TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ
NGUYỄN VĂN HÒA
ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN
PHẨM RỪNG BẦN TẠI ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã ngành: 62620115
Cần Thơ, năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ
NGUYỄN VĂN HÒA
ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN
PHẨM RỪNG BẦN TẠI ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
Mã ngành: 62620115
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
PGS. TS. MAI VĂN NAM
Cần Thơ, năm 2021
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGs. Ts. Mai Văn Nam,
hướng dẫn khoa học của luận án, đã tận tình hướng dẫn, nhận xét, góp ý, khuyến khích và
động viên tôi rất nhiều trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện hoàn thành luận án
này. Tôi đã học được rất nhiều từ Thầy về kiến thức chuyên môn, tác phong làm việc và
những điều bổ ích khác.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý Thầy, Cô trong Khoa Kinh tế nói riêng
và quý Thầy, Cô trong Trường Đại học Cần Thơ nói chung, nơi tôi học tập và nghiên cứu.
Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt khoá học tại trường. Đặc biệt là Thầy
PGs. Ts. Đỗ Văn Xê, PGs. Ts. Võ Thành Danh, PGs. Ts. Lê Khương Ninh, PGs. Ts. Phạm
Lê Thông, PGs. Ts. Huỳnh Việt Khải …đã đem đến cho tôi những kiến thức và kinh
nghiệm vô giá.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh/chị đang công tác tại các Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Kiểm lâm, Hạt Kiểm lâm, Phòng Nông nghiệp,
Phòng Văn hóa Thông tin 02 tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng đã nhiệt tình hỗ trợ, giúp đỡ tôi
trong thời gian khảo sát thực tế, thu thập số liệu để thực hiện hoàn thành luận án.
Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến những người bạn, đồng nghiệp và người
thân đã tận tình hỗ trợ, chia sẻ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu.
iii
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
TÓM TẮT
Cây Bần chua có tên khoa học là Sonneratia caseolaris L. thuộc họ Bần
(Sonneratiaceae), Bần là loại cây tự mọc và được trồng nhiều ven các con sông, cửa biển,
trên các bãi bồi và là một quần thể không thể thiếu của rừng ngập mặn ven biển nước ta;
với chiều cao to lớn của cây và hệ thống rễ phát triển cây bần có khả năng chắn sóng, chống
xói mòn và gió (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004).
Nghiên cứu này nhằm xác định giá trị kinh tế của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu
Long. Địa bàn nghiên cứu gồm ba huyện thuộc hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, với tổng
diện tích rừng bần gần 3.170 ha, với 1.741 hộ dân được giao khoán rừng.
Thực hiện nghiên cứu này áp dụng cả 3 cách tiếp cận chủ yếu để đánh giá giá trị kinh
tế của sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long là đánh giá tổng thể, đánh giá từng
phần và đánh giá phân tích tác động. Các phương pháp đánh giá được chia thành 4 nhóm là
dựa trên thị trường thực, dựa trên thị trường thay thế, dựa trên thị trường giả định và phân
tích chi phí - lợi ích mở rộng. Mỗi phương pháp phù hợp với việc đánh giá một hay nhiều
nhóm giá trị cụ thể. Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu
Long là một quy trình gồm nhiều bước, mang tính liên ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều
chuyên gia và các nhóm xã hội. Lượng thông tin về giá trị kinh tế của sản phẩn rừng bần tại
đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều ứng dụng trong quản lý rừng bần ngập mặn. Các
ứng dụng quan trọng sử dụng thông tin về giá trị kinh tế gồm (1) xây dựng các qui hoạch,
kế hoạch sử dụng rừng bần ngập mặn, (2) đề xuất các công cụ pháp lý, công cụ kinh tế trong
quản lý rừng bần ngập mặn, (3) thiết kế và thực hiện các cơ chế chi trả cho dịch vụ môi
trường để bảo tồn sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, (4) bổ sung và hoàn
thiện cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, (5)
thiết kế các chương trình giáo dục và truyền thông về bảo tồn và quản lý bền vững rừng bần
ngập mặn.
Thông qua việc phân tích giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp, kết quả nghiên cứu
cho thấy giá trị kinh tế của rừng bần hàng năm mang lại tổng số tiền trên 445,6 tỷ đồng;
trong đó giá trị trực tiếp trên 384,9 tỷ đồng, chiếm 86,38%; giá trị gián tiếp của rừng bần
phòng hộ trên 60,7 tỷ đồng, chiếm 13,62% tổng giá trị kinh tế.
iv
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long; Giá trị kinh tế; Sản phẩm rừng bần; Rừng bần
ABSTRACT
Sonneratia caseolaris L., Sonneratiaceae, is a self-growing tree and is grown along rivers,
estuaries, on alluvial grounds and is an indispensable population of coastal mangroves in
our country; With the great height of the tree and the root system, the tree is able to break
waves, resist erosion and wind (Do Huy Bich et al., 2004).
This study aims to determine the economic value of lowland forests in the Mekong Delta.
The study area consists of three districts in the two provinces of Soc Trang and Tra Vinh,
with a total area of cork forests of nearly 3,170 hectares, with 1,741 households being
contracted with forests.
This study has applied all three main approaches to assess the economic value of poor
forest products in the Mekong Delta, namely overall assessment, partial assessment and
impact analysis assessment. The evaluation methods are divided into 4 groups: real market
based, alternative market based, market based hypothesis and extended cost - benefit
analysis. Each method is suitable for evaluating one or more specific groups of values.
Assessing the economic value of horticultural products in the Mekong Delta is a multi-
step, interdisciplinary process that requires the participation of many experts and social
groups. The amount of information on the economic value of lowland products in the
Mekong Delta has many uses in mangrove management. Key applications for using
information on economic value include (1) developing plans and plans for the use of
mangroves, (2) proposing legal, economic tools for (3) design and implement payment
mechanisms for environmental services for the conservation of lowland products in the
Mekong Delta, (4) supplement and complete the database for the management of poor
forest products in the Mekong Delta, (5) design of education and communication programs
on conservation and sustainable management of mangrove forests.
Through the analysis of direct and indirect use value, the research results show that the
economic value of the poor annual forest brings the total amount over 445.6 billion VND;
of which the direct value was over 384.9 billion VND, accounting for 86.38%; the indirect
value of protection poor forests is over 60.7 billion VND, accounting for 13.62% of the
total economic value.
v
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập, nghiêm túc của
cá nhân. Các số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn và
có tính kế thừa từ các tài liệu, tạp chí, công trình nghiên cứu đã được công bố.
Các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án được rút ra từ quá trình nghiên cứu
thực tiễn và chưa được công bố trong bất kỳ luận án cùng cấp nào trước đây.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Cần Thơ, ngày tháng năm 2021
Người hướng dẫn Người thực hiện
PGs. Ts. Mai Văn Nam
Nguyễn Văn Hòa
vi
MỤC LỤC
Chương 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................ 1
1.1. Tính cấp thiết của luận án .................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 3
1.2.1. Mục tiêu tổng quát ........................................................................................... 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................................ 3
1.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 3
1.3.1. Phạm vi về không gian .................................................................................... 3
1.3.2. Phạm vi về thời gian ........................................................................................ 4
1.3.3. Phạm vi về nội dung ........................................................................................ 5
1.3.4. Giới hạn nghiên cứu ........................................................................................ 5
1.4. Các câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 6
1.5. Ý nghĩa của nghiên cứu ...................................................................................... 6
1.5.1. Về mặt khoa học…………………………………..........................................6
1.5.2. Về mặt thực tiễn……………………………………………………………...7
1.6. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 8
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................... 9
2.1. Khái niệm tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ............................................. 9
2.2. Các giá trị trực tiếp ........................................................................................... 10
2.3. Các giá trị sử dụng gián tiếp ............................................................................. 21
2.4. Các giá trị phi sử dụng ..................................................................................... 30
2.5. Các kết quả nghiên cứu định lượng các giá trị của rừng ngập mặn ................. 30
2.6. Nhận diện các giá trị kinh của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long ….….32
2.6.1. Các giá trị sử dụng trực tiếp………………………………………………..32
2.6.2. Các giá trị sử dụng gián tiếp……………………………….……………….32
2.6.3. Giá trị phi sử dụng……………………………………………………….....33
2.7. Thực trạng các giá trị trực tiếp của nghiên cứu ................................................ 36
2.7.1. Thực trạng các giá trị trực tiếp của nghiên cứu……….……………………36
2.7.2. Giá trị sử dụng gián tiếp của nghiên cứu....................................................... 38
Chương 3: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............. 42
3.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................... 42
3.1.1. Các khái niệm ................................................................................................ 42
vii
3.1.2. Cơ sở lý luận về giá trị kinh tế ...................................................................... 43
3.2. Nghiên cứu về thu nhập hộ gia đình ................................................................ 51
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu về thu nhập .................................................... 51
3.2.2. Thiết kế nghiên cứu và thu thập số liệu ........................................................ 53
3.2.3. Thiết kế Bảng câu hỏi .................................................................................... 57
3.2.4. Các bước thực hiện ước lượng mô hình ........................................................ 57
3.2.5. Thảo luận kết quả hồi quy ............................................................................. 59
3.3. Nghiên cứu giá trị du lịch của rừng bần ........................................................... 60
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 60
3.3.2. Nghiên cứu giá trị du lich rừng bần huyện Cù Lao Dung ............................. 61
3.3.3. Phương pháp chi phí du hành ........................................................................ 62
3.4.4. Thành phần của chi phí du hành .................................................................... 62
3.5.5. Lý do chọn địa điểm du lịch tại rừng bần huyện Cù Lao Dung .................... 64
3.6.6. Cách tiếp cận, khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu .................... 65
3.3.7. Các bước tiến hành ........................................................................................ 66
3.3.8. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin ...................................................... 68
3.4. Giá trị rừng phòng hộ của rừng bần (tính chi phí thay thế) ............................. 70
Chương 4: KẾT QUẢ NHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................... 74
4.1. Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long ....................................................... 74
4.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................................... 74
4.1.2. Khí hậu .......................................................................................................... 75
4.1.3. Nguồn nước ................................................................................................... 75
4.1.4. Tài nguyên đất ............................................................................................... 76
4.1.5. Hệ sinh thái nông nghiệp ............................................................................... 76
4.1.6. Hệ động vật ................................................................................................... 77
4.1.7. Đặc điểm kinh tế - xã hội .............................................................................. 77
4.2. Phân tích hiện trạng rừng ngập mặn ................................................................. 78
4.2.1. Hiện trạng rừng ngập mặn ở Việt Nam ......................................................... 78
4.2.2. Diễn biến rừng ngập mặn ở Việt Nam .......................................................... 83
4.2.3. Hiện trạng rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long .............................. 83
4.2.4. Phục hồi và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng sông
Cửu Long…………………………………………………………………………84
4.2.5. Tăng cường liên kết bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng
sông Cửu Long ........................................................................................................ 86
viii
4.3. Hiện trạng rừng bần tại địa bàn nghiên cứu ..................................................... 90
4.3.1. Rừng bần tại tỉnh Trà Vinh............................................................................ 90
4.3.2. Rừng bần tại tỉnh Sóc Trăng ........................................................................ 91
4.4. Kết quả đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩn rừng bần ................................... 95
4.4.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu .............................................................................. 95
4.4.2. Kết quả đánh giá giá trị tạo thu nhập từ sản phẩm rừng bần ......................... 99
4.4.3. Kết quả hồi quy của mô hình tạo thu nhập .................................................. 104
4.5. Kết quả giá trị cảnh quan du lịch rừng bần ngập mặn .................................... 107
4.5.1. Đặc điểm mẫu điều tra rừng bần huyện Cù Lao Dung................................ 107
4.5.2. Phương pháp xác định tổng giá trị du lịch .................................................. 109
4.5.3. Xác định tổng giá trị du lịch………………………………………………110
4.6. Giá trị phòng hộ của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long ....................... 122
4.6.1. Huyện Duyên Hải ........................................................................................ 123
4.6.2. Huyện Trần Đề ............................................................................................ 123
4.6.3. Huyện Cù Lao Dung ................................................................................... 123
4.7. Đề xuất các giải pháp phát triển rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long…..124
4.7.1. Giải pháp về tạo thu nhập hộ gia đình…………………………………….124
4.7.2. Giải pháp về phát triển du lịch…………………………………………….127
4.7.3. Giải pháp về phòng hộ đê biển……………………………………….…. .128
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................... 131
5.1. Kết luận .......................................................................................................... 131
5.2. Kiến nghị ........................................................................................................ 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 136
Phụ lục A.1. PHIẾU KHẢO SÁT THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH .......................... 144
Phụ lục A.2. PHIẾU PHỎNG VẤN KHÁCH DU LỊCH .................................... 147
Phụ lục A.3. KẾT QUẢ THỐNG KÊ THU NHẬP HỘ DÂN ............................ 149
Phụ lục A.4. KẾT QUẢ THỐNG KÊ CHI PHÍ DU LỊCH .................................. 163
Phụ lục A.5. MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ RỪNG ................. 166
Phụ lục A.6. MỘT SỐ HÌNH ẢNH RỪNG BẦN ................................................ 168
Phụ lục A.7. SẢN PHẨM TỪ RỪNG BẦN ......................................................... 170
ix
Phụ lục A.8. MỘT SỐ HÌNH ẢNH DỊCH VỤ DU LỊCH ................................... 177
DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
Bảng 2.1: Các giá trị của rừng ngập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long ............... 32
Bảng 3.1. Các giá trị kinh tế của rừng bần .............................................................. 50
Bảng 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình ................................... 52
Bảng 3.3. Kỳ vọng dấu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình ................ 54
Bảng 3.4. Phân bổ phiếu khảo sát ........................................................................... 57
Bảng 3.5. Đề xuất của các nhà nghiên cứu về tính chi phí theo thời gian ............ 64
Bảng 4.1. Các đặc trưng khác ................................................................................ 100
Bảng 4.2. Các sản phẩm từ rừng bần tạo thu nhập ................................................ 101
Bảng 4.3. Kết quả hồi quy…………………………………………….….………105
Bảng 4.4. Mức độ tác động của các yếu tố đế thu nhập……………………..…..106
Bảng 4.5. Đặc điểm của du khách đến rừng bần huyện Cù Lao Dung ................. 108
Bảng 4.6. Phân vùng theo điểm xuất phát của du khách và tỷ lệ tham quan ........ 111
Bảng 4.7. Chí phí đi lại điểm du lịch .................................................................... 114
Bảng 4.8. Tổng chi phí tham quan của từng vùng xuất phát ............................... 116
Bảng 4.9. Kết quả hồi quy mô hình hàm cầu du lịch ............................................ 117
Bảng 4.10. Giá trị du lịch và giá trị thặng dư của khách các vùng xuất phát ....... 120
Bảng 4.11. Tổng hợp vốn đầu tư duy tu đê bao giai đoạn 2018 - 2019 ................ 124
x
Bảng 4.12. Tổng các giá trị của sản phẩm rừng bần ngập mặn tại đồng
bằng sông Cửu Long ............................................................................................ 129
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ................................................... 9
Hình 2.2. Thay đổi diện tích rừng bần ngập mặn và đường bờ biển ở
Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng ................................................................................ 22
Hình 2.3. Rừng ngập mặn bảo vệ các cộng đồng ở vùng ven biển ........................ 24
Hình 2.4. Bước sóng giảm dần qua đai rừng ngập mặn ......................................... 24
Hình 2.5. Các giá trị thực tiễn của sản phẩm rừng bần khu vực khảo sát…….…..34
Hình 3.1. Khái niệm tổng giá trị kinh tế ................................................................. 44
Hình 3.2. Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần…………………..…………50
Hình 3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình .................................... 52
Hình 3.4. Đường cầu du lịch của du khách ............................................................. 68
Hình 4.1. Bản đồ rừng bần khu vực nghiên cứu…………………………………...95
Hình 4.2. Bản đồ hiện trạng rừng bần xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải,
tỉnh Trà Vinh .......................................................................................................... 96
Hình 4.3. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng ................. 97
Hình 4.4. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng ......... 98
Hình 4.5. Tỷ trọng các sản phẩm tạo thu nhập hộ gia đình/ha/năm ..................... 104
Hình 4.6. Đường cầu du lịch rừng bần huyện Cù Lao Dung ............................... 117
Hình 4.7. Tổng giá trị du lịch ............................................................................... 118
xi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chi phí thiệt hại tránh được (Avoided Cost) AC
BĐKH Biến đổi khí hậu
Giá trị để lại (Bequest Value) BV
CVM Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method)
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value) DIUV
Đất ngập nước ĐNN
Giá trị tồn tại (Existense Value) EV
FAO Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (Food and
Agriculture Organization)
Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của Cộng hòa Liên Bang Đức GTZ
Hệ sinh thái HST
HSTRNM Hệ sinh thái rừng ngập mặn
ITCM Phương pháp chi phí du hành cá nhân (Individual Travel Cost
Method)
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (The world conservation union) IUCN
Giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value) IUV
KT - XH Kinh tế - xã hội
NPV Giá trị hiện tại ròng (Net Present Value)
Nghị quyết NQ
Giá trị phi sử dụng (Non Use Value) NUV
OLS Bình phương bé nhất (Ordinary Least Square)
Quyết định QĐ
Rừng bần ngập mặn RBNM
Rừng ngập mặn RNM
Phương pháp chi phí du hành (Travel Cost Method) TCM
Tổng giá trị kinh tế (Total Economic Value) TEV
Thủ tướng TTg
UBND Ủy ban nhân dân
xii
UV Giá trị sử dụng (Use Value)
WB Ngân hàng thế giới (World Bank)
WIP Viện sinh thái và Bảo tồn công trình (Institute Of Ecology And
Works Protection
WTP Mức sẵn lòng phải trả (Willing To Pay)
xiii
ZTCM Phương pháp chi phí du hành theo vùng (Zonal Travel Cost Method)
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của luận án
Cây Bần chua có tên khoa học là Sonneratia caseolaris L. thuộc họ Bần
(Sonneratiaceae) nay đổi sang họ Lythraceae, Bần chua là loại cây tự mọc và được
trồng nhiều ven các con sông, cửa biển, trên các bãi đất bồi và là một quần thể
không thể thiếu của rừng ngập mặn (RNM) ven biển nước ta (Đỗ Huy Bích và
cộng sự, 2004). Chiều cao của cây với kích thức to lớn và hệ thống rễ chằng chịt,
có khả năng chắn sóng, chống xói mòn, gió; theo dân gian, cây bần không những
được sử dụng để tạo thêm hương vị cho các món ăn mà còn có thể tạo ra những bài
thuốc có giá trị như: cầm máu, viêm tấy, giải nhiệt. Trên thế giới, cây bần được sử
dụng như chất kháng oxy hóa và các tế bào độc hại. Hơn nữa, cây bần còn sử dụng
như chất làm se vết thương, chữa bong gân, chữa bệnh trĩ, ngăn chặn xuất huyết
(Jiny và cộng sự, 2010).
Tại các tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cây Bần
chua mọc tập trung rất nhiều và dày, tạo thành rừng bần rộng lớn, với diện tích
hàng trăm đến hàng nghìn ha; rừng bần phân bố ở gần cửa sông, nơi độ mặn của
nước từ 3‰ đến 20‰. Nguồn lợi thủy sản của rừng Bần chua phong phú và dồi
dào. Thủy, hải sản có nhiều loài khác nhau và chúng xuất hiện theo mùa. Các sản
phẩm bao gồm: cá Ngác, cá Quát, cá Bống sao, cua Biển, cá Kèo, Nghêu, Dộp,...
Cách thức đánh bắt cũng đa dạng, phù hợp cho từng giới và từng lứa tuổi. Đàn ông
tham gia đánh bắt cá, phụ nữ và trẻ em bắt cua giống, cá Kèo, Nghêu, Dộp...
Nguồn lợi thủy sản mang lại thu nhập rất lớn cho các hộ gia đình ở những làng ven
biển. Đai rừng bần phòng hộ góp phần tạo nên môi trường sinh thái thuận lợi cho
nuôi trồng thủy sản ở vùng đệm. Rừng bần đóng vai trò như một máy lọc nước
khổng lồ, có chức năng làm sạch nguồn nước trước khi bơm vào ao nuôi, ngay cả
làm lắng đọng các chất thải từ ao nuôi xả ra (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
1
Theo Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2000), tài nguyên thuỷ sản trong rừng
ngập mặn ở vùng cửa sông, ven biển tỉnh Sóc Trăng rất phong phú, đa dạng. Tài
nguyên rừng ngập mặn đóng góp đáng kể vào thu nhập và sinh kế của người dân
địa phương, cung cấp các sản phẩm như: gỗ, củi, dược liệu. Trái bần là nguồn thức
ăn quan trọng cho cá và các loài thủy sản nói chung. Các dịch vụ và giá trị của
rừng Bần mang lại như: ngăn chặn lan tràn nước mặn và sóng; chống bão, sóng
thần, triều cường, gió lốc, bảo vệ bờ biển, lấn biển; giảm nhẹ thiệt hại, bảo vệ đê
biển và các công trình ở vùng ven biển; lưu trữ dinh dưỡng đất; sản xuất sinh khối;
duy trì các quá trình sinh thái tự nhiên ở vùng ven biển và du lịch, giải trí, nghiên
cứu khoa học. Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ở vùng cửa sông Cửu Long có thể
đạt 3.099,36 USD/ha/năm (gồm giá trị từ nguồn gỗ, củi là 16,35 USD/ha/năm và
giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm) (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
Theo dự báo của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam và Bangladesh là hai
nước đang phát triển sẽ bị thiệt hại nặng nề do hiện tượng nước biển dâng. Phần
lớn đất màu mỡ nhất của Việt Nam bị chìm, ngập, đất nông nghiệp và GDP (Gross
Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội) đều chịu những tác động xấu
(Dasgupta và cộng sự, 2007).
Việt Nam là quốc gia có chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, thường xuyên
hứng chịu tác động mạnh của sóng, gió, bão... Với kịch bản nước biển dâng cao 1
m, thì nước ta có hơn 40.000 km2 vùng ven biển và các đảo bị tác động, trong đó
ĐBSCL và một số đảo bị nhấn chìm... làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông
nghiệp và nơi cư trú của hơn 17 triệu người.
Để bảo vệ, phát triển rừng bần, tạo thêm thu nhập cho người dân sống xung
quanh, phát triển tiềm năng du lịch, mang lại giá trị kinh tế cho con người và xã
hội,... từ đó góp phần quan trọng trong việc tạo dựng, khai thác rừng bần một cách
hợp lý để mở rộng, phát triển hành lang xanh, chắn sóng, gió biển. Trong điều kiện
cực đoan về lập địa, thời tiết khí hậu khắc nghiệt và tác động mạnh, thường xuyên
của sóng gió, bão...
2
Chính vì những giá trị trên, nghiên cứu được thực hiện với đề tài “Đánh giá
giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long”, nhằm
phân tích, đánh giá giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần. Kết quả nghiên cứu làm
cơ sở quan trọng giúp các nhà hoạch định chính sách có những giải pháp quản lý,
khai thác và phát triển rừng bần hợp lý, như là một phần của giải pháp cho chiến
lược đối phó với biến đổi khí hậu, đồng thời bổ sung một nội dung mới trong
nghiên cứu khoa học về giá trị kinh tế của RNM tại ĐBSCL.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu tổng quát là đánh giá giá trị kinh tế
của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đề xuất một số giải
pháp làm tăng giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu trên, các mục tiêu cụ thể của luận án bao gồm:
(1) Phân tích, đánh giá thực trạng sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông
Cửu Long.
(2) Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu
Long.
(3) Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng giá trị kinh tế của sản
phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Phạm vi về không gian
Việc thực hiện đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần là lĩnh vực
nghiên cứu mới, nghiên cứu được thực hiện thông qua việc tổng hợp, phân tích các
tài liệu báo cáo có liên quan, phỏng vấn các chuyên gia, điều tra xã hội học theo
phiếu điều tra được thiết kế sẵn. Số liệu sơ cấp thu thập thông qua việc phỏng vấn
3
người dân sống ven rừng bần tại 03 huyện thuộc 02 tỉnh ĐBSCL (huyện Duyên
Hải thuộc tỉnh Trà Vinh, huyện Cù Lao Dung và huyện Trần Đề thuộc tỉnh Sóc
Trăng) để tiến hành điều tra, phỏng vấn. Số liệu sau khi thu thập được sử dụng cho
việc phân tích, đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần như việc khai thác
các sản phẩm từ rừng bần để tạo thu nhập cho hộ dân sống ven rừng, giá trị cảnh
quan du lịch mà rừng bần mang lại cho khách tham quan (thông qua chỉ tiêu đánh
giá chi phí du lịch và giá trị phòng hộ chắn sóng, gió, bão của rừng bần). Rừng bần
tại ĐBSCL được chọn làm địa bàn nghiên cứu vì những lý do sau:
Thứ nhất, đây là vùng rừng bần tiêu biểu với đặc điểm toàn là cây bần già,
kết hợp với rừng bần non mới phát triển, rất dày (các cây rừng khác mọc đan xen
vào là không đáng kể) mà các vùng khác chưa có. Nơi đây chứa đựng những giá trị
sinh thái và đa dạng sinh học, mang lại nét đặc trưng riêng so với các vùng RNM
khác.
Thứ hai, rừng bần tại khu vực nghiên cứu có nhiều giá trị kinh tế, bao gồm
cả giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp. Cho nên, kết quả nghiên
cứu có thể đưa ra nhận định mang tính khách quan, hạn chế tối thiểu sự tương
quan, ràng buộc về giá trị kinh tế so với các vùng RNM khác.
Thứ ba, với các giá trị kinh tế đa dạng, cũng như các giá trị về sinh thái
quan trọng có được từ rừng bần tại ĐBSCL, bởi rừng bần là nơi mà sự xung đột
giữa các hoạt động phát triển và bảo tồn thể hiện rõ ràng nhất. Vì vậy, vùng này rất
cần có sự tiếp cận nghiên cứu khá toàn diện, cụ thể là nhằm có giải pháp quản lý,
khai thác, sử dụng tài nguyên mang tính đồng bộ, hệ thống, trong đó có các thông
tin về giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần.
1.3.2. Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng việc tạo ra thu nhập chủ yếu của
hộ dân sống xung quanh rừng bần, nhờ vào việc khai thác các sản phẩm từ rừng
bần, tiềm năng phát triển du lịch và giá trị phòng hộ của rừng bần tại ĐBSCL.
Thông tin thu thập từ số liệu thứ cấp như: các tài liệu, đề tài, đề án, các báo cáo
4
tình hình hoạt động bảo vệ, phát triển rừng bần tại các tỉnh thuộc ĐBSCL giai đoạn
2010 - 2019. Bên cạnh đó, số liệu sơ cấp được thu thập từ khảo sát thực tế để ước
lượng các mô hình nghiên cứu, khảo sát tại 03 huyện (02 tỉnh thuộc Trà Vinh và 01
tỉnh thuộc Sóc Trăng) giai đoạn từ tháng 06/2018 đến tháng 12/2019. Các huyện
được chọn khảo sát chính là nơi có quy mô và diện tích rừng bần lớn nhất ĐBSCL
hiện nay.
1.3.3. Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu thông qua điều tra xã hội học thống kê, tổng hợp, phân tích,
đánh giá các sản phẩm từ rừng bần mang lại thu nhập cho các hộ dân. Trong bối
cảnh nghiên cứu, sản phẩm từ rừng bần được xem là nguồn thu nhập chính của các
hộ dân sống ven rừng bần, không có thu nhập từ các nguồn nào khác, thậm chí có
nhưng không đáng kể. Nghiên cứu không khảo sát những hộ dân có nguồn thu
nhập chính từ các nguồn khác. Thông qua kết quả phân tích, nghiên cứu làm rõ
thêm giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần.
Nghiên cứu đánh giá, xác định giá trị cảnh quan thông qua giá trị du lịch của
rừng bần và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển tiềm năng du lịch, hỗ trợ
xây dựng kế hoạch dài hạn bảo vệ, khai thác và phát triển rừng bần tại ĐBSCL.
Xác định giá trị của rừng phòng hộ thông qua việc xác định chi phí xây
dựng, bảo dưỡng đê bao ngăn sóng biển, gió, bão tại những nơi không có rừng bần
để ước tính giá trị kinh tế của rừng bần phòng hộ (giá trị thay thế).
1.3.4. Giới hạn nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây tiếp cận với nhiều
khía cạnh khác nhau về giá trị kinh tế RNM, nhưng chủ yếu tập trung vào các giá
trị sử dụng (Use Value - UV) và giá trị phi sử dụng (Non Use Value- NUV). Giá trị
sử dụng bao gồm 3 nhóm: giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp và giá
trị lựa chọn. Giá trị phi sử dụng được phân thành giá trị tồn tại và giá trị lưu truyền
(Turner, 2003).
5
Nghiên cứu được thực hiện để đánh giá về giá trị trực tiếp và giá trị gián
tiếp của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL theo 03 nhóm như: (1) Giá trị tạo thu nhập,
(2) Giá trị du lịch và (3) Giá trị phòng hộ của rừng bần. Đây là nội dung hoàn toàn
mới và khác biệt so với các công trình nghiên cứu trước đây về RNM. Cụ thể như
sau:
(1) Giá trị tạo thu nhập của hộ dân sống xung quanh rừng bần thông qua
việc khảo sát, thống kê, tổng hợp thu nhập các sản vật từ rừng bần của hộ dân sống
xung quanh rừng bần (kể cả việc tiền nhận khoán bảo vệ rừng bần của Chính phủ);
(2) Giá trị du lịch là việc xác định giá trị hàng hóa, chất lượng môi trường
thông qua việc xác định chi phí du lịch của khách đến các điểm tham quan, du lịch
các rừng bần;
(3) Giá trị phòng hộ của rừng bần thông qua xác định chi phí thay thế, đó là
chi phí đầu tư xây dựng, bồi trúc đê bao tại những nơi lân cận không có rừng bần.
Cả 3 nhóm giá trị trên chính là giá trị kinh tế quan trọng của sản phẩm rừng
bần tại ĐBSCL.
* Giới hạn của nghiên cứu: Các hộ dân sinh sống quanh rừng bần thu nhập
chủ yếu từ việc khai thác từ các sản vật trong rừng bần (ngoài gỗ cây bần, giá trị gỗ
không đáng kể), công sức họ bỏ ra hàng ngày được xem là chi phí để có thu nhập
từ các sản phẩm không phải gỗ (NTFP- Non timber forest products). Do hạn chế
về mặt thời gian, nguồn lực luận án chỉ tập trung nghiên cứu các sản phẩm mang
lại thu nhập cho hộ dân nên việc tính toán chi phí NTFP và các giá trị kinh tế khác
không được đề cập trong nghiên cứu.
1.4. Các câu hỏi nghiên cứu
Giá trị từ sản phẩm nào của rừng bần mang lại thu nhập cho hộ dân sống
ven rừng bần?
Các yếu tố nào tác động đến giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần ?
Giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần là bao nhiêu và sản phẩm nào của
6
rừng bần có giá trị kinh tế cao?
1.5. Ý nghĩa của nghiên cứu
1.5.1. Về mặt khoa học
Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề quan trọng
liên quan đến rừng bần tại ĐBSCL theo 04 chức năng: Cung cấp, hỗ trợ, điều tiết
và văn hóa của rừng bần. Các chức năng này có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho
các nghiên cứu tiếp theo có cách nhìn bao quát và chọn đúng hướng nghiên cứu.
Thứ hai, luận án đã xây dựng được mô hình đánh giá việc tạo thu nhập
thông qua chỉ tiêu đặc trưng của hộ dân, thu hoạch những sản phẩm từ rừng bần
tạo nên, thiết lập đường cầu du lịch để tính chi phí khách du lịch đến tham quan
rừng bần và dùng phương pháp thống kê để tính giá trị của rừng bần phòng hộ. Các
kết quả thống kê thứ cấp, kết quả điều tra, các mô hình lý thuyết được vận dụng
vào việc tính toán, kiểm định, đảm bảo về độ tin cậy của các thành phần cấu thành
nên thu nhập hộ gia đình, giá trị du lịch và giá trị phòng hộ. Đồng thời, kết quả
kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu góp phần khẳng định là cần có sự tồn tại giá
trị của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa giá trị kinh tế
của sản phẩm từ rừng bần thông qua đánh giá chỉ tiêu thu nhập hộ, với sự đa dạng
hóa sản phẩm rừng bần tạo ra; phát triển du lịch sinh thái, cũng như mức độ đóng
góp của rừng bần đối với việc ngăn ngừa bão, lũ, triều cường xâm nhập mặn tại
ĐBSCL.
Thứ tư, những khám phá mới từ kết quả nghiên cứu của luận án góp phần
làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực RNM trong phạm
vi toàn quốc.
5.1.2. Về mặt thực tiễn
7
Thứ nhất, nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng phát triển kinh tế của sản phẩm
rừng bần tại ĐBSCL, thông qua phương pháp thống kê mô tả, đo lường các biến
quan sát và ước lượng mô hình nghiên cứu trong luận án.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học, thực tiễn khách quan giúp
cho các nhà quản lý rừng bần (các nhà hoạch định chính sách về RNM, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi Cục Kiểm lâm, chính quyền địa phương…)
thực hiện tốt hơn nữa công tác bảo tồn, khai thác và phát triển rừng bần hợp lý và
bền vững.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các
Trường đào tạo bộ môn Kinh tế Nông nghiệp, bộ môn Tài nguyên Môi trường về
việc khai thác, phát triển sản phẩm từ rừng bần tại ĐBSCL, khắc phục những hạn
chế mà từ trước đến nay chưa được nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng. Đặc biệt
là chú trọng đến việc khai thác, phát triển rừng bần hợp lý, góp phần vào việc bảo
vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay.
Thứ tư, nghiên cứu đã đưa ra một số kiến nghị đối với các nhà quản lý, các
nhà hoạch định chính sách có cách nhìn đầy đủ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của
rừng bần, góp phần gia tăng giá trị kinh tế từ sản phẩm của rừng bần tại ĐBSCL.
1.6. Kết cấu của luận án
Bao gồm 05 chương:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan tài liệu
Chương 3: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
8
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Các nghiên cứu về giá trị kinh tế của rừng ngập mặn
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây đã phân tích, đánh
giá các khía cạnh khác nhau về tổng giá trị kinh tế của RNM, bao gồm hai nhóm
giá trị cơ bản, đó là: giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng.
Nguồn: Turner, năm 2003
Hình 2.1. Tổng giá trị kinh tế của RNM
Giá trị kinh tế của RNM được Turner (2003) phân thành giá trị sử dụng và
giá trị phi sử dụng, cụ thể như sau:
♦ Giá trị sử dụng: Là những hàng hóa và dịch vụ sinh thái mà RNM cung
cấp cho con người và các hệ thống kinh tế, được phân thành 3 nhóm: (1) Giá trị sử
dụng trực tiếp, (2) Giá trị sử dụng gián tiếp, (3) Giá trị lựa chọn. Các giá trị được
định nghĩa như sau:
9
(1) Giá trị sử dụng trực tiếp: Bao gồm những hàng hóa dịch vụ do giá trị
kinh tế mà RNM mang lại và có thể sử dụng trực tiếp như: gỗ, củi, thủy sản, mật
ong hay giá trị du lịch, giải trí.
(2) Giá trị sử dụng gián tiếp: Là những giá trị, lợi ích từ những dịch vụ do
hệ sinh thái RNM mang lại và các chức năng sinh thái như: tuần hoàn dinh dưỡng,
hấp thụ cacbon, điều hòa khí hậu.
(3) Giá trị lựa chọn: Mang bản chất của những giá trị sử dụng trực tiếp hoặc
giá trị sử dụng gián tiếp của RNM. Mặc dù, giá trị lựa chọn có thể sử dụng ở hiện
tại nhưng chưa được sử dụng vì một lý do nào đó mà để lại sử dụng trong tương
lai. Ví dụ: Giá trị tạo cảnh quan, làm dược liệu.
♦ Giá trị phi sử dụng: Là những giá trị bản chất, nội tại của RNM và được
phân thành giá trị tồn tại và giá trị lưu truyền, được định nghĩa như sau:
(1) Giá trị tồn tại của RNM: Là giá trị nằm trong nhận thức, cảm nhận và sự
thỏa mãn của cá nhân khi biết được các thuộc tính của RNM đang tồn tại ở một
trạng thái nào đó và thường được đo bằng sự sẵn sàng chi trả của cá nhân để có
được trạng thái đó.
(2) Giá trị lưu truyền: Là sự thỏa mãn nằm trong cảm nhận của cá nhân khi
biết rằng tài nguyên được lưu truyền và hưởng thụ bởi các thế hệ tương lai. Giá trị
này cũng thường được đo bằng sự sẵn sàng chi trả của cá nhân để bảo tồn tài
nguyên cho các thế hệ sau này.
Khi đánh giá giá trị kinh tế RNM, phần lớn các nhà nghiên cứu trước đây
thừng thực hiện theo hai hướng chính là: (1) Sử dụng tài liệu thứ cấp, tài liệu sơ
cấp, dựa trên ý kiến thảo luận các chuyên gia; (2) Thông qua kết quả khảo sát địa
bàn, phỏng vấn các đối tượng có liên quan, và thường được áp dụng bằng bộ câu
hỏi điều tra để xác định, phân tích các giá trị kinh tế.
2.2. Các giá trị trực tiếp
Theo Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2000) cho rằng, giá trị kinh tế của
10
RNM tại vùng cửa sông Cửu Long có thể ước tính là 3.100 USD/ha/năm, gồm giá
trị từ nguồn gỗ, củi… và giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm. Sản lượng tính
toán theo lý thuyết phù hợp một cách hợp lý với số liệu về sản lượng đánh bắt và
điều này có nghĩa là 1 ha diện tích RNM mang lại gần 700 kg sản lượng hải sản
đánh bắt.
Theo Dự án: “Định giá Kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh”
(2000), giá trị trực tiếp của RNM hiện nay bao gồm: gỗ, củi, than, thủy sản, các
loại lâm sản, thực phẩm, dược liệu, sinh vật hoang dã (Dơi, khỉ, rắn…), các loài
nhuyễn thể, giáp sát (Sò huyết, dộp, nghêu, cua, tôm…).
Nghiên cứu rừng bần chua khu vực ven cửa biển tại ĐBSCL, Ngô Đình Quế
và Võ Đại Hải (2012) nhận định rằng, nguồn lợi thủy sản của rừng Bần chua
phong phú và dồi dào. Thủy hải sản vùng cửa sông ở Sóc Trăng có nhiều loài khác
nhau và chúng xuất hiện theo mùa. Các sản phẩm bao gồm các loài cá như: cá
Ngác, cá Quát, cá Bống sao, cua giống, cá Kèo, Nghêu, Sò huyết,… Cách thức
đánh bắt cũng đa dạng, phù hợp cho từng giới và từng lứa tuổi. Đàn ông thì đánh
bắt cá, phụ nữ và trẻ em bắt cua giống, cá Kèo, Nghêu, Sò huyết,… Nguồn lợi thủy
sản mang lại thu nhập chính cho các hộ gia đình ở những vùng ven biển. Đai rừng
Bần chua phòng hộ góp phần tạo nên kinh tế sinh thái thuận lợi cho nuôi trồng
thủy sản ở vùng đệm. Rừng bần có vai trò như một máy lọc nước khổng lồ, góp
phần làm sạch nước trước khi bơm vào ao nuôi và làm lắng đọng các chất thải từ
ao nuôi xả ra.
♦ Giá trị trực tiếp tạo thu nhập của RNM
Nghiên cứu của Uỷ ban Phát triển Quốc tế (Vương quốc Anh), việc tạo thu
nhập hộ dân bao gồm 3 thành tố chính: Nguồn lực, khả năng vốn có của con người
và thu nhập là những giá trị thay đổi có lợi cho cộng đồng. Chính nhờ các chiến
lược kinh tế hợp lý nên thu nhập của người dân được nâng lên, đời sống văn hoá,
tinh thần, cuộc sống được cải thiện, ổn định hơn và giảm rủi ro, an ninh lương thực
quốc gia được đảm bảo và sử dụng bền vững hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên
11
được sử dụng một cách bền vững hơn.
Việc xem xét và đánh giá tác động của RNM ở Việt Nam để tạo ra thu nhập
bền vững cho người dân vùng RNM là một việc làm hết sức quan trọng và cần
thiết, không chỉ có ý nghĩa để đánh giá hiệu quả trước mắt mà còn để rút ra những
bài học trong việc tạo ra những thu nhập ổn định, bền vững cho các hộ dân sống
ven RNM. Nghiên cứu về tạo thu nhập cho các hộ dân có nhiều hướng tiếp cận
khác nhau, một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong và ngoài nước trước đây
nghiên cứu về tạo thu nhập cho các hộ dân như:
Nghiên cứu của Ellis (2000) về đa dạng hóa tạo thu nhập, nghiên cứu dựa
trên phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững. Nghiên cứu sử dụng khung phân tích
sinh kế bền vững với 05 nguồn vốn cơ bản là vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn con
người, vốn vật chất và vốn tài chính. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vốn con người
là minh chứng rõ nhất, như là chìa khóa của sự đa dạng hóa sinh kế thành công.
Nghiên cứu cũng đưa ra chính sách mà Chính phủ cần quan tâm như: cung cấp các
dịch vụ về y tế, giáo dục và các kỹ năng phù hợp và có chất lượng tại khu vực
nông thôn để tăng thu nhập cho các hộ dân.n
Ellis (2000) khẳng định, các yếu tố tác động đến đa dạng hóa thu nhập như
một hiện tượng đặc trưng cho chiến lược tồn tại hộ gia đình nông thôn nghèo tại
các quốc gia đang phát triển, và cho rằng đa dạng hóa sinh kế là một vấn đề quan
trọng cho các chính sách dài hạn liên quan đến công tác xóa đói giảm nghèo ở các
nước đang phát triển có thu nhập thấp. Lợi ích của việc đa dạng hóa là một chiến
lược để quản lý thời vụ, rủi ro và sự thất bại của thị trường; Ellis (2000) khẳng
định các yếu tố quyết định của sự đa dạng hóa thu nhập như: Mùa vụ, rủi ro, thị
trường lao động, thị trường tín dụng, chiến lược tài sản, hành vi ứng phó và thích
ứng. Trong đó, mùa vụ có tác động đến động cơ đa dạng hoá thu nhập, đặc biệt là
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Lipton và Ravallion (1995) cho rằng do các rủi ro và thất bại thị trường phổ
biến trong nền kinh tế nông thôn ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp, các
12
hộ gia đình luôn gặp khó khăn trong chi tiêu sinh hoạt hằng ngày do bởi sinh kế,
sinh tồn của người dân không được đảm bảo. Bên cạnh đó, các rủi ro luôn gắn liền
với các nguồn thu nhập không đồng đều. Vì lý do này, một động lực quan trọng
đối với sự đa dạng hóa thu nhập gắn với mùa vụ là để làm giảm biến đổi thu nhập
theo mùa. Điều này đòi hỏi thu nhập các chu kỳ theo mùa trong các cơ hội tạo thu
nhập không được đồng bộ với các mùa riêng của nông nghiệp. Việc lựa chọn là di
cư theo mùa tới các vùng nông nghiệp khác hoặc tham gia làm nghề phi nông
nghiệp. Rủi ro cũng được xem là động lực cơ bản để đa dạng hoá sinh kế. Các hộ
gia đình đa dạng hoá thu nhập bằng danh mục đầu tư vào nhiều hoạt động khác
nhau để giảm thiểu rủi ro, có một sự đánh đổi giữa tổng thu nhập cao hơn với xác
suất thất bại lớn hơn và tổng thu nhập thấp hơn với xác suất thất bại thấp hơn.
Trong danh mục đầu tư, Lipton và Ravallion (1995) khuyến khích đa dạng hoá thu
nhập theo hướng phi nông nghiệp hơn là nông nghiệp vì có mối tương quan rủi ro
thấp giữa các thành phần tạo thu nhập. Vai trò của thị trường lao động trong việc
làm giảm các mối đe dọa mang tính chu kỳ và mất an ninh để xây dựng đời sống
nông thôn. Thị trường lao động cũng cung cấp các cơ hội tạo thu nhập phi nông
nghiệp nhưng đòi hỏi về trình độ giáo dục, kỹ năng, vị trí, độ tuổi, số năm kinh
nghiệm, giới tính...
Hoạt động kém của thị trường tài chính nông thôn ở các nước đang phát
triển làm cho các hộ gia đình nông thôn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng (đầu vào)
phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp như: Máy cày, máy bơm nước… đã
làm ức chế sự gia tăng năng suất sản xuất nông nghiệp. Có nhiều lý do dẫn đến
việc khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng như: Chi phí thành lập ngân hàng
phục vụ khu vực nông thôn cao, khó tiếp cận đầy đủ thông tin khách hàng vay tiềm
năng, nguy cơ phát sinh nợ xấu cao và thiếu tài sản thế chấp đảm bảo cho các
khoản vay. Thất bại thị trường tín dụng lại là một động lực quan trọng để đa dạng
hóa nguồn thu nhập của các hộ dân vùng nông thôn. Các hộ dân có thể chủ động sử
dụng các nguồn thu ngoài nông nghiệp để mua vật tư hay thiết bị nông nghiệp
(Reardon và cộng sự, 1997).
13
Theo quan điểm Scoones (1998), chiến lược tài sản của hộ gia đình đầu tư
để nâng cao triển vọng tạo thu nhập trong tương lai bao gồm năm loại tài sản
chính, với mục đích xác định tình trạng tài sản và sự tồn tại của chiến lược tài sản.
Các loại tài sản bao gồm vốn tự nhiên (đất, nước, cây xanh), vốn vật chất (kênh
tưới, dụng cụ, đường giao thông), vốn nhân lực (giáo dục, kỹ năng, sức khỏe), vốn
tài chính (tiết kiệm, đồ trang sức, dê và gia súc) và vốn xã hội (mạng lưới, các hiệp
hội). Các loại tài sản nằm ngoài khả năng kiểm soát trực tiếp của các hộ gia đình
nông thôn như: Cơ sở hạ tầng nông thôn (đường xá, giao thông, thủy lợi, điện) và
dịch vụ công cộng nông thôn (Internet, y tế và giáo dục). Các loại tài sản này phần
lớn được đầu tư bởi Chính phủ. Số lượng và chất lượng của các tài sản trên tạo sự
khác biệt lớn và gắn liền với sự tồn tại của người dân nông thôn. Chiến lược tài sản
là động lực để đa dạng hoá, đảm bảo được an ninh sinh kế cao hơn trong tương lai.
Đa dạng hóa vì lý do này có thể là tạm thời, nếu mục tiêu cụ thể như: mua thêm đất
và chiến lược thu nhập thì sau đó hộ gia đình sẽ trở lại tự làm nông nghiệp. Mặt
khác, đa dạng hóa thực hiện để cải thiện vốn con người (ví dụ như để tài trợ cho
việc học hành của trẻ em) có thể tạo ra nhiều nguồn đa dạng hơn về thu nhập của
hộ trong tương lai. Hành vi ứng phó và thích ứng, trong đó ứng phó chỉ các
phương pháp được sử dụng bởi các hộ gia đình khi đối mặt với các cú sốc bất ngờ
như: thảm họa tự nhiên, hạn hán, lũ lụt, bão, sâu bệnh và chiến tranh dân sự. Đối
phó tương ứng khá chặt chẽ với các khái niệm về đa dạng hóa, hành vi ứng phó bất
ngờ với cuộc khủng hoảng có thể bao gồm việc tìm kiếm các nguồn thu nhập mới
ở giai đoạn đầu và bán tài sản ở giai đoạn sau, có thể làm thay đổi các mô hình tạo
thu nhập trong tương lai của hộ gia đình.
Muhamad Israr (2010) phân tích các nguồn thu nhập của nông hộ ở các
vùng nông thôn, Bắc Pakistan. Nguồn thu nhập của nông hộ bao gồm hai nguồn:
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nguồn thu nhập
chính của các nông hộ là nông nghiệp, các hoạt động liên quan thì giảm trong vùng
nghiên cứu. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng phi nông nghiệp là nguồn
14
thu nhập phổ biến hơn so với các nguồn nông nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết các nông
hộ phải sử dụng cả hai nguồn để tạo thu nhập gia đình.
Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng (2015) nghiên cứu khái quát
thực trạng nguồn lực và ảnh hưởng của chúng tới thu nhập của nông hộ tại huyện
Hà Trung và Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Nghiên cứu chủ yếu tổng hợp số liệu điều
tra với 80 nông hộ, phương pháp phân tích chính là thống kê mô tả và hồi quy đa
biến. Nghiên cứu cho thấy chất lượng lao động, quy mô đất đai và lượng vốn của
các nông hộ điều tra còn ở mức thấp. Thu nhập của nông hộ ở mức bình quân 72
triệu đồng/năm, đặc biệt thu nhập từ tiền lương, tiền công đóng góp một tỷ lệ khá
cao trong tổng thu nhập của hộ. Các nguồn lực của nông hộ như: quy mô đất sản
xuất, số lượng và trình độ học vấn của lao động, giá trị phương tiện sản xuất tỷ lệ
thuận với thu nhập của hộ, trong đó quy mô đất sản xuất có ảnh hưởng lớn nhất.
Ngoài ra, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay, giới tính của chủ hộ và vị trí địa lý
cũng có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng
giữa các thành viên trong gia đình có sự cải thiện về mức độ giáo dục, chính là nhờ
hoàn thành cấp trung học hoặc giáo dục đại học, tác động tích cực đến mức độ đa
dạng hoá thu nhập giữa các nông hộ được khảo sát. Sự gia tăng trình độ giáo dục
trong mức vốn con người đã cung cấp các kỹ năng cần thiết để gia nhập vào thị
trường lao động tốt hơn, đặc biệt là các hoạt động phi nông nghiệp, nhờ làm công
ăn lương phi nông nghiệp hoặc tự tạo việc làm.
Tài sản vật chất nhờ tiếp cận nguồn vốn nông nghiệp và tiếp cận thị trường
cũng có ý nghĩa quan trọng đến đa dạng hóa thu nhập của hộ. Khả năng tiếp cận
nguồn vốn nông nghiệp có tác động tiêu cực đến mức độ đa dạng hóa thu nhập, bởi
vì tiếp cận vốn để đầu tư cho nông nghiệp là cần thiết để tăng sản lượng nông
nghiệp. Do đó, những hộ nông dân có thể tiếp cận máy cày, động vật để làm đất
nông nghiệp và ít đa dạng trong nguồn thu nhập của họ, tham gia nhiều hơn vào
các hoạt động nông nghiệp. Tiếp cận thị trường liên quan đến khả năng vận chuyển
và bán các sản phẩm nông nghiệp là yếu tố quyết định tích cực và quan trọng của
đa dạng hóa thu nhập. Nông dân có thể bán các sản phẩm nông nghiệp của họ dễ
15
dàng hơn. Ngụ ý rằng, họ có điều kiện truy cập, tiếp cận các cơ hội thị trường tốt
hơn. Họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp (Scoones, 1998).
Vốn xã hội bao gồm sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau và di cư tác động tích cực
đến mức độ đa dạng hoá thu nhập. Hỗ trợ lẫn nhau hoặc lao động không lương làm
giảm cả thời gian và chi phí lao động của các hộ gia đình làm nông nghiệp, và tạo
cơ hội cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thời gian để tham gia vào các
hoạt động khác ngoài nông nghiệp. Hộ gia đình có người di cư thường duy trì quan
hệ với các hộ cư trú, và tiền gửi của họ làm tăng thu nhập của các hộ gia đình và là
một nguồn thu nhập quan trọng, đặc biệt là ở các khu vực có thu nhập nông nghiệp
không đủ do tiềm năng nông nghiệp thấp hoặc thay đổi theo mùa. Đặc điểm nông
nghiệp đã được sử dụng như đại diện cho các tiềm năng nông nghiệp nhờ quy mô
của trang trại và các khu vực đất nông nghiệp được tưới tiêu. Phát hiện này có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ đa dạng hóa thu nhập. Các hộ nông
dân có diện tích đất nông nghiệp càng lớn thì hệ thống tưới tiêu có nhiều khả năng
đa dạng thu nhập hơn. Nhờ vậy, hộ gia đình có điều kiện tập trung nhiều hơn vào
sản xuất nông nghiệp (Reardon và cộng sự, 1997).
Ngô Thị Phương Lan (2011) nghiên cứu sự bất ổn về thu nhập và di cư lao
động của người Khơmer tại huyện Cầu Kè và huyện Cầu Ngang tỉnh Trà Vinh.
Qua phân tích về thu nhập của hộ nông dân người Khơmer cho thấy sự phát triển
của khoa học kỹ thuật hiện nay chủ yếu chú trọng đến việc tăng năng suất và đa
dạng cây trồng, vật nuôi nhưng chưa giải quyết được vấn đề hạn chế về diện tích
sản xuất. Thu nhập của người Khơmer ở vùng ĐBSCL từ nông nghiệp là chủ yếu.
Các nghề chính của người Khơmer gồm: trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái, cây
công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia súc - gia cầm, nuôi trồng thủy sản và đi
làm mướn. Bên cạnh đó, do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện
tự nhiên và yếu tố thị trường nên nguồn thu này cũng gặp nhiều rủi ro về sản
lượng và giá cả. Để sinh tồn, tăng thu nhập cho hộ gia đình, di cư lao động là một
lựa chọn của nhiều cá nhân và hộ gia đình Khơmer vùng nông thôn tại ĐBSCL.
Các hoạt động tạo thu nhập nhằm duy trì và phát triển các nguồn vốn và tài sản
16
của hộ dân. Tuy nhiên, đa số các hộ dân nghèo chưa nhận biết được làm thế nào
để hoạt động tạo thu nhập theo hướng giản đơn và bền vững đơn, hay các hoạt
động cụ thể nào giúp họ cải thiện được thu nhập và nâng cao mức sống.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Mai và Nguyễn Duy Thắng (2011) về thu
nhập của cộng đồng ngư dân ven biển ở ba tỉnh duyên hải như: Thanh Hóa,
Khánh Hòa và Sóc Trăng. Các nguồn lực tạo thu nhập và những rủi ro mà cộng
đồng ngư dân ven biển gặp phải được tác giả mô tả chi tiết và rõ ràng. Nguồn thu
nhập của người dân chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài nguyên tự nhiên là chính.
Những rủi ro của các hoạt động tạo thu nhập xuất phát từ các nguồn lực sinh kế
đã bị suy giảm hay yếu kém.
Nghiên cứu của Ngô Thị Phương Lan (2011) về thu nhập của các tộc
người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơmer ở Bình Phước đã cho thấy sự tác
động của các chính sách phát triển kinh tế đến đời sống của đồng bào dân tộc
thiểu số. Nhìn chung, các chính sách đã có nhiều tác động tích cực, góp phần
nâng cao đời sống của đồng bào nơi đây. Tuy nhiên, nếu xét ở cấp độ hộ gia đình
thì nhiều bất ổn về thu nhập đã xuất hiện. Dữ liệu được thu thập từ cuộc khảo sát
nghiên cứu của đề tài “Tri thức bản địa của các tộc người ở Đông Nam bộ” vào
các năm 2012 và 2013 tại huyện Bù Đăng và huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.
Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân đang chuyển từ tâm lý tự chủ trong cuộc
sống sang tâm lý bất an, phụ thuộc do những hạn chế về sức khỏe, trình độ, ngôn
ngữ, nguồn vốn… Đó chính là những rào cản trong việc tiếp cận, thích nghi của
đồng bào với những thay đổi ở cấp độ vĩ mô tác động đến thu nhập của họ.
Lê Duy Thường (2014), nghiên cứu đánh giá về các hoạt động tạo thu
nhập của người dân miền núi huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Mục đích của
nghiên cứu là giúp cho người dân hiểu rõ về các hoạt động tạo thu nhập, cũng
như hoạt động kinh tế nào là phù hợp với nguồn lực của từng người dân. Kết quả
nghiên cứu đã khái quả được các nguồn lực tạo thu nhập, đồng thời phân tích
thêm cơ cấu thu nhập từ các hoạt động kinh tế của người dân và xác định những
17
thuận lợi, khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực hiện có. Thông qua nghiên
cứu, tác giả chỉ ra rằng thu nhập của các hộ dân chủ yếu dựa vào nguồn lực tự
nhiên là chính, do chưa chủ động trong sản xuất nên hiệu quả sản xuất không cao,
thu nhập vẫn còn thấp. Các nguồn lực có mối liên hệ mật thiết với nhau, các
nguồn lực này đòi hỏi phải có sự tương tác đồng đều với nhau trong các hoạt
động kinh tế mới, từ đó hướng tới phát triển bền vững.
Võ Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập nông hộ dựa trên tiếp cận sinh kế tạo thu nhập bền vững của Bộ Phát
triển Quốc tế Vương Quốc Anh tại 409 hộ canh tác lúa - màu, lúa, cây ăn trái, tôm,
hoa màu, lúa - thủy sản và mía tại 9 tỉnh ĐBSCL (An Giang, Đồng Tháp, Kiên
Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Bạc Liêu). Số liệu
được khảo sát năm 2013, chủ yếu quan sát về tài sản và kết quả tạo thu nhập được
chuẩn hóa theo thang đo nhị phân. Do giá trị kết quả thu nhập hộ dân biến động từ
0 đến 1 nên mô hình hồi quy Tobit được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng
thu nhập nông hộ. Nghiên cứu cho thấy tài sản sinh kế tạo thu nhập hộ chuyên
canh thấp hơn hộ canh tác kết hợp lúa - thủy sản, lúa - màu. Nông hộ chuyên canh
tôm ở vùng ven biển gặp khó khăn do ô nhiễm nước và dịch bệnh trên tôm (vốn tự
nhiên) và các vấn đề xã hội. Trong khi đó, nông dân sản xuất lúa và mía đối mặt
với sự suy giảm vốn tài chính do giá nông sản thấp. Kết quả thu nhập hộ có sự ảnh
hưởng tích cực của các nguồn vốn tài chính, xã hội và vật chất. Chất lượng lao
động cũng thúc đẩy hộ đạt kết quả sinh kế tốt. Tuy nhiên, giảm giá nông sản đã
làm cho hộ trồng lúa và hoa màu chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.
Hiện nay, Việt Nam có nhiều nghề tạo ra thu nhập mới đang được phát triển
như: Trồng trọt và chăn nuôi gia súc ở vùng đệm của Vườn quốc gia U Minh
Thượng; làm chổi nan dừa ở Bến Tre; chăn nuôi bò sữa, bò thịt, heo, gà; nuôi tôm
sú, tôm thẻ, tôm càng xanh tại ĐBSCL… nhưng chưa có đề tài nghiên cứu khoa
học nào về tạo thu nhập từ rừng bần ven biển cho người dân sống ven rừng bần tại
ĐBSCL. Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tạo thu nhập cho người dân từ sản
phẩm từ rừng bần. Nghiên cứu đã tiến hành điều tra, xác định vai trò của sản phẩm
18
rừng bần trong tăng thu nhập của người dân thông qua các chỉ tiêu đánh giá như:
Độ tuổi, giới tính, dân tộc, số người trong hộ, trình độ học vấn chủ hộ, trình độ học
vấn các thành viên trong hộ, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sản xuất, thu nhập
trung bình năm, vay vốn ngân hàng, diện tích đất khai thác… để tổng hợp, phân
tích, đánh giá giá trị của sản phẩm từ rừng bần, góp phần tạo thu nhập cho hộ dân.
Singh và Strass (1986) cho rằng: Thu nhập của hộ gia đình gồm thu nhập từ
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tổng cục Thống kê (2010) định nghĩa cụ thể hơn:
Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật quy thành tiền sau
khi đã trừ chi phí sản xuất mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một
thời gian nhất định. Quan điểm của Mankiw (1998) cho rằng, sự khác biệt trong
thu nhập giữa các nước chính là năng suất lao động. Mincer (1974) cho rằng, thu
nhập của hộ chịu ảnh hưởng của các yếu tố: Trình độ học vấn, kinh nghiệm nghề
nghiệp và giới tính của chủ hộ. Nghiên cứu của Scoones (1998) chỉ ra những yếu
tố tác động đến thu nhập của hộ gia đình bao gồm: Vốn tự nhiên, vốn tài chính,
vốn con người và vốn xã hội. Vốn tự nhiên là đất đai, nước, không khí... là cơ sở
cho các hoạt động kinh tế của con người. Vốn tài chính bao gồm các khoản tiết
kiệm và tiếp cận tín dụng cho đầu tư vào các hoạt động tạo thu nhập. Vốn con
người mô tả các yếu tố như: Giáo dục, chăm sóc y tế, lực lượng lao động và giới
tính. Nguồn vốn này được khai thác sử dụng trong quá trình người lao động tham
gia vào sản xuất và được phản ánh qua năng suất lao động và hiệu quả công việc
của họ. Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con người
với nhau, như: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau và sự chia sẻ giá trị đạo đức,
phong cách nối kết những thành viên trong các tập đoàn, các cộng đồng lại với
nhau. Theo quan điểm của Reardon và cộng sự (1992) thì đa dạng hóa sản xuất
kinh doanh ở vùng nông thôn có tác động tăng thu nhập cho nông hộ. Bên cạnh đó,
Karttunen (2009) cho rằng nguồn nhân lực vốn con người của hộ gia đình và các
yếu tố nhân khẩu xã hội như: Giới tính, trình độ học vấn của chủ hộ cùng với tỷ lệ
phụ thuộc đều có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ.
♦ Về giá trị dịch vụ, du lịch
19
Theo nghiên cứu của Ngô Văn Ngọc và cộng sự (2015) về giá trị kinh tế
dịch vụ kinh tế rừng Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, tỉnh Long An. Mục tiêu
của nghiên cứu là lượng hóa một số giá trị dịch vụ kinh tế rừng của Khu bảo tồn
đất ngập nước Láng Sen. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu này gồm:
Phương pháp điều tra phỏng vấn, phương pháp chi phí du hành cá nhân (Individual
Travel Cost Method - ITCM) và phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent
Value Method - CVM). Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị lưu giữ, hấp thụ
cacbon trên mặt đất hàng năm của khu rừng tràm này là 1.256.221.559 đồng; giá
trị cảnh quan giải trí ước tính là 478.285.000 đồng và giá trị tồn tại là 109.956.000
đồng. Kết quả xác định được tổng các giá trị kinh tế dịch vụ kinh tế hàng năm của
hệ sinh thái Khu bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen ước tính là 1.844.462.559 đồng.
Theo Dự án thuộc chương trình về Bảo tồn và Quản lý đất ngập nước ở Việt
Nam (2000), nghiên cứu về định giá kinh tế rừng ngập mặn Cần Giờ. Nghiên cứu
đã chỉ ra rằng sinh cảnh RNM đem lại giá trị sản phẩm du lịch, giáo dục môi
trường và nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, hoạt động du lịch chỉ được khai
trương chính thức từ đầu năm 1997 (kể cả khảo sát nghiên cứu khoa học) trên điạ
bàn RNM Cần Giờ. Ngoài một Lâm viên Cần Giờ được thành lập, còn có một số
công ty du lịch, hoặc những tổ chức nhỏ lẻ từ nơi khác đến thực hiện hoạt động du
lịch tại địa bàn này từ 1997 trở lại đây. Cơ quan kinh tế cấp huyện và Ban quản lý
rừng huyện Cần Giờ theo dõi thống kê hoạt động này, cả về số lượt người, chi phí
và thu nhập tài chính. Trong năm 1997, nơi này có được 21.218 lượt người tham
quan, năm 1998 là 32.026 lượt người. Riêng 6 tháng đầu năm 1999 đã có hơn
30.000 lượt người tới du lịch ở RNM Cần Giờ, 800 đoàn nghiên cứu khoa học
(60% là đoàn người nước ngoài), hơn 1.000 lượt học sinh của các Trường học phổ
thông thuộc thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh đến tham quan học tập. Tổng
công ty du lịch Sài Gòn đã khảo sát nghiên cứu thị trường du lịch trên địa bàn
RNM Cần Giờ và dự báo từ năm 2000 trở đi, riêng địa bàn RNM Cần Giờ sẽ đón
được 1.200 người/tuần (hiện nay 620 đến 780 người/tuần), tập trung vào các ngày
nghỉ cuối tuần, dịp Lễ, Tết. Văn phòng Kinh tế tiếp thị của Tổng Công ty Sài Gòn
20
Du lịch (Sài Gòn Tourist) dự báo tỷ lệ tăng số lượng khách du lịch sẽ là 12% đến
15% hàng năm đến năm 2010 ở Cần Giờ. Trên cơ sở theo dõi thống kê về du lịch,
giá trị kinh tế đạt được từ các nguồn thu phí mà riêng ngành tài chính địa phương
thu được (trực tiếp hoặc gián tiếp qua thuế đối với các hoạt động) thì trung bình
mỗi năm của giai đoạn 1995 đến 1998 là 100.000 đồng/một lượt người. Nguồn thu
từ du lịch và những hoạt động khoa học, giáo dục, nghỉ dưỡng ở Cần Giờ trung
bình đạt 3,4 tỉ đồng/năm. Các hoạt động du lịch, giáo dục, khoa học, bảo vệ sức
khỏe gắn chặt với RNM Cần Giờ, không chỉ đem lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn
có ý nghĩa rất lớn về tinh thần, văn hóa và nâng cao kiến thức môi trường cho
nhiều đối tượng xã hội.
Để xác định được giá trị du lịch của RNM Rú Chá, xã Hương Phong, thị xã
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, nghiên cứu thu thập số liệu từ cán bộ địa
phương và người quản lý RNM Rú Chá, theo số liệu thu thập được thì số người
đến du lịch tại vùng này trung bình có khoảng 25 người/tuần, thời gian thích hợp
để tham quan du lịch là trong vòng 4 tháng (tháng 4 đến tháng 7 hằng năm), với
mức giá của mỗi lượt khách phải chi trả là 100.000 đồng/lần. Vậy ước tính giá trị
về du lịch sinh thái RNM Rú Chá thu được là: 40.000.000 đồng/năm (Trần Thị
Thúy Hằng và cộng sự, 2012).
2.3. Các giá trị sử dụng gián tiếp
Kết quả nghiên cứu của Dự án: “Định giá Kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố
Hồ Chí Minh” (2000) đã chỉ ra giá trị sử dụng gián tiếp của RNM như: Cố định
bùn đất bồi lắng, tạo lá chắn phòng hộ ven biển, duy trì đa dạng sinh học, điều tiết
và lưu trữ nguồn nước ngầm, giá trị cải thiện kinh tế, lưu trữ cacbon, xử lý nước
thải vùng ven biển, chống xói lở bờ biển… Các giá trị sử dụng gián tiếp mà RNM
mang lại giá trị kinh tế bao gồm các nhóm sau:
♦ Cố định bùn đất bồi lắng
RNM cố định được khối lượng lớn đất phù sa từ dòng chảy của những con
sông, dồn tụ và bồi lắng ở vùng cửa sông ven biển. Đặc biệt RNM có khả năng
21
ngưng kết cố định phù sa tương đối cao, chính là nhờ vào bộ rễ khí sinh của chúng.
Lợi dụng tính năng này của RNM, người dân biết khoanh nuôi RNM tự nhiên ở
các vùng cửa sông ven biển và cứ qua một chu kỳ rừng trưởng thành từ 12 đến 18
năm, tùy theo điều kiện đất đai và thủy văn mỗi vùng lại chặt rừng và đắp đê bao
phần đất mới do RNM cố định phù sa mà hình thành, một mặt có thêm đất canh
tác, một mặt tiếp tục trồng rừng mới phía ngoài đê bao, gọi là “lấn biển”.
Nguồn: Phạm Trọng Thịnh, năm 2011
Hình 2.2. Thay đổi diện tích rừng bần ngập mặn và đường bờ biển ở Cù Lao
Dung, tỉnh Sóc Trăng. Dấu (+) thể hiện vị trí địa lý giống nhau ở cả 3 thời điểm
Những thay đổi diện tích đất tại Cù Lao Dung từ 1965 đến 2007 được trình
bày trong Hình 2.2. Tổng diện tích của xã An Thạnh Nam và xã An Thanh 3 vào
khoảng 5.498 ha năm 1965, tăng lên 6.726 ha năm 1995 và 7.559 ha vào năm
2007. Từ năm 1965 đến năm 2007, tổng diện tích của 2 xã này tăng khoảng
2.061,7 ha với tốc độ bình quân là 48 ha/năm (Phạm Trọng Thịnh, 2011).
♦ Tạo lá chắn phòng hộ ven biển
Giá trị phòng hộ ven biển của RNM từ lâu đời đã được các cộng đồng dân
cư RNM bản địa ghi nhận. Vai trò này ngày càng được xã hội nhìn nhận rộng rãi
hơn, đặc biệt là sau hậu quả thảm khốc của trận Sóng thần ở Châu Á vào tháng 12
năm 2004 và vết hoang tàn của Cơn lốc Nargis để lại trên vùng ven biển Myanmar
22
vào tháng 5 năm 2008 (Hình 2.2).
Nguồn: Mazda, năm 1997
Hình 2.3. RNM bảo vệ các cộng đồng ở vùng ven biển. Bờ biển với đai
rừng bảo vệ (Hình bên trái) và Bờ biển không có đai rừng bảo vệ (Hình bên phải)
Hình 2.3 diễn tả sinh động RNM, rừng có thể góp sức phòng hộ ven biển
theo nhiều hướng. Một số trường hợp, rừng có thể giúp giảm thiểu tốc độ xói lở bờ
biển, chúng giúp bảo vệ vùng đất liền bên trong trước sóng cao hoặc nước cuốn do
sóng thần. Ở một chừng mực nào đó, chúng có thể giúp bảo vệ trước những cơn
gió lốc. Một số bằng chứng cho thấy rằng năng lượng và chiều cao bước sóng giảm
đi đáng kể khi chúng đi xuyên qua RNM, có vai trò rất lớn trong việc phòng hộ
trước sóng biển (Phạm Trọng Thịnh, 2011). Mazda (1997) phát hiện ra rằng dải
rừng Trang (Kandelia obovata) rộng 1,5 km làm giảm chiều cao bước sóng do gió
tạo nên từ 1 m xuống còn 5 cm tại một khu vực ở miền Bắc Việt Nam (Hình 2.4).
23
Nguồn: Mazda và cộng sự, năm 1997
Hình 2.4. Bước sóng giảm dần qua đai rừng ngập mặn rộng 1,5 km
miền Bắc Việt Nam
Các nghiên cứu sa bàn với sóng thần bước lớn cũng cho thấy rằng dải RNM
hoặc thực vật rừng khác có thể làm giảm tác động của sóng thần một cách đáng kể
(Hiraishi, 2008). Trong khi các kết quả này ủng hộ với những báo cáo cho rằng các
vùng bờ biển có cây bần ngập mặn phòng hộ bị thiệt hại ít hơn những nơi khác sau
trận Sóng thần ở Châu Á vào năm 2004 (Danielsen và cộng sự, 2005), thì số khác
vẫn đặt nghi vấn về lợi ích phòng hộ của RNM trước sóng thần. Điển hình là
Cochard và cộng sự (2008) kết luận rằng RNM không có tác dụng bảo vệ bờ biển
gần tâm động đất, nhưng có thể góp phần phòng hộ ở các bờ biển xa hơn.
Công trình nghiên cứu về giá trị kinh tế của một số dịch vụ RNM, Barbier
và cộng sự (1997) ước tính giá trị phòng hộ bão lũ của 1 km2 RNM tương ứng
khoảng 1,6 triệu đôla (USD) trong thời gian 20 năm. Con số này lớn hơn rất nhiều
24
so với giá trị riêng lẻ của sản phẩm gỗ (86.400 USD trên 1 km2 trong 20 năm),
nuôi thủy sản kết hợp với rừng (211.700 USD trên 1 km2 trong 20 năm), hoặc
chuyển sang nuôi tôm công nghiệp (963.200 USD trên 1 km2 trong 20 năm).
♦ Duy trì đa dạng sinh học
Những vùng bãi biển ngập triều và các kênh rạch ở vùng cửa sông ven biển
khi thủy triều xuống là những bãi kiếm ăn lý tưởng cho các loài chim. Theo tổ
chức của các Luật gia kinh tế thế giới (EJF, 2003), RNM ở vùng cửa sông, ven
biển ĐBSCL có 386 loài và phụ loài chim, 260 loài cá, hàng trăm loài động vật
xương sống. Ở vùng cửa sông Cửu Long, nghiên cứu của Phạm Trọng Thịnh
(2011) tại địa bàn xã Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã thống kê được 27 loài bò sát, 8
loài lưỡng cư, 16 loài thú và 60 loài chim. Một số loài hiếm và có nguy cơ bị đe
dọa được phát hiện ở đây như: Tắc kè (Gekko gekko), Kỳ đà hoa (Varanus
salvator), Rái cá lông mượt (Lutra perspicilata), Mèo cá (Felis viverina), Bồ nông
(Pelecanus philipensis), Cò lông xám (Mycteria cinerea). Về thủy sinh vật RNM
ven biển tại ĐBSCL, Trần Kim Hằng và cộng sự (2003) đã thống kê được 185 loài
thực vật nổi, trong đó nhóm Bacillariophyta chiếm 79%, có 93 loài động vật nổi
(bao gồm 57 loài của nhóm Arthropoda (62,29%)), 90 loài động vật đáy đã được
xác định (bao gồm 41 loài thuộc nhóm Arthropoda (45,56%)). Vùng cửa sông có
661 loài cá thuộc 319 họ, trong đó số loài cá sống ở tầng đáy và gần đáy chiếm
khoảng 72%, họ cá Mối (Priacanthidae) chiếm 54,43%, họ cá Khế (Canrangidae)
chiếm 25,5%, họ cá Trác (Priancabidae) chiếm 3,79%, các loài cá sống ở tầng nổi
chiếm 28%, tầng trung và nổi có các loài cá Bạc má, cá Nục, cá Mối vạch, cá
Chuồn đen, cá Chích tròn, cá Thu vạch. Số loài sống ở gần bờ chiếm 68% và cá
sống xa bờ chiếm 32%. Có 20 loài tôm trong khu vực, gồm 12 loài tôm biển (thuộc
5 họ), 8 loài tôm nước ngọt (7 loài thuộc họ Palaemonidae và 1 loài thuộc họ
Caridae). Các loài tôm chủ yếu trong vùng là những loài có giá trị cao như
Penaeus indicus; Metapeneusensis, M. lysanassa và M. spinulatus. Nghêu giống
xuất hiện ở hầu hết các bãi bồi vùng cửa sông, đã đem lại nguồn thu nhập rất quan
trọng cho người dân địa phương. Những người nông dân sống lâu năm ở khu vực
25
huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng vào mùa thu hoạch Nghêu, có hàng ngàn
người đến thu hoạch Nghêu ở vùng này, thu nhập của họ có thể đạt được từ vài
trăm đến hàng triệu đồng mỗi ngày.
Các nhà khoa học đã chứng minh mối liên hệ khăng khít giữa việc bảo vệ
và phát triển RNM đối với năng suất thủy sản ở vùng ven biển và ngoài khơi. Mỗi
ha RNM hỗ trợ cho sản lượng đánh bắt hàng năm khoảng 450 kg, khoảng 2/3 sản
lượng cá đánh bắt được của thế giới. Các loài cá có thể sống được là nhờ vào sự
lành mạnh của các hệ sinh thái RNM ven biển. Nguồn thức ăn đầu tiên, phong phú
và đa dạng cung cấp cho các loài hải sản là xác hữu cơ thực vật dạng hạt hoặc còn
gọi là mùn bã hữu cơ, đó là sản phẩm của quá trình phân hủy xác thực vật, bao
gồm: lá, cành, chồi, rễ,… các cây của RNM (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
Theo Snedaker (1978), lượng lá rơi của cây RNM ở Nam Florida là 10.000 -
14.000kg khô/ha/năm. Kết quả nghiên cứu ở rừng Đước tỉnh Cà Mau cho thấy
năng suất lượng rơi là 9.719,9 kg/ha/năm, riêng lá chiếm 79,71%. Hàng năm, rừng
Đước tỉnh Cà Mau cung cấp cho hệ sinh thái RNM ở đây 8.400 - 12.000 kg
lá/ha/năm, tính theo trọng lượng khô (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
Như vậy, RNM đã duy trì và làm tăng tính đa dạng sinh học, gián tiếp đem
lại những lợi ích kinh tế thiết thực.
♦ Điều tiết và lưu trữ nguồn nước ngầm
RNM điều tiết và bảo tồn nguồn nước ngầm, giảm thiểu xâm nhập mặn vào
sâu trong nội địa. Việc tính toán định giá giá trị kinh tế đối với tác dụng điều tiết
và lưu trữ nguồn nước ngầm của rừng là chưa đầy đủ số liệu. Tuy nhiên, từ thực tế
cho thấy các hộ dân sống ven rừng bần ngập mặn (RBNM) có thể dùng nước ngọt
tại chỗ thông qua các giếng nước ngầm. Các khu RNM cũng góp phần hạn chế
xâm nhập nước mặn và bảo vệ nước ngầm. Ở những thành phố và thị trấn ở vùng
ven biển, tình trạng triều cường đã gây ngập nhiều khu dân cư, trong đó có một
nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch có những dải cây dừa nước và nhiều loài cây
ngập mặn khác như: Bần, Mắm, Sú, Trang,... vốn giữ vai trò như những túi chứa
26
nước tự nhiên đã bị chặt phá và lấp đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu dân
cư cho nên không có chỗ cho nước thoát mỗi khi có ngập cục bộ do triều cường
hay mưa lớn (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
♦ Giá trị cải thiện môi trường không khí
RNM có giá trị trong giảm thiểu ô nhiễm không khí, bụi và tiếng ồn. Chu
kỳ sinh lý của cây RNM nói chung và cây bần nói riêng, đặc biệt là quá trình
quang hợp của lá, đã được các nhà nghiên cứu chứng minh rằng có tác dụng lớn
đối với giảm thiểu ô nhiễm không khí, thanh lọc độc tố, hấp thu CO2 và sản sinh
oxy, ngưng tụ và giảm tác hại của bụi, giảm tiếng ồn… Những cây xanh có thân gỗ
chiều cao trên 10 m, lá rộng như: Đước, Bần… số lượng lá ở mức trung bình thấp
(5m2 tổng diện tích lá) có khả năng cung cấp lượng dưỡng khí cho 03 người sống
được trong 24 giờ. Một ha rừng lá rộng như RNM ở độ tuổi trên 7 năm, hàng năm
hấp thụ được 9 tấn cacbon và sản sinh ra 7 tấn oxy. Giá trị dịch vụ của hệ sinh thái
RNM trên thế giới đã được ước tính là 1,6 triệu USD/ha/năm. Các dịch vụ cho con
người bao gồm: Điều hoà khí hậu, bảo vệ nguồn nước sạch, hạn chế xói lở ven
biển, xử lý chất thải, cung cấp sản phẩm và giải trí. Các nhà nghiên cứu đã định
lượng được các giá trị kinh tế, sinh thái và địa mạo của RNM và xác định rằng các
dải RNM ở ven biển của vùng vịnh California có giá trị 37.500 USD/năm. Các dải
RNM đặc biệt quan trọng và lâu dài đối với những người dân phụ thuộc vào nguồn
tài nguyên cá ở vùng này (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
♦ Lưu trữ cacbon
Hầu hết các lớp trầm tích than trên thế giới đều xuất phát từ cây gỗ hoặc
các loài thực vật khác đã chết và bị chôn vùi cách đây khoảng 250 đến 300 triệu
năm. Việc đốt cháy nguồn nhiên liệu hóa thạch này là nguyên nhân chính làm tăng
nồng độ cacbon dioxide trong không khí, được xem là một trong những tác nhân
chính gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu ngày nay.
RNM đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chu trình cacbon toàn cầu vì
chúng có dòng đời dài và có khả năng lưu giữ cacbon lâu bền, phần lớn là nằm
27
dưới mặt đất. So với các loài cây gỗ trên cạn thì cây bần ngập mặn là nhóm loài
cây có tỷ lệ tổng sinh khối dưới mặt đất rất cao. Thành phần rễ chết và rễ mới sinh
ra (tổng khối lượng rễ) làm tích lũy khối lượng lớn của chất hữu cơ (cacbon bị
chôn vùi), bị phân hủy chậm do điều kiện ẩm ướt và yếm khí của đất trong sinh
cảnh cây bần ngập mặn. Khối lượng cacbon được lưu trữ trong đất cây bần ngập
mặn tùy thuộc vào loại hình rừng, tuổi rừng, độ sâu của tầng đất, lịch sử địa chất,
mức độ quấy nhiễu, kiểu chất nền, các đặc điểm thủy văn và một số yếu tố khác.
Trữ lượng cacbon trong RNM là rất lớn (Matsui, 1998; Matsui và Yamatani,
2000).
Donato và cộng sự (2011) đã khảo sát đại trà tại 25 điểm ở Borneo,
Bangladesh, Java, Sulawesi và Micronesia. Kết quả cho thấy tại các điểm này có
bình quân 972 tấn cacbon/ha ở vùng cửa sông và 792 tấn cacbon/ha ở vùng biển,
hầu hết là cacbon hữu cơ trong đất, không phải sinh khối của rễ ngầm. Các con số
này thể hiện lượng tích trữ lâu đời từ hàng trăm đến hàng ngàn năm.
Các kết quả ước tính lượng cacbon vùi lấp trong hệ sinh thái RNM gần đây
nói lên rằng các hệ sinh thái này có thể chôn vùi khoảng 18 triệu tấn cacbon hàng
năm trên toàn cầu (Bouillon và cộng sự, 2008). Điều này cho thấy rằng dù diện
tích RNM toàn cầu là khá nhỏ nhưng chúng lại là các bể chứa dài hạn dành cho
cacbon dioxide trong không khí và chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
chu trình cacbon toàn cầu (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).
♦ Xử lý nước thải vùng ven biển
Không chỉ là các bể chứa cacbon, RNM còn hứng lấy và chế biến dinh
dưỡng như đạm và lân. Nhờ đó mà RNM có tác dụng xử lý nước thải, nước cống
rãnh và nước tháo ra từ vuông tôm (Clough và cộng sự, 1983; Robertson và
Phillips, 1995), nếu như nước thải không có chất thải công nghiệp vốn chứa hàm
lượng lớn kim loại nặng và các chất độc hóa học khác. Khoanh các ô đất ngập
nước và trồng RNM rồi cho nước thải lần lượt tràn qua cũng là một biện pháp hữu
hiệu trong xử lý nước thải (Boonsong và cộng sự, 2003).
28
♦ Chống xói lở bờ biển
Xói lở bờ biển chủ yếu là do dòng chảy mạnh ven bờ và sóng do gió gây ra,
đồng thời chịu tác động lớn của hình dáng đường bờ, hướng sóng, năng lượng
sóng, vận tốc dòng chảy và biên độ triều. Đập và bờ kè do con người xây dựng
cũng có thể có tác động lớn đến kiểu hình xói lở cục bộ. RNM giúp làm giảm xói
lở bờ biển bằng hai hướng. Hệ thống rễ dày đặc dưới mặt đất giúp giữ cho đất bùn
dính lại với nhau, thân cây và hệ thống rễ trên mặt đất làm giảm tốc độ dòng chảy
bề mặt, từ đó làm giảm xói lở bề mặt và góp phần tích tụ phù sa ở những nơi
nguồn nước có lượng trầm tích cao. Gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về
vai trò của thân và rễ khí sinh trong việc điều tiết dòng chảy và dao động sóng ở
RNM (Wolanski và cộng sự, 1992), nhưng dường như chưa có công trình nghiên
cứu định lượng nào nói về vai trò của hệ thống rễ ngầm trong việc giữ đất.
Xói lở bờ biển là một quá trình rất phức tạp và biến động, mức độ góp phần
làm giảm xói lở của RNM có xu thế khá cục bộ; nó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố
khác của năng lượng sóng, mức ngập triều, dòng chảy ven bờ cùng với hình dáng
đường bờ và các ghềnh cát hoặc đất bùn nổi lên ngoài biển. Ở một số nơi lực xói lở
yếu, sự hiện diện của RNM ít nhiều đủ sức chống xói lở. Còn ở nơi lực xói lở
mạnh hơn thì RNM có thể giúp làm giảm tốc độ xói lở một cách đáng kể. Tuy
nhiên, ở những nơi năng lượng sóng ven bờ lớn quá thì tác dụng của RNM là rất
thấp hoặc không còn tác dụng phòng chống xói lở ven bờ.
Các khu RNM do có hệ thống rễ dày đặc trên mặt đất như hệ rễ hình chân
nơm của các loài Đước, Đưng, rễ hình đầu gối của các loài Vẹt, rễ thở hình chông
của các loài Mắm, Bần góp phần ngăn cản xung lực của sóng. Với lớp tán lá dày
cùng với thân, cành cây đã tạo thành lớp rào bằng vật liệu mềm giảm sức công phá
của sóng triều (Phan Nguyên Hồng và cộng sự, 2010).
Tài nguyên thủy sản trong RNM ở vùng cửa sông, ven biển tại ĐBSCL rất
phong phú, đa dạng. Tài nguyên RNM đóng góp đáng kể vào thu nhập của người
dân địa phương. Những nguồn tài nguyên này đóng góp rất nhiều đối với thu nhập
29
của những hộ dân sống ở vùng xung quanh. RNM nơi đây cũng tạo ra những điều
kiện kinh tế thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản ở vùng đệm và giữ vai trò như
những dải đệm lọc nước thải từ các khu nuôi trồng thủy sản và các khu công
nghiệp đổ ra biển. RNM vùng cửa sông có giá trị kinh tế cao, giá trị của RNM ở
vùng cửa sông Cửu Long có thể đạt được là 3.100 USD/ha/năm, gồm giá trị từ
nguồn gỗ và củi 16,35 USD/ha/năm và giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm (Mai
Trọng Nhuận và công sự, 2000).
2.4. Các giá trị phi sử dụng
Báo cáo “Định giá kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh” (2000)
chỉ ra rằng giá trị phi sử dụng của RNM là các giá trị thẩm mỹ, văn hóa, tín
ngưỡng và tôn giáo. Quan điểm của Đinh Đức Trường (2014) cho rằng giá trị phi
sử dụng của RNM là bảo tồn, đa dạng sinh học, sử dụng phương pháp đánh giá
ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method - CVM) để xác định giá trị phi sử dụng
của RNM. Với công trình nghiên cứu liên quan đến giá trị phi sử dụng, Trần Thị
Thúy Hằng và Nguyễn Đức Thành (2012) cho rằng giá trị phi sử dụng bao gồm:
giá trị lựa chọn (giá trị sẵn lòng chi trả để bảo vệ và bảo tồn tài nguyên), giá trị
thông tin (giá trị từ nghiên cứu khoa học, giáo dục) và giá trị để lại sự tồn tại. Để
lượng hóa giá trị phi sử dụng, tác giả ước lượng giá trị mức sẵn lòng chi trả
(Willing To Pay - WTP) được ước lượng bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất
(Ordinary Least Square - OLS), và tính toán giá trị phi sử dụng do RNM Rú Chá
mang lại bao gồm: giá trị chọn lựa, giá trị thông tin, giá trị để lại.
2.5. Các kết quả nghiên cứu định lượng các giá trị của rừng ngập mặn
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thúy Hằng và cộng sự (2012) xác định
RNM Rú Chá xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện
tích 4,2 ha, nhưng mang lại nhiều giá trị sử dụng và thu nhập cho người dân sống
trong khu vực, với tổng giá trị kinh tế ước lượng được là 1,250 tỷ đồng/năm. Trong
đó, giá trị sử dụng trực tiếp gồm: Củi đốt, dược liệu, cây cảnh, nuôi trồng thủy sản
mang lại giá trị 1,171 tỷ đồng/năm, chiếm tỷ lệ 93,71% tổng giá trị kinh tế. Giá trị
30
sử dụng gián tiếp gồm: Điều hòa khí hậu, tích lũy nước ngầm, hấp thụ bụi, du lịch
sinh thái, sản xuất ôxy, giá trị tích lũy cacbon và du lịch sinh thái, ước tính mang
lại giá trị là 46,786 triệu đồng/năm, chiếm tỷ lệ 3,74% tổng giá trị kinh tế và giá trị
phi sử dụng là 31,831 triệu đồng/năm, với tỷ lệ 2,55% tổng giá trị kinh tế.
Báo cáo “Định giá kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh” (2000)
chỉ ra rằng, tại thời điểm tháng 9 năm 1999, RNM của huyện Cần Giờ có tổng diện
tích là 26.938 ha, trong đó có 19.443 ha là rừng trồng và 7.495 ha rừng tự nhiên,
nhưng đã mang lại giá trị kinh tế toàn phần hàng năm vào khoảng gần 95 tỷ đồng;
lợi ích này thu được từ các giá trị sử dụng trực tiếp (sản phẩm rừng) và các giá trị
sử dụng gián tiếp (các chức năng, dịch vụ của rừng).
Kết quả nghiên cứu của Đinh Đức Trường (2009), RNM tại cửa sông Ba
Lạt, tỉnh Nam Định có diện tích khoảng 7.100 ha, với tổng giá trị kinh tế là 88,619
tỷ đồng; trong đó: Giá trị sử dụng trực tiếp 81,709 tỷ đồng, chiếm 92,2% thu nhập
từ: Nuôi tôm, nuôi nghêu, nghêu giống, nuôi cua, trồng rau câu, mật ong, khai thác
thủy sản và giá trị du lịch; giá trị sử dụng gián tiếp là 6,511 tỷ đồng, chiếm 7,35%
có được từ giá hỗ trợ sinh thái cho nuôi thủy sản, giá trị du lịch và giá trị hấp thụ
cacbon; Giá trị phi sử dụng là 399 triệu đồng, chiếm 0,45% tổng giá trị kinh tế
RNM tại cửa sông Ba Lạt.
Ngô Văn Ngọc và cộng sự (2015), nghiên cứu tổng giá trị kinh tế dịch vụ
môi trường hàng năm của hệ sinh thái Khu bảo tồn “Đất ngập nước Láng Sen, tỉnh
Long An” với diện tích RNM là 2.156 ha, ước tính giá trị kinh tế là 1,844 tỷ đồng,
trong đó: giá trị lưu giữ, hấp thụ cacbon trên mặt đất hàng năm của khu rừng tràm
này là 1,256 tỷ đồng; giá trị cảnh quan giải trí ước tính là 0,478 tỷ đồng và giá trị
tồn tại là 0,110 tỷ đồng, các giá trị còn lại là 587,412 tỷ đồng.
Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê (2018) nghiên cứu trên diện
tích RNM 327,03 ha thuộc xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình có tổng
giá trị kinh tế là 69,504 tỷ đồng/năm; trong đó: giá trị sử dụng trực tiếp, chủ yếu là
giá trị khai thác, nuôi trồng thủy sản, chiếm tỷ trọng và quy mô lớn nhất 68,974 tỷ
31
đồng/năm, tương ứng với 99,2%; phần còn lại là giá trị gián tiếp và giá trị phi sử
dụng là 0,530 tỷ đồng, chiếm 0,8% giá trị kinh tế toàn phần của RNM.
2.6. Nhận diện các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông
Cửu Long
Rừng bần tại ĐBSCL cung cấp rất nhiều loại giá trị kinh tế cho người dân
và cộng đồng xã hội. Mục tiêu của luận án là nhận diện và đánh giá các giá trị này.
Các loại giá trị quan trọng của RNM tại khu vực được nhận diện và phân loại trong
Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các giá trị của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL
Giá trị sử dụng trực tiếp Giá trị sử dụng gián tiếp Giá trị phi sử dụng
3. Phòng hộ đê biển
7. Bảo tồn đa dạng
sinh học
1.
4. Tích tụ, bồi lắng bùn
Khai thác nguồn lợi thủy
sản, khai thác trái bần
chín.
5. Lọc nước biển
lịch,
2.
Tham quan, du
nghiên cứu khoa học…
6. Hấp thụ CO2, lưu trữ
cacbon
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019
2.6.1. Giá trị sử dụng trực tiếp
♦ Khai thác nguồn lợi thủy sản: Cua thịt, cua con, cá kèo thịt, cá kèo giống,
nghêu thịt, nghêu giống, ba khía thịt, dộp,…trái bần chín và lương khoán.
♦ Tham quan, du lịch: Trên khu vực nghiên cứu điểm tham quan, du lịch rừng
bần huyện Cù Lao Dung bước đầu hình thành và phát triển mang lại giá trị kinh tế
khá cao; nhưng việc đầu tư vốn, quảng bá sản phẩm du lịch còn hạn chế.
2.6.2. Giá trị sử dụng gián tiếp
♦ Phòng hộ đê biển: Rừng bần khu vực nghiên cứu bao gồm huyện Duyên
Hải thuộc tỉnh Trà Vinh; huyện Trần Đề và huyện Cù Lao Dung thuộc địa bàn tỉnh
Sóc Trăng có tổng chiều dài trên 30 km, đã góp phần đáng kể vào việc giảm chi
phí đê bao hàng năm cho ngân sách trung ương và địa phương.
32
♦ Tích tụ, bồi lắng bùn: Cây Bần chua có khả năng cao trong quá trình ngưng
kết cố định phù sa ở bộ rễ khí sinh của chúng, vùng cửa sông Tiền, sông Hậu ven
biển mỗi năm lấn biển từ 50 đến 80 m, người dân địa phương thường được gọi là
khu vực “lấn biển”.
♦ Lọc nước biển: Với bộ rễ dày và dài có tác dụng như “bộ lọc”, rừng bần
góp phần vào việc hạn chế tình trạng mặn xâm nhập, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường nước, cải thiện nguồn nước ngầm tại các vùng ven biển.
♦ Hấp thụ CO2, lưu trữ cacbon: Rừng bần ngập mặn có vai trò như lá phổi
xanh lọc khí thải khí cacbon điôxít (CO2), so với các loài cây khác, cây bần thực
hiện việc này rất tốt do có chiều cao và tán rộng; khi rễ, cành và lá của cây bần
rụng xuống, chúng thường được đất bao phủ, sau đó chìm trong nước thủy triều,
làm chậm quá trình phân hủy vật chất và tăng cường lưu giữ cacbon; trong một báo
cáo của nhóm giáo sư thuộc Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR),
với cùng một diện tích, rừng ngập mặn có khả năng lưu trữ cacbon nhiều gấp 5 lần
so với các rừng khác trên đất liền.
2.6.3. Giá trị phi sử dụng
Bảo tồn đa dạng sinh học: rừng bần ngập mặn là một hệ sinh thái hết sức
quan trọng, vừa cung cấp các nhu cầu cho cuộc sống của cộng đồng dân cư ven
biển vừa là bức tường xanh vững chắc chống gió bão, sóng thần, xói lở, làm sạch
môi trường ven biển, duy trì đa dạng sinh học như: Khỉ đuôi dài, dơi khi, các loài
thủy sản, giáp xác, lưỡng cư...
Các giá trị thực tiễn của sản phẩm rừng bần tại khu vực khảo sát được trình
bày chi tiết tại Hình 2.5.
33
GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN PHẨM RỪNG BẦN
GIÁ TRỊ TRỰC TIẾP
GIÁ TRỊ GIÁN TIẾP
GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG
PHÒNG HỘ ĐÊ BIỂN
BẢO TỒN, ĐA
DẠNG SINH HỌC
TẠO THU NHẬP:
NGUỒN LỢI
THỦY SẢN, TRÁI
BẦN CHÍN…
TÍCH TỤ, BỒI LẮNG BÙN
LỌC NƯỚC BIỂN
THAM QUAN, DU
LỊCH, NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC…
HẤP THỤ CO2, LƯU
TRỮ CACBON
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Hình 2.5: Các giá trị thực tiễn của sản phẩm rừng bần khu vực khảo sát
* Nhận xét, đánh giá về rừng bần ngập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, RNM tạo ra một môi trường vi khí hậu thuận lợi cho sinh vật trong
ao nuôi thông qua quá trình quang hợp, tạo ôxy cho nước trong ao, rừng trong ao
cũng có tác dụng hạn chế ánh nắng mặt trời, tạo ra nhiệt độ thích hợp cho việc nuôi
trồng và khai thác thủy sản. Các ao nuôi tôm, cá được bố trí ở trong đê bao. Vì
vậy, RNM ở đây có tác dụng ngăn sóng mạnh khi đập trở ra từ thành đê, tạo ra kết
cấu ao và thể nền ổn định không bị xáo trộn so với những điểm không có RNM.
Thứ hai, giá trị tham quan, du lịch, nghiên cứu khoa học; bản thân sinh cảnh
rừng bần đem lại giá trị sản phẩm du lịch, giáo dục môi trường và nghiên cứu khoa
học. Các hoạt động du lịch, giáo dục, khoa học gắn chặt chẽ với rừng bần không
chỉ đem lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa rất lớn về tinh thần, văn hóa
và nâng cao kiến thức môi trường cho nhiều đối tượng xã hội. Rừng bần tại
34
ĐBSCL có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú gắn với sông nước miền Tây, tiềm năng
phát triển rất lớn.
Thứ ba, giá trị phòng hộ đê biển của RNM, đóng vai trò như một “tấm đệm”
chắn sóng có khả năng bảo vệ và phòng hộ đê biển trong các đợt bão lũ. Trong
vùng RNM, rễ cây bần đan với nhau tạo thành một hệ thống lưới sinh thái phòng
hộ rất vững chắc có tác dụng cản các lực do sóng biển tạo ra đập vào mặt đê khi có
bão lũ, do đó giảm bớt thiệt hại của bão gây ra cho đê biển, giúp duy trì được tính
bền vững của đê.
Thứ tư, tích tụ, bồi lắng bùn của RNM, cố định được khối lượng lớn đất phù
sa từ dòng chảy của những con sông, dồn tụ và bồi lắng ở vùng cửa sông ven biển.
Đặc biệt rừng bần có khả năng cao ngưng kết cố định phù sa ở bộ rễ khí sinh của
chúng, lợi dụng tính năng này của rừng bần; từ xưa người dân sống ven rừng bần
cứ qua một chu kỳ rừng bần trưởng thành (từ 12 năm đến 18 năm) lại chặt rừng
bần và đắp đê bao phần đất mới do rừng bần cố định phù sa mà hình thành, một
mặt có thêm đất canh tác, một mặt tiếp tục trồng rừng bần mới phía ngoài đê bao,
gọi là “lấn biển”. Theo phương thức cổ truyền, rừng bần “lấn biển” này có thể xác
định lợi ích của RNM về gia tăng đất canh tác hoặc cư trú cho cộng đồng dân cư.
Hệ thống rễ cây rừng ngập mặn cũng giữ lại các chất trầm tích từ đất liền đưa ra
biển. Các chất trầm tích này trộn với lớp thảm mục, tàn tích hữu cơ được phân rã
làm cho nền đất nâng cao. Nhờ tác dụng hỗ trợ của đai RNM, các bãi bồi hàng năm
lấn ra biển vài chục mét, thậm chí ở cửa sông Cửu Long và mũi Cà Mau lấn ra biển
hàng trăm mét.
Thứ năm, rừng bần có vai trò lọc nước biển điều tiết và bảo tổn nguồn nuớc
ngầm, giảm thiểu xâm nhập mặn vào sâu trong nội địa, người dân chỉ việc đào
giếng khoan vài chục mét sẽ có nước ngọt. sinh hoạt tại chỗ, không cần phải bỏ chi
phí cho việc mua và vận chuyển nuớc ngọt.
Thứ sáu, giá trị hấp thụ CO2 của RNM, hệ sinh thái RNM có khả năng hấp
thụ khí cacbon thông qua quá trình quang hợp và lưu trữ cacbon. Ngoài ra, các chất
35
hữu cơ tiết ra bởi RNM như lá cây, rễ cây khi rụng hoặc chết tạo thành lớp mùn
đáy cũng có khả năng lưu trữ cacbon.
Thứ bảy, sự đa dạng sinh học, động vật, thực vật của RNM nơi đây tạo ra
những sản vật dồi dào, đa dạng, có giá trị kinh tế cao, giúp cho người dân có thu
nhập khá. Bên cạnh đó, rừng bần là sinh cảnh thích hợp của nhiều loài động vật
hoang dã (chim thú trên cạn, ong mật và các loài thủy sinh), nơi sinh sống phát
triển, là nguồn dinh dưỡng phong phú cho các loài thuộc hệ sinh thái ngập nước.
2.7. Thực trạng các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần
2.7.1. Thực trạng các giá trị sử dụng trực tiếp của nghiên cứu
Rừng bần tại ĐBSCL có vị trí thuận lợi cho các loài thủy sản tự nhiên sinh
sống, sinh sôi nảy nở với quy mô lớn. Hàng năm, rừng bần cung cấp cho thị trường
đến hàng ngàn tấn sản phẩm thủy sản và con giống các loại như: Nghêu, cua, ba
khía, cá, tôm, khai thác trái bần chín…
♦ Khai thác nguồn lợi thủy sản
Khai thác nghêu giống: Từ tháng 5 đến tháng 7 dương lịch hàng năm, tại
vùng ven bãi bồi RBNM, nghêu giống tự nhiên xuất hiện với quy mô rất lớn, với
sản lượng hàng trăm tấn con giống mỗi năm, nguồn lợi nghêu giống tạo sức hút
mãnh liệt đối với nhiều đối tượng, cả từ cộng đồng địa phương và những người xa
đến khai thác như: Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau… với hàng nghìn người
đã tạo thu nhập hàng năm hàng chục tỷ đồng (Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú
- Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).
Khai thác cua giống, cua thịt và ba khía: Việc khai thác cua giống, cua thịt
và ba khía được người dân địa phương và vùng lận cận vào khai thác, trung bình từ
khoảng 80 đến 120 người vào RBNM khai thác hàng ngày (trừ những ngày mưa,
giông) với thu nhập trung bình 250.000 đồng/người/ngày. Tổng thu nhập một năm
rừng bần huyện Cù Lao Dung ước khoảng 6,5 tỷ đồng (Hạt Kiểm lâm huyện
36
Duyên Hải, 2020; Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung,
2020).
Khai thác cá kèo giống: Cá kèo giống xuất hiện khoảng tháng 6 đến tháng 7
dương lịch tại rừng bần huyện Cù Lao Dung, sản lượng khai thác hàng năm từ 4
đến 6 tấn, giá trung bình từ 4 triệu đến 8 triệu đồng/kg. Tổng thu nhập trung bình
một vụ cá kèo giống ước khoảng 30 tỷ đồng (Hạt Kiểm lâm huyện Duyên Hải,
2020; Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).
Khai thác trái bần chín: Thông thường đến mùa bần chín (vào tháng 5,
tháng 6, tháng 11 và tháng 12 dương lịch), người dân chỉ lượm về nấu ăn trong gia
đình, hoặc dùng làm “mồi” câu cá bông lau, cá ngác, cá tra bần; số bần chín còn lại
trôi sông, trôi biển bỏ đi. Nếu có kế hoạch thu mua để chế biến, mỗi hộ gia đình ở
ven bãi bồi có cây bần sinh sống có thêm thu nhập hàng trăm ngàn đồng mỗi ngày.
Ưu điểm của việc khai thác trái bần chín là cây bần mọc tự nhiên không phải đầu
tư tiền mua cây giống, phân bón, công chăm sóc… Hiện nay, tại huyện có một cơ
sở thu mua, sản xuất “nước cốt bần” đó là cơ sở Ngọc Hồng, chuyên sản xuất sản
phẩm từ trái bần chín, đã tạo điều kiện cho việc tăng thu nhập của người dân sống
nơi đây. Người dân chỉ bỏ công sức ra thu hoạch đem về bán giá 8.000 đồng/1kg,
bình quân một người đi lượm khoảng 50 kg mất thời gian 2 đến 3 giờ (Báo cáo:
Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).
Ngoài ra, các sản phẩm khác từ rừng bần như: Mật ong, Ốc len, Dộp, Đồm
độp, các loại tôm, Lịch, cá Kèo, cá Bống sao… được trình bày chi tiết phần tiếp
sau.
♦ Khai thác, phát triển du lịch sinh thái
Rừng bần tại ĐBSCL với giá trị sinh thái và đa dạng sinh học cao. Đây là
những điểm du lịch sinh thái tiềm năng cho khách du lịch nội địa và quốc tế. Tuy
nhiên, nơi đây chưa phải là điểm du lịch hấp dẫn do cơ sở hạ tầng đi lại và du lịch
còn kém, chưa có đầu tư khai thác tiềm năng du lịch, cũng như các hoạt động
tuyên truyền quảng bá về giá trị du lịch sinh thái.
37
2.7.2. Giá trị sử dụng gián tiếp của nghiên cứu
Phòng hộ đê biển của RNM đóng vai trò như một “tấm đệm” chắn sóng có
khả năng bảo vệ và phòng hộ đê biển trong các đợt bão lũ. Kết quả đánh giá của
nơi có RNM rộng 1,5 km thì sóng cao 1m ở ngoài bãi trống sẽ giảm còn 0,05 m
khi tới chân bờ đầm. Nơi không có rừng thì cũng với khoảng cách đó nhưng chiều
cao của sóng ở chân bờ đê là 0,75m và đê có thể bị xói lở (Mazda, 1997).
RNM vùng ĐBSCL có diện tích lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, vài năm gần
đây, RNM khu vực ven biển ĐBSCL đã và đang bị suy giảm về diện tích, cũng
như chất lượng. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu của Viện Sinh thái và Bảo vệ
công trình cho thấy, nguyên nhân làm suy giảm RNM là do các yếu tố tự nhiên
(sóng, gió, bão…) và yếu tố con người (các hoạt động xây dựng, khai thác, nuôi
trồng thủy sản…). Trong đó, yếu tố con người là nguyên nhân chính làm suy giảm
RNM. Một số nguyên nhân làm suy giảm RNM như: Do chuyển đổi mục đích sử
dụng đất ngập mặn; RNM do xói lở; rừng ngập mặn do khai thác trái phép; RNM
do hoạt động xây dựng của con người. Trước thực trạng xói lở bờ biển và suy giảm
RNM tại ĐBSCL, đã có nhiều đề tài, dự án được thực hiện nhằm góp phần phục
hồi diện tích RNM để bảo vệ bờ biển, đê biển tại ĐBSCL. Có rất nhiều biện pháp
được áp dụng tại ĐBSCL nhưng có thể kể đến các giải pháp mềm thân thiện với
môi trường được Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình (WIP) và Tổ chức hợp tác
Đức (GIZ) tiến hành nhiều thử nghiệm độc lập ở các vị trí bờ biển bị xói lở, bằng
cách làm hàng rào bằng cọc tre nhằm giảm sóng, giảm dòng chảy và gây bồi tạo
bãi, sau đó mới tiến hành trồng cây đã thành công ở một số vị trí (Nguyễn Hoàng
Hanh và cộng sự, 2019).
Dasgupta và cộng sự (2007) cho rằng nước biển dâng 1 m sẽ ảnh hưởng đến
5% diện tích đất của Việt Nam, 11% dân số, và làm giảm Tổng sản phẩm quốc nội
10%. Để làm giảm tác động của nước biển dâng và bão lũ, một số biện pháp ban
đầu đã được thực hiện như xây dựng đê. Thêm vào đó, tập trung vào khôi phục và
phục hồi RNM là cơ chế quan trọng để làm giảm các tác động của biến đổi khí hậu
38
của những vùng ven biển.
RNM ven biển tại ĐBSCL có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ
hơn 7 nghìn km đê biển, đê cửa sông ven biển, bờ bao, bảo vệ cuộc sống và sinh kế
của cộng đồng dân cư ven biển. Khu vực này có diện tích RNM là 73.372,04 ha,
chiếm 50,5 % diện tích RNM cả nước. Tại đây, trạng thái thực bì là rừng tự nhiên
và rừng trồng được gây trồng nhiều năm qua ở các vùng cửa sông ven biển, bãi bồi
đất ngập mặn, những nơi ngập triều trung bình, thể nền từ bùn đến sét, độ lún từ 20
- 40cm, các loài cây được gây trồng chủ yếu bao gồm: Đước đôi (Rhizophora
apiculata), Mắm biển (Avicennia marina), Bần chua (Sonneratia caseolaris), Dừa
nước (Nypa fruticans) và Mắm đen (Avicennia officinalis)… Thực trạng xói lở, bồi
tụ, suy giảm RNM diễn ra phức tạp tại khu vực này. Nghiên cứu đã tổng kết, đánh
giá một số giải pháp về trồng rừng đã được áp dụng có hiệu quả trong thời gian
qua (Nguyễn Hoàng Hanh và cộng sự, 2019).
Những năm gần đây, nhiều tác động tiêu cực từ tự nhiên và con người đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến RNM ở Việt Nam, cụ thể khu vực ven biển ĐBSCL.
Thực trạng xói lở, bồi tụ, suy giảm RNM diễn biến phức tạp. Chính phủ đã có
nhiều chính sách chiến lược đặc thù về phát triển bền vững ĐBSCL, trong đó trồng
RNM là một giải pháp quan trọng để thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), góp
phần phát triển bền vững ĐBSCL. Thời gian qua, việc trồng RNM tại ĐBSCL đã
được thể chế hoá tại nhiều văn bản như: Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày
09/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 120/QĐ-TTg ngày 22/01/2015 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển
ứng phó với BĐKH giai đoạn 2015-2020; Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày
17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH,
trong đó vấn đề đầu tư trồng mới và phục hồi RNM là một trong những vấn đề
được ưu tiên của Nghị quyết.
39
Tóm tắt Chương 2:
♦ Những hạn chế trong các công trình nghiên cứu trước đây về giá trị
kinh tế của RNM tại Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào một nhóm giá trị cụ thể của
rừng RNM, phổ biến là hiệu quả kinh tế trực tiếp, trong khi các nhóm giá trị hiệu
quả kinh tế gián tiếp và phi sử dụng chưa được nghiên cứu sâu. Cho đến nay chưa
có nghiên cứu nào tại Việt Nam sử dụng cách tiếp cận đánh giá riêng lẻ cho từng
loại rừng đặc thù để nghiên cứu, nhận xét, đánh giá giá trị kinh tế một cách cụ thể
về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần.
Thứ hai, các kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ tính toán sơ bộ, chưa
có sự thảo luận và liên hệ chặt chẽ với các biện pháp quản lý RNM cụ thể của từng
vùng. Nói cách khác, việc đề xuất các ứng dụng quản lý trên cơ sở kết quả nghiên
cứu về hiệu quả kinh tế của RBNM còn rất hạn chế.
Thứ ba, đến nay các phương pháp đánh giá giá trị kinh tế của RNM ở Việt
Nam chủ yếu tập trung vào những nhóm truyền thống như: giá thị trường, chi phí
thay thế... Các phương pháp tiên tiến được sử dụng trên thế giới như hàm sản xuất,
đánh giá ngẫu nhiên, mô hình lựa chọn chưa được sử dụng nhiều trong nước. Lý
do là những phương pháp này thường đi kèm với những đòi hỏi chặt chẽ về tiếp
cận mô hình lý thuyết kinh tế, quy trình thu thập thông tin chi tiết, kỹ thuật xử lý
và phân tích dữ liệu phức tạp. Tuy nhiên, về ưu điểm, việc áp dụng các phương
pháp hiện đại trên lại cho phép xác định các nhóm giá trị khó lượng hóa của RNM
như giá trị sử dụng.
Thứ tư, việc đánh giá hiệu quả về giá trị kinh tế của RBNM ở ĐBSCL chưa
nhiều, chưa đánh giá được một cách tổng thể và chỉ tập trung vào việc nghiên cứu,
đánh giá về RNM nói chung.
♦ Tính mới của nghiên cứu
Việc ước tính giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần dựa trên giá trị sử dụng
40
trực tiếp (Direct Use Value = DUV) và giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use
Value = IUV). Cụ thể: Giá trị sử dụng trực tiếp được tính qua các thông số về thu
nhập của hộ dân từ việc khai thác các sản phẩm của rừng (kể cả thu nhập từ nguồn
kinh phí nhận khoán rừng của Chính phủ) và giá trị tham quan du lịch; giá trị sử
dụng gián tiếp được ước tính trên cơ sở những thiệt hại hay những phí tổn về kinh
tế có thể tránh hay tiết kiệm được nếu như bảo tồn, phát triển rừng bần (chi phí
thay thế).
Áp dụng tổng giá trị kinh tế (TEV) vào tính giá trị kinh tế của sản phẩm
rừng bần gắn với thu nhập của hộ dân, phát triển kinh tế du lịch, bảo vệ đê biển tạo
cơ hội tốt cho địa phương phát triển kinh tế - xã hội - môi trường trên địa bàn
nghiên cứu.
41
CHƯƠNG 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Cơ sở lý luận
3.1.1. Các khái niệm
Khái niệm RNM:
Theo tiêu chí của Tổ chức Nông Nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc
(FAO,1994) thì một quần hợp thực vật được gọi là rừng khi có tối thiểu 10% cây
cối che phủ không phải là cây trồng nông nghiệp, đảm bảo cho sự tồn tại của các
loài động, thực vật và duy trì điều kiện đất đai phù hợp. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc xác định và phân chia các loại rừng còn tùy thuộc vào các tiêu chí kích cỡ cây,
tầng tán, các yếu tố địa lý sinh vật…
Như vậy, RNM được hình thành bởi các cây ngập mặn nếu diện tích che phủ
đạt trên 10%. Loại rừng này bao gồm các loài cây ngập mặn chính thống (true
mangrove species), đó là những loài cây chỉ có ở RNM và các loài cây gia nhập
RNM (associate mangrove species), những loài cây có thể gặp ở cả trong RNM và
những vùng khác.
Ngô đình Quế và Võ Đại Hải (2012) cho rằng: “RNM là những quần xã thực
vật hình thành ở vùng ven biển và cửa sông những nơi bị tác động bởi thủy triều ở
vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới”. Trên thế giới, RNM có nhiều tên gọi khác nhau
như: “rừng ven biển", “rừng ở vùng thủy triều” và “rừng ngập mặn” (FAO, 1994).
Ở Việt Nam, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất tên gọi chung là “Rừng
ngập mặn”.
Khái niệm RBNM:
Theo Ngô đình Quế và Võ Đại Hải (2012), tùy theo khả năng thích nghi với
các mức độ ngập thủy triều, độ mặn của nước, độ thuần thục của đất mà đã hình
thành các đai rừng ngập mặn khác nhau. Ở vùng cửa sông, nơi có sự giao thoa giữa
nguồn nước ngọt từ sông đổ ra biển, ngập thủy triều lên trung bình trong ngày các
42
loài cây điển hình ở vùng này thường gặp là Bần chua (Sonneratia caseolaris)
hoặc Bần đắng (S. alba), Đước (Rhizophora apiculata), Dừa nước (Nypa frutican)
cũng là một đại diện ở vùng cửa sông, nhưng chúng thường đứng ở sâu hơn về
phía đất liền, ở phía sau đai rừng Bần.
Hiện nay chưa có nghiên cứu đưa ra khái niệm RBNM, dựa theo tiêu chí của
FAO (1994), RBNM trong nghiên cứu là dạng RNM, nhưng ở đây cây Bần chua
chiếm trên 99% nên có thể gọi là RBNM hay gọi tắt là “rừng bần”.
Tóm lại, các khái niện được tóm tắt như sau:
♦ Khái niệm RNM: “RNM là những quần xã thực vật hình thành ở vùng ven
biển và cửa sông những nơi bị tác động bởi thủy triều ở vùng Nhiệt đới và Á nhiệt
đới”, RNM còn gọi là: “rừng ven biển“ hay “rừng ở vùng thủy triều” (FAO, 1994).
♦ Khái niệm RBNM: “RNM, nhưng ở đây cây Bần chua chiếm trên 99,9%
nên gọi là RBNM hay Rừng bần” (theo tiêu chí của FAO, 1994).
♦ Khái niệm sản phẩm rừng bần: “Là những sản phẩm vật chất và phi vật
chất được khai thác từ rừng bần và được quy đổi thành tiền”.
3.1.2. Cơ sở lý luận giá trị kinh tế
♦ Khái niệm giá trị kinh tế của RNM: Theo hướng dẫn của IUCN và Văn
phòng Công ước Ramsar (1997), để đánh giá các giá trị kinh tế của một hệ sinh
thái RNM, hiện có ba cách tiếp cận. Cách tiếp cận thứ nhất là Định giá toàn phần
(Total Valuation), cách thứ hai là Định giá từng phần (Partial Valuation) và cách
thứ ba là Đánh giá tác động (Impact Analysis).
Việc ước tính Giá trị kinh tế toàn phần (Total Economic Value - TEV) của
RNM dựa trên việc phân chia các lợi ích của rừng thành: Giá trị sử dụng (Use
Value - UV) và Giá trị phi sử dụng (Non Use Value - NUV), trong đó giá trị sử
dụng được chia thành Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value - DUV) và Giá trị
sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value - IUV). Giá trị sử dụng trực tiếp được tính
dựa vào các thông số về doanh thu hay thu nhập từ việc khai thác các sản phẩm
43
của rừng. Giá trị sử dụng gián tiếp được ước tính trên cơ sở những thiệt hại hay
những phí tổn về kinh tế có thể tránh hay tiết kiệm được nếu như bảo tồn được khu
rừng.
♦ Khái niệm “Tổng giá trị kinh tế” (TEV): Trong kinh tế thị trường, có rất
nhiều loại hàng hoá được trao đổi buôn bán trên thị trường. Chúng có một mức giá
nhất định và việc xác định giá trị của chúng là đơn giản. Tuy nhiên, khi xem xét
hàng hoá công cộng (những hàng hoá không xác định được giá trên thị trường và
thuộc sở hữu chung) thì việc xác định giá trị của chúng dưới dạng tiền tệ gặp nhiều
khó khăn. Một trong số đó phải kể đến là hàng hoá môi trường. Đây là một dạng
hàng hoá mà người ta mới đưa vào nghiên cứu trong kinh tế học môi trường, và để
xem xét được giá trị của loại hàng hoá này một cách đầy đủ thì chúng ta phải nhìn
nhận trên góc độ tổng giá trị kinh tế (TEV).
Tổng giá trị kinh tế (TEV): Là tổng giá trị quy thành tiền của các giá trị hợp
phần của hệ sinh thái, được tính toán theo sơ đồ sau:
TEV
NUV
UV
EV
BV
DUV
IDUV
OV
Nguồn: Nguyễn Hoàng Trí, 2006
Hình 3.1: Khái niệm tổng giá trị kinh tế (TEV)
♦ Giá trị sử dụng (Use Value - UV): Được hiểu là những giá trị được con
người sử dụng vào mục đích của mình và vì lợi ích của con người. Trong đó có thể
được sử dụng dưới hai hình thức:
44
- Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value - DUV): Đây là những giá trị
mà trong thực tế nó liên quan đến số lượng đầu ra của sản phẩm hàng hoá môi
trường mà con người có thể xác lập được chúng trên thị trường thông qua giá cả.
Thông thường giá được xác lập là giá thực. Nghĩa là nếu xác định được khối lượng
hàng hoá theo giá thị trường rồi trừ đi những khoản chi phí thì chúng ta sẽ xác lập
được giá trị của nó theo giá trị thực.
Mô hình hoá: f(DUV) = f(P,Q,C)
Với: P là giá cả hàng hoá, Q là sản lượng hàng hoá, C là các khoản chi phí
để có được lượng hàng hoá
Đối với một sản phẩm i nào đó của giá trị hàng hóa thì giá trị được xác lập
bằng: (Pi x Qi) - Ci
Ví dụ: Khi chúng ta tính tổng giá trị kinh tế của 1 khu RNM thì tôm, cá,
cua, mật ong, gỗ, củi… là i (hàng hóa thông thường đem mua bán trao đổi trên thị
trường). Trong đó, đối với mỗi đơn vị hàng hóa, Pi được xem là giá của sản phẩm
i, Qi là số lượng của sản phẩm i đã thu hoạch, Ci là chi phí để có được khối lượng
Qi.
- Giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value - IDUV): Đây là những giá
trị có liên quan đến chức năng của môi trường trong việc hậu thuẫn cho hoạt động
kinh tế, hoạt động sống của con người. Nó giúp con người phòng tránh được
những thảm hoạ của thiên nhiên (lũ lụt, sóng thần, biến đổi khí hậu…).
Ví dụ: Khi xem xét 1 hệ thống khu RNM ven biển thì giá trị sử dụng gián
tiếp là khả năng ngăn cản bão, sóng biển để bảo vệ hoạt động sản xuất và đời sống
của con người phía trong khu RNM.
Trong mô hình xem xét về giá trị gián tiếp, liên quan đến chức năng của hệ
sinh thái đánh giá về giá trị của nó, người ta có thể căn cứ vào thay đổi trong sản
t) x pt
xuất mà xác lập số lượng thay đổi thông qua công thức sau:
∆p = (Qit/N – Qi
45
Qit/N: khối lượng hàng hóa i được xem xét trong 1 thời gian t
t: khối lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà đã có được dựa trên 1 năm cơ sở t
∆p: số lượng (thay đổi) trong sản xuất sản phẩm
Qi
nào đó
- Giá trị lựa chọn (Option Value - OV): Là những giá trị phụ thuộc vào tính
chất môi trường hoặc đặc thù của hệ sinh thái mà người làm đánh giá cần phải xem
xét, nghiên cứu. Nó bao gồm những lợi ích từ các nguồn tài nguyên phục vụ cho
nhu cầu sử dụng hiện tại của con người và nó thể hiện sự khác biệt giữa các nguồn
tài nguyên đó.
♦ Giá trị phi sử dụng (Non Use Value - NUV): Là những giá trị thường nằm
trong tiềm thức của người đánh giá nhưng không phản ánh được giá trị của thị
trường. Đây chính là vấn đề phức tạp nhất trong kinh tế học môi trường, đòi hỏi
phải có những cách đánh giá tích cực để phục vụ cho việc hoạch định chính sách.
Hiện nay, các nhà kinh tế học môi trường đã đưa ra quan điểm cho rằng có hai giá
trị cơ bản thuộc nhóm này, đó là: Giá trị tồn tại (Existense Value - EV), giá trị tuỳ
● Giá trị tồn tại (EV): Đây là giá trị nằm trong bản thân của sự vật mà con
thuộc (Bequest Value - BV).
người cho rằng nó không thể mất đi. Nó phải được duy trì vì ý nghĩa kinh tế, chính
trị, xã hội của nó.
Ví dụ: Một nghiên cứu đánh giá dự án đầu tư khai thác gỗ tại khu rừng ôn
đới ở Canada. Trên quan điểm phân tích tài chính thì giá trị khu rừng này cho phép
nhà đầu tư khai thác gỗ giá trị hiện tại ròng (Net Present Value – NPV) lớn hơn 0
nhưng trên quan điểm phân tích kinh tế các nhà kinh tế học môi trường đã tính
toán là không thể cho nhà đầu tư khai thác khu rừng này (NPV<0). Nguyên nhân
người ta cho rằng việc khai thác khu rừng đó sẽ mất đi nơi cư trú của loài cú trắng,
loài này có nhiệm vụ cân đối đàn chuột trong rừng. Như vậy, trong trường hợp này
khu rừng có giá trị tồn tại của con cú được đánh giá cao.
46
● Giá trị lưu truyền (BV): Đây là giá trị phụ thuộc vào khả năng đáp ứng
dịch vụ sinh thái hoặc dịch vụ môi trường cho thế hệ tương lai và nằm trong tầm
nhận thức của con người về vấn đề đó (Nguyễn Hoàng Trí, 2006).
● Giá trị gỗ, củi:
♦ Giá trị trực tiếp từ sản phẩm rừng bần
Rừng bần tại ĐBSCL (bao gồm cả rừng trồng và rừng tự nhiên) có sản lượng
● Giá trị thủy sản:
gỗ theo dạng phức hợp với nhiều cây bụi nên không có giá trị kinh tế.
Chúng ta đều biết rằng rừng bần là nơi tạo sinh cảnh, đồng thời là nơi cung
cấp nguồn thức ăn cho các loài thủy sản sinh sống. Sản phẩm thủy sản có thể mang
lại giá trị kinh tế từ rừng bần, chủ yếu là đánh bắt tự nhiên với các loài như: cá,
● Nguồn lợi từ sinh vật hoang dã:
tôm, cua, nghêu, dộp...
Các loài động vật hoang dã trên cạn được tính ở đây bao gồm các loài chim,
thú, côn trùng… Chúng xuất hiện, tồn tại và phát triển từ sinh cảnh rừng bần. Hầu
hết các loài động vật hoang dã gắn với sinh cảnh rừng bần tại ĐBSCL không thể
định giá kinh tế theo giá trị sản phẩm thị trường (ví dụ tính theo giá trị thực phẩm
đặc sản, dược liệu, hiện vật trang trí...), trừ một số loài cho sản phẩm kinh tế gián
tiếp trong khuôn khổ luật cho phép thu hoạch như: Mật ong (ong lấy nhụy hoa các
● Giá trị du lịch và giải trí:
cây rừng), phân dơi (sử dụng làm phân bón cây trồng)…
Bản thân sinh cảnh rừng bần đem lại giá trị sản phẩm du lịch, giáo dục môi
trường và nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, từ đầu năm 2015 mới chính thức khai
thác hoạt động du lịch rừng bần Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
● Cố định bùn đất bồi lắng, phòng hộ ven biển:
♦ Các giá trị gián tiếp từ rừng bần
47
Rừng bần tại ĐBSCL cố định được khối lượng lớn đất phù sa từ dòng chảy
của những con sông, dồn tụ và bồi lắng ở vùng cửa sông ven biển. Cây Bần chua
có khả năng cao trong quá trình ngưng kết cố định phù sa ở bộ rễ khí sinh của
chúng. Lợi dụng tính năng này của rừng bần, ngay từ giữa thế kỷ 20, người dân
miền Tây đã biết cách khoanh trồng rừng bần tự nhiên, kết hợp với việc trồng rừng
bần (vùng cửa sông Tiền, sông Hậu ven biển) và cứ qua một chu kỳ rừng trưởng
thành (từ 12 năm đến 18 năm, tuỳ điều kiện đất đai và thuỷ triều tại mỗi vùng) lại
chặt rừng và đắp đê bao phần đất mới do RNM cố định phù sa mà hình thành, một
mặt có thêm đất canh tác, một mặt tiếp tục trồng rừng mới phía ngoài đê bao,
thường được gọi là khu “Lấn biển”.
● Giá trị chắn sóng và gió bão:
RNM có tác dụng giảm thiểu sự phá hoại của gió, bão, sóng, triều cuờng và
dòng chảy của các cơn lũ trên dòng sông. Cho đến nay, mặc dù trong nước chưa có
công trình nghiên cứu, khảo sát cụ thể về hiệu quả kinh tế đối với tính hữu dụng
của RNM trong phòng hộ các yếu tố môi trường của RNM nói chung, và của rừng
bần nói riêng, nhưng sơ bộ xem xét và đối chứng cơn bão số 5 (năm 1997), khu
vực rừng bần ven biển Trà Vinh và Sóc Trăng thiệt hại do bão gây ra rất thấp so
với ven biển Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.
● Duy trì đa dạng sinh học:
Rừng bần là sinh cảnh thích hợp của nhiều loài động vật hoang dã (chim thú
trên cạn, ong mật và các loài thủy sinh), chính nơi sinh sống lý tưởng cho các loài
động vật hoang dã phát triển và là nguồn dinh dưỡng phong phú cho các loài thuộc
hệ sinh thái ngập nước. Sinh cảnh rừng bần hiện đang có chiều hướng gia tăng, tác
động tích cực cho các loài động vật hoang dã trên cạn cư trú, sinh sản và phát triển
nhiều loài động vật hoang dã trên cạn, duy trì sự đa dạng sinh học trong khu rừng.
● Giá trị cải thiện môi trường:
Rừng bần còn có giá trị trong giảm thiểu ô nhiễm không khí, bụi và tiếng ồn.
Chu trình sinh lý thực vật nói chung và quần thể rừng bần nói riêng, đặc biệt là quá
48
trình quang hợp của lá. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định quá trình quang hợp
qua lá của cây có tác dụng lớn đối với giảm thiểu ô nhiễm không khí, thanh lọc độc
tố, hấp phụ cacbonic và sản sinh ôxy, ngưng tụ và giảm tác hại của bụi, giảm tiếng
ồn...
● Giá trị cố định cacbon hay Tổng sinh khối (Biomass)
Giá trị tổng sinh khối (tổng khối luợng vật chất đuợc sản sinh từ tập đoàn
sinh vật bao gồm động, thực vật trong sinh cảnh rừng) là tiêu chí sinh học tổng hợp
chỉ định cấp độ giá trị phong phú của rừng, tính theo đơn vị tấn/ha/năm, dựa trên
trọng luợng khô của các loại vật chất. Từ trọng lượng tấn vật chất có thể tính ra
nhiệt lượng (kilô calo). Giá trị kinh tế của nhiệt lượng được quy đổi tương đương
với giá trị kinh tế nhiên liệu (calo của than, calo của dầu hỏa, calo của gỗ, củi...
đều có thể định giá kinh tế cho đơn vị calo).
♦ Giới hạn nghiên cứu
Việc định giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL, như đã trình
bày ở những chương II, đã xác định cụ thể những giá trị kinh tế có được từ rừng
bần. Do giới hạn về nguồn lực, thời gian nên nghiên cứu chỉ tập trung vào 03 nhóm
giá trị kinh tế chủ yếu và tiêu biểu hiện nay từ sản phẩm rừng bần, đó là khai thác
các sản phẩm từ rừng bần thông qua thống kê thu nhập của hộ dân, giá trị du lịch
thông qua phương pháp tính chi phí du hành của khách đến tham quan và giá trị
phòng hộ của rừng bần dùng phương pháp chi phí thay thế. Các giá trị còn lại sẽ
được nghiên cứu tiếp sau.
Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần được trình bày Hình 3.1.
49
GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN PHẨM RỪNG BẦN
GIÁ TRỊ GIÁN TIẾP
GIÁ TRỊ TRỰC TIẾP
TẠO THU NHẬP
GIÁ TRỊ PHÒNG HỘ
THAM QUAN, DU LỊCH
Nguồn: Nghiên cứu đề xuất của tác giả, năm 2018
Hình 3.2. Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần
Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL được mô tả chi tiết
trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần
Giá trị sử dụng trực tiếp
Giá trị sử dụng gián tiếp
(1) Giá trị khai thác sản phẩm rừng bần: Trái
(3) Giá trị phòng hộ thay đê biển
bần chín, tôm, ngao, cua, ốc, cá…
của RNM.
(2) Giá trị tham quan, du lịch tại rừng bần.
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2018
Như vậy, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận tổng thể để đánh giá giá trị kinh
tế của sản phẩm rừng bần (Total economic valuation), trong đó tập trung vào xác
định các loại giá trị quan trọng cốt yếu. Đối với một số giá trị kinh tế khác được
đánh giá là không đáng kể, không nằm trong phạm vi nghiên cứu, mặc dù có đóng
góp về mặt kinh tế tại khu vực nghiên cứu.
50
3.2. Nghiên cứu về thu nhập hộ gia đình
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu về thu nhập
Trong nghiên cứu về thu nhập từ sản phẩm rừng bần, các phương pháp sau
sẽ được sử dụng:
Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá
các tỷ lệ phần trăm trong chọn mẫu điều tra về nghề nghiệp của chủ hộ, kinh
nghiệm làm việc của chủ hộ, trình độ học vấn của chủ hộ, tổng thu nhập của hộ từ
các sản phẩm rừng bần như: Thủy sản, nghêu, cua…
Phương pháp phân tích so sánh: Được sử dụng để đánh giá, so sánh các
nhóm hộ với nhau về điều kiện và khả năng cải thiện thu nhập.
Phương pháp phân tích định tính và định lượng: Phân tích định tính và định
lượng để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của chủ hộ thông qua các
biến độc lập.
Theo Đinh Phi Hổ và Trương Châu (2014), để tính thu nhập cho chủ hộ gia
đình (Y), từ kết quả điều tra, khảo sát hộ dân dùng hàm hồi quy tuyến tính định
lượng các nhân tố tác động đến thu nhập của chủ hộ, bao gồm: Biến phụ thuộc thu
nhập chủ hộ Y và các biến độc lập: (1) Nghề nghiệp chủ hộ, (2) Kinh nghiệm làm
việc của chủ hộ, (3) Trình độ học vấn của chủ hộ, (4) Giới tính của chủ hộ, (5)
Thành phần dân tộc của chủ hộ, (6) Quy mô hộ, (7) Quy mô diện tích đất, (8) Số
hoạt động sản xuất - kinh doanh, (9) Số hoạt động tạo thu nhập, (10) Vay vốn.
Trên cơ sở tổng quan về lý thuyết kinh tế học và các công trình nghiên cứu
thực nghiệm, áp dụng vào tình hình thực tế tại thực địa, nghiên cứu lược giản 02
biến độc lập là: Nghề nghiệp và Kinh nghiệm của chủ hộ; thay vào đó, nghiên cứu
bổ sung 03 biến độc lập có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trên địa bàn nghiên cứu
như sau: (8) Thu nhập từ nhận khoán rừng, (9) Tham gia các tổ chức đoàn thể và
(10) Cú sốc tự nhiên do lũ lụt, gió bão… Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ
gia đình được thể hiện Hình 3.2.
51
(1) Trình độ học vấn của chủ hộ
(2) Giới tính của chủ hộ
(3) Thành phần dân tộc của chủ hộ
(4) Quy mô hộ
(5) Quy mô diện tích đất
(6) Thu nhập từ sản phẩm rừng bần
Thu
nhập
của hộ
gia
đình
(7) Thu nhập từ nhận khoán rừng
(8) Tham gia tổ chức đoàn thể địa phương
(9) Cú sốc tự nhiên do thiên tai
(10) Tiếp cận tín dụng
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019
Hình 3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình
Mô hình định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình được
Yi = f(X1,X2,X3…Xi)
viết dưới dạng hàm số như sau:
(3.1)
Yi = bo + b1X1 + b2X2+ b3X3+ ...+ b10Xi+ ui
Hàm ước lượng có dạng:
Trong đó:
52
+ Y: Biến phụ thuộc;
+ X1, X2,... Xi: Các biến độc lập;
+ bo, b1, … bi, là các tham số;
+ u là phần dư.
3.2.2. Thiết kế nghiên cứu và thu thập dữ liệu
3.2.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
Từ thập niên 90 đến nay, các công trình nghiên cứu trước đây áp dụng nhiều
cách tiếp cận khác nhau để nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân
vùng nông thôn (Mincer, 1974; Singh và cộng sự, 1986; Chambers và Conway,
1992; Reardon và cộng sự, 1992; Scoones, 1998; Ellis, 2000; Winters và cộng sự,
2001; Sesabo và Tol, 2005; Karttunen, 2009; Phạm Hải Bửu và cộng sự, 2010; Võ
Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng, 2015; Wan và cộng sự, 2016; Lưu Tiến Dũng và cộng
sự, 2018.
Định nghĩa các biến tác động đến thu nhập hộ.
Biến biến phụ thuộc: Thu nhập hộ (Y);
Các biến độc lập (được ký hiệu là X) gồm 10 biến: Học vấn của chủ hộ (X1),
Giới tính chủ hộ (X2), Thành phần dân tộc của chủ hộ (X3), Quy mô hộ (X4), Diện
tích đất nhận khoán (X5), Thu nhập từ sản phẩm rừng bần (X6), Thu nhập từ nhận
khoán rừng (X7), Tham gia tổ chức đoàn thể địa phương (X8), Cú sốc tự nhiên: hỏa
hoạn, lũ lụt, hạn hán, sóng và bão (X9) và Tiếp cận tín dụng: vay từ các định chế tài
chính (X10).
Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân được tổng hợp và trình bày chi
tiết trong Bảng 3.3.
53
Bảng 3.3. Kỳ vọng dấu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân
Ký hiệu biến Mô tả Đơn vị tính Kỳ vọng
dấu
Biến phụ thuộc
Y Thu nhập của hộ dân Triệu đồng/năm
Biến độc lập
Lớp 1-12 (Năm học) + X1 Học vấn của chủ hộ
Nam =1; Nữ = 0 + X2 Giới tính chủ hộ
Thành phần dân tộc của chủ hộ Dân tộc Kinh =1; + X3
Dân tộc khác = 0
Người - X4 Quy mô hộ
1.000 mét vuông + X5 Diện tích đất nhận khoán
Thu nhập từ sản phẩm rừng bần Có = 1; không = 0 + X6
Thu nhập từ nhận khoán rừng Có =1, không = 0 + X7
Có =1; không = 0 + Tham gia tổ chức, đoàn thể địa
phương X8
Có =1; không = 0 - Cú sốc tự nhiên (hỏa hoạn, lũ lụt,
hạn hán, sóng và bão ) X9
+ Tiếp cận tín dụng (vay từ các
định chế tài chính - ĐCTC) Có vay tiền từ định
chế tín dụng chính
thức = 1; Không = 0 X10
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019
Ứng dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, với hàm số khái quát:
B0: Hằng số; Bi: Tham số; Xi: Các biến độc lập; i = 1 đến 10.
54
Y: Biến phụ thuộc; u: Phần dư.
3.2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp thu thập dữ liệu
♦ Cỡ mẫu:
Theo Green (1991), đối với mô hình hồi quy, cỡ mẫu tối thiểu:
n ≥ 50 + kP; trong đó: n: cỡ mẫu; P: số biến độc lập; k = 8.
Mô hình nghiên cứu có 10 biến độc lập. Như vậy, cỡ mẫu tối thiểu cần:
n ≥ 50 + kP = 50 + (8x10) = 130
Cỡ mẫu tối thiểu là 130 quan sát. Căn cứ vào khả năng nguồn lực cộng tác
viên khảo sát và tài chính cho phép, nhóm nghiên cứu chọn n = 210 quan sát. Mẫu
được chọn theo phương pháp phân tầng không theo tỷ lệ. Địa bàn khảo sát được
chọn gồm 03 huyện thuộc 02 tỉnh đại diện cho các tiểu vùng rừng bần tập trung ở
ĐBSCL bao gồm: Huyện Duyên Hải nằm ở cửa Định An phía bắc sông Hậu thuộc
tỉnh Trà Vinh và huyện Cù Lao Dung, Trần Để nằm phía nam cửa sông Hậu thuộc
tỉnh Sóc Trăng. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp 210 hộ dân
sống xung quanh rừng bần nhận khoán bảo vệ rừng, thu nhập của họ phụ thuộc
hoàn toàn vào lương khoán và khai thác các sản phẩm từ rừng bần.
Thời gian tiến hành điều tra, phỏng vấn từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2019
bằng bảng câu hỏi chi tiết được thiết kế sẵn.
♦ Phân bổ mẫu phỏng vấn
Căn cứ trên số hộ dân trên địa bàn nghiên cứu tại 03 huyện được chọn để
điều tra, phỏng vấn. Đây là những địa phương có diện tích rừng bần tập trung,
không có lẫn lộn với các cây khác như: Tràm, đước, vẹt…. Huyện Duyên Hải nằm
ở cửa Định An phía Bắc sông Hậu và huyện Cù Lao Dung và huyện Trần Đề nằm
phía Nam cửa sông Hậu. Nơi đây rừng bần phát triển mạnh vì bần thường phân bổ
ở sát cửa sông với độ mặn của nước từ 3‰ đến 25‰ (Ngô Đình Quế và Võ Đại
Hải, 2012), cụ thể như sau:
55
+ Huyện Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh: Có trên 1.097 ha rừng bần tự nhiên
và rừng bần trồng, chủ yếu tập trung tại xã Long Vĩnh, giao cho 18 Tổ Quản lý
rừng, đại diện cho 751 hộ dân sinh sống ven rừng bần (Trạm Kiểm lâm huyện
Duyên Hải, 2020). Nghiên cứu chọn 60 hộ để điều tra, phỏng vấn, chiếm 8,5% số
hộ sống ven rừng bần.
+ Huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng: Có diện tích rừng bần tự nhiên và rừng
bần trồng trên 1.712,7 ha, chủ yếu tập trung tại xã An Thạnh 3, xã An Thạnh Nam
và xã Đại Ân 1. Tổng diện tích giao khoán cho rừng là 1.374,7 ha cho 03 Tổ Quản
lý rừng đại diện cho 580 hộ dân sống xung quanh rừng bần, đa số hộ nghèo và cận
nghèo (Trạm Kiểm lâm liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).
Nghiên cứu chọn 90 hộ điều tra, chiếm 15,5% số hộ sống ven rừng bần.
+ Huyện Trần Đề thuộc tỉnh Sóc Trăng: Có diện tích rừng bần tự nhiên và
rừng bần trồng gần 698,1 ha, tập trung nhiều tại xã Trung Bình và thị trấn Trần Đề.
Tổng diện tích giao khoán rừng là 663 ha cho 03 Tổ Quản lý rừng với đại diện cho
410 hộ dân sống xung quanh rừng bần, đa số hộ nghèo và hộ cận nghèo, trong đó
có 20% hộ là người dân tộc Khmer (Trạm Kiểm lâm liên huyện Long Phú - Trần
Đề - Cù Lao Dung, 2020). Nghiên cứu chọn 60 hộ để điều tra, phỏng vấn, chiếm
gần 15% số hộ sống ven rừng bần. Phân bổ phiếu khảo sát được trình bày trong
Bảng 3.4.
56
Bảng 3.4. Phân bổ phiếu khảo sát
TT
Tên tỉnh
Tên huyện/xã
1
Trà Vinh
Tỷ lệ %
(Số phiếu/số hộ)
8,5
Huyện Duyên Hải
Số phiếu
khảo sát
60
Xã Long Vĩnh
60
2
15,5
Sóc Trăng Huyện Cù Lao Dung
90
- Xã An Thạnh 3
20
- Xã An Thạnh Nam
60
- Xã Đại Ân 1
10
15,0
Huyện Trần Đề
60
Xã Trung Bình
60
210
Cộng:
Nguồn: Đề xuất của tác giả, năm 2019
Từ số liệu sơ cấp và thông tin thu thập được, nghiên cứu tiếp tục tiến hành
tổng hợp phân tích 210 phiếu khảo sát.
3.2.3. Thiết kế Bảng câu hỏi
Bảng câu hỏi gồm có các nội dung: Trình độ học vấn của chủ hộ; Giới tính
của chủ hộ; Thành phần dân tộc của chủ hộ; Quy mô hộ; Tỷ lệ phụ thuộc; Quy mô
diện tích đất; Chi tiết các khoản thu nhập; Các sản phẩm từ rừng bần tạo ra thu
nhập; Tham gia các tổ chức đoàn thể địa phương; Cú sốc tự nhiên tác động; và
Tiếp cận các định chế tài chính. Bảng câu hỏi được trình bày chi tiết trong Phụ lục
A.1.
3.2.4. Các bước thực hiện ước lượng mô hình
Thông qua kết quả điều tra, thống kê 210 phiếu điều tra, nghiên cứu tiến
hành thực hiện kiểm định kết quả nghiên cứu từ hàm ước lượng (3.1). Tiến hành
05 kiểm định sau:
(1) Kiểm định tương quan từng phần của các hệ số hồi quy
57
Mục tiêu của kiểm định này là nhằm xem xét các biến độc lập tương quan
có ý nghĩa với biến phụ thuộc hay không. Khi mức ý nghĩa (Significance, Sig.) của
hệ số hồi quy từng phần có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig ≤ 0,05), kết luận có ý nghĩa
thống kê giữa biến độc lập và biến phụ thuộc.
(2) Mức độ phù hợp của mô hình
Nhằm xác định xem có mối quan hệ tuyến tính giữa các biến độc với biến
phụ thuộc hay không. Mô hình được xem là không phù hợp khi các hệ số hồi quy
đều bằng không, ngược lại mô hình được xem là phù hợp nếu có ít nhất một hệ số
hồi quy khác không.
Giả thuyết: H0: Các hệ số hồi quy đều bằng không
H1: Có ít nhất một hệ số hồi quy khác không
Phân tích phương sai (analysis of variance, ANOVA) được sử dụng để kiểm
định. Nếu mức ý nghĩa đảm bảo có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig. < 0,05), chấp nhận
giả thuyết H1 mô hình được xem là phù hợp.
(3) Hiện tượng đa cộng tuyến
Hiện tượng đa cộng tuyến (multicollinearity) là hiện tượng các biến độc lập
có quan hệ gần như tuyến tính, việc bỏ qua hiện tượng đa cộng tuyến làm các sai
số chuẩn thường cao hơn, giá trị thống kê thấp hơn và có thể không có ý nghĩa. Để
kiểm định hiện tượng này, sử dụng thước đo độ phóng đại phương sai (Variance
Inflation Factor, VIF) để kiểm định hiện tượng tương quan (đa cộng tuyến) giữa
các biến độc lập. Điều kiện là VIF < 10 để không có hiện tượng đa cộng tuyến.
(4) Kiểm định hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi
Phương sai của phần dư thay đổi (heteroskedasticity) là hiện tượng các giá
trị phần dư có phân phối không giống nhau, giá trị phương sai không như nhau. Bỏ
qua hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi làm cho các ước lượng bình
phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square, OLS) của các hệ số hồi quy không đạt
hiệu quả, các kiểm định giả thuyết không còn giá trị và các dự báo không còn hiệu
58
quả. Trong nghiên cứu này số quan sát là 210, nên sử dụng kiểm định White
(White, 1980) để kiểm định phương sai của phần dư thay đổi.
- Kiểm định White:
Kết quả mô hình hồi quy
Y = bo + b1X1 + b2X2+ b3X3+ ...+ b10X10+ u (2)
Xây dựng mô hình hồi quy phụ:
USQUARE = b0 + b1X1 + b2X2 + b3X3 + b4X4 + b5X5 + b6X6 + b7X7 + b8X8 +
b9X9 + b10X10 + b11X1S + b12X2S + b13X3S + b14X4S + b15X5S + b16X6S +
(3) b17X7S + b18X8S + b19X9S + b20X10 + b21CROSP
Trong đó:
USQUARE: Phần dư bình phương
X1S: X1 bình phương; X2S: X2 bình phương…; X10S.
CROSP: Tích chéo (X1*X2*X3*X4*X5*X6*X7*X8*X9*X10)
Xác định hệ số White: n*R2
Trong đó: n số quan sát của nghiên cứu; R2: Kết quả có được từ hàm hồi
quy phụ (3).
Căn cứ vào số tham số (k-1) = df1 của mô hình hồi quy phụ, mức ý nghĩa là
0,05 (95%) trong Bảng phân phối Chi bình phương, để xác định giá trị Chi bình
phương.
Khi (n*R2 ) < giá trị Chi bình phương (tra Bảng), kết luận: Phương sai của
phần dư không đổi.
3.2.5. Thảo luận kết quả hồi quy
(1) Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa (Unstandardized coefficient, B)
59
Hệ số B chưa chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà
các biến được giữ nguyên giá trị thô. B cho biết giá trị tăng, giảm của biến phụ
thuộc (thu nhập Y) khi thay đổi một đơn vị đo lường của biến độc lập.
(2) Hệ số hồi quy chuẩn hóa (standardized coefficient, Beta)
Hệ số Beta đã chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà
các biến độc lập, biến phụ thuộc đã được chuẩn hóa (phương sai =1). Trị tuyệt đối
của hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta, nhằm giúp xác định tỷ lệ % đóng góp của các
biến độc lập vào biến phụ thuộc.
(3) Xác định hàm hồi quy tuyến tính
Các tham số trong hàm ước lượng là các hệ số B của các biến độc lập sau
khi giải phương trình hồi quy.
(4) Các giải pháp, kiến nghị
Dựa vào hàm hồi quy được xác định, tiến hành phân tích, đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ dân và đưa ra giải pháp cụ thể.
3.3. Nghiên cứu giá trị du lịch của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp sau:
♦ Phương pháp thu thập thông tin: Tổng hợp tài liệu thứ cấp, số liệu sơ cấp
và phỏng vấn trực tiếp.
♦ Phương pháp thực: Đây là phương pháp rất cần thiết và không thể thiếu
trong nghiên cứu giá trị kinh tế, kết hợp với việc nghiên cứu qua các tài liệu khác;
phương pháp thực địa được coi là một phương pháp chủ đạo vì địa bàn nghiên cứu
nhỏ, đòi hỏi phải có những khảo sát thực địa tương đối cụ thể để nắm được đặc
trưng của từng địa bàn một cách thực tế. Vì thế, các thông tin thực tế qua quan sát,
nghe, trao đổi, thu thập được càng phong phú và đáng tin cậy hơn.
60
♦ Phương pháp điều tra xã hội học: Đây cũng là một phương pháp không
kém phần quan trọng trong việc lượng giá giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần và
giá trị cảnh quan du lịch của địa điểm nghiên cứu, các thông tin thu thập được qua
điều tra giúp nhà nghiên cứu tổng hợp được các ý kiến và các số liệu cần thiết cho
tính toán. Cùng với phương pháp thực địa, phương pháp này khá quan trọng trong
việc phân tích các hiện tượng thực tế.
♦ Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh
tế xác định giá trị kinh tế trong việc xây dựng, thiết kế bảng hỏi, phương pháp
phỏng vấn, cũng như việc xây dựng các mô hình tính toán trong luận án này.
♦ Phương pháp xử lý số liệu: bằng các phần mềm thống kê để kiểm định mô
hình, như phần mềm thống kê Excel, SPSS,…
♦ Phương pháp lượng giá giá trị cảnh quan: Để lượng giá giá trị cảnh quan
du lịch của địa điểm nghiên cứu, trong luận án sử dụng phương pháp chi phí du
lịch theo vùng (Zonal travel cost method - ZTCM).
3.3.2. Nghiên cứu giá trị du lịch của rừng bần huyện Cù Lao Dung
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chi phí du hành (Travel Cost Method -
TCM) để xác định giá trị du lịch, thặng dư, cũng như chi tiêu của du khách khi du
lịch đến Cù Lao Dung. TCM là phương pháp dựa được sử dụng phổ biến trong
đánh giá giá trị hàng hóa và dịch vụ phi thị trường, phương pháp này đã được sử
dụng rộng rãi ở các nước phát triển (Phạm Trọng Hiếu và Lưu Tiến Thuận, 2017);
phương pháp TCM để ước lượng giá trị kinh tế của các khu du lịch, giải trí sử dụng
nguồn tài nguyên thiên nhiên để hoạt động như: Bãi biển, rừng quốc gia… Tại
những nơi này, giá vé vào cổng không đủ để đo lường hết những lợi ích kinh tế mà
du khách mang lại cho địa phương khi đến du lịch (Saraj và cộng sự, 2009) vì giá
vé chỉ thể hiện chi phí hoạt động, bảo dưỡng và một phần lợi nhuận của đơn vị
cung cấp dịch vụ, không tính đến những lợi ích khác như lợi nhuận thương mại mà
du khách đem đến cho địa phương (Centeno và cộng sự, 2000).
61
3.3.3. Phương pháp chi phí du hành
Phương pháp này được giả định hàng hóa thị trường (chi phí chi trả) được
trộn lẫn với hàng hóa thiên nhiên (nơi du lịch) trong khi đi du lịch (Das, 2013)
thông qua việc sử dụng các chi tiêu mà du khách phải chi trả để đến được nơi du
lịch như: Chi phí đi lại, chi phí mua vé tham quan, chi phí ăn uống… Các chi phí
này đại diện cho giá sẵn lòng trả (Willing to Pay - WTP) của du khách đối với khu
du lịch (Limaei và cộng sự, 2014).
Có hai phương pháp tính TCM là phương pháp chi phí du hành theo vùng
(Zonal Travel Cost Method - ZTCM) và chi phí du hành cá nhân (Individual
Travel Cost Method - ITCM). Hai phương pháp này có điểm khác biệt lớn nhất ở
biến phụ thuộc (dependent variable). Cụ thể, phương pháp ITCM định nghĩa biến
phụ thuộc là số lần đi du lịch của mỗi du khách trong một thời kỳ nhất định. Trong
khi đó, phương pháp ZTCM chia tổng số du khách tham quan một địa điểm thành
nhiều nhóm du khách để đến từ nhiều vùng khác nhau rồi định nghĩa biến phụ
thuộc là tỉ lệ tham quan du lịch của mỗi vùng. WTP được tính bằng cách tính phần
diện tích đường cầu đã được ước lượng bằng phương pháp ITCM hay phương
pháp ZTCM thông qua dữ liệu thu thập.
RBNM Cù Lao Dung, có vị trí nằm ngay cửa cửa biển, cách xa trung tâm
thành phố, thị xã, là địa điểm chưa mấy nổi tiếng. Du khách chỉ đến từ một hoặc
hai chuyến trong năm. Điều này làm cho biến phụ thuộc của mô hình dùng phương
pháp ITCM hầu như không biến động. Do đó, kết quả ước lượng sẽ không mang ý
nghĩa nhiều (Hill và cộng sự, 2011). Vì vậy, nghiên cứu này áp dụng phương pháp
ZTCM (Võ Tất Thắng và cộng sự, 2017).
3.3.4. Thành phần của chi phí du hành
Theo Baterman (1993), chi phí du hành được giả định cấu tạo từ ba thành
phần quan trọng: (1) Chi phí di chuyển, (2) Chi phí ăn uống, và (3) Chi phí cơ hội
của thời gian.
(1) Chi phí di chuyển
62
Chi phí di chuyển của du khách đến nơi du lịch được Baterman (1993) chia
làm ba cách để tính toán: Cách thứ nhất: Chỉ gồm chi phí nhiên liệu; cách thứ hai:
Gồm tiền xăng, dầu, tiền bảo dưỡng, bảo hiểm…; và cách thứ ba: dựa theo chi phí
ước đoán của du khách. Baterman (1993) cho rằng, các phương pháp tính chi phí
này chỉ khác biệt lớn ở kết quả tính thặng dư, còn các hệ số và chỉ số thống kê có
sự khác biệt rất ít, với cách thứ nhất được khuyên dùng để cho ra kết quả dự báo
tốt nhất, nhưng thực tế để di chuyển đến được rừng bần tại huyện Cù Lao Dung thì
tất cả phương tiện bắt buộc phải trả phí qua phà, nên trong trường hợp này phải
thêm chi phí phà và chi phí di chuyển. Như vậy, nghiên cứu chọn cách thứ hai là
phù hợp. Thật vậy, Fleming và Cook (2008) đã thêm chi phí phà vào chi phí di
chuyển. Ngoài ra, nếu du khách sử dụng phương tiện cá nhân để di chuyển thì sẽ
có khấu hao phát sinh, vì đây cũng là một chi phí di chuyển. Tương tự, Gurluk và
Rehber (2007) giả định rằng chi phí khấu hao bằng 1% chi phí nhiên liệu và thêm
vào chi phí di chuyển.
Tóm lại, chi phí di chuyển được tính theo cách thứ hai gồm: Tiền xăng, dầu,
tiền bảo dưỡng, chi phí khấu hao, tiền qua phà… Cách thứ ba không sử dụng vì du
khách thường gặp khó khăn trong việc tự xác định chi phí này (Gurluk và cộng sự,
2007).
(2) Chi phí cơ hội của thời gian
Về chi phí cơ hội cho việc đi du lịch, các nhà kinh tế học cho rằng việc tính
toán chi phí này vẫn là một chủ đề nghiên cứu với nhiều quan niệm, quan điểm,
cách tiếp cận khác nhau, bởi tính chất phức tạp của giá trị này, bởi thời gian vừa là
cung cấp sự hữu dụng cho người đi du lịch, vừa là ràng buộc đối với người du lịch
(Casey và cộng sự, 1995), và cũng chưa biết được rằng đối với mỗi cá nhân việc
bỏ thời gian ra để đi du lịch là lợi ích hay chi phí (Armbercht, 2014).
Đề xuất của các nhà nghiên cứu về tính chi phí theo thời gian được thể hiện
Bảng 3.5.
63
Bảng 3.5. Đề xuất của các nhà nghiên cứu về tính chi phí theo thời gian so tỷ lệ
tiền lương ngày
Đề xuất của các nhà nghiên cứu
Tỷ lệ
Nguyen Thi Hai và Tran Duc Thanh (1999)
1,00
0,40
Rayboud và cộng sự (2011), Zhang và cộng sự (2015)
0,33
0,30
Armberecht (2014), Chen và cộng sự (2004), Pham Khanh Nam
và Tran Vu Hung Son (2005), Gurluk và Rehber (2007), Armbrecht (2014), Võ
Tất Thắng và cộng sự (2017)
Dehlavi và Adil (2011)
0,15
Tourkolias và cộng sự (2015)
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019
Nghiên cứu sử dụng tiền lương theo ngày xấp xỉ cho chi phí cơ hội của thời
gian của mỗi du khách đến RBNM huyện Cù Lao Dung bằng 1/3.
(3) Chi phí ăn uống
Chi phí ăn uống không phải là chi phí tuyệt đối, bởi mỗi du khách có nhu
cầu thưởng thức ẩm thực trên chuyến đi theo các cách trải nghiệm khác nhau, ví dụ
như ghé một quán ăn thưởng thức đặc sản địa phương nơi du lịch; không phải một
khoản tiền bắt buộc phải chi trả mà không có lợi ích hoàn lại (Centeno và cộng sự,
2000). Như vậy, tiền chi cho ăn uống trên đường du hành hoặc chi phí để chuẩn bị
thức ăn mang theo cho một chuyến đi sẽ tính vào chi phí du hành.
3.3.5. Lý do chọn địa điểm du lịch tại rừng bần ngập mặn huyện Cù Lao Dung
(1) Địa điểm nghiên cứu
Theo lý thuyết kinh tế vi mô lập luận rằng, nếu có hai hàng hóa X và Y
cạnh tranh nhau, khi giá trị X tăng, sẽ làm lượng cầu hàng Y tăng. Điều này cũng
được áp dụng tương tự với trường hợp các khu du lịch. Nếu chi phí đến điểm du
lịch khác thấp hơn với điểm đến RBNM huyện Cù Lao Dung, thì du khách sẽ chọn
điểm thay thế đến điểm đó hơn là đến RBNM huyện Cù Lao Dung, đây chính là
64
tác động của điểm thay thế.
Trong trường hợp này, điểm đến là RBNM huyện Cù Lao Dung, vì nơi đây
có đặc điểm tự nhiên độc nhất của cả ĐBSCL, cũng như của cả nước, không có địa
điểm thay thế có tính chất tương tự (Gurluk và Rehber, 2007; Tourkolias và cộng
sự, 2015). Do đó, nghiên cứu này bỏ qua vấn đề về địa diểm thay thế trong mô
hình nghiên cứu.
(2) Chuyến đi du lịch chỉ có một điểm đến
Khi tính toán TCM, vấn đề cần lưu ý là khi khách du lịch thực hiện chuyến
đi đến nhiều địa điểm, không phải đến riêng RBNM huyện Cù Lao Dung. Điều này
thường xảy ra với các nhóm du khách chọn tour lớn, đi du lịch qua nhiều tỉnh,
thành rồi mới đến RBNM huyện Cù Lao Dung, vấn đề này có thể làm cho ước
lượng bị chệch do giả định của phương pháp TCM là chỉ dành riêng duy nhất cho
việc đến địa điểm đang nghiên cứu (Loomis và cộng sự, 2000). Tuy nhiên, giống
như chi phí cơ hội về thời gian, chúng ta chấp nhận rằng hiện nay vẫn chưa có giải
pháp triệt để và thuyết phục nào được chấp nhận rộng rãi cho việc xác nhận chi phí
du hành khi có xuất hiện chuyến đi có nhiều địa điểm (Gurluk và Rehber, 2007;
Ambrecht, 2013; Tourkolias và cộng sự, 2015), dẫn đến việc nhiều tác giả khác
nhau có những cách khác nhau để giải quyết vấn đề này.
3.3.6. Cách tiếp cận, khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Như đã trình bày ở phần trên, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận đánh giá chi
phí du lịch theo vùng (ZTCM). Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ
tham quan của vùng xuất phát tới vị trí nghiên cứu với tổng chi phí du lịch của
vùng xuất phát. Mô hình được viết như sau:
Vi = V(TCi, POPi, Si)
Trong đó:
Vi là số lần viếng thăm từ vùng i tới điểm du lịch;
TCi: Tổng chi phí;
65
POPi là dân số vùng i;
Si là các biến kinh tế - xã hội của mỗi vùng.
Thông thường biến phụ thuộc được biểu hiện dưới dạng (Vi / POPi hay tỷ lệ
tham quan trên 1.000 người dân (Dixon và Sherman, 1993).
Khi áp dụng ZTCM, diện tích xung quanh điểm du lịch sẽ được chia thành
nhiều vùng với khoảng cách khác nhau tới điểm du lịch. Vì vậy, đơn vị quan sát
của ZTCM là vùng. ZTCM sử dụng tỷ lệ số lần viếng thăm của du khách tại mỗi
vùng tới điểm du lịch (VR) là hàm của chi phí du lịch.
3.3.7. Các bước tiến hành
Các bước tiến hành phương pháp ZTCM như sau:
- Bước 1. Chọn địa điểm: là RBNM huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.
- Bước 2. Phân chia theo vùng: Do du khách đến RBNM huyện Cù Lao
Dung từ khắp nơi trong nước. Vùng xuất phát được phân chia nhóm theo nguồn
gốc khách du lịch, lấy điểm nghiên cứu làm tâm để tính khoảng cách và phân chia
theo nhóm, đảm bảo tính liên tục và phù hợp.
- Bước 3. Lấy mẫu: Thông tin về du khách được thu thập bằng cách phỏng
vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi soạn sẵn. Trong bảng câu hỏi, hệ thống câu
hỏi để khảo sát khách du lịch, trong đó những thông tin cơ bản cần phải được thể
hiện thông qua các yếu tố ràng buộc. Phiếu khảo sát cần các thông tin sau: Họ từ
đâu đến (tỉnh, thành phố); Số khách trên một phương tiện chuyên chở tới (ô tô,
máy bay, xe máy); Thời gian đi đến và ở tại địa điểm; Thời gian của chuyến đi;
Thu nhập của khách; Chi phí du lịch trực tiếp (ăn, ở, đi lại)… Các thông tin chi tiết
được thảo luận thêm ở phần tiếp theo, xem Phụ lục A.2.
- Bước 4. Tính tỷ lệ khách du lịch cho từng vùng: tỷ lệ du khách (VR) được
tính bằng cách chia tổng số lượt du khách tới thăm điểm du lịch (hàng năm) của
mỗi vùng với tổng số dân số trưởng thành (1.000 dân) của các địa phương (tỉnh)
trong vùng.
66
- Bước 5. Ước lượng chi phí du hành gồm: (1) Chi phí di chuyển, (2) Chi phí
ăn uống, và (3) Chi phí cơ hội của thời gian.
- Bước 6. Xây dựng đường cầu du lịch.
Phương pháp phân tích số liệu gồm có hai phương pháp như sau:
(1) Phương pháp thống kê mô tả
Trong nghiên cứu này, phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để tổng
hợp, phân tích các số liệu, thông tin về chuyến du lịch và vùng xuất phát của du
khách. Thống kê mô tả là phương pháp có liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm
tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách
tổng quát đối tượng nghiên cứu (Mai Văn Nam, 2008). Các nội dung cụ thể trong
thống kê mô tả như: Bảng tần suất, giá trị trung bình...
(2) Phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính
Phương pháp này dùng để xác định các hệ số hồi quy thể hiện mối liên hệ
tương quan giữa chi phí du hành và tỷ lệ tham quan của du khách. Từ đó, nghiên
cứu xây dựng phương trình đường cầu du lịch của du khách đối với điểm du lịch
RBNM huyện Cù Lao Dung. Phân tích hồi quy tuyến tính là nghiên cứu mối liên
hệ tuyến tính giữa các nhân tố độc lập (biến độc lập) Xi và chỉ tiêu Y nào đó (biến
phụ thuộc). Trong đó, các Xi ảnh hưởng đến Y và Y được xem là phụ thuộc vào
các Xi.
Mô hình hàm cầu: VR = a + bxTC (3.2)
Trong đó: a và b là các tham số cần ước lượng; VR - biến phụ thuộc: là tỷ lệ
du lịch/1.000 người/năm; TC - biến độc lập: là chi phí du hành (đồng). Mối quan
hệ được thể hiển Hình 3.4.
67
Chi phí du hành (TC)
Đường cầu du lịch
P2
P1
0 v2 v1 Nhu cầu giải trí (VR)
Nguồn: Đề xuất của tác giả, năm 2018
Hình 3.4. Đường cầu du lịch của du khách
- Bước 7. Ước lượng giá trị cảnh quan và giá trị thặng dư của du khách:
Đường cầu du lịch cũng chính là đường sẵn lòng phải trả biên tế cho dịch
vụ tham quan du lịch của du khách (Phạm Trung Hiếu và Lưu Tiến Thuận, 2017).
Như vậy, giá trị cảnh quan của địa điểm du lịch được đánh giá như tổng giá sẵn
lòng trả của du khách, sẽ được đo bằng diện tích nằm bên dưới đường cầu (Hình
3.4). Phần diện tích phía dưới đường cầu có dạng hình tam giác, nên có thể được
tính bằng phương pháp tính diện tích tam giác. Dựa vào đường cầu đã xây dựng,
nghiên cứu có thể ước lượng giá trị thặng dư của du khách. Thặng dư của du khách
cũng chính là phần diện tích tam giác phía trên đường thẳng nằm ngang tương ứng
với chi phí và phía dưới đường cầu.
3.3.8. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Thông tin sơ cấp được thu thập bằng cách thiết kế bảng hỏi và phỏng vấn
trực tiếp khách du lịch đến RBNM huyện Cù Lao Dung bằng phương pháp chọn
mẫu phân tầng không theo tỷ lệ, trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12
năm 2019.
68
- Thiết kế bảng hỏi của Phiếu điều tra:
Để thu thập thông tin về chi phí du lịch của khách. Bảng hỏi được thiết kế
gồm ba phần như sau:
+ Phần1. Thông tin chung của du khách
Trong bảng hỏi cần có những thông tin về cá nhân của du khách như: giới
tính, tuổi, thu nhập, học vấn.
+ Phần 2. Thông tin về sở thích du lịch của khách đến rừng bần
Bảng hỏi được thiết kế nhằm hỏi khách du lịch về sở thích của họ đến rừng
bần: thích đi dạo, ngắm cảnh, khám phá thiên nhiên và tận hưởng khí hậu mát mẽ,
trong lành…
+ Phần 3. Chi phí cho chuyến du lịch của du khách đến RB
- Mẫu Phiếu điều tra
Được thiết kế sẵn để phỏng vấn du khách.
- Xác định số lượng quan sát
Hàng năm, RBNM huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng có khoảng 2.800
lượt khách du lịch đến tham quan (theo Báo cáo của Phòng Văn hóa và Thông tin
huyện Cù Lao Dung, năm 2018). Nghiên cứu của Võ Thị Thanh Lộc (2010) chỉ ra
rằng cỡ mẫu có thể xác định bằng công thức Glovin’s, như sau:
n = N/(1 + N*e2) (3.3)
Trong đó:
n: Kích cỡ quan sát;
N: Tổng số du khách đến RBNM trong năm;
e: Sai số chấp nhận, thường e = 1% đến 10%, nghiên cứu chọn sai số cho
phép e = 7%.
Như vậy, số quan sát được xác định theo công thức (3.3) là 190 quan sát, để
69
đảm bảo tính đại diện của mẫu so với tổng thể, nghiên cứu thực hiện chọn mẫu
khảo sát với 250 quan sát. Cách chọn mẫu này được xem là phù hợp, vì để có được
một mẫu cho ra kết quả thống kê và tạo được phương trình ước lượng hồi quy
tuyến tính tốt thì cỡ quan sát cần thiết phải khoảng từ 200 đến 400 quan sát (Israel,
2013).
- Xử lý số liệu
Số liệu phỏng vấn được tổng hợp, phân loại, và phân tích trên phần mềm
thống kê để phục vụ cho việc xác định hàm cầu du lịch, nhằm xác định kết quả
tổng phúc lợi kinh tế mang lại tại rừng bần Cù Lao Dung.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao chọn vùng rừng bần huyện Cù Lao Dung để
nghiên cứu tính toán chi phí du hành mà không chọn địa điểm khác ? Vùng rừng
bần huyện Cù Lao Dung để nghiên cứu tính toán chi phí du hành được chọn để
nghiên cứu với lý do chính là tại vùng rừng bần huyện Cù Lao Dung có hoạt động
du lịch phát triển nên việc lựa chọn để thực hiện ước tính giá trị du lịch của
RBNM, hiện 02 điểm còn lại trong nghiên cứu chưa phát triển hoạt động du lịch,
đây là cơ hội để khai thác và làm tăng giá trị của các vùng có RBNM ở ĐBSCL.
3.4. Giá trị phòng hộ của rừng bần (tính chi phí thay thế)
Hiện nay có rất nhiều phương pháp đã được sử dụng để tính toán giá trị
phòng hộ đê biển của RNM trên thế giới, trong đó được sử dụng phổ biến là
phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (cost avoided method). Phương pháp này
được xây dựng trên giả định là nếu con người phải gánh chịu những chi phí khi
một dịch vụ môi trường nào đó mất đi (chi phí này có thể là những thiệt hại về vật
chất có nguyên nhân từ sự mất đi của dịch vụ môi trường hoặc chi phí để phục hồi
lại dịch vụ môi trường đã mất) thì dịch vụ môi trường sẽ có giá trị nhỏ nhất bằng
tổng chi phí mà con người phải chi trả để có dịch vụ tương đương.
Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập thông tin: Tổng hợp tài liệu thứ cấp, số liệu sơ cấp
và phỏng vấn trực tiếp.
70
- Phương pháp thực địa: Đây là phương pháp rất cần thiết và không thể
thiếu trong nghiên cứu giá trị kinh tế, kết hợp với việc nghiên cứu qua các tài liệu
khác; phương pháp thực địa được coi là một phương pháp chủ đạo vì địa bàn
nghiên cứu nhỏ, đòi hỏi phải có những khảo sát thực địa tương đối cụ thể để nắm
được đặc trưng của từng địa bàn một cách thực tế. Vì thế, các thông tin thực tế qua
quan sát, nghe, trao đổi, thu thập được càng phong phú và đáng tin cậy hơn.
- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh tế
xác định giá trị kinh tế trong việc xây dựng, thiết kế bảng hỏi, phương pháp phỏng
vấn, cũng như việc xây dựng các mô hình tính toán trong luận án này.
- Phương pháp xử lý số liệu: bằng các phần mềm thống kê để kiểm định mô
hình, như phần mềm thống kê Excel, SPSS, …
- Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (Avoided Cost – AC)
Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được sử dụng thông tin về những thiệt
hại có thể tránh được hoặc giá trị của những tài sản được RNM bảo vệ khi có
những biến cố môi trường xảy ra như là lợi ích của hệ sinh thái RNM. Ví dụ như
một khu RNM có khả năng phòng hộ bão cho cộng đồng thì giá trị của khu RNM
đó có thể được tính bằng những thiệt hại về tài sản mà cộng đồng tránh được nếu
cơn bão xảy ra trong trường hợp không có rừng bảo vệ.
Để xác định giá trị thay thế của rừng bần, nghiên cứu tiến hành như sau:
(i) Phương pháp đánh giá giá trị phòng hộ đê biển của RNM.
Sử dụng phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (Avoided Cost- AC), được
xây dựng trên giả định là nếu con người phải gánh chịu những chi phí khi một dịch
vụ môi trường nào đó mất đi, thì dịch vụ môi trường sẽ có giá trị nhỏ nhất bằng
tổng chi phí mà con người phải chi trả để có dịch vụ tương đương (Đinh Đức
Trường, 2009).
(ii) Cách tiếp cận, phương pháp thu thập số liệu
71
Để ước lượng được giá trị phòng hộ đê biển của rừng bần tại ĐBSCL,
nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp tại các Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Thủy lợi tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc Trăng về
chi phí duy tu, bồi trúc đê bao ven biển từ năm 2010 đến năm 2019.
(iii) Phương pháp phân tích
Để ước lượng được giá trị phòng hộ đê biển của RbNM tại ĐBSCL, luận án
tiến hành thu thập chi phí tu bổ bảo dưỡng thường niên đê biển tại vùng có RbNM
và không có rừng trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây tại Ban quản lý các dự
án Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Giá trị phòng
hộ đê biển trung bình của một ha RBNM được tính như sau:
B = C/S (3.4)
Trong đó:
B: là giá trị phòng hộ đê biển trung bình của 1 ha rừng bần (triệu đồng/ha);
C: Tổng chi phí tránh được cho việc duy tu, bảo trì đê biển có rừng bần bảo
vệ (triệu đồng);
S: Tổng diện tích rừng bần (ha).
Từ nguồn tài liệu thứ cấp tính được chi phí duy tu, bảo trì đê biển chính là
chi phí lợi ích hay là giá trị phòng hộ của rừng bần.
Tóm tắt Chương 3:
Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần tại
ĐBSCL được thực hiện gồm nhiều bước, từ xác định phạm vi nghiên cứu, xác định
các nhóm giá trị kinh tế, lựa chọn giá trị đánh giá; xác định mô hình đánh giá lý
thuyết và thực nghiệm; lựa chọn kỹ thuật đánh giá, thu thập số liệu sơ cấp và thứ
cấp, xử lý số liệu và diễn giải kết quả tính toán.
Tổng hợp các giá trị kinh tế: Giá trị sử dụng trực tiếp (tạo thu nhập của hộ
dân thông qua việc khai thác nguồn lợi thủy sản, thu hoạch trái bần chín…), giá trị
72
du lịch và giá trị sử dụng gián tiếp (thông qua việc tính toán chi phí phòng hộ đê)
được áp dụng cách tiếp cận đánh giá tổng thể và một hệ thống nhiều phương pháp
đánh giá để ước tính giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL.
73
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSCL bao gồm 13 tỉnh, thành phố như: Thành phố Cần Thơ và các tỉnh:
Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên
Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. ĐBSCL nằm giữa khu vực
kinh tế năng động và phát triển, liền kề với thành phố Hồ Chí Minh và là vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích gần 40 nghìn km2, với hơn 340 km
đường biên giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp
giáp Biển Đông và Biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển
Quốc gia; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và
quần đảo, đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam; gần tuyến hàng hải Đông -
Tây, là luồng hàng hải quốc tế sôi động nhất, hiện diện nhiều nền kinh tế lớn của
thế giới.
4.1.1. Vị trí địa lý
Về vị trí địa lý: ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và
Tây Nam giáp biển (có đường bờ biển dài 750 km), phía Tây có đường biên giới
giáp với Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh
tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay. ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối bằng
phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông
thủy vào bậc nhất ở nước ta. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 40.548,2 km². ĐBSCL
có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc Trung ương (Thành phố
Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau). Xét về
mặt dân số: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019, ĐBSCL là
đồng bằng có tổng diện tích các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lớn nhất
Việt Nam (40.547,2 km²) và có tổng dân số toàn vùng là 17.273.630 người.
ĐBSCL chiếm 13% diện tích cả nước nhưng có gần 18% dân số cả nước, tốc độ
74
tăng trưởng kinh tế cao hơn cả nước (năm 2015, ĐBSCL tăng 7,8%, trong khi cả
nước tăng 6,8%), tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị là 23,2%.
4.1.2. Khí hậu
ĐBSCL là vùng có nhiệt độ cao và ổn định. Nhiệt độ trung bình khoảng
280c. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm 2.226 - 2.709 giờ. Tổng hoà
những đặc điểm khí hậu đã tạo ra ở ĐBSCL những lợi thế mang tính so sánh riêng
biệt mà các nơi khác khó có thể có được. Đó là một nền nhiệt độ, chế độ bức xạ
nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định trong vùng.
4.1.3. Nguồn nước
ĐBSCL có hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ chi chít rất thuận lợi cung cấp
nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 hàng năm, sông
Mêkông là nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng
năm dao động từ 2.400 mm ở vùng phía Tây ĐBSCL đến 1.300 mm ở vùng trung
tâm và 1.600 mm ở vùng phía Đông. Về mùa lũ, thường xảy ra vào tháng 9, nước
sông lớn gây ngập lụt. Chế độ thủy văn của ĐBSCL có 03 đặc điểm nổi bật: Nước
ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa, phù du, ấu trùng. Nước mặn vào
mùa khô ở vùng ven biển. Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn. ĐBSCL
có trữ lượng nước ngầm không lớn. Sản phẩm khai thác được đánh giá ở mức 1
triệu m3/ngày đêm, chủ yếu phục vụ cấp nước sinh hoạt.
4.1.4. Tài nguyên đất
Tổng diện tích ĐBSCL (không kể hải đảo) khoảng 3,96 triệu ha, trong đó
khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản chiếm 65%. Trong quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên
50%, trong đó chủ yếu đất lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại cây màu và cây
công nghiệp ngắn ngày khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000
ha, khoảng 8,2% diện tích tự nhiên.
75
4.1.5. Hệ sinh thái nông nghiệp
Sông Mêkông đã tạo ra nhiều dạng sinh cảnh tự nhiên, thay đổi từ các bãi
thủy triều, giồng cát và đầm lầy ngập triều ở vùng đồng bằng ven biển, các vùng
cửa sông, cho đến vùng ngập lũ, các khu trũng rộng, đầm lầy than bùn, các dải đất
cao phù sa ven sông và bậc thềm phù sa cổ nằm sâu trong nội địa.
ĐBSCL có thể được chia thành 3 khu vực nông nghiệp thủy lợi, vùng được
phân chia tùy theo loại đất. Thời vụ của lúa khác nhau từ vùng này sang vùng khác
và bị ảnh hưởng lớn bởi nguồn thủy lợi, đặc biệt là lũ lụt, nguồn nước và độ mặn
của nước. Khu vực 1: khu vực bị ngập sâu (An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và
một phần của Cần Thơ). Thời vụ gieo trồng được xác định bởi chế độ nước của
sông Mêkông. Trong hai thập kỷ qua người nông dân đã thay đổi lịch gieo trồng để
tránh lũ lụt. Tiến hành xuống giống lúa vào mùa khô và đầu mùa mưa, trước khi
nước lũ tràn về. Về cơ sở hạ tầng (đê bao, đê lấn biển và kênh mương) ở khu vực
đất ruộng và cả khu sinh sống cộng đồng cũng đã được xây dựng nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các thời vụ gieo trồng. Khu vực 2a: khu vực trung gian/ đất phù
sa (Cần Thơ, Vĩnh Long, một phần của An Giang, Hậu Giang và Tiền Giang). Sản
xuất trên đất phù sa là nơi cung cấp lúa gạo chủ chốt của ĐBSCL, đặc biệt là thị
trường xuất khẩu, vì thế nếu có biến đổi nhỏ sẽ gây tác động mạnh đến nền kinh tế.
Khu vực 2b: khu vực trung gian/ đất phèn (Long An, Hậu Giang). Đất acid sulfat
(ASS) được phân bố rộng ở vùng ĐBSCL, bởi vì đây là vùng đã từng bị nước biển
xâm nhập. Nông nghiệp của vùng này chủ yếu phụ thuộc vào thủy triều và hệ
thống thủy lợi. Khu vực 3: khu vực bị nhiễm mặn (Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh,
Bến Tre, Kiên Giang và Cà Mau). Sự nhiễm mặn gây ảnh hưởng đến một vùng
rộng lớn (khoảng 40km từ biển) dọc theo bờ biển của ĐBSCL. Có nhiều dự án
quản lý nước được thực hiện trong hai thập kỷ qua với mục đích: (i) Điều khiển độ
mặn trong suốt mùa khô, (ii) Cung cấp nước từ thượng nguồn để tưới tiêu. Hiện
nay, những khu vực nằm ngoài quy mô của dự án quản lý nước chủ yếu là nuôi
tôm nước lợ, chỉ có một vùng nhỏ vẫn còn trồng lúa vào mùa mưa.
76
4.1.6. Hệ động vật
Hệ động vật ở ĐBSCL gồm 23 loài có vú, 386 loài và bộ chim, 6 loài lưỡng
cư và 260 loài cá. Số lượng và tính đa dạng của hệ động vật thường lớn nhất trong
các khu rừng tràm và RNM còn lại. ĐBSCL là một vùng trú đông quan trọng đặc
biệt đối với các loài chim di trú. Những năm gần đây, bảy khu vực sinh sản lớn của
các loài Diệc, Cò Trắng và Vạc đã được phát hiện trong các khu rừng tràm, loài
Sếu mỏ đỏ phương Đông, gần đây đã được phát hiện ở huyện Tam Nông trong
Đồng Tháp Mười. Trong khu bảo tồn Tràm Chim có 92 loài chim đã được xác
định; trong vùng rừng U Minh, có 81 loài chim đã được ghi nhận.
4.1.7. Đặc điểm kinh tế - xã hội
ĐBSCL có bờ biển dài trên 750 km, khoảng 360.000 km2 khu vực đặc quyền
kinh tế, phía Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp Thái Bình Dương và phía Tây -
Nam giáp vịnh Thái Lan, tạo điều kiện rất thuận lợi trong việc phát triển kinh tế
biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Hàng năm, lúa gạo của vùng ĐBSCL cung ứng phần lớn
nhu cầu của người dân trong nước và chiếm tới 90% lượng gạo xuất khẩu của cả
nước. Sau lúa là nuôi trồng và khai thác thủy sản, với 8/13 tỉnh giáp biển, lại có 2
sông lớn là sông Tiền và sông Hậu song song nối các tỉnh với biển đông, vùng
ĐBSCL có điều kiện rất thuận lợi để nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ, cũng
như nước ngọt. Sản lượng thủy sản cả nuôi trồng và đánh bắt của vùng năm 2014
đạt khoảng 1,9 triệu tấn, chiếm 52% sản lượng cả nước, trong đó thủy sản khai
thác chiếm 43%, thủy sản nuôi trồng chiếm 68% sản lượng của cả nước. Nhịp độ
tăng trưởng sản lượng thủy sản hàng năm khoảng 8-9%/năm (nhanh hơn cả nước
khoảng 8%/năm), tương ứng với khoảng 100-120 nghìn tấn/năm. Giá trị xuất khẩu
thủy sản của vùng chiếm khoảng 60% cả nước. Trong thủy sản nuôi trồng, đáng
chú ý nhất là con tôm. Sản lượng tôm ở vùng ĐBSCL chiếm gần 80% của cả nước.
77
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực ĐBSCL tăng bình quân hàng năm trung
bình từ 7% đến 9%, cao hơn bình quân chung cả nước trên 3,0 điểm phần trăm,
theo số liệu của Tổng cục Thống kê.
Từ những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng đã và đang mang lại
nhiều tiềm năng, lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế. Nếu vùng này được quy
hoạch, đầu tư có chiến lược phù hợp trong dài hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế - xã
hội.
4.2. Phân tích hiện trạng rừng ngập mặn
4.2.1. Hiện trạng rừng ngập mặn ở Việt Nam
Cơ sở xác định diện tích đất ngập nước để phát triển RNM.
Theo kết quả nghiên cứu về RNM của Phan Nguyên Hồng (1990), hệ thống
phân loại đất ngập nước Việt Nam (Phân Viện điều tra quy hoạch rừng II - 2004)
và kết quả các điều tra nghiên cứu khác, tiêu chí để quy hoạch diện tích phát triển
RNM như sau:
(1) Đất ngập nước mặn ven biển, ngập triều không thường xuyên trên thể
nền sét bùn, bùn cát, bùn cát thô lẫn sỏi, đất than bùn san hô, phù sa bờ biển.
(2) Đất ngập nước mặn vùng cửa sông không thường xuyên trên thể nền sét
bùn, bùn cát, phù sa.
(3) Đất ngập nước mặn thuộc đầm phá trên thể nền sét bùn, bùn cát, phù sa.
♦ Phân bố theo các vùng ven biển theo Đề án phục hồi và phát triển RNM
ven biển giai đoạn 2008 - 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(Công văn số 405/TTg-KTN)
Tổng diện tích quy hoạch cho mục đích phát triển RNM là 323.712 ha.
trong đó có 209.741 ha đã có rừng (152.131 ha là rừng trồng và 57.610 ha là rừng
tự nhiên), vùng ven biển nước ta có thể chia làm 5 vùng, phân bố tại các vùng như
sau: Vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh và đồng bằng Bắc Bộ gồm 5 tỉnh (Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình): 88.340 ha, trong đó diện
78
tích có rừng 37.651 ha, phân bố chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh. Vùng ven biển Bắc
Trung Bộ, gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên - Huế): 7.238 ha. trong đó diện tích có rừng 1.885 ha. phân bố chủ yếu
ở tỉnh Thanh Hóa. Vùng ven biển Nam Trung Bộ: gồm 6 tỉnh (Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa): 743 ha, trong đó diện tích
có rừng không đáng kể. Vùng ven biển Đông Nam Bộ: gồm 5 tỉnh (Ninh Thuận,
Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh): 61.110
ha. trong đó diện tích có rừng là 41.666 ha. phân bố chủ yếu ở thành phố Hồ Chí
Minh. Vùng ven biển ĐBSCL: gồm 8 tỉnh (Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau): 166.282 ha. trong đó diện
tích có rừng 128.537 ha, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Cà Mau và Kiên Giang.
RNM Việt Nam chủ yếu phân bố tập trung tại ĐBSCL, thành phố Hồ Chí
Minh, tỉnh Quảng Ninh và ven biển châu thổ sông Hồng, trong đó RNM phân bố
và phát triển tốt ở miền Nam, đặc biệt ở bán đảo Cà Mau. Ở miền Bắc cây RNM
tuy thấp và nhỏ nhưng có giá trị phòng chống thiên tai rất lớn, đặc biệt tỷ trọng
RNM tự nhiên khá cao. Tại tỉnh Quảng Ninh có 19.745 ha rừng tự nhiên trên tổng
số 37.650 ha RNM.
♦ Phân bố theo hệ thống đê biển
RNM có vai trò rất lớn trong bảo vệ hệ thống đê biển, theo kết quả điều tra,
khảo sát do Viện Điều tra Quy hoạch rừng thực hiện trong năm 2006, tại 3 vùng có
phân bố RNM hiện có 1.113 km trong tổng số 2.438 km đê biển đã có RNM bảo
vệ trước đê, tương ứng với diện tích có rừng là 69.611 ha RNM, trong đó: Vùng
Quảng Ninh và Đồng bằng Bắc bộ chiều dài đê biển có RNM là 254/841km; Vùng
Bắc Trung bộ chiều dài đê biển có RNM là 67/338 km; Vùng ĐBSCL chiều dài đê
biển có RNM là 792/1.259 km; (Vùng Nam Trung bộ chiều dài đê biển có rừng
bảo vệ trên tổng số chiều dài đê biển là 73/501km (15%) tương ứng với diện tích
có rừng là 898 ha, tuy nhiên rừng trước đê vùng này là rừng trên cạn).
79
Hiện nay, còn 1.325 km đê biển (trong đó có 1.197 km tại 3 vùng Quảng
Ninh và đồng bằng Bắc bộ; Bắc Trung bộ và ĐBSCL, tương đương với 55% tổng
chiều dài hệ thống đê biển chưa có hệ thống rừng bảo vệ. Trong số chiều dài đê
chưa có rừng bảo vệ, hiện có 418 km đê phía trước có bãi, tương đương với diện
tích khoảng 13.000 ha có thể trồng RNM. Một số khu vực còn lại chưa thể trồng
RNM do trước đê không còn bãi hoặc bãi bị sạt lở, bùn, phù sa loãng. Cho nên,
song song với việc trồng RNM cần có các giải pháp công trình như: Xây kè, mỏ
hàn, đóng cọc, bổ sung đất, bùn,....
♦ Phân bố theo 3 loại rừng
Tổng diện tích RNM là 323.712 ha, được quy hoạch như sau: Rừng phòng
hộ: 153.294 ha, trong đó diện tích có rừng 115.950 ha. Rừng đặc dụng: 41.666 ha,
trong đó diện tích có rừng 28.311 ha. Rừng sản xuất: 128.752 ha. trong đó diện
tích có rừng 65.480 ha.
♦ Hiện trạng rừng ngập mặn phòng hộ chắn sóng lấn biển
RNM phòng hộ chắn sóng lấn biển có diện tích 153.294 ha (115.950 ha đã
có rừng và 37.344 ha đất trống ngập mặn). Diện tích các trạng thái RNM phòng hộ
chắn sóng lấn biển. Rừng tự nhiên có diện tích 37.876 ha. chiếm 32,7% tổng diện
tích RNM phòng hộ hiện có. Rừng tự nhiên chủ yếu là rừng thuần loài. Các kiểu
rừng Đước, Mắm, Sú, Bần… Tại các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, ĐBSCL và các
kiểu rừng Bần, Sú, Trang, Vẹt ở các tỉnh Quảng Ninh, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Rừng cấp I có diện tích 13.125 ha, chiếm 34,7% diện tích rừng tự nhiên
hiện có. Đây là dạng rừng phục hồi sau các hoạt động khai thác, canh tác nuôi
trồng thủy sản bỏ hoang,... Rừng có mật độ bình quân thấp 600 - 800 cây/ha,
đường kính bình quân từ 3 - 6cm, chiều cao bình quân từ 3 - 9 m ở các kiểu rừng ở
phía Bắc và đường kính bình quân từ 6 - 10 cm, chiều cao bình quân từ 12 - 18 m
đối với các kiểu rừng ở các tỉnh phía Nam. Trạng thái này tập trung chủ yếu ở các
tỉnh Quảng Ninh và đồng bằng Bắc bộ. Đối với trạng thái rừng này cần có biện
pháp chăm sóc, bảo vệ và trồng bổ sung. Rừng cấp II có diện tích 18.172 ha, chiếm
80
48,0% diện tích rừng tự nhiên hiện có. Trạng thái rừng này có mật độ bình quân từ
1.000 - 1.500 cây/ha. Đường kính bình quân từ 12 - 16 cm, chiều cao bình quân từ
18 - 28 m. Trạng thái này tập trung chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, đồng bằng Bắc
bộ và Đông Nam bộ. Rừng cấp III có diện tích 6.579 ha, chiếm 17,4% diện tích
rừng tự nhiên. Rừng có mật độ bình quân từ 1.000 - 1.500 cây/ha, đường kính bình
quân từ 18 – 24 cm. Đây là trạng thái rừng có kết cấu tương đối ổn định.
Rừng trồng có diện tích 78.074 ha, chiếm 67,3% tổng diện tích RNM
phòng hộ hiện có. Rừng trồng trong mấy năm qua chủ yếu là rừng thuần loài với
45 loài cây, chủ yếu như: Đước, Mắm, Trang, Sú, Bần,... Diện tích, trạng thái rừng
trồng như sau: Rừng cấp I có diện tích 23.245 ha, chiếm 29,8% diện tích rừng
trồng. Đây là diện tích được trồng trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến nay.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên chất lượng rừng kém. Mật độ bình quân từ
800 – 1.000 cây/ha. Đường kính bình quân, tùy theo loài cây trồng, song dao động
từ 1 - 6 cm. Trạng thái rừng này phân bố chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, đồng
bằng Bắc Bộ và ĐBSCL, rừng này cần có biện pháp chăm sóc trồng bổ sung. Rừng
cấp II có diện tích 38.151 ha, chiếm 48,9% diện tích rừng trồng ngập mặn. Đây là
diện tích rừng trồng ngập mặn tương đương cấp tuổi II có mật độ bình quân từ
2.000 - 3.000 cây/ha, đường kính bình quân dao động từ 6 – 18 cm tùy theo loài
cây. Trạng thái rừng này về cơ bản đã ổn định, tình hình sinh trưởng tốt. Rừng cấp
III có diện tích 16.676 ha, chiếm 17,4% diện tích rừng trồng, phân bố chủ yếu
vùng Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Rừng có mật độ bình quân từ 2.000 – 3.000
cây/ha. Rừng có khả năng phòng hộ tốt, cũng như cung cấp lâm sản và lâm sản
phụ. Hiện chưa có những nghiên cứu đánh giá đầy đủ về kết cấu tối ưu cụ thể của
RNM để bảo vệ phòng chống thiên tai. Song, một số nghiên cứu đánh giá đã chỉ ra
rằng, rừng có mật độ cao, nhiều tầng thứ khả năng phòng hộ cao hơn rất nhiều so
với rừng có mật độ thấp, thuần loài. Diện tích RNM kể cả rừng trồng và rừng tự
nhiên của Việt Nam hiện nay đều có mật độ thấp và đơn loài, do vậy cần phải có
các giải pháp trồng bổ sung để tạo ra các lô RNM phòng hộ đa loài, đa tầng. Hiện
có 36.370 ha, bao gồm rừng tự nhiên phục hồi và rừng trồng chất lượng kém cần
81
phải tiến hành trồng bổ sung. Cũng theo các kết quả điều tra, khảo sát thì tình hình
tái sinh tự nhiên trong RNM khá tốt cả trong diện tích có hoàn cảnh rừng và những
diện tích đất trống là bãi bồi, điển hình như vùng phía tây tỉnh Cà Mau. Khoanh
nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên kết hợp trồng bổ sung là một giải pháp lâm
sinh cần được chú ý trong việc phục hồi và phát triển rừng theo hướng lâu dài.
Cho đến nay chưa có một công trình kiểm kê hoặc điều tra, đánh giá có hệ
thống và cụ thể về diện tích, chất lượng RNM, cũng như những nghiên cứu về các
tiêu chuẩn, tiêu chí hệ thống đai RNM phòng hộ, phòng chống thiên tai bảo vệ đê
biển,… Đây là vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cần bổ sung
trong thời gian tới.
RNM phòng hộ chắn sóng lấn biển được phân cấp phòng hộ như sau: Diện
tích đã có rừng 115.950 ha. Vùng đất xung yếu 54.256 ha, trong đó: Rừng tự
nhiên: 27.078 ha (9.625 ha rừng kém chất lượng cần trồng bổ sung), Rừng trồng:
27.493 ha (23.245 ha rừng kém chất lượng cần trồng bổ sung); Vùng xung yếu có
diện tích: 61.694 ha, trong đó: Rừng tự nhiên: 10.799 ha, rừng trồng: 50.895 ha.
Diện tích đất ngập mặn chưa có rừng 37.344 ha: Vùng rất xung yếu: 18.858
ha, trong đó: Có đủ điều kiện trồng rừng: 13.593 ha; Chưa đủ kiện tự nhiên để
trồng rừng (sạt lở, phù sa loãng,....), cần phải có các giải pháp công trình trước và
trong quá trình trồng rừng: 5.265 ha. Vùng xung yếu 18.486 ha. trong đó: Diện tích
trồng rừng tập trung: 12.771 ha; Diện tích có thể trồng rừng kết hợp nuôi trồng
thủy sản: 5.714 ha.
Vùng rất xung yếu là những vùng ven biển trước đê, khoảng cách tính từ bờ
biển lúc triều cao trung bình là 200 m hoặc những vùng cửa sông có đê đập, hoặc
không có đê đập và những vùng đang bị xói lở,.... Vùng xung yếu là những vùng
ven biển không có đê, đập khoảng cách từ 200 - 500 m tính từ bờ biển lúc triều cao
trung bình.
82
4.2.2. Diễn biến rừng ngập mặn ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê của Viện Điều tra quy hoạch rừng Viện Khoa học
Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Tài nguyên và Môi trường
năm 2018, diện tích RNM toàn quốc qua các thời kỳ như sau: Năm 1943: 408.500
ha; Năm 1962: 290.000 ha; Năm 1982: 252.000 ha; Năm 2006: 209.741 ha.
Diện tích RNM đã liên tục giảm trong hơn nửa thế kỷ qua. Các nguyên nhân
gây mất RNM kể từ sau khi kết thúc chiến tranh, theo thứ tự như sau: Phá RNM và
đắp bờ kè làm đầm nuôi trồng thủy sản ngăn cản sự lưu thông nước mặn làm chết
RNM xảy ra khá phổ biến tại hầu hết các tỉnh có RNM trong phạm vi toàn quốc.
Điển hình một số vụ việc gần đây tại các địa phương, như: huyện Kim Sơn (Ninh
Bình); các huyện An Biên và An Minh (Kiên Giang); huyện Hoà Bình (Bạc Liêu);
các huyện Năm Căn, Ngọc Hiển, Phú Tân, Đầm Dơi,... tỉnh Cà Mau. Chỉ tính riêng
diễn biến diện tích rừng từ năm 2005 - 2006, có hơn 4.000 ha RNM là rừng tự
nhiên bị mất, trong đó hơn 50% là do chặt phá RNM làm đầm nuôi thủy sản và các
mục đích khác. Gió bão, sóng biển tàn phá rừng sụt lở. Tại nhiều địa điểm ven biển
hiện tượng sạt lở do sóng biển, hải lưu, đặc biệt là ảnh hưởng của bão gây sạt lở bờ
biển, đánh bật gốc cây RNM, nhất là rừng mới trồng, rừng trồng bằng trụ mầm,...
Khai thác gỗ, củi RNM và tài nguyên thuỷ sản lạm dụng quá mức. Ô nhiễm môi
trường, do chịu ảnh hưởng nặng nề của việc thải bừa bãi các chất thải nuôi thủy
sản…
4.2.3. Hiện trạng rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long
RNM thực vật phổ biến ở vùng ven biển ĐBSCL là các loài Mắm trắng,
Đước, Bần trắng, Bần chua, Vẹt tách, Dà quánh, Dà vôi, Giá, Cóc vàng, Dừa
nước... Có thể nói, hệ sinh thái RNM (HSTRNM) ven biển với tác dụng chắn sóng,
gió có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đường bờ biển, đê điều, tăng khả năng
chống chọi với tác động của thay đổi khí hậu... Đặc biệt, RNM có vai trò bảo vệ
đới bờ và cửa sông, hạn chế xói lở và tác hại của bão, sóng đối với hệ thống đê
biển. Theo một nghiên cứu tại Nhật Bản, một khu RNM có chiều rộng 100 m, có
83
thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng của sóng.
Nhờ có hệ thống rẽ dày đặc trên mặt đất, RNM có thể làm chậm dòng chảy và
thích nghi với mực nước biển dâng. Các cây con, quả và hạt có khả năng sống dài
ngày trong nước nên cây ngập mặn sẽ phát tán rộng vào đất liền khi nước biển
dâng ngập các vùng đó. Khi RNM tự nhiên được bảo vệ hoặc các rừng trồng đủ
rộng, sẽ tạo thành những bức tường vững chắc, bảo vệ bờ biển và chân đê khỏi bị
xói lở do bão lụt và nước biển dâng... Thực tế cho thấy những cơn bão đổ bộ vào
nước ta trong các năm vừa qua, những nơi nào có RNM được bảo vệ tốt thì đê biển
mặc dù chỉ được xây dựng bằng đất nện vẫn đứng vững vàng. Ngược lại, các đê
biển bằng bê tông hoặc kè đá ở những khu vực không có RNM hoặc rừng bị chặt
phá thì đê biển đều bị phá vỡ. Kết quả khảo sát ở những quốc gia có sóng thần
cũng cho thấy các dải RNM có thể làm giảm cường độ của sóng thần từ 50% -
90% nên các làng mạc sau RNM ít bị ảnh hưởng.
4.2.4. Phục hồi và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng sông
Cửu Long
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiệm vụ trước mắt của các
địa phương có HSTRNM cần tập trung tăng cường vai trò quản lý Nhà nước của
các cấp chính quyền tại địa phương, đặc biệt là chính quyền cơ sở và cơ quan
chuyên ngành lâm nghiệp, môi trường trong công tác bảo vệ và phát triển hiệu quả
HSTRNM ven biển ở khu vực ĐBSCL. Song song đó, việc quy hoạch môi trường
trong phát triển KT - XH ở các vùng ven biển, đặc biệt là quy hoạch môi trường
gắn với bảo vệ và phát triển HSTRNM ở ĐBSCL, phải đảm bảo cho sự phát triển
bền vững trong khu vực. Phân vùng sinh thái trong quy hoạch bảo tồn và phát triển
các vùng đất ven biển, trong đó tập trung tiếp cận tổng hợp đa ngành, đa mục tiêu
nông-lâm-ngư và bảo vệ môi trường trong mục tiêu phát triển KT - XH. Tăng
cường vai trò quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền tại địa phương, đặc biệt
là chính quyền cơ sở và cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp, môi trường trong công
tác bảo vệ và phát triển hiệu quả HSTRNM ven biển ở khu vực ĐBSCL. Đẩy
nhanh tiến độ thực hiện các dự án bảo tồn và phát triển HSTRNM ven biển, các dự
84
án trồng mới và tái sinh RNM ven biển; nghiêm cấm bao ví bãi bồi cửa sông để
nuôi trồng thủy sản làm hủy hoại diễn thế tự nhiên bồi tụ và phát triển RNM non
trẻ. Đồng thời, tiến hành quy hoạch các khu bảo tồn đất ngập nước và bảo vệ đa
dạng sinh học của vùng đất ngập nước, các sân chim tự nhiên, các rừng đặc dụng
ngập mặn phòng hộ ven biển có giá trị như là lá chắn bảo vệ môi trường ở ĐBSCL.
Vì vậy, vừa qua Chính phủ Đức đã ký viện trợ Dự án “Quản lý bền vững hệ sinh
thái rừng ven biển tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam”, có tổng kinh phí 1,76 triệu euro.
Trong đó, nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Đức là 1,6 triệu euro và
phía Việt Nam (tự cân đối ngân sách của tỉnh Bạc Liêu) là 160.000 euro. Thời gian
thực hiện Dự án trong 3 năm (từ năm 2009 - năm 2011) với các chức năng chính
như: Thiết lập các biện pháp nâng cao tính đa dạng hệ sinh thái rừng ven biển,
nâng cao mức độ đa dạng sinh học Sân chim Bạc Liêu, nâng cao hiệu quả quản lý
sử dụng rừng và đất rừng của người dân địa phương sống phụ thuộc vào rừng, tăng
cường khả năng quản lý các cơ quan có liên quan đối với RNM.
Bộ Nông nghiệp và Phát tiển nông thôn đã được Chính phủ giao chủ trì thực
hiện đề án “Khôi phục và phát triển RNM ven biển, giai đoạn năm 2008 - 2015”,
theo đề án vừa trình Thủ tướng Chính phủ, kinh phí dự kiến để phục hồi và phát
triển RNM lên đến 2.490 tỷ đồng. Với mục tiêu thiết lập hệ thống RNM để phòng
chống thiên tai, bảo vệ môi trường một cách ổn định, đề án yêu cầu phải phát triển
toàn bộ hệ sinh thái RNM ven biển với kế hoạch dài hạn, có các giải pháp khoa
học kỹ thuật gắn liền với phát triển KT - XH. Trong giai đoạn đầu, sẽ trồng và
nâng cao chất lượng rừng với diện tích trên 32.800 ha, trồng thêm hơn 97.500 ha,
nâng tổng diện tích RNM cả nước lên trên 307.200 ha vào năm 2015. Trước mắt,
sẽ ưu tiên trồng và bảo vệ đai RNM bảo đảm đến năm 2015 hoàn thành việc phục
hồi và trồng hơn 18.800 ha rừng để bảo vệ hệ thống đê biển.
Việc tăng nhanh diện tích phủ xanh của thảm RNM phòng hộ ven biển, bảo
vệ RNM khỏi nạn bị chặt phá làm củi, gỗ, nuôi trồng thủy sản. Theo dõi giám sát
chất lượng thảm RNM đã bị suy giảm và các HSTRNM để kịp thời xử lý các vấn
đề gây tổn thất đến tài nguyên nước, tài nguyên đất và tài nguyên sinh học, đảm
85
bảo cho độ ổn định của hệ sinh thái... là những việc làm quan trọng mà các địa
phương ở ĐBSCL cần quan tâm thực hiện để giảm nhẹ thiên tai do tác động của
biến đổi khí hậu gây ra.
4.2.5. Tăng cường liên kết bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng
sông Cửu Long
Liên kết trong quy hoạch quản lý tổng hợp RNM ven biển tại ĐBSCL
Các nghiên cứu chính thức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho thấy
hiện nay một số khu vực ven biển đang bị xâm thực khoảng 30 m/năm; RNM dọc
theo bờ biển bảo vệ đất liền khỏi ảnh hưởng của bão, lũ, con người tàn phá… hiện
đang bị suy giảm nghiêm trọng; mức độ gia tăng xâm nhập mặn dẫn đến tình trạng
đất nhiễm mặn, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp... Một trong những định
hướng có tính giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội thích ứng với biến đổi khí
hậu (BĐKH) ở BĐSCL là tăng cường liên kết trong quy hoạch quản lý tổng hợp
vùng ven biển, tiếp cận và giải quyết các vấn đề về BĐKH theo vùng, không theo
từng tỉnh đơn lẻ... Điều này đúc kết từ kinh nghiệm hiệu quả ở các nước Hà Lan,
Cộng hòa Liên ban Đức, Úc được các chuyên gia nghiên cứu, để xuất lồng ghép và
ứng dụng vào các quy trình phát triển KT - XH khu vực ĐBSCL theo hướng bền
vững. Hiệu quả các giải pháp thực hiện trên cơ chế liên kết đã được dẫn chứng
bằng thực tiễn triển khai Chương trình Quản lý Tổng hợp vùng Ven biển (ICMP)
giúp khắc phục các thách thức tác động từ BĐKH, nước biển dâng, cụ thể là việc
củng cố vùng bờ tại các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL. Ghi nhận bước đầu cho thấy:
Chương trình đã góp phần tích cực xây dựng các giải pháp kỹ thuật giúp đường bờ
biển dịch chuyển thêm ra phía biển 180 m, giành lại đất phục hồi RNM. Hỗ trợ
nông dân áp dụng các kỹ thuật mới trong ứng phó BĐKH, tăng thu nhập và bảo vệ
môi trường, như: phương pháp canh tác lúa cải tiến, giúp giảm 30% lượng nước và
thuốc bảo vệ thực vật; biện pháp hỗ trợ các hộ nuôi tôm sinh thái thân thiện với
môi trường, tiếp cận thị trường quốc tế...
♦ Giải pháp hiệu quả đã định hình từ thực tiễn RNM tại ĐBSCL
86
Thực tế tại tỉnh Sóc Trăng từ năm 2007, Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của
Cộng hòa Liên Bang Đức (GTZ) tài trợ Dự án “Quản lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng”. Đây là dự án nhằm cung cấp những giải pháp thử
nghiệm để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh giữa phát triển kinh tế và quản lý
một cách bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Dự án này cũng bao gồm những
hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu bằng cách tập trung vào đa dạng hóa cách
thức kiếm sống của người dân nghèo và công tác quản lý RNM.
♦ Hệ sinh thái ven biển ĐBSCL đang bị tác động mạnh do sạt lở, xâm nhập
mặn
Dự án của GTZ đã thực hiện thí điểm một số kỹ thuật trồng, khôi phục rừng
ở một vài khu vực trong địa bàn huyện Vĩnh Châu - địa bàn có trên 3.560 ha rừng
và đất RNM ven biển. Bước đầu, được UBND thị xã Vĩnh Châu, đánh giá góp
phần tích cực bảo vệ và phát triển được vốn rừng có thể sẽ mang lại hiệu quả rất
lớn cả về kinh tế, xã hội, môi trường cho người dân địa phương và trong khu vực.
Điển hình là mô hình “Đồng quản lý” tại ấp Âu Thọ B, người dân đã chuyển biến
rất tốt về hành vi cùng phối hợp bảo vệ môi trường, ý thức tự giác cao trong việc
đồng quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Dự án đã triển khai.
♦ Tăng cường liên kết, phối hợp để phát huy hiệu quả
Trong những năm trước đây, RNM ven biển ĐBSCL bị tác động làm suy
giảm mạnh mẽ do các nguyên nhân: phá rừng làm ruộng rẫy, phá rừng lấy đất nuôi
trồng thủy sản, phá rừng lấy củi, gỗ... Số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn
1980-1995 các tỉnh ĐBSCL đã bị mất 72.825 ha rừng, bình quân hàng năm bị mất
4.855 ha với tốc độ 5%/năm. Những năm gần đây, công tác bảo vệ và phát triển hệ
sinh thái RNM ven biển được các tỉnh trong khu vực quan tâm thực hiện, đặc biệt
là dự án trồng 5 triệu ha rừng của quốc gia và các dự án hợp tác quốc tế như: Dự
án Phát triển và bảo vệ các vùng đất ngập nước ven biển tại các tỉnh Cà Mau, Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh; Dự án Khu dự trữ quốc gia U Minh Thượng; Chương
trình sử dụng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học đất ngập nước khu vực sông
87
Mêkông... Tuy nhiên, những tác động tiềm ẩn vẫn đang tiếp tục đe dọa HSTRNM
ở ĐBSCL. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có các giải pháp hữu hiệu trong quy
hoạch các khu bảo tồn đất ngập nước ven biển, trong tổ chức khai thác kinh tế tài
nguyên gắn liền với phát triển hệ sinh thái đặc thù này để bảo vệ và phát triển bền
vững khu vực ĐBSCL.
Diện tích nuôi tôm trong RNM là một tác nhân ảnh hưởng rất nghiêm trọng
đến công tác quản lý quy hoạch và khai thác bền vững nguồn tài nguyên ven biển ở
khu vực ĐBSCL. Nuôi tôm đem lại lợi ích kinh tế nhanh, nhưng hậu quả là làm
suy giảm thảm RNM, làm biến đổi môi trường đất, môi trường nước và môi trường
sinh thái. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có các giải pháp hữu hiệu trong vấn đề
phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường để phát triển bền vững ở các vùng ven
biển khu vực ĐBSCL. Những tổn thất RNM kéo theo hàng loạt các biến đổi về
môi trường, sinh thái trong khu vực. Thảm RNM có độ che phủ cao trở nên trơ
trọi, bị chia cắt phân tán thành nhiều thảm nhỏ và thay bằng các vuông tôm, kinh
mương đào đắp, sên vét bùn đất để lấy mặt nước nuôi tôm; môi trường đất bị ô
nhiễm do quá trình phèn hóa gia tăng ở quy mô lớn; đất đai bị phát quang làm gia
tăng quá trình rửa trôi do mưa, gia tăng quá trình lan truyền phèn trong môi trường
đất, nước và các hệ sinh thái; giảm đi quá trình bồi tụ phù sa do mất rừng; đa dạng
sinh học bị suy giảm nhanh chóng do không còn điều kiện thích hợp để các loài
sinh vật sinh sống và trú ngụ; sự biến đổi môi trường vi khí hậu, sụp lở bờ biển,
cửa sông gia tăng... làm mất cân bằng sinh thái trong khu vực. Hậu quả nhãn tiền là
nạn tôm chết hàng loạt ở các khu ven biển đến nay vẫn tiếp tục diễn ra.
Quá trình mặn xâm nhập gia tăng đã tác động các hệ sinh thái nông nghiệp
truyền thống, lúa nước, cá đồng, cây ăn trái, cây công nghiệp... trong khi khả năng
thực thi các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn. Các dự án thủy lợi trong vùng mặn hóa, vùng luân canh lúa -
tôm, vùng ngăn mặn xổ phèn... chưa phát huy được tác dụng trong thực tiễn đang
trở thành nỗi trăn trở của các cấp chính quyền, các ngành quản lý và người dân.
Chất thải nuôi trồng thủy sản ven biển, đặc biệt là chất thải nuôi tôm, ngày càng
88
nhiều làm gia tăng áp lực tới môi trường và độ bền vững của hệ thống canh tác
thủy sản với bảo vệ hệ sinh thái RNM.
Hiệu quả nổi bật các giải pháp từ Chương trình “Bảo vệ tổng hợp vùng ven
biển và rừng ngập mặn nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tỉnh ĐBSCL/
Biến đổi khí hậu và các hệ sinh thái ven biển vùng ĐBSCL Việt Nam”
(ICMP/CCCEP) đem lại, là đã giúp các địa phương như: Sóc Trăng và Bạc Liêu có
khoảng 99% bờ biển không còn chịu tác động trực tiếp của sóng biển; phục hồi
603 ha RNM; giới thiệu 22 mô hình sinh kế, giúp giảm áp lực môi trường và tăng
60% thu nhập cho 8.500 gia đình... Nếu được kết hợp với các giải pháp bảo vệ
vùng bờ khác, những đai rừng này là giải pháp tốt nhất để bảo vệ, chống lại ảnh
hưởng bão, lụt, tạo nền tảng để các địa phương phối hợp thực hiện kế hoạch bảo vệ
tổng hợp vùng bờ ĐBSCL. Chương trình ICMP/CCCEP đóng góp tích cực trong
quản lý các hệ sinh thái ven biển, phục hồi và giảm thiểu tổn hại; hỗ trợ nâng cao
nhận thức về môi trường, xây dựng một số mô hình, tạo sinh kế bền vững. Thời
gian tới, các địa phương trong khu vực cần tranh thủ sự hỗ trợ, tăng cường liên kết,
phối hợp để phát huy hiệu quả chương trình”. Trong giai đoạn 2 (2014 - 2017),
Chương trình ICMP/CCCEP sẽ tập trung thể chế hóa và nhân rộng các giải pháp
nhằm tác động toàn diện trên quy mô lớn hơn tại vùng ĐBSCL.
Theo nhận định của Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải (2012), ở khu vực các
tỉnh phía Nam RNM phân bố, sinh trưởng và phát triển tốt hơn khu vực phía Bắc.
Mặc dù vai trò của RNM là vô cùng quan trọng như vậy, nhưng những năm qua
diện tích rừng ngập mặn không ngừng bị suy giảm, nếu như năm 1943 chúng ta có
khoảng 408.500 ha RNM thì tới năm 2006 con số này chỉ còn khoảng 209.741 ha.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn là do tác động
chặt phá của con người nhằm các mục đích: lấy củi, lấy gỗ và đặc biệt là chuyển
đổi diện tích để nuôi tôm, nuôi thủy sản khác. Sự suy giảm diện tích RNM gây ra
những hậu quả nghiêm trọng cả về kinh tế, xã hội và môi trường đặc biệt là trong
bối cảnh mà biến đổi khí hậu đang rất phức tạp.
89
4.3. Hiện trạng rừng bần tại địa bàn nghiên cứu
4.3.1. Rừng bần tại tỉnh Trà Vinh
Tỉnh Trà Vinh có tổng chiều dài bờ biển là 65 km, trong đó có 37 km thuộc
huyện Duyên Hải phía trên là đất giồng cát, phía dưới là bãi cát ngập triều thường
xuyên bị xâm thực bởi sóng biển trong những thời điểm có bão vào mùa mưa và
triều cường trong mùa gió mùa Đông Bắc. Tỉnh hiện có trên 8.622 ha RNM và
rừng phòng hộ ven biển. Mục tiêu phát triển rừng được tỉnh Trà Vinh đề ra đến
năm 2020 là nâng diện tích rừng lên khoảng 9.000 ha và nâng độ che phủ của rừng
đạt 4,6 %. Do tác động của sóng cộng hưởng gió lớn và triều cường đã gây xói lở
bờ biển, trung bình khoảng 10 - 25 m vào đất liền ở những khu vực không có
RNM, đặc biệt nghiêm trọng là đối với địa bàn xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên Hải.
Từ đó gây thiệt hại lớn đối với các công trình xây dựng cơ bản, hệ thống đê phòng
hộ bờ biển/cửa sông, nhà cửa, đất canh tác nông nghiệp/thủy sản của người dân,...
Từ thực tế lãnh đạo tỉnh chủ trương thực hiện nghiên cứu các giải pháp kỹ
thuật tổng hợp để trồng thí nghiệm RNM mà cụ thể là Bần chua, nhằm xây dựng
hệ thống lưới chắn và giữ lượng phù sa khi thủy triều rút. Sử dụng cây giống đúng
tiêu chuẩn, trồng và chăm sóc đúng kỹ thuật,... trên vùng đất đang bị xói lở ven
biển xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên Hải để hạn chế tác động xâm thực của sóng và
gió biển. Kết hợp khảo sát điều kiện tự nhiên, đặc điểm lập địa khu vực trồng:
thành phần đất, độ mặn nước biển, độ ngập và tần suất ngập triều, tác động của
sóng và gió biển,... là hết sức cấp bách. Từ đó làm nền tảng hoàn thiện hướng dẫn
kỹ thuật trồng, chăm sóc Bần chua trên vùng đất xói lở. Tạo cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc khôi phục rừng Bần chua nói riêng và RNM nói chung ở những nơi
có điều kiện lập địa tương tự ở tỉnh Trà Vinh.
Khi vành đai rừng phòng hộ hình thành sẽ hạn chế khả năng xâm thực bờ
và đê biển của sóng, gió. Cải tạo môi trường sinh thái vùng ven biển, hình thành
nơi sinh sống và phát triển của một số loài thủy sản. Bảo vệ các công trình xây
90
dựng cơ bản, hệ thống đê phòng hộ, nhà cửa tài sản và đất canh tác của người
dân,... ở phía trong. Góp phần ổn định dân cư, tạo công ăn việc làm cho người dân.
Năm 2016, tỉnh Trà Vinh vừa hoàn thành dự án trồng mới gần 230 ha rừng
phòng hộ ven biển trên địa bàn các huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Châu Thành và
thị xã Duyên Hải sau 02 năm triển khai thực hiện.
Dự án trồng rừng phòng hộ ven biển Trà Vinh có tổng vốn đầu tư gần 6,5 tỷ
đồng. Trong đó, nguồn vốn trồng mới diện tích gần 230 ha rừng bần, đước và phi
lao hơn 6,1 tỷ đồng. Nguồn vốn còn lại được dành cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc
hơn 323 ha RNM nguyên sinh.
Cùng với dự án trồng rừng phòng hộ ven biển, tỉnh Trà Vinh cũng đang
thực hiện Dự án “Đầu tư xây dựng và phát triển bền vững rừng phòng hộ tỉnh Trà
Vinh giai đoạn 2015 - 2020", với tổng nguồn vốn hơn gần 14,7 tỷ đồng từ nguồn
vay ODA và ngân sách của tỉnh đầu tư. Dự án này sẽ trồng mới 292 ha rừng bần,
đước, phi lao và trên 300.000 cây phân tán; tổ chức giao khoán cho đơn vị, hộ dân
chăm sóc và bảo vệ trên 1.179 ha rừng nguyên sinh và đã được trồng những năm
trước (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh, 2019).
4.3.2. Rừng bần tại tỉnh Sóc Trăng
RNM ven biển ở ĐBSCL nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng đang chịu
nhiều tác động do con người, cũng như thiên tai gây ra. Trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, một diện tích lớn rừng bị hủy diệt và sự tàn phá này lại tiếp tục gia
tăng. Diện tích RNM tại địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã giảm đáng kể, từ 1.791,9 ha
năm 1965 xuống chỉ còn 719,3 ha năm 1995. Trong những năm gần đây, diện tích
và chất lượng của RNM tỉnh Sóc Trăng bị suy giảm nhanh chóng. Trước vai trò to
lớn của RNM và tác động ngày càng mạnh mẽ của con người, báo cáo này đề cập
đến một số nguyên nhân làm suy giảm diện tích RNM do con người gây ra và đề
xuất giải pháp nhằm phát triển RNM ở tỉnh Sóc Trăng.
Tỉnh Sóc Trăng hiện có 72 km bờ biển, với diện tích đất rừng vùng ven biển
hiện có khoảng là 5.684 ha, chiếm 4,8% diện tích tự nhiên của vùng ven biển và
91
khả năng có thể lên đến 12.312 ha, chiếm 9,8% diện tích tự nhiên của vùng ven
biển và bằng 88,0% đất rừng của tỉnh Sóc Trăng, điều này cho thấy vị trí quan
trọng của rừng vùng ven biển đối với tỉnh Sóc Trăng trong cân bằng sinh thái đặc
thù rừng ven biển.
RNM ở Sóc Trăng chủ yếu là rừng phòng hộ có diện tích rừng là 280,9 ha;
Rừng phòng hộ chắn sóng lấn biển có tổng diện tích RNM phòng hộ là 5.300 ha
trong đó Cù Lao Dung: 1.710 ha; Long Phú: 800 ha; Vĩnh Châu: 3.200 ha. Tuy
nhiên, qua đo đạc bằng công cụ viễn thám, diện tích rừng ven biển của Sóc Trăng
đạt 9.338 ha, trong đó, diện tích rừng trong phạm vi đường bờ (ranh giới triều
trung bình) là 3.209 ha, ngoài ranh giới đường bờ là 6.129 ha. Trong RNM, rừng
phòng hộ chủ yếu là rừng bần, tràm (4.300 ha) tập trung nhiều ở Cù Lao Dung và
Trần Đề; rừng đước, bần, rừng mắm ở thị xã Vĩnh Châu. Với sự phân bố cây rừng
như vậy, có thể thấy HSTRNM trong vùng ven biển rất phong phú về chủng loại
thực vật và động vật. Đây là nơi có sản lượng sinh khối động thực vật lớn, nơi sinh
sản, nuôi dưỡng và cung cấp thức ăn quan trọng cho các loài cua, cá, tôm biển và
nhiều loại khác có giá trị kinh tế lớn; bồi đắp đất đai, bảo vệ vùng ven biển; tạo ra
nơi cư trú cho nhiều loại động vật hoang dã.
RNM ven biển Sóc Trăng có 3 loài thuộc sách đỏ Việt Nam, đó là: Bần,
Đước và Mắm là các loài chiếm ưu thế trong RNM Sóc Trăng. Trong RNM, Mắm
và Bần chua là hai loài cây tiên phong lấn biển, tiếp đến là Đước chúng tạo thành
quần thể hỗn giao với mắm và thay thế dần mắm để tạo nên quần thể đước đơn
loài. Bần là loài có giá trị kinh tế cao của RNM, nên thường được chọn là cây để
trồng rừng. Do đó, loài cây này hiện trong tình trạng phát triển tốt; đối với loài
Quao nước, đây là loài cây sống trong môi trường nước lợ, do cây không có giá trị
kinh tế nên ít bị chặt phá.
Hàng năm, lượng phù sa lớn do sông Hậu mang lại được bồi lắng ở cửa
sông và trong các dải RNM ven biển, bãi biển nên diện tích vùng này ngày càng
được mở rộng ra biển. Những năm gần đây, dưới nhiều tác động của tự nhiên và
92
con người, Hệ sinh thái vùng ngập mặn đang bị suy giảm nghiêm trọng. Theo số
liệu thống kê năm 2003 của Phân Viện Điều tra Quy hoạch rừng Nam bộ, toàn tỉnh
chỉ còn 2.990,79 ha đất có RNM, trong đó, diện tích rừng tự nhiên là 884,07 ha,
gồm rừng bần 721,91 ha và rừng mắm 162,16 ha. Diện tích rừng trồng là 2.106,72
ha, gồm 1.354,87 ha rừng bần, 199,6 ha rừng đước, và 440,14 ha rừng đước trồng
xen trong rừng Mắm. Từ năm 2000 đến 2007 tỉnh Sóc Trăng thực hiện dự án khôi
phục RNM tại phía Nam tại vùng ven biển của bốn tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc
Liêu và Cà Mau với hỗ trợ tín dụng của Ngân hàng Thế giới và tài trợ bởi Chính
phủ Đan Mạch. Dự án nhằm mục đích khôi phục RNM ven biển để cải thiện chức
năng dinh dưỡng của RNM và bảo vệ bờ biển. Dự án đã trồng được 1.085 ha rừng
ở vùng phòng hộ xung yếu ven biển tỉnh Sóc Trăng, góp phần làm tăng độ phủ
xanh của vùng ven biển.
Tuy có nhiều dự án phát triển và trồng rừng RNM tại Sóc Trăng nhưng tình
trạng hệ sinh thái rừng tại Sóc Trăng đang dần bị suy giảm như nhiều cây, con bị
mất dần, chẳng hạn như cây Mắm, cây Đước bị thoái hóa, riêng cây Chà là - nơi
trú ngụ của con đuôn không còn tồn tại. Tại khu vực đuôi cồn Cù Lao Dung, theo
thống kê mới nhất, quần thể Dơi ngựa lớn chỉ còn không tới 1.000 con. Loài Rái cá
lông mượt trước đây sinh sống rất nhiều, hiện nay đã biến mất, các loài cá Ngát, cá
Tra bần rất hiếm, chim trời trước đây thường về đậu và làm tổ, đến nay không còn.
Một số khu vực RNM ven biển bị thu hẹp diện tích do xói mòn dưới tác động của
sóng biển, do cây cối trong rừng đã bị già cỗi.
* Nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên rừng bần ở Sóc Trăng
♦ Khai phá RNM để nuôi tôm: Phong trào nuôi tôm trong RNM ở tỉnh Sóc
Trăng bắt đầu năm 1997 khi ngành thủy sản mới bắt đầu xuất khẩu tôm khô và tôm
đông lạnh ra thị trường của các nước. Điển hình vào thập kỷ 90, Vĩnh Châu là một
trong những huyện sử dụng nhiều diện tích đất RNM để nuôi tôm tại các xã ven
biển. Một diện tích đáng kể của RNM bị phá, sau này trở thành đất hoang hóa với
toàn bộ cây bụi thấp như lức, ô rô, cóc kèn, chà là. Những lợi ích của nghề nuôi
93
tôm làm những người giàu bỏ tiền ra thuê nhân công và mua cơ giới để lập các trại
nuôi tôm trong RNM. Nhiều cơ quan chính phủ và các cá nhân được giao đất trong
RNM và cũng đã cố gắng để chuyển đổi những vùng đất này thành các trang trại
nuôi tôm hay cho thuê đất để nuôi tôm. Việc giao đất để nuôi tôm thì tùy ý không
theo bất kỳ phương pháp lập kế hoạch nào. Cấp huyện và thậm chí chính quyền
cấp xã có thể giao đất lâm nghiệp cho nông dân mà không có bất kỳ xem xét hay
đánh giá quy hoạch sử dụng đất, điều này cũng đã góp phần làm suy thoái RNM.
♦ Khai phá RNM để sản xuất nông nghiệp: Đất thuộc RNM có độ mặn
cao và không phù hợp cho hầu hết bất kỳ cây trồng nào, nhưng đất bồi thì rất màu
mỡ. Trong mùa mưa và ở những nơi có nước ngọt, người dân khai phá rừng để
trồng rẫy khô. RNM ở các vùng cửa sông ven biển thường bị chặt phá để trồng cây
nông nghiệp như: Hành, tỏi, dưa hấu, bí, ớt, đậu xanh... Những nơi nào có địa hình
thuận lợi, chủ động nguồn nước tưới thì hiệu quả cao hơn. Những người dân di cư
dần dần phá RNM để canh tác nông nghiệp trong khu vực Hồ Bể gần cửa sông Mỹ
Thanh.
Một số nơi khác phá rừng để lấy đất trồng dừa nhưng không thành công và
gây hậu quả sinh thái xấu, do không nắm vững quá trình diễn biến của đất. Điển
hình nhất là việc trồng dừa tại ấp Giồng Chùa, xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu.
Theo kế hoạch của tỉnh sẽ khai phá diện tích 550 ha RNM tại cửa sông Mỹ Thanh
để trồng dừa. Sau 5 năm trồng dừa thì đất cũng thoái hóa, tất cả dừa đều chết.
Tương tự, hai hợp tác xã muối tại Vĩnh Phước, Vĩnh Tiến đã phá RNM và đầu tư
hàng chục triệu đồng để lên líp trồng dừa và để lại hậu quả là mặt đất cứng, nứt nẻ,
muối kéo lên mặt đất trắng xóa, đất lại tiếp tục bốc hơi nước mạnh vào mùa khô,
do đó nồng độ muối tăng lên, làm cho đất không phù hợp cho việc canh tác.
♦ Chính sách, thể chế quản lý rừng chưa hiệu quả: Chính sách kinh tế - xã
hội chưa khuyến khích người dân bảo vệ rừng vì giá trị và lợi ích của rừng, trong
khi là vô giá, đã bị bỏ qua trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đầu tư
tái tạo rừng trong những năm qua chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại từng địa
94
phương. Những khoản đầu tư cho các khu rừng chỉ nhằm mục đích trồng, bỏ qua
việc bảo vệ và cải thiện môi trường rừng.
Bên cạnh đó, mức đầu tư cho quản lý bảo vệ rừng còn quá thấp, các hoạt
động trồng rừng, khôi phục rừng cũng chưa mang lại đủ thu nhập trực tiếp đáp ứng
nhu cầu cơ bản của nông dân. Các kỹ thuật tiên tiến cho canh tác bền vững đã
không được hướng dẫn cho nông dân hay đưa đến kết quả cải thiện thu nhập của
họ. Công tác tuyên truyền, tập huấn, giáo dục bảo vệ rừng chưa được quan tâm (Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng, 2019).
Thực trạng rừng bần trong nghiên cứu chưa được quan tâm đầu tư để phát
triển đồng bộ, chỉ dừng lại giai đoạn khoán cho các tổ bảo vệ rừng và khai thác các
sản phẩm từ rừng mà chưa đưa ra một quy chuẩn để khai thác mang tính bảo tồn
các loài vật nhằm phát triển bền vững nguồn tài nguyên quý giá này.
4.4. Kết quả đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần
4.4.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu
Nguồn: Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Sóc Trăng, năm 2018
Hình 4.1. Bản đồ rừng bần khu vực huyện Trần Đề, huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc
Trăng và huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh (theo dấu mũi tên)
95
♦ Huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh:
Theo Quyết định số 1753/QĐ/UBND ngày 11/3/2020 của Chủ tịch UBND
tỉnh Trà Vinh về việc Công bố hiện trạng rừng tỉnh Trà Vinh năm 2019. Huyện
Duyên Hải có tổng diện tích rừng bần: 2.469,17 ha; trong đó có tổng diện tích rừng
tại xã Long Vĩnh: 1.828,20 ha bần.
Rừng bần tại xã Long Vĩnh hiện nay có 18 Tổ quản lý rừng với 751 hộ dân,
diện tích nhận giao rừng 1.097 ha. Theo quy định tại Nghị định số 119/2016/NĐ-
CP; chi phí quản lý rừng hàng năm được Ngân sách cấp cho bảo vệ rừng là 493,6
triệu đồng; ngoài ra người dân tại đây còn khai thác những sản vật trong rừng như:
Thòi lòi, cá bông lau, chù ụ, ba khía, cua con, cua thịt, dộp, ốc len… thu nhập
trung bình mỗi hộ dân khoảng 35 triệu đồng/năm (Hạt Kiểm lâm huyện Duyên
Hải, 2020).
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Trà Vinh, năm 2020
Hình 4.2. Bản đồ hiện trạng rừng bần xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải,
tỉnh Trà Vinh
96
♦ Huyện Trần Đề:
Theo Quyết định số 68/QĐ-UBND ngày 15/01/2020 của Chủ tịch UBND
huyện Trần Đề về việc Phê duyệt kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019 trên
địa bàn huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng; tổng diện tích rừng bần: 698,1 ha rừng
phòng hộ chắn sóng, lấn biển, tập trung tại thị trấn Trần Đề 55,7 ha, tại xã Trung
Bình: 642,4 ha.
Tại đây có 03 Tổ quản lý rừng, với 410 hộ dân được giao khoán diện tích
698,1 ha rừng, với tổng chi phí khoán bảo vệ rừng do Ngân sách cấp khoảng 310
triệu đồng/năm; ngoài ra người dân tại đây còn khai thác những sản vật trong rừng
như: Cá thòi lòi, cá bông lau, chù ụ, ba khía, cua con, cua thịt, dộp, ốc len… thu
nhập trung bình mỗi hộ dân khoảng 35 triệu đồng/năm (Hạt Kiểm lâm liên huyện
Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sóc Trăng, năm 2020
Hình 4.3. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng
♦ Huyện Cù Lao Dung:
97
Theo Quyết định số 320/QĐ-UBND ngày 06/3/2020 của Chủ tịch UBND
huyện Cù Lao Dung về việc Phê duyệt kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019
trên địa bàn huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Tổng diện tích rừng: 1.712,70 ha
rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; trong đó rừng bần tại xã An Thạnh 2: 7,7 ha,
xã An Thạnh 3: 131,1 ha, xã An Thạnh Đông: 22,4 ha, xã Đại Ân 1: 19,9 ha và xã
An Thạnh Nam: 1.531,6 hécta.
Hiện nay, tại huyện Cù Lao Dung có 03 Tổ quản lý rừng, với 580 hộ dân
nhận diện tích rừng được giao quản lý là: 1.374,7 ha, kinh phí khoán bảo vệ rừng
Ngân sách cấp khoảng 618,6 triệu đồng/năm, đây là khoản thu nhập để sinh hoạt
tối thiểu cho hộ; ngoài ra người dân tại đây còn khai thác thủy hải sản trong rừng
như: Cá bóng sao, cá kèo con, cá kèo thịt, cá thòi lòi, ba khía, cua con, cua thịt,
dộp, ốc len, nghêu giống, nghêu thịt… thu nhập trung bình mỗi hộ dân khoảng 65
triệu đồng/năm (Hạt Kiểm lâm liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung,
2020).
Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sóc Trăng, năm 2020
Hình 4.4. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng
98
4.4.2. Kết quả đánh giá giá trị tạo thu nhập từ sản phẩm rừng bần
♦ Mô tả đặc điểm hộ dân:
Giới tính và thành phần dân tộc của chủ hộ: Trong 210 hộ khảo sát, giới
tính nam chiếm 83,8%. Việc nhận khoán bảo vệ rừng chiến đa số là nam, bởi đây
là công việc nặng nhọc, độc hại, khá nguy hiểm và rủi ro khi sinh hoạt, làm việc
trong môi trường rừng sâu.
Hộ dân chủ yếu là người Kinh (71,4%), còn lại chủ yếu là dân tộc Khơmer,
họ sống đan xen và đoàn kết với nhau, cùng nhau kiếm kế mưu sinh và kết tình
thông gia với nhau không phân biệt đối xử, đây cũng là nét đẹp đặc trưng của
người dân miền Tây.
♦ Tình trạng đương đầu với cú sốc tự nhiên và tiếp cận tín dụng:
Người dân sinh sống xung quanh rừng bần nằm vị trí sát cửa biển, do đó họ
rất cảnh giác với sự biến động của thiên nhiên như: Gió, bão, sóng thần; cơn bão số
5 năm 1997 đã quét ngang, thiệt hại về người không lớn nhưng thiệt hại vật chất
cho người dân nơi đây là vô cùng lớn, đến hiện nay học vẫn cảnh giác và lo sợ.
Như đã trình bày ở Chương 3, người dân sống xung quanh rừng bần thuộc
diện hộ nghèo và cận nghèo chiếm tỷ lệ khá cao so với mặt bằng chung trong khu
vực; tiếp cận ngân hàng để vay vốn chủ yếu là Ngân hàng chính sách xã hội ở các
huyện, hình thức vay tín chấp thông qua các hội đoàn thể địa phương để thoát
nghèo, do vậy tỷ lệ số hộ vay khá cao, chiếm 67,1%.
♦ Các đặc trưng khác:
Trình độ học vấn trung bình của chủ hộ là lớp 7; số nhân khẩu trung bình là
3 nguời/hộ; Diện tích đất rừng bần được giao khoán quản lý trung bình là 4,2 ha.
Tỷ lệ người sống phụ thuộc của hộ dân khá cao, chiến 75%, thông thường các hộ
có con còn đang đi học, họ chưa đến tuổi lao động, chưa tạo được thu nhập cho
bản thân, xem Bảng 4.1.
99
Bảng 4.1. Các đặc trưng khác
Trung bình
7
3
42
Tiêu chí
Trình độ học vấn (năm học)
Quy mô nhân khẩu hộ (người)
Diện tích đất sản xuất (1.000 m2)
Tỷ lệ phụ thuộc (%)
75
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Tổng hợp từ 210 Phiếu khảo sát, thu nhập trung bình của hộ từ rừng bần
trong năm là 18,174 triệu đồng/ha/năm bao gồm: Lương khoán, các sản phẩm thủy
sản và sản phẩm phụ (trái bần chín, mật ong…) của rừng bần được giao khoán
quản lý, đươc trình bày chi tiết tại Bảng 4.2.
Từ kết quả Bảng 4.2 thấy rằng, các sản phẩm từ rừng bần khá đa dạng,
phong phú mang lại giá trị kinh tế cao cho thu nhập của hộ gia đình. Cụ thể sau:
● Khai thác cua thịt: Mang lại thu nhập 4,2 triệu đồng/ha/năm, chiếm tỷ
trọng 23,12%. Qua thực tế điều tra, khảo sát trên địa bàn nghiên cứu đều có hiện
diện Cua thịt, nhưng tập trung nhiều nhất là trong rừng bần Cù Lao Dung, kế đến
rừng bần xã Long Vĩnh. Cua thịt từ rừng bần rất ngon, chẳng thua gì cua Rạch Giá,
Kiên Giang; cua Rạch Gốc, Cà Mau.
● Khai thác cá Kèo giống: Thu nhập từ nguồn khai thác cá kèo giống mang
lại 2,5 triệu đồng/hộ/năm, chiếm tỷ trọng 14,15% thu nhập; hàng năm vào tiết
tháng 8 đến tháng 10, người dân dùng lưới mùng giăng bắt cá Kèo con để bán lại
cho người nuôi cá Kèo thương phẩm, khi thời tiết thuận lợi mỗi ngày có người thu
hoạch hàng chục triệu đồng, việc khai thác cá Kèo tập trung nhiều ở rừng Cù Lao
Dung và Trần Đề.
● Khai thác Nghêu thịt: Việc khai thác Nghêu thịt tập trung ở ven rừng bần
Cù Lao Dung và rừng bần Long Vĩnh, mang lại giá trị kinh tế khá cao, thời gian
khai thác vào khoảng tháng 01 đến tháng 5 hàng năm, người dân dùng “cào” kéo
100
trên bề mặt lớp bùn để bắt, mỗi ngày trung bình một người cào từ 10 đến 20 kg
Nghêu, thu nhập từ 4 đến 5 trăm nghìn.
Bảng 4.2. Các sản phẩm từ rừng bần tạo thu nhập trung bình của hộ gia đình
TT
Tên sản phẩm tạo thu nhập
Thành tiền
(Triệu đồng/ha/năm)
Tỷ trọng
giảm dần
(%)
1 Khai thác Cua thịt
4,201
23,12
2 Khai thác cá Kèo con giống
2,572
14,15
3 Khai thác Nghêu thịt
2,420
13,32
4 Lương khoán bảo vệ rừng
1,890
10,40
5 Khai thác cá Kèo thịt
1,422
7,82
Các sản phẩm khác: Tôm, cá, ốc, mật
ong …
6
1,387
7,63
7 Khai thác Cua con giống
0,850
4,68
8 Khai thác Ba Khía thịt
0,840
4,62
9 Khai thác Dộp thịt
0,650
3,58
10 Khai thác cá Đối thịt
0,640
3,52
11 Khai thác Nghêu giống
0,452
2,49
12 Khai thác cá Thòi Lòi thịt
0,430
2,37
13 Khai thác trái bần chín
0,420
2,31
100
TỔNG CỘNG:
18,174
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
● Lương khoán bảo vệ rừng: Thu nhập bình quân 1.890.000 đồng/hộ/năm,
chiếm 10,40% thu nhập của hộ, mức khoán hiện nay theo Nghị định 119/2016/NĐ-
CP là: 450/ha/năm, theo kết quả khảo sát 210 hộ dân được nhận khoán rừng và
phỏng vấn các nhân viên quản lý Hạt Kiểm lâm đều cho rằng là quá thấp, thời gian
tới cần điều chỉnh mức cao là: 600.000 đồng/ha/năm là phù hợp.
101
● Khai thác cá Kèo thịt: Mùa khai thác tập trung từ tháng 8 đến tháng 12
hàng năm, người đánh bắt bằng lưới, đặt lộp, đuôi chuột; thu hoạch hàng ngày có
thể lên đến hàng chục kg, giá bán ra mỗi kg dao động từ 60 đến 70 nghìn đồng, tạo
thu nhập khá cao cho người dân.
● Khai thác cua giống: Chiếm 4,68% thu nhập trung bình của hộ, việc khai
thác diễn ra liên tục trong năm (trừ thời tiết xấu và nước dâng cao), khi nước rút
xuống người dân đi sâu vào rừng, tìm bắt những con giống, tùy kích cỡ cua, mỗi
con có giá dao động từ 2 đến 10 nghìn đồng, mỗi người bắt một ngày vài trăm con
cua giống. Rừng bần là môi trường rất tốt để cua sinh sôi nảy nở, kết quả khảo sát
trên 3 khu rừng bần nghiên cứu đều cho sản lượng thu hoạch khá tương đồng.
● Khai thác Ba khía thịt: Chiếm tỷ trọng 4,62% thu nhập trung bình của hộ
dân, việc bắt Ba khía diễn ra quanh năm vào lúc 19 giờ đến 02 giờ sáng vào những
đêm mặt Trăng lặn. Ba khía sinh sống và phát triển rất nhanh trong môi trường
rừng bần tại khu vực nghiên cứu, khi thu hoạch Ba khía, người dân bán cho thương
lái đến nơi thu gom, giá bán trung bình 50 nghìn đồng/kg; trung bình mỗi người
dân đi bắt một đêm từ 10 đến 30 kg, tạo thêm thu nhập cho người dân.
● Khai thác Dộp: Việc khai thác Dộp hàng năm tăng thu nhập 3,58% của
hộ, nhưng là nguồn thu nhập khá ổn định vì khai thác quanh năm. Dộp sinh sống
trong lớp bùn non dưới gốc tán bần dọc theo bãi bồi, việc khai thác Dộp diễn ra
quanh năm, vào những hôm trời sáng, khi nước rút cạn (nước ròng), người dân đi
vào các bãi bồi dưới tán rừng, dùng tay (có bảo hộ) là thu hoạch được Dộp; việc
tìm bắt Dộp đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, do Dộp ẩn dưới lớp bùn non rất khó phát
hiện, giá thương lái thu mua tại nơi khai thác từ 15 đến 25 nghìn đồng/kg, trung
bình mỗi người dân đi bắt khoảng 15 đến 30 kg. Dộp thu hoạch trong rừng bần rất
ngon, nhiều thịt và không có lẫn cát như Dộp các vùng khác, mua về có thể chế
biến món ăn ngay không cần “ngâm cho Dộp nhả cát”; do vậy Dộp ở nơi đây được
thị trường rất ưu chuộng, bán được giá cao.
102
● Khai thác cá Đối: Cá Đối khai thác quanh năm, khi nước dâng cao, người
dân dùng lưới đánh bắt, khi trúng “con nước” có thể thu hoạch 40 đến 50 kg, giá
bán khoảng 40 nghìn đồng/kg, cá Đối sinh sống trong rừng bần được người dùng
rất ưa chuộng, thịt ngọt, béo; có thể chế biến ăn tươi hoặc dùng làm khô để dự trữ
ăn dần.
● Khai thác Nghêu giống: Vào đầu mùa mưa hàng năm, từ tháng 5 đến cuối
tháng 7. Nghêu giống xuất hiện rất nhiều ở bãi bồi Cù Lao Dung và rừng Long
Vĩnh; việc thu hoạch khi nước đã rút cạn, đòi hỏi tính kiên trì, vất vả, dụng cụ thu
hoach khá đơn giản, phải có phương tiện ghe, tàu để đánh bắt và đi theo nhóm, mỗi
nhóm đánh bắt từ 0,5 kg đến 03 kg, tùy thuộc vào thời tiết và thủy triều; giá Nghêu
giống dao động từ 8 triệu đến 15 triệu đồng/kg, tùy theo kích cỡ Nghêu và nhu cầu
của thị trường; đến mùa thu hoạch, thương lái từ nhiều nơi như: Cà Mau, Bạc Liêu,
Tiền Giang, Nam Định và Hải Phòng vào thu mua về nuôi.
● Khai thác cá Thòi lòi: Thu nhập trung bình khoảng 430 nghìn
đồng/hộ/năm, nhưng trên thực tế chỉ một số hộ chuyên đánh bắt Thòi lòi thịt, việc
đánh bắt đòi hỏi kinh nghiệm, việc đánh bắt Thòi lòi thịt diễn ra quanh năm, một
người có thể đánh bắt 02 đến 06 kg/ngày, tùy thuộc vào thời tiết và thủy triều; giá
bán Thòi lòi thịt khá cao, dao động từ 100 đến 160 nghìn đồng/kg tùy theo trọng
lượng; thị trường tiêu thu rất mạnh, khu vực thích hợp cho Thòi lòi sinh trưởng là
vùng bãi bồi dọc theo các cửa sông, kênh rạch đan xen với rừng bần đổ ra biển.
● Khi thác trái Bần chín: Thông thường đến mùa Bần chín (vào khoảng
tháng 5 đến tháng 7), người dân chỉ lượm về nấu ăn trong gia đình, hoặc bán cho
người câu cá dùng làm “mồi” câu cá Bông lau, cá Ngác, cá Tra bần hoặc mang ra
chợ bán với người mua nhỏ lẻ mang lại thu nhập không cao; số Bần chín còn lại
trôi sông, trôi biển bỏ đi. Đến năm 2012 tại huyện có cơ sở thu mua trái Bần chín
với giá 8.000 đồng/1kg, bình quân một người đi lượm khoảng 20 kg mất thời gian
1 giờ, một người có thể lượm 50 kg/buổi; có thể xem cây Bần là cây “xóa đói,
giảm nghèo” cho những người lao động không có đất, không có vốn sản xuất, kinh
103
doanh; sản phẩm “Nước cốt trái Bần” của cơ sở Ngọc Hồng đã có thương hiệu trên
thị trường, hàng năm tiêu thụ khoảng 30 đến 50 tấn trái Bần chín nguyên liệu.
● Khai thác các sản phẩm khác: Ngoài các sản phẩm từ rừng bần đã nêu
trên, trong rừng bần có các loài thủy hải sản khác như: tôm sú, tôm thẻ, ốc Len, ốc
Lá, con Lịch, con Đồm độp… là sản phẩm đóng góp cho thu nhập trung bình hộ
dân 420 nghìn đồng, chiếm 2,31% tổng thu nhập hộ.
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Hình 4.5. Tỷ trọng các sản phẩm tạo thu nhập hộ gia đình/ha/năm
Tỷ trọng thu nhập trung bình hộ/ha/năm được thể hiện Hình 4.5.
Tóm lại, từ kết quả tổng số hộ dân sống ven rừng bần nhận khoán rừng tại
địa bàn nghiên cứu tổng cộng là: 3.169,8 ha (Mục 4.1.1, Chương 4), với thu nhập
bình quân khai thác sản phẩm từ rừng bần là 18,174 triệu đồng/ha/năm. Như vậy,
tổng thu nhập của hộ dân sống ven rừng bần tại địa bàn nghiên cứu là:
Thu nhập = 3.169,8 ha x 18,174 triệu đồng/ha/năm = 57.607,945 triệu
đồng/năm.
4.4.3. Kết quả hồi quy của mô hình tạo thu nhập
Sau khi thực hiện các bước kiểm định, kết quả hồi quy Bảng 4.3 như sau:
104
Bảng 4.3. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy
Hệ số chưa
chuẩn hóa
Hệ số
chuẩn
hóa
Thống kê
cộng
tuyến
t
Sig.
Beta
Tolerance
VIF
B
20,852
0,274
1,630
1,224
-0,533
0,078
1,297
0,280
2,215
-2,240
11,460
Std.
Error
1,929
0,093
0,838
0,636
0,270
0,028
0,651
0,126
0,877
0,812
0,994
10,808
2,955
0,117
1,946
0,081
1,925
0,074
-1,975
-0,085
2,825
0,113
1,994
0,077
2,227
0,086
2,525
0,149
-0,110
-2,760
0,725 11,527
0,000
0,004
0,053
0,056
0,050
0,005
0,048
0,027
0,012
0,006
0,000
1,077
1,189
1,029
1,268
1,102
1,033
1,030
2,400
1,090
2,723
0,929
0,841
0,972
0,788
0,907
0,968
0,971
0,417
0,918
0,367
(Constant)
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
R2 hiệu chỉnh
Giá trị F
Sig.
Durbin - Watson
0,697
44,637
0,000
1,929
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Kết quả ước lượng mô hình hồi quy (bảng 4.3) cho thấy 10 biến có ý nghĩa
thống kê, trong đó 04 biến có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (X1, X5, X9, X10), 04
biến có ý nghĩa thống kê ở mức 5% (X4, X6, X7, X8) và 02 biến có ý nghĩa thống
kê ở mức 10% (X2, X3); R2 hiệu chỉnh = 69,7% (69,7% thay đổi thu nhập của hộ
dân được giải thích bởi 10 biến độc lập); Theo Fomby và cộng sự (1984), giá trị
thống kê Durbin - Watson = 1,929 lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3 (Không có hiện tượng
tự tương quan phần dư); VIF < 10 (Không có hiện tượng đa cộng tuyến của các
biến độc lập).
Đối với phương sai phần dư, nghiên cứu sử dụng kiểm định White (1980).
Kết quả kiểm định hệ số White nhỏ hơn giá trị thống kê bảng nên không có hiện
phương sai phần dư thay đổi.
105
Thông qua các kiểm định trên, mô hình khẳng định có 10 yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập dân sống xung quanh rừng bần: X1, X2, X3, X4, X5, X6, X7, X8, X9, X10.
Mức độ tác động của các yếu tố được trình bày Bảng 4.4.
Vị trí tác
động
3
8
10
7
4
9
6
2
5
1
Các biến độc lập
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
Tổng
Giá trị tuyệt
đối Beta
0,117
0,081
0,074
0,085
0,113
0,077
0,086
0,149
0,110
0,725
1,617
Tỷ lệ %
7,2
5,0
4,6
5,3
7,0
4,8
5,3
9,2
6,8
44,8
100
Bảng 4.4. Mức độ tác động của các yếu tố
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Mức độ tác động theo thứ tự từ lớn đến nhỏ nhất: Tiếp cận vốn vay từ các
định chế chính thức (X10); Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương (X8); Học vấn
(X1); Diện tích đất sản xuất (X5); Cú sốc tự nhiên X9); Số hoạt động sản xuất - kinh
doanh tạo thu nhập X7); Quy mô hộ X4); Giới tính chủ hộ (X2); Thu nhập từ sản
phẩm rừng bần (X6); Thành phần dân tộc của chủ hộ (X3).
Trong điều kiện rừng bần tại ĐBSCL, nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập hộ dân sống xung quanh rừng bần theo thứ tự tác động, gồm:
(i) Vốn tài chính, (ii) vốn xã hội, (iii) vốn con người, (iv) vốn vật chất, và (v) vốn
tự nhiên.
* Thảo luận kết quả hồi quy:
Để nâng cao thu nhập cho hộ dân, 5 vấn đề cần quan tâm giải quyết:
● Nâng cao năng lực vốn tài chính cho các hộ dân thông qua tạo điều kiện
cho hộ tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
106
triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội) và các Quỹ tài trợ phát triển và bảo
vệ RNM ven biển, đặc biệt là các phương án khai thác thủy sản và phụ phẩm rừng
bần có hiệu quả kinh tế và gắn với cân bằng sinh thái.
● Mở rộng vốn xã hội cho các hộ dân thông qua tác động của hiệp hội Nông
dân, Trung tâm khuyến nông, Trung tâm khuyến lâm bằng các hình thức Câu lạc
bộ, tập huấn các mô hình sản xuất hiệu quả, kỹ thuật mới, thông tin thị trường,
biến động của môi trường RNM.
● Duy trì năng lực vốn con người thông qua các chính sách nâng cao dân trí
cho con em hộ dân, tỷ lệ sinh hợp lý, vai trò phụ nữ tham gia sản xuất - kinh
doanh, đặc biệt là quan tâm đến người đồng bào dân tộc và người yếu thế trong xã
hội.
● Nâng cao vốn vật chất cho các hộ dân thông qua việc áp dụng mô hình
thâm canh rừng, đa dạng các loại hình sản xuất nông - lâm - nuôi trồng thủy sản ở
vùng đệm và chế biến sản phẩm từ bần, dịch vụ du lịch sinh thái rừng bần.
● Tích cực củng cố vốn tự nhiên thông qua đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
dự án bảo vệ, khôi phục và phát triển RNM nhằm hạn chế tối đa những cú sốc tự
nhiên, ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ dân sống xung quanh vùng rừng bần.
Để có cách nhìn tổng quát các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ dân từ
sản phẩm rừng bần trong nghiên cứu, trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập của chủ hộ được thể hiện tại Phụ lục A.3.
4.5. Kết quả giá trị du lịch rừng bần ngập mặn
4.5.1. Đặc điểm mẫu điều tra rừng bần ngập mặn huyện Cù Lao Dung
Đặc điểm của du khách trong nghiên cứu được trình bày trong Bảng 4.5.
107
Bảng 4.5. Đặc điểm của du khách đến RBNM huyện Cù Lao Dung
Tiêu chí
Trung bình
Số quan
sát
Độ lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị lớn
nhất
250
1,05
0,214
1
2
trong
250
5,18
1,779
2
11
Số lượt tham quan
(Lần/Năm)
Số người
nhóm (Người)
250
154,15
90,893
38
360
Khoảng cách đến
điểm du lịch (Km)
250
120,87
57,428
41
460
250
43,71
18,444
16
72
250
14,81
2,660
6
24
250
0,82
0,382
0
1
250
0,92
0,278
0
1
bình
250
72,33
11,455
42
97
Thu nhập gia đình
(Triệu đồng/Năm)
Tuổi người được
phỏng vấn (Tuổi)
Số năm đi học
(Năm)
tính người
Giới
được phỏng vấn
(Nam=1, nữ=0)
Hôn nhân (Có gia
đình=1,
độc
thân=0)
Ăn
uống
quân/người
(Nghìn đồng)
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Với lượng du khách hàng năm khoảng 2.800 người (chỉ tính du khách đi
bằng phương tiện xe ô tô) và số mẫu phỏng vấn là 250 quan sát. Trung bình mỗi du
khách đến tham quan 1,05 lần/năm, điều này cho thấy điểm tham quan RBNM
huyện Cù Lao Dung còn mới, chưa thu hút được khách đến thăm. Số người đi
trong nhóm nhỏ nhất là 02 người, nhiều nhất có 11 người. Khoảng cách gần nhất
38 km, xa nhất là 360 km. Thu nhập gia đình khá cao, thấp nhất là 41 triệu
đồng/năm, cao nhất đến 460 triệu đồng/năm. Độ tuổi trung bình du khách là 43,71
tuổi, nằm trong độ tuổi lao động trưởng thành. Số năm đi học trung bình của du
khách là 14,8 năm, cho thấy rằng mặt bằng chung du khách đã qua đào tạo trung
cấp chuyên môn. Đối với những du khách được phỏng vấn thì có đến 82% du
108
khách có giới tính là nam, phần lớn những người được phỏng vấn đã có gia đình,
chiếm đến 92%. Chi phí ăn, uống bình quân là 72.330 đồng/người/ngày.
4.5.2. Phương pháp xác định tổng giá trị du lịch
Để xác định tổng giá trị du lịch trong luận án thông qua phương pháp chi
phí du hành. Theo Bateman (1993) cho rằng, chi phí du hành được giả định cấu tạo
từ ba thành phần quan trọng: (1) Chi phí di chuyển, (2) chi phí ăn uống, và (3) chi
phí cơ hội của thời gian, được nêu trong các thành phần sau:
(1) Chi phí di chuyển:
Chi phí di chuyển hay chi phí đi lại của du khách đến nơi du lịch được chia
làm ba cách để tính toán: (i) Chỉ gồm chi phí nhiên liệu; (ii) gồm cả tiền xăng, tiền
bảo dưỡng, bảo hiểm…, và (iii) dựa theo chi phí được phỏng đoán bởi du khách.
Theo Bateman (1993), các chi phí này chỉ khác biệt nhau rất lớn ở tính thặng dư,
còn các hệ số thống kê có sự khác biệt rất ít, cách tính (i) được khuyên dùng để cho
ra kết quả dự báo tốt nhất, nhưng thực tế di chuyển đến huyện Cù Lao Dung thì tất
cả phương tiện phải trả phí qua phà và thuê tàu du lịch nên trong trường hợp này
phải tính thêm chi phà và tàu du lịch vào chi phí di chuyển.
(2) Chi phí ăn uống:
Theo Centeno và cộng sự (2000), cần phải cẩn trọng khi tính toán đến chi
phí này vì không phải là chi phí tuyệt đối do đôi khi đối với một số du khách, việc
thưởng thức ẩm thực trân chuyến đi là một trải nghiệm khi du lịch; như vậy, chỉ có
tiền chi cho ăn uống trên đường du hành hoặc chi phí để chuẩn bị thức ăn mang
theo được tính vào chi phí du hành.
(3) Chi phí cơ hội của thời gian:
Một chi phí rất quan trọng là chi phí cơ hội của thời gian để đánh đổi cho
việc đi du lịch, cách tính toán chi phí này hiện nay còn là chủ đề quan trọng; nhưng
theo Armbrecht (2014), Chen và cộng sự (2004), De và Devi (2011), Gurluk và
109
Rehber (2007), Dehlavi và Adil (2011)… đều chọn tỷ lệ chi phí cơ hội theo tiền
lương ngày bằng 1/3 được áp dụng phổ biến, xem như một ngày làm việc 8 giờ.
4.5.3. Xác định tổng giá trị du lịch
(1) Phân vùng du khách
Lấy điểm du lịch RBNM huyện Cù Lao Dung làm trung tâm, khoảng cách từ
trung tâm đến vị trí xuất phát là bán kính. Các điểm xuất phát của du khách được tổ
hợp theo các tỉnh, thành phố (gọi tắt là tỉnh). Trong khi đó, tổng dân số trưởng thành
của mỗi vùng (Pi) được tính bằng cách thống kê tổng số dân trưởng thành của các
tỉnh (số liệu phục vụ tính toán được thu thập từ Niên giám thống kê năm 2018).
Bảng 4.6 trình bày cụ thể các số liệu về vùng xuất phát của du khách và tỷ lệ tham
quan (Vi).
110
Bảng 4.6. Phân vùng theo điểm xuất phát của du khách và tỷ lệ tham quan
Khoảng
cách
Tổng số
người trong
độ tuổi LĐ
Tỷ lệ
(%)
Vùng Xuất
phát (tỉnh)
Lượng khách
trung bình
(Vi= 2.800 x
tỷ lệ %)
(Pi)
(Km)
Số
người
được
phỏng
vấn
Tỷ lệ tham
quan trên
1.000 dân
(‰)
VRi=(Vi/Pi)x
1.000
12,8
Sóc Trăng
32
358
737.700
38
48,58
Trà Vinh
16
6,4
179
619.300
58
28,94
Bạc Liêu
16
6,4
179
517.000
90
34,66
Cần Thơ
24
9,6
269
730.400
94
36,8
Vĩnh Long
18
7,2
202
636.900
106
31,65
Hậu Giang
18
7,2
202
481.200
110
41,9
Cà Mau
10
4
112
715.600
160
15,65
Kiên Giang
10
4
112
1.009.300
190
11,1
Đồng Tháp
15
6
168
1.137.200
160
14,77
Tiền Giang
15
6
168
1.135.500
200
14,8
An Giang
15
6
168
1.234.900
160
13,6
Long An
25
10
280
901.300
240
31,07
TP. HCM
15
6
168
4.469.000
290
3,76
Bình Dương
10
4
112
1.330.300
320
8,42
Đồng Nai
8
3,2
90
1.639.200
360
5,47
Tây Ninh
3
1,2
34
664.300
360
5,06
Cộng:
250
100
2.800
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Số liệu Bảng 4.7 cho thấy, du khách được phỏng vấn đến từ 16 tỉnh, thành
trong cả nước, trong đó có 12 tỉnh, thành thuộc khu vực ĐBSCL.
Một số điểm lưu ý khi chọn nhóm du lịch để khảo sát:
Thứ nhất, chỉ phỏng vấn những nhóm du khách đi đến địa điểm nghiên cứu
đã có chương trình kế hoạch tham quan, thưởng ngoạn, những du khách đi bằng
111
phượng tiện ô tô và có tổ chức thành nhóm, đoàn; loại bỏ những nhóm đến nhiều
địa điểm, sau đó ghé ngang tham quan, hoặc những nhóm đi dưới dạng “phượt”
hoặc “tò mò” (Nguyen Thi Hai và Tran Duc Thanh, 1999) sẽ làm cho mẫu khảo sát
ít bị chệch hơn do đã lọc bỏ các quan sát “thừa” (Võ Tất Thắng và cộng sự, 2017).
Thứ hai, không phỏng vấn khách nước ngoài, do lượng khách nước ngoài
hàng năm đến tham quan, du lịch là không đáng kể.
Thứ ba, du khách đến tham quan trong ngày, vì nơi đây không có chỗ nghỉ.
Thời gian tiến hành khảo sát: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2019
đến tháng 12 năm 2019, thời gian này khí hậu và thời tiết tại RBNM huyện Cù Lao
Dung là tốt nhất và thuận lợi nhất cho du khách đến tham quan.
Số khảo sát nhóm du khách tại thành phố Sóc Trăng chiếm tỷ lệ cao nhất
với 12,80%, du khách tỉnh Long An là 10,00%, tỉnh Tây Ninh có tỷ lệ thấp nhất
1,20%… Các tỉnh có khoảng cách càng xa, số lượng nhóm tham quan càng ít dần.
Các nhóm du lịch đến RBNM huyện Cù Lao Dung đều có nhận định,
RBNM huyện Cù Lao Dung là vùng “độc nhất vô nhị” trên cả nước; với đặc thù
toàn cây bần cao vút, một màu xanh bạt ngàn, bao bọc bởi 02 cửa sông, dãy rừng
hướng ra biển đông mang vẻ đẹp kỳ bí; thức ăn tươi, ngon, với những món ăn chế
biến từ thủy, hải sản sinh sống trong rừng, rất thiên nhiên và hoang dã. Do đó, việc
khai thác, phát triển, bảo vệ rừng là hướng đi đúng đắn và bền vững.
(2) Xác định tỷ lệ tham quan
Từ kết quả Bảng 4.7, tỷ lệ tham quan cao tập trung ở những tỉnh gần như:
Sóc Trăng là 48,58‰, Hậu Giang có 41,90‰, và thấp nhất là thành phố Hồ Chí
Minh có 3,76‰. Thực tế cho thấy địa bàn càng xa, du khách tham quan càng ít,
trong khi điểm du lịch RBNM huyện Cù Lao Dung còn khá mới, nên ít người biết
đến.
(3) Xác định chi phí du lịch, bao gồm: chi phí đi lại (CP1), Chi phí cơ hội
thời gian (CP2), và chi phí ăn, uống (CP3), cụ thể sau:
112
● Tính chi phí đi lại (CP1), bao gồm: Chi phí qua phà, chi phí nhiên liệu, và
phí thuê tàu du lịch.
Chi phí qua phà: Các phà Đại Ngãi 1, ngang cửa Trần Đề vả phà Đại Ngãi
2 qua cửa Định An, phí ô tô qua phà là: 50.000 đồng/xe/chuyến (Quyết định số
13/2018/QĐ-UBND ngày 29/5/2018 của UBND tỉnh Sóc Trăng).
Chi phí nhiên liệu: Căn cứ tại tiết b, khoản 2, Điều 5, Thông tư số
40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính, quy định chế độ công tác phí,
chế độ chi hội nghị, quy định đi công tác: “tự túc bằng phương tiện cá nhân của
mình thì được thanh toán khoán tiền tự túc phương tiện bằng 0,2 lít xăng/km tính
theo khoảng cách địa giới hành chính và giá xăng tại thời điểm đi công tác và được
quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị”. Giá xăng tại thời điểm khảo sát
tương đương 20.000 đồng/lít.
Chi phí thuê tàu du lịch: Chi phí cho một chuyến tàu tham quan dao động
khoảng 1.500.000 đồng/chuyến cho 50 du khách (giá cả thỏa thuận). Quy mô
nhóm khảo sát từ 2 đến 11 người, do đó khi đi tham quan phải ghép nhóm. Nghiên
cứu khảo sát trung bình khoảng 2 đến 4 nhóm ghép một chuyến tàu. Lấy trung
bình 3 nhóm thuê một chuyến, như vậy chi phí thuê tàu mỗi nhóm là 500.000
đồng/chuyến. Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 4.7.
113
Bảng 4.7. Chí phí đi lại (CP1) điểm du lịch
TT
Vùng
xuất phát
Khoảng
cách
(Km)
Chi phí ô
tô (4.000
VND/Km)
Tổng chi
phí (CP1)
(Đồng)
Số người
tham gia
nhóm
(Người)
Tàu
DL+Chí
phí phà
(Đồng)
Số
nhóm
phỏng
vấn
(Phiếu)
173
78
91
113
96
91
50
1
2
3
4
5
6
7
38
58
90
94
106
110
160
110.983
123.077
105.495
127.434
112.500
118.681
120.000
1.757
5.949
7.912
6.655
8.833
9.670
25.600
112.740
129.026
113.407
134.088
121.333
128.352
145.600
54
8
10
190
111.111
28.148
139.259
80
15
9
160
112.500
16.000
128.500
73
10
15
200
123.288
21.918
145.205
80
129
81
15
25
15
160
240
290
112.500
116.279
111.111
16.000
14.884
28.642
128.500
131.163
139.753
53
14
10
320
113.208
48.302
161.509
Sóc Trăng 32
16
Trà Vinh
Bạc Liêu
16
24
Cần Thơ
Vĩnh Long 18
Hậu Giang 18
10
Cà Mau
Kiên
Giang
Đồng
Tháp
Tiền
Giang
11 An Giang
12 Long An
13 TP. HCM
Bình
Dương
41
11
15 Đồng Nai
16 Tây Ninh
8
3
360
360
117.073
163.636
70.244
261.818
187.317
425.455
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
● Chi phí cơ hội của thời gian (CP2):
Như đã nêu ở mục 3.3.4, chi phí cơ hội được tính bằng 1/3 tiền lương, đây
là cách tính được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng như: Du (1998), Chen và cộng sự
(2004), Phạm Khánh Nam và Trần Vũ Hùng Sơn (2005), De và Devi (2011), Võ
Tất Thắng và cộng sự (2017).
Áp dụng cho nghiên cứu là hiện nay các tỉnh, thành phố không có số liệu
thống kê về tiền lương trung bình cho từng khu vực. Trong khi đó, theo thống kê
của Ngân hàng thế giới (WB) thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam năm
2017 là 6.775 USD/năm (Niên giám Thống kê, 2017; Võ Tất Thắng và cộng sự,
114
2017). Chi phí cơ hội của thời gian cho một ngày du lịch đến rừng bần huyện Cù
Lao Dung được tính như sau:
CP2 = 6.775 (USD) x 23.000 (đồng)/(3x26x12) = 166.480 đồng/ngày/người.
Trong đó, mẫu số (3x26x12) được giải thích như sau: Giờ nhân với ngày
nhân với tháng, 24 giờ chia cho 3 = 8 giờ làm việc, 1 tháng chia cho 26 ngày = 1
ngày làm việc và 1 năm chia cho 12 tháng ra 01 tháng như vậy có được giá trị một
ngày làm việc của một người để tính chi phí cơ hội quy thành tiền trong 1 ngày.
Nhận xét: Kết quả trên khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, bởi nếu
tính theo Nghị định 157/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định
mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động,
thì tiền lương bình quân ngày năm 2019 là 135.192 đồng.
● Chi phí ăn, uống (CP3): Du khách đến tham quan điểm du lịch RBNM
huyện Cù Lao Dung, chi phí ăn, uống trung bình cho các nhóm du khách đi từ các
tỉnh, thành một suất ăn uống chi cho một người tại Bảng 4.8.
115
Bảng 4.8. Tổng chi phí tham quan của từng vùng xuất phát
ĐVT: Đồng
Khoảng
CP1
CP2
CP3
TC
Vùng xuất
cách
TT
phát
(Phà, ô tô, tàu)
(CP cơ hội)
(Ăn, uống)
(Tổng CP)
(Km)
1 Sóc Trăng
38
112.740
166.480
53.250
332.470
2 Trà Vinh
58
129.026
166.480
58.500
354.005
3 Bạc Liêu
90
113.407
166.480
61.400
341.286
4 Cần Thơ
94
134.088
166.480
64.100
364.668
5 Vĩnh Long
106
121.333
166.480
72.500
360.313
6 Hậu Giang
110
128.352
166.480
75.300
370.131
7 Cà Mau
160
145.600
166.480
74.900
386.980
8 Kiên Giang
190
139.259
166.480
71.100
376.839
9 Đồng Tháp
160
128.500
166.480
75.700
370.680
10 Tiền Giang
200
145.205
166.480
82.700
394.385
11 An Giang
160
128.500
166.480
74.600
369.580
12 Long An
240
131.163
166.480
82.600
380.242
13 TP. HCM
290
139.753
166.480
83.100
389.333
14 Bình Dương
320
161.509
166.480
88.100
416.089
15 Đồng Nai
360
187.317
166.480
88.900
442.697
16 Tây Ninh
360
425.455
166.480
96.300
688.234
Cộng:
6.337.932
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
(4) Xây dựng đường cầu du lịch
Từ kết quả xử lý số liệu điều tra, kết quả hồi quy hàm cầu Bảng 4.9.
116
Bảng 4.9. Kết quả hồi quy mô hình hàm cầu du lịch
Chỉ tiêu
Hệ số (B)
Mức
ý
nghĩa
VIF
(Sig.)
Hằng số
57,750
0,003
TC
- 0,00009148
0,038
1,000
Hệ số tương quan bội R = 0,522
Hệ số Sig.F = 0,003
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Hệ số Sig.F = 0,003 nhỏ hơn so với mức ý nghĩa α = 0,5 chứng tỏ mô
hình hồi quy có ý nghĩa. Biến độc lập TC đưa vào mô hình có ý nghĩa thống
kê (Sig.= 0,038 < α = 0,05). Hệ số tương quan bội R = 0,522 cho thấy biến
phụ thuộc có mối tương quan với biến độc lập.
Dựa vào kết quả ước lượng trong Bảng 4.10, từ phương trình (1) thiết
VR = 57,750 – 0,00009148 x TC
lập phương trình hồi quy sau:
(4.1)
Từ phương trình 4.1, đồ thị thể hiện đường cầu du lịch RBNM huyện Cù
TC (đồng)
631.286
VR = 57,750 – 0,00009148 xTC
0 57,750 VR (‰)
Lao Dung của du khách trong nước được xây dựng như hình sau:
Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả, năm 2019
Hình 4.6. Đường cầu du lịch rừng bần huyện Cù Lao Dung của du khách
117
(5) Ước lượng giá trị du lịch và giá trị thặng dư du lịch
Diện tích nằm phía dưới đường cầu chính là giá trị du lịch của RBNM
huyện Cù Lao Dung mang lại cho xã hội. Diện tích này có thể được tính toán bằng
công thức tính diện tích tam giác thông thường:
S = ½ x 57,750 x 631.286 = 18.228.383,25 đồng/1.000 dân (4.2)
Đồ thị Hình 4.6 cũng thể hiện phần giá trị du lịch khi đến tham quan rừng
bần (S).
Dựa vào chi phí du hành trung bình TCi và tỷ lệ viếng thăm VRi của mỗi
vùng, ta tính được giá trị thặng dư cho mỗi vùng CSi. Tương tự như giá trị du lịch,
từ phương trình (4.2) thặng dư của du khách (CS) là diện tích tam giác được tạo
thành bởi đường cầu VR và đường chi phí TC, phần giá trị thăng dư được bằng
cách vận dụng công thức tính diện tích tam giác:
CS = ½ x VR x (631.286 – TC)
Thặng dư của du khách (CS) khi tham quan RBNM với một chi phí TCi
TC (đồng)
631.286
VR = 57,750 – 0,00009148 xTC
GTDL – CS: Chi tiêu
CS: Thặng dư
0 57,750 VR (‰)
được thể hiện tam giác CS (Hình 4.7).
Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả, năm 2019
Hình 4.7. Tổng giá trị du lịch của du khách
118
Theo Trần Võ Hùng Sơn và Phạm Khánh Nam (2001) định nghĩa, tổng giá
trị du lịch bằng tổng thặng dư cộng tổng chi tiêu. Bảng 4.11 trình bày tổng các giá
trị ước tính gồm các thành phần: Giá trị du lịch, thặng dư du khách, chi tiêu của du
khách từ mỗi vùng (Hình 4.7).
Nhận xét: Từ kết quả Bảng 4.10 cho thấy rằng, chỉ tính riêng với đối tượng
là khách nội địa, giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung mang lại cho toàn
xã hội và nền kinh tế trong một năm quy đổi dưới dạng tiền tệ là: 327.365,36 triệu
đồng. Giá trị này được phân phối, trước hết cho du khách khi đến RBNM huyện
Cù Lao Dung, những người đạt được lợi ích bằng cách thực hiện các hoạt động vui
chơi, giải trí, tham quan, du lịch dưới hình thức thặng dư du khách và cho các công
ty cung cấp dịch vụ du lịch dưới hình thức chi tiêu (Trần Võ Hùng Sơn và Phạm
Khánh Nam, 2001). Như vậy, các công ty cung cấp dịch vụ du lịch đến RBNM
huyện Cù Lao Dung hàng năm đạt được một lợi ích mang lại tương đương
291.208,01 triệu đồng từ việc phục vụ du khách. Trong khi đó, thặng dư của du
khách có được từ việc tham quan, du lịch RBNM huyện Cù Lao Dung là:
36.157,35 triệu đồng.
119
Bảng 4.10. Giá trị du lịch và giá trị thặng dư của khách các vùng xuất phát
Giá trị du lịch
Chi tiêu
Thặng dư du
khách CSi = Pi
x CS
Vùng xuất
phát
(Triệu đồng) GTDL – CSi
Thặng dư
du khách
CS
(Nghìn
đồng)
Số người
trưởng
thành Pi
(Nghìn
người)
GTDL=18.228.
383,25 x Pi
(Triệu đồng)
5.354,79
(Triệu đồng)
8.092,29
Sóc Trăng
7.258,76
737.700
13.447,08
2.484,43
8.804,40
Trà Vinh
4.011,68
619.300
11.288,84
Bạc Liêu
5.025,91
517.000
9.424,07
2.598,40
6.825,68
Cần Thơ
4.906,00
730.400
13.314,01
3.583,34
9.730,67
Vĩnh Long
4.288,60
636.900
11.609,66
2.731,41
8.878,25
Hậu Giang
5.470,57
481.200
8.771,50
2.632,44
6.139,06
Cà Mau
1.911,84
715.600
13.044,23
1.368,12
11.676,12
Kiên Giang
1.411,77 1.009.300
18.397,91
1.424,90
16.973,00
Đồng Tháp
1.924,98 1.137.200
20.729,32
2.189,09
18.540,22
Tiền Giang
1.752,50 1.135.500
20.698,33
1.989,97
18.708,36
An Giang
1.780,17 1.234.900
22.510,23
2.198,33
20.311,90
Long An
3.899,49
901.300
16.429,24
3.514,61
12.914,63
TP. HCM
454,78 4.469.000
81.462,64
2.032,41
79.430,24
Bình
905,89 1.330.300
24.249,22
1.205,10
23.044,12
Dương
Đồng Nai
515,42 1.639.200
29.879,97
844,88
29.035,09
Tây Ninh
7,72
664.300
12.109,11
5,13
12.103,99
Cộng:
327.365,36
36.157,35
291.208,01
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Bằng phương pháp chi phí du hành theo vùng, nghiên cứu đã xác định được
giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung, cũng như xây dựng được đường
cầu du lịch của du khách trong nước đối với RBNM huyện Cù Lao Dung. Đây là
một trong những nghiên cứu đầu tiên về giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao
Dung được tính toán bằng một nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu cho thấy
giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung là rất lớn. Vì vậy, nếu được quản lý,
120
khai thác tốt, kết hợp với bảo tồn và phát triển và tăng cường quảng bá, truyền
thông; thì số lượng du khách sẽ còn tiếp tục tăng lên, kéo theo sự gia tăng giá trị du
lịch địa phương. Nghiên cứu cũng đã góp phần làm phong phú thêm cho chủ đề về
giá trị cảnh quan và phương pháp chi phí du hành.
Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tế việc tổ chức triển khai du lịch tại địa
bàn nghiên cứu huyện Cù Lao Dung, còn những hạn chế, bất cập cần phải giải
quyết, như sau:
● Các hoạt động khai thác du lịch gắn liền với hệ sinh thái rừng còn kém
hiệu quả, hạ tầng phục vụ du lịch chưa được quan tâm đầu tư đồng bộ, sản phẩm
du lịch chưa phong phú, đa dạng, tổ chức du lịch mang tính tự phát, chưa chuyên
nghiệp.
● Tiềm năng du lịch tại RBNM huyện Cù Lao Dung còn rộng mở, tương lai
khi cầu Đại Ngãi 1 và cầu Đại Ngãi 2 xây dựng thông tuyến Quốc lộ 60, việc khai
thác, phát triển du lịch nơi đây mang lại nguồn lợi to lớn cho huyện Cù Lao Dung
nói riêng và cả tỉnh Sóc Trăng. Do đó, ngay từ bây giờ cầm sớm có quy hoạch, mời
gọi đầu tư phát triển du lịch là hướng đi hoàn toàn đúng đắn.
● Nguồn lực con người hiện nay làm du lịch tại huyện Cù Lao Dung mang
tính chấp vá, tự phát, chưa chuyên nghiệp, chưa được đào tạo bài bản; việc tổ chức
các tour du lịch vừa qua mang tính rập khuôn, máy móc, chưa khai thác được ưu
thế đặc trưng của vùng. Địa phương cần mở rộng các hoạt động dịch vụ như: câu
Cua Biển, câu Ba Khía, đuổi bắt cá Thòi Lòi, cá Bống Sao, giăng lưới bắt cá Đối,
cá Rô Phi; mở dịch vụ cào Nghêu, bắt Dộp, bắt ốc Len dưới tán rừng bần; bảo tồn
và phát triển đàn khỉ đuôi dài đang tồn tại và sinh sống rất lâu đời ở nơi đây.
● Cần có chính sách giao khoán rừng cho các Tổ Quản lý rừng, kết hợp
giữa bảo vệ, phát triển rừng bần và khai thác các sản phẩm từ rừng bần mang lại
thu nhập cho người dân nơi đây.
Bên cạnh những mặt đạt được, nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế như
khảo sát tập trung trong một khoảng thời gian ngắn (ba tháng) và chỉ khảo sát đối
121
tượng đi đến điểm nghiên cứu bằng phương tiện di chuyển xe ô tô và là khách
trong nước, mà chưa khảo sát đối tượng di chuyển đến bằng các phương tiện khác
và đối tượng khách quốc tế. Nghiên cứu kế thừa các lý thuyết trước đây về ứng
dụng phương pháp chi phí du hành theo vùng để xác định giá trị du lịch, nhưng chỉ
dừng lại ở mức tính toán giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung thông qua
ước lượng hàm cầu, chưa đi sâu vào xem xét các yếu tố nào ảnh hưởng lớn đến
hàm cầu du lịch tại RBNM huyện Cù Lao Dung. Do đó, các nghiên cứu tiếp theo
cần mở rộng thời gian phỏng vấn tại nhiều thời điểm trong năm, tăng số lượng
phiếu khảo sát, phỏng vấn nhiều nhóm đối tượng khảo sát và đưa du khách quốc tế
vào đối tượng khảo sát cùng với khách nội địa. Ngoài ra, nghiên cứu tiếp theo cần
định hướng vào các yếu tố có ảnh hưởng đến hàm cầu du lịch tại RBNM huyện Cù
Lao Dung, từ đó đề xuất những chính sách tốt hơn để kích cầu du lịch đến du lịch
tại RBNM huyện Cù Lao Dung ngày càng nhiều hơn trong thời gian tới.
4.6. Giá trị phòng hộ của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long
Rừng bần ngập mặn tại khu vực nghiên cứu đóng vai trò như một “tấm
đệm” chắn sóng có khả năng bảo vệ giảm bớt thiệt hại của gió, bão gây ra cho đê
biển, giúp duy trì được tính bền vững của đê. Hệ thống đê biển của khu vực nghiên
cứu có tổng chiều dài khoảng 109 km, trong đó chiều dài RBNM phòng hộ ven
biển 30,5 km, với tổng diện tích RBNM là 3.169 ha, nơi hẹp nhất là 0,5 km và nơi
rộng nhất là 6,5 km. RBNM đã có từ những thế kỷ trước đây, đến thập niên 80 của
Thế kỷ XX, rừng bần được người dân trồng bổ sung nhằm mục đích giữ đất, lấn
biển; loài cây rừng chủ yếu nơi đây là Bần chua.
Rừng bần tại ĐBSCL chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, mưa tập trung
từ tháng 6 đến tháng 11 dương lịch, trong cơn mưa thường xuất hiện những cơn
giông, lốc xoáy, triều cường; sau mỗi cơn mưa, rất nhiều đoạn đê biển bị phá vỡ
hoặc xói lở nghiêm trọng. Hàng năm ngân sách Trương ương và địa phương phải
bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để duy tu, bảo dưỡng đê biển; đai RBNM đã góp phần
tránh thiệt hại do mưa, bão và giảm chi phí đầu tư đê bao. Vốn đầu tư cho đê bao
được thống kê cụ thể phần sau.
122
4.6.1. Huyện Duyên Hải
Vốn đầu tư đoạn đê bao huyện Duyên Hải theo Quyết định số 2442/UBND-
NN ngày 10/7/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh về việc duy tu, bảo dưỡng
đê điều. Tổng đầu tư cho đê bao với chiều dài đê bao là: 1.965 m, với tổng kinh
phí: 1.499.600.000 đồng.
4.6.2. Huyện Trần Đề
Theo Quyết định số 706/QĐHC-CTUBND ngày 07/7/2018 của Chủ tịch
UBND tỉnh Sóc Trăng về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Đê biển
từ cầu Mỹ Thanh 1 đến cầu Mỹ Thanh 2, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, tuyến
đê biển với tổng chiều dài 21,240 km, tổng mức đầu tư của dự án: 169,7 tỷ đồng.
Căn cứ Quyết định số 2606/QĐHC-CTUBND ngày 10/9/2019 của Chủ tịch
UBND tỉnh Sóc Trăng về việc phê duyệt thiết kế và Dự án đầu tư xây dựng công
trình Nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn mặn từ cầu Mỹ Thanh 2
đến ranh Bạc Liêu, tỉnh Sóc Trăng; với tổng mức đầu tư của dự án: 263,564 tỷ
đổng, gồm các hạng mục: Nâng cấp tuyến đê hiện hữu 33,16 km đê biển để ngăn
triều cường xâm nhập, làm mới 3 km kè biển.
4.6.3. Huyện Cù Lao Dung
Theo Quyết định số 3103/QĐHC-CTUBND ngày 23/11/2018 của Chủ tịch
UBND tỉnh Sóc Trăng về việc phê duyệt điều chỉnh Tiểu dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng phục vụ chuyển đổi sản xuất phù hợp với điều kiện sinh thái, nâng cao sinh
kế, thích ứng biến đổi khí hậu vùng Cù Lao Dung (Dự án ICRSL); với tổng mức
đầu tư của dự án: 799,629 tỷ đồng, gồm các hạng mục: Nâng cấp 22,454 km đê để
ngăn triều cường xâm nhập, xây mới 02 tuyến đê, với chiều dài 39,892 km…
123
Bảng 4.11. Tổng hợp vốn đầu tư duy tu đê bao giai đoạn 2018 - 2019
TT Tên huyện Quyết định UBND tỉnh (Số
QĐ) Vốn đầu tư
(tỷ đồng) DT rừng
bần (ha)
1 Duyên Hải - QĐ 2442/UBND-NN 1,499 1.097
2 Trần Đề - QĐ 706/QĐHC-CTUBND 169,700 698,1
- QĐ 2606/QĐHC-
CTUBND 263,564
- QĐ 3103/QĐHC-
3 Cù Lao Dung CTUBND 779,629 1.374,7
1.214,392 3.169,8
Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả, năm 2019
Kết quả Bảng 4.11 cho thấy tổng chi phí (C) tránh được cho việc tu bổ đê
là: 1.214,392 tỷ đồng trong 02 năm, bình quân 1 năm tu bổ chi phí là: 607,196 tỷ
đồng/năm với tổng diện tích rừng bần (S) của địa bàn nghiên cứu là: 3.169,8 ha.
Áp dụng công thức (1) tính chi phí thay thế. Giá trị phòng hộ đê biển (B)
trung bình của một ha rừng bần được tính như sau:
B = 607 tỷ đồng/3.169,8 ha = 0,191 tỷ đồng/ha
RBNM tại ĐBSCL mang lại giá trị phòng hộ hàng năm tương đương với số
tiền: 191 triệu đồng/ha/năm.
Theo Quyết định số 120/QĐ-TTg, định kỳ 10 năm tiến hành bồi trúc đê bao
1 lần, như vậy chi phí bồi trúc đê hàng năm là: 607 tỷ đồng/10 năm = 60,7 tỷ
đồng/năm.
Như vậy RBNM tại ĐBSCL mang lại giá trị phòng hộ hàng năm tương
đương với số tiền: 60,7 tỷ đồng/năm.
4.7 Đề xuất các giải pháp phát triển rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long
4.7.1 Giải pháp về tạo thu nhập hộ gia đình
124
♦ Cần quy hoạch sử dụng đất RBNM: Xây dựng quy hoạch tổng thể về
RBNM, làm cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch khôi phục và phát triển hệ sinh
thái RBNM; cần rà soát, hoàn thiện hoặc xây dựng quy hoạch sử dụng RBNM đối
với từng địa phương và xây dựng quy hoạch tổng thể RNM tại ĐBSCL. Việc quy
hoạch sử dụng rừng bần cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành: Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Tài nguyên - Môi trường.
♦ Tăng cường công tác quản lý, quy hoạch sử dụng đất, RBNM: Cần có giải
pháp dự phòng hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của các hoạt động xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển du lịch, đê biển,... đến các hoạt động bảo vệ, khôi phục và phát
triển rừng bền vững. Nghiêm cấm việc lấn chiếm rừng và đất quy hoạch cho lâm
nghiệp để nuôi trồng thuỷ hải sản, xử lý nghiêm khắc những trường hợp sử dụng
đất không đúng mục đích làm tổn hại đến rừng. Những diện tích sử dụng không
đúng quy hoạch cần thu hồi và xử lý nghiêm khắc. Nơi nào nuôi tôm không có
hiệu quả, cương quyết lấy lại đất để trồng rừng, tạo môi trường sống lâu dài cho
hải sản. Đối với bãi bồi ven biển, các địa phương nên có chủ trương phát triển
rừng, lấn biển; nên giao cho cơ quan chuyên ngành quản lý ngay từ đầu, không nên
giao cho chính quyền cấp xã quản lý, dân sẽ tự ý khoanh nuôi thuỷ sản, ảnh hưởng
tới sự phát triển của rừng khi bãi bồi ổn định.
♦ Xây dựng và thực thi các quy hoạch sử dụng đất chi tiết cấp xã làm cơ sở
phục hồi, quản lý và bảo vệ hệ sinh thái RBNM: Hiện nay, một số địa phương có
diện tích rừng bần phòng hộ ven biển khá lớn thuộc quyền quản lý của Chi cục
Kiểm lâm tỉnh, Trạm Kiểm lâm huyện thì tiếp tục giao đất, giao RBNM cho các Tổ
hợp tác đối với diện tích rừng và đất RBNM chưa có chủ quản lý cụ thể. Vùng có
đất và nguồn lợi về RBNM tốt, phong phú nên giao đến nhóm hộ để có kế hoạch
phát triển nguồn lợi thiên nhiên dưới tán rừng. Khi giao cần làm rõ ranh giới các
loại rừng trên thực địa và bản đồ đến từng lô, khoảnh, xác định được hiện trạng
rừng. Không nên giao đất, giao rừng cho các tổ chức của Nhà nước đã có (trừ
những vùng phòng hộ rất xung yếu) mà cần ưu tiên giao cho các Tổ quản lý rừng.
125
♦ Đầu tư tín dụng: Nhà nước chỉ nên đầu tư vào việc trồng cây bần con, bảo
vệ RBNM thuộc loại rừng đặc dụng và phòng hộ. Trồng rừng bần chống xói lở tại
cửa sông tại ĐBSCL. Tổ chức, hộ gia đình được giao đất rừng để trồng rừng, tăng
gia sản xuất có điều kiện vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn vay trên 10 năm, trả
tiền vay gốc và lãi khi có sản phẩm chính và được vay 100% nhu cầu vốn đầu tư
trên cơ sở tính đúng, tính đủ theo định mức kinh tế - kỹ thuật hiện hành. Các hộ
dân được ưu tiên vay vốn với lãi suất ưu đãi để phát triển chăn nuôi thuỷ sản, nuôi
ong, cua, dộp,… kết hợp trong RBNM.
♦ Nhà nước cần có chính sách thu hút các tổ chức quốc tế thuộc Chính phủ
và phi chính phủ đầu tư phát triển RNM theo hướng ưu đãi về thuế, tiền thuê
đất,.... đồng thời mời gọi các tổ chức quốc tế hỗ trợ phục hồi rừng bần ở một số
vùng trọng điểm ven biển.
♦ Khoa học công nghệ và khuyến lâm: Cần nghiên cứu, đánh giá để bổ
sung, sửa đổi và ban hành quy trình, quy phạm lâm sinh cho đối tượng RBNM phù
hợp với từng vùng. Cần có quy trình chăm sóc, điều chế rừng bần phù hợp với cấp
tuổi, cấp đất và điều kiện sinh thái cho từng loại rừng bần (Bần già, bần đang phát
triển và bần non mới trồng).
♦ Tổ chức tập huấn cho người nhận khoán rừng, phổ biến và hướng dẫn kỹ
thuật lâm sinh về trồng, chăm sóc và bảo vệ RBNM, kết hợp với kinh nghiệm cổ
truyền. Phổ biến mô hình lâm ngư kết hợp có hiệu quả cao, kỹ thuật trồng cây bần
ngập mặn vẫn sinh trưởng tốt mà các sản phẩm trong rừng bần vẫn đạt năng suất
cao và ổn định.
♦ Hoàn thiện tổ chức quản lý RNM: Tăng cường phối hợp liên ngành trong
quản lý, sử dụng, khôi phục, phát triển RBNM của các tỉnh ven biển. Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối, phối hợp với các Sở, ban ngành
liên quan (Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư,...) giúp UBND
tỉnh giải quyết những vấn đề chuyên ngành và liên ngành về đất và RBNM từ việc
xây dựng đê điều, trồng và bảo vệ RBNM, nuôi trồng thuỷ sản,... (quy hoạch, giám
126
sát, chỉ đạo,...). Phân công rõ trách nhiệm giữa các ngành liên quan và có cơ chế
phối hợp rõ ràng: Ngành thuỷ sản cần phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo quy
hoạch, nghiên cứu mô hình lâm ngư kết hợp phù hợp với từng vùng. Ngành thủy
lợi, đê điều và phòng chống lũ lụt xác định hành lang bảo vệ và những nơi có nhu
cầu phòng hộ cao cần được ưu tiên đầu tư, coi khôi phục và phát triển RBNM là
một trong những hạng mục đầu tư và tu bổ đê biển hàng năm để có kế hoạch cấp
vốn tương ứng.
♦ Chính sách hưởng lợi: Đối với các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư thôn bản được giao rừng phòng hộ xung yếu thì được Nhà nước cấp
kinh phí để bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và trồng rừng; được thu hái củi,
tỉa thưa cây trong rừng; được vay vốn tín dụng phát triển của Nhà nước với lãi suất
ưu đãi (bằng 60 - 70% lãi suất thương mại) và được vay 100% nhu cầu vay vốn,
hoàn trả tiền vay gốc và lãi khi có sản phẩm khai thác chính (ít nhất là 10 năm).
♦ Giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội trong vùng RBNM: Rà soát, quy hoạch
lại dân cư ven biển, hạn chế di cư tự do trong vùng RBNM vì nguồn lợi về nuôi
tôm ở vùng RBNM lớn đã thu hút một số lao động từ nhiều nơi đến phá rừng để
nuôi tôm. Mặt khác, nhiều người dân đã bỏ các nghề truyền thống để làm đầm tôm
quảng canh, dẫn đến tình trạng ở phân tán ngày càng tăng. Nếu để tình trạng này
kéo dài thì rừng bần tiếp tục bị tàn phá, nguồn hải sản giảm sút nhanh chóng.
Tránh tình trạng đưa dân ra xây dựng vùng kinh tế mới ven biển khi chưa có quy
hoạch cụ thể cho việc bảo vệ, phát triển RBNM. Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất và đời sống trong vùng RBNM.
4.7.2. Giải pháp về phát triển du lịch:
♦ Cần có cơ chế, chính sách rõ ràng: Người nhận khoán rừng bần được trực
tiếp kinh doanh du lịch trên diện tích nhận khoán hoặc các hộ nhận khoán phải
được hưởng từ 30 - 40% tiền thu được do các tổ chức, cá nhân thu từ kinh doanh
du lịch sinh thái môi trường rừng bần.
127
♦ Ngành du lịch cần tuyên truyền cho du khách có ý thức giữ vệ sinh môi
trường, hỗ trợ vốn để phát triển RBNM, tạo cảnh quan đẹp, tạo môi trường du lịch
sinh thái hấp dẫn.
♦ Cần chọn một số điểm RBNM điển hình cho từng vùng sinh thái làm khu
bảo tồn các nguồn gen thực vật và động vật vùng triều và dự trữ thiên nhiên, có thể
kết hợp trong việc chọn khu bảo tồn RNM với địa điểm du lịch và giáo dục hoặc tổ
chức nơi du lịch thuận lợi để thu hút khách trong và ngoài nước.
4.7.3. Giải pháp về phòng hộ đê biển
♦ Định hướng phòng hộ đê biển: Đối với các công trình đê biển đã đầu tư 20
-70 tỷ đồng/km để sửa chữa thì phải coi RBNM là hạng mục quan trọng, nên dành
một phần kinh phí thỏa đáng để hỗ trợ trồng, chăm sóc, bảo vệ RNM.
♦ RBNM có chức năng phòng hộ ven biển cần phân cấp thành 2 loại chủ
yếu:
+ Phòng hộ rất xung yếu là những diện tích rừng bần ngoài đê biển quốc gia
được sử dụng vào mục đích hạn chế thiên tai, chắn gió, chống xói lở đất ven sông,
ven biển. Xây dựng một hệ thống các đai rừng phòng hộ chắn sóng bảo vệ trực tiếp
đê biển, trong hành lang 100 mét bảo vệ phía ngoài đê biển.
+ Phòng hộ xung yếu là những diện tích rừng bần trong đê biển Quốc gia có
vai trò hỗ trợ cho vùng phòng hộ rất xung yếu.
♦ Thường xuyên rà soát và quy hoạch ổn định cho các ngành chủ yếu sử
dụng RBNM ven biển có liên quan như: Xây dựng đê điều, trồng và bảo vệ
RBNM, nuôi trồng thủy sản. Đây chính là quy hoạch liên ngành và phải được Nhà
nước chấp nhận về pháp lý, cắm mốc trên thực địa, có biển báo,...
Tóm tắt Chương 4:
♦ Tổng giá trị kinh tế của luận án
Qua phân tích, thống kê đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại
ĐBSCL, tổng giá trị kinh tế trong nghiên cứu là 445,673 tỷ đồng/năm; trong đó giá
128
trị sử dụng trực tiếp đóng vai trò rất quan trọng; trong 1 năm giá trị tạo thu nhập
cho hộ dân quy đổi thành tiền trên 57,608 tỷ đồng, giá trị du lịch ước tính đạt
327,365 tỷ đồng và giá trị gián tiếp đó là rừng phòng hộ mang lại lợi ích 60,7 tỷ
đồng. Tổng giá trị của nghiên cứu được trình bày Bảng 4.12.
Bảng 4.12. Tổng các giá trị kinh tế RBNM tại ĐBSCL
Sử dụng trực tiếp
Sử dụng gián tiếp
TT
Các giá trị
Tỷ lệ %
(Tỷ đồng/năm)
(Tỷ đồng/năm)
1.
Tổng thu nhập
57,608
12,93
2.
Du lịch
327,365
73,45
3.
Rừng phòng hộ
60,7
13,62
100
Cộng:
445,673
384,973
60,7
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Ngoài ra, rừng bần còn đóng vai trò rất lớn trong việc chống sạt lỡ, dông
bão, sóng thần, lọc không khí, lọc nước biển, hấp thụ, tích trữ cacbon… RBNM tại
ĐBSCL còn mang lại giá trị kinh tế vô cùng lớn, nếu như chúng ta kế hoạch khai
thác, phát triển và quản lý hiệu quả.
♦ Hạn chế của luận án
Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thúy Hằng và cộng sự (2012)
xác định RNM Rú Chá xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế
có giá trị sử dụng trực tiếp gồm: Củi đốt, dược liệu, cây cảnh, nuôi trồng thủy sản
chiếm tỷ lệ 93,71% tổng giá trị kinh tế; giá trị sử dụng gián tiếp gồm: Điều hòa khí
hậu, tích lũy nước ngầm, hấp thụ bụi, sản xuất ôxy, giá trị tích lũy cacbon chiếm tỷ
lệ 3,74% tổng giá trị kinh tế và giá trị phi sử dụng với tỷ lệ 2,55% tổng giá trị kinh
tế. Nghiên cứu của Đinh Đức Trường (2009), RNM tại cửa sông Ba Lạt, tỉnh Nam
Định có giá trị sử dụng chiếm 92,2% thu nhập từ: Nuôi tôm, nuôi nghêu, nghêu
giống, nuôi cua, trồng rau câu, mật ong, khai thác thủy sản và giá trị du lịch; giá trị
sử dụng gián tiếp chiếm 7,35% có được từ giá hỗ trợ sinh thái cho nuôi thủy sản,
giá trị du lịch và giá trị hấp thụ cacbon; giá trị phi sử dụng chiếm 0,45% tổng giá
129
trị kinh tế. Nhóm nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê
(2018) tại xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình có giá trị sử dụng trực
tiếp, chủ yếu là giá trị khai thác, nuôi trồng thủy sản, chiếm tỷ trọng và quy mô lớn
nhất tương ứng với 99,2%; phần còn lại là giá trị gián tiếp và giá trị phi sử dụng
chiếm 0,8% giá trị kinh tế toàn phần.
Qua lược khảo các kết quả nghiên cứu về rừng ngập mặn, giá trị sử dụng
trực tiếp chiếm tỷ trọng trên 90%, còn lại là giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị phi
sử dụng. Kết quả nghiên cứu của luận án đã ước tính được giá trị trực tiếp chiếm tỷ
trọng 86,38% tổng giá trị kinh tế, với kết quả này khá phù hợp với các nghiên cứu.
Do hạn chế về thời gian và nguồn lực chưa thể nghiên cứu, phân tích sâu về các giá
trị sử dụng gián tiếp (tích tụ, bồi lắng bùn; lọc nước biển; hấp thụ CO2, lưu trữ
cacbon) và giá trị phi sử dụng (bảo tồn đa dạng sinh học); những hạn chế này sẽ
được thực hiện trong các nghiên cứu tiếp sau.
130
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Rừng bần trong nghiên cứu cũng là một dạng của RNM, nhưng điểm khác
biệt của nghiên cứu là rừng toàn những cây bần (chiếm tỷ lệ đến 99,9%), không
trộn lẫn với những loài cây khác như: Cây Đước, cây Vẹt, cây Mắm, … và cho đến
nay chưa có nghiên cứu nào về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần. Để minh
chứng cho giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần trong nghiên cứu so với một số
nghiên cứu về giá trị kinh tế RNM khác, nghiên cứu của Mai Trọng Nhuận và cộng
sự (2000) đánh giá RNM ở vùng cửa sông Cửu Long có thể đạt được là 3.099,36
USD/ha/năm (tương đương 71,3 triệu đồng/ha/năm); nghiên cứu của Ngô Văn
Ngọc và cộng sự (2015) với diện tích 5.030 ha, tổng giá trị Khu Bảo tồn Đất ngập
nước Láng Sen, tỉnh Long An là 1,844 tỷ đồng/năm (tương đương 0,37 triệu
đồng/ha/năm); nghiên cứu Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê (2018)
trên diện tích RNM 327,03 ha thuộc xã Nam Hưng, Tiền Hải, Thái Bình có tổng
giá trị kinh tế là 69,504 tỷ đồng/năm (tương đương 212,5 triệu đồng/ha/năm); So
với kết quả nghiên cứu của luận án, diện tích rừng bần là 3.169,8 ha mang lại tổng
giá trị kinh tế là 445,673 tỷ đồng/năm (tương đương 140,6 triệu đồng/ha/năm).
Qua so sánh các kết quả nghiên cứu trên cho thấy rằng, giá trị kinh tế của sản phẩm
rừng bần là rất lớn, tiềm năng phát triển kinh tế rất cao và hiệu quả, trong đó sản
phẩm du lịch mang lại giá trị kinh tế cao đạt 327,365 tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng
73,45% trong tổng giá trị kinh tế, tiếp đến là giá trị phòng hộ mang lại số tiền 60,7
tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng 13,62% và giá trị tạo thu nhập cho người dân 57,608
tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng 12,93%; mặc dù giá trị này chiếm một tỷ trọng rất
thấp, nhưng giá trị rừng phòng hộ đóng vai trò quan trọng để bảo vệ, đảm bảo an
toàn cho các dịch vụ sinh thái của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL trong việc hỗ trợ
sản xuất, sinh kế và sự ổn định đời sống cộng đồng địa phương.
131
Thông qua kết quả nghiên cứu này sẽ giúp các nhà hoạch định có cách nhìn
mới về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần, từ đó đưa ra những chiến lược, chính
sách đúng đắn để bảo vệ, khai thác, phát triển rừng bần hiệu quả và đóng góp một
nội dung mới trong đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn tại ĐBSCL.
Nghiên cứu đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL là
một công trình nghiên cứu hoàn toàn mới và có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản
lý nhằm sử dụng hiệu quả và khai thác bền vững tài nguyên rừng bần. Nghiên cứu
giúp cho các bên liên quan hiểu rõ hơn về lý thuyết, quy trình, phương pháp và
những ứng dụng quản lý của việc đánh giá giá trị tiềm năng sẵn có.
Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL dựa trên cơ sở lý
thuyết và các phương pháp thực nghiệm chuyên sâu, hệ thống. Để tiếp cận đánh
giá, phải tìm hiểu được mối liên hệ giữa các chức năng của HSTRNM với những
giá trị mà nó tạo ra cho hệ thống phúc lợi của con người. Giá trị kinh tế của sản
phẩm rừng bần tại ĐBSCL chỉ phát sinh trong các giao dịch kinh tế khi có sự thỏa
mãn và sẵn sàng chi trả của các chủ thể sử dụng. Tổng giá trị kinh tế của sản phẩm
rừng bần tại ĐBSCL bao gồm: Giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp.
Điểm căn bản trong lý thuyết đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại
ĐBSCL là đo lường sự thay đổi phúc lợi cá nhân khi các thuộc tính của sản phẩm
rừng bần tại ĐBSCL thay đổi. Có 4 đại lượng cơ bản để đo sự thay đổi phúc lợi cá
nhân là thặng dư tiêu dùng, thặng dư sản xuất, biến thiên bù đắp và biến thiên
tương đương. Trong đó, thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất thường được sử
dụng để đánh giá giá trị của những hàng hóa, dịch vụ môi trường của sản phẩm
rừng bần tại ĐBSCL có giá thị trường bao gồm: Giá trị tạo thu nhập cho hộ dân
sống ven rừng bần và giá trị du lịch; đo lường sự biến thiên bù đắp và biến thiên
tương đương thường được sử dụng để đánh giá các giá trị gián tiếp, nghiên cứu ở
đây áp dụng phương pháp chi phí thiệt hại có thể tránh được.
Thực hiện nghiên cứu này áp dụng cả 3 cách tiếp cận chủ yếu để đánh giá
giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL là đánh giá tổng thể, đánh giá
132
từng phần và đánh giá phân tích tác động. Các phương pháp đánh giá được chia
thành 4 nhóm là dựa trên thị trường thực, dựa trên thị trường thay thế, dựa trên thị
trường giả định và phân tích chi phí - lợi ích mở rộng. Mỗi phương pháp phù hợp
với việc đánh giá một hay nhiều nhóm giá trị cụ thể. Đánh giá giá trị kinh tế của
sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL là một quy trình gồm nhiều bước, mang tính liên
ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều chuyên gia và các nhóm xã hội. Lượng thông
tin về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL có rất nhiều ứng dụng
trong quản lý RBNM. Các ứng dụng quan trọng sử dụng thông tin về giá trị kinh tế
gồm (1) xây dựng các quy hoạch, kế hoạch sử dụng RBNM, (2) đề xuất các công
cụ pháp lý, công cụ kinh tế trong quản lý RBNM, (3) thiết kế và thực hiện các cơ
chế chi trả cho dịch vụ môi trường để bảo tồn sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL, (4)
bổ sung và hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý sản phẩm rừng bần tại
ĐBSCL, (5) thiết kế các chương trình giáo dục và truyền thông về bảo tồn và quản
lý bền vững RBNM.
Kết quả nghiên cứu tại hiện trường cho thấy có thể áp dụng các quy trình và
phương pháp đánh giá giá trị RNM tiên tiến của thế giới trong điều kiện của Việt
Nam, bao gồm cả những phương pháp phức tạp về cơ sở lý thuyết và đòi hỏi quy
trình nghiên cứu chi tiết, chuẩn mực. Tuy nhiên, việc lựa chọn các phương pháp
đánh giá trong điều kiện cụ thể phải cân nhắc tới các vấn đề như mục đích đánh
giá, cũng như sự đáp ứng về các nguồn lực như: Thời gian, tài chính, chuyên gia
và dữ liệu.
Áp dụng kết quả nghiên cứu này trong bối cảnh diễn biến khí hậu khó
lường, việc triển khai thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển HSTRBNM tại
ĐBSCL là rất cần thiết, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với thích ứng biến đổi khí
hậu, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây nên. Triển khai chương trình trồng rừng
phòng hộ ven biển sẽ mang lại lợi ích thiết thực cả về mặt kinh tế, xã hội và môi
trường. Việc triển khai kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng góp phần tạo thu nhập
và việc làm ổn định cho phần lớn người dân. Góp phần ổn định an ninh chính trị,
trật tự xã hội ở địa phương, đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế xã
133
hội ở địa phương. Các nội dung trong kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được
xây dựng trên cơ sở các căn cứ pháp lý, cơ sở khoa học và thực tiễn, dự án quy
hoạch bảo vệ và phát triển RBNM của ĐBSCL trong giai đoạn 2021 - 2025 và
những năm tiếp theo.
5.2. Kiến nghị
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về giá trị kinh tế của sản
phẩm rừng bần tại ĐBSCL. Luận án đưa ra một số kiến nghị trong công tác quản
lý như sau:
Về quy hoạch phát triển rừng bần, trong các quy hoạch phát triển rừng bần
tại ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 và định hướng cho những năm tiếp theo, các cơ
quan quản lý nên lựa chọn phương án giao khoán rừng cho các Tổ Quản lý rừng
tập trung, không nên giao khoán cho từng hộ riêng lẻ; kết hợp vừa bảo vệ rừng vừa
lồng ghép mô hình nuôi Ốc len, Dộp... dưới tán rừng để nâng cao thu nhập. Đồng
thời đầu tư xây dựng lồng ghép các dự án chuyển đổi nghề, tạo công ăn việc làm
tăng thu nhập cho ngư dân vùng ven biển, nhằm giảm bớt áp lực về chặt phá rừng,
khai thác quá mức làm hủy diệt nguồn lợi thủy sản tự nhiên. Khuyến khích và tạo
điều kiện để người dân làm nghề rừng sống được và làm giàu bằng chính nghề
rừng.
Về cơ chế, chính sách, để đảm bảo hiệu quả của công tác khôi phục và phát
triển RBNM thì chính sách quản lý của nhà nước đóng vai trò then chốt. Cần có cơ
chế đầu tư vốn vay ưu đãi cho hộ dân nhận khoán rừng, để họ đầu tư vào việc
trồng rừng với việc chăn nuôi các loài động vật sống dưới tán rừng, vì đây là
ngưỡng thu nhập gắn liền với sinh kế của người dân.
Hoàn thiện tổ chức quản lý RBNM, củng cố hệ thống quản lý nhà nước về
RBNM ở các cấp tỉnh, huyện, xã; thực hiện chức năng quản lý rừng và đất lâm
nghiệp theo Quyết định 245/1998/QĐ- TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính
phủ; tăng cường phối hợp liên ngành trong việc quản lý, sử dụng, khôi phục phát
triển RBNM.
134
Giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội trong vùng RBNM, phát triển các nguồn
thu nhập thay thế cho các cộng đồng vốn sống dựa vào RBNM nhằm giảm thiểu
tình trạng phá rừng. Nên khuyến khích cộng đồng địa phương chuyển sang các
sinh kế ít gây hại cho RBNM hơn, đồng thời bảo vệ các loài thủy, hải sản quan
trọng như cá hoặc tôm, nghêu, sò và các sinh vật sinh sống tại các vùng bãi bồi,
dưới tán RNM. Tạo thu nhập ổn định định cho các hộ dân cư, trong đó chú trọng
đến các hộ dân cư nghèo, đồng bào dân tộc thuộc các huyện duyên hải các tỉnh
ĐBSCL, thu nhập thay thế quan trọng thay cho việc phá RBNM.
Tăng cường công tác vận động phối hợp lực lượng đông đảo nhân dân cùng
bảo vệ rừng, có chính sách tuyên dương, khen thưởng và xử lý sai phạm khi người
dân vi phạm; tăng cường lực lượng kiểm lâm, đội bảo vệ rừng, thường xuyên tổ
chức tuần tra để hạn chế nạn phá rừng.
Tuyên truyền, giáo dục, các chương trình giáo dục và truyền thông RNM để
nâng cao nhận thức, thái độ bảo tồn và quản lý bền vững RNM tại địa phương.
Thông tin chi tiết, cụ thể về các giá trị kinh tế bao gồm giá trị sử dụng trực tiếp, giá
trị gián tiếp và phi sử dụng của các dịch vụ sinh thái được lồng ghép trong các
chương trình giáo dục, truyền thông sẽ giúp cho đối tượng truyền thông có được
nhận thức và hiểu biết rõ ràng hơn về những giá trị sinh thái, môi trường mà mình
được hưởng, qua đó góp phần làm thay đổi thái độ và hành vi bảo tồn của cộng
đồng xã hội.
HSTRBNM là một nguồn tài nguyên quý giá và có giá trị về nhiều mặt, bảo
vệ được hệ sinh thái này là bảo vệ được sự ổn định, cân bằng của cả hệ thống kinh
tế và hệ thống môi trường trong quá trình phát triển khu vực ĐBSCL.
135
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Armbrecht, J. (2014). Use value of cultural experiences: A comparision of contingent
valuation and travel cost. Tourist Management, 42, 141-148.
Ashley, C. & Carney D. (1998). Sustainable livelihoods: lessons from early
experience, Edited by D. f. I. Development, Overseas Development
Institute, London.
Báo cáo nghiên cứu điển hình (2000), “Định giá kinh tế rừng ngập mặc Cần Giờ”, Dự án
Hướng tới chương trình về Bảo tồn và Quản lý đất ngập nước ở Việt Nam.
Báo cáo nghiên cứu điển hình (2000), “Định giá kinh tế rừng ngập mặn Cần Giờ”, Dự án
Hướng tới chương trình về Bảo tồn và Quản lý đất ngập nước ở Việt Nam. Cục
Môi trường với sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế -
IUCN.
Barbier E.B., Acreman M. & Knowler D. (1997). Economic valuation of wetlands – A
Guide for policy makers and planners. Ramsar Convention Bureau and IUCN,
Gland, Switzerland.
Barker, R. (2002), Rural Deveolpment and Structural Transformation, Fulbright
Economics Teaching Program, Univercity of Economics HCMC, Vietnam.
Barry Clough et al - Canopy leaf index and litter fall in stands of magrove in Mêkông
Delta - Aquatic Botany 66 – 311 – 320 – 1999.
Batenam, I. (1993). Evaluation of the enviroment: A survey of revealed preference
techniques. Norwich, U.K.: The centre for Social & Economic Research on the
Global Enviromet.
Bebbington, A. (1999). Capitals and capabilities: A framework for analysing peasant
viability, rural livelihoods and poverty. World Development, 27(12), 2021–2044.
Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thượng Dong, Đỗ Trung
Đàm, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn, Đoàn Thị
Thu, Nguyễn Tập & Trần Toàn (2004). Cây Thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt
Nam, Tập II, Hà Nội: NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật.
Bộ Tài chính (2017). Thông tư số 40/2017/TT-BTC về việc Quy định chế độ công tác phí,
chế độ chi hội nghị, quy định đi công tác, ban hành ngày 28/4/2017.
Boonsong, K., Piatiratirakul, S. & Patanaponpaiboon, P. (2003). Ptential use of mangrove
plantation as constructed wetland for municipal wasterwater treatment. Water
Science and Technology, 48, 257-540.
Bouillon, S., Borges, A.V. & Twilley, R.R. (2008). Masngrove producetion and cacbon
sinks: A revision of global budget estimates. Global Biogeochemical Cycles, 22,
299-303.
Phạm Hải Bửu, Võ Thanh Dũng & Phan Quốc Nam (2010). Các giải pháp cải thiện sinh
kế nông hộ trên lâm phần vùng ven biển Cà Mau. Tạp chí Khoa học trường ĐH
Cần Thơ, 16a, 265-275.
136
Casey, J. F., Vukina, T., & Danielson, L. E. (1995). The economic value of hiking:
Fruther consideration of oppotunity cost of time in recreational demand models.
Journal of Agricultural and Applied Economics, 27(2), 658-668.
Centeno, A. B., & Prieto, L.C.H. (2000). The travel cost method applied to the valuation
of the historic and cultural heritage of the Castile – Léon region of Spain.
Retrieved from hhps://core.ac.uk/download/pdf/7051452.pdf
Chambers, R., & Conway, G.R. (1992). Sustainable rural livelihoods: practical concepts
for the 21st century. Institute of Development Studies, 296, 1-29.
Chen, W.H., Liu, Y., Zang, L., Hou, X., & Raymond, M. (2004). Recreation demand and
economic value: An application of travel cost method for Xiamen Island. China
Economic Review, 15(4), 398-406.
Chính phủ (2016), Nghị định số 119/2016/NĐ-CP quy định về một số chính sách quản lý,
bảo vệ và phát triển bền vững rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu, ban
hành ngày 27/12/2016.
Chính phủ (2017), Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng
với biến đổi khí hậu, ban hành ngày 17/11/2017.
Chính phủ (2018), Nghị định 157/2018/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với
người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, ban hành ngày 16/11/2018.
Clough, B.F., Boto, K.G. & Attiwill, P.M. (1983). Mangroves and sewage: A re-
evaluation. Biology and Ecology of Magroves, Task for Vegetation Science (ed
H.J, Teas), Dr W. Junk, The Hague, The Netherlands.
Cochard, R., Ranamukhaarachchi & Seeland, K.T. (2008). The 2004 tsunami in Aceh ang
Southern Thailand: A review on coastal ecosystems, wave hazards ang
vulnerability. Perspectives in Plant Ecology, Evolution ang Systematics, 10, 30-40.
Danielsen, F., Sorensen, M.K., Olwig, M.F., Selvan, V., Parish, F., Burgess, N.D.,
Hiraishi, T., Karunagaran, V.M., Rasmussen, M.S., Hansen, L.B., Quarto, A. &
Suryadiputra, N. (2005). The Asian tsunami: A protective role for coastal
vegetation. Science, 310 , 643-643.
Das, S. (2013). Travel cost methol for enviromental valuation. Retrived from
http://coe.mse.ac.in/dp/DP-23-Draft.pdf
Dasgupta (2007). The Impact of Sea Level Rise on Developing Coutries: A Comparative
Analysis. World Bank Plicy Reserch Working Paper 4136.
De, U.K., & Devi, A. (2011). Valuing recreational and coconservation benefits of a
natural tourist site: Case of Cherrapunjee. Journal of Quantitative Economics,
9(2), 155-172.
Dehlavi, A., & Adil, I.H. (2011). Valuing recreational uses of Pakistan's wetlands: An
application of the travel cost method. Sadee Working Papers (pp-11). Kathmandu:
Sadee.
DFID (1999). Sustainable livelihoods guidance sheets. Department for International
Livehoods.
From
Development.
Org/info/info_guidancesheets.html.>
137
Dixon, J.A. & Sherman, P.B. (1993). Economia Analysis of Environmental Impacts.
Earthscan Publications Ltd, London, UK.
DLuu Tien Dung, Đinh Phi Ho, Phan Thi Kim Hiep and Phan Thi Hoi (2018). The
determinants of rice farmers’ adoption of sustainable agricultural technologies: a
case study in the Mêkông delta, Vietnam. Applied Economics Journal, 25(2), 1-
22.
Donato, D.C. & Kanninen, M. (2011). Mangroves among the most cacbon-rich forests in
the tropics. Nature Geoscience, 4 , 293-297.
EJF (2003). Risky Business: Vietnamese Shrimp Aquaculture - Impacts and
Improvements. Environmental Justice Foundation, London, UK. 44 pages.
Ellis, F. (2000). Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries. Oxford
University Press, New York.
FAO, 1994. Mangrove forest in Asia - Pacific Region, FAO Bangkok, Thai Lan.
Fleming, C.M. & Cook, A. (2008). The rereational value of Lake McKenzie, Fraser
Island: An application of the travel cost method. Tourism Management, 29(6),
1197-1205.
Fomby, T.B., Hill, R.C., & Johnson, S.R. (1984). Advanced Econometric Methods. New
York: Springer - Verlag.
GIZ (2013). Bảo vệ bờ biển ở đồng bằng sông Cửu Long.
Green, S.B. (1991). How Many Subjects Does It Take To Do A Regression Analysis.
Multivariate Behav Res., 26(3), 499-510.
Green, W.H. (2003), Econometric Analysis, Upper Saddle River NJ: Prentice-Hall. 9.
Gurluk, S. & Rebber, E. (2007). A travel cost study to estimate recreational value for a
bird refuge at Lake Manyas, Turkey. Journal of Environmental Management,
88(4), 1350-1360.
Nguyen Thi Hai & Nguyen Đuc Thanh. (1999). Using the travel cost method to evalute
the tousrism benefits of Cuc Phuong National Part (pp. 121-150). In H. Francisco
& D. Glover (Eds.). Economy and enviroment: Case Studies in Vietnam. Laguna:
Economy & Enviroment Program for Southeast Asia.
Hair, J., Aderson, R., Tatham, P., & Black, W. (2006). Multivariate Data Analysis.
Prentice - Hall.
Trần Thị Thúy Hằng & Nguyễn Đức Thành (2012). Xác định giá trị kinh tế của rừng
ngập mặn Rú Chá, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bộ
môn Quản lý môi trường và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản, Khoa Thủy sản, Đại học
Nông Lâm Huế.
Nguyễn Hoàng Hanh, Đỗ Quý Mạnh, Trần Văn Sáng & Cao Bá Kết (2019). Phục hồi và
phát triển rừng ngập mặn khu vực ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Bảo
vệ rừng và Môi trường, ngày 20/03/2019.
Hạt Kiểm huyện Duyên Hải (2020). Báo cáo số 02/BC-HKL về việc Tổng kết tình hình
hoạt động quản lý, bảo vệ rừng năm 2019, ban hành 20/02/2020.
138
Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung (2020). Báo cáo số 04/BC-
HKLLH về việc Tổng kết hoạt động quản lý, bảo vệ rừng năm 2019, ban hành
05/02/2020.
Phạm Trung Hiếu & Lưu Tiến Thuận (2017). Áp dụng phương pháp chi phí du hành để
xác định giá trị cảng quan của chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Tho. Tạp chí
Khoa học và Công nghệ nông nghiệp, 1(2), 285-291.
Hill, R.C., Griffiths, W.E. & Lim, G.C. (2011). Principles of econometrics (4th ed.). New
Jersey: Jonh Wiley & Sons.
Hiraishi, T. (2008). Effectiveness of coastal forests in mitigating tsunami hazardrs.
Guidenlines for the Rehabilitation of Mangroves and other Coastal Forests
Damaged by Tunamis and other Natural Hazars the Asia-Pacific Region. (eds H.T.
Chan & J. E. Ong), PP. 65-73. International Society for Mangrove Ecosystems
(ISME), Okinawa, Japan.
Đinh Phi Hổ & Trương Châu (2014). Nâng cao thu nhập cho hộ gia đình ở các xã biên
giới tỉnh Tây Ninh. Tạp chí Phát triển Kinh tế,6/2014, 105-117.
Phan Nguyên Hồng (2010). Quản lý hệ sinh thái RNM để bảo vệ và phát triển nguồn lợi
hải sản. Tạp chí Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
Hồ Việt Hùng (2007). Vai trò của RNM trong việc bảo vệ đê biển và các vùng ven biển
VN. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường, 21, 1-7.
Israel,
G.D.
(2013).
Determining
sample
size.
Retrieved
from
http://www.sut.ac.th/im/data/read6.pdf
Jiny V.K., Belzik N., Nisha A.R., Resiya S., Resmi S. & Silvipriya K.S., 2010.
Pharmacognostical and phytochemical studies of a Mangrove (Sonneratia
caseolaris ) from Kochi of Kerala state in India. Journal of Pharmacy Research, 3
(11), 2625-2627.
Karttunen, K. (2009). Rural Income Generation and Diversification - A Case Study in
Eastern Zambia. University of Helsinki - Department of Economics and
Management, Publications, 47, 1-158.
Karttunen, K.A. (2009). Rural Income Generation and Diversisification: A case Study in
Eastern Zambia, Rural Development Consultant, Finland.
Kathiresan, K. & Rajendran, N. (2005) Coastal mangrove forests mitigated tsunami.
Estuarine, Coastal and Shelf Science, 65, 219-223.
Ngô Thị Phương Lan (2011). Bất ổn sinh kế và di cư lao động của người Khơmer tại
huyện Cầu Kè và huyện Cầu Ngang tỉnh Trà Vinh. Tp. Hồ Chí Minh: Đại học
KHXH&NV- Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.
Limaei, S.M., Ghesmati, H., Rashidi, R. & Yamini, N. (2014). Economic evaluation of
natural forest pard using the travel cost method (case study; Masouleh forest park,
north of Iran). Journal of Forest Science, 60(6), 254-261.
139
Lipton, M. & Ravallion, M. (1995). Poverty and Policy. In: Handbook of Development
Economics, Behrman J. R. and T. N. Sirivasan (Eds.),Volume IIIA, North -
Holland, Amsterdam, p. 2551 – 657.
Chu Thị Kim Loan & Nguyễn Văn Hướng. Ảnh hưởng của nguồn lực đến thu nhập của
nông hộ tỉnh Thanh Hóa: Nghiên cứu điển hình ở huyện Thọ Xuân và Hà Trung.
Tạp chí Khoa học và Phát triển, 13(6), 1051-1060.
Võ Thị Thanh Lộc, (2010). Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học và viết đề
cương: Nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cần Thơ: NXB Đại
học Cần Thơ.
Nguyễn Xuân Mai & Nguyễn Duy Thắng (2011). Sinh kế của cộng đồng ngư dân ven
biển: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Xã hội học, 4(116), 14-16
Mankiw, N.G. (1998), Principles of Economics (1st ed.). Fort Worth, Texas: Dryden
Press.
Matsui, M. & Yamatani, Y., (2000). Estimated total stocks of sediment cacbon in relation
to streatigraphy underlying the mangrove forests of Sawi Bay, Phuket Marine
Biological Center Special Publication, 22, 15-25.
Matsui, N. (1998). Estimated stocks of cacbon in magrove roots and sediments in
Hinchinrook Chanel, Australia. Mangroves and Salt Marshaes, 2, 199-204.
Mazda, Y.M. (1997). Mangroves as a Coastal Protection from Waves in Tonkin Delta,
Vietnam. Mangroves and Salt Marshes 1:127-135.
Mincer, J.A. (1974). Schooling, Experience, and Earning, National Bureau of Economic
Reseach, Inc.
Muhammad I. (2010). Role of local food & handicrafts in raising eco tourism in the
northern areas of Pakistan. Sarhad J.Agric, 26 (1).
Mai Văn Nam, (2008). Giáo trình Nguyên lý thống kê kinh tế. Cần Thơ: NXB Văn hóa
thông tin.
Pham Khanh Nam & Tran Vo Hung Son (2005). Recreational value of coral surrounding
the Hon Mun Island in Vietnam: A travel cost and contingent valuation study. In
M. Ahmed, C. K. Chong, H. Cesar, & H. S. J. Cesar (Eds). Economic valuation
and polucy priorities for sustainnable managemaent of coral reefs (pp. 84-106).
Phnom Pehn: WorlFish.
Ngô Văn Ngọc, Trần Thanh Cao & Huỳnh Văn Lâm (2015). Giá trị kinh tế dịch vụ kinh
tế rừng Khu bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen, tỉnh Long An. Tạp chí KHLN,
1/2015, 3727-3736.
Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Hữu Ninh, Trần Hồng Hà & Đỗ Đình Sâm (2000). Đánh giá
giá trị kinh tế của một số các điểm trình diễn đất ngập nước tại Việt Nam. Dự án
bảo vệ kinh tế biển Đông do UNEP, GEF tài trợ, Hà Nội.
Norusis M.J. (2013). PASW Statistics 18 Statistical Procedures Companion. Pearson
Education (US), 656.
Ngô Đình Quế & Võ Đại Hải (2012), Xây dựng rừng phòng hộ ven biển, thực trạng và
giải pháp. Hà Nội: NXB Nông nghiệp, trang: 11-34.
140
Raybould, M., Lazarow, N., Anning, D., Ware, D., & Blackwell, B. (2011). A travel cost
model of local resident’s beach bcreation values on the Gold Coast. The 20th NSW
Coastal Conference: 20/20 Vision: Lessons Learnt and Looking Toward Future
Improvement. Gold Coast: Bond University.
Reardon, T., Chiristopher, D. & Maltlon, P. (1992). Determinants and Effects of Income
Diversification amongst Farm Households in Burkina Faso. The Journal of
Development Studies, 28(2), 264-296.
Reardon, Thomas, Chiristopher, D., & Maltlon, P. (1992). Determinants and Effects of
Income Diversification amongst Farm Housecholds in Burkina Faso. The Jornal
of Development Studies 28(2):264-296.
Robertson, A.I. & Phillips, M.J. (1995). Mangroves as filters of shrimp pond effluent:
Predictions and biogeochemical research needs. Hydrobiologia, 295, 311-321.
Hà Quý Sáng (2010). Chính sách tài chính - kế toán phát triển các doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở nước ta. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Thương mại Hà Nội.
Saraj, B.S., Yachkachi, A., Oladi, D., & Latifi, H. (2009). The recreational valuation of
natural forest part using travel cost methol in Iran. iForest - Biogeosciences and
Forestry, 2, 85-92.
Scoones, I. (1998). Sustainable Rural Livelihoods: A Framework for Analysis. IDS
Working Paper 72. Institute of Development Studies. University of Sussex.
Sesabo, J.K., & Tol, R.S.J. (2005). Factors affecting income strategies among households
for development-conservation
in Tanzanian coastal vilages: Implications
initiatives. Working Paper FNU-70.
Singh, I., Squire, L., & Strauss, J. (1986). Agricultural household models: extensions,
applications, and policy. Baltimore, MD: The Johns Hopkins University Press.
Snedaker, S.C. (1978). Mangroves: Their value and perpetuation. Nature and Resources -
USA.
Snoones I. (1998). Sustainable Rural Livelihoods: A Famerwork for Analysis. IDS
Working Paper, Institute of Development Studies.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2019). Báo cáo số 45/BC-NNPTNT đánh giá kết
quả hoạt động năm 2018, ban hành ngày 27/02/2019.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng (2019). Báo cáo số 36/BC-
NNPTNT tổng kết tình hình hoạt động năm 2018, ban hành ngày 14/02/2019.
Trần Võ Hùng Sơn & Phạm Khánh Nam, (2001). Sử dụng phương pháp chi phí du hành
phân tích giá trị giải trí của cụm đảo san hô Hòn Mun, tỉnh Khánh Hòa. Đại học
Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.
Võ Tất Thắng (2017). Xác định giá trị du lịch RNM Cần Giờ thông qua phương pháp chi
phí du hành. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 28(8), 84-106.
Phạm Trọng Thịnh (2011). RNM ở Sóc Trăng 1965 – 2007. Dự án Quản lý Nguồn tài
nguyên Thiên nhiên Vùng ven biển Sóc Trăng, UBND tỉnh Sóc Trăng.
141
Thủ tướng Chính phủ (1998). Quyết định về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của
các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
Thủ tướng Chính phủ (2009). Công văn số 405/TTg-KTN phê duyệt Đề án phục hồi và
phát triển rừng ngập mặn ven biển giai đoạn 2008 - 2015 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, ban hành ngày 16/3/2009.
Thủ tướng Chính phủ (2010), Công văn số 405/TTg-KTN về việc rà soát kiểm tra việc
triển khai thực hiện các dự án nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản, ban hành ngày 09/3/2010.
Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 57/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Kế hoạch bảo
vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020, ban hành ngày 09/01/2012.
Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 120/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án bảo vệ
và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020,
ban hành ngày 22/01/2015;
Nguyễn Thị Hoài Thương & Hoàng Thị Huê (2018). Lượng giá một số giá trị kinh tế của
hệ sinh thái rừng ngập mặn, xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tạp
chí Môi trường, 3/2018.
Tổng cục Thống kê (2017). Số liệu nhân khẩu - xã hội: Mức sống dân cư. Truy cập từ <
http://www.gso.gov.vn/default_en.aspx?tabid=476&idmid=4&ItemID=13475>.
Tổng cục Thống kê, (2018). Niên giám Thống kê 2018. Hà Nội: NXB Thống kê.
Tourkolias, C., Skiada, T., Mirasgedis, S., & Diakolaki, D. (2015). Application of the
travel cost mathod for the valuation of the Poseidon temple in Sounio, Greece.
Journal of cutural Heritage, 16(4), 567-574.
Nguyễn Hoàng Trí, (2006). Lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn. Hà Nội: NXB
Đại học Kinh tế Quốc dân.
Đinh Đức Trường (2009). Đánh giá giá trị kinh tế của đất ngập nước tại cửa sông Ba Lạt,
tỉnh Nam Định, Luận án Tiến sĩ Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Võ Văn Tuấn & Lê Cảnh Dũng (2015). Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sinh kế của
nông hộ ở ĐBSCL. Tạp chí Khoa học trường ĐH Cần Thơ, 38, 120-139.
Turner, R.K., Brouwer, R., Crowart, T.C. & Georgiou, S. (2003). The economics of
wetland management. Managing Wetlands: An ecological economics approach,
Edward Elgar, Chltenhan, U.K, pp.73-107.
UBND huyện Cù Lao Dung (2020), Quyết định số 320/QĐ-UNBD về việc Phê duyệt kết
quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019 trên địa bàn huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc
Trăng, ban hành ngày 06/3/2020.
UBND huyện Trần Đề (2020), Quyết định số 68/QĐ-UBND về việc Phê duyệt kết quả cập
nhật diễn biến rừng năm 2019 trên địa bàn huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, ban
hành ngày 15/01/2020.
UBND tỉnh Sóc Trăng (2018), Quyết định số 3103/QĐHC-CTUBND về việc phê duyệt
điều chỉnh Tiểu dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển đởi sản xuất phù hợp
142
với điều kiện sinh thái, nâng cao sinh kế, thích ứng biến đổi khí hậu vùng Cù Lao
Dung, ban hành ngày 23/11/2018.
UBND tỉnh Sóc Trăng (2018), Quyết định số 706/QĐHC-CTUBND về việc phê duyệt dự
án đầu tư xây dựng công trình Đê biển từ cầu Mỹ Thanh 1 đến cầu Mỹ Thanh 2,
huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày 07/7/2018.
UBND tỉnh Sóc Trăng (2018), Quyết định số13/2018/QĐ-UBND về việc Quy định giá
dịch vụ đò, phà do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày
29/5/2018.
UBND tỉnh Sóc Trăng (2019), Quyết định số 2606/QĐHC-CTUBND về việc phê duyệt
thiết kế và Dự án đầu tư xây dựng công trình Nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng
hệ thống ngăn mặn từ cầu Mỹ Thanh 2 đến ranh Bạc Liêu, tỉnh Sóc Trăng, ban
hành ngày 10/9/2019.
Viện Kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ, (2016). Đề án Bảo tồn và phát triển chợ nổi
Cái Răng. Cần Thơ: UBND thành phố Cần Thơ.
Wan, J., Wang, W., Li, R., & Liu, Z. (2016). Income Diversification: A Strategy for Rural
Region Risk Management. Sustainability, 8(10), 1-13.
White, H. (1980). A Heterosdasticity Consistent Variance Matrix Estimator and a Direct
Test of Heterosdasticity. Econometrica, 48(4), 817-838.
Winters, P., Davis, P. & Corral, L. (2001). Assets, activities and income generation in
rural Mexico: Factoring in social capital and public capital. Agricultural
Economics, 27, 139-151.
Wolanski, E., Mazda, Y. & Ridd, P. (1992). Mangrove hydrodynamics. Tropical
Mangrove Ecosystems (eds A.I. Robertson & D.M. Alongi), pp. 7-43-62.
American Geophysical Union, Washington DC, USA.
Zhang, F., Wang, X.H., Nunes, P.A.L.D. & Ma, C. (2015). The receational value of gold
coast bebeach, Australia: An application of the travel cost methol. Ecosystem
Services, 11, 106-114.
143
Phụ lục A.1. PHIẾU KHẢO SÁT THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH
Xin kính chào quý ông (bà),
Nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến thu nhập Hộ ở các xã ven rừng bần tại
huyện………” nhằm đánh giá thực trạng thu nhập của hộ gia đình nông thôn, từ đó đề
ra một số giải pháp để có thể nâng cao thu nhập hộ gia đình ở các xã ven rừng bần trên
địa bàn trên địa bàn tỉnh …….. Rất mong ông (bà) dành chút thời gian để trả lời phỏng
vấn hoặc điền câu trả lời vào bảng câu hỏi khảo sát dưới đây. Những thông tin này sẽ
được hoàn toàn giữ bí mật.
Phần A. Thông tin tổng quát
C1. Họ và tên chủ hộ:.................................................................................................................
C2. Địa chỉ của hộ: ....................................................................................................................
C3. Học vấn của chủ hộ: ………../12.
C4. Giới tính chủ hộ: 1.
Nam. 0.
Nữ.
C4. Thành phần dân tộc của chủ hộ: …………(Kinh ghi số 1; khác ghi số 0).
C5. Quy mô của hộ (Những người thực tế thường trú tại hộ):…………người.
C6. Tỷ lệ phụ thuộc:……………….(Số người dưới tuổi lao động và người trong độ tuổi
không có khả năng lao động/ số người trong hộ).
Xin ông (bà) cho biết thông tin của từng thành viên trong hộ:
Họ và tên Quan
Giới
tính
Kinh
nghiệm
Tuổi Trình
độ học
vấn
Nghề
nghiệp
chính
Nghề
nghiệp
phụ
Số
thứ
tự
Hình
thức
nghề
nghiệp
chính
hệ
với
chủ
hộ
(1)
(2)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(3)
1
1
2
3
4…
144
Mã quy định các cột
(3) Quan hệ với chủ hộ:
2: Vợ/chồng
3: Con (gồm cả con đẻ, con nuôi)
1: Chủ hộ
4: Cha/mẹ (cả cha mẹ của vợ/chồng, cha mẹ nuôi nếu cùng ở trong một hộ)
6: Cháu nội/ngoại 7: Dâu/rể
8: Anh/chị/em 9: Khác
5: Ông/bà
(4) Giới tính:
0: Nữ
1: Nam
(5) Tuổi: Ghi tuổi hiện tại.
(6) Trình độ học vấn:
0: Không biết chữ 1: Cấp 1
2: Cấp 2
3: Cấp 3
4: Trung cấp
5: Cao đẳng
6: Đại học trở lên
2: Làm thuê nhận tiền công, tiền lương.
1: Tự làm cho gia đình
(7) Chuyên môn, nghiệp vụ đươc đào tạo:
(8) Kinh nghiệm: Ghi số năm kinh nghiệm làm việc (nghề nghiệp chính)
(9) Hình thức công việc:
(10) Nghề nghiệp phụ: Việc làm chiếm thời gian nhiều thứ hai trong 12 tháng qua.
(Ghi mã tương tự nghề nghiệp chính nếu có).
C7. Diện tích đất được nhận khoán: …………………..
m2.
Phần B: Thu nhập của hộ gia đình
C8. Tổng thu: ……………………..đồng. Đơn vị tính: Triệu đồng/năm
.
1. Lương khoán bảo vệ rừng…………….. Triệu đồng/năm
2. Khai thác Cua con giống……………. Triệu đồng/năm
3. Khai thác Cua thịt……………. Triệu đồng/năm đồng.
4. Khai thác cá Kèo con giống……………. Triệu đồng/năm
5. Khai thác cá Kèo thịt……………. Triệu đồng/năm
6. Khai thác cá Đối thịt…………… Triệu đồng/năm
7. Khai thác cá Thòi Lòi thịt…………… Triệu đồng/năm
8. Khai thác Ba Khía thịt……………. Triệu đồng/năm
145
9. Khai thác Dộp thịt……………. Triệu đồng/năm đồng.
10. Khai thác Nghêu giống……………. Triệu đồng/năm
11. Khai thác Nghêu thịt……………. Triệu đồng/năm
12. Khai thác trái Bần chín……………. Triệu đồng/năm
13. Các sản phẩm khác: Tôm, cá, ốc, mật ong ………………. Triệu đồng/năm.
C9. Tham gia đoàn thể: …………………(Có tham gia ghi số 1; không ghi số 0).
C10. Có sợ rủi ro khi xảy ra thiên tai, bão lũ… (Có ghi số 1; không ghi số 0).
Phần B: Thông tin về khả năng tiếp cận tín dụng
C11. Trong 12 tháng qua, có ai trong hộ gia đình ông (bà) vay tiền tại các ngân hàng hay
các tổ chức tín dụng không?
(Nếu có thì phỏng vấn tiếp câu C12, C13, C14; nếu không thì chuyển sang câu C15).
1. Có.
2. Không.
C12. Xin ông (bà) cho biết các khoản vay được vay từ nguồn nào?
1. Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT
2. Ngân hàng Chính sách Xã hội
3. Các tổ chức chính trị xã hội
4. Người cho vay cá thể
5. Họ hàng, bạn bè
C13. Giá trị các khoản vay là bao nhiêu?...........................................(Triệu đồng).
C14. Hộ gia đình ông (bà) vay các khoản tiền này để làm gì?
1. Đầu tư cho sản xuất
2. Xây, sửa chữa nhà
3. Đi học
4. Khác (Xin vui lòng ghi rõ)……………………………………………..
C15. Theo ông (bà), Nhà nước cần hỗ trợ nào để giúp hộ gia đình phát triển kinh tế, nâng
cao thu nhập?
1. Phát triển cơ sở hạ tầng
2. Vốn
3. Giao đất rừng cho dân quản lý
4. Tiêu thụ sản phẩm, giá ổn định.
Xin chân thành cảm ơn quý ông (bà) đã tham gia trả lời câu hỏi. Chúc gia đình
ông (bà) thật nhiều sức khỏe và hạnh phúc!
146
Phụ lục A.2. PHIẾU PHỎNG VẤN KHÁCH DU LỊCH
Xin kính chào quý ông (bà),
Nghiên cứu “Các nhân tố tác động chi phí cho một đi du lịch đến rừng bần
huyện…………..…” nhằm đánh giá thực trạng chi phí khách du lịch phải bỏ ra cho việc
tham quan, du lịch tại rừng bần trên địa bàn trên địa bàn tỉnh ………….. Rất mong ông
(bà) dành chút thời gian để trả lời phỏng vấn vào bảng câu hỏi khảo sát dưới đây. Những
thông tin này sẽ được hoàn toàn giữ bí mật.
I. Xin quý khách vui lòng điền một số thông tin cá nhân
Họ và tên……………………………………………
Giới tính 1. Nam 0. Nữ
Sinh năm……………………………………………...
Địa điểm xuất phát…………………………(tỉnh, thành phố).
Trình độ học vấn………………………(số năm đi học).
Mức thu nhập gia đình/năm: ……………………Triệu đồng.
Số điện thoại…………………………………………………………
II. Xin quý khách vui lòng trả lời một số câu hỏi
Câu 1: Ông/bà đến từ tỉnh/ thành phốnào (xin cho biết điểm xuất phát đầu tiên)
Điểm xuất phát…………………tỉnh/thành phố………………….
Câu 2: Hình thức đi du lịch của quý khách
1. □ Đi nhóm từ 2-4 người
2. □ Đi nhóm từ 5-10 người
3. □ Đi nhóm từ 10-20 người
4.□ Đi nhóm từ 20 trở lên
Câu 3: Mục đích quý khách đến rừng bần
1.□ Vui chơi, giải trí
2. □ Công việc
3. □ Nghiên cứu khoa học
4. □ Khác
Câu 4: Các hoạt động được quý khách ưa thích khi đi tham quan
1.□ Đi ô tô
2. □ Thưởng thức cảnh quan thiên nhiên
147
3. □ Tìm hiểu văn hóa bản địa
4. □ Khác
Câu 5: Xin quý khách đánh giá về chất lượng cảnh quan ở rừng bần
1. □ Hài lòng 2. □ Chưa hài lòng
Câu 6: Những điểm làm quý khách chưa hài lòng
1. □ Cơ sở hạ tầng
2. □ Dịch vụ
3. □ Cảnh quan tự nhiên
4. □ Chất lượng môi trường dịch vụ
5. □ Thái độ thân thiện của người dân
6. □ Khác (………………………………………………)
Câu 7: Qúy khách đến tham quan rừng bần bao nhiêu lần
1. □ 1 lần 2. □ 2 lần 3. □ 3 lần 4. □ Nhiều hơn 3 lần
Câu 8: Qúy khách ở lại nơi đây bao nhiêu lâu
Số ngày: …………. (ngày)
III. Mức chi phí mà quý khách đã bỏ ra/ dự định bỏ ra cho chuyến du lịch này
1. Chi phí đi đến điểm du lịch……………………………..đồng.
2. Chi phí đi lại trong khu du lịch……………………đồng
3. Chi phí ăn, ở……………………………………………đồng
4. Chi phí mua sắm ………………………….đồng
5. Các chi phí khác (Cụ thể)………………………………đồng
Xin chân thành cảm ơn quý ông (bà) đã tham gia trả lời câu hỏi. Chúc ông (bà) thật
nhiều sức khỏe và hạnh phúc!
148
Phụ lục A.3. KẾT QUẢ THỐNG KÊ THU NHẬP HỘ DÂN
1. Kết quả thống kê mô tả
Statistics
X9 N(Shock tu nhien)
X10N(Vay)
210
210
Valid
N
0
0
Missing
X9 N(Shock tu nhien)
Percent
Frequency
Valid Percent Cumulative Percent
15.7
15.7
33
15.7
0
100.0
177
84.3
1
Valid
84.3
100.0
210
100.0
Total
Frequency
Valid Percent Cumulative Percent
X10N(Vay)
Percent
32.9
32.9
69
32.9
Khong
100.0
67.1
141
67.1
Valid
Co vay
DCCT
100.0
210
100.0
Total
Descriptive Statistics
Mean
Std. Deviation
N
210
210
210
210
210
210
210
210
210
210
210
7.446
3.175
.369
.453
1.184
10.742
.443
2.294
.501
.365
.471
35.09
7.41
.84
.71
2.90
42.43
.73
2.13
.51
.84
.67
Y
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
149
CHI TIET THU NHAP HO GIA DINH
Thành tiền
Tỷ trọng
TT
Sản phẩm tạo thu nhập
(Triệu đồng
(%)
Lương khoán bảo vệ rừng
1
1,890
10,40
Khai thác Cua con giống
2
0,850
4,68
Khai thác Cua thịt
3
4,201
23,12
Khai thác cá Kèo con giống
4
2,572
14,15
Khai thác cá Kèo thịt
5
1,422
7,82
Khai thác cá Đối thịt
6
0,640
3,52
Khai thác cá Thòi Lòi thịt
7
0,430
2,37
Khai thác Ba Khía thịt
8
0,840
4,62
Khai thác Dộp thịt
9
0,650
3,58
Khai thác Nghêu giống
10
0,452
2,49
Khai thác Nghêu thịt
11
2,420
13,32
Khai thác trái bần chín
12
0,420
2,31
13
1,387
7,63
Các sản phẩm khác: Tôm, cá, ốc …
100.00
TỔNG CỘNG:
18,174
2. Kết quả kiểm định mô hình cá yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình
Model Summaryb
Change
Statistics
Durbin-
Watson
Model
1
R
.844a
R Square
.713
Adjusted
R Square
.697
Std. Error of
the Estimate
4.101
Sig. F Change
.000
1.929
a. Predictors: (Constant), X10, X3, X7, X6, X5, X1, X9, X5, X4, X2, X8
b. Dependent Variable: Y
150
Residuals Statisticsa
Mean
N
Predicted Value
Minimum Maximum
48.12
23.39
35.09
Std. Deviation
6.286
210
Residual
-10.559
9.299
.000
3.992
210
-1.861
2.073
.000
1.000
210
Std. Predicted
Value
Std. Residual
-2.575
2.267
.000
.973
210
a. Dependent Variable: Y
ANOVAa
Sum of Squares
df
Sig.
Model
1 Regression
8258.346
10
Mean Square
750.759
F
44.637
.000b
Residual
3330.219
198
16.819
Total
11588.565
209
a. Dependent Variable: Y
b. Predictors: (Constant), X10, X3, X7, X6, X5, X1, X9, X6, X4, X2, X8
151
Coefficientsa
Standardized
Coefficients
Collinearity
Statistics
Beta
Sig.
Model
1
(Constant)
t
10.808
.000
Tolerance VIF
Unstandardized
Coefficients
Std.
Error
1.929
B
20.852
X1
.274
.093
.117
2.955
.004
.929
1.077
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
.838
.636
.270
.028
.651
.126
.877
.812
.994
1.946
.081
1.925
.074
-1.975
-.085
2.825
.113
1.994
.077
2.227
.086
2.525
.149
-.110
-2.760
.725 11.527
.053
.056
.050
.005
.048
.027
.012
.006
.000
.841
.972
.788
.907
.968
.971
.417
.918
.367
1.189
1.029
1.268
1.102
1.033
1.030
2.400
1.090
2.723
1.630
1.224
-.533
.078
1.297
.280
2.215
-2.240
11.460
a. Dependent Variable: Y
Model Summaryb
Adjusted R
Square
Change
Statistics
Sig. F
Change
Model
1
R
.448a
R Square
.200
.129
Std. Error
of the
Estimate
1.17956
Durbin-Watson
1.413
.000
a. Predictors: (Constant), CROSP, X1S, X5S, X4S, X2S, X5, X6S, X9S, X3S, X7, X9S,
X10S, X5, X7S, X4, X1, X5S
b. Dependent Variable: USQUARE
152
ANOVAa
df
Sig.
17
Model
1 Regression
Sum of Squares
66.912
Mean Square
3.936
F
2.829
.000b
192
Residual
267.140
1.391
209
Total
334.051
a. Dependent Variable: USQUARE
b. Predictors: (Constant), CROSP, X1S, X5S, X4S, X2S, X5, X6S, X9S, X3S, X7, X8S,
X10S, X5, X7S, X4, X1, X5S
3. Kết quả phân tích hồi quy, giải pháp và khuyến nghị
3.1. Diễn giải các biến
Bảng 1. Diễn giải các biến
Biến số
Diễn giải
Nguồn
Kỳ vọng dấu
(1992), Mankiw
(1998),
Y: Biến phụ
thuộc
(THUNHAP)
Thu nhập bình bình
quân/người/năm
(triệu
đồng)
Park
(2003), Scoones
Mincer (1974)
Mincer (1974)
+
Số năm đi học của chủ hộ
(năm)
X1: Trình độ
học vấn của
chủ hộ
Karttunen (2009)
+
X2: Giới tính
của chủ hộ
Biến giả, nhận giá trị 1
chủ hộ là nam, nhận giá
trị 0 nếu chủ hộ là nữ
Karttunen (2009)
+
X3:
Thành
phần dân tộc
của chủ hộ
Biến giả, nhận giá trị 1
chủ hộ là người Kinh,
nhận giá trị 0 nếu chủ hộ
là dân tộc thiểu số
Karttunen (2009)
-
X4: Quy mô
hộ
Số người trong hộ, không
tính đến số người làm
thuê, ở nhờ (người).
153
Scoones (1998)
+
Diện tích đất khai thác,
đất sản xuất của hộ (m2)
X5: Quy mô
diện tích đất
X6: Thu nhập
+
Động tạo thu nhập từ sản
phẩm rừng bần của hộ
Reardon & cộng sự (1992),
Schwarze (2004)
Scoones (1998)
+
ra
X7: Số hoạt
động sản xuất
doanh
kinh
tạo
thu
nhập
Biến giả, nhận giá trị 1
nếu chủ hộ thu nhập từ
sản phẩm rừng bần, giá
trị 0 nếu chủ hộ có thu
nhập khác
+
Luu Tien Dung, Đinh Phi
Ho và cộng sự (2018)
X8: Tham gia
các
tổ chức
đoàn thể địa
phương
Biến giả, nhận giá trị 1
nếu chủ hộ thu nhập từ
sản phẩm rừng bần, giá
trị 0 nếu chủ hộ có thu
nhập khác
+
X9: Cú sốc tự
nhiên tác động
Do lũ lục, hạn hán, gió
bão, triều cường
Luu Tien Dung, Đinh Phi
Ho và cộng sự (2018)
Scoones (1998)
+
X10: Tiếp cận
các định chế
tài chính
Biến giả, nhận giá trị 1
nếu hộ có vay vốn từ các
định chế chính thức, nhận
giá trị 0 nếu chủ hộ
không vay vốn
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2019
154
Bảng 2. Ký hiệu các biến
Ký hiệu biến
Mô tả
Kỳ vọng dấu
Đơn vị
tính
Thu nhập của hộ gia đình
Triệu đồng/năm
Y
X1 Học vấn của chủ hộ
Lớp 1-12 (Năm học)
+
X2 Giới tính chủ hộ
Nam =1; Nữ = 0
+
X3
Thành phần dân tộc của chủ hộ
Dân tộc Kinh =1;
+
Dân tộc khác = 0
Người
X4 Quy mô hộ
-
X5 Diện tích đất sản xuất
1000 mét vuông
+
X6
Thu nhập từ sản phẩm rừng bần
Có = 1; không = 0
+
Số hoạt động SX – Kinh doanh tạo thu
nhập
Số hoạt động (1, 2,
3…)
X7
+
X8
Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương Có =1; không = 0
+
Cú sốc tự nhiên (hỏa hoạn, lũ lụt, hạn
hán, sóng và bão )
X9
Có =1; không = 0
-
Có vay tiền từ định
chế tín dụng chính
thức = 1; Không = 0
Tiếp cận tín dụng (vay từ các định chế tài
chính - ĐCTC)
X10
+
Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019
3.2. Các bước thực hiện kiểm định mô hình
Thông qua kết quả điều tra, thống kê 210 phiếu điều tra, tiến hành thực hiện kiểm
định kết quả nghiên cứu từ hàm ước lượng. Tiến hành 05 kiểm định sau:
(5) Kiểm định tương quan từng phần của các hệ số hồi quy
Mục tiêu của kiểm định này là nhằm xem xét các biến độc lập tương quan có ý
nghĩa với biến phụ thuộc hay không (xét riêng từng biến độc lập). Khi mức ý nghĩa
155
(Significance, Sig.) của hệ số hồi quy từng phần có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig ≤ 0,05),
kết luận có ý nghĩa thống kê giữa biến độc lập và biến phụ thuộc.
(6) Mức độ phù hợp của mô hình
Nhằm xác định xem có mối quan hệ tuyến tính tuyến tính giữa các biến độc với
biến phụ thuộc hay không. Mô hình được xem là không phù hợp khi tất cả các hệ số hồi
quy đều bằng không, ngược lại mô hình được xem là phù hợp nếu có ít nhất một hệ số hồi
quy khác không.
Giả thuyết: H0: Các hệ số hồi quy đều bằng không
H1: Có ít nhất một hệ số hồi quy khác không
Phân tích phương sai (analysis of variance, ANOVA) được sử dụng để kiểm định.
Nếu mức ý nghĩa đảm bảo có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig. < 0,05), chấp nhận giả thuyết
H1 mô hình được xem là phù hợp.
(7) Hiện tượng đa cộng tuyến
Hiện tượng đa cộng tuyến (multicollinearity) là hiện tượng các biến độc lập có
quan hệ gần như tuyến tính, việc bỏ qua hiện tượng đa cộng tuyến làm các sai số chuẩn
thường cao hơn, giá trị thống kê thấp hơn và có thể không có ý nghĩa. Để kiểm định hiện
tượng này, sử dụng thước đo độ phóng đại phương sai (Variance Inflation Factor, VIF) để
kiểm định hiện tượng tương quan giữa các biến độc lập. Điều kiện là VIF < 10 để không
có hiện tượng đa cộng tuyến.
(8) Hiện tượng tự tương quan
Khi có hiện tượng tư tương quan (autocorrelation) thì các phần dư số chuẩn ước
lượng sẽ khác phần dư thực, do đó ước lượng sẽ không chính xác.
Trong thống kê học, trị số thống kê Durbin-Watson (Durbin và Watson, 1951) là
một thống kê kiểm định được sử dụng để kiểm tra xem có hiện tượng tự tương quan hay
không trong phần dư (residuals) của một phân tích hồi quy.
Trị số thống kê Durbin-Watson (d) được xác định như sau:
156
Trong đó: n: Số quan sát; et: Phần dư của quan sát thứ t.
Căn cứ vào số quan sát, số tham số (k-1) = df của mô hình hồi quy, mức ý nghĩa
0.05 (95%) trong Bảng thống kê Durbin-Watson để xác định được trị số thống kê dU (d-
Upper - Trị số thống kê trên) và dL (d-Lower - Trị số thống kê dưới).
Tự tương
Không kết
Không có tự
Tư tương quan
Không kết luận
quan dương
luận
tương quan
âm
0
dL dU 4-dU 4-dL
Hình 1. Sơ đồ xác định hiện tượng tự tương quan
Trong Hình 3.3, khi d (d - Hệ số Durbin-Watson ) lớn hơn dU và nhỏ hơn (4 - dL),
kết luận không có hiện tượng tự tương quan trong phần dư của mô hình hồi quy tuyến tính
(2). Theo Fomby và cộng sự (1984), khi n lớn không có bảng tra hoặc có những kết quả
mâu thuẫn, áp dụng theo quy tắc (cải tiến):
- Nếu 1 < d < 3: Kết luận mô hình không có tự tương quan.
- Nếu 0 < d < 1: Kết luận mô hình có tự tương quan dương.
Nếu 3 < d < 4: Kết luận mô hình có tự tương quan âm.
(9) Kiểm định hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi
Phương sai của phần dư thay đổi (heteroskedasticity) là hiện tượng các giá trị phần
dư có phân phối không giống nhau, giá trị phương sai không như nhau. Bỏ qua hiện tượng
phương sai của phần dư thay đổi làm cho các ước lượng bình phương nhỏ nhất (Ordinary
Least Square, OLS) của các hệ số hồi quy không đạt hiệu quả, các kiểm định giả thuyết
không còn giá trị và các dự báo không còn hiệu quả. Trong nghiên cứu này số quan sát là
157
210, nên sử dụng kiểm định White (White, 1980) để kiểm định phương sai của phần dư
thay đổi.
- Kiểm định White:
Kết quả mô hình hồi quy
Y = bo + b1X1 + b2X2+ b3X3+ ...+ b11X11+ u (2)
Xây dựng mô hình hồi quy phụ:
USQUARE = b0 + b1X1 + b2X2 + b3X3 + b4X4 + b5X5 + b6X6 + b7X7 + b8X8 + b9X9 +
b10X10 + b11X1S + b12X2S + b13X3S + b14X4S + b15X5S + b16X6S + b17X7S + b18X8S +
b19X9S + b20X10S + b21CROSP
Trong đó:
USQUARE: Phần dư bình phương
X1S: X1 bình phương; X2S: X2 bình phương…; X11S.
CROSP: Tích chéo (X1*X2*X3*X4*X5*X6*X7*X8*X9*X10)
Xác định hệ số White: n*R2
Trong đó: n số quan sát của nghiên cứu; R2: Kết q ủa có được từ hàm hồi quy
phụ (3).
Căn cứ vào số tham số (k-1) = df1 của mô hình hồi quy phụ, mức y nghĩa là 0.05
(95%) trong Bảng phân phối Chi bình phương, để xác định giá trị Chi bình phương.
Khi (n*R2 ) < giá trị Chi bình phương (tra Bảng), kết luận: Phương sai của phần
dư không đổi.
3.3. Thảo luận kết quả hồi quy
(1) Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa (Unstandardized coefficient, B)
Hệ số B chưa chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà các biến
được giữ nguyên giá trị thô. B cho biết giá trị tăng, giảm của biến phụ thuộc (thu nhập Y)
khi thay đổi một đơn vị đo lường của biến độc lập.
(2) Hệ số hồi quy chuẩn hóa (standardized coefficient, Beta)
158
Hệ số Beta đã chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà các biến
độc lập, biến phụ thuộc đã được chuẩn hóa ( phương sai =1). Trị tuyệt đối của hệ số hồi
quy chuẩn hóa Beta, nhằm giúp xác định tỷ lệ % đóng góp của các biến độc lập vào biến
phụ thuộc.
(3) Xác định hàm hồi quy tuyến tính
Các tham số trong hàm ước lượng là các hệ số B của các biến độc lập sau khi giải
phương trình hồi quy.
(4) Các giải pháp, khuyến nghị
Dựa vào hàm hồi quy được xác định, tiến hành phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của hộ dân và đưa ra giải pháp cụ thể.
3.4. Kết quả phân tích hồi quy
Sau khi thực hiện các bước kiểm định, kết quả hồi quy như sau:
Bảng 3. Kết quả hồi quy
Hệ số chưa
chuẩn hóa
Hệ số
chuẩn
hóa
Thống kê
cộng
tuyến
t
Sig.
Beta
Tolerance
VIF
B
20,852
0,274
1,630
1,224
-0,533
0,078
1,297
0,280
2,215
-2,240
11,460
Std.
Error
1,929
0,093
0,838
0,636
0,270
0,028
0,651
0,126
0,877
0,812
0,994
10,808
2,955
0,117
1,946
0,081
1,925
0,074
-1,975
-0,085
2,825
0,113
1,994
0,077
2,227
0,086
2,525
0,149
-0,110
-2,760
0,725 11,527
0,000
0,004
0,053
0,056
0,050
0,005
0,048
0,027
0,012
0,006
0,000
1,077
1,189
1,029
1,268
1,102
1,033
1,030
2,400
1,090
2,723
0,929
0,841
0,972
0,788
0,907
0,968
0,971
0,417
0,918
0,367
(Constant)
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
R2 hiệu chỉnh
Giá trị F
Sig.
Durbin - Watson
0,697
44,637
0,000
1,929
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
159
Theo Hair và cộng sự (2006), Bảng 4 cho kết quả có 10 biến đảm bảo có ý nghĩa
thống kê với độ tin cậy trên 94% (Ngoại trừ biến X5); R2 hiệu chỉnh = 69,7% (69,7 %
thay đổi thu nhập được giải thích bởi 11 biến độc lập); Theo Fomby và cộng sự (1984),
giá trị thống kê Durbin - Watson = 1,929 lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3 (Không có hiện tượng tự
tương quan phần dư); VIF < 10 (Không có hiện tượng cộng tuyến của các biến độc lập).
Đối với phương sai phần dư, nghiên cứu sử dụng kiểm định White (1980).
Mô hình hồi quy phụ của White có dạng:
Bảng 4. Kết quả mô hình hồi quy phụ
Adjusted
R
Square
(R2 hiệu
chỉnh)
Std.
Error of
the
Estimate
R
Square
R
Change Statistics
Durbin-
Watson
R Square
Change
F
Change Sig. F Change
0,129
0,2
2,829 0,000
1,413
0,448
Biến phụ thuộc: SQUARE
117,956 0,2
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Hệ số White = n*R2 hiệu chỉnh = 210*0,129 = 27,09
Tra bảng số Chi bình phương, với 23 biến độc lập và mức tin cậy 95%, giá trị
thống kê bảng = 35,17. Không có hiện phương sai phần dư thay đổi vì hệ số White nhỏ
hơn giá trị thống kê bảng.
Thông qua 6 kiểm định trên, mô hình khẳng định có 10 yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập hộ dân sống xung quanh rừng bần: X1, X2, X3, X4, X6, X7, X8, X9, X10.
160
Bảng 5. Mức độ tác động của các yếu tố
Vị trí tác
động
3
8
10
7
4
9
6
2
5
1
Các biến độc lập
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
Tổng
Giá trị tuyệt
đối Beta
0,117
0,081
0,074
0,085
0,113
0,077
0,086
0,149
0,110
0,725
1,617
Tỷ lệ %
7,2
5,0
4,6
5,3
7,0
4,8
5,3
9,2
6,8
44,8
100
Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019
Ghi chú: Theo Norusis (1993), trong mô hình hồi quy, đánh giá mức độ tác động của
các hệ số hồi quy nên sử dụng hệ số Beta.
Mức độ tác động theo thứ tự từ lớn đến nhỏ nhất: Tiếp cận vốn vay từ các định
chế chính thức (X11); Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương (X9); Học vấn (X1); Diện
tích đất sản xuất (X6); Cú sốc tự nhiên X10); Số hoạt động sản xuất - kinh doanh tạo thu
nhập X8); Quy mô hộ 9X4); Giới tính chủ hộ (X2); Thu nhập từ sản phẩm rừng bần (X7);
Thành phần dân tộc của chủ hộ (X3).
Trong điều kiện rừng bần tại ĐBSCL, nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập hộ dân sống xung quanh rừng bần theo thứ tực tác động, gồm: (i) Vốn tài
chính, (ii) vốn xã hội, (iii) vốn con người, (iv) vốn vât chất, và (v) vốn tự nhiên.
Từ kết quả tổng số hộ dân sống ven rừng bần nhận khoán rừng tại địa bàn nghiên
cứu tổng cộng là: 3.169,8 ha (Mục 3 luận án), qua kết quả điều tra với thu nhập bình quân
hộ khai thác sản phẩm từ rừng bần là 18,174 triệu đồng/ha/năm. Như vậy tổng thu nhập
(TN):
TN = 3.169,8 ha x 18,174 triệu đồng/ha/năm = 57.607,945 triệu đồng/năm.
Betak: Hệ số Beta của biến độc lập thứ k; Bk: Hệ số hồi quy chưa
chuẩn hóa của biến độc thứ k; Sk: Độ lệch chuẩn (Standard
Deviation) của biến độc lập thứ k; SY: Độ lệch chuẩn của biến phụ
thuộc Y.
161
3.5. Giải pháp, khuyến nghị để nâng cao thu nhập hộ gia đình
Để nâng cao thu nhập cho hộ dân, 5 vấn đề cần quan tâm giải quyết:
Một là, nâng cao năng lực vốn tài chính cho các hộ dân thông qua tạo điều kiện
cho hộ tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội) và các Quỹ tài trợ phát triển và bảo vệ RNM
ven biển, đặc biệt là các phương án khai thác thủy sản và phụ phẩm rừng bần có hiệu quả
kinh tế và gắn với cân bằng sinh thái.
Hai là, mở rộng vốn xã hội cho các hộ dân thông qua tác động của hiệp hội Nông
dân, Trung tâm khuyến nông, Trung tâm khuyến lâm bằng các hình thức Câu lạc bộ, tập
huấn các mô hình sản xuất hiệu quả, kỹ thuật mới, thông tin thị trường, biến động của môi
trường rừng ngập mặn.
Ba là, duy trì năng lực vốn con người thông qua các chính sách nâng cao dân trí
cho con em hộ dân, tỷ lệ sinh hợp lý, vai trò phụ nữ tham gia sản xuất - kinh doanh, đặc
biệt là quan tâm đến người đồng bào dân tộc và người yếu thế trong xã hội.
Bốn là, nâng cao vốn vật chất cho các hộ dân thông qua việc áp dụng mô hình
thâm canh rừng, đa dạng các loại hình sản xuất nông - lâm - nuôi trồng thủy sản ở vùng
đệm và chế biến sản phẩm từ bần, dịch vụ du lịch sinh thái rừng bần.
Năm là, tích cực cũng cố vốn tự nhiên thông qua đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
dự án bảo vệ, khôi phục và phát triển RNMnhằm hạn chế tối đa những cú sốc tự nhiên
ảnh hưởng đế sinh kế các hộ dân sống xung quanh vùng rừng bần./.
162
Phụ lục A.4. KẾT QUẢ THỐNG KÊ CHI PHÍ DU LỊCH
Statistics
THU
NHAP
TUOI
AN UONG
BINH
QUAN
NGUOI
SO
LAN
THA
M
QUA
N
250
SONGU
OI
TRONG
NHOM
250
KHOAN
G CACH
250
250
250
HOC VAN
250
250
N
1.05
5.18
154.15
120.87
43.71
14.81
72.33
.214
1.779
90.893
57.428
18.444
2.660
11.455
1
2
38
41
16
6
42
2
11
360
460
72
24
97
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
SO LAN THAM QUAN (LAN)
Frequency
Percent
Valid Percent
Valid
Cumulative Percent
95.2
100.0
238
12
250
95.2
4.8
100.0
95.2
4.8
100.0
1
2
Total
SO NGUOI TRONG NHOM (NGUOI)
Frequency
Percent
Valid Percent
Valid
Cumulative Percent
16.4
67.2
96.0
97.6
98.0
98.4
98.8
99.6
100.0
41
127
72
4
1
1
1
2
1
250
16.4
50.8
28.8
1.6
.4
.4
.4
.8
.4
100.0
16.4
50.8
28.8
1.6
.4
.4
.4
.8
.4
100.0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Total
163
KHOANG CACH KM
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid
12.8
19.2
25.6
35.2
42.4
49.6
68.0
69.6
75.6
85.6
91.6
95.6
100.0
38
58
90
94
106
110
160
190
200
240
290
320
360
Total
32
16
16
24
18
18
46
4
15
25
15
10
11
250
12.8
6.4
6.4
9.6
7.2
7.2
18.4
1.6
6.0
10.0
6.0
4.0
4.4
100.0
12.8
6.4
6.4
9.6
7.2
7.2
18.4
1.6
6.0
10.0
6.0
4.0
4.4
100.0
GIOI TINH NGUOI PHONG VAN
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid
17.6
100.0
0
1
Total
44
206
250
17.6
82.4
100.0
17.6
82.4
100.0
HONNHAN (GD=1; DOC THAN =0)
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid
8.4
100.0
0
1
Total
21
229
250
8.4
91.6
100.0
8.4
91.6
100.0
164
SO NAM HOC TAP
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid
.4
.8
2.0
7.6
8.8
22.0
44.4
52.4
82.4
85.2
94.4
95.2
96.0
97.6
98.8
99.2
99.6
100.0
6
8
9
10
11
12
14
15
16
17
18
19
20
21
22
24
26
28
Total
1
1
3
14
3
33
56
20
75
7
23
2
2
4
3
1
1
1
250
.4
.4
1.2
5.6
1.2
13.2
22.4
8.0
30.0
2.8
9.2
.8
.8
1.6
1.2
.4
.4
.4
100.0
.4
.4
1.2
5.6
1.2
13.2
22.4
8.0
30.0
2.8
9.2
.8
.8
1.6
1.2
.4
.4
.4
100.0
Model Summaryb
Change
Statistics
Adjusted R
Square
Durbin-
Watson
.223
Std. Error
of the
Estimate
12.704
Sig. F Change
.037
1.219
Model
1
R
.524a
R Square
.275
a. Predictors: (Constant), TC
Coefficientsa
Unstandardized Coefficients
Standardized
Coefficients
Std. Error
Beta
Model
1
(Constant)
B
57.750
16.090
t
3.601
Sig.
.003
TC
-9.165E-05
-.524
-2.302
.037
.000
165
Phụ lục A.5. MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ RỪNG
Trạm Kiểm lâm Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung
Trạm Kiểm lâm xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, Trà Vinh
166
Họp giao ban Trạm Kiểm lâm và Tổ Quản lý rừng Cù Lao Dung, Sóc Trăng
Hội nghị Mêkông xanh Cần Thơ- Báo Tuổi trẻ, 2018
167
Phụ lục A.6. MỘT SỐ HÌNH ẢNH RỪNG BẦN
Rừng bần Cù Lao Dung, Sóc Trăng
Trồng bần trên bãi bồi tại xã Trung Bình, Trần Đề, Sóc Trăng
168
Rừng bần ngoài đê bao xã Long Vĩnh, Duyên Hải, Trà Vinh
169
Phụ lục A.7. SẢN PHẨM TỪ RỪNG BẦN
Mùa bần
Trái và bông bần
170
Trái bần chín
Trái bần chín làm nguyên liệu Nước cốt bần
171
Con Dộp
172
Nghêu
Cá Kèo
Cá Thòi lòi biển
173
Cua biển
Tôm càng
174
Tôm thẻ chân trắng
Người dân đi thụt bắt Lịch
175
Sản phẩm Lịch
Sản xuất nước cốt bần
176
Phụ lục A.8. MỘT SỐ HÌNH ẢNH DỊCH VỤ DU LỊCH
Phà qua Long Phú qua Cù Lao Dung
Phà Trà Vinh qua Cù Lao Dung
177
Tàu dịch vụ du lịch
Khỉ đuôi dài sống trong rừng bần
178
Con khỉ đang đi săn Ba Khía
Bãi nghêu Cù Lao Dung, Sóc Trăng
179
Đàn Cò trắng bay về nơi trú ngụ trong rừng bần
180