VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ NHUNG
HÁT XOAN PHÚ THỌ
TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ NHUNG
HÁT XOAN PHÚ THỌ
TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM
Ngành: Văn hóa học
Mã số: 9.22.90.40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Hồng Lý
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sỹ này là kết quả nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố
trong các công trình nghiên cứu nào khác. Kết quả nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu đi trước đã được tác giả tiếp thu chân thực, cẩn trọng trong luận án.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................ 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................ 10
1.1.1. Những nghiên cứu về di sản hóa và tính chính trị của di sản ............ 10
1.1.2. Những nghiên cứu về Hát Xoan và di sản hóa Hát Xoan ................. 17
1.2. Khái quát chung về Hát Xoan .................................................................... 21
1.2.1. Hát Xoan: những vấn đề về thể loại và nguồn gốc ............................ 21
1.2.2. Tổ chức, lệ tục Hát Xoan ................................................................... 29
1.2.3. Diễn xướng Hát Xoan ........................................................................ 34
1.3. Cơ sở lý luận ................................................................................................ 38
1.3.1. Các khái niệm công cụ dùng trong luận án ....................................... 38
1.3.2. Nghiên cứu Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa ............................... 42
Tiểu kết Chƣơng 1 .............................................................................................. 47
Chƣơng 2: BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH
GHI DANH DI SẢN HÁT XOAN PHÚ THỌ ................................................. 48
2.1. Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam ................................................................. 48
2.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa ................................................... 48
2.1.2. Bối cảnh văn hóa, chính trị và những tác động đến thực hành
Hát Xoan ...................................................................................................... 58
2.2. Quá trình ghi danh di sản Hát Xoan ......................................................... 64
2.2.1. Quá trình lựa chọn Hát Xoan ............................................................. 64
2.2.2. Quá trình xây dựng hồ sơ di sản Hát Xoan ....................................... 69
2.3. Di sản hóa Hát Xoan trong quá trình ghi danh di sản ............................ 76
2.3.1. Lập hồ sơ di sản và quá trình mở rộng quyền sở hữu........................ 76
2.3.2. Chọn lọc các yếu tố để có một hồ sơ di sản "có tính truyền
thống và có tính xác thực" ........................................................................... 78
Tiểu kết Chƣơng 2 .............................................................................................. 80
Chương 3: DIỆN MẠO HÁT XOAN PHÚ THỌ SAU GHI DANH DI SẢN ....... 81
3.1. Hoạt động kiểm kê, sƣu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Xoan .................. 81
3.1.1. Hoạt động kiểm kê tư liệu Hát Xoan ................................................. 82
3.1.2. Hoạt động sưu tầm và ký âm Xoan ................................................... 84
3.1.3. Đặt lời mới và sáng tác dựa trên ngữ liệu Xoan cổ ........................... 89
3.2. Hoạt động trình diễn và truyền dạy Hát Xoan hậu ghi danh di sản ...... 90
3.2.1. Những không gian Xoan sau ghi danh .............................................. 91
3.2.2. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan sau ghi danh tại các làng
Xoan cổ ........................................................................................................ 94
3.2.3. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và
dân ca Phú Thọ .......................................................................................... 100
3.2.4. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại công sở, trường học ........... 106
3.2.5. Thực hành và trình diễn Hát Xoan trong quảng bá du lịch và
văn hóa ....................................................................................................... 119
Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................. 122
Chƣơng 4: DI SẢN HÓA HÁT XOAN: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ... 123
4.1. Hát Xoan và nguy cơ nhất thể hóa bài bản Xoan, xu hƣớng bảo tồn
bảo tàng hóa và vai trò, nhu cầu của cộng đồng chủ .................................... 123
4.2. Hát Xoan: củng cố ý thức bảo vệ di sản hay một hình thức phổ
quát hóa di sản .................................................................................................. 135
4.3. Giữ gìn, bảo vệ Hát Xoan và đời sống riêng của di sản ......................... 138
4.4. Di sản Hát Xoan và sự định giá di sản .................................................... 141
4.5. Di sản hóa Hát Xoan và các hình thức khác nhau của di sản ............... 144
Tiểu kết Chƣơng 4 ............................................................................................ 147
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................... 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 155
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
CLB Câu lạc bộ
DSVHPVT DSVHPVT
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
VHTT&DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch
UBND Ủy ban nhân dân
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lần đến gặp các nghệ nhân Hát Xoan tại một phường Xoan cổ, tôi
rất ngạc nhiên khi thấy sau lúc tập luyện, các nghệ nhân ngồi bên nhau và hát
những bài do họ tự đặt lời, hân hoan tán thưởng những lời hát mới. Thấy sự hào hứng của tôi, nghệ nhân Thái1 ngẫu hứng hát thêm vài lời mới trên điệu Xoan cổ,
không quên nói thêm rằng, bà và mọi người ở đây đang "hát trộm ông Sở", vì
ông ấy biết thì sẽ không cho hát như thế. Các nghệ nhân còn cho biết thêm rằng,
có những quy định rất cụ thể trong việc nghệ nhân phải trình diễn các bài bản
Hát Xoan nào, mặc loại trang phục ra sao, nghệ nhân tham gia biểu diễn cần
được sự đồng ý cho phép của các ban ngành văn hóa,… Mấy người ngồi đó chia
sẻ thêm, bộ quần áo theo thiết kế mới họ "thấy không đẹp như bộ cũ", và họ rất
thích nghe và tự đặt lời mới cho Xoan, chẳng hạn để nói về chuyện bầu cử,
chuyện Covid-19,… nhưng không dám hát ở đâu cả, lúc truyền dạy ở trường
học, công sở hay khi biểu diễn đều phải theo đúng 31 bài bản đã được "ông"
UNESCO ghi danh. "Có lúc trời rét cũng phải bỏ giầy múa ra đi chân đất" để
theo đúng yêu cầu biểu diễn, vì "Hát Xoan là của người nông dân, nên nó phải
mộc mạc thế mới là Xoan".
Những gì chứng kiến đã khiến tôi đặt ra nhiều câu hỏi. Hát Xoan được
UNESCO ghi danh di sản, nhưng di sản này là của ai? Ai là người có thẩm
quyển quyết định Hát Xoan nên được thực hành bởi ai, ở đâu, như thế nào, theo
cách thức nào? Việc để những người thực hành Hát Xoan, cũng là "người mang di sản"2, phải bày tỏ nguyện vọng của họ về một cách thức Hát Xoan theo ý
muốn như vậy liệu có đúng với tinh thần bảo vệ và phát huy di sản vẫn được cả
UNESCO và các cơ quan, tổ chức tại địa phương đã cam kết? Những bài bản hát
Xoan vốn luôn được xem là cổ, và luôn được thực hành trong sự giám sát
1
nghiêm ngặt của các cơ quan hành chính thực sự xuất hiện khi nào, khi quá trình 1 Tên của các thông tín viên đều được tác giả luận án thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh. 2 Cụm từ do UNESCO sử dụng trong Công ước 2003.
làm hồ sơ, sưu tầm các bài bản để phục vụ công tác ghi danh di sản mới chỉ được
thực hiện vào những năm đầu thế kỉ XX, dựa trên nhiều tư liệu điền dã trước đó của các nhà nghiên cứu trong các đợt 19541, 1971-19732, 1978, 1998 - 20063?
Những thực hành Hát Xoan đã và đang diễn ra trên diện rộng tại Phú Thọ, xuất
hiện tại công sở, trường học, trong hầu khắp các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
của tỉnh, tham gia vào nhiều khía cạnh đời sống cả về văn hóa lẫn kinh tế, xã hội
khơi gợi gì đến vấn đề về tính chính trị của di sản, điều đã được nói tới trong
nhiều nghiên cứu đi trước của Salemink (2001, 2012, 2014), Lê Hồng Lý và các
cộng sự (2014), Meeker (2019),…
Bảo vệ và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc là một trong
những vấn đề đang được những người làm công tác văn hóa, những nhà quản lý
và hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta quan tâm và trăn
trở. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có gần 10.000 di tích văn hóa cấp tỉnh,
thành phố; 3.463 di tích cấp quốc gia; 95 di tích quốc gia đặc biệt; 249
DSVHPVT được đưa vào danh mục DSVHPVT quốc gia. Trong số các di sản
đó, UNESCO (Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc) đã ghi danh 8 Di sản văn hóa và Thiên nhiên thế giới; 14 DSVHPVT4. Con số các
di sản vừa là niềm tự hào của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều
thách thức trong công tác bảo vệ, phát huy di sản.
Từ việc nhìn nhận lại về vai trò của văn hóa với phát triển trong thế kỉ
XX, đặc biệt là từ những động thái của UNESCO trong việc bảo vệ các di sản
1 Năm 1954, nhiều cán bộ ngành văn hóa phát hiện ra Hát Xoan lần đầu tiên và tiến hành giới thiệu, sưu tầm, chỉnh lý, đưa vào sáng tác ca nhạc, biên soạn hoạt cảnh cho tiết mục của các đoàn văn công. 2 Tác giả Nguyễn Khắc Xương sưu tầm 13 quả cách hát thờ phường Phù Đức (1971-1973), 13 quả cách hát thờ phường An Thái (1971, 1973 và 1978). 3 Từ 1998 đến 2006 là giai đoạn phục hồi các phường Xoan thành các Câu lạc bộ Xoan Kim Đức, An Thái, rồi tổ chức lại là 4 phường Xoan An Thái, Phù Đức, Kim Đái, Thét. 4 Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Triều Nguyễn; Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Hát Ca Trù; Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc; Hát Xoan Phú Thọ; Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca Ví, Dặm ở Nghệ Tĩnh; Nghi lễ và trò chơi Kéo co; Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài Chòi ở Trung Bộ; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ thuật Xòe Thái.
2
(mà nổi bật là di sản phi vật thể) của nhân loại đã kéo theo những thay đổi trong
nhận thức chung về văn hóa, về di sản và quá trình bảo tồn, phát huy di sản.
Ngoài những Công ước và tôn chỉ hành động của UNESCO (Công ước 1972,
Công ước 2003), những tổ chức, hiệp hội, các nhà nghiên cứu, hoạch định và
quản lý văn hóa cũng đã có nhiều những bàn luận xung quanh vấn đề di sản.
Những tranh luận nổi bật nhất xoay quanh vấn đề nhận thức về di sản và giá trị
di sản, tính nguyên gốc của di sản và đánh giá vai trò của di sản văn hóa với
tương lai. Di sản văn hóa được nhìn nhận như một quá trình tiếp tục sáng tạo văn
hóa trong bối cảnh hiện tại, được tạo ra bởi những cảm nhận về các giá trị của
quá khứ và trong những mối bận tâm của thực tại và tương lai.
Những nhận thức về di sản văn hóa có một ý nghĩa quyết định đến công
tác sưu tầm, bảo tồn, quản lý và phát huy di sản, tác động mạnh mẽ đến các thực
hành di sản. Quan sát quá trình tác động và thay đổi đó từ các thực hành cụ thể,
các nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề mang tính lý thuyết: di sản hóa (heritagization),
trong đó di sản được coi là một động từ hơn là một danh từ, và di sản hóa được
xem như một thực hành văn hóa (Harvey 2008). Trên thực tế, khi được gắn cho
những danh hiệu khác nhau (di sản cấp tỉnh – cấp quốc gia – cấp quốc gia đặc
biệt – cấp thế giới), di sản không còn tồn tại như nó vốn có. Di sản, khi được
nhiều bên biết tới, đồng nghĩa với những cách thức thực hành văn hóa truyền
thống (trước khi được ghi danh) chịu sự tác động, biến đổi theo một tiêu chí hay
những định hướng phù hợp với quan điểm duy trì và bảo tồn mà các cơ quan
quản lý đưa ra. Quá trình di sản hóa, với việc lựa chọn di sản nào sẽ được ghi
danh và quá trình di sản tồn tại hậu ghi danh ở Việt Nam hiện đang đặt ra rất
nhiều vấn đề có ý nghĩa thiết thân đến sự tồn tại của chính di sản; và rất cần
những nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn để có thể tìm ra những cách
thức duy trì và bảo tồn phù hợp nhất, mang lại sức sống lâu bền cho di sản.
Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình dân ca nghi lễ phong
tục, có lịch sử hình thành và quá trình tồn tại gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng
3
Hùng Vương của cư dân Việt nơi này. Hát Xoan được Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) ghi danh DSVHPVT cần được
bảo vệ khẩn cấp vào 24/11/2011; và đến 8/12/2017, Hát Xoan được đưa ra khỏi
danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp để chuyển sang ghi danh trong danh
sách DSVHPVT đại diện của nhân loại. Kết quả điều tra năm 2010 cho thấy, Hát
Xoan gắn với 30 cửa đình, đền tại Phú Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di
tích thờ các vua Hùng và các nhân vật thời Hùng Vương. Trong số đó, chỉ có 4 làng
được xem là có họ Xoan cổ là An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái (trước cách mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, này đều thuộc thành phố Việt Trì)1.
Các làng Xoan gốc này thuộc vùng sơn phận núi Hùng, cũng là những nơi hiện còn
lưu giữ được 31 bài bản Hát Xoan cổ.
Từ khi được công nhận đến nay, diện mạo của Hát Xoan đã có nhiều thay
đổi. Việc ghi danh di sản đã tác động mạnh đến những chính sách và thực hành
Hát Xoan, đồng thời kéo theo những chiều cạnh phức tạp trong mối quan hệ giữa
cộng đồng chủ thể, nhà nước và di sản. Lựa chọn đề tài Hát Xoan Phú Thọ
trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam, luận án mong muốn làm rõ quá trình di
sản hóa Hát Xoan ở Phú Thọ như thế nào, đồng thời góp phần bàn luận về sự tồn
tại của di sản trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
UNESCO ghi danh qua hai giai đoạn, từ 24/11/2011, trong danh mục DSVHPVT
cần bảo vệ khẩn cấp, và giai đoạn hai, từ 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa
ra khỏi danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại Danh sách
DSVHPVT đại diện của nhân loại. Luận án chú trọng nghiên cứu các vấn đề từ thực
hành bài bản Xoan, sưu tầm, ký âm, truyền dạy, công tác nghệ nhân,…, đến cách
Hát Xoan tham gia trong các chương trình, hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, kinh tế,
giáo dục, du lịch trong và ngoài địa bàn tỉnh để có thể hiểu về cách Hát Xoan hiện
1 Cả 4 họ Xoan đều được gọi theo tên làng.
4
Luận án nghiên cứu về diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ sau khi được
diện trong đời sống văn hóa tại Phú Thọ kể từ sau khi được ghi danh. Từ hiện trạng
cụ thể của Hát Xoan sau ghi danh, luận án bàn luận các vấn đề trong công tác bảo
vệ, phát huy di sản (các cấp), nhìn ra những động thái kinh tế, chính trị, văn hóa từ
các thực hành di sản Hát Xoan.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về vấn đề di sản hóa các di sản văn hóa, tập trung vào vấn đề về tính
chính trị của di sản.
- Nghiên cứu về bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam từ các phương diện kinh tế, chính
trị, văn hóa.
- Nghiên cứu, tìm hiểu quá trình Hát Xoan Phú Thọ được lựa chọn và ghi danh là
DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO.
- Nghiên cứu những diễn biến sau ghi danh của Hát Xoan Phú Thọ, quá trình bảo vệ
khẩn cấp Hát Xoan, bàn luận vấn đề di sản hóa Hát Xoan trong bối cảnh hiện nay ở Việt
Nam.
Từ mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thực hành Hát Xoan được tiến
hành tại tỉnh Phú Thọ sau quá trình ghi danh của UNESCO, trong sự tham chiếu
với các thực hành Hát Xoan diễn ra trước đó. Các thực hành Hát Xoan diễn ra tại
Phú Thọ rất đa dạng và phong phú, cả ở các phường Xoan cổ, ở các CLB, tại
trường học, công sở, các điểm du lịch, các chương trình văn hóa văn nghệ và
trong nhiều nghi lễ, lễ hội tại địa phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận án tìm hiểu về các thực hành Hát Xoan diễn ra ở Phú
Thọ, trong đó tập trung nghiên cứu các làng Xoan cổ như: An Thái, Phù Đức,
Kim Đới, Thét, một số làng Xoan, CLB Xoan mới, một số trường học, công sở,
địa điểm du lịch trong địa bàn tỉnh Phú Thọ có thực hành truyền dạy và trình
5
diễn Hát Xoan.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu thực hành Hát Xoan ở Phú Thọ trong
giai đoạn từ sau khi được UNESCO ghi danh DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn
cấp của nhân loại (2011) cho đến nay, trong đó, chú trọng tập trung nhận diện,
phân tích và bàn luận các thực hành Hát Xoan đang diễn ra trong sự tham chiếu
với các thực hành đã diễn ra trước đó. Thời gian luận án thực hiện khảo sát là từ
năm 2016 đến năm 2021.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong đề tài, luận án xác định sử
dụng các phương pháp chính gồm:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Đây là phương pháp được tác giả
luận án sử dụng trong quá trình tìm kiếm và tổng hợp các tư liệu thứ cấp đã có
về Hát Xoan (cả tư liệu nghiên cứu và tư liệu thực hành), về các quan điểm
nghiên cứu, bảo vệ, phát huy di sản nói chung và di sản Hát Xoan nói riêng. Hệ
thống các tư liệu này được tác giả luận án tìm kiếm trong các thư viện (thư viện
Quốc gia và thư viện tỉnh Phú Thọ), các trung tâm lưu trữ tại Sở VH-TT-DL tỉnh
Phú Thọ, tại phòng văn hóa, Trung tâm di sản của tỉnh, kỷ yếu các hội thảo (cả
về chủ đề Hát Xoan và một số loại hình di sản được ghi danh khác). Ngoài ra,
các tư liệu liên quan đến quan điểm và chính sách bảo vệ, phát huy di sản còn
được tác giả tổng hợp từ tư liệu công bố trên website của UNESCO, trong các kỷ
yếu hội thảo, trong các quyết định, thông tư liên quan tới di sản nói chung và Hát
Xoan nói riêng, đặc biệt là hệ thống các công văn triển khai hoạt động bảo vệ
phát huy di sản tại tỉnh Phú Thọ.
- Phương pháp điền dã dân tộc học, trọng tâm là quan sát tham dự và
phỏng vấn sâu. Trong quá trình tìm hiểu về hiện trạng Hát Xoan sau ghi danh,
tác giả luận án đã tiến hành quan sát tham dự các thực hành diễn xướng Xoan
diễn ra tại các làng Xoan cổ vào các thời điểm hội, lễ (đặc biệt vào lễ hội đầu
năm và lễ giỗ tổ Hùng Vương); trong các hoạt động giao lưu, truyền dạy và
6
trong thời điểm thường ngày. Các thực hành Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và
dân ca Phú Thọ, tại trường học, công sở hay hoạt động trình diễn Xoan trên các
sân khấu tại địa phương, đặc biệt là các chương trình diễn dành cho khách du
lịch cũng được tác giả tham dự.
Các cuộc phỏng vấn sâu được tiến hành với các nghệ nhân thực hành
Xoan tại 4 làng Xoan cổ, các nghệ nhân và thành viên của CLB Hát Xoan và
Dân ca tỉnh Phú Thọ, người dân tại làng Xoan, cán bộ Sở VH-TT-DL, cán bộ
Phòng Di sản, cán bộ nhà nước tại một số cơ quan trong tỉnh (đã từng tham gia
các lớp tập huấn về Hát Xoan), cán bộ Sở GD&ĐT tỉnh Phú Thọ, cán bộ lãnh
đạo văn hóa xã, một số giáo viên tại một số trường Tiểu học và trung học phổ
thông tại thành phố Việt Trì, huyện Tam Nông (Hiệu trưởng, Hiệu phó, giáo viên
phụ trách Đoàn - Đội, giáo viên Âm nhạc và các giáo viên được phân công đi
học và truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường), học sinh (cấp 1, 2, 3) tại một số
trường học trên địa bàn tỉnh.
Tác giả cũng tham gia và tiến hành ghi chép, phỏng vấn trong các lớp tập
huấn Hát Xoan thường niên dành cho cán bộ nhà nước và giáo viên tại các
trường học. Những cuộc trao đổi với các nhà sưu tầm, nghiên cứu tại địa
phương, với các đạo diễn - biên kịch một số chương trình nghệ thuật của tỉnh và
các cán bộ làm công tác ký âm Xoan cũng được tác giả thực hiện trong thời gian
làm luận án.
Ngoài ra, do Hát Xoan là một loại hình nghệ thuật có âm nhạc, lời ca, giai
điệu, trang phục, nhạc cụ, luận án còn vận dụng cách tiếp cận và phương pháp
phân tích của ngành nhạc học và dân tộc học âm nhạc, đặc biệt trong phần tìm
hiểu về ký âm, âm nhạc, múa trong Hát Xoan.
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả luôn cố gắng tuân thủ các
nguyên tắc trong việc khai thác các tư liệu điền dã. Tên của các thông tín viên
được thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh, và các tư liệu phỏng vấn được gỡ
băng ngay sau thời điểm tiến hành khai thác tại thực địa. Tác giả cũng duy trì
7
việc kết nối với các thông tín viên (thông qua điện thoại, Facebook...) để có thể
nắm bắt kịp thời các hoạt động diễn ra tại địa phương. Thông tin đăng tải từ
website của các khu du lịch, các trung tâm du lịch tại Phú Thọ, các chương trình
hoạt động văn hóa diễn ra trên địa bàn tỉnh được tác giả cập nhật thường xuyên.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án chỉ ra rằng, Hát Xoan là thực hành văn hóa đã được kiến tạo
trong lịch sử và hiện vẫn tiếp tục được kiến tạo, gắn với các nhu cầu về tâm linh,
văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế tại Phú Thọ.
- Luận án chỉ ra các vấn đề liên quan tới quá trình bảo vệ và phát huy di
sản Hát Xoan hậu ghi danh, từ việc sưu tầm, kiểm kê đến cách thức Hát Xoan
được truyền dạy và thực hành tại các làng Xoan cổ, tại công sở, trường học và
các địa điểm du lịch, trong các chương trình quảng bá văn hóa tại Phú Thọ. Luận
án cho thấy, việc Hát Xoan được bảo vệ và phát huy trên diện rộng đã gia tăng
các nguy cơ di sản hóa, cũng như có những tác động mạnh đến diện mạo của
thực hành Hát Xoan của quá trình bảo vệ và phát huy này, với các vấn đề về sự
nhất thể hóa, bảo tàng hóa, phổ quát hóa, giá trị hóa Hát Xoan, dẫn đến những
tiếp nhận trái chiều trong thực hành di sản.
- Luận án chỉ ra rằng, sau khi được UNESCO ghi danh, Hát Xoan có xu
hướng hình thành hai tiểu loại: Xoan tín ngưỡng (Xoan được cộng đồng thực
hành gắn liền với nhu cầu tâm linh, với tín ngưỡng thờ cúng tại đình, miếu địa
phương) và Xoan văn nghệ (Xoan được trình diễn cho các đối tượng thưởng thức
đa dạng bên ngoài), mỗi tiểu loại có các đặc trưng riêng về không gian, phương
thức và nguyên tắc thực hành.
- Luận án nhấn mạnh cách tiếp cận "di sản văn hóa sống", với việc xem di sản
như một yếu tố trong chỉnh thể văn hóa và xã hội, tôn trọng đời sống riêng của di sản
cũng như quyền sử dụng di sản của các chủ thể thực hành nhằm hướng tới việc phát
8
huy các giá trị của di sản trong bối cảnh di sản hóa hiện nay ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu trường hợp di sản Hát Xoan, luận
án chỉ ra tầm quan trọng của cách tiếp cận xem di sản như một thực thể sống. Di
sản cần được tạo điều kiện để phát triển bình thường nhất có thể trong đời sống
văn hóa, xã hội của địa phương.
Về mặt thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận án giúp cung cấp cơ sở khoa học cho các
nhà hoạch định chính sách trong việc thiết kế và triển khai các chương trình/ hoạt
động phù hợp trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt với hoạt động bảo tồn các
DSVHPVT.
- Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp vào hệ thống tri thức về văn
hóa của người Việt nói riêng và tri thức về văn hóa hệ thống các dân tộc ở Việt
Nam nói chung. Luận án được hoàn thiện có thể trở thành một tài liệu tham khảo
hữu ích trong nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa. Hướng tiếp cận di sản của
luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho ngành quản lý văn hóa,
quản lý di sản tại Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục (gồm cả Phụ lục Ảnh) và Tài
liệu tham khảo, luận án được triển khai với các chương cụ thể như sau:
Chương 1 - Tổng quan tình hình nghiên cứu, Cơ sở lý luận và Đối tượng
nghiên cứu
Chương 2 - Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam và quá trình ghi danh di sản
Hát Xoan Phú Thọ
Chương 3 - Diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ sau ghi danh di sản
9
Chương 4 – Di sản hoá Hát Xoan: những vấn đề bàn luận
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về di sản hóa và tính chính trị của di sản
Tính đến năm 2021, Việt Nam có 14 DSVHPVT được UNESCO ghi
danh, gồm: Nhã nhạc cung đình Triều Nguyễn, Không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và
Đền Sóc, Hát Xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ,
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca Ví, Giặm ở Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò
chơi Kéo co, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, Nghệ
thuật Bài Chòi ở Trung Bộ, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ
thuật Xòe Thái. Ngoài các DSVHPVT kể trên, trên đất nước Việt Nam còn hiện
hữu nhiều loại hình di sản phi vật thể như âm nhạc, múa, tín ngưỡng, lễ hội,...
của người Kinh và các dân tộc thiểu số khác. Những di sản này có lịch sử tồn tại
gắn liền với đời sống văn hóa, xã hội của các cộng đồng, tộc người ở Việt Nam,
cả trong quá khứ và trong hiện tại.
Nghiên cứu về di sản văn hóa, trong đó có DSVHPVT, thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học và quản lý trong các lĩnh vực như văn hóa học,
dân tộc học, nhân học, quản lý văn hóa, bảo tàng,... Tùy vào mục đích nghiên
cứu, những chuyên gia có cách tiếp cận DSVHPVT khác nhau. Một cách khái
quát, có thể thấy các nghiên cứu về di sản thường tập trung vào một số vấn đề
như: quan điểm về di sản và vai trò của di sản; công tác sưu tầm, kiểm kê, tư liệu
hóa DSVHPVT; quá trình bảo vệ, khai thác và phát huy giá trị DSVHPVT trong
xã hội. Các tác giả đã khẳng định về tầm quan trọng của di sản trong đời sống
văn hóa cộng đồng, trong việc xác định bản sắc quốc gia, dân tộc (Hoàng Vinh
10
2006, Đặng Văn Bài 2007, Cao Tự Thanh 2013). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,
để DSVHPVT tồn tại và phát huy được những giá trị vốn có trong xã hội hiện
nay, ngoài nhiệm vụ điền dã để sưu tầm, kiểm kê và tư liệu hóa, cần phải tôn
trọng và khuyến khích cộng đồng chủ thể di sản để họ lưu giữ, trao truyền các
loại hình DSVHPVT cho các thế hệ kế cận (Trần Văn Khê 2002, Đặng Văn Bài
2007, Tô Ngọc Thanh 2007, Nguyễn Xuân Kính 2009, Ngô Đức Thịnh 2010,
Bùi Hoài Sơn 2010, Lê Thị Minh Lý 2013, Lê Hồng Lý và các cộng sự 2014).
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn vai
trò của các cơ quan, tổ chức, nhà nước với cộng đồng trong việc bảo vệ và phát
huy các giá trị của DSVHPVT của Việt Nam hiện nay.
Trong nghiên cứu về di sản, nổi bật là quan điểm lý thuyết về di sản hóa.
Theo Salemink (2014), di sản hóa (heritagization) là khái niệm được Robert
Hewison đưa ra năm 1987 trong “Công nghiệp di sản: Vương quốc Anh trong sự
đi xuống” (The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline) và có một quá
trình biến chuyển hàm nghĩa từ đó tới khoảng những năm 2009, 2010. Từ một khái
niệm vốn chỉ dùng để nói về những biến đổi trong các địa điểm di sản, di sản hóa
được Regina Bendix trong Di sản giữa kinh tế và chính trị: Đánh giá từ quan điểm
nhân học văn hóa (Heritage between economy and politics: An assessment from the
perspective of cultural anthropology) (2009) sử dụng với những hàm nghĩa mới.
Theo đó, quá trình bảo tồn một cách có ý thức các di sản cho hiện tại và cho các thế
hệ tương lai là quá trình "nhất thiết phải mang tính chọn lọc, do không phải mọi ký
ức văn hóa đều được coi là di sản" (dẫn theo Salemink 2014: 489). Bendix đã chỉ ra
một số sự biến đổi do sự phong thánh một số địa điểm và thực hành nhất định là di
sản đem lại: sự viện dẫn truyền thống và tính chân thực; sự hiện hình bản chất và
nuôi dưỡng vốn biểu tượng; sự tranh cãi về những giá trị di sản; công việc mang
tính biểu tượng về marketing. Đến Rosmary Coombe và Joseph Turcotte (2012)
trong “Di sản văn hóa của người bản địa trong sự phát triển và thương mại: Quan
điểm từ động năng Luật và chính sách di sản văn hóa” [Indigenous Cultural
11
Heritage in Development and Trade: Perspectives from the Dynamics of Cultural
Heritage Law and Policy], vấn đề di sản hóa được nhận định: "Có thể cho rằng, sự
nhấn mạnh mới lên việc kiểm kê DSVHPVT, cụ thể hóa chúng, gắn cho chúng
những người bảo vệ phù hợp, và đầu tư xây dựng năng lực để phát triển các chuyên
gia địa phương, tạo nên một chế độ quyền lực mới và chế độ này vừa hứa hẹn vừa
gây nguy hiểm đến các cộng đồng địa phương và người bản xứ được coi là có một
nền văn hóa riêng biệt mà những chế độ mới này tìm kiếm để đánh giá" (Coombe
and Turcotte 2021: 31-32, dẫn theo Salemink 2014: 491). Nói theo cách của
Salemink, do vướng vào những hệ thống đánh giá khác nhau (bởi người thực hành,
bởi các chuyên gia văn hóa, bởi cán bộ nhà nước, bởi thị trường), ở những cấp độ
khác nhau (địa phương, quốc gia, liên quốc gia và quốc tế), việc công nhận
DSVHPVT có thể là một may mắn không trọn vẹn với những cộng đồng là người
mang - nhưng có lẽ không còn là người sở hữu, khi thực hành văn hóa trở thành di
sản (Salemink 2014: 491).
Trong các nghiên cứu về di sản ở Việt Nam, từ khoảng năm 2010, các nhà
nghiên cứu bắt đầu nói tới vấn đề di sản hóa. Người đề cập trực tiếp và bàn luận
nhiều nhất về vấn đề di sản hóa các loại hình DSVHPVT ở Việt Nam là Oscar
Salemink. Trong bài viết “Di sản hóa văn hóa sống ở Việt Nam như DSVHPVT” in
trong Hội thảo 10 năm thực hiện công ước bảo vệ DSVHPVT của UNESCO - Bài
học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Salemink đã giới thiệu về khái niệm “di
sản hóa” (heritagization) thông qua việc điểm lại quá trình thuật ngữ này xuất hiện
và những hàm nghĩa của di sản hóa. Từ bối cảnh cụ thể ở Việt Nam, nhà nghiên cứu
phát triển cách hiểu về khái niệm di sản hóa, "Di sản hóa - được hiểu theo nghĩa
đơn giản nhất, cụ thể là gắn cho các di tích và thực hành văn hóa danh hiệu di sản"
(tr.494). Quá trình này có khả năng đưa đến sự xói mòn các quyền của cộng đồng
sở hữu di sản, cao hơn là sự tước mất quyền của các cộng đồng địa phương,
"công cụ hóa các thực hành văn hóa bởi vì nó thường phù hợp với mối quan tâm
của những người bên ngoài - các cá nhân và chuyên gia văn hóa, chính quyền địa
12
phương, chính phủ quốc gia (tr.494). Salemink đã bàn luận về vấn đề di sản hóa
một số loại hình DSVHPVT đại diện nhân loại của Việt Nam như Nhã nhạc
cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hát Xoan Phú
Thọ, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù... Theo tác giả, quá trình tuyên bố và công nhận
di sản ở Việt Nam là quá trình chính trị hóa di sản ở các cấp, với những sự trùng
lặp và tương tác. Ngoài ra, nhà nước còn phải chịu những trách nhiệm liên quan
đến việc quản lý, bảo vệ hoặc giữ gìn di sản. Như vậy, di sản của cộng đồng khi
được UNESCO công nhận sẽ trở thành “tài sản quốc gia” (Salemink 2015: 485).
Và khi trở thành tài sản quốc gia, nhà nước sẽ có những chính sách quản lý, bảo
tồn di sản như sân khấu hóa, giảng dạy các di sản như Ví, Giặm Nghệ Tĩnh,
Quan họ Bắc Ninh, Hát Xoan Phú Thọ trong trường học hoặc thế tục hóa lễ hội...
Những việc làm trên thường hướng đến những người bên ngoài chứ không phải
là chủ thể di sản, trong khi cộng đồng, chủ thể di sản mới đóng vai trò quyết định
sự tồn tại của di sản.
Nhấn mạnh thêm về tính chính trị của DSVHPVT ở Việt Nam, trong bài viết
“Appropriating Culture: The politics of intangible cultural heritage in Vietnam -
Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về DSVHPVT ở Việt Nam”, Oscar
Salemink (2012) đã phân tích sự cạnh tranh mang tính địa phương, ở cấp quốc gia
và toàn cầu để đạt được sự công nhận mang tính quốc gia và của tổ chức
UNESCO. Sự công nhận dù mang tính quốc gia hay toàn cầu thì nhà nước cũng
can thiệp trong việc quản lý, bảo vệ và giữ gìn di sản, sự can thiệp đó là một sự
“chiếm đoạt” DSVHPVT từ chủ thể di sản - những người đã sáng tạo, gìn giữ và
có các quyền lợi về di sản - ra khỏi những thực hành văn hóa của họ. Sự can
thiệp này mang tính hai mặt, nếu việc tổ chức, quản lý, bảo quản cũng như chia
lợi ích hợp lý thì sẽ mang lại kết quả tốt; ngược lại, nó cũng có thể đẩy chính
những người dân ra ngoài lề, mất độc quyền thực hành văn hóa của chính họ.
Đề cập đến di sản hóa các loại hình DSVHPVT, trong chuyên khảo “Bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa: nghiên cứu trường hợp
13
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà Nội), Tháp bà Poh
Nagar (Khánh Hòa) và văn hóa cồng chiêng của người Lạch (Lâm Đồng)”, tác giả
Lê Hồng Lý và các cộng sự (2012) cho rằng, quan điểm bảo tồn có chọn lọc, xếp
hạng các di sản, quản lý, sân khấu hóa, sáng tạo truyền thống trong công tác bảo
tồn và phát huy di sản của các tác nhân bên ngoài chính là quá trình di sản hóa.
Quá trình này có thể làm suy giảm quyền quản lý, tổ chức, sáng tạo, hưởng lợi
của cộng đồng chủ thể di sản, thậm chí còn "ngoài lề hóa" cộng đồng chủ, tước
đoạt các quyền của chủ nhân văn hóa đối với di sản. Quá trình này hình thành
nên tâm lý trông chờ, ỷ lại, thờ ơ với chính di sản văn hóa vốn thuộc về cộng
đồng, bởi sau khi được tôn vinh, những di sản này đã trở thành “tài sản của quốc
gia” chứ không còn thuộc về người dân như trước.
Trong tham luận “Di sản hóa lễ hội truyền thống và tính thiêng trong nghi
lễ”, Phan Phương Anh đã có những nhìn nhận về tính thiêng trong lễ hội và quan
niệm di sản hóa văn hóa phi vật thể để làm cơ sở để phân tích về di sản hóa lễ hội
truyền thống ở Việt Nam. Theo tác giả, di sản hóa là quá trình đưa một loại hình
văn hóa thành một di sản qua hai giai đoạn lập hồ sơ đến lúc công nhận là di sản và
giai đoạn kể từ sau khi được công nhận là di sản. Trong lễ hội truyền thống ở Việt
Nam, nhân vật được thờ phụng là hiện thân của cái thiêng, do vậy mọi yếu tố liên
quan đến nhân vật - từ truyền thuyết, thần tích, lễ vật, người tham gia và quy trình lễ
hội đều chứa đựng yếu tố thiêng. Kết quả khảo sát thực tế tại lễ hội Gióng ở đến
Phù Đổng và lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ của tác giả cho thấy, lễ hội Gióng giữ
được tính nguyên thức nhờ có Sổ hội lễ truyền từ đời này sang đời khác, do vậy
tính thiêng là cái được cả cộng đồng quy định nhưng lễ hội đền Hùng lại bị hành
chính hóa mạnh mẽ, chẳng hạn, thành phần trung tâm dâng hương là các lãnh
đạo Đảng và nhà nước và các cơ quan trung ương; chủ lễ là một đồng chí lãnh
đạo Đảng và nhà nước cao cấp; toàn bộ chương trình lễ hội được lên kịch bản và
quy định chặt chẽ còn người dân bị loại trừ ra khỏi lễ hội,... Như vậy, tính thiêng
của lễ hội đã bị can thiệp và không còn được đảm bảo, và đây là biểu hiện của
14
quá trình di sản hóa.
Quan tâm đến quá trình di sản hóa đối với những thực hành văn hóa xã
hội ở làng cổ Đường Lâm hiện nay, Lê Thị Ngà (2015) đã tập trung mô tả và
phân tích những tác động của quá trình di sản hóa đến những thực hành văn hóa
xã hội trong mối quan hệ nhiều chiều từ nhà nước, tổ chức, cộng đồng. Từ đó,
tác giả đã chỉ ra rằng, trước khi được công nhận di sản, các di tích và thực hành
văn hóa từng do cộng đồng sở hữu, quản lý, tổ chức; còn sau khi được di sản hóa
đã trở thành tài sản của nhà nước được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của
nhà nước quản lý hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Quá trình di sản hóa đôi khi hạn
chế hoặc tước bỏ nhiều quyền của các chủ nhân di sản ra khỏi các thực hành văn
hóa, di tích đã được nhà nước công nhận, ghi danh.
Đào Xuân Quý (2016) trong “Lễ hội đình, đền làng Cổ Tích (Phú Thọ)
hậu di sản” cho rằng quá trình di sản hóa, một mặt đã làm cho di tích văn hóa
của làng Cổ tích được trùng tu, tôn tạo khang trang hơn, lễ hội được tổ chức quy
mô và hoàng tráng hơn, mặt khác đã làm thay đổi nội dung và diễn trình lễ hội
cũng như “ngoài lề hóa” cộng đồng chủ ở nhiều khía cạnh từ vai trò tổ chức,
quản lý đến các quyền được hưởng trong lễ hội (tr.69). Cũng nghiên cứu về lễ
hội nhưng Nguyễn Thị Nhung (2017) tập trung tìm hiểu sự tham gia của các cơ
quan quản lý nhà nước trong tổ chức và quản lý lễ hội chùa Hương, trên cơ sở đó
tác giả đưa ra những đánh giá về sự tác động của các tổ chức bên ngoài đến biến
đổi trong các thực hành văn hóa của người dân địa phương. Bên cạnh đó,
Nguyễn Thị Nhung cũng dành bàn về vai trò của nhà nước và vấn đề ngoài lề
hóa cộng đồng chủ trong lễ hội chùa Hương. Theo tác giả, việc nhà nước can
thiệp quá mức vào việc tổ chức, quản lý lễ hội chùa Hương đã đẩy người dân địa
phương - chủ nhân của lễ hội ra khỏi những hoạt động về nghi lễ, hội và cả
những hình thức mưu sinh khi lễ hội diễn ra.
Ngoài các công trình trên, vấn đề di sản hóa còn được nhà nghiên cứu Lương
Hồng Quang đề cập trong nhiều bài viết đăng trên các báo điện tử như “Bảo tồn
15
DSVHPVT: cả tĩnh và động đều có vấn đề” (tuoitre.vn, ngày 29/11/2013), “Nên
lược bỏ những nghi lễ không phù hợp” (baomoi.com, ngày 07/03/2015), “Quản lý
lễ hội: cân bằng lợi ích các bên” (thethaovanhoa.vn, ngày 05/04/2015)...
Sau một thời gian dài nghiên cứu về di sản, nhóm các nhà nghiên cứu Lê
Hồng Lý, Nguyễn Thị Phương Châm, Hoàng Cầm, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế
Đức đã công bố các nghiên cứu cho thấy nhiều vấn đề đặt ra với công tác bảo vệ
di sản ở Việt Nam. Trong “Bảo vệ và phát huy DSVHPVT được UNESCO ghi
danh: thành tựu, bất cập và các khuyến nghị” (2018), nhóm tác giả cho rằng, việc
UNESCO ghi danh di sản đã có những tác động lớn tới nhận thức của các cấp
chính quyền và chính người dân về di sản, các hoạt động bảo vệ di sản dù góp
phần làm cho nhiều di sản được hồi sinh và phát triển, trở thành vốn văn hóa của
các cộng đồng, tộc người nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực hiện đúng tinh
thần và nguyên tắc của Công ước 2003 của UNESCO, của Luật Di sản của Việt
Nam và vì vậy đã tạo ta các thách thức cho sự tồn tại bền vững của các di sản.
Đó là sự ngoài lề hóa cộng đồng chủ; sân khấu, làm mới, thương mại hóa di
sản; chính thống, nhà nước hóa công tác bảo vệ di sản và những bất cập trong
việc truyền dạy và công tác nghệ nhân. Việc được UNESCO ghi danh di sản
cũng mang lại nhiều ngộ nhận, chẳng hạn việc “hoành tráng hóa di sản cho
xứng tầm”, thể hiện trong việc mở rộng các khu di tích, mở rộng quy mô các
thực hành di sản,... và tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của nhà nước, dễ
gây nên những thất vọng cho người thực hành khi sự đầu tư không được như
mong muốn.
Như vậy, trong những nghiên cứu đề cập đến vấn đề di sản hóa văn hóa
phi vật thể ở Việt Nam, hầu hết đều nhấn mạnh vào những biến đổi của di sản,
sự can thiệp quá mức của các tổ chức bên ngoài vào quản lý, tổ chức, bảo vệ di
sản thông qua các hình thức kiểm kê, rà soát, sân khấu hóa, lễ hội hóa di sản...
Cùng với đó, các nghiên cứu về di sản hóa cũng nói tới cách các tổ chức bên
ngoài dần tước bỏ các quyền và nghĩa vụ của cộng đồng chủ, khiến họ dần trở
16
nên lạc lõng và thờ ơ với di sản của chính mình.
1.1.2. Những nghiên cứu về Hát Xoan và di sản hóa Hát Xoan
Nghiên cứu về Hát Xoan
Hát Xoan là một trong những loại hình dân ca mang đặc trưng văn hóa
vùng Bắc bộ nói chung và Phú Thọ nói riêng. Đây là DSVHPVT có lịch sử hình
thành, tồn tại gắn liền với các loại hình tín ngưỡng cổ xưa của cư dân Việt. Vì vậy,
từ rất sớm, Hát Xoan đã được nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa, âm nhạc, nhân
học,... quan tâm trên nhiều phương diện như tên gọi, truyền thuyết, nguồn gốc, giai
điệu, bài bản hát xướng cho đến các giá trị văn hóa, biện pháp bảo tồn và phát huy
giá trị của loại hình dân ca này.
Về tên gọi Hát Xoan, nhiều nghiên cứu cho rằng, Hát Xoan là hát Xuân, là
loại hình dân ca thường được tổ chức vào mùa Xuân, gắn với câu chuyện truyền
thuyết về nàng Quế Hoa hát múa cho vợ của Vua Hùng khi bà sinh nở (Nguyễn
Khắc Xương 1978, Đức Bằng 1982). Theo các tác giả Tú Ngọc (1997) trong Hát
Xoan dân ca lễ nghi - Phong tục, Phạm Phúc Minh trong cuốn Tìm hiểu dân ca
Việt Nam, Hát Xoan được xếp vào loại hình dân ca nghi lễ, gắn với tục thờ các vị
vua Hùng cùng tướng lĩnh và tôn thất của nhà vua. Các truyền thuyết về nguồn gốc
ra đời của Hát Xoan cũng được nói tới trong Hát Xoan dân ca lễ nghi - Phong tục
(Tú Ngọc 1997), Hát Xoan hát Ghẹo Vĩnh Phú (Nguyễn Khắc Xương, Dương
Huy Thiện 1979), “Lễ hội Hát Xoan và sự tích bánh chưng bánh dày (xã Kim Đức,
huyện Phù Ninh)” của Phạm Bá Khiêm (trong Lễ hội truyền thống vùng đất Tổ)
(2005), gắn với các nhân vật và lệ tục thời kì Hùng Vương. Các nghiên cứu cũng
khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của loại hình nghệ thuật này trong thời Hậu Lê
(thế kỉ XV). Trần Thị Kim Anh trong “Từ những chữ Nôm Lý Liên - Lễ Liên và
đôi điều suy nghĩ về nguồn gốc Hát Xoan” (2010) nêu giả thuyết Hát Xoan là di
sản của lối hát múa nơi cung thất từ thời Văn Lang (tr.66-68).
Dựa trên những bài bản Hát Xoan, các nghiên cứu cũng đi sâu phân tích
các đặc điểm của loại hình nghệ thuật này. Lời ca Hát Xoan với các bài khấn
nguyện thần thánh, chúc tụng, những bài hát “kết duyên với người tình nhân” trữ
17
tình hoặc ca ngợi sự lao động cần cù, siêng năng của người dân lao động.
Thể thức của Hát Xoan với 13 quả cách và 9 giọng vặt được khảo trong
“Hát Xoan Phú Thọ” (Nguyễn Lộc 1974, tr.83-89); các dạng thang âm như thang
ba, thang bốn, thang năm (dạng “thang âm không có bán âm”) trong Hát Xoan của
tác giả Tú Ngọc trong Bước đầu tìm hiểu Hát Xoan Vĩnh Phú (1981), Hát Xoan
(12 bản phổ) (1997). Trình tự các cuộc hát (chặng nghi lễ, chặng hát hội), các
chặng Hát Xoan như chặng một, Hát chúc, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang,
Đóng đám; chặng hai, trình diễn các quả cách; chặng 3, hát các giọng vặt và có
phần múa minh họa, gồm các tiết mục: Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa - Đố chữ, Gài
hoa…; lệ giữ cửa đình và tục kết nghĩa, vai trò của ông trùm trong phường
Xoan, khả năng và trình độ văn hóa âm nhạc của đào kép trong Hát Xoan, trang
phục, đạo cụ và nhạc cụ của phường Xoan được khảo tả trong các nghiên cứu
“Vị trí, ý nghĩa của Hát Xoan trong văn hóa âm nhạc Việt Nam” của Phạm
Trọng Toàn (2001), Hát Xoan Phú Thọ (Nguyễn Khắc Xương 2003); “Lễ hội Hát
Xoan và sự tích bánh chưng, bánh dày xã Kim Đức” (Phạm Thị Thiên Nga 2012),
“Đôi điều về Hát Xoan” của Dương Anh (2005), Âm nhạc dân gian Phú Thọ
(Trần Văn Thục 2009)...
Vấn đề về múa Xoan, cách truyền dạy Hát Xoan, mối họ Xoan, quan hệ
kết nước nghĩa cũng được các nghiên cứu đề cập tới (Nguyễn Lộc 1975). Ngoài
ra, Hát Xoan còn được nghiên cứu trong mối quan hệ với Ca trù trong bài viết “Mối
quan hệ giữa Hát Xoan và hát Ca trù” (Tú Ngọc 1997), với hát Ví, hát Đúm, hát
Ghẹo, hát Trống quân; Hát Xoan và hát Dậm, hát Ch o tàu. Mối quan hệ Hát Xoan
và hát Quan họ được nghiên cứu trong “Tương đồng, khác biệt giữa Hát Xoan, hát
Ghẹo Phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh” của Phạm Trọng Toàn (2006).
Các công trình nghiên cứu về Hát Xoan nói trên đều ít nhiều đề cao giá trị
của di sản này, nhất là khi Xoan được ghi danh DSVHPVT cần được bảo vệ
khẩn cấp. Các giá trị của Hát Xoan được nói tới như giá trị lịch sử, giá trị tín
ngưỡng (thờ thần thành hoàng), lệ tục (giữ cửa đình, kết nước nghĩa), giá trị
18
nghệ thuật (loại hình diễn xướng dân gian mang tính nguyên hợp bao gồm nói,
kể, ví, vè, ca hát, múa, diễn trò, hô ứng đệm; lại có cả hình thức hát nước nghĩa, hát
theo cuộc, hội, đám, phường; lại có nhiều giọng như giọng nguyên, giọng vặt; lại có
nhiều thể thức hát như hát lề lối, hát đối đáp, hát tự do; môi trường diễn xướng đa
dạng như ngoài trời, trong nhà, ngoài sân đình, sân chùa, sân khấu...).
Nghiên cứu về bảo tồn và phát huy di sản Hát Xoan
Công tác bảo tồn và phát huy di sản Hát Xoan được đề cập tới trong một
số nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhạc sĩ từ những năm 90 của thế kỉ XX,
và được quan tâm nhiều hơn là sau khi loại hình dân ca này được UNESCO công
nhận là DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Hướng bảo tồn và phát
triển Hát Xoan được tác giả Tú Ngọc (1994) đề xuất trong “Hát Xoan Vĩnh Phú
(mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc trưng loại hình và hướng bảo tồn phát triển)”, với
bốn hướng gồm: 1) Lễ hội hóa Hát Xoan bằng cách tổ chức các cuộc hát trong
các lễ hội ở Phú Thọ, tiêu biểu là lễ hội Đền Hùng; 2) Phổ cập hóa Hát Xoan
bằng cách truyền dạy những làn điệu Hát Xoan trên chính những làng Xoan cổ,
Xoan mới và trong các trường học; 3) Khuyến khích các nghệ sĩ, nhạc sĩ sáng
tác, dàn dựng các chương trình nghệ thuật mang chất liệu Xoan; 4) Đưa Hát
Xoan hội nhập với du lịch địa phương (tr.24-26). Đồng tình với những giải pháp
bảo tồn Hát Xoan của Tú Ngọc, nhạc sĩ Cao Khắc Thùy đề xuất thêm rằng, cần
tạo môi trường “sống” cho loại hình di sản này bằng cách trả Hát Xoan về với
những tục lệ của cộng đồng chủ thể đồng thời cần tập trung “trồng” lại vốn dân
ca Xoan trên đất xưa của nó (tr. 57). Câu chuyện về bảo tồn Hát Xoan dù được
bàn thảo trở lại vào năm 2003 trong các nghiên cứu của Tổng tập văn nghệ dân
gian đất Tổ nhưng do Xoan và Ghẹo vẫn được lồng ghép về thể loại nên việc bảo
tồn Hát Xoan không có nhiều thay đổi. Đến năm 2011, khi Hát Xoan được
UNESCO công nhận là DSVHPVT của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp, các nhà
nghiên cứu, quản lý mới đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý, bảo tồn loại hình
dân ca này. Cao Khắc Thùy trong Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường
19
(2011), Cao Hồng Phương trong Hát Xoan, hát Ghẹo một giá trị văn hóa phi vật thể
(2011) bàn luận về khôi phục, bảo tồn, củng cố, mở rộng, thành lập phường Hát
Xoan, công tác đào tạo cán bộ và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước và
chính quyền tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra còn có các bài tham luận bàn về vấn đề bảo tồn
Hát Xoan trong giai đoan hiện nay được trình bày tại Hội thảo quốc tế về Hát
Xoan do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ chủ trì năm 2012.
Nghiên cứu về di sản hóa Hát Xoan
Vấn đề di sản hóa Hát Xoan được nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Phương
Châm nói tới trong bài viết “Thực hành hát Xoan từ khi được UNESCO ghi danh
và những vấn đề đặt ra” (2017) và trong nghiên cứu cùng nhóm tác giả Hoàng
Cầm, Nguyễn Thị Hiền “Bảo vệ và phát huy DSVHPVT được UNESCO ghi
danh: thành tựu, bất cập và các khuyến nghị” (2018). Cách thức đưa Hát Xoan
thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp, bảo vệ và phát huy Xoan của tỉnh Phú Thọ
đặt ra nhiều vấn đề đối với diện mạo di sản. Việc thành lập các CLB Hát Xoan
trong toàn tỉnh, cách thức đưa Hát Xoan vào dạy trong công sở, trường học và
cách Hát Xoan xuất hiện trong mọi chương trình nghệ thuật tại địa phương đã
dẫn đến nhiều các nguy cơ cụ thể. Theo các tác giả, việc chính quyền các cấp
dành sự quan tâm quá mức cho các hoạt động bảo vệ di sản Hát Xoan, từ vấn đề
truyền dạy lẫn hoạt động quảng bá và phát huy đã dẫn đến sự mất cân đối khá rõ
giữa các di sản trong địa bàn. Nguy cơ mai một của các loại hình dân ca khác là
khá cao, khi hầu như mọi sự đầu tư, đề cao là dành cho Hát Xoan. Chưa kể, việc
Xoan hóa một di sản vốn chỉ thuộc về một số cộng đồng trong phạm vi hẹp
thành thực hành trên toàn tỉnh khiến dẫn tới sự phản cảm với nhiều người dân tại
các địa bàn khác trong tỉnh. Thêm vào đó, quá trình ghi danh và bảo vệ Hát
Xoan cũng đặt ra vấn đề chính thống hóa, với sự can thiệp của Sở VHTTDL
trong mọi công việc liên quan đến Hát Xoan như điều tra, sưu tầm, kiểm kê, tư
liệu hóa, nghiên cứu, truyền dạy, quảng bá, quản lý các phường Xoan, lịch và
chương trình biểu diễn, công tác nghệ nhân... với các thực hành vốn dĩ nằm
20
trong tầm kiểm soát của cộng đồng 4 làng Xoan cổ. Những câu chuyện hành
chính hóa Hát Xoan như các lớp truyền dạy Xoan do Sở VHTTDL quản lý,
người đến dạy, học kí nhận, trả tiền; sự can thiệp của Sở để đưa Hát Xoan vào
chương trình kịch bản nhiều lễ hội trong tỉnh; mẫu trang phục Hát Xoan nghệ
nhân mặc theo thiết kế của tỉnh, công tác xét công nhận nghệ nhân theo các tiêu
chí hành chính... và các bất cập trong truyền dạy và công tác nghệ nhân cũng
được nhóm tác giả đề cập trong các bài viết.
Các nghiên cứu về di sản hóa, về Hát Xoan, về di sản hóa Hát Xoan đã
gợi mở nhiều vấn đề cho tác giả luận án. Các nghiên cứu đi trước đã cung cấp hệ
thống lý luận về di sản hóa, đồng thời chỉ ra các nguy cơ di sản hóa với các di
sản trong quá trình được ghi danh và giai đoạn hậu ghi danh. Những nghiên cứu
đã có về Hát Xoan cho thấy, đây là một loại hình dân ca nghi lễ, gắn với tục thờ thần
tại các đình miếu địa phương. Các chặng hát, bài bản hát, quy tắc múa Xoan liên
quan chặt chẽ với yếu tố tín ngưỡng, vậy nên nguy cơ di sản hóa Hát Xoan khi loại
hình di sản này bị tách khỏi môi trường nghi lễ và trong các bối cảnh diễn xướng là
rất lớn. Từ các công trình đã có, luận án nhận thấy còn một khoảng trống lớn trong
nghiên cứu về Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa tại Việt Nam. Quá trình di sản hóa
Hát Xoan, gồm việc lập hồ sơ công nhận di sản và những tác động di sản hóa sau ghi
danh như vừa tăng quyền vừa giới hạn quyền của chủ thể di sản; sự tham gia, quản lý,
sân khấu hóa, sáng tạo truyền thống với Hát Xoan cũng như vấn đề về sự tồn tại của
di sản Hát Xoan như một sinh thể sống với nhiều các biến đổi nhằm thích ứng với
nhu cầu của người dân, trong bối cảnh đời sống kinh tế, chính trị xã hội tại địa
phương... vẫn còn chưa được đề cập nhiều trong các nghiên cứu. Khoảng trống này
chính là các nội dung mà luận án hướng tới.
1.2. Khái quát chung về Hát Xoan
1.2.1. Hát Xoan: những vấn đề về thể loại và nguồn gốc
Về thể loại Hát Xoan
Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình dân ca nghi lễ phong
21
tục, có lịch sử hình thành và quá trình tồn tại gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương của cư dân Việt nơi này. Hát Xoan, hay hát Lãi L n, hát Thờ, hát
Khúc môn đình… là lối hát thờ, thường được tổ chức vào mùa xuân. Các nghiên
cứu đã có về Hát Xoan đều khẳng định đây là loại hình dân ca có lịch sử lâu đời,
gắn liền với thời Văn Lang. Hiện tại, Hát Xoan gắn với 30 cửa đình, đền tại Phú
Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di tích thờ các vua Hùng và các nhân vật
thời Hùng Vương. Trong số đó, chỉ có 4 làng được xem là có họ Xoan cổ là An
Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái (trước cách mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, này đều thuộc thành phố Việt Trì)1. Các làng Xoan gốc này thuộc vùng
sơn phận núi Hùng, cũng là những nơi hiện còn lưu giữ được 31 bài bản Hát Xoan
cổ. Hát Xoan là loại hình dân ca địa phương, các làng Xoan là những ngôi làng cổ
nằm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - vùng đất Tổ gắn với nước Văn Lang của các vua
Hùng. Tỉnh trung du Phú Thọ nằm ở Tây Bắc, Bắc Bộ Việt Nam, trước đây được
biết đến với tên gọi Vĩnh Phú. Từ tháng 3/1997, Vĩnh Phú được chia tách thành hai
tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Dựa theo các tư liệu lịch sử văn hóa về vùng đất Phú
Thọ đã được các tác giả Tú Ngọc (1997), Nguyễn Khắc Xương (2008), Dương Huy
Thiện (2015), … bàn định trong hầu hết các cuốn sách về Xoan, chúng tôi xin điểm
một số nội dung chính liên quan đến không gian văn hóa của Xoan như sau.
Địa bàn tỉnh Phú Thọ ngày nay thuộc vùng đất tổ Hùng Vương. Đại việt sử
kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Việt sử lược, Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán
triều Nguyễn) đều cung cấp thông tin về vùng đất của Hùng Vương ở châu Phong/
đất Phong Châu xưa. Vùng đất này gắn với truyền thuyết về các vua Hùng dựng
nước Văn Lang. Cương vực của nước Văn Lang đến đâu hiện vẫn còn tồn tại nhiều
giả thuyết, nhưng đều có một điểm thống nhất chung là trung tâm của nhà nước
Văn Lang nằm tại Châu Phong, giới hạn ở khu vực tam giác Ngã ba Hạc – núi
Hùng thời Lê và Nguyễn thuộc huyện Bạch Hạc rồi Hạc Trì. Đây cũng chính là
không gian tập trung của các làng Xoan cổ. Và những truyền thuyết về nguồn gốc
ra đời của Xoan, các lời hát và nghi thức hát thờ trong Xoan gắn bó chặt chẽ với
1 Cả 4 họ Xoan đều được gọi theo tên làng.
22
thời đại và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trên dải đất này.
Các tư liệu khảo cổ học cho thấy, trên đất Phú Thọ ngày nay đã có dấu tích
sinh sống của người Việt cổ cách nay hàng chục nghìn năm. Tại địa bàn huyện
Phong Châu (Phú Thọ) đã phát hiện thấy các di chỉ khảo cổ thuộc về giai đoạn văn
hóa Sơn Vi (cách ngày nay 10.000 – 20.000 năm, thuộc cuối thời Đá Cũ); cùng với
đó là các di chỉ phát hiện trên đất Phú Thọ thuộc thời kì văn hóa Tiền Đông Sơn
cách đây trên dưới 4000 năm Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun, giai đoạn văn
hóa Đông Sơn (với các di chỉ Chính Nghĩa, Làng Cả, Đồng Se, Vạn Thắng…) cho
thấy sự cư trú lâu đời cùng những thành tựu văn hóa qua từng thời kì của cư dân
Việt cổ tại vùng đất này. Tầng văn hóa sâu dày tạo nên một lớp trầm tích văn hóa,
trong đó rất nổi bật là tín ngưỡng và truyền thuyết dân gian liên quan tới hai nhân
vật: vua Hùng và Tản Viên. Theo thống kê, trên đất Phú Thọ có trên 700 đình miếu
thờ các vị thần thời Hùng Vương – Văn Lang. Nhiều làng xã ở Phú Thọ còn bảo
lưu một số tín ngưỡng như thờ thần núi cao, thần nước, thần mặt trời, thần lúa với
những nghi thức tín ngưỡng phồn thực (Tú Ngọc, 1997, tr.20). Trên khắp địa bàn
tỉnh Phú Thọ hiện vẫn thực hành các lễ hội, nghi thức và trò diễn liên quan đến các
tín ngưỡng dân gian. Các loại hình dân ca cũng phát triển rất đa dạng và phong phú,
với Hát Xoan, hát Ghẹo, hát Trống quân Hữu Bổ, hát Ví… Trong dân gian còn phổ
biến nhiều bài vè, tục ngữ, truyện kể gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp
lúa nước, những biến cố lịch sử của người dân nơi này.
Ngoài ra, Phú Thọ còn là vùng đất nổi bật với những kiến trúc truyền thống
tiêu biểu gắn với sinh hoạt tôn giáo như đình, đền, chùa, tháp… Những công trình
kiến trúc cổ mang nhiều giá trị thẩm mỹ và văn hóa như đình Tam Canh (Tam
Dương), Thổ Tang (Vĩnh Tường), Lâu Thượng (Việt Trì), Hữu Bổ, Do Ngãi, Hùng
Lô (Lâm Thao, Phù Ninh), tháp Bình Sơn (Lập Thạch) … Văn hóa Phú Thọ còn
được đa dạng thêm bởi những di sản văn hóa truyền thống của cư dân các dân tộc
thiểu số sống trên địa bàn như dân tộc Mường với nghệ thuật đánh trống đồng (ở
Thanh Sơn), tục đâm đuống, ném còn, hát ví; dân tộc Cao Lan với múa chim gâu,
sọc cộng (xúc tép); dân tộc Dao, Sán Dìu với hát đám cưới, giao duyên… và kho
23
tàng truyện kể, trường ca, lễ tục và lễ hội mang đậm bản sắc riêng có.
Hát Xoan sinh ra từ các làng Xoan Phù Đức, Kim Đức, An Thái, Thét và giữ 14 cửa đình ở 181 xã thuộc cả hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. “Các làng Xoan nối
nhau thành một dải, vắt từ sông Lô sang sông Thao, vòng mé trước núi Hùng nơi có
đền Hùng mộ tổ như một chuỗi hạt châu” (Nguyễn Khắc Xương, 2008, tr.10).
Quê hương Xoan là vùng trung du bán sơn địa, đồi nối đồi. Các làng Xoan ở
vào địa thế đồi cao núi thấp, với những đầm nước, khe ngòi xen kẽ. Vùng đất sỏi,
đất cát pha, với đồi đá ong đất vàng đỏ, trước đây phần lớn là đồi trọc, đồi hoang
với sim, mua, ràng ràng… Xen giữa đồi núi là những tràn ruộng kiểu chân ruộng
sâu úng nước, đất chua và lầy thụt, để có thể cày cấy gặt phải dùng kĩ thuật quăng
nứa tre làm đà để dựa vào đó cho khỏi bị chìm. Ngoài lúa, người dân trồng thêm sắn
làm lương thực. Cây đặc sản ở các làng Xoan còn có cọ, sơn, ch , dứa.
Các làng Xoan nằm trên địa bàn xưa là thủ đô nước Văn Lang. Đối chiếu với
bản đồ khảo cổ, đây cũng là vùng dày đặc các di chỉ cho thấy những giai đoạn phát
triển văn hóa của người Việt cổ từ thời nguyên thủy tới thời kì của nhà nước Văn
Lang. Chỉ riêng trong vùng đất Phong Châu và Việt Trì hiện có tới trên 30 di chỉ
khảo cổ, cung cấp các bằng chứng cho thấy đây là một trung tâm tụ cư của người
Việt cổ, cũng là cái nôi văn hóa Văn Lang thời Hùng Vương. Tác giả Nguyễn Khắc
Xương (2008) đã căn cứ vào sự trùng hợp giữa vùng Xoan và vùng khảo cổ, với
những phát hiện khảo cổ về nền văn hóa Văn Lang và đưa ra một số nhận định:
1/Vùng Xoan là vùng văn hóa cổ có một truyền thống văn hóa rất lâu đời hình
thành từ buổi bình minh của dân tộc. 2/ Tính chất cổ sơ của địa bàn Xoan cũng như
tính truyền thống của văn hóa đã tạo nên nếp sinh hoạt và văn hóa vùng Xoan. 3/
Xoan bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa cổ (Nguyễn Khắc Xương, 2008, tr.20).
Lõi của không gian văn hóa Xoan Phú Thọ là 4 làng Xoan cổ An Thái, Phù
24
Đức, Kim Đới, Thét. Đây được gọi là vùng “Xoan gốc”. Bốn làng này trước cách 1 18 xã ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc có Hát Xoan: 1. Xã An Thái (Phượng Lâu – Việt Trì); 2. Xã Kim Đức (Phủ Đức – Việt Trì); 3. Xã Thụy Vân (Việt Trì); 4. Xã Nông Trang (Việt Trì); 5. Xã Dữu Lâu (Việt Trì); 6. Xã Thành Đình (Việt Trì); 7. Xã Trưng VƯơng (Việt Trì); 8. Xã Cao Mại (Lâm Thao); 9. Xã Hữu Bổ (Lâm Thao); 10. Xã Tử Đà (Phù Ninh); 11. Xã Y Kỳ (Phù Ninh); 12. Xã Phù Ninh (Phù Ninh); 13. Xã Nha Môn (Phù Ninh); 14. Xã Tây Cốc (Đoan Hùng); 15. Xã Hương Nộn (Tam Nông); 16. Xã Hoàng Thượng (Kim Xá, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc); 17. Xã Đức Bác (Lập Thạch – Vĩnh Phúc); 18. Xã Tử Du (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, và cả bốn làng đều thuộc vùng địa
phận núi Hùng.
Về nguồn gốc của Hát Xoan
Tìm hiểu về nguồn gốc của Hát Xoan, thực tế tư liệu cho thấy, những câu
chuyện kể liên quan trực tiếp đến nguồn gốc của loại hình dân ca nghi lễ này đều mang
đậm màu sắc huyền thoại. Lời giải thích về nguồn cội Xoan luôn gắn với các truyền
thuyết, những câu chuyện dã sử. Thêm vào đó, các câu chuyện nguồn gốc Xoan lại có
nhiều dị bản, và hiện tại, mỗi làng Xoan đều có một bản riêng của mình về gốc tích
Xoan nhằm khẳng định địa bàn Xoan của mình mới là phường „Xoan gốc‟. Chính bởi
vậy, các nhà nghiên cứu buộc phải tìm kiếm câu trả lời thông qua nhiều cách thức khác
nữa, bên cạnh việc sưu tầm những lời kể về nguồn gốc ra đời này.
Để tìm hiểu về nguồn gốc Hát Xoan, các nhà nghiên cứu đã tiến hành dựa
trên ba đường hướng: từ các câu chuyện về nguồn gốc Hát Xoan hiện vẫn được kể
và phổ biến trong các làng Xoan cổ và một số làng Xoan kết nước nghĩa để phỏng
đoán về thời điểm ra đời của Xoan; từ chính bản thân loại hình nghi lễ diễn xướng
này (với ca từ, tục lệ, nghi thức thờ phụng và diễn xướng) để đưa ra những phỏng
đoán về không gian truyền thống lâu đời của Xoan; đặt Hát Xoan trong mối tương
quan với các lại hình dân ca khác (hát Dặm, hát Nhà tơ, hát Quan họ…) nhằm
khẳng định nguồn gốc chung của các loại hình diễn xướng này.
Từ những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại về nguồn gốc Hát Xoan, với
nhiều bản kể khác biệt ở các làng, khó có thể đưa ra một luận điểm chính xác về
nguồn gốc ra đời của Xoan. Những câu chuyện của làng Phù Đức, Cao Mại có liên
quan đến thời điểm lịch sử tồn tại của Hát Xoan là từ thời Hùng Vương; truyện kể
của các nghệ nhân An Thái lại kết nối Xoan và triều đại nhà Lý (khoảng thế kỉ thứ
XII) nhưng đầy huyền hoặc, không thể là một cơ sở lịch sử vững chắc và cụ thể.
Thêm vào đó, các truyền thuyết và huyền thoại còn được lưu truyền và kể lại với
mục đích rõ ràng trong việc coi vùng đất của mình mới là nơi phát tích của tục lệ,
25
thêm thắt những địa danh và yếu tố điển hình nào đó của địa phương vào truyện kể
nhằm gia tăng tính thuyết phục. Nhưng những truyện kể mang tính huyền thoại này
về nguồn gốc và tục lệ của Xoan đều có một điểm chung là niềm tin vào tính thiêng
của các vị nhân thần, nhiên thần; và niềm tin đó đã biểu hiện thành tập tục thờ cúng
các vị thần hòng mong cộng đồng có một cuộc sống no đủ, phồn thịnh. Và niềm tin,
tục lệ thờ thần này đã trở thành yếu tố cốt lõi hình thành nên các lễ hội trong nhiều
cộng đồng cư dân cư trú trên mảnh đất Văn Lang xưa.
Ngoài ra, khi tìm hiểu về nguồn gốc của Hát Xoan, ngoài việc sưu tầm tìm
kiếm những câu chuyện liên quan đến sự ra đời của loại hình dân ca nghi lễ này, các
nhà nghiên cứu còn tiến hành thao tác „bóc tách‟ những dấu ấn văn hóa trong các ca
từ, thể thức, tục lệ Hát Xoan nhằm thêm khẳng định về nguồn gốc xa xưa và vốn
văn hóa sâu dày tiềm chứa trong loại hình dân ca nghi lễ này. Qua các mối quan hệ
kết nghĩa giữa phường Xoan và các nơi mà Xoan đến hát, qua tục lệ tế thần ở những
hội làng mà Xoan hiện diện, qua những bài bản, trò diễn trong nghi thức của Xoan
hiện vẫn còn đang được thực hành, các nghiên cứu cho thấy một số vấn đề nổi bật.
Xoan gắn với lễ hội truyền thống của các cộng đồng. Trong các lễ hội tại
„vành đai‟ Xoan, có riêng một phần bài bản Hát Xoan cho nghi lễ thờ phụng tại các
đình đền. Lời hát thờ hướng lòng kính ngưỡng và cầu xin sự phù trợ từ các lực
lượng tự nhiên gắn bó thiết thân với cư dân nông nghiệp (thần lúa, thần mặt trời,
cầu sấm, cầu mưa…); hướng tới các vị nhiên thần, nhân thần bảo trợ cho cuộc sống
của con người (vua Hùng và các tướng lĩnh của nhà vua, Thánh Tản, các công
chúa…); hướng tới sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người (cầu của, cầu
con…). Xoan và lệ tục trong Hát Xoan còn cho thấy một đời sống tín ngưỡng sinh
động và đa dạng của cư dân Việt. Đó là tín ngưỡng thờ các vị thần nông nghiệp như
thần lúa, thần lửa…; tín ngưỡng thờ vật linh cổ xưa được gợi lên từ tục thờ bánh
nẳng, thịt bò (miếu Lãi L n, Phù Đức); tín ngưỡng phồn thực với những lời hát bày
tỏ ước nguyện về một cuộc sống „phong đăng hòa cốc‟, „thóc lúa đề đa‟, „lắm của
đông con‟; tín ngưỡng thờ Hùng Vương và các tướng lĩnh của vua Hùng (vừa có ý
26
nghĩa thờ tổ tiên, vừa thờ các anh hùng dân tộc, lại vừa được thờ làm Thành hoàng
làng). Không gian tiến hành nghi thức diễn xướng Xoan cho thấy một số vấn đề về
sự chồng lấp các lớp văn hóa. Ngày nay, Xoan còn được xếp vào hình thức „hát cửa
đình‟. Lối hát cửa đình bộc lộ tính chất cơ bản của Hát Xoan và chi phối lề lối cũng
như nội dung và hình thức diễn xướng của lối hát này. Lấy ngôi đình làm trung tâm,
Hát Xoan gắn bó với sự phát triển của đình làng. Nhưng điều này không đồng nghĩa
với sự đồng nhất về thời gian xuất hiện trong lịch sử giữa ngôi đình và Hát Xoan.
Những nghi thức thờ cúng và lễ hội mà Xoan gắn bó chặt chẽ (tín ngưỡng vật linh,
phồn thực, tổ tiên…) cho thấy lớp văn hóa này sớm hơn sự xuất hiện của đình làng
(vốn được tạm chấp nhận dấu mốc xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ XVI, với vết
tích từ các ngôi đình Tây Đằng (Hà Tây), Thổ Hà (Bắc Ninh). Ngoài ra, đình làng
không phải là không gian thiêng duy nhất trong nghi thức diễn xướng Hát Xoan.
Dựa trên hiện tượng hát lệ tại miếu Lãi Lèn, thậm chí là còn phải dựng lại cảnh hát
xướng ngoài bãi cỏ (nơi đất thiêng theo truyền thuyết có liên quan đến sự hiện diện
của anh em vua Hùng trong truyền thuyết) hiện vẫn còn sót lại ở làng Phù Đức, có
thể thấy không gian thiêng của Xoan trước khi xuất hiện đình có thể là một nơi linh
thiêng nào đó trong ý niệm của cộng đồng như gò, miếu, đền. Chỉ sau này, khi đình
làng có vị trí trung tâm thì việc tế thờ và diễn xướng mới được chuyển dần về đây.
Dấu ấn lịch sử được bộc lộ trong nội dung các bài bản và sự mở rộng về mặt
thể loại của Hát Xoan là điểm nổi bật có thể nhận thấy từ chính ca từ của Hát Xoan.
Trong lời ca của Giáo pháo, Tứ mùa cách, Đóng đám là triều đại Hậu Lê cùng địa
danh, nhân vật, chính sách xã hội của triều đại đó: Nhà tôi nhà Lê/ Là sông Bồ đề/
Là núi Việt Nam/ Trở về thiên hạ (Giáo pháo); Đền cũ chúa ông/ Thái Tổ Thái
Tông/ Là vua lão hoàng (Tứ mùa cách); Văn áo đỏ, võ ở cửa quyền/ Ở đất này càng
thêm nhang thịnh/ Văn – Thái thú, Thái Bảo, Thái đế/ Võ – Tư đồ, Tư mã, Tư
chiêng (Đóng đám); Cày bừa ruộng Lê/ Là núi Năm Le (Giáo pháo); Là văn đi thi/
Chiếm bảng khôi khoa/ Là võ dẹp giặc/ Bảng khoa choi chói/ Là đã làm nên/ Nhà
ngói năm gian/ Là trong muôn đời/ Sống được làm quan/ Cưỡi ngựa bên Tàu/ Vinh
27
quy bái tổ (Giáo pháo)… Từ những dấu ấn lịch sử cụ thể này, đối chiếu với cứ liệu
về sự thay đổi địa vị độc tôn của Nho giáo vào triều đại nhà Lê (thế kỉ XV), nhà
nghiên cứu Tú Ngọc (1997) đã nhận định “quá trình phát triển của Hát Xoan từ giai
đoạn đền miếu đến giai đoạn cửa đình cũng bao gồm cả quá trình từ văn hóa bản
địa – dân gian đến sự xâm nhập của văn hóa Nho giáo. Khi thiết chế nhà nước
phong kiến yếu kém và xã hội bộc lộ nhiều mâu thuẫn thì yếu tố bản địa – dân gian
lại có điều kiện phát triển, thu nạp thêm cái mới” (tr.89). Và điều này theo ông càng
thêm thuyết phục khi chiếu vào sự dung nạp những nội dung giao duyên trong một
số bài bản Xoan vốn nghiêm trang, giàu chất tri thức như Gài hoa, Giã cá; hoặc
việc thêm các trò chơi nam nữ như hát Đúm, hát Trống quân Đức Bác vào quá trình
diễn xướng Hát Xoan.
Việc xác định nguồn gốc của Xoan còn được dựa vào cơ sở rằng, Xoan có
chung một nguồn gốc với hát Dặm, hát Nhà tơ hoặc hát Quan họ. Đây thực chất
mới chỉ là một giả định, dựa hoàn toàn trên những nét khá giống nhau của các thể
loại này để suy đoán. Giả thuyết này cũng chưa phân tích được một cách thuyết
phục về căn nguyên của những nét tương đồng giữa các thể loại này; và không cắt
nghĩa được sự khác nhau giữa các loại hát đó.
Nhìn chung, từ những tư liệu hiện tại, vẫn chưa thể đưa ra được một câu trả
lời thuyết phục về thời điểm ra đời của Hát Xoan. Những câu chuyện dân gian về sự
ra đời của Xoan được lưu truyền từ đời này qua đời khác, vừa được huyền thoại
hóa, vừa được lịch sử hóa; vừa có những yếu tố thực của con người, thời đại lịch sử
lại vừa có những yếu tố huyền hoặc linh thiêng. Những truyền thuyết cho rằng Hát
Xoan có từ thời Hùng Vương, dù được minh chứng tưởng chừng rất thuyết phục
bằng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã và đang phổ biến ở các làng Xoan, bằng
niềm tin chắc chắn trong tâm thức của cư dân nhiều phường Xoan; nhưng không thể
mang lại nhiều cơ sở khoa học bởi chúng mang đậm màu sắc huyền thoại. Câu
chuyện nguồn gốc Hát Xoan lên quan đến công chúa Kiều Giang dù cung cấp một
cái tên và triều đại cụ thể (nhà Lê), dù giúp cắt nghĩa được lề lối hát của quả cách
28
đầu tiên (Kiều Giang cách, hát có phách k m theo) nhưng lại vẫn rất mơ hồ khi đối
chiếu với các dữ liệu lịch sử: công chúa con của vua Lê nào? Hành trạng ra sao?
Bến Chương Lương ở đâu tại Phú Thọ? Những dữ liệu về triều Lê với một số chính
sách kinh tế xã hội, đặc thù văn hóa song vẫn không thể giúp khẳng định Hát Xoan
ra đời từ đó, vì những yếu tố thời đại cụ thể hoàn toàn có thể là yếu tố tích hợp vào
loại hình Xoan đã có từ trước.
1.2.2. Tổ chức, lệ tục Hát Xoan
Tổ chức của Hát Xoan
Điều đặc biệt trong tổ chức mang tính truyền thống của Xoan là đơn vị
phường/ họ Xoan. Phường Xoan là một tổ chức tập hợp những người đi hát trong
một làng, thôn hay xã. Xoan không phải là một loại hình diễn xướng mang tính cá
nhân hay tùy hứng mà có tính tập thể và sinh hoạt phường hội rất chặt chẽ. Điều
này thể hiện rõ trong lịch sinh hoạt chung (hiện nay, lịch sinh hoạt này khá cố định
và đều đặn, diễn ra hàng tuần, khi có lịch biểu diễn thì sinh hoạt tập luyện hàng
ngày); trong văn bản chép tay các bài hát lề lối cũng những động tác múa, trống
phách đi k m; trong những quy định về trò diễn kết hợp trong khi diễn xướng.
Phú Thọ có 4 họ Xoan được gọi theo tên làng là các họ An Thái, Phù Đức,
Kim Đới và Thét. Tuy nhiên, không gian Xoan không bó hẹp chỉ ở 4 làng này mà
lan tỏa cùng với những làng mà Xoan kết nước nghĩa, đến hát vào mỗi dịp hội tế. Theo
những nghiên cứu điền dã của các nhà văn hóa dân gian đi trước (Tú Ngọc, 1997;
Nguyễn Khắc Xương, 2008; Dương Huy Thiện, 2015); phường Xoan được mô tả rất
sống động với kết cấu tổ chức độc đáo và chặt chẽ. Chúng tôi xin tóm lược một số
điểm nổi bật trong mô tả về các phường Xoan truyền thống này như sau:
Về tính chất, đây là một tổ chức văn nghệ của những người trong một làng.
Hoạt động của phường Xoan diễn ra song song với công việc lao động mưu sinh.
Hát Xoan là sinh hoạt tín ngưỡng và giải trí mang tính tự nguyện, không phải và
không thể là một nghề mưu sinh. Vì là tổ chức của làng, liên quan đến hoạt động tín
ngưỡng của làng và làng kết nước nghĩa nên phường Xoan chỉ nhận người làng mà
29
không bao giờ nhận nạp người nơi khác. Vì thế, nhiều trường hợp người trong gia
đình, trong chi họ ở cùng một phường, lần lượt vào phường theo từng thế hệ, hình thành nên tính truyền thống kiểu „kế thế Xoan phường‟1. Đặc điểm này sẽ chi phối
đến các hoạt động khác cũng như quan hệ của những người trong một phường
Xoan. Cách họ đối đãi giao tiếp với nhau như trong gia đình, xưng hô theo tuổi và
thứ bậc họ hàng. “Phường Xoan là một tổ chức phường họ mang tính gia trưởng”
(Nguyễn Khắc Xương, 2008, tr.24).
Về số lượng, mỗi phường Xoan có khoảng 13 đến 16 người (có tài liệu ghi
16 tới 20 người), trong đó có một trùm phường, 4 đến 5 kép và các đào (số đào
nhiều hơn số kép).
Về thành phần, một phường Xoan luôn có trùm phường (người đứng đầu
phường); kép (giữ phần giáo trống, giáo phách (phần mở đầu của buổi hát); đào
(những diễn viên của phường, còn được gọi với tên cô đào, ả đào). Trùm phường –
người đứng đầu một phường Xoan – theo mô tả của các nhà nghiên cứu đi trước,
bao giờ cũng là nam. Nhưng thực tế hiện nay trong 4 phường Xoan cổ thì có một bà
trùm nữ (bà Nguyễn Thị Lịch), làm trùm phường nối nghiệp cha. Có vẻ giới tính
của trùm phường không phải là vấn đề quá quan trọng trong bối cảnh hiện tại, miễn
là người đó có những tố chất mà một trùm phường cần có. Đó là một người đứng
tuổi, đã đi hát lâu năm, thuộc nhiều làn điệu, bài bản Xoan, có uy tín, kinh nghiệm,
biết giao thiệp ứng xử (cả đối nội và đối ngoại). Trùm phường chịu trách nhiệm về
hoạt động của phường mình trên mọi phương diện, từ việc tập dượt nội dung các
bài bản Xoan và phương thức trình diễn cho đào kép đến việc quản lý tài sản của cả
phường (gồm quần áo, trống phách, tiền thưởng). Vai trò của trùm phường còn thể
hiện trong việc chia tiền thưởng sau mỗi năm đi hát, giữ một số tiền thưởng để mua
lợn nuôi làm vốn cho cả phường. Việc chia thưởng này còn cần tính đến phần hơn
cho những đào kép giỏi có công lao nổi bật với phường Xoan, và nếu làm không
công tâm, không khéo léo, rất có thể sẽ là nguồn cơn của các mâu thuẫn. Chính vì
1 Tại phường Xoan, có trường hợp người ở 3, 4 thế hệ trong một gia đình đều là thành viên của phường.
30
thế, tiêu chuẩn chọn trùm phường luôn ngặt ngh o, và hướng đến những năng lực,
phẩm chất mà một người cụ thể trong phường có, chứ không chịu chi phối của giai
tầng hay giàu nghèo. Và vì hát có mùa nên việc làm trùm cũng theo thì, không quá
bận rộn. Và trong nhiều trường hợp, trùm phường phải bỏ tiền ra cho sinh hoạt
chung của phường (tiền mua dầu thắp, củi nước, trầu cau… khi phường Xoan tập).
Đổi lại, trùm có phần thịt lợn ngày cúng tổ và món gạo tiền thù lao khi hát bài hát
Nhập tịch và Chào giã ở các làng mà Xoan đến hát. Trùm cũng được toàn quyền
chỉ đạo và điều phối các hoạt động, ý kiến của trùm phường là quyết định với các
hoạt động của phường.
Đào kép trong phường Xoan: có thể là những người trẻ, trong độ tuổi đôi
mươi, chưa lập gia đình hoặc cũng có thể là những người có tuổi. Điều quan trọng
với đào là cần có giọng hát tốt và dáng xinh đẹp, với kép là vốn Xoan và giáo trống
thành thạo.
Về hoạt động của phường Xoan: trước đây, Xoan chỉ biểu diễn theo mùa lễ
hội, một năm một mùa. Vậy nên đơn vị tổ chức phường Xoan hoạt động dù chặt
chẽ quy củ nhưng có tính thời vụ. Cả năm, những thành viên của phường vẫn phải
lao động mưu sinh, chỉ đến khi „vào vụ‟ thì bắt đầu tập trung để tập dượt và biểu
diễn. Thời gian tập thông thường từ khoảng giữa tháng 11 đến cuối tháng Chạp âm
lịch, chuẩn bị cho mùa hát vào đầu tháng Giêng năm mới. Trong thời gian đó, các
đào kép ban ngày đi làm, tối đến tập trung tại nhà trùm phường để tập các bài bản,
điệu bộ, quả cách đã được ghi trong sách của trùm phường. Những buổi tập luyện
này trở thành quãng thời gian sinh hoạt cộng đồng – nơi đào kép say sưa tập luyện,
người dân trong làng thì kéo đến xem, vừa thưởng thức vừa bình phẩm bàn tán.
Bước sang thời điểm biểu diễn, Xoan sẽ được diễn xướng trong không gian lễ hội
tại cộng đồng mình và ở những làng kết nghĩa. Hết vụ Xoan, những thành viên của
phường về lại với nhịp sinh hoạt thường ngày, lao động mưu sinh và lại tiếp tục
chuẩn bị cho một mùa Xoan mới…
Như vậy, có thể thấy, đơn vị tổ chức của Hát Xoan không nằm ngoài kiểu tổ
31
chức phường họ trong văn hóa Việt Nam. Phường là một tổ chức của những người
có chung một nghề hoặc chung sinh hoạt, chung sở thích, đoàn kết nhau lại để hoạt
động và chia sẻ, trợ giúp lẫn nhau. Loại hình phường rất phổ biến tại các làng quê
và đô thị Việt – đó có thể là phường của những người cùng nghề thủ công nghiệp
(phường gốm, phường giấy, phường in); của những người buôn bán (phường sơn,
phường nón); cùng sinh hoạt (phường hiếu, phường hỉ). Bên cạnh đó còn là những
phường của những người cùng chung một loại hình văn hóa nghệ thuật (phường
lân, sư tử, phường rối, phường tuồng, phường ch o…). Và phường Xoan chính là
một tổ chức phường thuộc loại này – quy tụ những người cùng hoạt động trong một
loại hình diễn xướng.
Những lệ tục trong Hát Xoan
Vào mùa Xoan, các phường họ mở đầu mùa hát từ ngay ngày mồng một Tết.
Và luôn luôn, ngày hát đầu tiên sẽ ở chính tại trên quê của phường Xoan. Buổi
sáng, các phường hát tại đình của làng mình, và đến chiều tối, các họ Xoan họp với
nhau và lần lượt hát tại các đình miếu theo quy định: mồng một hát tại đình Cả và
miếu Cấm (làng An Thai và Phượng An); mồng hai hát tại đình Đơi (Kim Đới);
mồng ba hát tại miếu Lãi L n (Phù Đức); mồng bốn hát tại miếu Thét (Phù Đức).
Bốn cuộc hát tại bốn đình miếu này đều hát từ tối cho tới gà gáy sáng hôm sau. Đây
là những đêm hội xuân của cả mấy làng. Là không gian mà người Hát Xoan –
người chơi Xoan được phô diễn hết những vốn liếng mà mình có.
Bắt đầu từ ngày mùng bốn tết trở đi, các họ Xoan lần lượt đi hát ở các làng
nước nghĩa. Khác với việc hát tại bốn đình chính có cả 4 họ Xoan, khi đi hát theo
tục giữ cửa đình, thường cứ hai phường Xoan đi cùng nhau, ít khi đi hát cả 4
phường hoặc chỉ có một phường.
Tục giữ cửa đình có liên quan tới tục nước nghĩa. Xoan giữ cửa đình nào là
có quan hệ kết nghĩa với làng và dân ở đó. Nước nghĩa của Xoan không phải là tục
kết nghĩa giữa các làng với nhau – chỉ là của họ Xoan với làng, giữa dân với họ.
Đây là một điểm rất khác biệt trong tục lệ Hát Xoan, so với tục kết nghĩa của hát
32
Ghẹo (Phú Thọ) và Quan họ (Bắc Ninh). Trong mối quan hệ kết nghĩa này, dân địa
phương luôn ở vai anh, còn họ Xoan là vai em. Và việc kết nghĩa này là mãi mãi
không thay đổi. Và khi đã có quan hệ kết nghĩa, thì cấm người hai bên dân họ được
kết hôn với nhau – vì là anh em thì không lấy nhau được. Điều thú vị ở chỗ, khi đưa
ra tục cấm kết hôn thì “gia đình hóa” quan hệ nước nghĩa giữa dân và họ Xoan,
nhưng trong cách ứng xử ngoài vụ Hát Xoan thì mối quan hệ này lại không hề là
gánh nặng hay phiền toái gì cho cả hai bên, xét cả trên phương diện kinh tế lẫn ứng
xử. Mối quan hệ này chỉ đơn thuần diễn ra trong dịp hội làng, và kết nghĩa vì Xoan,
vì nghệ thuật và vì tín ngưỡng thờ thần linh giữa các làng.
Các phường Xoan giữ cửa đình sẽ tham gia trực tiếp vào các nghi lễ tế thần
của cộng đồng làng (trùm xoan đứng chiếu nhất, ngang hàng với chủ tế và ông từ,
đào Xoan tham gia rước Thành hoàng hoặc khiêng kiệu, chạy kiệu). Theo nghiên
cứu cụ thể từ tục hát cửa đình, có thể nhận thấy Xoan được sử dụng như một
phương thức giao tiếp chính với thần linh trong lễ tế - múa thờ, hát Nhập tịch mời
thần linh về dự lễ và hát Chào giã cuối lễ.
Ngoài ra, Xoan còn gánh trên vai trọng trách trong việc giao tiếp với thánh
thần nhằm đáp ứng các nhu cầu của cá nhân trong và ngoài làng. Điều này thể hiện
rõ trong tục lệ thù lao Xoan bằng ngô và gạo trước đây ở xã Đức Bác nhằm cầu
đinh (cầu con trai). Người trong làng hoặc người làng khác có thể đến cầu và tặng
ngô, gạo cho Xoan. Theo tục lệ này, Xoan hiện diện như một cầu nối trung gian,
Xoan dâng lời cầu xin của con người lên thánh thần và nhận phần lễ vật hậu hĩnh từ
phía người cầu cúng.
Căn cứ theo một số câu chuyện nhuốm màu huyền thoại lí giải việc các làng
phải mời các họ Xoan đến hát tại làng mình trong dịp tế thần linh, có thể thấy sự nổi
bật của việc “xuất hiện những điều không lành”; và Xoan chính là giải pháp cho
những điều không lành, bất an đó. Sự xuất hiện của Xoan đồng nghĩa với sự an yên,
thuận lợi, may mắn. Xoan như một món quà mà con người dành tặng tới thần linh
33
để đổi lại một cuộc sống như mong cầu.
Ngoài ra, trong không gian Xoan còn có tục lệ đón và tiếp đãi Xoan đến hát
tại làng; tục lệ nghiêm cấm việc đùa cợt chọc ghẹo các đào Xoan. Người vi phạm
điều cấm này sẽ bị bắt trói cột đình và phải sửa lễ tạ làng. Những tục lệ này một mặt
phản ánh sự trọng thị mà cộng đồng dành cho Hát Xoan – một loại hình dân ca nghi
lễ; mặt khác cho thấy tục lệ Xoan như một mảnh ghép trong bức tranh phong tục ở
nông thôn truyền thống với sức mạnh của lệ làng.
1.2.3. Diễn xướng Hát Xoan
Khi tìm hiểu về nghệ thuật diễn xướng Xoan, luận án sử dụng khái niệm „sự
diễn xướng‟ của Richard Bauman (2005[1975]) “một việc làm có tính folklore, và
một sự kiện có tính nghệ thuật – đó là tình huống biểu diễn, bao gồm người biểu
diễn, hình thức nghệ thuật, thính giả và bối cảnh” (tr.744). Theo quan điểm này,
những yếu tố về tổ chức và tục lệ của Xoan không hoàn toàn nằm ngoài diễn
xướng, song thuộc về các yếu tố tác động lên sự diễn xướng, bởi Xoan không đơn
giản là một loại hình nghệ thuật mà còn liên quan trực tiếp và chặt chẽ với tín
ngưỡng thờ cúng tại các đình miếu. Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu diễn xướng Xoan
thông qua bản thân thực hành này, trong những bối cảnh mà nó diễn ra.
Hát Xoan được xếp vào loại hình diễn xướng dân gian mang tính nguyên
hợp bao gồm nói, kể, ví, vè, ca hát, múa, diễn trò, hô ứng đệm; lại có cả hình
thức hát nước nghĩa, hát theo cuộc, hội, đám, phường; lại có nhiều giọng như
giọng nguyên, giọng vặt; lại có nhiều thể thức hát như hát lề lối, hát đối đáp, hát
tự do; môi trường diễn xướng đa dạng như ngoài trời, trong nhà, ngoài sân đình,
sân chùa, sân khấu... (Sở Văn hóa thông tin Phú Thọ 1995; tr.65). Yếu tố nổi bật
trong diễn xướng Xoan là thanh nhạc, khí nhạc và múa. Hình thức biểu diễn
thường thấy của Xoan là các cô đào vừa múa vừa hát trên chiếu trước bàn thờ,
với một kép nam đứng bên cột đình hát dẫn cách, cứ sau một đoạn các cô đào lại
hát họa theo hình thức xướng xô. Nhạc cụ Hát Xoan khá đơn giản, với chủ đạo là
34
chiếc trống con, có bài thêm phách, quạt hoặc trống cái.
Lời ca Hát Xoan cũng rất phong phú, ngoài các bài khấn nguyện thần
thánh, chúc tụng làng xã còn có những bài hát “kết duyên với người tình nhân”
thật trữ tình hoặc ca ngợi cuộc sống lao động cần cù, siêng năng của người dân
lao động (Nguyễn Khắc Xương 2003; tr.85).
Từ gợi ý về „sự diễn xướng‟ của Bauman, dựa trên nghiên cứu của những
người đi trước và theo tư liệu điền dã cá nhân, diễn xướng Xoan được trình bày trên
các phương diện: hình thức nghệ thuật, thính giả và bối cảnh.
Hình thức trình diễn nghệ thuật Hát Xoan
Nói đến Hát Xoan là nói tới loại hình hát thờ, nói đến các lề lối, bài bản (quả
cách). Bài bản (quả cách) ở đây là thứ tự trình diễn Xoan (đã thành quy ước); lề lối
là quy chuẩn trong mỗi cách Xoan. Hát Xoan khi trình diễn đầy đủ thường có ba
chặng hát: hát thờ (tưởng nhớ các vị thần, vị vua có công với dân với nước); hát
quả cách (ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt
cộng đồng); hát hội (hát giao duyên với những làn điệu vui nhộn, chủ yếu dưới
hình thức hát đối đáp giữa các đào, kép và trai gái làng nước nghĩa). Đặc điểm
và chức năng cơ bản của Xoan là sinh hoạt văn hóa lễ hội và ca hát lễ nghi thờ
cúng thần linh nên phương thức trình diễn của Xoan rất lề lối, có tổ chức. “Gắn
với đình đám và tế lễ, Xoan không được phép tự do phóng khoáng mà phải ghép
mình vào một khuôn khổ, khuôn khổ này là do những tục lệ, do yêu cầu đình
đám đặt ra” (Nguyễn Khắc Xương 2008; tr.55). Tuy nhiên, Xoan không chỉ
mang trong mình hình thức hát thờ mà còn là một loại hình nghệ thuật cộng
đồng. Bên cạnh những nội dung tín ngưỡng mang tính lề lối và quy định chặt chẽ
trong không gian thờ tự (đình, miếu), Xoan còn có phần hát hội tại các gian bên
của đình, miếu, thậm chí ngoài sân đình, với những lời hát giao duyên nam nữ,
tiết tấu âm nhạc phong phú sôi nổi, thu hút nhiều thành phần tham gia diễn
xướng (cả phường Xoan lẫn thanh niên nam nữ trong làng). Một cuộc Hát Xoan
phải tuần tự đi theo bài bản với Phần khai cuộc (hát Nhập tịch, phần hát khai cuộc,
35
mời thần linh về hưởng lễ và nghe hát thờ); Phần 1 với bốn giọng lề lối gồm Giáo
trống (nổi trống), Giáo pháo (đốt pháo), Thơ nhang (dâng hương), Đóng đám (vào
đám); Phần 2 (14 quả cách) do đào múa với đội hình 4 người, kép hát chính. 14
cách gồm: 1- Kiều Dương cách. 2- Nhàn ngâm cách. 3-Tràng mai cách. 4-Xoan
thời cách. 5-Hạ thời cách. 6. Thu thời cách. 7- Đông thời cách. 8-Tứ mùa cách. 9-
Ngư tiều canh mục cách. 10- Đối rẫy cách. 11- Hò chèo cách. 12- Hồi liên cách. 13
– Tứ dân cách. 14 – Chơi dân cách; Phần 3 là phần hát giọng nhà tơ, tạm nghỉ
không Hát Xoan (phường Xoan còn gọi phần hát này là „hát chơi bời‟). Phần này
chỉ có một hay 2 đào hát đổi nhau; Phần 4 gồm các lề lối Bỏ bộ, Chơi bợm/ Bợm
gái, Đúm, Xin huê Đố chữ và Cài huê - Mó cá; Phần 5 (Chào giã) - lời chào giã
đám tan hội của ông trùm Xoan. Phần này, 4 cô đào múa từ lòng đình múa ra sân
đình, với hàm ý tiễn thánh ra về.
Từ các bài bản trong một cuộc Xoan, có thể thấy rõ tính tổng hợp trong diễn
xướng của loại hình dân ca này, với hai đặc trưng cơ bản là phần ca hát và phần múa.
Cách hát của Xoan khá đa dạng, bao gồm cả hát nói, hát ngâm, hình thức hát
ca khúc và hát đệm láy. Hát nói là chính trong các quả hát thờ, hát ngâm chỉ xen kẽ
và là một phần nhỏ nhưng lại là nhạc của các bài bản giàu trữ tình mà nội dung là
giao duyên. Hình thức hát ca khúc mang lại cho Xoan những tiết mục vui nhộn, trữ
tình mang tính diễn xướng hoạt cảnh trong Bỏ bộ, Bợm gái, Xin huê Đố chữ, Mó
cá. Theo nhà nghiên cứu Tú Ngọc (1997), “Những bài bản, những điệu hát cấu trúc
theo kiểu ca khúc được coi là vị trí then chố trong âm nhạc của Xoan”. Hát đệm láy
(tầm vông, tình tang…) là kiểu hát nam hát một câu đệm, nữ hát láy lại cũng câu
đệm ấy nhưng ở giọng cao hơn. Ngoài ra, loại hình ca hát trình diễn này còn rất đa
dạng trong hình thức hát – có hát đồng ca nam, đồng ca nữ, tốp ca, đối ca, hát đa
thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và hát đối đáp. Sự đa dạng trong
cách hát và kiểu hát hình thành nên sắc thái âm nhạc khi nghiêm trang thong thả,
lúc dồn đuổi khỏe khoắn vui nhộn khi duyên dáng trữ tình.
Múa trong Xoan là múa nghi lễ, múa chúc múa mừng trình diễn trước bàn
36
thờ thần linh. Trừ hát đối đáp Đúm và Xin huê Đố chữ, còn lại toàn bộ cuộc Xoan
là cuộc hát múa với rất nhiều dạng thức múa khác nhau. Khi là múa cùng nhịp
phách theo kiểu múa Sinh tiền với động tác nhanh, uốn lộn nhiều (trong Giáo trống
Giáo pháo); khi thì đào múa theo đội hình vuông góc chiếu, điệu bộ nhẹ nhàng
thong thả, khoan thai chậm rãi với điệu chụm hai tay lại trước trán với ý khấn chúc
hoặc làm điệu bộ dâng hương, tay đặt trước ngực, quỳ gối (trong Thơ nhang và
Đóng đám). Vào phần Bỏ bộ, múa Xoan lại mang tính minh họa theo lời hát.
Nhưng sang phần Cài huê và Mó cá kết thúc cuộc hát thì Xoan lại chuyển sang hình
thức múa tập thể nam nữ. Tính đồng diễn này tạo cho múa Xoan một dáng vẻ sinh
động và có tính nghệ thuật cao, đồng thời cuối cuộc hát (Mó cá), múa Xoan biến
thành một trò chơi đuổi bắt mà cả nam và nữ đều không bỏ đội hình.
Như thế, có thể thấy múa Xoan chịu sự chi phối mang tính quyết định bởi
bản chất múa tôn giáo tế lễ. Do yếu tố tôn giáo này mà Xoan không quá đa dạng và
phức tạp trong các điệu múa, cũng không có những điệu múa quá khó, quá tốn sức
nhưng lại rất khó bởi người múa phải luôn luôn chú ý đến bối cảnh là không gian
nghi lễ, đồng thời phải tiết chế các động tác sao cho phù hợp với việc hát thờ.
Khán thính giả và bối cảnh
Bản chất Hát Xoan là hát thờ, bối cảnh của Hát Xoan là một bối cảnh mang
tính nghi lễ, gắn chặt chẽ với tế lễ trong đình, miếu hướng đến các vị thánh thần.
Chính bối cảnh này chi phối và trong nhiều bài bản, quyết định diện mạo của Hát
Xoan. Với tư cách là loại hình diễn xướng dâng lên thần linh, Xoan được bài bản
hóa, lề lối và quy chuẩn hóa trong mọi yếu tố - từ lời ca, cách giáo trống giáo pháo,
động tác múa đến nghi thức trình diễn. Ngay cả trong phần cuối cùng của cuộc
Xoan (Cài huê – Mó cá), với hình thức múa hát tập thể vui nhộn, Xoan vẫn không
quên „nhiệm vụ‟ tương tác với thần linh. Những trò chơi cài huê, bắt nhau, đánh cá
cũng chính là những hình thức nghi lễ dâng hoa, dâng lúa, dâng cá lên thần linh,
kiểu dạng của những trò chơi nghi lễ.
Nói đến bối cảnh Hát Xoan, một yếu tố thứ hai không thể không nhắc tới là
37
bối cảnh hội xuân. Hát Xoan là hát xuân, hát thờ nhưng cũng là hát giao duyên nam
nữ vào đám hội đầu xuân. Trong Xoan kết hợp cả hai yếu tố - tính quy chuẩn của
hát cửa đình và tính vui nhộn của hát hội mùa xuân. Sự kết hợp này mang lại cho
Xoan một diện mạo đặc biệt và cho thấy tính đa dạng của Xoan trong các cuộc hát.
Trong bối cảnh này, khán thính giả của Xoan cũng chính là những người đang
mang theo những niềm mong cầu hướng đến thần linh, chờ đợi và thưởng thức
Xoan như với một phương tiện dâng cúng thánh thần của họ. Xoan không đơn giản
là một loại hình nghệ thuật mang tính giải trí mà Xoan đã là một nghi lễ, chuyên
chở những mong muốn và khát vọng về một cuộc sống no đủ bình an, phong đăng
hòa cốc của các cá nhân và cộng đồng.
1.3. Cơ sở lý luận
1.3.1. Các khái niệm công cụ dùng trong luận án
Di sản văn hóa
Trong lĩnh vực văn hóa, di sản văn hóa là một trong những thuật ngữ xuất
hiện với nhiều định nghĩa, khái niệm. Jukka Jokilehto đã tuyển chọn được 60
định nghĩa về di sản văn hóa/tài sản văn hóa, trong đó có đến 18 định nghĩa do
UNESCO đưa ra. Tại điều 1 của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên
nhiên thế giới 1972 của UNESCO, di sản văn hóa được hiểu là: các di tích, các
công trình kiến trúc, các công trình điêu khắc và hội họa, các yếu tố hoặc các cấu
trúc có tính chất khảo cổ học, các dấu khắc, các nơi cư trú hang động và tổ hợp
các đặc điểm có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật
hay khoa học.
Ở Việt Nam, từ những năm 90 của thế kỷ XX, khái niệm “di sản văn hóa”
được hiểu là tài sản của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau, hay “chỉ chung cho
các tài sản văn hóa như văn học dân gian, các công trình kiến trúc, các tác phẩm
điêu khắc, các tác phẩm văn học… mà các thế hệ trước để lại cho thế hệ sau”
(Từ điển bách khoa Việt Nam, tr.39). Theo Luật di sản văn hóa (2009), “Di sản
văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
38
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” (tr.2). Theo cách tiếp cận giá trị văn hóa, di sản văn hóa bao gồm hầu
hết các giá trị văn hóa do con người tạo nên trong quá trình tương tác với môi
trường tự nhiên và xã hội, là phần tinh túy nhất, tiêu biểu nhất đọng lại sau hàng loạt
hoạt động sáng tạo của con người từ thế hệ này qua thế hệ khác. Do phải được thẩm
định một cách khắt khe bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng trong một thời gian
dài, nên di sản văn hóa về phương diện giá trị là đặc biệt bền vững, về số lượng
cũng lớn hơn nhiều so với các giá trị của thời hiện tại. Bởi vậy, di sản văn hóa luôn
được xem là bộ phận quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền văn hóa.
Di sản văn hóa phi vật thể
Theo điều 2 Công ước về việc Bảo vệ DSVHPVT (2003) của UNESCO:
“DSVHPVT được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ
năng và k m theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có
liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá
nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Di sản văn hóa năm 2009 định nghĩa: “DSVHPVT là sản phẩm tinh thần gắn
với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và
các hình thức khác” (tr.4). Cùng với khái niệm DSVHPVT còn có quan điểm về
DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp. Theo Công ước 2003, việc lập ra danh sách các
DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp mang mục đích “thực hiện các biện pháp bảo vệ
thích hợp” với các di sản văn hóa đứng trước nguy cơ bị mai một.
Việc bảo vệ di sản phi vật thể cũng được UNESCO xác định trong Công ước
về việc Bảo vệ DSVHPVT (2003) là “các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng
tồn tại của DSVHPVT, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn,
bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục
chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác
39
nhau của loại hình di sản này”.
Di sản hóa
Trong Ngành công nghiệp di sản: Vương quốc Anh trong sự đi xuống
(The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline) của Robert Hewison
(1987), di sản hóa (heritagization) được dùng để chỉ sự can thiệp của bên ngoài
(nhà nước, tổ chức...) vào một số không gian di sản văn hóa vật thể nhất định.
Kể từ đó một loạt các học giả khác như Nikki Macleod (2006), Melanie Smith
(2009)... đã sử dụng khái niệm di sản hóa cho những di sản văn hóa vật thể ở
châu Âu. Từ năm 2009, 2010, khái niệm di sản hóa được dùng khá phổ biến
trong các nghiên cứu về di sản phi vật thể. Di sản hóa được xem là kết quả của
quá trình tôn vinh một vật thể, một phong cảnh, một tập quán thành di sản bởi
một quyền lực quốc gia hoặc quốc tế hay bởi một hiệp hội, tổ chức hoặc bởi
những người dân thường. Và khái niệm di sản hóa sẽ gần với khái niệm “nghi
thức thể chế” (Bourdieu, 1982), theo đó di sản hóa giống như một nghi lễ/quá
trình chuyển tiếp thông qua đó một vật thể, một phong cảnh, một tập quán sẽ
chuyển thành di sản và chúng sẽ tách rời khỏi đời sống xã hội vốn có của mình.
Cũng đồng quan điểm trên, Oscar Salemink (2014) cho rằng, di sản hóa được
hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là gắn cho các di tích và thực hành văn hóa danh
hiệu di sản (tr.494). Đối với các loại hình văn hóa được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa của nhân loại, quá trình di sản hóa có thể được chia ra làm hai
giai đoạn: 1) Giai đoạn lập hồ sơ đến khi công nhận là di sản (với các công tác
kiểm kê, sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá loại hình văn hóa để lập hồ sơ xếp hạng);
2) Giai đoạn kể từ sau khi một loại hình văn hóa được công nhận là di sản, với
những tác động của quá trình di sản hóa như quản lý, trùng tu, tôn tạo hoặc sân
khấu hóa, sáng tạo truyền thống, truyền dạy... lên thực hành văn hóa đó. Tuy
nhiên, quá trình di sản hóa này có khả năng đưa đến sự xói mòn các của cộng
đồng sở hữu di sản, cao hơn là sự tước mất quyền của các cộng đồng địa phương
và biến các vật thể và thực hành văn hóa của họ thành những địa điểm của bên
40
ngoài - nhà nước, tổ chức phi chính phủ, chuyên gia.
Từ những gợi mở trên, luận án quan niệm di sản hóa là quá trình lựa chọn
và đưa các yếu tố (một biểu đạt hay thực hành văn hoá nào đó) trở thành di sản
văn hoá. Việc làm này thường diễn ra qua hai giai đoạn: lập hồ sơ khoa học và
bảo vệ di sản sau ghi danh.
Cộng đồng
Theo quan điểm của Keith W. Sproule và Ary S. Suhand (1998): “Cộng
đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng một khu vực địa lý, tự xác
định mình thuộc về cùng một nhóm, thường có quan hệ huyết thống hoặc hôn
nhân và có thể thuộc cùng nhóm tôn giáo, tầng lớp chính trị” (Dẫn theo Võ Quế
2006: 11). Tại Hội nghị quốc tế về DSVHPVT năm 2002, UNESCO thống nhất
định nghĩa về cộng đồng “là những người tự ý thức về sự gắn bó lẫn nhau, điều
này được thể hiện ở ý thức về bản sắc chung hoặc các hành vi chung, hoặc các
hoạt động chung và lãnh thổ chung”, bao gồm: Cộng đồng văn hóa: là một cộng
đồng mà thông qua văn hóa của mình, qua cách tiếp cận văn hóa hoặc qua sự
biến thể từ văn hóa chung mà được phân biệt với các cộng đồng khác (hiểu rộng
hơn, một quốc gia có thể là một cộng đồng văn hóa); Cộng đồng bản địa: là một
cộng đồng mà các thành viên thuộc cộng đồng này cho rằng họ có nguồn gốc từ
một khu vực lãnh thổ nhất định; Cộng đồng địa phương: là cộng đồng sống ở
một địa phương nhất định. Định nghĩa trên tương đối gần với quan niệm mà các
nhà nghiên cứu và thực hành phát triển cộng đồng đang sử dụng, đặc biệt trong các
dự án chăm sóc sức khoẻ ban đầu, coi “cộng đồng là một nhóm cư dân cùng sinh
sống trong một địa vực nhất định, có cùng các giá trị và tổ chức xã hội cơ bản”
(Dẫn theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang, Phát triển cộng đồng - Lý thuyết
và Vận dụng, tr.15).
Trong bối cảnh ở Việt Nam, cộng đồng được hiểu là một tập hợp các chủ
thể văn hóa, những người cùng cư trú trong một môi trường tự nhiên cụ thể, chia
sẻ bối cảnh kinh tế xã hội, lịch sử văn hóa chung, cùng thừa nhận những di sản
41
văn hóa nhất định là một phần trong bản sắc văn hóa của họ. Theo đó, cộng đồng
là tập thể người dân của một làng, một xã, hoặc liên xã, chủ nhân của di sản,
tham gia vào thực hành, phát huy giá trị của di sản trong đời sống tinh thần của
họ, cũng như duy trì những thực hành có ý nghĩa trong đời sống cộng đồng.
1.3.2. Nghiên cứu Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa
Với tên gọi Hát Xoan Phú Thọ trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam,
luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu như sau:
1. Quá trình di sản hóa Hát Xoan Phú Thọ diễn ra như thế nào?
2. Những động thái chi phối quá trình di sản hóa Hát Xoan và những vấn
đề đặt ra với Hát Xoan hiện nay?
Để trả lời những câu hỏi trên, luận án quan tâm và sử dụng một số quan
điểm lý thuyết liên quan đến quá trình bảo vệ, phát huy di sản văn hóa, gồm:
quan điểm Bảo vệ DSVHPVT theo Công ước 2003 của UNESCO, quan điểm
Quản lý di sản bảo tồn - phát triển của Ashworth (1997), lý thuyết Di sản hóa
của Oscar Salemink (2014).
Quan điểm Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ DSVHPVT nhấn
mạnh đến vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể bằng
một số biện pháp mà các quốc gia thành viên cần phải thực hiện như: nhận diện,
lập danh mục thống kê, xây dựng chính sách, xây dựng thiết chế, sử dụng khoa
học công nghệ để nghiên cứu và bảo vệ, tư liệu hoá đào tạo và truyền dạy (Công
ước 2003 UNESCO, Điều 11-14). Tuy nhiên, cộng đồng mới là chủ sở hữu di
sản và cũng là một phần của di sản, sẽ không thể tiếp cận với DSVHPVT nếu
không tôn trọng tập tục của cộng đồng (Công ước 2003 UNESCO, Điều 13).
Bên cạnh đó cần có sự tham gia tối đa của các cộng đồng vào toàn bộ các hoạt
động bảo tồn văn hóa phi vật thể (Công ước 2003 UNESCO, Điều 15) từ nhận
dạng, kiểm kê, tư liệu hoá, nghiên cứu, làm sống lại, đảm bảo sự tiếp cận tới các
địa điểm và vật chất liên quan, trao truyền thông qua giáo dục, nâng cao nhận
thức, đảm bảo sự bền vững cho di sản trong bối cảnh xã hội phát triển. Di sản
42
văn hoá phi vật thể có đời sống của nó. Chỉ có di sản mà cộng đồng thừa nhận,
mong muốn bảo tồn mới cần thiết để bảo vệ. Sự can thiệp thái quá của công
chúng hoặc nhà nước sẽ làm DSVHPVT bị biến dạng. Tiếp cận từ góc nhìn Bảo
vệ DSVHPVT của Công ước 2003 - UNESCO, luận án sẽ phân tích vai trò, mối
quan hệ của nhà nước và cộng đồng trong bảo tồn và phát huy các giá trị của di
sản Hát Xoan trước và sau khi được ghi danh.
Quan điểm Quản lý di sản bảo tồn - phát triển là một trong ba quan điểm
bảo tồn di sản được Ashworth (1997: 165-191) tổng kết từ thực tế bảo tồn di sản
ở nhiều nước trên thế giới (gồm có Bảo tồn nguyên gốc, Bảo tồn có kế thừa, Bảo
tồn - phát triển). Bảo tồn - phát triển đang chiếm vị trí chủ đạo trong giới học
thuật cũng như giới quản lý văn hóa ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Theo
quan điểm này, cộng đồng và các nhà quản lý di sản không nên bận tâm đến vấn
đề bảo tồn nguyên vẹn như thế nào, kế thừa cái gì từ quá khứ mà nên quan tâm
đến làm thế nào để di sản văn hóa sống và phát huy các giá trị văn hóa của nó
trong đời sống xã hội đương đại. Nội hàm quan trọng nhất của quan điểm này
bàn về “tính xác thực” của di sản văn hóa. Nếu các quan điểm truyền thống cho
rằng tính xác thực là cốt lõi của di sản, mang giá trị khách quan thì ngày nay
người ta lại cho rằng, trải nghiệm của cá nhân và cộng đồng, được các cá nhân
và cộng đồng đồng thuận, tin theo mới là thước đo giá trị của di sản. Từ đó trách
nhiệm đối với di sản văn hóa và việc quản lý di sản đó trước hết là của cộng
đồng văn hóa đã sản sinh ra nó. Bên cạnh đó, nhìn nhận theo quan điểm quản lý
di sản trong mối quan hệ giữa bảo vệ và phát triển, các nhà nghiên cứu không
còn coi di sản văn hóa là sự vật của quá khứ với hàm nghĩa những giá trị và hình
thái bất di bất dịch, có giá trị vĩnh viễn. Thay vào đó, di sản văn hóa được nhìn
nhận lại như một quá trình sáng tạo văn hóa trong những môi trường vận động
xã hội thực tại. Và như vậy, văn hóa chính là sản phẩm của thực tại, được tạo ra
bởi cảm nhận về các giá trị của quá khứ, dẫn đường bởi những mối quan tâm đến
vai trò của quá khứ trong các các mối lo toan về thực tại và tương lai (Dẫn theo
43
Phạm Duy Đức 2010: 25-27).
Laurajane Smith và Natsuko Akagawa trong Intangible Heritage: Key
Issues in Cultural Heritage (Di sản phi vật thể: các vấn đề chủ yếu trong di sản
văn hóa) cho rằng, cần dựa vào thực tiễn để đánh giá, nhìn nhận lại các nguyên
tắc và nhận thức liên quan đến di sản văn hóa và quản lý di sản văn hóa. Mọi sự
tồn tại của di sản văn hóa cùng quá trình quản lý nó phải có mục đích và phải tạo
ra những đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội và văn hóa nói chung. Thực
tiễn tồn tại của các nền văn hóa cho thấy, vấn đề quản lý di sản văn hóa không
còn nằm ở công thức ứng xử với những sản phẩm được coi là “di sản” - mà chủ
yếu nằm ở nhận thức về giá trị di sản và cách thức duy trì các giá trị đó - như
những nền tảng cơ bản của xã hội cần thiết cho cuộc sống hôm nay và ngày mai
(2008: 17-21).
Vận dụng quan điểm bảo vệ - phát triển di sản, luận án sẽ nhìn nhận hát
Xoan Phú Thọ như một quá trình tái tạo văn hóa trong môi trường xã hội luôn
vận động và biến đổi, được tạo ra bởi cảm nhận về các giá trị của quá khứ, trong
nhu cầu thực hành của cộng đồng.
Ngoài ra, luận án vận dụng lý thuyết Di sản hóa với luận điểm chính của
Oscar Salemink (2010) để nghiên cứu về Hát Xoan Phú Thọ. Quan điểm của
Salemink thể hiện trong bài viết “Di sản hóa văn hóa sống ở Việt Nam như
DSVHPVT” (2014) và trong “Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về
DSVHPVT ở Việt Nam” (Appropriating Culture: The politics of intangible
cultural heritage in Vietnam) (2012). Theo đó, việc công nhận, ghi danh di sản
chính là một hình thức chính danh để nhà nước sở hữu và tăng cường sự quản lý,
can thiệp đối với di sản. Sự can thiệp này của nhà nước có khả năng đưa đến sự
xói mòn các quyền (quản lý, tổ chức, tạo ra và nhận món lợi) của cộng đồng sở
hữu di sản, hơn nữa, có thể tước quyền, ngoài lề hóa cộng đồng chủ tại địa
phương, biến các vật thể và thực hành văn hóa (vốn trong quá khứ là của họ)
thành tài sản của bên ngoài - nhà nước, tổ chức phi chính phủ, chuyên gia (tr.
44
488). Khi một thực hành được dán nhãn di sản văn hóa, đồng nghĩa với việc thực
hành đó buộc phải chịu sự can thiệp từ bên ngoài - đơn cử như việc các di sản
đạt danh hiệu UNESCO phải kí các cam kết với tổ chức này về việc bảo vệ, phát
huy giá trị di sản văn hóa, hay các di sản cấp tỉnh, cấp quốc gia buộc phải tuân
thủ chặt chẽ các yêu cầu theo Luật Di sản văn hóa và những hướng dẫn mà nhà
nước, tỉnh đã ban hành. Nói cách khác, các cấp quản lý của nhà nước sẽ trở
thành chủ sở hữu của di sản, và có quyền tham gia, quyết định mọi hoạt động
liên quan tới việc bảo vệ và khai thác di sản. Quá trình này thực chất biến di sản
từ chỗ là thực hành độc quyền của cộng đồng chủ trở thành thực hành của nhiều
bên với mục đích nào đó về chính trị, kinh tế, du lịch. Quá trình di sản hóa mở
rộng môi trường, đối tượng, mục đích thực hành của di sản, và khi được mở rộng
cho các đối tượng bên ngoài sẽ dẫn đến nguy cơ biến dạng của di sản. Di sản hóa
như vậy phục vụ cho mục đích của nhiều nhóm khác nhau - có thể là của nhà
nước, của địa phương hoặc nhóm cộng đồng nào đó. Một thực hành khi được ghi
danh di sản sẽ mang lại nhiều lợi ích, chẳng hạn, gia tăng sự chú ý từ bên ngoài,
có ý nghĩa với sự phát triển du lịch địa phương, góp phần vào sự tăng trưởng
kinh tế,... Rõ ràng rằng, trong bối cảnh di sản văn hóa có thể mang lại nhiều
quyền lợi trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, những tính toán liên
quan đến việc chọn lọc, ghi danh, bảo vệ, phát huy di sản sẽ tác động mạnh mẽ
đến quá trình di sản hóa.
Vận dụng lý thuyết di sản hóa và quan điểm bảo vệ - phát triển di sản văn
hóa, luận án tập trung tìm hiểu, bàn luận quá trình di sản hóa Hát Xoan. Thực
hành Hát Xoan được UNESCO ghi danh DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của
nhân loại (2011), được UNESCO đưa ra khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp và trở
thành DSVHPVT đại diện của nhân loại (2017). Các quan điểm lý thuyết đã
được gợi mở về Di sản hóa, về bảo vệ - phát triển di sản sẽ được tác giả luận án
vận dụng để tìm hiểu các nội dung cụ thể: 1) Bối cảnh, quá trình và mục đích của
việc lựa chọn ghi danh Hát Xoan, đưa Hát Xoan trở thành di sản văn hóa; 2) Quá
45
trình ghi danh Hát Xoan, sự chuẩn bị, tham gia của các bên (nhà khoa học, chính
quyền, cộng đồng) trong thời gian chuẩn bị hồ sơ di sản Hát Xoan; 3) Những tác
động của quá trình ghi danh sau khi Hát Xoan trở thành DSVHPVT cần bảo vệ
khẩn cấp, và sau khi Hát Xoan được ghi danh DSVHPVT đại diện của nhân loại.
Những tác động này là rất đa dạng và diễn ra trên nhiều phương diện: sự tác
động, biến đổi các không gian trình diễn Xoan, sự tác động, biến đổi thực hành
Hát Xoan (ký âm, cố định hóa các bài bản Hát Xoan cổ, thành lập các CLB Hát
Xoan, sân khấu hóa Hát Xoan, truyền dạy và thực hành Hát Xoan trong các
không gian khác như công sở, trường học, các hoạt động văn hóa trong và ngoài
tỉnh,...). Mối quan hệ giữa các bên liên quan (nhà nước, cộng đồng) và diện mạo
46
của di sản hậu vinh danh là vấn đề được đặc biệt chú ý trong luận án.
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong Chương 1, luận án đã điểm luận tình hình nghiên cứu về Hát Xoan,
tình hình nghiên cứu về di sản và di sản hóa ở Việt Nam. Các tư liệu đã có cho
thấy, Hát Xoan đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện, từ nguồn gốc, thể
loại, bài bản, hình thức, bối cảnh diễn xướng cũng như phương thức khai thác,
bảo vệ và phát huy di sản. Tuy nhiên, Hát Xoan được nghiên cứu sâu trong giai
đoạn trước ghi danh di sản, các biến đổi trong thực hành và diện mạo của di sản
Hát Xoan thời kì sau ghi danh vẫn còn là một khoảng trống cần bổ khuyết.
Trong chương này, luận án cũng cung cấp các vấn đề Cơ sở lý luận của đề
tài, hệ thống các khái niệm về di sản văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể, di sản
hóa, cộng đồng trong thực hành di sản; các quan điểm lý thuyết liên quan đến
quá trình bảo vệ, phát huy di sản văn hóa như quan điểm Bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể theo Công ước 2003 của UNESCO, quan điểm Quản lý di sản bảo
tồn - phát triển của Ashworth (1997), lý thuyết Di sản hóa của Oscar Salemink
(2014). Các vấn đề về Hát Xoan như thể loại, nguồn gốc, tổ chức, lệ tục trong
các phường Xoan, đặc điểm của diễn xướng Hát Xoan cũng được luận án đề cập
47
trong chương, cung cấp một hình dung khái quát về thực hành văn hóa này.
Chƣơng 2
BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH
GHI DANH DI SẢN HÁT XOAN PHÚ THỌ
Trong Chương 2, luận án hướng đến việc trình bày các vấn đề bối cảnh tác
động tới quá trình ghi danh di sản Hát Xoan. Quá trình Hát Xoan được sưu tầm,
khôi phục và được ghi danh, trở thành DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân
loại cũng được mô tả trong chương, với sự tham gia của các bên liên quan với nhiều
mục đích và động thái.
2.1. Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam
2.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa
Đổi mới năm 1986 khởi đầu cho những thay đổi trên nhiều phương diện
trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của Việt Nam. Trước Đổi mới, Việt Nam
gặp nhiều khó khăn về kinh tế khi bị các nước bao vây cấm vận, cắt giảm viện trợ
từ các nước Liên Xô và Đông Âu. Thời kì bao cấp khó khăn đói ngh o để lại trong
ký ức của người dân về từng tờ tem phiếu, sổ gạo, về cảm giác đói triền miên và sự
thiếu thốn đủ thứ. Trước thực tế đó, Đại hội Đảng 6 (12/1986) đã đề ra đường lối
đổi mới, thay đổi trước hết từ tư duy, với "tư duy kinh tế" - kinh tế được điều tiết
theo chuyển động của thị trường - được đặt lên hàng đầu. Sự thay đổi này dẫn đến
những bước tiến của Việt Nam trong một thời gian ngắn, khi nền kinh tế vượt qua
nhiều khó khăn và thách thức, duy trì mức độ tăng trưởng, đa dạng hóa các loại
hình kinh tế. Các báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng được công bố chính
thức trong các kì Đại hội Đảng XI, XII, XIII cho thấy rõ sự tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam trong hơn 30 năm qua, đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo
nhất trên thế giới thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ năm 2002 đến 2018,
GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người
1 Nguồn: https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1.
48
thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (đánh giá của World Bank, tháng 7/2021)1.
Bên cạnh sự thay đổi về kinh tế, các hoạt động khoa học, giáo dục, văn
hóa có nhiều thay đổi, đời sống của người dân được nâng cao. Cùng sự phát triển
nhanh chóng của kinh tế thị trường là sự mở rộng mối quan hệ giữa Việt Nam
với các nước, sự tham gia vào hệ thống các công ước, quy ước và các hoạt động
quốc tế. Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm
2006, … Việt Nam hòa mình vào dòng chảy chung của thế giới và tham gia vào
rất nhiều các sân chơi mới, trong đó có lĩnh vực dành riêng cho các hoạt động
trình diễn và thể hiện bản sắc văn hóa riêng có của Việt Nam. Các Tuần lễ văn
hóa Việt Nam được tổ chức ở nhiều quốc gia tại châu Âu, châu Á, châu Mỹ
nhằm giới thiệu và quảng bá về Việt Nam. Bối cảnh này đặt ra vấn đề nhận thức
lại và nhận thức đúng về văn hóa và vai trò của văn hóa, là cơ sở để hình thành
nhận thức "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội" (Hội nghị lần 4 BCH TW Đảng khóa VII năm 1993),
"Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (…) Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm
mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế,
các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên
mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,… biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển" (Nghị quyết Hội nghị lần thứ
5 BCH TW khóa VIII năm 1998). Đặc biệt, sự ra đời của Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII (Nghị quyết "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc") (1998) đã có những tác động mạnh mẽ đến
nhận thức, hành động và thực tiễn hoạt động văn hóa trong xã hội, tạo tiền đề
cho những hoạt động khai thác, bảo tồn, khuyến khích phát huy, phát triển các
thực hành văn hóa trên khắp các vùng miền, ở các nhóm cộng đồng dân tộc ở
49
Việt Nam. Như Đỗ Thị Minh Thúy (2004a) khẳng định, Nghị quyết Trung ương
5 là sự hưởng ứng trực tiếp với chương trình "Một thập kỉ thế giới cho phát triển
Việt Nam 1988-1997" của UNESCO (tr. 8-9), và Nghị quyết Trung ương 5 đã
lồng ghép cả khái niệm cơ bản của chương trình UNESCO, và rộng hơn, là "xu
thế tiến bộ chung của thế giới" (tr.9-10). Nói như Meeker (2019), Nghị quyết
Trung ương 5 được các cán bộ văn hóa và quan chức chính phủ xem như một
bước ngoặt trong công tác bảo tồn, trưng bày và phát triển di sản văn hóa tại Việt
Nam, là một sự hưởng ứng trực tiếp với các xu hướng quốc tế (tr.129). Trên thực
tế, Nghị quyết TW5 là nền tảng cơ bản cho công việc phát triển và bảo tồn văn
hóa ở Việt Nam. Nhiều các không gian tín ngưỡng, nhiều lễ hội và thực hành
văn hóa được khôi phục, nhiều hoạt động bảo vệ, phát huy được thực hiện
(chẳng hạn như việc dạy chữ trong các nhóm cộng đồng dân tộc thiểu số, việc
sưu tầm vốn văn hóa dân gian như sử thi, truyền thuyết, truyện cổ...; hay việc
truyền dạy các thực hành văn hóa được xem là có nguy cơ mai một….) sau một
thời gian thực hiện Nghị quyết này.
Trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của Việt Nam kể
từ sau Đổi mới trong lĩnh vực văn hóa, có thể kể đến những tác động từ Internet,
từ các hoạt động và chương trình hành động của UNESCO và nhiều tổ chức
quốc tế tại Việt Nam. Internet bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam từ năm 1997, và
số liệu từ Digital Marketing Việt Nam 2019 đã cho biết, có 64 triệu người dùng
Internet trên tổng số gần 97 triệu người Việt Nam (chiếm 66% dân số), số thời
gian sử dụng Internet trung bình của người Việt lên tới gần 7 tiếng/ ngày (Phạm
Quỳnh Phương 2020). Sự phát triển của Internet và sự xuất hiện của nhiều nền
tảng mạng xã hội (Facebook, Zalo, YouTube…) tạo một điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của thông tin và truyền thông, cũng đồng thời khiến các không gian
và thực hành văn hóa vốn xa lạ và cách xa nhau trở nên quen thuộc và gần gũi
hơn. Sự phát triển rộng khắp của Internet là một yếu tố thuận lợi, kích thích và
50
gia tăng sự tương tác giữa các không gian văn hóa khác nhau.
Với UNESCO (United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization), tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc, tổ
chức này hoạt động với mục đích "thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về
giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng của tất cả các nước về
công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân
biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo" mà Hiến chương Liên Hợp Quốc đã
công nhận đối với tất cả các dân tộc”. Việt Nam tham gia UNESCO vào ngày 12-7-
1976, và Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt
Nam (15/6/1977) để thực hiện hiệu quả các chính sách của Nhà nước trong các
công việc liên quan tổ chức này. Việt Nam hành động cùng UNESCO nhằm giới
thiệu với quốc tế về một quốc gia có hàng ngàn năm lịch sử, với bề dày và sự đa
dạng, phong phú về truyền thống văn hóa. Riêng trong lĩnh vực văn hóa, UNESCO
đã ghi danh 22 di sản văn hóa tại Việt Nam (8 di sản văn hóa vật thể và 14 di sản
phi vật thể), và quá trình ghi danh, bảo vệ và phát huy di sản này đã có những tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương liên quan trong
cả nước. Các di sản này đã trở thành các điểm tham quan du lịch nổi tiếng cả trong
nước và quốc tế, thu hút lượng khách du lịch gia tăng trong từng năm.
Việc Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình ghi danh các di sản của
UNESCO, đặc biệt với các DSVHPVT, có thể nói, không phải là những tính toán
đã có sẵn ngay từ ban đầu, mà liên quan đến cả một quá trình thay đổi nhận thức và
quan niệm về DSVHPVT tại Việt Nam. Theo Salemink (2014), thuật ngữ
"DSVHPVT" đã được UNESCO đưa ra chính tại Việt Nam, trong bối cảnh
UNESCO tổ chức hai cuộc họp tại Việt Nam vào năm 1994 để bàn thảo về
DSVHPVT của các dân tộc thiểu số và văn hóa Cố đô Huế. DSVHPVT trở thành
một khái niệm mới trong UNESCO, dẫn đến sự thành lập một phân khu mới tại
Paris để phụ trách về lĩnh vực di sản này. Sự ra đời của Luật về Di sản văn hóa năm
2001 cũng cho thấy quan điểm của Việt Nam về khái niệm DSVHPVT, cũng như
51
cung cấp các hướng dẫn cụ thể cho việc bảo tồn và phát triển các loại di sản này.
Và Salemink nhận thấy rằng, sự quan tâm đến DSVHPVT ở Việt Nam chỉ
bắt đầu sau khi 5 di sản vật thể chính thức được UNESCO công nhận (gồm di
tích lịch sử Huế, Hội An, quần thể đền tháp Mỹ Sơn, Vịnh Hạ Long, động Phong
Nha), khiến tạo nên hiện tượng tăng vọt về số khách tham quan du lịch, cũng
như khiến gia tăng niềm tự hào dân tộc tại Việt Nam. Những lợi ích to lớn cả về
vật chất và tinh thần này khiến tạo nên một "cơn sốt" di sản tại Việt Nam, với
liên tiếp các thực hành văn hóa được lập hồ sơ đệ trình UNESCO và được ghi
danh di sản. Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế, năm 2005, Không gian văn
hóa cồng chiêng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên được UNESCO ghi danh
"Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại", và đến năm 2008, cả
hai loại hình này được đưa vào danh sách DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp.
Đến năm 2007, Việt Nam đề cử Quan họ và Ca trù, và đến 5/2009, hai loại hình
di sản âm nhạc này được UNESCO chính thức ghi danh. Sau đó là liên tiếp các
năm: 2010 ghi danh Lễ hội Gióng đền Phù Đổng, năm 2011 là Hát Xoan Phú
Thọ, 2012 ghi danh Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, 2013 là Đờn
ca tài tử Nam Bộ, 2014 với Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, 2015 với Nghi lễ và trò
chơi kéo co, 2016 với Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt,
2017 là Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ của Việt Nam, 2019 là Thực hành Then
của người Tày, Nùng, Thái và 2021 là Nghệ thuật Xòe Thái.
Nhìn vào con số các di sản phi vật thể tại Việt Nam được UNESCO ghi
danh liên tục theo các năm, có thể thấy sự hợp lý trong nhận định của Salemink
(2014) rằng, quá trình tuyên bố và công nhận di sản ở Việt Nam là một quá trình
có tính chính trị ở nhiều cấp độ, chồng chéo và có tính tương tác, liên quan đến
tham vọng chính trị của địa phương trong bối cảnh quốc gia, cũng như lợi ích
chính trị và văn hóa quốc gia trên trường quốc tế. Ở cấp độ quốc gia, các di sản
được ghi danh liên quan đến những tính toán về sự cân bằng vùng miền, tộc
người, địa phương, và đến những kì vọng của Việt Nam trong việc xây dựng
52
hình ảnh trên trường quốc tế về một quốc gia lâu đời, có vốn văn hóa truyền
thống sâu dày,... thông qua diện mạo các di sản được xem là "tiêu biểu". Từ phía
các địa phương, việc một thực hành văn hóa được UNESCO ghi danh di sản có ý
nghĩa như sự khẳng định về truyền thống văn hóa tại nơi chốn đó, và đồng thời,
mở ra các cơ hội về mặt kinh tế từ hoạt động quảng bá di sản.
Trên thực tế và trong diễn trình lịch sử, ở Việt Nam, động thái nhà nước
hóa, chính trị hóa các thực hành văn hóa như vậy là không hề xa lạ. Trong quá
khứ, việc "khai thác được những giá trị văn hóa để phục vụ cho mục đích chính
trị một cách khéo léo và nhuần nhuyễn" (Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị
Phương Châm 2014: 35) đã được các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện,
tiêu biểu là việc nhà Lê sắc phong Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng
thần cho các thần thánh địa phương qua công phu khảo cứu, biên soạn, phụng
sao các thần tích thần sắc của hai nhân vật Nguyễn Bính và Nguyễn Hiền. Việc
sắc phong này, theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng, xuất phát từ nhu cầu
mang tính thời đại về việc thống nhất về một mối vừa để quản lý, vừa để gây ảnh
hưởng của triều đình lên các làng xã vốn luôn được coi là một lãnh thổ tự trị
riêng của các cộng đồng cư dân Việt (dẫn theo Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý,
Nguyễn Thị Phương Châm 2014: 33). Việc biên soạn lại, sửa chữa, hợp lý hóa
của nhà nước với các thần tích từ địa phương gửi lên mang tính chính trị rõ nét,
và tạo một sự chính danh cho nhà nước trong việc nắm giữ các làng xã trong
vòng ảnh hưởng, thông qua văn hóa, tín ngưỡng, lệ tục một cách đầy khôn khéo.
Và theo các nhà nghiên cứu, sự thống nhất, quyền quản lý, nắm giữ này của nhà
nước luôn luôn được đặt ra trong mọi thời đại.
Tính chính trị này còn thể hiện rõ khi trên thực tế, các thực hành và các xu
hướng văn hóa trong nhiều thời kì đều là ảnh xạ của các chính sách của nhà
nước, và thể hiện rõ nhận thức chính trị của thời kì đó về mặt văn hóa. Những
động thái trong khôi phục, bảo vệ, phát huy di sản của nhà nước từ những năm
1990 còn cho thấy sự chuyển đổi lớn trong định hướng và nhận thức về văn hóa
53
ở Việt Nam trong một chặng dài từ 1945 đến 1986 - thời kì có nhiều thay đổi,
biến động trong nhận thức về vấn đề văn hóa, dẫn tới những tác động mạnh mẽ
đến thực hành văn hóa trong đời sống của nhân dân, đặc biệt trong lĩnh vực tôn
giáo tín ngưỡng và lễ hội. Giai đoạn 1945-1954, "do hoàn cảnh chiến tranh, công
tác kháng chiến bận rộn, một phần do địch tàn phá những đình chùa, ngăn cấm
nhân dân đi lại, hội h nên đồng bào ta đành phải chịu đựng, không được tổ chức những hội h vui chơi nữa"1, nên đến năm 1956, Thông tư số 1845 VH/TT của
Bộ Văn hóa về việc tổ chức những ngày hội hè của nhân dân chủ trương khôi
phục lại những ngày hội hè là dựa trên chính sách phục hồi những phong tục tập
quán tốt đẹp của dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng, quan tâm đến việc nâng cao
đời sống văn hóa của nhân dân. Thông tư xác định, nhu cầu tổ chức lại hội hè
theo phong tục, tập quán là "thỏa lòng tín ngưỡng và để vui chơi giải trí", và "là
một yêu cầu chính đáng về sinh hoạt tinh thần của đồng bào ta mà Đảng, Chính
phủ phải quan tâm đầy đủ, mang lại quyền lợi đó cho nhân dân". Từ nhận thức
này, nhà nước chủ trương "giúp đỡ duy trì và khôi phục lại, với điều kiện có
hướng dẫn, có lãnh đạo, làm cho những ngày hội có nội dung vui chơi phong
phú, lành mạnh, và có tác dụng động viên, giáo dục tốt đối với nhân dân và đảm
bảo tự do tín ngưỡng" các ngày hội hè, ngày giỗ, những ngày hội có tính chất tôn
giáo, ngày hội có tính chất thuần túy vui chơi như hội mùa,... Với phương châm
"không hạn chế, ngăn cản ý muốn mở hội của nhân dân", "khuyến khích những
ngày hội có tính chất vui tươi, lành mạnh", "thực sự tôn trọng tự do tín ngưỡng,
tôn trọng phong tục tập quán, mọi hình thức vui chơi cũ của nhân dân, nhưng
phải có hướng dẫn khéo léo và kết hợp các hình thức mới để làm cho nội dung
ngày hội thêm phong phú, lành mạnh, tránh được những lệch lạc có hại"; nhà
nước đã thực hiện chủ trương khôi phục các lễ hội, các thực hành tín ngưỡng
trên tinh thần tôn trọng tập quán địa phương. Chủ trương này còn được bổ sung
thêm bởi Công văn 2361 VH/ NC về việc tôn trọng những ngày Tết, ngày hội của
1 Trích Thông tư số 1845 VH/TT (1956).
54
các dân tộc thiểu số (13/1/1957), quy định rõ về việc "cần hết sức tránh động
chạm đến phong tục tập quán của đồng bào địa phương", "Đối với một vài tục lệ
kiêng kị mê tín không có lợi cho việc sản xuất và vệ sinh, chúng ta nên nhẫn nại
giáo dục để đồng bào tự nguyện tự giác bỏ dần, đi đôi với việc nâng cao mức
sống của nhân dân, tuyệt đối không được dùng mệnh lệnh ép buộc"; "giúp đỡ
phát triển tác dụng tích cực của những ngày đó (ngày hội, ngày tết) để động viên
đoàn kết, sản xuất và phát triển văn nghệ dân gian". Chính nhận thức này đã mở
ra một giai đoạn sưu tầm, khôi phục, phát triển các lễ hội, các thực hành diễn
xướng, tôn giáo tín ngưỡng,... ở khắp các vùng tại miền Bắc. Hát Xoan lần đầu
tiên được phát hiện, nhiều bài bản, thực hành được sưu tầm, khôi phục cũng là
trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, ngay sau giai đoạn khôi phục này, nhà nước đã có những "lo
ngại" về việc "bên cạnh những mặt tốt, cũng nảy nở và phát triển nhiều lệch lạc, có hại"1, và đưa ra những nguyên tắc tổ chức để các địa phương thực hiện nhằm
"kịp thời uốn nắn những lệch lạc, ngăn ngừa tệ nạn xã hội, đồng thời đảm bảo
lãnh đạo các hoạt động văn hóa phát triển một cách đúng mực, có được tác dụng
tốt", thể hiện rõ trong Thông tư số 131 VH/TT của Bộ Văn hóa v/v hướng dẫn tổ
chức các hội hè, hoạt động văn nghệ trong mùa xuân và ngăn ngừa các hiện
tượng xấu đang nảy nở. Sau đó, trong năm 1958, Thông tư số 28 TT/NC đã có
những chỉ đạo cụ thể hơn nhằm can thiệp vào các hoạt động hội hè, lễ tết, phong
tục tín ngưỡng của người dân, xác định "trong hội h nói chung thường có hai
mặt tốt và xấu", cần hạn chế "mặt xấu như mê tín dị đoan, hủ tục hư phong...";
còn với mặt tốt, "cần phải đề cao nhưng với tinh thần hạn chế: hạn chế thời gian,
1 Trích Thông tư 131 VH/TT, Bộ Văn hóa (1957). Những điểm có hại được xác định gồm: tổ chức văn nghệ phát triển quá rộng, tập hợp số người quá đông (có đội gần 100 người), tập dượt, biểu diễn liên miên, ảnh hưởng nhiều đến các công tác khác và đến việc chống hạn, sản xuất; tài chính sinh hoạt văn nghệ lấy vào của công, ruộng công, hoặc quyên cúng gò ép quần chúng; dịp đầu xuân, nhiều nơi tổ chức hội h đình đám kéo dài, làm quá rầm rộ, phải huy động nhiều sức người, sức của và thì giờ của nhân dân, ảnh hưởng đến việc làm ăn, đến sức khỏe của nhân dân, có hại cho phong trào sản xuất và tiết kiệm; các tệ nạn xã hội cũ như cờ bạc, rượu chè, trai gái và những hủ tục cũng được dịp hồi lai và phát triển, gây nên tình trạng xã hội không tốt, ảnh hưởng đến sự làm ăn, đời sống và tư tưởng của nhân dân.
55
hạn chế số người, hạn chế tuyên truyền...". Ngay trong giai đoạn này, dù vẫn trên
tinh thần tôn trọng phần lễ bái của đồng bào nhưng với những hội có tính chất
mê tín dị đoan, nhà nước yêu cầu có biện pháp hạn chế người các địa phương
khác đến, có biện pháp tích cực hạn chế lên đồng, xóc thẻ, bói toán..., có kế hoạch giáo dục riêng với những người làm nghề mê tín ở địa phương1 để họ tự
giác chuyển nghề.
Đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX, sau thời kì Mỹ chấm dứt chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc, sau 2 năm 1969 - 1970 khi "người đi lễ từ các tỉnh và
thành phố kéo về các nơi có hội lên đến hàng vạn người, đông nhất là thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ"2, Bộ Văn hóa ban
hành Chỉ thị số 10/VH -VP về vấn đề hội hè (1971) nhằm "quan tâm đầy đủ đến
việc chỉ đạo và hướng dẫn hội hè", có các biện pháp thích hợp để "giáo dục quần
chúng trừ bỏ mê tín dị đoan, hạn chế đến mức tối đa người đi lễ bái mê tín";
Thông tri số 24 VH/TT về vấn đề hội hè (1972) yêu cầu "các địa phương tiến
hành điều tra, nghiên cứu, lập danh sách và phân loại các ngày hội trong địa
phương", "trên cơ sở đó đề ra chủ trương, biện pháp xử lý thích hợp đối với từng
loại". Thông tri 24 còn nhấn mạnh nhiệm vụ của các địa phương trong việc đẩy
mạnh tuyên truyền quần chúng về hai nhiệm vụ trung tâm của đất nước trong
thời kì chiến tranh là "sản xuất và chiến đấu", không để công tác hội hè ảnh
hưởng tới các nhiệm vụ này. Đến năm 1975, Quyết định 56-CP của Hội đồng
Chính phủ về việc ban hành bản thể lệ về tổ chức việc cưới, việc tang, ngày giỗ,
ngày hội đã có những quy định chi tiết, tác động trực tiếp đến các thực hành tín
ngưỡng, các hoạt động diễn xướng dân gian,... Theo quyết định này, "Đối với
các hội làng ở nông thôn mà từ lâu không tổ chức nữa thì nay không được phục
hồi", "Cần xóa bỏ những hội hè mang tính chất mê tín dị đoan, như hội Phủ Giầy
ở Nam Hà, hội đồng bằng ở Thái Bình..."; "Đối với những ngày hội vừa có tính
1 Thông tư xác định phân những người làm nghề mê tín dị đoan làm 2 loại để giáo dục, loại làm nghề bói toán phù thủy và loại đồng bóng, cung văn, thủ từ, chủ hội. 2 Trích Chỉ thị số 10/VH -VP về vấn đề hội hè (1971).
56
chất tôn giáo, vừa có tính chất danh lam thắng cảnh, cần tôn trọng phần tự do tín
ngưỡng của nhân dân, đồng thời cần bài trừ các hình thức mê tín dị đoan". Thông
tư số 26/ VH-QC (1975) còn nêu rõ chủ trương "Từ năm 1975 trở đi, Nhà nước
ta không mở hội và bằng mọi hình thức tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết
phục, phải làm cho toàn dân thấm nhuần chủ trương đó, để từng người tự nguyện
không đi trảy hội". Từ chủ trương này, các hoạt động lễ hội, nhiều hình thức sinh
hoạt tín ngưỡng rơi vào tình trạng trầm lắng, không được khuyến khích, thậm chí
không được phép diễn ra ở nhiều nơi.
Khảo sát các chính sách văn hóa trong cả chặng đường lịch sử từ 1945 đến
1986, có thể thấy, như phân tích của Meeker (2019), sau cách mạng tháng Tám năm
1945, xu hướng quan tâm thu thập văn hóa dân gian được thể hiện không phải vì nỗi
lo sợ việc di sản biến mất, mà thể hiện sự cần thiết của việc tái phát hiện văn hóa
dân gian được xem là những thứ đã bị triệt tiêu dưới chế độ thực dân, và những thể
loại văn hóa dân gian này sẽ được sử dụng như là nền tảng của văn hóa của nhà
nước Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đầy tươi mới. Sang thời kì Đổi mới, sự thu thập
các thực hành văn hóa dân gian được xem như việc "tái tạo các 'nguồn gốc' đã mất
đi" (Meeker 2019: 130), và các hoạt động văn hóa, các nghệ nhân được đào tạo vào
thời kì trước 1945 "được nhìn nhận như một phần của cái chính thống/ xác thực
ngày càng lùi xa", và "tuổi tác và sự qua đời của các thế hệ được xem là mất mát và
là động lực cho việc bảo tồn khẩn cấp" (Meeker 2019: 131).
Ngoài ra, việc khai thác giá trị các di sản trong bối cảnh hội nhập về kinh
tế, chính trị, văn hóa của Việt Nam còn cho thấy sự thay đổi quan niệm trong
nhận thức về di sản, khi các di sản được xem như là nguồn lực quan trọng đóng
góp vào quá trình phát triển kinh tế. Nhìn từ chiều cạnh kinh tế, các di sản đã
góp phần vào việc tăng thu nhập và vị thế cho địa phương, giải quyết công ăn
việc làm cho người dân. Nhà nước, chính quyền địa phương cũng đầu tư nhiều
tới các di sản. Trên thực tế, ở nhiều nơi, di sản được xem như một thứ tài
nguyên, có thể tham gia và giúp cải thiện về xã hội, chính trị và kinh tế, được kì
57
vọng mang lại các giá trị.
Nhưng chính nhận thức và quá trình kinh tế hóa, hàng hóa hóa văn hóa này
đã tác động mạnh mẽ tới diện mạo của di sản, và dẫn đến nhiều hệ lụy, khiến nảy
sinh nhiều nguy cơ và vấn đề liên quan đến sức sống của di sản. Những thuận
lợi, thách thức, thành công và thất bại trong việc phục hồi và bảo tồn di sản đã
được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu. Đó là nguy cơ và hệ lụy của sự phục hồi,
bảo tồn di sản gắn liền với quan điểm bảo tồn có chọn lọc ở Việt Nam, biểu hiện
rõ qua hai phương thức tiếp cận phổ biến là " tạo dựng truyền thống" (invention
the tradition) (theo quan điểm của Hobsbawm & Ranger, 1983) và "sân khấu
hóa"/"dân gian hóa" (folkloritazion) (Seitel, 2002, p.6) được nhóm các nhà
nghiên cứu Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm chỉ ra
(2014). Quan điểm và phương thức tiếp cận này khiến một số thực hành văn hóa
dân gian bị tách khỏi môi trường diễn xướng truyền thống (Fjielstad & Nguyễn
Thị Hiền 2006, Lê Hồng Lý và cộng sự 2010), khiến cho những thực hành văn
hóa này bị biến đổi hoặc mai một (Salemink 2001). Sự tác động mạnh mẽ của
kinh tế thị trường, sự thay đổi môi trường tự nhiên và cơ cấu cây trồng khiến giải
thiêng các nghi lễ truyền thống (Salemink 2001), hay những tác động của du lịch
với sự "thương mại hóa" thực hành văn hóa, mang đến nguy cơ tàn phá văn hóa
nếu phát triển chỉ dựa vào những mối quan tâm thương mại thuần túy (Evans,
2001) (dẫn theo Lê Hồng Lý và các cộng sự 2014: 14-15). Trong câu chuyện
phục hồi, phát huy di sản, việc phục hồi thế nào, bảo tồn cái gì, ai/ chủ thể nào là
người quyết định trong quá trình ấy cũng như cách tạo dựng môi trường tương
đối nguyên bản cho các thực hành văn hóa thì luôn là một vấn đề được đặt ra với
mọi di sản.
2.1.2. Bối cảnh văn hóa, chính trị và những tác động đến thực hành Hát Xoan
Hát Xoan có một lịch sử đầy thăng trầm. Kể từ khi được phát hiện lần đầu
tiên vào năm 1954, các chặng phát triển của Hát Xoan tương ứng với những giai
đoạn thay đổi nhận thức về văn hóa cùng các chính sách văn hóa liên quan của
58
nhà nước và chính quyền địa phương.
Theo ghi chép trong các tư liệu điền dã từ năm 1954 của một số cán bộ
văn hóa địa phương, Hát Xoan vẫn được thực hành cho đến năm 1945. Sau
1945, do đặc tính của Xoan là hát cửa đình, là diễn xướng phục vụ tế lễ, sự tồn tại
của Xoan gắn liền với sự tồn tại của cửa miếu mái đình, lễ nghi và lễ hội, nên khi
nhiều đình miếu bị phá hoặc bỏ hoang, nhiều đám rước và hội làng không còn
nhộn nhịp, Hát Xoan cũng dần vắng bóng, 'đứt đoạn' trong suốt cuộc kháng
chiến chống Pháp và trong công cuộc Cải cách ruộng đất.
Năm 1954, sau thời kì kháng chiến chống Pháp, với nhu cầu trình diễn các
tiết mục văn nghệ để biểu diễn phục vụ xây dựng đời sống xã hội mới, các làn điệu
dân ca truyền thống được các đoàn văn công sưu tầm và sử dụng làm chất liệu cho
các tiết mục dàn dựng. Hát Xoan cũng được một số cán bộ văn hóa tỉnh Phú Thọ
„phát hiện‟ trong thời kì này, đầu tiên là từ xã Xoan ngọn Tây Cốc hẻo lánh ở Đoan
Hùng rồi lần về vùng Xoan gốc Phù Đức, An Thái; và Xoan đã được các đoàn văn
công trung ương tìm đến. Theo tư liệu của Nguyễn Khắc Xương (2008), tiết mục
Xoan đầu tiên được trình diễn trong thời kì này là vào ngày 2.9.1954, trong hội diễn
của Phú Thọ. Lần xuất hiện trên sân khấu đầu tiên này của Xoan gồm cả các bài bản
truyền thống lẫn một số bài có lời mới, và Xoan được đón nhận rất tích cực. Sau lần
biểu diễn này, các cụ nghệ nhân Xoan còn được mời đi diễn ở nhiều hội diễn văn
nghệ lớn khác ở miền Bắc. Sau khi được phát hiện và được đón nhận, Hát Xoan
được bắt đầu giới thiệu, sưu tầm, chỉnh lý, đưa vào các sáng tác ca nhạc, biên
soạn hoạt cảnh, thành các tiết mục "tủ" của các đoàn "Văn công", và Hát Xoan
được giới thiệu rộng rãi hơn với công chúng.
Những hiệu ứng tích cực từ việc phục hồi hát Xoan bước đầu này đã khích lệ nhiều nhà nghiên cứu, nhạc sĩ tham gia khai thác, phục hồi và bảo tồn Xoan1. Các
nhà nghiên cứu đã ghi chép các lời hát, làn điệu và chụp hình các nghệ nhân trong
1 Giai đoạn quan trọng này của công tác sưu tầm, phục hồi hát Xoan gắn liền với tên tuổi của các nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu: Nguyễn Kính, Cao Khắc Thùy, Chu Minh, Ngọc Oánh, Tú Ngọc, Nguyễn Viêm, Nguyễn Đăng Hòe, Nguyễn Đình Nghi và Anh Thơ.
59
quá trình biểu diễn. Và một đặc điểm nổi bật của thời kì này trong lịch sử của Xoan
là việc các cán bộ văn hóa địa phương đã dựa trên hình thức diễn xướng và làn điệu
Xoan cổ để xây dựng những tiết mục sân khấu và đặt lời mới. Từ năm 1954 đến
năm 1966, có nhiều ca khúc, tiết mục dựa trên nền tảng Xoan được ra mắt công chúng trong các chương trình hội diễn văn nghệ cấp địa phương và toàn quốc1.
Trong bối cảnh văn nghệ lúc đó, Xoan cũng như nhiều loại hình dân ca khác được
khai thác để phục vụ mục đích sáng tác và trình diễn của nghệ thuật quần chúng
cách mạng hơn là chú trọng đến việc phục dựng và bảo tồn Xoan trong môi trường
diễn xướng của chính nó. Chính vì thế, nghệ nhân Xoan trong thời kì này không
diễn xướng Xoan theo đúng nghĩa của loại hình nghệ thuật này (tức là trong môi
trường nghi lễ và hội đám, với khán giả là người dân trong cộng đồng) mà chỉ biểu
diễn để phục vụ công tác sưu tầm và lấy tư liệu, cho những nhà nghiên cứu và
những người sáng tác. Có thể gọi Xoan thời kì này là Xoan khai thác hay Xoan mô
phỏng. Trên sân khấu không tồn tại một loại hình Hát Xoan đích thực, mà Xoan lúc
này tồn tại như một thứ ngữ liệu.
Khi Hội văn nghệ dân gian Phú Thọ được thành lập năm 1967, dựa trên nền
tảng những chú ý về Hát Xoan đã có từ trước, với nhiệm vụ về việc xây dựng một
diện mạo văn nghệ dân gian mang màu sắc của riêng tỉnh nhà, công việc khai thác
và phát huy Xoan có nhiều thay đổi. Nhiều những buổi nói chuyện về Xoan, nhiều
những tiết mục Xoan xuất hiện trong các hội nghị và lễ kỉ niệm của tỉnh… đã lan
tỏa thông tin và phần nào đó tri thức về loại hình nghệ thuật này trong tỉnh. Thêm
vào đó, Xoan tiếp tục được sử dụng làm nền làn điệu cho nhiều bài hát lời mới,
được đưa vào trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật hiện đại (trên sân khấu
Vĩnh Phú năm 1980) như một yếu tố bản sắc của văn nghệ địa phương, được một số
người yêu Xoan đưa vào truyền dạy (tự phát) trong các tổ chức và trường học (xem
thêm Dương Huy Thiện 2015: 154-157). Diện mạo của Xoan còn được khắc họa rõ
1 Có thể kể đến các tiết mục: Trẩy hội mùa xuân (Nguyễn Kính và Cao Khắc Thùy, 1955); Sông Thao truyền thống anh hùng (Nguyễn Kính, 1965); ca cảnh Tiễn đưa (Nguyễn Kính, 1954); Hái hoa xuân (Nguyễn Kính, 1963); Trên đồi chè (Cao Khắc Thùy, 1965); Tiễn đưa (Hải Yến, 1967).
60
nét thêm trong đời sống văn hóa văn nghệ bởi những công trình nghiên cứu quan
trọng của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian (Tú Ngọc với Hát Xoan năm 1977,
Nguyễn Khắc Xương và Dương Huy Thiện với tập Hát Xoan, hát Ghẹo Vĩnh Phú
năm 1979 và một số bài đăng trên báo chí của Nguyễn Đăng Hòe, Nguyễn Vũ,
Phạm Khương…). Thời kì chiến tranh (1954 -1975), Xoan cũng như nhiều các
loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống khác chưa được tạo điều kiện để phục
hồi và phát triển nhưng những động thái tìm kiếm, khôi phục và khai thác Xoan
diễn ra rải rác từ năm 1954 đến 1977 của giới văn nghệ sỹ, đặc biệt là của Hội
văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú, với các nhạc sỹ - nhà nghiên cứu như Cao
Khắc Thùy, Tú Ngọc, Nguyễn Kính, Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy
Thiện…) là vô cùng quý giá, tạo tiền đề cho những bước khôi phục và bảo tồn
Xoan trong những năm tiếp theo.
Trong giai đoạn này, không thể không nhắc tới một dấu mốc quan trọng
trong nghiên cứu và phục hồi, bảo tồn Xoan: Hội thảo khoa học “Dân ca Xoan –
Ghẹo Vĩnh Phú” (Lần thứ nhất, 11/1994). 22 bản tham luận cùng những tiết mục và
ý kiến đóng góp của các nhà khoa học ở Trung ương, địa phương và của các nghệ
nhân Ghẹo gốc thôn Nam Cường (Tam Nông), nghệ nhân Xoan xã Kim Đức (Phù
Ninh) đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng với việc „chấn hưng‟ Xoan – Ghẹo sau đó
(Dương Huy Thiện 2015). Dù lúc này, Xoan trong chính cộng đồng chủ vẫn còn
chưa sống trở lại, song có thể nói, bầu không khí Xoan đã dày đặc hơn, tạo tiền đề
cho sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ trở lại của hát Xoan tại không gian Xoan
gốc và trên toàn tỉnh Phú Thọ từ 1995 trở đi.
Sau 1995 là thời kì phát triển đặt biệt của Hát Xoan. Những tác động của thời
chiến, của sự sai lầm về chính sách (đặc biệt trong các thời kì chống mê tín 1956-
1957; 1961; 1975) đã tàn phá nặng nề các di tích liên quan đến môi trường tín
ngưỡng của Xoan khiến việc thực hành Xoan (dưới hình thức sinh hoạt cộng đồng)
bị đứt gãy trong một thời gian dài đã gây nhiều khó khăn cho chính cộng đồng chủ
trong việc duy trì lại loại hình nghệ thuật – tín ngưỡng này. Sự thay đổi về chính
61
sách văn hóa sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, đặc
biệt sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 về việc “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, các hoạt động phục
hồi (văn hóa vật thể và phi vật thể) được tiến hành trên diện rộng và trở thành
nhiệm vụ quan trọng ở các cấp từ trung ương đến địa phương. Cơ chế văn hóa thay
đổi; đời sống kinh tế xã hội của người dân được cải thiện; nhu cầu tín ngưỡng và
thực hành văn hóa ngày càng lớn,… đã tạo điều kiện cho Xoan phát triển mạnh mẽ
trở lại. Giai đoạn này, có những cán bộ Sở văn hóa, đạp xe thường xuyên xuống các
làng Xoan cổ, làm việc cùng các nghệ nhân, khuyến khích họ biểu diễn lại trong
chính cộng đồng mình, sưu tầm và gom góp từng bàn bản Xoan: “lúc ấy vất vả lắm,
nhưng mà mê lắm. Còn phải khuyến khích các ông bà tập trung lại để diễn Xoan nữa cơ”1. Năm 2005, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam chỉ đạo nghiên cứu, khôi
phục và truyền dạy Hát Xoan. Hát Xoan được giới thiệu tại Hội thảo Khoa học
Quốc tế Những nét văn hóa tương đồng Đông Nam Á về phong tục nghi lễ tại Thái
Lan (với sự tài trợ của quỹ Ford) và Giao lưu văn nghệ truyền thống tại Hàn Quốc.
Dấu mốc quan trọng nhất ở thời kì này là sự kiện 4 phường Xoan gốc được
phục hồi vào năm 2006. Những năm từ 1998 – 2006 là quãng thời gian Sở Văn
hóa Thông tin Phú Thọ nỗ lực để tổ chức lại các phường Xoan cổ (với tên gọi là
các Câu lạc bộ Xoan), trực tiếp tổ chức CLB hát Xoan ở quê Xoan Kim Đức và
An Thái. Tháng 7-2006, từ CLB Xoan Kim Đức đã tách ra làm 3 phường Xoan
là Phù Đức, Thét và Kim Đái, hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo chuyên môn
của Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh (thuộc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Phú
Thọ). Và cũng trong năm 2006, phường Xoan An Thái được công nhận là
phường Xoan cấp tỉnh. Phường Xoan hoạt động với mô hình gốc, với sự dẫn dắt
của các cụ trùm Xoan. Xoan được thực hành và truyền dạy theo lịch cụ thể, mỗi
tuần hai buổi tối, mỗi năm tổ chức hát Xoan vào dịp hội làng và hội đền Hùng, với
các thành viên tham gia thường xuyên và tự nguyện. Sự khôi phục các thực hành
1 Tư liệu phỏng vấn, 5/10/2018.
62
Hát Xoan còn liên quan tới những động thái của nhà nước trong việc đưa Giỗ tổ
Hùng Vương vào ngày 10.3 hàng năm thành Quốc lễ vào năm 1995, và từ năm
Hùng Vương (theo Luật số 84/2007/QH11).
2007, người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương vào ngày Giỗ tổ
Trong bối cảnh nhà nước khuyến khích ghi danh các di sản (vật thể và phi
vật thể) ở cả cấp quốc gia và quốc tế, tỉnh Phú Thọ đã có chủ trương tìm kiếm một
loại hình văn hóa điển hình để đại diện cho tỉnh. Quá trình tìm kiếm này thể hiện rõ
qua các cuộc họp bàn chiến lược của tỉnh (Nguyễn Anh Tuấn 2015); qua các bộ hồ
sơ di sản đã được chuẩn bị như “Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di tích
khảo cổ học thời đại đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ”, “Di tích Đền Hùng và di
tích khảo cổ đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ” (Văn bản 3867/VPVP-VX do Chính
phủ kí ngày 11/7/2007). Và cuộc Hội thảo ngày 07 tháng 7 năm 2008 có một ý
nghĩa rất quan trọng, chuyển hướng chiến lược của tỉnh từ việc xây dựng hồ sơ
về một không gian văn hóa vật thể sang tìm kiếm ứng viên từ di sản phi vật thể.
Và cuộc hội thảo tuyển lựa vào ngày 28 tháng 12 năm 2008 đã thay đổi số phận
của Xoan. Từ danh sách 5 di sản của tỉnh được Sở VHTTDL trình lên, Hát Xoan
đã được lựa chọn.
Việc lựa chọn này đã dẫn đến hàng loạt những hoạt động mạnh mẽ về sau
để xây dựng hồ sơ di sản, cũng là những hoạt động tác động mạnh mẽ đến diện
mạo của hát Xoan. Đó là những cuộc sưu tầm, nghiên cứu về Xoan trên mọi
phương diện (không gian thực hành, người thực hành, bài bản, tư liệu…) từ cuối
năm 2008. Tư liệu về Xoan dần dày lên, bản đồ không gian vùng Xoan được dày
lên dần dần. Những nỗ lực điều tra, khảo sát, sưu tầm các tư liệu về Xoan thời kì
này có một ý nghĩa rất lớn đối với việc đánh giá hiện trạng và các hình thức sinh
hoạt liên quan tới hội Xoan và nghệ thuật hát Xoan. Một cái nhìn tương đối tổng thể
về Xoan đã được hình thành – từ cách thức tổ chức sinh hoạt văn hóa tới các di tích
di vật liên quan như trang phục, dụng cụ, âm nhạc, tài liệu chữ Hán, chữ Nôm…
Những tư liệu dày dặn trên nhiều phương diện về Xoan chính là nền tảng
63
để những hội thảo lớn về Xoan được tổ chức. Hát Xoan Phú Thọ (13/10/2019)
và hội thảo Quốc tế Hát Xoan Phú Thọ (15/01/2010) được tổ chức với sự tham
gia đông đảo của các nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc, nghệ thuật trong và
ngoài nước. Những bài tham luận, những ý kiến đóng góp trong các hội thảo là
nguồn tư liệu quý giá cho quá trình khôi phục và phát triển Xoan. Đồng thời với
những nghiên cứu chuyên sâu về Xoan, bộ hồ sơ di sản Xoan cũng được chuẩn
bị để trình UNESCO xét duyệt. Và đến ngày 24 tháng 11 năm 2011, Hsát Xoan
được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại cần bảo vệ khẩn cấp, trở thành dấu mốc quan trọng, tác động mạnh mẽ đến
thực hành văn hóa này. Việc Xoan được UNESCO ghi danh vào năm 2011 được
xem là kết quả của một chặng đường dài những nỗ lực và quyết tâm của chính
quyền và những người làm văn hóa, cũng như những nỗ lực thực hành lại Hát
Xoan của chính cộng đồng chủ.
2.2. Quá trình ghi danh di sản Hát Xoan
2.2.1. Quá trình lựa chọn Hát Xoan
Trong bối cảnh nhiều địa phương có nhu cầu ghi danh di sản cho riêng
mình nhằm phục vụ các mục đích chính trị, kinh tế, du lịch, văn hóa, việc Phú
Thọ lựa chọn Hát Xoan để lập hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh di sản là một
quá trình chuẩn bị dài, liên quan đến những tính toán của Ủy ban Di sản và
UBND tỉnh Phú Thọ về việc xây dựng một hồ sơ di sản văn hóa nhân loại gắn
với tỉnh Phú Thọ, gắn với Đền Hùng. Từ nhiệm vụ “phải xây dựng Đền Hùng để
từ Đền Hùng nhìn ra cả nước và cả nước hướng về Đền Hùng” (Tổng bí thư Lê
Duẩn, 1977), với mục tiêu “nơi đất Tổ với núi mẹ Nghĩa Lĩnh Đền Hùng phải trở
thành di sản của nhân loại được UNESCO công nhận”, “Đền Hùng phải trở
thành di sản đại diện của nhân loại” (Nguyễn Anh Tuấn 2015), lãnh đạo tỉnh đã
yêu cầu ngành văn hóa tham mưu và vào cuộc trong “chiến dịch” này. Và Hát
Xoan không phải là lựa chọn đầu tiên của Phú Thọ nhằm phục vụ mục đích này.
Đầu tiên, tỉnh Phú Thọ hướng đến việc xin xây dựng hồ sơ “Nghiên cứu,
64
bảo tồn và phát huy giá trị di tích khảo cổ học thời đại đồng thau sắt sớm ở Phú
Thọ”, vì nhận thấy nếu đệ trình UNESCO di sản vật thể về Đền Hùng thì rất khó
khả thi. Nghiên cứu về tiêu chí di sản của UNESCO, tỉnh nhận thấy, “tiêu chí di
sản có giá trị nổi bật toàn cầu luôn là yêu cầu và tiêu chí hàng đầu của một thực
thể muốn trở thành di sản văn hóa thế giới” (Nguyễn Anh Tuấn 2015). Những
nhận định và tính toán đó đã dẫn đến quyết định lập hồ sơ “Di tích Đền Hùng và
di tích khảo cổ đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ” (Văn bản 3867/VPVP-VX do
Chính phủ kí ngày 11/7/2007). Hồ sơ này, với cơ sở quan trọng là kết quả nghiên
cứu các di tích thuộc thời đại đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ, hướng đến giải
quyết vấn đề xây dựng Đền Hùng – không gian tín ngưỡng và thực hành tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam – trở thành khu di sản thế giới.
Nhưng Hội thảo ngày 07 tháng 7 năm 2008 đã chuyển hướng chiến lược
của tỉnh. Hội thảo này do UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp tổ chức cùng Bộ
VHTT&DL, với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học trên các lĩnh vực:
sử học, khảo cổ học, văn nghệ dân gian; các tham luận nêu rõ sự cần thiết của
việc xây dựng hồ sơ không gian văn hóa vùng đất Tổ Hùng Vương đề nghị
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới với tên gọi “Không gian văn hóa
vùng đất Tổ Hùng Vương”; hướng đến và kết luận về việc “cần ưu tiên xây dựng
hồ sơ DSVHPVT đại diện của nhân loại”. Sau hội thảo, ngành VHTT&DL tỉnh
được giao để nghiên cứu tìm hướng đi thích hợp với quyết nghị. Đền Hùng vẫn
được coi là tâm điểm cho việc xây dựng hồ sơ, nhưng không thể là hồ sơ cho
một di sản vật thể, vì hướng đi này là khó thành công. Từ gợi ý của nhà nghiên
cứu Tô Ngọc Thanh (Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam) về việc tìm
kiếm xây dựng hồ sơ một di sản từ trong chính kho tàng văn hóa tại tỉnh, trong
hai ngày 28 và 29 tháng 12 năm 2008 đã diễn ra Hội thảo “tuyển lựa” di sản
mang tên "Hội thảo cấp chuyên gia tư vấn và lựa chọn DSVHPVT đề nghị
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới". Hội thảo được tổ chức với sự
tham gia của 14 nhà khoa học, nhà quản lý từ Trung ương, các chuyên gia, cán
65
bộ quản lý địa phương. Tại Hội thảo, 5 loại hình di sản của tỉnh được đưa ra
tuyển lựa gồm: Hát Xoan Phú Thọ, Hát Ghẹo Phú Thọ, Hát Trống quân Phú
Thọ, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội vùng Đất Tổ Hùng Vương. Ban tổ chức Hội thảo
còn tổ chức đoàn đi thực tế tại xã Phượng Lâu và xã Kim Đức (Việt Trì) nghe
hát và xem trình diễn của 04 phường Xoan cổ. Sau Hội thảo, Hát Xoan Phú Thọ
được lựa chọn, và bắt đầu từ đó, việc xây dựng Hồ sơ Hát Xoan được xem là
nhiệm vụ chính trị của cả tỉnh.
Kể về lí do Hát Xoan được lựa chọn, một nhạc sỹ trong hội đồng, cũng là
người có nhiều đóng góp với quá trình xây dựng hồ sơ Hát Xoan cho biết, Xoan
được lựa chọn thứ nhất do "Xoan là nghệ thuật hát thờ Hùng Vương", chẳng
hạn, so với Hát Trống quân Hữu Bổ (một trong số 5 ứng cử viên), thì Hát Trống
quân chỉ là "hát thờ đình làng, chỉ ở cái đình ấy thôi, không có giá trị quốc gia,
không có giá trị văn hóa cao". Thứ hai, "tổ chức nghệ thuật của Hát Xoan cao
hơn tất cả các hình thức khác, thí dụ Ghẹo chỉ có ngồi hát với nhau thôi, Trống
quân chỉ đánh trống bục bục bục bục xong xong thì hát thôi, còn Xoan thì vừa
hát vừa múa, Xoan hơn hẳn chứ, Xoan hát có tiết tấu mạch lạc hơn, tức là nghệ
thuật so với các hình thức kia là hay hơn, giá trị văn hóa cao hơn". Nhà nghiên
cứu còn bổ sung thêm, câu chuyện truyền thuyết về hát Xoan hay hơn, "bây giờ
mấy anh khác (ý là các loại hình nghệ thuật khác - Đ.T.N) bảo kể cái câu chuyện
truyền thuyết về nghệ thuật của anh thì có kể được không, không kể được, có gì đâu mà kể"1. Thông tin về việc, Hát Xoan là "hát thờ các Vua Hùng" được nhiều
nhà nghiên cứu, nhà quản lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhấn mạnh trong các cuộc
phỏng vấn, như một lí do đầu tiên và quan trọng nhất của việc Xoan được lựa
chọn, cũng là nét riêng biệt của loại hình di sản này. Như một vị Phó Chủ tịch
tỉnh chủ trì Hội thảo tuyển chọn nhấn mạnh, thời điểm làm hồ sơ Hát Xoan,
không ít người thấy Xoan "khó nghe", "thấy khó chịu vì chưa quen, trong khi cái
Quan họ vừa mới được ghi danh hay như thế, làn điệu mượt mà như thế, rồi cả
1 Thông tin phỏng vấn, ngày 21/12/2021.
66
Đờn ca tài tử cũng bắt đầu vào trận". Theo bà, trong bối cảnh ấy, chiến lược
được tỉnh Phú Thọ lựa chọn để "thuyết minh" và "bảo vệ được" cho Xoan là
"Xoan là cái bắt đầu, cái khởi nguồn của tất cả các loại hình nghệ thuật, của
những câu ca dân gian (…) nó là nơi khởi nguồn ở một mảnh đất bắt đầu của nền
văn minh sông Hồng. Nền văn minh ấy chảy dài rực rỡ 4000 năm thì hát Xoan là
lối hát đầu tiên, là cái hát thờ Vua, là lối hát thể hiện tín ngưỡng, tín ngưỡng đầu
tiên của dân tộc Việt". Quá trình bảo vệ Xoan được bà xem là "cuộc chiến cam go",
"nhiều khó khăn", nhưng "truyền thuyết Hùng Vương, vua Hùng là có thật, truyền
thuyết nhưng đã ngấm vào máu, trở thành di sản, cái di sản độc đáo đặc sắc có một
không hai trong lịch sử nhân loại, là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mà trong phần lễ thì không nói, nhưng phần hội thì không thể thiếu lối hát Xoan này"1.
Yếu tố "tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương" trở thành một lợi thế của Hát
Xoan, và khía cạnh này được khai thác triệt để trong nhiều thuyết minh về Hát
Xoan, thể hiện rõ trong Hồ sơ di sản Hát Xoan. Thực hành tín ngưỡng của Hát
Xoan được đồng nhất với cội nguồn, chiều dài lịch sử, yếu tố cổ của loại hình
nghệ thuật này: "Theo truyền thuyết, các Vua Hùng đã có công trong thời kì đầu
dựng nước ở vùng đất cổ Phú Thọ. Vì vậy, người dân Phú Thọ đã sáng tạo ra Hát
Xoan để tưởng nhớ công lao của các Vua Hùng. Hát Xoan được lưu truyền hàng ngàn năm nay và được cộng đồng coi là một phần di sản văn hóa của họ"2. Ngoài
ra, có thể nói, việc lựa chọn Hát Xoan còn liên quan đến một nhu cầu khác của
tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa về việc tìm kiếm một loại hình nghệ thuật gắn với
Đền Hùng, với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương biểu trưng cho ý thức cội
nguồn, ý niệm về tổ tông của người Việt. Hát Xoan không đơn giản là một thực
hành văn hóa của cộng đồng địa phương mà mang ý nghĩa biểu trưng cho nguồn
gốc và giai đoạn dựng nước hào hùng của cả một dân tộc. Hàm nghĩa này của
1 Thông tin phỏng vấn bà H., ngày 09/01/2022. 2 Trích: Hồ sơ đăng kí vào Danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011. 3 Như lời kể của nhạc sỹ Đ.H.L, khi được Bộ Văn hóa tham vấn lựa chọn giữa Hát Xoan và Hát Ghẹo (một loại hình nghệ thuật diễn xướng tại Phú Thọ), ông trả lời "Ghẹo không thể so với Xoan được (...) có mấy yếu
67
Xoan được nhấn mạnh, nên trong sự đối sánh với các loại hình nghệ thuật khác tại địa phương, Hát Xoan luôn giữ một thế mạnh nổi bật3.
Ngoài ra, thông tin phỏng vấn một số thành viên tham gia Hội thảo tham
vấn lựa chọn di sản vào 28/12/2008 cũng cho biết, việc lựa chọn Hát Xoan để lập
hồ sơ UNESCO ghi danh trong mục "Di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của
nhân loại" còn dựa trên sự "tư vấn" của một số cán bộ làm việc tại Đại sứ quán.
Từ kinh nghiệm quan sát được qua các lần xét duyệt hồ sơ di sản của UNESCO,
các chuyên gia này cho rằng, việc xây dựng hồ sơ di sản trong danh mục "cần bảo vệ khẩn cấp" sẽ "nắm chắc phần thắng"1 hơn, dựa trên các tiêu chí bảo vệ và
phát huy di sản đã được UNESCO công bố. Việc Hát Xoan không được thực
hành và dần mai một trong giai đoạn 1945-1975; việc Hát Xoan được thực hành
trở lại từ 1987, các CLB Hát Xoan được thành lập đầu những năm 90 với nòng
cốt là 31 đào, kép tại 4 phường Xoan Thét, An Thái, Kim Đái, Phù Đức từng trình diễn Xoan trước năm 1945 và số nghệ nhân nòng cốt này hiện2 còn 8 người
cuối cùng (từ 80-104 tuổi) trong tình trạng sức khỏe yếu, trí nhớ suy giảm không
thể trình diễn, không còn nhớ bài Xoan cổ, không thể truyền dạy được,… trở
thành những ngữ liệu vô cùng thuyết phục cho câu chuyện "cần bảo vệ khẩn
cấp". Vấn đề về không gian văn hóa của Xoan, vùng Xoan gốc đang trong quá
trình hiện đại hóa, đô thị hóa, với sự xuất hiện của nhiều nhà máy, khu công
nghiệp cũng được nhấn mạnh như một yếu tố quan trọng khiến gia tăng nguy cơ
mai một các tập quán, lễ hội liên quan đến Hát Xoan.
Thêm vào đó, các thông tin phỏng vấn cũng cho thấy, việc lựa chọn Hát
Xoan còn liên quan đến những "tính toán xa hơn" trong việc lập hồ sơ di sản tiếp theo của Phú Thọ liên quan tới Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương3.
Như lời của một cán bộ Phú Thọ có nói, "thờ cúng Hùng Vương là thờ cúng
tố đấy nhưng trước tiên là yếu tố thờ cúng Hùng Vương, rồi câu chuyện truyền thuyết về nghệ thuật này" (Tư liệu phỏng vấn 21/12/2021). 1 Tư liệu phỏng vấn, ngày 22/12/2021. 2 Tính đến năm 2009, thời điểm lập Hồ sơ di sản. 3 Trên thực tế, trong khi chuẩn bị hồ sơ Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ đồng thời chuẩn bị cho bộ hồ sơ thứ hai, và Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được UNESCO ghi danh di sản ngay trong năm 2012, sau Hát Xoan chỉ 01 năm.
68
nguồn gốc của dân tộc, không thể có di sản UNESCO ở khắp cả nước mà riêng
đất gốc lại không có di sản là không được". Việc có được một loại hình di sản tại
"không gian gốc", liên quan tới Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
của cả nước là nguyện vọng, là nhiệm vụ mà tỉnh Phú Thọ đặt ra và quyết tâm
thực hiện.
2.2.2. Quá trình xây dựng hồ sơ di sản Hát Xoan
Ngày 24 tháng 11 năm 2011, tổ chức UNESCO đã thông qua quyết định
số 6.COM.8.23 ghi danh Hát Xoan là DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp của
nhân loại. Các thông tin trong hồ sơ ghi rõ, Hát Xoan Phú Thọ (Xoan Singing of
Phu Tho Province), với các tên gọi khác như Hát Lãi L n (vì sự tích Hát Xoan
gắn với ngôi miếu cổ tên là Lãi L n), Hát Đúm (vì ở trong bài bản Hát Xoan có
thể loại hát Đúm); Hát Thờ (vì Hát Xoan gắn liền với tín ngưỡng thờ Thần của
người Phú Thọ); Hát Cửa đình (vì Hát Xoan được thực hành ở đình làng), là loại
hình "nghệ thuật trình diễn" gắn với 4 phường Xoan gốc gồm phường An Thái
(xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì, với 42 người); phường Phù Đức (xã Kim
Đức, thành phố Việt Trì, với 23 người); phường Thét (xã Kim Đức, thành phố
Việt Trì, với 31 người), phường Kim Đái (hay Kim Đới, xã Kim Đức, thành phố
Việt Trì, với 25 người). Ngoài ra 121 người tham gia thực hành Hát Xoan tại các
phường Xoan cổ, hồ sơ còn ghi rõ, còn có 03 đội (47 người Hát Xoan mới học
và thực hành Hát Xoan từ năm 2006 nhưng không thường xuyên tại thị trấn Lâm
Thao (17 người), huyện Tiên Du (12 người), xã Phù Ninh (18 người). Đây là loại
hình nghệ thuật mà "trước đây người thực hành Hát Xoan là nông dân. Ngày
nay, người thực hành Hát Xoan đa dạng hơn, gồm có: nông dân, người về hưu,
học sinh..." (trích Hồ sơ di sản Hát Xoan, tr.2).
Kết quả trên liên quan tới một quá trình dày công chuẩn bị hồ sơ đệ trình
lên tổ chức UNESCO, với sự tham gia của UBND tỉnh Phú Thọ, Sở VH,
TT&DL Phú Thọ, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, Viện Âm nhạc (thuộc Học
viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), của nhiều nhà khoa học và nhiều nghệ nhân;
69
nhưng cũng là quá trình chuẩn bị để "di sản được dán nhãn", mở rộng quyền sở
hữu. Hát Xoan không chỉ thuộc về cộng đồng chủ nhân (những người thực hành
hát Xoan) mà còn thuộc quyền quản lý của cơ quan chính quyền các cấp (tỉnh,
nhà nước). Quá trình này, mở đầu bằng việc lựa chọn Hát Xoan, và sau đó là
những động thái điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phục dựng, mua bản quyền để
nhà nước lập hồ sơ về các tư liệu, hiện vật, con người và địa điểm liên quan đến
loại hình di sản này.
Sau Hội thảo xác định tiêu chí xây dựng Hồ sơ di sản văn hóa thế giới ngày 12/9/20081 và dựa trên kết luận của hội thảo tham vấn chuyên gia trong
việc lựa chọn loại hình di sản vào 28-29/12/2008, UBND tỉnh Phú Thọ, Sở VH,
TT&DL Phú Thọ lên kế hoạch tổ chức khảo sát xây dựng nội dung hồ sơ Di sản
Hát Xoan (2009) với các nội dung chính: Khảo sát hiện trạng không gian di sản
Hát Xoan tại tỉnh Phú Thọ; Xây dựng kế hoạch tiến độ, nội dung và kinh phí lập
hồ sơ; Xác định đối tác chuyên môn khoa học làm tư vấn xây dựng hồ sơ Di sản2. Quá trình khảo sát có sự tham gia của các chuyên gia Âm nhạc, Văn hóa,
cán bộ văn hóa Sở và Viện nghiên cứu, tập trung khảo sát 5 ngày tại 4 phường
Xoan gốc và nhiều địa phương khác trong và ngoài tỉnh Phú Thọ như Cao Mại,
Lâm Thao, Hương Nộn, Tam Nông, Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Đoan Hùng. Cùng
thời điểm này, Bảo tàng tỉnh Phú Thọ được giao nhiệm vụ điều tra, khảo sát hiện
trạng các hình thức sinh hoạt văn hóa liên quan đến hát Xoan và nghệ thuật Hát
Xoan tại hai xã Kim Đức, Phượng Lâu, nghiên cứu, sưu tầm tư liệu di sản Hát
Xoan tại hai địa điểm trên và từ nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu dân gian
địa phương nhằm phục vụ công tác lập hồ sơ Di sản (trong 2 tháng, từ
5/10/2009-5/12/2009). Các tư liệu sưu tầm về Hát Xoan được hướng đến gồm:
Điều tra, khảo sát hiện trạng các hình thức sinh hoạt văn hóa liên quan đến hát
1 Ngày 12/8/2009, Bộ VHTT&DL hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ xây dựng hồ sơ “Hát Xoan Phú Thọ” trình Tổ chức khoa học, giáo dục và văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) xem xét đưa vào danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân theo văn bản số 5547/VPCP - KGVX. 2 Trích Kế hoạch số 18/KH-SVHTTDL, 08/06/2009.
70
Xoan và nghệ thuật hát Xoan (người biết hát, người biết múa, biết sử dụng trống,
phách, các di tích gắn với Hát Xoan, các hiện vật liên quan đến Hát Xoan, các tổ
chức sinh hoạt Hát Xoan, tư liệu văn bản về Hát Xoan, những địa danh đã tổ
chức phường Xoan, trang phục sử dụng trong hát Xoan); Hệ thống hóa các tư
liệu liên quan đến Hát Xoan (nguồn gốc, quá trình ra đời và phát triển Hát Xoan,
Các bài hát Xoan chữ Hán, chữ Nôm, tiếng Việt, Các sách đã xuất bản liên quan
đến Hát Xoan, Các bài viết về Hát Xoan trên các báo, tạp chí,...; Các băng, đĩa,
ghi âm, ảnh về Hát Xoan) (Kết quả của nhiệm vụ này, xin xem Phụ lục số 3, 4,
5, 6, 7, 8).
Tiếp theo đó, các lãnh đạo ngành VHTTDL cùng các nhà nghiên cứu đi
làm phim tư liệu, phỏng vấn, gặp gỡ nghệ nhân ở 4 làng Xoan cổ và 20 cửa đình
thuộc các làng xã thuộc hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Những bến sông, cửa
đình, cửa miếu…. nơi diễn ra Hát Xoan ngày xưa của các làng Xoan đều được
tìm đến. Những tư liệu về Xoan dần dày lên. Bản đồ không gian vùng Xoan
được bổ sung thêm dần dần. Những nỗ lực điều tra, khảo sát, sưu tầm các tư liệu
về Xoan thời kì này có một ý nghĩa rất lớn với việc đánh giá hiện trạng và các
hình thức sinh hoạt liên quan tới hội Xoan và nghệ thuật Hát Xoan. Trong vòng
gần một tháng (từ tháng 9 đến tháng 10/ 2009), các nhà khoa học, các cán bộ văn
hóa đã tập trung tìm hiểu và phần nào có một cái nhìn tổng thể về Xoan, với cách
thức tổ chức sinh hoạt văn hóa, các di tích di vật liên quan như trang phục, dụng
cụ, âm nhạc, tài liệu chữ Hán, chữ Nôm…
Song song với công tác sưu tầm các tư liệu đã có và hiện có về Hát Xoan,
UBND tỉnh Phú Thọ lên kế hoạch tổ chức Hội thảo, tọa đàm khoa học phục vụ
công việc xây dựng Hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ" trình UNESCO vào 12-13/10/2009.
Với mục đích "Kiểm kê toàn diện kết quả nghiên cứu Hát Xoan Phú Thọ" làm cơ sở
để xây dựng kế hoạch chi tiết cho các nhiệm vụ xây dựng hồ sơ, xây dựng và tổ
chức các cuộc Hội thảo trong nước và quốc tế nhằm hoàn thiện hồ sơ di sản.
Ngày 19/10/2009, Sở Văn hoá thể thao và Du lịch Phú Thọ phối hợp với
71
Viện âm nhạc Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học về Hát Xoan Phú Thọ với sự
tham dự của các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, các nhạc sĩ, các nhà quản lý
và đại diện cộng đồng địa phương. Thông báo kết luận của hội thảo nêu rõ, các
nhà nghiên cứu văn hóa, các nhạc sỹ đã đóng góp ý kiến cụ thể về các vấn đề:
nguồn gốc, lịch sử, giá trị văn hóa, nghệ thuật của Hát Xoan; thực trạng Hát
Xoan hiện nay đang bị mai một và những thách thức trong việc bảo tồn, duy trì
và truyền dạy Hát Xoan trong đời sống đương đại; các biện pháp phục hồi làm
sống lại di sản Hát Xoan, cách thức truyền dạy và phổ biến Hát Xoan; kế hoạch
và biện pháp xây dựng hồ sơ Hát Xoan cũng như các vấn đề khác có liên quan để
hoàn thành hồ sơ đúng thời gian quy định; Công bố các nguồn tư liệu đã được
nghiên cứu và công tác khảo sát thực địa vùng có di sản Hát Xoan. Hội thảo
thống nhất kết luận các vấn đề: (1) Xác định và thống nhất những quan điểm,
cách tiếp cận nghiên cứu cơ bản về Hát Xoan; (2) Tiến hành điều tra, khảo sát,
thu thập tư liệu về Hát Xoan từ nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu, nhạc sỹ, từ
trí nhớ, ký ức của cộng đồng, từ đó nghiên cứu thẩm định và phân loại di sản phi
vật thể; (3) Cần tiếp tục Hội thảo để xác định giá trị và biện pháp bảo vệ về các
vấn đề: Nguồn gốc lịch sử, sự ra đời, phát triển và sức lan tỏa của Hát Xoan; Xác
định giá trị truyền thống của Hát Xoan trong xã hội đương đại; Những giá trị
nghệ thuật và văn hóa của Hát Xoan; Vấn đề quảng bá và phổ biến Hát Xoan
trong tình hình hiện nay; (4) Cần phục hồi và làm sống lại Hát Xoan trong đời
sống cộng đồng, trong nhận thức của xã hội, trong môi trường văn hóa của quốc
gia. Cần phải tạo ra môi trường diễn xướng và công chúng cho Hát Xoan; (5)
Các biện pháp truyền dạy và hỗ trợ thực hành Hát Xoan trong cộng đồng, cần lấy
4 làng Xoan gốc tại 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu (thành phố Việt Trì) là chủ
thể Hát Xoan, phải lấy họ làm trung tâm của việc xây dựng hồ sơ, phục hồi phát
huy giá trị của Hát Xoan; (6) Cần đưa Hát Xoan vào giảng dạy ngoại khóa trong
chương trình sân khấu học đường tại các trường phổ thông của Phú Thọ và xây
dựng chương trình dạy hát dân ca Xoan, Ghẹo Phú Thọ trên sóng Đài phát thanh
72
và truyền hình tỉnh Phú Thọ; (7) Ngành văn hóa địa phương cần xây dựng kế
hoạch để tổ chức đêm "Hát Xoan Phú Thọ" phục vụ Hội thảo trong nước và quốc
tế. Cần tổ chức các CLB Hát Xoan, hát Ghẹo Phú Thọ và liên hoan "Hát Xoan Phú
Thọ" để tăng sức lan tỏa Hát Xoan trong cộng đồng; (8) Xây dựng mạng lưới các cơ
quan, tổ chức, các nhà nghiên cứu và cộng đồng để xây dựng hồ sơ Hát Xoan, bao
gồm: Hồ sơ viết, phim, bản đồ, ảnh, các bản cam kết, danh mục kiểm kê, sách về
Hát Xoan; (8) Đề nghị Ban chỉ đạo thực hiện cải tạo, tổ chức phục hồi, truyền dạy,
nâng cao nhận thức của cộng đồng, xã hội, xây dựng hồ sơ có chất lượng, nộp đúng
kì hạn, tiến hành các công việc để việc đề cử đạt yêu cầu đặt ra.
Ngày 25/12/2009 Bộ VHTT&DL ra Quyết định số 4938 thành lập Ban chỉ
đạo xây dựng hồ sơ “Hát Xoan Phú Thọ” gồm 13 cán bộ, do ông Nguyễn Doãn
Khánh - Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, ông Trần Chiến Thắng - Thứ
trưởng Bộ VH,TT&DL và bà Nguyễn Thị Kim Hải - Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Phú Thọ làm Phó trưởng ban. Tiếp theo ngày 28/12/2009 Bộ VH,TT&DL ra
quyết định giao Viện Âm nhạc thuộc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và
Sở VHTTTDL Phú Thọ xây dựng hồ sơ “Hát Xoan Phú Thọ” và hai đơn vị này
có trách nhiệm phối hợp với Cục Di sản văn hóa thực hiện quy trình, tham vấn ý
kiến chuyên môn và sớm thông qua để báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Ngày 15/01/2010 diễn ra hội thảo Quốc tế về “Hát Xoan Phú Thọ” tại
phòng họp của UNND tỉnh Phú Thọ. Hội thảo có sự tham gia của các nhà nghiên
cứu Việt Nam và Quốc tế đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Miama, Lào,
Campuchia, Pháp, Anh, Mỹ…
Đến ngày 30/03/2010 toàn bộ Hồ sơ Di sản Hát Xoan đã được chuyển tới
Paris thủ đô của nước Pháp, nơi có trụ sở tổ chức UNESCO để xét duyệt. Trong
bộ hồ sơ này còn có một tập các bản cam kết của cộng đồng, nhóm người, cá nhân1 thuộc xã Phượng Lâu (Việt Trì, Phú Thọ), xã Kim Đức2 (Việt Trì, Phú
73
Thọ), bản cam kết của chính quyền và phòng Văn hóa - Thông tin các huyện, xã 1 Các cá nhân này là các nghệ nhân thực hành Xoan tại phường, Câu lạc bộ Xoan An Thái (44 thành viên viết cam kết). 2 Các cá nhân này là các nghệ nhân thực hành Xoan tại phường, Câu lạc bộ Xoan Phù Đức (xã Kim Đức) (32 thành viên viết cam kết).
thuộc tỉnh Phú Thọ có liên quan đến loại hình nghệ thuật Hát Xoan. Với Bản
cam kết dành cho các Phường, CLB Hát Xoan, ngoài nội dung đồng thuận với
việc đệ trình hồ sơ đề cử Hát Xoan Phú Thọ với UNESCO để ghi danh
DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp, nội dung còn ghi rõ: "Với trách nhiệm và
ý thức công dân cùng với lòng say mê, yêu mến vốn DSVHPVT Hát Xoan do cha
ông truyền lại. Chúng tôi đồng ý và xin được tự nguyện tham gia vào các hoạt
động nhằm khôi phục để bảo tồn, phổ biến và truyền dạy Hát Xoan - Một
DSVHPVT mang đậm bản sắc truyền thống của vùng Đất Tổ Hùng Vương nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung"1. Với đoàn thể, chính quyền (một số
UBND xã, huyện, tỉnh), bản cam kết hướng đến nội dung "có trách nhiệm đồng
thuận ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích mọi hình thức sinh hoạt
văn hóa và trình diễn phổ biến, truyền dạy Hát Xoan nhằm bảo tồn vốn DSVHPVT tiêu biểu tại địa bàn do chính quyền địa phương đang quản lý"2.
Riêng đối với từng nghệ nhân, bản cam kết nêu rõ: "Bằng khả năng, lòng nhiệt
tình và sự đam mê đối với loại hình văn hóa nghệ thuật Hát Xoan, tôi đồng ý
tham gia một cách tự nguyện vào các hoạt động khôi phục, truyền dạy, bảo tồn vốn di sản quý giá này và không đòi hỏi kinh phí dưới mọi hình thức nào"3.
Như vậy, từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 3 năm 2010 là một hành trình
kéo dài gần hai năm của quá trình lựa chọn và làm hồ sơ ghi danh Hát Xoan là
DSVHPVT của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp. Quá trình này bao gồm các bước
sưu tầm, kiểm tra, nghiên cứu, đánh giá về mọi phương diện liên quan tới Hát
Xoan và thực hành Hát Xoan; và cuối cùng là việc hoàn thiện hồ sơ để trình
UNESCO đánh giá. Việc Xoan được ghi danh, việc Phú Thọ và Việt Nam có
thêm một di sản tầm quốc tế là kết quả của nỗ lực và quyết tâm mạnh mẽ của
1 Trích Bản cam kết của cả phường CLB Xoan Phù Đức, ngày 29/01/2010. 2 Trích Bản cam kết do UBND xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì kí ngày 12/02/2010. 3 Trích Bản cam kết của nghệ nhân Phùng Thị P. (sinh năm 1931) tại phường Xoan Kim Đái (Kim Đức, thành phố Việ Trì), kí ngày 12/02/2010. Bản cam kết của 75 nghệ nhân khác có nội dung tương tự.
74
tỉnh Phú Thọ, với những bước tổ chức bài bản từ sưu tầm tại thực địa đến tổ
chức hội thảo nghiên cứu của tỉnh và các ban ngành; với sự đóng góp lớn của các
chuyên gia nghiên cứu và các nhà khoa học. Trong quá trình này, cộng đồng địa
phương có những tham gia hết sức tích cực trong việc tái hiện lại những bài bản
Xoan và những thực hành Xoan, xuất phát từ nhu cầu tinh thần và tâm linh của
chính cộng đồng chủ và sự khuyến khích, động viên của các nhà nghiên cứu và
người làm văn hóa. Xoan đã được tạo điều kiện tốt nhất để tái sinh và đây cũng
chính là tiền đề cho những phát triển mạnh mẽ về sau của loại hình nghệ thuật
dân gian độc đáo này.
Sau khi được UNESCO công nhận, UNND tỉnh Phú Thọ cũng đã ban
hành Chương trình hành động số 382/CTr-UBND ngày 13/02/2012 về Bảo vệ và
phát huy và phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp - Hát Xoan Phú Thọ
(giai đoạn 2012-2015); Kế hoạch số 3864/KH-UBND Về việc triển khai một số
nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp
của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ năm 2013-2014 (23/09/2013). Ngày
7/11/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2058/QĐ-TTg phê
duyệt “Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp của nhân
loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2013-2020)". Nhiệm vụ và nội dung thực
hiện đề án giai đoạn 2013-2015 bao gồm: triển khai chương trình giáo dục về
DSVHPVT Hát Xoan lồng ghép trong các chương trình chính thức và ngoại
khóa tại các trường học trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; đào tạo các lớp nghệ nhân kế
cận tại các phường Xoan gốc, lớp trẻ tại cộng đồng. Ngày 11 tháng 7 năm
2014, UBND tỉnh Phú Thọ ban hành Kế hoạch 2836/KH-UBND Về việc Xây dựng
hồ sơ trình UNESCO công nhận Hát Xoan Phú Thọ là DSVHPVT đại diện của
nhân loại năm 2015. Ngày 22 tháng 12 năm 2014, UBND tỉnh Phú Thọ ban hành
Kế hoạch 5478/KH-UBND Về việc Triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại –
75
Hát Xoan Phú Thọ năm 2015.
2.3. Di sản hóa Hát Xoan trong quá trình ghi danh di sản
2.3.1. Lập hồ sơ di sản và quá trình mở rộng quyền sở hữu
Trong một nghiên cứu về di sản hóa mang tên Mô tả, ghi rõ, viết tắt: Di
sản hóa là (ngắt) kết nối (Described, inscribed, written off: Heritagization as
(dis)connection), Salemink (2014) nói tới quá trình dán nhãn di sản chính là quá
trình chuyển đổi quyền sở hữu thực hành di sản từ cộng đồng chủ nhân sang cho
nhà nước và UNESCO. Di sản vốn thuộc về cộng đồng, do cộng đồng làm chủ,
thực hành theo mong muốn và nhu cầu của cộng đồng, nhưng quá trình ghi danh
di sản đã mở rộng quyền sở hữu này cả cho nhà nước và UNESCO, trao quyền
cho các tổ chức này trong việc can thiệp và quyết định với các hình thức thực
hành và bảo vệ di sản. Quá trình mở rộng quyền sở hữu này diễn ra từ thời gian
lập hồ sơ, đánh giá về di sản, và Hát Xoan cũng không phải là một ngoại lệ.
Toàn bộ quá trình từ khi lựa chọn Hát Xoan (cuối năm 2008) đến khi Hát Xoan
được UNESCO ghi danh di sản (2010) có thể xem là quá trình mở rộng quyền sở
hữu Hát Xoan. Từ một thực hành của cộng đồng, cụ thể ở đây là các phường
Xoan trong 4 làng Xoan cổ, gồm Thét, Kim Đái, An Thái, Phù Đức, Hát Xoan
được nhà nước hóa, thông qua hàng loạt các thao tác khai thác, sưu tầm, nghiên
cứu,... diễn ra trên diện rộng. Trong các văn bản và chương trình hành động, tỉnh
Phú Thọ huy động rất nhiều các cá nhân vào cuộc để khai thác về Hát Xoan. Đó
là các nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm văn hóa dân gian (cả ở trung ương và địa
phương), các cán bộ văn hóa, nhạc sỹ, cán bộ quản lý, các nghệ nhân,... UBND
tỉnh Phú Thọ huy động tối đa các cán bộ, các nhà nghiên cứu đã, đang nghiên
cứu về Hát Xoan Phú Thọ và một số nghệ nhân đang gìn giữ, bảo tồn hát Xoan tại các địa phương Xoan gốc"1. Hệ thống các tư liệu lịch sử, văn hóa, phong tục
liên quan đến Hát Xoan, các hình thức biểu diễn Hát Xoan, các không gian trình
diễn Hát Xoan trước đây, âm nhạc Hát Xoan, hệ thống các tài liệu ghi chép cá
1 Trích Kế hoạch tổ chức Hội thảo.
76
nhân, các tài liệu đã xuất bản (bản nhạc, sách, báo, tạp chí...), các tài liệu Hán
Nôm, bản dập các văn bia liên quan đến Hát Xoan trong và ngoài nước, các địa
chỉ có tài liệu liên quan đến Hát Xoan trong và ngoài nước... đều được liệt kê
trong danh mục các tư liệu cần sưu tầm. Đặc biệt, UBND tỉnh Phú Thọ còn tính
đến phương án "nhượng quyền sở hữu các tài liệu cá nhân theo giá thỏa thuận"
với những tài liệu viết chưa xuất bản; những tài liệu do cá nhân thu thập được;
những tài liệu tranh, ảnh, bản khắc, của cá nhân sưu tập được; những bản nhạc
Hát Xoan đã ký âm, đã chỉnh lý hoặc nguyên dạng đã được sử dụng trên sân
khấu, trên đài phát thanh, truyền hình; những trang phục, đạo cụ, nhạc cụ có liên
quan đến phường Xoan, nghệ nhân Xoan. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc với
mục tiêu, nắm bắt, sở hữu mọi thông tin, tư liệu về Hát Xoan trong và ngoài địa
bàn tỉnh. Kết quả, ngoài việc sở hữu các nghệ nhân, các phường Xoan, các
không gian thực hành Hát Xoan, tỉnh còn nắm chủ quyền với toàn bộ hệ thống tư
liệu và hiện vật Hát Xoan. Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, tỉnh hiện
có 1.987 tư liệu ảnh, 11 đầu sách, 32 bài bản (18 bản gốc, có những bản trên giấy
dó, bản phô tô và 14 file đánh máy), 05 đề tài nghiên cứu, 40 đĩa DVD, 265 file
video, phim tư liệu, đĩa, 103 hiện vật, 143 file ghi âm phỏng vấn,... và nhiều tư
liệu khác về Hát Xoan (xem thêm Phụ lục 3).
Trong Hồ sơ di sản trình UNESCO, Bộ Văn hóa (cơ quan kí đại diện của
Việt Nam) "Chuyển nhượng các quyền và danh mục tư liệu nộp kèm theo Hồ sơ
đề cử vào Danh sách Bảo vệ khẩn cấp", với cam kết "trao UNESCO các quyền
thông thường (non-exclusive rights) để sử dụng, xuất bản, tái tạo, phân phối,
trưng bày, liên lạc hoặc công bố rộng rãi đến công chúng ở bất kì ngôn ngữ hoặc
hình thức nào và bằng bất kì phương tiện gì, bao gồm kĩ thuật số, toàn bộ hoặc
một phần (các) tư liệu dưới đây"; "trao cho UNESCO những quyền không thể
bãi bỏ này không hạn định về thời gian và áp dụng đối với toàn cầu". Theo đó,
Việt Nam ký giấy cho phép UNESCO sử dụng các loại ảnh chụp (trình diễn Hát
Thờ Vua, Bức chạm khắc gỗ Múa trong Hát Xoan tại đình Hùng Lô, Hát Mó cá -
77
tiết mục trong hát hội của cộng đồng Xoan, ảnh một số nghệ nhân dạy các thanh
thiếu nhi hát múa tại phường Xoan,...); các tư liệu nghe nhìn khác (phim 10 phút
và phim 60 phút, đĩa CD, audio Hát Xoan Phú Thọ dài 42 phút 42 giây, Bản đồ
điện tử Phân bố Di sản văn hóa nghệ thuật Xoan Phú Thọ).
Như vậy, sau khi ghi danh di sản, các hiện vật, con người và địa điểm liên
quan đến Hát Xoan đều đã được mở rộng quyền sở hữu, với sự quản lý, kiểm tra
của chính quyền tỉnh Phú Thọ và UNESCO. Điều này mở đường cho những can
thiệp về sau trong quá trình mang tên "bảo vệ và phát huy di sản", tác động đến
diện mạo của các thực hành Hát Xoan và các nghệ nhân liên quan cả trong và
ngoài các phường Xoan cổ.
2.3.2. Chọn lọc các yếu tố để có một hồ sơ di sản "có tính truyền thống và có
tính xác thực"
David Lowenthal (1996), tác giả của Bị sở hữu bởi quá khứ: Cuộc thập tự
chinh di sản và chiến lợi phẩm của lịch sử khi tìm kiếm nguyên do của hiện
tượng ghi danh các di sản phổ biến trên toàn thế giới đã nhấn mạnh rằng, các bên
sử dụng di sản cho các mục đích hiện tại, và sự thánh hóa các câu chuyện lịch sử
cụ thể về quá khứ. Điều này được Rodney Harrison (2013) mở rộng thêm trong
Di sản: Những phương pháp tiếp cận phê bình khi cho rằng, sự bùng nổ của di
sản là một sự tham gia sáng tạo quá khứ trong hiện tại giúp chúng ta định hình
tương lai của mình (tr.4), di sản là mối quan hệ giữa con người, đồ vật, địa điểm
và thực hành, liên quan đến những cách thức khác nhau mà con người và những
hiện vật, địa điểm được kết nối và vận hành để giữ cho quá khứ tồn tại trong hiện
tại và tương lai (tr.4-5). Ý niệm về việc di sản gắn với quá khứ và kết nối quá khứ
như vậy khiến cho các di sản được hiểu là "cũ", "truyền thống", "cổ". Điều này tác
động mạnh đến quá trình xây dựng hồ sơ di sản, khiến trên thực tế, việc tìm kiếm
các yếu tố cổ và xác thực của di sản trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Quá trình lập hồ sơ di sản Hát Xoan gắn với quá trình sưu tầm các tư liệu
và phục dựng các thực hành liên quan. Các tư liệu được khai thác bởi các cán bộ
78
Sở văn hóa từ năm 1954 về Hát Xoan được "đào lại", nhiều bài bản cổ trong đó
được yêu cầu các nghệ nhân hát lại. Theo lời kể của một nhạc sỹ tham gia quá
trình lập hồ sơ di sản Hát Xoan, nhiều bài bản trong các băng cối từ năm 1954
lưu tại Viện Âm nhạc, các nghệ nhân cao tuổi "nhớ lõm bõm", vì đó là "bố các
ông các bà ấy hát, lúc họ còn rất nhỏ, nên không còn nhớ". Một trong các nhiệm
vụ của nhà nghiên cứu và cán bộ văn hóa là "gợi lại cho nghệ nhân, họ quên thì mình phải nghe trước rồi gợi ra cho họ nhớ dần"1. Vì Hát Xoan và các thực hành
văn hóa liên quan đến Hát Xoan bị gián đoạn trong thời gian dài, từ 1945-1987
nên nhiều bài bản, thực hành được gợi lại theo trí nhớ của người cao tuổi trong
các làng Xoan cổ. Quá trình gợi lại này được tiến hành trên diện rộng, cả trong
các làng Xoan cổ, tại các đình miếu ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Các tư liệu đã
được khai thác trong các đợt từ 1954, 1967, 1998, 1999, 2002 trở thành ngữ liệu
cho các hình dung về Hát Xoan, hình thành một diện mạo mang tính xác thực
của di sản. Không chỉ các bài bản Xoan cổ, các lệ tục liên quan tới Xoan (hát thờ
thần đầu năm, hát tại các đình miếu kết nước nghĩa vào đầu năm mới) cũng được
mô phỏng và phục dựng lại. Việc chọn lọc để di sản mang dáng vẻ cổ, xác thực
còn được tiến hành với việc, ký âm các bài bản Xoan chủ yếu với các nghệ nhân
đã cao tuổi (31 nghệ nhân, tuổi từ 80 - 104). Mục tiêu của việc phục dựng Xoan
cổ cũng được nói tới trong Hồ sơ di sản Hát Xoan "phải phục hồi đầy đủ Hát
Xoan cổ trong thời gian ngắn nhất khi các nghệ nhân cuối cùng còn trợ giúp
được công việc này". Quan điểm này tác động mạnh mẽ cả quá trình xây dựng
hồ sơ di sản, và về sau, tác động trực tiếp đến cách Phú Thọ bảo vệ, phát huy di
sản này, điển hình là quy định yêu cầu các nghệ nhân trong các phường Xoan cổ
không được trình diễn các bài bản Xoan mới, phải trình diễn các bài bản Xoan
1 Thông tin phỏng vấn, ngày 21/11/2021.
79
cổ như đã ký âm khi thực hiện hồ sơ.
Tiểu kết Chƣơng 2
Trong Chương 2, luận án đề cập đến bối cảnh của quá trình di sản hóa ở
Việt Nam, với việc tập trung phân tích sự thay đổi và tác động từ phát triển kinh
tế thị trường, quá trình mở cửa trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước và sự
nhận thức lại về vai trò của văn hóa trong phát triển. Các phân tích đã cho thấy,
việc ghi danh các di sản trở thành nhu cầu của Việt Nam trong việc khẳng định
vị thế của mình trên trường quốc tế, và các địa phương, thông qua các di sản,
cũng muốn khẳng định vị thế của mình với quốc gia và thế giới.
Trong chương này, bối cảnh của việc Phú Thọ tìm kiếm một thực hành văn
hóa làm hồ sơ ghi danh di sản cũng được luận án mô tả và phân tích, kết quả cuối
cùng là sự lựa chọn loại hình Hát Xoan. Quá trình triển khai sưu tầm, quảng bá, xây
dựng hồ sơ, tổ chức các hội thảo liên quan tới thực hành văn hóa này cũng được
phân tích cụ thể trong chương. Những thông tin đã cho thấy, Hát Xoan được lựa
chọn liên quan đến những tính toán chiến lược về sự kết nối với thực hành tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương diễn ra phổ biến và rộng khắp tại Phú Thọ, trong
nhu cầu tìm kiếm một bản sắc văn hóa mang tính đại diện của tỉnh trong bối cảnh di
sản hóa ở Việt Nam. Từ quan điểm lý thuyết di sản hóa, quá trình lập hồ sơ ghi
danh di sản Hát Xoan chính là quá trình mở rộng quyền sở hữu di sản từ một nhóm
cộng đồng chủ nhân sang cho nhà nước (và về sau là UNESCO), với những can
thiệp của các tổ chức, cá nhân trong việc tạo dựng một diện mạo xác thực, mang
80
tính truyền thống cho di sản.
Chƣơng 3
DIỆN MẠO HÁT XOAN PHÚ THỌ
SAU GHI DANH DI SẢN
Sau nhiều nỗ lực của tỉnh Phú Thọ trong việc tìm kiếm loại hình di sản để
trình UNESCO xét duyệt; tiếp đó là quyết định lựa chọn Hát Xoan và xây dựng
hồ sơ Hát Xoan; ngày 24 tháng 11 năm 2011, Hát Xoan đã được UNESCO chính
thức công nhận là DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại; và đến
năm 2017, Hát Xoan được ghi danh vào danh sách DSVHPVT đại diện của nhân
loại. Sự công nhận này của UNESCO khiến rất nhiều bên tham gia và tác động
trực tiếp (hoặc gián tiếp) đến Hát Xoan, hình thành nên một diện mạo Xoan với
rất nhiều vấn đề đáng chú ý. Từ năm 2011 đến nay (năm 2019), thực hành Hát
Xoan về cơ bản đi qua hai chặng bảo vệ và phát huy. Chặng thứ nhất, từ 2011
đến 2017, giai đoạn bảo vệ khẩn cấp, với hàng loạt các chương trình và hành
động liên tục và mạnh mẽ nhằm đưa Xoan sống trên diện rộng (không phải chỉ ở
bốn làng Xoan cổ mà trong phạm vi toàn tỉnh Phú Thọ). Chặng thứ hai, từ 2017
đến nay, sau khi Xoan được chuyển từ danh sách Di sản cần bảo vệ khẩn cấp sang danh sách Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại1. Bối cảnh này đã dẫn
tới việc triển khai nhiều chính sách, tác động lớn tới thực hành Hát Xoan và tới
diện mạo của di sản.
3.1. Hoạt động kiểm kê, sƣu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Xoan
Sau khi được ghi danh trong danh mục loại hình Di sản “cần được bảo vệ
khẩn cấp của nhân loại”, Nhà nước và tỉnh Phú Thọ đã ban hành và thực hiện
nhiều chính sách, chương trình, kế hoạch hành động với mục đích bảo vệ và phát
huy Xoan. Năm 2012, chương trình hành động số 382/CTr-UBND về Bảo vệ và
1Ngày 8/12/2017, tại Hội nghị lần thứ 12, Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ DSVHPVT của UNESCO đã chính thức đưa Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại danh sách DSVHPVT đại diện của nhân loại. Chính thức đến ngày 3/2/2018, UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức trọng thể Lễ đón nhận bằng UNESCO ghi danh “Hát Xoan Phú Thọ” là DSVHPVT đại diện của nhân loại tại miếu Lãi L n, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì.
81
phát huy và phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp - Hát Xoan Phú Thọ
(giai đoạn 2012-2015) được UBND tỉnh Phú Thọ ban hành. Năm 2013, tiếp tục
là Kế hoạch số 3864/KH-UBND về việc triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về
bảo tồn, phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan
Phú Thọ năm 2013-2014. Trong các chương trình đó, luôn có một phần quan
trọng dành cho công tác kiểm kê, sưu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Hát Xoan.
3.1.1. Hoạt động kiểm kê tư liệu Hát Xoan
Các báo cáo về Hát Xoan cho thấy, công tác kiểm kê tư liệu Hát Xoan
luôn được chú trọng thực hiện thường xuyên. Công việc kiểm kê này đã được
thực hiện từ trước năm 2011 (giai đoạn từ tháng 11/2009 đến 3/2010), phục vụ
cho việc xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận Hát Xoan thuộc loại hình
DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp; và tiếp tục được triển khai vào năm 2015, bốn
năm sau khi Xoan được UNESCO công nhận, nhằm hướng tới việc đánh giá
chương trình hành động đưa Hát Xoan thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp của
tỉnh Phú Thọ và các ban ngành. Qua 11 báo cáo kiểm kê tại 30 CLB Hát Xoan
trong tỉnh, chúng tôi nhận thấy nổi bật một số nội dung như sau:
Việc kiểm kê di sản Hát Xoan được thực hiện bằng phương pháp điền dã
với phỏng vấn, ghi âm, ghi hình. Đối tượng được phỏng vấn là Chủ nhiệm các
CLB Xoan và một số thành viên trong đội (cán bộ điền dã có chú ý đến tính đại
diện của đối tượng phỏng vấn, chủ yếu liên quan đến lứa tuổi). Cán bộ phỏng
vấn lấy thông tin qua hai cách thức: phát phiếu câu hỏi và phỏng vấn trực tiếp.
Nội dung kiểm kê tập trung vào các vấn đề: khai thác thông tin về tình hình thực
hành Xoan cụ thể tại địa phương (CLB) với số lượng người tham gia, thời gian
thực hiện (cả về lịch tập luyện cố định và các chương trình khác có tham gia);
những kiến thức về Xoan mà cá nhân tham gia CLB có được, trên cơ sở đó để
người viết đánh giá về “chức năng văn hóa và xã hội của Hát Xoan ngày nay”
(tên tiểu mục B.1 trong báo cáo kiểm kê) và “sức sống của Hát Xoan và những
nguy cơ hiện nay” (tên tiểu mục B.2). Tiếp đó, báo cáo tập trung vào thông tin
82
người thực hành và truyền dạy Hát Xoan trong CLB, với những thông tin phỏng
vấn cụ thể về cách thức thực hành, truyền dạy, các nội dung bài bản Xoan được
yêu thích và thường xuyên trình diễn. Các nội dung phỏng vấn cụ thể về đánh
giá của các thành viên CLB với các nghệ nhân trong các phường Xoan gốc, về
bài bản tại các làng Xoan cổ hay về từng bài bản Xoan được viết thẳng thắn rõ
ràng trong các báo cáo. Tình trạng học và truyền dạy Xoan ra sao, yêu thích Xoan
thế nào cũng được phản ánh cụ thể trong nội dung của các báo cáo. Vấn đề về quy
cách tổ chức của CLB, với các vấn đề về nhân sự, về kinh phí, địa điểm hoạt động
và không gian/ phạm vi hoạt động, giao lưu, những hạn chế và khó khăn cũng được
phỏng vấn/ trả lời chi tiết. Những trao đổi về nhận thức, giáo dục Hát Xoan trong
cộng đồng, đặc biệt với thế hệ trẻ và trong trường học tại xã nhằm bảo tồn và phát
huy di sản được thể hiện rõ trong các báo cáo. Các biện pháp để đưa di sản sống
trong cộng đồng cũng được trao đổi thảo luận với thành viên CLB.
Hệ thống báo cáo kiểm kê cùng danh sách các CLB Xoan trên toàn tỉnh
cung cấp lượng thông tin phong phú về việc thực hành loại hình di sản này.
Ngoài bốn phường Xoan gốc, tính đến tháng 1/ năm 2016, trên địa bàn tỉnh có
30 CLB, rải từ thành phố Việt Trì (07) tới các huyện Đoan Hùng (04), Phù
Ninh (04), thị xã Phú Thọ (01), Lâm Thao (02), Thanh Thủy (04), Tam Nông
(01), Thanh Sơn (01), Thanh Ba (01), Tân Sơn (01), Cẩm Khê (04). Số lượng
người tham gia trong các CLB là 1287 người. Con số này đến tháng 11/2017 đã
tăng lên là 37 CLB, và số bài bản Xoan cổ được thực hành ở mức gần đủ (năm
2010) lên tới đủ 31 bài bản từ năm 2016.
Kết quả khảo sát cho thấy, mô hình hoạt động chủ yếu của các CLB là:
thành lập mới - mời nghệ nhân về truyền dạy hoặc cử người đi học tại phường
Xoan cổ - truyền dạy lẫn nhau trong cộng đồng (truyền dạy cả ở một số trường
học trong xã) - trình diễn trong các thời điểm đặc biệt hoặc tham gia giao lưu
83
trình diễn giữa các CLB hoặc hội diễn. Hoạt động cố định thường diễn ra vào
cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật), trình diễn trong các dịp hội hè lễ tết1, có giao lưu
trình diễn giữa các CLB và phường Xoan (nhưng không thường xuyên). Trong
các CLB luôn có một vài thành viên đóng vai trò nòng cốt cho quá trình thực
hành Xoan được diễn ra đều đặn tại địa phương. Những người này thường đã
được tham gia các lớp tập huấn về Xoan tại tỉnh, được các nghệ nhân tại
phường Xoan gốc truyền dạy, đam mê/ yêu thích với loại hình nghệ thuật này
và luôn mang trong mình ý thức về việc giúp “di sản thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp”2. Niềm tự hào của một người dân sống tại vùng quê của di sản, ý
thức trách nhiệm về việc bảo tồn di sản và trao truyền lại di sản cho thế hệ sau
thể hiện rất rõ trong phát ngôn của các cá nhân này.
3.1.2. Hoạt động sưu tầm và ký âm Xoan
Sƣu tầm các bài bản Xoan
Trong một thời gian dài, đặc biệt là thời kì chiến tranh với những khó
khăn vật chất của thời chiến, những di tích bị phá hủy, những chính sách hạn chế
thực hành tín ngưỡng đã khiến hội Xoan không còn được tổ chức đều đặn. Dù
nhiều bài bản Xoan vẫn được lưu giữ và âm thầm truyền dạy trong cộng đồng
nhưng sự đứt đoạn của thực hành Xoan, đặc biệt trong các không gian lễ hội, vẫn
khiến kho tàng bài bản Xoan bị mai một. Bắt đầu từ những năm 60, 70, nhiều
nhà nghiên cứu, nhạc sỹ đã quan tâm tìm hiểu, thu thập các làn điệu Xoan và
giới thiệu với công chúng. Đổi Mới năm 1986 đã tạo điều kiện cho sự phục hồi
của các thực hành văn hóa vốn đã bị đứt đoạn trong quá khứ, chứng kiến sự hồi
phục trở lại của nhiều lễ hội và thực hành tâm linh, và Hát Xoan là một trong số
đó. Bổ khuyết sự thiếu hụt các bài bản Xoan cổ chính là một trong những nhiệm
vụ cấp bách của công tác sưu tầm. Khi chia sẻ về quãng thời gian „làm Xoan’
1“CLB trình diễn Hát Xoan tại các lễ hội đình làng, và các lễ hội đình lân cận, biểu diễn phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương, giao lưu với các CLB khác để trao đổi kinh nghiệm...” (Trích thông tin phỏng vấn trong Báo cáo kiểm kê CLB Hát Xoan Minh Phú, 2016).
2 Báo cáo kiểm kê CLB Hát Xoan Minh Phú, 2016.
84
này, một số cán bộ văn hóa tại Sở văn hóa Phú Thọ (lúc đó là tỉnh Vĩnh Phú)
không thể quên những kỉ niệm „vất vả nhưng mà vui‟. Đạp xe rong ruổi ngày này
qua ngày khác, nghe tiếng nghệ nhân Xoan nào là tìm đến, thuyết phục họ bỏ
việc làm đồng để làm Xoan. “Lúc ấy mọi thứ vẫn mới lắm, Xoan thì hát hội từ
lâu lắm rồi, chỗ nhớ chỗ quên. Còn phải thuyết phục các cụ mãi mới hát lại
Xoan cho, vì lâu rồi không ai hát cả. Mọi người cũng ngại” (Phỏng vấn cán bộ
văn hóa tỉnh Phú Thọ, Tư liệu phỏng vấn 10/2018).
Ngay sau khi Hát Xoan được UNESCO ghi danh, tỉnh Phú Thọ đã xây
dựng một Chương trình hành động với 8 vấn đề để bảo vệ Hát Xoan, trong đó
nhiệm vụ đầu tiên chính là “ưu tiên kiểm kê, nghiên cứu và hệ thống hóa tư
liệu”. Trên thực tế, công việc này đã được triển khai quyết liệt và đạt nhiều kết
quả cụ thể. Trong giai đoạn 2012-2015, Viện Âm nhạc đã ghi thu 31 bài bản
Xoan cổ do các nghệ nhân lão luyện trình diễn; sưu tầm tài liệu nghiên cứu về
Hát Xoan; biên dịch các thần tích, thần phả tại các đình, miếu có liên quan và số
hóa; nhà xuất bản âm nhạc đã ghi âm, thu hình, xuất bản DVD 26 bài xoan cổ
của 4 phường xoan gốc phát hành rộng rãi (…) Tỉnh đã giao cho các ngành phối
hợp với các chuyên gia nghiên cứu, sưu tầm biên soạn Tổng tập Hát Xoan Phú
Thọ. Đến nay cơ bản đã hoàn thành bản thảo, chuẩn bị xuất bản. Đây là một bộ
tài liệu nghiên cứu toàn bộ về lịch sử, giá trị về hoạt động bảo vệ từ năm 1957
đến nay làm cơ sở cho truyền dạy, quảng bá và bảo vệ Hát Xoan. Tỉnh đã nghiên
cứu sưu tầm và biên tập xuất bản 4.000 đĩa CD, VCD và 3.000 cuốn sách Hát
Xoan Phú Thọ - tuyển chọn 1 và chuẩn bị xuất bản 3.000 đĩa DVD chọn lọc
nhằm tuyên truyền quảng bá giá trị di sản Hát Xoan, cũng như giới thiệu chọn
lọc những đặc trưng của nghệ thuật Hát Xoan Phú Thọ thông qua các bài bản
Xoan cổ ở các làng Xoan truyền thống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đồng thời là tư
liệu giúp cho nghệ nhân ở các địa phương trong vùng Xoan khác nhau, cán bộ,
giáo viên sử dụng khi truyền dạy.Xây dựng cơ sở dữ liệu, tư liệu hoá và số hoá
hàng năm đã tiến hành nghiên cứu sưu tầm tại các cơ quan trung ương và địa
85
phương như Đài tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và Viện Âm
nhạc,... Sưu tầm ảnh tư liệu hiện vật liên quan đến Hát Xoan Phú Thọ xưa và
nay, xây dựng bộ sưu tập trưng bày chuyên đề: Hát Xoan Phú Thọ tại Bảo Tàng
Hùng Vương. Hiện nay đã sưu tầm được phim tư liệu, file ghi âm các bài bản
Hát Xoan chữ Hán, tư liệu điền dã viết tay về Hát Xoan Phú Thọ từ những năm
1970, các tư liệu sách, báo tại các cơ quan Trung ương, địa phương và tiếp tục
sưu tầm tiếp đồng thời đã lên được danh mục tài liệu, tư liệu (Báo cáo đánh giá
kết quả sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp
của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ, 12/2015, Sở VHTTDL tỉnh Phú Thọ).
Những sản phẩm của quá trình sưu tầm, nghiên cứu Xoan nói trên cũng
được sử dụng trực tiếp cho việc tuyên truyền quảng bá và thực hành loại hình di
sản này. Trên các phương tiện truyền thông, trong các chương trình nghệ thuật
tại tỉnh (từ cấp xã phường đến tỉnh), Xoan xuất hiện thường xuyên và đều đặn,
với nhiều các bài bản có được từ quá trình sưu tầm.
Ký âm bài bản Xoan
Nhiệm vụ này được Sở VHTTDL giao cho Trung tâm văn hóa tỉnh thực
hiện, với mục đích văn bản hóa Xoan, phục vụ cho việc lưu giữ và truyền dạy
Xoan trong cả hiện tại và tương lai. Nhiệm vụ này được đặt ra, một phần từ
việc thay đổi hình thức lưu giữ - từ việc chỉ giữ trong dân gian, tại cộng đồng, ở
chính nghệ nhân - chuyển thành cố định dưới dạng văn bản; phần khác, xuất
phát từ những khó khăn trong việc truyền dạy, quảng bá Xoan. Ký âm lại, sẽ dễ
dàng hơn trong việc đọc nốt nhạc, nắm giai điệu, bài bản Xoan, cũng là thuận
tiện cho cả người dạy và người học loại hình di sản này. Tuy nhiên, công việc
này đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, từ sự khác nhau về bài bản Xoan giữa
các phường, đến tính dị bản của những bài bản truyền miệng; sự khác biệt ở
những văn bản ghi chép tại các thời điểm khác nhau, rồi sự khác biệt trong lựa
chọn ký âm ở tone (giọng) nam hoặc nữ.... Tính đến thời điểm năm 2017, đã có
31 bài bản Xoan được ký âm, với sự chuẩn hóa về cả phần lời lẫn phần nhạc.
86
Khi ký âm thì gặp phải chuyện là phải giải quyết thế nào với các bài có nhiều
lời khác nhau, "Ví dụ bài Bỏ bộ chỉ tính là một Bỏ bộ thôi, nhưng nó có nhiều
lời, có tới 11 lời. Còn hát phú, hát lý ít khi dùng, nhưng vẫn phải ký âm tất.
Những bài đấy ký âm khó lắm. Đầy đủ cả ba chặng nhưng mỗi tội chỉ một
phường được lựa chọn, mà phong cách của các phường khác nhau. Thế rồi là
giọng nam giọng nữ thì ký làm sao, bản hát từ những năm bảy mươi nó thế này,
trong khi giờ các cụ lại hát khác" (Tư liệu phỏng vấn cán bộ ký âm, 5/2019).
Sự đa dạng của bài bản Xoan trên thực tế là khó khăn đầu tiên trong việc
ký âm. Bài bản ghi chép lời hát của các phường Xoan có những chỗ khác nhau,
dẫn đến việc, giai điệu âm nhạc cũng phải thay đổi để hợp với âm của lời. Sự đa
dạng của bài bản Xoan có thể ví dụ qua điệu Xe chỉ, vá may trong phần hát Bỏ bộ
với nhiều dị bản:
Viện Âm nhạc
Bản chép của cụ Đào Ngọc Hân
Bản ghi âm của Tú Ngọc
(Băng thu thanh
(Làng Thét, xã Phù Đức)
(Dẫn theo Cao Khắc Thùy
11/2002)
(Tư liệu do Đặng Hoành Loan sưu
2016)
tầm trong Những bản lời ca Xoan cổ)
Chỉ là chỉ ớ xe (2
Chỉ mà chỉ xe. Ớ rằng xe chỉ. Là bớ
“Chỉ mà chỉ ớ xe (2 lần). Ối
lần). Có rằng thời là
ru hời qua nọ chỉ xe là chỉ ớ xe
rằng xe chỉ (2 lần). Ta bớ ru
hời này ta ru hời qua nọ chỉ
xe chỉ (2 lần). Là ta á
xe là chỉ xe”
a ru hời là ta á a ru
hời qua nọ chỉ xe là
chỉ ớ ơ xe
Bảng : So sánh các dị bản của bài bản Xe chỉ, vá may
Sự đa dạng này đến từ những khác biệt giữa các phường, đồng thời liên
quan tới tính dị bản của tác phẩm văn hóa dân gian. Theo nhà nghiên cứu Cao
Khắc Thùy (2016), dù về cơ bản, bài bản giữa các phường Xoan không có những
khác biệt lớn khiến thay đổi cấu trúc, về thang âm, điệu thức trong mỗi điệu hát,
nhưng điều có thể nhận thấy rất rõ là không hề có sự đồng nhất hoàn toàn trong
87
31 bài bản cổ giữa các phường Xoan. Điều này khiến cho việc ký âm Xoan trở
nên khó khăn, và nhiều trường hợp, cán bộ ký âm không biết phải chọn ký âm
bài bản nào, vì “các cụ thì phường nào cũng muốn làm (ký âm) lời của phường
mình” (Phỏng vấn cán bộ ký âm, 5/2019).
Thêm vào đó, còn có cả vấn đề về sự lựa chọn tone (giọng) cho bản nhạc
để ký âm. Việc nhạc sỹ lựa chọn tone nam hoặc tone nữ sẽ quyết định độ cao của
một điệu thức cụ thể. Điều này nếu chỉ nằm trong văn bản lưu trữ thì không sao,
nhưng quá trình sử dụng các bản ký âm cho mục đích truyền dạy thì lại là một
vấn đề mà cán bộ ký âm phải giải quyết. Cán bộ ký âm cho biết: "Có cái lớp của
giáo viên phối kết hợp giữa Sở Giáo dục với Sở văn hóa. Bây giờ dạy cho giáo
viên thì không thể dạy không nốt nhạc được. Thế nên từ năm 2016 có cái lớp đấy
thì lựa chọn một số bài của nhạc sỹ L.N. Nhưng ông ấy ký âm mỗi bài chỉ một
đoạn thôi, và bản thân ông ấy ký âm một tone giọng, giọng nam hoặc giọng nữ.
Bản thân ông cũng ký âm sai chứ không phải không. Nam nữ cách nhau quãng
4, nhưng ông ý viết cùng một tone giọng luôn. Cái sách đỏ mà Sở phát hành là
ký âm cùng chỉ một giọng nam. Nên giờ các chị phải tự ký âm để có tài liệu mà
dạy. Nhưng thiếu người có chuyên môn nên lê lết mãi đến năm 2018 mới tạm ổn"
(Phỏng vấn chị An, cán bộ ký âm Xoan, 11/2018).
Việc ký âm các bài bản Xoan cũng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết và
khiến người làm ký âm nhận thấy vấn đề mấu chốt của bản thân công việc này.
Việc ký âm các sáng tác dân gian, văn bản và cố định chúng mâu thuẫn với tính
vận động liên tục, với sự sáng tạo của các thế hệ chủ nhân di sản. Thực tế đa
dạng và phong phú của di sản đã trở nên đơn giản và khô cứng trong bài bản ký
âm, và chính người ký âm sẽ không tự tin vào sản phẩm của mình, vì thực chất
văn bản mà họ đã hoàn thiện chỉ là một sự lựa chọn ở thời điểm đó mà thôi.
Thế nên, họ nói về việc ký âm sai, không chuẩn, không chính xác… “Từ trước
1 Thông tin ghi lại theo hồi cố của nhân vật, 11/2018.
88
đến nay, ngay cả bản thân tôi và các nhạc sỹ ký âm các bài bản của dân ca người Việt, tôi chả tin bài nào, kể cả bài của tôi, tôi ký âm tôi cũng chả tin”1.
Trên thực tế, không có văn bản ký âm nào là chính xác cả, vì đối tượng trình
diễn và thời gian trình diễn là không trùng khớp.
Chúng tôi ký âm thời điểm này là 2018, chứ không phải là những năm
1970. Những năm bẩy mấy là các cụ hát khác chứ, hát khác hẳn luôn.
Thời bố ông Ngũ (ông Ngũ là cựu trùm phường Xoan Phù Đức- chú
thích của người viết) hát khác nhá, huống chi là đời ông Ngũ. Bây giờ
chúng tôi chỉ ký âm Hát Xoan từ khi được công nhận. Khi ghi nhận là
đã trình diễn trước UNESCO người ta xem xét rồi thì ký âm từ giai
đoạn công nhận đến nay thôi, không ký âm từ trước. Từ năm 2010 Hát
Xoan lan tỏa ra, mọi người đều hát như thế thì ta ký lại trong cái thời
điểm lưu giữ từ lúc đó, chứ không phải lưu giữ từ những năm bẩy mấy
(…) Thế nên không thể so sánh các bài bản ở những thời điểm khác
nhau được, mà các ông ký âm ở thời điểm trước chúng tôi có biết đâu,
đừng so sánh, vì kể cả về lời cũng sai lè lẹt ra. Thì vì các cụ này lời
này, cụ khác lại lời khác. Ví dụ là lải lốt hay là lại lốt (Tư liệu phỏng
vấn, 11/2018).
Và để hạn chế những rủi ro mà quá trình ký âm có thể mang lại, phương
thức được những cán bộ ký âm lựa chọn là “làm cho thật kín kẽ”:
Bọn mình phải cực kỳ là kĩ, làm việc với bảo tàng, làm việc với bên di
sản, rồi về các phường Xoan. Bọn mình có năm bài bản này của
phường này, gọi tất cả các cụ nghệ nhân. Bây giờ soát lại lời, các cụ
công nhận nó là như thế này thì là đóng dấu luôn, cả xã cả phường
cũng ký hết tên vào đấy. Thế nên có sai như nào là do các cụ chịu.
Còn về lời thì mình đi theo thằng di sản, nên nếu chết là chết thằng di
sản, bọn mình chỉ cần chú ý nốt nhạc với giai điệu có sai hay không
thôi (Tư liệu phỏng vấn, tháng 11/2018).
3.1.3. Đặt lời mới và sáng tác dựa trên ngữ liệu Xoan cổ
Trong nhiều chương trình nghệ thuật diễn ra tại tỉnh Phú Thọ, có sự xuất
89
hiện của các sáng tác mới dựa trên nền các bài bản Xoan cổ, hoặc các sáng tác
mới có sử dụng chất liệu Hát Xoan. Một số cuộc thi đặt lời mới cho Xoan cũng
được triển khai trong tỉnh.
Khi Xoan trở thành di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại,
hình thức bảo tồn và phát huy Hát Xoan thông qua việc đưa Xoan vào các loại
hình nghệ thuật như ch o, kịch…., khuyến khích những sáng tác mới có yếu tố
Xoan được đưa vào Đề án bảo tồn của tỉnh Phú Thọ. Cách bảo tồn này mở
đường cho thuật ngữ “Xoan mới” xuất hiện tại tỉnh - “là sự cải biên các làn điệu
Xoan cổ theo nhiều cách khác nhau hoặc kết hợp Xoan với các loại hình dân ca
hay ca hát hiện đại khác” (Nguyễn Thị Phương Châm 2017: 55). Xoan mới xuất
hiện trong hầu khắp các chương trình nghệ thuật của tỉnh, được sự đồng thuận
của những cán bộ lãnh đạo và người làm văn hóa của tỉnh, bởi nhiều nguyên do.
Đó là bởi “Xoan cổ không dễ nghe, nghe cả buổi thì sao mà chịu được”; rồi
“không thành quy định, nhưng cứ một chương trình nghệ thuật thì cứ tính 1/3 là Xoan cổ, 2/3 là Xoan cải biên, thì mới có đất sáng tạo chứ”1. Nhưng “nếu biểu
diễn mà bỏ Hát Xoan thì sao”? “Không được, Xoan là di sản, bỏ sao được, phải đưa vào chứ, có điều phải điều chỉnh cho phù hợp thôi”2.
3.2. Hoạt động trình diễn và truyền dạy Hát Xoan hậu ghi danh di sản
Đối với việc bảo tồn, truyền dạy và thực hành Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ
ban hành các quyết định nhằm tập trung tổ chức đào tạo lớp nghệ nhân kế cận,
lớp trẻ trong cộng đồng các phường Xoan gốc và các cán bộ xã, phường, hạt
nhân văn nghệ ở các CLB dân ca trên địa bàn tỉnh. Năm 2013, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 2058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai
đoạn 2013-2020), với nhiệm vụ và nội dung thực hiện đề án giai đoạn 2013-
2015 bao gồm việc triển khai chương trình giáo dục về DSVHPVT Hát Xoan
lồng ghép trong các chương trình chính thức và ngoại khóa tại các trường học
90
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; đào tạo các lớp nghệ nhân kế cận tại các phường 1 Tư liệu phỏng vấn, tháng 10 năm 2018. 2 Tư liệu phỏng vấn, tháng 10 năm 2018.
Xoan gốc, lớp trẻ tại cộng đồng. Theo Báo cáo Đánh giá kết quả sau 4 năm bảo
tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại “Hát Xoan
Phú Thọ” của UBND tỉnh, Sở VHTT&DL tỉnh Phú Thọ (tháng 12 năm 2015), từ
năm 2011-2015, tỉnh đã thực hiện nhiều hoạt động trên nhiều lĩnh vực nhằm
giúp Hát Xoan thoát khỏi tình trạng “bảo vệ khẩn cấp”. Từ năm 2013-2015 “tỉnh
đã tổ chức được 5 lớp truyền dạy Hát Xoan cho 62 học viên lớp nghệ nhân kế
cận (thành phố Việt Trì)”. Từ năm 2013 “đã đào tạo được nhiều khóa đào tạo,
giáo dục về Hát Xoan cho cộng đồng tại xã Kim Đức, Phượng Lâu, Hùng Lô tạo
ra thế hệ công chúng, khán giả tiềm năng cho nhu cầu tồn tại của Hát Xoan”;
“Hát Xoan được đưa vào giảng dạy, giới thiệu ở Trường Trung cấp Văn hóa
Nghệ thuật và Du lịch tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Hùng Vương và 80/90
trường ở 4 khối từ mầm non đến trung học phổ thông ở thành phố Việt Trì, góp
phần nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh, dần hình thành thế hệ khán giả
mới hiểu biết và yêu Xoan”. Thêm vào đó, “đến tháng 11 năm 2015 đã thành lập
được 28 CLB Hát Xoan trên địa bàn tỉnh” (con số này năm 2016 là 34 CLB cấp
tỉnh với 1.413 hội viên và 99 CLB cấp huyện, xã/phường, khu/làng). Thành tích
này còn được làm dày thêm với số liệu “hàng năm tỉnh đã giao cho Sở VHTTDL
phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn cho gần 100 người là cán bộ văn
hóa xã, phường hạt nhân văn nghệ các CLB dân ca trên địa bàn thành phố Việt
Trì và 16 xã có Xoan lan tỏa”.
3.2.1. Những không gian Xoan sau ghi danh
Hát Xoan là loại hình dân ca nghi lễ, hát thờ, hát cửa đình. Không gian
của Xoan là tại đình, miếu; gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Kể từ
năm 2006, khi 4 phường Xoan cổ được phục hồi, Xoan theo đó cũng tái hiện
diện tại các đình miếu vào mỗi đầu xuân, thực hành theo đúng tục lệ Xoan
truyền thống. Trong thời gian 4 năm (từ 2011-2015), thực hiện Đề án bảo tồn và
phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại „Hát Xoan Phú
91
Thọ’, việc đầu tư bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phục hồi các không gian văn hóa Hát
Xoan đã được thực hiện nhanh chóng. Tính đến năm 2017, đã có 20/ 30 đình,
miếu là nơi có tục lệ Hát Xoan thờ thần vào dịp đầu Xuân được bảo tồn, tôn tạo,
trong đó, tu bổ, khôi phục 5 di tích tại các phường Xoan gốc và vùng lân cận
gồm: miếu Lãi L n, đình làng Kim Đới, đình Thét (xã Kim Đức), đình An Thái,
miếu Cấm (xã Phượng Lâu) và đình Bảo Đà (phường Dữu Lâu). Đặc biệt miếu
Lãi Lèn, đình Thét, đình làng Kim Đới xã Kim Đức và đình An Thái xã Phượng
Lâu là những di tích cổ nhất đã được đầu tư phục dựng, tôn tạo và đưa vào sử
dụng. Không gian vật chất gắn liền với tín ngưỡng thờ vua Hùng/thần linh được
khôi phục và tôn tạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực hành Xoan diễn ra trong
không gian truyền thống, dù “các bài bản Xoan được tỉnh và một số nhà nghiên
cứu yêu cầu chỉnh sửa, đặc biệt là cắt bớt phần lời ở một số lối hát, hay bổ sung thêm cho sinh động, ngắn gọn súc tích”1. Miếu Lãi L n đã được khánh thành vào
năm 2012, dự án giai đoạn 2 bao gồm sân vườn, các công trình phụ trợ và nhà
trưng bày kết hợp trình diễn nghệ thuật Hát Xoan cũng đã được hoàn thiện và
đưa vào sử dụng, thực hiện quy hoạch mở rộng và đầu tư hoàn chỉnh các công
trình khu di tích. Như vậy, sau 6 năm thực hiện cam kết về bảo vệ di sản Hát
Xoan, các không gian trình diễn Hát Xoan tại các làng Xoan gốc đã được Nhà
nước và cộng đồng khôi phục 100% (Nguyễn Đắc Thủy, 2019: 87).
Tuy nhiên, Hát Xoan không chỉ diễn ra tại các cửa đình của các phường
Xoan gốc mà còn tại các đình miếu của các làng Xoan nước nghĩa. Tục lệ này của
Xoan đã mở rộng không gian thực hành Xoan ra nhiều làng khác, nhiều cửa đình,
miếu khác. Đây vừa là đặc trưng riêng có, độc đáo của Xoan, cũng lại là một thách
thức của công tác bảo tồn. Việc trùng tu, khôi phục các di tích cổ (đã xuống cấp
hoặc không còn dấu vết) cần nhiều thời gian và kinh phí. Chính vì vậy, những
khoản kinh phí lớn được ưu tiên cho việc phục dựng các đình miếu tại không gian
Xoan gốc; còn các không gian khác (đình, miếu nước nghĩa) nằm trong danh sách
1 Tư liệu phỏng vấn em H., 10/2018.
92
chờ đợi bảo tồn về sau. Vậy nên ở nhiều làng Xoan nước nghĩa chưa thể mời
phường Xoan đến hát theo lệ cũ vào dịp đầu năm, vì đình miếu chưa khôi phục
được (Xem thêm Phạm Bá Khiêm, 2016; Nguyễn Mai Thoa, 2016).
Với tư cách là một DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp, Hát Xoan được
các cấp chính quyền Phú Thọ bảo vệ và phát huy “khẩn cấp” trong mọi không
gian có thể. Như một nhiệm vụ chính trị đặt ra trên toàn tỉnh, Quyết định số
2058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cần bảo vệ
khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2013-2020); kế hoạch
2836/KH-UBND về xây dựng Hồ sơ báo cáo quốc gia Hát Xoan Phú Thọ thoát
khỏi DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp; kế hoạch số 5478/KH-UBND của UBND
tỉnh về triển khai các nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát huy giá trị DSVHPVT
cần bảo vệ khẩn cấp năm 2015; kế hoạch số 162/KH-UBND năm 2016 đã giúp
Xoan “khuếch tán” trong toàn tỉnh chứ không chỉ được thực hành và bảo tồn tại
các làng Xoan cổ. Xoan được trình diễn, truyền dạy và thực hành tại các không
gian công sở, trường học; tại các CLB Hát Xoan trên toàn tỉnh; tại các sân khấu
lớn nhỏ trong các sinh hoạt văn hóa văn nghệ hoặc các cuộc thi phong trào trong
và ngoài tỉnh. Thêm vào đó, Xoan (đã được tư liệu hóa đầy đủ trong băng đĩa
CD, DVD) cũng hiện diện dày hơn trong những ngôi nhà, không gian công cộng;
và dày đặc trên các chương trình ti vi của tỉnh Phú Thọ. Theo Báo cáo Đánh giá
kết quả sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp
của nhân loại “Hát Xoan Phú Thọ” của UBND tỉnh, Sở VHTT&DL tỉnh Phú
Thọ (tháng 12 năm 2015), từ năm 2013-2015, tỉnh đã tổ chức nhiều lớp truyền
dạy cho cán bộ văn hóa, viên chức, người dân, nghệ nhân kế cận, giáo viên, học
sinh sinh viên… Những thông tin trong báo cáo cho thấy Hát Xoan đã được thực
hành, trình diễn và truyền dạy tại rất nhiều các không gian khác nhau, bên ngoài
những không gian truyền thống.
Thống kê cho thấy, có trên 30 buổi biểu diễn giới thiệu, quảng bá về Hát
Xoan trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh và trung ương đã được tổ
93
chức. Hàng tháng Đài phát thanh Truyền hình tỉnh tổ chức phát các chương trình
biểu diễn của các phương Xoan, các CLB Hát Xoan của tỉnh… các cuộc biểu
diễn ghi âm ghi hình đã góp phần quan trọng tuyên truyền giới thiệu Hát Xoan
tới công chúng đất tổ, ngoài ra còn có sự tham gia tuyên truyền của mạng xã
hội… Đã đăng nhiều bài trên báo Phú Thọ về “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
Hát Xoan”; báo Văn hóa, báo Bảo vệ pháp luật; cổng giao tiếp điện tử tỉnh Phú
Thọ; Đài Truyền hình Việt Nam; Kênh truyền hình – Thông tấn xã Việt Nam;
Truyền hình Quốc hội; Đài tiếng nói Việt Nam; Đài Phát thanh – truyền hình
Phú Thọ, các Website… (Trích, Báo cáo đánh giá kết quả sau 4 năm bảo tồn và
phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại Hát Xoan Phú
Thọ, 12/2015, Sở VHTTDL tỉnh Phú Thọ).
Không chỉ gia tăng vị thế cho cộng đồng chủ tại 4 phường Xoan cổ, Hát
Xoan còn giúp mở đường cho sự lớn mạnh của những CLB, đơn vị văn nghệ của
tỉnh. Mô hình CLB phủ sóng rộng khắp tỉnh, được sử dụng với tên gọi “CLB Hát
Xoan và dân ca Phú Thọ”, riêng CLB tại Việt Trì được UBND thành phố hỗ trợ
mỗi năm 30 triệu đồng. Quyền lợi từ Xoan cũng giúp sinh hoạt của các CLB
khởi sắc hơn, những chương trình nghệ thuật có Xoan được đầu tư và chú ý hơn.
3.2.2. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan sau ghi danh tại các làng Xoan cổ
Khác với trước đây khi Hát Xoan chỉ trình diễn trong dịp đầu xuân, hiện
tại, Hát Xoan hậu ghi danh được thực hành và truyền dạy trong nhiều bối cảnh
và không gian khác nhau. Có thể chia thực hành Hát Xoan làm các nhóm mục
đích: 1) Phục vụ cho sinh hoạt tín ngưỡng, giải trí tại cộng đồng, đặc biệt vào dịp
đầu năm và trong lễ hội đền Hùng; 2) Biểu diễn, tiếp đón các nhà nghiên cứu,
nhà báo tới tìm hiểu về Hát Xoan, thường là thực hành tại đình, miếu nơi phường
Xoan hoạt động; 3) Phục vụ khách du lịch (Việt Nam hoặc nước ngoài), thường
là kết hợp cùng các công ty du lịch, và phần diễn xướng Xoan nằm trong tour du
lịch về nguồn, thăm đền Hùng, trình diễn trong không gian di sản (đình, miếu);
4) Phục vụ các hoạt động văn hóa nghệ thuật diễn ra trong và ngoài tỉnh, đặc biệt
94
là tham gia các hội diễn văn nghệ cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia. Tuy nhiên, với tư
cách là chủ nhân của một di sản văn hóa nhân loại, các nghệ nhân Hát Xoan còn
tham gia nhiều các hoạt động khác, chẳng hạn việc trình diễn để ghi âm ghi hình,
làm phóng sự về Xoan; được mời truyền dạy cho cán bộ, giáo viên trong tỉnh,
cho các CLB; làm cố vấn, giám khảo trong các chương trình nghệ thuật của các
trường, các phường/ huyện… Ngoài ra, còn có một số cá nhân, biết Xoan, yêu
Xoan, muốn học Xoan, cũng tìm đến các phường Xoan này, ăn ở tại nhà các
trùm phường, sinh hoạt cùng phường Xoan để xin được học về Xoan, để được
truyền dạy và thực hành tại chính không gian Xoan gốc.
Theo bà A., trùm một phường Xoan cổ, việc tập luyện Hát Xoan bây giờ
“diễn ra quanh năm”, cứ thứ 7 là tập, thậm chí nếu có bài nào chưa ưng, chưa
nhuyễn thì còn tăng buổi tập lên. Những đợt có hội diễn hoặc chương trình nào
đó do tỉnh đặt hàng, phường Xoan lại tập hát hàng đêm. Ban ngày đi làm, chiều
hoặc tối tập hát, cứ thế, các lớp nghệ nhân truyền dạy cho nhau hết bài bản này
đến bài bản khác. Khi thì tập tại đình, lúc tập tại nhà trùm phường, nhiều buổi
tập thu hút bà con chòm xóm đến xem, đặc biệt là các em nhỏ, “cứ nghe xem mãi
rồi ngấm, thế là các cháu nó thích nó thuộc lúc nào cũng không biết” (Tư liệu
phỏng vấn 10/2018). Tại các phường Xoan, hình ảnh các em nhỏ 5, 6 tuổi lẩm
nhẩm hát theo các nghệ nhân, múa theo bà theo mẹ là không hề hiếm.
Tại các phường Xoan gốc, từ năm 2011 đến năm 2016, Sở VHTT&DL
Phú Thọ đã mở 5 lớp truyền dạy Hát Xoan cho các lớp nghệ nhân kế cận, trực
tiếp do các nghệ nhân cao tuổi, có kinh nghiệm lâu năm trong việc thực hành và
truyền dạy Hát Xoan đứng lớp đào tạo. Lớp nghệ nhân kế cận này phải đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn: là thành viên của các phường Xoan trong nhiều năm; có
khả năng thực hành Xoan; phải ổn định, gắn bó với phường Xoan lâu dài. Những
nghệ nhân kế cận được đào tạo nhằm mục đích thay thế các nghệ nhân cao tuổi
khi họ không còn khả năng thực hành và truyền dạy. Tính đến năm 2016, đã đào
tạo được 122 nghệ nhân kế cận, nâng cao cả về số lượng lẫn trình độ, kĩ năng
trình diễn cho các nghệ nhân ở lớp kế cận (bao gồm những nghệ nhân trung tuổi
95
và các em thiếu niên, nhi đồng tại các làng Xoan cổ). Trong những năm vừa qua,
lớp nghệ nhân kế cận này đã dần khẳng định được vai trò, năng lực trong việc
duy trì thực hành và tiếp tục truyền dạy Xoan trong và ngoài cộng đồng.
Theo Báo cáo Cập nhật kết quả kiểm kê Hát Xoan Phú Thọ (từ tháng
2/2016 đến tháng 11/2017), tính đến năm 2017, số thành viên tham gia chính
thức tại 4 phường Xoan cổ là 330 người. Con số này là rất lớn, nếu so với số
lượng nghệ nhân thực hành Xoan từ trước khi Xoan được ghi danh (năm 1998,
có 46 người, năm 2009 có 121 người). Có thể hình dung về không khí thực hành
và truyền dạy này tại một số phường Xoan. Như phường Xoan An Thái hiện có
105 thành viên qua 5 thế hệ, thành viên lớn tuổi nhất là 94 tuổi và nhỏ tuổi nhất
là 6 tuổi. Số nghệ nhân hiện có 12 người, trong đó có 5 nghệ nhân ưu tú, 7 nghệ
nhân cấp tỉnh. Phường Xoan đã xây dựng quy chế làm việc của phường, sinh hoạt,
ôn luyện và truyền dạy vào các tối thứ 7, Chủ nhật hàng tuần. Để nhớ bài bản của
Hát Xoan, phường còn mở 3 lớp học Hát Xoan trong dịp hè vừa qua, mỗi lớp có 32
thành viên, mỗi học viên khi đi học phường đã trích tiền hỗ trợ là 20.000 đ/ ngày
(Báo cáo của trùm phường Xoan An Thái về việc truyền dạy, 2016).
Việc truyền dạy hiện kết hợp cả kiểu truyền thống, tức là học truyền khẩu,
học lời hát trước rồi động tác múa sau, với việc sử dụng “giáo án, ghi chép”. Các
nghệ nhân tập luyện thường xuyên (tại nhà trùm phường hoặc tại đình), truyền
dạy trực tiếp cho các lớp kế cận. Về bài bản Xoan, các phường đã xây dựng giáo
án truyền dạy theo từng lứa tuổi nhằm phù hợp cho các học viên cũng như cộng
đồng khi tham gia học Hát Xoan, có vậy các học viên sẽ dễ hiểu, dễ tiếp thu và
học thuộc Xoan một cách nhanh nhất (…) Cách truyền dạy của nghệ nhân phải
truyền dạy chi tiết đến từng câu, từ, cách mở giọng lấy hơi, lời bài hát hòa vào
nhịp trống phách phải ăn ý, khi dạy múa cần uốn tay từng ngón cho thật dẻo
(Báo cáo của trùm phường Xoan An Thái về việc truyền dạy, 2016).
Việc truyền dạy này được xác định là cần thời gian lâu dài, “không ngày
một ngày hai được”, “Say Xoan lắm ấy, cứ rảnh ra là hát là tập. Nhiều điệu nên
96
phải làm lâu thì mới nhớ mới có vốn được (…) không học cẩn thận là chưa phải
người nắm kiến thức nhiều, chàng màng (Tư liệu phỏng vấn, 4/2019). Như tại
phường Xoan Kim Đức, cách thức truyền dạy cụ thể như sau: “Việc truyền dạy
do các nghệ nhân trong phường đảm nhận. Hướng dẫn, dạy đánh trống và hát,
mỗi làn điệu sử dụng các loại trống khác nhau, đánh trống theo nhịp các bài hát,
múa (hát thờ, hát cách, hát hội). Khi dạy hát và múa, người học cần chép bài,
hướng dẫn cho các thành viên hiểu ý nghĩa của từng bài, học thuộc lời, giai điệu
của các bài Hát Xoan, sau đó dạy động tác múa, đi lại nhịp nhàng phù hợp, tay
chân uốn nắn làm sao cho ăn nhịp với trống phách. Từng nhịp điệu trong lời hát
phải thể hiện tình cảm trên nét mặt theo lời, điệu hát. Ngoài ra, tổ chức hát
truyền khẩu cho những người không biết chữ (…) trong truyền dạy cần phải tạo
sự đam mê, yêu thích của người học biểu hiện trong từng điệu bộ, lời ca tiếng
hát” (Báo cáo tham luận hội thảo Hát Xoan, Bùi Thị Kiều Nga, trưởng phường
Xoan Kim Đức, 2016).
Kể từ khi Hát Xoan được ghi danh di sản, nhiều đơn vị vào cuộc để tham
gia bảo vệ và phát huy Xoan, nhiều hoạt động liên quan đến Xoan được tổ chức
dẫn đến nhiều vấn đề về cách thức hoạt động và kinh phí mà các trùm phường
phải giải quyết. Trước đây, Hát Xoan được trình diễn vào dịp lễ hội đầu xuân,
việc tập luyện không diễn ra thường xuyên. Nay, Xoan được trình diễn gần như
quanh năm, ngoài thời điểm hát đầu xuân còn trong các không gian và các sinh
hoạt văn hóa khác trong và ngoài tỉnh dẫn đến phường Xoan phải có những kế
hoạch thực hành cho phù hợp. Lo toan làm sao để phường Xoan có thể đảm nhận
các công việc mà Sở văn hóa yêu cầu, điều phối người tham gia các hoạt động
trong khi nghệ nhân vẫn phải đi làm kiếm tiền… là vấn đề đau đầu với các trùm
phường. Rồi vấn đề về kinh phí để duy trì được các hoạt động trong năm. Hiện
tại, mỗi phường Xoan gốc được tỉnh hỗ trợ 55 triệu đồng/1 năm. Số tiền này
được trùm phường quản lý, nhưng con số này là quá eo hẹp cho một phường với
số lượng mấy chục con người để chi dùng trong một năm. Chưa kể kinh phí đi
97
lại biểu diễn chia theo đầu người cũng là quá ít ỏi. Người nghệ nhân không sống
được bằng Xoan mà vẫn phải lo cơm áo gạo tiền, chính vì thế, việc huy động
mọi người tham gia tập luyện và trình diễn gần như phụ thuộc vào tinh thần tự
nguyện, “vì say mà làm”; “vì của ông cha mà giữ gìn”. Nhưng những hoạt động liên
quan đến Hát Xoan là rất nhiều, cũng lấy nhiều thời gian công sức của nghệ nhân trong
khi kinh phí cho cả đoàn không đáng là bao nên nảy sinh tâm lý tiêu cực:
Dạy đến giờ này đã có chế độ lương đâu, từ tháng 7 đến giờ (…) Hiện
tại đi trình diễn cho khách du lịch, mình làm nhiệt tình như thế, người
ta thích như thế, được có 1 triệu/ 1 ngày làm. Đội có bao nhiêu người
thì mặc xác anh. Đối với khách Việt Nam, trước kia thì còn được 700
ngàn, bây giờ chỉ còn 500 với 600 ngàn thôi… Đưa qua bên du lịch,
không đưa thẳng tay cho mình. Nên là vuốt xuôi xuống (động tác đặt
tay lên ngực rồi vuốt xuống), bảo thế này: trước đây ông cha mình
chả có gì vẫn giữ được di sản cho đến bây giờ, mình mà nói người ta
lại bảo là vì đồng tiền hay thế nọ thế kia, thôi tốt nhất là im cho nó
xong (Phỏng vấn nghệ nhân, 11/2018).
Việc thực hành và truyền dạy bài bản trong thực tế còn bị chi phối bởi
những tác động từ cơ quan quản lý. Trước đây, trùm phường là người quyết định
lề lối bài bản của phường mình, nay, tính tự quyết này chịu ảnh hưởng từ quan
điểm của các cấp lãnh đạo về việc bảo tồn di sản: “Bà trùm phường Xoan tận
tình truyền dạy tất cả các thế hệ học sinh ở các đơn vị nhưng lại e ngại khi nhắc
về lề lối cổ của Xoan và rất nguyên tắc khô cứng khi thực hành, tuân thủ theo
đường lối của cấp trên. Vì vậy, ngay trong chính phường Xoan cũng bị thay đổi khá nhiều”1. Sự thay đổi này phần lớn là uốn nắn các thực hành tại phường theo một số
quy chuẩn về Xoan đã được thống nhất là Xoan cổ, theo “các bài Hát Xoan được
ghi chép cẩn thận từng câu từ và không được sai sót” (Báo cáo của trùm phường
Xoan An Thái về việc truyền dạy, 2016), và hạn chế tối đa sự sáng tạo theo kiểu đặt
1 Tư liệu phỏng vấn, 11/2018
98
lời mới cho Xoan hay thực hành, truyền dạy những bài bản mới này.
Ngoài ra, việc truyền dạy này cũng khác biệt với thực hành Hát Xoan diễn
ra đa dạng tại các làng Xoan cổ hàng năm. Theo lệ tục, hàng năm, làng An Thái
hát và sáng sớm mồng một ở miếu Cấm, tối hát ở đình cả, mồng hai ở đình Kim
Đái, mồng ba ở miếu Lãi Lèn, mồng bốn ở miếu Thét, rồi sang hát cửa đình các
nơi. Xoan Kim Đái không chính thức giữ cửa đình nào mà chỉ theo các họ bạn và
thường chỉ hát trong phạm vi huyện Phù Ninh, ít khi ra ngoài huyện (Dẫn theo
Nguyễn Anh Tuấn, 2016). Trong trình diễn, ở phường Phù Đức hát Mời vua rồi
sau đó mới đến các bài hát theo giọng lề lối, các quả cách và cuối cùng là hát
hội, còn Xoan ở Thét và An Thái thì trình diễn các giọng lề lối Giáo trống, Giáo
pháo, Thơ nhanh, Đóng đám sau đó đến phần quả cách và quả cách Kiều Dương
(được coi là bài hát mời vua), cuối cùng là hát các bài hát hội giao lưu với các
trai làng sở tại (Dẫn theo Nguyễn Anh Tuấn, 2016).
Và chính sách đầu tư cho các lớp đào tạo nghệ nhân kế cận trên diện rộng,
học tập trung theo lịch quy định của Sở VHTTDL cũng đã nảy sinh vấn đề trong
việc lựa chọn người truyền dạy cho nghệ nhân của cả 4 phường, vấn đề về việc
lựa chọn bài bản của phường nào để truyền dạy trong các lớp học. Trên thực tế,
đã phổ biến một tâm lý rằng, hễ bài bản hay nghệ nhân phường nào được chọn
truyền dạy thì phường đó nổi, có Xoan cổ hơn, gốc hơn các phường khác, và
nghệ nhân ngầm có sự so sánh cạnh tranh giữa các phường “sau khi thu âm,
nghe lại thì thấy long lanh lắm, đấy là chưa chỉnh sửa gì. Các phường khác thì
không ganh tị được, vì múa của phường mình nó lề lối, múa của người ta mình
không dám chê nhưng họ (phường Xoan khác) họ làm thế, chán quá, giải thích
mãi cho tỉnh mà họ không nghe” (phỏng vấn nghệ nhân, 11/2018). Tâm lý muốn
phát triển Xoan của phường mình thể hiện rất rõ, đến mức cán bộ đi ký âm cũng
phải kêu than “phong cách của các phường khác nhau (…) các cụ cứ thế,
phường nào cũng muốn làm (ký âm bài bản Xoan) của phường mình” (Tư liệu
99
phỏng vấn 11/2018).
Đó là còn chưa kể thời gian học tập trung quá ngắn để người học có thể có
đủ “vốn Xoan” tương đối. Các con số trong báo cáo của tỉnh đều rất tích cực, ví
dụ, năm 2009 các phường Xoan cổ có 31 nghệ nhân cao tuổi (từ 80 đến 104
tuổi), trong đó chỉ vỏn vẹn 7 nghệ nhân còn có thể thực hành và truyền dạy các
bài bản Xoan; sau khi công tác truyền dạy được đẩy mạnh thì đến năm 2015 đã
có tới 249 nghệ nhân có thể thực hành và truyền dạy (Nguyễn Đắc Thủy, 2018).
Nhưng trên thực tế, chất lượng thực hành và truyền dạy của các nghệ nhân lớp
kế cận này còn là vấn đề lớn. Hiện nay, khi mở các lớp truyền dạy mới, việc tìm
kiếm nghệ nhân đạt yêu cầu để đi dạy Hát Xoan cũng là cả một vấn đề với chính
Sở văn hóa tỉnh.
3.2.3. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và dân ca
Phú Thọ
Ngoài mô hình phường Xoan tại các làng Xoan cổ, Hát Xoan còn được
thực hành và truyền dạy theo mô hình CLB. Mô hình CLB Hát Xoan và dân ca
được tỉnh Phú Thọ khuyến khích thành lập và mở rộng nhằm đẩy mạnh công tác
truyền dạy và thực hành Hát Xoan trên diện rộng. Nếu như năm 2009, cả tỉnh
mới chỉ có 3 CLB tự phát (Phù Ninh, Tiên Du, Cao Mại), đến 2010 có 13 CLB
(với 298 hội viên) thì tính đến tháng 10 năm 2016, trên toàn tỉnh đã có 34 CLB
cấp tỉnh, với 1.413 hội viên tham gia sinh hoạt và 99 CLB từ cấp huyện,
xã/phường, khu/ làng. Ngoài ra, còn có nhiều nhóm Hát Xoan tự thành lập xuất
phát từ niềm yêu thích với loại hình nghệ thuật này. “Đầu tiên thì cũng không
biết về Xoan nhiều đâu, nhưng được đi học, được gặp các nghệ nên giờ thì biết. Giờ chiều nào cũng hẹn nhau để ra đây tập rồi hát múa với nhau”1.
Tại các CLB Hát Xoan, hàng năm, Sở VHTT&DL và thành phố Việt Trì
có tổ chức các lớp truyền dạy Hát Xoan do các nghệ nhân ở phường Xoan gốc
trực tiếp truyền dạy cho các thành viên chủ chốt của các CLB (sau khi học, các
1 Tư liệu điền dã, 11/2017.
100
thành viên này lại dạy lại cho các thành viên khác trong CLB của mình). Một số
CLB mời nghệ nhân của các làng Xoan gốc trực tiếp về dạy cho các thành viên.
Những sinh hoạt Xoan diễn ra đều đặn tại một số CLB, đặc biệt là quanh các
phường Xoan cổ và trong khu vực thành phố Việt Trì.
Trên thực tế, hoạt động của các CLB Hát Xoan (về sau đổi thành CLB
Hát Xoan và Dân ca Phú Thọ) diễn ra đa dạng và phong phú. Việc thực hành
Hát Xoan diễn ra tại một số CLB không hề đơn giản và dễ dàng. Sự khó khăn
này đến từ ngay những ngày đầu tiên, khi tại một số địa phương diễn ra nỗ lực
hoạt động để được công nhận là CLB cấp tỉnh. Đa số thành viên trong CLB đều
là người trung niên và cao tuổi nên việc tiếp thu Xoan khá khó do sức khỏe yếu
và trí nhớ không được tốt. Thời gian đầu, các thành viên còn chán nản và có lúc
còn chống đối bằng các lời nói khó nghe hay những buổi trốn tập. Nhưng qua
thời gian động viên, khích lệ, đến tận nhà các thành viên để tâm sự về Xoan,
hỏi han về gia đình,… các thành viên đã suy nghĩ rồi dần dần có ý thức đi tập
đều đặn, tự bảo ban nhau tập luyện. (Tư liệu điền dã, Thanh Ba, 11/2018).
Không những thế, Xoan còn bị “trốn tránh”, nhiều thành viên “nhất quyết
không chịu tham gia”, có người vốn là hạt nhân trong đội Chèo còn “hát giễu
Xoan” và trốn tập. Thậm chí, dù đã thuyết phục được các thành viên tham gia và
trình diễn thành công, nhưng “vẫn chưa có ai hiểu và thực sự yêu Xoan”. Tại
một số địa phương, việc tham gia các kì Liên hoan đã giúp “các thành viên có
nhận thức tích cực hơn về Hát Xoan, một số người còn cảm thấy yêu thích”. Và
không phải ở xã nào, Xoan cũng được cán bộ xã chào đón, “hát cái gì thì hát nhưng đừng có Hát Xoan Ghẹo”, “có cho tiền cũng không đi Hát Xoan”1.
Thực hành Hát Xoan tại các CLB nổi bật lên vai trò của những người đứng
đầu, vì đam mê mà thành lập và theo đuổi việc duy trì CLB. Có thể hình dung kĩ
hơn về vai trò của các cá nhân này và tình hình hoạt động của CLB Xoan qua câu
1 Tư liệu phỏng vấn, tháng 11/ 2018. Riêng phần này, chúng tôi xin phép không đưa bất kì thông tin nào về đối tượng phát ngôn để đảm bảo quy tắc bảo mật cho đối tượng được phỏng vấn.
101
chuyện về một cá nhân rất nổi bật trong việc truyền dạy Xoan trong tỉnh.
Hồi ấy, khi chị làm việc trong ngành văn hóa, chị bỏ qua luôn trưởng
phòng, lên gặp phó chủ tịch huyện, bảo tôi có hai việc muốn đề nghị với
anh như thế này: một là bóng chuyền, hai là Hát Xoan. Khẩn cấp đấy (khi
đó là sau khi UNESCO ghi danh Hát Xoan). Trong hai việc ấy, cho tôi
làm Hát Xoan để tôi mở lớp tập huấn. Chị mới dựa vào cái công văn và
những hướng dẫn của tính về mở lớp, truyền dạy và khôi phục Hát Xoan
để làm kế hoạch. Ông phó chủ tịch cho 6.890.000đ để mở 2 lớp, ngay lúc
ấy đã có chương trình chào mừng bằng Hát Xoan hẳn hoi. Mình cùng ông
trưởng phòng đánh xe con sang phường Xoan đón nghệ nhân về dạy 3
ngày, yêu cầu bà “dạy bài nào khó nhất nhưng mà phải hay nhất”. Trong
3 ngày, bà dạy cho 4 bài, học sinh mới học ngây ngô không biết cái gì bảo
“thế nào học Xoan sao mà chán thế”, đến ngày thứ hai là ngấm dần ngấm
dần, ngày thứ ba là ngấm hẳn, hết ngày thứ ba xin dạy thêm mà chương
trình chỉ đến thế thôi. Rồi mình lại xin tiền tiếp, mở thêm hai lớp nữa, một
lớp cho 8 xã, một cho 7 xã, làm rất là bài bản. Sau khi truyền dạy xong thì
mình lại đề nghị huyện có một công văn gửi về xã để thành lập CLB, họ
dựa trên công văn đó và bài bản mà mình truyền dạy để thành lập đồng
loạt trên toàn huyện 15 CLB Hát Xoan của các xã (cấp xã). Các CLB
trước khi thành lập là phải làm 2 bộ hồ sơ, một bộ gửi tỉnh và một bộ gửi
huyện, nói rõ quy chế hoạt động, nguồn kinh phí, làm bài bản, có chữ kí,
con dấu của ủy ban xã hẳn hoi. Trước khi thành lập, mình đi dạy lại, chau
chuốt cho cái xã đấy để làm sao khi mà thành lập CLB thì nó “ngon nghẻ,
không rối rắm”. Chị cũng yêu cầu CLB phải có chủ nhiệm, phó chủ
nhiệm, kế toán thủ quỹ. Phải có thủ quỹ vì CLB mình toàn phải đi xin, xin
các nhà hảo tâm. “ông này làm doanh nghiệp, mai tôi thành lập CLB này,
ông cho tôi một triệu hay bác cho tôi 50 ngàn cũng quý, hoặc không có thì
ủng hộ cho tôi cái trống hoặc bộ ăm ly, thế là dân họ đồng tình, họ ủng hộ
102
tích cực, thích lắm”. Xoan nó mới nên họ háo hức. Sau đó cứ dần dần,
mình âm thầm mình làm, đợt này thành lập được 5 CLB, đợt khác lại đi
xuống tận xã vận động. “Nếu khó khăn không có ai dạy thì tôi trực tiếp tôi
dạy, không có quần áo, tôi trực tiếp cho mượn quần áo”. Giờ nhà chị có
tới 30 bộ quần áo Xoan (cười). Chỗ nào khá khá thì cho thuê, một bộ chỉ
lấy 20 ngàn hoặc 15 ngàn, còn xã nào khó khăn thì cho mượn không. Tức
là mình đã say rồi thì mình không tiếc gì tiền mình bỏ ra mình sắm. Cả
huyện giờ có 15 xã thì có 15 CLB cấp xã, cấp tỉnh có 5 CLB. Tổng cả
huyện mình có 58 CLB các cấp, hầu hết các khu đều đã có CLB rồi (…)
Cứ nói đến Hát Xoan như ai đang xui mình bắt mình phải làm, thúc mình
phải làm bằng được, không biết như thế nào lại thế. Mình chọn Hát Xoan
vì mình rất thích, cái nữa là nhà nước và tỉnh người ta đang cần đang bảo
vệ phẩn cấp tại sao mình không làm, cái này là Đảng và Nhà nước đang
cần mà mình lại đang làm trong ngành văn hóa, mình phải có trách nhiệm
(…) Mình cũng từng sang nhà bà A. (nghệ nhân phường Xoan cổ) học từ
năm 1999, trước năm 2000! Lúc ấy Xoan chưa rầm rộ. Đi sang học vì “Ôi
dồi ôi thích đấy”. Không biết như thể ai sui khiến mình lại mời được bà A.
(trùm một phường Xoan cổ) kết nghĩa. CLB Hát Xoan của mình là CLB
duy nhất của huyện kết nghĩa được với phường An Thái (một trong 4
phường Xoan cổ), mà kết nghĩa tại đình, cho nên có có nhiều cái hay. Khi
mà đình An Thái có hội thì lại mời bên này sang, hay khi mà đình bên này
có hội thì lại mời An Thái sang (Tư liệu ghi chép, phỏng vấn chị H., phụ
trách các CLB Hát Xoan tại huyện T.D., 5/2019).
Với nhiều người, việc có mối quan hệ/ quan hệ kết nghĩa với các phường
Xoan gốc là một điều rất đặc biệt, đáng tự hào, vừa thể hiện “sự năng động” của
cá nhân, vừa ngầm cho thấy sự được thừa nhận về năng lực Hát Xoan của bản
thân cá nhân/ CLB đó. Và những hoạt động của CLB vì thế cũng đa dạng, phong
103
phú hơn, được xem là gần hơn với di sản.
Việc thực hành và truyền dạy Hát Xoan trong các CLB Hát Xoan và dân
ca Phú Thọ cũng đặt ra không ít vấn đề. Con số về 34 CLB Hát Xoan với 1.557
thành viên là rất ấn tượng, tuy nhiên trên thực tế, không phải CLB nào cũng tiến
hành hoạt động Hát Xoan đều đặn theo như báo cáo. Và điều này cũng không có
gì lạ, vì thực hành và truyền dạy Hát Xoan vốn không phải là nhu cầu tự thân của
người dân những nơi này. Thêm vào đó, tại một số CLB dân ca khác, trong trào
lưu Xoan hóa của toàn tỉnh, việc đưa Xoan vào sinh hoạt cũng gặp không ít khó
khăn và mang tính phong trào.
Đa số thành viên trong CLB là người trung niên và cao tuổi nên việc
tiếp thu Xoan khá khó do sức khỏe yếu và trí nhớ không được tốt. Thời
gian đầu các thành viên còn chán nản và có lúc như chống đối bằng
các lời khó nghe hay các buổi trốn tập (…) do chưa có nhận thức
đúng về Hát Xoan nên các thành viên không hứng thú và biểu hiện là
không đi tập đều (…) Sau thời gian động viên khích lệ, các thành viên
đã trình diễn thành công nhưng chưa có ai hiểu và yêu Xoan (…) (Tư
liệu phỏng vấn thành viên CLB Xoan cấp tỉnh, 11/2018).
Đặc biệt với những CLB xa vùng Xoan trung tâm, quá trình thành lập và
hoạt động phần lớn liên quan tới niềm yêu thích/ ý chí của một cá nhân nào đó.
Gặp gỡ với một số người nổi tiếng là “có công” với Xoan ở một số CLB trong
tỉnh, chúng tôi nhận thấy một mẫu số chung: niềm yêu thích với Xoan, và hơn cả
vậy, là một thứ tự ý thức về trách nhiệm của cá nhân trong việc bảo tồn và thực
hành di sản Hát Xoan. “Mình là con cháu vua Hùng cơ mà”, “mình ở đất Tổ của
Xoan”, vậy nên việc yêu Xoan, thực hành Xoan và bảo vệ Xoan được nhận thức
như một điều hiển nhiên. Những cá nhân này có một ảnh hưởng quan trọng,
trong nhiều trường hợp, là quyết định với diện mạo của các CLB, của việc thực
hành truyền dạy Xoan tại địa phương. Từ cảm nhận cá nhân, họ sẽ quyết định
việc CLB của mình học trình diễn và truyền dạy theo phong cách của phường
104
Xoan nào trong số 4 phường Xoan cổ. Từ mạng lưới quan hệ cá nhân, họ sẽ huy
động kinh phí để đầu tư cho CLB của mình, kết nối trong việc kết nghĩa với các
phường Xoan, quyết định các thời điểm mà Xoan được trình diễn trong lễ hội.
Tại một số nơi, phải đến sau khi Hát Xoan được UNESCO công nhận,
thực hành Xoan mới được đưa vào trình diễn trong lễ hội ở đình làng, thông qua
hoạt động của các CLB. Tức là có một thứ truyền thống mới được tạo lập, xuất
phát từ mục đích giữ gìn di sản và từ khuôn mẫu đình - Xoan ở các phường Xoan
gốc. Tuy nhiên, việc tiếp nhận mới này dừng lại ở việc đưa Xoan vào hát hội,
như một loại hình nghệ thuật giải trí, còn phần nghi lễ thì vẫn tuân thủ truyền
thống đã có trước đó của đình, đền địa phương.
Như ở đình làng của chị, gần đây năm nào cũng có Hát Xoan. Xoan được
hát vào tối hôm trước, và vào buổi chào mừng sáng hôm sau, chỉ có
nguyên Hát Xoan, không có gì khác, mà hát đủ cả 3 chặng. Ở đây không
phải gốc tích của Hát Xoan nhưng phong trào nó lên như thế thứ nhất là
do bản thân mình năng động, thứ hai là mình cũng thích và thứ ba là thấy
một phần trách nhiệm của mình với tỉnh (…) Đặc thù của Lăng Xương là
lễ hội, nên là năm nào cũng phải có Hát Xoan, Hát Xoan là đem của nơi
khác đến đình thôi. Lễ hội đầu năm bắt đầu từ mùng một đến 15, phần lễ
là theo nghi lễ rước nước từ bờ sông vào, tế lễ xong thì bắt đầu đến phần
hội, đủ các trò chơi, có bóng chuyền, bóng đá, ném còn, đập niêu, chọi gà
(…) Hát Xoan là phần văn nghệ chào mừng, còn đến phần lễ thì họ cứ
làm theo nghi thức truyền thống. Hát Xoan tối hôm trước là để hát cho
người ta xem, hôm sau thì chỉ là hát trình diễn trước cửa đình, chứ không
phải là trong phần lễ giống như ở Hùng Lô chẳng hạn. Hùng Lô cũng
không có Hát Xoan từ ngày xưa, bây giờ mới đưa vào. Không giống như
Kim Đái là có Hát Xoan thường xuyên quanh năm, ngày đến ngày lễ là có
Hát Xoan cả, hay AnThái khi có phần lễ là đều phải có Hát Xoan. Ở đây
chỉ là phần chào mừng thôi, tất cả các đình đền đều hoạt động như thế.
105
Họ chỉ đưa vào phần hội thôi, liên hoan là để người ta xem. Mục tiêu
mình làm cái đấy là để quảng bá giữ gìn di sản chứ không phải là hát để
thờ vua hay là hát lên để thờ cái đình đấy, vì nó không phải là đặc thù ở
đây (…) Đình Đào Xá có Hát Xoan nhưng cũng là chỉ hát theo kiểu đấy,
Bảo Yên cũng hát theo như thế thôi(…) Chỉ Hát Xoan cho người ta xem
thôi, dạng văn nghệ chào mừng trước khi diễn ra lễ. Bảo Yên ngày xưa làm
gì có Hát Xoan (…) Hát Xoan không bao giờ mất được. Còn đình, còn đền là
còn Hát Xoan, chỉ khi các đình đền mất thì mới không còn Hát Xoan.
Các CLB mang tên “CLB Hát Xoan và dân ca Phú Thọ”. Tuy nhiên, từ
những thông tin mà chúng tôi có thì các thực hành chủ yếu là hướng đến việc
truyền dạy và trình diễn Hát Xoan, sinh hoạt liên quan đến các loại hình dân ca
khác là rất ít ỏi. Lí do một phần bởi những động thái của Sở văn hóa cũng hướng
chủ yếu đến Xoan “cái gì cũng phải có tí Xoan vào mới được”; phần khác bởi “Hát
Xoan còn được quốc tế người ta công nhận là hay thì sao mình ở đây lại không hát chứ”1. Có thể nói, ý thức trách nhiệm của chủ thể di sản là điều chi phối nổi bật việc
lựa chọn tìm đến Xoan để thực hành và truyền dạy ở các CLB này.
3.2.4. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại công sở, trường học
Trong các chương trình hành động và đề án bảo tồn và phát huy giá trị
Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ đều rất coi trọng công tác truyền dạy với mục đích trước
mắt giúp Xoan thoát khỏi tình trạng “bảo vệ khẩn cấp”, và sau đó là được phát
huy lâu dài. Công tác truyền dạy được phổ biến: 1) tại các phường Xoan gốc; 2)
tại các CLB Hát Xoan (trong toàn tỉnh, ở các cấp); 3) tại các cơ quan, đơn vị,
trường học trên địa bàn tỉnh. Tính đến năm 2016, Sở VHTT&DL Phú Thọ đã tổ
chức 5 lớp truyền dạy Hát Xoan cho các nghệ nhân kế cận tại các phường Xoan
gốc; 8 lớp truyền dạy cộng đồng (với 609 học viên); 2 lớp truyền dạy Hát Xoan
cho các CLB dân ca của các xã trên địa bàn tỉnh với 120 lượt người tham gia;
lớp tập huấn cho gần 100 người là cán bộ văn hóa xã, phường, những thành viên
1 Tư liệu phỏng vấn, 5/2019.
106
hạt nhân của các CLB dân ca ở thành phố Việt Trì và 16 xã có Xoan lan tỏa. Về
việc truyền dạy Xoan trong các trường học, 100% các trường học trong tỉnh đã
triển khai việc thực hiện dạy Hát Xoan trong các tiết học âm nhạc và hoạt động
ngoại khóa của nhà trường. Hát Xoan còn được đưa vào giảng dạy, giới thiệu tại
các trường Đại học Hùng Vương, Trung cấp Văn hóa nghệ thuật và du lịch Phú
Thọ, Trường Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tính Phú Thọ…
Không những thế, Xoan còn được đưa vào truyền dạy tại các công sở, cơ quan
trên địa bàn tỉnh.
Với công sở và trường học, việc đi học Hát Xoan là để “góp phần nâng cao nhận thức”, “dần hình thành thế hệ khán giả mới hiểu biết và yêu Xoan”1.
Với nhiều cán bộ công chức của tỉnh hoặc thành phố Việt Trì (những người phải
đi học để hiểu về Hát Xoan), dù được xem về hình ảnh Hát Xoan, dù được biết
về sự tồn tại của 4 phường Xoan cổ nhưng ấn tượng cụ thể và sâu sắc nhất về
Hát Xoan, kiến thức về loại hình nghệ thuật này lại nằm ở chính người nghệ
nhân được lựa chọn để truyền dạy cho họ. Với các nghệ nhân được lựa chọn, họ
thường dạy cán bộ theo lề lối của phường mình, chính vì vậy, hình thành nên
một nhận thức sau khi được truyền dạy là “các cụ dạy mỗi người một phách”, và
“ai cũng cổ, ai cũng đúng”, “bên này thì bà A. dạy thế này, nhưng ông N. của
phường Xoan khác ông ấy lại dạy khác, các cụ còn chả thống nhất được, người học thì biết làm sao được, nên phải học thì cứ biết vậy thôi”2.
Nhận thức về “việc bảo vệ và phát huy giá trị của nghệ thuật Hát Xoan
trong nhà trường sẽ góp phần tích cực cho việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa quê hương, đất nước và duy trì tính đa dạng của văn hóa nhân loại”3,
Sở Giáo dục và Đạo tạo tỉnh Phú Thọ đã ban hành các văn bản để chỉ đạo các cơ
1Theo Báo cáo Đánh giá kết quả sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại “Hát Xoan Phú Thọ”, Sở VHTTDL Phú Thọ, 12/2015. 2Tư liệu điền dã 10/2018.
3Báo cáo “Truyền dạy Hát Xoan trong trường học: thuận lợi, khó khăn và giải pháp bảo tồn, phát huy”, Nguyễn Minh Tường, Giám đốc Sở GD&ĐT.
107
sở giáo dục triển khai thực hiện việc truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường.
Theo đó, các cơ sở giáo dục phải xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc
truyền dạy Hát Xoan, tổ chức các hoạt động giáo dục có sử dụng di sản Hát
Xoan trong nhà trường. Nội dung Hát Xoan được đưa vào giảng dạy chính khóa
ở các trường tiểu học và trung học cơ sở (qua bộ môn Âm nhạc), tích hợp tuyên
truyền, sử dụng Hát Xoan trong các hoạt động giáo dục gắn với các hoạt động
ngoài giờ lên lớp, trải nghiệm sáng tạo, văn hóa văn nghệ cho học sinh, sinh
viên. Bản thân các giáo viên và học sinh cũng tham gia vào các buổi giao lưu,
biểu diễn Hát Xoan trong các dịp lễ, hội của địa phương, trong lễ hội Đền Hùng.
Trên thực tế, tại Phú Thọ, Hát Xoan đã gắn bó với ngành giáo dục từ những năm
97-98 của thế kỉ 20. Nhưng lúc đó, Xoan chỉ là một trong các loại hình dân ca
của Phú Thọ xuất hiện và được giảng dạy trong trường học, cùng với Ghẹo và
một số loại hình khác. Xoan và Ghẹo vẫn chưa tách ra, vẫn được gọi chung là
Xoan Ghẹo, và trở thành một trong những nội dung giáo dục trong các tiết học
về dân ca địa phương. Đến khi Xoan được UNESCO công nhận, Xoan tách ra
khỏi Ghẹo, và được chính thức đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
Ngoài ra, Sở GD&ĐT Phú Thọ còn tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng
cho giáo viên về nội dung sử dụng Di sản văn hóa trong dạy học và tổ chức các
hoạt động giáo dục ở trường phổ thông (trong đó có Hát Xoan); các lớp tập huấn
theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về việc sử dụng di sản văn hóa trong hoạt động
giáo dục. Tháng 8/2016, Sở GD&ĐT phối hợp với Sở VHTTDL tổ chức lớp bồi
dưỡng Hát Xoan cho 258 giáo viên dạy môn Âm nhạc cấp tiểu học và trung học
cơ sở. Sở GD&ĐT còn tham gia lựa chọn, thẩm định các bài Hát Xoan để làm
đĩa, in tài liệu cấp phát cho các cơ sở giáo dục tham khảo và sử dụng trong dạy
học và tổ chức các hoạt động. Các hoạt động giao lưu ngoại khóa cũng được Sở
thực hiện với sự kết hợp với ngành Văn hóa, các trung tâm văn hóa địa phương,
các phường Xoan gốc, các nghệ nhân… Tại các cơ sở giáo dục, các CLB Hát
108
Xoan cũng được thành lập, luyện tập và tham gia biểu diễn trong dịp đầu xuân
và các ngày lễ lớn: 8-3, 26-3, 20-11, trong lễ Khai giảng, Bế giảng năm học,
ngày Hội trường…
Chỉ đạo của tỉnh giao cho Sở Giáo dục với Sở Văn hóa tổ chức bồi dưỡng
cho giáo viên và đưa vào chương trình các làn điệu Xoan cổ bắt buộc, đưa vào
dạy học. Trường Văn hóa nghệ thuật bồi dưỡng giáo viên Mầm non, Tiểu học,
trung học cơ sở, bồi dưỡng được hai khóa rồi đấy, hai hè rồi. Một giáo viên thì
phải đi tập huấn trong vòng một tuần hay mười ngày, xong có cấp chứng chỉ hết
đấy. Bồi dưỡng cho giáo viên có hai đợt. Đợt 2 là năm vừa đây, tức là năm 2017
– 2018 có 1 đợt này và một đợt trước nữa vào dịp hè 2016 – 2017. Hai năm liền
có bồi dưỡng giáo viên hẳn về Hát Xoan cho hai cái cấp Tiểu học và THCS. Cái
năm đầu, dự kiến có 277 xã thì cố gắng phủ kín làm sao mỗi một xã không ở
Tiểu học thì ở THCS phải có một giáo viên biết Hát Xoan, dạy được Hát Xoan.
Thế còn đến năm 2017 – 2018 thì coi như gần như phủ kín cho các đối tượng
còn lại. Đối tượng đấy cả của Tiểu học và trường THCS phải tầm 500 – 600 giáo
viên đấy. Sách học tập là do Sở Văn hóa chịu trách nhiệm về nội dung, họ có
làm tài liệu, có làm đĩa, bài bản lắm, làm thành đĩa hẳn hoi cơ mà, cái đấy là cái
đề tài rất là lớn của bên ngành văn hóa. Mỗi đợt bồi dưỡng khoảng 3 lớp, hai
năm là 6 lớp. Nhiều lớp cứ kế nhau. Lớp để 80 – 90 học viên học ấy, đợt đấy thì
khoảng 300 người, hiệu quả của nó không cao nên lần sau các lớp chuyển sang
làm lớp nhỏ hơn, chia nhiều lớp hơn (Tư liệu phỏng vấn anh T., cán bộ Sở
GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).
Tại Trường Đại học Hùng Vương, trường đại học duy nhất của tỉnh, việc
bảo vệ và phát huy di sản Hát Xoan cũng trở thành một trong những nhiệm vụ
được đặt ra với nhà trường và cán bộ giáo viên. “Trường Đại học Hùng Vương
đã triển khai nhiều việc làm thiết thực, đặc biệt là đẩy mạnh công tác giảng dạy
Hát Xoan trong các khoa chuyên môn. Nhà trường đã chỉ đạo, đầu tư nguồn kinh
phí cho các Khoa thành lập các CLB Hát Xoan và tổ chức hoạt động đều đặn.
109
Tính đến nay, toàn trường đã có 8 CLB ở 8 khoa, thu hút được gần 200 thành
viên tham gia. Các CLB hoạt động thường xuyên và hiệu quả, nhất là trong các
chương trình giao lưu văn nghệ, các hội thảo, hội nghị (…) Các hoạt động ngoại
khóa được diễn ra sôi nổi ở các khoa: Giáo dục tiểu học và mầm non, Nghệ
thuật, Khoa học xã hội và Nhân văn… Ở đây, sinh viên được tham gia luyện tập,
được học các làn điệu Xoan cổ, hát các bài Xoan cải biên và được tham gia biểu
diễn (…) Với riêng khoa Nghệ thuật, từ năm 2014 đến nay, Khoa đã xây dựng
học phần thay thế tốt nghiệp cho sinh viên năm thứ 3 với môn học Âm nhạc dân
gian Phú Thọ gồm có 3 tín chỉ, 45 tiết học. Môn học đã giúp sinh viên ngành
Âm nhạc hiểu rõ hơn về lịch sử ra đời, về nghệ thuật Hát Xoan và được trực tiếp
diễn xướng các làn điệu Xoan cổ…” (Dẫn theo Cao Văn, Bùi Thị Mai Lan,
2016). Các hoạt động này được đánh giá là “qua môi trường giáo dục, thế hệ trẻ
đã được tiếp cận, tìm hiểu và có sự nhận thức sâu sắc hơn những di sản quý của dân tộc nói chung và các làn điệu Xoan của Phú Thọ nói riêng”1.
Khi Hát Xoan được đưa vào dạy trong các tiết học âm nhạc và ngoại khóa
tại các trường Tiểu học và Trung học Cơ sở, thông thường, giáo viên âm nhạc
của trường sẽ đảm nhiệm công việc này. Sở VHTTDL hàng năm có tổ chức các
lớp tập huấn cho các giáo viên âm nhạc tại các trường, trực tiếp do các nghệ
nhân tại làng Xoan cổ truyền dạy. Phong trào dạy và học Hát Xoan được đánh
giá là “phát triển mạnh mẽ” với những con số rất ấn tượng tại một số trường,
như trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng, trường tiểu học Gia Cẩm (trên địa bàn
thành phố Việt Trì). Ở cả hai trường này, sau 6 năm đưa Hát Xoan vào dạy trong
trường, có tới hơn 3.600 học sinh biết Hát Xoan, mỗi học sinh thuộc trung bình
từ 2 - 3 bài hát. Có thể hình dung về không khí Hát Xoan tại trường học qua
những mô tả dưới đây tại một ngôi trường được xem là triển khai rất thành công
hoạt động này.
Tại một trường cấp 1 có tiếng ở thành phố Việt Trì, bà Hiệu trưởng
1 Cao Văn, Bùi Thị Mai Lan (2016), “Tăng cường công tác giảng dạy Hát Xoan trong trường Đại học Hùng Vương”, Hội thảo Những điểm tương đồng và khác biệt giữa các phường Xoan, Phú Thọ, 2016.
110
muốn cho khách mời chứng kiến thành quả mà bà và đồng nghiệp
(chủ yếu là cô giáo tổng phụ trách, cũng là một giáo viên âm nhạc) đã
làm được trong mấy năm qua. Một hồi trống nổi lên, và hàng trăm học
sinh trong toàn trường ùa đến tập trung tại khoảng sân rộng nằm chính
giữa. Chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, các lớp đã hàng ngũ
chỉnh tề, và tuân thủ nhịp nhàng theo hiệu lệnh của cô tổng phụ trách.
Hơn 10 học sinh mẫu biểu diễn trên bục, và ở dưới là hàng trăm học
sinh cùng say sưa hát và trình diễn Mó cá. Thấy sự choáng ngợp của
chúng tôi trước một cảnh tượng “chưa bao giờ được thấy” với hàng trăm
học sinh mặc đồng phục, đều tăm tắp trong bài bản Xoan, các cô hào
hứng kể về những lần Đài truyền hình trung ương, nhà báo đến quay
phim chụp ảnh tại trường, về những lần mang Xoan đi biểu diễn trong
những đợt công diễn lớn tại Đền Hùng, về sự trầm trồ của mọi người và
cả về niềm tự hào cho thành tích mà chỉ ở ngôi trường này mới có.
Cách giải quyết việc dạy Hát Xoan trong nhà trường cũng được cán bộ
giáo dục chia sẻ, khi ký âm Xoan, có những bài thấy không đập được nhịp để dạy cho học sinh (“phải đập nhịp được thì dạy học sinh mới theo, mới vào”1) thì giải
quyết theo cách “có những bài nó ở nhịp 1/4 và có bài nó không có nhịp nhưng một
số nhà khoa học bảo, thôi chỗ này điền những cái nhịp 2/4 vào học sinh nó mới dễ
học, giáo viên nó mới đập được chứ. Đấy cũng là cách làm thay đổi toàn bộ diện
mạo của bài” (Tư liệu phỏng vấn cán bộ văn hóa Sở GD&ĐT, 5/2019)
Thêm vào đó còn là những khó khăn trong việc lựa chọn các bài bản Xoan
để dạy trong nhà trường. Hát Xoan ngoài các bài bản hát thờ là hát hội, hát xuân,
hát ghẹo, với nhiều lời hát không phù hợp với lứa tuổi tiểu học, trung học cơ sở,
việc lựa chọn dạy bài bản Xoan nào để dạy cho trẻ cũng là cả một vấn đề với
giáo viên. Vậy nên, việc lựa chọn bài để dạy này cũng lại tùy vào cảm nhận của
1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên Âm nhạc trường T.N, Việt Trì, 11/2018.
111
giáo viên về “sự phù hợp”.
Từ nhiều những vấn đề bất cập như vậy, giáo viên rất mong muốn thay
đổi hình thức truyền thụ về di sản này. Nguyện vọng về một “kế hoạch chương
trình cụ thể, ví dụ như là trong chương trình Âm nhạc tiết nào dạy Hát Xoan, cụ
thể được ra thì dễ cho bọn em hơn, đây toàn tự làm không có quy định”; “em
nghĩ nên sáng tạo về lời ca, có thể là thay lời cho phù hợp với các em học sinh
tiểu học chẳng hạn. Lời ca bây giờ nó hay nhưng kiểu người lớn quá, như các cụ
ngày xưa hát, còn bài trẻ con lại ít, không có ấy. Học sinh học bài đấy không
thấy phù hợp lắm. Thay về lời thôi, âm nhạc thì của các cụ ngày xưa truyền lại
nên nếu thay thì nó sẽ biến thành cái thể loại khác không phải Hát Xoan nữa”;
“đã đưa vào thì cũng nên có giáo trình theo mức độ phù hợp với lứa tuổi tiểu
học riêng, THCS riêng và THPT riêng, và làm căn cứ để cho các nhà trường
triển khai sao cho phù hợp. Trên cơ sở cái chung để nhà trường nghiên cứu triển
khai riêng. Thực ra hiện tại chủ yếu là nghe tuyên truyền, tìm hiểu trên báo đài,
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc là một số cuốn sách giới thiệu thôi, chứ triển khai cụ thể như thế nào cho nó bài bản thì cũng chưa có”1. Ý tưởng
gặp nhiều nhất qua các phỏng vấn giáo viên và cán bộ Sở Giáo dục là nên đưa
Hát Xoan vào nhà trường theo hình thức CLB, hoặc môn tự chọn, và những học
sinh có năng khiếu hoặc đam mê có thể lựa chọn theo học sâu với hình thức này.
Như chia sẻ của một cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, "đưa vào trường thì nên đưa
vào một CLB, chỉ cần một CLB thôi, không phải đưa rộng quá, đưa rộng quá mà
trong khi đó mình không làm được nó chu đáo. Đưa rộng ở đây nói theo ý về
quảng bá là Phú Thọ này nó có cái Hát Xoan, thì người dân Phú Thọ phải biết là
có tên cái Hát Xoan, nó là một cái di sản. Chứ còn để hiểu về nó thì chưa, đây
mới chỉ là biết thôi. Vì vậy mình muốn đưa vào đây một CLB để làm sao, để vấn
đề được sâu (…) Triển khai trong nhà trường hiện nay mới chỉ là biết về Xoan
1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan tại trường Đ.X, 5/2019.
112
thôi, còn để hiểu về nó thì không. Nên giờ mình nghĩ là lập CLB để cho thực
chất, để hiểu và rõ việc triển khai những nội dung gì về Hát Xoan" (Tư liệu
phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).
Việc học kiểu tự chọn theo hình thức CLB sẽ không “lấy mất thời gian của học sinh, vì các em bây giờ phải học nặng, học nhiều môn lắm”1. Trong bối
cảnh quá tải của hệ thống giáo dục tại Việt Nam hiện nay, việc đảm nhận thêm
môn Hát Xoan với nhiều học sinh lại thành thêm một gánh nặng, khiến “một bộ
phận các em nó không thích lắm”. Kiểu sinh hoạt tự chọn này cũng có thể được
thực hiện trong những dịp lễ lớn hay hoạt động đội, đưa thành các nội dung thi
đua để các lớp tập luyện “bây giờ thời lượng học tăng, cộng với áp lực thi cử,
đặc biệt với học sinh trung học cơ sở, nên nhiều khi cũng phải có những cái khéo léo trong hoạt động2”.
Thêm vào đó còn là vấn đề về cách tiếp cận với di sản từ góc độ ngành
giáo dục. Trong các cuộc phỏng vấn, chúng tôi nhận thấy giáo viên đều xem việc
đưa Hát Xoan vào nhà trường là hợp lý, phù hợp, đúng đắn… Tinh thần bảo vệ
di sản mạnh mẽ của tỉnh Phú Thọ ngấm trong ý thức của từng giáo viên, tinh
thần coi trọng tính giáo dục về mặt lịch sử, thẩm mỹ, đạo đức của di sản khiến
họ coi việc yêu Xoan, truyền dạy Xoan cho học sinh là việc hiển nhiên và cần
phải làm. Ai cũng vào cuộc, vậy thì ngành giáo dục không thể đứng ngoài.
Nhiệm vụ đó được thể hiện rõ với tinh thần chung của nhiều giáo viên được thể
hiện trong nhiều cuộc phỏng vấn, vì "Hát Xoan đưa vào trường học cũng có
nhiều cái hay, ít nhất học sinh nó cũng phải biết được đây là bản sắc văn hóa
vùng miền Phú Thọ mình, tức là nó mang cái tính cội nguồn rất là tốt, rèn luyện
cho các cháu về tình yêu quê hương đất nước, và thật sự đặc biệt vì đây là cái
văn hóa nổi bật của mình. Nhưng nếu đúng để so sánh với lớp trẻ hiện đại thì
Hát Xoan nó sẽ không được hay như các loại nhạc khác, học sinh hiện nay thích
những loại nhạc hip hop nọ kia cái đó là sở thích thì các em, cứ phát triển theo
113
sở thích chứ không ai ngăn cấm các em điều đó. Nhưng bên cạnh cái đó theo 1 Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019. 2 Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019.
mình thì các em vẫn nên phải biết về cái truyền thống cội nguồn, đăc biệt là ở
trường tại đây, học sinh vẫn hát, múa Xoan tự nhiên lắm" (Tư liệu phỏng vấn
cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).
Vậy nên khi được hỏi về việc, có nên đưa Hát Xoan vào trường học hay
không, phần lớn các câu trả lời đều hướng đến ý nghĩa tích cực của hoạt động
này. Với nhiều giáo viên, việc đưa Hát Xoan vào trường học là nên, vì “ít nhất
nó là một cái vốn văn hóa quý báu của dân tộc mình, hai nữa là mình đưa vào,
không đơn giản chỉ là bảo tồn, nó còn giáo dục thẩm mĩ cho các em, vì Xoan góp
phần giáo dục cho các em về cái hiểu biết văn hóa văn nghệ dân tộc, để từ đấy giáo dục về đạo đức, hỗ trợ rất nhiều vấn đề ấy, tốt mà”1. Hát Xoan “mang tính
chất giáo dục lịch sử nói chung. Hiện nay đang bị mai một nên cần đưa vào, đặc biệt là của địa phương thì càng nên đưa vào”2. Thêm nữa, “cái Xoan này nó là di
sản được quốc tế người ta công nhận cơ mà, mình đưa vào dạy học sinh là đúng quá rồi”3.
Một số “cái được”, “phù hợp” của Hát Xoan với đối tượng học sinh cũng
được giáo viên nhấn mạnh trong các cuộc phỏng vấn. Đó là tình yêu của học
sinh với loại hình nghệ thuật truyền thống này: "Học sinh không phải nó chỉ
thích cái nhạc ngoại bây giờ đâu. Ngay sang Hát Xoan nhìn khuôn mặt nó rất
hạnh phúc, quan trọng nhất là nhìn học sinh nó thấy được, không bị khiên cưỡng
như những năm đầu. Ví dụ năm đầu đưa vào rất là khó. Dạy Xoan hợp lý bởi vì
bản chất cái nhạc cái phách của Xoan nó đơn giản cũng dễ tiếp cận, chứ còn ví
dụ nhạc nước ngoài chẳng hạn phải chọn bài rất là vui nhộn, phải đơn giản mới
được" (Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).
Sự phù hợp của Hát Xoan với môi trường nông thôn cũng được nói tới để
lý giải cho việc truyền dạy Hát Xoan cho học sinh tại vùng xa lại trở nên dễ dàng
1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan, 5/2019. 2 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan, 5/2019. 3 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan, 5/2019.
114
hơn ở thành phố. Tại thành phố, khi các hình thức giải trí khác lấn át, Xoan trở
thành bình thường, học sinh múa Hát Xoan là do sức ép của thầy cô mà phải
làm, nhưng trẻ ở vùng quê lại khác, hào hứng hơn rất nhiều. Chính vì vậy, việc
đưa Xoan vào dạy trong nhà trường ở đây lại rất dễ. Ngoài ra, sự tương thích
giữa một loại hình nghệ thuật dân gian mang tính truyền miệng, tự dạy (truyền
miệng và nghe nhịp phách đánh trống rồi làm theo) là chính với cách tự học của
học sinh cũng được dùng để lí giải cho việc Xoan không khó để dạy trong
trường. Với học sinh và giáo viên, dạy và học Xoan thậm chí còn thuận lợi hơn
với những bài nhạc hiện đại bây giờ, vì phải đúng nốt, đúng phách, cao độ, trường
độ, tiết tấu. Lối hát dân gian như vậy được xem là dễ tiếp nhận hơn với học sinh, và
lứa tuổi các em cũng chỉ cần hiểu những thứ cơ bản, chưa đòi hỏi hiểu sâu hoặc chi
tiết. Và vì thế, việc truyền dạy Hát Xoan có sai lệch cũng được nhìn nhận rất bình
thường, bởi tính khắt khe của dân gian là không nhiều. Bởi vậy, một số em học sinh
cảm thấy rất thoải mái khi Hát Xoan, vì cái kiểu nó rất dân dã, múa đúng múa đều
không phải uốn nọ uốn kia nên giống như là chơi, rất nhẹ nhàng.
Hai ngôi trường được báo cáo là thực hiện công việc truyền dạy này tốt
nhất là trường tiểu học Gia Cẩm và Đinh Tiên Hoàng (đều trên địa bàn thành
phố Việt Trì), với hơn 3.600 em học sinh (từ lớp 1 đến lớp 5) thuộc và hát được
3 – 5 bài Hát Xoan đều là nơi có Hiệu trưởng và giáo viên âm nhạc rất “mê
Xoan” và coi việc phải dạy về di sản cho học sinh là trách nhiệm của nhà trường.
Dù việc truyền dạy Xoan trong nhà trường đặt ra nhiều vấn đề về việc “nặng về
hình thức”, “tách Hát Xoan khỏi không gian văn hóa của chính nó”,… nhưng khi
chứng kiến cảnh hàng ngàn học sinh cùng trình diễn Xoan, nhiều em càng học
càng thích Xoan, thì chúng tôi cũng khá băn khoăn. Nên chăng, việc truyền dạy
Hát Xoan trong nhà trường không cần chạy theo các quy định nặng về hình thức,
các công văn yêu cầu bắt buộc? Di sản của tỉnh và vẫn đang được thực hành tại
tỉnh, các trường hoàn toàn có thể dạy và bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào về
di sản thông qua các chuyến dã ngoại về các phường Xoan, thậm chí mời các
115
phường Xoan về biểu diễn tại trường. Còn việc truyền dạy Xoan trong nhà
trường cần hết sức cân nhắc, vì việc “đồng phục Xoan” kiểu hát đồng ca, bắt
buộc với tất cả các học sinh dễ dẫn đến tình trạng “dị ứng Xoan” với chính trẻ
nhỏ. Thêm nữa, ngay cả khi học sinh có yêu Xoan, thì với việc chọn lọc bài bản
Xoan cho phù hợp với không gian trường học, với tâm lý và trình độ lứa tuổi của
học sinh tiểu học (loại bỏ các bài hát thờ, các bài hát hội nam nữ trêu ghẹo nhau)
cũng dễ dẫn đến sự hiểu biết sai lệch về Xoan – nhìn cây mà ngỡ là rừng, nghĩ
Xoan chỉ đơn giản là vậy…
Tuy nhiên, có một thực tế diễn ra tại các trường học tại Phú Thọ là việc
làm tốt Xoan trong nhà trường sẽ có một ý nghĩa lớn trong việc tạo dựng hình
ảnh, nâng cao vị thế của trường. Khi nói chuyện về Xoan, các trường đều trầm
trồ với thành tích truyền dạy Xoan tại một số trường điểm trong địa bàn thành
phố. Những lần tham dự hội diễn về Xoan, những chương trình lớn nhỏ có các
tiết mục dàn dựng Xoan và được giải đều được liệt kê rất chi tiết trong các buổi
nói chuyện, như một thứ thành tích mới của ngành giáo dục tại địa phương. Có
thể nói, trong bối cảnh Hát Xoan được ghi danh di sản, việc sử dụng Hát Xoan
đã mang lại nhiều lợi ích cho các trường học, và đôi khi, còn là một chiến lược
để minh họa cho tính hiệu quả và hướng đi đúng đắn của ngôi trường đó trong
ngành giáo dục tại địa phương.
Việc đưa Hát Xoan vào truyền dạy trong các trường học (hệ tiểu học và
phổ thông cơ sở) trên toàn tỉnh là một trong 8 nhiệm vụ cấp bách được tỉnh Phú
Thọ ưu tiên thực hiện, ngay sau khi Hát Xoan được ghi danh. Động thái này
được nhìn nhận là một trong những cách bảo vệ và phát huy di sản kiểu đón đầu
- truyền dạy cho thế hệ trẻ trong tỉnh để hiểu và yêu Xoan. Hát Xoan được đưa
vào dạy trong các tiết học Âm nhạc, trong phần giáo dục về văn hóa địa phương
(2 tiết/ tuần). Và trong các báo cáo, việc truyền dạy Hát Xoan trong trường học
đều được khẳng định là rất hiệu quả và thiết thực. Nhưng thực tế lại cung cấp
116
một bức tranh rất khác, với nhiều vấn đề cần bàn luận.
Trên thực tế, dù tỉnh đã có công văn yêu cầu đưa Xoan vào trường học, đã
mở các lớp yêu cầu hai giáo viên của trường đi học Hát Xoan nhưng việc truyền
dạy Xoan tại các trường hiện nay vẫn đang trong tình trạng “thả nổi” – chất
lượng việc dạy và học phụ thuộc rất nhiều vào sự “đam mê” hoặc “đầu tư” của
từng trường. Một số trường không có giáo viên bộ môn Âm nhạc riêng nên phải
lựa chọn “phân công các thầy cô giáo có năng khiếu một chút đi học, không sử
dụng được đàn trống các kiểu thôi chứ nhìn chung là ổn”. Một số trường thì nhờ
các nghệ nhân trong CLB Hát Xoan tại địa phương sang truyền dạy cho các học
sinh và giáo viên. Thời gian học ít, lại qua nhiều cấp như thế nên thực tế, hình
ảnh của Xoan ở trong các ngôi trường khá đa dạng.
Trước tiên là các vấn đề đặt ra với hình thức truyền dạy trong trường học.
Việc truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường được đảm nhiệm bởi giáo viên Âm
nhạc hoặc những giáo viên có năng khiếu âm nhạc, hay trong một số trường hợp
là do thành viên các CLB Hát Xoan trong xã. Với riêng các giáo viên, việc
truyền dạy Hát Xoan dù luôn được ý thức là “rất hợp lý”, “đúng đắn”, “có ý
nghĩa giáo dục sâu sắc” nhưng với nhiều người, thực sự là một gánh nặng. Việc
không thường xuyên thực hành Xoan, chỉ học thông qua một vài lớp do nghệ
nhân truyền dạy, lại bận rộn với nhiều công tác liên quan đến chuyên môn nên
việc truyền dạy bài bản Xoan là không hề dễ dàng. Việc này cũng đã được các
nghệ nhân nói tới khi trò chuyện về vấn đề này:
Nếu muốn gìn giữ được thì phải dạy cho nó đúng, dạy phải đúng ngay
từ đầu, đằng này các cô giáo đi học bước đi đã không đúng rồi, tay thì
cứ như thế này (vừa nói vừa để tay lên). Thế tay đúng của Hát Xoan
phải là như thế này, đây, 1234-5678-2234 đấy thì nó mới ra, đằng này
cứ lộn thế này. Tay là phải dẻo, mới đầu là cứng như này đấy xong
sau thì tay nó dẻo đi, thế cho nên là để các cô giáo cấp 1 dạy xong là
phải uốn lại, các cô giáo được đi học mà không học sâu. Thế nên
117
đang mai một, người ta không biết Xoan là thế nào đâu. Giáo viên họ
không thích nên họ học không sâu, nắm không kĩ, cho nên là truyền
dạy nó không đúng. Mà dạy các cháu học sinh thì nhanh lắm nên càng
lo… (Phỏng vấn nghệ nhân Hát Xoan huyện Thanh Thủy, 11/2018).
Các giáo viên chịu trách nhiệm về việc truyền dạy Xoan trong nhà trường
luôn nói về “nhiều cái khó” khi đảm nhận công việc này. Cái khó đầu tiên là
“Xoan rất khó hát, các giáo viên âm nhạc họ còn kêu là khó. Nếu là trẻ em và học sinh tiểu học thì nó học cũng vất vả”1. Cái khó này của Xoan do nhịp điệu
của Xoan, bài thì có nhịp, bài lại không, nên khó cho việc dạy học sinh. Khó còn
vì dung lượng của một bài bản Xoan “có nhiều những bài Hát Xoan dài, hát rất
khó thuộc”, nội dung bài bản Xoan thì “các cụ ngày xưa toàn hát về tình yêu,
nghi lễ và giao duyên”, “những bài về trẻ con ít lắm, khó lựa chọn”. Cái khó còn
nằm ở những đặc thù của môi trường giáo dục, khi học sinh vừa phải học
chương trình chính khóa với nhiều nội dung hoạt động khác vừa phải học thêm
Xoan “khó khăn nằm ở thời gian, thường lượng dạy được ít bài quá, ít thời gian quá”2; “sau khi đi tập huấn về em cũng triển khai được ít, tức là một năm học thì
em triển khai theo kiểu là đưa một vài tiết mục văn nghệ mà có Hát Xoan, hoặc
là trong chương trình học có 2 tiết, một tiết là cuối học kì 1, một tiết cuối học kì 2 dành cho bài hát địa phương tự chọn thì em đưa một bài Hát Xoan vào”3. Thời
gian khó khăn như thế nên nếu giáo viên tâm huyết với Xoan thì “toàn phải
tranh thủ. Giờ hội ý trong hội đồng, mình nói là sẽ không làm ảnh hưởng đến tiết
học của các giáo viên khác và giờ học của học sinh. Sau giờ học Âm nhạc chính
khóa thì tranh thủ 5-10 phút dạy thêm các em, tự phô tô bài hát rồi tranh thủ dạy”4. Dạy trong trường, không có nhạc cụ phù hợp, không gian hạn chế, giáo
viên cũng phải tự xử lý vấn đề: “trống thì em cũng chưa mua được trống, khi dạy
1 Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở Giáo dục, 5/2019. 2 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường A., huyện Thanh Thủy, 5/2019 3 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường N., huyện Tam Nông, 5/2019 4 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường N., huyện Tam Nông, 5/2019
118
thì em gõ xuống bàn hoặc dùng cái trống đội thôi. Còn múa thì thực ra cũng khó
khăn vì trong lớp nó rất là chật, nếu cho học sinh theo thì sẽ làm ảnh hưởng đến các lớp học khác”1.
Nguy cơ với Xoan đến từ chính việc truyền dạy theo kiểu phong trào như
thế này, bởi chính các cô giáo cũng “chỉ biết mang máng thì làm sao dạy đúng cho học sinh”2. Có một khoảng cách rất xa giữa những người thực hành Hát
Xoan thường xuyên và chuyên nghiệp với những người coi Xoan như một bộ
môn phải học và thực hành, mà lại học trong thời gian quá ngắn. Điều này đặt ra
câu hỏi về tính hợp lý, khả thi và hiệu quả của việc phổ cập Hát Xoan trong nhà
trường tại Phú Thọ. Hát Xoan được công nhận là DSVHPVT của nhân loại, cần
được bảo vệ và phát huy, nhưng thực sự có cần thiết phải đưa Xoan vào trường
học trên toàn tỉnh? Liệu sự truyền dạy, bảo vệ và phát huy trong nhà trường, với
sự hiểu biết không đến nơi đến chốn về Hát Xoan như hiện nay có dẫn đến nguy
cơ biến dạng di sản? Việc lựa chọn truyền dạy Hát Xoan dưới hình thức CLB,
theo nguyện vọng và sở thích của học sinh cũng là một phương án khá phù hợp
trong bối cảnh hiện nay, khi thời lượng chương trình học của học sinh ít ỏi và
đặc biệt là, không phải học sinh nào cũng yêu thích và có đam mê với loại hình
di sản này.
3.2.5. Thực hành và trình diễn Hát Xoan trong quảng bá du lịch và văn hóa
Với mục tiêu phổ biến Hát Xoan trên diện rộng, tích cực tuyên truyền
quảng bá để mọi người dân trong tỉnh đều biết đến Xoan, tỉnh Phú Thọ đã mở
nhiều lớp truyền dạy Hát Xoan có sự tham gia của nghệ nhân và một số trung
tâm văn hóa. Điều này thoạt nhìn có vẻ rất bình thường, hợp lý, nhưng thực tế có
khá nhiều vấn đề và mâu thuẫn giữa các bên tham gia. Khi dạy cùng với các cán
bộ trung tâm văn hóa, vấn đề mà nghệ nhân bức xúc là “sự chàng màng” về Hát
Xoan, về sự dạy sai, dạy không đúng của những cán bộ này: “Bản thân cô N. đấy
1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường A., huyện Thanh Thủy, 5/2019 2 Tư liệu phỏng vấn, 10/2018.
119
cô ấy múa chưa đúng, có cái thì khác hoàn toàn. Nhắc nhở thì cô bảo là con cứ
xem trên mạng, con quên, con xin lỗi”1. Vì thế, với nghệ nhân “phải là người trực tiếp truyền dạy thì mới hiểu biết hết được”2. Sự bức xúc này còn bởi một
nguyên do khác, đó là cách tổ chức và phân chia về kinh phí. Những bức xúc của
nghệ nhân: "Rồi trong việc truyền dạy, thực tế của việc “cấy người vào dạy”
cùng nghệ nhân, dẫn đến mâu thuẫn giữa nghệ nhân và bên trung tâm phụ trách
việc truyền dạy “trung tâm nó cứ vào dạy nhằm mục đích kinh tế (…) Đương
nhiên nó ngồi cạnh nó không dạy, lớp có 1, 2 nghệ nhân dạy lại thành 4 người,
trung tâm 2 người, nó không thuộc, cũng không quen (…) Cấy người trung tâm
vào dạy với mình, chia theo bài, ví dụ 500 ngàn đồng/ một bài, chia bài đó ta
thành bao nhiêu người, thấy khổ quá thôi” (Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân truyền
dạy, 11/2018)
Điều này khiến dẫn đến những lo ngại về việc Hát Xoan tuy được tuyên
truyền rộng nhưng lại là thứ “Xoan không phải là Xoan”. Theo nghệ nhân, mục
đích kinh tế trong nhiều trường hợp được đặt lên hàng đầu, họ không bận tâm
đến việc Hát Xoan sẽ thế nào, nên các cụ cảm thấy rất lo lắng. Rồi việc trình
diễn cho bên du lịch “mình làm nhiệt tình như thế, người ta thích như thế, được
có 1 triệu/ 1 ngày làm. Bao nhiêu người đi hát cũng mặc xác anh. Đối với khách
Việt Nam, trước kia thì còn được 700 ngàn, bây giờ có 500 với 600 ngàn thôi.
Mà đưa qua bên du lịch, không đưa thẳng tay cho mình”. Bức xúc là thế, nhưng
mà “vuốt xuôi xuống, bảo thế này: trước đây ông cha mình chả có gì vẫn giữ
được di sản cho đến bây giờ, mình mà nói thì người ta lại bảo là vì đồng tiền hay thế nọ thế kia, thôi tốt nhất là im cho nó xong”3.
Trong thực tế, các tour du lịch của Phú Thọ đều có thêm phần trình diễn
Hát Xoan (tại Hùng Lô hoặc miếu Lãi L n). Hát Xoan trở thành một phần không
thể thiếu trong việc quảng bá hình ảnh về Phú Thọ, gắn bó với tín ngưỡng thờ cúng
1 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân truyền dạy, 11/2018 2 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân truyền dạy, 11/2018 3 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân phường Xoan, 11/2018.
120
tổ tiên của người Việt, với Đền Hùng. Sự gắn bó và mối liên hệ giữa các công ty du
lịch, trung tâm du lịch của Sở VHTTDL tỉnh với các phường Xoan theo kiểu tồn tại
cộng sinh, đôi bên đều có lợi. Lợi nhuận từ du lịch cũng chính là nguyên nhân gây
nên những vấn đề về tâm lý của người thực hành di sản trong việc tiền công không
thỏa đáng, về sự b o bọt của việc trình diễn, trong khi để biểu diễn được một
chương trình cần phải huy động số lượng người không phải nhỏ (tầm khoảng trên
10 người). Nhưng, như các nghệ nhân có chia sẻ, “không đi thì bảo vì đồng tiền, đi
1 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân phường Xoan, 11/2018.
121
vì danh dự”, nghệ nhân không thể từ chối vì đây “là di sản nhân loại”, là “niềm tự hào của tỉnh”, “mình cũng phải có trách nhiệm”1.
Tiểu kết chƣơng 3
Như vậy, kể từ sau khi được UNESCO ghi danh trong danh sách
DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại (2011), Hát Xoan đã được đặc
biệt ưu tiên đầu tư bảo tồn và phát triển tại Phú Thọ, với các chương trình hành
động được xem là rất “quyết liệt và hiệu quả”. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ
2011 đến 2017), Hát Xoan đã chính thức chuyển sang danh sách DSVHPVT của
nhân loại, thoát khỏi tình trạng phải bảo vệ khẩn cấp. Hát Xoan được thực hành
và truyền dạy tại các làng Xoan cổ, trong các CLB Hát Xoan và dân ca trong
toàn tỉnh, tại công sở, trường học và trong các hoạt động văn hóa của tỉnh Phú
Thọ. Quá trình bảo vệ và phát huy Xoan tại Phú Thọ trên thực tế đã đặt ra nhiều
vấn đề về chính diện mạo và sự phát triển của di sản, từ việc cố định hóa các bài
bản Hát Xoan để sử dụng trong trình diễn và truyền dạy, tới các bất cập trong
việc phổ quát hóa Hát Xoan tới các không gian trình diễn khác nhau, trong các
bối cảnh khác nhau và với các nhu cầu khác nhau về chính trị, văn hóa, kinh tế,
122
du lịch, giáo dục… trong toàn tỉnh.
Chƣơng 4
DI SẢN HOÁ HÁT XOAN: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN
Những mô tả trong chương 3 cho thấy, quá trình bảo vệ, phát huy Hát
Xoan đã nảy sinh nhiều vấn đề. Từ thực tế này, trong chương 4, luận án sẽ dành
bàn luận về một số nội dung liên quan đến vấn đề di sản hóa Hát Xoan, bao gồm:
nguy cơ nhất thể hóa bài bản, bảo tồn theo hướng “bảo tàng hóa” Hát Xoan, phổ
quát hóa di sản Hát Xoan, vấn đề về sự định giá Hát Xoan, về đời sống riêng của
di sản, cũng như về sự tồn tại của hai hình thức Xoan tín ngưỡng và Xoan văn
nghệ như hiện nay.
4.1. Hát Xoan và nguy cơ nhất thể hóa bài bản Xoan, xu hƣớng bảo tồn “bảo
tàng hóa” và vai trò, nhu cầu của cộng đồng chủ
Cộng đồng giữ vai trò quyết định đến quá trình sáng tạo, thực hành và
truyền thụ di sản. Trong Công ước 2003, UNESCO đã khẳng định vai trò của
cộng đồng trong hoạt động bảo vệ và phát huy di sản “không có văn hóa nếu
không có người dân và cộng đồng”. Nhận thức này là vô cùng quan trọng trong mọi
hoạt động bảo vệ và phát huy di sản. Oscar Salemink trong bài viết của mình về di
sản hóa đã cảnh báo về nguy cơ “ngoài lề hóa cộng đồng chủ” tại các di sản, và điều
này cũng không hề xa lạ trong công tác bảo tồn di sản ở Việt Nam.
Tại các phường Xoan Phú Thọ, Hát Xoan được tổ chức theo mô hình
phường hội, mang tính chất tự nguyện. Đứng đầu các phường Xoan là trùm
phường, “một kép đã có tuổi, lâu năm đi hát, thuộc nhiều, nhớ nhiều, được bà
con trong làng và đào kéo trong phường tin cậy, mến phục. Nhiệm vụ của trùm
phường là tổ chức phường, hướng dẫn cho đào kép trong phường thành thạo các
điệu bộ, bài bản và quản lý tài sản của cả phường (quần áo, trống phách, tiền
thưởng)” (Dương Huy Thiện, 2015: 66). Chính mô hình phường này đã tạo một
cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phát huy vai trò của cộng đồng chủ trong việc thực hành
123
và truyền dạy Hát Xoan.
Các tư liệu điền dã cho thấy, vấn đề về vai trò của cộng đồng chủ với di
sản Hát Xoan có những biểu hiện đa dạng và liên quan chặt chẽ với những chính
sách của nhà nước. Cộng đồng chủ của Xoan vừa được “tăng quyền”, nhưng
trong nhiều trường hợp, họ cũng bị hạn chế quyền hạn trong việc tự quyết nhiều
vấn đề liên quan trực tiếp tới việc thực hành di sản của chính mình. Nhà nước
thể hiện rõ vai trò của mình với di sản Hát Xoan trong cả quá trình lập hồ sơ và
hậu ghi danh di sản, và điều này đã có những tác động (trong nhiều trường hợp
là mang tính quyết định) đến việc thực hành Hát Xoan diễn ra trong cộng đồng
(cụ thể là ở tại 4 phường Xoan cổ).
Trước hết, cần phải nói đến vai trò của nhà nước trong việc lựa chọn Hát
Xoan để xây dựng hồ sơ di sản. Sự lựa chọn này nằm trong chiến lược di sản hóa
khu di tích đền Hùng của tỉnh Phú Thọ, với mục tiêu “nơi đất Tổ với núi mẹ
Nghĩa Lĩnh Đền Hùng phải trở thành di sản đại diện của nhân loại” (Nguyễn
Anh Tuấn, 2015). Những dự định ban đầu trong việc xây dựng hồ sơ di sản liên
quan trực tiếp đến không gian đền Hùng (di tích thuộc thời đại đồng thau sắt sớm
ở Phú Thọ) đã tỏ ra không khả thi khi đối chiếu với các tiêu chí phong di sản của
UNESCO. Sự lựa chọn Hát Xoan đến từ mối liên quan của loại hình dân ca này
với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, từ những nét độc đáo của bản thân thực
hành văn hóa này, đồng thời từ yếu tố “vùng Xoan” (Hát Xoan không phải chỉ có
tại một làng). Sự lựa chọn này cũng là một tính toán đầy lí trí, vì khi được ghi
danh bởi UNESCO, Hát Xoan không chỉ mang lại niềm tự hào, mà còn được đầu
tư trên mọi phương diện để “bảo vệ khẩn cấp” và phát huy. Tính chiến lược sau
đó còn thể hiện rõ khi tiếp nối sau Hát Xoan, Phú Thọ tiếp tục làm hồ sơ về “Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” và được UNESCO công nhận là DSVHPVT của
nhân loại vào tháng 12/2012, chỉ một năm sau ngày Xoan được ghi danh.
Sau khi Hát Xoan được ghi danh, hàng loạt các chương trình, đề án hành
động được chính quyền tỉnh Phú Thọ ban hành và thực hiện, cho thấy sự can
124
thiệp rất sâu của hệ thống quản lý nhà nước với di sản. Về mặt hành chính, mọi
công việc liên quan đến thực hành, quản lý và bảo vệ, phát huy di sản này đều
được giao cho Sở VHTT&DL tỉnh Phú Thọ. Và mọi việc liên quan đến Hát
Xoan đều có sự can thiệp của Sở này. Và ngành văn hóa quản lý Hát Xoan rất
chặt chẽ. Sở - chính quyền giữ vai trò tiên phong (và trong nhiều trường hợp là
tiên quyết) trong công tác tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, ký âm, phát hành ấn bản
về Xoan (văn bản hóa, cố định hóa các bài bản Xoan cổ); trong việc truyền dạy
nghệ nhân kế cận và nghệ nhân cộng đồng; trong việc phục hồi các di tích liên
quan đến Hát Xoan; trong việc quảng bá Hát Xoan trong phạm vi tỉnh (thông qua
mô hình CLB Xoan, qua việc truyền dạy tại các cơ quan đơn vị, trường học
trong địa bàn tỉnh). Sở cũng can thiệp vào việc truyền dạy và thực hành Xoan tại các phường Xoan gốc, không cho phép nghệ nhân hát theo lề lối cải biên1; tham
gia vào kịch bản biểu diễn Hát Xoan trong các chương trình lớn (trong các dịp
giỗ Tổ hoặc liên hoan Hát Xoan trong tỉnh). Các hoạt động của nghệ nhân, của
phường Xoan cũng phải xin ý kiến và được sự cho phép của Sở để thực hiện.
Thậm chí, việc trang phục Xoan cụ thể như thế nào cũng là do Sở VHTTDL
quyết định. Những can thiệp và quản lý chặt chẽ đến từng chi tiết của Sở văn hóa
tỉnh Phú Thọ dẫn đến cảm giác “trói buộc”, mất tự do, thiếu chủ động của người
dân với di sản. Điều này cũng là nguyên nhân của tâm lý có phần thỏa hiệp của
cộng đồng chủ trong việc thực hành di sản của chính mình. Cộng đồng chủ vừa
phải tuân thủ theo những quy định chặt chẽ về mặt hình thức tại phường Xoan,
lại nhiều khi phải chấp nhận những sáng tạo sân khấu hóa của các đạo diễn trong
các chương trình biểu diễn. Họ cũng phải thỏa hiệp trong việc trình diễn Xoan
với bên ngoài, khi chấp nhận biểu diễn theo đơn đặt hàng trong các chương trình
nghệ thuật của Nhà nước (hoặc các Đài truyền hình, đài phát thanh), hoặc cho
khách du lịch…, chấp nhận đơn đặt hàng cả trong việc lựa chọn bài bản trình
diễn, cách thể hiện, sắp đặt không gian hoặc số lượng người hát. Như nghệ nhân
1 Tư liệu phỏng vấn tại phường Xoan cổ năm 2018.
125
cho biết: “Bài hát đi diễn là theo ý đồ tổ chức. Bên bác N. (trung tâm văn hóa
tỉnh) gọi điện cho mình (trùm phường), yêu cầu 4 người, 2 nam 2 nữ, tham gia
làm chương trình cùng đoàn chèo cho tỉnh. Đương nhiên hát bài gì cụ thể thế
nào mình không biết nhưng sẵn sàng cung cấp con người, khi xuống đấy thì
thường là đạo diễn khác (…) Tổ chức người ta gọi mình đi làm cái gì thì mình
làm cái đấy” (Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân, 11/2018).
Thực tế về việc nghệ nhân “gọi đi làm cái gì thì làm cái đấy” cũng đã
được nói tới trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Châm (2017: 58) “Nhiều
khi chính do các cơ quan thông tin truyền thông sắp đặt khiến cho Xoan phải
thay đổi cho đẹp hơn, đáng lẽ người ta hát trước bàn thờ, nay lôi người ta ra sân
hát để lấy hậu cảnh, trước là bốn người hát thì nay bắt nhiều người cùng hát hơn
để cho đẹp”. Hát Xoan được sử dụng cho các mục đích khác nhau (trình diễn,
quảng bá…) nên nhiều những nguyên tắc thực hành vốn đã được quy ước lâu
nay trong cộng đồng Xoan bị phá vỡ.
Chính sách của cơ quan quản lý về việc tổ chức các lớp truyền dạy cho
nghệ nhân kế cận cũng nảy sinh các vấn đề. Trong công tác đào tạo nghệ nhân,
tỉnh bố trí đào tạo nghệ nhân kế cận và nghệ nhân cộng đồng theo các lớp học
tập trung, do các nghệ nhân cao tuổi và có kinh nghiệm lâu năm đào tạo. Về mặt
hình thức, đây là một chủ trương đúng đắn và tưởng chừng không có gì đáng bàn
cãi. Nhưng trên thực tế, nghệ nhân vừa phải thực hành những lề lối bài bản mang
màu sắc riêng biệt của phường mình, lại vừa phải tham gia vào các lớp học tập
trung để học một thứ Hát Xoan được “thống nhất” hoặc lề lối do nghệ nhân
phường Xoan khác truyền dạy. Cách truyền dạy kiểu này gián tiếp ảnh hưởng
đến tính đa dạng của Hát Xoan giữa các phường Xoan cổ, tạo nên một xu hướng
thống nhất các bài bản Xoan để tiện cho việc thực hiện. Một trong những nét đặc
trưng của Hát Xoan (cũng như của nhiều hình thức nghệ thuật dân gian khác) là
sự khác biệt trong bài bản và phong cách trình diễn giữa các phường. Những
khác biệt nằm ở lời ca, điệu múa, ở lịch trình diễn tại các đình miếu, trong trình
126
tự diễn xướng, khác biệt về số lượng quả cách, trong múa phụ họa (số lượng đào
khác biệt trong các quả cách, cách di chuyển lên xuống hoặc không), trong cách
hát hội và các tục lệ… là một trong những đặc trưng làm nên tính hấp dẫn cho
Hát Xoan. Sự khác biệt này giữa các phường Xoan được nghệ nhân lí giải “trong
Hát Xoan, mỗi phường Xoan có những phong tục, tập quán, làm ăn, sinh hoạt
riêng, do đó trong lối hát của các làng, điệu múa của các làng thì mô tả những
nét riêng phù hợp với nội dung phong tục tập quán của từng làng quê, con người,
nên có những nét khác nhau trong lời ca, điệu múa (Bùi Thị Kiều Nga, trường
phường Xoan Thét, 2016). Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan (2016) thì cho rằng,
“Sự bảo thủ phong cách của các phường Xoan xưa nay” được xem là “không làm
ngh o nghệ thuật Xoan, mà nó làm cho nghệ thuật Xoan giàu có và đa dạng”.
Chính vì thế, cách truyền dạy tập trung, “đem cách trình diễn riêng của từng
phường pha trộn với nhau” (Nguyễn Anh Tuấn, 2016) chính là sự “nhất thể hóa
các phong cách nghệ thuật, bắt phường này học phường kia” và “làm nghèo Xoan”
(Đặng Hoành Loan, 2016). Sự thiếu tôn trọng tính đa dạng này với nghệ nhân, với
Hát Xoan đã gặp phải nhiều ý kiến phản đối từ các nhà nghiên cứu và quản lý. Theo
tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2016), "Tôn trọng sắc thái riêng của từng phường, bảo
tồn trình tự, lối hát thờ nguyên gốc trong đình của mỗi phường Xoan. Lễ hội Hát
Xoan cũng như các lễ hội khác phải giữ được sắc thái cổ truyền. Theo tôi, chỉ có
vùng Xoan có hội Xoan mới bảo tồn và phát huy được tinh hoa văn hóa, bởi đó mới
chính là môi trường sống. Hạn chế sự áp đặt của cơ quan quản lý nhà nước về di sản
đối với việc bảo tồn và gìn giữ di sản của từng phường".
Hát Xoan không phải là một loại hình dân ca có bài bản cứng, được thực
hành theo một khuôn mẫu tại tất cả các phường Xoan. Cái thú vị của Hát Xoan,
sự đa dạng về bài bản Xoan tại các phường Xoan cổ đã bị “thống nhất hóa” qua
cách truyền dạy theo mô hình lớp học tập trung đã dẫn đến một cái nhìn đơn
giản, thậm chí sai lệch về Xoan.
Những phản hồi này về sự nhất thể hóa, thống nhất bài bản trong trình
127
diễn giữa các phường Xoan, về nguy cơ làm mất đi tính đa dạng của di sản từ
phía nhà nghiên cứu, từ phía các nghệ nhân đã tác động đến cơ quan quản lý.
Sau hội thảo mang tên “Âm nhạc Hát Xoan – vấn đề chung và riêng của các
phường Xoan gốc” (2016), tinh thần của Sở là “Tổ chức tập huấn cho trùm
phường và cán bộ văn hóa cơ sở về nhận thức, năng lực nhận diện Hát Xoan,
tính nghệ thuật và tính đa dạng phong cách của mỗi phường”; “giúp cộng đồng
nhận diện giá trị di sản và truyền dạy một cách bài bản, bảo vệ sắc thái riêng của
mỗi phường” (Theo Báo cáo cập nhật kết quả kiểm kê Hát Xoan Phú Thọ từ
2/2016 đến 11/2017, ngày 20/11/2017, Sở VHTTDL Phú Thọ). Tính đa dạng
trong thực hành của các phường Xoan gần đây đã được nhận thức và chú ý bởi
các cơ quan quản lý nhà nước về di sản.
Sự can thiệp của nhà nước với Xoan còn trực tiếp đến cả những vấn đề cụ
thể như trang phục biểu diễn, nội dung hát, cách thức trình diễn, và nhiều trường
hợp, các nghệ nhân phải thỏa hiệp với những quy định này. Bộ trang phục hiện
tại được Sở VHTTDL đặt may cho nghệ nhân 4 phường là do “tỉnh và viện âm
nhạc nghiên cứu đưa ra kết luận: không có như ngày xưa nữa nên chọn bộ bây
giờ, màu nó tươi hơn, cái áo có năm cái thân”. Từ cái nhìn của nghệ nhân, trang
phục này “không khác nhiều so với bộ Quan họ, thích bộ ngày xưa hơn” (Phỏng
vấn nghệ nhân 11/2018; 5/2019), “trông nó chả ra Quan họ cũng chả ra Xoan”
(phỏng vấn người dân, 11/2018). Tuy nhiên, đây là trang phục do Sở VHTTDL
yêu cầu nên “vẫn phải mặc, không mặc khác được”. Trong thực hành bài bản
Xoan, Sở SVTTDL yêu cầu các phường Xoan phải trình diễn nguyên gốc, nghệ
nhân không được Hát Xoan cải biên mà phải bảo tồn và phát huy vốn cổ. Tuy
nhiên, nghệ nhân dù thực hiện theo quy định của Sở nhưng vẫn rất thích “phóng
tác Xoan” theo lối mới, thích đặt lời mới cho Xoan. Họ phải “hát trộm” Xoan
mới (vì bị cấm về mặt hình thức), và cũng chỉ dám hát với nhau những khi
không có khách tham dự.
Bà thích hát những bài lời mới lắm, nhưng mà ông Sở ông ấy không cho,
128
bảo là phải hát bài Xoan cổ, không được thay đổi (…) Thế nhưng vẫn
hát trộm đấy (nói và cười). Nghe nó hay lắm, vì hát mãi bài cũ rồi cũng
chán, mà các cháu có nhiều từ cổ giờ nó không hiểu, nó hỏi bà cũng chả
hiểu mà giải thích cho nó. Hát lời mới thì nó dễ thuộc mà lại dễ hiểu
hơn, lại thích nữa (Tư liệu phỏng vấn tại phường Xoan, 5/2019).
Điều này đặt ra một câu hỏi về việc, di sản là của ai, và ai có toàn quyền
trong việc quản lý và thực hành di sản? Chủ nhân của di sản có quyền thay đổi
những yếu tố được coi là thuộc về truyền thống hay không? Sự ngăn cấm những
sáng tác, sáng tạo mới này liệu có ngăn cản sự phát triển tự nhiên của di sản?
Thực tiễn cho thấy, văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo dựa trên các nhu
cầu của cá nhân và cộng đồng. Xoan cổ là sản phẩm của Xoan những thế kỉ
trước, giờ chủ nhân hiện tại của Xoan tiếp tục muốn sáng tạo, đưa vào Xoan hơi
thở của đời sống đương đại, thì điều đó có thuộc về việc phát huy di sản? Những
sáng tác Xoan hiện nay của nghệ nhân về chính đời sống đang diễn ra của họ,
trong vài thế kỉ nữa sẽ trở thành ngữ liệu nghiên cứu về xã hội của chính họ
trong thế kỉ này, liệu có nên bị ngăn cản? Và việc các nghệ nhân “hát trộm” các
bài bản Xoan lời mới đã phản ánh một thứ nhu cầu có thật của chủ nhân Xoan về
việc thực hành song song cả hai hình thức Xoan cổ và Xoan mới tại cộng đồng.
Quy định cấm như vậy liệu có can thiệp vào quá trình tiếp tục sáng tạo của nghệ
nhân, cũng chính là khiến ảnh hưởng tới sức sống của di sản?
Ngoài ra, sự hạn chế vai trò của cộng đồng chủ Hát Xoan còn thể hiện
gián tiếp trong việc họ bị định giá trong quá trình thực hành di sản. Khi các nghệ
nhân phải tham gia truyền dạy trong các lớp học cho cán bộ công chức, cho giáo
viên, cho các CLB Xoan và dân ca Phú Thọ, họ bị xem xét và bình luận về năng
lực truyền dạy, năng lực trình diễn. “Ông A. trùm phường này hát thì được đấy,
nhưng mà ông ấy dạy thì khó tiếp thu lắm, chán ơi là chán”, “bà N. trùm phường
này ấy à, bà ấy được khiếu nói, đâu ra đấy, học thấy thích hẳn” (Tư liệu điền dã,
10/2018). Những so sánh, đánh giá Xoan giữa phường nọ phường “khi con nghe
129
trên kia (ở phường Xoan khác - chú thích của người phỏng vấn) thấy khác, nghe
ở đây Xoan mới là Xoan, con thấy hát hay quá, mà đi vào lòng người. Con chả
hiểu gì về Xoan cả, con chán lắm thôi, nhưng hôm nay người thật việc thật, con
chắp tay con xin lỗi mẹ ngàn lần” (Phỏng vấn nghệ nhân A., 11/2018). Chính
các nghệ nhân cũng thấy mình bị áp lực với việc truyền dạy này “khi được công
nhận thì vui vẻ rồi nhưng đứng trước lớp truyền dạy chủ động mình phải bị áp
lực từ người khác” (Phỏng vấn nghệ nhân A., 11/2018).
Trong bối cảnh Hát Xoan được ký âm, được bài bản cố định lại để phục
vụ cho việc truyền dạy, những thực hành đa dạng của nghệ nhân, sự ứng tác của
họ trong nhiều trường hợp lại bị xem như gây rắc rối cho những người liên quan,
và họ phải chịu sự điều chỉnh từ các đối tượng này. “Các cụ này hát lời này, các
cụ kia lại hát lời khác. Ví dụ là lại lốt hay lải lốt (…) Giáo viên nó hiểu về âm
nhạc, nghệ nhân hát thế này người ta bảo ớ cụ ơi chỗ này sai (…) các cụ cãi
cũng không được vì chính các cụ hát chứ đâu. Các cụ dạy sai là các cụ phải chịu
không được cãi” (Tư liệu phỏng vấn, 11/2018). Và vì thế, ý tưởng về việc không
cần có sự xuất hiện của nghệ nhân cũng đã được nghĩ tới: “tới đây là có đĩa hình
quay các cụ để mà sau đấy các học viên tự học chẳng cần các cụ nữa, người ta
nghe đĩa, người ta nhìn hình người ta làm được. Nó là sách phổ biến. Cả hệ
thống giáo dục sẽ học theo được cái đấy (Tư liệu phỏng vấn, 11/2018).
Thực tế này cảnh báo về việc sử dụng Xoan trong nhiều mục đích khác
nhau và truyền dạy trên diện rộng, trong khi trên thực tế, chỉ cần việc bảo vệ và
phát huy Xoan tốt tại 4 phường Xoan cổ, để Xoan thực sự sống bền vững trong môi
trường tâm linh, lễ hội và trong đời sống cộng đồng chủ đã là mục đích lý tưởng, và
tránh được những nguy cơ định giá của cộng đồng rộng bên ngoài, từ những người
không thực sự có một nhu cầu thực hành Xoan trong đời sống của họ.
Nhưng dù bị can thiệp sâu, cộng đồng chủ của Hát Xoan vẫn có những ưu
thế nhất định, và trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý nhà nước buộc phải
nhượng bộ. Nhận thức rõ về vai trò mang tính quyết định của các phường Xoan
130
cổ, ý thức được về tính chất tự nguyện của những đào kép tham gia Hát Xoan,
chính quyền tỉnh đã có những hỗ trợ thường niên về mặt vật chất với các phường
(50 triệu đồng/ phường/ năm). Các phường có toàn quyền tự chủ trong việc thu
chi kinh phí tại phường mình. Số tiền này không phải là nhiều, và không dư dả gì
với các phường Xoan mà đôi khi, riêng việc thuê sắm thêm trang phục, đi lại
biểu diễn đã rất tốn kém. Nhưng việc đầu tư này của nhà nước đã góp phần quan
trọng trong việc tăng thêm vị thế của phường Xoan. Hát Xoan hậu ghi danh thực
sự đã mang lại một đời sống tinh thần phong phú, tạo thêm nhiều cơ hội biểu
diễn giao lưu trong và ngoài tỉnh cho các đào kép, đặc biệt là các trùm phường.
Xoan được quảng bá, cũng đồng thời gia tăng vị thế của nghệ nhân và của
phường Xoan. Nghệ nhân “đượcđi đây đi đó”, đi quay phim tư liệu, biểu diễn
nơi này nơi khác, “có đồng ra đồng vào”, được đi truyền dạy ở nhiều nơi, ở
nhiều lớp học cho cán bộ, “các bà (nghệ nhân) đi nhiều lắm, bây giờ Xoan kiếm
tiền ghê lắm. Bọn nó giả cho các cụ tiền hơn ngày xưa, hồi ấy thì bèo bọt” (Tư
liệu phỏng vấn 11/2018). Trùm phường có vị thế hơn, và có người thì nổi tiếng
trong toàn tỉnh.
Bà đi nhiều lắm rồi. Có lần còn đi thành phố Hồ Chí Minh, cái ông
nhiếp ảnh gia Nguyễn Á mời phường Xoan, sáu người, hỗ trợ tiền ăn,
tiền máy bay đi và về (…) Rồi có lần đi làm cho Đài phát thanh và
truyền hình Hưng Yên, đi 11 người, đến 20h tối về tới nhà. Tiền xe họ
đã lo, còn lại họ trả mình 20 triệu. Mới bảo là từ bé đi Hát Xoan tới
giờ, bây giờ mới được nhiều như thế (…) (Phỏng vấn bà Liên, trùm
phường Xoan cổ, 11/2018).
Tiếng nói của các nghệ nhân cũng rất có trọng lượng trong các hoạt động
bảo vệ và phát huy di sản Hát Xoan, và họ (nghệ nhân) thường xuyên có những
phản hồi về các chính sách của nhà nước liên quan tới việc thực hành di sản này.
Chẳng hạn, trong công tác văn bản hóa các bài bản Xoan, quan điểm của nghệ
131
nhân rất được coi trọng.
Theo kế hoạch của tỉnh, sách ký âm Xoan sẽ được in trong năm 2019.
Nhiều các nhạc sỹ của tỉnh và trung ương đã được mời để tham gia dự án này.
Cuốn sách này vừa để văn bản hóa bài bản Xoan, cũng đồng thời là một phương
tiện chính thống để phục vụ cho công tác truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường
và các cơ quan, đơn vị. Nhưng khi thực hiện dự án, các nhạc sỹ và người làm
văn hóa gặp không ít khó khăn. Trong bài bản Xoan có rất nhiều các từ cổ hiện
chưa thể giải mã, có cách hát “lơi” rất đặc trưng của Xoan mà phương thức ký
âm hiện đại không thể xử lý được. Thực tế là nhiều bài không thể ký âm được,
bất lực với cái “lơi ra” đó. Điều này dẫn đến những tranh luận, thậm chí cả việc
đề xuất với nghệ nhân về việc hát thống nhất theo nốt nhạc để việc ký âm được
thuận lợi. Nhưng câu trả lời mà các nhạc sỹ nhận được là “không”, “xưa nay
chúng tôi được dạy thế, vẫn hát thế”, và các nghệ nhân họ rất gay gắt, không
chấp nhận bất kì phương án thay đổi nào mà nhóm thực hiện dự án đưa ra. Thậm
chí, ngay cả việc “hôm nay hát thế này, ngày mai vẫn bài đấy lại hát khác đi”
của nghệ nhân khiến các nhạc sỹ ký âm đau đầu thì cũng phải trao đổi với họ để
tìm phương án giải quyết. Và với câu hỏi rằng, liệu “có dám tự thay đổi cho tiện
việc ký âm hay không”, các nhạc sỹ đều khẳng định họ không dám làm thế. Vì
những bản ký âm sau đó cần phải đưa lại cho nghệ nhân kiểm tra, được sự đồng ý của họ thì mới đưa in và xuất bản1.
Vị thế của chủ nhân của di sản trong những tình huống này, cũng như
những bất đồng giữa các bên cũng đặt ra câu hỏi về tính hợp lý của chính sách
truyền dạy Hát Xoan tại các nơi chốn bên ngoài không gian thực hành gốc tại
tỉnh Phú Thọ; về vấn đề cố định hóa, văn bản hóa một thực hành văn hóa dân
gian. Cái làm nên nét độc đáo của Xoan ở chỗ lơi ra đó, giờ phải khuôn vào để
tiện cho việc ký âm, dễ cho việc truyền dạy (đặc biệt là trong trường học, cho
các cháu nhỏ); rồi thống nhất hóa một văn bản/ lời/ nhạc cho 4 phường Xoan,
1 Tư liệu phỏng vấn, tháng 10/2018.
132
trong khi thực hành Xoan ở mỗi phường đều có những nét riêng... cho thấy nguy
cơ xơ cứng, quy giản hóa một thực hành Hát Xoan vốn dĩ rất độc đáo, sinh động
và đa dạng. Sức sống của di sản nằm tại môi trường gốc và trong đời sống, với
nghệ nhân, với cộng đồng chủ, chứ không nằm trong những văn bản có tính quy
chuẩn và ở những truyền dạy thuần túy để cho biết và mang tính phong trào
trong nhà trường hay tại công sở.
Mặt khác, việc “được các cấp chính quyền quan tâm”, việc Xoan được
thánh hóa trong toàn tỉnh đã hình thành nên các nhu cầu mới của người thực
hành. Đó là nhu cầu về chính sách dành riêng cho nghệ nhân, dành riêng cho
phường Xoan:
Chế độ hàng tháng, báo chí cũng hỏi, cũng đã nói rất nhiều rồi, hiện
nay chúng tôi chỉ có mong muốn duy nhất của nghệ nhân là: chúng tôi
xin mỗi năm phải đóng 700 tiền bảo hiểm, thì cho chúng tôi xin. Và
đồng thời có chút ít nhiều hàng tháng động viên những người nghệ
nhân trực tiếp giữ gìn di sản mà giờ vẫn không thấy có. Sở về thẩm
tra ở địa phương, xem mình có chế độ gì không, nhưng không có chế
độ gì cả (Phỏng vấn nghệ nhân phường Xoan, 11/2018).
Trên thực tế, trước khi được phong di sản, Hát Xoan vốn được thực hành
như một nhu cầu tâm linh và tinh thần. Trong quá khứ, chưa ai Hát Xoan để
nhận tiền hay được nhận tiền cả. Hiện tại, khi Xoan là di sản, thù lao biểu diễn,
kinh phí duy trì hoạt động đã trở thành một vấn đề: "Có người bảo, sao suốt ngày
bà cứ vì tiền thế? Đừng có nặng nề vì tiền quá. Tôi bảo: tôi không sao, mọi
người và các cháu ít tiền nó khó điều động (…) Đi diễn cho khách quốc tế, về
phương tiện, trang phục thì mình phải lo toàn bộ. Mình tự đạp xe đi, đạp xe về,
trưa về nhà ăn cơm, chiều 2h lại làm tiếp. Không đi thì bảo vì đồng tiền, đi thì
chỉ vì danh dự. Đi thu âm quay hình cả ngày mới được 50 ngàn. Lý tưởng thì của
tỉnh, nghệ nhân chỉ làm theo thôi. Trang phục thì sở may cho, đào hát phải có bộ
xà tích nhưng mà bây giờ không có nữa, không có tiền mà mua" (Phỏng vấn
133
nghệ nhân phường Xoan, 11/2018).
Những tính toán này một phần quan trọng đến từ việc, nghệ nhân và cộng
đồng phường Xoan buộc phải tham gia vào nhiều các hoạt động, chương trình
của nhà nước. Xoan được dùng vào nhiều việc, nhiều mục đích nên đã ảnh
hưởng đến nhịp sống thông thường của nghệ nhân. Một số nghệ nhân đôi khi
phải bỏ công việc mưu sinh của họ để phục vụ cho các sự vụ liên quan đến
Xoan, trong khi thu nhập từ Xoan lại không đủ để sống.
Tại Phú Thọ có tình trạng, ở đâu cũng có Xoan, nhưng thực sự hiểu về
Xoan thì không nhiều. Sự phổ cập Xoan dễ dẫn đến những cái nhìn sai lệch, đơn
giản hóa Xoan và những thực hành liên quan. Trong các chương trình biểu diễn,
cứ phải có “tí Xoan dính vào”, dễ hình thành tâm lý tiêu cực cho người xem
(“đấy, lại Xoan”). Và theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Phương Châm “tình
trạng “ăn theo Xoan” đã xuất hiện, khi thì hiện hữu, khi thì ẩn sau các diễn ngôn
là bảo vệ và phát huy Hát Xoan”, ví dụ như trong việc phục hồi di tích đã mất,
trong các hoạt động, sự kiện, lễ kỉ niệm, đề tài nghiên cứu khoa học, chương
trình giảng dạy… “đưa Hát Xoan vào để dễ dàng hơn trong việc xin kinh phí
triển khai”. Và cũng trong bài viết này, từ thực tế điền dã, nhà nghiên cứu còn
nói tới “sự mất cân đối khá rõ giữa các di sản ở đây, trong khi Hát Xoan được đề
cao như vậy thì các loại hình dân ca khác dường như bị lu mờ, ít được quan tâm
khiến cho nguy cơ mai một khá cao và khi người dân muốn gìn giữ và duy trì
trong đời sống thì nhiều khi lại phải ăn theo Xoan” (tr.55). Đây là vấn đề rất lớn
không chỉ với Hát Xoan, mà còn liên quan đến số phận của nhiều các loại hình di
sản khác ở Phú Thọ. Khi Xoan trở thành di sản, được đẩy lên vị trí trung tâm
trong sinh hoạt nghệ thuật tại tỉnh dẫn đến những thay đổi cả trong nhận thức lẫn
thực hành, và vô hình chung, gián tiếp ngoài lề hóa các di sản văn hóa khác mà
về mặt hành chính không được xếp cùng mức (di sản của nhân loại) như Hát
Xoan. Việc bảo tồn Xoan trên diện rộng và có tính phổ cập dễ dẫn đến việc
“ngh o nàn hóa” chính Xoan và các loại hình di sản khác, hình thành trong chính
người dân tâm lý về việc, cứ nói đến nghệ thuật là nói tới Xoan, và đã biểu diễn
134
mà không có Xoan là không được.
Chính sách phổ cập Xoan với việc thành lập các CLB, truyền dạy Xoan
trên diện rộng, ngoài các không gian Xoan gốc, ở nhiều nơi mà trước đó chưa hề
biết đến Xoan hoặc chỉ biết về Xoan mang máng cũng đặt ra nguy cơ cho chính
Hát Xoan. Xoan tại những không gian này vốn dĩ không xuất phát từ nhu cầu tự
thân, người dân có thể thực hành loại hình di sản khác. Ngoài ra, từ hiện trạng
của các CLB, có thể thấy một vấn đề có thể đe dọa đến diện mạo/ hiểu biết về di
sản. Các bàn bản Xoan không phải chỉ học một vài lần, một vài ngày, thậm chí
một vài tuần là được. Học Xoan kiểu tập huấn mới chỉ dừng lại ở mức biết về
Xoan. Xét ở phương diện nâng cao ý thức về di sản là có thể chấp nhận được.
Nhưng khi không được học bài bản, nhiều người còn lên youtube để học cách
Hát Xoan, thì thực chất đang tuyên truyền và bảo tồn một thứ Xoan khác. Và
điều này còn dẫn đến một thực tế, là sinh hoạt Hát Xoan không có tính lâu bền.
Bản thân những cộng đồng khác ngoài 4 làng Xoan cổ không phải là cộng đồng
chủ của Xoan, tức là Xoan với họ có vai trò không khác gì các loại hình nghệ thuật
như hát đúm, ghẹo... Địa phương của họ có thể có xu hướng thực hành loại hình
nghệ thuật riêng có của mình, nhưng cái gì cũng phải dính một tí Xoan, nên nhiều
CLB chết yểu theo nghĩa không dám chính thức giải thể mà chỉ tồn tại trên danh
nghĩa, các hoạt động èo uột và có tính thực dụng (cần phải huy động thì tham gia,
không phải là các thực hành theo nhu cầu tự thân). Tuyên truyền và đam mê là đến
từ bên ngoài, nên tính bền vững của các thực hành Xoan kiểu này bị đe dọa.
4.2. Hát Xoan: củng cố ý thức bảo vệ di sản hay một hình thức phổ quát hóa
di sản
Các báo cáo kiểm kê về tình hình di sản Hát Xoan cung cấp thông tin cho
thấy, mô hình CLB thực hành Hát Xoan có sức tác động trực tiếp đến ý thức bảo
vệ di sản và thôi thúc việc thực hành di sản này tại địa phương (phạm vi hoạt
động của các CLB). Một số văn bản có phản ánh thực tế, “trước khi được
UNESCO công nhận (2011) rất ít người biết Hát Xoan, có biết một số bài Xoan
135
phát triển. Nhưng hiện nay đã rất nhiều người biết và rất nhiều người ở các tầng
lớp thích Hát Xoan”1; “những năm đầu 2009 - 2010 gần như không ai thích xem
Hát Xoan, nhưng qua trải nghiệm và tuyên truyền rộng rãi đến nay công chúng
trên địa bàn xã Đào Xá thực sự đã thích Hát Xoan” (Báo cáo kiểm kê CLB Đào
Xá). Sở dĩ có thực trạng này bởi trước khi được UNESCO ghi danh di sản, Hát
Xoan được biết tới là một loại hình văn hóa dân gian của Phú Thọ, nhưng chỉ
gắn liền với bốn làng Xoan cổ (Kim Đái, An Thái, Thét, Phù Đức), các thực
hành Xoan được khôi phục mạnh mẽ từ những năm 90 chủ yếu diễn ra tại không
gian gốc này, và về sau có thêm một vài nơi vốn trước là đơn vị kết nước nghĩa.
Việc Xoan được ghi danh và phải bảo vệ khẩn cấp đã dẫn đến những hình thức
bảo vệ Xoan trên diện rộng, mà một trong số đó là việc tuyên truyền quảng bá và
khuyến khích thực hành Xoan thông qua hình thức các CLB Hát Xoan tại các xã,
huyện trong toàn tỉnh. Khi thành lập, các CLB này được cung cấp kinh phí, và có
những cam kết trong phương hướng hoạt động cụ thể.
Thực tế thực hành Hát Xoan tại các CLB đặt ra vấn đề về việc Xoan – sản
phẩm văn hóa thuộc về một không gian hạn định (bốn phường Xoan cổ) - khi
được truyền dạy rộng rãi tại các nơi khác nhau trên địa bàn tỉnh đã dẫn đến
những đón nhận trái chiều, rất được yêu thích hoặc ngược lại, không được chào
đón. Trong các cuộc phỏng vấn, nhiều cán bộ công chức, giáo viên, người dân
dù biết đến Hát Xoan và rất tự hào với "di sản UNESCO" của tỉnh nhưng khi
được hỏi có thực sự yêu thích Xoan không, nhiều người trả lời không, vì Xoan
"rất khó nghe, khó hát, nghe mãi mà thành quen thôi". Việc phải đi học các lớp
học về Xoan (do các nghệ nhân dạy, theo kế hoạch bắt buộc của tỉnh) với nhiều người là một công việc hành chính, và "trốn được càng tốt"2. Riêng đối với
ngành giáo dục, do Hát Xoan được đưa vào trường học nên các giáo viên phụ
trách môn học này (thường là giáo viên âm nhạc hoặc tổng phụ trách công tác
đoàn đội) phải đi học các lớp bồi dưỡng hàng năm vào dịp hè, và tự trau dồi
136
thêm để có thể truyền dạy cho học sinh. 1Thông tin phỏng vấn, phần về Người thực hành và truyền dạy, Báo cáo kiểm kê CLB Đào Xá. 2 Tư liệu phỏng vấn, 12/7/2019.
Chính sách phổ quát hóa Hát Xoan của tỉnh Phú Thọ nằm trong kế hoạch
"đưa hát Xoan trở lại với đời sống thường ngày của nhân dân Phú Thọ và Vĩnh
Phúc" như đã được ghi trong mục tiêu tại Hồ sơ di sản trình UNESCO. Các
chính sách bảo vệ và phát huy Hát Xoan của tỉnh từ năm 2011 đến nay cũng cho
thấy rõ điều đó. Tại các phường Xoan cổ, việc hát Xoan, tập luyện và trao truyền
được quy định diễn ra vào tối thứ 7 hàng tuần. Với các CLB Hát Xoan và Dân ca
Phú Thọ, công việc này cũng được quy định diễn ra đều đặn. Các công sở,
trường học, những nơi tưởng chừng không liên quan đến thực hành Hát Xoan
cũng thường diễn ra các lớp tập huấn để cán bộ, giáo viên hiểu và thực hành
Xoan. Nhưng điều này liệu có hợp lý hay không, khi trong quá khứ, các thực
hành Hát Xoan cũng chỉ diễn ra vào đầu và cuối năm âm lịch, khi người dân
chuẩn bị cho các cuộc hát thờ và hát hội đầu xuân tại các đình miếu địa phương.
Việc tập luyện hàng tuần với nghệ nhân trong các làng Xoan cổ là mang tính
hình thức, vì trên thực tế, các quan sát của tác giả luận án cho thấy, nghệ nhân có
thể tập luyện bất kì lúc nào nếu đó là nhu cầu của họ để phục vụ các buổi trình
diễn, cũng như họ không cần tập vào tối thứ 7 tuần đó nếu không có nhu cầu.
Trong các phường Xoan hiện tại, việc sinh hoạt không chỉ diễn ra theo nhu cầu
hát Xoan, mà còn xuất phát từ nhiều các nhu cầu đời sống khác như giải trí, giao
lưu, chia sẻ,… Các nghệ nhân gắn bó, chia sẻ với nhau trong đời sống, trong
nhiều các công việc và biến cố, và họ có thể hát cùng nhau bất cứ khi nào có nhu
cầu. Như chia sẻ của người dân tại làng Xoan cho biết, mỗi khi nghe tiếng trống
Xoan, bà lại nhớ hồi nhỏ, cứ vào đầu năm là các cụ hát rộn ràng, đám trẻ đi theo
nghe mãi rồi thuộc và nghiện, "thích lắm", "các cụ cứ hát cả mấy tháng đầu xuân, đi hết đình này miếu kia, cần gì tập luyện đâu"1. Điều này cho thấy tính
đời sống và tính nhu cầu của văn hóa, của di sản trong cuộc sống của con người.
Các yêu cầu mang tính hành chính, nhu cầu phổ quát hóa di sản là những chính
1 Tư liệu phỏng vấn, 12/2021.
137
sách không thực sự gắn với đời sống riêng của di sản.
4.3. Giữ gìn, bảo vệ Hát Xoan và đời sống riêng của di sản
Xét ở một khía cạnh nào đó, việc phổ cập Xoan tại nhiều không gian trên
toàn tỉnh Phú Thọ để mang lại nhận thức chung về loại hình nghệ thuật này có
những ý nghĩa tích cực. Nhiều người từ chỗ không biết gì đến Xoan hoặc “biết
mang máng” đã hiểu rõ hơn về di sản này, “nghe nhiều, xem nhiều đâm ra thích nó, yêu nó”1. Tuy nhiên, việc Xoan xuất hiện với tần suất liên tục tại các không
gian khác ngoài không gian gốc (các làng Xoan cổ) đã khiến nhận thức và thực
hành về loại hình này trở nên rất đa dạng. Đó có thể là một ý niệm về Xoan được
hình thành sau một khóa học mang tính hành chính tại cơ quan “thì bà A. (nghệ nhân) bà ấy dạy như thế thì biết Xoan nó là thế”2. Rồi có thể là một Hát Xoan
thực hành tại trường học, nơi phụ thuộc quá nhiều vào sự chủ động và ý thức cá
nhân của người truyền dạy (giáo viên hoặc nghệ nhân), nên học sinh thực hành
Hát Xoan tại ngôi trường đó như thế nào là sản phẩm/ hệ quả trực tiếp của giáo
viên phụ trách và hiệu trưởng nhà trường, giống như câu chuyện ở ngôi trường
điểm tại Việt Trì “từ hồi giao cho cô M. phụ trách, Xoan ở trường mình nó khác hẳn”3. Việc đưa Xoan lên sâu khấu trong các chương trình biểu diễn lớn nhỏ hay
tại các CLB Xoan tại huyện, xã/ phường cũng như vậy, phụ thuộc rất nhiều vào
trải nghiệm, kinh nghiệm, hiểu biết về Hát Xoan của những cá nhân tham gia và
chịu trách nhiệm thực hiện chương trình, vào cách họ hiểu về việc bảo vệ và
thực hành di sản.
Việc đưa Hát Xoan vào cộng đồng trên diện rộng, tại các không gian khác
nhau như vậy không chỉ khiến hình thành nên những nhận thức khác biệt về
Xoan mà còn làm mờ đi nhiều những yếu tố quan trọng của loại hình di sản này.
Yếu tố hát thờ, gắn liền với không gian đình miếu và các thực hành nghi lễ của
Hát Xoan phai dần đi trong nhận thức, và hình thành tâm lý về việc có thể biểu
1 Tư liệu phỏng vấn 10/2018. 2 Tư liệu phỏng vấn 10/2018. 3 Tư liệu phỏng vấn 10/2018.
138
diễn Xoan ở mọi nơi, mọi chốn và mọi thời điểm. Thêm vào đó, mọi hoạt động
văn hóa “cứ phải dính một tí Xoan vào, nếu không là thấy thiếu thiếu”1. Tâm lý
này còn khiến cho nhiều những loại hình di sản khác trong tỉnh không còn
được lưu tâm đến, hay nói cách khác, sự “chiếm sóng” của Xoan trong mọi
không gian có nguy cơ làm mất đi tính đa dạng của các loại hình nghệ thuật
khác tại Phú Thọ.
Trước những phương thức bảo vệ và phát huy di sản Hát Xoan của cơ
quan quản lý, từ những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hành di sản cả trong
các phường Xoan cổ và tại công sở, trường học, CLB Hát Xoan và dân ca trên
toàn tỉnh Phú Thọ, câu chuyện về đời sống riêng của di sản, về phương cách bảo
vệ di sản nổi lên như một chủ đề trọng tâm. Di sản, trong thực tế luôn được hình
dung một cách tĩnh tại, gắn với truyền thống, có tính đặc trưng, cố định, bất biến,
và vì thế, gắn với phương thức bảo tồn kiểu "bảo tàng hóa" các di sản. Việc xem
di sản như một đại diện của truyền thống dễ dẫn đến cách tiếp cận xem di sản
như một tấm thẻ căn cước để qua đó, chủ thể thực hành và bản sắc địa phương/
dân tộc được nhận diện. Hát Xoan, trong quá trình làm hồ sơ và chính thức được
ghi danh di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, đã luôn được bảo vệ và phát huy
trong cách tiếp cận này, biểu hiện rõ nhất nằm ở việc ký âm các bài bản Hát
Xoan, cố định hóa các văn bản cũng như hình thức truyền dạy và thực hành theo
đúng một khuôn mẫu đã được thống nhất. Mọi sự sáng tạo tại chỗ, của cộng
đồng chủ tại 4 phường Xoan cổ không được khuyến khích, thậm chí còn bị ngăn
cấm bởi lo ngại rằng, di sản sẽ bị biến dạng hoặc biến mất.
Nhiều nghiên cứu nhân học đã chỉ ra rằng, không có một thứ "văn hóa" và
"truyền thống" bất biến kiểu một khung cố định để nhìn lướt qua mà có thể dễ
dàng phân biệt người, nhóm người, cộng đồng này và người, nhóm, cộng đồng
khác. Hiện đại hóa, toàn cầu hóa với vai trò và tác động mạnh mẽ của khoa học
kĩ thuật và công nghệ đã tạo một điều kiện tối ưu cho sự tiếp xúc, tiếp biến và
1 Tư liệu phỏng vấn 10/2018.
139
thay đổi về văn hóa. "Lai tạo là một biểu hiện chung của quá trình thay đổi xã
hội và văn hóa trong tất cả các nền văn hóa. Chúng ta nên nhớ rằng không có nền
văn hóa truyền thống thuần túy, không thay đổi" (Evans, 2001, tr.277).Vì lẽ đó,
trong nghiên cứu của mình, Salemink (2001) đề nghị dùng "tạo dựng truyền
thống" (construction of tradition), thay cho "phát minh truyền thống" (invention
of tradition), với ý nghĩa là truyền thống và văn hóa luôn luôn được tái tạo trong
một hoàn cảnh luôn thay đổi. Nói cách khác, không có một truyền thống ban
đầu, những thứ cố định đang dần dần bị thay thế bởi nền văn hóa toàn cầu
(Salemink, 2001). Sự đổi thay của văn hóa, của một di sản là tất yếu, gắn với
thuộc tính biến đổi của văn hóa. Và Hát Xoan cũng không là ngoại lệ. Vậy nên,
mọi nỗ lực để bảo tồn một di sản Hát Xoan bất biến sẽ là đi ngược lại với quy
luật sinh tồn của văn hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, cơ quan quản lý di
sản văn hóa cần trao quyền tự quyết về phương thức bảo vệ, thực hành và phát
huy di sản cho chính các chủ thể thực hành, bởi chính họ mới là những người
quyết định việc di sản nên được sử dụng như thế nào, trong bối cảnh nào và theo
hình thức nào. Với di sản, điều quan trọng nằm ở sự trao quyền và tăng quyền
cho chủ thể văn hóa, vì chính cộng đồng chủ mới là người quyết định diện mạo
của di sản sẽ như thế nào. Điều này đã được các nhà nghiên cứu về văn hóa và di
sản đề cập tới, khi ở Việt Nam đã diễn ra những nỗ lực để "cố gắng ngăn chặn
tác động của thời gian" lên di sản (Salemink, 2001; Evans, 2001; Lê Hồng Lý,
Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm, 2011). Bài học kinh nghiệm với
những nhà nghiên cứu và quản lý được chỉ ra rất rõ ràng, rằng sự bảo tồn văn
hóa theo kiểu "đông lạnh giả định" (chữ dùng của Evans, 2001, tr.277) hay bảo
tàng hóa cần được thay thế bằng những nỗ lực "tạo ra các những điều kiện thuận
lợi cho sự biểu hiện và thực hành văn hóa" (Salemink, 2001, tr.207). Di sản
không cố định và bất biến mà là một thực thể sống, "bản chất của văn hóa là luôn
luôn thay đổi, vì các tác nhân văn hóa ở trong những hoàn cảnh luôn thay đổi và
tìm những phương cách mới để đối phó với những hoàn cảnh đó" (Salemink,
140
2001, tr.206).
4.4. Di sản Hát Xoan và sự định giá di sản
Trong Di sản văn hóa thế giới và nền kinh tế văn hóa, Barbara
Kirshenblatt-Gimblett (2006) thảo luận về một số nghịch lý nằm trong chương
trình 'di sản văn hóa thế giới', theo nghĩa là một mặt, di sản văn hóa phi vật thể là
duy nhất - và gắn liền với một nhóm hoặc cộng đồng người cụ thể - và mặt khác
là phổ quát - theo nghĩa là di sản cho nhân loại - chịu sự quản lý của quốc gia.
Khi văn hóa trở nên được đánh giá, có giá trị, thì quyền của những người mang
văn hóa (chủ nhân của di sản) đang gặp nguy hiểm, vì việc định giá các di sản
(thứ gắn liền với họ) dễ gây vướng mắc bởi việc định giá này được thực hiện bởi
các chuyên gia bên ngoài, và bởi các giá trị kinh tế tiềm năng mà văn hóa được
kì vọng sẽ mang lại, đặc biệt là với du lịch. Vấn đề này được Rosemary Coombe
và Joseph Turcotte (2012) nhấn mạnh trong bài viết "Di sản văn hóa bản địa
trong phát triển và thương mại: Quan điểm từ động thái của chính sách và luật
di sản văn hóa", rằng, sự nhấn mạnh về việc phát minh DSVHPVT, sửa đổi di
sản, chỉ định những người chăm sóc, bảo vệ thích hợp cho di sản, đầu tư vào
nâng cao năng lực phát triển chuyên môn về di sản tại địa phương được cho là
tạo thành một thể chế quyền lực mới mang lại những hứa hẹn và cả những nguy
cơ cho cộng đồng và người dân địa phương - những người phải gánh chịu một
nền văn hóa đặc biệt mà thể chế mới này tìm kiếm các giá trị. Bàn luận về điều
này, Salemink (2014) cho rằng, do sự vướng mắc của các hệ thống định giá khác
nhau từ những người thực hành, từ các chuyên gia văn hóa, từ các quan chức nhà
nước, từ thị trường, theo các cấp độ khác nhau (địa phương, quốc gia, xuyên
quốc gia và quốc tế), việc công nhận DSVHPVT có thể là một may mắn mang
tính phức hợp cho các cộng đồng là những 'người mang' - nhưng có lẽ không còn
là 'chủ' - của thực hành văn hóa được coi là di sản phi vật thể. Tính giá trị của di
sản được thẩm định bởi những người bên ngoài, khiến gây nên nhiều những tác
141
động không mong đợi đến cộng đồng chủ.
Trong các cuộc nói chuyện về Hát Xoan, người dân địa phương, các nghệ
nhân luôn tỏ ra rất tự hào về di sản của họ. Giá trị của Hát Xoan, như được nhấn
mạnh trong các bài phát biểu, trong các báo cáo, trong các chương trình truyền
hình, chương trình nghệ thuật, là về nhiều phương diện, cả về mặt lịch sử (Hát
Xoan gắn liền với thời kỳ Hùng Vương dựng nước, tạo dựng nước Việt), về tín
ngưỡng (Hát Xoan thờ các Vua Hùng có công với nước, thờ các vị thần thánh có
công với cộng đồng, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của người Việt), về
nghệ thuật (tinh hoa của lời hát, của điệu múa, tiếng trống trong nghệ thuật Hát
Xoan),… Ý niệm về tính giá trị này khiến nảy sinh tâm lý về việc, di sản "không thể lúi xùi được", làng Xoan "phải được đầu tư", "đình miếu phải hoành tráng"1.
Điều này trên thực tế dẫn tới việc nhà nước và tỉnh Phú Thọ đầu tư rất nhiều tiền vào việc trùng tu, xây dựng các đình miếu phục vụ cho Hát Xoan2, cho các công
trình nghệ thuật biểu diễn Hát Xoan. Nhưng việc đầu tư nhiều tiền vào di tích và
các hoạt động bề nổi giống như việc chú tâm vào "phần xác", trong khi nhiều
vấn đề liên quan đến đời sống, chính sách cho nghệ nhân còn đang bỏ ngỏ, dẫn
đến tâm lý chán nản ở không ít người. Ngoài ra, còn có tâm lý rằng, Hát Xoan
cần phải được xuất hiện trong mọi sự kiện và hoạt động văn hóa, kinh tế, chính
trị tại địa phương. Vì thế, các nghệ nhân, thành viên các CLB phải tham gia thực
hành Hát Xoan, tham gia phục vụ các chương trình liên quan đến Hát Xoan
trong bất kì hoàn cảnh nào và bất kì khi nào với kinh phí hỗ trợ ít ỏi khiến ảnh
hưởng đến cuộc sống của nhiều nghệ nhân, và khiến với nhiều người, việc "là
nghệ nhân" lại khiến họ thêm không ít gánh nặng.
Thêm vào đó, việc định giá di sản bằng các giá trị kinh tế đơn thuần xuất
phát từ quan niệm "di sản mang lại giá trị" khiến dẫn tới tâm lý chờ đợi của
chính quyền và người dân địa phương về những đầu tư cho sự phát triển kinh tế
1 Tư liệu phỏng vấn tại làng Xoan Phù Đức, 12/2021. 2 Miếu Lãi L n (Kim Đức) được đầu tư 40 tỷ đồng, xây mới các hạng mục nghi môn, bình phong, hồ sen, tả vu, hữu vu, nhà trưng bày nghệ thuật,… trên diện tích 1,7 ha.
142
của địa phương từ bên ngoài, và từ chính những giá trị mà Hát Xoan có thể mang
lại. Như Quyết định Ban hành Đề án gìn giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ, giai đoạn 2020-2025 (QĐ số
2410/QĐ-UBND, ngày 11/9/2020) nêu rõ, "tiếp tục đầu tư khôi phục lễ hội, di
tích gắn với lễ hội, các trò diễn dân gian, các hoạt động văn hóa nghệ thuật
truyền thống, các hoạt động vui chơi giải trí, ẩm thực, mua sắm sản phẩm lưu
niệm,…; đầu tư cơ sở hạ tầng và công trình dịch vụ nhằm phát triển du lịch và
nâng cao đời sống cộng đồng Xoan", Hát Xoan được xem là nguồn lực quan
trọng để phát triển nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương.
Kì vọng này từ Xoan cũng thể hiện rõ trong các cuộc nói chuyện với cán bộ
UBND xã Phượng Lâu (nơi có phường Xoan An Thái) và xã Kim Đức (nơi có 3
phường Xoan Thét, Phù Đức, Kim Đái). Như một cán bộ xã Kim Đức vẫn đau
đáu về việc, "hoành tráng thế thôi chứ xã nghèo lắm, đủ các loại không: không
có đường bộ, không có đường thủy, không có nhà máy xí nghiệp, không có chợ,
không có trung tâm thương mại, không có quan to", và dù "rất muốn đầu tư cho
Hát Xoan nhưng không có tiền, mà cũng muốn là Hát Xoan mang lại nhiều thứ
hơn chứ không phải chỉ là việc đầu tư vào đình miếu như thế". Đau đáu vì "câu
chuyện làm công tác quảng bá rồi gìn giữ phát triển chỉ chăm chăm nghĩ đến
tiền thì không được", nhưng "xót xa" khi thấy nghệ nhân lúc nào cũng nhiệt tình
mà "không có lương, không có phụ cấp, xin cái bảo hiểm y tế cho các bác mà còn khó"1. Những quyền lợi mà nghệ nhân được hưởng ít ỏi như vậy nên mỗi khi
có việc phải huy động đến các nghệ nhân, cán bộ xã đều có tâm lý "ái ngại". Khi
di sản liên quan đến quyền lợi và tính toán về giá trị của nhiều bên nhưng lại
khiến những người mang di sản phải chịu nhiều gánh nặng dẫn đến những bất
cập trong chính sách và những bất ổn trong tâm lý của những người liên quan.
Chuyện được, hơn giữa các phường Xoan, chuyện so sánh giữa các cá nhân nghệ
1 Tư liệu phỏng vấn, 17/12/2021.
143
nhân, các phường Xoan khi người/ phường biết lựa để theo đúng yêu cầu từ
chính quyền, từ nhu cầu của khách du lịch, người lại muốn giữ các thực hành cổ
của cha ông… cũng là điều trăn trở của nhiều người trong các cuộc bàn luận.
4.5. Di sản hóa Hát Xoan và các hình thức khác nhau của di sản
Các nỗ lực kiểm kê, khảo sát, bảo vệ, phát huy Hát Xoan tại Phú Thọ trên
thực tế đã kiến tạo một diện mạo đa dạng cho thực hành văn hóa này. Trên thực
tế, Hát Xoan Phú Thọ hiện có hai tiểu loại: (1) Xoan tín ngưỡng, với những bài
bản và thực hành gắn với tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng và các thần linh tại
đình, miếu địa phương; (2) Xoan văn nghệ, với đa dạng các hình thức Xoan phục
vụ các nhu cầu văn hóa khác như giải trí, du lịch, các hoạt động biểu diễn mang
tính chính trị nhằm thể hiện bản sắc văn hóa địa phương thông qua loại hình di
sản Hát Xoan được UNESCO ghi danh…
Trong các thuyết minh về Hát Xoan đều kèm thêm các tên gọi khác của
loại hình nghệ thuật này, với Hát Lãi Lèn (vì sự tích Hát Xoan gắn với ngôi miếu
cổ tên là Lãi Lèn), Hát Thờ (vì Hát Xoan gắn với tín ngưỡng thờ Thần của người Phú Thọ), hát Cửa Đình (vì Hát Xoan được thực hành ở đình làng)1. Các câu
chuyện kể về nguồn gốc của Hát Xoan hiện lưu truyền tại địa phương cũng cho
thấy, thực hành Hát Xoan gắn liền với nghi lễ thờ cúng tại đình, miếu, với tín
ngưỡng thờ Vua Hùng và các thần linh địa phương. Trong lời giới thiệu về Hát
Xoan tại các buổi trình diễn của nghệ nhân luôn nêu rõ "Trong Hát Xoan có 3
phần: phần nghi lễ, phần hát các quả cách và phần hát hội (…) Bắt đầu vào hát
Xoan, mở đầu là hát nghi lễ. Trong hát nghi lễ có hát giáo trống, giáo pháo, hát
thơ nhang và đóng đám. Hát giáo pháo là lối hát trống pháo dẹp đường để rước
vua về đình làng nghe hát (…) Hát đóng đám là lối hát dân làng mở tiệc đón vua
quan, chúc vua quan vạn tuế, chúc cho quan văn, quan võ của triều đình được
sống lâu muôn tuổi (…) Hát cách là lối hát hết cách này lại sang cách khác,
chàng mai cách là hát mừng vua dựng lên nhà nước Văn Lang đầu tiên của
144
người Việt, người dân được sống no đủ (…) Đối dẫy cách là cách hát của các 1 Trích theo thuyết minh về "Tên gọi khác của di sản" Hát Xoan Phú Thọ trong Hồ sơ đăng kí vào danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011.
đào xoan đi theo hình trái đất, cầu chúc cho dân làng đầy đồng lúa tốt, cầu chúc
cho bốn nghề nhà nông sĩ nông công thương được vẹn tròn như ý (…) Tứ dân
Xoan cách là cách hát của người dân cầu vua ban phước lành, ban cuộc sống no đủ cho dân làng và các đào và kép hát mừng vua quan trong triều đình"1. Lời ca
trong các bài bản Hát thờ cũng thể hiện rõ tinh thần này "Tám người chân kiệu
bước vào/ Tay lót khăn đào, rước lấy cơ đồ mà vua lên/ Vua lên thánh đức trị vì/
Vua về nghe hát mừng làng sống lâu (…) Vua về phù hộ dân làng/ Thơm huê thơm quế, trâu bò lúa đầy đa"2. Với các chặng hát thờ, nghệ nhân luôn tuân thủ
các quy tắc về câu, chữ, làn điệu, động tác, tiếng trống, "hát thờ là phải chuẩn chỉnh không là các ngài quở"3. Như động tác tay "cuộn ra cuộn vào" thường thấy
trong các điệu múa Xoan, nghệ nhân Thái (phường Xoan An Thái) luôn giải
thích trong các buổi truyền dạy rằng, đó là hát mời Vua, hát dâng thần, nên tay
mình phải chìa ra rồi uốn lại như nụ hoa dâng các ngài ấy, không xòe ra như múa thông thường được4. Tâm thế này chi phối cách các nghệ nhân trình diễn, đặc
biệt trong các buổi diễn tại đình, miếu, trong các nghi lễ thờ thần Thành hoàng
tại địa phương.
Trên thực tế, Hát Xoan không phải là một chặng của nghi lễ thờ thần.
Những quan sát tại miếu Lãi L n (Kim Đức), đình Thét, miếu Cấm, đình An
Thái (Phượng Lâu) trong các lễ cúng đầu năm và trong dịp lễ hội Đền Hùng cho
thấy, sau phần lễ dâng cúng các thần là phần trình diễn Hát Xoan. Hát Xoan có
thể được trình diễn trong đình miếu (tại Thét, Kim Đái, trong tổ miếu Hùng
Vương) hoặc hát bên ngoài đình (An Thái), nhưng không thuộc về phần nghi lễ,
mà hát với mục đích mời, làm vui cho thần linh. Việc giao tiếp hướng tới thần
linh này trên thực tế chỉ diễn ra trong hai thời điểm: Tết Nguyên đán (đầu năm
âm lịch) và dịp giỗ tổ Hùng Vương (10.3 âm lịch). Về mặt tâm thức, hình thức
145
Hát Xoan tín ngưỡng chỉ được thực hành trong hai thời điểm này trong năm. 1 Trích lời Giới thiệu của phường Xoan An Thái dùng khi trình diễn (Tư liệu từ nghệ nhân, 17/12/2021). 2 Trích Hát mời vua (Hát Xoan Phú Thọ 2012). 3 Phỏng vấn nghệ nhân, 17/12/2021. 4 Tư liệu phỏng vấn.
Tuy nhiên, mục đích tín ngưỡng của Hát Xoan luôn được nhấn mạnh
trong nhiều hình thức giới thiệu, bảo vệ, phát huy di sản. Điều này khiến nảy
sinh một hướng bảo tồn và phát huy trọng tâm Hát Xoan trong sự gắn kết với tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, và gần như, phần hát hội của Xoan không mấy
được chú tâm phục hồi, đặc biệt trong giai đoạn 2011-2015, và nảy sinh nhiều
vấn đề trong quá trình bảo vệ, phát huy Xoan. Vốn dĩ, Hát Xoan thờ diễn ra
trong không gian tín ngưỡng, tại đình, miếu, nhưng ngay cả khi Hát Xoan được
tách khỏi bối cảnh tâm linh, tham gia vào các chương trình biểu diễn, văn nghệ,
giải trí, các hình thức hát thờ vẫn buộc phải giữ nguyên, khiến gây nên các tranh
cãi trong việc cần "bảo tồn nguyên dạng" hay "có thể cải biên" để đáp ứng các
nhu cầu đa dạng của các đối tượng thực hành khác nhau trên thực tế. Xoan được
tách khỏi bối cảnh tâm linh, nhưng phong cách trình diễn vẫn buộc phải giữ
nguyên như khi trình diễn tại các không gian tâm linh, ngay cả khi đó là thực
hành diễn ra trên sân khấu, tại công sở hay trường học. Điều này khiến chính các
nghệ nhân cũng thấy gò bó khi buộc phải thực hành các bài bản Xoan hát thờ
146
bên ngoài các không gian mà phần hát thờ của thể loại này vốn thuộc về.
Tiểu kết Chƣơng 4
Trong Chương 4, luận án thảo luận về các vấn đề đặt ra với Hát Xoan sau
khi di sản được UNESCO ghi danh. Những hình thức bảo vệ và phát huy di sản
được tiến hành tại Phú Thọ, cả trong các phường Xoan cổ, tại các CLB Hát Xoan
và dân ca trên toàn tỉnh, tại công sở, trường học… cho thấy nhiều các vấn đề cần
bàn luận cả trong thực hành và truyền dạy. Hát Xoan hiện được thực hành,
truyền dạy và trình diễn trong các bối cảnh khác nhau, và Hát Xoan tham gia vào
nhiều khía cạnh đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa tại tỉnh Phú Thọ.
Sự tham gia của di sản trên nhiều khía cạnh đời sống như vậy tự thân nó đặt ra
một đòi hỏi cần tôn trọng đời sống riêng của di sản, và tôn trọng quyền quyết
định thực hành, sử dụng di sản của cộng đồng chủ ở cả 4 làng Xoan và chính
người dân Phú Thọ, tránh những hình thức quản lý "bảo tàng hóa", "hóa thạch
văn hóa" đối với di sản. Ngoài ra, diện mạo hiện tại của Hát Xoan cũng cho thấy,
có một dạng thức Xoan văn nghệ hướng ra bên ngoài, phục vụ cho các nhu cầu
về chính trị, văn hóa, du lịch trong nhiều không gian khác nhau trong và ngoài
Phú Thọ, và một dạng thức Xoan tín ngưỡng của cộng đồng, hướng đến và gắn
147
với các nhu cầu tâm linh, văn hóa của người dân tại địa phương.
Tính đến năm 2021, Việt Nam có 14 DSVHPVT được UNESCO ghi
danh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại. Số lượng này sẽ còn
tăng lên trong thời gian tới do chính sách của UNESCO phát huy những giá
trị văn hoá phi vật thể phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội và văn hoá của
các nước thành viên. Thực tế cho thấy, việc công nhận của UNESCO đã taọ
điều kiện cho các nước có di sản giữ gìn, bảo vệ, khai thác tốt các giá trị văn
hoá của mỗi quốc gia, mà đâu đó một thời chúng bị coi nhẹ, thậm chí còn bị
phá huỷ. Song với sự ghi danh này nhiều di sản văn hoá phi vật thể được coi
trọng bảo vệ và phát huy giá trị của nó trong mỗi nước thành viên, hơn thế
còn quảng bá các giá trị văn hoá ra toàn thế giới. Việt Nam chúng ta cũng
không phải ngoại lệ. Với việc ghi danh những di sản văn hoá này, một mặt
những di sản văn hoá đó được bảo vệ và coi trọng, mặt khác, nó còn được bè
bạn năm châu biết đến những giá trị văn hoá độc đáo của Việt Nam, đồng thời
góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá, nhất là du
lịch văn hoá, một hiện tượng đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam và thế giới
hiện nay. Di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại Hát Xoan của Phú
Thọ chính là một hiện tượng đó. Cùng với 13 di sản văn hoá phi vật thể khác
của Việt Nam đã được công nhận như: Nhã nhạc cung đình Triều Nguyễn,
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Ca
trù…., Hát Xoan Phú Thọ cũng trải qua tất cả những vấn đề của một di sản từ
việc lập hồ sơ ghi danh đến những hoạt động sau khi được ghi danh là một di
sản danh giá. Luận án này đã nhìn nhận Hát Xoan trong bối cảnh đó.
Từ quan điểm di sản hoá văn hoá với ý nghĩa nhà nước sử dụng các di
sản văn hoá được quốc tế công nhận như một công cụ chính trị của mình
trong việc thể hiện những ý tưởng, đường lối và quyền lực đối với người dân
sở tại và qua đó là đến rộng rãi toàn dân nhằm quản lý người dân trong khuôn
148
KẾT LUẬN
khổ của chế độ. Điều này đôi khi cho thấy người dân bị đứng ngoài lề bên
chính những di sản mà cha ông họ truyền lại. Tuy nhiên, về phía người dân,
bằng những thực hành của mình, họ cũng khai thác những điều đó phục vụ
cho cuộc sống hàng ngày sao cho họ không bị đứng ngoài lề, đồng thời còn
tồn tại được một cách tốt nhất trong bối cảnh tồn tại của di sản đó để họ tồn
tại và phát triển mà vẫn bảo vệ được di sản của cha ông. Đó cũng là tính chính
trị của việc di sản hoá, một vấn đề lý luận được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm đối với những trường hợp như hiện tượng này. Đây là những vấn đề lý
luận được luận án sử dụng để xem xét, soi rọi vào thực tế của di sản phi vật
thể Hát Xoan Phú Thọ.
Nội dung luận án đã làm rõ diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ trong quá
khứ đối với người dân Phú Thọ, đặc biệt là những làng có giá trị văn hoá phi
vật thể này. Luận án không nhằm giới thiệu về Hát Xoan Phú Thọ, song bằng
việc khái quát nguồn gốc, thể loại, cách tổ chức, các phong tục tập quán liên
quan…, nhằm giúp người đọc có một hình dung về loại hình văn hoá phi vật
thể này của Phú Thọ. Có thể thấy, Hát Xoan là một loại hình nghệ thuật đã
tồn tại lâu đời trên mảnh đất này. Hát Xoan đã gắn bó với người dân Phú Thọ
từ thế hệ này qua thế hệ khác, được người dân thực hành trong những dịp lễ
tết, trong đời sống tâm linh cũng như sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của họ. Từ
đó để thấy tại sao trong suốt chặng đường lịch sử, Hát Xoan đã tồn tại và phát
triển trong đời sống của người dân nơi đây. Những vấn đề này như nền cảnh
cho việc ghi danh và duy trì sự phát triển của Hát Xoan trong thời hiện đại.
Cũng như mọi hiện tượng văn hoá khác, Hát Xoan Phú Thọ sau khi
được vinh danh đã chịu mọi tác động của bối cảnh mà nó tồn tại. Trước hết là
bối cảnh kinh tế xã hội. Trước xu thế phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất
nước, Phú Thọ cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Điều kiện kinh tế hiện
tại đã có nhiều thay đổi, các khu công nghiệp xuất hiện ngày một nhiều, đô thị
149
hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, đời sống người dân được nâng cao.
Những làng truyền thống xưa, trong đó có các làng Xoan nay đã lên phố,
thành xã, phường. Điều này đã kéo theo những thay đổi về không gian, cơ sở
vật chất và nhu cầu thị hiếu của con người. Hát Xoan trước đây chỉ diễn ra
trong làng, trong hội làng, để lễ thần và phục vụ người dân của một làng, nay
Hát Xoan đã mở rộng đáng kể ra nhiều làng và rộng hơn là khách du lịch từ
khắp nơi, kể cả quốc tế. Đặc biệt Hát Xoan lại nằm trong Không gian tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho
nhân loại đã được UNESCO ghi danh trước đó. Do vậy, việc hai di sản thế
giới cùng hiện diện trong một không gian đã tạo ra một bối cảnh có sự tác
động, hỗ trợ lẫn nhau mạnh mẽ. Thêm nữa đó là nhu cầu của người dân địa
phương cũng như du khách xã gần trong thời hiện đại không khỏi có những
tác động lên di sản văn hoá này cả mặt tích cực lẫn hạn chế.
Đặt Hát Xoan của ngày hôm nay trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam,
luận án đã xem xét quá trình sau khi di sản được ghi danh đã diễn ra như thế
nào; những chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương nhằm phát
triển loại hình nghệ thuật này cụ thể ra sao. Hát Xoan đã được tìm hiểu, sưu
tầm, ghi chép ra sao trong quá khứ cũng như hiện tại. Sau khi được vinh danh
các thực hành Hát Xoan đã được tiến hành như thế nào? Công tác kiểm kê,
sưu tầm, thậm chí sáng tác những bài Xoan mới; đặc biệt là công việc truyền
dạy Hát Xoan đã được làm ra sao trong không gian của các làng Xoan, trong
các câu lạc bộ, trường học… trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Hát Xoan đã được
thay đổi ra sao trong lời hát, âm nhạc, được trình diễn tại công sở, trường học,
các điểm du lịch như thế nào… Đây là những công việc được tiến hành rất
tích cực và mạnh mẽ trong toàn tỉnh Phú Thọ và trong chừng mực nào đó đã
có những thành công đáng kể. Luận án đã chỉ ra quá trình này và những kết
quả của nó tại địa bàn nghiên cứu.
150
Có thể thấy, Hát Xoan Phú Thọ sau khi vinh danh đã trở thành một di
sản đáp ứng được nhu cầu của địa phương trong việc khẳng định vị thế và giá
trị của nó trong đời sống của người dân nơi đây. Hát Xoan Phú Thọ với sự kết
nối với thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương diễn ra phổ biến và rộng
khắp tại Phú Thọ, tạo nên một bản sắc văn hóa riêng của Phú Thọ trong bối cảnh
mới. Điều này đã thể hiện ở thực hành Hát Xoan diễn ra tại Phú Thọ sau khi
được UNESCO ghi danh. Với các hoạt động phục dựng, bảo vệ, phát huy Hát
Xoan trên toàn tỉnh, trong các làng Xoan cổ, trong các câu lạc bộ Hát Xoan và
dân ca Phú Thọ, trong môi trường công sở, trường học, có thể thấy những
thay đổi tích cực cũng như những hạn chế mà nó đem lại.
Trên thực tế, Hát Xoan không phải là một hình thức di sản với các thực
hành mang tính cố định. Lịch sử Hát Xoan từ quá khứ tới hiện tại cho thấy
một quá trình phát triển của loại hình nghệ thuật này, với sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của các vấn đề bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau trong
các thời điểm khác nhau. Hát Xoan sau ghi danh di sản mang một diện mạo
khác, với các thực hành liên quan tới các mục đích cụ thể (tín ngưỡng, giáo
dục, du lịch, chính trị… ) trong bối cảnh hiện tại, và các thực hành này vẫn
đang tiếp tục được kiến tạo, theo những nhu cầu cụ thể tại địa phương.
Quá trình Hát Xoan được bảo vệ và phát huy trên toàn tỉnh Phú Thọ
như cách làm hiện tại đã khiến trong thực tế, hình thành nên hai tiểu loại Hát
Xoan khác nhau gồm Xoan tín ngưỡng và Xoan văn nghệ, đáp ứng các nhu
cầu tín ngưỡng và ngoài tín ngưỡng tại địa phương. Thực tế này vừa là sản
phẩm phát sinh của quá trình bảo vệ di sản, vừa đặt ra thách thức với công tác
bảo vệ di sản hiện đang được thực hiện tại địa phương. Một điều không thay
đổi là Xoan tín ngưỡng vẫn tồn tại bền vững tại các nghi lễ, lễ hội ở đình, đền
vào các dịp tế lễ, hội làng, thể hiện hát Xoan là một sinh hoạt tín ngưỡng như
hát cửa đình ở những lễ hội khác. Tại đây, hát Xoan được duy trì đúng như
151
truyền thống trước đây đó là hát thờ thánh nhằm cầu mong sự che chở của
ngài đối với dân làng được bình an, nhân khang vật thịnh trong năm. Những
lời ca tiếng hát để dâng lên thần thánh nhằm ca ngợi công đức của các ngài,
bên cạnh việc cảm ơn sự phù hộ độ trì của ngài, còn là làm cho các ngài vui
vẻ để tiếp tục giúp đỡ dân làng trong năm mới. Những thực hành Xoan tín
ngưỡng này đảm bảo phong tục, giữ gìn truyền thống được thế hệ này truyền
cho thế hệ kia. Trong khi đó, Xoan văn nghệ đã vượt khỏi ranh giới của tín
ngưỡng để đi vào cuộc sống cuả người dân. Những thực hành này có thể diễn
ra ở khắp mọi nơi ngoài khuôn viên các nơi thờ tự truyền thống như tại các
câu lạc bộ, các liên hoan, hội h vui vẻ, tại trường học, nàh văn hoá và những
khu du lịch giải trí với ý nghĩa của một loại hình nghệ thuật độc đáo chỉ Phú
Thọ mới có. Chính vì thế nó trở thành “đặc sản” của Phú Thọ để có thể phục
vụ và thu hút du khách khi đến thăm vùng đất này. Khác với Xoan tín ngưỡng
phải tuân thủ những quy định nghiêm túc của phong tục, thì Xoan văn nghệ
cởi mở hơn, thoải mái hơn và khuyến khích sự sáng tạo của người hát. Người
hát có thể đáp ứng mọi đối tượng người nghe, nếu muốn nghe Xoan cổ thì họ
hát Xoan cổ đối với người khắt khe hoặc muốn tìm hiểu, nghiên cứu, nếu
muốn nghe các bài vui vẻ, thoải mái thì họ được đáp ứng điều họ muốn.
Giống như một số hiện tượng văn hoá khác trong nước, chẳng hạn như hiện
tượng cồng chiêng Tây Nguyên được người Lạch, người Chil ở Đà Lạt biểu
diễn cho khách. Ai muốn tìm hiểu các làn điệu chiêng cổ thì có nhóm biểu
diễn riêng, ai muốn nghe và xem các bài chiêng mới thì có nhóm nghệ nhân
đáp ứng cho họ. Như vậy, đối với người dân, tính chính trị của di sản được họ
thể hiện rất rõ rệt. Một mặt, theo yêu cầu của phong tục, của việc giữ gìn bản
sắc như yêu cầu của nhà nước, họ giữ các làn điệu Xoan tín ngưỡng nhằm
phục vụ nhu cầu đó, ngoài ra họ dùng Xoan văn nghệ để khai thác những lợi
thế kinh tế trong các hoạt động du lịch.
152
Cách thực hành di sản Hát Xoan hiện đang được bảo vệ cho thấy cả
quan điểm bảo vệ di sản mang tính tĩnh, không thay đổi, như một hình thức
“bảo tàng hoá” của hiện tượng văn hoá phi vật thể, hướng đến các yếu tố
được xem là giá trị được phục hồi từ truyền thống. Bên cạnh đó là quan điểm
bảo tồn động để giá trị văn hoá phi vật thể này được phổ biến hơn, đa dạng
hơn, đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng du khách trong bối cảnh mở
cửa của kinh tế thị trường và phát triển du lịch. Từ đây dẫn tới những cách
tiếp nhận và phản ứng trái chiều trong thực hành và truyền dạy không chỉ đối
với Hát Xoan, mà cũng là thực tế ở các loại hình di sản văn hoá phi vật thể
khác. Đây cũng là một vấn đề mở ra từ luận án này cho các nghiên cứu khác
về di sản văn hoá phi vật thể ở nước ta.
Từ thực tế nghiên cứu, luận án cũng đặt ra vấn đề tiếp cận "di sản văn
hóa sống", với việc xem di sản như một yếu tố trong chỉnh thể văn hóa và xã
hội, tôn trọng đời sống riêng của di sản cũng như quyền sử dụng di sản của
các chủ thể thực hành nhằm hướng tới việc phát huy các giá trị của di sản
trong bối cảnh di sản hóa hiện nay ở Việt Nam. Giống như các di sản văn hoá
phi vật thể khác, di sản Hát Xoan có một đời sống của riêng nó trong đời sống
hiện nay. Việc khai thác Xoan như thế nào để một mặt vẫn bảo tồn các giá trị
vốn có, mặt khác, vẫn có thể đưa di sản này vào thực hành văn hoá hiện đại
và đem lại những lợi ích kinh tế của người dân Phú Thọ. Đây là vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu ở những công trình tiếp theo.
153
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
(Có liên quan trực tiếp tới đề tài luận án)
1. Tác giả (2016), Xây dựng và biên soạn tài liệu một số điệu hát Xoan và
Dân ca Phú Thọ cho giáo viên Âm nhạc trường tiểu học tỉnh Phú Thọ giai
đoạn hiện nay, Đề tài cấp trường, Trường Bồi dưỡng Nhà giáo và Cán bộ
Quản lý giáo dục tỉnh Phú Thọ.
2. Đồng tác giả (2 tác giả) (2018), “Tín ngưỡng thờ Xuân Nương ở xã
Hương Nha, Phú Thọ”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 413 (2018), tr.
13-16.
3. Tác giả (2019), “Bàn thêm về nguồn gốc của hát Xoan Phú Thọ”, Tạp chí
Văn hóa học, Số 5 (45), tr. 39-45.
4. Tác giả (2021), “Hát Xoan trong trường học và vấn đề giáo dục Di sản”,
Tạp chí Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Số 2(194), tr.74-80.
5. Tác giả (2022), “Hát Xoan Phú Thọ và các hoạt động kiểm kê, sưu tầm,
sáng tác, ký âm trong bảo vệ, phát huy di sản”, Tạp chí Giáo dục và xã
154
hội, số 4/2022 (kì 1), tr.330-334.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Thị An, Phạm Minh Thảo, Bùi Xuân Mỹ. 1998. Truyền thuyết Việt
Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Dương Anh. 2005. “Đôi điều về hát Xoan”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,
Số 11, tr.103-104.
3. Phan Phương Anh. 2014. “Di sản hóa lễ hội truyền thống và tính thiêng
của nghi lễ ”, trong 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể của UNESCO bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Kỷ
yếu hội thảo khoa học quốc tế. Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, tr. 33-42.
4. Trần Thị Kim Anh. 2010. “Từ những chữ Nôm “Lý liên” và “Lễ liên” - Đôi
điều suy nghĩ về nguồn gốc hát Xoan”, Tạp chí Hán Nôm, Số 6, tr.66-68.
Toan Ánh. 1991. Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 5.
Đặng Văn Bài. 2007. “Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể - từ góc nhìn 6.
toàn cầu hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 3, tr.3-9.
7. Đức Bằng. 1982. “Mùa Xuân nhớ về hát Xoan”, Tạp chí Âm nhạc, Số 1,
tr.10-14, tr.37.
8. Nguyễn Chí Bền. 2005. “Di sản văn hóa phi vật thể từ sưu tầm, nghiên
cứu đến bảo tồn và phát huy”, in trong Bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam xuất bản,
Hà Nội.
9. Nguyễn Chí Bền. 2009. “Nhìn lại nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa phi vật thể trong chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai
đoạn 2001 - 2005”, in trong Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở
Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
10. Nguyễn Chí Bền. 2013. “Nhà nước và công tác bảo tồn, phát huy Di sản
văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, những bài học từ lịch sử”, Chuyên đề Bảo
155
tồn Di sản văn hóa, Số 4, tr.8-17.
11. Trương Quốc Bình. 2013. “Vận dụng những quan điểm của UNESCO vào
việc hoạch định chính sách và hệ thống pháp lý về bảo tồn di sản văn hóa
phi vật thể ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo 10 năm thực hiện Công ước bảo
vệ di sản văn hóa Phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm vàđịnh
hướng tương lai, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
12. Phan Kế Bính. 1990. Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp, Đồng Tháp.
13. Bộ Chính trị. 1998. Chỉ thị số 27-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, Hà Nội.
14. Bộ Văn hóa. 1956. Thông tư số 1845 VH/TT của Bộ Văn hóa về việc tổ chức
những ngày hội hè của nhân dân, Hà Nội.
15. Bộ Văn hóa. 1957a. Công văn 2361 VH/ NC về việc tôn trọng những ngày
Tết, ngày hội của các dân tộc thiểu số, Hà Nội.
16. Bộ Văn hóa. 1957b. Thông tư số 131 VH/TT của Bộ Văn hóa v/v hướng
dẫn tổ chức các hội hè, hoạt động văn nghệ trong mùa xuân và ngăn ngừa
các hiện tượng xấu đang nảy nở, Hà Nội.
17. Bộ Văn hóa. 1958. Thông tư số 28 TT/NC bổ khuyết kế hoạch lãnh đạo hội hè
6 tháng cuối năm 1958 và xuân hè năm 1959, Hà Nội.
18. Bộ Văn hóa. 1971. Chỉ thị số 10/VH-VP về vấn đề hội hè, Hà Nội.
19. Bộ Văn hóa. 1977. Chỉ thị số 54/VH-QC về việc chỉ đạo các ngày hội, Hà Nội.
20. Bộ Văn hóa. 1989. Quy chế mở hội truyền thống dân tộc số 54/VHQC, Hà Nội.
21. Bộ văn hóa - Thông tin. 1994. Quy chế lễ hội Ban hành kèm theo quyết định
số 636/QĐ-QC ngày 21 t hang 5 năm 1994 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
22. Bộ Văn hoá thông tin. 1976. Dân ca Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
23. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Quyết định Thành lập Ban chỉ
đạo xây dựng hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ" đề nghị UNESCO đưa vào danh
sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Số 4938/ QĐ-
156
BVHTTDL, ngày 25/12/2009, Hà Nội.
24. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Quyết định Về việc xây dựng hồ
sơ đề cử quốc gia "Hát Xoan Phú Thọ" đề nghị UNESCO đưa vào danh
sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Số 4953/QĐ-
BVHTTDL, ngày 28/12/2009, Hà Nội.
25. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2010. Hồ sơ đăng kí vào danh sách di
sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011: Hát Xoan Phú
Thọ, Hà Nội.
26. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia.
2012. Lễ hội - Nhận thức, giá trị và giải pháp quản lý, Tài liệu Hội thảo
khoa học.
27. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2013. Hội thảo 10 năm thực hiện Công
ước UNESCO về bảo vệ Di sản văn hóa phivật thể - những bài học, kinh
nghiệm và định hướng tương lai, Quảng Nam, 23-24/6/2013.
28. Lê Ngọc Canh. 1990. Văn hóa dân gian Việt Nam - những thành tố,Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Phương Châm. 2017. “Thực hành hát Xoan từ khi được
UNESCO ghi danh và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số
6/2017, tr.52-59.
30. Nguyễn Thị Phương Châm, Hoàng Cầm, Nguyễn Thị Hiền. 2018. “Bảo vệ
và phát huy di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh: thành
tựu, bất cập và các khuyến nghị”, Hội thảo Bảo vệ và phát huy di sản văn
hóa dân gian dân tộc thiểu số, thực trạng và giải pháp, Đồng Mô,
14/12/2018.
31. Nguyễn Từ Chi. 2003. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
32. Cục Di sản văn hóa. 2007. Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, tập 1, Hà Nội.
33. Phạm Duy Đức (Chủ biên). 2010. Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn
157
2010-2020 - xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Phan Hồng Giang. 2009. “Về chương trình Bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa phi vật thể” trong Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt
Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Thu Hà. 2013. “Bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam: phát
triển ngành công nghiệp văn hóa”, Kỷ yếu Hội thảo 10 năm thực hiện
Công ước bảo vệ di sản văn hóa Phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh
nghiệm và định hướng tương lai, Quảng Nam.
36. Nguyễn Duy Hinh. 1996. Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
37. Hội đồng Chính phủ. 1975. Quyết định số 56-CP của Hội đồng Chính phủ
về việc ban hành bản thể lệ về tổ chức việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày
hội, Hà Nội.
38. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. 1995.
Từ điển bách khoa Việt Nam, tập I, Trung tâm biên soạn Từ điển bách
khoa Việt Nam, Hà Nội.
39. Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang. 2000. Phát triển cộng đồng - Lý
thuyết và vận dụng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
40. Lê Huy, Huy Trân. 1984. Nhạc khí dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Huy (2012). Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội
truyền thống: thảo luận về một số khái niệm cơ bản. Tạp chí Dân tộc học,
số 4, tr.44-54.
42. Vũ Ngọc Khánh. 1994. Tín ngưỡng làng xã, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
43. Trần Văn Khê. 2002. “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật chất của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, trong Tính đa dạng của văn hóa Việt
Nam - những tiếpcận về sự bảo tồn, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia Hà Nội.
44. Nguyễn Bá Khiêm (Chủ biên). 2012. Tổng tập Về miền lễ hội cội nguồn
158
dân tộc Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.
45. Nguyễn Bá Khiêm. 2005. “Lễ hội hát Xoan và sự tích bánh chưng bánh
dày (xã Kim Đức - huyện Phù Ninh)”, in trong Lễ hội truyền thống vùng
đất Tổ và Các làng văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc Phú Thọ, Nxb
Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Phú Thọ xuất bản, tr.96-106, Phú Thọ.
46. Nguyễn Xuân Kính. 2009. “Nghệ nhân dân gian”, trong Bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam xuất bản, Hà Nội.
47. Klaus, P. Hasen. 1999. “Văn hóa và Văn hóa học”, tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật, số 10, tr.11-13.
48. Bùi Thị Mai Lan. 2013. Hát Xoan làng Phù Đức, xã Kim Đức, thành phố
Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học
xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Xuân Lâm. 1974. Địa chí Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh Phú xuất
bản, Vĩnh Phú.
50. Quản Hoàng Linh. 2012. “Bảo tồn và phát huy Di sản văn hóa phi vật thể
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 337, tr.3-7.
51. Nguyễn Thụy Loan. 2005. Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội.
52. Lâm Tô Lộc. 1997. Nghệ thuật múa dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
53. Nguyễn Lộc. 1974. “Hát Xoan Phú Thọ”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr.83-89.
54. Nguyễn Lộc. 1975. “Múa hát Xoan (nguồn gốc, thể thức)”, trong Những
vấn đề lịch sử Vĩnh Phú, tập 1, Ty Văn hóa Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.
55. Luật Di sản văn hóa. 2009. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009 tại
văn bản số 32/2009/QH12.
56. Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm. 2014. “Bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa: nghiên cứu
159
trường hợp Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà
Nội), Tháp bà Poh Nagar (Khánh Hòa) và văn hóa cồng chiêng của người
Lạch (Lâm Đồng)”, in trong Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương
đại, Nxb Tri thức, Hà Nội.
57. Lê Thị Minh Lý. 2013. “Đưa di sản văn hóa phi vật thể vào chương trình
giáo dục trong nhà trường”, Kỷ yếu Hội thảo10 năm thực hiện Công ước
bảo vệ di sản văn hóa Phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và
định hướng tương lai, Quảng Nam.
58. Meeker, Lauren. 2019. "Tìm kiếm chỗ đứng trên sân khấu văn hóa thế
giới: "Di sản văn hóa" lễ hội làng Quan họ" (tr.122-159), in trong Hiện đại
và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học
(Quyển 5: Di sản, tự sự và ký ức), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Phạm Phúc Minh. 1994. Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
60. Lê Thị Ngà. 2015. “Quá trình di sản hóa và thực hành văn hóa xã hội ở
Đường Lâm hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học
xã hội.
61. Hữu Ngọc (Chủ biên). 1994. Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
62. Phan Ngọc. 1994. Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
63. Tú Ngọc. 1994. Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
64. Tú Ngọc. 1995. “Hát Xoan Vĩnh Phú (mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc
trưng loại hình và hướng bảo tồn phát triển)”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học
Dân ca Xoan GhẹoVĩnh Phú lần thứ Nhất 11-1994, Sở Văn hóa thông tin
thể thao Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.
65. Tú Ngọc. 1997. Hát Xoan Dân ca nghi lễ - phong tục, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
66. Tú Ngọc. 1997. “Mối quan hệ giữa hát Xoan và hát Ca trù”, Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, Số 9, tr.89-90.
160
67. Tú Ngọc. 1997. Hát Xoan (12 bản phổ), NXb Văn hóa, Hà Nội.
68. Tú Ngọc. 1981. Bước đầu tìm hiểu hát Xoan Vĩnh Phú, Ty văn hóa thông
tin Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.
69. Nhiều tác giả. 1975. Những vấn đề lịch sử Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh
Phú xuất bản, Vĩnh Phú.
70. Nhiều tác giả. 2005. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở
ViệtNam, Viện Văn hóa - Thông tin xuất bản, Hà Nội.
71. Nhiều tác giả. 2006. Không gian văn hóa quan họ Bắc Ninh - Bảo tồn
và pháthuy, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh, Viện Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
72. Đỗ Thị Nhung (Chủ nhiệm). 2016. Xây dựng chương trình và Biên soạn
tài liệu bồi dưỡng một số làn điệu hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cho giáo
viên dạy Âm nhạc các trường Tiểu học tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay,
Đề tài cấp cơ sở, Trường Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý nhà giáo
tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.
73. Nguyễn Thị Nhung. 1991. Hình thức âm nhạc, Nxb Âm Nhạc, Hà Nội.
74. Nguyễn Thị Nhung. 2017. Vai trò của nhà nước trong lễ hội chùa Hương, Luận
văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
75. Cao Hồng Phương (Chủ biên). 2011. “Hát Xoan, hát Ghẹo một giá trị văn
hóa phi vật thể”, Đề tài khoa học cấp Trường, Trường Đại học Hùng
Vương xuất bản, Phú Thọ.
76. Lương Hồng Quang (2013). Đa dạng về các biểu đạt văn hóa từ các di sản
văn hóa phi vật thể (Bàn về khuynh hướng chính sách và thực tiễn cổ vũ
cho sự tham gia của cộng đồng). Trong 10 năm thực hiện công ước bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể của Unesco – Bài học kinh nghiệm và định
hướng tương lai. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế. Hội An 2013.
77. Võ Quế. 2006. Du lịch cộng đồng-lý thuyết và vận dụng, Nxb Khoa học
161
và kỹ thuật, Hà Nội.
78. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII. 2009. Luật
Di sản văn hóa, văn bản số 32/2009/QH12.
79. Đào Xuân Quý (2016), “Lễ hội đình, đền làng Cổ Tích (Phú Thọ) hậu di
sản”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
80. Salemink, Osar. 2012. “Di sản hóa văn hóa ở Việt Nam: Di sản văn hóa
phi vật thể giữa các cộng đồng, nhà nước và thị trường”, trong Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế Việt Nam học Lần thứ 4, tháng 11/2012.
81. Salemink, Oscar (2014), ““Di sản hóa” văn hóa sống ở Việt Nam như di
sản văn hóa phi vật thể”, Hội thảo 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di
sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và định
hướng tương lai (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế), Nxb Khoa học kỹ
thuật, Hà Nội.
82. Sở Văn hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú. 1986. Văn hóa dân gian vùng đất
Tổ (Địa chí Vĩnh Phú), Sở Văn hóa, thông tin, Thể thao Vĩnh Phú xuất bản.
83. Sở Văn hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú. 1995. Kỉ yếu hội thảo khoa học
Dân ca Xoan GhẹoVĩnh Phú lần thứ Nhất 11-1994, Sở Văn hóa thông tin thể
thao Vĩnh Phú xuất bản.
84. Sở Văn hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú. 1996. Dân ca Vĩnh Phú (Tập bài
hát Dân ca chọn lọc), Sở Văn hóa, thông tin, Thể thao Vĩnh Phú xuất bản.
85. Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Phú Thọ. 2003. Tổng tập văn nghệ dân
gian đất Tổ (tập 4), Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Phú Thọ và Hội Văn
nghệ dân gian Phú Thọ xuất bản.
86. Sở Văn hoá thể thao và Du lịch Phú Thọ, Bảo tàng Tỉnh. 2009. Kế hoạch
điều tra, khảo sát, sưu tầm tư liệu di sản Hát Xoan. Phú Thọ, 29/9/2009.
87. Sở Văn hoá thể thao và Du lịch Phú Thọ, Viện âm nhạc Việt Nam. 2009.
Hát Xoan Phú Thọ, Phú Thọ, 2009.
88. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ. 2012. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế
162
về hát Xoan, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ xuất bản.
89. Bùi Hoài Sơn. 2010. “Di sản cho ai và câu chuyện tổ chức lễ hội truyền
thống ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 3, tr.10-14.
90. Trần Hữu Sơn. 2017. Văn hóa dân gian ứng dụng. Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
91. Tô Ngọc Thanh. 2007. Ghi chép về văn hóa và âm nhạc. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
92. Cao Tự Thanh. 2013. “Cơ chế và đặc điểm của sự mất mát các di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam”, Tạp chí Xưa và Nay, Số 421, 422, tr.10-12.
93. Dương Huy Thiện. 2015. Hát Xoan - Dân ca cội nguồn, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
94. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (Chủ biên). 2005. Folklore - Một số
thuật ngữ đương đại. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.
95. Ngô Đức Thịnh. 2010. Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập. Nxb Khoa học xã hội.
96. Trần Văn Thục (Chủ biên). 2009. Âm nhạc dân gian Phú Thọ, Trường Đại
học Hùng Vương xuất bản, Phú Thọ.
97. Thủ tướng Chính phủ. 2013. Quyết định Phê duyệt Đề án bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại -
Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2013-2020), Số 2058/QĐ-TTg, 07/11/2013,
Hà Nội.
98. Cao Khắc Thùy. 2011. Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường,
Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
99. Đỗ Thị Minh Thúy. 2004a. Báo cáo đề dẫn Hội thảo "Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" trong Xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc: Thành tựu và kinh nghiệm (Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 Khóa VIII), Đỗ Thị Minh Thúy (Chủ biên), tr.7-12, Nxb Văn hóa
163
Thông tin, Hà Nội,
100. Đỗ Thị Minh Thúy. 2004b (Chủ biên). Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: Thành tựu và kinh nghiệm
(Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII). Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
101. Phạm Trọng Toàn. 2001. “Vị trí, ý nghĩa của hát Xoan trong văn hóa âm
nhạc Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Số 7, tr.66-73.
102. Phạm Trọng Toàn. 2006. Tương đồng, khác biệt giữa hát Xoan, hát Ghẹo
Phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện văn
hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
103. Tạ Chí Đại Trường. 2006. Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
104. UNESCO. 1972. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế
giới, Cục Di sản Văn hóa biên dịch, Văn phòng UNESCO tại Việt Nam
hiệu đính và in ấn.
105. UNESCO. 1997. “Tuyên bố của UNESCO tại kỳ họp lần thứ 29 (tháng
11) của Hội nghị toàn thể về di sản truyền miệng của nhân loại”, trong
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa
Nghệ thuật Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
106. UNESCO. 1997. “Thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống (tài sản người
đang sống) tại UNESCO” trong Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
107. UNESCO. 2003. Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Cục Di sản
Văn hóa biên dịch, Văn phòng UNESCO tại Việt Nam hiệu đính, in ấn.
108. UNESCO. 2012. Hướng dẫn thực hiện công ước di sản Thế giới, Văn
phòng UNESCO Hà Nội dịch và xuất bản.
109. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2008. Kế hoạch
Tổ chức Hội thảo cấp chuyên gia tư vấn và lựa chọn DSVHPVT đề nghị
164
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Phú Thọ, 17/12/2008.
110. UBND tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2008. Không
gian văn hóa vùng đất Tổ Hùng Vương, Hội thảo khoa học do UBND tỉnh
Phú Thọ phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.
111. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Kế hoạch
Tổ chức khảo sát xây dựng nội dung hồ sơ Di sản Hát Xoan. Phú Thọ, Số
18/KH-SVHTTDL, 08/6/2009.
112. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Kế hoạch
Tổ chức Hội thảo, tọa đàm khoa học xây dựng hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ"
trình Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc
(UNESCO) xem xét đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo
vệ khẩn cấp. Phú Thọ, Số 38/KH-SVHTTDL, 09/10/2009.
113. UBND tỉnh Phú Thọ. 2009. Thông báo kết luận Hội thảo khoa học "Hát
Xoan Phú Thọ" lần thứ nhất, Phú Thọ, 13/10/2009.
114. UBND tỉnh Phú Thọ. 2009. Thông báo kết luận Hội thảo khoa học "Hát
Xoan Phú Thọ", Phú Thọ, 19/10/2009.
115. UBND tỉnh Phú Thọ. 2010. Kế hoạch Tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả
công tác kiểm kê Hát Xoan Phú Thọ, Số 12/KH-SVHTTDL, ngày
20/2/2010, Phú Thọ.
116. UBND tỉnh Phú Thọ. 2010. Hát Xoan Phú Thọ, Hội thảo khoa học quốc tế
do UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.
117. UBND tỉnh Phú Thọ. 2011. Thông báo Kết luận của đồng chí Hà Kế San -
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ, Phó Trưởng Ban chỉ dạo Xây dựng, vận
động hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ" và hồ sơ "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương ở Phú Thọ" tại Hội nghị thống nhất công tác chuẩn bị cho Đêm hát
Xoan ngoại giao tại Hà Nội, Số 83/ TB-UBND, ngày 22/9/2011, Phú Thọ.
118. UBND tỉnh Phú Thọ. 2013. Kế hoạch Triển khai một số nhiệm vụ trọng
165
tâm về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ
khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (Năm 2013-2014), Số
3864/KH-UBND (Hỏa tốc), Phú Thọ.
119. UBND tỉnh Phú Thọ. 2014. Về việc tiếp tục triển khai các nhiệm vụ trọng
tâm bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hát Xoan Phú Thọ năm 2014,
Số 2724/UBND-VX5, Phú Thọ.
120. UBND tỉnh Phú Thọ. 2016. Kế hoạch Triển khai các nhiệm vụ trọng tâm
về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp
của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ năm 2016, số 162/KH-UBND, ngày
15/01/2016, Phú Thọ.
121. UBND tỉnh Phú Thọ. 2017. Báo cáo Cập nhật kết quả kiểm kê Hát Xoan
Phú Thọ (từ tháng 02/2016 đến tháng 11/2017), Số 154/BC-SVHTTDL,
ngày 20/11/2017, Phú Thọ.
122. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở VHTT&DL. 2017. Nội dung rà soát cam kết
cộng đồng Hồ sơ Hát Xoan Phú Thọ, Phú Thọ.
123. UBND tỉnh Phú Thọ. 2020. Quyết định Ban hành Đề án gìn giữ, phát huy
giá trị di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ,
giai đoạn 2020-2025, Số 2410/QĐ-UBND, ngày 11/9/2020, Phú Thọ.
124. UBND xã Hùng Lô. 2021. Bản thuyết minh về điều kiện công nhận điểm
du lịch, Phú Thọ.
125. Đặng Nghiêm Vạn. 1994. “Lễ hội - Thái độ ứng xử xưa và nay”, in trong
Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr.275 - 282.
126. Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam. 2009. Bảo tồn và phát huy
disản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Hà Nội.
127. Hoàng Vinh. 2006. Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay, Nxb Văn hóa - Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội
128. Lê Trung Vũ (Chủ biên). 1992. Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội,
166
Hà Nội.
129. Tô Vũ. 1996. Sức sống của âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb Âm
nhạc, Hà Nội.
130. Nguyễn Khắc Xương. 1975. Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Vĩnh Phú, Sở Văn
hóa, Thông tin - Thể thao Vĩnh Phú xuất bản, Vĩnh Phú.
131. Nguyễn Khắc Xương. 1978. “Sự tích hát Xoan”, in trong Truyền thuyết
Hùng Vương, Nxb Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh Phú Thọ, tr.61-62.
132. Nguyễn Khắc Xương (Chủ biên). 2003. Hát Xoan Phú Thọ, Hội Văn nghệ
dân gian Phú Thọ xuất bản, Phú Thọ.
133. Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy Thiện. 1979. Hát Xoan hát Ghẹo Vĩnh
Phú, Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phú.
Tiếng Anh
134. Ashworth, G. J.,. 1997. “Elements of planning and managing heritage
sites”, [Yếu tố quy hoạch và quản lý các di sản] in Tourism and Heritage
Management, Gadjah Mada UniversityPress, pp.165-191.
135. Bendix, Regina. 2009. "Heritage between economy and politics: An
assessment from the perspective of cultural anthropology" [Di sản giữa
kinh tế và chính trị: Đánh giá từ góc độ nhân học văn hóa], In L. Smith,
& N. Akagawa (Eds.), Intangible Heritage (pp. 253-269). Londra:
Routledge Falmer,.
136. Bourdieu, Pierre (1982), “Les rites d‟institution”, Actes de le recherche
en sciences sociales, 43, 58-63.
137. Coombe, Rosemary, Joseph Turcotte. 2012. "Indigenous Cultural
Heritage in Development and Trade: Perspectives from the Dynamics of
Cultural Heritage Law and Policy", in Christoph B. Graber, Karolina
Kuprecht (ed,) International Trade in Indigenous Cultural Heritage.
138. Endres, Kirsten W. (2002). Beautiful Customs, Worthy Traditions:
Changing State Discourse on the Role of Vietnamese Culture.
167
Internationales Asienforum 33(3-4):303-322.
139. Evans, Grant (2001). "Tourism and minorities", in Vietnam's cultural
diversity: approaches to preservation (edited by Oscar Salemink).
Published by United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization, Paris, pp.277-280.
140. Harrison, Rodney. 2013. Heritage: Critical approaches, Routledge.
141. Hewison, Robert. 1987. The heritage industry: Britain in a climate of
decline. London: Methuen London.
142. Hobsbawm, Eric (1983). Introduction: Inventing Traditions. In Eric
Hobsbawm & Terence Ranger (eds.). The Invention of Tradition.
Cambridge University Press, pp. 1-14.
143. Jang, Hanbyeol, Jeremy Mennis. 2021. The Role of Local Communities
and Well-Being in UNESCO World Heritage Site Conservation: An
Analysis of the Operational Guidelines, 1994–2019. Sustainability 2021,
13, 7144. https://doi.org/ 10.3390/su13137144.
144. Jixiang Shan. 2006. "Speech on Urban Development and Cultural
Heritage Conservation in the New Century" [Phát triển đô thị và bảo tồn
di sản văn hóa trong thế kỷ mới],The 2nd International Conference on
Heritage Conservation and Sustainable Development, Shaoxing, China.
145. Jokilehto, J. 2005. “Definition of Cultural Heritage - Reference to
Documents in History” [Định nghĩa về di sản văn hóa - Tham khảo các tư
liệu lịch sử], ICCROM Working Groups 'Heritage and Society.
146. Kirshenblatt-Gimblett, Barbara. 2006. "World Heritage and Cultural
Economics", in Museum Frictions, Duke University Press.
147. Lowenthal, David. 1996. Possessed by the past: The heritage crusade and
the spoils of history [Bị sở hữu bởi quá khứ: Cuộc thập tự chinh di sản và
những chiến lợi phẩm của lịch sử], Free Press, First Edition.
148. Salemink, Oscar (2001). Who decides who preserves what? Cultural
168
preservation and cultural representation. In Oscar Salemink (eds.).
Vietnam's cultural diversity: approaches to preservation (pp. 205-212).
Published by United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization, Paris.
149. Salemink, Oscar (2012). Appropriating Culture: The politics of intangible
cultural heritage in Vietnam. In Hue-Tam Ho Tai, Sidel, Mark (eds).
Property and Power: State, society ang market in Vietnam (pp.158-180).
New York and London: Routledge.
150. Salemink, Oscar. 2012. "Appropriating Culture: The politics of intangible
cultural heritage in Vietnam" [Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về
di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam], in H-T. Ho Tai, & M. Sidel
(Eds.), State, Society and the Market in Contemporary Vietnam: Property,
Power and Values (Chapter 9, pp. 158-180). Oxon, OX, UK: Routledge.
151. Smith, Lauranjane, Natsuko Akagawa. 2008. Intangible Heritage: Key
Issues in Cultural Heritage [Di sản phi vật thể: các vấn đề chủ yếu trong
di sản văn hóa], London & New York, Routledge.
152. Walsh, Kevin. 1992. The Representation of the Past: Museums and
Heritage in the Post-modern World, Published by Routledge.
Bài báo, từ điển trực tuyến
153. Phùng Tấn Đông (2017). Nghĩ về văn hóa dân gian trong quá trình biến đổi
văn hóa. Website: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-
hoc/van-hoa-va-phat-trien/3077-phung-tan-dong-nghi-ve-van-ho-a-dan-gian-
trong-qua-tri-nh-bie-n-do-i-van-ho-a.html. Truy cập ngày 5/4/2018.
154. Từ điển online Merriam-Webster, http://mw1.merriam-
webster.com/dictionary/stakeholder, Truy cập ngày 20/07/2017.
155. Từ điển Oxford Advanced Learner, Oxford University Press, 2005
http://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/stakeholder
169
?q=Stakeholde, Truy cập ngày 20/07/2017.
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ THỊ NHUNG
HÁT XOAN PHÚ THỌ
TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2022
DANH MỤC PHỤ LỤC LUẬN ÁN
PHỤ LỤC 1. Danh mục 31 bài bản Hát Xoan ............................................................ Pl.2
PHỤ LỤC 2. Danh mục kiểm kê Hát Xoan 2010 - 2017............................................ Pl.4
PHỤ LỤC 3. Danh mục tư liệu, hiện vật Hát Xoan .................................................... Pl.6
PHỤ LỤC 4. Danh mục các bài bản Hát Xoan ......................................................... Pl.14
PHỤ LỤC 5. Danh mục đĩa DVD Hát Xoan ............................................................ Pl.15
PHỤ LỤC 6. Các đầu mục sách Hát Xoan tại Bảo tàng Hùng Vương ..................... Pl.16
PHỤ LỤC 7. Các tài liệu, đề tài nghiên cứu về Hát Xoan ........................................ Pl.17
PHỤ LỤC 8. Danh mục các bài viết trên báo, tạp chí, Internet về Hát Xoan .......... Pl.18
PHỤ LỤC 9. Bản ký âm một số bài bản Hát Xoan .................................................. Pl.26
PHỤ LỤC 10. Báo cáo tình trạng di sản Hát Xoan của CLB ................................... Pl.45
PL.1
PHỤ LỤC 1. Danh mục 31 bài bản Hát Xoan
01
Phần 1: Hát Thờ (Chặng hát nghênh thần) Hát mời vua
02
Giáo trống
03
Giáo pháo
04
Thơ nhang
05
06
Đóng đám Phần 2: Hát quả cách (Chặng hát quả cách) Kiều giang cách
07
Nhàn ngâm cách
08
Tràng mai cách
09
Xoan thời cách
10
Hạ thời cách
11
Thu thời cách
12
Đông thời cách
13
Tứ mùa cách
14
Ngư tiều canh mục cách
15
Đối dẫy cách
16
Hò chèo cách
17
Hồi liên cách
18
Tứ dân xoan cách
19
20
Chơi dâu cách Phần 3: Hát hội (Chặng hát giao duyên) Trống quân - Đón đào
21
Bợm gái (Thết trầu)
22
Đường đi trên suối dưới đầm
23
Tr o lên cây bưởi hái hoa
24
Hát ru (Mời rượu)
25
Bỏ Bộ:
1. Trồng bông luống đậu
2. Ngựa bạch
3. Đ n thương ai
PL.2
4. Giương cung
5. Xẻ ván cho dày
6. Dắt mẹ qua đ o
7. Lên núi hái chè
8. Cầu bạch cầu bông
9. Ngựa hồng
10. Ai nhuộm cho mình
11. Mua lấy miệng cười
12. Bắc cầu xẻ ván
13. Rượu quỳnh dương
14. Xe chỉ vá may
26
Hát đúm
27
Hát phú
28
Xin huê
29
Đố huê - Đố chữ
30
Gài huê
31
Mó cá
PL.3
PHỤ LỤC 2. Danh mục kiểm kê Hát Xoan 2010 - 2017
Chú thích
11/ 2010
01/2016
11/2017
Nội dung 1. Số đơn vị/tổ chức thực hành Hát
Xoan - -
4 Phường 13 CLB
4 Phường 33 CLB
Phường Xoan gốc Câu lạc bộ (CLB) cấp tỉnh công nhận
4 Phường Ổn định 37 CLB Tăng 4 CLB so với mốc tháng 01/2016
-
106 CLB
Câu lạc bộ cấp huyện, xã công nhận
2. Số lượng bài bản được thực hành
Bài bản Xoan cổ (31 bài)
Gần đủ
31 bài
31 bài Đang củng cố
phong cách của mỗi Phường
3. Số lượng thành viên tham gia (chính thức) thực hành, truyền dạy Hát Xoan
-
4 Phường Xoan
249 người
330 người
Tăng 81 người so với mốc tháng 01/2016
-
Các Câu lạc bộ cấp tỉnh ở Phú Thọ
298 người/13 CLB
1287 người/30 CLB
1557 người/34 CLB
Tăng 270 người so với mốc tháng 01/2016
-
Các Câu lạc bộ cấp huyện, xã ở Phú Thọ
Ổn định
-
Các Câu lạc bộ ở tỉnh Vĩnh Phúc
89 người/3 CLB
2755 người/10 6 CLB 89 người/3 CLB 4731 người
Tổng số người tham gia tại 4 Phường Xoan và các CLB Hát Xoan ở 2 tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc hiện nay có:
Không kể người tham gia không thường xuyên
4. Số lượng nghệ nhân được phong tặng danh hiệu -
20 Nghệ nhân ưu tú
Danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú (công nhận cấp nhà nước)
Đang hoàn thiện hồ sơ của 14 nghệ nhân để được xét đợt II, 2018
-
Danh hiệu Nghệ nhân Hát Xoan Phú Thọ (công nhận cấp tỉnh)
52 nghệ nhân
PL.4
-
29 nghệ nhân
Danh hiệu Nghệ nhân dân gian (do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công nhận)
62 người
-
Đang hoàn thiện hồ sơ của 2 nghệ nhân để gửi Hội VNDGVN. 62 người Có khả năng thay thế nghệ nhân cao niên
Các nghệ nhân kế cận đang là nòng cốt, truyền dạy, tại các Phường và Câu lạc bộ
Một số ít trường
100 % trường
100 % trường
5. Giáo dục Hát Xoan trong nhà trường Số trường đưa giáo dục Hát - Xoan vào chương trình chính thức và ngoại khóa
Dạy chính thức qua môn âm nhạc
6. Không gian văn hóa liên quan được tu bổ, tôn tạo
-
Một số ít di tích
19/30 di tích
20/30 di tích
Tăng 1 di tích so với mốc tháng 01/2016
Số đình, đền, miếu … liên quan Hát Xoan đã được phục hồi, tu bổ, tôn tạo
PL.5
PHỤ LỤC 3. Danh mục tƣ liệu, hiện vật Hát Xoan
(Bảo tàng Hùng Vƣơng, năm 2018)
STT
TÊN TƢ LIỆU/HIỆN VẬT
SỐ LƢỢNG
GHI CHÚ
Số liệu tổng
TÀI LIỆU TRÊN GIÁ KHO TƢ LIỆU, NHÀ TRƢNG BÀY
Sách viết về Hát Xoan gồm:
Tổng cộng: 11
1
cuốn sách (07
đầu sách)
(Có danh mục
riêng)
- Hát Xoan Phú Thọ - Nguyễn
01 cuốn
Sách mới,
Khắc Xương
-Xoan singing in Phu Tho
02 cuốn
Sách mơí
-Hát Xoan dân ca cội nguồn –
04 cuốn
Sách mới
Dương Huy Thiện
-Xoan singing in Phu Tho
01 cuốn
Sách phô tô
-Tìm hiểu hát Xoan - Tú Ngọc
01 cuốn
Sách phô tô
- Dân ca Xoan Ghẹo: Kỷ yếu
01 cuốn
Sách phô tô
Hội thảo lần 1 - 1994
- Hát Xoan – dân ca nghi lễ
01 cuốn
Sách phô tô
phong tục – Tú Ngọc
2
Bài bản hát Xoan gồm:
Tổng cộng :18
bài bản.
(Có danh mục
riêng)
- Bản Xoan chữ Nôm của
01 bản
Bản gốc giấy
phường An Thái
dó, cũ,
-Bản Xoan chữ Nôm của ông
02 bản
Phô tô
Nguyễn Văn Chế - phường An
Thái
-Tập Hát Xoan Phú Thọ tuyển
02 quyển
Bản in, còn
chọn 1 (2012)
mới
-Tập bài hát xoan của 04 phường
01 quyển
Phô tô
gồm 4 tập của ông Nguyễn Văn
PL.6
Chế, ông Nguyễn Tất Thắng (An
Thái), ông Lê Xuân Ngũ, ông
Đào Ngọc Hàn (Kim Đức)
-Bải bản hát Xoan chép tay của
12 bản
Phô tô
nghệ nhân: Đào Ngọc Hàn,
Nguyễn Văn Vị, Nguyễn Thị
Sủng, Lê Xuân ngũ, Nguyến Tất
Thắng, Vũ Vắn Dinh, Nguyễn
Thị Sủng
3
Tài liệu, đề tài Nghiên cứu về
Tổng cộng:
hát Xoan gồm:
04 tài liệu
nghiên cứu.
(Có danh mục
riêng)
- Đề tài luận án tiến sĩ “ Tương
01 quyển
Phô tô, còn
đồng khác biệt giữa Hát Xoan,
mới
hát Ghẹo Phú Thọ và Quan họ
Bắc Ninh” của Phạm Trọng
Toàn.
- Đề tài Nghiên cứu Hội Xoan
01 quyển
Phô tô báo cáo
Phú Thọ - Nguyễn Anh Tuấn
tổng kết toàn
diện kết quả
nghiên cứu KH
- Tổng tập Tài liệu Nghiên cứu-
01 quyển
Mới
lý luận lời ca và hình ảnh Hát
Xoan Phú Thọ của NS Đặng
Hoành Loan tập 1
-Tổng tập hát Xoan Phú Thọ của
01 quyển
Mới
Sở Văn hóa TTDL
4
Tƣ liệu quảng bá hát Xoan
Tổng cộng:
gồm:
22 tài liệu
- Các bài viết trên báo, tạp chí
01 quyển
Một quyển
Trung ương và địa phương
gồm 156 bài
PL.7
viết
- Tư liệu phổ biến, truyền dạy
01 tập
- Catalog hình ảnh các di sản
01 tờ
văn hóa thế giới trong đó có hát
Xoan Phú Thọ
- Sách ảnh hát Xoan - Nguyễn Á
19 cuốn Mới
5
Văn bản liên quan đến hát
Tổng cộng:
Xoan
254 tài liệu,
văn bản
(Có danh mục
riêng)
- Biên bản
14
- phân công nhiệm vụ
21
-Báo cáo
12
- VB Trung ương (Chính phủ,
23
các Bộ…)
-Văn bản liên quan của tỉnh
72
- Kế hoạch
23 bản
- Giấy mời + DS khách mời
64
-Kịch +Chương trình + bài phát
25 bản
biểu
6
Lý lịch nghệ nhân gồm:
Tổng cộng: 97
lý lịch
-Lý lịch nghệ nhân hát Xoan Phú
87 lý lịch
Phô tô
Thọ (đã làm)
-Lý lịch nghệ nhân xét nghệ
10 lý lịch
Phô tô
nhân ưu tú đợt 1, 2015 (đã làm)
7
Bản cam kết cộng đồng:
Tổng cộng:
84 phiếu.
-Phiếu cam kết (đã làm)
77 phiếu
-Phiếu cam kết (có dấu chưa
7 phiếu
làm)
8
Tƣ liệu điều tra Xoan gồm:
Tổng cộng:
PL.8
248 tài liệu
-Thống kê danh mục tài liệu Hát
37 tài liệu
Xoan 2014, 2015
-Phiếu điều tra hát Xoan tại 18
17 phiếu
Phô tô
xã có hát Xoan và Xoan lan tỏa
(Bảng số 5)
-Phiếu điều tra múa trong hát
17 phiếu
Phô tô
Xoan năm 2010 (biểu số 6)
-Phiếu điều tra thực trạng
23 phiếu
Phô tô
VHPVT (biểu số 1)
- Bảng tổng hợp kiểm kê hát
7 bảng
Đánh máy
Xoan năm 2010 (bảng số 2, 3,
4,5, 7, 8)
-Phiếu điều tra nghệ nhân hát
28 phiếu
Bản gốc
Xoan (năm 2009)
-Phiếu điều tra hát Xoan về sự
101 phiếu
bản gốc viết
đồng thuận của cộng đồng 04
tay,
phường Xoan
-Phiếu điều tra hát Xoan về sự
01 quyển
01 tập phô tô
đồng thuận của cộng đồng 04
có có 101
phường Xoan
phiếu
-Bản ghi chép điền dã chép tay
17 bản
Gồm 12 bản
gốc ghi chép
tại các phường
Xoan gốc, 06
bản phô tô.
9
Đĩa Hát Xoan DVD gồm:
Tổng cộng: 40
chiếc
(Có danh mục
riêng)
-Xoan singing
30 đĩa
Còn tốt
- Hát Xoan Phú Thọ chọn lọc
04 đĩa
Còn tốt
-Câu chuyện văn hóa
01 đĩa
Còn tốt
PL.9
-Hát Xoan Phú Thọ (Xb. 2012)
03 đĩa
Còn tốt
-Hát Xoan Phú Thọ tuyển chọn
01 đĩa
Còn tốt
I (Xb. 2013)
-Hát Xoan Phú Thọ 26 bài Xoan
01 đĩa
Còn tốt
cổ
10
Ănh Hát Xoan gồm:
Tổng cộng:
402 ảnh
- Ảnh to trưng bày
107 ảnh
(Có danh mục
Kho tư liệu có 58 ảnh + Phòng
ảnh riêng)
trưng bày chuyên đề có 49 ảnh
(có khung của Miếu Lãi L n
chuyển về)
- Ảnh nhỏ tư liệu:
288 ảnh
103 hiện vật
11 Hiện vật liên quan Hát Xoan
Tổng hiện
lƣu tại Bảo tàng ( trƣng bày +
vật: 103 hiện
vật (Có danh
Kho bảo quản)
mục riêng)
TƢ LIỆU HÁT XOAN LƢU TRÊN MÁY TÍNH CỦA KHO BẢO TÀNG
1
Video, đĩa DVD, phim tài liệu,
Tổng cộng:
phóng sự và tin tức về Hát
265 đĩa, file
Xoan lƣu trên máy tính
video, phim,
tin tức.
(Có danh mục
riêng)
- Đĩa hát Xoan
13 file đĩa
-Phim tài liệu, phóng sự và tin
78 file
tức về hát Xoan
174 video
-Video hát Xoan
1.585 ảnh
2
Ảnh tƣ liệu lƣu trong máy tính
Tổng: 1.585
của Kho.
ảnh
lƣu trong file
PL.10
máy tính.
3
Bài bản Xoan đánh máy (file
Tổng cộng :
mềm) gồm:
14 file đánh
máy
(Có danh mục
riêng)
- Bài bản trong tổng tập nhạc sỹ
05 file
Đặng Hoành Loan
Gồm: Bài bản hát Xoan thu
thanh 1957; bản thu thanh 2002;
bản của ô Vị; Ô Thắng và Ô
Khả, Hàn, Ngũ , Bảo.
- Bài bản Hát Xoan đánh máy
09 file
khác:
Bài bản Nguyễn Khắc Xương
sưu tầm; Bài Hat Xoan An Thai
(Ban dich) – Phạm Bá Khiêm;
Bản Xoan Nôm của Tây Cốc –
Lê Công Luận dịch ; Bài bản
Xoan: Ô.Khả, Ô Hàn, Ô.
Ngũ,Ô.Bảo, Bà Sủng, làng Hữu
Bổ.
4
Bài tham luận hội thảo (file
Tổng cộng: 24
mềm) gồm:
bài
-Tham luận tiếng Anh:
10 bản
Gồm: Ô Xương, Cao Khắc
Thùy, Ô Ân, Mai Thoa, Lê Văn
Lan, Phạm Trọng Toàn, Trần
Quang Hải, Xoan
singing,
XiaoMeis, Sheen Dae Cheol.
-Tham Luận tiếng Việt
14 bản
Gồm: Ô Xương, Ô Ân, Ô Thuận,
PL.11
Ông Tuấn, Ô Thiện, Ô Toán, Ô
LV Lan, Ông Thoan, Bà Sinh,
Bà Kim Anh, Bà Cẩm Ly, Ông
Hải, Ô Gisa Jahnichen, Bà Thoa.
5
Bản đồ phân bố vùng Xoan
01 fle
Tổng cộng: 01
bản đồ
6
Bài viết về hát Xoan báo, tạp
146 file
Đánh máy
Tổng cộng:
chí, trên Internet (file mêm)
146 file bài
viết.
(Có danh mục
riêng)
7
Tổng tập hát Xoan Phú Thọ (bản
01 file
Đánh máy
Tổng cộng: 01
ngày 29.6.2016)
file
8
Danh sách, lý lịch nghệ nhân
07 file
Đánh máy
Tổng cộng: 07
danh sách và
lý lịch
9
Hồ sơ nghệ nhân ưu tú lần 1
17 flie
Đánh máy
Tổng cộng: 17
(2014)
lý lịch nghệ
nhân
10
Scan văn bản liên quan đến Hát
35 file
Đánh máy
Tổng cộng: 35
Xoan
file văn bản.
(Có danh mục
riêng)
11
Văn bản dự án số hóa
04 file
Đánh máy
Tổng cộng: 04
file
12
Băng ghi âm, Bóc băng ghi âm
Tổng cộng:
điều tra hát Xoan
143 file (Đã
bóc được 115
file ghi âm
phỏng vấn;
Còn 28 file ghi
âm bài hát
không bóc)
PL.12
- Băng ghi âm điều tra, phỏng
143 file
vấn hát Xoan và Bóc băng ghi
âm
Gồm: ghi âm điền da 2010 , ghi
âm Mai Thoa phỏng vấn; ghi âm
Lưu Vân; Ghi âm lấy ý kiến
cộng đồng và trùm phường
Xoan; ghi âm bài hát xoan của 4
phường.
13
68 file
Thống kê hát Xoan các năm
Tổng cộng: 68
(2012 – 2016)
file
Danh sách thống kê số lượng
nghệ nhân các phường Xoan,
danh sách các bảng kiểm kê các
năm, báo cáo kiểm kê, tài liệu
hướng dẫn kiểm kê…
Tổng cộng toàn bộ tƣ liệu và hiện vật hát Xoan của Bảo tàng: 3.593.
1. Ảnh tư liệu: 1.987 ảnh ( 402 ảnh phóng to và nhỏ + 1.585 ảnh lưu trên file)
2. Sách hát Xoan: 11 cuốn (07 đầu sách)
3. Bài bản hát Xoan: 32 bản (18 bản gốc, phô tô bằng giấy + 14 file đánh máy)
4. Tài liệu, đề tài nghiên cứu: 05 bản ( 04 bản in trên giấy + 01 file mềm)
5. Đĩa DVD hát Xoan: 40 chiếc
6. Video, phim tư liệu, đĩa hát Xoan trên máy tính: 265 file (lưu trên máy tính)
7. Hiện vật hát Xoan: 103 hiện vật.
8. File ghi âm phỏng vấn: 143 file (bóc 115 file + 28 file ghi âm bài hát Xoan)
PL.13
PHỤ LỤC 4. Danh mục các bài bản Hát Xoan
(kho tƣ liệu Bảo tàng Hùng Vƣơng)
STT
TÊN BÀI BẢN
TÌNH TRẠNG
SỐ
GHI
LƢỢNG
CHÚ
1
Bản Xoan chữ Nôm của phường An
01 bản
Bản gốc giấy dó, cũ
Thái
2
Bản Xoan chữ Nôm của ông Nguyễn
02 bản
Phô tô
Văn Chế - phường An Thái
3
Tập Hát Xoan Phú Thọ tuyển chọn 1
02 quyển
Bản in, còn mới
(2012)
4
Tập bài hát xoan của 04 phường
4 tập của ông Nguyễn Văn Chế, ông
01 quyển
Nguyễn Tất Thắng (An Thái), ông Lê
Phô tô
Xuân Ngũ, ông Đào Ngọc Hàn (Kim
Đức)
5
Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ
02 bản
Phô tô
nhân Đào Ngọc Hàn,
6
Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ
03 bản
Phô tô
nhân Nguyễn Văn Vị,
7
Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ
02 bản
Phô tô
nhân Nguyễn Thị Sủng,
8
Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ
02 bản
Phô tô
nhân Lê Xuân ngũ,
9
Bài bản hát Xoan chép tay của nghệ
02 bản
Phô tô
nhân Nguyến Tất Thắng,
10 Bài bản hát Xoan chép tay của nghệ
01 bản
Phô tô
nhân Vũ Văn Dinh,
Tổng cộng
18 bài bản
PL.14
PHỤ LỤC 5. Danh mục đĩa DVD Hát Xoan
(Kho tƣ liệu Bảo tàng Hùng Vƣơng)
STT
TÊN ĐĨA HÁT XOAN
SỐ LƢỢNG
TÌNH TRẠNG
30 đĩa
1
Xoan singing
Còn tốt
04 đĩa
2
Hát Xoan Phú Thọ chọn lọc
Còn tốt
01 đĩa
3
Câu chuyện văn hóa VTV
Còn tốt
Ngày
5/3/2015
03 đĩa
4
Hát Xoan Phú Thọ (Xb. 2012)
Còn tốt
01 đĩa
5
Hát Xoan Phú Thọ tuyển chọn I
Còn tốt
(Xb. 2013)
6
Hát Xoan Phú Thọ 26 bài Xoan cổ
01 đĩa
Còn tốt
Tổng cộng: 40 đĩa
PL.15
PHỤ LỤC 6. Các đầu mục sách Hát Xoan tại Bảo tàng Hùng Vƣơng
TT TÊN SÁCH
SỐ LƢỢNG
TÌNH
GHI
TRẠNG
CHÚ
1
- Hát Xoan Phú Thọ - Nguyễn Khắc
01 cuốn
Sách mới,
Xương
02 cuốn
Sách mơí
-Xoan singing in Phu Tho
2
04 cuốn
Sách mới
-Hát Xoan dân ca cội nguồn – Dương
3
Huy Thiện
01 cuốn
Sách phô tô
-Xoan singing in Phu Tho
4
01 cuốn
Sách phô tô
-Tìm hiểu hát Xoan - Tú Ngọc
5
01 cuốn
Sách phô tô
- Dân ca Xoan Ghẹo: Kỷ yếu Hội thảo
6
lần 1 - 1994
7
- Hát Xoan – dân ca nghi lễ phong tục
01 cuốn
Sách phô tô
– Tú Ngọc
TỔNG CỘNG: 11 cuốn sách (07 đầu sách)
PL.16
PHỤ LỤC 7. Các tài liệu, đề tài nghiên cứu về Hát Xoan
(Bảo tàng Hùng Vƣơng)
STT TÊN TÀI LIỆU/ĐỀ TÀI
SỐ LƢỢNG
TÌNH TRẠNG
GHI
CHÚ
1
- Đề tài luận án tiến sĩ “ Tương
01 quyển
Phô tô, còn mới
đồng khác biệt giữa Hát Xoan, hát
Ghẹo Phú Thọ và Quan họ Bắc
Ninh” của Phạm Trọng Toàn.
2
- Đề tài Nghiên cứu Hội Xoan Phú
01 quyển
Phô tô báo cáo tổng kết
Thọ - Nguyễn Anh Tuấn
toàn diện kết quả nghiên
cứu KH
3
- Tổng tập Tài liệu Nghiên cứu- lý
01 cuốn
Mới
luận lời ca và hình ảnh Hát Xoan
Phú Thọ của NS Đặng Hoành Loan
tập 1
Tổng tập Hát Xoan Phú Thọ
01 cuốn
4
Mới
Của Sở VHTTDL
Tổng cộng: 04 tài liệu
PL.17
PHỤ LỤC 8. Danh mục các bài viết trên báo, tạp chí, Internet về Hát Xoan
(Thống kê của Bảo tàng Hùng Vƣơng, Phú Thọ)
STT
TÊN BÀI
TÁC GIẢ
GHI CHÚ
SỐ LƢỢNG 01
1. 165 tỷ đồng để bảo
Lâm Đào An - TTXVN
tồn làn điệu hát Xoan Phú Thọ
2. 2015 đưa hát xoan ra
01
khỏi tình trạng bv khẩn cấp
3. Bầm về rộn rã Phường
01
Xoan
QĐND - Thứ tư, 26/12/2012
4. Bàn về vùng văn hóa
01
hát Xoan
Hoàng Hà BáoTổ quốc ngày 12/7/2013 Đào Đức Hanh Nguyễn Khắc Xương TTXVN
01
Báo Phú Thọ - Ngày 20/2/2012
5. Bảo tồn hát xoan phải gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng hùng vương
6. Bảo tồn hát Xoan qua
01
Phạm Bá Khiêm
Báo Phú Thọ ngày 31/5/2014
thử thách của thời gian
01
7. Bảo tồn Hát XoanCâu hỏi còn bỏ ngỏ 8. Bảo tồn nguyên gốc từ
01
Vũ Thanh Minh Ánh KH
01
Báo Đại Đoàn kết – ngày 30/3/2012 Báo Làng Việt – ngày 01/9/204
nội lực của Hát Xoan 9. Bảo vệ và làm lan tỏa giá trị di sản Hát Xoan
10. Bí quyết nghề xoan
01
Đỗ Hà
11. Cả tỉnh hát xoan
01
Báo Biên phòng - 17/04/204 Báo Gia đình
01
Báo Tin tức 11/5/2013
12. Câu hát Xoan vang vọng mái đình
13. câu xoan sâu lắng hội
Hoàng Phương Nguyễn Thế Lượng Hà Phương
01
đình
Vũ Mạnh
01
14. Chung tay truyền lửa giữ hồn hát xoan
01
Báo Phú Thọ online 4/5/2013 Báo Đại đoàn kết 11/4/2011 Giadinhnet
15. Chuyện ảnh độc đáo nghệ thuật hát xoan
Tuấn Ngọc
01
Báo Một thế giới - 14/3/2011
16. Có những lúc ngã lòng bà đã vịn câu xoan mà đứng dậy
17. Cội nguồn nghệ thuật
01
hát xoan
Nguyễn Duy Cách
PL.18
Lâm Đào An
01
18. Cùng làn điệu Xoan
TTXVN – BaoVietplus 17/4/2013
Báo Phú Thọ 6/11/2014
cổ tìm về văn hóa Hùng Vương 19. Đặc trưng của lễ hội
01
hát Xoan Phú Thọ
Nguyễn Anh Tuấn Minh Hằng
01
Hạ Phương Đỗ Hà Tùng Duy
01 01 01
Báo Phú Thọ 19/12/2012 Báo Nhân dân Báo Phú Thọ 25/5/2013 Báo Tiền Phong 17/11/2014
20. đặc trưng văn hóa xã hội vùng xoan 21. Đắm đuối câu Xoan 22. Đắm say điệu xoan 23. Dân làng mổ lợn, hát Xoan mừng ngày hội đoàn kết
24. Đào tạo nghệ nhân kế
Huyền Nga
01
Báo Phú Thọ 02/12/2012
cận truyền dạy hát xoan – Nhiệm vụ cấp thiết
Hồng Nhung
Báo Phú Thọ 17/2/2012
01
25. Dạy hát xoan ở trường tiểu học kim đức
26. Để câu hát xoan còn
Tạ Văn Toàn
Báo Tin tức 20/3/2012
01
mãi
27. Để câu xoan còn vang
Phạm Bá Khiêm
01
mãi
Lưu Huyền
01
Báo Tuyên giáo 07/4/2014 Báo VOV 10/2/2013
28. Để hát Xoan còn mãi mỗi dịp Xuân về 29. Để hát Xoan còn mãi
Dương Huy Thiện 01
xuân
30. Để hát Xoan vang mãi Thảo Sang
01
31. Di sản hát xoan Phú
Không rõ tác giả
01
Báo Phú Thọ 12/01/2012 Báo Quân đội nhân dân 22/4/2014
Thọ và vấn đề bảo tồn phát huy giá trị 32. Di sản hát xoan: sau
Lâm Đào An
01
TTXVN –
vinh danh vẫn còn chăm lo tiếp
Không rõ tác giả
01
33. Di sản Phú Thọ trong tiến trình hội nhập và phát triển
34. Điệu xoan vẫn... chờ 35. Đình thét với di sản
Vũ Bắc (TTXVN Hải Yến
Báo Tin tức 9/8/2014 Báo Phú Thọ 22/2/2012
01 01
văn hóa hát xoan 36. Độc đáo hát xoan
01
Hữu Thọ
01
37. Độc đáo nghệ thuật Hát xoan Phú Thọ 38. Đôi điều về lịch sử hát
Theo Báo An ninh thủ đô Báo Bạc Liêu 15/05/2015
01
Xoan
TS.Nguyễn Anh Tuấn
39. Dự án sưu tầm, nghiên TH
01
PL.19
cứu, bảo vệ và phát huy hát Xoan Phú Thọ giai đoạn 2012-2015 40. Đưa hát Xoan ra khỏi
Thanh Thảo
01
Báo Biên phòng 11/4/2014
“sách đỏ” Unesco
41. Dựng lại "chân dung" của
Vũ Kim Biên
01
hát xoan
42. Về miền Xoan trong
Nguyễn Linh
01
Báo Thể thao và Văn hóa 12/2/2012 Báo Nhân dân 09/4/2014
ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
01
NSND Trọng Bằng
Báo Văn học nghệ thuật Phú Thọ 30/12/2011.
43. Gắn bó trăn trở với Hát Xoan, Hát ghẹo
01
Hạnh Vân
Báo Gia đình 31/3/2013
44. Gặp nghệ nhân hát Xoan cao tuổi nhất Việt Nam
45. Giữ gìn điệu xoan nơi
Thanh Huyền
Báo TNVN
01
đất Tổ
01
Việt Hà
ĐềnhungPhutho.gov
01
46. Giữ làn điệu xoan cho muôn đời sau. 47. Giới thiệu hát Xoan đến bạn b quốc tế
01
Thu Trang- Minh Nhật Phạm Bá Khiêm
48. Hát Quả cách
Không rõ tác giả
01
Báo Nhân Dân 16/10/2011 Báo Phú Thọ 18/02/2012 Báo Thể thao và Văn hóa
01
49. hát xoan - hành trình trở thành di sản văn hóa nhân loại 50. Hát Xoan – Hành
01
Nguyễn Anh Tuấn Dạ Minh
Báo Tổ quốc 22/2/2012
Không rõ tác giả
01
Báo VOV
trình một năm nhìn lại 51. Hát Xoan cũng bị xâm hại bản quyền 52. Hát Xoan đang được
bảo tồn đúng cách
Không rõ tác giả
01
Theo TTXVN
53. Hát Xoan - Di sản văn hóa độc đáo của người Việt
54. Hát Xoan di sản văn
Đinh Quang Tú
01
Báo Phú Thọ
hóa Việt Nam và nhân loại
Không rõ tác giả
01
55. Hát Xoan Di sản văn hóa đặc sắc của Phú Thọ
56. Hát Xoan - Di sản văn
Không rõ tác giả
01
Báo Văn hóa ngày 05/4/2012
hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp
PL.20
01
57. Xát xoan là biểu
tượng cổ của dân tộc
58. Hát Xoan là dấu ấn
Phỏng vấn Ông Tô Ngọc Thanh – Chủ tịch Hội VNDGVN Vũ Kim Biên
01
Báo QĐND 04/4/2012
thời Hùng Vương
Huyền Trang
01
Cổng Giao tiếp điện tử Phú Thọ,
59. hát xoan làng cổ phú thọ-hành trình du lịch hấp dẫn
Dương Huy Thiện 01
60. Hát Xoan một di sản có giá trị văn hóa lớn
Văn hoá, Thể thao - Du lịch Phú Thọ, Số 1,năm 2009) TTXVN
Tạ Văn Toàn
01
61. Hát Xoan ngân vang loại hình nghệ thuật độc đáo
62. Hát xoan Phú Thọ: Huyền
Không rõ tác giả
01
Báo Đảng Cộng sản VN
thoại một làn điệu dân ca
63. Hát Xoan Phú Thọ
LưuNhung
01
BáoĐạiĐoànKết 18/4/2013
sức sống bền bỉ một di sản
64. Hát Xoan Phú thọ
Thanh Tùng
Báo tin tức 10/11/2012
01
Đặng Đình Thuận 01
SVHTTDL/GOV
Minh Ngọc
Báo Hà Nội mới
Tinh hoa của dân tộc 65. hát xoan phú thọ-một số vấn đề cần trao đổi 66. Hát Xoan (Phú Thọ):
01
Nguy cơ mai một
Thu Hà
Báo Phú Thọ
01
67. Hát Xoan - Sau một năm được vinh danh
68. hát xoan sự hồi cố và
Phạm Bá Khiêm
01
Báo Phú Thọ 2/3/2013
lan tỏa
01
69. Hát xoan tài sản dân
ca đặc sắc
Cù Kiên Trinh Không rõ tác giả
01
Tạp chí Du lịch Phú Thọ Theo Tạp chí Làng Việt
70. Hát xoan – thông điệp
văn hóa, tâm linh và vui hội
71. hát xoan trong các
Anh Thơ
Báo Phú Thọ 13/2/2014
01
trường học ở việt trì
72. Hát Xoan trước nỗi lo
Báo Quân đội nhân dân
01
Đức Tuấn – Vũ Mạnh
thất truyền
73. Hát Xoan
01
Cao Quý – Đạt Thức Mai Lan
VOV1 23/01/2013
01
74. hat xoan-mot nam la di san van loay hoay
PL.21
bao ton
75. hát xoan-nghệ thuật
Nguyễn Quỳnh
01
VOV 17/10/2011
dân gian cần được bảo tồn
01
76. hat xoan-ton vinh và bao ve khan cap 77. hóa ra xoan chính là
TS NGUYỄN MINH SAN Văn Công Hùng
01
xuân
Hương Thu
01
Báo Quân đội nhân dân 2/3/2013 Tạp chí Sức khỏe và đời sống 13/7/2014 Báo Vietnamplus 16/01/2010
78. Hộithảokhoahọcquốct ếtônvinhhátXoanPhúT họ
79. Hội Xoan rộn rã cửa
Đào Đức Hanh
01
Báo Quân đội ND
đình
80. Hát Xoan Phú Thọ
Không rõ tác giả
01
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại
81. Kép xoan chơi xuân
01
82. Kết nối hát Xoan với
Nguyễn Quang Long Hoàng Vy
01
Báo Tiền phong 3/2/2014 Báo Tổ quốc 29/01/2013
Tín ngưỡng Hùng Vương
Không rõ tác giả
01
Báo Quân đọi Nhân dân 21/07/2013
83. Khẩn trương đưa hát xoan khỏi tình trạng khẩn cấp
01
Đầu đề Báo Phú Thọ
Trích phát biểu của đ/c Hà Kế San
84. Là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại - Hát xoan Phú Thọ nâng tầm lịch sử văn hóa Việt 85. Lan tỏa hát Xoan
Báo Phú Thọ 21/3/2015
01
Nguyễn Xuân Ngọc
lắng đọng câu xoan cổ Hà Phương
86.
01
87. Lắng đọng cùng hát
Liên Minh
Báo Phú Thọ 24/12/2011 TTH
01
Xoan
88. Lễ hội hát xoan an
Không rõ tác giả
01
Pthoporta
thái
01
89. Mây vấn đề lịch sử và ý nghĩa của hát Xoan 90. Lời chia sẻ từ hai thế
Nguyễn Anh Tuấn Thanh Khánh
Báo mới 11/4/2011
01
hệ học hát Xoan cổ
91. Lời hẹn hát Xoan mùa
Kiều Anh
Báo Phú Thọ
01
Xuân
92. Mai này ai đi hát xoan Không rõ tác giả
01
Tuổi trẻ cuối tuần 9/4/2011
PL.22
Hà Hồng Hà
01
Khúc Hồng Thiện 01
Nhân dân cuối tuần 15/1/2012 Nhân dân 30/11/2011
93. Miếu lãi lèn ngân vang điệu hát 94. Một đời đắm đuối câu
xoan.
Đỗ Hà
01
Báo Phú Thọ 11/10/2014
95. Một đời đắm đuối khúc ca Xoan
96. Mùa Xuân đắm say
Phi Đông Hạ
01
Hội văn học nghệ thuật org.vn
cùng câu xoan Đất Tổ
01
Báo Người Phú Thọ
Nguyễn Khắc Xương
97. Mùa Xuân, hát Xoan và ước vọng
98. Năm 2015 đưa Hát
Không rõ tác giả
01
Đảng CSVN
Xoan trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
01
Đỗ Hà
Báo tin tức 26/01/2014
100.
01
101.
01
Nguyễn Anh Tuấn Phạm Bá Khiêm
Báo Phú Thọ 02/8/2014
102.
Không rõ tác giả
01
Báo mới 15/4/2014
103.
Không rõ tác giả
01
Văn Hiến
104.
01
Quốc Hội
Báo Phú Thọ 07/4/2014
105.
01
Nguyễn Sản
Báo Phú Thọ
106.
01
Việt Báo
Yến Dương – Hồng Mây
107.
01
Đỗ Hà
Báo Phú Thọ 21/1/2014
108.
01
Vũ Bắc
109.
01
Công Lý
Báo Thể thao và Văn hóa 15/1/2014 17/4/2012
110.
01
Hà Phương
Báo Phú THọ 3/12/2011
111.
01
Duy Ngợi
99. Nghệ nhân của phường Xoan Nhan dien hat xoan Phu Tho-1 Nhận diện vai trò nghệ nhân dân gian hát xoan Nhân lễ hội Đền Hùng 2014 về nghe xoan ghẹo ở làng Nhìn lại lịch sử giá trị của di sản hát xoan Như mạch ngầm chảy mãi Như những ngọn lửa cháy Những câu chuyện chưa thể lý giải ở nơi khởi nguồn hát Xoan Những "cổ thụ" giữ hồn Xoan Những người giữ hồn Xoan Những người giữ lửa cho hát xoan Niềm vui ông trùm làng Xoan Nữ thủ khoa mê hát xoan
Báo Tiền Phong 20/8/2012
PL.23
112.
01
113.
Nguyễn Quang Long Không rõ tác giả
01
Thể thao và Văn hóa 9/4/2014 Báo Phú THọ 27/8/2015
114.
Hương Giang
01
Báo Phú Thọ
115.
Vũ Kim Biên
01
TTXVN
116.
Thanh Khánh
01
117.
Vũ Bắc
Kinh tế và Đô thị 13/7/2013 TTXVN
01
118.
Dạ Minh
Tổ quốc 22/2/2012
01
119.
Báo Phú Thọ 13/9/2011
01
120.
Nguyễn Anh Tuấn Kim Chi
01
121.
HỒng Hà
Cổng giao tiếp điện tử Phú Thọ Tổ quốc 16/7/2013
01
122.
Tạ Văn Toàn
Tin tức 20/01/2015
01
123.
Không rõ tác giả
01
Báo Phú Thọ
124.
Thảo Phương
01
Thể thao Việt Nam.vn
125.
01
126. 127.
Nguyễn Ngọc Minh thực hiện tại Bali Không rõ tác giả
01 01
Người Phú Thọ.com
128.
Ngọc Long
01
Nhân dân 21/11/2013
129.
Ông trùm phường Xoan 8X Phat hiện mới về vai trò của Hát Xoan trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương Phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ Phu nhân vua Lý Thần Tông với hát Xoan Phú Thọ Phú Thọ chuẩn bị phổ cập hát xoan Phú Thọ đưa hát Xoan đến gần hơn với thế hệ trẻ Phú Thọ không hề có chủ trương làm “Xoan mới quá trình ra đời và phát triển của hát xoan Rộn ràng đêm hội hát Xoan Sao định xoan hóa cả tỉnh phú thọ Sớm đưa hát xoan khỏi tình trạng khẩn cấp Sức sống trường tồn của hát xoan Thả hồn vào làn điệu Xoan dân tộc thế giới vinh di sản văn hóa hát xoan phú thọ tìm hiểu về hát xoan Tinh hoa đất tổ :: Hát xoan Phú Thọ: Huyền thoại một làn điệu dân ca Tôn vinh các nghệ nhân hát Xoan 2015: đưa Hát Xoan
Đặng Đình Thuận 01
PL.24
ĐV
01
PTO
130.
Cao Văn Đình
Báo Phú Thọ
131.
01
Tạ Văn Toàn
Tin tức 10/11/2013
132.
01
Lâm Đào An
Tin tức 08/4/2014
133.
01
Hương Giang
Báo Phú Thọ
134.
01
(P/v TTXVN tại Pháp
135.
01
Lê Hà – Trung Dũng
136.
01
137.
01
Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần Trích Tổng tập VNDG Đất TỔ năm 2003
138.
01
Nguyễn Đình Ảnh Cao Văn Định
139.
01
Cao Văn Định
NLH
Cinnet DSTG
140.
01
141.
01
khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm bảo tồn, phát huy giá trị hát xoan trình diễn hát xoan thời hiện đại Truyền dạy nghệ nhân tại 4 phường xoan gốc Truyền đời giọng hát từ thuở Vua Hùng tu bổ tôn tạo di tích gắn với các phường xoan gốc UNESCO đánh giá cao nghệ thuật hát xoan Về đất tổ đắm đuối khúc hát Xoan Vẻ đẹp những lời ca xưa Xoan trên Đất Tổ ve nhung tu co trong Hat Xoan về tuổi tác của hát xoan Việt Nam xd chiến lược............cho từng giai đoạn Hát Xoan Phú Thọ - Vinh danh và thách thức
Vietnamnet 04/4/2012
142.
01
UVBCH Hội VNDG Phú Thọ - Chi hội trưởng Hội VNDG Việt Trì Vĩ Lam
Vừa được công nhận, hat xoan đã bị cải biên xoan cửa đình Xuân về làng Xoan
143. 144.
01 01
Vĩnh Minh Hương Giang
Dân Việt 29/3/2011 Cổng giao tiếp điện tử Phú Thọ Ven.vn 8/2/2012
145.
01
Thanh Tâm
Đặng Đình Thuận 01
PTO
146.
Xuân về theo câu hát Xoan ý nghĩa nhân văn trong hát xoan Tổng cộng: 146 bài viết
PL.25
PHỤ LỤC 9. Bản ký âm một số bài bản Hát Xoan
PL.26
PL.27
PL.28
PL.29
PL.30
PL.31
PL.32
PL.33
PL.34
PL.35
PL.36
PL.37
PL.38
PL.39
PL.40
PL.41
PL.42
PL.43
PL.44
PHỤ LỤC 10. Báo cáo tình trạng di sản Hát Xoan của CLB
BÁO CÁO TÌNH TRẠNG DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
CẦN BẢO VỆ KHẨN CẤP – HÁT XOAN PHÚ THỌ
(17/03/2015)
I. THÔNG TIN CHUNG
1.1. Tên phường/câu lạc bộ hát Xoan: CLB hát Xoan và dân ca Phú Thọ, xã Tây
Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
1.2. Thời gian thành lập Câu lạc bộ hát Xoan và dân ca Phú Thọ xã Tây Cốc được thành lập theo quyết định số 446/QĐ ngày 16 tháng 9 năm 2010 của Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh
Phú Thọ.
1.3. Thời gian triển khai kiểm kê hát Xoan
1.4. Những người cung cấp thông tin * Đối tượng dành cho chủ nhiệm câu lạc bộ
Họ tên: Ông Nguyễn Văn Lợi – Chủ nhiệm CLB Năm sinh: 1953
Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu Địa chỉ: Thôn 26, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
* Đối tượng dành cho hội viên có nhiều năm tham gia câu lạc bộ có uy tín Họ tên: Ông Nguyễn Duy Phụ – Hội viên CLB
Năm sinh: 1950 Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu
Địa chỉ: Thôn 5, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. * Đối tượng dành cho hội viên mới tham gia câu lạc bộ
Họ tên: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc – Hội viên CLB Năm sinh: 1972
Nghề nghiệp: Công nhân Địa chỉ: Thôn 26, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. 1.5. Bối cảnh câu lạc bộ Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết:
1.5.1. Vị trí địa lý Xã Tây Cốc nằm ở phía Tây Bắc của huyện Đoan Hùng. Chiều dài khoảng 6 km,
chiều ngang khoảng 3 km, có đường quốc lộ 70 chạy qua. Tổng số hộ toàn xã là 1.700 hộ với gần 7.000 nhân khẩu. Nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân ở đây là trồng ch và chế
biến ch .
Câu lạc bộ hát Xoan và dân ca xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ được đặt địa điểm sinh hoạt tại Nhà văn hóa, thôn 26, xã Tây Cốc. Nhà văn hóa được trang bị
PL.45
cơ sở vật chất (bàn, ghế, hội trường), hệ thống loa truyền thông, loa đài, điện, nước đầy đủ đảm bảo cho sinh hoạt của câu lạc bộ.
1.5.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nơi CLB sinh hoạt Xã Tây Cốc là xã có nền kinh tế phát triển vững mạnh của huyện Đoan Hùng. Các
hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục, đặc biệt là phong trào văn hóa, văn nghệ ngày càng được quan tâm, duy trì và phát triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ của nhân
dân. Nhân dân xã Tây Cốc luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn vốn di sản hát Xoan và dân ca đặc trưng của địa phương mình nói riêng và của tỉnh Phú Thọ nói chung.
II. TÌNH TRẠNG CỦA HÁT XOAN 2.1. Các chức năng văn hóa và xã hội của Hát Xoan ngày nay
Hát Xoan vẫn thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân Việt Nam chung và người dân ở Phú Thọ. Theo ông Nguyễn Văn Lợi cho biết: Vào những ngày đầu xuân năm mới,
giỗ Tổ Hùng Vương, hội làng, Câu lạc bộ hát Xoan và dân ca xã Tây Cốc thường biểu diễn Xoan ở các đền, đình, chùa. Các bài hát Xoan ngày nay không chỉ biểu diễn ở trong đình,
ngoài sân đình mà còn được trình diễn ở sân khấu phục vụ đại hội,hội nghị và tham gia hội thi, hội diễn… Câu lạc bộ chủ yếu tham gia trình diễn các quả cách và phần hát hội.
Hát Xoan không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà còn đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của người dân. Từ xưa, hát Xoan là món ăn tinh thần của người nông dân. Những năm
gần đây, nhất là khi hát Xoan được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, mọi người nhận thức rõ hơn giá trị và trách nhiệm bảo vệ hát Xoan. Họ tự
hào về điều đó và đến với hát Xoan nhiều hơn đặc biệt là lớp trẻ. Một số lời Xoan mới cũng được sáng tác thêm để làm phong phú bài bản Xoan, phù hợp với cuộc sống và hấp
dẫn hơn đối với thế hệ trẻ.
2.2. Đánh giá sức sống của hát Xoan và những nguy cơ hiện nay
2.2.1. Về tổ chức câu lạc bộ Theo Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết:
* Lịch sử hình thành và phát triển CLB: Trước đây là câu lạc bộ văn thể, hoạt động rất sôi nổi từ nhiều năm. Năm 2009 tỉnh Phú Thọ ra quyết định thành lập Câu lạc bộ hát Xoan xã Tây Cốc. Tây Cốc là xã có cội nguồn hát Xoan của các cụ để lại, cho nên xã rất quan tâm đến việc gìn giữ, bảo tồn giá trị di sản này, vì vậy, xã đã tích cực lựa chọn những hạt nhân văn nghệ tham gia vào câu lạc
bộ hát Xoan.Từ ngày thành lập đến nay, Câu lạc bộ thường xuyên duy trì hoạt động. Tổ chức đào tạo các đối tượng trẻ tuổi; đồng thời, thường xuyên tập luyện và tham gia biểu
diễn phục vụ hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ, các sự kiện của huyện. Tuy nhiên, CLB còn gặp rất nhiều khó khăn về trang phục, đạo cụ, âm thanh và kinh phí hoạt động. Không
những thế, hát Xoan là lối hát cổ truyền không phù hợp với giới trẻ hiện nay, cho nên vận động được thành viên tham gia câu lạc bộ là điều rất khó khăn. Lời bài hát khó hát và khó nhớ, luyện tập rất công phu, mất nhiều thời gian.
* Tổ chức và điều hành CLB:
PL.46
Khi mới thành lập, câu lạc bộ có 8 hội viên. Từ năm 2011 đến nay, câu lạc bộ kết nạp thêm 53 hội viên. Các thành viên trong câu lạc bộ tăng lên hàng năm ở độ tuổi từ 10
đến 30 tuổi gồm cả nam và nữ vì họ yêu thích hát Xoan. Như vậy, hiện nay câu lạc bộ có 61 hội viên (trong đó có 16 nam và 45 nữ). Các thành viên trong câu lạc bộ ở các độ tuổi:
thiếu niên (từ 6 đến 15 tuổi) gồm 19 người (08 nam, 11 nữ); thanh niên ( từ 29 tuổi đến 36 tuổi) gồm 05 người (1 nam, 4 nữ) ; trung niên (43 tuổi) gồm 1 người (nữ) và cao tuổi (từ
55 tuổi đến đến 85 tuổi) gồm 36 người (7 nam, 29 nữ). Các hội viên tham gia câu lạc bộ chủ yếu là học sinh, cán bộ nghỉ hưu và một số ít là công nhân, công chức, bí thư đoàn.
Câu lạc bộ sinh hoạt vào các tối thứ 7 và chủ nhật cuối tháng. Trong thời gian tham gia có một số hội viên không tham gia nữa do tuổi cao sức yếu nên không thể tham gia hát
và múa được.
Câu lạc bộ thường biểu diễn phục vụ các hội nghị ở huyện và xã; hội đình, chùa;
tham gia biểu diễn giao lưu tại các xã lân cận. Thời điểm đi biểu diễn nhiều nhất là dịp đầu năm từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch.
Chủ nhiệm câu lạc bộ là người đứng ra lựa chọn các thành viên trong câu lạc bộ đi tham gia biểu diễn. Tiêu chí của người được chọn đi trình diễn là người có ngoại hình đẹp,
độ tuổi trẻ, có giọng hát tốt và múa dẻo.
Câu lạc bộ đã từng đi giao lưu với các đơn vị bạn: xã Vĩnh Trân – huyện Hạ Hòa và
các xã lân cận thuộc huyện Đoan Hùng như: Quế Lâm, Phúc Lai, Hùng Long, Nghinh Xuyên . Đây là dịp để Câu lạc bộ và các xã được giao lưu, học hỏi lẫn nhau góp phần bảo
tồn và phát huy di sản hát Xoan quý giá của Phú Thọ. Trong các bài hát Xoan tham gia trình diễn cho thấy: Về bài bản, lời ca, nhạc điệu, cách hát, cách múa giữa các câu lạc bộ
đã được đi tập huấn thì đều giống nhau; nhưng cũng có những đơn vị không hát được phải nhờ người hát hộ như xã Minh Phú nhờ CLB hát Xoan xã Tây Cốc hát hộ, đánh trống các
quả cách không đúng cụ thể là: đánh theo hát hội. * Nguồn kinh phí hoạt động của CLB:
Kinh phí hoạt động của câu lạc bộ không có cấp nào hỗ trợ cả. Kinh phí của câu lạc bộ có được chủ yếu từ nguồn vận động xã hội hóa của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp, nhân dân trong xã. Trang phục biểu diễn Xoan do các hội viên trong câu lạc bộ đóng tiền tự mua. Câu lạc bộ đã tích cực vận động các gia đình trong xã, các cơ quan, doanh nghiệp ủng hộ. Năm 2013, các gia đình trong xã ủng hộ với số tiền 15.000.000đ. Năm 2014, câu
lạc bộ được ủng hộ 4.000.000đ từ các công ty, doanh nghiệp tiêu biểu như: Hùng Anh, Hương Thảo, Lâm trường Đoan Hạ và các gia đình ông, bà trong xã: Phong Kiểm, Thái
Hòa. Kinh phí do phó chủ nhiệm câu lạc bộ nắm giữ, quản lý dùng để chi cho việc thu âm thu tiếng, phục vụ biểu diễn như thuê xe, tiền ăn, ở. Kinh phí cho người đi tập huấn, người
truyền dạy và người tham gia biểu diễn không có bồi dưỡng, hỗ trợ từ cấp xã đến cấp huyện mà phải tự túc về xăng xe, ăn ở, tài liệu.
*Trang phục, nhạc cụ,đạo cụ:
PL.47
Hiện nay, câu lạc bộ có 24 bộ quần áo cho đào, 16 bộ quần trắng áo the cho nam; 10
chiếc trống con, 01 chiếc trống cái; 1 âm ly, 02 micro, 02 loa.
* Sự quan tâm của chính quyền, cơ quan văn hóa: + Cấp tỉnh: Sở VH,TT&DL Phú Thọ chỉ đạo Trung tâm VHTT Phú Thọ trực tiếp
quản lý, quan tâm, tạo điều kiện hướng dẫn câu lạc bộ tổ chức và hoạt động.
Từ khi thành lập, câu lạc bộ được tỉnh cấp cho 01 đôi loa, 01 âm ly, 02 chiếc míc, 01
trống, 01 bộ quần áo xoan nam và 01 chiếc áo dài nữ.
+ Cấp huyện: không có gì
+ Cấp xã: tạo điều kiện về địa điểm, cơ sở vật chất (bàn, ghế, điện, nước) cho sinh
hoạt của câu lạc bộ.
* Định hướng để duy trì và phát triển câu lạc bộ: Câu lạc bộ tiếp tục duy trì sinh hoạt, nghiêm túc thực hiện theo đúng quy chế của
câu lạc bộ. Câu lạc bộ luôn đón nhận và kết nạp các hội viên tự nguyện và yêu thích hát Xoan; đồng thời, thường xuyên luyện tập các bài bản Xoan đã học; đào tạo, phát triển thêm
nhân lực, nhất là thanh thiếu niên.
* Nhu cầu và mong muốn của lãnh đạo CLB:
Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB mong muốn: Để duy trì, phát triển câu lạc bộ, các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa về hỗ trợ kinh phí cho câu lạc bộ hoạt động;
đặc biệt là người đi truyền dạy, người đi tập huấn từ huyện đến xã nên có chế độ hỗ trợ cụ thể.
2.2.2. Các bài bản Xoan Theo Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết: câu lạc bộ luôn duy trì ôn
luyện và biểu diễn các bài bản xoan cổ với mong muốn gìn giữ di sản văn hóa phi vật thể quý giá này của Phú Thọ nói riêng và của nhân loại nói chung.
Câu lạc bộ hiện nay đã sưu tầm, lưu giữ và thực hành 27 bài bản Xoan: hát nghi lễ (05 bài bản: nhập tịch mời vua, giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám); hát quả cách
(13 bài bản: Kiều dương cách, nhàn ngâm cách, tràng mai cách, ngư tiều canh mục cách, đối rẫy cách, hồi liên cách, xoan thời cách, hạ thời cách, thu thời cách, đông thời cách, tứ mùa cách, hò ch o cách, tứ dân cách) và hát giao duyên (hát phú lý -hát hội) gồm 09 bài bản: bỏ bộ (xe chỉ vá may), Bợm gái (Ch o lên cây bưởi hái hoa), đón đào, xin huê -đố chữ, cài huê, giã (mó) cá, bợm gái, trồng nhiều chuối ngọt ch thơm, hát ru.
Cách thức để câu lạc bộ sưu tầm, lưu giữ các bài bản Xoan cổ là tài liệu ghi chép và băng đĩa. Tài liệu ghi chép để lưu giữ lời hát; băng đĩa để lưu giữ các động tác múa và cách
phát âm. Câu lạc bộ đã sử dụng tài liệu ghi chép, đánh máy photo cho mỗi hội viên trong câu lạc bộ một bản kết hợp với sử dụng đĩa video.
Câu lạc bộ hiện chỉ biểu diễn thực hành các bài bản Xoan cổ, chưa có các sáng tác
mới dựa trên làn điệu Xoan cổ.
2.2.3. Con người tham gia học, thực hành và truyền dạy
PL.48
* Ông Nguyễn Văn Lợi - chủ nhiệm CLB cho biết: Ông tham gia hát Xoan từ năm 2000. Ông làm trưởng thôn, phụ trách câu lạc bộ văn thể và là chủ nhiệm câu lạc bộ hát
Xoan. Khi tham gia hát Xoan ông thấy lời bài hát rất hay nên ông rất thích. Ông học hát Xoan từ trước khi thành lập câu lạc bộ. Ông được bà Lê Thị Sửu (85 tuổi- hiện vẫn còn
sống) và một số cụ (hiện nay đã mất) trong thôn truyền dạy. Năm 2010 và năm 2014 ông tham gia lớp tập huấn truyền dạy hát Xoan do Sở VH,TT&DL tỉnh Phú Thọ tổ chức tại địa
điểm Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thành phố Việt Trì. Tại lớp tập huấn ông được các nghệ nhân ở các phường Xoan gốc truyền dạy: ông Lê Xuân Ngũ – phường Xoan Phù
Đức, ông Nguyễn Ngọc Bảo – phường Xoan Thét thuộc xã Kim Đức và bà Nguyễn Thị Lịch – phường Xoan An Thái – xã Phượng Lâu. Trước khi học, ông đã từng biết đến hát
Xoan. Ông tự nguyện tham gia học hát Xoan do yêu quý và mong muốn giữ gìn, bảo tồn vốn cổ này. Mới đầu học ông thấy rất khó hát, nhưng càng học ông càng thấy say mê vì
từng lời hát, điệu múa xoan thấm đậm ý nghĩa đời sống xã hội; tác động trực tiếp đến nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Ông làm chủ nhiệm câu lạc bộ do được tập thể tín nhiệm vì
lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm. Trong gia đình ông có 06 người biết hát Xoan trong đó có 05 người thường xuyên đi tham gia biểu diễn: ông, vợ ông là bà Nguyễn Thị
Phương (sinh năm 1953), con dâu Trịnh Thị Hồng (sinh năm 1980), 02 cháu Nguyễn Thị Diệu Linh (sinh năm 2000) và cháu Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (sinh năm 2002). Trong thời
gian học hát Xoan tại tỉnh không có cấp nào hỗ trợ kinh phí cả nên ông phải sáng đi tối về rất vất vả nhưng vì yêu thích hát Xoan nên ông đã cố gắng theo học không bị gián đoạn.
Ông đã học được 25 bài: hát nghi lễ (05 bài bản: nhập tịch mời vua, giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám); hát quả cách (13 bài bản: Kiều dương (giang) cách, nhàn ngâm
cách, tràng mai cách, ngư tiều canh mục cách, đối rẫy cách, hồi liên cách, xoan thời cách, hạ thời cách, thu thời cách, đông thời cách, tứ mùa cách, hò (thuyền) ch o cách, tứ dân
cách) và hát giao duyên (hát phú lý -hát hội) gồm 07 bài bản: bỏ bộ (xe chỉ vá may), Bợm gái (Ch o lên cây bưởi hái hoa), đón đào, xin huê -đố chữ, cài huê, giã (mó) cá, bợm gái.
Bài bản đầu tiên ông được học là: giáo trống, giáo pháo. Các bài bản khó học nhất đối với ông là Kiều dương cách, nhàn ngâm cách, song học mãi rồi quen lại thấy say mê yêu thích. Một bài bản học hết khoảng 2 tiếng nhưng để hát và biểu diễn thành thục được ít nhất phải mất một tuần.
Các bài bản xoan đã được học đều được ông tham gia trình diễn. Câu lạc bộ thường
tham gia biểu diễn hát Xoan phục vụ hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ ở cấp huyện và cấp xã; phục vụ các lễ hội ở đình, chùa và được các xã lân cận mời đi biểu diễn giao lưu.
Ông đã từng đi truyền dạy hát Xoan cho 5 xã với hơn 100 học viên. Ông thích đi dạy
vì muốn nhiều người biết đến các làn điệu Xoan cổ Phú Thọ. Ông dạy theo phương pháp
truyền thống đó là truyền miệng cách phát âm, diễn xướng và hướng dẫn các động tác múa.
Ông tận tình hướng dẫn các học viên cho đến khi hát được, múa được và biểu diễn được.
Ông chủ yếu dạy các bài bản xoan cổ, không dạy bài bản mới nào cả cụ thể:Mời vua, giáo
PL.49
trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám, kiều dương cách, nhàn ngâm cách, tràng mai cách,
đối dẫy cách, tứ dân cách, xoan thời cách, hò ch o cách, bỏ bộ (02 bài), đón đào, xin huê
đố chữ, giã cá, trồng nhiều chuối ngọt ch thơm, hát ru. Ngoài việc truyền dạy Xoan trong
xã, ông còn tham gia truyền dạy ở các xã: Ngọc Quan, Yên Kiện, Hùng Long, Quế Lâm.
Ngoài ra, ông còn tham gia truyền dạy cho học sinh các trường như: Trường cấp III Quế
Lâm, trường cấp II Tây Cốc theo yêu cầu của nhà trường. Phương pháp truyền dạy giống
như ở xã. Những người theo học hầu hết là những người thích hát Xoan ở tất cả các độ
tuổi. Trong quá trình tham gia học có một số người bỏ giữa chừng vì họ không hát và múa
được. Trong số những người đã học có 7 người hát tốt cụ thể là: Ông Nguyễn Duy Phụ
(sinh năm 1949), ông Nguyễn Duy Đoàn (sinh năm 1951), ông Cao Văn Minh, bà Nguyễn
Thị Khương (sinh năm 1958), bà Nguyễn Thị Bích Ngọc (sinh năm 1972), bà Trần Thị
Hương (sinh năm 1972), bà Lê Thị Kiểm (sinh năm 1951).
* Ông Nguyễn Duy Phụ – hội viên có nhiều năm tham gia câu lạc bộ, có uy tín cho
biết: Ông tham gia hát Xoan phục vụ hội diễn ở Đền Hùng từ năm 2008. Ông tham gia vì
phong trào của địa phương và yêu thích hát Xoan bởi các bài hát Xoan giàu tính nhân văn.
Trước đây ông làm Bí thư Đảng ủy xã, hiện nay đang làm chủ tịch hội người cao tuổi và là
hội viên câu lạc bộ hát Xoan của xã. Trong gia đình có ông và vợ ông là bà Nguyễn Thị
Thu Hồng (61 tuổi) là biết đến hát Xoan.
Ông tham gia học hát Xoan từ năm 2010 do ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm câu
lạc bộ truyền dạy. Ông học và tham gia hát Xoan vì ông yêu thích và mong muốn gìn giữ
vốn di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan quý giá của cha ông để lại. Trước khi học hát
Xoan, ông đã từng biết đến hát Xoan nhưng không hát và biểu diễn được.Trong quá trình
tham gia học hát Xoan: ông cũng như các thành viên trong câu lạc bộ thấy rất khó nhớ, tuy
nhiên không bị gián đoạn vì ông và mọi người đều là hội viên câu lạc bộ. Ông đã học các
phần hát nghi lễ, hát quả cách, hát giao duyên (hát Hội) nhưng ông chỉ thành thạo 11 bài,
đó là: Mời vua, giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám, xoan thời cách, tứ dân cách,
hò chèo cách, xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào), bỏ bộ. Bài bản đầu tiên ông được
học là: giáo trống, giáo pháo. Trong các bài bản mà ông đã học, ông thấy khó nhất là bài
giáo trống, giáo pháo. Học một bài bản ít nhất 2 tuần mới có thể thuộc lời bài hát và biểu
diễn thành thục được.
Ông thường tham gia biểu diễn bài: Xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào) vì các
bài hát này vui nhộn. Ông thường tham gia biểu diễn cho câu lạc bộ xã Tây Cốc; biểu diễn
phục vụ các đại hội, hội nghị của huyện, của xã; các lễ hội của địa phương, của tỉnh. Thời
điểm đi diễn nhiều nhất là vào dịp lễ hội Đền Hùng (tháng 3 âm lịch). Trong những dịp
này, ông thường tham gia trình diễn các bài: tứ dân cách, hò chèo cách, xin huê – đố chữ,
thơ nhang, đóng đám, giáo trống, giáo pháo.
PL.50
Ông chưa từng tham gia truyền dạy hát Xoan cho ai.
Ông cho biết: để gìn giữ các bài bản Xoan truyền thống, câu lạc bộ nên thường
xuyên tổ chức ôn luyện và biểu diễn.
Ông mong muốn các cấp chính quyền quan tâm, đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho câu lạc
bộ sinh hoạt. Có chế độ bồi dưỡng cụ thể cho người truyền dạy và người biểu diễn. Đồng
thời nên phổ biến truyền dạy Xoan rộng rãi ở các trường học.
* Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc – hội viên mới tham gia câu lạc bộ cho biết:
Bà tham gia hát Xoan từ khi thành lập câu lạc bộ năm 2009. Bà tham gia hát Xoan vì
tất cả mọi người trong thôn ai cũng hát Xoan, trong đó có rất nhiều các cụ già, bản thân bà
còn trẻ cũng thấy được trách nhiệm cuả mình trong việc kế tục, bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa của quê hương. Trước đây bà là công nhân, hiện nay bà vẫn đang làm, tuy
nhiên bà cũng thu xếp giành thời gian tham gia vào câu lạc bộ hát Xoan. Trong gia đình bà
có 4 người thì có 3 người yêu thích và biết hát Xoan: bà và 2 con của bà. Chồng bà rất ủng
hộ cho bà và các con.
Bà tham gia học hát Xoan từ năm 2010 tại lớp học của xã do cán bộ tỉnh về truyền
dạy và được ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB truyền dạy. Ông là người đã từng
được xã Tây Cốc cử tham gia các lớp tập huấn hát Xoan do tỉnh tổ chức. Bà học theo
phương pháp truyền khẩu, ghi chép và hướng dẫn thực hành các động tác múa. Bà học hát
Xoan vì yêu thích văn nghệ và nghe mọi người nói rằng, hát Xoan học rất khó cho nên bà
lại càng muốn học. Trước khi học hát Xoan, bà chưa biết gì về Xoan. Trong quá trình tham
gia học, bà nói: không chỉ riêng bà mà ai cũng gặp khó khăn vì mới đầu chưa có đủ người,
quá trình tham gia cũng bị gián đoạn do bà bận việc gia đình hoặc những lý do khác do
khách quan đem lại. Bà mới chỉ học được 10 bài, đó là: mời vua, giáo trống, giáo pháo,
tràng mai cách, đối dẫy cách, xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào), giã cá, bỏ bộ, bợm
gái. Bài bản đầu tiên bà được học là: Bỏ bộ. Trong các bài bản đã học, bà thấy khó nhất là
bài bợm gái. Học một bài bản hết khoảng từ 3 đến 5 ngày.
Bà thường tham gia biểu diễn bài: Bỏ bộ, Xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào) vì
thấy lời hát hay, vui nhộn, dễ học. Bà và câu lạc bộ thường được mời tham gia biểu diễn
vào dịp kỷ niệm các ngày lễ, tết nguyên đán, phục vụ các hội nghị, khánh thành đình, chùa
mới của huyện, của xã…..Ngoài ra, còn được một số gia đình mời tham gia trong tổ chức
lễ mừng thọ, được xã Vĩnh Trân huyện Hạ Hòa mời tham gia giao lưu. Thời điểm bà cùng
câu lạc bộ đi biểu diễn nhiều nhất là vào dịp đầu năm Tết nguyên đán, vào các dịp lễ hội.
Bài bản tham gia biểu diễn chủ yếu là xoan cổ, không có sáng tác mới nào cả.
Bà chưa từng truyền dạy hát Xoan cho ai cả.
Bà cho biết: muốn gìn giữ các bài bản Xoan truyền thống thì mỗi một bài bản Xoan
được học và biểu diễn cần ghi chép lại rồi in, photo thành tài liệu để lưu giữ lâu dài.
PL.51
Bà mong muốn lãnh đạo các cấp tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí để mỗi khi đi tham gia
biểu diễn hoặc sinh hoạt câu lạc bộ tại địa phương vẫn có kinh phí hoạt động, mua sắm
trang phục, đạo cụ biểu diễn cần thiết.
2.2.4.Không gian thực hành hát Xoan
Địa điểm thực hành
Theo Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết: Câu lạc bộ thường biểu diễn
Xoan ở khu vực trong và ngoài hội trường -nơi tổ chức ngày lễ, ngày kỷ niệm, ở các đình,
chùa của huyện, của xã.
Các tập tục liên quan đến hát Xoan
Ông Nguyễn Văn Lợi –chủ nhiệm CLB cho biết:
- Tục hát cửa đình:
Câu lạc bộ từng trình diễn xoan ở các cửa đình, cửa chùa vào dịp đầu xuân năm
mới, khánh thành đình, chùa và các lễ hội của tỉnh và của địa phương.
- Tục kết nước nghĩa:
Từ khi thành lập và hoạt động đến nay, câu lạc bộ chưa kết nghĩa với câu lạc bộ
khác nào.
2.2.5.Khán giả và công chúng
Trước khi hát Xoan được UNESCO công nhận năm 2011, theo ông Nguyễn Văn Lợi
– Chủ nhiệm CLB cho biết: có nhiều người còn mơ hồ không biết hát Xoan duy trì được
hay không? Nhưng từ khi hát Xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại thì người dân ngày càng hiểu rõ ý nghĩa của hát Xoan và
họ ngày càng yêu thích. Ông Nguyễn Duy Phụ - hội viên câu lạc bộ lâu năm cho biết:
Trước khi hát Xoan được UNESCO công nhận thì ít người biết hát, trong xã chỉ có khoảng
từ 3 đến 5 người cao tuổi biết hát Xoan. Còn theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết:
Trước khi được UNESCO công nhận cũng có nhiều người biết đến, nhưng đối tượng chỉ là
những người cao tuổi, đến nay hát Xoan đã thực sự khẳng định được vị trí của mình bởi lối
hát nhẹ nhàng, tình cảm dễ đi vào lòng người, vì thế hát Xoan đã thu hút được đông đảo
các tầng lớp tham gia.
Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết: Mỗi khi CLB biểu diễn xoan, thu
hút rất đông khán giả đến xem và cổ vũ. Đối tượng khán giả nghe và xem hát Xoan đủ các
tầng lớp: cao tuổi, trung niên, thanh niên, thiếu niên, thiếu nhi. Hát Xoan Phú Thọ đã và
đang được nhân dân xã Tây Cốc yêu mến, vì càng hát và nghe hát càng thấy hay và đặc
biệt đây là vốn di sản quý giá của tỉnh nhà cần được bảo tồn và gìn giữ.
2.2.6. Nhận thức và giáo dục về hát Xoan
Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết:
PL.52
2.2.6.1.Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị của hát Xoan của tỉnh tác động đến
nhận thức của nhân dân
Nhân dân rất phấn khởi, ngày càng yêu thích Xoan và hiểu rõ hơn giá trị ý nghĩa của
Xoan, biết trân trọng, nâng niu, gìn giữ vốn văn hóa cổ truyền quý giá của cha ông để lại.
2.2.6.2.Nhận thức của các cấp chính quyền địa phương và cơ sở về bảo tồn hát Xoan
Các cấp chính quyền địa phương và cơ sở có nhiều đổi mới trong việc bảo tồn hát
Xoan cụ thể:
Các cấp chính quyền địa phương và cơ sở ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về giá
trị , tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan Phú Thọ và sự cần thiết của
việc giữ gìn, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể này cụ thể:
- Chính quyền cấp tỉnh:
Từ năm 2013 đến nay, tỉnh đã triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát
huy giá trị hát xoan là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Tỉnh
tập trung truyền dạy và thực hành Hát Xoan thông qua việc tổ chức mở các lớp đào tạo
nghệ nhân kế cận, lớp xoan cộng đồng, lớp truyền dạy hát Xoan cho các phường Xoan gốc
và cán bộ văn hóa xã, phường, hạt nhân văn nghệ các câu lạc bộ hát Xoan và dân ca trên
địa bàn tỉnh.
Tỉnh đã quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ cho CLB xã Tây Cốc về tăng âm, loa đài và
một số trang phục, đạo cụ. Đồng thời Sở VH,TT&DL Phú Thọ chỉ đạo Trung tâm VHTT
Phú Thọ trực tiếp quản lý, quan tâm, tạo điều kiện hướng dẫn câu lạc bộ duy trì tổ chức và
hoạt động.
- Chính quyền cấp huyện: chưa thực sự quan tâm đúng mức
- Chính quyền cấp xã:
Đảng ủy và UBND xã Tây Cốc rất chú trọng tới phong trào văn hóa văn nghệ, đặc
biệt là bảo tồn hát Xoan và dân ca Phú Thọ trong tỉnh.
Quan tâm, tạo điều kiện về địa điểm, cơ sở vật chất ( nhà văn hóa, bàn ghế, điện,
nước, tăng âm, hệ thống truyền thanh…) cho câu lạc bộ hoạt động. Trong các chương trình
văn nghệ phục vụ đại hội, hội nghị được cấp huyện và xã quan tâm đưa từ 1-2 tiết mục
xoan vào biểu diễn.
- Câu lạc bộ hát Xoan xã Tây Cốc:
Chủ nhiệm và các hội viên trong câu lạc bộ luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của
việc gìn giữ, bảo tồn di sản hát xoan, do đó, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm tích cực
luyện tập, tham gia biểu diễn và truyền dạy về hát Xoan.
- Cộng đồng về hát Xoan: nhân dân địa phương nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
gìn giữ, bảo tồn hát Xoan, từ đó, có trách nhiệm hơn trong việc duy trì và truyền dạy hát
xoan.
PL.53
2.2.7. Tác động của việc UNESCO công nhận hát Xoan là di sản cần bảo vệ khẩn
cấp
Làm cho nhiều người biết đến Xoan và hiểu về Xoan hơn, thu hút nhiều người tham
gia vào câu lạc bộ hát Xoan và dân ca Phú Thọ; thu hút sự quan tâm, hỗ trợ, bảo tồn hát
Xoan của Nhà nước và các tổ chức. Mọi người thấy tự hào về di sản văn hóa phi vật thể
quý giá này, từ đó tích cực hơn trong việc tham gia học, biểu diễn và truyền dạy hát Xoan.
Hát Xoan là nguồn di sản quý giá góp phần khai thác phát triển du lịch đem lại lợi ích kinh
tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng.
2.2.8. Tác động của thông tin đại chúng đến nhận thức và hiểu biết về xoan
Thông tin đại chúng đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hiểu biết về xoan của
quần chúng nhân dân. Hát Xoan được giới thiệu, quảng bá đến nhân dân Phú Thọ, nhân
dân cả nước và thế giới thông qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng như: sách, báo
chí, đài phát thanh và truyền hình, cổ động trực quan…. ở trung ương và địa phương.
2.3. Các hoạt động bảo vệ khác
Ngoài những hoạt động để bảo tồn và phát huy giá trị hát Xoan của Nhà nước và các
tổ chức như: mở lớp truyền dạy hát Xoan, phục dựng lại không gian thực hành (miếu Lãi
L n), quay phim tư liệu... thì ở địa phương – nơi có câu lạc bộ hát Xoan đang được thực
hành cũng có một số biện pháp để bảo vệ di sản như:
- Để góp phần bảo vệ Xoan, đưa Xoan đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là thế
hệ trẻ, xã Tây Cốc thường kết hợp một số tiết mục Xoan trong các chương trình văn nghệ
phục vụ hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ như ngày 8/3, 26/3, 20/10...
2.4. Cam kết bảo vệ
Trong quá trình kiểm kê, chúng tôi nhận thấy quyết tâm của cộng đồng trong việc
giữ gìn Xoan qua những biểu hiện cụ thể sau:
- Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết “Tôi tham gia và phụ trách câu lạc
bộ hát Xoan với mong muốn bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát Xoan quý giá của quê
hương Phú Thọ".
- Ông Nguyễn Duy Phụ - hội viên tham gia câu lạc bộ lâu năm cho biết: “ Học Xoan
rất khó nhớ, nhưng càng khó, tôi càng quyết tâm học vì muốn sau này có thể truyền dạy lại
Xoan cho các thế hệ sau, để Xoan mãi tồn tại và tỏa sáng trong đời sống cộng đồng”
- Chị Nguyễn Thị Bích Ngọc – hội viên mới tham gia câu lạc bộ cho biết, “ Trước
kia chưa tham gia hát Xoan, tôi nghe mọi người bảo rằng, hát Xoan học khó lắm, nhưng
chính vì khó nên tôi lại càng thích khám phá và quyết tâm theo học hát Xoan. Tôi tham gia
vào câu lạc bộ hát Xoan với mong muốn cống hiến một phần nhỏ bé vào việc gìn giữ, bảo
tồn Xoan”.
PL.54
Qua những lời nói của cộng đồng – những người trực tiếp thực hành và gìn giữ di
sản, chúng ta có thể thấy được họ đều mong muốn và quyết tâm gìn giữ Xoan để Xoan có
thể sống mãi.
2.5. Sự tham gia của các thành viên Câu lạc bộ hát Xoan trong việc chuẩn bị báo
cáo
Để công tác kiểm kê về hát Xoan đạt hiệu quả, các thông tin trong báo cáo xác thực
và thể hiện được đúng sức sống của hát Xoan, Trung tâm VHTT tỉnh Phú Thọ đã soạn 03
bộ câu hỏi phỏng vấn dành cho 03 đối tượng chủ yếu trong câu lạc bộ đó là: chủ nhiệm câu
lạc bộ, người tham gia câu lạc bộ lâu năm có uy tín và người mới tham gia câu lạc bộ.
Đồng thời cử 8 đồng chí, mỗi đồng chí trực tiếp tiến hành kiểm kê và làm báo cáo 03 câu
lạc bộ. Phương pháp kiểm kê: dùng phiếu yêu cầu các đối tượng cung cấp thông tin theo
nội dung câu hỏi; đồng thời kết hợp phỏng vấn trực tiếp. Bản thân tôi, trực tiếp được phân
công đảm nhận kiểm kê CLB hát Xoan và dân ca Phú Thọ, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng,
trong quá trình thực hiện, tôi đã được các thành viên trong câu lạc bộ nhiệt tình giúp đỡ,
cung cấp những thông tin họ nắm được một cách tích cực và xác thực.
PL.55
PHỤ LỤC ẢNH
PL.Ảnh.1
Ảnh: Đình thôn Kim Đái, xã Kim Đức Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Đình Thét, xã Kim Đức Nguồn: Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.2
Ảnh: Đình An Thái, xã Phượng Lâu Nguồn: Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Đình Kim Đái (Kim Đơi) Nguồn: Nguồn: Tác giả, 11/2021
PL.Ảnh.3
Ảnh: Miếu Lãi L n, xã Kim Đức Nguồn: Tác giả, 3/2021
Ảnh: Miếu An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, 10/2021
PL.Ảnh.4
Ảnh: Miếu An Thái, xã Phượng Lâu Nguồn: Tác giả, 10/2021
Ảnh: Đình Thét, xã Kim Đức Nguồn: Tác giả, 9/2020
PL.Ảnh.5
Ảnh: Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức dâng lễ trình Thánh
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Phường Xoan Thét, xã Kim Đức dâng lễ trình Thánh
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.6
Ảnh: Phường Xoan Kim Đái, xã Kim Đức dâng lễ trình Thánh
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Cụ từ lễ trình Thánh, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.7
Ảnh: Cụ từ lễ trình Thánh, Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Lãnh đạo UBND xã Kim Đức làm lễ tạ Thánh cuối năm tại Miếu Lãi Lèn
Nguồn: Tác giả, Việt Trì 17/01/2022
PL.Ảnh.8
Ảnh: Cụ Từ Nguyễn Xuân Hội, trùm Phường Xoan Phù Đức xã Kim Đức tại Miếu Lãi Lèn. (cụ đến phục vụ mở cửa, dọn dẹp và sắp lễ cho các lãnh đạo)
Nguồn: Tác giả, Việt Trì 17/01/2022
Ảnh: Cụ Từ Nguyễn Xuân Hội, trùm Phường Xoan Phù Đức và đại diện
Ban văn hóa xã Kim Đức chuẩn bị lễ tạ Thánh cuối năm tại Miếu Lãi Lèn
Nguồn: Tác giả, Việt Trì 17/01/2022
PL.Ảnh.9
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.10
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.11
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Dắt mẹ qua đ o. Cụ Nguyễn Thị Quy 104 tuổi, đào Xoan An Thái, xã Phượng Lâu (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.12
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.13
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.14
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Ngựa hồng, Cụ Nguyễn Thị Quy 104 tuổi, đào Xoan An Thái, xã Phượng Lâu (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.15
Ảnh: Cụ Lê Xuân Ngũ, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức dẫn cách;
Cụ: Nguyễn Xuân Hội đánh trống dẫn cách
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Giáo trống - Giáo Pháo, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 2/2008
PL.Ảnh.16
Ảnh: Tiết mục: Giáo trống - Giáo Pháo, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo Pháo, Phường Xoan Kim Đái, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.17
Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008
Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008
PL.Ảnh.18
Ảnh: Tiết mục: Đóng đám, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008
Ảnh: Tiết mục: Bỏ bộ, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008
PL.Ảnh.19
Ảnh: Tiết mục: Đóng đám, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách, Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.20
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách, Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Tứ mùa cách, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.21
Ảnh: Tiết mục: Thuyền ch o cách, Phường Xoan Kim Đái, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008
Ảnh: Tiết mục: Thuyền ch o cách, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
PL.Ảnh.22
Ảnh: Tiết mục: Giã cá, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008
Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
PL.Ảnh.23
Ảnh: Tiết mục: Tứ dân Xoan cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Tứ dân Xoan cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
PL.Ảnh.24
Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
PL.Ảnh.25
Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
PL.Ảnh.26
Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
Ảnh: Tiết mục: Giáo pháo (buổi tập luyện truyền dạy), Phường Xoan Phù
Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
PL.Ảnh.27
Ảnh: Tiết mục: Giáo pháo (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan
Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
PL.Ảnh.28
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan
Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Trồng bông luống đậu (buổi tập luyện, truyền dạy),
Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
PL.Ảnh.29
Ảnh: Tiết mục: Trồng bông luống đậu (buổi tập luyện, truyền dạy),
Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
Ảnh: Tiết mục: Mó cá (buổi tập luyện truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
PL.Ảnh.30
Ảnh: Tiết mục: Tứ dân cách (buổi tập luyện truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Mó cá (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An
Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
PL.Ảnh.31
Ảnh: Tiết mục: Giáo pháo (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
PL.Ảnh.32
Ảnh: Tiết mục: Thuyền chèo cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Trồng bông luống đậu (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021
PL.Ảnh.33
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan
Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức
Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021
PL.Ảnh.34
Ảnh: Tiết mục: Dắt mẹ qua đ o (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).
Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy
Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019
Ảnh: Tiết mục: Dắt mẹ qua đ o (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).
Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy
Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019
PL.Ảnh.35
Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ).
Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
PL.Ảnh.36
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).
Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy
Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019
Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).
Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy
Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019
PL.Ảnh.37
Ảnh: Tiết mục: Trống quân – Đón đào, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020
Ảnh: Tiết mục: Trống quân – Đón đào, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020
PL.Ảnh.38
Ảnh: Tiết mục: Lễ Bế mạc và trao chứng chỉ
Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020
Ảnh: Tiết mục: Bỏ bộ, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB
hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.
Nguồn: Tác giả, tháng 11/2019
PL.Ảnh.39
Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 3/2019
PL.Ảnh.40
Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ). Học sinh Trường
tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo pháo (tiết học Âm nhạc). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
PL.Ảnh.41
Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo pháo (tiết học Âm nhạc). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo pháo (tiết học Âm nhạc). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018
PL.Ảnh.42
Ảnh: Tiết mục: Trống quân – Đón đào, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020
Ảnh: Tiết mục: Kiều giang cách, Nghệ nhân dạy hát và đánh trống.
Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan, GV Âm nhạc Trường tiểu học, THCS.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019
PL.Ảnh.43
Ảnh: Tiết mục: Kiều giang cách, Nghệ nhân dạy hát và đánh trống.
Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho Giáo viên Tiểu học, THCS.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019
Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách, Biểu diễn báo cáo kết quả học tập
Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan, GV Âm nhạc trường Tiểu học, THCS.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019
PL.Ảnh.44
Ảnh: Tiết mục: Trống quân – đón đào, Biểu diễn báo cáo kết quả học tập
Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan, GV Âm nhạc trường Tiểu học, THCS.
Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019
Ảnh: Tặng cở lưu niệm cho các trường tham gia Liên hoan hát Xoan, Học sinh Tiểu học, THCS
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 9-10/11/2019
PL.Ảnh.45
Ảnh: Tiết mục: Liên khúc hát Xoan “Thết trầu – Bợm gái”
Biểu diễn: Trung tâm Văn hóa tỉnh Phú Thọ tại triển lãm Danh thắng Việt Nam và Sản phẩm thủ công truyền thống
Nguồn: Trung tâm văn hóa tỉnh Phú Thọ, Ninh Bình 12/2021
Ảnh: Tiết mục: Xin huê – đố huê
Biểu diễn: Trung tâm Văn hóa tỉnh Phú Thọ tại triển lãm “Danh thắng Việt Nam và Sản phẩm thủ công truyền thống”
Nguồn: Trung tâm văn hóa tỉnh Phú Thọ, Ninh Bình 12/2021
PL.Ảnh.46
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 3/2019
Ảnh: Tiết mục: Tr o lên cây bưởi hái hoa, Học sinh trường Tiểu học Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, Liên hoan hát Xoan, Học sinh Tiểu học, THCS
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 9-10/11/2019
PL.Ảnh.47
Ảnh: Tiết mục: Tr o lên cây bưởi hái hoa, Học sinh trường Tiểu học Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, Liên hoan hát Xoan, Học sinh Tiểu học, THCS
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 9-10/11/2019
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, tháng 3/2019
PL.Ảnh.48
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì
Nguồn: Trường THCS Tiên Cát, tháng 3/2019
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019
PL.Ảnh.49
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019
PL.Ảnh.50
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019
Ảnh: Tiết mục: Hát ru mời rượu, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn “Khảo sát du lịch Tây Bắc” và Hội nghị tổng kết liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
PL.Ảnh.51
Ảnh: Tiết mục: Trống quân – đón đào, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn “Khảo sát du lịch Tây Bắc” và Hội nghị tổng kết liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/20
Ảnh: Tiết mục: Trống quân – đón đào, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn “Khảo sát du lịch Tây Bắc” và Hội nghị tổng kết liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và thành phố Hồ Chí Minh
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
PL.Ảnh.52
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.53
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.54
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.55
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái
Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.56
Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái
Đang tập luyện các động tác hát, múa cho các cháu nhỏ của Phường An Thái tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương , thành phố Việt Trì phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái
Đang tập luyện các động tác hát, múa cho các cháu nhỏ của Phường An Thái tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương , thành phố Việt Trì phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.57
Ảnh: Các Đào, Kép phường Xoan An Thái thực hiện cảnh chụp khi đi vào đình hát Xoan, do CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) dàn dựng tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái
Đang tập luyện các động tác hát, múa cho các cháu nhỏ của Phường An Thái tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương , thành phố Việt Trì phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.58
Ảnh: Các Đào, Kép phường Xoan An Thái thực hiện cảnh chụp khi đi vào đình hát Xoan, do CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) dàn dựng tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái
Đang hướng dẫn các cháu nhỏ phường Xoan An Thái đội khăn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
PL.Ảnh.59
Ảnh: Các Đào, Kép phường Xoan An Thái thực hiện cảnh chụp khi đi vào đình hát Xoan, do CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) dàn dựng tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022
Ảnh: Trang phụ Cổ của Đào, Kép Xoan
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
PL.Ảnh.60
Ảnh: Trang phụ của Đào, Kép Xoan hiện nay
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
Ảnh: Trống Xoan (trống cầm trầu hay còn gọi là trống Nhỏ, trống Con), đạo cụ được sử dụng trong khi hát Xoan.
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
PL.Ảnh.61
Ảnh: Phách (đạo cụ được sử dụng trong khi hát Xoan)
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
Ảnh: Trống cầm trầu hay còn gọi là trống Cái (đạo cụ được sử dụng trong
khi hát Xoan)
Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021
PL.Ảnh.62