VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THỦY
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG
MA TÚY TỪ THỰC TIỄN CÁC TRUNG TÂM
CHỮA BỆNH - GIÁO DỤC - LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ THỦY
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG
MA TÚY TỪ THỰC TIỄN CÁC TRUNG TÂM
CHỮA BỆNH - GIÁO DỤC - LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Công tác xã hội
Mã số: 976 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học
1. GS.TS Lê Thị Quý
2. TS. Bùi Thị Mai Đông
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng,
đã được công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do
tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam.
Nghiên cứu sinh
Lê Thị Thủy
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban
Giám đốc, Khoa Công tác xã hội, các thầy cô giáo thuộc Học viện Khoa học
xã hội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện cho tác giả trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS Lê Thị Quý
và TS Bùi Thị Mai Đông, người cố vấn, hướng dẫn khoa học đã tận tâm giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành Luận án.
Tác giả xin được cảm ơn chân thành tới các Học viên và gia đình,
người thân của Học viên cũng như Đội ngũ cán bộ quản lý tại các Cơ sở cai
nghiện/Trung tâm Chữa bệnh- giáo dục- Lao động xã hội Thành phố Hà Nội
đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình khảo sát, thu thập thông tin
cho luận án.
Trong quá trình nghiên cứu, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong các Giáo sư, Tiến sĩ, các thầy cô giáo và mọi người tham gia
góp ý cho luận án được hoàn thiện hơn.
Nghiên cứu sinh
Lê Thị Thủy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .................................................................. 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ................................................................. 9
7. Cơ cấu của luận án .................................................................................................. 9
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DỊCH VỤ
CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY ....................................... 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài ......................................... 10
1.1.1 Một số nghiên cứu về ma túy, người sử dụng ma túy ............................. 10
1.1.2. Một số nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng
ma túy ............................................................................................................... 12
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nƣớc ................................................ 18
1.2.1. Một số nghiên cứu về ma túy, người sử dụng ma túy ............................ 18
1.2.2. Một số nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với người sử
dụng ma túy ...................................................................................................... 20
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 27
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY ............................................................. 28
2.1 Lý luận chung về ma túy và ngƣời sử dụng ma túy ....................................... 28
2.1.1 Khái niệm ma túy và tác hại của ma túy ................................................. 28
2.1.2 Khái niệm, đặc điểm của người sử dụng ma túy ..................................... 29
2.2 Lý luận chung về dịch vụ Công tác xã hội với ngƣời sử dụng ma túy ......... 35
2.2.1 Khái niệm dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy ............... 35
2.2.2 Các loại hình dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy .......... 37
2.2.3 Quy trình cung cấp dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng
ma túy ............................................................................................................... 50
2.2.4 Đánh giá chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối
với người sử dụng ma túy ................................................................................. 58
2.3 Cơ sở lý thuyết của đề tài nghiên cứu ............................................................. 60
2.3.1 Các lý thuyết ứng dụng trong thực hành cung cấp dịch vụ Công tác
xã hội đối với người sử dụng ma túy. ............................................................... 60
2.3.2 Khung lý thuyết nghiên cứu .................................................................... 67
2.4. Luật pháp, chính sách về dịch vụ Công tác xã hội đối với ngƣời sử
dụng ma túy ............................................................................................................. 68
2.4.1 Các văn bản pháp luật về dịch vụ Công tác xã hội. ................................ 68
2.4.2 Các văn bản pháp luật liên quan đến dịch vụ Công tác xã hội với
người sử dụng ma túy ....................................................................................... 69
2.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng, hiệu quả của dịch vụ công tác
xã hội đối với ngƣời sử dụng ma túy ..................................................................... 71
2.5.1. Thể chế, chính sách, pháp luật của việc cung cấp dịch vụ CTXH
đối với NSDMT ................................................................................................ 71
2.5.2. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tai Cơ sở cung cấp dịch vụ
Công tác xã hội ................................................................................................. 72
2.5.3 Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của nhân viên cung cấp dịch vụ .... 74
2.5.4 Đặc điểm tâm lý và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy .............. 74
2.5.5 Điều kiện, hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy ...................... 76
2.5.6. Các mối quan hệ xã hội của người sử dụng ma túy ............................... 78
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................................. 79
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG CÁC DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI
NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY TẠI CÁC TRUNG TÂM CHỮA BỆNH-
GIÁO DỤC - LAO ĐỘNG XÃ HỘI VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
THAM VẤN NHÓM ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY ............................... 80
3.1 Khái quát về địa bàn khảo sát và ngƣời sử dụng ma túy .............................. 80
3.1.1 Khái quát về địa bàn khảo sát và khách thể nghiên cứu định lượng ....... 80
3.1.2. Khái quát về khách thể nghiên cứu định lượng ...................................... 82
3.2. Phân tích thực trạng dịch vụ công tác xã hội với ngƣời sử dụng ma
túy tại các Trung tâm chữa bệnh-giáo dục-lao động xã hội. ............................... 90
3.2.1 Dịch vụ giáo dục – truyền thông ............................................................. 91
3.2.2 Dịch vụ tham vấn .................................................................................... 94
3.2.3 Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm .................................................... 97
3.2.4 Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế ................................................................. 100
3.2.5. Dịch vụ hỗ trợ pháp lý .......................................................................... 103
3.3. Đánh giá chất lƣợng, hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội đối với
ngƣời sử dụng ma túy ........................................................................................... 106
3.3.1 Mức độ hài lòng của NSDMT về các dịch vụ CTXH ........................... 106
3.3.2 Đánh giá chất lượng, hiệu quả dịch vụ CTXH của NSDMT ................ 109
3.4 Kết quả thực nghiệm tham vấn nhóm với ngƣời sử dụng ma túy .............. 117
3.5 Các yếu tố ảnh hƣởng tới dịch vụ công tác xã hội đối với ngƣời sử
dụng ma túy qua đánh giá của NSDMT ............................................................. 127
3.5.1. Cơ chế, chính sách của việc cung cấp các dịch vụ CTXH cho người
SDMT ............................................................................................................. 127
3.5.2. Các yếu tố về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của Cơ sở
cung cấp dịch vụ ............................................................................................. 129
3.5.3. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của nhân viên cung cấp
dịch vụ CTXH ................................................................................................ 130
3.5.4. Đặc điểm tâm lý và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy ........... 131
3.5.5. Điều kiện, hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy ................... 134
3.5.6 Yếu tố bạn bè và mối quan hệ xã hội .................................................... 135
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 138
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DỊCH
VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY TỪ
THỰC TIỄN CÁC TRUNG TÂM CHỮA BỆNH- GIÁO DỤC- LAO
ĐỘNG-XÃ HỘI .............................................................................................................. 140
4.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ công tác xã hội đối với ngƣời sử dụng
ma túy trong công tác phòng chống ma túy ........................................................ 140
4.1.1 Chủ trương chung của Chính phủ trong công tác phòng chống ma túy...... 140
4.1.2 Phát triển dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy ......... 142
4.1.3 Định hướng khắc phục hạn chế, khó khăn trong phát triển dịch vụ
CTXH. ............................................................................................................. 143
4.1.4. Định hướng phát triển mạng lưới dịch vụ công tác xã hội đối với người
sử dụng ma túy trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế xã hội hiện nay. .... 144
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội đối
với ngƣời sử dụng ma túy ..................................................................................... 145
4.2.1. Nhóm giải pháp hướng tới tăng cường năng lực Công tác xã hội ....... 146
4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức và nhu cầu cung cấp dịch vụ
Công tác xã hội cho người sử dụng ma túy. ................................................... 148
Tiểu kết chƣơng 4. ................................................................................................. 157
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 158
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ ........................................................... 160
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 161
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt
Dịch nghĩa
CSCN
Cơ sở cai nghiện
1
CBT
Trị liệu nhận thức, hành vi
2
CTXH
Công tác xã hội
3
CSPL
Chính sách pháp luật
4
DV CTXH
Dịch vụ Công tác xã hội
5
NCS
Nghiên cứu sinh
6
NMT
Nghiện ma túy
7
SDMT
Sử dụng ma túy
8
NSDMT
Người sử dụng ma túy
9
10 NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
11
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Bảng tổng hợp khách thể nghiên cứu định lượng ........................................... 83
Bảng 3.2. Hiểu biết của NSDMT về dịch vụ CTXH với người sử dụng ma
túy(N=368) ................................................................................................................ 86
Bảng 3.3. Nhận thức về tầm quan trọng của các loại hình dịch vụ CTXH (N=368). .... 87
Bảng 3.4 Nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH của NSDMT tại Cơ sở ................................ 89
Bảng 3.5. Chủ thể cung cấp dịch vụ Công tác xã hội (N=368) ....................................... 91
Bảng 3.6. Mức độ tiếp cận nội dung các hoạt động giáo dục truyền thông (N= 368) ... 92
Bảng 3.7 Mức độ thường xuyên tiếp cận hình thức truyền thông của NSDMT ............ 93
Bảng 3.8.Hình thức cung cấp dịch vụ tham vấn tại CSCN (N=368) .............................. 95
Bảng 3.9. Mức độ thường xuyên tiếp cận các nội dung tham vấn của NSDMT tại
Cơ sở. ......................................................................................................................... 96
Bảng 3.10. Nội dung các hoạt động hỗ trợ học nghề, tìm việc làm tại Cơ sở ................ 98
Bảng 3.11. Hiện trạng và mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ trợ việc làm
của NSDMT cai nghiên ma túy tại Cơ sở ............................................................... 99
Bảng 3.12. Nội dung các hoạt động hỗ trợ chăm sóc y tế ............................................. 101
Bảng 3.13. Hiện trạng sử dụng dịch vụ và mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ
hỗ trợ y tế của NSDMT tại Cơ sở. ......................................................................... 101
Bảng 3.14. Nội dung các hoạt động hỗ trợ pháp lý đối với NSDMT tại Cơ sở cai
nghiện. ...................................................................................................................... 104
Bảng 3.15. Mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ trợ pháp lý của NSDMT. ....... 105
Bảng 3.16. Mức độ hài lòng của NSDMT về các tiêu chí đánh giá dịch vụ ................ 108
Bảng 3.17 Đánh giá về chất lượng dịch vụ CTXH của NSDMT.................................. 109
Bảng 3.18 Đánh giá hiệu quả của các loại hình dịch vụ công tác xã hội đối với
người sử dụng ma túy ............................................................................................. 112
Bảng 3.19 Sự ảnh hưởng của các yếu tố chính sách, pháp luật ..................................... 127
Bảng 3.20: Sự ảnh hưởng của yếu tố điều kiện, cơ sở vật chất, trạng thiết bị .............. 129
Bảng 3.21: Các yếu tố về đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ CTXH.............................. 130
Bảng 3.22 Yếu tố bản thân người nghiện ma túy ảnh hưởng đến hiệu quả, chất
lượng dịch vụ CTXH .............................................................................................. 132
Bảng 3.23 Sự ảnh hưởng của yếu tố gia đình, người thân của NSDMT ...................... 134
Bảng 3.24: Các yếu tố bạn bè và mối quan hệ xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng
dịch vụ của NSDMT ............................................................................................... 136
Bảng 3.25 Tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của NSDMT cai nghiện ............ 173
Bảng 3.26. Mức độ tham gia các dịch vụ giáo dục truyền thông của NSDMT sử
dụng ma túy tại CSCN. (N=368) ........................................................................... 173
Bảng 3.27. Đánh giá chất lượng, hiệu quả dịch vụ thông qua các tiêu chí ................... 174
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 3.1 Hiểu biết về dịch vụ CTXH của người sử dụng ma túy .............................. 85
Biểu đồ 3.2 Đánh giá mức độ hài lòng về dịch vụ CTXH đối với NSDMT tại Cơ sở
cai nghiện. ............................................................................................................. 107
Biểu đồ 3.3: Kết quả thực nghiệm đánh giá về tầm quan trọng của dịch vụ CTXH ... 123
Biểu đồ 3.4. Đánh giá trước và sau thực nghiệm về nhu cầu sử dụng dịch vụ
CTXH của NSDMT tại Cơ sở. ............................................................................ 123
Biểu đồ 3.5 Nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ CTXH với NSDMT giữa
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. .............................................................. 125
(Sơ đồ 1. Dịch vụ hỗ trợ cho người sử dụng ma túy tham gia điều trị tự nguyện. Tài
liệu SCDI, (2016) .................................................................................................... 53
(Sơ đồ 2. Quy trình điều trị nghiện ma túy tại các Trung tâm điêu trị tự nguyện và
điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ điều trị tại cộng đồng. (Tổ chức SCDI, 2016) .... 53
Sơ đồ 3. Sơ đồ tương tác nhóm trong buổi tham vấn đầu tiên ...................................... 120
Sơ đồ 4. Sơ đồ tương tác nhóm trong buổi tham vấn thứ 10 ......................................... 121
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề ma túy, nghiện ma túy, buôn bán ma túy luôn là vấn đề nhức nhối đối
với toàn cầu. Hậu quả của nó đã ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội.
Nó đã tàn phá, hủy hoại rất nhiều gia đình, làm băng hoại xã hội, gây ra những tội ác
nghiêm trọng, chấn động và đảo lộn xã hội. Đặc biệt nó đã biến người sử dụng ma túy
(NSDMT) thành thân tàn ma dại, mất nhân cách và nguy cơ trở thành kẻ phạm tội.
Nghiện ma túy còn tạo ra nguy cơ cho việc lây nhiễu các bệnh theo đường tình dục và
HIV/AIDS nhất là đối với giới trẻ. Từ thế kỷ 20 đến nay, chống tội phạm ma túy là
cuộc đấu tranh sinh tử của các nước trên thế giới. Buôn bán ma túy được coi là tội
phạm của tội phạm, độc ác nhất và nguy hiểm nhất đối với nhân loại, còn sử dụng ma
túy là góp phần phát triển tội ác này. Trước tình hình đó, nhân loại đã có nhiều giải
pháp ngăn chặn và phòng chống ma túy, song tình hình về ma túy ngày càng tăng,
phức tạp. Trên thế giới, Tổng thống Philippin – Duterte năm 2016 đã mở chiến dịch chống
ma túy “…cho phép cảnh sát bắn chết nghi phạm ma túy mà không cần thông qua xét xử.
Giới chức Philippines cho biết hơn 7.000 nghi phạm đã bị cảnh sát và dân phòng
Philippines giết chết trong cuộc chiến chống ma túy của ông Duterte”( Kiều Oanh, [103]).
Năm 2017, Tổng thống Indonesia - Joko Widodo “đã ra lệnh cho cảnh sát bắn những đối
tượng buôn bán ma túy có hành vi chống lệnh bắt giữ”(Bảo An, [102]).
Cuộc đấu tranh chống ma túy là cuộc đấu tranh chung của nhân loại. Theo Bộ
Công An Việt Nam thì tội phạm liên quan đến ma túy có diễn biến phức tạp, tính đến
ngày 30/04/2020, các lực lượng trên toàn quốc đã bắt giữ 10.351 vụ/14.730 đối tượng,
thu giữ 3.582 kg Heroin, 1.863 kg và 900.365 viên MTTH, 113kg cần sa, 3,1 kg thuốc
phiện, 6,6 cỏ mỹ và nhiều phương tiện, tài sản, vật chứng liên quan khác.[1, 9]. Đáng
lưu ý, nhiều vụ giết người với hành vi gây án dã man, tàn bạo (giết nhiều người, giết
người vứt xác, chặt xác, đốt xác, giết phụ nữ và trẻ em...) vì lý do ma túy. [1]” Đây là
những tội ác khủng khiếp do tội phạm liên quan đến ma túy gây ra.. Thực tế, Chính
phủ Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc phòng chống ma túy và tổ chức các
hình thức cai nghiện cho người nghiện ma túy nhưng sự thực, tỷ lệ NSDMT ngày càng
tăng lên với đa dạng các loại chất gây nghiện mới và các loại hình buôn bán, tàng trữ ma
túy ngày càng tinh vi hơn. Tính đến 06/2020, Việt Nam có 234.620 người nghiện ma túy
có hồ sơ quản lý [1]. Vì tính nhân văn cao cả, vì giá trị nhân phẩm và quyền của con
người, chúng ta đã nhìn nhận NSDMT theo hướng nhân đạo, phù hợp với quan điểm
chung của thế giới và thường xuyên đổi mới công tác cai nghiện ma túy. Song, vấn đề
1
cai nghiện ma túy thực sự là vấn đề khó khăn, nan giải. Mặc dù chúng ta đã thực hiện
chủ trương đa dạng hóa công tác cai nghiện theo Đề án đổi mới công tác cai nghiện,
nhưng cần phân biệt rõ người sử dụng ma túy chưa gây tội ác với kẻ tội phạm.
Hơn nữa, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành,
địa phương triển khai thí điểm các mô hình điều trị, cai nghiện chất dạng thuốc phiện
bằng thuốc đông y do Việt Nam sản xuất (Cedemex, Bông Sen, Heantos…), nhưng kết
quả đánh giá ban đầu cho thấy “việc thí điểm điều trị bằng thuốc Cedemex tại Thái
Nguyên, Hưng Yên trong thời gian điều trị 6 tháng thì tỷ lệ không sử dụng lại ma túy
là 38% và sau 1 năm tỷ lệ là 27%” [18]. Như vậy, số người nghiện ma túy đã cai
nghiện và sử dụng lại, dẫn đến tái nghiện còn nhiều.
Không những thế, hiện nay, các cơ sở cai nghiện (CSCN) đang trong tình trạng
quá tải, số lượng người nghiện ngày càng tăng “ tổng số người đang được điều trị cai
nghiện tại các cơ sở là 36.368 người, tăng 6,8% so với năm 2017 (33.895/36.368)”
[18]. Tình trạng nghiện không ổn định, nghiện lâu năm và nghiện đồng thời nhiều loại
ma túy tổng hợp phức tạp. Đội ngũ nhân viên còn chưa chuyên nghiệp, cơ sở trang
thiết bị xuống cấp, không hiện đại...[18]. Thực trạng cung cấp dịch vụ cai nghiện ma
túy tại các cơ sở cai nghiện (CSCN) còn thực hiện theo các phác đồ điều trị về mặt y
học, kết hợp với giáo dục dạy nghề, lao động trị liệu… Chất lượng dịch vụ cai nghiện
hạn chế, các loại hình dịch vụ còn đơn sơ, chưa đáp ứng mong muốn cai nghiện và dự
phòng tái nghiện. NSDMT và (CSCN) phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ
chính bản thân và từ môi trường sống, họ cần sự giúp đỡ của gia đình, cộng đồng, xã
hội để giải quyết các vấn đề mà họ đang gặp phải như: thiếu việc làm, đói nghèo, biến
đổi kinh tế - xã hội quá nhanh chóng, v.v… Vấn đề đặt ra là: có cách thức nào góp
phần giảm tải ma túy, hỗ trợ người nghiện ma túy cai nghiện thành công và không tái
để giảm thiểu tình trạng sử dụng ma túy hiện nay? CTXH là một khoa học, một hoạt
nghiện? Đây là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu. Công tác xã hội có thể làm gì
động chuyên nghiệp, có hệ thống triết lý, giá trị riêng, CTXH vận dụng lý thuyết, kỹ
năng và quy điều đạo đức nghề nghiệp nhằm nâng cao năng lực cho mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng CTXH là một nghề mới tại Việt Nam
thông qua Đề án 32 ngày 25 tháng 10 năm 2010.Vậy, người nghiện ma túy có nhận
thức và nhu cầu mong muốn tiếp cận dịch vụ Công tác xã hội trong quá trình cai
cấp những loại dịch vụ Công tác xã hội nào cho nhóm NSDMT? Làm thế nào để
nâng cao chất lượng các dịch vụ đó. Đây là những vấn đề cần được giải quyết.
nghiện như thế nào? Các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động - xã hội cung
2
Vì vậy, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử
dụng ma túy từ thực tiễn các Trung tâm Giáo dục – Lao động – Xã hội thành phố
Hà Nội” để làm luận án tiến sỹ với hy vọng sẽ đóng góp được phần nào vào công cuộc
đấu tranh chung phòng chống ma túy này, đặc biệt góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả cai nghiện ma túy.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về ma túy và phòng chống ma túy,
đề tài đi sâu phân tích thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy
tại một số trung tâm chữa bệnh, giáo dục lao động xã hội thành phố Hà Nội ( Trung
tâm số 1 và trung tâm số 5); từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
các dịch vụ CTXH đối với NSDMT nhằm hỗ trợ NSDMT cai nghiện thành công và
sống hòa nhập cộng đồng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu và phân tích tài liệu thứ cấp (trong và ngoài nước) để mô tả bức
tranh chung về dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy, hệ thống hóa
kiến thức lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy;
- Nghiên cứu các lý thuyết liên quan được ứng dụng trong các Dịch vụ công tác
xã hội nhằm xây dựng khung lý luận nghiên cứu của đề tài;
- Điều tra Xã hội học về thực trạng cung cấp các dịch vụ Công tác xã hội đối với
người sử dụng ma túy tại địa bàn nghiên cứu, đồng thời phân tích, đánh giá chất lượng
dịch vụ CTXH mà NSDMT đang sử dụng tại CSCN ma túy.
- Thử nghiệm mô hình tham vấn nhóm đối với người sử dụng ma túy;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các dịch vụ CTXH đối với
người sử dụng ma túy.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy từ thực tiễn các Trung tâm
Chữa bệnh- Giáo dục – Lao động – Xã hội thành phố Hà Nội
3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Về nội dung nghiên cứu:
Dịch vụ CTXH trong hỗ trợ người sử dụng ma túy khá đa dạng, trong phạm vi của
đề tài luận án tập trung nghiên cứu vào 5 loại hình dịch vụ đó là: Dịch vụ giáo dục –
truyền thông; Dịch vụ tham vấn; Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế; Dịch vụ hỗ trợ học
nghề, tìm việc làm; Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
3
*Về khách thể nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trên 3 nhóm khách thể:
- Người sử dụng ma túy hiện đang cai nghiện ma túy tại các Cơ sở cai nghiện
số 1 và số 05 (368 người sử dụng ma túy);
- Cán bộ quản lý và làm việc trực tiếp với người sử dụng ma túy (10 người)
- Nhân thân của người sử dụng ma túy (05 người)
* Về thời gian nghiên cứu:
Đề tài luận án được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ tháng 8/2016 đến
tháng 9/2019
* Về địa bàn nghiên cứu:
Đề tài tiến hành khảo sát tại 2 Cơ sở Cai nghiện số 01 và số 05:
- Trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục – Lao động xã hội số 05, Xuân Phương, Từ
Liêm, Hà Nội. (Từ năm 2017 đổi tên thành Cơ sở cai nghiện số 05, Xuân Phương, Từ
Liêm, Hà Nội theo Quyết định số 6129/QĐ-UBND ngày 31/08/2017 của UBND thành
phố Hà Nội)
- Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động - xã hội số 01 tại Yên Bài, Ba Vì,
Hà Nội. (Từ năm 2017 đổi tên thành Cơ sở cai nghiện số 01, Yên Bài, Ba Vì, Hà Nội theo
Quyết định số 6078/QĐ-UBND ngày 29/8/2017 của UBND thành phố Hà Nội).
3.3 Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1:Tình hình người sử dụng ma túy ở Việt Nam hiện nay như thế nào,
Việt Nam có những nỗ lực gì trong phòng chống ma túy và cai nghiện ma túy?
Câu hỏi 2: : Công tác xã hội có vai trò như thế nào trong việc làm giảm tình
trạng sử dụng ma túy hiện nay, người sử dụng ma túy tại Cơ sở cai nghiện có nhận
thức và nhu cầu về dịch vụ Công tác xã hội như thế nào?
Câu hỏi 3: Thực trạng cung cấp dịch vụ Công tác xã hội tại các cơ sở cai nghiện
ma túy hiện nay diễn ra như thế nào, có những yếu tố nào tác động đến chất lượng
dịch vụ Công tác xã hội cho người sử dụng ma túy tại Cơ sở cai nghiện?
Câu hỏi 4: Có giải pháp nào giúp các Cơ sở cai nghiện tăng cường khả năng
cung cấp dịch vụ công tác xã hôi cho người sử dụng ma túy?
3.4 Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Tình hình người sử dụng ma túy hiện nay tại Việt Nam ngày có
diễn biến phức tạp và sử dụng đa dạng các loại ma túy tổng hợp do nhiều yếu tố tác
động. Việt Nam có nhiều nỗ lực trong công tác phòng chống ma túy.
Giả thuyết 2: Công tác xã hội có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người sử
dụng ma túy cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Người sử dụng ma túy tại Cơ sở cai
4
nghiện hiện nay có nhu cầu, mong muốn được sử dụng dịch vụ Công tác xã hội. Tuy
nhiên, nhận thức của họ về dịch vụ Công tác xã hội còn hạn chế do nhiều yếu tố tác
động.
Giả thuyết 3: Thực trạng cung cấp dịch vụ Công tác xã hội tại cơ sở cai nghiện
ma túy hiện nay còn hạn chế, chất lượng và hiệu quả chưa đáp ứng được nhu cầu của
người sử dụng ma túy, có nhiều yếu tố tác động thuận chiều đến chất lượng và hiệu
quả của dịch vụ công tác xã hội như điều kiện, cơ sở vật chất trang thiết bị, đặc điểm
tâm lý của người sử dụng ma túy, chính sách pháp luật, điều kiện hoàn cảnh gia đình,
mối quan hệ xã hội…
Giả thuyết 4: Có nhiều giải pháp giúp Các cơ sở cai nghiện tăng cường khả
năng cung cấp dịch vu công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy. Người sử dụng
ma túy có sự thay đổi tích cực hơn khi được sử dụng dịch vụ Công tác xã hội
Thể chế, chính sách pháp luật
Nhận thức, thái độ, hành vi
Cải thiện sức khỏe, theer chất và tâm thần
Điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị của Cơ sở cung cấp dịch vụ
3.5 Khung phân tích
Cai nghiện
1. Giáo dục – truyền thông
NSDMT
2. Tham vấn
Trình độ, năng lực phẩm chất đạo đức của nhân viên cung cấp dịch vụ
Học nghề, việc làm
3. Hỗ trợ chăm sóc y tế
4. Hỗ trợ học nghề, tìm việc làm
Dự phòng tái nghiện
Dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy
Đặc điểm và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy
5. Hỗ trợ pháp ý
Điều kiện hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy
Các mối quan hệ xã hội của người sử dụng ma túy
5
3.6 Khung nghiên cứu (Research Paradigm)
Quá trình nghiên cứu: (Processing - P)
Đầu ra (Output - O)
Đầu vào : (Input- I)
Cơ sở lý luận vê ma túy, NSDMT; lý luận về dịch vu và dịch vụ CTXH với NSDMT; lý thuyết nghiên cứu; Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tài liệu lý luận, phỏng vấn sâu, bảng hỏi: 368 NSDMT; thực nghiệm
Kết quả khảo sát, phỏng vấn
Vấn đề nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu
Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ CTXH
Phản ánh (feedback - F)
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, quan điểm hệ
thống và duy vật lịch sử, quan điểm thực tiễn và hệ thống nguyên tắc phương pháp
luận nghiên cứu khoa học làm căn cứ khoa học cho quá trình nghiên cứu của đề tài. Cụ
thể, khi nghiên cứu dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy, đề tài chú ý nghiên cứu
nội dung này trong mối quan hệ, ảnh hưởng, tác động qua lại của yếu tố kinh tế, văn hóa,
xã hội, pháp luật, trong bối cảnh Việt Nam đang trên con đường hội nhập nền kinh tế quốc
tế và trên lộ trình phát triển nghề công tác xã hội chuyên nghiệp.
Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, vận dụng quy luật đấu tranh giữa các mặt đối lập giữa cán bộ cai nghiện với người sử dụng ma túy trong quá trình cai
nghiện. Họ luôn có mong muốn, khát khao cai nghiện nhưng thực tế khi họ đã nghiện ma túy, họ phụ thuộc vào chất gây nghiện, nên rất khó khăn trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân, tìm mọi cách sử dụng ma túy bất chấp hậu quả của nó. Trong tư tưởng của họ luôn có mâu thuẫn giữa nhận thức, cảm xúc và hành vi. Bên cạnh đó, họ còn gặp phải mâu thuẫn trong mối quan hệ với người thân, cán bộ cai nghiện hay mối quan hệ xã hội. Vì vậy, khi có sự tác động hỗ trợ giúp họ giải quyết các mâu thuẫn giữa các mặt
đối lập sẽ tạo động lực thúc đẩy quá trình cai nghiện của họ nhanh hơn và có hiệu quả
hơn.
6
Theo quan điểm hệ thống: xem xét sự vật trong chỉnh thể thống nhất. Nghiên
cứu dịch vụ công tác xã hội trong mối quan hệ kinh tế, xã hội và pháp luật. Cung cấp
dịch vụ CTXH cho NSDMT mang tính tổng thể toàn diện về sức khỏe thế chất, tinh
thần, hỗ trợ xã hội và kinh tế, pháp lý…NSDMT là tiểu hệ thống nằm trong hệ thống lớn hơn bao gồm gia đình, nhà trường và xã hội hay hệ thống luật pháp, chính sách.
Đội ngũ làm nghề có khả năng cung cấp dịch vụ công tác xã hội một cách tổng thể,
toàn diện và chuyên sâu sẽ giúp người sử dụng ma túy được có được những lợi ích
thiết thực và duy trì không sử dụng lại ma túy.
Quan điểm lịch sử: nghiên cứu dịch vụ công tác xã hội tại các CSCN tại Thành
phố, Hà nội. (xem xét sự vật trong những hoàn cảnh cụ thể). Nhóm người sử dụng ma
túy tại Trung tâm. Thời gian tiến hành từ 2016 đến 2019 trong thế kỷ thứ 21.
Quan điểm thực tiễn: Nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy từ thực tiễn các CSCN Thành phố Hà Nội. Nghiên cứu NSDMT chính là
NSDMT đang cai nghiện tại Trung tâm số 1 và số 5 trên địa bàn thành phố Hà Nội với
con người thực trong bối cảnh thực tế. Kết quả sẽ được ứng dụng thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả quá trình cai nghiện hình thành và phát triển đội ngũ nhân viên CTXH
chuyên nghiệp, đóng góp vào quá trình phát triển nghề CTXH chuyên nghiệp và ổn
định xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu Luận án nghiên cứu các văn bản, tác phẩm, bài báo, báo cáo, công trình nghiên
cứu trước đây nhằm phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá một số vấn đề lí luận và phương
pháp luận về dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy. Đây là phương pháp quan trọng
nhằm hiểu rõ hơn về lĩnh vực dịch vụ CTXH với NSDMT, xây dựng những luận cứ khoa
học để chứng minh vấn đề nghiên cứu được cụ thể và rõ ràng hơn.
4.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu NCS tiến hành phỏng vấn sâu 20 người sử dụng ma túy tại Cơ sở cai nghiện, 10
cán bộ/nhân viên xã hội, và 05 người nhà của NSDMT nhằm kiểm chứng tính xác thực của các số liệu, thông tin đã thu thập được bằng các phương pháp khác, đồng thời bổ sung thêm các thông tin cần thiết để đưa ra những phán đoán, những nhận định xác thực hơn. Nội dung phỏng vấn xoay quanh thực trạng dịch vụ công tác xã hôi; nhận thức và nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH; những yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy và giải pháp tăng cường hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH tại Trung tâm. Số lượng khách thể (xem bảng tổng hợp phần phụ lục 2 kèm theo)
4.2.3 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Nghiên cứu trên khách thể là thân chủ (người SDMT) đang tham gia vào quá
trình cai nghiện ma túy tại cơ sở (368 NSDMT tại CSCN) thành phố Hà Nội
7
CSCN số 05 tại xã Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội (154 NSDMT)
CSCN số 01 tại Yên Bài, Ba Vì, Hà Nội. (214 NSDMT).
Chọn mẫu nghiên cứu: NCS sử dụng phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên, dựa vào
Công thức chọn mẫu Slovin (1884) (Theo Chu Thị Kim Loan, dẫn từ Consuelo và cộng sự, 2007)[73]
Theo số liệu cung cấp bởi Sở Lao động và Thương binh xã hội Hà Nội năm
2017, hiện nay số NSDMT đang được quản lý tại 07 Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục
– Lao động – Xã hội (Cơ sở cai nghiện- CSCN) thành phố Hà Nội là khoảng 2225 người). Vậy, tổng số mẫu nghiên cứu là 368 người. CSCN số 01 là 214 người sử dụng
ma túy (NSDMT), CSCN số 05 là 154 người sử dụng ma túy (NSDMT). (Xem phần
phụ lục đính kèm)
4.2.4 Phương pháp chuyên gia NCS tiến hành xin ý kiến của các chuyên gia hướng dẫn khoa học, các chuyên
gia điều trị nghiện, chuyên gia CTXH và các giảng viên Đại học, các chuyên gia trong
Hội thảo khoa học cấp Khoa về dịch vụ CTXH trong điều trị nghiện ma túy và các điều
kiện, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH cho người sử dụng
mat túy, các giải pháp nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH.
4.2.5. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu Luận án sử dụng một số phương pháp thống kê toán học và hệ thống xử lý số
liệu bằng phần mềm SPPS.
NCS tiến hành sử dụng một số công thức toán thống kê để xử lý số liệu (tính
giá trị trung bình , độ lệch chuẩn, hệ số tương quan Spearman (r)...), kiểm định bằng
chỉ số Cronbach’Alpha, Anova…, so sánh kết quả nghiên cứu ở NSDMT hai Cơ sở cai
nghiện để thấy rõ bức tranh toàn cảnh về thực trạng dịch vụ có sự khác biệt hay không
tại những Cơ sở cai nghiện ở những địa bàn khác nhau (Phụ lục 2).
4.2.6 Phương pháp thực nghiệm Được tiến hành trên một nhóm 7 người sử dụng ma túy tại CSCN về mô hình
tham vấn nhóm. Thời gian tiến hành thực nghiệm trong vòng 6 tháng, hai tuần 1 buổi sinh hoạt nhóm. Tổng số là 12 buổi tham vấn nhóm. Sau thời gian thực nghiệm so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm, đồng thời so sánh nhóm thực nghiệm với nhóm đối chứng về sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của NSDMT và đánh giá hiệu quả của mô hình dịch vụ tham vấn nhóm đối với người sử dụng ma túy tại CSCN.
Mục đích của thực nghiệm là so sánh kết quả trước và sau thời gian thực nghiệm tác động về nhận thức, thái độ và hành vi của người sử dụng ma túy để thấy được hiệu quả
của dịch vụ tham vấn chuyên nghiệp
8
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về dịch vụ CTXH, luận án phát hiện
những khó khăn, tồn tại trong việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ người cai nghiện đề xuất
những giáp pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của dịch vụ CTXH tại CSCN. Nghiên cứu khẳng định tầm quan trọng của dịch vụ CTXH và vai trò của Nhân viên
CTXH trong công tác cai nghiện ma túy. Qua nghiên cứu, đề xuất mô hình dịch vụ CTXH
nhằm tăng cường hiệu quả của quá trình điều trị nghiện ma túy. Kết quả nghiên cứu có thể
được ứng dụng trong các CSCN tại Thành phố Hà Nội và trong cả nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa lý luận Kết quả của đề tài góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm hệ thống lý luận về
dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy. Đồng thời có ý nghĩa trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống giáo trình, bài giảng về ma túy, CTXH với NSDMT, đóng góp
tích cực cho việc phát triển nghề CTXH chuyên nghiệp tại Việt Nam.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn. Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ hơn thực trạng và tác hại của ma túy cũng
như người sử dụng ma túy, chỉ ra những hạn chế trong công tác phòng chống ma túy
và các giải pháp làm giảm thiệu tình trạng nghiện ma túy. Đồng thời kết quả phân tích
đánh giá thực trạng DVCTXH và thực nghiệm tham vấn nhóm có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ bức tranh chung trong công tác cai nghiện ma túy. Đây là cơ sở khoa học
nhằm đổi mới hoạt động cai nghiện ma túy hiệu quả hơn với mong muốn các nhà
hoạch định chính sách xem xét đến CTXH và hệ thống dịch vụ CTXH trong quá trình
điều trị nghiện ma túy trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về dịch vụ Công tác xã hội với
người sử dụng ma túy
Chương 2: Những vấn đề lý luận về dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng
ma túy
Chương 3: Thực trạng các dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy tại các Cơ sở cai nghiệnTrung tâm chữa bệnh- Giáo dục- Lao động xã hội và kết quả thực nghiệm tham vấn nhóm với người sử dụng ma túy
Chương 4. Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy từ thực tiễn các Trung tâm chữa bệnh- Giáo dục- Lao động xã hội
9
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài
1.1.1 Một số nghiên cứu về ma túy, người sử dụng ma túy Có nhiều công trình nghiên cứu về ma túy, NSDMT. Các nghiên cứu đã giải thích ma túy là gì, tác hại của ma túy, chất gây nghiện là như thế nào, phân loại các
chất gây nghiện; NSDMT, người nghiện ma túy là gì, đồng thời chỉ ra những đặc điểm
của NSDMT.
Nghiên cứu về ma túy, nhóm tác giả Redfern, NSW, Australia: Tosca Press, (1996) đã khẳng định "Không giống như rượu hoặc thuốc lá, heroin không gây độc hại
cho các mô hoặc các cơ quan của cơ thể, tuy nhiên, nó có tính gây nghiện cao”. Các
tác giả Byrne, Andrew (1996) cũng phản ánh: “Tác hại chủ yếu đến từ nguy cơ quá liều, các vấn đề về chích ma tuý, ma túy và các hậu quả bất hợp pháp hoặc tài chính".
Tuy nhiên, tác giả Erickson, (2003) lại khẳng định một tác động về mặt trị liệu nếu
mọi người không lạm dụng đến mức nghiện chất đó: “Nếu mọi người không lạm dụng
nó, nó có thể được sử dụng như là một thuốc giảm đau mạnh mẽ về mặt trị liệu”.
(Nguồn: Erickson, ngày 24 tháng 11 năm 2003).[126]. Theo tài liệu tập huấn của FHI
(2012), Chất gây nghiện được chia làm 3 nhóm như: Nhóm gây ảo giác (Estasy, Đá,
Cần sa liều cao…), nhóm gây kích thích (Meamphatamine, ma túy tổng hợp…) và
nhóm an thần (Rượu, Heroin…) [36]. Chất gây nghiện hướng thần tác động mạnh tới
tâm sinh lý và ảnh hưởng trực tiếp lên nhận thức, tình cảm, hành vi và động cơ của
người nghiện.
Nghiên cứu về người sử dụng ma túy và các vấn đề liên quan, tác giả Thorley (2004), đã mô hình hóa về những vấn đề liên quan đến việc sử dụng chất gây nghiện
theo 3 phạm trù: (1) Phê, (2) Sử dụng thường xuyên, (3) Nghiện.[36]. Mô hình này cho
thấy những phạm trù này không có tính loại trừ lẫn nhau và một người sử dụng có thể
gặp phải các vấn đề thuộc 1 phạm trù, cả 2 hoặc cả 3 phạm trù khác nhau.
Nghiện một chất nào đó là sự tương tác giữa những yếu tố về sinh học thần kinh, tâm lí và xã hội. Tác giả Leshner (1997) cho rằng: “Nghiện là một bệnh tái diễn, mãn tính của não, là một khái niệm hoàn toàn mới với đại chúng, với nhiều nhà hoạch định chính sách và đáng buồn là với nhiều cả cán bộ y tế” [106]. Hiện nay đã có đủ bằng chứng để khẳng định rằng nghiện không phải là một sự yếu kém hay tha hóa về
đạo đức mà là một bệnh của não. Bằng chứng từ các nghiên cứu về hình ảnh của não bộ như là hình ảnh chụp cộng hưởng từ cũng như hình ảnh chụp nhấp nháy phóng xạ
(PET) (phương pháp sử dụng các chất đồng vị phóng xạ để đưa ra hình ảnh ba chiều
10
hoặc hình ảnh phản ánh hoạt động chức năng của các tế bào não) đang chịu tác dụng
trực tiếp của ma túy. Ở cấp độ tế bào, ma túy tác động lên các chất dẫn truyền thần
kinh, nhờ nó mà thông tin được trao đổi giữa các tế bào não. Như vậy, một người
nghiện ma túy là người đang có bệnh mãn tính, tái diễn ở não bộ và có hành vi bắt buộc phải sử dụng ma túy bất chấp hậu quả của nó.
Về bản thân NSDMT nhóm tác giả Robert Ali và cộng sự (2009) xây dựng “mô
hình tương tác về sự trải nghiệm chất gây nghiện” thể hiện một hệ thống tổng thể về
trải nghiệm sử dụng chất gây nghiện. Mô hình này kết hợp mô hình tương tác của Zinberg về tác hại của chất gây nghiện với những nguyên tắc của Thuyết học tập xã
hội. Mô hình tương tác này cho thấy sự tương tác giữa chất gây nghiện, môi trường và
cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự trải nghiệm về sử dụng chất gây nghiện.
Không thể chỉ xem xét từng yếu tố một cách riêng biệt. Trong mỗi khía cạnh (chất gây nghiện, môi trường, cá nhân), tầm quan trọng của mỗi một yếu tố (như cảm xúc, áp lực
đồng đẳng, đường dùng) đối với trải nghiệm của người sử dụng sẽ khác nhau giữa
người này và người kia, và giữa bối cảnh này và bối cảnh khác. Một số yếu tố có thể
trùng lặp trong các nhóm khác (ví dụ: sự sẵn có thuốc có thể là yếu tố môi trường hoặc
là yếu tố chất gây nghiện hoặc cả hai). Vấn đề quan trọng nhất là mỗi cấu thành và sự
tương tác giữa các yếu tố cần được xem xét khi đánh giá trải nghiệm sử dụng chất gây
nghiện.[36]
Bên cạnh đó, về nhu cầu điều trị nghiện ma túy, nhóm tác giả Hunt, M.C.,
Wiechelt, S.A. & Merryle, R. (2008). “Dự đoán nhu cầu điều trị lạm dụng chất gây
nghiện của người cao tuổi”. Tạp chí Y tế Công cộng Hoa Kỳ, 45 (2), 236-245. PMCID:
PMC9162292 Hunt, M.C., Newlin, D.B. & Fishbein, D. (2009)[50]. Kết quả nghiên cứu
khẳng định người cao tuổi lạm dụng chất có nhu cầu điều trị nghiện cao, tuy nhiên nhiều
người vừa muốn sử dụng chất gây nghiện vừa muốn điều trị hiệu quả. Nhiều người vẫn cứ
sử dụng ma túy và không muốn điều trị dứt điểm. Trong bài báo “Hình ảnh não ở những
người lạm dụng methamphetamine qua suốt cuộc đời”(Lão khoa, 46 (3), 122-145) nhóm
tác giả cũng đã làm rõ được nhu cầu điều trị của người nghiện tăng lên khi về già. Hầu như NSDMT cao tuổi cần các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, chăm sóc toàn diện, nhấn mạnh nhiều đến các dịch vụ tại cộng đồng.[51]
Nhìn chung, những nghiên cứu về ma túy, NSDMT đa phần đã giải thích sử dụng chất gây nghiện và sự trải nghiệm nó, nghiện là gì, nguyên nhân và các yếu tố tác động đến sử dụng ma túy dưới các góc độ về tâm - sinh lý - xã hội. Đồng thời, các nghiên cứu trên đã đề cập đến nhu cầu của người nghiện chất và đưa ra một số định
hướng và biện pháp khắc phục trong hỗ trợ điều trị nghiện ma túy. Dưới góc độ CTXH, NCS chưa tìm được nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm, khó khăn và mong muốn trợ giúp của NSDMT.
11
1.1.2. Một số nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng
ma túy
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã tập trung vào nghiên cứu lĩnh vực dịch vụ từ
đầu thập niên 1980 trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, giáo dục. Tuy nhiên, dưới góc độ CTXH thì đây còn là lĩnh vực cần được quan tâm, nghiên cứu sâu
hơn. CTXH là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp, vì thế có nhiều công trình nghiên
cứu CTXH, các chính sách an sinh xã hội. Về dịch vụ CTXH và cách thức triển khai dịch
vụ CTXH hầu như được phát triển mạnh ở các nước phát triển.
Những nghiên cứu về mặt lý luận và thực hành cho thấy hầu như các tác giả đã
nhấn mạnh vai trò của đào tạo chuyên nghiệp cho đội ngũ tham gia cung cấp dịch vụ
CTXH. Nhóm tác giả như C. Zastrow (1985) hay Hepworth (1997), vào những năm
1970 đã nghiên cứu những can thiệp CTXH cá nhân, gia đình và nhóm thông qua việc cung cấp các dịch vụ CTXH với những hoạt động trợ giúp chuyên nghiệp
[121].[122].[146]. Tác giả W. Robert và H. Robert (1976) nghiên cứu can thiệp cá nhân và gia đình thông qua dạng dịch vụ can thiệp nhóm chia sẻ cảm xúc và học hỏi hành vi
ứng phó. Nghiên cứu đã chỉ ra dịch vụ tham vấn nhóm và gia đình được sử dụng trong
CTXH như một môi trường hữu hiệu cho sự can thiệp thay đổi hành vi.[62]. Nhóm tác
giả Geoffrey L. Cohen and David K. Sherman (2014) đã bàn về sự thay đổi tâm lý thông
qua tự khẳng định bản thân và can thiệp tâm lý xã hội. Đây là những can thiệp rất hữu
hiệu nhằm hoàn thiện và phát triển nhân cách.[125]
Trên thế giới, dịch vụ CTXH phát triển mạnh, đa dạng và theo hướng chuyên
nghiệp tại cơ sở, cộng đồng và góp phần cải thiện tính hiệu quả của dịch vụ phúc lợi
xã hội. Thực tế, những nghiên cứu về dịch vụ đối với NSDMT đã có nhiều có thể chia
ra làm 3 hướng theo các lĩnh vực điều trị cai nghiện ma túy: sinh học, tâm lí và xã hội.
Khi cung cấp các dịch vụ cho NSDMT cần có một hệ thống dịch vụ toàn diện cả về
tâm lý, xã hội, dịch vụ giáo dục, tuyên truyền và hỗ trợ việc làm. Tuy nhiên các quan
điểm và nghiên cứu đều có cách lý giải hợp lý về dịch vụ đối với NSDMT. Dưới đây
là tổng quan một số công trình nghiên cứu theo các loại hình dịch vụ hỗ trợ trong điều trị nghiện ma túy.
Một số nghiên cứu về dịch vụ giáo dục – truyền thông Nhiều nghiên cứu của các nhà tâm lý học và xã hội học đã chỉ ra việc sử dụng hay lệ thuộc vào ma túy còn phụ thuộc vào sự tương tác giữa con người và xã hội cũng như hành vi của chúng ta chịu sự ảnh hưởng như thế nào trong xã hội ấy. Tác giả
Becker, Zinberg (1986), “Drug set, and setting, đã nói lên việc sử dụng ma túy trong
bối cảnh và tình huống nhất định, hành vi sử dụng ma túy được xem như hành vi hình
thành từ những kinh nghiệm học hỏi.[112].
12
Theo Craig Reinarman, Harry G. Levine, Harry Levine(1997), “Crack In
America: Demon Drugs and Social Justice” đã đề cập đến thuật ngữ “drug scare- sợ
hãi ma túy” để khẳng định thời kỳ các cuộc thập tự chinh phòng chống ma túy có hiệu
quả và mang tính hợp pháp. Trong cuốn sách cũng phản ánh thời kỳ từ 1986 – 1992 là sự sợ hãi lớn nhất của thế kỷ thứ 20. Các chính trị gia và giới truyền thông đã chấp
nhận và tuyên bố “chiến tranh với ma túy là chính sách xã hội tốt nhất -"War on
Drugs" and pronounced the "drug war" to be good social policy. [113]. Hiện nay, dịch
vụ CTXH được phát triển rất đa dạng và phong phú thể hiện qua các Trung tâm CTXH (Mekong Centre), CTXH trong chăm sóc người tâm thần, trung tâm dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ tâm thần gia đình (Gardner family), Sở bảo vệ và chăm sóc trẻ em… Giới
truyền thông Mỹ cho rằng, CTXH một ngành nghề quan trọng chiếm vị trí thứ 7 trong
10 ngành học không phổ biến nhất mà trang web CareerBuilder.com đưa ra để giúp các sinh viên học tại các trường Đại học, Cao đẳng ở Mỹ tìm những công việc chất
lượng cao dễ dàng hơn sau khi ra trường, vì vậy nghiên cứu về CTXH với người sử
dụng ma túy khá đa dạng và chuyên biệt.
Bộ Y tế và Dịch vụ con người của Mỹ nghiên cứu “You know your right?- Bạn
có biết quyền của mình?” là cuốn sổ tay hướng dẫn các quyền pháp lý cho những
NSDMT, nhất là những người sau cai nghiện, đang trong giai đoạn phục hồi. Họ biết
bảo vệ quyền của mình trước các phân biệt đối xử như: nhà ở, việc làm, hệ thống dịch vụ của chính phủ, y tế, giáo dục hay những dịch vụ xã hội khác.[17]
Nhìn chung, các nghiên cứu tập trung nhiều vào việc tuyên truyền, giáo dục trong
phòng chống ma túy. Ma túy có tác hại khủng khiếp tới con ngưởi, ảnh hưởng trực tiếp tới
mọi mặt của đời sống xã hội. Thế nhưng những nội dung chính trong dịch vụ giáo dục
truyền thông với NSDMT thì NCS chưa tìm thấy nhiều công trình nghiên cứu.
Một số nghiên cứu về dịch vụ tham vấn với người sử dụng ma túy
Bàn về dịch vụ tham vấn trong điều trị nghiện ma túy, hầu hết các tác giả đều
đề cập đến các mô hình, chương trình và các can thiệp nhận thức, hành vi, quản lý
hành vi tích cực giúp người nghiện phục hồi và phòng tránh tái nghiện. Nhóm tác giả Richard Rawson, Jeanne Obert và Mickey McCann (1984), xây dựng “mô hình Matrix- điều trị ngoại trú đối với bệnh nhân lạm dụng các chất gây nghiện và phụ thuộc vào ma túy tổng hợp”[13]. Mô hình này bao gồm: Các chương trình 28 ngày; Các chương trình điều trị nội trú với thời gian linh hoạt; Nhà ở cho những người tỉnh táo, không say; Các chương trình điều trị ngoại trú có quản lý (MM); Chương trình điều trị lồng ghép giữa các dịch vụ Sức khỏe tâm thần và các dịch vụ điều trị nghiện
các chất mà túy tổng hợp; Chăm sóc tại nơi ngụ cư; Nhà ở cho những người không say rượu; Các chương trình điều trị ngoại trú với thời gian điều trị linh hoạt; Các chiến lược can thiệp ngắn; Các nhà chuyên môn điều trị tâm lý cho bệnh nhân ngoại trú; Hệ
13
thống điều trị thuộc tòa án hình sự. Tuy nhiên, NCS nhận thấy có khoảng trống dưới
góc độ CTXH trong điều trị nghiện ma túy đặc biệt là DVCTXH đối với NSDMT.[13]
Nghiên cứu các chiến lược thay đổi, khơi gợi trò chuyện về sự thay đổi hành vi
với người nghiện ma túy, nhóm tác giả Amrhein, P.C., Miller, W.R., Yahne, C.E., Palmer, M., & Fulcher,L. (2003) trong bài viết: “Ngôn ngữ cam kết của bệnh nhân
trong phỏng vấn tạo động lực dự đoán kết quả sử dụng chất gây nghiện”. Tạp chí tư
vấn và tâm lý y học, 71(5), 862-878 nhận định: tư vấn viên khơi gợi càng đưa ra nhiều
lý lẽ để thay đổi thì thân chủ sẽ càng có niêm tin về sự thay đổi là cần thiết, họ có sự cam kết về sự thay đổi và càng có khả năng thật sự thay đổi.[92]
Thêm vào đó, tác giả Corey, G., Corey, M., & Callanan, P. (2011) với bài “Các
vấn đề đạo đức trong chuyên ngành hỗ trợ”, Pacific Grove CA: Brookks/Cole khẳng
định: trong giai đoạn tiền dự định thân chủ chưa cân nhắc tới việc thay đổi, họ có thể không muốn hoặc không thể thay đổi. Do đó tham vấn viên cần giúp họ nâng cao nhận
thức trước khi họ có thể cân nhắc đến việc thay đổi nhằm đưa ra quyết định hợp lý. [92]
Bên cạnh dó, nhóm tác giả Saunder, B., Wilkinson, C., & Allsop,S. (1991) với
“Can thiệp động lực đối với người sử dụng thuốc phiện tham gia điều trị bằng
methadone” trong tác phẩm: “Tiếp cận tạo động lực: Chuẩn bị cho người thay đổi
hành vi nghiện hút” (tr.279-292) của W.R Miller & S.Rollnick (Eds), nhà xuất bản
New York: Guilford Press cho rằng: làm việc với người sử dụng ma túy cân bắt đầu từ lý do sử dụng, nhân viên tham vấn yêu cầu thân chủ trình bày những gì họ thích về sử
dụng chất gây nghiện, thiết lập mối quan hệ tốt, hướng dẫn thân chủ tương tác tự phát
và nói về những điều ít tốt khi sử dụng để giúp thân chủ có quyết định hợp lý. Điều
này rất có ích ở giai đoạn tiền dự định.[92]
Một số công trình nghiên cứu về dịch vụ hỗ trợ NSDMT đã làm rõ được các
biện pháp giúp đỡ người tàn tật, trầm cảm và các yếu tố tâm lý xã hội khác có liên
quan đến người lạm dụng chất gây nghiện và liên quan chặt chẽ với các nhà cung cấp
dịch vụ cộng đồng. Họ sẽ cho phép tuyển dụng và theo dõi những người tham gia theo
thời gian biểu cụ thể. Tác giả Merryle, R.J. & Hunt M.C. (2004), “Sống độc lập, tàn tật về thể xác và lạm dụng chất gây nghiện ở người cao tuổi. Tâm lý học và Người cao tuổi”, 23 (4), 10-22. [66]. Nghiên cứu với mục đích giúp cho người cao tuổi, tàn tật và lạm dụng chất gây nghiện có thể có được cuộc sống độc lập và ứng phó với những thay đổi của cuộc sống. Bằng các phương pháp điều tra và phỏng vấn sâu, nghiên cứu đã khẳng định mối quan hệ gắn kết giữa dịch vụ CTXH với người cao tuổi, người tàn tật có lạm dụng chất gây nghiện. Dịch vụ cộng đồng có ý nghĩa quan trọng đối với duy
trì và đảm bảo cuộc sống độc lập của những người này. Nhóm tác giả Hunt, M.C., Jensen, J.L. và Crenshaw, W. (2007). “Lạm dụng chất gây nghiện và sức khoẻ tâm thần trong số những người già ở cộng đồng”[48]. Tạp chí Quốc tế về Tâm thần Người
14
lớn, 24 (9), 1124-1135. Bài báo này cũng làm rõ mối quan hệ giữa việc lạm dụng chất
gây nghiện và vấn đề sức khỏe tâm thần ở người cao tuổi. Việc lạm dụng chất gây
nghiện ngay từ thời trẻ đã có ảnh hưởng sâu sắc về mặt sức khỏe tâm thần khi con
người trở về già. Vì vậy cần cung cấp cho họ những dịch vụ hỗ trợ trong cộng đồng. Như vậy, do hạn chế của NCS nên chưa tìm được nhiều công trình nghiên cứu chuyên
về tham vấn với người SDMT.
Một số nghiên cứu về dịch vụ hỗ trợ việc làm
Nhóm tác giả Klee H., Hilary Klee L., Lean Mclean và Christian Yavorsky C (2002) đã đề cập tới vấn đề dịch vụ việc làm cho người nghiện sau cai.[135]. Tác giả
đã chỉ ra nhiều khó khăn và những nguy cơ của NSDMT như: Ảnh hưởng của những
trải nghiệm tại trường học và gia đình; Ảnh hưởng của lối sống hiện đại tới nguy cơ sử
dụng ma túy của mỗi cá nhân, mức độ hài lòng của NSDMT đối với dịch vụ xã hội. Họ cảm thấy sợ hãi và chưa sẵn sàng cho một cuộc sống lành mạnh. Họ sợ dịch vụ xã
hội không đáp ứng được nhu cầu của họ; Họ khó khăn trong tiếp cận với dịch vụ việc
làm vì nhà tuyển dụng không tin tưởng vào họ. Với quan niệm này, tác giả đã đề cập
tới dịch vụ việc làm cho người nghiện sau cai nhưng chưa phân tích sâu về hệ thống
dịch vụ việc làm đáp ứng nhu cầu của mỗi người nghiện. Tác giả mới chỉ đề cập tới
những khó khăn, những rào cản trong tìm kiếm việc làm, chưa đánh giá được mức độ
phù hợp của công việc với khả năng của NSDMT.
Nhóm tác giả Bauld L.Hay. G, McKell J and Corroll C(2010), Problem drug
users’ experiences of benefit system, cho rằng hầu hết những NSDMT đều gặp khó khăn
và thiệt thòi trong cuộc sống. Họ là những người vô gia cư, nhiều người phải đối diện
với sức khỏe tâm thần, họ có nguy cơ cao phạm tội. Một số NSDMT hạng nặng như
Heroin và Cocain thì khả năng lao động thấp hơn những người cùng độ tuổi. Người đã
từng sử dụng ma túy ít có cơ hội phát triển. Nghiên cứu đã phân tích kỹ các yếu tố chủ
quan của người sử dụng trong việc tiếp cận dịch vụ việc làm, đa phần họ kém tự tin, có
những vấn đề về sức khỏe thể chất và tinh thần, họ thiếu kiến thức kỹ năng, không có cơ
hội tiếp cận dịch vụ. Tuy nhiên nghiên cứu chưa tìm hiểu sâu về dịch vụ hỗ trợ việc làm cho NSDMT trong lĩnh vực CTXH, nhất là trong việc kết nối giữa cơ sở cung cấp dịch vụ với nhu cầu của người sử dụng ma túy.[111].
Nhóm tác giả Dennis M. L., Krunztzos G. T., McDougal G. L., French M. T., Hubbard R. L (1993), “Developing training and employment programs to meet the need of methadone treatment clients, Evaluation and Program Planning” đã nhấn mạnh dịch vụ điều trị nghiện hiệu quả bằng việc lồng ghép điều trị bằng thuốc và các
chương trình tạo việc làm cho NSDMT. Nghiên cứu đã khẳng định: Việc thiếu kỹ năng làm việc và thiếu cơ hội việc làm sẽ đóng góp vào nguy cơ tái nghiện ma túy và
15
tham gia vào hoạt động tội phạm. Có một công việc ổn định sẽ giúp người nghiện ma
túy sau cai tái hòa nhập cộng đồng bền vững.[123]
Các nghiên cứu về dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
Tại Hoa Kỳ đã khẳng định có 3 biện pháp điều trị sử dụng các chất dạng thuốc phiện (CDTP): (1) điều trị bằng thuốc đồng vận (ví dụ Methadone); (2) điều trị bằng
thuốc đối vận (ví dụ Natrexone); (3) điều trị bằng các chất trên và chất khác (ví dụ
clonidine) để hỗ trợ trong hội chứng cai như là một cách để đưa người bệnh vào
chương trình điều trị. Liệu pháp điều trị duy trì bằng Methadone được chứng minh là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả, đồng thời mang lại cuộc sống ổn định, tốt
đẹp cho người sử dụng các chất dạng thuốc phiện (CDTP). Biện pháp này được thực
hiện từ những năm 1960, tại Mỹ. Đến những năm 2004, dịch vụ điều trị sử dụng bằng
thuốc trên thế giới được thảo luận và vận dụng biện pháp điều trị sử dụng Buprenorphine.
Viện nghiên cứu Hoa Kỳ - (AIR) (2004). “Hướng dẫn lâm sàng về Sử dụng
Buprenorphine trong Điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện. Phác đồ cải thiện điều trị
TIP 40”.[99]. TIP là tài liệu hướng dẫn thực hành tốt nhất trong việc điều trị các rối
loạn do sử dụng chất gây nghiện. Mục tiêu của TIP là cung cấp thông tin cho bác sĩ để
đưa ra quyết định điều trị và thực hành dựa trên bằng chứng khi sử dụng
Buprenorphine điều trị sử dụng các chất dạng thuốc phiện (CDTP). Bên cạnh đó, Mỹ có nhiều chương trình điều trị sử dụng đối với từng loại chất: điều trị sử dụng Heroin,
các loại chất dạng thuốc phiện; hay mô hình và chương trình điều trị sử dụng các loại
ma túy tổng hợp Metamphetamin.
Theo tác giả Fracis Heng (2011), “Social work in the field of drug abuse”. Các
loại chương trình điều trị nghiện ma túy tại Singapore bao gồm: (1) Các chương trình cai
nghiện và quản lý bằng thuốc: (2) Điều trị nội trú ở dài hạn; (3) Điều trị nội trú ngắn
hạn:(4) Điều trị ngoại trú; (5) Tham vấn/Tư vấn cá nhân; (6) Tham vấn nhóm. Dịch vụ
điều trị nghiện bằng các loại thuốc được quản lý bởi đội ngũ bác sĩ trong một môi trường
nội trú hoặc ngoại trú, nó được gọi là quản lý về mặt y tế - (medically managed withdrawal). Mặc dù các dịch vụ cung cấp cho NSDMT rất đa dạng nhưng các nghiên cứu về dịch vụ CTXH với NSDMT chưa thể hiện rõ.[131]
Nghiên cứu về dịch vụ y tế trong điều trị sử dụng chất phải kể đến hai tác giả C. Merryle, R. & Hunt, M.C. (2007), “Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cotinine ở những người sử dụng nicotine lớn tuổi” được in trên “Tạp chí Người cao tuổi, 38 (2), 9-23. PMCID: PMC9002364) cho rằng: Việc duy trì methadone đã được sử dụng để điều trị
người nghiện ma tuý trong nhiều năm nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong thời gian dài, những người được điều trị bằng methadone nhìn nhận họ một cách tiêu cực và họ dần dần bắt đầu coi điều trị là một sự xâm nhập vào cuộc sống bình thường. NSDMT là
16
người cao tuổi đã được chứng minh trong các nghiên cứu dân tộc học được xây dựng
cẩn thận đặc biệt đáp ứng các mạng lưới hỗ trợ xã hội phù hợp, cuối cùng cho phép họ
giảm liều duy trì và chuyển sang các hình thức trị liệu khác. Các nghiên cứu này cũng
chứng minh ý nghĩa chính sách và thương mại liên quan đến những phát hiện này.Tuy nhiên các công trình nghiên cứu của tác giả chưa làm rõ về dịch vụ và phát triển dịch vụ
CTXH nhất là dịch vụ CTXH với NSDMT. [67]
Nghiên cứu của nhóm tác giả Pan S, Jiang H, Du J, Chen H, Li Z, Ling W, et
al. (2015) “Hiệu quả của liệu pháp hành vi nhận thức về sử dụng thuốc phiện và duy trì thuốc thay thế Methadone” khẳng định: Thực tế việc sử dụng thuốc thay thế
Methadone đã được thực hiện ở Trung Quốc, tuy nhiên tỷ lệ sử dụng ma túy bất hợp
pháp và việc bỏ thuốc là rất cao. Mục đích của nghiên cứu nhằm kiểm tra xem việc kết
hợp giữa điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) và điều trị bằng thuốc thay thế Methadone sẽ có thể cải thiện duy trì điều trị và giảm tỷ lệ lạm dụng thuốc phiện.
Bằng các phương pháp nghiên cứu chính như thử nghiệm tác động, so sánh đối chiếu
giữa nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm tác động. Nghiên cứu trên tổng số là 240
bệnh nhân phụ thuộc vào thuốc phiện tại các phòng khám Methadone (MMT) dựa vào
cộng đồng được chọn ngẫu nhiên. Nghiên cứu đã chỉ ra kết luận tham vấn bằng liệu
pháp CBT có hiệu quả trong việc giảm sử dụng thuốc phiện và cải thiện chức năng
việc làm của NSDMT mức độ căng thẳng giảm đối với bệnh nhân sử dụng thuốc phiện đang trong giai đoạn sử dụng thuốc thay thế MMT ở Trung Quốc. Nếu muốn ứng dụng
kết quả nghiên cứu trên các quốc gia khác cần xem xét các yếu tố khác như văn hóa,
phong tục tập quán và luật pháp của mỗi nước.[74].
Một số nghiên cứu về dịch vụ hỗ trợ pháp lý
Bàn về dịch vụ hỗ trợ pháp lý, tác giả Dogoff Feldstein (1980) đưa ra các quan
điểm về chính sách an sinh xã hội và các loại hình dịch vụ xã hội tại Mỹ dành cho các
nhóm đối tượng như người già, cựu chiến binh, người tâm thần. Mỗi nhóm đối tượng
có nhu cầu và mức độ sử dụng dịch vụ là khác nhau, vì thế chính sách an sinh phải phù
hợp với nhu cầu và mong muốn của mỗi nhóm và phù hợp với thực tiễn đất nước. Những nghiên cứu của Haward S. và David C., (1999) đưa ra cách tiếp cận về dịch vụ con người và an sinh xã hội với những dịch vụ tương ứng trong xã hội. Tác giả nhấn mạnh đến việc đào tạo đội ngũ cung cấp dịch vụ cần được trang bị kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Các cách tiếp cận về dịch vụ cho con người cần phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng và mong muốn của mỗi nhóm đối tượng khác nhau [62].
Tại Thái Lan, các chính sách chương trình điều trị sử dụng ma túy bao gồm cả cơ sở thuộc Bộ Y tế và không trực thuộc Bộ Y Tế. “Việc điều trị và phục hồi cho NSDMT”, vào năm 2010 có 5.578 cơ sở điều trị sử dụng, trong đó 5.296 (95%) cơ sở
17
thuộc Bộ Y tế quản lý và 282 (5%) cơ sở không trực thuộc Bộ Y tế. Việc điều trị -
phục hồi cho NSDMT ở Thái Lan được thực hiện theo 3 hình thức: (1) Điều trị nghiện
tự nguyện: (2) Điều trị nghiện mang tính cải tạo: (3) Điều trị nghiện bắt buộc. Bắt đầu
từ năm 2002 tình hình sử dụng các chất kích thích dạng Amphetamine - ATS (hay ma túy tổng hợp) ngày càng trở nên nghiêm trọng tại Thái Lan và NSDMT tổng hợp hầu
hết không phải chịu hội chứng cai, không nhận thức hết được tác hại của ma túy tổng
hợp lên sức khỏe con người, nhất là lên sức khỏe tâm thần của người sử dụng. Nhiều
trường hợp dùng ma túy tổng hợp lâu ngày bị dẫn tới mắc bệnh tâm thần và có các hành vi làm nguy hại tới tính mạng của bản thân, của người khác và với an ninh của
cộng đồng của xã hội nói chung. Đây cũng là vấn đề quan trọng và phức tạp khiến
Thái Lan cần thảo luận một hệ thống chính sách, pháp luật trong việc tiếp cận và hỗ
trợ NSDMT [21].
Nhìn chung, các nghiên cứu về dịch vụ điều trị nghiện chất cho thấy hầu hết
đều đề cập nhiều đến dịch vụ điều trị nghiện bằng thuốc, gắn với Y học và tâm lý, xã
hội nhiều hơn. Đồng thời các công trình nghiên cứu đã làm rõ điều trị nghiện nói
chung, nhận thức và lý giải về hành vi nghiện ma túy. Có nhiều chương trình mang lại
những lợi ích đáng kể trong quá trình điều trị nghiện ma túy bao gồm cả chương trình
ngoại trú và nội trú. Tuy nhiên, dưới góc độ CTXH, NCS chưa tìm thấy nhiều công
trình nghiên cứu về dịch vụ CTXH trong cai nghiện ma túy. Vì vậy để tăng cường hiệu quả trong điều trị nghiện ma túy thì nghiên cứu về hệ thống dịch vụ CTXH với người
sự dụng ma túy nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống tài liệu, giáo trình, bài giảng và
ứng dụng vào thực tiễn nghề CTXH là vô cùng quan trọng.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.2.1. Một số nghiên cứu về ma túy, người sử dụng ma túy Các nghiên cứu về ma túy, NSDMT phải kể đến Cục phòng chống tội phạm ma
túy thuộc Bộ quốc phòng, Bộ Công An, Cục phòng chống tệ nạn xã hội, Các Chi cục phòng
chống tệ nạn xã hội và một số tổ chức như Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm
(UNODC) Việt Nam, Viện phát triển xã hội (ISDS), Trung tâm hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng (SCDI), CFSI… Đồng thời phải kể đến các tác giả như Nguyễn Hữu Khánh Duy, Phan Thị Mai Hương (2005); Trần Nhu- Hồ Bá Thâm (2008), Bùi Thị Xuân Mai- Tố Như; Tiêu Thị Minh Hường, Nguyễn Thị Bích Điểm, Lê Trung Tuấn, Vũ Đức Việt…
Tác giả Phan Thị Mai Hương (2005), Tìm hiểu đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh xã hội của thanh niên nghiện ma túy và mối tương quan giữa chúng, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Viện Tâm lý học (Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu và phương pháp
thực nghiệm tìm hiểu đặc điểm nhân cách cũng như hoàn cảnh của thanh niên nghiện ma
túy. Kết quả nghiên cứu đã thể hiện rõ với thanh niên nghiện ma túy có đặc điểm tâm lý,
18
nhân cách đặc thù, nhiều nét tính cách mạnh mẽ. Điều này có liên quan trực tiếp đến hoàn
cảnh sống, môi trường xã hội mà thanh niên đó sinh sống và tham gia các hoạt động, mối
quan hệ giữa các đặc điểm với hành vi sử dụng. [52]
Tìm hiểu về đặc điểm của người nghiện ma túy, tác giả Mai Xuân Phương
(2013), “Đặc điểm tâm sinh lý và kỹ năng tiếp cận người nghiện ma túy” đã khẳng
định: đa phần người sử dụng có sự biển đổi về nhân cách do sự lệ thuộc vào ma túy về
mặt tâm thần và thể chất hoặc bị lệ thuộc cả hai. Khi người sử dụng có đủ ma túy để
dùng thì họ cảm thấy thoải mái, sảng khoái nhưng khi không có nó thì họ thường cau
có, bực bội hoặc cô độc, u sầu, mệt mỏi, giảm hứng thú, nhân cách bị thu hẹp, cách cư
xử trở nên thô lỗ. Tùy thuộc vào từng loại chất kích thích mà những biến đổi đến tâm
sinh lý có khác nhau ở từng người sử dụng khác nhau. Người nghiện ma túy kể từ khi
bắt đầu thực hiện cắt cơn và giải độc cho đến khi có thể phục hồi được chia làm 5 giai
đoạn như sau: Giai đoạn cắt cơn (từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 15); Giai đoạn lạc quan
tếu (từ ngày thứ 16 đến ngày thứ 45); Giai đoạn bế tắc (từ ngày thứ 46 đến ngày thứ
120); Giai đoạn tự điều chỉnh (từ ngày thứ 121 đến ngày thứ 180); Giai đoạn bắt đầu
phục hồi tâm sinh lý (trên 180 ngày. [75]
Nghiên cứu về nhu cầu, các nguyên nhân và cơ chế trị liệu cho NSDMT, tác giả
Trần Nhu, Hồ Bá Thâm (2008), “Quản lý, dạy nghề và phục hồi nhân cách cho người
sau cai nghiện vấn đề và kinh nghiệm ở Thành phố Hồ Chí Minh” đã khẳng định: Việc
sử dụng ma túy có thể do các xung đột, rối nhiễu từ gia đình ly hôn, gia đình có bạo hành,
bạo lực…Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những nguyên nhân bên ngoài và bên trong dẫn
đến lệ thuộc vào ma túy. Đồng thời, nghiên cứu đã nhấn mạnh nhu cầu của NSDMT rất
lớn, hầu như họ mong muốn được thỏa mãn cả về tâm, sinh lý và xã hôi, về cả vật chất
cũng như tinh thần, nhất là nhu cầu học nghề. Nghiên cứu đã khẳng định tính thực tiễn
cao từ các cai sử dụng ma túy, sử dụng lao động trị liệu là như một biện pháp trị liệu hành
vi cho người nghiện sau cai. Tuy nhiên, công trình này chưa đi sâu nghiên cứu về liệu
pháp trị liệu dưới góc độ CTXH, nhất là nghiên cứu theo hướng dịch vụ.[70]
Bên cạnh đó tác giả Vũ Đức Việt (2013), với đề tài “Nghiên cứu mạng lưới hỗ
trợ giữa những người nghiện chích ma túy tại Việt nam” đã bàn nhiều về mạng lưới hỗ
trợ điều trị sử dụng ma túy. Mục đích của nghiên cứu là nâng cao hiểu biết về cơ cấu
và vai trò của mạng lưới hỗ trợ xã hội giữa những người nghiện chích ma túy trong các
hành vi có liên quan đến việc phòng chống, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS nhằm
cung cấp các khuyến nghị thích hợp cho các can thiệp điều trị sử dụng ma túy [97].
Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đề cập đến DVCTXH với NSDMT.
19
1.2.2. Một số nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng
ma túy
*Nghiên cứu về dịch vụ giáo dục – truyền thông
Một số công trình nghiên cứu trong nước cũng khẳng định: nhận thức việc sử dụng dịch vụ điều trị nghiện ma túy tại Việt Nam còn chưa cao, các liệu pháp điều trị
nghiện còn hạn chế. Viện nghiên cứu tâm lý NSDMT, Trung tâm PSD (2014) nghiên
cứu đề tài: “Nhận thức của học sinh, sinh viên về các hoạt động truyền thông phòng
chống ma túy trong trường học”. Nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế nhất định trong nhận thức của học sinh, sinh viên về các hoạt động tuyền truyền phòng chống ma túy
là do nhiều yếu tố tác động từ bản thân, gia đình nhà trường và xã hội. Tuy nhiên
nghiên cứu chưa đề cập đến các dịch vụ CTXH trong phòng chống ma túy. Đồng thời
nghiên cứu cũng chưa đề cập đến các dịch vụ CTXH với NSDMT như thế nào là hiệu quả.[83]
Viện Nghiên cứu và Phát triển xã hội (ISDS) (2011), Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với NSDMT (Tài liệu hướng dẫn hoạt động), Nxb Thanh niên, Hà Nội. [93]. Tài
liệu đã khẳng định NSDMT phải chịu nhiều thiệt thòi từ những biểu hiện, thái độ kỳ
thị bên ngoài, đồng thời bản thân họ tự kỳ thị mình, họ có cảm giác bị kỳ thị rất lớn.
Do đó, chúng ta cần có những biện pháp giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với NSDMT.
Bên cạnh đó, Viện nghiên cứu và Phát triển xã hội còn phối hợp với Trường Đại học
Lao động xã hội (2012) xây dựng cuốn tài liệu về “Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với
các nhóm thiệt thòi tại Việt Nam”[98]. Cuốn sách đã đề cập đến nội dung kỳ thị và
phân biệt đối xử đối với NSDMT. NSDMT phải chịu đựng nhiều loại hình kỳ thị từ
bên trong cảm nhận đến bên ngoài, kỳ thị về mặt đạo đức, thể chất.v.v…Trong nội
dung này có đề cập đến một số mô hình và các dịch vụ trợ giúp NSDMT như: Mô hình
câu lạc bộ “Bạn giúp bạn” ở bản Quyết Tiến, xã Búng Lao, huyện Mường Ảng tỉnh
Điện Biên; Câu lạc bộ B39 ở phường Trung Trực, phường Thành Công, …quận Ba
Đình thành phố Hà Nội…; Mô hình cai nghiện tại cộng đồng và quản lý sau cai của
tỉnh Sơn La; Mô hình cai nghiện theo cụm xã cho đồng bào dân tộc vùng cao ở tỉnh Lào Cai: Mô hình các câu lạc bộ giúp đỡ người sử dụng cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng được triển khai ở gần 600 xã, phường, thị trấn thuộc các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng như: Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Ninh Bình, Hải Dương, Thái Bình, Nghệ An, Thanh Hoá, Hoà Bình, Cần Thơ, An Giang, Đà Nẵng, Khánh Hoà...; Cai nghiện tại Trung tâm; Tư vấn, giáo dục, phục hồi hành vi nhân cách:
Các chương trình tư vấn được triển khai gồm có: tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm, tư vấn
gia đình; Hoạt động dạy nghề nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tăng cơ hội tìm việc
làm hoặc tự tạo việc làm, ổn định cuộc sống khi trở về tái hòa nhập cộng đồng.
20
Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội (2008) với Đề tài khoa học: “Nghiên cứu các biện
pháp giáo dục phòng chống ma túy trong các trường học” đã chỉ ra thực trạng của công
tác giáo dục trong các trường trên địa bàn Hà Nội, đặc biệt với các nội dung mang
tính giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong đó nhấn mạnh đến cải cách chương trình học, đưa các nội dung về phòng, chống ma tuý và chương trình học phổ thông. Đây là một
giải pháp quan trọng nhằm nâng cao nhận thức cho nhà giáo dục và học sinh, góp phần
phòng ngừa tệ nạn ma tuý xảy ra trong các trường học.[95]
Công tác phòng, chống ma túy trong thanh niên, học sinh, sinh viên và trường học có nhiều đề tài, dự án thực hiện. Trung ương đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh (1995) đã thực hiện đề tài nghiên cứu: “Tổng luận phân tích về phòng chống lạm
dụng ma túy trong thanh niên và những giải pháp của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh tham gia phòng chống ma túy trong thanh niên"[90]. Đề tài sử dụng phương pháp điều tra khảo sát thực trạng lạm dụng ma túy đối với thanh niên cả nước, đồng
thời kết hợp phân tích báo cáo số liệu của các tỉnh Đoàn. Tuy nhiên, đề tài mới đề xuất
nhóm giải pháp cơ bản trong công tác tuyên truyền phòng ngừa, chưa có nhóm giải
pháp phối hợp để khắc phục những hậu quả do thanh niên sử dụng ma tuý gây ra như
công tác cai nghiện, công tác quản lý sau cai phòng ngừa tái sử dụng bền vững. Đặc
biệt, nghiên cứu không đề cập đến dịch vụ cũng như hệ thống dịch vụ CTXH đối với
NSDMT.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội (2008) với đề tài
khoa học “Tình hình lạm dụng ma túy trong sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung cấp chuyên nghiệp - Một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn” đã nhận định
thực trạng sử dụng hút ma tuý trong sinh viên có nhiều diễn biến phức tạp tình trạng
lạm dụng các chất gây nghiện ngày càng gia tăng. Qua nghiên cứu thực trạng có đề
xuất một số giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhưng các giải pháp chủ yếu tập trung
vào vai trò của nhà trường và tổ chức Đoàn, chưa đề xuất được nhóm giải pháp có tính
chiều sâu như công tác quản lý sinh viên giữa nhà trường, gia đình và nơi cư trú,
tạm trú; chương trình sinh viên tham gia các hoạt động CTXH, tình nguyện, công tác hướng nghiệp cho sinh viên...Đồng thời, đề tài nghiên cứu chưa đề cập đến DVCTXH với NSDMT.[34].
Nguyễn Thị Bích Điểm (2007) với đề tài cấp Bộ: “Những giải pháp thực hiện việc ngăn chặn tệ nạn mại dâm, ma túy trong thanh thiếu niên” đã đánh giá được cơ bản thực trạng sử dụng ma túy trong thanh thiếu niện Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng ngừa hiện trạng sử dụng ma túy. Thực tế, đề tài chưa tách biệt được thực
trạng sử dụng ma tuý trong nhóm thiếu niên và nhóm thanh niên, do đó đề tài cũng chỉ đề xuất được các giải pháp phòng ngừa chung cho cả thanh niên và thiếu niên, chưa đề xuất được nhóm giải pháp phòng chống ma túy và khắc phục hậu quả của tình trạng sử
21
dụng ma túy trong thanh thiếu niên.[33]. Nhưng nghiên cứu không đề cập đến dịch vụ
CTXH với NSDMT dưới góc độ CTXH.
* Một số nghiên cứu về dịch vụ tham vấn
Bàn về dịch vụ tham vấn trong hỗ trợ điều trị sử dụng ma túy, phải kể đến các tác giả Nguyễn Hữu Khánh Duy, Nguyễn Văn Khuê, Trist Summerfield (2002), “Liệu pháp
giáo dục tâm lý xã hội cho NSDMT”, Tập 3, Tài liệu tập huấn công ty TNHH và cai
nghiện ma túy Thanh Đa, Thành phố Hồ Chí Minh[30]. Nhóm tác giả khẳng định: “điều
trị cai nghiện ma túy cần và rất cần đến liệu pháp giáo dục và tư vấn tâm lý”. Vì vậy, chúng ta cần đầu tư cho việc đào tạo và giáo dục đội ngũ cán bộ làm việc với NSDMT
một cách chuyên sâu, bài bản, đặc biệt cần tăng cường đào tạo kỹ năng tư vấn tâm lý.
Tham vấn điều trị nghiện được tác giả Bùi Thị Xuân Mai và Nguyễn Tố Như
thể hiện rõ về mặt lý luận trong tài liệu “Tham vấn Điều trị nghiện ma túy” (2013) tại Việt Nam. Tài liệu này đã cung cấp các vấn đề liên quan đến hoạt động điều trị nghiện
ma túy có sự tham gia trợ giúp của nhân viên xã hội/nhà tham vấn từ nguyên tắc, quy
trình cũng như các kỹ năng tham vấn điều trị nghiện.[61]
Tác giả Lê Trung Tuấn (2014) và các cộng sự đã xây dựng phương pháp phòng
chống tái nghiện ban đầu có tên là “Xóa bỏ sự lệ thuộc vào ma túy bằng ngôn ngữ tình
cảm” và được giới thiệu tới các nhà chuyên môn, các nhà quản lý và cộng đồng xã hội
trong Hội thảo “Một số nghiên cứu mới trong lĩnh vực phòng ngừa và chống tái nghiện ma túy” do Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ tâm lý cho NSDMT (nay là Viện nghiên
cứu tâm lý NSDMT) phối hợp với Tạp chí Trí thức và Phát triển - Cơ quan ngôn luận
của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội tổ chức ngày 26/11/2014. Ngày
13.1.2016, PSD đã công bố kết quả nghiên cứu khoa học: “Nguyên nhân tái nghiện ma
túy và phương pháp mới dự phòng tái nghiện”[84]. Trong bối cảnh ma tuý đang là một
vấn đề nhức nhối của xã hội, với những tác hại và hậu quả gây ảnh hưởng đến các khía
cạnh của đời sống con người, việc thực hiện nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong
công tác phòng chống ma tuý quốc gia. Lê Trung Tuấn (2016) và cộng sự thực hiện đề
tài “Chống tái nghiện ma túy bằng liệu pháp tâm lý” và một lần nữa được Hội đồng nghiệm thu của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội đánh giá xuất sắc ngày 08/8/2016. Có thể nói, đề tài này là sự tổng kết và kế thừa những kết quả nghiên cứu từ trước tới nay. Từ đó, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu chuyên sâu ở giai đoạn tiếp theo.[85].
* Một số nghiên cứu về dịch vụ việc làm đối với ngưởi sử dụng ma túy. Tác giả Nguyễn Văn Minh và cộng sự (2004), Các giải pháp tạo việc làm tại cộng
đồng cho NSDMT, người mại dâm sau khi chữa trị phục hồi, Đề tài cấp Bộ, Cục phòng chống tệ nạn xã hội- Bộ LĐTB&XH, Hà Nội.[64]. Tác giả đã đề cập rất sâu và rộng tới loại hình công việc phù hợp cho NSDMT, người mại dâm sau khi chữa trị, phục hồi tại
22
cộng đồng. Căn cứ trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số giải pháp hữu hiệu
trong quá trình tạo việc làm cho người sau cai và người mại dâm tại cộng đồng. Như vậy
đề tài mới chỉ đề cập đến giải pháp cho người nghiện sau cai, chưa đề cập nhiều đến
DVCTXH dưới góc độ nghiên cứu của CTXH.
Tác giả Tiêu Thị Minh Hường (2014), Luận án tiến sĩ với đề tài nghiên cứu:
“Nhu cầu việc làm của người nghiện ma túy sau cai”đã làm rõ người nghiện ma túy
sau khi cai nghiện có những nhu cầu cơ bản và cần thiết với các mức độ khác nhau về
việc làm nhằm dự phòng tái nghiện, tăng mức thu nhập và ổn định cuộc sống [55]. Có rất nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng đến hiệu quả việc làm đối với người sau cai, khắc
phục được khó khăn từ các yếu tố này sẽ giúp người cai nghiện có được việc làm ổn
định, nâng cao chất lượng sống của họ và “giữ sạch” trong cuộc đời. Tác giả đã tiến
hành nghiên cứu thực nghiệm so sánh giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. Kết quả khẳng định rõ việc thực nghiệm tác động về dịch vụ việc làm trên nhóm thực
nghiệm có hiệu quả hơn đối với người nghiện ma túy sau cai. Thực tế, nghiên cứu đã
đề cập tới dịch vụ việc làm cho NSDMT sau cai, nhưng chủ yếu tập trung nghiên cứu
nhu cầu của họ và phân loại theo mức độ nhu cầu mà không đi sâu phân tích và hệ
thống hóa các dịch vụ việc làm, hay cách thức cung cấp dịch vụ và hiệu quả của dịch
vụ như thế nào. Đồng thời nghiên cứu chưa đánh giá được tác động của việc làm và
hiệu quả của dịch vụ việc làm đối với người nghiện ma túy sau cai.
Về quản lý cai nghiện và sau cai, tác giả Nguyễn Thành Công (2003) với đề tài
“Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau
cai” đã làm rõ những hạn chế, tồn tại và đề xuất giải pháp khắc phục. Bằng một số
phương pháp nghiên cứu, nhất là phương pháp điều tra, đề tài đã chỉ rõ thực trạng và
phân tích nguyên nhân sử dụng ma túy, những hạn chế, tồn tại của công tác quản lý cai
nghiện và quản lý sau cai, những bất cập trong các quy định của văn bản pháp luật về
cai nghiện ma túy và quản lý sau cai, đề xuất các biện pháp khắc phục nhằm đạt hiệu
quả của quá trình cai nghiện. Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu về dịch vụ
CTXH đối với NSDMT.[26]. Tác giả Lê Hồng Minh (2010), với đề tài “Tổ chức chương trình tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện ở Thành phố Hồ Chí Minh” cũng đã làm rõ được tầm quan trọng và chỉ ra thực trạng của tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai, từ đó đề xuất những giải pháp hữu hiệu. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa làm rõ về dịch vụ việc làm dưới góc độ CTXH.[65]
* Một số nghiên cứu dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế Tác giả Phú Kiều (2016) với đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu triển khai, đánh
giá hiệu quả của thuốc Cedemex trong hỗ trợ điều trị nghiện ma túy nhóm Opiates tại cộng đồng”. Kết quả của nghiên cứu đã khẳng định: “.. Cedemex có tính an toàn và hiệu lực trong hỗ trợ cắt cơn nghiện ma tuý, bình ổn được nhiều triệu chứng của Hội
23
chứng cai, đặc biệt là hai triệu chứng Thèm đói ma tuý và Dị cảm (dòi bò ), so với
thuốc an thần kinh Cedemex có dụng tốt hơn với P<0,05 ..”. Do những ưu điểm trên,
để tìm hiểu cơ chế tác dụng của Cedemex trong hỗ trợ cắt cơn nghiện ma tuý nhóm
Opiates, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ký với Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đề tài “Nghiên cứu cơ chế và bào chế tinh thuốc Cedemex” theo Nghị
định thư khoá V từ 2004-2007.[58].
Dự án “so sánh hiệu quả của Suboxone và Methadone trên bệnh nhân HIV có
nghiện ma túy tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú ở Việt Nam(Dự án Suboxone)”(Dự án hợp tác với Đại học sức khỏe và khoa học Oregon). Mục tiêu chung nhằm so sánh hiệu
quả của hai biện pháp điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện: điều trị với Suboxone tại
phòng khám ngoại trú HIV và chuyển gửi điều trị Methadone lên mức độ tham gia
điều trị và hiệu quả điều trị HIV tại Việt Nam. Mục tiêu cụ thể:(1) Đánh giá tác động của điều trị BUP/NX tại phòng khám (n=225) so với chuyển gửi điều trị Methadone
(n=225) lên mức độ tham gia và hiệu quả điều trị HIV ở bệnh nhân nhiễm HIV sử
dụng chất dạng thuốc phiện.(2) Đánh giá tác động của điều trị BUP/NX tại phòng
khám so với chuyển gửi điều trị Methadone lên việc sử dụng chất dạng thuốc phiện
của bệnh nhân HIV sử dụng chất dạng thuốc phiện.(3) Đánh giá kinh nghiệm triển
khai điều trị BUP/NX tạo cơ sở cho việc mở rộng điều trị BUP/NX tại phòng khám
trên toàn quốc. [27].
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS (CREATA) - Đại học Y Hà Nội
(2013)“Thực trạng và nhu cầu lồng ghép can thiệp và điều trị sử dụng chất tại các cơ sở
điều trị ngoại trú HIV ở Hà Nội năm 2013”. Việc triển khai nghiên cứu này nhằm thu
thập các bằng chứng bước đầu quan trọng để phục vụ cho việc phát triển các can thiệp và
xây dựng chính sách nhằm cải thiện việc phát hiện và điều trị các vấn đề lệ thuộc chất gây
nghiện cho những bệnh nhân vừa nhiễm HIV vừa mắc các vấn đề rối loạn do sử dụng
chất, từ đó nâng cao chất lượng điều trị HIV cũng như tiết kiệm chi phí chung cho chương
trình phòng chống HIV/AIDS quốc gia.[91].
* Nghiên cứu về dịch vụ hỗ trợ pháp lý Các nghiên cứu về hệ thống chính sách phòng chống ma túy và đánh giá hiệu quả thực hiện cũng đóng góp đáng kể vào cải thiện hệ thống dịch vụ xã hội cho NSDMT.Theo Lê Hữu Việt (2017), “Nghiên cứu lập tòa án ma túy, xem xét ma túy là một bệnh”, ông Nguyễn Xuân Lập- Cục trường Cục Phòng chống tệ nạn xã hội phát biểu tại “Tọa đàm Hiểm họa ma túy, diễn ra sáng 14/6/2017.: “Việc đổi mới về nhận thức xã hội về sử dụng ma túy rất cần thiết". Hiện nay, Cục Phòng chống Tệ nạn Xã
hội đang phối hợp các tổ chức quốc tế nghiên cứu mô hình tòa án ma túy "Thủ tướng đã giao Tòa án Nhân dân Tối cao phối hợp cùng chúng tôi nghiên cứu để sớm hình thành tòa án ma túy ở Việt Nam”.[81]
24
Dự án FHI-AP (2014),“Nghiên cứu hệ thống chính sách phòng chống ma túy và
đánh giá hiệu quả thực hiện một số chính sách ma túy tại Thành phố Hải Phòng từ
2012-2014” (Dự án FHI-AP) do Trung tâm nghiên cứu và đào tạo HIV/AIDS
(CREATA), Trường Đại Học Y Hà Nội thực hiện. Mục tiêu chính của dự án đánh giá hiệu quả của các dịch vụ dành cho NSDMT tại Hải Phòng nhằm cung cấp cơ sở khoa
học cho việc thay đổi chính sách và cải thiện các dịch vụ xã hội dành cho NSDMT tại
cấp địa phương cũng như trên toàn quốc. Kết quả dự án thực hiện: (1) mô tả quá trình
thay đổi chính sách liên quan đến ma túy ở Việt Nam và những tác động của nó ở cấp độ địa phương nhằm đánh giá những thuận lợi và thách thức trong việc thực hiện các
chính sách về phòng chống ma túy tại địa phương; (2)So sánh chi phí-hiệu quả của mô
hình trung tâm cai sử dụng tập trung và mô hình điều trị thay thế bằng Methadone tại
cộng đồng ở thành phố Hải Phòng,Việt Nam. Kết quả của các nghiên cứu trong dự án này đã được trình bày trong hội thảo quốc gia chính sách ma túy do Văn phòng chính
phủ tổ chức vào năm 2014. Ngoài ra, dữ liệu nghiên cứu còn được sử dụng trong việc
viết các báo cáo khoa học, các bài báo đăng trên các tạp chí trong nước và quốc tế có
tính ứng dụng trong công tác tăng cường tiếp cận dịch vụ y tế và xã hội cho NSDMT
cũng như có thể được sử dụng trong các đề tài nghiên cứu tiến sỹ, thạc sỹ và sinh viên
đại học của trường Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu này đã đánh giá hiệu quả của việc
cung cấp dịch vụ xã hội cho NSDMT, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu và phân tích hệ thống dịch vụ CTXH cho NSDMT, nhất là tại các CSCN.[35].
Trong những năm gần đây, từ 2008 đến nay, CTXH trong lĩnh vực điều trị cai
nghiện được quan tâm nhiều hơn và được giảng dạy chính thức trong các trường Đại
học, Cao đẳng như bộ tài liệu gồm 5 cuốn tài liệu do Tổ chức FHI và Trường Đại học
Lao động thực hiện như: Tham vấn điều trị nghiện, Quản lý trường hợp với NSDMT,
Ma túy và xã hội. Một số cách can thiệp được thể hiện trong các tác phẩm: Tham vấn
tâm lý của tác giả Trần Thị Minh Đức, hay Tham vấn của tác giả Bùi Thị Xuân Mai...
Một số tổ chức và cá nhân quan tâm, nghiên cứu và thực hiện tư vấn điều trị nghiện ma
túy như tổ chức, UNODC, FHI Việt Nam, Tổ chức SCDI, Cục phòng chống tệ nạn xã hội, Viện Phát triển xã hội (ISDS), các khoa CTXH của các trường Đại học, Cao đẳng. Về dịch vụ điều trị nghiện, trong bộ tài liệu tập huấn của SCDI (2016) đã bàn nhiều, nhất là dịch vụ toàn diện trong điều trị sử dụng ma túy. Bộ tài liệu bao gồm 3 nội dung chính về kiến thức chung về ma túy và tình hình đổi mới công tác cai nghiện ma túy tại Việt Nam; tư vấn điều trị nghiện ma túy và Hỗ trợ xã hội. Trong cuốn tư vấn điều trị nghiện ma túy có đề cập nguyên tắc, quy trình và các dịch vụ cơ bản trong điều trị nghiện ma túy, các
can thiệp với NSDMT, đặc biệt là mô hình điểm tư vấn, chăm sóc điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng.[94]. Tuy nhiên, dưới góc độ CTXH với NSDMT chưa đề cập đến nhiều.Vì vậy, đây là lĩnh vực cần được quan tâm nghiên cứu sâu hơn.
25
Nhìn chung, những đề tài trên nghiên cứu tệ nạn ma túy ở góc độ rộng, nó bao gồm
cả tình trạng sử dụng ma túy, tội phạm về ma túy và các hành vi trái phép khác về ma túy,
ít nhiều đã đề cập và đưa ra các giải pháp phòng, chống tệ nạn ma túy nói chung. Mỗi
quốc gia, mỗi lĩnh vực, mỗi ngành nghề đều có những công trình nghiên cứu, các tác phẩm và ấn phẩm, tạp chí công bố về kết quả nghiên cứu.
Đa phần các công trình nghiên cứu, các bài báo, tạp chí đều có những quan điểm
về nghiện, điều trị nghiện hay các hoạt động dịch vụ hỗ trợ điều trị nghiện ma túy. Bằng
các phương pháp nghiên cứu và đo lường khoa học, các công trình đã khái quát được hệ thống lý luận về chất gây nghiện, đặc điểm, nhu cầu của NSDMT, mối quan hệ giữa
chất gây nghiện và xã hội, các chương trình điều trị phục hồi, tư vấn điều trị nghiện,
hiệu quả của công tác điều trị nghiện ma túy… Đồng thời các công trình nghiên cứu, các
tài liệu, bài giảng cũng ít nhiều đã đề cập tới hệ thống dịch vụ hỗ trợ điều trị nghiện ma túy dưới góc độ y học, tâm lý và xã hội, mô hình điều trị toàn diện, tư vấn, chăm sóc
người nghiện ma túy tại cộng đồng.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu còn chỉ ra tầm quan trọng trong việc cung cấp các
hoạt động CTXH cho người ngiện ma túy như dịch trị liệu tâm lý, can thiệp dự phòng
tái nghiện cho người nghiện ma túy, và gia đình, cộng đồng. Hơn nữa, các tác giả
cũng đề xuất nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả, mạng lưới dịch vụ, mô hình CTXH
để hỗ trợ những đối tượng khó khăn, yếu thế.
Trong điều kiện nguồn tài liệu khoa học phục vụ nghiên cứu đề tài dịch vụ
CTXH đối với NSDMT tại Việt Nam còn quá ít trên cơ sở tham khảo các tư liệu mà
luận án thu thập được, kết hợp với quá trình làm việc với các CSCN, NCS có những
hiểu biết thực tiễn về các dịch vụ CTXH đối với NSDMT, cũng như các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả cung cấp các dịch vụ CTXH, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm
hiệu quả trong cung cấp dịch vụ CTXH với NSDMT. Dưới góc độ về CTXH, NCS
chưa tìm thấy nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực dịch vụ CTXH, dịch vụ tham
vấn nhóm trong điều trị nghiện ma túy thì chưa được nghiên cứu sâu sắc, nhất là đối
với Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu về lĩnh vực dịch vụ CTXH, nhất là dịch vụ tham vấn nhóm là rất quan trọng, cấp bách cần giải quyết không chỉ riêng các CSCN và cả nước nói chung. Nghiên cứu về dịch vụ CTXH đối với NSDMT sẽ có ý nghĩa quan trọng về mặt khoa học cũng như thực tiễn công tác quản lý trong lĩnh vực an sinh xã hội. Đó cũng là mục tiêu hàng đầu trong lộ trình phát triển đất nước, đảm bảo nền an sinh xã hội và sánh vai với các cường quốc năm Châu.
26
Tiểu kết chƣơng 1
Nói chung, nội dung chương 1 đã tổng quan các công trình nghiên cứu của tác
giả trong và ngoài nước về chủ đề ma túy, NSDMT cũng như dịch vụ CTXH đối với
NSDMT. Nội dung tổng quan thể hiện qua các loại hình dịch vụ CTXH như dịch vụ giáo dục, truyền thông, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế, dịch vụ tham vấn, dịch vụ học
nghề, tìm việc làm, dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Do chủ đề nghiên cứu dịch vụ CTXH đối
với NSDMT rất rộng cho nên trong quá trình tìm hiểu, các nghiên cứu và công trình
mà tác giả sưu tầm còn hạn chế. Nhưng qua tổng quan cho thấy có một số nội dung chưa được đề cập đến: Nghiên cứu về vai trò, tầm quan trọng của CTXH cá nhân,
CTXH nhóm với NSDMT; Nghiên cứu về dịch vụ CTXH với NSDMT; Nghiên cứu về
các yếu tố tác động ảnh hưởng đến hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT;
Nghiên cứu về nhu cầu, nguyện vọng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CTXH của người thân, người hỗ trợ; nghiên cứu về năng lực hỗ trợ và cung cấp hệ thống dịch vụ của đội
ngũ NVCTXH trong điều trị sử dụng ma túy... Những tài liệu, nghiên cứu của tác giả
trong và ngoài nước đã thực hiện là tài liệu tham khảo quan trọng và bổ ích để tác giả
đi sâu thực hiện nghiên cứu, giải quyết vấn đề về thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH
đối với NSDMT, phát hiện những tố tác động ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT, áp dụng tham vấn nhóm trong quá trình cai
nghiện ma túy. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT.
27
Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY
2.1 Lý luận chung về ma túy và ngƣời sử dụng ma túy
2.1.1 Khái niệm ma túy và tác hại của ma túy
* Khái niệm ma túy
Thuật ngữ “ma túy” được các nhà khoa học định nghĩa là các chất có cả nguồn gốc
tự nhiên, bán tổng hợp và tổng hợp: “Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên
(morphin...); bán tổng hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng hợp (Các
loại ma túy tổng hợp từ hóa chất độc hại thuộc nhóm amphetamin, ketamin,
methamphetamin…) có tác dụng lên thần kinh trung ương gây cảm giác như giảm
đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì sẽ phải nghiện lại nó
nếu không sẽ rất khó chịu”[43]. Điều 2, Luật phòng chống ma túy năm 2000, sửa đổi, bổ
sung năm 2008, 2013 khẳng định: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần
được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”. (Danh mục theo Nghị định
60/2020NĐ-CP ngày 29/5/2020 sửa đổi, bổ sung danh mục các chất ma túy và tiền chất
ban hành kèm tho nghị định sô 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của chính phủ
quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất)
Ma túy có nhiều loại, nhiều dạng khác nhau, khi sử dụng nó làm thay đổi trạng
thái, ý thức, trí tuệ và tâm trạng của người sử dụng khiến cho họ có cảm giác giảm đau,
dễ chịu, lâng lâng, phê sướng… và không tự chủ được hành vi của bản thân, có thể sao
nhãng các thú vui sở thích khác ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử dụng và cuộc
sống cũng như mối quan hệ xung quanh của họ. Thực tế, ma túy tổng hợp (nhân tạo) có
khả năng gây nghiện cao đồng thời có sức tàn phá cơ thể của người dùng hơn chất tinh
khiết tự nhiên hay các loại chất có nguồn gốc tự nhiên.
* Tác hại của ma túy
Ma túy có tác hại vô cùng lớn không chỉ đối với bản thân người sử dụng nó mà
còn có tác hại khủng khiếp với gia đình, người thân và xã hội: “Tệ nạn ma tuý là hiểm
hoạ lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá
con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an
toàn xã hội và an ninh quốc gia” [69]. Với người lạm dụng chất gây nghiện có thể bị
ngộ độc ma túy cấp (các tác động tức thì khi sử dụng): Về thể chất (Quá liều; Sốt,
nôn); Về hành vi (Tai nạn và thương tích; Hung hãn và bạo lực; Quan hệ tình dục
ngoài dự tính và các hành vi tình dục không an toàn; Chất lượng công việc giảm
28
sút…). Việc sử dụng thường xuyên, lạm dụng ảnh hưởng đến các vấn đề sức khỏe thể
chất, tâm thần và các vấn đề xã hội, tăng nguy cơ bị các bệnh nhiễm trùng. Họ gặp các
khó khăn tài chính, các vấn đề về pháp lý, mối quan hệ và công việc, nguy cơ lệ thuộc
chất gây nghiện, các hội chứng cai khi giảm liều hoặc ngưng sử dụng chất gây nghiện.
Các loại vấn đề liên quan tới sử dụng thường xuyên và lệ thuộc phát triển trong một
khoảng thời gian dài bao gồm: các triệu chứng cai thay đổi tùy theo loại ma túy có liên
quan, như thèm muốn (ham muốn mạnh mẽ do thể chất tâm sinh lý hay tác động của
nó), lo âu, khó chịu, rối loạn tiêu hóa, và các vấn đề giấc ngủ. Hội chứng cai đồ uống có
cồn, thuốc ngủ dòng benzo, dẫn chất thuốc phiện (Các chất gây nghiện gốc thuốc phiện)
có thể yêu cầu quản lý y tế, trong khi Hội chứng thuốc cai khác thường có thể được
quản lý với việc chăm sóc hỗ trợ. Tiêm chích bất kỳ loại ma túy nào là một yếu tố nguy
cơ với các bệnh lây truyền như HIV/AIDS và viêm gan B và C. Những người tiêm chích
cũng có nguy cơ bị nhiễm trùng và thiệt hại cho da và tĩnh mạch là kết quả của kỹ thuật
tiêm kém,sử dụng lại bơm kim tiêm, tiệt trùng không sạch các thiết bị xuyên chích quan
da. Những người tiêm chích ma túy có nguy cơ cao hơn với lệ thuộc và có thể những
phụ thuộc nhiều hơn những người không tiêm chích. Tiêm chích các thuốc kích thích
như amphetamines và cocain tăng nguy cơ của thuốc liên quan đến rối loạn tâm
thần.[36].
Đối với gia đình, người thân của NSDMT: ma túy làm ảnh hưởng nghiêm trọng
tới mối quan hệ của NSDMT với các thành viên trong gia đình, họ mất niềm tin với
người sử dụng. Đồng thời kinh tế gia đình suy kiệt, sa sút, gia đình tan vỡ: 100% gia
đình có người nghiện ma túy kinh tế lâm vào cảnh sa sút, nhà cửa bị phá sản, có tới
27% tan vỡ hạnh phúc, 24% thân nhân từ bỏ người nghiện [75].
Đối với xã hội, ma túy gây lãng phí tiền của của mỗi quốc gia, dân tộc. Hàng ngày
người nghiện ma túy đã tiêu tốn một số tiền lớn, chỉ riêng 2 thành phố lớn: Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh mỗi ngày người nghiện tiêu tốn tới hàng tỷ đồng vào việc sử dụng ma túy.
Nhà nước và xã hội còn bỏ ra hàng trăm tỷ đồng mỗi năm chi phí cho phòng chống và cai
nghiện ma túy. Hơn nữa, ma túy gây mất trật tự an toàn xã hội: 70% người nghiện ma túy
liên quan đến trộm cắp, cướp giật, giết người, đua xe, gây rối trật tự xã hội, làm tăng tội
phạm hình sự. Nghiện ma túy vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện để phát sinh các tệ nạn
xã hội khác như mại dâm, cờ bạc, buôn bán trái phép ma túy.[75]
2.1.2 Khái niệm, đặc điểm của người sử dụng ma túy
* Khái niệm người sử dụng ma túy
Chúng ta đã thấy, trong cuộc sống hàng ngày, NSDMT thường bị kì thị, phân
biệt đối xử và không được cộng đồng chấp nhận, nhất là đối với người nghiện ma túy.
29
Họ thường bị coi là tội phạm, là đồ bỏ đi, và là mục tiêu để xã hội trút lên sự giận dữ
và sợ hãi. Quan niệm này đã có sự thay đổi trong xã hội hiện đại. Không phải ai sử
dụng ma túy cũng nghiện ma túy.
Trong những năm gần đây đã có khá nhiều chương trình giáo dục cộng đồng nhằm
nâng cao nhận thức và hiểu biết về vấn đề SDMT, người nghiện ma túy và sức khỏe cộng
đồng. Tuy nhiên, những quan niệm sai lầm về người SDMT vẫn còn tồn tại, chẳng hạn:
“Người sử dụng ma túy là những người yếu kém về đạo đức”:“Tất cả những NSDMT đều
là tội phạm”.v.v… Những quan niệm này không hẳn đúng, bởi nhiều người nghiện ma túy
vẫn có phẩm chất, đạo đức tốt thậm chí họ sử dụng vì mục đích khác như chữa bệnh, giảm
đau hoặc có thể họ phạm tội để có tiền mua ma túy. Một số người khác đã từng là tội
phạm trước khi họ bắt đầu SDMT. Nhiều người thường cho rằng chỉ những người yếu
đuối hay hư hỏng mới sử dụng ma túy, mà không hiểu rằng nghiện thực chất là một rối
loạn mạn tính tái diễn gây ra những thay đổi trên não bộ, cơ thể và tinh thần của người
nghiện ma túy. Chính những thay đổi này làm cho người nghiện ma túy khó từ bỏ được
ma túy, đây cũng là yếu tố gây hiểu lầm cho người SDMT. Vì vậy, chúng ta cần có cách
nhìn nhận hợp lý về người SDMT và tội phạm ma túy.
Tổng hợp từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng: Người sử dụng ma túy
là những người sử dụng chất ma túy có nguồn gốc tự nhiên và bán tổng hợp hay tổng
hợp có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương gây cảm giác như giảm đau, gây hưng
phấn, kích thích hay cảm thấy dễ chịu…mà khi dùng nhiều lần thì sẽ phải sử dụng lại
nó thậm chí lạm dụng nó dẫn đến lệ thuộc, nếu không sẽ rất khó chịu, đau đớn thể chất
và tinh thần.
Người sử dụng ma túy thường trải qua các mức độ sử dụng nhất định từ dùng thử,
dùng có mục đích, rồi đến dùng thường xuyên, dùng nhiều và đến khi lạm dụng, lệ thuộc
hoàn toàn vào ma túy mới nghiện. Các mức độ này thể hiện cụ thể như sau:
Mức độ dùng thử/dùng có mục đích: Đa số người sử dụng chất gây nghiện là những
người chỉ dùng với mục đích dùng thử. Họ sử dụng chất gây nghiện không thường xuyên,
chỉ dùng nếu có dịp hoặc nếu có sẵn chất gây nghiện hay bị cám dỗ, lôi kéo. Một số người
dùng với mục đích chữa bệnh. Nhiều người trong số họ sẽ tự dừng lại, không tiếp tục sử
dụng nữa và sẽ không tiếp tục chuyển sang hình thức sử dụng nhiều hơn.
Mức độ dùng thường xuyên/dùng nhiều: Khi người sử dụng chuyển sang hình thức
dùng nhiều và thường xuyên hơn thì việc sử dụng chất gây nghiện được coi là một phần
không thể thiếu trong cuộc sống của họ và khả năng dung nạp bắt đầu xuất hiện cùng với
những hậu quả của việc sử dụng nhiều.
30
Mức độ lạm dụng chất gây nghiện: Ở mức độ này, NSDMT có biểu hiện dùng
nhiều đến mức lạm dụng nó, không có ma túy là cơ thể không thể chịu đựng được, bắt
buộc tìm kiếm ma túy để sử dụng. Tuy nhiên, họ vẫn còn có khả năng kiểm soát suy nghĩ
và hành vi của bản thân.
Mức độ nghiện: Mức độ này, NSDMT đã lạm dụng quá nhiều khiến cơ thể lệ
thuộc vào ma túy và nghiện là một điều tất yếu sẽ xảy ra. Lúc này, người SDMT đã hoàn
toàn lệ thuộc vào chất gây nghiện đã dùng và đã nghiện. Tỉ lệ người sử dụng chất gây
nghiện cuối cùng sẽ trở thành nghiện được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau, không
phải bất cứ ai sử dụng chất gây nghiện một lần đều bị nghiện. Từ điển Tâm lý học Việt
Nam (2008), tác giả Vũ Dũng cho rằng: Nghiện ma túy là trạng thái nhiễm độc chu kỳ
hay mãn tính của cơ thể, có hại cho cá nhân và xã hội do dùng nhiều lần một lượng
chất độc tự nhiên và tổng hợp. Như vậy theo tác giả nghiện ma túy có đặc điểm bức
xúc về mặt sinh lý, muốn sử dụng lại và lệ thuộc vào chất gây nghiện. Khi cơ thể
ngừng nghiện sẽ gây đau đớn, vật vã, người nghiện ma túy có khuynh hướng tăng liều
sử dụng hoặc thay đổi dạng ma túy mạnh hơn.[28]. Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA)
khẳng định: “Nghiện là các hội chứng gồm tăng liều ma túy để có tác dụng mong muốn,
nghiện ma túy để giảm hội chứng thiếu thuốc, không có khả năng giảm liều hoặc dừng
nghiện ma túy và tiếp tục sử sụng ma túy mặc dù biết nó có hại cho bản thân và những người khác”[61]. Gần đây, quan niệm về nghiện có sự thay đổi, theo Tổ chức FHI 360o
Việt Nam: “Nghiện là một rối loạn mãn tính, tái diễn, được biểu hiện bằng hành vi bắt
buộc phải tìm kiếm và sử dụng chất gây nghiện bất chấp những hậu quả bất lợi của việc
sử dụng” [36]. Để chẩn đoán một người nghiện ma túy (nghiện Heroin) thì người đó phải
có ít nhất 3 trong số 06 yếu tố sau trong vòng 12 tháng qua (ICD 10): (1)Sự dung nạp; (2)
Hội chứng cai: Sử dụng chất gây nghiện để tránh hoặc chống lại triệu chứng cai; (3) Sự
thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng; (4) Khó khăn trong việc kiểm
soát hành vi sử dụng liên quan đến việc bắt đầu, cai, hoặc mức độ nghiện: (5) Sao nhãng
các thú vui, sở thích, công việc trước đây vì việc sử dụng chất gây nghiện hướng thần.
Càng ngày, họ càng cần nhiều thời gian hơn cho việc tìm kiếm và sử dụng chất gây
nghiện đó hoặc phục hồi sau tác dụng của nó; (6) Tiếp tục sử dụng chất gây nghiện đó
mặc dù biết rõ bằng chứng về hậu quả có hại của việc sử dụng.
Người SDMT ở mức độ nghiện được hiểu như thế nào? Tác giả Tiêu Thị Minh
Hường (2014) cho rằng: “Người nghiện ma túy là người sử dụng ma túy nhiều lần, tạo
ra cảm giác sảng khoái đặc biệt, khiến họ bị lệ thuộc vào ma túy và không thể quên
hay từ bỏ được ma túy. Nếu ngừng sử dụng sẽ xuất hiện các cơn thèm muốn không
cưỡng lại được, làm mất khả năng kiểm soát ý thức và hành vi của bản thân”.
31
Theo Luật Phòng chống ma túy Số 23/2000/QH10: “Người nghiện ma túy là
người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào
chất này”. (Quốc Hội nước CHHCNVN (2000), Luật Phòng chống ma túy, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội).[69]
Như vậy, khái niệm NSDMT là một khái niệm rộng bao gồm cả những người sử
dụng chất gây nghiện vì nhiều mục đích khác nhau và cả những người sử dụng đến
mức lệ thuộc, nghiện ma túy. Những NSDMT chưa đến mức nghiện với các mục đích
như chữa bệnh, thói quen sử dụng thường xuyên, họ chưa bị lệ thuộc vào chất đó, chưa
bị xao nhãng các thú vui, sở thích hay thói quen, họ vẫn có khả năng kiểm soát cảm
xúc và hành vi của mình, họ biết là sử dụng ma túy có tác hại lớn về kinh tế và tinh thần,
thể chất, họ có thể không dùng trong thời gian nào đó, họ có thể chưa nghiện ma túy. Khi
dừng sử dụng chất, ở họ không xuất hiện hội chứng cai nghiện. Những người nghiện ma
túy là đã phụ thuộc vào chất đó, xao nhãng các thú vui, sở thích và không kiểm soát được
hành vi của mình, bắt buộc phải tìm kiếm chất đó để dùng mặc dù biết hậu quả và tác hại
của nó. Khái niệm “người sử dụng ma túy” thường được dùng thay khái niệm “người
nghiện ma túy” nhằm giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử với họ. Trong luận án này, chúng
tôi dùng khái niệm “người sử dụng ma túy” ở mức độ cao nhất, là người nghiện ma túy,
đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện.
*Đặc điểm của người sử dụng ma túy
NSDMT thường có những đặc điểm dưới đây:
Về sức khỏe thể chất: Cơ thể NSDMT thường đòi hỏi ma túy và thích ứng đối với
chất đó. Họ phải sử dụng ma túy thường xuyên và ngày càng tăng khả năng dung nạp
thuốc. Đối với những người phụ thuộc vào chất ma túy đã sử dụng, khi ngừng sử dụng sẽ
xuất hiện hội chứng cai làm cho người sử dụng rất khó chịu, thậm trí đau đớn vật vã về cơ
thể. Họ hay ngáp vặt do thiếu thuốc, người lừ đừ, mệt mỏi, lười lao động, không chăm
lo vệ sinh cá nhân, nếu là học sinh thì thường đi muộn, trốn học, lực học giảm sút,
ngồi học trong lớp hay ngủ gà ngủ gật. Đa phần NSDMT thường tiêm chích mà không
hiểu rõ mức độ tác dụng và liều lượng của thuốc cũng như khả năng kết hợp các thuốc
khác. Vì thế, họ thường bị dùng quá liều dẫn đến nguy cơ tử vong cao. Các nghiên cứu
được công bố trên tạp chí Convert (WHO) khẳng định: “khoảng 2-3% NSDMT tử vong
hàng năm. Trong đó, tỷ lệ những người tử vong do sử dụng Heroin cao gấp 6 đến 20 lần so với những người ở cùng độ tuổi và giới tính” [36]. Không những thế, họ hay gặp vấn đề về sốc thuốc, quá liều, các bệnh lây truyền qua đường máu do tiêm chích
chung: HIV/AIDS; viêm gan B, C, các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục;
32
sưng tấy, áp xe, nhiễm khuẩn tại vị trí tiêm chích. Hơn nữa, họ khó tiếp cận/nhận được các dịch vụ y tế: chăm sóc y tế, các loại thuốc cho người sử dụng ma túy…
Đối với các loại ma túy tổng hợp thì có thể làm hạn chế và ảnh hưởng nghiêm
trọng tới hệ thần kinh trung ương, khiến nhiều NSDMT đá bị ảo giác… Theo tác giả
Rawson và Condon, (2007) Methamphetamine (meth) là một chất kích thích gây nghiện
cao có ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương. Meth là một trong những ma túy bất
hợp pháp phát triển nhanh nhất trên thế giới. Meth sản xuất ra "Euphoric" cao, có nghĩa là
gần như ngay lập tức khi thuốc được hút thuốc hoặc tiêm. Thời gian bán hủy của meth
khoảng 8-12 giờ. Các tác động thể chất của meth bao gồm tăng huyết áp, nhiệt độ cơ thể,
nhịp tim, tăng nhịp hô hấp, tăng độ nhạy cảm, hoạt đông thể chất, và sự tỉnh táo kéo dài.
Đồng thời có thể giảm các cảm giác thèm ăn, hay ngủ nghỉ và giảm khả năng phản ứng
của cơ thể. Các tác động âm tính bao gồm các hiệu ứng tăng huyết áp, nhức đầu, loạn nhịp
tim, tăng lo âu, mất ngủ, hung hăng, ảo giác thị giác và thính giác. Ngoài ra còn có tác
động về mặt thể chất mãn tính như: run rẩy, yếu ớt, khô miệng, sút cân, ho dai dẳng, viêm
xoang, đổ mồ hôi, khô miệng, đau mũi, da nhờn, đau đầu, bị tiêu chảy và chán ăn kéo dài.
Đặc biệt nó có tác động mạnh tới phụ nữ mang thai “Ảnh hưởng của việc sử dụng
Methamphetamine cho người mẹ sớm chuyển kích thước phá vỡ bất thường thờ ơ, giảm
kích thích, tăng căng thẳng, suy giảm sự chú ý”. Điều này khiến người sử dụng rất khó
quên, khó từ bỏ. Họ có thể có dấu kim tiêm trên mạch máu ở mu bàn tay, cổ tay, mặt trên
khuỷu tay, mặt trong mắt cá chân, bẹn, ở cổ. Đối với người đã sử dụng nặng, ngoài các
dấu hiệu trên còn biểu hiện: sức khỏe giảm sút rõ rệt; thường xuyên ngáp vặt; mắt lờ đờ,
da tái, môi thâm, cơ thể hôi hám, ít tắm giặt, ăn mặc luộm thuộm.
Về tâm lý: Ma túy có tác động tích cực và tiêu cực đối với tâm lý người sử dụng. Tác
động tích cực đối với NSDMT là cảm giác dễ chịu (khoan khoái, đê mê ...) hoặc để làm tan
một cảm giác khó chịu nào đó (buồn chán, đau khổ ...). Vì vậy, họ thường có ý muốn khẩn
thiết phải dùng ma túy. Khi sử dụng ma túy thường xuyên, người sử dụng dễ rơi vào trạng
thái tâm lý luôn thèm muốn, khát khao niềm khoái cảm hoặc xoa dịu nỗi đau do ma túy mang
lại. Hơn nữa, ma túy có tác động sâu sắc về mặt tâm lý nhất là các loại ma túy tổng hợp (Meth)
như: tăng khả năng tự tin, sự tỉnh táo, thay đổi trạng thái, tăng khả năng tình dục, năng lượng và
nói chuyện nhiều.
Bên cạnh đó, ma túy có tác động tiêu cực khiến cho NSDMT có tâm lý không ổn
định, sự quyết tâm, ý chí và nghị lực giảm sút do tác động trực tiếp của ma túy lên hệ thần
kinh trung ương. Não trước của họ bị tổn thương nên không thể ra được những quyết định
sáng suốt, lành mạnh. Nếu họ bị lệ thuộc vào ma túy thì lúc nào trong đầu óc họ cũng xuất
hiện hình ảnh về ma túy và mong muốn tìm kiếm ma túy để sử dụng. Tâm trạng của họ
33
thường lo lắng, bồn chồn, đôi khi nói nhiều, nói dối, hay có biểu hiện chống đối, cáu
gắt. Thậm chí ma túy tổng hợp (Methamphetamine) gây tác dụng tâm lý mãn tính như:
lẫn lộn, ảo giác, mệt mỏi, mất trí nhớ, mất ngủ, khó chịu, chứng hoang tưởng, phản
ứng hoảng loạn trầm cảm, giận dữ, chứng rối loạn tâm thần. Methametamine gây loạn
thần, hoang tưởng, mất kiểm soát về hành vi, có xu hướng phạm tội sau khi sử dụng.
Họ thường không sử dụng một mình mà theo nhóm gồm 7-8 người, sống ảo giác, nhảy
nhót, hò hét tập thể…Người nghiện ma túy tổng hợp không có biểu hiện vật vã mà sẽ
thay đổi về trạng thái tâm thần; ban đầu là ít ngủ, nhu cầu quan hệ tình dục cao, ảo
giác…, họ bắt buộc phải tiếp tục sử dụng tăng dần nếu không sẽ rơi vào hiện tượng
trầm cảm, buồn bã, sợ hãi…
Về mối quan hệ xã hội và những khó khăn của họ
Đa phần NSDMT thường hay tụ tập, đi lại với những người không có công ăn
việc làm, không lao động, không học hành, hay chơi thân với NSDMT. Nhiều người
thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người (kể cả người thân trong gia
đình). Nhu cầu tiêu tiền của họ ngày một nhiều, sử dụng tiền không có lý do chính
đáng, thường xuyên xin tiền người thân, hay bán đồ đạc cá nhân và của gia đình, nợ
nần nhiều, ăn cắp vặt. Trong túi quần, áo, cặp sách, phòng ở thường có nhiều thứ như:
giấy bạc, thuốc lá, kẹo cao su, bật lửa ga, bơm xi lanh, kim tiêm, ống thuốc, thuốc
phiện, gói nhỏ hêrôin.
Những khó khăn của người sử dụng ma túy: NSDMT thường gặp nhiều khó
khăn về kinh tế, tìm kiếm việc làm hay mối quan hệ với người thân và mọi người xung
quanh, đặc biệt những người nghiện rất khó cai nghiện và dự phòng tái nghiện khi tái
hòa nhập cộng đồng.
NSDMT thường phải đối mặt với những mâu thuẫn, sự đổ vỡ, bất hòa của
các mối quan hệ trong gia đình và xã hội, đồng thời có mâu thuẫn với người thân,
bạn bè…Sự kỳ thị của gia đình, cộng đồng và xã hội khiến họ phải đối mặt với
nhiều khó khăn trong giao tiếp hay tái hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, họ lo sợ
bị lôi kéo, rủ rê tái sử dụng ma túy (đối với những người đang tham gia các chương
trình điều trị sử dụng)
NSDMT thường khó khăn trong tìm kiếm việc làm NSDMT ít nhận được các
hỗ trợ hướng nghiệp, tạo việc làm; khó tiếp cận các nguồn vốn để học nghề, sản
xuất…Không những thế họ còn bị kỳ thị nên khó tìm kiếm việc làm thậm chí có việc
làm rồi nhưng lại bị sa thải vì mất niềm tin, lao động không đạt năng suất. Đồng thời họ
khó khăn khi gặp các vấn đề liên quan đến pháp luật. Nhiều NSDMT có hành vi vi
phạm pháp luật: buôn bán, vận chuyển, tàng trữ… trái phép chất ma túy; trộm cắp,
34
cướp giật, đánh nhau…Họ phải đối mặt với công an, cán bộ phường/xã về vấn đề sử
dụng ma túy của bản thân: thử nước tiểu, lập hồ sơ cai sử dụng bắt buộc…Đặc biệt
khi phải hoàn tất các thủ tục hành chính: hồ sơ, giấy tờ…họ gặp nhiều khó khăn. Tại
Việt Nam, NSDMT cũng vi phạm pháp luật vì “ma túy là chất gây nghiện” trong
danh mục bị cấm theo Nghị định 82/2013/NĐ-CP ban hành các danh mục chất ma
túy và tiền chất.
2.2 Lý luận chung về dịch vụ Công tác xã hội với ngƣời sử dụng ma túy
2.2.1 Khái niệm dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy
Từ điển Bách khoa Việt Nam (2011, 167) giải thích: Dịch vụ là các hoạt động
phục vụ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt. Các nghiên
cứu trong nước về dịch vụ chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học, dịch
vụ ngân hàng, dịch vụ y tế, pháp luật…[86]
Bùi Đình Thanh (2004) cho rằng: “Dịch vụ là một hoạt động lao động sáng tạo
nhằm bổ sung giá trị cho phần vật chất và làm đa dạng hoá, phong phú hoá, khác biệt
hoá, nổi trội hoá… mà cao nhất trở thành những thương hiệu, những nét văn hoá kinh
doanh và làm hài lòng cao cho người tiêu dùng để họ sẵn sàng trả tiền cao, nhờ đó
kinh doanh có hiệu quả hơn”.[77]
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng
hóa nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của con người.
Dịch vụ xã hội cơ bản được Liên hợp quốc định nghĩa như sau: Dịch vụ xã hội
cơ bản là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp
ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống (UN – Africa Spending Less on Basic
Social Services). Dịch vụ xã hội cơ bản là hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm đáp ứng
những nhu cầu cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận.
Dịch vụ xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và các
cá nhân, nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Nó có
vai trò đảm bảo phúc lợi, công bằng xã hội, đề cao giá trị đạo lý, nhân văn vì con
người. Quan niệm này cũng tương đồng với khái niệm về dịch vụ xã hội trong tài liệu
“good practices in social services delivery in SEE” theo đó: dịch vụ xã hội là các sáng
kiến, can thiệp nhằm vào các nhu cầu và vấn đề của hầu hết nhóm đối tượng dễ tổn
thương, bao gồm cả việc ngăn chặn bạo lực, nghèo đói, tan vỡ gia đình, tàn tật (tinh
thần và thể chất) và tuổi già.[62]. Những ví dụ cụ thể về dịch vụ xã hội là: phục hồi
chức năng, nhà dịch vụ trợ giúp, nhà chăm sóc và nuôi dưỡng, dịch vụ thức ăn, chăm
35
sóc ban ngày và các hình thức khác được thực hiện bởi những người làm công tác xã
hội và/hoặc các chuyên gia liên quan.
Theo tác giả Hà Thị Thư (2016), dịch vụ xã hội cho các nhóm người yếu thế
chính là việc cung cấp các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng ngừa-
hạn chế và khắc phục rủi ro đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc đẩy khả năng hoà
nhập cộng đồng, xã hội nhằm đảm bảo các giá trị và chuẩn mực xã hội.[88]
Tác giả Trần Thị Minh Đức (2011) nhấn mạnh: “Dịch vụ CTXH là hoạt động
chuyên nghiệp CTXH cung cấp các hoạt động hỗ trợ về tinh thần hay vật chất cho
những người gặp hoàn cảnh khó khăn như người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt, người già,người là nạn nhân…, hoặc những người có nhu cầu hỗ
trợ về mặt tâm lý xã hội, trợ giúp pháp lý nhằm giảm thiểu những rào cản, những bất
công và bất bình đẳng trong xã hội”
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2013), nhận định: “Dịch vụ CTXH có thể được coi là
một loại hình dịch vụ xã hội được cung cấp bởi các nhân viên xã hội” [62]. Việc cung cấp
dịch vụ CTXH không thể tách rời với các dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, dịch vụ truyền
thông. Vì vậy, trong quá trình cung cấp dịch vụ CTXH, đòi hỏi nhân viên CTXH phải có
sự kết nối chặt chẽ với các dịch vụ xã hội khác. Như vậy, dịch vụ CTXH không chỉ dành
riêng cho nhóm người yếu thế trong xã hội mà bất kể cá nhân, gia đình và nhóm hay cộng
đồng có vấn đề khó khăn đều có thể tiếp cận và sử dụng DVCTXH. Theo Hiệp hội CTXH
Úc (AASW), NVXH có thể can thiệp trong các lĩnh vực như: bài bạc, lạm dụng chất,
nghèo đói,thất nghiệp, tình trạng vô gia cư, chăm sóc người già, trẻ em, vấn đề sức
khỏe tâm thần, thể chất, khuyết tật, mối quan tâm phúc lợi trẻ em và gia đình, bạo lực
gia đình, chấn thương, hành vi xúc phạm…[62]
Tổng hợp từ nhiều quan điểm chúng tôi cho rằng: Dịch vụ CTXH là một dạng
của dịch vụ xã hội, hoạt động trong lĩnh vực Công tác xã hội được cung cấp nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người để nâng cao năng lực phòng ngừa, can thiệp, phục
hồi và phát triển thúc đẩy sự phát triển, ổn định và đảm bảo nền an sinh xã hội, đặc
biệt là nhóm yếu thế khuyết tật, nghèo, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS…
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm: Dịch vụ CTXH là một dạng
của dịch vụ xã hội, hoạt động trong lĩnh vực CTXH mà ở đó NVCTXH sử dụng những
kiến thức, kỹ năng, phương pháp chuyên môn nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng
đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường thực hiện chức năng xã hội,
đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ trợ giúp cá
nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần bảo
đảm an sinh xã hội cho con người.
36
Dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy
Từ những khái niệm dịch vụ CTXH và người sử dụng ma túy, chúng tôi cho
rẳng: Dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy là một dạng của dịch vụ xã hội, thông
qua những hoạt động chuyên nghiệp được cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu của người
sử dụng ma túy nâng cao năng lực trong việc thực hiện chức năng xã hội, phòng ngừa,
chữa trị, phục hồi và phát triển giúp người sử dụng ma túy ngăn ngừa tình trạng
nghiện, kiểm soát suy nghĩ, cảm xúc, hành vi không lạm dụng ma túy, cai nghiện và dự
phòng tái nghiện nhằm ổn định thể chất và tinh thần, thúc đẩy môi trường xã hội về
chính sách, nguồn lực, dịch vụ hỗ trợ cho cá nhân, gia đình và xã hội nhằm đảm bảo
nền an sinh xã hội.
2.2.2 Các loại hình dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy
Tại các quốc gia trên thế giới, việc cung cấp dịch vụ xã hội và dịch vụ CTXH
được thực hiện tại cấp chính quyền địa phương (cấp tỉnh/thành phố, bang và quận/đia
hạt). Chính quyền địa phương thành lập các trung tâm hoặc văn phòng cấp
quận/huyện, nơi cán bộ xã hội thực hiện đánh giá các nhu cầu, lập kế hoạch các trường
hợp, đưa ra các can thiệp trực tiếp và các hỗ trợ tâm lý xã hội, vận động sự tham gia
của các ngành chuyên môn khác thông qua việc giới thiệu chuyển tuyến. Tác giả
Nguyễn Hải Hữu (2011) cho rằng: Các dịch vụ được thiết lập và cung cấp cho các đối
tượng có vấn đề xã hội được hình thành ở ngay chính cộng đồng, cơ sở đối tượng sinh
sống, như thôn, ấp, bản, xã, phường, thị trấn, trường học, bệnh viện, toà án và cao hơn
nữa là các cơ quan Nhà nước ở tuyến huyện, tỉnh và trung ương. Các cơ sở cung cấp
dịch vụ CTXH có thể là tư nhân hay công lập như điểm công tác xã hội, văn phòng tư
vấn, trung tâm, cơ sở bảo trợ xã hội, trung tâm phát triển cộng đồng... Các cơ sở này,
ngoài việc tư vấn, tham vấn, nâng cao năng lực, hỗ trợ đối tượng, cộng đồng phát
triển, còn có trách nhiệm kết nối các dịch vụ trợ giúp cho các đối tượng, bảo vệ đối
tượng như chính khách hàng của mình. Sự kết nối này là tuỳ theo nhu cầu và hoàn
cảnh của từng đối tượng, nhưng nói chung các dịch vụ kết nối thường liên quan đến
các cơ quan cung cấp dịch vụ an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, trật tự an toàn xã hội,
luật pháp. Ở nước ta, đó là các ngành Lao động-TBXH, Y tế, Giáo dục và Đào tạo,
Công an, Tư pháp, Toà án, Viện Kiểm sát. Đối với hỗ trợ phát triển cộng đồng còn liên
quan đến các cơ quan, tổ chức cung cấp và quản lý nguồn lực khác như ngân hàng, tài
chính, nông nghiệp... Việc kết nối các dịch vụ trợ giúp các đối tượng xã hội và cộng
đồng có vấn đề xã hội có phạm vi rất rộng, vì vậy đòi hỏi người nhân viên không chỉ
có hiểu biết nghiệp vụ mà còn phải được trang bị các kiến thức rộng hơn về phát triển
cộng đồng.Để cung cấp các dịch vụ CTXH có hiệu quả, các quốc gia đều quan tâm
37
đến việc xây dựng thể chế chính sách, tổ chức và tài chính phù hợp với quá trình phát
triển. Về thể chế tổ chức, cần xây dựng một mạng lưới sử dụng nhân viên CTXH được
đào tạo bài bản từ các trường chuyên nghiệp từ cấp trung ương đến cộng đồng.
Các dịch vụ công tác xã hội được cung cấp bởi các cơ sở cung cấp dịch vụ công
tác xã hội và tạo thành một mạng lưới dịch vụ công tác xã hội trong một quốc gia thậm
chí trên bình diện quốc tế. Dịch vụ công tác xã hội được cung cấp bởi Trung tâm Công
tác xã hội tại cộng đồng, thể hiện ở TT09/2013/TTLT-BLĐTBXH-BNV, đó là: i) cung
cấp dịch vụ khẩn cấp như tiếp nhận, đánh giá, bảo đảm an toàn, đáp ứng nhu cầu khẩn
cấp…cho các đối tượng trẻ em bị bỏ rơi, nạn nhân của bạo lực, bị xâm hại tình dục,
buôn bán ...; ii)Tham vấn, trị liệu rối nhiễu tâm lý, khủng hoảng tâm lý và phục hồi thể
chất cho đối tượng: iii) Tư vấn cho đối tượng được hưởng chính sách xã hội, iv) xây
dựng kế hoạch can thiệp trợ giúp đối tượng, v) Thực hiện biện pháp phòng ngừa đối
tượng rơi vào hoàn cảnh khó khăn, ngược đãi, bạo lực; vi) Hỗ trợ đối tượng hòa nhập
cộng đồng; vii) Quản lý đối tượng; viii) Cung cấp dịch vụ về giáo dục và nâng cao
năng lực; ix) Phát triển cộng đồng; x) Tổ chức hoạt động truyền thông, nâng cao nhận
thức; xi) Huy động và tiếp nhận sự hỗ trợ tài chính; xii) Tổ chức nghiên cứu, khảo sát
đến phúc lợi và an sinh xã hội…
Dịch vụ công tác xã hội được cung cấp bởi các cơ sở y tế/bệnh viện, thể hiện ở
Thông tư 43/2015/TT – BYT đó là : i) Hỗ trợ, tư vấn giải quyết các vấn đề xã hội cho
người bệnh và người nhà bệnh nhân qua việc cung cấp thông tin về dịch vụ y tế, thăm
hỏi; đảm bảo an toàn cho người bệnh; hỗ trợ thủ tục khám chữa và xuất viện và các
hoạt động hỗ trợ khác; ii) Thông tin, truyền thông và phổ biến, giáo dục pháp luật, đó
là thông tin về sức khỏe, chính sách y tế…; iii) Vận động tiếp nhận tài trợ về cả kinh
phí, vật chất; iv) Hỗ trợ nhân viên y tế trong việc cung cấp thông tin về người bệnh, v)
Đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên thuộc cơ sở đào tạo nghề công tác xã hội; vi) Tổ
chức đội ngũ cộng tác viên làm công tác xã hội của bệnh viện, vii) Tổ chức các hoạt
động từ thiện, công tác xã hội của bệnh viện tại cộng đồng.
Theo tài liệu “Chuẩn quốc tế về điều trị rối loạn nghiện chất”.[45]. Các
phương pháp điều trị rối loạn sử dụng chất và các biện pháp can thiệp bao gồm: Tiếp
cận dựa vào cộng đồng; Sàng lọc, can thiệp ngắn và chuyển gửi điều trị; Điều trị nội
trú ngắn hạn; Điều trị ngoại trú; Điều trị nội trú dài hạn; Quản lý phục hồi.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi tập trung nghiên cứu một số
dịch vụ CTXH đối với NSDMT bao gồm: Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế, dịch vụ hỗ trợ
pháp lý, dịch vụ hỗ trợ việc làm, dịch vụ giáo dục- truyền thông, dịch vụ tham vấn.
38
Đây là những dịch vụ có nét đặc trưng và mang đậm màu sắc công tác xã hội. Bởi lẽ
Công tác xã hội không thực hiện đơn phương mà cần có sự gắn kết, kết nối với các bên
liên quan như y tế, pháp luật hay những dịch vụ hỗ trợ xã hội khác. Đội ngũ cung cấp
dịch vụ công tác xã hội không chỉ là nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp mà còn
kết nối với đội ngũ cung cấp dịch vụ xã hội của các bên liên quan.
2.2.2.1 Dịch vụ giáo dục – truyền thông
Giáo dục – Truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thái độ đúng đắn cho
NSDMT. Họ có thể được cung cấp và trang bị khối lượng tri thức về ma túy, điều trị
nghiện và cách thức dự phòng tái nghiện…Dịch vụ này còn giúp NSDMT có hiểu biết
sâu sắc về phương pháp, cách thức can thiệp trước trong và sau quá trình điều trị
nghiện ma túy; giúp họ có thể ngăn ngừa việc lạm dụng ma túy và nếu nghiện ma túy
họ có thể cai được nghiện và dự phòng tái nghiện. Giáo dục truyền thông được thực
hiện bằng nhiều hình thức trực tiếp, gián tiếp khác nhau như giáo dục, tập huấn, tư
vấn, bằng các phương tiện thông tin đại chúng, loa đài, báo chí, tivi, internet...Việc
cung cấp dịch vụ giáo dục – truyền thông về phòng chống ma túy, cai nghiện và dự
phòng tái nghiện được thực hiện bởi nhân viên công tác xã hội, cán bộ cơ sở hoặc một
số cơ quan, tổ chức liên kết ngoài cơ sở cai nghiện. Chẳng hạn như chuyên gia của các
tổ chức liên kết trong và ngoài nước chuyên về điều trị nghiện ma túy.
Giáo dục – Truyền thông là một công cụ quan trọng trong tổ chức quản lý các
hoạt động xã hội, quản lý các hoạt động buôn bán, tàng chữ, hay nghiện ma túy rộng
rãi trong cộng đồng, tổ chức và từng gia đình. Nó có tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp
vào việc điều chỉnh nhận thức, thái độ, hành vi của NSDMT, thúc đẩy họ tự nguyện
tham gia vào các hoạt động theo mục tiêu đã định ra từ trước và có khả năng thuyết
phục, lôi kéo những người khác cùng tham gia. Dịch vụ giáo dục truyền thông trong
phòng chống ma túy, cai nghiện và dự phòng tái nghiện bao gồm:
Giáo dục - truyền thông nhằm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi cho NSDMT.
Mục tiêu chính của hoạt động này là nhằm vào việc: Chia sẻ kiến thức và từ đó
dẫn đến thay đổi nhận thức; thay đổi thái độ; thay đổi hành vi. Tuy nhiên từ chỗ thay
đổi nhận thức đến việc thay đổi hành vi, việc thực hiện và duy trì, củng cố hành vi mới
là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại không chỉ ở phía người tuyên
truyền mà cả ý chí quyết tâm cao của người được thuyết phục.
Để duy trì hành vi tích cực mới người nghiện ma túy cần tiếp tục được cung cấp
thông tin đầy đủ, đúng đắn, được động viên khuyến khích và được cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ kịp thời, nếu không họ dễ dàng quay trở về với các thói quen cũ đã ăn sâu
vào nếp nghĩ của mình từ trước. Vì cuộc sống của những người sau cai nghiện thường
39
có rất nhiều tình huống nguy cơ cao: bạn nghiện cũ, môi trường, địa điểm và các yếu
tố tác động từ chất gây nghiện, dụng cụ, đồ dùng…Ví dụ: NSDMT đã được trang bị
rất nhiều kiến thức về tác hại của ma túy, nguy cơ lây nhiễm và con đường lây nhiễm
HIV/AIDS vì vậy họ đã dùng bơm kim tiêm sạch để đảm bảo an toàn, nhưng khi lên
cơn nghiện lại không có sẵn bơm kim tiêm riêng, vì vậy họ đã dùng chung bơm kim
tiêm với nhóm bạn nghiện, thế nên nguy cơ lây nhiễm HIV lại có thể xảy ra
Giáo dục- truyền thông trong dự phòng tái nghiện
Giáo dục - truyền thông dự phòng tái nghiện là hoạt động cung cấp thông tin về
đánh giá các tình huống nguy cơ cao và xác định các nguyên nhân dẫn đến tái nghiện
từ phía bản thân cá nhân người nghiện và từ mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội nhằm
tránh xa tình huống có nguy cơ cao dẫn đến tái nghiện và đảm bảo giữ sạch không
nghiện lại ma túy.
Dự phòng tái nghiện giúp người thân chủ nhận biết trước khi nào thì họ đang có
xu hướng tái nghiện để có thể quay ngược lại. Quá trình tái nghiện không phải chỉ bắt
đầu khi khách hàng bắt đầu nghiện lại ma túy - nó là cả một quá trình dài được bắt đầu
từ trước đó. Nếu được giáo dục và truyền thông hợp lý thì khách hàng có thể nhận biết
dễ dàng những dấu hiệu cảnh báo/yếu tố cám dỗ dẫn tới tái nghiện. Các dấu hiệu cảnh
báo, yếu tố cám dỗ này là những trạng thái cảm xúc, cảm giác và hành vi tiêu cực.
Thông thường, khách hàng có thể nhận biết những ví dụ về những thay đổi tiêu cực
này trong cuộc đời họ và, vì vậy, họ có thể hiểu được quá trình tái nghiện xảy ra như
thế nào.
Thực tế, người ta hoàn toàn có thể giúp một người tái nghiện một lần không bị
tái nghiện hoàn toàn. Đây là điều kỳ diệu đòi hỏi tư vấn viên phải cùng với khách hàng
xây dựng các “chiến lược hành vi” và “chiến thức nhận thức” để nhận biết và dự
phòng thói quen cũ. Các chiến lược này có thể bao gồm việc thường xuyên tham dự
các cuộc họp hỗ trợ đồng đẳng, chỉ dành thời gian với những người hỗ trợ bản thân phục
hồi, duy trì cuộc sống ổn định, tránh hoặc đối phó với những yếu tố cám dỗ bên ngoài,
như tránh đến chơi nhà hàng xóm nơi mình vẫn mua ma túy trước đây.
Kết quả điều trị cho thấy nhiều người tái nghiện nhưng không phải ai cũng
nghiện lại nhiều như trước khi cai. Trước đây nhiều người nghĩ rằng chỉ cần sử dụng
lại một lần thì có nghĩa là đã tái nghiện hoàn toàn. Chúng ta biết rằng hiểu như vậy là
không đúng. Vì sử dụng lại một lần là đang trong tình trạng “vấp”, sử dụng lại nhiều lần
là “ngã” và tái nghiện lệ thuộc mới là “tái nghiện”. Chúng ta có thể xác định rằng
khoảng 90% những người cai nghiện trong trung tâm cai nghiện (trung tâm 06) sẽ nghiện
lại heroin trong vòng 1 năm kể từ thời điểm ra khỏi trung tâm. Tuy nhiên, chỉ có 60%
40
trong số này là sẽ quay trở lại nghiện với cường độ nghiện như trước đây. Thực tế, có
những cách để có thể giúp họ, kể cả những người mới lỡ nghiện một vài lần và những
người đã tái nghiện hoàn toàn, để họ có thể lấy lại được khả năng kiểm soát [36].
Nói chung, hoạt động giáo dục truyền thông sẽ giúp cho NSDMT và người sau cai
nghiện có được kiến thức và kỹ năng để phòng tránh lạm dụng ma túy và đối phó với cơn
thèm nhớ; quản lý căng thẳng, quản lý thời gian, đặc biệt là kỹ năng từ chối những cám dỗ
và lời mời gọi từ bạn bè cũ hay những yếu tố liên quan đến ma túy.
2.2.2.2 Dịch vụ tham vấn
Tham vấn cho người sử dụng ma túy là quá trình tương tác tích cực giữa tham
vấn viên và người sử dụng ma túy nhằm giúp họ nhận ra điều kiện hoàn cảnh của bản
thân, xác định những khó khăn của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực cho họ
để họ tự giải quyết những khó khăn đó. [31]
Tham vấn nhằm mục đích giúp người nghiện xóa bỏ sự lệ thuộc tâm lý vào ma
túy, giúp chống tái nghiện hiệu quả và mang tính bền vững, giúp người nghiện thay đổi từ
nhận thức, thái độ và hành vi, tìm ra giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề, ổn định cuộc
sống. Tham vấn không phải là chỉ bảo hoặc ra chỉ thị, cũng không phải là một buổi nói
chuyện hay một buổi tra hỏi, một buổi thú tội và càng không phải là một buổi cầu nguyện.
Tham vấn cần có kế hoạch cụ thể bao gồm các hoạt động tư vấn/đánh giá ban
đầu; xây dựng mối quan hệ trị liệu tin tưởng giữa chuyên gia trị liệu và NSDMT; triển
khai thực hiện giải quyết sự lệ thuộc tâm lý vào ma túy ở NSDMT; lượng giá kết thúc;
đồng hành, hỗ trợ sau quá trình tham vấn.
Căn cứ vào đối tượng tham vấn có 3 hình thức: tham vấn cá nhân, tham vấn gia
đình và tham vấn nhóm
Tham vấn cá nhân
Tham vấn cá nhân là quá trình tương tác, trao đổi giữa nhà tham vấn/tư vấn và
khách hàng trên cơ sở mối quan hệ một với một nhằm giúp họ nhận ra hoàn cảnh có
vấn đề của mình để thay đổi nhận thức, suy nghĩ và hành vi tiêu cực liên quan đến ma
túy và tìm kiếm giải pháp giải quyết cho vấn đề ma túy của bản thân.
Mục đích của tham vấn cá nhân cho người nghiện ma túy: Đánh giá mức độ
mong muốn thay đổi; Đánh giá mức độ tự tin; Đánh giá mức độ rối loạn tâm thần
nhằm thay đổi nhận thức, cảm xúc, hành vi tiêu cực và tìm kiếm giải pháp quyết vấn
đề nghiện ma túy và những vấn đề xung quanh.
Quy trình tham vấn cá nhân trong điều trị nghiện ma túy
Một buổi tư vấn điều trị nghiện ma túy cho cá nhân là một quá trình năng động
và diễn tiến theo vòng tròn. Quá trình này gồm sáu bước: (1) Tạo lập mối quan hệ và
41
giời thiệu ban đầu; (2 )Đánh giá khách hàng; (3) Xác định vấn đề cần giải quyết và
giải pháp tối ưu; (4)Lập kế hoạch hành động và triển khai; (5) Kết thúc (6)Theo dõi.
Để quá trình tham vấn điều trị nghiện thành công, chúng ta cần nghiện các kỹ
năng như: kỹ năng đặt câu hỏi mở; kỹ năng lắng nghe; kỹ năng chú ý; kỹ năng diễn
giải; kỹ năng giúp thân chủ trực diện với vấn đề; kỹ năng đối kháng; kỹ năng lựa theo
sự phản kháng; kỹ năng im lặng và xử lý im lặng; kỹ năng thấu hiểu; kỹ năng phản hồi
cảm xúc; kỹ năng tóm tắt…Bên cạnh đó tư vấn viên cần nghiện và hướng dẫn cho
NSDMT một số kỹ thuật như: kỹ thuật giải quyết vấn đề; kỹ thuật đặt mục tiêu; kỹ
thuật quản lý căng thẳng; Kỹ thuật quản lý thời gian; kỹ thuật quản lý nóng
giận…đồng thời hướng dẫn khách hàng kỹ năng từ chối hay đối phó cơn thèm nhớ…
Tham vấn nhóm
Tham vấn nhóm là quá trình tương tác của nhà tham vấn với nhóm người sử
dụng nhằm giúp họ giải quyết những vấn đề tâm lý xã hội của mỗi cá nhân đồng thời
hỗ trợ họ phát triển nhân cách cũng như các mối quan hệ xã hội tích cực. Trong tham
vấn nhóm nhà tham vấn sử dụng các kiến thức, kỹ năng điều phối nhóm, các kỹ thuật
để giúp các thành viên trong nhóm đáp ứng nhu cầu hoặc giải quyết những vấn đề của
mình thông qua các buổi họp, sinh hoạt nhóm.
Mục đích của tham vấn nhóm: Thông qua tư vấn nhóm có thể tạo ra môi trường
làm việc mà các kiến thức và kinh nghiệm của các cá nhân bổ trợ cho nhau, cùng nhau
đưa ra những quyết định toàn diện và phù hợp hơn; Giúp NSDMT thử nghiệm những
cách quan hệ khác nhau với người khác và cung cấp cho họ cơ hội kiểm tra cảm nhận
của những người khác về bản thân họ; Không những cung cấp cơ hội cho NSDMT
nhận được sự giúp đỡ mà còn giúp đỡ người khác; Tạo ra bối cảnh trong đó NSDMT
có thể đánh giá vấn đề của họ trong mối tương quan với vấn đề của những người khác;
Tạo điều kiện cho NSDMT nghiện những thành viên khác trong nhóm như là những
nhân tố trợ giúp.
Quy trình tham vấn nhóm bao gồm 3 giai đoạn chính: Chuẩn bị tham vấn, sinh
hoạt nhóm; Triển khai thực hiện các buổi tham vấn nhóm; Kết thúc và lượng giá tham
vấn nhóm
Trong tham vấn nhóm cần sử dụng các kỹ năng như: (1).Kỹ năng mở đầu và kết
thúc cuộc tư vấn nhóm. (2) Kỹ năng tạo lập mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm.
(3) Kỹ năng thiết lập bầu không khí nhóm. (4) Kỹ năng điều phối. (5) Kỹ năng lắng nghe và
quan sát nhóm. (6) Kỹ năng định hướng lại. (7) Kỹ năng làm gương. (8) Kỹ năng tóm lược
các ý kiến. (9) Kỹ năng giải quyết xung đột. (10) Kỹ năng lập kế hoạch.
Tham vấn gia đình
42
Tham vấn gia đình với NSDMT là quá trình tương tác của nhà tham vấn với
các thành viên trong gia đình có NSDMT nhằm giúp họ cải thiện cách thức giao tiếp
trong gia đình để giải quyết những vấn đề của toàn gia đình và cá nhân. Loại hình
tham vấn này được diễn ra qua các buổi làm việc, thảo luận giữa các thành viên trong
gia đình dưới sự điều phối của nhà tham vấn. (Theo Cục phòng chống tệ nạn xã hội
(2017). Tài liệu tập huấn tư vấn điều trị nghiện ma túy)[13].
Mục tiêu của tham vấn gia đình có NSDMT: Tăng cường trao đổi thông tin về
ma túy và liệu pháp can thiệp, ngăn ngừa lạm dụng, dự phòng tái nghiện; Giúp gia
đình tạo ra những thay đổi về giao tiếp, nội tâm và môi trường ảnh hưởng tới người
nghiện rượu hoặc ma túy; Giữ cho nghiện chất không chuyển từ thế hệ này sang thế hệ
khác (có nghĩa là dự phòng); Can thiệp gia đình có thể là khởi đầu cho một quá trình
điều trị hiệu quả cho NSDMT.
Liệu pháp gia đình có NSDMT được thực hiện hiệu quả với các mô hình như:
(1) Mô hình can thiệp cấu trúc gia đình; (2) Mô hình học tập xã hội; (3) Mô hình can
thiệp tập trung vào giải pháp; (4) Mô hình can thiệp hệ thống gia đình. (5) Liệu pháp
nhận thức - hành vi; (6) Liệu pháp gia đình chiến lược. (Theo Cục phòng chống tệ nạn
xã hội (2017). Tài liệu tập huấn tư vấn điều trị nghiện ma túy)[13].
Quy trình tham vấn gia đình bao gồm 3 giai đoạn: Tạo lập mối quan hệ và làm
quen với các thành viên trong gia đình; Tiến hành các buổi họp và thảo luận với các
thành viên trong gia đình; Lượng giá/Kết thúc.
Khi làm việc với gia đình có thành viên nghiện ma túy tư vấn viên cần tuân thủ
những nguyên tắc sau: (1) Không được nói về các vấn đề của gia đình; (2) Không
được nói hay bộc lộ cảm xúc công khai; (3) Luôn phải mạnh mẽ, khoẻ mạnh và hoàn
hảo; (4) Đừng có chơi đùa như một đứa trẻ; (5) Đừng gây sóng gió…
Làm việc với gia đình tư vấn viên cần vận dụng các kỹ năng tư vấn như: (1) Kỹ
năng bình thường hóa vấn đề. (2) Kỹ năng đặt câu hỏi xoay vòng. (3) Kỹ năng điều phối.
(4) Kỹ năng giao nhiệm vụ cho các thành viên. (5) Kỹ năng sử dụng mệnh đề tôi. (6) Kỹ
năng làm mẫu. (7) Kỹ năng làm việc với những thành viên không hợp tác
2.2.2.3 Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm
Việc làm đối với NSDMT là vô cùng quan trọng, đa phần khi công việc không ổn
định, họ tìm đến ma túy. Hầu như người nghiện ma túy sau cai đều có nhu cầu mong muốn
tìm được việc làm để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và hỗ trợ gia đình. Đồng thời khi có
việc làm người nghiện sau cai sẽ không rơi vào trạng thái trống không, buồn chán hay căng
thẳng, nhàn rỗi quá mà sinh nông nổi, hay lại tìm về những hành vi, thói quen cũ. Do vậy,
chúng ta thường trú trọng và quan tâm nhiều đến việc làm cho người nghiện sau cai và ngay
43
cả trong quá trình cai nghiện tại các Cơ sở cai nghiện. Những công việc thường được quan
tâm như: giáo dục lao động; học nghề, nghề tiện gỗ, mộc, mộc mỹ nghệ, khắc đá, trồng rau củ
quả, chăn nuôi… Đội ngũ cung cấp dịch vụ là nhân viên công tác xã hội hoặc cán bộ tại Cơ
sở, điều quan trọng là sự gắn kết với các Cơ sở dạy nghề, đào tạo nghề…Như vậy hình thức
hỗ trợ chủ yếu là trực tiếp, một số công việc được hỗ trợ gián tiếp qua online, qua sự gắn kết
với đội ngũ đào tạo nghề, tìm việc làm từ bên thứ ba. Nội dung dịch vụ hỗ trợ việc làm cho
NSDMT thường tập trung vào các hoạt động: tư vấn học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm; kết
nối chuyển gửi đến cơ sở đào tạo nghề và cơ sở sử dụng lao động.
Dịch vụ tư vấn học nghề: là hoạt động cung cấp và trang bị những loại hình nghề
nghiệp để NSDMT có thể lựa chọn một nghề nghiệp phù hợp với năng lực và điều kiện
của bản thân. Để nâng cao hiệu quả trong công tác tư vấn học nghề, đội ngũ cán bộ
thường xuyên liên kết với các Trung tâm dịch vụ việc làm tổng hợp ý kiến, nguyện vọng
của NSDMT tham dự chương trình, từ đó lên kế hoạch và nội dung tư vấn học nghề cụ
thể, phù hợp với nguyện vọng của NSDMT tại cơ sở.
Dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm là hoạt động cung câp, trang bị những kiến thức
cơ bản về các loại hình nghề nghiệp, cách thức làm việc, thời gian, thù lao công việc, yêu
cầu của nghề để NSDMT sau cai có thể lựa chọn cho mình một nghề hay một công việc
phù hợp với bản thân và điều kiện hoàn cảnh gia đình. Tuy nhiên, thực tế chỉ một phần
nhỏ NSDMT sau cai nghiện tìm kiếm được việc làm, đa phần họ vẫn làm theo nghề cũ và
khó chuyên tâm nên thường quay lại sử dụng chất.
Trong các buổi tư vấn học nghề và tư vấn giới thiệu việc làm, NSDMT sẽ được
cung cấp những thông tin về xuất khẩu lao động, các chính sách pháp luật của Nhà nước;
Tư vấn hướng nghiệp học nghề, giới thiệu việc làm; cung cấp các thông tin tuyển dụng,
tuyển sinh của các doanh nghiệp, cơ sở học nghề, chính sách vay vốn của Nhà nước thông
qua Ngân hàng chính sách xã hội dành cho các hộ gia đình và người cai nghiện ma túy,
người điều trị các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế…Điều này, giúp NSDMT
định hướng nghề nghiệp, tìm kiếm được việc làm phù hợp.
Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến cơ sở đào tạo nghề và cơ sở sử dụng lao động:
Đây là hoạt động vô cùng quan trọng đối với NSDMT, đặc biệt là người sau cai
nghiện, bởi có nhiều khó khăn để họ có thể có một việc làm. Có rất nhiều yếu tố gây
cản trở hoạt động tìm kiếm việc làm của họ, một phần do chính họ e ngại hoặc bản
thân không chiếm được niềm tin của mọi người xung quanh, mặc cảm về bản thân,
một phần do chủ doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề, hay cơ sở sử dụng lao động không
tin tưởng và không sẵn sàng chấp nhận một người sau cai nghiện vào làm việc. Mặt
khác do xã hội kỳ thị và phân biệt đối xử với họ nên họ gặp nhiều khó khăn trong việc
44
làm. Do đó, hoạt động kết nối chuyển gửi người sau cai đến cơ sở đào tạo nghề và cơ
sở sử dụng lao động là cấp thiết và tạo được niềm tin giữa ba bên. Đây là cơ hội tạo
cho NSDMT và người nghiện sau cai có công ăn, việc làm ổn định. Điều này đòi hỏi
đội ngũ làm nghề phải đảm bảo kiến thức, kỹ năng và thái độ chuyên nghiệp trong quá
trình chuyển gửi. Đồng thời, CSCN thường xuyên có kết nối với cơ sở sử dụng lao
động. Nhưng quan trọng hơn cả là bản thân người nghiện sau cai phải không ngừng nỗ
lực, cố gắng, phấn đấu để khẳng định bản thân mình trong công việc cũng như trong
cuộc sống sau này. Tại Việt Nam, các CSCN thường liên kết với một số doanh nghiệp
dệt may, thủ công mỹ nghệ, điện dân dụng…Tuy nhiên, một số người nghiện sau cai
có công ăn việc làm nhưng không duy trì được lâu dài vì lại tái nghiện.
2.2.2.4 Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế cho NSDMT nhằm hướng tới các mục tiêu như
không lạm dụng chất gây nghiện, với người đã nghiện là cai nghiện, dự phòng tái
nghiện. Đối với NSDMT điều trị tự nguyện hay bắt buộc đều hướng tới mục tiêu chung là
không lạm dụng chất gây nghiện, cai nghiện và dự phòng tái nghiện sau cai. …Hình thức
cung cấp dịch vụ này là trực tiếp và gián tiếp thông qua các phương tiện như online, điện
thoai…Mỗi hình thức đều có ưu và nhược điểm nhân viên CTXH cần có sự phối hợp linh
hoạt nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Đội ngũ
cung cấp dịch vụ này chủ yếu nên là nhân viên CTXH được đào tạo bài bản, chuyên sâu
về kiến thức, kỹ năng trong hỗ trợ điều trị cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Nhân viên
CTXH sẽ hỗ trợ, giúp đỡ và kết nối với đội ngũ nhân viên y tế trong việc đánh giá sàng
lọc; chẩn đoán mức độ nghiện; dịch vụ tư vấn xét nghiệm nước tiểu; dịch vụ hỗ trợ cắt
cơn giải độc mà không điều trị trực tiếp về mặt y tế. Vai trò của nhân viên CTXH là kết
nối, chuyển gửi hay kiểm tra, giám sát, xây dựng kế hoạch, hỗ trợ, động viên, khích lệ
khách hàng tuân thủ điều trị. Nội dung của dịch vụ này thể hiện cụ thể dưới đây:
Dịch vụ đánh giá sàng lọc, chẩn đoán mức độ nghiện chất
Đánh giá sàng lọc là đánh giá ban đầu cho thấy khả năng xuất hiện của một vấn
đề cụ thể nào đó (ví dụ lạm dụng chất gây nghiện). Quá trình này sử dụng một loạt các
thủ tục và các kỹ thuật đánh giá để nắm bắt được những dấu hiệu của việc dùng chất
gây nghiện. Mục đích của hoạt động đánh giá sàng lọc nhằm cung cấp thông tin cho
các chẩn đoán và điều trị sau đó
NVCTXH tư vấn về các loại công cụ sàng lọc bao gồm: Tự báo cáo và Các xét
nghiệm sinh học. Tự báo cáo gồm có phỏng vấn và các bảng câu hỏi tự điền. Các xét
nghiệm sinh học bao gồm 4 loại xét nghiệm: Xét nghiệm nồng độ cồn trong hơi thở ; Xét
nghiệm nồng độ cồn trong máu; Xét nghiệm nước bọt hoặc nước tiểu; Xét nghiệm chất
45
gây nghiện trong huyết thanh. Những xét nghiệm này là cán bộ y tế trực thực hiện,
NVCTXH chỉ tư vấn và hỗ trợ cho NSDMT. Đặc điểm của công cụ đánh giá sàng lọc tốt
cần phải: Ngắn gọn (10 câu hỏi hoặc ít hơn); Linh hoạt; Dễ thực hiện, đơn giản cho bệnh
nhân; Hướng tới đồ uống có cồn và các loại chất gây nghiện khác; Chỉ báo cần thiết cho
việc đánh giá hoặc can thiệp sau đó; Có độ nhạy và độ chuyên biệt cao. Độ nhạy là khả
năng xác định chính xác những người thực sự có vấn đề qua xét nghiệm, ví dụ như “thực
sự dương tính”. Độ chuyên biệt là khả năng xác định chính xác những người không có
vấn đề qua xét nghiệm ví dụ như “thực sự âm tính”. Các công cụ sàng lọc tốt có độ nhạy
tối đa (giảm thiểu trường hợp xác định “âm tính giả”) và độ chuyên biệt tối đa (giảm
thiểu trường hợp xác định “dương tính giả”). [13].
Đánh giá sàng lọc nhằm đánh giá xem NSDMT đang ở mức nào. Thông thường có
3 mức nguy cơ: Nguy cơ thấp, Nguy cơ trung bình và Nguy cơ cao. Nếu khách hàng có
kết quả là nguy cơ thấp thì tiến hành phản hồi và cung cấp thêm thông tin về tác hại và
hậu quả của việc nghiện. Nếu họ đang ở mức nguy cơ trung bình thì tiến hành phản hồi
kết quả và can thiệp sơ bộ. Khách hàng ở mức nguy cơ cao thì tiến hành can thiệp sơ bộ
và chuyển gửi điều trị. Can thiệp sơ bộ là quá trình can thiệp, tác động ngắn giúp khách
hàng có sự hiểu biết về mức độ nghiện và định hướng điều trị tiếp theo giúp mở rộng dịch
vụ hỗ trợ tới các đối tượng cần giúp đỡ nhưng không thể tiếp cận được các dịch vụ này ở
các cơ sở điều trị/ cai nghiện. Quá trình can thiệp sơ bộ bao gồm 5 bước: Bước 1. Giới
thiệu vấn đề trong bối cảnh sức khỏe của khách hàng; Bước 2. Tư vấn khám sàng lọc và
đánh giá. Bước 3. Cung cấp các phản hồi. Bước 4. Nói về sự thay đổi và đặt ra các mục
tiêu. Bước 5. Tóm tắt và đi đến kết thúc.
Đánh giá sàng lọc, chẩn đoán mức độ nghiện thường sử dụng một số công cụ
sau nhằm hỗ trợ quá trình điều trị nghiện ma tuý: (1)Test sàng lọc đồ uống có cồn, thuốc
lá và các chất gây nghiện (ASSIST- Alcohol, Smoking, and Substance Involvement
Screening); (2) Bộ chỉ số đánh giá mức độ nghiện (ASI - Addiction Severity Index);
(3)Thang đo mức độ sẵn sàng thay đổi và mong muốn điều trị (SOCRATEs - The Stages
of Change Readiness and Treatment Eagerness Scale); (4).Test đánh giá nhanh trạng thái
tâm thần (MMSE - – Mini Mental State Examination)
Dịch vụ tư vấn hỗ trợ điều trị khi khách hàng xuất hiện hội chứng cai (lên cơn
vật) Là phương pháp tư vấn hỗ trợ điều trị ngắn ngày (1-2 tuần) nhằm hỗ trợ người
nghiện có thể vượt qua hội chứng cai một cách nhẹ nhàng và tránh được các biến
chứng của hội chứng cai như truỵ tim mạnh, mất nước, điện giải, co giật…Nhân viên
xã hội sẽ tư vấn hỗ trợ NSDMT tham gia vào quá trình này nhắm đạt hiệu quả cao
trong quá trình điều trị cai nghiện ma túy.
46
Dịch vụ tư vấn hỗ trợ điều trị trạng thái đói ma tuý trường diễn.
Đây là dịch vụ cung cấp cho NSDNT đã nghiện ma túy và đã cắt cơn cai
nghiện. Mục đích là giúp họ thực sự từ bỏ ma tuý và làm giảm thiểu tác hại đối với cộng
đồng. Thực tế, nhân cách của người nghiện ma túy thường rơi vào trạng thái phụ thuộc,
thích trải nghiệm cái mới, không làm chủ được bản thân, họ luôn cảm thấy thiếu thuốc
hay một cái gì đó. Vì vậy mà họ luôn tìm mọi cách để lấp đầy khoảng trống ấy. Trong tư
tưởng họ luôn nảy sinh xung đột, mâu thuẫn mà không rõ ràng về hướng nào? Nói chung,
người nghiện thường thiếu ý chí, và không có chứng kiến riêng của mình vì vậy mà họ dễ
bị lôi kéo bởi người nghiện khác hoặc không tự kiềm chế được cơn thèm khát ma tuý của
mình do vậy họ rất dễ tái nghiện. Vì vậy, đội ngũ cung cấp dịch vụ cần tư vấn, hỗ trợ, tạo
động lực thúc đẩy để họ có ý chí, quyết tâm vượt qua tình trạng khó khăn này.
Dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV/ Viêm gan B,C
Đội ngũ nhân viên xã hội sẽ hỗ trợ thân chủ được tư vấn xét nghiệm HIV/AIDS
thông qua việc cung cấp kiến thức, kết nối, chuyển gửi với các cơ sở y tế có chức năng
nhiệm vụ cụ thể về xét nghiệm HIV/AIDS. Đồng thời họ kiểm tra, giám sát, động viên
và khích lệ thân chủ tuân thủ quy đinh trong quá trình thực hiện. Theo qui định tại
Điều 2 của Pháp lệnh phòng chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải ở người (HIV/AIDS).
NVCTXH cần cung cấp thông tin cho người sử dụng chất như: ngoài xét
nghiệm định lượng 5 hạng mục viêm gan B, để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh
cũng như đưa được ra những phác đồ hỗ trợ điều trị phù hợp, người bệnh viêm gan B cần
làm thêm một số xét nghiệm chuyên sâu khác như đếm số lượng virus, xét nghiệm chức
năng gan…Tư vấn xét nghiệm đối với người bị nhiễm viêm gan B là vô cùng cần thiết.
NVCTXH kết nối với đội ngũ y tế để thực hiện các xét nghiệm chuyên sâu sẽ có thể chẩn
đoán được mức độ nguy hiểm, từ đó có các phương pháp hỗ trợ điều trị sớm và việc điều
trị sẽ có tỉ lệ thành công cao hơn và chi phí sẽ được giảm thiểu hơn rất nhiều.
NVCTXH cần cung cấp kiến thức về Virus viêm gan C là một siêu vi truyền nhiễm
qua máu, người bị viêm gan C thường rất khó điều trị và có đến 80% những người bị nhiễm
Virus viêm gan C có khả năng trở thành bệnh mãn tính. Để xác định bệnh cần phải làm
các xét nghiệm chẩn đoán viêm gan C. Đội ngũ cung cấp dịch vụ cần phải có kiến thức để
tư vấn cho người sử dụng chất một cách hợp lý, đồng thời động viên an ủi tạo động lực cho
họ cố gắng quyết tâm vượt qua nếu không may nhiễm Virus.
2.2.2.5 Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
Theo tác giả Phạm Hữu Nghị (2017): “Chính sách là đường lối, định hướng của
một chính đảng hoặc một chủ thể quyền lực về một lĩnh vực nhất định cùng các giải
pháp, biện pháp, chương trình, kế hoạch thực hiện đường lối ấy”. [71]
47
Khái niệm pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung dùng để điều chỉnh các quan hệ
xã hội, quản lý xã hội, bảo đảm trật tự, ổn định và phát triển của xã hội. Nguồn pháp
luật là nhưng văn bản quy pháp luật, án lệ, tập quán, thông lệ
Theo tác giả Võ Khánh Vinh (2015), “Chính sách pháp luật là hoạt động có
căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan nhà nước và của các thiết chế
xã hội nhằm xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật có hiệu quả, nghiện văn minh các
phương tiện pháp luật để đạt được mục đích bảo đảm đầy đủ nhất các quyền và tự do
của con người và của công dân, hình thành và phát triển nhà nước pháp quyền, văn hóa
pháp luật và đời sống pháp luật của xã hội và cua cá nhân” [100].
Hỗ trợ pháp lý đối với người sử dụng ma túy trong công tác phòng chống ma
túy là nhân viên xã hội giúp NSDMT nói ra được tiếng nói, quan điểm, nhu cầu, mong
muốn của NSDMT hoặc đại diện cho họ đưa ra tiếng nói và cố gắng đảm bảo rằng họ
được tôn trọng, nhu cầu cai nghiện và dự phòng tái nghiện của họ được thoả mãn cũng
như mang lại dịch vụ tốt nhất để họ cai được nghiện và phòng chống tái nghiện thành
công, tuyệt đối không vì những nhu cầu cá nhân hay những hành vi vi phạm pháp luật
của họ được. Do đó, NVCTXH cần phải hiểu và làm rõ cho người SDMT hiểu được
và tự chịu trách nhiệm với hành vi của mình trước pháp luật. NVCTXH có thể giúp họ
hiểu biết về các chính sách hỗ trợ cai nghiện như: Chế độ hỗ trợ sinh hoạt hàng tháng ở
trong cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được cải thiện, nâng cao hơn. Trước năm 2014, chế
độ trong các cơ sở này rất hạn hẹp. Sau 2015, đã sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách
cho các đối tượng trong các cơ sở cai nghiện ma túy. tại cơ sở cai nghiện do tư nhân
quản lý cũng được thí điểm hỗ trợ...[25]
Tại Việt Nam, người nghiện ma túy vẫn được xem xét ở khía cạnh vi phạm
pháp luật hơn là nạn nhân vì chính họ đã kích cầu tiêu thụ ma túy và kích thích việc
buôn bán ma túy phát triển. Khoản 8, Điều 2 Luật phòng chống ma túy năm (2000), bổ
sung, sửa đổi năm 2013, đã khẳng định “Tệ nạn ma túy là tình trạng nghiện ma túy, tội
phạm về ma túy và các hành vi trái phép khác về ma túy”[69]. Do đó, hỗ trợ pháp lý
cho người SDMT cần phải mạnh hơn và rõ rệt hơn vì quyền của người nghiện ma túy
đã bị chính họ xâm phạm, đồng thời họ xâm phạm đến quyền của cộng đồng, quyền
bình yên của xã hội và đặc biệt với người dân vô tội mà vô tình hay cố tình do hành vi
phạm tội của họ gây nên. Chẳng hạn; những thanh niên ngáo đá đã có hành phạm tội
giết người, hay nhóm người nghiện ma túy bắt giam, hãm hiếp nữ sinh giao gà…Tuy
nhiên, gần đây có thay đổi quan niệm nghiện là “bệnh mãn tính tái diễn ở não” nên
họ được quan tâm, chăm sóc và chữa trị như người bệnh. Vì vậy khi hỗ trợ pháp lý cho
48
người nghiện chỉ với những hành vi và các nhu cầu được xã hội thừa nhận, chứ không
phải là tất cả các nhu cầu cá nhân của họ. Chính sách pháp luật là cơ sở pháp lý cho
người nghiện được tham gia chữa trị và dự phòng tái nghiện. Thế nên khi họ đã tự
nguyện tham gia cai nghiện thì họ cần được pháp luật bảo vệ để quá trình cai nghiện
của họ thành công, đối với trường hợp cai nghiện bắt buộc thì cai nghiện theo quy định
của pháp luật.
Chính sách, pháp luật đối với hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT
có vai trò quan trọng thể hiện: CSPL ghi nhận thừa nhận dịch vụ CTXH với người
nghiện ma túy là một hoạt động chuyên nghiệp. Chính sách pháp luật tạo cơ sở pháp lý
cho dịch vụ CTXH với ngưởi sử dụng ma túy hoạt động, đồng thời CSPL trở thành
nền tảng pháp lý cho việc chữa trị và phòng chống ma túy. Vì vậy, CSPL về dịch vụ
CTXH với NSDMT ra đời thể hiện việc quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công
tác phòng chống ma túy tại Việt Nam.
Hỗ trợ pháp lý cho người SDMT giúp họ có cơ hội phát triển trong mọi mặt của
đời sống xã hội: văn hóa, giáo dục, kinh tế, chính trị…Ví dụ NSDMT được cung cấp dịch vụ
sàng lọc, đánh giá chẩn đoán mức độ nghiện chất, dịch vụ cai nghiện, được tham gia các hoạt
động như giáo dục tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phòng chống ma túy; được tham gia
chương trình điều trị nghiện; được tham vấn/tư vấn hiệu quả…Tuy nhiên với NSDMT, họ
dường như tự làm mất đi quyền con người tích cực và lương thiện của bản thân mình. Do đó,
họ cần được hiểu rõ và có trách nhiệm về suy nghĩ cũng như hành vi của mình. Vì vậy,
NVCTXH cần làm rõ cho họ thấy điều này.
CSPL là cơ sở pháp lý tạo nguồn lực, kinh phí, tài chính, nhân lực cho hoạt
động CTXH đối với người SDMT hoạt động. Có kinh phí thì CTXH có cơ hội phát
triển tốt hơn cho cả đội ngũ làm nghề cũng như đội ngũ được trợ giúp NSDMT… thể
hiện trong đề án 32/QĐ-TTg [4]. Theo đó, đề án phát triển nghề CTXH tại VN từ nay
đến 2020 đầu tư 2.347,4 tỷ đồng cho các hoạt động, chương trình (bao gồm ngân sách
địa phương, vốn nhà nước, vốn ODA). Còn đề án 1215/QĐ-TTg (Đề án trợ giúp xã
hội và phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng
đồng giai đoạn 2011-2020) kinh phí là 4000 tỷ đồng cho các hoạt động [5]. Riêng đối
với hoạt động cai nghiện và đổi mới công tác cai nghiện thể hiện trong Đề án
2596/QĐ-TTg, Quyết định về việc phê duyệt đề án đổi mới công tác cai nghiện ma túy
tại Việt Nam đến năm 2020 ngày 27 tháng 12 năm 2013. [6]. Kinh phí thực hiện Đề án
được bố trí trong kinh phí chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, cơ quan
Trung ương và các địa phương theo phân cấp quản lý của Luật ngân sách nhà nước;
lồng ghép trong Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống ma túy; Chương trình
49
mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và các chương trình mục tiêu quốc gia
khác. Huy động các nguồn lực xã hội; hợp tác quốc tế và các nguồn hợp pháp khác.
Hỗ trợ pháp lý đối với NSDMT còn thể hiện ở việc dựa trên cơ sở pháp lý giúp họ giải
quyết các vấn đề của họ, họ được tham gia các hoạt động truyền thông, giáo dục, học
nghề, tạo công ăn, việc làm, được chữa trị về mặt y tế và tinh thần, lao động trị
liệu…nhằm đạt hiệu quả trong quá trình cai nghiện ma túy.
2.2.3 Quy trình cung cấp dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy
Hiện nay, các CSCN đang cung cấp các loại hình dịch vụcho hai trường hợp
chính: Trường hợp cai nghiện bắt buộc và trường hợp cai nghiện tự nguyện. Vì vậy,
trong phần này, chúng tôi sẽ làm rõ quy trình cung cấp dịch vụ CTXH đối với trường
hợp cai nghiện bắt buộc và trường hợp cai nghiện tự nguyện. Trong luận án này, chúng
tôi vận dụng quy trình cung cấp dịch vụ đối với những trường hợp cai nghiện tự
nguyện làm quy trình cung cấp dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy. Tuy nhiên
đối với những trường hợp bắt buộc cai nghiện thì cần có sự liên kết, chuyển gửi và
thực hiện theo quy định của Luật.
2.2.3.1 Quy trình cung cấp dịch vụ đối với những trường hợp cai nghiện bắt buộc.
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định đối tượng áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Điều 96 như sau: Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi
trở lên đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại
xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được áp dụng
theo trình tự, thủ tục nhất định, cụ thể là tại Luật xử lý vi phạm hành chính, Nghị định
221/2013/NĐ-CP. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ, cơ quan đã lập hồ sơ phải thông
báo cho người bị đề nghị áp dụng hoặc người đại diện của họ về việc lập hồ sơ. Những
người này có quyền đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết trong thời hạn 05
ngày, kể từ ngày nhận được thông báo. Sau khi người bị áp dụng hoặc người đại diện
hợp pháp của họ đọc xong hồ sơ thì hồ sơ được gửi cho Trưởng phòng Tư pháp cấp
huyện. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Trưởng phòng Tư pháp
cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ gửi Trưởng phòng Lao động
– Thương binh và Xã hội cùng cấp. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ
sơ, Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc phải được đánh bút lục và được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
Cai nghiện bắt buộc tại CSCN đang được thực hiện theo quy trình 5 bước dưới đây.
Tuy nhiên, quy trình này mang nặng tính chất hành chính, chưa làm rõ được mục đích,
50
yêu cầu, nội dung hoạt động cung cấp dịch vụ của từng bước trong quy trình. Đây còn
là một hạn chế của các Cơ sở cai nghiện ma túy.
* Bước 1: Tiếp nhận, phân loại
Khi một người nghiện ma tuý được tiếp nhận tại trung tâm để bắt đầu quy trình cai nghiện, cần hoàn thành đủ một số công việc như: Có đầy đủ hồ sơ theo quy định
(các giấy tờ chứng minh nhân thân, hoàn cảnh gia đình, tình trạng pháp lý…).
Bên cạnh đó, cần kiểm tra tài sản cá nhân của người nghiện. Việc làm này rất
quan trọng vì nó phòng tránh nguy cơ người nghiện mang các chất gây nghiện hoặc vũ khí, các vật cấm khác vào trung tâm.
* Bước 2: Điều trị cắt cơn, giải độc
Việc khó khăn nhất của cai nghiện ma tuý là điều trị cắt cơn, giải độc. cắt cơn
giải độc trở thành một bước quan trọng trong quá trình phục hồi là bước đột phá, bắt
liên lạc để có được sự giúp đỡ. Trong suốt quá trình này, người nghiện sẽ bị cách ly khỏi xã hội và các hoạt động chống lại xã hội. Bởi vì, nghiện ma túy bao gồm 2 phần
tâm lý và sinh lý. Cơ thể của người nghiện lệ thuộc vào ma túy và sự thiếu vắng ma
túy sẽ làm cho người nghiện phải chịu đựng một triệu chứng sinh lý mà ta thường gọi
là “hội chứng cai”. Chính điều này làm cho người nghiện luôn thèm có ma túy và
nghiện chúng một cách lặp đi lặp lại để thỏa mãn.
Tuỳ thuộc vào tình trạng của người nghiện (mức độ nghiện nặng hay mới, mức
độ sẵn sàng, tình trạng sức khỏe, tâm lý..) mà thời gian dành cho giai đoạn cắt cơn giải
độc có dài ngắn khác nhau song nhìn chung giai đoạn này thường kéo dài từ 1 đến 2
tuần. Phòng Y tế của trung tâm sẽ đám nhận giai đoạn này và thực hiện theo đúng
phác đồ điều trị của Bộ Y tế.Việc điều trị cắt cơn, giải độc sẽ được tiến hành kết hợp
với các biện pháp tâm lý, vật lý trị liệu để tăng thêm hiệu quả. Ngoài ra, với những
trường hợp mắc các bệnh khác, hoặc bị nhiễm HIV/AIDS, trung tâm sẽ phải điều trị
bệnh cho đối tượng song song với cắt cơn giải độc.
* Bước 3: Giáo dục, phục hồi hành vi
Chỉ riêng cắt cơn giải độc không thể đảm bảo cho một cuộc sống lành mạnh cho phần lớn người nghiện. Vì vậy, đây được coi là giai đoạn cơ bản của quy trình cai nghiện, phục hồi. Trong giai đoạn này, người nghiện sẽ được tư vấn tâm lý – xã hội, học tập về luật pháp, đạo đức. Từ đó, tạo tiền đề cho người nghiện xây dựng lối sống lành mạnh, có trách nhiệm và tự tin hơn. Để tăng hiệu quả của giai đoạn này, người nghiện thường được tham gia các hoạt động lao động và đoàn thể.
* Bước 4: Lao động trị liệu, chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng
Lao động ngoài mục đích chữa trị còn giúp người nghiện tạo ra sản phẩm để cải
thiện cuộc sống. Nhiệm vụ của cán bộ giai đoạn này là tư vấn cho người nghiện và gia
đình để hai bên có thể giúp đỡ nhau khi người nghiện quay trở về cộng đồng.
51
* Bước 5: Quản lý lâu dài dựa vào cộng đồng
Trong cai nghiện ma tuý tuyệt đối không tách rời nỗ lực của đội ngũ cán bộ
viên chức chuyên nghiệp tại Trung tâm với sự nỗ lực của gia đình đối tượng. Họ đã cố
gắng để đoạn tuyệt với quá khứ, gia đình cũng cần phải điều chỉnh môi trường sống,
thường xuyên gần gũi, động viên người nghiện trong khi cai và phải học hỏi kỹ năng
hỗ trợ người nghiện sau cai. Nếu nhân tố này không đạt hiệu quả như mong muốn thì
quá trình điều trị duy trì sau chữa bệnh tập trung sẽ rất khó thành công. Căn cứ kết quả
khảo sát nhu cầu của NSDMT và cộng đồng xung quanh, trung tâm cai nghiện sẽ có
định hướng thích hợp để đào tạo nghề, đồng thời tổ chức các hoạt động củng cố nghề
nghiệp, khuyến khích NSDMT duy trì nghề nghiệp tốt đã có như: làm vườn, công
nhân kỹ thuật, lái xe, thợ sửa xe….tạo điều kiện để họ được tham gia thường xuyên
các loại hình lao động, tạo việc làm tại chỗ.
Bên cạnh đó, khi có điều kiện trung tâm nên tổ chức các đợt thăm gia đình của
NSDMT. Qua các đợt vãng gia này, mối quan hệ phối hợp giữa gia đình và trung tâm đã
được thiết lập và củng cố. Qua đó Trung tâm cũng nắm chắc hơn về các vấn đề của
NSDMT, gia đình NSDMT cũng được tư vấn kỹ hơn kỹ năng quản lý, hỗ trợ NSDMT
sau hòa nhập. Mặc dù quy trình này có nhiều ưu thế và được thực hiện trong thời gian dài
tại Việt Nam, tuy nhiên nó cũng tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Với số người sử
dụng ma túy ngày càng tăng lên, họ có nhu cầu tham gia điều trị tự nguyện cùng với sự
thay đổi chương trình, chính sách thì quy trình cung cấp cần có sự thay đổi phù hợp hơn.
2.2.3.2 Quy trình cung cấp dịch vụ đối với những trường hợp sử dụng ma túy tự nguyện
Tác giả Nguyễn Hải Hữu khẳng định: Phương pháp sử dụng trong cung cấp
dịch vụ CTXH là tiếp cận để thấu hiểu và cảm hoá đối tượng, xây dựng cái tôi nhân
cách hữu ích, giá trị của gia đình, cộng đồng hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thông qua các hoạt động tư vấn, tham vấn, quản lý đối tượng, nâng cao năng lực và
giúp đối tượng có kế hoạch hành động thiết thực trong cuộc sống, có thể tiếp cận các
nguồn lực sẵn có để sử dụng các nguồn lực, dịch vụ có hiệu quả. Thông thường, khi
các đối tượng yếu thế có vấn đề về mặt xã hội, họ thường thụ động, mặc cảm, tự ty,
thiếu khả năng tiếp cận các nguồn lực và dịch vụ sẵn có do các rào cản xã hội vô hình.
Vì vậy, nhân viên CTXH có vai trò rất quan trọng trong việc giúp đối tượng phá bỏ rào
cản đó và kết nối với các dịch vụ trợ giúp, tạo lòng tin, ý chí và nghị lực mới hướng tới
một cuộc sống hữu ích hơn.
Đối với người sử dụng ma túy, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phát triển cộng đồng
(SCDI) (2016) cho rằng: Hiện nay, mạng lưới cung cấp dịch vụ cho người nghiện ma túy
rất đa dạng và phong phú như Cơ sở Methadone; Điểm tư vấn chăm sóc tại cộng đồng,
52
Nhóm tự lực, Gia đình, Trung tâm tự nguyện, bệnh viện, Các hiệp hội, đoàn thể…nhằm hỗ
trợ tốt nhất cho người nghiện giữ sạch, không nghiện lại ma túy.[94].
(Sơ đồ 1. Dịch vụ hỗ trợ cho người sử dụng ma túy tham gia điều trị tự nguyện. Tài
liệu SCDI, (2016)
Theo SCDI (2016), quy trình điều trị nghiện bao gồm các bước sau:
(Sơ đồ 2. Quy trình điều trị nghiện ma túy tại các Trung tâm điêu trị tự nguyện và
điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ điều trị tại cộng đồng. (Tổ chức SCDI, 2016)
53
Vận dụng quy trình điều trị nghiện ma túy tại các Trung tâm điều trị tự nguyện
và điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ điều trị tại cộng đồng của tổ chức SCDI trên, luận án
xây dựng quy trình cung cấp dịch vụ CTXH cho người SDMT dưới góc độ công tác xã
hội nhằm hỗ trợ NSDMT cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Dựa trên căn cứ pháp lý:
Luật phòng chống ma túy (năm 2000), sửa đổi bổ sung năm 2008, 2013, Đề án đổi
mới Công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020… nhu cầu tham gia dịch
vụ của người SDMT, các loại hình dịch vụ hiện nay, các nguyên tắc của điều trị
nghiện, đồng thời tham khảo kinh nghiệm quốc tế và hệ thống các tổ chức tham gia
điều trị tự nguyện.
Mục đích của việc cung cấp dịch vụ CTXH cho người SDMT nhằm: Giảm mức
độ nghiện mong muốn: mức độ/ tần số và liều lượng nghiện; Giảm các tác hại về mặt
sức khỏe, tâm lý, an toàn xã hội; Tăng cường chức năng xã hội của bệnh nhân: việc
làm, học tập, gia đình, tái hòa nhập cộng đồng, dự phòng tái nghiện...
Quy trình cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho người sử dụng ma túy tham gia điều trị
tự nguyện bao gồm các bước sau: Bước 1: Tiếp nhận thân chủ/Mở hồ sơ; Bước 2. Tư
vấn đánh giá sàng lọc về ma túy, đánh giá mức độ sử dụng ma túy và yếu tố phục hồi.
Bước 3. Phân loại mục tiêu sử dụng dịch vụ. Bước 4. Lập kế hoạch thực hiện. Bước 5.
Thực hiện kế hoạch (Cần ghi nhật ký điều trị). Bước 6. Lượng giá/Kết thúc, Bước 7.
Theo dõi, quản lý thân chủ tái hòa nhập cộng đồng
Bước 1. Tiếp nhận thân chủ/Mở hồ sơ
Mục đích: Thu hút, khuyến khích thân chủ vào chương trình điều trị. Thời gian
làm việc trong khoảng 30-45 phút. Các hoạt động bao gồm:(1). Chào đón, thới thiệu
về bản thân và cơ sở cung cấp dịch vụ; (2). Lắng nghe nhu cầu của thân chủ. (3). Giới
thiệu về các chương trình điều trị, các chi phí và các hỗ trợ. (4). Tiếp nhận: mở hồ sơ
(đồng ý cho thân chủ tham gia sử dụng dịch vụ)
NVCTXH cần nắm chắc thông tin về chương trình, thông tin thống nhất khi
cung cấp cho thân chủ; thực hiện phỏng vấn tạo động lực điều trị. Họ có thể sử dụng
các loại công cụ nhằm hướng dẫn chuyên môn như: Phỏng vấn tạo động lực điều trị;
Gắn kết phỏng vấn tạo động lực với các chiến lược áp dụng cho các giai đoạn thay đổi
hành vi. Bên cạnh đó, họ có thể sử dụng bảng hỏi gợi ý tư vấn khách hàng buổi đầu
tiếp cận tại cơ sở điều trị dựa trên quyền của khách hàng; Cam kết điều trị; Mẫu Hợp
đồng điều trị tự nguyện; Thông tin về các chi phí điều trị; Tờ rơi giới thiệu chương
trình điều trị
54
Bước 2. Tư vấn đánh giá sàng lọc về ma túy, đánh giá mức độ sử dụng ma
túy và yếu tố phục hồi
Mục đích: Phát hiện tình trạng cấp cứu hoặc bệnh lý nguy hiểm đến tính mạng
của bệnh nhân để điều trị tại cơ sở hoặc chuyển gửi kịp thời. Đội ngũ NVCTXH cần
thực hiện các hoạt động: (1) Đánh giá lâm sàng; (2) Kết nối với đội ngũ y tế, bác sĩ, y
tá; (3)Kết nối, chuyển gửi để khám điều trị nếu cần thiết; (3) Chuyển sang bước tiếp
theo nếu thân chủ không trong tình trạng khẩn cấp hoặc nguy hiểm.
Đánh giá tình trạng lệ thuộc ma túy và xác định các vấn đề liên quan đến quá trình
điều trị và phục hồi. Các hoạt động cần thực hiện bao gồm (1) Sử dụng bảng đo mức độ
sẵn sàng thay đổi và mong muốn điều trị (SOCRATE- 8D); (2) Trao đổi với thân chủ về
mục đích đánh giá và trực tiếp hỏi để thân chủ trả lời; (3) Tổng hợp thông tin vào phiếu
đánh giá và phân loại điều trị; (4) Chuyển gửi điều trị nếu cần
Nhân viên thực hiện: NVCTXH được đào tạo bài bản về kiến thức, kỹ năng và
đạo đức trong điều trị nghiện ma túy nhằm phát hiện được tình huống cấp cứu hay
nguy hiểm liên quan đến SDMT (sốc quá liều, loạn thần, bệnh lý nặng). Đồng thời, họ
được đào tạo về đánh giá, và sử dụng thành thạo các công cụ đánh giá, đồng thời thực
hiện thành thạo các kỹ năng phỏng vấn theo hướng dẫn. Nhân viên hỗ trợ có thể sử
dụng các công cụ: Công cụ (ASI- Addictiion Severity Index) – Bộ chỉ số đánh giá mức
độ nghiện; Thang đo SOCRATE- 8D- thang đo các giai đoạn sẵn sàng thay đổi và
mong muốn điều trị; Test đánh giá nhanh trạng thái tâm thần (MMSE); mẫu tổng hợp
kết quả đánh giá và các thẻ báo cáo, phản hồi cho bệnh nhân.
Bước 3. Phân loại mục tiêu sử dụng dịch vụ
Mục đích: Xác định mục tiêu sử dụng phù hợp với tình hình thực tế và mong
muốn của thân chủ. Các hoạt động thực hiện: (1) Tập hợp kết quả sàng lọc y tế, tâm thần,
mức độ nghiện(ASI); (2) Tóm tắt kết quả đánh giá vào phiếu tổng hợp; (3) Thảo luận với
thân chủ và gia đình; (4) Lựa chọn mục đích điều trị; (5) Chuyển gửi điều trị
Nhân viên thực hiện là những người thực hiện việc đánh giá ASI, SOCRATES
8D và sàng lọc tâm thần. Họ cần thảo luận với thân chủ và gia đình; Xác định giai đoạn
thay đổi hành vi; Thực hiện phỏng vấn tạo động lực. Sau đó cần xác định mức độ dịch
vụ điều trị: Điều trị nội trú; Điều trị thay thế; Ngoại trú tăng cường; Cắt cơn nhanh;
Nội trú dài hạn; Nội trú tăng cường ngắn hạn; Cắt cơn y tế; Khả năng xuất hiện hội
chứng cắt cơn; Tình trang y sinh học/SK; Tình trạng hành vi; Mức độ sẵng sàng thay
đổi; Khả năng tái nghiện lại; Môi trường phục hồi. Lựa chọn dịch vụ nào là do bản
thân thân chủ, đội ngũ cung cấp dịch vụ sẽ tư vấn và hỗ trợ cho họ có nhận định đúng
55
hướng. Khi đó nhân viên CTXH sẽ có sự kết nối với các dịch vụ tương ứng để hỗ trợ
thân chủ một cách đẩy đủ, toàn diện.
Bước 4. Lập kế hoạch thực hiện
Mục đích: Xây dựng kế hoạch cụ thể của từng cá nhân cho quá trình sử dụng
dịch vụ và phục hồi. Các hoạt động thực hiện bao gồm: (1) Xác định 01 nhân viên
quản lý ca; (2) Xác định phương thức trị liệu dựa trên mức độ nghiện, giai đoạn thay
đổi hành vi, mục riêu điều trị của từng bệnh nhân; (3) Xây dựng kế hoạch cụ thể theo
mốc thời gian, các hoạt động, kết quả dự kiến. (4)Thảo luận với thân chủ và GĐ hoặc
người hỗ trợ. Kế hoạch phải được thống nhất giữa quản lý ca, nhân viên liên quan,
bệnh nhân, gia đình, người hỗ trợ nhằm thực hiện phỏng vấn tạo động lực; Quản lý ca.
Nhân viên hỗ trợ có thể sử dụng các công cụ: Mẫu lập kế hoạch, kế hoạch điều chỉnh,
bảng các câu hỏi hỗ trợ lập kế hoạch
Đội ngũ nhân viên cần thực hiện các nhiệm vụ: Sử dụng thông tin từ ASI và
SOCRATES, bản tổng hợp kết quả đánh giá đầu vào, bảng các câu hỏi gợi ý cho mục tiêu
thay đổi, sử dụng kỹ năng phỏng vấn tạo động lực, xác định khách hàng đang ở giai đoạn
nào của các giai đoạn thay đổi; Xác định cụ thể mục tiêu, các biện pháp thực hiện, tần số,
thời gian thực hiện các biện pháp trị liệu; Kế hoạch được xây dựng với sự đồng thuận của
khách hàng, thống nhất với gia đình; Khách hàng đọc lại bản kế hoạch và ký tên; Rà soát
lại kế hoạch trong các giai đoạn thực hiện. Đồng thời họ có thể sử dụng một số công cụ:
Kế hoạch điều trị; Đánh giá và chỉnh sửa kế hoạch trị liệu phục hồi; Đánh giá hỗ trợ lập kế
hoạch điều trị cá nhân; Các câu hỏi hỗ trợ
Bước 5. Thực hiện kế hoạch (Cần ghi nhật ký điều trị).
Đây là bước quan trọng và rất phức tạp, đòi hỏi người hỗ trợ phải thực sự tâm
huyết và luôn động viên, khích lệ thân chủ. Những hoạt động hỗ trợ cho giai đoạn này
bao gồm: Quản lý hành vi tích cực, Thưởng cho hành vi tích cực; kết nối điều trị y tế;
tư vấn gia đình; nhóm tự lực, nhóm hỗ trợ gia đình; kỹ năng sống; tư vấn/tham vấn;
chuyển gửi…
Mục đích: Giúp thân chủ thực hiện kế hoạch điều trị theo đúng tiến độ và đạt
được mục tiêu đặt ra ban đầu. Do đó NVCTXH cần thực hiện số can thiệp hiệu quả
như: (1) Can thiệp giảm tác hại: Chương trình Bơm kim tiêm và bao cao su; Tiếp cận
nhóm tiềm ẩn. (2) Can thiệp tâm lý xã hội: Tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm, tham vấn
nhóm phục hồi và dự phòng tái nghiện; Giáo dục kỹ năng sống, nâng cao năng lực
tự thân; Khuyến khích, thưởng cho hành vi tích cực; Tư vấn/tham vấn gia đình;
Quản lý trường hợp; Tham vấn nhóm tự lực; Nhân viên CTXH tạo động lực cho
người sử dụng ma túy chủ động tham gia tích cực: (3) Các hỗ trợ xã hội. NVCTXH
56
luôn động viên và khích lệ NSDMT có ý chí và quyết tâm thực hiện các hoạt động
trong kế hoạch nhằm đạt hiệu quả cao trong quá trình điều trị nghiện.
Bước 6. Lượng giá/Kết thúc
Lượng giá là quá trình xem xét hiệu quả, chất lượng dịch vụ cung cấp cho
NSDMT. Khi kết thúc cần xem xét lại kế hoạch trị liệu và phục hồi nhằm mục tiêu:
Đánh giá tiến độ thực hiện kế hoạch và khả năng đạt mục tiêu; có thể điều chỉnh kế
hoạch dựa trên tình hình thực tế, giai đoạn phục hồi; Là cơ sở để khen thưởng, động
viên bệnh nhân; Đánh giá lại tình trạng của bệnh nhân và kết quả trị liệu. Có thể sử
dụng bảng ASI và SOCRATES; So sánh các diễn biến của bệnh nhân với kế hoạch đặt
ra; So sánh tình trạng của bệnh nhân với mục tiêu trong kế hoạch. Nhân viên quản lý
ca chịu trách nhiệm chính, cùng với bệnh nhân và người hỗ trợ (nếu có) có sự tham gia
của nhân viên khác (nếu cần). Yêu cầu cán bộ quản lý ca phải: Đánh giá định kỳ: tuỳ
tình trạng của bệnh nhân, có thể từ 1 tuần – 1 tháng hoặc 3 tháng một lần; Đánh giá
đột xuất: nếu có tình huống phát sinh; Phải có sự tham gia của bệnh nhân; Dựa trên
nhật ký điều trị. Nếu kết quả chưa đạt được mục tiêu điều trị cần có kế hoạch chuyển
tiếp bệnh nhân tới dịch vụ phù hợp.
Bước 7. Theo dõi, quản lý thân chủ tái hòa nhập cộng đồng
Đây là bước quan trọng sau khi kết thúc sử dụng dịch vụ tại Cơ sở, do đó nhân
viên CTXH cần thảo luận với thân chủ về kế hoạch liên hệ nhằm hỗ trợ và tác động
kịp thời khi thân chủ tái hòa nhập cộng đồng. Thực hiện hoạt động này qua tạo mối
liên hệ sự gắn kết vì kết thúc chưa phải là hết. Cần phải đảm bảo rằng người thân, gia
đình, và môi trường xung quanh, tạo điều kiện và nhìn nhận sự thay đổi tích cực của
thân chủ, tránh kỳ thị, phân biệt, đối xử với họ. Bản thân họ cần duy trì kết quả đã thực
hiện được trong quá trình sử dụng dịch vụ, cố gắng, quyết tâm dự phòng tái nghiện.
Xây dựng giải pháp phòng tránh trong những tình huống có nguy cơ cao: như từ chối, quản lý căng thẳng, quản lý nóng giận, giải quyết mâu thuẫn trong các mối quan
hệ…Thân chủ cần giữ liên lạc thường xuyên với đội ngũ nhân viên CTXH nhằm giải quyết kịp thời những tình huống nguy cơ cao giúp thân chủ hoàn toàn không sử dụng lại ma túy.
Nhìn chung, khi đề cập đến dịch vụ CTXH với NSDMT chúng ta đề cập đến quy trình và hệ thống các dịch vụ chuyên nghiệp như dịch vụ CTXH cá nhân; CTXH nhóm; CTXH với gia đình; tư vấn, tham vấn; dịch vụ hỗ trợ pháp lý; quản lý ca, dịch vụ vận động, kết nối, huy động nguồn lực dịch vụ trợ giúp; dịch vụ giáo dục truyền
thông nâng cao nhận thức; dịch vụ đánh giá nhu cầu, mong muốn; dịch vụ tư vấn sàng lọc mức độ sử dụng ma túy; dịch vụ đánh giá mức độ nghiện ma túy; dịch vụ phỏng
vấn tạo động lực; dịch vụ việc làm nhằm giúp quá trình điều trị cai nghiện thành công.
57
2.2.4 Đánh giá chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với
người sử dụng ma túy
Chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy
được thể hiện qua việc đánh giá của người sử dụng dịch vụ với các loại hình dịch vụ, chất lượng, đội ngũ nhân viên cũng như tác dụng của từng dịch vụ đối với người sử dụng dịch
vụ. Người sử dụng dịch vụ có quyền đưa ra những nhận xét, đánh giá về việc cung cấp
dịch vụ CTXH tại các Cơ sở cai nghiện. Nhóm tác giả Phan Chí Anh &Nguyễn Thu Hà,
Nguyễn Huệ Minh (2013) trong nghiên cứu: Nghiên cứu các mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ” đã khẳng định: đánh giá chất lượng dịch vụ phụ thuộc đáng kể vào loại hình dịch
vụ, yếu tố thời gian, nhu cầu khách hàng… Ngoài ra, sự kỳ vọng của khách hàng đối với
các dịch vụ cụ thể cũng thay đổi theo các yếu tố như thời gian, số lần sử dụng dịch vụ, sự
cạnh tranh trong môi trường ngành…[3]
Đánh giá dịch vụ CTXH là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về
kết quả cung cấp dịch vụ cho người sử dụng ma túy, dựa vào những phân tích thu được,
đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những giải pháp, quyết định nhằm
nâng cao chất lượng hiệu quả dịch vụ CTXH tại các cơ sở cai nghiện.
Parasuraman và cộng sự (1985), là người đầu tiên nghiên cứu chất lượng dịch
vụ. Đánh giá chất lượng, hiệu quả dịch vụ có thể dựa trên các tiêu chí như: các loại
hình dịch vụ được cung cấp đa dạng, phong phú phù hợp; sự hài lòng về chất lượng
dịch vụ; chuyên môn của đội ngũ cung cấp đào tạo nghề; Giá trị, đạo đức, thái độ, sự
chuyên nghiệp của đội ngũ cung cấp dịch vụ; Tính kịp thời, phù hợp của dịch vụ; Tính
hữu hiệu của dịch vụ; sự tuân thủ nguyên tắc cung cấp dịch vụ; quy trình cung cấp
dịch vụ …có thể đánh giá trước, trong và sau khi sử dụng dịch vụ để khắc phục những
hạn chế, yếu kém. Đồng thời dựa vào kết quả đánh giá từ người sử dụng dịch vụ, đội
ngũ cung cấp dịch vụ sẽ cải thiện các yếu tố còn hạn chế nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của dịch vụ.[139]. Thang đo SERVQUAL ban đầu (1988) bao gồm 22 biến,
đến năm 1991 được điều chỉnh còn 21 biến bao gồm 2 phần. Một phần đo lường dịch
vụ cảm nhận (P) và phần khác có nội dung đo lường dịch vụ kỳ vọng của khách hàng
(E). Chất lượng dịch vụ Q được tính cho từng biến quan sát (Q=P-E).
Theo mô hình chất lượng dịch vụ Servqual, chất lượng dịch vụ dựa trên khoảng
cách giữa sự mong đợi của khách hàng về dịch vụ và sự cảm nhận thực tế khách hàng
nhận được sau khi tiêu dùng sản phẩm.
58
Khoảng cách này thể hiện trên 5 khoảng cách của mô hình, là khoảng cách giữa
sự mong đợi và sự cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ. Trong mô hình
Servqual, biện pháp này được thể hiện ở những nỗ lực để xóa bỏ hoặc thu hẹp các
khoảng cách 1,2,3 và 4. Điều đó sẽ giúp các nhà cung cấp dịch vụ giảm bớt khoảng
cách thứ 5 (Gap 5).
Như vậy, trong luận án này, chúng tôi sử dụng đánh giá chất lượng dịch vụ theo
mô hình SERVQUAL của Parasuraman, đánh giá chất lượng dịch vụ có thể căn cứ vào
năm thành phần cơ bản của chất lượng dịch vụ (TRRAE)):
1. Phương tiện hữu hình (Tangibles): thể hiện qua thương hiệu, hình ảnh, tài
liệu, trang thiết bị và máy móc để thực hiện dịch vụ và ngoại hình, trang phục của
nhân viên phục vụ.
2. Độ tin cậy (Reliability): thể hiện khả năng thực hiện dịch vụ phù hợp và đúng
hẹn ngay từ lần đầu.
3. Tính đáp ứng (Responsiveness): mức độ mong muốn và sẵn sàng phục vụ
khách hàng kịp thời.
4. Năng lực phục vụ (Assurance): kiến thức chuyên môn và phong cách lịch
lãm, niềm nở của nhân viên phục vụ, tính sẵn sàng và đặc biệt là giải quyết nhanh các
khiếu nại, thắc mắc của khách hàng.
59
5. Sự cảm thông (Empathy): thể hiện sự ân cần, quan tâm, thăm hỏi, động viên
đến từng cá nhân khách hàng.
Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ:
Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng là hai khái niệm được phân biệt nhưng có quan hệ
gần gũi, gắn kết với nhau. Theo tác giả Nguyễn Thị Mai Trang (2006): Chất lượng
dịch vụ là thuật ngữ mang tính khách quan, nhận thức, đánh giá, trong khi sự hài lòng
là sự kết hợp của các thành phần mang tính chủ quan, dựa vào cảm giác, xúc cảm của
người sử dụng dịch vụ. Sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ thường tính đến các
tiêu chí mà họ cảm nhận được khi sử dụng một dịch vụ nào đó, trong một khoảng thời
gian nhất định. Khi nói đến chất lượng dịch vụ là họ nói đến sự quan tâm đến các
thành phần cụ thể của dịch vụ.[82]. Vì vậy, khi đề cập đến chất lượng dịch vụ CTXH
đối với NSDMT, cần quan tâm đến các tiêu chí đánh giá, các loại hình dịch vụ vụ thể
và cấu thành của từng dịch vụ hay các hoạt động cụ thể của dịch vụ. NSDMT có hài
lòng hay không, họ đánh giá như thế nào, tốt hay chưa tốt…Đó là sự quan trọng trong
đánh giá chất lượng dịch vụ CTXH với NSDMT.
2.3 Cơ sở lý thuyết của đề tài nghiên cứu
2.3.1 Các lý thuyết ứng dụng trong thực hành cung cấp dịch vụ Công tác xã
hội đối với người sử dụng ma túy.
*Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow: Abraham là nhà tâm lý học, ông nhìn
nhận con người theo hướng nhân văn hiện sinh. Ông cho rằng con người cần được đáp
ứng những nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển, đó là nhu cầu thể chất, nhu cầu an toàn,
nhu cầu tình cảm xã hội (tình yêu thương) và nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được
hoàn thiện. Theo ông các nhu cầu này được sắp xếp theo thứ bậc từ nhu cầu cơ bản nhất,
tới nhu cầu cao hơn và vị trí thứ bậc tiếp theo như hình tam giác. Bậc 1 là nhu cầu thể
chất, sinh lý; bậc 2 là nhu cầu an toàn, bậc 3 là nhu cầu giao lưu xã hội, bậc 4 là nhu cầu
tôn trọng và bậc thứ 5 là nhu cầu khẳng định bản thân.
Vận dụng thuyết nhu cầu trong cung cấp dịch vụ CTXH với NSDMT: Nhân viên
CTXH nhìn nhận và hiểu thân chủ/ NSDMT có mức độ nhu cầu phụ thuộc vào hình
thái sử dụng chất gây nghiện. Có thể ban đầu chỉ là dùng thử, dùng cho biết hay dùng
vì mục đích nào đó như chữa bệnh, tiếp đến là dùng nhiều rồi dùng liên lục dẫn đến
nghiện ma túy. Đồng thời các nhu cầu của NSDMT cũng phụ thuộc vào các giai đoạn
trước, trong và sau cai nghiện ma túy. Đối với NSDMT thì không phải nhu cầu nào
cũng sẵn sàng cung cấp dịch vụ hỗ trợ, chỉ những nhu cầu nào được xã hội thừa nhận,
theo chuẩn mực xã hội, nhân viên CTXH sẽ tiến hành đánh giá và cung cấp dịch vụ.
Căn cứ theo bậc thang nhu cầu của tác giả A. Maslow (1943), cung cấp dịch vụ CTXH cho
NSDMT cần đáp ứng những nhu cầu cụ thể như sau:
60
Thứ nhất nhân viên CTXH cung cấp dịch vụ đáp ứng với nhu cầu cai nghiện ma
túy của NSDMT: Cai nghiện là một chiến lược quan trọng trong việc cải thiện sức khỏe
thể chất, tinh thần và chức năng xã hội của người nghiện nhằm đảm bảo, ổn định cuộc
sống. Vì khi nghiện ma túy, thể chất và tinh thần của họ lệ thuộc vào ma túy, chi phí
thường là khá cao và gây ra những tổn thất đáng kể cho gia đình, xã hội thể hiện qua
hiện tượng thất nghiệp, vô gia cư, tan vỡ gia đình, mất khả năng sản xuất kinh tế, mất ổn
định xã hội và tội ác đi kèm. Họ có thể có nguy cơ cao tử vong sớm hay tăng cường các
bệnh lây nhiễm qua đường máu như HIV, viêm gan B và C. Do đó, hầu như người nghiện
ma túy đều có nhu cầu cai nghiện cao, chỉ một số người không muốn cai do xấu hổ hoặc
cai nhiều lần vẫn tái nghiện. Bên cạnh đó, họ có nhu cầu về xét nghiệm các bệnh liên quan
do tiêm chích như virus HIV/AIDS, viêm gan B, C, bệnh lao phổi...Do đó, khi họ tiếp cận
sử dụng dịch vụ CTXH, họ cần đươc đáp ứng về nhu cầu này đầu tiên.
Thứ hai là cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu thể chất, sinh lý cơ bản của
NSDMT: Nhân viên CTXH cần tuân thủ nguyên tắc thực hành nghề CTXH, họ nhìn
nhận người SDMT là con người nên có đầy đủ những nhu cầu về thể chất, sinh lý, ăn,
uống, ngủ, nghỉ và chăm sóc sức khỏe, thở không khí trong sạch... Ngoài ra họ còn rất
cần có những nhu cầu vật chất thiết thực về chăm sóc sức khỏe thể chất, phục hồi chức
năng của não bộ, hệ thần kinh và các cơ quan nội tạng do chất gây nghiện tác động.
Sau khi cắt cơn cai nghiện, họ rất cần được quan tâm chăm sóc về thể chất, sinh lý,
đây là những đòi hỏi tất yếu của cơ thể sau cắt cơn giải độc. Do đó, đội ngũ cung cấp
dịch vụ cần có sự tư vấn, đánh giá mức độ nhu câu cho phù hợp để có kế hoạch cung
cấp dịch vụ CTXH
Thứ ba là cung cấp dịch vụ CTXH đáp ứng nhu cầu được an toàn: NSDMT tiếp
cận và sử dụng dịch vụ CTXH cần trong một môi trường an toàn, lành mạnh. Khi các
nhu cầu thể chất sinh lý được đảm bảo và các yếu tố về thể lý không còn chi phối đến
suy nghĩ và hành vi của người NSDMT thì họ có nhu cầu được an toàn: an toàn về thông
tin, an toàn về cuộc sống, an toàn về thể trạng, an toàn trong quá trình điều trị
nghiện...NSDMT phải đảm bảo an toàn cho chính họ và cho người thân và những người
xung quanh, an toàn cho xã hội. Vì ai cũng biết nếu NSDMT có hành vi phạm tội, nhất là
những người “ngáo đá” thì đó là tội ác tày trời, xã hội không dung thứ, họ sẵn sàng gây
mất trật tự, an toàn cho xã hội. Vì vậy, Cơ sở cung cấp dịch vụ luôn phải đảm bảo sự an
toàn trong quá trình điều trị nghiện và dự phòng tái nghiện.
61
Thứ tư là cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tình cảm, giao lưu: Nhân viên
CTXH cần hiểu đây là nhu cầu quan trọng của NSDMT. Nhu cầu này thường bị hạn
chế vì sự kỳ thị và phân biệt đối xử từ bản thân họ, từ bên ngoài. Người NSDMT có
nhu cầu cho và nhận được sự yêu thương, quý mến từ những người thân trong gia
đình, hàng xóm láng giềng, cộng đồng, đồng nghiệp và cả những người chăm sóc,
điều trị nghiện tại cơ sở cai nghiện. Do đó, nhân viên CTXH phải tìm hiểu để cung
cấp dịch vụ cho phù hợp hỗ trợ họ cai được nghiện, không tái nghiện và luôn tạo
được niềm tin với mọi người.
Thứ năm là cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu được tôn trọng: Đây là điều đặc
biệt quan trọng đối với Cơ sở cung cấp dịch vụ liên quan đến tính chuyên nghiệp, tư
cách, tác phong, thái độ làm việc của đội ngũ cung cấp dịch vụ CTXH. Đồng thời đây
cũng là nguyên tắc thực hành nghề CTXH mà đội ngũ Nhân viên CTXH cân tuân thủ.
Tuy nhiên, bản thân NSDMT phải là người tôn trọng người khác thì mọi người xung
quanh mới tôn trọng họ được. Vì việc SDMT là không ai ép buộc họ mà họ tự lựa
chọn, họ tự lao vào con đường đầy trông gai đó. Đối với những trường hợp có hành vi
vi phạm pháp luận, họ phải tuân thủ quy định của pháp luật. Do vậy, họ phải có quyết
tâm cai nghiện, không tái nghiện, luôn giữ an toàn cho bản thân và xã hội, tôn trọng
mọi người xung quanh và tự khẳng định bản thân có giá trị để không bị kỳ thị, phân
biệt đối xử. Đồng thời Cơ sở cũng sẵn sàng tôn trọng họ thể hiện qua thái độ của đội
ngũ cung cấp dịch vụ CTXH.
Thứ sáu là cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu được tự khẳng định: Nhân viên
CTXH cần hiểu NSDMT cần được khẳng định chính mình và được làm những việc bản
thân muốn làm để cung cấp dịch vụ phù hợp. Trong quá trình điều trị nghiện, nếu xác định
được nhu cầu này, sẽ làm cho người SDMT nhìn thấy rõ bản thân của họ hơn, xác định
tâm lý và bản lĩnh vững vàng hơn và từ đó cũng có những quyết định đúng đắn hơn, họ sẽ
có động lực thúc đẩy để cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Nhân viên CTXH cần tư vấn,
tham vấn, tạo động lực thúc đẩy họ. Cai được nghiện và dự phòng tái nghiện tốt cũng là
điều quan trọng để họ khẳng định bản thân, lấy lại niềm tin với người thân gia đình, bạn bè
hay các mối quan hệ xã hội.
*Thuyết nhận thức- hành vi: Thuyết Nhận thức- Hành vi là kết quả của sự
phát triển của lý thuyết Hành vi được xây dựng trên nền tảng thuyết học tập xã hội
(Bandura, 1977). Thuyết nhận thức hành vi cho rằng hành vi luôn được quyết định và
62
diễn ra sau quá trình tâm trí. Con người có phản ứng do có một sự thay đổi của môi
trường, gọi là tác nhân kích thích. Phản ứng của con người là nhằm thích nghi với tác
nhân kích thích này. Biểu diễn dưới dạng mô hình: S R B (Trong đó: S (subjet)
Tác nhân kích thích; R (reflexion) Phản ứng của con người; B (behavior) Kết quả hành
vi). Các tác giả của thuyết nhận thức- Hành vi lập luận rằng: Chính tư duy quyết đình
phản ứng chứ không phải yếu tố kích thích quyết định phản ứng. Theo đó, mô hình
Hành vi đã được phát triển thêm yếu tố nhận thức như sau: S C R B (Trong
đó: S (subjet) Tác nhân kích thích; C (cognitive) Nhận thức; R (reflexion) Phản ứng
của con người; B (behavior) Kết quả hành vi)
Như vậy, ta thấy trong nhiều trường hợp tác nhân kích thích S không phải là
nguyên nhân trực tiếp của hành vi mà chính nhận thức C về S và về kết quả hành vi B mới
dẫn đến phản ứng R của con người. Ví dụ: Hai người cùng sử dụng Heroin. Một người thì
do bạn bè lôi kéo dẫn đến nghiện, cứ đi chơi và sử dụng nhiều lần dẫn đến nghiện ma túy.
Một người thì không phải do kích thích bên ngoài mà vì bản thân anh ấy mong muốn thử
xem chất đấy như thế nào mà bạn mình sử dụng, thử rồi, lần sau lại dùng vì cảm giác dễ
chịu, sau đó là dùng nhiều, tăng liều và dẫn đến nghiện chất heroin. Như vậy, Nhận thức-
Hành vi là trường phái trị liệu dựa trên quan điểm cho rằng cảm xúc của con người được
tạo ra không phải bởi hoàn cảnh/ môi trường mà bởi cách chúng ta nhìn nhận vấn đề. Liệu
pháp Nhận thức- Hành vi tập trung vào các trị liệu nhằm hướng đến sự thay đổi trong
hành vi. Con người học tập bằng cách quan sát, ghi nhớ và lặp lại những cách ứng xử của
người khác trong hoàn cảnh tương tự. Vậy nên việc chú trọng vào quá trình này sẽ có thể
góp phần tích cực cho việc trị liệu.
Vận dụng thuyết nhận thức- hành vi trong quá trinh cung cấp dịch vụ hỗ trợ
NSDMT: Trong quá trình cung cấp dịch vụ cho NSDMT, nhân viên CTXH vận dụng mô
hình nhận thức hành vi thật sự hợp lý với từng trường hợp. Nhân viên CTXH có nhận
thức rõ về ma túy, tác hại của ma túy, các loại ma túy, nguyên tắc điều trị nghiện, các
phương pháp, cách thức điều trị, trị liệu ...để có định hướng hành vi phù hợp trong việc hỗ
trợ NSDMT. Hơn nữa, hầu hết các vấn đề nhân cách và hành vi của NSDMT được tạo tác
bởi những suy nghĩ sai lạc, trong mối quan hệ tương tác với môi trường bên ngoài. Họ nhận
thức lầm và gán nhãn nhầm cả từ tâm trạng ở trong ra đến hành vi bên ngoài, do đó gây nên
những niềm tin, hình tượng, đối thoại nội tâm tiêu cực. Suy nghĩ tiêu cực dẫn đến các hành
vi của một cái tôi thất bại. Đồng thời, hầu hết các hành vi mà NSDMT học tập, trừ những
63
phản ứng bẩm sinh, đều bắt nguồn từ những tương tác với thế giới bên ngoài bản thân họ.
NSDMT hoàn toàn có khả năng học tập các hành vi mới để thỏa mãn các nhu cầu trong quá
trình phát triển của cá nhân, hoặc để thay thế các hành vi không phù hợp. NSDMT có thể
học hỏi để tập trung nghĩ về việc nâng cao cái tôi, điều đó sẽ tạo ra các hành vi, thái độ thích
nghi và củng cố nhận thức tích cực. Do đó, nhân viên CTXH cần phải nhận thức rõ, hiểu
sâu những đặc điểm này của NSDMT để định hướng hành vi phù hợp hỗ trợ NSDMT cai
nghiện thành công và dự phòng tái nghiện.
Vận dụng thuyết Nhận thức - Hành vi trong cung cấp dịch vụ CTXH với
NSDMT là cơ sở để NVCTXH giúp thân chủ giảm những hành vi không thích hợp và
tăng cường hành vi đúng đắn. Các NVXH làm việc với cá nhân cần phải sửa chữa lại
những sai lệch trong nhận thức về ma túy và thế giới bên ngoài của thân chủ, để đưa
hành vi của họ hợp lý trở lại. Từ đó đem lại cho thân chủ những suy nghĩ và cảm giác
đúng đắn về bản thân và giúp thân chủ tương tác một cách hài hòa với môi trường
xung quanh. Sự thay đổi này là nền tảng cho một cuộc sống tốt đẹp về tinh thần tình
cảm cũng như quan hệ xã hội của NSDMT.
Không những thế, vận dụng lý thuyết nhận thức hành vi trong cung cấp dịch vụ
CTXH cho NSDMT, nhân viên CTXH có nhìn nhận đúng đắn về các giai đoạn thay
đổi hành vi nhằm giúp thân chủ thay đổi được suy nghĩ, cảm xúc cũng như hành vi
theo từng các giai đoạn, lấy lại sự cân bằng về mặt tâm lý, tình cảm và tăng cường khả
năng bản thân vào giải quyết vấn đề của bản thân khi mình sử dụng ma túy và các vấn
đề xung quanh. Đồng thời vận dụng lý thuyết còn giúp nhân viên CTXH làm việc dễ
dàng với gia đình NSDMT, xác định nguyên nhân sâu xa từ phía gia đình tìm biện
pháp trị liệu tâm lý phù hợp, giúp gia đình hòa thuận cùng nhau cố gắng để cải thiện
vấn đề khó khăn gia đình đang gặp phải. Bên cạnh đó, vận dụng lý thuyết còn giúp
thân chủ tìm ra nguồn lực trợ giúp trong quá trình giải quyết vấn đề.
*Thuyết hệ thống: Lý thuyết hệ thống được đề xướng năm 1940 bởi nhà sinh
vật học Ludwig von Bertalanffy. Đây là phản ứng lại chống lại chủ nghĩa đơn giản hoá
lẫn đóng gói đối tượng của khoa học. Ông cho rằng tất cả cơ quan đều là các hệ thống,
bao gồm những hệ thống nhỏ hơn, và là phần tử của các hệ thống lớn hơn. Hệ thống là
một tập hợp các phần tử có quan hệ tương hỗ. Những thay đổi của phần tử này trong
hệ thống sẽ gây ra tác động tới các phần tử khác. Tất cả cơ quan đều là các hệ thống,
bao gồm những hệ thống nhỏ hơn, và là phần tử của các hệ thống lớn hơn. Gia lớn hơn
64
là quần thể làng xóm hay lớn hơn nữa là xã hội nói chung. Mọi hệ thống đều có thể được
chia thành những hệ thống khác nhỏ hơn. Như vậy, mỗi hệ thống luôn bao gồm những hệ
thống con, cho đến đơn vị nhỏ nhất là phần tử. Mỗi hệ thống con lại có những đình là một
hệ thống, bao gồm các hệ thống nhỏ hơn là mỗi thành viên, và là phần tử của các hệ thống
nguyên tắc riêng, cũng như biên giới và các đặc tính thống nhất. Thành viên trong những
hệ thống này có thể thay đổi theo thời gian.
Áp dụng thuyết hệ thống trong cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT:
Xã hội là trật tự có quy định rõ ràng nằm trong lòng hệ thống xã hội là các tiểu hệ
thống, trong đó có tiểu hệ thống cá nhân, gia đình, cộng đồng, hệ thống chính sách, pháp
luật, văn hóa... Hoạt động của hệ thống luôn đảm bảo tính cân bằng, ổn định. Tất cả các
tiểu hệ thống phải tuân thủ chấp hành quan điểm, chính sách, pháp luật của hệ thống thì
mới ổn định và phát triển. Vì vậy khi cung cấp dịch vụ CTXH nhân viên CTXH cần đảm
bảo nguyên tắc của hệ thống, hỗ trợ Cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH thực hiện các hoạt
động, dịch vụ theo quan điểm, chính sách của hệ thống. Các cơ sở cai nghiện là tiểu hệ
thống của chính sách phòng chống ma túy. Cơ sở muốn cung cấp dịch vụ gì cần phải bám
sát vào hệ thống chính sách thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ của Cơ sở giúp NSDMT tuân
thủ nguyên tắc của hệ thống. Nếu không tuân thủ hoặc NSDMT nổi dậy chống phá thì hệ
thống sẽ bị phá vỡ, nhưng sẽ thiết lập thành hệ thống mới vận hành theo nguyên tắc hoạt
động mới. Dù thế nào thì hệ thống luôn mang tính ổn định, cân bằng. Do đó, cung cấp
dịch vụ CTXH cho NSDMT trên quan điểm của thuyết hệ thống thì giúp NSDM tuân thủ
điều trị nhằm đạt được hiệu quả cai nghiện và dự phòng tái nghiện.
Các dịch vụ CTXH cung cấp cho NSDMT là một hệ thống, trong đó bản thân
mỗi NSDMT cũng là một tiểu hệ thống, hệ thống này nằm trong hệ thống lớn hơn là hệ
thống gia đình, và hệ thống gia đình lại là một phần tử trong hệ thống một cộng đồng nhất
định, cộng đồng là hệ thống phần tử trong xã hội...Tất cả các phần tử trong hệ thống có sự
liên kết ổn định theo thể chế chính trị, luật pháp, chính sách của mỗi quốc gia. Cung cấp
dịch vụ cho NSDMT theo hệ thống mang tính toàn diện, đa dạng các loại hình dịch vụ và
hữu hiệu khi NVXH làm việc với những trường hợp mà tác động giữa con người và những
sự kiện xảy ra rất phức tạp, ví dụ: NSDMT tiếp xúc với người thân gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp; người hỗ trợ tiếp xúc với môi trường sinh thái của họ.
Thuyết hệ thống được ứng dụng trong cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT
như một phương tiện để tổ chức những tư tưởng, ý nghĩ về các vấn đề, sự kiện phức
65
tạp, sử dụng chất, các rối loạn về mặt cảm xúc, tình cảm hay trong mối quan hệ giữa
NSDMT với những người xung quanh, những ý nghĩ, cảm xúc về các yếu tố gợi nhớ,
đồ vật, con người, thời gian, địa điểm...
Pincus và Minaham (1970) đã đưa ra một cách ứng dụng thuyết hệ thống vào
CTXH. Nguyên tắc chủ yếu của ứng dụng này là việc con người dựa vào các hệ thống
trong môi trường xã hội gần cận của mình để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, vì thế
NVXH cần tập trung vào các hệ thống đó. Đó là ba loại hệ thống sau: Hệ thống không
chính thức hay còn gọi là hệ thống tự nhiên (ví dụ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp); Hệ
thống chính thức (Công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ); Hệ thống xã hội (nhà trường,
bệnh viện, các nhóm hỗ trợ xã hội, nhóm tự lực, nhóm đồng đẳng..)
Thực tế, không phải khi nào NSDMT cũng có thể sử dụng được các hệ thống
trợ giúp trên vì những hệ thống này có thể không tồn tại trong cuộc sống của họ, hoặc
không phù hợp với vấn đề mà họ đang gặp phải (ví dụ sử dụng ma túy đã bị gia đình từ
chối, không nơi nương tựa đã hoàn toàn mất đi hệ thống gia đình trong chuỗi hệ thống
không chính thức). Bên cạnh đó, người SDMT có nhu cầu cai nghiện nhưng có thể họ
không biết tới hệ thống trợ giúp hoặc không muốn sử dụng chúng (ví dụ đứa trẻ bị lạm
dụng chất có thể không biết phải tìm sự trợ giúp ở đâu, hoặc sợ hãi không dám tới đồn
công an vì lo rằng chúng sẽ bị đưa ra xa gia đình, nơi mà chúng vẫn rất gắn bó mặc dù bị
đánh đập). Hơn nữa, các chính sách của hệ thống có thể gây khó khăn cho thân chủ (sự
phụ thuộc, mâu thuẫn về quyền lợi, rườm rà thủ tục). Không những thế hệ thống này xung
đột với hệ thống khác khiến NSDMT khó tiếp cận được các hệ thống liên quan.
Vậy, nhiệm vụ của NVXH là tìm ra những mâu thuẫn trong việc kết nối giữa
những người có nhu cầu và các hệ thống trợ giúp nói trên, phải tìm ra điểm yếu trong
việc kết nối giữa NSDMT và các hệ thống này. Mục đích nhằm cung cấp dịch vụ phù
hợp giúp NSDMT thực hiện lý tưởng sống của mình một cách tốt nhất có thể được,
loại trừ những căng thẳng nảy sinh và đạt được mục tiêu cũng như các giá trị sống
quan trọng đối với họ.
NVXH cũng cần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hệ thống NSDMT và hệ thống
cán bộ hỗ trợ trong quá trình phục hồi dựa vào gia đình và cộng đồng: Giúp họ sử
dụng và phát huy tối đa khả năng của mình để giải quyết vấn đề (ví dụ như: cai nghiện
và dự phòng tái nghiện, học các kỹ năng và các kỹ thuật như đối phó cơn thèm nhớ, kỹ
năng quản lý căng thẳng, quản lý bản thân, quản lý thời gian để làm tăng các mối quan
hệ trong gia đình và phòng chống tái sử dụng); Xây dựng mối quan hệ mới giữa
NSDMT với các hệ thống trợ giúp trong xã hội (ví dụ giúp một NSDMT sau cai tiếp
66
cận được các dịch vụ xã hội; Nhóm hỗ trợ xã hội, nhóm đồng đẳng, nhóm tự lực, cơ sở
đào tạo việc làm…nhằm tái hòa nhập cộng đồng). Giúp họ tăng cường khả năng tương
tác giữa con người và các hệ thống chính sách, pháp luật (ví dụ NVXH giúp thân chủ
trình bày vấn đề rõ ràng mạch lạc hơn trước tòa để có thêm nhiều cơ hội thành công);
Giúp phát triển và thay đổi chính sách xã hội một cách phù hợp và cung cấp trợ giúp
thực tế khác được xã hội thừa nhận khi cần thiết.
Các lý thuyết nghiên cứu
Thuyết nhu cầu
Thuyết hệ thống
Thuyết nhận thức, hành vi
Nhóm giải pháp tăng cường năng lực công tác xã hội
dục-
2.3.2 Khung lý thuyết nghiên cứu
Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức và nhu cầu cung cấp DVCTXH
Bối cảnh về ma túy và tình hình sử dụng ma túy và giải pháp giảm thiểu
DV CTXH 1. DVgiáo truyền thông; 2. DVtham vấn 3. DV hỗ trợ chăm sóc y tế 4. DV hỗ trợ học nghề, tìm việc làm 5.DV Hỗ trợ pháp lý
Định hướng, giải pháp
Người sử dụng ma túy
Qua khung lý thuyết của đề tài nghiên cứu, ta thấy nghiên cứu dịch vụ công tác
xã hội với người sử dụng ma túy từ bối cảnh chung về ma túy và tình hình sử dụng ma
túy cũng như các giải pháp làm giảm thiểu tình trạng sử dụng ma túy dựa trên cơ sở
vận dụng các lý thuyết nghiên cứu. CTXH cũng được xem như một giải pháp hữu hiệu
trong quá trình hỗ trợ NSDMT cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Trong đó, dịch vụ
Công tác xã hội với NSDMT bao gồm các loại hình dịch vụ như dịch vụ giáo dục,
truyền thông, dịch vụ tham vấn, tư vấn, dịch vụ chăm sóc hỗ trợ y tế, dịch vụ hỗ trợ
học nghề, tìm việc làm, dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Mỗi loại hình dịch vụ được thể hiện cụ
thể qua nội dung các hoạt động thực hiện, hình thức cung cấp, đội ngũ cung cấp và
chất lượng, hiệu quả của dịch vụ. Chất lượng, hiệu quả của dịch vụ này chịu ảnh
hưởng từ nhiều yếu tố bản thân NSDMT, gia đình, bạn bè và xã hội. Từ thực trạng đó,
67
đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả của dịch vụ CTXH với NSDMT tập
trung vào hai nhóm giải pháp: nhóm giải pháp nâng cao nhận thức và nhu cầu cung
cấp dịch vụ; nhóm giải pháp tăng cường năng lực công tác xã hội.
2.4. Luật pháp, chính sách về dịch vụ Công tác xã hội đối với ngƣời sử dụng ma túy
Theo “Chuẩn Quốc tế về điều trị rối loạn nghiện ma túy” thì “Chỉ những
chương trình mang triết lý cốt lõi là nhận thức khoa học về nghiện ma túy với tư cách
một rối loạn về hành vi, có thể điều trị được bằng thuốc và các can thiệp tâm lý, mới
có thể tăng khả năng hồi phục của bệnh nhân. Các chiến lược và phương pháp pháp lý
riêng lẻ khó có thể đạt được kết quả tích cực về lâu dài”.[45]. Vì vậy, hiệu quả cung
cấp dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy chịu tác động từ thể chế chính sách
pháp luật của quốc gia đó, nhất là Việt Nam.
2.4.1 Các văn bản pháp luật về dịch vụ Công tác xã hội.
Căn cứ pháp lý của nghề CTXH tại Việt Nam là Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg
về “Phê duyệt đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020” ngày
25/3/2010. Thông tư 07/2013/TT- BLĐTBXH ngày 24/5/2013 “Hướng dẫn tiêu chuẩn
Công tác viên CTXH cấp xã”. Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT/BLĐTBXH-BNV
ngày 110/6/2013 “hướng dẫn, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Trung tâm cung cấp DVCTXH”. Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT/BLĐTBXH-
BNV ngày 19/08/2015 Quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên
chức ngành CTXH. Thông tư số 01/2017/TT-BLĐTBXH ngày 02/02/2017 của Bộ Lao
động thương binh xã hội “Về việc ban hành quy định tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp
đối với người làm công tác xã hội”
Trong Hội thảo Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển nghề CTXH ngày
14/12/2018, tác giả Nguyễn Hải Hữu, Phó Chủ tịch Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và
nghề công tác xã hội Việt Nam khẳng định: “Pháp luật về CTXH là khuôn khổ pháp lý
quan trọng cho việc phát triển nghề CTXH. Hầu hết các quốc gia có nghề CTXH phát
triển họ đều có luật và có Hiệp hội của những người hành nghề CTXH và Hiệp hội các
trường đào tạo về CTXH. Luật về CTXH điều chỉnh các hoạt động nghề nghiệp CTXH,
bảo vệ quyền và lợi ích của người cung cấp dịch vụ (nhân viên CTXH) và bảo vệ lợi
ích của người sử dụng dịch vụ CTXH. Để phát triển CTXH thành một nghề chuyên
nghiệp ở Việt Nam theo Đề án 32 của Chính phủ, cần thiết phải xây dựng và ban hành
luật về CTXH”.
68
2.4.2 Các văn bản pháp luật liên quan đến dịch vụ Công tác xã hội với người
sử dụng ma túy
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ sở pháp lý cao nhất của
việc tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013, nội
dung về quyền con người, quyền công dân được đưa lên Chương 2. NSDMT là con
người, vì vậy họ có quyền và nghĩa vụ công dân theo quy định.
Luật Phòng chống ma túy được Quốc hội ban hành ngày 19/12/2000 quy định về
phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma tuý; kiểm soát các hoạt động hợp
pháp liên quan đến ma tuý; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong
phòng, chống ma tuý. Trong Luật Phòng, chống ma tuý, các từ ngữ liên quan đến ma
tuý như: chất ma tuý, chất gây nghiện, người nghiện ma tuý… được giải thích rõ ràng,
thống nhất. Luật cũng quy định những hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý bao
gồm các hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ,
mua bán, phân phối, nghiện, xử lý, trao đổi, nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh các chất
quy định, được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của
pháp luật. Điều 3 của Luật quy định rõ các hành vi bị coi là phạm pháp liên quan đến
ma tuý.
Quốc hội đã ban hành Luật số 16/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
phòng, chống ma tuý năm 2000 và tiếp tục được sửa đổi, bổ sung năm 2008, năm
2013. Một số nội dung chủ yếu được sửa đổi, bổ sung như sau: Điều 13 được sửa đổi,
bổ sung về các hoạt động của Cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma tuý
thuộc Công an nhân dân; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong
việc thực hiện quy định theo yêu cầu của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm
về ma túy; Trách nhiệm của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy
thuộc Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải quan. Điều 25 Luật
Phòng chống ma túy nêu rõ: “áp dụng chế độ cai nghiện đối với người nghiện, khuyến
khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện; tổ chức các cơ sở cai nghiện ma túy
bắt buộc; khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện việc cai nghiện tự
nguyện cho người nghiện ma túy, hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, quản lý sau cai
nghiện và phòng chống tái nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và
phương pháp cai nghiện ma túy”. Người nghiện ma túy có thể đăng ký tự nguyện cai
nghiện tại gia đình, cộng đồng hay tại các cơ sở cai nghiện (Điều 27). Điều 26 được
sửa đổi, bổ sung về trách nhiệm của gười nghiện ma túy, gia đình người nghiện ma túy.
Bổ sung Điều 26a vào sau Điều 26 về các biện pháp cai nghiện ma tuý. Điều 33 được
69
sửa đổi về quản lý người nghiện ma túy sau cai tại trung tâm, quy định nội dung quản
lý sau cai nghiện, hình thức xử lý đối với người cai nghiện bỏ trốn, chính sách hỗ trợ
thiệp giảm tác hại của nghiện ma tuý là biện pháp làm giảm hậu quả tác hại liên quan
đến hành vi nghiện ma tuý của người nghiện gây ra cho bản thân, gia đình và cộng
đồng. Biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma tuý được triển khai trong nhóm
người nghiện ma tuý thông qua chương trình dự án phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội. Chính phủ quy định cụ thể các biện pháp can thiệp giảm tác hại của nghiện ma
tuý và tổ chức thực hiện các biện pháp này”.
cho người sau cai nghiện. Tại điều 34a của Luật này bổ sung như sau: “Biện pháp can
Ngoài ra, Luật sửa đổi còn quy định về kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất, tổ
chức cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện, phòng, chống tái nghiện ma túy; Quy
định trách nhiệm của các Bộ: Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Bộ Y tế trong công tác quản lý, thực hiện chính sách phòng, chống ma
túy. [69]. Bên cạnh đó, NSDMT cần thực hiện theo Luật xử lý vi phạm hành chính
2012, Nghị định 221/2013/NĐ-CP.
Đối với hoạt động phòng chống ma túy, chúng ta có nhiều chương trình, chiến
lược quốc gia trong phòng chống ma túy. “Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm
soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” được ban hành
trong bối cảnh tình hình tệ nạn ma tuý trên thế giới và Việt Nam ngày một diễn biến
phức tạp...
Quyết định 608/QĐ-TTg ngày 25/05/2012. Phê duyệt chiến lược quốc gia phòng
chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Quyết định 1001/QĐ-TTg ngày
27/06/2011 về việc Phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở
Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Quyết định 679/ QĐ-TTg ngày
10/05/2011. Phê duyệt chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011-
2015. Quyết định 36/QĐ-TTg ngày 17/03/2004 về việc Phê duyệt chiến lược Quốc gia
phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 tầm nhìn 2020. Nghị quyết số
98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ “Về tăng cương chỉ đạo công tác phòng
chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới”. Hiện nay, chính phủ đã
ban hành một số Quyết định đổi mới trong công tác cai nghiện. Quyết định 2596/QĐ-
TTg Phê duyệt Đề án đổi mới công tác cai nghiện tại Việt Nam đến năm 2020. Quyết
định 1640/QĐ-TTg ngày 18/8/2016 của Thủ tướng chính phủ “Về việc phê duyệt Quy
hoạch mạng lưới cơ sở cai nghiện ma túy đến năm 2020 và định hướng đến 2030” với
70
quan điểm tăng số lượng, quy mô cơ sở cai nghiện tự nguyện, đa dạng hóa các loại
hình cơ sở cai nghiện để người nghiện ma túy có thể tiếp cận được các dịch vụ cai
nghiện theo nhu cầu. Nghị quyết số 14/2017/NQ-HĐND ngày 05/12/2017 của Hội
đồng nhân dân thành phố Hà Nội về “Ban hành quy định giá một số dịch vụ điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone và chính sách hỗ trợ
của Nhà nước đối với đối tượng được hưởng theo quy định tại các cơ sở điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế của nhà nước thuộc thành phố
Hà Nội”. Nghị định 60/2020/NĐ-CP “Sửa đổi, bổ sung Danh mục các chất ma túy và
tiền chất”, ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất”.
Chính phủ Việt Nam rất coi trọng hợp tác quốc tế trong phòng, chống ma tuý,
bằng việc tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh
vực phòng, chống ma tuý với các nước, các tổ chức phi Chính phủ, đặc biệt với sự hỗ
trợ của Tổ chức phòng, chống tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc (UNODC), với
các nước tiểu vùng sông Mêkông và với các quốc gia có chung đường biên giới...Ngày
01/9/1997, Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Quyết định số
798/QĐ-CTN về việc tham gia 3 Công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý đó là: Công
ước thống nhất về các chất ma tuý năm 1961; Công ước về các chất hướng thần năm
1971 và Công ước của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý
và các chất hướng thần năm 1988. Nghị định số 05/2003/NĐ-CP về hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực phòng, chống ma tuý, Những năm gần đây bên cạnh việc đẩy mạnh
chống tội phạm ma tuý trong nước, Chính phủ Việt Nam đã không ngừng tăng cường
mở rộng quan hệ phối hợp với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNODC, Interpol... hợp
tác với nhiều quốc gia trên thế giới, khu vực thông qua việc ký kết các hiệp định, thoả
thuận, bản ghi nhớ như: Bản ghi nhớ hợp tác tiểu vùng sông MêKông (MOU); các bản
hiệp định, thoả thuận hợp tác với Chính phủ Liên bang Myanma, Cộng hoà Hungary,
Lào, Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc…
2.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng, hiệu quả của dịch vụ công tác xã
hội đối với ngƣời sử dụng ma túy
2.5.1. Thể chế, chính sách, pháp luật của việc cung cấp dịch vụ CTXH đối
với NSDMT
Đây là yếu tố quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ điều trị nghiện ma túy.
Thể chế, chính sách, pháp luật là căn cứ pháp lý cho hoạt động cung cấp dịch vụ tại bất
71
kỳ cơ sở nào. Việc xây dựng và phát triển mạng lưới cung cấp dịch vụ cũng dựa trên
sự cấp phép của thể chế, chính sách, pháp luật. Chính sách pháp luật đóng vai trò đảm
bảo nguồn kinh phí, tài chính tạo nguồn lực, nhân lực cho dịch vụ CTXH với người sử
dụng ma túy hoạt động. CSPL về dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy ra đời thể
hiện việc quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác phòng chống ma túy tại Việt
Nam. Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, vì vậy mọi nghề
trong xã hội muốn hoạt động và phát triển đều cần có định hướng chỉ đạo của Đảng về
chương trình hoạt động cũng như giải pháp phát triển. Song cùng với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, coi trọng lĩnh vực
CTXH vì một xã hội phát triển bền vững, tạo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và an
sinh xã hội. Chính sách pháp luật hình thành trên cơ sở đảm bảo quyền con người. Đây
là nền tảng cơ sở quan trọng thiết lập hệ thống chính sách pháp luật về công tác xã hội,
phù hợp chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta: “Do con người và
vì con người, con người là trung tâm của sự phát triển”. CSPL ra đời đảm bảo cách
tiếp cận dựa trên quyền và trao quyền trong lĩnh vực Công tác xã hội với người sử
dụng ma túy để giúp họ đi đúng hướng, đồng thời đảm bảo công bằng, bình đẳng cho
người sử dụng ma túy, không vi phạm pháp luật.
Để thực hiện các hoạt động công tác xã hội một cách chuyên nghiệp, nhân viên
CTXH còn thiếu quyền khi thực hiện các nhiệm vụ và vai trò hỗ trợ cho người nghiện ma
túy. Họ gặp nhiều khó khăn trong quá trình hỗ trợ cũng như vai trò kết nối các nguồn lực
tiếp cận cho người nghiện. Hơn nữa, chưa có văn bản nào quy định rõ về chức năng,
nhiệm vụ của nhân viên y tế và nhân viên CTXH. Theo ông Lê Đức Hiền, Phó Cục
trưởng Cục phòng, chống tệ nạn xã hội trình bày báo cáo tại Hội nghị triển khai công tác
năm 2016, ngày 21/01/2016, cho biết: “…chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc,
và nhiều vấn đề mới nảy sinh cần phải xử lý cả về cơ chế, chính sách cũng như giải pháp
thực hiện...”[20]. Vì vậy, đội ngũ nhân viên xã hội rất hạn chế khi thực hiện vai trò hỗ trợ
của mình đối với NSDMT. Khung luật pháp, chính sách là cơ sở pháp lý để NVCTXH
làm việc với NSDMT đúng quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước.
2.5.2. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tai Cơ sở cung cấp dịch vụ
Công tác xã hội
Một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng dịch vụ CTXH đối
với người nghiện ma túy chính là cơ sở điều trị. Với cơ sở vật chất tiện nghi, hiện đại,
72
mang tính thẩm mỹ cao, vệ sinh và an toàn, xanh sạch đẹp sẽ làm cho khách hàng cảm
thấy thoải mái, đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Cơ sở điều trị đảm bảo về số lượng và
chất lượng sẽ tạo điều kiện cho nhân viên phục vụ thể hiện được sự chuyên nghiệp hơn,
tốt hơn giúp khách hàng hài lòng hơn. Nếu cơ sở điều trị thiếu trước hụt sau, môi trường
không vệ sinh, không an toàn sẽ làm cho khách hàng có ấn tượng xấu và không hài lòng.
Cơ sở điều trị sẽ bao gồm một số yếu tố như: Cơ sở vật chất, trang thiết bị; Các loại
hình dịch vụ cung cấp; tổ chức chương trình, dịch vụ.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị: Chất lượng môi trường cần đảm bảo sự thoải mái,
tin cậy đối với khách hàng. Các vấn đề về cơ sở vật chất, trang thiết bị, mội trường xã
hội và thể chất là điều kiện không thể thiếu trong quá trình cung cấp dịch vụ CTXH
trong điều trị nghiện. Khi NSDMT cảm thấy thoải mái để tới cơ sở điều trị, khi các
dịch vụ trở nên thân thiện với người sử dụng dịch vụ thì hiệu quả điều trị sẽ cao hơn,
chất lượng dịch vụ được đánh giá cao hơn. Hiện nay, Kinh phí đầu tư sửa chữa, nâng
cấp, mua sắm trang thiết bị cho các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã
hội thuộc diện phải chuyển đổi và các Điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ điều trị nghiện
ma túy tại cộng đồng gặp nhiều khó khăn, địa phương không bố trí được nguồn kinh
phí để thực hiện.[11].
Các loại hình dịch vụ cung cấp: Số lượng và loại hình dịch vụ được cung cấp,
liệu dịch vụ đó có được kết nối với các chương trình y tế và hỗ trợ xã hội khác hay không,
chẳng hạn như chương trình tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện, giáo dục đồng đẳng,
quản lý trường hợp v.v… ảnh hưởng đến sự thành công. Điều này còn thể hiện tính toàn
diện và sự tiện lợi trong cung cấp dịch vụ điều trị nghiện ma túy. Vì NSDMT không chỉ
gặp vấn đề về nghiện mà còn nhiều vấn đề khác liên quan như sức khỏe thể chất, tinh
thần, vấn đề mâu thuẫn trong mối quan hệ gia đình, xã hội hay một số vấn đề có liên quan
đến luật pháp… Martin SS, Scapitti FR (1993) với nghiên cứu “Hiệu quả trong việc kết
nối, điều phối các dịch vụ dành cho người sử dụng ma túy” đã khẳng định sự phối kết hợp
giữa các ngành khác nhau làm tăng tính hiệu quả của việc kết nối, điều phối các dịch vụ
dành cho người sử dụng ma túy.[63]. Vì vậy họ cần được tiếp cận một hệ thống dịch vụ
cai nghiện và dự phòng tái nghiện có đầy đủ các loại hình dịch vụ phù hợp.
Tổ chức chương trình: Nếu công việc hành chính, thủ tục đăng ký cho bệnh
nhân, NSDMT, các quy định và quy chế quá phức tạp thì sẽ không thể thu hút sự tham
gia của bệnh nhân.
73
Nói chung, các yếu tố thuộc về cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH cho người nghiện
ma túy là rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ. Điều này là môi
trường làm việc lành mạnh tích cực, phân định rõ ràng các nhiệm vụ cụ thể, không chồng
chéo. Các hoạt động cung cấp dịch vụ thường được gắn kết với nhóm, với mục tiêu và
nhiệm vụ chung của nhóm và trách nhiệm đối với khách hàng.
2.5.3 Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của nhân viên cung cấp dịch vụ
Kiến thức, kỹ năng, thái độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên tại cơ sở là rất
quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của dịch vụ CTXH với
người nghiện ma túy. Điều này không chỉ thể hiện bởi những kỹ năng quản lý cơ bản,
bệnh nhân được giám sát tốt, động viên tốt và hỗ trợ tốt mà còn ở thái độ, sự chuyên tâm
và lòng nhiệt tình của đội ngũ nhân viên thể hiện ở chất lượng lãnh đạo và mức độ lãnh
đạo của nhóm điều trị và trình độ, thái độ, kỹ năng của nhân viên.
Chất lượng lãnh đạo và mức độ lãnh đạo của nhóm điều trị: Liệu nhóm cán bộ nhân
viên làm việc trong chương trình điều trị có sự gắn kết và cùng chung chí hướng hay không
cũng ảnh hưởng đến thành công. “Việc sắp xếp, bố trí, giải quyết chế độ, chính sách đối với
cán bộ, nhân viên trong các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội thuộc diện
phải chuyển đổi sang cơ sở cai nghiện tự nguyện gặp nhiều khó khăn”. [10].
Trình độ, thái độ, kỹ năng của nhân viên: Chất lượng, hiệu quả của dịch vụ
công tác xã hội phụ thuộc phần nhiều vào đội ngũ nhân viên tại cơ sở thể hiện qua kiến
thức, kỹ năng và thái độ của họ. Những điều này cần đa dạng và đạt tới trình độ điêu
luyện, linh hoạt. Liệu nhân viên có được tập huấn tốt và liệu họ có làm việc trong một
nhóm điều trị để bổ trợ lẫn nhau trong việc giải quyết các nhu cầu và các vấn đề khác
nhau cho bệnh nhân không? Đây luôn là những câu hỏi được đặt nhằm nâng phát triển
nguồn nhân lực cung cấp DVCTXH với NSDMT.
2.5.4 Đặc điểm tâm lý và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy
Bản thân NSDMT có tác động trực tiếp thúc đẩy quá trình điều trị nghiện thành
công. Theo Van. T Nguyen (2014): có sự khác biệt giữa thanh thiếu niên chủ động sử
dụng ma túy và những người không chủ động sử dụng [145; p 110]. Trình độ học vấn
có ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy và quyết định sử dụng dịch vụ cai nghiện và dự
phòng tái nghiện. Từ việc nâng cao thay đổi nhận thức về ma túy, tác hại của ma túy
đến thay đổi thái độ và hành vi là cả quá trình dài. Một số yếu tố từ bản thân họ khiến
họ khó đạt được hiệu quả sử dụng dịch vụ.
74
Nghiện nặng và mạn tính hơn: Đây là một trong các yếu tố làm hạn chế quá
trình sử dụng dịch vụ CTXH đối với NSDMT. Nghiện nặng và nghiện mạn tính khiến
người nghiện ma túy rất khó trong việc kiểm soát được suy nghĩ, cảm xúc và hành vi
của bản thân. Do nghiện mạn tính nên não bộ bị ảnh hưởng nặng nề gây suy giảm
nghiêm trọng các chức năng thần kinh của não bộ. Vì vậy khi cung cấp dịch vụ CTXH
thì kết quả cũng khó đạt được mục tiêu như mong muốn.
NSDMT sử dụng và nghiện nhiều loại ma túy một lúc: Gần đây, bên cạnh
những loại ma túy tổng hợp đã trở nên phổ biến như ketamine, methamphetamine,
estacy… đã xuất hiện một số loại chất hướng thần mới (NPS) bị giới trẻ lạm dụng,
điển hình là nhóm các chất cần sa tổng hợp (XLR-11) được tẩm ướp dạng thảo mộc
(thường gọi là “cỏ Mỹ”), lá cây Khat (có chứa thành phần chất Cathinone)…hay một
số loại được biến dạng dưới vỏ bọc “Khô gà cay”- Việc nghiện ma túy tổng hợp và chất
hướng thần mới (NPS), nấm thức thần… đã gây ra những hậu quả đáng lo ngại cho người
nghiện, gia đình và cộng đồng, không ít người đã trở thành bệnh nhân tâm thần vì nghiện
lâu ngày thậm chí họ có nguy cơ phạm tội. Dan J. Lettieri, Mollie Sayers, Hellen
Wallenstein Pearson (1980) cho rằng: người nghiện ma túy có xu hướng phạm tội, gây
bạo lực, không ăn năn, hối lỗi mà còn có biểu hiện lan rộng ảnh hưởng tới tâm trí cộng
đồng có người nghiện nói chung. [120; p7]. Vì vậy, đây là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến
hiệu quả của quá trình sử dụng dịch vụ CTXH đối với NSDMT.
Các vấn đề tâm lý, bao gồm cả rối loại nhân cách chống lại xã hội: Khi nghiện
lâu ngày, người nghiện amphetamin sẽ bị loạn thần với các biểu hiện như nhiều ảo thị
(sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh), xuất hiện các ảo giác, các hoang
tưởng thường gặp như hoang tưởng liên hệ, bị truy hại (còn gọi là “ngáo đá”) nên có
thể dẫn đến hành vi giết người không ghê tay. Theo bác sỹ Nguyễn Doãn Phương và
Lê Thị Thu Hà (2018), Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai: Hiện nay, trên
thị trường có nhiều dạng ma túy tổng hợp mới với nhiều thành phần, dạng bào chế bao
gồm nhiều chất khác nhau nên gây khó khăn cho việc xác định cụ thể thành phần, hàm
lượng. Hơn nữa, người nghiện thường nghiện nhiều loại chất khác nhau, dẫn tới bệnh
cảnh lâm sàng đa dạng, pha trộn lẫn nhau. Trong khi đó, trạng thái cai các chất ma túy này
là khá mờ nhạt, dẫn tới quan niệm sai lầm cho rằng nghiện các chất ma túy mới là không
gây nghiện giống như các chất dạng thuốc phiện. Các đối tượng có thể lạm dụng một cách
không thường xuyên, tuy nhiên hậu quả về mặt tâm thần như các triệu chứng loạn thần,
75
trầm cảm, tự sát, kích động… là rất nặng nề cho bản thân đối tượng nghiện cũng như gây
nguy hiểm cho cộng đồng.
Tâm lý tò mò cùng quan niệm sai lầm về tác hại của ma túy tổng hợp: Một yếu
tố gây khó khăn trong quá trình điều trị nghiện ma túy đặc biệt là ma túy tổng hợp là
sự tò mò, đua đòi của một bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay. Nhiều bạn ban đầu
không có chủ định nghiện những chất đó, nhưng do những lời kích bác của bạn bè và
để chứng tỏ cho bạn bè thấy mình bản lĩnh, anh hùng nên đã nghiện nó một cách vô tư.
Nhiều bạn khác lại thấy tò mò không biết các chất gây nghiện đó mùi vị như thế nào
nên muốn thử cho biết. Chính sự tò mò và thiếu hiểu biết đã gây ra nhiều hậu quả đáng
tiếc về sau dẫn đến nghiện nặng và gây hậu quả lớn về hành vi. Hiện nay, xuất
hiện quan niệm của một bộ phận giới trẻ cho rằng phải nghiện ma túy tổng hợp mới
sành điệu, thời thượng và nhận thức sai lầm rằng nghiện ma túy tổng hợp chỉ tạo cảm
giác vui vẻ, hưng phấn tức thời, không gây nghiện nên nghiện rất an toàn. Đây là yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết tâm và ý chí cai nghiện ma túy và không nghiện
ma túy. Mặt khác, do ma túy tổng hợp rất dễ thử, dễ nghiện và phù hợp với không khí vui
vẻ, sôi động tại các điểm vui chơi, giải trí của giới trẻ như các quán bar, karaoke, vũ trường.
Vì vầy, mức độ tội phạm cao hơn và đa dạng các loại hình vi phạm.
Bản thân người nghiện ma túy không có sự hỗ trợ của gia đình và xã hội: Theo
dữ liệu phân tích của Cục CSĐT tội phạm về ma túy, Bộ Công an (2015) thì nguyên nhân
đầu tiên, quan trọng dẫn đến các thanh, thiếu niên lạm dụng chất gây nghiện, đặc biệt là
ma túy tổng hợp là do thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình. Nhiều gia đình không có
thời gian để gần gũi, tìm hiểu tâm tư, tình cảm; theo dõi các diễn biến tâm lý con.
2.5.5 Điều kiện, hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy
Hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế, nếp sống thói quen của gia đình có ảnh
hưởng trực tiếp đến người sử dụng ma túy. Hầu như các bạn trẻ nghiện ma túy nhận
được sự hỗ trợ từ gia đình rất hạn chế. Với gia đình kinh tế khá giả, ban đầu khi các thành
viên trong gia đình mới nghiện thì họ có sự đáp ứng tốt và có sự hỗ trợ kịp thời. Ma túy gây
thiệt hại lớn về kinh tế nên đa phần kinh tế gia đình khánh kiệt, đến khi đi cai nghiện thì
người nghiện không được sự hỗ trợ từ gia đình nhiều. Nhưng yếu tố gia đình, người thân có
tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả của quá trình điều trị cai nghiện.
Gia đình và người thân quan tâm, động viên hay ghét bỏ kỳ thị đều ảnh hưởng đến
người sử dụng ma túy cũng như mức độ sử dụng. Nghiên cứu của Stocker & Swadi (1989)
76
thấy 21% Thanh - Thiếu niên sử dụng ma túy có cha mẹ chết, 47% có cha mẹ ly thân. Các
tác giả như Banard (2003); Hoffman & Su (1998); Li et al., (2002); Macintosh, Gannon.
McKeganey, & MacDonald (2003) cũng khẳng định: trẻ em sống trong gia đình có người
sử dụng ma túy thường bị bóc lột và có hành vi liên quan đến ma túy và tội phạm [145; p
111].
Thái độ của các bậc cha mẹ: Một số gia đình khi biết con cái nghiện ma túy thường
có thái độ tiêu cực, có cảm giác bất lực, xấu hổ, thất bại, thiếu bổn phận và nghĩa vụ chăm
sóc con cái. Thậm chí họ rất ngại để lộ vấn đề này, họ sợ hàng xóm và mọi người xung
quanh biết. Một số khác không nhận thức được mức độ trầm trọng của việc nghiện ma
túy. Vì những suy nghĩ như thế nên các bậc cha mẹ thường không có hành động thích hợp
cho con mình. Họ chỉ cho con cái họ điều trị ngay tại gia đình thay vì đưa đến các CSCN.
Họ cũng không quan tâm đến các loại hình dịch vụ CTXH tại CSCN là như thế nào. Do đó,
đội ngũ cung cấp dịch vụ cần tư vấn, giúp đỡ cho các bậc cha mẹ hiểu rõ tác hại và hậu
quả của việc sử dụng ma túy nếu để tình trạng nghiện ngập con em họ kéo dài, sẽ càng thêm
tác hại và càng làm gia đình họ thêm tan nát thậm chí cứ ra khỏi CSCN về với gia đình,
cộng đồng là tái nghiện ngay.
Hơn nữa, khi gia đình có cha hay mẹ mắc bệnh tâm trí thường có khuynh
hướng sử dụng ma túy nhiều hơn người khác. Trường hợp cha mẹ bị trầm nhược thì
có tăng nguy cơ con cái dễ sử dụng các chất ma túy. Không những thế, sự phân ly gia
đình do chết, ly thân hay ly dị là một yếu tố nguy cơ cho việc lạm dụng ma túy ở
NSDMT. Một số NSDMT nghiện ma túy do những tổn thương tình cảm phát sinh từ gia
đình, do đổ vỡ của cha mẹ hay mối quan hệ của cha mẹ có những bất hòa, xích mích, mâu
thuẫn. Sự buông lỏng kỷ luật trong gia đình, khiến cho NSDMT vượt ra khỏi tầm quản lý
của cha mẹ. Nhiều trường hợp không tiếp tục sử dụng dịch vụ mặc dù đã có quyết tâm cam
kết từ đầu. Vì vậy, thông qua người cai nghiện, đội ngũ cung cấp dịch vụ CTXH phải nắm
được một cách sâu sắc động cơ gây ra bất hòa trong gia đình họ, sau đó là giúp
NSDMT thoát ra khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh từ phía gia đình không ổn định
của mình. Đồng thời tìm ra người có ảnh hưởng lớn nhất trong gia đình, hướng họ đến cộng
tác với chương trình điều trị như một người hỗ trợ cho CSCN.
Cách giáo dục con cái của gia đình: Có sự liên quan giữa sử dụng ma túy và kiểm
tra của gia đình. NSDMT nói rằng: “cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi, việc học tập của
họ”. Các nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con
77
cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và
các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn. Sự lơ là trong tình cảm của cha mẹ cũng dễ dẫn con
cái tới việc sử dụng ma túy. Nghiên cứu của Bob và Cộng sự (1990) cho rằng: 43% thanh
thiếu niên hút ma túy không cảm thấy “được cha mẹ yêu mến nhiều”. [30]. Sự thiếu thốn
tình cảm thân thiết với cha ảnh hưởng nhiều đến việc sử dụng các chất ma túy, mối quan hệ
nồng ấm với cha làm giảm việc sử dụng các chất ma túy. Nghiên cứu của Mellinger và
Cộng sự (1975), những người không sử dụng ma túy cảm thấy gần gũi với cha họ hơn và ít
xung đột với cha. Bên cạnh đó, việc nuông chiều của người mẹ liên quan tới các nguy cơ
sau này của việc dùng thuốc lá, rượu và ma túy. Sự nuông chiều của cha mẹ với con cái tạo
điều kiện xấu cho việc sử dụng ma túy.[141]
Các hành hạ về thể xác và tình dục thường kết hợp với lạm dụng và lệ thuộc ma
túy: Nghiên cứu của Edwad và Cộng sự (1989), trong 597 thanh thiếu niên được điều trị
vì lạm dụng ma túy, tự khai là nạn nhân của các vụ hành hạ tình dục trong và ngoài gia
đình: 7,2% trường hợp bị hành hạ trong gia đình 7,9% trượng hợp bị hành hạ tình dục ngoài
gia đình. Các thanh thiếu niên nghiện ma túy nạn nhân của các hành hạ tình dục biểu
hiện các rối loạn tâm bệnh lý nặng hơn đặc biệt một tần suất lớn hơn về các hành vi tự sát: ý
định tự sát đã được thực hiện trên 56,5% nạn nhân của loạn luân, 35,7% nạn nhân của tệ hành
hạ tình dục trong gia đình, so với 20,4% số thanh thiếu niên nghiện ma túy không phải là nạn
nhân của các hành hạ tình dục. Trong gia đình các hành vi nghiện ngập trở thành điểm nóng,
đầy lo lắng, trách móc, thậm chí nguyền rủa của người thân.[30]
2.5.6. Các mối quan hệ xã hội của người sử dụng ma túy
Bạn bè là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến NSDMT và việc tái nghiện.
Theo Van T. Nguyên (2014): Những thanh niên có bạn hoặc đồng nghiệp nghiện ma túy
có nguy cơ sử dụng ma túy nhiều hơn người không có bạn hoặc đồng nghiệp nghiện ma
túy khoảng 14 lần.[145; p 111]. Hầu hết NSDMT chỉ có mối quan hệ bạn bè cùng sử dụng
hoặc có liên quan đến ma túy. Vì vậy, đây là yếu tố khó khăn kể cả sau khi đã cai nghiện
thành công thì họ vẫn khó cưỡng lại khi bị bạn bè lôi kéo, rủ rê. Đó chính là các yếu tố cám
dỗ, những tình huống nguy cơ và ngay cả những tình huống tưởng chừng như không liên
quan trong đời sống hàng ngày của người sau cai nghiện.
Với mối quan hệ xã hội xung quanh, NSDMT thường bị xã hội kỳ thi phân biệt
đối xử làm hạn chế sự phát triển của họ. Nhiều trường hợp sau khi cai nghiện trở về
cộng đồng thường bị kỳ thị, phân biệt đối xử nên lại tham gia nhóm bạn nghiện cũ và
lại sử dụng lại, lâu dần dùng nhiều lạm dụng dẫn đến tái nghiện. Ngay cả khi họ đi xin
78
việc làm, cơ sở tuyển dụng cũng không sẵn sàng tin tưởng để tuyển họ làm việc. Đây
là những khó khăn của người nghiện ma túy. Vì thế, phần nhiều trong số họ lại tái
nghiện và một số người có những hành vi phạm tội.
Hơn nữa, Việt Nam nằm trong vùng tam giác vàng, là nước láng giềng với
Trung Quốc- một trung tâm sản xuất ma túy tổng hợp lớn trên thế giới; hai nước có nhiều
hoạt động giao thương, buôn bán, du lịch qua lại lẫn nhau rất thuận tiện nên các đối
tượng mua bán trái phép ma túy đã triệt để lợi dụng để hoạt động. Đồng thời giá ma
túy tổng hợp, nhất là ma túy đá vào Việt Nam đã giảm rất nhiều trong những năm gần
đây. Đây là tmột nguyên nhân dẫn đến việc SDMT lan rộng khó kiểm soát (nếu như
cách đây 5 năm, giá ma túy đá khoảng 1 tỷ VNĐ/ kg thì nay chỉ còn khoảng 100-150
triệu VNĐ/ kg). Do đó, mối quan hệ xã hội tác động trực tiếp tới hành vi nghiện và tái
nghiện ma túy. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nhu cầu sử dụng dịch
vụ CTXH đối với NSDMT.
Tiểu kết chƣơng 2
Nhìn chung, ma túy vẫn luôn là hiểm họa cho nhân loại và ngày càng diễn biến
phức tạp. Vì vậy công tác phòng chống ma túy và điều trị cai nghiện ngày càng trở nên
phức tạp và khó khăn. Từ tình hình ma túy và người sử dụng ma túy hiện nay, trong
chương hai, tác giả đã hệ thống hóa lý luận về ma túy, đặc điểm của ma túy, NSDMT
và đặc điểm của NSDMT, các khái niệm về dịch vụ, dịch vụ CTXH cũng như những
khó khăn của NSDMT với dịch vụ CTXH. Đồng thời nội dung của chương đã đề cập
đến các loại hình dịch vụ CTXH với NSDMT như dịch vụ chăm sóc hỗ trợ y tế, giáo
dục - truyền thông, dịch vụ Hỗ trợ pháp lý, dịch vụ tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm
và tham vấn gia đình. Các dịch vụ được mô tả chi tiết qua quá trình cung cấp dịch vụ
theo các bước với nội dung, hình thức và các kỹ năng nhằm cung cấp dịch vụ CTXH.
Bên cạnh đó, nội dung chương 2 đã khái quát được về mặt thể chế, chính sách, pháp
luật và các yếu tố tác động đến quá trình cung cấp dịch vụ CTXH với NSDMT. Hơn
nữa, nội dung của chương 2 đã đề cập đến cơ sở lý thuyết của đề tài nghiên cứu, vận
dụng các lý thuyết vào giải quyết các vấn đề của đề tài nghiên cứu như thuyết nhu cầu,
thuyết nhận thức hành vi và thuyết hệ thống. Việc hệ thống hóa lý luận về ma túy và
dịch vụ CTXH với NSDMT nhằm làm sáng tỏ khung nghiên cứu, khung phân tích,
khung lý thuyết định hướng nghiên cứu đúng đắn góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT.
79
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG CÁC DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƢỜI SỬ
DỤNG MA TÚY TẠI CÁC TRUNG TÂM CHỮA BỆNH-GIÁO DỤC -
LAO ĐỘNG XÃ HỘI VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM THAM VẤN
NHÓM ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY
3.1 Khái quát về địa bàn khảo sát và ngƣời sử dụng ma túy
3.1.1 Khái quát về địa bàn khảo sát và khách thể nghiên cứu định lượng
3.1.1.1 Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động - xã hội số 01 tại Yên Bài,
Ba Vì, Hà Nội. (Cơ sở cai nghiện số 01, Yên Bài, Ba Vì, Hà Nội)
- Quá trình hình thành Cơ sở: Cơ sở Cai nghiện ma túy số 1 Hà Nội nằm trên
địa bàn Xã Yên Bài - huyện Ba Vì – TP. Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số
6078/QĐ- UBND ngày 29/8/2017 của UBND thành phố Hà Nội. Trước năm 2017, Cơ
sở cai nghiện ma túy có tên là Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động - xã hội số
01 tại Yên Bài, Ba Vì, Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 2743/QĐ-UB ngày
14/06/1988 của Ủy Ban nhân dân Thành phố Hà Nội.
- Vị trí, chức năng:
Vị trí: Cơ sở Cai nghiện ma túy số 1 Hà Nội ( sau đây gọi tắt là Cơ sở) là đơn vị
sự nghiệp trực thuộc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Hà Nội, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 70 km về phía Tây, hoạt động có thu theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản và trụ sở
riêng. Cơ sở chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn,
nghiệp vụ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Chức năng: Tổ chức thực hiện việc chữa bệnh, cai nghiện; giáo dục phục hồi
hành vi, nhân cách; dạy nghề, lao động sản xuất, tái hòa nhập cộng đồng cho người
nghiện ma túy có quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; quản lý, tư vấn, giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy ổn định tâm lý,
sức khỏe; phòng, chống tái nghiện; tổ chức dạy văn hóa, dạy nghề, tổ chức lao động
sản xuất và hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy chuẩn bị các điều kiện tái hòa nhập
cộng đồng.
- Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ nhân viên
Ban giám đốc, các phòng bao gồm: (1) Phòng Tổ chức – Hành chính gồm 38
người; (2) Phòng Dạy nghề - Lao động sản xuất gồm 13 người: (3) Phòng Y tế phục
hồi sức khỏe gồm 10 người; (4) Phòng Giáo dục - Hòa nhập cộng đồng gồm 44 người;
80
(5) Phòng Bảo Vệ gồm 15 người. Hiện tại cơ sở có tổng số 123 cán bộ, trong đó có 02
viên chức, 121 lao động hợp đồng. Số cán bộ có trình độ chuyên môn về CTXH là
30/123, chiếm 24.4%, còn lại là tốt nghiệp các ngành khác như tâm lý, xã hội học, giáo
dục, y tế...
Hệ thống cơ sở vật chất của Cơ sở được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh và đồng bộ với tổng diện tích là 149.939 m2; giá trị tài sản cố định là 28,7 tỷ đồng, diện tích nhà ở, nhà xưởng là 10.55 m2, diện tích công trình xây dựng khác là 139.382 m2.
Từ tháng 3/1997, Cơ sở chính thức đi vào hoạt động, trải qua bao thăng trầm khó khăn
đầy thử thách mới mẻ mang tính đặc thù, Cơ sở luôn không ngừng cố gắng vượt mọi
khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị cấp trên giao phó và được Sở Lao
động Thương binh và xã hội, Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hà Nội đánh giá
cao, được nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đến thăm và học hỏi
mô hình hoạt động kiểu mẫu.
3.1.1.2 Trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục – Lao động xã hội số 05, Xuân Phương,
Từ Liêm, Hà Nội. (Cơ sở cai nghiện số 05, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội)
- Quá trình hình thành Cơ sở: Hiện nay Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục –
Lao động xã hội số 5, Hà nội có tên là Cơ sở Cai nghiện ma túy số 5 Hà Nội, được
thành lập theo Quyết định số 6129/QĐ- UBND ngày 31/8/2017 của UBND thành phố
Hà Nội. Cơ sở nằm trên địa bàn Ngõ 614 đường Phúc Diễn, xã Xuân Phương, phường
13 xã Xuân Phương – Từ Liêm – Hà Nội. Trước những năm 2017, Trung tâm Chữa
bệnh - Giáo dục - Lao động Xã hội số V Hà Nội được thành lập ngày 9 tháng 5 năm
2007 theo Quyết định số 1794/QĐ-UBND gày 24/8/2007 của Ủy ban Nhân dân
Thành phố Hà Nội.
- Vị trí, chức năng:
Vị trí: Cơ sở Cai nghiện ma túy số 5 Hà Nội ( sau đây gọi tắt là Cơ Sở) là đơn
vị sự nghiệp trực thuộc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội , hoạt động có thu theo
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài khoản và trụ sở riêng. Cơ sở chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ
chức, biên chế và công tác của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; đồng thời chịu
sự chỉ đạo, kiểm tra, hưỡng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội.
81
Chức năng: Tổ chức thực hiện việc chữa bệnh, cai nghiện; giáo dục phục hồi
hành vi, nhân cách; dạy nghề, lao động sản xuất; tái hòa nhập cộng đồng cho người
nghiện ma túy có nhu cầu được cai nghiện tự nguyện.
- Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ nhân viên
Ban giám đốc, Các phòng ban bao gồm: (1) Phòng Điều trị nội trú: (2) Phòng Điều trị
ngoại trú; (3) Phòng Công tác cộng đồng; (4) Phòng Kế toán hành chính quản trị; (5)
Phòng Bảo vệ. Đồng thời có 8 khu vực: (1) Khu bếp; (2) Xưởng gỗ; (3) Khu chăn nuôi;
(4) Khu trồng trọt; (5) Khu nhà ở (các phòng ở, phòng sinh hoạt chung); (6) Xưởng cơ
khí; (7) Xưởng giấy; (8) Khu vực thăm hỏi (dành cho người thân, gia đình bệnh nhân. Đội
ngũ nhân viên nam chiếm tỷ lệ cao: 87,5%, còn lại 12,5% là nữ. Tỷ lệ cán bộ tốt nghiệp
đại học chuyên ngành Công tác xã hội, chiếm (31,25%), xếp thứ 2 là ngành tâm lý học
(21,8%).
Tổng diện tích của cơ sở cai nghiện số 05, Hà Nội là 3,5 ha được chia thành nhiều
khu sinh hoạt, ăn uống ngủ nghỉ, khu điều trị, khu vui chơi, giải trí, khu lao động trị liệu,
trồng trọt, chăn nuôi và khu nghề nghiệp... Khả năng tiếp nhận: Ban đầu, Trung tâm tiếp
nhận 200 NSDMT từ các Trung tâm khác chuyển về. Những năm gần đây có những lúc,
Trung tâm đón nhận đến 600- 650 NSDMT thường xuyên chữa trị, học tập, rèn luyện.
Ngoài ra còn có NSDMT đến tham gia dịch vụ điều trị tự nguyện. Hiện nay, số NSDMT
tham gia điều trị tự nguyện lên đến 110 người.
3.1.2. Khái quát về khách thể nghiên cứu định lượng
3.1.2.1 Đặc điểm nhân khẩu học của người sử dụng ma túy tại Cơ sở cai nghiện
Đặc điểm nhân khẩu học của NSDMT tại Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao
động – xã hội được thể hiện cụ thể qua bảng thống kê ở bảng 3.1. Số liệu trong
Bảng 3.1 cho thấy, trong số 368 NSDMT được hỏi đều nam giới, trình độ văn hóa học hết
phổ thông trung học chiếm 52,2%, trung học cơ sở chiếm 36,1% và đều làm thuê, tự do
chiếm 70,9%, số NSDMT không có việc làm ổn định chiếm 11,1%, số người làm nghề
kinh doanh chiếm 13,9%, mức sống, điều kiện kinh tế bình thường và rất khó khăn. Số
NSDMT chưa kết hôn chiến 20,4%, đã kết hôn chiếm 75,5% và đã ly hôn chiếm 4,1%.
Nhiều người trong số họ nghiện nặng và nghiện lâu năm, số người cai nghiện lần đầu
chiếm 52,2%, cai lần hai chiếm 31,3% và cai lần ba là 16,6%. Như vậy, số người tái
nghiện tương đối cao.(Luận cứ chứng minh giả thuyết 1)
82
Bảng 3.1. Bảng tổng hợp khách thể nghiên cứu định lượng
Tiêu chí
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Đặc điểm
STT 1
Địa bàn nghiên cứu
2
Độ tuổi
Giới tính
3
Trình độ văn hóa
4
5
Nghề nghiệp
6
Mức sống, điều kiện kinh tế
7
Tình trạng hôn nhân
Cơ sở cai nghiện số 01 Cơ sở cai nghiện số 05 Tổng 16-25 tuổi 26-40 tuổi 41-60 tuổi Missing Tổng Nam Nữ Tổng Không biết chữ Tiểu học Trung học cơ sở Phổ thông trung học Trung cấp Đại học Sau đại học Tổng Không có việc làm ổn định Làm thuê, tự do Công nhân viên chức, Người lao động Kinh doanh Tổng Khá giả, rất có kiều kiện Bình thường Rất khó khăn (nghèo, cận nghèo) Tổng Chưa kết hôn Đã kết hôn(Đang có vợ/chồng) Đã ly hôn/góa bụa Tổng
8
Tình trạng nghiện ma túy Lần đầu
Lần thứ 2 Lần thứ 3 Tổng
214 154 368 69 188 83 28 368 368 0 368 0 7 133 192 10 26 0 368 41 261 15 51 368 15 235 118 368 75 278 15 368 192 115 61 368
58.15 41.85 100 18,8 51.1 22,6 7,6 100 100 0 100 0 19 36,1 52,2 2,7 7,1 0 100 11,1 70,9 4,1 13,9 100 4,1 63,9 32,1 100 20,4 75,5 4,1 100 52,2 31,3 16,5 100
(Kết quả khảo sát của đề tài)
Nói chung, sau khi vào CSCN, các NSDMT được đón tiếp và cắt cơn cai
nghiện. Sau giai đoạn cắt cơn cai nghiện, sức khỏe của họ có sự thay đổi tích cực hơn.
(Kết quả thể hiện ở Bảng 3.25 Phụ lục đính kèm). Hầu hết các NSDMT ở đây mỗi
người đều đang cố gắng nỗ lực không ngừng, cùng hỗ trợ lẫn nhau cai nghiện thành
công và đoạn tuyệt được với những cám dỗ mà ma túy đem lại với quyết tâm cao nhất,
họ cùng nhau rèn luyện để có những thói quen lành mạnh để tránh khỏi sự cám dỗ của
ma túy sau khi về cộng đồng, quyết tâm làm lại cuộc đời, xây dựng lại hình ảnh bản
thân, cùng nhau hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.
Chứng minh giả thuyết 1: Tình hình người sử dụng ma túy hiện nay tại
Việt Nam ngày càng có diễn biến phức tạp và sử dụng đa dạng các loại ma túy
tổng hợp do nhiều yếu tố tác động.
83
Kết quả nghiên cứu:
Luận cứ 1: Tình hình NSDMT hiện nay tại Việt Nam ngày càng có diễn biến
phức tạp, NSDMT sử dụng đa dạng các loại ma túy nhất là ma túy tổng hợp
(Methamphetamine) đã được phân tích lồng ghép ngay từ phần mở đầu với một
trong các lý do nghiên cứu và được phân tích trong chương 2, Cơ sở lý luận về dịch
vụ CTXH đối với NSDMT theo Báo cáo của Bộ Công An và các Bộ ngành liên
quan: Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội, Bộ Y tế. Theo Bộ Công An Việt Nam
thì tội phạm liên quan đến ma túy có diễn biến phức tạp, tính đến ngày 30/04/2020,
các lực lượng trên toàn quốc đã bắt giữ 10.351 vụ/14.730 đối tượng, thu giữ 3.582 kg
Heroin, 1.863 kg và 900.365 viên MTTH, 113kg cần sa, 3,1 kg thuốc phiện, 6,6 cỏ mỹ
và nhiều phương tiện, tài sản, vật chứng liên quan khác.[1, 9]. Đáng lưu ý, nhiều vụ
giết người với hành vi gây án dã man, tàn bạo (giết nhiều người, giết người vứt xác,
Luận cứ 2: Theo báo cáo của Cục trưởng Cục phòng, chống tệ nạn xã hội trong Hội
chặt xác, đốt xác, giết phụ nữ và trẻ em...) vì lý do ma túy. [1]”
thảo “Chia sẻ kinh nghiệm trong phòng chống tệ nạn xã hội và định hướng công tác điều trị
cai nghiện trong tình mới” ngày 31/5/2019 tại Hà Nội, khẳng định “người nghiện sử dụng
đồng thời nhiều loại ma túy ngày càng phổ biến; trong đó, tình trạng sử dụng ma túy tổng
hợp (ATS) chiếm khoảng 70-75% tổng số người nghiện ma túy”. Hơn nữa, “trong 6 tháng
đầu năm 2020, toàn quốc có 234.620 người nghiện có hồ sơ quản lý…Tỷ lệ người sử dụng
MTTH chiếm khoảng 70-80% trong số người nghiện, đặc biệt các tỉnh Miền Trung và miền
Nam, tỷ lệ sử dụng MTTH lên đến 80-95% trong tổng số người nghiện” (Bộ Công An,
(2020), Báo cáo Tình hình kết quả công tác phòng, chống ma túy 6 tháng đầu năm và
Luận cứ 3: Không những thế, hiện nay, các cơ sở cai nghiện (CSCN) đang trong
phương hướng công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm 2020, số 613/BC-BCA)
tình trạng quá tải, số lượng người nghiện ngày càng tăng “ tổng số người đang được
điều trị cai nghiện tại các cơ sở là 36.368 người, tăng 6,8% so với năm 2017
(33.895/36.368)” [18]. Tình trạng nghiện không ổn định, nghiện lâu năm và nghiện
đồng thời nhiều loại ma túy tổng hợp phức tạp. Đội ngũ nhân viên còn chưa chuyên
Luận cứ 4:Từ thực trạng khách thể nghiên cứu tại Hai cơ sở ta thấy, số
NSDMT vào Cơ sở hàng năm tăng lên nhất là số người có nguyện vọng tự cai
nghiện. “Khả năng tiếp nhận: Ban đầu, Trung tâm tiếp nhận 200 NSDMT từ các Trung
nghiệp, cơ sở trang thiết bị xuống cấp, không hiện đại...[18].
tâm khác chuyển về. Những năm gần đây có những lúc, Trung tâm đón nhận đến 600- 650
NSDMT thường xuyên chữa trị, học tập, rèn luyện. Ngoài ra còn có NSDMT đến tham gia
84
dịch vụ điều trị tự nguyện. Hiện nay, số NSDMT tham gia điều trị tự nguyện lên đến 110
người sử dụng ma túy tổng hợp chiếm 89,5%”.
Hơn nữa, kết quả kiểm định giữa tình trạng diễn biến phức tạp và sử dụng
nhiều loại ma túy tổng hợp với các yếu tố tác động như giới tính, tuổi, nghề nghiệp,
gia đình, trường học, nơi ở, bối cảnh phát triển xã hội… cho thấy có mối quan hệ
thuận chiều, giá trị sig = 0,03 < 0,05, chấp nhận giả thuyết H1.
Như vậy, từ những kết quả nghiên cứu ta có thể khẳng định: Tình hình người
sử dụng ma túy hiện nay tại Việt Nam ngày càng có diễn biến phức tạp và sử dụng
đa dạng các loại ma túy tổng hợp do nhiều yếu tố tác động. Giả thuyết 1 là hợp lý.
người. Tỷ lệ người cai nghiện lần 2, lần 3 cũng tương đối cao chiếm 47,8%, số
3.1.2.2 Nhận thức của người sử dụng ma túy về Dịch vụ công tác xã hội.
Nhận thức của NSDMT về Dịch vụ CTXH thể hiện qua mức độ hiểu biết về dịch
vụ CTXH cũng như tầm quan trọng của các loại hình dịch vụ CTXH đối với NSDMT.
Kết quả khảo sát thể hiện cụ thể dưới đây:
Mức độ hiểu biết của NSDMT về dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy được thể
hiện qua biểu đồ 3.1dưới đây:
Tỷ lệ %
8,15%
Chú thích biểu đồ:
Không rõ
42,39%
Hiểu rõ một phần
49,46%
Hoàn toàn hiểu rõ
Biểu đồ 3.1 Hiểu biết về dịch vụ CTXH của người sử dụng ma túy
Qua biểu đồ 3.1, hầu hết NSDMT không hiểu rõ về dịch vụ CTXH với người
nghiện ma túy, tỷ lệ chiếm đến 49,46%. Tuy nhiên cũng có NSDMT hiểu rõ một phần
và hiểu hoàn toàn về dịch vụ CTXH với người nghiện ma túy, tỷ lệ này chiếm 42,39%;
mức hiểu rõ hoàn toàn được NSDMT khảo sát trả lời chiếm 8,15%. (Luận cứ 1 chứng
mình cho giả thuyết 2.)
Khi được hỏi anh/chị hiểu như thế nào về dịch vụ CTXH với người nghiện ma
túy, một số NSDMT có ý kiến trả lời gần giống nhau: có NSDMT nói không rõ lắm,
85
NSDMT T.M.T, 35 tuổi, Nam Định; H.X.T, 34 tuổi, Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội
cho rằng: “là dịch vụ cung cấp cho người nghiện ma túy và y tế cộng đồng tạo việc làm và
phòng chống tái nghiện”. Một số người có cách hiểu rõ hơn về dịch vụ CTXH với người
nghiện ma túy: Anh N. T.T, 45 tuổi, Phú Thọ: “là dịch vụ cung cấp cho người nghiện ma
túy về y tế, cộng đồng tạo việc làm và phòng chống tái nghiện”. Hay anh T.M.T, 41 tuổi,
Ngũ Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội: “Dịch vụ CTXH là dịch vụ cung cấp cho người nghiện các
thông tin về y tế, đào tạo việc làm, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng”. Anh N.T.Đ, 25 tuổi,
Hà Nam cho rằng: “Dịch vụ CTXH với người nghiện là những hoạt động mang lại những
lợi ích và thỏa mãn nhu cầu, đảm bảo sức khỏe thể chất, việc làm và nghỉ ngơi”. Nhiều
NSDMT cũng đồng quan điểm như trên. Như vậy, NSDMT đã phần nào hiểu được dịch
vụ CTXH là những hoạt động mang lại những lợi ích và thỏa mãn những nhu cầu, đảm
bảo sức khỏe thế chất, tinh thần, giúp người nghiện ma túy cai nghiện, phòng tránh tái
nghiện và hỗ trợ việc làm cũng như giúp họ tái hòa nhập cộng đồng tốt hơn. So với khái
niệm dịch vụ CTXH trong phần lý luận về dịch vụ CTXH với người NSDMT thì
NSDMT đã hiểu được phần nào về nội hàm của khái niệm.
Nhận thức về dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy của NSDMT
Để tìm hiểu nhận thức của NSDMT về dịch vụ CTXH với NSDMT, NCS đã
đưa ra một số khái niệm về dịch vụ CTXH với NSDMT và NSDMT trả lời theo các
mức độ “Đồng ý”, “phân vân” và “Không đồng ý”. Kết quả khảo sát thu được trong
bảng số liệu 3.2 dưới đây:
Bảng 3.2. Hiểu biết của NSDMT về dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy(N=368)
Các mức độ
STT
Nội dung về dịch vụ
Đồng ý
Phân vân
Không đồng ý
(f)
(%)
(f)
(%)
(f)
(%)
1 Dịch vụ CTXH là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống
224 60,9
120 32,6 24
6,5
2 Dịch vụ CTXH là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội.
237 64,4
111 30,2 20
5,4
3 Dịch vụ CTXH là những hoạt động chuyên nghiệp cụ thể được cung cấp nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người nhằm phòng ngừa, can thiệp, phục hồi và phát triển thúc đẩy sự phát triển, ổn định và đảm bảo nền an sinh xã hội. Dịch vụ CTXH đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho từng nhóm người đặc biệt là nhóm yếu thế khuyết tật, nghèo, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS…
304 82,6
49
13,3 15
4,1
4 Dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy là những hoạt động mang lại lợi ích và thỏa mãn nhu cầu đảm bảo sức khỏe, thể chất, việc làm và nghỉ ngơi…
245 66,6
84
22,8 39
10,6
(Kết quả khảo sát của đề tài)
86
Hầu hết NSDMT đều đồng ý với những khái niệm về dịch vụ CTXH với
NSDMT. Tuy nhiên, cũng có những NSDMT trả lời ở mức độ “Phân vân” và “Không
đồng ý”. Không có sự khác nhau nhiều giữa hai CSCN số 1 và số 05, hệ số tương quan
r = 0,987. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy: Đa phần NSDMT còn thiếu hiểu biết và
chưa rõ về dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy. Anh V. V. T, 43 tuổi, Ba Vì, Hà
Nội cho rằng: “Thực tế, tôi còn thiếu hiểu biết về dịch vụ CTXH đối với người nghiện
ma túy, còn chưa rõ lắm, nhưng tôi nghĩ là cần tư vấn về vấn đề chống tái nghiện ma
túy và xử lý khi bị sốc ma túy”. Anh N.T.H, 28 tuổi, ở Thạch Thất, Hà Nội cũng khẳng
định: “Tôi chưa hiểu rõ lắm về dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy, nhưng nó là
dịch vụ mang lại lợi ích tốt nhất cho NSDMT nhằm phòng chống sử dụng và tái nghiện.
Theo tôi cần cung cấp những dịch vụ như y tế, tư vấn- tham vấn, giáo dục việc làm cho
người nghiện ma túy để giúp bản thân người nghiện tự tin, có việc làm ổn định, được sự
giúp đỡ từ gia đình và tránh xa ma túy”. Như vậy, đa phần NSDMT cũng có sự nhận
thức nhất định trong khi trả lời câu hỏi. Điều này chứng tỏ họ thực sự chưa hoàn toàn
nhận thức sâu sắc về dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy.
Nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy
Hầu như NSDMT đều nhận thức được tầm quan trọng của dịch vụ và các hoạt động
tại Trung tâm, họ có mong muốn được sử dụng dịch vụ và có ý chí, quyết tâm làm tốt các
hoạt động trong thời gian cai nghiện. NSDMT N.Đ.T, 29 tuổi tại Cơ sở cai nghiện số 1 nói:
“Tôi thấy cai nghiện ma túy là vô cùng quan trọng và cần thiết, tôi đang rất mong muốn và
hào hứng thể hiện quyết tâm cai nghiện để trở về với gia đình với vợ và con, một ngày lao
động trị liệu 4 tiếng, là hơi ít, hiện tôi đang làm mộc, tôi có mong muốn nâng số giờ lao
động lên nhiều hơn nữa để không còn phải nghĩ đến ma túy nữa”. NSDMT khác cũng chia
sẻ vào đây nơi ăn chốn ở, vui chơi đều đem đến cho họ niềm vui, họ tìm thấy ý nghĩa của
cuộc sống. Họ đều hy vọng sau khi rời khỏi Cơ sở họ không còn phải mang nặng thân mình
là một người nghiện ma túy nữa.
Bảng 3.3. Nhận thức về tầm quan trọng của các loại hình dịch vụ CTXH (N=368).
Các mức độ quan trọng
Tổng N= 368
Sig
STT
Các loại dịch vụ
CSCN 05 (N=154)
CSCN 01(N=214)
Cr, Alpha
Std,D
Std,D
5
0,597
2
0,040
1,45 1,68
0,512 0,557
1,43 1,82
0,532 0,703
TB Std,D 0,523 0,649
1,44 1,76
0,746 0,746
1
1 2 3
0,986
1,78
0,608
1,78
0,667
1,78
0,642
0,706
4
0,051
3
0,352
0,559 0,644
0,566 0,610
0,571 0,561
1,58 1,70 1.65
1,65 1,67
1,57 1,78
0,746 0,747
Hỗ trợ chăm sóc y tế Hỗ trợ pháp lý Tham vấn cá nhân/gia đình và nhóm Hỗ trợ học nghề, tìm việc làm Giáo dục truyền thông Điểm M chung
4 5 (Kết quả khảo sát của đề tài)
87
Qua số liệu ở bảng 3.3 ta thấy đa phần NSDMT cho rằng các dịch vụ CTXH là “Rất
quan trọng” và “Quan trọng”, tuy nhiên vẫn còn có nhiều NSDMT cho là “Không quan
trọng”, điểm trung bình chung là thấp 1,65. (Luận cứ 2 chứng minh cho giả thuyết 2.)
Vì thực tiễn còn nhiều NSDMT mơ hồ, chưa hiểu rõ về dịch vụ CTXH. Trong đó, “dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế” được NSDMT xếp thứ 5, “dịch vụ tham vấn” xếp
thứ 1. So sánh giữa hai Cơ sở không có sự khác nhiều, hệ số tương quan là r= 0,998; có
sự khác nhau ở dịch vụ hỗ trợ pháp lý và dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm với chỉ
số sig < 0,05. Chỉ số Cr, Alpha = 0,780 > 0,7 là chỉ số chấp nhận được. Hệ số Cronbach’s Alpha được sử dụng để kiểm định độ tin cậy bên trong, bản chất của công cụ sử
dụng. Theo Rubin và Babbi (2005) hệ số Alpha từ 0,9 trở lên thì độ tin cậy thật tuyệt vời; từ
0,80 đến 0,90 được xem là tốt, dưới mức độ được xem là tương đối chấp nhận đối với
những công cụ ngắn gọn, George and Mallery (2003) cho rằng các quy tắc giải thích hệ số Cronbach’s Alpha như sau: > 0,9 là rất đáng tin, rất tuyệt vời; > 0,8 là đáng tin, tốt; > 0,7 là
chấp nhận; > 0,6 là còn nghi ngờ; > 5 là yếu khó tin cậy; < 0,5 là không chấp nhận được
(Trích theo Van.T Nguyen[145.p48].
Nhìn chung, hầu hết NSDMT tại Cơ sở cai nghiện đều có hiểu biết và nhận thức về
các loại hình và tầm quan trọng của dịch vụ CTXH với NSDMT ở mức độ rất quan trọng
và cần thiết. Họ được tiếp cận và sử dụng dịch vụ CTXH thì mới có hiệu quả cao trong
quá trình cai nghiện ma túy. Đây là căn cứ thực tế để đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ cho NSDMT về dịch vụ CTXH đối với NSDMT tại CSCN nói
riêng và trên cả nước nói chung,
3.1.2.3. Nhu cầu sử dụng dịch vụ Công tác xã hội với người đối với người sử
dụng ma túy tại Cơ sở cai nghiện,
Hầu như NSDMT tại CSCN có nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH nhằm thỏa mãn
những mong muốn thiết thực của bản thân về sức khỏe thể chất, tinh thần, hòa nhập
cộng đồng cũng như việc làm sau khi cai nghiện.
Kết quả phỏng vấn sâu một số NSDMT M.T.H, 32 tuổi cho rằng: “Sức khỏe
của tôi không được tốt, mỗi khi thay đổi thời tiết thường mệt mỏi, khó chịu nhất là còn bị xoang mũi nên tôi muốn cơ sở tổ chức khám sức khỏe nhiều hơn nữa để giúp tôi cũng như NSDMT khác được điều trị kịp thời hơn”. Như vậy, tại cơ sở đã có những hoạt động chăm sóc sức khỏe, y tế cho NSDMT hay nói cách khác là Cơ sở đã quan tâm và cung cấp dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế cho NSDMT tại CSCN. Bên cạnh đó, CSCN còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ y tế như: cắt cơn cai nghiện, lao động trị liệu cho NSDMT, khám và xét nghiệm HIV/AIDS, xét nghiệm viêm gan B,C thông qua
việc kết hợp với cơ sở y tế Quận Từ Liêm, Hà Nội. Trong 110 NSDMT cai nghiện tự nguyện được trả lời phiếu sàng lọc các loại đồ uống có cồn (ASSIT), năm 2018 thì hầu
88
hết NSDMT đều được khám sàng lọc, xét nghiệm HIV/AIDS và kết quả là 100%
NSDMT có kết quả âm tính với HIV/AIDS.
Kết quả khảo sát về nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH đối với NSDMT tại Cơ sở
thể hiện trong số liệu Bảng 3.4 dưới đây:
Bảng 3.4 Nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH của NSDMT tại Cơ sở
Các mức độ nhu cầu
Tổng N= 368
Sig
STT
Các loại dịch vụ
CSCN 05 (N=154)
CSCN 01(N=214)
Cr, Alpha
5
0,554
1
0,000
2,01 2,34
Std,D 0,566 0,670
1,97 2,67
Std,D 0,667 0,528
TB Std,D 0,626 0,612
1,98 2,53
0.764 0,721
2
1 2 3
0,000
2,19
0,658
2,61
0,544
2,43
0,627
0,727
4
0,006
3
0,110
0,611 0,726
0,614 0,624
0,606 0,550
2,33 2,16
2,39 2,42 2,35
2,51 2,25
0,729 0,778
Hỗ trợ chăm sóc y tế Hỗ trợ pháp lý Tham vấn cá nhân/gia đình và nhóm Hỗ trợ học nghề, tìm việc làm Giáo dục truyền thông Điểm M chung
4 5 (Kết quả khảo sát của đề tài)
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy hầu hết NSDMT tại cơ sở cai nghiện có nhu
cầu sử dụng dịch vụ CTXH ở mức độ rất cao/rất mong muốn sử dụng và cao/mong
muốn sử dụng ở mức trung bình, điểm trung bình chung = 2,35. (Luận cứ 3, chứng
mình giả thuyết 2). Trong đó “Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm” được NSDM
xếp thứ bậc 1, “Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế”, được NSDMT xếp thứ bậc 5. “Dịch vụ tư
vấn, tham vấn”, NSDMT có nhu cầu mong muốn sử dụng xếp thứ bậc 2, nhu cầu về dịch
vụ CTXH với NSDMT giữa hai Cơ sở gần như tương đồng với hệ số tương quan r =
0,9996, có sự khác nhau ở dịch vụ “Hỗ trợ học nghề, tìm việc làm, tham vấn và hỗ trợ
pháp lý”, chỉ số sig < 0,05. Chỉ số Cr, Alpha = 0,785 là chấp nhận được.
*Chứng minh giả thuyết nghiên cứu (Giả thuyết 2): Công tác xã hội có vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ người sử dụng ma túy cai nghiện và dự phòng tái
nghiện. Người sử dụng ma túy tại Cơ sở cai nghiện hiện nay có nhu cầu, mong
muốn được sử dụng dịch vụ Công tác xã hội. Tuy nhiên, nhận thức của họ về dịch
vụ Công tác xã hội còn hạn chế do nhiều yếu tố tác động.
Kết quả nghiên cứu:
Luận cứ 1: Kết quả khảo sát về mức độ hiểu biết về dịch vụ CTXH của NSDMT
còn mờ nhạt, chưa rõ ràng “tỷ lệ này chiếm đến 49,46%; hiểu rõ một phần, tỷ lệ này
chiếm 42,39% .
Luận cứ 2: Đa phần NSDMT cho rằng các dịch vụ CTXH là “Rất quan trọng” và
“Quan trọng”, tuy nhiên vẫn còn có nhiều NSDMT cho là “Không quan trọng”, điểm
trung bình chung là thấp 1,65.
89
Luận cứ 3: “Hầu hết NSDMT tại cơ sở cai nghiện có nhu cầu sử dụng dịch vụ
CTXH ở mức độ rất cao/rất mong muốn sử dụng và cao/mong muốn sử dụng ở mức
trung bình, điểm trung bình chung = 2,35, chỉ số sig < 0,05”. Đồng thời, qua
phân tích kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu, đánh giá về nhu cầu sử dụng dịch vụ
CTXH của NSDMT tại CSCN trên địa bàn Thành phố Hà Nội là rất cao, hầu như
NSDMT đều có mong muốn sử dụng dịch vụ CTXH, mặc dù mỗi dịch vụ đều có mức
độ riêng, mỗi trung tâm thì NSDMT cũng có mức độ nhu cầu khác nhau.
Luận cứ 4: Hơn nữa, kết quả kiểm định bằng chỉ số sig giữa nhận thức và nhu
cầu của NSDMT với các yếu tố tác động như có ý nghĩa về mặt thống kê, sig = 0,003
< 0,05, chấp nhận giả thuyết H2.
Như vậy, từ kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu, các luận cứ chứng mình cho giả
thuyết 2 về nhận thức, tầm quan trọng của dịch vụ CTXH và nhu cầu sử dụng dịch vụ
CTXH của NSDMT là rõ ràng, hợp lý. ( Chấp nhận giả thuyết 2). Đây cũng là kết quả
trả lời cho câu hỏi nghiên cứu số 2.
3.2. Phân tích thực trạng dịch vụ công tác xã hội với người sử dụng ma túy
tại các Trung tâm chữa bệnh-giáo dục-lao động xã hội.
Hầu hết NSDMT tại Cơ sở đều được tiếp cận với khá nhiều dịch vụ như : chăm sóc
y tế, giáo dục truyền thông, hỗ trợ việc làm và các dịch vụ tư vấn, chính sách, pháp luật,
tham vấn nhóm hay các dịch vụ khác, vui chơi, giải trí…Việc tổ chức cung cấp các dịch vụ
cho NSDMT tại Cơ sở là chủ trương và định hướng của Ban lãnh đạo cũng như của đội ngũ
cán bộ Cơ sở nhằm giúp cho người cai nghiện được tiếp cận tới các dịch vụ một cách hiệu
quả không chỉ trong thời gian cai nghiện tại CSCN mà cả quãng thời gian sau khi cai nghiện
về với gia đình, tái hòa nhập cộng đồng. Thực tế, các Cơ sở cung cấp các dịch vụ này theo
quy trình dành cho người cai nghiện bắt buộc là chính. Đây là hạn chế lớn trong cung cấp
dịch vụ CTXH với người NSDMT. Hiện nay các Cơ sở đang có sự điều chỉnh phù hợp với
Nghị định 80/2018/NĐ-CP về sử đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 147/2003/NĐ-CP ngày 02 tháng 12 năm 2003 của chính phủ quy định về điều
kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy tự
nguyện; Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2004 của chính phủ quy
định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở
chữa bệnh theo pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người
chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.
Với N=368, kết quả thu được thể hiện qua từng dịch vụ dưới đây:
90
3.2.1 Dịch vụ giáo dục – truyền thông
Đánh giá về dịch vụ giáo dục – truyền thông, NCS đã tìm hiểu thông qua đánh
giá về chủ thể cung cấp dịch vụ này, nội dung và hình thức Giáo dục- truyền thông tại
các CSCN ma túy, mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ của NSDMT.
*Chủ thể cung cấp dịch vụ giáo dục- truyền thông
Khi được hỏi câu hỏi “Theo anh/chị ai là người cung cấp các loại hình dịch vụ dưới
đây?”, đa phần NSDMT lựa chọn “Chuyên gia” cung cấp, tỷ lệ dao động từ 41,0% đến 57,1%.
Với dịch vụ giáo dục truyền thông, NSDMT trả lời có tỷ lệ dao động từ 8,7% đến 47,6%, trong
đó “Cán bộ quản lý đối tượng”, chiếm tỷ lệ 11,1%, “Giáo viên/nhà giáo dục, chiếm tỷ lệ 18,5%.
Nhân viên xã hội là chủ thể quan trọng trong giáo dục truyền thông nhưng không được NSDMT
lựa chọn nhiều, chiếm tỷ lệ 8,7% là thấp nhất. (Luận cứ chứng minh giả thuyết 3). Đây là thực
tiễn cho thấy các CSCN còn thiếu đội ngũ nhân viên xã hội trong hệ thống cung cấp dịch vụ
CTXH đối với NSDMT. Kết quả thể hiện trong bảng 3.5 dưới đây:
Bảng 3.5. Chủ thể cung cấp dịch vụ Công tác xã hội (N=368)
STT
Các loại hình dịch vụ
Chuyên gia (%)
Giáo viên/nhà giáo dục (%)
Cán bộ quản lý đối tƣợng(%)
Bác sĩ/ Y tá/điều dƣỡng (%)
Chủ thể cung cấp dịch vụ Nhân viên công tác xã hội(%) 5,0 5,2
5,7 15,5
41,0 57,1
46,5 11,4
6,3 10,9
1 2 3
14,7 13,6 14,1
Hỗ trợ chăm sóc y tế Hỗ trợ pháp lý Tham vấn cá nhân/gia đình và nhóm Hỗ trợ học nghề, tìm việc làm Giáo dục truyền thông
45,7 45,9 47,6
17.7 12,2 18,5
10,9 16,8 8,7
10,1 11,4 11,1
4 5 (Kết quả khảo sát của đề tài)
Mức độ tiếp cận nội dung các hoạt động giáo dục truyền thông
Giám đốc Đ.T, CSCN số 05 cho biết: “Việc giáo dục các kỹ năng sống để phòng,
tránh tái sử dụng ma túy khi hòa nhập cộng đồng là hết sức cần thiết. Từ khi triển khai mô
hình cai nghiện tự nguyện, Cơ sở đã cử cán bộ đến một số phường, xã, quận, huyện để
làm công tác tuyên truyền, tư vấn, vận động người nghiện đến cơ sở để điều trị cai nghiện và uống thuốc thay thế methadone”. Các hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức đã được thực hiện thường xuyên tại cơ sở, tỷ lệ này chiếm 94,83% số người được hỏi thường xuyên tiếp cận với giáo dục kiến thức về ma túy và nghiện ma túy, giáo dục các kỹ năng phòng chống tái nghiện. Cán bộ T.M.V, 40 tuổi cho biết: “Vì NSDMT là người nghiện ma túy, họ lệ thuộc và sử dụng ma túy bất chấp, không nghĩ đến hậu quả về sau nên việc tổ
chức các hoạt động giáo dục kiến thức về ma túy và nghiện ma túy, kỹ năng phòng tái nghiện là hết sức quan trọng. Vì vậy cơ sở thường xuyến tổ chức hoạt động này để cung cấp các kiến thức về ma túy và hậu quả của nó, trang bị những kỹ năng cần thiết để
91
NSDMT khi trở về với cộng đồng không tái nghiện trở lại”. Đồng thời phỏng vấn sâu
NSDMT, anh T.V.M, 25 tuổi cho hay: “Các cán bộ thường xuyên tổ chức các hoạt động
giáo dục kiến thức về ma túy và nghiện ma túy, giáo dục kỹ năng phòng chống tái nghiện
giúp chúng tôi hiểu hơn về ma túy và tác hại của nó, trước đây không kiềm chế được, dùng bất chấp lắm. Quan trọng hơn là các cán bộ còn giúp tôi biết được một số kỹ năng
để sau khi kết thúc đợt lao động trị liệu tại cơ sở, quay trở lại cộng đồng có thể tránh
được nguy có tái nghiện trở lại”.
Kết quả khảo sát về mức độ tiếp cận các hoạt động Giáo dục truyền thông được
thể hiện qua số liệu bảng 3.6 dưới đây:
Ghi chú Bảng 3.6: 1 Lớp tập huấn nâng cao nhận thức kỹ năng về dư phòng tái nghiện 2 Giáo dục - tuyên truyền nâng cao nhận thức về tác hại của ma túy và cách phòng chống ma túy 3 Giáo dục truyền thông thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi tích cực 4 Giáo dục – truyền thông giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nghiện ma túy 5 Giáo dục truyền thông, vận động người nghiện ma túy tham gia chương trình sử dụng Methadone thay thế 6 Giáo dục – truyền thông vê tái hòa nhập cộng đồng 7 Giáo dục truyền thông thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi 8 Truyền thông cai nghiện tự nguyện
Bảng 3.6. Mức độ tiếp cận nội dung các hoạt động giáo dục truyền thông (N= 368)
Mức độ thƣờng xuyên
ĐTB
Thứ bậc
Std. D
Cr.Alpha
Rất thường xuyên (%)
Thường xuyên(%)
Thỉnh thoảng(%)
Nội dung các hoạt động 1 2 3 4 5 6 7 8
39,7 51,9 23,4 32,9 20,9 26,4 20,7 21,7 Điểm M chung
Không bao giờ(%) 2,7 1,9 2,2 2,2 18,8 5,2 2,2 3,3
1,72 1,58 1,87 2,00 2,24 1,94 1,93 2,07 1,91
51,1 39,7 68,8 36,7 53,0 58,4 67,9 53,3
6,5 6,5 5,7 28,3 7,3 10,1 9,2 21,7
7 8 6 3 1 4 5 2
0,704 0,699 0,601 0,837 0,989 0,754 0,618 0,750
0,884 0,881 0,860 0,871 0,888 0,878 0.866 0.861
(Kết quả khảo sát của đề tài)
Qua bảng số liệu 3.6 trên ta thấy hầu hết NSDMT cho rằng dịch vụ giáo dục truyền thông thường xuyên được tổ chức tại Cơ sở ở các mức độ Rất thường xuyên, Thường xuyên, Thỉnh thoảng và Không bao giờ. Điểm trung bình chung là không cao, ở mức trung bình thấp = 1,91(Luận cứ chứng minh giả thuyết 3). Trong đó, “Dịch vụ giáo dục truyền thông, vận động người nghiện ma túy tham gia chương trình sử dụng Methadone thay thế được NSDMT tiếp cận thường xuyên nhất, xếp thứ bậc 1. Đứng thứ hai là dịch vụ “Truyền thông cai nghiện tự nguyện”. Xếp thứ bậc cuối cùng là hoạt động “Dịch vụ giáo dục - tuyên truyền nâng cao nhận thức về tác hại của ma túy và cách phòng
92
chống ma túy”. NSDMT lựa chọn ở mức độ “Không bao giờ”, tỷ lệ dao động từ 1,9% đến 18,8%. Qua phân tích số liệu có thể thấy đa số NSDMT trong cơ sở đều được thường xuyên tham gia hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức kỹ năng về ma túy và phòng chống ma túy, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi của SDMT giúp họ có quyết tâm cai nghiện để trở về với gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, cũng có một số NSDMT chưa được tham gia các dịch vụ về giáo dục truyền thông nâng cao nhận thức về ma túy, nghiện ma túy và phòng chống tái nghiện. Điều này do thời gian ở cơ sở của NSDMT còn ít nên họ chưa được tham gia nhiều, dẫn đến đánh giá chưa chính xác mức độ tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức hoặc đánh giá là không cao. Hơn nữa, nhìn vào độ lệch chuẩn và con số mang ý nghĩa thống kê Cronbach’s Alpha ta thấy số liệu này có độ tin cậy cao.
Để minh chứng cho mức độ thường xuyên sử dụng dịch vụ, chúng tôi có hỏi thêm về sự tham gia các dịch vụ này theo ngày, tuần hay tháng, kết quả thu được thể hiện trong bảng 3.26 (Phụ lục đính kèm). Qua bảng số liệu ta thấy hầu hết NSDMT được tham gia các nội dung về giáo dục truyền thông ở các mức độ hàng tuần, hàng tháng. Trong đó có dịch vụ “Giáo dục truyển thông thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi sử dụng ma túy” NSDMT tham gia nhiều nhất và hàng tuần, mỗi lần/1 tuần, điểm trung bình 3.51, xếp thứ bậc 1. Tuy nhiên, điểm trung bình chung của các dịch vụ cũng ở mức
trung bình, chưa cao = 2,59. Như vậy, các dịch vụ cần được thực hiện thường xuyên hơn giúp NSDMT có cơ hội tham gia hiệu quả hơn nữa. *Các hình thức giáo dục – truyền thông Chúng tôi tìm hiểu về hình thức giáo dục – truyền thông tại cơ sở thông qua 2 hình thức trực tiếp và gián tiếp, kết quả khảo sát NSDMT thu được như sau: Hầu hết NSDMT được tham gia dưới hình thức trực tiếp, chiếm tỷ lệ 40,10%, hình thức gián tiếp, chiếm tỷ lệ 51,90%. Điều này cho thấy các CSCN thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thông với các hình thức đa dạng và phong phú Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu về mức độ tiếp cận với dịch vụ giáo dục truyền thông qua các hình thức truyền thông cụ thể, kết quả khảo sát NSDMT thể hiện như sau:
Bảng 3.7 Mức độ thường xuyên tiếp cận hình thức truyền thông của NSDMT
Tổng (N= 368)
STT
Sig
Các mức độ thƣờng xuyên CSCN 05 (N=154)
CSCN 01 (N=214)
Các hình thức giáo dục truyền thông
Qua báo chí, tài liệu, Qua đài, ti vi Qua các buổi sinh hoạt nhóm/tổ Qua các buổi tư vấn/tham vấn Qua tờ rơi Qua đội ngũ cán bộ Cơ sở
1,82 1,78 1,89 1,84 1,98 1,81 1,85
1,84 1,96 2,06 1,81 2,04 1,97 1,94
Std.D 0,643 0,582 0,624 0,713 0,646 0,628
Std.D 0,645 0,537 0,597 0,745 0,618 0,618
Std.D 0,641 0,597 0,622 0,668 0,681 0,606
0,587 0,000 0,000 0,434 0,113 0,000
1,86 1 2,09 2 2,18 3 1,79 4 2,09 5 2,09 6 Điểm trung bình chung 2,01 (Kết quả khảo sát của đề tài)
93
Như vậy, qua số liệu ở bảng 3.7 ta thấy hầu như NSDMT tại CSCN đều được
tiếp cận với hình thức truyền thông qua nhiều kênh truyền thông đa dạng, phong phú.
Một số hình thức truyền thông quan trọng NSDMT chưa được tiếp cận nhiều, điểm
trung bình chung còn chưa cao = 1,94. (Luận cứ chứng minh giả thuyết 3) Trong đó,
NSDMT tiếp nhận nội dung truyền thông “qua các buổi sinh hoạt nhóm/tổ” là nhiều
nhất, có điểm trung bình = 2,06, xếp thứ bậc 1, xếp thứ 2 là qua tờ rơi, xếp thứ bậc 3
là qua “Cán bộ cơ sở”, “qua tài liệu, báo chí” xếp thứ bậc 5. Xếp cuối cùng là “qua
các buổi tư vấn/tham vấn”. Đặc biệt giáo dục truyền thông qua đội ngũ nhân viên xã
hội có ít ý kiến trả lời ở các mức độ, chiếm tỷ lệ 1,90%. Đây là thực trạng nổi trội cho
thấy các Cơ sở cần tăng cường hơn nữa hình thức truyền thông này để phát huy hiệu
quả và tác dụng của chúng. Mặc dù thực tế, tại các CSCN đã chia theo tổ, đội, nhưng
NSDMT còn chưa được tiếp cận với nội dung truyền thông qua hình thức này. Lý do
đơn giản là tập hợp đội/tổ chỉ theo quy định về mặt quản lý quân số, và sinh hoạt hàng
ngày, chưa vận dụng tối đa hình thức này để truyền thông về ma túy, phòng tránh tái
nghiện nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục truyền thông. Hơn nữa, các CSCN
chưa có hoặc có rất ít sự tham gia của nhân viên CTXH trong các hoạt động giáo dục,
truyền thông, chủ yếu là cán bộ cơ sở.
Tóm lại, NSDMT tại CSCN đã nhận thấy nội dung giáo dục – truyền thông là
rất quan trọng, họ thường xuyên tiếp cận và đánh giá cao hiệu quả của hoạt động này,
tuy nhiên còn nhiều NSDMT chưa được tiếp cận và không sử dụng thường xuyên,
đánh giá chất lượng dịch vụ chưa và ít hiệu quả. Hơn nữa, đội ngũ cung cấp dịch vụ
này chủ yếu là cán bộ quản lý, đội ngũ chuyên gia, chưa có đội ngũ nhân viên công tác
xã hội. Đây là cơ sở để các CSCN tiếp tục nâng cao hiệu quả của dịch vụ này, thu hút
NSDMT tham gia tích cực và bổ sung, chuẩn hóa đội ngũ cung cấp dịch vụ công tác
xã hội chuyên nghiệp.
3.2.2 Dịch vụ tham vấn
* Chủ thể cung cấp dịch vụ tham vấn
Chủ thể cung cấp dịch vụ tham vấn: Qua bảng số liệu 3.5 (phần 3.2.1 ở trên) ta
thấy hầu như tại Cơ sở dịch vụ tham vấn được cung cấp bởi giáo viên/nhà giáo dục,
các chuyên gia và cán bộ quản lý đối tượng. Riêng đối với nhân viên xã hội và nhân
viên tư vấn/tham vấn thì không nhiều, số NSDMT lựa chọn, chiếm tỷ lệ 10,90%. Điều
này cho thấy tại CSCN, nhân viên CTXH cung cấp dịch vụ CTXH còn hạn chế.
94
* Nội dung và hình thức cung cấp dịch vụ tham vấn
Kết quả khảo sát về hình thức tham vấn được thể hiện ở bảng số liệu 3.8 dưới đây:
Bảng 3.8.Hình thức cung cấp dịch vụ tham vấn tại CSCN (N=368)
Các mức độ thƣờng xuyên tổ chức thực hiện tại CSCN
ĐTB
STT Hình thức tham vấn
Thứ bậc
Thƣờng xuyên
Rất thƣờng xuyên
Không thƣờng xuyên
(f) 191 154
(%) 51,90 41,84
(f) 133 148
(f) 44 66
(%) 11,95 17,93
2,39 2,032
1 2 3
TB 1 3 2
Tham vấn cá nhân Tham vấn gia đình Tham vấn nhóm, sinh hoạt nhóm
(%) 36,15 40,24 40,24
147
39,94
148
73
19,83
2,038 2,05
Điểm chung bình chung (Kết quả khảo sát của đề tài)
Số liệu trong bảng trên cho ta thấy: Hầu hết NSDMT tại Cơ sở đều cho rằng
dịch vụ tham vấn được tổ chức thường xuyên điểm trung bình = 2,05 mặc dù vẫn có NSDMT lựa chọn ở mức không thường xuyên. (Luận cứ chứng minh giả thuyết 3)
Trong đó, Dịch vụ “tham vấn cá nhân” có điểm trung bình = 2,39, xếp thứ bậc 1. Khảo sát về hình thức tham vấn còn được thể hiện qua hình thức trực tiếp và gián tiếp,
kết quả cho thấy: hầu hết NSDMT đều tiếp cận sử dụng dịch vụ tham vấn cá
nhân/nhóm và gia đình bằng hình thức trực tiếp là chính, chiếm tỷ lệ 77,98%. Đồng
thời có một số NSDMT trả lời bằng hình thức gián tiếp, chiếm tỷ lệ 22,01%. Đối với
CSCN số 5 thì thực hiện dịch vụ tư vấn/tham vấn nhiều hơn so với Trung tâm 01. Như
vậy, ta thấy Cơ sở đã tổ chức đa dạng các loại hình dịch vụ dưới 2 hình thức trực tiếp
và gián tiếp. Hình thức trực tiếp được CSCN tổ chức thường xuyên hơn. Hơn nữa,
NSDMT chưa biết đến và chưa sử dụng dịch vụ “Tham vấn gia đình”. Mặc dù đây là
dịch vụ tham vấn rất quan trọng có sự gắn kết giữa NSDMT và gia đình người thân của
NSDMT. Điều này cho thấy CSCN đã cung cấp dịch vụ tham vấn này nhưng không
thường xuyên và chưa thu hút được NSDMT tham gia. Đây là kết quả mà các CSCN
cần tổ chức các hình thức và loại hình dịch vụ, cải thiện cách thức, phương pháp cũng như tần suất cung cấp dịch vụ tham vấn để NSDMT có cơ hội tiếp cận và sử dụng ở mức thường xuyên hơn.
*Mức độ thường xuyên tiếp cận nội dung dịch vụ tham vấn của NSDMT
Qua bảng số liệu 3.9 dưới đây cho ta thấy: Đa phần NSDMT đã tiếp cận được với
các nội dung của dịch vụ tham vấn cá nhân, nhóm và gia đình ở cả bốn mức độ khác nhau:
“Rất thường xuyên” và “Thường xuyên”; “Thỉnh thoảng”và “Không thường xuyên” có
điểm trung bình chung = 2,18. Như vậy, có thể thấy, NSDMT đã biết đến các loại hình
95
dịch vụ CTXH với NSDMT nhưng số NSDMT sử dụng ở mức “Thỉnh thoảng” và “Không
thường xuyên” còn nhiều. (Luận cứ chứng minh giả thuyết 3)
Bảng 3.9. Mức độ thường xuyên tiếp cận các nội dung tham vấn
của NSDMT tại Cơ sở.
Mức độ thƣờng xuyên tham gia nội dung tham vấn CSCN 01(N=214)
Tổng (N=368)
CSCN 05 (N=154)
Sig
Cr. Alpha
Mean TB
Std. D Mean TB
Std. D Mean
TB
Std. D
Nội dung tham vấn
1,96 1,97 2,07 2,13 2,08 2,04 2,14 2,01 2,02 2,05 2,06 2,07
12 11 4,5 2 3 8 1 10 9 7 6 4,5
0,808 0,775 0,849 0,822 0,855 0,824 0,879 0,844 0,804 0,851 0,850 0,833
2,09 2,28 2,33 2,47 2,28 2,14 2,28 2,23 2,33 2,37 2,33 2,28
12 8,5 4,5 1 8,5 11 8,5 4,5 4,5 2 4,5 8,5
0,930 0,837 0,901 0,967 0,891 0,898 0,991 0,823 0,901 0,959 0,952 0,837
2,04 2,15 2,22 2,33 2,20 2,10 2,22 2,14 2,20 2,24 2,21 2,19
12 9 3,5 1 6,5 11 3,5 10 6,5 2 5 8
0,882 0,824 0,888 0,923 0,880 0,868 0,947 0,838 0,874 0,929 0,919 0,841
0,156 0,928 0,000 0,006 0,001 0,035 0,270 0,150 0,010 0,001 0,001 0,006 0,0,18
0,927 0,927 0,929 0,927 0,927 0,930 0,926 0,927 0,928 0,928 0,927
2,05
2,29
2,18
Độ tin cậy
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Điểm M chung
(Kết quả khảo sát của đề tài)
1
Tham vấn giải quyết vấn đề sức khỏe thể chất
Tham vấn các vấn đề sức khỏe tinh thần
2
Tham vấn can thiệp khủng hoảng tâm lý
3
Tham vấn giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trong các mối quan hệ
4
Tham vấn lựa chọn giải pháp tối ưu
5
Tham vấn hỗ trợ về việc xây dựng kế hoạch thực hiện giải quyết vấn đề
6
Tham vấn về xác định mục tiêu ưu tiên (SMART)
7
Tham vấn các chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ ma túy
8
Tham vấn về cách đối phó với những yếu tố cám dỗ, lôi kéo từ bạn bè xấu
9
Tham vấn quản lý căng thẳng
10
Tham vấn về quản lý nóng giận
11
Tham vấn về quản lý thời gian, thiết lập cuộc sống ổn định, lành mạnh
12
Ghi chú Bảng 3.9:
Kết quả phỏng vấn sâu một số NSDMT tại cơ sở, anh T.N.T, 36 tuổi cho biết: “Theo ý
kiến cá nhân tôi thì cơ sở nên tổ chức nhiều hơn nữa các buổi tư vấn hay tham vấn, tìm ra vấn
đề và lập kế hoạch cùng NSDMT chúng tôi…Tuy nhiên với những NSDMT mới vào cơ sở thì
lại chưa được tham gia vào hoạt động này. Như vậy sẽ rất thiệt thòi cho họ”.
So sánh giữa hai CSCN: Kết quả khảo sát cho thấy NSDMT ở hai cơ sở có sự đánh
giá khác nhau nhiều ở một số nội dung tham vấn như: “Tham vấn về các vấn đề sức khỏe
tinh thần”, có con số mang ý nghĩa thống kê Sig = 0,000 < 0,05, điểm Cronbach’s Alpha
96
(Cr.Alpha) = 0,927, đây là điều rất đáng tin cậy. Qua bảng số liệu trên, ta thấy các thông số
trong công cụ sử dụng điều tra đều rất đáng tin cậy vì đều có Cr. Alpha > 0,9. Tương tự như
vậy, ta thấy có sự khác nhau nhiều ở các nội dung tham vấn: “Tham vấn can thiệp khủng
hoảng tâm lý”, “Tham vấn giải quyết các vấn đề mâu thuẫn khủng hoảng”, “Tham vấn các
chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ”, “Tham vấn về cách đối phó với những yếu tố cám
dỗ, lôi kéo từ bạn bè xấu”, “Tham vấn quản lý căng thẳng, quản lý thời gian, quản lý nóng
giận”. Với nội dung tham vấn“Tham vấn lựa chọn giải pháp tối ưu”, NSDMT tại CSCN
số 05 xếp thứ 1, điểm trung bình là = 2,14, còn NSDMT tại CSCN số 01 lại tham gia
thường xuyên nhất ở nội dung “Tham vấn giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trong các
mối quan hệ” xếp thứ 1, điểm trung bình chung là = 2,47. Điều này do mỗi cơ sở ở
những địa bàn có vị trí địa lý và môi trường khác nhau. Cơ sở cai nghiện số 05 thường
xuyên được tiếp cận với chương trình và hoạt động tham vấn nhiều hơn.
3.2.3 Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm
*Chủ thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ NSDMT học nghề, tìm việc làm
Khi được hỏi ai là người cung cấp dịch vụ, kết quả trả lời của NSDMT được thể
hiện qua bảng 3.5 (Phần 3.2.1). Dịch hỗ hỗ trợ việc làm được cung cấp bởi tất cả
những chủ thể như Bác sĩ/y tá, chuyên gia, giáo viên/nhà giáo dục, cán bộ quản lý và
nhân viên CTXH. Trong đó, chủ thể cung cấp được NSDMT lựa chọn nhiều nhất là
Chuyên gia chiếm tỷ lệ 45,9%, tiếp đến là Bác sĩ 13,6%. Nhân viên xã hội thì chỉ
chiếm 16,8%. Điều này cho thấy tại các cơ sở vẫn còn thiếu về đội ngũ nhân viên cung
cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT.
*Nội dung và hình thức hỗ trợ NSDMT học nghề, tìm việc làm
Hầu hết các Trung tâm cai nghiện thường tổ chức nhiều khóa dạy nghề ngắn
hạn như: Gia công giày da, sửa chữa điện dân dụng và xe máy... NSDMT được khuyến
khích, động viên kip thời nên họ tích cực lao động, sản xuất, góp phần thực hiện hiệu
quả chương trình cai nghiện tại Trung tâm. Tuy nhiên, mỗi CSCN có những chiến lược
và chương trình khác nhau tùy từng vùng và địa bàn. Ngoài việc cắt cơn, giải độc, cũng
giống như giáo dục, tư vấn, phục hồi hành vi, nhân cách, NSDMT còn phải trải qua giai
đoạn lao động trị liệu và học nghề tạo công ăn, việc làm. Đây sẽ là bước đệm quan trọng
giúp người nghiện sau khi cai sớm hòa nhập cộng đồng và giảm nguy cơ tái nghiện trở
lại, bởi đa phần người nghiện ma túy đều có trình độ học vấn thấp, không có nghề
97
nghiệp ổn định. Việc tổ chức dạy nghề cho NSDMT là một trong những nội dung quan
trọng trong quy trình cai nghiện tại CSCN.
Bảng 3.10. Nội dung các hoạt động hỗ trợ học nghề, tìm việc làm tại Cơ sở
Các mức độ thƣờng xuyên thực hiện
Nội dung hỗ trợ học
Cr.
STT
CSCN 05 (N=154)
CSCN 01(N=214)
Tổng (N=368)
Sig
nghề, tìm việc làm
Alpha
Mean TB Std. D Mean TB Std. D Mean TB Std. D
Hỗ trợ tư vấn học nghề
1,80
2
1
0,609
1,64
0,561
1,71
0,586 0,013 0,944
4
4
Tư vấn giới thiệu việc làm
1,75
3
2
0,564
1,69
0,604
1,72
0,587 0,321 0,937
3
3
Kết nối chuyển gửi đến cơ
3
0,000
1,78
4
0,575
2,03
0,585
1,92
0,596
0,937
2
2
sở đào tạo nghề
Kết nối chuyển gửi đến cơ
4
0,001
1,83
1
0,624
2,05
1
0,595
1,96
1
0,616
0,936
sở sử dụng lao động
Điểm trung bình chung
1,79
1,85
1,82
Độ tin cậy
(Kết quả khảo sát của đề tài)
Điều này cho thấy CSCN đã thực hiện các hoạt động này, nhưng hầu như mức
thường xuyên còn chưa cao. Hơn nữa một số dịch vụ cụ thể trong hỗ trợ việc làm thì
một số NSDMT cho là “Không thường xuyên” Qua bảng 3.10 ta thấy: Hầu hết
NSDMT được khảo sát đều cho rằng “dịch vụ hỗ trợ tư vấn học nghề” được tổ chức thực
hiện ở hai Cơ sở, họ đều trả lời ở các mức độ khác nhau: “Rất thường xuyên” “Thường
xuyên”, “Thỉnh thoảng” và “Không thường xuyên”có điểm trung bình chung là = 1,82
là thấp mặc dù số này là không nhiều. (Luận cứ chứng minh giải thuyết 3. Chẳng hạn dịch
vụ “Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến cơ sở đào tạo nghề”;“Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến
cơ sở sử dụng lao động” Đây là hai dịch vụ rất quan trọng và cần thiết trong chuỗi các
dịch vụ hỗ trợ việc làm. Nhưng vẫn còn có NSDMT cho rằng “Không thường xuyên” thực
hiện. Do vậy, các cơ sở cần có giải pháp nâng cao hiệu quả về việc cung cấp dịch vụ hỗ
trợ việc làm cho người cai nghiện tại Trung tâm và sau khi tái hòa nhập cộng đồng, giúp
họ có công ăn, việc làm ổn định và không tái nghiện.
So sánh kết quả khảo sát giữa hai CSCN, ta thấy có sự khác nhau cơ bản ở tất
cả các nội dung hỗ trợ, học nghề, chỉ có nội dung “dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm”
thì NSDMT ở cả hai Cơ sở đều chọn như nhau, không có sự khác biệt thể hiện qua chỉ
số ý nghĩa thống kê Sig = 0,321 > 0,05.
Hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ việc làm.
Dịch vụ hỗ trợ việc làm được cung cấp dưới hai hình thức là trực tiếp và gián
tiếp. Hầu hết NSDMT được tư vấn hỗ trợ việc làm một cách trực tiếp, có 218 ý kiến
NSDMT lựa chọn, chiếm lỷ lệ 59,2%, số NSDMT được hỗ trợ gián tiếp chiếm tỷ lệ
40,8%. Trong đó, CSCN số 05, hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp nhiều hơn, chiếm tỷ lệ
63,0%, gián tiếp chiếm 37,0%.
98
*Mức độ tiếp cận dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm của NSDMT
Số liệu trong Bảng 3.11dưới đây đã nói lên tình hình sử dụng dịch vụ “tư vấn
hỗ trợ học nghề” của NSDMT tại CSCN, chiếm tỷ lệ tương đối cao 68,2% số NSDMT
được khảo sát trả lời “Đã từng sử dụng”. Đa phần NSDMT tại Cơ sở chưa từng sử
dụng các loại hình dịch vụ này, tỷ lệ này rất cao dao động từ 31,8 % đến 67,3%. Như
vậy hiện tại ở các CSCN mới chỉ có các loại hình dịch vụ này, nhưng NSDMT chưa
được tiếp cận, sử dụng nhiều. Do đó mức sử dụng thường xuyên các loại hình dịch vụ
này cũng hạn chế, điểm trung bình chung = 2,38. (Luận cứ chứng minh giả thuyết
3). Tỷ lệ NSDMT tại Cơ sở không thường xuyên sử dụng còn cao dao động từ 49,1%
đến 67,3%. Trong đó “Dịch vụ tư vấn học nghề” có điểm trung bình cao nhất =
2,36, xếp thứ bậc 1, nhưng cũng là thấp trong điểm số đánh giá. Những dịch vụ khác
được NSDMT sử dụng ở mức “Không thường xuyên” là nhiều.
Bảng 3.11. Hiện trạng và mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ trợ việc làm của
NSDMT cai nghiên ma túy tại Cơ sở
Các mức độ thƣờng xuyên tiếp cận dịch vụ CSCN 01
Tổng
CSCN 05
Sig
Các dịch vụ
STT
Cr. Alpha
Mean Std. D
Std. D
Std. D
Mean
Mean
Đã sử dụng (%) 68,2 2,23 63,6 2,29
Đã sử dụng (%) 0,600 50,9 0,593 54,2
2,45 2,33
Đã sử dụng (%) 0,577 58,2 0,696 58,2
2,36 2,31
0,596 0,000 0,944 0,654 0,614 0,937 0,002
1 2 3
52,6 2,41
0,612 36,0
2,60
0,562 42,9
2,52
0,590
0,937
0,002
4
52,6 2,42
0,602 32,7
2,62
0,592 41,0
2,53
0,603
0,936
Hỗ trợ tư vấn học nghề Tư vấn giới thiệu việc làm Kết nối chuyển gửi đến cơ sở đào tạo nghề Kết nối chuyển gửi đến cơ sở sử dụng lao động Điểm trung bình chung
Kết quả phỏng vấn sâu cán bộ cơ sở, ông T.M.H, 34 tuổi cho biết: “Chúng tôi
thực hiện đánh giá nhu cầu việc làm thông qua các buổi tư vấn hay đơn giản là qua các
buổi trò chuyện với NSDMT. Từ đó chúng tôi cùng với NSDMT xây những kế hoạch để hỗ
trợ NSDMT giải quyết vấn đề việc làm của mình. Chẳng hạn như NSDMT có nhu cầu về
việc làm, chúng tôi sẽ thực hiện đánh giá xem NSDMT đó ưa thích công việc gì cụ thể,
khả năng làm việc của NSDMT đó như thế nào, có những nguồn lực gì có thể giúp đỡ
NSDMT đó và kết nối NSDMT đến với cơ sở đào tạo việc làm”.
Anh T.V.A, 43 tuổi, NSDMT tại cơ sở cho biết: “Trước đây tôi không có việc làm
ổn định vì lý do sức khỏe giảm sút, người ta cũng không muốn nhận người nghiện như tôi
vào làm việc. Tuy nhiên, sau khi được các cán bộ tại cơ sở lập kế hoạch, định hướng nghề
nghiệp và được tham gia học nghề tại cơ sở tôi đã tìm được niềm yêu thích trong công
việc, sức khỏe cũng từ đó mà được cải thiện hơn. Và sau khi kết thúc đợt lao động trị liệu
99
tại cơ sở, trở về với cộng đồng tôi nghĩ tôi có thể tự tạo cho mình được một công việc
hoặc sẽ có người nào đó thuê tôi làm việc cho họ”.
Một cán bộ cơ sở anh H.V.T cho biết: “Đối với hoạt động vận động, kết nối, giới
thiệu nguồn lực đến với NSDMT là điều rất quan trọng nên chúng tôi thường xuyên tổ
chức để NSDMT được nắm rõ, từ đó có thể giải quyết một cách tốt nhất vấn đề của mình.
Tuy nhiên hoạt động này chưa làm được nhiều”. Một số NSDMT tại cơ sở, anh T.M.H,
27 tuổi cho hay: “Tôi vẫn chưa thật sự hiểu hoạt động kết nối nguồn lực này là như thế
nào. Tôi đã trị liệu trong cơ sở được 4 tháng nhưng tôi chỉ thấy việc cơ sở phối hợp với
một số công ty bên ngoài hỗ trợ chúng tôi tiêu thụ những sản phẩm mà chúng tôi làm ra,
còn ngoài ra tôi chưa thấy rõ được hoạt động nào cả”.
3.2.4 Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
* Chủ thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
Qua bảng số liệu 3.5 (phần 3.2.1), ta thấy hầu như NSDMT cho rằng dịch vụ hỗ
trợ chăm sóc y tế được cung cấp bởi các Bác sĩ/ Y tá/điều dưỡng, NSDMT lựa chọn
chiếm tỷ lệ 46,5%, do chuyên gia cung cấp chiếm 41,0%. Với nhân viên CTXH và Giáo
viên/nhà giáo dục số NSDMT lựa chọn chỉ chiếm 5%. Với đội ngũ cán bộ quản lý, số
NSDMT lựa chọn chiếm tỷ lệ 6,3%. Như vậy, tại các Cơ sở chưa thấy rõ vai trò của nhân
viên CTXH trong chăm sóc hỗ trợ về mặt y tế, chưa thể hiện được tầm quan trọng trong
việc giải quyết hay gắn kết giữa bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
*Nội dung và hình thức dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
Hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ chăm sóc ý tế tại CSCN: Hầu như NSDMT đều
tiếp cận dịch vụ chăm sóc hỗ trợ y tế một cách trực tiếp, số NSDMT lựa chọn chiếm tỷ lệ
83,96%. Tuy nhiên vấn có NSDMT lựa chọn hình thức chăm sóc gián tiếp, chiếm tỷ lệ
16,03%.
Theo thông tư liên tịch số 41/2010 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và
Bộ Y tế, NSDMT tại CSCN được sử dụng dịch vụ y tế phù hợp. Thực tế dịch vụ y tế là
rất quan trọng và cần thiết đối với mỗi NSDMT, đây cũng là nhu cầu thiết thực của họ
trong quá trình điều trị nghiện ma túy. Tuy nhiện, dưới góc độ công tác xã hội, dịch vụ
hỗ trợ chăm sóc y tế thể hiện chưa rõ. Tại CSCN có nhiều loại hình dịch vụ hỗ trợ
chăm sóc y tế, NCS đã tìm hiểu về nội dung các hoạt động hỗ trợ chăm sóc y tế của
NSDMT và thu được kết quả dưới đây:
100
Bảng 3.12. Nội dung các hoạt động hỗ trợ chăm sóc y tế
Mức độ thƣờng xuyên thực hiện
STT
Các nội dung các hoạt động hỗ trợ chăm sóc y tế
ĐTB
Thứ bậc
0,63 1,76 2,47 2,26 2,30
1 2 3 4 5 6
7 6 1 3 2 4
2,05
7
5
Tư vấn chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần Tư vấn sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện chất Tư vấn xét nghiệm HIV/ Viêm gan B,C Tư vấn hỗ trợ can thiệp dự phòng tái nghiện Hỗ trợ cắt cơn, giải độc Hỗ trợ điều trị khi bệnh nhân xuất hiện hội chứng cai (lên cơn vật) Hỗ trợ điều trị trạng thái đói ma tuý trường diễn.
Điểm chung bình chung
1,97 1,92
Số liệu trong Bảng 3.12 đã chỉ ra đa phần NSDMT đều nhận thấy CSCN tổ chức
các hoạt động hỗ trợ y tế ở mức độ “Rất thường xuyên” và “Thường xuyên”, tuy nhiên có
một số ý kiến cho rằng “Không thường xuyên”, có điểm trung bình chung là thấp
=1,92. Như vậy, phần lớn NSDMT quen với những dịch vụ đã được truyền thông nhiều,
hiểu biết nhiều và tham gia nhiều hơn. Thực tế, những hoạt động y tế được các Bác sĩ thực
hiện nên vai trò của NVXH chưa được thể hiện rõ, chưa phân biệt rõ ràng hoạt động y tế
và hoạt động hỗ trợ chăm sóc y tế dưới góc độ CTXH.
*Mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế của NSDMT
Đa phần NSDMT đã từng sử dụng dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế, tỷ lệ dao động từ
51,6% đến 81,3%. Tuy nhiên mức“Chưa từng sử dụng” cũng có nhiều NSDMT lựa dịch
vụ này, tỷ lệ dao động từ 18,7% đến 48,4%. “Dịch vụ hỗ trợ tư vấn điều trị trạng thái đói
ma tuý trường diễn”, số ý kiến NSDMT lựa chọn “Đã từng sử dụng”, chiếm tỷ lệ 51,6%;
còn lại là “chưa sử dụng”. Đây là dịch vụ có nhiều NSDMT “Chưa từng sử dụng” nhất.
Bảng 3.13. Hiện trạng sử dụng dịch vụ và mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ
Sig
trợ y tế của NSDMT tại Cơ sở.
Cr. Alpha
Các mức độ thƣờng xuyên tiếp cận dịch vụ
STT Các dịch vụ
CSCN 05 (N=154) Mean
Std. D
CSCN 01(N=214) Mean
Std. D
Std. D
Tổng (N=368) Mean
Đã từng sử dụng (%)
Đã từng sử dụng (%)
1 2 3 4 5 6 7
79,4 53,3 77,1 58,4 69,2 50,0 44,9
0,566 0,583 0,541 0,583 0,548 0,586 0,619
1,97 2.37 2.03 2.27 2.18 2.42 2.50 2,26
Đã từng sử dụng (%) 81,3 58,7 77,2 63,3 73,1 60,3 51,6
0,667 0,657 0,653 0,700 0,640 0,643 0,595
2,01 2,27 2,14 2,21 2,12 2,16 2,31 2,18
1,98 2,33 2,08 2,25 2,15 2,31 2,42 2,08
0,939 0,626 0,554 0,628 0,121 0,937 0,610 0,088 0,938 0,653 0,421 0,936 0,603 0,342 0,938 0,624 0,000 0,937 0,612 0,002 0,937
83,8 62,2 77,3 70,1 78,6 74,7 61,0 Điểm M chung
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần
Dịch vụ tư vấn, sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện chất
3
Dịch tư vấn vụ xét nghiệm HIV/ Viêm gan B,C
Ghi chú bảng 3.13: 1 2
101
4
Dịch vụ tư vấn can thiệp dự phòng tái nghiện
5
Dịch vụ hỗ trợ cắt cơn, giải độc
6
Dịch vụ hỗ trợ điều trị khi bệnh nhân xuất hiện hội chứng cai (lên cơn vật)
7
Dịch vụ hỗ trợ tư vấn điều trị trạng thái đói ma tuý trường diễn.
Qua số liệu Bảng 3.13 ta thấy: Hầu hết NSDMT đã lựa chọn ở mức “Rất
thường xuyên” và “Thường xuyên”, tuy nhiên có nhiều ý kiến lựa chọn ở mức “Không
thường xuyên”, điểm trung bình chung của 7 loại dịch vụ cụ thể của “dịch vụ hỗ trợ
chăm sóc y tế” là trung bình =2,08. Kết quả này chứng tỏ, NSDMT tại Cơ sở
thường xuyên sử dụng các loại hình dịch vụ này ở mức trung bình.(Luận cứ chứng
minh giả thuyết 3). Trong đó chỉ có “Dịch vụ hỗ trợ tư vấn điều trị trạng thái đói ma tuý
trường diễn” có nhiều NSDMT lựa chọn nhiều nhất, có điểm trung bình là = 2,42,
xếp thứ bậc 1. So sánh kết quả giữa CSCN số 1 và CSCN số 05 có sự khác nhau cơ
bản ở hầu hết các dịch vụ cụ thể. Chỉ có dịch vụ “Dịch vụ tư vấn can thiệp dự phòng
tái nghiện” là không khác nhau nhiều, có điểm số Sig = 0,421 > 0,05. Nhìn vào điểm
số Cr.Alpha dao động từ 0,936 đến 0,939 > 0,9 là rất đáng tin cậy.
Bên cạnh đó, kết quả phỏng vấn sâu cho thấy: Khó khăn nhất đối với NSDMT
là giai đoạn điều trị cắt cơn, giải độc, điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Do đó, việc
cung cấp dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế là vô cùng quan trọng, nhưng không phải
NSDMT nào cũng đã từng sử dụng và sử dụng thường xuyên được. Bên cạnh việc
thực các biện pháp tâm lý, vật lý trị liệu, giúp cho người cai nghiện ma túy bớt lo âu,
giảm các hội chứng cai, NSDMT còn được áp dụng các bài thuốc đông y hoặc thuốc từ
dược liệu để điều trị hỗ trợ cắt cơn. Giám đốc CSCN ma túy số 5, ông Đ.T cho biết,
“Kể từ năm 2015 cơ sở được giao nhiệm vụ tiếp nhận, quản lý, chữa bệnh cho người
nghiện ma túy tự nguyện và điều trị chất dạng thuốc bằng thuốc thay thế Methadone,
với khả năng tiếp nhận 300 NSDMT CNTN và 250 bệnh nhân điều trị methadone”.
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế cho người nghiện ma túy thể hiện ở việc NVCTXH sẽ
hỗ trợ thông qua việc tiếp nhận đối tượng, đánh giá lâm sàng, lập hồ sơ thân chủ, lập kế
hoạch điều trị theo phác đồ mà bác sĩ kê đơn, chăm sóc bệnh nhân AIDS; thảo luận các ca
bệnh phức tạp, xử lý các trường hợp quá khả năng chữa trị tại CSCN. Cùng với các Bác sĩ,
y tế , NVCTXH còn hỗ trợ xử lý các ca cấp cứu, phục hồi chức năng cho người nghiện ma
túy; thông tin, giáo dục, hướng dẫn luyện tập để bảo vệ sức khỏe đối tượng. Tuy nhiên, đội
ngũ NVCTXH chưa thực hiện được các hoạt động này, đồng thời chưa thể hiện rõ được vai
trò độc lập, họ vẫn làm theo hướng dẫn của Bác sĩ trong quá trình hỗ trợ NSDMT.
102
Như vậy, tại các CSCN trên địa bàn thành phố Hà Nội đã tổ chức cung cấp dịch
vụ hỗ trợ chăm sóc y tế cho người NSDMT trong thời gian điều trị. Hầu hết NSDMT
đều được tham gia hỗ trợ cắt cơn, giải độc, đánh giá sàng lọc các đồ uống có cồn, các
chất gây nghiện, tư vấn xét nghiệm HIV/AIDS và xét nghiệm các bệnh viêm gan B,C.
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế cho người nghiện ma túy là dịch vụ quan trọng và cần
thiết trong quá trình điều trị nghiện ma túy. Nhưng không phải tất cả NSDMT tại Cơ
sở đều sử dụng ở mức độ “Rất thường xuyên” và “Thường xuyên”, có nhiều NSDMT
lựa chọn ở mức “Không thường xuyên”. Nhất là các loại hình “Dịch vụ tư vấn sàng
lọc, đánh giá mức độ nghiện chất”; “Dịch vụ can thiệp dự phòng tái nghiện”; “Dịch
vụ hỗ trợ cắt cơn, giải độc; Dịch vụ hỗ trợ điều trị khi bệnh nhân xuất hiện hội chứng
cai (lên cơn vật)”; “Dịch vụ hỗ trợ điều trị trạng thái đói ma tuý trường diễn” Đây là
các dịch vụ rất quan trọng và cần thiết, vì vậy, các CSCN cần tổ chức đa dạng các loại
hình dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế mang tính chuyên nghiệp dưới góc độ CTXH để
NSDMT có cơ hội sử dụng nhiều hơn. Như thế sẽ giúp cho quá trình cai nghiện của
NSDMT đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, NSDMT và cán bộ y tế đều cho rằng các hoạt
động này thuộc bên y tế, chứ không phải nhân viên CTXH. Đây là điều quan trọng mà
nghề công tác xã hội cần lưu ý để hai bên y tế và xã hội không nhầm lẫn vai trò của
nhau và cần có sự tương hỗ trong quá trình cai nghiện. NVCTXH hỗ trợ về mặt tinh
thần, xã hội cùng với đội ngũ bác sĩ, y tá nhằm nâng cao chất lượng cai nghiện ma túy
và dự phòng tái nghiện.
3.2.5. Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
*Chủ thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho NSDMT
Số liệu ở bảng 3.5 (Phần 3.2.1) cho thấy đa phần NSDMT đều cho rằng chuyên
gia là người cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý, số NSDMT lựa chọn, chiếm tỷ lệ 57,1%,
cán bộ quản lý chiếm 10,9%. Bên cạnh đó, số NSDMT lựa chọn “nhân viên CTXH”,
chiếm tỷ lệ 5,2%. Điều này cho thấy dịch vụ hỗ trợ pháp lý tại Cơ sở còn thiếu, đặc
biệt thiếu đội ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp để thực hiện việc cung cấp dịch vụ
này.
*Nội dung các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho NSDMT
Đối với nội dung hỗ trợ pháp lý, chúng tôi cũng tìm hiểu về việc thường xuyên
tổ chức các hoạt động này tại Cơ sở. Kết quả khảo sát NSDMT thể hiện ở bảng 3.14
dưới đây.
103
Bảng 3.14. Nội dung các hoạt động hỗ trợ pháp lý đối với NSDMT tại Cơ sở cai nghiện.
Các mức độ thƣờng xuyên tổ chức thực hiện
CSCN 01(N=214)
Tổng N= 368
STT Các hoạt động hỗ trợ pháp lý
Sig
CSCN 05 (N=154)
Cr, Alpha
Std.D
Std.D
TB Std.D
1
Tư vấn hỗ trợ những vấn đề
4
1,80
0,543
1,93
0,573
1,87
0,572
0,030
0,938
có liên quan đến chính sách,
pháp luật
2
Tư vấn hỗ trợ các thông tin
2
1,85
0,565
1,93
0,597
1,91
0,603
0,937
0,256
về chính sách pháp luật đối với người nghiện ma túy
3
Kết nối người nghiện ma túy
3
0,254
1,86
0,610
1,93
0,597
1,90
0,603
0,936
với cơ quan liên quan đến chính sách, pháp luật
4
Vận động người nghiện ma
1
1,81
0,610
2,02
0,601
1,93
0,596
0,001
0,935
túy tham gia vào quá trình cai nghiện ma túy và được hưởng
những quyền lợi theo quy định
Điểm trung bình chung
1,90
Qua bảng số liệu 3.14 trên, đa phần các NSDMT tại Cơ sở đều lựa chọn ở cả 3
mức “Rất thường xuyên” và “thường xuyên”, “Không thường xuyên” điểm trung bình
chung = 1,90. Như vây, các CSCN đã tổ chức các hoạt động hỗ trợ pháp lý ở mức
trung bình, mức rất thường xuyên chưa cao. Giữa hai CSCN có sự khác biệt về ý nghĩa
trung bình ở các hoạt động “Tư vấn hỗ trợ những vấn đề có liên quan đến chính sách,
pháp luật”, “Vận động người nghiện ma túy tham gia vào quá trình cai nghiện ma
túy và được hưởng những quyền lợi theo quy định”, điểm Sig < 0,05. (Luận cứ chứng minh giả thuyết 3)
*Hình thức cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho NSDMT: Đa phần NSDMT
được tiếp cận qua hình thức gián tiếp, có 258 số NSDMT được khảo sát trả lời, chiếm tỷ
lệ 70,10%, hình thức trực tiếp có 110 ý kiến NSDMT trả lời, chiếm 29,89%.
*Mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ trợ pháp lý của NSDMT
Về hiện trạng sử dụng dịch vụ hỗ pháp lý: hầu như NSDMT đã chọn ở cả hai hiện
trạng “Đã sử dụng” và “Chưa sử dụng”, nhưng số ý kiến chọn “Chưa sử dụng” nhiều
hơn, tỷ lệ dao động cao quá 50% từ 73,36% đến 84,78%. Kết quả cho thấy Cơ sở cần tổ
nhiều hơn nữa loại hình dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho NSDMT vì hầu hết họ đều cho rằng
những dịch vụ này là rất cần thiết và cần thiết.
104
Bảng 3.15. Mức độ thường xuyên tiếp cận dịch vụ hỗ trợ pháp lý của NSDMT.
CSCN 01
Sig
Cr, Alpha
Mean
Std, D
Mean
Std, D
Std, D
Mean
Đã từng sử dụng (%)
Các mức độ thƣờng xuyên tiếp cận dịch vụ Tổng CSCN 05
Các dịch vụ hỗ trợ pháp lý
Đã từng sử dụng (%)
54,5 66,9 59,1 61,7
2,34 2,19 2,36 2,31 2,30
0,670 0,658 0,607 0,609
2,67 2,61 2,63 2,41 2,58
0,528 0,544 0,556 0,612
65 78 71 112
Đã từng sử dụng (%) 40,5 49,2 44,0 56,3
2,53 2,43 2,51 2,37 2,46
0,612 0,000 0,627 0,000 0,595 0,000 0,612 0,101
0,936 0,938 0,931 0,936
1 2 3 4 Điểm M chung Ghi chú Bảng 3.15.:
1
Tư vấn hỗ trợ những vấn đề có liên quan đến chính sách, pháp luật
2
Tư vấn hỗ trợ các thông tin về chính sách pháp luật đối với người nghiện ma túy
3
Kết nối người nghiện ma túy với cơ quan liên quan đến chính sách, pháp luật
4
Vận động người nghiện ma túy tham gia vào quá trình cai nghiện ma túy và được hưởng những quyền
lợi theo quy định
Phỏng vấn sâu lãnh đạo cơ sở cho biết: “Người nghiện ma túy có quyền được
biết về những chính sách của Nhà nước hỗ trợ họ trong quá trình cai nghiện. Ví dụ
như hiện nay Nhà nước có một số chính sách hỗ trợ người cai nghiện như: hỗ trợ tiền
ăn, hỗ trợ về y tế, hỗ trợ học nghề sau cai nghiện… Họ cần được biết những chính
sách hỗ trợ này để có thêm động lực, quyết tâm cai nghiện và điều quan trọng là
không bị mất đi quyền lợi của mình”.
Hơn nữa tỷ lệ cán Qua số liệu ở bảng 3.15 cho thấy: trong số những NSDMT đã
từng sử dụng dịch vụ “Hỗ trợ pháp lý” thì hầu hết NSDMT tại Cơ sở lựa chọn ở cả 3 mức
“Rất thường xuyên”, “Thường xuyên” và “Không thường xuyên”, có điểm trung bình chung
= 2,46. Trong đó mức “Không thường xuyên” được NSDMT lựa chọn nhiều nhất trong cả 4
loại hình. Giữa hai CSCN có sự lựa chọn không giống nhau, điểm Sig và Cr.Alpha là rất đáng
tin cậy.
bộ khẳng định cơ sở có tổ chức giáo dục tuyên truyền hệ thống pháp luật của
Đảng về phòng chống ma túy, nghiện ma túy chiếm 94,84%. Đây là những hoạt động
cần thiết trong hỗ trợ NSDMT vậy nên cơ sở thường xuyên tổ chức để NSDMT biết
được những hành vi sử dụng ma túy là trái pháp luật để NSDMT có động lực cai
nghiện, nâng cao kiến thức kỹ năng phòng chống tái nghiện và tránh xa ma túy. Tuy
nhiên, hoạt động này vẫn thực hiện lồng ghép với hoạt động tuyên truyền giáo dục chứ
chưa hẳn là dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Anh P.M.H, 53 tuổi cho biết“Nhiều NSDMT có suy
nghĩ chỉ buôn bán ma túy mới là vi phạm pháp luật, còn sử dụng ma túy là không vi
phạm. Từ suy nghĩ thiếu chính xác đó đã dẫn đến tình trạng NSDMT ngày càng dùng
105
nhiều hơn, vì vậy việc tuyên truyền, giáo dục về hệ thống pháp của Đảng về phòng chống
ma túy, nghiện ma túy được thường xuyên tổ chức”.
Nhìn chung, NSDMT đều nhận thấy dịch vụ “Hỗ trợ pháp lý” là rất cần thiết và
cần thiết, nhưng việc sử dụng ở mức độ thường xuyên còn hạn chế, thậm chí đa phần
NSDMT không sử dụng ở mức độ thường xuyên. Đây là điều mà Cơ sở cần có biện
pháp tổ chức và thực hiện hoạt động để NSDMT có cơ hội tiếp cận và sử dụng nhiều
hơn nhằm tránh xa ma túy và không có hành vi vi phạm pháp luật.
3.3. Đánh giá chất lƣợng, hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội đối với ngƣời
sử dụng ma túy
3.3.1 Mức độ hài lòng của NSDMT về các dịch vụ CTXH
Hầu hết NSDMT đến với CSCN đều phải tuân thủ nguyên tắc và quy trình làm
việc nghiêm túc. Cùng với việc thực hiện đúng quy trình, Cơ sở đã triển khai cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế, hỗ trợ pháp lý, hoạt động giáo dục truyển thông, tư vấn
nhóm, tư vấn cá nhân, lao động việc làm giúp công tác cai nghiện đạt hiệu quả. NSDMT
có thể tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nhận thức được hậu quả, tác hại của việc
nghiện ma túy để sau khi cai nghiện trở về cộng đồng sẽ không tái nghiện. NSDMT có
những nhận định và đánh giá về hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH tại Cơ sở. Trong đề tài
này, NCS tìm hiểu về đánh giá chất lượng, hiệu quả của dịch vụ CTXH đối với NSDMT
thông qua việc tìm hiểu về mức độ hài lòng của NSDMT và đánh giá, xếp loại tốt hay
không tốt của hệ thống cung cấp dịch vụ thông qua các tiêu chí cụ thể.
Xét về mức độ hài lòng của NSDMT về chất lượng, hiệu quả các loại hình dịch vụ
tại CSCN, NCS tìm hiểu qua khảo sát thực trạng và phỏng vấn sâu. Đối với kết quả phỏng
vấn sâu, hầu hết NSDMT đánh giá ở mức độ bình thường với các loại dịch vụ như dịch vụ
giáo dục truyền thông; dịch vụ hỗ trợ y tế, dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Riêng đối với dịch vụ tư
vấn cá nhân, tư vấn tham vấn nhóm được NSDMT đánh giá cao và rất hài lòng với chất
lượng, hiệu quả của dịch vụ này. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ cũng đánh
giá về hiệu quả, chất lượng của dịch vụ tư vấn. tham vấn cá nhân, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc
y tế. Chị N.T.H cho rằng: “Riêng cá nhân tôi nhận thấy chất lượng và hiệu quả của dịch vụ
y tế, chính sách, pháp luật, hỗ trợ việc làm là bình thường, còn dịch vụ truyền thống,
tư vấn/tham vấn là rất tốt”.
Qua khảo sát thực trạng, NCS đưa ra các mức độ “Rất hài lòng”; “Hài lòng” và
“Không hài lòng”, kết quả thu được trong Biểu đồ 3.2 dưới đây:
106
Biểu đồ 3.2 Đánh giá mức độ hài lòng về dịch vụ CTXH đối với NSDMT
tại Cơ sở cai nghiện.
Chart Title
2.5
e
2
l t i T
1.5
s
i
x A
1 0.5 0
CSCN số 05 (N=154)
CSCN 01 (N=214)
Hầu hết NSDMT đánh giá ở cả ba mức độ “Rất hài lòng”; “Hài lòng” và
“Không hài lòng”, điểm trung bình chung là thấp =1,84. CSCN số 01 có mức điểm trung
bình chung = 1,90 cao hơn CSCN số 05 =1,75. Tuy nhiên ở mỗi dịch vụ NSDMT
đánh giá sự hài lòng đều có sự khác biệt giữa ba mức độ, nhưng nhìn chung là thấp kể cả
hai CSCN được khảo sát. Trong đó, hầu hết NSDMT ở hai CSCN đều “Không hài lòng”
về “dịch vụ Tư vấn/tham vấn gia đình”, có điểm số Sig = 0,856 > 0,05, điểm số CR.Alpha
= 0,870 là đáng tin cậy. Đối với“Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm” được NSDMT
đánh giá ở mức độ “Rất hài lòng”; “Hài lòng” cao, có điểm trung bình là = 1,98, xếp
thứ bậc 1, chỉ có 5,97% số NSDMT được khảo sát trả lời ở mức “Không hài lòng”. Nói
chung đa phần NSDMT đánh giá ở mức “Hài lòng” là nhiều, nhưng số NSDMT lựa chọn
ở mức “Không hài lòng” là không nhỏ. Lý do khiến NSDMT không hài lòng được tìm hiểu
qua câu hỏi mở: “Lý do những dịch vụ hiện nay chưa tốt, chưa hài lòng”? Đa phần NSDMT
như T.T.T, 45 tuổi, T.M.T, 36 tuổi, H.Đ.L, 20 tuổ, H.X.T, 34 tuổi…trả lời là do “trang thiết
bị còn thiếu và chưa hiện đại”; “Cơ sở hạ tầng trang thiết bị phục vụ cho học viên còn
thiếu thốn”; “Trung tâm còn thiếu thốn trang thiết bị thể dục, thể thao cho trung tâm
và thời gian để học viên tham gia thể dục, thể thao”. Số ý kiến trả lời về nội dung này
chiếm 20,1%.
107
Mức độ hài lòng của NSDMT về các tiêu chí của dịch vụ
NSDMT đánh giá hiệu quả dịch vụ có thể dựa trên các tiêu chí như: các loại hình
dịch vụ được cung cấp đa dạng, phong phú phù hợp; sự hài lòng về chất lượng dịch vụ;
chuyên môn của đội ngũ cung cấp đào tạo nghề; giá trị, đạo đức, thái độ, sự chuyên nghiệp
của đội ngũ cung cấp dịch vụ; tính kịp thời, phù hợp của dịch vụ; tính hữu hiệu của dịch vụ; sự tuân thủ nguyên tắc cung cấp dịch vụ; quy trình cung cấp dịch vụ …Qua bảng số
liệu dưới đây, đa phần NSDMT đã đánh giá ở các mức độ “Rất hài lòng”, “Hài lòng”, “Không hài lòng”, trong đó có tiêu chí “Nhân viên phục vụ luôn mong muốn đáp ứng nhu
cầu của NSDMT”, có điểm trunng bình = 2,28, xếp thứ bậc 1.
Tổng (N=368)
Sig
Cr, Alpha
Các tiêu chí đánh giá dịch vụ
CSCN 05 (N=154) TB
Mean
Std, De
Std, D Mean
0,59 0,54 0,68 0,552 0,604 0,533 0,566 0,540 0,568 0,554 0,562 0,549
12 11 1 10 4 5 8 9 7 3 6 2
Bảng 3.16. Mức độ hài lòng của NSDMT về các tiêu chí đánh giá dịch vụ
Mức độ hài lòng của NSDMT tại Cơ sở CSCN 01(N=214) TB 8 10 1 9 12 7 6 5 11 2 4 3
Std, D Mean 1,83 0,568 1,84 0,501 2,02 0,616 1,86 0,539 1,74 0,637 1,88 0,460 1,89 0,415 1,89 0,488 1,84 0,497 1,94 0,556 1,92 0,531 1,95 0,485 1,88
1,98 1,95 2,12 1,97 1,77 2,00 2,03 2,04 1,96 2,10 2,07 2,09 2,00
TB 11 9,5 1 7 12 6 4,5 4,5 9,5 3 4 2
1,63 1,65 1,88 1,66 1,72 1,71 1,69 1,67 1,68 1,73 1,70 1,76 1,70
0,601 0,534 0,653 0,561 0,623 0,510 0,513 0,537 0,545 0,585 0,573 0,538
0,000 0,000 0,001 0,000 0,374 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000
0,930 0,929 0,934 0,929 0,931 0,923 0,922 0,924 ,923 0,925 0,928 0,926
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Điểm M chung
Ghi chú bảng 3.16:
STT Tiêu chí đánh giá 1.
Tiêu chí thể hiện cụ thể theo thứ tự ở bảng 3.16 1.Điều kiện, trang thiết bị, dụng cụ đầy đủ, phù hợp 2.Hình thức và văn hóa cư xử của đội ngũ cung cấp dịch vụ 3.Môi trường, không gian cung cấp dịch vụ
phục
lực
2.
Phương tiện hữu hình (tangibles): Chất lượng dịch vụ còn được thể hiện thông qua hình thức trang phục, không gian nơi bạn trao đổi dịch vụ với khách hàng. Năng vụ (assurance): Thể hiện thông qua trình độ chuyên môn và cung cách phục vụ lịch sự, niềm nở với khách hàng.
đáp
năng
3
4.Trình độ, năng lực của đội ngũ nhân viên tại Cơ sở 5.Thái độ ân cần, niềm nở và nhiệt tình của đội ngũ nhân viên tại cơ sở 6.Nhân viên cung cấp dịch vụ luôn thể hiện phong cách phục lịch sự, trang nhã 7. Nhân viên luôn sẵn sàng hỗ trợ và đặc biệt là giải quyết nhanh các khiếu nại, thắc mắc của NSDMT 9. Nhân viên phục vụ luôn mong muốn đáp ứng nhu cầu cho NSDMT
ứng Khả (responsiveness): Thể hiện qua sự mong muốn và sẵn sàng của nhân viên phục vụ cung cấp dịch vụ kịp thời cho khách hàng. Mức độ tin cậy (reliability)
4
8. Dịch vụ cung cấp phù hợp, luôn đúng hẹn và đáng tin cậy 10.Tính hữu hiệu của dịch vụ, cung cấp dịch vụ theo nguyên tắc và quy trình cung cấp dịch vụ
5.
Đồng cảm (empathy): Thể hiện sự quan tâm chăm sóc đến từng các nhân khách hàng.
11.Nhân viên cung cấp dịch vụ luôn lịch sự và quan tâm thăm hỏi tới từng NSDMT 12.Nhân viên luôn thể hiện sự quan tâm, chăm sóc đến từng NSDMT
108
Nhìn chung, hầu như NSDMT hài lòng về các dịch vụ CTXH qua các tiêu chí
trong bảng trên còn ở mức trung bình, chưa cao, điểm trung bình chung là =1,88.
Mức độ hài lòng của NSDMT tại hai CSCN có sự khác nhau cơ bản ở các dịch vụ cụ
thể, CSCN số 01 NSDMT có sự hài lòng cao hơn CSCN số 05, với = 2,00, điểm
Cr.Alpha = 0,933 là rất đáng tin cậy.
3.3.2 Đánh giá chất lượng, hiệu quả dịch vụ CTXH của NSDMT
Đánh giá chất lượng của dịch vụ CTXH
Kết quả đánh giá chất lượng dịch vụ CTXH với NSDMT của NSDMT tại CSCN được
thể hiện cụ thể trong bảng 3.17 dưới đây:
Bảng 3.17 Đánh giá về chất lượng dịch vụ CTXH của NSDMT
Mức độ chất lƣợng (Rất tốt, Tốt, chƣa tốt)của Dịch vụ tại Cơ sở
Cr,
STT
Các dịch vụ (DV)
CSCN 05 (N=154)
CSCN 01(N=214)
Tổng (N=368)
Sig
Alpha
Mean TB Std, D Mean TB Std, D Mean TB Std, D
1
Hỗ trợ chăm sóc y tế
0,454
1,85
0,357
1,85
0,400 0,997 0,800
6
1,85
6
7
2
Hỗ trợ pháp lý
0,457
2,10
0,304
2,01
0,390
0,817
2
1,88
2
2
0,000
3
Giáo dục – Truyền thông
0,454
2,05
0,212
1,96
0,348
0,799
3
1,84
7
3
nâng cao nhận thức
0,000
4
Hỗ trợ việc làm
0,493
2,11
0,432
2,02
0,470 0,000 0,829
1
1,89
1
1
5
Tham vấn cá nhân
0,439
1,90
0,304
1,86
0,369
0,798
5
1,81
7
5
0,028
6
Tư vấn/ sinh hoạt nhóm
0,449
1,91
0,292
1,89
0,366
0,797
4
1,87
3
4
0,202
7
Tham vấn gia đình
0,463
1,86
0,357
1,84
0,405 0,876, 0,792
7
1,86
4
6
Điểm trung bình
1,97
1,92
0,828
1,86
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy hầu hết NSDMT đánh giá ở ba mức độ “Rất
=1,92 là mức trung bình. Tuy tốt”,“Tốt” và “Chưa tốt”, điểm trung bình chung nhiên ở cả 3 mức độ, mỗi dịch vụ NSDMT đánh giá có sự khác nhau. Giữa hai CSCN,
NSDMT đánh giá có sự khác nhau ở một số dịch vụ như “Dịch vụ hỗ trợ pháp lý”;
“Dịch vụ giáo dục – Truyền thông nâng cao nhận thức”; “Dịch vụ hỗ trợ việc
làm”;”Dịch vụ tham vấn cá nhân”, có điểm số sig <0,05, còn các dịch vụ khác là gần như nhau, điểm số Cr.Alpha = 0,828 là rất tốt.
Ngoài những dịch vụ được khảo sát thì NSDMT có hài lòng và đánh giá ở mức “Tốt” đối với dịch vụ khác là “dịch vụ vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao”. Đây cũng là điều mà các CSCN cần lưu ý thêm khi tổ chức và cung cấp đa dạng các dịch vụ một cách hiệu quả cho người nghiện ma túy tại Cơ sở.
Kết quả khảo sát về hiệu quả, chất lượng của dịch vụ CTXH thông qua các tiêu chí thể hiện cụ thể dưới đây: tính hữu hình(điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, trang phục, tác phong của đội ngũ cung cấp dịch vụ); tính hiệu quả (trình độ năng lực
109
chuyên môn, thái độ đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cung cấp dịch vụ); nhu cầu
mong muốn phục vụ của đội ngũ cung cấp dịch vụ; độ tin cậy và đúng hẹn; tính đáp
ứng của dịch vụ (sẵn sàng phục vụ, sẵn sàng hết lòng, nhiệt tâm, nhiệt tình yêu nghề).
Những tiêu chí này được NSDMT tại Cơ sở đánh giá tương đối chi tiết ở cả 3 mức độ
“Rất tốt”, “Tốt”, “Chưa tốt” điểm trung bình chung là = 1,996. Kết quả khảo sát
thể hiện rõ trong Bảng 3.27(kèm theo phần phụ lục). Qua số liệu trong bảng ta thấy,
hầu hết NSDMT đánh giá chất lượng dịch vụ thông qua các tiêu chí còn ở mức thấp, điểm trung bình chung là thấp. Điều này là căn cứ quan trọng để các CSCN cải thiện
điều kiện trang thiết bị cung cấp dịch vụ và tăng cường năng lực cho đội ngũ cung cấp
dịch vụ công tác xã hội với NSDMT, đặc biệt là đội ngũ nhân viên CTXH.
Bên cạnh kết quả khảo sát thì kết quả phỏng vân sâu cũng cho thấy: Hầu hết
NSDMT khi được cai nghiện tại Cơ sở đều có sự thay đổi lớn về sức khỏe thể chất và
tâm lý, nhận thức và hành vi cũng như cải thiện tốt hơn các mối quan hệ với người
thân gia đình và bạn bè. Anh L.V.B, 25 tuổi cho biết“Các cán bộ thường xuyên tổ
chức các hoạt động giáo dục kiến thức về ma túy và nghiện ma túy, giáo dục kỹ năng
phòng chống tái nghiện giúp chúng tôi hiểu hơn về ma túy và tác hại của nó, trước đây
không kiềm chế được, dùng bất chấp lắm. Quan trọng hơn là các cán bộ còn giúp tôi
biết được một số kỹ năng để sau khi kết thúc đợt lao động trị liệu tại cơ sở, quay trở
lại cộng đồng có thể tránh được nguy có tái nghiện trở lại”. NSDMT N.Đ.C, 22 tuổi
cho rằng: “Từ khi vào đây được cán bộ chăm sóc, chữa trị cả về y tế và cung cấp kiến
thức em thấy mình khỏe hơn và ổn định tinh thần hơn. Bây giờ em đỡ bi quan, chán
nản hơn rồi, em hi vọng sau khi lao động trị liệu ở đây xong, em sẽ có cuộc sống ổn
định và có cô nào yêu thương em, em cũng lấy vợ như người khác chị ah.
Thực trạng về thể chất và tâm lý của NSDMT ban đầu có nhiều vấn đề bất ổn,
sau khi vào cơ sở được điều trị và sử dụng các dịch vụ tại cơ sở thì sức khỏe thể chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Kết quả ở bảng 3.25 (phụ lục kèm theo). Hơn nữa chính
nguồn động viên an ủi từ người thân trong gia đình làm NSDMT có động lực để cai nghiện.
Anh N.Q.T, NSDMT tại Cơ sở số 05 chia sẻ: “Lúc anh vào đây tinh thần anh bất ổn lắm. Người gầy rạc chẳng thiết ăn uống gì. Và sau 2 tháng anh thấy thần kinh anh bình thường, ăn uống ngủ nghỉ điều độ, anh đã tăng từ 57kg lên 66kg”.
Các mối quan hệ giữa NSDMT và người thân, gia đình có phần được cải thiện tốt hơn. NSDMT muốn được người nhà thăm gặp nhiều hơn và người thân, người nhà cũng
thường xuyên đến thăm hỏi NSDMT nhiều hơn. Anh N.B.Q, 31 tuổi cơ sở 1 cho biết:
“Trước đây tôi đi suốt chẳng cả về gặp gia đình, nhiều khi về nhà bố mẹ lại quát mắng, vợ
cũng thế, cáu gắt, ghét bỏ tôi, có mỗi đứa con là vẫn yêu bố. Nhưng từ khi quyết tâm đi cai
nghiện, gia đình tôi dường như thay đổi, bố mẹ và vợ con thường hay vào thăm tôi, tôi xúc
động lắm, và cố gắng quyết tâm hơn để được về với gia đình, với vợ và con”
110
Tuy nhiên, khi được hỏi về những lý do khiến anh/chị đánh giá những dịch vụ
này còn chưa tốt, thu được kết quả như sau: NSDMT P. V. T sinh năm 1973 cho biết:
“Nó chưa tốt đó là do chưa được phổ cập rộng rãi và sâu sát tới từng cá nhân người
nghiện, vẫn còn nhiều dịch vụ phải cần tới kinh phí cao mà điều đó là điều khó khăn với một số người đã cai nghiện đang tái hòa nhập cộng đồng”. NSDMT L. V. T, 24
tuổi, Điện Biên thì cho rằng: “Em theo lớp dịch vụ việc làm, nhưng thời gian ngắn, em
chưa được học hết lớp dịch vụ việc làm khi tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy em còn dở
dang, chưa hoàn thiện được, nên vẫn khó khăn khi em đi xin viêc. Sau khi trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng, em lại tái nghiện thế là giờ lại vào đây, cũng buồn lắm,
nhưng biết làm thế nào, phải cố gắng thôi”. Anh T. X. T, 31t, Thường Tín, Hà Nội
cho biết “Tôi thấy một số dịch vụ còn chưa hiệu quả lắm như dịch vụ hướng nghiệp
tạo công ăn, việc làm, dịch vụ tư vấn, tham vấn, NSDMT chúng tôi chỉ thay đổi được suy nghĩ, nhận thức thôi còn chưa chắc sau này đã làm được như cán bộ tư vấn vì
người nghiện chúng tôi có nhiều vấn đề quá”.
Đánh giá của NSDMT về hiệu quả của dịch vụ CTXH
*Đánh giá của NSDMT về hiệu quả của dịch vụ giáo dục truyền thông: Đa phần NSDMT đánh giá ở mức độ “hiệu quả”, chiếm 30,45% tỷ lệ NSDMT
lựa chọn, mức “rất hiệu quả” chiếm 9,78%, còn lại “ít hiệu quả” chiếm 44,83% tỷ lệ
NSDMT trả lời, chỉ có 14,94% NSDMT cho rằng dịch vụ giáo dục truyền thông chưa hiệu quả (Bảng 3.18 dưới đây điểm trung bình trung = 2,02, xếp thứ bậc 3 trong 5 loại
dịch vụ được khảo sát. Như vậy, vẫn còn NSDMT cho rằng không hiệu quả và ít hiệu
quả, chất lượng các buổi truyền thông chưa được đánh giá cao. Điều này do nhận thức
của NSDMT còn hạn chế, khả năng tư duy chưa tốt, dẫn đến chưa thay đổi được hành
vi, thậm chí họ đã nhận thức tốt mà hành vi chưa thay đổi được. Hơn nữa nhiều yếu tố
tác động từ bối cảnh, môi trường, mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp sau khi ra khỏi
trung tâm, tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, từ kết quả phân tích trên ta thấy chất
lượng các buổi giáo dục tuyên truyền còn chưa cao, nhiều buổi tuyên truyền, hội thảo
còn nặng tính hình thức, phương pháp, đơn điệu và từ ngữ hàn lâm khiến cho NSDMT khó hiểu được nội dung của các kiến thức. Giữa hai CSCN có sự khác nhau cơ bản thể hiện điểm sig = 0,000 < 0,05, chỉ số Cr.Alpha = 0,639 là chấp nhận được.
*Đánh giá của NSDMT hiệu quả của dịch vụ tham vấn
Với các mức độ trả lời Rất hiệu quả”, “Hiệu quả”, “Ít hiệu quả” và “Không
hiệu quả” cho câu hỏi “Theo anh/chị đánh giá thì các dịch vụ dưới đây có hiệu quả ở
mức độ nào? Kết quả khảo sát NSDMT cho thấy: Đa phần NSDMT ở cả hai CSCN
đánh giá dịch vụ “hiệu quả” chiếm tỷ lệ 56,5% và “ít hiệu quả”, chiếm tỷ lệ 22,0%
(Bảng 3.18 dưới đây), điểm trung bình là Mean (M) = 2,04 , xếp thứ 2 so với 5 loại
111
hình dịch vụ được hỏi. Giữa hai CSCN, NSDMT đánh giá có sự khác nhau cơ bản thể
hiện qua chỉ số Sig = 0,001 < 0,05, điểm Cr.Alpha > 7 là chấp nhận được.
Bảng 3.18 Đánh giá hiệu quả của các loại hình dịch vụ công tác xã hội đối với
người sử dụng ma túy
STT
Các dịch vụ
CSCN 05 (N=154)
Tổng (N=368)
Sig
Cr. Alpha
Mức độ hiệu quả của các dịch vụ CSCN 01(N=214) Mean TB Std. D Mean TB Std. D Mean TB Std. D
1,66 1,81
5 4
0,553 0,648
1,57 1,80
5 4
0,497 0,666
1,60 1,80
5 4
1 2 3
0,522 0,101 0,753 0,657 0,930 0,736 0,000
1,82
3
0,617
2,18
2
0,597
2,02
0,632
0,639
3
4
0,001
2,00
1
0,800
2,25
1
0,629
2,15
0,716
0,651
1
1,90
2
0,712
2,14
3
0,647
2,04
0,684 0,001 0,684
2
5
1,83
1,98
1,92
Độ tin cậy 0,742
Hỗ trợ chăm sóc y tế Hỗ trợ pháp lý Giáo dục – Truyền thông Hỗ trợ học nghề, tìm việc làm Tham vấn Điểm trung bình chung
(Kết quả khảo sát của đề tài)
Phỏng vấn sâu NSDMT, 23 tuổi, anh Đ.V.N cho biết: “Tôi có tham gia vào các
buổi tham vấn, tư vấn mà cơ sở tổ chức. Các cán bộ cũng có đề cập đến vấn đề tham
vấn giải quyết vấn đề và học kỹ năng phòng chống tái nghiện, hỗ trợ việc làm, y
tế…nhưng đôi khi tôi không thật sự hiểu họ đang nói gì. Khi tôi đưa ra câu hỏi thì
không được giải đáp vì số lượng NSDMT đặt câu hỏi khá là nhiều”. Như vậy có thể
thấy rằng việc tổ chức tham vấn, tư vấn cho NSDMT tại cơ sở vẫn còn tồn tại những
hạn chế, điều này dẫn đến việc giảm hiệu quả của hoạt động. Cán bộ và lãnh đạo cơ sở
cần có những biện pháp khắc phục tốt hơn.
Kết quả phỏng vấn sâu cán bộ tại trung tâm, anh N.V.T, 38 tuổi cho biết: “Sở dĩ
có ý kiến cho rằng hoạt động tham vấn, tư vấn cho NSDMT tại cơ sở chưa đạt hiệu
quả cao là vì số lượng NSDMT khá đông, những thắc mắc của NSDMT đôi khi cán bộ
trong trung tâm chưa thể giải đáp ngay dẫn đến việc thiếu hụt thông tin cho NSDMT.
Ngoài ra khả năng tiếp thu của một số NSDMT chưa cao dẫn đến việc cán bộ nói
nhưng NSDMT không hiểu”.
Từ những số liệu trên cho thấy, hiệu quả của hoạt động tham vấn, tư vấn còn
chưa cao, chất lượng dịch vụ chưa hiệu quả. Cơ sở mới chỉ tập trung vào số lượng và có
dịch vụ tham vấn chứ chưa thật sự chú trọng vào chất lượng hoạt động, nhiều NSDMT
chưa nhận thấy được hiệu quả của các hoạt động tham vấn, tư vấn dẫn đến chưa thay đổi
được hành vi nhận thức, những vấn đề của NSDMT chưa được giải quyết triệt để. Hơn
nữa, đa phần các buổi tham vấn mới chỉ tập trung vào tham vấn cá nhân và sinh hoạt
nhóm, chưa có nhiều những buổi tham vấn gia đình để có sự kết hợp giữa NSDMT, gia
đình và Cơ sở được hiệu quả. Phỏng vấn sâu chị N.T.H, 32 tuổi – vợ của anh T.V.H,
(CSCN số 05) chị cho biết: “Nói đến hiệu quả của dịch vụ thì tôi cũng không quan tâm lắm
vì nhà tôi tái đi, tái lại nhiều lần, cứ ra rồi lại vào, vào ở đây được khoảng 6 tháng thì ổn
112
định hơn, khi ra ngoài lại bạn bè, các mối quan hệ nên anh ấy lại dùng lại cho tinh thần
thoải mái, tôi cũng chẳng cấm đoán nữa vì đã nói quá nhiều rồi, bây giờ quan trọng là tình
thần phải thoải mái thì mới được nên khi nào không chịu được lại vào cai nghiện, tôi cũng
chưa biết lắm về tham vấn đâu..nhưng tôi luôn mong muốn có sự kết nối giữa gia đình và
người nghiện...” Mặc dù một số cơ sở còn có mô hình “ngôi nhà hạnh phúc” dành cho
những NSDMT có tiến bộ thì được đưa vợ con đến thăm… Điều này cũng thể hiện mối
quan hệ giữa gia đình và CSCN là tốt. Tuy nhiên, đây chưa phải là dịch vụ tham vấn, số
lượng NSDMT được tham gia mô hình này không nhiều vì điều kiện cơ sở còn hạn chế.
*Đánh giá của NSDMT về hiệu quả dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm
Kết quả khảo sát ở bảng 3.18 cho thấy: tỷ lệ NSDMT cho rằng dịch vụ hỗ trợ học
nghề, tìm việc làm có hiệu quả là cao, nhưng số NSDMT lựa chọn ít hiệu quả cũng
không ít, điểm trung bình chung = 2,15, xếp thứ bậc 1 trong 5 dịch vụ được khảo
sát, trong đó CSCN số 1 có điểm trung bình = 2,25 cao hơn so với CSCN số 5,
điểm trung bình = 2,00, sự khác nhau này thể hiện ở điểm số Sig = 0,001< 0,05, độ
tin cậy Cr.Alpha > 0,6 là tạm chấp nhận được. Như vậy, nhiều NSDMT và cán bộ thấy
được hiệu quả tốt từ các hoạt động, hỗ trợ nhiều cho quá trình cai nghiện. Nhưng phần
lớn NSDMT không thấy được hiệu quả hoặc ít hiệu quả từ các dịch vụ. Nguyên nhân
là do NSDMT chưa nhận thức được các dịch vụ cụ thể được trung tâm thực hiện, dẫn
đến NSDMT còn hạn chế trong nhận thức về dịch vụ và đánh giá chưa hoàn toàn đúng
hiệu quả của dịch vụ. Hơn nữa cán bộ tại Trung tâm cũng nhận định hiệu quả hoạt
động hỗ trợ việc làm còn hạn chế.
*Đánh giá của NSDMT về hiệu quả dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
Kết quả khảo sát ở bảng 3.18 cho thấy: hầu hết tỷ lệ NSDMT ở cả hai CSCN
đều cho rằng hiệu quả dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế còn thấp điểm trung bình = 1,60,
điểm số sig = 0,101> 0,05, không có sự khác biệt giữa hai CSCN, chỉ số Cr.Alpha =
0,753 là chấp nhận được.
*Đánh giá của NSDMT về hiệu quả dịch vụ hỗ trợ pháp lý
Đa phần NSDMT đã nhận hiệu quả của dịch vụ hỗ trợ pháp lý trong quá trình
cai nghiện. NSDMT- anh L.V.T, 29 tuổi cho biết: “Trước đây tôi không hề được biết
đến các chính sách của Đảng và Nhà nước hay các chương trình hỗ trợ người cai
nghiện ma túy như chúng tôi. Từ khi được các cán bộ trong cơ sở cung cấp thông tin
về những chính sách và chương trình hỗ trợ này, chúng tôi có thêm động lực để tiếp
tục lao động trị liệu và tự tin hòa nhập cộng đồng hơn”.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát ở bảng 3.18 cho thấy: hầu hết tỷ lệ NSDMT ở cả
hai CSCN đều cho rằng hiệu quả dịch vụ hỗ trợ pháp lý còn thấp điểm trung bình =
113
1,80, xếp thứ bậc 4 trong số những dịch vụ được khảo sát, chỉ số Cr.Alpha = 0,736 là
khá tốt. Điểm số sig = 0,930 > 0,05 cho thấy nhận định của NSDMT ở hai CSCN là
giống nhau nhiều, hiệu quả các dịch vụ còn chưa cao.
Nhìn chung, NSDMT đánh giá về dịch vụ CTXH ở mức “Rất hài lòng” và
“Hài lòng” chưa nhiều. Đồng thời, NSDMT đánh giá chất lượng hiệu quả cả dịch vụ ở
mức “Rất tốt” và “Tốt” không cao và còn “Ít hiêu quả”. Hơn nữa vẫn còn một số dịch
vụ chưa được NSDMT đánh giá cao như dịch vụ tham vấn cá nhân, gia đình và nhóm;
Dịch vụ hỗ trợ pháp lý hay dịch vụ việc làm do nhiều lý do như Cơ sở vất chất, trang thiết
bị cũng như nhận thức của NSDMT và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cung cấp dịch
vụ. Thêm vào đó, do mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ còn mỏng, các chính sách hỗ
trợ còn ít, năng lực của nhân viên CTXH còn hạn chế đã ảnh hưởng việc sử dụng dịch vụ
CTXH của NSDMT. Đây là vấn đề cần quan tâm trong cai nghiện và dự phòng tái nghiện
với NSDMT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
*Chứng minh giả thuyết nghiên cứu (Giả thuyết 3): Thực trạng cung cấp dịch
vụ Công tác xã hội tại cơ sở cai nghiện ma túy hiện nay còn hạn chế, chất lượng và
hiệu quả chưa đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng ma túy, có nhiều yếu tố tác
động thuận chiều đến chất lượng và hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội như điều
kiện, cơ sở vật chất trang thiết bị, đặc điểm tâm lý của người sử dụng ma túy, chính
sách pháp luật, điều kiện hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ xã hội…
Luận điểm: Kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu ở mục 3.2 và 3.3 đã khẳng định
các dịch vụ CTXH được cung cấp tại hai Cơ sở cai nghiện còn chưa được học viên
đánh giá ở mức độ thường xuyên nhiều, còn hạn chế ở đội ngũ cung cấp dịch vụ, nội
dung và hình thức cung cấp thể hiện ở các loại hinh dịch vụ cụ thể như Dịch vụ giáo
dục truyền thông; Dịch vụ tham vấn; Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm; Dịch vụ
hỗ trợ chăm sóc y tế; Dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Điểm trung bình chung còn ở mức chưa
cao. Lý do NSDMT chưa hài lòng các dịch vụ còn được thể hiện qua kết quả phỏng
vấn sâu anh N.Đ.N, 30 tuổi cho rằng: “Các dịch vụ chưa tốt vì nhiều lý do công việc ít
thời gian sinh hoạt cộng đồng, hỗ trợ y tế chưa nhiệt tình, còn yếu, dịch vụ truyền
thông chưa cao và chưa chất lượng”.
Luận cứ 1: Nhân viên xã hội là chủ thể quan trọng trong giáo dục truyền thông
nhưng không được NSDMT lựa chọn nhiều, chiếm tỷ lệ 8,7% là thấp nhất.
Luận cứ 2: Dịch vụ giáo dục truyền thông. Qua bảng số liệu 3.6 trên ta thấy hầu
hết NSDMT cho rằng dịch vụ giáo dục truyền thông thường xuyên được tổ chức tại Cơ
sở ở các mức độ Rất thường xuyên, Thường xuyên và Không bao giờ. Điểm trung bình
chung là không cao, ở mức trung bình thấp = 1,91. Số liệu ở bảng 3.7 ta thấy hầu như
114
NSDMT tại CSCN đều được tiếp cận với hình thức truyền thông qua nhiều kênh
truyền thông đa dạng, phong phú. Một số hình thức truyền thông quan trọng NSDMT
chưa được tiếp cận nhiều, điểm trung bình chung còn chưa cao = 1,94.
Luận cứ 3: dịch vụ tham vấn. Hầu hết NSDMT tại Cơ sở đều cho rằng dịch vụ
tham vấn được tổ chức thường xuyên điểm trung bình = 2,05 mặc dù vẫn có
NSDMT lựa chọn ở mức không thường xuyên. Qua bảng số liệu 3.9 thể hiện rõ điều
đó có điểm trung bình chung = 2,18. Như vậy, có thể thấy, NSDMT đã biết đến các
loại hình dịch vụ CTXH với NSDMT nhưng số NSDMT sử dụng ở mức “Thỉnh
thoảng” và “Không thường xuyên” còn nhiều.
Luận cứ 4: Dịch vụ học nghề tìm việc làm. Qua bảng 3.10 ta thấy: Hầu hết
NSDMT được khảo sát đều cho rằng “dịch vụ hỗ trợ tư vấn học nghề” được tổ chức
thực hiện ở hai Cơ sở, họ đều trả lời ở các mức độ khác nhau: “Rất thường xuyên”
“Thường xuyên”, “Thỉnh thoảng” và “Không thường xuyên”có điểm trung bình
chung là = 1,82. Số liệu trong Bảng 3.11dưới đây đã nói lên tình hình sử dụng dịch
vụ “tư vấn hỗ trợ học nghề” của NSDMT tại CSCN, chiếm tỷ lệ tương đối cao 68,2%
số NSDMT được khảo sát trả lời “Đã từng sử dụng”. Đa phần NSDMT tại Cơ sở chưa
từng sử dụng các loại hình dịch vụ này, tỷ lệ này rất cao dao động từ 31,8 % đến
67,3%. Như vậy hiện tại ở các CSCN mới chỉ có các loại hình dịch vụ này, nhưng
NSDMT chưa được tiếp cận, sử dụng nhiều. Do đó mức sử dụng thường xuyên các
loại hình dịch vụ này cũng hạn chế, điểm trung bình chung = 2,38
Luận cứ 5: Dịch vụ chăm sóc hỗ trợ y tế. Số liệu trong Bảng 3.12 đã chỉ ra đa phần
NSDMT đều nhận thấy CSCN tổ chức các hoạt động hỗ trợ y tế ở mức độ “Rất thường
xuyên” và “Thường xuyên”, tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng “Không thường xuyên”,
có điểm trung bình chung là thấp =1,92. Như vậy, phần lớn NSDMT quen với những
dịch vụ đã được truyền thông nhiều, hiểu biết nhiều và tham gia nhiều hơn. Thực tế,
những hoạt động y tế được các Bác sĩ thực hiện nên vai trò của NVXH chưa được thể
hiện rõ, chưa phân biệt rõ ràng hoạt động y tế và hoạt động hỗ trợ chăm sóc y tế dưới góc
độ CTXH. Qua số liệu Bảng 3.13 ta thấy: Hầu hết NSDMT đã lựa chọn ở mức “Rất
thường xuyên” và “Thường xuyên”, tuy nhiên có nhiều ý kiến lựa chọn ở mức “Không
thường xuyên”, điểm trung bình chung của 7 loại dịch vụ cụ thể của “dịch vụ hỗ trợ
chăm sóc y tế” là trung bình =2,08. Kết quả này chứng tỏ, NSDMT tại Cơ sở
thường xuyên sử dụng các loại hình dịch vụ này ở mức trung bình.
115
Luận cứ 6: Dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Qua bảng số liệu 3.14 trên, đa phần các
NSDMT tại Cơ sở đều lựa chọn ở cả 3 mức “Rất thường xuyên” và “thường xuyên”,
“Không thường xuyên” điểm trung bình chung = 1,90. Qua số liệu ở bảng 3.15 cho
thấy: trong số những NSDMT đã từng sử dụng dịch vụ “Hỗ trợ pháp lý” thì hầu hết
NSDMT tại Cơ sở lựa chọn ở cả 3 mức “Rất thường xuyên”, “Thường xuyên” và “Không
thường xuyên”, có điểm trung bình chung = 2,46. Trong đó mức “Không thường xuyên”
được NSDMT lựa chọn nhiều nhất trong cả 4 loại hình. Giữa hai CSCN có sự lựa chọn không
giống nhau, điểm Sig và Cr.Alpha là rất đáng tin cậy.
Luận cứ 7: Chất lượng, hiệu quả của dịch vụ CTXH đối với NSDMT: NSDMT
đánh giá về dịch vụ CTXH ở mức “Rất hài lòng” và “Hài lòng” chưa nhiều, điểm
trung bình là 1,84. Mức độ hài lòng về các tiêu chí cũng có có ĐTB là 1,88.
Luận cứ 8: Đồng thời, NSDMT đánh giá chất lượng hiệu quả cả dịch vụ ở mức
“Rất tốt” và “Tốt” không cao có ĐTB là 1,92, và còn “Ít hiệu quả”. Điểm trung bình
chung (ĐTB) về hiệu quả còn chưa cao: dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ y tế, có điểm trung bình
là 1,60; dịch vụ hỗ trợ pháp lý có ĐTB là 1,80; dịch vụ tham vấn có ĐTB là 2,04; dịch vụ
giáo dục truyền thông có ĐTB là 2,02; dịch vụ học nghề, tìm việc làm có ĐTB là 2,15.
Điều này do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như sự chuyên nghiệp của đội ngũ cung
cấp dịch vụ, điều kiện môi trường cung cấp dịch vụ cũng như bản thân NSDMT trong bối
cảnh xã hội phát triển. Kết quả ở bảng 3.19; 3.20; 3.21; 3.22; 3.23; 3.24 thể hiện rõ điều
đó. Những yếu tố này có tác động thuận chiều với chất lượng của dịch vụ CTXH với
NSDMT. Điều này được minh chứng qua hệ số kiểm định ý nghĩa thống kê Sig < 0,05.
Kết quả phân tích cho thấy, hệ số tương quan giữa Thể chế, chính sách, pháp
luật của nhà nước với chất lượng dịch vụ CTXH với NSDMT bằng 0,155 phản ánh mối quan hệ cùng chiều. Mức ý nghĩa kiểm định bằng 0,003 < 0,05 phản ánh mối quan hệ có ý nghĩa thống kê.
Yếu tố “Điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị của Cơ sở cung cấp dịch vụ” có mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN thể hiện r
= 0,156 và mức ý nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,003 < 0,05. Như vậy, chấp nhận giả thuyết trong nghiên cứu này.
Mối tương quan giữa trình độ, năng lực phẩm chất đạo đức của nhân viên cung
cấp dịch vụ Công tác xã hội mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác
xã hội của CSCN thể hiện r = 0,115 và mức ý nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,028 <
0,05. Như vậy, chấp nhận giả thuyết trong nghiên cứu này.
116
Mối tương quan giữa “Đặc điểm và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy”
có mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN, thể
hiện r = 0,151 và mức ý nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,005 < 0,05. Như vậy, chấp
nhận giả thuyết trong nghiên cứu này.
Mối tương quan giữa “Điều kiện hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy”
có mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN, thể
hiện qua hệ số tương quan bằng 0,142, mức ý nghĩa kiểm định thống kê Sig = 0,004 <
0,05. Như vậy, chấp nhận giả thuyết trong nghiên cứu này.
Mối tương quan giữa “Các mối quan hệ xã hội của người sử dụng ma túy” có
mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN, thể hiện
qua hệ số tương quan bằng 0,164, mức ý nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,002 < 0,05.
Như vậy, giả thuyết được chấp nhận trong nghiên cứu này.
Như vậy, từ những luận điểm và luận cứ trên, ta có thể khẳng định kết quả khảo
sát tương đương với giả thuyết đặt ra ban đầu, khẳng định giả thuyết là chấp nhận
được. Đây cũng là kết quả trả lời cho câu hỏi nghiên cứu số 3.
3.4 Kết quả thực nghiệm tham vấn nhóm với ngƣời sử dụng ma túy
Cơ sở lý luận của thực nghiệm: Cơ sở lý thuyết cho việc tiến hành thực nghiệm
là việc nghiên cứu mối quan hệ nguyên nhân và kết quả, được tiến hành theo một trình
tự thời gian nhất định và phối hợp giữa tác nhân kích thích và phản ứng của đối tượng nhằm đảm bảo sự thay đổi của biến số nguyên nhân dẫn đến thay đổi biến số phụ
thuộc. Theo tác giả Đobrianov (1964) “Thực nghiệm xã hội là phương tiện cho việc
chỉ ra mối quan hệ giữa cái chung, cái đặc biệt và cái duy nhất, cho việc tìm ra con
đường, phương tiện mà qua đó hoạt động nhận thức của con người có một hiệu quả
cao nhất, nghĩa là hoàn toàn phù hợp với hiện thực khách quan” [76 tr.333]. Vì vậy
sử dụng thực nghiệm trong khoa học CTXH là một phương pháp nghiên cứu xuất phát
từ xã hội học nhằm tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa việc tác động trên một nhóm
đối tượng và nhóm không chịu sự tác động. Thực nghiệm tham vấn nhóm đối với
NSDMT trong phạm vi đề tài nghiên cứu là một phương pháp mới trong CTXH nhằm đánh giá sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi của NSDMT về dịch vụ CTXH với NSDMT từ thực tiễn CSCN số 05, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội.
Cơ sở thực tiễn: Hiện nay, tại Cơ sở cai nghiện số 05, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội đã và đang thực hiện việc cung cấp các hoạt động tham vấn cho NSDMT, chủ yếu là tham vấn cá nhân. Tuy nhiên, hoạt động này còn mang tính tư vấn nhiều hơn, chưa đi sâu vào nội hàm và quy trình tham vấn với các công cụ sàng lọc, đánh giá
chuyên sâu. Điển hình là tham vấn nhóm tại Cơ sở chủ yếu thực hiện dưới dạng sinh hoạt nhóm, mà sinh hoạt theo đội, tổ, chưa đi sâu vào quy trình và nội dung tham vấn nhóm. Bên cạnh đó, Cơ sở đã và đang thực hiện việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ tại
117
Cơ sở về tư vấn điều trị nghiện ma túy từ năm 2016, với các khóa đào tạo Tư vấn cơ
bản và Tư vấn điều nghiện chuyên sâu. Đây là cơ sở, điều kiện để hoạt động tham vấn
được thực hiện. Sở dĩ, NCS lựa chọn là thực nghiệm tham vấn nhóm mà không phải là
tham vấn cá nhân hay tham vấn gia đình mà cũng không phải là các loại dịch vụ khác như dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm, dịch vụ giáo dục truyền thông…Bởi lẽ:
Dịch vụ tham vấn là dịch vụ đặc trưng mang tính chuyên môn sâu sắc trong nghề
CTXH, Nhân viên CTXH phải có khả năng tham vấn mới thực hiện được các hoạt
động CTXH. Tác giả C. Zastrow (1985); tr 45)nhận xét: “Có lẽ một trong những kỹ năng cơ bản nhất mà người nhân viên CTXH cần có là khả năng tham vấn đối tượng
có hiệu quả. Nếu ai không làm được điều này thì họ không nên làm việc trong nghề
CTXH”.[146]. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu về tư vấn điều trị
nghiện; tham vấn/sinh hoat nhóm sẽ thiết lập mối quan hệ tương tác giữa các thành viên trong nhóm, tạo động lực thúc đẩy nhóm NSDMT cùng nhau quyết tâm và ý chí
cai nghiện tốt hơn, áp lực nhóm sẽ giúp các thành viên nỗ lực, cố gắng hơn trong quá
trình cai nghiện. Các thành viên có thể chia sẻ, cởi mở những vấn đê riêng tư, kín đáo
mà không ngại ngần, họ sẵn sàng hỗ trợ nhau cùng nhau quyết tâm thưc hiện muc tiêu
chung là cai nghiện và dự phòng tái nghiện ngay khi ở trong cơ sở cai nghiện và tái
hòa nhập cộng đồng. Sau thực nghiệm, họ sẽ đánh giá về nhận thức, nhu cầu, hành vi
và mức độ sử dụng dịch vụ CTXH với NSDMT.
Mục đích tiến hành thực nghiệm: Tham vấn để tìm hiểu và giải quyết những
vấn đề khó khăn của nhóm NSDMT nhằm đánh giá về nhận thức, nhu cầu, hành vi và
mức độ sử dụng dịch vụ CTXH đối với NSDMT.
Phương pháp thực hiện: Chúng tôi tiến hành tham vấn nhóm nhằm xác định
mong muốn, nhu cầu và vấn đề của NSDMT, đồng thời sử dụng các biện pháp nâng
cao nhận thức về tầm quan trọng và nhu cầu sử dụng dịch vụ Công tác xã hội của
NSDMT thông qua quá trình tham vấn (các buổi tham vấn cụ thể) để đánh giá sự thay
đổi trước và sau thực nghiệm về nhận thức, thái độ, hành vi của NSDMT với dịch vụ
CTXH. Bên cạnh đó, chúng tôi tiến hành so sánh nhóm thực nghiệm (7 người SDMT được lựa chọn ngẫu nghiên) với nhóm đối chứng (nhóm 7 người SDMT được lựa chọn ngẫu nghiên).
Thời gian thực nghiệm: 6 tháng (từ 1/5/2018 – 1/10/2018). Mỗi tháng sinh hoạt
nhóm 2 lần vào ngày 6 và 20 hàng tháng, tổng số buổi sinh hoạt nhóm 12 buổi.
Địa điểm thực nghiệm: CSCN số 05, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội Quy trình tham vấn nhóm theo 3 giai đoạn: Chuẩn bị tham vấn, sinh hoạt nhóm
(Các hoạt động chuẩn bị và tiến hành diễn ra từ trước khi tác động, lựa chọn nhóm thành viên, thuộc nội dung buổi 1); Triển khai thực hiện các buổi tham vấn/sinh hoạt nhóm
118
(Thực hiện 10 buổi về nội dung tham vấn nhóm); Lượng giá và kết thúc (Thực hiện 1
buổi). (Nội dung chi tiết kèm theo ở phần phụ lục)
Mô tả nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
Nhóm NSDMT được chọn để làm thực nghiệm bao gồm 7 NSDMT, tiêu chí là họ đều có mong muốn được tham gia các hoạt động tham vấn nhóm nhằm chia sẻ và học hỏi
những kiến thức, kinh nghiệm phòng tránh sử dụng ma túy và dự phòng tái nghiện, làm thế
nào để không tái nghiện ma túy nữa. Họ là NSDMT đang cai nghiện tại Trung tâm
Danh sách nhóm thực nghiệm
STT Họ và tên
Tình trạng hôn nhân, gia đình Đã lập gia đình, 1 vợ, 3 con
1 2 3 4 5 6 7
H.V.C N.Đ.L V.X.M. H.S.L N.N.T. N.T.A N.H.V
Tuổi 32 33 40 31 27 27 46
Nơi ở Bắc Từ Liêm Hai Bà Trưng Chưa lập gia đình Hoàn Kiếm Bắc Từ Liêm Bắc Từ Liêm Cầu Giấy Cầu Giấy
Đã có gia đình, 1 vợ hai con Độc thân, chưa lập gia điình Đã lập gia đình, chưa có con Đã ly hôn, có một con nhỏ, Đã ly hôn, 3 vợ, hiện có 5 con
Danh sách nhóm đối chứng: Nhóm này được lựa chọn ngẫu nhiên, họ là
NSDMT đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện, được phân bổ trong các tổ, đội.
STT Họ và tên
1 2 3 4 5 6 7
N.V.T Đ.M.T T.M.T N.Đ.K N.Đ.T N.M.V T.V.S
Tuổi 40 34 34 29 37 39 25
Nơi ở Thạch Thất Long Biên Ba Đình Thanh Trì Hoàng Mai Hà Đông Trương Mỹ
Tình trạng hôn nhân, gia đình Đã ly hôn, 2 con Đã lập gia đình, 1 vợ, 1 con Đã lập gia đình, 1 vợ,3 con Chưa lập gia đình Chưa lập gia đình Đã ly hôn, 1 vợ, 2 con Đã lập gia đình, 1 vợ, 1 con
Nội dung tham vấn nhóm
STT Nội dung Thời gian
Buổi 1 Chào hỏi, giới thiệu làm quen, xây dựng nội quy hoạt động 6/5/2018
của nhóm. Giới thiệu dịch vụ CTXH, các loại dịch vụ CTXH
với NSDMT.
Thảo luận Chủ để 1: Tham vấn với nội dung “Ma túy và tác
hại của ma túy”Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với NSDMT”
Tiếp tục chủ đề 1: Ôn tập và lượng giá 20/5/2018 Buổi 2
Chủ đề 2: Tham vấn hỗ trợ về việc xác định vấn đề ưu tiên, 6/6/2018 Buổi 3
lựa chọn giải pháp tối ưu, Tham vấn về xác định mục tiêu ưu
tiên (SMART)
Tiếp tục chủ đề 2: Ôn luyện và lượng giá, 20/6/2018 Buổi 4
Chủ đề 3: Xây dựng kế hoạch thực hiện giải quyết vấn đề 6/7/2018 Buổi 5
Tiếp tục chủ đề 3, Ôn luyện và lượng giá 20/7/2018 Buổi 6
119
Buổi 7 Chủ đề 4: Tham vấn về quản lý thời gian, thiết lập cuộc sống 6/8/2018
ổn định, lành mạnh
Buổi 8 Tiếp tục chủ đề 4, ôn tập và lượng giá 20/8/2018
Buổi 9 Chủ đề 5: Tham vấn quản lý căng thẳng, nóng giận, các chiến 6/9/2018
lược đối phó với cơn thèm nhớ ma túy
Buổi 10 Tiếp tục ôn luyện chủ đề 5: Tham vấn quản lý căng thẳng, 20/9/2018
nóng giận, các chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ ma túy
Buổi 11 Chủ đề 6: Tham vấn dự phòng tái nghiện 6/10/2018
Buổi 12 Lượng giá, kết thúc toàn bộ các nội dung và đánh giá sự thay 20/10/2018
đổi của NSDMT
Trong quá trình thực hiện, NCS đã có sự ghi chép về quá trình sinh hoạt nhóm
trong từng buổi và nhận thấy có sự thay đổi sự tương tác gắn bó giữa NSDMT. Buổi
sinh hoạt đầu tiên, Sơ đồ 3, Sự tương tác của NSDMT trong buổi sinh hoạt thứ nhất
một số NSDMT chưa hiểu biết nhiều về nhau, anh ĐL chưa có sự tương tác với anh HV,
SL; Anh NT chưa biết anh SL, HV,XM,TA,HC; anh SL chưa biết anh ĐL,XM,TA,NT,HC.
Nhưng sau thời gian thực nghiệm NSDMT đã có sự tương tác gắn bó nhiều hơn, điều này
thể hiện qua và Sơ đồ 4. Sự tương tác của NSDMT trong buổi sinh hoạt thứ 10. Sau thực
nghiệm các thành viên đã có sự thay đổi đáng kể về nhận thức, quan điểm và thái độ, họ có
HV
ĐL
XM
SL
TA
Ghi chú
NT
NTN
Thành viên của nhóm
HC
Tương tác một chiều
NTN
Người thực nghiệm
thái độ tích cực hơn và có thiện chí, quyết tâm cố gắng cai nghiện.
Sơ đồ 3. Sơ đồ tương tác nhóm trong buổi tham vấn đầu tiên
120
Ghi chú
Thành viên của nhóm
Tương tác một chiều
Tương tác hai chiều
HV
ĐL
XM
SL
TA
NT
NTN
HC
NTN Người thực nghiệm
Sơ đồ 4. Sơ đồ tương tác nhóm trong buổi tham vấn thứ 10
Dưới đây là phúc trình tóm tắt về các buổi tham vấn nhóm, điển hình là buổi tham
vấn đầu tiên và buổi tham vấn thứ 10.
Buổi tham vấn thứ nhất: Trong buổi tham vấn đầu tiên diễn ra khoảng 120 phút,
tại phòng giáo dục của CSCN số 05 (120 phút từ 14h -16h ngày 6/5/2018), người tham
vấn giới thiệu làm quen với các thành viên và giới thiệu mục đích, xây dựng nội quy hoạt
động của nhóm. Giới thiệu dịch vụ CTXH, các loại dịch vụ CTXH với NSDMT. Các
thành viên nhóm lần lượt giới thiệu về bản thân, gia đình, tình trạng nghiện ma túy và
mong muốn, khó khăn (vấn đề) khi tham gia vào nhóm dưới sự điều phối của người
tham vấn thông qua công cụ khởi động nhóm – tung bóng, bóng tung đến ai thì đó giới
thiệu và tung cho người tiếp theo. Các thành viên tham gia rất nhiệt tình, hứng khởi và
sẵn sàng chia sẻ. Ban đầu các thành viên còn e dè, nhiều thành viên chưa biết nhau
như X.M và NT, HC và SL hay Thành viên TA chưa giao tiếp nhiều với ĐL, SL, NT,
HC,XM…Qua buổi giới thiệu, làm quen và chia sẻ những nội dung ma túy và dịch vụ
CTXH với NSDMT, các thành viên đã biết cơ bản về nhau và cùng nhau tham gia hoạt
động nhóm tiếp thu, lĩnh hội những nội dung mới khi người tham vấn giới thiệu về
dịch vụ CTXH và các loại hình dịch vụ CTXH với NSDMT. Họ nhiệt tình tham gia và
121
có cam kết tham gia và thực hiện các hoạt động trong cả quá trình và sau khi rời khỏi
CSCN. (Hình ảnh minh họa, phụ lục kèm theo)
Buổi tham vấn thứ 10
Mục đích: Xác định vấn đề chính của nhóm, từ bỏ ma túy
Nội dung: Tham vấn quản lý căng thẳng, nóng giận, các chiến lược đối phó với cơn
thèm nhớ ma túy
Thời gian: 9h-10h30 ngày 20/9/2018
Địa điểm: Phòng giáo dục, Cơ sở Cai nghiện số 5, Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội.
Diến biến quá trình tham vấn: Buổi tham vấn thứ 10 hầu như các thành viên trong
nhóm đã có sự thông hiểu về nhau nhiều hơn, họ đã giao tiếp với nhau bằng như câu đùa,
từ lóng…Họ cùng nhau tham gia nhiệt tình và ôn tập lại những nội dung đã được tham
vấn và sổi nổi, nhiệt tình cho nội dung mới. Ngay từ lúc mở đầu buổi tham vấn, anh V đã
chủ động cười vui và xung phong tổ chức cho nhóm hát một bài “Bốn phương trời”, cà
người thực nghiệm và nhóm cùng nhau hát và tiếp tục vào nội dung tham vấn. Người thực
nghiệm chia thành 3 nhóm nhỏ, nhóm 1 là chủ đề căng thẳng; nhóm 2 chủ đề nóng giận,
nhóm 3 là chủ đề đối phó cơn thèm nhớ ma túy và phát giấy màu yêu cầu các thành viên
ghi ra những từ ngữ thể hiện sự căng thẳng, chiến lược quản lý căng thẳng, nóng giận và
chiến lược quản lý nóng giận, Cơn thèm nhớ ma túy và chiến lược đối phó cơn thèm nhớ
ma túy. Sau 15 phút thảo luận, các nhóm chia sẻ và người thực nghiệm chốt lại kiến thức
chính. Buổi tham vấn nhóm diễn ra thật sôi nổi, các thành viên có thêm cách thức quản lý
căng thẳng (stress). Cách quản lý nóng giận và các chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ
ma túy về mặt nhận thức và hành vi. Các thành viên có sự thay đổi lớn về nhận thức vì
trước đây họ cũng biết nghe nhạc để giảm căng thẳng, hay mỗi khi nóng giận lại quát to,
cáu gắt hoặc là khi lên cơn thèm nhớ họ sẵn sàng làm mọi thứ để kiếm thuốc
dùng…nhưng hôm nay sau khi tham gia các hoạt động nhóm họ biết các chiến lược quản
lý căng thẳng về nhận thức, hành vi, về thể chất và tinh thần cụ thể như thế nào? Họ quyết
tâm dùng biện pháp khác mỗi khi nóng giận và biết chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ
ma túy như độc thoại nội tâm, suy nghĩ, tưởng tượng, quyết định…
Kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm được đánh giá qua mức độ nhận thức của NSDMT về dịch
vụ CTXH với NSDMT; nhu cầu sử dụng; nội dung tham vấn/tư vấn; chủ thể cung cấp và
hiệu quả sử dụng dịch vụ tham vấn nhóm
122
Trước thực nghiệm
Sau thực nghiệm
Bình phương độ lệch giữa hai đại lượng
3 2.5 2 1.5 1 0.5 0
Biểu đồ 3.3: Kết quả thực nghiệm đánh giá về tầm quan trọng của dịch vụ CTXH
Qua biểu đồ trên ta thấy trước và sau thực nghiệm mức độ nhận thức về tầm quan
trọng của dịch vụ CTXH đối với người nghiện ma túy có sự thay đổi. Trước thực nghiệm,
giá trị trung bình chung là = 2,4, sau thực nghiệm giá trị trung bình chung =2,71. Tầm
quan trọng của “dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế”, trước và sau thực nghiệm, NSDMT vẫn
được NSDMT xếp thứ bậc 1. “Dịch vụ hỗ trợ pháp lý” được NSDMT vẫn xếp thứ bậc 5.
Các dịch vụ khác có sự thay đổi cao hơn thể hiện rõ qua điểm trung bình.
Đánh giá về nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH
Biểu đồ 3.4. Đánh giá trước và sau thực nghiệm về nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH
3
2.5
Trước thực nghiệm
2
1.5
Sau thực nghiệm
1
0.5
0
Bình phương độ lệch giữa hai giá trị trung bình
Hệ số tương quan r = 0.995
của NSDMT tại Cơ sở.
123
Sau thực nghiệm hầu hết NSDMT đều có nhu cầu/mong muốn sử dụng dịch vụ ở
mức rất cao, không có NSDMT nào lựa chọn mức không mong muốn. Trước thực nghiệm
điểm trung bình chung = 2,05, sau thực nghiệm điểm trung bình chung = 2,72. Như
vậy, nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH của NSDMT là rất nhiều, rất mong muốn được sử
dụng. Trong đó, dịch vụ Tư vấn/tham vấn cá nhân/gia đình và nhóm được học xếp thứ bậc
2, với điểm trung bình = 2,86, trước thực nghiệm = 1,83. Trước thực nghiệm và sau
thực nghiệm có sự tương quan chặt chẽ với nhau, r = 0,995.
Đánh giá về sự thay đổi của NSDMT khi được tham gia tham vấn nhóm
Trước thực nghiệm, vẫn có những NSDMT chưa hiểu biết nhiều về dịch vụ tư
vấn/tham vấn cá nhân, gia đình và nhóm, sau thực nghiệm thì hầu như NSDMT có sự
thay đổi trong nhận thức, suy nghĩ và hành vi. Điều này là thực tế khẳng định có sự
thay đổi khi tiến hành thực nghiệm tác động. Thuyết nhận thức hành vi đã khẳng định:
chính tư duy quyết định phản ứng chứ không phải do tác nhân kích thích quyết định.
Aron T. Beck và David Burns(2006), trong bài viết“Phương pháp điều trị lo âu mới
khi hoảng loạn tấn công, , không có ma túy sẽ làm thay đổi cuộc sống của bạn” (trên
HarperAudio, 2006. - ISBN 0-06-057710-X) cũng cho rằng: các vấn đề nhân cách hành
vi của con người được tạo tác bởi những suy nghĩ sai lệch trong mối quan hệ tương tác
với môi trường bên ngoài. NSDMT nhận thức lầm và gán nhãn nhầm cả từ tâm trạng ở
trong ra đến hành vi bên ngoài, do đó gây nên những niềm tin, hình tượng, đối thoại
nội tâm tiêu cực, họ có suy nghĩ không thích nghi tốt đưa đến các hành vi của một cái
tôi thất bại của một “người nghiện” nên khi đã nghiện, có nhiều lý do khiến khó từ bỏ
và sẽ sử dụng lại sau khi cai nghiện. Thực tế, NSDMT có hành vi sử dụng ma túy là do
họ nhận thức sai lầm ngay từ lần sử dụng đầu tiên, nhiều người cho rằng: “em chỉ
dùng thử thôi vì vui thì thử, ai ngờ em lại nghiện, bây giờ em bị lệ thuộc vào đó, em hy
vọng em sẽ cai được và được về với gia đình, với vợ con em” (N.V.T, 28 tuổi, Hà Nội).
Vận dụng thuyết nhận thức, hành vi, nhất là các kỹ thuật can thiệp trong cung cấp dịch
vụ CTXH giúp nhân viên CTXH có cách thức tác động nhằm làm thay đổi những hành
vi lệch chuẩn - hành vi sử dụng ma túy, NSDMT cần cần phải thay đổi chính những
suy nghĩ không hợp lý về ma túy. Thực nghiệm đã khiến cả 7 NSDMT có sự hiểu biết
đúng đắn hơn về ma túy, tác hại của ma túy với não bộ, cơ chế gây nghiện, các phương
thức và kỹ năng cai nghiện và dự phòng tái nghiện như: đối phó với cơn thèm nhớ ma
túy, kỹ năng từ chối những cám dỗ mời gọi, kỹ năng quản lý căng thẳng, nóng giận,
quản lý thời gian…giúp họ có khả năng vận dụng vào thực tiễn cuộc sống và duy trì
trạng thái cảm xúc, thái độ và quyết tâm rời xa ma túy đảm sự ổn định cuộc sống trong
124
suốt cuộc đời còn lại. Điều quan trọng khi được tham vấn nhóm, các thành viên đều có
sự ảnh hưởng lẫn nhau, cùng cố gắng quyết tâm cai nghiện và dự phòng tái nghiện nhất
là sau khi rời khỏi CSCN. Anh V.X.M, 40 tuổi nói: “Sau khi được tham gia các buổi
như thế này, tôi tin rằng có thể cai nghiện và không tái nghiện nữa, bản thân tôi sẽ cố
gắng quyết tâm, nhưng cũng cần nhờ đến gia đình và mọi người, tôi rất cần liên hệ với
tư vấn viên không biết có được nữa không?”. Còn em N.T.A, 27 tuổi cho rằng: “Ngày
trước em hay cả nể, ai hay bạn bè rủ là em đi luôn, nhưng bây giờ khi được biết về cách
thức từ chối, em sẽ cương quyết để không bị lôi kéo nữa chị a, em sẽ lên kế hoạch và lựa
chọn việc ưu tiên để làm đỡ lãng phí thời gian..vì nhàn dỗi chẳng làm gì lại nghĩ đến
thuốc.”
So sánh giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm
So sánh giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm có sự khác nhau cơ bản trong
nhận thức về tầm quan trọng và sự cần thiết của dịch vụ CTXH đối với NSDMT, điểm số
sig < 0,05. Nhóm thực nghiệm cho rằng dịch vụ CTXH với người SDMT là rất quan trọng,
điểm trung bình chung là 2.71, trong khi đó nhóm đối chứng có điểm trung bình thấp là
1,79. Biểu đồ 3.5 dưới đây thể hiện rõ sự thay đổi đó.
Biểu đồ 3.5 Nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ CTXH với NSDMT giữa
Sig = 0.000
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng.
Đặc biệt, kết quả phỏng vấn sâu khi so sánh nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng có sự thay đổi tích cực từ nhận thức, thái độ cũng như nhu cầu và hành vi sử
dụng dịch vụ CTXH đối với NSDMT, đây là sự khác biệt lớn khi có sự tác động đối
với nhóm thực nghiệm. Nhóm đối chứng là người SDMT tại Cơ sở số 05 bao gồm 7
người được lựa chọn ngẫu nhiên, không có sự tác động của người thực nghiệm. Chúng
tôi tiến hành phỏng vấn sâu Anh Đ.M.T, 34 tuổi, nhóm đối chứng cho biết: “Tôi nghĩ
125
rằng cai nghiện chẳng ăn thua gì đâu, mọi người xung quanh mất niềm tin rồi, nghiện
là chết rồi, chết hẳn, cai ra được lại tái nghiện, khó khăn lắm Cô ạ”. Thực tế, nghiện
không hẳn giống như họ nghĩ, vì vậy khi không được tác động, cung cấp và trang bị
kiến thức về nghiện và các biện pháp cai nghiện và dự phòng tái nghiện, họ vẫn không
tin và khó khăn trong việc quyết tâm cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Như vậy, để
giúp họ thay đổi hành vi sử dụng ma túy là rất khó khăn, mặc dù họ đang cai nghiện
tại CSCN.
Đồng thời nhóm thực nghiệm cũng quan tâm về chất lượng, hiệu quả của dịch
vụ CTXH thông qua điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, trang phục, tác phong của
đội ngũ cung cấp dịch vụ); trình độ năng lực chuyên môn, thái độ đạo đức nghề nghiệp
của đội ngũ cung cấp dịch vụ); nhu cầu mong muốn phục vụ của đội ngũ cung cấp
dịch vụ; Độ tin cậy và đúng hẹn; Tính đáp ứng của dịch vụ (sẵn sàng phục vụ, sẵn
sàng hết lòng, nhiệt tâm, nhiệt tình yêu nghề)…Trong khi nhóm đối chứng thì hầu như
không để ý lắm vì họ cho rằng các dịch vụ là do cán bộ quản lý cung cấp, nên không
cần quan tâm, miễn sao hết thời hạn ở đây để nhanh được ra ngoài. Phỏng vấn sâu anh
N.H.L, 34 tuổi nói: “thật tình em cũng không hiểu, vào đây thấy cán bộ quan tâm, anh
em trò chuyện cũng vui, thỉnh thoảng nhớ nhà và lâu lâu thì nhớ nhà khủng khiếp, chỉ
muốn về” Nhưng khi được hỏi “anh sẽ làm gì để không tái nghiện nữa” thì họ băn
khoăn không biết làm thế nào? Anh T.V.Đ, 29 tuổi nói: “Khó khăn lắm, bạn bè lôi kéo
tôi lại ngại, nể họ lắm, hihi…cũng chẳng biết thế nào, lại tái nghiện, thì lại vào đây,
hihi..(cười)”. Như vậy, nhóm đối chứng hầu như không được tác động cụ thể về nội
dung để cai nghiện và dự phòng tái nghiện nên họ chưa biết và băn khoăn với cuộc
sống sau khi cai nghiện. Đây là căn cứ đề xuất mô hình dịch vụ CTXH với NSDMT tại
các Cơ sở/Trung tâm và trên địa bàn thành phố Hà Nội và phạm vi cả nước đặc biệt là
loại hình dịch vụ Tham vấn nhóm.
giải pháp giúp Các cơ sở cai nghiện tăng cường khả năng cung cấp dịch vu công
tác xã hội đối với người sử dụng ma túy. Người sử dụng ma túy có sự thay đổi tích
cực hơn khi được sử dụng dịch vụ Công tác xã hội
*Chứng minh giả thuyết nghiên cứu (Giả thuyết 4): Giả thuyết 4: Có nhiều
Luận cứ 1: Từ kết quả nghiên cứu ở mục 3.2 và 3.3 cho thấy có nhiều giải pháp
tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT như: tăng cường giáo
dục truyền thông; thực hiện thường xuyên dịch vụ tham vấn; chăm sóc hỗ trợ y tế;
hoàn chỉnh văn bản pháp lý; khắc phục điều kiện, trang thiết bị cung cấp dịch vụ. (2
nhóm giải pháp được đưa ra ở mục 4.2 chương 4)
126
Luận cứ 2: Kết quả thực nghiệm cho thấy, trước và sau thực nghiệm có sự thay
đổi. Nhận thức về tầm quan trọng của dịch vụ CTXH của NSDMT có sự thay đổi,
Luận cứ 3: so sánh giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm có sự khác biệt
rõ ràng trong nhận thức, suy nghĩ và hành vi. Nhóm đối chứng còn chưa hiểu biết về
nội dung, kiên thức về cai nghiện và dự phòng tái nghiện, quản lý cảm xúc, căng thẳng
hay nóng giận, làm thế nào để ứng phó với tình huống có nguy cơ cao. Trong khi
nhóm thực nghiệm đã hiểu rõ và có quyết tâm thực hiện để quá trình cai nghiện thành
công và dự phòng tái nghiện sau khi rời khỏi Cơ sở để tái hòa nhập cộng đồng. Chỉ số
Sig = 0,000 < 0,05, hệ số tương quan = 0,995.
Như vậy, kết quả khảo sát (luận cứ 1) và kết quả thực nghiệm luận cứ 2 và 3
cho thấy tiến hành tham vấn nhóm với nhóm thực nghiệm có sự thay đổi tích cực về
nhận thức, thái độ và hành vi, trước và sau thực nghiệm cũng có sự thay đổi rõ ràng về
nhận thức tầm quan trọng và nhu cầu của NSDMT về dịch vụ CTXH. Do đó khẳng
định giả thuyết, đây cũng là kết quả trả lời cho câu hỏi nghiên cứu số 4.
3.5 Các yếu tố ảnh hƣởng tới dịch vụ công tác xã hội đối với ngƣời sử dụng
ma túy qua đánh giá của NSDMT
3.5.1. Cơ chế, chính sách của việc cung cấp các dịch vụ CTXH cho người SDMT
Kết quả khảo sát được thể hiện trong bảng biểu 3.19: Trong 3 mức độ được hỏi
“Ảnh hưởng nhiều”; “Ảnh hưởng ít”; “Không ảnh hưởng” hầu hết NSDMT đều lựa
chọn ở cả ba mức độ, mỗi mức độ có tỷ lệ phần trăm là không giống nhau. Trong đó,
mức độ “Ảnh hưởng nhiều” tỷ lệ phần trăm dao động từ 17,93% đến 33,96% ; mức
“Ảnh hưởng ít” tỷ lệ phần trăm dao động từ 27,98% đến 45,92%; mức “Không ảnh
hưởng” tỷ lệ phần trăm dao động từ 17,93 đến 35,96%.
Bảng 3.19 Sự ảnh hưởng của các yếu tố chính sách, pháp luật
Điểm TB
Thứ bậc
STT
Các mức độ ảnh hƣởng Ảnh hƣởng ít
Ảnh hƣởng nhiều
Không ảnh hƣởng
Các yếu tố
(f) 73
(%) (f) (%) 19,83 125 33,96
(%) (f) 125 33,96 1,61
TB 3
1 2
2
73
19,83 169 45,92
117 31,79 1,83
3
1
125 33,96 117 31,79
66
17,93 1,84
4
5
66
17,93 103 27,98
132 35,86 1,45
5
Khung chính sách, pháp luật Các văn bản, chính sách, pháp luật rõ ràng, cụ thể Nội dung văn bản hay thay đổi, không cụ thể, còn nhiều bất cập Nội dung các văn bản còn chống chéo, không tách bạch Những quy điều trong bộ luật và chính sách cho người sử dụng ma túy còn nhiều thiếu xót, chưa thực tiễn.
88
23,91 117 31,79
88
4
Điểm chung bình chung
23,91 1,59 1,66
127
Đa phần NSDMT đều nhận thấy các nội dung chính sách pháp luật có ảnh
hưởng đến việc sử dụng dịch vụ CTXH. Tuy nhiên, có nhiều NSDMT được khảo sát
cho rằng yếu tố chính sách, pháp luật không có ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ
CTXH của NSDMT tại CSCN. Hệ số tương quan giữa Thể chế, chính sách, pháp luật
của nhà nước với chất lượng dịch vụ CTXH với NSDMT bằng 0,155 phản ánh mối
quan hệ cùng chiều. Mức ý nghĩa kiểm định bằng 0,003 < 0,05 phản ánh mối quan hệ
có ý nghĩa thống kê.
Phỏng vấn sâu NSDMT anh N.Đ.N, 30 tuổi Chương Mỹ, Hà Nội nói: “Luật pháp,
chính sách thì có gì ảnh hưởng đâu, vì mình phải làm theo luật rồi, luật toàn cấm mà, mình
sử dụng và nghiện ma túy đã là không đúng rồi, bây giờ vào đây phải cố gắng quyết tâm để
cai thôi, hy vọng ra ngoài sẽ không nghiện lại nữa cho cuộc sống ổn định”. Tuy nhiên, khi
phỏng vấn sâu lãnh đạo cơ sở Ông N.T.D, 48 tuổi cho biết: “Người nghiện ma túy có quyền
được biết về những chính sách của Nhà nước hỗ trợ họ trong quá trình cai nghiện. Ví
dụ như hiện nay Nhà nước có một số chính sách hỗ trợ người cai nghiện như: hỗ trợ
tiền ăn, hỗ trợ về y tế, hỗ trợ học nghề sau cai nghiện… Họ cần được biết những chính
sách hỗ trợ này để có thêm động lực, quyết tâm cai nghiện và điều quan trọng là
không bị mất đi quyền lợi của mình”. Anh N.P.T, 23 tuổi, Phong Thổ, Lai Châu cho
biết: “Nhiều khi em nghĩ đơn giản, mà không hiểu luật, không hiểu mình được quyền
gì không nên không biết và nghĩ rằng chẳng cần sử dụng dịch vụ nào. Chỉ biết là khi
vào đây thì thực hiện theo các hoạt động ở đây thôi, cũng chẳng hiểu đó là quyền và
nghĩa vụ của mình, kể ra biết thì sẽ quyết tâm và cố gắng nhiều hơn nữa để cai nghiện có
hiệu quả chị ah”
Như vậy, có thể thấy yếu tố chính sách, pháp luật có ảnh hưởng đến việc sử
dụng dịch vụ CTXH của NSDMT ma túy nhưng cũng không ảnh hưởng nhiều lắm,
điều quan trọng là bản thân NSDMT và những dịch vụ CTXH cần cung cấp cho
NSDMT ma túy. Giữa thể chế, chính sách pháp luật với “đặc điểm và mức độ nghiện
của NSDMT” có mối liên quan thể hiện qua hệ số tương quan r = 0,416, mức ý nghĩa
thống kê sig = 0,000 < 0,05. Hơn nữa, cần xem xét và đánh giá mức độ nhận thức, nhu
cầu của NSDMT về điều này để có phương pháp, cách thức tuyên truyền, giáo dục,
cung cấp tri thức về luật pháp, chính sách cho NSDMT sao cho hiệu quả nhất.
128
3.5.2. Các yếu tố về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của Cơ sở cung
cấp dịch vụ
Điều kiện cơ sở, vật chất trang thiết bị cũng như môi trường sống có ảnh hưởng
nhiều đến việc sử dụng dịch vụ CTXH. Kết quả trong Bảng 3.20 dưới đây:
Bảng 3.20: Sự ảnh hưởng của yếu tố điều kiện, cơ sở vật chất, trạng thiết bị
Các mức độ ảnh hƣởng
STT
Các yếu tố ảnh hƣởng
Sig
CSCN 05 (N=154)
Cr, Alpha
Std,D
CSCN 01(N=214) Std,D
Tổng N= 368 TB Std,D
1
5
1,49
1,64
1,76
0,912
0,690
0,769
0,000
0,735
2
1,45
0,696
0,699
0,662
0,000
0,907
1,82
1,67
4
3
3
0,651
0,592
0,000
0,662
0,912
1,94
1,82
1,64
4
2
0,637
0,543
0,000
0,677
0,911
1,95
1,84
1,69
5
1
0,680
0,679
0,682
0,490
0,914
1,94
1,92
1,89
1,88
1,78
1,63
Cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, môi trường sống trong sạch, đẹp Cơ sở, vật chất trang thiết bị còn thiếu thốn, môi trường sống chưa sạch đẹp Dụng cụ cắt cơn, giải độc còn thiếu Nơi ăn, chốn ở của NSDMT Dinh dưỡng của các bữa ăn Điểm trung bình chung 0,913 Trong các yếu tố được khảo sát về điều kiện vật chất, trang thiết bị có điểm trung
bình chung =1,78, NSDMT đều trả lời ở cả 3 mức độ “Ảnh hưởng nhiều”; “Ảnh hưởng
ít” và “Không ảnh hưởng” với tỷ lệ khác nhau, chỉ số Cr.Alpha > 9 là rất đáng tin cậy.
Yếu tố được NSDMT của cả 2 CSCN lựa chọn có ảnh hưởng nhiều nhất là “Dinh dưỡng
của các bữa ăn”, có điểm trung bình = 1,92; sig = 0,490 > 0,05. Những yếu tố khác có
sự khác biệt lớn giữa hai CSCN. Kết quả phỏng vấn sâu cán bộ N.T.Q, 35 tuổi cho rằng:
“Cơ sở luôn cố gắng cải thiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất tốt nhất để đảm bảo cho
NSDMT được thuận lợi. Tuy nhiên, nguồn ngân sách do Nhà nước còn hạn chế nên nhiều
yếu tố như dụng cụ cắt cơn, giải độc, điều kiện môi trường và điều kiện sống của NSDMT
chưa thật sự hiện đại, mới chỉ đảm bảo cho NSDMT cảm nhận được sự yên tâm và thoải
mái khi đến đây và cố gắng để đạt kết quả cao trong điều trị nghiện”. Kết quả trả lời câu
hỏi mở trong bảng hỏi, NSDMT khẳng định, “điều kiện, trang thiết bị hỗ trợ tại Cơ sở còn
thiếu và không hiện đại”, tổng hợp ý kiến trả lời chiếm 20,1%.
Như vậy, hầu hết NSDMT đều cho rằng điều kiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị
là có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng dịch vụ CTXH của NSDMT ma túy. Mối tương
quan giữa “Điều kiện hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy” có mối quan hệ
thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN, thể hiện qua hệ số
tương quan bằng 0,142, mức ý nghĩa kiểm định thống kê Sig = 0,004 < 0,05. Đây là
yếu tố quan trọng và cần thiết tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả cai nghiện
129
ma túy của NSDMT. Vì vậy, các Cơ sở cần quan tâm hơn để khắc phục sự tác động
không tốt tới sức khỏe thể chất và tâm lý của NSDMT từ yếu tố này nhằm đạt hiệu quả
cao trong quá trình cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT.
3.5.3. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của nhân viên cung cấp dịch
vụ CTXH
Đội ngũ cán bộ, nhân viên là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng và tác
động trực tiếp đến chất lượng hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH cho người
nghiện ma túy. Hầu như những người nghiện ma túy vào các CSCN đều là những
người nghiện lâu năm, nghiện các chất khác nhau, thuộc nhiều thành phần trong xã
hội, trình độ học vấn khác nhau, hoàn cảnh điều kiện khác nhau và lý do dẫn đến
nghiện ma túy cũng không giống nhau. Đây thực sự là những khó khăn, thách thức cho
đội ngũ cán bộ tại các CSCN. Hiện nay, đội ngũ nhân viên tại Cơ sở đa phần là nam
chiếm tỷ lệ tương đối cao: 87,5%, còn lại 12,5% là nữ, có độ tuổi: dưới 35 tuổi rất cao
(84,35%); 9,4% số cán bộ trên 35 tuổi và 6,25% số cán bộ trên 50 tuổi. Số cán bộ có
trình độ chuyên môn về CTXH chiếm 31,25%. Năm 2019, các cán bộ được cử đi học
về Chứng chỉ nghiệp vụ CTXH nên tỷ lệ này tăng lên.
Bảng 3.21: Các yếu tố về đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ CTXH
Các mức độ ảnh hƣởng
CSCN 05 (N=154)
Cr, Alpha
Sig
Các yếu tố ảnh hƣởng
CSCN 01(N=214) Std,D
Std,D
Std,D
Tổng N= 368 TB 7
0,000
0,624
1,55
1,70
0,654
0,916
1,35
0,642
5
0,000
1,71
0,621
1,58
0,669
0,910
1,38
0,687
4
0,000
1,76
0,669
1,62
0,705
0,914
1,44
0,713
3
0,000
1,91
0,633
1,70
0,703
0,928
1,41
0,692
6
0,000
1,72
0,610
1,57
0,653
0,913
1,36
0,654
1
0,000
2,00
0,000
1,76
0,523
0,926
1,44
0,685
2
0,000
2,00
0,000
1,75
0,526
0,927
1,40
0,671
1,54
1,64
1,40
1 2 3 4 5 6 7 Điểm M chung Ghi chú Bảng 3.21:
1
Cán bộ, nhân viên có sự hiểu biết sâu và rộng về lĩnh vực nghiện ma túy và cách điều trị, phục
hồi giúp NSDMT
2
Cán bộ, nhân viên có kỹ năng giao tiếp và tư vấn điều trị nghiện ma túy
3
Cán bộ, nhân viên có thái độ chân thành, cởi mở với NSDMT
4
Cán bộ nhân viên, nghiêm khắc và quan tâm, động viên tới từng NSDMT
5
Cán bộ, nhân viên biết cách chăm sóc và động viên NSDMT kịp thời, đáng tin cậy
6
Đội ngũ nhân viên xã hội chuyên tâm có kiến thức, kỹ năng và thái độ phục vụ tốt
7
Các chuyên gia hỗ trợ
Qua số liệu bảng 3.24 các yếu tố về trình độ, năng lực chuyên môn và thái độ,
sự ân cần, niềm nở của đội ngũ cán bộ cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT được
130
NSDMT trả lời ở cả 3 mức “Ảnh hưởng nhiều”, “Ảnh hưởng ít” và “Không ảnh
hưởng”, điểm trung bình chung là thấp, = 1,64, giữa hai CSCN có sự khác biệt lớn,
chỉ số sig = 0,000 < 0,05. Hầu hết NSDMT cho rằng các yếu tố được khảo sát có ảnh
hưởng đến việc cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT tại CSCN. Số lượng NSDMT
được khảo sát không lựa chọn mức nào cũng nhiều.
Như vậy, NSDMT đánh giá các mức ảnh hưởng của đội ngũ cung cấp dịch vụ
đến việc sử dụng dịch vụ của họ, nhân viên có trình độ năng lực chuyên môn sâu sẽ ảnh
hưởng đến việc cung cấp dịch vụ cho NSDMT và ngược lại. Bên cạnh đó, sự hiểu biết
về chuyên môn, nghiệp vụ nhất là về lĩnh vực điều trị nghiện ma túy, có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả cung cấp dịch vụ CTXH. Thêm vào đó thái độ của đội ngũ cung cấp dịch
vụ và cách thức chăm sóc, động viên NSDMT có ảnh hưởng nhiều. Phỏng vấn cán bộ Cơ
sở, anh Đ.T.H cho biết: “Đa số NSDMT chỉ sau vài tuần vào Trung tâm đã cắt được cơn
nghiện và chuyển sang giai đoạn phục hồi dự phòng tái nghiện, tác phong sinh hoạt của họ
đã có những chuyển biến, thay đổi tích cực hơn”. NSDMT H.Đ.L, 20 tuổi, Sơn Tây cũng
cho thấy: “Vào đây, các cán bộ thường xuyên nắm bắt tâm tư nguyện vọng của NSDMT
nên em thấy yên tâm hơn và tin rằng, mình có thể cai nghiện được để trở về với gia đình”.
Về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Trung tâm: Kết quả phỏng vấn sâu
cho thấy: Đội ngũ nhân viên tại Trung tâm có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cung cấp dịch vụ
CTXH tại Cơ sở. Thực tế, đội nhân viên tại CSCN có ý thức sâu sắc và thể hiện chuyên
môn công tác tốt, biểu hiện cư xử đúng mực, thân thiện, cởi mở và chân thành đối với
NSDMT. Hơn nữa, qua kết quả trả lời câu hỏi mở “lý do vì sao dịch vụ của cơ sở chưa tốt”,
một số NSDMT đều trả lời: “đội ngũ cung cấp dịch vụ còn yếu và mỏng, thiếu kiến thức,
kỹ năng…”, tổng hợp ý kiến trả lời chiếm 10,1%.
Nhìn chung, yếu tố về đội ngũ, nhân viên cung cấp dịch vụ có trình độ năng lực
chuyên môn và thái độ đều trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ CTXH
cho NSDMT. Mối tương quan giữa trình độ, năng lực phẩm chất đạo đức của nhân viên cung
cấp dịch vụ Công tác xã hội mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội
của CSCN thể hiện r = 0,115 và mức ý nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,028 < 0,05. Đây vừa
là kết quả đánh giá từ phía đội ngũ cán bộ và NSDMT một cách khách quan. Đồng thời, yếu
tố này cũng là đòi hỏi, yêu cầu bắt buộc đối với đội ngũ làm nghề CTXH phải có kiến thức,
kỹ năng chuyên môn và thái độ đạo đức nghề nghiệp chuyên nghiệp.
3.5.4. Đặc điểm tâm lý và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy
Yếu tố từ bản thân NSDMT là yếu tố cấu thành quan trọng trong quá trình cai
nghiện ma túy. Thành công hay thất bại là phụ thuộc ý chí, nghị lực cũng như quyết
131
tâm cai nghiện của bản thân người nghiện ma túy. Muốn cai nghiện thành công thì
trước tiên phải bắt đầu từ những cố gắng của chính họ mà không ai có thể làm thay họ.
Sự quyết tâm cai nghiện của người nghiện là rất cần thiết. Bởi vì trong quá trình cai
nghiện, từ cắt cơn cho đến điều trị dự phòng tái nghiện, họ đều phải trải qua rất nhiều
khó khăn thử thách – từ sự đau đớn về mặt thể chất do hội chứng cai trong quá trình
cắt cơn cho đến những rào cản tâm lý trong quá trình chống tái nghiện (vượt qua được
sự thèm nhớ ma túy, sự lôi kéo của bạn nghiện…) mà để vượt qua tất cả những vấn đề
này đòi hỏi ở họ có sự quyết tâm lớn, đấu tranh bền bỉ hàng ngày, hàng giờ.
Đa số NSDMT đều thừa nhận: việc sử dụng đều đặn các chất ma túy là nguy
hiểm đặc biệt là hành vi nghiện ma túy. Nguy cơ thử sử dụng do sự tin tưởng sai lầm
bởi đa số họ tin rằng với ý chí và sức mạnh tính cách của mình có thể thắng được nhu
cầu sử dụng chất ma túy sau này. Một vài nghiên cứu đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới
việc sử dụng ma túy: sự ưa tìm cái mới, tìm kiếm cảm giác mới, cảm giác mạnh, các
khó khăn trong tự chủ về cảm xúc và tính xung động, đôi khi những nỗi đau về tâm lý,
sự thiếu hụt lòng tin, lòng tự trọng và thiếu các kỹ năng giao tiếp xã hội, không quan
tâm đối với thành tích học tập, việc làm, tính ngang bướng và hung bạo dẫn đến dùng
ma túy và làm tăng xác suất liên can ngày càng sâu vào việc sử dụng ma túy. Bên cạnh
đó, tính ngang bướng hơn, ưa thể hiện hơn các hành vi lập dị, đòi hỏi sự độc lập, thiếu
trách nhiệm, ít quan tâm và ít tham vọng học tập là những yếu tố báo trước việc sử
dụng ma túy.
Khi sử dụng dịch vụ CTXH thì yếu tố bản thân NSDMT có ảnh hưởng nhiều
đến hiệu quả, chất lượng dịch vụ CTXH. Kết quả khảo sát được thể hiện rõ trong bảng
số liệu trong bảng 3.22 dưới đây:
Bảng 3.22 Yếu tố bản thân người nghiện ma túy ảnh hưởng đến hiệu quả,
chất lượng dịch vụ CTXH
Các mức độ ảnh hƣởng
CSCN 05 (N=154) CSCN 01(N=214)
Sig
Cr, Alpha
Std,D
Std,D
Std,D
Tổng N= 368 TB 7
0,000
1,36
0,675
1,68
1,55
0,658
0,873
0,614
4,5
0,000
1,40
0,641
1,74
1,60
0,657
0,873
0,631
3
0,000
1,43
0,685
1,77
1,63
0,708
0,877
0,691
4,5
0,000
1,36
0,612
1,78
1,60
0,669
0,873
0,652
6
0,000
1,33
0,637
1,72
1,56
0,637
0,869
0,586
2
0,041
1,56
0,740
1,71
1,65
0,672
0,884
0,613
1
0,000
1,53
0,742
2,00
1,80
0,532
0,904
0,000
Các yếu tố ảnh hƣởng 1 2 3 4 5 6 7
1,42
1,77
1,62
Điểm chung
Ghi chú Bảng 3.22
1
Người sử dụng ma túy hiểu được tác hại của ma túy và có thiện chí thay đổi
2
Người sử dụng ma túy có kiến thức và phương pháp điều trị, dự phòng tái nghiện
132
3
Người sử dụng ma túy có nhu cầu, nguyện vọng sử dụng các dịch vụ được cung cấp
4
Người sử dụng ma túy có thái độ thiện chí, niềm nở tiếp nhận dịch vụ
5
Người sự dụng ma túy thường xuyên thực hiện các hoạt động tại Trung tâm theo sự chỉ dẫn
6
Người sử dụng ma túy tham gia nhiệt tình, tích cực các dịch vụ tại Trung tâm
7
Người sử dụng ma túy có ý chí, quyết tâm và động cơ cai nghiện ma túy, không lạm dụng và
không tái sử dụng lại,
Số liệu trong Bảng 3.22 cho thấy: Các yếu tố thuộc về bản thân NSDMT có
ảnh hưởng đến quá trình sử dụng dịch vụ CTXH, điểm trung bình chung = 1,62. Đa
phần NSDMT lựa chọn ở cả ba mức độ “Ảnh hưởng nhiều”;“Ảnh hưởng ít”và
“Không ảnh hưởng”. Trong đó, yếu tố “NSDMT hiểu được tác hại của ma túy và có
thiện chí thay đổi”; “Người sự dụng ma túy thường xuyên thực hiện các hoạt động tại
Trung tâm theo sự chỉ dẫn”; được NSDMT lựa chọn ớ mức độ ảnh hưởng không cao
mà yếu tố ảnh hưởng, quan trọng nhất là “Người sử dụng ma túy có ý chí, quyết tâm và
động cơ cai nghiện ma túy, không lạm dụng và không tái sử dụng lại”, điểm trung bình
là = 1,80, xếp thứ bậc 1. Giữa hai CSCN, NSDMT lựa chọn trả lời có sự khác nhau
cơ bản ở các yếu tố được khảo sát, điểm sig = 0,000 < 0,05, Cr.Alpha > 0,8 là đáng tin
cậy. Thực tế, để NSDMT có thể tham gia sử dụng dịch vụ CTXH, thì việc đi sâu tìm
hiểu nhu cầu, nguyện vọng của NSDMT để có thể cung cấp các dịch vụ phù hợp nhằm
đạt hiệu quả cao trong quá trình điều trị cai nghiện ma túy là vô cùng quan trọng và cần
thiết. Chính yếu tố NSDMT là yếu tố ảnh hưởng quyết định đến việc sử dụng dịch vụ và
hiệu quả của quá trình cai nghiện ma túy.
Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy: Đa phần NSDMT đều nhận thấy bản
thân họ là quan trọng nhất trong việc sử dụng dịch vụ nhằm đạt hiệu quả quá trình điều
trị. Anh L.V.T, Phong Thổ, Lai Châu, 23 tuổi cho rằng: “Yếu tố tự bản thân NSDMT
nhận thức, thái độ, hành vi là yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất”. Anh N.V.B, 22 tuổi,
Mê Linh, Hà Nội nói: “Do đã từng đi cai nghiện một lần nhưng vẫn tái nghiện nên từ
đó tạo ra tâm lý dễ khiến em tiếp tục sử dụng lại, em thấy thất vọng và mất tự tin với
chính bản thân và gia đình của mình ngại với hàng xóm của mình nữa”. Anh P.T.Q,
45 tuổi, Hà Nội chia sẻ: “Khi vào cơ sở, sau 15 ngày cắt cơn tại phòng y tế của CSCN
số V, anh được chuyển xuống Đội I – phòng điều trị nội trú…Vì thế, anh cũng nhanh
chóng hòa nhập được với mọi người ở đây, anh thấy là do mình hết, được cán bộ động
viên, khuyến khích nữa thì rất tốt…”.Anh N.V.M, 47 tuổi, Cầu Giấy, Hà Nội nói:
“Cai nghiện khó lắm, mọi người hỗ trợ nhiều lắm, nhưng tại anh cả thôi. Anh đã đi
cai nghiện khoảng 30 lần rồi, tại cơ sở 5 này lần này là lần thứ 6, em biết không, cái
nghiện ma túy này như bệnh nan y vậy. Khó chữa lắm. Anh cứ ở ngoài chơi một thời
133
gian thấy sức khỏe yếu đi lại vào đây, được cái bố mẹ anh cũng rất thương con, mỗi
lần thấy anh yếu lại giục vào đây để “chữa bệnh”, rồi anh ly thân vợ cũng vì thuốc
phiện, chán lắm em ạ”.
Nói chung, yếu tố bản thân NSDMT là yếu tố ảnh hưởng quyết định tới việc sử
dụng dịch vụ CTXH và giúp cho quá trình cai nghiện ma túy đạt hiệu quả cao nhất.
Kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu đã thể hiện rõ điều đó. Hơn nữa, mối tương quan
giữa “Đặc điểm và mức độ nghiện của người sử dụng ma túy” có mối quan hệ thuận
chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN, thể hiện r = 0,151 và mức ý
nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,005 < 0,05. Do đó, CSCN cần trú trọng điều này,
động viên, khích lệ NSDMT có ý chí và quyết tâm cai nghiện và dự phòng tái nghiện
một cách hiệu quả.
3.5.5. Điều kiện, hoàn cảnh gia đình của người sử dụng ma túy
Điều kiện, hoàn cảnh gia đình, người thân là những yếu tố có ảnh hưởng nhiều đến
việc sử dụng dịch vụ CTXH của NSDMT. Mối tương quan giữa “Điều kiện hoàn cảnh
gia đình của người sử dụng ma túy” có mối quan hệ thuận chiều với chất lượng dịch
vụ Công tác xã hội của CSCN, thể hiện qua hệ số tương quan bằng 0,142, mức ý nghĩa
kiểm định thống kê Sig = 0,004 < 0,05. Gia đình quan tâm, chăm sóc hay gia đình,
người thân bỏ rơi, gia đình có biến cố, mâu thuẫn, căng thẳng từ mối quan hệ bố mẹ, vợ
chồng, con cái đều có ảnh hưởng đến việc sử dụng chất gây nghiện và quá trình tiếp cận,
sử dụng dịch vụ can thiệp hỗ trợ cai nghiện. Kết quả khảo sát thu được trong bảng 3.23
dưới đây:
Bảng 3.23 Sự ảnh hưởng của yếu tố gia đình, người thân của NSDMT
Các mức độ ảnh hƣởng
CSCN 01(N=214)
Tổng N= 368
Các yếu tố ảnh hƣởn
Sig
CSCN 05 (N=154)
Cr, Alpha
S T T
Std,D
Std,D
TB
Std,D
1
1,55
0,785
1,56
0,638
1,55
0,702
0,837
0,916
Người thân trong gia đình quan tâm, động viên chăm sóc
2
Người thân bỏ rơi và không tin tưởng
1,40
0,671
1,93
0,692
1,71
0,731
0,000
0,906
3
Người thân trách mắng và trừng phạt
1,42
0,712
1,95
0,697
1,73
0,750
0,000
0,905
3 2 1
Điểm trung bình chung
1,66
1,45
1,81 Kết quả khảo sát ở bảng 3.23 đã thể hiện rõ vai trò và sự ảnh hưởng của gia
đình đối với quá trình sử dụng dịch vụ CTXH trong điều trị nghiện ma túy. Hiện nay ở
các Cơ sở đều có sự tham gia của gia đình, người thân của NSDMT nhằm gắn kết sự
hỗ trợ giữa gia đình và CSCN giúp quá trình điều trị nghiện có hiệu quả hơn. Với 3
yếu tố thuộc gia đình, người thân được khảo sát, NSDMT đều cho rằng người thân
trong gia đình có tầm ảnh hưởng lớn đến việc điều trị nghiện của họ. Trong số
NSDMT được khảo sát thì số NSDMT cho rằng: “Người thân trong gia đình quan
134
tâm, động viên chăm sóc”, là ảnh hưởng nhiều, số NSDMT cho rằng yếu tố “Người
thân bỏ rơi và không tin tưởng” cũng ảnh hưởng nhiều. Tuy nhiên vẫn có số NSDMT
cho là không ảnh hưởng, chiếm tỷ lệ 16,3%. Yếu tố gia đình, người thân có ảnh
hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả điều trị nghiện cũng như sử dụng dịch vụ CTXH
tại CSCN, có điểm trung bình chung là = 1,66. Khi “Người thân trách mắng, trừng
phạt, không tin tưởng” sẽ ảnh hưởng nhiều nhất đến quá trình cai nghiện của NSDMT,
điểm trung bình là 1,73, xếp thứ bậc 1. Tuy nhiên, điều quan trọng là ở NSDMT quyết
định khi thực hiện các dịch vụ tại CSCN. Vì vậy nhân viên cung cấp dịch vụ cần giải
thích với gia đình người nghiện về những tác hại và lợi ích của việc cai nghiện nhằm
mục đích lôi kéo sự tham gia của gia đình vào việc điều trị. Gia đình phải được thường
xuyên thông báo tiến trình điều trị của NSDMT nhằm kích thích sự quan tâm của gia
đình đối với con cái hay các thành viên khác trong gia đình. Vì vậy cần có sự hợp tác
giữa Cơ sở và NSDMT để giúp họ có điều kiện tiếp tục thực hiện quá trình điều trị
nghiện đạt hiệu quả.
Phỏng vấn sâu NSDMT anh N.H.T chia sẻ: “Em biết đấy, kinh tế nhà anh cũng
không ổn lắm đâu. Thế nên thỉnh thoảng anh lại đi đánh bạc kiếm ít. Mà muốn đánh thâu
ngày đêm thì anh phải dùng đá để trụ được, đánh quen tay nó ngấm vào máu khó bỏ lắm
em… (trầm giọng, hơi buồn). Từ hồi lấy vợ là anh bắt đầu ăn cơm ở nhà nhiều hơn rồi đấy,
ít chơi bời hơn. Nhờ cô ấy mà anh quyết tâm vào đây cai đấy. Ngày trước bố mẹ anh biết,
cũng bắt bỏ hay cai đi nhưng anh kệ, khó dứt lắm chứ” Phỏng vấn sâu NSDMT anh P.T.Q,
45 tuổi chia sẻ: “Ngày bé, anh nổi tiếng là một cậu bé nghịch ngợm, lêu lổng bố mẹ lại
không quan tâm… đến năm 21 tuổi anh lập gia đình, hai vợ chồng buôn hoa quả… Chính
vì thời gian rảnh dỗi, tham gia rất nhiều cuộc chơi vô bổ. Có lần anh phải báo“nổ” 100
triệu đồng tiền cá độ bóng đá… Rất nhiều lần như vậy gia đình bị mất lòng tin với anh. Đã
thế, vợ anh không đẻ được con trai nên anh càng buồn bã, chán nản. Cộng thêm bạn bè xấu
kích động, rủ dê lôi kéo làm anh đã sử lần đầu tiên sử dụng chất gây nghiện (heroin) vào
năm 2008… Đến ngày 13/8/2017 anh bị công an bắt vì có sử dụng chất gây nghiện, đến lúc
này thì gia đình mới tá hỏa khi biết chuyện; vì được mẹ và gia đình khuyên răn ủng hộ nên
anh đã quyết định tự nguyện cai nghiện tại CSCN số V Hà Nội ( Xuân Phương – Từ Liêm –
Hà Nội).
3.5.6 Yếu tố bạn bè và mối quan hệ xã hội
Yếu tố bạn bè là yếu tố có ảnh hưởng nhiều đến việc sử dụng ma túy cũng như
việc đi cai nghiện hay sử dụng những dịch vụ nào để quá trình điều trị nghiện có hiệu quả
hơn. Kết quả khảo sát thể hiện trong bảng 3.24 dưới đây:
135
Bảng 3.24: Các yếu tố bạn bè và mối quan hệ xã hội ảnh hưởng đến việc sử dụng
dịch vụ của NSDMT
Các mức độ ảnh hƣởng
Tổng N= 368
STT
Các yếu tố ảnh hƣởng
Sig
CSCN 05 (N=154)
CSCN 01(N=214)
Cr, Alpha
Std,D
Std,D
Std,D
1
1,42
1,79
2,07
0,000
0,693
0,689
0,761
0,905
2
1,34
2,05
0,673
0,651
0,749
0,000
0,906
1,76
3
0,713
0,000
0,722
0,639
0,904
1,70
1,90
1,43
4
TB 1 2 3,5 3,5
0,690
0,639
0,665
0,000
0,903
1,90
1,70
1,43
5
0,683
0,000
0,679
0,664
0,911
1,66
1,55
1,39
5
1,70
1,41
Bạn bè lôi kéo bỏ trốn không tham gia hoạt động Mọi người xung quanh kỳ thị và phân biệt đối xử Xã hội không tạo điều kiện cho người nghiện sau cai nghiện Xã hội không tin tưởng năng lực làm việc của những người nghiện ma túy Bạn bè động viên, khích lệ từ bỏ ma túy và làm ăn lương thiện Điểm trung bình 1,92 Qua phân tích kết quả khảo sát ở bảng trên, cho ta thấy: Hầu hết NSDMT tại Cơ sở
đều trả lời ở cả 3 mức độ “Ảnh hưởng nhiều”; “Ảnh hưởng ít”; “Không ảnh hưởng”,
mỗi mức độ có tỷ lệ khác nhau, điểm trung bình chung thấp = 1,70. Trong đó, NSDMT cho rằng yếu tố “Bạn bè lôi kéo bỏ trốn, không tham gia các hoạt động” là có ảnh hưởng
nhiều nhất, điểm trung bình = 1,79, xếp thứ bậc 1, CSCN số 1 có =2,07, xếp thứ bậc
1, CSCN số 05, có = 1,42, xếp thứ bậc 2. Mức độ lựa chọn ảnh hưởng của NSDMT giữa hai CSCN có sự khác nhau thể hiện qua chỉ số sig = 0,000 < 0,05, độ tin cậy
Cr.Alpha > 0,9. Đối với yếu tố “Bạn bè động viên, khích lệ từ bỏ ma túy và làm ăn lương
thiện” là yếu tố được NSDMT cho là có ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới hiệu quả của quá
= 1,55, CSCN số 1 NSDMT nhận trình sử dụng dịch vụ CTXH, có điểm trung bình định có ảnh hưởng nhiều hơn CSCN số 05. Đây cũng là điều mà CSCN cần quan tâm đến
tâm tư nguyện vọng của NSDMT nhiều hơn. Như vậy, đa phần NSDMT đều cho rằng,
việc bạn bè động viên, khích lệ từ bỏ ma túy và làm ăn lương thiện là yếu tố vô cùng quan
trọng, có ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của việc sử dụng dịch vụ CTXH trong quá trình
điều trị nghiện ma túy.
Phỏng vấn sâu NSDMT tại CSCN anh P.T.Q. Thanh Xuân, Hà Nội cho biết: “Anh và vợ anh lấy nhau từ năm 2005, 2 năm sau thì hai vợ chồng sinh được 2 đứa con gái. Kì thực thì đứa đầu tiên không sao, đến đứa thứ 2 bắt đầu anh cảm thấy chán nản. Cộng thêm việc bạn bè nói này nói nọ, trêu đùa mà lại nói anh không có con trai nói dõi, tông đường, đâm ra a lại càng chán hơn…Chính vì thế nên bạn bè rủ rê nhiều quá nên anh đã có lần đầu sử dụng chất gây nghiện để tìm kiếm niềm vui và rồi anh nghiện. Đến bây giờ anh vào đây rồi mà chúng nó vẫn còn gầm gừ bảo anh không cai được đâu, ra rồi lại tái
cho mà xem. Anh cũng lo, nhưng anh đang cố gắng để không bị ảnh hưởng bởi bạn bè,
nhưng sợ nhất là thời gian rảnh rỗi em à, không biết làm gì”.
136
Anh N.V.M cũng chia sẻ: “... Tuy nhiên do hoàn cảnh và bạn bè rủ rê, không có
việc làm ổn định, do bản thân không kiểm soát, không vượt qua được chính mình và cám
dỗ của chất gây nghiện và chất kích thích nên cai rồi lại tái nghiện. Giá như có những
người bạn tốt khuyên bảo tôi và giúp đỡ tôi từ bỏ ma túy thay vì rủ rê tôi, tôi tin là tôi sẽ cai nghiện thành công và không tái nghiện nữa”. Bên cạnh đó, anh còn chia sẻ thêm:
“…Anh mà ở hà nội này không ổn em ạ, bạn bè rủ rê anh lại tái nghiện mất, hoặc anh sẽ
sang Nga làm ăn cùng với thằng em, sau này có vốn về hỗ trợ con cái và về với vợ cho gia
đình đầy đủ. Nếu anh ở đây, bạn bè lôi kéo thì tái nghiện nhanh lắm”
Yếu tố thuộc về mối quan hệ xã hội:
Các yếu tố bên ngoài xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng chất gây nghiện và
quá trình cai nghiện do định kiến, khuôn mẫu, sự kỳ thị, phân biệt đối xử và thói quen khi
nhìn nhận về người nghiện. Nhiều người thường xuyên khinh rẻ, miệt thị và gạt ra bên lề khi nói về người nghiện, kể cả họ đã cai nghiện trở về. Nếu có giúp đỡ thì thường mang
tính kinh điển, giáo điều, dạy dỗ theo kiểu lên mặt khiến người nghiện ma túy khó chịu, tự
ái không muốn nghe và cảm thấy tổn thương. Anh N.V.M, CầuGiấy, Hà Nội
nói:“Tôi rất khó khăn trong việc vượt qua chính bản thân mình, vượt qua những cám dỗ
ngoài xã hội, chính những kì thị, phân biệt đối xử tại cộng đồng làm cho tôi khó khăn
trong việc tái hòa nhập cộng đồng và dễ tái nghiện trở lại. Vì vậy, tôi cứ tái đi tái lại, đi
cai đến 30 lần rồi, chán lắm”.
Việc sử dụng các chất ma túy và sử dụng dịch vụ CTXH trong quá trình điều trị
nghiện bị ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau: Văn hóa, kinh tế, chính trị, pháp luật và địa
lý (ở gần nơi trồng ma túy, nơi có nguồn sản xuất ma túy hay nơi có đường dây vận chuyển
ma túy thuận lợi). Đây là những yếu tố bất lợi trong việc sử dụng các dịch vụ điều trị
nghiện, đồng thời cũng là ý do khiến người nghiện sau cai nghiện dễ dàng sử dụng lại chất
gây nghiện. Bên cạnh đó, có các ảnh hưởng không tốt từ bên ngoài xã hội, bản chất của
người nghiện dễ xúc cảm, thiếu tự tin và trầm nhược lo lắng ở mức độ cao cũng khiến họ
khó khăn khi quyết định sử dụng dịch vụ CTXH nào.
Kết quả khảo sát cho thấy: Hầu hết NSDMT cho rằng “Xã hội không tạo điều kiện cho người nghiện sau cai” chiếm tỷ lệ 44,6%, “Xã hội không tin tưởng vào năng lực làm việc của nghiện”, ý kiến này chiếm 42,9%. Cả hai yếu tố này, đều có điểm trung bình là 1,72, giữa hai CSCN có sự khác nhau nhiều, điểm sig = 0,000 < 0,05, điểm Cr.Alpha > 0,9 là rất đáng tin cậy. Đây là hiện thực mà nhiều người nghiện cố gắng lắm vẫn bị xã hội kỳ thị, không tạo điều kiện để họ làm ăn lương thiện. Hỏi về nguyên nhân dẫn đến tái nghiện, anh N.V.M chia sẻ: “Theo anh thấy như trường hợp của anh là không có việc làm
ổn định, nhàn cư vi bất thiện …Nói thật là bây giờ xin việc khó khăn lắm.... Mà cũng chẳng ai tin tưởng mà chấp nhận anh vào làm việc cả”.
137
Như vậy, yếu tố xã hội có ảnh hưởng nhiều tới việc sử dụng dịch vụ CTXH của
người nghiện ma túy. Tuy nhiên, cũng có nhiều NSDMT lựa chọn ở mức “Không ảnh
hưởng”. Điều này khẳng định: việc sử dụng dịch vụ CTXH chịu ảnh hưởng nhiều từ yếu tố
bên ngoài xã hội nhưng không phải đối với tất cả NSDMT ma túy. Đây là căn cứ để các CSCN tăng cường chất lượng hiệu quả của dịch vụ giáo dục truyền thông, hay dịch vụ tham
vấn, tư vấn trong quá trình cai nghiện và dự phòng tái nghiện cho NSDMT. Mối tương
quan giữa “Các mối quan hệ xã hội của người sử dụng ma túy” có mối quan hệ thuận
chiều với chất lượng dịch vụ Công tác xã hội của CSCN, thể hiện qua hệ số tương quan bằng 0,164, mức ý nghĩa kiểm định thống kê bằng 0,002 < 0,05.
Tiểu kết chƣơng 3
Phân tích thực trạng dịch vụ CTXH đối với NSDMT tại 2 CSCN và thực
nghiệm tham vấn nhóm tại CSCN số 05, Xuân Phương, Từ Liêm cho ta thấy bức tranh
toàn cảnh về thực trạng dịch vụ CTXH thể hiện ở nhận thức, nhu cầu của NSDMT về
dịch vụ CTXH. Đồng thời NSDMT nhận thấy tầm quan trọng, sự cần thiết về các nội
dung cụ thể của dịch vụ, người cung cấp dịch vụ CTXH là ai, nội dung và hình thức
cung cấp dịch vụ, cơ sở có thường xuyên thực hiện cung cấp các loại hình dịch vụ này,
cũng như mức độ thường xuyên sử dụng dịch vụ đối với NSDMT. Điều này được phân
tích rõ ở từng loại dịch vụ: dịch vụ giáo dục- truyền thông; dịch vụ tham vấn cá
nhân/gia đình và nhóm; dịch vụ chăm sóc hỗ trợ y tế; dịch vụ hỗ trợ việc làm; dịch vụ
hỗ trợ pháp lý. Hơn nữa, phân tích, đánh giá thực trạng dịch vụ cụ thể qua chủ thể
cung cấp dịch vụ, nội dung và hình thức cung cấp dịch vụ và mức độ thường xuyên tổ
chức nội dung dịch vụ, mức độ tiếp cận sử dụng dịch vụ cũng như chất lượng, hiệu
quả của dịch vụ CTXH với NSDMT. Hầu hết nhận thức của NSDMT về dịch vụ
CTXH còn hạn chế, chưa hiểu biết sâu sắc, nhưng họ nhận thấy dịch vụ CTXH dành
cho NSDMT là rất quan trọng, họ có nhu cầu cao, rất mong muốn được sử dụng các
loại hình dịch vụ này trong quá trình cai nghiện. Tại CSCN đã thường xuyên tổ chức
thực hiện các dịch vụ này, nhưng nhiều NSDMT cho rằng chưa thường xuyên. Kết quả
cũng cho thấy NSDMT đã thường xuyên tham gia các loại hình dịch vụ này và đánh giá
chất lượng, hiệu quả còn ở mức trung bình và ít hiệu quả. Vẫn còn nhiều NSDMT chưa
được tham gia, tiếp cận thường xuyên và chưa thấy được tầm quan trọng cũng như sự
cần thiết của dịch vụ CTXH trong công tác cai nghiện. Đa phần các dịch vụ này được
cung cấp bởi đội ngũ chuyên gia, đội ngũ quản lý tại Cơ sở, chưa có nhân viên CTXH
xã hội chuyên nghiệp. Kết quả thực nghiệm cho thấy: So sánh nhóm thực nghiệm và
138
nhóm đối chứng có sự thay đổi tích cực từ nhận thức, thái độ cũng như nhu cầu và hành
vi sử dụng dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy. Đồng thời nhóm thực
nghiệm quan tâm về chất lượng, hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội dựa trên các tiêu chí
cụ thể như: điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, trang phục, tác phong của đội ngũ cung
cấp dịch vụ); trình độ năng lực chuyên môn, thái độ đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cung
cấp dịch vụ, sự sẵn sàng phục vụ, sẵn sàng hết lòng, nhiệt tâm, nhiệt tình yêu nghề); dịch vụ
đáng tin cậy và đúng hẹn…Đây là căn cứ đề xuất mô hình dịch vụ CTXH, dịch vụ Tham
vấn nhóm với NSDMT. Hơn nữa, đây cũng là thực trạng để các CSCN có những cách thức
tổ chức cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT hợp lý hơn. Thực tế, có nhiều yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến việc sử dụng ma túy và dịch vụ CTXH với NSDMT như điều kiện
trang thiết bị, cơ sở vật chất, đội ngũ cung cấp dịch vụ, bản thân NSDMT và người thân,
người nhà cũng như bạn bè và mối quan hệ xã hội. Đây vừa là yếu tố tạo động lực thúc đẩy
NSDMT cai nghiện và dự phòng tái nghiện, nhưng nhiều yếu tố lại có tác động tiêu cực đến
NSDMT.
139
Chƣơng 4 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI SỬ DỤNG MA TÚY TỪ THỰC TIỄN CÁC TRUNG TÂM CHỮA BỆNH- GIÁO DỤC- LAO ĐỘNG-XÃ HỘI
4.1 Định hướng phát triển dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng
ma túy trong công tác phòng chống ma túy
4.1.1 Chủ trương chung của Chính phủ trong công tác phòng chống ma túy Chủ trương chung của Chính phủ trong công tác phòng chống ma túy thể hiện
qua công tác đấu tranh chống tội phạm, công tác truyền thông ngăn ngừa tệ nạn ma
túy, công tác cai nghiện, công tác quốc tế…
Công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính chỉ đạo các lực lượng chức năng tiếp tục thực hiện tốt công tác nghiệp vụ cơ bản, nắm chắc tình hình, xây dựng bố trí mạng lưới nghiệp vụ tại các tuyến, địa bàn
trọng điểm, đặc biệt là tuyến Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc miền Trung, Tây Nam, tuyến
đường hàng không, tuyến đường biển. Phối hợp với các cơ quan chức năng của Trung
Quốc, Lào, Campuchia triển khai các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm ma túy.
Tập trung đấu tranh, triệt phá các đường dây ma túy lớn liên tuyến, liên tỉnh và xuyên
quốc gia; các cơ sở sản xuất ma túy tổng hợp trái phép, các điểm, tụ điểm mua bán và
tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Các Bộ Công an, Tài chính, Công Thương và Y
tế chỉ đạo kiểm soát chặt chẽ các loại tiền chất, thuốc gây nghiện cả trong xuất nhập khẩu và sản xuất kinh doanh, kịp thời ngăn chặn không để tội phạm lợi dụng sản xuất ma
túy trong nội địa.
Các tỉnh, thành phố, nhất là các địa phương giáp biên giới Trung Quốc, Lào,
Campuchia chủ động phối hợp với các địa phương giáp biên của nước bạn làm tốt
công tác điều tra cơ bản, trao đổi thông tin, nắm chắc diễn biến các đối tượng phạm tội
ma túy; thu thập tài liệu, củng cố hồ sơ xác lập chuyên án đấu tranh với các đường dây
vận chuyển ma túy, xóa các điểm, tụ điểm phức tạp ở địa bàn; chỉ đạo tăng cường
quản lý hoạt động tại các vũ trường, nhà nghỉ, quán bar... không để các đối tượng lợi dụng tổ chức sử dụng ma túy.
Công tác tuyên truyền, phòng ngừa tệ nạn ma túy: Ủy ban Quốc gia tiếp tục chỉ đạo triển khai có hiệu quả Chương trình phối hợp truyền thông số 3598/CTr-PHTT giữa Ủy ban Quốc gia với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam đến năm 2020 theo nội dung đề ra. Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung
140
ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh... tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn các
đơn vị, địa phương triển khai có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, đề án, dự án, chương
trình phối hợp về phòng, chống ma túy nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và toàn dân tham gia.
Công tác cai nghiện: Đối với Bộ Công an,cần phối hợp với Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và các ngành liên quan tiếp tục triển khai đến cơ sở
Thông tư số 05/TT-BCA quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình tăng cường quản lý
người sử dụng, người nghiện ma túy và cai nghiện ma túy đến năm 2025. Nghiên cứu
triển khai thí điểm mô hình hỗ trợ, tư vấn pháp lý và xã hội, chuyển gửi đối với người
tham gia cai nghiện ma túy thông qua quyết định của tòa án. Nghiên cứu đề xuất chính sách về dự phòng nghiện ma túy theo chuẩn quốc tế về dự phòng nghiện ma túy. Hoàn
thiện và ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ cai nghiện tại cơ sở cai nghiện
ma túy công lập theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Tổ chức tập huấn
nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác cai nghiện ma túy (đặc biệt là điều trị
nghiện ma túy tổng hợp và thí điểm các mô hình thuốc Đông y do Việt Nam sản xuất).
Bộ Y tế đẩy mạnh chương trình điều trị thay thế nghiện bằng Methadone theo chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ; tích cực triển khai điều trị các chất dạng Buprenophine tại các địa phương theo Quyết định số 5700/QĐ-BYT ngày 25/9/2019 “Hướng dẫn điều
trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Buprenophine”; hướng dẫn điều trị những
rối loạn tâm thần do sử dụng, nghiện ma túy tổng hợp để kiểm soát hành vi loạn thần,
hoang tưởng gây hậu quả cho xã hội và tiếp tục nghiên cứu các bài thuốc cai nghiện
ma túy, nghiên cứu phác đồ điều trị ma túy tổng hợp, xác định tình trạng nghiện.
Công tác hợp tác quốc tế: Các bộ, ngành ở trung ương tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện các hiệp định, thoả thuận đa phương, song phương và tăng cường hợp tác quốc tế
về phòng, chống ma túy với các nước và các tổ chức quốc tế. Bộ Công an tăng cường
hợp tác quốc tế với các lực lượng thực thi pháp luật của các nước, Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (INTERPOL), Tổ chức Cảnh sát các nước Đông Nam Á (ASEANAPOL), nhất là với các nước Úc, Thái Lan, Lào, Trung Quốc, Campuchia, Văn phòng DEA Hoa Kỳ tại Hà Nội... trong công tác phòng, chống tội phạm ma túy. Tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và cơ quan Cảnh sát các nước trên thế giới để tập huấn nâng cao kỹ năng, chiến thuật đấu tranh chống tội phạm ma túy xuyên quốc gia, có yếu tố nước ngoài cho các lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy
của Việt Nam... Trong đó, trọng tâm là tham mưu, báo cáo Chính phủ tổ chức Hội nghị quốc tế tại Việt Nam trao đổi thông tin, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy xuyên quốc gia (Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái
141
Lan, Myanmar, Philippines, AFP Úc, DEA Mỹ…). UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, đặc biệt là các tỉnh biên giới tiếp tục thực hiện có hiệu quả các
chương trình, thỏa thuận, biên bản ghi nhớ về phòng, chống ma túy; tập trung vào lĩnh
vực đấu tranh chống mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy qua biên giới và tuyên truyền phòng, chống ma túy ở khu vực biên giới
4.1.2 Phát triển dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển dịch vụ CTXH hỗ trợ người
nghiện ma túy được thể hiện ở định hướng triển khai Đề án 32: Các Bộ, ngành có liên quan: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật phát triển nghề CTXH. Các Bộ
Nội vụ, Y tế, Lao động -Thương binh và Xã hội,Tài chính nghiên cứu, sửa đổi bổ sung
chế độ phụ cấp ưu đãi nghề CTXH cho đội ngũ cán bộ, viên chức CTXH đang làm
việc tại các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH theo hướng khuyến khích hình thành đội ngũ cán bộ, nhân viên CTXH chuyên nghiệp. Bên cạnh đó cần phát triển các dịch vụ
CTXH trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em, CTXH trong trường học, ỵ tế, CTXH trong lĩnh
vực trợ giúp người nghiện ma túy… Đối với các địa phương: Xây dựng mô hình điểm
Trung tâm CTXH tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; cơ cấu lại các cơ sở bảo trợ xã hội theo hướng cung cấp dịch vụ CTXH. Cùng với đó, các địa phương cần
đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tập huấn
kỹ năng cho số cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên CTXH đang làm việc tại
các xã, phường, thị trấn; các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH và cơ quan Lao động-
Thương binh và Xã hội các cấp.
Năm 2013, Bộ Nội vụ đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số
17/2013/ NĐ-CP ngày 19 tháng 2 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điểu của Nghị định
số 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ,
công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; trong đó lần đầu tiên quy định tiền lương
của viên chức CTXH. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã xây dựng và ban hành
Thông tư Liên tịch số 09/2013/ TTLT/BLĐTBXH-BNV ngày 10/6/2013 hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH. Thông tư số 07/2013/TT-BLĐTBXH ngày 24/5/2013 hướng dẫn tiêu chuẩn cộng tác viên CTXH cấp xã/phường, quy định nhiệm vụ chung, nhiệm vụ cụ thể và các yêu cầu về trình độ, năng lực của cộng tác viên CTXH.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Đề án 2596 về Đổi mới công tác cai nghiện ma túy giai đoạn 2015-2020 đã minh chứng và khẳng định cho xu hướng của sự phát triển dịch vụ CTXH hỗ trợ NSDMT. Vì vậy, đối với lĩnh vực ma túy, NSDMT, chúng ta cần xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật cần đảm bảo tính khoa học, thực tiễn
và gắn bó chặt chẽ, phù hợp với các chính sách có liên quan mà Đảng và Nhà nước đã
ban hành, tránh sự trùng lắp hoặc trái với các chính sách đó, gây trở ngại và mâu thuẫn
142
trong quá trình thực hiện. Các nội dụng này cần đảm bảo tính khả thi trên cơ sở phù
hợp với các điều kiện về nhân lực, vật lực, tài lực phục vụ cho việc triển khai các
chính sách hỗ trợ cai nghiện trong thực tiễn; Đảm bảo xã hội hoá công tác phòng,
chống và điều trị nghiện ma túy cho người nghiện trong quá trình hình thành và triển khai chính sách nhằm khuyến khích, thu hút người nghiện sử dụng các dịch vụ điều trị
và phục hồi. Mỗi chính sách hình thành cần xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu
cụ thể; nội dung của chính sách và các giải pháp, các chương trình và các biện pháp sẽ
được triển khai trong thực tiễn. Điều quan trọng cần nêu rõ các điều kiện cần và đủ để thực hiện thành công các chính sách đã ban hành. Bởi vậy, khi xây dựng một chính
sách cần kết hợp hài hoà các phương pháp nhằm đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, pháp
qui của chính sách. Hơn nữa, hệ thống chính sách, pháp luật đối với NSDMT cần được bổ
sung chỉnh sửa phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển xã hội.
4.1.3 Định hướng khắc phục hạn chế, khó khăn trong phát triển dịch vụ CTXH. Thực tế, để xây dựng và phát triển dịch vụ CTXH đối với NSDMT còn gặp
nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị, môi trường
làm việc cũng như các cám dỗ về mặt xã hội nhất là trong thời kỳ số hóa, thời kỳ của sự bùng nổ các loại chất gây nghiện và sự đa dạng các phương thức sử dụng. Hiện nay,
chúng ta đang thực hiện cai nghiện tại CSCN là chính, công tác cai nghiện ma túy tại
gia đình, cai nghiện tại cộng đồng chưa được các cấp ủy, chính quyền địa phương thực
sự quan tâm chỉ đạo, thực hiện, đến nay mới có 31/63 tỉnh, thành phố xây dựng kế
hoạch triển khai trong đó mới có 9/31 tỉnh, thành phố tổ chức cai nghiện; các tỉnh,
thành phố khác chưa thực hiện, do khó khăn về nguồn kinh phí và chưa xây dựng cơ
sở vật chất điểm cắt cơn tại cộng đồng. Do đó, các dịch vụ CTXH chưa được hình
thành chuyên nghiệp.
Việc rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạp pháp luật về công
tác cai nghiện ma túy của các Bộ, ngành liên quan còn chậm, dẫn đến các địa phương
lúng túng trong công tác lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc. Công tác lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Nghị định 221/2013/NĐ-CP của Chính phủ còn nhiều địa phương chưa thực hiện được (hiện có 30/63 tỉnh, thành phố triển khai). Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là những người nghiện đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú ổn định. Nghị định 111/2013/NĐ-CP lại quy định “người nghiện bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải đăng ký cai
nghiện tại gia đình, cộng đồng” song phần lớn các địa phương chưa tổ chức cai
nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng, do vậy không có đối tượng đưa vào
143
cơ sở cai nghiện bắt buộc. Những người đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay
phần lớn là người nghiện không có nơi cư trú ổn định. Chưa có chế độ, chính sách hỗ
trợ người nghiện ma túy cai nghiện tự nguyện, dẫn đến chưa khuyến khích được người
nghiện tự đăng ký cai nghiện tự nguyện. Công tác quản lý người nghiện không có nơi cư trú ổn định. Việc xác định nơi cư trú ổn định của người nghiện gặp khó khăn, người
nghiện cố tình khai không đúng sự thật, khai ở nhiều nơi, ở ngoài tỉnh dẫn đến việc
xác minh khó khăn mất nhiều thời gian công sức.
Trong thực hiện Đề án đổi mới công tác cai nghiện: Việc sắp xếp, bố trí, giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhân viên trong các Trung tâm Chữa bệnh -
Giáo dục - Lao động xã hội thuộc diện phải chuyển đổi sang cơ sở cai nghiện tự
nguyện gặp nhiều khó khăn. Kinh phí đầu tư sửa chữa, nâng cấp, mua sắm trang thiết
bị cho các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội thuộc diện phải chuyển đổi và các Điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng gặp
nhiều khó khăn, địa phương không bố trí được nguồn kinh phí để thực hiện. Công việc
này thực sự hết sức khó khăn, tốn kém, lâu dài, phức tạp. Do vậy, để khắc phục tình
trạng này cần xây dựng hệ thống dịch vụ phục hồi sức khỏe cho người SDMT không
chỉ về sức khỏe thể chất mà còn vấn đề tinh thần liên quan đến rối loạn hành vi, nhân
cách và giúp họ điều trị nhiều loại bệnh khác.
Kết hợp truyền thống nhân ái của dân tộc với những nhận thức, giá trị của xã hội mới, nhất là về quyền con người xuất phát từ quan điểm, chủ trương coi con người
là mối quan tâm hàng đầu, chúng ta không bỏ mặc NSDMT, giúp họ có cuộc sống ổn
định, lành mạnh. Do đó, chúng ta cần có chiến lược phát triển dịch vụ CTXH đối với
NSDMT trên các phương diện: quản lý, thiết kế công việc, nguồn nhân lực cung cấp
dịch vụ và các điều kiện khác.
4.1.4. Định hướng phát triển mạng lưới dịch vụ công tác xã hội đối với người sử
dụng ma túy trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh xã hội hiện nay, định hướng phát
triển mạng lưới dịch vụ CTXH đối với NSDMT là vô cùng quan trọng, cấp thiết. Vì hội nhập kinh tế sẽ mang lại những bước phát triển tột bậc cho nền kinh tế nhưng đồng thời cũng sẽ nảy sinh nhiều các vấn đề xã hội, ma túy ngày càng đa dạng và phức tạp. Phát triển mạng lưới dịch vụ CTXH đối với người sử dụng ma túy dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn tại Cơ sở cung cấp dịch vụ. Trong đó, phát triển nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH với người sử dụng ma túy là vô cùng quan
trọng, cấp thiết. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nhấn mạnh: “Phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu
của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”[32]. Xuất phát từ chủ trương đúng đắn,
thể hiện sự sáng tạo và tư duy đột phá của Đảng ta, việc xây dựng và phát triển nguồn
144
nhân lực cung cấp dịch vụ công tác xã hội với người nghiện ma túy là vô cùng quan
trọng. Do đó, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ công tác xã hội
đối với người nghiện ma túy cần theo lộ trình dài hạn, có chiến lược và mục tiêu
chương trình cụ thể.
Hàng năm, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với các Bộ, ngành
cùng hỗ trợ các Trung tâm CTXH xây dựng mạng lưới cộng tác viên CTXH; cung cấp
dịch vụ CTXH cho NSDMT tại cộng đồng; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ,
nhân viên, cộng tác viên CTXH thông qua các khóa tập huấn kỹ thuật vận hành mô hình Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH; tập huấn quy trình về quản lí ca/quản lý
trường hợp; quy trình phục hồi chức năng cho NSDMT tập huấn về nghiệp vụ chăm
sóc, hỗ trợ NSDMT cai nghiện và phòng chống tái nghiện. Tác giả Nguyễn Hải Hữu
khẳng định: “Kinh nghiệm ở các nước có nghề CTXH phát triển cho thấy, các dịch vụ được thiết lập và cung cấp cho các đối tượng có vấn đề xã hội được hình thành ở ngay
chính cộng đồng, cơ sở đối tượng sinh sống, như thôn, ấp, bản, xã, phường, thị trấn,
trường học, bệnh viện, toà án và cao hơn nữa là các cơ quan Nhà nước ở tuyến huyện,
tỉnh và trung ương. Các cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH có thể là tư nhân hay công lập
như điểm công tác xã hội, văn phòng tư vấn, trung tâm, cơ sở bảo trợ xã hội, trung tâm
phát triển cộng đồng... Các cơ sở này, ngoài việc tư vấn, tham vấn, nâng cao năng lực,
hỗ trợ đối tượng, cộng đồng phát triển, còn có trách nhiệm kết nối các dịch vụ trợ giúp cho các đối tượng, bảo vệ đối tượng như chính khách hàng của mình. Sự kết nối này là
tuỳ theo nhu cầu và hoàn cảnh của từng đối tượng, nhưng nói chung các dịch vụ kết
nối thường liên quan đến các cơ quan cung cấp dịch vụ an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,
trật tự an toàn xã hội, luật pháp. Ở nước ta, đó là các ngành Lao động-TBXH, Y tế,
Giáo dục và Đào tạo, Công an, Tư pháp, Toà án, Viện Kiểm sát. Đối với hỗ trợ phát
triển cộng đồng còn liên quan đến các cơ quan, tổ chức cung cấp và quản lý nguồn lực
khác như ngân hàng, tài chính, nông nghiệp... Việc kết nối các dịch vụ trợ giúp các đối
tượng xã hội và cộng đồng có vấn đề xã hội có phạm vi rất rộng, vì vậy đòi hỏi người
nhân viên không chỉ có hiểu biết nghiệp vụ mà còn phải được trang bị các kiến thức rộng hơn về phát triển cộng đồng”. Như vậy, để xây dựng và hình thành mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ với NSDMT cần có sự gắn kết, phối hợp hợp lý, hiệu quả các dịch vụ từ Trung ương đến địa phương.
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội đối với
ngƣời sử dụng ma túy
Từ thực tiễn nghiên cứu, phân tích, đánh giá cơ sở lý luận và khảo sát thực
trạng dịch vụ CTXH tại 2 CSCN/Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – Lao động – Xã hội đã cho thấy bức tranh rõ nét về dịch vụ CTXH đối với NSDMT trên địa bản thành phố Hà Nội. Bức tranh ấy thể hiện cụ thể qua nhận thức và nhu cầu của NSDMT về dịch
145
vụ CTXH; các loại hình dịch vụ CTXH như dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ y tế, dịch vụ hỗ
trợ việc làm, dịch vụ tham vấn và dịch vụ hỗ trợ pháp lý. Trong đó có dịch vụ chăm
sóc, hỗ trợ y tế và dịch vụ tư tham vấn được NSDMT nhận thức và đánh giá cao.
Song, bên cạnh đó, còn nhiều NSDMT chưa nhận thức rõ về dịch vụ CTXH và chưa được tiếp cận cũng như chưa được sử dụng thường xuyên. Điều này xuất phát từ nhiều
lý do như điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên tại trung tâm, từ
gia đình, người thân của NSDMT cũng như từ chính bản thân NSDMT. Kết quả khảo
sát của đề tài đã trả lời đúng cho các câu hỏi nghiên cứu và khẳng định các giả thuyết nghiên cứu. Qua đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chất
lượng của dịch vụ CTXH.
4.2.1. Nhóm giải pháp hướng tới tăng cường năng lực Công tác xã hội Phát triển nguồn nhân lực về cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT. Từ kết quả khảo sát ta thấy, nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH đối với
NSDMT còn chưa chuyên nghiệp, còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp, chưa có đội ngũ nhân viên CTXH nhiệt huyết say mê yêu nghề. Đây là yếu tố
có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của dịch vụ CTXH. Vì vậy cần xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ
CTXH với NSDMT trong thời kỳ số hóa. NSDMT đề xuất: “Cần nâng cao trình độ và
năng lực đội ngũ cán bộ nhân viên”; “Cần nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực
của đội ngũ cán bộ cơ sở”... Thực hiện tốt giải pháp này, chúng ta sẽ khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về dịch vụ CTXH nhất là trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT. Để làm được điều này, đòi hỏi chúng ta cần
nghiên cứu sâu về thực tế dịch vụ CTXH cho NSDMT với một tư duy đột phá và tầm
nhìn lâu dài, phù hợp với thực tiễn đổi mới hiện nay. Xây dựng chiến lược tổng thể phát
triển nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH với NSDMT phải xác định rõ mục tiêu,
quy mô, lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể đối với đội ngũ làm nghề CTXH
có liên quan đến điều trị nghiện ma túy. Điều quan trọng là mục tiêu chiến lược cần ưu tiên khắc phục mâu thuẫn giữa phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu; xác định quy mô, số lượng và cơ cấu cho phù hợp với dịch vụ CTXH trong điều trị nghiện ma túy. Xây dựng chiến lược với lộ trình thực hiện hợp lý, có tính dự báo cao, mang tính toàn diện và đồng bộ, đồng thời hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về dịch vụ CTXH với NSDMT. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, ban ngành và
toàn dân về ma túy, tác hại của ma túy và cách thức phòng ngừa ma túy, giảm tình trạng người nghiện ma túy và phòng chống tội phạm liên quan đến ma túy. Xây dựng mối quan hệ hợp tác bền vững giữa các trường Cao đẳng, đại học đào tạo với các tổ chức
146
phi chính phủ (NGOs) có liên quan đến công tác xã hội và điều trị nghiện ma túy, có
sự gắn kết giữa các lĩnh vực tâm lý, y tế và xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao cung cấp dịch vụ CTXH trong điều trị nghiện ma túy.
Thực tế khẳng định, khung luật pháp chính sách còn nhiều bất cập, chồng chéo,
gây lãng phí, khó thực hiện tại CSCN, khó khăn cho cả đội ngũ lãnh đạo, quản lý và sự
tiếp cận của NSDMT… Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0. Nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH với người nghiện ma túy
chỉ thực sự phát triển có chất lượng khi chúng ta có sự đổi mới, hoàn thiện cơ chế,
chính sách. Điều này phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu
nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe…Điều quan trọng
trong phát triển nguồn nhân lực cần phải coi trọng việc tạo lập các cơ chế, chính sách
thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài. Tuyển dụng, duy trì và phát triển đội ngũ cung
cấp dịch vụ, làm rõ vai trò, chức năng các hoạt động thường làm trong việc cung cấp
dịch vụ CTXH cho người nghiện ma túy. Việc đổi mới chính sách tuyển dụng, bố trí
sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cần phải được triển khai theo hướng công khai, công tâm, khách quan, chính xác, dựa trên cơ sở phẩm chất và năng lực thực chất chứ
không phải “nói một đằng làm một nẻo”. Đội ngũ cán bộ đảm bảo chất lượng phải
được lựa chọn tốt từ khâu tuyển dụng những cá nhân có lòng yêu nghề, say mê và tâm
huyết với nghề nghiệp. Tiếp tục duy trì và phát triển đội ngũ qua tập huấn nâng cao tri
thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ hàng năm, hàng tháng. Mỗi vị trí công việc cần
được cụ thể, rõ ràng và có sự gắn kết với nhau hài hòa, có sự thống nhất với nhau
trong hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH với NSDMT.
Đồng thời tăng cường sự hợp tác hiệu quả giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các
trường đại học công nghệ để thúc đẩy sự phát triển nghề CTXH ứng dụng khoa học công nghệ thông tin từ lưu giữ hồ sơ đến giáo dục truyền thông hay hệ thống quản lý cung cấp dịch vụ CTXH.
Đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ giáo dục - đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo CTXH với NSDMT phù hợp trong tình hình mới. Trong thời đại mới, chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống giáo dục đào tạo
về nghề điều trị nghiện ma túy, đặc biệt là nghề CTXH với lĩnh vực điều trị cai nghiện ma túy. Để làm được điều này, chúng ta phải xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo, tăng cường chất lượng công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên và cung cấp
147
thông tin về nhu cầu nhân lực về dịch CTXH với người nghiện, nhất là nhu cầu của
người nghiện, người sử dụng chất gây nghiện và cộng đồng, nhằm xây dựng chương
trình đào tạo cho phù hợp với trình độ và cơ cấu vùng miền. Xây dựng chương trình
đào tạo trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghê nghiệp. Vì vậy, xây dựng chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo đại học theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực và
phù hợp, “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền
với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực và thị trường lao động”[32].
Đề xuất tăng cường năng lực CTXH thông qua nghiên cứu, hội thảo, tập huấn.
Hiện tại đội ngũ nhân viên CTXH còn thiếu và yếu về kiến thức, kỹ năng chuyên môn. Vì vậy cần nâng cao nghiệp vụ CTXH thông qua hội thảo, tập huấn và
nghiên cứu. Phát triển nuồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH trong lĩnh vực điều trị
cai nghiện thông qua hoạt động hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo, tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi để thu hút nhân lực có tài năng và kinh nghiệm trong nước và
quốc tế, thường xuyên bồi dưỡng nhân tài thông qua học tập, tu dưỡng ở nước ngoài.
Thực hiện kết hợp giữa chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước với huy động các
nguồn lực xã hội nhằm đào tạo nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH với NSDMT. Tạo điều kiện để các giảng viên, người làm về lĩnh vực ma túy tham gia chương trình
dự án về công tác điều trị nghiện ma túy trong và ngoài nước.
Tiếp tục thực hiện và hoàn thành việc thực hành phải dựa trên bằng chứng, xây
dựng cơ sở thực hành trong các trường Đào tạo về lĩnh vực điều trị nghiện ma túy và
kết nối với cơ sở thực hành tại cơ sở.
Việt Nam đã thực hiện các hoạt động, các chương trình có sự cam kết tổng thể,
tạo điều kiện chuyển giao, cam kết trong việc triển khai và thực hiện các hoạt động
cung cấp dịch vụ điều trị nghiện. Học lý thuyết phải đi đôi với thực hành, thực tập. Cơ
sở thực hành cần được xây dựng hợp pháp tại các Trường Đại học, Cao đẳng có đào tạo về CTXH và có sự gắn kết chặt chẽ với cơ sở điều trị nghiện ma túy
4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức và nhu cầu cung cấp dịch vụ
Công tác xã hội cho người sử dụng ma túy.
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật đối với NSDMT hướng
đến việc đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ CTXH
Dịch vụ CTXH với NSDMT được coi là phát triển khi quy mô và phạm vi bao
phủ đáp ứng được nhu cầu thụ hưởng; có chức năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội và sự phát triển bền vững; đóng vai trò tích cực trong cân bằng và điều tiết các giá
trị xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
148
Nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT, cần xây
dựng và ban hành khung chính sách, pháp lý rõ ràng, cụ thể, tránh chồng chéo, thay
đổi liên tục nhằm giúp NSDMT nhận thức đúng đắn và có mong muốn tha thiết sử
dụng dịch vụ CTXH. Trong đó, chú trọng việc cấp kinh phí để tổ chức các hoạt động kiểm tra, giám sát, tuyên truyền, tập huấn nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng và trang bị cơ
sở vật chất cho các trung tâm cai nghiện cũng như tăng cường nâng lực cho đội ngũ
nhân viên tại cơ sở, đặc biệt phát triển đội ngũ nhân viên CTXH tại Cơ sở. Đây là
những yếu tố quan trọng thúc đẩy và tác động lớn đến nhận thức và nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH đối với NSDMT.
Hoàn thiện quy trình tiếp nhận NSDMT và quy trình cung cấp dịch vụ CTXH với
NSDMT: hoàn thiện quy định về quy trình xác định đối tượng nghiện và thủ tục hành chính
trong việc lập và xác minh hồ sơ về người nghiện ma túy nhằm nâng cao tỷ lệ người nghiện tiếp cận được với các dịch vụ CTXH. Thực tế nghiên cứu cho thấy, hiện nay các CSCN
đang áp dụng quy trình cai nghiện bắt buộc là chủ yếu, chưa thực hiện quy trình cung cấp
dịch vụ CTXH với NSDMT điều trị tự nguyện. Do đó, cần xây dựng tiêu chí đánh giá xác
định rõ đối tượng nào là NSDMT đã nghiện ma túy và NSDMT chưa nghiện để có áp
dụng quy trình tiếp nhận và điều trị phù hợp. Họ có thể tham gia vào chương trình bắt
buộc theo quy định của pháp luật hoặc tham gia tự nguyện.
Theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP: “nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường
xuyên sinh sống”. Với quy định như vậy, có thể hiểu là đối tượng không thường xuyên
sinh sống ở phạm vi một xã/phường hoặc một quận/huyện hoặc một tỉnh/thành phố mới
là không có nơi cư trú ổn định. Trong thực tế, người nghiện có thể di chuyển từ địa
phương này sang địa phương khác hoặc đi theo nhóm hút chích ở các địa điểm khác
nhau để tránh bị phát hiện. Do vậy việc xác minh nơi cư trú của người nghiện thường
mất thời gian, trả lời chung chung gây khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ xét duyệt
đưa người vào CSCN và hưởng các dịch vụ xã hội hỗ trợ.
Bên cạnh đó, cần xác định tình trạng nghiện nhanh chóng, chính xác cũng là điều kiện cần thiết giúp người nghiện tiếp cận kịp thời với các dịch vụ xã hội. Việc xác định tình trạng nghiện ma túy không chỉ giúp cơ quan quản lý nắm bắt được đúng, đủ đối tượng mà còn có ý nghĩa thực tế đối với người nghiện, giúp người nghiện có đủ điều kiện pháp lý để được hưởng các dịch vụ hỗ trợ. Tuy nhiên quy định hiện hành về thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện còn một số khoảng trống. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày
09/7/2015 của Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Công an quy định để theo dõi xác định tình trạng nghiện ma túy cần phải mất từ 3-5 ngày mới xác định được (ma túy nhóm Opiats thì thời gian theo dõi hội chứng cai tối đa là 03 ngày,
149
đối với đối tượng sử dụng ma túy tổng hợp dạng Amphetaminne thì thời gian theo dõi
hội chứng cai tối đa là 05 ngày). NSDMT thường trong tình trạng no thuốc khi bị phát
hiện (vừa sử dụng xong), vì vậy cần có thời gian để họ trở lại “cữ” tiếp theo, biểu hiện
các hội chứng cai ra bên ngoài. Trong khi đó, thời gian tạm giữ người vi phạm hành chính tại cơ quan công an thường không quá 24 giờ. Về phía NSDMT, họ thường
không đồng ý ở lại cơ sở y tế hoặc trụ sở công an để theo dõi dấu hiệu nghiện. Đây là
một trở ngại khi tiến hành thực hiện đúng quy trình xác định tình trạng nghiện theo
tinh thần của Thông tư. Hơn nữa, người nghiện trong thời gian này thường có những biểu hiện kích động, ảo giác, quậy phá… do đói thuốc khiến việc quản lý họ tại cơ sở
lưu trú rất khó khăn. Tuy nhiên, pháp luật không quy định về vấn đề tạm giữ hoặc
quản lý đối tượng này trong thời gian chờ xác định tình trạng nghiện ma túy, chưa quy
định cụ thể về hình thức đưa người nghiện đi xác định tình trạng nghiện ma túy, lực lượng lưu giữ người nghiện ma túy trong thời gian để xác định tình trạng nghiện ma
túy, quyền và nghĩa vụ của người bị lưu giữ trong thời gian xác định tình trạng nghiện.
Cơ quan công an và cả ngành y tế đều không có chức năng giữ, quản lý NSDMT.
Đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định Quy định về tổ chức và hoạt động cai
nghiện ma túy tự nguyện liên quan đến các vấn đề: Đơn giản các thủ tục hành chính nhằm
xã hội hóa các hoạt động cai nghiện tự nguyện tại cộng đồng; chuyển công tác điều trị
nghiện tại cộng đồng sang hình thức dịch vụ; hỗ trợ chi phí điều trị cai nghiện tự nguyện nhằm khuyến khích người nghiện tự giác tham gia điều trị.
Tăng cường giáo dục truyền thông nâng cao nhận thức và nhu cầu tiếp cận hệ
thống dịch vụ CTXH đối với NSDMT, với người thân gia đình, bạn bè và cộng đồng
cũng như toàn xã hội.
Từ kết quả khảo sát cho thấy chất lượng giáo dục truyền thông nâng cao nhận
thức của CSCN còn hạn chế, chưa đa dạng các loại hình và chưa thực hiện ở mức
thường xuyên cao nên NSDMT vẫn chưa tiếp cận được tối đa và có hiệu quả các dịch
vụ này. NSDMT đề xuất: “Cần tuyên truyền, giới thiệu cho mọi người về dịch vụ”…
Vì vậy thực hiện giải pháp trên, tăng cường giáo dục truyền thông nâng cao nhận thức về ma túy, tác hại của ma túy, các dịch vụ CTXH, cách thức cai nghiện và dự phòng tái nghiện cho chính NSDMT và cho gia đình, người thân của họ cũng như cộng đồng xã hội. Đồng thời giáo dục tuyên truyền về về vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung và phương hướng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về dịch vụ CTXH trong điều trị nghiện ma túy nhất là trong thời đại phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Để đạt được các mục tiêu, định hướng trong “Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” xác định nhiệm vụ cần thực hiện như sau:
150
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng bằng nhiều hình thức, nội dung phù hợp với từng
vùng miền, từng đối tượng; kết hợp giữa tuyên truyền các chủ trương của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về phòng, chống ma túy với tác hại, hậu quả của tệ nạn ma túy
đến từng người dân, từng hộ gia đình.
Quản lý chặt chẽ người nghiện ma túy; tổ chức cho tất cả người nghiện ma túy
được khai báo tình trạng nghiện và đăng ký hình thức điều trị, cai nghiện phù hợp; áp
dụng các biện pháp quản lý, giáo dục người nghiện ma túy và tổ chức dạy nghề, tạo
việc làm cho các đối tượng sau cai nghiện; thực hiện có hiệu quả công tác quản lý sau cai, phòng ngừa tái nghiện.
Thường xuyên rà soát, kịp thời phát hiện, triệt xóa diện tích trồng cây có chứa
chất ma túy, kết hợp đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa không để xảy ra tình trạng
trồng cây có chứa chất ma tuý.
Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy để phòng
ngừa có hiệu quả việc nghiện các chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần
hợp pháp vào hoạt động phạm tội về ma tuý.
Chủ động nắm tình hình, tổ chức đấu tranh và triệt xóa cơ bản các đường dây,
tổ chức, tụ điểm ma túy ở trong nước; ngăn chặn có hiệu quả tình trạng thẩm lậu ma
túy qua biên giới và sản xuất trái phép ma túy ở trong nước.
Thực hiện các cam kết và tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động hợp tác
quốc tế về phòng, chống và kiểm soát ma tuý.
Cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị tại Cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH đối với
NSDMT.
Thực tế khảo sát trong chương 3, các CSCN bắt buộc nhiều nơi đã xuống cấp, quá
tải, chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện về điều trị nghiện trong tình hình mới. Đặc biệt là
hạng mục nhà ở và trang thiết bị vệ sinh phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cho
NSDMT quá tải, không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu NSDMT đang quản lý. Đây là yếu
tố ảnh hưởng nhiều tới chất lượng và hiệu quả của dịch vụ CTXH đối với NSDMT. Vì
vậy, thực hiện được giải pháp này sẽ góp phần cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị theo hướng hiện đại, chuyên sâu phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của NSDMT và người nhà NSDMT trong thời đại phát triển như ngày nay. Đây cũng là mong muốn, đề xuất của NSDMT: “Nâng cao cơ sở hạ tang, đẩy mạnh hoạt động văn hóa; Nâng cấp trang thiết bị cũng như nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở”…
Đề xuất phát triển mô hình dịch vụ CTXH đối với NSDMT, nhấn mạnh đến loại
hình dịch vụ tham vấn nhóm.
Từ thực tiễn nghiên cứu và kết quả phân tích trong chương 3, chúng tôi thấy cần thiết đề xuất xây dựng và phát triển mô hình CTXH đối với NSDMT tại các
151
CSCN/Trung tâm CTXH nói riêng và ngoài cộng đồng nói chung đặt dưới sự quản lý
của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội, có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Tổ chức và cơ cấu hoạt động: Mô hình dịch vụ CTXH đối với người sử dụng
ma túy được xây dựng thành Trung tâm, cơ sở hay phòng riêng, dưới sự quản lý của Bộ Lao động-TBXH và có sự hỗ trợ của Nhà nước trong các chức năng dịch vụ công
tác xã hội. Mô hình dịch vụ cần được thiết lập tại các tỉnh hoặc ở thành phố lớn thậm chí
tại cộng đồng để phục vụ cho công tác phòng chống ma túy và cai nghiện, dự phòng tái
nghiện, giúp người sử dụng ma túy có cuộc sống ổn định, lành mạnh không gây ra những tổn thất nặng nề cho bản thân người sử dụng ma túy, cho gia đình và xã hội. Việc này là
nhằm cho dịch vụ được trải đều trên cả nước khi có điều kiện phát triển và đủ nguồn nhân
lực và tài chính. Hoạt động của mô hình nên kết nối với mạng lưới các dịch vụ xã hội
trong cộng đồng và các tổ chức quần chúng và tổ chức phi Chính phủ cung cấp. Ngoài ra, các trung tâm sẽ phải đóng vai trò là cầu nối giữa các ngành và dịch vụ khác nhau như y
tế, giáo dục và hệ thống tư pháp hình sự.
Chức năng và nhiệm vụ: Cung cấp các dịch vụ dài hạn và ngắn hạn. Các dịch
vụ can thiệp khẩn cấp và ngắn hạn bao gồm: Tiến hành những đánh giá ban đầu và
sàng lọc những trường hợp sử dụng ma túy được phát hiện và báo tin ở cộng đồng. Sau
đó, cung cấp ngay các dịch vụ can thiệp ngắn, chăm sóc khẩn cấp, cung cấp thông tin
vê ma túy, tác hại và hậu của việc sử dụng ma túy để đảm bảo an toàn giúp người sử dụng ma túy nhận thức được tác hại của ma túy và không tiếp tục sử dụng dẫn đến lạm
dụng hay nghiện. Đối với các trường hợp ở mức nghiện cần tư vấn các hình thức cai
nghiện và kết nối, chuyển gửi ngay tới các cơ sở cai nghiện có uy tín. Các dịch vụ dài hạn
đối với những trường hợp nghiện ma túy, tiến hành can thiệp cắt cơn, giải độc và hỗ trợ
phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng. Bên cạnh đó, cần tìm hiểu và đánh giá cá nhân, gia
đình và các nhóm để xác định những vấn đề xã hội phức tạp có thể nảy sinh liên quan đến
ma túy và lập kế hoạch can thiệp; cung cấp tham vấn/tư vấn, hỗ trợ trị liệu tâm lý xã hội;
hỗ trợ và tìm các giải pháp phù hợp, tư vấn, hỗ trợ tiếp cận giáo dục và tư vấn học nghề,
tìm việc làm; hỗ trợ giải quyết những vấn đề liên quan đến pháp lý; đồng thời hỗ trợ tư vấn cho cán bộ trong ngành các kiến thức và kỹ năng về điều trị cai nghiện để liên hệ, hợp tác, kết nối với những người có chuyên môn như bác sỹ, y tá, giáo viên và công an; nghiên cứu các vấn đề phúc lợi xã hội để phát triển các chính sách có liên quan đến người sử dụng ma túy.
Các nội dung trọng tâm: Mô hình dịch vụ công tác xã hội với người sử dụng ma túy bao gồm các loại hình dịch vụ như: dịch vụ giáo dục truyền thông; dịch vụ hỗ
trợ chăm sóc y tế; dịch vụ tham vấn/tư vấn; dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm; dịch vụ hỗ trợ pháp lý; dịch vụ tái hòa nhập cộng đồng; dịch vụ quản lý trường hợp...Trong đó, dịch vụ giáo dục truyền thông cung cấp các hoạt động như: giáo dục truyền thông
152
thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi sử dụng ma túy; truyền thông nâng cao nhận
thức về ma túy và cách phòng chống ma túy; tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nhận
thức kỹ năng về dư phòng tái nghiện”, giáo dục truyền thông về ma túy, tác hại và hậu
quả của ma túy...Dịch vụ tham vấn bao gồm các hình thức tham vấn theo quy trình như tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm, tham vấn gia đình…Các hoạt động tham vấn
giải quyết vấn đề sức khỏe thể chất; tham vấn các vấn đề sức khỏe tinh thần; tham vấn
can thiệp khủng hoảng tâm lý; tham vấn giải quyết các vấn đề mâu thuẫn trong các
mối quan hệ; tham vấn lựa chọn giải pháp tối ưu; tham vấn hỗ trợ về việc xây dựng kế hoạch thực hiện giải quyết vấn đề; tham vấn về xác định mục tiêu ưu tiên (SMART);
tham vấn các chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ ma túy; tham vấn về cách đối phó
với những yếu tố cám dỗ, lôi kéo từ bạn bè xấu; tham vấn quản lý căng thẳng; tham
vấn về quản lý nóng giận; tham vấn về quản lý thời gian, thiết lập cuộc sống ổn định, lành mạnh. Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế bao gồm các hoạt động dưới góc độ công tác
xã hội kết nối với y tế trong chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần, tư vấn sàng lọc,
đánh giá mức độ nghiện chất, tư vấn xét nghiệm HIV/ Viêm gan B,C, tư vấn hỗ trợ
can thiệp dự phòng tái nghiện, hỗ trợ cắt cơn, giải độc, kết nối, hỗ trợ điều trị khi bệnh
nhân xuất hiện hội chứng cai (lên cơn vật), hỗ trợ điều trị trạng thái đói ma tuý trường
diễn. Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm bao gồm các hoạt động tư vấn hỗ trợ học
nghề; tư vấn giới thiệu việc làm; kết nối chuyển gửi đến cơ sở đào tạo nghề; kết nối chuyển gửi đến cơ sở sử dụng lao động…Dịch vụ hỗ trợ pháp lý bao gồm: tư vấn hỗ
trợ những vấn đề có liên quan đến chính sách, pháp luật, tư vấn hỗ trợ các thông tin về
chính sách pháp luật đối với người nghiện ma túy, kết nối người nghiện ma túy với cơ
quan liên quan đến chính sách, pháp luật, vận động người nghiện ma túy tham gia vào
quá trình cai nghiện ma túy và được hưởng những quyền lợi theo quy định…Ngoài ra,
mô hình dịch vụ CTXH cũng cần tham gia vào việc nghiên cứu và xây dựng chính
sách để góp phần cải thiện dịch vụ, qua đó có thể đưa ra được những lời tư vấn, hỗ trợ
quản lý cho những nhà hoạch định chính sách về ma túy và phòng chống ma túy cũng
như lĩnh vực điều trị nghiện ma túy.
Chủ thể cung cấp dịch vụ: Đội ngũ nhân sự cung cấp dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy cần đảm bảo có hiểu biết sâu về ma túy, tác hại của ma túy, có kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp khi làm việc với người sử dụng ma túy. Đối với Ban lãnh đạo cần có hiểu biết về ma túy, người sử dụng ma túy, được tập huấn về CTXH, phải được học hành và đào tạo bài bản, có chuyên môn về CTXH với người sử dụng ma túy. Đồng thời đội ngũ này có sự gắn kết chặt chẽ với các bên liên quan trong
quá trình cung cấp dịch vụ CTXH đối với người SDMT.
Hình thức cung cấp dịch vụ: Mô hình dịch vụ CTXH có thể được cung cấp đa dạng và có sự gắn kết giữa các loại hình dịch vụ dựa trên thuyết hệ thống. Dịch vụ được
153
cung cấp qua hai hình thức trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là nhân viên xã hội sẽ cung cấp
dịch vụ dưới góc độ CTXH mặt đối mặt với NSDMT như cung cấp kiến thức, kỹ năng,
cách thức, phương pháp cai nghiện và các chiến lược dự phòng tái nghiện; tư vấn hỗ trợ
học nghề, tìm việc làm; tư vấn, hỗ trợ pháp lý….Gián tiếp thông qua các bên liên quan về dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, nhà ở, việc làm…Vai trò của nhân viên CTXH là kết
nối, điều phối, chuyển gửi, huy động nguồn lực, giám sát, kiểm tra đánh giá và hỗ trợ
chuyên môn nhằm đảm bảo dịch vụ luôn sẵn sàng được thực hiện thường xuyên, liên tục
và có kiểm tra, đánh giá nhằm cải thiện chất lượng, hiệu quả của dịch vụ CTXH.
Quy trình cung cấp dịch vụ CTXH với người SDMT: Thực tế khảo sát ở chương 3,
đa phần hiện nay các CSCN áp dụng hình thức cai nghiện bắt buộc, nên cung cấp dịch vụ
theo quy trình cai nghiện bắt buộc. Một số CSCN đã bắt đầu áp dụng hình thức cai nghiện
tự nguyện theo Điều của Luật phòng chống ma túy, năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2008 và 2013. Tuy nhiên, hình thức này còn mờ nhạt, vì vậy, qua nghiên cứu, NCS đề xuất Quy
trình cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho người sử dụng ma túy tham gia điều trị tự nguyện
bao gồm 7 bước sau: Bước 1: Tiếp nhận thân chủ/Mở hồ sơ; Bước 2. Tư vấn đánh giá
sàng lọc về ma túy, đánh giá mức độ sử dụng ma túy và yếu tố phục hồi. Bước 3. Phân
loại mục tiêu sử dụng dịch vụ. Bước 4. Lập kế hoạch thực hiện. Bước 5. Thực hiện kế
hoạch (Cần ghi nhật ký điều trị). Bước 6. Lượng giá/Kết thúc, Bước 7. Theo dõi, quản
lý thân chủ tái hòa nhập cộng đồng (Nội dung đã được đề cập làm căn cứ đề xuất trong mục 2.2.3.2 Chương 2)
Kinh phí thực hiện: Cần phát triển các mô hình dịch vụ CTXH đối với người sử
dụng ma túy mang tính công lập và các mô hình dịch vụ tư nhân, hoặc trong các tổ
chức đoàn thể, phi Chính phủ thu hút sự tham gia một cách tình nguyện của người sử
dụng ma túy và người nhà, người thân của họ. Cần lập kế hoạch cho các hỗ trợ tài
chính lâu dài, trong đó các nhà tài trợ chiếm 1/3 tổng số, còn lại là từ ngân sách Nhà
nước. Đối với đơn vị công lập, sẽ cần có ngân sách Nhà nước, của Sở Lao động-
TBXH, đồng thời, cũng nên tính đến mối quan hệ hợp tác với các nhà tài trợ hiện đang
hỗ trợ một số dịch vụ. Đồng thời khi dịch vụ đảm bảo chất lượng, hiệu quả trong việc phòng chống ma túy và hiệu quả cai nghiện cũng như dự phòng tái nghiện thì người sử dụng dịch vụ sẽ phải trả một khoản chi phí nhất định giống như các dịch vụ khác trong xã hội.
Dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy sẽ phải đảm bảo một số tiêu chí về chất lượng, hiệu quả của dịch vụ như: mức độ hài lòng của khách hàng, từ giao tiếp tạo lập mối quan hệ với khách hàng đến tính chuyên nghiệp của tổ chức cung
ứng; điều kiện cơ sở vật chất – kỹ thuật, thái độ và năng lực của đội ngũ nhân viên; chất lượng, hiệu quả còn thể hiện ở sự thay đổi tích cực của người nghiện cũng như gia đình họ sau khi tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ, cụ thể: người nghiện tự nguyện tham
154
gia điều trị sau khi được tư vấn, tuân thủ điều trị, tham gia các hoạt động xã hội, học
nghề, tìm kiếm việc làm, cải thiện các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội…Độ
tin cậy: sự đúng hẹn, đúng thời điểm và đúng người. Tính hữu hiệu của dịch vụ; sự
tuân thủ nguyên tắc cung cấp dịch vụ; quy trình cung cấp dịch vụ mang tính chuyên môn hóa cao và hiệu quả. Người sử dụng hài lòng và đánh giá tốt về dịch vụ…
Mô hình này không những tạo điều kiện, cơ hội cho NSDMT cũng như người
nhà có NSDMT có cơ hội tiếp cận với dịch vụ công tác xã hội giúp họ ngăn ngừa việc
lạm dụng ma túy, không bị nghiện, không lệ thuộc vào ma túy, đối với người sử dụng đã nghiện, họ có cơ hội cai nghiện và dự phòng tái nghiện tốt. Đối với người đã bị tái
nghiện, họ vẫn có ý chí quyết tâm cai nghiện và dự phòng tái nghiện để giữ sạch suốt
cuộc đời còn lại không sử dụng ma túy. Họ luôn được tiếp cận với dịch vụ CTXH, với
đội ngũ làm nghề CTXH chuyên nghiệp và hiện đại, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cảu họ bất cứ khi nào họ cần để tránh xa ma túy. Mô hình này có cơ sở thực tiễn là các Trung
tâm CTXH trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số tỉnh thành. Vì thực tiễn hiện nay,
các Trung tâm CTXH còn thực hiện chức năng chung cho các đối tượng bảo trợ là
chính, các dịch vụ CTXH chưa chuyên nghiệp nên người SDMT chưa tiếp cận được.
Do vậy mô hình dịch vụ CTXH với NSDMT sẽ được vận dụng và phát triển tại các
Trung tâm CTXH hoặc tại các CSCN ma túy.
Đồng thời, qua kết quả thực nghiệm so sánh trước và sau thực nghiệm, so sánh giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm, chúng ta thấy rõ có sự tăng cường mức độ
nhận thức về dịch vụ CTXH đối với NSDMT cũng như nhu cầu, mong muốn sử dụng
các loại hình dịch vụ này. Nhóm thực nghiệm đã khẳng định hiệu quả, chất lượng lợi
ích về sức khỏe thể chất, tinh thần cũng như giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc
sống của bản thân NSDMT và mối quan hệ xung quanh. Do đó, qua thực nghiệm này,
chúng tôi mạnh dạn đề xuất loại hình tham vấn nhóm đối với NSDMT với hình thức
tham vấn trực tiếp và gián tiếp về các nội dung: giải quyết các vấn đề khó khăn của
NSDMT, khó khăn về chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần, tìm kiếm việc làm tạo
thu nhập, hay giải quyết những khó khăn liên quan đến luật pháp, chính sách trong quá trình cai nghiện, những kỹ năng dự phòng tái nghiện. Đồng thời trong quá trình thực hiện tham vấn nhóm, CSCN sẽ tổ chức lồng ghép đa dạng các loại hình tham vấn vấn cá nhân, tham vấn gia đình, có sự gắn kết giữa NSDMT và gia đình, xã hội giúp có có nỗ lực, quyết tâm cai nghiện và dự phòng tái nghiện hiệu quả.
Cải thiện quy trình hỗ trợ vay vốn, tạo công ăn việc làm cho NSDMT và gia
đình có NSDMT.
Thực tế hiện nay là các quy định về vay vốn giải quyết việc làm của tỉnh còn hạn chế về đối tượng và quy trình cho vay, nhất là đối với NSDMT. Quyết định số 29 ngày 26/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình và người
155
nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương. Riêng đối tượng là người
nghiện ma túy sau cai thì chỉ có hộ gia đình được vay. Để được vay vốn, hộ gia đình
có người nghiện sau cai phải có giấy tờ xác nhận tình trạng áp dụng biện pháp sau cai tại nơi cư trú, có nơi ở ổnh định và cư trú hợp pháp, có phương án sản xuất, kinh
doanh và có khả năng trả nợ vay theo cam kết, là thành viên Tổ Tiết kiệm và vay vốn
của Ngân hàng Chính sách xã hội. Quy trình xét duyệt hồ sơ còn rất khó khăn vì phải
bắt đầu tư các cơ quan, đoàn thể cấp xã. Trước tiên, cá nhân/hộ gia đình cần vay vốn phải gửi đơn đăng ký vay vốn kèm các giấy tờ xác nhận nói trên đến Ủy ban nhân dân
cấp xã. Sau khi được xã duyệt hồ sơ, Chủ tịch UBND xã ra Quyết định và gửi cho Tổ
trưởng Tổ Tiết kiệm và vay vốn nơi người vay sinh sống để kết nạp họ vào Tổ Tiết
kiệm và vay vốn. Khi kết nạp xong, người vay sẽ được Tổ tiết kiệm và vay vốn hướng dẫn làm thủ tục vay vốn theo quy định của Ngân hàng Chính sách xã hội. Với những
người nghiện đã mắc, bệnh của não“ và không phải gia đình nào cũng dễ dàng để hiểu
và làm đúng theo hướng dẫn ngay từ lần đầu thì quy trình này cũng là rào cản để người
nghiện và gia đình họ tiếp cận được dịch vụ vay vốn. Vì vậy, qua nghiên cứu này, kiến
nghị thí điểm việc đơn giản hóa thủ tục cho vay đối với NSDMT và hộ gia đình có
người nghiện ma túy nhằm tạo điều kiện cho nhiều người yếu thế tiếp cận với các dịch
vụ xã hội của Nhà nước.
Tiếp tục xây dựng và phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ CTXH đối
với NSDMT tại Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Thực tế hiện nay, chúng ta đã xây dựng và phát triển mạng lưới dịch vụ CTXH
với các đối tượng đặc thù trên khắp cả nước, từ Trung ương đến địa phương, trong đó
có mạng lưới dịch vụ với NSMDT là các CSCN. Thực hiện được giải pháp này, chúng
ta sẽ giải quyết được hiện tượng cô lập, cứng nhắc giữa các cơ sở cung cấp dịch vụ
nhằm đạt hiệu quả chất lượng dịch vụ. NSDMT sẽ có cơ hội tiếp cận đa dạng và
chuyên sâu các loại hình dịch vụ, thuận tiện cho NSDMT dù họ có thể ở đâu. Điều
quan trọng mang lưới dịch vụ này luôn sẵn sàng và đảm bảo chất lượng hiệu quả trong quá trình cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Như thế, nhận thức, thái độ của họ thay đổi họ sẽ không sử dụng ma túy nhiều dẫn đến nghiện, phụ thuộc vào nó, những người nghiện sẽ cai được nghiện và không còn tái nghiện nữa.
Xã hội hóa về công tác xã hội và dịch vụ công tác xã hội đối với NSDMT. Giải pháp này là có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống nhân dân, thực hiện giải pháp này sẽ giúp toàn dân hiểu về công tác xã hội là một khoa học ứng dụng, là hoạt
động chuyên nghiệp hỗ trợ những người gặp khó khăn trong cuộc sống, tác động thay đổi, phát triển và ổn định xã hội. Đối với NSDMT, họ sẽ có cơ hội để tiếp cận dịch vụ
156
ngay từ khi ở giai đoạn đầu của quá trình thay đổi hành vi để dừng lại, phòng tránh
lạm dụng ma túy dẫn đến nghiện.
Tiểu kết chƣơng 4. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ CTXH đối với NSDMT, nội dung chương 4 đã đề cập đến định hướng phát triển dịch vụ CTXH trong thời kỳ mới cũng
như các nhóm giải pháp cơ bản. Trong đó hai nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT và nhóm giải pháp nâng cao
nhận thức, nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH của NSDMT. Đồng thời, qua thực trạng khảo sát và thực nghiệm, đề tài đề xuất mô hình dịch vụ CTXH đối với NSDMT tại
các CSCN nói riêng và các trung tâm CTXH trên cả nước nói chung. Trong đó, NCS
đề xuất dịch vụ tham vấn nhóm nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng sử dụng dịch
vụ, giúp cho NSDMT có cơ hội nâng cao nhận thức, nhu cầu về dịch vụ CTXH với NSDMT và giải quyết vấn đề liên quan đến ma túy và mối quan hệ xung quanh của
bản thân. Qua đây, NSDMT cũng như người nhà, người thân, bạn bè và xã hội cùng
nâng cao nhận thức về ma túy, tác hại của ma túy để tránh xa ma túy, nói không với
ma túy dù chỉ một lần, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng xã hội, góp phần
tích cực trong công cuộc phòng chống ma túy.
157
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đề tài: “Dịch vụ công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy NSDMT từ thực tiễn các Trung tâm chữa bệnh – giáo dục – Lao động – Xã hội Thành phố Hà
Nội”, NCS đã khái quát hóa tổng quan về tình hình nghiên cứu phong phú đa dạng trên
thế giới và trong nước từ ma túy, NSDMT, đặc điểm nhu cầu cũng như những công trình
nghiên cứu về dịch vụ CTXH với NSDMT. Đồng thời, đề tài hệ thống hóa lý luận về ma
túy, NSDMT, dịch vụ CTXH đối với NSDMT thể hiện cụ thể chi tiết trong từng loại hình dịch vụ: Tham vấn cá nhân, gia đình và nhóm; Dịch vụ giáo dục truyền thông; dịch vụ hỗ
trợ chăm sóc y tế; dịch vụ hỗ trợ việc làm; dịch vụ hỗ trợ pháp lý; nguyên tắc và quy trình
cung cấp dịch vụ với NSDMT bắt buộc và tự nguyện, các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung
cấp dịch vụ CTXH đối với NSDMT. Đồng thời, nội dung đã đề cập đến đánh giá chất lượng, hiệu quả của dịch vụ công tác xã hội, xây dựng các tiêu chí đánh giá về chất lượng
dịch vụ. Qua đó, tiến hành phân tích thực trạng cung cấp dịch vụ CTXH với người nghiện
ma túy tại CSCN. Kết quả này đã trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu ban đầu. Từ thực
trạng về DV CTXH với NSDMT, nghiên cứu rút ra một số kết luận như sau:
Ma túy và công cuộc phòng chống ma túy luôn là vấn đề có diễn biến phức tạp
nhất là trong thời kỳ hội nhập, số lượng và các loại hình ma túy ngày càng đa dạng, tinh vi, người SDMT dẫn đến nghiện ma túy ngày càng gia tăng, những tội phạm liên
quan đến ma túy ngày càng mang tính dã man và tàn bạo…Chúng ta đã thực hiện
nhiều giải pháp phòng chống ma túy và tội phạm ma túy cũng như các hình thức cai
nghiện nhưng hiệu quả vẫn chưa đạt mục tiêu mong muốn.
Hầu hết NSDMT đã nhận thức nhất định về dịch vụ CTXH đối với người
nghiện ma túy, tầm quan trọng và sự cần thiết của dịch vụ, nhưng đa phần vẫn chưa hiểu
biết nhiều về loại hình dịch vụ này. Tuy rằng dịch vụ CTXH với NSDMT còn mới
nhưng đa phần NSDMT đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của
dịch vụ này trong quá trình điều cai nghiện và dự phòng tái nghiện. Hầu hết NSDMT
đều cho rằng dịch vụ CTXH là rất quan trọng và cần thiết đối với NSDMT, họ cần phải
sử dụng các loại dịch vụ này trong quá trình điều trị nghiện ma túy và sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Đồng thời NSDMT có nhu cầu cao, có mong muốn sử dụng dịch vụ CTXH nhiều để phục vụ quá trình cai nghiện thành công không chỉ trong thời gian tại Cơ sở mà sau cai tái hòa nhập cộng đồng, xã hội.
Hiện tại các CSCN đã thực hiện cung cấp các dịch vụ CTXH với NSDMT nhưng thực sự là chưa được thường xuyên và chưa được hiệu quả do nhiều yếu tố tác động. Thực tế còn thiếu về đội ngũ cung cấp dịch CTXH chuyên nghiệp, cơ sở trang
thiết bị, động lực quyết tâm, phấn đấu của NSMDT trong quá trình cai nghiện và dự phòng tái nghiện còn gặp phải nhiều rào cản xã hội.
158
Đa phần NSDMT đã tham gia sử dụng các loại hình dịch vụ này thường xuyên
như dịch vụ chăm sóc hỗ trợ y tế; dịch vụ hỗ trợ pháp lý, dịch vụ tham vấn cá nhân, gia
đình và nhóm; dịch vụ hỗ trợ việc làm, dịch vụ giáo dục, truyền thông.Tuy nhiên, còn
nhiều NSDMT chưa tham gia thường xuyên, điểm trung bình chung còn ở mức trung bình và thấp. Ở các loại hình dịch vụ cụ thể như dịch vụ giáo dục – truyền thông, dịch vụ tham
vấn cá nhân, nhóm và gia đình; dịch vụ hỗ trợ pháp lý; dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm
và dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế thì NSDMT sử dụng ở mức độ thường xuyên chưa nhiều,
nhiều NSDMT chưa bao giờ sử dụng. Thực trạng này là căn cứ để các CSCN có định hướng phát triển hệ thống dịch vụ CTXH giúp quá trình cai nghiện thành công.
Mặc dù tại các CSCN đã phần nào thực hiện các hoạt động thể hiện các loại hình
dịch vụ này, nhưng thực tế vần chưa chuyên nghiệp thể hiện theo tính chất của dịch vụ.
Hầu hết NSDMT vẫn được hỗ trợ phần nào về kinh phí theo quy định chính sách, pháp luật, chưa có mức đóng lệ phí như các loại hình dịch vụ khác ngoài xã hội.
Hơn nữa, một phần NSDMT đã đánh giá về hiệu quả và chất lượng dịch vụ ở
mức tốt và hài lòng. Tuy nhiên còn nhiều NSDMT chưa hài lòng và đánh giá chưa tốt,
chưa hiệu quả. NSDMT đánh giá chất lượng, hiệu quả thông qua các tiêu chí của dịch
vụ vẫn còn chưa tốt. Có nhiều lý do dẫn tới việc chưa hài lòng và chưa tốt, chưa hiệu
quả như sự chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, điều kiện, trang thiết bị và trình độ nhận
thức của NSDMT còn hạn chế.
Kết quả thực nghiệm cũng khẳng định, cung cấp dịch vụ công tác xã hội, đặc biệt
tham vấn nhóm trong quá trình cai nghiện có sự thay đổi tích cực trong nhận thức, thái
độ và hành vi của NSDMT. Vì vậy, đây là căn cứ đề xuất các nhóm giải pháp hỗ trợ cai
nghiện và dự phòng tái nghiện hiệu quả hơn.
Không những thế, trong bối cảnh xu hướng hội nhập toàn cầu hóa, định hướng
phát triển dịch vụ CTXH trong thời đại mới là hết sức quan trọng, cấp thiết, qua
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ
CTXH đối với NSDMT. Đề tài tập trung vào 2 nhóm giải pháp: (1) Nhóm giải pháp
hướng tới tăng cường năng lực CTXH; (2) Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức và nhu cầu cung cấp dịch vụ CTXH cho NSDMT. Đồng thời, từ thực tiễn thực nghiệm tham vấn nhóm, nghiên cứu đề xuất mô hình dịch vụ CTXH đối với NSDMT tại các Trung tâm CTXH trên cả nước nói chung và tại các CSCN nói riêng. Trong đó, mô hình tham vấn nhóm là một trong những dịch vụ hữu hiệu giúp NSDMT có kiến thức, kỹ năng và thái độ tích cực trong giải quyết các vấn đề nghiện chất và các vấn đề liên quan đến ma túy nhằm phòng tránh ma túy, góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp.
159
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ
1. Lê Thị Thủy (2018), Vai trò của chính sách pháp luật đối với Công tác xã
hội tại Việt Nam. Hội thảo quốc tế: “Định hướng phát triển nghề Công tác xã hội ở
Việt Nam: Vai trò của Pháp luật-Đào tạo thực tiễn” tổ chức tại Đại học Sư phạm
Huế. Tháng 3/2018
2. Lê Thị Thủy (2019). Dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy. Tạp
chí Lao động xã hội. Số 606/2019
3. Lê Thị Thủy (2019), Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với người sử
dụng ma túy và một số khuyến nghị. Tạp chí Lao động xã hội. Số 607/2019
4. Lê Thị Thủy (2019), Phát triển nguồn nhân lực cung cấp dịch vụ công tác xã
hội trong điều trị nghiện ma túy, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội. Tháng 7/2019
5. Lê Thị Thủy (2019), Nhận thức của người sử dụng ma túy về Dịch vụ công
tác xã hội đối với người sử dụng ma túy, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội. Số 76
Tháng 9/2019
6. Lê Thị Thủy (2019), Quản lý căng thẳng với nhân viên Công tác xã hội
trong hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho người nghiện ma túy. Hội thảo
“Quản lý căng thẳng với nhân viên Công tác xã hội– Thực tiễn và thách thức trong
đào tạo”. Tháng 10/2019. Đại học Lao động xã hội
7. Lê Thị Thủy (2019), Nhu cầu tham vấn tâm lý học đường của học sinh trung
học và một số khuyến nghị. Hội thảo “Tâm lý học đường”. Tháng 10/2019. Đại học
Lao động xã hội.
8. Thuy Thi Le &, cộng sự (2020), “Social work field education in
Vietnam:Challenges and recommendations for a better model”. “International
Social Work” tháng 6/2020
160
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Công An (2020), “Báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng, chống ma túy 6
tháng đầu năm và phương hướng công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm 2020” .
2. Bộ Công An (2015), “Báo cáo Tổng kết thực hiện Quyết định số
127/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chế
độ báo cáo thống kê về phòng, chống ma túy”.
3. Phan Chí Anh &Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Huệ Minh (2013), Nghiên cứu các
mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế
và Kinh doanh, Tập 29, Số 1 (2013) 11-22
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), “Quyết định 32/2010/QĐ-TTg.
Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020”
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), “ Quyết định 1215/2010/QĐ-
TTg. Đề án hỗ trợ xã hội và phục hồi chức năng cho người bệnh tâm thần và
rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020”
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), “Đề án đổi mới Công tác cai
nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020”.
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2012), “Quyết định số 19/QĐ-
LĐTBXH ngày 09/01/2012 Phê duyệt “Kế hoạch thực hiện Chiến lược Quốc
gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định
hướng đến năm 2030 trong lĩnh vực cai nghiện ma túy và quản lý sau cai
nghiện giai đoạn 2012-2015”
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), “Thông tư liên tịch số
41/2010/TTLT-BLĐTBXH-BYT của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
và Bộ Y tế về hướng dẫn quy trình cai nghiện, cho người nghiện ma túy tại các
Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội và cơ sở cai nghiện ma
túy tự nguyện...”
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội(2012), “Thông tư liên tịch số
27/2012/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 24/02/2012 của Bộ Tài chính - Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện
chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, chế độ đóng góp và miễn,
giảm, hỗ trợ đối với đối tượng trong cơ sở chữa bệnh và tổ chức cai nghiện
ma túy tại gia đình và cộng đồng”.
161
10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2007), “Thông tư liên tịch số
117/2007/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 01/10/2007 của liên Bộ Tài chính, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn chế độ trợ cấp đối với người
nghiện ma túy, người bán dâm; Thông tư liên tịch số 121/2010/TTLT-BTC-
BLĐTBXH ngày 12/8/2010.
11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015), “Báo cáo kết quả thực hiện
công tác phòng chống mại dâm; cai nghiện ma túy, quản lý sau cai 8 tháng
đầu năm 2015, nhiệm vụ trọng tâm những tháng cuối năm 2015
12. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), “Tài liệu hướng dẫn xây dựng
mô hình trung tâm Công tác xã hội và nghiệp vụ quản lý trường hợp”
13. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2017), “Tài liệu đào tạo tư vấn điều
trị nghiện ma túy”. Quyển 1,2,3.
14. Bộ Khoa học và Công nghệ (2009), “Quan điểm và định hướng về chính sách
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong chiến lược kinh tế xã hội
giai đoạn 2011-2020”. Đề tài cấp nhà nước, Mã số: KX02.15/06-10.
15. Bộ Y tế (2007), Quyết định số 5075/QĐ-BYT ngày 12/12/2007 hướng dẫn tiêu
chuẩn chẩn đoán nghiện ma tuý gốc opiate;
16. Bộ Y tế (2016), QĐ 3356/QĐ-BYT ngày 10/09/2016, hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị các rối loạn tâm thần thường gặp do sử dụng ma túy tổng hợp dạng
Amphetamine.
17. Bộ Y tế (2006), Cuốn sổ tay ”Bạn có biết quyền của mình?”
18. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động – Thương binh và xã hội
(2019), Hội nghị tổng kết năm 2018 và phương hướng năm 2019
19. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2011).
Cai nghiện phục hồi và quản lý sau cai nghiện, Nxb Lao động – xã hội.
20. Cục phòng chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động – Thương binh và xã hội
(2016), Báo cáo tổng kết công tác cai nghiện phục hồi cho người nghiện ma
túy 2016.
21. Cục phòng chống tệ nạn xã hội (2010), báo cáo Kết quả chuyến công tác
nghiên cứu, học tập kinh nghiệm về điều trị, phục hồi cho người nghiện ma túy
tại TháiLan từ ngày 7 - 12 tháng 3 năm 2010.
162
22. Cục Bảo trợ xã hội- Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2012), “Đánh giá
nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội và đề xuất kế hoạch phát triển mô hình
và hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH từ Trung ương đến địa phương”. Hà Nội.
23. Cục Bảo trợ xã hội- Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2012). “Tài liệu
giảng dạy về giáo dục, tuyên truyền cho học viên”. Bộ tài liệu giáo dục, quản
lý trong các Trung tâm Giáo dục – Lao động- Xã hội
24. Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (2015). “Báo cáo
tình hình ma túy toàn cầu”. Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên
hợp quốc
25. Các văn bản hướng dẫn thi hành (Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị
định số 135/2004/NĐ-CP, Nghị định số 61/2011/NĐ-CP), Nghị định số
136/2016/NĐ-CP bổ sung sửa đổi Nghị định 221/2003/NĐ-CP, Quyết định
số: 2353/QĐ-BTTTT…
26. Nguyễn Thành Công (2003), “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
27.
quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai”
Dự án Suboxone (2013),“so sánh hiệu quả của Suboxone và Methadone trên bệnh
nhân HIV có sử dụng ma túy tại cơ sở điều trị HIV ngoại trú ở Việt Nam(Dự án
Suboxone)”(Dự án hợp tác với Đại học sức khỏe và khoa học Oregon).
28. Vũ Dũng (2012), “Từ điển Tâm lý học”, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
29. Trần Thị Minh Đức (2014), Giáo trình tham vấn tâm lí, Nxb Đại học Quốc
30. Nguyễn Hữu Khánh Duy, Nguyễn Văn Khuê, Trist Summerfield (2002), Liệu
Gia Hà Nội.
pháp giáo dục tâm lý xã hội cho người nghiện ma túy, Tập 3, Tài liệu tập huấn
công ty TNHH và cai nghiện ma túy Thanh Đa, Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), “Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 54
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện đại hội Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII”, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.tr. 114 – 115
33. Nguyễn Thị Bích Điểm (2007), “Những giải pháp thực hiện việc ngăn chặn tệ
nạn mại dâm, ma túy trong thanh thiếu niên”. Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội
34. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội (2008), “Tình
hình lạm dụng ma túy trong sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, Trung
cấp chuyên nghiệp - Một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn”.
163
35. FHI-AP (2012-2014)“Nghiên cứu hệ thống chính sách phòng chống ma túy
và đánh giá hiệu quả thực hiện một số chính sách ma túy tại Thành phố Hải
Phòng từ 2012-2014” (Dự án FHI-AP) do Trung tâm nghiên cứu và đào tạo
36.
HIV/AIDS (CREATA), Trường Đại Học Y Hà Nội thực hiện. FHI 360o Việt Nam (2012), “Tài liệu tập huấn tư vấn điều trị nghiện ma túy” FHI 360o Việt Nam (2013), “Tài liệu tập huấn Quản lý trường hợp với người 37.
nghiện ma túy”
38. Finney,J.W.,Wilbourne, P.L.,& Moos,R.H.(2007). Điều trị tâm lý xã hội cho
người rối loạn sử dụng chất gây nghiện. (Trong P.E.Nathan & J.M. Gorman
(Eds). Hướng dẫn điều trị hiệu quả (tái bản lần 3., tr.179-202)
39. Gina A. Yap (2014), “Nghề Công tác xã hội- nền tảng triết lý và kiến thức.
Nxb Hồng Đức”
40. General Assembly - Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Phiên họp đặc biệt thứ 30.
41. Nguyễn Trung Hải (2013), Quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy,
Giáo trình, Nxb Lao động- Xã hội.
42. Trần Hậu – Đoàn Minh Tuấn (2012), Phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta đến
năm 2020 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
43. Nguyễn Phong Hòa, Đặng Ngọc Hùng (1994), Ma túy và những vấn đề công
tác kiểm soát ma túy, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Hồi (2013) Tổng quan về phát triển nghề CTXH tại Việt Nam,
Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế: Nâng cao tính chuyên nghiệp CTXH vì
phát triển và hội nhập, Hà Nội, tháng 11/2013 NXB ĐH Sư Phạm.
45. Hội đồng kiểm soát ma túy Quốc tế (2016), Chuẩn quốc tế về điều trị rối loạn
nghiện chất”. Hội đồng kiểm soát ma túy Quốc tế thông qua kỳ họp thứ 59
tháng 3/2016 tại Viên Áo.
46. Bùi Quang Huy (2011), Cai nghiện ma túy và Game online, Nxb Y học.
47. Hunt, M.C. & Jensen, J.L. (2003). Tình trạng bệnh tật ở những người nghiện
ma túy cao tuổi. Tạp chí Người Lão lão khoa, 60 (4), 45-61.
48. Hunt, M.C. & Jensen, J.L. (2007), “Lạm dụng chất gây nghiện và sức khoẻ
tâm thần trong số những người già ở cộng đồng”. Tạp chí Quốc tế về Tâm
thần Người lớn, (2007) 24 (9), 1124-1135.
49. Hunt, M.C. & Pour, B. (2004). Điều trị methadone và đánh giá cá nhân. Tạp
chí Thuốc Lạm dụng, 45 (5), 15-26.
164
50. Hunt, M.C., Jensen, J.L. và Merryle, R. (2008). Người nghiện cao tuổi: các
tài liệu dân tộc học của người sử dụng ma túy cao tuổi. NY, NY: W. W.
Norton & Company.
51. Hunt, M.C., Wiechelt, S.A. & Merryle, R. (2008). “Dự đoán nhu cầu điều trị
lạm dụng chất gây nghiện của người cao tuổi”. Tạp chí Y tế Công cộng Hoa
Kỳ, 45 (2), 236-245.
52. Phan Thị Mai Hương (2005), Tìm hiểu đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh xã hội
của thanh niên nghiện ma túy và mối tương quan giữa chúng. Luận án tiến sĩ
Tâm lý học, Viện Tâm lý học (Viện Khoa học xã hội Việt Nam)
53. Tiêu Thị Minh Hường, Nguyễn Thị Vân (2012), Giáo trình Công tác xã hội
với người sử dụng ma túy. Đại học Lao động xã hội.
54. Tiêu Thị Minh Hường (2015). Nhu cầu việc làm của người nghiện sau cai,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
55. Tiêu Thị Minh Hường (2014), Nhu cầu việc làm của người nghiện ma túy sau
cai. Luận án tiến sĩ tâm lý học.
56. Nguyễn Hải Hữu (2013), CTXH và mô hình cung cấp dịch vụ Bảo vệ Trẻ em,
Nxb Lao động
57. Nguyễn Hải Hữu (2009), Phát triển mạng lưới xã hội và nhân viên công tác xã
hội, Kỷ yếu hội thảo Quốc gia Phát triển nghề CTXH (Đà Nẵng), NXB Thống kê.
58. Phú Kiều (2016), Nghiên cứu triển khai, đánh giá hiệu quả của thuốc
Cedemex trong hỗ trợ điều trị nghiện ma túy nhóm Opiates tại cộng đồng,
59. Bùi Thị Xuân Mai (2012), Giáo trình nhập môn Công tác xã hội. Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
60. Bùi Thị Xuân Mai (2014), Chất gây nghiện và xã hội. Nhà xuất bản Lao động
xã hội.
61. Bùi Thị Xuân Mai – Nguyễn Tố Như (2014), Giáo trình tham vấn điều trị
nghiện ma túy. Đại học Lao động Xã hội.
62. Bùi Thị Xuân Mai (2014), Nghề công tác xã hội. Phát triển mạng lưới cung
cấp dịch vụ xã hội và nhân viên công tác xã hội).
63. Martin SS, Scapitti FR (1993), Hiệu quả trong việc kết nối, điều phối các dịch
vụ dành cho người sử dụng ma túy”
165
64. Nguyễn Văn Minh và cộng sự (2004), Các giải pháp tạo việc làm tại cộng
đồng cho người nghiện ma túy, người mại dâm sau khi chữa trị phục hồi, Đề
tài cấp Bộ, Cục phòng chống tệ nạn xã hội- Bộ LĐTB&XH, Hà Nội.
65. Lê Hồng Minh (2010), Tổ chức chương trình tư vấn hướng nghiệp cho thanh
niên sau cai nghiện ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo
dục, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
66. Merryle, R. & Hunt, M.C. (2004). Việc sử dụng các hệ thống phân phối
nicotine khác nhau do những người nghiện nicotine lớn tuổi hơn”. Tạp chí
Người cao tuổi, 54 (1), 24-41. PMCID: PMC9112304;
67. Merryle, R. & Hunt, M.C. (2005). “Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cotinine
ở những người sử dụng nicotine lớn tuổi” được in trên “Tạp chí Người cao
tuổi, 38 (2), 9-23. PMCID: PMC9002364)
68. Vũ Thị Thanh Nhàn (2012), Nghiên cứu phân tích tình hình người sử dụng ma túy
ở Việt Nam dựa trên cách tiếp cận Quyền và nhu cầu, NXB Lao động – Xã hội.
69. Quốc Hội nước CHHCNVN (2000), Luật Phòng chống ma túy, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
70. Trần Nhu, Hồ Bá Thâm (2008), Quản lý, dạy nghề và phục hồi nhân cách cho
người sau cai nghiện, vấn đề và kinh nghiệm ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà
xuất bản Lao động xã hội.
71. Phạm Hữu Nghị (2017), Bài giảng Luật pháp chính sách đối với nghề Công
tác xã hội Việt Nam. Học viện Khoa học xã hội
72. Võ Thị Lan & Hạ Minh Tuấn (2013), Đánh giá mức độ hài lòng của khách
hàng đối với chất lượng dịch vụ chuỗi cửa hàng tiện lợi Co.op Food trên địa
bàn TP.HCM, Tạp chí phát triển kinh tế, 278, 39-49.
73. Chu Thị Kim Loan (2016), “Chất lượng tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế,
nghiên cứu tại Chi cục Thuế Bắc Ninh”. Tạp chí tài chính kỳ 1 số tháng 4 năm
2016, p 56.
74. Pan S, Jiang H, Du J, Chen H, Li Z, Ling W, et al. (2015). “Hiệu quả của liệu
pháp hành vi nhận thức về sử dụng thuốc phiện và duy trì thuốc thay thế
Methadone”. (Điều trị duy trì ở Trung Quốc: Một nghiên cứu ngẫu nhiên thử
nghiệm. PLoS ONE 10 (6): e0127598. Doi: 10.1371 /Journal.pone.0127598).
166
75. Mai Xuân Phương (2013), “Đặc điểm tâm sinh lý và kỹ năng tiếp cận người
nghiện ma túy”. http://vtr.org.vn/nghien-ma-tuy-ban-chat-nghien-ma-tuy-va-
tac-hai.html
76. Phạm Văn Quyết & Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã
hội học (MS - 463), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
77. Bùi Đình Thanh (2004), Xã hội học và Chính sách xã hội, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr 290.
78. Trương Bảo Thanh (2013), Chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế
góp phần thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế chủ
đề: "Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế", Học viện
Chính trị Khu vực I, Hà Nội.
79. Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng
ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2007.
80. Thủ tướng Chính phủ (2011),“Quyết định số 1001/2011/QĐ-TTg ngày
27/6/2011, phê duyệt kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm
soát ma túy ở Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trong lĩnh vực
cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện giai đoạn 2012-2015.
81. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày
07 tháng 4 năm 2017 “Chương trình phòng chống ma túy đến năm 2020”
https://baomoi.com/nghien-cuu-lap-toa-an-ma-tuy-xem-nghien-ma-tuy-la-
benh/c/22528862.epi
82. Nguyễn Thị Mai Trang (2006), “Chất lượng dịch vụ, sự thỏa mãn và lòng
trung thành của khách hàng siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí
83.
Phát triển Khoa học và Công nghệ, 9 (10) 2006), 57-70.
Lê Trung Tuấn (2014) và các cộng sự, “Nhận thức của học sinh, sinh viên về
các hoạt động truyền thông phòng chống ma túy trong trường học”; “Xóa bỏ
sự lệ thuộc vào ma túy bằng ngôn ngữ tình cảm”. Viện nghiên tâm lý người
84.
sử dụng ma túy.
Lê Trung Tuấn, Hạ Thị Kim Cúc và cộng sự (2015), “Nghiên cứu nguyên
nhân tái sử dụng, tái nghiện ở người cai nghiện ma túy”. Viện nghiên cứu tâm
85.
lý người sử dụng ma túy.
Lê Trung Tuấn (2016) và cộng sự,“Chống tái nghiện ma túy bằng liệu pháp
tâm lý”. Viện nghiên cứu tâm lý người sử dụng ma túy.
167
86. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2011, 167), Nxb Từ điển Bách Khoa
87. Mạc Văn Trang- Lê Trung Tuấn (2016), “Phương pháp chống tái sử dụng ma
túy bằng liệu pháp tâm lý”. Hà nội, tháng 11 năm 2016.
88. Hà Thị Thư (2016). “Sự chuyên nghiệp trong dịch vụ công tác xã hội đối với
89. Trần Kiên Trung (2013) – “Đánh giá nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH tại Việt
các nhóm đối tượng yếu thế”. Hội thảo khoa học.
Nam” – Kỷ yếu hội thảo “Xác định ngày CTXH Việt Nam”, Hà Nội, tháng 12/2013.
90. Trung ương đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1995) với nghiên cứu:
“Tổng luận phân tích về phòng chống lạm dụng ma túy trong thanh niên và
những giải pháp của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tham gia phòng
91. Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS (CREATA) - Đại học Y Hà Nội
chống ma túy trong thanh niên”
(2013),“Thực trạng và nhu cầu lồng ghép can thiệp và điều trị nghiện chất tại
các cơ sở điều trị ngoại trú HIV ở Hà Nội năm 2013”.
92. Trung tâm nghiên cứu Quốc tế chứng nhận và Đào tạo cho Cán bộ điều trị
nghiện (ICCE) (2018), “Giáo trình điều trị toàn cầu rối loạn sử dụng chất
93.
(UTC)”. Colombo Plan.
Trường Đại học Lao động xã hội (2012), Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với
người khuyết tật, người nhiễm HIV, nghiện ma túy, người mại dâm, Nxb Lao
động – Xã hội, Hà Nội.
95. Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội (2008), “Nghiên cứu các biện pháp giáo dục
94. SCDI (2016), Tài liệu tập huấn đổi mới công tác cai nghiện ma túy.
phòng chống ma túy trong các trường học”. Nhà xuất bản Bộ giáo dục.
96. UNCEF – Cục bảo trợ xã hội (2009), “Trung tâm dịch vụ Công tác xã hội-
Mô hình đề xuất cho Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia Phát triển nghề
Công tác xã hội (Đà Nẵng)”. Nxb Thống Kê.
97. Vũ Đức Việt (2013), “Nghiên cứu mạng lưới hỗ trợ giữa những người nghiện
chích ma túy tại Việt nam”
98. Viện Nghiên cứu và Phát triển xã hội (2011), Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với
người nghiện ma túy (Tài liệu hướng dẫn hoạt động), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
99. Viện nghiên cứu Hoa Kỳ - (AIR) (2004). “Hướng dẫn lâm sàng về Sử dụng
Buprenorphine trong Điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện. Phác đồ cải thiện
điều trị TIP 40”, (Viện nghiên cứu Hoa Kỳ - (AIR), Bộ Y tế và Dịch vụ xã hội
168
Hoa Kỳ (DHHS). Cục Quản lý Dịch vụ Điều trị nghiện và Sức khỏe Tâm thần
(SAMHSA), Trung tâm quản lý Điều trị nghiện chất (CSAT) xuất bản).
100. Võ Khánh Vinh, (2015), “Về môn học: Chính sách pháp luật”, Tạp chí Nhân
101. Nguyễn Như Ý (1999), “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nxb Văn hóa
102. http://www.phapluatplus.vn/tong-thong-indonesia-cho-phep-ban-ke-van-
lực Khoa học xã hội, số 09/2015
103. http://thanhnien.vn/the-gioi/tong-thong-duterte-ngung-cuoc-chien-chong-ma-
chuyen-ma-tuy-chong-doi-d49028.html
tuy-787418.html)
104. https://vn.sputniknews.com/science/201805125392842-diem-mat-nhung-loai-
ma-tuy-nguy-hiem-nhat/
105. https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/bo-truong-cong-an-xem-xet-xu-ly-
hinh-su-nguoi-su-dung-ma-tuy-538538.html
Tài liệu Tiếng Anh.
106. Alan F, Leshner (1997), “Addiction is a Brain Disease, and It Matters” in
Magazine Frontier in neuroscience: The science of substaince abuse.
107. Allen Rubin (2007), Statistics for Evidence – Based Practice and Evaluation,
Brooks/Cole, Cengage Learning, 10 David Drive Belmont, CA 94002-3098,
Printed in Canada.
108. Anscombe. B (2006), Working with “at risk” young people with alcohol
inhalant and other drug problems, Printed at Charles Sturt University.
109. Alexander S. Preker - April Harding, The Economics of Public and private
Roles in Health Care: Insights from Institutional Economics and
Organizational Theory.
110. Arun Kumar G., Manjunath S. J., Naveen Kumar H. (2012), “A study of retail
service quality in organized retailing”, International Journal of Engineering
and Management Sciences, 3 (3), 370-372.
111. Bauld L. Hay. G, McKell J and Corroll C(2010), Problem drug users’
experiences of benefit system, A report of research carried out by the
University of bath and the University of Glassgow in England
112. Becker, Norman E. Zinberg (1986), “Drug set, and setting. Yale University
Press
169
113. Craig Reinarman, Harry G. Levine, Harry Levine (1997), “Crack In America:
Demon Drugs and Social Justice”, University of California Press,
114. Broderick, A. J., Vachirapornpuk, S. (2002), “Service quality in internet
banking: the importance of customer role”, Marketing Intelligence &
Planning, 20 (6), 327-35.
115. Brogowicz, A. A., Delene, L. M., Lyth, D. M. (1990), “A synthesised service
quality model with managerial implications”, International Journal of Service
Industry Management, 1 (1), 27-44.
116. Charles L.Thomson & Donna A. Henderson (2007,), “Counseling Children”,
Brooks/Cole Cengage Learning, Printed in The United States of America.
117. Cronin, J. J., Taylor, S. A. (1992), “Measuring service quality: a
reexamination and extension”, Journal of Marketing, 6, 55-68.
118. Consuelo G.S., Jesus A.O, Twila G.P., Bella,P.R., and G.U.Gabriel.(2007),
“Research methods”. Rex Printing Company, Inc;
119. Dabholkar, P. A., Shepherd, C. D., Thorpe, D. I. (2000), “A comprehensive
framework for service quality: An investigation of critical conceptual and
measurement issues through a longitudinal study”, Journal of Retailing, 76
(2), 131-9.
120. Dan J. Lettieri, Mollie Sayers, Hellen Wallenstein Pearson (1980), “Theories
on Drug Abuse”, U.S Goverment Printing Office Washington D.C 201402.p7
121. Dean H. Hepworth, Ronald H. Rooney, Jo Ann Larsen (2002), Direct Social
Work Practice, Theory and Skill, (Sixth Edition) Brooks/Cole Thomson
Learning Academic Resource Center, Printed in the United States of America.
122. Dean H. Hepworth and Jo Ann Larsen (1986), Direct Social Work Practice,
Theory and Skill Homewood IL Dorsey, p 549
123. Dennis M. L., Krunztzos G. T., McDougal G. L., French M. T., Hubbard R. L
(1993), Developing training and employment programs to meet the need of
methadone treatment clients, Evaluation and Program Planning.
124. Fox. David J. (1969), The Research process in education, Printed in the
United States of America.
125. Geoffrey L. Cohen and David K. Sherman (2014). The Psychology of Change:
Self-Affirmation and Social Psychological Intervention. Annu. Rev. Psychol.
2014. 65:333–71
170
126. George, D & Mallery, P (2003). SPSS for Windows step by step: A simple guide
and reference. 13.0 update (6thed.). Boston: Allyn & Bacon.p.231
127. Gerald Corey, Theory and Practice of Counseling and Psychotherapy,
Brooks/Cole Publishing Company, 1991.
128. Magura S. Staines, Blanketz G.L., and Madison E.M. (2004), The
Effectiveness of Vacational Services for Substance Users in Treatment,
National Development and Reseach Institutes, New York, USA.
129. Nacy Boyd Webb (2003), “Social work Practice with Children” Printed in The
United States of America.
130. Neukrug, ED (1998), The world of counselor, An introduction to the
counseling profession, Brooks/Cole Publishing Company, International
Thomson Publishing Company, USA.
131. Fracis Heng (2011), “Social work in the field of drug abuse”. Document
workshop SIF, Hanoi..
132. Johnson. Louise C. & Yanca.Stephen J. (2007), Social work Practice, a
generalist Approach (ninth Edition), Brooks/Cole Publishing Company
Pearson Education, Printed in the United States of America.
133. Kenneth C. B., Lee C.D., Dimon C.J. (2001), A Promissing Approach to
Welfare Reform and Substance- Abusing Wome, Columbia University.
134. Kidorf M., Neufeld K., and Brooner R. (2004), Combining Stepped – Care
Approaches with Behavioral Reinforcement to Motivate Employment in
Opioid-Dependent Outpatients, Johns Hopkins University, USA.
135. Klee H, MCHilary Klee L, McLean I and Yavorsky C (2002), Employing drug
users, Individual and systemic barriers to rehabilitation, Printed by York
Publishing Services Ltd.
136. Kotler, Philip & Zaltman, Gerald (July 1971). "Social Marketing: An
Approach to Planned Social Change". Journal of Marketing. 35 (3). pp. 3–12.
137. Pamela Halse, Nonkululeko Moeketsi, Sipho Mtombeni, Genna Robb, Thando
Vilakazi and Yu-Fang Wen (2004), The role competition policy in healthcare
markets, Competition Commission of South Africa.
138. Patricia Getty (2006), “Core Competencies for Social Workers in Addressing
the Needs of Children of Alcohol and Drug Dependent Parents”, National
Association for Children of Alcoholics.
171
139. Parasuraman.A, V.A Zeithaml, & Leonard.L. Berry (1985), A Conceptual
model ofservice quality and its implication for future research, Journal of
marketing
140. Rubin, A & Babbi, E.R (2005). Research methos for social work (5th Ed).
Belmont,CA: Brooks/Cole.(p.186)
141. Robert L. Dupont and Avram Goldstein, John O’donnell (1979), Handbook on
Drug Abuse, U.S Goverment Printing Office Washington D.C 20402
142. Sarah Galvani (2015), Alcohol and other Drug Use: The Roles and
Capabilities of Social Workers, The University for World-Class Professionals
and Manchester Metropolian University.
143. Shepard. Reif s., (2004), The value of vocational rehabilitation in substance
abuse treatment: a cost-effectiveness framework, Substance Use & Misuse,
This issue.
144. Siegal H.A., Fisher J. A., Rapp R.C., Kelleher C.W., Wagner J.H., O’Brien
W.F., Cole A. (1996), Enhancing substance abuse treatment with case
management: its impact on employment, Substance Abuse Treatment.
145. Van T. Nguyen, (2008), Drug abuse among young adults in Viet Nam: the
influence of family, peers, and society. Degree of Doctor of Philosophy,
University of Texas at Arlington in Partial Fulfillment.
146. Zastrow C.(1985). The practice of social work (2nd ed). Homewood IL Dorsey
172
PHỤ LỤC SỐ 1
Bảng 3.25 Tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của NSDMT cai nghiện
STT
Tình trạng sức khỏe thể chất
Tần suất (f)
Tỷ lệ (%)
Yếu
74
20,11
1
Khỏe mạnh
148
40,22
2
Bình thường
59
16,03
3
Rất khỏe mạnh
37
10,05
4
Tình trạng sức khỏe tinh thấn
(f)
(%)
Không ổn định
37
10,05
1
Ổn định
230
62,5
2
Rất ổn định
59
16,02
3
Bình thường
42
11,43
4
Bảng 3.26. Mức độ tham gia các dịch vụ giáo dục truyền thông của NSDMT
sử dụng ma túy tại CSCN. (N=368)
Các mức độ tham gia tiếp cận
1
1 lần/
3
6
Điểm
Thứ
STT
Các hoạt động truyền thông
lần/1
1
tháng
tháng/1
TB
bậc
tuần
tháng
1 lần
lần trở
lên
Dịch vụ giáo dục truyền thông can thiệp dự
3
1
phòng tái nghiện
30.16
27.72
29.89
12.23
2.75
Lớp tập huấn nâng cao nhận thức kỹ năng về
5
2
dư phòng tái nghiện
23.37
24.18
42.39
10.05
2.60
Dịch vụ giáo dục truyền thông về ma túy, tác
3
hại và hậu quả của ma túy
16.03
66.58
15.21
2.17
2.96
2
Dịch vụ truyền thông, vận động người nghiện
7
4
ma túy tham gia chương trình sử dụng
Methadone thay thế tại cộng đồng
3.26
12.23
47.83
36.68
1.82
Dịch vụ giáo dục truyền thông tái hòa nhập
6
5
cộng đồng
4.08
15.76
51.36
28.80
1.95
Dịch vụ tuyền truyền nâng cao nhận thức về
4
6
ma túy và cách phòng chống ma túy
24.18
33.97
29.62
12.23
2.70
Giáo dục truyển thông thay đổi nhận thức,
7
thái độ và hành vi sử dụng ma túy
53.80
44.02
2.17
0
3.51
1
Điểm trung bình chung
2.61
173
Bảng 3.27. Đánh giá chất lượng, hiệu quả dịch vụ thông qua các tiêu chí
Mức độ đánh giá của NSDMT tại Cơ sở
Các tiêu chí đánh
CSCN 05 (N=154)
CSCN 01(N=214)
Tổng (N=368)
Cr,
Sig
STT
Alpha
giá dịch vụ
Std,
Mean
Std,
Std,
Mean
Mean TB
Deviation
TB
Deviation
Deviation
1
Điều
kiện,
trang
1,85
0,440
2,13
0,529
2,01
7
0,511 0,000 0,901
thiết bị, dụng cụ đầy
đủ, phù hợp
2
Hình thức và văn
hóa cư xử của đội
1,89
0,436
2,06
0,419
1,99
8
0,433 0,000 0,902
ngũ cung cấp dịch
vụ
3 Môi trường, không
2,02
0,542
2,26
0,560
2,16
1
0,564 0,000 0,912
gian cung cấp dịch
vụ
4
Trình độ, năng lực
1,82
0,464
2,06
0,504
1,96 10
0,502 0,000 0,901
của đội ngũ nhân
viên tại Cơ sở
5
Thái độ ân cần, niềm
nở và nhiệt tình của
1,81
0,454
1,98
0,469
1,91 11
0,469 0.001 0,901
đội ngũ nhân viên tại
cơ sở
6
Nhân viên cung cấp
dịch vụ luôn thể hiện
1,84
0,464
2,21
0,462
2,05
4
0,498 0,000 0,895
phong cách phục
lịch sự, trang nhã
7
Nhân viên luôn sẵn
sàng hỗ trợ và đặc
biệt
là giải quyết
1,81
0,468
2,17
0,522
2,02
6
0,529 0.000 0,896
nhanh các khiếu nại,
thắc
mắc
của
NSDMT
8
Dịch vụ cung cấp
1,86
0,434
2,21
0,462
2,06
3
0,483 0,000 0,896
phù hợp, luôn đúng
hẹn và đáng tin cậy
9
Nhân viên phục vụ
luôn mong muốn
1,84
0,478
2,19
0,533
2,04
5
0,538 0,000 0,896
đáp ứng nhu cầu cho
NSDMT
174
10
Tính hữu hiệu của
dịch vụ, cung cấp
1,88
0,457
2,23
0,474
2,08
2
0,496 0,000 0,896
dịch vụ theo nguyên
tắc và quy trình cung
cấp dịch vụ
11 Nhân viên cung cấp
dịch vụ luôn lịch sự
1,82
0,513
2,10
0,661
1,98
9
0,617 0,000 0,906
và quan tâm thăm
hỏi tới từng NSDMT
12 Nhân viên luôn thể
hiện sự quan tâm,
1,84
0,450
1,58
0,635
1,69 12
0,578 0,000 0,923
chăm sóc đến từng
NSDMT
Điểm trung bình chung
1,996
0,910
175
Phụ lục số 2. Bảng tổng hợp khách thể nghiên cứu
Số lƣợng
Phƣơng pháp
Khách thể nghiên cứu
Tổng số
Cơ sở cai
Cơ sở cai
nghiên cứu
nghiện số 01
nghiện số 05
Phỏng vấn sâu
Học viên cai nghiện ma túy
10
10
20
Cán bộ quản lý học viên trong cơ sở
03
03
06
cai nghiện
Cán bộ lãnh đạo cơ sở cai nghiện
01
01
02
Người nhà học viên cai nghiện
01
01
05
Cán bộ Cục Phòng chống tệ nạn xã
01
hội
Cán bộ Chi cục phòng chống tệ nạn xã
01
hội
Tổng số
35
Điều tra bằng bảng
Học viên nam
214
154
368
hỏi
Xin ý kiến chuyên
Các nhà nghiên cứu chuyên sâu về
03
ma túy
gia
Giảng viên các trường ĐH, Học viện
05
Các nhà thực hành (điều trị nghiện
05
ma túy)
Chọn mẫu nghiên cứu: NCS sử dụng phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên, dựa vào Công
thức chọn mẫu Slovin.
Theo số liệu cung cấp bởi Sở Lao động và Thương binh xã hội Hà Nội năm 2017,
hiện nay số HVCN đang được quản lý tại 07 Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động
– Xã hội (Cơ sở cai nghiện- CSCN) thành phố Hà Nội là khoảng 2225 người). Vậy, tổng
số mẫu nghiên cứu là 368 người. CSCN số 01 là 214 học viên cai nghiên(HVCN), CSCN
số 05 là 154 HVCN.
Sở dĩ chọn mẫu như trên trong trường hợp quy mô tổng thể nghiên cứu nhỏ và kích
thước tổng thể đã biết, tác giả sử dụng công thức Slovin để tiến hành xác định số mẫu tối
thiểu cho nghiên cứu như sau:
n =
Trong đó:
N - tổng số người sử dụng tại Cơ sở cai sử dụng
n: tổng số mẫu cần tiến hành khảo sát tại Các Cơ sở cai sử dụng
e: mức sai số cho phép, nghiên cứu này sử dụng mức sai số là 5%.
Như vậy, số mẫu tối thiểu cần để tiến hành khảo sát ở các Cơ sở cai sử dụng là:
n =
= 339,1
=
176
Tuy nhiên, để giảm bớt sự sai số và gia tăng tính đại diện, tác giả đã chọn 368 người sử
dụng tại các Cơ sở cai sử dụng đưa vào mẫu nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn
ngẫu nhiên và phân bổ theo tỷ lệ căn cứ vào một số tiêu chí: địa bàn, cơ cấu giới tính; độ
tuổi, trình độ và nghề nghiệp. Tác giả nghiên cứu tập trung khảo sát tại 02 Trung tâm (Cơ
sở cai sử dụng): Trung tâm chữa bệnh - giáo dục – lao động - xã hội số 01, Yên Bài, Ba Vì,
Hà Nội là 214 người (theo công thức Slovin mẫu tối thiểu là 179 người vì Trung tâm đang
quản lý 323 người); Trung tâm chữa bệnh - giáo dục – lao động - xã hội số 05 Xuân
Phương, Từ Liêm, Hà Nội là154 người (Hiện nay, Trung tâm đang quản lý là 250 học viên,
vậy mẫu tối thiểu cần nghiên cứu theo công thức Slovin là 153,8 người).
NCS thiết kế bảng hỏi gồm 2 phần, phần 1 là những thông tin chung, phần 2 là
những thông tin chính. Phần 2 bao gồm 19 câu hỏi, trong đó có 4 câu hỏi mở và 15 câu hỏi
đóng nhằm tìm hiểu về nhận thức, nhu cầu của người sử dụng ma túy về dịch vụ CTXH,
các loại hình dịch vụ CTXH, nội dung và hình thức, chủ thể cung cấp của từng loại dịch vụ
và mức độ thường xuyên tiếp cận, sử dụng các loại hình dịch vụ này để thấy được bức
tranh về thực trạng cung cấp dịch vụ này tại cơ sở như thế nào? Đồng thời tìm hiểu về chất
lượng dịch vụ thông qua việc đánh giá của học viên về mức độ hài lòng và mức độ tốt,
chưa tốt. Với các câu hỏi 3 mức độ, chúng tôi tiến hành cho điểm, mức rất tốt, Rất hài
lòng, Rất quan trọng, Rất thường xuyên được 3.0 điểm; mức Tốt, Hài lòng, Quan trọng,
Thường xuyên được 2.0 điểm, mức không Chưa tốt, Không hài lòng, Không thường xuyên,
không quan trọng thì được 1.0 điểm. Nếu điểm trung bình
nhóm đạt từ 2.5 -3.0 là mức độ
cao, nếu điểm trung bình của nhóm đạt từ 1.9 - 2.4 là mức trung bình, điểm trung bình đạt từ
1.8 trở xuống là thấp. Căn cứ vào giá trị trung bình, chúng tôi xếp thứ bậc theo thứ tự số điểm
trung bình từ cao tới thấp. Dựa vào đó có thể biết được nhận thức của HVCN về tầm quan
trọng, sự hài lòng, mức độ tham gia thường xuyên cũng như việc đánh giá chất lượng, hiệu quả
các dịch vụ CTXH ở mức độ nào?
Với những câu hỏi 4 mức độ trả lời, chúng tôi cũng cho điểm: Mức “Rất tốt”, “Rất
thường xuyên”…được 4.0 điểm, Mức “tốt”, “Thường xuyên ”được 3.0 điểm, mức “khá
tốt”, “Thỉnh thoảng” được 2.0 điểm và mức “Chưa tốt”, “Không thường xuyên” được 1.0
điểm. Nếu điểm trung bình của nhóm đạt từ 3.0 – 4.0 là mức cao, từ 1.9 đến 2.9 là trung
bình và từ 1,8 điểm trở xuống là thấp.
177
PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho người sử dụng ma túy)
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho người sử dụng ma
túy tại các Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động – Xã hội (Cơ sở cai nghiện), xin anh/chị
vui lòng đánh dấu (X) vào sự lựa chọn phù hợp cho những câu hỏi dưới đây. Câu trả lời hoàn toàn
phục vụ mục đích nghiên cứu.
1. THÔNG TIN CHUNG
1.1 Anh/chị vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân mình (Đánh dấu (X) hoặc
khoanh tròn (O)vào sự lựa chọn phù hợp)
Tuổi
Nam …..
Nữ
….
Giới tính:
……………………………………………………………………… ………………………
Họ và tên: …………………. …………………………… Quê quán:………………….. ……………………………… ………………………… Cơ sở cai nghiện (Trung tâm): ……………………………………………… ……………………………………………… Yếu
Khỏe mạnh
Rất khỏe mạnh
Không ổn định
Ổn định
Rất ổn định
Rất khó khăn/ nghèo/cận nghèo
Có điều kiện bình thường
Rất có điều kiện
Không có
Tình trạng sức khỏe thể chất hiện nay: Tình trạng sức khỏe tinh thần, tâm lý hiện nay: Điều kiện kinh tế hộ gia đình hiện nay: Mối quan hệ xã hội:
Có một vài người quen
Có một mình
Thành phần gia đình bạn hiện nay
Từ 2-3 người (Ghi cụ thể những ai)
Có rất nhiều người thân, bạn bè và người quen biết Từ 3 người trở lên (Ghi cụ thể những ai) …………..
Các loại ma túy đã sử dụng/nghiện Thời gian điều trị
Tình trạng hôn nhân
Lần đầu Số tháng……….. Số năm…………. Chưa kết hôn
Lần thứ hai Số tháng…… Số năm……. Đã kết hôn
Nghề nghiệp
Kinh doanh
Làm thuê (Tự do)
Không có việc làm
Trình độ văn hóa, chuyên môn
Tiểu học
Trung học cơ sở
Lần thứ 3 Số tháng… Số năm…... Đã ly hôn/Góa bụa Công nhân viên chức, người lao động Đại học
Phổ thông trung học
Trung cấp chuyên nghiệp
Sau đại học
178
1.2 Tổng thu nhập của gia đình (Anh/chị hãy đánh dấu (X) vào sự lựa chọn phù hợp):
Từ 2 triệu đến
Từ 5 triệu đến
Từ 10 triệu
Từ 15 triệu
Dưới 2 triệu
Hơn 20 triệu
5 triệu
10 triệu
đến 15 triệu
đến 20 triệu
2. THÔNG TIN CHÍNH
2.1 Theo anh/chị hiểu thế nào là Dịch vụ Công tác xã hội với người sử dụng ma túy?
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………...
Anh/chị vui lòng lựa chọn câu trả lời phù hợp
Không rõ
Hiểu rõ một phần
Hoàn toàn hiểu rõ
2.2 Anh/chị hãy lựa chọn nội dung phù hợp với quan điểm của anh/chị
Các mức độ
STT
Nội dung
Phân
Không
Đồng ý
vân
đồng ý
1
Dịch vụ công tác xã hội là các hoạt động dịch vụ cung
cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng
những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống
2
Dịch vụ công tác xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng
nhu cầu cho các cá nhân, nhóm người nhất định nhằm
bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội.
3
Dịch vụ Công tác xã hội là những hoạt động chuyên
nghiệp cụ thể được cung cấp nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người nhằm phòng ngừa, can thiệp, phục hồi và phát
triển thúc đẩy sự phát triển, ổn định và đảm bảo nền an
sinh xã hội. Dịch vụ công tác xã hội đáp ứng các nhu cầu
cơ bản cho từng nhóm người đặc biệt là nhóm yếu thế
khuyết tật, nghèo, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS…
4
Dịch vụ Công tác xã hội đối với người sử dụng ma túy là
những hoạt động mang lại lợi ích và thỏa mãn nhu cầu
đảm bảo sức khỏe, thể chất, việc làm và nghỉ ngơi…
179
2.3 Đối với anh/chị những dịch vụ Công tác xã hội dưới đây quan trọng và được Cơ sở tổ
chức thường xuyên ở mức độ nào?
Mức độ thực hiện thƣờng
STT
Các dịch vụ
Mức độ quan trọng
xuyên
Rất
Không
Thƣờng
Thỉnh
Không
Quan
quan
quan
xuyên
thoảng
bao giờ
trọng
trọng
trọng
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
1
Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
2
Dịch vụ tư vấn/ tham vấn cá nhân
3
Dịch vụ tư vấn/tham vấn gia đình
4
Dịch vụ tư vấn, sinh hoạt nhóm.
5
Dịch vụ hỗ trợ học nghề
6
Dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm
7
Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến cơ
8
sở đào tạo nghề
Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến cơ
9
sở sử dụng lao động
10
Dịch vụ hỗ trợ sàng lọc, đánh giá
mức độ nghiện
11
Dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV/
Viêm gan B,C
12
Dịch vụ hỗ trợ can thiệp dự phòng
tái nghiện
13
Dịch vụ hỗ trợ cắt cơn giải độc.
14
Dịch vụ hỗ trợ điều trị khi bệnh
nhân xuất hiện hội chứng cai (lên
cơn vật)
15
Dịch vụ hỗ trợ điều trị trạng thái đói
ma tuý trường diễn.
16
Dịch vụ giáo dục truyền thông
17
Các dịch vụ khác (xin vui lòng ghi
rõ, cụ thể)
………………….
180
2.4 Anh/chị có nhu cầu và mong muốn sử dụng những dịch vụ dưới đây ở mức độ nào?
Mức độ nhu cầu
STT
Các dịch vụ
Rất cao/ Rất
Cao/ Mong
Không cao/ Không
mong muốn
muốn
mong muốn
1
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
2
Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
3
Dịch vụ tư vấn/ tham vấn cá
nhân
4
Dịch vụ tư vấn/tham vấn gia đình
5
Dịch vụ tư vấn, sinh hoạt nhóm.
6
Dịch vụ hỗ trợ học nghề
7
Dịch vụ tư vấn giới thiệu việc
làm
8
Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến
cơ sở đào tạo nghề
9
Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến
cơ sở sử dụng lao động
10
Dịch vụ hỗ trợ sàng lọc, đánh giá
mức độ nghiện
11
Dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV/
Viêm gan B,C
12
Dịch vụ tư vấn can thiệp dự
phòng tái nghiện
13
Dịch vụ hỗ trợ cắt cơn giải độc.
14
Dịch vụ hỗ trợ điều trị khi bệnh
nhân xuất hiện hội chứng cai (lên
cơn vật)
15
Dịch vụ hỗ trợ điều trị trạng thái
đói ma tuý trường diễn.
16
Dịch vụ giáo dục truyền thông
17
Dịch vụ tuyền truyền nâng cao
nhận thức về ma túy và cách
phòng chống ma túy
18
Các dịch vụ khác (xin vui lòng
ghi rõ, cụ thể)
……………………
181
2.5 Thực tế hiện nay anh/chị đã sử dụng và sử dụng thường xuyên những dịch vụ dưới đây tại
Cơ sở như thế nào?
Mức độ sử dụng thƣờng xuyên
STT
Các dịch vụ
Đã từng sử dụng
Thƣờng xuyên
Không bao giờ
Hiện trạng sử dụng Chƣa từng sử dụng
Rất thƣờng xuyên
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10
11
12
13 14 15
16
17 18
19
20
21
22
23
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế Dịch vụ hỗ trợ pháp lý Dịch vụ tư vấn/ tham vấn cá nhân Dịch vụ tư vấn/tham vấn gia đình Dịch vụ tư vấn, sinh hoạt nhóm. Dịch vụ hỗ trợ việc làm Dịch vụ hỗ trợ tư vấn học nghề Dịch vụ tư vấn giới thiệu việc làm Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến cơ sở đào tạo nghề Dịch vụ kết nối chuyển gửi đến cơ sở sử dụng lao động Dịch vụ sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện Dịch vụ xét nghiệm HIV/ Viêm gan B,C Dịch vụ dự phòng tái nghiện Dịch vụ cắt cơn giải độc. Dịch vụ điều trị khi bệnh nhân xuất hiện hội chứng cai (lên cơn vật) Dịch vụ điều trị trạng thái đói ma tuý trường diễn. Dịch vụ giáo dục truyền thông Dịch vụ tuyền truyền nâng cao nhận thức về ma túy và cách phòng chống ma túy Dịch vụ tư vấn hỗ trợ những vấn đề có liên quan đến chính sách, pháp luật Tư vấn hỗ trợ các thông tin về chính sách pháp luật đối với người nghiện ma túy Kết nối người nghiện ma túy với cơ quan liên quan đến chính sách, pháp luật Vận động người nghiện ma túy tham gia vào quá trình cai nghiện ma túy và được hưởng những quyền lợi theo quy định Các dịch vụ khác (xin vui lòng ghi rõ và cụ thể)……….... ……………………..
182
2.6 Theo anh/chị ai là người cung cấp các loại hình dịch vụ dưới đây
Bác sĩ/
Giáo
Nhân viên
Cán bộ
Y
Chuyên
STT
Các loại hình dịch vụ
viên/nhà
công tác xã
quản lý
tá/điều
gia
giáo dục
hội
đối tƣợng
dƣỡng
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
1
Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
2
Dịch vụ tư vấn/ tham vấn cá
3
nhân/gia đình và nhóm
Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm
4
việc làm
Dịch vụ giáo dục truyền
5
thông
2.7 Anh/chị được tiếp cận với những loại hình dịch vụ dưới đây được thực hiện qua hình thức nào
với mức độ ra sao?
STT
Các loại hình dịch vụ
Hình thức
Trực tiếp
Gián tiếp
1 ngày/1 lần
Mức độ tiếp cận các dịch vụ 1 tháng/1 lần
3 tháng/1 lần
1 tuần/1 lần
6 tháng trở lên/ lần
1
2 3
4
5
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế Dịch vụ hỗ trợ pháp lý Dịch vụ tư vấn/ tham vấn cá nhân/gia đình và nhóm Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm Dịch vụ giáo dục truyền thông
2.8 Anh/chị tiếp cận với dịch vụ giáo dục truyền thông qua những kênh nào dưới đây?
Mức độ tiếp tiếp cận
STT
Các kênh truyền thông
Rất thƣờng
Không thƣờng
Thƣờng xuyên
xuyên
xuyên
Qua báo chí, tài liệu
1
Qua đài, ti vi
2
Qua các buổi sinh hoạt
3
nhóm/tổ
Qua các buổi tư vấn/tham vấn
4
Qua tờ rơi
5
Qua đội ngũ cán bộ cung cấp
6
dịch vụ
Khác……..
7
183
2.9 Anh/chị thường xuyên sử dụng dịch vụ giáo dục – truyền thông theo những khía cạnh cụ thể
dưới đây ở mức độ nào?
STT
Các hoạt động
Mức độ sử dụng thƣờng xuyên
1
Lớp tập huấn nâng cao nhận
Rất
Thường
Thỉnh thoảng Không bao
thức kỹ năng về dư phòng tái
thường
xuyên
giờ
nghiện
xuyên
2
Dịch vụ giáo dục - tuyên
truyền nâng cao nhận thức về
tác hại của ma túy và cách
phòng chống ma túy
3
Giáo dục truyền thông thay
đổi nhận thức, thái độ và hành
vi tích cực
4
Giáo dục – truyền thông giảm
kỳ thị và phân biệt đối xử với
người nghiện ma túy
5
Dịch vụ giáo dục truyền
thông, vận động người nghiện
ma túy tham gia chương trình
sử dụng Methadone thay thế
Giáo dục – truyền thông vê tái
6
hòa nhập cộng đồng
Giáo dục truyền thông thay
7
đổi nhận thức, thái độ, hành vi
Truyền thông cai nghiện tự
8
nguyện
Các khía cạnh khác…
9
2.10 Anh/chị thường xuyên được tư vấn/tham vấn về những khía cạnh dưới đây ở mức độ nào?
Mức độ sử dụng thƣờng xuyên
Rất
STT
Các hoạt động
Thƣờng
Thỉnh
Không
thƣờng
xuyên
thoảng
bao giờ
xuyên
1
Tư vấn/tham vấn giải quyết vấn đề sức khỏe
thể chất
2
Tư vấn/tham vấn các vấn đề sức khỏe tinh thần
3
Tư vấn/tham vấn can thiệp khủng hoảng tâm lý
4
Tham vấn giải quyết các vấn đề mâu thuẫn
trong các mối quan hệ
184
Tư vấn/tham vấn lựa chọn giải pháp tối ưu
5
Tư vấn/tham vấn hỗ trợ về việc xây dựng kế
6
hoạch thực hiện giải quyết vấn đề
Tư vấn/tham vấn về xác định mục tiêu ưu tiên
7
(SMART)
Tư vấn/tham vấn các chiến lược đối phó với
8
cơn thèm nhớ ma túy
Tư vấn/tham vấn về cách đối phó với những
9
yếu tố cám dỗ, lôi kéo từ bạn bè xấu
Tư vấn/tham vấn quản lý căng thẳng
10
Tư vấn/tham vấn về quản lý nóng giận
11
Tư vấn/tham vấn về quản lý thời gian, thiết lập
12
cuộc sống ổn định, lành mạnh
13
Khác…
2.11 Anh/chị tiếp cận với dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc làm ở mức độ nào dưới đây?
Mức độ tiếp cận
STT
Các khía cạnh
4 lần trở
Chƣa
Một lần
Hai lần
3 lần
lên
bao giờ
Dịch vụ hỗ trợ tư vấn học
1
nghề
Dịch vụ tư vấn giới thiệu
2
việc làm
Dịch vụ kết nối chuyển gửi
3
đến cơ sở đào tạo nghề
Dịch vụ kết nối chuyển gửi
4
đến cơ sở sử dụng lao động
2.12
Theo đánh giá của anh/chị những dịch vụ dưới đây đạt chất lượng ở mức độ nào?
Mức độ đánh giá chất
Mức độ hài lòng
lƣợng
STT
Các loại dịch vụ
Rất
Hài
Không
Rất
Chƣa
Tốt
hài
lòng
hài lòng
tốt
tốt
lòng
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
1
Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
2
Dịch vụ giáo dục – Truyền thông
3
nâng cao nhận thức
185
Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc
4
làm
Dịch vụ tư vấn/tham vấn cá nhân
5
Tư vấn/ sinh hoạt nhóm
6
Tư vấn/tham vấn gia đình
7
Dịch vụ khác (Ghi rõ)…………
8
………………….
Anh/chị vui lòng cho biết những lý do dẫn đến các dịch vụ được cung cấp hiện nay lại
chưa tốt và khiến anh/chị chưa hài lòng?
……………………………………………………………………………......
………………………………………………………………………………..
2.13
Theo anh/chị đánh giá thì các dịch vụ dưới đây có hiệu quả ở mức độ nào
Mức hiệu quả
Rất
STT
Các loại dịch vụ
Không
Hiệu quả
Ít hiệu quả
hiệu
hiệu quả
quả
Dịch vụ hỗ trợ chăm sóc y tế
1
Dịch vụ hỗ trợ pháp lý
2
Dịch vụ giáo dục – Truyền thông
3
nâng cao nhận thức
Dịch vụ hỗ trợ học nghề, tìm việc
4
làm
Dịch vụ tư vấn/tham vấn
5
Dịch vụ khác (Ghi rõ)…………
6
………………….
2.14
Theo anh/chị những yếu tố dưới đây ảnh hưởng như thế nào tới chất lượng dịch vụ/hoạt
động mà anh/chị đã tham gia hay sử dụng?
STT
Các yếu tố
Các mức độ ảnh hƣởng
Ảnh hƣởng
Không ảnh
Ảnh hƣởng ít
nhiều
hƣởng
Thể chế, chính sách, pháp luật
Các văn bản, chính sách, pháp luật rõ
1
ràng, cụ thể
Nội dung văn bản hay thay đổi, không
2
cụ thể, còn nhiều bất cập
Nội dung các văn bản còn chống chéo,
3
không tách bạch
186
4
Những quy điều trong bộ luật và chính
sách cho người sử dụng ma túy còn nhiều thiếu xót, chưa thực tiễn.
Đội ngũ nhân viên tại Trung tâm
1
Cán bộ, nhân viên có sự hiểu biết sâu và
rộng về lĩnh vực nghiện ma túy và cách
điều trị, phục hồi giúp NSDMT
2
Cán bộ, nhân viên có kỹ năng giao tiếp
và tư vấn điều trị nghiện ma túy
3
Cán bộ, nhân viên có thái độ chân
thành, cởi mở với NSDMT
4
Cán bộ nhân viên, nghiêm khắc và quan
tâm, động viên tới từng NSDMT
5
Cán bộ, nhân viên biết cách chăm sóc và
động viên NSDMT kịp thời, đáng tin
cậy
6
Đội ngũ nhân viên xã hội chuyên tâm có
kiến thức, kỹ năng và thái độ phục vụ
tốt
7
Các chuyên gia hỗ trợ
8
Đội ngũ nhân viên công tác xã hội
9
Các yếu tố khác:…………..
Yếu tố từ bản thân ngƣời sử dụng ma
túy(nhận thức, thái độ, hành vi…)
1
Người sử dụng ma túy hiểu được tác hại
của ma túy và có thiện chí thay đổi
2
Người sử dụng ma túy có kiến thức và
phương pháp điều trị, dự phòng tái
nghiện
3
Người sử dụng ma túy có nhu cầu,
nguyện vọng sử dụng các dịch vụ được
cung cấp
4
Người sử dụng ma túy có thái độ thiện
chí, niềm nở tiếp nhận dịch vụ
5
Người sự dụng ma túy thường xuyên
thực hiện các hoạt động tại Trung tâm
theo sự chỉ dẫn
187
6
Người sử dụng ma túy tham gia nhiệt
tình, tích cực các dịch vụ tại Trung tâm
7
Người sử dụng ma túy có ý chí, quyết
tâm và động cơ cai nghiện ma túy,
không lạm dụng và không tái sử dụng
lại.
8
Các yếu tố khác (Ghi rõ):…
……………………………
Yếu tố từ gia đình, bạn bè và mối
quan hệ xã hội
1
Người thân trong gia đình quan tâm,
động viên chăm sóc
2
Người thân bỏ rơi và không tin tưởng
3
Người thân trách mắng và trừng phạt
4
Bạn bè lôi kéo bỏ trốn không tham gia
hoạt động
5
Mọi người xung quanh kỳ thị và phân
biệt đối xử
6
Xã hội không tạo điều kiện cho người
nghiện sau cai nghiện
7
Xã hội không tin tưởng năng lực làm
việc của những người nghiện ma túy
8
Bạn bè động viên, khích lệ từ bỏ ma túy
và làm ăn lương thiện
9
Cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ
10
Cơ sở, vật chất trang thiết bị còn thiếu
thốn
11
Dụng cụ cắt cơn, giải độc
12
Nơi ăn, chốn ở của NSDMT
13
Dinh dưỡng các bữa ăn
Những yếu tố khác……….
188
2.15
Theo anh/chị đánh giá thì những tiêu chí dưới đây thể hiện mức độ hài lòng và mức độ chất
lượng dịch vụ như thế nào?
Đánh giá mức độ chất
Mức độ hài lòng
lƣợng
STT
Các tiêu chí
Rất
Hài
Không
Chƣa
Rất tốt Tốt
hài
lòng
hài lòng
tốt
lòng
Điều kiện, trang thiết bị, dụng cụ đầy
1
đủ, phù hợp
Hình thức và văn hóa cư xử của đội
2
ngũ cung cấp dịch vụ
Môi trường, không gian cung cấp
3
dịch vụ
Trình độ, năng lực của đội ngũ nhân
4
viên tại Cơ sở
5
Thái độ ân cần, niềm nở và nhiệt tình
của đội ngũ nhân viên tại cơ sở
Nhân viên cung cấp dịch vụ luôn thể
6
hiện phong cách phục lịch sự, trang
nhã
Nhân viên luôn sẵn sàng hỗ trợ và
7
đặc biệt là giải quyết nhanh các khiếu
nại, thắc mắc của NSDMT
Dịch vụ cung cấp phù hợp, luôn đúng
8
hẹn và đáng tin cậy
Nhân viên phục vụ luôn mong muốn
9
đáp ứng nhu cầu cho NSDMT
Tính hữu hiệu của dịch vụ, cung cấp
10
dịch vụ theo nguyên tắc và quy trình
cung cấp dịch vụ
Nhân viên cung cấp dịch vụ luôn lịch
11
sự và quan tâm thăm hỏi tới từng
NSDMT
Nhân viên luôn thể hiện sự quan tâm,
12
chăm sóc đến từng NSDMT
13
Các tiêu chí khác……..
………………………
………………………
189
Nếu anh/chị chọn chưa tốt cho các yếu tố nào, vui lòng cho biết lý
do:……………………………………………………………………………
2.16
Theo anh/chị có những khó khăn hạn chế nào khi sử dụng dịch vụ công tác xã hội cho
người sử dụng ma túy?
……………………………………………………………………………………………………
Anh/chị hãy cho biết có những cách thức nào để nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ mà
anh/chị đang sử dụng?
……………………………………………………………………………………………………
Anh/chị mong muốn được sử dụng thêm những dịch vụ nào ngoài những dịch vụ anh/chị đang
sử dụng?
……………………………………………………………………………………………………
Anh/chị có đề xuất gì để cải thiện và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ đối với người sử
dụng ma túy tại Trung tâm (Cơ sở) hiện nay?
………………………………………………………………………………………………
The end.
190