VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MINH THẢO

ĐỐI CHIẾU TÊN RIÊNG NỮ GIỚI NGƢỜI ANH

VÀ NGƢỜI VIỆT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội, 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ MINH THẢO

ĐỐI CHIẾU TÊN RIÊNG NỮ GIỚI NGƢỜI ANH

VÀ NGƢỜI VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu

Mã số: 9222024

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Lê Quang Thiêm

2. PGS. TS. Hồ Ngọc Trung

Hà Nội, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tƣ

liệu và số liệu trong luận án là trung thực. Đề tài nghiên cứu và các kết quả

chƣa đƣợc ai công bố.

Tác giả luận án

Lê Thị Minh Thảo

STT DANH MỤC CÁC BẢNG Tên Bảng

Trang 41 42 42 46 48 Bảng 2.1. Chính tố trong tên nữ giới ngƣời Anh Bảng 2.2. Tiền tố trong tên nữ giới ngƣời Anh Bảng 2.3. Hậu tố trong tên nữ giới ngƣời Anh Bảng 2.4. Mô hình tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh Bảng 2.5: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên cá nhân nữ

giới ngƣời Anh theo hình thức cấu tạo

51 Bảng 2.6: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên đệm nữ giới

ngƣời Anh theo hình thức cấu tạo

55 Bảng 2.7: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên họ nữ giới

ngƣời Anh theo hình thức cấu tạo

Bảng 2.8: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên nữ giới ngƣời 66

Anh theo thành tố cấu tạo

67 67 71 Bảng 2.9. Mô hình tên ngƣời Việt của Trần Ngọc Thêm Bảng 2.10. Mô hình cấu trúc chính danh nữ giới ngƣời Việt Bảng 2.11: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên cá nhân nữ

giới ngƣời Việt theo mô hình cấu tạo

Bảng 2.12: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên đệm nữ giới 73

ngƣời Việt theo mô hình cấu tạo

Bảng 2.13: Bảng tổng hợp phân bổ số lƣợng tên nữ giới 86

ngƣời Việt theo thành tố cấu tạo

Bảng 3.1. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến các con vật đẹp 97

và đáng yêu

Bảng 3.2. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến các loài cây, hoa Bảng 3.3. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến hiện tƣợng tự 99 98

nhiên

Bảng 3.4. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến màu sắc

a. b.

Bảng 3.5. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến vật có giá trị Bảng 3.6. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến Kinh thánh Bảng 3.7. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến nhân vật trong 99 99 101 102

tác phẩm nghệ thuật

Bảng 3.8. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến tên họ có sẵn Bảng 3.9. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến tƣớc hiệu

Bảng 3.10. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến con số 103 103 104

Bảng 3.11. Tên họ liên quan đến tên gọi nghề nghiệp Bảng 3.12. Tên họ liên quan đến tên địa danh Bảng 3.13. Tên họ liên quan đến đặc điểm địa danh Bảng 3.14. Tên họ đƣợc hình thành từ tên cá nhân của cha 108 110 110 111

thêm “s”

Bảng 3.15. Tên họ đƣợc hình thành từ tên cá nhân của cha 112

thêm “son”

Bảng 3.16. Tên họ đƣợc hình thành từ tên cá nhân của cha 112

DANH MỤC SƠ ĐỒ

STT Tên sơ đồ Trang

1 Hình 2.1. Sơ đồ cấu tạo tổ hợp định danh nữ giới 39

ngƣời Anh và ngƣời Việt

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Căn tố R 1.

Hậu tố S 2.

Tiền tố P 3.

Thành tố T 4.

Trang Tr. 5.

Nhà xuất bản Nxb 6.

Tên cá nhân A 7.

Tên đệm B 8.

Tên họ C 9.

MỤC LỤC 1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 1

3. Đối tƣợng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu ........................................................ 2

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................ 3

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................................... 4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.............................................................4

7. Bố cục của luận án ................................................................................................. 4

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN ....................................................................................... 5

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................. 5

1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên người Anh ..................................................... 5

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên người Việt ................................................... 11

1.2. Cơ sở lí thuyết ............................................................................................... 18

1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về tên riêng ....................................................... 18

1.2.2. Vấn đề giới trong ngôn ngữ học ............................................................ 28

1.2.3. Nghiên cứu đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt...... 34

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 37

CHƢƠNG 2. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH .VÀ NGƢỜI VIỆT ........................................................................................ 39

2.1.

Đặt vấn đề ..................................................................................................... 39

2.2.

Cơ sở phân tích đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt 40

2.2.1. Một số lí luận về hình vị ........................................................................ 40

2.2.2. Cơ sở phân tích các thành phần cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người Việt .................................................................................................... 44

Đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh ................................................. 45

2.3.1. Mô hình chung tên nữ giới người Anh ................................................. 45

2.3.2. Các thành phần cấu tạo tên nữ giới người Anh ................................... 46

2.3.3. Các mô hình cấu tạo tên nữ giới người Anh ........................................ 56

2.4.

Đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Việt .................................................... 66

2.4.1. Mô hình chung tên nữ giới người Việt ................................................. 66

2.4.2. Các thành phần cấu tạo tên nữ giới người Việt ................................... 67

2.4.3. Các mô hình cấu tạo tên nữ giới người Việt ........................................ 77

2.5. Những nét tƣơng đồng và khác biệt về cấu tạo trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt ............................................................................................... 85

2.5.1. Những nét tương đồng về cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người Việt ......................................................................................................... 86

2.5.2. Những khác biệt về cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người Việt ........................................................................................................................... 87

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................ 93

CHƢƠNG 3. ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ VĂN HÓA - XÃ HỘI PHẢN ÁNH QUA TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH VÀ NGƢỜI VIỆT ....... 95

Đặt vấn đề ..................................................................................................... 95

3.1.

3.2.

Đặc điểm nghĩa của tên nữ giới ngƣời Anh ............................................... 96

3.2.1. Đặc điểm nghĩa của tên cá nhân nữ giới người Anh ........................... 96

3.2.2. Đặc điểm nghĩa của tên đệm nữ giới người Anh ............................... 104

3.2.3. Đặc điểm nghĩa của tên họ nữ giới người Anh .................................. 105

3.3.

Đặc điểm nghĩa của tên nữ giới ngƣời Việt.............................................. 112

3.3.1. Đặc điểm nghĩa của tên cá nhân nữ giới người Việt ......................... 112

3.3.2. Đặc điểm nghĩa của tên đệm nữ giới người Việt ................................ 119

3.3.3. Đặc điểm nghĩa của tên họ nữ giới người Việt .................................. 122

Những nét tƣơng đồng và khác biệt về nghĩa và văn hóa - xã hội đƣợc 3.4. phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt ...................................... 123

3.4.1. Những nét tương đồng về nghĩa và văn hóa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới người Anh và người Việt .................................................................. 123

3.4.2. Những khác biệt về nghĩa và văn hóa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới người Anh và người Việt ........................................................................ 125

Tiểu kết chƣơng 3 .............................................................................................. 145

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN ...................................................... 151

MỞ ĐẦU

1. 1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Trong mỗi cộng đồng, mỗi ngôn ngữ khác nhau, tên ngƣời (nhân danh)

không chỉ đơn thuần là những kí hiệu dùng để định danh mà còn chứa đựng

những dấu ấn về lịch sử, xã hội và truyền thống văn hoá đặc trƣng cho mỗi

cộng đồng dân tộc đó. Tên nữ giới ngƣời Anh và Việt cũng vậy, vừa mang đặc

trƣng của ngôn ngữ, vừa là ánh xạ phản chiếu đặc điểm văn hoá - xã hội. Do

đó, thông qua việc nghiên cứu tên nữ giới, chúng tôi có thể tìm hiểu đƣợc

những đặc trƣng về ngôn ngữ và văn hóa – xã hội thể hiện qua tên nữ giới ở

mỗi quốc gia.

1.2. Tên ngƣời nói chung và tên nữ giới nói riêng chiếm một vị trí rất quan

trọng trong hệ thống tên riêng. Trong mỗi ngôn ngữ, tên nữ giới có những đặc

điểm riêng. Xét về số lƣợng, nữ giới là lực lƣợng chiếm phân nửa dân số nhân

loại. Điều đó cũng có nghĩa là số lƣợng tên nữ giới chiếm phân nửa số lƣợng

tên ngƣời trên thế giới. Với số lƣợng rất lớn nhƣ vậy, đây chính là một nguồn

ngữ liệu hết sức phong phú để tìm hiểu và phân tích. Hơn nữa, việc nghiên

cứu tên nữ giới góp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu trong

ngôn ngữ học xã hội về giới cũng nhƣ trong ngôn ngữ và văn hoá - xã hội nói

chung.

1.3. Theo nguồn tƣ liệu mà chúng tôi tiếp cận đƣợc, hiện vẫn còn thiếu

vắng những công trình nghiên cứu so sánh đối chiếu về tên ngƣời Anh và

ngƣời Việt nói chung và đặc biệt là tên nữ giới nói riêng.

Từ những lí do nêu trên, để giúp ngƣời Anh và ngƣời Việt, đặc biệt là

ngƣời học và nghiên cứu về hai ngôn ngữ này hiểu đƣợc những đặc điểm

ngôn ngữ, văn hoá, xã hội hàm chứa trong tên nữ giới, chúng tôi chọn vấn đề

“Đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt” làm đề tài luận án.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua việc khảo sát và đối chiếu tên riêng (chính danh) nữ giới ngƣời

1

Anh và ngƣời Việt, mục đích của luận án là góp phần hệ thống những lí luận

về tên riêng nói chung, tên nữ giới nói riêng và làm rõ những điểm tƣơng

đồng và dị biệt về cấu tạo, ý nghĩa và văn hóa - xã hội đƣợc phản ánh qua tên

nữ giới ở hai ngôn ngữ.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nhƣ trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu nhƣ sau:

- Xây dựng hệ thống cơ sở lí thuyết cho toàn bộ nghiên cứu thông qua

điểm luận một số vấn đề lí thuyết quan trọng về danh xƣng học, tên riêng, tên

ngƣời nói chung và tên nữ giới nói riêng và lí thuyết về so sánh đối chiếu.

- Miêu tả, phân tích các đặc điểm cấu tạo tên riêng nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt. Từ đó, phân tích đối chiếu để tìm ra những nét tƣơng đồng và dị

biệt về cấu tạo trong tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

- Miêu tả, phân tích đặc điểm ngữ nghĩa trong tên riêng nữ giới ngƣời Anh

và ngƣời Việt. Từ đó, phân tích đối chiếu để tìm ra những tƣơng đồng và dị

biệt về nghĩa, cũng nhƣ về văn hóa – xã hội phản ánh qua tên riêng nữ giới

ngƣời Anh và ngƣời Việt.

2. 3. Đối tƣợng và phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tên chính danh của nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt, trong đó bao gồm cả phần tên họ, tên đệm và tên cá nhân.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ giới hạn ở việc phân tích tên (chính

danh) của nữ giới ngƣời Anh tại Anh (England) mà không phải tên nữ giới

ngƣời Anh trên toàn Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland. Đối với tên

nữ giới ngƣời Việt, luận án cũng chỉ giới hạn phân tích tên của nữ giới ngƣời

Kinh tại Việt Nam.

Cách tiếp cận vấn để nghiên cứu của luận án cơ bản là nghiên cứu so sánh

đối chiếu đồng đại, để tìm ra sự giống và khác nhau giữa các bình diện đƣợc

đƣa vào đối chiếu. Do đó, dù nguồn ngữ liệu để phân tích của luận án là nguồn

ngữ liệu hiện đại (từ năm 1975 đến nay) nhƣng, luận án vẫn đƣa ra các hiện

tƣợng về tên riêng trong lịch sử để có cơ sở phân tích và đƣa ra đƣợc cái nhìn

2

tổng thể về tên nữ giới ngƣời Anh và Việt. Chúng tôi chọn phạm vi này bởi lẽ

năm 1975 là một dấu mốc về sự phát triển kinh tế, xã hội ở cả Anh và Việt

Nam.

3.3. Ngữ liệu nghiên cứu

Nguồn ngữ liệu đƣợc sử dụng để phân tích trong luận án đƣợc chúng

tôi thu thập từ danh sách 12.879 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh của hai

trƣờng đại học ở Anh là Đại học Miền Tây (University of the West of

England) và Đại học Cranfied (Cranfied University). Nhờ có mối quan hệ hợp

tác quốc tế giữa Viện Đại học Mở Hà Nội, cũng nhƣ sự giúp đỡ của Hội lƣu

học sinh Việt Nam lại Anh nên chúng tôi mới có đƣợc danh sách tên sinh viên

ở 2 trƣờng nói trên. Đối với nguồn ngữ liệu tiếng Việt, chúng tôi đã thu thập

đƣợc danh sách 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Kinh của 3 trƣờng

đại học ở Việt Nam là Viện đại học Mở Hà Nội, Đại học Tây Đô Cần Thơ và

Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh. Lí do chúng tôi chọn 3 trƣờng

đại học này vì các trƣờng thuộc các khu vực Bắc, Trung, Nam của Việt Nam.

Nhƣ vậy, ngữ liệu thu thập đƣợc mang tính toàn diện về vùng miền của Việt

Nam. Đây là những nguồn ngữ liệu đáng tin cậy do các trƣờng cung cấp.

3. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của luận án và thực hiện các nhiệm

vụ đã đặt ra, luận án áp dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp điều tra để tổng hợp nguồn ngữ liệu tên nữ học viên, sinh

viên tại các trƣờng đại học ở Anh và Việt Nam;

- Phương pháp miêu tả để miêu tả các đặc điểm về cấu tạo và đặc điểm

ngữ nghĩa của từng thành phần định danh (tên họ, tên đệm, tên cá nhân) trong

tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt;

- Phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra điểm tƣơng đồng và dị biệt về

cấu tạo, ngữ nghĩa và văn hóa - xã hội đƣợc phản ánh qua tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt;

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành đƣợc tận dụng để thấy đƣợc mối

liên hệ giữa đặc trƣng ngôn ngữ với các thuộc tính văn hóa - xã hội đƣợc phản

3

ánh.

Ngoài ra, để thực hiện luận án một cách khoa học và chính xác luận án

còn áp dụng thủ pháp thống kê định lƣợng, kết hợp với phân tích định tính,

mô hình hóa, lập bảng biểu để đƣa ra kết quả phân tích nghiên cứu.

4. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Chúng tôi hi vọng luận án này sẽ giúp cho những ngƣời làm công tác

nghiên cứu ngôn ngữ hiểu sâu hơn về đặc điểm ngôn ngữ thể hiện ở tên chính

danh nữ giới ngƣời Anh và nữ giới ngƣời Việt cùng với những nét văn hoá -

xã hội hàm chứa trong đó. Đồng thời, luận án cũng sẽ giúp cho những ngƣời

làm công tác biên - phiên dịch, giảng viên và sinh viên học tiếng Anh đƣợc

mở rộng hiểu biết hơn về vấn đề này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án dự kiến sẽ có những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn nhƣ

sau:

Về lý luận, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ

những đặc trƣng của nhân danh học nữ giới cả về mặt ngôn ngữ lẫn văn hoá -

xã hội.

Về thực tiễn, các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có đóng góp nhất

định cho công tác nghiên cứu ngôn ngữ, công tác dạy và học ngôn ngữ và văn

hoá Anh, Việt của giảng viên, sinh viên, nghiên cứu viên của các viện nghiên

cứu, các trƣờng đại học và những ngƣời yêu thích ngôn ngữ văn hoá Anh,

Việt.

7. Bố cục của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và trích dẫn, nội

dung chính của luận án đƣợc cấu trúc thành ba chƣơng nhƣ sau:

CHƢƠNG 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của

luận án

CHƢƠNG 2: Đối chiếu đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt

CHƢƠNG 3: Đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa và văn hóa - xã hội phản

4

ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

CỦA LUẬN ÁN

Ở chƣơng này, luận án tập trung vào việc tổng quan tình hình nghiên

cứu tên ngƣời Anh, tên ngƣời Việt nói chung và tên nữ giới ngƣời Anh, tên

nữ giới ngƣời Việt nói riêng. Chúng tôi cũng điểm luận một số vấn đề lí

thuyết quan trọng về tên riêng, tên ngƣời, tên nữ giới và một số vấn đề liên

quan đến so sánh đối chiếu tên nữ giới để làm tiền đề cho toàn bộ luận án.

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu tên người Anh

Ở Anh, chuyên ngành khoa học nghiên cứu về tên ngƣời (nhân danh

học) mới chính thức ra đời vào cuối thế kỷ XIX, là một nhánh thuộc ngành

khoa học nghiên cứu về tên riêng (danh xƣng học). Tuy nhiên, nhân danh học

Anh đã phát triển một cách nhanh chóng và rộng rãi trên nhiều phƣơng diện

nhƣ lịch sử học, xã hội học, triết học, văn hóa học và ngôn ngữ học.

1.1.1.1. Lược sử nghiên cứu tên người Anh

Sự ra đời của Tạp chí Nomina – Tạp chí về danh xƣng học vào năm

1977 đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của ngành nhân danh học ở Anh.

Tạp chí là nơi công bố các công trình nghiên cứu tiêu biểu đƣợc chọn lọc từ

các hội thảo khoa học thƣờng niên và hội thảo quốc tế về địa danh học và

nhân danh học của Anh với các tác giả nổi tiếng nhƣ: Carole Hough, Cecily

Clark, Patrick Hanks, Peter McClure, P.H. Reaney, R.M. Wison,… [203].

Mục lục tổng thể của 39 số đã phát hành từ năm 1977 đến nay cho thấy, các

công trình đƣợc công bố trên tạp chí đã khai thác chủ đề về tên ngƣời trên

nhiều bình diện, đặc biệt thiên về tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa của tên họ

ngƣời Anh (surname/family name/last name) – một thành phần định danh

quan trọng trong cấu trúc tên ngƣời Anh (Tên cá nhân – Tên đệm – Tên họ).

Cũng thiên về tìm hiểu tên họ ngƣời Anh, có nhiều tác giả đã công bố

các công trình nổi bật và thu hút đƣợc giới nghiên cứu nhƣ Barber với cuốn

5

British Family Names, Ewen với cuốn A History of Surnames of British Isles

hay Reaney với Origin of English Surnames [97] [127] [180]. Đây là những

cuốn sách tiêu biểu cho hàng trăm công trình công bố về tên họ của ngƣời

Anh. Các cuốn sách này đề cập một cách khá chi tiết các đặc điểm về nguồn

gốc và lịch sử của tên họ ngƣời Anh. Các tên họ đƣợc liệt kê theo vần, kèm

theo giải thích về nguồn gốc và phân tích ý nghĩa của các tên họ đó.

Các công trình nghiên cứu về tên cá nhân ngƣời Anh (given name/first

name) có số lƣợng ít hơn và thƣờng đƣợc đề cập đến trong các công trình

nghiên cứu chung về tên ngƣời Anh, điển hình nhƣ A Short History of English

Personal Names của McClure (2016). Trong cuốn sách này, tác giả đã giải

thích về nguồn gốc, sự hình thành, phát triển và phân bố của tên ngƣời Anh

[165]. Ngoài ra, cuốn sách còn giới thiệu nguồn gốc phát sinh của rất nhiều

tên ngƣời Anh và đề cập khá nhiều đến thói quen đặt tên của ngƣời Anh.

Cuốn Curiosities of Puritan Nomenclature của Bardsley cũng gây nhiều chú ý

[99]. Nội dung cuốn sách này trình bày về cách đặt tên theo Kinh thánh và

nguồn gốc, ý nghĩa của các tên thánh hay dùng để đặt tên của ngƣời Anh.

Tuy nhiên, tên đệm (middle name) của ngƣời Anh lại là một mảng ít

đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong số hàng trăm tài liệu chúng tôi

tham khảo cũng nhƣ xét trong danh mục công trình công bố của các nhà

nghiên cứu nổi tiếng về nhân danh học Anh, gần nhƣ không có sự xuất hiện

của các công trình nghiên cứu về tên đệm ngƣời Anh. Sự thiếu quan tâm của

các nhà nghiên cứu trong mảng này cũng nhƣ việc không sử dụng tên đệm

(tên 2 thành phần: tên họ và tên cá nhân) hoặc sử dụng dƣới dạng viết tắt chữ

cái đầu tiên của tên đệm cho thấy tên đệm chỉ đƣợc coi là thành phần phụ

trong tên ngƣời Anh.

1.1.1.2. Các vấn đề nghiên cứu tên riêng người Anh

Qua tìm hiểu sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu tên riêng ngƣời Anh, luận án

rút ra một số vấn đề sau:

i. Khoa học về tên riêng (danh xưng học) ở Anh

- Thứ nhất, về định lượng

Theo các danh sách, tài liệu tham khảo mà luận án thu thập đƣợc thì số

6

lƣợng các bài báo, báo cáo khoa học, sách, tài liệu về tên riêng ở Anh rất

phong phú. Trong đó, phải kể đến các tác giả Carole Hough, Cecily Clark,

Patrick Hanks, Peter McClure,… các tác giả đều có gần 100 công trình công

bố về tên riêng, đặc biệt là tên ngƣời Anh.

Các công trình nghiên cứu về tên họ ngƣời Anh có số lƣợng nhiều nhất,

còn các công trình nghiên cứu về tên đệm rất ít hoặc gần nhƣ chƣa thấy. Việc

đề cập đến tên đệm trong các công trình nghiên cứu về tên ngƣời nói chung

cũng rất hạn chế.

Trong các công trình nghiên cứu về tên ngƣời Anh (nói chung), các

công trình chuyên nghiên cứu về tên nữ giới Anh chỉ chiếm một phần nhỏ. Có

thể thấy số liệu này thể hiện rõ qua số lƣợng các công bố về nghiên cứu tên

riêng (nhân danh) trong tạp chí Nomina từ năm 1977 đến nay. Trong tổng số

266 bài đƣợc liệt kê trong mục lục chỉ có 02 bài nghiên cứu về tên nữ giới

[203].

- Thứ hai, về định tính

Các ấn phẩm về tên riêng ngƣời Anh đa dạng ở các thể loại nhƣ sách,

bài báo, bài đăng kỷ yếu hội thảo, từ điển, đề tài, dự án khoa học… Tiêu biểu

là Tạp chí Nomina xuất bản thƣờng niên với các công bố về lĩnh vực danh

xƣng học của các nhà khoa học nổi tiếng của Anh. Hiện nay, trong lĩnh vực

nhân danh học ở Anh, có một hoạt động khoa học nổi bật đó là việc triển khai

thực hiện dự án nghiên cứu về tên họ ngƣời Anh - Family Names of the UK:

A New Research Project in British Anthroponomastics (Tên họ ngƣời Anh:

một dự án nghiên cứu mới về nhân danh học) thu hút đƣợc những nhà nghiên

cứu hàng đầu về nhân danh học nƣớc Anh [135]. Công trình nghiên cứu một

cách toàn diện về nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa và sự phân bố của tên họ trên

toàn Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland. Dự án có sự góp mặt của các

nhà nghiên cứu về danh xƣng học nổi tiếng nhƣ Patrick Hanks, Peter

McClure, Richard Coates.

ii. Các phương diện/góc độ nghiên cứu tên người Anh

Tên ngƣời Anh vừa là đối tƣợng nghiên cứu đơn ngành, vừa là đối

tƣợng nghiên cứu liên ngành. Chẳng hạn, khi tên ngƣời chỉ là đối tƣợng

7

nghiên cứu của ngôn ngữ (đơn ngành) thì sẽ đƣợc nghiên cứu trên các lĩnh

vực nhƣ từ vựng, ngữ âm, ngữ pháp. Những công trình nổi bật trong lĩnh vực

này có thể kể đến nhƣ: The Grammar of the Names của John M. Anderson

[96]. Cuốn sách chủ yếu trình bày về hình thái học và cú pháp của tên, trong

đó chú trọng đến tên ngƣời. Anderson đã nhấn mạnh đến việc tìm hiểu mối

quan hệ giữa cấu trúc tên ngƣời, sự phân bố của tên, ngữ nghĩa học và ngữ

dụng học của tên ngƣời. Trên bình diện ngữ âm, công trình Elizabeth and

John: Sound Patterns of Men‟s and Women Names hay Hough với công trình

Toward an Explanation of Phonetic Differentiation in Masculine and

Feminine Personal Names của nhóm tác giả Culter, McQueen và Robinson đã

nghiên cứu chuyên sâu về ngữ âm trong tên nam giới và nữ giới Anh. Các tác

giả đã tìm ra những quy luật về ngữ âm học và sự khác biệt về ngữ âm trong

tên nam và tên nữ giới ngƣời Anh [120] [144].

Khi tên ngƣời Anh là đối tƣợng của nghiên cứu đa ngành, ngôn ngữ

học có thể kết hợp với sử học để nghiên cứu, tìm hiểu về nguồn gốc của tên

họ ngƣời Anh, các công trình tiêu biểu nhƣ: English Surnames Their Sources

and Significations của Bardsley (1875), A History of British Surnames của

McKinley (1990), Patterns of Migration in the Late Middle Ages: The

Evidence of English Place-name Surnames của McClure (1979),… The

Origin of English Surnames của Reaney (1980),…[98][167][160]. Ngôn ngữ

học có thể kết hợp với xã hội học để nghiên cứu về tên riêng và các vấn đề xã

hội liên quan mà đặc biệt là việc đổi tên của nữ giới sau khi kết hôn, các công

trình tiêu biểu nhƣ: The Distinction of Gender? Women‟s Names in the

Thirteenth Century của Postles (1996), A Name of One‟s Own: Identity,

Choice and Performance in Marital Relationship của Wilson (2009) hay The

Making of Selfhood: Naming Decisions on Marriage của Thwaites (2013)…

[179] [191] [187]. Ngôn ngữ học có thể kết hợp với tôn giáo để nghiên cứu

các tên riêng có nguồn gốc từ Kinh thánh, các công trình tiêu biểu nhƣ

Curiosities of Puritan Nomenclature của Bardsley (1880), Names of Women

of the Bible của Ieron (1998),... [99][150]. Từ góc độ so sánh đối chiếu, luận

án tiến sĩ ngành ngôn ngữ nghiên cứu tại trƣờng Đại học Sussex Anh A

8

Cross-cultural Approach to Personal Naming: Given Names in the Systems of

Vietnamese and English, Nguyễn Việt Khoa đã phân tích và so sánh các đặc

điểm liên văn hóa giữa tên cá nhân ngƣời Anh và ngƣời Việt [170]. Đây là

một công trình nghiên cứu công phu, có tính mới và giá trị khoa học cao.

Luận án cũng là công trình đầu tiên về so sánh giữa tên ngƣời Anh và ngƣời

Việt. Tuy nhiên, luận án mới chỉ giới hạn so sánh ở tên cá nhân (given name)

mà không phải toàn bộ cấu trúc tên ngƣời Anh và ngƣời Việt (tên họ - tên

đệm – tên cá nhân).

Về cấu tạo tên ngƣời, đây là một chủ đề không hẳn đã thu hút đƣợc

nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nhƣ vấn đề ý nghĩa và nguồn gốc

của tên. Có một số ít nhà nghiên cứu về vấn đề này điển hình nhƣ John M.

Anderson (2007) với The Grammar of Names, trong cuốn sách này, tác giả

chủ yếu đề cập đến cấu tạo đơn âm tiết (uncompounded name /

monothematic) và đa âm tiết (compounded name / dithematic) của tên ngƣời

[96, tr. 88]. Còn Nguyễn Việt Khoa (2002) cho rằng, tên ngƣời Anh là những

tổ hợp định danh đƣợc cấu tạo bởi các danh tố (danh tố tên cá nhân, danh tố

họ và danh tố đệm). Danh tố gồm hai loại là danh tố đơn âm tiết và đa âm tiết.

Trong đó, danh tố đa âm tiết đƣợc chia thành hai loại là danh tố đa âm tiết

một thành phần và danh tố đa âm tiết đa thành tố. Tác giả cũng đã tìm ra 12

kiểu cấu trúc với nhóm tên đơn âm tiết và 12 kiểu cấu trúc ở nhóm tên đa âm

tiết [40, tr. 45-74].

Về ý nghĩa tên ngƣời Anh, Nguyễn Việt Khoa (2002) đã phân loại ý

nghĩa các danh tố trong tổ hợp định danh tên ngƣời Anh. Cụ thể nhƣ sau:

danh tố tên họ có 5 kiểu phân loại (tên họ đặt theo tên cha, tên họ hình thành

từ địa danh và tên họ chỉ nghề nghiệp, tên họ chỉ đặc điểm cá nhân và tên họ

có nguồn gốc từ tiếng Anh cổ); danh tố tên cá nhân đƣợc phân loại dựa trên

các thành tố từ vựng (49 thành tố) và dựa trên đặc điểm nguồn gốc (9 đặc

điểm nguồn gốc); danh tố tên đệm có 4 kiểu phân loại (tên đệm là tên cá nhân

thứ hai, tên đệm là tên họ thời con gái của mẹ, tên đệm là tên đệm của cha và

9

tên đệm là tên của những ngƣời mà ngƣời đặt yêu quý) [40, tr.92-136].

1.1.1.3. Tình hình nghiên cứu tên nữ giới ở Anh

Tuy các công trình nghiên cứu về tên ngƣời Anh nói chung có số lƣợng

rất lớn và đa dạng, song các công trình nghiên cứu về tên riêng nữ giới thì còn

hạn chế. Trong danh mục 38 số tạp chí Nomina kể từ năm 1977 đến nay, chỉ

có 02 trong tổng số 266 công trình công bố về tên nữ giới ngƣời Anh nhƣ:

The Name-type Maid(en)well của Hough, C. (2010) hay Naming Welsh

Women của Margan, G. [145] [158].

Trƣớc đó phải kể đến Carter, với tƣ cách là một nhà văn, nhà thơ, bà đã

cho ra đời cuốn sách Lexicon of Ladies Names: With Their Floral Emblems

(1865) [106]. Cuốn sách này chủ yếu phân tích ý nghĩa của 162 tên nữ giới

trong mối quan hệ với tên của 141 loài hoa và những ý nghĩa biểu trƣng cho

sắc thái, tình cảm phản ánh qua cái tên đó. Cuốn sách cung cấp thêm thông tin

về ngôn ngữ của hoa, từ vựng hoa và có cả những bài thơ xen lẫn trong nội

dung cuốn sách. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ nghiên cứu tên nữ trên

bình diện ngữ nghĩa, đặc biệt là ý nghĩa liên quan đến các loài hoa mà chƣa

phải là nghiên cứu có tính tổng quát về tên riêng nữ giới ngƣời Anh.

Cũng về chủ đề nghiên cứu tên nữ giới ngƣời Anh, Elisabeth Okasha

trong Women's Names in Old English (2011) đã nghiên cứu tên riêng nữ giới

trong tiếng Anh cổ [173]. Đây là một nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề tên

riêng nữ giới thông qua ngữ liệu là tên nữ trong các tài liệu tiếng Anh cổ và

cũng là công trình nghiên cứu đầu tiên đƣa ra quan điểm hoàn toàn khác so

với những quan điểm đã đƣợc công nhận trƣớc đây rằng giới tính của mỗi cá

thể đƣợc xác định một cách chính xác bởi giới ngữ pháp (grammatical

gender) trong tên ngƣời đó. Bà phủ nhận chức năng ngữ pháp về giới trong

tên ngƣời ở tiếng Anh cổ. Bà cho rằng rất khó phân biệt giới trong tên ngƣời

ở tiếng Anh cổ. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu về nhân danh học đƣơng

đại cho rằng việc phân biệt giới tính nam và nữ qua tên ngƣời không mấy

phức tạp. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này chỉ giới hạn nghiên cứu tên

nữ giới ngƣời Anh trong tiếng Anh cổ nên cũng chƣa nói đƣợc đầy đủ về tên

10

riêng nữ giới ngƣời Anh.

Một bình diện nổi bật trong nghiên cứu tên nữ giới ngƣời Anh đó là bình

diện ngôn ngữ học xã hội với rất nhiều công trình nghiên cứu về tên nữ giới

và tình trạng hôn nhân. Gốc rễ của vấn đề nằm ở phong tục đổi tên nữ sau khi

kết hôn ở Anh cũng nhƣ nhiều quốc gia châu Âu khác trên thế giới. Có thể kể

đến một số công trình nhƣ The Distinction of Gender? Women‟s Names in the

Thirteenth Century của Postles (1996), A Name of One‟s Own: Identity,

Choice and Performance in Marital Relationship của Wilson (2009) hay The

Making of Selfhood: Naming Decisions on Marriage của Thwaites (2013)

[179] [191] [187]. Các công trình đều xoay quanh vấn đề đổi tên của phụ nữ

sau khi thay đổi tình trạng hôn nhân nhƣ đổi tên sau kết hôn, đổi tên sau li

hôn, đổi tên sau khi chồng mất,… Đây là các nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ

học, triết học, xã hội học, tâm lý học…Các nghiên cứu đã nhấn mạnh đến

quyền bình đẳng của phụ nữ đặc biệt là quyền đƣợc giữ lại tên sau kết hôn.

Có thể khẳng định tên ngƣời Anh nói chung và tên nữ giới ngƣời Anh

nói riêng là một vấn đề thú vị đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy đã có

rất nhiều công trình nghiên cứu về tên ngƣời Anh nói chung nhƣng những

công trình nghiên cứu về tên nữ giới ngƣời Anh nói riêng từ góc độ đối chiếu

còn rất hạn chế. Đặc biệt, hiện nay vẫn còn đang thiếu vắng những nghiên cứu

về tên nữ giới ngƣời Anh mang tính so sánh đối chiếu với các cộng đồng văn

hóa khác.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tên người Việt

1.1.2.1. Lược sử nghiên cứu tên người Việt

Ở Việt Nam, tên ngƣời (nhân danh) là chủ đề đƣợc quan tâm khá sớm

từ những năm 30 của thế kỷ XX với những công trình khảo cứu, biên soạn,

tổng hợp về tên ngƣời trên bình diện dân tộc học hay xã hội học. Theo Phạm

Tất Thắng, “những năm 60-70 của thế kỉ XX đến nay, tình hình nghiên cứu

tên riêng chỉ ngƣời trong Việt ngữ học xuất phát từ nhiều mục đích khác nhau

đã phát triển rầm rộ…” [66].

Các công trình nghiên cứu chung về tên ngƣời Việt trong đó có đề cập

đến tên nữ giới tƣơng đối phong phú, chẳng hạn, trong bài viết Tên người Việt

11

Nam (1954), Nguyễn Bạt Tụy đã liệt kê đƣợc 308 họ và khảo cứu về cách đặt

tên đệm và tên chính của ngƣời Việt Nam [83]. Năm 1961, Trịnh Huy Tiến

viết bài Các loại danh nhân Việt Nam đã đề cập đến 15 loại danh hiệu và tên

chính nhƣng chƣa nói đến tên họ và tên đệm [80]. Nói chung, những nghiên

cứu ở giai đoạn này mới chỉ là sự liệt kê danh sách tên hay là những ý kiến về

một vài lĩnh vực liên quan đến tên ngƣời, ví dụ: sự hình thành của tên họ hay

cách đặt tên của ngƣời Việt mà chƣa có những nghiên cứu chuyên sâu.

Về vấn đề chính tả, các tác giả đã đƣa ra hệ thống giải pháp viết hoa tên

riêng cho hợp lí và tiện dùng. Tuy nhiên, vấn đề chính tả và cách viết hoa tên

riêng đến giờ vẫn còn tiếp tục đƣợc luận bàn. Nổi bật ở giai đoạn này là các

tác giả Lê Anh Hiền (1972), Nguyễn Huy Minh (1973), Lê Xuân Thại (1973)

[23] [47]. Cũng trong giai đoạn này, ngoài vấn đề về chính tả, một số tác giả

bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu nghĩa của tên riêng chỉ ngƣời, cũng nhƣ khai

thác những khía cạnh khác liên quan đến tên ngƣời Việt nhƣ lịch sử, văn hóa,

xã hội, chẳng hạn, năm 1975, Nguyễn Kim Thản đã viết bài Vài nét về tên

người Việt, và năm 1976 Trần Ngọc Thêm có bài Về lịch sử, hiện tại và tương

lai của tên riêng người Việt [57] [68]. Các nghiên cứu này đã nêu lên nguồn

gốc của một số tên họ, đặc điểm của lớp tên đệm, tên chính cũng nhƣ nêu lên

chức năng của tên ngƣời và nguyên tắc đặt tên chính của ngƣời Việt. Đáng

chú ý tác giả Lê Trung Hoa đã cho ra đời tác phẩm Họ và tên người Việt Nam

năm 1992 [27]. Tác phẩm đƣợc đánh giá là một công trình nghiên cứu chuyên

sâu và có tính hệ thống nhất từ trƣớc tới nay về vấn đề tên gọi của ngƣời Việt

trên bình diện dân tộc – ngôn ngữ học.

Nói đến nhân danh học Việt Nam, phải kể đến Phạm Tất Thắng, một

trong những nhà nghiên cứu có rất nhiều công trình đã công bố về tên ngƣời

(khoảng 50 công trình), tiêu biểu là luận án Đặc điểm của lớp tên riêng chỉ

người (chính danh) trong tiếng Việt [59]. Trong công trình này, tác giả đã

khảo sát và miêu tả một cách có hệ thống tên chính thức (chính danh) của

ngƣời Việt. Gần đây, ông có rất nhiều công trình nghiên cứu về tên riêng, ví

dụ: Không gian tên riêng tiếng Việt [65]. Mới gần đây ông công bố bài Tình

12

hình nghiên cứu tên riêng chỉ người trong Việt ngữ học trên tạp chí ngôn ngữ

năm 2015 và Tên riêng là một loại đơn vị từ vựng năm 2016 trong kỉ yếu hội

thảo quốc tế về ngôn ngữ học [66] [67].

Về đại thể, vấn đề nghiên cứu tên ngƣời Việt xuất phát từ các bình diện

chủ yếu nhƣ: sử học, dân tộc học, xã hội học, văn hoá học và ngôn ngữ học.

Về lịch sử, tên ngƣời Việt cũng có nhiều ý kiến chƣa thống nhất.

Nguyễn Kim Thản, Hồ Hữu Tƣờng cho rằng tên họ ngƣời Việt có gốc tích từ

Trung Quốc, trong khi đó Diệp Đình Hoa lại phỏng đoán rằng tên họ của

ngƣời Việt có nguồn gốc bản địa, thuần Việt và đƣợc ghi lại trong tên làng xã

[57][85][24]. Trần Ngọc Thêm lại đƣa ra giả thuyết tiền thân của tên ngƣời

Việt xuất phát từ tên các vật tổ truyền thống của các bộ lạc [68, tr.15]. Một

phạm trù khác thuộc tên ngƣời là tên đệm, vấn đề nguồn gốc của tên đệm

cũng gây nhiều tranh cãi. Nguyễn Kim Thản cho rằng “Tên đệm ra đời muộn

hơn họ”, còn Trần Ngọc Thêm lại nhận định “Tên đệm xuất hiện cùng lúc với

họ” [57, tr.69][68, tr.16]. Tuy nhiên, các ý kiến đƣa ra về nguồn gốc của tên

ngƣời Việt còn ở dạng giả thuyết hoặc võ đoán cần có những minh chứng lịch

sử thuyết phục để đƣa ra quan điểm thống nhất. Nổi bật nhất trong các công

trình khảo cứu về tên ngƣời trên bình diện lịch sử phải kể đến Từ điển nhân

vật lịch sử của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (tái bản lần thứ 4 năm

1997), đây là một công trình đồ sộ, đòi hỏi nhiều công sức đƣợc soạn thảo

công phu với 1769 tên nhân vật trong lịch sử từ thời vua Hùng dựng nƣớc đến

năm 1988 kèm theo những thông tin cá nhân và thông tin lịch sử kèm theo.

Tuy nhiên, trong 1769 tên các nhân vật chỉ có 66 tên là tên của nhân vật nữ.

Từ góc độ liên ngành ngôn ngữ - văn hóa học, Dƣơng Kỳ Đức đã mở

đầu hƣớng nghiên cứu về mạng danh với định nghĩa: “Mạng danh là nhân

danh do mỗi thành viên (chủ tài khoản) của một mạng xã hội ảo tự đặt cho

mình bằng tổ hợp tùy thích các chữ cái, chữ số, từ, ngữ để sử dụng trong giao

tiếp phi trực diện (ảo) trên mạng” [15, tr.20]. Ông cũng tiến hành phân loại

mạng danh, xác định vị trí của mạng danh trong hệ thống nhân danh và luận

chứng về cơ sở ngôn ngữ - văn hóa học của mạng danh tiếng Việt.

Trên bình diện ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến

13

các vấn đề: chức năng, chính tả, cấu tạo và ý nghĩa của tên ngƣời Việt. Các

tác giả tiêu biểu trên bình diện này gồm: Lê Anh Hiền (1972), Trần Ngọc

Thêm (1976), Nguyễn Văn Thạc (1979), Nguyễn Huy Minh (1993), Dƣơng

Kỳ Đức (1998), Lê Trung Hoa (2002), Phạm Tất Thắng (1996, 2003, 2004,

2011), Nguyễn Việt Khoa (2010), Nguyễn Văn Khang (2016) [59] [23] [47]

[68] [14] [27][59][62][63][64][170][39].

Về chức năng của tên ngƣời, Trần Ngọc Thêm (1976) cho rằng tên

ngƣời có 5 chức năng cơ bản nhƣ: chức năng phân biệt, chức năng biệt giới,

chức năng thẩm mĩ, chức năng bảo vệ và cuối cùng là chức năng xã hội [68,

tr.12-13].

Về phƣơng diện chính tả, các nghiên cứu tập trung vào thảo luận về

cách viết hoa tên ngƣời. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều thống nhất viết hoa

tất cả các âm tiết trong tên ngƣời và giữa các âm tiết không dùng dấu gạch

nối, nhƣ trong Bản dự thảo về quy tắc viết hoa do Viện Ngôn ngữ học đề xuất

năm 1972 [93].

Về phƣơng diện cấu tạo, theo Phạm Tất Thắng (1996), tên chính danh

của ngƣời Việt (Kinh) là một đơn vị định danh có dạng một tổ hợp gọi là tổ

hợp định danh tên ngƣời. Một tổ hợp định danh tên ngƣời đầy đủ gồm 3 danh

tố là họ, đệm và tên cá nhân. Mỗi danh tố là một đơn vị có cấu trúc – chức

năng riêng. Chúng là những kí hiệu định danh có giá trị định danh riêng biệt.

Mỗi danh tố có thể đƣợc tạo thành từ các thành tố. Một tổ hợp định danh tên

ngƣời trong tiếng Việt có bao nhiêu âm tiết (tiếng) thì có bấy nhiêu thành tố.

Nếu dựa vào độ dài (số lƣợng âm tiết/tiếng) của tổ hợp định danh tên ngƣời

thì trong tiếng Việt có 5 kiểu tên (2 thành tố, 3 thành tố, 4 thành tố, 5 thành tố

và 6 thành tố). Nếu dựa vào đặc trƣng cấu tạo thì tên ngƣời trong tiếng Việt

có 13 khuôn cấu trúc [59, tr.44].

Qua tìm hiểu sơ lƣợc về lịch sử nghiên cứu tên riêng ngƣời Việt, chúng

tôi rút ra một số vấn đề sau:

i. Khoa học về tên riêng (danh xưng học) ở Việt Nam

- Thứ nhất, về định lượng:

Theo các danh sách, tài liệu tham khảo mà chúng tôi thu thập đƣợc, số

14

lƣợng các bài báo, bài viết, báo cáo khoa học, sách chuyên về tên riêng của

các tác giả Việt Nam còn hạn chế (không quá 300 công trình). Trong đó, phải

kể đến tác giả Phạm Tất Thắng có hơn 50 công trình công bố về tên riêng, đặc

biệt là tên ngƣời (nhân danh học). So với nội dung nghiên cứu về danh xƣng

học rộng lớn và còn nhiều khoảng trống thì số lƣợng công trình nhƣ vậy còn

quá ít.

- Thứ hai, về định tính:

Các ấn phẩm về tên riêng của các tác giả Việt Nam phần lớn chỉ mang

tính chất miêu tả cụ thể và còn tản mạn, thể hiện qua tiêu đề của các bài viết

nhƣ: “bàn thêm”, “nhận xét”, “vài nhận xét”, “một số ý kiến”, “thử tìm hiểu”,

“vài nét”, “về”,…Những công trình mang tính học thuật, chuyên sâu còn hạn

chế. Sách chuyên khảo, giáo trình, đề tài nghiên cứu về tên riêng (danh xƣng

học) hoặc tên ngƣời (nhân danh học) bằng tiếng Việt gần nhƣ chƣa có, ngoại

trừ cuốn: Họ và tên người Việt Nam (1992) và Nhân danh học Việt Nam

(2013) của Lê Trung Hoa hay đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện Từ Hán

Việt với tên chính người Việt (2016) của Nguyễn Văn Khang [27][29][39].

ii. Các phương diện/góc độ nghiên cứu tên riêng

Tên riêng, do bản chất của mình là một sự vật đa diện. Nó có thể là đối

tƣợng nghiên cứu đơn ngành của danh xƣng học hay của ngôn ngữ học hoặc

của sử học. Nó cũng có thể là đối tƣợng nghiên cứu liên ngành, chẳng hạn,

ngôn ngữ học với sử học, ngôn ngữ học với dân tộc học/nhân học, ngôn ngữ

học với xã hội học hoặc với văn hóa học. Mỗi công trình nghiên cứu danh

xƣng học dù ít hay nhiều vẫn thƣờng phải sử dụng đến các cứ liệu của các

ngành khác nhƣ địa lí học, khảo cổ học,…Hoặc nếu nghiên cứu tên riêng từ

phƣơng diện ngôn ngữ học thì cũng phải xem xét chẳng những về góc độ từ

vựng học, mà cả về ngữ âm học, ngữ pháp học, văn tự học,…

iii. Các vấn đề của tên riêng

Tên riêng có thể đƣợc nghiên cứu theo các vấn đề chủ yếu sau: bản chất

(định nghĩa, nhận diện), phân loại, cấu tạo/cấu trúc, chính tả, ngữ pháp,…Ở

Việt Nam, do danh xƣng học và nhân danh học chƣa tồn tại nhƣ những ngành

khoa học độc lập nên những vấn đề này chủ yếu đƣợc giới ngôn ngữ học quan

15

tâm. Tuy vậy, những vấn đề nhƣ bản chất, định nghĩa, nhận diện cũng chỉ

đƣợc một số rất ít nhà nghiên cứu quan tâm (Nguyễn Tài Cẩn [1975], Đỗ Hữu

Châu [1993], Phạm Tất Thắng [2004],…) [2][5][63].

Vấn đề phân loại tên riêng cũng chỉ đƣợc một số ít nhà nghiên cứu

ngôn ngữ học bàn tới (Hoàng Tuệ [1996], Phạm Tất Thắng [2003], Dƣơng Kỳ

Đức [2017],…). Chẳng hạn, theo Hoàng Tuệ, có 5 loại tên riêng (1/tên ngƣời,

2/ tên nơi chốn, 3/ tên thời kì, thời điểm, sự kiện lịch sử, 4/ tên tổ chức, 5/ tên

công trình); theo Phạm Tất Thắng có 11 loại (1/ tên ngƣời, 2/ tên động vật, 3/

tên thực vật, 4/ tên gọi các hiện tƣợng tự nhiên, 5/ tên gọi các công trình kiến

trúc, 6/ tên gọi các phƣơng tiện giao thông, 7/ têm gọi các đơn vị hành chính,

8/ tên các cơ quan tổ chức, 9/ tên các sản phẩm, hàng hóa, 10/ tên gọi sách

báo, 11/ tên gọi các văn bản hành chính); Còn Dƣơng Kỳ Đức lại tìm ra 30

kiểu loại tên riêng [82][62, tr.47][16, tr.23].

Còn các vấn đề khác về tên riêng nhƣ: cấu tạo/ cấu trúc, chính tả thì

đƣợc bàn đến rộng rãi, chủ yếu trong giới ngôn ngữ học.

Qua nghiên cứu những vấn đề trên, các nhà khoa học thƣờng rút ra

đƣợc rất nhiều điều hữu ích về mặt tâm lí – xã hội và văn hóa của cộng đồng

ngƣời Kinh và các dân tộc thiểu số anh em. Chẳng hạn, qua ý nghĩa của tên

ngƣời, tên đất cụ thể nào đó, cũng nhƣ lí do đặt ra các tên riêng đó, ngƣời ta

có thể nhận biết đƣợc nhiều điều về giá trị văn hóa, về lịch sử.

iv. Việc nghiên cứu tên người (nhân danh) ở Việt Nam

Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu tên ngƣời (nhân danh) ở Việt

Nam có một số đặc điểm nhƣ sau:

- Một là, chủ yếu nghiên cứu tên riêng (nhân danh) của ngƣời

Việt/Kinh nói chung. Hiện nay có 01 công trình về tên riêng các dân tộc khác,

chẳng hạn nhƣ Các dân tộc Việt Nam - Cách dùng họ và đặt tên của Nguyễn

Khôi năm 2006 [41].

- Hai là, các công trình chƣa có sự đi sâu nghiên cứu theo giới (nam,

nữ). Hiện có 2 công trình về tầng lớp, giai cấp, chẳng hạn Hoàng tộc Nguyễn

của Thái Văn Kiểm (1963) hay Đặc trưng văn hóa xã hội – ngôn ngữ học của

16

tên riêng chỉ người trong tiếng Việt của Vũ Thị Kim Thoa (2005) [43] [79].

- Ba là, các công trình chủ yếu nghiên cứu tên riêng trong phạm vi

tiếng Việt, ít công trình so sánh – đối chiếu đa ngữ. Có một vài luận văn thạc

sĩ nhƣ Đặc điểm tên người Hán hiện nay (Đối chiếu với tên người Việt) của

Mông Lâm (2010) hay Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của tên chính danh

người Nhật (có đối chiếu với tên người Việt) của Vƣơng Đình Hòa (2005),…

[44][30]. Đáng kể nhất trong các công trình so sánh đối chiếu đa ngữ là luận

án tiến sĩ của Nguyễn Việt Khoa (2010) tại Anh Một bước tiếp cận liên văn

hóa tới vấn đề nhân danh: tên cá nhân trong hệ thống tên riêng người Việt và

người Anh [170]. Tuy nhiên, công trình này chỉ giới hạn nghiên cứu một phần

trong tổ hợp định danh tên ngƣời Anh và ngƣời Việt, đó là phần tên cá nhân

mà không đối chiếu phần tên họ và tên đệm .

1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu tên nữ giới ở Việt Nam

Mặc dù, tình hình nghiên cứu về tên ngƣời ở Việt Nam ngày càng phát

triển nhƣng những công trình chuyên nghiên cứu về tên nữ giới ngƣời Việt còn

rất hạn chế. Có thể kể đến Dƣơng Xuân Đống, một trong số ít ngƣời đã có

những công trình công bố về tên nữ giới. Trong bài Từ Thị trong họ tên người

phụ nữ Việt Nam tác giả đã luận giải về ý nghĩa của từ “Thị” và đƣa ra các

quan điểm về nguồn gốc của từ “Thị” trong tên nữ giới ngƣời Việt cũng nhƣ

xu thế sử dụng từ “Thị” làm tên đệm trong việc đặt tên cho nữ giới [11, tr.23-

24]. Xét cho cùng, đây vẫn chỉ là bài nghiên cứu từ một góc độ rất nhỏ nhƣng

mang tính đặc trƣng về tên nữ giới trong nhân danh Việt.

Nhƣ vậy có thể thấy, tình hình nghiên cứu tên ngƣời Anh (nhân danh

học Anh) và tên ngƣời Việt (nhân danh học Việt) trong hơn nửa thế kỉ qua đã

đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, những thành tựu đó phần lớn

xuất phát chủ yếu từ bình diện dân tộc học hay xã hội học. Những công trình

nghiên cứu về tên ngƣời trên bình diện ngôn ngữ học vẫn còn khá khiêm tốn.

Một điểm chung trong tình hình nghiên cứu nhân danh ở cả Anh và

Việt Nam là những công trình chuyên nghiên cứu về tên nữ giới còn hạn chế,

đặc biệt gần nhƣ chƣa thấy những công trình nghiên cứu so sánh đối chiếu tên

17

nữ giới giữa các ngôn ngữ, giữa các cộng đồng văn hóa - xã hội với nhau.

Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu “Đối chiếu tên

nữ giới người Anh và người Việt”.

1.2. Cơ sở lí thuyết

Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, tên riêng thuộc hệ thống từ vựng

nhƣng bản thân nó có thể tự hình thành một kiểu loại riêng biệt bao gồm tên

ngƣời và tên các sự vật hiện tƣợng khác. Để có cơ sở lí luận nghiên cứu tên

nữ giới (một bộ phận của tên ngƣời), luận án căn cứ trên một số lí luận liên

quan đến tên riêng nữ giới, vấn đề giới trong ngôn ngữ và vấn đề nghiên cứu

đối chiếu tên riêng.

1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về tên riêng

1.2.1.1. Danh xưng học

Trong hệ thống tên riêng, tên ngƣời (nhân danh) là một mảng quan trọng

so với các nhóm tên khác, trong đó bộ môn chuyên nghiên cứu về tên riêng là

danh xƣng học (onomastics).

Có nhiều quan điểm khác nhau về danh xƣng học. Blackburn cho rằng

danh xƣng học là một nhánh của ngữ nghĩa học, nghiên cứu về từ nguyên của

danh từ riêng [101]. Trong khi đó, Colman thì miêu tả danh xƣng học nhƣ một

ngành khoa học nghiên cứu về tên và cách đặt tên. Ông cho rằng danh xƣng

học chia thành nhân danh học (anthroponomastics) nghiên cứu về tên ngƣời và

địa danh học (toponomastics) nghiên cứu về tên đất nhƣng danh xƣng học

thiên về nghiên cứu tên ngƣời nhiều hơn [115]. Trên quan điểm ngôn ngữ học,

Matthews, Crystal và Bussmann đã đƣa ra những định nghĩa đáng chú ý.

Matthews đã định nghĩa danh xƣng học là ngành khoa học nghiên cứu về cả

tên ngƣời và tên địa danh [159]. Crystal thì đƣa ra định nghĩa rằng danh xƣng

học là một nhánh của ngữ nghĩa học nghiên cứu về từ nguyên trong danh từ

riêng bao gồm danh từ riêng chỉ ngƣời và danh từ riêng chỉ địa danh [118].

Bussmann thì đƣa ra định nghĩa cụ thể hơn về danh xƣng học. Ông đƣa ra

nhận định rằng danh xƣng học là một ngành khoa học nghiên cứu về nguồn

gốc, ý nghĩa và sự phân vùng địa lý của tên riêng. Ông chia danh xƣng học

thành các nhóm nhỏ hơn đó là nhân danh học, thủy danh học và địa danh học

18

[105].

Dù có rất nhiều quan điểm khác nhau về danh xƣng học, chúng tôi cho

rằng danh xƣng học là một ngành khoa học nhân văn, nghiên cứu về tên và

cách đặt tên ngƣời, tên nơi chốn và các sự vật, hiện tƣợng khác.

1.2.1.2. Vấn đề tên riêng

i. Các khái niệm về tên riêng

Cho đến nay, các nhà khoa học ở Việt Nam và trên thế giới đã đƣa

nhiều quan điểm khác nhau về tên riêng (proper name).

Crystal hay Chalker và Weiner cho rằng “tên riêng (proper name) là tên

của từng cá thể riêng biệt, đó là tên ngƣời, tên địa điểm, sự vật, sự kiện, xuất

bản phẩm,… [118, tr.208][107, tr.96] hay nói cách khác, tên riêng là các

danh từ riêng chỉ các thực thể tồn tại duy nhất, ví dụ: London, Hà Nội, sông

Thames, sông Hồng,.

Theo Huddleston, tên riêng là một phân lớp của danh từ về mặt ngữ

pháp và tên riêng là tên đƣợc cá thể hoá cho cá nhân, địa điểm hay tổ chức...,

việc cá thể hoá này đƣợc thực hiện thông qua việc đặt tên [149, tr.27].

Trên quan điểm ngữ dụng, ngữ nghĩa, cú pháp, Van và Mark đã đƣa ra

Về ngữ dụng học, tên riêng là một danh từ biểu thị cho những thực thể tồn

tại duy nhất ở cấp độ qui ƣớc hình thành ngôn ngữ, khiến cho thực thể đó nổi

bật về mặt tâm lí trong phạm vi phạm trù đƣợc đƣa ra ở mức độ cơ bản. Về

ngữ nghĩa học, ý nghĩa của tên riêng (nếu có) thì rất khó có thể xác định

đƣợc. Về cú pháp học, một sự phản ánh quan trọng của đặc điểm ngữ nghĩa

– cú pháp của tên riêng là khả năng xuất hiện của tên riêng trong một cấu

trúc đóng [188, tr.116].

định nghĩa về tên riêng nhƣ sau:

Trong tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học cũng đƣa ra các định nghĩa và

quan điểm khác nhau về tên riêng.

Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Tên riêng là tên đặt cho từng cá thể sự vật.

Tên riêng hoàn toàn không phải không có nghĩa biểu niệm”. Ông cũng chỉ ra:

“Chức năng cơ bản của tên riêng là chỉ cá thể sự vật đúng với phạm trù cá thể

19

đƣợc gọi tên bằng tên riêng đó (...) Quan trọng hơn là tên riêng đƣợc dùng

trong chức năng xƣng hô. Tuy là phạm trù ngôn ngữ học phổ quát, nhƣng tên

riêng mang đậm bản sắc dân tộc cả về qui tắc đặt tên và qui tắc dùng” [5].

Theo quan niệm của Dƣơng Kỳ Đức, tên riêng là “tên gọi cho một sự

vật, hiện tƣợng duy nhất, độc nhất để phân biệt, cá thể hóa sự vật, hiện tƣợng

đó với sự vật, hiện tƣợng gần gũi trong một tập hợp nào đó” [16, tr.17]. Theo

ông, tính chất duy nhất, độc nhất, cá thể hóa này đƣợc hiểu không phải theo

nghĩa tuyệt đối mà theo nghĩa tƣơng đối, trong quan hệ với các sự vật, hiện

tƣợng gần gũi trong một tập hợp nào đó. Chẳng hạn, trong tập hợp “các xe

máy tay ga của Yamaha” thì Acruzo là một tên riêng, để phân biệt với các xe

Nozza, Grande, Janus, Sirius,…, mặc dù có hàng nghìn chiếc xe máy tay ga

Acruzo đời 2016 giống nhau nhƣ đúc. Tƣơng tự trong tập hợp “các ngày tết

trong chu kì một năm”, thì Tết cơm mới là một tên riêng, để phân biệt, cá thể

hóa với các tên gọi tết khác, nhƣ Tết hàn thực, Tết đoan ngọ, Tết trung

thu,…Cũng vậy, trong tập hợp một “thập lục hoa giáp” (chu kì 60 năm) thì

Đinh Dậu là một tên riêng của năm, trong quan hệ với các năm khác nhƣ

Nhâm, Bính, Quý,…[16, tr.18]

Nhƣ vậy, tên riêng đƣợc định nghĩa từ nhiều góc độ khác nhau. Do đó,

việc đƣa ra một khái niệm chính xác nhất về tên riêng là rất khó vì mỗi tác giả

đều có những lí luận riêng khi đƣa ra quan điểm của mình. Tuy nhiên, quan

điểm của chúng tôi là tên riêng là một loại đơn vị từ vựng dùng để gọi tên một

cá thể đơn nhất, để phân biệt giữa cá thể này với cá thể khác.

Trong việc xác định kiểu loại của tên riêng, các nhà ngôn ngữ học Anh

và Việt Nam đều có những quan điểm khác nhau nhƣ sau:

Đại điện là Huddleston và nhiều tác giả khác thì cho rằng “trên quan

điểm cú pháp học, tên riêng phải là một danh từ mà danh từ đó có thể có chức

năng của một cụm danh từ” [149, tr.96]. Ở Việt Nam, Mai Ngọc Chừ cho

rằng “danh từ đƣợc phân chia bƣớc đầu thành hai lớp nhỏ là danh từ riêng và

danh từ chung” [6]. Nói nhƣ vậy có nghĩa là tên riêng (danh từ riêng) thuộc từ

loại danh từ.

Còn theo Nguyễn Tài Cẩn, “tên riêng đáng đƣợc tách ra thành một hệ

20

thống còn danh từ chung có thể với động từ và tính từ làm thành một hệ thống

khác tên riêng [3]. Nguyễn Văn Khang đƣa ra quan điểm rất rõ ràng trong đề

tài nghiên cứu khoa học cấp Viện về Từ Hán Việt với tên chính người Việt “có

nên xếp tên riêng vào từ loại danh từ hay không và tên riêng có nên coi là

danh từ riêng trong mối quan hệ với danh từ chung hay không? Câu trả lời là

không” [39, tr. 40]. Trong một công bố mới gần đây của Phạm Tất Thắng về

tên ngƣời, ông cho rằng “Tên riêng đƣợc coi là một đơn vị từ vựng đặc biệt có

giá trị tƣơng đƣơng với từ, đƣợc gọi là Ngữ định danh tên riêng” [67]. Theo

Phạm Tất Thắng, “…các tên riêng không thỏa mãn các đặc trƣng chủ yếu của

từ loại danh từ. Vì thế, chúng cần đƣợc tách khỏi danh từ làm thành một lớp

riêng, có cấu trúc - chức năng đặc biệt, khác hẳn với danh từ chung và các lớp

từ loại khác trong hệ thống ngôn ngữ” [64].

Luận án nhất trí với quan điểm cho rằng nếu xếp tên riêng vào loại

danh từ và là danh từ riêng thì chƣa thỏa đáng vì có nhiều điểm khác với danh

từ chung.

Nhƣ vậy, ở Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới đã đƣa ra nhiều định nghĩa

về tên riêng, song đến nay vẫn chƣa có một định nghĩa nào đƣợc coi là thoả

mãn. Theo Phạm Tất Thắng, nếu xét trên bình diện nghĩa biểu vật và đặc

điểm ngữ pháp thì có thể xếp tên riêng vào nhóm danh từ và đƣợc gọi là danh

từ riêng. Nếu xét trên bình diện cấu trúc, thì tên riêng không đơn giản là từ mà

còn là một tổ hợp từ hay ngữ. Quan điểm của chúng tôi là cần tách tên riêng

ra thành một kiểu loại riêng mà không phải là thuộc danh từ hay cụm từ bởi

xét về ngữ nghĩa, cấu tạo, tên riêng mang những đặc thù khác hẳn với các

danh từ hay cụm từ bình thƣờng khác.

Xác định tên ngƣời là một tổ hợp định danh nên luận án thống nhất sử

dụng thuật ngữ “tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh” và “tổ hợp định danh

nữ giới ngƣời Việt” cho đối tƣợng nghiên cứu là tên riêng nữ giới ngƣời Anh

và ngƣời Việt.

Trong hệ thống tên ngƣời có nhiều loại tên khác nhau nhƣ pháp danh, nghệ

danh, biệt danh, bút danh, tên chính danh… Trong phạm vi nghiên cứu của

luận án, chúng tôi chỉ tập thực hiện nghiên cứu tên chính danh của nữ giới

21

ngƣời Anh và ngƣời Việt.

Theo quan điểm của Phạm Tất Thắng (2005) có hai cách phân loại tên

ngƣời đó là cách phân loại dựa vào chức năng và dựa vào phạm vi sử dụng.

Nếu xét về chức năng thì tên ngƣời phân biệt thành hai loại là tên chính thức

và tên không chính thức,…Nếu căn cứ vào phạm vi sử dụng thì có thể phân

thành hai loại là tên thƣờng dùng và tên không thƣờng dùng. Theo logic phân

loại tên ngƣời của ông thì tên chính thức của ngƣời Việt thƣờng gọi bằng tên

thật, tên chính, tên chính danh, tên khai sinh, tên nguyên hoặc tên cái [63,

tr.61,62]. Nhƣ vậy, với giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án là tên chính

danh, luận án đƣa ra quan điểm về tên chính danh nhƣ sau:

Về định nghĩa, tên chính danh là tên chính thức của mỗi cá nhân, đƣợc sử

dụng một cách thƣờng xuyên trong cuộc đời mỗi con ngƣời, có vai trò quan

trọng nhất trong các hình thức tên gọi của mỗi ngƣời, có giá trị về mặt pháp lí

trong việc định danh cho mỗi cá nhân.

Về phạm vi sử dụng, tên chính danh đƣợc sử dụng trong phần lớn các hoạt

động giao tiếp, trong các văn bản hành chính, pháp lí nhƣ giấy khai sinh,

chứng minh thƣ, thẻ căn cƣớc, hộ chiếu, sổ hộ tịch, hợp đồng, văn bằng, chứng

chỉ,…

Về đặc trƣng, tên chính danh có tính bền vững (tên đƣợc cha mẹ đặt cho từ

khi sinh ra và gần nhƣ đƣợc sử dụng đến hết cuộc đời), tính pháp lí (tên đƣợc

đăng kí chính thức trong các sổ hộ tịch của cơ quan quản lí ở địa phƣơng và

đƣợc sử dụng trong các văn bản hành chính của Nhà nƣớc) và tính phổ biến

(tên đƣợc sử dụng trong phạm vi rộng lớn, trong mọi hoàn cảnh gia tiếp).

ii. Sự khác biệt giữa tên chung và tên riêng

Trong tiếng Anh cũng nhƣ các ngôn ngữ của nhiều quốc gia trên thế

giới, việc phân tích sự khác biệt giữa tên chung (common name) và tên riêng

(proper name) diễn ra sôi nổi. Ở Anh, các nhà ngôn ngữ học đã đƣa ra nhiều

luận điểm khác nhau về tên riêng và tên chung.

Tên riêng có thể đứng một mình, làm thành một bộ phận của câu, ví dụ: I

like London (Tôi thích London), Fred is here (Fred đang ở đây), trong khi đó

chỉ có một số tên chung nhất định mới có chức năng ngữ pháp nhƣ vậy.

22

Theo Crystal, tên riêng và tên chung khác nhau ở ba điểm nhƣ sau:

Tên riêng không ở dạng số nhiều trong khi đó tên chung lại có dạng số

nhiều, ví dụ: books, pens,… (những quyển sách, những cái bút). Tuy nhiên,

khi tên riêng ở dạng số nhiều thì chúng đã chuyển sang nghĩa ẩn dụ, ví dụ:

There are two Londons in Canada (có hai London ở Canada), lúc này London

không còn có nghĩa là tên gọi của thủ đô của Anh nữa mà là 2 địa điểm có

những thuộc tính giống London.

Tên riêng không đi với mạo từ và giới từ, trong khi đó tên chung lại

có thƣờng kết hợp với mạo từ và giới từ [119, tr.208].

Coates cho rằng, một trong những sự phân biệt cổ điển nhất trong ngôn

ngữ học đó là tên chung để biểu thị cho một nhóm hoặc một tập thể, còn tên

riêng biểu thị cho cá nhân, ví dụ: queen (nữ hoàng) – tên chung và Victoria –

tên riêng [111, tr.312].

Trong Việt ngữ học, sự khác nhau căn bản giữa tên riêng và tên chung

đã đƣợc tác giả Phạm Tất Thắng phân biệt một cách khá chi tiết. Ông cho

“Tên chung (general names) – đó là những từ chung có ý nghĩa chỉ ra

một lớp đối tƣợng cùng loại; còn tên riêng (proper names) chỉ là những kí hiệu

định danh cho một đối tƣợng cá biệt, đơn nhất và xác định. Nói cách khác, tên

chung có mối liên hệ với khái niệm, còn tên riêng thì không có mối liên hệ bất

kì với một khái niệm nào. Tên riêng thì cá thể hoá, còn tên chung thì khái quát

hoá. Nếu tính cá thể của đối tƣợng đƣợc gọi tên trở nên không xác định và có

tính khái quát hoá, thì sẽ nảy sinh hiện tƣợng chuyển tên riêng thành tên

chung”.

rằng:

Ông còn nêu ra: “Trong bất kỳ một hệ thống ngôn ngữ nào cũng diễn

ra một sự chuyển hoá thƣờng xuyên giữa tên chung và tên riêng. Chính sự

chuyển hoá này đã làm phong phú thêm vốn từ vựng của ngôn ngữ” [63,

tr.11].

Tuy có những khác biệt rõ rệt nhƣng cũng không thể phủ định đƣợc sự

tồn tại những điểm chung giữa tên chung và tên riêng, có những trƣờng hợp

rất khó xác định ranh giới giữa tên chung và tên riêng. Theo Coates và

23

Crystal đã chỉ ra rằng tên riêng thì phải viết hoa nhƣng không phải tất cả các

từ đƣợc viết hoa đều là tên riêng, có những trƣờng hợp không chắc chắn

đƣợc nên xác định là tên riêng hay tên chung. Các ông đã đƣa ra một số ví

dụ sau:

- The West Bank is not a bank.

- The Sun might not be a sun [119, tr.1161][111, tr. 208].

Ví dụ trên cho thấy hầu hết các tên riêng đều sử dụng các kí hiệu có sẵn

của tên chung. Do đó, sự khác nhau cơ bản giữa tên riêng và tên chung

không nằm ở mặt hình thức mà thể hiện ở nội dung, tức là cái đƣợc biểu

hiện thông qua các kí hiệu ngôn ngữ. Đó chính là lí do tại sao Bank lại

không phải là bank (ngân hàng), hay Sun lại không phải là sun (mặt trời).

Có thể thấy rằng, các nhà ngôn ngữ học của Anh và Việt Nam đều đã

phân tích sự giống và khác nhau giữa tên riêng và tên chung. Có những khác

biệt chung nhất giữa tên riêng và tên chung ở tiếng Anh và tiếng Việt đó là

tên riêng để gọi tên những cá thể đơn nhất, còn tên chung để gọi tên cho một

nhóm, một tập thể; tên riêng thƣờng đứng độc lập và ít khi kết hợp với các

thành phần khác, ví dụ: mạo từ, số từ (a/an/the/two,…trong tiếng Anh, hay

các/những …trong tiếng Việt).

1.2.1.3. Vấn đề nghĩa của tên riêng

Tên có nghĩa hay không có nghĩa, đó là chủ đề hấp dẫn thu hút đƣợc

các ý kiến đa chiều của các nhà khoa học. Có những ý kiến cho rằng tên có

nghĩa, đối lập với quan điểm này lại có những ý kiến cho rằng tên không có

nghĩa. Vấn đề nghĩa của tên riêng gắn liền với bản chất của tên.

Đi đầu trong quan điểm tên riêng không có nghĩa đó là Mill (1843) –

một triết gia ngƣời Anh. Ông cho rằng: tên riêng không có nghĩa hàm chỉ

(connotative meaning). Theo ông, tên riêng chỉ ra những cá nhân mà đƣợc gọi

bằng chính cái tên đó, nhƣng không bao hàm ý nghĩa biểu niệm của từ dùng

để đặt tên. Ông chứng minh quan điểm của mình bằng ví dụ với cái tên

George của một ngƣời bình thƣờng và King George III (Vua George III). Ông

chỉ ra rằng ở ví dụ này, tên George không đƣa ra đƣợc ý nghĩa gì về thứ bậc

cũng nhƣ thông tin giữa hai con ngƣời (một ngƣời đƣợc đặt tên là George và

24

ông vua George III của Anh) [197, tr33-34]. Cũng theo trƣờng phái này có

Kripke, ông cho rằng tên riêng chỉ gọi tên một sự vật một cách cứng nhắc và

không có nghĩa hàm chỉ. Nếu tên riêng có nghĩa thì dƣờng nhƣ nghĩa biểu vật

của tên riêng sẽ thay đổi trong các thế giới khác nhau [152].

Đối lập với quan điểm này, Frege – nhà toán học, triết học nổi tiếng ở

Đức lại cho rằng tên riêng có nghĩa. Frege cho rằng “nếu thay đổi nội dung

của những tên cùng tham chiếu thì sẽ thấy tên riêng có nghĩa. Ông chứng

minh cho quan điểm của mình bằng ví dụ nếu X (sao Mai) và Y (sao Hôm) là

tên của cùng một loại sự vật S (ngôi sao), khi đó nếu coi khái niệm chung là S

= S (ngôi sao là ngôi sao) thì có nghĩa X = Y, tức là sao Mai (sao mọc vào

buổi sáng) và sao Hôm (sao mọc buổi tối) giống nhau là hoàn toàn sai [trích

theo 188, tr.25-28]. Nhƣ vậy, cùng giá trị tham chiếu là ngôi sao, nhƣng mỗi

sao lại có một cái tên riêng. Ý nghĩa của tên riêng đó là để phân biệt ngôi sao

này với ngôi sao khác.

Việt ngữ học cũng tồn tại hai trƣờng phái khác nhau về vấn đề nghĩa

của tên riêng. Hoàng Phê theo trƣờng phái tên riêng không có nghĩa. Ông cho

rằng tên riêng là những kí hiệu thuần túy không có nghĩa. Có những tên riêng

vốn có nghĩa thì cái nghĩa đó thƣờng cũng không ai nghĩ đến, nó trở thành vô

nghĩa [50]. Trái ngƣợc với trƣờng phái này có Hoàng Tuệ, ông cho rằng tên

riêng không phải là một con số, một cái nhãn chỉ có tác dụng để phân biệt, mà

là một biểu trƣng [82]. Cùng lập trƣờng quan điểm tên riêng có nghĩa, Bình

Long cho rằng “ngoài các mặt cấu tạo, chính tả, phát âm và cách dùng khi

xƣng hô, tên riêng của các nƣớc, các dân tộc còn đáng đƣợc tìm hiểu về mặt

nghĩa” [46].

Để đƣa ra quan điểm về vấn đề này, chúng tôi xem xét tên riêng trong

trƣờng hợp cụ thể - đó là tên ngƣời. Tên ngƣời dùng để gọi tên cho từng cá

thể riêng biệt và là phƣơng tiện quan trọng trong giao tiếp để phân biệt giữa

cá nhân này với cá nhân khác. Nhƣ vậy, tên ngƣời có nghĩa hay không?

Về ý nghĩa của tên ngƣời (tên chính danh), Phạm Tất Thắng (1996) cho

rằng tên ngƣời là một đơn vị có nghĩa, nó mang chức năng biểu đạt (giúp ta

nhận biết đƣợc đối tƣợng) và là loại nghĩa hàm chỉ [59, tr.79]. Dựa theo đặc

25

điểm từ vựng – ngữ nghĩa của từ, tên riêng ngƣời Việt có các loại (các

trƣờng) nghĩa hàm chỉ sau: sự vật, hiện tƣợng tự nhiên và xã hội, con ngƣời,

trạng thái tâm sinh lí của con ngƣời.

Dƣơng Kỳ Đức quan niệm nghĩa của tên riêng chỉ ngƣời (nhân danh) là

một loại nghĩa văn hàm, phản ánh văn hóa của một cộng đồng ngƣời. Cụ thể,

theo ông, tên riêng có nghĩa, nhƣng đấy không phải là nghĩa khái niệm nhƣ ở

thực từ, mà là nghĩa văn hàm. Khác với nghĩa ngữ hiệu là cái biểu đạt khái

niệm, cái phản ánh các đặc trƣng chung của đối tƣợng đƣợc con ngƣời nhận

thức qua thực tiễn xã hội, nghĩa hàm văn là một hàm tố văn hóa của từ, chứa

đựng động hình văn hóa, tức là chứa đựng cái cách riêng trong việc tạo ra đối

tƣợng hoặc thao tác với nó hay trong cảm nhận của nó bởi một cộng đồng

ngôn ngữ. Với quan niệm đó, nghĩa của tên riêng không phải chỉ là sự hàm

chỉ, mà đƣợc hiểu rộng hơn, nó là cái hàm tích động hình văn hóa, hàm tích

cái cách cảm nhận đầy bản sắc của một cộng đồng ngƣời. Chẳng hạn, tên

ngƣời Việt hàm tích tín ngƣỡng phồn thực (Bòi, Hĩm,…), tín ngƣỡng sùng bái

tự nhiên (Mây, Nguyệt, Tuyết, Thu, Xuân,…), đề cao nông nghiệp (Lúa, Bưởi,

Chanh, Lụa, Lượt,…), sùng bái ngƣời đã chết (kiêng đặt tên trùng với tên tổ

tiên), tâm lí dung hợp, hòa điệu (Thảo, Thủy, Ngọc, Nôen, Lêna,…) [4].

Sau khi phân tích quan điểm về nghĩa trong tên ngƣời của các nhà khoa

học trong và ngoài nƣớc, chúng tôi cho rằng tên ngƣời có nghĩa. Nghĩa ở đây

không phải hiểu theo cách là tổng hợp các đặc trƣng ngữ nghĩa khái quát hóa

và phản ánh một cách có chọn lọc một tập hợp các sự vật đồng nhất (nhƣ

thƣờng thấy ở các thực từ), mà là thông tin có tính chất lịch sử - văn hóa hoặc

có tính chất xã hội, thƣờng gắn liền với một thời đại nhất định, một cộng đồng

xã hội nhất định (họ tộc, tầng lớp, cƣ dân địa phƣơng,…) và phản ánh thị hiếu

cũng nhƣ tập tục, thói quen và các sắc thái tình cảm, cảm xúc. Từ một khía

cạnh khác, nếu quan niệm nghĩa của từ là một hình thức tồn tại của ý thức xã

hội, phản ánh sự tri nhận theo cách riêng của mỗi cộng đồng ngƣời là chủ thể

của ngôn ngữ, thì nghĩa của tên ngƣời không phải là nghĩa ngữ hiệu (biểu đạt

khái niệm, phản ánh các đặc trƣng chung của loạt đối tƣợng giống nhau đƣợc

26

cộng đồng ngƣời tri nhận) mà là nghĩa văn hàm (chứa đựng các cách riêng

trong việc tri nhận một con ngƣời riêng biệt, nhƣ một cá nhân biệt lập, cụ

thể).

Nhƣ vậy, nghĩa của tên nữ giới đƣợc phân tích trong luận án không

phải là nghĩa của thực từ mà là nghĩa biểu trƣng theo cách phân tầng nghĩa

của Lê Quang Thiêm. Ông cho rằng “Khởi nguyên nội dung tên riêng không

nói gì về cái đƣợc gọi tên. Một bộ phận tên riêng thể hiện ƣớc muốn, hi vọng

có tính văn hóa – xã hội đƣợc gửi gắm của chủ đặt tên trở thành nội dung

nghĩa” [76, tr.125]. Ý nghĩa này do ngƣời đặt tên lựa chọn và mang trong đó

một ƣớc vọng của ngƣời đặt tên. Khi một ngƣời có tên là Rosy (tên nữ giới

ngƣời Anh) hay Hồng (tên nữ giới ngƣời Việt) không có nghĩa ngƣời đƣợc

đặt tên đó là một bông hồng mà cái tên đó gợi lên ý nghĩa về một loài hoa

đẹp, có thể mang trong tên đó là ƣớc vọng, mong muốn của ông bà, cha mẹ về

một ngƣời con gái đẹp tựa nhƣ hoa. Quan điểm này có nhiều nét tƣơng đồng

với Nguyễn Văn Khang “Nghĩa của tên riêng không hoàn toàn độc lập với

nghĩa từ vựng của những từ ngữ dùng làm tên riêng mà nghĩa của tên riêng

đƣợc xây dựng trên cơ sở nghĩa hay là đƣợc gợi ra từ nghĩa của từ” [39,

tr.40].

Cũng về vấn đề này nhƣng dƣới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận,

Trần Văn Cơ cho rằng nghĩa biểu trƣng là kết quả của quá trình con ngƣời sử

dụng ngôn ngữ để biểu tƣợng hóa. Trong quá trình tri nhận thế giới khách

quan, ngoài khái niệm là trung tâm của bức tranh khoa học về thế giới, con

ngƣời còn tạo ra một thế giới nữa, nằm giữa thế giới khách quan và con

ngƣời, đó là thế giới trung chuyển. Thế giới này bao gồm những cảm nhận và

tƣởng tƣợng của con ngƣời. Để tạo ra thế giới trung chuyển này, con ngƣời

phải thực hiện việc biểu trƣng hóa, làm cho khách thể trong thế giới khách

quan có đƣợc những thuộc tính của chủ thể, còn chủ thể có đƣợc những thuộc

tính của khách thể [7, tr. 112-119]. Chẳng hạn các vị thần thánh nhƣ Ngọc

Hoàng, Bồ Tát, ông Địa, cô tiên, mụ phù thủy,… đều có hình hài nhƣ con

ngƣời và họ cũng vui buồn, nổi giận,…nhƣ con ngƣời. Còn những ngƣời con

gái thì cũng mảnh mai, yếu đuối nhƣ cây liễu, cây đào (phận liễu yếu đào tơ)

27

và họ cƣời tƣơi tắn nhƣ bông hoa nở, ăn nói nhỏ nhẹ nhƣ tiếng ngọc va nhau

(hoa cƣời ngọc thốt đoan trang). Trong lĩnh vực tên riêng ở Việt Nam, để biểu

trƣng hóa cho ƣớc vọng về con cái mình, muốn chúng sau này có đức tính tốt,

họ đặt tên con là Hạnh, Thảo,…, muốn con mang vẻ cao quý, cao sang, họ đặt

tên Châu, Ngọc,…, muốn chúng có dung nhan khả ái, họ đặt tên Lệ, Mỹ,

Diễm,…

1.2.2. Vấn đề giới trong ngôn ngữ học

Tên nữ giới là đối tƣợng của ngôn ngữ học và đƣợc nghiên cứu trong một

chuyên ngành riêng biệt đó là môn tên riêng hay Nhân danh học

(Anthroponomastics). Tên nữ giới chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ

thống tên riêng, chính vì thế trong “Từ loại danh từ trong Tiếng Việt hiện đại”,

Nguyễn Tài Cẩn (1975) đã xem tên ngƣời (trong đó có tên nữ giới) là

“…mảng quan trọng nhất” trong tên riêng Việt Nam [2]. Nhƣ vậy, về tổng thể,

tên nữ giới là một bộ phận của Nhân danh học. Tên nữ giới trong hệ thống tên

riêng của mỗi ngôn ngữ không chỉ thể hiện đặc trƣng của ngôn ngữ đó mà còn

thể hiện những khía cạnh văn hoá xã hội đƣợc phản ánh thông qua nó.

Tên nữ giới thuộc loại tên riêng, là một bộ phận rất quan trọng trong hệ

thống từ vựng của ngôn ngữ học. Tên nữ giới thuộc hệ thống tên ngƣời, do đó

tên nữ giới cũng gồm các bộ phận nhƣ âm, hình, nghĩa...mà các bộ phận này

đều có liên quan tới ngữ âm học, từ vựng học, ngữ nghĩa học, phƣơng ngôn

học, tu từ học...thuộc phạm vi của ngành ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu nhân

danh học, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu đƣợc những vấn đề liên quan

nhƣ lịch sử, kết cấu, quá trình phát triển hay diễn biến của ngôn ngữ, thực tiễn

của ngôn ngữ... những vấn đề đƣợc nêu trên đều là những vấn đề đang đƣợc

nghiên cứu trong phạm vi ngôn ngữ học.

Trong hệ thống ngôn ngữ, tên nữ giới thuộc lớp từ vựng tên riêng. Trong

tên riêng chỉ ngƣời (thuộc bộ môn nhân danh học) có nhiều loại tên khác nhau

nhƣ pháp danh, hiệu danh, nghệ danh, biệt danh, bút danh, bí danh, tên hiệu,

tên tự, tên thụy, tên tục, tên chính…Những tên gọi khác nhau này không chỉ

mang theo nhiều ý nghĩa lịch sử, truyền thống, văn hóa của cả cộng đồng nói

28

chung mà nó còn phản ánh đặc điểm tâm lý, tính thẩm mỹ của mỗi cá nhân.

Các loại tên này giúp ta xác định tƣơng đối rạch ròi các giai đoạn lịch sử khác

nhau, thành phần xã hội khác nhau, tôn giáo khác nhau…

Nếu xét ngôn ngữ học là một chỉnh thể thì tên nữ giới là một bộ phận,

nhƣng bộ phận không hoàn toàn nằm trong chỉnh thể vì bộ phận đó còn bị ảnh

hƣởng bởi nhiều yếu tố khác nhƣ lịch sử, truyền thống văn hóa, xã hội. Do đó,

khi nghiên cứu về tên nữ giới, không chỉ nghiên cứu về phƣơng diện từ vựng

nói chung mà cần phải đặt trong mối quan hệ với các ngành khoa học xã hội

khác. Điều này có thể thấy khi nghiên cứu về cấu tạo của tên nữ giới, tuy

không phải là đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của ngôn ngữ học xã hội hay sử

học nhƣng những thay đổi trong cấu tạo của tên nữ giới trong những giai đoạn

lịch sử và xã hội khác nhau lại phản ánh những đặc trƣng văn hóa, lịch sử, xã

hội ở những giai đoạn đó. Ví dụ, ở Việt Nam vào thế kỷ 18, 19 khi tiếng Hán

có những ảnh hƣởng mạnh mẽ trong xã hội, có nhiều văn tự chính thức viết

bằng chữ Hán nên đa phần tên nữ giới thời kỳ đó xuất phát là những từ Hán –

Việt. Đến cuối thể kỷ 19, chữ quốc ngữ xuất hiện, tên thuần Việt đƣợc sử dụng

nhiều hơn. Hay trƣớc năm 1975, ngƣời Việt có xu thế đặt tên có phân biệt giới

tính rõ ràng qua cách đặt tên đệm cho nam là Văn và nữ là Thị. Theo Dƣơng

Xuân Đống (2002) hai chữ này đƣợc sử dụng rộng rãi trong việc làm tên đệm

trong tên ngƣời Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Văn nghĩa là người có học, nhà

nho. Thị có nghĩa là đàn bà [11, tr.23]. Tuy nhiên, cách phân biệt giới tính

thông qua tên gọi này không còn đƣợc ngƣời thời nay ƣa chuộng lắm. Do đó,

ngƣời Việt nay có khuynh hƣớng chọn những tên đệm khác mang tính thẩm

mỹ cao hơn và có sự kết hợp ý nghĩa sâu sắc hơn với tên họ và tên cá nhân.

Còn ở Anh, tỉ lệ đổi tên họ theo họ chồng sau khi kết hôn của phụ nữ

Anh cũng thay đổi theo xu hƣớng ngày càng giảm đi do phong trào nữ quyền

đòi hỏi quyền bình đẳng cho phụ nữ nổi lên mạnh mẽ ở các nƣớc châu Âu.

Nhƣ vậy, khi nghiên cứu về tên ngƣời không chỉ nghiên cứu về mặt ngôn ngữ

học mà phải đặt đối tƣợng nghiên cứu trong tƣơng quan với các ngành khoa

29

học khác.

1.2.2.1. Mối liên hệ giữa ngôn ngữ và giới

Tác giả Nguyễn Văn Khang (1996) đã phân biệt hai góc độ chính để

nhìn vấn đề giới trong giao tiếp ngôn ngữ, đó là: Ngôn ngữ nói về mỗi giới

và ngôn ngữ của mỗi giới. Tuy nhiên, phần ngôn ngữ về mỗi giới, tác giả

mới chỉ dừng lại ở một nhận xét duy nhất là những từ nhất định chỉ dùng

cho giới này hoặc giới kia mà thôi. Ở phần ngôn ngữ của mỗi giới thì tác giả

đã chỉ ra rằng: “sự diễn đạt, cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau của hai giới

để biểu thị cùng một vấn đề, cùng một nội dung giao tiếp” [34].

Tác giả Nguyễn Văn Khang cũng đã đề cập đến những vấn đề ngôn

ngữ có liên quan đến giới, đặc biệt tác giả nhấn mạnh về “sự phân biệt đối

xử về giới tính thể hiện trong ngôn ngữ”. Theo tác giả thì 04 biểu hiện của

sự phân biệt đối xử về giới đó là:

- Sự biểu hiện ở mặt cấu tạo từ: hàng loạt từ đƣợc cấu tạo có yếu tố

“man/ đàn ông” đã phản ánh vị thế xã hội nam quyền trong tiếng Anh.

- Dùng đại từ he/his để thay cho she/her trong tiếng Anh.

- Sự phân biệt đối xử về giới thể hiện trong sự giao tiếp ngôn ngữ: nhƣ

việc sử dụng thiếu cân xứng các danh hiệu nhƣ Mr, Mrs, Miss, quan

niệm không cân bằng về những tập hợp từ nhƣ unwed mother (mẹ

ngoài giá thú) và unwed father (cha ngoài giá thú)…trong tiếng Anh.

- Việc đánh giá về lời nói của từng giới: cách nhìn nhận khác nhau về lời

nói của từng giới [35].

Nhƣ vậy, giữa ngôn ngữ và giới có sự quan hệ mật thiết với nhau. Xã

hội đã phân ra giới nam và giới nữ. Ngôn ngữ cũng nhƣ vậy, cũng phân định

rõ ngôn ngữ dành cho nam giới và ngôn ngữ dành cho nữ giới. Tên ngƣời là

một bộ phận của ngôn ngữ. Dù không có những qui định nghiêm ngặt nhƣng

phần lớn rất dễ nhận biết đâu là tên của nam giới và đâu là tên của nữ giới

trừ một số trƣờng hợp đặc biệt.

1.2.2.2. Tên nữ giới trong ngôn ngữ học xã hội

Xã hội học là ngành khoa học đề cập tới các chủ thể xã hội, các quá trình

xã hội. Trong đó, ngôn ngữ cũng là một hiện tƣợng xã hội. Sự biến đổi của

30

ngôn ngữ chịu sự ảnh hƣởng của các nguyên nhân về kinh tế, văn hóa, xã hội

cũng nhƣ những ảnh hƣởng của tôn giáo, phong tục, tập quán của xã hội đó.

So với tên chung thì tên riêng và đặc biệt là tên nữ giới có lẽ phản ánh một

cách khá rõ nét những biến động của các yếu tố xã hội.

Việc đặt tên ngƣời cũng giống các hiện tƣợng ngôn ngữ học khác đều

chịu những ảnh hƣởng không nhỏ của đặc trƣng giai cấp. Trong cuốn Ngôn

ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản, Nguyễn Văn Khang đã chỉ ra rằng:

“…bản thân ngôn ngữ không có tính giai cấp, nhƣng những giai cấp và tầng

lớp xã hội khác nhau có ảnh hƣởng tới việc sử dụng ngôn ngữ và làm cho ngôn

ngữ trong sử dụng vừa phản ánh vừa mang tính đặc thù giai cấp hoặc đặc thù

của tầng lớp xã hội nào đó. Đây chính là nguyên nhân nảy sinh ra sự phân tầng

xã hội trong sử dụng ngôn ngữ…”[35]. Nhƣ vậy, tên ngƣời mà cụ thể ở đây là

tên nữ giới đều chịu những ảnh hƣởng của các yếu tố xã hội nhƣ nghề nghiệp,

trình độ văn hóa, kinh tế, môi trƣờng sống. Theo khảo sát của Vũ Thị Kim

Thoa (2005), tên đệm Thị trong cấu trúc tên của nữ nông dân chiếm 97,75 %,

trong đó tên đệm này chỉ chiếm 77% ở nữ công nhân và giảm xuống còn 53 %

ở tên của nữ trí thức. Đối với tên cá nhân, số lƣợng tên đơn của nữ nông dân

chiếm 99,6 %, nữ công nhân chiếm 89,2% và nữ trí thức chiếm 62,9 % [79,

tr.66].

1.2.2.3. Tên nữ giới và vấn đề giới

Trong hệ thống tên riêng chính danh của các ngôn ngữ, tên riêng của nữ

giới cũng đóng vai trò rất quan trọng. Theo tác giả Nguyễn Văn Khang

“Phƣơng ngữ giới tính là một biểu hiện của sự phân chia hai nửa đàn ông và

đàn bà trong xã hội. Là công cụ quan trọng bậc nhất của con ngƣời, ngôn ngữ

không chỉ có chức năng phản ánh thực tại xã hội mà còn có chức năng củng cố

và duy trì tồn tại xã hội” [38, tr.245]. Do đó, việc nghiên cứu tên nữ giới góp

phần làm phong phú thêm khía cạnh nào đó trong ngôn ngữ học xã hội về giới.

Trần Xuân Điệp đã cho rằng: “Ngoài chức năng đánh dấu giới, tên riêng

của con trai và con gái thƣờng phản ánh những đặc điểm rập khuôn về tính

nam và tính nữ phổ biến trong một nền văn hóa hay một xã hội nhất định.

Chẳng hạn những em trai thƣờng đƣợc đặt những tên có nghĩa liên tƣởng tới

31

những khái niệm nhƣ: sức mạnh, quyền lực, lòng can đảm… trong khi đó tên

của các em gái thƣờng phản ánh sự uyển chuyển, sắc đẹp (đặc điểm cơ thể,

loài hoa đẹp, đồ trang sức), tính kiên nhẫn, niềm hy vọng, sự phục tùng (đức

tính)” [9, tr.91]. Nhƣ vậy, tên của nam giới thƣờng gắn với những từ có ý

nghĩa biểu trƣng cho sự mạnh mẽ, thành công nhƣ: Hùng, Cường, Dũng,

Thắng, Chiến…Trong khi đó, tên của nữ giới thƣờng gắn với những từ có

nghĩa biểu trƣng cho sắc đẹp, sự tao nhã nhƣ Hiền, Hoa, Hạnh, Dung, Lan,

Tuyết... Tuy nhiên, ngoài những từ ngữ miêu tả vẻ đẹp để dùng đặt tên cho nữ

thì cũng có những từ ngữ biểu thị sự yếu ớt, kém cỏi nhƣ Mẹt, Thị Mẹt, Tẹt,

Đĩ,…

Một nét tiêu biểu trong việc phân biệt giới tính trong tên ngƣời Việt Nam

đó là tên đệm Văn dùng cho nam giới và tên đệm Thị dùng cho nữ giới. Theo

Huard & Durand (1992), Thị vốn đƣợc dùng để đặt tên nữ giới vì đó là lời ƣớc

nguyện mong có đông con nhiều cháu, còn Văn đƣợc dùng cho nam giới diễn

tả mong ƣớc đỗ đạt cao [148]. Về vấn đề tên đệm cho từng giới, Trần Xuân

Điệp cho rằng: Văn và Thị có thể đƣợc xem là dấu hiệu về tính kì thị giới tính

trong tên truyền thống của ngƣời Việt (…). Sở dĩ Văn và Thị có ý nghĩa kỳ thị

giới là do xã hội truyền thống của Việt Nam vốn mang nặng tính phụ hệ nên

quan niệm phụ nữ chỉ có bổn phận sinh con đẻ cái, còn quyền đƣợc học hành

đỗ đạt cao phải thuộc về nam giới” [9, tr. 95].

1.2.2.4. Chức năng của tên nữ giới

Cũng nhƣ tên riêng của nam giới, tên riêng của nữ giới cũng mang đầy

đủ những chức năng của tên riêng chỉ ngƣời.

Tác giả Đỗ Hữu Châu (1981) cho rằng tên riêng có chức năng xƣng hô

[5]. Tác giả Đào Tiến Thi thì cho rằng tên riêng có chức năng duy trì bản sắc

văn hóa [72, tr.21-23].

Còn theo Trần Ngọc Thêm, họ và tên ngƣời Việt Nam có 5 chức năng:

(1) Chức năng phân biệt: đây là chức năng chính, chủ đạo. Bởi vì tên

gọi nói chung xuất hiện là do nhu cầu phân biệt.

(2) Chức năng phân biệt giới (phân biệt nam, nữ): Sự phân biệt này

mạnh hay yếu tùy thuộc vào những đặc trƣng về ngôn ngữ, tập quán của mỗi

32

dân tộc.

(3) Chức năng thẩm mỹ: là chức năng tồn tại trong tên gọi của mọi dân

tộc. Việc đặt tên ngƣời cũng thể hiện những thị hiếu riêng.

(4) Chức năng bảo vệ: chọn tên để tránh những tai họa hay để đƣợc thần

linh phù hộ.

(5) Chức năng xã hội: trong xã hội cũ giữa các tầng lớp vua quan với

dân thƣờng có sự phân biệt rõ rệt [68, tr.12-13].

Trong khi đó, Lê Trung Hoa (2002) thì cho rằng tên riêng chỉ có 2 chức

năng đó là: chức năng phân biệt và chức năng thẩm mỹ.

(1) Chức năng phân biệt để phân biệt ngƣời này với ngƣời khác. Riêng tên

chính và tên đệm có chức năng phân biệt giới tính.

(2) Chức năng thẩm mỹ: tên đệm, tên chính, bút danh, nghệ danh, pháp

danh…có chức năng thẩm mỹ rất rõ vì thƣờng đƣợc lựa chọn rất kỹ về

mặt ngữ âm và ngữ nghĩa [27, tr.19].

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng trong năm chức năng của tên ngƣời theo

cách phân tích của Trần Ngọc Thêm thì chức năng phân biệt (1) và chức năng

phân biệt giới (2) có phần trùng lặp, không cần thiết phải tách riêng. Xét ở

khía cạnh nào đó thì chức năng xã hội (5) đã bao hàm chức năng bảo vệ (4).

Còn theo cách phân tích của Lê Trung Hoa chỉ có 2 chức năng, theo chúng tôi

việc phân tích hai chức năng nhƣ vậy chƣa đủ khái quát hết các chức năng của

tên riêng chỉ ngƣời nói chung và tên riêng nữ giới nói riêng.

Do đó, chúng tôi cho rằng tên nữ giới có 3 chức năng nhƣ sau:

i. Chức năng phân biệt: để phân biệt ngƣời nữ này với ngƣời nữ khác, ví

dụ: Sam, Louisa, Anne,… (trong tiếng Anh) hay Hà, Phương, Thu,… (trong

tiếng Việt); hay phân biệt giới tính nam và nữ ở tên đệm và tên cá nhân ở tên

ngƣời Việt là tên đệm Văn dành cho nam giới và tên đệm Thị dành cho nữ

giới. Ngoài tên đệm Thị, qua khảo sát, chúng tôi thấy còn những tên đệm khác

cũng dành riêng cho nữ nhƣ Thùy, Thúy, Diễm…

ii. Chức năng thẩm mỹ: khi đặt tên con gái, bố mẹ thƣờng chọn những từ

hay, mang nghĩa biểu trƣng thể hiện sự đẹp đẽ, tốt lành hay đức tính tốt đẹp

33

với mong ƣớc con gái lớn lên có cái tên hay, tên đẹp gắn suốt cuộc đời nhƣ:

Lily, Rosy, Julie,…(trong tiếng Anh) và Hoa, Tuyết, Diễm,… (trong tiếng

Việt).

iii. Chức năng xã hội: mỗi giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau có những

cách đặt tên khác nhau mang theo những định kiến xã hội khác nhau, ví dụ:

trong xã hội phong kiến, tên nữ chịu ảnh hƣởng của tƣ tƣởng trọng nam khinh

nữ nên có tên xấu nhƣ Hĩm, Đẹt, Mẹt…; Chức năng xã hội còn thể hiện ở tên

của những tầng lớp, giai cấp xã hội và vùng miền khác nhau nhƣ tên nữ ở vùng

nông thôn, con của nông dân ít học thì thƣờng dùng từ thuần Việt đặt tên nhƣ

Lúa, Dâu, Mì, Bưởi…, còn ở những gia đình có học ở thành thị thì thƣờng

dùng những từ Hán Việt mang ý nghĩa tƣợng trƣng cho cái đẹp nhƣ: Nguyễn

Xuân Lan, Phan Thu Thủy, Lê Bạch Tuyết…; Chức năng xã hội còn thể hiện ở

xu hƣớng đặt tên, chọn tên cho hợp tuổi, hợp số mệnh với hi vọng cái tên

mang lại những điều tốt đẹp cho tƣơng lai.

1.2.3. Nghiên cứu đối chiếu tên riêng nữ giới người Anh và người Việt

Phạm vi của ngôn ngữ học đối chiếu là rất rộng, bao quát nhiều ngôn ngữ

khác nhau. Tuy nhiên, việc đối chiếu thƣờng đƣợc thực hiện với từng cặp ngôn

ngữ để thấy đƣợc những tƣơng đồng và dị biệt của mỗi ngôn ngữ thuộc dân

tộc tƣơng ứng. Theo Lê Quang Thiêm, “Nghiên cứu đối chiếu giúp ta xác định

cái giống nhau và khác nhau của các ngôn ngữ về mặt cấu trúc, hoạt động và

sự phát triển của chúng” [77, tr. 41]. Cũng theo ông “những nghiên cứu theo

loại này mang tính chất xuyên ngữ và liên/xuyên văn hóa, nghĩa là việc nghiên

cứu bao giờ cũng liên đới với hai ngôn ngữ, đồng thời hai nền văn hóa. Vốn

bản thân sự tồn tại của ngôn ngữ ở dạng tĩnh (hệ thống cấu trúc) hay dạng

động (hành vi ngôn ngữ trong hành chức, trong hoạt động) bao giờ cũng bị chế

định bởi thuộc tính ngôn ngữ và văn hóa” [77]. Vì vậy, việc tìm ra những

tƣơng đồng và dị biệt phải xuất phát từ các đặc trƣng của ngôn ngữ rồi mới

đến các đặc trƣng về văn hóa – xã hội. Trong luận án, việc đối chiếu tên riêng

nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt cũng đi theo logic này.

Để tiến hành đối chiếu hai ngôn ngữ, điều cần thiết là phải xác lập cơ

sở đối chiếu và phạm vi đối chiếu. Thực chất, xác lập cơ sở đối chiếu là xác

34

định đối tƣợng nghiên cứu cụ thể, định rõ các đặc điểm đối tƣợng và định

hƣớng các hoạt động, các bƣớc nghiên cứu nhất định. Những điểm giống

nhau, khác nhau của đối tƣợng khảo sát đƣợc coi là những cơ sở để đối chiếu.

Việc xác lập phạm vi đối chiếu cũng là một khâu rất quan trọng trong quá

trình đối chiếu. Việc chọn ngôn ngữ đối chiếu có hai khả năng chính đó là: (i)

Lấy một ngôn ngữ làm cơ sở, đây chính là đối tƣợng cần phân tích và làm rõ.

Ngôn ngữ còn lại đƣợc coi là phƣơng tiện, là điều kiện để làm rõ các đặc

điểm của ngôn ngữ cơ sở, (ii) Cả hai ngôn ngữ đều đƣợc chú ý nhƣ nhau.

Trong luận án, chúng tôi sử dụng khả năng thứ nhất đó là lấy tên nữ giới

ngƣời Anh là cơ sở và tên nữ giới ngƣời Việt là phƣơng tiện để đối chiếu.

Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án cơ bản là nghiên cứu so sánh

đối chiếu đồng đại, để tìm ra sự giống và khác nhau giữa các bình diện đƣợc

đƣa vào đối chiếu. Với cách tiếp cận này, Hoàng Phê đã cho rằng “Đồng đại là

trạng thái ngôn ngữ ở một thời điểm nhất định trong quá trình phát triển của nó

đƣợc ý thức nhƣ là một hệ thống các yếu tố cùng tồn tại đồng thời, có liên

quan với nhau và chế định lẫn nhau. Trạng thái này đƣợc chia tách ra là theo

quy ƣớc nhƣ một phƣơng pháp nghiên cứu, trong đó, ngôn ngữ ở tại một điểm

nào trong tiến trình phát triển của nó, đƣợc giả định nhƣ ngôn ngữ ở trạng thái

tĩnh, không có những biến đổi nội tại trong bản thân nó” [51].

Nhƣ đã nói ở Phần mở đầu, chúng tôi phân tích tên (chính danh) của nữ

giới ngƣời Anh tại Anh (England) mà không phải tên ngƣời Anh trên toàn

Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và Bắc Ireland. Luận án chỉ giới hạn nhƣ vậy vì

nƣớc Anh là một quốc gia rộng lớn và đông dân nhất thuộc Liên hiệp Vƣơng

quốc Anh và Bắc Ireland với dân số chiếm hơn 84% tổng số dân và chiếm

phần lớn diện tích của quốc đảo Anh. Đối với tên nữ giới ngƣời Việt, chúng tôi

phân tích tên (chính danh) của nữ giới ngƣời Kinh tại Việt Nam. Lí do là vì

dân tộc Kinh là dân tộc chiếm đa số, khoảng 86,2% tổng dân số của Việt Nam.

Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án cơ bản là nghiên cứu so sánh

đối chiếu đồng đại. Do đó, nguồn ngữ liệu để phân tích của luận án là nguồn

ngữ liệu hiện đại (học viên, sinh viên có năm sinh từ năm 1975 đến nay).

Chúng tôi chọn phạm vi thời gian này bởi lẽ năm 1975 là một dấu mốc về sự

35

phát triển kinh tế xã hội ở cả Anh và Việt Nam. Ở Anh từ thập niên 70, nền

kinh tế đã bắt đầu có sự dịch chuyển lớn. Cơ cấu kinh tế của nƣớc Anh dần rút khỏi ngành công nghiệp chế tạo và gia tăng công nghiệp dịch vụ. Nhƣ một phần của Vƣơng quốc Anh, nƣớc Anh đã gia nhập một thị trƣờng chung đƣợc

gọi là Cộng đồng Kinh tế châu Âu và phát triển thành Liên minh châu Âu. Về

chính trị, giai đoạn này quản lí hành chính ở Liên hiệp Vƣơng quốc Anh và

bắc Ireland đổi theo hƣớng chuyển giao quyền lãnh đạo tại Scotland và Bắc

Ireland còn Anh và Wales tiếp tục tồn tại nhƣ một thực thể pháp lý thuộc

Vƣơng quốc Anh. Sự duy trì về quản lí hành chính đã dẫn tới một sự nhấn

mạnh về bản sắc và lòng yêu nƣớc riêng biệt của ngƣời Anh đối với Vƣơng

quốc Anh [202]. Còn ở Việt Nam, năm 1975 là một dấu son chói lọi trong lịch

sử dân tộc. Khi đó, miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc hoàn toàn thống

nhất. Cũng từ mốc lịch sử này, nền kinh tế xã hội Việt Nam bắt đầu bƣớc vào

giai đoạn phát triển mới. Sự thay đổi trong nền kinh tế, xã hội có ảnh hƣởng

sâu sắc và cũng đƣợc thể hiện rõ nét qua những những thay đổi trong ngôn ngữ

và văn hóa ở cả Anh và Việt Nam.

Đồng đại là một khái niệm rộng, xét về thời gian có thể hàng thế kỷ cũng

có thể chỉ là vài chục năm. Theo quan điểm của Lê Quang Thiêm, “ranh giới

đồng đại và lịch đại trong ngôn ngữ học chỉ là một đƣờng ranh giới tƣơng đối.

Trong bản thân ngôn ngữ, đồng đại và lịch đại tồn tại không tách rời nhau, đó

là hai mặt của một quá trình, hai pha kế tiếp nhau: diễn biến, tồn tại” [74,

tr.46]. Cũng có những quan điểm tƣơng tự nhƣ vậy, Nguyễn Thiện Giáp cho

rằng “cần phân biệt đồng đại và lịch đại, nhƣng việc nghiên cứu trạng thái hiện

đại của ngôn ngữ không thể tách rời hoàn toàn với việc nghiên cứu lịch sử

hình thành và phát triển của toàn hệ thống cũng nhƣ các yếu tố riêng biệt của

nó. Cả hình thức lẫn ý nghĩa của từ đều là cơ sở nghiên cứu từ vựng của một

ngôn ngữ hiện đại” [18, tr 44]. Nhƣ vậy, mặc dù phân tích nguồn ngữ liệu hiện

đại (nữ học viên, sinh viên có năm sinh từ 1975 trở lại đây) nhƣng luận án vẫn

đƣa ra các hiện tƣợng về tên riêng trong lịch sử để có cơ sở phân tích và đƣa ra

cái nhìn tổng thể về tên nữ giới ngƣời Anh và Việt.

Trong một giai đoạn nhất định, có thể nhận thấy những biến động, thay đổi

36

trong mối quan hệ giữa nhân danh với lịch sử, văn hóa, xã hội và cả những

thay đổi trong chính nội hàm của nhân danh. Những thay đổi đó vẫn là biến

đổi trong phạm vi đồng đại mà không phải là biến động trong so sánh lịch sử.

Luận án sẽ triệt để sử dụng so sánh đồng đại này trong phân tích văn hóa - xã

hội.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chƣơng 1, luận án đã trình bày về tình hình nghiên cứu tên ngƣời

Anh và tên ngƣời Việt nói chung cũng nhƣ tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời

Việt nói riêng. Ngoài ra, trên cơ sở phân tích quan điểm về tên riêng và tên

ngƣời của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc, luận án đã trình bày một

cái nhìn tổng quan những vấn đề lí luận về tên ngƣời và nghiên cứu đối chiếu

tên nữ giới để làm cơ sở và khung lí thuyết cho việc nghiên cứu tên nữ giới

ngƣời Anh và ngƣời Việt.

1. Thông qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu tên ngƣời Anh và tên

ngƣời Việt cho thấy: ở Anh, tên ngƣời đƣợc nghiên cứu trong bộ môn Nhân

danh học thuộc Danh xƣng học. Vấn đề nghiên cứu về tên ngƣời phát triển

một cách nhanh chóng và rộng rãi trên nhiều bình diện nhƣ lịch sử học, xã hội

học, văn hóa học và ngôn ngữ học,… Trên bình diện ngôn ngữ học, các nhà

khoa học nghiên cứu về tên ngƣời Anh ở các khía cạnh nhƣ ngữ âm, ngữ

nghĩa, ngữ pháp và nguồn gốc từ nguyên,…Còn ở Việt Nam hiện nay, việc

nghiên cứu về tên ngƣời đã đƣợc quan tâm nhiều hơn song vẫn còn hạn chế.

Trên bình diện ngôn ngữ học, các nhà khoa học nghiên cứu về tên ngƣời Việt

ở các khía cạnh nhƣ chính tả, ngữ nghĩa, cấu tạo,... Tuy nhiên, ở cả Anh và

Việt Nam, những công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn diện về

tên nữ giới còn rất hạn chế, đặc biệt, còn thiếu vắng những nghiên cứu đối

chiếu tên nữ giới giữa các cộng đồng văn hóa.

2. Trong việc tìm hiểu cơ sở lí luận chung về tên ngƣời, trƣớc hết luận án

đã trình bày các quan điểm khác nhau về tên riêng của các nhà khoa học ở

Việt Nam và trên thế giới và xác định quan điểm của luận án về tên riêng là

một loại đơn vị từ vựng dùng để gọi tên một cá thể đơn nhất, để phân biệt

giữa cá thể này với cá thể khác. Ngoài ra, luận án còn phân biệt giữa tên riêng

37

và tên chung ở tiếng Anh và tiếng Việt.

3. Về vấn đề nghĩa của tên ngƣời, luận án xác định tên ngƣời có nghĩa.

Nghĩa đƣợc nói đến ở đây không phải là nghĩa của thực từ mà là nghĩa biểu

trƣng.

4. Một số vấn đề liên quan đến tên nữ giới đƣợc luận án làm sáng tỏ nhƣ

vị trí, vai trò và chức năng của tên nữ giới. Tên nữ giới có vai trò quan trọng

và có mối quan hệ mật thiết với ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ học xã hội.

Tên nữ giới phản ánh đặc trƣng của ngôn ngữ và cộng đồng xã hội sử dụng

ngôn ngữ đó. Tên ngƣời, cụ thể là tên nữ giới đƣợc luận án xác định có 3

chức năng là chức năng phân biệt, chức năng thẩm mĩ và chức năng xã hội.

5. Luận án thực hiện nghiên cứu đối chiếu đồng đại, lấy tiếng Anh là ngôn

ngữ cơ sở. Từ định hƣớng nhƣ vậy nên nguồn ngữ liệu của luận án chỉ giới

38

hạn tên nữ ngƣời Anh và ngƣời Việt trong giai đoạn hiện nay.

5. CHƢƠNG 2

ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH

VÀ NGƢỜI VIỆT

2.1.

Đặt vấn đề

Tên nữ giới trong tiếng Anh và tiếng Việt cũng nhƣ nhiều ngôn ngữ khác

trên thế giới nằm trong phạm vi của hệ thống từ vựng. Tên nữ giới cũng nhƣ từ

và các đơn vị tƣơng đƣơng với từ đƣợc xem là đơn vị định danh. Tuy nhiên,

tên nữ giới có cấu tạo phức tạp hơn nhiều so với các phƣơng thức cấu tạo từ và

các đơn vị tƣơng đƣơng với từ trong hệ thống từ vựng. Tên nữ giới ngƣời Anh

và ngƣời Việt do các thành phần định danh riêng biệt (tên họ, tên đệm, tên

chính danh) kết hợp với nhau tạo thành một tổ hợp để gọi tên cho nữ giới. Tổ

hợp này đƣợc luận án luận án xác định là tổ hợp định danh, tổ hợp gồm ba

thành phần định danh. Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, ba thành phần này

đƣợc gọi bằng các tên khác nhau, ví dụ: tên họ đƣợc gọi bằng surname hay

last name trong tiếng Anh hay tên họ, họ trong tiếng Việt; tên đệm đƣợc gọi

bằng middle name trong tiếng Anh hay tên lót, chữ lót, tên đệm, đệm trong

tiếng Việt; tên cá nhân đƣợc gọi bằng given name, first name trong tiếng Anh

hay tên chính, tên cá nhân trong tiếng Việt. Luận án thống nhất sử dụng tên cá

nhân, tên đệm và tên họ cho ba thành phần định danh của tổ hợp định danh

nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

Hình 2.1: Sơ đồ cấu tạo tổ hợp định danh nữ giới người Anh và người Việt

Tổ hợp định danh

Thành phần định danh

Tên đệm Tên họ Tên cá nhân

Ở chƣơng 2, luận án tiến hành miêu tả lần lƣợt đặc điểm cấu tạo của tổ

39

hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt thông qua việc mô hình hóa

cấu tạo và phân tích cấu trúc của tên nữ giới ngƣời Anh và tên nữ giới ngƣời

Việt. Để có căn cứ miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo, luận án tiến hành

phân tích cơ sở cấu tạo của tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

2.2. Cơ sở phân tích đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời

Việt

2.2.1. Một số lí luận về hình vị

Tên ngƣời trong tiếng Anh và tiếng Việt có nguyên tắc cấu tạo khác nhau vì tiếng Anh (ngôn ngữ biến hình: inflectional language) và tiếng Việt (ngôn ngữ đơn lập: isolating language) thuộc hai loại hình (typology) ngôn ngữ khác nhau. Do có sự khác nhau về đặc điểm loại hình nhƣ vậy nên các phƣơng thức ngữ pháp dùng để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp cũng nhƣ ý nghĩa từ vựng của hai ngôn ngữ sẽ khác nhau. Tuy nhiên, chất liệu hình thành nên tên riêng ở các ngôn ngữ khác nhau đều là từ hoặc cụm từ. Phân tích kỹ hơn thì đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên từ là hình vị. Hình vị là một đơn vị có nghĩa nhỏ nhất. Theo Courtenay, “chuỗi lời nói chia ra câu hay mệnh đề, câu chia ra thực từ, từ chia ra hình vị. Nhƣ vậy, hình vị là bộ phận của từ và là bộ phận có nghĩa nhỏ nhất” [116].

Nhà ngôn ngữ học cấu trúc Mĩ Bloomfield thì cho rằng: “Hình vị là một

lát cắt âm thanh nhỏ nhất, có sự tƣơng ứng giữa âm và nghĩa, phân biệt đƣợc

với lát cắt khác cũng là hình vị, hình vị là hình thức ngôn ngữ nhỏ nhất có

nghĩa” [102]. Theo quan điểm này, hình vị không chỉ bao gồm các chính tố,

các phụ tố mà bao gồm cả các hƣ từ nhƣ in, of, and …Đối với ngôn ngữ học

cấu trúc Mĩ, hình vị là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ.

Trong tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đã đƣa ra quan

điểm về hình vị. Nguyễn Tài Cẩn (1975) cho rằng “Hình vị là đơn vị nhỏ

nhất, đơn giản nhất về mặt tổ chức mà lại có giá trị về mặt ngữ pháp. Đặc

trƣng đơn giản nhất về mặt tổ chức và đặc trƣng có giá trị về mặt ngữ pháp

phải đi đôi với nhau”. Để giải thích thêm về hai đặc trƣng này ông chỉ ra

rằng “Nếu chỉ chú ý đến mặt đầu (đơn giản nhất về tổ chức) thì có thể lầm

lẫn hình vị với những đơn vị ngôn ngữ hoàn toàn không có giá trị gì về mặt

40

ngữ pháp, ví dụ lầm lẫn với âm vị. Ngƣợc lại, nếu chỉ chú ý đến mặt sau (có

giá trị về ngữ pháp) thì lại có thể lầm lẫn hình vị với những đơn vị còn phức

tạp về tổ chức, ví dụ lầm lẫn với từ ghép, hay lầm lẫn với cả những bộ phận

của từ ghép mà còn lớn hơn hình vị” [3, tr. 11].

Còn theo Đỗ Hữu Châu (1981) “trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo

từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất – tức là những yếu tố

không thể phân chia thành những yếu tố nhỏ hơn nữa mà cũng có nghĩa –

đƣợc dùng để cấu tạo ra các từ theo phƣơng thức cấu tạo từ của tiếng Việt.

Chúng ta gọi các yếu tố có đặc điểm và chức năng nhƣ trên (chức năng cấu

tạo từ) bằng thuật ngữ có tính quốc tế: hình vị”. Ông cũng cho rằng

“Phƣơng thức tạo từ là cách thức mà ngôn ngữ tác động vào hình vị để cho

ta các từ. Tiếng Việt sử dụng ba phƣơng thức tạo từ bao gồm: từ hóa hình

vị, ghép hình vị và láy hình vị “[4, tr. 28].

Nhƣ vậy, do đặc thù của mỗi ngôn ngữ mà đặc trƣng của hình vị ở mỗi

ngôn ngữ có sự khác biệt nhất định. Với đặc điểm của ngôn ngữ biến hình,

nên hình vị trong tiếng Anh bao gồm căn tố (root morpheme) và phụ

tố (affixational morpheme). Căn tố là loại hình vị mang ý nghĩa cơ bản của

từ và các hình vị khác phải phụ thuộc vào nó. Phụ tố là những hình vị đƣợc

ghép với căn tố để tạo nên nghĩa mới. Các phụ tố đó đều bổ sung ý nghĩa

cho căn tố và là thành phần nhỏ nhất cấu tạo nên tên ngƣời Anh.

Theo cách phân tích cấu tạo này, qua khảo sát ngữ liệu tên nữ học viên

sinh viên ngƣời Anh, chúng tôi đƣa ra một số ví dụ về các chính tố và phụ tố

trong tên của nữ giới ngƣời Anh nhƣ sau:

2.2.1.1. Chính tố

Bảng 2.1. Chính tố trong tên nữ giới người Anh

Chính tố Nghĩa từ Ví dụ Nguồn gốc

nguyên

Dan Công bằng Danielle, Daniella, Tiếng Do Thái

Dannii, Dani, Danna

41

Dio Cửa thần Zeus Dionne, Dion, Dionna, Tiếng Hi Lạp

cổ

Doro Món quà của Dorothy, Dorola, Tiếng Hi Lạp

chúa Dorothea cổ

Fin Sáng, trắng Finney, Finn, Finnie Tiếng Đức cổ

Fred Hòa bình Fredi, Freda Tiếng Anh cổ

Jo Chúa trời Joanne, Joanna, Jo, Tiếng Đức cổ

Josie

Mund Ngƣời bảo hộ Rosamund, Rosmunda Tiếng Đức cổ

2.2.1.2.Phụ tố

Trong phụ tố, chúng tôi chia thành 2 nhóm là tiền tố và hậu tố

i. Phân loại theo tiền tố

Bảng 2.2. Tiền tố trong tên nữ giới người Anh

Tiền tố Nghĩa từ Ví dụ Nguồn gốc

nguyên

Eu Eunice Tiếng Hy Lạp cổ Tốt đẹp

Ger Geraldine Tiếng Anh cổ Ngọn giáo

Sig Đẹp đẽ, công Sigrid, Sigorni Tiếng Đức cổ

bằng

Theo Chúa trời Theodora, Theolyn Tiếng Hy Lạp cổ

Ed Giàu có Edithe, Editha Tiếng Anh cổ

Gwen Màu trắng, Gwendoline, Tiếng Wale

công bằng Gwenllian, Gwenda

Rad Hạnh phúc Radeeka Tiếng Xla-vơ

ii. Phân loại theo hậu tố

Bảng 2.3. Hậu tố trong tên nữ giới người Anh

Hậu tố Nghĩa từ Ví dụ Nguồn gốc

nguyên

-a Thuộc về nữ Paula, Emma, Tiếng La Tinh

42

giới Pamela

Chúa trời Hazel, Edel, Sanel Tiếng Anh cổ -el

Giàu có, may Dot, Dotty Tiếng Anh cổ -ot

mắn

Nhỏ bé Radeeka, Beka, Tiếng Anh cổ -eka

Anneka

-ette Nhỏ bé Annette, Lynnette, Tiếng Pháp

Bernadette

-iad, iah, Đức chúa trời Cariad, Asiah, Tiếng Đức

Kiah, Victoriah, jah

Leiah

-an Nhỏ bé Fran, Susan, Joan Tiếng Ai-len

-ley Lùm cây Shirley, Hayley, Tiếng Anh cổ

Shelley

-thy Chúa trời Cathy, Dorothy, Tiếng Hy Lạp cổ

Kathy

Để phân tích cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, luận án sử

dụng đơn vị cơ sở cấu tạo nên tên tổ hợp định danh nữ giới là thành tố. Chính

thành tố là đơn vị có cấu trúc nhỏ nhất tham gia cấu tạo các thành phần định

danh (tên họ, tên đệm, tên cá nhân). Về hình thức cấu tạo, các thành phần định

danh có thể là từ đơn trong tiếng Việt hoặc một căn tố (root) trong tiếng Anh,

cũng có thể là một tổ hợp hình vị (Căn tố + phụ tố trong tiếng Anh hay hình vị

+ hình vị trong tiếng Việt) hoặc một cụm từ (Căn tố + căn tố trong tiếng Anh

hay từ + từ trong tiếng Việt). Về cấu trúc, các thành phần định danh có thể

gồm hai dạng, dạng 1 đƣợc cấu tạo bằng một thành tố đơn, tƣơng đƣơng với

một hình vị; dạng 2 đƣợc cấu tạo bằng một thành tố phức hoặc một cụm từ,

tƣơng đƣơng với hai hay ba hình vị. Nhƣ vậy, thành tố là đơn vị cuối cùng của

quá trình tích cấu trúc tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt mà

43

chúng tôi vận dụng. Các công trình nghiên cứu về nhân danh đều cho thấy tên ngƣời Anh hay

ngƣời Việt nói chung đều có cấu tạo gồm 3 thành phần định danh đó là tên họ, tên đệm và tên cá nhân. Mỗi thành phần là một đơn vị định danh đơn nhất. Chúng có khả năng tách khỏi tổ hợp định danh để hoạt động một cách tƣơng đối độc lập do có cấu trúc, chức năng riêng biệt. 2.2.2. Cơ sở phân tích các thành phần cấu tạo trong tên nữ giới người Anh

và người Việt Trong mô hình [Tên cá nhân – Tên đệm – Tên họ] của ngƣời Anh và [Tên họ - Tên đệm – Tên cá nhân] của ngƣời Việt, việc phân định đâu là tên cá nhân, đâu là tên đệm, đâu là tên họ cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Sự phân định giới hạn cho từng thành phần định danh trong tên ngƣời dựa vào cấu tạo của từng thành phần định danh đó là đơn hay phức.

Để đƣa ra mô hình chính danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt trƣớc

hết, chúng tôi phân tích cấu tạo của từng thành phần trong tổ hợp định danh.

Có nhiều cách phân loại thành phần của từng thành phần định danh trong tên

ngƣời. Về cấu tạo từ vựng, Anderson đã phân tên riêng thành 2 loại là

monothematic và dithematic tƣơng đƣơng với tên đơn và tên ghép trong tiếng

Việt [96].

Nguyễn Việt Khoa chia các thành phần cấu tạo nên tên ngƣời thành 2

loại là đơn âm tiết và đa âm tiết (tên họ đơn âm tiết, tên họ đa âm tiết; tên đệm

đơn âm tiết, tên đệm đa âm tiết, tên cá nhân đơn âm tiết, tên cá nhân đa âm tiết)

[40, tr.55].

44

Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Khang (2016), “tên của ngƣời Việt là tên đơn (đơn âm tiết). Trong mô hình họ tên ngƣời Việt thì tên của ngƣời Việt luôn đứng cuối và dùng để gọi và xƣng” và “thành tố đứng ở vị trí trƣớc tên, sau họ nên gọi là thành phần đệm (gọi tắt là đệm). Khi thành phần đệm có hai thành tố thì có thể phân nhỏ hơn là thành tố đệm 1 (đệm 1) và thành tố đệm 1 đệm 2, trong đệm 2 thƣờng có quan hệ nghĩa với tên”, còn vấn đề họ “họ của ngƣời Việt là họ đơn. Các trƣờng hợp nhƣ Phan Huy, Võ Chí, Võ Văn, Nguyễn Lân,…vẫn chỉ là một họ (Phan, Võ, Nguyễn), trong đó Phan Huy là một nhánh của họ Phan, Võ Chí, Võ Văn có thể là các nhánh của họ Võ, còn Lân trong Nguyễn Lân là tên cá nhân đƣợc chuyển làm thành phần đệm cho tên con trai (mà không đệm cho con gái)” [39, tr.55-59]. Nhƣ vậy,

theo quan điểm của Nguyễn Văn Khang tên và họ đều ở dạng đơn (đơn âm tiết), còn đệm có cả dạng đơn và phức.

Còn tác giả Phạm Tất Thắng (2005) cho rằng các thành phần trong cấu

trúc tên của ngƣời Việt lại có cấu tạo nhƣ sau: “tên họ của ngƣời Việt vốn tồn

tại chỉ dƣới hình thức đơn âm tiết (gọi là tên họ đơn)”, “tên đệm của ngƣời Việt

có hai dạng cấu trúc: đệm zero và đệm đơn âm tiết (đệm đơn)”, “tên cá nhân

của ngƣời Việt có hai dạng cấu trúc: đơn âm tiết (gọi tắt là tên đơn) và đa âm

tiết (tên kép), trong đó hình thức tên đơn vẫn là chủ yếu”. Tác giả cũng cho

rằng “Việc xác định cho đƣợc ranh giới rõ ràng giữa các hình thức tên đơn và

tên kép trong một tên gọi bất kỳ là một công việc khá phức tạp, đòi hỏi phải có

sự hiểu biết rõ ràng về đối tƣợng đƣợc gọi tên” [63, tr.67-70].

Trên cơ sở lấy hình vị làm đơn vị cấu tạo nhỏ nhất để phân tích cấu tạo

tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, quan điểm của luận án là chia các thành

phần định danh trong tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt thành

2 loại là đơn và phức. Cụ thể nhƣ sau:

- Tên cá nhân gồm tên cá nhân đơn và tên cá nhân phức;

- Tên họ gồm tên họ đơn và tên họ phức;

- Riêng đối với tên đệm, ngoài tên đệm đơn và tên đệm phức thì chúng

tôi còn phân loại thứ 3 là tên đệm zero tức là hình thức tên đệm không xuất

hiện trong cấu trúc tên (theo cách phân loại của Phạm Tất Thắng).

Đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh

Trên cơ sở phân tích các thành phần cấu tạo tên nữ giới thành 2 loại tên

đơn và tên phức nhƣ đã nêu tại 2.2, trong phần này, chúng tôi đƣa ra mô hình

chung cho tên nữ giới ngƣời Anh và phân tích từng thành phần định danh để

thấy đƣợc đặc điểm cấu tạo của tên nữ giới ngƣời Anh.

2.3.1. Mô hình chung tên nữ giới người Anh

Tên nữ giới ngƣời Anh nằm trong hệ thống tên ngƣời Anh và có cấu trúc

45

nhƣ sau: [Tên cá nhân - Tên đệm - Tên họ].

Từ cấu trúc nhƣ trên, luận án đƣa ra mô hình khái quát cho tổ hợp định

danh nữ giới ngƣời Anh nhƣ sau:

Bảng 2.4. Mô hình khái quát tổ hợp định danh nữ giới người Anh

Tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh

Tên cá nhân (A) Tên đệm (B) Tên họ (C)

Given name / First Middle name Surname/ Family name/

name Last name

Đơn (A1) Phức Zero Đơn Phức Đơn Phức

(A2) (B1) (B2) (B3) (C1) (C2)

2.3.2. Các thành phần cấu tạo tên nữ giới người Anh

Để phân tích đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh, luận án phân tích

lần lƣợt từng thành phần trong mô hình tổ hợp định danh nêu trên. Các thành

phần định danh có cấu tạo và chức năng riêng. Mỗi thành phần là một đơn vị

định danh độc lập. Chúng có thể tách rời trong cấu trúc tổ hợp định danh và

hoạt động một cách độc lập trong những hoàn cảnh giao tiếp nhất định.

Tên cá nhân 2.3.2.1.

Trong cấu trúc tên chính danh nữ giới ngƣời Anh, tên cá nhân (given

name, first name) đứng ở vị trí đầu tiên, trƣớc tên đệm và tên họ. Về số

lƣợng, tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh là một tập mở, có số lƣợng rất lớn do

tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình.

Về cấu tạo, luận án chia tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh thành 02 loại là

tên cá nhân đơn và tên cá nhân phức nhƣ đã nêu tại mục 2.1.

i. Tên cá nhân đơn (kí hiệu là A1): là tên cá nhân chỉ do 1 hình vị cấu

tạo thành, ví dụ: Ann, Anne, Marie, Elizabeth,…Về cấu tạo, tên cá nhân đơn

của nữ giới người Anh chiếm tỉ lệ cao nhất (98,6%).

ii. Tên cá nhân phức (kí hiệu là A2): là tên cá nhân có cấu tạo từ hai

hình vị trở lên. Loại tên cá nhân này chiếm tỉ lệ thấp (1,4 %). Kết quả khảo sát

ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Anh cho thấy tên cá nhân phức của nữ giới ngƣời

46

Anh tồn tại ở 2 dạng thức:

+ Dạng 1: tên cá nhân phức có thành phần cấu tạo gồm 1 hình vị gốc

(root) và 1 hình vị là phụ tố (affix), ví dụ: Dorothy (món quà của chúa) = Doro

+ thy (Doro: món quà, -thy: thuộc về chúa trời), Dorota = Doro + -a (Doro:

món quà, -a: thuộc về nữ giới).

+ Dạng 2: là tên cá nhân phức có thành phần cấu tạo từ 2 hình vị gốc

(root) trở lên kết hợp với nhau, ví dụ: Alli/son, Ally/son, Aly/son,…

Từ cách phân loại nhƣ vậy và dựa vào số lƣợng thành tố cấu tạo, luận án

đã khảo sát và tổng hợp đƣợc các mô hình tên cá nhân phức của nữ giới ngƣời

Anh nhƣ sau:

- Mô hình 1: tên cá nhân phức đƣợc hình thành bằng phƣơng thức kết

hợp một căn tố (root – kí hiệu là R) với phụ tố (hậu tố - suffix – kí hiệu là S,

ví dụ: Dorothy, Dorota,… Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,67 % (86 lượt xuất hiện).

Doro|thy R S

T

Alli|son

- Mô hình 2: tên phức đƣợc hình thành bằng phƣơng thức kết hợp 2 căn tố với nhau, ví dụ: Allison, Allyson, Alyson,… Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,34 % (44 lượt xuất hiện).

R1 R2

T

- Mô hình 3: tên cá nhân phức 2 thành tố đơn, tên cá nhân này đƣợc hình

thành bằng phƣơng thức kết hợp 2 thành tố đơn với nhau, ví dụ: Lesley-Ann,

Kelly-Marie, Megan-Leigh,… Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,27 % (35 lượt xuất hiện).

Lesley-Ann

T1

T2

47

- Mô hình 4: tên cá nhân phức gồm 2 thành tố trong đó có 1 thành tố đơn và

1 thành tố đƣợc hình thành bằng phƣơng thức kết hợp 2 căn tố với nhau, ví dụ:

Cherry – McKrein,… Mô hình này chiếm tỉ lệ thấp nhất, 0,12 % (15 lượt xuất

hiện).

Cherry – Mc|Krein

R1 R2

T1

T2

Dƣới đây là bảng tổng hợp về sự phân bố tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh

theo hình thức cấu tạo:

Bảng 2.5: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên cá nhân nữ giới người Anh

theo hình thức cấu tạo

Thành tố cấu tạo (1) Đơn (2) Phức Mô hình phức 1 Mô hình phức 2 Mô hình phức 3 Mô hình phức 4 Tổng = (1) + (2) Số lƣợt xuất hiện 12699 180 86 44 35 15 12879 Tỉ lệ phần trăm 98,6 1,4 0,67 0,34 0,27 0,12 100%

Căn cứ trên số liệu tổng hợp, thống kê tên nữ học viên, sinh viên của 2

trƣờng đại học ở Anh, có thể đƣa ra kết luận nhƣ sau: về cấu tạo đa số tên cá

nhân nữ giới ngƣời Anh là tên đơn (98,6 %).

Về cấu tạo từ vựng, tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình có khả năng tạo từ rất

cao nên số lƣợng từ dùng để đặt tên là không giới hạn. Tuy nhiên, đa số ngƣời

Anh có xu hƣớng chọn những tên có sẵn nên hiện tƣợng trùng tên là khá phổ

biến. Có thể thấy sự phổ biến này ở trƣờng hợp sau: Tên Jessica, qua bảng

phân tích tỉ lệ sử dụng tên Jessica trên trang web Behind the name, một trang

web nổi tiếng về tên ngƣời cho thấy tên Jessica luôn ở danh sách 10 tên phổ

biến nhất ở nƣớc Anh và xứ Wales từ năm 1996 đến năm 2015. Điều đó có

48

nghĩa là tên Jessica có tần suất lặp lại rất cao ở Anh trong suốt 19 năm. Tỉ lệ

tên Jessica cao nhất vào năm 1996 (chiếm 2,12%) và thấp nhất vào năm 2015

(chiếm 0.86%) (Xem phụ lục 4+5). Về khía cạnh này, luận án đã tiến hành

khảo sát 614 nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh sinh năm 1975. Kết quả cho

thấy tên Emelia xuất hiện nhiều nhất (14 lƣợt, chiếm tỉ lệ 2,12 %) (Xem phụ

lục 6+7).

Ngoài chức năng khu biệt cá thể đơn nhất của đối tƣợng đƣợc gọi tên, tên

cá nhân ngƣời Anh còn có khả năng khu biệt giới tính rõ ràng nhất trong các

danh tố cấu tạo nên tên nữ giới ngƣời Anh. Đây là đặc điểm khá phổ biến của

các ngôn ngữ biến hình. Chức năng này sẽ đƣợc phân tích rõ hơn ở mục 3.2.1.

Tóm lại, trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh, tên cá nhân đứng ở vị trí đầu

tiên. Phần lớn tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh là tên đơn (98,6 %) và có chức

năng khu biệt giới tính rõ ràng nhất trong cấu trúc tên.

2.3.2.2. Tên đệm

Trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh, tên đệm (middle name) có vị trí ở

giữa tên họ và tên cá nhân. Về chức năng, cũng nhƣ tên họ và tên cá nhân, tên

đệm cũng là đơn vị định danh dùng để gọi tên. Tuy nhiên, số lƣợt tên đệm xuất

hiện ít nhất trong cả cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh. Kết quả khảo sát cho

thấy, trong số 614 nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh sinh năm 1975 chỉ có 64

ngƣời có tên đệm, chiếm 10.42 % (xem phụ lục 18).

Mặc dù tên đệm có tồn tại trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh nhƣng thực

tế tên đệm lại không phải là đối tƣợng đƣợc chú ý, thậm chí thƣờng xuyên bị

lƣợc bỏ, chỉ còn để lại chữ cái đầu tiên trong tên đệm mà thôi. Ví dụ: Julie

Allison Madine thƣờng đƣợc viết là Julie A. Madine, Shirley Ann Hilton đƣợc

viết là Shirley A. Hilton. Cách viết đầy đủ các thành phần trong tên nữ giới

ngƣời Anh thì rất ít. Cách viết đầy đủ nhƣ vậy thƣờng chỉ xuất hiện ở những

loại giấy tờ mang tính pháp lý nhƣ hộ chiếu, thẻ căn cƣớc…Thậm chí trong

49

giấy khai sinh và khai tử, thành phần này cũng bị lƣợc bỏ hoặc viết tắt.

Về cấu tạo, luận án phân tên đệm thành ba loại là: tên đệm zero (tức là

hình thức không có tên đệm), tên đệm đơn và tên đệm phức. Kết quả khảo

sát tên đệm trong 12.879 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh cho thấy:

i. Tên đệm zero (kí hiệu là B1): là tên đệm không xuất hiện trong cấu

trúc tên, ví dụ: Liz [0] Cox, Rebecca [0] Allen, Elen [0] Bodey. Đây là loại tên

đệm phổ biến nhất trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh, trong số 12.879 tên

nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh có 12.270 tên không xuất hiện tên đệm (tên

đệm zero), chiếm 95,27 %.

ii. Tên đệm đơn (kí hiệu là B2): là tên đệm chỉ có một hình vị cấu tạo

thành, ví dụ: Rose, Kate, Ann, Mary, Katherine,.. Loại tên đệm đơn này có số

lƣợng ít, chỉ xuất hiện 536 lƣợt, chiếm 4,16 % trong số lƣợng tên mà chúng tôi

khảo sát.

iii. Tên đệm phức (kí hiệu là B3): là tên đệm có từ hai hình vị cấu tạo

trở lên. Đây là loại tên đệm có cấu tạo phức tạp nhất và chiếm tỉ lệ thấp nhất

0,56%. Kết quả quân tích ngữ liệu cho thấy có 2 mô hình tên đệm phức nhƣ

sau:

- Mô hình 1: tên đệm phức đƣợc hình thành bằng phƣơng thức kết hợp 2

căn tố với nhau, ví dụ: Blackwood = black (màu đen) + wood (gỗ), McArdle =

Mc (con) + Ardle (tên người cha), Stevenson = Steven (tên người cha) + son

Black|wood

(con), …

R1

R2

T

Shine - Brenda

- Mô hình 2: tên đệm phức đƣợc hình thành bằng phƣơng thức kết hợp 2 thành tố đơn với nhau, ví dụ: Shine-Brenda, Ann-Cornelius, Anne Horton, Bam Borough,…

T1

T2

50

- Mô hình 3: tên đệm phức đƣợc hình thành bằng phƣơng thức kết hợp 2

thành tố, trong đó có 1 thành tố đơn và 1 thành tố phức, ví dụ: Theobridge -

Mc|Phillip - Power

Haigh, McPhillip Pover, Phillips Lisa,…

R1 R2

T1

T2

Dƣới đây là bảng tổng hợp về sự phân bố tên đệm nữ giới ngƣời Anh

theo hình thức cấu tạo:

Bảng 2.6: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên đệm nữ giới người Anh theo

hình thức cấu tạo

Thành tố cấu tạo (1) Zero (2) Đơn (3) Phức Mô hình phức 1 Mô hình phức 2 Mô hình phức 3 Tổng = (1) + (2) + (3) Số lƣợt xuất hiện 12270 536 73 58 10 5 12879 Tỉ lệ phần trăm 95,27 4,16 0.57 0,45 0,08 0,04 100%

Qua nguồn ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Anh, luận án cho rằng loại tên

đệm zero là loại tên đệm phổ biến nhất trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh,

chiếm tỉ lệ 95,27 %. Việc ngƣời Anh thƣờng xuyên sử dụng mô hình tên

không có tên đệm (hoặc có tên đệm nhƣng chỉ dùng hình thức viết tắt của chữ

cái đầu) có thể là do tên đệm đƣợc du nhập vào sau tên họ và tên cá nhân.

Nhƣ vậy, tên đệm trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh xuất hiện rất ít.

Tuy nhiên, việc xác định tên đệm trong cấu trúc cũng không hề đơn giản, có

những tên đệm xuất hiện nhƣ là một phần của tên họ phức, tức là luôn đi trƣớc

và gắn liền với tên họ, ví dụ: Hannah Louise Wakefield, Chloe Rose White,…

Tuy nhiên, đa số ngƣời Anh coi thành phần sau cùng trong cấu trúc mới là tên

51

họ.

Tên họ

2.3.2.3.

Trong mô hình tên nữ giới ngƣời Anh nhƣ vừa nêu trên, tên họ luôn

đứng ở vị trí cuối cùng. Chức năng của tên họ là để gọi tên dòng họ của ngƣời

đƣợc mang tên. Trong tiếng Anh, tên họ có nhiều cách gọi nhƣ surname,

family name, last name. Theo định nghĩa của bộ môn nhân danh học trong

ngành danh xƣng học, tên họ là tên gọi một tập hợp những ngƣời có quan hệ

huyết thống với nhau.

Về nguồn gốc tên họ ngƣời Anh, McClure cho rằng “trƣớc thế kỉ 13 tên

họ ngƣời Anh vẫn chƣa phổ biến. Phần lớn ngƣời dân chỉ có tên cá nhân. Tới

cuối thế kỉ 16, tên họ ngƣời Anh xuất hiện do sự bành trƣớng của các tƣ

tƣởng văn hóa và pháp luật Châu Âu. Ban đầu, tên họ mới chỉ phổ biến trong

giới quí tộc. Dần dần, việc sử dụng tên họ trở thành phổ biến rộng rãi” [165].

Về số lƣợng, tên họ ngƣời Anh có số lƣợng rất lớn và khó xác định. Theo

Lasker, trong số 165.510 ngƣời đƣợc khảo sát tại nƣớc Anh có tới 32.475 tên

họ [154].

Qua việc khảo sát ngữ liệu tên họ trong tên của 12.879 nữ học viên, sinh

viên ngƣời Anh, chúng tôi nhận thấy tên họ ngƣời Anh tồn tại ở 3 dạng thức

sau:

i. Tên họ đơn (kí hiệu là C1): là tên họ có cấu tạo gồm một hình vị, ví dụ:

Fort, Dean, Thorne…Loại tên họ đơn này có số lƣợng ít hơn tên họ phức, chỉ

xuất hiện 3.921 lƣợt trong số tên nữ giới mà chúng tôi khảo sát, chiếm 31,32

%.

ii. Tên họ phức (kí hiệu là C2): là tên họ có cấu tạo từ hai hình vị trở lên.

Tuy nhiên, tên họ phức xuất hiện với những hình thức tƣơng đối đa dạng.

+ Dạng 1: tên họ có thành phần cấu tạo gồm 1 hình vị gốc (root) và 1

hình vị là phụ tố (affix), có thể là tiền tố (prefix) hoặc hậu tố (suffix), ví dụ:

Wheeler (wheel - bánh xe, -er – hậu tố chỉ ngƣời, Underhill (under– tiền tố chỉ

52

bên dƣới, hill – núi).

+ Dạng 2: tên họ có thành phần cấu tạo 2 hình vị gốc (root) kết hợp với

nhau, ví dụ: Armstrong (arm – cánh tay, strong – khỏe mạnh), Richardson

(Richard – tên của cha là Richard, son – con trai),…

Từ cách phân loại nhƣ vậy và dựa vào số lƣợng thành tố cấu tạo, chúng

tôi đã khảo sát và tổng hợp đƣợc các mô hình tên họ phức của nữ giới ngƣời

Anh nhƣ sau:

- Mô hình 1: tên họ phức trong đó có một căn tố (root) và một hậu tố

(suffix – kí hiệu là S), ví dụ: Brewster, Wheeler, Baker,…

R

Brewst|er S

T

- Mô hình 2: tên họ phức đó có một căn tố (root) và một tiền tố (prefix –

Under|hill

kí hiệu là P), ví dụ: Atwood, Underhill,…

P

R

T

- Mô hình 3: tên họ phức gồm hai căn tố, ví dụ: Armstrong, Mansfield,

Richard|son

Richardson,…

R1 R2

T

- Mô hình 4: tên họ phức hai thành tố đơn, ví dụ: Gray-Thomas,

Daniel - John

Hampton-Bowes, Daniel-John,…

T1

T2

53

- Mô hình 5: tên họ phức hai thành tố, trong đó có 1 thành tố phức gồm

hai căn tố và một thành tố đơn, ví dụ: Goldstone-Smith,…

Gold|stone - Smith

R1 R2

T1

T2

- Mô hình 6: tên họ phức hai thành tố, tên họ trong đó có một thành tố

phức hai căn tố và một thành tố phức một căn tố và một phụ tố ví dụ:

Findlater-Baker,…

Find|later – Bak|er S1 R1 R2 R3

T1

T2

- Mô hình 7: tên họ phức hai thành tố, trong đó có cả hai thành tố đều là

thành tố phức hai căn tố, ví dụ: Peterson-O‟Royle,…

Peter/son – O’/Royle R1 R2 R3 R4

T1

T2

- Mô hình 8: tên họ phức hai thành tố, trong đó có một thành tố phức gồm

một căn tố và một phụ tố và một thành tố phức hai căn tố ví dụ: Palmer-

Wilson,…

Palm|er – Wil|son R1 S1 R2 R3

T1

T2

- Mô hình 9: tên họ phức hai thành tố, trong đó có một thành tố phức gồm

54

một căn tố và một phụ tố và một thành tố đơn, ví dụ: Baker-Smith,…

Bak|er - Smith R1 S2

T1

T2

Dƣới đây là tổng hợp về sự phân bố tên đệm nữ giới ngƣời Anh theo hình

thức cấu tạo:

Bảng 2.7: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên họ nữ giới người Anh

theo hình thức cấu tạo

Thành tố cấu tạo (1) Đơn (2) Phức Mô hình phức 1 Mô hình phức 2 Mô hình phức 3 Mô hình phức 4 Mô hình phức 5 Mô hình phức 6 Mô hình phức 7 Mô hình phức 8 Mô hình phức 9 Tổng = (1) + (2) Số lƣợt xuất hiện 4034 8845 5048 81 3604 57 23 4 1 4 23 12879 Tỉ lệ phần trăm 31,32 68,68 39,20 0,63 27,98 0,44 0,18 0.03 0,01 0,03 0,18 100%

Về cơ bản, tên họ ngƣời Anh dùng chung cho cả nam và nữ. Về đặc điểm

cấu tạo, đa số tên họ là họ phức (68,68 %). Tên họ phức nữ giới ngƣời Anh mà

luận án khảo sát có các mô hình cấu tạo phức tạp nhiều tầng bậc (có 5 mô hình

2 bậc). Về vấn đề tên họ ở Anh cũng nhƣ nhiều nƣớc châu Âu khác, khi nữ

giới lấy chồng, đa số sẽ đổi sang dùng tên họ của chồng và tên sau khi đổi

đƣợc công nhận về mặt pháp lí. Sau khi li dị hoặc chồng mất thì có thể đổi lại

tên họ giống nhƣ lúc trƣớc khi kết hôn. Đây là điều khác biệt so với nhiều

nƣớc Á Đông, trong đó có Việt Nam. Có thể đây cũng là nguồn gốc của các

tên họ phức ở tên nữ giới ngƣời Anh.

Tên họ phức của ngƣời Anh là tổ hợp cố định và bền vững. Về mặt lí

thuyết, một số tên họ có thể đƣợc phân tách thành các phần nhỏ (căn tố). Có

55

thể thấy rõ qua mô hình tên họ phức nhƣ: Johnson = John + son, Stoneman =

Stone + man, Basterfield = Baster + field… Bên cạnh nhóm tên họ phức theo

mô hình này, tên họ ngƣời Anh còn có loại tên họ phức có mô hình cấu tạo từ

các thành tố kết hợp với nhau nhƣ: Sendall-Rotheram, Higley-Walters,

Palmer-Jones. Nguồn gốc hình thành tên họ phức hai thành tố theo Bardsley

có 5 lí do nhƣ sau:

- Tên họ phức do ghép cả họ cha và họ mẹ

- Tên họ phức của nữ do ghép với tên họ chồng sau khi kết hôn

- Tên họ của giới quí tộc châu Âu

- Tạo ra tên họ mới từ gốc tên họ cũ

- Tên họ kèm mạo từ, tiểu từ thƣờng có nguồn gốc từ ngôn ngữ Châu

Âu [98].

Tóm lại, tên họ ngƣời Anh nói chung và tên họ nữ giới ngƣời Anh nói riêng

là một đơn vị định danh độc lập trong tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh,

gồm hai loại là tên họ đơn và tên họ phức. Tên họ ngƣời Anh có số lƣợng lớn

và là đề tài nghiên cứu thu hút nhiều học giả trong và ngoài nƣớc.

2.3.3. Các mô hình cấu tạo tên nữ giới người Anh

Căn cứ theo mô hình chung tên nữ giới nƣời Anh đã nêu ra tại mục 2.3.1

và mô hình cụ thể của từng thành phần cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh, 24 mô

hình cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh có xuất hiện trong ngữ liệu đƣợc thống kê

nhƣ sau: 2.3.3.1. Mô hình tên nữ giới người Anh 2 thành tố

Mô hình 1: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ đơn. Đây là mô hình ngắn gọn,

có cấu tạo đơn giản nhất, gồm hai thành tố đơn. Mô hình này là mô hình phổ

biến nhất, chiếm tỉ lệ 29,98 %.

[Liz] [Morgan]

Mô hình 1 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T1

T2

A1

C1

56

Mô hình 2: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức (1 căn tố và một phụ tố)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức (một căn tố và một phụ

tố). Đây là mô hình tƣơng đối phổ biến của tên nữ giới ngƣời Anh. Mô hình

này chiếm tỉ lệ 24,96 %. Mô hình 2 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Sam] [Row|son] R1 R2

T1

T2

A1

C2

Mô hình 3: Tên cá nhân phức (1 căn tố và một phụ tố) – Tên đệm zero – Tên họ phức 2 căn tố Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức (một căn tố và một phụ tố), thành phần thứ hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức hai căn tố. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,38 %. Mô hình 3 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Doro|thy] [Peter|son] R1 S1 R2 R3

T1

T2

C2

A2

Mô hình 4: Tên cá nhân phức (một căn tố và một phụ tố) – Tên đệm zero

– Tên họ phức (một căn tố và một phụ tố)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức (một căn tố và

một phụ tố), thành phần thứ hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ

phức (một căn tố và một phụ tố). Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,29 %. Mô hình 4

đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Doro|thy] [Capent|er] S2

R1 S1 R2

T1

T2

A2

C2

57

Mô hình 5: Tên cá nhân phức hai căn tố – Tên đệm zero – Tên họ phức

hai căn tố

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức hai căn tố,

thành phần thứ hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức hai căn

tố. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,16 %. Mô hình 5 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Ally|son] [Water|field] R1 R2 R3 R4

T1

T2

C2

A2

Mô hình 6: Tên cá nhân phức hai căn tố – Tên đệm zero – Tên họ đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức hai căn tố,

thành phần thứ hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ đơn. Mô hình

[Alli|son] [Smith]

này chiếm tỉ lệ 0,18 %. Mô hình 6 đƣợc mô tả nhƣ sau:

R1 R2

T1

T2

C1

A2

Mô hình 7: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức (một căn tố

và một tiền tố)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức (một căn tố và một phụ

tố).

Mô hình này chiếm tỉ lệ 20,68 %. Mô hình 7 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Maxine] [Under|hill] R1

P1

T1

T2

A1

C2

58

Mô hình 8: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức (một căn tố

và một hậu tố)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức (một căn tố và một phụ

tố).

Mô hình này chiếm tỉ lệ 18,85 %. Mô hình 8 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Sara] [Brewst|er] S1

R1

T1

T2

A1

C2

Nhƣ vậy, trong 8 mô hình tên nữ giới ngƣời Anh 2 thành tố, mô hình 1

(Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ đơn) chiếm tỉ lệ cao nhất (28,98

%), mô hình 5 (Tên cá nhân phức 2 căn tố - Tên đệm zero – Tên họ phức 2 căn

tố) chiếm tỉ lệ thấp nhất (0,16%). Xét về sự phân bố các thành phần trong các

mô hình, thành phần tên cá nhân đơn xuất hiện ở 4 mô hình, các tiểu loại của

tên cá nhân phức bân bố rải rác ở các mô hình còn lại. Đối với thành phần tên

đệm, tên đệm zero xuất hiện ở cả 8 mô hình. Đối với thành phần tên họ, tên họ

đơn chỉ xuất hiện ở 2 mô hình, 6 mô hình còn lại đều là tên họ phức.

2.3.3.2. Mô hình tên nữ giới người Anh 3 thành tố

- Mô hình 1: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức 2 thành tố,

trong đó 1 thành tố phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức 2 thành tố, trong đó 1

thành tố phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn. Mô hình này chỉ chiếm tỉ lệ 0,12 %.

Mô hình 1 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Louisa] [Gold|stone - Smith] R1 R2

T1

T2

T3

A2

C2

59

Ở mô hình này, Goldstone và Smith đứng tách rời có thể là những họ độc

lập nhƣ họ Goldstone và họ Smith.

- Mô hình 2: Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên họ đơn. Mô hình này chiếm tỉ lệ

1,58 %. Mô hình này đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Ann] [Kate] [Caroline]

T1

T2

T3

C1

B2

A1 - Mô hình 3: Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức 2 căn tố – Tên họ đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm phức hai căn tố và thành phần thứ ba là tên họ đơn. Mô hình

này xuất hiện ít, chiếm tỉ lệ 0,39 %. Mô hình 3 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Melissa] [Mc|Ardle] [Brown]

R1

R2

T2

T3

T1

C1

A1

B3

- Mô hình 4: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức 2 thành tố

đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm rezo và thành phần thứ ba là tên họ phức hai thành tố đơn. Mô

[Phoebe] [Harris - Ryan]

hình này chiếm tỉ lệ 0,16 %. Mô hình 4 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T2 T3

T1

C2

A1

60

- Mô hình 5: Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ phức 2 căn tố

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần

thứ hai là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên họ phức 2 căn tố. Mô hình

này chiếm tỉ lệ tƣơng đối cao, 2,45 %. Mô hình 5 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Debbie] [Queeney] [John|son] R2

R1

T2

T3

T1

C2

A1

B2

- Mô hình 6: Tên cá nhân phức 2 thành tố đơn – Tên đệm zero – Tên họ

đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức 2 thành tố

đơn, thành phần thứ hai là tên đệm rezo và thành phần thứ ba là tên họ đơn.

Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,14%. Mô hình 6 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Kelly – Marie] [Ward] T2

T1

T3

C2

A2

- Mô hình 7: Tên cá nhân phức 2 thành tố đơn – Tên đệm zero – Tên họ

phức (1 căn tố và 1 phụ tố)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức 2 thành tố

đơn, thành phần thứ hai là tên đệm rezo và thành phần thứ ba là tên họ phức 1

căn tố và 1 phụ tố. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,18 %. Mô hình 7 đƣợc mô tả nhƣ

sau:

[Megan - Leigh] [Bark|er] R1 S1

T1

T3

T2

C2

A2

61

- Mô hình 8: Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức hai thành tố

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức đơn, thành

phần thứ hai là tên đệm rezo và thành phần thứ ba là tên họ phức hai thành tố,

trong đó có 1 thành tố phức (1 căn tố và 1 phụ tố) và 1 thành tố đơn. Mô hình

này chiếm tỉ lệ 0,12 %. Mô hình này đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Maria] [Bak|er - Smith] R1 S1

T1

T3

T2

A1

C2

Nhƣ vậy, trong 8 mô hình tên nữ giới ngƣời Anh 3 thành tố, mô hình 5

(Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ phức 2 căn tố) chiếm tỉ lệ cao nhất

(2, 45%), mô hình 1 (Tên cá nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức 2 thành

tố, trong đó 1 thành tố phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn) và mô hình 8 (Tên cá

nhân đơn – Tên đệm zero – Tên họ phức hai thành tố) chiếm tỉ lệ thấp nhất

0,12%. 2.3.3.3. Mô hình tên nữ giới người Anh 4 thành tố

- Mô hình 1: Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ phức 2 thành tố,

trong đó 1 thành tố đơn và một thành tố phức 2 căn tố

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm đơn, thành phần thứ ba là tên họ phức 2 thành tố, trong đó có 1

thành tố đơn và 1 thành tố phức 2 căn tố. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,03 %. Mô

hình 1 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Lea] [Kate] [Billing - Love|grove] R2

R1

T1

T2

T4

T3

C2

B2

A1

- Mô hình 2: Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ phức 2 thành tố

62

đơn

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm đơn, thành phần thứ ba là tên họ phức 2 thành tố đơn. Mô hình

này chiếm tỉ lệ 0,1 %. Mô hình 2 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Stacy] [Ann] [Thomas - Sedgley]

T4

T3

T1

T2

A1

B2

C2

- Mô hình 3: Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức 2 thành tố đơn – Tên họ

đơn

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm phức 2 thành tố đơn, thành phần thứ ba là tên họ đơn. Mô hình

[Carole] [Ann - Cornelius] [Jone]

này chiếm tỉ lệ 0,05 %. Mô hình 3 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T3

T1

T2

A1

B3

C1

- Mô hình 4: Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức 2 căn tố – Tên họ phức 2

thành tố đơn

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm phức 2 căn tố, thành phần thứ ba là tên họ phức 2 thành tố đơn.

Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,06 %. Mô hình 4 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Marese] [Mc|Phillip] [Power - Nolan] R2

R1

T1

T4

T2

T3

B3

C2

A1

- Mô hình 5: Tên cá nhân phức 2 thành tố đơn – Tên đệm zero – Tên họ

phức 2 thành tố, trong đó 1 thành tố phức 2 căn tố, 1 thành tố phức 1 căn tố và

63

1 phụ tố

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân phức 2 thành tố đơn,

thành phần thứ hai là tên đệm zero, thành phần thứ ba là tên họ phức 2 thành

tố, trong đó 1 thành tố phức 2 căn tố, 1 thành tố phức 1 căn tố và 1 phụ tố. Mô

hình này chiếm tỉ lệ rất thấp, 0,07 %. Mô hình 5 đƣợc mô tả nhƣ sau:

R2

[Emma - Louise] [Peter|son - Bak|er] R3 S1

R1

T1

T2

T4

T3

A 2

C 2

- Mô hình 6: Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức 2 thành tố (1 thành tố

phức 2 căn tố, 1 thành tố đơn) – Tên họ phức 2 căn tố

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm phức 2 thành tố (1 thành tố phức 2 căn tố, 1 thành tố đơn),

thành phần thứ ba là tên họ phức 2 căn tố. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,01 %. Mô

hình 6 đƣợc mô tả nhƣ sau:

R2

[Sarah] [Mac|Cruise - Lead] [Walk|man] R4

R3

R1

T4

T1

T3

T2

B3

C2

A1

- Mô hình 7: Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức 2 thành tố đơn – Tên họ

phức 2 căn tố

Mô hình này có thành phần thứ nhất là tên cá nhân đơn, thành phần thứ

hai là tên đệm phức 2 thành tố đơn, thành phần thứ ba là tên họ phức 2 căn tố.

Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,03 %. Mô hình 7 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Charli] [Anne - Horton] [Mc|Glone] R4

R3

T4

T1

T2

T3

B3

C2

A1

64

Nhƣ vậy, trong 7 mô hình tên nữ giới ngƣời Anh 4 thành tố, mô hình 2

(Tên cá nhân đơn – Tên đệm đơn – Tên họ phức 2 thành tố đơn) chiếm tỉ lệ

cao nhất (0,1 %), mô hình 6 (Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức 2 thành tố –

Tên họ phức 2 căn tố) có tỉ lệ thấp nhất (0,01%).

2.3.3.4. Mô hình tên nữ giới người Anh 5 thành tố

Mô hình 1: Tên cá nhân đơn – Tên đệm phức hai thành tố (trong đó 1

thành tố phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn) – Tên họ phức (trong đó 1 thành tố

phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn).

Mô hình này gồm tên cá nhân đơn, tên đệm phức hai thành tố, trong đó 1

thành tố phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn, tên họ phức hai thành tố, trong đó 1

thành tố phức 2 căn tố và 1 thành tố đơn. Mô hình này có số lần xuất hiện ít

nhất chỉ chiếm 0,03 %. Về độ dài, đây là mô hình dài nhất (5 thành tố). Mô

[Dawn] [Theo|bridge - Haigh] [Mac|Fie - Jones]

hình này đƣợc mô tả nhƣ sau:

R2 R3

P1

R1

T3

T5

T4

T2

T1

B3

C2

A1

Từ kết quả miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của tổ hợp định danh

nữ giới ngƣời Anh, cho phép rút ra một số nhận xét sau:

Về thành phần cấu tạo, tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh đƣợc cấu

tạo từ 3 thành phần tên cá nhân, tên đệm và tên họ. Luận án dựa trên cả nền

tảng cơ sở là hình vị để chia thành hai loại là tên đơn và tên phức. Trong thành

phần tên cá nhân, tên cá nhân đơn chiếm tỉ lệ cao nhất (98,6 %). Trong thành

phần tên đệm, tên đệm rezo phổ biến nhất (95,27%). Trong thành phần tên họ,

tên họ phức lại chiếm đa số (68,68%). Nhƣ vậy, trong mỗi thành phần định

65

danh khác nhau lại có đặc điểm cấu tạo khác nhau.

Về thành tố cấu tạo, tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh đƣợc cấu tạo

từ 2 đến 5 thành tố. Tuy nhiên, số lƣợng thành tố cấu tạo không trải đều trên cả

4 nhóm mà chủ yếu tập trung vào nhóm 2 thành tố. Chỉ tính riêng tên nữ giới

ngƣời Anh thuộc nhóm 2 thành tố đã chiếm tỉ lệ 94,48% trên tổng số tên đƣợc

khảo sát. Nhóm 5 thành tố có tỉ lệ thấp nhất là 0,03%. Dƣới đây là bảng tổng

hợp phân bổ tên nữ giới ngƣời Anh theo từng nhóm cụ thể:

Bảng 2.8: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên nữ giới người Anh theo

Thành tố cấu tạo 2 thành tố 3 thành tố 4 thành tố 5 thành tố Tổng thành tố cấu tạo Số lƣợng 12169 663 46 1 12879 Tỉ lệ phần trăm 94,48 5,14 0,35 0,03 100

Kết quả cho thấy, về mặt cấu trúc hình thức, tên nữ giới ngƣời Anh có

cấu tạo ngắn gọn. Phổ biến nhất là mô hình tên 2 thành tố, tức là cấu trúc tên

đệm rezo (tên đệm vắng mặt).

2.4. Đặc điểm cấu tạo tên nữ giới ngƣời Việt

Trên cơ sở phân tích các thành phần cấu tạo tên nữ giới thành 2 loại tên

đơn và tên phức nhƣ đã nêu tại 2.2, trong phần này, chúng tôi đƣa ra mô hình

chung cho tên nữ giới ngƣời Việt và phân tích từng thành phần định danh để

thấy đƣợc đặc điểm cấu tạo của tên nữ giới ngƣời Việt.

2.4.1. Mô hình chung tên nữ giới người Việt

Nhiều tác giả nghiên cứu về Việt danh học đã đƣa ra các mô hình khái

quát của tên riêng ngƣời Việt, trong đó chỉ có mô hình của Trần Ngọc Thêm

có phân biệt tên nam và nữ nhƣ sau [68, tr.19]:

Bảng 2.9. Mô hình tên người Việt của Trần Ngọc Thêm

66

Tên nam Tên nữ Kiểu 1 (không có tên đệm) Tên họ + tên riêng Kiểu 2 (có tên đệm) Tên họ + tên đệm + tên riêng Tên họ + “Thị” + tên riêng

Mô hình tên ngƣời Việt mà Trần Ngọc Thêm đã đƣa ra có phân biệt tên

nam và tên nữ nhƣng mô hình tên nữ của ông là [Tên họ + Thị + tên riêng].

Mô hình này chƣa khái quát hết toàn bộ tên nữ giới ngƣời Việt bởi vì không

phải tên nữ nào cũng có tên đệm Thị.

Chúng tôi đƣa ra mô hình khái quát các mô hình chính danh nữ giới

ngƣời Việt nhƣ sau:

Bảng 2.10. Mô hình cấu trúc chính danh nữ giới người Việt

Tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Việt

Tên họ (A) Tên đệm (B) Tên cá nhân (C)

Đơn (A1) Phức Zero Đơn Phức Đơn Phức

(A2) (B1) (B2) (B3) (C1) (C2)

2.4.2. Các thành phần cấu tạo tên nữ giới người Việt

Để phân tích cấu tạo tên nữ giới ngƣời Việt, luận án tiến hành phân tích

lần lƣợt từng thành phần trong cấu trúc định danh nữ giới ngƣời Việt là tên

họ, tên đệm và tên cá nhân. Tên cá nhân 2.4.2.1.

Trong mô hình tên nữ giới ngƣời Việt, tên cá nhân đứng ở vị trí sau cùng

nhƣng lại có vai trò quan trọng đặc biệt trong giao tiếp. Việc sử dụng độc lập

tên cá nhân trong giao tiếp hay thói quen thay thế cho toàn bộ cấu trúc của tên

ngƣời bằng tên cá nhân đã càng nhấn mạnh vai trò đặc biệt này của tên cá

nhân. Ví dụ: tên đầy đủ của tác giả là Lê Thị Minh Thảo thì trong giao tiếp

thông thƣờng chỉ dùng tên cá nhân là Thảo.

Có rất nhiều cách gọi tên cá nhân nhƣ tên, tên riêng hoặc tên chính. Tuy

nhiên, các cách gọi này dễ bị nhầm lẫn với tên gọi của toàn bộ tên họ đầy đủ.

Do đó, chúng tôi cũng hoàn toàn nhất trí với cách sử dụng thuật ngữ tên cá

nhân nhƣ đã nêu tại mục 2.1.

Về cấu tạo của tên cá nhân, có nhiều cách phân loại khác nhau nhƣ tên

67

đơn, tên ghép, tên kép. Nguyễn Huy Minh cho rằng “trong tên kép, mỗi âm tiết

là một thành tố định danh riêng biệt (tính độc lập tƣơng đối). Do đó, vai trò

của mỗi yếu tố là khác nhau trong một đơn vị thống nhất”. Để minh họa cho

quan niệm trên, tác giả cho là: trong cấu trúc tên Nguyễn Thị Thu Lan thì Thu

Lan là tên gọi kép, trong đó Lan là tên, còn Thu chỉ có giá trị phân biệt với

Hồng trong Hồng Lan, Ngọc trong Ngọc Lan [47].

Tuy nhiên, để phân định rõ ràng giữa hình thức tên cá nhân đơn, kép hay

phức trong một tên gọi bất kì là công việc khá phức tạp. Việc phân định này

đòi hỏi phải có sự hiểu biết nhất định về ngƣời mang tên hoặc ngƣời đặt tên.

Nhƣ đã nêu tại mục 2.2, luận án phân loại tên cá nhân thành tên cá nhân

đơn và tên cá nhân phức. Đặc điểm của từng loại đƣợc miêu tả nhƣ sau:

i. Tên cá nhân đơn (kí hiệu là C1): là tên cá nhân có cấu tạo gồm một

thành tố, ví dụ: Hoa, Lan, Mai, Đào, Thắm, …Khảo sát 12.936 tên nữ học

viên, sinh viên ngƣời Việt, kết quả cho thấy có 7.781 tên cá nhân đơn chiếm tỉ

lệ 60,15 %. Trong đó, xuất hiện 2 loại sau: (1) tên cá nhân một thành tố đơn, ví

dụ: Lan, Thảo, Thanh, Tuyết,…(2) tên cá nhân một tổ hợp thành tố, ví dụ:

Tường Vi, Linh Chi, Như Ý,…

Về cấu tạo, so với tên gọi trong các ngôn ngữ biến hình, tên cá nhân đơn

trong tiếng Việt ít có dấu hiệu phân biệt giới tính, có thể dùng đƣợc cả ở tên

nam và tên nữ. Tuy nhiên, về ý nghĩa, đa số tên cá nhân nữ giới ngƣời Việt

thƣờng sử dụng những hình thức tên gọi nhất định, đƣợc nêu tại mục 3.3.1.

ii. Tên cá nhân phức (kí hiệu là C2): là tên cá nhân có cấu tạo từ hai

thành tố trở lên. Kết quả khảo sát ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Việt cho thấy, tên

cá nhân phức của nữ giới ngƣời Việt tồn tại ở 2 dạng thức:

+ Dạng 1: tên cá nhân phức có thành phần cấu tạo là 2 thành tố, trong đó

1 thành tố chính và 1 thành tố là phụ gia, ví dụ: tên Ngô Thị Thanh Vân thì

Thanh Vân là tên cá nhân phức, trong đó: Thanh (xanh) là thành tố phụ gia và

68

Vân (mây) là thành tố chính. Mô hình cấu tạo nhƣ sau:

[Ngô] [Thị] [Thanh] [Vân]

Kết quả khảo sát 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Việt cho thấy,

kiểu tên cá nhân phức này có 5.155 lƣợt xuất hiện, chiếm tỉ lệ 38,85 %.

+ Dạng 2: là tên cá nhân phức do 2 thành tố chính hợp thành. Tên cá

nhân phức dạng này có kết cấu lỏng lẻo. Do đó, các thành tố có thể hoán đổi vị

trí cho nhau. Ví dụ: trong tên Bùi Thị Xuân Thu, tên cá nhân gồm hai thành tố

Xuân và Thu hợp thành. Mô hình cấu tạo nhƣ sau:

[Bùi] [Thị] [Xuân /Thu]

Kết quả khảo sát 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Việt cho thấy, tên

cá nhân phức này có 190 lƣợt xuất hiện, có tỉ lệ thấp nhất 1,47 %.

Thực tế, đa số các tên cá nhân phức nói trên chỉ có giá trị khu biệt trong

văn bản, còn trong giao tiếp thƣờng chỉ sử dụng thành tố cuối cùng trong cấu

trúc tên. Ví dụ: trƣờng hợp tên Nguyễn Thị Kim Ngân thì trong giao tiếp thông

thƣờng chỉ gọi là Ngân. Tuy nhiên, có những tên cá nhân ít có khả năng sử

dụng độc lập trong giao tiếp mà phải dùng đầy đủ cả thành phần tên cá nhân

phức, thậm chí cả tổ hợp định danh. Ví dụ: trƣờng hợp tên Nguyễn Thị Vân

Anh, phần lớn trong giao tiếp sẽ sử dụng hình thức tên cá nhân đầy đủ là Vân

Anh; trƣờng hợp tên Lê Thị Anh, trong giao tiếp có thể sử dụng tên họ kết hợp

với tên cá nhân nhƣ Lê Anh cũng có thể sử dụng đầy đủ cả tổ hợp định danh là

Lê Thị Anh.

Từ cách phân loại nhƣ vậy và dựa vào số lƣợng thành tố cấu tạo, luận án

đã khảo sát và tổng hợp đƣợc các mô hình tên cá nhân phức của nữ giới ngƣời

69

Việt nhƣ sau:

- Mô hình 1: tên cá nhân phức có thành phần cấu tạo là 2 thành tố, trong

đó 1 thành tố chính và 1 thành tố là phụ gia, ví dụ: Thanh Lan, Minh Châu,

Phương Liên,…

Minh Châu

T1

T2

- Mô hình 2: tên cá nhân phức do 2 thành tố chính hợp thành, ví dụ:

Quỳnh Sen

Quỳnh Sen, Bích Diệp,…

T1

T2

- Mô hình 3: tên cá nhân phức do 1 thành tố chính và một thành tố phụ

gia hợp thành, trong đó thành tố phụ gia là 1 tổ hợp thành tố, ví dụ: Hoa

Hoa Hƣớng Dƣơng

Hướng Dương

T1

T2

- Mô hình 4: tên cá nhân phức do 3 thành tố chính tạo thành, ví dụ: Thanh

Thanh Hiền

T1

Thanh Thanh Hiền T2 T3

Sự phân bố các thành tố cấu tạo trong tên cá nhân nữ giới ngƣời Việt

đƣợc tổng hợp trong bảng sau:

Bảng 2.11: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên cá nhân nữ giới người Việt

theo mô hình cấu tạo

70

Thành tố cấu tạo (1) Đơn Tỉ lệ phần trăm 60,15 Số lƣợt xuất hiện 7781

(2) Phức Mô hình phức 1 Mô hình phức 2 Mô hình phức 3 Tổng = (1) + (2) 5155 4965 188 2 12936 39,85 38,38 1,45 0,02 100

Nhƣ vậy, kết quả phân tích và thống kê cho thấy, trong tên nữ giới ngƣời

Việt, tên cá nhân đơn là phổ biến nhất, chiếm 60,15 %. Trong các mô hình tên

cá nhân phức thì mô hình 3 có tỉ lệ thấp nhất (0,02%).

2.4.2.2. Tên đệm

Trong mô hình tên của nữ giới ngƣời Việt nhƣ đã nêu ở trên, tên đệm

đứng ở vị trí thứ hai sau tên họ. Khác với tên đệm nữ giới ngƣời Anh, tên đệm

của nữ giới ngƣời Việt không phải là thành phần phụ trong cấu trúc tên vì nó

mang chức năng phân biệt giới tính và chức năng thẩm mĩ.

Số liệu thống kê cho thấy phần lớn tên đệm nữ giới ngƣời Việt là tên đệm

đơn. Ngoài ra, còn có hình thức tên đệm zero (không có tên đệm) và tên đệm

phức. Đặc điểm của từng loại tên đệm đƣợc phân tích lần lƣợt nhƣ sau:

i. Tên đệm zero (kí hiệu là B1): Tên đệm zero là hình thức tên đệm

không xuất hiện trong cấu trúc tên. Tên đệm này xuất hiện ở vị trí trống vắng.

Theo khảo sát của chúng tôi, hình thức tên đệm zero trong tên nữ giới ngƣời

Việt xuất hiện rất ít, chỉ chiếm 0,07 %. Về khả năng phân biệt giới trong loại

tên đệm zero này, Phạm Tất Thắng cho rằng “Phần lớn tên gọi chỉ hiện diện

hai thành tố tên họ và tên cá nhân thì đều gọi tên đối tƣợng là nam” [59]. Điều

đó có nghĩa là tên đệm dù không xuất hiện trong cấu trúc tên ngƣời Việt (tên

đệm zero) nhƣng phần nào có khả năng phân biệt giới. Khảo sát của chúng tôi

cũng cho thấy phần lớn tên nữ giới ngƣời Việt không có tên đệm zero (99,23

%).

ii. Tên đệm đơn (kí hiệu là B2): là tên đệm do một thành tố tạo thành, là

hình thức tên đệm phổ biến nhất trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Việt. Kết quả

khảo sát cho thấy, tên đệm đơn chiếm tỉ lệ cao nhất (97,91 %). Tuy nhiên, việc

nhận diện tên đệm tƣơng đối khó khăn do tên đệm có thể bị lẫn lộn trong cấu

71

trúc tên họ phức hoặc tên cá nhân phức. Ví dụ:

(1) Nguyễn Lê/ Thảo (Nguyễn Lê là tên họ phức, do đó Lê là thuộc tên

họ phức mà không phải là tên đệm).

(2) Bùi/ Lê Na (Lê Na là tên cá nhân phức, do đó Lê thuộc tên cá nhân

mà không phải tên đệm).

Nhƣ vậy, ngoài những tên đệm rất đặc trƣng nhƣ Thị, Nữ, Diệu…việc

nhận diện tên đệm cần có sự phân tích thấu đáo các thành phần định danh

trong tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Việt.

iii. Tên đệm phức (kí hiệu là B3): là tên đệm có cấu tạo từ hai thành tố

trở lên. Kết quả khảo sát ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Việt cho thấy có 2 mô hình

tên cá nhân phức của nữ giới ngƣời Việt:

- Mô hình 1: tên đệm phức có thành phần cấu tạo là 2 thành tố, trong đó 1

thành tố chính và một thành tố phụ gia, ví dụ: trong tên Lê Kim Ánh Hồng thì

Kim Ánh là tên đệm phức, trong đó: Kim (vàng) là thành tố phụ gia và Ánh

[Lê] [Kim Ánh] [Hồng]

(ánh sáng) là thành tố chính. Mô hình cấu tạo nhƣ sau:

Kết quả khảo sát 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Việt cho thấy,

kiểu tên đệm phức này có 164 lƣợt xuất hiện, chiếm tỉ lệ 1,27 %.

- Mô hình 2: tên đệm phức gồm 2 thành tố chính hợp thành, các thành tố

độc lập nên có kết cấu lỏng lẻo hơn và có thể thay đổi vị trí của nhau, ví dụ:

tên Lê Thu Đông Thảo thì Thu Đông là tên đệm phức trong đó: Thu (mùa thu)

và Đông (mùa đông) độc lập với nhau. Mô hình cấu tạo nhƣ sau:

[Lê] [Thu/ Đông] [Thảo]

Sự phân bố các thành tố cấu tạo trong tên đệm nữ giới ngƣời Việt đƣợc

tổng hợp trong bảng sau:

Bảng 2.12: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên đệm nữ giới người Việt

72

theo mô hình cấu tạo

Thành tố cấu tạo (1) Zero (2) Đơn (3) Phức Mô hình phức 1 Mô hình phức 2 Tổng = (1) + (2) + (3) Số lƣợng 99 12666 171 164 7 12936 Tỉ lệ phần trăm 0,77 97,91 1.32 1,27 0,05 100

Kết quả thống kê cho thấy, tên đệm nữ giới ngƣời Việt có cấu tạo gồm tên

đệm đơn, tên đệm phức và tên đệm zero. Trong đó, tên đệm đơn chiếm tỉ lệ

cao nhất 97,91%, tên đệm phức chiếm tỉ lệ 1,32 % còn tên đệm zero chiếm tỉ

lệ ít nhất 0,07 %. Kết quả cho thấy rằng, hình thức tên đệm rezo rất ít xuất hiện

trong tên nữ giới ngƣời Việt. Các nhà nghiên cứu đi trƣớc đã đƣa ra nhận định

rằng, hình thức tên đệm zero cũng là một hình thức phân biệt giới, khi phần

lớn tên nữ giới không sử dụng mô hình tên này, trong khi đó tên nam giới lại

có xu hƣớng sử dụng mô hình này nhiều hơn. Việc tên nữ giới ngƣời Việt có

xu hƣớng sử dụng tên nhiều thành tố cho thấy yêu cầu thẩm mĩ trong tên nữ

giới ngƣời Việt rất cao.

2.4.2.3. Tên họ

Trong mô hình tên nữ giới ngƣời Việt, tên họ luôn đứng ở vị trí đầu tiên.

Trong cấu trúc tên đó, tên họ là yếu tố bền vững, ít thay đổi và có số lƣợng

hữu hạn.

Với tên của ngƣời Hán ở Trung Quốc hay tên ngƣời ở một số quốc gia

Châu Á khác nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có cấu trúc tƣơng tự. Chẳng hạn

ở Trung Quốc, tên phu nhân của Tôn Trung Sơn, tổng thống đầu tiên

của Trung Hoa Dân Quốc là Tống Khánh Linh thì Tống là tên họ; hay tên phu

nhân chủ tịch Triều Tiên Kim Jung Un là Ri Sol Ju thì Ri là tên họ. Tuy nhiên,

trong cấu trúc tên ngƣời của nhiều dân tộc trên thế giới, thành phần tên họ lại

nằm ở vị trí cuối cùng nhƣ ở Anh, ở Nga, Pháp,…Chẳng hạn: trong tên ngƣời

73

Anh Sarah Rosina thì Rosina là tên họ và nằm ở cuối cùng trong cấu trúc tên.

Đây là điểm dễ gây nhầm lẫn cho ngƣời học tiếng Anh, cũng nhƣ dễ gây nhầm

lẫn trong giao tiếp với ngƣời Anh.

Về mặt cấu tạo, đa số các tác giả nhất trí cho rằng, tên họ của ngƣời Việt

tồn tại chủ yếu dƣới hình thức đơn âm tiết, hay còn gọi là họ đơn, ví dụ: họ

Nguyễn, Võ, Hoàng, Lê... Một số ý kiến khác lại cho rằng: bên cạnh họ đơn,

tên ngƣời Việt còn có cả họ kép ví dụ: Nguyễn Công, Tôn Thất, Tôn Nữ,

Nguyễn Khoa, Nguyễn Tài ….và họ ghép, ví dụ: Lê Nguyễn, Trần Lê, Phan

Huỳnh, Vũ Phạm…Nhƣ mô hình của chúng tôi đã phân tích ở trên, tên họ nữ

giới của ngƣời Việt gồm có tên họ đơn và tên họ phức.

i. Tên họ đơn (kí hiệu là A1): là tên họ có cấu tạo gồm một thành tố,

những tên họ đơn thƣờng gặp nhƣ: Nguyễn, Phạm, Lê…Về số lƣợng, hiện nay,

các con số thống kê tên họ chƣa thống nhất. Do số lƣợng tên họ đơn không

nhiều nên hiện tƣợng trùng họ thƣờng xuyên xảy ra. Trƣờng hợp nhiều ngƣời

mang cùng một tên họ thì không có nghĩa là những ngƣời đó có cùng gốc gác,

cùng chung nguồn gốc huyết thống.

Việc xác định họ đơn một cách chính xác là công việc tƣơng đối khó vì

nhiều nguyên nhân nhƣ: đổi họ, lấy họ vua ban, họ đồng âm hoặc biến

âm,v.v…Các sách sử đã ghi chép lại rằng, vua chúa thời xƣa thƣờng cho phép

một số quan lại có công với triều đình hoặc đỗ đạt cao đƣợc đổi tên và có khi

cho phép theo họ vua và xem đó là một cách ban thƣởng trọng hậu. Có ngƣời

bỏ hẳn họ của mình để lấy họ vua nhƣ Mạc Cảnh Vinh đƣợc chúa Nguyễn

Phúc Nguyên cho phép đổi thành Nguyễn Phúc Vinh, hay ông Huỳnh Đức ở

triều đại vua Gia Long đƣợc đổi tên trở thành Nguyễn Huỳnh Đức và các con

trai ông là Nguyễn Huỳnh Thành và Nguyễn Huỳnh Thừa.

Đến nay, việc xác định chính xác số lƣợng họ của ngƣời Kinh chƣa thể

thực hiện đƣợc. Lí do có thể liên quan đến những nguyên nhân nêu trên.

Theo kết quả khảo sát của luận án, ngƣời Việt (ngƣời Kinh) có 153 họ

đơn, chiếm tỉ lệ cao nhất 96,64%, trong đó họ Nguyễn xuất hiện 4.020 lần,

74

chiếm tỉ lệ cao nhất (31,08%) (Xem phụ lục 16 + 17). Tuy nhiên, đây chỉ là

con số mang tính chất tham khảo về mặt nghiên cứu mà không phải là số liệu

thống kê đầy đủ tên họ của nữ giới ngƣời Việt trên cả nƣớc.

ii. Tên họ phức (kí hiệu là A2): là tên họ có cấu tạo từ hai thành tố trở

lên. Khác với họ đơn, các họ phức thƣờng đƣợc hình thành do nhu cầu phân

biệt các họ đơn đồng âm hoặc phân biệt các chi, nhánh trong một dòng họ lớn

hay ghép hai họ với nhau (chủ yếu là họ cha và họ mẹ).

Dựa vào cấu tạo của các thành tố trong tên họ phức, chúng tôi thấy rằng

tên họ phức của nữ giới ngƣời Việt có 2 mô hình:

- Mô hình 1: tên họ phức có cấu tạo là 2 thành tố, trong đó có 1 thành tố

chính và 1 thành tố là phụ gia. Các thành tố có kết cấu chặt chẽ, tạo thành một

khối vững chắc nên không thay đổi đƣợc vị trí các thành tố, ví dụ: Cao Bá,

Phạm Mai, Vương Ngọc, Huỳnh Thanh, …; Họ phức dạng này đƣợc hình

thành theo qui ƣớc của một nhóm ngƣời hay một dòng họ nhất định. Do đó,

tên họ này mang tính xã hội yếu, chỉ có giá trị trong dòng họ hay địa phƣơng

Cao Bá

nhất định. Mô hình cấu tạo nhƣ sau:

Để phân biệt chi họ này với chi họ kia, ngƣời ta quy ƣớc tạo ra một tên

họ mới trên cơ sở vẫn giữ nguyên tên họ đơn vốn có, thành tố thứ nhất thƣờng

là tên họ có sẵn, thành tố thứ hai thƣờng là tên đệm của chi trƣởng, ví dụ

Nguyễn Đức, Nguyễn Lân, Lê Đình…. Dần dần, tổ hợp tên họ và tên đệm đó

đƣợc sử dụng nhƣ tên họ phức trong tên gọi của các thế hệ con cháu đời sau.

Tuy nhiên, các tên họ phức thuộc dạng thứ hai thƣờng chỉ do sự qui ƣớc của

một nhóm ngƣời trong phạm vi một dòng họ hay một chi họ nhất định nên tính

xã hội của loại tên họ này chƣa cao. Có thể thấy rằng, tên họ phức thuộc dạng

này gần nhƣ ít lƣu giữ ở tên nữ giới hơn so với tên nam giới với mục đích duy

trì dòng họ. Đây cũng chính là một trong những yếu tố thể hiện sự kì thị trong

75

họ tộc đối với nữ giới. Điều đó thể hiện tƣ tƣởng “nữ nhi ngoại tộc”.

Kết quả khảo sát 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Việt cho thấy, tên

họ phức ( gồm 1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia) chiếm tỉ lệ thấp nhất

0,09 %.

- Mô hình 2: tên họ phức có cấu tạo là 2 thành tố chính, các thành tố độc

lập với nhau, thƣờng do kết hợp 2 họ mà thành, ví dụ: Lê Nguyễn, Phạm

Hoàng, Trần Lê,… Mô hình cấu tạo nhƣ sau:

Phạm Huỳnh

Tên họ phức này thƣờng là do ghép họ bố và họ mẹ. Việc ghép họ bố và họ

mẹ nhƣ vậy thể hiện sự tích cực trong xã hội khi hình thức này có thể khẳng

định vị thế của ngƣời phụ nữ trong cuộc sống, khẳng định sự tồn tại của tên họ

mẹ trong tên con cái. Tuy nhiên, mô hình tên họ này thƣờng chỉ đƣợc duy trì ở

một thế hệ, đến đời tiếp theo thì dễ bị thay đổi. Do đó, loại tên này dễ bị thay

đổi qua các giai đoạn khác nhau và cũng bị giới hạn phạm vi sử dụng hơn.

Việc xác định tên họ theo mô hình này cũng cần phải xem xét kĩ lƣỡng. Có

trƣờng hợp tên họ có hình thức rất giống tên họ phức này, ví dụ: Phạm Hoàng

Lan nhƣng thực tế lại không phải là tên họ phức Phạm Hoàng mà Hoàng thuộc

phạm vi của tên cá nhân phức Hoàng Lan. Điều đó cho thấy việc xác định họ

phức cũng không phải vấn đề đơn giản, cần có những hiểu biết nhất định về

ngƣời mang tên hoặc ngƣời đặt tên.

Kết quả khảo sát 12.936 tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Việt cho thấy, tên

họ phức này chiếm tỉ lệ 0,85 %.

Có thể thấy, sự hình thành của họ phức tạo ra sự phong phú, đa dạng trong

ngôn ngữ hay nói hẹp hơn là trong lĩnh vực nhân danh học và ngôn ngữ học xã

hội về giới.

Các nhà nghiên cứu đi trƣớc đã tìm hiểu và phân tích lí do hình thành kiểu

họ phức này nhƣ sau:

Thứ nhất, vì đi làm con nuôi: khi đó có thể họ có sẵn của con nuôi đƣợc

76

giữ lại và chỉ thêm họ mới của ngƣời nhận nuôi lên trƣớc. Trong lịch sử cũng

có những trƣờng hợp nhƣ vậy, ví dụ: Đặng Trần Côn vốn có họ Trần, nhƣng

làm con nuôi cho gia đình họ Đặng, nên có tên mới là Đặng Trần Côn.

Thứ hai, vì đƣợc vua ban họ: Ở thời Nguyễn, có những ngƣời đƣợc vua

ban quốc tính nhƣ một hình thức trọng thƣởng khi làm đƣợc việc lớn. Ngƣời

đƣợc ban quốc tính đƣợc đặt tên họ nhà vua trƣớc tên họ mình. Ví dụ: ông

Nguyễn Huỳnh Đức có họ Huỳnh, sau khi đƣợc ban quốc tính đổi thành

Nguyễn Huỳnh.

Thứ ba, vì đặt thêm họ mẹ: Nguyễn Bạt Tụy đã nêu ra hai ví dụ về kiểu

tên họ này: ông Từ Cao Cam có cha là ông Từ Bộ Chỉ và có mẹ họ Cao nên

ông có tên họ gồm tên họ cha (Từ) + tên họ mẹ (Cao) thành Từ Cao hay ông

Nguyễn Từ Hiền và ông Nguyễn Từ Ân có cha là ông Nguyễn Văn Mô và có

mẹ họ Từ nên ông có họ ghép của tên họ cha (Nguyễn) và tên họ mẹ (Từ)

thành Nguyễn Từ [83]. Tuy nhiên, hình thức ghép họ mẹ sau họ cha dễ bị thay

đổi ở đời con cháu sau này.

Nhƣ vậy, tên họ đơn của nữ giới ngƣời Việt không khác biệt so với nam giới

nhƣng lại có sự khác biệt ở tên họ phức vì tên nữ ít khi có thêm yếu tố chỉ gia

tộc. Tuy nhiên, tên họ con cháu thời Nguyễn là một trƣờng hợp ngoại lệ có tên

họ dành riêng cho nam giới và nữ giới. Họ Công Tằng Tôn Nữ đƣợc dùng cho

các cháu gái bên nhà họ nội của các đời vua Nguyễn xuất phát từ thời Minh

Mạng. Vua Minh Mạng (Tên húy: Nguyễn Phúc Đảm) đã định ra một chính hệ

từ đời vua Gia Long trở về sau theo nguyên tắc sau: con cháu các chúa Nguyễn

thì đƣợc xếp vào hệ Tôn Thất cho nam và Tôn Nữ dành cho nữ.

2.4.3. Các mô hình cấu tạo tên nữ giới người Việt

Căn cứ theo mô hình tên đã nêu tại mục 2.4.1 và số lƣợng tên nữ ngƣời

Việt đƣợc khảo sát, luận án đã phân tích và thống kê đƣợc có 21 mô hình cấu

tạo tên nữ giới ngƣời Việt nhƣ sau:

2.4.3.1. Mô hình tên nữ giới người Việt 2 thành tố

77

- Mô hình 1: Tên họ đơn – Tên đệm zero – Tên cá nhân đơn

Đây là mô hình tên 2 thành tố, cấu trúc ngắn gọn và đơn giản nhất. Mô

hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai là tên đệm

zero và thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví dụ: Hoàng My, Phạm Linh…

[Phạm] [Linh]

Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,05 %. Mô hình 1 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T1

T2

A1

C1

- Mô hình 2: Tên họ đơn – Tên đệm zero – Tên cá nhân 1 thành tố phức

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm zero và thành phần thứ ba là tên cá nhân một thành tố phức, ví dụ:

Nguyễn Tường Vi, Nguyễn Đan Phượng, Vũ Linh Đan,..

[Nguyễn] [Tƣờng Vi]

Đây là mô hình chiếm tỉ lệ thấp (0,02 %). Mô hình 2 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T2

T1

A1

C2

2.4.3.2. Mô hình tên nữ giới người Việt 3 thành tố

- Mô hình 1: Tên họ đơn – Tên đệm đơn – Tên cá nhân đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví dụ: Nguyễn Thị

Nhung, Nguyễn Diệu Linh, Cao Thùy Ninh… Đây là mô hình phổ biến nhất

của tên nữ giới ngƣời Việt, chiếm tỉ lệ cao nhất ( 57,91 %). Mô hình 1 đƣợc

mô tả nhƣ sau:

T3

[Nguyễn] [Diệu] [Linh] T2 T1

C1

A1

B2

- Mô hình 2: Tên họ đơn – Tên đệm đơn – Tên cá nhân 1 thành tố phức

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

78

là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân 1 thành tố phức, ví dụ:

Nguyễn Thị Tường Vi, Lê Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Li Na,… Mô hình này

chiếm tỉ lệ 0,7 %. Mô hình 2 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Nguyễn] [Thị] [Li Na]

T1

T2

T3

C2

A1

B2

- Mô hình 3: Tên họ phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia) – Tên

đệm zero – Tên cá nhân đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức trong đó có một

thành tố chính và một thành tố phụ gia, thành phần thứ hai là tên đệm rezo và

thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví dụ: Cổ Gia Yến. Mô hình này chiếm tỉ

lệ 0,2 %. Mô hình 3 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Cổ Gia] [Yến] T3

T1 T2

C1

A2

- Mô hình 4: Tên họ phức 2 thành tố chính – Tên đệm zero – Tên cá nhân

đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức 2 thành tố chính,

thành phần thứ hai là tên đệm zero và thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví

dụ: Nguyễn Lê Thảo, Hoàng Võ Thùy, Phan Lê Hà,… Mô hình này chiếm tỉ lệ

0,09 %. Mô hình 4 đƣợc mô tả nhƣ sau:

[Phan Lê] [Hà] T3

T1 T2

A2

C1

- Mô hình 5: Tên họ phức hai thành tố chính – Tên đệm zero – Tên cá

nhân 1 thành tố phức

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức hai thành tố chính,

79

thành phần thứ hai là tên đệm zero và thành phần thứ ba là tên cá nhân 1 thành

tố phức, ví dụ: Lê Hoàng Linh Chi. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,02 %. Mô hình

[Lê Hoàng] [Linh Chi]

5 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T1 T2

T3

A2

C1

2.4.3.3. Mô hình tên nữ giới người Việt 4 thành tố

- Mô hình 1: Tên họ đơn – Tên đệm đơn – Tên cá nhân phức (1 thành tố

chính và 1 thành tố phụ gia)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức (trong đó có một

thành tố chính và một thành tố phụ gia), ví dụ: Lê Thị Ngọc Mai. Mô hình này

[Lê] [Thị] [Ngọc Mai]

chiếm tỉ lệ cao 37,86 %. Mô hình 1 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T3

T1 T2

A1

B2

C2

- Mô hình 2: Tên họ đơn – Tên đệm đơn – Tên cá nhân phức 2 thành tố

chính

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức hai thành tố chính, ví

dụ: Đỗ Thị Quỳnh Sen. Mô hình này chiếm tỉ lệ 1,18 %. Mô hình 2 đƣợc mô tả

nhƣ sau:

T3

[Đỗ] [Thị] [Quỳnh Sen] T4 T1 T2

A1

B2

C2

- Mô hình 3: Tên họ đơn – Tên đệm phức (1 thành tố chính và 1 thành tố

80

phụ gia) – Tên cá nhân đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm phức (trong đó có một thành tố chính và một thành tố phụ gia) và

thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví dụ: Trần Ngọc Yến Thi. Mô hình này

[Trần] [Ngọc Yến] [Thi]

chiếm tỉ lệ 1,27 %. Mô hình 3 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T3

T2

T1

A1

B3

C1

- Mô hình 4: Tên họ đơn – Tên đệm phức 2 thành tố chính – Tên cá nhân

đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm phức hai thành tố chính và thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví

dụ: Lê Mỹ Hạnh Hoa. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,03 %. Mô hình 4 đƣợc mô tả

[Lê] [Mỹ Hạnh] [Hoa]

nhƣ sau:

T1 T2

T3

T4

C1

A1

B3

- Mô hình 5: Tên họ đơn – Tên đệm đơn – tên cá nhân phức do 1 thành tố

chính và một thành tố phụ gia hợp thành, trong đó thành tố phụ gia là 1 tổ hợp

thành tố

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức do 1 thành tố chính

và một thành tố phụ gia hợp thành, trong đó thành tố phụ gia là 1 tổ hợp thành

tố, ví dụ: Lê Thị Hoa Hướng Dương. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,01 %. Mô hình

[Lê] [Thị] [Hoa Hƣớng Dƣơng]

5 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T1

T4

T2

T3

C2

B2

A1

81

- Mô hình 6: Tên họ đơn – Tên đệm phức hai thành tố, trong đó có 1

thành tố đơn và 1 thành tố phức – Tên cá nhân đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm phức do 1 thành tố chính và một thành tố phụ gia hợp thành, trong

đó thành tố phụ gia là 1 tổ hợp thành tố, trong đó có 1 thành tố đơn và 1 thành

tố phức và thành phần thứ ba là tên cá nhân đơn, ví dụ: Nguyễn Ngọc Lưu Ly

[Nguyễn] [Ngọc Lƣu Ly] [Thảo]

Thảo. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,02 %. Mô hình 6 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T2

T3

T4

T1

B3

C1

A1

- Mô hình 7: Tên họ phức 2 thành tố chính – Tên đệm zero – Tên cá

nhân phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức hai thành tố chính,

thành phần thứ hai là tên đệm zero và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức

trong đó có một thành tố chính và một thành tố phụ gia, ví dụ: Đặng Lê Quỳnh

Hoa. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,27 %. Mô hình 7 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T3

T4

[Đặng Lê] [Quỳnh Hoa] T2

T1

C2

A2

- Mô hình 8: Tên họ phức 2 thành tố chính – Tên đệm zero – Tên cá nhân

phức 2 thành tố chính

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức hai thành tố chính,

thành phần thứ hai là tên đệm zero và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức

hai thành tố chính, ví dụ: Trần Nguyễn Nhật Anh. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,25

[Trần Nguyễn] [Nhật Anh]

%. Mô hình 8 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T3

T4

T1

T2

82

C2

A2

- Mô hình 9: Tên họ phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia) – Tên

đệm zero – Tên cá nhân phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức (1 thành tố chính và

1 thành tố phụ gia), thành phần thứ hai là tên đệm zero và thành phần thứ ba là

tên cá nhân phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia), ví dụ: Phạm Quang

Ngọc Nữ. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,03 %. Mô hình 9 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T3

[Phạm Quang] [Ngọc Nữ] T4

T1

T2

C2

A2

- Mô hình 10: Tên họ phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia) – Tên

đệm zero – Tên cá nhân phức 2 thành tố chính

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức (1 thành tố chính

và 1 thành tố phụ gia), thành phần thứ hai là tên đệm zero và thành phần thứ

ba là tên cá nhân phức 2 thành tố chính, ví dụ: Cao Bá Quỳnh Sen. Mô hình

[Cao Bá] [Quỳnh Sen]

này chiếm tỉ lệ 0,02 %. Mô hình 10 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T3

T1 T2

C2

A2

- Mô hình 11: Tên họ phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia) – Tên

đệm đơn – Tên cá nhân đơn

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức (1 thành tố chính

và 1 thành tố phụ gia), thành phần thứ hai là tên đệm đơn và thành phần thứ ba

là tên cá nhân đơn, ví dụ: Vương Đắc Thị Tuyền. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,02

[Vƣơng Đắc] [Thị] [Tuyền]

%. Mô hình 11 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T1

T3

T2

83

A2

B2

C1

2.4.3.4 .Mô hình tên nữ giới người Việt 5 thành tố

- Mô hình 1: Tên họ phức 2 thành tố chính – Tên đệm đơn – Tên cá nhân

phức (1 thành tố chính và 1 thành tố phụ gia)

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức 2 thành tố chính,

thành phần thứ hai là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức (1

thành tố chính và 1 thành tố phụ gia), ví dụ: Nguyễn Lê Thị Huyền Trâm. Mô

hình này chiếm tỉ lệ 0,14 %. Mô hình 1 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T5

T1

T2

[Nguyễn Lê] [Thị] [Huyền Trâm] T3

B2

C2

A2

- Mô hình 2: Tên họ phức 2 thành tố chính – Tên đệm đơn – Tên cá nhân

phức 2 thành tố chính

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ phức 2 thành tố chính,

thành phần thứ hai là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức 2

thành tố chính, ví dụ: Nguyễn Hồ Thị Tuyết Ngân. Mô hình này chiếm tỉ lệ

0,08 %. Mô hình 2 đƣợc mô tả nhƣ sau:

T4

T1

T2

[Nguyễn Hồ] [Thị] [Tuyết Ngân] T5 T3

B2

C2

A2

- Mô hình 3: Tên họ đơn – Tên đệm đơn – Tên cá nhân phức 3 thành tố

chính

Mô hình này gồm thành phần thứ nhất là tên họ đơn, thành phần thứ hai

là tên đệm đơn và thành phần thứ ba là tên cá nhân phức 3 thành tố chính, ví

dụ: Nguyễn Thị Thanh Thanh Hiền. Mô hình này chiếm tỉ lệ 0,01 %. Mô hình

[Nguyễn] [Thị] [Thanh Thanh Hiền]

này đƣợc mô tả nhƣ sau:

T3

T4

T5

T1

T2

84

C2

A1

B2

Từ kết quả miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của tổ hợp định danh

nữ giới ngƣời Việt, cho phép rút ra một số nhận xét sau:

Về thành phần cấu tạo, tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Việt đƣợc cấu

tạo từ 3 thành phần tên cá nhân, tên đệm và tên họ. Trong thành phần tên cá

nhân, tên cá nhân đơn chiếm tỉ lệ cao nhất (60,15 %). Trong thành phần tên

đệm thì tên đệm đơn phổ biến nhất (97,91 %). Trong thành phần tên họ thì tên

họ đơn cũng chiếm đa số (99,06 %). Nhƣ vậy, các thành phần trong tổ hợp

định danh nữ giới ngƣời Việt đều có cấu tạo đơn là chủ yếu.

Về thành tố cấu tạo, tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Việt cũng đƣợc cấu

tạo từ 2 đến 5 thành tố. Tuy nhiên, số lƣợng thành tố cấu tạo không trải đều

trên 4 nhóm mà chủ yếu tập trung vào nhóm 3 thành tố. Chỉ tính riêng tên nữ

giới ngƣời Việt thuộc nhóm 3 thành tố đã chiếm tỉ lệ 58,74 % tổng số tên đƣợc

khảo sát, sau đó đến nhóm 4 thành tố (40,96%). Nhóm 5 thành tố có tỉ lệ thấp

nhất (0,23 %). Dƣới đây là bảng tổng hợp phân bổ tên nữ giới ngƣời Việt theo

từng nhóm cụ thể:

Bảng 2.13: Bảng tổng hợp phân bổ số lượng tên nữ giới người Việt

Thành tố cấu tạo 2 thành tố 3 thành tố 4 thành tố 5 thành tố Tổng theo thành tố cấu tạo Số lƣợng 10 7599 5299 28 12936 Tỉ lệ phần trăm 0,07 58,74 40,96 0,23 100

2.5. Những nét tƣơng đồng và khác biệt về cấu tạo trong tên nữ giới

ngƣời Anh và ngƣời Việt

Qua việc miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của tên nữ giới ngƣời

85

Anh và ngƣời Việt, luận án rút ra những nét tƣơng đồng và khác biệt sau:

2.5.1. Những nét tương đồng về cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và

người Việt

Tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đƣợc luận án xác định là các tổ

hợp định danh với chức năng chủ yếu là để khu biệt các cá nhân nữ khác

nhau.

Về thành phần cấu tạo, tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều đƣợc

xác định gồm ba thành phần là tên họ, tên đệm, tên cá nhân. Mỗi thành phần

trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều là một đơn vị định danh đơn

nhất. Chúng có cấu trúc, chức năng riêng và có khả năng tách khỏi tổ hợp

định danh để hoạt động một cách tƣơng đối độc lập. Ở cả Anh và Việt Nam,

tên họ là một yếu tố trong cấu trúc chính danh đầy đủ để chỉ ra nguồn gốc

dòng tộc của cá thể mang tên. Tên họ tƣợng trƣng cho cả một gia đình, dòng

tộc có quan hệ huyết thống. Tên cá nhân thì để chỉ ra những cá thể khác nhau,

những thành viên khác nhau trong một cộng đồng, đặc biệt là để phân biệt các

thành viên trong gia đình khi có tên họ giống nhau. Nói cách khác, quan niệm

của cả ngƣời Anh và ngƣời Việt là tên cá nhân mang tính cá thể, còn tên họ

mang tính tập thể.

Về phân loại cấu tạo của các thành phần, phân tích từng thành phần

trong tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt cho thấy các thành

phần đều có cấu tạo ở dạng đơn và phức, cụ thể là: tên họ đơn, tên họ phức;

tên đệm đơn, tên đệm phức; tên cá nhân đơn, tên cá nhân phức. Tên họ phức

hai thành tố chính của nữ giới ngƣời Việt và ngƣời Anh có nguồn gốc tƣơng

đối giống nhau, phần lớn là do ghép hai họ. Về tên đệm, ngoài tên đệm đơn và

tên đệm phức còn có tên đệm zero. Loại tên đệm này xuất hiện ở cả tên nữ giới

ngƣời Anh và ngƣời Việt với mức độ phổ biến khác nhau.

Về thành tố cấu tạo, tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt

đều có cấu tạo từ 2 đến 5 thành tố, trong đó tổ hợp định danh ngắn nhất gồm 2

86

thành tố và dài nhất gồm 5 thành tố.

2.5.2. Những khác biệt về cấu tạo trong tên nữ giới người Anh và người

Việt Mô hình chung 2.5.2.1.

Các công trình nghiên cứu cho thấy tên ngƣời Anh hay ngƣời Việt đều có

mô hình cấu tạo chung gồm 3 thành phần là: tên họ, tên đệm và tên cá nhân.

Tuy nhiên, vị trí các thành phần này trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt lại hoàn toàn trái ngƣợc. Tên nữ giới ngƣời Anh sắp xếp theo thứ tự

[Tên cá nhân – Tên đệm – Tên họ], ví dụ: Elly Mitchell Bond thì Elly là tên cá

nhân, Mitchell là tên đệm và Bond là tên họ. Mô hình tên nữ giới ngƣời Việt thì

sắp xếp theo thứ tự ngƣợc lại [Tên họ - Tên đệm – Tên cá nhân], ví dụ: Nguyễn

Ngọc Diễm thì Nguyễn là tên họ, Ngọc là tên đệm và Diễm là tên cá nhân.

Điểm khác biệt ở thứ tự các thành phần trong mô hình cấu tạo tên nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt nhƣ đã nêu ở trên là rất rõ ràng. Liệu có thể

phỏng đoán rằng thứ tự trƣớc sau của các thành phần này là để nhấn mạnh tầm

quan trọng của yếu tố? Đó cũng có thể là một giả thuyết khi có tác giả cho

rằng trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh, tên cá nhân đứng ở vị trí số một

nhằm để nhấn mạnh tính cá nhân, cá thể hóa, còn trong cấu trúc tên nữ giới

ngƣời Việt thì tên họ đứng ở vị trí đầu tiên nhằm nhấn mạnh yếu tố nguồn gốc

dòng tộc mang tính tập thể. Liên quan đến đặc điểm này, nhà tâm lý học ngƣời

Hà Lan, Hofstede đã đƣa ra khái niệm về chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá

nhân. Theo Hofstede lí thuyết này lƣợng hóa đƣợc khoảng cách giữa mỗi

thành viên tới nhóm cộng đồng của họ trong một nền văn hóa nhất định. Mỗi

con ngƣời thuộc chủ nghĩa cá nhân có xu hƣớng thích thể hiện cái tôi của bản

thân và họ chọn cách liên kết với thế giới bên ngoài thông qua việc thể hiện

bản thân mình. Con ngƣời thuộc chủ nghĩa tập thể thƣờng có xu thế thể hiện

vai trò của mình nhƣ là thành viên của một tập thể có tính kết nối cao nhƣ gia

đình, nhóm tôn giáo, nhóm đồng niên, nhóm đồng môn… thậm chí có thể là cả

một cộng đồng ngƣời rộng lớn [142]. Nhƣ vậy, để lý giải cho những khác biệt

87

trong thứ tự các thành phần của tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, chúng

tôi phân tích dựa trên cơ sở văn hóa giữa hai nƣớc. Theo Trần Ngọc Thêm,

“Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa mang tính cộng đồng, nơi mà

những cá thể có mối quan hệ tƣơng đối gần gũi bền chặt. Gia đình và những

ngƣời có chung huyết thống đƣợc coi là một yếu tố quan trọng kết nối con

ngƣời với nhau” [70]. Điều đó lí giải cho việc tên họ đứng trƣớc tên cá nhân

trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Việt. Điều đó càng thể hiện rõ qua những câu

tục ngữ có từ lâu đời của Việt Nam “Một ngƣời làm quan cả họ đƣợc nhờ” hay

“Một ngƣời làm xấu cả họ mang dơ”.

Trong tiếng Anh, thuật ngữ chủ nghĩa cá nhân lần đầu đƣợc sử dụng là

bởi các nhà khoa học theo thuyết của Owen vào những năm 1830. Về phƣơng

diện xã hội học, có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ những tƣ tƣởng về chủ

nghĩa cá nhân là một hiện tƣợng phổ biến, có quy mô toàn châu Âu trong đó

có nƣớc Anh. Chủ nghĩa cá nhân là một thuật ngữ đƣợc sử dụng để mô tả một

cách nhìn nhận trên phƣơng diện xã hội, chính trị hoặc đạo đức, trong đó nhấn

mạnh đến sự độc lập của con ngƣời và tầm quan trọng của tự do và tự lực của

mỗi cá nhân [104]. Do đó, chúng tôi cho rằng cấu trúc tên ngƣời Anh (tên cá

nhân trƣớc tên họ và tên đệm) phần nào thể hiện sự phát triển của chủ nghĩa cá

nhân ở các nƣớc châu Âu nói chung và nƣớc Anh nói riêng.

Qua phân tích trên, chúng tôi cho rằng sự khác nhau về cấu trúc tên nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt ngoài ảnh hƣởng của cấu trúc ngôn ngữ thì một

lí do khác không kém phần quan trọng đó là sự khác biệt từ cơ sở văn hóa hay

tƣ tƣởng triết học ảnh hƣởng đến mỗi xã hội đó, cộng đồng ngƣời. Nhƣ vậy,

càng khẳng rằng tên ngƣời là tấm gƣơng phản chiếu đặc điểm văn hóa, xã hội

của mỗi quốc gia. 2.5.2.2. Thành phần cấu tạo

Tên nữ giới của ngƣời Anh và ngƣời Việt đƣợc luận án xác định là một

tổ hợp định danh thuộc phạm vi của hệ thống từ vựng. Tổ hợp định danh này

gồm 3 thành phần đó là tên họ, tên đệm và tên cá nhân. Tên nữ giới ngƣời

88

Anh và ngƣời Việt cũng có tƣơng đối nhiều điểm khác biệt ở các thành phần

này. Để phân tích những khác biệt đó, chúng tôi tiến hành so sánh đối chiếu

các thành phần đó về vị trí, cấu tạo và tầm quan trọng của các thành phần…

i. Về vị trí, nhƣ đã phân tích ở trên, tên cá nhân và tên họ nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt có vị trí khác nhau trong mô hình tên. Sự khác nhau về vị

trí này đã đƣợc chúng tôi lí giải do ảnh hƣởng ngôn ngữ, văn hóa và quan

điểm triết học về chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể.

ii. Về cấu tạo, đặc điểm cấu tạo chung của tên cá nhân, tên đệm và tên

họ nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có tên đơn và tên phức. Tuy nhiên,

sự phân bố tên đơn và tên phức lại khác nhau ở các thành phần tên. Ở tên nữ

giới ngƣời Anh, tên đơn chỉ phổ biến ở tên cá nhân (98,6%) nhƣng lại không

phổ biến ở tên họ (31,32 %). Trong khi đó ở tên nữ giới ngƣời Việt, tên đơn

lại phổ biến ở cả ba thành phần tên cá nhân (60,15 %), tên đệm (97,91 %) và

tên họ (99,04 %).

Chúng tôi phân tích điểm khác biệt này ở từng thành phần trong tên nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

- Về cấu tạo tên cá nhân, ở tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt

đều chủ yếu là tên đơn. Tuy nhiên, trong khi tỉ lệ tên cá nhân đơn của nữ giới

ngƣời Anh chiếm tỉ lệ áp đảo (98,6 %) thì tỉ lệ tên cá nhân đơn của nữ giới

ngƣời Việt chỉ chiếm 60,15 %. Cấu trúc tên cá nhân đơn phù hợp với đặc điểm

của tiếng Việt và thói quen truyền thống gọi tên đơn. Tuy nhiên, do nhu cầu

thẩm mĩ, nên xu hƣớng đặt tên của ngƣời Việt cũng thay đổi, tên phức ngày

càng đƣợc sử dụng nhiều hơn đặc biệt trong tên nữ giới ngƣời Việt.

- Về cấu tạo tên đệm, chúng tôi cũng cho rằng tên đệm của nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt đều có vị trí ở giữa tên họ và tên cá nhân và tồn tại ở các

dạng nhƣ: tên đệm đơn, tên đệm phức và tên đệm zero. Tuy nhiên, tên đệm nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt lại mang đặc điểm cấu tạo khác biệt. Số liệu

thống kê cho thấy tên đệm nữ giới ngƣời Việt đa phần là tên đệm đơn (97,91

%), còn tên đệm nữ giới ngƣời Anh phổ biến là tên đệm zero (tức là hình thức

89

không có tên đệm (chiếm 95,27 %).

- Về mặt cấu tạo tên họ, tên họ của ngƣời Việt chủ yếu là tên họ đơn

(99,04 %), ví dụ: Nguyễn / Kim Cúc, Võ/ Thị Sáu...còn tên họ ngƣời Anh chủ

yếu là tên họ phức (68,68%), ví dụ: Baker, Peterson, Mcdowell, Baker-

Smith,…. Trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Việt, tên họ là thành phần có tính

bền vững, ít thay đổi và có số lƣợng hữu hạn. Kết quả khảo sát tên nữ giới

ngƣời Việt cho thấy có 153 họ đơn, 98 họ phức (phụ lục 16 + 17). Tên họ

ngƣời Anh lại có số lƣợng rất lơn, trong đó tên họ phức ngƣời Anh chiếm đa

số (68,68 %) còn tên họ đơn chỉ chiếm 31,32 %.

Ngƣợc lại với tên nữ giới ngƣời Anh, các hình thức tên đệm zero và tên

đệm phức trong tên nữ giới ngƣời Việt có số lƣợng rất ít. Về lịch sử ra đời của

tên đệm ngƣời Việt, nhiều ý kiến cho rằng thành phần này xuất hiện muộn hơn

so với tên họ. Nguyễn Văn Khang giải thích về hiện tƣợng này có thể là do

ảnh hƣởng của văn hóa Trung Quốc. Khi Vƣơng Mãn thời Tiền Hán ra lệnh

dân chúng không ai đƣợc đặt tên đệm. Gia đình nào bị đặt tên đệm thì đó là

điều nhục nhã. Ví dụ, trƣờng hợp Vương Tông khi phạm tội phải tự sát thì

Vƣơng Mãn bắt ngƣời ta gọi tên là Vương Hội Tông để hạ nhục [39, tr 52].

Về tầm quan trọng của các thành phần, trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời

Anh, tên cá nhân và tên họ đóng vai trò quan trọng nhƣ nhau. Tùy từng ngữ

cảnh cụ thể mà ngƣời Anh lựa chọn sử dụng tên cá nhân hay tên họ. Trong

những trƣờng hợp trang trọng hay trên văn bản giấy tờ thì ngƣời Anh dùng

tên họ; trong những hoàn cảnh giao tiếp thân mật, gần gũi thì dùng tên cá

nhân. Việc lựa chọn sử dụng thành phần định danh nào để khu biệt cá thể đơn

nhất của ngƣời mang tên ở Anh khác so với ở Việt Nam. Ở Việt Nam, tên cá

nhân là quan trọng nhất, đƣợc sử dụng trong phần lớn ngữ cảnh giao tiếp và

có thể thay thế toàn bộ tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Việt. Tên họ thì rất

hiếm khi đƣợc sử dụng để thay thế cho cả tổ hợp định danh, chỉ trừ những

trƣờng hợp rất đặc biệt nhƣ Bác Hồ (Hồ Chí Minh), Bác Tôn (Tôn Đức

90

Thắng)…Tuy nhiên, hiện tƣợng này rất hiếm và chỉ thấy gọi tên những nhân

vật nổi tiếng có ảnh hƣởng lớn đến cả dân tộc và là nam giới, còn nữ giới thì

hầu nhƣ chƣa từng xuất hiện phƣơng thức gọi tên nhƣ vậy.

Giải thích cho điểm khác biệt này luận án phân tích dựa trên nguồn gốc và

số lƣợng tên họ. Có thể thấy rằng, mặc dù số lƣợng tên họ ngƣời Việt chƣa

thật chính xác, còn nhiều quan điểm khác nhau nhƣng thực tế chƣa tác giả nào

đƣa ra con số vƣợt quá 500 tên họ. Trong khi đó, Việt Nam là đất nƣớc có số

dân tƣơng đối lớn (khoảng 90 triệu dân). Với mật độ dân số đông nhƣ vậy mà

sử dụng tên họ trong các trƣờng hợp giao tiếp thì rất dễ gây nhầm lẫn, trùng

tên vì tỉ lệ lặp lại của tên họ là rất cao. Trong khi đó, số lƣợng tên họ ngƣời

Anh lại rất lớn. Theo Lasker, trong số 165.510 ngƣời đƣợc khảo sát tại nƣớc

Anh có tới 32.475 tên họ [154]. Nhƣ vậy, số lƣợng tên họ của ngƣời Anh lớn

hơn nhiều so với số lƣợng tên họ ngƣời Việt Nam. Có thể lí giải do tiếng Anh

là ngôn ngữ biến hình, nên cách tạo ra từ từ một hình vị gốc là rất đa dạng, có

thể thêm tiền tố hoặc hậu tố để tạo thành một từ mới. Hơn nữa, về nguồn gốc

ngôn ngữ, tên ngƣời Việt đa phần chỉ chịu ảnh hƣởng của một loại ngôn ngữ là

tiếng Hán (ngoài ra còn có tiếng Pháp, tiếng Anh số lƣợng rất ít không đáng

kể) nên biến thể của tên họ cũng không nhiều, nhƣng tên họ ngƣời Anh có

nguồn gốc từ rất nhiều ngôn ngữ trong ngữ hệ Ấn - Âu nên có số lƣợng rất lớn.

Sự phong phú trong tên họ ngƣời Anh ảnh hƣởng trực tiếp đến tần suất sử

dụng tên họ trong nhiều ngữ cảnh giao tiếp khác nhau mà ít sợ trùng lặp.

Chúng tôi cho rằng đó là lí do tên họ ngƣời Anh đƣợc sử dụng rộng rãi và có

vai trò quan trọng trong giao tiếp. Ngƣợc lại, tên họ ngƣời Việt đa số chỉ dùng

trên giấy tờ, văn bản, còn chủ yếu trong giao tiếp ngƣời Việt dùng tên cá nhân.

Trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, tên đệm có vị trí

giống nhau đều đứng giữa tên họ và tên cá nhân. Tuy nhiên, vai trò của tên

đệm ở hai cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh và Việt lại có nhiều điểm khác biệt.

Mặc dù tên đệm tồn tại trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh nhƣng thực tế

ngƣời Anh thƣờng không coi trọng thành phần định danh này. Rất dễ nhận

91

thấy trong cả giao tiếp (văn nói) và trên văn bản (văn viết), tên đệm ít khi đƣợc

đề cập đến, hoặc nếu trên văn bản có xuất hiện thì cũng chỉ ở dạng viết tắt chữ

cái đầu tiên. Tên đệm rất ít đƣợc ngƣời Anh sử dụng chỉ trừ một vài trƣờng

hợp rất hiếm nhƣ thẻ căn cƣớc hay hộ chiếu… Tuy nhiên, tên đệm của nữ giới

ngƣời Việt lại có vai trò rất quan trọng. Tên đệm nữ giới ngƣời Việt có ba

chức năng đó là: chức năng khu biệt giới tính, chức năng chỉ mối quan hệ

trong gia đình và cuối cùng là chức năng thẩm mĩ (nhƣ đã nêu tại mục 1.2.2.4).

Nhƣ vậy, tên đệm nữ giới ngƣời Anh khác với tên đệm ngƣời Việt ở chỗ

tên đệm nữ giới ngƣời Anh gần nhƣ không thể hiện chức năng thẩm mĩ. Khi

đặt tên cho con, ngƣời Anh ít chú trọng đến tính thẩm mĩ trong tên đệm mà họ

nhấn mạnh vào chức năng thể hiện mối quan hệ gia đình. Trong khi đó, ngƣời

Việt lại rất chú trọng đến tính thẩm mĩ của tên thông qua tên đệm và sự phù

hợp giữa tên đệm với tên cá nhân. Chức năng này ngày càng đƣợc chú trọng.

Có thể thấy rằng, tên đệm của nữ giới ngƣời Anh ít mang tính khu biệt giới

tính và tính thẩm mĩ nhƣ tên đệm của nữ giới ngƣời Việt. 2.5.2.3. Các mô hình

Tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có cấu tạo bởi ba thành phần

định danh là tên cá nhân, tên đệm và tên họ. Tuy nhiên, các thành phần định

danh lại có vị trí trái ngƣợc trong mô hình cấu tạo. Ở tên nữ giới ngƣời Anh,

thứ tự các thành phần định danh nhƣ sau: [Tên cá nhân - Têm đệm – Tên họ]

còn tên nữ giới ngƣời Việt lại sắp xếp ngƣợc lại: [Tên họ - Têm đệm – Tên cá

nhân].

Về cơ bản, cấu tạo của từng thành phần định danh của tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt đƣợc phân loại nhƣ nhau nhƣng khác nhau ở thứ tự vị trí

của tên họ và tên cá nhân. Từ hai mô hình cấu tạo chung này, qua phân tích

nguồn ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt chúng tôi nhận thấy có

những điểm khác biệt sau:

Ở tên nữ giới ngƣời Anh, mô hình có tên đệm zero (tức là vắng mặt tên

đệm) và tên họ, tên cá nhân phức là phổ biến nhất. Trong khi đó, mô hình có

92

tên đệm zero lại rất ít xuất hiện ở tên nữ giới ngƣời Việt. Có thể lí giải điều

này từ việc phân tích nguồn gốc của các thành phần trong tên ngƣời Anh, khi

tên đệm không du nhập vào nƣớc Anh cùng lúc với tên họ và tên cá nhân. Bên

cạnh đó, khi mà tên đệm đƣợc giới quí tộc sử dụng rộng rãi thì cuộc cách

mạng công nghiệp do giai cấp tƣ sản khởi xƣớng bắt đầu đạt đƣợc những

thành tựu đáng kể và hình ảnh một nƣớc Anh thời trung cổ với những giá trị

lạc hậu cũng dần mất đi. Chính vì vậy, sự vắng mặt của tên đệm dần dần phổ

biến trong tên ngƣời Anh.

Trong khi mô hình có tên họ phức và tên đệm phức rất phổ biến ở Anh

thì mô hình có cả ba thành phần (tên họ đơn – tên đệm đơn – tên cá nhân đơn)

lại là mô hình phổ biến nhất ở tên nữ giới ngƣời Việt.

Về số lượng thành tố cấu tạo, tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt đều đƣợc cấu tạo từ 2 đến 5 thành tố. Tuy nhiên, các mô hình tên

nữ giới ngƣời Anh tập trung chủ yếu ở nhóm 2 thành tố, còn mô hình tên nữ

giới ngƣời Việt lại tập trung chủ yếu ở nhóm 3 và 4 thành tố. Chỉ tính riêng tên

nữ giới ngƣời Anh thuộc nhóm 2 thành tố đã chiếm tỉ lệ 94,48% trên tổng số

tên đƣợc khảo sát. Còn tên riêng nữ giới ngƣời Việt ở nhóm 2 thành tố chỉ

chiếm số lƣợng rất ít (0,07%). Trong khi đó, tên nữ giới ngƣời Việt chủ yếu lại

tập trung ở nhóm 3 thành tố là 58,74% và ở nhóm 4 thành tố là 40,96%.

Tiểu kết chƣơng 2

Ở chƣơng này, luận án đã tập trung miêu tả và phân tích các đặc điểm

cấu tạo của tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. Cơ sở để phân tích và miêu

tả đặc điểm cấu tạo của tên riêng nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đƣợc dựa

trên thành tố cấu tạo tổ hợp định danh, và đơn vị nhỏ nhất đó là hình vị. Luận

án xác định tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt là những tổ hợp định danh.

Tổ hợp định danh này gồm 3 thành phần: tên họ, tên đệm và tên cá nhân.

Luận án tìm ra 24 mô hình cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và 21 mô hình cấu

tạo tên nữ giới ngƣời Việt.

Thông qua việc miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của tên nữ giới

93

ngƣời Anh và ngƣời Việt, luận án đã tìm ra những điểm khác biệt nhƣ sau:

Tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều gồm ba thành

phần nhƣ đã nêu trên nhƣng mô hình tên lại có thứ tự trái ngƣợc. Ở tên nữ giới

ngƣời Anh tên cá nhân ở vị trí thứ nhất còn ở tên nữ giới ngƣời Việt thì vị trí

đầu tiên lại là tên họ.

Về thành phần cấu tạo, đặc điểm cấu tạo chung của tên cá nhân, tên

đệm và tên họ nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều ở dạng tên đơn và tên

phức. Trong khi tên phức xuất hiện chủ yếu ở thành phần tên họ và tên cá

nhân trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh thì ở tên nữ giới ngƣời Việt tên

đơn lại phổ biến ở cả ba thành phần tên cá nhân (60,15 %), tên đệm (97,91 %)

và tên họ (99,04 %).

Về mô hình cấu tạo, tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có mô

hình cấu tạo từ 2 đến 5 thành tố. Mô hình cấu tạo phổ biến ở tên nữ giới ngƣời

Anh là mô hình 2 thành tố (94,48% ), còn mô hình phổ biến ở tên nữ giới

ngƣời Việt lại là mô hình 3 thành tố (58,74%). Ở tên nữ giới ngƣời Anh, mô

hình có tên đệm zero rất phổ biến nhất. Trong khi đó, mô hình có tên đệm zero

94

lại rất ít xuất hiện ở tên nữ giới ngƣời Việt.

3. CHƢƠNG 3

ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ VĂN HÓA - XÃ HỘI

PHẢN ÁNH QUA TÊN NỮ GIỚI NGƢỜI ANH VÀ NGƢỜI VIỆT

3.1. Đặt vấn đề

Về vấn đề nghĩa của tên riêng, các nhà khoa học ở Việt Nam và trên thế

giới đều có những quan điểm khác nhau đó là tên riêng có nghĩa và tên riêng

không có nghĩa. Chúng tôi cho rằng, sở dĩ có sự khác biệt trong quan điểm

này là do mục đích và phƣơng pháp luận của việc nghiên cứu từ các góc độ

khác nhau, bình diện khác nhau. Việc xác định tên ngƣời có nghĩa là cơ sở để

luận án miêu tả đặc điểm và phân loại các lớp nghĩa trong tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt ở chƣơng này. Nghĩa chúng tôi nói đến ở đây không phải

là nghĩa của thực từ gắn với khái niệm (biểu niệm) mà là nghĩa biểu trƣng.

Nói cách khác, tên ngƣời chỉ sử dụng các từ làm kí hiệu để gọi tên mà không

mang theo đặc điểm ngữ nghĩa của từ đó. Điều đó có nghĩa là về nội dung, tên

ngƣời không mang theo các nghĩa biểu niệm, biểu vật của từ đó, mà nó có

nghĩa biểu trƣng. Dựa vào khả năng khu biệt của các thành phần trong tên nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, luận án tiến hành phân loại và miêu tả nghĩa

của từng thành phần: tên cá nhân, tên đệm và tên họ trong cấu trúc tên nữ giới

ngƣời Anh và ngƣời Việt. Qua việc miêu tả đặc điểm ý nghĩa của từng thành

phần trong tổ hợp định danh nữ giới, chúng tôi tiến hành đối chiếu đặc điểm

ngữ nghĩa và văn hóa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời

Việt.

Do tổng số lƣợng tên nữ giới thuộc nguồn ngữ liệu tiếng Anh và tiếng

Việt đƣợc sử dụng trong luận án là rất lớn (12.879 tên nữ giới ngƣời Anh và

12.936 tên nữ giới ngƣời Việt), trong chƣơng 3 này, chúng tôi lấy mẫu 500

tên một cách ngẫu nhiên ở mỗi ngôn ngữ (trích từ nguồn ngữ liệu) để khảo sát

95

các lớp nghĩa trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

3.2. Đặc điểm nghĩa của tên nữ giới ngƣời Anh

3.2.1. Đặc điểm nghĩa của tên cá nhân nữ giới người Anh

Tên cá nhân đứng vị trí đầu tiên trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh

nhƣng không phải là thành phần quan trọng nhất của tên bởi lẽ bản thân tên cá

nhân chƣa đủ khả năng quyết định giá trị khu biệt của ngƣời đƣợc gọi tên. Tên

cá nhân là yếu tố khu biệt cá thể đơn nhất nhƣng chỉ giới hạn trong giao tiếp

thân mật. Tuy nhiên, tên cá nhân vẫn là thành phần cơ bản và có giá trị khu

biệt về giới cao nhất trong các thành phần thuộc tổ hợp định danh nữ giới

ngƣời Anh.

Căn cứ vào ý nghĩa của lớp từ đồng âm với tên cá nhân nữ giới ngƣời

Anh luận án chia ra thành hai nhóm nghĩa sau: nhóm tên cá nhân có nghĩa liên

quan đến các yếu tố tự nhiên nhƣ các hiện tƣợng tự nhiên, động vật, thực

vật…; nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến yếu tố xã hội nhƣ tôn giáo, địa

lý, con ngƣời (do con ngƣời là thực thể của xã hội nên nhóm tên liên quan đến

con ngƣời rất đa dạng và phức tạp). 3.2.1.1.Nhóm tên cá nhân có ý nghĩa liên quan đến các yếu tố tự nhiên

Chúng tôi đã phân loại nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các yếu

tố tự nhiên này thành 5 tiểu nhóm gồm: tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các

hiện tƣợng tự nhiên; tên cá nhân có nghĩa liên quan đến màu sắc; tên cá nhân

có nghĩa liên quan đến các con vật đẹp và đáng yêu; tên cá nhân có nghĩa liên

quan các loài cây, hoa; tên cá nhân có nghĩa liên quan đến chất liệu. Theo kết

quả khảo sát và phân tích ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Anh cho thấy nhóm tên

này ít phổ biến ở tên nữ giới ngƣời Anh và cũng có ít biến thể, chiếm 14,4 %.

i. Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến động vật

Nhóm tên cá nhân này thƣờng gồm những tên liên quan đến các con vật

đẹp và đáng yêu, chiếm tỉ lệ thấp (1%). Ở nhóm tên cá nhân này không xuất

hiện hiện tƣợng kết hợp với thành tố thuộc lớp nghĩa khác để tạo ra tên cá

nhân phức.

96

Bảng 3.1. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến các con vật đẹp và đáng yêu

Tên cá nhân Ý nghĩa Biến thể

Dove con chim bồ câu

Bunny con thỏ Bunnie

Starlyn con chim sáo Starlin

ii. Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến thực vật

Phần lớn tên cá nhân nữ thuộc nhóm này có liên quan đến tên gọi của các

loài hoa, với ý nghĩa biểu trƣng cho phái đẹp. Nhóm tên này bắt đầu phổ biến

từ thế kỉ 20 và thể hiện sự phân biệt giới rất rõ, chiếm tỉ lệ 2,2 %.

Bảng 3.2. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến các loài cây, hoa

Tên cá nhân Ý nghĩa Biến thể

Camelia Hoa trà Camalia, Camala

Jashmine Hoa nhài Jasmine, Jasmyn, Jazmin,

Jessamine, Jessamyn,

Jazmine, Jazmyn

Lily Hoa loa kèn Lilian, Liliana, Lillia,

Lillian, Lilliana, Lillie, Lilly

iii. Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các hiện tượng tự nhiên

Kết quả khảo sát cho thấy những tên cá nhân có ý nghĩa liên quan đến

các hiện tƣợng tự nhiên chiếm tỉ lệ 2,6 %, không xuất hiện hiện tƣợng kết hợp

với thành tố thuộc lớp nghĩa khác để tạo ra tên cá nhân phức.

Bảng 3.3. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến hiện tượng tự nhiên

Tên cá nhân Ý nghĩa Biến thể

Summer mùa hè Sommer

Autumn mùa thu

Sunny Nắng

iv. Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến màu sắc

Nhóm tên cá nhân này có số lƣợng rất ít, chiếm tỉ lệ 1%. Nhóm tên này

97

không xuất hiện hiện tƣợng kết hợp với thành tố thuộc lớp nghĩa khác để tạo ra

tên cá nhân phức. Ví dụ về một số tên cá nhân có ý nghĩa liên quan đến màu

sắc dành cho nữ nhƣ:

Bảng 3.4. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến màu sắc

Tên cá nhân Ý nghĩa Biến thể

Auburn màu nâu vàng

Blanche Màu trắng Blanch

Gwenda Màu trắng Gwendoline, Gwenllian

v. Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến chất liệu

Nhóm tên cá nhân này gồm các tên liên quan đến các chất liệu quí hiếm,

đồ trang sức có giá trị, chiếm tỉ lệ cao nhất (7,6 %). Kết quả khảo sát cho thấy

có xuất hiện hiện tƣợng tên cá nhân phức thuộc nhóm nghĩa này. Đó là tên cá

phức đƣợc tạo thành từ sự kết hợp thành tố có nghĩa liên quan đến chất liệu và

thành tố có nghĩa liên quan đến tính chất. Ví dụ: trong tên Megan-Leigh thì

Megan là biến thể của Margaret, có nghĩa là ngọc; Leigh có nghĩa là sáng,

sạch; nhƣ vậy, tên Megan-Leigh có nghĩa là viên ngọc sáng. Tuy nhiên, hiện

tƣợng tên cá nhân phức nhƣ vậy xuất hiện rất ít (1 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,2 %).

Bảng 3.5. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến vật có giá trị

Tên cá nhân Ý nghĩa Biến thể

Goldie Vàng Goldina

Pearl Ngọc trai Pearle, Pearlie, Perlie

Rubie Ruby Rubia

Margaret Ngọc Margaretta, Margery, Marjorie, Marjo

ry, Megan, Maegan, Meagan,

3.2.1.2. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến yếu tố xã hội

Nhóm tên thuộc lớp nghĩa liên quan đến xã hội rất phong phú và phức tạp

bao gồm các tên liên quan đến nhƣ tôn giáo, địa lý, văn hóa, con ngƣời,….Do

đó, đây là nhóm tên chiếm đa số (85,6 %). Đặc biệt, yếu tố con ngƣời là thực

98

thể của xã hội có thể phân ra nhiều tiểu lớp chi tiết hơn, ví dụ nhƣ đặc điểm

tính cách, hình thể, phẩm chất, nghề nghiệp, tƣớc hiệu, ƣớc vọng và mối quan

hệ với các tên ngƣời có sẵn….Trong đó, nhóm tên có nghĩa liên quan đến con

ngƣời chiếm tỉ lệ 16,8%.

i. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến tôn giáo

Đây là nhóm tên phổ biến nhất ở Anh, mang đặc trƣng nổi bật của ngôn

ngữ và văn hóa - xã hội nƣớc Anh. Nhóm tên này chiếm tỉ lệ cao nhất (42,2

%). Nhóm tên cá nhân này đƣợc chia thành 2 tiểu nhóm là (1) tên cá nhân

đƣợc đặt theo tên các vị thánh và (2) tên cá nhân liên quan đến Kinh thánh.

+ Tên cá nhân đƣợc đặt theo tên các vị thánh

Theo Bardsley, ngƣời Châu Âu nói chung và ngƣời Anh nói riêng đều có

niềm tin về cõi thiên đàng sau khi qua đời. Họ đã xây dựng đƣợc một hệ thống

các vị thánh cho tín ngƣỡng của mình. Đó là những ngƣời tử vì đạo, những

lãnh tụ tôn giáo, các tông đồ, các vị giáo hoàng…[98]. Từ việc tôn thờ các vị

thánh, trong xu hƣớng đặt tên của ngƣời Anh có kiểu đặt tên theo tên các vị

thánh. Nhóm tên này chiếm tỉ lệ 18.8 %. Sau đây là tên các vị thánh thƣờng

dùng để đặt cho nữ giới. Mỗi vị thánh lại phù hộ cho một khía cạnh khác nhau

của cuộc sống. Qua khảo sát, luận án chỉ ra tên nữ giới ngƣời Anh liên quan

tới các vị thánh sau:

- Thánh phù hộ cho các mong muốn ước vọng của con người

Ví dụ: thánh Valentina phù hộ cho những ngƣời yêu nhau, thánh

Sebastian phù hộ cho tình láng giềng…

- Thánh phù hộ cho sức khỏe

Ví dụ: thánh Apollonia phù hộ cho ngƣời đau răng, thánh Cosmas phù

hộ cho ngƣời khiếm thị, thánh Denis phù hộ cho ngƣời mắc bệnh đau đầu…

- Thánh phù hộ cho nghề nghiệp

Ví dụ: thánh Martha phù hộ cho nghề kế toán, thánh Veronica phù hộ

cho nghề dọn dẹp, lau rửa, thánh Barbara phù hộ cho ngành thợ mỏ…

99

- Thánh phù hộ một vùng lãnh thổ

Ví dụ: thánh Patrick, Bridget, Columba là những thánh phù hộ cho vùng

đất Ireland. Ngoài ra, còn có tên các vị thánh phù hộ cho nhiều vùng lãnh thổ

khác nhƣng chủ yếu để dùng đặt tên cho nam giới nhƣ George, David,

Andrew…

Trong nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến tên thánh này có xuất

hiện tên phức, tên phức đó đƣợc tạo ra do sự kết hợp giữa tên thánh với địa

danh. Ví dụ: Kelly – Marie, trong đó Kelly là biến thể của Ceallagh, có nghĩa

là nhà thờ và Marie là biến thể của tên thánh Mary.

+ Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến Kinh thánh

Tên cá nhân nữ giới có liên quan Kinh thánh là một loại tên rất phổ biến

và có nhiều biến thể trong các kiểu tên cá nhân ở Anh. Loại tên cá nhân này

chiếm tỉ lệ cao nhất là 23,4 %. Theo Dunkling, khởi nguồn của việc đặt tên cá

nhân nhƣ vậy là do nhà thờ La Mã đã phán quyết về việc đặt tên thánh trong

Lễ rửa tội. Sau khi nƣớc Anh tách khỏi nhà thờ La Mã vào thế kỉ 16, các tên

trong Kinh thánh, đặc biệt là trong Kinh Cựu Ƣớc trở nên rất phổ biến [122].

Dunkling đã phân loại tên tôn giáo ngƣời Anh thành 10 nhóm, tuy nhiên chúng

tôi chỉ lấy ví dụ những tên dành cho nữ giới xuất hiện trong nguồn ngữ liệu.

Bảng 3.6. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến Kinh thánh

Tên Ý nghĩa Nguồn gốc Các biến thể

Deborah Con ong Kinh Cựu Ƣớc Deb, Debbi, Debbie,

Debby, Debi

Sharon Tên địa danh vùng Kinh Cựu Ƣớc Sharron, Sharyn, Shar

Sharon ona

Elizabeth Lời thề nguyền với Kinh Cựu Ƣớc Elisabeth, Elsabeth, E

chúa lyzabeth

ii. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến địa danh

Tên có liên quan đến địa lí là kiểu đặt tên cá nhân theo tên của các vùng

100

lãnh thổ, có thể là giới hạn ở một vùng lãnh thổ nhỏ hẹp mà cũng có thể là cả

đất nƣớc rộng lớn. Nhóm tên này chiếm tỉ lệ 9,6 %. Sau đây là một số ví dụ:

Alexandria – Ai Cập, Britany – Pháp, Chelsea – một quận ở London….

iii. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến văn hóa

Đây là nhóm tên cá nhân có nguồn gốc từ tên các nhân vật trong các tác

phẩm nghệ thuật, đặc biệt là các tác phẩm nghệ thuật kinh điển của Anh.

Nhóm tên này chiếm tỉ lệ 15,4 %. Những ví dụ sau là tên đặt theo tên của các

nhân vật nữ trong các vở kịch nổi tiếng của William Shakespeare.

Bảng 3.7. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến nhân vật trong tác phẩm

nghệ thuật

Tên Tác Nguồn gốc và ý nghĩa Những biến thể của

tên nhân phẩm

vật

Cordelia Vua Có nguồn gốc từ tiếng Xen-tơ với Cora,

Lia nghĩa là con của biển Delia, Lia, Del, Cordie

Juliet Romeo Có nguồn gốc từ tiếng Pháp có Julia, Juliana; Jules…

nghĩa là tuổi trẻ và

Juliet

Miranda Giông Có nguồn gốc từ tiếng La-tin có Miran, Mirra, Murand

tố nghĩa là ngƣỡng mộ a,Mirandah, Meranda,

Miranada, Maranda

Olivia Đêm Có nguồn gốc từ tiếng La-tin có Olivea, Oliveea, Olivi

thứ nghĩa là cây ô lƣu anne,

mƣời Olyvia, Oliveia, Olia,

hai Alivia

Ophelia Hamlet Có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ Ophelie, Ophelya, Op

có nghĩa là ngƣời giúp đỡ hilia, Phelia…

Regan Vua Có nguồn gốc là tên họ của ngƣời Ragen, Regen…

Lia Ai-len

101

iv. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến con người

Con ngƣời là chủ thể của xã hội, con ngƣời và những mối quan hệ xã hội

hết sức phức tạp. Do đó, nhóm tên này rất phong phú và đa dạng, chiếm tỉ lệ

16,8 %. Luận án phân loại nghĩa liên quan đến nhóm tên này thành các tiểu

nhóm sau:

+ Tên cá nhân có nguồn gốc từ tên họ có sẵn

Theo Weekley, việc lấy tên họ làm tên cá nhân mới đƣợc hình thành từ

đầu thế kỷ 19. Số lƣợng tên cá nhân của nữ giới ngƣời Anh có nguồn gốc từ

tên họ khá lớn với nhiều biến thể khác nhau [190], ví dụ:

Bảng 3.8. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến tên họ có sẵn

Tên họ gốc Nguồn gốc Ý nghĩa Tên cá nhân là biến thể của

tên họ gốc

Ashley Tiếng Anh cổ Tro đốt từ cây Ashlea, Ashlee, Ashley

Ashlie, Ashlyn, Ashlynn

Lindsay Tiếng Anh cổ Đảo Lincoln Lindsey, Linsey, Lyndsay,

Linzi, Lyndsea, Lynsay

+ Tên cá nhân cá nhân có nghĩa liên quan đến các tƣớc hiệu trong giới

quý tộc

Cách đặt tên cá nhân theo tƣớc hiệu của giới quí tộc không đồng nghĩa

với việc gia đình thuộc dòng tộc. Có thể lí do của phƣơng thức đặt tên này là

thể hiện ƣớc vọng của cha mẹ vào con cái có một tƣơng lai xán lạn phía trƣớc.

Tuy nhiên, nhóm tên này có số lƣợt xuất hiện rất ít, chỉ chiếm tỉ lệ 1%.

Bảng 3.9. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến tước hiệu

Tên cá nhân Ngữ nghĩa Biến thể

Ngƣời đứng đầu tu viện Dane, Dene Dean

Ngƣời phụ nữ có địa vị cao Laidey, Laidy, Ladie Lady

Nữ hoàng Regena, Regine, Regine Regina

+ Tên cá nhân có ý nghĩa liên quan đến các phẩm chất của con ngƣời

Loại tên này phổ biến ở Anh vào khoảng thế kỉ 16 đến 18. Theo Hanks

102

(1990), “có những từ vựng biểu thị những phẩm chất đáng quý của con ngƣời,

mang theo ƣớc ao cho tƣơng lai của một đứa trẻ, ví dụ: Joy (thích thú), Happy

(vui vẻ), Faith (Trung thực), Felicity (hạnh phúc)”,… [133, tr.vii]. Theo kết

quả khảo sát của luận án, nhóm tên này chiếm tỉ lệ 5,4 %.

+ Tên cá nhân có nguồn gốc từ tên có sẵn nhƣng ở dạng rút gọn, trong

tiếng Anh gọi là pet-form. Đây là nhóm tên tƣơng đối đặc thù ở Anh và là lí do

dẫn đến sự đa dạng của tên nữ giới ngƣời Anh. Lí do là vì thông thƣờng dạng

rút gọn (pet-form) này chỉ dùng là tên gọi âu yếm nhƣng ngày càng có xu thế

đƣợc dùng đƣợc đặt nhƣ tên chính danh. Nhóm tên này chiếm tỉ lệ 3,2 %.

Ví dụ: Elizabeth có dạng tên rút gọn là Beth hoặc Lisa, hay Margareta có

dạng tên rút gọn là Greta …

v. Nhóm tên khác: các tên cá nhân thuộc nhóm này rất ít (1,8 %) và

đƣợc phân thành các tiểu loại nhƣ tên liên quan đến con số, tên có yếu tố nƣớc

ngoài.

+ Tên cá nhân có nghĩa liên quan đến con số

Tên cá nhân này gồm tên chỉ các tháng trong năm, số lƣợng, số thứ tự

và hiện nay xuất hiện rất ít. Theo Hanks (2010), cách đặt tên này do ảnh hƣởng

từ thời La Mã khi việc đặt tên ngƣời ở Anh còn chƣa phát triển [134, tr.viii-ix]

.Ví dụ xem ở bảng sau:

Bảng 3.10. Tên cá nhân nữ giới liên quan đến con số

Tên cá nhân Gốc La tinh Ý nghĩa Biến thể

April aperire Tháng tƣ Avril

Una unus Con gái thứ nhất Uny

Octavia octavus Con gái thứ 8 Tavia

Nona nonus Con gái thứ 9

+ Tên cá nhân có yếu tố từ tên nƣớc ngoài

Xét trên phƣơng diện lịch sử, tên ngƣời Anh thuộc ngữ hệ Ấn-Âu, chủ

yếu có nguồn gốc từ nƣớc ngoài. Tuy nhiên, tên cá nhân đƣợc liệt kê thuộc

nhóm này là tên điển hình và phổ biến ở các nƣớc mà không phải những tên đã

103

du nhập từ lâu đời và trở thành truyền thống của ngƣời Anh. Đặt tên cho con

có yếu tố từ tên nƣớc ngoài là một kiểu đặt tên nhằm gây ấn tƣợng. Ví dụ:

Kinga có nguồn gốc từ Đức, Nadia có nguồn gốc từ Anh, Donna có nguồn gốc

từ Tây Ban Nha…

Tóm lại, nhƣ đã phân tích ở trên, nguồn gốc và nghĩa của tên cá nhân nữ

giới ngƣời Anh thể hiện rõ nét qua các lớp nghĩa trong tên cá nhân nữ giới

ngƣời Anh. Qua những lớp nghĩa trên, chúng tôi cho rằng phạm vi nghĩa của

tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh rất rộng, có liên quan từ thực vật, động vật đến

con ngƣời, hiện tƣợng thiên nhiên đến văn hóa - xã hội…Tuy nhiên, phần lớn

tên cá nhân nữ thuộc lớp nghĩa liên quan đến các hiện tƣợng xã hội (85,6 %).

Xét trên các bình diện ngữ nghĩa khác nhau, đa phần thành phần tên cá nhân

nữ giới mang thuộc tính của nữ giới rất cao, ví dụ: những tên liên quan đến

thực vật là tên những loài hoa đẹp mà không phải là những cây cổ thụ; tên liên

quan đến động vật là tên những con vật nhỏ nhắn đáng yêu nhƣ thỏ, chim,…

mà không phải là hổ, báo, gấu…; tên liên quan đến con ngƣời thì đa phần là

những phẩm chất của phụ nữ nhƣ duyên dáng, uyển chuyển, xinh đẹp…

3.2.2. Đặc điểm nghĩa của tên đệm nữ giới người Anh

Khác với tên cá nhân, tên đệm của ngƣời Anh nói chung và tên đệm của

nữ giới ngƣời Anh nói riêng gần nhƣ bị coi là thành phần phụ trong tổ hợp

định danh tên ngƣời Anh. Trong mô hình cấu trúc tên phổ biến của nữ giới

ngƣời Anh, tên đệm biến mất một cách chính thức (trong cấu trúc tên có tên

đệm zero) hoặc biến mất một cách phi chính thức khi đa phần chỉ xuất hiện

dƣới hình thức viết tắt chữ cái đầu. Cũng giống nhƣ tên cá nhân, tên đệm là

một tập hợp mở. Tuy nhiên, tập hợp mở này lại chỉ giới hạn trong phạm vi của

tên cá nhân và tên họ, vì tên đệm gần nhƣ không có sáng tạo mới mà chỉ lặp lại

các thành phần sẵn. Tên đệm thể hiện mong muốn của ngƣời đặt tên, đó là duy

trì tên những thành viên trong gia đình ở thế hệ sau. Trong số 500 tên nữ giới

ngƣời Anh đƣợc lấy ra ngẫu nhiên để phân tích ở chƣơng 3 này, chỉ có 20 tên

có thành phần tên đệm. Luận án chia tên tên đệm nữ giới ngƣời Anh thành 2

104

nhóm sau:

3.2.2.1. Tên đệm có nghĩa liên quan đến tên gọi thời con gái của mẹ hoặc bà

Ở nhiều quốc gia châu Âu, sau khi phụ nữ lập gia đình, tên họ của ngƣời

phụ nữ sẽ đổi theo họ chồng. Nƣớc Anh cũng không phải là ngoại lệ. Với tập

tục đó, tên họ của nữ giới sẽ mất dần đi. Nhƣ vậy, để lƣu giữ đƣợc tên họ của

ngƣời phụ nữ trong gia đình, ngƣời ta sẽ dùng tên họ của mẹ (hoặc bà) trƣớc

khi kết hôn để làm tên đệm cho con. Theo McClure, “Đến thế kỉ 19, khi nhu

cầu đặt tên con theo tên những ngƣời trong dòng họ hoặc cha mẹ đỡ đầu lên

cao, tên những ngƣời trong gia đình, hay tên họ mẹ trƣớc khi lấy chồng, tên bà

hay tên của cha mẹ nuôi… đƣợc sử dụng làm tên đệm trong tên của con cháu”

[165]. Ví dụ: tên con gái là Asema Daffodil Flower thì tên đệm Daffodil là họ

thời con gái của mẹ. Phải chăng việc đặt tên theo phƣơng thức này là do ảnh

hƣởng của xã hội, khi những cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ

ngày càng lên cao. Điều này thể hiện sự bắt nhịp với xu hƣớng thời đại, bắt

đầu công nhận vai trò của ngƣời phụ nữ trong xã hội, tiến tới bình đẳng giới.

3.2.2.2. Tên đệm có nghĩa liên quan đến tên của những người được người đặt

tên yêu quí, hâm mộ

Đặt tên đệm theo tên những ngƣời yêu quí, mến mộ có lẽ là xu hƣớng đặt

tên hiện đại, chịu ảnh hƣởng của phong cách đặt tên của ngƣời Mĩ. Ví dụ, tên

Tracey Christopher Scott có thể là do bố mẹ yêu thích, mếm mộ nhân vật

Christopher Columbus (1451-1506) là ngƣời phát hiện ra châu Mĩ, hay trƣờng

hợp khác, bố mẹ hâm mộ ca sĩ ngƣời Pháp Celine Dion nên đặt tên Kerrie

Celine Parry.

Nhƣ vậy, tên đệm nữ giới ngƣời Anh chủ yếu là hình thức lặp lại của

những tên cá nhân hoặc tên họ đã có sẵn và thể hiện về ý nghĩa về tinh thần.

3.2.3. Đặc điểm nghĩa của tên họ nữ giới người Anh

Tên họ là một thành phần quan trọng trong tổ hợp định danh nữ giới

ngƣời Anh, có thể thay thế cả tổ hợp định danh trong hầu hết các trƣờng hợp

105

giao tiếp.

Tên họ ngƣời Anh nói chung và tên họ nữ giới ngƣời Anh nói riêng là

một tập mở, có số lƣợng rất lớn và có biến thể đa dạng. Tên họ là thành phần

có tính truyền thừa nên ít có sự phân biệt giữa tên họ nam và tên họ nữ. Đặc

biệt, do phong tục ở Anh là phụ nữ khi lấy chồng thì đổi sang họ chồng nên

tên họ nam và nữ ở Anh về cơ bản là chung một tập hợp. Tuy nhiên, trong

nhiều trƣờng hợp phụ nữ giữ lại tên họ sau khi kết hôn, hoặc lƣu giữ phần tên

họ của mẹ hoặc bà trƣớc khi kết hôn để thành tên họ phức đặt cho con/cháu gái

lại trở thành một đặc thù trong tên họ của nữ giới ngƣời Anh.

Việc nghiên cứu tên họ là vấn đề phức tạp liên quan nhiều đến yếu tố lịch

sử và văn hóa xã hội. Khác với tên họ ngƣời Việt, tên họ ngƣời Anh có nguồn

gốc tƣơng đối rõ ràng và có nghĩa. Tuy nhiên, với số lƣợng tên họ rất lớn, việc

xác định nghĩa của tên họ cũng không hề đơn giản. Thông qua kết quả khảo sát

và phân tích nguồn ngữ liệu tên nữ học viên, sinh viên ngƣời Anh, luận án

phân loại những nghĩa liên quan đến tên họ nữ giới ngƣời Anh thuộc 3 nhóm

sau: Nhóm tên họ có nghĩa liên quan đến chức danh, nghề nghiệp; Nhóm tên

họ có nghĩa liên quan đến địa danh; Nhóm tên họ có nghĩa liên quan đến các

mối quan hệ.

3.2.3.1. Nhóm tên họ có nghĩa liên quan đến chức danh, nghề nghiệp

Những tên họ có nghĩa liên quan đến nghề nghiệp có thể có mối liên hệ

trực tiếp hoặc gián tiếp với ngƣời mang họ. Kết quả khảo sát cho thấy nhóm

tên họ này chiếm tỉ lệ cao 46,6 %. Liên hệ trực tiếp có nghĩa là nghề nghiệp ở

tên họ chỉ ra nghề của ngƣời mang họ. Liên hệ gián tiếp có nghĩa là nghề

nghiệp ở tên họ không phải là nghề của ngƣời mang họ, mà đƣợc ngƣời khác

gán cho khi có mối liên hệ đến nghề đó. Nhƣ vậy, đặc điểm của nhóm tên họ

liên hệ gián tiếp đến nghề nghiệp có phần nào giống với những đặc điểm của

nhóm tên lóng (nickname). Trong A Dictionary of English Surnames, Reaney

Tên họ đặt theo chức danh thƣờng có nguồn gốc từ nhà thờ hoặc nhà nƣớc,

ví dụ Abbot (trƣởng tu viện), Chancellor (đại quan), Steward (quản gia),

106

và Wilson cho rằng:

Chamberlain (thị trƣởng)…Vào thời kỳ Nooc-măng, nhiều chức danh nhƣ quản

gia, cảnh sát trƣởng, nguyên soái… có tính cha truyền con nối nên việc tên họ

thuộc nhóm này đƣợc truyền thừa từ đời này sang đời khác là rất phổ biến.

Trong khi đó, một số chức danh khác liên quan đến tôn giáo nhƣ abbot (cha cố),

prior (trƣởng tu viện), nun (nữ tu sĩ)…lại bị giới hạn bởi qui định của nhà thờ là

không đƣợc kết hôn, do đó, tính truyền thừa của loại tên họ này bị giới hạn

[181].

Rõ ràng, việc lấy tên nghề nghiệp kiếm sống của mình làm tên họ là một

việc rất có ý nghĩa. Tuy nhiên, có thể đây là nguồn gốc của sự phân tầng xã

hội. Về việc phân biệt giới tính qua tên họ, Reaney và Wilson cho rằng, “yếu

tố -s ở giữa các tên họ chỉ nghề nghiệp là các tên họ dành cho nữ” [181]. Ví

dụ: Webber (thợ dệt) thì có tên họ cho nữ là Webster hay Brewer (ngƣời nấu

rƣợu) thì có tên họ cho nữ là Brewster…Tuy nhiên, đây cũng không phải là

hình thức phổ biến. Đa số tên họ nữ trong nhóm chỉ nghề nghiệp này vẫn dùng

chung các tên họ với nam giới.

Bảng 3.11. Tên họ liên quan đến tên gọi nghề nghiệp

Tên họ Nguồn gốc Nghĩa gốc Các tên biến Ví dụ

thể

Boniface Tiếng La Chủ quán trọ Claire Boniface,

Tinh Sarah Boniface

Brewster Tiếng Anh Ngƣời nấu Brewer Sara Brewster,

rƣợu Teresa Brewer

Cohen Tiếng Anh Linh mục Hadas Cohen,

Wendy Cohen

Collier Tiếng Anh cổ Thợ mỏ Ebony Collier,

Teresa Collier

Baker Tiếng Anh Thợ làm bánh Baxter Anne Baker,

Wendy Baker,

107

Celine Baxter

Smith Tiếng Anh cổ Thợ cơ khí Smythe Christine Smith,

Julie Smith, Cheryl

Smythe

Lister Tiếng Anh cổ Thợ nhuộm Barbara Lister

Nhóm tên họ đặt theo nghề nghiệp có tính miêu tả và có khả năng biến

đổi cao. Một ngƣời thợ cơ khí có thể đƣợc đặt tên là Bellyester (thợ đúc

chuông), hay Sporoner (thợ làm đinh), hay Moneyer (thợ đúc tiền)…Tuy

nhiên, cũng có những trƣờng hợp khó phân biệt là tên họ liên quan đến địa

danh hay tên họ chỉ nghề nghiệp khi nghề đó gắn với một địa điểm nào đó. Ví

dụ: trƣờng hợp tên họ Bridge, Bridger hay Bridgeman có thể liên tƣởng đến

địa điểm cây cầu gần nơi làm việc, nơi sinh sống, cũng có thể là gắn với việc

công việc xây cầu hoặc canh giữ cầu…

3.2.3.2. Nhóm tên họ có nghĩa liên quan đến địa danh

Tên họ có nghĩa liên quan đến tên địa danh là loại tên họ khá phổ biến và

tƣơng đối dễ nhận ra, chiếm tỉ lệ 32,8 %. Tác giả Reaney và Wilson cho rằng

“tên họ theo địa danh là một nhóm tên có số lƣợng lớn, các địa danh đó liên

quan đến nơi ở, nơi sinh” [181]. Ý nghĩa tên họ có nguồn gốc từ tên đất chỉ trở

nên phức tạp khi nghĩa của những tên họ đó không trực tiếp chỉ tên đất mà

gián tiếp chỉ vùng địa danh đó bằng việc mô tả đặc điểm. Sự phát triển của

ngôn ngữ sẽ làm kiểu tên họ này mờ dần nguồn gốc nhƣng lại rõ nghĩa hơn.

Chẳng hạn, rất khó nhận ra tên họ Cullen có nghĩa là phía sau dòng sông hay

Dunlop có nghĩa là ngọn đồi lầy lội…

Luận án chia nhóm tên họ có nguồn gốc liên quan đến địa danh này thành

hai tiểu nhóm: tên họ liên quan đến tên địa danh và tên họ mô tả đặc điểm địa

danh.

i. Tên họ có nghĩa liên quan đến tên địa danh

Cho tới thế kỉ XV, công thức chung cho loại tên họ này vẫn là de X với

nghĩa của X hoặc từ X trong đó X là tên thành phố, thị trấn…Cách đặt tên họ

108

theo kiểu này đậm phong cách Pháp cho nên chỉ phổ biến trong giới quí tộc.

Trong khẩu ngữ, ngƣời ta thƣờng chuyển yếu tố de thành of hoặc of mất dần

đi. Chẳng hạn, Richard de Wangeford trở thành Richard Wangeford. Sau đây

là một số tên họ có gốc địa danh:

Bảng 3.12. Tên họ liên quan đến tên địa danh

Tên họ Nghĩa gốc Nguồn gốc

Aris Thành phố Arras Tiếng Anh

Paris Thành phố Pari Tiếng Pháp

Conway Thành phố Conway miền bắc Tiếng Anh

xứ Wales

Ellenberger Thành phố Ellenberg thuộc Tiếng Đức

nƣớc Đức

Tatom Đến từ Tatham Tiếng Anh

ii. Tên họ có nghĩa mô tả đặc điểm địa danh

Tên họ mô tả đặc điểm địa danh là một dạng địa chỉ cho thấy ngƣời ta

đang sống ở đâu, địa hình nhƣ thế nào…Đây là nhóm tên họ rất đặc thù của

ngƣời Anh. Nhóm tên họ này chủ yếu là họ phức, thƣờng là kết hợp giới từ với

địa điểm. Giới từ thƣờng thấy nhất trong tên họ loại này là at (ở, tại). Thông

thƣờng, giới từ này sẽ đi kèm với quán từ xác định the. Khi ghép 2 yếu tố này

sẽ tạo thành atte (at the) trong tên họ. Ví dụ: Atthewode có nghĩa là ở trong

rừng (at the wood), Atthemille có nghĩa là ở cối xay (at the mill). Ngoài yếu tố

atte, tên họ miêu tả đặc điểm nơi sinh sống còn có các yếu tố nhƣ under (ở

dƣới), bi (bên cạnh), over (ở trên), in (ở trong)…Trong nhiều trƣờng hợp, các

giới từ chỉ địa điểm này sẽ bị mất qua thời gian nhƣng cũng còn một số tên họ

vẫn giữ đƣợc các yếu tố này nhƣ Atwood (ở trong rừng), Atwater (ở nguồn

nƣớc) hay Underhill (dƣới chân đồi)…

Sau đây là một số tên gọi có nguồn gốc từ đặc điểm địa danh

Bảng 3.13. Tên họ liên quan đến đặc điểm địa danh

Tên họ Nghĩa gốc Ví dụ

109

Atwood ở trong rừng Emilia Atwood,

Blair Ở cánh đồng Katy Blair, Jade Blair

Fairbanks Ở sƣờn đồi tƣơi đẹp Jill Fairbanks, Joanna

Stevenson Fairbanks

Tickner Ngƣời sống ở ngã ba Sumaya Tickner, Angela

đƣờng Tickner

Underhill Dƣới chân đồi Maxine Underhill, Sue

Underhill

Nhóm tên họ có nghĩa liên quan đến mối quan hệ.

3.2.3.3.

Tên họ có nghĩa liên quan đến tên cá nhân của cha hay mẹ thƣờng là có

hàm ý là con của X hoặc Y. Cách đặt tên họ theo kiểu này không chỉ phổ biến

ở Anh mà còn phổ biến ở nhiều nƣớc châu Âu khác, nhóm tên họ này chiếm tỉ

lệ 20,6 %. Nhóm tên họ có nghĩa liên quan đến mối quan hệ nhƣ thế này

thƣờng là những tên họ phức, đƣợc hình thành bằng cách lấy tên cá nhân của

cha làm tên họ. Có nhiều hình thức tạo tên họ theo cách này: có thể lấy nguyên

tên cá nhân của cha làm tên họ hoặc thêm các yếu tố khác nhƣ tiền tố, hậu tố

vào tên cá nhân của cha để tạo ra tên họ mới cho con. Trong đó, nhóm tên họ

này đƣợc chia ra thành các tiểu nhóm sau:

i. Tên họ được hình thành từ tên cá nhân của cha thêm “s”

Những tên họ có ý nghĩa biểu thị quan hệ gia đình thuộc nhóm này đƣợc

thể hiện dƣới hình thức sở hữu cách trong tiếng Anh („s) tuy nhiên có sự rút

gọn (bỏ dấu ‘ mà chỉ giữ lại chữ s). Chẳng hạn, Carole Andrews (Carole

Andrew‟s) có nghĩa Carole là con của Andrew (Andrew‟s Carole). Nhóm tên

họ này chiếm tỉ lệ 3,2 %. Sau đây là một số ví dụ:

Bảng 3.14. Tên họ được hình thành từ tên cá nhân của cha thêm “s”

Tên họ Clements Daniels Ví dụ Lisa Clements, Alison Clements Sophie Daniels, Mary Daniels

Stephens Williams Nghĩa gốc Nhân từ Chúa trời là ngƣời phán xử Vƣơng miện Ngƣời bảo hộ Laura Stephens, Tracy Stephens Emma Williams, Lorna Williams

110

ii. Tên họ được hình thành từ tên cá nhân của cha thêm “son”

Trong tiếng Anh, son có nghĩa là con trai. Đây là cách đặt tên họ truyền

thống của Anh. Nhóm tên này chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm tên họ chỉ mối

quan hệ (9,6 %). Một số ví dụ về loại tên họ này nhƣ sau:

Bảng 3.15. Tên họ được hình thành từ tên cá nhân của cha thêm “son”

Tên họ Nghĩa gốc Nguồn gốc Ví dụ

Davidson Đƣợc yêu Do thái Korie Davidson, Nicola

Davidson

Thompson Sinh đôi Tiếng Hy lạp Lisa-Marie Thompson, Kelly

cổ Thompson

Wilson Ngƣời bảo hộ Tiếng Đức cổ Sam Wilson, Samantha Wilson

Emerson Ngƣời quí tộc Tiếng Anh cổ Adele Clemerson, Anne-Marie

nổi tiếng Emerson

iii. Tên họ được hình thành từ tên cá nhân của cha thêm các thành tố

khác nhƣ O‟, Mc, Mac… Nhóm tên này chiếm tỉ lệ 7,6 %.

Ngƣời Anh không chỉ có cách đặt tên họ theo tên cha một cách truyền

thống nhƣ trên mà còn du nhập những cách đặt tên họ từ các nƣớc khác nhƣ

Scotland, Ireland, Pháp…Các thành tố này đều có nghĩa là con của nhƣng với

các hình thức hoàn toàn khác nhau. Một số ví dụ về loại tên họ này nhƣ sau:

Bảng 3.16. Tên họ được hình thành từ tên cá nhân của cha

Phụ tố Tên cá Tên họ mới Nguồn gốc Ví dụ

nhân của

cha

Mac Donald Macdonald Scotland Shannon MacDonald,

Liz MacDonald

O‟ Conor O‟Conor Ireland Sarah O'Connor,

Denise O'Connor

Nhƣ vậy, tên họ ngƣời Anh mang những nghĩa biểu trƣng riêng, khác

biệt với tên họ ngƣời Việt. Dựa vào đặc điểm từ vựng, ngữ nghĩa và nguồn gốc

111

của tên họ, chúng tôi cho rằng nghĩa biểu trƣng của tên họ ngƣời Anh thƣờng

biểu hiện những mối quan hệ trong gia đình, dòng tộc (tên họ theo tên cá nhân

của cha); đặc điểm nơi sống (tên họ theo tên đất, hoặc đặc điểm nơi ở); nghề

nghiệp sinh sống (tên họ theo nghề nghiệp, chức danh).

3.3. Đặc điểm nghĩa của tên nữ giới ngƣời Việt

Nhƣ đã nêu ra ở đầu chƣơng 3, chúng tôi cho rằng tên nữ giới ngƣời Anh

và tên nữ giới ngƣời Việt là những tổ hợp định danh có nghĩa, đó là nghĩa hàm

chỉ. Trong phần này, luận án tập trung phân tích nghĩa trong tên nữ giới ngƣời

Việt qua 2 thành phần định danh là tên cá nhân và tên đệm còn tên họ chỉ đƣợc

nhắc đến một cách sơ lƣợc vì luận án xác định tên họ ngƣời Việt không có

nghĩa.

3.3.1. Đặc điểm nghĩa của tên cá nhân nữ giới người Việt

Xét về cấu tạo và chức năng giao tiếp của tên nữ giới ngƣời Việt, tên cá

nhân có vai trò quan trọng nhất. Trong rất nhiều trƣờng hợp, đặc biệt là trong

giao tiếp, tên cá nhân có thể thay thế cho cả tổ hợp định danh. Bản thân tên cá

nhân đã có giá trị khu biệt cá thể đơn nhất. Tuy nhiên, với cùng một tên cá

nhân giống nhau (đồng âm), những nghĩa biểu trƣng hàm chứa trong đó lại

khác nhau. Ví dụ: cha mẹ đặt tên cho con gái là Xuân với hi vọng con gái lúc

nào cũng tƣơi trẻ, tràn đầy sức sống nhƣ mùa xuân; nhƣng gia đình khác đặt

tên con là Xuân vì muốn ghi lại thời điểm con sinh ra vào mùa xuân, cũng có

thể một ngƣời khác tên Xuân đƣợc đặt tên này để gợi nhớ về quê hƣơng (Thọ

Xuân). Do đó, để phân loại các lớp nghĩa trong tên cá nhân, luận án phân loại

từng nhóm có sự đồng nhất về nghĩa (hoặc có cùng trƣờng nghĩa). Qua tên cá

nhân chúng tôi vừa phân tích ở trên cho thấy, cho dù tên ngƣời không có nghĩa

trùng với nghĩa của từ đồng âm nhƣng vẫn mang những ý nghĩa liên quan đến

từ đồng âm đó.

Luận án căn cứ trên ý nghĩa của lớp từ đồng âm với tên cá nhân nữ giới

ngƣời Việt trong nguồn ngữ liệu để chia ra thành hai nhóm nghĩa sau: nhóm

tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các yếu tố tự nhiên nhƣ các hiện tƣợng tự

112

nhiên, động vật, thực vật…; nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến yếu tố

xã hội nhƣ địa danh, văn hóa, con ngƣời (do con ngƣời là thực thể của xã hội

nên nhóm tên liên quan đến con ngƣời rất phong phú, đa dạng và phức tạp).

3.3.1.1. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các yếu tố tự nhiên

Đây là nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các hiện tƣợng tự nhiên

nhƣ các mùa trong năm, đồi núi, sông ngòi… hay cây cỏ, hoa lá, chim

muông… Nhóm tên này chiếm tỉ lệ 39%. Đây là nhóm tên cá nhân thể hiện

chức năng khu biệt giới tính nữ cao, gồm các tiểu loại sau:

i. Các mùa trong năm nhƣ xuân, hạ, thu, đông… Nhóm tên cá nhân này

chiếm tỉ lệ 2,2%. Trong các tên cá nhân liên quan đến mùa thì tên Thu xuất

hiện nhiều nhất và có nhiều khả năng kết hợp với các lớp nghĩa khác tạo thành

tên phức. Tên Đông dùng nhiều cho cả nam và nữ, các tên liên quan đến mùa

khác thì cũng có hiện tƣợng dùng chung cho cả nam và nữ nhƣng đa phần là

dành cho nữ. Mùa có thể kết hợp với nhau tạo nên tên phức nhƣ Đông Xuân,

Xuân Thu, Thu Hạ,…

Ngoài ra, mùa còn kết hợp với rất nhiều nhóm nghĩa khác, bổ sung ý

nghĩa cho lớp nghĩa chính đó, ví dụ: Thu Thủy (nƣớc mùa thu), Xuân Lan (hoa

lan mùa xuân), Thu Huế (mùa thu ở Huế),…. Tuy nhiên, luận án xếp kiểu kết

hợp này ở các nhóm nghĩa chính mà không phải xếp ở nhóm nghĩa chỉ mùa.

ii. Phương hướng nhƣ đông, tây, nam, bắc…nhóm tên cá nhân liên quan

đến các từ chỉ phƣơng hƣớng tƣơng đối ít và phần lớn là tên trung tính dùng

cho cả nam và nữ cho nên chức năng khu biệt giới tính không cao. Nhóm tên

cá nhân này chiếm tỉ lệ thấp 0,6%. Trong số các từ chỉ phƣơng hƣớng có Đông

xuất hiện nhiều nhất, sau đó đến Bắc, còn Nam ít và Tây thì không thấy xuất

hiện. Tên cá nhân phức thuộc lớp nghĩa này rất ít, chỉ có 1 lần xuất hiện là

Nguyễn Thị Đông Bắc.

iii. Các sự vật tồn tại trong thiên nhiên: nhóm tên cá nhân này gồm các

tên liên quan đến sông, biển, nƣớc, tuyết, trăng, mây…nhƣng chủ yếu là tên

Hán Việt. Ví dụ: Thủy (nƣớc), Hà (sông), Hải (biển), Tuyết, Nguyệt, Hằng

113

(trăng), Vân (mây). Những tên nhƣ Thủy, Nguyệt, Tuyết, Hằng… mang tính nữ

cao, Hà (trung tính) dùng cho cả nam và nữ, Hải có tên nữ giới nhƣng đa phần

là tên nam. Nhóm tên cá nhân này chiếm tỉ lệ tƣơng đối cao (15%). Nhóm tên

này có thể kết hợp với nhau tạo ra tên phức, ví dụ: Vân Hải, Hà Thủy, Nguyệt

Hằng, Tuyết Hà,…

Ngoài ra, nhóm tên này có khả năng kết hợp với rất nhiều nhóm tên khác

tạo thành tên phức nhƣ:

- Kết hợp với nhóm tên có nghĩa liên quan đến mùa, ví dụ: Thu Thủy

(nƣớc mùa thu), Đông Hà (dòng sông mùa đông), Thu Nguyệt (trăng mùa

thu),…

- Kết hợp với nhóm tên có nghĩa liên quan đến màu sắc, ví dụ: Thanh

Thủy (nƣớc xanh), Bạch Tuyết (tuyết trắng), Cẩm Thạch (đá tím), Thanh Vân

(mây xanh),…

- Kết hợp với nhóm tên có nghĩa liên quan đến tính chất, ví dụ: Minh

Nguyệt, Minh Hằng (trăng sáng), …

iv. Thực vật: những tên cá nhân có lớp nghĩa liên quan đến thực vật thì

phong phú và đa dạng, thể hiện giới tính nữ rất cao. Nhóm tên cá nhân này

chiếm tỉ lệ 10,8%. Tên cá nhân nữ giới thuộc nhóm này phần lớn là tên đồng

âm với tên các loài hoa đẹp, những cây nhỏ, cây ăn quả… Ví dụ: Lan, Cúc,

Mai, Thảo, Na, Đào, Lựu, Quế, Trà… Nhóm nghĩa này có thể kết hợp với

nhau tạo ra tên phức, ví dụ: Quế Lan, Quế Chi,….

Ngoài ra, nhóm tên có nghĩa liên quan đến thực vật này có khả năng kết

hợp với rất nhiều nhóm tên có nghĩa khác tạo thành tên phức:

- Kết hợp với nhóm tên có nghĩa chỉ mùa, ví dụ: Thu Lan (hoa lan mùa

thu), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân), Thu Thảo (cây cỏ mùa thu), Xuân Lan

(hoa lan mùa xuân),…

- Kết hợp với nhóm tên có nghĩa chỉ màu sắc, ví dụ: Bạch Lan (hoa lan

114

trắng), Bích Đào (hoa đào hồng), Cẩm Lan (hoa lan màu tím),…

- Kết hợp với nhóm tên có nghĩa chỉ tính chất, ví dụ: Hương Thảo,

Phương Thảo (cỏ thơm),…

v. Động vật: những tên nữ giới có lớp nghĩa liên quan đến động vật

thƣờng gắn với tên các loài vật nhỏ, đẹp, có tiếng hót hay nhƣ: Yến, Oanh, My

(họa mi), Phượng (phƣợng hoàng). Tên cá nhân liên quan đến lớp nghĩa này

chiếm tỉ lệ thấp (1 %).

vi. Tên các chất liệu: thƣờng là tên có nghĩa liên quan đến chất liệu có

giá trị cao, quí hiếm nhƣ: Kim, Châu (trân châu), Ngọc, … Nhóm tên cá nhân

này chiếm tỉ lệ 5,8%. Những tên phức thuộc nhóm nghĩa này thƣờng do một

thành tố có nghĩa liên quan đến màu sắc (Hồng, Bích, Cẩm, Lam, Thanh,…)

hay tính chất (Hương, Tiểu, Minh,…) kết hợp cùng để bổ sung ý nghĩa nhƣ:

Bích Ngọc, Hồng Ngọc,Cẩm Thạch, Minh Châu, Tiểu Ngọc,…

vii. Màu sắc: tên nữ giới có lớp nghĩa liên quan đến màu sắc tƣơng đối ít,

chiếm tỉ lệ 3,6 %, ví dụ: Hồng, Bạch, Lam, Hồng Lam, Cẩm,…Tuy nhiên, tên

có nghĩa liên quan đến màu sắc này lại có khả năng kết hợp với nhiều tên

thuộc lớp nghĩa khác nhƣ thực vật, chất liệu,sự vật tồn tại trong thiên nhiên,…

để bổ sung nghĩa cho các thành tố đó (đã nêu ở các phân nhóm iii, iv, vi).

3.3.1.2. Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến yếu tố xã hội

Nhóm tên thuộc lớp nghĩa liên quan đến xã hội rất phong phú, đa dạng

đặc biệt là tên liên quan đến con ngƣời. Nhóm tên cá nhân này chiếm tỉ lệ

61%.

i. Liên quan đến địa danh

Tên có nghĩa liên quan đến địa danh là kiểu đặt tên cá nhân theo tên của

các địa danh, có thể là quê hƣơng, nơi sinh, nơi ở, hoặc một mảnh đất mà

ngƣời đặt tên đã gắn bó và có nhiều kỉ niệm. Nhóm tên cá nhân này chiếm tỉ lệ

12,6 %. Tuy nhiên, tên cá nhân nữ giới thuộc nhóm tên này thƣờng không lặp

lại nguyên tên của địa danh đó (nếu tên địa danh có hai âm tiết trở lên) mà chỉ

lấy một thành tố trong đó. Ví dụ, quê bố mẹ ở Nghệ An thì đặt tên cho con là

115

Hương An, Hoài An mà không phải dùng cả tổ hợp định danh của địa danh quê

hƣơng là Nghệ An. Ngoài ra, còn có cách đặt tên theo tên nƣớc nhƣ Mỹ, Ý,

Thái, Nga, Nhật…Phần lớn, tên thuộc nhóm nghĩa này là tên đơn, ít kết hợp

với thành tố có ý nghĩa khác. Trong trƣờng hợp kết hợp với tên có ý nghĩa

khác thì có kết hợp với mùa, ví dụ: Thu Hà (mùa thu Hà Nội), Thu An (mùa

thu Nghệ An),… Khi tên thuộc lớp nghĩa này kết hợp với tên thuộc lớp nghĩa

khác thì có khi lại không thuộc nhóm nghĩa này, ví dụ: Lệ Mỹ thì Mỹ có ý

nghĩa là đẹp mà không phải ý nghĩa liên quan đến địa lí (nƣớc Mỹ) hay Hòa

Bình thì có khi lại có ý nghĩa liên quan đến mong muốn đất nƣớc thống nhất,

kết thúc chiến tranh hoặc vì một lí do khác mà không phải là tên gắn với địa

danh Hòa Bình.

ii. Liên quan đến các mối quan hệ xã hội

Đây là nhóm tên tƣơng đối khó xác định vì cần có sự hiểu biết nhất định

với ngƣời mang tên và ngƣời đặt tên. Nhóm này đƣợc chia thành 2 tiểu nhóm

nhƣ sau:

- Quan hệ trong gia đình: tên anh, chị em trong cùng một gia đình đƣợc

đặt có thể có quan hệ về mặt ngữ nghĩa hoặc ngữ âm nhƣ: anh trai có tên là

Chiến, em gái đƣợc đặt là Thắng. Mặc dù tên Thắng này dùng cho nữ rất ít

nhƣng tên cá nhân của hai anh em ghép lại có ý nghĩa chiến thắng nên bố mẹ

vẫn chọn đặt tên nhƣ vậy. Về ngữ âm, có thể tên con cái đƣợc đặt cùng phần

phụ âm đầu hoặc phần vần giống bố mẹ hoặc giống nhau. Ví dụ bố tên là Hòa,

đặt con gái đầu tên Khánh Hà, con gái sau tên Ngân Hà…Những năm gần đây,

việc đặt tên anh em trai, hoặc chị em gái có cùng tên cá nhân, khác tên đệm là

xu hƣớng và trở thành mốt.

- Quan hệ ngoài gia đình: đặt theo tên mà ngƣời đặt tên mến mộ có thể là

lãnh đạo nổi tiếng, nhà văn, nhà thơ, ca sĩ hay bạn bè…Nhóm tên này mới phổ

biến ở giai đoạn gần đây, nhất là đặt tên theo tên của lãnh đạo cơ quan nhà

nƣớc cấp cao, vì trƣớc đây khi còn thời kì phong kiến thì đây bị coi là kị húy,

ví dụ: Kim Ngân, Kim Tiến, Mỹ Linh, Khánh Linh…

116

iii. Liên quan đến con người

Con ngƣời là chủ thể của xã hội, con ngƣời và những mối quan hệ của

con ngƣời với xã hội hết sức đa dạng và phức tạp. Tên liên quan tới con ngƣời

rất phong phú bởi lẽ con ngƣời là chủ thể của xã hội. Nhóm tên cá nhân này

chiếm tỉ lệ cao nhất 29,8 %. Nhóm này có thể phân ra nhiều tiểu lớp chi tiết

nhƣ đặc điểm tính cách, hình thể, phẩm chất, nghề nghiệp, ƣớc vọng và mối

quan hệ với những tên ngƣời có sẵn… Luận án phân nhóm tên này thành các

tiểu nhóm nhƣ sau:

- Phẩm chất của con người

Loại tên này khá phổ biến, phần lớn là tên Hán Việt, miêu tả các đức

tính, phẩm chất tốt của ngƣời phụ nữ. Nhóm tên cá nhân này chiếm tỉ lệ 17,6

%, ví dụ: Hạnh (đức hạnh), Chung (thủy chung), Hảo, Nhân (ngƣời tốt), Thảo

(hiếu thảo), Hiền (hiền dịu), Thục (nết na, hiền thục)… Tên phức xuất hiện ở

lớp nghĩa này tƣơng đối nhiều, ví dụ: Hiền Thục, Thảo Hiền, Thủy Chung,

Nhân Ái,…

- Uớc vọng của con người

Nhóm tên này rất đa dạng, vì ai cũng có quyền đƣợc mơ ƣớc. Khi cha mẹ

đặt tên cho con đều mong muốn con cái sau này có cuộc sống hạnh phúc, ấm

no, thành đạt… Nhóm tên cá nhân này chiếm tỉ lệ 12,2 %, ví dụ: Phúc (hạnh

phúc); Nhàn (an nhàn); Tâm (có lòng tốt); Ngân (có nhiều tiền); Phú, Quý

(giàu có); Bình (hòa bình); Cát Tường (may mắn), Thuận (thuận lợi), Anh

(thông minh, tinh anh), …Những tên phức thuộc lớp nghĩa này xuất hiện

nhiều, ví dụ: An Nhàn, Hòa Bình, Cát Tường, Minh Anh, Tuệ Anh…

iv. Liên quan đến con số

Tuy những tên có nghĩa liên quan đến con số không nhiều nhƣng việc

phân loại tƣơng đối phức tạp. Con số ở đây có thể là số thứ tự con sinh ra

trong một gia đình hay cũng có thể là giờ sinh, năm sinh ứng với can chi gì

trong năm.

- Tên đặt theo số đếm, số thứ tự: có thể có liên quan đến thứ tự sinh hoặc

117

không. Có thể nguồn gốc của việc đặt tên theo kiểu này là do gia đình đông

con thời trƣớc. Bố mẹ đặt tên con nhƣ vậy cho dễ nhớ và dễ gọi, cũng có thể

đánh dấu thời điểm sinh con, ví dụ: Nhất, Hai, Ba, Bốn, Tứ, Năm, Lục, Bảy….

Nhóm tên này bao gồm cả tên Hán Việt và thuần Việt. Phần lớn tên cá nhân

thuộc nhóm tên này là tên đơn.

- Tên có liên quan đến giờ, năm (có thể có liên quan đến thời điểm sinh

hoặc không) …Nhóm tên này tuy có liên quan đến con số nhƣng thực chất về

mặt ngôn từ lại không phải dùng trực tiếp số để đặt tên mà dùng tên gọi các

thời điểm theo Kinh Dịch, ví dụ: Tí, Tị, Ngọ, Mùi, Dậu…hay can chi nhƣ:

Bính, Quý, Nhâm… Phần lớn tên cá nhân thuộc nhóm tên này là tên đơn.

v. Nhóm tên có yếu tố tên nước ngoài

Với sự phát triển của kinh tế, xã hội trong thời đại mở cửa, Việt Nam có

nhiều cơ hội để hội nhập với nhiều quốc gia trên thể giới, tiếp xúc với những

nền văn hóa khác nhau. Do đó, văn hóa đặt tên cũng chịu những ảnh hƣởng

nhất định, nhiều tên đƣợc du nhập mới, có yếu tố nƣớc ngoài hoặc có cách

phát âm giống tiếng nƣớc ngoài mặc dù dùng những từ thuần Việt, ví dụ: A

Na, Ny Na…Nhóm tên này xuất hiện rất ít trong ngữ liệu (2 lƣợt) do luận án

chỉ giới hạn nghiên cứu tên chính danh. Tuy nhiên, hiện nay nhóm tên có yếu

tố nƣớc ngoài này đang thành trào lƣu khi các nghệ sĩ trẻ có xu hƣớng thích sử

dụng nghệ danh nhƣ Elly Trần, Angela Phương Trinh, Midu,…Những kiểu tên

này không đƣợc xét đến do luận án chỉ giới hạn nghiên cứu tên chính danh.

Nhƣ vậy, qua phân tích nguồn ngữ liệu tên cá nhân nữ giới ngƣời Việt

cho thấy tên cá nhân nữ giới ngƣời Việt có ngữ nghĩa phong phú, liên quan từ

tự nhiên, xã hội đến con ngƣời. Chủ yếu tên nữ giới ngƣời Việt có nghĩa liên

quan đến xã hội (61 %). Tuy nhiên, những tên nữ có nguồn gốc thuần Việt rất

ít, đa số là tên Hán Việt. Tên cá nhân của nữ giới ngƣời Việt có khả năng biểu

hiện giới tính rất rõ, chỉ trừ những tên dùng chung đƣợc cho cả hai giới và một

số ít nữ giới đƣợc đặt tên giống nam giới (Kiên, Minh, Thắng,…), còn lại

phần lớn tên cá nhân đều gợi lên những nghĩa biểu trƣng cho phái yếu, phái

118

đẹp và những phẩm chất tốt đẹp của ngƣời phụ nữ.

3.3.2. Đặc điểm nghĩa của tên đệm nữ giới người Việt

Tên đệm của nữ giới ngƣời Việt là một tập hợp mở, có nghĩa là đơn vị

định danh nào cũng có thể trở thành tên đệm. Tuy nhiên, tên đệm của ngƣời

Việt có chức năng khu biệt giới tính rất rõ. Do đó, tên đệm của nữ giới ngƣời

Việt thƣờng bị giới hạn bởi những đơn vị định danh dành cho nữ giới. Ví dụ,

trƣớc đây, ngƣời ta chủ yếu dùng tên đệm Thị để đặt cho nữ giới. Tuy nhiên,

tần suất sử dụng từ Thị để đặt tên đệm cho nữ ngày càng giảm. Ngƣời đặt tên

có nhu cầu đặt tên cho nữ với yêu cầu về thẩm mỹ ngày càng cao. Tính thẩm

mỹ đó đa phần nằm ở tên đệm của nữ giới. Đó là lí do dẫn đến số lƣợng tên

đệm ngày càng nhiều và phong phú hơn. Về cơ bản, những lớp nghĩa dùng để

đặt cho tên cá nhân đều có thể dùng để đặt tên đệm nhƣng nhƣ đã phân tích ở

mục 3 có rất nhiều thành tố nằm ở vị trí của tên đệm, nhƣng thực chất là thuộc

thành phần - tên họ (trong họ phức) hoặc thuộc thành phần – tên cá nhân

(trong tên cá nhân phức). Do đó, số lƣợng tên đệm bị giới hạn hơn so với tên

cá nhân.

Qua khảo sát và thống kê nguồn ngữ liệu tên nữ giới ngƣời Việt, luận án

phân lớp nghĩa biểu trƣng của tên đệm nữ giới ngƣời Việt nhƣ sau:

3.3.2.1. Nhóm tên đệm có nghĩa liên quan đến giới tính nữ

i. Tên đệm Thị

Từ xƣa đến nay, có lẽ tên đệm có chức năng khu biệt nữ giới rõ ràng và

dứt khoát nhất là Thị. Tuy nhiên, xét về nghĩa của từ Thị đƣợc dùng hiện nay

đã thay đổi so với từ gốc ban đầu.

Từ Thị trong văn tự thời Chiến quốc (475-331 trƣớc Công nguyên),

giống nhƣ một chiếc gậy gỗ, phía trên có hình giống loài rắn. Nghĩa gốc của

nó là tên dòng họ và thời xƣa ở Trung Quốc chỉ quý tộc mới có. Theo từ điển

Hán Việt, từ Thị (氏) có nghĩa là họ, họ tộc [94, 825]. Thời xƣa, khi ngƣời con

gái Trung Quốc lập gia đình sẽ đƣợc gọi bằng tên họ chồng kết hợp với Thị, ví

dụ nhƣ là Lã Thị phu nhân (vợ ông họ Lã), Hàn Thị phu nhân (vợ ông họ

119

Hàn). Trong trƣờng hợp này Thị có nghĩa là họ.

Theo các giải thích trong cuốn Từ nguyên (辞源,2009), “Thị (氏)tức là

thị tộc, từ thời thƣợng cổ bắt đầu dựng nƣớc đã có tính (姓), các chi đƣợc phân

xuất từ tính gọi là thị”. Lại nói đến tính (姓), xét về văn tự thì đây là một chữ

hội ý gồm chữ nữ (女) và sinh (生) hợp thành nghĩa do phụ nữ sinh ra, tính có

nghĩa là họ hay tên họ trong tiếng Việt [194]. Nhƣ vậy, về nguồn gốc từ

nguyên, thị có nghĩa là các chi của họ tộc. Khi du nhập vào Việt Nam, có lẽ

ban đầu từ thị vẫn giữ nguyên nghĩa của nó, có thể thấy nghĩa này trong câu

“Long thành giai nhân, tính thị kí bất danh”. Câu này có nghĩa là ngƣời đẹp đất

Long thành, không nhớ rõ tên họ gì. Tuy nhiên, nghĩa từ thị đã dần biến đổi,

trở thành từ chỉ nữ giới và Thị đƣợc dùng làm tên đệm để phân biệt giới tính.

Nhƣ vậy, từ Thị đã dần dần mất đi nghĩa ban đầu của nó. Về vấn đề này, Vũ

Đức Nghiệu cho rằng “Cách biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp và/hoặc

cấu trúc của từ đóng vai trò là những nhân tố chủ yếu làm cho các từ/yếu tố

gốc Hán càng ngày càng rời xa xuất phát điểm cội nguồn của chúng, đồng thời

dễ đƣợc gán cho những nội dung từ nguyên thông tục theo cách hiểu và cách

dùng của ngƣời Việt” [49, tr.185]. Cũng về vấn đề này, Nguyễn Văn Khang đã

đƣa ra quan điểm nhƣ sau: “Trên cơ sở nghĩa gốc, nghĩa vốn có của từ Hán

Việt, một số lƣợng không ít các từ Hán Việt đã phát triển theo nghĩa mạch tƣ

duy liên tƣởng của ngƣời Việt. Hệ quả dẫn đến là, nó làm cho các từ Hán Việt

xa rời dần với chính nó ở trong tiếng Hán hiện đại” [39, tr 28].

Ngày nay, chữ Thị ít đƣợc dùng để đặt làm tên đệm cho nữ giới vì bị coi

là quê mùa và việc bỏ hẳn Thị trong tên nữ giới trở thành một khuynh hƣớng

mới trong xã hội. Sự thay đổi này có lẽ chỉ là vấn đề tâm lý xã hội. Ban đầu,

nghĩa của từ Thị hoàn toàn không xấu. Theo thời gian và xu thế xã hội, ngƣời

dùng gán cho nó những đặc điểm không hay, làm mất đi nghĩa gốc. Trong 500

tên nữ giới ngƣời Việt luận án dùng để khảo sát nghĩa, tên đệm Thị chỉ xuất

hiện 87 lƣợt, chiếm tỉ lệ 17,4 %.

120

ii. Tên đệm chuyên biệt khác dành cho nữ

Khi tên đệm Thị có xu hƣớng giảm dần, ngƣời ta có xu hƣớng thay thế

tên đệm Thị bằng một số tên đệm khác để phân biệt giới tính nữ nhƣ:

- Tên đệm Thúy, Thùy, Thụy gần nhƣ chỉ sử dụng riêng cho nữ, ví dụ: Thúy

Anh, Thùy Anh, Thụy Anh. Liệu đây có phải là một biến thể của tên đệm Thị?

Hiện chƣa có một minh chứng nào đƣợc đƣa ra nhƣng có nhiều suy đoán đây

là cách đọc chệch đi của tên đệm Thị khi tên đệm này bị cho là quê mùa, lỗi

mốt. Những tên đệm này có 18 lần xuất hiện, chiếm 3,6 %.

- Tên đệm Nữ, Diệu: Tên đệm này phổ biến nhất ở Huế, có 8 lần xuất hiện,

chiếm tỉ lệ 1,6 %.

3.3.2.2. Nhóm tên đệm liên quan đến mối quan hệ họ tộc

Trong xã hội phong kiến Việt Nam, ngƣời phụ nữ không đƣợc coi trọng,

chỉ là “nữ nhân ngoại tộc”, nghĩa là “con gái là con ngƣời ta” nên tên đệm phải

đặt khác tên đệm của các anh em trai trong gia đình. Ngày nay, trong xã hội

hiện đại, việc kị húy khi đặt tên cũng có phần bớt khắt khe. Khi đặt tên cho

con gái có tính kế thừa có thể dùng tên cá nhân của mẹ, hoặc tên đệm của mẹ

làm tên đệm cho con gái. Trƣờng hợp dùng tên họ mẹ thì luận án coi đó là tên

họ phức chứ không phải là tên đệm. Ngoài ra, ở những gia đình có con gái một

bề, ông bà, bố mẹ thƣờng tìm cho con những tên đệm giống nhau để đặt cho

con, ví dụ: chị là Lê Như Hoa, em là Lê Như Mai…Cách đặt tên đệm nhƣ vậy

có ý nghĩa kết nối những thành viên nữ trong gia đình. Đây cũng là cách đặt

tên đệm thể hiện tính gia tộc nhƣng vẫn giữ đƣợc tính thẩm mĩ cao.

3.3.2.3. Nhóm tên đệm liên quan đến sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan

Cũng nhƣ tên cá nhân, nhóm tên đệm có nghĩa biểu trƣng thuộc nhóm

này rất đa dạng. Nhóm tên đệm này thƣờng có giá trị khu biệt giới rõ ràng và

tính thẩm mĩ cao. Nhóm tên đệm này chiếm tỉ lệ cao nhất (58 %).

i. Nhóm tên đệm có nghĩa chỉ vật quí hiếm, ví dụ: Ngọc, Kim, Châu …

ii. Nhóm tên đệm có nghĩa chỉ vẻ đẹp hình thức, ví dụ: Diễm, Lệ , Mỹ,..

iii. Nhóm tên đệm có nghĩa chỉ vẻ đẹp tâm hồn, ví dụ: Nhân, Thiện,

121

Hạnh,..

iv. Nhóm tên đệm có nghĩa chỉ màu sắc, ví dụ: Hồng, Bạch,

Thanh,…Tuy nhiên, nhóm tên đệm này cũng chỉ tập trung chủ yếu dùng Hồng

(màu hồng, màu đỏ), hoặc Bạch (màu trắng), những tên đệm có nghĩa liên

quan đến màu sắc khác cũng có nhƣ Lam (xanh), Lục (xanh lá) cũng có nhƣng

rất ít.

v. Nhóm tên đệm có nghĩa nhỏ, thứ tự thấp

Mặc dù nhóm tên này có rất ít nhƣng thể hiện giá trị khu biệt giới rất cao

với ý hàm chỉ ngƣời phụ nữ nhỏ bé, có địa vị thấp, ví dụ: Tiểu Ngọc, Tiểu Mai

(tên này rất phổ biến ở Trung Quốc nhƣng ở Việt Nam cũng xuất hiện những

tên nhƣ vậy), Út Lan, Út Hậu…(tên này phổ biến ở khu vực miền Nam)…

- Khi các thành tố thuộc các lớp nghĩa này kết hợp với nhau có thể tạo ra

tên đệm phức nhƣ: mùa kết hợp với mùa (Thu Đông), mùa kết hợp với thực

vật (Thu Lan), màu kết hợp với chất liệu (Bạch Ngọc),…Tuy nhiên, những tên

đệm phức kiểu này thƣớng rất ít và khó xác định.

3.3.2.4. Nhóm tên đệm liên quan đến ước muốn của người đặt tên

Nhóm tên đệm có nghĩa biểu trƣng cho ƣớc muốn của ngƣời đặt tên

chiếm tỉ lệ 18.6 %, đƣợc chia thành 2 tiểu nhóm:

- Nhóm tên đệm mang nghĩa về vật chất đầy đủ, giàu sang. Nhóm tên

đệm này có xuất hiện ở tên nữ giới nhƣng số lƣợng rất ít và chủ yếu ở tên đệm

nam giới nhƣ Quý, Lộc, Phú…

- Nhóm tên đệm mang nghĩa về tinh thần, thể hiện ƣớc vọng của cha mẹ

về cuộc đời bình an, hạnh phúc của con cái nhƣ An, Phúc, Hạnh…

3.3.3. Đặc điểm nghĩa của tên họ nữ giới người Việt

Điểm khác biệt rõ nét trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt là ở

phần tên họ. Do chƣa có điều kiện để điều tra về lịch sử và nguồn gốc của tên

họ ngƣời Việt nên căn cứ theo kết quả của các nhà nghiên cứu về Việt danh

học đã công bố (Lê Trung Hoa, Phạm Tất Thắng), chúng tôi cũng cho rằng

122

tên họ ngƣời Việt không có nghĩa.

3.4. Những nét tƣơng đồng và khác biệt về nghĩa và văn hóa - xã hội đƣợc

phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt

3.4.1. Những nét tương đồng về nghĩa và văn hóa - xã hội phản ánh qua

tên nữ giới người Anh và người Việt

3.4.1.1. Nét tương đồng về nghĩa của tên nữ giới người Anh và người Việt

Ở cả cộng đồng ngƣời Anh và ngƣời Việt, việc đặt tên cho một đứa trẻ

khi mới sinh ra là việc rất quan trọng. Điều đó không chỉ có ý nghĩa về mặt

pháp lý (đăng kí khai sinh) mà còn có giá trị tinh thần, thể hiện tâm lý, ƣớc

vọng, mong muốn của ngƣời đặt tên. Luận án xác định tên ngƣời nói chung

và tên nữ giới nói riêng ở cả Anh và Việt Nam đều là tổ hợp định danh có giá

trị khu biệt những cá thể đơn nhất và có nghĩa biểu trƣng. Nhƣ vậy, tên nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có nghĩa. Nghĩa đó không phải là nghĩa

biểu niệm, biểu vật của kí hiệu đồng âm với tên mà là ý nghĩa biểu trƣng có

liên quan đến lớp nghĩa của những từ dùng để định danh nữ giới đó. Nhƣ đã

nói ở trên, tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có cấu tạo từ ba

thành phần định danh là tên cá nhân, tên đệm, tên họ nhƣng qua phân tích

nguồn ngữ liệu tên nữ giới Anh và Việt cho thấy lớp nghĩa biểu trƣng ở tên họ

và tên đệm nữ giới ở hai quốc gia này rất khác nhau, chỉ có tên cá nhân là có

những điểm tƣơng đồng đƣợc phân tích sau đây.

Tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều rất đa dạng và phong

phú. Có thể coi tên cá nhân của ngƣời Anh và ngƣời Việt là những tập mở,

tức là bất cứ từ nào trong hệ thống từ vựng của hai ngôn ngữ này cũng có thể

dùng để đặt tên cá nhân. Tuy nhiên, điều đó không hoàn toàn đúng với tên nữ

giới. Mặc dù, tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có nghĩa biểu

trƣng rất rộng, từ các hiện tƣợng tự nhiên đến xã hội, con ngƣời nhƣng tên cá

nhân nữ giới cũng vẫn bị hạn chế trong những từ ngữ mang thuộc tính nữ. Đó

là các tên liên quan đến thực vật thì liên quan đến tên các loài hoa đẹp, có mùi

thơm…các tên liên quan đến xã hội, con ngƣời thì miêu tả đặc điểm ngoại

123

hình nhỏ nhắn, xinh đẹp và các phẩm chất tốt đẹp của ngƣời phụ nữ (Ví dụ:

tên nữ giới ngƣời Anh: Lilliana, Lillie, Lilly – hoa nhài, Rosy, Rosie, Rose –

hoa hồng, Jasmine, Jasmyn, Jazmin – hoa loa kèn,… tên nữ giới ngƣời Việt:

Mai Lan, Hồng Nhung, Thu Cúc …); tên liên quan đến động vật là tên những

con vật nhỏ nhắn đáng yêu nhƣ thỏ, chim,… mà không phải là hổ, báo,

gấu…(Ví dụ: tên nữ giới ngƣời Anh: Bunny, Bernetta, Bernie, Berny – thỏ,

Dove – chim bồ câu,… tên nữ giới ngƣời Việt: Yến, Oanh, Hoàng Mi,…Điều

đó thể hiện sự tƣơng đồng trong tƣ duy về nữ giới và ảnh hƣởng của chế độ

phụ hệ ở cả Anh và Việt Nam.

3.4.1.2. Nét tương đồng về nhân tố văn hóa - xã hội tác động đến nghĩa của

tên nữ giới người Anh và người Việt

Anh và Việt Nam là hai quốc gia gắn với hai nền văn hóa và thể chế xã

hội khác nhau nhƣng lại mang một số điểm tƣơng đồng trong việc phản ánh

đặc điểm văn hóa - xã hội thông qua tên ngƣời, đặc biệt là tên nữ giới. Luận

án phân tích ở một số đặc điểm nhƣ sau:

Về lịch sử - xã hội, khi những cuộc chinh phạt giữa các quốc gia nhằm

giành quyền thống trị diễn ra, dẫn đến sự thay đổi sâu sắc trong xã hội. Khi xã

hội thay đổi, tất yếu sự thay đổi đó cũng sẽ ảnh hƣởng nhất định đến ngôn

ngữ đƣợc sử dụng trong xã hội đó. Chính sự biến động của ngôn ngữ đã dẫn

đến những thay đổi trong tên ngƣời. Ở cả tên ngƣời Anh và Việt Nam cũng

mang theo những ảnh hƣởng của ngôn ngữ. Ví dụ, tên ngƣời Anh có nhiều tên

xuất phát từ ngôn ngữ các nƣớc châu Âu hay tên ngƣời Việt có nhiều tên

Hán-Việt, ít tên thuần Việt.

Về văn hóa - xã hội, do những tƣ tƣởng trong xã hội phụ hệ nên đã ảnh

hƣởng đến đặc điểm về giới ở cả hai nƣớc. Quan điểm của chế độ phụ hệ là

luôn nâng cao vai trò của nam giới và hạ thấp nữ giới. Quan điểm này đã ảnh

hƣởng không nhỏ đến đặc thù về giới trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời

Việt. Tên nữ giới ở cả hai nƣớc luôn gắn với thuộc tính nữ, yếu đuối, mảnh

mai…nhƣ những bông hoa, những con vật nhỏ. Đặc biệt tƣ tƣởng trọng nam

124

khinh nữ này thể hiện cao độ ở tên ngƣời nhƣ một sự kì thị về giới, đó là tập

quán đổi tên họ sau khi kết hôn. Ở Anh, phụ nữ sau khi kết hôn phải đổi tên

họ theo tên họ chồng, còn ở Việt Nam thì đổi tên cá nhân theo chồng, con

trƣởng, cháu…tùy vào từng giai đoạn. Tất nhiên, sự kì thị trong tên nữ giới đã

thay đổi theo xu hƣớng giảm đi do sự phát triển của văn hóa, xã hội.

3.4.2. Những khác biệt về nghĩa và văn hóa - xã hội phản ánh qua tên nữ

giới người Anh và người Việt

3.4.2.1. Nét khác biệt về nghĩa của tên nữ giới người Anh và người Việt

Nhƣ đã nêu ra tại mục 3.1, quan điểm của luận án là tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt là những đơn vị định danh có nghĩa. Nghĩa của tên ngƣời

khác với nghĩa của các từ đồng âm. Nghĩa này đƣợc luận án xác định là nghĩa

biểu trƣng. Nghĩa biểu trƣng trong tên ngƣời không chỉ mang theo quan điểm

chủ quan của ngƣời đặt tên và cả những giá trị văn hóa, lịch sử, xã hội đƣợc

phản ánh qua nó. Tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt cũng thể hiện rất rõ

những giá trị văn hóa - xã hội đó thông qua hệ thống cấu trúc và đặt biệt là

những nghĩa biểu trƣng ẩn chứa trong tên. Tuy cùng mang nghĩa biểu trƣng

nhƣng ở tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt lại có những đặc điểm khác

nhau. Những điểm khác nhau đó đƣợc phân tích ở từng thành phần định danh:

tên cá nhân, tên họ và tên đệm.

i. Tên cá nhân

Để phân tích nghĩa trong tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt, luận án

căn cứ trên nghĩa của lớp từ đồng âm với tên cá nhân nữ giới ở hai quốc gia và

chia ra thành hai nhóm nghĩa: nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến các

yếu tố tự nhiên nhƣ các hiện tƣợng tự nhiên, động vật, thực vật…; nhóm tên cá

nhân có nghĩa liên quan đến yếu tố xã hội nhƣ tôn giáo, địa lý, con ngƣời (do

con ngƣời là thực thể của xã hội nên nhóm tên liên quan đến con ngƣời rất đa

dạng và phức tạp). Tuy có chung cách phân lớp để phân tích ý nghĩa biểu

trƣng ở tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt nhƣng đặc điểm trong từng nhóm

125

ý nghĩa đó ở tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt lại có nhiều điểm khác nhau.

Tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có lớp nghĩa liên quan đến các

yếu tố tự nhiên và các loài cây cỏ, riêng nhóm tên liên quan đến động vật thì

tên nữ giới ngƣời Việt thƣờng chỉ liên quan đến tên các loài chim nhỏ (vàng

anh, vành khuyên…), còn tên các con thú nhỏ nhƣ thỏ, hay mèo…thì không

dùng cho chính danh mà thƣờng dùng nhƣ tên lóng (nickname) hoặc tên âu

yếm dùng cho trẻ nhỏ trƣớc khi đi học…, trong khi những tên nhƣ vậy lại xuất

hiện ở tên chính danh của nữ giới ngƣời Anh.

Nhóm tên có nghĩa liên quan đến tôn giáo là một nhóm ý nghĩa đặc thù

và chiếm số lƣợng lớn trong chính danh nữ giới ngƣời Anh. Chính danh nữ

giới ngƣời Việt gần nhƣ không có lớp nghĩa này mà những tên liên quan đến

tôn giáo đƣợc phân ra thành loại riêng đó là pháp danh. Điều này có thể lí giải

trên hai bình diện là văn hóa và pháp luật.

Về pháp luật, pháp luật Việt Nam tôn trọng tín ngƣỡng tôn giáo nhƣng

về pháp lí chỉ công nhận tên chính danh (tên ghi trong giấy khai sinh) là tên

chính thức, còn pháp danh nếu có chỉ dùng trong cộng đồng tôn giáo đó mà

thôi. Điều đó có nghĩa là pháp danh vẫn tồn tại song song với chính danh

nhƣng không đƣợc sử dụng chính thống nhƣ chính danh [92].

Về văn hóa, ngƣời Việt có tục kị húy, tránh đặt tên con theo tên của thần

thánh, vua chúa, ông bà tổ tiên. Trong khi đó, theo Philip và Weller, ngƣời

Châu Âu nói chung và ngƣời Anh nói riêng đều có niềm tin về cõi thiên đàng

sau khi qua đời và họ đã xây dựng đƣợc một hệ thống các vị thánh cho tín

ngƣỡng của mình. Đó là những ngƣời tử vì đạo, những lãnh tụ tôn giáo, các

tông đồ, các vị giáo hoàng…[176]. Từ việc tôn thờ các vị thánh, ngƣời Anh

có xu hƣớng đặt tên cá nhân theo tên các vị thánh. Đây chính là những

nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trong lớp tên có nguồn gốc tôn giáo này.

Đối với nhóm tên liên quan đến địa danh cũng có những đặc điểm khác

biệt giữa tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. Tên nữ giới ngƣời Anh liên

quan đến địa danh thì thƣờng dùng nguyên tên địa danh đó nhƣ Alexandria –

126

Ai Cập, Britany – Pháp….Trong khi đó, tên ngƣời Việt có lớp nghĩa liên quan

đến địa danh có thể là nơi sinh, quê quán cha hoặc mẹ, nơi ở… nhƣng thƣờng

chỉ dùng một yếu tố của tên địa danh (đối với địa danh có tên phức) để đặt tên

cá nhân cho con gái, có thể là yếu tố đứng trƣớc hoặc đứng sau. Ví dụ: quê bố

mẹ ở làng Kim Liên thì đặt tên con gái là Hương Liên, Thu Liên…hay con sinh

ra ở Thái Bình thì đƣợc đặt tên là Như Bình, Thanh Bình...

Nhóm tên cá nhân có nghĩa liên quan đến tên họ của ngƣời khác cũng là

một trong những nhóm tên mang nhiều điểm khác biệt ở tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt. Theo Weekley, việc ngƣời Anh lấy tên họ làm tên cá nhân

mới xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Số lƣợng tên cá nhân của nữ giới ngƣời Anh

có nguồn gốc từ tên họ là khá lớn, trong đó có rất nhiều biến thể khác nhau

[190]. Ví dụ: tên họ Ashkey có nguồn gốc từ tiếng Anh cổ có nghĩa là tro đốt

đƣợc dùng làm tên cá nhân của nữ giới ngƣời Anh với nhiều biến thể nhƣ

Ashlea, Ashlee, Ashley, Ashlie, Ashlyn, Ashlynn…hay tên họ Whitney có nguồn

gốc từ tiếng Anh cổ, có nghĩa là đảo trắng đƣợc dùng làm tên cá nhân của nữ

giới với những biến thể nhƣ Whitny, Wittney, Whitney. Nhóm tên có nghĩa nhƣ

vậy gần nhƣ rất ít xuất hiện trong tên nữ giới ngƣời Việt. Có một số tên nữ

giới ngƣời Việt về hình thức là giống nhƣ họ ví dụ: Lê, Đào, Mai… nhƣng về

nghĩa thì luận án lại xét vào lớp nghĩa biểu trƣng cho thực vật chứ không phải

mƣợn từ tên họ.

Nhóm tên cá nhân chỉ các tƣớc hiệu trong giới quý tộc có xuất hiện ở tên

nữ giới ngƣời Anh nhƣ Dean – ngƣời đứng đầu tu viện (biến thể là

Dane, Dene) hay Regina – nữ hoàng (biến thể là Regena, Regine, Regine)…,

nhƣng gần nhƣ không thấy xuất hiện lớp tên cá nhân này ở tên nữ giới ngƣời

Việt. Chúng tôi cho rằng điểm khác biệt này là do hiện tƣợng kị húy trong văn

hóa Việt Nam.

Nhóm tên cá nhân có nguồn gốc từ tên có sẵn nhƣng ở dạng biến thể

hoặc rút gọn, trong tiếng Anh gọi nhóm này là pet-form. Đây là nhóm tên gọi

rất phổ biến ở Anh và là lí do dẫn đến sự đa dạng của tên nữ giới ngƣời

127

Anh.Ví dụ: Elizabeth có dạng tên rút gọn là Beth hoặc Lisa, hay Margareta có

dạng tên rút gọn là Greta …Nhóm tên này không có trong tên nữ giới ngƣời

Việt bởi lẽ nguồn gốc của tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình còn tiếng Việt là

ngôn ngữ đơn lập. Tên ngƣời là đơn vị của ngôn ngữ nên tên ngƣời thuộc ngôn

ngữ nào sẽ mang theo đặc điểm của ngôn ngữ đó.

Một điểm khác biệt rõ ràng giữa tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và ngƣời

Việt đó là khả năng kết hợp các lớp nghĩa ở tên cá nhân của nữ giới ngƣời Việt

với nhau rất cao. Có thể kết hợp thành tố mang nghĩa liên quan đến màu sắc

với thành tố mang nghĩa liên quan đến chất liệu hay động vật, thực vật (Hồng

Ngọc, Thanh Vân…) hoặc mùa kết hợp với thực vật hay sự vật tồn tại trong

thiên nhiên (Thu Thủy, Xuân Lan,…) tạo ra tên cá nhân phức có ý nghĩa rất

phong phú, đa dạng. Điều này rất hiếm xuất hiện trong tên cá nhân nữ giới

ngƣời Anh.

Về xã hội, yếu tố xã hội cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến việc đặt tên

nữ giới ngƣời Việt. Khi đời sống văn hóa, tri thức ngày càng cao, các bậc cha

mẹ có điều kiện để tiếp xúc với các tài liệu khoa học, cộng thêm sự hỗ trợ của

mạng Internet nên những cái tên mang giá trị biểu trƣng ra đời ngày càng

nhiều. Đặc biệt những cái tên có yếu tố Hán – Việt. Việc đặt tên theo âm Hán

– Việt đòi hỏi ngƣời đặt phải hiểu biết rõ các lớp ý nghĩa của âm để đặt tên, vì

âm Hán – Việt có nhiều nghĩa, nếu kết hợp sai sẽ tạo sự phản cảm. Ngày xƣa,

do ngƣời dân ít học nên thƣờng đặt những cái tên dân dã, chủ yếu là phản ánh

đời sống quanh mình nhƣ hoa cỏ, hiện tƣợng thiên nhiên,… nhƣ Na, Bƣởi,

Sen, Tơ, Lúa,… Ngày nay, qua số liệu khảo sát cho thấy những tên thuần Việt

nhƣ vậy còn rất ít, chủ yếu là các tên có yếu tố Hán – Việt nhƣ Ngân, Kim,

Hạnh, Thảo,… Tuy nhiên, cũng có những trƣờng hợp đặt tên không do ý nghĩa

của tên mà do âm đó đặt lên nghe hay, đây là ảnh hƣởng của trào lƣu, thị hiếu

trong xã hội. Nhƣ vậy, việc đặt tên cũng thể hiện sự vận động của xã hội Việt

Nam. Cùng với thời gian thì càng ngày, tên ngƣời Việt càng cầu kì và mang

giá trị thẩm mĩ càng cao và càng đa dạng về nghĩa, tên nữ giới ngƣời Việt

128

mang ý nghĩa hàm chỉ, gửi gắm trong đó những ƣớc vọng cho tƣơng lai.

Nhƣ vậy, tên cá nhân của nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt có nhiều điểm

khác biệt. Những điểm khác biệt đó là do ảnh hƣởng của đặc điểm ngôn ngữ,

lịch sử, văn hóa và nhiều khía cạnh khác của xã hội.

ii. Tên đệm

Tên đệm dù có tồn tại trong cấu trúc tên nữ giới ngƣời Anh nhƣng về cơ

bản ít mang nghĩa biểu trƣng nhƣ tên đệm nữ giới ngƣời Việt. Trong cấu trúc

tên đệm ngƣời Anh nói chung và nữ giới ngƣời Anh nói riêng, tên đệm bị coi

là thành phần phụ. Mặc dù tên đệm vẫn tồn tại, nhƣng thực tế khi sử dụng,

ngƣời Anh ít quan tâm đến tên đệm, thậm chí bỏ hình thức tên đệm khỏi cấu

trúc tên một cách chính thức hoặc không chính thức nhƣ đã trình bày tại mục

3.2.2. Về tên đệm của ngƣời Anh, Dunkling đã cho rằng “tên đệm thực sự hoạt

động nhƣ là dấu hiệu của lòng kính trọng tới những ngƣời trùng tên, nó đƣợc

coi nhƣ vật gia truyền đƣợc truyền lại cho đời sau” [122]. Điều đó thể hiện rõ

khi tên đệm nữ giới ngƣời Anh có thể là tên gọi thời con gái của mẹ hoặc bà

do phụ nữ ngƣời Anh cũng nhƣ phụ nữ của nhiều quốc gia châu Âu khác khi

lấy chồng sẽ đổi theo họ chồng. Cho nên tên họ của ngƣời con gái trƣớc khi

lập gia đình hoặc tên họ thời con gái của mẹ hoặc bà có thể đƣợc dùng làm tên

đệm cho chính bản thân ngƣời nữ giới đó hoặc làm tên đệm cho con cháu họ.

Những đặc điểm này ở tên đệm nữ giới ngƣời Anh hoàn toàn khác so với

tên đệm nữ giới ngƣời Việt. Đặc biệt, tên đệm nữ giới ngƣời Việt có chức

năng khu biệt giới tính rất rõ. Do đó, tên đệm của nữ giới ngƣời Việt cũng chỉ

giới hạn ở những đơn vị định danh dành cho nữ giới. Nổi bật trong việc phân

biệt giới ở tên đệm ngƣời Việt là tên đệm Văn và Thị. Theo Nguyễn Văn

Khang, Văn và Thị là thành phần đệm để phân biệt giới. Thị dành cho nữ và

Văn dành cho nam. Trong đó, Thị đƣợc dùng ổn định cho nữ, đối với nam

ngoài Văn ra còn có các danh tố tƣơng đƣơng” [39, tr 53]. Về ý nghĩa, tên đệm

Thị có nguồn gốc từ tiếng Hán, chỉ dòng họ nhƣng khi sử dụng trong tên ngƣởi

Việt, nghĩa của từ Thị đã bị biến đổi, trở thành từ chỉ giới nữ. Hiện nay, các

129

nhà sử học, văn hóa học, nhân danh học và ngôn ngữ học vẫn chƣa xác định

đƣợc từ Thị đƣợc dùng làm tên đệm cho nữ giới phổ biến ở Việt Nam từ khi

nào. Tuy nhiên, xu thế gần đây, tên đệm nữ giới ngƣời Việt đã lƣợc bỏ Thị và

thay bằng các tên đệm khác mang tính thẩm mỹ cao. Có lẽ lý do vì từ Thị dùng

trong nghệ thuật chỉ những phụ nữ với ý nghĩa phiến diện nhƣ Thị Mầu (trong

vở chèo Quan Âm Thị Kính) hay Thị Nở (trong chuyện ngắn Chí Phèo)…Còn

trong thực tế xã hội, Thị để chỉ ngôi thứ ba với ý khinh bỉ “Thị bị bắt vì tội bắt

cóc trẻ con” hoặc trong khẩu ngữ dùng từ Thị Mẹt cho con gái với ý xem

thƣờng, trọng nam khinh nữ. Ngoài ra có một số tên đệm khác nhƣ Diệu, Nữ,

Thùy, Thúy, Thụy cũng mang ý nghĩa chuyên biệt chỉ giới nữ nhƣng không nổi

bật nhƣ Thị. Các tên đệm đó xuất hiện khi tên đệm Thị bị mất dần đi vai trò

của nó và có thể đƣợc đọc chệch đi thành Thúy, Thùy, Thụy để nâng cao tính

thẩm mĩ. Nhƣ vậy, một số tên đệm có chức năng phân biệt giới một cách cố

định nhƣ Thị hay Diệu, Nữ ở tên nữ giới ngƣời Việt là một nét khác biệt lớn so

với tên đệm nữ giới ngƣời Anh.

Ngày nay, nhu cầu đặt tên nữ có tính thẩm mĩ ngày càng cao, tính thẩm

mỹ đó đa phần nằm ở tên đệm của nữ giới. Đó là lí do khiến số lƣợng tên đệm

nữ giới ngƣời Việt ngày càng nhiều và rất phong phú. Về cơ bản, những lớp

nghĩa dùng để đặt cho tên cá nhân đều có thể đóng vai trò là tên đệm nhƣng

nhƣ đã phân tích, có rất nhiều thành tố nằm ở vị trí của tên đệm nhƣng thực

chất lại thuộc thành phần tên họ (trong họ phức) hoặc thuộc thành phần tên cá

nhân (trong tên cá nhân phức). Do đó, số lƣợng tên đệm cũng có những giới

hạn hơn so với tên cá nhân. Tuy nhiên về cơ bản, nghĩa trong tên nữ giới ngƣời

Việt cũng đa dạng liên quan đến hiện tƣợng thiên nhiên, xã hội, con ngƣời

giống nhƣ tên cá nhân và thƣờng đƣợc phối hợp về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa với

tên cá nhân để nâng cao tính thẩm mĩ và khả năng khu biệt giới nữ còn tên

đệm nữ giới ngƣời Anh lại khá hạn chế.

Có thể thấy, tên đệm của nữ giới ngƣời Việt rất phong phú và có giá trị

thẩm mĩ và khả năng khu biệt giới rất rõ ràng và thƣờng gắn kết chặt chẽ với

130

tên cá nhân về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Đó là lí do khiến tên đệm nữ giới

ngƣời Việt thƣờng xuyên đƣợc xuất hiện cùng với tên cá nhân trong giao tiếp.

Xu hƣớng này ngày càng phát triển ở Việt Nam. Ví dụ, hiện nay ngƣời ta

thƣờng gọi là Thục Uyên, Nhã Phương, Bảo Anh …thay vì gọi bằng Uyên,

Phương, Anh.. nhƣ trƣớc. Trong khi đó tên đệm nữ giới ngƣời Anh gần nhƣ

không đƣợc sử dụng trong giao tiếp, chỉ trên văn bản nhƣng phần lớn ở dạng

viết tắt chữ cái đầu tiên.

iii. Tên họ

Tên họ nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt có nhiều điểm khác biệt. Điểm

khác biệt rõ ràng nhất là về nghĩa. Tên họ là một thành phần quan trọng trong

tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh. Tên họ có vai trò quan trọng trong giao

tiếp, có thể thay thế cả tổ hợp định danh trong nhiều trƣờng hợp. Khác với

ngƣời Anh, tên họ ngƣời Việt lại chủ yếu mang ý nghĩa lƣu giữ giá trị dòng tộc

và ít khi thể hiện vai trò trong giao tiếp vì trong giao tiếp tên cá nhân có thể

thay thế cả tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Việt.

Tên họ ngƣời Anh nói chung và tên họ nữ giới ngƣời Anh nói riêng là

một tập mở, có số lƣợng rất lớn và có biến thể đa dạng. Tuy chƣa có con số

thống kê chính xác nhƣng về số lƣợng thì lớn hơn tên họ ngƣời Việt rất nhiều.

Khác với tên họ ngƣời Việt, tên họ ngƣời Anh có nguồn gốc phát sinh tƣơng

đối rõ ràng và có nghĩa. Chúng tôi khái quát tên họ nữ giới ngƣời Anh ra thành

các nhóm nhƣ: tên họ chỉ nghề nghiệp, tên họ chỉ địa danh, tên họ chỉ mối

quan hệ.

Nhƣ vậy, có thể thấy do đời sống văn hóa dân tộc mà tên họ ngƣời Anh

mang những lớp nghĩa khác biệt so với tên họ ngƣời Việt. Dựa vào đặc điểm

từ vựng, ngữ nghĩa và nguồn gốc của tên họ, có thể thấy nghĩa của tên họ

ngƣời Anh thƣờng biểu hiện những mối quan hệ trong gia đình, dòng tộc (tên

họ theo tên cá nhân của cha); đặc điểm nơi sống (tên họ theo tên đất, hoặc đặc

điểm nơi ở); nghề nghiệp sinh sống (tên họ theo nghề nghiệp, chức danh).

Tóm lại, về cơ bản luận án xác định tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời

131

Việt là đơn vị định danh có nghĩa. Dựa trên đặc điểm ngữ nghĩa của tên nữ

giới ngƣời Anh và ngƣời Việt thể hiện qua các thành phần nhƣ tên cá nhân,

tên đệm, tên họ luận án chỉ ra một số điểm khác biệt trong nghĩa của tên của

nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt

3.4.2.2. Nét khác biệt về văn hóa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới người Anh

và người Việt

Ngôn ngữ mang theo nội hàm những thông tin về văn hóa - xã hội.

Ngôn ngữ mang tính xã hội và là nhân tố quan trọng trong việc phản ánh đặc

trƣng về văn hóa, tập quán, tƣ duy,… của một dân tộc. Điều đó có nghĩa là

ngôn ngữ có những tác động đến cách tƣ duy, cách nhìn nhận thế giới quan,

nhân sinh quan của cộng đồng ngƣời sử dụng ngôn ngữ đó. Cho nên, sự khác

biệt trong văn hóa – xã hội của mỗi dân tộc có thể đƣợc thể hiện qua ngôn

ngữ của mỗi cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Do đó, chúng tôi cho rằng

phạm trù ngôn ngữ luôn có quan hệ tác động qua lại đối với phạm trù văn hóa

- xã hội của một dân tộc và trở thành cặp phạm trù không thể tách rời nhau.

Tên ngƣời là một bộ phận của ngôn ngữ, có giá trị lớn trong giao tiếp cho nên

tên ngƣời cũng là tấm gƣơng phản chiếu những đặc trƣng văn hóa - xã hội. Ở

mục này, luận án tiến hành phân tích đối chiếu tên nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt trên ba phƣơng diện: vấn đề kị húy; vấn đề đặt và đổi tên; vấn đề

giới và kì thị giới.

i. Về vấn đề kị húy

Tục kị húy là một nét văn hóa đặc thù trong tƣơng quan ngôn ngữ văn

hóa xã hội Việt Nam. Tục kị húy ở Việt Nam mang bản sắc và đặc trƣng riêng

khác hẳn ở Anh.

Ở Anh gần nhƣ không có khái niệm về kị húy hay tránh đặt tên nhƣ ở

Việt Nam. Nói chung, hiện nay việc đặt tên ở Anh đƣợc quyết định bởi cá

nhân ngƣời đặt tên mà ít bị ràng buộc bởi yếu tố văn hóa - xã hội.

Còn ở Việt Nam, cổ nhân có câu: “nhập môn vấn húy”, đó chính là

phép xã giao đầu tiên. Húy trong trƣờng hợp này là viết tắt của tên húy. Theo

132

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “tên húy là tên do cha mẹ đặt từ thủa nhỏ,

sau khi trƣởng thành thƣờng đƣợc thay bằng tên khác và kiêng không nhắc

đến theo tục lệ cũ” [52, tr.1176]. Do đó kị húy có nghĩa là kiêng không nhắc

đến tên thủa nhỏ của ngƣời bề trên (bố mẹ, ông bà, tổ tiên, vua chúa, những

ngƣời trong hoàng tộc….) hoặc không đặt trùng với tên của thần linh, vua

chúa, tổ tiên…Thậm chí, phải gọi tránh đi nếu trùng âm, nếu không sẽ bị xem

là vô phép, có khi còn phạm phải tội khi quân, phạm thƣợng ở thời phong

kiến. Tuy có nhiều quan niệm về tục kị húy, nhƣng theo chúng tôi thì có hai

quan niệm chính: thứ nhất là đặt tên cúng cơm hoặc đặt tên xấu để tránh thế

lực tâm linh hắc ám làm hại; thứ hai là đặt tên cho chệch âm với tên của

ngƣời bề trên để thể hiện sự tôn kính hoặc để tránh phạm vào những tập quán

lâu đời.

Có thể giải thích về tục kị húy ở Việt Nam theo những quan điểm về

văn hóa, lịch sử nhƣ sau:

Theo quan điểm và văn hóa thì Việt Nam là nƣớc nông nghiệp, thuộc

nền văn minh lúa nƣớc. Khi chƣa có sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ

hiện đại, việc cày cấy, gieo trồng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên

nhiên. Nói về điều này ca dao Việt Nam có câu:

“Trông trời, trông đất, trông mây

Trông mƣa, trông nắng, trông ngày, trông đêm

Trông cho chân cứng đá mềm

Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng”

Nhƣ vậy có thể thấy, từ xƣa cha ông ta đã luôn tâm niệm công việc

nghề nông phụ thuộc vào “trời, đất, mây, mƣa, nắng, ngày, đêm, trời yên, biển

lặng”. Do đó, nếu nhƣ có thiên tai, hạn hán, lũ lụt là mùa màng mất mát, cuộc

sống tiêu điều. Điều đó có nghĩa là cuộc sống phụ thuộc vào “ông giời”. Mặt

khác, bản chất của con ngƣời là luôn mong muốn về cuộc sống hạnh phúc,

bình yên. Vì thế, con ngƣời luôn mong muốn đƣợc thần linh ban phúc, tránh

thế lực tà ma. Đó là lí do sinh ra tâm thức kị húy ở ngƣời Việt. Tục kị húy tức

133

là tục kiêng gọi tên ngƣời. Có những kiêng kị trong gọi tên nhƣ vậy bởi ngƣời

Việt quan niệm cái tên luôn theo suốt trong cả đời ngƣời, là một phần đại diện

cho con ngƣời. Cho nên, một ngƣời có thể bị chi phối nếu bị gọi đến tên.

Dù từ xa xƣa, tục kị húy đã đƣợc cho là có những ảnh hƣởng đến cuộc

sống. Tuy nhiên những tƣ liệu lịch sử chính xác để xác định nguồn gốc của

tục kị là chƣa có nên luận án chỉ dẫn ra đây vài tƣ liệu lịch sử cận đại để minh

chứng tục này. “Sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh đổi tên

những họ nào đã phạm vào chữ húy của Cung Từ hoàng thái hậu. Cung Từ

hoàng thái hậu có tên húy là Phạm Ngọc Trần, ngƣời làng Quần Lai, huyện

Lội Dƣơng (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà nội

của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần nên yết thị

cho dân chúng khắp nƣớc, nơi nào có họ Trần đều phải đổi chép thành chữ

Trình” [88].

Đến đời vua Minh Mạng (năm 1832) thì tục này càng phổ biến rộng rãi.

Tên những thành hoàng làng, chức sắc, khoa bảng bị kiêng không đƣợc nhắc

đến. Tuy nhiên, tục kị húy này chƣa đƣợc thực hiện một cách nhất quán mà

những qui định phép tắc ở mỗi giai đoạn lịch sử lại khác nhau, những lệ kiêng

húy ở mỗi một triều đại phong kiến cũng khác nhau.

Đến thời nay, vấn đề phong thủy cũng đƣợc đề cập nhiều khi đặt tên

cho con. Theo quan điểm của các nhà phong thủy, tên hàm chứa những thông

tin về cuộc đời. Không những thế, tên còn ảnh hƣởng đến tính cách, thậm chí

còn quyết định số phận, sức khỏe, quyết định sự nghiệp, hôn nhân, hạnh phúc

[55, tr. 10-22]. Đó cũng là lí do ngày nay, cha mẹ cũng quan tâm nhiều hơn

đến việc kị đặt tên theo phong thủy. Theo Hà Sơn cho rằng, trong việc đặt tên

có một số vấn đề kiêng kị nhƣ tránh tên có ý nghĩa nông cạn, tránh tên “hài

âm bất nhã”, tránh dùng chữ đa âm, tránh đặt tên đơn điệu, lặp đi lặp lại, tránh

đặt tên lạ mang nghĩa khó hiểu, tránh đặt tên chắp vá, tránh đặt tên nhạy cảm,

tránh đặt tên đảo lộn nam – nữ, tránh đặt trùng tê húy của bề trên [55, tr. 26-

134

52].

Ngƣợc lại, ngƣời Anh không những không kiêng kị đặt tên theo tên

thánh thần mà loại tên này (tên thánh hoặc tên có nguồn gốc từ Kinh thánh)

đƣợc dùng để đặt cho tên nữ giới một cách phổ biến. Phụ nữ ngƣời Anh rất tự

hào khi đƣợc đặt tên theo tên của thế hệ trƣớc nhƣ bà, mẹ.... Điều đó còn thể

hiện lòng kính trọng của thế hệ sau với thế hệ trƣớc. Quan niệm này thì trái

ngƣợc hẳn với quan niệm của ngƣời Việt khi cho rằng việc dùng tên cha mẹ,

ông bà, tổ tiên là bất kính.

Ở Anh và Việt Nam cũng có nhiều điểm khác biệt trong việc dùng tên

gọi âu yếm (tên cúng cơm - ở Việt Nam và pet-name ở Anh). Ở Việt Nam, tên

gọi âu yếm (Nhím, Nấm, Na…) không đƣợc coi là chính danh, gần nhƣ chỉ sử

dụng trƣớc khi đi học (dƣới 6 tuổi), sau đó đổi sang tên chính thức. Trong khi

đó, tên gọi âu yếm của ngƣời Anh (pet name) lại đƣợc dùng trong giao tiếp

chính thức và tên gọi này ngày càng có xu hƣớng sử dụng nhƣ tên chính danh.

Nhƣ vậy, tên âu yếm ở Việt Nam dùng nhƣ tên lóng (nick name), còn ở Anh

thì đƣợc dùng rộng rãi là dạng rút gọn, hoặc giảm nhẹ nghĩa của từ gốc. Ví

dụ: về mặt ngữ âm thì tên âu yếm ở Việt Nam không liên quan gì về âm tiết

với chính danh, tên này có thể có liên quan đến chủ thể đƣợc đặt tên về đặc

điểm ngoại hình hay tính cách…Ví dụ: tên chính là Thục Anh, tên âu yếm là

Cốm (đồ ăn đƣợc làm từ lúa nếp làm chín bằng cách rang và sàng sảy cho hết

vỏ trấu), hay Thanh Vân có tên âu yếm là Nấm (loại thực vật nhỏ). Trong khi

đó ở Anh, loại tên này có mối quan hệ với tên gốc nhƣ Liz từ Alizabeth hay

Ane từ Anisa…

Nói chung, tục kị húy không xuất hiện ở Anh. Tuy nhiên, trong phong

tục tập quán của dân tộc Việt, tục kị húy lại là một nét văn hóa phổ quát và có

ảnh hƣớng lớn trong ngôn ngữ và tƣ duy… Nhƣ vậy, tục kị húy thế hiện

những giá trị văn hóa, tinh thần rất độc đáo có thể đƣợc coi là nét đặc thù

trong văn hóa đặt tên của tên ngƣời Việt.

135

ii. Vấn đề đặt tên và đổi tên

Theo Alford, “trong xã hội loài ngƣời, con ngƣời đƣợc đặt những tên

gọi khác nhau và việc đặt tên này phải tuân theo những qui tắc mang tính ƣớc

lệ (conventionalised rules). Trong các nền văn hóa trên thế giới, tên ngƣời

đƣợc coi nhƣ những biểu tƣợng gắn với mỗi cá nhân trong xã hội” [95]. Tuy

nhiên, những qui tắc đặt tên và hệ thống biểu tƣợng gắn với mỗi cá nhân ở

mỗi nền văn hóa lại mang những đặc trƣng khác nhau. McConnell-Ginet đã

chỉ ra rằng, việc đặt tên ngƣời trong mỗi nền văn hóa xã hội nhất định chịu sự

chi phối của những đặc trƣng văn hóa và thể chế của xã hội đó [166].

+ Vấn đề đặt tên

Tên ngƣời là tấm gƣơng phản chiếu đặc trƣng văn hóa - xã hội của mỗi

cộng đồng ngƣời, do đó việc đặt tên ở cả Anh và Việt Nam đều khó tránh

khỏi những ảnh hƣởng của văn hóa ở hai quốc gia. Tên nữ giới ngƣời Anh

phản ánh những đặc điểm của ngôn ngữ học Phƣơng Tây. Khi đó, tên ngƣời

chỉ đƣợc coi là cái nhãn mác gắn cho từng cá thể để phân biệt cá thể này với

cá thể kia. Còn ở Việt Nam, Cao Từ Linh cho rằng “với con ngƣời thì cái tên

đã phần nào phản ánh tƣ tƣởng, ý nguyện và có thể còn ảnh hƣởng không nhỏ

đến vận mệnh của mỗi ngƣời” [45, tr.5].

Việc đặt tên ở nhiều nƣớc có những qui định chặt chẽ đƣợc đƣa vào

luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, Anh là một trong số ít quốc gia không đƣa

quy định về đặt tên vào luật mà dựa trên tập quán (ở những nƣớc có hệ thống

Thông luật - Common law nhƣ ở Anh, có những tập quán đƣợc ngƣời dân

thực hiện lâu năm thì cũng đƣợc thi hành nhƣ luật mà không cần qui định

trong luật) [87, tr.193]. Do đó việc đặt tên ở Anh rất tự do và ít có giới hạn.

Thậm chí cũng có thể chọn tên họ bất kì mà không nhất thiết phải theo tên họ

của cha hoặc tên họ mẹ. Trong khi đó ở Việt Nam, điều 26 thuộc Bộ Luật dân

sự năm 2015 qui định về quyền có họ tên của công dân Việt Nam, trong đó

qui định rõ “Họ của cá nhân đƣợc xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ

đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con đƣợc

136

xác định theo tập quán. Trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc cha đẻ thì họ của con

đƣợc xác định theo họ của mẹ đẻ”. Về phần tên không phải tên họ (tức là bao

gồm tên đệm, tên cá nhân) cũng là đối tƣợng thuộc điều này dù không cụ thể

nhƣng cũng đƣợc qui định trong luật nhƣ sau: “Tên của công dân Việt Nam

phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên

bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ” [90].

Con ngƣời là sản phẩm của xã hội, vì vậy tên ngƣời tất phải chịu những

ảnh hƣởng của văn hóa - xã hội. Từ những quan niệm “tên ngƣời” mà vấn đề

đặt tên ở Anh và ở Việt Nam cũng rất khác nhau. Tên ngƣời dù thuộc phạm vi

nghiên cứu của ngôn ngữ nhƣng lại thƣờng mang thuộc tính văn hóa - xã hội.

Đặt tên là một biểu hiện của văn hóa, âm điệu hay ý nghĩa của tên đều có

những tác động ảnh hƣởng đến nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề giao tiếp xã

hội.

Một nét khác biệt đặc trƣng trong việc đặt tên của ngƣời Anh với ngƣời

Việt đó là đặt tên thánh. Tập quán đặt tên thánh ở Anh cũng nhƣ nhiều quốc

gia châu Âu rất phổ biến và tên thánh đƣợc sử dụng là chính danh (tên trong

giấy khai sinh, giấy tờ tùy thân). Ở Việt Nam, những ngƣời theo đạo tin lành

cũng đặt tên thánh. Tuy nhiên, tên này chỉ sử dụng trong cộng đồng tôn giáo

còn tên gọi chính danh mới có giá trị pháp lí. Điều này đƣợc qui định tại Điều

4 khoản 1 điểm a Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính

phủ [92]. Điều đó có nghĩa là pháp danh vẫn tồn tại song song với chính danh

nhƣng không đƣợc sử dụng chính thống nhƣ chính danh. Về lịch sử và tôn

giáo, tên ngƣời có nguồn gốc từ tên thánh đƣợc sử dụng phổ biến do ảnh

hƣởng của nhà thờ La Mã. Việc sử dụng tên thánh trở thành bắt buộc trong

Cơ đốc giáo kể từ khi hội đồng Trent (1545-1563) của Nhà thờ La Mã phán

quyết rằng tên thánh phải đƣợc đặt vào dịp lễ rửa tội. Ở thế kỉ 16, sau khi

nƣớc Anh tách ra khỏi Nhà thờ La Mã và lập đạo Tin lành, ngƣời Anh không

sử dụng những tên không có trong Kinh thánh. Đó là lí do tên ngƣời có liên

quan đến Kinh thánh đặc biệt là Kinh Cựu ƣớc trở nên rất phổ biến ở Anh.

137

Hiện nay, đạo Tin lành là tôn giáo có số tín đồ đông nhất ở Anh, khoảng 71,6

% dân số [206]. Ở Việt Nam, tôn giáo khá đa dạng, gồm có các nhánh Phật

giáo nhƣ Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo..., một số nhánh Kitô giáo nhƣ Công

giáo Rôma, Tin Lành, tôn giáo nội sinh nhƣ Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo

khác. Tuy nhiên, nhiều ngƣời dân Việt Nam xem mình là những ngƣời không

tôn giáo, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong

năm. Theo tác giả Trần Đình Hƣợu, ngƣời Việt Nam đƣợc cho là ít có tinh

thần tôn giáo, các tôn giáo thƣờng đƣợc tập trung ở mặt thờ cúng, còn mặt

giáo lý, tinh thần lại ít đƣợc quan tâm [33]. Những khác biệt trong đặc điểm

về tôn giáo của từng quốc gia nên là một trong số những lí do dẫn đến những

khác biệt trong cách đặt tên ngƣời ở cả hai nƣớc.

Việc đặt tên của ngƣời Việt thể hiện sự vận động của xã hội và tính xã

hội rất cao. Việc đặt tên, đặc biệt là đặt tên cho nữ ngày càng thể hiện yêu cầu

về thẩm mĩ và có xu hƣớng sử dụng âm Hán – Việt để đặt tên. Lí do vì lịch sử

1000 năm Bắc thuộc đã có ảnh hƣởng đến đời sống, ngôn ngữ và văn hóa

Việt. Âm Hán Việt đƣợc sử dụng từ lĩnh vực hành chính đến sáng tác văn

chƣơng, nghệ thuật. Từ những ảnh hƣởng đó, yếu tố Hán – Việt cũng đƣợc sử

dụng để đặt tên ngƣời rất nhiều. Những cái tên mang âm Hán – Việt thƣờng

đƣợc coi là mang ý nghĩa và thể hiện sự trang trọng, cầu kì, làm tăng tính hàm

chỉ, biểu trƣng, đáp ứng đƣợc niềm mong mỏi ƣớc vọng của cha mẹ đƣợc gửi

gắm qua những cái tên cho con. Trong khi đó, ở Anh hiện nay, khi đặt tên

ngƣời ta thƣờng chọn những âm tiết đọc lên nghe hay mà có khi không mang

theo ý nghĩa gì cả.

Ngoài ra, giai đoạn gần đây ở Việt Nam, việc đặt tên con đã chú ý nhiều

đến yếu tố phong thủy. Việc đặt tên gắn với âm dƣơng ngũ hành, mệnh, can,

chi… và chú ý đến sự cân đối trong thanh điệu (bằng – trắc) để hi vọng cái

tên hƣớng tới một cuộc sống êm đềm, nhàn hạ, tƣơi sáng, biểu hiện ở các

phƣơng diện nhƣ: tên con hợp với tên cha, mẹ, anh chị em trong gia đình; hợp

mệnh của cha mẹ, anh chị em trong gia đình; bản thân các âm tiết cấu tạo nên

138

tên riêng có sự hài hòa, cân đối về thanh điệu (Ví dụ: Lê Thị Minh Thảo: B –

T – B – T). Ngƣời ta cũng thƣờng tránh những cái tên phát âm nghe trúc trắc,

khó đọc vì quan niệm cho rằng những ngƣời có tên nhƣ vậy thƣờng có cuộc

đời long đong, trắc trở. Tránh dùng tên nam đặt cho nữ cũng là một nguyên

tắc trong phong thủy, nếu những ngƣời nữ mang tên nam giới thì theo phong

thủy học cho rằng nó giống nhƣ sự “lệch tƣớng”, do đó cuộc đời sẽ vất vả, lận

đận [55, tr. 26-52].

+ Vấn đề đổi tên

Vấn đề đổi tên (đặc biệt luận án đề cập đến là việc đổi tên của nữ giới

sau kết hôn) đều xuất hiện cả ở Anh và Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi nền văn

hóa, mỗi cộng đồng xã hội lại có những đặc trƣng riêng biệt nên vấn đề này

cũng thể hiện nhiều điểm khác biệt.

Ở Anh, xuất phát từ quan điểm tên ngƣời chỉ là một loại tem nhãn

(lable) hoặc một hệ thống biểu tƣợng (symbol system) nên rất dễ dàng thay

đổi. Việc đổi tên có thể thực hiện qua dịch vụ đổi tên (sau khi đổi tên đƣợc sự

công nhận về mặt pháp lí) một cách nhanh chóng và tiện lợi. Có nhiều công ty

chuyên cung cấp thông tin và dịch vụ đổi tên ngƣời hợp pháp, ví dụ nhƣ UK

Deed Poll Service. Thông qua các công ty này, ngƣời Anh có thể đƣợc cung

cấp các thông tin cần thiết và thực hiện các dịch vụ đổi tên một cách nhanh

chóng và hợp pháp. Lấy ví dụ các dịch vụ đổi tên của công ty Deed Poll bao

gồm:

- Đổi tên họ nữ giới sau khi kết hôn

- Đổi tên họ nam giới sau khi kết hôn

- Đổi tên họ nữ giới sau khi li hôn

- Đổi tên họ nữ giới sau khi chồng mất

- Đổi tên khi thay đổi giới tính

- Đổi tên sau khi đƣợc nhận làm con nuôi

139

- Thêm tên đệm [204].

Nhƣ vậy, trong các dịch vụ về đổi tên đƣợc cung cấp bởi công ty này,

đa phần là các dịch vụ đổi tên cho nữ giới. Điều đó cho thấy, nữ giới là đối

tƣợng thƣờng xuyên thay đổi tên.

Trong khi việc đổi tên ở Anh phổ biến một cách rộng rãi và tƣơng đối

đơn giản thì việc đổi tên ở Việt Nam lại khá phức tạp, đƣợc qui định tại điều

27 và điều 28 về quyền thay đổi tên, quyển thay đổi họ trong Bộ luật dân sự

Việt Nam năm 2015 [90]. Để thực hiện việc đổi tên một cách chính thống thì

ngƣời Việt cần phải tiến hành đúng theo qui trình và các qui định cụ thể mà

không hề đơn giản nhƣ ở Anh.

Một đặc điểm nổi bật trong vấn đề đổi tên ngƣời ở Anh cũng nhƣ nhiều

nƣớc châu Âu là nữ giới đổi tên họ dựa trên tình trạng hôn nhân (đổi theo họ

chồng sau khi kết hôn, đổi lại tên họ thời con gái (maiden name) sau khi li

hôn hoặc chồng chết). Vấn đề đổi tên họ theo chồng ở Anh nói chung và

nhiều nƣớc châu Âu nói riêng là rất phổ biến và trở thành tập quán, thậm chí

tên họ sau khi đổi còn đƣợc công nhận bởi pháp luật và thể hiện trên các loại

giấy tờ tùy thân quan trọng nhƣ thẻ căn cƣớc, hộ chiếu, thẻ ngân hàng, thẻ tín

dụng…Việt Nam thì không có hiện tƣợng đổi tên (đặc biệt là tên họ) sau khi

phụ nữ kết hôn nhƣng việc đổi tên thì thể hiện ở đổi cách gọi, cách xƣng hô.

Ví dụ: những ngƣời phụ nữ sau khi kết hôn thay vì đƣợc gọi bằng chính danh

thì họ vẫn hay đƣợc gọi bằng tên chồng, tên con trƣởng hoặc tên cháu đích

tôn... Ví dụ: bà Sáu (vợ ông Sáu), bà Tài hoặc mẹ thằng Tài (con trƣởng bà

tên là Tài) hay là bà Đức hoặc bà thằng Đức (cháu đích tôn tên là Đức…)…

Chính vì vậy, việc đổi tên của nữ giới ngƣời Việt sau kết hôn không đƣợc thể

hiện trong luật và cũng không đƣợc công nhận bởi luật pháp mà chỉ đổi tên

trong giao tiếp mà thôi. Ngày nay, trong xu thế hội nhập và phát triển, phong

tục này đã dần mai một ở Việt Nam. Song ở các vùng nông thôn, phong tục

này vẫn còn ít nhiều ảnh hƣởng.

Trần Xuân Điệp đã đƣa ra luận giải về vấn đề gọi tên theo chồng ở

140

Việt Nam nhƣ sau: “nguồn gốc của hiện tƣợng này là sự ảnh hƣởng của đạo

Khổng Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ở một khía cạnh

khác, hiện tƣợng trên có thể bắt nguồn từ tƣ tƣởng thuyền theo lái, gái theo

chồng vốn đã bén rễ sâu trong văn hóa Việt Nam” [9, tr.96].

iii. Vấn đề giới và kì thị giới

Wardhaugh cho rằng giới là một thực tế mà không ai có thể tránh đƣợc và

giới là một phạm trù quan trọng đƣợc hình thành trong xã hội. Thuộc tính giới

thay đổi theo thời gian, thay đổi theo từng nền văn hoá, từng bối cảnh cụ thể

của một xã hội, thay đổi do các yếu tố chính trị, kinh tế, lịch sử, tôn giáo, v.v

[189].

Tác giả Nguyễn Văn Khang (1996) đã phân biệt hai góc độ chính để nhìn

vấn đề giới trong giao tiếp ngôn ngữ, đó là ngôn ngữ nói về mỗi giới và ngôn

ngữ của mỗi giới. Tên ngƣời mà luận án đề cập đến thuộc góc độ ngôn ngữ

nói về giới [34, tr.178].

Phần lớn các cộng đồng đều coi trọng việc đánh dấu giới của mỗi cá nhân

khi tiến hành đặt tên. Chức năng đánh dấu giới ở tên ngƣời mỗi cộng đồng lại

có những điểm khác biệt. Ở Anh, chức năng phân biệt giới nằm chủ yếu ở tên

cá nhân. Còn ở Việt Nam, chức năng này chủ yếu nằm ở tên đệm, hoặc cả

cụm tên đệm và tên cá nhân phối hợp với nhau tạo ra giá trị khu biệt về giới

cho cả cấu trúc chính danh ngƣời Việt.

Ngoài những điểm tƣơng đồng về giới trong tên ngƣời Anh và ngƣời Việt

thông qua lớp nghĩa biểu trƣng nhƣ: tên nữ thƣờng gắn với cái đẹp, nét tao nhã

và những phẩm chất tốt đẹp có liên hệ đến tính nữ…thì tên nữ giới ngƣời Anh

và ngƣời Việt có nhiều điểm khác biệt về giới qua lớp vỏ ngữ âm. Tên cá nhân

của ngƣời Anh thể hiện giá trị khu biệt giới ở ngữ âm. Về ngữ âm, Culter

(1990) đã chỉ ra rằng “trong cách đánh trọng âm, tên nữ thƣờng có âm tiết đầu

yếu ví dụ: Olivia, Amelia, Isabella, Elizabeth, Alisa…” trong khi đó đa số tên

nam đánh trọng âm mạnh ở âm tiết đầu. Về trọng âm ở nguyên âm chính,

Culter cũng cho rằng “trong tên nữ giới ngƣời Anh đa số đánh trọng âm ở

141

nguyên âm [i] (bao gồm cả [i] và [i:]). Culter cũng đã có những thống kê về

âm tiết cuối trong tên nữ, ông cho rằng tên nữ thƣờng kết thúc bằng nguyên

âm [ə] và [i] trong khi tên nam giới thƣờng kết thúc bằng phụ âm [k], [s],

[t]…[120, tr. 373-374].

Hough (2000) đã giải thích trên bình diện ngữ âm thông qua nguồn gốc

của tên. Ông cho rằng trong tên nữ giới có xu hƣớng âm tiết cuối là nguyên âm

[ə] và [i] là tên có nguồn gốc từ tiếng Pháp và tiếng Latin, còn tên nam có xu

hƣớng âm tiết cuối là nguyên âm là tên có nguồn gốc từ tiếng Đức và Kinh

thánh [144, tr.133-134]. Trong khi đó, sự phân biệt giới qua ngữ âm nhƣ vậy

chƣa thể hiện rõ trong tên ngƣời Việt.

Tuy nhiên, sự phân biệt giới thể hiện rất rõ ở ý nghĩa của tên đệm ngƣời

Việt. Trong cấu trúc tên ngƣời phổ biến nhất cho nam và nữ giới ngƣời Việt từ

lâu đời nay, tên đệm Văn dùng cho nam và tên đệm Thị dùng cho nữ.

Nét đặc trƣng về giới đƣợc thể hiện rõ qua tập quán đổi tên họ theo tên họ

chồng sau khi kết hôn của nữ giới ngƣời Anh. Ngƣời Việt cũng có tập quán

này nhƣng không có giá trị pháp lí nên chỉ có giới hạn trong phạm vi giao

tiếp.

Về tập quán đổi tên sau khi kết hôn của phụ nữ Anh, ngày nay tập quán

này đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, tập quán này có lịch sử tƣơng đối lâu đời

và diễn biến phức tạp. Theo Thwaites (2013):

những phụ nữ đã lập gia đình bị coi là không có họ, thậm chí khi một phụ nữ

kết hôn, cô ấy mất tất cả mọi thứ ngoại trừ đƣợc làm vợ của ai đó. Đến khoảng

thế kỷ 15, dựa trên các ý tƣởng về Kinh thánh, việc đổi tên họ phụ nữ sau kết

hôn không chỉ tập trung khẳng định vào quyền lực của chồng đối với vợ mà

còn thể hiện sự hiệp nhất trong hôn nhân [187, tr.432].

Tên họ ngƣời Anh thực sự phát triển vào thế kỉ thứ 14. Ở giai đoạn này,

Đến thế kỷ 19, phần lớn phụ nữ vẫn lấy tên họ của chồng. Tuy nhiên,

trong thời kỳ trị vị Vƣơng quốc Anh của nữ hoàng Elizabeth, một số phụ nữ

Anh phản đối gay gắt để có đƣợc những quyết định quan trọng của tòa án,

142

khẳng định quyền tự quyết cho nữ giới trong việc chọn tên.

Cũng theo Thwaites, năm 1924, Helena Normanton, nữ luật sƣ đầu tiên ở

Anh, đã thành công trong việc yêu cầu Bộ Ngoại giao Anh cấp hộ chiếu bằng

tên bà thời con gái. Trong thế kỷ 19, trào lƣu này đã lan rộng đến Scotland,

Ireland và xứ Wales, cũng nhƣ tới các thuộc địa của Anh và đến các vùng của

lục địa châu Âu. Chỉ đến năm 1972, một loạt các trƣờng hợp pháp lý khẳng

định rằng phụ nữ có thể sử dụng tên thời con gái của họ theo bất kỳ cách nào

họ hài lòng [187, tr.425-439]. Giờ đây, họ có thể tự do lựa chọn tên họ. Đó là

lí do ngày nay có nhiều tên họ phức (do ghép hai họ) thậm chí cả những cái

tên họ lai (một nửa tên họ chồng, một nửa tên họ vợ) nhƣ một sự thỏa hiệp.

Nhƣ vậy, đổi tên họ theo chồng là một tập quán có từ lâu đời ở Anh và

các nƣớc châu Âu nhƣng hiện nay đang có xu thế giảm đi. Theo khảo sát của

Eurobarometer (đơn vị khảo sát các ý kiến cộng đồng do Ủy ban Châu Âu

thực hiện thƣờng xuyên từ năm 1973), năm 1994 có 94 % phụ nữ Anh lấy tên

họ của chồng sau khi kết hôn [205]. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây

cho thấy rằng tỷ lệ này đã giảm đi trong hai thập kỷ qua, đặc biệt trong số

những phụ nữ có học vấn cao và trẻ tuổi. Trong khảo sát của mình vào năm

2013, Thwaites đã chỉ ra có 75% phụ nữ đổi sang tên họ của chồng sau khi

kết hôn [187, tr. 425-439]. Gần đây nhất, nhóm nghiên cứu hôn nhân, một

mạng lƣới nhiều tổ chức quan tâm đến sự bình đẳng về hôn nhân, cho thấy chỉ

còn 54% nữ giới Anh đổi tên họ vì lí do hôn nhân. Một số nhà nữ quyền ở

Anh đã chỉ ra rằng phụ nữ bị ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sự nghiệp của họ

khi họ thay đổi tên của họ - và việc đổi tên họ theo chồng chứng tỏ phụ nữ

kém hơn nam giới.

Ở Việt Nam, tập quán đổi tên theo chồng chƣa có nguồn gốc rõ ràng. Nhƣ

đã nói ở trên, theo giải thích của Trần Xuân Điệp cho rằng nguồn gốc của tập

quán này ở Việt Nam do ảnh hƣởng của Đạo Khổng. Lí do là vì nƣớc ta có

một giai đoạn lịch sử khá dài có sự tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa [9, tr.96].

Theo tƣ tƣởng này phụ nữ đã đi lấy chồng là để nối dõi tông đƣờng, “sống

143

nhà chồng làm ma nhà chồng”. Trƣớc đây, hiện tƣợng đổi tên (đổi cách gọi

tên) của phụ nữ ở Việt Nam sau khi kết hôn rất phổ biến. Việc đổi tên này

không chỉ là đổi một lần mà là cả một quá trình, gắn liền với cuộc đời ngƣời

phụ nữ sau kết hôn, bắt đầu bằng việc gọi theo tên chồng (sau khi kết hôn),

đến gọi theo tên con, thƣờng là con cả (sau khi sinh con), rồi đến gọi theo tên

cháu, chắt (sau khi có cháu, chắt đích tôn)…Tuy nhiên, tập quán đổi tên này

lại không chính thức nhƣ ở nƣớc Anh. Nữ giới ngƣời Việt đổi tên theo chồng

thì tên gọi đó chỉ dùng trong giao tiếp mà không có giá trị pháp lí. Không

giống nhƣ ở Anh, tập quán đổi tên của nữ giới ngƣời Anh sau khi kết hôn là

chỉ đổi tên họ. Cách đổi tên sau khi kết hôn của phụ nữ ngƣời Việt là đổi tên

cá nhân. Bởi lẽ tên cá nhân là tên sử dụng chính trong giao tiếp ở Việt Nam.

Nhƣng chính vì sử dụng chủ yếu trong giao tiếp cho nên từ khi lấy chồng đến

tận lúc qua đời, chính danh (tên gọi trƣớc khi kết hôn) của phụ nữ ngƣời Việt

gần nhƣ không đƣợc nhắc đến. Tên đó mai một dần theo thời gian thậm chí

cháu chắt không biết tên bà đến tận khi đọc tên ghi trên bia mộ. Điều đó cho

thấy, mặc dù việc đổi tên nữ giới ngƣời Việt sau kết hôn không chính thống

nhƣ ở Anh (ở Anh đổi tên trên tất cả các giấy tờ hồ sơ liên quan) nhƣng lại

triệt để và gần nhƣ biến mất hẳn trong cuộc đời ngƣời phụ nữ. Theo Trần

Xuân Điệp, “Sự kì thị giới trong những trƣờng hợp nhƣ vậy thể hiện thông

qua tính vô hình của phụ nữ trong tập quán đặt tên sau kết hôn: sau khi kết

hôn thì phụ nữ càng trở nên phụ thuộc vào nam giới, hay bị đại diện, bao gộp

bởi nam giới” [9, tr 97].

Cho đến nay, tập quán đổi tên này cũng đã dần thay đổi trong xã hội Việt

Nam. Hiện nay, việc đổi tên nhƣ vậy đã thay đổi, phần lớn chỉ còn tồn tại ở

những vùng nông thôn. Quá trình biến đổi tập quán này cũng không mạnh mẽ

với những phòng trào đòi quyền bình đẳng cho nữ giới qua trên nhiều phƣơng

diện nhƣ ở Anh hay ở các nƣớc châu Âu. Quá trình này diễn ra rất im lìm,

không có sự bùng nổ mà những thay đổi của tập quán luôn song hành với sự

144

phát triển của xã hội Việt Nam.

Tiểu kết chƣơng 3

Ở chƣơng 3, luận án tiến hành phân loại, miêu tả và đối chiếu ngữ nghĩa

của từng thành phần định danh: tên cá nhân, tên đệm và tên họ trong cấu trúc

tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt.

1. Tên nữ giới người Anh

+ Tên cá nhân: tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh không phải là thành phần

quan trọng nhất trong giao tiếp nhƣng có giá trị khu biệt cá thể đơn nhất. Ngữ

nghĩa của tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh rất rộng có liên quan đến hiện tƣợng

thiên nhiên, văn hóa xã hội và đặc biệt là con ngƣời. Trong đó, tên liên quan

đến tôn giáo chiếm tỉ lệ cao nhất 42,2 %.

+ Tên đệm: tên đệm nữ giới ngƣời Anh chỉ đƣợc coi là thành phần phụ,

là hình thức lặp lại của những tên cá nhân hoặc tên họ đã có sẵn và thể hiện ý

nghĩa về tinh thần. Trong số 500 tên nữ giới đƣợc khảo sát chỉ có 20 tên có

thành phần tên đệm, chiếm 4 %.

+ Tên họ: tên họ ngƣời Anh là thành phần quan trọng, sử dụng chủ yếu

trong giao tiếp, có số lƣợng lớn và mang theo những nghĩa nhất định nhƣ biểu

hiện những mối quan hệ trong gia đình, dòng tộc, chiếm 20,6 % (tên họ theo

tên cá nhân của cha); địa danh chiếm 30,2 % (tên họ theo tên đất, hoặc đặc

điểm nơi ở); nghề nghiệp sinh sống chiếm 46,6 % (tên họ theo nghề nghiệp,

chức danh).

2. Tên nữ giới người Việt

+ Tên cá nhân: cũng giống nhƣ tên cá nhân nữ ngƣời Anh, nghĩa của tên

cá nhân nữ giới ngƣời Việt cũng có liên quan đến hiện tƣợng thiên nhiên, văn

hóa xã hội và đặc biệt là con ngƣời. Tuy nhiên, khác với tên cá nhân nữ giới

ngƣời Anh, tên nữ giới ngƣời Việt không có lớp nghĩa liên quan đến tên thánh.

Tên cá nhân có lớp nghĩa liên quan đến con ngƣời nhƣ phẩm chất con ngƣời

hay ƣớc vọng của con ngƣời (Hạnh, Phúc, An, Tâm,…) chiếm tỉ lệ cao nhất

145

29,8 %.

+ Tên đệm: khác với tên đệm nữ giới ngƣời Anh, tên đệm nữ giới ngƣời

Việt rất đa dạng, mang giá trị khu biệt giới nữ và có giá trị thẩm mĩ cao. Ngoài

một số tên đệm chuyên biệt dành riêng để chỉ giới tính nữ nhƣ Thị, Nữ

(19%)… tên đệm của nữ giới ngƣời Việt rất phong phú. Tên đệm của nữ giới

ngƣời Việt cũng mang những lớp nghĩa chỉ hiện tƣợng tồn tại khách quan

(62,4%) hay liên quan đến ƣớc vọng của con ngƣời (18,6 %).

+ Tên họ: khác với tên họ ngƣời Anh, tên họ ngƣời Việt có số lƣợng

tƣơng đối hạn chế. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm của các nhà nghiên

cứu trƣớc về việc tên họ ngƣời Việt không mang nghĩa biểu trƣng.

3. Qua việc miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa của từng thành phần trong tổ

hợp định danh nữ giới, luận án tiến hành đối chiếu đặc điểm ngữ nghĩa và văn

hóa - xã hội phản ánh qua tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt. Những điểm

giống và khác nhau về văn hóa - xã hội đƣợc thể hiện qua 3 vấn đề là: vấn đề

146

kị húy, vấn đề đặt và đổi tên, vấn đề giới và kì thị giới.

KẾT LUẬN

Luận án đã vận dụng các thành tựu lí luận chung về tên riêng, tên ngƣởi

vào việc khảo sát hệ thống tên ngƣời cụ thể đó là tên nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt nhằm tìm hiểu những nét tƣơng đồng và dị biệt trong cấu tạo, ngữ

nghĩa và những đặc điểm văn hóa - xã hội đƣợc phản ánh. Luận án rút ra một

số kết luận nhƣ sau:

1. Tên nữ giới thuộc lớp tên riêng chỉ ngƣời, là một loại đơn vị trong hệ

thống đơn vị định danh của mỗi ngôn ngữ. Tên nữ giới có nghĩa, nghĩa đó

không phải nghĩa của thực từ mà là nghĩa biểu trƣng. Tên ngƣời không gán

cho ngƣời mang tên bất cứ thuộc tính nào của nghĩa từ vựng, mà thông qua từ

đồng nghĩa gợi ra sự liên tƣởng.

2. Thuật ngữ để chỉ tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đƣợc sử dụng

thống nhất trong luận án là tổ hợp định danh. Tổ hợp định danh này đƣợc

tạo thành từ các thành phần định danh: tên họ, tên đệm và tên cá nhân. Dù

thành phần cấu tạo nên tổ hợp định danh nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt

giống nhau song mô hình cấu tạo lại khác nhau.

Về cấu tạo tổ hợp tên riêng, từng thành phần lại đƣợc chia làm 2 loại là

tên đơn và tên phức. Trong đó, đa số các thành phần trong tên nữ giới ngƣời

Anh là tên phức còn tên ngƣời Việt là tên đơn. Luận án đã xây dựng mô hình

tên nữ giới ngƣời Anh gồm ba thành phần nêu trên và theo trật tự sau: [tên cá

nhân – tên đệm – tên họ]. Mô hình tên nữ giới ngƣời Việt thì theo trật tự

ngƣợc lại: [tên họ – tên đệm – tên cá nhân]. Qua khảo sát và phân tích ngữ

liệu, luận án đã đƣa ra 24 mô hình tên nữ giới ngƣời Anh và 21 mô hình tên nữ

giới ngƣời Việt. Các số liệu khảo sát cho thấy mô hình có tên cá nhân phức,

tên đệm zero và tên họ phức và là phổ biến nhất ở tên nữ giới ngƣời Anh còn ở

tên nữ giới ngƣời Việt thì mô hình có tên họ, tên đệm và tên cá nhân đơn là

phổ biến nhất (mô hình có tên họ đơn chiếm 95,28 %, mô hình có tên cá nhân

147

đơn chiếm 69,5 %).

Nguồn gốc của sự khác biệt trong cấu tạo tên nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt là do tiếng Anh và tiếng Việt có đặc điểm cấu tạo khác nhau vì

tiếng Anh (ngôn ngữ biến hình: inflection) và tiếng Việt (ngôn ngữ đơn lập:

isolation) thuộc hai loại hình (typology) ngôn ngữ khác nhau. Tiếng Anh chịu

ảnh hƣởng của nhiều ngôn ngữ châu Âu nhƣ Đức, Pháp, Hi Lạp….còn tiếng

Việt chịu ảnh hƣởng của tiếng Hán. Có sự khác biệt này ở tên nữ giới cả hai

nƣớc do ảnh hƣởng của lịch sử - xã hội.

3. Quan điểm của luận án là tên nữ giới ngƣời Anh và ngƣời Việt đều có

nghĩa. Qua khảo sát, luận án đã chỉ các thành phần trong tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt có liên quan đến các lớp nghĩa nhƣ sau:

+ Tên cá nhân: Các lớp nghĩa trong tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh và

ngƣời Việt tƣơng đối giống nhau. Phạm vi nghĩa của tên cá nhân nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt rất rộng, có liên quan đến các hiện tƣợng thiên nhiên, văn

hóa xã hội và đặc biệt là con ngƣời. Tuy nhiên, ở tên cá nhân nữ giới ngƣời

Anh có những nét đặc trƣng riêng khác với tên cá nhân nữ giới ngƣời Việt,

tiêu biểu là lớp tên có nghĩa liên quan đến tên các vị thánh hay tên liên quan

đến Kinh thánh nhƣ thánh Patrick, Bridget, Columba là những thánh phù hộ

cho vùng đất Ireland. Lớp tên có nghĩa này ở Việt Nam không đƣợc sử dụng

nhƣ tên chính danh mà chỉ sử dụng trong cộng đồng tôn giáo.

+ Tên đệm: tên đệm trong tên cá nhân nữ giới ngƣời Anh là hình thức

lặp lại của những tên cá nhân hoặc tên họ đã có sẵn và thể hiện ý nghĩa về tinh

thần. Đa phần các tên đệm có liên quan đến tên ngƣời đƣợc yêu thƣơng, quí

trọng trong gia đình, thể hiện lòng kính trọng và tinh thần gia tộc. So với tên

đệm nữ giới ngƣời Anh, tên đệm nữ giới ngƣời Việt đa dạng, mang giá trị khu

biệt giới nữ và có giá trị thẩm mĩ cao hơn. Ngoài một số tên chuyên biệt dành

riêng để chỉ giới tính nữ nhƣ Thị, Diệu, Nữ… tên đệm của nữ giới ngƣời Việt

rất phong phú. Tên đệm nữ giới ngƣời Việt cũng mang những lớp ý nghĩa

giống nhƣ tên cá nhân nhƣ liên quan đến thiên nhiên cây cỏ, hoa lá… (Lan,

148

Chi,Hoa, Cúc….) hay liên quan đến con ngƣời nhƣ những phẩm chất tốt đẹp

của nữ giới, đặc điểm hình thể và tâm hồn, phẩm cách tốt đẹp của nữ giới

…(Hạnh, Mỹ, Duyên….). Đa phần tên đệm kết hợp với tên cá nhân để tạo ra

một tên gọi mang tính thẩm mĩ và có ý nghĩa sâu xa.

+ Tên họ: Ở Anh và Việt Nam, về cơ bản, tên họ của nam và nữ là chung

tập hợp. Dựa vào đặc điểm từ vựng, ngữ nghĩa và nguồn gốc của tên họ, có thể

thấy nghĩa biểu trƣng của tên họ ngƣời Anh thƣờng biểu hiện những mối quan

hệ trong gia đình, dòng tộc (tên họ theo tên cá nhân của cha); đặc điểm nơi

sống (tên họ theo tên đất, hoặc đặc điểm nơi ở); nghề nghiệp sinh sống (tên họ

theo nghề nghiệp, chức danh). Khác với tên họ ngƣời Anh, tên họ ngƣời Việt

có số lƣợng tƣơng đối hạn chế. Mặc dù chƣa có những con số thống kê mang

tính chính xác cao nhƣng đa số các nhà nghiên cứu đã thống kê số lƣợng tên

họ ngƣời Việt không quá 500 họ. Về nguồn gốc, tên họ ngƣời Việt chƣa đƣợc

xác định rõ ràng, do đó, rất khó có cơ sở để tìm hiểu nghĩa của tên họ ngƣời

Việt. Do chƣa có cơ sở để tìm hiểu đƣợc ý nghĩa của tên họ ngƣời Việt nên

chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm của các nhà nghiên cứu trƣớc về việc tên

họ ngƣời Việt không mang nghĩa biểu trƣng.

4. Những nét khác biệt về văn hóa - xã hội thể hiện qua tên nữ giới ngƣời

Anh và ngƣời Việt đƣợc luận án phân tích trên ba phƣơng diện: vấn đề kị húy;

vấn đề đặt và đổi tên; vấn đề giới và kì thị giới.

Vấn đề kị húy ở tên ngƣời Anh gần nhƣ không tồn tại trong khi đó ở

tên ngƣời Việt lại là một đặc trƣng nổi bật. Trong khi ngƣời Việt kiêng không

đặt tên trùng với tên thánh, thần, ngƣời bề trên,… thì ngƣời Anh chủ yếu đặt

tên theo tên thánh và tên ngƣời họ hàng, cha mẹ để tỏ lòng kính trọng.

Vấn đề đặt và đổi tên ở Anh rất đơn giản, còn ở Việt Nam lại rất phức

tạp, bị giới hạn bởi những qui định của nhà nƣớc. Sự khác biệt này cũng thể

hiện thông qua quan điểm về tên ngƣời ở từng quốc gia. Anh coi tên ngƣời

nhƣ nhãn mác gắn cho mỗi cá nhân để phân biệt ngƣời này với ngƣời khác.

Việt Nam lại coi trọng cái tên, coi nhƣ một tài sản gắn với họ suốt cả cuộc

149

đời.

Tên ngƣời Anh và ngƣời Việt đều thể hiện vấn đề giới và kì thị giới.

Song, mỗi quốc gia lại có đặc điểm riêng. Đặc điểm về giới trong tên nữ giới

ngƣời Anh nằm ở tên cá nhân còn ở tên nữ giới ngƣời Việt đặc điểm này lại

nằm ở tên đệm hoặc tổ hợp tên đệm gắn với tên cá nhân. Sự kì thị giới thể

hiện nhiều nhất ở việc đổi tên của nữ giới sau khi kết hôn nhƣng ở Anh và ở

Việt Nam có những khác biệt. Ở Anh, phụ nữ đổi tên họ sau khi kết hôn và

việc đổi tên này đƣợc công nhận về pháp lý. Ở Việt Nam, phụ nữ đổi tên cá

nhân (tên dùng chủ yếu trong giao tiếp) sau khi kết hôn. Tên sau khi đổi dù

không có giá trị pháp lý nhƣng có ảnh hƣởng lâu dài và ngƣời phụ nữ gần nhƣ

bị mất hoàn toàn tên gọi trƣớc khi lấy chồng. Tất nhiên, hiện tƣợng xã hội này

đã dần phai nhạt đi ở cả hai cộng đồng, song vẫn còn không ít ảnh hƣởng đến

150

xã hội hiện tại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

151

A. Tiếng Việt 1. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp. 2. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội. 3. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tái bản lần thứ 4. 4. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Đỗ Hữu Châu (1993), Đại cương ngôn ngữ học tập II, Nxb Giáo dục. 6. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, tr.213–219. 7. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ), Nxb khoa học xã hội, tr.112-119. 8. Lý Tống Địch (2003), Những điều lý thú xung quanh vấn đề họ tên, Nxb Văn hóa thông tin. 9. Trần Xuân Điệp (2002), Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ qua cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 96. 10. Trần Xuân Điệp (2003), “Sự kì thị giới tính trong ngôn ngữ và “làn sóng” thứ nhất của phong trào nữ quyền ở Phƣơng Tây”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 8, tr.21-23. 11. Dƣơng Xuân Đống (2002), “Từ thị trong họ tên ngƣời phụ nữ Việt Nam”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, Số 6, tr. 23-24. 12. Dƣơng Kỳ Đức (1996), Trường nghĩa của một thực từ, Ngữ học trẻ 96, tr.155-158. 13. Dƣơng kỳ Đức (1997), Nghĩa văn hàm của thực từ, Ngữ học trẻ 97, tr.198-200. 14. Dƣơng Kỳ Đức (1998), Văn hóa trong tên người Việt, Ngữ học trẻ 98, tr.143-145. 15. Dƣơng Kỳ Đức (2016), “Mạng danh tiếng Việt: một tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa”, Tạp chí khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, Số 20, tr.18-23.

152

16. Dƣơng Kỳ Đức (2017), “Một cách phân loại tên riêng”, Tạp chí khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, Số 28, tr.15-23. 17. Phạm Hoàng Gia (1999), “Về số phận của các họ ghép và họ kép của ngƣời Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 1, tr. 33-34. 18. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Từ vựng học tiếng Việt (tái bản lần thứ 7), Nxb Giáo dục. 19. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 20. Nguyễn Thiện Giáp (2014), “Ba cách xác định từ và hình vị tiếng Việt”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Số 4, tr.1-7. 21. Phạm Ngọc Hàm (2002), “Văn hóa trong họ tên của ngƣời Trung Hoa”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 10, tr.28-30. 22. Phạm Ngọc Hàm (2008), Từ vựng xưng hô trong tiếng Hán – so sánh với tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 23. Lê Anh Hiền (1972), “Bàn về qui tắc viết hoa tên riêng chỉ ngƣời và chỉ đất trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ , Số 3. 24. Diệp Đình Hoa (1986), Từ làng Nguyễn hay Nguyên Xá đến nhận xét dân tộc – ngôn ngữ học, Hội nghị Đông Phƣơng học IV. TP Hồ Chí Minh. 25. Quan Hi Hoa (2002), Cách đặt tên cho con, Nxb Văn hóa thông tin. 26. Tôn Nguyệt Hoa (2005), Tên hay kèm điều tốt, Nxb Văn hóa dân tộc. 27. Lê Trung Hoa (1992, 2002), Họ và tên người Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, tr.9-24. 28. Lê Trung Hoa (1992), Cách đặt tên chính của người Việt (Kinh), Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc phía Nam, Nxb Khoa học xã hội. 29. Lê Trung Hoa (2013), Nhân danh học Việt Nam, Nxb Trẻ. 30. Vƣơng Đình Hòa (2005), Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của tên chính danh người Nhật (có đối chiếu với tên người Việt), Luận văn thạc sĩ, Thƣ viện trƣờng Đại học KHXH&NV. 31. Nguyễn Quốc Hoàn (2010), Luật so sánh, Nxb Công an nhân dân. 32. Nguyễn Quang Hồng (2000), “Từ đối chiếu ngôn ngữ đến đối chiếu văn hóa”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 4, tr.11-16. 33. Trần Đình Hƣợu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa.

153

34. Nguyễn Văn Khang (1996), “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ”, Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, Nxb Văn hóa thông tin, tr. 176-186. 35. Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội – Những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học xã hội. 36. Nguyễn Văn Khang (2004), “Xã hội học ngôn ngữ về giới: kỳ thị và kế hoạch hoá ngôn ngữ chống kỳ thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ”, Xã hội học, Số 2, tr 86. 37. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 38. Nguyễn Văn Khang (2014), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục. 39. Nguyễn Văn Khang (2016), Từ Hán Việt với tên chính người Việt, Đề tài NCKH cấp Viện, Viện ngôn ngữ học. 40. Nguyễn Việt Khoa (2002), Khảo sát đặc điểm Cấu trúc- Ngữ nghĩa của tên người Anh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 41. Nguyễn Khôi (2006), Các dân tộc ở Việt Nam. Cách dùng họ và đặt tên, Nxb Văn hóa Dân tộc Hà Nội. 42. Phạm Hữu Khƣơng (2015), “Đôi nét về đặc điểm họ tên của ngƣời Trung Quốc và ngƣời Việt Nam”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 7, tr.72-74. 43. Thái Văn Kiểm (1963), “Cách đặt tên trong Hoàng phái Nguyễn Tộc”, Tạp chí Phổ thông, Số 63, Sài Gòn. 44. Mông Lâm (2010), Đặc điểm tên người Hán hiện nay (Đối chiếu với tên người Việt), Thƣ viện Đại học KHXH&NV. 45. Cao Từ Linh (2013), Việt danh học – Khoa học đặt tên của người Việt, Nxb Bách khoa Hà Nội. 46. Bình Long (1989), “Nghĩa trong tên ngƣời Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số phụ), tr.25-26. 47. Nguyễn Huy Minh (1993), “Về qui tắc viết hoa tên ngƣời, tên đất”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 2. 48. Hứa Ngân (2003), Đổi mới trong cách đặt tên, Nxb Hải Phòng. 49. Vũ Đức Nghiệu (2011), Lược khảo lịch sử từ vựng tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam. 50. Hoàng Phê (1979), “Vấn đề cải tiến và chuẩn hóa chính tả”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 3-4. 51. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.

154

52. Hoàng Phê (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa. 53. Saussure, F. de (2005), Giáo trình ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb Khoa học Xã hội. 54. Vị Nghĩa Thƣ Sinh (2002), “Lại bàn về tên ngƣời và cách gọi tên”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 11, tr 22-24. 55. Hà Sơn (2009), Những điều kiếng kị khi đặt tên, Nxb Hà Nội. 56. Nguyễn Văn Thạc (1979), “Những cơ sở để xây dựng quy tắc viết hoa”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống. 57. Nguyễn Kim Thản (1975), “Vài nét về tên ngƣời Việt”, Tạp chí dân tộc học, Số 4, tr. 68-80. 58. Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế (1997), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa, tái bản lần thứ 4. 59. Phạm Tất Thắng (1996), Đặc điểm của lớp tên riêng chỉ người trong tiếng Việt, Luận án PTS, Thƣ viện Viện ngôn ngữ học. 60. Phạm Tất Thắng (1998), “Về ý nghĩa của tên riêng”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học, Viện Ngôn ngữ học, tr. 259-263. 61. Phạm Tất Thắng (1998), Vài nhận xét về yếu tố “Đệm” trong tên gọi người Việt, trong “Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á”, Nxb Khoa học xã hội, tr.184-190. 62. Phạm Tất Thắng (2003), “Các kiểu cấu trúc tên chính của ngƣời Việt,” Tạp chí Ngôn ngữ, Số 11, tr.41-47. 63. Phạm Tất Thắng (2005), Danh xƣng học và tên riêng ngƣời Việt, Đề tài cấp Viện, Viện Ngôn ngữ học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam. 64. Phạm Tất Thắng (2011), “Về vị trí của tên riêng trong hệ thống danh từ tiếng Việt”, Tạp chí từ điển và Bách khoa thư, Số 6. 65. Phạm Tất Thắng (2014), “Không gian tên riêng trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học Viện ĐH Mở Hà Nội, Số 6, tr 11-16. 66. Phạm Tất Thắng (2015), “Tình hình nghiên cứu tên riêng chỉ ngƣời trong Việt ngữ học”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 8-9, tr. 66-76. 67. Phạm Tất Thắng (2016), Tên riêng là một loại đơn vị từ vựng, Hội thảo Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Hà Nội. 68. Trần Ngọc Thêm (1976), “Về lịch sử hiện tại và tƣơng lai của tên riêng ngƣời Việt”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr.11-21.

155

69. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh. 70. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục. 71. Đào Tiến Thi (2002), “Bàn tiếp về tên ngƣời”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 11, tr 25-29. 72. Đào Tiến Thi (2002), “Tên riêng không chỉ của riêng ai”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 3, tr 21-23. 73. Đào Tiến Thi (2005), “Viết tên riêng nƣớc ngoài trong sách báo và sách giáo khoa hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, Số 1+2, tr 86-91. 74. Lê Quang Thiêm (1987), “Về vấn đề nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ”, Tạp chí Khoa học Xã hội, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Số 6. 75. Lê Quang Thiêm (2006), “Về các tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng”, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 1. 76. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục. 77. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 78. Lê Quang Thiêm (2014), Sự phát triển ngữ nghĩa từ vựng tiếng Việt 1945- 2005, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 79. Vũ Thị Kim Thoa (2005), Những đặc trưng xã hội – ngôn ngữ học của tên riêng chỉ người trong tiếng Việt, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. 80. Trịnh Huy Tiến (1961), “Các loại nhân danh Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa, Nguyệt san số 61-62. 81. Nguyễn Thế Truyền (2000), Những nét khác biệt giữa tên nam giới và tên nữ giới người Việt, Ngữ học trẻ, tr 333. 82. Hoàng Tuệ (1996), Nghĩa trong tên riêng của người, Nxb Giáo dục. 83. Nguyễn Bạt Tụy (1954), Tên người Việt Nam, Kỷ yếu hội khuyến học Nam Việt, tr. 55. 84. Hồ Hữu Tƣờng (1967), “Sự cần thiết của khoa nhân danh học ở Việt Nam”, Tạp chí Bách Khoa, Số 247. 85. Hồ Hữu Tƣờng (1967), “Phục hồi họ Việt”, Tạp chí Bách Khoa, Số 249. 86. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2003), Cơ sở văn hóa Việt Nam (tái bản lần 5), Nxb Giáo dục.

156

87. Giáo trình luật so sánh (2009), Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an Nhân dân. 88. Đại Việt sử ký toàn thư (2013), In theo bản in của Nxb Khoa học xã hội năm 1971-1972, Nxb Thời đại, tr.79. 89. Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật (1947), Nhà in Viễn Đệ, Huế, tr.63. 90. Bộ Luật dân sự Việt Nam (2015), số 91/2015/QH13, Quốc hội. 91. Luật hộ tịch (2014), số 60/2014/QH13, Quốc hội. 92. Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. 93. Dự thảo về qui tắc viết hoa (1972), Viện Ngôn ngữ học. 94. Từ điển Hán Việt hiện đại (2009), Nhà xuất bản khoa học xã hội. B. Tiếng Anh 95. Alford, R.D. (1988), Naming and identity: A cross-cultural Study of Personal Naming Practices, New Haven, Conn: HRAF Press. 96. Anderson, J.M. (2007), The Grammar of Names, Oxford University Press. 97. Barber, H.R. (1903), British Family Names, Gale Research Company. 98. Bardsley, C.W. (1875), English surnames their sources and significations, Chatto&Winduss Piccadilly. 99. Bardsley, C.W. (1880), Curiosities of Puritan nomenclature, William Clowers and Sons, Limited, London & Beccles. 100. Baugh, A.C. & Thomas, C. (2002), A history of the English language, Routledge. 101. Blackburn, S. (2008), The Oxford Dictionary of Philosophy, Oxford University Press. 102. Bloomfied, L. (1984), Language, University of Chicago press. 103. Bruck, G.V. & Bodenhorn, B. (2006), The anthropology of names and naming, Cambridge. 104. Booth, A.J. (1869) Robert Owen, the Founder of Socialism in England, Trübner & co Publisher. 105. Bussmann, H. (1998), Routledge Dictionary of Language and Linguistics, Taylor & Francis publicsher. 106. Cater, S.C. (1865), Lexicon of ladies names: with their floral emblems, G. W. Cotrell publicsher.

157

107. Chalker, S. & Weiner, E.S.C. (1998), The Oxford Dictionary of English Grammar, Oxford University Press. 108. Cheshire, J. & Trudgill, P. (Eds.), (1998), The sociolinguistics reader, vol. 2: Gender and discourse, London: Arnold. 109. Coates, J. (1986), Women, men and language: A sociolinguistic account of gender differences in language, London: Longman. 110. Coates, R. A. (2000), “Singuilar definite expressions with unique denotatum and limits of properhood”, Linguistics, Vol 6, No 33, pp. 1161- 1174. 111. Coates, R. A. (2006), “Properhood”, Language, Vol 8, No 2, pp. 356- 382. 112. Clark, C. (1982), “The early personal names of King's Lynn: an essay in socio-cultural history, part I: baptismal names”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 6, pp. 51-73. 113. Clark, C. (1985), “The early personal names of King's Lynn: an essay in socio-cultural history, part II: by-names”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 7, pp. 65-91. 114. Clark, C. (1991,1992), “Personal-Name Studies: Bringing them to a wider audience”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 15, pp. 21-35. 115. Colman, A.M. (2008), A Dictionary of Psychology, Oxford University Press. 116. Courtenay, J. N. B. (1972), A Baudouin de Courtenay anthology: the beginnings of structural linguistics, Indiana University Press. 117. Crook, A. (2014), “Influences on personal names in early modern Scotland”, Scottish Place-Name News, Vol 36, pp. 7-8. 118. Crystal, D. (2003), A dictionary of Linguistics and Phonetics, Blackwell Publishing. 119. Crystal, D. (2008), The Cambridge Encyclopedia of English Languge, 2nd edition, Blackwell Publishing. 120. Culter, A. & Macqueen, J. & Robinson, K. (1990), “Elizabeth and John: Sound pattern of Men and Women‟s names‟”, Journal of linguistics, Vol 26, pp. 471-482.

158

121. Driscoll, B.C. (1932), The Book of Feminine Names: Women's Names and Their Meanings, Frigidaire corporation publishers, digitized in 2008. 122. Dunkling L. (1977), First name first, London: J.M.Dent. 123. Dunkling, L. (1995), Guinness book of name, Guinness World Records Limited, 7th Revised edition edition (1 Aug. 1995), pp. 123. 124. Edwards, D. (2005), The Handbook of Language and Social Interaction, Lawrence Erlbaum Associates, pp. 257–273. 125. Eckert, P. (1989), The whole woman: Sex and gender differences in variation, Language Variation and Change 1, pp. 245-267. 126. Eckert, P. & McConnell-Ginet, S. (2003), Language and gender, Cambridge: Cambridge University Press. 127. Ewen, C.L‟E (1931), A history of surnames of the British isles: A concise account of their origin, evolution, etymology, and legal status, K. Paul, Trench, Trubner & co., ltd. 128. Felecan, O. (2012), Name and naming: Synchronic and Diachronic perspectives, Cambridge scholars publishing. 129. Forster, K. (1977), “English family-names from places in England”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 1, pp.23-27. 130. Fudge, C. (1977), Cornish Names for Cornish Homes, Truran Publications. 131. Growther, K. & Jonathan, K. (1999), Guide to British and American Culture, Oxford University Press. 132. Guppy.H.B. (2005), Homes of Family Names in Great Britain, Clearfield. 133. Hanks, P. & Hodges, F. (1990), A dictionary of First names, Oxford University Press. 134. Hanks, P. (2010), “Some methodological considerations in approaching the study of family names”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 33, pp.169–171. 135. Hanks, P. & McClure, P. & Coates, R. (2011), Family names of the UK: a new research project in British anthroponomastics, 24th International Congress of Onomastic Sciences, Barcelona, Spain.

159

136. Hanks, P., Coates, R.& McClure, P. (2011) Methods for studying the origins and history of family names in Britain: philology meets statistics in a multicultural context, International symposium in Uppsala, Uppsala, Sweden. 137. Hanks, P. & Muhr, K. (2012), Exchanging Names: Surnames and Population Movement in Britain and Ireland, Society for Name Studies in Britain and Ireland 2012 Conference, Athenry, Galway. 138. Hanks, P. and Coates, R. (2012), Onomastic lexicography: A description of the project Family Names of the United Kingdom, 15th EURALEX International Congress, Oslo, Norway. 139. Hanks, P. & McClure, P. & Coates, R. (2016), The Oxford Dictionary of Family Names in Britain and Ireland, Oxford University Press. 140. Hanks, P. & H. Parkin (2016), Family Names. In Carole Hough The Oxford Handbook of Names and Naming. Oxford: Oxford University Press, pp. 214-236. 141. Hey, D. (2000), Family Names and Family History, Hambledon, London. 142. Hofstede, Geert (2011), Dimensionalizing Cultures: The Hofstede Model in Context. International Association of Cross-Cultural Psychology, Cultures and Organizations. 143. Holmes, J. & Meyerhoff, M. (1999), The Community of practice: Theories and methodologies in language and gender research, Language in Society, vol 28, pp.173-183. 144. Hough, C. (2000), “Toward an Explanation of Phonetic differentiation in Masculine and Feminine Personal Names”, Journal of linguistics, Vol 36, pp. 131-148. 145. Hough, C. (2010), “The name-type Maid(en)well”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 33, pp. 27-44. 146. Hough, C. (2015), “The Scottish Maidenwells”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 38, pp. 1-16. 147. Hough, C. (2016), The Oxford handbook of names and naming, Oxford University press. 148. Huard, P. & Durand, M. (1992), Vietnam civilization and culture, Ecole Francaise d‟Extreme-Orient, Paris.

160

149. Huddleston, R.D. (1998), English grammar: An outline, Cambridge University Press. 150. Ieron, J.A. (1998), Names of Women of the Bible, Moody Publishers. 151. Kinney, A.F. (1973), Titled Elizabethans: A directory of Elizabethan state and church officers and knights, with peers of England, Scotland, and Ireland, 1558-1603, Archon Books publicsher. 152. Kripke, S.A. (1972), Naming and Necessity, Oxford: Reidel. 153. Lakoff, R. (1975), Language and woman's place, New York: Harper & Row. 154. Lasker, G.W. (1983), The frequency of surname in English and Wales, Human biology, pp. 55. 155. Le, T.M.Thao (2007), A cultural approach to personal names in English, Chinese and Vietnamese, Bachelor thesis, Hanoi Open University, Vietnam. 156. Le, T.M.Thao (2013), A Cultural Study on English and Vietnamese Personal Names, Master thesis, Hanoi Open University, Vietnam. 157. Maltz, D. N. & Borker, R. A. (1982), A cultural approach to male female miscommunication, Language and Social Identity, Cambridge: Cambridge University Press, pp. 196-216. 158. Margan, G. (1995), “Naming Welsh women”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 18, pp. 119-140. 159. Matthews, P.H. (2007), The Concise Oxford Dictionary of Linguistics, Oxford University Press. 160. McClure, P. (1979), Patterns of migration in the late Middle Ages: the evidence of English place-name surnames, Economic History Review. 2nd series 32, pp.167-82. 161. McClure, P. (1981), “Nicknames and petnames: linguistic forms and social contexts”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 5, pp. 63-77. 162. McClure, P. (2010), Middle English occupational bynames as lexical evidence: a study of names in the Nottingham borough court rolls 1303-1455. Part 1, Methodology Transactions of the Philological Society. 108(2), pp.164- 77.

161

163. McClure, P. (2013), “Explaining English surnames: linguistic ambiguity and the importance of context Part I”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, ,Vol 36, pp. 1-33. 164. McClure, P. (2014), “Explaining English surnames: linguistic ambiguity and the importance of context Part II”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland,. Vol 37, pp.109-141. 165. McClure, P. (2016), A short history of English personal names, Oxford. 166. McConnell-Ginet, S.(2003), Language and Gender, Cambridge University Press, pp.69-97. 167. McKinley, R. (1990), A History of British Surnames, London: Longman. 168. Morgan, P. (1990-1991), “Locative surnames in Wales: a preliminary list”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 14, pp. 7-25. 169. Musman, R. (1987), Background to English speaking countries, 1st edition, Macmillan Education. 170. Nguyen, V.Khoa (2010), A cross-cultural approach to personal naming: given names in the systems of Vietnamese and English, PhD thesis, University of Sussex. 171. Nicolaisen, W.F.H. (1991,1992), “Pictish place-names as Scottish surnames: origins, dissemination and current status”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 15, pp. 7-21. 172. Nyström, S. (2016), „Names and meaning‟, in Carole Hough, ed., The Oxford Handbook of Names and Naming. Oxford: Oxford University Press, pp.39–51. 173. Okasha, E. (2011), Women's names in Old English, Taylor & Francis Group. 174. O‟Barr, W. & Bowman, A. (1980), Women‟s language' or 'powerless language', Women and languages in Literature and Society, pp. 93-110, New York: Praeger. 175. Parkin, D. H. (2013), “Surname typology and the problem of inconsistent classification” , Names: A Journal of Onomastics, 61 (4). pp. 200-211. 176. Phillip, T. & Weller, S.T.D. (1964), Rituale Romanum (Roman Ritual), Chicago: The Bruce Publishing Company.

162

177. Pickering, D. (2004), Dictionary of First Names, 2nd edition, Penguin Books publishing. 178. Pulgram, E. (1954), Theory of names, London-New York. 179. Postles, D. (1996), “The distinction of Gender? Women‟s names in the thirteenth century”, Nomina: Journal of the Society for Name Studies in Britain and Ireland, Vol 19, pp.79-91. 180. Reaney, P.H. (1980), The origin of English Surnames, Routledge publicsher. 181. Reaney, P.H. & Wilson, R.M. (1991), A dictionary of English surnames, U.S.A.: Routledge. 182. Reaney, P.H. (2005). A Dictionary of English Surnames, Taylor & Francis. 183. Reitan, E.A.(2003), The Thatcher Revolution, Rowman & Littlefield. 184. Sjöblom, P. (2006), “A cognitive approach to the semantics of proper nouns”, Onoma, Vol 41, pp. 63–82. 185. Talbot, M. M. (1998), Language and Gender: an introduction, Cambridge: Polity. 186. Titford, J. (2002), Searching for Surnames, Countryside Books. 187. Thwaites, R. (2013), The making of selfhood: naming decisions on marriage, Families, Relationships and Societies, Volume 2, Number 3, Policy Press, pp. 425-439. 188. Van L.W. & Mark V. de V. (2016), „Names and grammar‟ in Carole Hough, ed., The Oxford Handbook of Names and Naming, Oxford University Press, pp.17–38. 189. Wardhaugh, R. (2010), An introduction to sociolinguistics (6th ed.), Oxford, UK: Wiley-Blackwell. 190. Weekley, E. (1939), Jack and Jill: a study in our Christian names, 1st edition, London: Muray. 191. Wilson, R. (2009), A name of one‟s own: Identity, Choice and Performance in Marital Relationship, PhD. Thesis, London school of Economics & Political Science. 192. Wilson, K.M.and Margolis, N. (eds.) (2004), Women in the Middle Ages: An Encyclopedia, Greenwood Press: Westport, USA, pp. 758-761. C. Tiếng Trung Quốc

Parker, West W.

193. 李葆嘉、唐志超(2001), 现代汉语规范词典, 吉林大学出版社. 194. 商务印书馆编辑部编 (2009),辞源, 商务印书馆. D. Tiếng Pháp 195. Haudricourt, André-Georges (1954), De L‟origine Des Tons En Vietnamien, Journal Asiatique 242, pp. 69–82. E. Tài liệu online 196. Nguyễn Văn Khang (2003), Thuật ngữ và tên riêng tiếng nước ngoài, http://www.khoahocviet.info/ 197. Mill, J.S., A System of Logic: Ratiocinative and Inductive, 3rd, London: John Strand, http://www.archie.org/detail/systemoflogic00milluoft/. 198. Peter, M. (2011), Personal names and the development of English OED Online,

http://public.oed.com/aspects-of-english/shapers-of-english/personal- names-and-the-development-of-english/

in sources the OED Online,

199. Peter, M, 2011. Surnames as http://public.oed.com/aspects-of-english/shapers-of-english/surnames-as- sources-in-the-oed/ 200. Pitcher, B.J. & Mesoudi, A. & McElligott, A.G. (2013), Sex-Biased Sound Symbolism in English-Language First Names, http://journals.plos.org/plosone/article?id=10.1371/journal.pone.0064825. 201. Sidhu, D.M. & Pexman, P.M. (2015), What‟s in a Name? Sound Symbolism and Gender in First Names, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4446333/

163

Địa chỉ các website 202. https://vi.wikipedia.org/wiki/Anh 203. http://www.snsbi.org.uk/Nomina.html 204. http://www.deedpoll.org.uk/Overseas.html 205. http://www.ab.gov.tr/files/ardb/evt/1_avrupa_birligi/1_6_raporlar/1_4_euroba rometers/Eurobarometer_N41._PUBLIC_OPINION_IN_THE_EUROPEAN_ UNION_July_1994.pdf 206. http://www.AboutEqualOpertunities.co.uk. 207. https://www.behindthename.com/info/names

164