VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ HẠNH

BẢN HỘI TRONG ĐẠO MẪU: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI

TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2016

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ HẠNH

BẢN HỘI TRONG ĐẠO MẪU: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI

TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI

Chuyên ngành: Văn hóa dân gian

Mã số: 62 22 01 30

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. NGÔ ĐỨC THỊNH

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng:

- Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong các công

trình nghiên cứu của ai khác.

- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.

- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu

chân thực, cẩn trọng trong luận án.

Tác giả luận án

Mai Thị Hạnh

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án “Bản hội trong Đạo Mẫu: tạo lập vốn xã hội trong

bối cảnh chuyển đổi", tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.

Tôi xin chân thành cảm GS.TS Ngô Đức Thịnh - người Thầy đã tận tình

hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận án.

Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể Khoa Văn hoá học -

Học Viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận

án này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Lê Hồng Lý, PGS.TS Phạm

Quỳnh Phương, PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm, TS Hoàng Cầm... vì đã góp ý

cho tôi các ý tưởng nghiên cứu.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân và bạn bè đã luôn

dành cho tôi sự động viên giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Tác giả luận án Mai Thị Hạnh

ii

KÍ HIỆU VIẾT TẮT

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Giáo sư tiến sĩ

GS.TS

Liên minh Châu Âu

EU

Nhà xuất bản

Nxb

Tác giả

TG

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

Trước công nguyên

TCN

Trang

Tr

Văn hóa thông tin

VHTT

Vốn xã hội

VXH

Tổ chức thương mại thế giới

WTO

iii

MỤC LỤC

Trang

i LỜI CAM ĐOAN

ii LỜI CẢM ƠN

iii KÍ HIỆU VIẾT TẮT

iv MỤC LỤC

1 MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ 10 LUẬN

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 10

1.2. Cơ sở lý luận 24

37 Tiểu kết

38 CHƯƠNG 2: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MỘT CỘNG ĐỒNG TÔN GIÁO

2.1. Sự hình thành bản hội Đạo Mẫu 38

2.2. Cơ cấu tổ chức của bản hội Đạo Mẫu 43

2.3. Thực hành nghi lễ của bản hội Đạo Mẫu 46

2.4. Đặc trưng của bản hội Đạo Mẫu 51

66 Tiểu kết

CHƯƠNG 3: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MÔI TRƯỜNG TÂM LINH 68 ĐẬM MÀU SẮC KINH TẾ

3.1. Màu sắc kinh tế của bản hội Đạo Mẫu: các khía cạnh biểu hiện 68

3.2. Sự gắn kết giữa tâm linh và kinh tế trong bản hội Đạo Mẫu: Những lý giải 84

3.3. Môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế và cơ sở cho các thành viên 89 bản hội tạo lập vốn xã hội

92 Tiểu kết

CHƯƠNG 4: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MÔI TRƯỜNG TÂM LINH

93 TRAO QUYỀN LỰC VÀ THỂ HIỆN QUYỀN LỰC CỦA "NHỮNG

KẺ BỊ LOẠI TRỪ"

iv

4.1. Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh của những kẻ bị loại trừ 93

4.2. Bản hội Đạo Mẫu: không gian trao quyền lực và thể hiện quyền lực 97

4.3. Môi trường tâm linh trao quyền lực, thể hiện quyền lực của "những kẻ 109 bị loại trừ" và cơ sở cho các thành viên bản hội tạo lập vốn xã hội

112 Tiểu kết

CHƯƠNG 5: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI CỦA CÁC THÀNH VIÊN

113 BẢN HỘI ĐẠO MẪU: NHẬN DIỆN ĐẶC ĐIỂM, PHƯƠNG THỨC,

LỢI ÍCH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

5.1. Nhận diện đặc điểm vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu 113

5.2. Phương thức tạo dựng, duy trì và phát triển vốn xã hội của các thành 115 viên bản hội Đạo Mẫu

5.3. Lợi ích của vốn xã hội đối với đời sống của các thành viên bản hội 122 Đạo Mẫu

5.4. Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu trong bối cảnh 134 chuyển đổi: những vấn đề đặt ra

147 Tiểu kết

148 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG 151 BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

167 PHỤ LỤC

v

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1 Đạo Mẫu là một loại hình tín ngưỡng có cội nguồn từ căn tính cổ truyền

của dân tộc lựa chọn lối sống theo nguyên lý mẹ, được phát triển từ tín ngưỡng thờ Mẹ và được nâng lên thành Đạo Mẫu vào thế kỉ XVI trong bối cảnh xã hội phong

kiến Việt Nam có nhiều biến động và trong hoàn cảnh tiếp thu những ảnh hưởng

của Đạo giáo Trung Hoa. Bản hội là không gian của các con nhang đệ tử Đạo Mẫu

quy tụ dưới sự dẫn dắt của một chủ hội (thông thường là đồng Thầy) gắn với một

điện thờ nào đó, chức năng của nó là để cùng nhau thờ phụng và thực hành các nghi lễ nhà Mẫu. Tuy nhiên, khoảng hai thập kỉ trở lại đây, người ta đang chứng kiến sự

“phục hưng” trở lại nhưng ở những hình thức mới và quy mô lớn hơn rất nhiều của

tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam. Trong bức tranh chung về sự phục hưng đó, sự bộc

phát của Đạo Mẫu và lên đồng trở thành tâm điểm. Chưa bao giờ người ta thấy Đạo

Mẫu phát triển một cách công khai đến thế, cũng chưa bao giờ người ta thấy có

nhiều bản hội xuất hiện và nhiều người tham gia bản hội đến vậy. Quy mô bản hội

được mở rộng hơn cùng với tính chất của bản hội cũng như các mối quan hệ của

bản hội có nhiều biến đổi. Không chỉ là không gian sinh hoạt tín ngưỡng với tình

đồng đạo, bản hội giờ đây còn là không gian để người ta phát triển các dịch vụ tâm

linh, kinh doanh buôn bán, hợp tác làm ăn; nó cũng là không gian của nhiều vấn đề về giới và quyền lực giới… Những điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ về

bản chất của bản hội hiện nay: bản hội có phải chỉ đơn thuần là một cộng đồng

mang tính chất tâm linh không hay sự liên kết giữa các thành viên trong bản hội còn

vì những mục đích và lợi ích khác nữa? Những thành viên trong bản hội đến với

nhau liệu có phải chỉ vì nhu cầu tìm đến sự cộng cảm, vì những vấn đề của tâm sinh

lý hay còn vì vấn đề lợi ích kinh tế? Bối cảnh xã hội nào đã tác động làm đa dạng

hóa bản chất của các mối quan hệ đó? Và các mối quan hệ này giúp gì cho họ trong cuộc sống? Như vậy, lí do đầu tiên và cũng là quan trọng nhất khiến tôi lựa chọn đề

tài này để nghiên cứu là do tính vấn đề của đối tượng nghiên cứu: bản hội trong xã hội chuyển đổi.

1.2 Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian đã được các tác giả trong và ngoài

nước dày công nghiên cứu và tiếp cận ở các góc độ khác nhau như văn hóa học,

văn học, tâm lý bệnh học, nhân học…Các cách tiếp cận này đem đến những thành

tựu to lớn trong nghiên cứu về Đạo Mẫu như: cung cấp một cái nhìn tổng quan về

sự hình thành, phát triển của Đạo Mẫu, các yếu tố về nghi lễ, lễ hội Đạo Mẫu; phân

1

tích sâu sắc các giá trị và phản giá trị của Đạo Mẫu; chức năng của nghi lễ Đạo Mẫu

cụ thể là nghi lễ hầu đồng trong việc cân bằng đời sống tâm sinh lý cho những con

nhang đệ tử mắc các chứng bệnh tâm lý như nhiễu tâm, trầm nhược..mà khoa học gọi

chung là “rối loạn cảm xúc”…Tuy nhiên, hạn chế dễ nhận thấy trong khi tổng quan tư

liệu về Đạo Mẫu là các nguồn tài liệu thường chỉ tập trung nghiên cứu về bản thân tín

ngưỡng này mà dường như ít quan tâm đến việc nghiên cứu mối quan hệ giữa những

con người cùng thực hành tín ngưỡng đó. Đây là một vấn đề cần tìm hiểu của các nhà

nghiên cứu. Đề tài: “Bản hội trong Đạo Mẫu: tạo lập vốn xã hội trong bối cảnh

chuyển đổi” chính là một cách để nghiên cứu về mối quan hệ này.

1.3 Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, vốn xã hội trở thành một đề tài

thu hút sự quan tâm của rất nhiều học giả trên thế giới và trong nước. Mặc dù có

chậm hơn so với các quốc gia khác trong việc tiếp cận khái niệm và khung lý thuyết

này, song tính đến nay, ở Việt Nam đã có khoảng vài chục nghiên cứu về vốn xã hội

bao gồm các bài viết đăng trên các tạp chí, sách, báo và luận án. Hầu hết các nghiên

cứu đề cập đến vốn xã hội trong phát triển kinh tế, giáo dục và xã hội dân sự, thiếu

vắng các công trình nghiên cứu về vốn xã hội trong các tổ chức tôn giáo tín ngưỡng,

và việc tạo lập vốn xã hội trong các nhóm xã hội tâm linh này thì có khác gì so với

các tổ chức và nhóm xã hội bình thường.

Với những lí do trên, tôi chọn “Bản hội trong Đạo Mẫu: tạo lập vốn xã hội

trong bối cảnh chuyển đổi” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận án là nghiên cứu bản hội và việc tạo lập vốn xã hội của các

thành viên bản hội Đạo Mẫu và thông qua nghiên cứu này như một trường hợp để

hiểu được ý nghĩa, vai trò của tôn giáo tín ngưỡng đối với đời sống con người trong

bối cảnh xã hội chuyển đổi; đồng thời cũng hiểu được sự chuyển mình và những

động thái của xã hội Việt Nam đương đại.

Với những mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra hai câu hỏi nghiên cứu

chính là:

Thứ nhất, bản hội là một cộng đồng tôn giáo như thế nào, có những đặc

trưng gì nổi bật?

Thứ hai, vì sao bản hội lại là môi trường giúp các thành viên của nó tạo lập

vốn xã hội trong bối cảnh xã hội chuyển đổi? Các thành viên bản hội đã tạo lập vốn

2

xã hội như thế nào trong bối cảnh xã hội chuyển đổi và vốn xã hội ấy đem lại lợi ích

gì cho họ?

Đã có những nghiên cứu chỉ ra các khía cạnh khác nhau của bản hội nhưng

khía cạnh những người đến tham gia bản hội đã tạo lập quan hệ như thế nào và từ

việc tạo lập quan hệ ấy đã tạo nên vốn xã hội cho họ ra sao thì dường như còn ít các

nghiên cứu đề cập đến. Mỗi một cộng đồng với đặc trưng khác nhau sẽ tạo nên cơ

sở giúp các thành viên của nó hình thành nên những dạng vốn xã hội khác nhau.

Bản hội là một cộng đồng đặc biệt, có nhiều điểm khác so với các cộng đồng khác.

Bản thân nó vừa là một cộng đồng tâm linh, vừa là cộng đồng kinh tế, lại vừa là

cộng đồng của những người có đời sống tâm sinh lý và giới đặc biệt. Do vậy, vốn

xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu cũng rất đặc biệt, nó được sinh ra từ

nhiều khía cạnh: từ việc họ đến bản hội và tham gia vào các hoạt động nghi lễ, các

hoạt động kinh tế. Vốn xã hội cũng nảy sinh từ việc bản thân những người đến bản

hội là những người rất đặc biệt (đặc biệt về khía cạnh giới, đặc biệt về bối cảnh xuất

thân..), nghề nghiệp của họ cũng rất đa dạng (buôn bán, công chức, quân đội…),

trình độ cũng đa dạng…. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên cho các thành viên bản

hội Đạo Mẫu một nguồn vốn xã hội rất đặc biệt, khác với vốn xã hội của các cá

nhân trong các cộng đồng và các tổ chức xã hội khác.

Để hiểu được vốn xã hội của các thành viên bản hội thì luận án của tôi tập

trung trả lời hai câu hỏi trên. Đối với câu hỏi thứ nhất, luận án sẽ trình bày các vấn

đề về sự hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động và đặc trưng của bản hội.

Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, đầu tiên tôi sẽ đi vào từng khía cạnh đặc trưng

của bản hội như khía cạnh cộng đồng tâm linh đậm màu sắc kinh tế (chương 3),

khía cạnh giới và quyền lực giới (chương 4) để đến chương cuối cùng (chương 5)

luận án sẽ nhìn lại một cách tổng thể để thấy được rằng bản hội chính là một cộng đồng đặc biệt. Các thành viên khi đến với bản hội không chỉ có cơ hội để xây dựng các mối quan hệ đồng đạo mà còn xây dựng được nhiều mối quan hệ về kinh tế, giới, nghề nghiệp trình độ…Các quan hệ này sẽ đem lại lợi ích đa dạng cho họ. Do

đó, bản hội là môi trường tạo cơ sở giúp các thành viên của nó tạo lập vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi. Và vốn xã hội mà các thành viên bản hội Đạo Mẫu tạo lập có những đặc điểm khác với vốn xã hội được tạo lập từ các thành viên thuộc các cộng đồng khác. Chương cuối cũng phân tích phương thức tạo lập vốn xã hội và lợi

ích mà vốn xã hội đem lại cho các thành viên bản hội Đạo Mẫu.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

3

Thứ nhất: Minh định khái niệm bản hội, mô tả dân tộc học có phân tích về

sự hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động nghi lễ của bản hội Đạo Mẫu.

Thứ hai: Phân tích và lý giải các đặc trưng nổi bật của bản hội Đạo Mẫu làm

cơ sở cho việc lý giải vì sao bản hội Đạo Mẫu là môi trường giúp các thành viên

của nó tạo lập vốn xã hội.

Thứ ba:Phân tích cách thức tạo lập vốn xã hội và những lợi ích mà vốn xã

hội đem đến cho các thành viên bản hội về kinh tế, văn hóa – xã hội, văn hóa tín

ngưỡng, bản sắc cá nhân…

Thứ tư: Nhận diện và phân tích một số vấn đề đặt ra từ việc tạo lập vốn xã hội

của các thành viên bản hội Đạo Mẫu như vấn đề mối quan hệ hai chiều giữa xã hội

chuyển đổi và việc tạo lập vốn xã hội ; vấn đề chuyển hóa giữa các dạng vốn khác nhau

trong quá trình tạo lập vốn xã hội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Vì nghiên cứu vấn đề tạo lập vốn xã hội nên đối tượng nghiên cứu của luận

án là các quan hệ xã hội, cách thức tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội

Đạo Mẫu.

Luận án đã chọn mẫu nghiên cứu là một bản hội ở Hà Nội với các thành

viên, mối quan hệ giữa các thành viên, bao gồm đồng Thầy, chấp tác, con nhang đệ tử, cung văn, hầu dâng....Cụ thể, luận án nghiên cứu bản hội Phúc Minh từ1, một

bản hội ở Hà Nội do đồng Thầy Xuyên đứng đầu.

Tuy nhiên, tôi cũng thâm nhập một số bản hội khác ở Hà Nội, Hải Phòng,

Hưng Yên để có cái nhìn so sánh trong khi nghiên cứu về Phúc Minh từ và giúp cho

những kết luận của luận án thêm phần khách quan hơn.

Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là một bản hội ở Hà Nội, nghĩa là

một bản hội ở đô thị. Do đó, những kết luận của luận án mang tính chất đặc trưng

cho bản hội ở đô thị. Hơn nữa, bản hội này được đặt trong bối cảnh xã hội chuyển

đổi hiện nay, do đó những kết luận của luận án cũng mang tính chất kết luận về bản

hội đương đại. Bản hội ở các thế kỉ trước chắc chắn sẽ có những điểm khác. Tuy

nhiên, trong luận án này, tôi chưa có điều kiện để đi sâu hơn trong việc tìm hiểu bản

hội ở nông thôn và bản hội ở các thời kỳ trước đây.

1 Để đảm bảo bảo đạo đức nghiên cứu và đảm bảo danh tính, an toàn cho các thông tín viên, tên đồng Thầy, tên bản hội và tên tất cả những người chúng tôi phỏng vấn đã được thay đổi trong luận án.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

4

Về nội dung: luận án tập trung nghiên cứu về sự hình thành, cơ cấu tổ chức,

hoạt động nghi lễ của bản hội, sự cố kết và xung đột của nó; nghiên cứu các đặc

trưng cơ bản của bản hội trong cái nhìn so sánh với cộng đồng nói chung và cộng

đồng tôn giáo khác nói riêng; nghiên cứu cách thức tạo lập vốn xã hội và những lợi

ích mà vốn xã hội đem lại cho các thành viên bản hội; nghiên cứu mối quan hệ giữa

bối cảnh xã hội chuyển đổi và vấn đề tạo lập vốn xã hội.

Về không gian: Luận án nghiên cứu một bản hội tại Hà Nội với những thành

viên của nó. Các thành viên này thường xuyên hành hương, đi lễ xa. Vì vậy, luận án

không chỉ nghiên cứu những hoạt động và mối quan hệ của họ diễn ra tại Hà Nội

mà ở cả những nơi các thành viên của bản hội tới.

Về thời gian: luận án nghiên cứu về bản hội Phúc Minh từ từ khi nó hình

thành, tuy nhiên sẽ tập trung hơn vào khoảng chục năm trở lại đây khi mà hiện

tượng lên đồng bùng phát, khi những tác động của bối cảnh chuyển đổi mạnh mẽ hơn,

những rủi ro, bất trắc không thể lường trước khiến số lượng thành viên tham gia vào

bản hội nhiều hơn và tính chất của các mối quan hệ trở nên phức tạp.

4. Phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1 Từ góc độ phương pháp ngành, tôi sử dụng tiếp cận dân tộc học/ nhân

học để có cái nhìn sâu hơn về “quan điểm của người trong cuộc”, quan điểm của

những thành viên trong cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu, bên cạnh đó tôi cũng phối kết

hợp với các cách tiếp cận khác để có cái nhìn liên ngành: chẳng hạn, tôi đã sử dụng

phương pháp tiếp cận tôn giáo học để nghiên cứu bản hội và những thực hành nghi

lễ có chức năng cộng cảm như thế nào đối với các thành viên; tiếp cận tâm lý học

tôn giáo để hiểu sâu hơn những tâm tư, tình cảm, niềm tin, sự tương hỗ lẫn nhau

cũng như những xung đột giữa các thành viên bản hội; tiếp cận kinh tế học để

nghiên cứu sự đầu tư, những phí tổn và lợi ích thu được từ vốn xã hội…

4.2 Ở cấp độ phương pháp tiến hành cụ thể, tôi đã sử dụng hai hệ phương

pháp chính:

Thứ nhất: tập hợp và nghiên cứu những tài liệu thứ cấp bao gồm những tư liệu, tài liệu, sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được in ấn, xuất bản và đang được lưu trữ tại các thư viện.

Những tư liệu này giúp tôi có một cái nhìn tổng thể về Đạo Mẫu; về bản hội; về vốn xã hội; về xã hội chuyển đổi; về tình hình phát triển, biến đổi của tôn giáo

tín ngưỡng trong bối cảnh chuyển đổi…trên cơ sở đó lên kế hoạch chi tiết cho việc đi khảo sát thực địa, lập ra hệ thống câu hỏi phỏng vấn, lựa chọn đối tượng để

phỏng vấn. Có thể nói, nguồn tư liệu thứ cấp này có vai trò không kém phần quan

5

trọng, tôi đã kế thừa và vận dụng những kết quả các công trình của các thế hệ đi

trước, từ đó tìm ra những luận điểm mới, cách tiếp cận mới và phát triển nó trong luận án của mình.

Thứ hai: quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Đây là những phương pháp

quan trọng của ngành dân tộc học/ nhân học. Sử dụng phương pháp này giúp tôi

thâm nhập sâu vào bản hội, vào các mối quan hệ giữa các thành viên trong bản hội, hiểu sâu hơn bản chất của nó và tiệm cận đến việc “diễn giải văn hóa như người trong cuộc”, tôn trọng tiếng nói của người trong cuộc.

Tuy nhiên, ban đầu tôi đã gặp rất nhiều khó khăn. Thật khó để xác định thành viên của bản hội hiện là bao nhiêu người, ngay cả người đứng đầu bản hội

cũng nói với tôi như vậy vì số người ra, vào bản hội thì thường xuyên và rất nhiều.

Bản hội lại cũng không giống các cộng đồng xã hội khác là thường xuyên có các

cuộc họp, hay các hoạt động đòi hỏi tuyệt đối sự có mặt của tất cả các thành viên,

họ lại sống rất xa nhau: người ở Hà Nội, người ở Hưng Yên…Điều này, gây khó

khăn cho tôi trong việc tiếp xúc với nhiều thành viên bản hội. Song khó khăn lớn

nhất mà tôi gặp phải là thái độ thờ ơ, lạnh nhạt, bất hợp tác của các thành viên bản

hội. Mỗi khi tôi hỏi một câu hỏi nào đó thì họ trốn tránh câu trả lời và khó để có thể

mở lòng với tôi, họ viện dẫn tới nhiều nguyên nhân khiến họ không trả lời tôi trong

đó nguyên nhân chính là: “Chị nên hỏi thầy Xuyên, thầy biết hết”. Những khó khăn

này làm tôi mệt mỏi và nhiều khi muốn bỏ cuộc giữa chừng.

Tôi phát hiện ra sai lầm của mình, rằng tần suất xuất hiện thưa thớt cũng như

những hành động cử chỉ của tôi chưa đủ để tạo nên sự thân thiết cũng như niềm tin

trong họ. Tôi quyết định sẽ phải kiên trì, bình tĩnh, tìm cách để xuất hiện thường

xuyên và gặp gỡ càng nhiều người trong bản hội càng tốt. Sự xuất hiện nhiều đó

giúp tôi quan sát được nhiều hơn các hoạt động của bản hội, cả những chia sẻ cộng cảm cũng như những mâu thuẫn trong lòng nó và điều đặc biệt hữu hiệu là các

thành viên trong bản hội dần quên việc tôi đang hiện diện để nghiên cứu họ và không cảnh giác với tôi nữa. Cụ thể:

+ Quan sát tham dự: tôi đã tham dự và quan sát một số hoạt động của bản hội trong những ngày sóc vọng hàng tháng ( vào ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, các con nhang đệ tử đến thắp hương tại bản điện nhà đồng Thầy, điều này là không bắt buộc nhưng các đệ tử cảm thấy trách nhiệm phải đến của mình. Tuy

nhiên, họ không đến cùng một lúc mà lẻ tẻ, rải rác cả ngày…); tham gia “sử dụng”

và quan sát một số nghi lễ như giải hạn đầu năm, làm lễ đổi tiền âm lấy tiền dương

để bán nhà; tham dự và quan sát mối quan hệ của các thành viên trong nghi lễ lên

đồng; quan sát tham dự các hoạt động mang tính chất cố định một năm 4 kì của bản

6

hội như lễ Thượng Nguyên, lễ vào hạ, lễ tán hạ, lễ cuối năm…; tham dự và quan sát

các cuộc họp đầu năm và cuối năm của bản hội; tham gia và quan sát hoạt động đi lễ xa của bản hội; tham gia và trở thành một trong những người tiêu thụ sản phẩm

đa cấp Amway…

+ Phỏng vấn sâu: về cơ bản có thể hình dung, bản hội Phúc Minh từ là một

cộng đồng của những tín đồ Đạo Mẫu trong đó đứng đầu và điều hành bản hội là đồng

Thầy Xuyên. Dưới đồng Thầy và giúp việc cho đồng Thầy là các chấp tác (có 6 người),

và các đệ tử, các hầu dâng, cung văn. Vì vậy, để hiểu sâu về bản hội và các quan hệ

trong bản hội, tôi đã phỏng vấn các đối tượng sau:

 Đồng Thầy Xuyên: Phỏng vấn đồng Thầy là để hiểu về lịch sử hình thành

và phát triển của bản hội (vì bản hội được hình thành và phát triển gắn liền với hoạt

động phục vụ thánh của đồng Thầy); hiểu về cơ cấu, cách thức vận hành của bản hội;

cách đồng Thầy tổ chức lãnh đạo và tổ chức các hoạt động của bản hội; mối quan hệ

của đồng Thầy với các thành viên bản hội; việc sử dụng vốn văn hóa và vốn kinh tế để

tạo dựng vốn xã hội của đồng Thầy…

 Nhóm những người chấp tác : Tôi đã phỏng vấn cả 06 người làm nhiệm

vụ chấp tác trong bản hội, bao gồm 02 người đàn ông và 04 người phụ nữ trong độ

tuổi từ 23 đến 57.

 Nhóm đệ tử: Đệ tử của Phúc Minh từ bao gồm các bà đã quy y theo Phật

nhưng có lòng mến mộ Đạo Mẫu, các thanh đồng, các tín chủ, nhang tử, bán tử....

Về các bà đi quy, tôi đã phỏng vấn 04 người ( từ độ tuổi 55 đến 76). Về thanh đồng,

tôi đã phỏng vấn 12 người (04 nam và 08 nữ từ độ tuổi 26 đến 52)

 Nhóm cung văn và hầu dâng: tôi đã phỏng vấn 06 người. Những người

chấp tác, đệ tử, cung văn, hầu dâng là nhóm đối tượng phỏng vấn rất quan trọng.

Việc phỏng vấn họ giúp tôi hiểu được nhiều vấn đề: nguyên nhân, mục đích và cách

thức họ tham gia vào bản hội; vì sao họ gia nhập vào bản hội này mà lại không phải

bản hội khác; cách họ thiết lập và duy trì quan hệ với đồng Thầy và những người

trong bản hội; họ đã sử dụng và khai thác các mối quan hệ trong bản hội như thế

nào trong thực hành nghi lễ cũng như trong cuộc sống đời thường…

 Ngoài ra, tôi còn phỏng vấn các đồng Thầy và các thanh đồng của các bản

hội khác biết đồng Thầy Xuyên và bản hội Phúc Minh từ để có nguồn tư liệu so

7

sánh, để biết thêm những cảm nhận khác về đồng Thầy Xuyên và bản hội Phúc

Minh từ…

Tất nhiên, để đảm bảo đạo đức nghiên cứu và để đảm bảo danh tính, an toàn

cho các “thông tín viên”, tên của bản hội và những người chúng tôi phỏng vấn đã

được thay đổi trong luận án.

Để hỗ trợ cho các phương pháp trên, tôi còn sử dụng phương pháp điều tra

bằng bẳng hỏi. Cụ thể, trong buổi lễ đầu năm tại điện nhà đồng Thầy với sự hiện

diện đông đảo các thành viên bản hội, tôi đã phát bảng hỏi cho 81 người hiện có mặt

để khảo sát các thông tin liên quan đến việc gia nhập bản hội, các mối quan hệ của họ

trong bản hội và những lợi ích mà họ nhận được khi là thành viên của bản hội .

Đối với những tư liệu thu được từ phỏng vấn sâu và quan sát tham dự, tôi đã

chuyển thể thành Nhật kí thực địa và biên bản phỏng vấn sâu qua việc gỡ băng. Đó là

những tư liệu định tính có giá trị thực được dùng để trích dẫn trong luận án. Đối với

bảng hỏi, tôi đã chuyển thành số liệu định lượng và được dùng hỗ trợ cho các tư liệu

định tính khi chứng minh một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, với

một đề tài quan tâm nhiều đến thái độ, tình cảm, suy nghĩ, quan niệm …của chủ thể

văn hóa về quan hệ xã hội và vốn xã hội của họ thì luận án này coi trọng hơn các

phương pháp nghiên cứu định tính. Những số liệu định lượng được dẫn dụ trong luận

án mang tính chất tham khảo và bổ sung cho các phương pháp định tính.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

+ Đây là luận án đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về bản hội Đạo

Mẫu trong bối cảnh xã hội chuyển đổi. Cung cấp một cái nhìn tổng quan về cộng đồng

tín đồ Đạo Mẫu trên các phương diện từ sự ra đời, cơ cấu tổ chức, hoạt động nghi lễ,

đặc trưng, các quan hệ xã hội và việc tạo lập vốn xã hội giữa các thành viên…

+ Luận án bổ sung thêm một cách tiếp cận về Đạo Mẫu đó là cách tiếp cận từ

cộng đồng tín đồ của tín ngưỡng này bên cạnh cách tiếp cận quen thuộc từ trước

đến nay ta vẫn thường thấy là tập trung nghiên cứu bản thân tín ngưỡng này với

nghi lễ, lễ hội và giá trị…

+ Trong bối cảnh phần lớn những nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam

được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, chính trị- xã hội thì luận án góp thêm một cách

tiếp cận vốn xã hội từ góc nhìn văn hóa. Luận án cũng phản ánh mối quan hệ và

chuyển hóa lẫn nhau giữa các loại vốn: vốn xã hội, vốn kinh tế và vốn văn hóa.

6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1 Ý nghĩa lý luận của luận án

8

+ Luận án góp phần vào nhận diện một cách khá toàn diện về bản hội Đạo

Mẫu trong bối cảnh xã hội chuyển đổi từ các khía cạnh tâm linh, kinh tế, giới và

quyền lực giới. Đặc biệt là luận án góp phần nhận diện đặc điểm vốn xã hội của các

thành viên bản hội Đạo Mẫu, cách thức tạo lập và lợi ích của vốn xã hội đối với đời

sống của họ.

+ Với những kết quả nghiên cứu, luận án góp phần khẳng định một vấn đề có

ý nghĩa lý luận: trong bối cảnh chuyển đổi, Đạo Mẫu nói riêng và tôn giáo tín

ngưỡng nói chung đang có sự phục hồi, phát triển và tiếp tục khẳng định vai trò của

nó trong đời sống của cá nhân và cộng đồng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

+ Luận án góp thêm luận cứ về tầm quan trọng của vốn xã hội và việc tạo lập

vốn xã hội cho sự phát triển của con người trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, điều

đó có ý nghĩa thực tiễn không chỉ đối với cá nhân mà đối với cả các cộng đồng, tổ

chức trong việc đưa ra chiến lược phát triển của mình.

+ Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu cho các nhà nghiên cứu về văn

hóa, tín ngưỡng tôn giáo và vốn xã hội.

+ Kết quả của luận án cũng có thể gợi mở cho các nhà quản lí tôn giáo tín

ngưỡng trong việc quản lí hoạt động của bản hội Đạo Mẫu nói riêng và hoạt động

tâm linh nói chung.

7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được kết

cấu thành 5 chương sau đây:

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận

Chương 2: Bản hội Đạo Mẫu: một cộng đồng tôn giáo

Chương 3: Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế

Chương 4: Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh trao quyền lực và thể hiện

quyền lực của “những kẻ bị loại trừ”

Chương 5: Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu : nhận

diện đặc điểm, phương thức, lợi ích và những vấn đề đặt ra.

9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

1.1.1. Những nghiên cứu về Đạo Mẫu

Có thể chia lịch sử phát triển của những nghiên cứu về Đạo Mẫu thành hai

giai đoạn: trước và sau năm 1986. Trước năm 1986, những nghiên cứu về Đạo Mẫu

và các khía cạnh của nó còn rất thưa thớt, chủ yếu là những tác phẩm mang tính

chất sưu tầm, ghi chép về thần tích và truyền thuyết các nữ thần và các Thánh Mẫu.

Có một số công trình nghiên cứu về Đạo Mẫu trong giai đoạn này nhưng không

phải của các tác giả người Việt Nam mà lại là người Pháp như Technique et

panthéon dé Médiem Vietnamiens (Kỹ thuật lên đồng ở Việt Nam) (M.Durand

1959)[148], “Hau dong, un culte vietnamien de possession trangsplanté en

France” (Hầu đồng, một tín ngưỡng của người Việt di cư sang Pháp) (P.J Simson

1973). Cả hai công trình này đều tiếp cận Đạo Mẫu từ tục lên đồng. Từ năm 1986 ,

từ khi Đổi mới, sự cởi mở trong chính sách của Đảng và Nhà nước làm cho đời

sống tôn giáo tín ngưỡng có nhiều khởi sắc. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu về

Đạo Mẫu Việt Nam cũng có nhiều nét mới hơn và trở nên sôi động gắn liền trước

hết với những tâm huyết của các nhà nghiên cứu của Viện văn hóa dân gian. Số

lượng các nghiên cứu và các hội thảo về Đạo Mẫu ngày càng nhiều hơn, đồng thời

Đạo Mẫu cũng được sự quan tâm chú ý hơn của nhiều học giả nước ngoài. Qua tổng

quan tài liệu về Đạo Mẫu mà chúng tôi có được, có thể thấy, Đạo Mẫu đã được tiếp

cận từ các góc độ tiêu biểu dưới đây:

Những ghi chép, sáng tác từ góc độ văn học

Những tác phẩm đầu tiên có vai trò đặt nền móng cho những nghiên cứu về

Đạo Mẫu sau này chính là các văn bản ghi chép về các nữ thần, Thánh Mẫu từ góc

độ văn học như các ghi chép các thần tích, huyền thoại, truyện kể dân gian…Có thể

kể đến những ghi chép về Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong các sách như Việt điện u

linh của Lý Tế Xuyên [134], Sự thờ cúng các vị thần tiên ở Việt Nam của Nguyễn

Văn Huyên [54], Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi [14], Các

nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo, Mai Ngọc Chúc [37]…

Cùng với việc sưu tầm, không ít tác giả mà trong các trường hợp này là các trí

thức Nho học thời phong kiến (thế kỉ X đến đầu thế kỉ XX) tiến hành ghi chép lại, sáng

tác thêm những huyền thoại, truyền thuyết đã được sưu tầm ghi chép từ trước… . Việc

sưu tầm, ghi chép và sáng tác thêm các huyền thoại, truyền thuyết Thánh mẫu Liễu

10

Hạnh là một điển hình, trong đó Vân cát thần nữ in trong tập sách Truyền kỳ tân phả

của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705- 1748) [30] là được coi là sớm nhất. Một xu

hướng khác trong việc truyền bá lai lịch của các nữ thần đó là phóng tác tiểu thuyết

hóa. Đó là trường hợp Thánh Mẫu Liễu Hạnh với hai cuốn tiểu thuyết Bà Chúa Liễu

của Hoàng Tuấn Phổ [90] và Liễu Hạnh công chúa của Vũ Ngọc Khánh [60].

Thực ra, các sưu tầm, ghi chép và sáng tác thêm trên chưa phải là những

công trình nghiên cứu, tuy nhiên nó vẫn có giá trị to lớn. Đây chính là nguồn tư liệu

quan trọng để các nhà nghiên cứu về Đạo Mẫu sau này tiếp thu và có cơ sở để phân

tích nhiều chiều cạnh của Đạo Mẫu.

Những nghiên cứu từ góc độ văn hóa học

Từ góc độ văn hóa học, các tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu các

khía cạnh văn hóa khác nhau của Đạo Mẫu. Có thể kể đến những nghiên cứu quan

trọng được tiếp cận từ góc độ này như: Tiếp cận tín ngưỡng dân dã (Nguyễn Minh

San 1998) [97], Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (Nguyễn Hữu Thông

2001) [114], Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng (Ngô Đức Thịnh 2001) [111], Đạo

Mẫu ở Việt Nam (Ngô Đức Thịnh 2002) [110], Đạo Mẫu và các hình thức Shaman

trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á (Ngô Đức Thịnh chủ biên 2004) [108],

Văn hóa Thánh Mẫu (Đặng Văn Lung 2004) [72]…. Đây là những công trình nghiên

cứu tổng quan về Đạo Mẫu.

Bên cạnh đó, còn có những công trình nghiên cứu chuyên sâu vào những

yếu tố riêng lẻ của Đạo Mẫu như điện thờ, nghi lễ, âm nhạc, lễ vật thờ

cúng…như:, Quanh tín ngưỡng dân giã Mẫu Liễu và điện thờ (Trần Lâm Biền

1990) [12], Hát văn (Ngô Đức Thịnh 1992) [107], Lên đồng – hành trình của

thần linh và thân phận (Ngô Đức Thịnh 2010) [112], Đồ mã trong điện thờ Mẫu

(Trương Minh Hằng, Giang Ánh Nguyệt 2013) [38], Lên đồng và hành trình nhận

dạng di sản (Lê Thị Minh Lý 2013) [75]…

Cũng từ góc độ văn hóa học, các tác giả còn nghiên cứu mối quan hệ qua lại

giữa Đạo Mẫu với các hình thức tôn giáo tín ngưỡng khác ở Việt Nam hoặc so sánh

việc thờ Mẫu ở Việt Nam với hiện tượng thờ nữ thần ở các nước trên thế giới.

Có thể nói, những nghiên cứu từ góc độ văn hóa học chiếm một số lượng

nhiều nhất trong các nghiên cứu về Đạo Mẫu. Những nghiên cứu này đã đem lại

những thành tựu to lớn trong nghiên cứu về Đạo Mẫu như:

- Phân tích các khía cạnh khác nhau của Đạo Mẫu: khái niệm, nghi lễ, lễ hội,

điện thần, cơ sở thờ tự, lễ vật, …

- Phân tích các giá trị của Đạo Mẫu

11

- Coi Đạo Mẫu như một di sản văn hóa với nhiều giá trị văn hóa vật thể và

phi vật thể. Đạo Mẫu thể hiện bản sắc dân tộc.

- Sự độc đáo trong thờ Mẫu ở miền Bắc, Trung và Nam

- Sự hỗn dung giữa Đạo Mẫu với các tôn giáo tín ngưỡng khác đặc biệt là với

Phật giáo, Đạo giáo, thờ cúng tổ tiên…

Những nghiên cứu từ góc độ tâm lý bệnh học, y học

Từ góc độ tâm lý bệnh học, y học nhiều tác giả khác như Nguyễn Kim Hiền

[40], Trần Mạnh Cường [21], Nguyễn Thị Hiền [43]…tranh luận rằng Đạo Mẫu và

nghi lễ hầu đồng của nó chính là một “phương thuốc” có tác dụng trị liệu tâm sinh

lý. Nhưng trước đó, vấn đề này đã được một tác giả khác là Nguyễn Khắc Khảm

nhấn mạnh trong nghiên cứu “Vietnamese Mediums and their performances”[146]

của mình.

Từ phương diện y học, Trần Mạnh Cường (1999) trong luận văn thạc sỹ y

học chuyên ngành tâm thần học “Nhận xét đặc điểm biến đổi ý thức của trạng thái

lên đồng ở các lễ hội vùng Nam Định” cho rằng: lên đồng lễ hội vùng Nam Định là

một trạng thái biến đổi ý thức do nhân tố ám thị và tự ám thị gây ra. Nhân tố ám thị

mạnh nhất và sâu sắc nhất là lòng tin truyền thống của người hầu đồng cũng như gia

đình và những người xung quanh vào sự tồn tại của thần linh và khả năng tiếp xúc

giữa người trần với thần linh qua thân thể của người hầu đồng. Trần Mạnh Cường

đi đến kết luận: lên đồng không phải là một trạng thái bệnh lý mà là một trạng thái

tâm lý đặc biệt, chứa đựng một tiềm năng trị liệu [21; tr41].

Từ việc phân tích cơ chế trị liệu, đặc điểm trị liệu trong lên đồng, tác động

của âm nhạc và biểu tượng trong trị liệu, Nguyễn Kim Hiền (2004) trong “Lên đồng

ở Việt Nam một sinh hoạt văn hóa tâm linh mang tính trị liệu ” đã kết luận: Tục lên

đồng tham gia vào việc điều chỉnh những bất ổn tinh thần của một số người theo

cách riêng của mình, tái hòa nhập những người có độ rối nhiễu cao vào các sinh

hoạt tập thể mang tính tín ngưỡng tôn giáo nhằm mang lại ý nghĩa cơ bản cho cuộc

sống của họ. Nhìn chung, hiệu quả trị liệu nổi bật của lên đồng có thể nói là dựa

trên sự kết hợp gắn bó của các phương tiện trị liệu mang tính tâm thể với các

phương tiện trị liệu mang tính tâm lý xã hội làm nên tác dụng trị liệu tổng hợp của

hiện tượng lên đồng. Lên đồng không phải là một trị liệu hướng đến sự hoàn thiện

tuyệt đối, nhưng có thể nói đó là một cách nhận thức lại về một tọa độ lịch sử- xã

hội và văn hóa của một cá nhân và cộng đồng và nhờ đó mà cá nhân đó, thông qua

những biểu tượng tâm linh, có điều kiện xác định được vai trò xã hội của mình, làm

12

thức tỉnh và cảm nghiệm thấy ở mình một năng lực sống mới, mạnh mẽ và có ý

nghĩa hơn trước trong một cộng đồng ít nhiều sự chia sẻ những cảnh ngộ với mình

[40; tr374-375]. Nguyễn Thị Hiền (2010) lại nhìn nhận nghi lễ lên đồng trong Đạo

Mẫu là một trong những biện pháp để chữa trị “bệnh âm” một thứ bệnh mà người ta

phải đặt nó vào trong bối cảnh văn hóa, tôn giáo mới có hiểu được. Trong bài viết

“Bệnh âm: chẩn đoán và chữa bệnh trong lên đồng của người Việt” tác giả cho

rằng bệnh âm là “những bệnh về đường âm, tức là có nguyên nhân do thế giới bên

kia, vô hình, siêu nhiên. Bác sĩ là người chuẩn đoán bệnh dương và cho thuốc Đông

hoặc Tây y trị bệnh, còn bệnh âm là do những Thầy cúng, thầy bói, ông đồng bà

đồng xem quẻ, bói, xem số đoán bệnh và làm lễ, cúng bái, kêu thần thánh thương,

cứu giúp” [43; tr39]. Bài viết đã lý giải những yếu tố văn hóa của bệnh tật và chữa

bệnh trong nghi lễ lên đồng.

Như vậy, có thể thấy, từ góc độ tâm lý bệnh học, y học, các nhà nghiên cứu đã

chỉ ra một trong những tác dụng của nghi lễ hầu đồng đối với những đệ tử Đạo Mẫu là

tác dụng trị liệu và chữa bệnh (những bệnh âm và những bệnh về rối loạn tâm sinh lý).

Những nghiên cứu từ góc độ giới

Gần đây, Đạo Mẫu cũng được các tác giả nghiên cứu từ góc độ giới. Có thể kể

tới những bài viết và công trình tiêu biểu như: Khát vọng của người phụ nữ Việt Nam

qua truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh của Phạm Quỳnh Phương [93], Đạo

Mẫu và vấn đề trao quyền lực và cách thức sử dụng quyền lực của người phụ nữ Việt

Nam của Vũ Thị Tú Anh [6], Đạo Mẫu và bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay của

Đỗ Thị Lan Phương [92], Đạo Mẫu- thân phận người phụ nữ Việt nam cổ truyền

trong Đạo Mẫu Việt Nam của Ngô Đức Thịnh [110], Spirit worship and sexuality in

Viet Nam của Nguyễn Kim Hoa [142]. Từ việc nhìn nhận Đạo Mẫu qua góc nhìn

giới, các tác giả đi đến những nhận xét, “Đạo Mẫu trước nhất gắn với đời sống tâm

linh của người phụ nữ, nó thuộc phạm trù nữ giới…..Đạo Mẫu và lên đồng được nhìn

nhận như là hệ thống văn hóa gắn liền với giới tính nữ” [110; tr385]. Ở một góc nhìn

khác, tác giả Vũ Thị Tú Anh (2013) cho rằng Đạo Mẫu đã biểu tượng hóa quyền lực

đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam trong thực tại như nó vốn có từ trong truyền

thống đến thế kỉ XVI; Đạo Mẫu đã trao quyền lực và cách thức sử dụng quyền lực

cho người phụ nữ, một thứ quyền lực mới, quyền lực tinh thần mà tác giả gọi là

quyền lực mềm [6; tr702]. Không chỉ vậy, ở khía cạnh quyền con người, Đạo Mẫu đã

cho thấy những tác động nhất định của nó đối với cuộc đấu tranh cho nữ quyền hay

sự bình đẳng giới ở Việt Nam. Sự ra đời của hình thức thờ Mẫu Liễu là sự mở đầu

13

cho cuộc đấu tranh giành sự bình đẳng với nam giới của nữ giới Việt. Bằng thực hành

tín ngưỡng, người phụ nữ muốn tìm kiếm sự che chở, dung dưỡng, tìm sự cân bằng

về vị trí và quyền lực của mình trong gia đình và ngoài xã hội dù chỉ trên phương

diện tinh thần [92; tr707].

Ngoài ra, các nghiên cứu khác như nghiên cứu của Nguyễn Kim Hoa còn

phân tích những biểu hiện giới, bản sắc giới của những người lên đồng; nghiên cứu

Barley Norton chỉ ra rằng cấu trúc âm nhạc trong hầu đồng không chỉ chịu ảnh

hưởng của tộc người mà còn chịu ảnh hưởng bởi giới. Khi được thần thánh nhập

vào, người hầu đồng “xuyên qua giới”- khi người hầu đồng thuộc một giới được

thần thánh thuộc một giới khác nhập vào, người này tiếp nhận những đặc điểm về

giới và cách ứng xử của vị khách đó. Tác giả kết luận: thông qua việc tạo nên nhận

dạng của thần thánh, âm nhạc trong lên đồng có thể được hiểu như là tính biến đổi,

các bài chầu văn giúp cho người hầu đồng băng qua thế giới con người và thần linh,

xuyên qua ranh giới của giới và tộc người [11; tr331]

Những nghiên cứu từ góc độ triết học

Có một số công trình nghiên cứu Đạo Mẫu từ góc độ triết học như: Minh

Triết trong Đạo Mẫu ở Việt Nam của Lê Thị Chiêng [18], Khía cạnh triết học trong

tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ của Nguyễn Hữu Thụ

[115]…Với cách tiếp cận này, các tác giả đã làm rõ và sâu sắc hơn giá trị về mặt tư

tưởng triết học của loại hình tín ngưỡng này. Cụ thể, theo các tác giả, mặc dù chỉ

dừng lại là một loại hình tín ngưỡng dân gian, nhưng tín ngưỡng thờ Mẫu của người

Việt ở đồng bằng Bắc Bộ đã phản ánh vào trong nội dung, nghi lễ và không gian

thờ cúng những sự giải thích của mình (dù là trực quan cảm tính) về tự nhiên, xã hội

và con người. Với sự đồng nhất tự nhiên là Mẹ/Mẫu, người Việt đã kéo tự nhiên lại

gần hơn với cuộc sống của mình, đồng thời mối quan hệ Mẹ (tự nhiên) – Con (con

người) đã nói lên thái độ cũng như mong muốn của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ

trong mối quan hệ với tự nhiên. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng

Bắc Bộ cũng phản ánh phần nào mối quan hệ giữa con người với xã hội thông qua

những mong muốn, khát vọng giải phóng con người (trước hết là giải phóng phụ nữ)

khỏi những ràng buộc và chế ngự của các thể chế xã hội, đặc biệt là xã hội phong kiến

Việt Nam thế kỉ XVI –XVII [115; tr 104]

Ngoài những tiếp cận từ các góc độ cụ thể trên, Đạo Mẫu còn được tiếp cận

từ các góc độ khác như nhân học (Oscar Salemink) [89] hoặc tiếp cận liên ngành

(Nguyễn Ngọc Mai) [78] … Có thể nói, những công trình nghiên cứu với các hướng

14

tiếp cận của các tác giả kể trên là những nguồn tài liệu vô cùng quý giá. Mặc dù

chúng không liên quan trực tiếp đến hướng nghiên cứu của tôi, nhưng tôi hết sức

trân trọng những công trình nghiên cứu đó. Bởi, chính những công trình đó đã giúp

tôi có cái nhìn thông suốt và hệ thống về Đạo mẫu, gợi mở cho tôi những khoảng

trống trong nghiên cứu còn bỏ ngỏ. Cụ thể, các cách tiếp cận trên thường chỉ tập trung

nghiên cứu bản thân Đạo Mẫu với các yếu tố cấu thành cũng như nguồn gốc, bản chất,

đặc điểm và giá trị của nó, tác dụng của nghi lễ hầu đồng. Những công trình nghiên

cứu về những người thực hành tín ngưỡng này và mối quan hệ giữa họ còn rất ít ỏi và

lẻ tẻ. Vì vậy, ở đây với cách tiếp cận nhân học văn hóa, sử dụng khung lý thuyết vốn

xã hội, sử dụng các phương pháp nghiên cứu của nhân học, luận án đi vào nghiên

cứu cộng đồng của những người thực hành Đạo Mẫu, cụ thể là nghiên cứu về bản hội,

các thành viên bản hội và các mối quan hệ của họ trong việc tạo lập vốn xã hội.

1.1.2 Những nghiên cứu về cộng đồng, cộng đồng tôn giáo và bản hội.

Trong luận án này, tôi sẽ nhìn nhận bản hội Đạo Mẫu như một cộng đồng tôn

giáo vì vậy, tôi sẽ bắt đầu phần tổng quan này với những phác thảo về nghiên cứu

cộng đồng và cộng đồng tôn giáo để có cơ sở làm toát lên những đặc trưng khác biệt

của cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu so với các cộng đồng tôn giáo khác.

Những nghiên cứu về cộng đồng

Cộng đồng là một khái niệm đã và đang được sử dụng rộng rãi trong các

ngành khoa học xã hội như sử học, văn hóa học, nhân học, tâm lí học, triết học, xã

hội học.Thuật ngữ này trong tiếng Anh gọi là “community”, tiếng Pháp là

“communité”, tiếng Đức là “Gemeinschaft”. Vì là một khái niệm quan trọng có tính

chất thao tác trong nghiên cứu của nhiều nghành khoa học xã hội nên cộng đồng

được nghiên cứu rất nhiều cả về lý thuyết lẫn các nghiên cứu về các loại cộng đồng

cụ thể. Trong các nghiên cứu lý thuyết về cộng đồng, người ta thường tập trung vào

các vấn đề như khái niệm, phân loại cộng đồng, đặc trưng của cộng đồng và cộng

đồng khác gì so với các khái niệm gần với nó như đoàn thể, hiệp hội.

Một trong những công trình nghiên cứu về cộng đồng đáng được nhắc tới

nhất là “Gemeinschaft und Gesellschaft” (1887) (Cộng đồng và Hiệp hội) của một

nhà xã hội học người Đức- Ferdinand Toennies. Theo tác giả này, cộng đồng là một

thực thể xã hội có độ gắn kết bền vững hơn so với “hiệp hội” vì “cộng đồng” được đặc

trưng bởi “sự đồng thuận về ý chí” của các thành viên. Toenies cũng nhấn mạnh vai trò

của ý chí cộng đồng khi cho rằng cộng đồng được hình thành trên cơ sở của việc mỗi

thành viên của cộng đồng nhận thức được rằng mình là một bộ phận của cộng đồng.

15

Từ góc độ kinh tế học, cộng đồng được xem như một loại vốn xã hội. Tiêu

biểu cho cách tiếp cận này là các luận điểm của Robert D.Putnam được trình bày

trong công trình nổi tiếng “Bowling alone: the collapse and revival of American

community” (2000). Theo tác giả này, có hai yếu tố tạo nên cộng đồng với tính cách

là một nguồn vốn xã hội chính là tinh thần đoàn kết và sự hình thành các mạng lưới

xã hội, trong đó từng người cảm thấy yên tâm, an toàn khi họ ở trong cộng đồng,

trong mạng lưới và do đó sẵn sàng đóng góp, hy sinh vì cộng đồng, bảo vệ lợi ích

của cộng đồng trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.

Các nhà khoa học chính trị hiện đại lại quan tâm đến cộng đồng như một

hình thức tổ chức trong quá trình chính trị, bao gồm các nhóm lợi ích đến các chính

đảng, các dạng công xã cho đến nhà nước-dân tộc. Từ nửa sau thế kỉ XX, trong giới

nghiên cứu chính trị học, đặc biệt là văn hóa chính trị, xuất hiện khái niệm về loại

hình “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community). Đây chính là cơ sở để

Benidict Anderson phát triển thành lý thuyết mới về cộng đồng nói chung và quốc

gia dân tộc nói riêng, trong đó nhấn mạnh sự chia sẻ giữa các thành viên của cộng

đồng về cách mà họ hình dung về cộng đồng nói chung và vai trò của họ với tính

cách là bộ phận hợp thành của cộng đồng ấy.

Những thành tựu có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất, xét cả trên mặt học thuật

và phương diện thực tiễn là những kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học về

cộng đồng trong đó không thể không nhắc tới nghiên cứu của D.W.McMillan và

D.M.Chavis về ý thức cộng đồng, cảm giác thuộc về cộng đồng (sense of community)

công bố lần đầu tiên vào năm 1986. Theo hai ông, “ý thức cộng đồng là yếu tố quan

trọng nhất tạo nên sức bền cố kết nội tại của cộng đồng. Bốn yếu tố sau đây chính là cơ

sở của ý thức cộng đồng: 1) tư cách thành viên; 2) ảnh hưởng; 3) sự hội nhập và sự đáp

ứng các yêu cầu; 4) sự gắn bó chia sẻ tình cảm” [Dẫn theo 118; tr23]

Những nghiên cứu về cộng đồng tôn giáo

Cho đến nay, các học giả đã phân loại cộng đồng thành nhiều loại khác nhau.

Theo Phạm Hồng Tung (2009) [122], về cơ bản người ta chia cộng đồng thành 3

loại: cộng đồng địa lý (geographic community) bao gồm các cộng đồng láng giềng

như xóm, phố, làng xã, thành phố, vùng, quốc gia; cộng đồng văn hóa (community

of cutural) bao gồm các loại phe phái, tiểu văn hóa, nhóm tộc người, các cộng đồng

tôn giáo, cộng đồng đa văn hóa…;cộng đồng tổ chức (community of Organizations)

bao gồm gia đình, dòng họ, các mạng lưới, cho tới các tổ chức chính thức, các tập

đoàn kinh tế, hiệp hội nghề nghiệp…Như vậy, cộng đồng tôn giáo là một trong

16

những loại hình của cộng đồng văn hóa, loại hình cộng đồng này dựa trên cơ sở

niềm tin tôn giáo.

Có nhiều nghiên cứu về cộng đồng tôn giáo như cộng đồng Công giáo, Hồi

giáo, Tin Lành…Người ta đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của các cộng đồng tôn

giáo này như sự ra đời, sinh hoạt nghi lễ và những yếu tố cố kết của nó…Trong số

đó, gần gũi hơn cả trong nghiên cứu của chúng tôi là “Vốn xã hội của các đoàn thể

tôn giáo Mỹ” của tác giả Lưu Bành (2010) [9]. Trong bài viết này tác giả khẳng

định: hàng triệu triệu người dân Mỹ thuộc các loại đoàn thể tôn giáo khác nhau, bất

luận là hoàn cảnh kinh tế xã hội của họ như thế nào, khi họ tham gia vào tổ chức tôn

giáo và hoạt động tôn giáo thì đồng thời một mặt họ nhận được sự giúp đỡ hết sức

cụ thể từ giáo hội, đặc biệt là có được cái cảm nhận về sự an toàn và sự an ủi về mặt

tinh thần, một mặt khác chính hoạt động của họ làm lớn mạnh thêm vốn xã hội cho

giáo hội. Giáo hội là con đường tốt nhất thu gom nguồn vốn xã hội, là nơi hứng thú

giao lưu tiếp xúc, giữ gìn quy tắc và học tập rèn luyện kĩ năng trong cuộc sống.

Người tín đồ thông qua các hoạt động tôn giáo, thông qua giáo hội mà học tập được

cách phát biểu, cách diễn giảng trước đông người, cách tổ chức hội nghị, cách giải

quyết mâu thuẫn chia rẽ, cách đảm đương công việc quản lí như thế nào, họ học được

cách quan hệ giao tiếp với nhau…Kết quả của việc tham gia các hoạt động này thường

dẫn đến việc các tín đồ tham gia các loại tổ chức và hoạt động có tính cách phi tôn giáo

rộng rãi hơn ví dụ các hoạt động mang tính chất chính trị như bầu cử và cũng có được

nhiều mối quan hệ xã hội hơn. Như vậy, trong khi sử dụng vốn xã hội thì đồng thời

người ta lại cũng sáng tạo ra nhiều loại vốn xã hội hơn [9; tr64-65].

Các tác giả Việt Nam cũng có những công trình nghiên cứu về cộng tôn giáo,

trong đó có thể nhắc tới những công tình tiêu biểu như “Buddhist pilgrimage and

Religiuos resurgence in contemporary Vietnam” (Hành hương Phật giáo và sự phục

hồi tôn giáo ở Việt Nam đương đại) của Đào Thế Đức. Trong nghiên cứu này, qua

quan sát tham gia một số hội vãi hành hương tại Yên tử (Quảng Ninh) trong mối

quan hệ với người dân địa phương, cán bộ quản lý di tích và các nhà sư, Đào Thế

Đức cho rằng: những người phụ nữ này đã thành công trong việc khẳng định thẩm

quyền tôn giáo của họ đối diện với chính quyền được dẫn dắt bởi tư tưởng Marxist,

với các nhà sư đề cao đặc quyền kinh Phật so với sự cầu nguyện và nam giới thiên

về định hướng thế tục. Như vậy, Đào Thế Đức đã quan tâm đến khía cạnh nghi lễ

(hành hương), giới và quyền lực giới (cụ thể là của người phụ nữ) trong cộng đồng

tín đồ Phật giáo. Một số tác giả khác lại nghiên cứu cộng đồng Công giáo như

17

Nguyễn Hồng Dương (2011) với “Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam: Lịch

sử và những vấn đề đặt ra” [28]. Trong công trình này, tác giả lại quan tâm đến một

khía cạnh khác của cộng đồng tôn giáo đó là quá trình hình thành và những đặc

trưng cơ bản của xứ, họ đạo Công giáo trong lịch sử Việt Nam. Qua đó tác giả phác

dựng đời sống đạo trong các xứ, họ đạo Công giáo và nhận định một số vấn đề đặt

ra đối với hệ thống tổ chức tôn giáo ngày nay ở Việt Nam.

Những nghiên cứu về bản hội

Những nghiên cứu về bản hội với tư cách là cộng đồng tôn giáo còn khá mờ

nhạt. Khảo sát của tác giả cho thấy, các công trình nghiên cứu về Đạo Mẫu trước

thời kỳ Đổi mới không đề cập đến khái niệm bản hội, họ chỉ nhắc đến cộng đồng

các tín đồ Đạo Mẫu với các từ như nhóm, mạng lưới của các ông bà đồng. Hiện

nay, khái niệm bản hội được nhắc đến nhiều hơn trong cộng đồng các tín đồ Đạo

Mẫu. Công trình nghiên cứu có đề cập trực tiếp đến bản hội “Hiện tượng lên đồng

trong bối cảnh mới” của Nguyễn Ngọc Mai [78]. Mục đích của luận án là tìm hiểu

sự phát triển, quá trình vận động của lên đồng từ xưa đến nay; nghiên cứu tác dụng

của nghi lễ này đối với đời sống văn hóa cá nhân của các tín chủ trước và sau khi

thực hành hầu đồng; nghiên cứu tác động của yếu tố kinh tế- xã hội hiện nay đến

hiện tượng lên đồng hầu bóng nói chung. Tuy nhiên, tác giả cũng dành một tiểu

mục nhỏ để trình bày sự tác động của kinh tế thị trường đến cơ cấu tổ chức bản hội.

Tác giả cho rằng bản hội là một mạng xã hội của những căn đồng. “Mạng lưới này

được hình thành và tồn tại bởi các mối quan hệ và sự gắn kết giữa các thành viên

với nhau và với đồng Thầy. Mạng lưới xã hội của các căn đồng cũng bắt đầu và luôn

luôn được củng cố bằng niềm tin và sự tương hỗ” [78; tr85]. Cơ cấu tổ chức của bản

hội bao gồm đồng Thầy ở giữa, là hạt nhân và các thành viên ở xung quanh. Đặc trưng

của bản hội là các mối quan hệ của nó không hoàn toàn bình đẳng được thể hiện trong

mối quan hệ giữa đồng Thầy và đồng lính; bản thân nó là một mạng có tính mở bởi sự

ra vào liên tục của các thành viên, nó cũng có những quy ước nhưng bất thành văn…

Một số nghiên cứu khác của cả các tác giả Việt Nam và nước ngoài đã

nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của bản hội như “Đi lễ xa trong tín ngưỡng Tứ

phủ: hình thành lại bản sắc địa phương và quốc gia ở miền Bắc Việt Nam” (Claire

Chauvet 2010) [19], “Đền thờ Đạo Mẫu và tục lệ đi lễ Thánh: Không gian đời sống

của tín đồ Đạo Mẫu” (Vũ Thị Tú Anh 2013) [5]…Trong đó, các tác giả khẳng định,

những cuộc hành hương dựa vào sự tổ chức và các mạng lưới của một nhóm người

thường là theo một đền hay điện thờ tư gia, đôi khi một chùa và của người đồng

18

đền…Các mạng lưới tập trung từ mười đến hơn một trăm con nhang đệ tử, cả

những người thường xuyên tham gia các lễ và những người thỉnh thoảng mới đến lễ

[19; tr26]. Sự ra đời của một cộng đồng của các tín đồ đạo Mẫu còn được gọi cơ

cánh chính là tâm điểm của tục lệ Đạo Mẫu. Đối với các tín đồ, thời gian đi lễ

Thánh là cơ hội giúp họ giao thiệp với các vị Thánh và thế giới tâm linh. Họ phấn

khởi vì học được những câu chuyện mới về các vị Thánh và tín ngưỡng Đạo Mẫu.

Thông qua quá trình tổ chức đi lễ Thánh, các tín đồ Đạo Mẫu học hỏi và thể hiện

chứng tỏ cho người khác thấy khả năng quán xuyến, tổ chức điều hành và lãnh đạo của

mình. Vì vậy hoạt động thực hành lễ Thánh còn là một cơ hội thực thi quyền năng của

các tín đồ, chủ yếu là phụ nữ, nâng cao sự tự tin và tầm ảnh hưởng của mình trong

cộng đồng [5; tr 19]

1.1.3 Những nghiên cứu về vốn xã hội

Những nghiên cứu về vốn xã hội trên thế giới

Xét về mặt lịch sử, Lyda Judson Hanifan được coi là người đầu tiên đưa ra

khái niệm vốn xã hội (VXH) vào năm 1916. Bốn mươi năm sau, vào những năm

1960, Jane Jacop đã đề cập lại khái niệm vốn xã hội. Tuy nhiên, người phân tích về

vốn xã hội có tính hệ thống chuyên sâu đầu tiên phải kể đến là Pierre Bourdieu

trong công trình “The forms of the capital” (Các hình thức của vốn ) (1986) [154].

Từ đó trở đi, một phong trào nghiên cứu về vốn xã hội nở rộ ở các quốc gia thu hút

đông đảo sự quan tâm của các học giả.

Tổng quan những nguồn tư liệu viết về VXH trên thế giới có thể thấy Jame

Coleman, Robert Putnam và Fukuyama…là những tác giả tiêu biểu hơn cả. Tuy

nhiên mỗi nhà nghiên cứu lại tiếp cận VXH ở các góc độ khác nhau.

Jame Coleman, nhà xã hội học người Mỹ trong hai nghiên cứu của mình:

“Social capital in the creation of human capital” (Vốn xã hội trong việc sáng tạo vốn

con người) (1988)[139] đã áp dụng lý thuyết VXH trong nghiên cứu giáo dục.

Coleman đã phân biệt thành VXH trong gia đình và VXH trong cộng đồng. Theo tác

giả, VXH trong gia đình chỉ có thể có được và được tích lũy khi các thành viên trong

gia đình thực sự chia sẻ và quan tâm tới nhau.

Robert Putnam, nhà chính trị học người Mỹ và Fukuyama, nhà chính trị học

người Mỹ gốc Nhật lại tập trung nghiên cứu VXH trong mối quan hệ với xã hội dân

sự. Thông qua bài viết “Bowling alone: America’s declining social capital”

(Bowling một mình: sự suy giảm của VXH Mỹ) (1995) [95] Putnam chỉ ra rằng sự

sụt giảm của các tổ chức dân sự và sự tham gia đông đảo của người Mỹ trong các tổ

19

chức này là nguyên nhân đưa tới sự suy giảm VXH của Mỹ. Ông phân tích một

trường hợp điển hình là sự gia tăng của việc chơi Bowling một mình và sự suy giảm

của VXH Mỹ. Sự gia tăng của việc chơi Bowling một cách độc lập đe dọa sinh kế của

các chủ sân bóng bởi những người chơi bowling với tư cách thành viên của liên đoàn

tiêu thụ gấp ba lần lượng bia và bánh Pizza so với những người chơi độc lập …Ý

nghĩa xã hội rộng hơn, tuy nhiên nằm ở sự tương tác xã hội và thậm chí là những

cuộc nói chuyện thỉnh thoảng qua bia và bánh Pizza mà những người chơi Bowling

một mình lãng quên. Dù việc chơi Bowling có đánh bại việc bỏ phiếu kín hay không

thì các đội bowling là minh họa cho một sự biến mất khác của VXH Mỹ [95; tr79].

Cũng từ góc độ chính trị, trong các bài viết: “Social capital and civil society

(VXH và xã hội dân sự) (1999)” [143], “Social Capital, Civil society and

development” (VXH, xã hội dân sự và phát triển) (2001) [144], Fukuyama cho rằng,

VXH chính là thành tố văn hóa của các xã hội hiện đại- những xã hội mà kể từ thời

Khai sáng đã được tổ chức dựa trên cơ sở của những định chế chính thức, trên nhà

nước pháp quyền và lý tính. VXH được phát sinh một cách ngẫu nhiên và đó là kết

quả của các mối tương tác được lặp đi lặp lại, các mối tương tác đó chỉ hữu dụng và

có tác động tích cực khi các mối quan hệ đó được đặt trên nền tảng tin cậy lẫn nhau

giữa các thành viên của cộng đồng cùng tham gia vào các mối quan hệ này.

Fukuyama đã đưa ra bằng chứng để chứng minh rằng nước Nhật phát triển được

như ngày hôm nay là do người Nhật có sự tin cẩn cao đối với nhau. Trong một

chừng mực nhất định, Fukuyama đã có những nhận xét rằng trong các tổ chức tôn

giáo thì sự tin cậy được tuân thủ một cách tuyệt đối và sự tin tưởng này còn được

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua việc xã hội hóa liên quan đến phong tục

nhiều hơn là sự duy lí.

VXH được sử dụng nhiều nhất có thể nói là trong lĩnh vực kinh tế. Các nhà

nghiên cứu đều thừa nhận VXH có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Trong

những nghiên cứu về doanh nghiệp Mỹ La Tinh, Fukuyama đã chỉ ra VXH có ảnh

hưởng trực tiếp đến khả năng con người tổ chức hoạt động vì mục đích kinh tế,

VXH giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của các doanh nghiệp này. Về kinh

tế, phần lớn tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở các nước Mỹ La Tinh được tạo ra nhờ

các doanh nghiệp sở hữu gia đình. Như vậy, trong hoạt động kinh doanh ở Mỹ La

Tinh, mối quan hệ chắc chắn nhất, tin cậy nhất chỉ có ở phạm vi gia đình hoặc trong

nhóm bạn bè thân thiết. Nguồn VXH trước hết nằm trong các mối quan hệ họ hàng

và về nhiều khía cạnh mối quan hệ đó tạo thành tài sản xã hội quan trọng. Nếu xã

20

hội thiếu đi mạng lưới phát triển an toàn được nhà nước tài trợ sẽ xảy ra khủng

hoảng kinh tế và nạn thất nghiệp cao, các mạng lưới gia đình phải góp chung nguồn

vốn, tạo bước đệm đối phó với những thời kỳ khó khăn.

Những nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam

Ở Việt Nam, những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu về VXH và vai trò

của nó. Năm 2006 được coi là một cái mốc quan trọng mở đầu cho sự bùng nổ của

việc nghiên cứu về VXH ở Việt Nam. Rất nhiều bài viết đã xuất hiện trong cuộc hội

thảo về VXH do Tạp chí Tia sáng tổ chức như: “Vốn và VXH” (Nguyễn Quang A

2006) [160], “VXH và phát triển” (Nguyễn Ngọc Bích 2006) [162], “VXH ở Việt

Nam” (Nguyễn Vạn Phú 2006) [167], “Lời giải nào cho bài toán phát huy VXH”

(Phan Chánh Dưỡng 2006) [165], “Lòng tin trong xã hội và VXH” (Trần Hữu

Quang 2006) [168]…Tiếp sau đó là một loạt các bài viết được đăng tải trên các tạp

chí như: “Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội cho phát

triển” (Ngô Đức Thịnh 2008)[109], “VXH, mạng lưới xã hội và những phí tổn”

(Hoàng Bá Thịnh 2009) [106], “Nhận thức về nguồn VXH- sức mạnh tiềm tàng cho

phát triển” (Khúc Thị Thanh Vân 2011) [128], “VXH của nông thôn Việt Nam

đương đại (Một nghiên cứu trường hợp xã Giao Thủy, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam

Định)” (Nguyễn Thị Minh Phương 2011) [91],…

Trong khoảng 10 năm trở lại đây bắt đầu xuất hiện nhiều nghiên cứu thực

nghiệm về VXH ở Việt Nam. Những nghiên cứu này cũng chỉ ra VXH là một

nguồn lực trong sự phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.

Trong lĩnh vực kinh tế, vấn đề thường được các tác giả đề cập đến là VXH có

vai trò như thế nào trong phát triển kinh tế và phân tích vai trò đó trong các trường

hợp cụ thể. Đặng Thanh Trúc và các thành viên (2008)[125] trong một nghiên cứu

chứng minh đối với cộng đồng người dân ở khu vực đô thị hóa, VXH là yếu tố quan

trọng trong các hoạt động sinh kế của họ có tác dụng như là một tấm lưới trợ giúp

người dân thích ứng với sự thay đổi của điều kiện sống. Nguồn vốn này chính là tài

sản chung của các thành viên trong các tổ chức xã hội đang hoạt động tích cực trong

địa bàn của vùng đang chịu ảnh hưởng của làn sóng đô thị hóa. Nguyễn Tuấn Anh

(2010) [137] cũng cho rằng, nhờ vào nguồn VXH nên các hộ nông dân có thể dồn

thửa, đổi ruộng một cách phi chính thức mà không cần dựa trên giấy tờ hay những

giao dịch mang tính chất chính thức và pháp lý. Đây là một trong những yếu tố quan

trọng giúp quá trình sản xuất nông nghiệp được linh hoạt, hiệu quả hơn. Khúc Thị

Thanh Vân (2011) [128] khẳng định vai trò của VXH đối với phát triển kinh tế hộ

được nhìn nhận rõ hơn trong cộng đồng làng nghề thông qua sự hỗ trợ của các gia

21

đình và cá nhân trong hoạt động nghề nghiệp. Nguồn VXH đã giúp cho người làm

nghề thủ công có thể giảm được chi phí giao dịch khi họ có thể được cung cấp hàng

hóa đầu vào và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở của mạng lưới những người có nguồn

gốc từ cộng đồng .

Cũng bàn luận đến chủ đề này, luận án tiến sĩ xã hội học của Khúc Thị

Thanh Vân (2012) với tiêu đề “Vai trò của VXH trong phát triển kinh tế hộ nông

thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay- Nghiên cứu trường hợp tại Nam Định và Bắc

Ninh” đã chỉ ra rằng: Hiện nay, nguồn VXH vẫn đang tồn tại dưới nhiều dạng thức

khác nhau như: mối quan hệ xã hội (mạng lưới xã hội), niềm tin, uy tín…và có tác

động khá lớn đến đời sống của mỗi cá nhân nói riêng về mặt tinh thần cũng như vật

chất. VXH không chỉ tạo ra nguồn lực hỗ trợ cho cá nhân và hỗ trợ gia đình trong

phát triển kinh tế mà còn có vai trò trong định hướng giáo dục cũng như mang đến

cho cá nhân sự chia sẻ, giúp đỡ về mặt tinh thần, vật chất, tạo động lực cho sự phát

triển kinh tế xã hội [129; tr142].

Trong lĩnh vực chính trị xã hội, có các công trình tiêu biểu theo hướng VXH

là một nguồn lực như “VXH trong đô thị: Một nghiên cứu nhân học về hành động

tập thể ở một dự án phát triển đô thị tại Hà Nội” của Nguyễn Vũ Hoàng [50] và

luận án tiến sĩ xã hội học của Nhạc Phan Linh về “Vai trò liên kết xã hội và tạo

VXH của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay” [69].Trong bài viết của

mình, Nguyễn Vũ Hoàng (2008) thông qua một trường hợp nghiên cứu về việc triển

khai quy hoạch ở một địa bàn trong quận Thanh Xuân, Hà Nội, sử dụng tiếp cận

nhân học xã hội, đặc biệt là phương pháp khảo tả dân tộc học, nhằm nêu bật sự

mạnh mẽ trong phong trào đấu tranh chống tham nhũng của người dân trên địa bàn

có quy hoạch. Tác giả cũng sử dụng lý thuyết VXH và hành động tập thể trong phân

tích, chỉ ra sự tồn tại của quan hệ xóm giềng trong môi trường đô thị và sức mạnh

của mối quan hệ này trong hành động vì mục đích chung của nhóm.Tác giả nhấn

mạnh: “quan hệ xã hội ở thành phố luôn tồn tại những mắt xích tiềm tàng, khi hoàn

cảnh rơi vào tình huống “có vấn đề”, những mắt xích tiềm ẩn đó sẽ kích thích trở

thành một mạng lưới và phát huy sức mạnh hướng tới một mục tiêu chung” [50;tr

25]. Với hướng tiếp cận xã hội học, Nhạc Phan Linh (2012) [69] đã sử dụng lý

thuyết VXH trong nghiên cứu xã hội dân sự. Theo tác giả, trong hai thập niên vừa

qua, ở Việt Nam có sự tăng lên nhanh chóng của các tổ chức xã hội dân sự (CSO).

Sự gia tăng của các tổ chức này có vai trò to lớn trong việc tạo nguồn VXH cho sự

phát triển của cá nhân, gia đình, cộng đồng và cả xã hội ở Việt Nam

22

Trong lĩnh vực văn hóa, cho đến thời điểm hiện nay, phải kể đến“Quà và vốn

xã hội ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam” của Lương Văn Hy (2010) [56] và “Sổ

nợ đời- Vốn xã hội: Định đề giới hạn về trao đổi xã hội hay những mối liên hệ liên

chủ thể” của Nguyễn Anh Tuấn (2011) [121]. Lương Văn Hy qua so sánh đối chiếu

về dòng quà tặng ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam là làng Hoài Thị ở Bắc Ninh

và làng Khánh Hậu ở Long An đã lập luận rằng dòng quà tặng có vai trò quan trọng

trong việc tạo dựng, duy trì và phát triển VXH, vì khi tặng quà thì phải tính đến

những nguồn lực như tiền, công sức và thời gian. Những người giàu có một lợi thế về

VXH. Tuy nhiên, việc vốn kinh tế có đưa đến nhiều VXH hay không thì lại còn phải

tùy thuộc vào cơ cấu của mạng lưới xã hội, thân tộc ở địa phương và việc là một hộ

nào đó có hòa nhập mạnh vào mạng lưới xã hội này không [56; tr420]. Từ kết quả

nghiên cứu của mình, Lương Văn Hy cũng chỉ ra rằng VXH có sự khác biệt giữa các

vùng và những giai tầng xã hội có tính đặc thù vùng… “Sổ nợ đời” được phản ánh

trong bài viết của Nguyễn Anh Tuấn là một cuốn sổ ghi chép lại việc phúng viếng

biếu tặng bằng tiền hay hiện vật trong việc tang của gia đình. Trên thực tế thì cuốn sổ

này ghi chép nhiều vấn đề liên quan đến quan hệ xã hội, trao đổi xã hội và vai trò của

nó, không chỉ liên quan đến việc tang, mà cả việc mừng cưới, mừng thọ, giỗ gia tiên

hay những việc khác như xây mộ gia tiên, hội hè đình đám… “Sổ nợ đời” cũng phản

ánh tính gắn kết liên chủ thể trong mạng lưới xã hội không phân biệt thành phần tộc

người và văn hóa bản thân mỗi chủ thể thuộc về [121; tr 30].

1.1.4 Những vấn đề luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới cộng đồng, cộng đồng tôn giáo,

bản hội và VXH trên nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có nhiều khía cạnh là

những sự gợi ý cho ý tưởng nghiên cứu trong luận án của tôi.

Từ những nghiên cứu về cộng đồng nói chung, tôi quan tâm nhiều đến luận

điểm của D.W.McMillan và D.M.Chavis về “ý thức cộng đồng”, cảm giác thuộc về

cộng đồng (sense of community) bởi nó là một gợi ý cho tôi trong việc nghiên cứu

cái ý thức gì, cảm giác gì đã tạo nên cộng đồng bản hội và làm cho họ gắn kết với

nhau. Mặt khác, luận điểm của Robert D.Putnam về cộng đồng được xem như là

nguồn VXH thực sự là một ý tưởng tuyệt vời. Xuyên suốt luận án của mình, tôi

cũng nhìn nhận bản hội là một cộng đồng trong đó các thành viên của nó tạo

lậpVXH .Tuy nhiên, nếu như Robert D.Putnam nhìn nhận VXH từ góc nhìn kinh tế

học thì trong luận án của mình tôi sẽ nhìn nhận nó từ góc độ nhân học văn hóa,

nghiên cứu một đối tượng văn hóa.

23

Những nghiên cứu về cộng đồng tôn giáo nói chung (như nghiên cứu của

Đào Thế Đức, Nguyễn Hồng Dương, Lưu Bành…) và những nghiên cứu về cộng

đồng bản hội nói riêng (như nghiên cứu của Claire Chauvet, Nguyễn Ngọc Mai, Vũ

Thị Tú Anh…) giúp tôi quan tâm đến các khía cạnh của bản hội như: sự hình thành,

các hoạt động nghi lễ, đặc trưng của nó.

Những nghiên cứu về VXH của cả các học giả nước ngoài và Việt Nam (đặc

biệt là các nghiên cứu của Pierre Bourdieu, Robert Putnam, Lương Văn Hy, Lưu Bành,

Khúc Thị Thanh Vân, Nguyễn Anh Tuấn… ) đã giúp tôi quan tâm đến các khía cạnh

của VXH như: những phí tổn về thời gian, công sức và tiền bạc trong việc tạo lập VXH,

vai trò của VXH trong cuộc sống của con người…

Tuy nhiên, có nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ về cộng đồng bản hội

trong các nghiên cứu đó như khái niệm bản hội, đặc trưng của bản hội có gì đặc biệt

khác với các cộng đồng tôn giáo khác và đặc biệt trong bối cảnh xã hội chuyển đổi

cộng đồng ấy như thế nào? Tại sao nó lại giúp các thành viên tạo lậpVXH? Họ tạo

lập VXH ra sao? VXH ấy có những lợi ích gì cụ thể đối với các thành viên? Các vấn đề

này sẽ được nghiên cứu trong khuôn khổ nội dung của luận án.

1.2. Cơ sở lý luận

Với câu hỏi nghiên cứu chính “Bản hội là một cộng đồng tôn giáo như thế nào,

có những đặc trưng gì nổi bật? Vì sao trong bối cảnh chuyển đổi bản hội lại là môi

trường giúp các thành viên tạo lập vốn xã hội? Các thành viên bản hội đã tạo lập vốn

xã hội như thế nào và vốn xã hội ấy đem lại những lợi ích gì cho họ? ”, luận án đã tìm

kiếm cơ sở lý luận từ những quan điểm lý thuyết khác nhau có liên quan. Sử dụng cách

tiếp cận nhân học văn hóa như một cách tiếp cận tổng thể trong luận án, chúng tôi coi

“văn hóa như là các mối quan hệ”, quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ giữa

con người với con người…Trong luận án này, tôi nghiên cứu quan hệ giữa con người với

con người trong một cộng đồng tôn giáo đó là bản hội.Vì vậy, trong phần này, tôi sẽ trình

bày các lý thuyết và khái niệm được sử dụng như nền tảng cơ sở lý luận để giải quyết các

vấn đề trong luận án. Cụ thể, tôi sẽ trình bày các khái niệm “bản hội”, “môi trường tâm

linh”, “vốn xã hội”, “tạo lập vốn xã hội”, “cộng đồng”, “cộng đồng tôn giáo”, “xã hội

chuyển đổi” cũng như hướng tiếp cận lý thuyết của luận án.

1.2.1. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án

1.2.1.1. Khái niệm cộng đồng và cộng đồng tôn giáo

Khái niệm cộng đồng

Có nhiều quan niệm khác nhau về cộng đồng nhưng trong luận án này tôi

quan niệm rằng: cộng đồng là một tập hợp người có sức bền cố kết nội tại cao, với

24

những tiêu chí nhận biết và quy tắc hoạt động, ứng xử chung dựa trên sự đồng thuận

về ý chí, tình cảm, niềm tin và ý thức cộng đồng, nhờ đó các thành viên của cộng đồng

cảm thấy có sự gắn kết họ với cộng đồng và với các thành viên khác của cộng đồng.

Nói đến cộng đồng, người ta phải nhắc đến các yếu tố sau đây:

+ Cộng đồng phải là tập hợp của một số đông người

+ Mỗi cộng đồng phải có một bản sắc/ bản thể riêng

+ Các thành viên của cộng đồng phải tự cảm thấy có sự gắn kết với cộng

đồng và với các thành viên khác của cộng đồng.

+ Có thể có nhiều yếu tố tạo nên bản sắc và sức bền gắn kết cộng đồng,

nhưng quan trọng nhất chính là sự thống nhất ý chí và chia sẻ về tình cảm, tạo nên ý

thức cộng đồng.

+ Mỗi cộng đồng đều có những tiêu chí bên ngoài để nhận biết về cộng đồng

và có những quy tắc chế định hoạt động và ứng xử chung của cộng đồng.

Khái niệm cộng đồng tôn giáo.

Trong luận án này, tôi định nghĩa cộng đồng tôn giáo là một loại hình cộng

đồng gắn kết với nhau chủ yếu dựa trên sự có chung một niềm tin tôn giáo hay tín

ngưỡng. Cộng đồng tôn giáo có thể trùng khớp với cộng đồng cư trú nhưng cũng có

thể không, thậm chí mang tính toàn cầu. Theo định nghĩa này, các cộng đồng thờ

Chúa, Thánh Ala, cộng đồng thờ Thành Hoàng làng, cộng đồng thờ vua Hùng, cũng

như cộng đồng thờ Mẫu …đều được coi là cộng đồng tôn giáo.

Qua định nghĩa này thì cộng đồng tôn giáo khác với các loại hình cộng đồng

khác vì cộng đồng này tồn tại dựa trên niềm tin trong khi các cộng đồng khác lại

dựa trên các yếu tố riêng của nó. Chẳng hạn, cộng đồng láng giềng là loại cộng

đồng hình thành trên cơ sở sự sinh sống, cư trú gần gũi nhau của các cá thể/các hộ

gia đình tạo nên. Sự gắn kết của loại hình cộng đồng này chủ yếu là do sự tương tác,

giao lưu tiếp xúc thường xuyên, gần gũi giữa các thành viên cộng đồng mà hình thành.

Cộng đồng gia đình, dòng họ lại được hình thành dựa trên cơ sở huyết thống và đó là

yếu tố quan trọng nhất tạo nên bản chất và sự bền vững cũng như cấu trúc điển hình

của gia đình dòng họ. Cộng đồng kinh tế, kinh doanh như phường hội, công ty, xí

nghiệp, tập đoàn kinh tế …dựa trên sự chia sẻ về lợi ích và ở đây, ý thức cộng đồng đã

được phát triển để trở thành một phương tiện, một lợi thế cạnh tranh…

1.2.1.2. Khái niệm bản hội

Dường như chưa có một nguồn tư liệu nào đưa ra định nghĩa xác đáng về bản

hội mặc dù trong thực tế bản hội là một khái niệm đã xuất hiện từ xa xưa trong dân

25

gian2. Các nhà nghiên cứu đi trước hầu hết nhắc đến nó như một khái niệm đã được

định vị ngữ nghĩa không cần bàn luận. Tuy nhiên, đây là khái niệm có tính chất thao

tác của luận án, do vậy trong phần này tôi cố gắng tìm hiểu xem bản hội có nghĩa là

gì và nó còn có những tên gọi nào khác không?

Nghiên cứu từ nguồn tư liệu thứ cấp cùng những tư liệu phỏng vấn các đồng

Thầy, các con nhang đệ tử- những người thực hành nghi lễ Đạo Mẫu được coi là các

“mắt xích” của bản hội, tôi nhận thấy có ba quan niệm chủ yếu về bản hội: 1) Bản

hội là một mạng lưới của những người lên đồng (M.Durand, G.Coulet, Claire

Chauvet…); 2) Bản hội là một tập hợp những người do đồng Thầy đứng đầu, xung

quanh có các đệ tử. Chẳng hạn, tác giả Nguyễn Ngọc Mai trong công trình nghiên

cứu về sự biến đổi của lên đồng hầu bóng dưới tác động của kinh tế thị trường cũng

đã đề cập đến khái niệm bản hội: “Bản hội là một tập hợp người xung quanh đồng

Thầy và trợ giúp đồng Thầy trong việc thực hành nghi lễ” [78; tr80]. Định nghĩa về

bản hội của Nguyễn Ngọc Mai một lần nữa được tái khẳng định thông qua những tư

“Bản hội là như kiểu…bề trên giao cho mỗi chủ nhang đồng đền một trọng trách để cứu

những đứa con Cha con Mẹ, những người đang cơ hàn vận hạn, hướng người ta từ cái tà

sang cái thiện. Tức là khi mà mỗi người chung một bản hội là phải do đồng Thầy đứng

đầu. …Em cứ hình dung đi bộ đội ấy, sẽ có nhiều sư đoàn, mỗi sư đoàn sẽ có người đứng

đầu. Mỗi bản hội cũng là một sư đoàn mà người đứng đầu là đồng Thầy “ (Thanh đồng

Nguyễn Thi L, Hà Nội) Và quan điểm nữa là: 3) Bản hội là tập hợp những người có chung một

liệu phỏng vấn của tôi tại các địa bàn Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng…

nguồn gốc. Có ba người trong số nhiều người được phỏng vấn đã trả lời tôi như vậy và

tất cả họ là những người ít nhiều biết chữ Hán, do đó họ đã giải thích nghĩa của bản hội

theo lối chiết tự của từ này. Cậu Hạ – chủ nhang đền Đ (Hà Nội), người tôi đã phỏng

vấn ngay sau vài ngày gặp mặt lần đầu tiên tại Liên hoan diễn xướng nghi lễ chầu văn

“Bản là gốc, gốc của tổ chức đó. Hội là lớn bao gồm nhiều người tập trung lại thành hội. Ví

dụ nói bản hội đền Hàng Bạc tức là gốc của những người đó là đền Hàng Bạc. Trong chữ

Nho, “bản” là gốc, ví dụ cô là thành viên của bản hội đền Hàng Bạc nghĩa là gốc của cô là

con nhang của đền Hàng Bạc này. Nhưng cô chỉ là một, nhiều cái số một gộp lại với nhau

thì thành bản hội. Hội là hội tụ mà đúng không? Người ta gọi là bản hội đền Hàng Bạc

nghĩa là các đệ tử đền Hàng Bạc này đang hội tụ với nhau, đấy gọi là bản hội- cái nguồn

gốc, cái sa môn của bản hội chúng tôi. Mỗi một sa môn như thế người ta tập hợp được

nhiều con người thành bản hội” (Cậu Hạ- Đền Đ, Hà Nội)

2 Nhiều đồng cựu 70,80 tuổi ở Hà Nội và Nam Định mà tác giả gặp đã trả lời rằng “Từ ngày xưa tôi đã được nghe các cụ gọi là bản hội rồi”

ở Hải Phòng 2015 là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm này:

26

Những quan niệm về bản hội của các nhà nghiên cứu và của cả những người

trải nghiệm đời sống của mình trong bản hội cho thấy bản hội là một khái niệm khó

cắt nghĩa. Quan điểm thứ nhất cho rằng bản hội là mạng lưới của những người lên

đồng đã vô tình loại bỏ nhiều người khác cũng được coi là thành viên của bản hội.

Khi thâm nhập một số bản hội ở Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên…cả những bản hội ở

điện tư gia và bản hội ở đền phủ, tôi nhận thấy ngoài những người lên đồng, bản hội

còn bao gồm cả thầy cúng, cung văn, hầu dâng, “con nhang, con khoán, con bán, con

cầu” – những người này thậm chí không có căn đồng và cũng không có khả năng lên

đồng hầu Thánh. Quan niệm thứ hai lại gạt ra ngoài nhiều loại hình bản hội khác. Sự

tồn tại của nhiều hình thức bản hội mà tôi đã thâm nhập cho thấy không phải chỉ có

bản hội của đồng Thầy- tức người có khả năng “đẻ đồng” (trình đồng mở phủ cho

con nhang đệ tử) mà còn có bản hội của những người là thanh đồng (tức họ chỉ lên

đồng mà không đẻ đồng), thậm chí có người hoàn toàn không phải là thanh đồng, đơn

thuần họ chỉ là người có niềm tin vào Thánh Mẫu, có điện thờ Mẫu tại gia và thường

xuyên “sở cầu” cho các tín chủ… Quan niệm thứ ba nghe có vẻ “bác học” hơn bởi sự

cắt nghĩa theo lối chiết tự từ Hán Việt và không phải ai cũng có đủ trình độ để làm

được điều này. Tuy nhiên, quan điểm này dường như còn khá mơ hồ: nơi hội tụ đó là

gì và những người hội tụ ở đây là ai? Vì sao họ lại tụ hội? Tôi cho rằng những câu hỏi

này vô cùng quan trọng, cần phải tính đến khi minh định khái niệm bản hội.

Theo từ điển Hán Việt của Viện khoa học xã hội, Viện Ngôn ngữ học, Nxb

Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh 2008, từ “bản” có nhiều nghĩa. Thứ nhất, bản có

nghĩa là “cái gốc, cái thân, tức là cội nguồn”. Thứ hai, bản là “của tôi, của chúng ta”

[132; tr72,73]. Hội cũng có nhiều nghĩa: hội là hội tụ, cũng có nghĩa là “hiểu, hiểu

được, hiểu biết, thông hiểu, thạo, giỏi” [132; tr660]. Từ đây tôi có thể đưa ra định

nghĩa như sau về bản hội Đạo Mẫu: Bản hội Đạo Mẫu là một cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu bao gồm nhiều thành viên dưới sự dẫn dắt của một chủ hội3, có cùng một chốn

tổ; có sự hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau và có cùng niềm tin vào sự độ trì của các vị

thần Đạo Mẫu. Như vậy, bản hội Đạo Mẫu có những nội hàm sau:

- Bản hội phải có nhiều người tập hợp lại dưới sự dẫn dắt của chủ hội. Chủ

hội ở đây, có thể là đồng Thầy hoặc cũng có thể chỉ đơn thuần là chủ nhang, người

có điện thờ Mẫu tại gia…Bên cạnh chủ hội còn có các đệ tử khác bao gồm tín chủ,

3 Chủ hội ở đây với nghĩa là người đứng đầu bản hội, thường là đồng Thầy, ngoài ra có thể còn là các thanh đồng, các nhà sư có căn số hầu đồng

nhang tử, bán tử…Điều này trả lời cho câu hỏi “những người hội tụ là ai?”

27

- Những người trong bản hội là những người cùng một gốc. Nhiều thành viên

bản hội đã gọi cái gốc nơi họ được “sinh ra”, nơi họ gắn bó một cách thân thương là

“chốn tổ”. Chốn tổ ấy có thể là một đền, một phủ, hoặc một điện tư gia nào đó gắn

liền với một chủ nhang. Chính cái chốn tổ ấy sẽ phân biệt bản hội này với bản hội

khác. Điều này lại trả lời cho câu hỏi “nơi hội tụ đó là gì?”

- Những người trong bản hội là những người có cùng niềm tin vào sự chở

che, phù trợ của các vị thần Đạo Mẫu cho những vấn đề trong cuộc sống hiện sinh

của họ. Các thành viên bản hội cũng là những người có nhiều sự đồng dạng

(Homophily): đồng dạng về niềm tin, tâm lý tình cảm, về những vấn đề mà họ gặp

phải trong cuộc sống trần tục… Chính sự đồng dạng này khiến họ đồng cảm, cộng

cảm (communitas ) với nhau. Đó cũng là lý do vì sao nhiều người lựa chọn gia nhập

bản hội Đạo Mẫu mà không phải là một tổ chức của một tôn giáo nào khác. Điều

này giải thích cho câu hỏi “vì sao họ hội tụ?”

Khi thâm nhập bản hội, tôi còn được nghe các thành viên gọi bản hội là “cơ

cánh”. Tuy nhiên, theo tôi, từ “cơ cánh” thường được dùng để chỉ một nhóm người

của bản hội khác phân biệt với bản hội “mình”. Chẳng hạn, các thành viên của một

bản hội thường nói với nhau “hôm nay cơ cánh nhà bà H đi lễ xa”. Hơn nữa, từ “cơ

cánh” không bao hàm toàn bộ các thành viên mà nhiều khi nó được dùng để chỉ

nhóm thanh đồng trong bản hội mà thôi.

1.2.1.3 Khái niệm môi trường tâm linh

Môi trường tâm linh là một từ ghép bởi hai danh từ “môi trường” và “tâm

linh”. Theo Từ điển Tiếng Việt môi trường có nghĩa “1. Nơi xảy ra một hiện tượng

hoặc diễn ra một quá trình, trong quan hệ với hiện tượng, quá trình ấy. 2 Toàn bộ

nói chung những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay một sự vật tồn

tại, phát triển trong mối quan hệ với con người, với sự vật ấy” [131; tr 639-640].

Theo Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “Văn hóa tâm linh”: “Tâm linh là cái thiêng liêng

cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng

tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu

tượng, những hình ảnh, ý niệm” [26; tr11].

Trong luận án này, tôi quan niệm, môi trường tâm linh là nơi diễn ra các hoạt

động thờ phụng thần thánh, diễn ra sự tương tác giữa con người với thần thánh và giữa

những con người cùng niềm tin tôn giáo. Bản hội Đạo Mẫu chính là một môi trường

tâm linh như vậy.

28

1.2.1.4. Khái niệm vốn xã hội và tạo lập vốn xã hội

* Khái niệm vốn xã hội

Cho đến nay, khái niệm vốn xã hội được thảo luận, phát triển với nhiều cách

giải thích và định nghĩa khác nhau được đề cập trong nhiều công trình và bài viết

nổi tiếng như: The forms of Capital (Các hình thức của vốn) (Bourdieu 1986) [154];

Social Capital in the creation of Human capital (VXH trong việc sáng tạo vốn con

người ) (Coleman 1988) [139] ; Bowling alone: America’s declining social capital

(Bowling một mình: sự suy giảm của VXH Mỹ)(Putnam 1995) [95]; Social capital:

Its origins and applications in modern sociology (VXH: nguồn gốc và những áp

dụng của nó trong xã hội học hiện đại) (Portes 1998) [8]; Social capital and civil

society (VXH và xã hội dân sự) (Fukuyama 1999) [143], Social Capital, Civil

society and development (VXH, xã hội dân sự và phát triển) (Fukuyama 2001)

[144]; Social capital: A theory of social structure and action (VXH: một lý thuyết

về cấu trúc và hành động xã hội) (Lin 2001) [151]… Bourdieu (1986) định nghĩa

rằng VXH là tập hợp những nguồn lực hiện hữu hoặc tiềm tàng, gắn với việc có một

mạng lưới bền vững những quan hệ quen biết hoặc thừa nhận lẫn nhau ít nhiều được

thể chế hóa. Jame Coleman lại hiểu VXH bao gồm những đặc trưng trong đời sống xã

hội như các mạng lưới xã hội, các chuẩn mực (norms), và sự tin cậy trong xã hội

(social trust)- là những cái giúp các thành viên có thể hoạt động chung với nhau một

cách có hiệu quả nhằm đạt tới những mục tiêu chung. Trong khi đó, Putnam lại cho

rằng: VXH nói tới những khía cạnh đặc trưng của tổ chức xã hội như các mạng lưới

(xã hội), các chuẩn mực, và sự tin cậy trong xã hội vốn tạo điều kiện thuận lợi cho sự

phối hợp và sự hợp tác nhằm đạt đến lợi ích hỗ tương

Mặc dù có những ý kiến khác nhau song có thể thấy các tác giả có sự đồng

thuận cao về các vấn đề sau đây khi nói về VXH:

Thứ nhất: VXH gắn bó trực tiếp với mạng lưới xã hội. Bourdieu cho rằng

VXH kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững, còn Coleman nói VXH nằm

trong mạng lưới xã hội và quan hệ xã hội. Trong khi đó Putnam lại coi mạng lưới xã

hội là một thành tố của VXH.

Thứ hai: VXH có sự tương đồng nhất định với khái niệm “nguồn lực”. Nếu

Bourdieu quan niệm VXH là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc

quen biết thì Lin lại định nghĩa VXH là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội.

Thứ ba: VXH được tạo ra thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội,

hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân có thể sử dụng VXH để tìm kiếm lợi ích. Với

29

Bourdieu, VXH là kết quả của sự đầu tư trong thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn, kết

quả đó có thể được sử dụng để chuyển thành các loại vốn khác, chẳng hạn vốn kinh

tế. Trong khi đó, Fukuyama nhấn mạnh cá nhân có thể tạo ra và sử dụng VXH để

phục vụ mục đích của mình.

Thứ tư: VXH dựa trên sự tin cậy và quan hệ qua lại hay sự có đi có lại (trust

and recipocity) được nhiều tác giả đề cập đến khi bàn về VXH. Nếu Coleman khẳng

định trách nhiệm, sự mong đợi và lòng tin là các hình thức của VXH thì Fukuyama

quan niệm VXH gồm có chuẩn mực của sự có đi có lại và VXH biểu thị sự tin cậy.

Trong khi Portes phát biểu: sự trao đổi qua lại và lòng tin là những nguồn gốc của

VXH, Putnam lại cho rằng VXH gồm các chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại

và sự tin cẩn.

Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm trên về VXH, tôi đưa ra cách hiểu của luận

án về VXH như sau: Vốn xã hội là nguồn lực mà một người nào đó có được

thông qua việc tham gia vào một cộng đồng và sở hữu các mối quan hệ, sử dụng

chúng để đem lại lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần)

* Khái niệm tạo lập vốn xã hội

Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học năm 2001, “tạo lập” là một

khái niệm được ghép từ hai động từ “tạo ” và “lập”. “Tạo ” là “làm cho từ không có

trở thành có và tồn tại” và “lập” là “tạo ra, xây dựng nên cái thường là quan trọng,

có ý nghĩa lớn mà trước đó chưa có”. Nói chung, “tạo lập” có nghĩa là “tạo ra, gây

dựng nên” [131; tr891] . Vậy, tạo lập VXH tức là tạo ra, gây dựng nên VXH. Mà

VXH như tôi vừa định nghĩa ở trên là nguồn lực mà một người nào đó có được sử

dụng để đem lại lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần) thông qua việc tham gia vào một

cộng đồng và sở hữu các mối quan hệ. Như vậy, muốn có VXH cần : Tham gia vào

cộng đồng -> có nguồn lực (các quan hệ xã hội, sự tin cậy, sự tương hỗ có đi có lại,

chuẩn mực, giá trị…) -> sử dụng nguồn lực để đem lại lợi ích. Để tạo lập VXH cần

trải qua các bước:

- Tham gia vào cộng đồng (tham gia vào bản hội)

- Đầu tư, xây dựng các mối quan hệ

- Sử dụng các nguồn lực để đem lại lợi ích

1.2.1.5 Khái niệm xã hội chuyển đổi

Khái niệm luận án sử dụng là “xã hội chuyển đổi” chứ không phải là “xã hội

biến đổi”. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa khá giống nhau về hai khái niệm này:

“biến đổi” là “thay đổi thành khác trước” [131; tr 64] còn “chuyển đổi ” là: a) “đổi

30

từ một loại này sang loại khác…”, b) Thay đổi từng bước từ cái này sang cái khác.

Tuy nhiên, theo tác giả, “chuyển đổi” và “biến đổi” khác nhau về nội hàm biểu đạt.

Người ta thường nói “xã hội chuyển đổi từ phong kiến sang tư bản” chứ không nói

“xã hội biến đổi từ phong kiến sang tư bản” và như vậy khái niệm “xã hội chuyển

đổi” đã bao hàm ý nghĩa là đánh dấu một bước ngoặt, thay đổi mang tính chất đột

biến. Rất nhiều yếu tố của xã hội cũ cấu trúc bị giải thể, cái mới lại chưa được hoàn

thành, đó là giai đoạn giao thời. Vì là giai đoạn giao thời nên nhiều yếu tố cũ bị phá

vỡ, đứt gẫy, xáo trộn; trong khi người ta chưa quen với những yếu tố mới khiến bị

sốc, hoang mang, sợ hãi, thất vọng, khủng hoảng…Một quy luật đã diễn ra trong

lịch sử nhân loại cũng như ở Việt Nam là cứ khi nào xã hội có sự bất ổn thì con

người lại tìm đến với tôn giáo, tín ngưỡng để làm chỗ dựa về mặt tinh thần nhiều

hơn, đưa tới sự nở rộ của các hình thức tôn giáo. Sự xuất hiện hiện tượng “các ông

đạo” ở miền Nam đầu thế kỉ XX, hay sự xuất hiện của “những hiện tượng tôn giáo

mới” trên thế giới cũng như ở Việt Nam (Đạo Chân không, Long Hoa Di Lặc, Ngọc

Phật Hồ Chí Minh, Ngũ Tuần nói tiếng lạ…..) chính là sự phản ánh những bất ổn

của con người trong xã hội thời kỳ chuyển đổi.

Trong lịch sử, sẽ có nhiều giai đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội

chuyển đổi được đề cập trong luận án này là từ năm 1986 đến nay khi Nhà nước ta

thực hiện chính sách đổi mới toàn diện với ba trụ cột chính là: chuyển đổi từ nền

kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; phát triển nền

kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan

trọng; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp

với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Giai đoạn chuyển đổi này vô cùng gay go,

phức tạp và quyết liệt so với những lần chuyển đổi khác trong lịch sử, đưa xã hội ta

chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại. Tuy nhiên, theo tôi có hai nấc

rất quan trọng trong sự chuyển đổi của xã hội Việt Nam từ 1986 đến nay, trong đó:

nấc một từ 1986 đến 2006 và nấc thứ hai bắt đầu từ năm 2007- năm Việt Nam gia

nhập WTO đánh dấu sự hội nhập sâu rộng với thế giới rộng lớn. Có thể nói, quyết

4 Tại Đại hội VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991) của Đảng đã xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”; xem đó là một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với thực tiễn của công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng ta về vấn đề này ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn.

định đổi mới toàn diện từ kinh tế, văn hóa, xã hội mà trọng tâm là đổi mới kinh tế của Đảng (được bổ sung tiếp theo bởi các Đại hội VII4, Đại hội VIII5, Đại hội

31

IX6….) cũng như chủ trương tăng cường công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập

sâu rộng với thế giới mà mốc quan trọng là gia nhập Tổ chức thương mại thế giới

(WTO) thực sự đã tạo nên một sự chuyển biến vô cùng quan trọng trong mọi mặt

đời sống của Việt Nam. Sự chuyển đổi của nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung

sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần khiến nền kinh tế Việt Nam như được

bung tỏa, người ta được tự do làm kinh tế, làm giàu đưa tới sự xuất hiện của hàng

loạt các loại hình dịch vụ đề cao lợi nhuận len lỏi vào trong các mặt của đời sống.

Mặt khác, toàn bộ nền kinh tế cũng như được hiện đại hóa nhờ sự tiến bộ của khoa

học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.

Xã hội chuyển đổi đã tạo nên nhiều thành tựu cho Việt Nam về mọi mặt,

thực sự đem đến nhiều cơ hội phát triển cho cá nhân và cộng đồng song phải thừa

nhận rằng những hệ lụy mà nó mang lại cũng không phải là ít. Ở cấp độ quốc gia,

sự chuyển đổi có thể tạo nên sự khủng hoảng kinh tế, văn hóa, xã hội mà sự khủng

hoảng kinh tế kéo dài ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay là một ví dụ sống động.

Cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn từ năm 2009: tỉ trọng tăng trưởng của

nền kinh tế giảm sút, các thị trường tài chính, thị trường địa ốc, thị trường chứng

khoán “vỡ tan như bong bóng”, hàng ngàn doanh nghiệp giải thể, rất nhiều ngân

hàng bị đóng cửa hoặc phải sáp nhập…Rất nhiều nhà đầu cơ đã trắng tay chỉ trong

một thời gian ngắn, nhiều người đã gặp cú sốc lớn khi trở thành con nợ “sống dở,

chết dở”. Rất nhiều cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải tinh

giản lao động dẫn đến sự gia tăng mạnh của tỉ lệ thất nghiệp…Và kết quả là công

nhân viên chức, trí thức, những người kinh doanh …lâm vào cuộc sống khó khăn,

bất an và tạm bợ… Ở cấp độ cá nhân, xã hội chuyển đổi với nhiều rủi ro, bất trắc

trong đời sống kinh tế, sức khỏe, bệnh tật, trong mối quan hệ với con người đã tạo

nên những lo lắng, sợ hãi, thất vọng mà nói như Oscar Salemink [89] là đe dọa đến

an ninh tinh thần của con người.

Song sự chuyển đổi của xã hội không chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi của

kinh tế mà còn là sự chuyển đổi của các hệ giá trị: giá trị mới đang lên và các giá trị

cũ đang mất dần. Cuộc đấu tranh giữa những giá trị cũ và mới là một cuộc đấu tranh

gay go và phức tạp. Cái mới không dễ đi lên vì sự kìm hãm của cái cũ, cái cũ không

5 Tại Đại hội VIII, Đảng ta có quan niệm rất quan trọng, khi khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. 6 Đến Đại hội IX, khái niệm Kinh tế thị trường định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đại hội; và Đảng ta coi “Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH”.

dễ mất đi vì đã “sâu rễ bền gốc” từ bao đời. Vì thế, xã hội chuyển đổi còn là sự phá

32

rào của những cá nhân, sự bất chấp của những chuẩn mực để khẳng định mình. Để

làm được điều đó, con người phải đấu tranh với những định kiến cũ, dám vượt rào

và bứt phá…Tuy nhiên, cuộc đấu tranh đôi khi không đơn giản khiến họ bị tổn

thương, thất vọng, khủng hoảng bản sắc và phải tìm đến nhiều phương thức “cứu

chữa” khác nhau, trong đó có cả phương thức tìm đến tôn giáo tín ngưỡng.

Nói đến xã hội chuyển đổi, không chỉ nói đến sự chuyển đổi của kinh tế, xã

hội mà còn là sự chuyển đổi của đời sống tôn giáo tín ngưỡng và cú hích của sự

chuyển đổi này phải nhắc tới đầu tiên chính là Nghị quyết 24 của Bộ chính trị năm

1990. Trong Nghị quyết này, lần đầu tiên sau những năm tháng đồng nhất tôn giáo

tín ngưỡng với mê tín dị đoan cần phải xóa bỏ, Bộ Chính trị xác định: tôn giáo tín

ngưỡng là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tôn giáo tín ngưỡng là nhu cầu của một bộ

phận nhân dân và công nhận tôn giáo tín ngưỡng có giá trị văn hóa và đạo đức.

Quan điểm này tiếp tục được duy trì và bổ sung trong các nghị quyết tiếp theo của

Đảng và nhà nước Việt Nam. Chẳng hạn, nghị quyết số 25 của Hội nghị lần thứ 7

Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ IX (2003) cũng khẳng định rằng: Tín

ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại

cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; thực hiện nhất

quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng, theo hoặc không

theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật.

Bối cảnh xã hội chuyển đổi từ năm 1986 đến nay (chuyển đổi về kinh tế- xã

hội, về chính sách tôn giáo tín ngưỡng, hệ giá trị…) đã tác động và làm cho đời

sống tôn giáo tín ngưỡng có sự thay đổi lớn. Trước hết, xã hội chuyển đổi dẫn tới

nhu cầu tôn giáo của người dân tăng cao. Đặc trưng của bối cảnh xã hội chuyển là

một mặt nó tạo nên sự phát triển mọi mặt nhưng mặt khác lại tạo nên sự chênh

vênh, bấp bênh, với rất nhiều đau khổ và bất trắc. Trong bối cảnh đó, con người tìm

đến nhiều phương cách để đối mặt. Một trong những phương cách nhiều người lựa

chọn là tìm đến với tôn giáo tín ngưỡng: một mặt là để cầu xin sự trợ giúp của thần

linh cho sự phát triển thịnh vượng, mặt khác là để tìm kiếm sự bảo hiểm của thần

linh cho cuộc sống đầy rủi ro về kinh tế, sức khỏe, hạnh phúc gia đình… Nhu cầu

này cộng với cuộc cách mạng trong chính sách tôn giáo tín ngưỡng của Đảng và

Nhà nước khiến đời sống tâm linh của người dân như được hồi sinh, bung tỏa. Việc

hồi sinh, phát triển trong bối cảnh mới cũng làm cho tôn giáo tín ngưỡng cũng có

những đặc trưng khác trước. Bên cạnh đó, trong bối cảnh mới, tôn giáo tín ngưỡng

cũng có những chức năng vai trò mà trước đây nó không có (hoặc có nhưng chưa đậm

33

nét). Ngày càng nhiều người gia nhập vào các cộng đồng tôn giáo và việc tham gia

cộng đồng tôn giáo cũng không chỉ đơn thuần vì mục đích tâm linh mà còn vì những

mục đích khác như tìm kiếm các mối quan hệ để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.

Luận án này sẽ đặt Đạo Mẫu và bản hội Đạo Mẫu vào trong bối cảnh xã hội

chuyển đổi để thấy được sự hồi sinh mạnh mẽ của nó. Bối cảnh xã hội chuyển đổi

cũng làm cho bản hội Đạo Mẫu xuất hiện những đặc trưng mới (hoặc đậm nét hơn

những đặc trưng cũ). Và cũng trong bối cảnh chuyển đổi này bản hội Đạo Mẫu có

thêm những vai trò chức năng mới: bên cạnh việc là không gian tâm linh để các tín

đồ Đạo Mẫu tìm đến thực hành nghi lễ thờ phụng thờ thần thánh, bản hội giờ đây

còn là môi trường giúp các thành viên khi đến đó sẽ có cơ hội để tìm kiếm và xây

dựng các mối quan hệ nhằm giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống hiện sinh như

vấn đề kinh tế, giới và quyền lực giới, hạnh phúc và bản sắc cá nhân…

1.2.2 Hướng tiếp cận lý thuyết của luận án

Hướng tiếp cận lý thuyết của luận án sẽ là vốn xã hội như những nguồn lực

ẩn chứa trong các quan hệ xã hội mà cá nhân có thể sử dụng để đem lại lợi ích

cho bản thân. Điều này có nghĩa là luận án quan tâm đến khía cạnh tạo lập VXH và

việc tạo lập VXH có ý nghĩa như thế nào trong đời sống của cá nhân con người.

Liên quan đến phương diện việc tạo lập VXH, luận án quan tâm đến hướng

tiếp cận của Pierre Bourdieu. Pierre Bourdieu (1986) cho rằng để xây dựng và mở

rộng VXH, người ta phải đầu tư thời gian và các dạng vốn khác nhau vào các quan

hệ xã hội. Trong tác phẩm “The forms of the capital” (Các hình thức của vốn)

[154], Pierre Boudieu cho rằng có ba dạng vốn khác nhau: vốn kinh tế, vốn văn

hóa và VXH. Trong đó vốn kinh tế là thứ có thể chuyển đổi ngay lập tức hoặc trực

tiếp thành tiền và có thể được thể chế hóa theo các dạng của quyền sở hữu. Vốn văn

hóa có ba hình thức: vốn văn hóa được nội thể hóa (embodied cultural capital), vốn

văn hóa được vật thể hóa và vốn văn hóa được thiết chế hóa. Vốn văn hóa được nội

thể hóa được hiểu là một thứ tài sản trở thành cơ thể sống, đặc điểm được nội thể

hóa, được hợp nhất ở một người nhất định. Theo nghĩa này vốn văn hóa được nội

thể hóa là vốn văn hóa cơ bản, nó tồn tại với một người nào đó và mất đi khi người

đó qua đời. Cách nói, cách đối xử, cảm nhận văn hóa, tri thức văn hóa, kể cả các kỹ

năng thể thao cũng có thể được xem là vốn văn hóa được nội thể hóa. Vốn văn hóa

dạng này thường không thể thấy, khi có cơ hội thì mới bộc lộ. Vốn văn hóa được

vật thể hóa là những thứ mà chúng ta có thể sờ mó được như sách, tranh, ảnh, từ

điển, dụng cụ,…Vốn văn hóa được thiết chế hóa cũng là một cách cụ thể hóa của

34

vốn văn hóa được hấp thu. Kiến thức, kỹ thuật của một người không thể thấy được

nhưng khi nó được bảo đảm (thường là được bảo đảm thông qua các cuộc thi) một

cách chính thức thì trở thành vốn văn hóa được thiết chế hóa. Ví dụ trình độ học vấn

chính là vốn văn hóa được thiết chế hóa. Khác với hai dạng vốn trên, VXH lại nằm

trong các quan hệ xã hội của người đó.

Giữa ba dạng vốn trên có mối quan hệ chuyển hóa lẫn nhau trong đó vốn

kinh tế là cội rễ của các loại vốn. Điều này có thể hiểu rằng, muốn có vốn văn hóa

người ta cần phải đầu tư VXH và vốn kinh tế (tiền) để học tập, bồi dưỡng nâng cao

kiến thức và bằng cấp; cũng như vậy muốn có VXH, con người cũng phải đầu tư

vốn kinh tế vào vật chất, dòng quà tặng để thiết lập các mối quan hệ với người khác.

Ngược lại, muốn có VXH, người ta cũng phải đầu tư vốn văn hóa và vốn kinh tế.

Dựa trên cách tiếp cận vấn đề tạo lập VXH như trên của Pierre Bourdieu, tôi

sẽ nghiên cứu việc tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu trong bối cảnh

xã hội chuyển đổi. Tôi cũng cho rằng, để tạo lập được VXH các thành viên phải có

sự đầu tư về thời gian, về vốn kinh tế cũng như vốn văn hóa. Tuy nhiên lập luận của

tôi là: mỗi cộng đồng khác nhau với những đặc trưng khác nhau thì các thành viên

của nó sẽ có những phương thức tạo lập VXH không giống nhau. Bản hội là một

cộng đồng tâm linh mang đậm màu sắc kinh tế, lại vừa là cộng đồng có những vấn

đề đặc biệt về giới và quyền lực giới sẽ có những phương thức tạo lập VXH đặc

biệt. Luận án cũng đặt vấn đề tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu vào

trong bối cảnh xã hội chuyển đổi ở Việt Nam để từ đó thấy được bối cảnh này đã

tác động như thế nào tới việc tạo lập VXH và ngược lại.

Liên quan đến khía cạnh lợi ích của VXH, luận án quan tâm đến hướng tiếp cận

vai trò, chức năng của VXH ở các cấp độ vi mô và vĩ mô của các học giả đi trước.

Trong bài viết “Vốn xã hội: nguồn gốc và những áp dụng của nó trong xã hội học hiện

đại”[8], Alejandro Portes tiếp cận vốn xã hội theo hướng chức năng, theo đó VXH có

ba chức năng quan trọng: nguồn kiểm soát xã hội, nguồn ủng hộ gia đình, nguồn lợi ích

thông qua các mạng lưới bên ngoài gia đình. Về vai trò kiểm soát xã hội, theo Portes,

VXH mà các mạng lưới cộng đồng chặt chẽ tạo ra rất hữu dụng với các bậc cha mẹ,

giáo viên và các nhà chức trách cảnh sát vì họ mong muốn duy trì kỷ luật và đề cao sự

tuân thủ của những người dưới quyền họ. Nói chung, có thể tìm thấy các nguồn VXH

kiểu này ở sự đoàn kết ràng buộc và khả năng có thể tin cậy lẫn nhau và kết quả chính

của nó là khiến cho không cần thiết có sự kiểm soát chính thức hoặc kiểm soát công

khai. Nghiên cứu của Zhou và Bankston về cộng đồng liên kết chặt chẽ người gốc Việt

35

Nam ở New Orleans là một ví dụ. Chức năng thứ hai của VXH là làm một nguồn hỗ

trợ của cha mẹ hay của họ hàng. Theo Portes, những gia đình nguyên vẹn và những gia

đình trong đó một người cha mẹ có nhiệm vụ chủ yếu nuôi con thì có nhiều hình thức

VXH hơn những gia đình cha mẹ đơn thân hay những gia đình mà cả cha lẫn mẹ đều đi

làm. Tuy nhiên, chức năng chủ yếu của VXH là làm nguồn sinh ra những điều lợi

thông qua mạng lưới bên ngoài gia đình trực huyết. Nó thường được dẫn ra làm một

cách lý giải cho khả năng tiếp cận công ăn việc làm, sự di động thông qua những thang

bậc nghề nghiệp và thành công trong thầu khoán. Nan Lin, Walter và John C Vaughn

cùng nhấn mạnh những mạng lưới dày đặc với tư cách là một nguồn lực. Một trong

những nghiên cứu đáng kể nhất là về người nhập cư và nghề thầu khoán theo tộc

người, trong đó mạng lưới và vốn xã hội lưu chuyển qua nó trước sau đều được xác

định là một nguồn lực then chốt để tạo ra các cơ sở kinh doanh nhỏ [Theo 8; tr104-

106]. Rorbert Putnam lại quan tâm đến chức năng của vốn xã hội trong những cộng

đồng thị trấn, thành phố hay thậm chí quốc gia. Ông lập luận rằng những tổ chức xã hội

tự nguyện và mức độ tham gia của các thành viên trong xã hội là chỉ báo cho mức độ

của VXH trong xã hội đó. Sự hiện diện của các tổ chức xã hội và sự tham gia của các

công dân vào các tổ chức này giúp tăng cường, củng cố cho những quy tắc tập thể, vốn

quan trọng cho việc tạo ra và duy trì thịnh vượng chung. Về hiệu quả của VXH đối với

lợi ích cá nhân và nhóm trên nền tảng tộc người và di dân, nhiều nghiên cứu cho thấy

rằng, bên cạnh tầm quan trọng của vốn tài chính hay vật chất, VXH có vai trò quan

trọng trong thành công về kinh tế, đặc biệt là trong hoàn cảnh di dân. Chẳng hạn như sự

thành công của các thương nhân Trung Quốc ở Đông Nam Á và sự tăng trưởng kinh tế

của các nước Châu Á như Thái Lan, Malaysia và Singapore được giải thích là do hiệu

quả của mạng lưới xã hội, hay cấu trúc của quan hệ xã hội của người Trung Quốc hàm

chứa một mức độ cao về VXH [Theo 63, tr97].

Dựa trên những kết quả nghiên cứu của các học giả nói trên, tôi cho rằng,

mỗi một nhà nghiên cứu với đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau sẽ tiếp

cận chức năng, vai trò của VXH ở các góc độ không như nhau. Trong luận án của

mình, tôi không tiếp cận chức năng, vai trò của VXH ở phạm vi quốc gia dân tộc

(tầm vĩ mô), cũng không nghiên cứu vai trò của VXH với việc kiểm soát xã hội hay

giáo dục trong gia đình như Portes..mà nghiên cứu VXH ở cấp độ cá nhân khi họ

gia nhập vào một cộng đồng cụ thể là bản hội. Tôi sẽ nghiên cứu vai trò, lợi ích của

VXH đối với cá nhân khi họ là thành viên của bản hội Đạo Mẫu. Tuy nhiên, vì tôi

đặt cá nhân và cộng đồng bản hội trong bối cảnh xã hội chuyển đổi- một xã hội với

36

nhiều rủi ro và bất trắc sẽ dẫn đến những khủng hoảng trên nhiều phương diện trong

cuộc sống con người nên tôi sẽ tập trung nghiên cứu lợi ích của VXH trong việc tìm

kiếm/ tìm lại bản sắc cá nhân, lợi ích đối với phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Và

vì bản hội là một cộng đồng tôn giáo nên tôi cũng không thể không đề cập tới lợi

ích của VXH đối với đời sống tôn giáo tín ngưỡng của cá nhân.

Tiểu kết

Như vậy, chương 1 là một chương quan trọng có tính chất nền tảng của luận

án khi nội dung của chương này tập trung vào các vấn đề tổng quan tình hình

nghiên cứu về đề tài cũng như cơ sở lý thuyết.

Qua tổng quan các nghiên cứu về Đạo Mẫu, bản hội và VXH có thể thấy:

Đạo Mẫu đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu từ nhiều góc nhìn

như văn học, văn hóa học, triết học, tâm lí bệnh học, góc độ giới… Rải rác trong

các tài liệu cũng đã đề cập đến bản hội Đạo Mẫu trên các khía cạnh cơ cấu tổ chức

và hoạt động tâm linh của cộng đồng này. Những nguồn tư liệu về VXH thì khá đồ

sộ, đề cập tới vai trò của loại vốn đặc biệt này trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị,

văn hóa giáo dục. Tuy nhiên, nghiên cứu về Đạo Mẫu chủ yếu tập trung vào bản

thân tín ngưỡng này hơn là tìm hiểu mối quan hệ giữa những người thực hành nó.

Những nghiên cứu về bản hội và VXH cũng đã gợi mở nhiều điều mà luận án cần

quan tâm như: sự hình thành, các hoạt động nghi lễ và đặc trưng của bản hội, những

lợi ích mà VXH đem lại cho các thành viên bản hội song, có nhiều vấn đề chưa

được làm sáng tỏ và cần được tiếp tục nghiên cứu như khái niệm bản hội, việc tạo

lập VXH và lợi ích của việc tạo lập VXH đối với các thành viên bản hội trong bối

cảnh xã hội chuyển đổi ở Việt Nam.

Về phần cơ sở lý luận, chương một đề cập đến nhiều khái niệm có tính chất

thao tác trong luận án như bản hội, cộng đồng tôn giáo, bối cảnh xã hội chuyển đổi,

vốn xã hội. Hướng tiếp cận lý thuyết của luận án là VXH như những nguồn lực mà

các cá nhân có được thông qua việc là thành viên của một cộng đồng; muốn có

được VXH, các cá nhân phải tạo lập bằng cách đầu tư về thời gian, công sức,vốn

kinh tế và vốn văn hóa; việc tạo lập VXH sẽ đem lại lợi ích cho các cá nhân trong

nhiều mặt của cuộc sống.

37

CHƯƠNG 2:

BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MỘT CỘNG ĐỒNG TÔN GIÁO

Trong chương hai của luận án, những phân tích của tôi tập trung để làm rõ

một phần nội dung câu hỏi thứ nhất: Bản hội là một cộng đồng tôn giáo như thế

nào, có những đặc trưng gì nổi bật? Để làm sáng tỏ điều này, tôi đi từ việc tìm hiểu

về sự hình thành bản hội, phân tích các yếu tố của một cộng đồng tôn giáo như niềm

tin, thực hành nghi lễ và quan hệ giữa các tín đồ qua một trường hợp bản hội ở Hà

Nội hiện nay- bản hội Phúc Minh từ. Tôi cũng tìm hiểu xem điều gì đã tạo nên sự

cố kết của bản hội. Trong quá trình phân tích, tôi cũng sẽ cố gắng trong khả năng có

thể để so sánh bản hội với các cộng đồng tôn giáo khác ở Việt Nam, qua đó thấy

được nét riêng biệt của cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu.

2.1. Sự hình thành bản hội Đạo Mẫu

Phân tích sự hình thành của bản hội Đạo Mẫu không thể không nhắc tới

người đứng đầu- đồng Thầy. Nếu không có đồng Thầy và những hoạt động tâm linh

của người này chắc chắn sẽ không có bản hội. Vì vậy, có thể nói, đồng Thầy là

ngọn nguồn tạo nên bản hội Đạo Mẫu. Nghiên cứu quá trình hình thành bản hội là

nghiên cứu hành trình trở thành đồng Thầy và thực hành tâm linh của họ. Mỗi bản

hội sẽ có một đồng Thầy của nó, đồng Thầy được ví như hạt nhân quy tụ các vệ tinh

xung quanh tạo thành một cộng đồng thực hành các nghi lễ Đạo Mẫu. Nhưng một

người phải trải qua những nghi lễ, phép tắc nào để có thể trở thành đồng Thầy và

điều gì khiến họ có thể trở thành đồng Thầy ?

Khi thâm nhập bản hội- “đại bản doanh” của các tín đồ Đạo Mẫu, có một câu

dường như đã trở thành cửa miệng của họ, tôi thường được nghe đi nghe lại là

“Làm lính có công làm đồng có phép”.“Phép” ở đây theo như họ giải thích đó là

phép tắc: phép tắc trong mối quan hệ giữa họ với nhau và trong cách ứng xử với

thần thánh, có cả phép tắc khi trở thành một thanh đồng hay một đồng Thầy. Có thể

tóm gọn phép tắc của hành trình trở thành đồng Thầy như sau: “cắt tóc làm tôi con ông Thánh”7 – lễ tạ 100 ngày- lập điện và tu dưỡng- lễ tạ 3 năm- làm lễ trình đồng mở phủ cho con nhang đệ tử- trở thành đồng Thầy. Những nghi lễ này được coi là

phép tắc mà một người trở thành đồng Thầy cần phải trải qua. Tuy nhiên, những

phép tắc ấy không được lưu giữ trong các cuốn Kinh điển, trong giáo lý giáo

luật…giống như các tôn giáo thế giới Phật giáo, Kito giáo, Hồi giáo mà nó là những

7 Tức làm lễ trình đồng mở phủ

chuẩn mực bất thành văn được lưu truyền bằng miệng từ đời này qua đời khác.

38

Tư liệu phỏng vấn của tác giả với đồng Thầy Xuyên của bản hội Phúc Minh

từ và một số đồng Thầy khác ở Hải Phòng, Hưng Yên…cho thấy hành trình trở

thành đồng Thầy hoàn toàn không đơn giản, đó là cả một quá trình phức tạp, trong

đó có sự đấu tranh, giằng xé nội tâm giữa tin hay không tin vào sự tồn tại và quyền

năng của thần thánh. Rất nhiều người, trước khi bước chân vào thế giới tâm linh và

trao gửi niềm tin tuyệt đối vào các vị thần Đạo Mẫu đã từng báng bổ thần thánh,

chế giễu những người thực hành nghi lễ lên đồng, cho rằng họ là “bọn đồng bóng”,

“tính khí thất thường lúc nào cũng nhảy lên tanh tách”, là những kẻ “mê tín dị

đoan, tin nhảm nhí”. Những ghi chép trong nhật kí của đồng Thầy Xuyên của bản

Vào năm 1989, bố mẹ tôi tu lễ ra trình đồng mở phủ. Thầy mở cho bố mẹ tôi là bà đồng M

ở trên Thái Nguyên. Thời kỳ đó, bố mẹ tôi hay ốm đau liên miên, bố tôi lúc đó đã nghỉ hưu

và tham gia quỹ RV và bị đổ bể cho nên các bạn của mẹ tôi cũng nói ra nói vào là nên đi

xem xem có vấn đề gì không và thế nào lại tìm và gửi gắm bà đồng tận Thái Nguyên. Sau

này, tôi điều tra mới biết là mẹ tôi không dám làm ở Hà Nội vì bố mẹ tôi đều là cán bộ lão

thành cách mạng. Khi tôi biết, tôi đã có lời xúc xiểng tới bà đồng đó. Tôi nói bà một cách

thậm tệ. Cứ xuống nhà mẹ tôi mà gặp bà ta là tôi lại chửi thôi thì không còn ngôn từ nào

mà tả nổi. Nói đến mức cứ nhìn thấy tôi vào cửa trước là bà ta lại lui ra cầu thang sau và về

luôn…(Trích Nhật kí của thầy đồng Xuyên) Thực tế thì thái độ với thần thánh của thầy Xuyên không phải là trường hợp

hội Phúc Minh từ là một minh chứng rõ ràng cho điều này:

đặc biệt, những cuộc phỏng vấn của tôi với các đồng Thầy khác đã cho thấy nhiều

người trong số họ trước khi trở thành “con nhà Thánh” cũng có cùng thái độ “ứng xử” với thần linh như vậy8. Thái độ ứng xử đó lại bị chi phối bởi hoàn cảnh gia

đình, trình độ tri thức, địa vị xã hội… Chẳng hạn như cô Xuyên, cô sinh ra trong

gia đình cách mạng, bố mẹ là những người làm tướng tá trong quân đội, bản thân cô

cũng từng tham gia quân ngũ, chồng cô là một người có quyền cao chức trọng trong

ngành công an, cô lại là một trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của một công

ty trực thuộc Bộ ngoại thương “Châu Âu, Châu Á đều đã đi hết thảy”…Chính hoàn

cảnh cá nhân và địa vị xã hội này đã hun đúc trong cô một tư tưởng vô thần và điều

đó ngăn cản cô tin tưởng vào sự hiện tồn của thế lực siêu nhiên. Tuy nhiên, với

những thay đổi của hoàn cảnh, từ một người phụ nữ có cuộc sống hoàn mỹ cả về vật

8 Ví dụ như cô Thắm, người phụ nữ quê ở Hưng Yên mà tôi đã gặp trong một buổi dự lễ hầu đồng tại đền Cửa Đông, Lạng Sơn vào năm 2013. Người phụ nữ 54 tuổi này, gương mặt phần nào trẻ trung hơn so với tuổi thực nhưng đôi mắt lại như muốn nói với người đối diện rằng “cuộc đời tôi thật lắm thăng trầm” tâm sự với tôi: khi được một đồng Thầy phán rằng cô bị ốm đến mức điên loạn là do cô có căn cơ rất nặng phải đi lễ và ra hầu đồng thì mới khỏi “cô đã thách thức với ông Thánh “tôi không đi lễ đấy làm gì được tôi nào”. Cô không tin vào những điều đồng Thầy phán.

chất lẫn tinh thần bỗng dưng đổ vỡ, vợ chồng ly tán, ốm đau liên miên, mất việc thậm

39

chí có nguy cơ tù tội khiến tư tưởng vô thần của cô Xuyên lung lay, cô tìm đến các nơi

để xem bói và nhận được duy nhất một câu trả lời: “Có căn đồng hai mang, phải ra trình đồng mở phủ kẻo muộn thì đến cái bát mẻ cũng không có mà ăn”.. Cô Xuyên ra

trình đồng mở phủ năm 1993 khi cô 31 tuổi trong sự bán tín bán nghi.

Hành trình trở thành đồng Thầy là một hành trình hết sức phức tạp còn bởi vì

đó là một hành trình lâu dài gắn liền với những thử thách khắc nghiệt của thần linh

mà không phải ai cũng có thể vượt qua để đi đến cuối con đường. Cô Xuyên cho

rằng, sau khi mở phủ trình đồng cho đến trước lễ tạ 3 niên, các thanh đồng đều trải

qua quá trình “thử lính”, nghĩa là được Cha Mẹ thử thách, “thử xem anh có tham,

sân, si không? Có vì tình hay không? Có lo việc Thánh hay không?” nói tóm lại là

thử xem anh có “nhất tâm cửa Phật, Thật tâm cửa Thánh” hay không? Để vượt qua

những thử thách của nhà Ngài, bản thân các thanh đồng phải không ngừng tu dưỡng

và rèn luyện bản thân. Theo cô Xuyên, tu là giữ cho cái tâm luôn vững và sáng để

vượt qua những cám dỗ về vật chất cũng là để vượt qua những khổ nạn cơ hàn mà

bất cứ thanh đồng nào cũng phải trải qua. Cũng theo cô Xuyên, tu còn là luyện tập

để cho bóng đồng và bóng Thánh được hoà quyện vào nhau, để cho được “thật

đồng, chắc bóng”, được “đồng sang, bóng lịch sự”. Muốn vậy, các thanh đồng cần

phải rèn luyện thông qua nghi lễ hầu đồng, trong 3 năm tu dưỡng đầu tiên các thanh

đồng có ít nhất 6 kì hầu đồng, và 6 kì đó giúp cho cơ thể họ hoà đồng với bóng Thánh

“có nghĩa là không khác gì mình uống thuốc để cho nó quen với vòng tuần hoàn ấy”. Trong ba năm, cô Xuyên cũng như các thanh đồng Đạo Mẫu khác còn đi trình giầu9

(trình trầu) ở cửa Cha cửa Mẹ tại các đền thờ các vị thần Đạo Mẫu ở khắp mọi nơi trên

đất nước với mong muốn Cha Mẹ sẽ toả bóng cho họ và lượng âm tần tiếp vào họ rất

mạnh khiến họ có năng lực làm việc âm….Kết thúc của hành trình tu dưỡng và thử

thách lâu dài này là việc làm lễ trình đồng mở phủ cho người khác, cô Xuyên chính

thức trở thành đồng Thầy.

Vậy vì sao từ một người ngoại đạo cô Xuyên và nhiều người khác lại trở

thành đồng Thầy? Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau (một số tín đồ của Đạo Mẫu cho

rằng, trở thành đồng Thầy hay không là do sự lựa chọn của Thánh, một số lại cho rằng do dòng giống nhà người đó có đồng và có nghiệp làm thầy hay không10), song tôi vẫn

9 Trình giầu tức là mang trầu cau và lễ vật đến các đền phủ thờ các vị thần Đạo Mẫu ở nhiều nơi trên khắp đất nước với mục đích để “Cha biết mặt Mẹ biết tên”, và để xin lộc của các vị Thánh 10 Chính cô Xuyên cũng đã xác nhận với tôi điều này: “trở thành đồng Thầy hay không phụ thuộc vào dòng nhà mình có đồng hay không.Anh bước vào ngưỡng cửa của hầu đồng không phải anh bước vào để anh chơi, để anh dancing nhảy nhót, anh hát múa ca mà là để gánh trách nhiệm của ông Thánh”.

cho rằng, yếu tố then chốt nhất khiến một người từ ngoại đạo trở thành đồng Thầy

40

chính là bởi năng lực đặc biệt của họ. Năng lực đặc biệt ở đây được hiểu là khả năng

giao tiếp với thần linh, mang sức mạnh của thần linh để cứu giúp bách gia trăm họ.

Dường như mỗi đồng Thầy sẽ có những năng lực đặc biệt riêng11 như gọi

hồn, tìm mộ, xem đất cát, với riêng cô Xuyên năng lực đặc biệt đó là xem bói- năng lực mà cô gọi là“soi lòng bóc vỏ”, cô phát hiện ra mình có nó từ sau khi lập điện12.

Cô Xuyên còn có năng lực chữa bệnh âm- một chứng bệnh mà phải đặt vào trong

bối cảnh văn hoá tôn giáo mới có thể hiểu được, một thứ bệnh mà theo Nguyễn Thị

Hiền có nguyên nhân do thế giới bên kia, vô hình và siêu nhiên như bị điên, bị kết

tóc, bị ốm giả vờ (có nghĩa là người bệnh không hẳn là bị ốm, lúc khoẻ, lúc mệt,

người lúc nóng lúc lạnh) có khi là một bệnh rất nặng mà bệnh viện chữa mãi không

khỏi trả về nhà điều trị [43; tr39]. .

Với những năng lực đặc biệt này, đồng thầy Xuyên nói riêng và các đồng

Thầy Đạo Mẫu nói chung có một thứ ma lực theo quan niệm của Chales Keyes. Và

chính ma lực này tạo nên một sức hấp dẫn lớn, khiến đồng Thầy như một thỏi nam

châm có khả năng thu hút người khác đến với họ, tập hợp xung quanh và gắn bó với

họ. Từ đó bản hội được hình thành.

Song cần phải nói rằng, việc hình thành bản hội không phải diễn ra một sớm

một chiều mà nó là một quá trình. Chẳng hạn, với trường hợp bản hội Phúc Minh từ

thì từ khi lập điện cho đến khi mở phủ trình đồng cho đệ tử đầu tiên bản hội mới

manh nha được hình thành. Bởi trong khoảng thời gian này, theo như lời cô Xuyên

cũng có tín chủ đến xem bói, cũng có người đến làm lễ bán khoán, bốc bát

nhang…tuy nhiên số lượng không đủ nhiều và sự gắn bó của những người này với

bản điện chưa đủ chặt chẽ để có thể nói rằng bản hội đã được hình thành. Hơn nữa,

trong thời gian này cô Xuyên vẫn song song làm hai việc: việc liên quan đến tâm

linh và việc tại cơ quan nhà nước. Chỉ đến năm 1995, tức là sau khi tạ 3 năm và trở

thành đồng thầy, cô Xuyên chính thức nghỉ việc nhà nước, chuyên tâm làm việc âm

11 Tháng 9 năm 2014, tôi đi cùng cô Xuyên và anh Hóa- trước đây vốn là giám đốc một công ty con thuộc tập đoàn Vinashin, bị phá sản, nay là con nhang đệ tử của cô Xuyên đến dự lễ khánh tiệc Đức Thánh Trần tại Phủ Thượng Đoạn (Hải Phòng). Tại đây, tôi có dịp được tiếp xúc với nhiều đồng Thầy và tìm hiểu về họ. Một đồng Thầy cho tôi biết rằng ông, có thể tìm thấy những ngôi mộ thất lạc về cho gia đình, xác xuất của việc tìm đúng có thể lên tới 90 %. Một đồng Thầy khác ở Hưng Yên tôi mới gặp gần đây, lại nói rằng anh ta có thể chữa khỏi nhiều căn bệnh chỉ bằng cách chạm vào những vị trí đau trên cơ thể người bệnh. Tôi đã được quan sát việc chữa bệnh của anh tại nhà cô Xuyên. Một đệ tử của cô Xuyên bị đau đầu và mệt mỏi đến nhờ anh ta giúp, anh ta đặt hai tay lên đầu cậu đệ tử đó trong khi mắt thì nhắm nghiền lại như đang điều khiển thứ gì đó hoặc đang nhận sức mạnh của thần linh?. Một lúc sau, tôi hỏi cậu đệ tử về kết quả thì cậu ta trả lời rằng cảm thấy dễ chịu hơn và các huyệt đạo trong cơ thể được thông suốt hơn… 12 “Sau khi lập điện, đêm nào Thánh cũng giáng về để dẫn dắt cô trong giấc mơ, Thánh dạy cô học ròng rã trong suốt 3 năm trời. Có một kỉ niệm làm cô nhớ mãi là hễ cứ đêm trước cô mơ có bao nhiêu người đến, hỏi về vấn đề gì, xử lý ra sao là hôm sau có bấy nhiêu người đến với từng bấy nhiêu vấn đề… ” (Phỏng vấn cô Xuyên)

thì bản hội mới thực sự được hình thành. Số lượng tín chủ đến lễ bái, xem bói, nhờ

41

các việc tâm linh nhiều hơn, mở phủ cho nhiều đệ tử hơn… Cứ như thế, trải qua

năm tháng, đồng Thầy trình đồng mở phủ cho nhiều người, “kết nạp” được nhiều đệ

tử hơn và cùng nhau thực hành nghi lễ Đạo Mẫu, chủ yếu là nghi lễ hầu đồng. Để

phục vụ cho nhu cầu của hầu đồng người ta cần phải có cả một “hệ thống” để “vận

hành” ví như cung văn để phục vụ âm nhạc; hầu dâng để thay lễ phục và dâng lễ vật

khi đồng Thầy hầu Thánh; chấp tác để lo các việc nấu nướng, lễ vật, lộc lá….Bên

cạnh hầu đồng, bản hội của cô Xuyên còn làm nhiều công việc khác như bán khoán,

cắt duyên, giải hạn đầu năm…những công việc này đòi hỏi phải có sự giúp đỡ

không chỉ của chấp tác mà còn của pháp sư.

Như vậy, bản hội được hình thành xuất phát từ nhu cầu công việc cụ thể là

công việc âm của đồng Thầy. Tuy nhiên, cũng như nhiều bản hội khác, lúc đầu khi

chưa có nhiều người đến nhờ cậy đồng Thầy làm lễ, các công việc chấp tác của Phúc

Minh từ là do chồng thứ hai (lúc này thầy Xuyên đã li dị người chồng đầu tiên và tái

hôn với một người đàn ông khác) của thầy Xuyên đảm nhiệm. Sau dần, khi công việc

nhiều lên, cần đến sự trợ giúp của nhiều người, đồng Thầy Xuyên đã thuê người làm

các công việc chấp tác cùng với chồng, đội ngũ chấp tác cũng đông dần lên do nhu

cầu của công việc ngày càng lớn. Sau nhiều lần được đồng Thầy nhờ đến “phụ trách”

mảng âm nhạc và phục vụ khăn áo cho lễ hầu thánh, cung văn và hầu dâng trở nên

gắn bó với bản hội. Các tín chủ đến lễ bái nhiều lần cảm nhận được sự linh nghiệm

trong nghi lễ của đồng Thầy trở nên tin tưởng hơn, họ cũng gắn bó với đồng Thầy và

thường xuyên đi lễ xa cùng bản hội. Tính đến năm 2015, theo những ghi chép trong

cuốn Sổ thành viên, bản hội Phúc Minh từ đã có số lượng thành viên là 215 người.

Có thể tóm gọn “quy trình” hình thành của bản hội như sau: kẻ ngoại đạo ->

thanh đồng -> đồng Thầy -> mở phủ trình đồng cho con nhang đệ tử -> đồng Thầy

với năng lực đặc biệt, thu hút các con nhang đệ tử xung quanh mình để thực hành

các nghi lễ ở một điện thờ cụ thể -> bản hội. Đây không phải là quy luật riêng của

Phúc Minh từ trong việc hình thành bản hội mà là một quy luật phổ biến của nhiều

bản hội khác như bản hội đền Đ của cậu Hạ (Hà Nội), bản hội Cô Chín (Hà Nội),

bản hội cô Vân (Hà Nội), bản hội cậu Luân (Hưng Yên), cậu Biên (Hải Phòng)….

Cũng có những trường hợp đặc biệt, một số người bản thân chỉ là thanh đồng chứ

không trở thành đồng Thầy (tức họ không trình đồng mở phủ cho con nhang đệ tử,

ví dụ như bà Mùi (Hà Nội) song với năng lực của mình họ vẫn tập hợp được đông

đảo các thành viên khác hình thành một bản hội. Một số bản hội khác lại do nhà sư

có căn đồng, đã ra trình đồng mở phủ lập nên. Nói tóm lại, có nhiều loại hình bản

42

hội khác nhau, tuy nhiên bản hội do đồng Thầy làm chủ hội là loại hình bản hội phổ

biến nhất hiện nay.

2.2 Cơ cấu tổ chức của bản hội Đạo Mẫu

Một cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu có thể duy trì tồn tại và hoạt động cần phải

có một cơ cấu tổ chức. Tuy nhiên, tổ chức như thế nào đó là nét riêng khác biệt tùy

vào bản hội của điện thờ tư gia hay bản hội của điện thờ công. Những mô tả của

Nguyễn Ngọc Mai (2010) cho thấy bản hội của điện thờ công như Phủ Dầy có tổ

chức chặt chẽ và cơ cấu nhân sự đông đúc thường trực thường xuyên hơn nhiều so

với các bản hội của các điện tư gia và một số chùa khu vực ngoại thành Hà Nội.

Chẳng hạn, cơ cấu tổ chức của bản hội Phủ Dầy có tới 40 người thường xuyên được

cắt đặt vào các vị trí như bảo vệ ( gồm 12 người, họ được nuôi cơm hàng ngày tại

phủ và được cho hưởng toàn bộ lộc Thánh trong những canh hầu), bộ phận nhà bếp

(5-7 người, là những phụ nữ cao tuổi của thôn làng), bộ phận các cô ngồi tứ trụ (6-

10 người, họ là con gái, con dâu và người thân thiết của thủ nhang). Cũng theo tác

giả, các bản hội của điện thờ tư gia không có cơ cấu tổ chức lớn như vậy “song ít

nhiều nó cũng có quy luật, quy tắc hoạt động nhất định: có Hội trưởng (đồng Thầy)

và các hội viên (đồng lính) với tôn chỉ và mục đích rõ rệt là phục vụ Thánh thần và

giúp đỡ nhau trong cuộc sống, nhất là trong đời sống tinh thần.” [78; tr151]. Bản

Đứng đầu bản hội là đồng Thầy, dưới đồng Thầy là đồng trưởng. Đồng trưởng có thể là

một người hoặc có thể là vài người. Như bản hội nhà cô là 4 người đấy : cậu Tuấn, cậu

Vui, anh Thà, em Hưng. Trong 4 người này cô cũng phân công việc riêng: Cậu Tuấn lo

việc hiếu, hỉ của bản hội như kiểu là ông chánh văn phòng trong bản hội ấy; Cậu Vui không

nằm trong đồng bóng nhưng cô đưa Cậu ấy vào đây để lo việc công đức của bản hội, kêu gọi

mọi người trong bản hội giúp đỡ lẫn nhau,và có thể là làm từ thiện ở bên ngoài; anh Thà là

người học rất giỏi hiện nay đang làm ở Hội đồng Liên minh Châu Âu là người chấp bút chua

phê nhiều dự án cho châu Âu đến Việt Nam. Anh này đã học trường Amstecdam, văn vẻ tốt

thì anh ấy là chắp bút chua phê, dùng ngòi bút để chuyển tải thông điệp của thầy tới các thành

viên bản hội hoặc cho xã hội; em Hưng là nhà ngoại giao của bản hội, nó có khả năng xâm

nhập cộng đồng, nó nói chuyện có thể hợp với tất cả các tầng lớp khác nhau.Thà chỉ có ngòi

bút thôi, nó làm được điều đó (Phỏng vấn đồng thầy Xuyên)

hội Phúc Minh từ lại có nét riêng biệt trong cơ cấu tổ chức của nó.

Những tư liệu từ phỏng vấn đồng Thầy Xuyên cùng với những quan sát hoạt

động của bản hội này cho thấy, mặc dù là một điện thờ tư gia, nhưng Phúc Minh từ

có cơ cấu tổ chức khá “bài bản”, chuyên nghiệp. Đứng đầu bản hội cũng như nhiều

bản hội khác tất nhiên là đồng Thầy. Dưới đồng Thầy có các đồng trưởng phụ trách

các mảng công việc khác nhau (như hiếu hỉ, ngoại giao, công đức..)

43

Theo đồng Thầy Xuyên thì 4 người được gọi là đồng trưởng này không có

quyền lãnh đạo lẫn nhau mà chỉ có thể kết hợp với nhau giúp việc cho đồng Thầy và

tạo nên sự thống nhất của bản hội. Mỗi khi bản hội có công việc (như sửa sang lại

hay xây điện thờ mới, đi lễ xa, làm từ thiện…) 4 đồng trưởng này cùng họp với

đồng thầy để đưa ra “những quyết sách quan trọng” như cách diễn đạt của thầy

Xuyên. Dưới các đồng trưởng là các nhóm trưởng và tất nhiên là trong một bản hội

có nhiều nhóm khác nhau: nhóm thanh đồng, nhóm chấp tác, nhóm hầu dâng, nhóm

tín chủ, nhóm các bà vãi… Tuy nhiên, sự phân chia các nhóm như vậy cũng chỉ

mang tính chất tương đối, bởi thực chất có những nhóm trong đó bao gồm cả thanh

đồng, tín chủ và nhang tử…Bản thân thanh đồng lại chia thành nhiều nhóm khác nhau

với số lượng khác nhau (Xin xem phụ lục 3 Bảng 1; tr177). Hà Nội là “đại bản

doanh” của bản hội Phúc Minh từ nên số lượng các thanh đồng ở đây đông nhất,

chia làm năm nhóm và các nhóm này được đồng Thầy và mọi người gọi theo nghề

nghiệp của các thành viên chẳng hạn: nhóm EU (gồm những người làm việc trong

tổ chức EU ở Việt Nam), nhóm Viettel (những người làm ở Viettel), nhóm ngân

hàng (một số chị làm ở ngân hàng), nhóm các tướng tá trong quân đội, công an và

một nhóm không làm công chức nhà nước, tôi gọi họ là “nhóm những người lao

động” bởi họ là những người buôn thúng bán mẹt, những người bán nước ở đầu

đường cuối chợ, những người không có nghề nghiệp ổn định… Tất nhiên, như đã

nói ở trên, việc phân nhóm mang tính chất tương đối, trong các nhóm như Viettel,

EU…vẫn có những thành viên làm các nghề khác tham gia, ví như anh Thoan một

doanh nhân người Huế hiện sống ở Hà Nội, em Trinh một thợ làm đầu lại là thành

viên của nhóm EU…Hưng Yên là quê hương của đồng Thầy Xuyên, hiện nay đồng

Thầy Xuyên vẫn còn ngôi nhà tại đây mà tôi đã từng có dịp về ngôi nhà đó nhân dịp

giỗ chồng của đồng Thầy Xuyên, các anh chị em họ hàng bên chồng vẫn sống ở đó và

vì vậy số lượng thanh đồng địa bàn này cũng khá đông đảo. Việc các nhóm trưởng

được “dựng lên” như vậy cũng chỉ mang tính chất tự phát, không có một cuộc họp nào

của bản hội để “bầu bán”. Nhóm trưởng sẽ có trách nhiệm truyền đạt lại những “chỉ

thị” của đồng Thầy. Chẳng hạn, mỗi khi bản hội có vấn hầu, cần làm cơm để cúng

thánh thần sau đó mời mọi người thụ lộc, đồng Thầy sẽ báo cho một đồng trưởng phụ

trách, đồng trưởng có trách nhiệm chỉ đạo trưởng nhóm chấp tác, bộ phận nhà bếp cắt

cử số lượng người nấu nướng, lên danh sách các món ăn cần thiết, ước lượng số tiền

chi trả…Đồng trưởng cũng báo cho các nhóm trưởng để các nhóm trưởng báo cho các

thành viên trong nhóm đến dự hầu và trợ duyên.

44

Có thể xem mô hình tổ chức của bản hội Phúc Minh từ là một mô hình khá phổ

biến hiện nay. Những nghiên cứu thực địa của tôi cho thấy nhiều bản hội ở Hà Nội, Hải

Phòng, Nam Định cũng có cùng một kiểu tổ chức như vậy. Cậu Hạ, thủ nhang đền Đ,

Ngoài đồng Thầy ra để chỉ đạo cơ cánh đấy thì còn có những người để phục vụ cho bản

hội. Họ có thể được gọi là đồng phó chẳng hạn. Có những nơi có đồng phó, người này là

phụ cận của đồng Thầy, đồng Thầy chỉ đạo còn họ sẽ thi hành tất cả các công việc.Tức là ở

đây trong bản hội của tôi, tôi là đồng Thầy tôi chỉ đạo, cậu Lực là đồng phó, tôi chỉ đạo cậu

Lực tôi nói hôm tới này sẽ có việc này việc này việc này thì cậu Lực phải dựa vào những

điều tôi nói mà chỉ đạo cho những người khác, cậu sẽ chỉ đạo cho những vị nấu bếp. Chẳng

hạn, tôi chỉ đạo Cậu Lực là làm 30 mâm thì cậu ấy sẽ phải chỉ đạo cho những người nấu

bếp là làm 30 mâm. Người nấu bếp lại có mấy người, trong đó có một người đứng đầu

trưởng bếp, người đứng đầu này sẽ chỉ đạo lên món, mua thực phẩm… Người bày biện

này, nhiều lắm. Những người này gọi là chấp tác (chấp sự). (Phỏng vấn cậu Hạ, đền Đ,

Hà Nội) Như vậy, cả bản hội Phúc Minh từ và bản hội đền Đ đều có cơ cấu khá tương

một ngôi đền cổ, lớn có tiếng giữa lòng thủ đô Hà Nội cho biết:

đồng, sự khác biệt là ở tên gọi và số lượng của người trực tiếp giúp việc cho đồng

Thầy: Phúc Minh từ là “đồng trưởng” với số lượng bốn người, còn đền Đ lại gọi là

“đồng phó” chỉ có một người. Mặc dù tên gọi có sự khác biệt nhưng về bản chất

những người này đều là những người giúp đồng Thầy bao quát, quán xuyến công

việc của bản hội. Từ “quản gia” tôi đã được nghe cả hai đồng Thầy nhắc tới thực sự

đã mô tả khá chính xác vai trò của đồng trưởng và đồng phó của hai bản hội này.

Cậu Hạ đền Đ còn ví von rất hay về mối quan hệ giữa đồng Thầy và đồng phó: “Nó

giống như ông Chủ tịch nước ấy, làm theo sự chỉ đạo của ông Bí thư. Ông Bí thư

ông ấy chỉ đạo ông Chủ tịch và các ban ngành của Chủ tịch phải làm theo ý của

ông ấy. Tôi là Bí thư còn cậu Lực là Chủ tịch…còn con nhang đệ tử họ chính là

nhân dân đấy” (Phỏng vấn cậu Hạ, đền Đ, Hà Nội)

Bên cạnh những tương đồng, cơ cấu tổ chức giữa các bản hội cũng có nhiều

nét riêng biệt. Có bản hội được tổ chức chuyên nghiệp, bài bản như một “bộ máy

chạy trơn tru”; tuy nhiên có nhiều bản hội cơ cấu tổ chức rất đơn giản, lỏng lẻo. Sự

khác nhau này, một phần do tính chất của bản hội ( bản hội của điện thờ tư gia, bản

hội của điện thờ công); do số lượng công việc của từng bản hội (có những bản hội

nhiều công việc cần phải có sự trợ giúp của một “bộ máy” nhiều người và ngược

lại, có những bản hội ít công việc thì chỉ cần đồng Thầy và một vài chấp tác là đủ);

một nhân tố vô cùng quan trọng tác động tới cơ cấu bản hội đó chính là năng lực tổ

chức của đồng Thầy. Thanh đồng Linh của bản hội Phúc Minh từ đã phân tích vai

45

trò của đồng Thầy trong việc tổ chức bản hội:“Em cứ hình dung đi bộ đội…sẽ có

nhiều sư đoàn…Người chỉ huy phải đào tạo được những lính giỏi mà người chỉ huy

không làm được là sẽ không giữ được bản hội. Mà không giữ được bản hội là gì?

Là giải ngũ hết…”. Người chỉ huy cũng phải có nghệ thuật chỉ đạo, “chứ bây giờ

người chỉ đạo mà cũng đi làm, mà cũng quần quật quần quật thì có khi lại hỏng

việc. Tôi có thể vui chân vui tay tôi ra tôi làm cùng thôi chứ tôi không thể làm tất cả

được” (Phỏng vấn cậu Hạ đền Đ). Nói cách khác, nếu có năng lực tổ chức tốt, đồng

Thầy sẽ hình thành nên một cơ cấu bản hội vững chắc, hiệu quả và ngược lại, nếu

năng lực tổ chức kém, bản hội sẽ “không vượng được”.

2.3 Thực hành nghi lễ của bản hội Đạo Mẫu.

Là một cộng đồng tôn giáo, hoạt động chủ yếu của bản hội hẳn liên quan đến

sự thờ phụng thế giới thần linh. Tuy nhiên, việc phụng thờ này trong cái nhìn so

sánh với các cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng khác ở Việt Nam cũng có nhiều điểm

khác biệt. Việc thờ phụng Thành hoàng làng dường như trở thành một hoạt động

tâm linh quá quen thuộc của cộng đồng dân làng. Điểm đặc biệt là mỗi làng có một

vị (hoặc một vài vị) Thành hoàng của riêng họ, vị thần này được “lãnh địa hóa”

trong không gian của đình làng và quyền lực thì được “đóng khung” trong phạm vi

của một ngôi làng, vượt ra khỏi ngôi làng là thuộc “quyền cai quản” của vị Thành

hoàng khác. Do đó, cộng đồng làng thường tiến hành các nghi lễ thờ phụng Thành

hoàng tại đình làng, không ai sang một làng khác hay đến một ngôi đền ở một địa

phương khác để kêu cầu Thành hoàng làng mình cả. Thần linh trong Đạo Mẫu lại khác,

đó một tập thể các vị thần với gốc tích và công trạng khác nhau nhưng đều được lịch sử

hóa, trở thành những biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước trong tâm linh. Mặc dù có thể

được thờ chung trên ban công đồng của mỗi điện thờ tư gia hay đền to phủ lớn nhưng

hầu như mỗi một vị thần lại được thờ riêng tại một không gian thiêng nào đó trên đất

nước Việt Nam- nơi gắn liền với sự sinh, sự hóa hoặc chiến công của vị thần đó. Chẳng

hạn, Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy (Nam Định), đền Sòng Sơn (Thanh Hóa), phủ

Tây Hồ (Hà Nội); Vua Cha Trần Hưng Đạo ở đền Đồng Bằng (Thái Bình), Kiếp Bạc

(Hải Dương); ông Hoàng Mười ở Nghệ An; Ông Hoàng Bảy ở Bảo Hà (Lào Cai); Cô

bé; chầu Bé ở Bắc Lệ (Lạng Sơn)…Các tín đồ Đạo Mẫu thường hay nhắc tới danh

xưng của các vị thần kèm theo địa danh của không gian thiêng như một cách xác định

bản sắc vùng miền của các vị thần này, ví như Chầu Mười Đồng Mỏ, Hoàng Bảy Bảo

Hà, Cô Chín Sòng Sơn,….Vì có những điểm đặc biệt trong bản sắc vùng miền của thần

46

linh như vậy nên hoạt động thờ phụng thần thánh không diễn ra tại một không gian cố

định như thờ Thành hoàng làng mà có sự dịch chuyển từ chốn tổ đến những không gian

khác và có sự kết nối giữa chốn tổ với các không gian thiêng của từng vị Thánh.

Chốn tổ và hoạt động thờ phụng thần linh

Người Việt Nam thường sử dụng cụm từ “chốn quê nhà”, “chốn cũ”, “chốn

xưa”…để nói về thứ tình cảm vô cùng sâu lắng đối với không gian mà họ đã thuộc

về nó. Đối với các tín đồ Đạo Mẫu, chốn tổ- điện thờ của một đồng Thầy mà họ đã

làm lễ nhập đạo chính là nơi họ thuộc về, nơi họ cảm thấy vừa gần gũi thân thương

vừa linh thiêng lạ kì. Chính trong không gian của chốn tổ này đồng Thầy và các con

nhang đệ tử thuộc bản hội của mình tiến hành các nghi lễ phụng thờ thần linh Đạo

Mẫu. Việc phụng thờ này có thể với tư cách cá nhân hoặc với tư cách tập thể.

Thông thường các hoạt động lên hương, thay nước và thanh bông hoa quả hàng

ngày hoặc ngày sóc vọng hàng tháng được thực hiện bởi cá nhân đồng Thầy hoặc

do một chấp tác của đồng Thầy đảm nhiệm. Hoạt động phụng thờ thần linh Đạo

Mẫu lớn nhất và mang tính tập thể nhất phải kể đến là bốn lễ chính trong năm: lễ

đầu năm (tháng giêng), lễ vào hạ (tháng 4), lễ tán hạ (tháng 7) và lễ cuối năm (tháng

Chạp). Mỗi bản hội khác nhau sẽ có những quy định riêng về ngày tổ chức các lễ

chính này, đối với bản hội Phúc Minh từ, đồng Thầy chọn ngày mùng 10 các tháng

giêng, tháng 4, tháng 7 và tháng 12 âm lịch. Quan sát tham dự của tác giả tại bản

hội Phúc Minh từ cho thấy, trình tự nghi lễ của bốn lễ chính trong năm này diễn ra

khá giống nhau với buổi sáng làm lễ cúng thần linh, buổi trưa thụ lộc và buổi chiều

đồng Thầy “bắc ghế hầu Thánh”. Đối với chốn tổ, đây là ngày tụ hội đông nhất, còn

đối với các con nhang đệ tử đây là dịp lễ Thánh quan trọng họ không thể thiếu vắng13, ngày vui nhất bởi họ được gặp những người “đồng đạo”, được hàn huyên đủ

thứ chuyện, được ăn bữa ăn cộng cảm và được hòa mình trong không khí lúc trầm

lắng lúc lại rộn rã đến vỡ òa cảm xúc của buổi lễ hầu đồng.

Đi lễ xa: sự dịch chuyển không gian trong thực hành nghi lễ của bản hội.

Như đã nhắc đến ở trên, hoạt động thờ phụng thần thánh của bản hội Đạo

Mẫu không chỉ được diễn ra tại chốn tổ mà còn ở những đền thờ riêng nơi ghi dấu

13 Trong những dịp lễ quan trọng này, tác giả chứng kiến có một số con nhang đệ tử của bản hội Phúc Minh từ sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hưng Yên, Hải Phòng cũng về hội tụ. Trong một lần dự lễ đầu năm tại bản hội cô Chín (Thanh Xuân, Hà Nội), tác giả có gặp một người đàn ông mà theo như lời Cô Chín thì đây là đệ tử của cô hiện đang sống ở Úc, hàng năm cứ vào lễ đầu năm anh ta lại về chốn tổ.

chiến công hay sự sinh sự hóa của các vị Thánh. Và như vậy, không gian thờ phụng

47

thần thánh có sự dịch chuyển. Các tín đồ Đạo Mẫu dùng khái niệm “khái niệm “đi”

để thể hiện sự dịch chuyển này, chẳng hạn “đi ông Hoàng Mười”, “đi Cô Chín”, “đi

Quan Tuần Tranh”,… nói một cách chung nhất là đi lễ xa. Mục đích của những

chuyến đi này theo như các tín đồ Đạo Mẫu là để xin lộc Thánh, được đến gần hơn

với Người, để trực tiếp cảm nhận sự hiển linh ở những nơi mà các vị Thánh đã đi

qua và để lại vết tích; để tưởng niệm những sự kiện diễn ra trong quá khứ nhưng

cũng là để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn, tức là lời cầu khấn của họ được linh

ứng. Đối với các thanh đồng đang còn trong ba năm thử thách, đi lễ xa cũng là dịp

họ kết hợp luôn lễ trình giầu với mục đích cho “Cha biết mặt, Mẹ biết tên”, để Cha

Mẹ tỏa bóng và lượng âm tần tiếp vào người sẽ mạnh hơn. Đi lễ xa của bản hội

Phúc Minh từ bao giờ cũng bắt đầu sau tết âm lịch với sự xuất hành đến chùa

Hương vào rạng sáng mùng 5. Họ bắt đầu một năm như thế vì nghĩ rằng phải thờ

Phật trước, thờ thánh sau. Thực tế đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tín ngưỡng Tứ

phủ và Đạo Phật, Đức Phật có vị thế cao hơn các vị thần thánh. Mỗi nghi lễ của Đạo

Mẫu như lên đồng, đi lễ xa hay nghi lễ thỉnh Thánh đều thỉnh đến Phật. Phật giáo là

một tôn giáo mà các con nhang đệ tử hướng tới nhằm chính thống hóa nghi lễ trong

bối cảnh có những quan điểm khác nhau về việc thờ cúng của họ. Các con nhang đệ

tử của bản hội đánh giá các chuyến đi lễ xa khác nhau tùy theo mức độ khó khăn

của các chuyến đi lễ, đặc biệt vùng miền núi không dễ đi thì chuyến đi có một giá

trị đặc biệt. Theo thang giá trị này, đi lễ ở đền Ông Hoàng Mười được xếp là nơi

đáng đi vì rất xa Hà Nội. Vượt qua được những khó khăn gặp phải trên đường được

xem là thành công của một chuyến hành hương:lụt lội hoặc đường sá bị hư hỏng

không gây cản trở cho chuyến đi lễ mà được coi như một cách để thử nghiệm lòng

nhân từ của thánh. Ngoài đường sá xa xôi, giá trị của từng chuyến đi được xác định

theo số lượng đền mà người hành hương đến lễ. Càng đến nhiều nơi thì càng tích tụ

lộc Thánh [19; tr27]. Không chỉ đầu năm, các tín đồ Đạo Mẫu còn đi lễ xa theo lịch

các tiệc Thánh và lễ hội trong tín ngưỡng Tứ phủ. Có hai đợt đi lễ lớn mà các con

nhang đệ tử bản hội thường nhắc đến theo như câu nói nổi tiếng là “Tháng Tám giỗ

Cha, Tháng ba giỗ Mẹ”. Mẹ ở đây là Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Cha là Đức Trần

Hưng Đạo hoặc Vua Cha Bát Hải Đại Vương. Hàng năm, cứ vào tháng 3 âm lịch

người người từ muôn nơi đổ về Phủ Dầy Nam Định là nơi Mẫu giáng (3.3 âm lịch)

và tháng Tám người người lại hành hương về Đền Kiếp Bạc nơi mất của Trần Hưng

Đạo để tưởng nhớ Cha và Mẹ. Dẫn đầu đoàn đi lễ xa của bản hội bao giờ cũng là

48

đồng Thầy. Có thể nói đồng Thầy chính là tổng đạo diễn của những chuyến hành

hương về các miền đất Thánh, đồng Thầy lo mọi thứ từ chương trình các nơi đi lễ,

thuê phương tiện đi lại, đồ ăn, nơi ăn chốn ngủ, đồ lễ… Đồ lễ sau khi được chuẩn bị

trước khi đi được dịch chuyển đến không gian thiêng khác, đặt lên bàn thờ hoặc

thông qua nghi lễ hầu đồng của đồng Thầy trở thành lộc.

Tóm lại, đi lễ xa là một nghĩa vụ thường xuyên của các con nhang đệ tử Đạo

Mẫu đối với các Thánh. Việc này có tác dụng trong việc khẳng định vị thế đệ tử và

quan hệ giữa họ đối với các vị Thánh. Khi đến thờ cúng thường xuyên ở các đền,

các đệ tử tái khẳng định quyền lực của các vị Thánh ở các vùng này. Đi lễ xa hay

hành hương về những vùng đất Thánh là một khái niệm có lẽ không còn xa lạ đối

với nhiều cộng đồng tôn giáo khác ở Việt Nam. Mỗi cộng đồng tôn giáo có một

vùng đất Thánh để họ tưởng niệm và hướng về: cộng đồng Công giáo có vùng đất

thánh Giêsusalem, cộng đồng Hồi giáo có thánh địa Mecca- quê hương của giáo chủ

Môhamet, cộng đồng tín đồ Phật giáo có những vùng đất thiêng ở Ấn Độ…Tuy

nhiên, trong khi cơ hội hành hương về miền đất Thánh của các cộng đồng tôn giáo

khác rất ít vì nhiều lí do trong đó có lí do về khoảng cách địa lý và điều kiện vật

chất (thậm chí, đã trở thành một tín điều trong “năm cốt đạo” của đạo Hồi quy định

mỗi một tín đồ tùy thuộc vào điều kiện của mình ít nhất một lần trong đời phải hành

hương về Thánh địa Mecca nhưng sự thực có mấy tín đồ Hồi giáo ở Việt Nam thực

hiện được nghĩa vụ này) thì việc hành hương của cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu diễn ra

thường xuyên hàng năm, tất nhiên điều này cũng gây ra sự tốn kém. Do vậy, nếu như

không gian thờ phụng thần linh của cộng đồng Công giáo diễn ra chủ yếu ở nhà thờ xứ

đạo, cộng đồng Hồi giáo ở một thánh đường, cộng đồng thờ cúng tổ tiên ở bàn thờ tại

gia và dòng họ…thì không gian thờ phụng thần thánh của Đạo Mẫu có sự dịch chuyển

giữa các “lãnh địa” của các vị Thánh. Bởi thế, đi lễ xa của cộng đồng bản hội hơn cả

mục đích đi lễ, các con nhang đệ tử được đi đến những vùng đất mới, thăm thú những

cảnh quan mới lạ, gặp gỡ những con người mới và thu được những tri thức mới.

Đồng Thầy và những hoạt động liên quan đến thế giới tâm linh.

Như đã khẳng định ở trên, đồng Thầy là chủ bản điện và tổng đạo diễn tất cả

các hoạt động của bản hội, vì vậy nhắc đến hoạt động của bản hội không thể không

dành riêng một phần quan trọng để nói về hoạt động của đồng Thầy. Bên cạnh việc

dẫn dắt con nhang đệ tử thờ phụng thần thánh tại chốn tổ hay đi lễ xa, đồng Thầy

còn có những hoạt động tâm linh riêng của mình. Mục đích của những hoạt động

này là nhằm cứu bách gia trăm họ. Mặc dù có thể đồng Thầy không đặt vấn đề lợi

49

ích vật chất lên trên song thực sự những hoạt động này đã đem lại cho đồng Thầy

những nguồn thu nhập. Để hỗ trợ cho các hoạt động của mình đồng Thầy đã vận

hành các bộ phận giúp việc trong cơ cấu tổ chức của bản hội.

Khi thâm nhập bản hội Phúc Minh từ, tôi nhìn thấy một tấm bảng Mecca

màu trắng luôn luôn được treo ngay ngắn trên tường ở cổng ra vào của bản điện.

Tấm bảng được kẻ thành 30 ô tương ứng với 30 ngày trong tháng (ngày âm) và

trong các ô này ghi nội dung công việc của bản hội nhưng không phải ô nào cũng

được ghi. Chẳng hạn, có ô ghi “giải hạn”, ô khác lại ghi “trình đồng mở phủ”; “khất

đồng” hoặc “cắt vong”…Nội dung của các ô tương ứng với ngày tháng nhất định

này cho thấy các hoạt động của bản hội trong từng tháng. Hết tháng, tấm bảng lại

được xóa đi, viết lại nội dung mới với các hoạt động mới. Nghiên cứu những nội dung

được ghi trong tấm bảng Mecca cho thấy, tất cả hoạt động của bản hội đều liên quan đến

thế giới âm để cứu giúp bách gia trăm họ. Đồng Thầy thông qua giao tiếp với thế giới

âm, cụ thể là giao tiếp với các vị thần linh Đạo Mẫu để giúp bách gia trăm họ sở cầu

những điều họ mong muốn. Quan sát tham dự cùng với nghiên cứu các cuốn Sổ công

việc của bản hội từ năm 2003 đến 2014, tôi nhận thấy,các hoạt động đồng Thầy giúp

bách gia trăm họ rất phong phú như trình đồng mở phủ, cắt duyên âm, bốc bát nhang, tạ

mộ, cầu giải bệnh... (Xin xem phụ lục 3 Bảng 2; tr177).

Tính chất công việc con nhang đệ tử, tín chủ nhờ đồng Thầy giúp đỡ ngày

càng phong phú hơn cho thấy sự phát triển của bản hội. Sự phát triển đó còn được

thể hiện qua mật độ các công việc được thực hiện hàng tháng qua các năm. Những

ghi chép trong các cuốn Sổ công việc đã chỉ ra rằng, những năm “tuổi đầu đời” của

bản hội, số lượng các công việc được thực hiện hàng tháng rất thưa thớt, mật độ

công việc được ghi chép ngày càng đậm đặc hơn, các cuốn sổ dùng để ghi chép các

hoạt động của bản hội dày hơn bắt đầu từ những năm 2008 trở lại đây, trong đó dày

nhất là cuốn Sổ công việc năm 2011 (Xin xem phụ lục3 Bảng 3, tr178).

Tuy nhiên, không chỉ căn cứ vào tần suất hoạt động trong tháng mà cần căn

cứ vào quy mô của mỗi hoạt động thì mới đủ dữ kiện để khẳng định từ năm 2008

trở đi bản hội phát triển hơn nhiều so với những năm trước đó. Tiếp tục nghiên cứu

các cuốn Sổ công việc, tôi phát hiện ra, cùng là 1 lần thực hiện nghi lễ cắt vong

chẳng hạn, nếu như năm 2003, đồng Thầy chỉ cắt vong cho một gia chủ thì đến năm

2011 quy mô của một lần cắt vong ấy đã lớn hơn được thể hiện qua số lượng gia

chủ tham gia nhiều hơn (ví dụ ngày mùng 6.2.2011, lễ cắt vong được tiến hành với

50

sự tham gia của 13 gia chủ, trong 13 gia chủ này, tôi nhìn thấy có 1 gia chủ cắt 2

vong đất với địa chỉ là Cộng hòa Liên Bang Đức). Đối với các loại công việc trên

đây thì hoạt động hầu như không theo một nguyên tắc về thời gian nào. Cứ khi có

tín chủ đến nhờ đồng Thầy soi bói, sau khi soi ra “vấn đề”, các tín chủ nhờ đồng Thầy

giải quyết bằng nghi lễ. Đồng Thầy chọn ngày và làm lễ cho tín chủ. Việc làm các lễ

này có thể diễn ra tại điện nhà đồng Thầy, cũng có thể diễn ra ở đền to phủ lớn (nếu là

trình đồng mở phủ, trình giầu…), tại nhà tín chủ (tạ đất, cúng đầu năm…)

Nhưng vấn đề đặt ra là hoạt động của bản hội phụ thuộc vào điều gì? Hay nói

cách khác, yếu tố nào chi phối khiến hoạt động của bản hội được vận hành? Những

mô tả ở trên cho thấy, trung tâm của tất cả các hoạt động của bản hội là đồng Thầy,

vậy yếu tố chi phối tới sự vận hành những hoạt động của bản hội chính là năng lực

đặc biệt của đồng Thầy. Nhưng, năng lực đặc biệt của các đồng Thầy là đa dạng

như chính câu nói cửa miệng của các đệ tử Đạo Mẫu mà tôi thường được nghe tới

“Trăm ông trăm phép, nghìn bà nghìn quyền”. Và chính những “phép”, “quyền”

khác nhau của các đồng Thầy đã ảnh hưởng đến đặc thù riêng trong hoạt động của

từng bản hội: có bản hội chuyên đi tìm mộ, có bản hội lại chuyên xem bói, chuyên

chữa bệnh.

2.4. Đặc trưng của bản hội Đạo Mẫu

2.4.1 Bản hội Đạo Mẫu: cộng đồng tôn giáo cố kết và xung đột.

2.4.1.1 Bản hội Đạo Mẫu: cộng đồng tôn giáo cố kết

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “cố kết là kết lại thành một khối vững chắc”

[131; tr204]. Đã nói đến cộng đồng là nói đến sự cố kết. Song mỗi cộng đồng khác

nhau có những “chất kết dính” khác nhau để tạo nên sự cố kết. Nếu như cộng đồng

làng cố kết với nhau bởi sự cộng cư (cùng cư trú trên một địa vực), cộng cảm (cùng

chia sẻ tình cảm cảm xúc, giúp đỡ lẫn nhau), cộng hữu (cùng sở hữu tài sản của làng

như đường làng, ao làng, giếng làng, …), cộng mệnh (số mệnh của cả làng chịu sự

chi phối của Thành hoàng làng) thì cộng đồng gia đình, dòng họ lại gắn kết với

nhau bởi cùng huyết thống, cùng tổ tiên; cộng đồng nghề nghiệp gắn bó với nhau vì

cùng lợi ích kinh tế, cộng đồng những người đồng tính gắn bó với nhau vì những

điểm chung về vấn đề giới tính… Cộng đồng tôn giáo cố kết với nhau bởi cùng đức

tin vào các đấng thần linh. Tuy nhiên, mỗi cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng khác

nhau lại có niềm tin thần thánh khác nhau. Với cộng đồng bản hội, sự đặc biệt là ở

chỗ, sự cố kết của cộng đồng này được tạo nên không chỉ dựa trên cùng niềm tin

vào Thánh Mẫu mà còn là niềm tin với đồng Thầy.

51

Niềm tin vào Thánh Mẫu và cảm giác thuộc về “con nhà Mẫu”

Khác với các cộng đồng thế tục, cộng đồng tôn giáo được hình thành dựa

trên sự có chung một niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng. Chẳng hạn, cộng đồng Công

giáo được hình thành bởi các tín đồ có chung niềm tin vào sự toàn năng của Chúa-

Người đã sáng tạo ra chính bản thân con người và muôn vật trong vũ trụ, Người

cũng có thể trừng phạt hay “đền bù” cho những nỗ lực của con người trong cuộc đời

bằng cách cho phép họ được lên Thiên đàng (nơi thế giới cực lạc, nơi mà mọi mong

ước của con người được thỏa mãn, nơi con người được trường tồn vĩnh viễn không

phải lo đến đau khổ, bệnh tật)… hay đày họ xuống địa ngục ( nơi có biết bao nhiêu

ghê rợn, lửa cháy ngút ngàn và con người phải chịu đủ mọi cực hình). Cộng đồng

Hồi giáo lại được hình thành dựa trên niềm tin của các tín đồ đối với Thánh Ala, với

họ Thánh Ala là toàn năng đối với muôn sự trên thế gian này. Đối với cộng đồng

làng xã thờ thần Thành hoàng, họ cũng ngưỡng vọng và đặt niềm tin tuyệt đối vào

sự bao dung và những ân huệ của vị thần bảo hộ làng đến nỗi “Toét mắt là tại

hướng đình. Cả làng toét mắt riêng mình em đâu”. Cộng đồng tín ngưỡng thờ cúng

tổ tiên trong gia đình dòng họ lại được hình thành dựa trên niềm tin rằng tổ tiên

mình mặc dù thể xác đã tan rữa trong cát bụi nhưng linh hồn luôn tồn tại quanh

quẩn bên con cháu, trừng phạt quở mắng hoặc phù hộ và động viên con cháu. Có

thể nói, niềm tin vào lực lượng siêu nhiên có sức cố kết cộng đồng tôn giáo rất lớn,

đôi khi vượt không gian và thời gian. Đối với bản hội- cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu

niềm tin cũng chính là sợi dây kết nối các thành viên không cùng tuổi tác, không

cùng nghề nghiệp, địa vị xã hội lại với nhau. Niềm tin ấy được thể hiện qua lời cầu

xin và những mong đợi về điều mà họ sẽ nhận được từ ân phước của các Thánh

Mẫu; qua hàng loạt những hành động nghi lễ tỏ rõ sự thành tâm đến mức sùng bái

như quỳ lạy trước bàn thờ và qua cả những lời hứa giống như một sự cam kết về sự

trung thành giữa họ với thần thánh: “con nguyện một lòng theo Vua Cha Mẫu Mẹ

đến mãn chiều xế bóng, đến đầu bạc răng long ” hay “Nhất tâm cửa Phật, thật tâm

cửa Mẫu”. Niềm tin ấy có sự đậm nhạt khác nhau giữa các tín đồ, thậm chí trong

mỗi đoạn đời khác nhau ở một tín đồ. Rất nhiều các thành viên của bản hội mà tôi

chứng kiến có niềm tin sâu sắc đến mức lệ thuộc vào thần thánh, bất cứ điều gì diễn

ra trong cuộc sống của họ từ làm ăn thất bát, gia đình ly tán, sức khỏe tồi tệ, thậm

chí không ăn ngủ được …đều được họ lý giải từ sự can thiệp của thánh thần. Việc

ốm đau không rõ nguyên nhân và chữa mãi không khỏi được họ lí giải là bị Thánh

Mẫu phạt bởi có căn phục vụ nhà Ngài mà không ra trình đồng mở phủ; việc đổ vỡ

52

trong kinh doanh hay công danh sự nghiệp cũng được họ cho rằng Thánh Mẫu đã

chọn họ để làm việc âm thay vì việc trần; một số người khác không có căn đồng

nhưng có niềm tin rằng các Thánh Mẫu có khả năng phù trợ cho họ để việc “làm ăn

được mát mẻ”…

Có thể nói, niềm tin vào sự phù trợ của Thánh Mẫu cũng như sự liên tưởng

về quyền năng “chi phối” của các Thánh Mẫu đến hoàn cảnh sống của họ đã khiến

các thành viên bản hội Đạo Mẫu có cảm giác họ là con cái nhà Mẫu, họ thuộc về

cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu.

Tuy nhiên, cảm giác thuộc về cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu, cảm giác là con cái

nhà Mẫu có lẽ là chưa đủ để tạo nên sự gắn bó của một cá nhân nào đó với một bản

hội. Bởi vì Thánh Mẫu là thần linh chung và được thờ ở khắp mọi đền, phủ trên đất

nước Việt Nam, nhưng tại sao một cá nhân không thể theo bất kì một bản hội nào

đó mà lại có sự lựa chọn? Tại sao họ tình nguyện gắn bó với bản hội này mà lại

không phải là bản hội kia? Tôi cho rằng yếu tố đồng Thầy- “thủ lĩnh tâm linh” của

cộng đồng là vô cùng quan trọng trong sự cố kết những con người khác nhau có

cùng niềm tin vào các vị thần Đạo Mẫu thành một bản hội.

Đồng Thầy và cảm giác thuộc về bản hội “Thầy tôi”

Khi tôi nói chuyện với các thành viên bản hội Phúc Minh từ và nhiều con

nhang đệ tử của các bản hội khác mà tôi có cơ hội thâm nhập, họ thường dùng tính

từ sở hữu “thầy tôi”, “thầy anh”, “thầy chị” để nói về đồng Thầy của mình với một

thái độ vừa kính trọng xen lẫn sự gần gũi thân thương. Và khi đã xác định một

người nào đó là “thầy tôi” có nghĩa là “tôi” đã “cam kết” gắn bó với bản hội của

đồng Thầy đó, cũng có nghĩa là “thầy tôi” đã níu giữ và cột chặt “tôi” trong cộng

đồng của thầy. Vậy, đồng Thầy có đặc điểm gì khiến ông ta, bà ta có khả năng cuốn

hút và cố kết các con nhang đệ tử gắn bó với mình và gắn bó họ lại với nhau?

Có thể khẳng định rằng, chính cái năng lực đặc biệt, cái charisma (tài năng,

ma lực) là yếu tố quan trọng nhất giúp đồng Thầy tạo nên cộng đồng bản hội của

riêng mình và đó cũng chính là yếu tố khiến các con nhang đệ tử tự nguyện tập hợp

xung quanh đồng Thầy, có cảm giác thuộc về đồng Thầy. Đây là điểm khác biệt rất

lớn của đồng Thầy- một chức sắc tôn giáo bán chuyên nghiệp theo như cách phân

loại của nhân học tôn giáo so với các chức sắc chuyên nghiệp đứng đầu các cộng

đồng tôn giáo khác như Thần sĩ trong Thần Đạo, nhà sư trong Phật giáo, linh mục trong

Thiên chúa giáo, giáo sĩ Do Thái (rabbi) trong Do Thái giáo, người chủ tế (imam) trong

đạo Hồi (gọi chung là Priest: những nhà hành lễ tôn giáo chuyên nghiệp) [15; tr300-

53

301]. E.E.Evans-Pritchard trên cơ sở những kết quả nghiên cứu tộc người Neur ở Châu

Phi đã nêu ra một số đặc điểm khác biệt giữa Priest và các Shaman (đồng Thầy là một

dạng thầy Shaman), trong đó điểm khác biệt lớn nhất là năng lực của các Priest thường

được kế thừa từ những Priest đầu tiên; những tri thức, kĩ thuật và năng lực tôn giáo của

họ là do được đào tạo (trong các trường dành cho các linh mục, nhà sư…) hay tu luyện

mà có trong khi đó năng lực của Shaman là tự thân, họ là người có tính Charisma (tài,

ma lực) hoặc có linh ứng cá nhân. Nói cách khác, các nhà hành lễ chuyên nghiệp như

nhà sư và linh mục thu được năng lực nghề nghiệp qua huấn luyện và thừa kế trong khi

các Shaman được xã hội thừa nhận là có các tố chất bẩm sinh đặc biệt, các tư chất tài

năng để có thể thực hiện được các thao tác “nguy hiểm” không ai làm nổi trong con

mắt của người thường; họ được coi là có khả năng nhìn thấy, nghe thấy, giao tiếp với

thần linh và các các linh hồn. E.R. Leach thì căn cứ vào kết quả nghiên cứu tôn giáo ở

Sri Lanca cũng đã rút ra đặc trưng khác nhau giữa nhà sư và thầy bói như sau: nhà sư

thường đoạn tuyệt với cuộc sống thế tục đời thường, vứt bỏ những tình cảm trần thế,

chuyên tâm vào tu hành, họ tuy sống trong thế giới này nhưng một nửa lại ở thế giới

kia, họ nối thế giới này với thế giới kia, trong khi đó thầy bói lại đưa mình vào trạng

thái xuất hồn hoặc nhập hồn làm trung gian trực tiếp giữa thế giới này và thế giới kia,

giữa người và thần, họ lấp khoảng trống giữa hai thế giới bằng việc đem thần về với thế

giới này [Theo15; tr 303-304].

Như vậy có thể khẳng định, đồng Thầy có vai trò vô cùng quan trọng trong

việc cố kết cộng đồng bản hội, điều đó được thể hiện qua việc họ dùng ma lực và

quyền lực ma lực của mình để quy tụ các thành viên về với bản hội, kêu gọi con

nhang đệ tử đoàn kết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, nhất tâm cùng đồng Thầy thờ

phụng thần thánh…

Không những thế, những năng lực đặc biệt của đồng Thầy còn tạo nên cho

con nhang đệ tử một cảm giác gắn bó không tách rời với đồng Thầy ấy, bản hội của

đồng Thầy ấy. Sở dĩ tôi nói như vậy, bởi mỗi đồng Thầy sẽ có những năng lực đặc

biệt của riêng mình, nếu thầy Xuyên của Phúc Minh từ có khả năng soi lòng bóc vỏ,

chữa bệnh âm thì thầy Luân ở Hưng Yên lại có khả năng chữa bệnh điên mà nguyên

nhân do thế giới bên kia; cậu Hạ đền Đ lại có khả năng “kêu thấu tấu nổi”- tức khả

năng giao tiếp với thần linh Đạo Mẫu để xin thần linh ban cho con người những

điều mong muốn; cậu Biên ở Hải Phòng lại có khả năng sát quỷ trừ tà… Mỗi một

tín đồ Đạo Mẫu với hoàn cảnh riêng và nhu cầu tâm linh riêng sẽ tìm đến những

đồng Thầy khác nhau. Họ lựa chọn đồng Thầy với các năng lực có khả năng chữa

trị “căn bệnh” hay đáp ứng các nhu cầu tâm linh của họ trước khi quyết định gia

54

nhập và gắn bó với bản hội. Thậm chí có người còn lựa chọn những đồng Thầy có

nhiều trải nghiệm giống mình vì có nhiều trải nghiệm giống họ mà lại là người trải

nghiệm trước khiến đồng Thầy có khả năng chia sẻ, đồng cảm, xua tan nỗi sợ hãi

của những giấc mơ hoang dại hay xoa dịu nỗi đau của họ sau những đổ vỡ của hôn

nhân, sự thất bại đắng cay trong sự nghiệp…Sự đồng cảm đó khiến nhiều người

nhận thấy họ hợp với đồng Thầy và bản hội này mà không hợp với đồng Thầy và

bản hội kia. Thực chất điều này đã tạo nên cảm giác “lệ thuộc” của họ vào một đồng

Thầy, khiến mỗi khi gặp vấn đề khó khăn trong cuộc sống họ lại tìm đến đồng Thầy

đó. Chính vì thế, bản hội Đạo Mẫu có một điều đặc biệt là nếu đồng Thầy không

còn nữa, một người khác lên thay (có thể là đệ tử của đồng Thầy chẳng hạn) thì

nhiều con nhang đệ tử cũ có thể rời bỏ và bản hội tan rã. Điều này thực sự khác biệt

với các cộng đồng tôn giáo như Công giáo, Hồi giáo…Linh mục của một xứ đạo

Công giáo chẳng hạn, họ không phải là người quyết định nhất sự cố kết hay tan rã

của giáo xứ ấy, ông ta được giáo hội cử đến cai quản xứ đạo, hướng dẫn các tín đồ

thực hành nghi lễ để trở thành những con chiên ngoan đạo của Chúa. Song nếu ông

ta mất hoặc vì một lí do nào đó ông ta chuyển đi nơi khác thì xứ đạo đó vẫn tồn tại,

vẫn gắn kết…và một linh mục khác lại đến thay ông ta.

Các chuẩn mực trong cộng đồng và sự cố kết các thành viên bản hội

Bên cạnh niềm tin, nhân tố đồng Thầy thì việc thực hiện các chuẩn mực quy

định của bản hội cũng góp phần không nhỏ vào sự cố kết cộng đồng này. Mỗi cộng

đồng tôn giáo sẽ có những chuẩn mực cụ thể quy định cách ứng xử giữa các thành

viên trong cộng đồng, quy định cách ứng xử giữa các đệ tử với thần linh cũng như

quy định cách thực hành nghi lễ. Bản hội cũng có những chuẩn mực của nó.

Mỗi cộng đồng bản hội sẽ có các thực thể (actor) khác nhau, song nhìn chung nó có: hệ thống thần linh (được biểu tượng hóa trên điện thờ), đồng Thầy, thanh đồng ( là những con đồng do đồng Thầy “sinh ra” hoặc cũng có thể là những thanh đồng ở nơi khác đến gửi thân tu dưỡng và nhờ đồng Thầy làm lễ tái khóa sang khăn. Đông đảo nhất về số lượng trong bản hội có thể nói là nhang tử (những người đã được đồng Thầy làm lễ tôn nhang cờ an bản mệnh do họ có căn cao số nặng hoặc bị ốm đau, việc đội bát nhang vị thần độ mệnh cho mình có thể giúp họ thoát khỏi tai ương); bán tử (những tiểu nhi khó nuôi hoặc nghịch tính được bố mẹ bán vào cửa Mẫu sau 12 năm thì chuộc về) và tín chủ (những người bình thường không có căn đồng nhưng họ yêu quý tâm linh, thích lễ nghi cửa Mẫu hoặc thích tham gia để đi lễ, có sự tín tâm đối với các vị thần Đạo Mẫu để kêu cầu cho gia đình trong ấm ngoài êm, công danh và tài lộc.). Điểm đặc biệt của bản hội Phúc Minh từ là có cả sự tham gia của các bà đã quy y theo Phật. Họ là vợ của các tướng tá đã về

55

hưu trong quân đội, đã quy y theo Phật nhưng đồng thời cũng có niềm tin với các vị Thánh Đạo Mẫu. Họ thường cầu kinh tại bản điện Phúc Minh từ mỗi khi bản điện vào các vấn hầu quan trọng trong năm. Với việc thực hành nghi lễ quan trọng nhất là hầu đồng, bản hội không thể thiếu sự hiện diện của hầu dâng14 (những người phục vụ ông đồng bà đồng khi hầu Thánh như thay lễ phục, dâng hương, rượu…), cung văn (đàn hát để ca ngợi sự tích, công trạng của các vị thánh Đạo Mẫu mỗi khi ông đồng bà đồng hầu Thánh ) và pháp sư (thầy cúng). Một số bản hội, hầu dâng, cung văn và pháp sư là những thành viên cố định, nhiều trong số họ là những con đồng của đồng Thầy. Với bản hội Phúc Minh từ, chỉ mình hầu dâng là con đồng, còn lại pháp sư và cung văn được đồng Thầy Xuyên coi là “những nhà kỹ thuật”, họ không phải là thành viên cố định của bản hội. Tùy thuộc vào nhu cầu của từng lễ khác nhau, đồng Thầy có thể nhờ/thuê ban cung văn và pháp sư khác nhau. Tuy nhiên, theo quan sát của tôi, bản hội này thường nhờ/thuê thường xuyên hai ban cung văn và hai pháp sư.

Các thực thể trên đây tương tác với nhau và tạo thành ba loại quan hệ sau đây trong bản hội: quan hệ giữa thần linh và tín đồ (bao gồm cả đồng Thầy cùng các thành viên khác trong bản hội); quan hệ giữa đồng Thầy với các con nhang đệ tử (tôi dùng khái niệm con nhang đệ tử để chỉ chung tất cả các thành viên khác trong bản hội như nhang tử, bán tử, tín chủ, thanh đồng…); quan hệ giữa con nhang đệ tử với con nhang đệ tử.

Vào chùa thì anh phải A Di Đà Phật, con chào Thầy, hay con chào Tăng…chứ không ai lại “Sư ơi cho chị hỏi cái này”. Anh đã đến chùa thì kể cả người ta ít tuổi hơn mình cũng phải xưng bằng con. Kính Thánh thì anh phải trọng đồng, anh đến bản điện anh kính Thánh anh phải gọi người đứng đầu bằng Thầy và xưng con, con ở đây không phải là bố con, mẹ con. (Phỏng vấn cậu Hạ, đền Đ, Hà Nội)

14 Còn gọi là tay quỳnh tay quế vì họ là những người khéo léo trong việc lên khăn áo và trang điểm cho ông đồng bà đồng. Họ có thể gồm 2 người hoặc 4 người (tứ trụ), tùy thuộc vào tính chất của từng lễ hầu đồng.

Chi phối các quan hệ ấy là các chuẩn mực, song điều đặc biệt là những chuẩn mực này không được quy định bằng các giáo lý giáo luật như các tôn giáo lớn, tất cả đều là chuẩn mực bất thành văn được lưu truyền trong cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu. Điều đặc biệt nữa là các chuẩn mực ấy lại được đúc rút trong các câu nói vần điệu dễ thuộc dễ nhớ dễ lưu truyền trong dân gian, chẳng hạn nói về thái độ ứng xử của con nhang đệ tử với thần thánh và với đồng Thầy, các tín đồ Đạo Mẫu có câu “trên theo Phật Thánh, dưới theo đồng Thầy”. Trong giới đồng bóng cũng thường truyền nhau câu nói: “Kính Phật trọng Tăng, kính Thánh trọng đồng” là một cách để nhắc nhở các con nhang đệ tử trong cách ứng xử của họ đối với đồng Thầy. Cậu Hạ đền Đ đã nói về điều này như sau:

56

Người ta ví đồng Thầy như là sư vãi trong chùa. Chị vào trong chùa chị lễ Phật nhưng chị nhìn thấy sư là chị phải chào bởi vì họ là những hậu duệ bên dưới, người phục vụ nhà Thánh thì đương nhiên là phải tôn trọng người đấy (Thanh đồng Trinh, nữ, 29 tuổi). Quan hệ giữa đồng Thầy và con nhang đệ tử là quan hệ trên- dưới. Để thể hiện quan hệ trên dưới này, giới đồng bóng đưa ra chuẩn mực trong cách xưng hô

Một số con nhang đệ tử của bản hội Phúc Minh từ cũng đồng quan điểm như vậy:

giữa đồng Thầy và con nhang đệ tử, cụ thể con nhang đệ tử gọi đồng Thầy là thầy

và xưng con, hoặc xưng cháu, xưng tôi tùy thuộc vào tuổi tác, quan hệ thân sơ với

đồng Thầy, tạo thành các cặp đối ngẫu trong ngôn ngữ giao tiếp của bản hội là thầy- tôi, thầy-con, thầy –cháu…Song phổ biến nhất vẫn là thầy –con15.

Giữa các con nhang đệ tử trong bản hội với nhau được coi là “đồng anh lính

chị”, là con cái nhà Mẫu, nên chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa họ với nhau là

“người đi trước rước kẻ đi sau”, nghĩa là người vào bản hội trước là anh là chị phải

giúp đỡ người vào sau bản hội là em là út. Song mối quan hệ giữa các con nhang đệ tử cũng có “tính đẳng cấp”, và được “quy định” bởi những quy tắc bất thành văn của

giới đồng bóng. Chẳng hạn, ở cùng một bản hội, do cùng một đồng Thầy trình đồng

mở phủ cho nhưng nếu được “sinh ra” trước (tức được mở phủ trình đồng trước) thì

người đó sẽ là anh là chị, còn nếu được “sinh ra” sau thì sẽ là em là út. Các thanh

đồng nói với tôi, thậm chí người được đẻ đồng sau nhiều tuổi hơn người được đẻ

đồng trước vẫn phải gọi người được đẻ đồng trước là đồng anh đồng chị bởi vì nếu so

về tuổi đồng thì người ta nhiều hơn. Sự phân biệt giữa đồng anh lính chị, giữa các

thanh đồng và các thành viên khác trong bản hội còn được thể hiện khi phát lộc trong

các vấn hầu. Dường như đã trở thành một quy tắc của giới đồng bóng mà những người được phân vai “bán hàng”16 phải là người nắm vững, khi phát lộc anh phải phát cho những người có đồng (tức các thanh đồng) trước khi phát cho những người

15 Tuy nhiên, cần phải phân biệt ngữ nghĩa của từ thầy trong các trường hợp khác nhau, từ đó thấy được tính chất của mối quan hệ giữa đồng Thầy với từng loại đệ tử không là hoàn toàn giống nhau. Thầy trong mối quan hệ với các tín chủ, các bà vãi, các cung văn…có thể có nghĩa là một nghề: thầy tâm linh (giống như nghề thầy giáo, thầy thuốc …). Từ Thầy được gọi bởi các đệ tử như nhang tử, bán tử đặc biệt là thanh đồng (tôi gọi là đồng lính) lại mang những màu sắc khác biệt, Thầy ở đây có nghĩa là Cha là Mẹ- người đã tái sinh ra họ bằng nghi thức “khai hồ chọc giếng” trong nghi lễ trình đồng mở phủ. Một số người khác lại cho rằng thầy có nghĩa là thầy giáo, người dẫn dắt đệ tử trên con đường tu dưỡng trên trong lĩnh vực tâm linh: “Nếu chị không nhờ một người thầy nhé thì con đường mà chị đi có rất nhiều là chông gai, nhiều hố bom, nhiều vật cản khiến mình bị vấp bị ngã, hay là đi đường nó cũng lâu đến nơi thì người thầy cũng như là một người thợ làm đường. Mình đến mình nhờ thầy mở phủ và dẫn dắt cũng giống như mình nhờ một người thợ làm đường lát cái đường ấy cho nó bằng phẳng để cho mình đi tiếp, chứ người ta không thể đi hộ cho mình được, người ta chỉ giúp mình đẩy nhanh cái tiến độ cho nó nhanh hơn thôi” (Thanh đồng Trinh, nữ,29 tuổi ) 16 Từ này được giới đồng bóng dùng để chỉ những người được đồng Thầy giao đi phát lộc cho mọi người trong mỗi giá hầu .

không có đồng trong bản hội (các vãi, các tín chủ, các bán tử…) như một cách để tôn

57

trọng những người hầu Cha hầu Mẹ. Riêng đối với các thanh đồng, ai tuổi đồng nhiều

hơn sẽ được phát trước, tức đồng cựu sẽ được phát trước tân đồng.

Bên cạnh những chuẩn mực bất thành văn của giới đồng bóng nói chung thì

mỗi bản hội cụ thể lại có những chuẩn mực riêng do đồng Thầy đặt ra (như tổ chức

các ngày lễ của bản hội vào thời gian nào, các thành viên bản hội phải đóng góp bao

nhiêu, cùng thực hành nghi lễ tập thể như thế nào) và bất kì một con nhang đệ tử nào gia nhập bản hội cũng đều phải thực hiện các chuẩn mực đó. Việc cùng thực hiện và “chấp hành” các chuẩn mực đã ràng buộc các con nhang đệ tử với đồng

Thầy và với thánh thần tạo nên một cộng đồng bản hội bền chặt.

Tóm lại, niềm tin vào Thánh Mẫu, vào đồng Thầy, các chuẩn mực chính là

các yếu tố kết dính tạo nên sự cố kết của bản hội- một loại cộng đồng tôn giáo.

Song có phải các thành viên trong bản hội chỉ có cố kết mà không có mâu thuẫn và

xung đột với nhau?

thôi, thế mà nhảy choi choi lên bảo “tôi già thế này mà lại xếp cho tôi phải hầu sau con bé. (Phỏng vấn Bà Thanh, nữ, 76 tuổi) Đoạn phỏng vấn trên đây đã phác họa một mảng màu khác trong bức tranh bản hội - mảng màu về sự xung đột: các thành viên chửi nhau, chanh nhau lộc lá, chanh nhau chiếu hầu, nhiều người ghét nhau thậm chí không nhìn mặt

2.4.1.2 Bản hội Đạo Mẫu: cộng đồng tôn giáo với những xung đột ...Nhưng mà đây chanh từ cái chỗ ngồi, tranh nhau từng tí lộc lá thế rồi cãi nhau như mổ bò, người ta nói mình không hài lòng với người ta cái là vặt nhau, thậm chí có những nơi chỉ khích bác nhau xong rồi đánh nhau, nhất là bọn đồng cô ấy. Bọn đồng cô nó chửi nhau là “con đĩ” “đù mẹ đù cha con đĩ ấy” .Bà đã được nghe “mẹ con đĩ ấy, bà phải đập cho nó nát L nó ra”. Mà nó làm gì có L mà đập. Nói với nhau những câu tục tĩu như thế, thế mà cũng đi mở phủ cho người ta. Các cô đồng cũng chửi nhau, nói xấu nhau… Hầu như không ai muốn cho người khác hơn mình, hơn cái cách làm việc, cái cách lịch sự. Người ta đã bảo “đồng khôn bóng ngoan, đồng sang bóng lịch sự”, cứ thấy người ta hầu đẹp, người ta sang trọng người ta hầu lề lối là tức. Người ta kém mình một chút là chụm đầu vào thè bĩu. Người phát lộc nhiều thì bảo chỉ có phát tiền nhiều thôi, hầu hạ chả có ra cái chó gì. Phát lộc to thì lại bĩu môi bảo là “cậy có đồng tiền, mình thì sao mà đua được với bà ấy”. Ví dụ như ông Đức Hàng Mành hầu, ông Nghĩa Lưu Phái hầu “úi giời mình làm sao mà đua được với ông ấy”. Thế rồi người ta xếp cho hầu sau người khác thì cũng nhảy dựng lên. Đi lễ cùng nhau, người ta trẻ nhưng người ta có 10 tuổi đồng, mình già hơn nhưng mình mới có 5 tuổi đồng thôi thì người ta xếp cho người nhiều tuổi đồng hơn hầu trước cũng là đúng

nhau…Chúng ta biết tôn giáo, tín ngưỡng nói chung dưới tác động của niềm tin đã

tạo nên sự cố kết bền chặt song lại cũng chính nó gây nên sự xung đột trong cộng

đồng tín đồ. Tuy nhiên, qua những quan sát tại bản hội Phúc Minh từ và một số bản

hội khác cho thấy, niềm tin không phải là nguyên nhân chính gây nên xung đột giữa

58

các tín đồ Đạo Mẫu. Bản hội là một bức tranh muôn màu bởi cộng đồng tín đồ này

có sự đa dạng về tuổi tác, giới, địa vị xã hội, nghề nghiệp, giàu nghèo song tất cả các yếu tố trên hầu như không gây nên sự xung đột giữa các thành viên bản hội. Cái

tạo nên những xung đột giữa các thành viên bản hội nhiều khi lại do chính tính cách

của họ. Rất nhiều những người gia nhập bản hội là những người có tính cách “đồng

bóng”, tức là thoắt vui thoắt buồn, dễ yêu dễ ghét…Câu nói được truyền tụng trong cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu “ghen vợ ghen chồng không bằng ghen đồng ghen bóng” đã phản ánh điều đó. Bên cạnh đó, lợi ích cũng là một nhân tố chi phối sự

mâu thuẫn giữa các thành viên. Việc đồng Thầy phát lộc nhiều hơn cho một hoặc một vài đệ tử nào đó cũng có thể gây nên sự ghen ghét, đố kị giữa các con nhang đệ

tử với nhau. Sự mâu thuẫn về lợi ích dẫn đến những xung đột trong cộng đồng bản

hội được thể hiện rõ nét nhất qua nhóm chấp tác.

Như vậy, khi nghiên cứu bản hội cũng như bất kì một cộng đồng tôn giáo

nào chúng ta cũng cần phải chú ý tới tính hai mặt của nó: cố kết và xung đột. Tuy

nhiên, nếu so với các cộng đồng nói chung khác, cộng đồng tôn giáo (bao gồm cả

cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu) có sự gắn kết chặt chẽ hơn rất nhiều bởi tác động của

đức tin. Sự mâu thuẫn và xung đột chỉ làm cho mối quan hệ trở nên phức tạp chứ

không phá vỡ kết cấu của bản hội.

2.4.2 Bản hội Đạo Mẫu: cộng đồng tôn giáo đóng và mở

Trước hết bản hội là một cộng đồng tôn giáo có tính chất đóng kín. Bởi như

đã khẳng định ở trên, bản hội là một cộng đồng có sự cố kết chặt chẽ, không phải ai

cũng có thể vào bản hội và không phải hoạt động nào của bản hội những người ở

bên ngoài cũng có thể tham gia. Có những quy định bất thành văn về việc muốn trở

thành thành viên của bản hội nào đó thì phải như thế nào?

Nói bản hội có tính mở bởi bản hội là một cộng đồng có tính di động cao.

Tôi dùng khái niệm tính di động cao ở đây để nói về sự dịch chuyển từ bản hội này

sang bản hội khác và dịch chuyển từ vị trí này sang vị trí khác của một con nhang

đệ tử nào đó trong bản hội của mình. Trước hết, tôi nhất trí với quan điểm của

Nguyễn Ngọc Mai khi cho rằng tính di động của bản hội được thể hiện trước hết ở

việc “những thành viên trong bản hội này cũng có thể tham gia với các mạng

khác.” [78; tr82]. Các cung văn và hầu dâng phản ánh rất rõ điều này, thông thường

họ có thể phục vụ cho nhiều điện thờ khác nhau, tất nhiên họ luôn luôn xác định cho

mình một điện thờ chính và dành cho điện thờ này sự ưu tiên đặc biệt cả về giá cả

lẫn thời gian phục vụ. Thanh đồng cũng có thể tham gia nhiều bản hội khác nhau dù

rằng họ là “con chính thức” của một bản hội cụ thể. Em Trinh bản hội Phúc Minh từ

59

cho biết “không bao giờ em hỏi một mình Thầy em và cũng không bao giờ em hỏi

một mình Thầy khác” bởi theo em “Trăm Ông trăm phép, nghìn Bà nghìn quyền”,

mỗi đồng Thầy giỏi về một lĩnh vực, có người giỏi việc âm có người lại giỏi về việc

dương và vì vậy “mình học hỏi nhiều người vẫn tốt hơn mình học hỏi một người”.

Những lý do trên khiến nhiều con nhang đệ tử bản hội Phúc Minh từ cũng như các bản

hội Đạo Mẫu nói chung vẫn tham gia các hoạt động của bản hội khác, học hỏi các

đồng Thầy khác bên cạnh đồng Thầy của mình. Điều này thực sự đã phản ánh rất rõ

đặc điểm đan xen, hòa đồng trong thực hành tôn giáo tín ngưỡng của người Việt Nam.

Việc ra- vào liên tục của các thành viên cũ –mới cũng là một biểu hiện của

tính di động của bản hội. Ở đây, tôi có một so sánh, nếu như các mạng lưới xã hội

dân sự (như trường học, bệnh viện, cảnh sát…) luôn có các thành phần cơ hữu cố

định, được nhà nước trả lương hàng tháng và có những điều khoản quy định mang

tính chất pháp luật để ràng buộc, thưởng phạt các thành viên nên việc ra- vào trong

các mạng lưới này là không hề đơn giản thì bản thân bản hội lại không có một thể

chế nào được văn bản hóa để cột chặt các thành viên, vì thế việc ra- vào bản hội là

không thể kiểm soát. Ngay cả những thành phần tưởng chừng như rất “cơ hữu” của

bản hội thực ra lại rất di động, đó là các thanh đồng do đồng Thầy “sinh ra”. Mặc dù

theo chuẩn mực bất thành văn của Đạo Mẫu, các thanh đồng là “con đồng” phải gắn

bó với đồng Thầy, tuy nhiên tôi đã chứng kiến trong năm 2014 có ít nhất 05 trường

hợp thanh đồng đã rời bỏ bản hội Phúc Minh từ để chuyển sang bản hội khác. Từ

“chuyên môn” mà các tín đồ Đạo Mẫu dùng để phản ánh việc này là “tái đồng,

sang khăn”. Những người làm nghề chấp tác cũng tưởng chừng “cơ hữu” bởi họ túc

trực thường xuyên ở bản điện, “cận kề để hầu hạ ông Thánh” nhưng lại cũng rất di

động. Với nhiều đền to phủ lớn, các chấp tác này được trả lương theo tháng, song

với bản hội Phúc Minh từ thì họ lại được trả công theo ngày, mỗi ngày làm việc

được 200 ngàn/người, khi nào có việc đồng Thầy sẽ gọi họ đến làm, cũng nhiều khi

điện có việc nhưng đồng Thầy không gọi họ mà lại gọi người khác thành ra các

chấp tác cũng thường xuyên “nhấp nhổm” không yên tâm làm việc tại một bản điện.

Thông thường các con nhang rời khỏi bản điện một cách lẳng lặng, không gặp gỡ và

cũng không xin phép đồng Thầy. Nhưng vì sao việc ra –vào bản hội lại diễn ra một

cách không kiểm soát như vậy? Việc không có thể chế được văn bản hóa để ràng

buộc các thành viên chỉ là một vấn đề nhỏ, vấn đề quan trọng hơn là niềm tin vào sự

linh thiêng vào bản điện và sự hiệu nghiệm trong năng lực của đồng Thầy. Tôi cho

rằng sự linh thiêng và tính hiệu nghiệm trong năng lực của đồng Thầy chính là điều

60

quan trọng bậc nhất thu hút một người gia nhập bản hội và khi họ nhận thấy những

điều này không còn thì chính là lúc họ ra đi. Trong thực tế, việc thành viên bỏ bản

hội cũ (cộng đồng cũ) để chuyển sang cộng đồng mới còn là do đồng Thầy đó quá

tham lam, đạo đức không tốt, lèo lá, không trung thực và cũng hành, làm tiền các

con nhang quá khi làm lễ cho họ, đôi khi nguyên nhân chỉ đơn giản là “mình không

hợp với điện đó, không có duyên với điện đó”… Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi

hiện nay ở Việt Nam, sự ra –vào bản hội còn xuất phát từ nhiều động cơ mang tính

lợi ích cá nhân, không đơn thuần chỉ là do niềm tin tôn giáo.

Tính di động cao của bản hội còn được thể hiện qua sự dịch chuyển vị trí của

một thành viên nào đó trong bản hội. Tôi gọi những thành viên bản hội là những

người đa di năng. Bởi quan sát bản hội Phúc Minh từ và một số bản hội khác, tôi nhận

thấy, một thành viên bản hội có thể đóng nhiều vai trò khác nhau và sự dịch chuyển vai

trò này diễn ra rất chóng vánh: trên chiếu hầu thánh họ là thanh đồng, hầu xong họ lại

có thể đóng vai hầu dâng phục vụ bạn đồng của mình, hôm sau đồng Thầy có việc họ

có thể lại là chấp tác lo giúp các việc nấu nướng, lộc lá…, thậm chí làm thầy cúng cho

đồng thầy như trường hợp cậu Tuấn của bản hội Phúc Minh từ.

2.4.3 Bản hội Đạo Mẫu: một cộng đồng gắn kết yếu tố tâm linh và kinh tế

Là một cộng đồng tôn giáo, bản hội Đạo Mẫu tất nhiên chứa đựng tính chất

tâm linh. Tính tâm linh trong bản hội được thể hiện trước hết qua niềm tin của cộng

đồng tín đồ vào sự tồn tại, sự thiêng liêng cao cả, sự hoàn mĩ của thánh thần.

Tính chất tâm linh còn được thể hiện qua các hoạt động của bản hội- các hoạt

động đều liên quan đến thế giới âm, đặc biệt là đồng Thầy thông qua giao tiếp với

thế giới thần linh Đạo Mẫu để giải quyết các công việc âm cứu bách gia trăm họ;

con nhang đệ tử đến bản hội, gặp đồng Thầy cũng là để nhờ cậy chữa trị các “căn

bệnh” liên quan đến thế giới bên kia. Bản thân các con nhang đệ tử của bản hội

cũng “rất tâm linh”, họ được xem là những người có “căn quả”, nhạy cảm hơn

những người bình thường, họ hay nhìn thấy người âm, nói chuyện với người âm

hoặc một vị thần linh nào đó….

Tưởng chừng tính tâm linh và tính kinh tế giống như nước với lửa không thể

đi cùng nhau bởi một bên thì thiêng liêng, một bên lại trần tục. Song sự thiêng liêng

và trần tục ấy đã được kết hợp với nhau một cách lạ kì trong cộng đồng tín đồ Đạo

Mẫu, tạo nên sự độc đáo có một không hai trong hệ thống tôn giáo tín ngưỡng ở

Việt Nam. Lắng nghe những nội dung trong lời cầu khấn của các thành viên bản hội

trước bàn thờ Mẫu ta sẽ thấy rất rõ sự kết hợp ấy. Không cầu xin để được lên cõi

61

Niết Bàn, cũng không cầu nguyện để được về chốn Thiên Đàng…những lời cầu xin

của các tín đồ Đạo Mẫu thực sự hết sức hiện sinh, họ cầu Thánh ban cho sức khỏe,

cho hạnh phúc và đặc biệt là cầu công danh tài lộc, cầu cho kinh tế phát triển. Nếu

so sánh với nhiều tôn giáo ở Việt Nam thì điều này quả rất đặc biệt, bởi không

nhiều người đứng trước Đức Phật hay Thiên Chúa để xin Phật và Chúa phù hộ cho

họ “buôn may bán đắt, buôn một bán mười”, hầu như họ xin Phật cho họ sức khỏe

và sự bằng an trong gia chung và họ đi lễ Phật để tìm đến sự thanh tịnh, để tụ đức tụ

phúc cho con cháu về sau; cũng như vậy họ cầu nguyện Chúa Trời để Chúa ban

phước lành cho họ, họ làm đúng bổn phận của một con chiên ngoan đạo thực hiện

đúng các giáo lý giáo luật để khi chết được lên Thiên đường. Nhưng với cộng đồng

tín đồ Đạo Mẫu thì cầu xin có “đồng ngân đồng xuyến”,làm ăn buôn bán được

“xuôi chèo mát mái” là một trong những mục đích quan trọng hàng đầu của nhiều

người và họ tin rằng chỉ có các Thánh Mẫu mới phù giúp cho họ những mong ước

đó. Thực ra, không thể nói rằng các cộng đồng tín đồ của các tín ngưỡng khác ở

Việt Nam khi đứng trước thần linh của mình không cầu xin sự phù trợ về kinh tế

nhưng những cầu xin đó mang đậm tính chất nông nghiệp cổ truyền thuần túy.

Trong những ngày hội làng, tại các buổi tế lễ, chủ tế thay mặt dân làng dâng lên

Thành hoàng các lễ vật thể hiện tấm lòng thơm thảo của họ và cầu mong Thành

hoàng phù trợ để gió mưa thuận hòa, mùa màng phong đăng hòa cốc. Khi thực hiện

các nghi lễ mang tính phồn thực như đặt những hạt giống sắp gieo xuống gầm

giường của vợ chồng chủ nhà, cho người phụ nữ có chửa đeo những hạt giống; khi

thực hiện các hoạt động tính giao đậm chất ma thuật như rước nõ nường, dí nõ

nường vào nhau, hay trai gái đưa nhau ra bờ bãi để giao hợp trong mùa gieo

trồng…cộng đồng nông dân mong chờ với sự giao hòa âm dương thì cây trồng vật

nuôi sẽ sinh sôi nảy nở. Những mong ước đậm chất nông nghiệp cổ truyền này khác

với niềm tin vào sự phù trợ của các vị Thánh cho kinh tế thương nghiệp của cộng

đồng tín đồ Đạo Mẫu. Điều đó giải thích vì sao, rất nhiều tín đồ Đạo Mẫu là những

người kinh doanh buôn bán và đặc biệt là trong cơ chế kinh tế thị trường từ khi Đổi

mới thì Đạo Mẫu- lên đồng thực sự trở thành tín ngưỡng của tầng lớp thương nhân.

2.4.4 Bản hội Đạo Mẫu: một cộng đồng đặc biệt về giới

Chỉ cần tham gia sinh hoạt nghi lễ trong bản hội một vài lần chúng ta sẽ thấy

đây là một cộng đồng có những nét đặc biệt về giới tính. Cộng đồng này đa phần là

phụ nữ và những người thuộc giới tính thứ ba. Nếu so với các cộng đồng tôn giáo

tín ngưỡng khác ở Việt Nam thì đây quả là đặc trưng nổi bật của bản hội. Bởi vì

ngoài cộng đồng Phật tử ra thì các các cộng đồng khác như cộng đồng Công giáo,

62

Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo … là những cộng đồng mà có sự hiện diện đông đủ của

cả hai giới. Các cộng đồng tôn giáo liên quan đến quyền lực Nho giáo xưa kia như

thờ Thành hoàng, thờ gia tiên lại đa phần là nam giới…

Người phụ nữ: lực lượng “áp đảo” trong bản hội Đạo Mẫu

Đây có thể coi là một nhận xét có tính chất bao quát và thống nhất về khía

cạnh giới của các thành viên trong bản hội Đạo Mẫu từ xưa cho đến nay. Bằng

chứng là những ghi chép về Đạo Mẫu của các tác giả trong và ngoài nước ở các thế

kỉ XVIII, XIX, XX và những tư liệu thực địa của tác giả trong khoảng thời gian từ

2012-2015 đều cho thấy phụ nữ là “lực lượng hùng hậu” nếu như không muốn nói

là chiếm hầu hết số lượng các thành viên trong bản hội Đạo Mẫu. Claire Chauvet

Việc phụ nữ tham gia tín ngưỡng Tứ phủ nhiều hơn nam giới có một mối liên hệ tới việc

phân chia giới trong các hoạt động nghi lễ. Trong số những nghi lễ thờ cúng mà phần đông

là nam giới tham gia, thường đó là những nghi lễ liên quan đến lĩnh vực chính trị. Còn phụ

nữ tham gia thường hơn các nghi lễ liên quan đến các mối quan hệ mờ nhạt và không gắn

bó chặt chẽ với những quyền lực chính trị. Bên cạnh những lí giải này, hình ảnh người phụ

nữ cũng thường gắn bó với việc điều hành sự hài hòa trong gia đình mà tín ngưỡng Tứ phủ

hướng đến [19; tr25] Những tư liệu sớm “Thượng kinh ký sự” (thế kỉ XVIII), “Vũ trung tùy bút”

(2010) cho rằng:

tiếp sau đó là tác phẩm “Technique et patheon des mediums Vietnamiens” (Kỹ thuật

lên đồng ở Việt Nam) của M.Durand (1959) không đề cập đến khái niệm nhưng lại

đề cập ở mức độ nông sâu khác nhau về nghi lễ hầu đồng- một trong những hoạt

động nghi lễ quan trọng nhất của bản hội Đạo Mẫu. Những tư liệu này thực sự quý

giá đối với các nhà nghiên cứu đời sau khi mà thời gian trôi đi và người ta không

thể quay lại quá khứ để tìm hiểu xem những người tham gia bản hội và thực hành

nghi lễ lên đồng là ai? M.Durand thì lại viết rằng:

đồng chăm lo giữ gìn các điện thờ Thánh Mẫu và tiến hành những nghi lễ ma thuật cho

mình…Hai mắt nhìn chòng chọc vào một điểm sáng lấp lánh, các bà nhảy múa tại chỗ bước

ngắn bước lui dang tay uốn uốn, ngón tay chĩa thẳng xuống đất. Con nhang thành kính đón

nghe những điều khó hiểu [148; tr56]. Những tư liệu của các tác giả trên, đặc biệt của M.Durand đã mô tả về một buổi

Vào ba ngày đầu tháng là lễ Thánh Mẫu, việc cúng bái là phần của các bà đồng, là những người phụ nữ sống độc thân từ rất trẻ. Dưới sự chỉ đạo của nữ tu sĩ nhiều tuổi hơn, các bà

lễ lên đồng bao gồm đồng Thầy và các con nhang đệ tử, đã cho thấy đây rõ ràng là mô

hình của bản hội Đạo Mẫu (gồm đồng Thầy và các con nhang đệ tử) mặc dù tác giả

không đề cập đến khái niệm này. Điều quan trọng từ những tư liệu của các bậc tiền bối

là đã cho ta thấy phụ nữ là những người “thống lĩnh” trong bản hội Đạo Mẫu xưa kia.

63

Những nghiên cứu về Đạo Mẫu trong thời kỳ từ sau 1986 đến nay (Ngô Đức

Thịnh, Nguyễn Thị Hiền, Claire Chauvet…) cũng chỉ ra mặc dù trong bối cảnh mới

đã có nhiều đổi thay song hầu hết những tín đồ Đạo Mẫu đều là phụ nữ.

Khi tôi thâm nhập một số bản hội ở Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên…tôi đã

rất lưu ý về những người đến với bản hội xem họ là ai? Những người này có khác gì

so với xưa hay không? Và câu trả lời vẫn là: người phụ nữ chiếm số lượng đông đảo

nhất. Điểm khác là ở chỗ, thành phần phụ nữ tham gia bản hội Đạo Mẫu đã phong

phú hơn xưa rất nhiều, đặc biệt là đối với những bản hội ở thành thị như Phúc Minh

từ: không chỉ là giới kinh doanh buôn bán, tiểu thương tiểu chủ, giờ đây họ có thể là

giới trí thức, dân văn phòng, phu nhân của các chính trị gia…Mỗi người một hoàn

cảnh khác nhau, với địa vị và đời sống vật chất không như nhau (có người là đại gia

song cũng có những người phụ nữ cùng đinh mà dân gian vẫn hay dùng cụm từ

“khố rách áo ôm” để gọi họ) song tất cả họ giống nhau ở một điểm: đều có những

trục trặc, bất hạnh nào đó trong cuộc sống.

Có thể nói, việc người phụ nữ chiếm số lượng áp đảo trong bản hội Đạo Mẫu

đã tạo nên sự khác biệt rất lớn so với các cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng khác. Bằng

chứng là, trong môi trường làng xã Việt Nam xưa kia, đặc biệt ở đồng bằng Bắc Bộ

có sự “phân công” về môi trường sinh hoạt tâm linh mang tính giới. Người phụ nữ

có không gian riêng của họ là chùa và đền thờ Mẫu trong khi đó “địa phận” sinh

hoạt tâm linh của người đàn ông là ở những thiết chế tôn giáo tín ngưỡng chịu ảnh

hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo như thờ cúng tổ tiên trong gia đình, gia tộc; thờ

cúng Thành hoàng ở đình làng. Thờ cúng tổ tiên là một sự thừa nhận quyền lực của

người đàn ông trong gia đình phụ hệ chịu ảnh hưởng của Nho giáo, luật pháp nhà

nước phong kiến quy định chỉ có người đàn ông (thường là con trai trưởng) mới

được quyền thừa kế hương hỏa và thờ cúng tổ tiên; khi thực hành nghi lễ trong các

ngày giỗ hoặc ngày sóc vọng, người gia chủ (ở cấp độ dòng họ là trưởng tộc) là đàn

ông thay mặt gia đình khấn cáo với tổ tiên, mời tổ tiên về hiến hưởng lễ vật và không

quên cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì. Mặc dù sau này trong bộ luật Hồng Đức thời Lê

Thánh Tông đã có những “nới lỏng” cho phép người con gái trưởng được quyền thờ

cúng tổ tiên trong trường hợp không có con trai hoặc con trai bất hiếu song về cơ bản

thờ cúng tổ tiên vẫn là “đặc quyền ” của nam giới. Cũng như vậy, đình làng và những

nghi lễ thờ cúng Thành hoàng xưa kia thuộc về những người đàn ông. Shaun K.

Malarney và Lê Văn Sinh (2001) trong một bài viết về vai trò của người phụ nữ trong

việc khôi phục các tục lệ tín ngưỡng ở một làng ngoại ô Hà Nội có tên Mạnh Phát đã

kết luận: trước cách mạng tháng Tám “đình làng chỉ dành cho đàn ông”. Hai tác giả

64

này cho rằng, sự tiến hành lễ nghi ở đình làng là “một sự thể hiện trắng trợn của địa

vị xã hội”, “mặc dù thủ tục ở đình làng để phục vụ hòa bình và vì phúc lợi công cộng,

nhưng phụ nữ lại không có chỗ đứng. Như vậy, đình làng thời tiền cách mạng là của

đàn ông. Nó không nằm trong số các khu vực tôn giáo hoặc nghi thức mà phụ nữ

được hưởng” [98; tr128]. Những tôn giáo sau này du nhập vào Việt Nam như Công

giáo, Tin Lành, Hồi giáo và cả các tôn giáo bản địa như Cao Đài, Hòa Hảo lại là

không gian sinh hoạt tôn giáo của cả nam giới và nữ giới mà không có sự phân biệt.

Những người thuộc giới tính thứ ba

Trong một lần đi lễ xa tại đền Cửa Đông ở Lạng Sơn, tôi bị thu hút bởi sự kì

lạ của những nhóm đàn ông đến ngôi đền này trong đó có cả nhóm đàn ông của bản

hội Phúc Minh từ. Kì lạ ở chỗ, rõ ràng họ là đàn ông về hình thức nhưng họ lại ăn

vận kiểu đàn bà. Những người này mặc một chiếc quần lụa đen và chiếc áo cánh cài

khuy màu trắng có hoa văn bóng bẩy, trên tay đều khoác một cái túi như kiểu phụ

nữ khi đi chợ hay đi mua sắm vẫn mang theo. Điều kì lạ nữa là những người này đi

với nhau có hội có bè, tất cả đều phục trang giống nhau như chứng tỏ sự khác biệt

hay sự chơi trội của nhóm mình… Họ đi đứng, nói năng õng ẹo như phụ nữ. Sau

này khi tôi thâm nhập nhiều bản hội hơn, đi đến nhiều đền phủ thờ Mẫu hơn, tôi

không còn ngỡ ngàng nữa bởi các nhóm đàn ông như thế này khá phổ biến. Giới

đồng bóng gọi những người này là đồng cô (vì họ có căn cô), xét về khía cạnh giới

họ là những người ái nam ái nữ. Họ thích được gọi bằng cô, thích được khen đẹp,.

Những người này “bắt sóng” với nhau rất nhanh và nhiều người trong số họ sống

với nhau bởi họ là những cặp đồng tính. Bộ phim ngắn “Love man and love

woman” đã cho chúng ta thấy bức tranh sinh động và chân thật về cuộc sống của

những người đồng tính nam trong điện thờ của một đồng Thầy có tên Đồng Đức nổi

tiếng trong giới đồng bóng Hà Thành. Những mô tả trong nghiên cứu của Nguyễn

Thị Hiền, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Ngọc Mai…cũng cho thấy hiện tượng ái nam ái

nữ, đồng tính là rất phổ biến trong các tín đồ Đạo Mẫu. Sự phổ biến này đôi khi gây

nên những câu chuyện dở khóc dở cười mà em Hưng trong bản hội Phúc Minh từ đã

kể cho tôi nghe. Theo em dường như những người đàn ông đồng tính tham gia bản hội

Đạo Mẫu đều cho rằng tất cả những người đàn ông khác đều là những người giống

mình. Vì vậy, khi đi lễ gặp nhau, họ thường quanh quẩn bên nhau, “cưa cẩm” nhau.

Em Hưng tự cho rằng mình “chuẩn man” tuy nhiên, khi đi lễ vẫn có nhiều người đàn

ông đến xin số điện thoại, xin địa chỉ Facebook, thậm chí cả liếc mắt đưa tình.

Qua quan sát và qua lời kể của đồng Thầy Xuyên tôi biết trong bản hội có

một nhóm người như vậy, tất cả đều rơi vào những tay quỳnh tay quế, tức những

65

hầu dâng của bản hội này. Tuy nhiên, có nhiều bản hội, số lượng người đồng tính như

vậy khá nhiều, thậm chí có bản hội hầu như toàn bộ là những đồng cô đồng tính, chẳng

hạn bản hội của cậu Hạ đền Đ (Hà Nội). Tôi đã được nghe các bà bán hoa quả, tiền

vàng xung quanh đền giới thiệu về đền Đ như một không gian của những đồng cô đồng

tính. Và tôi đã được chứng kiến tận mắt khi thâm nhập bản hội này, những người đồng

cô không ngần ngại bày tỏ tình cảm với nhau ngay cả khi có mặt tôi ở đó.

Những tư liệu về lên đồng khoảng giữa thế kỉ XX trở về trước không cho

chúng ta thấy dấu vết của những người thuộc giới tính thứ ba. Song những gì đang

diễn ra hiện nay khiến chúng ta suy luận, vấn đề giới tính thứ ba là vấn đề nổi cộm

của bản hội Đạo Mẫu trong xã hội đương đại. Điểm đặc biệt của những người đồng

tính trong bản hội Đạo Mẫu so với những người đồng tính bình thường khác là họ vừa

là người đồng tính họ lại vừa có căn đồng.

Sự xuất hiện ngày càng đông đảo của giới tính thứ ba không chỉ là điểm khác

biệt của cộng đồng bản hội đương đại so với cộng đồng bản hội trước đây mà nó còn là

một điểm đặc biệt so với các cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng khác ở Việt Nam.

Tiểu kết

Bản hội là một cộng đồng tôn giáo được hình thành bắt đầu từ hạt nhân ban

đầu là đồng Thầy xung quanh có các đệ tử bao gồm thanh đồng, tín chủ, nhang tử,

bán tử, chấp tác, cung văn, hầu dâng…bao gồm cả những người có căn đồng và

những người không có căn đồng nhưng yêu thích Đạo Mẫu. Các hoạt động của bản

hội liên quan đến thế giới tâm linh chủ yếu là hoạt động thờ phụng thần thánh tại

chốn tổ và hoạt động thờ phụng thần thánh qua những chuyến đi lễ xa, đi đến những

nơi ghi dấu sự sinh hóa hay ghi dấu công trạng của các vị thần Đạo Mẫu. Hoạt động

tâm linh của bản hội còn là hoạt động của đồng Thầy. Mỗi bản hội sẽ có những hoạt

động khác nhau, phụ thuộc vào năng lực khác nhau của đồng Thầy- thứ năng lực có

được thông qua giao tiếp với thần linh.

Bản hội có cơ cấu tổ chức để điều hành các hoạt động của cộng đồng. Mỗi

bản hội có cơ cấu tổ chức khác nhau, chặt chẽ bài bản hay lỏng lẻo điều đó tùy

thuộc vào bản hội điện công hay bản hội điện tư, điện to hay điện nhỏ và tùy thuộc

vào khả năng tổ chức của đồng Thầy. Nhưng dù được tổ chức như thế nào thì đồng

Thầy- thủ lĩnh tâm linh của bản hội vẫn là người đứng đầu, dưới đồng Thầy có các

ban phụ trách các mặt khác nhau của bản hội và không thể thiếu đội ngũ chấp tác.

Bản hội là một loại cộng đồng tôn giáo vừa có tính chất đóng lại vừa có tính

chất mở. Cộng đồng này khác với các cộng đồng tôn giáo khác ở chỗ các thành viên

66

cố kết với nhau không chỉ bởi niềm tin vào thánh thần mà quan trọng là họ cùng gửi

gắm niềm tin vào thủ lĩnh tối cao của bản hội- đồng Thầy. Nét nổi bật nhất trong đặc

trưng của bản hội hiện nay so với chính bản thân nó trước đây và so với các cộng đồng

tôn giáo khác là ở chỗ: đây là cộng đồng mà yếu tố tâm linh và kinh tế không tách rời

nhau, đây cũng là cộng đồng mà các thành viên của nó không chỉ là phụ nữ như trước

đây mà còn có sự hiện diện đông đảo của những người thuộc giới tính thứ ba.

67

CHƯƠNG 3:

BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MÔI TRƯỜNG TÂM LINH ĐẬM

MÀU SẮC KINH TẾ

Trong chương này tôi sẽ đề cập đến một trong những đặc trưng quan trọng

nhất của bản hội Đạo Mẫu đó là môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế. Mục đích

của chương này không chỉ dừng lại ở phân tích một trong những đặc trưng quan trọng

nhất của bản hội mà quan trọng hơn tôi muốn kết nối đặc trưng này của bản hội Đạo

Mẫu với vấn đề vì sao bản hội lại là môi trường giúp các thành viên của nó tạo lập

VXH? Việc vừa là cộng đồng tâm linh lại vừa là cộng đồng mang tính kinh tế khiến

các thành viên bản hội có thêm nhiều nguồn lực không chỉ là các nguồn lực từ các

mối quan hệ đồng đạo mà còn là nguồn lực từ các mối quan hệ lợi ích kinh tế.

3.1 Màu sắc kinh tế của bản hội Đạo Mẫu: các khía cạnh biểu hiện

Có thể nói, từ khi Đổi mới với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường,

màu sắc kinh tế trong bản hội Đạo Mẫu trở nên đậm nét hơn. Điều đó không chỉ

được thể hiện trong niềm tin về mối liên hệ giữa sự phù trợ của Thánh Mẫu với

hoàn cảnh kinh tế của các tín đồ mà còn thể hiện qua hành vi tín ngưỡng đã nhuốm

màu lợi ích (việc dịch vụ hóa các nghi lễ tâm linh) và đặc biệt được thể hiện qua sự

hợp tác giữa những người đồng đạo trong làm ăn kinh tế.

3.1.1 Hoàn cảnh kinh tế của các thành viên bản hội và nhu cầu tìm kiếm

sự phù trợ của Thánh Mẫu

Phải khẳng định rằng, các thành viên bản hội có hoàn cảnh kinh tế rất khác

nhau. Một số người tôi gặp là những người có cuộc sống đủ đầy sung túc, họ gia

nhập bản hội với suy nghĩ hiện sinh thờ phụng Thánh thần chu đáo, sẽ được Thánh

thần phù hộ làm ăn phát đạt. Song, có thể dễ dàng nhận thấy, phần lớn các thành

viên bản hội là những người có cuộc sống kinh tế đã và đang gặp nhiều khó khăn.

“Mất sạch sành sanh mới được manh áo đỏ”

Một trong những điều làm tôi thực sự thích thú khi tiếp xúc với các tín đồ

Đạo Mẫu là nghe họ nói bằng những câu nói hết sức vần điệu, vô cùng ngắn gọn, cô

đọng súc tích nhưng cũng thật đầy đủ và sâu sắc để diễn tả một điều gì đó trong đời

sống tâm linh của họ. “Mất sạch sành sanh mới được manh áo đỏ” là một trong

những câu nói như thế mà tôi đã nghe rất nhiều lần từ các thành viên bản hội Phúc

Minh từ và một số bản hội tôi có cơ hội thâm nhập. Câu nói đúc kết về hoàn cảnh

của những số phận phải tìm đến với Thánh Mẫu, với bản hội bằng cách trình đồng

mở phủ mà dấu hiệu đầu tiên là mặc chiếc áo đỏ công đồng. Nguyên nhân thôi thúc

68

họ đến với Mẫu, với bản hội và mặc “manh áo đỏ” ấy là do “mất sạch sành sanh”.

Trong quan niệm của các tín đồ Đạo Mẫu, “mất sạch sành sanh” có thể là mất mát

về kinh tế, về sức khỏe, về hạnh phúc gia đình, có thể là về sự nghiệp…nhưng cũng

có thể là mất tất cả những thứ đó. Câu nói này đã kích thích sự tò mò trong tôi và tôi

quyết định tìm hiểu xem các thành viên đến với bản hội mất sạch sành sanh như thế

nào về kinh tế thông qua phương pháp phỏng vấn lịch sử nghề nghiệp của họ.

Bên cạnh những vấn đề về sức khỏe, sự nghiệp…thì hầu như những người

đến với bản hội đều là những người “có vấn đề” về kinh tế dù họ là ai và ở tầng lớp

nào. Tất nhiên, mức độ và sắc thái “mất sạch sành sanh” này khác nhau ở mỗi

người. Phỏng vấn các thành viên bản hội Phúc minh từ, tôi có thể chia mức độ và

sắc thái “mất sạch sành sanh” của họ thành ba nhóm như sau:

Nhóm 1: bao gồm các đại gia và các doanh nhân phá sản như vợ chồng chị

Linh anh Sính, em Hưng, anh Thoan…Họ là những đại gia xây dựng, bất động sản,

những doanh nhân chứng khoán, giám đốc các công ty, những người buôn bán

lớn…Hầu hết những người này trước đó có một cuộc sống vàng son, với sự đủ đầy

viên mãn. Song bỗng chốc mọi thứ tan biến như phù du. Em Hưng từ một thanh

niên trẻ quản lý các gian hàng ở chợ Hàng Da với thu nhập tiền tỉ mỗi năm và “sờ

vào đâu cũng có tiền” bỗng “tụt dốc không phanh”: nhà hàng bia, công ty bất động

sản đều bị phá sản, nợ nần chồng chất…Vợ chồng chị Linh anh Sính từ những đại

gia bất động sản và xây dựng, làm ăn nên nổi như diều gặp gió những năm sốt đất 2009-2010 bỗng dưng sụp đổ phải bán nhà và mọi tài sản để trả nợ17. Anh Thoan-

một doanh nhân người Huế từ chỗ sở hữu một chuỗi các cơ sở dược phẩm lớn ở Hà

Nội bỗng dưng tay trắng vì bị lừa bởi đối tác làm ăn…

Nhóm 2: bao gồm những tiểu thương, những người buôn bán nhỏ lẻ với cuộc

sống bấp bênh như chị Thắm, chị Nhàn, chị Minh…Mặc dù không rơi vào hoàn

cảnh mất trắng sau một đêm như các đại gia chứng khoán hay xây dựng nhưng

những người này lại có một cuộc sống kinh tế què quặt, lay lắt không lối thoát. Chị

Thắm làm nghề bán nước ở một con hẻm trên đường Trường Chinh mà hàng quán

17 Trong một cuộc phỏng vấn chị Linh kể với tôi về sự phá sản của gia đình chị: “Tháng 6.2010 nhà chị bắt đầu vào công trình nhưng chưa có chuyện gì xảy ra với chị. Nhà chị cứ lao vào công trình. Năm 2011, nghiệm thu công trình chị mới thấy bắt đầu là công việc bị gánh nặng sức ép lên, nhưng dừng thì không dừng được. Công trình đầu tiên không thanh toán được, thế là lại phải gối công trình khác để lấy tiền, cứ thế theo cái đà đấy, cứ làm công trình thì không lấy tiền được. Việc này kéo dài đến năm 2012, lúc này anh chị bắt đầu phải lo đến đồng tiền, chứ trước đó là không phải lo nghĩ gì đến tiền, tiền bây giờ đầu tư hết vào đó rồi. Chị nói với anh nhà chị “ôi thôi chết rồi, mình phải nghĩ cách thôi”, chồng chị bảo “đấy là do kinh tế thị trường, cả xã hội bị chứ” (Phỏng vấn chị Linh, 43 tuổi)

của chị nơi tôi đến phỏng vấn chỉ lèo tèo vài chai Pepsi, đôi chai trà xanh không độ

69

và một bình nước trà mạn. Thu nhập hàng ngày của chị chỉ được tính bằng đôi ba

chục ngàn cùng lắm là trăm ngàn nếu tính cả lời lẫn vốn. Chị Nhàn làm nghề bán

bún chả mặc dù tự hào về khả năng làm bún chả rất ngon nhưng quán bún chả của

chị cũng thường xuyên rơi vào tình trạng ế ẩm. Chị Minh có cơ sở sản xuất khăn

ướt thủ công tại nhà nhưng phần vì chất lượng chưa có khả năng cạnh tranh, phần vì

không tìm được mối đưa hàng nên khăn ướt của chị chưa tìm được chỗ đứng và lưu

thông trên thị trường. “Nói chung rất là chán” là điệp khúc chị Thắm, chị Minh, chị

Nhàn nhắc đi nhắc lại khi nói về đời sống kinh tế của mình…

Nhóm 3: gồm các viên chức nhà nước lương “ba cộc ba đồng” và những

“nạn nhân” của việc tinh giản biên chế. Đã từng có thời kỳ họ được coi là tầng lớp

trung lưu có cuộc sống bình an và ổn định tuy nhiên vài năm trở lại đây, sự khủng

hoảng kinh tế và giá cả tăng vọt khiến họ lâm vào khó khăn với đồng lương ít ỏi.

Cùng với đó là việc tinh giản biên chế để giảm bớt sức nặng của bộ máy hành chính

cồng kềnh khiến nhiều người rơi vào tình cảnh thất nghiệp. Một số người may mắn

vẫn giữ được chân trong các cơ quan nhà nước thì lương bổng cũng bị cắt giảm. Chị

Thúy, chị Hòa làm việc ở ngân hàng là thành viên của Phúc Minh từ cho biết nếu

trước đây họ có hai lương thì hiện nay chỉ còn một, điều đó gây khó khăn cho cuộc

sống khiến họ phải đôn đáo để tìm kiếm các cơ hội sống.

Không phải tất cả các thành viên bản hội đều là những người “có vấn đề” về

kinh tế, một số khác tôi gặp và phỏng vấn là những người có đời sống kinh tế vững

vàng. Song nhìn chung, đa phần những người đến với bản hội là những người “mất

sạch sành sanh” và đang cần sự trợ giúp nào đó của cộng đồng. Đây có thể xem là

một điểm khác biệt của bản hội Đạo Mẫu so với các cộng đồng tôn giáo khác. Bởi

rõ ràng, hầu hết các thành viên của cộng đồng Phật tử, Công giáo…không phải là

những người có vấn đề về kinh tế như vậy.

Hưng kể với tôi: “từ năm 2008 em vừa đi học vừa đi làm bên chủ đầu tư ở trên chợ Hàng Da. Tầng

2,3,4,5 của cái chợ ấy là thuộc quyền quản lý của công ty em làm việc mà em là trưởng phòng kinh

doanh ở công ty đấy, trong tay em quản lý hàng trăm khách hàng. .. Em đi làm từ 2009 đến năm

2010 (lúc này bất động sản là làm ăn là đỉnh cao nhất) em đã có một tỉ. Lúc đó em làm chứng khoán

cũng ra tiền, bất động sản cũng ra tiền, sờ vào cái gì cũng ra tiền cái đấy. Lúc đó đáng lẽ mà em ra

khai phủ thì có phải là tiền em đã giữ được. Lúc đó em vẫn đang là sinh viên vừa đi học vừa đi làm,

có tiền thì ăn chơi, tính em lại ham vui nữa, cũng đầu tư vào các mối quan hệ để nó lại đẻ tiếp ra.

Sau đó bất động sản đi xuống, em làm ăn không được. Trừ tiền chi tiêu đi rồi em còn một ít em mở

nhà hàng bia. Mở nhà hàng bia là sập cái chắc rồi vì em cũng không có tâm huyết với nghề này, em

thấy họ làm ăn được thì em cũng làm theo thôi, lại không có kinh nghiệm nữa nên bị vỡ trận. Lúc

“Mất sạch sành sanh” và những lý giải từ tâm linh

70

mở nhà hàng bia là em đã phải vay mượn của bạn bè rồi. Sau đó em lại mở công ty bất động sản và

em làm giám đốc, lúc này em phải vay nhiều rồi, vay của gia đình họ hàng và của cả bạn bè vì đâu

còn nguồn lực nữa. Nhưng rồi công ty cũng chỉ trụ được vài tháng là phải đóng cửa, vì lúc đó em bị

cơ hành, em chỉ muốn đi lang thang không muốn làm việc. Em bỏ bê công việc và thế là phá sản,

em nợ nần chồng chất…Vợ con em phải về Hà Giang sinh sống. (Phỏng vấn Hưng, nam, 30 tuổi)

Như một thói quen, người Việt khi gặp khó khăn trong cuộc sống nói chung

và khó khăn về kinh tế nói riêng đều đưa ra những lý giải đa chiều trong đó có

những lý giải xuất phát từ tâm linh. Việc phải duy trì một cuộc sống lay lắt không

lối thoát trong suốt thời gian dài và cả việc phá sản trong chốc lát…khiến cho các cá

nhân băn khoăn, thậm chí bàng hoàng đặt câu hỏi vì sao họ lại rơi vào hoàn cảnh

như vậy? Không ít người đã lý giải nguyên nhân của sự “mất sạch sành sanh” ấy

như là dấu hiệu của việc họ có căn đồng số lính song vì không hiểu được căn số và

ra hầu Thánh nên bị Thánh phạt Thánh đầy như câu chuyện của em Hưng mà tôi

vừa trích dẫn ở trên. Một số khác như chị Linh lại cho rằng việc “mất sạch sành

sanh” về kinh tế của vợ chồng chị là dấu hiệu của việc Thánh đã chọn chị làm việc

âm chứ không phải việc trần. Bởi vậy, Người đã cho chị nghỉ việc ở Liên minh

Châu Âu, người đã khiến chị phải phá sản khi đầu tư vào bất động sản và xây dựng,

cuối cùng chị phải “dập đầu lạy Mẫu” và chấp nhận gánh vác trách nhiệm tâm linh

nhà Ngài giao phó: lập điện và chữa bệnh âm cho bách gia trăm họ.

Nói cách khác, theo chị Linh và em Hưng thì có một mối liên hệ nào đó giữa

quyền năng của Thánh Mẫu với hoàn cảnh kinh tế của họ. Việc họ bị phá sản hay

làm ăn thất bát là ý nguyện của Thánh hoặc là do sự trừng phạt của Thánh. Và để

chứng minh cho việc hoàn cảnh kinh tế của họ bị chi phối bởi các thế lực xa xôi, họ

kể cho tôi nghe những câu chuyện về căn quả của họ và về việc họ bị bắt sát như thế

nào18. Một số người khiến tôi cảm nhận họ khá đơn giản trong việc tin vào mối liên

hệ giữa quyền năng của Thánh với hoàn cảnh kinh tế của họ. Song có những người

khác, trong lý giải của họ về hoàn cảnh “mất sạch sành sanh” khiến tôi cảm nhận

18 Chị Linh cũng kể về câu chuyện mình bị bắt sát: “Ngày đó đang sốt đất, chị và một vài anh chị em cùng cơ quan mua đất ở Hòa Bình và nhờ một thầy cúng đến đó làm lễ. Thầy cúng mới bảo là ở đây có đền chúa Thác Bờ thiêng lắm.”. “Khi vào đền lễ, chị vào lễ ở ban Mẫu Thoải, chị dập đầu, chị đang dập đầu thế này này, ôi giời ôi chị dập đầu như kiểu bập bênh ấy… đầu thì dập liên hồi nhưng mà không dập xuống đất đâu nhé còn chân thì cứ chổng ngược lên trời. ..Lạ kì chị dập đầu phải hàng trăm cái ấy nhưng lại không dập xuống đất, chị mà dập xuống đất nhé thì chị đã bị đau đầu vêu trán. Mọi người đứng xung quanh cứ không hiểu vì sao mà chị có thể làm được như thế. Thế là cô thầy cúng đi cùng cô ấy nói “thôi chết rồi bị ốp rồi”, cô ấy xin cho và chị dừng lại” (Phỏng vấn chị Linh, nữ, 43 tuổi)

được sự vật vã phức tạp trong suy nghĩ và hành động. Có người tin tuyệt đối nhưng

71

lại có người nửa tin nửa ngờ. Có người tin ngay lập tức nhưng lại có người từ không

tin đến tin là cả một quá trình lâu dài. Họ thường lật đi lật lại vấn đề vì sao họ bị

phá sản? Có thật là có một thế lực vô hình xa xôi nào đó chi phối tới cuộc sống của

họ? Thậm chí họ còn thử cả thần thánh, thử xem có đúng là họ có duyên với thần

thánh và có đúng là thần thánh đã lựa chọn họ cho việc phục vụ “cửa đình thần

Tam Tứ phủ” hay không. Sự phá sản trong việc làm ăn của vợ chồng chị Linh lúc

đầu được chồng chị lý giải là do “kinh tế thị trường” nhưng rồi những sự kiện diễn

ra tiếp theo với gia đình chị như ốm đau bệnh tật, con cái bị tai nạn vợ chồng chị

cảm thấy lung lay và chênh vênh với nguyên nhân kinh tế thị trường, bản thân chị

Linh đã tìm lối thoát bằng cách quy y những mong được bình an vô sự. Tuy nhiên,

việc quy y vẫn không giúp chị qua cơn bĩ cực, chị Linh phải ngẫm lại những điều đồng

Thầy phán trước đó “có căn đồng, phải trình đồng mở phủ nếu không nhanh thì vào

mình cơm xác thịt thì chết”. Chị sợ hãi và run rẩy hàng đêm với lời phán đó và chị

Người ta nói rằng nếu bị căn quả mà cứ đến những nơi đình đền thì sẽ bị ốp sát. Chị bảo là

vậy thì thử đi đến những nơi đó xem sao, chị muốn đi về Mẫu Phủ Giầy, Cô chín…chị về

những nơi mà sát căn của chị để xem thế nào. Lạy Mẫu. Chị đi về Phủ Dày nhé, chị vừa

bước chân vào Phủ, chị bị gập hai gối xuống quỳ luôn, quỳ từ đấy quỳ vào tận trong, tay

chị cứ như thế này thế này như kiểu là bê mâm cau ấy. Lại có một cô đồng cô xin cho chị,

cô ấy bảo chị sát căn. Thế là lúc đó chồng chị cũng hoảng loạn và bắt đầu thấy thương vợ.

Rồi chị về Đền Sòng cô Chín, lúc đó đang có chiếu hầu, chị vào chị hầu luôn. (Phỏng vấn

chị Linh, 43 tuổi)

quyết định đi tìm lời giải bằng cách đến những nơi thờ Mẫu nổi tiếng. Chị kể:

Đến lúc này chị Linh tin vào mối lương duyên của chị với Thánh Mẫu, chị

“dập đầu lạy Mẫu và nhất tâm theo Mẫu”

Như vậy, hầu hết những người đến với bản hội là những người gặp những

khó khăn trong lĩnh vực kinh tế và cần đến một sự giúp đỡ. Mặc dù ở các mức độ

khác nhau nhưng những người này đều tin hoặc mơ hồ tin vào sự chi phối hoặc phù

trợ của Thánh Mẫu. Và những vấn đề kinh tế đó khiến họ phải có những nỗ lực

nhằm tìm kiếm an toàn sinh kế.

“Mất sạch sành sanh” và việc tìm kiếm an toàn sinh kế

Oscar Salemink trong một bài viết của mình về “Tìm kiếm an ninh tinh thần

trong xã hội Việt Nam đương đại”[89] đã phác họa một bức tranh về con người Việt

Nam đương đại với đầy những lo âu cần đến sự cứu chữa về tinh thần, đó là các vấn

đề liên quan đến thể chất và tinh thần, những bất an về kinh tế và rủi ro thị trường,

72

những bất ổn hiện sinh liên quan đến cái chết…Và để cứu chữa cho những bất ổn

đó, con người tìm đến các phương thức khác nhau trong đó có phương thức văn

hóa, cụ thể hơn là lên đồng. Những ví dụ trong nghiên cứu của tôi được nhắc đến ở

trên đã tái khẳng định những nhận định này của Oscar Salemink. Việc nhiều đại gia

bất động sản, chứng khoán hay dược phẩm…như vợ chồng chị Linh, em Hưng, anh

Thoan…trắng tay trong gang tấc; việc các tiểu thương, những người buôn bán nhỏ

lay lắt trong một cuộc sống không lối thoát; việc các công nhân viên chức mất việc

vì tinh giản biên chế và sống bấp bênh bởi đồng lương ít ỏi trong khi giá cả tiêu

dùng leo thang…đã cho thấy rõ ràng an toàn sinh kế của họ đang bị đe dọa. Và để

tìm kiếm an toàn sinh kế, nhiều người đã đến với Đạo Mẫu, gia nhập bản hội và lên

đồng như một phương thức văn hóa để đối mặt. Bởi theo giải thích của họ thì việc

gia nhập bản hội có thể giúp họ xoa dịu cơn thịnh nộ của thần thánh (vì họ có căn

đồng mà không chịu cắt tóc làm tôi con ông Thánh nên bị Thánh trừng phạt chẳng

hạn…), đối với những người không có căn đồng thì việc gia nhập bản hội, ra hầu

Thánh cũng giúp họ nhận được sự phù trợ của thần linh để làm ăn được mát mẻ và đặc

biệt là có thể cho họ một thứ “bảo hiểm” tuy vô hình nhưng lại là điểm tựa vô cùng

quan trọng khiến họ tăng thêm sự quyết đoán trong các đầu tư làm ăn.

Có một điều thú vị là, trong khi các cá nhân tìm đến bản hội như một cách

tìm kiếm sự bảo hiểm của tâm linh cho đời sống kinh tế (tất nhiên nguyên nhân gia

nhập bản hội thì phức tạp và đa dạng hơn nhiều, bên cạnh những vấn đề về kinh tế

còn là các vấn đề khác như sức khỏe, sự bất hạnh trong đời sống gia đình, các vấn

đề về giới và quyền lực giới…) thì họ lại tìm thấy những cơ hội mới trong hợp tác

làm ăn với những người đồng đạo. Và điều này tạo nên một nét đặc sắc của bản hội:

đây không chỉ là không gian tâm linh với các nghi lễ thiêng liêng mà còn là môi trường

của hoạt động kinh tế, phản ánh một trong những đặc trưng quan trọng nhất của bản

hội là tính tâm linh và kinh tế không tách rời nhau.

3.1.2 Bản hội Đạo Mẫu: môi trường kinh doanh và hợp tác làm ăn Có vẻ như phi lý khi cho rằng bản hội là môi trường kinh doanh và hợp tác

làm ăn bởi bản hội trước hết là không gian tâm linh mà không gian tâm linh vẫn

luôn được hiểu là nơi dành cho các hoạt động nghi lễ thờ phụng thần thánh thiêng

liêng và huyền bí, đối lập với những vấn đề trần tục. Song điều này lại đang diễn ra

một cách sống động trong nhiều bản hội hiện nay, nhất là trong các bản hội ở đô thị nơi

mà kinh tế thị trường phát triển mạnh, không riêng Phúc Minh từ. Trong phần này, tôi

sẽ làm rõ những biểu hiện của hoạt động kinh doanh và hợp tác làm ăn của các thành

viên bản hội. Tôi cũng sẽ tranh luận một vấn đề bản hội là môi trường như thế nào mà

73

có thể tạo điều kiện cho các thành viên hợp tác trong kinh tế? Hoạt động kinh doanh,

hợp tác làm ăn có ảnh hưởng như thế nào tới mối quan hệ giữa họ với nhau?

Trong bối cảnh chuyển đổi, hoạt động kinh doanh và hợp tác làm ăn rất

phong phú đa dạng, phản ánh tính đa dạng của nền kinh tế thị trường. Dường như

mỗi một bản hội khác nhau (đặc biệt là các bản hội ở đô thị) sẽ có những hoạt động

kinh doanh và làm ăn trong các lĩnh vực khác nhau. Một bản hội ở thành phố Hải

Phòng mà tôi biết liên quan đến việc kinh doanh dịch vụ thẩm mỹ. Một bản hội

khác ở Hà Nội liên quan đến việc kinh doanh đồ thờ cúng (bát hương, tượng thờ,

hoành phi câu đối…. ). Bản hội Phúc Minh từ lại có những nét riêng trong hoạt

động kinh doanh và hợp tác làm ăn, có thể thấy rất rõ điều này qua việc kinh doanh

hàng đa cấp của đồng Thầy và hợp tác mở nhà hàng cũng như thành lập công ty tổ

chức sự kiện của một số thành viên.

Lần đầu tiên tôi đến bản hội Phúc Minh từ là tháng 4 năm 2012 và tôi phát

hiện ra trên điện thờ có bày đồ lễ là những chai sữa tắm Amway- một sản phẩm của

hãng kinh doanh hàng đa cấp khá nổi tiếng trên thế giới có mặt ở Việt Nam. Điều

này làm tôi hết sức ngạc nhiên và tôi ngờ rằng bản hội – cộng đồng tâm linh của

các tín đồ Đạo Mẫu nhưng đồng thời cũng là mạng kinh doanh và tiêu thụ hàng đa

cấp của đồng Thầy. Những quan sát vào thời gian sau đó cộng với những phỏng vấn

của tôi với đồng Thầy và các con nhang đệ tử trong bản hội của đồng Thầy đã cho

thấy điều mà tôi ngờ vực là sự thật.

Bản hội vừa là không gian thực hành nghi lễ đồng thời cũng là không gian

trưng bày các sản phẩm của Amway. Bên cạnh điện thờ nguy nga tráng lệ có một

tủ kính trưng bày các sản phẩm nước rửa bát, nước lau kính, các thực phẩm chức

năng …và đồng Thầy Xuyên vừa là người chủ của bản hội cũng lại vừa đứng đầu

mạng lưới tiêu thụ sản phẩm đa cấp. Đồng Thầy Xuyên cũng vừa hướng dẫn các

con nhang đệ tử thực hành nghi lễ, soi bói, chữa bệnh âm cho bách gia trăm họ lại

vừa là người bán hàng. Xen kẽ trong các buổi lễ lớn với sự có mặt đông đủ của các

thành viên, đồng Thầy vừa giáo huấn các con nhang đệ tử để họ “nhất tâm cửa Phật

thật tâm cửa Thánh” vừa giới thiệu quảng cáo chất lượng và công dụng của sản

phẩm Amway. Đây là một đoạn giới thiệu của đồng Thầy Xuyên về sản phẩm

Tôi gặp thầy Xuyên vào buổi sáng sớm để đưa cho thầy Xuyên bản đánh máy bài giảng mà thầy Xuyên đã giảng cho con nhang bán tử hôm lễ nhập hạ. Khi tôi đến, thầy Xuyên đang ngồi uống thuốc. Một túi thuốc để bên cạnh, tôi nhìn và phát hiện ra ngay rằng đây là các sản phẩm của Amway, cụ thể là các sản phẩm Vitamin C, Canxi + Magie; ...Tôi liền nói, "giờ thì cháu mới biết vì sao mà sức khỏe của cô có thể tốt đến thế, đó là vì do Cô sử dụng

Amway được ghi lại trong Nhật kí thực địa của tôi:

74

các sản phẩm này phải không ạ?". Thầy Xuyên bắt đầu hào hứng khi nghe câu hỏi của tôi, thầy nhiệt tình giới thiệu với tôi các loại thuốc này và công dụng của nó: nào là Canxi này rất tốt cho xương cốt phụ nữ nhất là sau sinh, Vitamin B tổng hợp rất tốt cho sức khỏe...Tôi nhìn thấy một lọ Vitamin C và ngỏ ý muốn mua nhưng tôi băn khoăn về việc tôi bị đau dạ dày thì có loại VitaminC nào phù hợp với bệnh của tôi không? Thầy Xuyên giới thiệu rằng, "thế thì lọ này rất phù hợp với mày, một viên này bằng 10 quả chanh đấy; nếu chồng mày mà uống rượu, trước khi uống rượu chỉ cần uống 3 viên: VitaminC, Canxi+ Magie...trước thì uống rượu vô tư, không bao giờ say". Tôi trả tiền nhưng thầy Xuyên nói "không, tao biếu mày, đây cả VitaminC, canxi...3 lọ; cứ uống thử đi rồi nếu được sau đó lần sau mua thì tao sẽ lấy tiền. (Trích nhật kí thực địa của tác giả) Song đồng Thầy Xuyên đã kinh doanh Amway bằng cách nào? Bên cạnh bán bán hàng trực tiếp cho các con nhang đệ tử, đồng Thầy Xuyên còn “nhồi” sản phẩm

Amway vào đồ dâng cúng thần linh và phát lộc khi làm lễ cho đệ tử và tín chủ. Sản

phẩm được dùng để dâng cúng thần thánh và phát lộc thường là chai sữa tắm của

Amway. Đồng Thầy Xuyên diễn giải với con nhang đệ tử về việc sử dụng sữa tắm

Amway trong nghi lễ hầu đồng“đó là đồ dâng cúng cô Bơ. Vì trong giá cô Bơ phải

sử dụng nước cho nó mát mẻ và việc sử dụng sữa tắm Amway cũng không nằm

ngoài mục đích này”. Nhưng thực ra thì đây lại là một cách bán hàng gián tiếp của

đồng Thầy đã được che đậy bằng tấm màn tâm linh. Anh Thú, người làm chấp tác

tại điện nhà thầy Xuyên từ những ngày đầu khi bản hội mới thành lập nói cho tôi

biết rằng: thông thường khi con nhang đệ tử đến nhờ thầy làm lễ, họ đưa tiền cho

thầy một cục và nhờ thầy lo liệu tất cả. “Chẳng hạn, đưa cho Thầy 45 triệu để làm lễ trình đồng nhé, ngoài tiền sắm mã, tiền trả pháp sư, tiền trả hầu dâng và cung

văn, thầy còn dành một phần để mua đồ lễ trên các ban thờ nữa…thế thì khi mua đồ

lễ lẽ ra phải mua đường, mua mì chính hay mua cái gì đó thì thầy không mua, Thầy

chèn sữa tắm Amway vào…”. Và như vậy, thầy Xuyên đã bán được sản phẩm Amway

thông qua làm lễ mà không cần mất thời gian giới thiệu chia sẻ về sản phẩm, không cần

thuê cửa hàng cửa hiệu để bán sản phẩm. Thông qua các con nhang đệ tử, mạng lưới

tiêu thụ sản phẩm Amway còn vượt ra ngoài khuôn khổ bản hội.

Bản hội không chỉ là môi trường kinh doanh của đồng Thầy mà còn là không gian kinh doanh của nhiều thành viên khác: một số thành viên bán khăn chầu áo ngự (Cô Lan), một số kinh doanh đồ mã, một số bán hàng hoa quả, thậm chí bán cả các loại mỹ phẩm…

Bản hội còn là môi trường của sự hợp tác làm ăn mà câu chuyện hợp tác giữa

vợ chồng Anh Sính chị Linh, anh Thoan, anh Thà và đồng Thầy của bản hội Phúc

Minh từ là một ví dụ tiêu biểu. Anh Thoan là một doanh nhân người Huế, anh Thà

lại là một công chức nhà nước hiện đang làm trong tổ chức thuộc Liên minh Châu

75

Âu ở Việt Nam, anh Sính là một chủ thầu xây dựng đồng thời cũng là ông chủ về

điều hòa Daikin ở Hà Nội đã từng có thời kỳ “giàu ú ụ” như những truyền tai của các thành viên bản hội về anh, chị Linh vợ anh cùng làm trong Liên minh Châu Âu

với anh Thà và chính anh Thà cũng là người dẫn lối đưa đường để chị gặp được

đồng Thầy Xuyên rồi trở thành con đồng của đồng Thầy Xuyên, Em Trinh là một

thợ cắt tóc gội đầu vào bản hội sau nhiều lần đi lễ chung, cảm thấy “hợp cạ” với anh Thà19, anh Thoan, Chị Linh anh Sính và tất cả họ đã lập thành một nhóm trong bản hội- nhóm tôi gọi là EU. Nhóm này như đã nói, rất thân thiết với đồng Thầy, họ có

xe ô tô riêng và đôi khi họ tổ chức đi lễ xa riêng và mời đồng Thầy đi cùng. Sự thân thiết, có đi có lại khiến họ tin cậy lẫn nhau và kết quả niềm tin chính là cơ sở để họ

quyết định phối hợp hành động tập thể trong kinh doanh. Nhưng như Baker và cộng

sự đã đề cập đến, một hành động tập thể bao giờ cũng phải “có người đề xuất lên nó

(các ý tưởng)” và do đó vấn đề lãnh đạo cũng được đặt ra. Trong trường hợp này,

đồng Thầy Xuyên là người đã gợi nên ý tưởng kinh doanh chung cho các đệ tử,

đồng thời cũng là người lãnh đạo chung của nhóm, chị Linh kể lại rằng “Thầy bảo

bọn chị, chúng mày làm đi, tao ủng hộ”. Và thế là dự án đầu tiên đã được “ra lò”:

một nhà hàng ăn. Để nhà hàng này ra đời và vận hành, các thành viên trong nhóm

đã sử dụng tổng hợp các nguồn lực của nhau: về vốn, anh Thà, anh Thoan, vợ chồng

anh Sính chị Linh đóng góp và lợi nhuận sẽ được chia theo tỉ lệ góp nhiều ít, tổng

số vốn nhóm huy động được là gần 1 tỉ. Đồng Thầy Xuyên không góp vốn bằng

tiền, thầy góp vốn tâm linh, ví dụ “để mở được nhà hàng ở vị trí này, Thầy phải xem

xem mảnh đất này có tốt không, có vong không, làm ăn có thuận lợi không; rồi mở

cửa hàng vào ngày nào thì tốt, bốc bát hương thần tài, không phải ai cũng bốc được

đâu, có người bốc bát hương rất đẹp và có nhiều lộc nhưng có người bốc lại chẳng

có tí lộc nào…Thầy bốc bát hương thần tài cho nhà hàng…” (chị Linh, Nữ, 43 tuổi). Em Trinh cũng không góp vốn, bản thân em khi đến với bản hội đã “mất sạch sành

sanh”, và vì thế Trinh được các anh chị thương cho đến làm quản lý nhân viên nhà hàng. Vấn đề sửa sang và trang trí nhà hàng được giao cho anh Sính vì anh là chủ thầu xây dựng và có mạng lưới quan hệ với những người làm nghề này. Chị Linh vợ anh Sính được giao nhiệm vụ là kế toán…

Một câu hỏi đặt ra là điều gì giúp các thành viên có thể hợp tác làm ăn cùng

nhau và phát triển kinh doanh?

Câu trả lời quan trọng ở chỗ giữa các thành viên bản hội có niềm tin vào

19 Bản thân Trinh còn là bồ của anh Thà và điều đó trở thành câu chuyện công khai ai cũng biết

nhau. Niềm tin là yếu tố quan trọng trong hợp tác kinh doanh. Tại sao người ta hợp

76

tác với người này mà không hợp tác với người kia? Bởi vì khi hợp tác với nhau

nghĩa là người ta không chỉ tin tưởng rằng việc hợp tác ấy đem lại lợi ích mà còn tin tưởng vào chính năng lực phẩm chất, đạo đức của nhau, nói cách khác là người ta

tin tưởng trao gửi mạng sống cho nhau. Song điều đặc biệt là ở chỗ, niềm tin giữa

các thành viên bản hội nhiều trường hợp không phải bắt nguồn từ niềm tin giữa họ

với nhau mà bắt đầu từ niềm tin giữa họ với thần thánh. Song chính cùng niềm tin với thần thánh đã làm cho niềm tin giữa họ với nhau thêm bền chặt. Bởi niềm tin giữa họ luôn luôn được điều chỉnh bởi tư tưởng họ cùng con Cha con Mẹ “mà con

Cha con Mẹ ai lại đi lừa nhau”. Họ cũng luôn tin rằng Mẫu ở trên cao, vô hình nhưng rất sáng suốt luôn dõi theo đàn con, nếu có sự lừa lọc dối trá nhau thì sẽ bị

trừng phạt. Niềm tin giữa các thành viên bản hội còn được hun đúc bởi niềm tin

giữa họ với đồng Thầy, tin tưởng vào uy tín và danh dự của đồng Thầy. Một thành

viên bản hội Phúc Minh từ nói với tôi rằng, trước khi anh ta cho một người nào đó

trong bản hội vay tiền, anh ta hỏi ý kiến của đồng Thầy liệu người kia có đáng tin

tưởng không, nếu đồng Thầy nói rằng người đó đáng tin tưởng được thì anh ta sẽ

cho vay. Như thế, đồng Thầy trở thành người trung gian, người tạo nên cam kết

chắc chắn cho niềm tin giữa các thành viên trong bản hội. Quay trở lại câu chuyện

hợp tác làm ăn giữa vợ chồng chị Linh anh Sính, anh Thà và anh Thoan, đồng Thầy

Xuyên chính là người kết nối họ và thúc đẩy họ cùng chung chiến lược kinh doanh

và kết quả là một nhà hàng đã ra đời.

Mặt khác, để phát triển kinh doanh, người ta cần phải có một môi trường với

hệ thống khách hàng tiêu thụ sản phẩm. Bản hội chính là một không gian tốt cho

điều này, bởi bản hội là một cộng đồng đông đảo mà bản thân người này có thể là

khách hàng của người kia. Đồng Thầy Xuyên quả thật có ưu thế trong việc tận dụng

các con nhang đệ tử, tận dụng sự trung thành, niềm tin của họ để phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Amway, việc kinh doanh Amway của đồng Thầy Xuyên đã

được che đậy một cách tinh vi bởi tấm màn tín ngưỡng chẳng hạn sữa tắm làm đồ lễ trên ban thờ được thầy giải thích là lễ vật dâng cô Bơ. Trong thực tế, có nhiều con nhang đệ tử biết được mục đích của Thầy Xuyên, tuy nhiên, họ vẫn mua sản phẩm phần vì cả nể, phần vì để lấy lòng thầy nên “ nhiều khi mua về mà chẳng dùng”.

3.1.3 Bản hội Đạo Mẫu: môi trường phát triển các dịch vụ tâm linh

3.1.3.1 Tâm linh và dịch vụ: hai đường thẳng song song nhưng gặp nhau

Nói đến “tâm linh”, người ta nghĩ ngay đến khái niệm được dùng trong tôn

giáo, tín ngưỡng và các nghi lễ dùng để chỉ về những điều thiêng liêng, cao cả,

không nên và không thể mua bán bằng vật chất. “Dịch vụ” là khái niệm dùng trong

lĩnh vực kinh tế học ra đời từ thời kỳ kinh tế thị trường mà nội hàm của nó nhấn

77

mạnh tới sự phục vụ, sự đáp ứng các loại hàng hóa và thu được lợi nhuận kinh tế.

Như vậy, “tâm linh” và “dịch vụ” là hai khái niệm với nội hàm đối lập nhau bởi một

bên thì thiêng liêng thoát tục, một bên lại rất trần tục, tôi gọi chúng là “hai đường

thẳng song song”. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay,

khi tâm linh đang dần bị vật chất hóa và đang dần nhuốm màu của lợi ích kinh tế thì

“tâm linh” và “dịch vụ” đã vượt qua quy luật của hình học để gặp nhau, hình thành nên

cái gọi là “dịch vụ tâm linh” trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.

Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều tôn giáo tín ngưỡng đang hiện diện trong

đời sống tâm linh của người dân và cung cấp nhiều sản phẩm, dịch vụ tâm linh khác

nhau. Muốn dâng sao giải hạn, cầu an…người ta đến với dịch vụ Phật giáo; thậm

chí có những tín ngưỡng tưởng rằng không thể dịch vụ hóa được như thờ cúng tổ

tiên cũng đang có những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội hiện đại như: bán đất nghĩa trang, trang điểm cho người chết, cúng giỗ online20…. Trong

bối cảnh thị trường tôn giáo sôi động ở Việt Nam như vậy, Đạo Mẫu cũng tìm cho

mình được chỗ đứng, thậm chí chỗ đứng này rất vững chắc bởi sự hấp dẫn của

những dịch vụ tâm linh mà nó đem lại cho con người, đặc biệt là các dịch vụ nhằm

cầu tài cầu lộc, cầu sức khỏe và làm ăn mát mẻ. Những dịch vụ ấy được thể hiện

sống động trong bản hội- không gian thực hành nghi lễ của tín ngưỡng này.

3.1.3.2 Dịch vụ tâm linh: những biểu hiện trong bản hội Đạo Mẫu.

Dịch vụ quanh năm: trình đồng mở phủ.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhất là ở các thành phố lớn nơi kinh tế

thị trường phát triển mạnh thì trình đồng mở phủ đã trở thành một dịch vụ. Vì sao

tôi lại khẳng định điều này? Nói đến dịch vụ, người ta không thể không nhắc đến

cung và cầu. Có thể nói, chưa bao giờ như hiện nay nhu cầu trình đồng mở phủ lại

nhiều như vậy. Nếu như trước đây, trình đồng mở phủ chỉ dành cho những người có

căn quả, những người ốm đau bệnh tật cần đến sự chữa trị của liệu pháp tâm linh

thì đội quân gia nhập “làng đồng” hiện nay đông đảo hơn nhiều, nó bao gồm cả

những người không căn quả, những người gia đồng để được làm ăn mát mẻ, để cầu

tài cầu lộc, hoặc đơn giản là để giải trí, giải tỏa những bức xúc, căng thẳng trong

cuộc sống công nghiệp với những áp lực cao. Đội quân đông đảo này không phải

trình đồng mở phủ chui lủi như xưa kia mà công khai tìm kiếm, lựa chọn đồng Thầy

và bản hội mà người ta ưa thích để gia nhập giống như lựa chọn một mặt hàng, một

loại dịch vụ. 20 Theo khảo sát của tôi, các dịch vụ này có tại Công viên nghĩa trang Lạc Hồng viên, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình

78

Xét về phía cung, chưa bao giờ hoạt động trình đồng mở phủ cho con nhang

đệ tử lại diễn ra tấp nập, sôi động với sự cung ứng đa dạng các gói dịch vụ như vậy.

Để “vận hành” dịch vụ trình đồng mở phủ thì cần phải có “khách hàng”. Nhưng

“khách hàng” từ đâu mà có? Đối với nhiều bản hội thì “hữu xạ tự nhiên hương”,

tiếng tăm của đền to phủ lớn hoặc đồng Thầy cao tay khiến “khách hàng” ùn ùn kéo

đến như bản hội đền Hàng Bạc (Hà Nội), bản hội Phủ Dầy (Nam Định), bản hội đền

Cô Chín Suối Rồng (Hải Phòng)… Tuy nhiên, có những bản hội không thuận lợi

như vậy và điều này khiến người ta cần phải có những chiến lược tìm kiếm và giữ

chân các “khách hàng” riêng. Việc tìm kiếm và giữ chân đó không chỉ phụ thuộc

vào khả năng của đồng Thầy mà còn dựa vào sự giới thiệu, hỗ trợ của các con

nhang đệ tử. Cách mà đồng Thầy Xuyên thường làm để tìm kiếm con nhang mở phủ

là phán truyền. Dựa vào khả năng “soi lòng bóc vỏ” của mình, thầy Xuyên phán

truyền “bắt bệnh” cho những người tìm đến nhờ thầy soi bói. Song theo quan sát

của tôi, có một sự lạm quyền nào đó trong phán truyền của đồng Thầy Xuyên bởi hầu như ai đến soi bói cũng được thầy phán rằng có căn đồng21 (dĩ nhiên mức độ

của mỗi người khác nhau: có người căn đồng nặng phải mở phủ trình đồng, song có

người chỉ cần làm lễ trả nợ Tứ phủ). Không chỉ phán truyền ở bản điện của mình,

thầy đồng Xuyên còn đi nhiều nơi gặp gỡ nhiều người và tất nhiên những kĩ năng

soi bói giúp đồng Thầy Xuyên thu nạp về bản hội của mình không ít con nhang đệ tử góp phần mở rộng mạng lưới thành viên bản hội của mình ra các tỉnh thành22

trong cả nước. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin và việc sử dụng các trang mạng xã

hội như facebook cũng giúp thầy Xuyên nhiều trong việc “tư vấn” cho những người

đang cảm thấy hoang mang về những điều đang diễn ra với họ và gợi ý cho họ một lối thoát23. Đồng Thầy Xuyên làm điều này một cách nhiệt tình bởi thầy cho rằng đó

là cách thầy vâng lệnh bề trên giúp bách gia trăm họ, song ẩn sau những việc làm

này ta vẫn nhìn thấy những mục đích về lợi ích kinh tế. Qua các bình luận

(comments), đồng Thầy Xuyên diễn giải những giấc mơ kì lạ, những nguyên nhân

21 Bản thân tác giả cũng được đồng Thầy Xuyên phán rằng có căn đồng và 4 người bạn tác giả đưa đến nhờ thầy Xuyên soi bói cũng được phán có căn đồng. 22 Tác giả đã gặp đôi vợ chồng người Lào Cai trong một buổi lễ vào hạ tại bản điện của thầy Xuyên và đôi vợ chồng đã kể rằng họ gặp thầy Xuyên tại đền ông Hoàng Bảy, thầy đồng Xuyên nhìn thấy họ và phán nhiều điều. Cảm thấy có duyên, họ mời đồng Thầy Xuyên về nhà chơi và đồng Thầy Xuyên lại mời họ về Hà Nội dự lễ vào hạ của bản hội. Ít lâu sau, đôi vợ chồng này đã nhờ thầy Xuyên mở phủ trình đồng. Tác giả cũng đã gặp và nói chuyện với chị L người Sài Gòn, chị kể rằng đã gặp thầy Xuyên lần đầu tiên khi đi du lịch ở đảo Phú Quốc và được thầy Xuyên soi bói cho mình đến nỗi “chuẩn không cần chỉnh”. Từ cơ duyên này, chị L bay ra Hà Nội nhờ đồng Thầy Xuyên mở phủ ra đồng cho mình tại đền Dầm. 23Bản thân tác giả là bạn facebook của đồng Thầy Xuyên nên tác giả có cơ hội để tìm hiểu về điều này.

của các bất hạnh, những tai họa bất ngờ của những người bạn trên mạng ảo như là

79

dấu hiệu của căn số. Tuy nhiên, từ mạng ảo nhiều người đã bước ra đời thực tìm

gặp thầy Xuyên và nhờ trình đồng mở phủ.

Để giữ chân các “khách hàng” ở lại với bản hội của mình, bản thân đồng

Thầy Xuyên phải có những “chiến thuật” mà “chiến thuật” dễ nhìn thấy nhất là việc

đồng Thầy Xuyên không ngừng kể về những “chiến công” tâm linh của mình, đã

mở phủ cho bao nhiêu người, đã cứu vớt được bao nhiêu con nhang đệ tử ra khỏi bể

khổ trầm luân,…nói tóm lại là “quảng cáo” về năng lực đặc biệt của thầy và làm

cho các tín chủ cảm thấy yên tâm, tin tưởng nếu như nhờ thầy mở phủ trình đồng..

Bên cạnh đó, chiến thuật “lướt sóng”- một thuật ngữ mà anh Thú người làm chấp

tác 14 năm tại bản điện Phúc Minh từ nói với tôi cũng là một cách để đồng Thầy

Xuyên giữ chân “khách hàng” ở lại với mình. “Lướt sóng” theo anh Thú có nghĩa là

mở phủ ngay sau khi đồng Thầy Xuyên soi bói, nếu để một thời gian sau mới mở

phủ thì các tín chủ có cơ hội đi đến các bản hội khác, tìm các đồng Thầy khác và điều đó có thể dẫn tới nguy cơ họ không quay lại Phúc Minh từ để mở phủ24.

Để có thể chiều lòng “khách hàng”, các đồng Thầy của các bản hội sẽ đưa ra

“các gói mở phủ” với các giá cả khác nhau để họ lựa chọn và tùy thuộc vào hoàn

cảnh của các khách hàng mà đồng Thầy Xuyên sẽ tư vấn họ nên chọn gói nào. Với

bản hội Phúc Minh từ, trình đồng mở phủ có ba gói với ba mức giá: 30 triệu (nếu

mở bằng mã tiểu), 40-45 triệu (mã trung) và 60-70 triệu (mã đại). Mức giá khác

nhau này không chỉ phụ thuộc vào chất lượng mã mà còn phụ thuộc vào địa điểm

mở phủ ở tại bản điện hay tại các đền to phủ lớn (nếu mở tại đền to phủ lớn đồng

thầy lại phải liên hệ với chủ điện đó và các tín chủ phải chi thêm một khoản tiền gọi

là “giọt dầu” cho điện đó).. Không những thế, đồng Thầy Xuyên còn mở phủ chịu

cho các tín chủ có nhu cầu. Nghĩa là, theo thông thường, các tín chủ có nhu cầu mở

phủ, trước khi lễ mở phủ diễn ra, các tín chủ này phải thanh toán toàn bộ chi phí cho

đồng Thầy và đồng Thầy sẽ lo toan chuẩn bị tất cả cho nghi lễ, song có những tín

chủ không có hoặc không đủ tiền thì đồng Thầy Xuyên cho nợ và trả dần. Điều này

làm tăng số lượng “khách hàng” mở phủ tại bản điện nhưng đôi khi lại gây nên khó

khăn về tài chính cho đồng Thầy Xuyên và buộc đồng Thầy Xuyên phải vay nợ

nóng để chi trả cho nghi lễ mở phủ của tín chủ.

Một trong những điểm đặc biệt của bản hội Phúc Minh từ mà tôi chưa thấy ở

các bản hội nào khác đó là việc mở phủ bằng mã tranh, thứ mã mà người ta họa (vẽ) 24 Trong một cuộc phỏng vấn, anh Thú đã tâm sự với tôi về việc này như sau: “Có những người tối nay đến sáng mai làm luôn. Bây giờ toàn chớp các cô đồng. Nghĩa là vấn đề chuẩn bị, có miếng nào (ý nói có khách hàng nào- TG) là phải làm ngay nếu không sợ người ta đi chỗ khác. Ví dụ, thầy soi xong, người ta hỏi mai có làm không, nếu không làm sợ người ta đi chỗ khác, lại phải làm ngay” (Phỏng vấn anh Thú, nam, 53 tuổi)

80

trên giấy. Điều này bắt nguồn từ ý tưởng của đồng Thầy Xuyên (ý tưởng này đã

được đồng Thầy Xuyên viết thành một bài viết và tham luận tại một số tọa đàm khoa học25) về việc tạo điều kiện tốt hơn cho những người nghèo sát căn Tứ phủ có

cơ hội được mở phủ. Theo đồng Thầy Xuyên thì việc mở phủ bằng mã tranh sẽ giúp

cho những người mở phủ “vững tâm tu dưỡng cho phải đạo làm tôi của mình với tâm

lý thoải mái, không phải suy nghĩ quá nhiều về đồng ngân đồng xuyến”. Tuy nhiên,

theo quan sát của tác giả thì nghi lễ này dường như dừng lại ở ý tưởng nhiều hơn, bởi

vì cho đến nay mới chỉ có 2 người được mở phủ theo cách này.

Dù đồng Thầy Xuyên cho rằng việc mở phủ trình đồng cho con nhang đệ tử

là hành động cứu giúp bách gia trăm họ, một công việc hoàn toàn thiêng liêng thì

những tính toán của đồng Thầy Xuyên cho thấy nghi lễ này đã trở thành một dịch

vụ và đem lại không ít lợi ích cho thầy, dù nó được mở bằng mã tiểu, trung hay mã đại26. Nói cách khác, việc đồng Thầy Xuyên mở phủ chịu, vay tiền lãi nóng …để mở phủ cho con nhang đệ tử là một cách làm lãi. Điều này, một lần nữa cho ta thấy

tính song hành của tâm linh và kinh tế trong bản hội Đạo Mẫu hiện nay.

Dịch vụ đầu năm: đi lễ xa và cắt sao giải hạn.

Tôi gọi đi lễ xa và cắt sao giải hạn là dịch vụ mang tính thời vụ vì chúng chỉ

diễn ra duy nhất (giải hạn) hoặc tập trung nhất vào dịp đầu năm (đi lễ xa). Nếu đến

các bản hội vào dịp đầu năm, người ta sẽ được chứng kiến cảnh rộn ràng của các

dịch vụ, đặc biệt là cắt sao giải hạn và nghi lễ này diễn ra trong suốt tháng 1 âm

lịch. Trong nghi ngút khói hương, rất nhiều con nhang đệ tử, tín chủ đến đăng kí

giải hạn, người ta rộn rã đếm xem nhà mình năm nay có bao nhiêu sao xấu, mỗi sao

cắt bao nhiêu tiền. Đồng Thầy Xuyên có hẳn một cuốn số ghi tên “khách hàng” và

những nguyện vọng của họ. Dường như mỗi khách hàng với điều kiện kinh tế khác

nhau, quan niệm tâm linh khác nhau sẽ có những nguyện vọng cắt sao giải hạn khác

25 Tác giả có nguyên văn của bài biết này vì đồng Thầy Xuyên đã nhờ tác giả đánh máy bài viết và tác giả cũng được nghe đồng Thầy Xuyên trình bày bài viết này khi cùng tham gia tọa đàm khoa học về nghi lễ chầu văn ở Hà Nội. 26 Nếu mở bằng mã tiểu, “khách hàng” phải trả cho đồng Thầy 30 triệu. Trong số 30 triệu đó , đồng Thầy sẽ cho các khoản sau đây: mã (3-4 triệu), tiền cung văn (đặt cọc 2 triệu + khoảng 4 triệu tiền thướng văn trong các giá hầu), tiền trả pháp sư (1,5 triệu), tiền tung lộc (5 triệu), tiền làm lễ mặn (1 triệu), hoa (1,5 triệu), quả (2 triệu), tiền mua bánh kẹo các loại để phát lộc (2 triệu), trả cho chấp tác (khoảng 1 triệu cho 5 người), một vài khoản lặt vặt khác, …Tính ra trong lễ tiểu này đồng Thầy thu về khoảng 8 triệu đồng (tác giả tổng hợp qua tư liệu phỏng vấn đồng Thầy Xuyên và anh Thú) 27 Thông thường đồng Thầy Xuyên làm lễ cắt sao giải hạn cho khoảng từ 15 đến 20 gia đình. Cắt mỗi sao giá 150 ngàn, mỗi một gia đình như vậy có thể có 2,3 sao thậm chí 4,5 sao cần phải cắt.

nhau. Thông thường thầy Xuyên làm lễ cắt sao giải hạn tập thể và thầy gọi là “đóng bè tập phúc”, nhiều người cùng làm thì số tiền phải nộp sẽ ít hơn27. Tuy nhiên, có những người không muốn chung đàn, họ muốn làm riêng, trong trường hợp này số

81

tiền họ phải nộp cao hơn vì tất cả chi phí cho buổi lễ họ phải chịu. Nói chung, chỉ cần

nhìn vào đàn lễ to hay nhỏ, sang hay hèn và nhìn vào vị pháp sư cúng cho đàn lễ đó là

ai người ta sẽ biết được khách hàng cắt sao giải hạn giàu hay nghèo, có địa vị hay

không. Có những người không muốn làm lễ tại bản điện mà muốn làm tại gia hoặc làm

tại chùa thì đồng Thầy Xuyên cũng rất “vui lòng khách đến không vừa lòng khách đi”.

Để có thể vận hành một công việc mang tính “thời vụ” như vậy, đồng Thầy

Xuyên phải huy động sự giúp sức hết công suất của đội ngũ chấp tác của bản điện

đồng thời kết nối với những bạn nghề nghiệp bên ngoài đặc biệt là các pháp sư…

Việc thuê pháp sư của đồng Thầy Xuyên đã cho thấy rõ tính dịch vụ của nghi lễ cắt

sao giải hạn. Thông thường thầy Xuyên không cúng giải hạn, thầy thường “nhận

việc” (tức nhận đăng kí làm lễ của các “khách hàng” có nhu cầu), “thuê” người làm

và tổ chức đội ngũ thực hiện, trả công cho họ và thu được một khoản lợi cho mình.

Đi lễ xa được cho là một hoạt động nghi lễ vô cùng thiết yếu trong đời sống

tâm linh của các tín đồ nhằm cầu xin tài lộc và nhất là đối với các thanh đồng non-

“những con chim non vừa mới ra đời (tức những người vừa mới trình đồng mở

phủ) thì việc “mở tuyến” đi lễ này giúp họ trình Cha trình Mẹ để “Cha biết mặt Mẹ

biết tên”. Hàng năm, bản hội của thầy Xuyên thường tổ chức các tuyến đi lễ xa như

Hà Nội- Lạng Sơn- Tuyên Quang- Lào Cai (đi đến nhiều cửa đền khác nhau như

đền Bắc Lệ- Cô Chín Mìu- Cô Suối Ngang- Cô Đèo Kẻng- Mẫu Đồng Đăng- Quan

Tam Phủ- Chầu Mười- Đền Trần- Đền Ông Hoàng Bảy…); Hà Nội- Nam Định-

Thái Bình; Hà Nội- Thanh Hóa- Nghệ An (qua đền Dâu Quán Cháo- Mẫu Hoành

Sơn-Cô Chín Sòng Sơn- đền Bà Triệu- Phố Cát- ông Hoàng Mười…). Trước mỗi

chuyến đi, đồng Thầy Xuyên thông báo kế hoạch chi tiết về việc đi đâu, đi vào thời

gian nào, ở đâu, lễ gì cho các nhóm trưởng của bản hội. Điều đặc biệt là những

thông tin này được đồng Thầy Xuyên loan báo trên trang facebook cá nhân. Vì vậy,

việc đăng kí đi lễ không chỉ diễn ra dưới hình thức trực tiếp tại bản hội mà còn diễn

ra gián tiếp qua facebook ( ai muốn đi lễ thì đăng kí với thầy qua hình thức

comment (bình luận) trên facebook). Mỗi người đi lễ phải nộp một khoản tiền nhất định tùy thuộc vào chuyến đi xa hay gần, ngắn hay dài ngày28, số tiền này có thể

nộp vào lúc đến đăng kí hoặc có thể vào hôm xuất hành. Sau khi trừ chi phí xe cộ,

đồ lễ, thuê nơi ăn chốn ngủ…số còn lại là lợi lộc của đồng Thầy. Như vậy, không

phủ nhận ý nghĩa tâm linh của việc mở tuyến, cũng không phủ nhận tâm ý của đồng

28 Chẳng hạn, theo đồng Thầy Xuyên thì chuyến đi Hà Nội- Tuyên Quang trong 2 ngày một đêm thì mỗi người phải đóng 1 triệu

Thầy, tuy nhiên, việc mở các tuyến đi lễ xa đầu năm cũng đem lại cho đồng Thầy

82

một khoản lợi lộc. Nhiều đồng Thầy ở các bản hội khác còn coi việc tổ chức đi lễ xa

như một hình thức kinh doanh. Biết điều đó nhưng con nhang đệ tử vẫn chấp nhận

bởi việc bỏ tiền ra để đi lễ xa cũng đem đến cho họ nhiều lợi ích như được đến gần

Thánh, được thăm quan du lịch ở những miền đất mới, được gặp gỡ nhiều người và

hơn hết họ hiểu rằng “không ai làm không công cả, việc đồng Thầy tổ chức đi lễ xa

cũng thế thôi”.

Trong thực tế các dịch vụ tâm linh của Đạo Mẫu được thể hiện trong bản hội

phong phú hơn nhiều: có cả những dịch vụ cầu duyên cầu tình, cắt vong cắt duyên,

dịch vụ cầu thăng quan tiến chức, cầu thi cử đỗ đạt, cầu buôn may bán đắt…nói

chung các dịch vụ này đều hướng tới những nhu cầu cho một cuộc sống trần thế tốt

đẹp chứ không phải hướng tới cuộc sống ở cõi xa xăm sau khi con người qua đời.

Tuy nhiên, với bản hội Phúc Minh từ, trình đồng mở phủ, đi lễ xa và cắt sao giải

hạn đầu năm là những dịch vụ quan trọng nhất, thu hút đông đảo con nhang đệ tử và

cũng đem lại nhiều lợi ích kinh tế nhất cho đồng Thầy.

Sự phát triển của các dịch vụ này kéo theo hàng loạt các dịch vụ “ăn theo”

khác như dịch vụ vận chuyển (xe cộ), cung cấp khăn chầu áo ngự, cung cấp vàng

mã…và thậm chí cả dịch vụ cho vay nặng lãi.

Tóm lại, trong bối cảnh thị trường tôn giáo hiện nay, những nghi lễ của Đạo

Mẫu đã có từ lâu đời đã nâng lên thành dịch vụ trước những nhu cầu ngày càng cao

của một bộ phận tín đồ. Những dịch vụ này nếu đặt trong tương quan so sánh với

các tôn giáo tín ngưỡng khác như Phật giáo, Công giáo, hay Cao Đài, Hòa Hảo thì

thực sự rất độc đáo vì thế nó hấp dẫn và có sức quyến rũ đối với đông đảo các tín đồ

đang mong cầu một cuộc sống hiện sinh tài lộc, công danh và sức khỏe vẹn tròn. Sự

phát triển của các dịch vụ này càng được lan tỏa hơn, nhanh gọn và tiện lợi hơn với

sự hỗ trợ của những thành tựu công nghệ thông tin. Việc đồng Thầy Xuyên sử dụng

diễn đàn Facebook để thu hút các khách hàng mở phủ, những người đi lễ xa và cắt

sao giải hạn là một minh chứng cho điều đó. Tuy nhiên, sự phát triển của các dịch vụ tâm linh đã dẫn tới một hiện tượng mà các nhà tôn giáo học gọi là “giải thiêng”, thần Thánh dường như đến gần hơn với con người, thậm chí trở thành một đối tượng để họ mặc cả và giao dịch. Tâm linh đang dần nhuốm màu lợi ích kinh tế, chúng song hành với nhau thậm chí ḥòa tan vào nhau. Nhiều đồng Thầy giờ đây lóa mắt trước

sự xa hoa mà đánh mất đạo đức tâm linh, quên đi nhiệm vụ nhà Ngài giao phó cho

mình, cứu giúp bách gia trăm họ mà không màng đến việc so đo được gì lợi gì. Nhiều

đồng Thầy đã không ngần ngại đưa ra các chiêu bài dụ dỗ, dọa nạt các con nhang đệ tử

để kiếm lời. Đây chính là mặt trái của sự phát triển các dịch vụ tâm linh.

83

3.2 Sự gắn kết giữa tâm linh và kinh tế trong bản hội Đạo Mẫu: những lí giải Những phân tích trên đây của tác giả đã cho thấy rõ ràng tâm linh và tính

kinh tế là hai mặt không tách rời trong bản hội Đạo Mẫu. Dường như sự gắn kết của

hai yếu tố này như một sợi dây xuyên suốt từ khi có sự xuất hiện bản hội cho đến

nay, song sự khác nhau là ở chỗ hiện nay màu sắc kinh tế trở nên sâu đậm hơn trong

mối quan hệ với tính tâm linh. Một câu hỏi được đặt ra là: vì sao yếu tố tâm linh và

yếu tố kinh tế lại không tách rời trong cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu (bản hội)? Tại sao

trong thị trường tôn giáo rất sôi động ở Việt Nam hiện nay, người ta lại thường tìm

đến bản hội Đạo Mẫu để cầu xin sự phát triển kinh tế, cầu xin buôn may bán đắt mà

không phải là đến chùa cầu Phật hay đến nhà thờ cầu Chúa? Lý giải điều này, thiết

nghĩ chúng ta phải nhìn nhận từ căn tính Đạo Mẫu một tín ngưỡng ra đời trong thời

kỳ phát triển của kinh tế hàng hóa, hệ thống thân linh và nghi lễ thiên về cầu tài lộc;

đồng thời không thể bỏ qua tác động của yếu tố kinh tế thị trường.

3.2.1 Căn tính Đạo Mẫu

Sự phát triển của kinh tế thương mại thế kỉ XVI- XVIII và nhu cầu tìm kiếm

biểu tượng tâm linh của tầng lớp thương nhân.

Đạo Mẫu là một tín ngưỡng đặc thù của Việt Nam được hình thành trên cơ

sở gốc rễ là tục thờ nữ thần, Mẫu thần vốn có từ lâu đời nhưng tản mạn và rời rạc,

kết hợp với những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa. Cái mốc đánh dấu sự ra đời

của Đạo Mẫu là sự xuất hiện của vị thần chủ Liễu Hạnh vào thế kỉ XVI và những

truyền thuyết về sự sinh hóa, hiển Thánh của bà kéo dài tới tận thế kỉ XVII, XVIII.

Nếu đem truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà soi vào bối cảnh kinh tế

xã hội Việt Nam thế kỉ XVI- XVIII thì có thể thấy đây là giai đoạn kinh tế thương

mại phát triển nhất trong thời kỳ phong kiến cả về ngoại thương lẫn nội thương.

Không “trọng nông ức thương”, nhà Mạc cũng không “bế quan tỏa cảng”. Với sự

thông thoáng trong chính sách công thương nghiệp của nhà nước phong kiến, từ thế

kỷ XVI-XVII nền kinh tế hàng hóa nước ta có sự phát triển mạnh đưa tới sự trỗi

dậy và hồi sinh của các cảng thị (city-ports) như Phố Hiến, Kẻ Chợ, Hội An…sự

xuất hiện dày đặc của hệ thống chợ quê, sự hình thành của không ít làng buôn

(trading villages) với phạm vi hoạt động tương đối lớn. Và điều đặc biệt nữa là

không chỉ ở các thành thị mà ngay trong chính các làng quê cũng xuất hiện các

thương nhân chuyên nghiệp và đang trỗi dậy khẳng định vai trò của mình trong hệ

thống tứ dân. Các hoạt động thương nghiệp của giới này giờ đây không chỉ là những

84

buôn bán nhỏ lẻ ở đầu chợ cuối xóm mà có thể là những chuyến buôn dài ngày dọc

theo những tuyến đường sông biển dày đặc.

Có thể nói, sự lớn mạnh của kinh tế thương mại, sự trỗi dậy của tầng lớp

thương nhân đã đặt ra một vấn đề là phải xây dựng một biểu tượng thần linh đáp ứng

nhu cầu tâm linh, bảo trợ cho những chuyến buôn đầy trắc trở của họ. Và trong rất

nhiều thần linh hiện có của người Việt lúc bấy giờ, kể cả Quan Âm Nam Hải- một vị

thần chủ của nghề thương mại Trung Hoa giới thương nhân cũng không lựa chọn mà

họ đã sáng tạo nên một biểu tượng mới- Thánh Mẫu Liễu Hạnh (tất nhiên, sự xuất

hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh không đơn thuần chỉ là kết quả của việc xây dựng

biểu tượng bảo trợ cho giới thương nhân mà còn liên quan tới các vấn đề về giới và

quyền lực giới cũng như những nhu cầu về sự che chở của những người dân khổ cực

trong chế độ phong kiến suy tàn và điều này sẽ được tác giả đề cập ở chương tiếp

theo của luận án). Từ những phân tích bối cảnh kinh tế xã hội như trên cho phép

chúng ta khẳng định Mẫu Liễu Hạnh là “con đẻ” của tư duy Việt vào các thế kỉ XVI-

XVIII. Thực sự bà không phải là một nhân thần như truyền thuyết đã ghi lại mà bà là

sản phẩm của lịch sử gắn với những thương thuyền. Yêu cầu của các thương thuyền

đương thời, không thể đem tất cả thần linh Tứ phủ đi khắp nơi mà họ có thể đến. Do

đó, như một quy luật thông thường, sự hội tụ của các thần linh của tín ngưỡng này lại

để trở thành một đấng độc tôn đa quyền năng đã được hình thành. Và Thánh Mẫu

Liễu Hạnh xuất thế. Con đường đi trong không gian văn hóa dân giã của người Việt

giờ đây được chia làm hai: một là, theo các thương thuyền, men theo các triền sông,

ven biển và các đường thiên lý để xuất hiện ở khắp nơi; hai là, bà nhập vào thế giới

nông nghiệp để trở thành một tối thượng thần đa tài, đa năng [67; tr75].

Như vậy, có thể thấy, sự phát triển của kinh tế thương mại ở thế kỉ XVI-

XVIII đã góp phần chuyển hóa tín ngưỡng thờ Mẫu sang hai chiều hướng khác

nhau nhưng vẫn nằm trong cặp phạm trù thống nhất với tục thờ Mẫu Tứ phủ đã ăn

sâu bén rễ trong các làng quê. Và trong hoàn cảnh mới, để thích hợp, người ta đã

hội tụ các Thánh Mẫu lại để tạo nên một Mẫu tổng hòa, tối thượng và linh thiêng,

đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Từ chỗ nhiều thần hội tụ lại thành một thần, đã thích

ứng với yêu cầu của các thương thuyền và người ta có thể chở bà đi khắp nơi để bảo

hộ sự bình yên cho họ.Tóm lại, ngay từ bối cảnh ra đời đã cho thấy sự không tách

rời giữa Đạo Mẫu với kinh tế, cụ thể là kinh tế thương nghiệp và điều này ảnh

hưởng không nhỏ tới bản chất của Đạo Mẫu cũng như đặc trưng của bản hội-một

cộng đồng tín đồ của Đạo Mẫu.

85

Thần linh mang căn tính thương nghiệp

Hiếm có một tín ngưỡng nào ở Việt Nam mà điện thần của nó lại được bài trí

một cách bài bản và lớp lang như điện thần Đạo Mẫu, lại hiếm có một tín ngưỡng nào mà lực lượng thần linh trên điện thờ của nó lại “hùng hậu” đến vậy29.. Có hai

điều đáng nói về thần điện này: thứ nhất, không phải ngay từ đầu điện thần Đạo

Mẫu đã “hùng hậu” như vậy mà nó là kết quả của một quá trình hội tụ và kết tập lâu

dài. Một trong những nhân tố kết tập ấy chính là sự phát triển của các con đường

thương mại. Có thể nói, vai trò của thương thuyền vô cùng quan trọng với sự phát

triển của Đạo Mẫu, nó “kết nạp” các thần linh ở địa phương vào hệ Tứ Phủ đã góp

phần tích cực về mặt tinh thần cho sự phát triển của thương mại ở đương thời. Ông

Hoàng Bảy Bảo Hà, tức Nùng Trí Cao ở tận miền núi xa xôi, rồi ông Hoàng Sáu-

Trần Lựu, Chầu Mười- Hoàng Ba; ở miền Trung có Hoàng Chín – Lê Khôi, Hoàng

Mười- Nguyễn Xí… cũng gắn với thương mại mà hội nhập về điện thần Đạo Mẫu

[67; tr75]. Hai là, nhiều vị thần của Đạo Mẫu mang căn tính thương nghiệp mà tiêu

biểu nhất đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh vị thần chủ của điện thần này. Trong “Kho

tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi, Liễu Hạnh được miêu tả như

Sau khi xuống trần (lần thứ nhất-TG), Liễu Hạnh hóa thân thành cô gái xinh đẹp, dựng một cái

quán ở chân núi Đèo Ngang. Đây là núi rừng vắng vẻ nhưng cũng là nơi con đường thiên lý từ

Bắc vào Nam vắt qua, nên hàng ngày không bao giờ ngớt khách bộ hành đi lại. Từ xưa đến

nay, vì sợ giặc cướp và thú dữ, không một ai dám đến đó mở quán bán hàng. Vì vậy, ngôi hàng

độc nhất của Liễu Hạnh ngày nào cũng đông khách. [14; tr1575]

Lần này (lần thứ hai xuống trần- TG) Liễu Hạnh đến đèo Ba Dội cũng là nơi vắng vẻ, rồi dựng

lên đủ các thứ hoa thơm cỏ lạ….Ở đây có quán xá và cũng như lần trước, Liễu Hạnh thường

hóa thân thành cô gái bán hoa quả, quà bánh, trầu nước và đồ chơi. Ai ăn uống mua bán rồi thì

không sao, nếu giở chuyện trộm cướp trăng hoa, lập tức nàng bị trừng trị. [14; tr 1579]

một người phụ nữ có tài buôn bán:

Như vậy, truyền thuyết kể về Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã phản ánh tính chất

thương nghiệp trong bản thân vị Thánh này. Phải chăng đây là chủ đích của tác giả

dân gian phản ánh thời kỳ vươn lên của thương nghiệp Việt Nam thế kỷ XVI-

XVIII? Và phải chăng xuất phát từ tính chất thương mại trong nguồn gốc của Thánh

Mẫu Liễu Hạnh mà những đệ tử tìm đến Bà như tìm đến một sự cứu tinh cho hoạt

29 Bởi trên điện thần của Đạo Mẫu có tất cả khoảng 10 hàng với khoảng 80 vị thần thánh, trong đó có bốn vị thánh “ngoại nhập” từ các tôn giáo khác vào Việt Nam (Phật bà, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu), bốn Thánh Mẫu, Đức Thánh Trần với ba cô con gái nhà Trần và một cậu nhà Trần, 10 vị quan, 12 bà chúa, 12 chầu, 12 cô, 10 ông Hoàng, quan Ngũ Hổ và thần Sà [43; tr43]

động kinh doanh buôn bán của họ?

86

Nghi lễ Đạo Mẫu thiên về cầu tài lộc.

Một trong những nghi lễ quan trọng nhất của Đạo Mẫu là nghi lễ lên đồng.

Đây là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các vị Thánh Tứ phủ vào thân xác của các ông

bà đồng nhằm chữa bệnh, phán truyền và cầu tài lộc…Điểm nhấn của nghi lễ này là

thông qua người lên đồng, con nhang đệ tử có thể giao tiếp với thần linh để cầu xin

điều mong muốn trong đó có những cầu xin làm ăn kinh tế được thuận buồm xuôi

gió. Một điểm đặc biệt của nghi lễ lên đồng thu hút đông đảo các tín đồ chính là việc

tung lộc của ông bà đồng trong lúc hầu Thánh. Lộc có nhiều loại từ bánh kẹo, gương

lược, hoa quả cho đến tiền…Các con nhang đệ tử chen chúc nhau thậm chí xô đẩy

nhau để dành lấy những đồng tiền lộc đó. Chúng ta thấy tính kinh tế được thể hiện

ngay trong hành vi phát lộc của Thánh đầy thiêng liêng. Có thể nói, không có một

cộng đồng tôn giáo nào được phát lộc nhiều và đặc biệt là phát lộc bằng tiền như

cộng đồng tín đồ Đạo Mẫu. Lộc trong Phật giáo chỉ là vài miếng oản, một ít xôi

gấc…; lộc của cộng đồng thờ cúng Thành hoàng là một bữa ăn cộng cảm tại đình;

Công giáo thậm chí còn không có khái niệm “lộc Chúa”, không bao giờ có cảnh chen

chúc nhau trong nhà thờ để xin lộc Chúa. Tuy nhiên, điều này lại diễn ra một cách

sôi động đối với các con nhang đệ tử của Mẫu. Và mặc dù tiền lộc chỉ là những đồng

tiền lẻ có mệnh giá nhỏ song với các tín đồ Đạo Mẫu thì “một tí lộc Thánh bằng một

gánh lộc trần”. Đặc biệt đối với giới làm ăn buôn bán, tiền lộc ấy nó giống như một

loại vốn mà Thánh Mẫu ban cho, “cấy” vào họ một niềm tin vốn Thánh Mẫu ban cho

nhất định sẽ giúp họ buôn bán phát đạt. Nói cách khác, tiền lộc Thánh ban có sức

biểu tượng, biểu tượng cho sự phù trợ của Thánh Mẫu đối với người trần.

Như vậy, việc ngược dòng lịch sử tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của Đạo Mẫu

cho ta thấy đây là một thứ tín ngưỡng “nước đôi”. Một mặt nó vẫn là tín ngưỡng

của nông nghiệp, phù trợ cho nông nghiệp nhưng mặt khác nó lại đại diện cho sự

đang lên của tầng lớp thương nhân trong bối cảnh kinh tế thương nghiệp phát triển

thế kỉ XVI- XVIII (đây là nét khác biệt của Đạo Mẫu so với lớp thờ Nữ thần và

Mẫu thần trước đó). Vị thần chủ của tín ngưỡng này – Liễu Hạnh mang căn tính

thương nghiệp, bản thân lại là người có tài buôn bán; nghi lễ hầu đồng –nghi lễ

chính của Đạo Mẫu lại là nghi lễ cầu tài lộc. Tất cả những lí do này cho thấy, ngay

trong bản chất của Đạo Mẫu đã có sự gắn bó đến không tách rời giữa yếu tố tâm

linh và kinh tế. Bởi thế, một trong những lí do con người tìm đến với Đạo Mẫu là

87

tìm đến sự phù trợ của vị thần mang căn tính thương nghiệp những mong làm ăn

mát mẻ. Bản chất đó của Đạo Mẫu được dung dưỡng, duy trì qua các thời kì lịch sử

và rồi như lửa được tiếp thêm dầu nó bùng phát vào thời kì kinh tế thị trường.

3.2.2 Kinh tế thị trường và sự “thâm nhập”của kinh tế vào tâm linh

Có một sự “tháo cũi sổ lồng” đối với nền kinh tế Việt Nam đó là khi nhà

nước thực hiện chính sách đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự định hướng xã

hội chủ nghĩa. Sau bao nhiêu năm khủng hoảng, kinh tế Việt Nam được bung nở và

người dân được tự do buôn bán, tự do làm giàu. Kinh tế thị trường lên ngôi và cùng

với nó là hiện tượng “nữ thần lên ngôi” (Goddess in the rise) ở Việt Nam (chữ dùng

của Philip Taylor). Dường như đang “có một sự bộc phát về bói toán, lên đồng, thờ

cúng và hành hương (pilgrimages) diễn ra ở Việt Nam khi các chính sách của chính

phủ đưa đất nước hội nhập sâu chưa từng thấy với thế giới tư bản chủ nghĩa và khi

các quan hệ thị trường đã làm biến đổi bộ mặt của xã hội ” (Dẫn theo 89; tr1].

Nhưng kinh tế thị trường có ảnh hưởng như thế nào tới mối quan hệ giữa tâm

linh và kinh tế? Thứ nhất, rõ ràng, kinh tế thị trường với nhiều rủi ro và bất trắc

khiến con người đặc biệt là giới kinh doanh buôn bán tìm kiếm đến sự phù trợ của

tâm linh nhiều hơn. Nghĩa là giới kinh doanh dường như đang ngày càng phụ thuộc

vào tâm linh, họ đang tự cột chặt những hoạt động kinh tế của họ vào quyền năng

của thánh thần. Không chỉ dừng lại ở lời cầu xin, người ta còn dùng cả vật chất và

tiền tệ để trao đổi với thần linh trong hành vi tín ngưỡng của họ. Con người trong

thời kì kinh tế thị trường đang “đặt vấn đề” với thánh thần một cách trực diện hơn,

họ không ngừng hối lộ thánh thần, giao dịch với thánh thần để được phù hộ. Thế

nên, họ nhét tiền lẻ vào tay Phật dù bản thân Phật không phải là thế lực tâm linh có

đặc quyền trong phù trợ phát triển kinh tế, họ mua xiêm y lộng lẫy khoác cho tượng

thần những mong thần linh sẽ hiểu thấu sự chu đáo của họ mà cũng “chu đáo”

lại…Nói chung, sự vụ lợi trong quan hệ giữa người với người trong xã hội kinh tế

thị trường đã len lỏi vào mối quan hệ giữa con người với thần linh. Thứ hai, cùng

với sự lên ngôi của thánh thần là sự lên ngôi của các dịch vụ trong không gian tâm

linh: đổi tiền lẻ, khấn thuê, sắp lễ thuê, cho thuê thang trèo tường với mong muốn

đến nhanh hơn với thần linh, thậm chí cho thuê lợn quay để dâng cúng bà Chúa

Xứ...Chưa bao giờ như hiện nay, người ta chứng kiến sự sôi động thậm chí đến mức

nhộn nhạo của hoạt động kinh doanh dịch vụ trong không gian tín ngưỡng lẽ ra phải

thanh tịnh và thiêng liêng. Dường như tâm linh đang nhuốm màu kinh tế.

88

Trong bối cảnh kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa tâm linh và kinh tế cũng

trở nên khăng khít hơn. Kinh tế thị trường phụ thuộc nhiều hơn vào sự phù trợ của

tâm linh và ngược lại tâm linh dựa vào kinh tế để phát triển. Vì sao các đền, phủ,

chùa được sửa sang hoặc xây mới ngày một nhiều và vì sao các lớp tượng ngày

càng đầy đặn hơn, khang trang hơn trong các thiết chế tôn giáo tín ngưỡng,…? Ấy

chính là kết quả của sự phát triển và hỗ trợ của kinh tế. Trong bối cảnh đó, bản hội

Đạo Mẫu không thể không bị tác động. Nơi đây không chỉ là không gian thiêng, nơi

các tín đồ đến cầu xin những vấn đề hiện sinh như sức khỏe, công danh sự nghiệp

và tài lộc mà nó còn là không gian để các dịch vụ tâm linh vận hành, là môi trường

để những người đồng đạo hợp tác làm ăn buôn bán…

3.3 Môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế và cơ sở cho các thành

viên bản hội tạo lập vốn xã hội.

Ở phần trên tôi đã mô tả và lí giải sự đậm nét của màu sắc kinh tế trong bản

hội Đạo Mẫu. Vấn đề đặt ra là bản hội với đặc trưng là môi trường tâm linh đậm

màu sắc kinh tế ấy có liên quan gì đến vấn đề tạo lập VXH của các thành viên bản

hội. Trong phần này tôi sẽ kết nối để thấy rằng, chính đặc trưng là môi trường tâm

linh đậm màu sắc kinh tế đã giúp bản hội trở thành môi trường tạo cơ sở cho các

thành viên của nó tạo lập VXH .

Nhưng vì sao bản hội với đặc trưng là môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh

tế lại giúp các thành viên khi gia nhập bản hội có cơ sở để tạo lập VXH? Trong bài

viết nổi tiếng “VXH: nguồn gốc và những áp dụng trong xã hội học hiện đại” [8],

Alejandro Portes cho rằng trong khi vốn kinh tế nằm ở những tài khoản nhà băng của

người ta và vốn con người nằm ở trong đầu họ thì VXH nằm ngay trong cơ cấu các

quan hệ của họ. Để sở hữu VXH, người ta phải có quan hệ với người khác và chính

người khác chứ không phải anh ta, mới thực sự là nguồn gốc sinh ra ưu thế của anh

(chị) ta. Có thể nói, khi một cá nhân gia nhập bản hội thì chính môi trường bản hội

với tư cách vừa là môi trường tâm linh vừa là môi trường kinh tế đã tạo điều kiện để

họ có cơ hội để tìm kiếm, tiếp cận và xây dựng nhiều loại quan hệ với những thành

viên khác trong và ngoài bản hội. Và đó chính là cơ sở để giúp họ tạo lập VXH từ các

loại quan hệ khác nhau.

Trước hết, bản hội là môi trường tâm linh, nơi các tín đồ trao gửi niềm tin

vào các vị thần Đạo Mẫu; cùng nhau thực hành nghi lễ để thể hiện đức tin, để cầu

xin và cảm tạ thánh thần. Môi trường tâm linh với các sinh hoạt nghi lễ cộng đồng

bản thân nó đã sản sinh ra các quan hệ đồng đạo với tình bằng hữu. Vì thế, khi một

cá nhân gia nhập bản hội nghĩa là anh (chị) ta có cơ hội được tiếp cận và thiết lập

89

quan hệ đồng đạo, quan hệ bằng hữu với các thành viên khác, từ đó hình thành nên

một loại VXH mà tôi gọi là VXH dựa trên tình đồng đạo (quan hệ giữa đồng Thầy

cùng các con nhang đệ tử với thánh thần; quan hệ cha – con hoặc mẹ- con giữa

đồng Thầy và con nhang đệ tử; quan hệ “anh em một nhà” giữa con nhang đệ tử với

con nhang đệ tử…). Song có lẽ điều này không có gì là đặc biệt bởi cũng giống bản

hội Đạo Mẫu tất cả các cộng đồng tôn giáo khác đều tạo cơ sở cho các thành viên

của nó tạo lập VXH dựa trên tình đồng đạo, tình bằng hữu. Cộng đồng Công giáo

và Tin Lành rõ ràng là tạo cơ sở cho các thành viên của nó tiếp cận và xây dựng

mối quan hệ với những người có cùng niềm tin vào Chúa. Cũng như vậy, cộng đồng

Phật giáo lại tạo cơ hội cho các Phật tử tiếp cận và xây dựng quan hệ xã hội với

những người có cùng niềm tin vào đức Phật.

Điều đặc biệt là ở chỗ, hiện nay bản hội là cộng đồng tâm linh mà ở đó màu

sắc kinh tế rất đậm nét. Như ở phần trên tôi đã chỉ ra, bản hội trong xã hội đương đại còn là không gian diễn ra các hoạt động kinh doanh buôn bán (kinh doanh Amway,

khăn chầu áo ngự, đồ thờ cúng, các sản phẩm mỹ phẩm…), nơi các dịch vụ tâm linh

(dịch vụ đầu năm, dịch vụ quanh năm…) “làm ăn phát đạt”. Đây có thể xem là đặc

trưng khác biệt của bản hội Đạo Mẫu hiện nay so với bản hội trước thời kỳ Đổi mới và cũng là điểm khác biệt của bản hội Đạo Mẫu so với các cộng đồng tôn giáo khác ở

Việt Nam. Chính đặc trưng này đã khiến cho bản hội hiện nay không chỉ chứa đựng

các quan hệ đồng đạo mà còn chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích. Khi là

thành viên của một bản hội, một cá nhân không chỉ có cơ hội để tiếp cận và thiết lập

các quan hệ đồng đạo, họ còn có cơ hội để thiết lập các quan hệ xã hội dựa trên lợi

ích kinh tế. Nói cách khác, bản hội với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh

tế đã tạo cơ sở để các thành viên tạo lập VXH dựa trên các quan hệ lợi ích (quan hệ

giữa chủ hàng và khách hàng, quan hệ giữa các bạn hàng với nhau…).

Trước hết, môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế đã tạo điều kiện để các

thành viên của nó xây dựng VXH nội bộ từ các quan hệ kinh tế. Ở đây, tôi quan

niệm VXH nội bộ là VXH được hình thành từ quan hệ giữa các thành viên cùng nhóm, cùng cộng đồng, trong trường hợp này là cùng bản hội. Xét về phía đồng Thầy, nếu như trước đây khi yếu tố kinh tế trong bản hội chưa đậm nét như hiện nay, quan hệ xã hội của đồng Thầy đơn thuần chỉ là các quan hệ đồng đạo với các tín đồ, với những người có cùng đức tin thì hiện nay đồng Thầy có cơ hội mở rộng

thêm các quan hệ kinh tế của mình. Trong quan hệ kinh tế với các thành viên khác của bản hội, đồng Thầy hầu như đóng vai trò là chủ hàng, chủ dịch vụ. Những phân

tích ở phần trên cho thấy, đồng Thầy Xuyên là chủ hàng cung cấp sản phẩm Amway, là chủ các loại hình dịch vụ (đi lễ xa, cầu an giải hạn, trình đồng mở

90

phủ…) và các khách hàng, những người tiêu dùng sản phẩm ở đây chính là các con

nhang đệ tử….Trong những trường hợp khác, đồng Thầy lại là khách hàng của các con nhang đệ tử của chính mình ví dụ như đồng Thầy là khách hàng mua khăn chầu

áo ngự, mua đồ lễ, hoa quả,…của các con nhang đệ tử. Cũng có những trường hợp

đồng Thầy lại là bạn hàng của các con nhang đệ tử của mình, đồng Thầy hợp tác với

các con nhang đệ tử để đầu tư kinh doanh lĩnh vực nào đó…

Môi trường tâm linh đậm màu sắc kinh tế còn tạo cơ sở cho các thành viên bản hội xây dựng VXH vươn ra ngoài (VXH bắc cầu), tức VXH được hình thành từ

quan hệ giữa các thành viên trong một bản hội với những thành viên ngoài bản hội. Những phân tích ở mục 3.1 đã cho thấy, với việc phát triển các dịch vụ tâm linh,

bản hội hiện nay không tồn tại một cách đơn lẻ mà có sự tương tác, kết nối với bên

Các đền, điện thờ Mẫu

Dịch vụ ăn, ở

Dịch vụ cung cấp đồ lễ

ngoài. Để vận hành dịch vụ trình đồng mở phủ, bản hội với thủ lĩnh là đồng Thầy phải kết nối với các dịch vụ cung cấp đồ mã30, dịch vụ cung cấp khăn chầu áo ngự, kết nối với các đền phủ bản cảnh khác trên phạm vi cả nước31, thậm chí kết nối với cả dịch vụ cho vay nặng lãi; để có thể điều hành một đoàn đi lễ xa, đồng Thầy phải kết nối với dịch vụ cho thuê xe ô tô32, dịch vụ cung cấp nơi ăn chốn ở…Chúng ta có thể hình dung mối quan hệ bên ngoài của một bản hội qua sơ đồ dưới đây.

Dịch vụ cho thuê xe ô tô

Dịch vụ khăn chầu áo ngự

Dịch vụ cắm hoa, trang điểm

Bản hội

30 Tùy vào từng nghi lễ khác nhau mà đồng Thầy Xuyên gọi mã ở những nơi khác nhau: chẳng hạn, mã mở phủ thường lấy ở Thường Tín (Hà Tây cũ), mã cắt vong duyên thường lấy ở bên làng Hồ (Bắc Ninh). Mỗi lần cần mã, đồng Thầy Xuyên chỉ cần gọi điện hẹn ngày giờ là cơ sở sản xuất mã sẽ đem đến tận nơi, đúng hạn và có uy tín. 31 Các thanh đồng của bản hội được đồng Thầy Xuyên mở phủ ở bản cảnh khác cho biết thông thường họ phải chi từ 700 ngàn- 1.000.000 tiền cho đền phủ mà họ mượn cảnh để hầu T hánh (ví dụ đền Dầm, đền Đại Lộ…) 32 Thông thường mỗi tuyến đi lễ xa, đồng Thầy Xuyên thường thuê tử 2-3 xe ô tô 45 chỗ ngồi.

Mô hình mối quan hệ bên ngoài của bản hội Phúc Minh Từ

91

Nói chung, các thành viên trong bản hội không tồn tại tách rời nhau mà gắn bó

với nhau thành một cộng đồng; mỗi bản hội cũng không phải là một thực thể độc lập.

Nhìn từ khía cạnh kinh tế có thể thấy bản hội hiện nay là một thực thể với sự kết nối

đa chiều, chằng chịt với các bản hội khác ở nhiều địa phương trong cả nước và kết

nối với các mạng lưới xã hội không thuộc lĩnh vực tâm linh. Điều này thực sự đã tạo

cơ sở cho các thành viên bản hội tạo lập VXH dựa trên các quan hệ kinh tế.

Tiểu kết

Bản hội Đạo Mẫu là một môi trường tâm linh mang đậm màu sắc kinh tế. Sự

đậm nét của màu sắc kinh tế trong không gian tâm linh của bản hội có nguồn gốc từ

căn tính của tín ngưỡng này và trở nên mạnh mẽ hơn trong bối cảnh kinh tế thị

trường. Đây chính là một đặc trưng khác biệt của bản hội Đạo Mẫu so với các cộng

đồng tôn giáo khác và đặc trưng này làm nên sức quyến rũ của Đạo Mẫu hiện nay,

thu hút đông đảo các tín đồ đến với nó, nhất là tầng lớp thương nhân.

Khi các hoạt động kinh tế trong bản hội phát triển mạnh mẽ thì bản hội sẽ

không còn đơn thuần là môi trường tâm linh nơi diễn ra các hoạt động nghi lễ

phụng thờ thần thánh nữa mà còn là môi trường để các thành viên tìm kiếm các lợi

ích kinh tế. Việc là một không gian tâm linh đậm màu sắc kinh tế đã ảnh hưởng tới

mối quan hệ giữa các thành viên trong bản hội. Mối quan hệ giữa các thành viên

bản hội sẽ trở nên sinh động, phức tạp, đan cài các mục đích khác nhau chứ không

đơn giản một chiều. Bên cạnh việc xây dựng quan hệ đồng đạo, bản hội tạo điều

kiện để các thành viên của nó có thể tìm kiếm và thiết lập các quan hệ làm ăn kinh

tế (quan hệ giữa chủ dịch vụ (chủ hàng) với khách hàng, quan hệ giữa các bạn hàng

và quan hệ giữa những người cùng hợp tác làm ăn). Quan hệ của bản hội cũng

không chỉ dừng lại ở các quan hệ nội bộ như quan hệ giữa đồng Thầy với các đệ tử,

quan hệ giữa các đệ tử với nhau mà còn vượt khỏi không gian nhỏ hẹp ấy vươn

rộng ra môi trường bên ngoài. Tóm lại, với đặc trưng là môi trường tâm linh đậm

màu sắc kinh tế, bản hội đã tạo cơ sở để các thành viên của nó tạo lập VXH dựa trên

quan hệ đồng đạo và VXH dựa trên quan hệ lợi ích kinh tế.

92

CHƯƠNG 4: BẢN HỘI ĐẠO MẪU: MÔI TRƯỜNG TÂM LINH TRAO QUYỀN LỰC VÀ THỂ HIỆN QUYỀN LỰC CỦA “NHỮNG KẺ BỊ LOẠI TRỪ”

Trong chương này, tôi sẽ trình bày các vấn đề về giới và quyền lực giới của

các thành viên tham gia bản hội- những người mà tôi gọi là “những kẻ bị loại trừ”

để tiếp tục phân tích đặc trưng nổi bật thứ hai của bản hội Đạo Mẫu. Trình bày

chương này cũng nằm trong mong muốn của tôi về việc kết nối đặc trưng này của

bản hội với vấn đề về tạo lập vốn xã hội của các thành viên của nó. Việc là môi

trường tâm linh của những người cùng gặp các vấn đề về giới và trao quyền lực cho

họ đã làm cho bản hội trở thành một môi trường mà “những kẻ bị loại trừ” khi gia

nhập bản hội có cơ hội kết nối với những người cùng thân phận, đồng cảnh ngộ tạo

nên nguồn vốn xã hội cho họ.

4.1 Bản hội Đạo Mẫu: môi trường tâm linh của “những kẻ bị loại trừ”

4.1.1 Quan niệm về “những kẻ bị loại trừ”

Một số nhà nghiên cứu về tôn giáo thường sử dụng cụm từ “những kẻ bị loại

trừ” như một cách để nói về đặc điểm của nhiều tín đồ theo một số tôn giáo, tín

ngưỡng. Theo đó “bị loại trừ” có nghĩa là bị xa lánh, bị miệt thị, bị tách biệt , “gạt ra

rìa” cái cộng đồng/nhóm/xã hội mà họ là một yếu tố cấu thành. Nhưng vì sao một ai

đó/một nhóm người nào đó lại bị cộng đồng/xã hội nơi anh ta/chị ta hiện hữu gạt ra

rìa? Có nhiều nguyên nhân mà khó có thể kiệt kê ra hết bởi việc liệt kê này không

thể thể hiện hết được sự đa dạng của các nguyên nhân đó. Có thể, họ là người yếu

thế trong một xã hội trọng quyền; có thể là kẻ tụt hậu so với những tiến bộ của cộng

đồng; cũng có thể họ là một kẻ dị biệt theo nhiều cách khác nhau (dị biệt về giới

tính, về văn hóa đạo đức…so với khuôn mẫu mà xã hội đó dựng nên để kỳ vọng

vào những người trong cộng đồng đó…). Chẳng hạn, một người phụ nữ chửa hoang

được coi là một kẻ bị loại trừ khỏi cộng đồng làng xóm nơi cô ta đang cư ngụ. Bởi

theo khuôn mẫu về đạo đức mà xã hội phong kiến Nho giáo, tục lệ của làng quê đã

đặt ra cho cô ta là phải công, dung, ngôn, hạnh, trong đó cái tiết hạnh là phẩm giá

hàng đầu (Trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh làm câu răn mình).

Nhưng cái việc chửa hoang rõ ràng là đã phá vỡ khuôn mẫu đạo đức Nho giáo đối

với người phụ nữ, làm vấy bẩn và hoen ố danh dự gia đình, dòng tộc, xóm làng. Vì

thế, cô ta bị cộng đồng loại trừ bằng nhiều cách: gọt đầu, bôi vôi diễu đi khắp làng

thậm chí cô ta bị chính cộng đồng của mình bỏ rọ ném xuống sông hoặc đóng

thuyền thả trôi trên sông đến chết mặc cho nắng mưa, chim quạ rỉa rói thân xác. Vì

93

thế, câu chửi nặng nề nhất thể hiện “sự bị loại trừ” đau đớn nhất đối với người phụ

nữ trong xã hội phong kiến là “đồ quạ mổ”.

Mỗi xã hội/cộng đồng khác nhau và trong những giai đoạn khác nhau sẽ có

những kẻ bị loại trừ theo những cách khác nhau. Chẳng hạn, có những kẻ bị loại trừ

trên bình diện kinh tế, bị gạt ra bên lề sự thay đổi kỹ thuật, nghèo, sống tạm bợ; có

những kẻ bị loại trừ trên bình diện chính trị- xã hội, việc làm không ổn định, không

được bảo hiểm xã hội đúng mức và không có tiếng nói chính trị, không có chỗ đứng

trong cộng đồng…Về văn hóa, họ có thể là kẻ bị loại trừ khỏi kiến thức, loại trừ

khỏi ngưỡng cửa thông tin, khỏi các yếu tố của xã hội hiện đại, thậm chí bị loại trừ

khỏi quyền được sống theo đúng bản sắc cá nhân và bản sắc cộng đồng…

“Những kẻ bị loại trừ” thường mang trong mình những những mặc cảm, tự

ti, thậm chí cảm thấy họ như kẻ lạc loài, bơ vơ trong chính cộng đồng của mình và

vì thế họ bị tổn thương sâu sắc. Trong hoàn cảnh như vậy, họ cần tìm kiếm và co

cụm tìm niềm vui sự sẻ chia của những người đồng cảnh, nhiều trong số họ đã đến

với tôn giáo tín ngưỡng như một liều thuốc xoa dịu nỗi đau tinh thần và lấy đó làm

thành trì trong sự đối chọi với những kẻ đã loại trừ họ bởi như các nhà Macxit đã

nói tôn giáo là “thuốc phiện của nhân dân”, “là thứ rượu tinh thần”, “là bông hoa

nở trên xiềng xích”…

Đạo Mẫu, một tín ngưỡng có cội nguồn từ căn tính cổ truyền dân tộc lựa

chọn lối sống theo nguyên lý Mẹ, được phát triển từ tín ngưỡng thờ Mẹ có thể coi là

một tín ngưỡng thâu nhận “những kẻ bị loại trừ”. Và bản hội- không gian thiêng gắn

liền với các đền phủ thờ Thánh Mẫu chính là không gian để “những kẻ bị loại trừ” với

đầy những cảnh đời, những thân phận ngang trái ở các mức độ và hình thức khác nhau

từ góc nhìn giới thỏa sức bộc lộ cảm xúc, khả năng và quyền lực trong mối giao tiếp

với thần linh và con người.

4.1.2 “Những kẻ bị loại trừ” trong bản hội Đạo Mẫu

Khi tiến hành điền dã và phỏng vấn các thành viên bản hội Đạo Mẫu, trong

đó trọng tâm là phỏng vấn các thành viên bản hội Phúc Minh từ, tôi nhận thấy, bản

hội chính là không gian của “những kẻ bị loại trừ”. Sẽ là rất sai lầm nếu nói rằng tất

cả các thành viên trong bản hội Đạo Mẫu đều là “những kẻ bị loại trừ” và bản hội

hoàn toàn là môi trường tâm linh của “những kẻ bị loại trừ”. Bởi qua những quan

sát nhiều bản hội hiện nay của tôi cho thấy, bản hội bao gồm cả những thành viên

có chức quyền, địa vị xã hội, những người với cuộc sống gia đình hạnh phúc và

sung túc về vật chất…Tuy nhiên, có thể nói, phần đông những thành viên trong bản

94

hội Đạo Mẫu (đặc biệt là với bản hội Phúc Minh từ mà tôi nghiên cứu) là những

người mà cuộc sống của họ gặp quá nhiều vấn đề. Những người này, dù là phụ nữ

với đủ các trình độ học vấn, nghề nghiệp và đời sống vật chất khác nhau; dù là

những người đàn ông hay là những người thuộc giới tính thứ ba thì nhiều người

trong số họ là “những kẻ bị loại trừ” ở một phương diện nào đó, do những nguyên

nhân nào đó. Hai câu chuyện dưới đây phản ánh điều này:

Câu chuyện thứ nhất: Trinh sinh năm 1986, làm nghề cắt tóc gội đầu có một tuổi thơ gần

như không cha không mẹ bởi bố em mất từ khi em lên 3 còn mẹ thì đi bước nữa, em phải ở

cùng ông bà ngoại. Năm 17 tuổi, Trinh lấy chồng rồi sinh con gái đầu lòng. Nhưng từ khi

sinh con xong cũng là lúc cuộc đời có nhiều trắc trở. Mọi người thường gọi Trinh là “Trinh

ma” bởi Trinh “liên tục bị vong nhập. Em đi ra chợ em cũng bị vong nhập” và điều đó gây

cho em một sự sợ hãi đến nỗi em không dám ra đường. Trong khi Trinh vô cùng sợ hãi thì

người chồng đáng lẽ phải đầu gối tay kề chia sẻ cùng vợ lại “nghiện ngập và gái gú” suốt

ngày để mặc em trong nỗi sợ hãi. “Người ngoài thì nhìn em như kẻ bị điên. Nhiều lúc em

uất ức lắm chị ạ”. Rồi “chuyện nọ xọ vào chuyện kia: chuyện gia đình rồi sức khỏe, tiền

nong, công việc các kiểu, tự nhiên nó rối hết lại”. Trinh bị ốm và nằm viện suốt nhưng “em

ốm như kiểu giả vờ ấy. Em ở nhà thì em bị đau tim, đau tim thì em vào bệnh viện thì em

không bị làm sao nữa. Em đi loanh quanh trong viện em chơi. Xong về nhà lại bị. Cứ như

thế thường xuyên hai năm trời ”. “Cuối cùng bắt buộc phải tìm thầy” (Phỏng vấn em

Trinh, nữ, 29 tuổi)

Câu chuyện thứ hai: Tâm là một hầu dâng trẻ của thầy Xuyên. Tôi nói chuyện với Tâm

lần đầu tiên khi đến bản điện Phúc Minh từ và gặp Tâm mua xiêm y mới khoác cho Thánh

Mẫu như một cách tạ lễ vì theo Tâm Thánh Mẫu đã báo mộng để Tâm trúng lô đề. Tâm kể

cho tôi nghe bằng giọng điệu rầu rầu: “chúng em là những người thiệt thòi chị ạ”. Tâm biết

mình không phải là người đàn ông thực thụ vào năm lớp mười khi cảm thấy nhớ thương

một bạn nam trong lớp. Từ đó bắt đầu một chuỗi ngày lo sợ hoảng loạn mà không thể tâm

sự cùng ai, kể cả gia đình mình. Hàng ngày đi học Tâm phải chịu đựng những lời chọc

ghẹo pêđê của bạn bè. Hết cấp ba Tâm không thi vào đại học như những bạn cùng trang lứa

mà lựa chọn nghề trang điểm, bởi “em rất thích, với lại em thấy em có năng khiếu trang

điểm đẹp”. Cũng chính vì lựa chọn này mà Tâm và bố mẹ mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn trở

nên căng thẳng hơn khi Tâm nói thật giới tính của mình với bố mẹ và đã bị đuổi ra khỏi

nhà. Tâm thuê một căn phòng nhỏ để ở và làm công việc trang điểm cho các đám cưới. Cơ

duyên đã đưa em đến với nghề trang điểm cho những người hầu đồng và bản thân em cũng

được thầy Xuyên trình đồng mở phủ cho. Sau khi là con đồng của thầy Xuyên, Tâm xin

thầy Xuyên cho về ở cùng. Không chỉ vậy, Tâm còn rất khó khăn trong việc tìm kiếm bạn

đời. Tâm kể đã từng yêu một anh có vợ nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi chia tay.

“Những người đồng tính chẳng bao giờ chung tình chị ạ”. Sự chia tay với người yêu khiến

nhiều lần Tâm định uống thuốc tự tử (Phỏng vấn Tâm,, 25 tuổi) Những câu chuyện kể trên chỉ là hai trong số rất nhiều những câu chuyện kể

về hoàn cảnh sống, thân phận của những thành viên trong bản hội Đạo Mẫu. Mặc

95

dù chúng không phản ánh hết độ phong phú và đa dạng nhưng đã gợi mở cho chúng

ta thấy phần nào hoàn cảnh bị loại trừ của nhiều thành viên bản hội.

Có thể nói, các thành viên bản hội Đạo Mẫu bị loại trừ, bị yếu thế bởi nhiều

nguyên nhân khác nhau trong đó đầu tiên phải kể đến là do họ có một đời sống tâm

sinh lý đặc biệt. Thông qua các câu chuyện cuộc đời, nhiều thành viên bản hội đã kể

về sự đặc biệt trong đời sống tâm sinh lý của họ, về việc họ hay nhìn thấy ma; họ

được một vị thần nào đó đưa sang một thế giới khác; về việc họ được Thánh dạy

viết chữ Nho và làm thơ, soi bói; ở việc họ tự tuyên bố mình là một vị Thánh nào

đó; ở cả việc họ bị ốm dở, kết tóc và thậm chí bị điên. Trong những nghiên cứu của

Nguyễn Thị Hiền (2004), Ngô Đức Thịnh (2008), Nguyễn Ngọc Mai (2011), họ

được miêu tả như những người mắc các chứng bệnh về tâm lí, “có những người mơ

gặp thần thánh, nhìn thấy rắn, đỉa, hay là mơ bay bổng đến một thế giới vô hình

khác. Họ có thể bị kết tóc, tức là tóc của họ bị tết và bết lại mà không rõ lí do. Họ

có thể bị điên, đi lang thang và nói nhảm nhí” [41; tr299-300]. Theo cách giải thích

của các tín đồ Đạo Mẫu thì sở dĩ họ gặp các hiện tượng tâm sinh lý trên là bởi họ có

căn sao số đầy hoặc có số phải làm việc Thánh phục vụ bách gia trăm họ. Tuy

nhiên, những người ngoài xã hội, thậm chí cả những người thân trong gia đình của

họ- những người được coi là bình thường lại luôn cho rằng họ là những kẻ điên rồ,

đồng bóng, dở hơi và loại trừ họ ra khỏi cái nhìn về một con người bình thường.

Câu chuyện về em Trinh kể trên đã cho thấy rất rõ việc em nhìn thấy ma ở khắp mọi

nơi, bị ốm đi bệnh viện mà chẳng phát hiện ra bệnh gì khiến mọi người cho rằng em bị

điên và loại trừ em ra khỏi thế giới của những người bình thường như thế nào. Những

hoàn cảnh, thân phận như em Trinh là những hoàn cảnh, thân phận khá phổ biến ở bản

hội Phúc Minh từ cũng như nhiều bản hội khác. Tôi đã từng nghe một thanh đồng

trong một bản hội khác ở Nam Định kể về việc em bị bắt sát và rất nhiều lần nằm lăn ra

đất, tự bóp cổ mình đến sùi bọt mép. Cả gia đình và cộng đồng làng xóm nơi em sinh

sống đều cho rằng em bị điên đến mức gia đình em bắt em đi chụp cắt lớp não ở bệnh

viện Bạch Mai. Nói chung, nhiều thành viên bản hội do những vấn đề tâm sinh lí nên

đã bị cộng đồng gia đình và xã hội loại trừ ra khỏi cái nhìn về một con người bình

thường, bản thân họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm sự chia sẻ, đồng cảm

từ các mối quan hệ.

Bản hội còn là không gian của “những kẻ bị loại trừ” – những người thuộc

giới tính thứ ba, những người ái nam ái nữ chưa được xã hội định cho chiếc hộp

giới với những khuôn mẫu giới nào. Rất nhiều nền văn hóa có sự phân chia giới

96

thành hai khuôn mẫu giới, tức “những hình ảnh lý tưởng về nam tính hay nữ tính,

dùng để nhìn nhận một con người dựa trên sự tổng hợp đơn giản các thuộc tính của

nhóm, của giới mà người đó quy thuộc” [94; tr45]. Phạm Quỳnh Phương (2013)

[94] đã ví von rất thú vị về hai khuôn mẫu giới này như là hai chiếc hộp giới và trên

hai chiếc hộp đó được dán những tiêu chí về giới xuất phát từ sự mong đợi, sự kỳ

vọng của xã hội. Dường như mỗi một xã hội khác nhau sẽ có những mong đợi và sự

kì vọng khác nhau tạo nên những chiếc hộp giới không giống nhau.

Xã hội Việt Nam từ bao đời nay cũng phân chia giới thành hai khuôn mẫu

như vậy. Người ta quen nhìn đã là một người đàn ông thì phải độc lập, mạnh mẽ,

nóng nảy, quyết đoán và có chỗ đứng ngoài xã hội; đã là đàn bà thì sẽ là người yếu

đuối, phụ thuộc, do dự, nhẫn nhịn, thủy chung và thích hợp với việc nhà. Nhưng cái

việc, những người ái nam ái nữ- những người chẳng giống đàn ông cũng chẳng

giống đàn bà, những người thân xác là đàn ông nhưng lại biểu lộ hành vi và cử chỉ

của đàn bà, những người không thích người dị tính mà lại thích người đồng tính rõ

ràng là những kẻ khác biệt với hai chiếc hộp giới về đàn ông và đàn bà. Do vậy, xã

hội Việt Nam nhìn họ như những kẻ lập dị, những kẻ biến thái, tởm lợm, loại trừ và

kì thị họ. Câu chuyện em Tâm kể về việc bị bố mẹ đuổi ra khỏi nhà và không chấp

nhận sự thật về giới tính của em chính là một ví dụ tiêu biểu cho việc những người

thuộc giới tính thứ ba bị loại trừ như thế nào. Không chỉ Phúc Minh từ mà rất nhiều

bản hội khác cũng chính là không gian của những người ái nam ái nữ (phần đông là

những người nam ái nữ- những đồng cô).

Bản hội cũng là không gian của “những kẻ bị loại trừ”- những người có cuộc

sống khốn khó với rất nhiều rủi ro, đau khổ về hoàn cảnh gia đình; sự thất bại trong

nghề nghiệp; sự bấp bênh trong đời sống kinh tế. Họ có thể bị loại trừ khỏi một

cuộc sống sung túc về kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật; cũng có thể bị loại

trừ khỏi quan niệm của xã hội về một người phụ nữ hạnh phúc hay một người đàn

ông thành đạt…Những cảnh đời như bị chồng phản bội như em Trinh, gia đình ly

tán như chị Thắm; mất chồng mất con như chị Nhàn; “cô đơn toàn tập” cho đến già

như bà Trà…là những cảnh đời phổ biến trong bản hội Đạo Mẫu.

4.2 Bản hội Đạo Mẫu: không gian trao quyền lực và thể hiện quyền lực.

4.2.1 Thiết chế bản hội với việc trao quyền lực và thể hiện quyền lực có thật.

Quyền lực có thật của đồng Thầy

Quyền lực nói chung muốn vận hành được phải có các thiết chế. Ví dụ cụ thể

là, một ông giám đốc, chỉ thể hiện quyền lực của mình khi ông ta được gắn liền với

một công ty có một cơ cấu tổ chức các phòng ban và các vị trí nhân sự cụ thể. Cũng

97

như vậy, quyền lực của đồng Thầy được biểu lộ rõ nét nhất khi quyền lực đó gắn

liền với “thiết chế” bản hội. Vậy quyền lực của đồng Thầy được thể hiện như thế

nào qua bản hội?

Với vai trò là người thiết lập và duy trì sự tồn tại, phát triển của bản hội,

đồng Thầy có quyền lực trong việc dẫn dắt và “áp đặt” những chuẩn mực lên các

con nhang đệ tử. Nhiều thành viên trong bản hội của thầy Xuyên thường nhắc tới

một câu nói “người đi trước rước kẻ đi sau” khi tôi hỏi vị trí của đồng Thầy trong

mối quan hệ với họ. Đồng Thầy là người đã đến với Đạo Mẫu trước, người đã trải

qua quá trình tu dưỡng, được Thánh dạy và đã thông tường việc thực hành nghi lễ,

vì vậy, đồng Thầy có quyền lực trong việc dẫn dắt các đệ tử- những “kẻ đi sau”. Tôi

đã nhìn thấy, có những đệ tử vừa bước chân vào thế giới hầu đồng, trên chiếu hầu,

mọi thứ vẫn còn lóng ngóng, thầy Xuyên ngồi bên cạnh và chỉ dẫn cho họ những

việc cần làm, chẳng hạn, ra dấu ra sao để mọi người biết vị Thánh nào đã nhập vào

người họ; nhún chân, múa hèo múa kiếm thế nào; và cả những biểu cảm trên khuôn

mặt thế nào cho phù hợp với tính cách của những vị Thánh nhập vào họ… Quyền

lực dẫn dắt của đồng Thầy đối với các đệ tử còn được thể hiện rất rõ qua “chuẩn

mực” trình giầu. Tôi gọi là “chuẩn mực” bởi đây là điều bắt buộc mặc dù bất thành

văn. Trong giới hầu đồng quy định, tất cả những người trình đồng mở phủ trong 3

năm đầu phải đi trình các cửa để “Cha biết mặt, Mẹ biết tên”, trong các chuyến đi

đến các đền to phủ lớn đó bắt buộc phải có đồng Thầy dẫn dắt. Những trải nghiệm

ma lực của đồng Thầy cũng khiến họ còn có quyền lực trong việc diễn giải những

giấc mơ, những điều kì lạ mà các đệ tử của họ gặp phải…

Bên cạnh quyền lực dẫn dắt con nhang đệ tử theo những chuẩn mực bất

thành văn của nhà Thánh như tôi nói ở trên, với tư cách là người thành lập và “sở

hữu” bản hội, đồng Thầy có quyền lực trong việc áp đặt những chuẩn mực riêng do

mình đề ra cho các thành viên trong bản hội. Chẳng hạn, việc một năm các tín đồ

bắt buộc phải có mặt ở điện nhà đồng Thầy để tổ chức các vấn hầu nhân dịp đầu

năm, vào hè, ra hè và cuối năm vào những ngày nào, đóng góp là bao nhiêu hay giá

cả của nghi lễ trình đồng mở phủ, các nghi lễ khác như thế nào… là do đồng Thầy

đặt ra, áp xuống và tất cả các tín đồ phải thực hiện. Nhiều khi, những chuẩn mực

riêng được đồng Thầy áp đặt cho bản hội thực hiện lại được họ lý giải đó chính là

khải thị của thần thánh, thần thánh đã truyền âm cho đồng Thầy và đồng Thầy lại

truyền xuống cho con nhang đệ tử của mình. Tôi đã được thầy Xuyên nhờ ghi âm

lại những lời thầy phát biểu trước các thành viên bản hội trong một vấn hầu đầu

năm 2013, trong bài phát biểu này, thầy Xuyên đề cập đến những quy định của bản

98

hội về việc các thành viên bản hội phải yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết,

phải tu dưỡng, phải hiểu phép tắc như thế nào và sau đó thầy nói với tôi rằng sở dĩ

thầy nhờ tôi ghi âm là bởi vì lúc đó không phải là lời của thầy mà là lời Thánh

truyền. Ví dụ này, một lần nữa cho thấy, mối quan hệ giữa đồng Thầy với thần linh

đã khiến họ trở thành người có ma lực và ma lực này đã khoác chiếc áo quyền lực

cho họ trong mối quan hệ với các đệ tử.

“Quyền lực ma lực luôn luôn bắt đầu với sự trực tiếp của những sự kiện có thực

trong đó một người ở vào trạng thái biến đổi của nhận thức, thực hiện một điều

thần diệu rõ ràng, cố gắng tới những giới hạn anh hùng, những sự kiện này tạo nên

một ấn tượng mạnh mẽ đối với chính bản thân người thực hiện và người chứng

kiến” [13; tr404]. Tuy nhiên, quyền lực của đồng Thầy trong bản hội Đạo Mẫu

nhiều khi không chỉ được biểu hiện bằng những hành động và việc làm “thần diệu”

mà còn có thể được cảm nhận thông qua ngôn ngữ cơ thể và ngôn ngữ lời nói.

Nhiều đồng Thầy đã thể hiện quyền uy của mình qua đôi mắt sắc lạnh, qua sự “ăn to

nói lớn”, quát tháo các con nhang đệ tử… Còn các con nhang đệ tử lại thể hiện sự

phục tùng thứ quyền lực của ma lực này thông qua sự sợ hãi, cả sự sùng kính, qua

cách xưng hô thưa bẩm, dạ vâng. ..và qua cả những việc làm thể hiện sự phục tùng

vô điều kiện. Lời tâm sự của một thành viên bản hội Phúc Minh từ sau đây là bằng

Nhiều khi đến nhà Thầy, thấy có việc gì là chị lao vào làm như con thiêu thân. Ở nhà chị sướng lắm

chứ, có con cái phục vụ, lại có cả người giúp việc nữa. Thế nhưng đến nhà thầy, thấy nhà cửa bẩn

thỉu luộm thuộm, chị lại quét dọn, thậm chí còn đánh cả nhà tiêu nữa. Chị làm như vậy không phải

để được thầy khen, không phải vì cái gì mà là để thể hiện cái tâm của mình đối với thầy. Mỗi khi đi

đâu, bọn chị thường xách túi cho thầy, trước khi thầy ngồi bọn chị phải lau ghế cho thầy, bọn chị

làm như vậy để mọi người cũng phải kính trọng thầy của bọn chị. Để mọi người nghĩ rằng, thầy phải

là người như thế nào thì trò mới như thế chứ. (Phỏng vấn chị Mến, 53 tuổi) Sự thú vị là ở chỗ: quyền lực của đồng Thầy trong bản hội Đạo Mẫu là thứ

chứng cho điều này:

quyền lực kép. Trước hết, thiết chế bản hội đã trao quyền và tạo điều kiện cho đồng

Thầy thể hiện quyền lực với tư cách là một thủ lĩnh tâm linh của các con nhang đệ

tử. Tuy nhiên, như đã đề cập đến ở chương 3, khi bản hội không đơn thuần là cộng

đồng tâm linh mà còn là một cộng đồng kinh tế thì quyền lực của đồng Thầy còn

được thể hiện là quyền lực giữa chủ và người làm thuê, người giúp việc, người cung

ứng các nhu cầu cần thiết. Cụ thể, để vận hành được các dịch vụ tâm linh trong bản

hội, đồng Thầy phải nhờ đến sự giúp đỡ của các chấp tác (thực chất là thuê những

người này làm các công việc nấu ăn, sắp lễ…), thuê cung văn, thuê pháp

sư…Quyền lực của đồng Thầy với những người này là quyền quyết định thuê hoặc

99

không thuê họ và nhiều khi cung văn, pháp sư phải tìm cách lấy lòng các đồng Thầy

để được đồng Thầy “hợp tác dài lâu”…

Quyền lực của đồng Thầy có sự khác biệt so với quyền lực của những người

đứng đầu các tổ chức xã hội khác như trường học, bệnh viện, công an… Quyền lực

của đồng Thầy là quyền lực ma lực, một thứ quyền lực tâm linh; trong khi đó quyền

lực của những người đứng đầu các tổ chức xã hội khác được gọi là quyền lực xã

hội. Quyền lực tâm linh có được thông qua sự giao tiếp với thế giới linh thiêng,

được thần linh ban cho những năng lực đặc biệt trong khi đó quyền lực xã hội là

quyền lực được trao bởi xã hội, bởi nhà nước và pháp luật. Quyền lực tâm linh của

đồng Thầy được thực thi bởi sự khải thị của thần thánh trong khi đó quyền lực của

những người đứng đầu các tổ chức xã hội lại thực thi bởi những quy định về quyền

hạn và chức vụ của bộ máy hành chính. Cuối cùng, quyền lực xã hội là quyền lực

chính thống, được chấp nhận của luật pháp nhà nước còn quyền lực của đồng Thầy

là quyền lực mang tính dân gian và chỉ có giá trị đối với những người thực hành

nghi lễ Đạo Mẫu.

Quyền lực của một số cá nhân khác trong bản hội.

Thiết chế bản hội trao quyền lực tối cao cho đồng Thầy nhưng đồng thời cũng

trao quyền lực ở mức độ nhất định cho những người khác. Những người này mặc dù

ở ngoài xã hội có thể là những người bị thất bại trong sự nghiệp, là người đàn ông

yếu thế trong gia đình, người đồng tính bị kì thị và “bị loại trừ”, người ốm đau bị cho

là điên khùng…nhưng khi ở trong bản hội họ có cơ hội được trao quyền lực và thể

hiện quyền lực. Những người đó là ai? Trước hết họ là người nắm giữ các vị trí then

chốt trong bản hội như đồng trưởng, người đứng đầu đội chấp tác hoặc các nhóm

trưởng. Chẳng hạn, đồng trưởng là người có quyền lực chỉ đứng sau đồng Thầy.

Người này là người thừa lệnh của đồng Thầy và triển khai các hoạt động tới các con

nhang đệ tử. Khi đồng Thầy đi vắng, người đồng trưởng được đồng Thầy trao quyền

quán xuyến bản hội, lời của đồng trưởng được các thành viên khác xem như là ý

nguyện của đồng Thầy. Cũng như đồng Thầy, đồng trưởng nhận được sự kính trọng

của các thành viên bản hội. Một người nữa cũng có quyền lực trong bản hội đó là

trưởng nhóm chấp tác, với bản hội Phúc Minh từ thì vị trí này thuộc về anh Thú. Bản

thân anh cho rằng, đây là vị trí không phải ngẫu nhiên anh có mà nó là thành quả làm

việc vất vả, nhiệt tình, trung thành cộng với độ “tinh quái” trong công việc của anh và

đã được đồng Thầy thừa nhận “cất nhắc”. Anh kể với tôi về việc 14 năm làm chấp tác

100

tại điện nhà đồng Thầy và tiến trình từng bước anh trở thành trưởng nhóm chấp tác:

ban đầu anh chỉ được thuê để làm chân đốt mã, sau đó anh được vào nấu bếp (anh

khoe với tôi anh có biệt tài ngửi mùi thức ăn và nấu ăn rất ngon), từ bếp anh được ra

phục vụ ban công đồng (theo anh thì được phục vụ ban công đồng là vị trí tốt nhất

trong các công việc chấp tác). Với quá trình làm việc lâu dài tại bản điện, cộng với độ

“tinh quái” như anh tự hào, anh Thú thuộc làu làu các nghi lễ trong Đạo Mẫu, các

bước thực hiện, các lễ mặn, các đồ mã cũng như mua những thứ này ở đâu, thuê ở

đâu…Vị trí công việc cùng với sự hiểu biết về tâm linh của mình khiến anh Thú có

quyền lực: quyền được điều khiển những người chấp tác dưới mình, quyền các con

nhang đệ tử đến làm lễ phải phụ thuộc vào anh. Chẳng hạn, khi đến bản điện cần biết

các vấn đề gì, làm lễ ra sao, thậm chí gửi tiền cho đồng Thầy thế nào sau khi được

đồng Thầy soi bói…các tín chủ và con nhang đệ tử cũng phải hỏi anh Thú. Tiếp đó

khi được đồng Thầy làm lễ, tất cả việc chuẩn bị từ đồ lễ mặn ngọt hay đồ mã sắp xếp

thế nào…cũng do một tay anh Thú quán xuyến. Đôi khi tôi bắt gặp những tín chủ đến

làm lễ tại bản hội phải cố gắng nói ngon ngọt với anh Thú để anh vừa lòng, anh sắp lễ

cho đúng cho đẹp như vậy nghi lễ sẽ hiệu nghiệm và thần thánh sẽ không quở phạt

họ. Bởi theo quan niệm của các tín đồ Đạo Mẫu thì “Phật từ bi, Thánh một li cũng

chấp” nên tất cả các khâu của nghi lễ để phục vụ Thánh phải tỉ mỉ, chi tiết và chính

xác. Không chỉ có quyền lực trong mối quan hệ với các con nhang đệ tử, đôi khi anh

Thú còn có quyền lực ngược lại với đồng Thầy, bởi như anh tự hào: “Thầy bây giờ

mà không có một tay anh lo liệu mọi thứ thì có mà khóc tiếng mán. Bởi vì bây giờ

thầy bận, thầy có để ý gì đâu. Đến cắt sao giải hạn, anh phải chuẩn bị từng đồng xu,

từng con dao, cái bát…”.

Không phải chỉ có những người có vị trí trong thiết chế bản hội mới được trao

quyền lực mà những người được đồng Thầy yêu quí cũng là những người có quyền

lực. Không hẳn những người giàu sang, tặng quà nhiều và đắt tiền mới là những

người được đồng Thầy yêu quí. Họ có thể chỉ là những người tinh tế, thấu hiểu tâm

tư, sở thích …của đồng Thầy và lâu dần trở thành người gần gũi gắn bó với đồng

Thầy như trong bản hội Phúc Minh từ là em Hưng. Người ta luôn luôn thấy sự song

hành của Hưng trong những công việc cũng như trong các chuyến đi lễ xa, trong các

cuộc giao lưu giữa các bản hội, các cuộc tọa đàm khoa học về nghi lễ chầu văn mà

đồng Thầy Xuyên tham gia. Luôn sát cánh cùng đồng Thầy, xách túi, cầm Ipad, kiêm

luôn cả việc chụp ảnh, đăng ảnh lên facebook để “check in” hình ảnh đồng Thầy mọi

101

nơi mọi lúc…Hoặc cũng có thể họ chỉ là người biết làm đẹp, biết làm thỏa mãn tâm lí

thích làm đẹp, thích được khen đẹp của những đồng Thầy “đồng bóng” như Tâm

hầu dâng một người ái nam ái nữ mà tôi đã nhắc ở trên. Có thể nói, chính tình yêu

mến và sự gần gũi với đồng Thầy đã trao cho những người như em Hưng hay em

Tâm một thứ quyền lực, những người khác trong bản hội cũng phải kính nể, thậm chí

tìm cách lấy lòng họ để được gần gũi hơn với đồng Thầy.

4.2.2 Không gian thờ phụng, hoạt động nghi lễ của bản hội với việc trao

quyền lực và thể hiện quyền lực ảo.

Không gian thờ phụng của bản hội với việc trao và thể hiện quyền lực của

giới nữ

Có thể nói, không gian này được thể hiện từ kiến trúc điện cho đến trang trí

trong điện thờ. Mỗi một bản hội bao giờ cũng có chốn tổ của nó, chốn tổ ấy chính là

điện thờ tư gia hoặc đền, phủ.. Xét về kiến trúc bên ngoài, đền, phủ Đạo Mẫu bao

giờ cũng được xây dựng cạnh nguồn nước như dòng sông, con suối, cái hồ, cửa biển33… để tạo yếu tố âm cho điện thờ. Cửa của các điện thờ Mẫu thường hướng ra

nguồn nước những mong tụ thủy tụ phúc. Song nếu không có nguồn nước tự nhiên

thì khi xây dựng điện thờ Mẫu người ta phải nhân tạo theo đúng thuật phong thủy

của người xưa, cụ thể người ta sẽ đào ao, hồ trước điện Mẫu hoặc đơn giản hơn

người ta tạo hòn non bộ với những hòn đá lô xô trong nước… Việc trang trí bên

trong điện thờ cũng cho thấy đây rõ ràng là không gian dành cho phụ nữ với rất

nhiều nón, nhất là nón quai thao bên cạnh hài, thuyền, đèn lồng …với các màu sắc

rất sặc sỡ, phù hợp với tâm lý làm duyên làm dáng của nữ giới. Sự sắp xếp không

gian bên trong của điện thờ cũng là sự thể hiện ý tưởng quyền lực nữ giới với ba

tầng: tầng trên không (đôi rắn thần được gọi tên thanh xà và bạch xà- tính nữ); tầng

ngang là một dãy nhiều ban bệ cao dần lên là nơi ngự của các Thánh Mẫu và các

chư vị thần linh (trong đó thường vị trí chính điện là Mẫu Đệ Nhất mặc áo đỏ, Mẫu

Đệ Nhị mặc áo xanh, Mẫu Đệ Tam mặc áo trắng); tầng hạ ban bao giờ cũng thờ ông

Năm Dinh (tức Thánh Ngũ hổ tướng quân, biểu tượng đất, núi). Vũ Thị Tú Anh đã

Nhìn lại ba tầng của điện Mẫu mang tính nữ (âm) với sự bài trí đó, phải chăng đã

hàm ý, chủ ý bắt những người đang hiện diện trước điện Mẫu, bất cứ là ai, ở cương

vị xã hội như thế nào- cũng phải ngẩng mặt lên để nhớ về dòng sông Mẹ (biểu

33 Ví như Phủ Tây Hồ (cạnh hồ Tây), đền Cờn ở Nghệ An (hướng ra cửa biển), điện Hòn Chén ở Huế (cạnh Sông Hương), đền Bắc Lệ ở Lạng Sơn (cạnh con suối)…

phát hiện ra ý nghĩa đặc biệt của kiến trúc điện thờ này:

102

tượng rắn), cúi mặt nhìn Đất Mẹ (biểu tượng hổ- thổ, đất) với nước về tưới mát sẽ

sinh sôi nảy nở muôn loài, vạn vật. Và phía trước là các Mẹ/Mẫu oai linh tôn

nghiêm mà nhân từ sáng thế, bao dung nhuần thấm tất cả, gợi nhắc tất cả, đang

hiện hữu giữa đời thường, trong đục, tối sáng. Đó là một sự lan tỏa, thẩm thấu chan

hòa vào lương tâm vốn thánh thiện của con người để thanh lọc tự nhiên- một quyền

lực ảo nhưng đem lại những giá trị thật, có quyền năng vô lượng trong việc điều

tiết xã hội [6; tr695]

Trung tâm của điện thần là Thánh Mẫu Liễu Hạnh- vị Thánh toàn năng và

quyền lực nhất trong các vị thần Đạo Mẫu. Phải đặt điện thần thờ Mẫu này và sự

hiện diện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh vào thế kỉ XVI- XVII-XVIII ở Việt Nam

chúng ta mới thấy hết được ý nghĩa của không gian thiêng, thần linh thiêng này

trong việc trao quyền lực và thể hiện quyền lực của người phụ nữ- những kẻ yếu

thế, những kẻ bị loại trừ trong xã hội phong kiến Nho giáo. Không phải ngẫu nhiên

nhân dân ta lại sáng tạo ra hình ảnh Mẫu Liễu, một vị Thánh hòa trộn trong mình

những yếu tố của cả Nho- Phật- Đạo. Không phải ngẫu nhiên nhân dân ta lại cho

Mẫu Liễu giỏi văn thơ chữ Hán, có thể đàm đạo với các danh sĩ; cũng không phải tự

nhiên họ lại tạo ra một Liễu Hạnh thoắt ẩn thoắt hiện, lúc biến thành con khỉ, lúc lại

con rắn khiến hoàng tử hay chọc ghẹo phụ nữ mê man bất tỉnh; lại càng không phải

ngẫu nhiên nhân dân ta cho Liễu Hạnh lúc biến thành bà già chữa bệnh cho dân, lúc

biến thành vị Thánh tài ba trừ bạo ngược bất bằng cứu dân. Tôi cho rằng sự xuất

hiện của Liễu Hạnh là sự biểu tượng hóa những mong đợi khát khao của người dân

đặc biệt là người phụ nữ ở những thế kỉ mà chế độ phong kiến ngày càng bộc lộ

những mặt trái của nó. Liễu Hạnh trở thành một biểu tượng đa nghĩa. Ở chương ba,

tôi đã đề cập đến Liễu Hạnh ở khía cạnh kinh tế như một vị linh thần phù hộ cho

hoạt động thương nghiệp đang phát triển. Ở đây, tôi đề cập đến khía cạnh chính trị-

xã hội của biểu tượng này. Rõ ràng, việc người ta cho Liễu Hạnh có tài văn thơ và

đàm đạo với các danh nho, ấy chính là tiếng nói đòi quyền bình đẳng nam nữ, là sự

đề cao tài năng của người phụ nữ vốn đang bị vùi lấp trong xã hội “trọng nam khinh

nữ”. Việc người ta cho Liễu Hạnh biến hóa khiến hoàng tử chết khiếp, ấy là tiếng

nói tố cáo đanh thép và trừng trị đích đáng cái xã hội thối nát đang chà đạp lên thân

phận người phụ nữ. Hay việc người ta cho Mẫu Liễu Hạnh trở thành vị Thánh tài ba

trừ bạo ngược, ấy chính là niềm khát khao về công lý của con người trong một xã

hội phong kiến “mặc lòng đổi trắng thay đen khó gì” (thơ Nguyễn Du). Liễu Hạnh

trở thành một biểu tượng của văn- nhân- trí-nghĩa-dũng trong lòng người, là niềm

103

tin, là sự chờ trông, là ánh sáng cho những hy vọng của con người. Bởi thế, những

người dân nhiều khổ đau, đặc biệt là người phụ nữ đến với điện thờ Mẫu, với Mẹ

Liễu Hạnh với một cảm giác của những đứa con trở về bên Mẹ để được chở che,

vuốt ve, an ủi, rồi lại được khích lệ, được tiếp thêm sức mạnh và năng lượng

sống…Hình tượng Liễu Hạnh là hình tượng có tính chất nêu gương: những người

phụ nữ đang yếu thế hãy ý thức được quyền lực của chính mình, sức mạnh và tài

năng của mình. Về phương diện chính trị, điện thờ Mẫu với vị thần chủ cao nhất là

Liễu Hạnh như là sự vùng dậy của người phụ nữ và tuyên chiến với gông cùm của

chế độ phong kiến phụ quyền.

Trải qua năm tháng, điện thần thờ Mẫu đã được bồi đắp thêm những lớp mới

với những ý nghĩa mới, song tôi cho rằng, sự hiện diện của Liễu Hạnh và ý nghĩa

của biểu tượng này vẫn không mất đi. Chế độ phong kiến không còn nữa, song

những tàn dư của chế độ phong kiến về “trọng nam khinh nữ” vẫn chưa tiêu biến

hẳn kèm theo đó là những áp lực quá lớn từ xã hội công nghiệp hiện đại khiến nhiều

người phụ nữ vẫn cần đến sự chữa trị về tinh thần. Tôi đã bắt gặp nhiều phụ nữ đến

bản điện Phúc Minh từ với những cảnh đời trái ngược: người thì cuộc sống vợ

chồng hạnh phúc nhưng lại ốm đau bệnh tật; người thì giàu có nhưng lại không

hạnh phúc…nói chung là rất nhiều người trong số họ là những người bị thất bại

hoặc yếu thế trong một lĩnh vực nào đó…và Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã cho họ thêm

niềm tin, truyền thêm sức mạnh cho họ để họ có thể thực hiện được quyền lực của

mình trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội.

Hoạt động nghi lễ của bản hội với việc trao và thể hiện quyền lực của

những kẻ bị loại trừ

Trong số nhiều hoạt động nghi lễ, lên đồng hầu bóng là hoạt động nghi lễ

quan trọng nhất. Nguyễn Ngọc Mai (2010) [78] qua quan sát tham dự cùng với

phỏng vấn 5 đồng Thầy, 15 đồng lính và 4 cụ từ đền của ba đền Cố Trạch, Thiên

Trường, Bảo Lộc cho thấy lên đồng hầu bóng hiện nay có ba hình thức chủ yếu là: hầu trình trầu34, hầu vui35 và hầu chứng đàn36. Dù là loại hình nào đi chăng nữa thì

34 Hầu trình trầu hay còn gọi là hầu trình. Đạo Mẫu có quy định, trong ba năm đầu sau khi trình đồng mở phủ, các thanh đồng phải đi trình trầu lần lượt ở tất cả các cửa Thánh, do đó họ cùng đồng Thầy luân phiên trong năm đi trình trầu ở tất cả các di tích có thờ Thánh Cha và Thánh Mẫu. 35 Hầu vui còn được gọi nhiều tên khác nhau tùy theo thời điểm được chọn để lên đồng hầu bóng: hầu khai đàn (đầu năm), hầu tạ (cuối năm), hầu mừng đồng (khi đã ra hầu Thánh lâu năm thường là từ 10-12 năm). 36 Hầu chứng đàn là một loại hình hầu giá đồng để Thánh hiển linh về chứng đàn lễ cho người có căn số. Hầu chứng đàn gồm có hai loại: hầu tiễn căn và hầu mở phủ.

hầu đồng cũng là một hình thức nhập hồn nhiều lần của các vị Thánh Tứ phủ vào

104

thân xác các ông bà đồng. Trong dân gian thường nhắc tới 36 giá đồng. Có thể nói,

36 giá đồng diễn ra giống như những thước phim tái hiện sự tích công trạng, tài

năng của các vị Thánh qua diễn xướng múa kiếm múa cờ múa quạt…nói chung đó

là “một rừng biểu tượng” về văn hóa dân tộc được hiện lên sống động. Nghi lễ hầu

đồng nói như Frank Proschan là “bảo tàng sống về văn hóa dân tộc” bởi nó lưu giữ

cái hồn đất nước được truyền đời. Song điều đáng quan tâm ở đây là, 36 giá đồng là

36 lần các Thánh thể hiện quyền lực, chính xác hơn là 36 lần Thánh trao quyền lực

cho các ông bà đồng và cho phép họ thể hiện cái quyền lực ấy trước người phàm

trần. Mỗi một lần Thánh giáng là mỗi lần Thánh trao quyền cho người hầu đồng và

sắc diện của người hầu đồng thay đổi để thể hiện các sắc thái quyền lực khác nhau.

Lúc thì họ tươi vui mãn nguyện trong cái cảm giác được ban phát tiền, lộc cho các

con nhang đệ tử, lúc thì họ lại trang nghiêm, đĩnh đạc để thể hiện cái quyền uy sang

trọng của ông Hoàng bà Chúa…Thông qua nghi lễ nhập hồn, những người thực

hành nghi lễ hầu đồng trong bản hội xuyên qua giới của mình để thể hiện quyền lực

của giới khác: những người đàn ông thể hiện quyền năng của người đàn bà, của

Thánh Mẫu, của Chầu bà, của các Cô ngược lại những người đàn bà lại thể hiện

quyền lực của người đàn ông, của các Quan, các ông Hoàng, các Cậu…

Có thể nói, mỗi lần Thánh nhập đồng là những phút giây đẹp đẽ, tươi sáng

đầy vinh quang trong cuộc đời của các ông bà đồng. Việc được Thánh trao quyền

lực và sống trong những phút giây quyền lực huy hoàng ấy thực sự đã đưa họ vào

một thế giới khác, một thế giới mà trong cuộc sống ngoài đời họ luôn khao khát,

chờ trông. Từ những người phụ nữ hèn kém, đau khổ trong sự chà đạp của người

chồng, từ những người phụ nữ gánh vác gia đình nhưng lại không nhận được sự tôn

trọng và bình đẳng, từ những người phụ nữ ốm đau yếu đuối, họ trở nên mạnh mẽ

khi được Thánh trao quyền lực. Theo Ngô Đức Thịnh (2014) [112], trong một số

trường hợp, có những người phụ nữ bị chồng bạo hành trong gia đình, khi đến trước

cửa Mẫu, họ được Mẹ/Mẫu trao quyền lực và “hành” lại người đàn ông kia. Điều

này cũng tương tự như câu chuyện mà em Trinh trong bản hội Phúc Minh từ đã kể

lại với tôi. Em nói rằng, chồng em là kẻ nghiện ngập, không những thế còn gái gú

rồi về nhà đánh đập em: “nó đi với con này con kia, nó không thừa nhận. Một lần

hầu đồng, em chỉ thẳng vào mặt nó em bảo mày đi nhà nghỉ này ở phố này ngày này

ngày này đúng không. Thế là chồng em nó sợ em luôn, nó sợ em luôn chị ạ”. Rõ

ràng, trong trường hợp này em Trinh đã được thần thánh trao quyền (hoặc cũng có

thể ý thức được việc mượn quyền lực của Mẫu) để “vạch mặt” người chồng gian dối

105

và điều đó ít nhiều đã có hiệu lực. Từ những người đàn ông yếu thế, đánh mất vai

trò của mình trong gia đình, những người đàn ông mềm yếu, cảm thấy mình thất

bại, bất lực …khi hầu đồng và được Thánh trao quyền lực họ trở nên mạnh mẽ, uy

dũng như các Thánh Quan, các ông Hoàng nhưng mặt khác họ cũng được sống

trong những phút giây yếu mềm khi ngồi nghe văn với những đoạn bi thương, hay

khi múa các điệu múa của Thánh nữ. Đó là điều cần thiết để bung tỏa những ẩn ức

trong cuộc sống, giống như những người phụ nữ khi gặp khó khăn họ được quyền

khóc lóc để giải tỏa, người đàn ông thì không thể họ phải che dấu sự yếu mềm này

và hầu đồng đã giúp họ thể hiện cái phần yếu mềm đó. Từ những người thuộc giới

tính thứ ba, bị xã hội kì thị, đánh cho bầm dập và châm chích những mũi kim khiến

họ đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần, được Thánh trao quyền lực khiến họ trở nên

mạnh mẽ. Những người mà ngoài xã hội coi họ là kẻ lạc loài, nhơ nhớp giờ đây đang

ngồi trước mặt họ luôn miệng nói “lạy Quan”, “xin Quan”, đang cầu xin sự ban phát

của Quan…thực sự điều này như một liều thuốc xoa dịu sự tổn thương trong họ. Từ

những kẻ nghèo xơ xác, chạy ăn từng bữa ngoài đời, chưa bao giờ họ có cái cảm giác

có tiền để cho người khác, với việc lên đồng họ đã được Thánh trao cho cái quyền lực

đó- quyền ban tiền ban lộc, ban danh ban diện cho các con nhang đệ tử.

Như vậy, hoạt động nghi lễ hầu đồng trong bản hội Đạo Mẫu ngoài các giá

trị về văn hóa còn có giá trị trong việc trao quyền lực cho các con nhang đệ tử và

cho phép họ thể hiện cái quyền lực ấy trong “khuôn viên nhà Mẫu”.

4.2.3. Bản hội Đạo Mẫu: không gian tôn vinh sự khác biệt của giới tính thứ ba

Bản hội Đạo Mẫu với thế giới điện thần, với các nghi lễ tâm linh và cả những

con người đồng cảnh ngộ không chỉ là không gian an ủi, sẻ chia mà còn là không gian

tôn vinh sự khác biệt của giới tính thứ ba.

Có một sự thật mà hiện nay người ta đã thừa nhận, những người thuộc giới

tính thứ ba ví như những người đồng tính, lưỡng tính, ái nam ái nữ là những người

có nhiều tài năng đặc biệt, trước hết là những tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật.

Người ta thấy, trên thế giới rất nhiều những diễn viên, những nhà soạn nhạc, các

nhạc công, ca sĩ, nhà tạo mẫu…nổi tiếng là những người đồng tính. Ở Việt Nam,

những năm gần đây, sự công khai giới tính thật của giới nghệ sĩ đã góp phần khẳng

định tài năng đặc biệt của giới tính thứ ba là có thật. Họ là những người có óc sáng

tạo, đam mê với nghề nghiệp và mong muốn được cống hiến hết mình.

Tuy nhiên, ở Việt Nam cũng như nhiều nước Á Đông khác còn kì thị và chưa

tạo nhiều điều kiện để những người thuộc giới tính thứ ba này thể hiện tài năng của

106

mình. Những thông tin lan tràn trên các báo mạng gần đây kể về những trải lòng của

nhiều người người thuộc giới tính thứ ba cho thấy họ khó mà có thể tìm một công

việc để sống. Với hình thù nửa trai nửa gái, bất kì đâu họ cũng bị hắt hủi, xua đuổi,

bị coi là bọn Pê đê. Chẳng hạn, nhiều người đồng tính hoặc ái nam ái nữ có khả

năng ca hát nhưng không một vũ trường, một tụ điểm ca nhạc nào thuê họ, câu trả

lời vẫn chỉ vì người ta không ưa cái hình thù nửa trai nửa gái quái dị của họ. Để

kiếm sống, nhiều người đã phải đi hát ở trong các đám tang với các màn thoát y,

tung hứng hoa mua vui cho thiên hạ và lại nhận được những dư luận xã hội nhìn họ

như những kẻ biến thái. Một số khác đi rửa bát, quét dọn …trong các cửa hàng ăn.

Tất nhiên, hiện nay, một số cuộc thi trên truyền hình cho thấy, nhiều người đã dũng

cảm công khai giới tính thật của mình, chuyển giới…để có cơ hội phát triển nghề

nghiệp trong giới nghệ thuật. Song những người ấy là con số nhỏ trong số rất nhiều

người ở giới thứ ba tìm lại được chính mình và có thể làm việc bằng năng lực của mình

để sống. Có thể nói, mặc dù đã được nhìn nhận một cách cởi mở hơn, song những

người thuộc giới tính thứ ba đến nay vẫn gặp khó khăn muôn vàn không chỉ trong việc

tìm kiếm bạn đời mà còn trong cả tìm kiếm việc làm.

Nếu cái thế giới bên ngoài với đầy những dư luận bủa vây, kiềm tỏa khiến

người thuộc giới tính thứ ba mất phương hướng sống thì bản hội Đạo Mẫu lại là một

môi trường tâm linh trao truyền cho họ quyền lực thần thánh để vượt qua những tổn

thương về thể chất lẫn tâm hồn; là môi trường thừa nhận tài năng của họ và tạo điều

kiện cho tài năng đó được sử dụng và phát triển. Như ở chương ba tôi đã đề cập đến,

bản hội vừa là một môi trường tâm linh nhưng cũng là môi trường kinh tế, điều này

tạo cơ hội việc làm cho những người thuộc giới tính thứ ba. Ở đây, tôi nói thêm rằng,

bản hội hiện nay còn là một môi trường nghệ thuật với tính trình diễn nghi lễ ngày

càng đề cao. Không thể phủ nhận rằng, ngoài mục đích hầu Vua Cha Mẫu Mẹ, các

buổi lên đồng trong bản hội còn là nơi để thể hiện cái đẹp, thậm chí thể hiện sự giàu

sang, đẳng cấp. Vì thế, điện thờ trở thành sân khấu lộng lẫy sắc màu, người hầu

Thánh quan tâm nhiều hơn đến khăn áo làm sao cho đẹp, trang điểm phấn son thế nào

cho ấn tượng…Nghề làm khăn áo những năm gần đây phát triển mạnh và điều này

đáp ứng nhu cầu khăn áo độc, lạ, “sang chảnh” của các ông bà đồng giàu có. Để tạo

nên “sân khấu tâm linh” và phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của người hầu đồng,

người ta cần đến những người “nghệ sĩ”, những chuyên gia trong lĩnh vực trang điểm.

Và không ai làm tốt việc này hơn những người hầu dâng ái nam ái nữ. Em Tâm mà

tôi đã nhắc đến ở trên là một chuyên gia như vậy. Gọi là chuyên gia bởi vì Tâm

không chỉ là một người có căn đồng phục vụ “cửa đình thần Tam Tứ phủ”, Tâm còn

107

làm nghề trang điểm đám cưới. Tôi đã nhiều lần tận mục sở thị Tâm trang điểm cho

đồng Thầy Xuyên, được nghe Tâm chỉ dẫn các bước trang điểm sao cho đẹp, cho da

mịn mà không bị bóng, khuyên đồng Thầy Xuyên nên dùng son môi nào thì hợp và

lâu bị trôi. Không chỉ có năng khiếu trang điểm, Tâm còn lên khăn áo rất vừa lòng

thầy Xuyên. Tâm và đội hầu dâng của mình gồm bốn người, tất cả đều là ái nam ái nữ

như Tâm rất tinh tế và nhẹ nhàng trong việc phục vụ đồng Thầy trong các canh hầu.

Ngoài ra, Tâm còn cắm hoa rất đẹp. Những lẵng hoa Tâm cắm bao giờ cũng ấn tượng

và bừng sáng cả điện thờ. Các chấp tác của Phúc Minh từ luôn luôn xuýt xoa khen

ngợi với tôi về những lẵng hoa mà Tâm cắm. Bởi vậy, đồng Thầy Xuyên nói với tôi,

mặc dù giá cả có đắt hơn so với bên ngoài nhưng thầy vẫn luôn lấy hoa của Tâm mỗi

lần có tiệc hầu, và giá là 1,5 triệu bất kì lễ to hay lễ nhỏ. Với sự khéo tay của mình,

Tâm khoe với tôi em làm không hết việc, không chỉ phục vụ ở bản hội thầy Xuyên,

Tâm còn phục vụ cho nhiều bản hội khác.

Tâm chỉ là một ví dụ trong rất nhiều hầu dâng ái nam ái nữ có tài năng trong

việc cắm hoa, lên khăn áo và trang điểm. Trong thực tế, không chỉ bản hội của Phúc

Minh từ mà nhiều bản hội khác, những người hầu dâng ái nam ái nữ cũng là những

người như vậy. Mặc dù trong giới đồng bóng không có quy định về điều kiện giới

tính của những người làm nghề hầu dâng, song qua quan sát nhiều canh hầu, tôi nhận

thấy số hầu dâng là nam (đặc biệt là ái nam ái nữ) chiếm đa phần so với hầu dâng là nữ.

Phải chăng, sự khéo léo, tài năng của họ đã thu hút các ông bà đồng?

Sự khác biệt của giới tính thứ ba mà tôi muốn đề cập đến nữa là khả năng

tâm linh của họ, khả năng thông linh với thần thánh. Theo Ngô Đức Thịnh (2014),

những người ái nam ái nữ, tức là về giới tính là trung tính, tức không nghiêng hẳn

về nam tính hay nữ tính thì thần linh sẽ dễ nhập hồn vào thân xác của họ hơn. Cũng

theo tác giả thì người đồng tính không hẳn là dương cũng không hẳn là âm có mối

quan hệ nào đó với việc nhạy cảm thần kinh, khiến họ dễ rơi vào trạng thái biến đổi

ý thức theo kiểu tự kỉ ám thị về sự tồn tại của thần linh, một đặc trưng tâm sinh lý

của người có căn đồng. Hơn nữa, lên đồng là sự nhập hồn nhiều lần của thần linh

vào thân xác ông bà đồng mà trong các vị thần linh Đạo Mẫu ấy có vị là nam thần

có vị là nữ thần, khiến người hầu đồng luôn phải thay đổi trạng thái giới tính, với vẻ

mặt, hành động, giọng nói, tính cách…Điều đó có lẽ phù hợp hơn với đặc tính của

những người đồng tính ái nam ái nữ. Như vậy có thể thấy, trong bản hội Đạo Mẫu

và trong việc thực hành nghi lễ trong bản hội Đạo Mẫu thì những người có giới tính

thứ ba thực sự có lợi thế. Lợi thế trong việc dễ nhập hồn thần linh hơn và lợi thế

trong việc hầu các giá đồng thực hiện đẹp hơn, nhất là khi họ nhập các giá Thánh nữ

108

thì nét mặt, cử chỉ, động tác của họ sinh động và mang nữ tính hơn. Không những

thế, những đồng Thầy mà giới tính của họ là ái nam ái nữ thì tính thiêng của họ đặc

biệt hơn rất nhiều so với các đồng Thầy hoàn toàn là nam hoặc hoàn toàn là nữ.

Như ở trên, tôi đã đề cập đến ma lực, chính tính thiêng đã tạo nên ma lực của đồng

thầy và những người có căn số.

Tóm lại, bản hội Đạo Mẫu là không gian mà ở đó sự khác biệt của giới tính

thứ ba được tôn vinh. Tôi cho rằng, việc tôn vinh sự khác biệt của những người thuộc

giới tính thứ ba cũng là một cách trao quyền lực cho họ, cụ thể là quyền được sống,

được tôn trọng, được thừa nhận và được đóng góp cho xã hội.

4.3 Môi trường tâm linh trao quyền lực, thể hiện quyền lực của “những kẻ bị loại trừ” và cơ sở cho các thành viên bản hội Đạo Mẫu tạo lập vốn xã hội Ở phần trên, tôi đã phân tích đặc trưng về giới và quyền lực giới của bản hội Đạo Mẫu. Theo đó, bản hội Đạo Mẫu chính là môi trường tâm linh trao quyền lực

và thể hiện quyền lực của nhiều “những kẻ bị loại trừ”. Nhưng bản hội với đặc

trưng là môi trường tâm linh trao quyền lực và thể hiện quyền lực của những kẻ bị

loại trừ thì có ảnh hưởng gì tới việc tạo lập VXH của các thành viên của nó? Dưới

đây, tôi sẽ phân tích để thấy rằng, từ khía cạnh giới và quyền lực giới, bản hội đã

tạo cơ sở cho các thành viên của nó tạo lậpVXH.

Để có VXH người ta cần phải có các quan hệ xã hội. Bản hội với tư cách là

môi trường tâm linh của “những kẻ bị loại trừ” đã tạo điều kiện để các thành viên của

nó xây dựng các mối quan hệ đồng cảnh ngộ. Các mối quan hệ này là cơ sở vô cùng

quan trọng cho việc tạo lập VXH của các thành viên. Bởi chúng ta biết rằng, trước

khi gia nhập trở thành thành viên của một bản hội, rất nhiều các cá nhân là những

người yếu thế, những người với nhiều khổ đau ngang trái, những người gặp quá nhiều

bất hạnh… Cụ thể hơn, họ là những người có đời sống tâm lý không bình thường hay

mơ những giấc mơ kì quái, hay nhìn thấy ma, hay xưng thánh này thánh nọ, ốm dở,

thậm chí bị điên loạn. Về đời sống sinh lý giới, nhiều người trước khi đến với bản hội, họ là những người đàn ông ái nam ái nữ, những người đồng tính. Về phương diện đời sống của giới, nhiều cá nhân trước khi đến với bản hội là những người phụ nữ bị chồng ruồng bỏ, hạnh phúc gia đình tan nát, con cái ốm đau bệnh tật, đời sống

kinh tế bấp bênh…Những người này thường mang trong mình những mặc cảm tự ti, bơ vơ và lạc loài. Họ rất khó để tiếp xúc và thiết lập quan hệ với những người khác,

thậm chí bị người đời tuyệt giao không quan hệ, chế giễu và xa lánh. Nói cách khác,

những người căn cao số nặng có đời sống tâm sinh lý không bình thường, những

người ái nam ái nữ, những người có cuộc sống gia đình bất hạnh… rất khó để kết

thân, tâm sự và mở lòng cùng những người khác ở bên ngoài xã hội. Họ có ít quan hệ

109

xã hội và do vậy VXH của họ cũng khá nghèo nàn. Song, bản hội lại là môi trường

của những người như họ, giống họ….điều này giúp các cá nhân dễ dàng mở lòng hơn, các thành viên trong bản hội cũng nhìn nhau với con mắt cảm thông hơn, chia sẻ

hơn. Những nghiên cứu về đồng dạng (homophily) của Miller McPherson, Lynn

Smith- Lovin và James M. Cook [150] đã chỉ ra rằng con người thường yêu thương

những người giống họ, rằng sự tương đồng làm nảy sinh tình bạn. Ở đây có thể nói, với đặc trưng là môi trường tâm linh của những người yếu thế, những người với những cảnh đời khổ đau và đời sống tâm sinh lý không bình thường, bản hội đã tạo

điều kiện chính xác hơn là đã trao cho những “kẻ bị loại trừ” cơ hội để kết giao với những người đồng cảnh ngộ đồng thân phận như họ, để có thêm các mối quan hệ và

tạo lập cũng như gia tăng nguồn VXH của mình- nguồn VXH mà Portes gọi là VXH

“cố kết giới hạn”. Theo Portes, “sự cố kết giới hạn” nói một cách đơn giản là tạo ra ý

thức “chúng ta” do “chúng ta” có thân phận chung. Cảm giác “chúng ta” giữa những

người trong một nhóm nhất định, cùng tôn giáo, cùng tầng lớp giai cấp, cùng là người

bản xứ kì thị..cũng có thể là một nguồn lực mạnh của vốn xã hội [48; tr52-53]. Có

thể thấy cảm giác “chúng ta” là những kẻ bị loại trừ, những kẻ có nhiều vấn đề trong

cuộc sống đã tạo nên một nguồn VXH cho các thành viên bản hội. Đó là cái nhìn bao

quát, nếu xét riêng từng nhóm nhỏ trong bản hội có thể thấy, có nhiều cái cảm giác

“chúng ta”, chẳng hạn: chúng ta là những người phụ nữ bất hạnh; chúng ta là những

người ái nam ái nữ , những người đồng tính bị xã hội kì thị; chúng ta là các bà vãi với

nhiều bệnh tật tuổi già và nhiều vấn đề con cháu; chúng ta là những người nghèo

khó…Tất các những cái “chúng ta là…” ấy tạo nên những nguồn VXH “cố kết giới

hạn” trong những nhóm nhỏ đặt trong nguồn VXH rộng lớn hơn của cái “chúng ta là

bản hội”. Nếu những người đồng tính ở ngoài xã hội bị xa lánh, bị tuyệt giao quan hệ

thì vào đây họ được thừa nhận tài năng, được tôn trọng sự khác biệt và có cơ hội kết nối với những người đồng tính như họ; nếu những người phụ nữ đầy khổ đau ngoài

xã hội không dám bộc lộ cái khổ đau của mình vì nhiều lí do trong đó có vấn đề thể diện thì vào đây họ tụ thành nhóm chia sẻ với nhau…Điều này khiến chúng ta nhớ đến câu chuyện của những người Việt Nam trôi dạt đến Nhật Bản bằng thuyền và những người Việt Nam tị nạn ở nước ngoài sau đó đến định cư tại Nhật trong bài viết của Hirasawa Ayami [48] [49]. Chính cái hoàn cảnh đói nghèo, cái thân phận lưu lạc nơi đất khách quê người đã tạo nên ý thức “chúng tôi” trở thành nguồn VXH “cố kết

giới hạn” của họ. Nguồn VXH này có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ cho hoạt động

kinh doanh của họ tại Nhật Bản, đặc biệt là kinh doanh nhà hàng [48; tr62].

Có thể xem việc là môi trường tâm linh “thâu nhận” nhiều “những kẻ bị loại trừ”

và trao cho họ các cơ hội kết giao là một trong những điểm độc đáo của Đạo Mẫu và

110

bản hội Đạo Mẫu. Bởi không phải tôn giáo, tín ngưỡng nào cũng là nơi “trú ngụ” của

“những kẻ bị loại trừ”. Có những tôn giáo, tín ngưỡng ra đời lại là đại diện cho tư tưởng của tầng lớp thống trị, những kẻ có đặc quyền loại trừ những kẻ khác. Ví dụ

như Đạo Bàlamôn, một tôn giáo ra đời khoảng thiên niên kỉ thứ nhất TCN ở Ấn Độ

cổ đại là một tôn giáo như vậy. Bởi Bàlamôn ra đời và những giáo lý của nó là sự hợp

thức hóa cho sự áp bức bóc lột của các đẳng cấp trên trong xã hội, nó lí giải những nguyên nhân của sự áp bức bóc lột của đẳng cấp trên đối với đẳng cấp dưới không phải xuất phát từ tư hữu tư liệu sản xuất và sự phân biệt chủng tộc mà là từ ý nguyện của thần thánh37 và vì là ý nguyện của thần thánh nên các đẳng cấp dưới phải chấp nhận mà không được phản kháng. Hay như tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người

Việt, rõ ràng là một tín ngưỡng thể hiện tư tưởng của xã hội phong kiến Nho giáo, sự

xuất hiện của các đình làng và việc sắc phong cho các Thành hoàng làng là một cách

để nhà nước phong kiến với tay quản lí tới tận làng xã. Có một thời gian dài trong

lịch sử, không gian linh thiêng của đình làng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của đàn ông,

những người phụ nữ là “những kẻ bị loại trừ” khỏi đặc quyền này.

Bên cạnh đó, với đặc trưng là môi trường tâm linh trao quyền lực và thể hiện

quyền lực, bản hội còn giúp nhiều thành viên của nó (những người mà ở ngoài xã

hội bị coi là “những kẻ bị loại trừ”) có điều kiện thuận lợi để tạo lập VXH trên hai

khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất, việc bản hội và nghi lễ Đạo Mẫu trao quyền (dù có

thể chỉ là quyền lực ảo) đã giúp nhiều thành viên bản hội có vị thế, được cung kính

và được trọng vọng. Một trong những đặc điểm của quyền lực và vị thế là có sức

hấp dẫn và thu hút lớn đối với những người xung quanh. Có quyền lực và vị thế sẽ

giúp nhiều thành viên bản hội trở nên dễ dàng hơn trong việc kết giao với những

người khác, thậm chí với quyền lực và vị thế của mình họ được người khác chủ

động tìm đến để kết giao. Đồng Thầy, các đồng trưởng, các chấp tác là những người như vậy. Ở khía cạnh thứ hai, việc được trao quyền lực và thể hiện quyền lực đã

giúp nhiều thành viên bản hội trở nên tự tin hơn và do đó chủ động hơn trong việc kết nối quan hệ với người khác. Việc gây dựng sự tự tin là một điều cực kì quan trọng trong việc xây dựng quan hệ xã hội đối với những người yếu thế như những người ái nam ái nữ, những người đồng tính, những người thất bại đắng cay trong sự nghiệp và hạnh phúc gia đình…Bởi những khiếm khuyết trong cuộc sống của bản thân khiến họ thường mang trong mình những mặc cảm, tự ti, ngại tiếp xúc, ngại

quan hệ . Khi gia nhập bản hội và thực hành các nghi lễ phụng thờ thần thánh, họ 37 Luật Manu của Đạo Bàlamôn viết rằng “Vì sự phồn vinh của cả thế giới từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài (thần Brama) đã tạo nên Bàlamôn, Ksatoria, vaisya và sudra. Do sinh ra từ bộ phận cao quí nhất cảu thân thể Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết kinh Veda, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy”

111

được trao quyền lực dù có thể đó chỉ là quyền lực ảo nhưng thứ quyền lực ấy giúp

họ trở nên mạnh mẽ, tự tin trong quan hệ giao tiếp và tạo lập vốn xã hội của mình. Những người bị cơ đầy đến mức điên loạn bị người đời cho là mắc bệnh thần kinh

nhưng khi vào giá hầu họ là hiện thân của thần thánh, họ là Quan, là Mẫu, là Cô, là

Cậu…khiến những kẻ ngồi dưới phải liên tục “lạy Quan”, lạy Cô, lạy Cậu…. là một

ví dụ tiêu biểu cho việc quyền lực và vị thế của họ được tăng lên thông qua nghi lễ. Quyền lực này tưởng chừng là ảo nhưng thực tế nó vẫn có giá trị ngoài nghi lễ. Quan sát của tôi cho thấy, ngoài giá hầu, những người này vẫn được các thành viên

khác của bản hội gọi là Cô, Cậu hoặc Quan, tức là họ được các thành viên khác của bản hội nhìn nhận như là những người có liên quan đến thần thánh, có quyền sát

quỷ trừ tà, quyền lực trong chữa bệnh, quyền lực trong soi bói…Việc được người

khác tôn trọng, cung kính,…là một cách tạo cho họ sự tự tin tiếp cận các quan hệ xã

hội và tạo lập vốn xã hội…

Tiểu kết Tóm lại, “những kẻ bị loại trừ” là một khái niệm dùng để nói về những người

yếu thế với nhiều khổ đau bất hạnh, bị miệt thị, xa lánh. Trong hội Đạo Mẫu, không

phải tất cả nhưng rất nhiều trong số các thành viên của nó là “những kẻ bị loại trừ”-

những kẻ được coi là mắc các chứng bệnh tâm sinh lí (do có căn đồng) bị xã hội

loại trừ khỏi quan niệm về những người có đời sống tâm sinh lí bình thường; những

người ái nam ái nữ không được xã hội định hình cho một chiếc hộp giới nào và bị

loại trừ khỏi hai khuôn mẫu giới (đàn ông và đàn bà), bị kì thị; những kẻ bất hạnh,

mất mát, thất bại…bị người đời loại trừ khỏi quan niệm về một người hạnh phúc,

thành công. “Những kẻ bị loại trừ” thường mang trong mình sự mặc cảm, tự ti, tự

thu mình, ngại giao tiếp…tuy nhiên khi vào bản hội, vì bản hội là môi trường của

những người giống như họ, cùng thân phận và cảnh ngộ như họ vì thế họ dễ mở lòng, chia sẻ. Đó chính là cơ sở để “những kẻ bị loại trừ” xây dựng quan hệ xã hội

với những người cùng cảnh ngộ và tạo lập một loại vốn xã hội mà Portes gọi là “vốn xã hội cố kết giới hạn”.

“Những kẻ bị loại trừ” nếu như ở bên ngoài xã hội là người yếu thế thì vào bản hội họ có thể được trao quyền lực và thể hiện quyền lực. Quyền lực đó có thể được trao bởi thiết chế bản hội, hoặc cũng có thể được trao bởi thần linh và nghi lễ hầu đồng; quyền lực đó có thể là quyền lực có thật cũng có thể là ảo, nhưng dù thật hay ảo nó

cũng đều có ý nghĩa với “những kẻ bị loại trừ”. Bởi quyền lực đó sẽ giúp họ tự tin,

mạnh mẽ hơn trong cuộc sống, trong đó có sự tự tin trong mối quan hệ với mọi người,

chủ động hơn trong việc xây dựng tình thâm giao để tạo lập vốn xã hội cho bản thân.

112

CHƯƠNG 5:

TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI CỦA CÁC THÀNH VIÊN BẢN HỘI ĐẠO MẪU:

NHẬN DIỆN ĐẶC ĐIỂM, PHƯƠNG THỨC, LỢI ÍCH VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Những phân tích ở các chương 2,3 ,4 đã tập trung trả lời cho câu hỏi: vì sao

bản hội lại là môi trường giúp các thành viên của nó tạo lập VXH trong bối cảnh

chuyển đổi? Trong chương 5, tôi sẽ tập trung phân tích để trả lời cho câu hỏi tiếp theo rất quan trọng của luận án: các thành viên bản hội Đạo Mẫu đã tạo lập VXH như thế

nào và VXH ấy đem lại cho họ những lợi ích gì? Cuối cùng, chương 5 cũng nhìn

nhận một số vấn đề đặt ra từ việc tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu

như: sự chuyển hóa giữa các dạng vốn trong quá trình tạo lập VXH; mối quan hệ hai chiều giữa tạo lập VXH và bối cảnh xã hội chuyển đổi.

5.1 Nhận diện đặc điểm vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu Trước khi đi vào phân tích cách thức tạo lập VXH và lợi ích mà VXH đem lại cho các thành viên bản hội Đạo Mẫu, tôi muốn xâu chuỗi các chương 2, 3,4 để nhận diện đặc điểm của VXH mà các thành viên bản hội Đạo Mẫu tạo lập.

Trước hết, cần thấy rằng, mỗi loại cộng đồng ( hoặc nhóm, mạng lưới xã hội)

sẽ có dạng VXH khác nhau. Cộng đồng chính trị sẽ có dạng VXH đặc trưng của nó,

khác với dạng VXH của cộng đồng kinh tế, cộng đồng văn hóa hay cộng đồng tôn

giáo. Ngay như trong cùng một loại cộng đồng tôn giáo thì VXH của cộng đồng tôn

giáo này sẽ khác với VXH của cộng đồng tôn giáo kia. Chắc chắn rằng VXH được

tạo tạo bởi các thành viên cộng đồng thờ Phật sẽ khác với VXH của cộng đồng thờ

Mẫu. Tôi cho rằng, sự khác nhau trong đặc trưng của mỗi loại cộng đồng sẽ chi

phối tới sự khác nhau của các dạng VXH của cộng đồng đó. Xâu chuỗi những phân

tích ở chương 2, chương 3 và chương 4 cho thấy, bản hội trở thành môi trường tạo

cơ sở giúp các thành viên của nó tạo lập VXH. VXH được tạo lập bởi các thành

viên trong môi trường bản hội có các đặc điểm nổi bật sau đậy:

Thứ nhất, VXH mà các thành viên bản hội Đạo Mẫu tạo lập là loại VXH đặc biệt. Sự đặc biệt được thể hiện ở chỗ, nếu như VXH được tạo lập bởi các thành viên trong các cộng đồng tôn giáo khác ở Việt Nam (cộng đồng Phật giáo, cộng đồng tôn giáo, cộng đồng thờ Thành hoàng…) chủ yếu dựa trên quan hệ đồng đạo bởi có chung một niềm tin tín ngưỡng thì VXH được tạo bởi các thành viên bản hội

Đạo Mẫu lại được hình thành dựa trên sự tổng hòa, đan xen, phức hợp giữa các quan hệ đồng đạo, quan hệ dựa trên lợi ích kinh tế, quan hệ giữa những người đồng cảnh ngộ về đời sống tâm sinh lý, giới và quyền lực giới…Đặc điểm này của VXH là do sự chi phối của đặc trưng của bản hội. Những phân tích ở các chương 2,

113

chương 3 và chương 4 đã cho thấy, bản hội trong bối cảnh xã hội chuyển đổi là một

cộng đồng đặc biệt, bản thân nó không chỉ đơn thuần là cộng đồng tâm linh, cũng không phải chỉ là cộng đồng kinh tế, hay cộng đồng của “những kẻ bị loại trừ”. Nó

là cộng đồng của sự tổng hòa các yếu tố về tâm linh, về kinh tế và về giới, quyền

lực giới. Vì vậy, việc tham gia cộng đồng này giúp một cá nhân vừa có quan hệ

đồng đạo, vừa có quan hệ giới, quan hệ với những người cùng cảnh ngộ, lại vừa có quan hệ lợi ích kinh tế. Quả là rất khó để tách bạch đâu là quan hệ thuần đồng đạo, đâu là quan hệ thuần kinh tế…trong mối quan hệ của người này với người khác.

Mỗi thành viên bản hội trong mối quan hệ với một thành viên khác vừa là quan hệ đồng đạo lại vừa là quan hệ giới, cũng lại vừa là quan hệ kinh tế. Một ví dụ điển

hình là mối quan hệ giữa đồng Thầy với các thành viên khác. Rõ ràng, đồng Thầy

và các thành viên khác là những người đồng đạo bởi dù có sự phân biệt kẻ trên

người dưới qua cặp từ xưng hô “Thầy- đệ tử” song họ đều là những người cùng có

niềm tin vào Thánh Mẫu, thực hành nghi lễ Đạo Mẫu, họ đều cùng là “con Cha con

Mẹ”. Song giữa đồng Thầy và các thành viên trong bản hội lại có quan hệ kinh tế

với nhau: các con nhang đệ tử “sử dụng” các dịch vụ tâm linh của đồng Thầy,

ngược lại đồng Thầy lại là khách hàng tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa của con

nhang đệ tử. Hay như những người đồng tính trong bản hội, họ vừa là những người

cùng đức tin tôn giáo tín ngưỡng (quan hệ đồng đạo) lại vừa là những người đồng

dạng về đời sống tâm sinh lý, cùng là “những kẻ bị loại trừ” (quan hệ giới) lại cũng

có thể vừa là bạn hàng, bạn kinh doanh của nhau (quan hệ kinh tế)…Như vậy, quan

hệ của các thành viên trong bản hội Đạo Mẫu là sự tổng hòa của quan hệ đồng đạo,

quan hệ kinh tế, quan hệ giới. Sự tổng hòa của các quan hệ này sẽ tạo nên nguồn

VXH to lớn cho các thành viên của nó. Đây là điểm khác biệt trong VXH của các

thành viên bản hội Đạo Mẫu so với VXH của các thành viên ở các cộng đồng tôn giáo cũng như các tổ chức xã hội khác.

Thứ hai, VXH mà các thành viên bản hội tạo lập sẽ là nguồn VXH phong

phú, đa dạng và cũng rất trừu tượng. Bởi nguồn vốn này không chỉ được tạo nên từ

sự tổng hòa giữa các quan hệ đồng đạo, quan hệ giới, quan hệ kinh tế mà còn được

tạo nên bởi sự tổng hòa của các quan hệ khác nữa. Bởi lẽ, chúng ta biết, bản hội là

một cộng đồng bao gồm những người có trình độ học vấn khác nhau: từ thạc sĩ cho

đến những người “khố rách áo ôm” không học không hành. Bản hội cũng bao gồm

những người làm các nghề nghiệp đa dạng: từ những người buôn bán, tới những

giáo viên, bác sĩ, ngân hàng và cả những người có công việc thất thường. Bản hội

cũng bao gồm những người có địa vị khác xa nhau: người là lãnh đạo tướng tá trong

114

quân đội, giám đốc bệnh viện nhưng có người chỉ là dân thường “thấp cổ bé

họng”…Điều tra 81 thành viên bản hội Phúc Minh từ cho thấy, nghề nghiệp của các

thành viên rất phong phú, trong đó có công chức nhà nước (27,2%), kinh doanh

dịch vụ buôn bán nhỏ (38,3%), nghề liên quan đến nghi lễ hầu đồng (11,1%), nghỉ

hưu/ mất sức (8,6%), nội trợ (4,9%), làm thuê không ổn định (9,9%)…(Xin tham

khảo thêm phụ lục 2 bảng 1 và bảng 2, tr174). Tất cả những điều trên đã tạo nên

VXH cho các thành viên bản hội, đó là các loại VXH được tạo nên từ quan hệ giáo

dục, nghề nghiệp, địa vị xã hội, quan hệ đồng niên…

Thứ ba, dưới tác động của đức tin, bản hội trở thành không gian tạo nên các

quan hệ xã hội chặt chẽ, gắn bó mật thiết vì vậy VXH mà các thành viên bản hội

tạo lập là khá ổn định và chất lượng của VXH khá cao (vì cùng cảnh ngộ nên người

ta sẽ rất nhiệt tình chia sẻ và giúp đỡ nhau). Niềm tin có tác dụng to lớn trong cố kết

cộng đồng tôn giáo từ cộng đồng lớn đến nhỏ. Dựa trên niềm tin vào Thánh Ala

cộng đồng Hồi giáo khắp mọi nơi trên thế giới từ Trung Cận Đông cho tới Đông

Nam Á đã cố kết với nhau; nhờ có niềm tin vào Chúa cộng đồng Công giáo từ Á-

Phi- Mĩ La Tinh trở thành những người đồng đạo và cũng như vậy, bản hội- một

cộng đồng tôn giáo nhỏ hơn cái cộng đồng Hồi giáo và Công giáo rất nhiều nhưng

cùng niềm tin vào Thánh Mẫu, vào đồng Thầy khiến họ cũng gắn bó chặt chẽ với

nhau hơn và vì vậy VXH của họ cũng ổn định hơn. Song nói như vậy không có

nghĩa là VXH của họ không có sự thay đổi. Với đặc trưng là tính di động cao làm

cho VXH của các thành viên bản hội cũng có tính động. Việc các thành viên ra và

vào bản hội là chuyện thường xuyên và vì thế khi một thành viên trong cộng đồng

ra đi thì bản hội mất đi một mối quan hệ và khi có một người gia nhập bản hội cũng

có nghĩa là bản hội có thêm một mối quan hệ. Điều đó làm cho VXH có thể bị mất

và có thể được bù đắp, thực sự là VXH của bản hội có tính động, phản ánh tính

động của bối cảnh xã hội chuyển đổi.

Tóm lại, việc gia nhập bản hội của nhiều người trước hết vì niềm tin tôn

giáo, song việc gia nhập này đã giúp cho các thành viên tạo lập nguồn VXH rất đa

dạng và đặc biệt. Vậy, các thành viên bản hội Đạo Mẫu đã tạo lập VXH đặc biệt, đa

dạng ấy như thế nào?

5.2 Phương thức tạo dựng, duy trì và phát triển vốn xã hội của các thành viên

bản hội Đạo Mẫu

VXH là những lợi ích sinh ra từ các quan hệ xã hội. Vì vậy, muốn có những

lợi ích đó con người cần phải thiết lập và phát triển các mối quan hệ xã hội. Vậy, các

quan hệ xã hội được tạo ra, phát triển và mở rộng bằng cách nào? Trong phần này, tôi

115

sẽ bàn luận đến cách mà các thành viên bản hội Đạo Mẫu tạo dựng và phát triển VXH

trong bối cảnh xã hội chuyển đổi theo gợi ý lý thuyết của Pierre Bourdieu

(1986)[154] khi tác giả cho rằng để xây dựng và tăng cường VXH, người ta phải đầu

tư thời gian, công sức hay tiền bạc (dòng quà tặng) vào các mối quan hệ xã hội.

5.2.1 Thời gian với việc tạo dựng, duy trì và phát triển vốn xã hội

Quan hệ xã hội không thể được tạo ra trong một sớm một chiều mà được

hình thành trong cả một quá trình. Phải trải qua khoảng thời gian nhất định các

thành viên bản hội có thể làm quen, gây dựng, tích lũy các quan hệ xã hội và làm

cho các mối quan hệ ấy trở nên bền chặt. Không giống các cộng đồng tôn giáo tín

ngưỡng khác mà các thành viên của nó có điều kiện gặp gỡ nhau hàng ngày, hàng

tuần, thậm chí cùng cư trú trên cùng một địa vực do đó đã quen biết nhau từ trước.

Chẳng hạn, cộng đồng tín đồ Công giáo thường bao gồm những người cùng giáo xứ

sống gần nhau; cộng đồng thờ Thành hoàng là những người dân cùng làng. Do đó,

trước khi là cộng đồng tín đồ giữa họ đã là cộng đồng làng xã. Đây là bước vắn tắt

giúp họ thiết lập quan hệ trong cộng đồng tín đồ nhanh hơn. Song cộng đồng tín đồ

Đạo Mẫu trong bản hội lại khác, họ là những người làm các công việc khác nhau,

địa vị xã hội, điều kiện kinh tế không giống nhau, và đặc biệt họ cư trú ở những địa

bàn khác nhau, thậm chí rất xa nhau. Chẳng hạn, bản hội Phúc Minh từ có các thành

viên ở nhiều tỉnh thành trong cả nước như Hưng Yên, Hà Nội, Thanh Hóa, thành

phố Hồ Chí Minh, Lào Cai… Hơn nữa, nếu như cộng đồng Công giáo gặp gỡ tập

thể hàng tuần vào ngày cuối tuần tại nhà thờ thì các thành viên trong bản hội Đạo

Mẫu ít có cơ hội để tập trung một cách đầy đủ như vậy, một năm chỉ có 4 cơ hội để

họ có thể tập trung đông đủ tại bản hội là lễ đầu năm, lễ nhập hạ, tán hạ và lễ tạ cuối

năm; những ngày sóc vọng họ cũng đến bản điện nhưng rất lẻ tẻ, người đến trước

kẻ đến sau và sự câu thúc của thời gian trong xã hội công nghiệp hiện đại không cho

phép họ có thể rông dài ngồi chờ nhau tập trung đông đủ để cùng làm lễ. Nghi lễ

Công giáo chỉ khoảng vài tiếng, lễ Phật và lễ Thành hoàng cũng nhanh gọn hơn.

Bởi vậy, việc tham gia các nghi lễ Đạo Mẫu, nhất là hầu đồng và đi lễ xa rất mất

thời gian. Mặc dù vậy, khi phỏng vấn nhiều thành viên bản hội thì hầu như 100% số

người được hỏi trả lời họ có tham dự hầu đồng của các thành viên trong bản hội, tất

nhiên số lần họ tham dự có khác nhau. Điều đó được thể hiện qua câu hỏi với 81

thành viên bản hội Phúc Minh từ “hàng năm ông (bà) tham dự lễ hầu đồng của bao

nhiêu thanh đồng trong bản hội?”, tỉ lệ phần trăm của các câu trả lời là: của 1 đến 5

thanh đồng 28,4%, của 6 đến 10 thanh đồng 44,4%, của 11 đến 15 thanh đồng

116

13,6%, của 16 đến 20 thanh đồng 8,6%, của 20 đến 25 thanh đồng 5% (Xin tham

khảo thêm phụ lục 2 bảng 3, tr174). Tương tự thế cũng có rất nhiều số thành viên

bản hội xác nhận họ đi lễ xa hàng năm cùng mọi người. Mặc dù, đi lễ xa là bổn

phận, trách nhiệm của “con cái nhà Mẫu”, việc dự lễ hầu đồng của các thành viên

khác trong bản hội là một cách để chúc mừng bạn đồng đạo “bắc ghế Cha ngồi làm

ngôi Mẹ ngự” và cũng là để bản thân có thêm duyên với Thánh Mẫu song không

thể phủ nhận rằng việc sử dụng quỹ thời gian của bản thân để đi lễ xa và tham gia

các buổi hầu đồng khiến các thành viên trong bản hội có thêm nhiều cơ hội để gặp

gỡ, kết tình thân giao với những người khác và điều này giúp họ tạo lập và tăng

thêm VXH cho bản thân.

Tuy nhiên, không hẳn cứ đi lễ xa và tham gia các buổi hầu đồng sẽ giúp các

thành viên bản hội tạo lập được nhiều quan hệ xã hội, VXH bởi điều này còn phụ

thuộc vào mức độ hòa nhập và quảng giao, độ khéo léo và tinh tế trong cách ứng xử

của các cá nhân khác nhau. Có những người đi lễ xa rất nhiều tuy nhiên tính cách

của họ trầm lắng, ít giao du điều đó gây hạn chế trong việc thiết lập các mối quan hệ

xã hội của họ. Bà Trà là một ví dụ, khi tôi hỏi đi lễ xa có giúp bà quen biết được

Bà không thích làm quen. Hơn nữa đi lễ xa vài chùa, trước hết là mình vào lễ Phật sau đó

mình chiêm bái: à cái đền Hùng là nó ở chỗ này, thờ ông bà thế này; đi đến Thái Nguyên

thì thấy à cái địa danh này nó như thế này. Như vậy, đi lễ nó giúp mình mở mang kiến thức

du lịch. Chứ bà không thích làm quen (Phỏng vấn bà Trà, nữ, 76 tuổi) Câu trả lời của bà Trà còn cho ta một dữ liệu nữa, bên cạnh sở thích quảng

nhiều người và mở rộng quan hệ xã hội không, bà trả lời rằng:

giao hay không thì mục đích của việc đi lễ xa cũng ảnh hưởng tới việc họ có “mở

lòng” làm quen với người khác hay không. Có người đi lễ xa đề cao vấn đề “lễ”, mở

mang kiến thức du lịch như bà Trà nhưng cũng có người đặt mục đích đi lễ xa là dịp

quen biết thêm nhiều người, nhất là giới trẻ, những người làm ăn kinh doanh, công

chức nhà nước- những người nhạy cảm với các vấn đề về việc mở rộng quan hệ xã

hội sẽ giúp họ mở mang mạng lưới công việc. Có người tinh tế, nhạy cảm trong việc

nắm bắt tâm lí của người khác cũng khiến họ tạo được thiện cảm và lấy được tình yêu

mến của mọi người trong những chuyến đi lễ xa hay các buổi tham gia hầu đồng. Em

Bây giờ nhé, ai mà hầu đến đoạn văn buồn buồn thì em biết ngay là Thầy cũng tủi bóng,

lúc đó em nhắn cho Thầy một tin “Thầy ơi, bình tĩnh đừng khóc nhé”. Thầy nhắn tin lại với

em là Thầy cảm thấy tủi thân, Thầy thế này Thầy thế này. Đấy là những Thầy trò hiểu

nhau, còn những người không hiểu nhau thì mặc kệ những tâm tư của Thầy… (Phỏng vấn

Hưng, nam, 30 tuổi)

Hưng người đã được tôi nhắc đến nhiều lần ở trên nói với tôi rằng:

117

Như vậy, việc sử dụng quỹ thời gian để đi lễ xa và tham gia các nghi lễ giúp

các thành viên trong bản hội có cơ hội gặp gỡ, làm quen và kết tình thân với những

cá nhân khác dù rằng họ có ý thức hay không ý thức về điều này. Có thể coi, thời

gian tham gia nghi lễ như một loại “phí tổn” cần thiết trong việc tạo lập VXH của

các thành viên bản hội Đạo Mẫu. Tuy nhiên, thời gian để gặp gỡ, làm quen mới chỉ

là sự khởi đầu của các mối quan hệ, muốn thắt chặt mối quan hệ ấy để nó tạo ra lợi

ích (cả về vật chất và tinh thần)- tức quan hệ xã hội ấy tạo nên VXH thì gây dựng

được niềm tin, sự có đi có lại…với sự trợ giúp của vốn kinh tế và vốn văn hóa là

một điều quan trọng.

5.2.2 Vốn kinh tế với việc tạo dựng, duy trì và phát triển vốn xã hội Một trong những phương tiện để tạo lập VXH là sử dụng vốn kinh tế vào dòng quà tặng. Nói đến dòng quà tặng trong xã hội đương đại ở Việt Nam, người ta

không thể không nhắc tới nghiên cứu của Lương Văn Hy (2010) về “Quà và vốn xã hội ở hai cộng đồng nông thôn Việt Nam”. Trong nghiên cứu công phu của mình, Lương Văn Hy đưa ra quan niệm về dòng quà tặng rất rộng trong đó bao gồm cả

một số tiền hay một tặng vật gửi một hoặc một nhóm người còn sống để biểu lộ tình

cảm trong một mối quan hệ nhất định; quà cũng bao gồm cả sự trợ giúp lao động như

khi xây nhà, hay dưới dạng cho mượn tiền không tính lãi, một bữa ăn hay một buổi

tiệc, tiền hay đồ phúng viếng và cúng các lực lượng siêu nhiên [56; tr402]. Ở đây, tôi

cũng quan niệm quà tặng bao gồm cả quà cho người sống và cho các thần linh giống

như Lương Văn Hy, tuy nhiên tôi sẽ chỉ ra sự khác biệt trong quà tặng của các thành

viên bản hội Đạo Mẫu so với các cộng đồng xã hội cũng như các cộng đồng tôn giáo

tín ngưỡng khác. Đồng thời, tôi cũng phân tích ý nghĩa của dòng quà tặng trong việc

tạo lập VXH của các cá nhân.

Phỏng vấn của tôi cho thấy, dù với lí do nào đi nữa thì các thành viên bản hội

Phúc Minh từ và nhiều bản hội khác rất chú trọng vào việc tặng quà cho nhau. Cũng

38 Bản thân tác giả cũng vài lần đi thăm hỏi ốm đau cùng các thành viên trong bản hội. Tùy vào mối quan hệ thân sơ mà món quà tặng ấy có giá trị khác nhau, tuy nhiên theo quan sát một lần đến thăm anh Thú – một chấp tác của bản hội bị thương ở chân, hầu hết mọi người thăm hỏi bằng phong bì 300 ngàn. 39 Khi tôi phỏng vấn các tín đồ Đạo Phật, họ nói rằng trong Phật giáo cũng có trợ duyên song hoạt động này được diễn ra khi có một người nào đó qua đời thì người ta đến cầu kinh để cầu cho người chết được siêu thoát.

giống như trong các mô tả của Lương Văn Hy, các thành viên bản hội thường tặng quà cho nhau vào các dịp sinh nhật hay thăm hỏi ốm đau, cưới xin38. Tuy nhiên có một loại quà tặng mà chỉ có trong bản hội Đạo Mẫu đó là trợ duyên39. Trợ duyên có nghĩa là trợ giúp để một người nào đó thêm duyên với nhà Thánh và nó thường diễn ra vào dịp một người nào đó “bắc ghế hầu Cha hầu Mẹ”. Theo các đồng cựu, ngày

118

xưa người ta thường trợ duyên nhau bằng hiện vật, nếu tiền thì cũng chỉ là tượng

trưng. Song hiện nay, việc trợ duyên hầu hết là bằng tiền. Nếu đến dự buổi hầu đồng của một thành viên bản hội nào đó, chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng diễn ra

dường như rất “tấp nập”, người đến dự buổi hầu thường đưa phong bì kèm theo lời

nói “hôm nay ông (bà), anh (chị)… bắc ghế hầu Thánh…tôi có một li một lai dâng

lên để anh chị bắc ghế hầu Thánh”. 100% các thành viên bản hội đến dự các buổi hầu của nhau đều trợ duyên (Xin tham khảo thêm phụ lục 2 bảng 5, tr175). Tuy nhiên, số tiền mà họ thường trợ duyên ở các mức độ khác nhau: người dăm chục,

người vài trăm, thậm chí có người trợ duyên nhau tiền triệu, chục triệu. Trong số những người được hỏi tại bản điện Phúc Minh từ thì số tiền trợ duyên một lần ít

nhất là 50 ngàn, nhiều nhất là 10 triệu. Thông thường, các thành viên trợ duyên

nhau từ 50.000 đến 100.000 (7.4%), từ trên 100.000 đến 200.000 (11,1%), trên

200.000 đến 500.000 (59,35), trên 500.000 đến 1.000.000 (22,2%) (Xin tham khảo

thêm phụ lục 2 bảng 6, tr178). Trong “Luận về biếu tặng” Marcel Mauss (1872-

1950) [80] qua nghiên cứu những trường hợp trao đổi quà tặng ở các tộc người

Melanesia, Polynesia và Colombia: hiện tượng Potlatch ở Vancouver, các tục lệ trao

đổi ở người Maori ở Polynesia và tục Kula ở người Trobiand và qua các tục lệ này,

Marcel Mauss cho thấy có ba nghĩa vụ: nghĩa vụ cho, nghĩa vụ nhận và nghĩa vụ trả.

Theo đó, không ai có quyền từ chối một món quà hay từ chối lễ hội Potlatch vì làm

như vậy sẽ chứng tỏ mình sợ phải đáp lại hay sợ bị mất thể diện nếu như không đáp

lại và thanh danh anh ta sẽ bị “mất sức nặng” một khi chấp nhận thất bại trước;

cũng như vậy, người ta sẽ mất thể diện vĩnh viễn nếu không hoàn trả lại. Ba nghĩa

vụ này cũng được thể hiện rất rõ qua trợ duyên của các thành viên bản hội Đạo

Mẫu. Các thành viên được phỏng vấn luôn luôn nói rằng, việc đến dự hầu và trợ

duyên các bạn đồng đó là một nghĩa vụ có tính chất nguyên tắc trong Đạo Mẫu, nếu đến dự mà không trợ duyên họ thấy “kì kì thế nào ấy” và “thà không đến chứ nếu

đến mà không có trợ duyên thì rất ngại ”. Người hầu đồng nhận được trợ duyên của người khác cảm thấy rất vui song cũng thêm một phần trách nhiệm và nghĩa vụ: nghĩa vụ phải hoàn trả khi cần thiết.

Như vậy, trợ duyên thực chất là hành động “có đi có lại” giữa các thành viên bản hội Đạo Mẫu, bởi hôm nay anh hầu tôi trợ duyên anh, ngày mai tôi hầu anh lại trợ duyên lại tôi. Đó chính là cách ứng xử văn hóa có tính đặc trưng của tình bằng

hữu trong bản hội. Lối ứng xử này bắt nguồn từ những chuẩn mực bất thành văn về

mối quan hệ giữa những người là “con cái nhà Mẫu”, nó thể hiện tình yêu, lòng quý

mến, sự tương trợ, sự quan tâm lẫn nhau giữa những người đồng đạo. Đặc biệt là

đối với những “đồng nghèo lính khó”, việc trợ duyên này thực sự có nghĩa ý giúp

119

họ có thêm đồng ngân đồng xuyến để hầu Cha hầu Mẹ. Sự “có đi có lại” trong việc

trợ duyên này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc thắt chặt hơn mối quan hệ giữa các thành viên trong cùng bản hội. Vậy nếu một người đến dự hầu mà không trợ duyên

thì thế nào? Những tư liệu phỏng vấn cho thấy việc không trợ duyên trong những

trường hợp nhất định sẽ tạo nên nguy cơ phá vỡ một mối quan hệ. Anh Thoan đã

nói với tôi về điều này: “Khi em không trợ duyên lần thứ nhất thì lần sau không ai mời em tới dự, lần thứ hai họ sẽ xem em bằng con mắt giống như em đi ăn cưới không có phong bì thì làm sao lần sau em gặp họ được”. Ngược lại, nếu một người

nào đó có tiếng trợ duyên nhiều thì anh ta/ chị ta sẽ có cơ hội mở rộng mối quan hệ và kết thân nhiều hơn, đó là một thực tế mà anh Thoan đã tâm sự: “Nếu em trợ

duyên 10 triệu thì em sẽ nổi tiếng, tiếng lành đồn xa, em sẽ được mời rất nhiều

nhưng em không trợ duyên thì chẳng ai mời em nữa. Đó là sự thật”. Trợ duyên là

một vấn đề có tính tình cảm đạo đức song tôi thấy các thành viên bản hội Đạo Mẫu

cũng có sự đắn đo suy nghĩ trong việc trợ duyên bao nhiêu đối với các đối tượng

khác nhau, nhất là hiện nay khi mà mối quan hệ trở nên vô cùng quan trọng trong phát

triển mọi mặt của cá nhân thì việc đầu tư phát triển các mối quan hệ bằng nhiều phương

cách trong đó có đầu tư vào dòng quà tặng là một trong những ưu tiên hàng đầu. Đối với

nhiều thành viên bản hội, trợ duyên không chỉ đơn thuần là biểu hiện của tình đồng đạo, nó

còn giúp họ thiết lập mối quan hệ thân tình với những người họ muốn.

Bên cạnh việc đầu tư vào dòng quà biếu tặng cho người sống, các thành viên

bản hội còn sử dụng vốn kinh tế vào những món quà biếu tặng thần linh. Bất cứ một

thành viên nào đi lễ tại điện nhà đồng Thầy hoặc đến điện thờ của một thành viên

nào đó trong bản hội, ít cũng phải có một chút thanh bông hoa quả, nhiều thì đặt

tiền lên điện thờ gọi là giọt dầu. Một số thành viên khác còn mua xiêm y mặc cho

tượng thờ, hoặc dâng cúng một tượng nào đó trên điện thờ của đồng Thầy. Thực ra, những món quà cho thần linh là những món quà gián tiếp dành cho người sống, bởi

tiền hay đồ thờ cúng trên điện thờ cuối cùng là người còn sống hưởng. Vì vậy, những món quà này cũng giúp họ lấy được cảm tình của các thành viên khác trong bản hội dù họ ý thức điều đó hay không.

5.2.3.Vốn văn hóa với việc tạo dựng, duy trì và phát triển vốn xã hội Trong phần này, tôi muốn sử dụng khái niệm vốn văn hóa (cultural capital) và khái niệm “khác biệt- vượt trội” (Distinction) của Bourdieu để phân tích vai trò

của vốn văn hóa trong việc tạo lập VXH. Như ở trên, tôi đã đề cập đến ba loại vốn

văn hóa như vốn văn hóa nội thể hóa, vốn văn hóa vật thể hóa và vốn văn hóa thiết

chế hóa. Qua quan sát phỏng vấn nhiều thành viên bản hội, tôi nhận thấy các thành

viên bản hội Đạo Mẫu sử dụng vốn văn hóa nội thể hóa để tạo lập vốn xã hội. Một

120

điều đáng chú ý là vốn văn hóa nội thể hóa của nhiều thành viên có một sự “khác

biệt- vượt trội”. Theo Ishii, khái niệm distinction trong tiếng Pháp có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là “khác biệt” từ góc nhìn khách quan và kể cả từ góc nhìn chủ quan

khi người ta chú ý cho thấy sự khác biệt của mình đối với người khác. Hơn nữa, từ

này liên quan đến sự khác biệt dương tính, tức là sự vượt trội nhằm biểu hiện ưu

việt của mình trong nhóm gồm các thành viên đồng chất và tầm thường…Nghĩa thứ hai, “distinction” tiếng Pháp có nghĩa là vượt trội. Một người có “distinction” được hiểu là một người có những phẩm chất tốt cho nên vượt trội so với những người

khác. Điều “khác biệt- vượt trội” của nhiều thành viên bản hội Đạo Mẫu là những cảm nhận, sự hiểu biết, tri thức của họ trong lĩnh vực tâm linh và thực hành các nghi

thức tôn giáo tín ngưỡng- những biểu hiện của vốn văn hóa nội thể hóa. Việc đồng

Thầy hay một thành viên nào đó có khả năng giao tiếp với thần linh và có ma lực,

việc họ có thể soi bói về quá khứ cũng như tiên đoán về tương lai, việc họ chữa

bệnh bằng những liệu pháp mang tính văn hóa hay có thể soi bói …chính là sự

“khác biệt –vượt trội” trong vốn văn hóa của họ so với những thành viên khác

“đồng chất ” trong bản hội. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng mỗi thành viên trong bản

hội có những tri thức, hiểu biết về tâm linh khác nhau: người có tri thức về việc gọi

hồn, người lại có tri thức về mộ phần, người lại rất giỏi trong việc cắt duyên

âm…tất cả điều đó giúp họ khác biệt so với những người khác biệt và khác biệt so

với những người bình thường trong bản hội.

Vậy sự “khác biệt – vượt trội” của vốn văn hóa giúp gì cho họ trong việc tạo

lập VXH? Có thể nói rằng, sự khác biệt – vượt trội của vốn văn hóa bản thân nó đã

tạo nên một sức hấp dẫn lớn, những người có vốn văn hóa “khác biêt- vượt trội” có

sức quyến rũ như một thỏi nam châm thu hút người khác đến với mình. Thông

thường những người có sự cảm nhận và hiểu biết về tâm linh một cách “khác biệt- vượt trội” là những người có nhiều mối quan hệ với những người khác, bởi rất

nhiều người tìm đến họ để nhờ cậy, do đó mạng lưới quan hệ của họ cũng rộng hơn, các thành phần xã hội mà họ gặp gỡ cũng phong phú đa dạng hơn. Đồng Thầy là một ví dụ cho vốn văn hóa “khác biệt- vượt trội” và vì vậy không ai có nhiều mối quan hệ với các thành viên khác trong bản hội bằng đồng Thầy. Và nếu xét về VXH trong nội bộ bản hội thì không thành viên nào nhiều VXH như đồng Thầy.

Sự “khác biệt vượt trội” có thể do thiên bẩm song cũng có thể họ cố gắng

tạo ra để thu hút người khác. Đồng Thầy Xuyên có khả năng soi bói và thầy diễn

giải khả năng soi bói của mình như là khải thị của thần thánh (tức thiên bẩm mà có)

song nhiều bằng chứng thực tế đôi khi “tố cáo” lại những diễn giải của thầy về vốn

văn hóa của mình là do sự khải thị của thần thánh và cho thấy thầy Xuyên đang cố

121

gắng để tạo ra ma lực và cố gắng để cho các tín đồ của mình nghĩ rằng Thầy có ma

lực. Điều này sẽ giúp đồng Thầy Xuyên có thêm các con nhang đệ tử, có thêm người đến nhờ làm lễ, có nghĩa là có thêm quan hệ xã hội và VXH.

Không chỉ đồng Thầy mà nhiều thành viên khác trong bản hội cũng cố gắng

quảng bá vốn văn hóa “khác biệt- vượt trội” của mình. Chẳng hạn, anh Thú luôn

luôn luôn kể một cách chi tiết từng nghi lễ trong Đạo Mẫu diễn ra trình tự như thế nào, cần những lễ vật gì, ý nghĩa của các nghi lễ đó…như một cách để khẳng định tính chất “hơn người” của mình. Sự “hơn người” đó sẽ khiến anh Thú có thêm

nhiều mối quan hệ, nhất là quan hệ với những khách hàng cần anh sắp mã cho các buổi lễ của họ. Cô Lan một tín chủ của Phúc Minh từ đồng thời cũng là chủ một

cửa hàng kinh doanh khăn chầu áo ngự luôn sử dụng vốn văn hóa của mình để

quảng cáo sản phẩm. Cô phân tích từng giá đồng cụ thể sẽ phải mặc khăn áo như

thế nào, vì sao phải có hèo có kiếm, vì sao phải quấn xà cạp…kèm theo đó là những

thông tin về sản phẩm được làm từ chất liệu này chất liệu kia thì giá bao nhiêu…

Như vậy, những phân tích trên đây cho thấy các thành viên bản hội đã sử

dụng nhiều phương thức khác nhau để tạo lậpVXH. VXH ấy sẽ đem lại cho họ

nhiều lợi ích.

5.3 Lợi ích của vốn xã hội đối với đời sống của các thành viên bản hội

Đạo Mẫu trong bối cảnh chuyển đổi.

Vì VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu được hình thành dựa trên sự tổng hòa giữa các quan hệ đồng đạo; quan hệ dựa trên lợi ích kinh tế; quan hệ giữa những người đồng cảnh ngộ về đời sống tâm sinh lý, về hoàn cảnh sống, do đó, nguồn VXH này thực sự có lợi ích to lớn đối với đời sống của các cá nhân trên nhiều lĩnh vực. Cụ thể, VXH có lợi ích đối với việc tìm kiếm/tìm lại bản sắc cá nhân, với đời sống văn hóa tôn giáo tín ngưỡng và với cả đời sống kinh tế của nhiều thành viên bản hội.

5.3.1 Vốn xã hội với bản sắc cá nhân Xã hội chuyển đổi và khủng hoảng bản sắc cá nhân Trong văn hóa Việt Nam, bản sắc luôn đi kèm với dân tộc hoặc những danh từ mang tính tập thể. Theo đó, bản sắc là những giá trị, đặc điểm văn hóa chung và đặc trưng của một cộng đồng, được xây dựng và đã tồn tại qua hàng thế kỉ, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự gắn kết của cộng đồng đó qua thời gian. Có một

thực tế là, người ta hay nhắc đến “bản sắc dân tộc”, “bản sắc vùng miền”, “bản sắc

khu vực” chứ hầu như ít khi nhắc tới “bản sắc cá nhân”. Thậm chí có người còn cho

rằng, trong văn hóa truyền thống Việt Nam, vai trò của cá nhân không được đề cao

và vì vậy dường như chưa tồn tại cái gọi là “bản sắc cá nhân”. Nhưng thực tế thì

bản sắc mang tính cá nhân nhiều hơn và mỗi người sở hữu một bản sắc cá nhân

122

khác nhau, nó được hình thành dựa vào những kinh nghiệm, tiếp xúc khác nhau của

họ trong quá trình lớn lên và điều quan trọng hơn nữa là bản sắc của mỗi người đều có thể thay đổi vào bất kì lúc nào trong cuộc sống.

Các học giả Việt Nam từ khi nước nhà Đổi mới đã đề cập nhiều hơn đến bản

sắc cá nhân và từ bản sắc đó được họ mượn dịch từ khái niệm “identity” trong tiếng

Anh. Theo đó, bản sắc cá nhân được họ cho là liên quan đến một cái gì đó có thực và có thể dùng nó để nhận diện một ai đó. Nhưng thực tế, khái niệm identity rộng hơn rất nhiều so với khái niệm bản sắc. Ở đây, tôi sẽ hiểu khái niệm bản sắc theo

nghĩa rộng của từ identity mà theo nghĩa rộng này thì bản sắc cá nhân liên quan đến các vấn đề “tôi là ai?”, “Tôi muốn trở thành người như thế nào?”, “Vị trí của tôi là

gì trong cuộc đời này?” “Tại sao tôi cần được biết tới”? “Tại sao tôi cần được công

nhận”? “Tôi sống vì điều gì?”...

Trong xã hội truyền thống ở Việt Nam, con người cá nhân bị chìm khuất vào

trong cộng đồng, sống vì cộng đồng, cộng đồng là trên hết vì thế bản sắc cá nhân có

lẽ không được đề cao và câu hỏi “tôi là ai?” có lẽ cũng không được đặt ra bức thiết.

Con người truyền thống đồng nhất mình với cộng đồng, hạn chế những sở thích,

ước mơ của cá nhân để sống vì lợi ích của cộng đồng. Thế nên mới có chuyện hôn

nhân là vấn đề riêng tư nhất nhưng người Việt Nam cũng kết hôn vì quyền lợi của gia đình dòng họ, thậm chí là quyền lợi của làng xã (thể hiện ở tục nộp cheo40, hay lấy chồng lấy vợ cùng làng để đảm bảo ổn định cho làng xã (“Ta về ta tắm ao ta. Dù

trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, “Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng”…) thay vì lấy

chồng lấy vợ vì tình yêu đôi lứa. Trong xã hội hiện nay thì khác, câu hỏi “tôi là ai?”

trở nên đau đáu hơn bao giờ hết. Bởi xã hội chuyển đổi với những chuyển đổi về giá

trị (lợi ích cá nhân đang được đề cao hơn lợi ích cộng đồng) một mặt tạo cho con

người những cơ hội để khẳng định bản sắc cá nhân nhưng mặt khác cũng làm cho bản sắc cá nhân của họ bị tổn thương, khủng hoảng (identity crisis) hơn bao giờ hết.

Cá nhân trở nên chênh vênh, mất phương hướng trong cuộc sống trong bối cảnh xã hội chuyển đổi. Nhiều người không hiểu mình là ai? Mình muốn trở thành người như thế nào? Mình sống vì mục gì? …Bản thân họ bị tổn thương cái tôi sâu sắc.

40 Cheo là khoản tiền hay hiện vật mà nhà trai phải nộp cho làng nhà gái thì cuộc hôn nhân mới được cho là hợp pháp. Xưa kia có sự phân chia cheo thành hai loại: cheo nội ( trong trường hợp lấy vợ cùng làng), và cheo ngoại (trong trường hợp lấy vợ khác làng). Theo quy định của luật tục thì cheo ngoại nặng hơn cheo nội. Tục lệ này có ý nghĩa khuyến khích trai gái lấy chồng lấy vợ cùng làng để đảm bảo sự ổn định của làng xóm.

Những dẫn dụ ở chương 3, chương 4 cho thấy rất nhiều người trong xã hội chuyển đổi bị tổn thương cái tôi, tổn thương bản sắc. Chẳng hạn, cái làm nên bản sắc của một người đàn ông là phải mạnh mẽ tự tin, thành đạt, thể hiện được quyền

123

uy đối với người đàn bà… nhưng khi người ta không đạt được những kỳ vọng này

của xã hội như họ yếu mềm, nhút nhát, thậm chí họ ái nam ái nữ, đồng tính…thì họ bị xã hội nhìn ngó, định kiến là những kẻ quái thai, dị dạng, những kẻ tởm lợm, bị

người đời khinh miệt, xa lánh, tuyệt giao quan hệ…Đối với người phụ nữ thì cái tạo

nên bản sắc (identity) của họ là cái gì? Xã hội Việt Nam với những tàn dư còn sót

lại của chế độ phong kiến Nho giáo cho rằng cái làm nên sự tự tin của một người phụ nữ chính là hạnh phúc gia đình. Người ta nhìn một người phụ nữ nào đó là hạnh phúc và may mắn nhiều khi là do người ta thấy người đó có một người chồng tử tế

thành đạt, có đứa con tử tế. Nếu không đạt được điều đó: chồng ngoại tình, con ốm đau, bố mẹ hắt hủi hay “cô đơn toàn tập”…như chị Thắm, bà Trà, em Trinh…thì đó

cũng là một sự tổn thương cái vấn đề tôi là ai. Ngay cả với một người nào đó có

cuộc sống vật chất sung sướng nhưng lại bị ốm đau, què quặt, bị điên loạn vì “cơ

đầy” chẳng hạn, điều này cũng có nghĩa là cái bản sắc của họ có vấn đề và xã hội

thương hại họ, dè bỉu họ là kẻ thần kinh hay hoang tưởng…

Vốn xã hội với việc kiếm tìm/ tìm lại bản sắc cá nhân

Trong hoàn cảnh đó, bản hội là không gian mà nhiều người đã sử dụng niềm

tin tôn giáo và các mối quan hệ với các thành viên khác để cân bằng cuộc sống của

họ. Nhiều thành viên khi gặp những tổn thương trong đời sống tâm lí tình cảm hoặc

những khó khăn trong đời sống tâm linh bên cạnh việc tìm kiếm sự chia sẻ của gia

đình, bạn bè, đồng nghiệp…họ còn tìm đến cộng đồng bản hội. Trong những trường

hợp đặc biệt, khi các thành viên gặp những hoang mang trong đời sống tâm linh thì

sự tương trợ của bản hội thực sự hữu ích. Bởi thế, khi điều tra các thành viên bản

hội Phúc Minh từ bằng câu hỏi “khi gặp những điều khó hiểu, khó giải thích trong

đời sống tâm linh, ông (bà) thường chia sẻ với những ai?” có tới 100% số người

được hỏi trả lời họ tìm đến đồng Thầy và các thành viên bản hội, trong khi đó tìm

đến gia đình họ hàng là 79%, bạn bè 30,1%, đồng nghiệp nơi làm việc 9%...(Xin

tham khảo phụ lục 2 bảng 8 và bảng 9, tr176). Nhiều thành viên kể với tôi rằng,

có những vấn đề họ không chia sẻ được cùng ai, ngay cả với những người thân

trong gia đình của họ, song lại rất dễ dàng để tâm sự với các thành viên trong bản

hội. Có những điều mà người thân không thể/hoặc không chịu hiểu họ thì các thành

viên bản hội lại có thể trở thành người tri kỉ của họ, lắng nghe và tôn trọng họ. Việc

gia nhập bản hội và kể về bản thân mình với người khác, kể về những nỗi khổ đau

vô vọng, kể về những giấc mơ kì lạ, kể về những thắc mắc hoang mang trong đời

sống tâm sinh lí, kể về những tan nát của hạnh phúc đến bất ngờ…đó không chỉ là

cách giải tỏa những ẩn ức và nhận được sự đồng cảm sẻ chia từ người khác mà đó

124

còn là cuộc hành trình khám phá về bản sắc cá nhân của mình. Những người ái nam

ái nữ như em Tâm, khi phát hiện ra mình không giống những người đàn ông xung

quanh mình, không thích con gái mà lại thích con trai. Điều này thật sự hoang mang

cho cái việc trả lời câu hỏi “tôi là ai?”, “Tôi là ai mà tôi lại không giống những

người đàn ông khác?”. Đó có thể xem là sự khủng hoảng bản sắc cá nhân. Những

người như em Tâm khi vào bản hội Đạo Mẫu, đã gặp khá nhiều người giống họ,

thông qua các câu chuyện với những người như họ, họ đã tìm ra bản sắc của mình:

họ là những người đồng tính. Những người bỗng nhiên ốm đau điên loạn không rõ

nguyên nhân, mơ thấy rắn đỉa, nhìn thấy ma, vào điện thờ là ngây ngất múa may

quay cuồng…họ không hiểu họ bị làm sao, không hiểu điều gì đã khiến họ như thế

này…cũng chính là biểu hiện của việc cái tôi của họ đang bị khủng hoảng. Những

người này khi vào bản hội, thông qua các cuộc nói chuyện chia sẻ với đồng Thầy và

với các con nhang đệ tử khác, họ đã tìm thấy mình: họ chính là con Cha con Mẹ, họ

có căn cơ phải hầu Thánh và làm việc thánh…Những người đang hạnh phúc, có

cuộc sống đủ đầy …bỗng chốc gia đình ly tan, chồng ruồng bỏ, mất con, thất

nghiệp…cái tôi của họ bị tổn thương, họ mất phương hướng, không hiểu mình sống

vì cái gì và sẽ trở thành người như thế nào? Vào đến bản hội, họ tìm thấy mình

trong hoàn cảnh của những người khác, họ được an ủi và truyền thêm sức mạnh để

vượt qua những mất mát, tổn thương…

Việc tham gia bản hội, kết thân và chia sẻ với những thành viên cùng cảnh

ngộ đã giúp họ tự tin sống là chính mình và thể hiện bản sắc cá nhân của mình.

Thực tế, nhiều cá nhân trốn chạy trước sự khinh miệt của người đời, hoặc luôn chui

trong một “vỏ ốc tù và” để che dấu “cái tôi là ai” nhưng khi đến với bản hội họ

được sống là chính mình mà không ngần ngại, không che đậy. Những người ái nam

ái nữ đi lễ xa và mặc quần lụa áo cánh như đàn bà mà tôi đã nhắc tới ở các chương

trên chính là một sự công khai giới tính thật và cho mọi người biết tôi là ai- tôi là

một người đồng tính ái nam ái nữ và tôi đáng được sống, được tôn trọng, được tôn

vinh bản thân. Những người đàn ông trong không gian bản hội có thể khóc, có thể

yếu mềm nếu họ muốn chứ không phải lúc nào cũng cương cứng trước những áp

lực của gia đình và xã hội. Họ đã có những phút giây yếu mềm và bung tỏa những

áp lực cuộc sống trong các giá chầu bà, các giá cô trong các buổi hầu đồng. Để rồi

sau phút giây bung tỏa ấy cùng với các thành viên khác, họ như được tiếp thêm

nhựa sống, họ tự tin hơn rất nhiều. Họ nhìn nhận vấn đề bệnh tật của họ là dấu hiệu

của thần linh, bất hạnh về hôn nhân của họ như là một sự trả giá cho cái chuyện họ

125

có sứ mệnh khác, thất bại trong kinh doanh cũng là dấu hiệu thần linh đã chọn và

bắt buộc phải hầu đồng…

Tóm lại, bản hội là một không gian mà các thành viên của nó chia sẻ, lắng

nghe, đồng cảm, hỗ trợ lẫn nhau. Trong không gian đó, họ thỏa sức được là chính

mình, làm những điều mà họ mong muốn. Có thể nói, bản hội với các mối quan hệ

và sự tương trợ lẫn nhau đã giúp các thành viên tìm thấy/ tìm lại và thể hiện bản sắc

cá nhân. Đó chính là lợi ích to lớn của vốn xã hội.

5.3.2 Vốn xã hội với đời sống văn hóa- xã hội, văn hóa tín ngưỡng của các

thành viên bản hội

5.3.2.1 Vốn xã hội với đời sống văn hóa xã hội

Việc tham gia bản hội, có mối quan hệ với các thành viên khác giúp một cá

nhân có nhiều lợi ích trong đời sống văn hóa tín ngưỡng. Bản hội là một cộng đồng

có sự đa dạng về trình độ và nghề nghiệp, lứa tuổi…với những hiểu biết phong phú

về các mặt của đời sống văn hóa xã hội vì thế họ có thể chia sẻ thông tin và làm dày

phông kiến thức cho nhau. Có nhiều người trong bản hội là những người có trình độ

thấp (chị Nhàn, chị Thắm, chị Ngần…), thậm chí không được học hành nhưng vào

bản hội họ có cơ hội gặp gỡ quen biết với những người trình độ cao (anh Thà, chị Linh, anh Thoan…) và vì thế trình độ của họ cũng được nâng lên. Những chia sẻ

của bác Hoa- người trước đây đã từng làm giám đốc một bệnh viện lớn ở Hà Nội

giúp cho nhiều thành viên bản hội có những tri thức về phòng bệnh và chữa bệnh.

Những câu chuyện của bác rất thu hút sự chú ý của mọi người, nhất là các bà vãi trong

bản hội, bản thân tôi cũng học được nhiều điều từ các câu chuyện của bác từ việc phải

bảo vệ đôi mắt thế nào, phòng chống mỡ máu và tiểu đường ra sao và việc tập yoga có

tác dụng thế nào trong việc bảo vệ sức khỏe của con người. Nhiều thành viên trong bản

hội, nhất là các chị các bà chia sẻ với nhau kinh nghiệm nuôi con, giữ gìn hạnh phúc

gia đình, mua sắm quần áo ở đâu thì rẻ và thời trang, làm đẹp thế nào…

5.3.2.2 Vốn xã hội đối với đời sống văn hóa tín ngưỡng Trước hết, vốn xã hội giúp các thành viên bồi đắp thêm những hiểu biết về đời sống văn hóa tín ngưỡng. Không phải ai đến với bản hội cũng hiểu về bản hội và hiểu về Đạo Mẫu. Thông qua các mối quan hệ, bằng các cuộc gặp gỡ, trò chuyện, các thành viên bản hội đã chia sẻ cho nhau những hiểu biết về các vị Thánh trong Đạo Mẫu, điện thần và cách thực hành nghi lễ hầu đồng…Trong thực tế,

lượng thông tin về đời sống tín ngưỡng được chia sẻ giữa các thành viên không chỉ đóng khung trong những hiểu biết về Đạo Mẫu mà còn mở rộng sang cả đời sống

tôn giáo tín ngưỡng nói chung. Nhiều thành viên thông qua quan hệ với các thành

126

viên khác trong bản hội đã biết được các loại bàn thờ trong gia đình bài trí ra sao,

sắp đặt bàn thờ gia tiên như thế nào, với mỗi lễ cúng thì phải dùng bài văn khấn như thế nào?...

Một điều đáng chú ý là sự hiện đại hóa của công nghệ thông tin hiện nay đã

giúp các thành viên bản hội không chỉ giao tiếp mặt đối mặt thông qua các buổi hầu

đồng hay đi lễ xa mà còn giao tiếp qua mạng ảo. Ở đây tôi nhấn mạnh tới mặt tích cực của mạng ảo với việc chia sẻ thông tin, tri thức, trải nghiệm về văn hóa tâm linh. Các thành viên của Phúc Minh từ có một trang facebook (với tên gọi HA-ĐN)

của riêng họ do một người có trình độ văn hóa cao nhất (anh Thà- thạc sỹ), đầy hiểu biết và nhiệt huyết của bản hội lập ra. HA- ĐN đã trở thành diễn đàn để nhiều thành

viên thoải mái công khai kể về những câu chuyện trải nghiệm tâm linh của mình mà

không lo sợ bị cho là điên dở như khi kể với những người ngoài xã hội, đặc biệt hơn

nữa diễn đàn này còn có nhiều bài viết về sự tích của các Thánh trong Đạo Mẫu,

giới thiệu nhiều ngôi đền với lịch sử và giá trị văn hóa của nó, hướng dẫn các thành

viên khi đi lễ một vị Thánh nào đó thì cần chuẩn bị những lễ vật gì…? Bất kì một

thành viên nào khi không hiểu hoặc đang hoang mang vì một vấn đề nào đó trong

lĩnh vực tâm linh, có thể online để lại câu hỏi và ngay lập tức nhận được các bình

luận (comments) của mọi người và HA-ĐN thực sự trở thành một cuốn sách bách

khoa về đời sống tâm linh của các thành viên bản hội Đạo Mẫu. Vượt ra khỏi khuôn

khổ là một trang facebook của một bản hội, hiện nay HA- ĐN đã có 1148 thành

viên bao gồm những người có vấn đề trong đời sống tâm linh và cả những người

không có căn số nhưng yêu thích tìm hiểu văn hóa tâm linh. Với sự đông đảo hơn

của các thành viên, lượng thông tin về văn hóa tín ngưỡng mà một cá nhân thu được

càng trở nên dồi dào hơn. Đây thực sự là lợi ích to lớn mà VXH đã đem lại cho các

thành viên bản hội Đạo Mẫu.

Không chỉ bồi đắp những hiểu biết về văn hóa tín ngưỡng, VXH còn trợ giúp

các thành viên bản hội Đạo Mẫu trong việc thực hành nghi lễ. Sự trợ giúp ở đây

không chỉ là sự truyền dạy cho nhau các kinh nghiệm hầu đồng mà còn bao gồm cả

việc trợ giúp về vật chất. Như đã đề cập ở trên, các nghi lễ Đạo Mẫu khá tốn kém

trong khi đó nhiều người tham gia bản hội là những người “mất sạch sành sanh”,

những người có đời sống kinh tế khốn khó, bởi vậy sự trợ giúp về kinh tế để một

thành viên nào đó làm tròn bổn phận với nhà Thánh là điều cần thiết. Rất nhiều

thành viên được sự trợ giúp của những người thân thiết trong bản hội đã có điều

kiện để đi lễ xa. Chẳng hạn như, họ được cho đi nhờ không phải đóng tiền xe, tiền

ăn ở, riêng tiền tu quả lễ để dâng thần thánh thì họ phải có một chút ít gọi là bởi

127

theo bà Thanh “đi lễ mà nhờ người đóng tiền lễ thì coi như đi lễ hộ, ít nhất mình

phải có gì tu vào quả lễ, người ta bỏ mỗi người 100 ngàn thì mình cũng phải bỏ 20

ngàn, ít nhất cũng phải 10 ngàn”. Một số người đã tôn nhang nhưng căn cao số nặng

cần phải trình đồng mở phủ để hóa giải nhưng lại không có đồng ngân đồng xuyến

và họ đã nhận được sự trợ giúp của mọi người. Chẳng hạn em Minh, trong lễ “cắt

tóc làm tôi con ông Thánh” của mình, Minh được sự trợ giúp của những người bạn

trên facebook, những thành viên trong bản hội Phúc Minh từ như: anh Thú giúp về

phần xếp đồ mã không lấy tiền, chị Nhàn làm cơm nước cũng không lấy tiền công,

Trinh với chị Linh giúp việc đi mua đồ và cắm hoa, với sự quen biết rộng của mình

Trinh cũng thuyết phục được pháp sư, cung văn, hầu dâng giúp cho buổi lễ mà

không nhận đồng công nào, Trinh cũng liên lạc với một người chị bạn ở bên Đức

nói về hoàn cảnh của Minh cần giúp đỡ và chị ấy cũng gửi số tiền giúp đỡ là 2,5

triệu, đồng Thầy Xuyên cho thêm 2 triệu, anh Thà kêu gọi các thành viên facebook

và các thành viên cũng có sự trợ duyên bằng tiền…Có thể nói, việc Minh có thể trở

thành con nhà Thánh và cận kề hầu Cha hầu Mẹ được, sự giúp đỡ về vật chất của

các thành viên trong bản hội là yếu tố quan trọng hàng đầu. Câu chuyện của Minh là

một ví dụ tiêu biểu chứng minh cho lợi ích của VXH trong thực hành nghi lễ Đạo

Mẫu của các thành viên bản hội.

5.3.3 Vốn xã hội với việc phát triển kinh tế của các thành viên bản hội Đạo Mẫu

Vốn xã hội có lợi ích to lớn trong việc hỗ trợ cá nhân phát triển kinh tế đã

được khẳng định trong nhiều công trình của các tác giả Nguyễn Tuấn Anh [137], Ngô

Thị Phương Lan [62] [63], Khúc Thị Thanh Vân [128]… Tuy nhiên, tôi muốn nói

rằng, VXH của mỗi cộng đồng khác nhau sẽ có sự hỗ trợ cho các thành viên của nó

phát triển kinh tế ở các khía cạnh không như nhau. VXH ở cộng đồng nông dân mà

Nguyễn Tuấn Anh nghiên cứu hỗ trợ cho các hộ gia đình trong việc đổi công, dồn

ruộng đổi thửa… VXH ở cộng đồng nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long trong

nghiên cứu của Ngô Thị Phương Lan lại hỗ trợ cá nhân về vốn, kĩ thuật…để giảm

thiểu và phân tán sự rủi ro trong nuôi tôm. VXH của cộng đồng bản hội Đạo Mẫu,

bên cạnh sự hỗ trợ cho các thành viên trong việc xin việc, giới thiệu việc làm cho vay

tiền, chung vốn kinh doanh (Xin tham khảo thêm phụ lục 2 bảng 7, tr175) …thì

còn có sự hỗ trợ rất đặc biệt. Dưới đây, tôi sẽ phân tích để thấy rằng, VXH đã hỗ trợ

cá nhân trong chuyển đổi và đào tạo các nghề liên quan đến nghi lễ Đạo Mẫu; hỗ trợ

năng lực tâm linh để giúp các thành viên đối phó với những rủi ro trong hoạt động

sinh kế. Đó là “đặc quyền” khác biệt của VXH gắn liền với mạng lưới xã hội là bản

hội mà không một loại mạng lưới nào khác có được.

128

5.3.3.1 Vốn xã hội hỗ trợ cá nhân trong chuyển đổi và đào tạo các nghề

nghiệp liên quan đến nghi lễ Đạo Mẫu

Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian quan trọng trong đời sống tâm linh

người Việt với nghi lễ chính là hầu đồng. Trong xã hội hiện nay, sự phát triển với

“công suất” bùng nổ của nghi lễ này đã đưa đến sự tái xuất hiện của một số nghề liên quan đến nó như: cung văn, hầu dâng, chấp tác, thầy cúng, làm vàng mã... Song

không phải ai cũng có thể trở thành cung văn, hầu dâng, hay chấp tác…mặc dù có

thể sinh ra họ đã có những năng khiếu dành riêng cho các nghề này nhưng được

“đào tạo các kỹ năng” vẫn là yếu tố cần thiết. Những tư liệu từ phỏng vấn các thành

viên Phúc Minh từ đã cho thấy, một số người đã có bước chuyển đổi nghề nghiệp “ngoạn mục” và được đào tạo để trở thành những người làm nghề có liên quan đến

hầu đồng thông qua sự hỗ trợ của các mối quan hệ quen biết và thân thiết trong bản

hội. Điều này thực sự có ý nghĩa đối với đời sống kinh tế khó khăn của họ trong bối

cảnh xã hội hiện nay. Trong số những người nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ vốn xã

hội trong chuyển đổi nghề nghiệp, em Hưng mà tôi đã nhắc ở trên là một ví dụ tiêu biểu, từ giám đốc bất động sản Hưng trở thành chấp tác. Câu chuyện của em Hưng,

những vấn đề thất bại trong nghề nghiệp của em mặc dù đã được em lý giải mang

màu sắc tâm linh, nhưng bản thân tôi nhận thấy rất rõ bóng dáng của những động

thái của xã hội Việt Nam những năm gần đây, đó là khủng hoảng kinh tế, là sự

ngừng trệ của nhiều loại thị trường. Có một thời kỳ, bất động sản rồi chứng khoán

lên như diều gặp gió, người người đầu tư bất động sản, nhà nhà chơi chứng

khoán…nhưng rồi tất cả bỗng dưng đóng băng. Nhiều người sau một đêm ngủ dậy,

mất trắng. Đó chính là sự bấp bênh, bất trắc và rủi ro không tiên đoán trước được

của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh xã hội chuyển đổi. Em Hưng đã vượt qua

bối cảnh đó bằng nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp tâm linh là cắt tóc làm

tôi con ông Thánh. Bản thân em cũng đã huy động và nhận được hỗ trợ từ nhiều

nguồn lực của các mạng lưới khác nhau phục vụ cho phát triển: lần thứ nhất mở cửa hàng bia, em được hỗ trợ bởi nguồn lực (tiền ) của mạng lưới bạn bè; lần thứ hai mở công ty bất động sản, em huy động và nhận được hỗ trợ nguồn lực (tiền) từ mạng lưới gia đình họ hàng và mạng lưới bạn bè. Nhưng kết quả của hành động (mở nhà hàng, mở công ty) đều thất bại. Cuối cùng, việc mở phủ trình đồng khiến em gia nhập vào một mạng lưới xã hội mới: bản hội. Nhờ mối quan hệ trong mạng lưới bản

hội, cụ thể là với đồng Thầy, em đã được hỗ trợ để chuyển đổi nghề nghiệp: từ một giám đốc bất động sản Hưng trở thành chấp tác. Đồng Thầy đã hỗ trợ em bằng cách

nhận em vào làm việc, hỗ trợ em về “chuyên môn nghiệp vụ”, “đào tạo nghề

nghiệp” , đào tạo những việc mà trước đó em chưa từng biết đến, chưa từng được

129

truyền dạy ở giảng đường đại học như viết sớ, sắp mã, đồ lễ…cho các buổi lên đồng

và những nghi lễ được thực hiện ở điện nhà đồng Thầy.

Song em Hưng chỉ là một ví dụ, trong bản hội còn có nhiều thành viên khác

như chị Nhàn, chị Thắm, chị Ngần, anh Thú …được chuyển đổi và đào tạo nghề

nghiệp nhờ vào sự hỗ trợ của VXH. Anh Thú, người làm chấp tác đầu tiên tại điện

nhà đồng Thầy xuất thân là một người của “trường đời” bởi anh đã trải qua không biết bao nhiêu công việc trước khi đến với bản hội của thầy Xuyên như đi xe ôm, rồi xe xích lô, buôn đồng đỏ, buôn vật liệu xây dựng…Nhưng cuộc sống thật bấp

bênh cho đến khi anh được nhận vào làm chấp tác tại điện nhà đồng Thầy. Anh tự hào đến nay anh đã gắn bó với điện nhà đồng Thầy Xuyên 14 năm, “trong 14 năm

đó, anh tiến dần tiến dần:lúc đầu vào bản điện anh chuyên làm việc hóa mã, sau đó

vào nấu bếp, sau đó ra phục vụ ở ngoài rồi sau đó mới phục vụ ban công đồng,mới

sắp lễ lên các ban bệ”. Anh tâm sự “việc sắp lễ không đơn giản. Vì mỗi một lễ khác

nhau đòi hỏi những lễ vật khác nhau, có lễ đòi hỏi phải có mã, có ngựa, có lễ chỉ

cần hoa quả, nhưng lại có nghi lễ cần có cả lễ mặn…”. Một người chuyên viết sớ

của bản hội cũng nói với tôi rằng “công việc viết sớ không vất vả bởi vì không đòi

hỏi nhiều sức lực nhưng lại tốn thời gian vì nhiều khi phải thức đêm để viết thì mới

đáp ứng được nhu cầu của con nhang đệ tử, đặc biệt là trước và sau tết…hơn nữa

cũng cần phải phân biệt từng loại sớ thì viết như thế nào…”. Tất cả những “ kĩ năng

kĩ xảo” đó, những người viết sớ và sắp lễ đều được đồng Thầy dạy bảo. Ngoài ra,

như anh Thú nói với tôi, “với độ tinh quái của anh”, anh còn học được qua sự chỉ

dạy của một số người trong bản hội như thầy cúng, hầu dâng…Kết quả là qua sự chỉ

bảo của đồng Thầy, của các thành viên khác trong bản hội, qua 14 năm, đến này anh

Thú được coi là “người sắp lễ chuyên nghiệp nhất” của bản hội Phúc Minh từ, ngoài

việc phục vụ cho tại bản điện, mỗi khi một thanh đồng nào của bản hội hầu ở đền to phủ lớn khác đều nhờ anh đi mua lễ và sắp lễ, thậm chí công việc của anh còn được

mở rộng tới các mạng lưới khác (bản hội khác).

Như vậy, có thể thấy, vốn xã hội đã hỗ trợ nhiều cho sự phát triển nghề nghiệp và chuyển đổi nghề nghiệp của cá nhân trong bản hội. Em Hưng dù không kiếm được tiền tỉ như trước đây nhưng rõ ràng với sự hỗ trợ của các mối quan hệ trong bản hội đặc biệt của đồng Thầy, em không còn rơi vào cảnh túng quẫn vì nợ nần nữa, giờ đây em có một công việc ổn định là chấp tác tại bản điện, đồng thời em

cũng đưa vợ con từ Hà Giang về Hà Nội đoàn tụ, mở cho vợ được một quán internet

với thu nhập hàng tháng 15 triệu. Mà “ổn định” là điều mong mỏi của rất nhiều

người trong bối cảnh xã hội đầy rủi ro và bất trắc này. Cũng như vậy, chị Nhàn dù

không giàu lên được, không thể thoát khỏi cảnh buôn bán nhỏ lẻ, nhưng sự hỗ trợ

130

của các mối quan hệ với đội chấp tác trong bản hội cũng đã giúp chị duy trì được

công việc bán bún, duy trì cuộc sống của mình trong khi người chồng nghiện ngập tiêu tán tài sản gia đình….

5.3.3.2 Vốn xã hội hỗ trợ cá nhân đối phó những rủi ro trong hoạt động sinh

kế thông qua khai thác năng lực tâm linh- một nguồn lực của bản hội.

VXH hỗ trợ cá nhân vượt qua những rủi ro trong hoạt động sinh kế là một đề

tài quen thuộc được đề cập nhiều trong các công trình trước đó. Đối với những người

nông dân ven đô Hà Nội, đô thị hóa đã đem đến sự rủi ro trong sinh kế của họ, cả một

đời làm bạn với đất, sống nhờ vào đất, giờ đây khi đất đai bị thu hồi họ trở thành

những người “thất nghiệp”. Làm gì để sống? Dĩ nhiên là phải chuyển đổi cơ cấu kinh

tế, chuyển đổi nghề nghiệp. Nguyễn Duy Thắng (2007) [103] đã chỉ ra rằng, một

trong những biện pháp vượt qua những rủi ro đó là sử dụng vốn xã hội nhằm tìm

kiếm việc làm và đào tạo nghề nghiệp mới. Ngô Thị Phương Lan (2011) [62] với mối

quan tâm về việc chuyển đổi từ lúa sang tôm của người dân đồng bằng sông Cửu

Long đã phát hiện ra chính VXH bao gồm các mối quan hệ của người nông dân trong

các mạng lưới mà họ là thành viên như gia đình- dòng họ, các tổ chức tôn giáo- tín

ngưỡng, các hội phi quan phương, các nhóm hụi …đã hỗ trợ cho họ về vốn, về kỹ

thuật, thông tin thị trường và về lao động …để họ có thể phân tán rủi ro và giảm thiểu

rủi ro của hành động chuyển đổi này.

Trong phần này, tôi không đề cập đến sự hỗ trợ về vốn, lao động, thông tin

nghề nghiệp …mà nguồn VXH đã đem đến cho những người nông dân ven đô hay

những ngư dân ven biển để đối phó với rủi ro, tôi sẽ đề cập đến một điều đặc biệt:

VXH hỗ trợ các thành viên bản hội về năng lực tâm linh giúp họ có thêm “sự tự

tin” trong các hoạt động kinh tế, trong các quyết định kinh doanh của họ. Ở đây, tôi

quan niệm, khả năng tâm linh là khả năng giao tiếp với thần linh để cầu xin sự phù

trợ của lực lượng siêu nhiên, khả năng làm lễ cho các đệ tử… của một người nào

đó, khả năng này có thể là “trời phú” hoặc cũng có thể do học tập tích lũy mà có và

sự hiểu biết của họ về những tri thức và thực hành nghi lễ trong tôn giáo. Bản hội là

một mạng lưới bao gồm nhiều thành viên có khả năng tâm linh đặc biệt, chẳng hạn

đồng Thầy, các pháp sư, thầy cúng, các thanh đồng…Những người này có khả năng

giao tiếp với thần linh, cầu xin cho những dự định của con nhang đệ tử thành hiện

thực, hoặc có thể soi bói để tiên đoán trước những điều sẽ xảy ra trong tương

lai…Việc một người là thành viên của bản hội và thiết lập mối quan hệ với nhiều

người khác giúp họ có thể khai thác được khả năng tâm linh của họ để đối phó với

những rủi ro trong hoạt động sinh kế trong bối cảnh kinh tế thị trường đầy biến

131

động. Oscar Salemink đã viết “Tai họa do thiên nhiên, ốm đau, tham nhũng,quá ít

hoặc quá nhiều con, máy móc bị hỏng và nhiều tình huống khác có thể làm cho gia

đình mất đi đất đai hoặc tài sản khác và đẩy gia đình xuống dưới ngưỡng nghèo.

Tuy nhiên, điều thực sự mang lại cảm giác dễ tổn thương và bất an kinh tế sâu sắc

chính là ảnh hưởng của các lực lượng thị trường hay thay đổi hoặc những quyết

định kinh doanh sai lầm không giải thích được, những tác động diễn ra mà không

thể nhận thức được hoặc dự đoán được” [89; tr9]. Rất nhiều người gia nhập bản hội

Phúc Minh từ nói riêng và các bản hội Đạo Mẫu ở miền Bắc Việt Nam là những

người đã, đang, sẽ phải đối mặt với sự bất an, trắc trở của “thế lực thị trường”. Em

Hưng, vợ chồng anh Sính chị Linh mà tôi vừa nhắc ở trên là những người nhãn tiền.

Đầu tư chứng khoán, đầu tư các dự án xây dựng đã có thời kỳ hái ra tiền, “sờ vào

đâu cũng ra tiền” bỗng dưng tất cả không cánh mà bay. Chính cái cảm giác bất lực

vì không thể kiểm soát được những bất trắc của thị trường như vậy khiến nhiều

người tìm cách vượt qua bằng thực hành tôn giáo, nhờ cậy đến những người có khả

năng tâm linh. Nhiều thành viên thông qua các mối quan hệ mạnh (strong ties) và

yếu (weak ties) của mình trong bản hội đã tiếp cận và nhận được hỗ trợ nguồn lực là

khả năng tâm linh của các thành viên khác trong hoạt động kinh tế của mình. Công

việc bán bún của chị Nhàn tiềm ẩn nhiều rủi ro, cửa hàng của chị lúc đông lúc vắng.

Người chồng nghiện ngập nên gánh nặng gia đình đè lên đôi vai chị, đặt cả trông

mong vào quán hàng của chị. Nếu ế hàng liên tục, nguồn sinh kế của gia đình sẽ là

một nỗi lo đau đáu. Nhưng chị Nhàn không thể kiểm soát được lượng khách ra vào

quán, chị không thể biết chắc rằng khi nào khách đông khi nào khách vắng, vì vậy

khả năng ế hàng hoặc đắt hàng là không thể tiên đoán được, chị đành nhờ cậy đến

khả năng tâm linh của chị Mến- người cũng đã giúp chị rửa bát, bưng bê khi khi cửa

hàng đông khách. Bởi theo chị Nhàn và bản thân tôi cũng được nghe chị Mến kể lại,

chị Mến là người có thể “kêu thấu tấu nổi”. Mỗi khi ế hàng, chị Nhàn gọi điện nhờ

chị Mến “em ế quá chị ạ, chị xem thế nào khấn hộ em cái”. Để giúp chị Nhàn, chị

Mến sẽ sử dụng năng lực đặc biệt của mình bằng cách khấn thần linh và thổ công

nhà mình sau đó nhờ thần linh thổ công nhà mình đến “nói chuyện” với thần linh,

thổ công nơi quán bán hàng của chị Nhàn bởi theo lời giải thích của chị Mến thì

“thần linh với thần linh dễ nói chuyện hơn, mình là người trần mắt thịt làm sao dám

nhờ vả”. Không biết thực hư việc cầu xin có tính hiệu nghiệm như thế nào nhưng

theo lời chị Mến thì chị đã giúp chị Nhàn thoát khỏi cảnh ế hàng vài lần bằng cách

cầu xin thần linh, thổ công như vậy.

132

Việc được hỗ trợ về vốn tôn giáo để tránh những rủi ro trong việc bán bún

của chị Nhàn chỉ là một ví dụ nhỏ. Thâm nhập bản hội Phúc Minh từ, nhiều thành

viên bản hội trước khi quyết định làm những dự án lớn, thậm chí với số vốn tiền tỉ

(cũng có nghĩa là nếu rủi ro sự mất mát sẽ lớn hơn rất nhiều việc bán bún) bao giờ

họ cũng tìm kiếm sự giúp đỡ về tâm linh. Mối quan hệ thông thường họ nghĩ đến để

có thể nhờ cậy là đồng Thầy Xuyên, trước khi có những quyết định cho dự án kinh

tế, họ thường gặp đồng Thầy và hỏi về điều đó, câu hỏi quen thuộc mà tôi thường

nghe là “con định làm cái này…Thầy xem có được không?” hay “thầy xem có

thành công không?”. Đồng Thầy Xuyên bấm đốt ngón tay, gieo quẻ âm dương

trước điện thờ hoặc đôi khi là cộng tuổi vợ chồng con cái theo một công thức nào

đó rồi phán được hay không. Có thể nói, việc phán truyền của thầy Xuyên là một

năng lực tôn giáo của Thầy mà không phải ai, không phải người phàm tục nào cũng

có thể làm được. Lời phán truyền đó không hình tướng, không phải là một thứ vốn

hiện hữu nhưng lại giúp họ có niềm tin vững chắc để quyết định thực hiện dự án

hay không. Chẳng hạn, khi quyết định cùng mở nhà hàng ăn với nhau, chị Linh anh

Sính, anh Thoan, anh Thà đã phải nhờ cậy đến năng lực của thầy Xuyên để xem

tuổi tác của họ có hợp nhau không, có phối hợp được không. Họ sợ rằng, nếu không

hợp tuổi mà vẫn kết hợp kinh doanh cùng sẽ dẫn đến sự rủi ro là sự phá sản của nhà

hàng. Khi quyết định mở nhà hàng, cũng để tránh rủi ro trong kinh doanh, họ cần

quan tâm đến vị trí mở cửa hàng, đến việc lập bát hương thờ thần tài phù trợ, điều

này tự bản thân họ cũng không làm được, họ phải cần đến sự hỗ trợ năng lực tâm

linh của đồng Thầy.

Nhưng không chỉ được giúp đỡ từ khả năng tâm linh của đồng Thầy, vợ chồng

chị Linh anh Sính, anh Thoan …và nhiều người khác còn nhận được sự hỗ trợ từ nhiều

cá nhân khác có khả năng tâm linh trong bản hội ví dụ cậu Vinh có khả năng xem đất

cát để xây dựng các công trình, chị Mơ có khả năng xem bói …Nhiều khi tôi còn nhận

thấy sự phối hợp của những người có khả năng tâm linh với nhau: chẳng hạn, khi có tín

chủ đến nhờ đồng Thầy xem đất để động thổ một công trình, đồng Thầy Xuyên thường

phối hợp với con đồng của mình là cậu Vinh. Cậu Vinh sẽ xem đất cát có vong không,

có “bẩn” không, nếu “bẩn” thì hai thầy trò tìm cách “giải quyết”, cuối cùng trước khi

bắt đầu xây dựng đồng Thầy Xuyên là người cúng động thổ.

Những phân tích trên đây cho thấy, rõ ràng VXH đã giúp các thành viên

bản hội có được sự hỗ trợ về khả năng tâm linh. Và điều này giúp họ tăng cường

quyết đoán cần thiết và niềm tin để có thể thành công trong kinh doanh. Đúng như

Oscar Salemink đã nói “ở Việt Nam, an toàn tinh thần được tìm kiếm thông qua

133

những người làm trung gian về tâm linh không chỉ bù đắp cho những bất an của thị

trường không dự đoán được mà còn tạo ra vốn xã hội cần thiết cho việc đầu tư một

cách tự tin vào kinh doanh mới (hoặc cũ), nhờ đó cải thiện an toàn sinh kế của

thương nhân, những người phụ thuộc vào họ, những đối tác kinh doanh và khách

hàng của họ”[89; tr16].

5.4 Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu trong bối

cảnh chuyển đổi : những vấn đề đặt ra.

5.4.1 Sự chuyển hóa giữa các dạng vốn trong quá trình tạo lập vốn xã hội

của các thành viên bản hội

Những phân tích ở trên cho thấy, việc tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu thể hiện sự chuyển hóa giữa các dạng vốn khác nhau đúng như lý

thuyết của Pierre Boudieu. VXH của các thành viên bản hội được sinh ra từ các quan hệ xã hội (quan hệ đồng đạo, quan hệ giới, quan hệ kinh tế, quan hệ giữa

những người có trình độ nghề nghiệp khác nhau…). Muốn có VXH người ta không

chỉ thiết lập quan hệ xã hội mà cần phải làm cho quan hệ ấy gắn bó, chặt chẽ, tương

hỗ qua lại lẫn nhau…trở thành nguồn lực và đem lại lợi ích. Và để xây dựng các

quan hệ và làm cho nó đem lại lợi ích, các thành viên bản hội đã sử dụng sự hỗ trợ

của các dạng vốn khác nhau: vốn kinh tế đầu tư vào dòng quà tặng, vốn văn hóa

khác biệt vượt trội để thu hút người khác…

Tuy nhiên, bản hội là một cộng đồng tâm linh, khác với các cộng đồng xã hội

khác, do vậy các dạng vốn kinh tế và vốn văn hóa đầu tư cho việc tạo lập vốn xã hội

đều liên quan đến tâm linh. Chẳng hạn, nếu như cộng đồng dân làng, để tạo lập vốn

xã hội, họ sử dụng vốn kinh tế vào dòng quà tặng trong những dịp sinh nhật, cưới

hỏi, ốm đau thì các thành viên bản hội sử dụng vốn kinh tế vào việc trợ duyên cho

bạn hữu khi hầu đồng và vào quà tặng thần linh. Vốn văn hóa dùng để tạo lập vốn

xã hội cũng liên quan nhiều đến sự hiểu biết về tâm linh và khả năng tâm linh.

Việc tạo lập và đầu tư VXH ngược lại cũng đem lại cho các thành viên nhiều lợi ích về vốn kinh tế và vốn văn hóa. Nói cách khác giữa các dạng vốn có sự chuyển hóa lẫn nhau.

Song điều đặc biệt của sự chuyển hóa giữa các dạng vốn trong quá trình tạo

lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu là ở chỗ: VXH không chỉ sinh ra/làm giàu thêm vốn kinh tế và vốn văn hóa, VXH còn sinh ra một loại vốn đặc

biệt- một loại vốn không được nhắc tới trong lý thuyết của Pierre Boudieu, loại vốn

này cũng chưa được định tên bởi nó rất trừu tượng nhưng nó có khả năng làm cho

con người ta cảm thấy tự tin, căng tràn năng lực sống, năng lực làm việc khi người

ta tìm thấy/ tìm lại bản sắc cá nhân và thể hiện đúng bản sắc cá nhân của mình.

134

Loại vốn này thực sự rất có ý nghĩa đối với các thành viên bản hội Đạo Mẫu-

những người có hoàn cảnh sống gặp nhiều khổ đau bất hạnh, những người có đời sống tâm sinh lý không bình thường… khiến họ bị tổn thương cái tôi, khủng hoảng

bản sắc và đang cần có sự cảm thông chia sẻ và truyền năng lực sống từ người khác.

Tóm lại, qua đây có thể thấy, các thành viên ở mỗi cộng đồng khác nhau, có các đặc

trưng khác nhau sẽ có cách tạo lập VXH khác nhau và sự chuyển hóa giữa các dạng vốn trong quá trình tạo lập VXH cũng không như nhau.

5.4.2 Mối quan hệ giữa bối cảnh xã hội chuyển đổi và vấn đề tạo lập vốn

xã hội của các thành viên bản hội Đạo Mẫu.

Trong phần này tôi sẽ nhìn lại tổng thể để phân tích tác động hai chiều giữa

bối cảnh xã hội chuyển đổi và việc tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội

Đạo Mẫu. Cụ thể, tôi sẽ phân tích tác động của bối cảnh xã hội chuyển đổi tới nhu

cầu tạo lập vốn xã hội và phương thức tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản

hội. Đồng thời, tôi cũng nhìn ngược lại để thấy việc tạo lập vốn xã hội của các

thành viên bản hội Đạo Mẫu đã phản ánh các vấn đề của bối cảnh xã hội chuyển đổi

như phản ánh đặc trưng của quan hệ xã hội / VXH; phản ánh vai trò ý nghĩa của tôn

giáo tín ngưỡng đối với đời sống con người hiện nay.

5.4.2.1. Tác động của bối cảnh xã hội chuyển đổi tới vấn đề tạo lập vốn xã hội

Thứ nhất: xã hội chuyển đổi tác động tới nhu cầu tạo lập vốn xã hội trong động cơ

tham gia bản hội

Một câu hỏi đặt ra là: trong bối cảnh xã hội chuyển đổi vì sao người ta lại

tham gia bản hội nhiều như vậy? Có phải người ta gia nhập bản hội và thực hành

các nghi lễ Đạo Mẫu chỉ đơn thuần vì những vấn đề tâm linh hay còn có những vấn

đề nào khác nữa? Những công trình viết về lên đồng những năm giữa thế kỉ XX mô

tả nguyên nhân của việc người ta phải đến với cửa Mẫu như một cách để hầu Cha hầu Mẹ của những người có căn số nhằm giải thoát khỏi việc bị cơ đầy Thánh đầy.

Nghĩa là động cơ chính của việc gia nhập bản hội là vì những vấn đề tâm linh. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội chuyển đổi tác động làm đa dạng hóa và phức tạp hóa những động cơ tham gia bản hội hiện nay.

Trước hết, bối cảnh xã hội chuyển đổi với nhiều những rủi ro và bất trắc

khiến con người phải tìm đến sự bảo hiểm của thần linh nói chung và thần linh của

Đạo Mẫu nói riêng. Cụ thể là, bối cảnh xã hội chuyển đổi ở Việt Nam hiện nay bên

cạnh việc đem đến những cơ hội phát triển cho cá nhân và cộng đồng thì cũng đặt

con người đứng trước một xã hội mà nói như Ulrich Beck một giáo sư Đại học

Munich (Đức) là “xã hội rủi ro” (Risk society) với rất nhiều đau khổ xã hội (social

suffuring) như sự mất mát, nỗi cô đơn, sợ hãi, thất vọng và bất lực…. Trong bối

135

cảnh đó, con người phải tìm nhiều phương cách để đối mặt và vượt qua rủi ro.

Chẳng hạn, những người ốm đau, bệnh tật tìm đến bệnh viện, các cơ sở chữa trị;

những người mắc các chứng bệnh tâm lí tìm đến các cơ sở tư vấn tâm lý; một biện

pháp phổ biến mọi người thường dùng là mua bảo hiểm (các loại bảo hiểm khác

nhau như bảo hiểm y tế, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm đầu tư, bảo hiểm xe máy,

thậm chí còn có cả bảo hiểm …vợ chồng). Tuy nhiên, các phương cách nói trên và

cả các loại bảo hiểm nhiều khi vẫn không thể ngăn con người rơi vào tình trạng bất

lực, cảm giác không nơi bấu víu và vì vậy con người phải sử dụng nhiều chiến lược

cụ thể mang tính văn hóa, đặc biệt là việc sử dụng các nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng.

Việc các đại gia bị phá sản trong gang tấc như vợ chồng chị Linh anh Sính, anh

Thoan…; việc các tiểu thương buôn bán nhỏ lẻ có đời sống lay lắt như chị Nhàn,

chị Ngần…; việc các công chức nhà nước luôn phải đối mặt với vấn đề tinh giản

biên chế, lương ba cộc ba đồng như chị Thúy, chị Hòa..; việc hạnh phúc gia đình tan

vỡ như chị Thắm; việc ốm đau bệnh tật rồi con cái bị tai nạn…tất cả phản ánh tính

trắc trở, bấp bênh của cuộc sống con người trong xã hội chuyển đổi. Và việc họ tìm

đến với Thánh Mẫu, với bản hội không phải chỉ vì căn đồng số lính có nghĩa vụ

phục vụ nhà Ngài mà còn vì muốn tìm kiếm sự chở che phù hộ của thần linh cho

một cuộc sống trần thế an lành, phát triển.

Song có một điều quan trọng nữa là, sự bất trắc, rủi ro cũng như nhu cầu phát

triển trong bối cảnh xã hội chuyển đổi không chỉ khiến con người cần kíp hơn trong

việc nhờ cậy sức mạnh của thần linh mà còn đau đáu hơn với việc nhờ cậy các quan

hệ xã hội, nhờ cậy sự giúp đỡ của cộng đồng. Nói cách khác, việc gia nhập bản hội

hiện nay không chỉ đơn giản vì nguyên nhân căn số, cũng không chỉ vì nhu cầu tìm

kiếm bảo hiểm tâm linh mà còn vì nhu cầu tạo lập VXH để giải quyết các vấn đề

của cuộc sống như để phát triển kinh tế, tìm kiếm sự chia sẻ về tinh thần, giải tỏa

những bức xúc căng thẳng trong cuộc sống đầy lo âu và áp lực, giải quyết các vấn

đề về giới và quyền lực giới…Không phủ nhận rằng, trước đây việc tham gia bản

hội hoàn toàn không có động cơ tạo lập VXH, tôi chỉ cho rằng cái động cơ đó trước

đây hơi mờ nhạt, thậm chí như thời kỳ hầu đồng bị cấm đoán phải hầu vo và chui

lủi thì việc ra đồng trình lính có lẽ đơn giản chỉ vì mục đích chữa bệnh căn số chứ

không phải vì mục đích tạo lập quan hệ xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển

đổi hiện nay nhu cầu tạo lập vốn xã hội đang trở nên mạnh mẽ hơn trong động cơ

gia nhập bản hội đặc biệt là đối với những người kinh doanh buôn bán. Cô Lan bán

khăn chầu áo ngự mà tôi đã nhắc tới ở trên là một ví dụ tiêu biểu cho điều này. Là

136

một người có kinh nghiệm kinh doanh lâu năm trong nghề, cô Lan biết rằng, khăn

áo hầu là một mặt hàng có phạm vi tiêu thụ không mang tính phổ cập, nghĩa là chỉ

có đối tượng các ông đồng bà đồng mặc trong các vấn hầu mà thôi, bởi vậy cần có

những cách riêng để phát triển mạng lưới tiêu thụ của mình. Vì thế, cô đã “thâm

nhập cộng đồng” có nghĩa là thâm nhập vào bản hội, làm quen với giới đồng bóng,

kết thân với họ để biến họ trở thành những “khách hàng” tiêu thụ sản phẩm. Câu

chuyện của cô Lan làm tôi liên tưởng đến trường hợp của ông Tr mà tôi gặp thường

xuyên đến lễ bái ở chùa Liên Phái (Hà Nội). Ông làm nghề kinh doanh đồ thờ cúng

gia tiên cũng như đình, đền, chùa. Ông thường xuyên đến lễ bái ở các bản hội như

một cách để tìm kiếm bạn hàng. Thậm chí, khi có người cần lập điện, ông sẵn sàng

đầu tư đồ thờ từ hàng chục đến hàng trăm triệu, cho nợ và sau đó trả dần. Như vậy,

có thể thấy, một trong những mục đích gia nhập bản hội của nhiều người trong bối

cảnh hiện nay là để tìm kiếm những cơ hội kinh doanh, cụ thể là để thiết lập các mối

quan hệ, mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của mình.

Tuy nhiên, không nên tách rời giữa động cơ tâm linh và động cơ tạo lập

VXH bởi đôi khi chúng hòa lẫn, lồng ghép vào nhau. Nhiều người gia nhập bản

hội vì cả nhu cầu tâm linh và nhu cầu tạo lập VXH. Trường hợp cô Lan hay ông Tr

ở trên cũng không thể nói là họ gia nhập bản hội hoàn toàn chỉ vì nhu cầu tạo lập và

phát triển các quan hệ làm ăn buôn bán. Đồng thời với mong muốn sẽ có nhiều hơn

các cơ hội làm ăn, họ cũng mong muốn rằng thánh thần sẽ phù hộ cho việc làm ăn

của họ được suôn sẻ mát mẻ. Một số người ban đầu gia nhập bản hội hoàn toàn do

những thôi thúc của niềm tin, của mệnh lệnh nhà Ngài nhưng sau khi gia nhập bản

hội họ lại phát hiện ra có nhiều lợi ích về kinh tế, về giới…và họ tìm cách xây dựng

các mối quan hệ với những người khác. Một số người đầu tiên vô thần đến với bản

hội vì lợi ích kinh tế nhưng sau đó lại có niềm tin tôn giáo…Nói chung, nhiều khi

động cơ tâm linh và động cơ tạo lập vốn xã hội tổng hòa vào nhau trong nguyên

nhân gia nhập bản hội, sự đậm nhạt giữa chúng được biểu hiện khác nhau ở mỗi

người mà thôi.

Thứ hai, bối cảnh xã hội chuyển đổi tác động tới phương thức tạo lập VXH

Những phân tích ở trên cho thấy, để tạo dựng, duy trì và phát VXH, các

thành viên bản hội đã đầu tư về thời gian để đi lễ xa, để thực hành các nghi lễ Đạo

Mẫu cùng nhau; họ cũng sử dụng vốn văn hóa “khác biệt- vượt trội” để tạo sức hút

của bản thân đối với những người khác; sử dụng vốn kinh tế vào dòng quà tặng (trợ

duyên…) và chia sẻ lợi ích…Song những phân tích đó cũng đã gợi mở cho chúng

137

ta thấy, bối cảnh xã hội chuyển đổi đã tác động tới phương thức tạo lập VXH và

làm xuất hiện hai xu hướng: hiện đại hóa và thương mại hóa trong phương thức tạo

lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu.

Hiện đại hóa phương thức tạo lập vốn xã hội

Có thể nói, trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, phương thức tạo lập VXH của

các thành viên bản hội Đạo Mẫu được hiện đại hóa với sự hỗ trợ của những tiến bộ

công nghệ hiện đại.Việc sử dụng các công cụ internet như facebook, zalo…là minh

chứng tiêu biểu cho điều này.Hầu hết những thành viên bản hội Phúc Minh từ mà tôi gặp đều có facebook hoặc zalo của riêng mình41, bên cạnh đó cả bản hội còn có

một trang facebook chung do anh Thà người có trình độ văn hóa cao nhất (thạc sỹ)

trong bản hội lập nên và làm chủ quản. Những công cụ facebook, zalo trở thành

phương tiện để các thành viên bản hội Đạo Mẫu thiết lập quan hệ bằng cách kết

bạn, duy trì quan hệ bằng cách comments (bình luận) hoặc cập nhật trạng thái, cũng

có thể tặng hoa và quà cho nhau trong ngày sinh nhật hoặc ngày bắc ghế hầu

Thánh…Và điều này làm cho phương thức tạo lập các quan hệ xã hội của các thành

viên bản hội có sự thay đổi lớn: nếu như trước đây việc thiết lập các quan hệ giữa

các thành viên bản hội được diễn ra bằng cách mặt đối mặt theo kiểu gặp gỡ rồi mới

thân quen thì hiện nay các thành viên có thể duy trì quan hệ với nhau qua mạng ảo.

Họ có thể gặp gỡ và hàn huyên với nhau, tặng quà cho nhau, thể hiện những hiểu

biết về thực hành tín ngưỡng nhằm thu hút người khác…trong không gian ảo của

internet.Việc hiện đại hóa phương thức tạo lập quan hệ xã hội như vậy có những ưu

điểm của nó mà ưu điểm dễ thấy nhất là rút ngắn thời gian quen biết và thân thiết.

Chỉ bằng cách nhấp chuột vào chữ “kết bạn” trên màn hình máy tính và được đối

phương chấp nhận thế là các thành viên bản hội đã trở thành bạn của nhau. Với

công nghệ internet hiện đại, số lượng quan hệ của các thành viên sẽ tăng lên một

cách nhanh chóng, thậm chí theo cấp số nhân. Và một điều quan trọng nữa là, với

facebook, zalo các thành viên viên bản hội không chỉ kết bạn với nhau mà còn kết

bạn và kết nối quan hệ với các thành viên ở những bản hội khác, điều đó khiến họ

có thêm một nguồn VXH nữa là VXH bắc cầu (VXH có được do có mối quan hệ

với những người ở cộng đồng bên ngoài) bên cạnh VXH nội bộ (VXH có được do

có mối quan hệ với các thành viên cùng cộng đồng). Việc kết nối bằng mạng ảo

cũng có thể giúp các thành viên bản hội duy trì VXH một cách bền chặt hơn bởi họ

41 Bản thân tác giả cũng là những bạn facebook của nhiều thành viên bản hội Phúc Minh từ.

có thể giao tiếp trong mọi không gian và thời gian miễn là có sự kết nối internet.

138

Những thành tựu của công nghệ thông tin cũng giúp các thành viên bản hội

sử dụng vốn văn hóa khác biệt- vượt trội để tạo lập VXH một cách tốt hơn.Việc

đồng Thầy Xuyên và các thành viên khác đã sử dụng facebook để thể hiện, thậm chí

là để “quảng cáo” những năng lực tâm linh, những hiểu biết về thực hành nghi lễ

như một cách để thu hút quan hệ là một minh chứng cho điều này. Rõ ràng, nếu

không có facebook thì đồng Thầy Xuyên và nhiều thành viên khác trong bản hội

không được nhiều người biết và tìm đến nhờ cậy như vậy, cũng có nghĩa là VXH

của họ không được mở rộng đến thế.

Thương mại hóa phương thức tạo lập vốn xã hội.

Để thiết lập, duy trì và mở rộng VXH, một trong những phương thức mà các

thành viên bản hội sử dụng là dùng vốn kinh tế đầu tư vào dòng quà tặng. Việc các

thành viên bản hội trợ duyên cho nhau, thăm hỏi nhau khi gia đình có hiếu hỉ, việc

tặng xiêm y cho thần linh…như đã phân tích ở chương trên ngoài việc do bị chi

phối bởi chuẩn mực bất thành văn về tình đồng đạo trong bản hội thì còn là cách để

họ tạo lập và thắt chặt quan hệ với người khác. Đây có lẽ cách thức tạo lập VXH

mang tính phổ biến trong mọi thời đại, mọi dân tộc và mọi cộng đồng. Lương Văn

Hy trong “Quà và vốn xã hội ở hai cộng đồng nông thôn ở Việt Nam” [56] đã cho

rằng việc người dân ở Khánh Hậu và Hoài Thị tặng quà cho nhau vào những dịp

liên quan đến nghi lễ vòng đời người, vào những dịp lễ tết, những dịp xây nhà mới

hay khi ốm đau…ngoài việc thể hiện tình cảm, tính thể diện thì đó còn là cách để họ

duy trì mối quan hệ với cộng đồng của mình. Trong những xã hội cổ sơ được đề cập

tới trong công trình để đời “Luận về biếu tặng” của Marcel Mauss [80], người ta

cũng sử dụng việc trao đổi vật phẩm để duy trì quan hệ với nhau. Nói chung, việc

dùng vốn kinh tế vào dòng quà tặng để tạo lập VXH không có gì là mới. Song nét

mới đáng đề cập ở đây là, dường như trong bối cảnh chuyển đổi với sự lên ngôi của

kinh tế thị trường đề cao vật chất việc sử dụng vốn kinh tế vào dòng quà tặng nhằm

tạo lập VXH đã được đẩy lên tới mức thương mại hóa. Nội hàm của khái niệm

thương mại hóa ở đây được dùng để chỉ về việc đề cao vật chất và coi vật chất, tiền

tệ như một thứ quan trọng hàng đầu để mua bán, đổi chác quan hệ. Trong xã hội đề

cao vật chất hiện nay, không ít người cho rằng “tiền là Tiên là Phật”, và “đồng tiền

đi trước là đồng tiền khôn” hay “những gì không mua được bằng tiền thì mua được

bằng …rất nhiều tiền”. Thế nên, người ta tận dụng mọi cơ hội lễ tết, hiếu hỉ, thăng

quan tiến chức… để tặng quà, tặng tiền cho nhau, thậm chí gia đình người ta có đám

139

tang đau buồn là vậy nhưng vẫn phúng rất nhiều tiền…Một trong những nguyên

nhân quan trọng thôi thúc hành vi này là vì để có quan hệ và thắt chặt quan hệ xã

hội. Không phủ nhận, việc tặng quà của nhiều thành viên bản hội Đạo Mẫu liên

quan đến vấn đề tình cảm, tình đồng đạo và thể diện song cũng có nhiều người sử

dụng vốn kinh tế vào dòng quà tặng nhằm tạo lập VXH đã đến mức thương mại

hóa. Một số thành viên bản hội thừa nhận với tôi rằng, nếu họ trợ duyên một ai đó

bằng rất nhiều tiền, họ sẽ trở nên nổi tiếng và sẽ có cơ hội tạo lập được nhiều quan

hệ xã hội. Hay như để duy trì dài lâu mối quan hệ với cung văn thì đồng Thầy khi hầu đồng phải thướng42 cho họ nhiều tiền, nếu không họ sẽ “hát rời rạc như cơm

nguội” và sẽ không gắn bó lâu dài với đồng Thầy. Cũng như vậy, muốn được đồng

Thầy mời đến phục vụ canh hầu thường xuyên, họ không chỉ phải hát hay, giá cả

vừa phải mà họ còn phải giới thiệu “khách hàng” đến làm lễ cho đồng Thầy. Đó vừa

là sự tương trợ lẫn nhau nhưng cũng là một sự đổi chác.

5.4.2.2 Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội: sự phản ánh các vấn

đề của xã hội chuyển đổi.

Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội: Sự phản ánh các vấn đề của

quan hệ xã hội và vốn xã hội

Việc tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu đã phản ánh các vấn

đề của quan hệ xã hội/VXH như: phản ánh tính động; tính thiết yếu và tính phức tạp nhiều chiều của quan hệ xã hội và VXH

Tính động của quan hệ xã hội và vốn xã hội

Quan hệ xã hội và VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu không phải là

một cái gì bất biến mà luôn luôn ở trong thế động. Những phỏng vấn lịch sử cuộc

đời của các thành viên bản hội cho thấy, quan hệ xã hội của họ thay đổi nhanh

chóng ngay cả với những quan hệ tưởng chừng vĩnh hằng như quan hệ vợ chồng,

quan hệ bố mẹ và con cái…Em Tâm đã đổ vỡ quan hệ với cha mẹ và ra khỏi nhà

khi nói sự thật về giới tính của mình. Anh Thoan đã đổ vỡ quan hệ với bạn làm ăn

khi bị đối tác lừa tới phá sản. Chị Thắm, em Trinh tan nát hạnh phúc gia đình khi bị

chồng phản bội…Rõ ràng các thành viên trước khi gia nhập bản hội là những người

bị mất mát quan hệ xã hội. Nhưng có một điều thú vị là khi họ mất đi quan hệ này

thì họ lại kiếm tìm và có những quan hệ khác. Việc họ gia nhập bản hội và kết tình

thâm giao với những người khác là một cách để họ tăng thêm quan hệ xã hội, vốn

xã hội. Việc các con nhang đệ tử không ngừng tìm đến đồng Thầy; việc anh Thú 42 Thướng tức là thưởng tiền mỗi khi cung văn hát hay đàn ngọt.

140

không ngừng tăng thêm những khách hàng nhờ sắp lễ; việc bà Trà có thêm các bạn

già trong bản hội để tâm tình…đó là minh chứng cho việc quan hệ xã hội và vốn xã

hội của các thành viên bản hội được mở rộng thêm. Có những quan hệ tưởng chừng

đã mất nhưng rồi lại được hàn gắn như việc nhiều thanh đồng rời bỏ đồng Thầy, rời

bỏ bản điện ra đi rồi lại quay về “dập đầu lạy Thầy”. Ngược lại, có những quan hệ

tưởng chừng đã được tạo dựng vững chắc hóa ra lại tan biến rất nhanh.

Có thể coi, tính động của quan hệ xã hội và VXH của các thành viên bản hội

Đạo Mẫu là một hiện tượng tiêu biểu phản ánh tính động của quan hệ xã hội, VXH

nói chung trong xã hội chuyển đổi- một xã hội động với rất nhiều những biến đổi

nhanh chóng, đột ngột, đứt gãy không thể tiên đoán trước.

Trong xã hội chuyển đổi hiện nay quan hệ xã hội dường như mong manh và

dễ đổ vỡ hơn so với xã hội truyền thống. Trong xã hội truyền thống, quan hệ xã hội

bị cột chặt bởi các chuẩn mực trong gia đình, dòng họ và làng xã vì thế các mối

quan hệ giữa người với người ổn định hơn. Trong xã hội chuyển đổi, các quan hệ xã

hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố: niềm tin, lợi ích kinh tế, các vấn đề về giới quyền

lực giới, trình độ giáo dục…Song tất cả các yếu tố đó đều là rất động trong xã hội

chuyển đổi và vì vậy quan hệ xã hội cũng rất động, người ta có thể có quan hệ xã

hội nhưng cũng có thể mất quan hệ xã hội trong gang tấc. Kinh tế thị trường với

việc đề cao lợi ích đã len lỏi và làm băng hoại các mối quan hệ xã hội truyền thống.

Vì lợi nhuận người ta có thể bày mưu hãm hại đối tác của mình, có thể lừa đảo, cài

bẫy, chiếm dụng vốn, thậm chí còn dùng cả vũ lực để thanh toán đối thủ một khi

cảm thấy bị thất thế trong cạnh tranh. Đồng tiền còn len lỏi cả vào trong gia đình,

thầy trò, đồng nghiệp,… gây nên sự đổ vỡ của các mối quan hệ. Vì tiền, người ta có

thể lừa cha dối chú, đánh giết lẫn nhau. Có thể nói, xã hội chuyển đổi hiện nay đang

đánh lên hồi chuông cảnh báo về niềm tin giữa con người với con người, chưa bao

giờ con người mất niềm tin vào nhau như bây giờ. Một câu nói phổ biến hiện nay

được truyền tụng trong dân gian “không tin bố con thằng nào” đã phản ánh rõ thực

trạng trên. Cũng như vậy, hôm nay người ta đang có tất cả các mối quan hệ gia đình

xã hội, ngày mai họ công khai mình là người đồng tính, thế là người ta có thể bị cả

xã hội thậm chí gia đình- những người thân thiết nhất quay lưng. Hôm nay, người ta

đang có chức có quyền, bao nhiêu người xum xoe, nịnh nọt kết giao, ngày mai

không còn chức quyền nữa, người ta có thể trở thành người đơn độc…Hôm nay,

người ta đang giàu có, bao người đến nhờ vả, ngày mai người ta phá sản, thiên hạ

141

“chạy trốn” vì sợ sẽ bị nhờ vả lại…Điều này làm ta cảm giác, xã hội chuyển đổi đôi

khi khiến người ta đơn côi hơn giữa cộng đồng của mình và điều đó làm suy giảm

vốn xã hội đúng như Putnam đã phân tích trong công trình nổi tiếng “chơi bowling

một mình”. Như vậy, quan hệ xã hội trong xã hội chuyển đổi với sự tác động của

nhiều yếu tố niềm tin, lợi ích kinh tế, giới, quyền lực…trở nên rất dễ đổ vỡ và vì

vậy người ta đang có vốn xã hội đấy nhưng cũng có thể mất vốn xã hội bất kì lúc

nào. Nói tóm lại, trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, tạo dựng quan hệ xã hội và vốn

xã hội đã khó, duy trì và giữ gìn nó càng khó hơn.

Tính thiết yếu của quan hệ xã hội và vốn xã hội

Việc tạo lập quan hệ xã hội, VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu có

thể coi như một bức tranh phản ánh tầm quan trọng của quan hệ xã hội và VXH

trong bối cảnh xã hội chuyển đổi. Vì sao các thành viên bản hội Đạo Mẫu phải đau

đáu, thậm chí có cả những “chiến lược” để tạo lập và duy trì các quan hệ xã hội

(chẳng hạn đồng Thầy có những chiến lược để tìm kiếm và giữ chân mạng lưới

khách hàng đến với dịch vụ tâm linh)? Vì sao họ lại luôn thể hiện mình là người có

vốn văn hóa “khác biệt- vượt trội”, thậm chí tự “quảng cáo” những khả năng của

mình? Tại sao họ lại dành nhiều thời gian như vậy để đi lễ xa hay dự các vấn hầu

đồng? Tại sao họ lại phải tính toán trợ duyên cho một ai đó nhiều hay ít? Có phải tất

cả chỉ đơn thuần là để thể hiện trách nhiệm của con Cha con Mẹ với thần linh hoặc

chỉ là để thể hiện tình đồng đạo? Tôi cho rằng, việc các thành viên làm như vậy còn

là bởi họ đã nhận thức được tầm quan trọng của quan hệ xã hội và VXH đối với sự

phát triển mọi mặt trong cuộc sống.

Nhận thức về tầm quan trọng của quan hệ xã hội và VXH của các thành viên

bản hội cũng là nhận thức chung của con người trong xã hội chuyển đổi. Có thể nói,

trong xã hội chuyển đổi, quan hệ xã hội trở nên quan trọng hơn nhiều trong cuộc

sống con người và việc tạo lập quan hệ xã hội cũng trở nên đau đáu hơn. Nói như

vậy không có nghĩa xã hội truyền thống xưa kia không coi trọng quan hệ xã hội.

Chính xác hơn phải là xưa kia xã hội Việt Nam đã coi trọng quan hệ xã hội, trong

bối cảnh xã hội chuyển đổi hiện nay quan hệ xã hội càng được coi trọng hơn. Tại

sao vậy? Người Việt Nam xưa kia có câu: “bán anh em xa mua láng giềng gần” đã

đề cao giao tiếp và quan hệ xã hội. Trần Ngọc Thêm (1997) [104] cho rằng người

Việt Nam rất thích viếng thăm nhau, dù hàng ngày đã gặp nhau và nói với nhau đủ

thứ chuyện trên đồng ruộng, ở chợ, ở sân đình…nhưng bất cứ lúc nào rảnh rỗi họ lại

142

“tót” sang nhà nhau thăm hỏi và tán gẫu. Điều này có vai trò quan trọng trong việc

thắt chặt tình làng nghĩa xóm và quan hệ đó có ý nghĩa to lớn đối với cư dân nông

nghiệp cần phải có sự hợp tác để làm thủy lợi, cần có sự đổi công43 mỗi khi vụ mùa

tới. Không những thế, các quan hệ tình làng nghĩa xóm này còn tương trợ cho họ

những lúc “tối lửa tắt đèn”, khi khó khăn họ có thể mượn nhau bơ gạo, xin nhau ít

dưa cà mắm muối…Xã hội chuyển đổi phức tạp hơn nhiều, nó không chỉ là chuyện

đồng ruộng hay bữa ăn, nó còn là các vấn đề của địa vị, tiền tài, danh vọng,… Và vì

vậy, bản thân xã hội Việt Nam đã rất phức tạp từ ngày xưa về cái chuyện người ta

dựa trên quan hệ, xã hội chuyển đổi lại càng phức tạp hơn nữa, bởi người ta phải

cạnh tranh nhau để sống thậm chí tranh cướp nhau, dẫm đạp lên nhau, một vị trí

hàng trăm người xô vào…Để có thể tồn tại trong cạnh tranh, để sống được, để giàu

có, để ổn định, để hạnh phúc…trong xã hội hiện nay nhiều khi lại không phải bằng

năng lực mà bằng quan hệ, dựa trên quan hệ. Từ việc xin học lớp một cho con xưa

kia đơn giản thế bây giờ trở nên khó khăn cũng phải dựa vào quan hệ xã hội, từ việc

được học hành tử tế nhưng xin được một công việc cũng phải có quan hệ, từ việc

lên chức cũng nhờ quan hệ, thậm chí từ việc lấy chồng lấy vợ cũng phải nhờ mối

quan hệ…Thế nên trong xã hội mới tồn tại những cảnh ngang trái: nhiều sinh viên

bằng giỏi ra trường mãi vẫn gia nhập đội quân thất nghiệp vì không có quan hệ;

người có năng lực xếp hàng mãi vẫn chưa được đề đạt thăng tiến bởi đang chờ

có…quan hệ…Nói tóm lại, quan hệ xã hội/ VXH rất quan trọng, do đó các thành

viên bản hội Đạo Mẫu nói riêng, con người trong xã hội chuyển đổi nói chung phải

ráo riết, đau đáu trong việc tạo dựng nó.

Tính đa chiều phức tạp của quan hệ xã hội và vốn xã hội

Những phân tích ở các chương trên đã cho thấy, bản hội là một cộng đồng đặc

biệt: vừa là một cộng đồng tâm linh, lại cũng là một cộng đồng kinh tế, một cộng đồng

với đầy những vấn đề về giới và quyền lực giới. Vì vậy, việc là thành viên của bản hội

đã giúp cho một người nào đó có thể có quan hệ đồng đạo, quan hệ kinh tế, quan hệ

giới và điều này tạo cơ sở để họ tạo nên nhiều nguồn VXH. Ở trên cũng đã đề cập, thật

khó để tách bạch, đâu thuần là quan hệ đồng đạo, quan hệ kinh tế hay quan hệ của

những người cùng thân phận, tất cả các mối quan hệ này hòa lẫn vào nhau, chồng chéo

43 Ví dụ, hôm nay lúa nhà tôi chín, tôi nhờ mọi người đến gặt giúp tôi. Ngày mai lúa nhà mọi người chín tôi lại đến gặt giúp cho mọi người.

lên nhau. Sự chồng chéo trong các mối quan hệ với các tính chất khác nhau đó đã

143

khiến cho VXH trở nên đa chiều. Dường như không một thành viên nào của bản hội

chỉ có VXH được gây dựng nên từ tình đồng đạo hay vốn xã hội được gây dựng lên từ

lợi ích kinh tế mà VXH của họ là một cái gì trừu tượng hơn, nó là sự tổng hòa từ các

loại VXH của tình đồng đạo, của quan hệ kinh tế, quan hệ giới, quan hệ nghề nghiệp,

quan hệ của những người có trình độ, tuổi tác khác nhau…Bản thân mỗi thành viên

trong bản hội lại chồng chéo bởi các mối quan hệ với thành viên của các bản hội khác

và điều đó làm cho VXH của họ đa chiều phức tạp hơn.

Bức tranh về sự phức tạp và đa dạng của vốn xã hội mà các thành viên bản

hội tạo dựng nên có thể xem như một tấm gương phản chiếu tính đa chiều và phức

tạp của quan hệ xã hội và VXH trong bối cảnh chuyển đổi. Có thể nói, bối cảnh

chuyển đổi hiện nay là thời điểm mà quan hệ xã hội và VXH đa dạng và phức tạp

chưa từng thấy so với trước đó. Với người Việt truyền thống, quan hệ xã hội và

VXH đã phức tạp, tuy nhiên sự phức tạp này có lẽ cũng chỉ trong khuôn khổ cái

làng quê nhỏ bé với các quan hệ gia đình, dòng họ, láng giềng. Nhiều người sống cả

cuộc đời thậm chí còn chưa bước chân ra khỏi lũy tre làng. Nhưng trong bối cảnh

xã hội chuyển đổi, khi mà đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện đại hóa, mở cửa và hội

nhập đã cuốn phăng lũy tre làng thì quan hệ xã hội của con người được mở rộng

hơn bao giờ hết. Mỗi cá nhân giờ đây không chỉ có mối quan hệ với gia đình, dòng

họ, láng giềng, họ còn kết nối với các tổ chức, cộng đồng khác như cộng đồng nơi

làm việc, cộng đồng cùng sở thích, cộng đồng vui chơi giải trí, thậm chí kết nối với

các cộng đồng ở nước ngoài…Điều này làm cho VXH của con người trong bối cảnh

xã hội chuyển đổi đa dạng, phức tạp và nhiều chiều. Sự đa dạng và phức tạp ấy của

quan hệ xã hội và VXH đem đến cho cá nhân nhiều lợi ích song khiến họ cũng phải

vất vả trong việc duy trì và gìn giữ chúng.

Tạo lập vốn xã hội của các thành viên bản hội: sự phản ánh vai trò to lớn

của tôn giáo tín ngưỡng đối với đời sống con người trong xã hội đương đại

Đã từng có thời kỳ, các nhà Macxit như Mác, Ănghen cho rằng đến một lúc

nào đó tôn giáo sẽ mất đi. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp

quyền của Heghen”, Mác cho rằng, tôn giáo là “thế giới quan lộn ngược, chúng

được sinh ra bởi “thế giới lộn ngược”. Các nhà Macxit lý giải nguyên nhân của “thế

giới lộn ngược” là do áp bức bóc lột giữa con người với con người mà nguồn cơn

của sự áp bức ấy là do chế độ tư hữu tư liệu sản xuất. Thế nên muốn xóa bỏ tôn

giáo, trước hết xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đem lại công bằng cho con

người bằng các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cách mạng tháng

144

Mười Nga năm 1917 đã diễn ra, người ta thấy tôn giáo không biến mất. Các nhà

Macxit phải chấp nhận một điều tôn giáo còn tồn tại lâu dài trong cuộc sống của con

người nhưng tồn tại đến bao giờ thì không biết được. Cũng từ thế kỉ XIX, các nhà

nghiên cứu theo trường phái lý thuyết thế tục hóa đã tiên đoán về sự khai tử của tôn

giáo. Họ cho rằng: “với sự phát triển của xã hội công nghiệp, tôn giáo sẽ mất dần

tầm quan trọng và không còn ý nghĩa nữa [16; tr230].

Tuy nhiên, những gì đang diễn ra trong bản hội Đạo Mẫu hiện nay ở Việt

Nam, việc mà ngày càng có nhiều người gia nhập vào bản hội, tìm cách tạo lập

VXH và VXH đem lại cho họ nhiều lợi ích đã chứng tỏ trong xã hội hiện đại khi

cuộc sống của con người ngày càng phát triển tôn giáo không những không mất đi

mà dường như còn có vai trò quan trọng hơn trong cuộc sống của con người.

Nhìn từ phía Đạo Mẫu có thể thấy điều này. Tín ngưỡng này cũng đang ngày

càng có ý nghĩa quan trọng đối với một bộ phận dân cư. Đã từng có thời kỳ, Đạo

Mẫu bị gắn mác “mê tín dị đoan”, tất cả các hoạt động thờ phụng thần thánh và hầu

đồng phải diễn ra chui lủi, “hầu vo” (hầu không có âm nhạc) và diễn ra vào ban

đêm. Những người có nhu cầu giải quyết vấn đề tâm sinh lý bệnh tật tìm đến Đạo

Mẫu cũng phải bí mật. Tuy nhiên, trong xã hội Việt Nam đương đại, Đạo Mẫu trỗi

dậy, căng tràn sức sống. Ngày càng có nhiều người tìm đến Đạo Mẫu, tìm đến lên

đồng và gia nhập bản hội. Không phải ngẫu nhiên người ta tìm đến và thực hành

nghi lễ Đạo Mẫu ngày càng nhiều, ngoài việc đó là kết quả của chính sách tự do tôn

giáo của Nhà nước, ngoài việc “biểu lộ sự giàu có” của kinh tế thị trường thì việc

Đạo Mẫu đóng vai trò, ý nghĩa to lớn trong nhiều mặt cuộc sống của con người là

nguyên nhân quan trọng thu hút các tín đồ.Và thực tế những gì đang diễn ra cho

thấy, Đạo Mẫu và nghi lễ hầu đồng của nó hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu

chữa bệnh âm cho những người căn cao số nặng, Đạo Mẫu còn có vai trò hết sức

hiện sinh về một cuộc sống trần thế thăng tiến trong công danh sự nghiệp, phát triển

kinh tế trong một xã hội chuyển đổi đầy rủi ro trắc trở, giải tỏa những bức xúc tâm

lý trong một cuộc sống đầy áp lực. Việc người ta gia nhập bản hội, và bản hội giờ

đây không chỉ đơn thuần là không gian thực hành nghi lễ mà còn là không gian để

người ta làm kinh tế, giải quyết việc làm, giải quyết các vấn đề về giới và quyền lực

giới …đã chứng tỏ ý nghĩa to lớn của Đạo Mẫu trong xã hội đương đại ở Việt Nam.

Nhìn một cách tổng quát, tôn giáo tín ngưỡng nói chung cũng đang ngày

càng có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của một bộ phận dân cư Việt

Nam. Những năm 80 của thế kỷ XX, người ta chứng kiến một phong trào “cách

145

mạng văn hóa”, đập phá đình đền chùa ở khắp các làng quê, người ta nghe thấy phổ

biến các diễn ngôn phủ định vai trò của tôn giáo tín ngưỡng đối với đời sống của

con người. Tuy nhiên, từ sau thời kỳ đổi mới, “khởi sắc” và “trỗi dậy” là các diễn

ngôn quen thuộc khi người ta nói về đời sống tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam. Tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở cả ba cấp độ gia đình, dòng họ, làng xã được đề cao hơn

bao giờ hết. Phong trào quy tập mồ mả, nhà thờ họ, vấn đề giỗ họ, viết gia

phả…diễn ra thường xuyên và sôi nổi. Đình, đền chùa được tu bổ và xây mới. Các

dịch vụ tâm linh như cắt sao giải hạn, cúng cầu an, cầu duyên tình…xuất hiện ngày

càng nhiều. Sự trỗi dậy, khởi sắc ấy một mặt phản ánh nhu cầu cao về đời sống tôn

giáo tín ngưỡng của con người, mặt khác nó cũng phản ánh vai trò ý nghĩa to lớn

của tôn giáo tín ngưỡng đối với đời sống con người hiện nay. Đặc biệt khi tôn giáo

tín ngưỡng Việt Nam ngày càng có xu thế nhập thế sâu hơn thì vai trò và ý nghĩa

của nó đối với đời sống con người ngày càng lớn. Các tôn giáo tín ngưỡng giờ đây

không chỉ lo cho con người một cuộc sống sau khi chết được lên thiên đàng hay

xuống địa ngục, cuộc sống hiện hữu cũng là một vấn đề đáng để bận tâm. Nhiều

cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng tham gia làm kinh tế, làm từ thiện, mở trường

học…là những biểu hiện của sự nhập thế và cũng là minh chứng cho thấy tôn giáo

tín ngưỡng ngày càng có vai trò to lớn trong nhiều mặt cuộc sống chứ không riêng

lĩnh vực đáp ứng nhu cầu tâm linh.

Trên phạm vi thế giới, các nhà thế tục hóa thế kỉ XIX đã tiên đoán tôn giáo

sẽ mất đi. Nhưng rồi những tiên đoán đó trở nên sai lầm và theo Rodney Stark và

Roger Finke thì “đã đến lúc mang học thuyết thế tục hóa đến nghĩa trang của những

lý thuyết thất bại và ở đó thì thầm lời nguyện cầu “an nghỉ nghìn thu” [16; tr233]

bởi cái mà người ta thấy không phải là sự chết đi của tôn giáo mà là sự hồi sinh và

phát triển của nó ở khắp mọi nơi trên thế giới hiện nay. Ngay cả ở Mỹ, Nhật Bản, và

các nước Châu Âu, những xã hội được coi là hiện đại nhất, tôn giáo không biến mất và

cũng không thấy dấu hiệu gì của sự biến mất. Cái mà người ta nhìn thấy là một thị

trường tôn giáo (religious economies) sôi động đang diễn ra ở các nước này cho thấy

tôn giáo đang ngày càng đáp ứng nhiều khía cạnh trong cuộc sống của con người.

Tóm lại, việc tham gia bản hội Đạo Mẫu và tạo lập vốn xã hội của các thành

viên bản hội Đạo Mẫu là một vấn đề nhỏ nhưng nó đã soi tỏ và phản ánh một vấn

đề lớn hơn, đó là vấn đề về vai trò ý nghĩa của Đạo Mẫu nói riêng, của tôn giáo tín

146

ngưỡng nói chung đối với cuộc sống của con người trong xã hội Việt Nam đương

đại. Nhìn rộng ra, trên phạm vi thế giới cũng có thể thấy, tôn giáo tín ngưỡng ngày

càng có vai trò to lớn đối với cuộc sống nhân loại.

Tiểu kết

Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, bản hội Đạo Mẫu là môi trường giúp các

thành viên của nó tạo lập VXH. Với tính chất là một cộng đồng đặc biệt, VXH của

các thành viên bản hội Đạo Mẫu cũng hết sức đặc biệt bởi nó được hình thành từ sự

tổng hòa của quan hệ đồng đạo, quan hệ giới, quan hệ kinh tế, quan hệ giữa những

người có trình độ học vấn nghề nghiệp khác nhau. Việc được hình thành từ sự tổng

hòa của các quan hệ khác nhau khiến VXH của các thành viên bản hội cũng rất đa

dạng và nhiều chiều.

Để tạo lập VXH các thành viên bản hội đã có nhiều cách thức khác nhau

nhằm xây dựng, thắt chặt và mở rộng các mối quan hệ xã hội. Trong đó việc đầu tư

thời gian để đi lễ xa và thực hành nghi lễ cùng các thành viên khác, việc sử dụng

vốn kinh tế vào dòng quà tặng cho người sống cũng như thần linh, việc sử dụng vốn

văn hóa để thu hút người khác…chính là những cách thức quan trọng nhất.

Việc tạo lập VXH thực sự đã đem lại cho các thành viên bản hội Đạo Mẫu

nhiều lợi ích to lớn. Thông qua các mối quan hệ và sử dụng sự hỗ trợ của các mối

quan hệ với các thành viên khác, nhiều thành viên bản hộ đã tìm thấy/ tìm lại bản

sắc cá nhân của mình. Cũng thông qua các mối quan hệ, các thành viên bản hội đã

được bồi đắp những hiểu biết về văn hóa xã hội, văn hóa tín ngưỡng, được hỗ trợ để

thực hành các nghi thức Đạo Mẫu vốn được coi là tốn kém. Không những thế, VXH

còn giúp các thành viên bản hội vượt qua những khó khăn về kinh tế thông qua việc

hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ năng lực tâm linh để tăng cường sự

quyết đoán đầu tư làm ăn buôn bán…

Quan hệ giữa bối cảnh xã hội chuyển đổi và việc tạo lập VXH của các thành

viên bản hội Đạo Mẫu là quan hệ hai chiều. Xã hội chuyển đổi tác động tới nhu cầu

và phương thức tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu. Ngược lại, việc

tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu lại phản ánh những vấn đề của

xã hội chuyển đổi như tính động, tính phức tạp đa chiều, tính thiết yếu của quan hệ

xã hội và VXH; vấn đề vai trò, ý nghĩa của tôn giáo tín ngưỡng đối với con người

trong xã hội đương đại…

147

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Qua nghiên cứu bản hội và vấn đề tạo lập VXH của các thành viên bản hội, tôi

đi đến những kết luận và những gợi mở cho hướng nghiên cứu tiếp theo như sau:

Bản hội là một cộng đồng tôn giáo được hình thành với hạt nhân ban đầu là

đồng Thầy. Là một cộng đồng tôn giáo nên tất cả các lĩnh vực của nó khởi đầu đều

mang tính chất tâm linh: các tín đồ của cộng đồng có chung niềm tin vào các vị thần

Đạo Mẫu, các hoạt động trong bản hội là những nghi lễ liên quan đến thần thánh và

thế giới âm, bản thân nhiều thành viên trong bản hội là những người có khả năng

giao tiếp với thần linh- cái mà họ gọi là “tiếp âm”. Vì là cộng đồng tôn giáo nên

niềm tin chính là yếu tố cố kết cộng đồng. Điều đặc biệt của cộng đồng tín đồ Đạo

Mẫu so với cộng đồng tín đồ khác là ở chỗ niềm tin đôi khi chưa phải là yếu tố đủ

để họ cố kết với nhau thành một bản hội, yếu tố đồng Thầy là vô cùng quan trọng sẽ

giúp kết dính các con nhang đệ tử với bản hội và giữa các con nhang đệ tử với nhau.

Những hoạt động nghi lễ mang tính chất tâm linh (đi lễ xa, hầu đồng, mở phủ trình

đồng, soi bói…) đưa tới nhu cầu phải hình thành một cơ cấu tổ chức để điều hành.

Vì vậy, bản hội dù lớn hay nhỏ cũng có cấu tổ chức của nó, khác nhau là ở chỗ đơn

giản, lỏng lẻo hay bài bản và chặt chẽ.

Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của bản hội Đạo Mẫu là có sự

gắn kết đến không tách rời giữa yếu tố tôn giáo và kinh tế. Điều đó được phản ánh

qua niềm tin của các con nhang đệ tử vào sự phù trợ của các vị thần Đạo Mẫu cho

sự phát triển kinh tế, cho việc họ buôn may bán đắt. Căn nguyên của sự gắn kết giữa

yếu tố tôn giáo và kinh tế trong bản hội bắt nguồn từ bản chất của Đạo Mẫu- một tín

ngưỡng ra đời trong thời kỳ kinh tế hàng hóa đang lên ở Việt Nam trong các thế kỉ

XVI- XVIII với vị thần chủ mang căn tính thương nghiệp và các hoạt động nghi lễ

của nó mang tính chất cầu tài lộc. Bản chất đó được khơi thêm mạnh hơn trong thời

kỳ kinh tế thị trường phát triển mạnh từ khi Đổi mới. Chính vì yếu tố kinh tế phát

triển mạnh trong bản hội nên quan hệ xã hội trong bản hội được đắp thêm một lớp

mới: bên cạnh quan hệ của những người đồng đạo nhiều thành viên còn có các mối

quan hệ lợi ích trong làm ăn và điều này ảnh hưởng tới VXH của họ.

Bản hội còn là không gian tâm linh của “những kẻ bị loại trừ”, loại trừ khỏi

quyền lực, loại trừ khỏi hạnh phúc, loại trừ khỏi sự phát triển…Mỗi người là một sự

loại trừ ở một góc cạnh khác nhau nhưng cũng có người là kẻ bị loại trừ ở tất cả các

phương diện. Bản hội không chỉ là không gian để họ thể hiện niềm tin tôn giáo,

nhiều hơn thế, bản hội với các thực hành nghi lễ và với các mối quan hệ đồng cảm

148

đã trao quyền lực và cho họ thể hiện quyền lực dù thật dù ảo nhưng quan trọng

quyền lực đó giúp họ mạnh mẽ, tự tin hơn trong cuộc sống. Bản hội không chỉ là

không gian thừa nhận sự đa dạng giới mà còn là một nơi những người có sự khác

biệt về giới được tôn vinh tài năng của mình. Đặc trưng về giới và quyền lực giới

này của bản hội đã ảnh hưởng tới tính chất của mối quan hệ và VXH của các thành

viên bản hội Đạo Mẫu

Trong xã hội chuyển đổi, bản hội Đạo Mẫu với đặc trưng của nó thực sự là

môi trường tạo cơ sở cho các thành viên tạo lập VXH. Tham gia bản hội, các tín đồ

Đạo Mẫu có thể thiết lập được mối quan hệ với những người đồng đạo với mình,

được hỗ trợ, sẻ chia lẫn nhau. Song không chỉ có tình đồng đạo, những quan hệ mà

họ có được nhiều hơn thế, đó là quan hệ của những những người cùng lợi ích, cùng

thân phận, quan hệ giữa những người có trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã

hội khác nhau… Vì thế VXH mà các thành viên bản hội có được rất phong phú, đa

dạng và phức tạp. Khó có thể tách bạch các loại quan hệ giữa các thành viên bản

hội, bởi thế, VXH của họ được sinh ra là sự tổng hòa các mối quan hệ về giới, quan

hệ đồng đạo, quan hệ kinh tế, nghề nghiệp. Đây là điểm khác biệt trong VXH của

các thành viên bản hội Đạo Mẫu so với VXH của các thành viên ở các cộng đồng

tôn giáo khác. Điều này cho phép ta khẳng định, mỗi một cộng đồng khác nhau sẽ

có một dạng VXH không như nhau.

VXH không phải tự nhiên có, VXH là sản phẩm của sự đầu tư, xây dựng. Để

có VXH, các thành viên bản hội Đạo Mẫu đã đầu tư thời gian để thực hành nghi lễ

và đi lễ xa cùng các thành viên khác đến các miền đất Thánh. Qua những chuyến đi

này và qua các buổi sinh hoạt nghi lễ cùng nhau, mối quan hệ giữa các thành viên

bản hội trở nên gắn bó hơn. Không chỉ đầu tư thời gian, các thành viên bản hội còn

sử dụng cả vốn kinh tế vào dòng quà tặng nhằm thắt chặt tình thâm giao với người

khác. Việc sử dụng vốn văn hóa thể hiện những hiểu biết về tôn giáo tín ngưỡng

cũng như khả năng tâm linh cũng giúp các thành viên mở rộng các quan hệ xã hội,

tức phát triển VXH của mình.

Việc tạo lập VXH đã đem lại nhiều lợi ích cho các thành viên bản hội Đạo

Mẫu trong bối cảnh xã hội chuyển đổi như lợi ích về văn hóa xã hội, văn hóa tín

ngưỡng, lợi ích về kinh tế…Có thể nói, VXH đem lại lợi ích cho đời sống con

người đó là những nhận định mang tính chất chung của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy

nhiên, từ trường hợp nghiên cứu của luận án này, có thể khẳng định, mỗi cộng đồng

xã hội với các dạng VXH khác nhau, trong bối cảnh khác nhau sẽ đem đến những

149

lợi ích không như nhau cho đời sống các thành viên của nó. VXH nói chung đem

đến cho con người những lợi ích to lớn về kinh tế như hỗ trợ cho họ trong việc xin

việc, cho vay vốn, hợp tác làm ăn…song VXH được tạo bởi các thành viên bản hội

không chỉ có thế, nó còn giúp các thành viên trong việc đào tạo và phát triển các

nghề liên quan đến nghi lễ Đạo Mẫu; hỗ trợ năng lực tâm linh làm tăng thêm niềm

tin quyết đoán trong các quyết định đầu tư kinh doanh- đó là điều không có trong

các cộng đồng khác.

Có sự chuyển hóa giữa các loại vốn trong quá trình tạo lập VXH của các

thành viên bản hội Đạo Mẫu. Để có VXH, các thành viên đã phải đầu tư vốn kinh tế

và vốn văn hóa. Ngược lại, khi VXH đã được tạo lập sẽ đem đến những lợi ích to

lớn, bồi đắp thêm vốn văn hóa và tạo điều kiện phát triển, gia tăng vốn kinh tế. Sự

chuyển hóa giữa các loại vốn rõ ràng đã phản ánh sự chuyển hóa được đề cập trong

lý thuyết của Pierre Boudieu. Tuy nhiên, đối với bản hội Đạo Mẫu, một cộng đồng

đặc biệt thì sự chuyển hóa này cũng có những đặc biệt. Việc VXH giúp các thành

viên đang tổn thương cái tôi, khủng hoảng bản sắc tìm lại/ tìm thấy bản sắc cá nhân

và tự tin thể hiện bản sắc cá nhân của mình đã phản ánh sự đặc biệt trong chuyển

hóa giữa các dạng vốn.

Xã hội chuyển đổi và việc tạo lập VXH của các thành viên bản hội Đạo Mẫu

có mối quan hệ hai chiều. Xã hội chuyển đổi tác động làm gia tăng nhu cầu tạo lập

VXH trong động cơ gia nhập bản hội của một cá nhân đồng thời tác động làm hiện

đại hóa và thương mại hóa phương thức tạo lập VXH của họ. Việc tạo lập VXH của

các thành viên bản hội lại phản ánh những vấn đề của xã hội chuyển đổi đó là tính

động, tính đa chiều, phức tạp của quan hệ xã hội và VXH. Điều quan trọng nữa là

việc tạo lập VXH của các thành viên bản hội chính là sự phản ánh việc trở lại và

đóng vai trò ngày càng lớn hơn đối với đời sống con người trong xã hội đương đại

của Đạo Mẫu nói riêng, của tôn giáo tín ngưỡng nói chung.

Tôi hy vọng rằng, trong tương lai còn tiếp tục được theo đuổi các vấn đề

nghiên cứu sau (từ hướng mở của đề tài luận án):

+ Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn trong cái nhìn so sánh bản hội Đạo Mẫu ở

nông thôn và đô thị: đặc trưng của nó có gì giống và khác nhau? Và việc tạo lập vốn

xã hội giữa hai loại hình bản hội ấy như thế nào?

+ Tiếp tục tìm kiếm những nguồn tư liệu thành văn và tư liệu phỏng vấn các

đồng già để tìm hiểu sâu hơn về lịch sử bản hội Đạo Mẫu. Trên cơ sở đó, nghiên

cứu quá trình biến đổi của bản hội trong cái nhìn lịch đại (bản hội xưa và nay)

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG

BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Mai Thị Hạnh (2013), Chủ nghĩa yêu nước trong Đạo Mẫu qua nghiên cứu

trường hợp "Kinh Đạo Nam", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 3, tr 18-23.

2. Mai Thị Hạnh (2014), Bản hội trong Đạo Mẫu: Sự hình thành, đặc trưng và

vai trò của nó - tiếp cận từ lý thuyết phân tích mạng lưới xã hội, in trong Tín

ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ bản sắc và giá trị, Nxb ĐHQG TP HCM, tr 17-27.

3. Mai Thị Hạnh (2015), Đồng thầy: Từ năng lực đặc biệt đến quyền lực trong

bản hội Đạo Mẫu, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3, tr 50-63.

4. Mai Thị Hạnh (2015), Vốn xã hội, vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Văn hoá nghệ

thuật, số 372, tr 31-34.

5. Mai Thị Hạnh (2015), Bản hội Đạo Mẫu: quan niệm và loại hình, Tạp chí Văn

hóa nghệ thuật, số 377, tháng 11, tr80-84

6. Mai Thị Hạnh (2015), Vốn xã hội trong phát triển kinh tế của các thành viên

bản hội Đạo Mẫu, Tham luận trình bày tại Hội thảo Quốc tế Nhân học ở Việt

Nam: lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Hà Nội ngày 29/09/2015

7. Mai Thị Hạnh (2016), Tạo lập và lợi ích của việc tạo lập vốn xã hội đối với

đời sống của các thành viên bản hội Đạo Mẫu trong xã hội đương đại, Tham

luận trình bày tại Hội thảo Khoa học Quốc tế Nghiên cứu thực hành tín

ngưỡng trong xã hội đương đại – trường hợp tín ngưỡng thờ Mẫu, Nam Định

ngày 05 và 06/01/2016

8. Mai Thị Hạnh (2016), Xã hội dân sự tạo nguồn vốn xã hội cho phát triển: một

nghiên cứu nhân học về vai trò của bản hội đối với đời sống của các tín đồ

Đạo Mẫu trong xã hội Việt Nam đương đại, Kỷ yếu Hội thảo Vai trò của xã

hội dân sự trong phát triển xã hội, kinh tế và văn hóa của Việt Nam, Hà Nội

ngày 14 và 15/04/2016

9. Mai Thị Hạnh (2016), Khía cạnh kinh tế của cộng đồng tôn giáo trong bối

cảnh xã hội đương đại: nhìn từ bản hội Đạo Mẫu, Tạp chí Khoa học Đại học

Sài Gòn, số ra tháng 2, tr40- 61

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (sưu tầm, khảo chứng), Nguyễn Thị Thanh Xuân (phiên

âm, chú thích) (2007), Kinh Đạo Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

2. Đặng Nguyên Anh (1998), Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di

cư , trong sách: Chính sách di dân ở Châu Á, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội,

tr48-57

3. Nguyễn Đỗ Quỳnh Anh (2013), VXH- một nguồn lực cho tăng trưởng

kinh tế nông thôn, Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 1 (64), tr38- 48

4. Nguyễn Tuấn Anh (2012), Quan hệ họ hàng- một nguồn VXH trong phát triển

kinh tế hộ gia đình nông thôn, Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 1 (58), tr48- 61

5. Vũ Thị Tú Anh (2013), Đền thờ Đạo Mẫu và tục đi lễ Thánh : không gian đời

sống của tín đồ Đạo Mẫu, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5(143), tr13-23

6. Vũ Thị Tú Anh (2013), Đạo Mẫu với vấn đề trao quyền lực và cách thức

sử dụng quyền lực của người phụ nữ Việt Nam, in trong Văn hóa thờ nữ

thần – Mẫu ở Việt Nam và Châu Á bản sắc và giá trị, Nxb Thế giới,Hà

Nội, tr692- 705

7. Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (2008), Bình đẳng giới ở Việt

Nam (phân tích số liệu điều tra), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

8. Alejandro Portes (Mai Huy Bích dịch năm 2003), VXH: nguồn gốc và

những áp dụng của nó trong xã hội học hiện đại, Tạp chí Xã hội học, Số

4 (84), tr99- 109

9.

Lưu Bành (Trần Nghĩa Phương dịch 2010), Vốn xã hội của các đoàn thể

tôn giáo Mỹ, Nghiên cứu tôn giáo, số 2, tr63-72

10. Lưu Bành (Trần Nghĩa Phương dịch 2010), Vốn xã hội trong các đoàn

thể tôn giáo Mỹ, Nghiên cứu tôn giáo, số 3,tr51- 60

11. Barley Norton (2004), Lên đồng Việt Nam: cấu tạo âm nhạc của thần

thánh, in trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman giáo trong các tộc

người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr310-341

152

12. Trần Lâm Biền (1990), Quanh tín ngưỡng dân dã Mẫu Liễu và điện thờ,

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 5, tr14-19

13. Charles Keyes (Đoàn Thị Tuyến dịch, Đức Hạnh hiệu đính năm 2006),

Ma lực: từ đời sống xã hội đến tiểu sử linh thiêng, in trong Những vấn đề

nhân học tôn giáo, Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Đà Nẵng, tr390- 413

14. Nguyễn Đổng Chi (1984), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

15. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa con người với thiên nhiên, xã hội

và thế giới siêu nhiên (sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

16. Phan Ngọc Chiến (2010), Hai quan điểm đối nghịch về tôn giáo: thuyết

thế tục hóa và mô hình thị trường tôn giáo, trong: Bùi Thế Cường chủ

biên, Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử, Nxb Từ điển Bách

khoa, Hà Nội, tr226-241

17. Lê Thị Chiêng (2010), Tìm hiểu các điện thờ tư gia ở Hà Nội, Luận án

tiến sĩ Triết học, Thư viện Quốc gia Việt Nam

18. Lê Thị Chiêng (2013), Minh triết trong Đạo Mẫu Việt Nam, in trong Văn

hóa thờ Nữ thần- Mẫu thần ở Việt Nam và Châu Á bản sắc và giá trị,

Nxb Thế giới, Hà Nội, tr563-572

19. Claire Chauvet (2010), Đi lễ trong tín ngưỡng Tứ phủ: hình thành lại

bản sắc địa phương và quốc gia ở miền Bắc Việt Nam, in trong Hiện đại

và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân

học, quyển 2, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM,

tr23-36

20. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, Nxb

VHTT, Hà Nội

21. Trần Mạnh Cường (1999), Nhận xét đặc điểm biến đổi ý thức của trạng

thái lên đồng ở các lễ hội vùng Nam Định, Luận văn thạc sỹ chuyên

ngành Tâm thần học

22. David Throsby (Nguyễn Xuân Long dịch, Nguyễn Kim Chi hiệu đính

2012), Vốn văn hóa, Tạp chí Văn hóa học, số 2,tr77-83

153

23. De Soto H (2006), Bí ẩn của vốn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

24. Bùi Quang Dũng (2004), Nhập môn lịch sử xã hội học, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội

25. Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội

27. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

28. Nguyễn Hồng Dương (2011), Tổ chức xứ, họ đạo Công giáo ở Việt Nam:

Lịch sử và những vấn đề đặt ra, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

29. Vũ Cao Đàm (2005), Xã hội rủi ro, Tạp chí Xã hội học, số 4 (92), tr102- 106.

30. Đoàn Thị Điểm (Ngô Lập Chi dịch 1962), Truyền kỳ tân phả, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

31. Huỳnh Thanh Điền (2012), Đóng góp của vốn xã hội vào các hoạt động của

doanh nghiệp bất động sản Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Thư viện

Quốc gia Việt Nam

32. Elisabeth Badinter (Nguyễn Xuân Khánh dịch 1999), Nhân dạng nam,

Nxb Phụ nữ, Hà Nội

33. Emmanuel Pannier (2008), Phân tích mạng lưới xã hội: các lý thuyết,

khái niệm và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Xã hội học, số 4 (104),

tr100-114

34. Fukuyama (Quang Anh dịch 2003), Nguồn VXH và sự phát triển:

chương trình nghị sự sắp tới, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr90- 98

35. H.Russel Bernard ( Hoàng Trọng, Ngô Thị Phương Lan, Phan Ngọc

Chiến dịch 2007), Các phương pháp nghiên cứu trong nhân học tiếp cận

định tính và định lượng, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,

TPHCM

36. Lê Thu Hà (2012), Vận dụng lý thuyết vốn xã hội của Pierre Bourdieu

vào phân tích vai trò của xã hội dân sự, Tạp chí xã hội học, số 3 (119),

tr100-105

37. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1984), Các nữ thần Việt Nam, Nxb

Phụ nữ, Hà Nội.

154

38. Trương Minh Hằng, Giang Ánh Nguyệt (2013), Đồ mã trong điện thần

thờ Mẫu, in trong Văn hóa thờ nữ thần- Mẫu ở Việt Nam và Châu Á bản

sắc và giá trị, Nxb Thế Giới, Hà Nội, tr395- 407

39. Lê Thị Hằng (2014), Tín ngưỡng thờ Mẫu và bản sắc văn hóa Việt Nam,

Kỷ yếu Hội thảo Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ bản sắc và giá trị, Nxb

Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,TPHCM, tr47- 54

40. Nguyễn Kim Hiền (2004), Lên đồng ở Việt Nam một sinh hoạt văn hóa

tâm linh mang tính trị liệu, in trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman

trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, tr 350- 380

41. Nguyễn Thị Hiền (2004), Ông đồng, bà đồng: họ là ai? in trong Đạo

Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu

Á,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr295-309

42. Nguyễn Thị Hiền (2010), Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam

đương đại, in trong Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện

nay, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr7- 36

43. Nguyễn Thị Hiền (2010), Bệnh âm: chẩn đoán và chữa bệnh trong lên

đồng của người Việt, in trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở

Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học, quyển 2, Nxb Đại học Quốc

gia thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM, tr37-51

44. Dương Thị Thu Hiền (2012), Sự tương đồng và khác biệt giữa nghi lễ

Then cấp sắc của người Tày và nghi lễ Hầu đồng của người Việt, Khóa

luận tốt nghiệp đại học, Khoa Việt Nam học, Thư viện Đại học Sư phạm

Hà Nội.

45. Trang Thanh Hiền (2013), Động Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt

Nam, in trong Văn hóa thờ Nữ thần- Mẫu thần ở Việt Nam và Châu Á

bản sắc và giá trị, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr295- 307

46. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về Tôn giáo học, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

47. Nguyễn Duy Hinh (2007),Tâm linh Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa và

Viện Văn hóa, Hà Nội.

155

48. Hirasawa Ayami (2011), Nhà hàng Việt Nam- một hiện tượng về VXH

của người Việt Nam định cư tại Nhật, Tạp chí Xã hội học, số 1 (113),

tr51-65

49. Hirasawa Ayami (2011), Nhà hàng Việt Nam- một hiện tượng về vốn văn

hóa của người Việt Nam định cư tại Nhật, Tạp chí Xã hội học, số 2, tr

45-57

50. Nguyễn Vũ Hoàng (2008), VXH trong đô thị: Một nghiên cứu nhân học

về hành động tập thể ở một dự án phát triển đô thị tại Hà Nội, Tạp chí

Dân tộc học, Số (155), tr11-26

51. Hội khoa học Lịch sử Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học Tôn

giáo, Tạp chí Xưa và Nay, và Nhà xuất bản Đà Nẵng

52. Lê Ngọc Hùng (2003), Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã

hội: Trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên, Tạp chí Xã hội học, số

(82), tr67- 76

53. Lê Ngọc Hùng (2008), Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội

qua một số nghiên cứu ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 4

(37), tr45-54

54. Nguyễn Văn Huyên (1994), Việc thờ cúng các vị thần bất tử ở Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

55. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn minh Việt Nam, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

56. Lương Văn Hy (2010), Quà và vốn xã hội trong hai cộng đồng nông

thôn Việt Nam, trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt

Nam: Những cách tiếp cận nhân học, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia

thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM, tr397-427

57. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam từ thế kỉ XVII- XVIII, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội

58. Vũ Ngọc Khánh (2001), Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb VHTT, Hà Nội

59. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2002), Linh thần Việt Nam, Nxb

VHTT, Hà Nội.

60. Vũ Ngọc Khánh (2004), Liễu Hạnh công chúa, Nxb VHTT, Hà Nội.

156

61. Kriten W.Endres (2007), Với linh hồn người đã mất: lễ gọi hồn và tạo dựng

tính hiệu nghiệm qua lực ngôn hành, in trong Hiện đại và động thái của

truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, quyển 2,Nxb Đại

học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM, tr52-71

62. Ngô Thị Phương Lan (2011), Hành vi giảm thiểu rủi ro và vận dụng

nguồn vốn xã hội của nông dân người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long

trong quá trình dịch chuyển từ trồng lúa sang nuôi tôm, Luận án tiến sĩ

Lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học, TPHCM.

63. Ngô Thị Phương Lan (2014), Từ lúa sang tôm hành vi giảm thiểu rủi ro

và khai thác vốn xã hội của nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long,

Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM

64. Ngô Thị Phương Lan, Hoàng Ngọc An (2014), Ý nghĩa của tôn giáo

trong bối cảnh xã hội Nam Bộ hiện nay (Nghiên cứu trường hợp thờ cúng

Bà Chúa Xứ), in trong Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ bản sắc và giá trị,

Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí minh, TPHCM, tr289- 297

65. Phạm Minh Lăng (2000), Freud và phân tâm học, Nxb Văn hóa thông

tin, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội

66. Trần Lâm, Nguyễn Đạt Thức (2013), Tục thờ Mẫu trên dòng chảy tín

ngưỡng Việt, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2, tr57-62

67. Trần Lâm, Nguyễn Đạt Thức (2013), Vai trò của Mẫu Liễu, thần linh liên

quan, ban thờ và nghi thức thờ cúng, Tạp chí Di sản văn hóa, số 3, tr75-79

68. Nguyễn Quang Lê (2004), Bàn về mối quan hệ giữa Phật giáo và Đạo

Mẫu dân gian, in trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc

người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr221- 234

69. Nhạc Phan Linh (2012), Vai trò liên kết xã hội và tạo VXH của các tổ

chức xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xã hội học,

Thư viện Quốc gia Việt Nam.

70. Đặng Văn Lung (1995), Mẫu Liễu đời và đạo, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội

71. Đặng Văn Lung (1999), Tam Tòa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

72. Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa Thánh Mẫu, Nxb VHTT, Hà Nội.

157

73. Nguyễn Đức Lữ chủ biên (2000), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân

gian ở Việt Nam, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm

khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo, Hà Nội

74. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín

ngưỡng, Nxb Văn hóa thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội.

75. Lê Thị Minh Lý (2013), Lên đồng và hành trình nhận dạng di sản, in

trong Văn hóa thờ Nữ thần- Mẫu ở Việt Nam và Châu Á, bản sắc và giá

trị, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr559-562

76. Nguyễn Ngọc Mai (2009), Mạng xã hội của những căn đồng, Tạp chí

Nghiên cứu Con người, số 3 (42), tr40-46

77. Nguyễn Ngọc Mai (2010), Nghi lễ lên đồng hầu bóng và mối quan hệ với

đời sống tâm sinh lý nhóm xã hội đặc thù, Tạp chí Nghiên cứu Con

người, số 2 (47), tr37-45

78. Nguyễn Ngọc Mai (2010), Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh mới-

nghiên cứu trường hợp ở đồng bằng Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ Văn hóa

học, Thư viện Quốc gia Việt Nam

79. Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị (sách

chuyên khảo), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

80. Marcel Mauss (Nguyễn Tùng dịch 2011), Luận về biếu tặng hình thức và

lí do của sự trao đổi trong các xã hội cổ sơ, Nxb Tri thức, Hà Nội.

81. Trần Hải Minh (2007), Diễn xướng chầu văn trong đời sống văn hóa của

nhân dân Nam Định, Luận văn thạc sỹ Văn hóa học, Thư viện Đại học

văn hóa

82. Bế Quỳnh Nga và đồng sự (2008), Vai trò của các mạng lưới xã hội ở

nông thôn trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính nhằm giảm thiểu rủi

ro và cải thiện sinh kế cho các hộ gia đình nông dân, Thư viện Viện xã

hội học: Chưa xuất bản

83. Nguyễn Thị Minh Ngọc (2014), Mối quan hệ giữa kinh tế với tôn giáo ở

Tây Nguyên từ góc nhìn vốn xã hội, Nghiên cứu tôn giáo, số 8 (134),

tr44-51

158

84. Nguyễn Thị Minh Ngọc (2014), Niềm tin tôn giáo trong mối liên hệ với

niềm tin xã hội, Nghiên cứu Tôn giáo, số 12 (138), tr73-89

85. Nguyễn Xuân Nghĩa (2010), Lý thuyết lựa chọn hợp lý và việc giải thích

hiện tượng tôn giáo, in trong Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử,

Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

86. Nông Bằng Nguyên (2009), Nghiên cứu mạng lưới xã hội: những đóng góp

của nhân học xã hội và xã hội học, Tạp chí Nghiên cứu Con người số 2

(41), tr58-65

87. Vũ Dương Ninh (chủ biên) (2001), Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

88. Phạm Lan Oanh (2014), Sự phụng thờ Thánh Mẫu Bát Nàn trong bối

cảnh tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ, Tạp chí Văn hóa học, số 12, tr52-60

89. Oscar Salemink (2010), Tìm kiếm an toàn tinh thần trong xã hội Việt

Nam đương đại, in trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở VIệt

Nam: những cách tiếp cận nhân học (quyển 2),Nxb Đại học Quốc gia

thành phố Hồ Chí Minh,TPHCM, tr1-22

90. Hoàng Tuấn Phổ (1990), Bà Chúa Liễu, Nxb Thuận Hóa, Thanh Hóa.

91. Nguyễn Thị Minh Phương (2011), VXH của nông thôn Việt Nam đương

đại ( Một nghiên cứu trường hợp xã Giao Tân, huyện Giao Thủy, tỉnh

Nam Định), Tạp chí Xã hội học, số 4 (116), tr67- 79

92. Đỗ Lan Phương (2013), Đạo Mẫu và bình đẳng giới ở Việt Nam hiện

nay, in trong Văn hóa thờ nữ thần- Mẫu ở Việt Nam và Châu Á bản sắc

và giá trị, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr706- 720

93. Phạm Quỳnh Phương (1994), Khát vọng của người phụ nữ Việt Nam qua

truyền thuyết về Thánh Mẫu Liễu Hạnh , Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4, tr4-5

94. Phạm Quỳnh Phương (2013), Nam tính, nữ tính và sự cầm tù của những

khuôn mẫu giới, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 354, tr44-51

95. Robert Putnam (Nguyễn Giáo dịch năm 2013), Bowling một mình: sự suy

giảm VXH của Mỹ, Tạp chí Khoa học xã hội, Số 9 (181), tr74- 87

159

96. Trần Hữu Quang (2010), Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội, trong Phương

pháp nghiên cứu lịch sử và xã hội, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội,

tr46-59.

97. Nguyễn Minh San (1993), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

98. Shaun K.Malarney, Lê Văn Sinh (2001), Vai trò của phụ nữ trong việc

khôi phục các tục lệ tín ngưỡng ở các làng ngoại ô Hà Nội, in trong Việt

Nam học- Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất Hà Nội 15-17.7.1998, tập

IV, Nxb Thế giới, Hà Nội.

99. Đặng Kim Sơn (2006), Vốn xã hội của nước ta: thực trạng và giải pháp,

Tia sáng, số 13, tr30-31

100. Silapakit Teekantikun (2010), Nghi lễ lên đồng của người Việt ở Miền

Bắc Việt Nam và của người Lào ở Đông Bắc Thái Lan, Luận án tiến sĩ

lịch sử, chuyên ngành Dân tộc học, Thư viện Quốc gia Việt Nam.

101. Nguyễn Quý Thanh (2005), Sự giao thoa giữa vốn xã hội với các giao

dịch kinh tế trong gia đình: so sánh gia đình Việt Nam và gia đình Hàn

Quốc, Tạp chí xã hội học, số 2 (90), tr108- 121

102. Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Hải Bắc (2012), Quan hệ xã hội và vốn xã

hội: Nghiên cứu so sánh Việt Nam và Hàn Quốc, Tạp chí Xã hội học, số

3 (119), tr35-45

103. Nguyễn Duy Thắng (2007), Sử dụng VXH trong chiến lược sinh kế của

nông dân ven đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa, Tạp chí Xã hội

học, số 4 (100), tr37-47

104. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh, TPHCM.

105. Hoàng Bá Thịnh (2008), Về VXH và mạng lưới xã hội, Tạp chí Dân tộc

học, Số 5 (155), tr45- 55

106. Hoàng Bá Thịnh (2009), Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn,

Tạp chí xã hội học, số 1, tr42-51

107. Ngô Đức Thịnh (1992), Hát văn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

160

108. Ngô Đức Thịnh (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc

người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

109. Ngô Đức Thịnh (2008), Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã

hội và vốn xã hội cho phát triển, Tạp chí Dân tộc học, Số 4 (154).

110. Ngô Đức Thịnh (2012), Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

111. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,

Nxb Trẻ, Hà Nội

112. Ngô Đức Thịnh (2014), Lên đồng- hành trình của thần linh và thân

phận, Nxb Thế giới, Hà Nội.

113. Hồ Đức Thọ (2006), Mẫu Liễu sử thi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội

114. Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Miền

Trung Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Thành phố Huế.

115. Nguyễn Hữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu

của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ triết học, Thư

viện Quốc gia Việt Nam

116. Nguyễn Thị Thuỷ (2014), Một số nét mới trong nghi lễ và mối quan hệ

của những tín đồ Đạo Mẫu hiện nay, Trong Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam

Bộ- Bản sắc và giá trị, Nxb Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, TPHCM,

tr247-250

117. Lê Minh Tiến (2006), Tổng quan phương pháp phân tích mạng lưới xã

hội trong nghiên cứu xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội, số 09, tr66- 77

118. Lê Minh Tiến (2010), Phân tích mạng lưới xã hội, in trong Phương pháp

nghiên cứu xã hội và lịch sử, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

119. Tocarep (Lê Thế Thép dịch 1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự

phát triển của chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

120. Nguyễn Anh Tuấn (2010), Triển vọng của cách tiếp cận VXH, mạng lưới

xã hội đối với nghiên cứu về quyền của người lao động trong doanh

nghiệp FDI ở Việt Nam, Tạp chí Xã hội học, số 3 (111), tr13-21

121. Nguyễn Anh Tuấn (2011), “Sổ nợ đời”- Vốn xã hội: định đề giới hạn về

trao đổi xã hội hay những mối liên hệ liên chủ thể (Tiếp cận nhân học từ

một đám ma ở làng Nùng Phàn Slình, tỉnh Thái Nguyên), Tạp chí Dân

tộc học, số 5 (173), tr25-34

161

122. Phạm Hồng Tung (2009), Cộng đồng: khái niệm, cách tiếp cận và phân

loại trong nghiên cứu, Thông tin khoa học xã hội, số 12, tr21-29

123. Phạm Hồng Tung (2010), Bàn về văn hóa cộng đồng, Tạp chí Khoa học

Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn 26, tr121-132

124. Trung tâm khoa học về tôn giáo tín ngưỡng, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh (1997), Đề cương bài giảng khoa học về tín ngưỡng và tôn

giáo (Dùng cho các lớp bồi dưỡng kiến thức lý luận về tín ngưỡng và tôn

giáo) (Lưu hành nội bộ), Hà Nội

125. Đặng Thanh Trúc và các thành viên (2008), Sử dụng vốn xã hội trong

sinh kế của nông dân vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa, Nghiên cứu

trường hợp xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Thư viện

Viện xã hội học, Hà Nội, Chưa xuất bản

126. Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Bùi Thị Phương (2014), Vốn xã hội từ một số

các tiếp cận nghiên cứu trên thế giới, Tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam, số 4 (77), tr63- 72

127. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở

Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

128. Khúc Thị Thanh Vân (2011), Nhận thức về VXH- sức mạnh tiềm tàng

cho phát triển, Tạp chí Xã hội học, số 4 (116), tr88- 95

129. Khúc Thị Thanh Vân (2012), Vai trò của VXH trong phát triển kinh tế hộ

nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay- Nghiên cứu trường hợp tại

Nam Định và Bắc Ninh”, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Thư viện Quốc gia

Việt Nam

130. Khúc Thị Thanh Vân ( chủ biên) (2013), Tác động của vốn xã hội đến

nông dân trong quá trình phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc

Bộ (2010- 2020), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

131. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung

tâm Từ điển học

132. Viện Khoa học xã hội, Viện ngôn ngữ học (2008), Từ điển Hán Việt,

Nxb thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM.

133. Đoàn Việt (2012), Sự biến đổi về VXH của người Chăm Hồi giáo từ việc

đi làm ăn qua biên giới, Tạp chí Dân tộc học, Số 5 và 6 (179), tr56- 65.

162

134. Lý Tế Xuyên (1972), Việt điện u linh, Nxb Văn học, Hà Nội.

135. Nguyễn Thị Yến (2010), Nét đặc sắc trong nghệ thuật hát chầu văn ở

Nam Định, Khóa luận tốt nghiệp đại học trường Đại học Sư phạm Hà

Nội, Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh

136. Vũ Thị Tú Anh (2006),Worshipping the Mother Goddess: The Dao Mau

movement in Northern Vietnam (Viêc thờ Thánh Mẫu: Đạo Mẫu ở Miền

Bắc Việt Nam), University of Hawaii at Manoa

137. Nguyễn Tuấn Anh (2010), Kinship as social capital: Economic, social

and cultural dimensions of changing kinship relations in a Northern

Vietnamese village (Họ hàng như là vốn xã hội: các chiều cạnh kinh tế,

xã hội và văn hóa của quan hệ họ hàng đang chuyển đổi ở một làng Miền

Bắc Việt Nam), Luận án Tiến sĩ, Đại học Vrije

138. Bradford Vetter (2003), Spiritual Capital: Theorizing religion with

Bourdieu against Bourdieu ((Vốn tinh thần: lý thuyết về tôn giáo dưới ánh

sáng của Bourdieu), Sociological theory, Volume 24, Issue 2, pp150-174

139. Coleman J.S (1988), Social capital in the creation of Human Capital

(Vốn xã hội trong việc sáng tạo vốn con người), American Journal of

sociology, Vol.94, pp.95-120, Chicago.

140. Nguyễn Thị Hiền (2002), The religion of the Four Palaces: Mediumship

and Therapy in Viet culture (Đạo Tứ phủ: việc lên đồng và phương pháp

chữa bệnh trong văn hóa Việt)), Indiana University

141. Nguyễn Thị Hiền (2007), “Seat for spirits to sit upon”: becoming a

spirit medium in contemporary Vietnam (Nơi để các linh hồn hiện về:

việc trở thành người gọi hồn ở Việt Nam đương đại), Journal of

Southeast Asian Studies, 38 (3), pp 541-558,

142. Nguyễn Kim Hoa (2007), Spirit worship and sexuality in Viet Nam (Thờ

phụng thần linh và đặc điểm giới tính của các cô đồng cậu đồng ở Việt

Nam),National university of Singapore

143. Fukuyama Francis (1999), Social capital and Civil society (Vốn xã hội

và xã hội dân sự), The Institute of Public Policy, Society George Mason

University

163

144. Fukuyama Francis (2001), Social capital, Civil society and Development

(Vốn xã hội, xã hội dân sự và phát triển), Third World Quarterly,

Vol.22.London

145. Karen Fjelstad and Nguyễn Thị Hiền (eds), Possessed by the spirits:

Mediumship in contemporary Vietnammese communities (Nhập đồng:

Lên đồng ở các cộng đồng Việt Nam đương đại) Ithaca: Cornell

University, Southeast Asia program.

146. Nguyễn Khắc Khảm (1983), Vietnamese Medium and their performances

(Các cô đồng cậu đồng Việt Nam và việc lên đồng của họ), Asian

folklore studies Newsletter

147. Laurel Kendall (2008), Three Goddesses in and out of their shrine (Ba vị

nữ thần trong đền và ngoài đời), Asian Ethnology, Vol 67

148. M.Durand (1959), Technique et pantheon des mediums Vietnamiens (Kỹ

thuật lên đồng ở Việt Nam), Paris

149. McPherson, J.Miller and Lynn Smith- Lovin (1987), Homophily in

Voluntary Organizations: Status Distance and The Composition of

Face- to- face group (Đồng tính luyến ái trong những tổ chức tình

nguyện: Sự khác biệt về vị thế và cấu trúc của những nhóm giao tiếp mặt

đối mặt), American Sociology Review 52: 370-379

150. McPherson, J.Miller and Lynn Smith- Lovin and Jame Cook (2001),

Birds of a Feather: Homophily in social Networks ((Những người giống

nhau: hiện tượng đồng tính luyến ái ở những mạng xã hội), Annual

Review of Sociology 27:415-444

151. Lin Nan (2001), Social capital: The theory of social structure and action

(Vốn xã hội: một lý thuyết về cấu trúc xã hội và hành động), Cambridge

University Press

152. Phan Đăng Nhật và Oscar Salemink (2004), Ritual transformations

around a spirit medium in the northern highlands of Vietnam, Báo cáo

tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ 2, HCM city

153. Oh Hongseok, Giuseppe Labianca and Myung- Ho Chung (2006), A

multilevel model of group social capital (Một mô hình đa tầng của vốn

xã hội nhóm) , Academy of Management Rieview, 2006, Vol .31

164

154. Pierre Bourdieu (1986), The Forms of capital (Các hình thức của

vốn),Greenwood press, New York

155. Phạm Quỳnh Phương (2005),Hero and Deity: Empoverment and

Contestation in the Veneration of Tran Hung Dao in contemporary

Vietnam (Anh hùng và Thánh: Quyền năng và những tranh luận trong

việc thờ Trần Hưng Đạo ở Việt Nam hiện nay),, Luận án tiến sĩ, La

Trobe University

156. Philip Taylor (2004), Goddess on the rise: Pilgrimage and popular

religion in Vietnam (Các nữ thần lên ngôi: Việc hành hương và tôn giáo

phổ biến ở Việt Nam). Honolulu: University of Hawaii Press

157. Woolcock,M. (2000), Why should we care about social capital? (Tại sao

chúng ta nên quan tâm đến vốn xã hội?) Canberra Bulentin of Public

Adminitration, pp 17-19

158. Worldbank (1998), The initiative on defining, monitoring and measuring

social capital overview and program description (Sáng kiến về việc xác

định, giám sát và đo lường vốn xã hội, tổng quan và mô tả chương trình),

Report

159. Wetlund Hans (2006), Social capital in the knowledge economy- Theory

and empirics (Vốn xã hội trong nền kinh tế tri thức – Lý thuyết và thực

tiễn), Publisher: Springer- Verlag Berlin Heidelberg

Các bài viết từ các Website

160. Nguyễn Quang A (2006), Vốn và vốn xã hội, http://www.tiasang.com.vn,

truy cập ngày 19/09/2013

161. Nguyễn Tuấn Anh, Vốn xã hội và sự cần thiết nghiên cứu vốn xã hội ở

nông thôn Việt Nam hiện nay, trong http://repository.vnu.edu.vn/, truy cập

20/05/ 2015

162. Nguyễn Ngọc Bích (2008), Vốn xã hội và phát triển, trong http://www.vanhoahoc.vn/,

truy cập ngày 19/09/2013

163. Phan Đình Diệu (2006), Phát huy dân chủ và làm giàu vốn xã hội, trong

http://www.tiasang.com.vn/, truy cập ngày 19/09/2013

165

164. Trần Hữu Dũng (2006), Vốn xã hội và phát triển kinh tế, Trong

Website:http://www.tiasang.com.vn, Truy cập ngày 19/09/2013

165. Phan Chánh Dưỡng (2006), Lời giải nào cho bài toán phát huy vốn xã

hội, trong http://tiasang.com.vn/, truy cập ngày 19/09/2013

166. Nguyên Hà (2014), Tín ngưỡng thờ Mẫu: những giá trị văn hóa tiêu

biểu, trong http://cinet.vn/, truy cập 20/ 05/ 2015.

167. Nguyễn Vạn Phú

(2006), Vốn xã hội ở Việt Nam, Trong

Website:http://www.tiasang.com.vn, Truy cập ngày 19/09/2013.

168. Trần Hữu Quang

(2006), Lòng

tin và vốn xã hội, Trong

Website:http://www.tiasang.com.vn, Truy cập ngày 19/09/2013

169. Nguyễn Quân (2006), Vốn xã hội- nguồn lực hay cản trở, Vốn xã hội-

nguồn lực hay cản trở, Trong Website: http://tiasang.com.vn/, truy cập

ngày 19/09/2013

170. Đỗ Quý (2006), Vốn xã hội tích lũy lâu đời, http://tiasang.com.vn, truy

cập ngày 19/09/2013

166

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ HẠNH

BẢN HỘI TRONG ĐẠO MẪU: TẠO LẬP VỐN XÃ HỘI

TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI

PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA DÂN GIAN

MÃ SỐ: 62 22 01 30

HÀ NỘI - 2016

167

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Trang

NỘI DUNG PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CÁC THÀNH VIÊN

169

BẢN HỘI PHÚC MINH TỪ

174

PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ BẢNG SỐ LIỆU ĐIỀU TRA

Bảng 1: Nghề nghiệp của các thành viên bản hội Phúc Minh từ

174

Bảng 2: Sự khác biệt giữa các thành viên trong bản hội

174

Bảng 3: Số lần đi dự hầu đồng của các thành viên bản hội trong 1 năm

174

Bảng 4: Mạng lưới tương trợ khi gặp khó khăn cần giúp đỡ về kinh tế

175

của các thành viên bản hội.

Bảng 5: Về việc trợ duyên khi đến dự hầu đồng của các thành viên bản hội 175

Bảng 6: Số tiền các thành viên bản hội thường trợ duyên khi đến dự hầu

175

Bảng 7: Những hỗ trợ về kinh tế các thành viên bản hội nhận được

175

Bảng 8: Mạng lưới tương trợ khi gặp khó khăn về đời sống tâm lí, tình

176

cảm của các thành viên bản hội

Bảng 9: Mạng lưới tương trợ khi gặp khó khăn về đời sống tâm linh của

176

các thành viên bản hội

177

PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Bảng 1: Số lượng thanh đồng của bản hội Phúc Minh từ

177

Bảng 2: Bảng thống kê công việc của đồng Thầy trong hai năm 2003 và

177

2011

Bảng 3: Bảng số liệu so sánh mật độ công việc hàng tháng của hai năm

178

2003 và 2011

179

PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU

Biên bản phỏng vấn số 1

179

Biên bản phỏng vấn số 2

191

Biên bản phỏng vấn số 3

201

Biên bản phỏng vấn số 4

217

225

PHỤ LỤC 5: PHỤ LỤC ẢNH

168

PHỤ LỤC 1: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CÁC THÀNH VIÊN BẢN

HỘI PHÚC MINH TỪ

Kính thưa ông/ Bà

Hiện nay tôi đang nghiên cứu về bản hội Đạo Mẫu. Kính mong Ông/ Bà giúp đỡ

tôi bằng cách trả lời các câu hỏi dưới đây. Kính chúc sức khỏe quý Ông/ Bà.

Xin chân thành cảm ơn.

Phần thông tin chung:

Giới tính: Năm sinh: Tuổi:

Tôn giáo: Trình độ học vấn: Chỗ ở hiện nay:

Tình trạng hôn nhân: Nghề nghiệp:

Phần thông tin cụ thể:

Câu 1: : Ông bà tham gia bản hội Phúc Minh từ từ năm nào?

……………………………………………………………………………….

Câu 2: : Trước khi đến với Phúc Minh từ, ông/bà có từng tham gia bản hội

nào không?

a. Có b. Không

Câu 3: : Hiện nay ông bà tham gia bản hội Phúc Minh từ với tư cách là:

a. Thanh đồng

b. Cung văn

c. Hầu dâng

d. Thầy cúng

e. Bán tử

f. Các vãi

g. Con nhang

h. Khác ( xin ghi rõ)

Câu 4: Trong bản hội, giữa các thành viên có những sự khác biệt nào sau đây:

a. Khác biệt về học vấn

b. Khác biệt về vị thế xã hội

c. Khác biệt về giàu nghèo/tài sản

d. Khác biệt về giới

e. Khác biệt về tôn giáo

f. Khác biệt khác (xin ghi rõ)

169

Câu 5: Sự khác biệt trên có làm cho các thành viên bản hội mâu thuẫn không?

a. Có

b. Không

Câu 6. Mỗi năm, ông/bà đến bản hội vào những dịp nào sau đây?

a. Lễ đầu năm

b. Lễ vào hạ

c. Lễ ra hè

d. Lễ tạ cuối năm

e. Hàng ngày

f. Bất kỳ lúc nào có việc cần nhờ đồng Thầy

g. Khác (xin ghi rõ):

Câu 7: Mỗi năm, ông (bà) thường đến dự lễ hầu đồng của bao nhiêu thanh

đồng trong bản hội của mình?

a. Của từ 1-5 thanh đồng

b. Của từ 6-10 thanh đồng

c. Của từ 11-15 thanh đồng

d. Của từ 16-20 thanh đồng

e. Của từ 20 – 25 thanh đồng

f. Khác (xin ghi rõ):

Câu 8: Khi đến dự lễ hầu đồng của các thành viên bản hội, ông (bà) có trợ

duyên không?

a. Luôn luôn có

b. Luôn luôn không

c. Khi có khi không

Câu 9: Khi đến dự lễ hầu đồng của các thanh đồng trong bản hội, ông (bà)

thường trợ duyên bao nhiêu?

a. Từ 50.000- 100.000

b. Trên 100.000- 200.000

c. Trên 200.000- 500.000

d. Trên 500.000- 1.000.000

e. Không trợ duyên

f. Khác (ghi rõ):

170

Câu 10: Số tiền ít nhất mà ông (bà) đã từng trợ duyên là bao nhiêu? Vì sao?

…………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………..

Câu 11: Số tiền nhiều nhất mà ông (bà) đã từng trợ duyên là bao nhiêu? Vì sao?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Câu 12: Khi một thành viên trong bản hội hoặc gia đình của họ có cưới xin

hoặc tang ma, ốm đau, ông (bà) có đến thăm hỏi không?

a. Có

b. Không

c. Khi có khi không

Câu 13: Khi gặp khó khăn về kinh tế, ông/ bà thường nhờ những ai giúp đỡ?

a. Gia đình

b. Đồng nghiệp nơi làm việc

c. Bạn bè

d. Các thành viên bản hội

e. Hàng xóm

f. Khác (xin ghi rõ):

Câu 14: Ông (bà) đã được các thành viên bản hội hỗ trợ những gì về kinh tế?

a. Xin việc, giới thiệu việc làm

b. Cho vay tiền

c. Chung vốn kinh doanh

d. d.Khác (xin ghi rõ):

Câu 15: Khi gặp khó khăn về đời sống tinh thần, tâm lý, tình cảm, ông/ bà

thường chia sẻ với những ai?

a. Gia đình

b. Đồng nghiệp nơi làm việc

c. Bạn bè

d. Các thành viên bản hội

e. Hàng xóm

f. Khác (xin ghi rõ):

171

Câu 16: Khi gặp những điều khó hiểu, khó giải thích về đời sống tâm linh,

ông (bà) thường chia sẻ với những ai?

a. Gia đình

b. Đồng nghiệp nơi làm việc

c. Bạn bè

d. Đồng Thầy và các thành viên bản hội

e. Hàng xóm

f. Khác (Xin ghi rõ):

Câu 17: Từ khi đến với bản hội, đời sống kinh tế của ông/bà thế nào?

a. Tốt hơn

b. Cũng vẫn thế

c. Tệ hơn

Câu 18. Từ khi đến với bản hội, đời sống tinh thần, tâm lý, tình cảm của ông

bà thế nào?

a. Tốt hơn

b. Cũng vẫn thế

c. Tệ hơn

Câu 19: Ông (bà) có thường xuyên gặp gỡ, liên lạc với các thành viên khác

trong bản hội không?

a. Thỉnh thoảng

b. Thường xuyên

c. Không bao giờ

Câu 20: Ông (bà) thường gặp gỡ, liên lạc với các thành viên khác của bản hội

ở đâu?

a. Ở điện nhà đồng Thầy

b. Ở nhà của nhau

c. Ở quán cà phê, ở quán ăn..

d. Ở trên các mạng xã hội như Facebook..

e. Ở các đền phủ khi đi lễ cùng nhau

f. Khác (Xin ghi rõ):

172

Câu 21: Khi gặp gỡ, liên lạc với các thành viên trong bản hội, mọi người

thường trao đổi về những vấn đề gì sau đây ?

a. Vấn đề làm ăn kinh tế

b. Vấn đề sức khỏe

c. Vấn đề tâm lý, tình cảm

d. Những sở thích chung (thời trang,bóng đá...)

e. Vấn đề liên quan đến nghi lễ hầu đồng, phụng thờ các vị thần Đạo Mẫu

f. Những trải nghiệm tâm linh ( chẳng hạn như những giấc mơ lạ,… )

g. Khác (Xin ghi rõ):

Câu 22: Ông (bà) duy trì, phát triển mối quan hệ với các thành viên trong bản

hội bằng những cách nào?

a. Dành thời gian đi lễ xa với nhau

b. Tham gia các buổi lễ ở nhà đồng Thầy

c. Tham gia các buổi hầu đồng của nhau

d. Thăm hỏi, chia sẻ với nhau khi gia đình có chuyện vui buồn, đau ốm

e. Trợ duyên cho nhau

f. Khác (xin ghi rõ):

Câu 23: Khi tham gia bản hội, ông (bà) có được những lợi ích gì sau đây:

a. Những hiểu biết về Đạo Mẫu, về tôn giáo tín ngưỡng

b. Những kỹ năng trong giao tiếp với cộng đồng

c. Những chia sẻ trong đời sống tâm lý, tinh cảm

d. Những tương trợ về kinh tế

e. Khác (xin ghi rõ)

173

PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ BẢNG SỐ LIỆU ĐIỀU TRA

(Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra 81 thành viên bằng bảng hỏi, tháng 1.2015, tác giả)

Bảng 1: Nghề nghiệp của các thành viên bản hội Phúc Minh từ

Số người lựa

STT

Nghề nghiệp

Phần trăm

chọn

Công chức nhà nước

22

27,2%

Kinh doanh dịch vụ, buôn bán nhỏ

31

38,3%

2

Nghề liên quan đến nghi lễ hầu đồng (cung

9

11,1%

3

văn, thầy cúng, hầu dâng)

Công nhân

0

0%

4

Nông dân

0

0%

5

Nghỉ hưu/mất sức

7

8,6%

6

Nội trợ

4

4,9%

7

Làm thuê không ổn định

8

9,9%

8

Khác (xin ghi rõ):

0

0%

9

Bảng 2: Sự khác biệt giữa các thành viên trong bản hội

STT

Sự khác nhau

Số người lựa chọn

Phần trăm

Khác biệt về học vấn

81

100%

1

Khác biệt về vị thế xã hội

81

100%

2

Khác biệt về giàu/ nghèo

81

100%

3

Khác biệt về giới

81

100%

4

Khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng

11

13,6%

5

Khác (xin ghi rõ)

0

0%

6

Bảng 3: Số lần đi dự hầu đồng của các thành viên bản hội trong một năm

STT

Số buổi hầu đồng đi dự

Số người lựa chọn

Phần trăm

Của từ 1-5 thanh đồng

23

28,4%

1

Của từ 6-10 thanh đồng

36

44,4%

2

Của từ 11- 15 thanh đồng

11

13,6%

3

Của từ 16-20 thanh đồng

7

8,6%

4

Của từ 21-25 thanh đồng

4

5%

5

Khác (xin ghi rõ)

0

0%

6

174

Bảng 4: Mạng lưới tương trợ khi gặp khó khăn cần giúp đỡ về kinh tế của các thành

viên bản hội

Mạng lưới tương trợ khi cần giúp đỡ về

STT

Số người trả lời

Phần trăm

kinh tế

Gia đình, họ hàng

1

81

100%

Đồng nghiệp nơi làm việc

2

15

18,5%

Bạn bè

3

42

51,8%

Các thành viên bản hội

4

37

45,6%

Hàng xóm

5

11

13,5%

Khác (xin ghi rõ)

6

0

0%

Bảng 5: Về việc trợ duyên khi đến dự lễ hầu đồng của các thành viên bản hội

STT

Trợ duyên

Số người lựa chọn

Phần trăm

Luôn luôn có

1

81

100%

Luôn luôn không

2

0

0%

Khi có khi không

3

0

0%

Bảng 6: Số tiền các thành viên bản hội thường trợ duyên khi đi dự hầu đồng

STT Số tiền thường trợ duyên

Số người lựa chọn

Phần trăm

Từ 50.000- 100.000

1

6

7,4%

Trên 100.000- 200.000

2

9

11,1%

Trên 200.000- 500.000

3

48

59,3%

Trên 500.000- 1.000.000

4

18

22,2%

Khác (ghi rõ): có thể nhiều hơn…

5

21

25,9%

Bảng 7: Những hỗ trợ về kinh tế các thành viên bản hội nhận được.

STT

Nội dung hỗ trợ

Số người nhận hỗ trợ

Phần trăm

Xin việc, giới thiệu việc làm

1

19

23,4%

Chung vốn kinh doanh

2

11

13,3%

Cho vay tiền

3

37

45,7%

Không hỗ trợ gì

4

24

29%

Khác (xin ghi rõ):

5

1

1,2%

175

Bảng 8: Mạng lưới tương trợ khi gặp khó khăn về đời sống tâm lí, tình cảm của các

thành viên bản hội

Mạng lưới tương trợ khi cần giúp đỡ về

STT

Số người trả lời

Phần trăm

kinh tế

Gia đình, họ hàng

72

88,9%

1

Đồng nghiệp nơi làm việc

36

44,4%

2

Bạn bè

45

55,6%

3

Các thành viên bản hội

43

53%

4

Hàng xóm

7

8,6%

5

Khác (xin ghi rõ)

0

0%

6

Bảng 9: Mạng lưới tương trợ khi gặp khó khăn về đời sống tâm linh của các thành

viên bản hội

Mạng lưới tương trợ khi cần giúp đỡ về

STT

Số người trả lời

Phần trăm

kinh tế

Gia đình, họ hàng

64

79%

1

Đồng nghiệp nơi làm việc

9

11,1%

2

Bạn bè

25

30,1%

3

Đồng Thầy và các thành viên bản hội

81

100%

4

Hàng xóm

5

6,1%

5

Khác (xin ghi rõ): tự tìm hiểu qua sách

16

19,8%

6

vở…

176

PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Bảng 1: Số lượng thanh đồng của bản hội Phúc Minh từ

STT Tỉnh, thành phố Số lượng nhóm Số thành viên

Hà Nội 1 5 nhóm 26 người

Lào Cai 2 1 nhóm 10 người

Thanh Hóa 3 1 nhóm 4 người

Hải Phòng 3 1 nhóm 3 người

Hưng Yên 4 1 nhóm 11 người

Nghệ An 5 1 nhóm 2 người

Quảng Bình 6 1 nhóm 2 người

Nha Trang 7 1 nhóm 3 người

8 1 nhóm 3 người Thành phố Hồ Chí Minh

Tổng 13 nhóm 64 người

(Nguồn: Tổng hợp từ phỏng vấn đồng Thầy Xuyên, tác giả)

Bảng 2: Bảng thống kê công việc của đồng Thầy trong hai năm 2003 và 2011

STT Năm Nội dung công việc

1 2003 + Làm lễ trình đồng mở phủ, trình dầu, tạ 100 ngày, tạ 3 năm

cho con nhang đệ tử

+ Di cung hoán số, trả nợ tào quan

+ Tiến mã giải nghiệp đồng

+ Cắt duyên âm

+ Bốc bát nhang

+ Tạ mộ

2 2011 + Làm lễ trình đồng mở phủ, trình dầu, tạ 100 ngày, tạ 3 năm

cho con nhang đệ tử

+ Di cung hoán số, trả nợ tào quan

+ Tiến mã giải nghiệp đồng

+ Khất đồng, tiễn căn

+ Tôn nhang

+ Lập điện tư gia cho các con nhang đệ tử, tín chủ…

+ Bốc bát nhang

177

+ Tạ mộ, tạ đất, nhập trạch, hàn long mạch

+ Cầu giải bệnh

+ Cầu thăng quan tiến chức, công việc ổn định

+ Tiến trạng thi cử (cầu thi đỗ)

+ Cầu thoát nạn án số

+ Cúng khai trương cửa hàng

+ Cúng khởi công xây dựng

+ Cầu hoàn tất thủ tục sổ đỏ, làm lễ để bán được nhà

+ Tiễn vong: vong đất, vong đường

+ Se duyên, rẽ duyên, cắt duyên âm.

+ Cúng tất niên, cúng đầu năm tại nhà tín chủ.

+ Làm lễ để tín chủ đòi được nợ

(Nguồn: Tổng hợp từ các cuốn Sổ công việc của bản hội Phúc Minh từ trong hai

năm 2003 và 2014, tác giả )

Bảng 3: Bảng số liệu so sánh mật độ công việc hàng tháng của hai năm

2003 và 2011, (trong đó mỗi một hoạt động mở phủ hay cắt duyên, cúng tạ

mộ….đựơc tính là một lần thực hiện công việc)

Năm/ Tháng 2011 2003

21 lần Tháng 1 10 lần

16 lần Tháng 2 11 lần

19 lần Tháng 3 15 lần

9lần Tháng 4 6 lần

9 lần Tháng 5 4 lần

7 lần Tháng 6 5 lần

4 lần Tháng7 11 lần

12 lần Tháng 8 12 lần

9 lần Tháng 9 4 lần

15 lần Tháng 10 12 lần

6 lần Tháng 11 0 lần

8 lần Tháng 12 0 lần

(Nguồn: Tổng hợp từ các cuốn Sổ công việc của bản hội Phúc Minh từ trong hai

năm 2003 và 2011, Tác giả)

178

PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SỐ 1

Người được phỏng vấn: đồng Thầy Xuyên, nữ, 56 tuổi

Ngày phỏng vấn : 15.03.2013

Nội dung: Sự hình thành bản hội, cơ cấu tổ chức, hoạt động và quan hệ xã hội

- Cô ơi, thế nào là bản hội hả Cô?

- Bản hội là sự thu hút một nhóm người lại với nhau dưới sự chỉ đạo của đồng

Thầy.Trong làng đồng người ta còn gọi là cơ cánh, “Con nhà Thánh cơ cánh

nhà đồng”. Khi dùng đúng từ của đồng bóng nó gọi là cơ cánh nhà đồng.

Nhưng nghe từ cơ cánh nhà đồng nó có vẻ cổ, nó phản ánh tính chất của

đồng bóng là lúc nào cũng choen choét choen choét ấy. Tuy nhiên, cô muốn

gọi là bản hội vì trong bản hội không chỉ có những người đồng bóng mà còn

có những nhang tử, bán tử, tín chủ tạo thành. Có hai loại thanh đồng: một là

do đồng Thầy đẻ ra; hai là từ các bản hội khác chuyển về, chẳng hạn những

người đã được một đồng Thầy khác mở phủ nhưng họ lệch số lệch căn.

- Nhưng khi về với bản hội của cô thì cô phải mở phủ lại cho người ta à?

- Không mở phủ lại, đã bảo mỗi thanh đồng chỉ có một cha sinh mẹ dưỡng

thôi mà. Nếu như người ta đã được một đồng Thầy đẻ đồng, sinh ra người ta

nhưng lại bị lệch điều đó có nghĩa là sữa mẹ người ta nóng, không nuôi được

người ta trưởng thành thì người ta có quyền tái khóa sang khăn để sang các

bà đồng khác cho nó phù hợp.

- Vậy làm sao để biết rằng cần phải tái khóa sang khăn?

- Khi ra hầu đồng người ta sẽ biết được là lệch hay không lệch. Nếu sau khi ra

mở phủ và đúng cha đúng mẹ rồi thì mình ngủ say sưa, không có bồn chồn

nhấp nhổm nữa, không có thổn thức trong lòng, không có lo lắng nữa. Nếu

mở phủ chưa được, vẫn bị cơ hành và vẫn bị thổn thức trong lòng. Nó vẫn bị

bao nhiêu cái trăn trở trong lòng, nó chưa thoát ra được, đó là chữ Tâm

không tĩnh. Nhưng nếu như là đúng mẹ đồng của mình rồi ấy thì mặc dù trên

trần phàm còn nhiều cái khó khăn gian khổ nhưng đêm mình vẫn ngủ yên,

chỉ khi mình mở mắt ra mình mới phải đối chọi với đời thôi. Đây là điều

giúp mình xác định rõ đã mở phủ đúng hay chưa đúng.

- Nhưng vì sao khi mở phủ lại bị lệch, không được hả cô?

179

- Có thể là do căn của mẹ đẻ thấp hơn mình thì mình ngồi ở trên ngọn còn mẹ

ở dưới thấp. Có nghĩa là bản thân mình đi che cho mẹ. Lẽ ra mẹ che cho con

thì nó mới thuận chiều đúng không, con che cho mẹ thì nó bị lệch. Người căn

cao hơn thì mới tỏa bóng cho mình chứ. Khi đó, người ta buộc phải tái khóa

sang khăn.

- Thế nghi lễ tái khóa sang khăn diễn ra như thế nào hả cô?

- Nó rất đơn giản. Chỉ dựa vào một khóa hầu, có tờ đơn lá trạng. Hoặc một là

mình tạ Thầy nhà mình để được tái khóa sang khăn. Có người thì người ta

làm một lễ giống như mở phủ lại chỉ có là không đập chum đập gáo thôi, bởi

khơi hồ mở giếng đối với con người chỉ đẻ được một lần. Đối với con người

trần phàm ai cũng chỉ được sinh ra một lần, không ai độn thổ để được đẻ lần

thứ hai đúng không? Đối với căn đồng cũng vậy thôi chỉ được đẻ đồng một

lần, bần cùng bất đắc dĩ lắm thì mới phải độn thổ đẻ lần thứ hai.

- Thế có nghĩa là lúc đó phải mở phủ lại à Cô?

- Đúng, nhưng khi mở phủ lại thì lại phải tu dưỡng như từ ban đầu.

- Như vậy là tái khóa sang khăn và mở phủ lại là hai từ khác nhau đúng không

Cô? Tái khóa sang khăn là không được khơi hồ mở giếng.

- Khác nhau, nó không hoàn toàn là một phạm trù.

- Sau khi tái khóa sang khăn, người đó sẽ là con của cô phải không?

- Đúng, nó giống như là con nuôi ấy.

- Thế người đó có liên lạc gì với đồng Thầy cũ của mình không?

- Không cần thiết. Nếu người ta có tình cảm hơn nữa thì thỉnh thoảng người ta

qua lại thăm viếng Thầy cũ.

- Nhang tử là những người như thế nào?

- Nhang tử là những người có thể là có đồng hoặc có thể là không có đồng và

người ta tôn hiệu nhang cờ an bản mệnh. Mỗi một thanh đồng khi người ta ra

đồng thì đồng Thầy vẫn phải tôn nhang cho họ nhưng đó là tôn nhang hiệu

đồng (nghĩa là thanh đồng này là như thế này này, tuổi này, phụng sự cửa

Đình thần Tam Tứ phủ). Còn tôn nhang bản mệnh là những người không có

đồng. Như vậy có hai loại tôn nhang: tôn nhang của thanh đồng là tôn nhang

phụng sự cửa đình thần Tam Tứ phủ; loại hai là tôn nhang ngoài đồng là tôn

nhang cờ an bản mệnh.

- Như vậy là, một phần của những nhang tử này là thanh đồng phải không cô?

180

- Đúng rồi. Vì nhang tử có thể là những người có đồng hoặc có thể không có

đồng mà.

- Thế bán tử là người như thế nào?

- Họ là những người được bán khoán vào cửa điện nhà đồng Thầy.

- Còn tín chủ là những người như thế nào ạ?

- Tín chủ là những người không có căn đồng nhưng người ta tin vào bốn phủ

và người ta yêu thích bốn phủ. Ví dụ như là các Phật tử người ta muốn ghé

qua bóng đồng để người ta cầu cái điều gì đấy. Những người người ta chẳng

là cái gì cả, người ta vô thần nhưng người ta thích giao du với đồng bóng thì

người ta vẫn vào bản hội. Tính chất bản hội nó là như thế, nó không phân

biệt. Cho nên cô dùng chữ bản hội chứ không dung từ cơ cánh “Con nhà

Thánh cơ cánh nhà đồng”, từ cơ cánh nó mang tính chất khác nó chỉ gói gọn

trong đồng bóng thôi, đó là nơi tập hợp những người con nhà ông Thánh

thôi. Bản hội thì bao gồm không chỉ những thanh đồng mà còn có nhiều

thành phần khác như cô đã nói đó là các nhang tử, bán tử, các tín chủ yêu

quý bốn phủ; thanh đồng ở đây có thể còn bao gồm cả những thanh đồng

không phải do mình đẻ ra. Nếu cơ cánh thì nó hơi phân biệt, nó chỉ bao gồm

những người đồng bóng thôi. Nó ích kỉ quá. Bởi vì có những người người ta

không phải đồng bóng nhưng người ta có quyền dâng một đàn lễ bốn phủ để

người ta cầu một công việc nào đó của họ được hanh thông, thầy đồng sẽ

khoác áo hầu Thánh để cầu xin cho họ. Ví dụ các tín chủ muốn cầu công

danh, người ta muốn nhờ đồng Thầy hầu để hiến thảo kim ngân tài mã về các

phủ để cầu cho ông danh của họ được thăng quan tiến chức. Thế thì cái bà

đồng ấy phải dâng một đàn lễ về các cung các sở để cho người ta cầu.

- Đứng đầu bản hội là ai?

- Là đồng Thầy.

- Có bản hội nào mà không phải do đồng Thầy đứng đầu không?

- Có chứ. Có những người không phải là đồng bóng nhưng họ vẫn có bản hội

riêng của họ thậm chí bản hội của họ còn thu hút được cả các thanh đồng tức

những người có đồng tham gia. Các tín chủ vẫn có quyền thờ bốn phủ mà, họ

lập điện thờ bốn phủ chỉ có điều họ không hầu đồng thôi. Nhưng người này

họ lại tập hợp được rất nhiều người theo bản điện của mình, nhiều người đến

đó để cầu xin. Họ lại dẫn những người thường xuyên cầu xin tại bản điện nhà

họ đi lễ xa. Nhập gia thì phải tùy tục.

181

- Như vậy bản hội có hai loại phải không cô? Một loại do đồng Thầy đứng đầu

và một loại do những người không đồng bóng nhưng lại có điện tu dưỡng

đứng đầu.

- Thế bản hội mà do người đứng đầu không có đồng bóng ấy liệu có sự tham

gia của các thanh đồng không?

- Nhiều chứ. Có cả những thành viên là không đồng bóng và có cả thành viên

là đồng bóng người ta tham gia chứ. Cũng như vậy bản hội do đồng Thầy

đứng đầu vẫn có những thành viên là không đồng như con nhang, con khoán

con bán con cầu mà.

- Cô ơi, thế ở bản hội do những người không do đồng bóng đứng đầu ấy có

diễn ra hầu đồng ở điện thờ không?

- Thông thường những người chỉ lập điện để tu dưỡng mà người ta không vào

đồng bóng ấy thì bản phủ ấy thường là không hầu đồng, và bản điện ấy

thường là không thờ đầy đủ chẳng hạn người ta chỉ thờ Cô Chín hặc chỉ thờ

vị thần bản mệnh của họ thôi, chứ không thờ nhiều vị thần Đạo Mẫu để hầu

đồng.

- Cung văn và hầu dâng có phải là thành viên trong bản hội không?

- Cung văn và hầu dâng là những nhà kỹ thuật. Họ không nhất thiết nằm trong

bản hội, không cần đồng bóng hay không đồng bóng, bây giờ có bản hội

người ta sử dụng cả những người không đồng bóng để làm hầu dâng, tiêu

chuẩn chọn hầu dâng của người ta chỉ là để lên khăn áo cho đẹp, khéo léo

trong việc phục vụ ông bà đồng. Nhưng quan điểm của cô ấy là phải vào

bóng, tức là phải có đồng thì mới được làm hầu dâng, mới được ngồi chiếu

giữa vì là khi đã ngồi lên chiếu giữa là nó thể hiện một sự uy nghiêm, tâm

linh hướng về cửa Cha Mẹ, mở nội tâm ra để đón Cha mẹ vào, để khai tâm

đổi tính thì cần sự linh thiêng và trang trọng. Những người không đồng bóng

tuyệt đối không được đứng trên chiếu giữa trước Ban công đồng. Đây chính

là quy định của giới đồng bóng. Việc nhiều bản hội khác sử dụng những

người không đồng bóng mà chỉ là có năng khiếu trong việc lên khăn áo thôi

như vậy đã làm sai lệch đi quy định của giới đồng bóng. Nâng khăn sửa áo

cho Thánh cơ mà thì họ cũng phải là con nhà Thánh chứ.

- Nhưng cháu thấy có những bản hội, cung văn và hầu dâng lại nằm trong bản

hội?

182

- Thông thường là thế nhưng mà hầu dâng người ta có quyền đi khắp các bản

hội khác nhau. Chứ nếu hầu dâng và cung văn chỉ phục vụ cho một bản hội

thôi thì có mà họ không có cơm ăn à.

- Nhưng cô có phân biệt, lễ này thì mời cung văn này, lễ kia thì mời cung văn

khác không cô?

- Cũng có thể. Bởi vì trong bản hội, mỗi người có một sở thích khác nhau. Có

người thích văn đàn hát trầm, có người thích văn đàn hát hay hát nhanh này.

Thanh đồng trong bản hội của cô nó thích ông văn đàn nào nó chọn ông văn

đàn đấy, mình không bắt ép họ phải chọn ông văn đàn nào, bởi vì họ hợp họ

mới hầu được, họ vui họ mới hầu được.

- Họ có mượn cung văn của cô không?

- Có chứ, nhưng có người mượn có người thì không. Họ vẫn hầu ở điện nhà cô

nhưng họ có thể không thuê cung văn mà cô vẫn thuê khi hầu. Họ phải thuê

người hợp với họ, có hợp thì mới thăng hoa được.

- Bản hội có tổ chức như thế nào?

- Nó có tổ chức đàng hoàng đấy nhé. Ví dụ như nhà cô, nó tổ chức theo nhóm.

Trong bản hội không phải là cứ nhất nhất như “nước chảy một chiều thuyền

xuôi một bến, ngẩng đầu lên thấy Thầy, tất cả theo dòng Thầy” mà nó sẽ

phân cấp ra để chơi với nhau cho hợp, chẳng hạn những người cùng làm nhà

nước thành một nhóm; tất cả các thanh đồng kể cả các con nhang, các bán tử,

tín chủ họ có quyền tìm lấy những người hợp với họ để chơi. Đó là xã hội

mà, nó chính là xã hội thu nhỏ.

- Nhưng đã nói đến tổ chức thì phải có người đứng đầu chứ?

- Đúng rồi. Đứng đầu là đồng Thầy. Dưới đồng Thầy là đồng trưởng.

- Đồng trưởng là ai hả cô?

- Đồng trưởng có thể là một người hoặc có thể là vài người. Như bản hội nhà

cô là 4 người đấy : cậu Tuấn, cậu Vui, anh Thà, em Hưng. Trong 4 người này

cô cũng phân công việc riêng: Cậu Tuấn lo việc hiếu, hỉ của bản hội như kiểu

là ông chánh văn phòng trong bản hội ấy; Cậu Vui không nằm trong đồng

bóng nhưng cô đưa Cậu ấy vào đây để lo việc công đức của bản hội, kêu gọi

mọi người trong bản hội giúp đỡ lẫn nhau,và có thể là làm từ thiện ở bên

ngoài; anh Thà là người học rất giỏi hiện nay đang làm ở Hội đồng Liên

minh Châu Âu là người chấp bút chua phê nhiều dự án cho châu Âu đến

183

Việt Nam. Anh này đã học trường Amstecdam, văn vẻ tốt thì anh ấy là chắp

bút chua phê, dùng ngòi bút để chuyển tải thông điệp của Thầy tới các thành

viên bản hội hoặc cho xã hội; em Hưng là nhà ngoại giao của bản hội, nó có

khả năng xâm nhập cộng đồng, nó nói chuyện có thể hợp với tất cả các tầng

lớp khác nhau.Thà chỉ có ngòi bút thôi, nó làm được điều đó. Tất cả những

người này không có quyền lãnh đạo lẫn nhau mà chỉ có thể kết hợp với nhau

để tạo thành một thể thống nhất của bản hội thôi. Nhưng mà cô biết có những

bản hội khác, đồng Thầy chỉ truyền đạt mọi chỉ thị cho một người thôi và

người này sẽ quản gia nô chỉ thị tất cả các thành viên khác trong bản hội.

- Cậu Tuấn lo hiếu hỉ có nghĩa là thế nào?

- Có nghĩa là trong bản hội ai ốm đau gì là phải báo cáo cậu Tuấn. Các đầu

nhóm phải báo cáo cậu Tuấn. Ví dụ như Hội Viettel có mấy thanh đồng thì

cụm vào một nhóm này, mấy cô ngân hàng châu vào một nhóm này…thế thì

Thầy chỉ cần truyền cho cậu Tuấn, cậu Tuấn sẽ chuyển cho trưởng các tổ

nhóm đấy, trưởng nhóm biết được thông tin thì sẽ báo cho các thành viên

trong nhóm của người ta.

- Thế nếu có một người ốm thì cậu Tuấn báo cho tất cả mọi người đến thăm hả

cô?

- Không phải tất cả mọi người đến mà là mình sẽ cử một vài người đại diện

đến thăm.

- Thế tiền ở đâu ra mà mình thăm hả cô?

- Tiền là đóng góp.

- Có quỹ của bản hội không cô?

- Bản hội của cô không có quỹ. Chỉ quy định là trong một năm có 4 vấn chính

thì mỗi một thành viên đến đều có nghĩa vụ đóng góp nhưng đóng bao nhiêu

thì cô cũng không quy định cụ thể. Đóng góp là tùy tâm, chứ cô cũng không

phân biệt là phải có bao nhiêu tiền bao nhiêu tiền, có những đứa nó chẳng có

đồng nào cả.

- Dưới đồng trưởng là gì hả cô?

- Là các nhóm mà đứng đầu là nhóm trưởng.

- Nhóm trưởng là do đồng Thầy cử hả cô?

- Mình không phân thì họ cũng tự phân.

184

- Nhưng làm sao mà mình biết được các nhóm trưởng đấy?

- Mình sẽ quan sát được ngay, mình sẽ quan sát trong cái nhóm đấy đứa nào là

đứa nói được và nói có người nghe. Nó sẽ bộc lộ ngay mà. Nó tự nảy nở

trong sự phát triển của bản hội thôi mà, tự biên tự diễn.

- Như vậy bản hội này tổ chức chặt chẽ đấy cô nhỉ?

- Bởi vì cô là người chặt chẽ mà, cô là người nhà nước mà.

- Cô ơi, vậy bản hội nhà mình hiện nay có khoảng bao nhiêu người hả cô?

- Nếu tính cả thanh đồng và các thành phần khác thì có khoảng 215 người.

Nhưng em phải nhớ là tính chất bản hội là có những tín chủ nó chỉ thấp

thoáng một năm 2,3 lần. Có những tín chủ cứ 2,3 năm nó lại quay trở lại bản

hội, nghĩa vụ của đồng Thầy là khi nó đã vào bản hội của mình là mình cứ

phải tờ đơn lá sớ mình tấu. Vì nếu anh đi ra chỗ khác, nếu như anh thông báo

với tôi là từ nay tôi không đến bản hội nữa thì mình sẽ gạch họ khỏi danh

sách bản hội. Thế nhưng có những người 2,3 năm nó lại quay lại, nhiều

trường hợp như vậy chứ.

- Nhưng họ sẽ nộp tiền tờ đơn lá sớ cho cô thế nào?

- Thì có những đứa nó nộp cả một năm, có những đứa nó đóng 2,3 năm một

cục thế. Thế còn có những người sinh sống ở nước ngoài ngược xuôi các

kiểu. Họ hoàn toàn có quyền đi ra đi vô, không bắt buộc, không giới hạn

nhưng duy trì.

- Duy trì là thế nào ạ?

- Tức là mình vẫn tấu đối cho họ trong 4 vấn trong năm. Còn có những loại tín

chủ mà không tên không sách trong bản hội nhưng họ vẫn cứ đến nữa cơ, cái

loại đấy mới là nhiều.

- Nhưng người là thành viên của bản hội thì trước đó họ phải đến họ xin vào

danh sách bản hội ạ?

- Người ta xin chứ. Người ta nói là bây giờ cho người ta xin vào danh sách bản

hội, mà khi họ đã là thành viên của bản hội thì trong 4 vấn họ phải nộp nghĩa

vụ, chỉ có điều là không có mức quy định cụ thể thôi.

- Thế cô ơi, trong bản hội hiện nay có khoảng bao nhiêu thanh đồng?

- Cũng có khoảng gần 70-80 thanh đồng gì đó. Nhưng mà nó cứ ngược xuôi

xuôi ngược đấy, có những đứa nó đi đến 2,3 năm nó lại quay về đấy. Nó

buồn cười lắm.

185

- Có nghĩa là sao ạ?

- Có những đứa nó đi khắp các bản hội sau đó nó lại về nó nói con sám hối

con lạy Thầy, phát điên phát đảo lên ấy, muốn chửi vào mặt chúng nó, muốn

đập vào mặt chúng nó, nhưng người ta bảo đánh kẻ chạy đi chứ không đánh

kẻ chạy lại.

- Cháu đọc một số sách thấy nói rằng một trong những quy định của bản hội là

phải trung thành với bản điện, có phải không cô?

- Mình cũng bắt được đâu, xã hội phát triển từ nước này người ta còn sang

được nước kia cơ mà.

- Thế cô ơi, bản hội được hình thành như thế nào?

- Bản điện nó được hình thành là bởi vì nó có điện thờ. Khi một chủ điện đã

lên đến chức chủ nhang quan thầy thì họ có thể đẻ đồng mà đẻ đồng là hình

thành bản hội đấy.

- Chưa đẻ đồng thì chưa được gọi là bản hội ạ?

- Không phải, chưa đẻ đồng thì cũng được gọi là bản hội nhưng nó manh mún.

- Nhưng khi nào thì một đồng Thầy được đẻ đồng ạ cô?

- Bây giờ sau khi ra đồng một năm người ta đã đẻ đồng rồi, nòng nọc đứt đuôi

từ đây nhé, chứ có phải nó như các cụ ngày xưa là sau 12 năm đâu. Như bọn

cô là cũng phải tối thiểu là sau 3 năm.

- Trong bản hội, tầng lớp nào là tầng lớp gắn bó nhất với đồng Thầy và bản

hội?

- Thanh đồng, ừ, thanh đồng là gắn với bản hội nhất vì họ còn gắn với con

đường tu dưỡng được đồng Thầy dẫn dắt.

- Như vậy có nghĩa là bản hội của cô được hình thành từ trước khi cô trình

đồng mở phủ cho người khác phải không cô?

- Đúng rồi, nhưng thời kỳ đầu mới có điện thì bản hội manh mún, khách ít

người ít thì nó chưa mang tính chất bản hội nhiều. Ngày xưa tất cả một mình

cô làm nhưng bây giờ có hàng chục đứa làm, ngày xưa tất cả mọi việc chỉ có

mình cô làm, nó chưa hình thành nên một tổ chức. Không bao giờ mà vừa

lập điện xong nó lại ào một phát có hàng trăm người gia nhập được mà nó

phải nhích lên từng bước.

- Như vậy có nghĩa là sau khi cô lập điện, cô soi lòng bóc vỏ cho người ta thì

lúc đó có manh nha của việc hình thành nên một bản hội đúng không ạ?

186

- Đúng, bởi vì bản điện đó lớn mạnh lên một mức nào đó thì mới phân cấp

chứ, mới phân rằng người này làm cái nọ người kia làm cái khác chứ.

- Theo thời gian cô thấy điện nhà cô lớn lên dần như thế nào không?

- Lớn chứ. Ngay lúc đầu điện nhà cô chỉ bé như là cái miếu thôi, chỉ đủ cái

bàn loan (bàn hầu) xong ra đến ngoài giời. Xong rồi cứ sửa dần sửa dần lên,

mới được như thế đấy, trước nó mới chỉ nhỏ như cái mành chiếu thôi.

- Cô có thể nhớ các mốc quan trọng của bản hội không?

- Từ năm 2000 trở lại đây thì mới có nhiều thành viên hơn.

- Thế đội chấp tác thì khi nào có ạ?

- Cũng từ những năm 2000 nhưng lúc đó cô vẫn phải làm nhiều việc chứ

không chơi được như thế này. Các con lớn lên và giúp được nhiều việc là từ

năm 2000 trở lại đây.

- Cô ra lập điện năm nào?

- 1998, trình đồng năm 1993. Trình đồng xong cô cũng chưa chính thức thiết

tha với bốn phủ nhiều. Lúc đó cô vẫn làm việc nhà nước. Khi cô sụp đổ mọi

thứ rồi cô còn trợn mắt lên cô bảo bây giờ phải lập điện thôi. Năm 2000 là

năm cô mới chấp nhận thôi việc nhà nước để ngồi ở nhà phục vụ mọi người

thì lúc này bản hội mới lớn hơn đấy. Cô cho rằng lúc này mới thực sự hình

thành bản hội.

- Trước đó không được gọi là bản hội hả cô ?

- Không gọi là bản hội được vì là nó manh mún, chỉ là một nhóm người thôi.

- Bản hội hoạt động thế nào, hoạt động dựa vào cái gì ạ?

- Dựa vào đồng Thầy, các hoạt động của bản hội xoay quanh các hoạt động

của đồng Thầy. Người ta bảo giỏ nhà ai quai nhà nấy mà, mẹ đồng nào thì

con đồng nấy mà. Đồng Thầy nào mà đại khái qua loa thì bản hội đó dở hơi

cám hấp. Đồng Thầy nào mà tinh quái thì bản hội cắn xé lẫn nhau. Nó có rất

nhiều trạng thái trong bản hội, nó không khác gì xã hội thu nhỏ.

- Khi đồng Thầy không còn nữa thì bản hội thế nào?

- Khi đồng Thầy chết đi thì bản hội như đeo tang.

- Nhưng bản hội có còn không?

- Một là tan rã hoặc hai là nó được duy trì bởi những cái người ta bầu lên.

- Khi người ta bầu người đó lên thì những người khác có theo họ không cô?

- Thế mới bảo là bầu. Có một tổ chức bầu chứ. Người ta phải nói là “bây giờ

mẹ đi rồi, tôi muốn là chị đứng lên chị lo toan thay mẹ đi, chúng tôi nhiệt

187

tình ủng hộ chị.” Được sự ủng hộ của gia đình đồng Thầy thì người ta sẽ làm

thay đồng Thầy, một số người sẽ theo người mới thay này, một số người sẽ

giải tán sáp nhập các bản hội khác. Nói chung là đồng Thầy có vai trò vô

cùng quan trọng trong sự tồn tại, phát triển và suy vong của bản hội.

- Bản hội có chuẩn mực hay quy định gì không cô?

- Bản hội có chuẩn mực là khi anh đã nhập gia là phải tùy tục. Dù anh ra

ngoài anh muốn nói hươu nói vượn gì anh nói nhưng anh đã về đến nhà là

anh phải có trên có dưới có trật tự. Ví dụ như quy định “”Người đi trước

rước kẻ đi sau” , người đi trước biết rồi thì bảo cái người chưa biết.

- Có câu “trên kính Phật Thánh dưới theo đồng Thầy” đây có phải là chuẩn

mực không cô?

- Đấy là bài hát người ta nói thế.

- Nhưng tất cả phải theo đồng thầy đấy thôi?

- À thì đúng rồi, nhập gia thì phải tùy tục mà, anh đi vào nhà tôi anh không

theo tôi anh theo ai? Anh vào nhà đồng thầy thì tất cả mọi cái anh đều phải

theo đồng thầy. Thế mới có cái gọi là quy định đểu thì nó thành đểu, quy

định tốt thì nó thành tốt. Chẳng hạn như cô quy định ngày mùng 10 tháng

giêng, tháng 4, tháng 7, tháng 12 là ngày tổ chức 4 vấn hầu quan trọng của

bản hội mà tất cả các thành viên khác phải đến. Mưa chết cò thì ngày đó vẫn

là ngày diễn ra hoạt động của bản hội và các thành viên phải có nghĩa vụ

đến.

- Chuẩn mực gì nó khiến cho những người trong bản hội nó gắn kết với nhau?

- Đó là do người cầm cân nảy mực, người cầm lái vĩ đại đó là đồng Thầy.

- Với cô thì cô làm gì để cho các nhóm tản mạn của bản hội như vậy đến được

với nhau?

- Thì thông qua các ngày lễ chung của cả bản hội, 1 năm có 4 vấn đấy, cô

thông báo thì họ đến với bản hội và đến với nhau.

- Mối quan hệ giữa đồng Thầy với các đệ tử thế nào hả cô?

- Trước hết là mối quan hệ giữa đồng Thầy và thanh đồng, đó là mối quan hệ

quan trọng nhất, mối quan hệ mẹ con, cái tình mẫu tử đấy, điều này được thể

hiện qua từ đẻ đồng. Ở trong gia đình, bố mẹ là người sinh ra họ có nghĩa là

đẻ đúng không? Khi bước vào bóng đồng thì họ có một bà mẹ thứ 2 sinh ra

mình đó là đồng Thầy. Thế thì tình mẫu tử nó rất lớn, tình vị tha rất lớn. Nó

có thể ganh với mẹ nó vì đó là ganh đồng, Người ta bảo “ghen vợ ghen

188

chồng không bằng ghen đồng ghen bóng mà”, thế rồi thì thầm to nhỏ,, dưa

lê, dưa táo, dưa bở, các loại dưa khác nhau. Người ta bảo trong một gia đình

huyết thống, anh em cũng đã có người này người kia chứ chưa nói gì đến

ngoài cộng đồng xã hội. Nếu em nhớ thì cô có một bài thơ có câu “Mẹ không

muốn các con chà xát”, bài thơ mà mẹ nói với các con đồng đấy, tuy là khác

giống nhưng chung một giàn, đó là giàn đồng bóng đấy.

- Giữa đồng thầy và thanh đồng xưng hô thế nào ạ?

- Có bản hội thì gọi là mẹ - con, bản hội khác lại là Bố- con, có bản hội là gọi

là u- con, mế- con, thầy –con.

- Nếu gọi là Thầy thì thầy ở đây có nghĩa là dẫn dắt, dạy bảo phải không ạ?

- Không, nó đều có nghĩa là đã sinh ra những đệ tử, đây chỉ là âm từ địa

phương thôi.

- Đồng Thầy dẫn dắt con nhang đệ tử như thế nào hả cô?

- Đồng Thầy dẫn dắt con nhang đệ tử qua đường tu dưỡng bản thân. Người ta

bảo “phúc chủ lộc thầy” mà.

- Quá trình dẫn dắt đệ tử như thế nào ạ?

- Đầu tiên là đẻ đồng họ này, mà mình đã đẻ ra họ là mình phải có trách nhiệm

nuôi dưỡng họ và dẫn dắt họ, người ta bảo “muốn con hay chữ thì yêu lấy

thầy”, rồi giúp họ tạ 100 ngày, sau đó giảng giải cho họ cái gì phải tu dưỡng,

khi tu dưỡng thì khó khăn vất vả ra sao,..tất cả đều là phải dẫn dắt họ. Sau

100 ngày, là bắt đầu con đường tu dưỡng cho đến 3 năm, người ta nói có tới

95% chết trong 3 năm tu dưỡng. Người ta chết là vì người ta không thích

nghi được, mà không thích nghi được thì người ta rũ cánh không tu nữa.

- Sau 100 ngày thì cần đồng Thầy dẫn dắt gì nữa ạ cô?

- Sau 100 ngày là bắt đầu thiết quân luật đi vào con đường tu dưỡng, thế

nhưng con đường tu thì vô cùng gian nan vất vả cho nên đồng thầy mới phải

động viên các đệ tử là “chớ thấy sóng cả mà gẫy tay chèo”, người ta nói đông

nói tây lòng ta vẫn vững như cây giữa rừng, ta biết được là từ khi ta chưa ra

hầu đồng là ta còn nhiều băn khoăn, bồn chồn, nhấp nhổm đứng ngồi không

yên, khi ta ra hầu đồng rồi thì tâm ta tĩnh lại và đêm ta ngủ được say giấc,

mặc dù mở mắt ra vẫn có nhiều sóng gió của cuộc đời nhưng cứ nhắm mắt

lại là thấy bình an. Điều đó chứng tỏ là ta đã chọn được đúng thầy và khi đã

chọn được đúng thầy thì dù bất kì trong trường hợp nào ta, khó khăn nào ta

cũng phải vượt qua.

189

- Trong 3 năm thử lính đó thì đồng Thầy phải thế nào?

- Thầy phải để mắt vào họ, nhắc nhở họ làm sao tu dưỡng cho nó tốt.

- Sau 3 năm thì thế nào ạ?

- Hết 3 năm thầy phải làm lễ tạ cho họ, vào như thế nào thì ra như thế, đẻ ở

đâu thì tạ ở đấy. Sau đó mới quay về chốn tổ là nơi thầy ngự để tạ thầy, tạ

xong rồi thì mới đi trình Công đồng Bắc Lệ là nơi sinh ra 36 giá đồng, sau đó

lại về Vua Cha Ngọc Hoàng Bát Hải Động Đình để trình Cha “Vào cửa Cha

ra cửa mẹ mà”, sau đó thì mới đi trình mẹ Phủ Dầy. Tạ xong cửa mẹ rồi là

lúc đó mình chắp cánh mình có thể tự bay được. Nhưng trong 9 năm tiếp

theo còn phải bị thử đồng. Sau 9 năm thử đồng cộng với 3 năm thử lính nữa

là tròn một giáp thì có quyền Tạ ơn Phật Thánh.

- Lúc đó họ có còn gắn bó với chốn tổ của họ nữa không cô?

- Có nhiều người người ta gắn bó mãi nhưng có nhiều người thì họ sẽ đi.

- Giữa các thành viên trong bản hội có mối quan hệ với nhau như thế nào hả

cô?

- Trước hết là họ cùng một mẹ đồng, có chị có em như trong một gia đình.

Ngoài ra nó còn có mối quan hệ tình bạn bè như cộng đồng xã hội.

- Cô ơi, hiện nay thanh đồng và đệ tử của bản hội cô có mặt ở những tỉnh

thành phố nào trong cả nước?

- Nhiều chứ. Hà Nội 25-26 gì đó, Lào Cai này ( khoảng 10 người); Hưng 11,

Hải Phòng 3; Thanh Hóa 4; Nghệ An 2; Thành phố Hồ Chí Minh 3; Quảng

Bình 2; Nha Trang 3.

- Những thành viên ở xa thế thì họ liên lạc với bản hội bằng cách nào?

- Một năm họ ra Hà Nội về thăm chốn tổ, thăm thầy và hầu đồng 2 lần

- Mỗi một năm bản hội của cô đi lễ xa có nhiều không?

- Nhiều chứ: một là Thầy tổ chức và dẫn bản hội đi thường là theo các tuyến

như Hà Nội, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai…; thứ hai là các thanh đồng

lại tập thành từng nhóm đi và mời thầy đi cùng.

190

BIẾN BẢN PHỎNG VẤN SỐ 2

Người được phỏng vấn: bác Trà, nữ,76 tuổi

Ngày phỏng vấn: 31/08/2014

Nội dung: Đạo tràng, tham gia bản hội, đi lễ xa

- Trước đây bác làm gì?

- Bác học đại học Bách khoa về ô tô máy kéo, sau đó về Ninh Bình làm việc.

Bây giờ mới ngấm, 10 đời sau nếu có con gái không bao giờ cho nó đi nghề

này. Bác về Ninh bình dạy về ô tô máy kéo cho trường của sở Nông nghiệp

của tỉnh Ninh Bình. Sau đó bác chuyển về Hà Nội dạy ở trường trung cấp

nông nghiệp.

- Bác đi theo Phật là từ bao giờ?

- Năm 68-69. Khi đó bác là cán bộ công nhân viên bình thường, bác đi dạy

học. Người yêu của bác bị chết. Bác bảo nếu mà không có đạo Phật chắc bác

cũng chết từ lâu rồi. Lúc đó nó có một cái gì đó làm cho bác buồn chán, bức

bách. Lúc đó bác 28 tuổi. Người yêu bác là phi công, yêu nhau 4 năm. Chờ

đợi mãi để kết hôn. Ôi trời không quân thì cứ bay miết bao giờ xuống đất thì

mới biết được con ạ. Từ khi người yêu mất bác buồn đau lắm. Rồi bạn bè cứ

rủ đi lễ. Cứ vào đến chùa là nước mắt cứ chảy ròng ròng. Sư thầy bảo với

bác là “đấy là cái nghiệp” của bác. Mỗi lần đi chùa về bác thấy nó thảnh thơi

nhẹ nhàng, lễ xong bao giờ cũng thế. Từ đó trở đi, ở xung quanh đây cũng có

một số bà mộ đạo cứ rủ chùa. Bác đi được 8 năm liền lên Yên Tử từ những

năm 1980.

- Những năm đó đi Yên tử vất vả bác nhỉ?

- Úi giời ơi, khó khăn lắm. Những năm đó leo lên đỉnh núi cần phải rẽ cây mà

đi. Vậy nên các cụ ngày xưa mới có câu là “tại gia cho tới xuất gia. Chưa đi

Yên Tử chưa tròn quả tu”. Vì phải rất vất vả mới đến được yên Tử, phải lội

qua 7 con suối cơ, cái đường mình vào ấy ngày xưa đi ô tô mà suối nước

ngập hết bánh ô tô. Bây giờ người ta chặt cây cối, mương máng không còn,

đường bây giờ khô cong. Ôi giời khi ấy, dãy tùng dãy bách hai bên to mà đẹp

lắm. Thích lắm. Bà bác rất hợp với Yên Tử. Người ta đi về đau hết người

ngợm chân tay nhưng bác đi về lại rất khỏe, sáng hôm sau vẫn đi dạy học

được. Bác nghĩ rằng đó là do duyên đấy. Năm 1987 bố bác mất thế là bác

thôi không đi nữa (trong khi đó bác đã phát nguyện đi 10 năm ). Trước khi

bố bác mất, bác xin bố mẹ cho bác lập một cái bàn thờ Phật. Bố bác mới bảo

191

thờ thì dễ mà giữ lễ thì khó. Xong bác mới bảo “con hứa mới bố là con sẽ

giữ được”

- Bác tham gia đạo tràng từ bao giờ?

- Từ năm 1996, từ ngày cụ Thích Thanh Từ ra ngoài này đấy. Cụ ra ngoài này

còn chưa có thiền viện Sùng Phúc nhé, chưa có Thiền viện Tây Thiên nhé.

- Bây giờ bác tham gia Đạo tràng ở đâu?

- Đạo tràng Tuệ Đức ở chỗ UIA ấy. Của Vũ Thế Khanh ấy, chỗ ấy là trung

tâm tâm linh.

- Như vậy lần đầu tiên bác đến với Phật là lúc bác đau khổ về tinh thần đúng

không?

- Đau khổ về tinh thần. Người yêu mất nên rất buồn. Bác lại là người không dễ

quên. Yêu nhau 4 năm, lại là mối tình đầu, người yêu bác lại đẹp cả người

lẫn nết. Mà cũng không ai biết về mối tình này của bác. Sau khi người yêu

bác mất 3 năm rồi bác mới nói với bạn bè và gia đình. Nói để làm gì. Dân

gian có câu “con cá sẩy là con cá to”.

- Vì vậy nên bác không lập gia đình à?

- Không lập. Tại vì cái hình ảnh của ông ấy nó tròn trịa quá. Chứ đâu có phải

bác thế này thế khác…Thị Nở còn có Chí Phèo nữa là (cười). Trong khi

mình cũng được, có nghề nghiệp, bác dạy học học sinh cũng quý, mình là

người đàng hoàng đấy chứ.

- Mọi người có ép bác lấy chồng không?

- Có, nhất là bố mẹ ấy nhưng bố rất là tuyệt với, bố nói thế nào con có biết

không?

- Thế nào ạ?

- Anh trai bác cũng không lấy vợ nhé. Bố bác nói “các con mà lấy chồng lấy

vợ thì bố sẽ sống thêm được với các con 20 năm nữa.”. Con thấy có xót xa

không? Mình không trả ơn được bố mẹ cái gì mà còn làm cho bố mẹ buồn

khổ. Nhưng mà khó để có thể lấy ai được.

- Khi đi chùa thì bác thấy thế nào?

- Bác thấy lòng thanh thản hơn. Cháu tưởng tượng nhé, bác đi làm về nhé, tắm

rửa ăn cơm rồi tối ra chùa tụng kinh. Rất đều. Tối nào cũng thế, mưa gió

cũng mặc kệ.

- Vì sao mà mưa gió bác vẫn đi lên chùa?

192

- Ồ, nó như một phản xạ tự nhiên, và rất cần thiết cho mình. Mà tất cả mọi

người là như thế cả.

- Khi bác đến chùa như vậy thì thầy chùa có biết bác gặp những vấn đề như

vậy không?

- Không bao giờ. Bác là người kín đáo. Con là người đầu tiên bác gặp mà bác

tâm sự như vậy rồi.

- Vâng như vậy là cháu và bác có duyên với nhau ấy ạ.

- Đúng vậy, có khi kiếp trước là con một nhà nên bây giờ mới nói chuyện với

nhau thoải mái như thế này. Chứ bác không muốn tâm sự với những người

khác, người ta lại hiểu sai vấn đề đi. Những năm bác trai ở Trung Quốc rồi

sau đó về nước, chiến tranh như thế mà cứ đều đặn một tháng 5 lá thư. Tha

thiết như thế, quên làm sao được…không thể quên được. Nhưng mà có Phật

pháp đến với mình và mình hiểu ra rằng: đúng nếu như về mặt xã hội thì nói

là vì mình không lấy được ai nhưng nếu về mặt tâm linh thì mình hiểu rằng

nó là cái nghiệp của mình và khi mình hiểu nó là cái nghiệp của mình thì nó

lại rất nhẹ nhàng.

- Đạo tràng có đông người không?

- Lại tùy duyên, tùy từng khu vực. Ví dụ đạo Tràng Dược sư ở chùa Đồng

Quang có khoảng 300 người. Mọi người đến với nhau và cũng thấy lợi lạc,

tất nhiên là chưa thấy ngay được lợi lạc này, ông tu thì ông đắc bà tu thì bà

đắc nhưng khi mình đã có tâm tu rồi về nhà nó hiền từ đi, đối với các con

mình cũng nhìn các con bằng đôi mắt hiền từ. Đấy cái lợi lạc nó là như thế.

Và mình đã đi tu rồi thì mình không thể ra ngoài mà thế này thế khác. Thế

người ta mới nói “thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ…” tất cả những nơi đó

chỗ nào mình cũng phải có chữ nhẫn. Trước đây bác đi nhiều lắm, đi khắp

nơi, mà đặc biệt các nơi chùa nghèo cảnh khó…chứ những chùa giàu là mình

không đến đâu. Vì sao? Vì người ta không cần. Ví dụ bây giờ mình lên trên

Quán Sứ thì vài chục triệu thì làm cái quái gì.

- Mình đi đến các chùa nghèo khó đấy để làm gì hả bác?

- Đi như thế nhé, ối giời ơi, vào chùa mà Phật gãy tay như thế này, mọi người

lại bàn với nhau, mỗi người công đức một chút, thế là về lại tìm thầy tìm thợ

lên đó để lắp lại tay cho Phật. Có những nơi còn làm hẳn một ngôi chùa mới,

làm thì không có tiền, các bác lại đi xin từng người từng nhà bạn bè, đến các

cơ quan của các anh các chị. Trong xóm làng này nhé, các bác có quyển sổ

193

này nhé, có dấu là trùng tu ngôi chùa này ngôi chùa kia, người ta biết mình là

chân tu chả có ai người ta bảo mình là lừa đảo cả.

- Số tiền lớn nhất mà bác quyên là được bao nhiêu?

- Đấy là cả hội thì cũng phải dăm bảy chục triệu.

- Đạo Tràng hoạt động như thế nào?

- Ví dụ đạo tràng Dược sư ở chùa Đồng Quang ấy, cứ một tháng 2 ngày 12 và

26 tất cả đạo tràng ra chùa tụng kinh. Đã là đạo tràng Dược sư thì chỉ tụng

kinh dược sư thôi, tụng kinh này cho có sức khỏe tốt. Nếu không tụng Dược

sư thì đầu năm mình tụng Ngũ bách danh (tên 500 vị Phật), kinh Pháp Hoa

(đầu tháng nên đọc kinh này để xin cầu an), hoặc không có thời gian và mới

bắt đầu vào thì đọc kinh Phổ môn (là Quan Thế Âm Bồ Tát ấy). Còn nếu nhà

nào có người mất, cúng giỗ,..thì mình lại tụng A Di Đà để cầu siêu. Mùa hè

thì nên tụng Dược sư. Đi về nhà Phật nó hay lắm mà nó vi diệu lắm cơ.

- Ngoài tụng kinh ra, đạo tràng còn làm gì nữa ạ?

- Ốm đau thì đi thăm hỏi, nhà nào có người mất ấy, đạo tràng lại chia thành

nhiều tổ, đạo tràng nào có người mất thì lại đến đó để hộ niệm và tụng kinh

trong thất thất lai tuần.

- Người đứng đầu đạo tràng là ai?

- Tùy, ví dụ đạo tràng của bác đây là bà Thanh.

- Cháu tưởng phải là thầy chùa chứ?

- Không phải. Bà ấy chỉ là người cũng như các bác thôi mà. Đạo tràng nó là tổ

chức thôi mà.

- Nhưng vì sao bà ấy lại trở thành người đứng đầu hở bác?

- Vì bà ấy giỏi lắm. Thí dụ bao giờ tết bà ấy cũng hô hoán mọi người đi chùa,

đầu tiên là đi chùa Yên Tử, sau đó là đi chùa Hương. Bà ấy có cái kiểu rất có

năng khiếu, bà ấy đi quan hệ thâm nhập nhiều nơi, quen biết nhiều nhà sư,

nhiều chùa…

- Cháu tưởng đạo tràng ở chùa là do sư đứng đầu chứ?

- Không, không phải. Chùa làm việc riêng của chùa, đạo tràng làm việc riêng

của đạo tràng.

- Vậy các bác hoạt động ở đâu?

- Hàng năm các tổ trưởng họp 2 lần: đầu năm và cuối năm để họp tổng kết bổ

khuyết. Việc họp này diễn ra thông thường ở một nhà của người nào đó trong

194

đạo tràng thôi. Nó là một tổ chức rất quần chúng. Còn đọc kinh thì phải ở

chùa?

- Nhưng khi lên chùa đọc kinh thì các bác có phải xin phép nhà sư không?

- Có chứ. Đăng kí với nhà sư là tổ Dược sư của chúng con đăng kí là ngày 12

và 26 để nhà sư biết nhà sư bố trí cho mình để không nhận những đám khác.

- Mình có phải nộp gì cho nhà chùa không bác?

- Ví dụ đến đây nhà mình có một cái đĩa đặt ít tiền lên đó gọi là tiền giọt dầu

cho nhà chùa, 2 nghìn, 3 nghìn, 10 nghìn, tùy…chứ người ta nghèo người ta

không có lương hưu thì sao. Có những bà người ta chỉ bán bánh mì thôi ấy,

2,3 nghìn nhưng nó là cái tâm của người ta, tiền đó là tiền sạch, thì Phật vẫn

chứng, chứ không phải có một xe ô tô vàng đến mà công đức cho chùa thậm

chí hòa thượng lại không nhận xe ô tô vàng đấy.

- Ngoài đọc kinh và thăm hỏi người ốm đau ra họ còn làm gì nữa?

- Đi lễ chùa.

- Thường đạo tràng đi lễ vào những dịp nào?

- Đầu năm.

- Họ đi đâu?

- Đi xa, có khi hàng trăm km, có khi vài xe ô tô ấy chứ, có khi hàng trăm

người cùng đi ấy chứ

- Đi lễ xa như thế bác có phải nộp tiền không?

- Có. Thuê một chuyến xe tổng cộng mấy triệu mấy triệu vào đấy, xong rồi

tính tiền chia theo đầu người, hoàn toàn là như thế. Còn việc ăn uống, mọi

người hoàn toàn tự túc. Tuy nhiên có những chuyến đi thì người đứng đầu

đạo tràng liên hệ được với nhà chùa để nhà chùa nấu ăn chay cho, thì mọi

người lại nộp vào rồi gửi nhà chùa như là tiền công đức. Người ta gọi là tiền

công đức chứ không phải là tiền ăn. Bên cạnh đó các bác còn đóng góp để

nếu đến chùa nghèo thì mua thêm nhiều mì tôm, mì chính đến tặng. Hoặc có

những lần các bác đi chùa Hương, các bác gửi người ta mua 5,6 chục cân

gạo; 5,6 chục cân rau rồi biếu nhà chùa.

- Những lần đi lễ xa như vậy, bác thường phải nộp bao nhiêu tiền?

- Ít lắm... ít lắm ấy… Chỉ độ khoảng 2,3 trăm một ngày thôi. Chỉ sáng đi tối về

mà đi những mấy chùa liền, mà chùa nào mình cũng công đức dầu ăn, mì

chính, đường này để cung cấp cho sư.

- Đến chùa thì các bác đi lễ à?

195

- Lễ, trước tiên là lễ, đặt các phẩm vật lên trên Tam Bảo. Sau lễ tất cả mọi

người cùng tụng kinh. Trước khi tụng kinh thì người đứng đầu đạo tràng xin

cầu cho mọi người; sau khi tụng kinh xong thì bà ấy tuyên sớ, ai có mặt thì

đều được tuyên sớ, có tên tuổi, gia đình nhà mình.

- Bác ơi, vậy những thành viên trong đạo tràng đều là phụ nữ à?

- Hầu như là như thế, vẫn có đàn ông nhưng rất ít. Nam mà đã thông thì họ

còn nhiều điều tuyệt vời hơn, họ giỏi lắm, và họ rất xốc vác.

- Làm sao mình chia được các tổ trưởng?

- À ví dụ trong khu dân cư này thì người ta bầu lên có một người tổ trưởng ở

khu này, những người ở ngoài Phố Tây Sơn, hay Nguyễn Lương Bằng là một

tổ. Họ tự bầu rồi báo cho đạo tràng.

- Căn cứ vào tiêu chuẩn nào để người ta bầu?

- Một là khả năng tụng kinh, hai nữa là giao tiếp. Chăm chỉ đọc kinh chứ còn

Phật không yêu cầu phải chăm chỉ, Phật có sách đàng hoàng, cứ mang sách

ra đọc không sai một chữ.

- Người đứng đầu đạo tràng gọi là gì ạ?

- Trưởng chúng.

- Người ta có bầu lại không?

- Có chứ. Nhiệm kì 2 năm một lần. Cái gì nó cũng có tổ chức, mà tổ chức nào

nó cũng có cái hay.

- Đạo tràng có nộp quỹ không?

- Có. Một năm 50 nghìn. Để làm gì, để những người ốm đau thì sẽ đi thăm

mỗi người được một cân đường một hộp sữa.

- Như vậy là đạo tràng có thủ quỹ?

- Có thủ quỹ ghi chép hẳn hoi. Tuy là mộc mạc nhưng lại cũng khá chặt chẽ

đấy.

- Hội viên của đạo tràng gọi là gì?

- Gọi là Phật tử. Bên Thánh thì lại gọi là con nhang đệ tử.

- Thế bác ơi, bác tham gia bản hội từ bao giờ?

- Khoảng năm 1998. Ngày đó bác cũng được cho là có căn, bác đến cửa nhà cô

Xuyên thì cái ngày ấy cô ấy cũng chỉ mới. Vì sao biết có căn? Vì tính tình

với tất cả mọi cái, làm cho mình đến hẹn lại lên, ốm không ngóc đầu được

dậy. 365 ngày thì 360 ngày ốm. Dật dẹo, nó chẳng ra cái kiểu gì. Mà cô

Xuyên thì cô ấy lại xem bói được. Bác mới bảo với cô ấy là thôi cho chị tiễn

196

căn. Vì sao? Vì điều kiện không cho phép: nhà mình toàn bộ đội, đảng viên,

làm sao mà có thể… Gia đình mình cũng không cho phép mình ra trình đồng.

Trình bây giờ hàng trăm triệu, thành ra là nhanh nhanh chóng chóng sang xin

Phật. Thánh là con của Phật mà. Phật thì từ bi nhưng Thánh thì một li cũng

chấp. Cô Xuyên cũng là đảng viên, con ông Đại tá, mẹ cũng là tá gì ấy to

tướng, nhưng vì sát quá thành ra phải ra trình. Ngày xưa cô ấy ở đường giải

phóng, công an còn đến bắt cô ấy chứ. Có được hát hò trống phách gì đâu,

âm thầm. Bây giờ Unessco công nhận nhé,…nên mới được tự do.

- Khi bác đến nhà cô Xuyên xem bói bác mới biết bác có căn đồng à?

- Từ trước đấy nhiều rồi. Lúc đến chỗ chỗ cô ấy là nơi cuối cùng bác quyết

định làm tiễn căn là vì sao vì là đi những nơi khác ấy mà mình không có điều

kiện, hàng chục triệu lấy đâu ra. Mình là giáo viên mà giáo viên về hưu sớm

nữa lấy đâu ra. Đến chỗ của cô Xuyên ngày đấy cô ấy cũng mới chỉ mới mới

thôi, nên cô ấy lấy chỉ lấy triệu thôi, 5 triệu gì đó nhưng lúc bấy giờ 5 triệu

cũng là con số lớn rồi, bác còn phải đi vay thêm đấy. Nói tóm lại là bác đã đi

nhiều nơi nhưng đến điện nhà cô Xuyên thì giá rẻ hơn.

- Vì sao bác lại chọn bản điện nhà cô Xuyên để làm lễ?

- Chọn bản điện ấy là vì nó hợp với túi tiền, chứ mình mà giàu sang thì ở đấy

cũng rất được nhưng mà rõ ràng nó hợp với túi tiền của bác. Bác là giáo viên,

về hưu sớm được mấy triệu, lại là cô đơn toàn phần , tất cả mọi thứ trước sau

đều do mình tự lo liệu hết thì mình phải tự lo chứ mình xin ai mà bác thì tự

trọng rất cao.

- Từ ngày làm lễ tiễn căn bác có duy trì mối quan hệ với Thầy Xuyên và bản

hội không?

- Có chứ. Một năm vài lần bác đến bản hội: đầu năm, như hôm vừa rồi ấy là

vào hè, rồi lại ra hè, cuối năm. Đến thoang thoáng thôi, mình không có điều

kiện, còn mấy cái bà kia các bà ấy có con mà chồng con lại rất giàu thành ra

các bà ấy hay đi lễ. Vì đến đó là rất nhiều tiền. Thí dụ đến đó đặt lễ là mỗi

người bốn, năm trăm. Mà bốn, năm trăm đối với mình cũng rất là to bằng 1

phần mấy của lương hưu rồi. Các bà ấy có chồng là thiếu tướng này, đại tá

này, con lại bán hàng ở trên Hàng Ngang, Hàng Đào này…thành ra mình chỉ

đi thoang thoáng thôi.

- Ai giới thiệu mà bác lại biết cô Xuyên?

197

- Chị gái bác này thì lại chơi với chị chồng của cô Xuyên. Nó cứ dây cà ra dây

muống, dích dắc vậy.. Chị gái bác lúc đó trong gia đình có nhiều bức bách

cũng đến nhà cô Xuyên xem, đi xem thì thấy đúng thế là bà ấy bảo bác đi.

- Sao bác đã đi theo Phật rồi mà lại vẫn đi theo Thánh?

- Cũng vẫn được. Ví dụ người ta buôn bán thì người ta đi Thánh thì là tốt vì đi

để xin lộc. Còn bác thì giờ xác định mọi thứ đã an bài hết rồi đi xin mỗi có

sức khỏe rồi.

- Bác ơi, thế đi lễ Phật thì mình có lợi gì và đi lễ Thánh thì mình có lợi gì?

- Đi lễ Thánh thì chữa được bệnh. Thông thường những người ốm đau bệnh tật

người ta tìm đến cửa Thánh. Cái năm bác vừa mới tiễn căn ấy, úi giời ơi, bác

đã tưởng chết từ cái năm ấy cơ, tim đau lắm.. thế là cô Xuyên cô ấy mới dẫn

đến một cái chùa, bác mới bảo Xuyên ơi Xuyên xin cho chị nước thải (tức là

nước cúng xong), hầu xong, xin nước thải uống vào một cái cực kì nghiệm,

uống vào một cái là thấy khỏe re. Hoặc người ta đi buôn bán, đi đòi nợ

…người ta đi lễ Thánh . Còn đi lễ Phật thì mình chỉ có cầu an thôi.

- Cầu an tức là cầu gì bác nhỉ?

- Tức là cầu cho sức khỏe, cho gia đình bình an này, cầu cho tâm của mình

nhẹ nhàng tĩnh tại này, người ta bảo là tu là tu tâm.

- Bây giờ bác vừa theo Phật, bác lại vẫn theo Thánh, vậy khi đến điện Mẫu bác

cầu xin cái gì?

- Bác cũng chỉ xin là cho gia đình con được bình an thôi, khỏe mạnh. Mình

không buôn bán kinh doanh thì mình xin làm gì cho mang tội. Phật chỉ cho

duy nhất bình an và sức khỏe. Mà cháu ngẫm mà xem, có sức khỏe là có tất

cả.

- Nhưng vì sao Phật lại cho sức khỏe bác nhỉ?

- Thì vì Phật cho mình sự an tâm, cho tâm mình an, đúng không nào. Bây giờ

tôi muốn mua một cái máy này chẳng hạn, tôi phải tích lũy bao nhiêu tiền, lại

phải lo lắng. Hòa thượng nói rằng, có những người đặt một đồng tiền lẻ lên

ban thờ Phật, bán được bao nhiêu mà lại xin cho con buôn một bán mười, cụ

cho đi buôn nhưng chỉ là buôn chín bán mười, lấy 1 cái phần lãi đấy thôi để

mà nuôi gia đình, nuôi con cái. Chứ đi buôn một bán mười là đi ăn cướp của

người ta, như thế là điêu, đúng không? Thế là lại phạm tội. Thứ hai, cụ nói

rất hay (Cụ Thích Thanh Từ ấy, mà cụ nào giảng cũng hay, hay lắm cơ chứ

không phải hay vừa đâu, đặc biệt là những thầy trẻ cơ mới tuyệt vời, các thầy

198

trẻ toàn các tiến sĩ thôi. Hay lắm cơ vì các Thầy đã bỏ một cuộc đời rồi để

người ta nghiên cứu và người ta chỉ ăn chay thôi. Mà nhìn các thầy chùa,

thầy nào cũng béo mượt đi. Mà các cụ chỉ có ăn thanh bông hoa quả thôi, mà

một ngày chỉ được ăn bữa trưa thôi nhé, còn buổi chiều ba bốn giờ thì lại ăn

các loại ngũ cốc, đậu các kiểu xay ra hoặc sữa trộn vào ăn. Nhìn cái đại hội

Vesak không, nhìn thầy ở chùa Bái Đính không, hàng trăm thầy hàng nghìn

thầy thầy nào cũng đẹp, gia thì đỏ au mà trông cái tai to mặt lớn. Mà đã an

nhiên tự tại rồi thì còn lo cái gì nữa, nên là lúc nào cái miệng lúc nào cũng có

nụ cười bông hoa ở đấy

- Trong suy nghĩ của bác, Mẫu là người có quyền năng như thế nào? Phật có

quyền năng ra sao?

- Đấy thì bác vừa nói đấy, Mẫu có quyền năng giải quyết tất cả các sự việc

thực tế trong xã hội còn Phật cho người ta sự an lành.

- Bác ơi, thế khi nào thì bác đến chùa và khi nào thì bác đến điện Mẫu?

- Bây giờ già rồi thật tình mà nói sức cũng yếu rồi nên đi đến các điện Mẫu rất

là ít. Chỉ có đến điện mà nơi đó đã làm lễ tiễn căn cho bác. Với lại nhiều

người ở bản hội ấy rủ thì bác đi.

- Thế mấy bác đó là bạn của bác à?

- Bạn của chị bác, ở khu tập thể Nam Đồng.

- Bác có đi lễ cùng bản hội nhà cô Xuyên không?

- Ngày xưa đi nhiều lắm, đi xa nữa là đằng khác, vào tận Huế. Mỗi lần đi như

vậy có hàng trăm người đi cùng.

- Nhưng cháu nghĩ có khi đi lễ Thánh nộp tiền nhiều hơn bên đi lễ Phật ấy bác

nhỉ?

- Chính xác, cái đó thì chính xác. Lên xe một cái là đã ăn cái này ăn cái kia

rồi. Chứ còn như đi lễ Phật nhé, ở lại qua đêm thì xin ngủ trong chùa không

mất tiền. Thì các cụ mới đi chứ lấy đâu ra tiền mà các cụ đi. Thứ hai nữa là

nhà chùa cho ăn cái gì thì ăn cái đó nhưng mà đi lễ Thánh này thì ngủ ở nhà

nghỉ khách sạn này, rồi ăn cái nọ cái kia thành ra tốn lắm.

- Chuyến đi nhiều tiền nhất của bác tốn nhiều không bác? Có đến tiền triệu

không ạ?

- Triệu chứ. Triệu nhiều ấy chứ. Đi một ngày đã gần 1 triệu rồi. Đi vài ngày

phải đến tiền chục triệu

- Việc đi lễ xa có giúp bác quen biết được nhiều người không?

199

- Bác không thích làm quen hơn nữa đi lễ xa vài chùa, trước hết là mình vào

chùa lễ Phật sau đó là mình chiêm bái: à cái đền Hùng là nó ở chỗ này, thờ

ông bà thế này; đi đến Thái Nguyên thì thấy à địa danh này nó như thế này.

Như vậy đi lễ nó giúp mình mở mang kiến thức du lịch. Chứ bác thì không

thích làm quen.

- Khi đi dự hầu đồng bác có trợ duyên không?

- Có chứ.

- Số tiền nhiều nhất mà bác đi trợ duyên là bao nhiêu?

- Úi giời nó tùy túi, chả biết thế nào mà nói được. Vô giá.

- Trong đạo tràng có trợ duyên không?

- Bắt đầu đến chùa mọi người giọt dầu cho vào cái đĩa rồi tất cả đó dồn vào

phong bì. Trưởng chúng cầm phong bì và gửi cho Hòa thượng, chúng con có

giọt dầu. Phải hàng bao nhiêu triệu ấy chứ không ít đâu. Nhưng ở bên Phật

nó lại là duyên khác. Một người nào mất cả nhóm đạo tràng đi cầu kinh đó

cũng chính là trợ duyên đấy. Quan niệm của đạo Phật là khi cầu kinh như

vậy ấy thì người chết được có 3 phần thôi còn người sống lại được những 7

phần cơ. Vì vậy các vị rất là tích cực, mặc dù trời nắng như thế này nhưng đã

hẹn 1 giờ có mặt là 1 giờ lóc nhóc đến đầy đủ nghiêm chỉnh. Vui lắm cứ như

là đi họp nông hội mà hoàn toàn tự giác chả phê bình phê biếc gì nhau.

- Bác ơi, việc tham gia vào bản hội ấy có lợi ích gì không?

- Lợi là mình yên tâm về đường Thánh, mình không còn lăn tăn gì về việc

mình phải ra hầu ra hiếc cái gì nữa. Cái thứ hai nữa là chữa được bệnh, uống

những cái nước ấy vào là mình thấy nó nhẹ nhàng, nhẹ người luôn.

- Nhà bác được cái là tất cả đều sùng đạo Phật, bây giờ được cái là lôi kéo

được cả em dâu bên đạo Thiên Chúa cũng theo Phật. Bây giờ bác đi miền

Nam mấy tháng là bác yên tâm vì về nhà thì thấy bàn thờ sạch đẹp. Trước

đây bác có đi đâu, vì bác đã hứa với bố bác khi bác lập điện thờ Phật là con

sẽ giữ được lễ, nên bác không dám đi đâu vì sợ không có ai nhang khói. Bác

rất sợ đi đâu vài ngày về mà nhìn thấy ban thờ bẩn thì không thể chịu nổi.

Ngày xưa ngủ dậy nấu cơm xong cho vào cặp lồng, cầu kinh xong mới đi

làm.

200

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SỐ 3

Người được phỏng vấn: anh Thú, chấp tác

Ngày phỏng vấn: 11/10/2014

Nội dung: Hoạt động nghi lễ, quan hệ xã hội trong bản hội

- Trước khi mà đến với bản điện của thầy Xuyên thì anh đã làm những nghề

gì ?

- Ồ anh làm rất nhiều nghề. Đầu tiên 14 tuổi anh làm cơ khí. Đến năm 17 tuổi

anh vào quân ngũ. Đi quân ngũ về anh lao vào xây dựng. Xây dựng chán anh

quay về làm xích lô. Xong chán anh lại về làm xe ôm. Cứ đôi ba năm anh lại

thay đổi một công việc.

- Sao lại cứ thay đổi công việc nhiều thế ?

- Thay đổi do cái môi trường sống của mình, cuộc sống của mình nó đi lên. Ví

dụ như đang từ đi phụ hồ chẳng hạn, thế anh được đạp xích lô thế là anh có

tiền tươi, có sản vật. Ví dụ như cháy xi măng, anh tích trữ được hàng bán với

giá cao. Đó là cái mưu cầu cuộc sống. Cái gọi là khi anh đã ra đường, kinh

nghiệm ngoài đường ngoài chợ người ta dạy, chứ không phải là ngẫu nhiên.

- Bắt đầu từ khi nào là anh sang nghề xây dựng hả anh ?

- Nghề xây dựng của anh từ năm 87, cuối 88 lên đường đi bộ đội.

- À, xây dựng ở đây là đi phụ hồ.

- Ừ. Đi bộ đội về anh mua cái xích lô. Năm 89 anh ở bộ đội đến năm 91 anh

ra. Năm 92 anh về anh bán cái tủ lạnh đi anh mua lúc đó bà chị 2 bà ở Nga

về từ năm 88. Bà ý đi từ 82, đến 88 về thì có cái tủ lạnh cho gia đình sử

dụng. Lúc đấy, nhà cũng khó khăn chẳng có điều kiện gì giúp đỡ, thì bảo thôi

có cái tủ có giá trị thì tôi bán. Đấy là bà ý tạo điều kiện cho thế là bán. Bán

thì mua cái xích lô. Đôi bàn tay với đôi bàn chân vác cái xích lo vào đời. Thế

là từ năm 92 đi xích lô, cho đến năm 2001. Thế là 11 năm trời vừa đi xích lô

và làm cửu vạn.Thế là vừa đi xích lô, tối đến hàng hóa nó về bắt đầu lại cẩu

xuống.

- Hàng ở đâu mà cẩu hả anh ?

- Gạch Trung Quốc. Tức là phục vụ cho cái cửa hàng bán gạch Trung Quốc.

- Tức là anh dùng xích lô anh chở gạch cho người ta à ?

- Chở gạch Trung Quốc cho các cửa hàng phân phối lẻ. Nếu lúc nào không có

thì ở trong kho chọn gạch loại. Ví dụ như gạch loại màu trắng ra một loại,

mầu nâu ra một loại, màu xanh ra một loại. Đấy là lúc ở cửa hàng dọn kho.

201

Thế sau đó bà chủ gạch này ra đồng ở trong cô Xuyên thì bắt đầu bà ý mới

dặn cho mình là nhân viên của bà ý vào đi chợ.

- Đi chợ là thế nào ạ ?

- Là đi mua bánh kẹo các thứ đồ lễ lộc ý. Vào thì thấy mình nhanh nhẹn khỏe

mạnh thầy ý mới lôi vào. Nhân duyên là từ đó.

- Thế lúc anh làm xích lô thì tiền có đủ trang trải không anh ?

- Cái lúc anh làm xích lô thì anh lại sống dư giả.

- Sao lại sống dư giả được ?

- Là vì thế này, anh có các mối hàng của anh, các mối thân quen của anh. Ví

dụ như là xi măng ở trong nhà nước bán 800 nghìn/ 1 tấn. Thì anh cứ đầu tư

tiền anh đặt 4 tấn, 5 tấn. Đến lúc kho không có hàng anh lại lôi hàng đấy ra

anh bán. Anh toàn bán 1 triệu đến triệu hai, tức là cứ 1 tấn là anh có 400

nghìn. Mà 400 nghìn lúc đấy anh được 1 chỉ vàng rồi. Thực ra lúc đấy mình

đạp xích lô thì ít mà đầu óc kinh doanh thì nhiều.

- Chắc điều kiện lúc đó cũng có anh nhỉ.

- Có thì không có nhưng lúc đó anh chỉ đánh vàng thôi. Nói không phải khoe

mẽ phô trương nhưng vàng lúc đó anh đeo đỏ hết cả hai bàn tay. Ngày ấy

vàng 3 trăm rưởi, 4 trăm 1 chỉ.

- Em nghe anh nói có lần anh đi buôn gì ở biên giới với Trung Quốc cơ mà ?

- Buôn đồng. Cái hồi buôn đồng ở biên giới là anh ở bộ đội. Cái năm 12.3.89

anh đi bộ đội. Đến 19.5 sinh nhật bác anh bắn đạn thật được 3 điểm 10. Hồi

cuối năm 89, Cái ông đại phó của anh là người Bắc Ninh. Nhà ông ấy có cái

cơ sở thu gom đồng nát phế liệu về để người ta cô bánh, đúc. Thế mình mới

đi cùng làm liên lạc cho ông ý. Ông ý kéo mình đi chợ biên, trong những lần

đi mình rút lõi được. Đi năm lần bảy lượt về có một số vốn thì mình thu gom

thế sau đó mình mới đóng tập trung một quả là mất hết. Cát bụi về cát bụi.

- Thế anh tham gia bản hội nhà Thầy Xuyên từ bao giờ ?

- Anh tham gia bản hội nhà cô từ lúc năm 2001.

- Sau khi tham ra rồi anh có nghỉ lái xe ?

- Anh nghỉ toàn bộ. Anh nghỉ hết toàn tâm toàn phần lo trong ý.

- Nhưng thu nhập đang cao thế sao anh lại nghỉ ?

- Anh thực sự nghĩ là cái sự bon chen nó lớn quá. Thứ hai là cái tâm mình lúc

đó nó không tĩnh. Vào môi trường này để mình tu tâm dưỡng tĩnh. Tâm anh

202

lúc đó vô cùng nóng nảy. Chứ không thể hiền hòa nhân từ nói chuyện được

như lúc này.

- Thế lúc đó kinh doanh của mình có gặp vấn đề ?

- Lúc đó kinh doanh thiết bị nội thất nó đang bị bão hòa rồi. Thứ hai nữa là cái

hàng gạch Trung Quốc nó trở về đây toàn phải đóng thuế với dán tem. Tiếp

nữa là hàng liên doanh, các hãng liên doanh nó ra nhiều quá đâm ra nó vô

cùng phức tạp. Mà kho cảng thì nó lại thuê tất ở ngoài xa, ngoại thành cho nó

rẻ thì nó mới có kho để chứa hàng. Thế bây giờ lấy một chuyến hàng từ đấy

về giao cho khách xong cũng phải mất 3 đến 4 tiếng đồng hồ. Mà đi 3 đến 4

tiếng đồng hồ mới được một chuyến hàng thì đáng bao nhiêu tiền hả em ?

Đấy nó thuận lợi kiểu này, thuận lợi về phương tiện nhưng nó lại khó khăn

về đường đi nước bước. Lúc đường nó vắng ý thì không sao nhưng lúc

đường giờ tan tầm thì vô cùng phức tạp. May mắn cho anh là vẫn còn được

đôi bàn tay, đôi bàn chân lành lặn. Chứ còn nhiều người xe ôm chở gạch là

gẫy tay gẫy chân hết.

- Anh biết đến bản điện nhà cô thông qua việc đi lễ đúng không ?

- Từ bà chị chủ cửa hàng ngày xưa. Bà ấy cũng tốt mà giàu có lắm. Bà ấy ưu

đãi các ông thầy vô cùng. Nhưng các ông thầy cứ có mới nới cũ nên đâm ra

bà ấy cũng nản quá. Bà ấy xa rời 6 năm nay rồi.

- Thời gian đầu khi anh tham gia bản hội thì chấp tác chỉ có 1 mình anh thôi à?

- Không. Anh dưới quyền rất nhiều người chứ. Anh vào đầu tiên chỉ có ăn

xong rồi đi. Chạy vòng ngoài cần mua bán cái gì thì anh đi. Anh đứng chỉ

hóa mã đằng sau thôi. Sau đó gần một năm giời hóa mã thì mới chuyển dần

ra. Tức là vào môi trường ấy gần như kiểu con dao pha, biết cái gì việc gì thì

phải làm cái đấy. Thế thì anh là cái người vất vả từ nhỏ. Đâm ra cái gì anh

cũng biết. Từ nấu nướng, nấu ăn làm cái gì anh cũng biết hết đến cả xây

dựng. Đâm ra cái môi trường đó mình được trau rồi, rèn luyện. Vào môi

trường đó mình bung hết kỹ năng của mình ra.

- Lúc đấy bản hội đã đông chưa hả anh ?

- Lúc đấy cũng chưa được đông lắm. Nói thì hơi quá chút nhưng lúc đó thầy

đã mở được bao nhiêu con nhang đâu. Anh nói quá chút, lúc đó tất cả các

con nhang từ góc cạnh nhà thầy tất cả gần như, hầu như bây giờ là qua đôi

bàn tay của anh hết.

- Thế lúc đó có khoảng bao nhiêu chấp tác ?

203

- Lúc đó chấp tác có nhiều đâu em. Vai chính chỉ có 1 đến 2 thôi. Cái chấp tác

này phủ lớn mới cần ban bệ. Ở đền lớn là có 9 cụ đấy. Ban bệ từ thủ kho, thư

kí. Nhưng mà đấy là ở đền to phủ lớn dân thôn bản hạt người ta bầu ra. Còn

ở cái đền nho nhỏ như thế này chỉ cần 1 đến 2 người. Nếu đa di năng như

anh thì chỉ cần 1 người. Còn nếu trong bản điện của cô nếu chỉ một vai chính

như anh thì chỉ cần 1 mình anh còn vai phụ ở dưới bếp thì phải thêm 3 người.

Ít nhất phải có 4 người. Một người năng động, 3 người phục vụ, một người đi

lại bê lên bê xuống và 2 người ở dưới bếp. Ít nhất phải có 3 người gọi là phần

bếp và một người vai chính trên công đồng vừa sắp lễ vừa sắp lộc.

- Anh ơi, thế anh vào bản hội anh làm những công việc gì ?

- Đầu tiên là anh hóa mã, sau anh sang nấu ăn. Trong tháng cô có các việc tiểu

như cắt vong, cắt duyên thì anh làm sắp xếp những cái vong, duyên. Khi có các

chị kia vào anh mới được ra ngoài sắp xếp cho một là sạch sẽ, hai là trật tự.

- Mỗi lần như thế là một bước tiến trong sự nghiệp của mình nhỉ ?

- Đó là một bước tiến. Cứ đôi ba năm được lên một bậc.

- Lúc đầu công việc có nhiều không anh ?

- Trước đó rất nhiều. Từ ngày nhiều trung tâm nghiên cứu cô đi tối ngày

- Lúc đầu có nhiều không anh ?

- Lúc đầu có nhiều. Cứ 1 tháng khoảng 10 vong duyên. Cứ mấy ngày cô lại soi

được rồi 5 đến 7 ngày lại dồn vào đóng bè tạo phúc một lần.

- Một lần như vậy thì cô có trả nhiều tiền không ?

- Cái đó là do hậu đãi giữa thầy và trò. Ví dụ cậu Thủy cúng thì cứ cúng. Còn

thầy đóng phong bì bao nhiêu là việc của thầy. Theo như anh biết lúc thì 1

triệu, lúc thì triệu rưởi.

- Thế những người đóng vào thì thế nào ?

- Cái đó tùy theo số vong nhà em. Ví dụ nhà em có ba vong, 1 là vong đường,

2 vong nghiệp chướng, 3 là vong âm nó theo. Quy định của cô là 1 vong là

350 nghìn, 3 vong là 1.050.000/người. Mỗi lần như vậy có hàng chục nhà.

Gọi là đóng bè tạo phúc mà. Tiền cơm chay cỗ mặn cũng tốn hết một phần

rồi. Thầy chỉ được gọi là có tí ti thôi mà.

- Trong một lễ ngoài tiền cúng ra thì còn tiền gì nữa? Tiền lễ mua những cái gì

ạ ?

- Lễ vật đó vô cùng tận như hoa, gà, cơm mặn. Kiểu gì ít nhất cũng phải làm 4

mâm cơm. Điện tư bao giờ cũng có ban gia tiên. Một mâm bên công đồng,

204

một mâm bên đức ông Trần Triều, một ông bên thánh Hồ Chí Minh. Nhà cô

ngày xưa thờ thánh Hồ Chí Minh.

- Mỗi mâm chắc khoảng 1 triệu anh nhỉ ?

- Không đến. Mỗi mâm gà qué đã từ đồ lễ ra rồi. Mình chỉ thêm bát canh xào

nấu. chứ có mâm cao cỗ đầy gì đâu. Tính tất cả 4 mâm khoảng 1 triệu. Vì gà

sắm sẵn trong đồ lễ rồi. Mua 2 con gà mất khoảng 4 – 5 trăm. Sau đó xuống

chặt ra rồi. Công đồng và Đức ông phải có xôi trắng với gà. Các ban khác

như cậu, mẫu thiên, mẫu địa, Hồ Chí Minh chỉ có xôi và 1 cân thịt luộc thôi.

Chia làm 5 – 6 miếng. Đĩa xôi và miếng nhỏ để gọi như là tượng trưng và 3

chén rượu.

- Thế như vậy thường có bao nhiêu người cùng làm một lúc ?

- Là tùy duyên hóa độ thôi. Ví dụ bây giờ có những người đặt mà người ta

không đến được. Có những người tối nay đến sáng mai làm luôn. Bây giờ

toàn chớp các cô đồng. Nghĩa là vấn đề chuẩn bị, có miếng nào, có sự kiện là

phải làm ngay nếu không sợ người ta đi chỗ khác. Ví dụ mình soi xong người

ta hỏi mai có làm không. Nếu không làm sợ người ta đi chỗ khác nên lại làm

ngay. Đâm ra các thầy là hay bị gạ, hay bị ép cái người chấp tác trong công

việc là như thế.

- Em thấy cắt vong cắt duyên nhiều chứ mở phủ và di cung hoán số thì ít anh

nhỉ ?

- Mở phủ với di cung hoán số nó có số lượng tiền quá lớn. Di cung hoán số

cũng là vào cái đàn của người ta. Di cung hóa số Tam phủ thuộc mệnh, có

gì :Voi, thuyền, ngựa, ông lốt, hình nhân đảo mệnh. Đó là hình nhân của

Tam phủ. Nhưng ngược lại, trong đàn đó phải có ông thầy khác buộc phải

đứng lên khai quang mã. Vì các thầy đồng không hầu. Di cung các thầy đồng

không phải hầu.

- Nhưng cái giá di cung có đắt không ?

- Thường thì 10 triệu. Tùy theo bước tiến chuyển âm dương. Có những trường

hợp người ta lê lết không ăn uống được gì. Sau đó người ta cũng ăn được ít

cháo. Nhưng cũng có những trường hợp phản hồi rất nhanh. Tức là chỉ

khoảng 2 tiếng sau người ta đã thấy phản hồi rồi. Tức là gia chủ người ta vẫn

đang hầu ở đó, người nhà ở viện đã gọi là ông ở viện đã ăn được ít sữa rồi.

Nghe được cái đó mình rất là mừng.

205

- Cái đó mình có cần mời thầy cúng không ? Cúng cái đó và cúng cắt vong thì

mình trả tiền cao hơn hay thấp hơn ?

- Như nhau hết, cùng chung 1 đàn.

- Nhưng lễ có to không anh?

- To hay nhỏ là do thầy sắm. Thầy sắm như thế nào thì thế.

- Nếu 1 lễ trung bình khoảng bao nhiêu?

- Cứ gói vào 10 triệu trong đó thầy sắm bao nhiêu thầy sắm.

- Khi mình làm việc ở đó những chấp tác có được trả lương không anh?

- Có chứ. Ngày xưa anh là chấp tác chính thì anh được một trăm rưởi một

công. Một công nghĩa là 1 lần làm. Từ chiều hôm trước, anh phải xuống xem

sổ sách là lần này có bao nhiêu vong, để anh làm bao nhiêu gạo. Đấy là công

việc của anh, các vị làm bếp chuẩn bị công việc bếp. Ngày xưa đầu tiên anh

được trăm rưởi thì các vị làm bếp kia chỉ có 1 trăm thôi. Khách ra về rồi thầy

trò ngồi uống nước thì thầy cho tiền.

- Có khi nào thầy cho thêm không anh?

- Không. Chưa bao giờ thầy cho thêm. Thậm chí chỉ có khách víp của mình ý.

Anh chị Chính Hà viện trưởng một bệnh viện ý, khách thấy mình vất vả quá

người ta có lì xì riêng. Nói bảo quá đầu xuân năm mới người ta thấy mình

già người ta cứ lì xì một cục luôn. Mình sức khỏe dài rộng, bận không cả có

thời gian nói chuyện với người ta. Nói bảo quá, có những năm mới về mà

tiền lì xì còn được 30 triệu. Cứ người nào cũng quý, khách vip toàn 200, 300,

500 đóng lì xì.

- Thế mỗi tháng mình có nhiều việc không anh?

- Mỗi tháng mình có khoảng 5 đến 10 việc. Cắt vong duyên khoảng 3,5 việc.

5,10 việc chẳng qua là thỉnh thoảng lại có phát sinh ra cái là trả nợ, trả nợ

bốn phủ, hoặc di cung hoán số. Nói tóm lại 1 tháng khoảng chục việc. Lương

đôi triệu. Nhưng anh có đòi hỏi gì đâu. Từ xưa trăm rưởi cho đến vừa rồi 2

trăm, đối với anh chỉ là hạt cát. Nhưng cách chi tiêu của anh, và anh có

hướng đi, ra đến đường là anh nhặt được tiền. Anh có cách để bảo tồn cuộc

sống của anh, phải bảo tồn cuộc sống của mình trước lúc đó.

- Một năm ở điện nhà cô có khoảng bao nhiêu lễ hầu đồng?

- Đấy là ở do cô đấy chứ. Và cũng do tính chất của đồng Thầy. Do sự khai

thác có những con nhang mở phủ ở tại điện những năm tháng trước thì rất là

nhiều. Vì khai mở phủ ở bản điện ý thì các con nhang đệ tử mới có tâm huyết

206

với bản đền. Còn nếu đi mượn cảnh như xuống Đại Lộ hay đi lên Đội Cấn thì

người ta coi đó là chốn tổ của người ta. Người thanh đồng người ta hay coi

trọng cái chốn tổ. Nếu người ta ba năm xong rồi người ta tôn trọng thầy thì

người ta quay về đồng thầy. Còn nếu người ta không tôn trọng thầy thì người

ta chỉ quay về chốn tổ của người ta.

- Anh có thể ước lượng là một năm có khoảng bao nhiêu cái lễ ở điện nhà cô?

- Những năm tháng trước thì có 4 vấn cố định, đêm 30 nữa là 5 cái bất di bất

dịch. Còn hầu đồng mở phủ cho con nhang thì nó vô tận. Có lúc thì ào ạt. Có

lúc thì xa lánh tạm thời.

- Một lễ mở phủ mất nhiều tiền không?

- Tùy theo mức độ lộc lá với đồng Thầy hầu. Vì quan trọng là cái người thầy

phải có tâm. Vì dụ thế này, nếu người ta lấy mã tiểu thì 30 triệu cũng đủ.

Nhưng mã trung, 30 triệu thiếu rất nhiều.

- Nếu mã trung, mã đại khoảng bao nhiêu tiền?

- Mã trung phải 40, 45 triệu. Mã đại phải 70-80 triệu.

- Nguyên mã thôi đã mấy chục triệu rồi.

- Không. Mã đại theo đúng cung mở phủ thì một bộ voi thuyền ngựa của mở

phủ. Và một toàn sơn trang. Nếu như ngày xưa có hai tòa và một ban vàng.

Ban vàng mất một triệu, tòa sơn trang hai tòa nữa là hai triệu tư. Anh ngồi

nhẩm cái là ra ngay.

- Ngoài ra cũng phải nhờ thầy cúng đúng không anh?

- Nhờ thầy Biên bên kia cúng. Mất triệu rưỡi tiền cọc. Hát văn hai người đàn

khai phủ khoảng 4 triệu. Hai triệu một người. Đấy là tiền thướng. Mỗi các

giá trong khai phủ khoảng 2 trăm, 4 trăm. Thướng là thế đấy. Còn tiền cọc 3

người 2 triệu. Đấy là bây giờ các thầy làm tiền. Nếu bây giờ mở theo mối

thân quen thì không cần đặt cọc. Rồi không phải mất tiền cọc. Anh giờ cũng

gọi được mà không cần tiền cọc. Chỉ khi hầu rồi mình thướng bao nhiêu thì

thướng. Nhưng phải đi lên nói trước là hôm nay thầy hầu sau, các em cứ hát

nhiệt tình một chút. Phải áo gấm đi sau thì lên nói trước. Chứ không nó hát

rời như cơm nguội thì có mà hầu. Ví dụ ở bản tự đang đông đúc thì gọi ra

chỗ ít người nói trước thì nó mới hát nhiệt tình cho mà hầu chứ không nó hát

như cơm nguội thì ở đấy mà hầu.

- Trong bản hội, người ta có giúp đỡ nhau không anh?

207

- Lúc trước, khung cảnh 7, 8 năm về trước thì người ta vẫn dạy là người đi

trước giúp người đi sau. Lúc này, kinh tế suy thoái. Giúp đỡ nhau cũng phần

nào thôi. Ví dụ như hôm nay em bắc ghế hầu, anh là người đã trong bản hội

thì anh đến bảo thôi em ơi em cứ tập trung đồng ngân đồng xuyến để bắc ghế

hầu. Còn bọn anh đến người hỗ trợ két nước ngọt, người hỗ trợ két bia,

người thì thùng mì. Đấy mới là cái đóng bè tạo phúc, anh chị em giao thoa

giúp đỡ lẫn nhau. Anh chị em có giao thoa tình nghĩa đó mới trở nên một cái

hội. Người ta không phải mâm cao cỗ đầy đến để người ta thụ lộc. Mà người

ta đến để chia sẻ, người ta bù đắp thì nó mới nên một cái hội, nó mới phong

phú được.

- Em thấy trong bản hội nhà mình, có những người khó khăn quá mà mình vẫn

cho người ta vay tiền để hầu đồng không anh?

- Như anh đây chẳng hạn. Nói riêng ở đây không được nói, ngày xưa anh cho

con Nhàn vay tiền để hầu, đến bây giờ đã giả anh đâu. Bây giờ còn 25 triệu.

Vì anh làm số nên anh cũng thoải mái tay. Anh không dám cho vợ biết kẻo

nó nhảy xồm xồm lên. Giờ còn ngấp ngoái không có tiền mà trả.

- Thế chị ấy làm mà chị ấy không có tiền hả anh?

- Cờ bạc hết. Lô đề rượu chè. Có xe nào đặt cái xe đấy. Kinh khủng lắm. Em

chưa đi vào thế giới nội tâm thì em chưa biết. Có chồng con đang ở Đội Cấn

cùng các con. Chồng nghiện, con đi buôn bia rởm. Đi theo cô đồng Yến ở

Tây Hồ. Cô ấy trẻ quá, mà căn đồng thấp người ta mở cho nên quay ra lộn

tùng phèo. Xong thầy Xuyên sang khăn coi như khai lại, 1 học viên mới.

- Mỗi năm bản hội đi lễ xa có nhiều không?

- Thì đầu năm, cuối năm. Mỗi 1 năm, đầu năm mới thì thầy sẽ cho thanh đồng

mới đi các tuyến. Ví dụ như tuyến Lạng Sơn. Đi từ dưới này lên Lạng Sơn là

12 cửa đền. Ví dụ như là đi đến Lạng Sơn là vào chùa Bắc Lệ, sau đó sang là

vào cô Chín Mìu, cô cháu bé Bắc Lệ, cô Suối Ngang, cô Đèo Kẻng, Mẫu

Đèo Kẻng. Đến Lạng Sơn là quan Giám sát, sau Chầu Mười, rồi Quan Tam

phủ là Mẫu Lạng Sơn, Mẫu Đồng Đăng. Đấy cái cung tuyến đường là như

thế. Sau qua đền Trần của Lạng Sơn nữa. Đấy là trên cung đường đấy 1 lèo

12 đền. Nhưng ví dụ đi Thanh Hóa thì phải tuyến khác. Ví dụ thi Thanh Hóa

thì phải qua đền Dâu quán cháo, Quốc Mẫu Hoành Sơn, cô Chín Sòng Sơn,

rồi đền Bà Triệu. Xong mới vào đến Nghệ An. Thường tuyến này đi hai

ngày. Làng Sơn ngày rưỡi. Có tuyến Tuyên Quang cũng 12 đền. Tuyến

208

Tuyên Quang có đền Mẫu Hà Giang, đền Bắc Mộc, đền Cô Đôi Cầu Mạc,

lên đến cả tận Mèo Vạc cơ mà. Dưới này Mẫu rừng, Cô Xương rồng, Cô mỏ

than. Có mỗi Hà Giang là đông nhất. Còn đi về các cửa như vua cha dưới

Thái Bình thường thường là tự phát. Thật ra nói thế này này, anh là chấp tác,

mà việc đưa các thanh đồng đi để trình dầu trình khăn ý mà, là anh không

muốn đi hoặc anh chưa đi tuyến nào thì anh đi. Còn tuyến nào anh đi rồi anh

bảo thôi để nhường cho các thanh đồng đi để tiền cho thầy về thầy co cái thu

chi.

- Đi trình trầu thông thường người ta sẽ đi đâu?

- Đấy. Đi trình trầu là đi các tuyến đấy.

- Đi các tuyến như thế thì những ai sẽ được đi ạ?

- Những thanh đồng, thanh đồng hầu, thanh đồng non hoặc những ai muốn đi

thì đăng kí. Mở tuyến như thế chủ yếu là để phục vụ các thanh đồng non.

Như thế như kiểu chim mới ra ràng đưa người ta đi để cho Cha biết mặt Mẹ

biết tên.

- Tức là những thanh đồng chưa tạ ba năm thì họ phải đi cái đấy với thầy đúng

không ạ? Thế thầy mở họ mới đi hay họ đăng kí thầy mới mở?

- Không. Cái này là thường niên hàng năm rồi. Những thanh đồng mà có ý thức

thì thường vào đầu năm cuối năm, đầu năm đi lễ, cuối năm đi tạ nhiều hơn.

- Thường như thế họ có phải đóng nhiều tiền không anh?

- Ví dụ là đi tuyến Bảo Hà thì họ cũng phải đóng 1 triệu. Ăn uống xe cộ các

thứ. Tức là đi theo tuyến Hà Nội – Lào Cai đấy. Đi 2 ngày 1 đêm. Đóng tiền

cho thầy.

- Tính ra đầu năm người ta đi bao nhiêu tuyến hả anh?

- Cũng không hẳn thế. Có thể đầu năm có những người không đi mà người ta

đi trái vụ. Trái vụ là gì, ví dụ tháng này là tháng Phật Đản này, người ta đi

vào tháng này. Thứ nhất là để cho xe đầu năm đỡ ách tắc. Hai là trái vụ các

bản đền bản thờ phủ tháng này vắng khách. Thế là mình đi lễ được một cái

không gian rất là thoáng đãng. Mình vào muốn ngồi bao lâu cũng được,

không phải tranh giành nhau, chụp giật từ cái chỗ ngồi như trong chính vụ.

Ví dụ như em muốn đi chùa Hương, em đi vào những tháng trái vụ này rộng

rãi. Một cái thuyền ba bốn người ngồi thoải mái. Anh bảo rút kinh nghiệm

bây giờ toàn đi trái vụ hết.

- Nếu mình đi Lạng Sơn đóng khoảng bao nhiêu ạ?

209

- Thực ra là từ trước đến nay anh đi thầy có thu tiền của anh bao giờ đâu. Thế

nhưng mà mình đi thì không sao nhưng một đống con cháu mình thì tiền ở

đâu ra hay lại đổ lên đầu các cô đồng, mình cũng ngần ngừ cái chuyện đó.

Các cô đồng người ta khổ sở mới phải ra đồng chứ có sung sướng gì đâu mới

phải ra đồng. Thường đi như vậy thì là 1 xe 29 chỗ. Trước đây vui lắm, cách

đây 7, 8 năm đi đâu bản hội cũng đi đông vui lắm.

- Thế cái việc các thành viên đi lễ xa với nhau, anh thấy nó có ảnh hưởng thế

nào đến việc duy trì các mối quan hệ với họ?

- Thật ra là đi lễ xa này cũng có nhiều trường hợp người ta đầu mày cuối mắt.

Cũng có một phút sao lòng của những người coi như là người ta trong thời kì

tu mà không tu. Đi xa thế này xong rồi gần gũi. Đi thế này làm quen xong rồi

trở nên gần gũi. Nói tóm lại là có bản lĩnh để sống hay không thôi, còn cái

chuyện đầu mày cuối mắt là có xảy ra.

- Tức là thế nào ạ?

- Đầu mày cuối mắt tức là nói chuyện nam nữ. Đồng nam đồng nữ đi để người

ta cặp kè với nhau ý. Đầu mày cuối mắt ý. Vì đi bây giờ ngồi trên xe đêm.

Đầu mắt liếc nganh liếc dọc là có. Đi đêm đi hôm ngồi đông đúc đâm ra thể

xác cọ xát là có vấn đề. Chính bản thân vợ Thoan bị sốc. Dạo trước mở phủ

lần nào nó cũng có mặt. Đâm ra nó bị sốc bởi trường hợp của Thà và Trinh.

Nó lộ liễu quá đâm ra là nó cũng có những phản cảm.

- Như vậy là cái việc đi lễ cùng nhau làm cho việc gắn kết hơn đúng không ?

- Gắn kết hơn nhưng đôi khi không phải ở trong bản hội đâu. Ví dụ đôi khi

thân quen nên đăng kí đi cùng. Ví dụ anh ở bên bản hội kia, không ở bên bản

hội Khâm Thiên chẳng hạn. Nhưng mà anh nhìn thấy bản hội Khâm Thiên đi

lễ thì anh đăng kí bảo cho anh đi cùng với. Anh đi thì bắt đầu lên là làm quen

dần, đầu mày cuối mắt, góc độ rừng rú chẳng hạn rồi đi là tâm sự, hoặc là đi

đến nhà nghỉ, vào tắm giặt xong rồi rủ nhau đi cafe hoặc gì đó. Nói thật thế

này, nói theo đúng góc cạnh không phải mình gì đó, trong góc cạnh đấy,

những người ra đồng toàn vì căn quả, căn quả toàn là nhân duyên hết. Một là

nhân duyên có thể chồng bỏ chồng chê. Hay là chồng đi với gái. Sau đó là hệ

lụy của những ngày tháng bị cơ đầy. Sau khi vào đồng nó tỉnh táo hơn một

chút rồi thì bắt đầu lại có những ý nghĩ về tinh thần thể xác. Tự nhiên lại gặp

nhau, tự nhiên lại có sự thương cảm, thương cảm trở nên đồng cảm. Đồng

cảm rồi bắt tay vào việc là quá dễ.

210

- Thế họ đi lễ xa với nhau ý, họ có mâu thuẫn với nhau không ?

- Đôi khi cũng có cái phát sinh, cũng có cái mâu thuẫn. Vì cái hành vi cử chỉ.

Ví dụ như những con người như Nhàn là có những hành vi cử chỉ. Vì không

kìm nén được là sổ ra cả rổ..

- Nhưng mà họ mâu thuẫn với nhau về cái gì ạ ?

- Mâu thuẫn từ việc sắp lễ, hoặc là những cái nhỏ thôi, hoặc không tập trung

vào cúng bản hội, sắp lễ mà đi lảng tránh nói xấu nhau. Ví dụ như người này

đến, người ta lảng lảng đi lễ hết các ban, các bệ, các cung nhưng thực ra

người ta lảng, người ta tránh động chạm đến cái sắp lễ. Cái hai nữa là có khi

bản hội vào lễ xong rồi chưa đến người này gọi, người kia đi gọi. Đấy gọi là

một cái cử chỉ bất thường mà gây cái bức xúc với nhau.

- Một người nào đó mà không đi lễ xa cùng bản hội có lẽ họ không gắn bó với

bản hội đâu nhỉ ?

- Cái đấy không ảnh hưởng gì cả. Có thể lí do là người ta chưa muốn giao tiếp,

hoặc là cái đồng ngân đồng xuyến người ta eo hẹp. Chứ đã là thanh đồng thì

không ai không muốn giao tiếp cả. Nhưng chỉ vì đồng ngân đồng xuyến

người ta eo hẹp nên người ta dần thành tự kỉ. Người ta muốn thu mình lại để

tránh bị người này người kia dè bỉu vì người ta khó khăn. Đấy là những cái

nguyên nhân chính để những người xa lánh không muốn đi cùng bản hội.

Hoặc là đi cùng bản hội nhưng lệ phí phải đóng cao người ta không có đồng

ngân đồng xuyến thì người ta lại phải nghĩ lại, tính toán lại.

- Thế các thành viên khi đến dự hầu của nhau họ có trợ duyên không anh ?

- Có, những người là bạn đồng của nhau, mỗi khi đến người ta có trợ duyên

bằng phong bì. Đấy gọi là thêm một chút để gọi là xin lộc thánh. Đấy bình

thường mọi cái gia chủ đã lo hết rồi. Mình đến trợ duyên gọi là một li một

lai. Một li một lai để thêm lộc.Cái lộc san sẻ ra để lan tỏa thêm một chút.

Không phải vì người ta nghèo mà trợ duyên mà bất cứ ai hầu mà người ta

đến cũng được trợ duyên hết. Ví dụ bây giờ thầy hầu vào hè, em đến em trợ

duyên cũng được. Em khó khăn thì em đóng 300, có điều kiện em đóng 500,

mà có hơn nữa em đóng 1 triệu cũng được. Trước tiên là lạy Thánh, sau là

chung với bách gia. Không nhất thiết mà cũng chả nhất quán. Không bắt

buộc và cũng không ép buộc.

- Thế mình trợ duyên vào những cuộc hầu như thế nào ạ ?

211

- Ví dụ như người ta hầu đầu năm cuối năm. Bất cứ trợ duyên lúc nào cũng

được. Từ lúc người ta hầu khai phủ cho đến lúc bách nhật trăm ngày.

- Thông thường ở bản hội người ta thường trợ duyên nhau bao nhiêu tiền ?

- Thường thì người có thì đi 300, người không có thì đi 200. Còn nếu người

nào xông xênh thì cũng 500, 1 triệu. Nếu bạn thân thiết, thì người ta đến bảo

thôi hôm nay bạn bắc ghế thì mình có 1 li 1 lai để hầu Thánh.

- Trong bản hội có rất nhiều thanh đồng. Có người nào đến dự mà không trợ

duyên không ?

- Có chứ. Vì 1 là người ta không thân, hai là người ta không được mời, vô tình

người ta đến có hầu thì người ta dự. Nhưng đã xác định đến dự hầu là có trợ

duyên. Hoặc bần cùng không có đi nữa thì người ta mua thùng nước hoặc

thùng bia để xin dâng. Cái đấy là cái tiền lệ, thông lệ.

- Khi một người nào đó mà muốn gia nhập cái bản hội nào đấy thì người ta lựa

chọn cái gì ?

- Ví dụ bây giờ em muốn tham ra vào 1 bản hội. Điều đầu tiên mà em muốn

lựa chọn là cái gì ? Điều đầu tiên là em phải xem bản hội đó có đông vui ?

Có lớn mạnh, bản hội đó có sự hòa đồng, gắn kết với nhau hay không ? Đấy

là điều đầu tiên mà nhãn quan trông thấy. Qua đó em cảm nhận được sự gắn

kết. Người ta chuyên có sự đóng bè tạo phúc để tạo nên các sự kiện. Người ta

gắn kết để tạo nên sự hoàn hảo. Mình chỉ cần đi đến 3 đến 5 lần là mình phải

phát hiện được. Mình đi vào thực tế rồi mình mới quyết định lựa chọn xem

có vào hay không. Mình xem cho rõ ràng, cung cách như thế nào để mình lựa

chọn. Chứ không phải thầy bảo sao làm vậy. Nếu thầy bảo sao làm vậy thì

mình là người quá thật thà, bị người khác lợi dụng. Mình có quyền lựa chọn.

Ví dụ bây giờ mình căn quan chẳng hạn mà để cho thầy hàng căn cô mở cho

mình. Hàng thấp hơn mà mở cho hàng cao hơn thì nó bị lộn tùng phèo. Mà

bản thân cái người căn quan đấy chỉ có đi cúi đầu thôi chứ không bao giờ

được ngẩng đầu.

- Thế bây giờ cái bản hội đông vui thì đến hay không là biết rồi. Nhưng lớn

mạnh là như thế nào ?

- Lớn mạnh là như thế này. Em chỉ 1, 2 lần tiếp xúc vào trong công việc. Ví dụ

ngày hôm nay bản hội Thượng nguyên, em đến em kiểm soát. Sau đó đến 3

tháng sau, là vào hè, em đến tiếp tục 1 lần nữa. Em phải điểm danh xem

những cái mặt này đã gặp chưa hay có sự thay đổi hàng ngày. Ví dụ ngày

212

Thượng nguyên đầu năm, em đến em gặp thằng Hưng, con Nhàn, con Thắm,

con Ngần chẳng hạn. Nhưng đến hôm vào hè, em đến em lại chỉ gặp Nhàn

mới Hưng, xong lại thêm 2 thành viên mới nữa, đấy là cái bản hội bị lộn xộn.

Tức là những thành viên cũ mình đã gặp rồi phải gắn bó lại và trong những

lần sau mình gặp lại còn hay mất. Nghĩa là thành viên ở đây phải gắn kết,

không xa rời. Ví dụ vừa rồi em đến em không thấy anh Thú chẳng hạn, em

không thấy chị Vân chẳng hạn, đấy là một sự xa rời dần dần, từ từ. Không

phải lớn mạnh là do giàu có. Mà đây là xây một cái tiểu, sẽ tích nên một cái

đại. Chứ không thể mang một cái đại ra để chia làm nhiều nhỏ. Mà cái bản

hội đông, vui hay không là mình nhìn vào cung cách ban bệ từ trên xuống

dưới và đồ lễ. Nếu cái nhãn quan của mình tinh tường. Là lọ hoa cắm phải

tràn lan. Vì hoa của mình cắm là phải có rồi. Nhưng bách gia đến cũng sẽ có

hoa. Ví dụ bây giờ em ở nhà đến em cũng phải có bó hoa. Cái đền này hôm

nay có bao nhiêu khách đến thì em nhìn vào những lọ hoa nhỏ nhỏ xinh xinh

là biết nhiều hay ít người đến. Vì khi nhà đền người ta hầu là người ta cắm

vào cái lẵng, cái bồn lớn rồi thì mình đến mình chỉ cắm vào lọ nhỏ. Em xem

những lọ to lọ nhỏ chỗ này chỗ kia, chỉ nhìn quang cảnh bên công đồng là

em biết hết.

- Ngoài ra còn cái gì nữa anh ?

- Ví dụ người ta đến, người ta mua chùm vải, người ta bày ra đĩa đặt trên công

đồng. Người ta dâng Thánh, người ta đang thầy đâu, dâng bản hội đâu.

Người ta đến để người ta dâng thầy. Nhìn qua nhãn quan là nhiều lọ hoa nhỏ,

nhiều đĩa hoa quả như thế là nhiều người đến lễ. Có thể nhìn quanh không

thấy ai nhưng có thể là người ta đến lễ xong người ta về. Có lễ vật ở trên mà

không có người ý là người ta đến lễ cho phải phép xong người ta về chứ

người ta không dự. Chứ còn đến mà đông đúc người là người ta đến để dự

hầu chứ người ta không dâng hoa quả, người ta đến phong bì.

- Như vậy, ngoài việc chọn điện ra, thì họ phải chọn thầy nữa chứ đúng không

anh ?

- Cái chọn thầy là quan trọng chứ ai chọn được điện. Ví dụ thầy Xuyên căn

quan thì thầy mở cho tất cả các căn đa dạng được. Nhưng những người căn

cô, căn cậu mà lại đi mở đồng ngược. Với lại xem có hợp duyên không ? Cái

căn cái mệnh của mình có hợp thầy đấy không.

- Nhưng họ phải đi với thầy bao lâu thì họ mới lựa chọn chứ anh nhỉ ?

213

- Tất nhiên phải có 1 là thâm niên, 2 là gắn kết. Chuyện mở phủ khai phủ, có

những người đã quá nặng rồi. Cái duyên của người ta chỉ được như thế thôi.

Người ta sát quá rồi, người ta không tìm tòi học hỏi.

- Em thấy có nhiều người không phải đến cái là theo thầy đó luôn mà phải có

sự kiểm chứng chứ đúng không anh ?

- Thực ra mà nói thế này, lúc trước, mấy năm trước còn có sự kiểm chứng.

Nhưng mấy năm về đây anh hoàn toàn không thấy có một sự kiểm chứng

nào hết. Ví dụ người này là người đã đi năm nơi bảy chốn rồi. Thế thì đến

đây là người thứ 4, thứ 5 nói trùng lại là đúng chẳng hạn mà bị dọa cho 1 cái

là lại vâng, lại dạ rối rít.

- Anh ơi, thế họ tham gia như vậy, họ có lựa chọn giá cả của bản điện như thế

nào không ạ ?

- Cũng có sự lựa chọn vì đồng ngân đồng xuyến người ta eo hẹp thì người ta

lựa chọn. Hoặc người ta không mở phủ ở đây mà người ta sang Bắc Ninh

người ta mở. Về các vùng dân thôn người ta mở. Dân thôn bao giờ giá nó

cũng bình dân hơn. 25,30 triệu cũng có.

- Hoặc người ta chọn mở phủ ở cái đền nhỏ hơn để mở ?

- Không. Tiền cung tiền sở của đền không nhiều. Nếu đền to phủ lớn như thế

trên Đội Cấn mới có 1 cái như thế. Một mình mà một ngày có 1 triệu. Tiền

dầu đèn ở Đại Lộ trước là 500, giờ lên 600 một cung hầu.

- Thực ra như vậy giá cả cũng là 1 trong những sự lựa chọn của họ đúng

không ?

- Anh ơi thế thầy làm thế nào để mở rộng được bản hội ?

- Thầy muốn mở rộng bản hội thầy phải tâm huyết với các con nhang. Có

đông con nhang mới sang đệ tử được chứ. Bây giờ thầy cứ bỏ bê công việc

như thế này làm sao con nhang nó gắn kết được với nhau. Đã không gắn kết

được với nhau rồi thì với những công việc khác nó cũng bị mai một.

- Ý em là có cách nào không ? Ví dụ giá cả ít để cho người ta tham gia vào

bản hội nhiều hơn ?

- Không. Cái đấy thì các thầy lên giá rồi thì khó thay đổi lắm. Có những

trường hợp khai phủ hàng trăm triệu, 200 triệu. Như ở dưới Đại Lộ, cậu T

bản đền của Đại Lộ người ta khai phủ toàn 80 triệu trở lên, 80 triệu nói thật

ra là đồng tiền phù du thôi. Vì gặp những con nhang đệ tử người ta có hoặc

214

gặp những bọn đua đua đòi đòi ý. Bây giờ đồng đú, đồng đua, đồng rồ rất là

nhiều. Nó có thật tâm căn quả mới ra đồng đâu.

- Thế bản hội có phép tắc gì không ?

- Có chứ. Người ta bảo làm lính có công làm đồng có phép. Trong làm đồng

phải có phép tôn sư trọng đạo như thế nào ? Nếu mà đã đến gặp thầy thì phải

chào thầy, con lạy thầy. Kể cả lớn tuổi hơn. Quy định trong bản tự có 1 cái

bản, ví dụ những ngày lễ Phật Thánh, có 1 cái bản quy định như thế này.

Ngày nào lễ ví dụ như là đây. Ví dụ thế này, những ngày dự tiệc trong tháng

tiệc của ai thì nó ghi ngày này ngày này. Một năm có 4 vấn cố định ra sao thì

nó ghi hết ở trên đầu trên gối. Các con nhang đệ tử đến nhìn vào cái bảng

này. Ngày xưa là có treo đấy chứ. Ai nhớ thì đến, ai có tâm thì đến chứ

không bắt buộc.

- Anh ơi, mỗi một người có 1 cách tham gia vào bản hội khác nhau. Trong bản

hội em thấy ngoài thanh đồng còn có bán tử, nhang tử, các bà bồ tát…

- Mỗi người có 1 cách tham gia vào bản hội khác nhau. Như thanh đồng thì

phải trình đồng mở phủ.

- Thế họ làm thế nào để bán khoán ?

- Bán khoán là trong những đàn vào hè ra hè. Bán khoán là bán cho ông

Thánh. Ông thầy Pháp muốn đưa con vào trong bản tự thì ông thầy pháp phải

làm 1 cái trại bằng vải viết chữ nho. Họ phải đến gặp từ một vài hôm trước.

Để làm sao, cái chữ tiệp bán khoán này không phải người ta ngồi người ta

viết ngay được. Người ta phải tĩnh. Hai nữa là bút viết trên phông vải là

người ta phải có thời gian.

- Thế còn những bà bồ tát làm thế nào để gia nhập vào bản hội này ạ ?

- Các bà bồ tát là do thế này : người ta chỉ đến chợ niệm cho bản tự thêm đông

vui,đông đúc thôi. Nhưng mà họ vẫn là thành viên của bản hội.

- Có phải sử dụng nhiều tiền để đi lễ trong một năm không anh ?

- Cũng tùy theo. Có người có, có người không. Ví dụ người có người ta vung

vẩy, te tẩn, phấn khởi. Còn người không có, mặt người ta khó đăm đăm,

người ta chìm vào im lặng. Ví dụ có người người ta đi lễ xa người ta chuẩn

bị các đồng tiền đặt vào các ban các sở. Có người là tiền mới. Có người

không có là tiền cũ. Nó vô cùng tận. Nói thế này là vô cùng tận. Có những

ngày tiệc 12.6 chẳng hạn. Những người có căn cô chẳng hạn. Cứ đến ngày

đó người ta ốm lả ốm lướt ra. Thế người ta muốn được khỏe mạnh thì người

215

ta lại đi kêu cầu, dâng tiền xin cô để chữa bệnh. Như chị Dung xiêm này, cứ

đến tháng 6 này mà không hầu là như kiểu người điên. Có những trường hợp

bất khả kháng mà không thể nói trước được điều gì cả.

- Anh ơi đệ tử có giúp gì cho thầy trong việc mở rộng bản hội không ?

- Có chứ. Đã là đệ tử thì giúp để mở mang bản điện phải do thầy trò tác hợp

kết hợp. Tức là như thế này, công to việc lớn gì là thầy phải biết bàn bạc,

thảo luận với em. Con nhang đệ tử như thế mới gọi là gắn kết được. Hai nữa

là đi công đức ở đâu là phải có sự bàn bạc, thảo luận. Không có sự là thầy ấn

định ở đâu là đi đấy.

- Ý em hỏi là thế này. Ví dụ bản hội giờ có 10 người thôi. Nhưng muốn mở

rộng ra nghĩa là thêm các thành viên khác vào bản hội của mình ý. Từ 10

người lại lên 80, 90, 100 người ý. Thế những thành viên cũ có giúp gì thầy

trong việc thu nạp thêm các thành viên mới vào không ?

- Không. Thu nạp, thêm hay không là do thầy hết. Còn các thành viên chỉ có

thể này. Ví dụ em chơi với anh. Em đang ở bản điện nhà cô Xuyên, em dắt

anh đến chơi. Nếu như anh hợp cảnh thì anh lại xin làm thành viên tiếp theo.

Đấy như kiểu một dạng bán hàng đa cấp. Mình chơi với bạn. Mình đến thấy

bản điện có lễ hoan hỉ vui vẻ thì mình rủ thêm bạn mình. Nó như kiểu hệ đa

cấp. Chứ bây giờ em đến một cái bản điện đang rũa mọt, em đến em cảm

nhận thấy thì em có muốn rủ bạn em không ?

- Đúng là nó giống như bán hàng đa cấp ý anh nhỉ ?

- Đúng rồi. 1 tạo 3, 3 tạo 5, 5 tạo 7, 7 tạo 9. Dễ chùm dễ cái. Giống như các

bạn của mình đến bản tự thấy hoan hỉ. Trước lạ sau quen, tay bắt mặt mừng

rồi sau quen nhau ngay. Anh đã từng bán hàng đa cấp nên anh ví chỉ có

chuẩn thôi.

216

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SỐ 4

Người được phỏng vấn : em Hưng, nam, thanh đồng

Ngày phỏng vấn : 15/11/2014

Nội dung phỏng vấn :

- Sao em lại gặp được thầy Xuyên?

- Em gặp thầy thông qua anh Tú béo. Em quen anh ấy cách đây 2 năm, hôm đó

anh ấy khai phủ ở nhà thầy và em đến cùng anh ấy. Khi em đến dự lễ mở phủ

của anh Tú, lần đầu tiên trong cuộc đời em bị ốp bóng như thế. Trước đó em

đã tôn nhang bản mệnh ở chỗ thầy Thắng ở Nghi Tàm rồi. Trước đó khi đi

dự hầu em vẫn biết đầu mình quay quay và gồng mình lên dừng thì dừng lại

được nhưng mà cứ thả lỏng ra thả lỏng theo điệu múa tay, thả lỏng theo tiếng

nhạc …nhưng đến cái hôm mở phủ của anh Tú thì em không thể điều khiển

được, thầy hầu 3 tòa Mẫu này, Trần Triều, đến giá Chúa, đến các giá Quan,

bắt đầu là Quan Đệ nhất mắt em cứ trợn lên, thở phì phò, đầu cứ lắc lắc thế

này, mở mắt ra thì nó chóng mặt, chóng mặt như kiểu say xe ấy. Gồng mình

lên thì thấy chóng mặt, đảo như là cái quạt quay. Đến Quan Đệ Nhị- Quan

Giám sát, nóng giận, em không thở được nhé, nước mũi cứ chảy ra, hai mắt

trợn ngược lên, không thể nhắm được mắt vào, cảm giác nó kinh khủng luôn.

Đến giá quan Đệ Tam thì nhẹ hơn một tí những vẫn đảo và thở phì phò.

Quan Đệ Tứ thì nhẹ hơn một tí nữa, chỉ hơi lắc lắc nhưng mở mắt ra là chóng

mặt. Đến Quan Đệ Ngũ thì trong tâm trí của em vẫn biết nhưng em cứ thấy

trong lòng nó buồn, nó rầu rầu, tủi thân như kiểu mình oan ức, lại thả lỏng

tiếp chứ gồng mình lên thì đau đầu, hai bên thái dương nó cứ nhói nhói giật

giật như có người lấy cái đinh đóng vào đầu ấy. Thôi thì thả lỏng, thả lỏng

thì cứ thế khóc nấc. Đến đoạn cao trào của hát văn là Sông Tranh ơi hỡi

Sông Tranh đấy thì thôi kệ, kệ mọi người suy nghĩ gì thì suy nghĩ, mình cứ

phải khóc cho nó đã cái đã thế là bung thành tiếng lên để khóc, nước mắt

chảy ròng ròng. Trong cuộc đời em chưa bao giờ khóc đã đời như thế, khóc

mà cảm thấy nó đã nó sướng trong lòng ấy. Một lúc sau thấy có ai xốc nách

khiêng lên sập công đồng, thế là thầy ngậm rượu phun vào mặt thì tỉnh lại

mình thường, em đi ra ghế ngồi vừa ra vừa lau nước mắt. Đến giá tiếp theo

em múa dẻo ơi là múa dẻo mà cuộc đời em chưa bao giờ biết múa là gì cả.

Tự nhiên dạo đó em mới mở công ty (công ty bất động sản và tài chính. Em hùn

vốn cùng với một anh nữa mở, anh đó cũng lại là giám đốc của mọt công ty khác

217

rồi, ông ấy việc bên đấy còn em việc bên này.) nhưng ở công ty có bao nhiêu việc,

em không làm, cứ bỏ bê đó đi loanh qua loanh quanh ra đền ra phủ ngồi thôi, lúc

nào nó cũng cứ bồn chồn nóng ruột. Có những thời điểm ngồi uống trà hút thuốc ở

quán trà này, xong lại đi tha thần được 5,6 cây rồi lại rẽ vào quán trà lại uống, cứ

thơ thẩn như thế cả ngày thôi, mà ngồi một chỗ nó nóng ruột lắm chỉ muốn đi thôi.

Công ty bao nhiêu việc cứ bỏ bê thế, anh hùn vốn với em nói “Hưng ơi mày giết cả

mày mày giết cả anh rồi”, nhưng em có muốn thế đâu.

- Nhưng em có biết vì sao em bị như thế không?

- Đến bây giờ thì em nghĩ rằng em bị cơ hành mà vì gia tiên nhà em chọn đúng

cái thời điểm đó để cứ đẩy em đi đẩy em đi. Em cũng chả biết vì sao lại như

vậy nữa. Nhiều lúc cứ thế đi, đi chán chê ở cái Hà Nội này, rồi em nghĩ chả

biết làm cái gì nữa. Ở công ty một mớ công việc, nào hợp đồng này hợp

đồng kia, nào là thuê địa điểm, hợp đồng nhân viên, rồi nội quy quy chế,

công ty vừa mới thành lập thôi mà, thành lập chưa đến nửa tháng. Có nghĩa

em hiểu là nhà Ngài không cho mình làm việc trần ấy cho nên em vừa xây

dựng việc trần cái là nhà Ngài cho dừng luôn.Trong thời gian ngơ ngẩn chả

biết làm cái gì thì thôi em cứ đi hết những con phố nào mà em cảm thấy nó

quen thuộc với em, những nơi mà có những kỉ niệm này, những nơi mà trước

đây em thường đi đi lại lại. Bị ốp như thế thì em nghĩ là có khi đây là cơ

duyên vì vậy em cứ đến điện nhà thầy ngồi, thầy bảo cái gì thì làm cái nấy,

chỉ muốn ngồi ở nhà thầy.

- Trước đó em đã từng tôn nhang ở điện nhà thầy Thắng.

- Tôn nhang là thế nào hở em?

- Tôn nhang có nghĩa là cái vị thần mà cai quản cái bản mệnh của mình, mình

tôn bát nhang là mình rước các ngài để các ngài chứng cho là mình đã tôn

thờ các ngài rồi. Ví dụ như, em xây cho bố mẹ em một cái nhà như thế có

nghĩa là em cung phụng bố mẹ em rồi, bố mẹ sẽ nghĩ là à thằng này nó cũng

có hiếu, nó xây cho mình cái nhà rồi, không biết đẹp hay xấu nhưng nó đã

xây cho mình cái nhà rồi, thôi nó có căn quả nhẹ thì tha cho nó. Đến bây giờ

em vẫn đi lại với thầy chỉ có điều không đủ cơ duyên để đẻ đồng em, nói

chung thầy trò nó là cái duyên, thi thoảng em có thời gian em vẫn lên lễ ở

điện. Lúc thầy bốc bát hương em chưa bao giờ nghĩ rằng em sẽ khai phủ ở

nhà thầy, em chỉ nghĩ là thầy giúp đỡ mình đến đây đã tốt rồi, rồi cứ bước

tiếp chứ cũng không biết thế nào, chứ cũng không thể nói là thầy ơi 5 năm

218

nữa con có ngân có xuyến con sẽ khai phủ, thôi trước hết là mình cảm ơn

thầy cái đã, thầy có tâm có đức. Nhưng khi em gặp thầy Xuyên thì em nghĩ

luôn đây rồi mẹ mình, mẹ đồng của mình đây rồi.

- Sao khi gặp thầy Xuyên em lại nghĩ đây là mẹ mình?

- Cái cảm giác, cái cảm giác thì không thể giải thích nổi. Chỉ biết là đây thầy

lo cho mình, chỉ bảo mình dạy dỗ mình, cái cảm giác như kiểu là mẹ ở nhà

của mình ấy. Nó hay lắm.

- Nhưng chị thấy có một thời gian khá là lâu em mới trình đồng ở nhà cô mà?

- Bởi vì là em còn phải thử chứ. (cười). Mình cũng phải xem thầy mình là

người thế nào chứ. Có nghĩa là trò được chọn thầy chứ thầy đâu có được

chọn trò đâu. Thầy mà muốn khai phủ cho người này mà người ta không

thích thì làm sao mà được.

- Nhưng mày mà muốn tao khai phủ cho mà tao không thích thì cũng đâu có

được?

- Cũng không được, có nghĩa là thầy được phép chọn trò và trò cũng được

phép chọn thầy. Hai bên có quyền lợi nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau.

Thầy mà muốn khai phủ cho em, đến ngày khai phủ em không đến thì thầy

làm được gì.Đúng không?Thầy mà không muốn khai phủ thì mình cũng

không làm gì được, thầy bảo mày đi thầy khác đi, tao không mở mày.

- Thông thường khi muốn được mở phủ và gia nhập vào một bản hội nào đó

thì người ta sẽ lựa chọn cái gì, cân nhắc cái gì?

- Quan điểm của em là: Thầy phải là người có sự am hiểu nhất định về văn

hóa tín ngưỡng mà mình theo. Bởi vì thầy mà không hiểu thì mình hỏi thầy

không biết trả lời thế nào. Chả nhẽ thầy này khai phủ cho mình mà khi gặp

vấn đề gì mình lại chạy đi hỏi thầy khác à, thầy ơi cái này cái này là thế nào,

hôm qua con mơ thế này thế này thế kia có nghĩa là thế nào. Như vậy thầy

phải hiểu biết thì mới hướng mình đi đúng con đường. Thứ hai là thầy của

mình có được mọi người kính nể không, có nhiều mối quan hệ xã hội không,

nếu mọi người kính nể thì có nghĩa là thầy mình sống có tâm và có đức. Thứ

ba là thầy của mình có tham lam hay không, thầy mà tham lam thì trò cũng

tham lam chứ. Có một số trường hợp này nhé, mình đến một thầy nào đó

xem cho, rất chuẩn, cả những tâm tư tình cảm rất đúng, thầy bảo mày khai

phủ đi thì ok đống ý ngay. Có chứ, có rất nhiều trưởng hợp như thế lắm chứ.

Rất rất nhiều ấy.

219

- Như vậy có nghĩa là có những người người ta phải cân nhắc rất là kĩ trước

khi người ta trao gửi niềm tin của mình nhưng có những người nó lại như là

cái duyên, gặp một cái là người ta đồng ý luôn?

- Với lại do tính cách của từng người nữa ạ. Thường một đồng thầy khai phủ

cho con đồng mà giữa họ không có sự hiểu nhau thì thường một năm thầy trò

chỉ gặp nhau một hai lần thôi, vào đầu năm và cuối năm hoặc những ngày

mùng một, đến thắp hương hỏi nhau vài câu rồi đi về, chứ còn không có cái

thân mật với thầy. Trong khi đó những người lựa chọn thầy rất kĩ trước khi

nhờ mở phủ thì sau khi mở phủ lại rất thân mật với thầy, trò hiểu thầy, thầy

hiểu trò, quan tâm tới nhau. Ví dụ như hầy bây giờ nhé, ai mà hầu đến đoạn

văn buồn buồn thì em biết ngay là thầy cũng tủi bóng, lúc đó em nhắn cho

thầy một tin “Thầy ơi, bình tĩnh đừng khóc nhé”, thầy nhắn tin lại với em là

Thầy cảm thấy tủi thân, thầy thế này thế này. Đấy là những thầy trò hiểu

nhau, còn những người không hiểu nhau thì mặc kệ những tâm tư của Thầy.

Những người có sự nhìn sâu vào tâm tư tình cảm của nhau, cuộc sống của

nhau sau đó mới nhận nhau làm thầy trò thì nó hay ở chỗ đó. Có những

người đùng một phát khai phủ, khai phủ xong là lượn. Thế nên mới có vấn

đề xoay khăn. Chị mở phủ cho em, sau này em lại đi nhờ người khác mở phủ

lại cho em. Đây chính là một trong những sự lựa chọn đấy. Lựa chọn quá

vội vàng, không tìm hiểu sẽ dẫn tới vấn đề như vậy. Còn đương nhiên trong

vấn đề xoay khăn như vậy còn có nhiều vấn đề khác: có người tin rằng căn

số của mình nặng hơn thầy, cao hơn thầy nên thầy không thể là thầy của

mình được. Cũng giống như em làm ở trên bộ, chị làm ở dưới tỉnh thì chị

không thể quyết định các vấn đề của em được, chị chỉ có quyền quyết định

trong phạm vi tỉnh của chị thôi. Thì cũng như hang ghế cô không thể mở cho

hàng ghế hoàng, thiếu tá thì không chỉ đạo được đại tá. Còn vấn đề thứ ba

nữa là do tâm thức của người xoay khăn người ta cảm thấy là thầy này mở

phủ cho mình mà mình vẫn cứ long đong lận đận bắt đầu chuyển sang thầy

khác để nhờ xoay khăn, nhưng thực ra là do họ chưa hiểu về vấn đề khai

phủ: khai phủ là gì? Khai phủ giống như chị dẫn em đi đến nhà một người

mà em muốn xin việc làm, chỉ là đưa đến thôi còn cái việc em nói chuyện thế

nào, em xin việc như thế nào thì đó là do em chứ không phải do chị.

- Giữa những người có đồng với nhau dường như người ta có cái gì đó như là

đồng cảm ấy nhỉ?

220

- Những người có đồng với nhau yêu nhau thì yêu lắm, quý nhau thì quý lắm,

quý kỉnh khủng luôn nhưng mà ghét nhau thì thôi rồi.

- Những sao lại ghét nhau?

- Ghét nhau vì ghen đồng ghen bóng. Hôm nay chị hầu, chị lên một cái khăn

đẹp hơn họ lại bảo “bà kia mặt thì xấu cái khăn thì rõ là đẹp”,

- Em có nghĩ là do họ là những người đồng bóng nên đôi khi họ không kìm

chế được cảm xúc không?

- Đúng. Những người nào đặc ghế tứ phủ thì những người đó luôn luôn bốc

đồng, tức là lời ăn tiếng nói cử chỉ của họ họ không thể kiểm soát được, có

rất nhiều đồng Thầy sau này phải hối hận vì lời ăn tiếng nói của mình rồi đấy

chứ, nhưng mà cái lúc nói thì lại không thể kìm chế được mình. Có những

người kim chi đôi nước, tức là vừa làm những công việc tứ phủ vừa trừ tà

vừa sát quỷ, vừa bói vừa bùa. Đôi nước ở đây là gì ? Đôi nước là vừa bên Tứ

phủ vừa bên Trần triều.

- Chị thấy có nhiều thầy họ mở rộng mạng lưới bản hội của mình bằng cách

cho con nhang đệ tử nợ tiền?

- Nhiều chứ.

- Theo em, đồng Thầy có những cách thức nào để mở rộng mạng lưới của

mình?

- Cách thức mà tốt nhất là chỉ có tâm đức.

- Nhưng nếu chỉ lấy chữ tâm chữ đức thì nhiều khi không thể cạnh tranh trong

thời buổi kinh tế thị trường như bây giờ. Thời buổi kinh tế thị trường thì chỗ

nào rẻ, chỗ nào tốt thì họ đến, có thể thầy rất tâm đức những thầy không có

sự hỗ trợ thì cũng không mở rộng mạng lưới của mình được?

- Có những người không cần marketing gì hết nhưng người ta vẫn cứ ùn ùn

kéo đến nhờ khai phủ. Cậu L ở trên Bắc Giang một ngày khai phủ cho 3 bốn

người, xong đàn này lại sang khai phủ đàn kia, mã xếp đầy ở ngoài đền luôn.

Nó là lộc bề trên cho mà. Giống như kiểu chị là giáo viên giỏi tất nhiên chị

sẽ có nhiều trò giỏi, sẽ nhiều người xin được học thêm. Tuy nhiên, việc đẻ

được nhiều đồng hay ít đồng là do tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau

chứ không phải chỉ do yếu tố marketing.

- Tất nhiên rồi, nhưng nếu thầy mình giỏi thầy mình tâm đức thì tại sao không

giúp thầy mình bằng cách marketing cho thầy mình?

221

- Em hiểu. Thời đại này là thời đại cả thế giới nằm trong cái Ipad đúng không,

trên đó quảng cáo nào là bùa nào là ngải…Nhưng theo quan điểm của em cái

thùng rỗng thì nó hay kêu to, mình không lăng xê không gì hết nhưng lại

nhiều người đến. Em thấy chị rao trên mạng xem bói giỏi thế này thế kia

nhưng chị mà giỏi thì chị không phải như thế rồi. Sẽ rất tin tưởng nếu như

chị em mình chia sẻ cho nhau. Quan trọng là tự thầy tỏa ra cái tâm đức cái

giỏi của mình cơ chứ em không thể làm thầy tỏa ra cái điều đó được.

- Bây giờ bản hội nhà mình có bao nhiêu con đồng?

- Gần 100 con đồng gì đấy. Cuối năm em viết sớ em biết mà. Đó là chưa kể

đến những người tôn nhang, những người bán khoán, những người đến nhờ

làm lễ. Nhưng các con mà thân thiết với thầy như em thì lại rất ít, còn những

người đến gặp thầy nộp tiền mở phủ xong rồi người ta bay, thậm chí có

những người sau 3 năm người ta lớn rồi người ta tự đi hầu mà không cần nhờ

đến thầy nữa, thậm chí đến hết đời cũng ko gặp lại thầy nữa.

- Những con đồng ấy làm nghề gì?

- Nhiều chứ. Cả công an này, giáo viên này, quân đội này, nói chung là nhiều

lắm, cả những người bán rau bán cỏ, buôn bán kinh doanh..

- Hình như bản hội nhà cô có nhiều công chức thì phải? Nhưng vì sao như vậy

nhỉ? Có những bản hội toàn là nông dân, có những bản hội toàn những người

kinh doanh có những bản hội lại toàn công chức nhà nước. Có yếu tố gì

khiến nó như vậy không?

- Cái hình tướng của bản hội như thế nào nó thể hiện tính cách của đồng Thầy

như thế. Người thầy là căn cô chạnh chọe chạnh chọe thì cái bản hội đấy đa

phần đi với nhau là rất hay chạnh chọe, thầy sát với Quan Hoàng Mười nên

cái đội công chức là con nhang ấy chính là cái lộc thì căn Hoàng Mười. Hơn

nữa Thầy lại xuất thân từ công chức ra mà. Thầy xuất thân từ cơ quan nhà

nước ra nhé nên mối quan hệ của thầy đã có sẵn cho nên chỉ cần 3 con nhang

của Thầy làm việc ở cơ quan nhà nước thôi, mỗi con nhang giới thiệu tối

thiểu một người thì số lượng lại nhân lên. Còn nếu thầy đẻ ra 3 con đồng là

kinh doanh, mỗi con đồng ấy lại giới thiệu một con đồng là kinh doanh khác

thì số lượng lại tăng lên rất nhiều. Tất cả nó có phường có chợ với nhau đấy.

- Em ơi, một bản hội em thử phác thảo giúp chị xem nó gồm cơ cấu như thế

nào?

222

- Bao giờ đồng Thầy cũng cao nhất và ưu ái một số người, cái người mà Thầy

nhận thấy rằng họ có tố chất để lãnh đạo bản hội, dẫn dắt bản hội, có năng

lực về tâm linh. Em đặt em vào địa vị một ông đồng già đi, thì bản hội của

em sau này phải có người kế nghiệp để nó còn tồn tại nữa, chứ em mà thác đi

thì bản hội mất hút luôn à, em thác đi thì con nhang của em bơ vơ biết về

đâu. Chị đang theo một thầy nhé, con chị sau này có việc gì nó cũng chạy

đến nhà Thầy, sau này thầy thác đi có người khác thay thì con chị nó vẫn đến

đó…Thầy phải nhìn ra trong số các con của thầy ai là người có tố chất có thể

thay thầy làm mọi việc nếu như sau này thầy cao tuổi hoặc khuất bóng xế

chiều. Cái người này sẽ giúp thầy quản lý các vấn đề trong bản hội. Ví dụ

được giao cho thông báo với các nhóm khi bản hội có việc, đón tiếp khách,

lo ăn rồi lộc lá cho mọi người. Thế là mọi người đến và thầy “à cái thằng này

nó làm việc cho thày, nó được thầy tin tưởng giao cho nhiều việc như thế thì

nó phải là người như thế nào chứ. Và thế là mọi người phải kính nể”. Họ là

người thân cận nhất với thầy. Sau đó đến các con nhang đệ tử. Các con

nhang đệ tử nó lại có từng nhóm, ví dụ em là con của thầy em giới thiệu cho

1 người,hoặc hai người, hai người đó lại giới thiệu những người khác đến với

bản hội của thầy, nhóm đấy đẻ ra đến chục người…Trong nhóm đó lại có

một người làm trưởng nhóm. Trong bản hội nhà thầy có anh Thà và bạn của

mình là một nhóm, nhóm cậu Tuấn, nhóm Viettel là một nhóm, nhóm của

anh chị TN (anh chị này bằng tuổi thầy, anh ấy là cục trưởng), các cụ Bồ Tát

là một nhóm…Mỗi một nhóm lại có một nhóm trưởng, không bầu nhau gì cả

nhưng lại có một người nhóm trưởng, tự nổi lên nhé. Những người nào gần

gũi nhất với thầy người đó là nhóm trưởng. Thầy có việc gì nhé, thầy chỉ cần

thông báo với nhóm trưởng “Thà ơi, đến 17 là thầy hầu nhé” anh Thà sẽ phải

có trách nhiệm thông báo với tất cả những người trong nhóm của mình.

- Anh đó là người đến với thầy đầu tiên?

- Không, có thể là đến sau cùng nhưng quan trọng là họ lại thân với thầy và có

quan hệ với tất cả cái dọc những người trong nhóm đó. Thầy là người nhìn ra

tất cả, à cái đứa này nó giao du với tất cả những đứa còn lại..

Cuối cùng là những thành viên trong nhóm

- Những người như thế nào thì nằm trong bản hội?

- Những người là con đồng của thầy, những người tôn nhang tại điện nhà

Thầy, những người bán khoán, những người mà thầy thường xuyên làm lễ

223

cho họ. Còn những anh Bá Linh thường xuyên quay phim cho thầy nhưng có

nằm trong bản hội đâu. Còn cung văn thầy cúng, hầu dâng cũng vậy, họ là

những người làm việc cho nhiều bản hội chứ đâu có phải chỉ làm riêng cho

thầy và cũng không phải là con đồng của thầy (người ta chỉ giúp việc cho

đồng Thầy thôi chứ không nằm trong bản hội)

- Các nhóm đó liên kết với nhau bằng cái gì?

- Liên kết với nhau bằng thầy. Mọi người gặp nhau cũng vì công việc của

Thầy, chứ bình thường rất ít khi gặp nhau, nhưng mỗi khi thầy có việc như

vào hạ, vào xuân…thì mọi người lại ngồi lại với nhau bình thường, ra đường

gặp nhau thì chào mà cảm thấy hợp với nhau thì lại chơi với nhau. Hai cái

nhóm ấy mà hòa hợp với nhau thì nó lại tạo thành một nhóm lớn.

224

PHỤ LỤC 5: PHỤ LỤC ẢNH

Hình 1: Điện thờ của bản hội Phúc Minh Từ

(Nguồn: Tác giả chụp tại Hà Nội năm 2013)

Hình 2: Đồng thầy Xuyên của bản hội Phúc Minh Từ nhìn từ phía sau

(Nguồn: Tác giả chụp tại một buổi lễ ở điện thờ của bản hội Phúc Minh từ năm 2014)

225

Hình 3: Pháp sư trong lễ cúng dâng sao giải hạn của bản điện Phúc Minh Từ

(Nguồn: Tác giả chụp tại điện thờ của Phúc Minh từ năm 2014)

Hình 4: Cung văn của bản hội Phúc Minh Từ

(Nguồn: Tác giả chụp tại điện thờ của bản hội Phúc Minh từ năm 2013)

226

Hình 5: Lễ mừng đồng của đồng Thầy Xuyên diễn ra tại một ngôi đền ở Hưng Yên

(Nguồn: Tác giả chụp tại Hưng Yên, năm 2015)

Hình 6: Đồ mã trong lễ mừng đồng của đồng Thầy Xuyên tại một đền thờ ở Hưng Yên

(Nguồn: Tác giả chụp tại Hưng Yên, năm 2015)

227

Hình 7: Lễ cắt sao giải hạn đầu năm tại điện thờ của bản hội Phúc Minh từ

(Nguồn: Tác giả chụp tại điện thờ của bản hội Phúc Minh từ năm 2015)

228

Hình 8: Các con nhang đệ tử mừng sinh nhật đồng Thầy Xuyên

(Nguồn: Tác giả chụp tại Hưng Yên, năm 2015)

229