TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KINH TẾ

NGUYỄN VĂN HÒA

ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN

PHẨM RỪNG BẦN TẠI ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

Mã ngành: 62620115

Cần Thơ, năm 2021

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KINH TẾ

NGUYỄN VĂN HÒA

ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN

PHẨM RỪNG BẦN TẠI ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

Mã ngành: 62620115

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

PGS. TS. MAI VĂN NAM

Cần Thơ, năm 2021

ii

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGs. Ts. Mai Văn Nam,

hướng dẫn khoa học của luận án, đã tận tình hướng dẫn, nhận xét, góp ý, khuyến khích và

động viên tôi rất nhiều trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện hoàn thành luận án

này. Tôi đã học được rất nhiều từ Thầy về kiến thức chuyên môn, tác phong làm việc và

những điều bổ ích khác.

Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý Thầy, Cô trong Khoa Kinh tế nói riêng

và quý Thầy, Cô trong Trường Đại học Cần Thơ nói chung, nơi tôi học tập và nghiên cứu.

Quý Thầy, Cô đã giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt khoá học tại trường. Đặc biệt là Thầy

PGs. Ts. Đỗ Văn Xê, PGs. Ts. Võ Thành Danh, PGs. Ts. Lê Khương Ninh, PGs. Ts. Phạm

Lê Thông, PGs. Ts. Huỳnh Việt Khải …đã đem đến cho tôi những kiến thức và kinh

nghiệm vô giá.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh/chị đang công tác tại các Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Kiểm lâm, Hạt Kiểm lâm, Phòng Nông nghiệp,

Phòng Văn hóa Thông tin 02 tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng đã nhiệt tình hỗ trợ, giúp đỡ tôi

trong thời gian khảo sát thực tế, thu thập số liệu để thực hiện hoàn thành luận án.

Sau cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến những người bạn, đồng nghiệp và người

thân đã tận tình hỗ trợ, chia sẻ, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu.

iii

Tôi xin chân thành cảm ơn!.

TÓM TẮT

Cây Bần chua có tên khoa học là Sonneratia caseolaris L. thuộc họ Bần

(Sonneratiaceae), Bần là loại cây tự mọc và được trồng nhiều ven các con sông, cửa biển,

trên các bãi bồi và là một quần thể không thể thiếu của rừng ngập mặn ven biển nước ta;

với chiều cao to lớn của cây và hệ thống rễ phát triển cây bần có khả năng chắn sóng, chống

xói mòn và gió (Đỗ Huy Bích và cộng sự, 2004).

Nghiên cứu này nhằm xác định giá trị kinh tế của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu

Long. Địa bàn nghiên cứu gồm ba huyện thuộc hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, với tổng

diện tích rừng bần gần 3.170 ha, với 1.741 hộ dân được giao khoán rừng.

Thực hiện nghiên cứu này áp dụng cả 3 cách tiếp cận chủ yếu để đánh giá giá trị kinh

tế của sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long là đánh giá tổng thể, đánh giá từng

phần và đánh giá phân tích tác động. Các phương pháp đánh giá được chia thành 4 nhóm là

dựa trên thị trường thực, dựa trên thị trường thay thế, dựa trên thị trường giả định và phân

tích chi phí - lợi ích mở rộng. Mỗi phương pháp phù hợp với việc đánh giá một hay nhiều

nhóm giá trị cụ thể. Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu

Long là một quy trình gồm nhiều bước, mang tính liên ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều

chuyên gia và các nhóm xã hội. Lượng thông tin về giá trị kinh tế của sản phẩn rừng bần tại

đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều ứng dụng trong quản lý rừng bần ngập mặn. Các

ứng dụng quan trọng sử dụng thông tin về giá trị kinh tế gồm (1) xây dựng các qui hoạch,

kế hoạch sử dụng rừng bần ngập mặn, (2) đề xuất các công cụ pháp lý, công cụ kinh tế trong

quản lý rừng bần ngập mặn, (3) thiết kế và thực hiện các cơ chế chi trả cho dịch vụ môi

trường để bảo tồn sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, (4) bổ sung và hoàn

thiện cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý sản phẩn rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, (5)

thiết kế các chương trình giáo dục và truyền thông về bảo tồn và quản lý bền vững rừng bần

ngập mặn.

Thông qua việc phân tích giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp, kết quả nghiên cứu

cho thấy giá trị kinh tế của rừng bần hàng năm mang lại tổng số tiền trên 445,6 tỷ đồng;

trong đó giá trị trực tiếp trên 384,9 tỷ đồng, chiếm 86,38%; giá trị gián tiếp của rừng bần

phòng hộ trên 60,7 tỷ đồng, chiếm 13,62% tổng giá trị kinh tế.

iv

Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long; Giá trị kinh tế; Sản phẩm rừng bần; Rừng bần

ABSTRACT

Sonneratia caseolaris L., Sonneratiaceae, is a self-growing tree and is grown along rivers,

estuaries, on alluvial grounds and is an indispensable population of coastal mangroves in

our country; With the great height of the tree and the root system, the tree is able to break

waves, resist erosion and wind (Do Huy Bich et al., 2004).

This study aims to determine the economic value of lowland forests in the Mekong Delta.

The study area consists of three districts in the two provinces of Soc Trang and Tra Vinh,

with a total area of cork forests of nearly 3,170 hectares, with 1,741 households being

contracted with forests.

This study has applied all three main approaches to assess the economic value of poor

forest products in the Mekong Delta, namely overall assessment, partial assessment and

impact analysis assessment. The evaluation methods are divided into 4 groups: real market

based, alternative market based, market based hypothesis and extended cost - benefit

analysis. Each method is suitable for evaluating one or more specific groups of values.

Assessing the economic value of horticultural products in the Mekong Delta is a multi-

step, interdisciplinary process that requires the participation of many experts and social

groups. The amount of information on the economic value of lowland products in the

Mekong Delta has many uses in mangrove management. Key applications for using

information on economic value include (1) developing plans and plans for the use of

mangroves, (2) proposing legal, economic tools for (3) design and implement payment

mechanisms for environmental services for the conservation of lowland products in the

Mekong Delta, (4) supplement and complete the database for the management of poor

forest products in the Mekong Delta, (5) design of education and communication programs

on conservation and sustainable management of mangrove forests.

Through the analysis of direct and indirect use value, the research results show that the

economic value of the poor annual forest brings the total amount over 445.6 billion VND;

of which the direct value was over 384.9 billion VND, accounting for 86.38%; the indirect

value of protection poor forests is over 60.7 billion VND, accounting for 13.62% of the

total economic value.

v

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập, nghiêm túc của

cá nhân. Các số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn và

có tính kế thừa từ các tài liệu, tạp chí, công trình nghiên cứu đã được công bố.

Các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án được rút ra từ quá trình nghiên cứu

thực tiễn và chưa được công bố trong bất kỳ luận án cùng cấp nào trước đây.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Cần Thơ, ngày tháng năm 2021

Người hướng dẫn Người thực hiện

PGs. Ts. Mai Văn Nam

Nguyễn Văn Hòa

vi

MỤC LỤC

Chương 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................ 1

1.1. Tính cấp thiết của luận án .................................................................................. 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 3

1.2.1. Mục tiêu tổng quát ........................................................................................... 3

1.2.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................................ 3

1.3. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 3

1.3.1. Phạm vi về không gian .................................................................................... 3

1.3.2. Phạm vi về thời gian ........................................................................................ 4

1.3.3. Phạm vi về nội dung ........................................................................................ 5

1.3.4. Giới hạn nghiên cứu ........................................................................................ 5

1.4. Các câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 6

1.5. Ý nghĩa của nghiên cứu ...................................................................................... 6

1.5.1. Về mặt khoa học…………………………………..........................................6

1.5.2. Về mặt thực tiễn……………………………………………………………...7

1.6. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 8

Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................... 9

2.1. Khái niệm tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ............................................. 9

2.2. Các giá trị trực tiếp ........................................................................................... 10

2.3. Các giá trị sử dụng gián tiếp ............................................................................. 21

2.4. Các giá trị phi sử dụng ..................................................................................... 30

2.5. Các kết quả nghiên cứu định lượng các giá trị của rừng ngập mặn ................. 30

2.6. Nhận diện các giá trị kinh của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long ….….32

2.6.1. Các giá trị sử dụng trực tiếp………………………………………………..32

2.6.2. Các giá trị sử dụng gián tiếp……………………………….……………….32

2.6.3. Giá trị phi sử dụng……………………………………………………….....33

2.7. Thực trạng các giá trị trực tiếp của nghiên cứu ................................................ 36

2.7.1. Thực trạng các giá trị trực tiếp của nghiên cứu……….……………………36

2.7.2. Giá trị sử dụng gián tiếp của nghiên cứu....................................................... 38

Chương 3: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............. 42

3.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................... 42

3.1.1. Các khái niệm ................................................................................................ 42

vii

3.1.2. Cơ sở lý luận về giá trị kinh tế ...................................................................... 43

3.2. Nghiên cứu về thu nhập hộ gia đình ................................................................ 51

3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu về thu nhập .................................................... 51

3.2.2. Thiết kế nghiên cứu và thu thập số liệu ........................................................ 53

3.2.3. Thiết kế Bảng câu hỏi .................................................................................... 57

3.2.4. Các bước thực hiện ước lượng mô hình ........................................................ 57

3.2.5. Thảo luận kết quả hồi quy ............................................................................. 59

3.3. Nghiên cứu giá trị du lịch của rừng bần ........................................................... 60

3.3.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 60

3.3.2. Nghiên cứu giá trị du lich rừng bần huyện Cù Lao Dung ............................. 61

3.3.3. Phương pháp chi phí du hành ........................................................................ 62

3.4.4. Thành phần của chi phí du hành .................................................................... 62

3.5.5. Lý do chọn địa điểm du lịch tại rừng bần huyện Cù Lao Dung .................... 64

3.6.6. Cách tiếp cận, khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu .................... 65

3.3.7. Các bước tiến hành ........................................................................................ 66

3.3.8. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin ...................................................... 68

3.4. Giá trị rừng phòng hộ của rừng bần (tính chi phí thay thế) ............................. 70

Chương 4: KẾT QUẢ NHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................... 74

4.1. Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long ....................................................... 74

4.1.1. Vị trí địa lý .................................................................................................... 74

4.1.2. Khí hậu .......................................................................................................... 75

4.1.3. Nguồn nước ................................................................................................... 75

4.1.4. Tài nguyên đất ............................................................................................... 76

4.1.5. Hệ sinh thái nông nghiệp ............................................................................... 76

4.1.6. Hệ động vật ................................................................................................... 77

4.1.7. Đặc điểm kinh tế - xã hội .............................................................................. 77

4.2. Phân tích hiện trạng rừng ngập mặn ................................................................. 78

4.2.1. Hiện trạng rừng ngập mặn ở Việt Nam ......................................................... 78

4.2.2. Diễn biến rừng ngập mặn ở Việt Nam .......................................................... 83

4.2.3. Hiện trạng rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long .............................. 83

4.2.4. Phục hồi và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng sông

Cửu Long…………………………………………………………………………84

4.2.5. Tăng cường liên kết bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long ........................................................................................................ 86

viii

4.3. Hiện trạng rừng bần tại địa bàn nghiên cứu ..................................................... 90

4.3.1. Rừng bần tại tỉnh Trà Vinh............................................................................ 90

4.3.2. Rừng bần tại tỉnh Sóc Trăng ........................................................................ 91

4.4. Kết quả đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩn rừng bần ................................... 95

4.4.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu .............................................................................. 95

4.4.2. Kết quả đánh giá giá trị tạo thu nhập từ sản phẩm rừng bần ......................... 99

4.4.3. Kết quả hồi quy của mô hình tạo thu nhập .................................................. 104

4.5. Kết quả giá trị cảnh quan du lịch rừng bần ngập mặn .................................... 107

4.5.1. Đặc điểm mẫu điều tra rừng bần huyện Cù Lao Dung................................ 107

4.5.2. Phương pháp xác định tổng giá trị du lịch .................................................. 109

4.5.3. Xác định tổng giá trị du lịch………………………………………………110

4.6. Giá trị phòng hộ của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long ....................... 122

4.6.1. Huyện Duyên Hải ........................................................................................ 123

4.6.2. Huyện Trần Đề ............................................................................................ 123

4.6.3. Huyện Cù Lao Dung ................................................................................... 123

4.7. Đề xuất các giải pháp phát triển rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long…..124

4.7.1. Giải pháp về tạo thu nhập hộ gia đình…………………………………….124

4.7.2. Giải pháp về phát triển du lịch…………………………………………….127

4.7.3. Giải pháp về phòng hộ đê biển……………………………………….…. .128

Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................... 131

5.1. Kết luận .......................................................................................................... 131

5.2. Kiến nghị ........................................................................................................ 134

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 136

Phụ lục A.1. PHIẾU KHẢO SÁT THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH .......................... 144

Phụ lục A.2. PHIẾU PHỎNG VẤN KHÁCH DU LỊCH .................................... 147

Phụ lục A.3. KẾT QUẢ THỐNG KÊ THU NHẬP HỘ DÂN ............................ 149

Phụ lục A.4. KẾT QUẢ THỐNG KÊ CHI PHÍ DU LỊCH .................................. 163

Phụ lục A.5. MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ RỪNG ................. 166

Phụ lục A.6. MỘT SỐ HÌNH ẢNH RỪNG BẦN ................................................ 168

Phụ lục A.7. SẢN PHẨM TỪ RỪNG BẦN ......................................................... 170

ix

Phụ lục A.8. MỘT SỐ HÌNH ẢNH DỊCH VỤ DU LỊCH ................................... 177

DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG

Bảng 2.1: Các giá trị của rừng ngập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long ............... 32

Bảng 3.1. Các giá trị kinh tế của rừng bần .............................................................. 50

Bảng 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình ................................... 52

Bảng 3.3. Kỳ vọng dấu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình ................ 54

Bảng 3.4. Phân bổ phiếu khảo sát ........................................................................... 57

Bảng 3.5. Đề xuất của các nhà nghiên cứu về tính chi phí theo thời gian ............ 64

Bảng 4.1. Các đặc trưng khác ................................................................................ 100

Bảng 4.2. Các sản phẩm từ rừng bần tạo thu nhập ................................................ 101

Bảng 4.3. Kết quả hồi quy…………………………………………….….………105

Bảng 4.4. Mức độ tác động của các yếu tố đế thu nhập……………………..…..106

Bảng 4.5. Đặc điểm của du khách đến rừng bần huyện Cù Lao Dung ................. 108

Bảng 4.6. Phân vùng theo điểm xuất phát của du khách và tỷ lệ tham quan ........ 111

Bảng 4.7. Chí phí đi lại điểm du lịch .................................................................... 114

Bảng 4.8. Tổng chi phí tham quan của từng vùng xuất phát ............................... 116

Bảng 4.9. Kết quả hồi quy mô hình hàm cầu du lịch ............................................ 117

Bảng 4.10. Giá trị du lịch và giá trị thặng dư của khách các vùng xuất phát ....... 120

Bảng 4.11. Tổng hợp vốn đầu tư duy tu đê bao giai đoạn 2018 - 2019 ................ 124

x

Bảng 4.12. Tổng các giá trị của sản phẩm rừng bần ngập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long ............................................................................................ 129

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ................................................... 9

Hình 2.2. Thay đổi diện tích rừng bần ngập mặn và đường bờ biển ở

Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng ................................................................................ 22

Hình 2.3. Rừng ngập mặn bảo vệ các cộng đồng ở vùng ven biển ........................ 24

Hình 2.4. Bước sóng giảm dần qua đai rừng ngập mặn ......................................... 24

Hình 2.5. Các giá trị thực tiễn của sản phẩm rừng bần khu vực khảo sát…….…..34

Hình 3.1. Khái niệm tổng giá trị kinh tế ................................................................. 44

Hình 3.2. Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần…………………..…………50

Hình 3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình .................................... 52

Hình 3.4. Đường cầu du lịch của du khách ............................................................. 68

Hình 4.1. Bản đồ rừng bần khu vực nghiên cứu…………………………………...95

Hình 4.2. Bản đồ hiện trạng rừng bần xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải,

tỉnh Trà Vinh .......................................................................................................... 96

Hình 4.3. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng ................. 97

Hình 4.4. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng ......... 98

Hình 4.5. Tỷ trọng các sản phẩm tạo thu nhập hộ gia đình/ha/năm ..................... 104

Hình 4.6. Đường cầu du lịch rừng bần huyện Cù Lao Dung ............................... 117

Hình 4.7. Tổng giá trị du lịch ............................................................................... 118

xi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chi phí thiệt hại tránh được (Avoided Cost) AC

BĐKH Biến đổi khí hậu

Giá trị để lại (Bequest Value) BV

CVM Phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method)

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long

Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value) DIUV

Đất ngập nước ĐNN

Giá trị tồn tại (Existense Value) EV

FAO Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (Food and Agriculture Organization)

Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của Cộng hòa Liên Bang Đức GTZ

Hệ sinh thái HST

HSTRNM Hệ sinh thái rừng ngập mặn

ITCM Phương pháp chi phí du hành cá nhân (Individual Travel Cost

Method)

Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (The world conservation union) IUCN

Giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value) IUV

KT - XH Kinh tế - xã hội

NPV Giá trị hiện tại ròng (Net Present Value)

Nghị quyết NQ

Giá trị phi sử dụng (Non Use Value) NUV

OLS Bình phương bé nhất (Ordinary Least Square)

Quyết định QĐ

Rừng bần ngập mặn RBNM

Rừng ngập mặn RNM

Phương pháp chi phí du hành (Travel Cost Method) TCM

Tổng giá trị kinh tế (Total Economic Value) TEV

Thủ tướng TTg

UBND Ủy ban nhân dân

xii

UV Giá trị sử dụng (Use Value)

WB Ngân hàng thế giới (World Bank)

WIP Viện sinh thái và Bảo tồn công trình (Institute Of Ecology And Works Protection

WTP Mức sẵn lòng phải trả (Willing To Pay)

xiii

ZTCM Phương pháp chi phí du hành theo vùng (Zonal Travel Cost Method)

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU

1.1. Tính cấp thiết của luận án

Cây Bần chua có tên khoa học là Sonneratia caseolaris L. thuộc họ Bần

(Sonneratiaceae) nay đổi sang họ Lythraceae, Bần chua là loại cây tự mọc và được

trồng nhiều ven các con sông, cửa biển, trên các bãi đất bồi và là một quần thể

không thể thiếu của rừng ngập mặn (RNM) ven biển nước ta (Đỗ Huy Bích và

cộng sự, 2004). Chiều cao của cây với kích thức to lớn và hệ thống rễ chằng chịt,

có khả năng chắn sóng, chống xói mòn, gió; theo dân gian, cây bần không những

được sử dụng để tạo thêm hương vị cho các món ăn mà còn có thể tạo ra những bài

thuốc có giá trị như: cầm máu, viêm tấy, giải nhiệt. Trên thế giới, cây bần được sử

dụng như chất kháng oxy hóa và các tế bào độc hại. Hơn nữa, cây bần còn sử dụng

như chất làm se vết thương, chữa bong gân, chữa bệnh trĩ, ngăn chặn xuất huyết

(Jiny và cộng sự, 2010).

Tại các tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cây Bần

chua mọc tập trung rất nhiều và dày, tạo thành rừng bần rộng lớn, với diện tích

hàng trăm đến hàng nghìn ha; rừng bần phân bố ở gần cửa sông, nơi độ mặn của

nước từ 3‰ đến 20‰. Nguồn lợi thủy sản của rừng Bần chua phong phú và dồi

dào. Thủy, hải sản có nhiều loài khác nhau và chúng xuất hiện theo mùa. Các sản

phẩm bao gồm: cá Ngác, cá Quát, cá Bống sao, cua Biển, cá Kèo, Nghêu, Dộp,...

Cách thức đánh bắt cũng đa dạng, phù hợp cho từng giới và từng lứa tuổi. Đàn ông

tham gia đánh bắt cá, phụ nữ và trẻ em bắt cua giống, cá Kèo, Nghêu, Dộp...

Nguồn lợi thủy sản mang lại thu nhập rất lớn cho các hộ gia đình ở những làng ven

biển. Đai rừng bần phòng hộ góp phần tạo nên môi trường sinh thái thuận lợi cho

nuôi trồng thủy sản ở vùng đệm. Rừng bần đóng vai trò như một máy lọc nước

khổng lồ, có chức năng làm sạch nguồn nước trước khi bơm vào ao nuôi, ngay cả

làm lắng đọng các chất thải từ ao nuôi xả ra (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

1

Theo Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2000), tài nguyên thuỷ sản trong rừng

ngập mặn ở vùng cửa sông, ven biển tỉnh Sóc Trăng rất phong phú, đa dạng. Tài

nguyên rừng ngập mặn đóng góp đáng kể vào thu nhập và sinh kế của người dân

địa phương, cung cấp các sản phẩm như: gỗ, củi, dược liệu. Trái bần là nguồn thức

ăn quan trọng cho cá và các loài thủy sản nói chung. Các dịch vụ và giá trị của

rừng Bần mang lại như: ngăn chặn lan tràn nước mặn và sóng; chống bão, sóng

thần, triều cường, gió lốc, bảo vệ bờ biển, lấn biển; giảm nhẹ thiệt hại, bảo vệ đê

biển và các công trình ở vùng ven biển; lưu trữ dinh dưỡng đất; sản xuất sinh khối;

duy trì các quá trình sinh thái tự nhiên ở vùng ven biển và du lịch, giải trí, nghiên

cứu khoa học. Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ở vùng cửa sông Cửu Long có thể

đạt 3.099,36 USD/ha/năm (gồm giá trị từ nguồn gỗ, củi là 16,35 USD/ha/năm và

giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm) (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

Theo dự báo của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam và Bangladesh là hai

nước đang phát triển sẽ bị thiệt hại nặng nề do hiện tượng nước biển dâng. Phần

lớn đất màu mỡ nhất của Việt Nam bị chìm, ngập, đất nông nghiệp và GDP (Gross

Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội) đều chịu những tác động xấu

(Dasgupta và cộng sự, 2007).

Việt Nam là quốc gia có chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, thường xuyên

hứng chịu tác động mạnh của sóng, gió, bão... Với kịch bản nước biển dâng cao 1

m, thì nước ta có hơn 40.000 km2 vùng ven biển và các đảo bị tác động, trong đó

ĐBSCL và một số đảo bị nhấn chìm... làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông

nghiệp và nơi cư trú của hơn 17 triệu người.

Để bảo vệ, phát triển rừng bần, tạo thêm thu nhập cho người dân sống xung

quanh, phát triển tiềm năng du lịch, mang lại giá trị kinh tế cho con người và xã

hội,... từ đó góp phần quan trọng trong việc tạo dựng, khai thác rừng bần một cách

hợp lý để mở rộng, phát triển hành lang xanh, chắn sóng, gió biển. Trong điều kiện

cực đoan về lập địa, thời tiết khí hậu khắc nghiệt và tác động mạnh, thường xuyên

của sóng gió, bão...

2

Chính vì những giá trị trên, nghiên cứu được thực hiện với đề tài “Đánh giá

giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long”, nhằm

phân tích, đánh giá giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần. Kết quả nghiên cứu làm

cơ sở quan trọng giúp các nhà hoạch định chính sách có những giải pháp quản lý,

khai thác và phát triển rừng bần hợp lý, như là một phần của giải pháp cho chiến

lược đối phó với biến đổi khí hậu, đồng thời bổ sung một nội dung mới trong

nghiên cứu khoa học về giá trị kinh tế của RNM tại ĐBSCL.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu tổng quát là đánh giá giá trị kinh tế

của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đề xuất một số giải

pháp làm tăng giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục tiêu trên, các mục tiêu cụ thể của luận án bao gồm:

(1) Phân tích, đánh giá thực trạng sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông

Cửu Long.

(2) Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu

Long.

(3) Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng giá trị kinh tế của sản

phẩm rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long.

1.3. Phạm vi nghiên cứu

1.3.1. Phạm vi về không gian

Việc thực hiện đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần là lĩnh vực

nghiên cứu mới, nghiên cứu được thực hiện thông qua việc tổng hợp, phân tích các

tài liệu báo cáo có liên quan, phỏng vấn các chuyên gia, điều tra xã hội học theo

phiếu điều tra được thiết kế sẵn. Số liệu sơ cấp thu thập thông qua việc phỏng vấn

3

người dân sống ven rừng bần tại 03 huyện thuộc 02 tỉnh ĐBSCL (huyện Duyên

Hải thuộc tỉnh Trà Vinh, huyện Cù Lao Dung và huyện Trần Đề thuộc tỉnh Sóc

Trăng) để tiến hành điều tra, phỏng vấn. Số liệu sau khi thu thập được sử dụng cho

việc phân tích, đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần như việc khai thác

các sản phẩm từ rừng bần để tạo thu nhập cho hộ dân sống ven rừng, giá trị cảnh

quan du lịch mà rừng bần mang lại cho khách tham quan (thông qua chỉ tiêu đánh

giá chi phí du lịch và giá trị phòng hộ chắn sóng, gió, bão của rừng bần). Rừng bần

tại ĐBSCL được chọn làm địa bàn nghiên cứu vì những lý do sau:

Thứ nhất, đây là vùng rừng bần tiêu biểu với đặc điểm toàn là cây bần già,

kết hợp với rừng bần non mới phát triển, rất dày (các cây rừng khác mọc đan xen

vào là không đáng kể) mà các vùng khác chưa có. Nơi đây chứa đựng những giá trị

sinh thái và đa dạng sinh học, mang lại nét đặc trưng riêng so với các vùng RNM

khác.

Thứ hai, rừng bần tại khu vực nghiên cứu có nhiều giá trị kinh tế, bao gồm

cả giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp. Cho nên, kết quả nghiên

cứu có thể đưa ra nhận định mang tính khách quan, hạn chế tối thiểu sự tương

quan, ràng buộc về giá trị kinh tế so với các vùng RNM khác.

Thứ ba, với các giá trị kinh tế đa dạng, cũng như các giá trị về sinh thái

quan trọng có được từ rừng bần tại ĐBSCL, bởi rừng bần là nơi mà sự xung đột

giữa các hoạt động phát triển và bảo tồn thể hiện rõ ràng nhất. Vì vậy, vùng này rất

cần có sự tiếp cận nghiên cứu khá toàn diện, cụ thể là nhằm có giải pháp quản lý,

khai thác, sử dụng tài nguyên mang tính đồng bộ, hệ thống, trong đó có các thông

tin về giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần.

1.3.2. Phạm vi về thời gian

Nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng việc tạo ra thu nhập chủ yếu của

hộ dân sống xung quanh rừng bần, nhờ vào việc khai thác các sản phẩm từ rừng

bần, tiềm năng phát triển du lịch và giá trị phòng hộ của rừng bần tại ĐBSCL.

Thông tin thu thập từ số liệu thứ cấp như: các tài liệu, đề tài, đề án, các báo cáo

4

tình hình hoạt động bảo vệ, phát triển rừng bần tại các tỉnh thuộc ĐBSCL giai đoạn

2010 - 2019. Bên cạnh đó, số liệu sơ cấp được thu thập từ khảo sát thực tế để ước

lượng các mô hình nghiên cứu, khảo sát tại 03 huyện (02 tỉnh thuộc Trà Vinh và 01

tỉnh thuộc Sóc Trăng) giai đoạn từ tháng 06/2018 đến tháng 12/2019. Các huyện

được chọn khảo sát chính là nơi có quy mô và diện tích rừng bần lớn nhất ĐBSCL

hiện nay.

1.3.3. Phạm vi về nội dung

Nghiên cứu thông qua điều tra xã hội học thống kê, tổng hợp, phân tích,

đánh giá các sản phẩm từ rừng bần mang lại thu nhập cho các hộ dân. Trong bối

cảnh nghiên cứu, sản phẩm từ rừng bần được xem là nguồn thu nhập chính của các

hộ dân sống ven rừng bần, không có thu nhập từ các nguồn nào khác, thậm chí có

nhưng không đáng kể. Nghiên cứu không khảo sát những hộ dân có nguồn thu

nhập chính từ các nguồn khác. Thông qua kết quả phân tích, nghiên cứu làm rõ

thêm giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần.

Nghiên cứu đánh giá, xác định giá trị cảnh quan thông qua giá trị du lịch của

rừng bần và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển tiềm năng du lịch, hỗ trợ

xây dựng kế hoạch dài hạn bảo vệ, khai thác và phát triển rừng bần tại ĐBSCL.

Xác định giá trị của rừng phòng hộ thông qua việc xác định chi phí xây

dựng, bảo dưỡng đê bao ngăn sóng biển, gió, bão tại những nơi không có rừng bần

để ước tính giá trị kinh tế của rừng bần phòng hộ (giá trị thay thế).

1.3.4. Giới hạn nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây tiếp cận với nhiều

khía cạnh khác nhau về giá trị kinh tế RNM, nhưng chủ yếu tập trung vào các giá

trị sử dụng (Use Value - UV) và giá trị phi sử dụng (Non Use Value- NUV). Giá trị

sử dụng bao gồm 3 nhóm: giá trị sử dụng trực tiếp, giá trị sử dụng gián tiếp và giá

trị lựa chọn. Giá trị phi sử dụng được phân thành giá trị tồn tại và giá trị lưu truyền

(Turner, 2003).

5

Nghiên cứu được thực hiện để đánh giá về giá trị trực tiếp và giá trị gián

tiếp của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL theo 03 nhóm như: (1) Giá trị tạo thu nhập,

(2) Giá trị du lịch và (3) Giá trị phòng hộ của rừng bần. Đây là nội dung hoàn toàn

mới và khác biệt so với các công trình nghiên cứu trước đây về RNM. Cụ thể như

sau:

(1) Giá trị tạo thu nhập của hộ dân sống xung quanh rừng bần thông qua

việc khảo sát, thống kê, tổng hợp thu nhập các sản vật từ rừng bần của hộ dân sống

xung quanh rừng bần (kể cả việc tiền nhận khoán bảo vệ rừng bần của Chính phủ);

(2) Giá trị du lịch là việc xác định giá trị hàng hóa, chất lượng môi trường

thông qua việc xác định chi phí du lịch của khách đến các điểm tham quan, du lịch

các rừng bần;

(3) Giá trị phòng hộ của rừng bần thông qua xác định chi phí thay thế, đó là

chi phí đầu tư xây dựng, bồi trúc đê bao tại những nơi lân cận không có rừng bần.

Cả 3 nhóm giá trị trên chính là giá trị kinh tế quan trọng của sản phẩm rừng

bần tại ĐBSCL.

* Giới hạn của nghiên cứu: Các hộ dân sinh sống quanh rừng bần thu nhập

chủ yếu từ việc khai thác từ các sản vật trong rừng bần (ngoài gỗ cây bần, giá trị gỗ

không đáng kể), công sức họ bỏ ra hàng ngày được xem là chi phí để có thu nhập

từ các sản phẩm không phải gỗ (NTFP- Non timber forest products). Do hạn chế

về mặt thời gian, nguồn lực luận án chỉ tập trung nghiên cứu các sản phẩm mang

lại thu nhập cho hộ dân nên việc tính toán chi phí NTFP và các giá trị kinh tế khác

không được đề cập trong nghiên cứu.

1.4. Các câu hỏi nghiên cứu

Giá trị từ sản phẩm nào của rừng bần mang lại thu nhập cho hộ dân sống

ven rừng bần?

Các yếu tố nào tác động đến giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần ?

Giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần là bao nhiêu và sản phẩm nào của

6

rừng bần có giá trị kinh tế cao?

1.5. Ý nghĩa của nghiên cứu

1.5.1. Về mặt khoa học

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề quan trọng

liên quan đến rừng bần tại ĐBSCL theo 04 chức năng: Cung cấp, hỗ trợ, điều tiết

và văn hóa của rừng bần. Các chức năng này có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho

các nghiên cứu tiếp theo có cách nhìn bao quát và chọn đúng hướng nghiên cứu.

Thứ hai, luận án đã xây dựng được mô hình đánh giá việc tạo thu nhập

thông qua chỉ tiêu đặc trưng của hộ dân, thu hoạch những sản phẩm từ rừng bần

tạo nên, thiết lập đường cầu du lịch để tính chi phí khách du lịch đến tham quan

rừng bần và dùng phương pháp thống kê để tính giá trị của rừng bần phòng hộ. Các

kết quả thống kê thứ cấp, kết quả điều tra, các mô hình lý thuyết được vận dụng

vào việc tính toán, kiểm định, đảm bảo về độ tin cậy của các thành phần cấu thành

nên thu nhập hộ gia đình, giá trị du lịch và giá trị phòng hộ. Đồng thời, kết quả

kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu góp phần khẳng định là cần có sự tồn tại giá

trị của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa giá trị kinh tế

của sản phẩm từ rừng bần thông qua đánh giá chỉ tiêu thu nhập hộ, với sự đa dạng

hóa sản phẩm rừng bần tạo ra; phát triển du lịch sinh thái, cũng như mức độ đóng

góp của rừng bần đối với việc ngăn ngừa bão, lũ, triều cường xâm nhập mặn tại

ĐBSCL.

Thứ tư, những khám phá mới từ kết quả nghiên cứu của luận án góp phần

làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực RNM trong phạm

vi toàn quốc.

5.1.2. Về mặt thực tiễn

7

Thứ nhất, nghiên cứu đã chỉ ra tiềm năng phát triển kinh tế của sản phẩm

rừng bần tại ĐBSCL, thông qua phương pháp thống kê mô tả, đo lường các biến

quan sát và ước lượng mô hình nghiên cứu trong luận án.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học, thực tiễn khách quan giúp

cho các nhà quản lý rừng bần (các nhà hoạch định chính sách về RNM, Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi Cục Kiểm lâm, chính quyền địa phương…)

thực hiện tốt hơn nữa công tác bảo tồn, khai thác và phát triển rừng bần hợp lý và

bền vững.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các

Trường đào tạo bộ môn Kinh tế Nông nghiệp, bộ môn Tài nguyên Môi trường về

việc khai thác, phát triển sản phẩm từ rừng bần tại ĐBSCL, khắc phục những hạn

chế mà từ trước đến nay chưa được nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng. Đặc biệt

là chú trọng đến việc khai thác, phát triển rừng bần hợp lý, góp phần vào việc bảo

vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu hiện nay.

Thứ tư, nghiên cứu đã đưa ra một số kiến nghị đối với các nhà quản lý, các

nhà hoạch định chính sách có cách nhìn đầy đủ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của

rừng bần, góp phần gia tăng giá trị kinh tế từ sản phẩm của rừng bần tại ĐBSCL.

1.6. Kết cấu của luận án

Bao gồm 05 chương:

Chương 1: Giới thiệu

Chương 2: Tổng quan tài liệu

Chương 3: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Chương 5: Kết luận và kiến nghị

8

CHƯƠNG 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Các nghiên cứu về giá trị kinh tế của rừng ngập mặn

Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây đã phân tích, đánh

giá các khía cạnh khác nhau về tổng giá trị kinh tế của RNM, bao gồm hai nhóm

giá trị cơ bản, đó là: giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng.

Nguồn: Turner, năm 2003

Hình 2.1. Tổng giá trị kinh tế của RNM

Giá trị kinh tế của RNM được Turner (2003) phân thành giá trị sử dụng và

giá trị phi sử dụng, cụ thể như sau:

♦ Giá trị sử dụng: Là những hàng hóa và dịch vụ sinh thái mà RNM cung

cấp cho con người và các hệ thống kinh tế, được phân thành 3 nhóm: (1) Giá trị sử

dụng trực tiếp, (2) Giá trị sử dụng gián tiếp, (3) Giá trị lựa chọn. Các giá trị được

định nghĩa như sau:

9

(1) Giá trị sử dụng trực tiếp: Bao gồm những hàng hóa dịch vụ do giá trị

kinh tế mà RNM mang lại và có thể sử dụng trực tiếp như: gỗ, củi, thủy sản, mật

ong hay giá trị du lịch, giải trí.

(2) Giá trị sử dụng gián tiếp: Là những giá trị, lợi ích từ những dịch vụ do

hệ sinh thái RNM mang lại và các chức năng sinh thái như: tuần hoàn dinh dưỡng,

hấp thụ cacbon, điều hòa khí hậu.

(3) Giá trị lựa chọn: Mang bản chất của những giá trị sử dụng trực tiếp hoặc

giá trị sử dụng gián tiếp của RNM. Mặc dù, giá trị lựa chọn có thể sử dụng ở hiện

tại nhưng chưa được sử dụng vì một lý do nào đó mà để lại sử dụng trong tương

lai. Ví dụ: Giá trị tạo cảnh quan, làm dược liệu.

♦ Giá trị phi sử dụng: Là những giá trị bản chất, nội tại của RNM và được

phân thành giá trị tồn tại và giá trị lưu truyền, được định nghĩa như sau:

(1) Giá trị tồn tại của RNM: Là giá trị nằm trong nhận thức, cảm nhận và sự

thỏa mãn của cá nhân khi biết được các thuộc tính của RNM đang tồn tại ở một

trạng thái nào đó và thường được đo bằng sự sẵn sàng chi trả của cá nhân để có

được trạng thái đó.

(2) Giá trị lưu truyền: Là sự thỏa mãn nằm trong cảm nhận của cá nhân khi

biết rằng tài nguyên được lưu truyền và hưởng thụ bởi các thế hệ tương lai. Giá trị

này cũng thường được đo bằng sự sẵn sàng chi trả của cá nhân để bảo tồn tài

nguyên cho các thế hệ sau này.

Khi đánh giá giá trị kinh tế RNM, phần lớn các nhà nghiên cứu trước đây

thừng thực hiện theo hai hướng chính là: (1) Sử dụng tài liệu thứ cấp, tài liệu sơ

cấp, dựa trên ý kiến thảo luận các chuyên gia; (2) Thông qua kết quả khảo sát địa

bàn, phỏng vấn các đối tượng có liên quan, và thường được áp dụng bằng bộ câu

hỏi điều tra để xác định, phân tích các giá trị kinh tế.

2.2. Các giá trị trực tiếp

Theo Mai Trọng Nhuận và cộng sự (2000) cho rằng, giá trị kinh tế của

10

RNM tại vùng cửa sông Cửu Long có thể ước tính là 3.100 USD/ha/năm, gồm giá

trị từ nguồn gỗ, củi… và giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm. Sản lượng tính

toán theo lý thuyết phù hợp một cách hợp lý với số liệu về sản lượng đánh bắt và

điều này có nghĩa là 1 ha diện tích RNM mang lại gần 700 kg sản lượng hải sản

đánh bắt.

Theo Dự án: “Định giá Kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh”

(2000), giá trị trực tiếp của RNM hiện nay bao gồm: gỗ, củi, than, thủy sản, các

loại lâm sản, thực phẩm, dược liệu, sinh vật hoang dã (Dơi, khỉ, rắn…), các loài

nhuyễn thể, giáp sát (Sò huyết, dộp, nghêu, cua, tôm…).

Nghiên cứu rừng bần chua khu vực ven cửa biển tại ĐBSCL, Ngô Đình Quế

và Võ Đại Hải (2012) nhận định rằng, nguồn lợi thủy sản của rừng Bần chua

phong phú và dồi dào. Thủy hải sản vùng cửa sông ở Sóc Trăng có nhiều loài khác

nhau và chúng xuất hiện theo mùa. Các sản phẩm bao gồm các loài cá như: cá

Ngác, cá Quát, cá Bống sao, cua giống, cá Kèo, Nghêu, Sò huyết,… Cách thức

đánh bắt cũng đa dạng, phù hợp cho từng giới và từng lứa tuổi. Đàn ông thì đánh

bắt cá, phụ nữ và trẻ em bắt cua giống, cá Kèo, Nghêu, Sò huyết,… Nguồn lợi thủy

sản mang lại thu nhập chính cho các hộ gia đình ở những vùng ven biển. Đai rừng

Bần chua phòng hộ góp phần tạo nên kinh tế sinh thái thuận lợi cho nuôi trồng

thủy sản ở vùng đệm. Rừng bần có vai trò như một máy lọc nước khổng lồ, góp

phần làm sạch nước trước khi bơm vào ao nuôi và làm lắng đọng các chất thải từ

ao nuôi xả ra.

♦ Giá trị trực tiếp tạo thu nhập của RNM

Nghiên cứu của Uỷ ban Phát triển Quốc tế (Vương quốc Anh), việc tạo thu

nhập hộ dân bao gồm 3 thành tố chính: Nguồn lực, khả năng vốn có của con người

và thu nhập là những giá trị thay đổi có lợi cho cộng đồng. Chính nhờ các chiến

lược kinh tế hợp lý nên thu nhập của người dân được nâng lên, đời sống văn hoá,

tinh thần, cuộc sống được cải thiện, ổn định hơn và giảm rủi ro, an ninh lương thực

quốc gia được đảm bảo và sử dụng bền vững hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên

11

được sử dụng một cách bền vững hơn.

Việc xem xét và đánh giá tác động của RNM ở Việt Nam để tạo ra thu nhập

bền vững cho người dân vùng RNM là một việc làm hết sức quan trọng và cần

thiết, không chỉ có ý nghĩa để đánh giá hiệu quả trước mắt mà còn để rút ra những

bài học trong việc tạo ra những thu nhập ổn định, bền vững cho các hộ dân sống

ven RNM. Nghiên cứu về tạo thu nhập cho các hộ dân có nhiều hướng tiếp cận

khác nhau, một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong và ngoài nước trước đây

nghiên cứu về tạo thu nhập cho các hộ dân như:

Nghiên cứu của Ellis (2000) về đa dạng hóa tạo thu nhập, nghiên cứu dựa

trên phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững. Nghiên cứu sử dụng khung phân tích

sinh kế bền vững với 05 nguồn vốn cơ bản là vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn con

người, vốn vật chất và vốn tài chính. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vốn con người

là minh chứng rõ nhất, như là chìa khóa của sự đa dạng hóa sinh kế thành công.

Nghiên cứu cũng đưa ra chính sách mà Chính phủ cần quan tâm như: cung cấp các

dịch vụ về y tế, giáo dục và các kỹ năng phù hợp và có chất lượng tại khu vực

nông thôn để tăng thu nhập cho các hộ dân.n

Ellis (2000) khẳng định, các yếu tố tác động đến đa dạng hóa thu nhập như

một hiện tượng đặc trưng cho chiến lược tồn tại hộ gia đình nông thôn nghèo tại

các quốc gia đang phát triển, và cho rằng đa dạng hóa sinh kế là một vấn đề quan

trọng cho các chính sách dài hạn liên quan đến công tác xóa đói giảm nghèo ở các

nước đang phát triển có thu nhập thấp. Lợi ích của việc đa dạng hóa là một chiến

lược để quản lý thời vụ, rủi ro và sự thất bại của thị trường; Ellis (2000) khẳng

định các yếu tố quyết định của sự đa dạng hóa thu nhập như: Mùa vụ, rủi ro, thị

trường lao động, thị trường tín dụng, chiến lược tài sản, hành vi ứng phó và thích

ứng. Trong đó, mùa vụ có tác động đến động cơ đa dạng hoá thu nhập, đặc biệt là

trong lĩnh vực nông nghiệp.

Lipton và Ravallion (1995) cho rằng do các rủi ro và thất bại thị trường phổ

biến trong nền kinh tế nông thôn ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp, các

12

hộ gia đình luôn gặp khó khăn trong chi tiêu sinh hoạt hằng ngày do bởi sinh kế,

sinh tồn của người dân không được đảm bảo. Bên cạnh đó, các rủi ro luôn gắn liền

với các nguồn thu nhập không đồng đều. Vì lý do này, một động lực quan trọng

đối với sự đa dạng hóa thu nhập gắn với mùa vụ là để làm giảm biến đổi thu nhập

theo mùa. Điều này đòi hỏi thu nhập các chu kỳ theo mùa trong các cơ hội tạo thu

nhập không được đồng bộ với các mùa riêng của nông nghiệp. Việc lựa chọn là di

cư theo mùa tới các vùng nông nghiệp khác hoặc tham gia làm nghề phi nông

nghiệp. Rủi ro cũng được xem là động lực cơ bản để đa dạng hoá sinh kế. Các hộ

gia đình đa dạng hoá thu nhập bằng danh mục đầu tư vào nhiều hoạt động khác

nhau để giảm thiểu rủi ro, có một sự đánh đổi giữa tổng thu nhập cao hơn với xác

suất thất bại lớn hơn và tổng thu nhập thấp hơn với xác suất thất bại thấp hơn.

Trong danh mục đầu tư, Lipton và Ravallion (1995) khuyến khích đa dạng hoá thu

nhập theo hướng phi nông nghiệp hơn là nông nghiệp vì có mối tương quan rủi ro

thấp giữa các thành phần tạo thu nhập. Vai trò của thị trường lao động trong việc

làm giảm các mối đe dọa mang tính chu kỳ và mất an ninh để xây dựng đời sống

nông thôn. Thị trường lao động cũng cung cấp các cơ hội tạo thu nhập phi nông

nghiệp nhưng đòi hỏi về trình độ giáo dục, kỹ năng, vị trí, độ tuổi, số năm kinh

nghiệm, giới tính...

Hoạt động kém của thị trường tài chính nông thôn ở các nước đang phát

triển làm cho các hộ gia đình nông thôn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng (đầu vào)

phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp như: Máy cày, máy bơm nước… đã

làm ức chế sự gia tăng năng suất sản xuất nông nghiệp. Có nhiều lý do dẫn đến

việc khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng như: Chi phí thành lập ngân hàng

phục vụ khu vực nông thôn cao, khó tiếp cận đầy đủ thông tin khách hàng vay tiềm

năng, nguy cơ phát sinh nợ xấu cao và thiếu tài sản thế chấp đảm bảo cho các

khoản vay. Thất bại thị trường tín dụng lại là một động lực quan trọng để đa dạng

hóa nguồn thu nhập của các hộ dân vùng nông thôn. Các hộ dân có thể chủ động sử

dụng các nguồn thu ngoài nông nghiệp để mua vật tư hay thiết bị nông nghiệp

(Reardon và cộng sự, 1997).

13

Theo quan điểm Scoones (1998), chiến lược tài sản của hộ gia đình đầu tư

để nâng cao triển vọng tạo thu nhập trong tương lai bao gồm năm loại tài sản

chính, với mục đích xác định tình trạng tài sản và sự tồn tại của chiến lược tài sản.

Các loại tài sản bao gồm vốn tự nhiên (đất, nước, cây xanh), vốn vật chất (kênh

tưới, dụng cụ, đường giao thông), vốn nhân lực (giáo dục, kỹ năng, sức khỏe), vốn

tài chính (tiết kiệm, đồ trang sức, dê và gia súc) và vốn xã hội (mạng lưới, các hiệp

hội). Các loại tài sản nằm ngoài khả năng kiểm soát trực tiếp của các hộ gia đình

nông thôn như: Cơ sở hạ tầng nông thôn (đường xá, giao thông, thủy lợi, điện) và

dịch vụ công cộng nông thôn (Internet, y tế và giáo dục). Các loại tài sản này phần

lớn được đầu tư bởi Chính phủ. Số lượng và chất lượng của các tài sản trên tạo sự

khác biệt lớn và gắn liền với sự tồn tại của người dân nông thôn. Chiến lược tài sản

là động lực để đa dạng hoá, đảm bảo được an ninh sinh kế cao hơn trong tương lai.

Đa dạng hóa vì lý do này có thể là tạm thời, nếu mục tiêu cụ thể như: mua thêm đất

và chiến lược thu nhập thì sau đó hộ gia đình sẽ trở lại tự làm nông nghiệp. Mặt

khác, đa dạng hóa thực hiện để cải thiện vốn con người (ví dụ như để tài trợ cho

việc học hành của trẻ em) có thể tạo ra nhiều nguồn đa dạng hơn về thu nhập của

hộ trong tương lai. Hành vi ứng phó và thích ứng, trong đó ứng phó chỉ các

phương pháp được sử dụng bởi các hộ gia đình khi đối mặt với các cú sốc bất ngờ

như: thảm họa tự nhiên, hạn hán, lũ lụt, bão, sâu bệnh và chiến tranh dân sự. Đối

phó tương ứng khá chặt chẽ với các khái niệm về đa dạng hóa, hành vi ứng phó bất

ngờ với cuộc khủng hoảng có thể bao gồm việc tìm kiếm các nguồn thu nhập mới

ở giai đoạn đầu và bán tài sản ở giai đoạn sau, có thể làm thay đổi các mô hình tạo

thu nhập trong tương lai của hộ gia đình.

Muhamad Israr (2010) phân tích các nguồn thu nhập của nông hộ ở các

vùng nông thôn, Bắc Pakistan. Nguồn thu nhập của nông hộ bao gồm hai nguồn:

nông nghiệp và phi nông nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nguồn thu nhập

chính của các nông hộ là nông nghiệp, các hoạt động liên quan thì giảm trong vùng

nghiên cứu. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng phi nông nghiệp là nguồn

14

thu nhập phổ biến hơn so với các nguồn nông nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết các nông

hộ phải sử dụng cả hai nguồn để tạo thu nhập gia đình.

Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng (2015) nghiên cứu khái quát

thực trạng nguồn lực và ảnh hưởng của chúng tới thu nhập của nông hộ tại huyện

Hà Trung và Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Nghiên cứu chủ yếu tổng hợp số liệu điều

tra với 80 nông hộ, phương pháp phân tích chính là thống kê mô tả và hồi quy đa

biến. Nghiên cứu cho thấy chất lượng lao động, quy mô đất đai và lượng vốn của

các nông hộ điều tra còn ở mức thấp. Thu nhập của nông hộ ở mức bình quân 72

triệu đồng/năm, đặc biệt thu nhập từ tiền lương, tiền công đóng góp một tỷ lệ khá

cao trong tổng thu nhập của hộ. Các nguồn lực của nông hộ như: quy mô đất sản

xuất, số lượng và trình độ học vấn của lao động, giá trị phương tiện sản xuất tỷ lệ

thuận với thu nhập của hộ, trong đó quy mô đất sản xuất có ảnh hưởng lớn nhất.

Ngoài ra, khả năng tiếp cận nguồn vốn vay, giới tính của chủ hộ và vị trí địa lý

cũng có ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng

giữa các thành viên trong gia đình có sự cải thiện về mức độ giáo dục, chính là nhờ

hoàn thành cấp trung học hoặc giáo dục đại học, tác động tích cực đến mức độ đa

dạng hoá thu nhập giữa các nông hộ được khảo sát. Sự gia tăng trình độ giáo dục

trong mức vốn con người đã cung cấp các kỹ năng cần thiết để gia nhập vào thị

trường lao động tốt hơn, đặc biệt là các hoạt động phi nông nghiệp, nhờ làm công

ăn lương phi nông nghiệp hoặc tự tạo việc làm.

Tài sản vật chất nhờ tiếp cận nguồn vốn nông nghiệp và tiếp cận thị trường

cũng có ý nghĩa quan trọng đến đa dạng hóa thu nhập của hộ. Khả năng tiếp cận

nguồn vốn nông nghiệp có tác động tiêu cực đến mức độ đa dạng hóa thu nhập, bởi

vì tiếp cận vốn để đầu tư cho nông nghiệp là cần thiết để tăng sản lượng nông

nghiệp. Do đó, những hộ nông dân có thể tiếp cận máy cày, động vật để làm đất

nông nghiệp và ít đa dạng trong nguồn thu nhập của họ, tham gia nhiều hơn vào

các hoạt động nông nghiệp. Tiếp cận thị trường liên quan đến khả năng vận chuyển

và bán các sản phẩm nông nghiệp là yếu tố quyết định tích cực và quan trọng của

đa dạng hóa thu nhập. Nông dân có thể bán các sản phẩm nông nghiệp của họ dễ 15

dàng hơn. Ngụ ý rằng, họ có điều kiện truy cập, tiếp cận các cơ hội thị trường tốt

hơn. Họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp (Scoones, 1998).

Vốn xã hội bao gồm sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau và di cư tác động tích cực

đến mức độ đa dạng hoá thu nhập. Hỗ trợ lẫn nhau hoặc lao động không lương làm

giảm cả thời gian và chi phí lao động của các hộ gia đình làm nông nghiệp, và tạo

cơ hội cho các thành viên trong hộ gia đình có thêm thời gian để tham gia vào các

hoạt động khác ngoài nông nghiệp. Hộ gia đình có người di cư thường duy trì quan

hệ với các hộ cư trú, và tiền gửi của họ làm tăng thu nhập của các hộ gia đình và là

một nguồn thu nhập quan trọng, đặc biệt là ở các khu vực có thu nhập nông nghiệp

không đủ do tiềm năng nông nghiệp thấp hoặc thay đổi theo mùa. Đặc điểm nông

nghiệp đã được sử dụng như đại diện cho các tiềm năng nông nghiệp nhờ quy mô

của trang trại và các khu vực đất nông nghiệp được tưới tiêu. Phát hiện này có ý

nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ đa dạng hóa thu nhập. Các hộ nông

dân có diện tích đất nông nghiệp càng lớn thì hệ thống tưới tiêu có nhiều khả năng

đa dạng thu nhập hơn. Nhờ vậy, hộ gia đình có điều kiện tập trung nhiều hơn vào

sản xuất nông nghiệp (Reardon và cộng sự, 1997).

Ngô Thị Phương Lan (2011) nghiên cứu sự bất ổn về thu nhập và di cư lao

động của người Khơmer tại huyện Cầu Kè và huyện Cầu Ngang tỉnh Trà Vinh.

Qua phân tích về thu nhập của hộ nông dân người Khơmer cho thấy sự phát triển

của khoa học kỹ thuật hiện nay chủ yếu chú trọng đến việc tăng năng suất và đa

dạng cây trồng, vật nuôi nhưng chưa giải quyết được vấn đề hạn chế về diện tích

sản xuất. Thu nhập của người Khơmer ở vùng ĐBSCL từ nông nghiệp là chủ yếu.

Các nghề chính của người Khơmer gồm: trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái, cây

công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia súc - gia cầm, nuôi trồng thủy sản và đi

làm mướn. Bên cạnh đó, do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện

tự nhiên và yếu tố thị trường nên nguồn thu này cũng gặp nhiều rủi ro về sản

lượng và giá cả. Để sinh tồn, tăng thu nhập cho hộ gia đình, di cư lao động là một

lựa chọn của nhiều cá nhân và hộ gia đình Khơmer vùng nông thôn tại ĐBSCL.

Các hoạt động tạo thu nhập nhằm duy trì và phát triển các nguồn vốn và tài sản 16

của hộ dân. Tuy nhiên, đa số các hộ dân nghèo chưa nhận biết được làm thế nào

để hoạt động tạo thu nhập theo hướng giản đơn và bền vững đơn, hay các hoạt

động cụ thể nào giúp họ cải thiện được thu nhập và nâng cao mức sống.

Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Mai và Nguyễn Duy Thắng (2011) về thu

nhập của cộng đồng ngư dân ven biển ở ba tỉnh duyên hải như: Thanh Hóa,

Khánh Hòa và Sóc Trăng. Các nguồn lực tạo thu nhập và những rủi ro mà cộng

đồng ngư dân ven biển gặp phải được tác giả mô tả chi tiết và rõ ràng. Nguồn thu

nhập của người dân chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài nguyên tự nhiên là chính.

Những rủi ro của các hoạt động tạo thu nhập xuất phát từ các nguồn lực sinh kế

đã bị suy giảm hay yếu kém.

Nghiên cứu của Ngô Thị Phương Lan (2011) về thu nhập của các tộc

người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơmer ở Bình Phước đã cho thấy sự tác

động của các chính sách phát triển kinh tế đến đời sống của đồng bào dân tộc

thiểu số. Nhìn chung, các chính sách đã có nhiều tác động tích cực, góp phần

nâng cao đời sống của đồng bào nơi đây. Tuy nhiên, nếu xét ở cấp độ hộ gia đình

thì nhiều bất ổn về thu nhập đã xuất hiện. Dữ liệu được thu thập từ cuộc khảo sát

nghiên cứu của đề tài “Tri thức bản địa của các tộc người ở Đông Nam bộ” vào

các năm 2012 và 2013 tại huyện Bù Đăng và huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Kết quả nghiên cứu cho thấy người dân đang chuyển từ tâm lý tự chủ trong cuộc

sống sang tâm lý bất an, phụ thuộc do những hạn chế về sức khỏe, trình độ, ngôn

ngữ, nguồn vốn… Đó chính là những rào cản trong việc tiếp cận, thích nghi của

đồng bào với những thay đổi ở cấp độ vĩ mô tác động đến thu nhập của họ.

Lê Duy Thường (2014), nghiên cứu đánh giá về các hoạt động tạo thu

nhập của người dân miền núi huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Mục đích của

nghiên cứu là giúp cho người dân hiểu rõ về các hoạt động tạo thu nhập, cũng

như hoạt động kinh tế nào là phù hợp với nguồn lực của từng người dân. Kết quả

nghiên cứu đã khái quả được các nguồn lực tạo thu nhập, đồng thời phân tích

thêm cơ cấu thu nhập từ các hoạt động kinh tế của người dân và xác định những

17

thuận lợi, khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực hiện có. Thông qua nghiên

cứu, tác giả chỉ ra rằng thu nhập của các hộ dân chủ yếu dựa vào nguồn lực tự

nhiên là chính, do chưa chủ động trong sản xuất nên hiệu quả sản xuất không cao,

thu nhập vẫn còn thấp. Các nguồn lực có mối liên hệ mật thiết với nhau, các

nguồn lực này đòi hỏi phải có sự tương tác đồng đều với nhau trong các hoạt

động kinh tế mới, từ đó hướng tới phát triển bền vững.

Võ Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng (2015) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng

đến thu nhập nông hộ dựa trên tiếp cận sinh kế tạo thu nhập bền vững của Bộ Phát

triển Quốc tế Vương Quốc Anh tại 409 hộ canh tác lúa - màu, lúa, cây ăn trái, tôm,

hoa màu, lúa - thủy sản và mía tại 9 tỉnh ĐBSCL (An Giang, Đồng Tháp, Kiên

Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Bạc Liêu). Số liệu

được khảo sát năm 2013, chủ yếu quan sát về tài sản và kết quả tạo thu nhập được

chuẩn hóa theo thang đo nhị phân. Do giá trị kết quả thu nhập hộ dân biến động từ

0 đến 1 nên mô hình hồi quy Tobit được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng

thu nhập nông hộ. Nghiên cứu cho thấy tài sản sinh kế tạo thu nhập hộ chuyên

canh thấp hơn hộ canh tác kết hợp lúa - thủy sản, lúa - màu. Nông hộ chuyên canh

tôm ở vùng ven biển gặp khó khăn do ô nhiễm nước và dịch bệnh trên tôm (vốn tự

nhiên) và các vấn đề xã hội. Trong khi đó, nông dân sản xuất lúa và mía đối mặt

với sự suy giảm vốn tài chính do giá nông sản thấp. Kết quả thu nhập hộ có sự ảnh

hưởng tích cực của các nguồn vốn tài chính, xã hội và vật chất. Chất lượng lao

động cũng thúc đẩy hộ đạt kết quả sinh kế tốt. Tuy nhiên, giảm giá nông sản đã

làm cho hộ trồng lúa và hoa màu chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.

Hiện nay, Việt Nam có nhiều nghề tạo ra thu nhập mới đang được phát triển

như: Trồng trọt và chăn nuôi gia súc ở vùng đệm của Vườn quốc gia U Minh

Thượng; làm chổi nan dừa ở Bến Tre; chăn nuôi bò sữa, bò thịt, heo, gà; nuôi tôm

sú, tôm thẻ, tôm càng xanh tại ĐBSCL… nhưng chưa có đề tài nghiên cứu khoa

học nào về tạo thu nhập từ rừng bần ven biển cho người dân sống ven rừng bần tại

ĐBSCL. Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc tạo thu nhập cho người dân từ sản

phẩm từ rừng bần. Nghiên cứu đã tiến hành điều tra, xác định vai trò của sản phẩm 18

rừng bần trong tăng thu nhập của người dân thông qua các chỉ tiêu đánh giá như:

Độ tuổi, giới tính, dân tộc, số người trong hộ, trình độ học vấn chủ hộ, trình độ học

vấn các thành viên trong hộ, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sản xuất, thu nhập

trung bình năm, vay vốn ngân hàng, diện tích đất khai thác… để tổng hợp, phân

tích, đánh giá giá trị của sản phẩm từ rừng bần, góp phần tạo thu nhập cho hộ dân.

Singh và Strass (1986) cho rằng: Thu nhập của hộ gia đình gồm thu nhập từ

nông nghiệp và phi nông nghiệp. Tổng cục Thống kê (2010) định nghĩa cụ thể hơn:

Thu nhập của hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật quy thành tiền sau

khi đã trừ chi phí sản xuất mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong một

thời gian nhất định. Quan điểm của Mankiw (1998) cho rằng, sự khác biệt trong

thu nhập giữa các nước chính là năng suất lao động. Mincer (1974) cho rằng, thu

nhập của hộ chịu ảnh hưởng của các yếu tố: Trình độ học vấn, kinh nghiệm nghề

nghiệp và giới tính của chủ hộ. Nghiên cứu của Scoones (1998) chỉ ra những yếu

tố tác động đến thu nhập của hộ gia đình bao gồm: Vốn tự nhiên, vốn tài chính,

vốn con người và vốn xã hội. Vốn tự nhiên là đất đai, nước, không khí... là cơ sở

cho các hoạt động kinh tế của con người. Vốn tài chính bao gồm các khoản tiết

kiệm và tiếp cận tín dụng cho đầu tư vào các hoạt động tạo thu nhập. Vốn con

người mô tả các yếu tố như: Giáo dục, chăm sóc y tế, lực lượng lao động và giới

tính. Nguồn vốn này được khai thác sử dụng trong quá trình người lao động tham

gia vào sản xuất và được phản ánh qua năng suất lao động và hiệu quả công việc

của họ. Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con người

với nhau, như: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau và sự chia sẻ giá trị đạo đức,

phong cách nối kết những thành viên trong các tập đoàn, các cộng đồng lại với

nhau. Theo quan điểm của Reardon và cộng sự (1992) thì đa dạng hóa sản xuất

kinh doanh ở vùng nông thôn có tác động tăng thu nhập cho nông hộ. Bên cạnh đó,

Karttunen (2009) cho rằng nguồn nhân lực vốn con người của hộ gia đình và các

yếu tố nhân khẩu xã hội như: Giới tính, trình độ học vấn của chủ hộ cùng với tỷ lệ

phụ thuộc đều có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ.

♦ Về giá trị dịch vụ, du lịch

19

Theo nghiên cứu của Ngô Văn Ngọc và cộng sự (2015) về giá trị kinh tế

dịch vụ kinh tế rừng Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, tỉnh Long An. Mục tiêu

của nghiên cứu là lượng hóa một số giá trị dịch vụ kinh tế rừng của Khu bảo tồn

đất ngập nước Láng Sen. Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu này gồm:

Phương pháp điều tra phỏng vấn, phương pháp chi phí du hành cá nhân (Individual

Travel Cost Method - ITCM) và phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (Contingent

Value Method - CVM). Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị lưu giữ, hấp thụ

cacbon trên mặt đất hàng năm của khu rừng tràm này là 1.256.221.559 đồng; giá

trị cảnh quan giải trí ước tính là 478.285.000 đồng và giá trị tồn tại là 109.956.000

đồng. Kết quả xác định được tổng các giá trị kinh tế dịch vụ kinh tế hàng năm của

hệ sinh thái Khu bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen ước tính là 1.844.462.559 đồng.

Theo Dự án thuộc chương trình về Bảo tồn và Quản lý đất ngập nước ở Việt

Nam (2000), nghiên cứu về định giá kinh tế rừng ngập mặn Cần Giờ. Nghiên cứu

đã chỉ ra rằng sinh cảnh RNM đem lại giá trị sản phẩm du lịch, giáo dục môi

trường và nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, hoạt động du lịch chỉ được khai

trương chính thức từ đầu năm 1997 (kể cả khảo sát nghiên cứu khoa học) trên điạ

bàn RNM Cần Giờ. Ngoài một Lâm viên Cần Giờ được thành lập, còn có một số

công ty du lịch, hoặc những tổ chức nhỏ lẻ từ nơi khác đến thực hiện hoạt động du

lịch tại địa bàn này từ 1997 trở lại đây. Cơ quan kinh tế cấp huyện và Ban quản lý

rừng huyện Cần Giờ theo dõi thống kê hoạt động này, cả về số lượt người, chi phí

và thu nhập tài chính. Trong năm 1997, nơi này có được 21.218 lượt người tham

quan, năm 1998 là 32.026 lượt người. Riêng 6 tháng đầu năm 1999 đã có hơn

30.000 lượt người tới du lịch ở RNM Cần Giờ, 800 đoàn nghiên cứu khoa học

(60% là đoàn người nước ngoài), hơn 1.000 lượt học sinh của các Trường học phổ

thông thuộc thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh đến tham quan học tập. Tổng

công ty du lịch Sài Gòn đã khảo sát nghiên cứu thị trường du lịch trên địa bàn

RNM Cần Giờ và dự báo từ năm 2000 trở đi, riêng địa bàn RNM Cần Giờ sẽ đón

được 1.200 người/tuần (hiện nay 620 đến 780 người/tuần), tập trung vào các ngày

nghỉ cuối tuần, dịp Lễ, Tết. Văn phòng Kinh tế tiếp thị của Tổng Công ty Sài Gòn

20

Du lịch (Sài Gòn Tourist) dự báo tỷ lệ tăng số lượng khách du lịch sẽ là 12% đến

15% hàng năm đến năm 2010 ở Cần Giờ. Trên cơ sở theo dõi thống kê về du lịch,

giá trị kinh tế đạt được từ các nguồn thu phí mà riêng ngành tài chính địa phương

thu được (trực tiếp hoặc gián tiếp qua thuế đối với các hoạt động) thì trung bình

mỗi năm của giai đoạn 1995 đến 1998 là 100.000 đồng/một lượt người. Nguồn thu

từ du lịch và những hoạt động khoa học, giáo dục, nghỉ dưỡng ở Cần Giờ trung

bình đạt 3,4 tỉ đồng/năm. Các hoạt động du lịch, giáo dục, khoa học, bảo vệ sức

khỏe gắn chặt với RNM Cần Giờ, không chỉ đem lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn

có ý nghĩa rất lớn về tinh thần, văn hóa và nâng cao kiến thức môi trường cho

nhiều đối tượng xã hội.

Để xác định được giá trị du lịch của RNM Rú Chá, xã Hương Phong, thị xã

Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế, nghiên cứu thu thập số liệu từ cán bộ địa

phương và người quản lý RNM Rú Chá, theo số liệu thu thập được thì số người

đến du lịch tại vùng này trung bình có khoảng 25 người/tuần, thời gian thích hợp

để tham quan du lịch là trong vòng 4 tháng (tháng 4 đến tháng 7 hằng năm), với

mức giá của mỗi lượt khách phải chi trả là 100.000 đồng/lần. Vậy ước tính giá trị

về du lịch sinh thái RNM Rú Chá thu được là: 40.000.000 đồng/năm (Trần Thị

Thúy Hằng và cộng sự, 2012).

2.3. Các giá trị sử dụng gián tiếp

Kết quả nghiên cứu của Dự án: “Định giá Kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố

Hồ Chí Minh” (2000) đã chỉ ra giá trị sử dụng gián tiếp của RNM như: Cố định

bùn đất bồi lắng, tạo lá chắn phòng hộ ven biển, duy trì đa dạng sinh học, điều tiết

và lưu trữ nguồn nước ngầm, giá trị cải thiện kinh tế, lưu trữ cacbon, xử lý nước

thải vùng ven biển, chống xói lở bờ biển… Các giá trị sử dụng gián tiếp mà RNM

mang lại giá trị kinh tế bao gồm các nhóm sau:

♦ Cố định bùn đất bồi lắng

RNM cố định được khối lượng lớn đất phù sa từ dòng chảy của những con

sông, dồn tụ và bồi lắng ở vùng cửa sông ven biển. Đặc biệt RNM có khả năng

21

ngưng kết cố định phù sa tương đối cao, chính là nhờ vào bộ rễ khí sinh của chúng.

Lợi dụng tính năng này của RNM, người dân biết khoanh nuôi RNM tự nhiên ở

các vùng cửa sông ven biển và cứ qua một chu kỳ rừng trưởng thành từ 12 đến 18

năm, tùy theo điều kiện đất đai và thủy văn mỗi vùng lại chặt rừng và đắp đê bao

phần đất mới do RNM cố định phù sa mà hình thành, một mặt có thêm đất canh

tác, một mặt tiếp tục trồng rừng mới phía ngoài đê bao, gọi là “lấn biển”.

Nguồn: Phạm Trọng Thịnh, năm 2011

Hình 2.2. Thay đổi diện tích rừng bần ngập mặn và đường bờ biển ở Cù Lao

Dung, tỉnh Sóc Trăng. Dấu (+) thể hiện vị trí địa lý giống nhau ở cả 3 thời điểm

Những thay đổi diện tích đất tại Cù Lao Dung từ 1965 đến 2007 được trình

bày trong Hình 2.2. Tổng diện tích của xã An Thạnh Nam và xã An Thanh 3 vào

khoảng 5.498 ha năm 1965, tăng lên 6.726 ha năm 1995 và 7.559 ha vào năm

2007. Từ năm 1965 đến năm 2007, tổng diện tích của 2 xã này tăng khoảng

2.061,7 ha với tốc độ bình quân là 48 ha/năm (Phạm Trọng Thịnh, 2011).

♦ Tạo lá chắn phòng hộ ven biển

Giá trị phòng hộ ven biển của RNM từ lâu đời đã được các cộng đồng dân

cư RNM bản địa ghi nhận. Vai trò này ngày càng được xã hội nhìn nhận rộng rãi

hơn, đặc biệt là sau hậu quả thảm khốc của trận Sóng thần ở Châu Á vào tháng 12

năm 2004 và vết hoang tàn của Cơn lốc Nargis để lại trên vùng ven biển Myanmar 22

vào tháng 5 năm 2008 (Hình 2.2).

Nguồn: Mazda, năm 1997

Hình 2.3. RNM bảo vệ các cộng đồng ở vùng ven biển. Bờ biển với đai

rừng bảo vệ (Hình bên trái) và Bờ biển không có đai rừng bảo vệ (Hình bên phải)

Hình 2.3 diễn tả sinh động RNM, rừng có thể góp sức phòng hộ ven biển

theo nhiều hướng. Một số trường hợp, rừng có thể giúp giảm thiểu tốc độ xói lở bờ

biển, chúng giúp bảo vệ vùng đất liền bên trong trước sóng cao hoặc nước cuốn do

sóng thần. Ở một chừng mực nào đó, chúng có thể giúp bảo vệ trước những cơn

gió lốc. Một số bằng chứng cho thấy rằng năng lượng và chiều cao bước sóng giảm

đi đáng kể khi chúng đi xuyên qua RNM, có vai trò rất lớn trong việc phòng hộ

trước sóng biển (Phạm Trọng Thịnh, 2011). Mazda (1997) phát hiện ra rằng dải

rừng Trang (Kandelia obovata) rộng 1,5 km làm giảm chiều cao bước sóng do gió

tạo nên từ 1 m xuống còn 5 cm tại một khu vực ở miền Bắc Việt Nam (Hình 2.4).

23

Nguồn: Mazda và cộng sự, năm 1997

Hình 2.4. Bước sóng giảm dần qua đai rừng ngập mặn rộng 1,5 km

miền Bắc Việt Nam

Các nghiên cứu sa bàn với sóng thần bước lớn cũng cho thấy rằng dải RNM

hoặc thực vật rừng khác có thể làm giảm tác động của sóng thần một cách đáng kể

(Hiraishi, 2008). Trong khi các kết quả này ủng hộ với những báo cáo cho rằng các

vùng bờ biển có cây bần ngập mặn phòng hộ bị thiệt hại ít hơn những nơi khác sau

trận Sóng thần ở Châu Á vào năm 2004 (Danielsen và cộng sự, 2005), thì số khác

vẫn đặt nghi vấn về lợi ích phòng hộ của RNM trước sóng thần. Điển hình là

Cochard và cộng sự (2008) kết luận rằng RNM không có tác dụng bảo vệ bờ biển

gần tâm động đất, nhưng có thể góp phần phòng hộ ở các bờ biển xa hơn.

Công trình nghiên cứu về giá trị kinh tế của một số dịch vụ RNM, Barbier

và cộng sự (1997) ước tính giá trị phòng hộ bão lũ của 1 km2 RNM tương ứng

khoảng 1,6 triệu đôla (USD) trong thời gian 20 năm. Con số này lớn hơn rất nhiều

24

so với giá trị riêng lẻ của sản phẩm gỗ (86.400 USD trên 1 km2 trong 20 năm),

nuôi thủy sản kết hợp với rừng (211.700 USD trên 1 km2 trong 20 năm), hoặc

chuyển sang nuôi tôm công nghiệp (963.200 USD trên 1 km2 trong 20 năm).

♦ Duy trì đa dạng sinh học

Những vùng bãi biển ngập triều và các kênh rạch ở vùng cửa sông ven biển

khi thủy triều xuống là những bãi kiếm ăn lý tưởng cho các loài chim. Theo tổ

chức của các Luật gia kinh tế thế giới (EJF, 2003), RNM ở vùng cửa sông, ven

biển ĐBSCL có 386 loài và phụ loài chim, 260 loài cá, hàng trăm loài động vật

xương sống. Ở vùng cửa sông Cửu Long, nghiên cứu của Phạm Trọng Thịnh

(2011) tại địa bàn xã Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã thống kê được 27 loài bò sát, 8

loài lưỡng cư, 16 loài thú và 60 loài chim. Một số loài hiếm và có nguy cơ bị đe

dọa được phát hiện ở đây như: Tắc kè (Gekko gekko), Kỳ đà hoa (Varanus

salvator), Rái cá lông mượt (Lutra perspicilata), Mèo cá (Felis viverina), Bồ nông

(Pelecanus philipensis), Cò lông xám (Mycteria cinerea). Về thủy sinh vật RNM

ven biển tại ĐBSCL, Trần Kim Hằng và cộng sự (2003) đã thống kê được 185 loài

thực vật nổi, trong đó nhóm Bacillariophyta chiếm 79%, có 93 loài động vật nổi

(bao gồm 57 loài của nhóm Arthropoda (62,29%)), 90 loài động vật đáy đã được

xác định (bao gồm 41 loài thuộc nhóm Arthropoda (45,56%)). Vùng cửa sông có

661 loài cá thuộc 319 họ, trong đó số loài cá sống ở tầng đáy và gần đáy chiếm

khoảng 72%, họ cá Mối (Priacanthidae) chiếm 54,43%, họ cá Khế (Canrangidae)

chiếm 25,5%, họ cá Trác (Priancabidae) chiếm 3,79%, các loài cá sống ở tầng nổi

chiếm 28%, tầng trung và nổi có các loài cá Bạc má, cá Nục, cá Mối vạch, cá

Chuồn đen, cá Chích tròn, cá Thu vạch. Số loài sống ở gần bờ chiếm 68% và cá

sống xa bờ chiếm 32%. Có 20 loài tôm trong khu vực, gồm 12 loài tôm biển (thuộc

5 họ), 8 loài tôm nước ngọt (7 loài thuộc họ Palaemonidae và 1 loài thuộc họ

Caridae). Các loài tôm chủ yếu trong vùng là những loài có giá trị cao như

Penaeus indicus; Metapeneusensis, M. lysanassa và M. spinulatus. Nghêu giống

xuất hiện ở hầu hết các bãi bồi vùng cửa sông, đã đem lại nguồn thu nhập rất quan

trọng cho người dân địa phương. Những người nông dân sống lâu năm ở khu vực 25

huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng vào mùa thu hoạch Nghêu, có hàng ngàn

người đến thu hoạch Nghêu ở vùng này, thu nhập của họ có thể đạt được từ vài

trăm đến hàng triệu đồng mỗi ngày.

Các nhà khoa học đã chứng minh mối liên hệ khăng khít giữa việc bảo vệ

và phát triển RNM đối với năng suất thủy sản ở vùng ven biển và ngoài khơi. Mỗi

ha RNM hỗ trợ cho sản lượng đánh bắt hàng năm khoảng 450 kg, khoảng 2/3 sản

lượng cá đánh bắt được của thế giới. Các loài cá có thể sống được là nhờ vào sự

lành mạnh của các hệ sinh thái RNM ven biển. Nguồn thức ăn đầu tiên, phong phú

và đa dạng cung cấp cho các loài hải sản là xác hữu cơ thực vật dạng hạt hoặc còn

gọi là mùn bã hữu cơ, đó là sản phẩm của quá trình phân hủy xác thực vật, bao

gồm: lá, cành, chồi, rễ,… các cây của RNM (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

Theo Snedaker (1978), lượng lá rơi của cây RNM ở Nam Florida là 10.000 -

14.000kg khô/ha/năm. Kết quả nghiên cứu ở rừng Đước tỉnh Cà Mau cho thấy

năng suất lượng rơi là 9.719,9 kg/ha/năm, riêng lá chiếm 79,71%. Hàng năm, rừng

Đước tỉnh Cà Mau cung cấp cho hệ sinh thái RNM ở đây 8.400 - 12.000 kg

lá/ha/năm, tính theo trọng lượng khô (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

Như vậy, RNM đã duy trì và làm tăng tính đa dạng sinh học, gián tiếp đem

lại những lợi ích kinh tế thiết thực.

♦ Điều tiết và lưu trữ nguồn nước ngầm

RNM điều tiết và bảo tồn nguồn nước ngầm, giảm thiểu xâm nhập mặn vào

sâu trong nội địa. Việc tính toán định giá giá trị kinh tế đối với tác dụng điều tiết

và lưu trữ nguồn nước ngầm của rừng là chưa đầy đủ số liệu. Tuy nhiên, từ thực tế

cho thấy các hộ dân sống ven rừng bần ngập mặn (RBNM) có thể dùng nước ngọt

tại chỗ thông qua các giếng nước ngầm. Các khu RNM cũng góp phần hạn chế

xâm nhập nước mặn và bảo vệ nước ngầm. Ở những thành phố và thị trấn ở vùng

ven biển, tình trạng triều cường đã gây ngập nhiều khu dân cư, trong đó có một

nguyên nhân là hầu hết các kênh rạch có những dải cây dừa nước và nhiều loài cây

ngập mặn khác như: Bần, Mắm, Sú, Trang,... vốn giữ vai trò như những túi chứa

26

nước tự nhiên đã bị chặt phá và lấp đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu dân

cư cho nên không có chỗ cho nước thoát mỗi khi có ngập cục bộ do triều cường

hay mưa lớn (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

♦ Giá trị cải thiện môi trường không khí

RNM có giá trị trong giảm thiểu ô nhiễm không khí, bụi và tiếng ồn. Chu

kỳ sinh lý của cây RNM nói chung và cây bần nói riêng, đặc biệt là quá trình

quang hợp của lá, đã được các nhà nghiên cứu chứng minh rằng có tác dụng lớn

đối với giảm thiểu ô nhiễm không khí, thanh lọc độc tố, hấp thu CO2 và sản sinh

oxy, ngưng tụ và giảm tác hại của bụi, giảm tiếng ồn… Những cây xanh có thân gỗ

chiều cao trên 10 m, lá rộng như: Đước, Bần… số lượng lá ở mức trung bình thấp

(5m2 tổng diện tích lá) có khả năng cung cấp lượng dưỡng khí cho 03 người sống

được trong 24 giờ. Một ha rừng lá rộng như RNM ở độ tuổi trên 7 năm, hàng năm

hấp thụ được 9 tấn cacbon và sản sinh ra 7 tấn oxy. Giá trị dịch vụ của hệ sinh thái

RNM trên thế giới đã được ước tính là 1,6 triệu USD/ha/năm. Các dịch vụ cho con

người bao gồm: Điều hoà khí hậu, bảo vệ nguồn nước sạch, hạn chế xói lở ven

biển, xử lý chất thải, cung cấp sản phẩm và giải trí. Các nhà nghiên cứu đã định

lượng được các giá trị kinh tế, sinh thái và địa mạo của RNM và xác định rằng các

dải RNM ở ven biển của vùng vịnh California có giá trị 37.500 USD/năm. Các dải

RNM đặc biệt quan trọng và lâu dài đối với những người dân phụ thuộc vào nguồn

tài nguyên cá ở vùng này (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

♦ Lưu trữ cacbon

Hầu hết các lớp trầm tích than trên thế giới đều xuất phát từ cây gỗ hoặc

các loài thực vật khác đã chết và bị chôn vùi cách đây khoảng 250 đến 300 triệu

năm. Việc đốt cháy nguồn nhiên liệu hóa thạch này là nguyên nhân chính làm tăng

nồng độ cacbon dioxide trong không khí, được xem là một trong những tác nhân

chính gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu ngày nay.

RNM đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chu trình cacbon toàn cầu vì

chúng có dòng đời dài và có khả năng lưu giữ cacbon lâu bền, phần lớn là nằm

27

dưới mặt đất. So với các loài cây gỗ trên cạn thì cây bần ngập mặn là nhóm loài

cây có tỷ lệ tổng sinh khối dưới mặt đất rất cao. Thành phần rễ chết và rễ mới sinh

ra (tổng khối lượng rễ) làm tích lũy khối lượng lớn của chất hữu cơ (cacbon bị

chôn vùi), bị phân hủy chậm do điều kiện ẩm ướt và yếm khí của đất trong sinh

cảnh cây bần ngập mặn. Khối lượng cacbon được lưu trữ trong đất cây bần ngập

mặn tùy thuộc vào loại hình rừng, tuổi rừng, độ sâu của tầng đất, lịch sử địa chất,

mức độ quấy nhiễu, kiểu chất nền, các đặc điểm thủy văn và một số yếu tố khác.

Trữ lượng cacbon trong RNM là rất lớn (Matsui, 1998; Matsui và Yamatani,

2000).

Donato và cộng sự (2011) đã khảo sát đại trà tại 25 điểm ở Borneo,

Bangladesh, Java, Sulawesi và Micronesia. Kết quả cho thấy tại các điểm này có

bình quân 972 tấn cacbon/ha ở vùng cửa sông và 792 tấn cacbon/ha ở vùng biển,

hầu hết là cacbon hữu cơ trong đất, không phải sinh khối của rễ ngầm. Các con số

này thể hiện lượng tích trữ lâu đời từ hàng trăm đến hàng ngàn năm.

Các kết quả ước tính lượng cacbon vùi lấp trong hệ sinh thái RNM gần đây

nói lên rằng các hệ sinh thái này có thể chôn vùi khoảng 18 triệu tấn cacbon hàng

năm trên toàn cầu (Bouillon và cộng sự, 2008). Điều này cho thấy rằng dù diện

tích RNM toàn cầu là khá nhỏ nhưng chúng lại là các bể chứa dài hạn dành cho

cacbon dioxide trong không khí và chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong

chu trình cacbon toàn cầu (Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải, 2012).

♦ Xử lý nước thải vùng ven biển

Không chỉ là các bể chứa cacbon, RNM còn hứng lấy và chế biến dinh

dưỡng như đạm và lân. Nhờ đó mà RNM có tác dụng xử lý nước thải, nước cống

rãnh và nước tháo ra từ vuông tôm (Clough và cộng sự, 1983; Robertson và

Phillips, 1995), nếu như nước thải không có chất thải công nghiệp vốn chứa hàm

lượng lớn kim loại nặng và các chất độc hóa học khác. Khoanh các ô đất ngập

nước và trồng RNM rồi cho nước thải lần lượt tràn qua cũng là một biện pháp hữu

hiệu trong xử lý nước thải (Boonsong và cộng sự, 2003).

28

♦ Chống xói lở bờ biển

Xói lở bờ biển chủ yếu là do dòng chảy mạnh ven bờ và sóng do gió gây ra,

đồng thời chịu tác động lớn của hình dáng đường bờ, hướng sóng, năng lượng

sóng, vận tốc dòng chảy và biên độ triều. Đập và bờ kè do con người xây dựng

cũng có thể có tác động lớn đến kiểu hình xói lở cục bộ. RNM giúp làm giảm xói

lở bờ biển bằng hai hướng. Hệ thống rễ dày đặc dưới mặt đất giúp giữ cho đất bùn

dính lại với nhau, thân cây và hệ thống rễ trên mặt đất làm giảm tốc độ dòng chảy

bề mặt, từ đó làm giảm xói lở bề mặt và góp phần tích tụ phù sa ở những nơi

nguồn nước có lượng trầm tích cao. Gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về

vai trò của thân và rễ khí sinh trong việc điều tiết dòng chảy và dao động sóng ở

RNM (Wolanski và cộng sự, 1992), nhưng dường như chưa có công trình nghiên

cứu định lượng nào nói về vai trò của hệ thống rễ ngầm trong việc giữ đất.

Xói lở bờ biển là một quá trình rất phức tạp và biến động, mức độ góp phần

làm giảm xói lở của RNM có xu thế khá cục bộ; nó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố

khác của năng lượng sóng, mức ngập triều, dòng chảy ven bờ cùng với hình dáng

đường bờ và các ghềnh cát hoặc đất bùn nổi lên ngoài biển. Ở một số nơi lực xói lở

yếu, sự hiện diện của RNM ít nhiều đủ sức chống xói lở. Còn ở nơi lực xói lở

mạnh hơn thì RNM có thể giúp làm giảm tốc độ xói lở một cách đáng kể. Tuy

nhiên, ở những nơi năng lượng sóng ven bờ lớn quá thì tác dụng của RNM là rất

thấp hoặc không còn tác dụng phòng chống xói lở ven bờ.

Các khu RNM do có hệ thống rễ dày đặc trên mặt đất như hệ rễ hình chân

nơm của các loài Đước, Đưng, rễ hình đầu gối của các loài Vẹt, rễ thở hình chông

của các loài Mắm, Bần góp phần ngăn cản xung lực của sóng. Với lớp tán lá dày

cùng với thân, cành cây đã tạo thành lớp rào bằng vật liệu mềm giảm sức công phá

của sóng triều (Phan Nguyên Hồng và cộng sự, 2010).

Tài nguyên thủy sản trong RNM ở vùng cửa sông, ven biển tại ĐBSCL rất

phong phú, đa dạng. Tài nguyên RNM đóng góp đáng kể vào thu nhập của người

dân địa phương. Những nguồn tài nguyên này đóng góp rất nhiều đối với thu nhập

29

của những hộ dân sống ở vùng xung quanh. RNM nơi đây cũng tạo ra những điều

kiện kinh tế thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản ở vùng đệm và giữ vai trò như

những dải đệm lọc nước thải từ các khu nuôi trồng thủy sản và các khu công

nghiệp đổ ra biển. RNM vùng cửa sông có giá trị kinh tế cao, giá trị của RNM ở

vùng cửa sông Cửu Long có thể đạt được là 3.100 USD/ha/năm, gồm giá trị từ

nguồn gỗ và củi 16,35 USD/ha/năm và giá trị gián tiếp là 3.083 USD/ha/năm (Mai

Trọng Nhuận và công sự, 2000).

2.4. Các giá trị phi sử dụng

Báo cáo “Định giá kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh” (2000)

chỉ ra rằng giá trị phi sử dụng của RNM là các giá trị thẩm mỹ, văn hóa, tín

ngưỡng và tôn giáo. Quan điểm của Đinh Đức Trường (2014) cho rằng giá trị phi

sử dụng của RNM là bảo tồn, đa dạng sinh học, sử dụng phương pháp đánh giá

ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method - CVM) để xác định giá trị phi sử dụng

của RNM. Với công trình nghiên cứu liên quan đến giá trị phi sử dụng, Trần Thị

Thúy Hằng và Nguyễn Đức Thành (2012) cho rằng giá trị phi sử dụng bao gồm:

giá trị lựa chọn (giá trị sẵn lòng chi trả để bảo vệ và bảo tồn tài nguyên), giá trị

thông tin (giá trị từ nghiên cứu khoa học, giáo dục) và giá trị để lại sự tồn tại. Để

lượng hóa giá trị phi sử dụng, tác giả ước lượng giá trị mức sẵn lòng chi trả

(Willing To Pay - WTP) được ước lượng bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất

(Ordinary Least Square - OLS), và tính toán giá trị phi sử dụng do RNM Rú Chá

mang lại bao gồm: giá trị chọn lựa, giá trị thông tin, giá trị để lại.

2.5. Các kết quả nghiên cứu định lượng các giá trị của rừng ngập mặn

Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thúy Hằng và cộng sự (2012) xác định

RNM Rú Chá xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện

tích 4,2 ha, nhưng mang lại nhiều giá trị sử dụng và thu nhập cho người dân sống

trong khu vực, với tổng giá trị kinh tế ước lượng được là 1,250 tỷ đồng/năm. Trong

đó, giá trị sử dụng trực tiếp gồm: Củi đốt, dược liệu, cây cảnh, nuôi trồng thủy sản

mang lại giá trị 1,171 tỷ đồng/năm, chiếm tỷ lệ 93,71% tổng giá trị kinh tế. Giá trị

30

sử dụng gián tiếp gồm: Điều hòa khí hậu, tích lũy nước ngầm, hấp thụ bụi, du lịch

sinh thái, sản xuất ôxy, giá trị tích lũy cacbon và du lịch sinh thái, ước tính mang

lại giá trị là 46,786 triệu đồng/năm, chiếm tỷ lệ 3,74% tổng giá trị kinh tế và giá trị

phi sử dụng là 31,831 triệu đồng/năm, với tỷ lệ 2,55% tổng giá trị kinh tế.

Báo cáo “Định giá kinh tế RNM Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh” (2000)

chỉ ra rằng, tại thời điểm tháng 9 năm 1999, RNM của huyện Cần Giờ có tổng diện

tích là 26.938 ha, trong đó có 19.443 ha là rừng trồng và 7.495 ha rừng tự nhiên,

nhưng đã mang lại giá trị kinh tế toàn phần hàng năm vào khoảng gần 95 tỷ đồng;

lợi ích này thu được từ các giá trị sử dụng trực tiếp (sản phẩm rừng) và các giá trị

sử dụng gián tiếp (các chức năng, dịch vụ của rừng).

Kết quả nghiên cứu của Đinh Đức Trường (2009), RNM tại cửa sông Ba

Lạt, tỉnh Nam Định có diện tích khoảng 7.100 ha, với tổng giá trị kinh tế là 88,619

tỷ đồng; trong đó: Giá trị sử dụng trực tiếp 81,709 tỷ đồng, chiếm 92,2% thu nhập

từ: Nuôi tôm, nuôi nghêu, nghêu giống, nuôi cua, trồng rau câu, mật ong, khai thác

thủy sản và giá trị du lịch; giá trị sử dụng gián tiếp là 6,511 tỷ đồng, chiếm 7,35%

có được từ giá hỗ trợ sinh thái cho nuôi thủy sản, giá trị du lịch và giá trị hấp thụ

cacbon; Giá trị phi sử dụng là 399 triệu đồng, chiếm 0,45% tổng giá trị kinh tế

RNM tại cửa sông Ba Lạt.

Ngô Văn Ngọc và cộng sự (2015), nghiên cứu tổng giá trị kinh tế dịch vụ

môi trường hàng năm của hệ sinh thái Khu bảo tồn “Đất ngập nước Láng Sen, tỉnh

Long An” với diện tích RNM là 2.156 ha, ước tính giá trị kinh tế là 1,844 tỷ đồng,

trong đó: giá trị lưu giữ, hấp thụ cacbon trên mặt đất hàng năm của khu rừng tràm

này là 1,256 tỷ đồng; giá trị cảnh quan giải trí ước tính là 0,478 tỷ đồng và giá trị

tồn tại là 0,110 tỷ đồng, các giá trị còn lại là 587,412 tỷ đồng.

Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê (2018) nghiên cứu trên diện

tích RNM 327,03 ha thuộc xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình có tổng

giá trị kinh tế là 69,504 tỷ đồng/năm; trong đó: giá trị sử dụng trực tiếp, chủ yếu là

giá trị khai thác, nuôi trồng thủy sản, chiếm tỷ trọng và quy mô lớn nhất 68,974 tỷ

31

đồng/năm, tương ứng với 99,2%; phần còn lại là giá trị gián tiếp và giá trị phi sử

dụng là 0,530 tỷ đồng, chiếm 0,8% giá trị kinh tế toàn phần của RNM.

2.6. Nhận diện các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại đồng bằng sông

Cửu Long

Rừng bần tại ĐBSCL cung cấp rất nhiều loại giá trị kinh tế cho người dân

và cộng đồng xã hội. Mục tiêu của luận án là nhận diện và đánh giá các giá trị này.

Các loại giá trị quan trọng của RNM tại khu vực được nhận diện và phân loại trong

Bảng 2.1.

Bảng 2.1. Các giá trị của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL

Giá trị sử dụng trực tiếp Giá trị sử dụng gián tiếp Giá trị phi sử dụng

3. Phòng hộ đê biển

7. Bảo tồn đa dạng sinh học

1.

4. Tích tụ, bồi lắng bùn

Khai thác nguồn lợi thủy sản, khai thác trái bần chín.

5. Lọc nước biển

lịch,

2.

Tham quan, du nghiên cứu khoa học…

6. Hấp thụ CO2, lưu trữ cacbon

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019

2.6.1. Giá trị sử dụng trực tiếp

♦ Khai thác nguồn lợi thủy sản: Cua thịt, cua con, cá kèo thịt, cá kèo giống,

nghêu thịt, nghêu giống, ba khía thịt, dộp,…trái bần chín và lương khoán.

♦ Tham quan, du lịch: Trên khu vực nghiên cứu điểm tham quan, du lịch rừng

bần huyện Cù Lao Dung bước đầu hình thành và phát triển mang lại giá trị kinh tế

khá cao; nhưng việc đầu tư vốn, quảng bá sản phẩm du lịch còn hạn chế.

2.6.2. Giá trị sử dụng gián tiếp

♦ Phòng hộ đê biển: Rừng bần khu vực nghiên cứu bao gồm huyện Duyên

Hải thuộc tỉnh Trà Vinh; huyện Trần Đề và huyện Cù Lao Dung thuộc địa bàn tỉnh

Sóc Trăng có tổng chiều dài trên 30 km, đã góp phần đáng kể vào việc giảm chi

phí đê bao hàng năm cho ngân sách trung ương và địa phương.

32

♦ Tích tụ, bồi lắng bùn: Cây Bần chua có khả năng cao trong quá trình ngưng

kết cố định phù sa ở bộ rễ khí sinh của chúng, vùng cửa sông Tiền, sông Hậu ven

biển mỗi năm lấn biển từ 50 đến 80 m, người dân địa phương thường được gọi là

khu vực “lấn biển”.

♦ Lọc nước biển: Với bộ rễ dày và dài có tác dụng như “bộ lọc”, rừng bần

góp phần vào việc hạn chế tình trạng mặn xâm nhập, giảm thiểu ô nhiễm môi

trường nước, cải thiện nguồn nước ngầm tại các vùng ven biển.

♦ Hấp thụ CO2, lưu trữ cacbon: Rừng bần ngập mặn có vai trò như lá phổi

xanh lọc khí thải khí cacbon điôxít (CO2), so với các loài cây khác, cây bần thực

hiện việc này rất tốt do có chiều cao và tán rộng; khi rễ, cành và lá của cây bần

rụng xuống, chúng thường được đất bao phủ, sau đó chìm trong nước thủy triều,

làm chậm quá trình phân hủy vật chất và tăng cường lưu giữ cacbon; trong một báo

cáo của nhóm giáo sư thuộc Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR),

với cùng một diện tích, rừng ngập mặn có khả năng lưu trữ cacbon nhiều gấp 5 lần

so với các rừng khác trên đất liền.

2.6.3. Giá trị phi sử dụng

Bảo tồn đa dạng sinh học: rừng bần ngập mặn là một hệ sinh thái hết sức

quan trọng, vừa cung cấp các nhu cầu cho cuộc sống của cộng đồng dân cư ven

biển vừa là bức tường xanh vững chắc chống gió bão, sóng thần, xói lở, làm sạch

môi trường ven biển, duy trì đa dạng sinh học như: Khỉ đuôi dài, dơi khi, các loài

thủy sản, giáp xác, lưỡng cư...

Các giá trị thực tiễn của sản phẩm rừng bần tại khu vực khảo sát được trình

bày chi tiết tại Hình 2.5.

33

GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN PHẨM RỪNG BẦN

GIÁ TRỊ TRỰC TIẾP

GIÁ TRỊ GIÁN TIẾP

GIÁ TRỊ PHI SỬ DỤNG

PHÒNG HỘ ĐÊ BIỂN

BẢO TỒN, ĐA DẠNG SINH HỌC

TẠO THU NHẬP: NGUỒN LỢI THỦY SẢN, TRÁI BẦN CHÍN…

TÍCH TỤ, BỒI LẮNG BÙN

LỌC NƯỚC BIỂN

THAM QUAN, DU LỊCH, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC…

HẤP THỤ CO2, LƯU TRỮ CACBON

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Hình 2.5: Các giá trị thực tiễn của sản phẩm rừng bần khu vực khảo sát

* Nhận xét, đánh giá về rừng bần ngập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long

Thứ nhất, RNM tạo ra một môi trường vi khí hậu thuận lợi cho sinh vật trong

ao nuôi thông qua quá trình quang hợp, tạo ôxy cho nước trong ao, rừng trong ao

cũng có tác dụng hạn chế ánh nắng mặt trời, tạo ra nhiệt độ thích hợp cho việc nuôi

trồng và khai thác thủy sản. Các ao nuôi tôm, cá được bố trí ở trong đê bao. Vì

vậy, RNM ở đây có tác dụng ngăn sóng mạnh khi đập trở ra từ thành đê, tạo ra kết

cấu ao và thể nền ổn định không bị xáo trộn so với những điểm không có RNM.

Thứ hai, giá trị tham quan, du lịch, nghiên cứu khoa học; bản thân sinh cảnh

rừng bần đem lại giá trị sản phẩm du lịch, giáo dục môi trường và nghiên cứu khoa

học. Các hoạt động du lịch, giáo dục, khoa học gắn chặt chẽ với rừng bần không

chỉ đem lại lợi ích về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa rất lớn về tinh thần, văn hóa

và nâng cao kiến thức môi trường cho nhiều đối tượng xã hội. Rừng bần tại

34

ĐBSCL có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú gắn với sông nước miền Tây, tiềm năng

phát triển rất lớn.

Thứ ba, giá trị phòng hộ đê biển của RNM, đóng vai trò như một “tấm đệm”

chắn sóng có khả năng bảo vệ và phòng hộ đê biển trong các đợt bão lũ. Trong

vùng RNM, rễ cây bần đan với nhau tạo thành một hệ thống lưới sinh thái phòng

hộ rất vững chắc có tác dụng cản các lực do sóng biển tạo ra đập vào mặt đê khi có

bão lũ, do đó giảm bớt thiệt hại của bão gây ra cho đê biển, giúp duy trì được tính

bền vững của đê.

Thứ tư, tích tụ, bồi lắng bùn của RNM, cố định được khối lượng lớn đất phù

sa từ dòng chảy của những con sông, dồn tụ và bồi lắng ở vùng cửa sông ven biển.

Đặc biệt rừng bần có khả năng cao ngưng kết cố định phù sa ở bộ rễ khí sinh của

chúng, lợi dụng tính năng này của rừng bần; từ xưa người dân sống ven rừng bần

cứ qua một chu kỳ rừng bần trưởng thành (từ 12 năm đến 18 năm) lại chặt rừng

bần và đắp đê bao phần đất mới do rừng bần cố định phù sa mà hình thành, một

mặt có thêm đất canh tác, một mặt tiếp tục trồng rừng bần mới phía ngoài đê bao,

gọi là “lấn biển”. Theo phương thức cổ truyền, rừng bần “lấn biển” này có thể xác

định lợi ích của RNM về gia tăng đất canh tác hoặc cư trú cho cộng đồng dân cư.

Hệ thống rễ cây rừng ngập mặn cũng giữ lại các chất trầm tích từ đất liền đưa ra

biển. Các chất trầm tích này trộn với lớp thảm mục, tàn tích hữu cơ được phân rã

làm cho nền đất nâng cao. Nhờ tác dụng hỗ trợ của đai RNM, các bãi bồi hàng năm

lấn ra biển vài chục mét, thậm chí ở cửa sông Cửu Long và mũi Cà Mau lấn ra biển

hàng trăm mét.

Thứ năm, rừng bần có vai trò lọc nước biển điều tiết và bảo tổn nguồn nuớc

ngầm, giảm thiểu xâm nhập mặn vào sâu trong nội địa, người dân chỉ việc đào

giếng khoan vài chục mét sẽ có nước ngọt. sinh hoạt tại chỗ, không cần phải bỏ chi

phí cho việc mua và vận chuyển nuớc ngọt.

Thứ sáu, giá trị hấp thụ CO2 của RNM, hệ sinh thái RNM có khả năng hấp

thụ khí cacbon thông qua quá trình quang hợp và lưu trữ cacbon. Ngoài ra, các chất

35

hữu cơ tiết ra bởi RNM như lá cây, rễ cây khi rụng hoặc chết tạo thành lớp mùn

đáy cũng có khả năng lưu trữ cacbon.

Thứ bảy, sự đa dạng sinh học, động vật, thực vật của RNM nơi đây tạo ra

những sản vật dồi dào, đa dạng, có giá trị kinh tế cao, giúp cho người dân có thu

nhập khá. Bên cạnh đó, rừng bần là sinh cảnh thích hợp của nhiều loài động vật

hoang dã (chim thú trên cạn, ong mật và các loài thủy sinh), nơi sinh sống phát

triển, là nguồn dinh dưỡng phong phú cho các loài thuộc hệ sinh thái ngập nước.

2.7. Thực trạng các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần

2.7.1. Thực trạng các giá trị sử dụng trực tiếp của nghiên cứu

Rừng bần tại ĐBSCL có vị trí thuận lợi cho các loài thủy sản tự nhiên sinh

sống, sinh sôi nảy nở với quy mô lớn. Hàng năm, rừng bần cung cấp cho thị trường

đến hàng ngàn tấn sản phẩm thủy sản và con giống các loại như: Nghêu, cua, ba

khía, cá, tôm, khai thác trái bần chín…

♦ Khai thác nguồn lợi thủy sản

Khai thác nghêu giống: Từ tháng 5 đến tháng 7 dương lịch hàng năm, tại

vùng ven bãi bồi RBNM, nghêu giống tự nhiên xuất hiện với quy mô rất lớn, với

sản lượng hàng trăm tấn con giống mỗi năm, nguồn lợi nghêu giống tạo sức hút

mãnh liệt đối với nhiều đối tượng, cả từ cộng đồng địa phương và những người xa

đến khai thác như: Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau… với hàng nghìn người

đã tạo thu nhập hàng năm hàng chục tỷ đồng (Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú

- Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).

Khai thác cua giống, cua thịt và ba khía: Việc khai thác cua giống, cua thịt

và ba khía được người dân địa phương và vùng lận cận vào khai thác, trung bình từ

khoảng 80 đến 120 người vào RBNM khai thác hàng ngày (trừ những ngày mưa,

giông) với thu nhập trung bình 250.000 đồng/người/ngày. Tổng thu nhập một năm

rừng bần huyện Cù Lao Dung ước khoảng 6,5 tỷ đồng (Hạt Kiểm lâm huyện

36

Duyên Hải, 2020; Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung,

2020).

Khai thác cá kèo giống: Cá kèo giống xuất hiện khoảng tháng 6 đến tháng 7

dương lịch tại rừng bần huyện Cù Lao Dung, sản lượng khai thác hàng năm từ 4

đến 6 tấn, giá trung bình từ 4 triệu đến 8 triệu đồng/kg. Tổng thu nhập trung bình

một vụ cá kèo giống ước khoảng 30 tỷ đồng (Hạt Kiểm lâm huyện Duyên Hải,

2020; Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).

Khai thác trái bần chín: Thông thường đến mùa bần chín (vào tháng 5,

tháng 6, tháng 11 và tháng 12 dương lịch), người dân chỉ lượm về nấu ăn trong gia

đình, hoặc dùng làm “mồi” câu cá bông lau, cá ngác, cá tra bần; số bần chín còn lại

trôi sông, trôi biển bỏ đi. Nếu có kế hoạch thu mua để chế biến, mỗi hộ gia đình ở

ven bãi bồi có cây bần sinh sống có thêm thu nhập hàng trăm ngàn đồng mỗi ngày.

Ưu điểm của việc khai thác trái bần chín là cây bần mọc tự nhiên không phải đầu

tư tiền mua cây giống, phân bón, công chăm sóc… Hiện nay, tại huyện có một cơ

sở thu mua, sản xuất “nước cốt bần” đó là cơ sở Ngọc Hồng, chuyên sản xuất sản

phẩm từ trái bần chín, đã tạo điều kiện cho việc tăng thu nhập của người dân sống

nơi đây. Người dân chỉ bỏ công sức ra thu hoạch đem về bán giá 8.000 đồng/1kg,

bình quân một người đi lượm khoảng 50 kg mất thời gian 2 đến 3 giờ (Báo cáo:

Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).

Ngoài ra, các sản phẩm khác từ rừng bần như: Mật ong, Ốc len, Dộp, Đồm

độp, các loại tôm, Lịch, cá Kèo, cá Bống sao… được trình bày chi tiết phần tiếp

sau.

♦ Khai thác, phát triển du lịch sinh thái

Rừng bần tại ĐBSCL với giá trị sinh thái và đa dạng sinh học cao. Đây là

những điểm du lịch sinh thái tiềm năng cho khách du lịch nội địa và quốc tế. Tuy

nhiên, nơi đây chưa phải là điểm du lịch hấp dẫn do cơ sở hạ tầng đi lại và du lịch

còn kém, chưa có đầu tư khai thác tiềm năng du lịch, cũng như các hoạt động

tuyên truyền quảng bá về giá trị du lịch sinh thái.

37

2.7.2. Giá trị sử dụng gián tiếp của nghiên cứu

Phòng hộ đê biển của RNM đóng vai trò như một “tấm đệm” chắn sóng có

khả năng bảo vệ và phòng hộ đê biển trong các đợt bão lũ. Kết quả đánh giá của

nơi có RNM rộng 1,5 km thì sóng cao 1m ở ngoài bãi trống sẽ giảm còn 0,05 m

khi tới chân bờ đầm. Nơi không có rừng thì cũng với khoảng cách đó nhưng chiều

cao của sóng ở chân bờ đê là 0,75m và đê có thể bị xói lở (Mazda, 1997).

RNM vùng ĐBSCL có diện tích lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, vài năm gần

đây, RNM khu vực ven biển ĐBSCL đã và đang bị suy giảm về diện tích, cũng

như chất lượng. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu của Viện Sinh thái và Bảo vệ

công trình cho thấy, nguyên nhân làm suy giảm RNM là do các yếu tố tự nhiên

(sóng, gió, bão…) và yếu tố con người (các hoạt động xây dựng, khai thác, nuôi

trồng thủy sản…). Trong đó, yếu tố con người là nguyên nhân chính làm suy giảm

RNM. Một số nguyên nhân làm suy giảm RNM như: Do chuyển đổi mục đích sử

dụng đất ngập mặn; RNM do xói lở; rừng ngập mặn do khai thác trái phép; RNM

do hoạt động xây dựng của con người. Trước thực trạng xói lở bờ biển và suy giảm

RNM tại ĐBSCL, đã có nhiều đề tài, dự án được thực hiện nhằm góp phần phục

hồi diện tích RNM để bảo vệ bờ biển, đê biển tại ĐBSCL. Có rất nhiều biện pháp

được áp dụng tại ĐBSCL nhưng có thể kể đến các giải pháp mềm thân thiện với

môi trường được Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình (WIP) và Tổ chức hợp tác

Đức (GIZ) tiến hành nhiều thử nghiệm độc lập ở các vị trí bờ biển bị xói lở, bằng

cách làm hàng rào bằng cọc tre nhằm giảm sóng, giảm dòng chảy và gây bồi tạo

bãi, sau đó mới tiến hành trồng cây đã thành công ở một số vị trí (Nguyễn Hoàng

Hanh và cộng sự, 2019).

Dasgupta và cộng sự (2007) cho rằng nước biển dâng 1 m sẽ ảnh hưởng đến

5% diện tích đất của Việt Nam, 11% dân số, và làm giảm Tổng sản phẩm quốc nội

10%. Để làm giảm tác động của nước biển dâng và bão lũ, một số biện pháp ban

đầu đã được thực hiện như xây dựng đê. Thêm vào đó, tập trung vào khôi phục và

phục hồi RNM là cơ chế quan trọng để làm giảm các tác động của biến đổi khí hậu

38

của những vùng ven biển.

RNM ven biển tại ĐBSCL có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ

hơn 7 nghìn km đê biển, đê cửa sông ven biển, bờ bao, bảo vệ cuộc sống và sinh kế

của cộng đồng dân cư ven biển. Khu vực này có diện tích RNM là 73.372,04 ha,

chiếm 50,5 % diện tích RNM cả nước. Tại đây, trạng thái thực bì là rừng tự nhiên

và rừng trồng được gây trồng nhiều năm qua ở các vùng cửa sông ven biển, bãi bồi

đất ngập mặn, những nơi ngập triều trung bình, thể nền từ bùn đến sét, độ lún từ 20

- 40cm, các loài cây được gây trồng chủ yếu bao gồm: Đước đôi (Rhizophora

apiculata), Mắm biển (Avicennia marina), Bần chua (Sonneratia caseolaris), Dừa

nước (Nypa fruticans) và Mắm đen (Avicennia officinalis)… Thực trạng xói lở, bồi

tụ, suy giảm RNM diễn ra phức tạp tại khu vực này. Nghiên cứu đã tổng kết, đánh

giá một số giải pháp về trồng rừng đã được áp dụng có hiệu quả trong thời gian

qua (Nguyễn Hoàng Hanh và cộng sự, 2019).

Những năm gần đây, nhiều tác động tiêu cực từ tự nhiên và con người đã

ảnh hưởng nghiêm trọng đến RNM ở Việt Nam, cụ thể khu vực ven biển ĐBSCL.

Thực trạng xói lở, bồi tụ, suy giảm RNM diễn biến phức tạp. Chính phủ đã có

nhiều chính sách chiến lược đặc thù về phát triển bền vững ĐBSCL, trong đó trồng

RNM là một giải pháp quan trọng để thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH), góp

phần phát triển bền vững ĐBSCL. Thời gian qua, việc trồng RNM tại ĐBSCL đã

được thể chế hoá tại nhiều văn bản như: Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày

09/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát

triển rừng giai đoạn 2011 - 2020; Quyết định số 120/QĐ-TTg ngày 22/01/2015 của

Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển

ứng phó với BĐKH giai đoạn 2015-2020; Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày

17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH,

trong đó vấn đề đầu tư trồng mới và phục hồi RNM là một trong những vấn đề

được ưu tiên của Nghị quyết.

39

Tóm tắt Chương 2:

♦ Những hạn chế trong các công trình nghiên cứu trước đây về giá trị

kinh tế của RNM tại Việt Nam bao gồm:

Thứ nhất, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào một nhóm giá trị cụ thể của

rừng RNM, phổ biến là hiệu quả kinh tế trực tiếp, trong khi các nhóm giá trị hiệu

quả kinh tế gián tiếp và phi sử dụng chưa được nghiên cứu sâu. Cho đến nay chưa

có nghiên cứu nào tại Việt Nam sử dụng cách tiếp cận đánh giá riêng lẻ cho từng

loại rừng đặc thù để nghiên cứu, nhận xét, đánh giá giá trị kinh tế một cách cụ thể

về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần.

Thứ hai, các kết quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ tính toán sơ bộ, chưa

có sự thảo luận và liên hệ chặt chẽ với các biện pháp quản lý RNM cụ thể của từng

vùng. Nói cách khác, việc đề xuất các ứng dụng quản lý trên cơ sở kết quả nghiên

cứu về hiệu quả kinh tế của RBNM còn rất hạn chế.

Thứ ba, đến nay các phương pháp đánh giá giá trị kinh tế của RNM ở Việt

Nam chủ yếu tập trung vào những nhóm truyền thống như: giá thị trường, chi phí

thay thế... Các phương pháp tiên tiến được sử dụng trên thế giới như hàm sản xuất,

đánh giá ngẫu nhiên, mô hình lựa chọn chưa được sử dụng nhiều trong nước. Lý

do là những phương pháp này thường đi kèm với những đòi hỏi chặt chẽ về tiếp

cận mô hình lý thuyết kinh tế, quy trình thu thập thông tin chi tiết, kỹ thuật xử lý

và phân tích dữ liệu phức tạp. Tuy nhiên, về ưu điểm, việc áp dụng các phương

pháp hiện đại trên lại cho phép xác định các nhóm giá trị khó lượng hóa của RNM

như giá trị sử dụng.

Thứ tư, việc đánh giá hiệu quả về giá trị kinh tế của RBNM ở ĐBSCL chưa

nhiều, chưa đánh giá được một cách tổng thể và chỉ tập trung vào việc nghiên cứu,

đánh giá về RNM nói chung.

♦ Tính mới của nghiên cứu

Việc ước tính giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần dựa trên giá trị sử dụng

40

trực tiếp (Direct Use Value = DUV) và giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use

Value = IUV). Cụ thể: Giá trị sử dụng trực tiếp được tính qua các thông số về thu

nhập của hộ dân từ việc khai thác các sản phẩm của rừng (kể cả thu nhập từ nguồn

kinh phí nhận khoán rừng của Chính phủ) và giá trị tham quan du lịch; giá trị sử

dụng gián tiếp được ước tính trên cơ sở những thiệt hại hay những phí tổn về kinh

tế có thể tránh hay tiết kiệm được nếu như bảo tồn, phát triển rừng bần (chi phí

thay thế).

Áp dụng tổng giá trị kinh tế (TEV) vào tính giá trị kinh tế của sản phẩm

rừng bần gắn với thu nhập của hộ dân, phát triển kinh tế du lịch, bảo vệ đê biển tạo

cơ hội tốt cho địa phương phát triển kinh tế - xã hội - môi trường trên địa bàn

nghiên cứu.

41

CHƯƠNG 3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Cơ sở lý luận

3.1.1. Các khái niệm

 Khái niệm RNM:

Theo tiêu chí của Tổ chức Nông Nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc

(FAO,1994) thì một quần hợp thực vật được gọi là rừng khi có tối thiểu 10% cây

cối che phủ không phải là cây trồng nông nghiệp, đảm bảo cho sự tồn tại của các

loài động, thực vật và duy trì điều kiện đất đai phù hợp. Tuy nhiên, trên thực tế,

việc xác định và phân chia các loại rừng còn tùy thuộc vào các tiêu chí kích cỡ cây,

tầng tán, các yếu tố địa lý sinh vật…

Như vậy, RNM được hình thành bởi các cây ngập mặn nếu diện tích che phủ

đạt trên 10%. Loại rừng này bao gồm các loài cây ngập mặn chính thống (true

mangrove species), đó là những loài cây chỉ có ở RNM và các loài cây gia nhập

RNM (associate mangrove species), những loài cây có thể gặp ở cả trong RNM và

những vùng khác.

Ngô đình Quế và Võ Đại Hải (2012) cho rằng: “RNM là những quần xã thực

vật hình thành ở vùng ven biển và cửa sông những nơi bị tác động bởi thủy triều ở

vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới”. Trên thế giới, RNM có nhiều tên gọi khác nhau

như: “rừng ven biển", “rừng ở vùng thủy triều” và “rừng ngập mặn” (FAO, 1994).

Ở Việt Nam, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất tên gọi chung là “Rừng

ngập mặn”.

 Khái niệm RBNM:

Theo Ngô đình Quế và Võ Đại Hải (2012), tùy theo khả năng thích nghi với

các mức độ ngập thủy triều, độ mặn của nước, độ thuần thục của đất mà đã hình

thành các đai rừng ngập mặn khác nhau. Ở vùng cửa sông, nơi có sự giao thoa giữa

nguồn nước ngọt từ sông đổ ra biển, ngập thủy triều lên trung bình trong ngày các 42

loài cây điển hình ở vùng này thường gặp là Bần chua (Sonneratia caseolaris)

hoặc Bần đắng (S. alba), Đước (Rhizophora apiculata), Dừa nước (Nypa frutican)

cũng là một đại diện ở vùng cửa sông, nhưng chúng thường đứng ở sâu hơn về

phía đất liền, ở phía sau đai rừng Bần.

Hiện nay chưa có nghiên cứu đưa ra khái niệm RBNM, dựa theo tiêu chí của

FAO (1994), RBNM trong nghiên cứu là dạng RNM, nhưng ở đây cây Bần chua

chiếm trên 99% nên có thể gọi là RBNM hay gọi tắt là “rừng bần”.

Tóm lại, các khái niện được tóm tắt như sau:

♦ Khái niệm RNM: “RNM là những quần xã thực vật hình thành ở vùng ven

biển và cửa sông những nơi bị tác động bởi thủy triều ở vùng Nhiệt đới và Á nhiệt

đới”, RNM còn gọi là: “rừng ven biển“ hay “rừng ở vùng thủy triều” (FAO, 1994).

♦ Khái niệm RBNM: “RNM, nhưng ở đây cây Bần chua chiếm trên 99,9%

nên gọi là RBNM hay Rừng bần” (theo tiêu chí của FAO, 1994).

♦ Khái niệm sản phẩm rừng bần: “Là những sản phẩm vật chất và phi vật

chất được khai thác từ rừng bần và được quy đổi thành tiền”.

3.1.2. Cơ sở lý luận giá trị kinh tế

♦ Khái niệm giá trị kinh tế của RNM: Theo hướng dẫn của IUCN và Văn

phòng Công ước Ramsar (1997), để đánh giá các giá trị kinh tế của một hệ sinh

thái RNM, hiện có ba cách tiếp cận. Cách tiếp cận thứ nhất là Định giá toàn phần

(Total Valuation), cách thứ hai là Định giá từng phần (Partial Valuation) và cách

thứ ba là Đánh giá tác động (Impact Analysis).

Việc ước tính Giá trị kinh tế toàn phần (Total Economic Value - TEV) của

RNM dựa trên việc phân chia các lợi ích của rừng thành: Giá trị sử dụng (Use

Value - UV) và Giá trị phi sử dụng (Non Use Value - NUV), trong đó giá trị sử

dụng được chia thành Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value - DUV) và Giá trị

sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value - IUV). Giá trị sử dụng trực tiếp được tính

dựa vào các thông số về doanh thu hay thu nhập từ việc khai thác các sản phẩm

43

của rừng. Giá trị sử dụng gián tiếp được ước tính trên cơ sở những thiệt hại hay

những phí tổn về kinh tế có thể tránh hay tiết kiệm được nếu như bảo tồn được khu

rừng.

♦ Khái niệm “Tổng giá trị kinh tế” (TEV): Trong kinh tế thị trường, có rất

nhiều loại hàng hoá được trao đổi buôn bán trên thị trường. Chúng có một mức giá

nhất định và việc xác định giá trị của chúng là đơn giản. Tuy nhiên, khi xem xét

hàng hoá công cộng (những hàng hoá không xác định được giá trên thị trường và

thuộc sở hữu chung) thì việc xác định giá trị của chúng dưới dạng tiền tệ gặp nhiều

khó khăn. Một trong số đó phải kể đến là hàng hoá môi trường. Đây là một dạng

hàng hoá mà người ta mới đưa vào nghiên cứu trong kinh tế học môi trường, và để

xem xét được giá trị của loại hàng hoá này một cách đầy đủ thì chúng ta phải nhìn

nhận trên góc độ tổng giá trị kinh tế (TEV).

Tổng giá trị kinh tế (TEV): Là tổng giá trị quy thành tiền của các giá trị hợp

phần của hệ sinh thái, được tính toán theo sơ đồ sau:

TEV

NUV

UV

EV

BV

DUV

IDUV

OV

Nguồn: Nguyễn Hoàng Trí, 2006

Hình 3.1: Khái niệm tổng giá trị kinh tế (TEV)

♦ Giá trị sử dụng (Use Value - UV): Được hiểu là những giá trị được con

người sử dụng vào mục đích của mình và vì lợi ích của con người. Trong đó có thể

được sử dụng dưới hai hình thức:

44

- Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value - DUV): Đây là những giá trị

mà trong thực tế nó liên quan đến số lượng đầu ra của sản phẩm hàng hoá môi

trường mà con người có thể xác lập được chúng trên thị trường thông qua giá cả.

Thông thường giá được xác lập là giá thực. Nghĩa là nếu xác định được khối lượng

hàng hoá theo giá thị trường rồi trừ đi những khoản chi phí thì chúng ta sẽ xác lập

được giá trị của nó theo giá trị thực.

Mô hình hoá: f(DUV) = f(P,Q,C)

Với: P là giá cả hàng hoá, Q là sản lượng hàng hoá, C là các khoản chi phí

để có được lượng hàng hoá

Đối với một sản phẩm i nào đó của giá trị hàng hóa thì giá trị được xác lập

bằng: (Pi x Qi) - Ci

Ví dụ: Khi chúng ta tính tổng giá trị kinh tế của 1 khu RNM thì tôm, cá,

cua, mật ong, gỗ, củi… là i (hàng hóa thông thường đem mua bán trao đổi trên thị

trường). Trong đó, đối với mỗi đơn vị hàng hóa, Pi được xem là giá của sản phẩm

i, Qi là số lượng của sản phẩm i đã thu hoạch, Ci là chi phí để có được khối lượng

Qi.

- Giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value - IDUV): Đây là những giá

trị có liên quan đến chức năng của môi trường trong việc hậu thuẫn cho hoạt động

kinh tế, hoạt động sống của con người. Nó giúp con người phòng tránh được

những thảm hoạ của thiên nhiên (lũ lụt, sóng thần, biến đổi khí hậu…).

Ví dụ: Khi xem xét 1 hệ thống khu RNM ven biển thì giá trị sử dụng gián

tiếp là khả năng ngăn cản bão, sóng biển để bảo vệ hoạt động sản xuất và đời sống

của con người phía trong khu RNM.

Trong mô hình xem xét về giá trị gián tiếp, liên quan đến chức năng của hệ

sinh thái đánh giá về giá trị của nó, người ta có thể căn cứ vào thay đổi trong sản

t) x pt

xuất mà xác lập số lượng thay đổi thông qua công thức sau:

∆p = (Qit/N – Qi 45

Qit/N: khối lượng hàng hóa i được xem xét trong 1 thời gian t

t: khối lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà đã có được dựa trên 1 năm cơ sở t

∆p: số lượng (thay đổi) trong sản xuất sản phẩm

Qi

nào đó

- Giá trị lựa chọn (Option Value - OV): Là những giá trị phụ thuộc vào tính

chất môi trường hoặc đặc thù của hệ sinh thái mà người làm đánh giá cần phải xem

xét, nghiên cứu. Nó bao gồm những lợi ích từ các nguồn tài nguyên phục vụ cho

nhu cầu sử dụng hiện tại của con người và nó thể hiện sự khác biệt giữa các nguồn

tài nguyên đó.

♦ Giá trị phi sử dụng (Non Use Value - NUV): Là những giá trị thường nằm

trong tiềm thức của người đánh giá nhưng không phản ánh được giá trị của thị

trường. Đây chính là vấn đề phức tạp nhất trong kinh tế học môi trường, đòi hỏi

phải có những cách đánh giá tích cực để phục vụ cho việc hoạch định chính sách.

Hiện nay, các nhà kinh tế học môi trường đã đưa ra quan điểm cho rằng có hai giá

trị cơ bản thuộc nhóm này, đó là: Giá trị tồn tại (Existense Value - EV), giá trị tuỳ

● Giá trị tồn tại (EV): Đây là giá trị nằm trong bản thân của sự vật mà con

thuộc (Bequest Value - BV).

người cho rằng nó không thể mất đi. Nó phải được duy trì vì ý nghĩa kinh tế, chính

trị, xã hội của nó.

Ví dụ: Một nghiên cứu đánh giá dự án đầu tư khai thác gỗ tại khu rừng ôn

đới ở Canada. Trên quan điểm phân tích tài chính thì giá trị khu rừng này cho phép

nhà đầu tư khai thác gỗ giá trị hiện tại ròng (Net Present Value – NPV) lớn hơn 0

nhưng trên quan điểm phân tích kinh tế các nhà kinh tế học môi trường đã tính

toán là không thể cho nhà đầu tư khai thác khu rừng này (NPV<0). Nguyên nhân

người ta cho rằng việc khai thác khu rừng đó sẽ mất đi nơi cư trú của loài cú trắng,

loài này có nhiệm vụ cân đối đàn chuột trong rừng. Như vậy, trong trường hợp này

khu rừng có giá trị tồn tại của con cú được đánh giá cao.

46

● Giá trị lưu truyền (BV): Đây là giá trị phụ thuộc vào khả năng đáp ứng

dịch vụ sinh thái hoặc dịch vụ môi trường cho thế hệ tương lai và nằm trong tầm

nhận thức của con người về vấn đề đó (Nguyễn Hoàng Trí, 2006).

● Giá trị gỗ, củi:

♦ Giá trị trực tiếp từ sản phẩm rừng bần

Rừng bần tại ĐBSCL (bao gồm cả rừng trồng và rừng tự nhiên) có sản lượng

● Giá trị thủy sản:

gỗ theo dạng phức hợp với nhiều cây bụi nên không có giá trị kinh tế.

Chúng ta đều biết rằng rừng bần là nơi tạo sinh cảnh, đồng thời là nơi cung

cấp nguồn thức ăn cho các loài thủy sản sinh sống. Sản phẩm thủy sản có thể mang

lại giá trị kinh tế từ rừng bần, chủ yếu là đánh bắt tự nhiên với các loài như: cá,

● Nguồn lợi từ sinh vật hoang dã:

tôm, cua, nghêu, dộp...

Các loài động vật hoang dã trên cạn được tính ở đây bao gồm các loài chim,

thú, côn trùng… Chúng xuất hiện, tồn tại và phát triển từ sinh cảnh rừng bần. Hầu

hết các loài động vật hoang dã gắn với sinh cảnh rừng bần tại ĐBSCL không thể

định giá kinh tế theo giá trị sản phẩm thị trường (ví dụ tính theo giá trị thực phẩm

đặc sản, dược liệu, hiện vật trang trí...), trừ một số loài cho sản phẩm kinh tế gián

tiếp trong khuôn khổ luật cho phép thu hoạch như: Mật ong (ong lấy nhụy hoa các

● Giá trị du lịch và giải trí:

cây rừng), phân dơi (sử dụng làm phân bón cây trồng)…

Bản thân sinh cảnh rừng bần đem lại giá trị sản phẩm du lịch, giáo dục môi

trường và nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, từ đầu năm 2015 mới chính thức khai

thác hoạt động du lịch rừng bần Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.

● Cố định bùn đất bồi lắng, phòng hộ ven biển:

♦ Các giá trị gián tiếp từ rừng bần

47

Rừng bần tại ĐBSCL cố định được khối lượng lớn đất phù sa từ dòng chảy

của những con sông, dồn tụ và bồi lắng ở vùng cửa sông ven biển. Cây Bần chua

có khả năng cao trong quá trình ngưng kết cố định phù sa ở bộ rễ khí sinh của

chúng. Lợi dụng tính năng này của rừng bần, ngay từ giữa thế kỷ 20, người dân

miền Tây đã biết cách khoanh trồng rừng bần tự nhiên, kết hợp với việc trồng rừng

bần (vùng cửa sông Tiền, sông Hậu ven biển) và cứ qua một chu kỳ rừng trưởng

thành (từ 12 năm đến 18 năm, tuỳ điều kiện đất đai và thuỷ triều tại mỗi vùng) lại

chặt rừng và đắp đê bao phần đất mới do RNM cố định phù sa mà hình thành, một

mặt có thêm đất canh tác, một mặt tiếp tục trồng rừng mới phía ngoài đê bao,

thường được gọi là khu “Lấn biển”.

● Giá trị chắn sóng và gió bão:

RNM có tác dụng giảm thiểu sự phá hoại của gió, bão, sóng, triều cuờng và

dòng chảy của các cơn lũ trên dòng sông. Cho đến nay, mặc dù trong nước chưa có

công trình nghiên cứu, khảo sát cụ thể về hiệu quả kinh tế đối với tính hữu dụng

của RNM trong phòng hộ các yếu tố môi trường của RNM nói chung, và của rừng

bần nói riêng, nhưng sơ bộ xem xét và đối chứng cơn bão số 5 (năm 1997), khu

vực rừng bần ven biển Trà Vinh và Sóc Trăng thiệt hại do bão gây ra rất thấp so

với ven biển Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang.

● Duy trì đa dạng sinh học:

Rừng bần là sinh cảnh thích hợp của nhiều loài động vật hoang dã (chim thú

trên cạn, ong mật và các loài thủy sinh), chính nơi sinh sống lý tưởng cho các loài

động vật hoang dã phát triển và là nguồn dinh dưỡng phong phú cho các loài thuộc

hệ sinh thái ngập nước. Sinh cảnh rừng bần hiện đang có chiều hướng gia tăng, tác

động tích cực cho các loài động vật hoang dã trên cạn cư trú, sinh sản và phát triển

nhiều loài động vật hoang dã trên cạn, duy trì sự đa dạng sinh học trong khu rừng.

● Giá trị cải thiện môi trường:

Rừng bần còn có giá trị trong giảm thiểu ô nhiễm không khí, bụi và tiếng ồn.

Chu trình sinh lý thực vật nói chung và quần thể rừng bần nói riêng, đặc biệt là quá 48

trình quang hợp của lá. Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định quá trình quang hợp

qua lá của cây có tác dụng lớn đối với giảm thiểu ô nhiễm không khí, thanh lọc độc

tố, hấp phụ cacbonic và sản sinh ôxy, ngưng tụ và giảm tác hại của bụi, giảm tiếng

ồn...

● Giá trị cố định cacbon hay Tổng sinh khối (Biomass)

Giá trị tổng sinh khối (tổng khối luợng vật chất đuợc sản sinh từ tập đoàn

sinh vật bao gồm động, thực vật trong sinh cảnh rừng) là tiêu chí sinh học tổng hợp

chỉ định cấp độ giá trị phong phú của rừng, tính theo đơn vị tấn/ha/năm, dựa trên

trọng luợng khô của các loại vật chất. Từ trọng lượng tấn vật chất có thể tính ra

nhiệt lượng (kilô calo). Giá trị kinh tế của nhiệt lượng được quy đổi tương đương

với giá trị kinh tế nhiên liệu (calo của than, calo của dầu hỏa, calo của gỗ, củi...

đều có thể định giá kinh tế cho đơn vị calo).

♦ Giới hạn nghiên cứu

Việc định giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL, như đã trình

bày ở những chương II, đã xác định cụ thể những giá trị kinh tế có được từ rừng

bần. Do giới hạn về nguồn lực, thời gian nên nghiên cứu chỉ tập trung vào 03 nhóm

giá trị kinh tế chủ yếu và tiêu biểu hiện nay từ sản phẩm rừng bần, đó là khai thác

các sản phẩm từ rừng bần thông qua thống kê thu nhập của hộ dân, giá trị du lịch

thông qua phương pháp tính chi phí du hành của khách đến tham quan và giá trị

phòng hộ của rừng bần dùng phương pháp chi phí thay thế. Các giá trị còn lại sẽ

được nghiên cứu tiếp sau.

Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần được trình bày Hình 3.1.

49

GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA SẢN PHẨM RỪNG BẦN

GIÁ TRỊ GIÁN TIẾP

GIÁ TRỊ TRỰC TIẾP

TẠO THU NHẬP

GIÁ TRỊ PHÒNG HỘ

THAM QUAN, DU LỊCH

Nguồn: Nghiên cứu đề xuất của tác giả, năm 2018

Hình 3.2. Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần

Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL được mô tả chi tiết

trong Bảng 3.1.

Bảng 3.1. Các giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần

Giá trị sử dụng trực tiếp

Giá trị sử dụng gián tiếp

(1) Giá trị khai thác sản phẩm rừng bần: Trái

(3) Giá trị phòng hộ thay đê biển

bần chín, tôm, ngao, cua, ốc, cá…

của RNM.

(2) Giá trị tham quan, du lịch tại rừng bần.

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2018

Như vậy, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận tổng thể để đánh giá giá trị kinh

tế của sản phẩm rừng bần (Total economic valuation), trong đó tập trung vào xác

định các loại giá trị quan trọng cốt yếu. Đối với một số giá trị kinh tế khác được

đánh giá là không đáng kể, không nằm trong phạm vi nghiên cứu, mặc dù có đóng

góp về mặt kinh tế tại khu vực nghiên cứu.

50

3.2. Nghiên cứu về thu nhập hộ gia đình

3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu về thu nhập

Trong nghiên cứu về thu nhập từ sản phẩm rừng bần, các phương pháp sau

sẽ được sử dụng:

Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá

các tỷ lệ phần trăm trong chọn mẫu điều tra về nghề nghiệp của chủ hộ, kinh

nghiệm làm việc của chủ hộ, trình độ học vấn của chủ hộ, tổng thu nhập của hộ từ

các sản phẩm rừng bần như: Thủy sản, nghêu, cua…

Phương pháp phân tích so sánh: Được sử dụng để đánh giá, so sánh các

nhóm hộ với nhau về điều kiện và khả năng cải thiện thu nhập.

Phương pháp phân tích định tính và định lượng: Phân tích định tính và định

lượng để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của chủ hộ thông qua các

biến độc lập.

Theo Đinh Phi Hổ và Trương Châu (2014), để tính thu nhập cho chủ hộ gia

đình (Y), từ kết quả điều tra, khảo sát hộ dân dùng hàm hồi quy tuyến tính định

lượng các nhân tố tác động đến thu nhập của chủ hộ, bao gồm: Biến phụ thuộc thu

nhập chủ hộ Y và các biến độc lập: (1) Nghề nghiệp chủ hộ, (2) Kinh nghiệm làm

việc của chủ hộ, (3) Trình độ học vấn của chủ hộ, (4) Giới tính của chủ hộ, (5)

Thành phần dân tộc của chủ hộ, (6) Quy mô hộ, (7) Quy mô diện tích đất, (8) Số

hoạt động sản xuất - kinh doanh, (9) Số hoạt động tạo thu nhập, (10) Vay vốn.

Trên cơ sở tổng quan về lý thuyết kinh tế học và các công trình nghiên cứu

thực nghiệm, áp dụng vào tình hình thực tế tại thực địa, nghiên cứu lược giản 02

biến độc lập là: Nghề nghiệp và Kinh nghiệm của chủ hộ; thay vào đó, nghiên cứu

bổ sung 03 biến độc lập có ảnh hưởng đến thu nhập của hộ trên địa bàn nghiên cứu

như sau: (8) Thu nhập từ nhận khoán rừng, (9) Tham gia các tổ chức đoàn thể và

(10) Cú sốc tự nhiên do lũ lụt, gió bão… Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ

gia đình được thể hiện Hình 3.2.

51

(1) Trình độ học vấn của chủ hộ

(2) Giới tính của chủ hộ

(3) Thành phần dân tộc của chủ hộ

(4) Quy mô hộ

(5) Quy mô diện tích đất

(6) Thu nhập từ sản phẩm rừng bần

Thu nhập của hộ gia đình

(7) Thu nhập từ nhận khoán rừng

(8) Tham gia tổ chức đoàn thể địa phương

(9) Cú sốc tự nhiên do thiên tai

(10) Tiếp cận tín dụng

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019

Hình 3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình

Mô hình định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình được

Yi = f(X1,X2,X3…Xi)

viết dưới dạng hàm số như sau:

(3.1)

Yi = bo + b1X1 + b2X2+ b3X3+ ...+ b10Xi+ ui

Hàm ước lượng có dạng:

Trong đó:

52

+ Y: Biến phụ thuộc;

+ X1, X2,... Xi: Các biến độc lập;

+ bo, b1, … bi, là các tham số;

+ u là phần dư.

3.2.2. Thiết kế nghiên cứu và thu thập dữ liệu

3.2.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập

Từ thập niên 90 đến nay, các công trình nghiên cứu trước đây áp dụng nhiều

cách tiếp cận khác nhau để nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân

vùng nông thôn (Mincer, 1974; Singh và cộng sự, 1986; Chambers và Conway,

1992; Reardon và cộng sự, 1992; Scoones, 1998; Ellis, 2000; Winters và cộng sự,

2001; Sesabo và Tol, 2005; Karttunen, 2009; Phạm Hải Bửu và cộng sự, 2010; Võ

Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng, 2015; Wan và cộng sự, 2016; Lưu Tiến Dũng và cộng

sự, 2018.

Định nghĩa các biến tác động đến thu nhập hộ.

Biến biến phụ thuộc: Thu nhập hộ (Y);

Các biến độc lập (được ký hiệu là X) gồm 10 biến: Học vấn của chủ hộ (X1),

Giới tính chủ hộ (X2), Thành phần dân tộc của chủ hộ (X3), Quy mô hộ (X4), Diện

tích đất nhận khoán (X5), Thu nhập từ sản phẩm rừng bần (X6), Thu nhập từ nhận

khoán rừng (X7), Tham gia tổ chức đoàn thể địa phương (X8), Cú sốc tự nhiên: hỏa

hoạn, lũ lụt, hạn hán, sóng và bão (X9) và Tiếp cận tín dụng: vay từ các định chế tài

chính (X10).

Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân được tổng hợp và trình bày chi

tiết trong Bảng 3.3.

53

Bảng 3.3. Kỳ vọng dấu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ dân

Ký hiệu biến Mô tả Đơn vị tính Kỳ vọng dấu

Biến phụ thuộc

Y Thu nhập của hộ dân Triệu đồng/năm

Biến độc lập

Lớp 1-12 (Năm học) + X1 Học vấn của chủ hộ

Nam =1; Nữ = 0 + X2 Giới tính chủ hộ

Thành phần dân tộc của chủ hộ Dân tộc Kinh =1; + X3

Dân tộc khác = 0

Người - X4 Quy mô hộ

1.000 mét vuông + X5 Diện tích đất nhận khoán

Thu nhập từ sản phẩm rừng bần Có = 1; không = 0 + X6

Thu nhập từ nhận khoán rừng Có =1, không = 0 + X7

Có =1; không = 0 + Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương X8

Có =1; không = 0 - Cú sốc tự nhiên (hỏa hoạn, lũ lụt, hạn hán, sóng và bão ) X9

+ Tiếp cận tín dụng (vay từ các định chế tài chính - ĐCTC) Có vay tiền từ định chế tín dụng chính thức = 1; Không = 0 X10

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019

Ứng dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, với hàm số khái quát:

B0: Hằng số; Bi: Tham số; Xi: Các biến độc lập; i = 1 đến 10.

54

Y: Biến phụ thuộc; u: Phần dư.

3.2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp thu thập dữ liệu

♦ Cỡ mẫu:

Theo Green (1991), đối với mô hình hồi quy, cỡ mẫu tối thiểu:

n ≥ 50 + kP; trong đó: n: cỡ mẫu; P: số biến độc lập; k = 8.

Mô hình nghiên cứu có 10 biến độc lập. Như vậy, cỡ mẫu tối thiểu cần:

n ≥ 50 + kP = 50 + (8x10) = 130

Cỡ mẫu tối thiểu là 130 quan sát. Căn cứ vào khả năng nguồn lực cộng tác

viên khảo sát và tài chính cho phép, nhóm nghiên cứu chọn n = 210 quan sát. Mẫu

được chọn theo phương pháp phân tầng không theo tỷ lệ. Địa bàn khảo sát được

chọn gồm 03 huyện thuộc 02 tỉnh đại diện cho các tiểu vùng rừng bần tập trung ở

ĐBSCL bao gồm: Huyện Duyên Hải nằm ở cửa Định An phía bắc sông Hậu thuộc

tỉnh Trà Vinh và huyện Cù Lao Dung, Trần Để nằm phía nam cửa sông Hậu thuộc

tỉnh Sóc Trăng. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp 210 hộ dân

sống xung quanh rừng bần nhận khoán bảo vệ rừng, thu nhập của họ phụ thuộc

hoàn toàn vào lương khoán và khai thác các sản phẩm từ rừng bần.

Thời gian tiến hành điều tra, phỏng vấn từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2019

bằng bảng câu hỏi chi tiết được thiết kế sẵn.

♦ Phân bổ mẫu phỏng vấn

Căn cứ trên số hộ dân trên địa bàn nghiên cứu tại 03 huyện được chọn để

điều tra, phỏng vấn. Đây là những địa phương có diện tích rừng bần tập trung,

không có lẫn lộn với các cây khác như: Tràm, đước, vẹt…. Huyện Duyên Hải nằm

ở cửa Định An phía Bắc sông Hậu và huyện Cù Lao Dung và huyện Trần Đề nằm

phía Nam cửa sông Hậu. Nơi đây rừng bần phát triển mạnh vì bần thường phân bổ

ở sát cửa sông với độ mặn của nước từ 3‰ đến 25‰ (Ngô Đình Quế và Võ Đại

Hải, 2012), cụ thể như sau:

55

+ Huyện Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh: Có trên 1.097 ha rừng bần tự nhiên

và rừng bần trồng, chủ yếu tập trung tại xã Long Vĩnh, giao cho 18 Tổ Quản lý

rừng, đại diện cho 751 hộ dân sinh sống ven rừng bần (Trạm Kiểm lâm huyện

Duyên Hải, 2020). Nghiên cứu chọn 60 hộ để điều tra, phỏng vấn, chiếm 8,5% số

hộ sống ven rừng bần.

+ Huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng: Có diện tích rừng bần tự nhiên và rừng

bần trồng trên 1.712,7 ha, chủ yếu tập trung tại xã An Thạnh 3, xã An Thạnh Nam

và xã Đại Ân 1. Tổng diện tích giao khoán cho rừng là 1.374,7 ha cho 03 Tổ Quản

lý rừng đại diện cho 580 hộ dân sống xung quanh rừng bần, đa số hộ nghèo và cận

nghèo (Trạm Kiểm lâm liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).

Nghiên cứu chọn 90 hộ điều tra, chiếm 15,5% số hộ sống ven rừng bần.

+ Huyện Trần Đề thuộc tỉnh Sóc Trăng: Có diện tích rừng bần tự nhiên và

rừng bần trồng gần 698,1 ha, tập trung nhiều tại xã Trung Bình và thị trấn Trần Đề.

Tổng diện tích giao khoán rừng là 663 ha cho 03 Tổ Quản lý rừng với đại diện cho

410 hộ dân sống xung quanh rừng bần, đa số hộ nghèo và hộ cận nghèo, trong đó

có 20% hộ là người dân tộc Khmer (Trạm Kiểm lâm liên huyện Long Phú - Trần

Đề - Cù Lao Dung, 2020). Nghiên cứu chọn 60 hộ để điều tra, phỏng vấn, chiếm

gần 15% số hộ sống ven rừng bần. Phân bổ phiếu khảo sát được trình bày trong

Bảng 3.4.

56

Bảng 3.4. Phân bổ phiếu khảo sát

TT

Tên tỉnh

Tên huyện/xã

1

Trà Vinh

Tỷ lệ % (Số phiếu/số hộ) 8,5

Huyện Duyên Hải

Số phiếu khảo sát 60

Xã Long Vĩnh

60

2

15,5

Sóc Trăng Huyện Cù Lao Dung

90

- Xã An Thạnh 3

20

- Xã An Thạnh Nam

60

- Xã Đại Ân 1

10

15,0

Huyện Trần Đề

60

Xã Trung Bình

60

210

Cộng:

Nguồn: Đề xuất của tác giả, năm 2019

Từ số liệu sơ cấp và thông tin thu thập được, nghiên cứu tiếp tục tiến hành

tổng hợp phân tích 210 phiếu khảo sát.

3.2.3. Thiết kế Bảng câu hỏi

Bảng câu hỏi gồm có các nội dung: Trình độ học vấn của chủ hộ; Giới tính

của chủ hộ; Thành phần dân tộc của chủ hộ; Quy mô hộ; Tỷ lệ phụ thuộc; Quy mô

diện tích đất; Chi tiết các khoản thu nhập; Các sản phẩm từ rừng bần tạo ra thu

nhập; Tham gia các tổ chức đoàn thể địa phương; Cú sốc tự nhiên tác động; và

Tiếp cận các định chế tài chính. Bảng câu hỏi được trình bày chi tiết trong Phụ lục

A.1.

3.2.4. Các bước thực hiện ước lượng mô hình

Thông qua kết quả điều tra, thống kê 210 phiếu điều tra, nghiên cứu tiến

hành thực hiện kiểm định kết quả nghiên cứu từ hàm ước lượng (3.1). Tiến hành

05 kiểm định sau:

(1) Kiểm định tương quan từng phần của các hệ số hồi quy

57

Mục tiêu của kiểm định này là nhằm xem xét các biến độc lập tương quan

có ý nghĩa với biến phụ thuộc hay không. Khi mức ý nghĩa (Significance, Sig.) của

hệ số hồi quy từng phần có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig ≤ 0,05), kết luận có ý nghĩa

thống kê giữa biến độc lập và biến phụ thuộc.

(2) Mức độ phù hợp của mô hình

Nhằm xác định xem có mối quan hệ tuyến tính giữa các biến độc với biến

phụ thuộc hay không. Mô hình được xem là không phù hợp khi các hệ số hồi quy

đều bằng không, ngược lại mô hình được xem là phù hợp nếu có ít nhất một hệ số

hồi quy khác không.

Giả thuyết: H0: Các hệ số hồi quy đều bằng không

H1: Có ít nhất một hệ số hồi quy khác không

Phân tích phương sai (analysis of variance, ANOVA) được sử dụng để kiểm

định. Nếu mức ý nghĩa đảm bảo có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig. < 0,05), chấp nhận

giả thuyết H1 mô hình được xem là phù hợp.

(3) Hiện tượng đa cộng tuyến

Hiện tượng đa cộng tuyến (multicollinearity) là hiện tượng các biến độc lập

có quan hệ gần như tuyến tính, việc bỏ qua hiện tượng đa cộng tuyến làm các sai

số chuẩn thường cao hơn, giá trị thống kê thấp hơn và có thể không có ý nghĩa. Để

kiểm định hiện tượng này, sử dụng thước đo độ phóng đại phương sai (Variance

Inflation Factor, VIF) để kiểm định hiện tượng tương quan (đa cộng tuyến) giữa

các biến độc lập. Điều kiện là VIF < 10 để không có hiện tượng đa cộng tuyến.

(4) Kiểm định hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi

Phương sai của phần dư thay đổi (heteroskedasticity) là hiện tượng các giá

trị phần dư có phân phối không giống nhau, giá trị phương sai không như nhau. Bỏ

qua hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi làm cho các ước lượng bình

phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square, OLS) của các hệ số hồi quy không đạt

hiệu quả, các kiểm định giả thuyết không còn giá trị và các dự báo không còn hiệu

58

quả. Trong nghiên cứu này số quan sát là 210, nên sử dụng kiểm định White

(White, 1980) để kiểm định phương sai của phần dư thay đổi.

- Kiểm định White:

Kết quả mô hình hồi quy

Y = bo + b1X1 + b2X2+ b3X3+ ...+ b10X10+ u (2)

Xây dựng mô hình hồi quy phụ:

USQUARE = b0 + b1X1 + b2X2 + b3X3 + b4X4 + b5X5 + b6X6 + b7X7 + b8X8 +

b9X9 + b10X10 + b11X1S + b12X2S + b13X3S + b14X4S + b15X5S + b16X6S +

(3) b17X7S + b18X8S + b19X9S + b20X10 + b21CROSP

Trong đó:

USQUARE: Phần dư bình phương

X1S: X1 bình phương; X2S: X2 bình phương…; X10S.

CROSP: Tích chéo (X1*X2*X3*X4*X5*X6*X7*X8*X9*X10)

Xác định hệ số White: n*R2

Trong đó: n số quan sát của nghiên cứu; R2: Kết quả có được từ hàm hồi

quy phụ (3).

Căn cứ vào số tham số (k-1) = df1 của mô hình hồi quy phụ, mức ý nghĩa là

0,05 (95%) trong Bảng phân phối Chi bình phương, để xác định giá trị Chi bình

phương.

Khi (n*R2 ) < giá trị Chi bình phương (tra Bảng), kết luận: Phương sai của

phần dư không đổi.

3.2.5. Thảo luận kết quả hồi quy

(1) Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa (Unstandardized coefficient, B)

59

Hệ số B chưa chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà

các biến được giữ nguyên giá trị thô. B cho biết giá trị tăng, giảm của biến phụ

thuộc (thu nhập Y) khi thay đổi một đơn vị đo lường của biến độc lập.

(2) Hệ số hồi quy chuẩn hóa (standardized coefficient, Beta)

Hệ số Beta đã chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà

các biến độc lập, biến phụ thuộc đã được chuẩn hóa (phương sai =1). Trị tuyệt đối

của hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta, nhằm giúp xác định tỷ lệ % đóng góp của các

biến độc lập vào biến phụ thuộc.

(3) Xác định hàm hồi quy tuyến tính

Các tham số trong hàm ước lượng là các hệ số B của các biến độc lập sau

khi giải phương trình hồi quy.

(4) Các giải pháp, kiến nghị

Dựa vào hàm hồi quy được xác định, tiến hành phân tích, đánh giá các yếu

tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ dân và đưa ra giải pháp cụ thể.

3.3. Nghiên cứu giá trị du lịch của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long

3.3.1. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp sau:

♦ Phương pháp thu thập thông tin: Tổng hợp tài liệu thứ cấp, số liệu sơ cấp

và phỏng vấn trực tiếp.

♦ Phương pháp thực: Đây là phương pháp rất cần thiết và không thể thiếu

trong nghiên cứu giá trị kinh tế, kết hợp với việc nghiên cứu qua các tài liệu khác;

phương pháp thực địa được coi là một phương pháp chủ đạo vì địa bàn nghiên cứu

nhỏ, đòi hỏi phải có những khảo sát thực địa tương đối cụ thể để nắm được đặc

trưng của từng địa bàn một cách thực tế. Vì thế, các thông tin thực tế qua quan sát,

nghe, trao đổi, thu thập được càng phong phú và đáng tin cậy hơn.

60

♦ Phương pháp điều tra xã hội học: Đây cũng là một phương pháp không

kém phần quan trọng trong việc lượng giá giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần và

giá trị cảnh quan du lịch của địa điểm nghiên cứu, các thông tin thu thập được qua

điều tra giúp nhà nghiên cứu tổng hợp được các ý kiến và các số liệu cần thiết cho

tính toán. Cùng với phương pháp thực địa, phương pháp này khá quan trọng trong

việc phân tích các hiện tượng thực tế.

♦ Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh

tế xác định giá trị kinh tế trong việc xây dựng, thiết kế bảng hỏi, phương pháp

phỏng vấn, cũng như việc xây dựng các mô hình tính toán trong luận án này.

♦ Phương pháp xử lý số liệu: bằng các phần mềm thống kê để kiểm định mô

hình, như phần mềm thống kê Excel, SPSS,…

♦ Phương pháp lượng giá giá trị cảnh quan: Để lượng giá giá trị cảnh quan

du lịch của địa điểm nghiên cứu, trong luận án sử dụng phương pháp chi phí du

lịch theo vùng (Zonal travel cost method - ZTCM).

3.3.2. Nghiên cứu giá trị du lịch của rừng bần huyện Cù Lao Dung

Nghiên cứu sử dụng phương pháp chi phí du hành (Travel Cost Method -

TCM) để xác định giá trị du lịch, thặng dư, cũng như chi tiêu của du khách khi du

lịch đến Cù Lao Dung. TCM là phương pháp dựa được sử dụng phổ biến trong

đánh giá giá trị hàng hóa và dịch vụ phi thị trường, phương pháp này đã được sử

dụng rộng rãi ở các nước phát triển (Phạm Trọng Hiếu và Lưu Tiến Thuận, 2017);

phương pháp TCM để ước lượng giá trị kinh tế của các khu du lịch, giải trí sử dụng

nguồn tài nguyên thiên nhiên để hoạt động như: Bãi biển, rừng quốc gia… Tại

những nơi này, giá vé vào cổng không đủ để đo lường hết những lợi ích kinh tế mà

du khách mang lại cho địa phương khi đến du lịch (Saraj và cộng sự, 2009) vì giá

vé chỉ thể hiện chi phí hoạt động, bảo dưỡng và một phần lợi nhuận của đơn vị

cung cấp dịch vụ, không tính đến những lợi ích khác như lợi nhuận thương mại mà

du khách đem đến cho địa phương (Centeno và cộng sự, 2000).

61

3.3.3. Phương pháp chi phí du hành

Phương pháp này được giả định hàng hóa thị trường (chi phí chi trả) được

trộn lẫn với hàng hóa thiên nhiên (nơi du lịch) trong khi đi du lịch (Das, 2013)

thông qua việc sử dụng các chi tiêu mà du khách phải chi trả để đến được nơi du

lịch như: Chi phí đi lại, chi phí mua vé tham quan, chi phí ăn uống… Các chi phí

này đại diện cho giá sẵn lòng trả (Willing to Pay - WTP) của du khách đối với khu

du lịch (Limaei và cộng sự, 2014).

Có hai phương pháp tính TCM là phương pháp chi phí du hành theo vùng

(Zonal Travel Cost Method - ZTCM) và chi phí du hành cá nhân (Individual

Travel Cost Method - ITCM). Hai phương pháp này có điểm khác biệt lớn nhất ở

biến phụ thuộc (dependent variable). Cụ thể, phương pháp ITCM định nghĩa biến

phụ thuộc là số lần đi du lịch của mỗi du khách trong một thời kỳ nhất định. Trong

khi đó, phương pháp ZTCM chia tổng số du khách tham quan một địa điểm thành

nhiều nhóm du khách để đến từ nhiều vùng khác nhau rồi định nghĩa biến phụ

thuộc là tỉ lệ tham quan du lịch của mỗi vùng. WTP được tính bằng cách tính phần

diện tích đường cầu đã được ước lượng bằng phương pháp ITCM hay phương

pháp ZTCM thông qua dữ liệu thu thập.

RBNM Cù Lao Dung, có vị trí nằm ngay cửa cửa biển, cách xa trung tâm

thành phố, thị xã, là địa điểm chưa mấy nổi tiếng. Du khách chỉ đến từ một hoặc

hai chuyến trong năm. Điều này làm cho biến phụ thuộc của mô hình dùng phương

pháp ITCM hầu như không biến động. Do đó, kết quả ước lượng sẽ không mang ý

nghĩa nhiều (Hill và cộng sự, 2011). Vì vậy, nghiên cứu này áp dụng phương pháp

ZTCM (Võ Tất Thắng và cộng sự, 2017).

3.3.4. Thành phần của chi phí du hành

Theo Baterman (1993), chi phí du hành được giả định cấu tạo từ ba thành

phần quan trọng: (1) Chi phí di chuyển, (2) Chi phí ăn uống, và (3) Chi phí cơ hội

của thời gian.

(1) Chi phí di chuyển

62

Chi phí di chuyển của du khách đến nơi du lịch được Baterman (1993) chia

làm ba cách để tính toán: Cách thứ nhất: Chỉ gồm chi phí nhiên liệu; cách thứ hai:

Gồm tiền xăng, dầu, tiền bảo dưỡng, bảo hiểm…; và cách thứ ba: dựa theo chi phí

ước đoán của du khách. Baterman (1993) cho rằng, các phương pháp tính chi phí

này chỉ khác biệt lớn ở kết quả tính thặng dư, còn các hệ số và chỉ số thống kê có

sự khác biệt rất ít, với cách thứ nhất được khuyên dùng để cho ra kết quả dự báo

tốt nhất, nhưng thực tế để di chuyển đến được rừng bần tại huyện Cù Lao Dung thì

tất cả phương tiện bắt buộc phải trả phí qua phà, nên trong trường hợp này phải

thêm chi phí phà và chi phí di chuyển. Như vậy, nghiên cứu chọn cách thứ hai là

phù hợp. Thật vậy, Fleming và Cook (2008) đã thêm chi phí phà vào chi phí di

chuyển. Ngoài ra, nếu du khách sử dụng phương tiện cá nhân để di chuyển thì sẽ

có khấu hao phát sinh, vì đây cũng là một chi phí di chuyển. Tương tự, Gurluk và

Rehber (2007) giả định rằng chi phí khấu hao bằng 1% chi phí nhiên liệu và thêm

vào chi phí di chuyển.

Tóm lại, chi phí di chuyển được tính theo cách thứ hai gồm: Tiền xăng, dầu,

tiền bảo dưỡng, chi phí khấu hao, tiền qua phà… Cách thứ ba không sử dụng vì du

khách thường gặp khó khăn trong việc tự xác định chi phí này (Gurluk và cộng sự,

2007).

(2) Chi phí cơ hội của thời gian

Về chi phí cơ hội cho việc đi du lịch, các nhà kinh tế học cho rằng việc tính

toán chi phí này vẫn là một chủ đề nghiên cứu với nhiều quan niệm, quan điểm,

cách tiếp cận khác nhau, bởi tính chất phức tạp của giá trị này, bởi thời gian vừa là

cung cấp sự hữu dụng cho người đi du lịch, vừa là ràng buộc đối với người du lịch

(Casey và cộng sự, 1995), và cũng chưa biết được rằng đối với mỗi cá nhân việc

bỏ thời gian ra để đi du lịch là lợi ích hay chi phí (Armbercht, 2014).

Đề xuất của các nhà nghiên cứu về tính chi phí theo thời gian được thể hiện

Bảng 3.5.

63

Bảng 3.5. Đề xuất của các nhà nghiên cứu về tính chi phí theo thời gian so tỷ lệ

tiền lương ngày

Đề xuất của các nhà nghiên cứu

Tỷ lệ

Nguyen Thi Hai và Tran Duc Thanh (1999)

1,00

0,40

Rayboud và cộng sự (2011), Zhang và cộng sự (2015)

0,33

0,30

Armberecht (2014), Chen và cộng sự (2004), Pham Khanh Nam và Tran Vu Hung Son (2005), Gurluk và Rehber (2007), Armbrecht (2014), Võ Tất Thắng và cộng sự (2017) Dehlavi và Adil (2011)

0,15

Tourkolias và cộng sự (2015)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019

Nghiên cứu sử dụng tiền lương theo ngày xấp xỉ cho chi phí cơ hội của thời

gian của mỗi du khách đến RBNM huyện Cù Lao Dung bằng 1/3.

(3) Chi phí ăn uống

Chi phí ăn uống không phải là chi phí tuyệt đối, bởi mỗi du khách có nhu

cầu thưởng thức ẩm thực trên chuyến đi theo các cách trải nghiệm khác nhau, ví dụ

như ghé một quán ăn thưởng thức đặc sản địa phương nơi du lịch; không phải một

khoản tiền bắt buộc phải chi trả mà không có lợi ích hoàn lại (Centeno và cộng sự,

2000). Như vậy, tiền chi cho ăn uống trên đường du hành hoặc chi phí để chuẩn bị

thức ăn mang theo cho một chuyến đi sẽ tính vào chi phí du hành.

3.3.5. Lý do chọn địa điểm du lịch tại rừng bần ngập mặn huyện Cù Lao Dung

(1) Địa điểm nghiên cứu

Theo lý thuyết kinh tế vi mô lập luận rằng, nếu có hai hàng hóa X và Y

cạnh tranh nhau, khi giá trị X tăng, sẽ làm lượng cầu hàng Y tăng. Điều này cũng

được áp dụng tương tự với trường hợp các khu du lịch. Nếu chi phí đến điểm du

lịch khác thấp hơn với điểm đến RBNM huyện Cù Lao Dung, thì du khách sẽ chọn

điểm thay thế đến điểm đó hơn là đến RBNM huyện Cù Lao Dung, đây chính là

64

tác động của điểm thay thế.

Trong trường hợp này, điểm đến là RBNM huyện Cù Lao Dung, vì nơi đây

có đặc điểm tự nhiên độc nhất của cả ĐBSCL, cũng như của cả nước, không có địa

điểm thay thế có tính chất tương tự (Gurluk và Rehber, 2007; Tourkolias và cộng

sự, 2015). Do đó, nghiên cứu này bỏ qua vấn đề về địa diểm thay thế trong mô

hình nghiên cứu.

(2) Chuyến đi du lịch chỉ có một điểm đến

Khi tính toán TCM, vấn đề cần lưu ý là khi khách du lịch thực hiện chuyến

đi đến nhiều địa điểm, không phải đến riêng RBNM huyện Cù Lao Dung. Điều này

thường xảy ra với các nhóm du khách chọn tour lớn, đi du lịch qua nhiều tỉnh,

thành rồi mới đến RBNM huyện Cù Lao Dung, vấn đề này có thể làm cho ước

lượng bị chệch do giả định của phương pháp TCM là chỉ dành riêng duy nhất cho

việc đến địa điểm đang nghiên cứu (Loomis và cộng sự, 2000). Tuy nhiên, giống

như chi phí cơ hội về thời gian, chúng ta chấp nhận rằng hiện nay vẫn chưa có giải

pháp triệt để và thuyết phục nào được chấp nhận rộng rãi cho việc xác nhận chi phí

du hành khi có xuất hiện chuyến đi có nhiều địa điểm (Gurluk và Rehber, 2007;

Ambrecht, 2013; Tourkolias và cộng sự, 2015), dẫn đến việc nhiều tác giả khác

nhau có những cách khác nhau để giải quyết vấn đề này.

3.3.6. Cách tiếp cận, khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

Như đã trình bày ở phần trên, nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận đánh giá chi

phí du lịch theo vùng (ZTCM). Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ

tham quan của vùng xuất phát tới vị trí nghiên cứu với tổng chi phí du lịch của

vùng xuất phát. Mô hình được viết như sau:

Vi = V(TCi, POPi, Si)

Trong đó:

Vi là số lần viếng thăm từ vùng i tới điểm du lịch;

TCi: Tổng chi phí;

65

POPi là dân số vùng i;

Si là các biến kinh tế - xã hội của mỗi vùng.

Thông thường biến phụ thuộc được biểu hiện dưới dạng (Vi / POPi hay tỷ lệ

tham quan trên 1.000 người dân (Dixon và Sherman, 1993).

Khi áp dụng ZTCM, diện tích xung quanh điểm du lịch sẽ được chia thành

nhiều vùng với khoảng cách khác nhau tới điểm du lịch. Vì vậy, đơn vị quan sát

của ZTCM là vùng. ZTCM sử dụng tỷ lệ số lần viếng thăm của du khách tại mỗi

vùng tới điểm du lịch (VR) là hàm của chi phí du lịch.

3.3.7. Các bước tiến hành

Các bước tiến hành phương pháp ZTCM như sau:

- Bước 1. Chọn địa điểm: là RBNM huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng.

- Bước 2. Phân chia theo vùng: Do du khách đến RBNM huyện Cù Lao

Dung từ khắp nơi trong nước. Vùng xuất phát được phân chia nhóm theo nguồn

gốc khách du lịch, lấy điểm nghiên cứu làm tâm để tính khoảng cách và phân chia

theo nhóm, đảm bảo tính liên tục và phù hợp.

- Bước 3. Lấy mẫu: Thông tin về du khách được thu thập bằng cách phỏng

vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi soạn sẵn. Trong bảng câu hỏi, hệ thống câu

hỏi để khảo sát khách du lịch, trong đó những thông tin cơ bản cần phải được thể

hiện thông qua các yếu tố ràng buộc. Phiếu khảo sát cần các thông tin sau: Họ từ

đâu đến (tỉnh, thành phố); Số khách trên một phương tiện chuyên chở tới (ô tô,

máy bay, xe máy); Thời gian đi đến và ở tại địa điểm; Thời gian của chuyến đi;

Thu nhập của khách; Chi phí du lịch trực tiếp (ăn, ở, đi lại)… Các thông tin chi tiết

được thảo luận thêm ở phần tiếp theo, xem Phụ lục A.2.

- Bước 4. Tính tỷ lệ khách du lịch cho từng vùng: tỷ lệ du khách (VR) được

tính bằng cách chia tổng số lượt du khách tới thăm điểm du lịch (hàng năm) của

mỗi vùng với tổng số dân số trưởng thành (1.000 dân) của các địa phương (tỉnh)

trong vùng.

66

- Bước 5. Ước lượng chi phí du hành gồm: (1) Chi phí di chuyển, (2) Chi phí

ăn uống, và (3) Chi phí cơ hội của thời gian.

- Bước 6. Xây dựng đường cầu du lịch.

Phương pháp phân tích số liệu gồm có hai phương pháp như sau:

(1) Phương pháp thống kê mô tả

Trong nghiên cứu này, phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để tổng

hợp, phân tích các số liệu, thông tin về chuyến du lịch và vùng xuất phát của du

khách. Thống kê mô tả là phương pháp có liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm

tắt, trình bày, tính toán và mô tả các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách

tổng quát đối tượng nghiên cứu (Mai Văn Nam, 2008). Các nội dung cụ thể trong

thống kê mô tả như: Bảng tần suất, giá trị trung bình...

(2) Phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính

Phương pháp này dùng để xác định các hệ số hồi quy thể hiện mối liên hệ

tương quan giữa chi phí du hành và tỷ lệ tham quan của du khách. Từ đó, nghiên

cứu xây dựng phương trình đường cầu du lịch của du khách đối với điểm du lịch

RBNM huyện Cù Lao Dung. Phân tích hồi quy tuyến tính là nghiên cứu mối liên

hệ tuyến tính giữa các nhân tố độc lập (biến độc lập) Xi và chỉ tiêu Y nào đó (biến

phụ thuộc). Trong đó, các Xi ảnh hưởng đến Y và Y được xem là phụ thuộc vào

các Xi.

Mô hình hàm cầu: VR = a + bxTC (3.2)

Trong đó: a và b là các tham số cần ước lượng; VR - biến phụ thuộc: là tỷ lệ

du lịch/1.000 người/năm; TC - biến độc lập: là chi phí du hành (đồng). Mối quan

hệ được thể hiển Hình 3.4.

67

Chi phí du hành (TC)

Đường cầu du lịch

P2

P1

0 v2 v1 Nhu cầu giải trí (VR)

Nguồn: Đề xuất của tác giả, năm 2018

Hình 3.4. Đường cầu du lịch của du khách

- Bước 7. Ước lượng giá trị cảnh quan và giá trị thặng dư của du khách:

Đường cầu du lịch cũng chính là đường sẵn lòng phải trả biên tế cho dịch

vụ tham quan du lịch của du khách (Phạm Trung Hiếu và Lưu Tiến Thuận, 2017).

Như vậy, giá trị cảnh quan của địa điểm du lịch được đánh giá như tổng giá sẵn

lòng trả của du khách, sẽ được đo bằng diện tích nằm bên dưới đường cầu (Hình

3.4). Phần diện tích phía dưới đường cầu có dạng hình tam giác, nên có thể được

tính bằng phương pháp tính diện tích tam giác. Dựa vào đường cầu đã xây dựng,

nghiên cứu có thể ước lượng giá trị thặng dư của du khách. Thặng dư của du khách

cũng chính là phần diện tích tam giác phía trên đường thẳng nằm ngang tương ứng

với chi phí và phía dưới đường cầu.

3.3.8. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin

Thông tin sơ cấp được thu thập bằng cách thiết kế bảng hỏi và phỏng vấn

trực tiếp khách du lịch đến RBNM huyện Cù Lao Dung bằng phương pháp chọn

mẫu phân tầng không theo tỷ lệ, trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12

năm 2019.

68

- Thiết kế bảng hỏi của Phiếu điều tra:

Để thu thập thông tin về chi phí du lịch của khách. Bảng hỏi được thiết kế

gồm ba phần như sau:

+ Phần1. Thông tin chung của du khách

Trong bảng hỏi cần có những thông tin về cá nhân của du khách như: giới

tính, tuổi, thu nhập, học vấn.

+ Phần 2. Thông tin về sở thích du lịch của khách đến rừng bần

Bảng hỏi được thiết kế nhằm hỏi khách du lịch về sở thích của họ đến rừng

bần: thích đi dạo, ngắm cảnh, khám phá thiên nhiên và tận hưởng khí hậu mát mẽ,

trong lành…

+ Phần 3. Chi phí cho chuyến du lịch của du khách đến RB

- Mẫu Phiếu điều tra

Được thiết kế sẵn để phỏng vấn du khách.

- Xác định số lượng quan sát

Hàng năm, RBNM huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng có khoảng 2.800

lượt khách du lịch đến tham quan (theo Báo cáo của Phòng Văn hóa và Thông tin

huyện Cù Lao Dung, năm 2018). Nghiên cứu của Võ Thị Thanh Lộc (2010) chỉ ra

rằng cỡ mẫu có thể xác định bằng công thức Glovin’s, như sau:

n = N/(1 + N*e2) (3.3)

Trong đó:

n: Kích cỡ quan sát;

N: Tổng số du khách đến RBNM trong năm;

e: Sai số chấp nhận, thường e = 1% đến 10%, nghiên cứu chọn sai số cho

phép e = 7%.

Như vậy, số quan sát được xác định theo công thức (3.3) là 190 quan sát, để

69

đảm bảo tính đại diện của mẫu so với tổng thể, nghiên cứu thực hiện chọn mẫu

khảo sát với 250 quan sát. Cách chọn mẫu này được xem là phù hợp, vì để có được

một mẫu cho ra kết quả thống kê và tạo được phương trình ước lượng hồi quy

tuyến tính tốt thì cỡ quan sát cần thiết phải khoảng từ 200 đến 400 quan sát (Israel,

2013).

- Xử lý số liệu

Số liệu phỏng vấn được tổng hợp, phân loại, và phân tích trên phần mềm

thống kê để phục vụ cho việc xác định hàm cầu du lịch, nhằm xác định kết quả

tổng phúc lợi kinh tế mang lại tại rừng bần Cù Lao Dung.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao chọn vùng rừng bần huyện Cù Lao Dung để

nghiên cứu tính toán chi phí du hành mà không chọn địa điểm khác ? Vùng rừng

bần huyện Cù Lao Dung để nghiên cứu tính toán chi phí du hành được chọn để

nghiên cứu với lý do chính là tại vùng rừng bần huyện Cù Lao Dung có hoạt động

du lịch phát triển nên việc lựa chọn để thực hiện ước tính giá trị du lịch của

RBNM, hiện 02 điểm còn lại trong nghiên cứu chưa phát triển hoạt động du lịch,

đây là cơ hội để khai thác và làm tăng giá trị của các vùng có RBNM ở ĐBSCL.

3.4. Giá trị phòng hộ của rừng bần (tính chi phí thay thế)

Hiện nay có rất nhiều phương pháp đã được sử dụng để tính toán giá trị

phòng hộ đê biển của RNM trên thế giới, trong đó được sử dụng phổ biến là

phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (cost avoided method). Phương pháp này

được xây dựng trên giả định là nếu con người phải gánh chịu những chi phí khi

một dịch vụ môi trường nào đó mất đi (chi phí này có thể là những thiệt hại về vật

chất có nguyên nhân từ sự mất đi của dịch vụ môi trường hoặc chi phí để phục hồi

lại dịch vụ môi trường đã mất) thì dịch vụ môi trường sẽ có giá trị nhỏ nhất bằng

tổng chi phí mà con người phải chi trả để có dịch vụ tương đương.

Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp thu thập thông tin: Tổng hợp tài liệu thứ cấp, số liệu sơ cấp

và phỏng vấn trực tiếp.

70

- Phương pháp thực địa: Đây là phương pháp rất cần thiết và không thể

thiếu trong nghiên cứu giá trị kinh tế, kết hợp với việc nghiên cứu qua các tài liệu

khác; phương pháp thực địa được coi là một phương pháp chủ đạo vì địa bàn

nghiên cứu nhỏ, đòi hỏi phải có những khảo sát thực địa tương đối cụ thể để nắm

được đặc trưng của từng địa bàn một cách thực tế. Vì thế, các thông tin thực tế qua

quan sát, nghe, trao đổi, thu thập được càng phong phú và đáng tin cậy hơn.

- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh tế

xác định giá trị kinh tế trong việc xây dựng, thiết kế bảng hỏi, phương pháp phỏng

vấn, cũng như việc xây dựng các mô hình tính toán trong luận án này.

- Phương pháp xử lý số liệu: bằng các phần mềm thống kê để kiểm định mô

hình, như phần mềm thống kê Excel, SPSS, …

- Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (Avoided Cost – AC)

Phương pháp chi phí thiệt hại tránh được sử dụng thông tin về những thiệt

hại có thể tránh được hoặc giá trị của những tài sản được RNM bảo vệ khi có

những biến cố môi trường xảy ra như là lợi ích của hệ sinh thái RNM. Ví dụ như

một khu RNM có khả năng phòng hộ bão cho cộng đồng thì giá trị của khu RNM

đó có thể được tính bằng những thiệt hại về tài sản mà cộng đồng tránh được nếu

cơn bão xảy ra trong trường hợp không có rừng bảo vệ.

Để xác định giá trị thay thế của rừng bần, nghiên cứu tiến hành như sau:

(i) Phương pháp đánh giá giá trị phòng hộ đê biển của RNM.

Sử dụng phương pháp chi phí thiệt hại tránh được (Avoided Cost- AC), được

xây dựng trên giả định là nếu con người phải gánh chịu những chi phí khi một dịch

vụ môi trường nào đó mất đi, thì dịch vụ môi trường sẽ có giá trị nhỏ nhất bằng

tổng chi phí mà con người phải chi trả để có dịch vụ tương đương (Đinh Đức

Trường, 2009).

(ii) Cách tiếp cận, phương pháp thu thập số liệu

71

Để ước lượng được giá trị phòng hộ đê biển của rừng bần tại ĐBSCL,

nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu thứ cấp tại các Sở Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Thủy lợi tỉnh Trà Vinh và tỉnh Sóc Trăng về

chi phí duy tu, bồi trúc đê bao ven biển từ năm 2010 đến năm 2019.

(iii) Phương pháp phân tích

Để ước lượng được giá trị phòng hộ đê biển của RbNM tại ĐBSCL, luận án

tiến hành thu thập chi phí tu bổ bảo dưỡng thường niên đê biển tại vùng có RbNM

và không có rừng trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây tại Ban quản lý các dự

án Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Giá trị phòng

hộ đê biển trung bình của một ha RBNM được tính như sau:

B = C/S (3.4)

Trong đó:

B: là giá trị phòng hộ đê biển trung bình của 1 ha rừng bần (triệu đồng/ha);

C: Tổng chi phí tránh được cho việc duy tu, bảo trì đê biển có rừng bần bảo

vệ (triệu đồng);

S: Tổng diện tích rừng bần (ha).

Từ nguồn tài liệu thứ cấp tính được chi phí duy tu, bảo trì đê biển chính là

chi phí lợi ích hay là giá trị phòng hộ của rừng bần.

Tóm tắt Chương 3:

Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá giá trị kinh tế từ sản phẩm rừng bần tại

ĐBSCL được thực hiện gồm nhiều bước, từ xác định phạm vi nghiên cứu, xác định

các nhóm giá trị kinh tế, lựa chọn giá trị đánh giá; xác định mô hình đánh giá lý

thuyết và thực nghiệm; lựa chọn kỹ thuật đánh giá, thu thập số liệu sơ cấp và thứ

cấp, xử lý số liệu và diễn giải kết quả tính toán.

Tổng hợp các giá trị kinh tế: Giá trị sử dụng trực tiếp (tạo thu nhập của hộ

dân thông qua việc khai thác nguồn lợi thủy sản, thu hoạch trái bần chín…), giá trị

72

du lịch và giá trị sử dụng gián tiếp (thông qua việc tính toán chi phí phòng hộ đê)

được áp dụng cách tiếp cận đánh giá tổng thể và một hệ thống nhiều phương pháp

đánh giá để ước tính giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL.

73

CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSCL bao gồm 13 tỉnh, thành phố như: Thành phố Cần Thơ và các tỉnh:

Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên

Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. ĐBSCL nằm giữa khu vực

kinh tế năng động và phát triển, liền kề với thành phố Hồ Chí Minh và là vùng

kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích gần 40 nghìn km2, với hơn 340 km

đường biên giới trên bộ giáp Campuchia, là khu vực duy nhất của cả nước tiếp

giáp Biển Đông và Biển Tây với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển

Quốc gia; hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và

quần đảo, đặc biệt là đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam; gần tuyến hàng hải Đông -

Tây, là luồng hàng hải quốc tế sôi động nhất, hiện diện nhiều nền kinh tế lớn của

thế giới.

4.1.1. Vị trí địa lý

Về vị trí địa lý: ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và

Tây Nam giáp biển (có đường bờ biển dài 750 km), phía Tây có đường biên giới

giáp với Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh

tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay. ĐBSCL nằm trên địa hình tương đối bằng

phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông

thủy vào bậc nhất ở nước ta. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 40.548,2 km². ĐBSCL

có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc Trung ương (Thành phố

Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh

Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau). Xét về

mặt dân số: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019, ĐBSCL là

đồng bằng có tổng diện tích các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lớn nhất

Việt Nam (40.547,2 km²) và có tổng dân số toàn vùng là 17.273.630 người.

ĐBSCL chiếm 13% diện tích cả nước nhưng có gần 18% dân số cả nước, tốc độ

74

tăng trưởng kinh tế cao hơn cả nước (năm 2015, ĐBSCL tăng 7,8%, trong khi cả

nước tăng 6,8%), tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị là 23,2%.

4.1.2. Khí hậu

ĐBSCL là vùng có nhiệt độ cao và ổn định. Nhiệt độ trung bình khoảng

280c. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm 2.226 - 2.709 giờ. Tổng hoà

những đặc điểm khí hậu đã tạo ra ở ĐBSCL những lợi thế mang tính so sánh riêng

biệt mà các nơi khác khó có thể có được. Đó là một nền nhiệt độ, chế độ bức xạ

nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định trong vùng.

4.1.3. Nguồn nước

ĐBSCL có hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ chi chít rất thuận lợi cung cấp

nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 hàng năm, sông

Mêkông là nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng

năm dao động từ 2.400 mm ở vùng phía Tây ĐBSCL đến 1.300 mm ở vùng trung

tâm và 1.600 mm ở vùng phía Đông. Về mùa lũ, thường xảy ra vào tháng 9, nước

sông lớn gây ngập lụt. Chế độ thủy văn của ĐBSCL có 03 đặc điểm nổi bật: Nước

ngọt và lũ lụt vào mùa mưa chuyển tải phù sa, phù du, ấu trùng. Nước mặn vào

mùa khô ở vùng ven biển. Nước chua phèn vào mùa mưa ở vùng đất phèn. ĐBSCL

có trữ lượng nước ngầm không lớn. Sản phẩm khai thác được đánh giá ở mức 1

triệu m3/ngày đêm, chủ yếu phục vụ cấp nước sinh hoạt.

4.1.4. Tài nguyên đất

Tổng diện tích ĐBSCL (không kể hải đảo) khoảng 3,96 triệu ha, trong đó

khoảng 2,60 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy

sản chiếm 65%. Trong quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm chiếm trên

50%, trong đó chủ yếu đất lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại cây màu và cây

công nghiệp ngắn ngày khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000

ha, khoảng 8,2% diện tích tự nhiên.

75

4.1.5. Hệ sinh thái nông nghiệp

Sông Mêkông đã tạo ra nhiều dạng sinh cảnh tự nhiên, thay đổi từ các bãi

thủy triều, giồng cát và đầm lầy ngập triều ở vùng đồng bằng ven biển, các vùng

cửa sông, cho đến vùng ngập lũ, các khu trũng rộng, đầm lầy than bùn, các dải đất

cao phù sa ven sông và bậc thềm phù sa cổ nằm sâu trong nội địa.

ĐBSCL có thể được chia thành 3 khu vực nông nghiệp thủy lợi, vùng được

phân chia tùy theo loại đất. Thời vụ của lúa khác nhau từ vùng này sang vùng khác

và bị ảnh hưởng lớn bởi nguồn thủy lợi, đặc biệt là lũ lụt, nguồn nước và độ mặn

của nước. Khu vực 1: khu vực bị ngập sâu (An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và

một phần của Cần Thơ). Thời vụ gieo trồng được xác định bởi chế độ nước của

sông Mêkông. Trong hai thập kỷ qua người nông dân đã thay đổi lịch gieo trồng để

tránh lũ lụt. Tiến hành xuống giống lúa vào mùa khô và đầu mùa mưa, trước khi

nước lũ tràn về. Về cơ sở hạ tầng (đê bao, đê lấn biển và kênh mương) ở khu vực

đất ruộng và cả khu sinh sống cộng đồng cũng đã được xây dựng nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho các thời vụ gieo trồng. Khu vực 2a: khu vực trung gian/ đất phù

sa (Cần Thơ, Vĩnh Long, một phần của An Giang, Hậu Giang và Tiền Giang). Sản

xuất trên đất phù sa là nơi cung cấp lúa gạo chủ chốt của ĐBSCL, đặc biệt là thị

trường xuất khẩu, vì thế nếu có biến đổi nhỏ sẽ gây tác động mạnh đến nền kinh tế.

Khu vực 2b: khu vực trung gian/ đất phèn (Long An, Hậu Giang). Đất acid sulfat

(ASS) được phân bố rộng ở vùng ĐBSCL, bởi vì đây là vùng đã từng bị nước biển

xâm nhập. Nông nghiệp của vùng này chủ yếu phụ thuộc vào thủy triều và hệ

thống thủy lợi. Khu vực 3: khu vực bị nhiễm mặn (Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh,

Bến Tre, Kiên Giang và Cà Mau). Sự nhiễm mặn gây ảnh hưởng đến một vùng

rộng lớn (khoảng 40km từ biển) dọc theo bờ biển của ĐBSCL. Có nhiều dự án

quản lý nước được thực hiện trong hai thập kỷ qua với mục đích: (i) Điều khiển độ

mặn trong suốt mùa khô, (ii) Cung cấp nước từ thượng nguồn để tưới tiêu. Hiện

nay, những khu vực nằm ngoài quy mô của dự án quản lý nước chủ yếu là nuôi

tôm nước lợ, chỉ có một vùng nhỏ vẫn còn trồng lúa vào mùa mưa.

76

4.1.6. Hệ động vật

Hệ động vật ở ĐBSCL gồm 23 loài có vú, 386 loài và bộ chim, 6 loài lưỡng

cư và 260 loài cá. Số lượng và tính đa dạng của hệ động vật thường lớn nhất trong

các khu rừng tràm và RNM còn lại. ĐBSCL là một vùng trú đông quan trọng đặc

biệt đối với các loài chim di trú. Những năm gần đây, bảy khu vực sinh sản lớn của

các loài Diệc, Cò Trắng và Vạc đã được phát hiện trong các khu rừng tràm, loài

Sếu mỏ đỏ phương Đông, gần đây đã được phát hiện ở huyện Tam Nông trong

Đồng Tháp Mười. Trong khu bảo tồn Tràm Chim có 92 loài chim đã được xác

định; trong vùng rừng U Minh, có 81 loài chim đã được ghi nhận.

4.1.7. Đặc điểm kinh tế - xã hội

ĐBSCL có bờ biển dài trên 750 km, khoảng 360.000 km2 khu vực đặc quyền

kinh tế, phía Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp Thái Bình Dương và phía Tây -

Nam giáp vịnh Thái Lan, tạo điều kiện rất thuận lợi trong việc phát triển kinh tế

biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng

trong nước và xuất khẩu. Hàng năm, lúa gạo của vùng ĐBSCL cung ứng phần lớn

nhu cầu của người dân trong nước và chiếm tới 90% lượng gạo xuất khẩu của cả

nước. Sau lúa là nuôi trồng và khai thác thủy sản, với 8/13 tỉnh giáp biển, lại có 2

sông lớn là sông Tiền và sông Hậu song song nối các tỉnh với biển đông, vùng

ĐBSCL có điều kiện rất thuận lợi để nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ, cũng

như nước ngọt. Sản lượng thủy sản cả nuôi trồng và đánh bắt của vùng năm 2014

đạt khoảng 1,9 triệu tấn, chiếm 52% sản lượng cả nước, trong đó thủy sản khai

thác chiếm 43%, thủy sản nuôi trồng chiếm 68% sản lượng của cả nước. Nhịp độ

tăng trưởng sản lượng thủy sản hàng năm khoảng 8-9%/năm (nhanh hơn cả nước

khoảng 8%/năm), tương ứng với khoảng 100-120 nghìn tấn/năm. Giá trị xuất khẩu

thủy sản của vùng chiếm khoảng 60% cả nước. Trong thủy sản nuôi trồng, đáng

chú ý nhất là con tôm. Sản lượng tôm ở vùng ĐBSCL chiếm gần 80% của cả nước.

77

Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực ĐBSCL tăng bình quân hàng năm trung

bình từ 7% đến 9%, cao hơn bình quân chung cả nước trên 3,0 điểm phần trăm,

theo số liệu của Tổng cục Thống kê.

Từ những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng đã và đang mang lại

nhiều tiềm năng, lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế. Nếu vùng này được quy

hoạch, đầu tư có chiến lược phù hợp trong dài hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế - xã

hội.

4.2. Phân tích hiện trạng rừng ngập mặn

4.2.1. Hiện trạng rừng ngập mặn ở Việt Nam

Cơ sở xác định diện tích đất ngập nước để phát triển RNM.

Theo kết quả nghiên cứu về RNM của Phan Nguyên Hồng (1990), hệ thống

phân loại đất ngập nước Việt Nam (Phân Viện điều tra quy hoạch rừng II - 2004)

và kết quả các điều tra nghiên cứu khác, tiêu chí để quy hoạch diện tích phát triển

RNM như sau:

(1) Đất ngập nước mặn ven biển, ngập triều không thường xuyên trên thể

nền sét bùn, bùn cát, bùn cát thô lẫn sỏi, đất than bùn san hô, phù sa bờ biển.

(2) Đất ngập nước mặn vùng cửa sông không thường xuyên trên thể nền sét

bùn, bùn cát, phù sa.

(3) Đất ngập nước mặn thuộc đầm phá trên thể nền sét bùn, bùn cát, phù sa.

♦ Phân bố theo các vùng ven biển theo Đề án phục hồi và phát triển RNM

ven biển giai đoạn 2008 - 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(Công văn số 405/TTg-KTN)

Tổng diện tích quy hoạch cho mục đích phát triển RNM là 323.712 ha.

trong đó có 209.741 ha đã có rừng (152.131 ha là rừng trồng và 57.610 ha là rừng

tự nhiên), vùng ven biển nước ta có thể chia làm 5 vùng, phân bố tại các vùng như

sau: Vùng ven biển tỉnh Quảng Ninh và đồng bằng Bắc Bộ gồm 5 tỉnh (Quảng

Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình): 88.340 ha, trong đó diện 78

tích có rừng 37.651 ha, phân bố chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh. Vùng ven biển Bắc

Trung Bộ, gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và

Thừa Thiên - Huế): 7.238 ha. trong đó diện tích có rừng 1.885 ha. phân bố chủ yếu

ở tỉnh Thanh Hóa. Vùng ven biển Nam Trung Bộ: gồm 6 tỉnh (Đà Nẵng, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa): 743 ha, trong đó diện tích

có rừng không đáng kể. Vùng ven biển Đông Nam Bộ: gồm 5 tỉnh (Ninh Thuận,

Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh): 61.110

ha. trong đó diện tích có rừng là 41.666 ha. phân bố chủ yếu ở thành phố Hồ Chí

Minh. Vùng ven biển ĐBSCL: gồm 8 tỉnh (Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà

Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang và Cà Mau): 166.282 ha. trong đó diện

tích có rừng 128.537 ha, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Cà Mau và Kiên Giang.

RNM Việt Nam chủ yếu phân bố tập trung tại ĐBSCL, thành phố Hồ Chí

Minh, tỉnh Quảng Ninh và ven biển châu thổ sông Hồng, trong đó RNM phân bố

và phát triển tốt ở miền Nam, đặc biệt ở bán đảo Cà Mau. Ở miền Bắc cây RNM

tuy thấp và nhỏ nhưng có giá trị phòng chống thiên tai rất lớn, đặc biệt tỷ trọng

RNM tự nhiên khá cao. Tại tỉnh Quảng Ninh có 19.745 ha rừng tự nhiên trên tổng

số 37.650 ha RNM.

♦ Phân bố theo hệ thống đê biển

RNM có vai trò rất lớn trong bảo vệ hệ thống đê biển, theo kết quả điều tra,

khảo sát do Viện Điều tra Quy hoạch rừng thực hiện trong năm 2006, tại 3 vùng có

phân bố RNM hiện có 1.113 km trong tổng số 2.438 km đê biển đã có RNM bảo

vệ trước đê, tương ứng với diện tích có rừng là 69.611 ha RNM, trong đó: Vùng

Quảng Ninh và Đồng bằng Bắc bộ chiều dài đê biển có RNM là 254/841km; Vùng

Bắc Trung bộ chiều dài đê biển có RNM là 67/338 km; Vùng ĐBSCL chiều dài đê

biển có RNM là 792/1.259 km; (Vùng Nam Trung bộ chiều dài đê biển có rừng

bảo vệ trên tổng số chiều dài đê biển là 73/501km (15%) tương ứng với diện tích

có rừng là 898 ha, tuy nhiên rừng trước đê vùng này là rừng trên cạn).

79

Hiện nay, còn 1.325 km đê biển (trong đó có 1.197 km tại 3 vùng Quảng

Ninh và đồng bằng Bắc bộ; Bắc Trung bộ và ĐBSCL, tương đương với 55% tổng

chiều dài hệ thống đê biển chưa có hệ thống rừng bảo vệ. Trong số chiều dài đê

chưa có rừng bảo vệ, hiện có 418 km đê phía trước có bãi, tương đương với diện

tích khoảng 13.000 ha có thể trồng RNM. Một số khu vực còn lại chưa thể trồng

RNM do trước đê không còn bãi hoặc bãi bị sạt lở, bùn, phù sa loãng. Cho nên,

song song với việc trồng RNM cần có các giải pháp công trình như: Xây kè, mỏ

hàn, đóng cọc, bổ sung đất, bùn,....

♦ Phân bố theo 3 loại rừng

Tổng diện tích RNM là 323.712 ha, được quy hoạch như sau: Rừng phòng

hộ: 153.294 ha, trong đó diện tích có rừng 115.950 ha. Rừng đặc dụng: 41.666 ha,

trong đó diện tích có rừng 28.311 ha. Rừng sản xuất: 128.752 ha. trong đó diện

tích có rừng 65.480 ha.

♦ Hiện trạng rừng ngập mặn phòng hộ chắn sóng lấn biển

RNM phòng hộ chắn sóng lấn biển có diện tích 153.294 ha (115.950 ha đã

có rừng và 37.344 ha đất trống ngập mặn). Diện tích các trạng thái RNM phòng hộ

chắn sóng lấn biển. Rừng tự nhiên có diện tích 37.876 ha. chiếm 32,7% tổng diện

tích RNM phòng hộ hiện có. Rừng tự nhiên chủ yếu là rừng thuần loài. Các kiểu

rừng Đước, Mắm, Sú, Bần… Tại các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, ĐBSCL và các

kiểu rừng Bần, Sú, Trang, Vẹt ở các tỉnh Quảng Ninh, đồng bằng Bắc Bộ và Bắc

Trung Bộ. Rừng cấp I có diện tích 13.125 ha, chiếm 34,7% diện tích rừng tự nhiên

hiện có. Đây là dạng rừng phục hồi sau các hoạt động khai thác, canh tác nuôi

trồng thủy sản bỏ hoang,... Rừng có mật độ bình quân thấp 600 - 800 cây/ha,

đường kính bình quân từ 3 - 6cm, chiều cao bình quân từ 3 - 9 m ở các kiểu rừng ở

phía Bắc và đường kính bình quân từ 6 - 10 cm, chiều cao bình quân từ 12 - 18 m

đối với các kiểu rừng ở các tỉnh phía Nam. Trạng thái này tập trung chủ yếu ở các

tỉnh Quảng Ninh và đồng bằng Bắc bộ. Đối với trạng thái rừng này cần có biện

pháp chăm sóc, bảo vệ và trồng bổ sung. Rừng cấp II có diện tích 18.172 ha, chiếm

80

48,0% diện tích rừng tự nhiên hiện có. Trạng thái rừng này có mật độ bình quân từ

1.000 - 1.500 cây/ha. Đường kính bình quân từ 12 - 16 cm, chiều cao bình quân từ

18 - 28 m. Trạng thái này tập trung chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, đồng bằng Bắc

bộ và Đông Nam bộ. Rừng cấp III có diện tích 6.579 ha, chiếm 17,4% diện tích

rừng tự nhiên. Rừng có mật độ bình quân từ 1.000 - 1.500 cây/ha, đường kính bình

quân từ 18 – 24 cm. Đây là trạng thái rừng có kết cấu tương đối ổn định.

Rừng trồng có diện tích 78.074 ha, chiếm 67,3% tổng diện tích RNM

phòng hộ hiện có. Rừng trồng trong mấy năm qua chủ yếu là rừng thuần loài với

45 loài cây, chủ yếu như: Đước, Mắm, Trang, Sú, Bần,... Diện tích, trạng thái rừng

trồng như sau: Rừng cấp I có diện tích 23.245 ha, chiếm 29,8% diện tích rừng

trồng. Đây là diện tích được trồng trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến nay.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên chất lượng rừng kém. Mật độ bình quân từ

800 – 1.000 cây/ha. Đường kính bình quân, tùy theo loài cây trồng, song dao động

từ 1 - 6 cm. Trạng thái rừng này phân bố chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, đồng

bằng Bắc Bộ và ĐBSCL, rừng này cần có biện pháp chăm sóc trồng bổ sung. Rừng

cấp II có diện tích 38.151 ha, chiếm 48,9% diện tích rừng trồng ngập mặn. Đây là

diện tích rừng trồng ngập mặn tương đương cấp tuổi II có mật độ bình quân từ

2.000 - 3.000 cây/ha, đường kính bình quân dao động từ 6 – 18 cm tùy theo loài

cây. Trạng thái rừng này về cơ bản đã ổn định, tình hình sinh trưởng tốt. Rừng cấp

III có diện tích 16.676 ha, chiếm 17,4% diện tích rừng trồng, phân bố chủ yếu

vùng Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Rừng có mật độ bình quân từ 2.000 – 3.000

cây/ha. Rừng có khả năng phòng hộ tốt, cũng như cung cấp lâm sản và lâm sản

phụ. Hiện chưa có những nghiên cứu đánh giá đầy đủ về kết cấu tối ưu cụ thể của

RNM để bảo vệ phòng chống thiên tai. Song, một số nghiên cứu đánh giá đã chỉ ra

rằng, rừng có mật độ cao, nhiều tầng thứ khả năng phòng hộ cao hơn rất nhiều so

với rừng có mật độ thấp, thuần loài. Diện tích RNM kể cả rừng trồng và rừng tự

nhiên của Việt Nam hiện nay đều có mật độ thấp và đơn loài, do vậy cần phải có

các giải pháp trồng bổ sung để tạo ra các lô RNM phòng hộ đa loài, đa tầng. Hiện

có 36.370 ha, bao gồm rừng tự nhiên phục hồi và rừng trồng chất lượng kém cần

81

phải tiến hành trồng bổ sung. Cũng theo các kết quả điều tra, khảo sát thì tình hình

tái sinh tự nhiên trong RNM khá tốt cả trong diện tích có hoàn cảnh rừng và những

diện tích đất trống là bãi bồi, điển hình như vùng phía tây tỉnh Cà Mau. Khoanh

nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên kết hợp trồng bổ sung là một giải pháp lâm

sinh cần được chú ý trong việc phục hồi và phát triển rừng theo hướng lâu dài.

Cho đến nay chưa có một công trình kiểm kê hoặc điều tra, đánh giá có hệ

thống và cụ thể về diện tích, chất lượng RNM, cũng như những nghiên cứu về các

tiêu chuẩn, tiêu chí hệ thống đai RNM phòng hộ, phòng chống thiên tai bảo vệ đê

biển,… Đây là vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cần bổ sung

trong thời gian tới.

RNM phòng hộ chắn sóng lấn biển được phân cấp phòng hộ như sau: Diện

tích đã có rừng 115.950 ha. Vùng đất xung yếu 54.256 ha, trong đó: Rừng tự

nhiên: 27.078 ha (9.625 ha rừng kém chất lượng cần trồng bổ sung), Rừng trồng:

27.493 ha (23.245 ha rừng kém chất lượng cần trồng bổ sung); Vùng xung yếu có

diện tích: 61.694 ha, trong đó: Rừng tự nhiên: 10.799 ha, rừng trồng: 50.895 ha.

Diện tích đất ngập mặn chưa có rừng 37.344 ha: Vùng rất xung yếu: 18.858

ha, trong đó: Có đủ điều kiện trồng rừng: 13.593 ha; Chưa đủ kiện tự nhiên để

trồng rừng (sạt lở, phù sa loãng,....), cần phải có các giải pháp công trình trước và

trong quá trình trồng rừng: 5.265 ha. Vùng xung yếu 18.486 ha. trong đó: Diện tích

trồng rừng tập trung: 12.771 ha; Diện tích có thể trồng rừng kết hợp nuôi trồng

thủy sản: 5.714 ha.

Vùng rất xung yếu là những vùng ven biển trước đê, khoảng cách tính từ bờ

biển lúc triều cao trung bình là 200 m hoặc những vùng cửa sông có đê đập, hoặc

không có đê đập và những vùng đang bị xói lở,.... Vùng xung yếu là những vùng

ven biển không có đê, đập khoảng cách từ 200 - 500 m tính từ bờ biển lúc triều cao

trung bình.

82

4.2.2. Diễn biến rừng ngập mặn ở Việt Nam

Theo số liệu thống kê của Viện Điều tra quy hoạch rừng Viện Khoa học

Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT và Bộ Tài nguyên và Môi trường

năm 2018, diện tích RNM toàn quốc qua các thời kỳ như sau: Năm 1943: 408.500

ha; Năm 1962: 290.000 ha; Năm 1982: 252.000 ha; Năm 2006: 209.741 ha.

Diện tích RNM đã liên tục giảm trong hơn nửa thế kỷ qua. Các nguyên nhân

gây mất RNM kể từ sau khi kết thúc chiến tranh, theo thứ tự như sau: Phá RNM và

đắp bờ kè làm đầm nuôi trồng thủy sản ngăn cản sự lưu thông nước mặn làm chết

RNM xảy ra khá phổ biến tại hầu hết các tỉnh có RNM trong phạm vi toàn quốc.

Điển hình một số vụ việc gần đây tại các địa phương, như: huyện Kim Sơn (Ninh

Bình); các huyện An Biên và An Minh (Kiên Giang); huyện Hoà Bình (Bạc Liêu);

các huyện Năm Căn, Ngọc Hiển, Phú Tân, Đầm Dơi,... tỉnh Cà Mau. Chỉ tính riêng

diễn biến diện tích rừng từ năm 2005 - 2006, có hơn 4.000 ha RNM là rừng tự

nhiên bị mất, trong đó hơn 50% là do chặt phá RNM làm đầm nuôi thủy sản và các

mục đích khác. Gió bão, sóng biển tàn phá rừng sụt lở. Tại nhiều địa điểm ven biển

hiện tượng sạt lở do sóng biển, hải lưu, đặc biệt là ảnh hưởng của bão gây sạt lở bờ

biển, đánh bật gốc cây RNM, nhất là rừng mới trồng, rừng trồng bằng trụ mầm,...

Khai thác gỗ, củi RNM và tài nguyên thuỷ sản lạm dụng quá mức. Ô nhiễm môi

trường, do chịu ảnh hưởng nặng nề của việc thải bừa bãi các chất thải nuôi thủy

sản…

4.2.3. Hiện trạng rừng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long

RNM thực vật phổ biến ở vùng ven biển ĐBSCL là các loài Mắm trắng,

Đước, Bần trắng, Bần chua, Vẹt tách, Dà quánh, Dà vôi, Giá, Cóc vàng, Dừa

nước... Có thể nói, hệ sinh thái RNM (HSTRNM) ven biển với tác dụng chắn sóng,

gió có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đường bờ biển, đê điều, tăng khả năng

chống chọi với tác động của thay đổi khí hậu... Đặc biệt, RNM có vai trò bảo vệ

đới bờ và cửa sông, hạn chế xói lở và tác hại của bão, sóng đối với hệ thống đê

biển. Theo một nghiên cứu tại Nhật Bản, một khu RNM có chiều rộng 100 m, có

83

thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng của sóng.

Nhờ có hệ thống rẽ dày đặc trên mặt đất, RNM có thể làm chậm dòng chảy và

thích nghi với mực nước biển dâng. Các cây con, quả và hạt có khả năng sống dài

ngày trong nước nên cây ngập mặn sẽ phát tán rộng vào đất liền khi nước biển

dâng ngập các vùng đó. Khi RNM tự nhiên được bảo vệ hoặc các rừng trồng đủ

rộng, sẽ tạo thành những bức tường vững chắc, bảo vệ bờ biển và chân đê khỏi bị

xói lở do bão lụt và nước biển dâng... Thực tế cho thấy những cơn bão đổ bộ vào

nước ta trong các năm vừa qua, những nơi nào có RNM được bảo vệ tốt thì đê biển

mặc dù chỉ được xây dựng bằng đất nện vẫn đứng vững vàng. Ngược lại, các đê

biển bằng bê tông hoặc kè đá ở những khu vực không có RNM hoặc rừng bị chặt

phá thì đê biển đều bị phá vỡ. Kết quả khảo sát ở những quốc gia có sóng thần

cũng cho thấy các dải RNM có thể làm giảm cường độ của sóng thần từ 50% -

90% nên các làng mạc sau RNM ít bị ảnh hưởng.

4.2.4. Phục hồi và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng sông

Cửu Long

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, nhiệm vụ trước mắt của các

địa phương có HSTRNM cần tập trung tăng cường vai trò quản lý Nhà nước của

các cấp chính quyền tại địa phương, đặc biệt là chính quyền cơ sở và cơ quan

chuyên ngành lâm nghiệp, môi trường trong công tác bảo vệ và phát triển hiệu quả

HSTRNM ven biển ở khu vực ĐBSCL. Song song đó, việc quy hoạch môi trường

trong phát triển KT - XH ở các vùng ven biển, đặc biệt là quy hoạch môi trường

gắn với bảo vệ và phát triển HSTRNM ở ĐBSCL, phải đảm bảo cho sự phát triển

bền vững trong khu vực. Phân vùng sinh thái trong quy hoạch bảo tồn và phát triển

các vùng đất ven biển, trong đó tập trung tiếp cận tổng hợp đa ngành, đa mục tiêu

nông-lâm-ngư và bảo vệ môi trường trong mục tiêu phát triển KT - XH. Tăng

cường vai trò quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền tại địa phương, đặc biệt

là chính quyền cơ sở và cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp, môi trường trong công

tác bảo vệ và phát triển hiệu quả HSTRNM ven biển ở khu vực ĐBSCL. Đẩy

nhanh tiến độ thực hiện các dự án bảo tồn và phát triển HSTRNM ven biển, các dự 84

án trồng mới và tái sinh RNM ven biển; nghiêm cấm bao ví bãi bồi cửa sông để

nuôi trồng thủy sản làm hủy hoại diễn thế tự nhiên bồi tụ và phát triển RNM non

trẻ. Đồng thời, tiến hành quy hoạch các khu bảo tồn đất ngập nước và bảo vệ đa

dạng sinh học của vùng đất ngập nước, các sân chim tự nhiên, các rừng đặc dụng

ngập mặn phòng hộ ven biển có giá trị như là lá chắn bảo vệ môi trường ở ĐBSCL.

Vì vậy, vừa qua Chính phủ Đức đã ký viện trợ Dự án “Quản lý bền vững hệ sinh

thái rừng ven biển tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam”, có tổng kinh phí 1,76 triệu euro.

Trong đó, nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Đức là 1,6 triệu euro và

phía Việt Nam (tự cân đối ngân sách của tỉnh Bạc Liêu) là 160.000 euro. Thời gian

thực hiện Dự án trong 3 năm (từ năm 2009 - năm 2011) với các chức năng chính

như: Thiết lập các biện pháp nâng cao tính đa dạng hệ sinh thái rừng ven biển,

nâng cao mức độ đa dạng sinh học Sân chim Bạc Liêu, nâng cao hiệu quả quản lý

sử dụng rừng và đất rừng của người dân địa phương sống phụ thuộc vào rừng, tăng

cường khả năng quản lý các cơ quan có liên quan đối với RNM.

Bộ Nông nghiệp và Phát tiển nông thôn đã được Chính phủ giao chủ trì thực

hiện đề án “Khôi phục và phát triển RNM ven biển, giai đoạn năm 2008 - 2015”,

theo đề án vừa trình Thủ tướng Chính phủ, kinh phí dự kiến để phục hồi và phát

triển RNM lên đến 2.490 tỷ đồng. Với mục tiêu thiết lập hệ thống RNM để phòng

chống thiên tai, bảo vệ môi trường một cách ổn định, đề án yêu cầu phải phát triển

toàn bộ hệ sinh thái RNM ven biển với kế hoạch dài hạn, có các giải pháp khoa

học kỹ thuật gắn liền với phát triển KT - XH. Trong giai đoạn đầu, sẽ trồng và

nâng cao chất lượng rừng với diện tích trên 32.800 ha, trồng thêm hơn 97.500 ha,

nâng tổng diện tích RNM cả nước lên trên 307.200 ha vào năm 2015. Trước mắt,

sẽ ưu tiên trồng và bảo vệ đai RNM bảo đảm đến năm 2015 hoàn thành việc phục

hồi và trồng hơn 18.800 ha rừng để bảo vệ hệ thống đê biển.

Việc tăng nhanh diện tích phủ xanh của thảm RNM phòng hộ ven biển, bảo

vệ RNM khỏi nạn bị chặt phá làm củi, gỗ, nuôi trồng thủy sản. Theo dõi giám sát

chất lượng thảm RNM đã bị suy giảm và các HSTRNM để kịp thời xử lý các vấn

đề gây tổn thất đến tài nguyên nước, tài nguyên đất và tài nguyên sinh học, đảm 85

bảo cho độ ổn định của hệ sinh thái... là những việc làm quan trọng mà các địa

phương ở ĐBSCL cần quan tâm thực hiện để giảm nhẹ thiên tai do tác động của

biến đổi khí hậu gây ra.

4.2.5. Tăng cường liên kết bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đồng bằng

sông Cửu Long

Liên kết trong quy hoạch quản lý tổng hợp RNM ven biển tại ĐBSCL

Các nghiên cứu chính thức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho thấy

hiện nay một số khu vực ven biển đang bị xâm thực khoảng 30 m/năm; RNM dọc

theo bờ biển bảo vệ đất liền khỏi ảnh hưởng của bão, lũ, con người tàn phá… hiện

đang bị suy giảm nghiêm trọng; mức độ gia tăng xâm nhập mặn dẫn đến tình trạng

đất nhiễm mặn, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp... Một trong những định

hướng có tính giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội thích ứng với biến đổi khí

hậu (BĐKH) ở BĐSCL là tăng cường liên kết trong quy hoạch quản lý tổng hợp

vùng ven biển, tiếp cận và giải quyết các vấn đề về BĐKH theo vùng, không theo

từng tỉnh đơn lẻ... Điều này đúc kết từ kinh nghiệm hiệu quả ở các nước Hà Lan,

Cộng hòa Liên ban Đức, Úc được các chuyên gia nghiên cứu, để xuất lồng ghép và

ứng dụng vào các quy trình phát triển KT - XH khu vực ĐBSCL theo hướng bền

vững. Hiệu quả các giải pháp thực hiện trên cơ chế liên kết đã được dẫn chứng

bằng thực tiễn triển khai Chương trình Quản lý Tổng hợp vùng Ven biển (ICMP)

giúp khắc phục các thách thức tác động từ BĐKH, nước biển dâng, cụ thể là việc

củng cố vùng bờ tại các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL. Ghi nhận bước đầu cho thấy:

Chương trình đã góp phần tích cực xây dựng các giải pháp kỹ thuật giúp đường bờ

biển dịch chuyển thêm ra phía biển 180 m, giành lại đất phục hồi RNM. Hỗ trợ

nông dân áp dụng các kỹ thuật mới trong ứng phó BĐKH, tăng thu nhập và bảo vệ

môi trường, như: phương pháp canh tác lúa cải tiến, giúp giảm 30% lượng nước và

thuốc bảo vệ thực vật; biện pháp hỗ trợ các hộ nuôi tôm sinh thái thân thiện với

môi trường, tiếp cận thị trường quốc tế...

♦ Giải pháp hiệu quả đã định hình từ thực tiễn RNM tại ĐBSCL

86

Thực tế tại tỉnh Sóc Trăng từ năm 2007, Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật của

Cộng hòa Liên Bang Đức (GTZ) tài trợ Dự án “Quản lý nguồn tài nguyên thiên

nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng”. Đây là dự án nhằm cung cấp những giải pháp thử

nghiệm để giải quyết những mâu thuẫn phát sinh giữa phát triển kinh tế và quản lý

một cách bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Dự án này cũng bao gồm những

hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu bằng cách tập trung vào đa dạng hóa cách

thức kiếm sống của người dân nghèo và công tác quản lý RNM.

♦ Hệ sinh thái ven biển ĐBSCL đang bị tác động mạnh do sạt lở, xâm nhập

mặn

Dự án của GTZ đã thực hiện thí điểm một số kỹ thuật trồng, khôi phục rừng

ở một vài khu vực trong địa bàn huyện Vĩnh Châu - địa bàn có trên 3.560 ha rừng

và đất RNM ven biển. Bước đầu, được UBND thị xã Vĩnh Châu, đánh giá góp

phần tích cực bảo vệ và phát triển được vốn rừng có thể sẽ mang lại hiệu quả rất

lớn cả về kinh tế, xã hội, môi trường cho người dân địa phương và trong khu vực.

Điển hình là mô hình “Đồng quản lý” tại ấp Âu Thọ B, người dân đã chuyển biến

rất tốt về hành vi cùng phối hợp bảo vệ môi trường, ý thức tự giác cao trong việc

đồng quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Dự án đã triển khai.

♦ Tăng cường liên kết, phối hợp để phát huy hiệu quả

Trong những năm trước đây, RNM ven biển ĐBSCL bị tác động làm suy

giảm mạnh mẽ do các nguyên nhân: phá rừng làm ruộng rẫy, phá rừng lấy đất nuôi

trồng thủy sản, phá rừng lấy củi, gỗ... Số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn

1980-1995 các tỉnh ĐBSCL đã bị mất 72.825 ha rừng, bình quân hàng năm bị mất

4.855 ha với tốc độ 5%/năm. Những năm gần đây, công tác bảo vệ và phát triển hệ

sinh thái RNM ven biển được các tỉnh trong khu vực quan tâm thực hiện, đặc biệt

là dự án trồng 5 triệu ha rừng của quốc gia và các dự án hợp tác quốc tế như: Dự

án Phát triển và bảo vệ các vùng đất ngập nước ven biển tại các tỉnh Cà Mau, Bạc

Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh; Dự án Khu dự trữ quốc gia U Minh Thượng; Chương

trình sử dụng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học đất ngập nước khu vực sông

87

Mêkông... Tuy nhiên, những tác động tiềm ẩn vẫn đang tiếp tục đe dọa HSTRNM

ở ĐBSCL. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có các giải pháp hữu hiệu trong quy

hoạch các khu bảo tồn đất ngập nước ven biển, trong tổ chức khai thác kinh tế tài

nguyên gắn liền với phát triển hệ sinh thái đặc thù này để bảo vệ và phát triển bền

vững khu vực ĐBSCL.

Diện tích nuôi tôm trong RNM là một tác nhân ảnh hưởng rất nghiêm trọng

đến công tác quản lý quy hoạch và khai thác bền vững nguồn tài nguyên ven biển ở

khu vực ĐBSCL. Nuôi tôm đem lại lợi ích kinh tế nhanh, nhưng hậu quả là làm

suy giảm thảm RNM, làm biến đổi môi trường đất, môi trường nước và môi trường

sinh thái. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có các giải pháp hữu hiệu trong vấn đề

phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường để phát triển bền vững ở các vùng ven

biển khu vực ĐBSCL. Những tổn thất RNM kéo theo hàng loạt các biến đổi về

môi trường, sinh thái trong khu vực. Thảm RNM có độ che phủ cao trở nên trơ

trọi, bị chia cắt phân tán thành nhiều thảm nhỏ và thay bằng các vuông tôm, kinh

mương đào đắp, sên vét bùn đất để lấy mặt nước nuôi tôm; môi trường đất bị ô

nhiễm do quá trình phèn hóa gia tăng ở quy mô lớn; đất đai bị phát quang làm gia

tăng quá trình rửa trôi do mưa, gia tăng quá trình lan truyền phèn trong môi trường

đất, nước và các hệ sinh thái; giảm đi quá trình bồi tụ phù sa do mất rừng; đa dạng

sinh học bị suy giảm nhanh chóng do không còn điều kiện thích hợp để các loài

sinh vật sinh sống và trú ngụ; sự biến đổi môi trường vi khí hậu, sụp lở bờ biển,

cửa sông gia tăng... làm mất cân bằng sinh thái trong khu vực. Hậu quả nhãn tiền là

nạn tôm chết hàng loạt ở các khu ven biển đến nay vẫn tiếp tục diễn ra.

Quá trình mặn xâm nhập gia tăng đã tác động các hệ sinh thái nông nghiệp

truyền thống, lúa nước, cá đồng, cây ăn trái, cây công nghiệp... trong khi khả năng

thực thi các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực chưa đáp ứng được

yêu cầu thực tiễn. Các dự án thủy lợi trong vùng mặn hóa, vùng luân canh lúa -

tôm, vùng ngăn mặn xổ phèn... chưa phát huy được tác dụng trong thực tiễn đang

trở thành nỗi trăn trở của các cấp chính quyền, các ngành quản lý và người dân.

Chất thải nuôi trồng thủy sản ven biển, đặc biệt là chất thải nuôi tôm, ngày càng 88

nhiều làm gia tăng áp lực tới môi trường và độ bền vững của hệ thống canh tác

thủy sản với bảo vệ hệ sinh thái RNM.

Hiệu quả nổi bật các giải pháp từ Chương trình “Bảo vệ tổng hợp vùng ven

biển và rừng ngập mặn nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu tại các tỉnh ĐBSCL/

Biến đổi khí hậu và các hệ sinh thái ven biển vùng ĐBSCL Việt Nam”

(ICMP/CCCEP) đem lại, là đã giúp các địa phương như: Sóc Trăng và Bạc Liêu có

khoảng 99% bờ biển không còn chịu tác động trực tiếp của sóng biển; phục hồi

603 ha RNM; giới thiệu 22 mô hình sinh kế, giúp giảm áp lực môi trường và tăng

60% thu nhập cho 8.500 gia đình... Nếu được kết hợp với các giải pháp bảo vệ

vùng bờ khác, những đai rừng này là giải pháp tốt nhất để bảo vệ, chống lại ảnh

hưởng bão, lụt, tạo nền tảng để các địa phương phối hợp thực hiện kế hoạch bảo vệ

tổng hợp vùng bờ ĐBSCL. Chương trình ICMP/CCCEP đóng góp tích cực trong

quản lý các hệ sinh thái ven biển, phục hồi và giảm thiểu tổn hại; hỗ trợ nâng cao

nhận thức về môi trường, xây dựng một số mô hình, tạo sinh kế bền vững. Thời

gian tới, các địa phương trong khu vực cần tranh thủ sự hỗ trợ, tăng cường liên kết,

phối hợp để phát huy hiệu quả chương trình”. Trong giai đoạn 2 (2014 - 2017),

Chương trình ICMP/CCCEP sẽ tập trung thể chế hóa và nhân rộng các giải pháp

nhằm tác động toàn diện trên quy mô lớn hơn tại vùng ĐBSCL.

Theo nhận định của Ngô Đình Quế và Võ Đại Hải (2012), ở khu vực các

tỉnh phía Nam RNM phân bố, sinh trưởng và phát triển tốt hơn khu vực phía Bắc.

Mặc dù vai trò của RNM là vô cùng quan trọng như vậy, nhưng những năm qua

diện tích rừng ngập mặn không ngừng bị suy giảm, nếu như năm 1943 chúng ta có

khoảng 408.500 ha RNM thì tới năm 2006 con số này chỉ còn khoảng 209.741 ha.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự suy giảm diện tích rừng ngập mặn là do tác động

chặt phá của con người nhằm các mục đích: lấy củi, lấy gỗ và đặc biệt là chuyển

đổi diện tích để nuôi tôm, nuôi thủy sản khác. Sự suy giảm diện tích RNM gây ra

những hậu quả nghiêm trọng cả về kinh tế, xã hội và môi trường đặc biệt là trong

bối cảnh mà biến đổi khí hậu đang rất phức tạp.

89

4.3. Hiện trạng rừng bần tại địa bàn nghiên cứu

4.3.1. Rừng bần tại tỉnh Trà Vinh

Tỉnh Trà Vinh có tổng chiều dài bờ biển là 65 km, trong đó có 37 km thuộc

huyện Duyên Hải phía trên là đất giồng cát, phía dưới là bãi cát ngập triều thường

xuyên bị xâm thực bởi sóng biển trong những thời điểm có bão vào mùa mưa và

triều cường trong mùa gió mùa Đông Bắc. Tỉnh hiện có trên 8.622 ha RNM và

rừng phòng hộ ven biển. Mục tiêu phát triển rừng được tỉnh Trà Vinh đề ra đến

năm 2020 là nâng diện tích rừng lên khoảng 9.000 ha và nâng độ che phủ của rừng

đạt 4,6 %. Do tác động của sóng cộng hưởng gió lớn và triều cường đã gây xói lở

bờ biển, trung bình khoảng 10 - 25 m vào đất liền ở những khu vực không có

RNM, đặc biệt nghiêm trọng là đối với địa bàn xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên Hải.

Từ đó gây thiệt hại lớn đối với các công trình xây dựng cơ bản, hệ thống đê phòng

hộ bờ biển/cửa sông, nhà cửa, đất canh tác nông nghiệp/thủy sản của người dân,...

Từ thực tế lãnh đạo tỉnh chủ trương thực hiện nghiên cứu các giải pháp kỹ

thuật tổng hợp để trồng thí nghiệm RNM mà cụ thể là Bần chua, nhằm xây dựng

hệ thống lưới chắn và giữ lượng phù sa khi thủy triều rút. Sử dụng cây giống đúng

tiêu chuẩn, trồng và chăm sóc đúng kỹ thuật,... trên vùng đất đang bị xói lở ven

biển xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên Hải để hạn chế tác động xâm thực của sóng và

gió biển. Kết hợp khảo sát điều kiện tự nhiên, đặc điểm lập địa khu vực trồng:

thành phần đất, độ mặn nước biển, độ ngập và tần suất ngập triều, tác động của

sóng và gió biển,... là hết sức cấp bách. Từ đó làm nền tảng hoàn thiện hướng dẫn

kỹ thuật trồng, chăm sóc Bần chua trên vùng đất xói lở. Tạo cơ sở lý luận và thực

tiễn cho việc khôi phục rừng Bần chua nói riêng và RNM nói chung ở những nơi

có điều kiện lập địa tương tự ở tỉnh Trà Vinh.

Khi vành đai rừng phòng hộ hình thành sẽ hạn chế khả năng xâm thực bờ

và đê biển của sóng, gió. Cải tạo môi trường sinh thái vùng ven biển, hình thành

nơi sinh sống và phát triển của một số loài thủy sản. Bảo vệ các công trình xây

90

dựng cơ bản, hệ thống đê phòng hộ, nhà cửa tài sản và đất canh tác của người

dân,... ở phía trong. Góp phần ổn định dân cư, tạo công ăn việc làm cho người dân.

Năm 2016, tỉnh Trà Vinh vừa hoàn thành dự án trồng mới gần 230 ha rừng

phòng hộ ven biển trên địa bàn các huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Châu Thành và

thị xã Duyên Hải sau 02 năm triển khai thực hiện.

Dự án trồng rừng phòng hộ ven biển Trà Vinh có tổng vốn đầu tư gần 6,5 tỷ

đồng. Trong đó, nguồn vốn trồng mới diện tích gần 230 ha rừng bần, đước và phi

lao hơn 6,1 tỷ đồng. Nguồn vốn còn lại được dành cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc

hơn 323 ha RNM nguyên sinh.

Cùng với dự án trồng rừng phòng hộ ven biển, tỉnh Trà Vinh cũng đang

thực hiện Dự án “Đầu tư xây dựng và phát triển bền vững rừng phòng hộ tỉnh Trà

Vinh giai đoạn 2015 - 2020", với tổng nguồn vốn hơn gần 14,7 tỷ đồng từ nguồn

vay ODA và ngân sách của tỉnh đầu tư. Dự án này sẽ trồng mới 292 ha rừng bần,

đước, phi lao và trên 300.000 cây phân tán; tổ chức giao khoán cho đơn vị, hộ dân

chăm sóc và bảo vệ trên 1.179 ha rừng nguyên sinh và đã được trồng những năm

trước (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh, 2019).

4.3.2. Rừng bần tại tỉnh Sóc Trăng

RNM ven biển ở ĐBSCL nói chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng đang chịu

nhiều tác động do con người, cũng như thiên tai gây ra. Trong thời kỳ kháng chiến

chống Mỹ, một diện tích lớn rừng bị hủy diệt và sự tàn phá này lại tiếp tục gia

tăng. Diện tích RNM tại địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã giảm đáng kể, từ 1.791,9 ha

năm 1965 xuống chỉ còn 719,3 ha năm 1995. Trong những năm gần đây, diện tích

và chất lượng của RNM tỉnh Sóc Trăng bị suy giảm nhanh chóng. Trước vai trò to

lớn của RNM và tác động ngày càng mạnh mẽ của con người, báo cáo này đề cập

đến một số nguyên nhân làm suy giảm diện tích RNM do con người gây ra và đề

xuất giải pháp nhằm phát triển RNM ở tỉnh Sóc Trăng.

Tỉnh Sóc Trăng hiện có 72 km bờ biển, với diện tích đất rừng vùng ven biển

hiện có khoảng là 5.684 ha, chiếm 4,8% diện tích tự nhiên của vùng ven biển và 91

khả năng có thể lên đến 12.312 ha, chiếm 9,8% diện tích tự nhiên của vùng ven

biển và bằng 88,0% đất rừng của tỉnh Sóc Trăng, điều này cho thấy vị trí quan

trọng của rừng vùng ven biển đối với tỉnh Sóc Trăng trong cân bằng sinh thái đặc

thù rừng ven biển.

RNM ở Sóc Trăng chủ yếu là rừng phòng hộ có diện tích rừng là 280,9 ha;

Rừng phòng hộ chắn sóng lấn biển có tổng diện tích RNM phòng hộ là 5.300 ha

trong đó Cù Lao Dung: 1.710 ha; Long Phú: 800 ha; Vĩnh Châu: 3.200 ha. Tuy

nhiên, qua đo đạc bằng công cụ viễn thám, diện tích rừng ven biển của Sóc Trăng

đạt 9.338 ha, trong đó, diện tích rừng trong phạm vi đường bờ (ranh giới triều

trung bình) là 3.209 ha, ngoài ranh giới đường bờ là 6.129 ha. Trong RNM, rừng

phòng hộ chủ yếu là rừng bần, tràm (4.300 ha) tập trung nhiều ở Cù Lao Dung và

Trần Đề; rừng đước, bần, rừng mắm ở thị xã Vĩnh Châu. Với sự phân bố cây rừng

như vậy, có thể thấy HSTRNM trong vùng ven biển rất phong phú về chủng loại

thực vật và động vật. Đây là nơi có sản lượng sinh khối động thực vật lớn, nơi sinh

sản, nuôi dưỡng và cung cấp thức ăn quan trọng cho các loài cua, cá, tôm biển và

nhiều loại khác có giá trị kinh tế lớn; bồi đắp đất đai, bảo vệ vùng ven biển; tạo ra

nơi cư trú cho nhiều loại động vật hoang dã.

RNM ven biển Sóc Trăng có 3 loài thuộc sách đỏ Việt Nam, đó là: Bần,

Đước và Mắm là các loài chiếm ưu thế trong RNM Sóc Trăng. Trong RNM, Mắm

và Bần chua là hai loài cây tiên phong lấn biển, tiếp đến là Đước chúng tạo thành

quần thể hỗn giao với mắm và thay thế dần mắm để tạo nên quần thể đước đơn

loài. Bần là loài có giá trị kinh tế cao của RNM, nên thường được chọn là cây để

trồng rừng. Do đó, loài cây này hiện trong tình trạng phát triển tốt; đối với loài

Quao nước, đây là loài cây sống trong môi trường nước lợ, do cây không có giá trị

kinh tế nên ít bị chặt phá.

Hàng năm, lượng phù sa lớn do sông Hậu mang lại được bồi lắng ở cửa

sông và trong các dải RNM ven biển, bãi biển nên diện tích vùng này ngày càng

được mở rộng ra biển. Những năm gần đây, dưới nhiều tác động của tự nhiên và

92

con người, Hệ sinh thái vùng ngập mặn đang bị suy giảm nghiêm trọng. Theo số

liệu thống kê năm 2003 của Phân Viện Điều tra Quy hoạch rừng Nam bộ, toàn tỉnh

chỉ còn 2.990,79 ha đất có RNM, trong đó, diện tích rừng tự nhiên là 884,07 ha,

gồm rừng bần 721,91 ha và rừng mắm 162,16 ha. Diện tích rừng trồng là 2.106,72

ha, gồm 1.354,87 ha rừng bần, 199,6 ha rừng đước, và 440,14 ha rừng đước trồng

xen trong rừng Mắm. Từ năm 2000 đến 2007 tỉnh Sóc Trăng thực hiện dự án khôi

phục RNM tại phía Nam tại vùng ven biển của bốn tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc

Liêu và Cà Mau với hỗ trợ tín dụng của Ngân hàng Thế giới và tài trợ bởi Chính

phủ Đan Mạch. Dự án nhằm mục đích khôi phục RNM ven biển để cải thiện chức

năng dinh dưỡng của RNM và bảo vệ bờ biển. Dự án đã trồng được 1.085 ha rừng

ở vùng phòng hộ xung yếu ven biển tỉnh Sóc Trăng, góp phần làm tăng độ phủ

xanh của vùng ven biển.

Tuy có nhiều dự án phát triển và trồng rừng RNM tại Sóc Trăng nhưng tình

trạng hệ sinh thái rừng tại Sóc Trăng đang dần bị suy giảm như nhiều cây, con bị

mất dần, chẳng hạn như cây Mắm, cây Đước bị thoái hóa, riêng cây Chà là - nơi

trú ngụ của con đuôn không còn tồn tại. Tại khu vực đuôi cồn Cù Lao Dung, theo

thống kê mới nhất, quần thể Dơi ngựa lớn chỉ còn không tới 1.000 con. Loài Rái cá

lông mượt trước đây sinh sống rất nhiều, hiện nay đã biến mất, các loài cá Ngát, cá

Tra bần rất hiếm, chim trời trước đây thường về đậu và làm tổ, đến nay không còn.

Một số khu vực RNM ven biển bị thu hẹp diện tích do xói mòn dưới tác động của

sóng biển, do cây cối trong rừng đã bị già cỗi.

* Nguyên nhân gây suy giảm tài nguyên rừng bần ở Sóc Trăng

♦ Khai phá RNM để nuôi tôm: Phong trào nuôi tôm trong RNM ở tỉnh Sóc

Trăng bắt đầu năm 1997 khi ngành thủy sản mới bắt đầu xuất khẩu tôm khô và tôm

đông lạnh ra thị trường của các nước. Điển hình vào thập kỷ 90, Vĩnh Châu là một

trong những huyện sử dụng nhiều diện tích đất RNM để nuôi tôm tại các xã ven

biển. Một diện tích đáng kể của RNM bị phá, sau này trở thành đất hoang hóa với

toàn bộ cây bụi thấp như lức, ô rô, cóc kèn, chà là. Những lợi ích của nghề nuôi

93

tôm làm những người giàu bỏ tiền ra thuê nhân công và mua cơ giới để lập các trại

nuôi tôm trong RNM. Nhiều cơ quan chính phủ và các cá nhân được giao đất trong

RNM và cũng đã cố gắng để chuyển đổi những vùng đất này thành các trang trại

nuôi tôm hay cho thuê đất để nuôi tôm. Việc giao đất để nuôi tôm thì tùy ý không

theo bất kỳ phương pháp lập kế hoạch nào. Cấp huyện và thậm chí chính quyền

cấp xã có thể giao đất lâm nghiệp cho nông dân mà không có bất kỳ xem xét hay

đánh giá quy hoạch sử dụng đất, điều này cũng đã góp phần làm suy thoái RNM.

♦ Khai phá RNM để sản xuất nông nghiệp: Đất thuộc RNM có độ mặn

cao và không phù hợp cho hầu hết bất kỳ cây trồng nào, nhưng đất bồi thì rất màu

mỡ. Trong mùa mưa và ở những nơi có nước ngọt, người dân khai phá rừng để

trồng rẫy khô. RNM ở các vùng cửa sông ven biển thường bị chặt phá để trồng cây

nông nghiệp như: Hành, tỏi, dưa hấu, bí, ớt, đậu xanh... Những nơi nào có địa hình

thuận lợi, chủ động nguồn nước tưới thì hiệu quả cao hơn. Những người dân di cư

dần dần phá RNM để canh tác nông nghiệp trong khu vực Hồ Bể gần cửa sông Mỹ

Thanh.

Một số nơi khác phá rừng để lấy đất trồng dừa nhưng không thành công và

gây hậu quả sinh thái xấu, do không nắm vững quá trình diễn biến của đất. Điển

hình nhất là việc trồng dừa tại ấp Giồng Chùa, xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu.

Theo kế hoạch của tỉnh sẽ khai phá diện tích 550 ha RNM tại cửa sông Mỹ Thanh

để trồng dừa. Sau 5 năm trồng dừa thì đất cũng thoái hóa, tất cả dừa đều chết.

Tương tự, hai hợp tác xã muối tại Vĩnh Phước, Vĩnh Tiến đã phá RNM và đầu tư

hàng chục triệu đồng để lên líp trồng dừa và để lại hậu quả là mặt đất cứng, nứt nẻ,

muối kéo lên mặt đất trắng xóa, đất lại tiếp tục bốc hơi nước mạnh vào mùa khô,

do đó nồng độ muối tăng lên, làm cho đất không phù hợp cho việc canh tác.

♦ Chính sách, thể chế quản lý rừng chưa hiệu quả: Chính sách kinh tế - xã

hội chưa khuyến khích người dân bảo vệ rừng vì giá trị và lợi ích của rừng, trong

khi là vô giá, đã bị bỏ qua trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đầu tư

tái tạo rừng trong những năm qua chưa phù hợp với điều kiện thực tế tại từng địa

94

phương. Những khoản đầu tư cho các khu rừng chỉ nhằm mục đích trồng, bỏ qua

việc bảo vệ và cải thiện môi trường rừng.

Bên cạnh đó, mức đầu tư cho quản lý bảo vệ rừng còn quá thấp, các hoạt

động trồng rừng, khôi phục rừng cũng chưa mang lại đủ thu nhập trực tiếp đáp ứng

nhu cầu cơ bản của nông dân. Các kỹ thuật tiên tiến cho canh tác bền vững đã

không được hướng dẫn cho nông dân hay đưa đến kết quả cải thiện thu nhập của

họ. Công tác tuyên truyền, tập huấn, giáo dục bảo vệ rừng chưa được quan tâm (Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng, 2019).

Thực trạng rừng bần trong nghiên cứu chưa được quan tâm đầu tư để phát

triển đồng bộ, chỉ dừng lại giai đoạn khoán cho các tổ bảo vệ rừng và khai thác các

sản phẩm từ rừng mà chưa đưa ra một quy chuẩn để khai thác mang tính bảo tồn

các loài vật nhằm phát triển bền vững nguồn tài nguyên quý giá này.

4.4. Kết quả đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần

4.4.1. Mô tả địa bàn nghiên cứu

Nguồn: Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Sóc Trăng, năm 2018

Hình 4.1. Bản đồ rừng bần khu vực huyện Trần Đề, huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc Trăng và huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh (theo dấu mũi tên)

95

♦ Huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh:

Theo Quyết định số 1753/QĐ/UBND ngày 11/3/2020 của Chủ tịch UBND

tỉnh Trà Vinh về việc Công bố hiện trạng rừng tỉnh Trà Vinh năm 2019. Huyện

Duyên Hải có tổng diện tích rừng bần: 2.469,17 ha; trong đó có tổng diện tích rừng

tại xã Long Vĩnh: 1.828,20 ha bần.

Rừng bần tại xã Long Vĩnh hiện nay có 18 Tổ quản lý rừng với 751 hộ dân,

diện tích nhận giao rừng 1.097 ha. Theo quy định tại Nghị định số 119/2016/NĐ-

CP; chi phí quản lý rừng hàng năm được Ngân sách cấp cho bảo vệ rừng là 493,6

triệu đồng; ngoài ra người dân tại đây còn khai thác những sản vật trong rừng như:

Thòi lòi, cá bông lau, chù ụ, ba khía, cua con, cua thịt, dộp, ốc len… thu nhập

trung bình mỗi hộ dân khoảng 35 triệu đồng/năm (Hạt Kiểm lâm huyện Duyên

Hải, 2020).

Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Trà Vinh, năm 2020

Hình 4.2. Bản đồ hiện trạng rừng bần xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

96

♦ Huyện Trần Đề:

Theo Quyết định số 68/QĐ-UBND ngày 15/01/2020 của Chủ tịch UBND

huyện Trần Đề về việc Phê duyệt kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019 trên

địa bàn huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng; tổng diện tích rừng bần: 698,1 ha rừng

phòng hộ chắn sóng, lấn biển, tập trung tại thị trấn Trần Đề 55,7 ha, tại xã Trung

Bình: 642,4 ha.

Tại đây có 03 Tổ quản lý rừng, với 410 hộ dân được giao khoán diện tích

698,1 ha rừng, với tổng chi phí khoán bảo vệ rừng do Ngân sách cấp khoảng 310

triệu đồng/năm; ngoài ra người dân tại đây còn khai thác những sản vật trong rừng

như: Cá thòi lòi, cá bông lau, chù ụ, ba khía, cua con, cua thịt, dộp, ốc len… thu

nhập trung bình mỗi hộ dân khoảng 35 triệu đồng/năm (Hạt Kiểm lâm liên huyện

Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung, 2020).

Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sóc Trăng, năm 2020

Hình 4.3. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

♦ Huyện Cù Lao Dung:

97

Theo Quyết định số 320/QĐ-UBND ngày 06/3/2020 của Chủ tịch UBND

huyện Cù Lao Dung về việc Phê duyệt kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019

trên địa bàn huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Tổng diện tích rừng: 1.712,70 ha

rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển; trong đó rừng bần tại xã An Thạnh 2: 7,7 ha,

xã An Thạnh 3: 131,1 ha, xã An Thạnh Đông: 22,4 ha, xã Đại Ân 1: 19,9 ha và xã

An Thạnh Nam: 1.531,6 hécta.

Hiện nay, tại huyện Cù Lao Dung có 03 Tổ quản lý rừng, với 580 hộ dân

nhận diện tích rừng được giao quản lý là: 1.374,7 ha, kinh phí khoán bảo vệ rừng

Ngân sách cấp khoảng 618,6 triệu đồng/năm, đây là khoản thu nhập để sinh hoạt

tối thiểu cho hộ; ngoài ra người dân tại đây còn khai thác thủy hải sản trong rừng

như: Cá bóng sao, cá kèo con, cá kèo thịt, cá thòi lòi, ba khía, cua con, cua thịt,

dộp, ốc len, nghêu giống, nghêu thịt… thu nhập trung bình mỗi hộ dân khoảng 65

triệu đồng/năm (Hạt Kiểm lâm liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung,

2020).

Nguồn: Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sóc Trăng, năm 2020

Hình 4.4. Bản đồ hiện trạng rừng bần huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng

98

4.4.2. Kết quả đánh giá giá trị tạo thu nhập từ sản phẩm rừng bần

♦ Mô tả đặc điểm hộ dân:

Giới tính và thành phần dân tộc của chủ hộ: Trong 210 hộ khảo sát, giới

tính nam chiếm 83,8%. Việc nhận khoán bảo vệ rừng chiến đa số là nam, bởi đây

là công việc nặng nhọc, độc hại, khá nguy hiểm và rủi ro khi sinh hoạt, làm việc

trong môi trường rừng sâu.

Hộ dân chủ yếu là người Kinh (71,4%), còn lại chủ yếu là dân tộc Khơmer,

họ sống đan xen và đoàn kết với nhau, cùng nhau kiếm kế mưu sinh và kết tình

thông gia với nhau không phân biệt đối xử, đây cũng là nét đẹp đặc trưng của

người dân miền Tây.

♦ Tình trạng đương đầu với cú sốc tự nhiên và tiếp cận tín dụng:

Người dân sinh sống xung quanh rừng bần nằm vị trí sát cửa biển, do đó họ

rất cảnh giác với sự biến động của thiên nhiên như: Gió, bão, sóng thần; cơn bão số

5 năm 1997 đã quét ngang, thiệt hại về người không lớn nhưng thiệt hại vật chất

cho người dân nơi đây là vô cùng lớn, đến hiện nay học vẫn cảnh giác và lo sợ.

Như đã trình bày ở Chương 3, người dân sống xung quanh rừng bần thuộc

diện hộ nghèo và cận nghèo chiếm tỷ lệ khá cao so với mặt bằng chung trong khu

vực; tiếp cận ngân hàng để vay vốn chủ yếu là Ngân hàng chính sách xã hội ở các

huyện, hình thức vay tín chấp thông qua các hội đoàn thể địa phương để thoát

nghèo, do vậy tỷ lệ số hộ vay khá cao, chiếm 67,1%.

♦ Các đặc trưng khác:

Trình độ học vấn trung bình của chủ hộ là lớp 7; số nhân khẩu trung bình là

3 nguời/hộ; Diện tích đất rừng bần được giao khoán quản lý trung bình là 4,2 ha.

Tỷ lệ người sống phụ thuộc của hộ dân khá cao, chiến 75%, thông thường các hộ

có con còn đang đi học, họ chưa đến tuổi lao động, chưa tạo được thu nhập cho

bản thân, xem Bảng 4.1.

99

Bảng 4.1. Các đặc trưng khác

Trung bình 7 3

42

Tiêu chí Trình độ học vấn (năm học) Quy mô nhân khẩu hộ (người) Diện tích đất sản xuất (1.000 m2) Tỷ lệ phụ thuộc (%)

75

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Tổng hợp từ 210 Phiếu khảo sát, thu nhập trung bình của hộ từ rừng bần

trong năm là 18,174 triệu đồng/ha/năm bao gồm: Lương khoán, các sản phẩm thủy

sản và sản phẩm phụ (trái bần chín, mật ong…) của rừng bần được giao khoán

quản lý, đươc trình bày chi tiết tại Bảng 4.2.

Từ kết quả Bảng 4.2 thấy rằng, các sản phẩm từ rừng bần khá đa dạng,

phong phú mang lại giá trị kinh tế cao cho thu nhập của hộ gia đình. Cụ thể sau:

● Khai thác cua thịt: Mang lại thu nhập 4,2 triệu đồng/ha/năm, chiếm tỷ

trọng 23,12%. Qua thực tế điều tra, khảo sát trên địa bàn nghiên cứu đều có hiện

diện Cua thịt, nhưng tập trung nhiều nhất là trong rừng bần Cù Lao Dung, kế đến

rừng bần xã Long Vĩnh. Cua thịt từ rừng bần rất ngon, chẳng thua gì cua Rạch Giá,

Kiên Giang; cua Rạch Gốc, Cà Mau.

● Khai thác cá Kèo giống: Thu nhập từ nguồn khai thác cá kèo giống mang

lại 2,5 triệu đồng/hộ/năm, chiếm tỷ trọng 14,15% thu nhập; hàng năm vào tiết

tháng 8 đến tháng 10, người dân dùng lưới mùng giăng bắt cá Kèo con để bán lại

cho người nuôi cá Kèo thương phẩm, khi thời tiết thuận lợi mỗi ngày có người thu

hoạch hàng chục triệu đồng, việc khai thác cá Kèo tập trung nhiều ở rừng Cù Lao

Dung và Trần Đề.

● Khai thác Nghêu thịt: Việc khai thác Nghêu thịt tập trung ở ven rừng bần

Cù Lao Dung và rừng bần Long Vĩnh, mang lại giá trị kinh tế khá cao, thời gian

khai thác vào khoảng tháng 01 đến tháng 5 hàng năm, người dân dùng “cào” kéo

100

trên bề mặt lớp bùn để bắt, mỗi ngày trung bình một người cào từ 10 đến 20 kg

Nghêu, thu nhập từ 4 đến 5 trăm nghìn.

Bảng 4.2. Các sản phẩm từ rừng bần tạo thu nhập trung bình của hộ gia đình

TT

Tên sản phẩm tạo thu nhập

Thành tiền (Triệu đồng/ha/năm)

Tỷ trọng giảm dần (%)

1 Khai thác Cua thịt

4,201

23,12

2 Khai thác cá Kèo con giống

2,572

14,15

3 Khai thác Nghêu thịt

2,420

13,32

4 Lương khoán bảo vệ rừng

1,890

10,40

5 Khai thác cá Kèo thịt

1,422

7,82

Các sản phẩm khác: Tôm, cá, ốc, mật ong …

6

1,387

7,63

7 Khai thác Cua con giống

0,850

4,68

8 Khai thác Ba Khía thịt

0,840

4,62

9 Khai thác Dộp thịt

0,650

3,58

10 Khai thác cá Đối thịt

0,640

3,52

11 Khai thác Nghêu giống

0,452

2,49

12 Khai thác cá Thòi Lòi thịt

0,430

2,37

13 Khai thác trái bần chín

0,420

2,31

100

TỔNG CỘNG:

18,174

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

● Lương khoán bảo vệ rừng: Thu nhập bình quân 1.890.000 đồng/hộ/năm,

chiếm 10,40% thu nhập của hộ, mức khoán hiện nay theo Nghị định 119/2016/NĐ-

CP là: 450/ha/năm, theo kết quả khảo sát 210 hộ dân được nhận khoán rừng và

phỏng vấn các nhân viên quản lý Hạt Kiểm lâm đều cho rằng là quá thấp, thời gian

tới cần điều chỉnh mức cao là: 600.000 đồng/ha/năm là phù hợp.

101

● Khai thác cá Kèo thịt: Mùa khai thác tập trung từ tháng 8 đến tháng 12

hàng năm, người đánh bắt bằng lưới, đặt lộp, đuôi chuột; thu hoạch hàng ngày có

thể lên đến hàng chục kg, giá bán ra mỗi kg dao động từ 60 đến 70 nghìn đồng, tạo

thu nhập khá cao cho người dân.

● Khai thác cua giống: Chiếm 4,68% thu nhập trung bình của hộ, việc khai

thác diễn ra liên tục trong năm (trừ thời tiết xấu và nước dâng cao), khi nước rút

xuống người dân đi sâu vào rừng, tìm bắt những con giống, tùy kích cỡ cua, mỗi

con có giá dao động từ 2 đến 10 nghìn đồng, mỗi người bắt một ngày vài trăm con

cua giống. Rừng bần là môi trường rất tốt để cua sinh sôi nảy nở, kết quả khảo sát

trên 3 khu rừng bần nghiên cứu đều cho sản lượng thu hoạch khá tương đồng.

● Khai thác Ba khía thịt: Chiếm tỷ trọng 4,62% thu nhập trung bình của hộ

dân, việc bắt Ba khía diễn ra quanh năm vào lúc 19 giờ đến 02 giờ sáng vào những

đêm mặt Trăng lặn. Ba khía sinh sống và phát triển rất nhanh trong môi trường

rừng bần tại khu vực nghiên cứu, khi thu hoạch Ba khía, người dân bán cho thương

lái đến nơi thu gom, giá bán trung bình 50 nghìn đồng/kg; trung bình mỗi người

dân đi bắt một đêm từ 10 đến 30 kg, tạo thêm thu nhập cho người dân.

● Khai thác Dộp: Việc khai thác Dộp hàng năm tăng thu nhập 3,58% của

hộ, nhưng là nguồn thu nhập khá ổn định vì khai thác quanh năm. Dộp sinh sống

trong lớp bùn non dưới gốc tán bần dọc theo bãi bồi, việc khai thác Dộp diễn ra

quanh năm, vào những hôm trời sáng, khi nước rút cạn (nước ròng), người dân đi

vào các bãi bồi dưới tán rừng, dùng tay (có bảo hộ) là thu hoạch được Dộp; việc

tìm bắt Dộp đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, do Dộp ẩn dưới lớp bùn non rất khó phát

hiện, giá thương lái thu mua tại nơi khai thác từ 15 đến 25 nghìn đồng/kg, trung

bình mỗi người dân đi bắt khoảng 15 đến 30 kg. Dộp thu hoạch trong rừng bần rất

ngon, nhiều thịt và không có lẫn cát như Dộp các vùng khác, mua về có thể chế

biến món ăn ngay không cần “ngâm cho Dộp nhả cát”; do vậy Dộp ở nơi đây được

thị trường rất ưu chuộng, bán được giá cao.

102

● Khai thác cá Đối: Cá Đối khai thác quanh năm, khi nước dâng cao, người

dân dùng lưới đánh bắt, khi trúng “con nước” có thể thu hoạch 40 đến 50 kg, giá

bán khoảng 40 nghìn đồng/kg, cá Đối sinh sống trong rừng bần được người dùng

rất ưa chuộng, thịt ngọt, béo; có thể chế biến ăn tươi hoặc dùng làm khô để dự trữ

ăn dần.

● Khai thác Nghêu giống: Vào đầu mùa mưa hàng năm, từ tháng 5 đến cuối

tháng 7. Nghêu giống xuất hiện rất nhiều ở bãi bồi Cù Lao Dung và rừng Long

Vĩnh; việc thu hoạch khi nước đã rút cạn, đòi hỏi tính kiên trì, vất vả, dụng cụ thu

hoach khá đơn giản, phải có phương tiện ghe, tàu để đánh bắt và đi theo nhóm, mỗi

nhóm đánh bắt từ 0,5 kg đến 03 kg, tùy thuộc vào thời tiết và thủy triều; giá Nghêu

giống dao động từ 8 triệu đến 15 triệu đồng/kg, tùy theo kích cỡ Nghêu và nhu cầu

của thị trường; đến mùa thu hoạch, thương lái từ nhiều nơi như: Cà Mau, Bạc Liêu,

Tiền Giang, Nam Định và Hải Phòng vào thu mua về nuôi.

● Khai thác cá Thòi lòi: Thu nhập trung bình khoảng 430 nghìn

đồng/hộ/năm, nhưng trên thực tế chỉ một số hộ chuyên đánh bắt Thòi lòi thịt, việc

đánh bắt đòi hỏi kinh nghiệm, việc đánh bắt Thòi lòi thịt diễn ra quanh năm, một

người có thể đánh bắt 02 đến 06 kg/ngày, tùy thuộc vào thời tiết và thủy triều; giá

bán Thòi lòi thịt khá cao, dao động từ 100 đến 160 nghìn đồng/kg tùy theo trọng

lượng; thị trường tiêu thu rất mạnh, khu vực thích hợp cho Thòi lòi sinh trưởng là

vùng bãi bồi dọc theo các cửa sông, kênh rạch đan xen với rừng bần đổ ra biển.

● Khi thác trái Bần chín: Thông thường đến mùa Bần chín (vào khoảng

tháng 5 đến tháng 7), người dân chỉ lượm về nấu ăn trong gia đình, hoặc bán cho

người câu cá dùng làm “mồi” câu cá Bông lau, cá Ngác, cá Tra bần hoặc mang ra

chợ bán với người mua nhỏ lẻ mang lại thu nhập không cao; số Bần chín còn lại

trôi sông, trôi biển bỏ đi. Đến năm 2012 tại huyện có cơ sở thu mua trái Bần chín

với giá 8.000 đồng/1kg, bình quân một người đi lượm khoảng 20 kg mất thời gian

1 giờ, một người có thể lượm 50 kg/buổi; có thể xem cây Bần là cây “xóa đói,

giảm nghèo” cho những người lao động không có đất, không có vốn sản xuất, kinh

103

doanh; sản phẩm “Nước cốt trái Bần” của cơ sở Ngọc Hồng đã có thương hiệu trên

thị trường, hàng năm tiêu thụ khoảng 30 đến 50 tấn trái Bần chín nguyên liệu.

● Khai thác các sản phẩm khác: Ngoài các sản phẩm từ rừng bần đã nêu

trên, trong rừng bần có các loài thủy hải sản khác như: tôm sú, tôm thẻ, ốc Len, ốc

Lá, con Lịch, con Đồm độp… là sản phẩm đóng góp cho thu nhập trung bình hộ

dân 420 nghìn đồng, chiếm 2,31% tổng thu nhập hộ.

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Hình 4.5. Tỷ trọng các sản phẩm tạo thu nhập hộ gia đình/ha/năm

Tỷ trọng thu nhập trung bình hộ/ha/năm được thể hiện Hình 4.5.

Tóm lại, từ kết quả tổng số hộ dân sống ven rừng bần nhận khoán rừng tại

địa bàn nghiên cứu tổng cộng là: 3.169,8 ha (Mục 4.1.1, Chương 4), với thu nhập

bình quân khai thác sản phẩm từ rừng bần là 18,174 triệu đồng/ha/năm. Như vậy,

tổng thu nhập của hộ dân sống ven rừng bần tại địa bàn nghiên cứu là:

Thu nhập = 3.169,8 ha x 18,174 triệu đồng/ha/năm = 57.607,945 triệu

đồng/năm.

4.4.3. Kết quả hồi quy của mô hình tạo thu nhập

Sau khi thực hiện các bước kiểm định, kết quả hồi quy Bảng 4.3 như sau:

104

Bảng 4.3. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy

Hệ số chưa chuẩn hóa

Hệ số chuẩn hóa

Thống kê cộng tuyến

t

Sig.

Beta

Tolerance

VIF

B 20,852 0,274 1,630 1,224 -0,533 0,078 1,297 0,280 2,215 -2,240 11,460

Std. Error 1,929 0,093 0,838 0,636 0,270 0,028 0,651 0,126 0,877 0,812 0,994

10,808 2,955 0,117 1,946 0,081 1,925 0,074 -1,975 -0,085 2,825 0,113 1,994 0,077 2,227 0,086 2,525 0,149 -0,110 -2,760 0,725 11,527

0,000 0,004 0,053 0,056 0,050 0,005 0,048 0,027 0,012 0,006 0,000

1,077 1,189 1,029 1,268 1,102 1,033 1,030 2,400 1,090 2,723

0,929 0,841 0,972 0,788 0,907 0,968 0,971 0,417 0,918 0,367

(Constant) X1 X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10 R2 hiệu chỉnh Giá trị F Sig. Durbin - Watson

0,697 44,637 0,000 1,929

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Kết quả ước lượng mô hình hồi quy (bảng 4.3) cho thấy 10 biến có ý nghĩa

thống kê, trong đó 04 biến có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (X1, X5, X9, X10), 04

biến có ý nghĩa thống kê ở mức 5% (X4, X6, X7, X8) và 02 biến có ý nghĩa thống

kê ở mức 10% (X2, X3); R2 hiệu chỉnh = 69,7% (69,7% thay đổi thu nhập của hộ

dân được giải thích bởi 10 biến độc lập); Theo Fomby và cộng sự (1984), giá trị

thống kê Durbin - Watson = 1,929 lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3 (Không có hiện tượng

tự tương quan phần dư); VIF < 10 (Không có hiện tượng đa cộng tuyến của các

biến độc lập).

Đối với phương sai phần dư, nghiên cứu sử dụng kiểm định White (1980).

Kết quả kiểm định hệ số White nhỏ hơn giá trị thống kê bảng nên không có hiện

phương sai phần dư thay đổi.

105

Thông qua các kiểm định trên, mô hình khẳng định có 10 yếu tố ảnh hưởng

đến thu nhập dân sống xung quanh rừng bần: X1, X2, X3, X4, X5, X6, X7, X8, X9, X10.

Mức độ tác động của các yếu tố được trình bày Bảng 4.4.

Vị trí tác động 3 8 10 7 4 9 6 2 5 1

Các biến độc lập X1 X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10 Tổng

Giá trị tuyệt đối Beta 0,117 0,081 0,074 0,085 0,113 0,077 0,086 0,149 0,110 0,725 1,617

Tỷ lệ % 7,2 5,0 4,6 5,3 7,0 4,8 5,3 9,2 6,8 44,8 100

Bảng 4.4. Mức độ tác động của các yếu tố

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Mức độ tác động theo thứ tự từ lớn đến nhỏ nhất: Tiếp cận vốn vay từ các

định chế chính thức (X10); Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương (X8); Học vấn

(X1); Diện tích đất sản xuất (X5); Cú sốc tự nhiên X9); Số hoạt động sản xuất - kinh

doanh tạo thu nhập X7); Quy mô hộ X4); Giới tính chủ hộ (X2); Thu nhập từ sản

phẩm rừng bần (X6); Thành phần dân tộc của chủ hộ (X3).

Trong điều kiện rừng bần tại ĐBSCL, nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh

hưởng đến thu nhập hộ dân sống xung quanh rừng bần theo thứ tự tác động, gồm:

(i) Vốn tài chính, (ii) vốn xã hội, (iii) vốn con người, (iv) vốn vật chất, và (v) vốn

tự nhiên.

* Thảo luận kết quả hồi quy:

Để nâng cao thu nhập cho hộ dân, 5 vấn đề cần quan tâm giải quyết:

● Nâng cao năng lực vốn tài chính cho các hộ dân thông qua tạo điều kiện

cho hộ tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

106

triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội) và các Quỹ tài trợ phát triển và bảo

vệ RNM ven biển, đặc biệt là các phương án khai thác thủy sản và phụ phẩm rừng

bần có hiệu quả kinh tế và gắn với cân bằng sinh thái.

● Mở rộng vốn xã hội cho các hộ dân thông qua tác động của hiệp hội Nông

dân, Trung tâm khuyến nông, Trung tâm khuyến lâm bằng các hình thức Câu lạc

bộ, tập huấn các mô hình sản xuất hiệu quả, kỹ thuật mới, thông tin thị trường,

biến động của môi trường RNM.

● Duy trì năng lực vốn con người thông qua các chính sách nâng cao dân trí

cho con em hộ dân, tỷ lệ sinh hợp lý, vai trò phụ nữ tham gia sản xuất - kinh

doanh, đặc biệt là quan tâm đến người đồng bào dân tộc và người yếu thế trong xã

hội.

● Nâng cao vốn vật chất cho các hộ dân thông qua việc áp dụng mô hình

thâm canh rừng, đa dạng các loại hình sản xuất nông - lâm - nuôi trồng thủy sản ở

vùng đệm và chế biến sản phẩm từ bần, dịch vụ du lịch sinh thái rừng bần.

● Tích cực củng cố vốn tự nhiên thông qua đẩy nhanh tiến độ thực hiện các

dự án bảo vệ, khôi phục và phát triển RNM nhằm hạn chế tối đa những cú sốc tự

nhiên, ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ dân sống xung quanh vùng rừng bần.

Để có cách nhìn tổng quát các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ dân từ

sản phẩm rừng bần trong nghiên cứu, trên cơ sở phân tích các yếu tố ảnh hưởng

đến thu nhập của chủ hộ được thể hiện tại Phụ lục A.3.

4.5. Kết quả giá trị du lịch rừng bần ngập mặn

4.5.1. Đặc điểm mẫu điều tra rừng bần ngập mặn huyện Cù Lao Dung

Đặc điểm của du khách trong nghiên cứu được trình bày trong Bảng 4.5.

107

Bảng 4.5. Đặc điểm của du khách đến RBNM huyện Cù Lao Dung

Tiêu chí

Trung bình

Số quan sát

Độ lệch chuẩn

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

250

1,05

0,214

1

2

trong

250

5,18

1,779

2

11

Số lượt tham quan (Lần/Năm) Số người nhóm (Người)

250

154,15

90,893

38

360

Khoảng cách đến điểm du lịch (Km)

250

120,87

57,428

41

460

250

43,71

18,444

16

72

250

14,81

2,660

6

24

250

0,82

0,382

0

1

250

0,92

0,278

0

1

bình

250

72,33

11,455

42

97

Thu nhập gia đình (Triệu đồng/Năm) Tuổi người được phỏng vấn (Tuổi) Số năm đi học (Năm) tính người Giới được phỏng vấn (Nam=1, nữ=0) Hôn nhân (Có gia đình=1, độc thân=0) Ăn uống quân/người (Nghìn đồng)

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Với lượng du khách hàng năm khoảng 2.800 người (chỉ tính du khách đi

bằng phương tiện xe ô tô) và số mẫu phỏng vấn là 250 quan sát. Trung bình mỗi du

khách đến tham quan 1,05 lần/năm, điều này cho thấy điểm tham quan RBNM

huyện Cù Lao Dung còn mới, chưa thu hút được khách đến thăm. Số người đi

trong nhóm nhỏ nhất là 02 người, nhiều nhất có 11 người. Khoảng cách gần nhất

38 km, xa nhất là 360 km. Thu nhập gia đình khá cao, thấp nhất là 41 triệu

đồng/năm, cao nhất đến 460 triệu đồng/năm. Độ tuổi trung bình du khách là 43,71

tuổi, nằm trong độ tuổi lao động trưởng thành. Số năm đi học trung bình của du

khách là 14,8 năm, cho thấy rằng mặt bằng chung du khách đã qua đào tạo trung

cấp chuyên môn. Đối với những du khách được phỏng vấn thì có đến 82% du

108

khách có giới tính là nam, phần lớn những người được phỏng vấn đã có gia đình,

chiếm đến 92%. Chi phí ăn, uống bình quân là 72.330 đồng/người/ngày.

4.5.2. Phương pháp xác định tổng giá trị du lịch

Để xác định tổng giá trị du lịch trong luận án thông qua phương pháp chi

phí du hành. Theo Bateman (1993) cho rằng, chi phí du hành được giả định cấu tạo

từ ba thành phần quan trọng: (1) Chi phí di chuyển, (2) chi phí ăn uống, và (3) chi

phí cơ hội của thời gian, được nêu trong các thành phần sau:

(1) Chi phí di chuyển:

Chi phí di chuyển hay chi phí đi lại của du khách đến nơi du lịch được chia

làm ba cách để tính toán: (i) Chỉ gồm chi phí nhiên liệu; (ii) gồm cả tiền xăng, tiền

bảo dưỡng, bảo hiểm…, và (iii) dựa theo chi phí được phỏng đoán bởi du khách.

Theo Bateman (1993), các chi phí này chỉ khác biệt nhau rất lớn ở tính thặng dư,

còn các hệ số thống kê có sự khác biệt rất ít, cách tính (i) được khuyên dùng để cho

ra kết quả dự báo tốt nhất, nhưng thực tế di chuyển đến huyện Cù Lao Dung thì tất

cả phương tiện phải trả phí qua phà và thuê tàu du lịch nên trong trường hợp này

phải tính thêm chi phà và tàu du lịch vào chi phí di chuyển.

(2) Chi phí ăn uống:

Theo Centeno và cộng sự (2000), cần phải cẩn trọng khi tính toán đến chi

phí này vì không phải là chi phí tuyệt đối do đôi khi đối với một số du khách, việc

thưởng thức ẩm thực trân chuyến đi là một trải nghiệm khi du lịch; như vậy, chỉ có

tiền chi cho ăn uống trên đường du hành hoặc chi phí để chuẩn bị thức ăn mang

theo được tính vào chi phí du hành.

(3) Chi phí cơ hội của thời gian:

Một chi phí rất quan trọng là chi phí cơ hội của thời gian để đánh đổi cho

việc đi du lịch, cách tính toán chi phí này hiện nay còn là chủ đề quan trọng; nhưng

theo Armbrecht (2014), Chen và cộng sự (2004), De và Devi (2011), Gurluk và

109

Rehber (2007), Dehlavi và Adil (2011)… đều chọn tỷ lệ chi phí cơ hội theo tiền

lương ngày bằng 1/3 được áp dụng phổ biến, xem như một ngày làm việc 8 giờ.

4.5.3. Xác định tổng giá trị du lịch

(1) Phân vùng du khách

Lấy điểm du lịch RBNM huyện Cù Lao Dung làm trung tâm, khoảng cách từ

trung tâm đến vị trí xuất phát là bán kính. Các điểm xuất phát của du khách được tổ

hợp theo các tỉnh, thành phố (gọi tắt là tỉnh). Trong khi đó, tổng dân số trưởng thành

của mỗi vùng (Pi) được tính bằng cách thống kê tổng số dân trưởng thành của các

tỉnh (số liệu phục vụ tính toán được thu thập từ Niên giám thống kê năm 2018).

Bảng 4.6 trình bày cụ thể các số liệu về vùng xuất phát của du khách và tỷ lệ tham

quan (Vi).

110

Bảng 4.6. Phân vùng theo điểm xuất phát của du khách và tỷ lệ tham quan

Khoảng cách

Tổng số người trong độ tuổi LĐ

Tỷ lệ (%)

Vùng Xuất phát (tỉnh)

Lượng khách trung bình (Vi= 2.800 x tỷ lệ %)

(Pi)

(Km)

Số người được phỏng vấn

Tỷ lệ tham quan trên 1.000 dân (‰) VRi=(Vi/Pi)x 1.000

12,8

Sóc Trăng

32

358

737.700

38

48,58

Trà Vinh

16

6,4

179

619.300

58

28,94

Bạc Liêu

16

6,4

179

517.000

90

34,66

Cần Thơ

24

9,6

269

730.400

94

36,8

Vĩnh Long

18

7,2

202

636.900

106

31,65

Hậu Giang

18

7,2

202

481.200

110

41,9

Cà Mau

10

4

112

715.600

160

15,65

Kiên Giang

10

4

112

1.009.300

190

11,1

Đồng Tháp

15

6

168

1.137.200

160

14,77

Tiền Giang

15

6

168

1.135.500

200

14,8

An Giang

15

6

168

1.234.900

160

13,6

Long An

25

10

280

901.300

240

31,07

TP. HCM

15

6

168

4.469.000

290

3,76

Bình Dương

10

4

112

1.330.300

320

8,42

Đồng Nai

8

3,2

90

1.639.200

360

5,47

Tây Ninh

3

1,2

34

664.300

360

5,06

Cộng:

250

100

2.800

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Số liệu Bảng 4.7 cho thấy, du khách được phỏng vấn đến từ 16 tỉnh, thành

trong cả nước, trong đó có 12 tỉnh, thành thuộc khu vực ĐBSCL.

Một số điểm lưu ý khi chọn nhóm du lịch để khảo sát:

Thứ nhất, chỉ phỏng vấn những nhóm du khách đi đến địa điểm nghiên cứu

đã có chương trình kế hoạch tham quan, thưởng ngoạn, những du khách đi bằng

111

phượng tiện ô tô và có tổ chức thành nhóm, đoàn; loại bỏ những nhóm đến nhiều

địa điểm, sau đó ghé ngang tham quan, hoặc những nhóm đi dưới dạng “phượt”

hoặc “tò mò” (Nguyen Thi Hai và Tran Duc Thanh, 1999) sẽ làm cho mẫu khảo sát

ít bị chệch hơn do đã lọc bỏ các quan sát “thừa” (Võ Tất Thắng và cộng sự, 2017).

Thứ hai, không phỏng vấn khách nước ngoài, do lượng khách nước ngoài

hàng năm đến tham quan, du lịch là không đáng kể.

Thứ ba, du khách đến tham quan trong ngày, vì nơi đây không có chỗ nghỉ.

Thời gian tiến hành khảo sát: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2019

đến tháng 12 năm 2019, thời gian này khí hậu và thời tiết tại RBNM huyện Cù Lao

Dung là tốt nhất và thuận lợi nhất cho du khách đến tham quan.

Số khảo sát nhóm du khách tại thành phố Sóc Trăng chiếm tỷ lệ cao nhất

với 12,80%, du khách tỉnh Long An là 10,00%, tỉnh Tây Ninh có tỷ lệ thấp nhất

1,20%… Các tỉnh có khoảng cách càng xa, số lượng nhóm tham quan càng ít dần.

Các nhóm du lịch đến RBNM huyện Cù Lao Dung đều có nhận định,

RBNM huyện Cù Lao Dung là vùng “độc nhất vô nhị” trên cả nước; với đặc thù

toàn cây bần cao vút, một màu xanh bạt ngàn, bao bọc bởi 02 cửa sông, dãy rừng

hướng ra biển đông mang vẻ đẹp kỳ bí; thức ăn tươi, ngon, với những món ăn chế

biến từ thủy, hải sản sinh sống trong rừng, rất thiên nhiên và hoang dã. Do đó, việc

khai thác, phát triển, bảo vệ rừng là hướng đi đúng đắn và bền vững.

(2) Xác định tỷ lệ tham quan

Từ kết quả Bảng 4.7, tỷ lệ tham quan cao tập trung ở những tỉnh gần như:

Sóc Trăng là 48,58‰, Hậu Giang có 41,90‰, và thấp nhất là thành phố Hồ Chí

Minh có 3,76‰. Thực tế cho thấy địa bàn càng xa, du khách tham quan càng ít,

trong khi điểm du lịch RBNM huyện Cù Lao Dung còn khá mới, nên ít người biết

đến.

(3) Xác định chi phí du lịch, bao gồm: chi phí đi lại (CP1), Chi phí cơ hội

thời gian (CP2), và chi phí ăn, uống (CP3), cụ thể sau:

112

● Tính chi phí đi lại (CP1), bao gồm: Chi phí qua phà, chi phí nhiên liệu, và

phí thuê tàu du lịch.

Chi phí qua phà: Các phà Đại Ngãi 1, ngang cửa Trần Đề vả phà Đại Ngãi

2 qua cửa Định An, phí ô tô qua phà là: 50.000 đồng/xe/chuyến (Quyết định số

13/2018/QĐ-UBND ngày 29/5/2018 của UBND tỉnh Sóc Trăng).

Chi phí nhiên liệu: Căn cứ tại tiết b, khoản 2, Điều 5, Thông tư số

40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính, quy định chế độ công tác phí,

chế độ chi hội nghị, quy định đi công tác: “tự túc bằng phương tiện cá nhân của

mình thì được thanh toán khoán tiền tự túc phương tiện bằng 0,2 lít xăng/km tính

theo khoảng cách địa giới hành chính và giá xăng tại thời điểm đi công tác và được

quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị”. Giá xăng tại thời điểm khảo sát

tương đương 20.000 đồng/lít.

Chi phí thuê tàu du lịch: Chi phí cho một chuyến tàu tham quan dao động

khoảng 1.500.000 đồng/chuyến cho 50 du khách (giá cả thỏa thuận). Quy mô

nhóm khảo sát từ 2 đến 11 người, do đó khi đi tham quan phải ghép nhóm. Nghiên

cứu khảo sát trung bình khoảng 2 đến 4 nhóm ghép một chuyến tàu. Lấy trung

bình 3 nhóm thuê một chuyến, như vậy chi phí thuê tàu mỗi nhóm là 500.000

đồng/chuyến. Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 4.7.

113

Bảng 4.7. Chí phí đi lại (CP1) điểm du lịch

TT

Vùng xuất phát

Khoảng cách (Km)

Chi phí ô tô (4.000 VND/Km)

Tổng chi phí (CP1) (Đồng)

Số người tham gia nhóm (Người)

Tàu DL+Chí phí phà (Đồng)

Số nhóm phỏng vấn (Phiếu)

173 78 91 113 96 91 50

1 2 3 4 5 6 7

38 58 90 94 106 110 160

110.983 123.077 105.495 127.434 112.500 118.681 120.000

1.757 5.949 7.912 6.655 8.833 9.670 25.600

112.740 129.026 113.407 134.088 121.333 128.352 145.600

54

8

10

190

111.111

28.148

139.259

80

15

9

160

112.500

16.000

128.500

73

10

15

200

123.288

21.918

145.205

80 129 81

15 25 15

160 240 290

112.500 116.279 111.111

16.000 14.884 28.642

128.500 131.163 139.753

53

14

10

320

113.208

48.302

161.509

Sóc Trăng 32 16 Trà Vinh Bạc Liêu 16 24 Cần Thơ Vĩnh Long 18 Hậu Giang 18 10 Cà Mau Kiên Giang Đồng Tháp Tiền Giang 11 An Giang 12 Long An 13 TP. HCM Bình Dương

41 11

15 Đồng Nai 16 Tây Ninh

8 3

360 360

117.073 163.636

70.244 261.818

187.317 425.455

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

● Chi phí cơ hội của thời gian (CP2):

Như đã nêu ở mục 3.3.4, chi phí cơ hội được tính bằng 1/3 tiền lương, đây

là cách tính được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng như: Du (1998), Chen và cộng sự

(2004), Phạm Khánh Nam và Trần Vũ Hùng Sơn (2005), De và Devi (2011), Võ

Tất Thắng và cộng sự (2017).

Áp dụng cho nghiên cứu là hiện nay các tỉnh, thành phố không có số liệu

thống kê về tiền lương trung bình cho từng khu vực. Trong khi đó, theo thống kê

của Ngân hàng thế giới (WB) thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam năm

2017 là 6.775 USD/năm (Niên giám Thống kê, 2017; Võ Tất Thắng và cộng sự,

114

2017). Chi phí cơ hội của thời gian cho một ngày du lịch đến rừng bần huyện Cù

Lao Dung được tính như sau:

CP2 = 6.775 (USD) x 23.000 (đồng)/(3x26x12) = 166.480 đồng/ngày/người.

Trong đó, mẫu số (3x26x12) được giải thích như sau: Giờ nhân với ngày

nhân với tháng, 24 giờ chia cho 3 = 8 giờ làm việc, 1 tháng chia cho 26 ngày = 1

ngày làm việc và 1 năm chia cho 12 tháng ra 01 tháng như vậy có được giá trị một

ngày làm việc của một người để tính chi phí cơ hội quy thành tiền trong 1 ngày.

Nhận xét: Kết quả trên khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, bởi nếu

tính theo Nghị định 157/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định

mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động,

thì tiền lương bình quân ngày năm 2019 là 135.192 đồng.

● Chi phí ăn, uống (CP3): Du khách đến tham quan điểm du lịch RBNM

huyện Cù Lao Dung, chi phí ăn, uống trung bình cho các nhóm du khách đi từ các

tỉnh, thành một suất ăn uống chi cho một người tại Bảng 4.8.

115

Bảng 4.8. Tổng chi phí tham quan của từng vùng xuất phát

ĐVT: Đồng

Khoảng

CP1

CP2

CP3

TC

Vùng xuất

cách

TT

phát

(Phà, ô tô, tàu)

(CP cơ hội)

(Ăn, uống)

(Tổng CP)

(Km)

1 Sóc Trăng

38

112.740

166.480

53.250

332.470

2 Trà Vinh

58

129.026

166.480

58.500

354.005

3 Bạc Liêu

90

113.407

166.480

61.400

341.286

4 Cần Thơ

94

134.088

166.480

64.100

364.668

5 Vĩnh Long

106

121.333

166.480

72.500

360.313

6 Hậu Giang

110

128.352

166.480

75.300

370.131

7 Cà Mau

160

145.600

166.480

74.900

386.980

8 Kiên Giang

190

139.259

166.480

71.100

376.839

9 Đồng Tháp

160

128.500

166.480

75.700

370.680

10 Tiền Giang

200

145.205

166.480

82.700

394.385

11 An Giang

160

128.500

166.480

74.600

369.580

12 Long An

240

131.163

166.480

82.600

380.242

13 TP. HCM

290

139.753

166.480

83.100

389.333

14 Bình Dương

320

161.509

166.480

88.100

416.089

15 Đồng Nai

360

187.317

166.480

88.900

442.697

16 Tây Ninh

360

425.455

166.480

96.300

688.234

Cộng:

6.337.932

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

(4) Xây dựng đường cầu du lịch

Từ kết quả xử lý số liệu điều tra, kết quả hồi quy hàm cầu Bảng 4.9.

116

Bảng 4.9. Kết quả hồi quy mô hình hàm cầu du lịch

Chỉ tiêu

Hệ số (B)

Mức

ý

nghĩa

VIF

(Sig.)

Hằng số

57,750

0,003

TC

- 0,00009148

0,038

1,000

Hệ số tương quan bội R = 0,522

Hệ số Sig.F = 0,003

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Hệ số Sig.F = 0,003 nhỏ hơn so với mức ý nghĩa α = 0,5 chứng tỏ mô

hình hồi quy có ý nghĩa. Biến độc lập TC đưa vào mô hình có ý nghĩa thống

kê (Sig.= 0,038 < α = 0,05). Hệ số tương quan bội R = 0,522 cho thấy biến

phụ thuộc có mối tương quan với biến độc lập.

Dựa vào kết quả ước lượng trong Bảng 4.10, từ phương trình (1) thiết

VR = 57,750 – 0,00009148 x TC

lập phương trình hồi quy sau:

(4.1)

Từ phương trình 4.1, đồ thị thể hiện đường cầu du lịch RBNM huyện Cù

TC (đồng)

631.286

VR = 57,750 – 0,00009148 xTC

0 57,750 VR (‰)

Lao Dung của du khách trong nước được xây dựng như hình sau:

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả, năm 2019

Hình 4.6. Đường cầu du lịch rừng bần huyện Cù Lao Dung của du khách

117

(5) Ước lượng giá trị du lịch và giá trị thặng dư du lịch

Diện tích nằm phía dưới đường cầu chính là giá trị du lịch của RBNM

huyện Cù Lao Dung mang lại cho xã hội. Diện tích này có thể được tính toán bằng

công thức tính diện tích tam giác thông thường:

S = ½ x 57,750 x 631.286 = 18.228.383,25 đồng/1.000 dân (4.2)

Đồ thị Hình 4.6 cũng thể hiện phần giá trị du lịch khi đến tham quan rừng

bần (S).

Dựa vào chi phí du hành trung bình TCi và tỷ lệ viếng thăm VRi của mỗi

vùng, ta tính được giá trị thặng dư cho mỗi vùng CSi. Tương tự như giá trị du lịch,

từ phương trình (4.2) thặng dư của du khách (CS) là diện tích tam giác được tạo

thành bởi đường cầu VR và đường chi phí TC, phần giá trị thăng dư được bằng

cách vận dụng công thức tính diện tích tam giác:

CS = ½ x VR x (631.286 – TC)

Thặng dư của du khách (CS) khi tham quan RBNM với một chi phí TCi

TC (đồng)

631.286

VR = 57,750 – 0,00009148 xTC

GTDL – CS: Chi tiêu

CS: Thặng dư 0 57,750 VR (‰)

được thể hiện tam giác CS (Hình 4.7).

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả, năm 2019

Hình 4.7. Tổng giá trị du lịch của du khách

118

Theo Trần Võ Hùng Sơn và Phạm Khánh Nam (2001) định nghĩa, tổng giá

trị du lịch bằng tổng thặng dư cộng tổng chi tiêu. Bảng 4.11 trình bày tổng các giá

trị ước tính gồm các thành phần: Giá trị du lịch, thặng dư du khách, chi tiêu của du

khách từ mỗi vùng (Hình 4.7).

Nhận xét: Từ kết quả Bảng 4.10 cho thấy rằng, chỉ tính riêng với đối tượng

là khách nội địa, giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung mang lại cho toàn

xã hội và nền kinh tế trong một năm quy đổi dưới dạng tiền tệ là: 327.365,36 triệu

đồng. Giá trị này được phân phối, trước hết cho du khách khi đến RBNM huyện

Cù Lao Dung, những người đạt được lợi ích bằng cách thực hiện các hoạt động vui

chơi, giải trí, tham quan, du lịch dưới hình thức thặng dư du khách và cho các công

ty cung cấp dịch vụ du lịch dưới hình thức chi tiêu (Trần Võ Hùng Sơn và Phạm

Khánh Nam, 2001). Như vậy, các công ty cung cấp dịch vụ du lịch đến RBNM

huyện Cù Lao Dung hàng năm đạt được một lợi ích mang lại tương đương

291.208,01 triệu đồng từ việc phục vụ du khách. Trong khi đó, thặng dư của du

khách có được từ việc tham quan, du lịch RBNM huyện Cù Lao Dung là:

36.157,35 triệu đồng.

119

Bảng 4.10. Giá trị du lịch và giá trị thặng dư của khách các vùng xuất phát

Giá trị du lịch

Chi tiêu

Thặng dư du khách CSi = Pi x CS

Vùng xuất phát

(Triệu đồng) GTDL – CSi

Thặng dư du khách CS (Nghìn đồng)

Số người trưởng thành Pi (Nghìn người)

GTDL=18.228. 383,25 x Pi (Triệu đồng)

5.354,79

(Triệu đồng) 8.092,29

Sóc Trăng

7.258,76

737.700

13.447,08

2.484,43

8.804,40

Trà Vinh

4.011,68

619.300

11.288,84

Bạc Liêu

5.025,91

517.000

9.424,07

2.598,40

6.825,68

Cần Thơ

4.906,00

730.400

13.314,01

3.583,34

9.730,67

Vĩnh Long

4.288,60

636.900

11.609,66

2.731,41

8.878,25

Hậu Giang

5.470,57

481.200

8.771,50

2.632,44

6.139,06

Cà Mau

1.911,84

715.600

13.044,23

1.368,12

11.676,12

Kiên Giang

1.411,77 1.009.300

18.397,91

1.424,90

16.973,00

Đồng Tháp

1.924,98 1.137.200

20.729,32

2.189,09

18.540,22

Tiền Giang

1.752,50 1.135.500

20.698,33

1.989,97

18.708,36

An Giang

1.780,17 1.234.900

22.510,23

2.198,33

20.311,90

Long An

3.899,49

901.300

16.429,24

3.514,61

12.914,63

TP. HCM

454,78 4.469.000

81.462,64

2.032,41

79.430,24

Bình

905,89 1.330.300

24.249,22

1.205,10

23.044,12

Dương

Đồng Nai

515,42 1.639.200

29.879,97

844,88

29.035,09

Tây Ninh

7,72

664.300

12.109,11

5,13

12.103,99

Cộng:

327.365,36

36.157,35

291.208,01

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Bằng phương pháp chi phí du hành theo vùng, nghiên cứu đã xác định được

giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung, cũng như xây dựng được đường

cầu du lịch của du khách trong nước đối với RBNM huyện Cù Lao Dung. Đây là

một trong những nghiên cứu đầu tiên về giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao

Dung được tính toán bằng một nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu cho thấy

giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung là rất lớn. Vì vậy, nếu được quản lý,

120

khai thác tốt, kết hợp với bảo tồn và phát triển và tăng cường quảng bá, truyền

thông; thì số lượng du khách sẽ còn tiếp tục tăng lên, kéo theo sự gia tăng giá trị du

lịch địa phương. Nghiên cứu cũng đã góp phần làm phong phú thêm cho chủ đề về

giá trị cảnh quan và phương pháp chi phí du hành.

Qua kết quả điều tra, khảo sát thực tế việc tổ chức triển khai du lịch tại địa

bàn nghiên cứu huyện Cù Lao Dung, còn những hạn chế, bất cập cần phải giải

quyết, như sau:

● Các hoạt động khai thác du lịch gắn liền với hệ sinh thái rừng còn kém

hiệu quả, hạ tầng phục vụ du lịch chưa được quan tâm đầu tư đồng bộ, sản phẩm

du lịch chưa phong phú, đa dạng, tổ chức du lịch mang tính tự phát, chưa chuyên

nghiệp.

● Tiềm năng du lịch tại RBNM huyện Cù Lao Dung còn rộng mở, tương lai

khi cầu Đại Ngãi 1 và cầu Đại Ngãi 2 xây dựng thông tuyến Quốc lộ 60, việc khai

thác, phát triển du lịch nơi đây mang lại nguồn lợi to lớn cho huyện Cù Lao Dung

nói riêng và cả tỉnh Sóc Trăng. Do đó, ngay từ bây giờ cầm sớm có quy hoạch, mời

gọi đầu tư phát triển du lịch là hướng đi hoàn toàn đúng đắn.

● Nguồn lực con người hiện nay làm du lịch tại huyện Cù Lao Dung mang

tính chấp vá, tự phát, chưa chuyên nghiệp, chưa được đào tạo bài bản; việc tổ chức

các tour du lịch vừa qua mang tính rập khuôn, máy móc, chưa khai thác được ưu

thế đặc trưng của vùng. Địa phương cần mở rộng các hoạt động dịch vụ như: câu

Cua Biển, câu Ba Khía, đuổi bắt cá Thòi Lòi, cá Bống Sao, giăng lưới bắt cá Đối,

cá Rô Phi; mở dịch vụ cào Nghêu, bắt Dộp, bắt ốc Len dưới tán rừng bần; bảo tồn

và phát triển đàn khỉ đuôi dài đang tồn tại và sinh sống rất lâu đời ở nơi đây.

● Cần có chính sách giao khoán rừng cho các Tổ Quản lý rừng, kết hợp

giữa bảo vệ, phát triển rừng bần và khai thác các sản phẩm từ rừng bần mang lại

thu nhập cho người dân nơi đây.

Bên cạnh những mặt đạt được, nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế như

khảo sát tập trung trong một khoảng thời gian ngắn (ba tháng) và chỉ khảo sát đối 121

tượng đi đến điểm nghiên cứu bằng phương tiện di chuyển xe ô tô và là khách

trong nước, mà chưa khảo sát đối tượng di chuyển đến bằng các phương tiện khác

và đối tượng khách quốc tế. Nghiên cứu kế thừa các lý thuyết trước đây về ứng

dụng phương pháp chi phí du hành theo vùng để xác định giá trị du lịch, nhưng chỉ

dừng lại ở mức tính toán giá trị du lịch của RBNM huyện Cù Lao Dung thông qua

ước lượng hàm cầu, chưa đi sâu vào xem xét các yếu tố nào ảnh hưởng lớn đến

hàm cầu du lịch tại RBNM huyện Cù Lao Dung. Do đó, các nghiên cứu tiếp theo

cần mở rộng thời gian phỏng vấn tại nhiều thời điểm trong năm, tăng số lượng

phiếu khảo sát, phỏng vấn nhiều nhóm đối tượng khảo sát và đưa du khách quốc tế

vào đối tượng khảo sát cùng với khách nội địa. Ngoài ra, nghiên cứu tiếp theo cần

định hướng vào các yếu tố có ảnh hưởng đến hàm cầu du lịch tại RBNM huyện Cù

Lao Dung, từ đó đề xuất những chính sách tốt hơn để kích cầu du lịch đến du lịch

tại RBNM huyện Cù Lao Dung ngày càng nhiều hơn trong thời gian tới.

4.6. Giá trị phòng hộ của rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long

Rừng bần ngập mặn tại khu vực nghiên cứu đóng vai trò như một “tấm

đệm” chắn sóng có khả năng bảo vệ giảm bớt thiệt hại của gió, bão gây ra cho đê

biển, giúp duy trì được tính bền vững của đê. Hệ thống đê biển của khu vực nghiên

cứu có tổng chiều dài khoảng 109 km, trong đó chiều dài RBNM phòng hộ ven

biển 30,5 km, với tổng diện tích RBNM là 3.169 ha, nơi hẹp nhất là 0,5 km và nơi

rộng nhất là 6,5 km. RBNM đã có từ những thế kỷ trước đây, đến thập niên 80 của

Thế kỷ XX, rừng bần được người dân trồng bổ sung nhằm mục đích giữ đất, lấn

biển; loài cây rừng chủ yếu nơi đây là Bần chua.

Rừng bần tại ĐBSCL chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, mưa tập trung

từ tháng 6 đến tháng 11 dương lịch, trong cơn mưa thường xuất hiện những cơn

giông, lốc xoáy, triều cường; sau mỗi cơn mưa, rất nhiều đoạn đê biển bị phá vỡ

hoặc xói lở nghiêm trọng. Hàng năm ngân sách Trương ương và địa phương phải

bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để duy tu, bảo dưỡng đê biển; đai RBNM đã góp phần

tránh thiệt hại do mưa, bão và giảm chi phí đầu tư đê bao. Vốn đầu tư cho đê bao

được thống kê cụ thể phần sau.

122

4.6.1. Huyện Duyên Hải

Vốn đầu tư đoạn đê bao huyện Duyên Hải theo Quyết định số 2442/UBND-

NN ngày 10/7/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh về việc duy tu, bảo dưỡng

đê điều. Tổng đầu tư cho đê bao với chiều dài đê bao là: 1.965 m, với tổng kinh

phí: 1.499.600.000 đồng.

4.6.2. Huyện Trần Đề

Theo Quyết định số 706/QĐHC-CTUBND ngày 07/7/2018 của Chủ tịch

UBND tỉnh Sóc Trăng về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Đê biển

từ cầu Mỹ Thanh 1 đến cầu Mỹ Thanh 2, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, tuyến

đê biển với tổng chiều dài 21,240 km, tổng mức đầu tư của dự án: 169,7 tỷ đồng.

Căn cứ Quyết định số 2606/QĐHC-CTUBND ngày 10/9/2019 của Chủ tịch

UBND tỉnh Sóc Trăng về việc phê duyệt thiết kế và Dự án đầu tư xây dựng công

trình Nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn mặn từ cầu Mỹ Thanh 2

đến ranh Bạc Liêu, tỉnh Sóc Trăng; với tổng mức đầu tư của dự án: 263,564 tỷ

đổng, gồm các hạng mục: Nâng cấp tuyến đê hiện hữu 33,16 km đê biển để ngăn

triều cường xâm nhập, làm mới 3 km kè biển.

4.6.3. Huyện Cù Lao Dung

Theo Quyết định số 3103/QĐHC-CTUBND ngày 23/11/2018 của Chủ tịch

UBND tỉnh Sóc Trăng về việc phê duyệt điều chỉnh Tiểu dự án đầu tư cơ sở hạ

tầng phục vụ chuyển đổi sản xuất phù hợp với điều kiện sinh thái, nâng cao sinh

kế, thích ứng biến đổi khí hậu vùng Cù Lao Dung (Dự án ICRSL); với tổng mức

đầu tư của dự án: 799,629 tỷ đồng, gồm các hạng mục: Nâng cấp 22,454 km đê để

ngăn triều cường xâm nhập, xây mới 02 tuyến đê, với chiều dài 39,892 km…

123

Bảng 4.11. Tổng hợp vốn đầu tư duy tu đê bao giai đoạn 2018 - 2019

TT Tên huyện Quyết định UBND tỉnh (Số QĐ) Vốn đầu tư (tỷ đồng) DT rừng bần (ha)

1 Duyên Hải - QĐ 2442/UBND-NN 1,499 1.097

2 Trần Đề - QĐ 706/QĐHC-CTUBND 169,700 698,1

- QĐ 2606/QĐHC-

CTUBND 263,564

- QĐ 3103/QĐHC-

3 Cù Lao Dung CTUBND 779,629 1.374,7

1.214,392 3.169,8

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả, năm 2019

Kết quả Bảng 4.11 cho thấy tổng chi phí (C) tránh được cho việc tu bổ đê

là: 1.214,392 tỷ đồng trong 02 năm, bình quân 1 năm tu bổ chi phí là: 607,196 tỷ

đồng/năm với tổng diện tích rừng bần (S) của địa bàn nghiên cứu là: 3.169,8 ha.

Áp dụng công thức (1) tính chi phí thay thế. Giá trị phòng hộ đê biển (B)

trung bình của một ha rừng bần được tính như sau:

B = 607 tỷ đồng/3.169,8 ha = 0,191 tỷ đồng/ha

RBNM tại ĐBSCL mang lại giá trị phòng hộ hàng năm tương đương với số

tiền: 191 triệu đồng/ha/năm.

Theo Quyết định số 120/QĐ-TTg, định kỳ 10 năm tiến hành bồi trúc đê bao

1 lần, như vậy chi phí bồi trúc đê hàng năm là: 607 tỷ đồng/10 năm = 60,7 tỷ

đồng/năm.

Như vậy RBNM tại ĐBSCL mang lại giá trị phòng hộ hàng năm tương

đương với số tiền: 60,7 tỷ đồng/năm.

4.7 Đề xuất các giải pháp phát triển rừng bần tại đồng bằng sông Cửu Long

4.7.1 Giải pháp về tạo thu nhập hộ gia đình

124

♦ Cần quy hoạch sử dụng đất RBNM: Xây dựng quy hoạch tổng thể về

RBNM, làm cơ sở xây dựng chương trình, kế hoạch khôi phục và phát triển hệ sinh

thái RBNM; cần rà soát, hoàn thiện hoặc xây dựng quy hoạch sử dụng RBNM đối

với từng địa phương và xây dựng quy hoạch tổng thể RNM tại ĐBSCL. Việc quy

hoạch sử dụng rừng bần cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành: Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn, Tài nguyên - Môi trường.

♦ Tăng cường công tác quản lý, quy hoạch sử dụng đất, RBNM: Cần có giải

pháp dự phòng hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của các hoạt động xây dựng cơ sở

hạ tầng, phát triển du lịch, đê biển,... đến các hoạt động bảo vệ, khôi phục và phát

triển rừng bền vững. Nghiêm cấm việc lấn chiếm rừng và đất quy hoạch cho lâm

nghiệp để nuôi trồng thuỷ hải sản, xử lý nghiêm khắc những trường hợp sử dụng

đất không đúng mục đích làm tổn hại đến rừng. Những diện tích sử dụng không

đúng quy hoạch cần thu hồi và xử lý nghiêm khắc. Nơi nào nuôi tôm không có

hiệu quả, cương quyết lấy lại đất để trồng rừng, tạo môi trường sống lâu dài cho

hải sản. Đối với bãi bồi ven biển, các địa phương nên có chủ trương phát triển

rừng, lấn biển; nên giao cho cơ quan chuyên ngành quản lý ngay từ đầu, không nên

giao cho chính quyền cấp xã quản lý, dân sẽ tự ý khoanh nuôi thuỷ sản, ảnh hưởng

tới sự phát triển của rừng khi bãi bồi ổn định.

♦ Xây dựng và thực thi các quy hoạch sử dụng đất chi tiết cấp xã làm cơ sở

phục hồi, quản lý và bảo vệ hệ sinh thái RBNM: Hiện nay, một số địa phương có

diện tích rừng bần phòng hộ ven biển khá lớn thuộc quyền quản lý của Chi cục

Kiểm lâm tỉnh, Trạm Kiểm lâm huyện thì tiếp tục giao đất, giao RBNM cho các Tổ

hợp tác đối với diện tích rừng và đất RBNM chưa có chủ quản lý cụ thể. Vùng có

đất và nguồn lợi về RBNM tốt, phong phú nên giao đến nhóm hộ để có kế hoạch

phát triển nguồn lợi thiên nhiên dưới tán rừng. Khi giao cần làm rõ ranh giới các

loại rừng trên thực địa và bản đồ đến từng lô, khoảnh, xác định được hiện trạng

rừng. Không nên giao đất, giao rừng cho các tổ chức của Nhà nước đã có (trừ

những vùng phòng hộ rất xung yếu) mà cần ưu tiên giao cho các Tổ quản lý rừng.

125

♦ Đầu tư tín dụng: Nhà nước chỉ nên đầu tư vào việc trồng cây bần con, bảo

vệ RBNM thuộc loại rừng đặc dụng và phòng hộ. Trồng rừng bần chống xói lở tại

cửa sông tại ĐBSCL. Tổ chức, hộ gia đình được giao đất rừng để trồng rừng, tăng

gia sản xuất có điều kiện vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời hạn vay trên 10 năm, trả

tiền vay gốc và lãi khi có sản phẩm chính và được vay 100% nhu cầu vốn đầu tư

trên cơ sở tính đúng, tính đủ theo định mức kinh tế - kỹ thuật hiện hành. Các hộ

dân được ưu tiên vay vốn với lãi suất ưu đãi để phát triển chăn nuôi thuỷ sản, nuôi

ong, cua, dộp,… kết hợp trong RBNM.

♦ Nhà nước cần có chính sách thu hút các tổ chức quốc tế thuộc Chính phủ

và phi chính phủ đầu tư phát triển RNM theo hướng ưu đãi về thuế, tiền thuê

đất,.... đồng thời mời gọi các tổ chức quốc tế hỗ trợ phục hồi rừng bần ở một số

vùng trọng điểm ven biển.

♦ Khoa học công nghệ và khuyến lâm: Cần nghiên cứu, đánh giá để bổ

sung, sửa đổi và ban hành quy trình, quy phạm lâm sinh cho đối tượng RBNM phù

hợp với từng vùng. Cần có quy trình chăm sóc, điều chế rừng bần phù hợp với cấp

tuổi, cấp đất và điều kiện sinh thái cho từng loại rừng bần (Bần già, bần đang phát

triển và bần non mới trồng).

♦ Tổ chức tập huấn cho người nhận khoán rừng, phổ biến và hướng dẫn kỹ

thuật lâm sinh về trồng, chăm sóc và bảo vệ RBNM, kết hợp với kinh nghiệm cổ

truyền. Phổ biến mô hình lâm ngư kết hợp có hiệu quả cao, kỹ thuật trồng cây bần

ngập mặn vẫn sinh trưởng tốt mà các sản phẩm trong rừng bần vẫn đạt năng suất

cao và ổn định.

♦ Hoàn thiện tổ chức quản lý RNM: Tăng cường phối hợp liên ngành trong

quản lý, sử dụng, khôi phục, phát triển RBNM của các tỉnh ven biển. Sở Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan đầu mối, phối hợp với các Sở, ban ngành

liên quan (Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư,...) giúp UBND

tỉnh giải quyết những vấn đề chuyên ngành và liên ngành về đất và RBNM từ việc

xây dựng đê điều, trồng và bảo vệ RBNM, nuôi trồng thuỷ sản,... (quy hoạch, giám

126

sát, chỉ đạo,...). Phân công rõ trách nhiệm giữa các ngành liên quan và có cơ chế

phối hợp rõ ràng: Ngành thuỷ sản cần phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo quy

hoạch, nghiên cứu mô hình lâm ngư kết hợp phù hợp với từng vùng. Ngành thủy

lợi, đê điều và phòng chống lũ lụt xác định hành lang bảo vệ và những nơi có nhu

cầu phòng hộ cao cần được ưu tiên đầu tư, coi khôi phục và phát triển RBNM là

một trong những hạng mục đầu tư và tu bổ đê biển hàng năm để có kế hoạch cấp

vốn tương ứng.

♦ Chính sách hưởng lợi: Đối với các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng

đồng dân cư thôn bản được giao rừng phòng hộ xung yếu thì được Nhà nước cấp

kinh phí để bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và trồng rừng; được thu hái củi,

tỉa thưa cây trong rừng; được vay vốn tín dụng phát triển của Nhà nước với lãi suất

ưu đãi (bằng 60 - 70% lãi suất thương mại) và được vay 100% nhu cầu vay vốn,

hoàn trả tiền vay gốc và lãi khi có sản phẩm khai thác chính (ít nhất là 10 năm).

♦ Giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội trong vùng RBNM: Rà soát, quy hoạch

lại dân cư ven biển, hạn chế di cư tự do trong vùng RBNM vì nguồn lợi về nuôi

tôm ở vùng RBNM lớn đã thu hút một số lao động từ nhiều nơi đến phá rừng để

nuôi tôm. Mặt khác, nhiều người dân đã bỏ các nghề truyền thống để làm đầm tôm

quảng canh, dẫn đến tình trạng ở phân tán ngày càng tăng. Nếu để tình trạng này

kéo dài thì rừng bần tiếp tục bị tàn phá, nguồn hải sản giảm sút nhanh chóng.

Tránh tình trạng đưa dân ra xây dựng vùng kinh tế mới ven biển khi chưa có quy

hoạch cụ thể cho việc bảo vệ, phát triển RBNM. Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản

xuất và đời sống trong vùng RBNM.

4.7.2. Giải pháp về phát triển du lịch:

♦ Cần có cơ chế, chính sách rõ ràng: Người nhận khoán rừng bần được trực

tiếp kinh doanh du lịch trên diện tích nhận khoán hoặc các hộ nhận khoán phải

được hưởng từ 30 - 40% tiền thu được do các tổ chức, cá nhân thu từ kinh doanh

du lịch sinh thái môi trường rừng bần.

127

♦ Ngành du lịch cần tuyên truyền cho du khách có ý thức giữ vệ sinh môi

trường, hỗ trợ vốn để phát triển RBNM, tạo cảnh quan đẹp, tạo môi trường du lịch

sinh thái hấp dẫn.

♦ Cần chọn một số điểm RBNM điển hình cho từng vùng sinh thái làm khu

bảo tồn các nguồn gen thực vật và động vật vùng triều và dự trữ thiên nhiên, có thể

kết hợp trong việc chọn khu bảo tồn RNM với địa điểm du lịch và giáo dục hoặc tổ

chức nơi du lịch thuận lợi để thu hút khách trong và ngoài nước.

4.7.3. Giải pháp về phòng hộ đê biển

♦ Định hướng phòng hộ đê biển: Đối với các công trình đê biển đã đầu tư 20

-70 tỷ đồng/km để sửa chữa thì phải coi RBNM là hạng mục quan trọng, nên dành

một phần kinh phí thỏa đáng để hỗ trợ trồng, chăm sóc, bảo vệ RNM.

♦ RBNM có chức năng phòng hộ ven biển cần phân cấp thành 2 loại chủ

yếu:

+ Phòng hộ rất xung yếu là những diện tích rừng bần ngoài đê biển quốc gia

được sử dụng vào mục đích hạn chế thiên tai, chắn gió, chống xói lở đất ven sông,

ven biển. Xây dựng một hệ thống các đai rừng phòng hộ chắn sóng bảo vệ trực tiếp

đê biển, trong hành lang 100 mét bảo vệ phía ngoài đê biển.

+ Phòng hộ xung yếu là những diện tích rừng bần trong đê biển Quốc gia có

vai trò hỗ trợ cho vùng phòng hộ rất xung yếu.

♦ Thường xuyên rà soát và quy hoạch ổn định cho các ngành chủ yếu sử

dụng RBNM ven biển có liên quan như: Xây dựng đê điều, trồng và bảo vệ

RBNM, nuôi trồng thủy sản. Đây chính là quy hoạch liên ngành và phải được Nhà

nước chấp nhận về pháp lý, cắm mốc trên thực địa, có biển báo,...

Tóm tắt Chương 4:

♦ Tổng giá trị kinh tế của luận án

Qua phân tích, thống kê đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại

ĐBSCL, tổng giá trị kinh tế trong nghiên cứu là 445,673 tỷ đồng/năm; trong đó giá 128

trị sử dụng trực tiếp đóng vai trò rất quan trọng; trong 1 năm giá trị tạo thu nhập

cho hộ dân quy đổi thành tiền trên 57,608 tỷ đồng, giá trị du lịch ước tính đạt

327,365 tỷ đồng và giá trị gián tiếp đó là rừng phòng hộ mang lại lợi ích 60,7 tỷ

đồng. Tổng giá trị của nghiên cứu được trình bày Bảng 4.12.

Bảng 4.12. Tổng các giá trị kinh tế RBNM tại ĐBSCL

Sử dụng trực tiếp

Sử dụng gián tiếp

TT

Các giá trị

Tỷ lệ %

(Tỷ đồng/năm)

(Tỷ đồng/năm)

1.

Tổng thu nhập

57,608

12,93

2.

Du lịch

327,365

73,45

3.

Rừng phòng hộ

60,7

13,62

100

Cộng:

445,673

384,973

60,7

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Ngoài ra, rừng bần còn đóng vai trò rất lớn trong việc chống sạt lỡ, dông

bão, sóng thần, lọc không khí, lọc nước biển, hấp thụ, tích trữ cacbon… RBNM tại

ĐBSCL còn mang lại giá trị kinh tế vô cùng lớn, nếu như chúng ta kế hoạch khai

thác, phát triển và quản lý hiệu quả.

♦ Hạn chế của luận án

Tổng hợp kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thúy Hằng và cộng sự (2012)

xác định RNM Rú Chá xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế

có giá trị sử dụng trực tiếp gồm: Củi đốt, dược liệu, cây cảnh, nuôi trồng thủy sản

chiếm tỷ lệ 93,71% tổng giá trị kinh tế; giá trị sử dụng gián tiếp gồm: Điều hòa khí

hậu, tích lũy nước ngầm, hấp thụ bụi, sản xuất ôxy, giá trị tích lũy cacbon chiếm tỷ

lệ 3,74% tổng giá trị kinh tế và giá trị phi sử dụng với tỷ lệ 2,55% tổng giá trị kinh

tế. Nghiên cứu của Đinh Đức Trường (2009), RNM tại cửa sông Ba Lạt, tỉnh Nam

Định có giá trị sử dụng chiếm 92,2% thu nhập từ: Nuôi tôm, nuôi nghêu, nghêu

giống, nuôi cua, trồng rau câu, mật ong, khai thác thủy sản và giá trị du lịch; giá trị

sử dụng gián tiếp chiếm 7,35% có được từ giá hỗ trợ sinh thái cho nuôi thủy sản,

giá trị du lịch và giá trị hấp thụ cacbon; giá trị phi sử dụng chiếm 0,45% tổng giá

129

trị kinh tế. Nhóm nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê

(2018) tại xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình có giá trị sử dụng trực

tiếp, chủ yếu là giá trị khai thác, nuôi trồng thủy sản, chiếm tỷ trọng và quy mô lớn

nhất tương ứng với 99,2%; phần còn lại là giá trị gián tiếp và giá trị phi sử dụng

chiếm 0,8% giá trị kinh tế toàn phần.

Qua lược khảo các kết quả nghiên cứu về rừng ngập mặn, giá trị sử dụng

trực tiếp chiếm tỷ trọng trên 90%, còn lại là giá trị sử dụng gián tiếp và giá trị phi

sử dụng. Kết quả nghiên cứu của luận án đã ước tính được giá trị trực tiếp chiếm tỷ

trọng 86,38% tổng giá trị kinh tế, với kết quả này khá phù hợp với các nghiên cứu.

Do hạn chế về thời gian và nguồn lực chưa thể nghiên cứu, phân tích sâu về các giá

trị sử dụng gián tiếp (tích tụ, bồi lắng bùn; lọc nước biển; hấp thụ CO2, lưu trữ

cacbon) và giá trị phi sử dụng (bảo tồn đa dạng sinh học); những hạn chế này sẽ

được thực hiện trong các nghiên cứu tiếp sau.

130

CHƯƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Rừng bần trong nghiên cứu cũng là một dạng của RNM, nhưng điểm khác

biệt của nghiên cứu là rừng toàn những cây bần (chiếm tỷ lệ đến 99,9%), không

trộn lẫn với những loài cây khác như: Cây Đước, cây Vẹt, cây Mắm, … và cho đến

nay chưa có nghiên cứu nào về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần. Để minh

chứng cho giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần trong nghiên cứu so với một số

nghiên cứu về giá trị kinh tế RNM khác, nghiên cứu của Mai Trọng Nhuận và cộng

sự (2000) đánh giá RNM ở vùng cửa sông Cửu Long có thể đạt được là 3.099,36

USD/ha/năm (tương đương 71,3 triệu đồng/ha/năm); nghiên cứu của Ngô Văn

Ngọc và cộng sự (2015) với diện tích 5.030 ha, tổng giá trị Khu Bảo tồn Đất ngập

nước Láng Sen, tỉnh Long An là 1,844 tỷ đồng/năm (tương đương 0,37 triệu

đồng/ha/năm); nghiên cứu Nguyễn Thị Hoài Thương và Hoàng Thị Huê (2018)

trên diện tích RNM 327,03 ha thuộc xã Nam Hưng, Tiền Hải, Thái Bình có tổng

giá trị kinh tế là 69,504 tỷ đồng/năm (tương đương 212,5 triệu đồng/ha/năm); So

với kết quả nghiên cứu của luận án, diện tích rừng bần là 3.169,8 ha mang lại tổng

giá trị kinh tế là 445,673 tỷ đồng/năm (tương đương 140,6 triệu đồng/ha/năm).

Qua so sánh các kết quả nghiên cứu trên cho thấy rằng, giá trị kinh tế của sản phẩm

rừng bần là rất lớn, tiềm năng phát triển kinh tế rất cao và hiệu quả, trong đó sản

phẩm du lịch mang lại giá trị kinh tế cao đạt 327,365 tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng

73,45% trong tổng giá trị kinh tế, tiếp đến là giá trị phòng hộ mang lại số tiền 60,7

tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng 13,62% và giá trị tạo thu nhập cho người dân 57,608

tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng 12,93%; mặc dù giá trị này chiếm một tỷ trọng rất

thấp, nhưng giá trị rừng phòng hộ đóng vai trò quan trọng để bảo vệ, đảm bảo an

toàn cho các dịch vụ sinh thái của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL trong việc hỗ trợ

sản xuất, sinh kế và sự ổn định đời sống cộng đồng địa phương.

131

Thông qua kết quả nghiên cứu này sẽ giúp các nhà hoạch định có cách nhìn

mới về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần, từ đó đưa ra những chiến lược, chính

sách đúng đắn để bảo vệ, khai thác, phát triển rừng bần hiệu quả và đóng góp một

nội dung mới trong đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn tại ĐBSCL.

Nghiên cứu đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL là

một công trình nghiên cứu hoàn toàn mới và có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản

lý nhằm sử dụng hiệu quả và khai thác bền vững tài nguyên rừng bần. Nghiên cứu

giúp cho các bên liên quan hiểu rõ hơn về lý thuyết, quy trình, phương pháp và

những ứng dụng quản lý của việc đánh giá giá trị tiềm năng sẵn có.

Đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL dựa trên cơ sở lý

thuyết và các phương pháp thực nghiệm chuyên sâu, hệ thống. Để tiếp cận đánh

giá, phải tìm hiểu được mối liên hệ giữa các chức năng của HSTRNM với những

giá trị mà nó tạo ra cho hệ thống phúc lợi của con người. Giá trị kinh tế của sản

phẩm rừng bần tại ĐBSCL chỉ phát sinh trong các giao dịch kinh tế khi có sự thỏa

mãn và sẵn sàng chi trả của các chủ thể sử dụng. Tổng giá trị kinh tế của sản phẩm

rừng bần tại ĐBSCL bao gồm: Giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp.

Điểm căn bản trong lý thuyết đánh giá giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại

ĐBSCL là đo lường sự thay đổi phúc lợi cá nhân khi các thuộc tính của sản phẩm

rừng bần tại ĐBSCL thay đổi. Có 4 đại lượng cơ bản để đo sự thay đổi phúc lợi cá

nhân là thặng dư tiêu dùng, thặng dư sản xuất, biến thiên bù đắp và biến thiên

tương đương. Trong đó, thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất thường được sử

dụng để đánh giá giá trị của những hàng hóa, dịch vụ môi trường của sản phẩm

rừng bần tại ĐBSCL có giá thị trường bao gồm: Giá trị tạo thu nhập cho hộ dân

sống ven rừng bần và giá trị du lịch; đo lường sự biến thiên bù đắp và biến thiên

tương đương thường được sử dụng để đánh giá các giá trị gián tiếp, nghiên cứu ở

đây áp dụng phương pháp chi phí thiệt hại có thể tránh được.

Thực hiện nghiên cứu này áp dụng cả 3 cách tiếp cận chủ yếu để đánh giá

giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL là đánh giá tổng thể, đánh giá

132

từng phần và đánh giá phân tích tác động. Các phương pháp đánh giá được chia

thành 4 nhóm là dựa trên thị trường thực, dựa trên thị trường thay thế, dựa trên thị

trường giả định và phân tích chi phí - lợi ích mở rộng. Mỗi phương pháp phù hợp

với việc đánh giá một hay nhiều nhóm giá trị cụ thể. Đánh giá giá trị kinh tế của

sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL là một quy trình gồm nhiều bước, mang tính liên

ngành, đòi hỏi sự tham gia của nhiều chuyên gia và các nhóm xã hội. Lượng thông

tin về giá trị kinh tế của sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL có rất nhiều ứng dụng

trong quản lý RBNM. Các ứng dụng quan trọng sử dụng thông tin về giá trị kinh tế

gồm (1) xây dựng các quy hoạch, kế hoạch sử dụng RBNM, (2) đề xuất các công

cụ pháp lý, công cụ kinh tế trong quản lý RBNM, (3) thiết kế và thực hiện các cơ

chế chi trả cho dịch vụ môi trường để bảo tồn sản phẩm rừng bần tại ĐBSCL, (4)

bổ sung và hoàn thiện cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý sản phẩm rừng bần tại

ĐBSCL, (5) thiết kế các chương trình giáo dục và truyền thông về bảo tồn và quản

lý bền vững RBNM.

Kết quả nghiên cứu tại hiện trường cho thấy có thể áp dụng các quy trình và

phương pháp đánh giá giá trị RNM tiên tiến của thế giới trong điều kiện của Việt

Nam, bao gồm cả những phương pháp phức tạp về cơ sở lý thuyết và đòi hỏi quy

trình nghiên cứu chi tiết, chuẩn mực. Tuy nhiên, việc lựa chọn các phương pháp

đánh giá trong điều kiện cụ thể phải cân nhắc tới các vấn đề như mục đích đánh

giá, cũng như sự đáp ứng về các nguồn lực như: Thời gian, tài chính, chuyên gia

và dữ liệu.

Áp dụng kết quả nghiên cứu này trong bối cảnh diễn biến khí hậu khó

lường, việc triển khai thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển HSTRBNM tại

ĐBSCL là rất cần thiết, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với thích ứng biến đổi khí

hậu, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây nên. Triển khai chương trình trồng rừng

phòng hộ ven biển sẽ mang lại lợi ích thiết thực cả về mặt kinh tế, xã hội và môi

trường. Việc triển khai kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng góp phần tạo thu nhập

và việc làm ổn định cho phần lớn người dân. Góp phần ổn định an ninh chính trị,

trật tự xã hội ở địa phương, đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế xã 133

hội ở địa phương. Các nội dung trong kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được

xây dựng trên cơ sở các căn cứ pháp lý, cơ sở khoa học và thực tiễn, dự án quy

hoạch bảo vệ và phát triển RBNM của ĐBSCL trong giai đoạn 2021 - 2025 và

những năm tiếp theo.

5.2. Kiến nghị

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về giá trị kinh tế của sản

phẩm rừng bần tại ĐBSCL. Luận án đưa ra một số kiến nghị trong công tác quản

lý như sau:

Về quy hoạch phát triển rừng bần, trong các quy hoạch phát triển rừng bần

tại ĐBSCL giai đoạn 2021-2025 và định hướng cho những năm tiếp theo, các cơ

quan quản lý nên lựa chọn phương án giao khoán rừng cho các Tổ Quản lý rừng

tập trung, không nên giao khoán cho từng hộ riêng lẻ; kết hợp vừa bảo vệ rừng vừa

lồng ghép mô hình nuôi Ốc len, Dộp... dưới tán rừng để nâng cao thu nhập. Đồng

thời đầu tư xây dựng lồng ghép các dự án chuyển đổi nghề, tạo công ăn việc làm

tăng thu nhập cho ngư dân vùng ven biển, nhằm giảm bớt áp lực về chặt phá rừng,

khai thác quá mức làm hủy diệt nguồn lợi thủy sản tự nhiên. Khuyến khích và tạo

điều kiện để người dân làm nghề rừng sống được và làm giàu bằng chính nghề

rừng.

Về cơ chế, chính sách, để đảm bảo hiệu quả của công tác khôi phục và phát

triển RBNM thì chính sách quản lý của nhà nước đóng vai trò then chốt. Cần có cơ

chế đầu tư vốn vay ưu đãi cho hộ dân nhận khoán rừng, để họ đầu tư vào việc

trồng rừng với việc chăn nuôi các loài động vật sống dưới tán rừng, vì đây là

ngưỡng thu nhập gắn liền với sinh kế của người dân.

Hoàn thiện tổ chức quản lý RBNM, củng cố hệ thống quản lý nhà nước về

RBNM ở các cấp tỉnh, huyện, xã; thực hiện chức năng quản lý rừng và đất lâm

nghiệp theo Quyết định 245/1998/QĐ- TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính

phủ; tăng cường phối hợp liên ngành trong việc quản lý, sử dụng, khôi phục phát

triển RBNM.

134

Giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội trong vùng RBNM, phát triển các nguồn

thu nhập thay thế cho các cộng đồng vốn sống dựa vào RBNM nhằm giảm thiểu

tình trạng phá rừng. Nên khuyến khích cộng đồng địa phương chuyển sang các

sinh kế ít gây hại cho RBNM hơn, đồng thời bảo vệ các loài thủy, hải sản quan

trọng như cá hoặc tôm, nghêu, sò và các sinh vật sinh sống tại các vùng bãi bồi,

dưới tán RNM. Tạo thu nhập ổn định định cho các hộ dân cư, trong đó chú trọng

đến các hộ dân cư nghèo, đồng bào dân tộc thuộc các huyện duyên hải các tỉnh

ĐBSCL, thu nhập thay thế quan trọng thay cho việc phá RBNM.

Tăng cường công tác vận động phối hợp lực lượng đông đảo nhân dân cùng

bảo vệ rừng, có chính sách tuyên dương, khen thưởng và xử lý sai phạm khi người

dân vi phạm; tăng cường lực lượng kiểm lâm, đội bảo vệ rừng, thường xuyên tổ

chức tuần tra để hạn chế nạn phá rừng.

Tuyên truyền, giáo dục, các chương trình giáo dục và truyền thông RNM để

nâng cao nhận thức, thái độ bảo tồn và quản lý bền vững RNM tại địa phương.

Thông tin chi tiết, cụ thể về các giá trị kinh tế bao gồm giá trị sử dụng trực tiếp, giá

trị gián tiếp và phi sử dụng của các dịch vụ sinh thái được lồng ghép trong các

chương trình giáo dục, truyền thông sẽ giúp cho đối tượng truyền thông có được

nhận thức và hiểu biết rõ ràng hơn về những giá trị sinh thái, môi trường mà mình

được hưởng, qua đó góp phần làm thay đổi thái độ và hành vi bảo tồn của cộng

đồng xã hội.

HSTRBNM là một nguồn tài nguyên quý giá và có giá trị về nhiều mặt, bảo

vệ được hệ sinh thái này là bảo vệ được sự ổn định, cân bằng của cả hệ thống kinh

tế và hệ thống môi trường trong quá trình phát triển khu vực ĐBSCL.

135

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Armbrecht, J. (2014). Use value of cultural experiences: A comparision of contingent

valuation and travel cost. Tourist Management, 42, 141-148.

Ashley, C. & Carney D. (1998). Sustainable livelihoods: lessons from early experience, Edited by D. f. I. Development, Overseas Development Institute, London.

Báo cáo nghiên cứu điển hình (2000), “Định giá kinh tế rừng ngập mặc Cần Giờ”, Dự án Hướng tới chương trình về Bảo tồn và Quản lý đất ngập nước ở Việt Nam.

Báo cáo nghiên cứu điển hình (2000), “Định giá kinh tế rừng ngập mặn Cần Giờ”, Dự án Hướng tới chương trình về Bảo tồn và Quản lý đất ngập nước ở Việt Nam. Cục Môi trường với sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế - IUCN.

Barbier E.B., Acreman M. & Knowler D. (1997). Economic valuation of wetlands – A Guide for policy makers and planners. Ramsar Convention Bureau and IUCN, Gland, Switzerland.

Barker, R. (2002), Rural Deveolpment and Structural Transformation, Fulbright Economics Teaching Program, Univercity of Economics HCMC, Vietnam.

Barry Clough et al - Canopy leaf index and litter fall in stands of magrove in Mêkông

Delta - Aquatic Botany 66 – 311 – 320 – 1999.

Batenam, I. (1993). Evaluation of the enviroment: A survey of revealed preference techniques. Norwich, U.K.: The centre for Social & Economic Research on the Global Enviromet.

Bebbington, A. (1999). Capitals and capabilities: A framework for analysing peasant

viability, rural livelihoods and poverty. World Development, 27(12), 2021–2044.

Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thượng Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn, Đoàn Thị Thu, Nguyễn Tập & Trần Toàn (2004). Cây Thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam, Tập II, Hà Nội: NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật.

Bộ Tài chính (2017). Thông tư số 40/2017/TT-BTC về việc Quy định chế độ công tác phí,

chế độ chi hội nghị, quy định đi công tác, ban hành ngày 28/4/2017.

Boonsong, K., Piatiratirakul, S. & Patanaponpaiboon, P. (2003). Ptential use of mangrove plantation as constructed wetland for municipal wasterwater treatment. Water Science and Technology, 48, 257-540.

Bouillon, S., Borges, A.V. & Twilley, R.R. (2008). Masngrove producetion and cacbon sinks: A revision of global budget estimates. Global Biogeochemical Cycles, 22, 299-303.

Phạm Hải Bửu, Võ Thanh Dũng & Phan Quốc Nam (2010). Các giải pháp cải thiện sinh kế nông hộ trên lâm phần vùng ven biển Cà Mau. Tạp chí Khoa học trường ĐH Cần Thơ, 16a, 265-275.

136

Casey, J. F., Vukina, T., & Danielson, L. E. (1995). The economic value of hiking: Fruther consideration of oppotunity cost of time in recreational demand models. Journal of Agricultural and Applied Economics, 27(2), 658-668.

Centeno, A. B., & Prieto, L.C.H. (2000). The travel cost method applied to the valuation of the historic and cultural heritage of the Castile – Léon region of Spain. Retrieved from hhps://core.ac.uk/download/pdf/7051452.pdf

Chambers, R., & Conway, G.R. (1992). Sustainable rural livelihoods: practical concepts

for the 21st century. Institute of Development Studies, 296, 1-29.

Chen, W.H., Liu, Y., Zang, L., Hou, X., & Raymond, M. (2004). Recreation demand and economic value: An application of travel cost method for Xiamen Island. China Economic Review, 15(4), 398-406.

Chính phủ (2016), Nghị định số 119/2016/NĐ-CP quy định về một số chính sách quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu, ban hành ngày 27/12/2016.

Chính phủ (2017), Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng

với biến đổi khí hậu, ban hành ngày 17/11/2017.

Chính phủ (2018), Nghị định 157/2018/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng đối với

người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, ban hành ngày 16/11/2018.

Clough, B.F., Boto, K.G. & Attiwill, P.M. (1983). Mangroves and sewage: A re- evaluation. Biology and Ecology of Magroves, Task for Vegetation Science (ed H.J, Teas), Dr W. Junk, The Hague, The Netherlands.

Cochard, R., Ranamukhaarachchi & Seeland, K.T. (2008). The 2004 tsunami in Aceh ang Southern Thailand: A review on coastal ecosystems, wave hazards ang vulnerability. Perspectives in Plant Ecology, Evolution ang Systematics, 10, 30-40.

Danielsen, F., Sorensen, M.K., Olwig, M.F., Selvan, V., Parish, F., Burgess, N.D., Hiraishi, T., Karunagaran, V.M., Rasmussen, M.S., Hansen, L.B., Quarto, A. & Suryadiputra, N. (2005). The Asian tsunami: A protective role for coastal vegetation. Science, 310 , 643-643.

Das, S. (2013). Travel cost methol for enviromental valuation. Retrived from

http://coe.mse.ac.in/dp/DP-23-Draft.pdf

Dasgupta (2007). The Impact of Sea Level Rise on Developing Coutries: A Comparative

Analysis. World Bank Plicy Reserch Working Paper 4136.

De, U.K., & Devi, A. (2011). Valuing recreational and coconservation benefits of a natural tourist site: Case of Cherrapunjee. Journal of Quantitative Economics, 9(2), 155-172.

Dehlavi, A., & Adil, I.H. (2011). Valuing recreational uses of Pakistan's wetlands: An application of the travel cost method. Sadee Working Papers (pp-11). Kathmandu: Sadee.

DFID (1999). Sustainable livelihoods guidance sheets. Department for International Livehoods.

From

Development. Org/info/info_guidancesheets.html.>

137

Dixon, J.A. & Sherman, P.B. (1993). Economia Analysis of Environmental Impacts.

Earthscan Publications Ltd, London, UK.

DLuu Tien Dung, Đinh Phi Ho, Phan Thi Kim Hiep and Phan Thi Hoi (2018). The determinants of rice farmers’ adoption of sustainable agricultural technologies: a case study in the Mêkông delta, Vietnam. Applied Economics Journal, 25(2), 1- 22.

Donato, D.C. & Kanninen, M. (2011). Mangroves among the most cacbon-rich forests in

the tropics. Nature Geoscience, 4 , 293-297.

EJF (2003). Risky Business: Vietnamese Shrimp Aquaculture - Impacts and Improvements. Environmental Justice Foundation, London, UK. 44 pages.

Ellis, F. (2000). Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries. Oxford

University Press, New York.

FAO, 1994. Mangrove forest in Asia - Pacific Region, FAO Bangkok, Thai Lan.

Fleming, C.M. & Cook, A. (2008). The rereational value of Lake McKenzie, Fraser Island: An application of the travel cost method. Tourism Management, 29(6), 1197-1205.

Fomby, T.B., Hill, R.C., & Johnson, S.R. (1984). Advanced Econometric Methods. New

York: Springer - Verlag.

GIZ (2013). Bảo vệ bờ biển ở đồng bằng sông Cửu Long.

Green, S.B. (1991). How Many Subjects Does It Take To Do A Regression Analysis.

Multivariate Behav Res., 26(3), 499-510.

Green, W.H. (2003), Econometric Analysis, Upper Saddle River NJ: Prentice-Hall. 9.

Gurluk, S. & Rebber, E. (2007). A travel cost study to estimate recreational value for a bird refuge at Lake Manyas, Turkey. Journal of Environmental Management, 88(4), 1350-1360.

Nguyen Thi Hai & Nguyen Đuc Thanh. (1999). Using the travel cost method to evalute the tousrism benefits of Cuc Phuong National Part (pp. 121-150). In H. Francisco & D. Glover (Eds.). Economy and enviroment: Case Studies in Vietnam. Laguna: Economy & Enviroment Program for Southeast Asia.

Hair, J., Aderson, R., Tatham, P., & Black, W. (2006). Multivariate Data Analysis.

Prentice - Hall.

Trần Thị Thúy Hằng & Nguyễn Đức Thành (2012). Xác định giá trị kinh tế của rừng ngập mặn Rú Chá, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bộ môn Quản lý môi trường và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản, Khoa Thủy sản, Đại học Nông Lâm Huế.

Nguyễn Hoàng Hanh, Đỗ Quý Mạnh, Trần Văn Sáng & Cao Bá Kết (2019). Phục hồi và phát triển rừng ngập mặn khu vực ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Bảo vệ rừng và Môi trường, ngày 20/03/2019.

Hạt Kiểm huyện Duyên Hải (2020). Báo cáo số 02/BC-HKL về việc Tổng kết tình hình

hoạt động quản lý, bảo vệ rừng năm 2019, ban hành 20/02/2020.

138

Hạt Kiểm lâm Liên huyện Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung (2020). Báo cáo số 04/BC- HKLLH về việc Tổng kết hoạt động quản lý, bảo vệ rừng năm 2019, ban hành 05/02/2020.

Phạm Trung Hiếu & Lưu Tiến Thuận (2017). Áp dụng phương pháp chi phí du hành để xác định giá trị cảng quan của chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Tho. Tạp chí Khoa học và Công nghệ nông nghiệp, 1(2), 285-291.

Hill, R.C., Griffiths, W.E. & Lim, G.C. (2011). Principles of econometrics (4th ed.). New

Jersey: Jonh Wiley & Sons.

Hiraishi, T. (2008). Effectiveness of coastal forests in mitigating tsunami hazardrs. Guidenlines for the Rehabilitation of Mangroves and other Coastal Forests Damaged by Tunamis and other Natural Hazars the Asia-Pacific Region. (eds H.T. Chan & J. E. Ong), PP. 65-73. International Society for Mangrove Ecosystems (ISME), Okinawa, Japan.

Đinh Phi Hổ & Trương Châu (2014). Nâng cao thu nhập cho hộ gia đình ở các xã biên

giới tỉnh Tây Ninh. Tạp chí Phát triển Kinh tế,6/2014, 105-117.

Phan Nguyên Hồng (2010). Quản lý hệ sinh thái RNM để bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản. Tạp chí Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Hồ Việt Hùng (2007). Vai trò của RNM trong việc bảo vệ đê biển và các vùng ven biển

VN. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường, 21, 1-7.

Israel,

G.D.

(2013).

Determining

sample

size.

Retrieved

from

http://www.sut.ac.th/im/data/read6.pdf

Jiny V.K., Belzik N., Nisha A.R., Resiya S., Resmi S. & Silvipriya K.S., 2010. Pharmacognostical and phytochemical studies of a Mangrove (Sonneratia caseolaris ) from Kochi of Kerala state in India. Journal of Pharmacy Research, 3 (11), 2625-2627.

Karttunen, K. (2009). Rural Income Generation and Diversification - A Case Study in Eastern Zambia. University of Helsinki - Department of Economics and Management, Publications, 47, 1-158.

Karttunen, K.A. (2009). Rural Income Generation and Diversisification: A case Study in

Eastern Zambia, Rural Development Consultant, Finland.

Kathiresan, K. & Rajendran, N. (2005) Coastal mangrove forests mitigated tsunami.

Estuarine, Coastal and Shelf Science, 65, 219-223.

Ngô Thị Phương Lan (2011). Bất ổn sinh kế và di cư lao động của người Khơmer tại huyện Cầu Kè và huyện Cầu Ngang tỉnh Trà Vinh. Tp. Hồ Chí Minh: Đại học KHXH&NV- Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh.

Limaei, S.M., Ghesmati, H., Rashidi, R. & Yamini, N. (2014). Economic evaluation of natural forest pard using the travel cost method (case study; Masouleh forest park, north of Iran). Journal of Forest Science, 60(6), 254-261.

139

Lipton, M. & Ravallion, M. (1995). Poverty and Policy. In: Handbook of Development Economics, Behrman J. R. and T. N. Sirivasan (Eds.),Volume IIIA, North - Holland, Amsterdam, p. 2551 – 657.

Chu Thị Kim Loan & Nguyễn Văn Hướng. Ảnh hưởng của nguồn lực đến thu nhập của nông hộ tỉnh Thanh Hóa: Nghiên cứu điển hình ở huyện Thọ Xuân và Hà Trung. Tạp chí Khoa học và Phát triển, 13(6), 1051-1060.

Võ Thị Thanh Lộc, (2010). Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học và viết đề cương: Nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Cần Thơ: NXB Đại học Cần Thơ.

Nguyễn Xuân Mai & Nguyễn Duy Thắng (2011). Sinh kế của cộng đồng ngư dân ven

biển: Thực trạng và giải pháp. Tạp chí Xã hội học, 4(116), 14-16

Mankiw, N.G. (1998), Principles of Economics (1st ed.). Fort Worth, Texas: Dryden

Press.

Matsui, M. & Yamatani, Y., (2000). Estimated total stocks of sediment cacbon in relation to streatigraphy underlying the mangrove forests of Sawi Bay, Phuket Marine Biological Center Special Publication, 22, 15-25.

Matsui, N. (1998). Estimated stocks of cacbon in magrove roots and sediments in Hinchinrook Chanel, Australia. Mangroves and Salt Marshaes, 2, 199-204.

Mazda, Y.M. (1997). Mangroves as a Coastal Protection from Waves in Tonkin Delta,

Vietnam. Mangroves and Salt Marshes 1:127-135.

Mincer, J.A. (1974). Schooling, Experience, and Earning, National Bureau of Economic

Reseach, Inc.

Muhammad I. (2010). Role of local food & handicrafts in raising eco tourism in the

northern areas of Pakistan. Sarhad J.Agric, 26 (1).

Mai Văn Nam, (2008). Giáo trình Nguyên lý thống kê kinh tế. Cần Thơ: NXB Văn hóa

thông tin.

Pham Khanh Nam & Tran Vo Hung Son (2005). Recreational value of coral surrounding the Hon Mun Island in Vietnam: A travel cost and contingent valuation study. In M. Ahmed, C. K. Chong, H. Cesar, & H. S. J. Cesar (Eds). Economic valuation and polucy priorities for sustainnable managemaent of coral reefs (pp. 84-106). Phnom Pehn: WorlFish.

Ngô Văn Ngọc, Trần Thanh Cao & Huỳnh Văn Lâm (2015). Giá trị kinh tế dịch vụ kinh tế rừng Khu bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen, tỉnh Long An. Tạp chí KHLN, 1/2015, 3727-3736.

Mai Trọng Nhuận, Nguyễn Hữu Ninh, Trần Hồng Hà & Đỗ Đình Sâm (2000). Đánh giá giá trị kinh tế của một số các điểm trình diễn đất ngập nước tại Việt Nam. Dự án bảo vệ kinh tế biển Đông do UNEP, GEF tài trợ, Hà Nội.

Norusis M.J. (2013). PASW Statistics 18 Statistical Procedures Companion. Pearson

Education (US), 656.

Ngô Đình Quế & Võ Đại Hải (2012), Xây dựng rừng phòng hộ ven biển, thực trạng và

giải pháp. Hà Nội: NXB Nông nghiệp, trang: 11-34.

140

Raybould, M., Lazarow, N., Anning, D., Ware, D., & Blackwell, B. (2011). A travel cost model of local resident’s beach bcreation values on the Gold Coast. The 20th NSW Coastal Conference: 20/20 Vision: Lessons Learnt and Looking Toward Future Improvement. Gold Coast: Bond University.

Reardon, T., Chiristopher, D. & Maltlon, P. (1992). Determinants and Effects of Income Diversification amongst Farm Households in Burkina Faso. The Journal of Development Studies, 28(2), 264-296.

Reardon, Thomas, Chiristopher, D., & Maltlon, P. (1992). Determinants and Effects of Income Diversification amongst Farm Housecholds in Burkina Faso. The Jornal of Development Studies 28(2):264-296.

Robertson, A.I. & Phillips, M.J. (1995). Mangroves as filters of shrimp pond effluent:

Predictions and biogeochemical research needs. Hydrobiologia, 295, 311-321.

Hà Quý Sáng (2010). Chính sách tài chính - kế toán phát triển các doanh nghiệp nhỏ và

vừa ở nước ta. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Thương mại Hà Nội.

Saraj, B.S., Yachkachi, A., Oladi, D., & Latifi, H. (2009). The recreational valuation of natural forest part using travel cost methol in Iran. iForest - Biogeosciences and Forestry, 2, 85-92.

Scoones, I. (1998). Sustainable Rural Livelihoods: A Framework for Analysis. IDS Working Paper 72. Institute of Development Studies. University of Sussex.

Sesabo, J.K., & Tol, R.S.J. (2005). Factors affecting income strategies among households for development-conservation

in Tanzanian coastal vilages: Implications initiatives. Working Paper FNU-70.

Singh, I., Squire, L., & Strauss, J. (1986). Agricultural household models: extensions,

applications, and policy. Baltimore, MD: The Johns Hopkins University Press.

Snedaker, S.C. (1978). Mangroves: Their value and perpetuation. Nature and Resources -

USA.

Snoones I. (1998). Sustainable Rural Livelihoods: A Famerwork for Analysis. IDS

Working Paper, Institute of Development Studies.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2019). Báo cáo số 45/BC-NNPTNT đánh giá kết

quả hoạt động năm 2018, ban hành ngày 27/02/2019.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng (2019). Báo cáo số 36/BC- NNPTNT tổng kết tình hình hoạt động năm 2018, ban hành ngày 14/02/2019.

Trần Võ Hùng Sơn & Phạm Khánh Nam, (2001). Sử dụng phương pháp chi phí du hành phân tích giá trị giải trí của cụm đảo san hô Hòn Mun, tỉnh Khánh Hòa. Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.

Võ Tất Thắng (2017). Xác định giá trị du lịch RNM Cần Giờ thông qua phương pháp chi

phí du hành. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 28(8), 84-106.

Phạm Trọng Thịnh (2011). RNM ở Sóc Trăng 1965 – 2007. Dự án Quản lý Nguồn tài

nguyên Thiên nhiên Vùng ven biển Sóc Trăng, UBND tỉnh Sóc Trăng.

141

Thủ tướng Chính phủ (1998). Quyết định về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của

các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.

Thủ tướng Chính phủ (2009). Công văn số 405/TTg-KTN phê duyệt Đề án phục hồi và phát triển rừng ngập mặn ven biển giai đoạn 2008 - 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ban hành ngày 16/3/2009.

Thủ tướng Chính phủ (2010), Công văn số 405/TTg-KTN về việc rà soát kiểm tra việc triển khai thực hiện các dự án nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, ban hành ngày 09/3/2010.

Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 57/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Kế hoạch bảo

vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020, ban hành ngày 09/01/2012.

Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số 120/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án bảo vệ và phát triển rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2015-2020, ban hành ngày 22/01/2015;

Nguyễn Thị Hoài Thương & Hoàng Thị Huê (2018). Lượng giá một số giá trị kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn, xã Nam Hưng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tạp chí Môi trường, 3/2018.

Tổng cục Thống kê (2017). Số liệu nhân khẩu - xã hội: Mức sống dân cư. Truy cập từ <

http://www.gso.gov.vn/default_en.aspx?tabid=476&idmid=4&ItemID=13475>.

Tổng cục Thống kê, (2018). Niên giám Thống kê 2018. Hà Nội: NXB Thống kê.

Tourkolias, C., Skiada, T., Mirasgedis, S., & Diakolaki, D. (2015). Application of the travel cost mathod for the valuation of the Poseidon temple in Sounio, Greece. Journal of cutural Heritage, 16(4), 567-574.

Nguyễn Hoàng Trí, (2006). Lượng giá kinh tế hệ sinh thái rừng ngập mặn. Hà Nội: NXB

Đại học Kinh tế Quốc dân.

Đinh Đức Trường (2009). Đánh giá giá trị kinh tế của đất ngập nước tại cửa sông Ba Lạt,

tỉnh Nam Định, Luận án Tiến sĩ Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

Võ Văn Tuấn & Lê Cảnh Dũng (2015). Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sinh kế của

nông hộ ở ĐBSCL. Tạp chí Khoa học trường ĐH Cần Thơ, 38, 120-139.

Turner, R.K., Brouwer, R., Crowart, T.C. & Georgiou, S. (2003). The economics of wetland management. Managing Wetlands: An ecological economics approach, Edward Elgar, Chltenhan, U.K, pp.73-107.

UBND huyện Cù Lao Dung (2020), Quyết định số 320/QĐ-UNBD về việc Phê duyệt kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019 trên địa bàn huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày 06/3/2020.

UBND huyện Trần Đề (2020), Quyết định số 68/QĐ-UBND về việc Phê duyệt kết quả cập nhật diễn biến rừng năm 2019 trên địa bàn huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày 15/01/2020.

UBND tỉnh Sóc Trăng (2018), Quyết định số 3103/QĐHC-CTUBND về việc phê duyệt điều chỉnh Tiểu dự án đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển đởi sản xuất phù hợp

142

với điều kiện sinh thái, nâng cao sinh kế, thích ứng biến đổi khí hậu vùng Cù Lao Dung, ban hành ngày 23/11/2018.

UBND tỉnh Sóc Trăng (2018), Quyết định số 706/QĐHC-CTUBND về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Đê biển từ cầu Mỹ Thanh 1 đến cầu Mỹ Thanh 2, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày 07/7/2018.

UBND tỉnh Sóc Trăng (2018), Quyết định số13/2018/QĐ-UBND về việc Quy định giá dịch vụ đò, phà do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày 29/5/2018.

UBND tỉnh Sóc Trăng (2019), Quyết định số 2606/QĐHC-CTUBND về việc phê duyệt thiết kế và Dự án đầu tư xây dựng công trình Nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn mặn từ cầu Mỹ Thanh 2 đến ranh Bạc Liêu, tỉnh Sóc Trăng, ban hành ngày 10/9/2019.

Viện Kinh tế - xã hội thành phố Cần Thơ, (2016). Đề án Bảo tồn và phát triển chợ nổi

Cái Răng. Cần Thơ: UBND thành phố Cần Thơ.

Wan, J., Wang, W., Li, R., & Liu, Z. (2016). Income Diversification: A Strategy for Rural

Region Risk Management. Sustainability, 8(10), 1-13.

White, H. (1980). A Heterosdasticity Consistent Variance Matrix Estimator and a Direct

Test of Heterosdasticity. Econometrica, 48(4), 817-838.

Winters, P., Davis, P. & Corral, L. (2001). Assets, activities and income generation in rural Mexico: Factoring in social capital and public capital. Agricultural Economics, 27, 139-151.

Wolanski, E., Mazda, Y. & Ridd, P. (1992). Mangrove hydrodynamics. Tropical Mangrove Ecosystems (eds A.I. Robertson & D.M. Alongi), pp. 7-43-62. American Geophysical Union, Washington DC, USA.

Zhang, F., Wang, X.H., Nunes, P.A.L.D. & Ma, C. (2015). The receational value of gold coast bebeach, Australia: An application of the travel cost methol. Ecosystem Services, 11, 106-114.

143

Phụ lục A.1. PHIẾU KHẢO SÁT THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH

Xin kính chào quý ông (bà),

Nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến thu nhập Hộ ở các xã ven rừng bần tại

huyện………” nhằm đánh giá thực trạng thu nhập của hộ gia đình nông thôn, từ đó đề

ra một số giải pháp để có thể nâng cao thu nhập hộ gia đình ở các xã ven rừng bần trên

địa bàn trên địa bàn tỉnh …….. Rất mong ông (bà) dành chút thời gian để trả lời phỏng

vấn hoặc điền câu trả lời vào bảng câu hỏi khảo sát dưới đây. Những thông tin này sẽ

được hoàn toàn giữ bí mật.

Phần A. Thông tin tổng quát

C1. Họ và tên chủ hộ:.................................................................................................................

C2. Địa chỉ của hộ: ....................................................................................................................

C3. Học vấn của chủ hộ: ………../12.

C4. Giới tính chủ hộ: 1.

Nam. 0.

Nữ.

C4. Thành phần dân tộc của chủ hộ: …………(Kinh ghi số 1; khác ghi số 0).

C5. Quy mô của hộ (Những người thực tế thường trú tại hộ):…………người.

C6. Tỷ lệ phụ thuộc:……………….(Số người dưới tuổi lao động và người trong độ tuổi

không có khả năng lao động/ số người trong hộ).

Xin ông (bà) cho biết thông tin của từng thành viên trong hộ:

Họ và tên Quan

Giới tính

Kinh nghiệm

Tuổi Trình độ học vấn

Nghề nghiệp chính

Nghề nghiệp phụ

Số thứ tự

Hình thức nghề nghiệp chính

hệ với chủ hộ

(1)

(2)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)

(3)

1

1

2

3

4…

144

Mã quy định các cột

(3) Quan hệ với chủ hộ:

2: Vợ/chồng

3: Con (gồm cả con đẻ, con nuôi)

1: Chủ hộ

4: Cha/mẹ (cả cha mẹ của vợ/chồng, cha mẹ nuôi nếu cùng ở trong một hộ)

6: Cháu nội/ngoại 7: Dâu/rể

8: Anh/chị/em 9: Khác

5: Ông/bà

(4) Giới tính:

0: Nữ

1: Nam

(5) Tuổi: Ghi tuổi hiện tại. (6) Trình độ học vấn:

0: Không biết chữ 1: Cấp 1

2: Cấp 2

3: Cấp 3

4: Trung cấp

5: Cao đẳng

6: Đại học trở lên

2: Làm thuê nhận tiền công, tiền lương.

1: Tự làm cho gia đình

(7) Chuyên môn, nghiệp vụ đươc đào tạo: (8) Kinh nghiệm: Ghi số năm kinh nghiệm làm việc (nghề nghiệp chính) (9) Hình thức công việc: (10) Nghề nghiệp phụ: Việc làm chiếm thời gian nhiều thứ hai trong 12 tháng qua.

(Ghi mã tương tự nghề nghiệp chính nếu có).

C7. Diện tích đất được nhận khoán: …………………..

m2.

Phần B: Thu nhập của hộ gia đình

C8. Tổng thu: ……………………..đồng. Đơn vị tính: Triệu đồng/năm

.

1. Lương khoán bảo vệ rừng…………….. Triệu đồng/năm 2. Khai thác Cua con giống……………. Triệu đồng/năm 3. Khai thác Cua thịt……………. Triệu đồng/năm đồng. 4. Khai thác cá Kèo con giống……………. Triệu đồng/năm 5. Khai thác cá Kèo thịt……………. Triệu đồng/năm 6. Khai thác cá Đối thịt…………… Triệu đồng/năm 7. Khai thác cá Thòi Lòi thịt…………… Triệu đồng/năm 8. Khai thác Ba Khía thịt……………. Triệu đồng/năm

145

9. Khai thác Dộp thịt……………. Triệu đồng/năm đồng. 10. Khai thác Nghêu giống……………. Triệu đồng/năm 11. Khai thác Nghêu thịt……………. Triệu đồng/năm 12. Khai thác trái Bần chín……………. Triệu đồng/năm 13. Các sản phẩm khác: Tôm, cá, ốc, mật ong ………………. Triệu đồng/năm.

C9. Tham gia đoàn thể: …………………(Có tham gia ghi số 1; không ghi số 0).

C10. Có sợ rủi ro khi xảy ra thiên tai, bão lũ… (Có ghi số 1; không ghi số 0).

Phần B: Thông tin về khả năng tiếp cận tín dụng

C11. Trong 12 tháng qua, có ai trong hộ gia đình ông (bà) vay tiền tại các ngân hàng hay

các tổ chức tín dụng không?

(Nếu có thì phỏng vấn tiếp câu C12, C13, C14; nếu không thì chuyển sang câu C15).

1.  Có.

2.  Không.

C12. Xin ông (bà) cho biết các khoản vay được vay từ nguồn nào?

1.  Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT

2.  Ngân hàng Chính sách Xã hội

3.  Các tổ chức chính trị xã hội

4.  Người cho vay cá thể

5.  Họ hàng, bạn bè

C13. Giá trị các khoản vay là bao nhiêu?...........................................(Triệu đồng).

C14. Hộ gia đình ông (bà) vay các khoản tiền này để làm gì?

1.  Đầu tư cho sản xuất

2.  Xây, sửa chữa nhà

3.  Đi học

4.  Khác (Xin vui lòng ghi rõ)……………………………………………..

C15. Theo ông (bà), Nhà nước cần hỗ trợ nào để giúp hộ gia đình phát triển kinh tế, nâng

cao thu nhập?

1.  Phát triển cơ sở hạ tầng

2.  Vốn

3. Giao đất rừng cho dân quản lý

4.  Tiêu thụ sản phẩm, giá ổn định.

Xin chân thành cảm ơn quý ông (bà) đã tham gia trả lời câu hỏi. Chúc gia đình

ông (bà) thật nhiều sức khỏe và hạnh phúc!

146

Phụ lục A.2. PHIẾU PHỎNG VẤN KHÁCH DU LỊCH Xin kính chào quý ông (bà),

Nghiên cứu “Các nhân tố tác động chi phí cho một đi du lịch đến rừng bần

huyện…………..…” nhằm đánh giá thực trạng chi phí khách du lịch phải bỏ ra cho việc

tham quan, du lịch tại rừng bần trên địa bàn trên địa bàn tỉnh ………….. Rất mong ông

(bà) dành chút thời gian để trả lời phỏng vấn vào bảng câu hỏi khảo sát dưới đây. Những

thông tin này sẽ được hoàn toàn giữ bí mật.

I. Xin quý khách vui lòng điền một số thông tin cá nhân

Họ và tên……………………………………………

Giới tính 1. Nam 0. Nữ

Sinh năm……………………………………………...

Địa điểm xuất phát…………………………(tỉnh, thành phố).

Trình độ học vấn………………………(số năm đi học).

Mức thu nhập gia đình/năm: ……………………Triệu đồng.

Số điện thoại…………………………………………………………

II. Xin quý khách vui lòng trả lời một số câu hỏi

Câu 1: Ông/bà đến từ tỉnh/ thành phốnào (xin cho biết điểm xuất phát đầu tiên)

Điểm xuất phát…………………tỉnh/thành phố………………….

Câu 2: Hình thức đi du lịch của quý khách

1. □ Đi nhóm từ 2-4 người

2. □ Đi nhóm từ 5-10 người

3. □ Đi nhóm từ 10-20 người

4.□ Đi nhóm từ 20 trở lên

Câu 3: Mục đích quý khách đến rừng bần

1.□ Vui chơi, giải trí

2. □ Công việc

3. □ Nghiên cứu khoa học

4. □ Khác

Câu 4: Các hoạt động được quý khách ưa thích khi đi tham quan

1.□ Đi ô tô

2. □ Thưởng thức cảnh quan thiên nhiên

147

3. □ Tìm hiểu văn hóa bản địa

4. □ Khác

Câu 5: Xin quý khách đánh giá về chất lượng cảnh quan ở rừng bần

1. □ Hài lòng 2. □ Chưa hài lòng

Câu 6: Những điểm làm quý khách chưa hài lòng

1. □ Cơ sở hạ tầng

2. □ Dịch vụ

3. □ Cảnh quan tự nhiên

4. □ Chất lượng môi trường dịch vụ

5. □ Thái độ thân thiện của người dân

6. □ Khác (………………………………………………)

Câu 7: Qúy khách đến tham quan rừng bần bao nhiêu lần

1. □ 1 lần 2. □ 2 lần 3. □ 3 lần 4. □ Nhiều hơn 3 lần

Câu 8: Qúy khách ở lại nơi đây bao nhiêu lâu

Số ngày: …………. (ngày)

III. Mức chi phí mà quý khách đã bỏ ra/ dự định bỏ ra cho chuyến du lịch này

1. Chi phí đi đến điểm du lịch……………………………..đồng.

2. Chi phí đi lại trong khu du lịch……………………đồng

3. Chi phí ăn, ở……………………………………………đồng

4. Chi phí mua sắm ………………………….đồng

5. Các chi phí khác (Cụ thể)………………………………đồng

Xin chân thành cảm ơn quý ông (bà) đã tham gia trả lời câu hỏi. Chúc ông (bà) thật nhiều sức khỏe và hạnh phúc!

148

Phụ lục A.3. KẾT QUẢ THỐNG KÊ THU NHẬP HỘ DÂN 1. Kết quả thống kê mô tả

Statistics

X9 N(Shock tu nhien)

X10N(Vay)

210

210

Valid

N

0

0

Missing

X9 N(Shock tu nhien) Percent

Frequency

Valid Percent Cumulative Percent

15.7

15.7

33

15.7

0

100.0

177

84.3

1

Valid

84.3 100.0

210

100.0

Total

Frequency

Valid Percent Cumulative Percent

X10N(Vay) Percent

32.9

32.9

69

32.9

Khong

100.0

67.1

141

67.1

Valid

Co vay DCCT

100.0

210

100.0

Total

Descriptive Statistics

Mean

Std. Deviation

N

210 210 210 210 210 210 210 210 210 210 210

7.446 3.175 .369 .453 1.184 10.742 .443 2.294 .501 .365 .471

35.09 7.41 .84 .71 2.90 42.43 .73 2.13 .51 .84 .67

Y X1 X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10

149

CHI TIET THU NHAP HO GIA DINH

Thành tiền

Tỷ trọng

TT

Sản phẩm tạo thu nhập

(Triệu đồng

(%)

Lương khoán bảo vệ rừng

1

1,890

10,40

Khai thác Cua con giống

2

0,850

4,68

Khai thác Cua thịt

3

4,201

23,12

Khai thác cá Kèo con giống

4

2,572

14,15

Khai thác cá Kèo thịt

5

1,422

7,82

Khai thác cá Đối thịt

6

0,640

3,52

Khai thác cá Thòi Lòi thịt

7

0,430

2,37

Khai thác Ba Khía thịt

8

0,840

4,62

Khai thác Dộp thịt

9

0,650

3,58

Khai thác Nghêu giống

10

0,452

2,49

Khai thác Nghêu thịt

11

2,420

13,32

Khai thác trái bần chín

12

0,420

2,31

13

1,387

7,63

Các sản phẩm khác: Tôm, cá, ốc …

100.00

TỔNG CỘNG:

18,174

2. Kết quả kiểm định mô hình cá yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình

Model Summaryb

Change Statistics

Durbin- Watson

Model 1

R .844a

R Square .713

Adjusted R Square .697

Std. Error of the Estimate 4.101

Sig. F Change .000

1.929

a. Predictors: (Constant), X10, X3, X7, X6, X5, X1, X9, X5, X4, X2, X8

b. Dependent Variable: Y

150

Residuals Statisticsa

Mean

N

Predicted Value

Minimum Maximum 48.12

23.39

35.09

Std. Deviation 6.286

210

Residual

-10.559

9.299

.000

3.992

210

-1.861

2.073

.000

1.000

210

Std. Predicted Value

Std. Residual

-2.575

2.267

.000

.973

210

a. Dependent Variable: Y

ANOVAa

Sum of Squares

df

Sig.

Model 1 Regression

8258.346

10

Mean Square 750.759

F 44.637

.000b

Residual

3330.219

198

16.819

Total

11588.565

209

a. Dependent Variable: Y b. Predictors: (Constant), X10, X3, X7, X6, X5, X1, X9, X6, X4, X2, X8

151

Coefficientsa

Standardized Coefficients

Collinearity Statistics

Beta

Sig.

Model 1

(Constant)

t 10.808

.000

Tolerance VIF

Unstandardized Coefficients Std. Error 1.929

B 20.852

X1

.274

.093

.117

2.955

.004

.929

1.077

X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10

.838 .636 .270 .028 .651 .126 .877 .812 .994

1.946 .081 1.925 .074 -1.975 -.085 2.825 .113 1.994 .077 2.227 .086 2.525 .149 -.110 -2.760 .725 11.527

.053 .056 .050 .005 .048 .027 .012 .006 .000

.841 .972 .788 .907 .968 .971 .417 .918 .367

1.189 1.029 1.268 1.102 1.033 1.030 2.400 1.090 2.723

1.630 1.224 -.533 .078 1.297 .280 2.215 -2.240 11.460 a. Dependent Variable: Y

Model Summaryb

Adjusted R Square

Change Statistics Sig. F Change

Model 1

R .448a

R Square .200

.129

Std. Error of the Estimate 1.17956

Durbin-Watson 1.413

.000

a. Predictors: (Constant), CROSP, X1S, X5S, X4S, X2S, X5, X6S, X9S, X3S, X7, X9S, X10S, X5, X7S, X4, X1, X5S b. Dependent Variable: USQUARE

152

ANOVAa

df

Sig.

17

Model 1 Regression

Sum of Squares 66.912

Mean Square 3.936

F 2.829

.000b

192

Residual

267.140

1.391

209

Total

334.051

a. Dependent Variable: USQUARE b. Predictors: (Constant), CROSP, X1S, X5S, X4S, X2S, X5, X6S, X9S, X3S, X7, X8S, X10S, X5, X7S, X4, X1, X5S

3. Kết quả phân tích hồi quy, giải pháp và khuyến nghị

3.1. Diễn giải các biến

Bảng 1. Diễn giải các biến

Biến số

Diễn giải

Nguồn

Kỳ vọng dấu

(1992), Mankiw (1998),

Y: Biến phụ thuộc (THUNHAP)

Thu nhập bình bình quân/người/năm (triệu đồng)

Park (2003), Scoones Mincer (1974)

Mincer (1974)

+

Số năm đi học của chủ hộ (năm)

X1: Trình độ học vấn của chủ hộ

Karttunen (2009)

+

X2: Giới tính của chủ hộ

Biến giả, nhận giá trị 1 chủ hộ là nam, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là nữ

Karttunen (2009)

+

X3: Thành phần dân tộc của chủ hộ

Biến giả, nhận giá trị 1 chủ hộ là người Kinh, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là dân tộc thiểu số

Karttunen (2009)

-

X4: Quy mô hộ

Số người trong hộ, không tính đến số người làm thuê, ở nhờ (người).

153

Scoones (1998)

+

Diện tích đất khai thác, đất sản xuất của hộ (m2)

X5: Quy mô diện tích đất

X6: Thu nhập

+

Động tạo thu nhập từ sản phẩm rừng bần của hộ

Reardon & cộng sự (1992), Schwarze (2004)

Scoones (1998)

+

ra

X7: Số hoạt động sản xuất doanh kinh tạo thu nhập

Biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ thu nhập từ sản phẩm rừng bần, giá trị 0 nếu chủ hộ có thu nhập khác

+

Luu Tien Dung, Đinh Phi Ho và cộng sự (2018)

X8: Tham gia các tổ chức đoàn thể địa phương

Biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ thu nhập từ sản phẩm rừng bần, giá trị 0 nếu chủ hộ có thu nhập khác

+

X9: Cú sốc tự nhiên tác động

Do lũ lục, hạn hán, gió bão, triều cường

Luu Tien Dung, Đinh Phi Ho và cộng sự (2018)

Scoones (1998)

+

X10: Tiếp cận các định chế tài chính

Biến giả, nhận giá trị 1 nếu hộ có vay vốn từ các định chế chính thức, nhận giá trị 0 nếu chủ hộ không vay vốn

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2019

154

Bảng 2. Ký hiệu các biến

Ký hiệu biến

Mô tả

Kỳ vọng dấu

Đơn vị tính

Thu nhập của hộ gia đình

Triệu đồng/năm

Y

X1 Học vấn của chủ hộ

Lớp 1-12 (Năm học)

+

X2 Giới tính chủ hộ

Nam =1; Nữ = 0

+

X3

Thành phần dân tộc của chủ hộ

Dân tộc Kinh =1;

+

Dân tộc khác = 0

Người

X4 Quy mô hộ

-

X5 Diện tích đất sản xuất

1000 mét vuông

+

X6

Thu nhập từ sản phẩm rừng bần

Có = 1; không = 0

+

Số hoạt động SX – Kinh doanh tạo thu nhập

Số hoạt động (1, 2, 3…)

X7

+

X8

Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương Có =1; không = 0

+

Cú sốc tự nhiên (hỏa hoạn, lũ lụt, hạn hán, sóng và bão )

X9

Có =1; không = 0

-

Có vay tiền từ định chế tín dụng chính thức = 1; Không = 0

Tiếp cận tín dụng (vay từ các định chế tài chính - ĐCTC)

X10

+

Nguồn: Tổng hợp của tác giả, năm 2019

3.2. Các bước thực hiện kiểm định mô hình

Thông qua kết quả điều tra, thống kê 210 phiếu điều tra, tiến hành thực hiện kiểm

định kết quả nghiên cứu từ hàm ước lượng. Tiến hành 05 kiểm định sau:

(5) Kiểm định tương quan từng phần của các hệ số hồi quy

Mục tiêu của kiểm định này là nhằm xem xét các biến độc lập tương quan có ý

nghĩa với biến phụ thuộc hay không (xét riêng từng biến độc lập). Khi mức ý nghĩa

155

(Significance, Sig.) của hệ số hồi quy từng phần có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig ≤ 0,05),

kết luận có ý nghĩa thống kê giữa biến độc lập và biến phụ thuộc.

(6) Mức độ phù hợp của mô hình

Nhằm xác định xem có mối quan hệ tuyến tính tuyến tính giữa các biến độc với

biến phụ thuộc hay không. Mô hình được xem là không phù hợp khi tất cả các hệ số hồi

quy đều bằng không, ngược lại mô hình được xem là phù hợp nếu có ít nhất một hệ số hồi

quy khác không.

Giả thuyết: H0: Các hệ số hồi quy đều bằng không

H1: Có ít nhất một hệ số hồi quy khác không

Phân tích phương sai (analysis of variance, ANOVA) được sử dụng để kiểm định.

Nếu mức ý nghĩa đảm bảo có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig. < 0,05), chấp nhận giả thuyết

H1 mô hình được xem là phù hợp.

(7) Hiện tượng đa cộng tuyến

Hiện tượng đa cộng tuyến (multicollinearity) là hiện tượng các biến độc lập có

quan hệ gần như tuyến tính, việc bỏ qua hiện tượng đa cộng tuyến làm các sai số chuẩn

thường cao hơn, giá trị thống kê thấp hơn và có thể không có ý nghĩa. Để kiểm định hiện

tượng này, sử dụng thước đo độ phóng đại phương sai (Variance Inflation Factor, VIF) để

kiểm định hiện tượng tương quan giữa các biến độc lập. Điều kiện là VIF < 10 để không

có hiện tượng đa cộng tuyến.

(8) Hiện tượng tự tương quan

Khi có hiện tượng tư tương quan (autocorrelation) thì các phần dư số chuẩn ước

lượng sẽ khác phần dư thực, do đó ước lượng sẽ không chính xác.

Trong thống kê học, trị số thống kê Durbin-Watson (Durbin và Watson, 1951) là

một thống kê kiểm định được sử dụng để kiểm tra xem có hiện tượng tự tương quan hay

không trong phần dư (residuals) của một phân tích hồi quy.

Trị số thống kê Durbin-Watson (d) được xác định như sau:

156

Trong đó: n: Số quan sát; et: Phần dư của quan sát thứ t.

Căn cứ vào số quan sát, số tham số (k-1) = df của mô hình hồi quy, mức ý nghĩa

0.05 (95%) trong Bảng thống kê Durbin-Watson để xác định được trị số thống kê dU (d-

Upper - Trị số thống kê trên) và dL (d-Lower - Trị số thống kê dưới).

Tự tương

Không kết

Không có tự

Tư tương quan

Không kết luận

quan dương

luận

tương quan

âm

0

dL dU 4-dU 4-dL

Hình 1. Sơ đồ xác định hiện tượng tự tương quan

Trong Hình 3.3, khi d (d - Hệ số Durbin-Watson ) lớn hơn dU và nhỏ hơn (4 - dL),

kết luận không có hiện tượng tự tương quan trong phần dư của mô hình hồi quy tuyến tính

(2). Theo Fomby và cộng sự (1984), khi n lớn không có bảng tra hoặc có những kết quả

mâu thuẫn, áp dụng theo quy tắc (cải tiến):

- Nếu 1 < d < 3: Kết luận mô hình không có tự tương quan.

- Nếu 0 < d < 1: Kết luận mô hình có tự tương quan dương.

Nếu 3 < d < 4: Kết luận mô hình có tự tương quan âm.

(9) Kiểm định hiện tượng phương sai của phần dư thay đổi

Phương sai của phần dư thay đổi (heteroskedasticity) là hiện tượng các giá trị phần

dư có phân phối không giống nhau, giá trị phương sai không như nhau. Bỏ qua hiện tượng

phương sai của phần dư thay đổi làm cho các ước lượng bình phương nhỏ nhất (Ordinary

Least Square, OLS) của các hệ số hồi quy không đạt hiệu quả, các kiểm định giả thuyết

không còn giá trị và các dự báo không còn hiệu quả. Trong nghiên cứu này số quan sát là

157

210, nên sử dụng kiểm định White (White, 1980) để kiểm định phương sai của phần dư

thay đổi.

- Kiểm định White:

Kết quả mô hình hồi quy

Y = bo + b1X1 + b2X2+ b3X3+ ...+ b11X11+ u (2)

Xây dựng mô hình hồi quy phụ:

USQUARE = b0 + b1X1 + b2X2 + b3X3 + b4X4 + b5X5 + b6X6 + b7X7 + b8X8 + b9X9 +

b10X10 + b11X1S + b12X2S + b13X3S + b14X4S + b15X5S + b16X6S + b17X7S + b18X8S +

b19X9S + b20X10S + b21CROSP

Trong đó:

USQUARE: Phần dư bình phương

X1S: X1 bình phương; X2S: X2 bình phương…; X11S.

CROSP: Tích chéo (X1*X2*X3*X4*X5*X6*X7*X8*X9*X10)

Xác định hệ số White: n*R2

Trong đó: n số quan sát của nghiên cứu; R2: Kết q ủa có được từ hàm hồi quy

phụ (3).

Căn cứ vào số tham số (k-1) = df1 của mô hình hồi quy phụ, mức y nghĩa là 0.05

(95%) trong Bảng phân phối Chi bình phương, để xác định giá trị Chi bình phương.

Khi (n*R2 ) < giá trị Chi bình phương (tra Bảng), kết luận: Phương sai của phần

dư không đổi.

3.3. Thảo luận kết quả hồi quy

(1) Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa (Unstandardized coefficient, B)

Hệ số B chưa chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà các biến

được giữ nguyên giá trị thô. B cho biết giá trị tăng, giảm của biến phụ thuộc (thu nhập Y)

khi thay đổi một đơn vị đo lường của biến độc lập.

(2) Hệ số hồi quy chuẩn hóa (standardized coefficient, Beta)

158

Hệ số Beta đã chuẩn hóa là kết quả của việc giải phương trình hồi quy mà các biến

độc lập, biến phụ thuộc đã được chuẩn hóa ( phương sai =1). Trị tuyệt đối của hệ số hồi

quy chuẩn hóa Beta, nhằm giúp xác định tỷ lệ % đóng góp của các biến độc lập vào biến

phụ thuộc.

(3) Xác định hàm hồi quy tuyến tính

Các tham số trong hàm ước lượng là các hệ số B của các biến độc lập sau khi giải

phương trình hồi quy.

(4) Các giải pháp, khuyến nghị

Dựa vào hàm hồi quy được xác định, tiến hành phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh

hưởng đến thu nhập của hộ dân và đưa ra giải pháp cụ thể.

3.4. Kết quả phân tích hồi quy

Sau khi thực hiện các bước kiểm định, kết quả hồi quy như sau:

Bảng 3. Kết quả hồi quy

Hệ số chưa chuẩn hóa

Hệ số chuẩn hóa

Thống kê cộng tuyến

t

Sig.

Beta

Tolerance

VIF

B 20,852 0,274 1,630 1,224 -0,533 0,078 1,297 0,280 2,215 -2,240 11,460

Std. Error 1,929 0,093 0,838 0,636 0,270 0,028 0,651 0,126 0,877 0,812 0,994

10,808 2,955 0,117 1,946 0,081 1,925 0,074 -1,975 -0,085 2,825 0,113 1,994 0,077 2,227 0,086 2,525 0,149 -0,110 -2,760 0,725 11,527

0,000 0,004 0,053 0,056 0,050 0,005 0,048 0,027 0,012 0,006 0,000

1,077 1,189 1,029 1,268 1,102 1,033 1,030 2,400 1,090 2,723

0,929 0,841 0,972 0,788 0,907 0,968 0,971 0,417 0,918 0,367

(Constant) X1 X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10 R2 hiệu chỉnh Giá trị F Sig. Durbin - Watson

0,697 44,637 0,000 1,929

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

159

Theo Hair và cộng sự (2006), Bảng 4 cho kết quả có 10 biến đảm bảo có ý nghĩa

thống kê với độ tin cậy trên 94% (Ngoại trừ biến X5); R2 hiệu chỉnh = 69,7% (69,7 %

thay đổi thu nhập được giải thích bởi 11 biến độc lập); Theo Fomby và cộng sự (1984),

giá trị thống kê Durbin - Watson = 1,929 lớn hơn 1 và nhỏ hơn 3 (Không có hiện tượng tự

tương quan phần dư); VIF < 10 (Không có hiện tượng cộng tuyến của các biến độc lập).

Đối với phương sai phần dư, nghiên cứu sử dụng kiểm định White (1980).

Mô hình hồi quy phụ của White có dạng:

Bảng 4. Kết quả mô hình hồi quy phụ

Adjusted R Square (R2 hiệu chỉnh)

Std. Error of the Estimate

R Square

R

Change Statistics

Durbin- Watson

R Square Change

F Change Sig. F Change

0,129

0,2

2,829 0,000

1,413

0,448 Biến phụ thuộc: SQUARE

117,956 0,2

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Hệ số White = n*R2 hiệu chỉnh = 210*0,129 = 27,09

Tra bảng số Chi bình phương, với 23 biến độc lập và mức tin cậy 95%, giá trị

thống kê bảng = 35,17. Không có hiện phương sai phần dư thay đổi vì hệ số White nhỏ

hơn giá trị thống kê bảng.

Thông qua 6 kiểm định trên, mô hình khẳng định có 10 yếu tố ảnh hưởng đến thu

nhập hộ dân sống xung quanh rừng bần: X1, X2, X3, X4, X6, X7, X8, X9, X10.

160

Bảng 5. Mức độ tác động của các yếu tố

Vị trí tác động 3 8 10 7 4 9 6 2 5 1

Các biến độc lập X1 X2 X3 X4 X5 X6 X7 X8 X9 X10 Tổng

Giá trị tuyệt đối Beta 0,117 0,081 0,074 0,085 0,113 0,077 0,086 0,149 0,110 0,725 1,617

Tỷ lệ % 7,2 5,0 4,6 5,3 7,0 4,8 5,3 9,2 6,8 44,8 100

Nguồn: Kết quả phân tích từ số liệu khảo sát, năm 2019

Ghi chú: Theo Norusis (1993), trong mô hình hồi quy, đánh giá mức độ tác động của

các hệ số hồi quy nên sử dụng hệ số Beta.

Mức độ tác động theo thứ tự từ lớn đến nhỏ nhất: Tiếp cận vốn vay từ các định

chế chính thức (X11); Tham gia tổ chức, đoàn thể địa phương (X9); Học vấn (X1); Diện

tích đất sản xuất (X6); Cú sốc tự nhiên X10); Số hoạt động sản xuất - kinh doanh tạo thu

nhập X8); Quy mô hộ 9X4); Giới tính chủ hộ (X2); Thu nhập từ sản phẩm rừng bần (X7);

Thành phần dân tộc của chủ hộ (X3).

Trong điều kiện rừng bần tại ĐBSCL, nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng

đến thu nhập hộ dân sống xung quanh rừng bần theo thứ tực tác động, gồm: (i) Vốn tài

chính, (ii) vốn xã hội, (iii) vốn con người, (iv) vốn vât chất, và (v) vốn tự nhiên.

Từ kết quả tổng số hộ dân sống ven rừng bần nhận khoán rừng tại địa bàn nghiên

cứu tổng cộng là: 3.169,8 ha (Mục 3 luận án), qua kết quả điều tra với thu nhập bình quân

hộ khai thác sản phẩm từ rừng bần là 18,174 triệu đồng/ha/năm. Như vậy tổng thu nhập

(TN):

TN = 3.169,8 ha x 18,174 triệu đồng/ha/năm = 57.607,945 triệu đồng/năm.

Betak: Hệ số Beta của biến độc lập thứ k; Bk: Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa của biến độc thứ k; Sk: Độ lệch chuẩn (Standard Deviation) của biến độc lập thứ k; SY: Độ lệch chuẩn của biến phụ thuộc Y.

161

3.5. Giải pháp, khuyến nghị để nâng cao thu nhập hộ gia đình

Để nâng cao thu nhập cho hộ dân, 5 vấn đề cần quan tâm giải quyết:

Một là, nâng cao năng lực vốn tài chính cho các hộ dân thông qua tạo điều kiện

cho hộ tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội) và các Quỹ tài trợ phát triển và bảo vệ RNM

ven biển, đặc biệt là các phương án khai thác thủy sản và phụ phẩm rừng bần có hiệu quả

kinh tế và gắn với cân bằng sinh thái.

Hai là, mở rộng vốn xã hội cho các hộ dân thông qua tác động của hiệp hội Nông

dân, Trung tâm khuyến nông, Trung tâm khuyến lâm bằng các hình thức Câu lạc bộ, tập

huấn các mô hình sản xuất hiệu quả, kỹ thuật mới, thông tin thị trường, biến động của môi

trường rừng ngập mặn.

Ba là, duy trì năng lực vốn con người thông qua các chính sách nâng cao dân trí

cho con em hộ dân, tỷ lệ sinh hợp lý, vai trò phụ nữ tham gia sản xuất - kinh doanh, đặc

biệt là quan tâm đến người đồng bào dân tộc và người yếu thế trong xã hội.

Bốn là, nâng cao vốn vật chất cho các hộ dân thông qua việc áp dụng mô hình

thâm canh rừng, đa dạng các loại hình sản xuất nông - lâm - nuôi trồng thủy sản ở vùng

đệm và chế biến sản phẩm từ bần, dịch vụ du lịch sinh thái rừng bần.

Năm là, tích cực cũng cố vốn tự nhiên thông qua đẩy nhanh tiến độ thực hiện các

dự án bảo vệ, khôi phục và phát triển RNMnhằm hạn chế tối đa những cú sốc tự nhiên

ảnh hưởng đế sinh kế các hộ dân sống xung quanh vùng rừng bần./.

162

Phụ lục A.4. KẾT QUẢ THỐNG KÊ CHI PHÍ DU LỊCH

Statistics

THU NHAP

TUOI

AN UONG BINH QUAN NGUOI

SO LAN THA M QUA N 250

SONGU OI TRONG NHOM 250

KHOAN G CACH 250

250

250

HOC VAN 250

250

N

1.05

5.18

154.15

120.87

43.71

14.81

72.33

.214

1.779

90.893

57.428

18.444

2.660

11.455

1

2

38

41

16

6

42

2

11

360

460

72

24

97

Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất

SO LAN THAM QUAN (LAN)

Frequency

Percent

Valid Percent

Valid

Cumulative Percent 95.2 100.0

238 12 250

95.2 4.8 100.0

95.2 4.8 100.0

1 2 Total

SO NGUOI TRONG NHOM (NGUOI)

Frequency

Percent

Valid Percent

Valid

Cumulative Percent 16.4 67.2 96.0 97.6 98.0 98.4 98.8 99.6 100.0

41 127 72 4 1 1 1 2 1 250

16.4 50.8 28.8 1.6 .4 .4 .4 .8 .4 100.0

16.4 50.8 28.8 1.6 .4 .4 .4 .8 .4 100.0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 Total

163

KHOANG CACH KM

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

12.8 19.2 25.6 35.2 42.4 49.6 68.0 69.6 75.6 85.6 91.6 95.6 100.0

38 58 90 94 106 110 160 190 200 240 290 320 360 Total

32 16 16 24 18 18 46 4 15 25 15 10 11 250

12.8 6.4 6.4 9.6 7.2 7.2 18.4 1.6 6.0 10.0 6.0 4.0 4.4 100.0

12.8 6.4 6.4 9.6 7.2 7.2 18.4 1.6 6.0 10.0 6.0 4.0 4.4 100.0

GIOI TINH NGUOI PHONG VAN

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

17.6 100.0

0 1 Total

44 206 250

17.6 82.4 100.0

17.6 82.4 100.0

HONNHAN (GD=1; DOC THAN =0)

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

8.4 100.0

0 1 Total

21 229 250

8.4 91.6 100.0

8.4 91.6 100.0

164

SO NAM HOC TAP

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

.4 .8 2.0 7.6 8.8 22.0 44.4 52.4 82.4 85.2 94.4 95.2 96.0 97.6 98.8 99.2 99.6 100.0

6 8 9 10 11 12 14 15 16 17 18 19 20 21 22 24 26 28 Total

1 1 3 14 3 33 56 20 75 7 23 2 2 4 3 1 1 1 250

.4 .4 1.2 5.6 1.2 13.2 22.4 8.0 30.0 2.8 9.2 .8 .8 1.6 1.2 .4 .4 .4 100.0

.4 .4 1.2 5.6 1.2 13.2 22.4 8.0 30.0 2.8 9.2 .8 .8 1.6 1.2 .4 .4 .4 100.0

Model Summaryb

Change Statistics

Adjusted R Square

Durbin- Watson

.223

Std. Error of the Estimate 12.704

Sig. F Change .037

1.219

Model 1

R .524a

R Square .275

a. Predictors: (Constant), TC

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients

Std. Error

Beta

Model 1

(Constant)

B 57.750

16.090

t 3.601

Sig. .003

TC

-9.165E-05

-.524

-2.302

.037

.000

165

Phụ lục A.5. MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ RỪNG

Trạm Kiểm lâm Long Phú - Trần Đề - Cù Lao Dung

Trạm Kiểm lâm xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, Trà Vinh

166

Họp giao ban Trạm Kiểm lâm và Tổ Quản lý rừng Cù Lao Dung, Sóc Trăng

Hội nghị Mêkông xanh Cần Thơ- Báo Tuổi trẻ, 2018

167

Phụ lục A.6. MỘT SỐ HÌNH ẢNH RỪNG BẦN

Rừng bần Cù Lao Dung, Sóc Trăng

Trồng bần trên bãi bồi tại xã Trung Bình, Trần Đề, Sóc Trăng

168

Rừng bần ngoài đê bao xã Long Vĩnh, Duyên Hải, Trà Vinh

169

Phụ lục A.7. SẢN PHẨM TỪ RỪNG BẦN

Mùa bần

Trái và bông bần

170

Trái bần chín

Trái bần chín làm nguyên liệu Nước cốt bần

171

Con Dộp

172

Nghêu

Cá Kèo

Cá Thòi lòi biển

173

Cua biển

Tôm càng

174

Tôm thẻ chân trắng

Người dân đi thụt bắt Lịch

175

Sản phẩm Lịch

Sản xuất nước cốt bần

176

Phụ lục A.8. MỘT SỐ HÌNH ẢNH DỊCH VỤ DU LỊCH

Phà qua Long Phú qua Cù Lao Dung

Phà Trà Vinh qua Cù Lao Dung

177

Tàu dịch vụ du lịch

Khỉ đuôi dài sống trong rừng bần

178

Con khỉ đang đi săn Ba Khía

Bãi nghêu Cù Lao Dung, Sóc Trăng

179

Đàn Cò trắng bay về nơi trú ngụ trong rừng bần

180