mà vẫn nêu cái tiếng cưu mang phúc đức? Người ta chỉ cần quí trọng với cái
giá trị thực của sự làm việc và tình cảm của mình. Và cũng một tấm lòng thương yêu có thật
là tâm can con người hiểu biết nhau, cảm thông sự đau khổ, mừng vui, tin tưởng với nhau và
cùng chung với nhau những thiết tha mong muốn. Sự thực của cuộc đời ngày càng chứng tỏ
sáng suốt điều đó (...) Vợ Lưu nức nở, nuốt nuốt những giọt nước mắt giàn giụa vào miệng,
đau đớn thấy lần này phải là lần chót. Sau đêm nay, sáng mai y phải làm việc ngay. Đi đâu,
làm nhà máy hay buôn bán nhỏ nhặt gì cũng được". ( 11,340)
Nhìn chung, ý thức tự trọng là một nét tính cách khá sâu sắc của nhân vật phụ nữ của
Nguyên Hồng. Họ tuy nghèo khổ thật đấy nhưng tiền tài không dễ mua được họ, như cô Láng
trong truyện Láng đã khước từ một đám nhà giàu để lấy một anh nông dân nghèo khổ mà cô
yêu quí hoặc như cô Lựu trong Cô Gái Quê đã khinh bỉ thái độ thô lỗ mà một chàng công tử
27
bột tưởng có thể thuyết phục được cô bằng tiền bạc và cái mẽ ngoài của dân tỉnh thành. Cô
nói thẳng vào mặt anh ta: "Tôi không ngờ người tỉnh thành các bác lại như thế! Sang trọng,
lắm tiền, có học mà làm gì!" (11,183).
Trong các nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng nổi trội lên hình tượng những người phụ
nữ trẻ, nghèo khổ cần cù, nhẫn nại, giàu lòng vị tha và hy sinh, có một bản năng tự nhiên của
phụ nữ là thương yêu con nồng cháy thiết tha. Nỗi vui mừng và hạnh phúc của người mẹ theo
họ là được "chiều theo ý con như một tên nô lệ sung sức" (Những Ngày Thơ Ấu) Họ coi đứa
con là tài sản, là cái lãi của đời họ nên họ vui lòng chịu đựng tất cả để "gây dựng cho vinh
sáng cái máu di truyền của dòng dõi nhà mình" (Nỗi vui sướng của người mẹ - Miếng Bánh)
Người mẹ trong truyện của Nguyên Hồng thật nghĩa tình và chu đáo cho tới lúc nhắm
mắt lìa đời, phải bỏ lại đứa con côi cút. Sự đau đớn ấy làm cho mẹ Huyên, mợ Du ... quằn
quại trước khi từ giã cuộc đời.
Truyện ngắn Mợ Du viết về một người mẹ khổ nhục, nạn nhân của đói nghèo, lễ giáo
nghiệt ngã và của tình đời đen bạc. Tuy bị vùi dập xuống tận đáy xã hội, người mẹ khổ nhục
này vẫn như một đóa sen trong bùn.
Như thế có nghĩa là sự chịu đựng nhiều khi đến nhẫn nhục của nhân vật phụ nữ của
Nguyên Hồng xét đến cùng là do trái tim lớn muốn bao dung tất cả, thương yêu đến mức
quên mình. Nhân dân ta thường nói: thương người như thể thương thân. ở nhân vật phụ nữ
của Nguyên Hồng, dường như thương người còn hơn cả thương thân nữa.
Vấn đề đặt ra là vì sao Nguyên Hồng lại khẳng định người phụ nữ lao động nghèo khổ
đều có trái tim thánh thiện như thế? Đó là chân lý chăng? Nếu là chân lý thì chân lý ấy bắt
nguồn từ đâu? Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến khi bàn về truyền ngắn Nguyễn Huy Thiệp
có đề cập đến khái niệm "thiên tính nữ". Điều này có lẽ đúng với nhân vật của Nguyên Hồng
hơn là nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp. Trong trái tim người phụ nữ của Nguyên Hồng có lẽ
có cả tình hữu ái giai cấp giữa những người nghèo khổ. có cả tính bác ái của chúa Giêsu, có
cả truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, có cả ảnh hưởng của tiểu thuyết của C.Dickens,
V.Hugo, M.Gorki ... Nhưng có lẽ tất cả đều kết tinh trên cơ sở của mẫu tính vĩ đại của người
phụ nữ. Thiên tính nữ chính là ở đó. Có thế, ta mới giải thích được đức hy sinh như một bản
năng của nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng của những mụ Đen trong Bố Con Lão Đen, mụ
Mão trong Người Mẹ Không Con, Mũn trong Đây Bóng Tối, nhà SƯ nữ trong Nhà Sư Nữ
Chùa Âm Hồn, Quyến trong Trong cảnh Khốn Cùng ...
Dưới ngòi bút Nguyên Hồng, người phụ nữ không chỉ là nạn nhân đau khổ mà còn là
kết tinh những gì là "cái đẹp đẽ vĩ đại của dân tộc Việt Nam " (Lê Duẩn).
28
2.2.3. Những con người có niềm tin mãnh liệt:
Nói đến sức mạnh to lớn của nhân vật Nguyên Hồng không thể không nói đến niềm tin
mãnh liệt ở những con người ấy. Một đức tin thật kỳ diệu. Nếu là những chiến sĩ cộng sản thì
có thể giải thích bằng lý tưởng, bằng sự nhận thức được quy luật tất thắng của cách mạng.
Nhưng nhân vật trong các tác p hẩm củ a Ng uyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám ch ưa
phải là những người cộng sản. Đây là niềm tin ở sự sống, ở cuộc sống của những con người
bị chìm sâu trong vực thẳm của đói nghèo, tiền đồ mù mịt thậm chí kề bên cái chết. Vậy mà
họ vẫn tin rằng ngày mai đời sẽ tốt đẹp hơn. Một niềm tin vô cùng mãnh liệt và bền vững. Có
lẽ Nguyên Hồng đã phát hiện ra ở đó bản chất của nhân dân lao động, tác giả của biết bao
truyện tiếu lâm và những Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, những câu đố vui, những cách chơi chữ
hóm hỉnh, những lời thoại tinh nghịch đặt vào miệng những chú hề trên sân khấu chèo ...
Đó là niềm tin của những con người do hàng ngày vật lộn với cuộc sống, nên gắn bó
máu thịt với cuộc sống do đó luôn yêu đời, yêu sống và tin ở sự sống.
Đây có lẽ là chỗ cảm động nhất của nhân vật Nguyên Hồng. Bởi vì ở vào tình cảnh mà
nếu như người khác chỉ có thể khóc lóc rên rỉ thì những nhân vật cùng khổ của Nguyên Hồng
vẫn có thể nở nụ cười tin tưởng.
Chẳng hạn như nhân vật Nhân trong Hai Nhà Nghề. Dù nghèo đói, bệnh tật Nhân vẫn
tự động viên phải luôn luôn hoạt động và "hớn hở như ánh nắng tưng bừng nó giỡn trên cỏ
cây đầy nhựa của trời xuân".
Nhân vật Vịnh trong Hàng Cơm Đêm cũng vậy, dù suốt ngày đầu tắt mặt tối mà vẫn
nghèo túng, cô vẫn tin với sự làm lung của mình, cuộc đời rồi sẽ sáng sủa hơn, sẽ được hít
thở "trong một bầu không khí trong lành, một ng u ồn sáng rực rỡ bên một cuộc đ ời mới"
(9,32)
Niềm tin ấy càng cảm động khi nó là thứ ánh sáng tâm hồn ưong suốt của những trẻ em
nghèo. Tuy sống trong cảnh khốn cùng mà vẫn tin ở sự sống, ở tương lai. Đó là câu chuyện
cảm động về một đứa trẻ tên là Thạo bé trong truyện Giọt Máu. Em là con nhà nghèo. Bố
làm "cu ly", mẹ buôn thúng bán mẹt. Chị Thạo nhớn theo mẹ đi chợ. Thạo bé ở nhà bế em là
cái Tý con. Gia đình ở thuê một căn nhà của mụ chủ nhà ác nghiệt. Thạo bé có một tâm sự r ất
tội nghiệp: "Trước ánh lửa bếp lom nhom và ánh đèn lù mù sắc mặt Thạo càng xạm thêm
ngây dại và cô độc hơn. Con bé ấy gắp rau, húp nước dưa và nhất là xới cơm đều rón rén như
sợ rằng nó không được phép ăn những thứ quý báu ấy. Vì nó thấy rằng nó không thể theo mẹ
đi chợ như con chị nó. Và nó lại không bé hẳn như cái Tý con để được hưởng sự đặc biệt ăn
uống no nê và không phải làm gì". (11,372,373)
29
Để có thể có một chút gì đóng góp vào cho gia đình, Thạo bé nghĩ ra việc trồng mấy
luống ngô trên mảnh vườn hoang của bà chủ cho thuê nhà. Ngô lớn dần rồi có bắp. Thạo bé
hy vọng có ngày bẻ bắp sẽ đem ra đầu phố bán cho các cô đi làm Sáu Kho, Máy Tơ ... lấy
tiền may áo.
Nhưng mụ chủ nhà đến đòi tiền thuê nhà của bố mẹ Thạo bé và bẻ hết những trái bắp
mồ hôi nước mắt của Thạo bé. Thạo bé ốm nặng phải đi nhà thương tưởng như chẳng còn hy
vọng gì nữa. Nhưng không, vào một "buổi sáng tinh sương, theo thường lệ tôi dậy tập thể
thao.Tôi bỗng giật mình vì tiếng xào xạc ở bờ giậu và có một cái dáng nhỏ lúi húi. Tôi đã
toan kêu lên nhưng nén ngay được. Tôi nhẹ bước đi ra. Cái dáng lúi húi ấy là Thạo bé.
Thạo bé làm gì đấy?
Ở ven miếng đất những luống ngô hôm nọ bị giằng lên vỡ lát lả tả, không hiểu được xới
lại, làm lại v à n h ặt sạch cỏ lú c n ào, Thạo bé đ ương lom khom với cái dao rựa cùn và một
mảnh nứa trong tay. Nghe tôi gọi, Thạo bé choàng ngước lên. nhớn nhác nhìn tôi.
Cháu làm gì đấy? Ai bảo cháu làm gì sớm thế? Thạo bé chớp mắt và đứng lên. Cái thân
hình bé nhỏ, áo thì sẽ cả hai vai, quần thì cộc đến gối ấy đã run lên ở trước mắt tôi với những
tiếng nói run run như không thể vượt ra khỏi cổ họng.
Cháu ... cháu đã mua được lẻ ngô giồng ... cháu lại giồng ạ" (11,386 ).
Trong những ngày cuối cùng của chế độ thuộc địa Pháp, tức là đêm trước của cuộc
Cách mạng tháng Tám do tiếp xúc với ánh sáng lý tưởng và thực sự tham gia cách mạng,
Nguyên Hồng đã sáng tác hàng loạt tác phẩm ưong đó niềm tin của nhân vật sáng chói hơn
bao giờ hết. Như những nhân vật trong Ngọn Lửa, Địa Ngục Và Lò Lửa ... đó là những con
người dù bị rơi xuống đáy cùng của sự nghèo đói, bế tắc nhưng vẫn tin tưởng: "Hiện tại tối
tăm bi thảm là lúc này đây. Vượt khỏi là sang tới ngày mai. Mà còn ngày mai là còn tương lai
chắc chắn phải vui tươi rực rỡ" (16,53)
Trong những tác phẩm ra đời vào thời gian này, đặc sắc nhất là truyện Đi. Một thiên
truyện mang chất "Gorki" trong một cảm hứng hết sức cường tráng mãnh liệt. Truyện viết về
một đám đông những người dân quê bị nạn đói khủng khiếp năm 1945 xua đuổi ra khỏi quê
hương. Họ k éo nhau đi tới các thàn h phố h y vọng k iếm được việc làm và miếng ăn. Dọc
đường họ đã đi qua bao cảnh tượng thê thảm, qua bao xác chết và bản thân họ cũng chết dần.
Một đoàn người tả tơi rách rưới, gầy gò, đen đủi đi trong cõi chết. Vậy mà niềm tin vẫn dai
dẳng, đặc biệt ở một bà mẹ già. Cùng đi với bà có anh con trai, mấy đứa cháu nhỏ, có đứa
còn bế ở trên tay.
30
Trong sự tuyệt vọng của một gia đình đói khát, tương lai mù mịt, bà mẹ vẫn nói những
lời tin tưởng. Đây là mấy lời đối thoại giữa hai mẹ con :
" Kìa! Sao thế hả bố mày? Người mẹ quay lại nhìn con trai ngồi sau cái gánh, gục mặt
xuống sụt sịt. Bà cụ chớp chớp mắt:
- Bố mày khóc đấy à? Việc gì mà khóc! Hai vai gầy của người con trai càng giật mạnh
lên với những tiếng hực hực. Y vắt mũi sùn sụt. Người mẹ già lại năn nỉ :
- Làm sao mà khóc ? Việc gì mà khóc !
Mãi người con trai mới nức nở ra nhời:
- Đi, giời đất bây giờ thì còn làm ăn được gì nữa mà đi. Đấy ... đi đấy ... đi khốn cực,
chết vạ chết vất như thế đấy ... đi.
- Thì mình phải cứ như ở mình chứ. Có người chết cũng còn có người sống. Còn người
thì phải có ta. (11,407)
- Nhưng khó khăn lắm mẹ ạ. Mẹ không xem suốt dọc đường chỉ những người đi và toàn
những cảnh vừa rồi đấy. Giờ thì đâu cũng thế thôi, chả đâu còn có công ăn việc làm gì cả, chả
ai còn có thể thương xót và cưu mang được ai hết ! ...
- Đã có giời! không ai cưu mang được ai nữa thì đã có giời. Chả nhẽ giời lại đoản hết cả
mọi người? Bố mày với tao còn nhúc nhắc được thì vẫn có thể trông mong qua khỏi cái đận
này. Có việc thì bố mày với tao cùng làm, ít việc quá thì mình bố mà y làm tao ở nhà đi nhặt
nhạnh cái rau cái cỏ. Nếu khó khăn khốn cực quá thì cả tao và bố mày cùng ăn xin, xin được
ai là người hiền từ nhân đức cho một hột cơm hột cháo nào thì để cả mà nuôi lấy thằng cu và
cái gái lớn, gái bé. Giờ đã ngoài đôi mươi tháng giêng mà cuối tháng ba sang tháng tư thì có
thóc chiêm. Giời đã cho sống qua mấy tháng nữa là không có việc gì nữa. Phải không lo nữa,
có thóc chiêm, hơn hai tháng nữa có thóc chiêm ... có thóc chiêm ...! (11,408, 409)
Người mẹ già hổn hển :
- Làm người thì không được ngã lòng, còn sống ông lão tao không thấy bao giờ ông ấy
hé răng kêu ca nửa lời...
- Bố nó này ... mày có thấy đôi chỗ lúa đã tốt rồi không? và ở mấy chỗ bãi dâu đòi được
về không phải giồng đay mà được giồng ngô, thì có cây bắp đã nhu nhú. Năm nay như thế
chắc chỉ đến tháng tư là cũng nhiều nơi được gặt. Vậy tao tính chỉ cuối tháng ba là về thôi.
Nguyên gặt cho đồng làng cũng phải sang tháng năm, rồi hết tháng năm có được cao công thì
mẹ con hãy đi làm, không lại nói với ông quản lý xin cái đám ruộng của cụ Tuần ấy mà cấy
chia. Xin cái mẫu ruộng hai bố con mày bám năm lụt ấy mà cấy. Ngay vụ chiêm này tao với
31
bố mày có cũng chỉ nên ăn một bữa thôi, rồi để tháng chín, tháng mười phải giồng ngay khoai
và phải gieo thêm su hào bắp cải đằng vườn mẹ Trương nữa ... Thôi, chỉ còn phải đói mấy
tháng nữa, giời để qua khỏi lại là được no, bố nó ạ" ( 11, 410, 411 )
Những đoạn văn như thế chỉ có thể có dưới ngòi bút Nguyên Hồng.
Tuy nhiên, khi diễn tả tâm lý các nhân vật, Nguyên Hồng có một nhược điểm đáng t iếc
là không kìm chế được xu hướng cường điệu quá mức những tâm trạng căng thẳng, nghĩa là
đẩy nhân vật đến độ tột cùng của tình cảm, cảm xúc. khiến người đọc đôi lúc thấy thiều tự
nhiên và có ấn tượng nặng nề.
Đặt biệt là ở những tác phẩm đầu tay vì tuổi đời còn ít và vốn sống tích lũy được chưa
phải là nhiều, cho nên nhà văn không tránh khỏi một cái nhìn còn ít nhiều lý tưởng đối với
cuộc sống nay đây mai đó của mọi hạng lưu manh. ông chưa phân biệt được trong số ấy, đâu
là những con người lương thiện, bị cuộc sống xô đẩy đến cùng cực rồi trở thành lưu manh,
mà trong thâm tâm vẫn luôn luôn dằn vặt đau khổ, chỉ mong có ngày được trở lại sống cuộc
đời lương thiện và đâu là những kẻ tự nguyện chọn nghề "chạy vỏ" để sống. ông chỉ thấy họ
đều nghèo khổ và đều đáng thương như nhau, vì vậy ông đã gán cho họ những phẩm chất cao
quý như nhau: tính hào phóng và tâm hồn rộng mở, lòng yêu thương và sự đùm bọc nhau khi
xảy ra tai nạn hay lúc gặp khó khăn và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì bạn. Rõ ràng là cái nhìn
thương người một cách chung chung, tư tưởng nhân đạo của các tầng lớp tiểu tư sản.
Trên đây là nét cơ bản và độc đáo của nhân vật trong các tác phẩm của Nguyên Hồng.
Cảm hứng nhân đạo mãnh liệt và sâu sắc đã giúp Nguyên Hồng đã tạo ra những nhân vật ấy.
Đó cũng là một trong những biểu hiện của phong cách văn xuôi Nguyên Hồng: phong cách
lãng mạn của một cây bút hiện thực.
32
Chương 3: Phong cách nghệ thuật của Nguyên Hồng trong việc thể hiện chủ nghĩa nhân đạo
Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự th ống nhất tương đối ổn định
của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo
trong sáng tác của một nhà văn. Phong cách nghệ thuật thống nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật, là một biểu hiện của tính nghệ thuật.
Nguyên Hồng là một nhà văn tài năng nên có phong cách riêng hết sức độc đáo. Đó là
phong cách hiện thực giàu chất trữ tình.
3.1. Cốt truyện, tình huống:
3.1.1. Cốt truyện, tình huống trữ tình:
Một trong những khâu cơ bản của nghệ thuật tiểu thuyết, nghệ thuật truyện ngắn là
sáng tạo cốt truyện hay tình huống truyện. Nét đặc sắc của mỗi ngòi bút trước hết thể hiện ở
khâu nghệ thuật này. Nói như thế có nghĩa là mỗi nhà văn có một phương thức riêng trong
việc xây dựng các tình tiết, tình huống cho tác phẩm của mình. Trong giai đoạn văn học 1930
- 1945, tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể văn đạt được nhiều thành tựu rất phong phú.
Hàng loạt tên tuổi đầy tài năng xuất hiện: Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân ...
Trong những nhà văn nói trên, người ta thấy có một số cây bút gần gũi nhau về phong
cách. Có thể kể đến Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng như là những hiện tượng tiêu biểu.
cốt truyện và tình huống trữ tình khơi gợi cảm xúc, kích động sự quan sát hướng nội của nhân
vật, tình huống gợi xót thương, bộc lộ những tâm trạng, những tình cảm, ý nghĩ của nhân vật
và tạo nên chất thơ cho những trang văn xuôi.
Có lẽ Thạch Lam là một trong những nhà văn đầu tiên có ý thức khai thác chất thơ của
đời sống hàng ngày tạo nên bởi những tình huống trữ tình. Thạch Lam thường diễn tả rất tinh
tế những tình cảm nhớ thương, nuối tiếc, những hoài niệm đầy chất thơ. Vì thế ông thường
xây dựng tác phẩm của mình xoay quanh tình huống gọi là trở về với cảnh cũ người xửa.
Dưới bóng hoàng lan là một thí dụ tiêu biểu. Nhân vật chính trở về quê thảm bà ngoại. Anh
trở về với cảnh cũ người xưa trong một tâm trạng bâng khuâng đầy thi vị. Hiện tại và quá khứ
hòa tan làm một trong không khí đầy thương yêu: "Chàng có cảm giác vẫn như ở nhà từ bao
giờ, phong cảnh vẫn y nguyên tĩnh mịch và bà chàng tóc bạc phơ và hiền từ."
Đi trong khu vườn đã từng in dấu chân mình, Thanh thấy cảnh vật thực yên ả, vẫn giàn
hoa thiên lý, vẫn cây hoàng lan và cả cô Nga, người bạn thuở thiếu thời vẫn thân mật như
33
xưa. Và khi Thanh lên tỉnh, Thanh biết rằng "Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như
những ngày trước. Mỗi mùa cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương".
Quả là tinh tế khi các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều truyện trong sáng tác của Thạch
Lam có tình huống như một bài thơ trữ tình. Và có lẽ đây là một thí dụ, lan tỏa khắp truyện là
cái cảm giác ngọt ngào thơm mát của hương hoàng lan, của mối tình e ấp đợi chờ, mối tình
của Thanh và cô bạn hàng xóm. Đặt nhân vật vào một tình huống rất nhẹ nhàng và kín đáo,
Thạch Lam có thể đi sâu miêu tả những rung động khe khẽ trong lòng người. Cái khoảnh
khắc Thanh cảm thấy không gian dịu ngọt và "chăng tơ ở đâu đây" khiến chàng vương phải là
cái cảm nhận thật mơ hồ và cũng thật tinh tế. Không gian dịu ngọt như chăng tơ ấy là gì nếu
không phải là sợi dây tình cảm là tơ duyên vương vấn lòng người và cũng trong khoảnh khắc
ấy mà Thanh cảm thấy "mái tóc Nga thoảng thơm như có giắt hoa hoàng lan nhưng hoàng lan
vẫn còn chưa rụng, hãy còn xanh lắm."
Tác phẩm của Nam Cao cũng đậm đà chất trữ tình. Mỗi truyện thể hiện nỗi đau đớn của
nhà văn trước tình trạng vì miếng cơm manh áo mà con người không sao đứng thẳng lên
được, không sao giữ được nhân tính. nhân cách. cốt truyện, tình huống truyện của Nam Cao
như được rút thẳng ra từ hiện thực đời sống. Nhân vật của Nam Cao là những người nông dân
và trí thức tiểu tư sản nghèo khổ. Họ được đặt trong những hoàn cảnh như rất thường gặp,
những quan hệ, những lo toan thường nhật như vốn có ngoài đời. Nhưng dưới nsòi bút Nam
Cao, mỗi truyện lại chứa đựng ý nghĩa lớn lao, những tư tưởng có màu sắc triết lý sâu sắc.
Truyện ngắn Lão Hạc là một thí dụ. Nhà văn đã khéo dẫn dắt câu chuyện đi từ những
sự việc thoạt xem tưởng chẳng có gì đáng quan tâm. Đó là tình huống lão Hạc phải bán một
con chó. Vậy mà tính cách lão Hạc và chủ đề thương tâm nỗi bật lên từ đấy. Chúng ta biết
mặc dù rất yêu quý con chó vàng lão Hạc vẫn phải bán nó vì không nuôi nổi nó và sợ tiêu
lạm vào số tiền lão dành dụm cho con. Nỗi đau đớn của lão Hạc là ở đó. Bán con chó cũng là
bán đi niềm vui, niềm an ủi cuối cùng của lão. Ta hiểu vì sao lão cứ đắn đo do dự mãi khi
quyết định bán con chó. Và khi buộc lòng phải bán nó, lão vô cùng đau đớn " lão cố làm ra vẻ
vui, nhưng trông lão cứ như mếu và đôi mắt ang áng nước". Lão tự nhận mình là kẻ bất nhân,
là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. "Mặt lão đột nhiên co dúm lại, những
vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái
miệng móm mém của lão mếu máo như con nít. Lão hu hu khóc ..." Câu văn diễn tả được nỗi
đau đớn, sự khổ tâm, sự ăn năn, niềm xót thương của lão Hạc đến tột độ, không sao kiềm chế
nổi nên già mà khóc như con nít. Tuổi già,nước mắt đã vơi cạn, cả bộ mặt phải "co dúm" lại
mới có thể ép được chút nước mắt chảy ra.
34
Kết thúc truyện, lão Hạc tự sát bằng bả chó để bảo đảm tài sản nguyên vẹn cho con trai.
Chuyện càng ngày càng căng thẳng, hấp dẫn có lúc đột ngột, bất ngờ, không đoán trước
được, và bản chất của lão Hạc ngày càng bộc lộ sâu sắc và cảm động. Bề ngoài lão Hạc có vẻ
gàn dở, lẩm cẩm, tầm thường thậm chí còn bị nghi là bất lương nữa. Nhưng thực chất lão Hạc
là một con người rất lương thiện, giàu tình nghĩa thương con rất mực, có thể hy sinh tất cả vì
con.
Truyện ngắn Lão Hạc là một thiên truyện trữ tình sâu sắc, qua câu chuyện đó chúng ta
nhận được tình cảm, tư tưởng, thái độ của người cầm bút đối với những gì ông miêu tả trong
tác phẩm của mình. Khi Nam Cao viết: "Lão Hạc ơi, bây giờ thì tôi hiểu tại sao lão không
muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ có một mình nó để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con
lão đi bằn bặt. Già rồi mà ng ày cũng n hư đ êm, ch ỉ thui thủi một mìn h th ì ai mà chả p h ải
buồn, những lúc buồn có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút" thì rõ ràng mặc dù nhà
văn Nam Cao không xuất hiện, đó chỉ l à lời tâm sự của ông giáo, người đọc vân nhận ra thái
độ thông cảm xót xa của nhà văn với lão Hạc nói riêng và những người cùng khổ nói chung.
Cũng như các tác phẩm của Thạch Lam, Nam Cao, tác phẩm của Nguyên Hồng cũng
thuộc phong cách của "...Những trang văn sôi nổi trữ tình thể hiện một chủ nghĩa nhân đạo
thống thiết. Ông thường viết về những kiếp người đau khổ bất hạnh (đặc biệt là đàn bà) bị
những tai họa dồn dập dìm xuống bùn đen nhưng vẫn quyết vùng dậy để vươn lên ánh sáng.
Đặt trong tình huống ấy, nhân vật của Nguyên Hồng thường có đời sống nội tâm giằng xé,
vật vã, căng thẳng" (21 -88).
Chủ đề truyện của Nguyên Hồng thì đã rõ. Nhìn một cách thật khái quát toàn bộ sự
nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng người đọc thấy hầu như mọi tác phẩm của ông đều hướng
về một chủ đề chung : đó là thể hiện một chủ nghĩa nhân đạo cao cả và thống thiết.
Ngay từ khi bắt đầu cầm bút viết văn, Nguyên Hồng đã xác đinh chỗ đứng của người
nghệ sĩ chân chính thuộc về phía những người lao động nghèo khổ. Ông tự nguyện làm nhà
văn của những người khốn khổ. Nguyên Hồng muốn dùng ngòi bút tát cho cạn hết cái bể khổ
cuộc đ ời. Nh à văn th iết tha mu ốn nói to lên nỗi đ au k hổ lầm th an củ a n hân d ân lao động
nghèo khổ với nỗi đồng cảm và lòng yêu thương tha thiết.
Và ông cũng muốn truyền tới người đọc sự đồng cảm và lòng yêu thương đó. Nhưng
lòng nhân đạo của Nguyên Hồng không phải là thứ tình thương tiêu cực. Người ta gọi chủ
nghĩa nhân đạo của ông là chủ nghĩa nhân đạo lạc quan. Bởi vì ông rất tin ở sức mạnh tinh
thần của nhân vật của mình, dù trong bất cứ tình huống bất hạnh thế nào cũng không bao giờ
gục ngã, trái lại vẫn vươn lên với những phẩm chất cao quý.
35
Truyện ngắn Mợ Du của Nguyên Hồng là truyện vô cùng cảm động về tình mẹ con.
Mợ Du là người mẹ rất mực thương con nhưng vì sự vô lý của luật lệ phong kiến nên mợ Du
buộc lòng phải lìa xa đứa con tội nghiệp. Cho dù tình mẹ con phải chia cắt đến thế nào thì mợ
vẫn khao khát được gặp con. Tác giả đã đặt người mẹ tội nghiệp trong tình huống thương
tâm: mẹ con phải gặp nhau một cách lén lút, vội vã, hốt hoảng trong một đêm trăng vằng vặc
nơi một góc vườn tràn ngập hương hoa cau, hoa lý. Qua những trang miêu tả chan chứa tình
cảm của nhà văn ta nhìn thấy tình mẫu tử hiện lên thật da diết, tội nghiệp.
Để bộc lộ chủ đề và tính cách đó của nhân vật của mình, cốt truyện của Nguyên Hồng
thường được tổ chức, sắp đặt như thế nào đó để khơi sợi lòng xót thương đối với nhân vật
đồng thời tạo ra những thử thách quyết liệt để làm bộc lộ sức chịu đựng phi thường và tâm
hồn cao cả của nhân vật.
Tình huống truyện như thế được diễn đạt bằng hai vế : vế thứ nhất gợi tình xót thương,
vế thứ hai làm bộc lộ tính cách, tâm hồn nhân vật ... Tất nhiên hai vế đó chẳng qua là sự diễn
tả hai hiệu quả hai mục đích tư tưởng của cùng một tình huống truyện.
Tuy nhiên, hai hiệu quả, hai mục đích tư tưởng ấy không phải ở truyện nào cũng đạt
được ở mức độ như nhau. Có truyện đạt được hiệu quả thứ nhất là chính, có truyện đạt được
hiệu quả thứ hai đậm đà hơn.
Và tất nhiên cũng có truyện đạt cả hai hiệu quả, cả hai mục đích tư tưởng đều hết sức
nổi trội.
Trong thiên truyện Linh Hồn - truyện đầu tay của Nguyên Hồng - nhà văn viết về một
người đàn bà nông thôn theo đạo Thiên Chúa bị bắt vì "nhà đoan hai lần khám thấy rượu lậu
trong nhà" nên phải "đi chịu tám tháng tù thay chồng giữa lúc bụng mang dạ chửa". Đó chính
là điều gợi xót thương sâu sắc đối với độc giả - Chắc hẳn nhà chị nông dân này rất nghèo, gia
đình nấu tí rượu lậu để kiếm sống thì đã bị bắt. Lẽ ra người đi tù phải là người đàn ông trụ cột
trong nhà chứ đâu đã đến phận chị. Nhưng chồng chị đi tù thì ai sẽ nuôi mẹ già, ai sẽ trông
đàn con dại, có lẽ vì lý đó mà chị đang "bụng mang dạ chửa" vẫn là người phải đi tù xem ra
hợp lý hơn cả. Chọn cho nhân vật của mình một hoàn cảnh như vậy thì thật đáng thương tâm
... Bởi lẽ người đàn bà có mang ở ngoài còn cảm thấy vất vả nữa là phải vào tù.
Trong tù chị phải chịu đựng đủ mọi nhục hình, cái roi tre của tên coi tù làm cái việc
khốn nạn là lật áo, lật yếm, lật khăn ... tiếp đến là những giọng cười thỏa mãn, tiếng cười nịnh
nọt trong khi chị chết cay, chết đắng trong lòng, cúi đầu rớt nước mắt, tủi thân cho "thân phận
yếu hèn" chị phải đi làm cỏ vê như tất cả mọi người khác. Và đau khổ như thế chưa phải đã
hết, ch ị còn b ị cai tù hãm h iếp cho đ ến chết. Có thể nói ở tìn h hu ống này sự khêu gợi xót
36
thương đã đạt tới đỉnh điểm "Hai mươi hai (tên tù đặt theo những con số) thoáng thấy bóng
cai Năm, mặt mày tái mét k hông còn một hột máu . Nàng chực la lên, n h ưng chưa kịp mở
miệng đã bị cai Năm bóp cổ dằn ngửa xuống sàn gỗ (...) càng giãy giụa bao nhiêu nàng thêm
đau đớn, đau đớn vô cùng (...). Hai mươi hai mê mệt nằm lên cái thai nguyên rau long ra trên
vũng máu tím bầm như sắc mặt nàng". Sự khêu gợi xót thương còn được tác giả đẩy thêm
một nấc nữa khi vẽ ra hình ảnh người chồng co ro ngồi cất vó bên bờ ngòi. Anh vẩn vơ trong
căn nhà xiêu vẹo, tờ mờ, nôi bóng dưới ánh trăng lạnh lẽo mùa đông, rồi anh mơ màng thấy
ngày xuân tươi vui sắp tới đây, trên tay anh thiêm thiếp ngủ đứa con trai đầu lòng mà vợ anh
mạnh khỏe hết hạn tù sẽ bế về.
Miếng Bánh cũng là một câu chuyện thương tâm. Truyện kể về tình cảnh của Hưng,
một thầy giáo nghèo, thất nghiệp đang trên đường đi kiếm việc làm. Nhân vật này bị đặt
trong một tình huống tội nghiệp: tình huống bị cái đói khuất phục một cách thảm hại. Tình
trạng thất nghiệp của Hưng kéo dài. Vợ chồng anh đã tiêu hết đồng xu cuối cùng. Và họ đã
phải nhịn đói. Bỗng có người nhắn tin có thể kiếm được việc làm ở tỉnh. Nhưng lên tỉnh thì
phải có tiền xe, tiền ăn đường. Vợ anh phải ra tiệm cầm đồ vay lấy một đồng bạc. Trên đường
ra bến xe, cái đói đã dày vò Hưng. Anh nhìn vào cái quán bán bánh đa . ôi bát canh bánh đa
mới ngon làm sao (...) bánh đa mỏng như thạch, nước canh loáng màu gạch cua và cà chua.
Rau rút xanh non, nhai vào miệng phải biết là sồn sột, nhưng Hưng đành phải bước nhanh,
mắt đăm đăm về phía trước" vì trong trí anh chỉ có một đồng bạc là số tiền xe lên Hà Nội mà
tí nữa anh còn phải hỏi giá cả. "Nếu vé xe đúng tám hào thì vừa đủ tám hào vé, đồng bạc nọ
còn thừa được hai hào. Hai hào ấy để Hưng uống nước và phòng một sự xảy ra bắt buộc tiêu
tiền". Cách tính toán của anh thật chi li đến tội nghiệp. Cũng đúng thôi! Bởi vì Hưng không
có quyền tiêu cho bản thân một số tiền lớn như vậy. Đó là số tiền vợ anh vay nợ để anh lên
tỉnh kiếm việc làm. Đến bến xe chỉ vì có một đồng bạc nên anh hết sức phân vân: đi xe ca
hay xe buýt"? "Ca chín hào buýt sáu hào". Hưng nhẩm tính mãi đến lúc đi ra đường anh vẫn
thấy "tâm trí bừng bừng" cuối cùng anh quyết định: "Không! tội gì mất ba hào. Mình dậy
sớm đi chuyến xe buýt năm giờ, thì dù xe chậm như rùa, chín giờ cũng phải đến Hà Nội kịp
với xe ca".
Trên đường về nhà, tưởng chừng Hưng đã làm tròn bổn phận của người chồng đối với
vợ là tiết kiệm "Ba hào! ... ba hào! ... nếu mình không tiêu mà đưa cho vợ thì còn được bao
nhiêu là việ c". Nhưng cuối cùng cái đói đã khuất phục anh. Anh đã lấy hai hào (trong số ba
hào) để mua tấm bánh dẻo. Hình ảnh Hưng không về nhà mà vòng ra sau chợ vắng để ăn
nhồm nhoàm, nghiến ngấu miếng bánh đúng là hình ảnh của một kẻ ăn vụng. Anh ăn vụng vợ
anh, mộ t người đ àn bà tần tảo nh ịn đ ói, n h ịn kh át v ì chồng v ì con. Những ch i tiết này đ ặt
dưới nsòi bút của Nam Cao thì hẳn không tránh khỏi tiếng cười chua chát. Nhưng dưới ngòi
37
bút của Nguyên Hồng thì ta chỉ thấy xót xa. Khuynh hướng của Nguyên Hồng là vậy. ông
nhấn mạnh những chi tiết gợi xót thương: " Hưng đưa khía bánh vào miệng nuốt ừng ực. Qua
những cái nghẹn cuồn cuộn trong người Hưng, một thứ gì mặn chát và tanh như máu tràn ra.
cả cổ họng và ruột gan Hưng bị xoắn lại. Tâm trí Hưng nức nở. Hưng bước dướn lên lảo đảo
(...) Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như mảnh thủy tinh tẩm mật cá. Hưng cố nuốt, nuốt (11,
271 )
Hai truyện ngắn Linh Hồn và Miếng Bánh không phải không đ ạt đ ược mụ c đích tư
tưởng thứ hai của tình huống truyện, nghĩa là bộc lộ phía ánh sáng của tâm hồn nhân vật.
Hưng tuy bị cái đói khuất phục nhưng sự hối hận đến đau đớn của anh cho thấy anh vẫn là
người chồng biết thương vợ thương con. Đặc biệt là người đàn bà có số tù "hai mươi hai"
trong Linh Hồn thì thân xác tuy bị làm nhục nhưng tâm hồn thì t rong suốt. Linh hồn người
đàn bà ấy vẫn hướng về người chồng nghèo khổ ở quê nhà trước khi bay lên cõi nước Chúa ...
Tuy nhiên tình huống của hai truyện này vẫn nghiêng hơn về mục đích tư tưởng thứ nhất: gợi
xót thương cho những kiếp người cùng khổ.
Tình huống những truyện Bố Con lão Đen, Nhà Sư Nữ Chùa Ẩm Hồn, Trong Cảnh
Khốn Cùng ...lại thiên về mục đích tư tưởng thứ hai.
Ở những truyện này, những bất hạnh nặng nề lại giáng xuống đầu nhân vật, tuy cũng
gợi xót thương, nhưng lại nghiêng về phía thử thách sức chịu đựng kỳ lạ và những đức tính
phi thường của nhân vật.
Nhân vật mụ Đen trong Bố Con Lão Đen được miêu tả nh ư một con ng ười vô cù ng
khốn khổ. Đời người đàn bà này thật cơ cực, thuở nhỏ mụ mồ côi cha mẹ, lớn lên phải làm
phu lao động rất cực nhọc. Mụ cũng tự nguyện yêu và lấy một anh làm phu có hoàn cảnh gia
đình như mình. Nhưng chồng mụ lại là người vũ phu, thường xuyên đánh đập vợ, cờ bạc,
rượu chè. Con mụ, trai gái có đủ nhưng là những đứa chưa ngoan, thậm chí thằng con trai là
đứa con hư. Với ngần ấy tai họa trút xuống đầu mụ thì tưởng chừng người đàn bà này sẽ gục
ngã, chán nản, thậm chí tha hóa. Song hiện lên trong truyện này là một hình ảnh về người đàn
bà rất chịu đựng, chịu thương, chịu khó " mụ quại băng băng lên vai cả một tạ gạo (...) Mụ
vẫn đội từng sọt khoai, gánh từng bốn thúng ngô đầy ăm ắp (...) tay mụ làm hàm mụ nhai. Sự
may mắn sắm sửa cho mụ đều do cả đồng tiền kiếm được bằng mồ hôi trán của mụ từ khi
mới lấy lão Đen cho tới ngày nay (...) Trừ những khi sinh nở phải nghỉ dăm bữa nửa tháng,
còn quanh năm suốt tháng đều có mặt mụ ở nơi đó. Đun goòng, cầm bò, khuân vác, mưa
nắng giời rét chết cò, mụ chẳng từ chối buổi nào hay một việc gì tuy nhiều người đàn ông
phải chùn lại."
38
Lấy phải người chồng hay đánh đập chửi bới mình nhiều lần người đàn bà đó "tay bế
một đứa, tay dắt một đứa quyết lìa bỏ anh chồng. Nhưng chỉ được mươi hôm, người ta lại
thấy mụ trở về với hắn, lại đẻ cho hắn một đứa con nữa và lại bị hắn đánh những trận thừa
sống thiếu chết".
Người đàn bà này có một lòng độ lượng đặc biệt, một đức hy sinh xả kỷ phi thường, tuy
bị lão Đen đánh đập dã man, chửi bới tục tằn, nhưng mụ lúc nào cũng chỉ một lòng thương
yêu chồng con. Có những lúc bị chồng đánh đập đến "co quắp, tóc rối bù" , "đau đến khó
thở" mụ vẫn cố gượng dậy lo tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ: "mụ Đen đi xin lửa,
nhóm bếp, bắc nồi, vo gạo. Tới khi cơm chín, mụ Đen còn phải sắp mâm bát cho chúng nó và
dọn cả thức ăn ra (...) Mụ Đen không ăn nhưng vẫn để phần chồng". Rồi đến khi chồng con
gây án mạng mụ lại là ngườ i sẵn sàng đi tù thay chồng, thay con, mặc dù trước khi xảy ra vụ
giết người, mụ đã khuyên can chồng con hết lời: "Nửa tháng sau, mụ Đen đứng trước một
bàn giấy rộng. Dưới mắt mụ, để ở rìa bàn, cái lưỡi dao dài mỏng, mũi nhọn, phớt vài ngấn
máu thâm sịt, đầu mụ cúi thấp, tâm trí mụ hoang mang. Có những tiếng hỏi sang sảng bên tai
mụ, nhưng mụ không nghe thấy gì cả".
Người ta nói, nhân vật của Nguyên Hồng nói chung có một cái gì như là một tinh thần
khắc kỷ Thiên chúa giáo, có lẽ như thế chăng ? Mụ Đen trong Bố Con Lão Đen , nhà SƯ nữ
trong Nhà Sư Nữ Chùa Âm Hồn hay Quyến trong Trong Cảnh Khốn Cùng đều là những
con người có một sức chịu đựng phi thường: Nhà SƯ nữ thì hy sinh cả tuổi thanh xuân của
minh để phụng dưỡng một người chồng hủi, còn Quyến thì quyết c hồng lại những cám dỗ,
những mời gọi của tuổi trẻ và tình yêu để thủy chung với một người chồng ốm đau chỉ còn
biết nằm liệt trên giường bệnh.
Tuy nhiên, trường hợp của nhân vật Lệ Hà trong truyện Người Con Gái thì lại không
phải như vậy. ở truyện này, tác giả diễn tả niềm khát khao hạnh phúc tình yêu của một cô gái
như một sức mạnh giúp cô vượt qua được mọi cản trở của hoàn cảnh. Lệ Hà không hề có tinh
thần khắc kỷ. Cô chạy theo tiếng gọi của tình yêu và tự thấy "không có chút sì tội lỗi". Có lẽ
sức mạnh tinh thần của nhân vật Nguyên Hồng lớn hơn, rộng hơn cả tinh thần khắc kỷ Thiên
chúa giáo, nó bao hàm cả tình yêu, cả niêm tin ở lẽ phải, ở sự sống, ở tương lai, nó còn là cái
gì như là bản năng thánh thiện của người đàn bà bắt nguồn từ chức năng làm mẹ. Vì những
nhân vật có sức mạnh tinh thần vĩ đại nhất của Nguyên Hồng đều là những nhân vật phụ nữ.
Người đàn bà trong truyện Người Mẹ Không Con cũng là một hiện tượng kỳ lạ, ở
truyện này, tình huống truyện đạt cả hai mục đích: vừa khơi gợi sự thương yêu đối với một
kiếp người, vừa làm nổi bật phẩm chất tinh thần cao quý của nhân vật.
39
Nhân vật ấy là mụ Mão - một người đàn bà chỉ có một khao khát là được sinh con đẻ
cái và được yêu thương giúp đỡ người khác vậy mà bị đặt vào một tình huống hết sức bất
hạnh : một là vô sinh, hai bị hết đời chồng nọ đến đời chồng kia đánh đập, xua đuổi tàn nhẫn.
Người chồng thứ nhất của mụ Mão là một gã góa vợ tên là Ký Phát ở gia đình này, mụ
tuy không có con nhưng cũng còn cảm thấy sung sướng vì được nuôi bố mẹ chồng và bốn
đứa con chồng. Nhưng Ký Phát đã đánh đuổi mụ đi để lấy một người đàn bà có của ở ngoài
phố.
Người chồng thứ hai của mụ là Mão chột. Cũng là dân thợ thuyền thôi nhưng mải mê
cờ bạc và rất vũ phu. Hắn gọi mụ là "con cá rô đực" vì không đẻ cho hắn một đứa con nào.
Tuy thế mụ vẫn yêu thương hắn, dù luôn bị hắn đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng do một cơn
điên khùng, hắn đốt phá nhà cửa, xua đuổi mụ.
Giữa lúc ấy thì Ký Phát - người chồng cũ của mụ Mão bị đánh chết, để lại mẹ già và
bốn đứa con côi cút trong cảnh khốn cùng. Và đây là cái điều kỳ lạ trong tính cách của mụ
Mão : mụ tiếc là không còn ở gia đình Ký Phát để cùng chia sẻ những bất hạnh với bố mẹ và
con Ký Phát "Mụ Mão nức mấy tiếng, nước mắt mụ giàn ra, nếu mụ không đi lấy người khác,
giờ ở với hai bố mẹ và lũ trẻ côi cút nhà Ký Phát, thì chắc chắn những con người khốn nạn ấy
lúc này đây càng gần gũi thân mến mụ. Mụ sẽ cùng khóc với những đứa trẻ và mụ được nói
những lời ngọt ngào an ủi như trong cái thời kỳ tất cả nhà Ký Phát bị tình phụ cơ cực rau
cháo với nhau. Mụ không được hưởng niềm hạnh phúc của đời người đàn bà là có con cái
nhưng lại được làm mẹ những đứa trẻ." Chúng nó tất nhiên cũng thương yêu lại mụ và do thế,
mụ càng nức lòng trong việc làm ăn và có được sự thiết tha để sống qua những khó khăn của
cuộc đời. (11, 254 )
Nhưng Mão chột đã đuổi mụ đi, còn bản thân thì đăng ký đi phu tân thế giới, nghĩa là
biệt tăm khỏi đất cảng, mụ Mão được giải phóng, nhưng "mụ vẫn ở xóm cấm, mụ không đi
làm nữa. Trên cái thân hình mụ chỉ còn da bọc xương và đen xạm như cẳ ng gà hun khói, lại
lẽo đẽo gánh bún riêu, xôi chè đi khắp Lạc Viên, chợ con và rong phố như năm xưa. Và đây
kia dưới một mái lá lúp xúp ở tận cùng xóm, mụ lại chui ra rúc vào với hai ông bà già ốm
yếu, mù lòa và bốn đứa con suýt soát bằng nhau, lóc nhóc như bốn con nhái bén. Bốn đứa mồ
côi bố mẹ của Ký Phát, nguồn hy vọng và niềm tin độc nhất của mụMão trong cuộc đời cô
độc chỉ có hai bàn tay trắng". (11,257 )
Lòng vị tha, tinh thần hy sinh xả kỷ đến như mụ Mão thì có khác gì tinh thần của Chúa
cơ đốc thân xác rỏ máu trên cây thánh giá mà tấm lòng vẫn bao dung tất cả, kể cả kẻ thù độc
ác đã hành hạ mình.
40
Đặt nhân vật trong những tình huống như thế, truyện của Nguyên Hồng thường gây
cảm giác bức bối, nặng nề. Nhưng tư tưởng của Nguvên Hồng là vậy : một chủ nghĩa nhân
đạo thống thiết, một mặt muốn nói lên cho hết nỗi thống khổ của loài người, một mặt thể hiện
lòng tin sắt đá đối với tâm hồn cao cả của nhân dân lao động, nhất là người phụ nữ lao động.
3.1.2. Tình huống truyện là một chuỗi bất hạnh tăng cấp:
Đặc điểm của truyện ngắn nói chung là "cưa lấy một khúc" của đời sống. Nhân vật của
truyện ngắn thường phản ánh một "khoảnh khắc", "một mẩu nhỏ" nào đó của đời sống con
người. Cách xây dựng tình huống trong truyện ngắn chính là đặt các nhân vật vào trong một
tình thế, một hoàn cảnh, một khoảnh khắc nào đó nhằm làm nổi bật tâm trạng, tính cách nhân
vật.
Trong truyện ngắn Tinh Thần Thể Dục Nguyễn Công Hoan, đã đặt các nhân vật: Mịch
(kẻ cùng đinh) bác Phô gái (chồng đau yếu) bà cụ phó Bính (gia đình khá giả) vào tình huống
phải đi xem đá bóng.
Đó là tai họa từ tờ trát do quan tri huyện gởi cho lý trưởng làng Ngũ Vọng. Truyện tuy
nhiều cảnh giống như màn hài kịch ngắn nhưng tất cả chỉ xoay quanh một tình huống trào
phúng buộc phải đi xem đá bóng để giúp quan diễn trò "Tinh Thần Thể Dục".
Truyện Tối Ba Mươi của Thạch Lam chẳng hạn : khoảnh khắc chuyển giao giữa năm
cũ và năm mới là nguyên cớ khêu gợi trong lòng Liên Và Huệ, hai cô gái điếm, biết bao suy
tư, trăn trở về cuộc sống tối tăm tủi nhục của mình trong hiện tại, đối lập với quá khứ với
những kỷ niệm trong sáng, êm đẹp ngày xưa.
Khác với tình huống truyện của Nguyễn Công Hoan, Thạch lam, tình huống truyện
Nguyên Hồng không diễn ra trong khoảnh khắc mà diễn ra trong một chuỗi sự cố kéo dài,
nghĩa là Nguyên Hồng thường đặt nhân vật của mình vào tình huống phải hứng chịu cả một
chuỗi bất hạnh cứ tăng cấp mãi lên, như dìm mãi nhân vật xuống bùn sâu.
Vì thế, truyện ngắn Nguyên Hồng thường bao quát cả một đời nhân vật. Diều này có
thể thấy ở bất kỳ truyện ngắn nào của ông.
Ví dụ trong truyện Hai Mẹ Con chẳng hạn, mẹ Thưởng "mồ côi cha mẹ từ khi chưa
biết nói (...), sống lang thang "chuyển qua tay nhiều người, nhiều tỉnh". Đến năm chín tuổi
mới có tên là Gái nhỡ. Bà được một gia đình nghèo không con đưa về nuôi. Cũng như bố mẹ
nuôi, bà phải làm việc vất vả. Bố mẹ nuôi "theo nhau chết trong một tháng, sau một vài cơn
sốt kịch liệt, chỉ còn mình bà phải thay thế bố mẹ nuôi ông cụ, bà cụ già yếu. Bà lấy chồng
nhưng" chồng bà sống với bà chưa được bao lâu thì lại chết khi b à chỉ vừa đủ hai mươi tuổi
41
với đứa con còn nằm trong bụng, đến khi con lớn gia đình lâm vào cảnh túng quẫn, Thưởng
muốn ký giấy đi phu để lấy tiền giúp mẹ. Nêu lần này bà để cho con đi thì coi như đời mẹ
Thưởng mất con, cuối cùng bà kiên quyết ngăn cản, cả một đời bà chịu đựng hy sinh cho
người khác, không muốn người khác phải hy sinh cho mình. Như vậy gồm một chuỗi bất
hạnh tăng cấp bao quát cả một đời mẹ Thưởng từ khi chưa biết nói đến tuổi già.
Truyện Người Con Gái cũng bao gồm những chuỗi bất hạnh rơi vào cuộc đời một cô
gái tên là Lệ Hà từ lúc mười bốn, mười lăm tuổi. Bất hạnh đầu tiên là mẹ chết, rồi bố cũng
chết, chị em Lệ Hà tuy được một người chú nuôi nhưng chú rất nghèo. Cô bé phải làm đủ
việc của gia đình người chú trước thái độ nghiệt ngã của người thím. Đó lại là một bất hạnh
nữa kéo dài cả thời niên thiếu của Lệ Hà. Con bé "cúi mặt xuống, nghe từng tiếng nói khản
ấy dằn ra, con bé thấy rõ trên đầu mình hai hàm răng người thím rít lại và hai con mắt bà lại
gườm gườm đưa nhìn qua mình ra thằng bé em còn nằm ngủ thiếp đây kia, thằng em bé này
nuôi mãi mà đi vẫn chưa vững. Đến bao giờ nó mới lớn, đi làm được và có đồng tiền đưa về
?.."( 11,277 )
Năm tháng cứ trôi q u a Lệ Hà rồi cũng lớn lên thàn h một cô g ái. Cô có ng ười yêu .
Tưởng đời cô như thế là đã đến hồi vui. Nhưng một loạt các bất hạnh khác lại đến. Người yêu
thất nghiệp phải bỏ vào Sài Gòn. Cô theo anh vào, nhưng vận may không đến, anh bỏ cô trở
ra Bắc, và từ đó chẳng còn biết số phận cô ra sao: "Hiện giờ người con gái này ở đâu, còn
sống hay chết và làm gì ?" Câu hỏi không lời đáp!
Những truyện như thế, chỉ cần nở thêm ra một chút, nghĩa là phát triển thêm ở một số
đoạn đời nào đó của nhân vật là có thể trở thành một cuốn tiểu thuyết hẳn hoi. Thực ra có một
số truyện của Nguyên Hồng đã thực sự vượt qua ranh giới của truyện ngắn. Như truyện Ngọn
Lửa chẳng hạn, kéo dài tới hơn 60 trang in.
Chuỗi bất hạnh tăng cấp được thể hiện rõ nét ở tiểu thuyết Bỉ Vỏ. Nhân vật chính của
tác phẩm là Tám Bính - một cô gái hiền lành, chất phác của làng quê, bị lừa gạt trong tình
yêu rồi bị tập quán hủ lậu xua đuổi, lên thành phố lại bị xô đẩy vào con đường tội lỗi. Từ chỗ
phải làm nghề mãi dâm, Tám Bính đã trở thành một "bỉ vỏ" - kẻ cắp lành nghề - .và cuối
cùng cả hai vợ chồng đều bị bắt giữa lúc Tám Bính hay tin đứa con duy nhất lưu lạc từ lâu
vừa bị giết do chính bàn tay người chồng của mình.
Nguyên Hồng đã thành công trong việc tạo ra một chuỗi tình huống bất hạnh của một
lớp người sống dưới đáy xã hội và qua đó người đọc hình dung được cả cuộc sống lầm than,
đói khổ của người lao động, bản chất xấu xa, thối nát của xã hội thực dân, phong kiến, cuộc
sống cay cực không lối thoát của những người lao động nghèo khổ mà Tám Bính là một điển
hình. Một con người lao động chất phác muốn được sống lương thiện nhưng không t hể tìm ra
42
con đường sống chân chính đã phải chống đối lại cái xã hội bất công nhưng càng vùng vẫy
vươn lên càng bị dìm sâu xuống vũng bùn dơ bẩn.
3.2. Nghệ thuật trần thuật:
3.2.1. Cách trần thuật giàu tình cảm chủ quan và chất trữ tình:
Mỗi nhà văn thường chọn một cách trần thuật tốt nhất cho tác phẩm của mình. Bằng sự
luân phiên các điểm nhìn, khi gần, khi xa, khi cách biệt, khi hòa hợp với đối tượng miêu tả,
người trần thuật đã tạo ra được những góc độ khác nhau để quan sát và phản ánh hiện thực.
Qua cách trần thuật trong tác phẩm của nhà văn, người ta thấy rõ quan điểm của tác giả, quan
điểm của nhân vật. Một tác phẩm được đánh giá là đặc sắc hay không chính là nhờ phần lớn
vào nghệ thuật trần thuật của nhà văn.
Nguyên Hồng được coi là một nhà văn của một chủ nghĩa nhân đạo cao cả luôn hướng
tới sự đồng cảm với những kiếp người cùng khổ, một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm, rất dễ xúc
động. Vì thế cách trần thuật của ông rất giàu tính chủ quan và chất trữ tình.
Chúng tôi cho rằng đây là chỗ Nguyên Hồng khác với nhiều nhà văn hiện thực phê
phán cùng thời. Dường như ông không làm chủ được trái tim quá sôi nổi của mình. Nghĩa là
không làm được cái việc mà Nam Cao gọi là "đóng cũi sắt tình cảm", dù nhiều lúc, cũng như
Nam Cao, ông gọi nhân vật của mình bằng những đại từ lạnh lùng, khinh bạc như mụ, y, hắn
...
Chẳng hạn, truyện Những Giọt Sữa ta thấy chỉ có phần đầu người trần thuật giữ được
thái độ khách quan với nhân vật nghĩa là kiềm chế được lòng mình để những đau khổ của
cuộc đời tự nó phơi bày trên trang giấy: "Đứa trẻ ưỡn người ra và khóc thét lên (...) bàn tay
gầy guộc như một chân gà, vẫn giữ riệt lấy tà áo nâu hôi hám (...) người mẹ liền day mạnh
tay lên nâng ngực rồi vuốt xuống từ từ như để dồn tất cả máu của quả tim xuống bầu vú để
cạn sữa. Đứa bé càng nhay nhay núm vú đã thâm xịt" ( 11,184,185 ). Nhưng tiếp đó, thái độ
người trần thuật ngày càng hòa nhập vào đối tượng trần thuật, để cuối cùng cất hẳn lên thành
những lời kêu gọi đầy xót thương đau đớn ! Hãy cứu lấy những trẻ em nghèo đang khát sữa
và những bà mẹ nghèo cơ cực đã vắt kiệt sữa mà không cứu nổi con mình "Đứa bé nọ chết
rồi! (...) phải đem sữa lại cho những người mẹ nhiều con dại (...). Phải trả sữa lại cho những
cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó, dưới những bầu vú lép (...) Người ta đương chờ
đợi ở một thi sĩ một bài thơ, ở một n hà văn mộ t trang tru yện, k êu đ òi sữa cho trẻ em"
(11,186,187). Truyện Con Chó Vàng luôn có xu hướng bị cảm xúc phá vỡ. Thực chất trong
cái vẻ dửng dưng lạnh lùng của người trần thuật, người đọc vẫn tìm thấy nỗi xó t xa cực độ
43
của người trần thuật khi thấy mình bất lực trước bi kịch của đồng loại. Không khí bức bối của
hiện thực được miêu tả, hành động trộm cắp của Điều, Tý Sáu, sự kìm nén của người trần
thuật trước nỗi hoảng hốt tội nghiệp của ông già mù khi con chó bị bả chết ... Tất cả được giải
tỏa khi Điều ném trả bị tiền cho ông lão kèm theo tiếng khóc và lời nói hối hận của nó sau
việc làm tội lỗi : "Con chó ấy chết thì ông lão chết mất ! tội nghiệp ông lão! tội nghiệp ông
lão! (11, 107 )
Đọc truyện Người Mẹ Không Con người đọc tưởng chừng người trần thuật sẽ duy trì
triệt đ ể lối k ể chuyện kh ách q u an từ đ ầu đ ến cuối tru yện. Nhưng trên q u á trìn h thu ật k ể,
giọng trần thuật ngày càng bộc lô niềm xót thương không nén nổi đối với nhân vật và tác giả.
Đây là những dòn g cuối cùng của tác phẩm: "Còn mụ Mão, mụ vẫn ở xóm Cấm. Mụ không
đi làm nữa, trên cái thân hình mụ chỉ còn da bọc xương và đen xạm như cẳng gà hun khói, lại
lẽo đẽo gánh bún riêu, xôi chè đi khắp Lạc Viên, chợ con và rong phố như năm xưa. Và đây
kia ,dưới một mái lá lúp xúp ở tận cùng xóm, mụ lại chui ra rúc vào với hai ông bà cụ già ốm
yếu mù lòa và bốn đứa con suýt soát bằng nhau, lóc nhóc như bốn con nhái bén" ( 11, 257 )
Cách trần thuật trong tác phẩm của Nguyên Hồng bao giờ cũng là sự kìm nén cao độ
những cảm xúc muốn dâng trào. Những câu, những đoạn rẽ ngang miêu tả nội tâm nhân vật
hoặc những lời trữ tình ngoại đề xuất hiện ương mạch trần thuật chính là sự "bật nút" của tình
cảm bị dồn nén, là sự bùng nổ của cảm xúc mà thái độ khách quan lúc đầu chỉ giống như một
quả bộc phá chưa châm ngòi.
Do khuynh hướng xóa nhòa những ranh giới người trần thuật và đối tượng trần thuật,
cách kể chuyện của Nguyên Hồng thường đi từ lời tác giả đến lời nhân vật, tạo nên độ đậm
đặc của những lời nửa trực tiếp, có nghĩa là "lời người trần thuật nhưng lại thấm nhuần từ
vựng, ngữ nghĩa và cấu trúc ngữ pháp của lời nói nhân vật, thấm nhuần ngữ điệu tình cảm và
suy nghĩ của nhân vật" (3,76).
Trong Đây Bóng Tối, câu chuyện được kể bằng lời người khác nhưng nhiều khi ta thấy
đó chính là lời bộc bạch tâm sự của chính nhân vật : "Hình ảnh Mùn mãi mãi in sâu trong trí
nhớ Nhân, vào các thớ trái tim Nhân (...) Nhân còn nhớ kỹ vào một buổi chiều đã lâu lắm rồi,
dạo Nhân còn giữ hai núm tóc bơ phờ ở hai bên đầu, còn để nước mũi xanh luôn thò lò xuống
tận miệng". Đó là lời tác giả nói về nhân vật hay là lời của nhân vật kể về những kỷ niệm thời
thơ ấu của chính mình và của Mun còn lưu giữ trong ký ức của mình ? Hiểu theo cách nào
cũng có thể chấp nhận được bởi quan điểm của người trần thuật đã hòa đồng với tâm trạng
của nhân vật.
Với cách thuật kể như vậy, Nguyên Hồng đã tìm được cách trần thuật phù hợp với mình
để phản ánh hiện thực và miêu tả thế giới nội tâm của con người. Nhờ phương thức trần thuật
44
này, nhà văn đã có điều kiện tái hiện hàng loạt những cảnh khốn cùng của người lao động
nghèo khổ, với chiều sâu tâm hồn của họ.
Truyện Trong Cảnh Khốn Cùng chẳng hạn, tác giả đã gây được ấn tượng cảm động
trong lòng người đọc về tâm sự của một cô lái đò trẻ trung khỏe mạnh (tên là Quyến) bị đặt
trong một hoàn cảnh trớ trêu : chồng thì ốm liệt trong khi hàng ngày luôn tiếp xúc với anh
chân sào nở nang cường tráng. Đó là vì lời trần thuật của nhà văn đã nhập hẳn vào lời nói bên
trong của nhân vật để bộc lộ những "ước mong rạo rực" của người đàn bà trẻ trong một đêm
mùa xuân trên một con đò giữa dòng sông êm ả.
Hưng (Miếng Bánh) mang tâm trạng đầy mâu thuẫn của lớp trí thức nghèo. Tính sĩ
diện bên cạnh sự chịu đựng kham khổ, nghèo túng, lòng thương người bên cạnh thói ích kỷ
tàn nhẫn.
Bằng con đường hướng nội, người trần thuật đã bóc dần vẻ hình thức bề ngoài có vẻ
phong lưu nho nhã củ a Hưng đ ể lộ ra n hững ph ú t g iây tầm thường , n hững thèm khát tội
nghiệp của anh ta bên cạnh nguyên tắc sống cố giữ mình cho trong sạch mẫu mực theo kiểu
"sống mòn của Thứ, Hộ (Sống mòn, Đời thừa - Nam Cao). Với "sự ăn mặc lành lặn và vẻ
mặt chữ nghĩa" (11,258) Hưng đã nhìn đám người ăn quà rong bên lề đường với ánh mắt xa
lạ không một chút thân thiện. Lối trần thuật lời tác giả nhập vào lời nội tâm nhân vật đã diễn
tả được tư tưởng phức tạp của một anh trí thức tiểu tư sản nghèo. Một mặt là thói sĩ diện của
một con người " vẻ mặt có chữ nghĩa" bụng thì đói mà vẫn nhìn người dân nghèo ăn uống với
một thái độ khinh bỉ: Hưng thấy họ "mặt thì cúi xuống, miệng sì sụp, nhổm nhoàm, tóp tép
như thế còn gì là thể diện, nhân cách" ( 11,258 ). Thậm chí có "khách hàng và vội lén lút, để
ca nước canh sớt xuống áo, vụn rau dính bên mép mỡ màng ngoen ngoen ra má ... Bệ rạc quá
chừng ...!" ( 11, 259 )
Nhưng mặt khác, cái bụng đòi quyề n sống cho nó một cách gắt gao, mà túi thì rỗng. Ý
nghĩ của anh lại xoay chuyển theo hướng thiết thực. Anh ta nghĩ: "nếu được ai bỏ tiền mời
mình, hay mình có tiền, Hưng sẽ ngồi xuống ngay cái ghế mấp mé bên bờ hè kia mà ăn ít
cũng hai bát - canh họ nấu mớ i ngon làm sao! Nhác nom quá, Hưng đã nghẹn nghẹn ở hai
góc miệng" ( 11, 259 ).
Đây là lời tự thú của nhân vật, cho thấy vẻ miệt thị của Hưng trước cảnh ăn uống của
những người dân nghèo lúc đầu chẳng qua chỉ là tâm trạng của kẻ phái đứng ngoài "nhìn
người ta sung sướng".
Ở Nguyên Hồng, thái độ "điềm tĩnh" "thản nhiên" và những lời trung tính rất ít cơ hội
xuất hiện. Thái độ này thường phải nhường chỗ cho thái độ đầy thiện cảm "cùng nhìn về một
45
hướng" giữa người dẫn chuyện và nhân vật tạo nên những lời nửa trực tiếp với tần số cao.
Hiện tượng này khiến người đọc luôn có cảm giác được chính các nhân vật tự kể về mình.
Với cách trần thuật như vậy, ngòi bút của Nguyên Hồng đã đi theo con đường hướng nội rõ
rệt, chú ý đến mạch ngầm phát triển tâm lý của nhân vật nhiều hơn hành động của họ và
những yếu tố ngoại cảm. Với tính chủ quan đậm nét, Nguyên Hồng trong nhiều trường hợp
đã sử dụng thành công lối trần thuật có nhân vật tham dự.
Trong cách trần thuật này, người trần thuật được gọi là " người kể chuyện" và "tham dự
vào truyện như một nhân vật" ( 20, 31 ). Đây là kiểu trần thuật đã được nhiều nhà văn sử
dụng như Nguyễn Công Hoan (Tôi tự tử), Ngô Tất Tố (Làm no hay cái ăn trong ngày nước
ngập) Nam Cao (Mua nhà) ...
Với cách trần thuật này, người trần thuật ở vị trí ngôi thứ nhất, ta quen gọi là bị "nhân
vật hóa" trực tiếp có mặt trong các diễn biến của câu chuyện.
Ở vị trí "ngôi thứ nhất" người kể chuyện biến mình thành nhân vật văn học, dẫn dắt
người đọc chia sẻ tình cảm với nhân vật. Nhờ cách trần thuật này, người kể chuyện có điều
kiện bộc lộ trực tiếp cái nhìn cuộc sống và trạng thái cảm xúc một cách trực tiếp, không phải
qua một nhân vật trung gian nào.
Ở truyện ngăn Mợ Du chăng hạn, người kể chuyện cũng là người trực tiếp chứng kiến
tấm lòng yêu con tha thiết của người mẹ bất hạnh, thực sự cảm thông, trân trọng và vun đắp
cho tình mẫu tử thiêng liêng ấy. Điểm gặp gỡ kỳ diệu của những tâm hồn nhân hậu và những
trái tim đa cảm đã tạo nên bầu không khí đặc biệt của câu chuyện mà cả cảnh vật và tình
người đều đấm chìm trong nỗi đau xót và hạnh phúc thiêng liêng. Các nhân vật được bao bọc
trong ánh sáng huyền ảo của ánh trăng và hương hoa thơm ngát.
"Nhìn sự chia lìa, đau xót của hai mẹ con Dũng, tôi đã có cảm tưởng chính tôi là Dũng,
và tôi đã có ý muốn ôm ghì lấy Dũng, ôm ghì mãi mãi, ôm ghì lấy rồi dù bị chết cũng cam
tâm ..." (11, 191, 192). Hóa thân thành nhân vật văn học quả là con đường thuận lợi để người
trần thuật của Nguyên Hồng nói cho đã, cho thỏa những trạng thái tình cảm đầy "nhiệt hứng"
trước cuộc sống và con người. Trong trường hợp này "cái tôi" người kể chuyện mang quan
điểm tác giả rõ nhất.
Theo thống kê chưa đầy đủ, với một tiểu thuyết và trên năm mươi truyện ngắn, các tập
hồi ký, bút ký của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám, chúng ta thấy tác giả không
chỉ là cây bút khỏe mà còn tràn đầy khát vọng và năng lực sáng tạo. Nhìn chung, cách trần
thuật của Nguyên Hồng rất đậm đà tính chủ quan và chất trữ tình, nhưng mỗi tác phẩm lại sử
dụng một lối riêng và ngay trong một tác phẩm, nhà văn cũng phối hợp, đan xen các cách
46
thuật kể khác nhau nên truyện của Nguyên Hồng không rập khuôn đơn điệu mà được đa dạng
hóa. Nhiều tác phẩm đạt hiệu quả nghệ thuật cao như : Bỉ vỏ, Đây Bóng Tối, Trong cảnh
Khốn Cùng, Hàng Cơm Đêm, Mợ Du ...
3.2.2. Độc thoại nội tâm được sử dụng như là một thủ pháp nghệ thuật quan
trọng:
"Độc thoại nội tâm cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong cấu tạo lời văn nghệ thuật
là một thủ pháp nghệ thuật lợi hại để bộc lộ quá trình tự nhận thức của nhân vật". (20,72 ).
Những đoạn độc thoại nội tâm bao giờ cũng động chạm đến chiều sâu ý thức tâm hồn
nhân vật. Đây là thủ pháp nghệ thuật được Nguyên Hồng khai thác rộng rãi.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật trong các tác phẩm của Nguyên Hồng đã diễn
tả tương đối thành công những trạng thái tinh thần phức tạp và chiều sâu tâm hồn con người,
để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Trong những trang viết của Nguyên Hồng trước cách mạng độc thoại nội tâm chỉ xuất
hiện ở những "con người bé nhỏ", những "nhân vật tích cực", "dưới đáy" của xã hội đương
thời mà ông yêu thương tin tưởng. Đối với những "nhân vật phản diện" - loại người độc ác -
người đ ọc ch ỉ thấy phát ra n hững lời chu a ng oa nan h nọc. Đó có lẽ cũng là d o q u an n iệm
riêng của Nguyên Hồng chăng ? Những kẻ xấu xa làm gì có tiếng nói bên trong mà nếu có
cũng không được quan tâm. Có điều chắc là Nguyên Hồng ít đề cập đến những nhân vật
thuộc các tầng lớp có tiền có quyền, trong khi đó lại là những nhân vật chính được xây dựng
thành công dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan ...
Với các nhân vật của Nguyên Hồng, độc thoại nội tâm thường xuất hiện trong hoàn
cảnh tâm tư của họ có nhiều day dứt trăn trở hoặc trong trạng thái xúc động mạnh mẽ.
Nguyên nhân chính hình thành độc thoại nội tâm là sự phát triển nội tại c ủa tính cách. Nhân
vật của Nguyên Hồng thường sống trong trạng thái căng thẳng, cùng quẫn của cuộc sốns
nghèo đói dưới chế độ cũ để kiếm được miếng cơm manh áo. Đó là những người phụ nữ
buôn bán tảo tần. Mun (Đây Bóng Tối), Vịnh (Hàng Cơm Đêm), mẹ Thưởng (Hai Mẹ Con),
bà cụ Nấu (Nhà Bố Nấu) những người khuân vác, phải làm việc quần quật : mụ Mão (Người
Mẹ Không Con) mụ Đen (Bố Con Lão Đen), những người trí thức thất nghiệp, phải vật lộn
kiếm sống bằng nhiều công việc nhếch nhác khác nhau: Tâm (Lớp Học Lẩn Lút), Hưng
(Miếng Bánh) Giang (Ngọn Lửa), những cô gái nông thôn nghèo làm việc cực nhọc từ gà
gáy đến nửa đêm Láng (Láng), Lựu (Cô Gái Quê) ... Tuy vậy, điều đáng quý ở họ, những
người lao động nghèo khổ của Nguyên Hồng - dù sống trong nghèo đói lam lũ đến thế nào
vẫn có những "khoảng trời riêng" của đời sống tinh thần, những phút giây dành cho hồi
47
tưởng, ước mơ để tâm hồn lắng xuống trong điều kiện hoàn cảnh cho phép. Đó là lúc thuận
lợi cho độc thoại nội tâm xuất hiện.
Trong truyện của Nguyên Hồng, lời độc thoại thường được phân biệt với lời đối thoại
bằng các dấu hiệu hình thức. Có lời giới thiệu của tác giả, chuyển dòng, bắt đầu lời đối thoại
thường có gạch đầu dòng và két thúc bằng dấu cảm thán. Độc thoại nội tâm được phân biệt
bởi độc thoại hiển hiện bằng sự xuất hiện các cụm từ: "tự nhủ", "nhủ thầm", "thầm nghĩ' hoặc
bằng dấu ngoặc kép kèm theo lời giải thích của người trần thuật. "Hưng dằn mạnh ý nghĩ trên
đây, đoạn lại tự nhủ:
- Đi chuyến xe ca bảy giờ thì chín giờ đã đến Hà Nội, vừa sớm sủa, vừa thoải mái. Biết
đâu nhờ thế mà mìn h lại g ặp một v iệc gì hay ở trên đ ó trong cái lú c đ ến sớm cũng nên" (
11,264 )
Có dạng độc thoại nội tâm xuất hiện xen lẫn trong mạch trần thuật nhưng lại khó xác
định tách bạch về mặt hình thức. Đó là ngôn ngữ độc thoại nội tâm nhân vật và ngôn ngữ
thuyết minh tâm lý của người trần thuật hòa quyện vào nhau tới mức khó phân biệt. Tồn tại
dưới hình thức ngôn ngữ nửa trực tiếp là những độc thoại nội tâm đặc sắc hấp dẫn của
Nguyên Hồng.
Ở đây, tiếng nồi nội tâm của nhân vật đã gặp gỡ hòa đồng với những cảm xúc tâm tư,
những khát khao suy tư của tác giả (hoặc là của người trần thuật) tạo nên chiều sâu trong suy
nghĩ và cảm xúc. Nếu ngôn ngữ nửa trực tiếp đã xóa nhòa ranh giới giữa người kể chuyện và
nhân vật, thì nó cũng đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa nhân vật và người đọc. Qua những
đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật đó thường bộc lộ sâu sắc mọi tình cảm tốt đẹp vang
lên trong suy nghĩ của các nhân vật, ít khi ngôn ngữ độc thoại có dạng trung tính mà luôn
mang sắc thái biểu cảm rõ rệt hoặc là "ngùn ngụt nóng bỏng", hoặc "đằm thắm thiết tha", hay
"trong ngần tươi mát" ( 9,33 ). Thế giới tâm hồn của những con người lao động hiện lên qua
trang viết của Nguyên Hồng thật là phong phú và đẹp đẽ.
Nhân vật người mẹ trong truyện Hai Mẹ Con đã bộc lộ tình mẹ con tha thiết và lòng hy
sinh tận tụy cho đứa con yêu quý của mình. Dù cho hoàn cảnh sống chồng chất những khó
khăn túng thiếu nhưng bà không đành lòng cho con đi phụ kiếm những đồng tiền rẻ mạt.
Bằng cuộc đời từng trải của mình, bà hiểu con trai bà đang liều thân vào chỗ chết "nên cho
Thưởng đi hay không nên?" Câu hỏi ấy cứ xoáy sâu vào tâm trí bà. Suốt đêm người mẹ ấy
không sao chợp mắt vì không tìm được lời giải đáp. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm của người
mẹ tuy ngắn ngủi nhưng đã biểu hiện tình mẹ con vô cùng sâu sắc.
48
Nhờ sử dụng độc thoại nội tâm đúng lúc, đúng chỗ trong trường hợp cần thiết như vậy
mà những truyện ngắn viết về tình mẫu tử trong sáng tác của Nguyên Hồng thường gợi lên
xúc động tha thiết trong lòng người đọc.
Mụ Mão (Người Mẹ không Con) là một phụ nữ chịu đựng đến khắc kỷ. Hai lần mụ lấy
chồng là hai lần xuống địa ngục. Chồng mụ, kẻ thì nhân tình, nhân ngãi rồi đuổi mụ ra khỏi
nhà như đuổi một con chó ghẻ, kẻ thì đam mê cờ bạc, rượu chè, vũ phu. Vậy mà đối với họ
mụ vẫn giữ trọn bổn phận làm vợ. Nhìn Mão chột nằm sóng sượt giữa nhà sau mấy ngày ham
chơi biền biệt mụ Mão không thấy giận mà còn thương hắn.
- "Hừ ! nằm th iếp đi mà thở hưng hức thế kia chắc mệt và đ ói lắm! Cơm nước n h à
không ăn lại ra hàng uống rượu t hì còn hơi sức đâu. Thôi cứ liều đánh thức ông ấy dậy. Mình
đi rang cơm cho ông ấy ăn vài miếng rồi muốn đi đâu thì đi" (11, 214).
Khi Ký Phát, người chồng cũ đã phụ bạc mụ bị chết, bao nhiêu tâm tưởng của mụ Mão
đều dồn cả vào mấy đứa con côi cút cô độc của hắn, mụ lo lắng cho chúng, khao khát được
yêu thương, che chở cho chúng bằng tình thương của người mẹ dù chúng không phải là con
đẻ của mụ.
"Cái Tý! ừ con bé ấy, không hiểu nó sửa soạn cơm nước thế nào với một xâu thức ăn
kia. Rồi một lũ năm cái đầu khăn xô, áo xổ gấu lượt thượt ấy mời mọc những ai và cúng lễ
thế nào ?" (11, 253 ) và "Mụ không có được sung sướng đẻ con cái nhưng thay mặt mẹ chúng
nó, nuôi nấng, chăm nom chúng nó ..." (11, 254).
Độc thoại nội tâm ở các nhân vật trí thức có phần phức tạp hơn về hình thức biểu hiện
và nhất là về nội dung, đôi khi phát triển thành "dòng ý thức" bộc lộ những suy nghĩ nung
nấu của nhân vật về nhân cách, về quan niệm văn chương nghệ thuật, về ý nghĩa cuộc đời. Đó
là quá trình chuyển biến nhận thức của Hưng (Miếng Bánh), An, Giang (Ngọn Lửa), Huyên
(Hai Dòng Sữa ), Huân (Trăng Thu), Tâm (Lớp Học Lẩn Lút)... được thể hiện chủ yếu qua
độc thoại nội tâm của họ.
Giang trong Ngọn Lửa chỉ vì miếng cơm nguội ăn vụng trong lúc ốm yếu lại đói quá
mà anh phải đau đớn, khổ s ở, dằn vặt. Bao lời cất lên trong tâm trí khiến cổ họng Giang cứ
nghẹn ứ không nuốt nổi miếng cơm.
"Mang cái tiếng được ăn học chữ nghĩa hẳn hoi mà ăn xó, mó niêu thế đấy ! Đói khát
thế nào mà ăn như một kẻ ăn mày ăn nhặt vậy?"
"Không ! không thể ăn được !"
49
"Cứ ăn đi ! Sao lại không ân trong lúc đói lả này? (...) Ta phải sống đã (...) Người ta
nhiều lúc phải dẫm lên cả những cái mà người đời cho là không phải là xấu xa tàn nhẫn, hơn
cả thế, độc ác nữa".
Về hình thức, đây là lời Giang kể cho An nghe câu chuyện đời mình. Nhưng xét ở thời
điểm xảy ra câu chuyện đó thì những ý nghĩ trên đã một lần xuất hiện trong tâm trí Giang khi
Giang phải tự đấu tranh bên nồi cơm nguội.
Khởi điểm của những suy nshĩ đ ó là đ ộc thoại nội tâm, còn k h i xu ất h iện trong lời
Giang thì chỉ là sự tái hiện.
Qua dòng độc thoại nội tâm của nhân vật, Nguyên Hồng đã giúp bạn đọc thấm thía
cảnh ngộ và tâm trạng xót xa của người trí thức trong xã hội cũ, nhận thức sâu sắc hơn ý
nghĩa triết lý nhân sinh của vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Miếng ăn mà nhà văn nói tới
đâu phải là chuyện làm no, nó còn là biểu hiện của đạo đức, nhân cách và phân định giá trị
tinh thần của con người.
Là nhà văn luôn thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật với một trái tim sôi nổi,
việc sử dụng độc thoại nội tâm một cách rộng rãi là một điều tất yếu. Độc thoại nội tâm đã
mang lại cho các n hân vật củ a ông sức sống b ền b ỉ v à n ét độc đ áo, hấp d ẫn riêng . Trong
nhiều trường hợp lời độc thoại nội tâm có xu hướng chuyển dịch lại gần, đồng điệu với lời
người trần thuật. Tất cả những điều đó đã tạo cho những tác phẩm Nguyên Hồng có một dáng
hấp dẫn riêng.
3.2.3. Lời trữ tình ngoại đề:
Trong các thiên truyện, trữ tình ngoại đề là một yếu tố thường gặp quan trọng. Nó góp
phần giúp tác giả soi sáng thêm nội dung tư tưởng của tác phẩm, bộc lộ đầy đủ, tập trung hơn
thái độ, sự đánh giá của mình đối với nhân vật cũng như quan niệm nhân sinh của mình, thể
hiện trực tiếp những điều muốn nhắn gởi của mình đến người đọc. Những lời trữ tình ngoại
đề có giá trị sẽ thoa mãn nhu cầu trí tuệ, tình cảm người đọc, mang đến cho họ những khoái
cảm thẩm mỹ đặc biệt.
Mối quan hệ bình đẳng, thân mật giữa nhân vật - người kể -người nshe cộng với cảm
xúc tha thiết nồng nhiệt của tác giả làm xuất hiện trong truyện ngắn của Nguyên Hồng khá
nhiều lời trữ tình ngoại đề. Đó chính là lúc tác giả hoặc người kể chuyện bộc lộ tư tưởng, tình
cảm của mình một cách trực tiếp. lời văn đậm đà sắc thái biểu cảm. Trữ tình ngoại đề trong
sáng tác của Nguyên Hồng cất lên từ nhiều cảnh ngộ. xuất phát từ nhiều tâm trạng khác nhau
50
và mang ý nghĩa khác nhau. Điều đó hoàn toàn hợp lý bởi nội dung phản ánh hiện thực trong
sáng tác của ông khá phong phú.
Trong những truyện ngắn tái hiện thảm cảnh của những người dân lao động trong các
xóm chợ tồi tàn hhoặc trong những khu nhà sắp đổ nát, xiêu vẹo ... trữ tình ngoại đề thường
là những lời thương cảm xót xa hoặc căm phẫn, bộc lộ thái độ rõ ràng của người trần thuật
trước bao nỗi bất công của xã hội đương thời.
Thuật lại cảnh đời cơ cực của vợ chồng Nhân (Đây bóng tối ) người kể không nén được
xúc động, bật lên những câu hỏi đau đớn cũng là ném vào xã hội đương thời những tiếng kêu
khẩn thiết.
"Sao lại có thể thế được ? Sao lại có thể khốn nạn đau đớn cho hai người như thế được?
Sao hai người ấy đã cùng khổ mà lại còn phải chịu nhiều đắng cay làm vậy ? Sao chỉ trút lên
đầu những kẻ hiền lành chịu khó như Nhân những đọa đày khổ ải? Mà sao cái hạnh phúc nhỏ
gây dựng trên từng vũng mồ hôi. vũng nước mắt, vũng máu của vợ chồng Nhân lại chóng bị
phá tan đi" (11,84 )
Truyện Tết Của Tù Đàn Bà cũng có những lời trữ tình ngoại đề sôi nổi như vậy. Người
trần thuật không nén nổi xót thương vô hạn với những người phụ nữ bị giam hãm một cách
oan ức trong tù ngục. Là con người sớm bị tù tội, Nguyên Hồng am hiểu sâu sắc hơn ai thực
chất nỗi khổ trong chốn lao tù và có lẽ ông là người dẫn đầu trong số các nhà văn hiện thực ở
mảng đề tài đặc biệt này.
Các đoạn trữ tình ngoại đề trong Tết của Tù Đàn Bà vừa là lời bào chữa cho những
phụ nữ khốn khổ này, vừa là lời mở đầu bài điếu tống tiễn xã hội cũ, hy vọng đón chào tương
lai: "Họ là những nạn nhân của những miền quê luôn luôn lụt lội, hạn hán, đói rét và dịch
bệnh tàn phá, thâm tâm họ đã tràn đầy những sự phẫn uất, căm hờn. Đời sống súc vật và bùn
lầy của họ không thể yên lặng mãi được (...) Bao nhiêu xương thịt tan tành thối nát, bao nhiêu
nước mắt và máu đã lụt ngập tỉnh thành, bao nhiêu sinh mệnh đã chết và đương chết trong
cảnh đói rét bên một đám người hả hê, sung sướng (...) Bầu trời đè nén quá ! Người ta mong
ngóng ánh xuân tràn ngập để lọc k hông khí cho dễ thở và đem đến cho da thịt thiếu máu và
quần áo" ( 11,143,156 ).
So sánh Nguyên Hồng với các nhà văn hiện thực cùng thời, về việc sử dụng lời trữ tình
ngoại đề, ta thấy Ngô Tất Tố rất ít khi dùng lời trữ tình ngoại đề, ông thường để cảnh vật, sự
việc và nhân vật tự bộc lộ ý nghĩ và người đọc tự rút ra kết luận. ở sáng tác của Nguyên Hồng
và Nam Cao, trữ tình ngoại đề xuất hiện tương đối nhiều. Trữ tình ngoại đề của Nguyên
Hồng ít khi mang ý nghĩa đắng cay chua chát rút ra từ thực tế phũ phàng kiểu Nam Cao như
51
"đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn vươn lên cao nhưng bị áo cơm ghì sát
đất" hay là những triết lý khái quát sâu sắc về nhân sinh "mỗi người sống phải làm thế nào
phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình" (Sống Mòn ).
Trữ tình ngoại đề của Nguyên Hồng cũng không "dịu ngọt chăng tơ" kiểu Thạch Lam
mà thường là những lời tha thiết như dứt ra từ máu thịt, từ trái tim người cầm bút. Nhà thơ
Xuân Diệu thật sâu sắc khi nhận xét: "Nguyên Hồng mất đi rồi, nhưng cái văn anh ấy vẫn còn
rên ri .
Nhà văn Nguyễn Tu ân đ ã nói về sự tham gia th ường xuyên củ a con ng ười th i sĩ vào
giữa những trang tiểu thuyết của Nguyên Hồng: "Đang dựng xây nhân vật thì dẹp chúng ra
một bên, rồi nhảy đại vào mà cao hứng ngâm thơ của mình. Tôi thì chưa dám nghiệt ngã với
các nhà viết truyện về kỹ thuật tiểu thuyết hàn lâm viện hoặc trào mới, nhưng nghĩ rằng tuôn
thơ vào dòng truyện vẫn không sao cả, miễn là nó hay, mình nói hay mình ngâm nga cũng
được". ( 30,73 )
Cất lên từ trái tim chan chứa yêu thương và tấm lòng rộng mở trước cuộc đời, lời trữ
tình ngoại đề không những nâng cao giá trị tư tưởng, tình cảm của tác phẩm mà còn mang
đến cho văn Nguyên Hồng giọng điệu tha thiết, lắng sâu, sôi nổi, mãnh liệt không thể lẫn với
giọng điệu của tác giả nào khác.
Năm tháng trái tim tôi từng dòng máu rỏ
Tôi đã đi hồn tan một xé
Nghe đau thương vuốt ngực, thống khổ lặng câm
Nghe phẫn uất vặn mình, hờn căm ghì xiết
Nghe dâm loạn cười vang và tấu nhạc
Nghe xa hoa chuốc rượu làm thơ
Nghe tiếng cười rên khóc với lá rụng trăng thu
Nghe gian dối kẹp kìm lời tố cáo
( Bài thơ buổi sáng - Nguyên Hồng )
3.2.4. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật:
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của vãn học, là công cụ để vẽ lại bức tranh hiện thực đời
sống, thể hiện rõ nét phong cách tác giả. Ngôn ngữ khi đi vào văn học đã khác ngôn ngữ thực
tế đời sống. Nó đã được chắt lọc qua cảm quan nghệ thuật của tác giả, chịu sự chi phối bởi
52
nguyên tắc nghệ thuật, mục tiêu tổ chức nghệ thuật. Ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện cá tính
sáng tạo với cách nhìn của nhà văn về hiện thực.
Được nhận xét là nhà văn của những người nghèo khổ, ngòi bút nhân đạo của Nguyên
Hồng lúc nào cũng đôn hậu, thật đằm thắm thiết tha. Đặc biệt khi viết về người lao động và
cảnh lao động, Nguyên Hồng có một niềm say mê riêng bắt nguồn từ lòng yêu thương và tự
hào của chính nhà văn với những con người lao động ngoài đời. Niềm say mê tự bên trong đó
làm nên một ngôn ngữ giàu chất thơ, trữ tình sôi nổi mãnh liệt.
Ở Nguyên Hồng văn với người là một. Văn Nguyên Hồng cũng sôi nổi và giàu chất trữ
tình như bản thân con người ông. Bởi vậy ngôn ngữ của tác phẩm Nguyên Hồng cũng mãnh
liệt gợi cảm. Những câu chữ sôi sục chồng chất những hình ảnh đầy sức sống mãnh liệt, giàu
chất thơ tác động mạn h mẽ tới tìn h cảm ng ười đọc. " Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp
lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết
lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người ( 31,147 ). Đó là tiếng kêu khắc khoải nhỏ máu của
con chim đỗ quyên. Nguyên Hồng miêu tả bức tranh hiện thực của ông với tất cả vẻ thê thảm
của thực tế phũ phàng. Đó là những tóp lều xiêu vẹo, lụp xụp cùng những kiếp người khốn
khó trong các xóm thợ nghèo nàn, những bữa cơm nhà nghèo đạm bạc, những bộ mặt lo âu
sầu não, cảnh tù tội, ăn mày, ăn xin, chết đói, chết rét đầy đường. Đây là điểm khác biệt rất rõ
trong bút pháp miêu tả của Nguyên Hồng và Thạch Lam, hai nhà văn gần gũi nhau trong xu
hướng trữ tình. ở Thạch Lam "ngòi bút tả người nghèo mà không muốn cho độc giả thấy
những mảnh rách, những mảnh vá trên áo quần họ, không muốn cho độc giả thấy giọng nói
nghẹn ngào, hoặc chao chát với những lời băn gắt tục tĩu thô lỗ của họ" (1,60). Thạch Lam có
tỏ sự cảm thông với cảnh nghèo của người lao động, nhưng dù sao cũng là mối cảm tình và
cảm thương của người ở tầng lớp khác. Còn Nguyên Hồng đã thể hiện mình như là cùng một
tầng lớp với đám dân nghèo thành thị. Qua những trang viết của Nguyên Hồng, cuộc sống
hiện lên sống động "đến nao lòng với đầy đủ mọi nỗi cùng quẫn của nó. Đó là những cuộc
đời đầy máu và nước mất của Mùn, Quyến, Láng, Hưng, Giang đem đến cho người đọc nỗi
thương cảm sâu sắc. Và cũng qua từng câu chữ trong trang viết của mình, Nguyên Hồng đã
cho độc giả nhận thấy được sức sống tinh thần bất diệt của những người dân nghèo đang sống
chìm sâu dưới đáy của xã hội cũ. Qua tác phẩm của Nguyên Hồng cuộc sống người lao động
hiện lên với tất cả vẻ lam lũ, xô bồ, bề bộn : "Tiếng chuông xe đạp bóp liên thanh, tiếng guốc
khua vang, tiếng xe bò ầm ầm trên con đ ường g ồ g hề, cát bụi, tiếng mặc cả, cãi cọ bên
đường" (11,111). Người ta cũng thường gặp trong các tác phẩm của ông hình ảnh những tốp
thợ "quần áo rách rưới, lấm láp và khét lẹt mùi dầu mỡ khói bụi và bùn đất " (11, 111) vội
vàng ăn tối trong những quán cơm nghèo (...). Họ vừa ăn vừa chuyện trò vu i vẻ, hỏi nhau ồn
53
ồn ...Họ là những chị phu hồ, phu than "ríu rít như chim sẻ" "chửi đùa nhau" "cười nói không
ngớt" (11,111)!
Văn Nguyên Hồng là như thế. "Bất cứ chữ nào, câu nào cũng chứa đựng một hình ảnh
cụ thể sờ mó được đến từng góc cạnh và câu chữ nào cũng lấp lánh cuộc sống, cũng mang
hơi thở hổn hển của cuộc sống lam lũ" ( 6,182 ). Cái ồn ào náo nhiệt, sôi sục xô bồ của cuộc
sống như cùng một lúc ùa vào văn ông tươi rói chất liệu hiện thực và người đọc luôn được
cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống ở sự bề bộn, sống động của nó. Đó là nhịp sống khẩn trương,
mạnh mẽ của những người lao động thành phố biển. Họ đang đi từ bóng tối đến ánh sáng,
biết giành giật sự sống bằng sức lực và bàn tay lao động của mình, khát khao vươn tới tương
lai tràn ngập ánh sáng và tràn trề hạnh phúc.
"Những lớp sóng cười nói trào lên cuồn cuộn rồi tràn lan, rồi tung cao (...) Bánh xe bò
chuyển rầm rầm lãn loang loáng những vòng lửa trong nắng xuân chói lóa (...). Một sự sống
mãnh liệt đè lên, vượt lên, vượt qua và cuốn theo tất cả ủy mị, những cái tối tăm, những cái gì
có vẻ chậm chạp (...). Người ta không còn thấy một vẻ ủ dột, một chút lạnh lẽo, một gợn nhỏ
tối tăm dưới cái bầu trời rực rỡ" (11,166,167).
Thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyên Hồng mang cá tính của ông, gợi cảm, sô i nổi,
ồn ào, giàu sức sống mang chất thơ của cuộc sốns. Nguyên Hồng đặc biệt chú ý miêu tả sắc
màu của ánh sáng, nhất là ánh trăng và ánh nắng. Ông không tả ánh trăng trong vẻ đẹp đơn
độc thuần túy của nó. Cũng như những yếu tố thiên nhiên khác ánh trăng trong văn Nguyên
Hồng thường "thấm đẫm tình người".
Trong truyện ngắn Mợ Du . ánh trăng đã chứng kiến tình mẹ con tha thiết, ánh trăng
còn tô điểm, đùm bọc, ôm ấp, che chở và quấn quyện với cuộc gặp gỡ éo le và cảm động của
hai mẹ con Dũng.
"Ánh trăng đã g ội tràn trề xuống hai gương mặt đầm đìa nước mắt áp lên nhau và hai
mái tóc ngắn dài trộn lẫn với nhau ... Hương hoa cau và hoa lý sáng và ấm đã xao xuyến lên
bởi những tiếng khóc dồn dập vỡ lở ở một góc vườn rì rì tiếng dế" ( 11,191 ).
Qua bức tranh miêu tả trên, vẻ đẹp kỳ diệu của tình mẫu tử đã lan tỏa đến cảnh vật
khiến không gian tràn ngập hương hoa thơm và ánh sáng. Hình ảnh quấn quýt của hai mẹ con
mợ Du dưới ánh trăng trở nên vô cùng huyền ảo và xúc động trong lòng người đọc. ở đây vẻ
đẹp được tạo nên chính bởi sự hòa hợp tuyệt vời giữa cảnh vật và tình người, giữa cái muôn
đời của thiên nhiên và cái vĩnh cửu của đời sống tinh thần nhân loại. Văn Nguyên Hồng là
như vậy, bao giờ cũng đầy cảm xúc, đầy chất thơ.
54
Trong tác phẩm của Nguyên Hồng, ánh nắng đã trở thành một tín hiệu thẩm mỹ có giá
trị đặc sắc. Nắng không những được miêu tả như một hiện tượng tự nhiên với những đặc
điểm vật chất của nó mà luôn luôn chứa đựng những giá trị tinh thần, những yếu tố cảm xúc
đẹp đẽ nắng không thể thiếu trong phong cảnh thiên nhiên làm nền cho sinh hoạt của nhân
vật. Đó là "một thứ nắng có sức sống, có linh hồn và cũng hoạt động sôi nổi như con người"
(31,93). Nắng đã trở thành bạn đồng hành của nhân vật.
Ánh nắng đem đến cho bà Phó (Cái xích cũ) những niềm vui nho nhỏ để không gục
ngã trước cuộc sống nghèo khổ, nhọc nhằn, cằn cỗi.
"Trong ánh nắng, những ngọn mướp non và hoa vàng đương phơ phất, tiếng chim chích
chòe rộn ràng vắng bặt từ sáng giờ lại nổi lên vang vang trên chòm xoan ở nhà bên cạnh".
(11,236 )
Ánh nắng rọi vào sân nhà giam khiến cái "tết của tù đàn bà" bớt đi phần lạnh lẽo, cách
biệt với cuộc sống bên ngoài "nắng vàng chảy mênh mang, sương mờ tan trong phấn nắng
chập chờn. Lá cây xanh biếc và mái ngói mốc rêu óng ánh vàng điệp" (11, 152)
Ánh nắng vàng ấ m áp đó dành riêng cho những đàn bà cùng khổ, bị tù tội "phần nhiều
oan ức" ấy. Qua cảnh thiên nhiên bừng sáng, hẳn người viết muốn gởi đến những người phụ
nữ bất hạnh trong chốn lao tù đó niềm an ủi ấm áp tình người và niềm hy vọng vào một tương
lai sáng sủa hơn.
Nêu không có đôi mắt và tâm hồn nghệ sĩ, nắng chỉ là một hiện tượng thiên nhiên thuần
túy "cái sức sống tự bên trong tâm hồn nhà văn, một cái gì say sưa rạo rực, tha thiết, tin yêu
đã in dấu lên mọi cảnh vật, mọi màu sắc. Nó làm cho những cảnh sắc đó sôi động hẳn lên,
rung lên, vang lên mạnh mẽ" cũng vì thế cái ánh nắng kia mới đi vào tác phẩm rực rỡ như thế
được.
Đọc "Những Ngày Thơ Âu" ta được tiếp xúc với một tâm hồn ham mê thanh sắc đắm
mình trong một bầu trời xanh bát ngát "với ánh nắng rực rỡ phấp phới trên các cành lá chòm
xoan xanh tươi, hứa hẹn màu thắm của các vừng hoa đỏ".
Cả tập thư trong "Cuộc sống" cũng thể hiện lòng yêu đời thiết tha. Nhớ về phố Cảng
thân yêu của mình khi đang bị giam ở tại Bắc Mê : Hải Phòng hiện ra với "một bầu trời tràn
ngập ánh sáng nắng rực, những tiếng cười nói tràn lên như gió bão", "những mắt lấp lánh",
"những tiếng nói và những cử chỉ không thể kìm hãm được", những "sự rạo rực đã phát tiết
ra" và khắp nơi "cây cỏ rung lên trước gió mưa rào rào rắc phấn vàng ph ấn bạc vãi tung ra
khắp bốn phương trời những hột bụi nảy nở của muôn ngàn bầu nhị" (Những Mầm sống)
55
Thiên nhiên trong tác phẩm của Nguyên Hồng đều ngùn ngụt sinh khí, kêu gọi lòng
ham sống của con người bởi sức gợi cảm sâu sắc của âm thanh và màu sắc.
Người đọc không thể quên khi nghe tiếng kèn náo nức, dồn dập trong "Những Ngày
Thơ Ấu ": "Tiếng kèn mỗi giây một dướn cao, một vang to, rung động cả làn không khí êm ả
của một góc trời. Rồi nương tiếng gió lao xao trong những chòm cây phấp phới, âm thanh
náo nức, dồn dập của tiếng kèn cuốn lên cao, tràn ra xa, rất xa đến những vùng xa sáng tươi
nào đó. Càng về sau tiếng kèn càng niềm nở, ân cần như những lời thúc giục thống thiết ...
Hãy bước đi, hãy bước đi, như làn gió nhỏ bay theo gió ...Tiếng kèn vồn vã và vẫn rõ ràng,
trong sáng và bầu trời mở rộng vẫn rung vang ..."
Âm thanh trong bức tranh thiên nhiên cũng rất đa dạng. Tiếng sóng, tiếng gió, tiếng
máy hòa vào nhau dữ dội. Nhưng cũng có lúc lại là " những tiếng chim chích chòe hót lanh
lảnh vang rất xa" ( 11, 236 )
Đặc biệt Nguyên Hồng có biệt tài miêu tả vẻ đẹp kỳ diệu trong bức tranh thiên nhiên
với những màu sắc pha trộn đâm nhạt khác nhau: Hồng mọng, vàng tươi, vàng chói lọi, đỏ
bừng, đỏ rực. đỏ hồng ... là gam màu lạc quan về phẩm chất của người lao động ...cùng với
bầu trời trong sáng tác của Nguyên Hồng có khi "xanh mênh mông" có khi "xanh biếc",
"xanh pha lê", nó bao la và cao rộng như chan chứa cuộc sống sôi nổi trong lành.
Thiên nhiên trong văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng tràn nắng và gió. Gió thổi dữ
dội và sôi động . Gió làm "lá bàng rung ào ào" "nhạc gió vang lừng" và "gió bể lồng lộng như
muôn ngựa phi trên đồng cỏ ..." Dưới cái nắng và gió ấy, tất cả cỏ cây sông nước đến phố xá,
chợ búa, con người đều sống mãnh liệt, tấp nập, tràn đầy sinh khí. Cái thiên nhiên rực rỡ
ngùn ngụt sức sống ấy là gì nếu không phải là biểu hiện của lòng ham sống, tin yêu cuộc
sống, vượt qua mọi nổi khổ trong cuộc đời của người lao động.
Trong cuộc đời thực Nguyên Hồng sống chan hòa cỡi mở với tất cả mọi người và nhà
văn đã mang phong cách ấy vào tác phẩm. Đọc những trang viết của ông ta thấy ngôn ngữ ở
đây không mang tính khách quan mà là chủ quan, mang nặng lòng đồng cảm của tác giả với
nhân vật. Nhiều lúc người kể chuyện bộc lộ ngay mình, không che giấu là nhà văn, là tác giả
câu chuyện. Người kể chuyện đối thoại thẳng với độc giả của minh.
"Lệ Hà ! Lệ Hà ! da nâu chín, trán thô, tóc cứng chảy bồng lên kia hiện giờ ở đâu còn
sống hay chết và làm gì hỡi những bạn đọc tin cậy của tôi" ( 11,298 )
Nguyên Hồng sử dụng rất nhiều dấu cảm làm câu vãn trở nên xúc động mãnh liệt, nó
thể hiện nổi xúc động bật lên từ chính bản thân câu chuyện. Trong lời văn thường đột ngột
vang lên thán từ: A! Sao! Hỡi! Kìa! Khốn nạn! ...
56
"Chết rồi, khốn nạn! ...khốn nạn! (...) Khốn nạn! Khốn nạn! ...Sự khốn nạn đã đến tột
cùng rồi! (...) A! Đồng bào Xan! Hơn hai mươi triệu linh hồn máu mủ với Xan còn phải đợi
với những điều kiện nào mới vùng dậy đập tan những thống khổ" ( 11,391)
"Nhân mù rồi! Nhân mù rồi! (...) Mũn chết! Thế là hết! Đời cha con Nhân thật hết cả
chỗ nương tựa ... hết cả mọi sự yên vui, mọi ánh sáng, mọi hơi sưởi ấm !" ( 11,84,86 )
Ngôn ngữ Nguyên Hồng bộc lộ cá tính của ông một cách rõ ràng. Một cá tính sôi nổi,
mạnh mẽ, giàu cảm xúc. Một tâm hồn bao dung, giàu tình nghĩa. Nhiều lần ông đ ã thổ lộ,
cuộc đời ông, lý tưởng của đời ông là được dùng nghệ thuật để nói lên tiếng nói của người
cùng khổ - cùng họ đấu tranh lại những thế lực hắc ám, bạo ngược tàn hại và vùi dập con
người. "Tôi sẽ viết về những cảnh đói khổ, về những sự áp bức, về những nỗi trái ngược bất
công. Tôi sẽ đứng về những con người lầm than bị đọa đày, bị lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần ra
những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược lộng hành của xã hội bấy giờ. Tôi sẽ
gánh nhận lấy mọi trách nhiệm chống đói nh ư bào chữa bảo vệ. Tôi sẽ chỉ có tiến bước, chỉ
có đi đường thẳng. Tôi chỉ biết có ánh sáng và chính tôi là ánh sáng" ( 18, 29 )
Những dòng chữ mang nội dung trữ tình tràn đầy sôi nổi như thế đã tạo nên một giọng
điệu trần thuật riêng của tác phẩm Nguyên Hồng.
Bàn về vai trò g iọng điệu trong sáng tác văn học, M.B.Khrap chencô v iết: "Đề tài, tư
tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm
vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác". Hiệu suất cảm xúc của lối
kể chuyện (...) trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ yếu vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học
với tư cách là một thể thống nhất hoàn chỉnh" (24,167)
Như vậy vấn đề giọng điệu của tác phẩm mà chủ yếu là giọng điệu trần thuật cần được
sự quan tâm của cả người sáng tác, người thưởng thức và người nghiên cứu.
Với Nguyễn Công Hoan, đời là một tấn trò hề, con cái diễn trò báo hiếu, vợ chổng diễn
trò thủy chung , k ẻ giàu sang diễn trò nhân đ ạo, n hà nước diễn trò p háp lu ật ...Ng ười kể
chuyện là người biết hết thủ thuật làm trò của các diễn viên trên sân khấu cuộc đời. Vì thế
giọng điệu chủ yếu trong sáng tác của ông là giọng giễu cợt, châm biếm.
Người trần thu ật trong sáng tác củ a Ng ô Tất Tố là ng ười từng trải, h iểu đ ời, ngh iêm
túc, khách quan trong nhìn nhận mọi vấn đề của cu ộc sống . Vì v ậy giọng điệu tác phẩm
thường mực thước, cẩn trọng, sâu sắc, nếu có hài hước thì cũng thâm thúy, kín đáo.
Chứng kiến tình trạng con người bị đẩy xuống làm súc vật, bị tha hóa cả về vật chất lẫn
tinh thần, không cưỡng nỗi người trần thuật của tác phẩm Nam Cao mang giọng điệu đắng
cay, chua xót.
57
Chúng ta còn có thể nói đến giọng điệu khách quan pha nét dí dỏm, duyên dáng của Tô
Hoài, giọng tài hoa khinh bạc của Nguyễn Tuân.
Nguyên Hồng cũng tạo cho sáng tác của mình một giọng điệu riêng: thiết tha, giàu cảm
xúc nhưng không phải là những cảm xúc nhẹ nhàng bay bổng như giọng điệu của Thạch
Lam. ở Nguyên Hồng "trong xúc cảm bao giờ cũng có cái gì quằn quại nặng nề" (tác giả tự
nhận xét) và thường ở đỉnh điểm của nó: yêu thương đến nồng cháy, xót xa đến tê dại, đau
đớn đến quằn quại và sội nổi đến bốc lửa ... Nguyên Hồng viết văn bằng máu và nước mắt,
bằng trái tim nhiều hơn bằng trí tuệ tỉnh táo. Vì thế giọng điệu văn chương của ông nặng nề
sắc thái trữ tình thương cảm thống thiết. Đọc văn Nguyên Hồng nhiều người xúc động cũng
là lẽ đương nhiên. Nhưng cũng có lúc, ở Nguyên Hồng, những yếu tố nội tâm, những tình
cảm sôi nổi, dạt dào từ bên trong cứ muốn lấn lướt, trùm lên hiện thục khách quan được miêu
tả giọng điệu chủ yếu trong sáng tác của ông là giọng giễu cợt, châm biếm. Người trần thuật
trong sáng tác của Ngô Tất Tố là người từng trải, hiểu đời, nghiêm túc, khách quan trong nhìn
nhận mọi vấn đề của cuộc sống. Vì vậy giọng điệu tác phẩm thường mực thước, cẩn trọng,
sâu sắc, nếu có hài hước thì cũng thâm thúy, kín đáo.
Chứng kiên tình trạng con người bị đẩy xuống làm súc vật, bị tha hóa cả về vật chất lẫn
tinh thần, không cưỡng nỗi người trần thuật của tác phẩm Nam Cao mang giọng điệu đắng
cay, chua xót. Chúng ta còn có thể nó i đến giọng điệu khách quan pha nét dí dỏm, duvên
dáng của Tô Hoài, giọng tài hoa khinh bạc của Nguyễn Tuân.
Nguyên Hồng cũng tạo cho sáng tác của mình một giọng điệu riêng: thiết tha, giàu cảm
xúc nhưng không phải là những cảm xúc nhẹ nhàng bay bổng như g iọng điệu của Thạch
Lam. ở Nguyên Hồng "trong xúc cảm bao giờ cũng có cái gì quằn quại nặng nề" (tác giả tự
nhận xét) và thường ở đỉnh điểm của nó: yêu thương đến nồng cháy, xót xa đến tê dại, đau
đớn đến quằn quại và sội nổi đến bốc lửa ... Nguyên Hồng viết văn bằng máu và nước mắt,
bằng trái tim nhiều hơn bằng trí tuệ tỉnh táo. Vì thế giọng điệu văn chương của ông nặng nề
sắc thái trữ tình thương cảm thống thiết. Đọc văn Nguyên Hồng nhiều người xúc động cũng
là lẽ đương nhiên.
Nhưng cũng có lúc, ở Nguyên Hồng, những yếu tố nội tâm, những tình cảm sôi nổi, dạt
dào từ bên trong cứ muốn lấn lướt, trùm lên hiện thục khách quan được miêu tả.
Trong các truyện ngắn : Hàng Cơm Đêm, Nhà Bố Nấu, Láng ... người trần thuật luôn
bộc lộ thái độ chân tình gần gũi với nhân vật, thiện cảm của người kể với đối tượng của mình
thể hiện ngay từ những dòng đầu đến những dòng cuối cùng của tác phẩm. Từ cách tả diện
mạo, lời ăn tiêng nói đến hành động, suy nghĩ của nhân vật. Giọng điệu đặc biệt thiết tha khi
58
nói đến đời sống tình cảm của người phụ nữ, của trẻ em và những bất hạnh mà họ phải gánh
chịu trên bước đường đời.
Vân giữ thái độ gần gũi giữa nhân vật và người kể, người nghe ở Mợ Du giọng điệu
trần thuật nhuốm màu sắc cảm thương đau đớn. Người kể là người đã từng chứng kiến những
cuộc gặp gỡ đầy nước mắt của hai mẹ con Dũng ngày xưa, lại phải đau đớn chứng kiến cái
chết cô đơn tội nghiệp của người mẹ đã trải qua quá nhiều bất hạnh. "Lần nào sự gặp gỡ của
hai mẹ con Dũng cũng làm tôi sung sướng và lần nào sự chia lìa của hai m ẹ con Dũng cũng
thấm cả nước mắt và làm tôi bùi ngùi trong sự thương tiếc mênh mông ..." ( 11,192 )
"Tôi đã nhiều lúc tự hỏi nhưng chỉ thấy thêm rằng chắc chắn mợ Du đã chết và những
cảm tưởng về mợ chỉ càng thấm thía, tê tái trong tâm hồn tôi, thằng bé An xưa kia không còn
những giọt nước mắt tràn trề để khóc nữa" ( 11,199)
Có tác phẩm giọng điệu trần thuật lại mang sắc thái phán xét nghiêm nghị xen chút
đắng cay. Đó là giọng điệu trong các truyện ngắn "Miếng Bánh", "Hai Dòng Sữa"....viết về
những nhân vật "tự thức tỉnh" sau khi nhận ra lỗi lầm.
Trong "Ngọn Lửa" vẫn xuất hiện thái độ tin yêu con người, nhưng giọng văn trần
thuật đã bớt đi phần buồn bã, u ám so với những sáng tác ở thời kỳ đầu. Đây là tác phẩm ra
đời trong không khí cao ưào cách mạng trước cuộc khởi nghĩa tháng Tám, nên giọng văn hết
sức lạc quan, sôi nổi như nước triều cuồn cuộn tỏa đến trang sách : "Cuộc sống phải là những
kích thích không ngừng của những chứa chan tin tưởng tới, của sự nỗ lực mới, làm việc trên
cái mặt đất mà không còn ai dám thấy mình tàn héo và chắc chắn là phải thay đổi, xóa hết
những đói khổ và đau xót..." (Ngọn Lửa ).
3.3. Cách thức xây dựng nhân vật:
3.3.1. Nhân vật tích cực:
Có thể nói gần như toàn bộ nhân vật thành công của Nguyên Hồng đều là nhân vật tích
cực. Đó là loại nhân vật thể hiện giá trị tinh thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao
cả của con người được nhà văn miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một tư tưởng
nhân đạo thống thiết, sâu sắc. Đọng lại trong tâm trí người đọc là những nhân vật như : Mùn
(Đây,Bóng Tối) ; Mụ Mão (Người Mẹ Không Con) ; Thạo bé (Giọt Máu); Mợ Du (Mợ Du)
... và đặc biệt là Tám Bính trong Bỉ Vỏ.
Qua Bỉ Vỏ, Nguyên Hồng tự khẳng định mình là một ngòi bút hiện thực chủ nghĩa
vững vàng. Bởi vì từ hiện tượng một cô gái bị lưu manh hóa, tác giả phân tích cả một chuỗi
nguyên nhân xã hội ở nông thôn và thành thị với một cơ cấu xã hội duy trì những hủ tục vô
59
nhân đạo, với những tổ chức chính trị, những công cụ bạo lực bênh vực cho bọn có tiền, đẩy
Tám Bính vào cuộc sống dơ b ẩn và cực nhục mà cô không sao vượt ra nổi. Nhân vật Tám
Bính tuy có phần nào được lý tưởng hóa, nhưng về căn bản đã thể hiện được quy luật tâm lý
chính xác mà chủ nghĩa hiện thực yêu cầu.
Trong văn học hiện thực chủ nghĩa nói chung và những sáng tác của Nguyên Hồng nói
riêng, tính cách nhân vật được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh, thể hiện những
mối quan hệ có tính quy luật giữa con người và môi trường xã hội. ở đây, sự vận động của
tính cách diễn ra dưới sự tác động của những biến cố xã hội, môi trường sống ... Nhân vật
Tám Bính kết hợp được sự thống nhất và đa dạng trong tính cách : những nét ổn định hòa
trốn với những biến đổi trong quá trình phát triển đầy mâu thuẫn nhưng toàn vẹn của nó.
Theo dõi sự hình thành và chuyển biến của bút pháp Nguyên Hồng trong sự thể hiện
những nhân vật tiêu biểu của ông, thấy có liên quan đến những; đặc điểm riêng của nhãn
quan về thế giới của ông. Một cái nhìn có màu sắc lãng mạn và chịu ảnh hưởng của tinh thần
Cơ đốc giáo: sự đối lập quyết liệt giữa linh hồn và xác thịt, giữa sức cám dỗ ma quỷ và sự
cưỡng lại của tinh thần thánh thiện. Sau này, sự tiếp nhận quan điểm duy vật lịch sử, quan
điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác ở nhà văn đã làm mất đi tính siêu hình của nhãn quan này
nhưng vẫn để lại những đặc sắc riêng trong việc thể hiện các tính cách nhân vật của Nguyên
Hồng. Điều này có thể thây rõ trong các tác phẩm của ông. Chẳng hạn ở Tám Bính (Bỉ vỏ),
đó là những vật vã bên trong giữa bản chất lương thiện với hành động lưu manh của dân
"chạy vỏ"; ở Quyến (Trong cảnh Khốn Cùng) là mâu thuẫn giữa ham muốn nhục thể và tình
nghĩa thủy chung; ở Hưng (Miếng Bánh) là những giằng xé căng thẳng giữa ý thức về nhân
phẩm và những cám dỗ thấp hèn ...
Khi lâm sự với các nhà văn trẻ, Nguyên Hồng cho rằng "nhân vật là quy luậ t, là những
mâu thuẫn và sự phát triển của xã hội được thể hiện trong những hình tượng cụ thể. Phải hết
sức thận trọng trong việc mô tả các môi tương quan giữa các nhân vật và không nên có sơ đồ
cho từng nhân vật hay từng loại nhân vật. Diện mạo, tính nết của nhân vật sẽ do mối tương
quan và đời sống xã hội mà phát triển không ngừng chứ không nên có một sơ đồ hay một ước
lệ trước. Cho nên nhà văn phải có can đảm và công phu lật đi lật lại vấn đề của nhân vật, diện
phát triển của nhân vật. Nếu không phản ánh cuộc đời của nhân vật một cách sinh động và
thấu đáo cuộc đời của nó, thì thật là làm khổ cho cả người đọc và cả nhân vật. Đời sống của
nhân vật chi phối bởi những quy luật khắc nghiệt lắm, tinh vi và kín đáo lắm. Phải mạnh dạn
trong sáng tạo nhưng không được quên sự xác thực của cuộc sống" (Nguyên Hồng_Cát bụi
và ánh sáng_Nguyễn Quang Thân biên soạn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1992).
60
Trung thành với quan điểm sáng tạo của mình, Nguyên Hồng đã tạo ra những nhân vật
văn học có máu thịt, hình dáng, tâm sự, linh hồn và cuộc đời hết sức sinh động. Mặc dù chưa
có được những hình tượng bất hủ như Chí Phèo (Nam Cao); Xuân tóc đỏ (Vũ Trọng
Phụng) ... nhưng bằng tài năng nghệ thuật và nhất là tấm lòng yêu thương con người thiết tha
của mình, Nguyên Hồng đã để lại cho Vãn học Việt Nam một Tám Bính - một kiếp người
khổ đau chồng chất "bị lừa phản, chịu những oan ức, bệnh tật phá hoại thể xác, tội ác phá
hoại tinh thần ; con người cứ vùng lên, dập xuống, dập xuống lại vùng lên. Trải qua bao
nhiêu cảnh đau đớn, tủi nhục, tối tăm, tất cả trái tim và tâm hồn bị xẻo, bị nướng, bị tan nát ...
tất cả những ước mơ trong sáng, tươi thắm đẹp đẽ nhất của cả một đời bị tàn phá ... tất cả
những gì lành mạnh, cao quý, thiêng liêng nhất, thể chất cũng như tinh thần đều bị thay đổi
ngoài ý muốn củ a mìn h, cu ốn đi, xô đi b ởi một sức mạn h tàn n hẫn, đ ộc ác vô cù ng ..."
(18,97).
3.3.2. Nhân vật giàu chất tự truyện:
Cũng như văn của Thạch Lam và Nguyễn Tuân, văn xuôi nghệ thuật của Nguyên Hồng
là một thứ sản phẩm giàu chất tự truyện.
Trong các tác phẩm của Nguyên Hồng, có bốn tập hồi ký đặc sắc: Những Ngày Thơ
Ấu; Bước Đường Viết Văn; Những Nhân Vật Ấy Đã Sống Với Tôi; Một Tuổi Thơ Văn.
Toàn bộ những trang sách ấy là một thứ ưữ tình được thể hiện bằng văn xuôi, tạo thành một
bức chân dung tự họa.
Thông thường, người ta chỉ viết hồi ký khi đã có tuổi, khi họ đã có sự nghiệp, nếm đủ
"mặn, nhạt, chua, cay lẫn ngọt bùi" của đời sống. Với Nguyên Hồng thì khác hẳn, tập hồi ký
Những Ngày Thơ Ấu được viết khi nhà văn còn trẻ lắm. Dường như quyển sách này không
hề biết đến sự gia công nghệ thuật mà nó được dệt từ "những rung động cực điểm của một
tâm hồn trẻ dại" (Thạch Lam). Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: "Lối tự truyện này ở
Anh, ở Mỹ, ở Nga rất thịnh hành, nhưng ở nước Việt Nam ta, viết được, tôi cho là dũng cảm
lắm".
Những Ngày Thơ Ấu là những lời tâm sự thiết tha, thầm kín, những hồi ức của một cái
Tôi đau khổ nhưng hồn nhiên, trong sáng, tự bộc bạch cuộc đời riêng tư của mình lên trang
giấy một cách chân thành: "Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì yêu thương nhau, trái ngược
cay đắng đó tôi đã hiểu biết rõ rệt và thấm thìa ngay từ năm tôi lên bảy lên tám, ở vào cái tuổi
mà tính tò mò rất dễ bị kích thích và trí ngây thơ trong suốt đã ghi giữ một hình ảnh gì, một
nỗi niềm nào thì ghi giữ mãi mãi. Những buổi chiều vàng lặng lẽ, lạnh lẽo của mùa Đông,
những buổi chiều mà bụi mưa như có một tiếng van lơn thầm thì trong hơi gió vu vu, lửa lò
61
than rực rỡ vờn lên chân tường những ánh hồng lấp lánh hay rủ rê tâm trí neười ta vào những
cõi buồn nhớ là những buổi chiều làm tê tái mẹ tôi hơn hết" (12, 193, 194).
Nhân vật - tự truyện dễ tạo nên ở người đọc một sự đồng cảm, gần gũi và tin cậy, một
sự xúc động sâu lắng. Cái tôi tự truyện, cái tôi "tự thú", cái tôi tâm sự thầm kín với người đọc
n hư là với người thân của mình, đã tạo ra mối quan hệ dân chủ, tin yêu và thông cảm lẫn
nhau giữa nhà văn và công chúng. Điều cần chú ý là Nguyên Hồng không hề tái hiện sự kiện
theo kiểu biên niên khô cứng, mà ông tập trung vào những điểm chính yếu, sinh động nhất để
dựng lại thời quá vãng.
Trong Những Ngày Thơ Ấu, Nguyên Hồng gần gũi với Thạch Lam ở lối phân tích tâm
lý tinh tế, lối viết đi sâu vào cảm giác, ở cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa. Đây là cái cảm giác
của một cậu bé cô đơn, tủi nhục sau bao ngày đằng đang xa cách, bỗng lại được lăn vào lòng
mẹ: "Tôi ngồi trên đệm, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngã vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy những cảm
giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt... Phải bé lại và lăn vào lòng một
người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuồng
cằm và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng..." (12, 225,226).
Thật ra, không phải chỉ đọc các hồi ký, người ta mới gặp nhân vật giàu chất tự truyện
của Nguyên Hồng. Trong tiểu thuyết và truyện ngắn của ông hiện lên rất nhiều nhân vật.
Song bao giờ cũng vậy, tất cả cái thế giới đau khổ ấy được nhìn nhận, xét đoán, rồi thế giới
ấy rùng rùng như lên cơn sốt, cuồn cuộn đau đớn, rên rỉ... là nhờ cái nhìn của một nhân vật
chính. Ta có thể kể đến Giang, An trong Ngọn Lửa ; Minh trong Lưới sắt; Xuân trong Cuộc
sống. Và trước khi hiện thân thành nhân vật Thanh xuyên suốt hơn hai ngàn trang Cửa Biển
thì nhân vật ấy đã xưng tôi trong rất nhiều truyện từ Giọt Máu đến Địa Ngục Và Lò Lửa. Đó
là nhân vật mang chất tự truyện của Nguyên Hồng. Trong những lúc nói đến nhân vật ấy,
Nguyên Hồng trở lại với cách làm việc của một nhà thơ, tức là chỉ còn biết chính mình, nói
về chính mình. Nhưng qua đó, biểu hiện ra cả cuộc đời.
Hạt nhân tính cách của loại nhân vật này được tác giả kiên trì nhắc lại nhiều lần, đó là
khả năng nhìn vào đời sống một cách chăm chú, khả năng đồng cảm, nói rõ ràng hơn, khả
năng đau bằng chính da thịt mình, nỗi đau của những người khác. Tâm trí luôn nhạy bén, lại
có điêu kiện lăn lộn giữa bao nhiêu ngõ tối, xóm nghèo. Mỗi nhân vật mang tính cách tự
truyện này của Nguyên Hồng đều thương đời, thương người và luôn cật vấn về sự đời. ở giữa
bóng tối, họ như ánh sáng _ dù đôi khi ánh sáng leo lét, lờ mờ song vẫn tỏa sáng, soi rọi vào
những người xung quanh, sống trong đau khổ do xã hội áp đặt đã đành, thường xuyên họ còn
đau khổ vì những lầm lẫn, sai trái do chính họ tạo ra. Trong Lưới sắt, nhân vật đó sau khi ở
tù về, lúc nào cũng sợ sệt, hốt hoảng, nhìn đâu cũng ra kẻ thù nên chỉ muốn tránh hết mọi
62
chuyện. Trong Giọt Máu, nhân vật đó thấy kẻ ác hoành hành, chỉ bó tay chịu đựng, bất lực. ở
loại nhân vật này của Nguyên Hồng, dường như có sự gặp gỡ giữa những khát vọng lớn lao
với những thói quen, cử chỉ tầm thường và nhân vật không thể hoàn toàn kiểm soát chúng
bằng ý thức. Bởi thế, nhân vật này thường ở trong tình trạng chới với, thảng thốt. Những câu
nói giật giọng, những xúc cảm lộn xộn, những cử chỉ phường tuồng ... khiến chúng ta bùi
ngùi thương cảm.
Dõi theo nhân vật này qua các tác phẩ m của Nguyên Hồng, người đọc thấy rõ những
chuyển biến về tư tưởng phản ánh và những chuyển biến của bản thân tác giả : từ cho gắn bó
với người dân lao động do cảnh ngộ đói nghèo đẩy tới (Lớp Học Lẩn Lút) đến cho có ý thức
hòa nhập vào đời sống của nhân dâ n, coi đó mới là cuộc sống chân chính (Hai Dòng Sữa,
Hơi Thở Tàn).
63
KẾT LUẬN
Gần nửa thế kỷ cầm bút, Nguyên Hồng đã để lại một sự nghiệp văn chương to lớn. Có
thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: Nguyên Hồng là một nhà văn lớn của văn học Việt
Nam hiện đại. Bao trùm lên toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng là chủ nghĩa nhân
đạo vừa thống thiết, vừa lạc quan hướng về những lớp người cùng khổ nhất của xã hội. Tư
tưởng ấy đã đưa Nguyên Hồng đến với văn chương trong tư cách là người nghệ sĩ sáng tạo ra
sự sống. "Có thể nói mỗi dòng chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng tình xót
thương, ép thẳng ra từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình. Nguyên Hồng vốn xuất thân từ
một gia đình theo đạo Cơ đốc. Nhưng chính ông cũng là một chúa Cơ đốc, tự nguyện mang
lấy xác phàm của con người trần thế để rồi lại hiển thánh, không phải bằng một phép màu
nào mà bằng những trang viết sẽ còn nói mãi với đời những tình cảm thống thiết của ông"
(29,10,11).
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng với nội dung như thế, tất nhiên phải hướng về
những con người "dưới đáy" của xã hội, những con người chìm sâu dưới "bùn đen vạn kiếp".
Điều kỳ diệu là nhân vật của Nguyên Hồng không chỉ là những người tột cùng đau thương
mà còn vô cùng thánh thiện. Có thể nói Nguyên Hồng đã góp vào "Bảo tàng con người Việt
Nam" (chữ dùng của Nguyễn Tuân) những chân dung sinh động, không bao giờ phai mờ
trong tâm trí người đọc. Đó là những Tám Bính, Mợ Du, Thạo Bé, Mũn, mụ MãoàĐằng sau
những nhân vật ấy người đọc thấy hình ảnh đức chúa Giêsu chịu nạn trên cây thánh giá để
chuộc tội cho chúng sinh ở chốn "khách đầy" này.
Chủ nghĩa nhân đạo cũng đã chi phối sâu sắc đến cách tạo tình huống, những chuỗi bất
hạnh liên tục, tăng cấp và cả cách trần thuật, giọng điệu trần thuật của tác phẩm Nguyên
Hồng.
Chất thơ trong văn xuôi của Nguyên Hồng là sự rung cảm trước cái đẹp của cuộc sống
vất vả của những người lao động. Trong lao động có một vẻ đẹp, một chất thơ riêng, rất giàu
sắc lãng mạn. Nguyên Hồng là một trong những nhà văn đầu tiên của nước ta ngợi ca lao
động.
Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Nguyên Hồng có một nguồn gốc sâu xa từ sự
nhân hậu của người dân nghèo Việt Nam, từ cái đạo lý công bằng của truyện cổ tích, cái bát
ngát thắm tươi của ca dao.
Nguyên Hồng là một nhà văn đã sống một cuộc đời phong phú và giản dị giữa lòng
nhân dân lao dộng, một tâm hồn luôn luôn khát khao vươn tới ánh sáng của lý tưởng, ông là
64
một nh à văn chân ch ín h , coi sự sáng tạo ng hệ th u ật là n iềm say mê cao q uý n hất củ a đ ời
mình, một tấm gương lao động cần cù và đầy nghị lực. ông đã để lại cho nền văn học nước ta
một gia tài đồ sộ, trong đó nhiều tác phẩm có giá trị lâu dài với thời gian.
Nói đến Nguyên Hồng, người ta thường nghĩ đến tiểu thuyết "Bỉ Vỏ" hồi ký Những
Ngày Thơ Ấu trước cách mạng tháng tám và tiểu thuyết "Cửa Biển" sau 1945. Thật ra với
hơn năm mươi truyện ngắn mà tiêu biểu là : Đây Bóng Tối, Người Mẹ Không Con, Mợ Du,
Giọt Máu, Đi, Hàng Cơm Đêm, Trong Cảnh Khốn Cùng ...và tập bút ký" Cuộc Sống đều
có thể làm vinh dự cho người cầm bút. Vì vậy khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi có đi sâu
hơn vào bộ phận này của sự nghiệp sáng tác Nguyên Hồng.
Do khả năng có hạn lại đi vào một đề tài lớn, luận án của chúng tôi chắc chắn còn nhiều
thiếu sót. Chúng tôi chỉ mong có được một vài đóng góp rất nhỏ đối với một đề tài lớn lao
này.
65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (chủ biên) - Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp. NXB Hội nhà văn
Hà Nội, 1994.
2. Lại Nguyên Ân - Văn học và phê bình. NXB Tác phẩm mới Hà NỘi, 1984.
3. M. Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết vă n Nguyễn Du. Hà Nội
1992.
4. M. Bakhtin - Những vấn đề thi pháp Đôxtôiépxki. (Trần Đình sử dịch). NXB Giáo
dục Hà Nội, 1993.
5. Trần Các, Nguyên Hồng ở Căng Bắc Mê, TCVH số 3.1982.
6. Tuyển tập Nam Cao, tập 1. NXB VH Hà Nội 1977.
7. Nguyễn Minh Châu - Vô cùng thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng - Nguyên Hồng -
Con người và sự nghiệp, NXB Hải Phòng, 1997.
8. Nguyễn Đức Đàn - Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam - NXB KHXH
Hà Nội, 1965.
9. Đặng Anh Đào - Tài năng và người thưởng thức - NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1994.
10. Phan Cự Đệ - Lời giới thiệu tuyển tập Nguyên Hồng - Tập 1 -NXB VH Hà Nội,
1997.
11. Tuyển tập Nguyên Hồng - tập 1 - NXB VH Hà Nội, 1997.
12. Tuyển tập Nguyên Hồng - tập 2 - NXB VH Hà Nội, 1997.
13.Nguyên Hồng, Bảy Hưu. Hội văn học nghệ thuật Hà Bắc, 1991
14.Nguyên Hồng - Hai Dòng Sữa, NXB Hàn Mặc Hà Nội, 1943.
15.Nguyên Hồng - Miếng Bánh, NXB Đời nay Hà Nội, 1943.
16.Nguyên Hồng - Giọt máu - NXB Thanh niên, Hà Nội 1958.
17.Nguyên Hồng - Địa ngục và lò lửa, NXB VH, Hà Nội, 1961.
18. Nguyên Hồng - Bước đường viết văn, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.
19. Nguyên Hồng - Những nhân vật ấy đã sống với tôi, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội,
1978.
66
20. Lê Bá Hán, Trần Đình sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học, NXB
Giáo dục Hà Nội. 1992.
21. Hoàng Ngọc Hiến - Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội
1991.
22. Hoàng Ngọc Hiến (dịch) - Nhập môn văn học, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà
Nội, 1992.
23. Nguyễn Hoành Khung - Từ điển v ăn học, Mụ c từ Ng uyên Hồng , tập 2 . NXB
KHXH Hà Nội, 1984.
24. M.B. Khrapchenkô - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB
Tác phẩm mới Hà Nội, 1978.
25. M.B. Khrapchenkô - Sáng tạo nghệ thuật hiện thực, con người, hai tập, NXB
KHXH Hà Nội, 1985.
26. Kim Lân - Nguyên Hồng - một nhà văn, TCVH số 3, 1982.
27. Lê Lựu - Với nhà văn Nguyên Hồng, Nguyên Hồng - Con người và sự nghiệp,
NXB Hải Phòng, 1988.
28. Phương Lựu (chủ biên) - Cơ sở lý luận văn học, tập 3 NXB GD, 1988.
29. Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyên Hồng và Hải Phòng, NXB Hải Phòng, 1987.
30. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) - Nguyên Hồng - Con người và sự nghiệp, NXB Hải
Phòng 1988.
31. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB GD
Hà NỘi 1996.
32. Vương Trí Nhàn (chủ biên) - sổ tay người viết truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới,
Hà Nội 1980.
33. X.M.Petơrốp - Chủ nghĩa hiện thực phê phán (Nguyễn Đức Nam dịch), NXB Đại
học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1986.
34. G.N. Pospelov (chủ biên) - Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, NXB GD Hà Nội,
1985.
35. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP HCM 1990.
36. Khái Vinh - Nguyên Hồng - Nhà văn của những người lao động, NXB Lao động,
1974.
67