VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NHUNG

HÁT XOAN PHÚ THỌ

TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2022

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NHUNG

HÁT XOAN PHÚ THỌ

TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM

Ngành: Văn hóa học

Mã số: 9.22.90.40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Hồng Lý

HÀ NỘI - 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sỹ này là kết quả nghiên cứu của riêng

tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố

trong các công trình nghiên cứu nào khác. Kết quả nghiên cứu của các nhà

nghiên cứu đi trước đã được tác giả tiếp thu chân thực, cẩn trọng trong luận án.

Tác giả luận án

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

LUẬN VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ........................................................ 10

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................ 10

1.1.1. Những nghiên cứu về di sản hóa và tính chính trị của di sản ............ 10

1.1.2. Những nghiên cứu về Hát Xoan và di sản hóa Hát Xoan ................. 17

1.2. Khái quát chung về Hát Xoan .................................................................... 21

1.2.1. Hát Xoan: những vấn đề về thể loại và nguồn gốc ............................ 21

1.2.2. Tổ chức, lệ tục Hát Xoan ................................................................... 29

1.2.3. Diễn xướng Hát Xoan ........................................................................ 34

1.3. Cơ sở lý luận ................................................................................................ 38

1.3.1. Các khái niệm công cụ dùng trong luận án ....................................... 38

1.3.2. Nghiên cứu Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa ............................... 42

Tiểu kết Chƣơng 1 .............................................................................................. 47

Chƣơng 2: BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH

GHI DANH DI SẢN HÁT XOAN PHÚ THỌ ................................................. 48

2.1. Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam ................................................................. 48

2.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa ................................................... 48

2.1.2. Bối cảnh văn hóa, chính trị và những tác động đến thực hành

Hát Xoan ...................................................................................................... 58

2.2. Quá trình ghi danh di sản Hát Xoan ......................................................... 64

2.2.1. Quá trình lựa chọn Hát Xoan ............................................................. 64

2.2.2. Quá trình xây dựng hồ sơ di sản Hát Xoan ....................................... 69

2.3. Di sản hóa Hát Xoan trong quá trình ghi danh di sản ............................ 76

2.3.1. Lập hồ sơ di sản và quá trình mở rộng quyền sở hữu........................ 76

2.3.2. Chọn lọc các yếu tố để có một hồ sơ di sản "có tính truyền

thống và có tính xác thực" ........................................................................... 78

Tiểu kết Chƣơng 2 .............................................................................................. 80

Chương 3: DIỆN MẠO HÁT XOAN PHÚ THỌ SAU GHI DANH DI SẢN ....... 81

3.1. Hoạt động kiểm kê, sƣu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Xoan .................. 81

3.1.1. Hoạt động kiểm kê tư liệu Hát Xoan ................................................. 82

3.1.2. Hoạt động sưu tầm và ký âm Xoan ................................................... 84

3.1.3. Đặt lời mới và sáng tác dựa trên ngữ liệu Xoan cổ ........................... 89

3.2. Hoạt động trình diễn và truyền dạy Hát Xoan hậu ghi danh di sản ...... 90

3.2.1. Những không gian Xoan sau ghi danh .............................................. 91

3.2.2. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan sau ghi danh tại các làng

Xoan cổ ........................................................................................................ 94

3.2.3. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và

dân ca Phú Thọ .......................................................................................... 100

3.2.4. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại công sở, trường học ........... 106

3.2.5. Thực hành và trình diễn Hát Xoan trong quảng bá du lịch và

văn hóa ....................................................................................................... 119

Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................. 122

Chƣơng 4: DI SẢN HÓA HÁT XOAN: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN ... 123

4.1. Hát Xoan và nguy cơ nhất thể hóa bài bản Xoan, xu hƣớng bảo tồn

bảo tàng hóa và vai trò, nhu cầu của cộng đồng chủ .................................... 123

4.2. Hát Xoan: củng cố ý thức bảo vệ di sản hay một hình thức phổ

quát hóa di sản .................................................................................................. 135

4.3. Giữ gìn, bảo vệ Hát Xoan và đời sống riêng của di sản ......................... 138

4.4. Di sản Hát Xoan và sự định giá di sản .................................................... 141

4.5. Di sản hóa Hát Xoan và các hình thức khác nhau của di sản ............... 144

Tiểu kết Chƣơng 4 ............................................................................................ 147

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .................... 154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 155

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

CLB Câu lạc bộ

DSVHPVT DSVHPVT

GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo

VHTT&DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch

UBND Ủy ban nhân dân

UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lần đến gặp các nghệ nhân Hát Xoan tại một phường Xoan cổ, tôi

rất ngạc nhiên khi thấy sau lúc tập luyện, các nghệ nhân ngồi bên nhau và hát

những bài do họ tự đặt lời, hân hoan tán thưởng những lời hát mới. Thấy sự hào hứng của tôi, nghệ nhân Thái1 ngẫu hứng hát thêm vài lời mới trên điệu Xoan cổ,

không quên nói thêm rằng, bà và mọi người ở đây đang "hát trộm ông Sở", vì

ông ấy biết thì sẽ không cho hát như thế. Các nghệ nhân còn cho biết thêm rằng,

có những quy định rất cụ thể trong việc nghệ nhân phải trình diễn các bài bản

Hát Xoan nào, mặc loại trang phục ra sao, nghệ nhân tham gia biểu diễn cần

được sự đồng ý cho phép của các ban ngành văn hóa,… Mấy người ngồi đó chia

sẻ thêm, bộ quần áo theo thiết kế mới họ "thấy không đẹp như bộ cũ", và họ rất

thích nghe và tự đặt lời mới cho Xoan, chẳng hạn để nói về chuyện bầu cử,

chuyện Covid-19,… nhưng không dám hát ở đâu cả, lúc truyền dạy ở trường

học, công sở hay khi biểu diễn đều phải theo đúng 31 bài bản đã được "ông"

UNESCO ghi danh. "Có lúc trời rét cũng phải bỏ giầy múa ra đi chân đất" để

theo đúng yêu cầu biểu diễn, vì "Hát Xoan là của người nông dân, nên nó phải

mộc mạc thế mới là Xoan".

Những gì chứng kiến đã khiến tôi đặt ra nhiều câu hỏi. Hát Xoan được

UNESCO ghi danh di sản, nhưng di sản này là của ai? Ai là người có thẩm

quyển quyết định Hát Xoan nên được thực hành bởi ai, ở đâu, như thế nào, theo

cách thức nào? Việc để những người thực hành Hát Xoan, cũng là "người mang di sản"2, phải bày tỏ nguyện vọng của họ về một cách thức Hát Xoan theo ý

muốn như vậy liệu có đúng với tinh thần bảo vệ và phát huy di sản vẫn được cả

UNESCO và các cơ quan, tổ chức tại địa phương đã cam kết? Những bài bản hát

Xoan vốn luôn được xem là cổ, và luôn được thực hành trong sự giám sát

1

nghiêm ngặt của các cơ quan hành chính thực sự xuất hiện khi nào, khi quá trình 1 Tên của các thông tín viên đều được tác giả luận án thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh. 2 Cụm từ do UNESCO sử dụng trong Công ước 2003.

làm hồ sơ, sưu tầm các bài bản để phục vụ công tác ghi danh di sản mới chỉ được

thực hiện vào những năm đầu thế kỉ XX, dựa trên nhiều tư liệu điền dã trước đó của các nhà nghiên cứu trong các đợt 19541, 1971-19732, 1978, 1998 - 20063?

Những thực hành Hát Xoan đã và đang diễn ra trên diện rộng tại Phú Thọ, xuất

hiện tại công sở, trường học, trong hầu khắp các hoạt động văn hóa, nghệ thuật

của tỉnh, tham gia vào nhiều khía cạnh đời sống cả về văn hóa lẫn kinh tế, xã hội

khơi gợi gì đến vấn đề về tính chính trị của di sản, điều đã được nói tới trong

nhiều nghiên cứu đi trước của Salemink (2001, 2012, 2014), Lê Hồng Lý và các

cộng sự (2014), Meeker (2019),…

Bảo vệ và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc là một trong

những vấn đề đang được những người làm công tác văn hóa, những nhà quản lý

và hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta quan tâm và trăn

trở. Tính đến năm 2017, Việt Nam đã có gần 10.000 di tích văn hóa cấp tỉnh,

thành phố; 3.463 di tích cấp quốc gia; 95 di tích quốc gia đặc biệt; 249

DSVHPVT được đưa vào danh mục DSVHPVT quốc gia. Trong số các di sản

đó, UNESCO (Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc) đã ghi danh 8 Di sản văn hóa và Thiên nhiên thế giới; 14 DSVHPVT4. Con số các

di sản vừa là niềm tự hào của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều

thách thức trong công tác bảo vệ, phát huy di sản.

Từ việc nhìn nhận lại về vai trò của văn hóa với phát triển trong thế kỉ

XX, đặc biệt là từ những động thái của UNESCO trong việc bảo vệ các di sản

1 Năm 1954, nhiều cán bộ ngành văn hóa phát hiện ra Hát Xoan lần đầu tiên và tiến hành giới thiệu, sưu tầm, chỉnh lý, đưa vào sáng tác ca nhạc, biên soạn hoạt cảnh cho tiết mục của các đoàn văn công. 2 Tác giả Nguyễn Khắc Xương sưu tầm 13 quả cách hát thờ phường Phù Đức (1971-1973), 13 quả cách hát thờ phường An Thái (1971, 1973 và 1978). 3 Từ 1998 đến 2006 là giai đoạn phục hồi các phường Xoan thành các Câu lạc bộ Xoan Kim Đức, An Thái, rồi tổ chức lại là 4 phường Xoan An Thái, Phù Đức, Kim Đái, Thét. 4 Nhã nhạc - Nhạc Cung đình Triều Nguyễn; Không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Hát Ca Trù; Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc; Hát Xoan Phú Thọ; Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca Ví, Dặm ở Nghệ Tĩnh; Nghi lễ và trò chơi Kéo co; Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài Chòi ở Trung Bộ; Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ thuật Xòe Thái.

2

(mà nổi bật là di sản phi vật thể) của nhân loại đã kéo theo những thay đổi trong

nhận thức chung về văn hóa, về di sản và quá trình bảo tồn, phát huy di sản.

Ngoài những Công ước và tôn chỉ hành động của UNESCO (Công ước 1972,

Công ước 2003), những tổ chức, hiệp hội, các nhà nghiên cứu, hoạch định và

quản lý văn hóa cũng đã có nhiều những bàn luận xung quanh vấn đề di sản.

Những tranh luận nổi bật nhất xoay quanh vấn đề nhận thức về di sản và giá trị

di sản, tính nguyên gốc của di sản và đánh giá vai trò của di sản văn hóa với

tương lai. Di sản văn hóa được nhìn nhận như một quá trình tiếp tục sáng tạo văn

hóa trong bối cảnh hiện tại, được tạo ra bởi những cảm nhận về các giá trị của

quá khứ và trong những mối bận tâm của thực tại và tương lai.

Những nhận thức về di sản văn hóa có một ý nghĩa quyết định đến công

tác sưu tầm, bảo tồn, quản lý và phát huy di sản, tác động mạnh mẽ đến các thực

hành di sản. Quan sát quá trình tác động và thay đổi đó từ các thực hành cụ thể,

các nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề mang tính lý thuyết: di sản hóa (heritagization),

trong đó di sản được coi là một động từ hơn là một danh từ, và di sản hóa được

xem như một thực hành văn hóa (Harvey 2008). Trên thực tế, khi được gắn cho

những danh hiệu khác nhau (di sản cấp tỉnh – cấp quốc gia – cấp quốc gia đặc

biệt – cấp thế giới), di sản không còn tồn tại như nó vốn có. Di sản, khi được

nhiều bên biết tới, đồng nghĩa với những cách thức thực hành văn hóa truyền

thống (trước khi được ghi danh) chịu sự tác động, biến đổi theo một tiêu chí hay

những định hướng phù hợp với quan điểm duy trì và bảo tồn mà các cơ quan

quản lý đưa ra. Quá trình di sản hóa, với việc lựa chọn di sản nào sẽ được ghi

danh và quá trình di sản tồn tại hậu ghi danh ở Việt Nam hiện đang đặt ra rất

nhiều vấn đề có ý nghĩa thiết thân đến sự tồn tại của chính di sản; và rất cần

những nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn để có thể tìm ra những cách

thức duy trì và bảo tồn phù hợp nhất, mang lại sức sống lâu bền cho di sản.

Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình dân ca nghi lễ phong

tục, có lịch sử hình thành và quá trình tồn tại gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng

3

Hùng Vương của cư dân Việt nơi này. Hát Xoan được Tổ chức Giáo dục, Khoa

học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) ghi danh DSVHPVT cần được

bảo vệ khẩn cấp vào 24/11/2011; và đến 8/12/2017, Hát Xoan được đưa ra khỏi

danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp để chuyển sang ghi danh trong danh

sách DSVHPVT đại diện của nhân loại. Kết quả điều tra năm 2010 cho thấy, Hát

Xoan gắn với 30 cửa đình, đền tại Phú Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di

tích thờ các vua Hùng và các nhân vật thời Hùng Vương. Trong số đó, chỉ có 4 làng

được xem là có họ Xoan cổ là An Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái (trước cách mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, này đều thuộc thành phố Việt Trì)1.

Các làng Xoan gốc này thuộc vùng sơn phận núi Hùng, cũng là những nơi hiện còn

lưu giữ được 31 bài bản Hát Xoan cổ.

Từ khi được công nhận đến nay, diện mạo của Hát Xoan đã có nhiều thay

đổi. Việc ghi danh di sản đã tác động mạnh đến những chính sách và thực hành

Hát Xoan, đồng thời kéo theo những chiều cạnh phức tạp trong mối quan hệ giữa

cộng đồng chủ thể, nhà nước và di sản. Lựa chọn đề tài Hát Xoan Phú Thọ

trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam, luận án mong muốn làm rõ quá trình di

sản hóa Hát Xoan ở Phú Thọ như thế nào, đồng thời góp phần bàn luận về sự tồn

tại của di sản trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

UNESCO ghi danh qua hai giai đoạn, từ 24/11/2011, trong danh mục DSVHPVT

cần bảo vệ khẩn cấp, và giai đoạn hai, từ 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa

ra khỏi danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại Danh sách

DSVHPVT đại diện của nhân loại. Luận án chú trọng nghiên cứu các vấn đề từ thực

hành bài bản Xoan, sưu tầm, ký âm, truyền dạy, công tác nghệ nhân,…, đến cách

Hát Xoan tham gia trong các chương trình, hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, kinh tế,

giáo dục, du lịch trong và ngoài địa bàn tỉnh để có thể hiểu về cách Hát Xoan hiện

1 Cả 4 họ Xoan đều được gọi theo tên làng.

4

Luận án nghiên cứu về diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ sau khi được

diện trong đời sống văn hóa tại Phú Thọ kể từ sau khi được ghi danh. Từ hiện trạng

cụ thể của Hát Xoan sau ghi danh, luận án bàn luận các vấn đề trong công tác bảo

vệ, phát huy di sản (các cấp), nhìn ra những động thái kinh tế, chính trị, văn hóa từ

các thực hành di sản Hát Xoan.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu về vấn đề di sản hóa các di sản văn hóa, tập trung vào vấn đề về tính

chính trị của di sản.

- Nghiên cứu về bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam từ các phương diện kinh tế, chính

trị, văn hóa.

- Nghiên cứu, tìm hiểu quá trình Hát Xoan Phú Thọ được lựa chọn và ghi danh là

DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO.

- Nghiên cứu những diễn biến sau ghi danh của Hát Xoan Phú Thọ, quá trình bảo vệ

khẩn cấp Hát Xoan, bàn luận vấn đề di sản hóa Hát Xoan trong bối cảnh hiện nay ở Việt

Nam.

Từ mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các thực hành Hát Xoan được tiến

hành tại tỉnh Phú Thọ sau quá trình ghi danh của UNESCO, trong sự tham chiếu

với các thực hành Hát Xoan diễn ra trước đó. Các thực hành Hát Xoan diễn ra tại

Phú Thọ rất đa dạng và phong phú, cả ở các phường Xoan cổ, ở các CLB, tại

trường học, công sở, các điểm du lịch, các chương trình văn hóa văn nghệ và

trong nhiều nghi lễ, lễ hội tại địa phương.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: luận án tìm hiểu về các thực hành Hát Xoan diễn ra ở Phú

Thọ, trong đó tập trung nghiên cứu các làng Xoan cổ như: An Thái, Phù Đức,

Kim Đới, Thét, một số làng Xoan, CLB Xoan mới, một số trường học, công sở,

địa điểm du lịch trong địa bàn tỉnh Phú Thọ có thực hành truyền dạy và trình

5

diễn Hát Xoan.

Về thời gian: Luận án nghiên cứu thực hành Hát Xoan ở Phú Thọ trong

giai đoạn từ sau khi được UNESCO ghi danh DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn

cấp của nhân loại (2011) cho đến nay, trong đó, chú trọng tập trung nhận diện,

phân tích và bàn luận các thực hành Hát Xoan đang diễn ra trong sự tham chiếu

với các thực hành đã diễn ra trước đó. Thời gian luận án thực hiện khảo sát là từ

năm 2016 đến năm 2021.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra trong đề tài, luận án xác định sử

dụng các phương pháp chính gồm:

- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Đây là phương pháp được tác giả

luận án sử dụng trong quá trình tìm kiếm và tổng hợp các tư liệu thứ cấp đã có

về Hát Xoan (cả tư liệu nghiên cứu và tư liệu thực hành), về các quan điểm

nghiên cứu, bảo vệ, phát huy di sản nói chung và di sản Hát Xoan nói riêng. Hệ

thống các tư liệu này được tác giả luận án tìm kiếm trong các thư viện (thư viện

Quốc gia và thư viện tỉnh Phú Thọ), các trung tâm lưu trữ tại Sở VH-TT-DL tỉnh

Phú Thọ, tại phòng văn hóa, Trung tâm di sản của tỉnh, kỷ yếu các hội thảo (cả

về chủ đề Hát Xoan và một số loại hình di sản được ghi danh khác). Ngoài ra,

các tư liệu liên quan đến quan điểm và chính sách bảo vệ, phát huy di sản còn

được tác giả tổng hợp từ tư liệu công bố trên website của UNESCO, trong các kỷ

yếu hội thảo, trong các quyết định, thông tư liên quan tới di sản nói chung và Hát

Xoan nói riêng, đặc biệt là hệ thống các công văn triển khai hoạt động bảo vệ

phát huy di sản tại tỉnh Phú Thọ.

- Phương pháp điền dã dân tộc học, trọng tâm là quan sát tham dự và

phỏng vấn sâu. Trong quá trình tìm hiểu về hiện trạng Hát Xoan sau ghi danh,

tác giả luận án đã tiến hành quan sát tham dự các thực hành diễn xướng Xoan

diễn ra tại các làng Xoan cổ vào các thời điểm hội, lễ (đặc biệt vào lễ hội đầu

năm và lễ giỗ tổ Hùng Vương); trong các hoạt động giao lưu, truyền dạy và

6

trong thời điểm thường ngày. Các thực hành Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và

dân ca Phú Thọ, tại trường học, công sở hay hoạt động trình diễn Xoan trên các

sân khấu tại địa phương, đặc biệt là các chương trình diễn dành cho khách du

lịch cũng được tác giả tham dự.

Các cuộc phỏng vấn sâu được tiến hành với các nghệ nhân thực hành

Xoan tại 4 làng Xoan cổ, các nghệ nhân và thành viên của CLB Hát Xoan và

Dân ca tỉnh Phú Thọ, người dân tại làng Xoan, cán bộ Sở VH-TT-DL, cán bộ

Phòng Di sản, cán bộ nhà nước tại một số cơ quan trong tỉnh (đã từng tham gia

các lớp tập huấn về Hát Xoan), cán bộ Sở GD&ĐT tỉnh Phú Thọ, cán bộ lãnh

đạo văn hóa xã, một số giáo viên tại một số trường Tiểu học và trung học phổ

thông tại thành phố Việt Trì, huyện Tam Nông (Hiệu trưởng, Hiệu phó, giáo viên

phụ trách Đoàn - Đội, giáo viên Âm nhạc và các giáo viên được phân công đi

học và truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường), học sinh (cấp 1, 2, 3) tại một số

trường học trên địa bàn tỉnh.

Tác giả cũng tham gia và tiến hành ghi chép, phỏng vấn trong các lớp tập

huấn Hát Xoan thường niên dành cho cán bộ nhà nước và giáo viên tại các

trường học. Những cuộc trao đổi với các nhà sưu tầm, nghiên cứu tại địa

phương, với các đạo diễn - biên kịch một số chương trình nghệ thuật của tỉnh và

các cán bộ làm công tác ký âm Xoan cũng được tác giả thực hiện trong thời gian

làm luận án.

Ngoài ra, do Hát Xoan là một loại hình nghệ thuật có âm nhạc, lời ca, giai

điệu, trang phục, nhạc cụ, luận án còn vận dụng cách tiếp cận và phương pháp

phân tích của ngành nhạc học và dân tộc học âm nhạc, đặc biệt trong phần tìm

hiểu về ký âm, âm nhạc, múa trong Hát Xoan.

Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả luôn cố gắng tuân thủ các

nguyên tắc trong việc khai thác các tư liệu điền dã. Tên của các thông tín viên

được thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh, và các tư liệu phỏng vấn được gỡ

băng ngay sau thời điểm tiến hành khai thác tại thực địa. Tác giả cũng duy trì

7

việc kết nối với các thông tín viên (thông qua điện thoại, Facebook...) để có thể

nắm bắt kịp thời các hoạt động diễn ra tại địa phương. Thông tin đăng tải từ

website của các khu du lịch, các trung tâm du lịch tại Phú Thọ, các chương trình

hoạt động văn hóa diễn ra trên địa bàn tỉnh được tác giả cập nhật thường xuyên.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án chỉ ra rằng, Hát Xoan là thực hành văn hóa đã được kiến tạo

trong lịch sử và hiện vẫn tiếp tục được kiến tạo, gắn với các nhu cầu về tâm linh,

văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế tại Phú Thọ.

- Luận án chỉ ra các vấn đề liên quan tới quá trình bảo vệ và phát huy di

sản Hát Xoan hậu ghi danh, từ việc sưu tầm, kiểm kê đến cách thức Hát Xoan

được truyền dạy và thực hành tại các làng Xoan cổ, tại công sở, trường học và

các địa điểm du lịch, trong các chương trình quảng bá văn hóa tại Phú Thọ. Luận

án cho thấy, việc Hát Xoan được bảo vệ và phát huy trên diện rộng đã gia tăng

các nguy cơ di sản hóa, cũng như có những tác động mạnh đến diện mạo của

thực hành Hát Xoan của quá trình bảo vệ và phát huy này, với các vấn đề về sự

nhất thể hóa, bảo tàng hóa, phổ quát hóa, giá trị hóa Hát Xoan, dẫn đến những

tiếp nhận trái chiều trong thực hành di sản.

- Luận án chỉ ra rằng, sau khi được UNESCO ghi danh, Hát Xoan có xu

hướng hình thành hai tiểu loại: Xoan tín ngưỡng (Xoan được cộng đồng thực

hành gắn liền với nhu cầu tâm linh, với tín ngưỡng thờ cúng tại đình, miếu địa

phương) và Xoan văn nghệ (Xoan được trình diễn cho các đối tượng thưởng thức

đa dạng bên ngoài), mỗi tiểu loại có các đặc trưng riêng về không gian, phương

thức và nguyên tắc thực hành.

- Luận án nhấn mạnh cách tiếp cận "di sản văn hóa sống", với việc xem di sản

như một yếu tố trong chỉnh thể văn hóa và xã hội, tôn trọng đời sống riêng của di sản

cũng như quyền sử dụng di sản của các chủ thể thực hành nhằm hướng tới việc phát

8

huy các giá trị của di sản trong bối cảnh di sản hóa hiện nay ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Về mặt lý luận: Thông qua nghiên cứu trường hợp di sản Hát Xoan, luận

án chỉ ra tầm quan trọng của cách tiếp cận xem di sản như một thực thể sống. Di

sản cần được tạo điều kiện để phát triển bình thường nhất có thể trong đời sống

văn hóa, xã hội của địa phương.

Về mặt thực tiễn:

- Kết quả nghiên cứu của luận án giúp cung cấp cơ sở khoa học cho các

nhà hoạch định chính sách trong việc thiết kế và triển khai các chương trình/ hoạt

động phù hợp trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt với hoạt động bảo tồn các

DSVHPVT.

- Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp vào hệ thống tri thức về văn

hóa của người Việt nói riêng và tri thức về văn hóa hệ thống các dân tộc ở Việt

Nam nói chung. Luận án được hoàn thiện có thể trở thành một tài liệu tham khảo

hữu ích trong nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa. Hướng tiếp cận di sản của

luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho ngành quản lý văn hóa,

quản lý di sản tại Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục (gồm cả Phụ lục Ảnh) và Tài

liệu tham khảo, luận án được triển khai với các chương cụ thể như sau:

Chương 1 - Tổng quan tình hình nghiên cứu, Cơ sở lý luận và Đối tượng

nghiên cứu

Chương 2 - Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam và quá trình ghi danh di sản

Hát Xoan Phú Thọ

Chương 3 - Diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ sau ghi danh di sản

9

Chương 4 – Di sản hoá Hát Xoan: những vấn đề bàn luận

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Những nghiên cứu về di sản hóa và tính chính trị của di sản

Tính đến năm 2021, Việt Nam có 14 DSVHPVT được UNESCO ghi

danh, gồm: Nhã nhạc cung đình Triều Nguyễn, Không gian văn hóa cồng chiêng

Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và

Đền Sóc, Hát Xoan Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ,

Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca Ví, Giặm ở Nghệ Tĩnh, Nghi lễ và trò

chơi Kéo co, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, Nghệ

thuật Bài Chòi ở Trung Bộ, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, Nghệ

thuật Xòe Thái. Ngoài các DSVHPVT kể trên, trên đất nước Việt Nam còn hiện

hữu nhiều loại hình di sản phi vật thể như âm nhạc, múa, tín ngưỡng, lễ hội,...

của người Kinh và các dân tộc thiểu số khác. Những di sản này có lịch sử tồn tại

gắn liền với đời sống văn hóa, xã hội của các cộng đồng, tộc người ở Việt Nam,

cả trong quá khứ và trong hiện tại.

Nghiên cứu về di sản văn hóa, trong đó có DSVHPVT, thu hút được sự

quan tâm của nhiều nhà khoa học và quản lý trong các lĩnh vực như văn hóa học,

dân tộc học, nhân học, quản lý văn hóa, bảo tàng,... Tùy vào mục đích nghiên

cứu, những chuyên gia có cách tiếp cận DSVHPVT khác nhau. Một cách khái

quát, có thể thấy các nghiên cứu về di sản thường tập trung vào một số vấn đề

như: quan điểm về di sản và vai trò của di sản; công tác sưu tầm, kiểm kê, tư liệu

hóa DSVHPVT; quá trình bảo vệ, khai thác và phát huy giá trị DSVHPVT trong

xã hội. Các tác giả đã khẳng định về tầm quan trọng của di sản trong đời sống

văn hóa cộng đồng, trong việc xác định bản sắc quốc gia, dân tộc (Hoàng Vinh

10

2006, Đặng Văn Bài 2007, Cao Tự Thanh 2013). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng,

để DSVHPVT tồn tại và phát huy được những giá trị vốn có trong xã hội hiện

nay, ngoài nhiệm vụ điền dã để sưu tầm, kiểm kê và tư liệu hóa, cần phải tôn

trọng và khuyến khích cộng đồng chủ thể di sản để họ lưu giữ, trao truyền các

loại hình DSVHPVT cho các thế hệ kế cận (Trần Văn Khê 2002, Đặng Văn Bài

2007, Tô Ngọc Thanh 2007, Nguyễn Xuân Kính 2009, Ngô Đức Thịnh 2010,

Bùi Hoài Sơn 2010, Lê Thị Minh Lý 2013, Lê Hồng Lý và các cộng sự 2014).

Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn vai

trò của các cơ quan, tổ chức, nhà nước với cộng đồng trong việc bảo vệ và phát

huy các giá trị của DSVHPVT của Việt Nam hiện nay.

Trong nghiên cứu về di sản, nổi bật là quan điểm lý thuyết về di sản hóa.

Theo Salemink (2014), di sản hóa (heritagization) là khái niệm được Robert

Hewison đưa ra năm 1987 trong “Công nghiệp di sản: Vương quốc Anh trong sự

đi xuống” (The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline) và có một quá

trình biến chuyển hàm nghĩa từ đó tới khoảng những năm 2009, 2010. Từ một khái

niệm vốn chỉ dùng để nói về những biến đổi trong các địa điểm di sản, di sản hóa

được Regina Bendix trong Di sản giữa kinh tế và chính trị: Đánh giá từ quan điểm

nhân học văn hóa (Heritage between economy and politics: An assessment from the

perspective of cultural anthropology) (2009) sử dụng với những hàm nghĩa mới.

Theo đó, quá trình bảo tồn một cách có ý thức các di sản cho hiện tại và cho các thế

hệ tương lai là quá trình "nhất thiết phải mang tính chọn lọc, do không phải mọi ký

ức văn hóa đều được coi là di sản" (dẫn theo Salemink 2014: 489). Bendix đã chỉ ra

một số sự biến đổi do sự phong thánh một số địa điểm và thực hành nhất định là di

sản đem lại: sự viện dẫn truyền thống và tính chân thực; sự hiện hình bản chất và

nuôi dưỡng vốn biểu tượng; sự tranh cãi về những giá trị di sản; công việc mang

tính biểu tượng về marketing. Đến Rosmary Coombe và Joseph Turcotte (2012)

trong “Di sản văn hóa của người bản địa trong sự phát triển và thương mại: Quan

điểm từ động năng Luật và chính sách di sản văn hóa” [Indigenous Cultural

11

Heritage in Development and Trade: Perspectives from the Dynamics of Cultural

Heritage Law and Policy], vấn đề di sản hóa được nhận định: "Có thể cho rằng, sự

nhấn mạnh mới lên việc kiểm kê DSVHPVT, cụ thể hóa chúng, gắn cho chúng

những người bảo vệ phù hợp, và đầu tư xây dựng năng lực để phát triển các chuyên

gia địa phương, tạo nên một chế độ quyền lực mới và chế độ này vừa hứa hẹn vừa

gây nguy hiểm đến các cộng đồng địa phương và người bản xứ được coi là có một

nền văn hóa riêng biệt mà những chế độ mới này tìm kiếm để đánh giá" (Coombe

and Turcotte 2021: 31-32, dẫn theo Salemink 2014: 491). Nói theo cách của

Salemink, do vướng vào những hệ thống đánh giá khác nhau (bởi người thực hành,

bởi các chuyên gia văn hóa, bởi cán bộ nhà nước, bởi thị trường), ở những cấp độ

khác nhau (địa phương, quốc gia, liên quốc gia và quốc tế), việc công nhận

DSVHPVT có thể là một may mắn không trọn vẹn với những cộng đồng là người

mang - nhưng có lẽ không còn là người sở hữu, khi thực hành văn hóa trở thành di

sản (Salemink 2014: 491).

Trong các nghiên cứu về di sản ở Việt Nam, từ khoảng năm 2010, các nhà

nghiên cứu bắt đầu nói tới vấn đề di sản hóa. Người đề cập trực tiếp và bàn luận

nhiều nhất về vấn đề di sản hóa các loại hình DSVHPVT ở Việt Nam là Oscar

Salemink. Trong bài viết “Di sản hóa văn hóa sống ở Việt Nam như DSVHPVT” in

trong Hội thảo 10 năm thực hiện công ước bảo vệ DSVHPVT của UNESCO - Bài

học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Salemink đã giới thiệu về khái niệm “di

sản hóa” (heritagization) thông qua việc điểm lại quá trình thuật ngữ này xuất hiện

và những hàm nghĩa của di sản hóa. Từ bối cảnh cụ thể ở Việt Nam, nhà nghiên cứu

phát triển cách hiểu về khái niệm di sản hóa, "Di sản hóa - được hiểu theo nghĩa

đơn giản nhất, cụ thể là gắn cho các di tích và thực hành văn hóa danh hiệu di sản"

(tr.494). Quá trình này có khả năng đưa đến sự xói mòn các quyền của cộng đồng

sở hữu di sản, cao hơn là sự tước mất quyền của các cộng đồng địa phương,

"công cụ hóa các thực hành văn hóa bởi vì nó thường phù hợp với mối quan tâm

của những người bên ngoài - các cá nhân và chuyên gia văn hóa, chính quyền địa

12

phương, chính phủ quốc gia (tr.494). Salemink đã bàn luận về vấn đề di sản hóa

một số loại hình DSVHPVT đại diện nhân loại của Việt Nam như Nhã nhạc

cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hát Xoan Phú

Thọ, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù... Theo tác giả, quá trình tuyên bố và công nhận

di sản ở Việt Nam là quá trình chính trị hóa di sản ở các cấp, với những sự trùng

lặp và tương tác. Ngoài ra, nhà nước còn phải chịu những trách nhiệm liên quan

đến việc quản lý, bảo vệ hoặc giữ gìn di sản. Như vậy, di sản của cộng đồng khi

được UNESCO công nhận sẽ trở thành “tài sản quốc gia” (Salemink 2015: 485).

Và khi trở thành tài sản quốc gia, nhà nước sẽ có những chính sách quản lý, bảo

tồn di sản như sân khấu hóa, giảng dạy các di sản như Ví, Giặm Nghệ Tĩnh,

Quan họ Bắc Ninh, Hát Xoan Phú Thọ trong trường học hoặc thế tục hóa lễ hội...

Những việc làm trên thường hướng đến những người bên ngoài chứ không phải

là chủ thể di sản, trong khi cộng đồng, chủ thể di sản mới đóng vai trò quyết định

sự tồn tại của di sản.

Nhấn mạnh thêm về tính chính trị của DSVHPVT ở Việt Nam, trong bài viết

“Appropriating Culture: The politics of intangible cultural heritage in Vietnam -

Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về DSVHPVT ở Việt Nam”, Oscar

Salemink (2012) đã phân tích sự cạnh tranh mang tính địa phương, ở cấp quốc gia

và toàn cầu để đạt được sự công nhận mang tính quốc gia và của tổ chức

UNESCO. Sự công nhận dù mang tính quốc gia hay toàn cầu thì nhà nước cũng

can thiệp trong việc quản lý, bảo vệ và giữ gìn di sản, sự can thiệp đó là một sự

“chiếm đoạt” DSVHPVT từ chủ thể di sản - những người đã sáng tạo, gìn giữ và

có các quyền lợi về di sản - ra khỏi những thực hành văn hóa của họ. Sự can

thiệp này mang tính hai mặt, nếu việc tổ chức, quản lý, bảo quản cũng như chia

lợi ích hợp lý thì sẽ mang lại kết quả tốt; ngược lại, nó cũng có thể đẩy chính

những người dân ra ngoài lề, mất độc quyền thực hành văn hóa của chính họ.

Đề cập đến di sản hóa các loại hình DSVHPVT, trong chuyên khảo “Bảo tồn

và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa: nghiên cứu trường hợp

13

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà Nội), Tháp bà Poh

Nagar (Khánh Hòa) và văn hóa cồng chiêng của người Lạch (Lâm Đồng)”, tác giả

Lê Hồng Lý và các cộng sự (2012) cho rằng, quan điểm bảo tồn có chọn lọc, xếp

hạng các di sản, quản lý, sân khấu hóa, sáng tạo truyền thống trong công tác bảo

tồn và phát huy di sản của các tác nhân bên ngoài chính là quá trình di sản hóa.

Quá trình này có thể làm suy giảm quyền quản lý, tổ chức, sáng tạo, hưởng lợi

của cộng đồng chủ thể di sản, thậm chí còn "ngoài lề hóa" cộng đồng chủ, tước

đoạt các quyền của chủ nhân văn hóa đối với di sản. Quá trình này hình thành

nên tâm lý trông chờ, ỷ lại, thờ ơ với chính di sản văn hóa vốn thuộc về cộng

đồng, bởi sau khi được tôn vinh, những di sản này đã trở thành “tài sản của quốc

gia” chứ không còn thuộc về người dân như trước.

Trong tham luận “Di sản hóa lễ hội truyền thống và tính thiêng trong nghi

lễ”, Phan Phương Anh đã có những nhìn nhận về tính thiêng trong lễ hội và quan

niệm di sản hóa văn hóa phi vật thể để làm cơ sở để phân tích về di sản hóa lễ hội

truyền thống ở Việt Nam. Theo tác giả, di sản hóa là quá trình đưa một loại hình

văn hóa thành một di sản qua hai giai đoạn lập hồ sơ đến lúc công nhận là di sản và

giai đoạn kể từ sau khi được công nhận là di sản. Trong lễ hội truyền thống ở Việt

Nam, nhân vật được thờ phụng là hiện thân của cái thiêng, do vậy mọi yếu tố liên

quan đến nhân vật - từ truyền thuyết, thần tích, lễ vật, người tham gia và quy trình lễ

hội đều chứa đựng yếu tố thiêng. Kết quả khảo sát thực tế tại lễ hội Gióng ở đến

Phù Đổng và lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ của tác giả cho thấy, lễ hội Gióng giữ

được tính nguyên thức nhờ có Sổ hội lễ truyền từ đời này sang đời khác, do vậy

tính thiêng là cái được cả cộng đồng quy định nhưng lễ hội đền Hùng lại bị hành

chính hóa mạnh mẽ, chẳng hạn, thành phần trung tâm dâng hương là các lãnh

đạo Đảng và nhà nước và các cơ quan trung ương; chủ lễ là một đồng chí lãnh

đạo Đảng và nhà nước cao cấp; toàn bộ chương trình lễ hội được lên kịch bản và

quy định chặt chẽ còn người dân bị loại trừ ra khỏi lễ hội,... Như vậy, tính thiêng

của lễ hội đã bị can thiệp và không còn được đảm bảo, và đây là biểu hiện của

14

quá trình di sản hóa.

Quan tâm đến quá trình di sản hóa đối với những thực hành văn hóa xã

hội ở làng cổ Đường Lâm hiện nay, Lê Thị Ngà (2015) đã tập trung mô tả và

phân tích những tác động của quá trình di sản hóa đến những thực hành văn hóa

xã hội trong mối quan hệ nhiều chiều từ nhà nước, tổ chức, cộng đồng. Từ đó,

tác giả đã chỉ ra rằng, trước khi được công nhận di sản, các di tích và thực hành

văn hóa từng do cộng đồng sở hữu, quản lý, tổ chức; còn sau khi được di sản hóa

đã trở thành tài sản của nhà nước được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của

nhà nước quản lý hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Quá trình di sản hóa đôi khi hạn

chế hoặc tước bỏ nhiều quyền của các chủ nhân di sản ra khỏi các thực hành văn

hóa, di tích đã được nhà nước công nhận, ghi danh.

Đào Xuân Quý (2016) trong “Lễ hội đình, đền làng Cổ Tích (Phú Thọ)

hậu di sản” cho rằng quá trình di sản hóa, một mặt đã làm cho di tích văn hóa

của làng Cổ tích được trùng tu, tôn tạo khang trang hơn, lễ hội được tổ chức quy

mô và hoàng tráng hơn, mặt khác đã làm thay đổi nội dung và diễn trình lễ hội

cũng như “ngoài lề hóa” cộng đồng chủ ở nhiều khía cạnh từ vai trò tổ chức,

quản lý đến các quyền được hưởng trong lễ hội (tr.69). Cũng nghiên cứu về lễ

hội nhưng Nguyễn Thị Nhung (2017) tập trung tìm hiểu sự tham gia của các cơ

quan quản lý nhà nước trong tổ chức và quản lý lễ hội chùa Hương, trên cơ sở đó

tác giả đưa ra những đánh giá về sự tác động của các tổ chức bên ngoài đến biến

đổi trong các thực hành văn hóa của người dân địa phương. Bên cạnh đó,

Nguyễn Thị Nhung cũng dành bàn về vai trò của nhà nước và vấn đề ngoài lề

hóa cộng đồng chủ trong lễ hội chùa Hương. Theo tác giả, việc nhà nước can

thiệp quá mức vào việc tổ chức, quản lý lễ hội chùa Hương đã đẩy người dân địa

phương - chủ nhân của lễ hội ra khỏi những hoạt động về nghi lễ, hội và cả

những hình thức mưu sinh khi lễ hội diễn ra.

Ngoài các công trình trên, vấn đề di sản hóa còn được nhà nghiên cứu Lương

Hồng Quang đề cập trong nhiều bài viết đăng trên các báo điện tử như “Bảo tồn

15

DSVHPVT: cả tĩnh và động đều có vấn đề” (tuoitre.vn, ngày 29/11/2013), “Nên

lược bỏ những nghi lễ không phù hợp” (baomoi.com, ngày 07/03/2015), “Quản lý

lễ hội: cân bằng lợi ích các bên” (thethaovanhoa.vn, ngày 05/04/2015)...

Sau một thời gian dài nghiên cứu về di sản, nhóm các nhà nghiên cứu Lê

Hồng Lý, Nguyễn Thị Phương Châm, Hoàng Cầm, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế

Đức đã công bố các nghiên cứu cho thấy nhiều vấn đề đặt ra với công tác bảo vệ

di sản ở Việt Nam. Trong “Bảo vệ và phát huy DSVHPVT được UNESCO ghi

danh: thành tựu, bất cập và các khuyến nghị” (2018), nhóm tác giả cho rằng, việc

UNESCO ghi danh di sản đã có những tác động lớn tới nhận thức của các cấp

chính quyền và chính người dân về di sản, các hoạt động bảo vệ di sản dù góp

phần làm cho nhiều di sản được hồi sinh và phát triển, trở thành vốn văn hóa của

các cộng đồng, tộc người nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực hiện đúng tinh

thần và nguyên tắc của Công ước 2003 của UNESCO, của Luật Di sản của Việt

Nam và vì vậy đã tạo ta các thách thức cho sự tồn tại bền vững của các di sản.

Đó là sự ngoài lề hóa cộng đồng chủ; sân khấu, làm mới, thương mại hóa di

sản; chính thống, nhà nước hóa công tác bảo vệ di sản và những bất cập trong

việc truyền dạy và công tác nghệ nhân. Việc được UNESCO ghi danh di sản

cũng mang lại nhiều ngộ nhận, chẳng hạn việc “hoành tráng hóa di sản cho

xứng tầm”, thể hiện trong việc mở rộng các khu di tích, mở rộng quy mô các

thực hành di sản,... và tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của nhà nước, dễ

gây nên những thất vọng cho người thực hành khi sự đầu tư không được như

mong muốn.

Như vậy, trong những nghiên cứu đề cập đến vấn đề di sản hóa văn hóa

phi vật thể ở Việt Nam, hầu hết đều nhấn mạnh vào những biến đổi của di sản,

sự can thiệp quá mức của các tổ chức bên ngoài vào quản lý, tổ chức, bảo vệ di

sản thông qua các hình thức kiểm kê, rà soát, sân khấu hóa, lễ hội hóa di sản...

Cùng với đó, các nghiên cứu về di sản hóa cũng nói tới cách các tổ chức bên

ngoài dần tước bỏ các quyền và nghĩa vụ của cộng đồng chủ, khiến họ dần trở

16

nên lạc lõng và thờ ơ với di sản của chính mình.

1.1.2. Những nghiên cứu về Hát Xoan và di sản hóa Hát Xoan

Nghiên cứu về Hát Xoan

Hát Xoan là một trong những loại hình dân ca mang đặc trưng văn hóa

vùng Bắc bộ nói chung và Phú Thọ nói riêng. Đây là DSVHPVT có lịch sử hình

thành, tồn tại gắn liền với các loại hình tín ngưỡng cổ xưa của cư dân Việt. Vì vậy,

từ rất sớm, Hát Xoan đã được nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa, âm nhạc, nhân

học,... quan tâm trên nhiều phương diện như tên gọi, truyền thuyết, nguồn gốc, giai

điệu, bài bản hát xướng cho đến các giá trị văn hóa, biện pháp bảo tồn và phát huy

giá trị của loại hình dân ca này.

Về tên gọi Hát Xoan, nhiều nghiên cứu cho rằng, Hát Xoan là hát Xuân, là

loại hình dân ca thường được tổ chức vào mùa Xuân, gắn với câu chuyện truyền

thuyết về nàng Quế Hoa hát múa cho vợ của Vua Hùng khi bà sinh nở (Nguyễn

Khắc Xương 1978, Đức Bằng 1982). Theo các tác giả Tú Ngọc (1997) trong Hát

Xoan dân ca lễ nghi - Phong tục, Phạm Phúc Minh trong cuốn Tìm hiểu dân ca

Việt Nam, Hát Xoan được xếp vào loại hình dân ca nghi lễ, gắn với tục thờ các vị

vua Hùng cùng tướng lĩnh và tôn thất của nhà vua. Các truyền thuyết về nguồn gốc

ra đời của Hát Xoan cũng được nói tới trong Hát Xoan dân ca lễ nghi - Phong tục

(Tú Ngọc 1997), Hát Xoan hát Ghẹo Vĩnh Phú (Nguyễn Khắc Xương, Dương

Huy Thiện 1979), “Lễ hội Hát Xoan và sự tích bánh chưng bánh dày (xã Kim Đức,

huyện Phù Ninh)” của Phạm Bá Khiêm (trong Lễ hội truyền thống vùng đất Tổ)

(2005), gắn với các nhân vật và lệ tục thời kì Hùng Vương. Các nghiên cứu cũng

khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của loại hình nghệ thuật này trong thời Hậu Lê

(thế kỉ XV). Trần Thị Kim Anh trong “Từ những chữ Nôm Lý Liên - Lễ Liên và

đôi điều suy nghĩ về nguồn gốc Hát Xoan” (2010) nêu giả thuyết Hát Xoan là di

sản của lối hát múa nơi cung thất từ thời Văn Lang (tr.66-68).

Dựa trên những bài bản Hát Xoan, các nghiên cứu cũng đi sâu phân tích

các đặc điểm của loại hình nghệ thuật này. Lời ca Hát Xoan với các bài khấn

nguyện thần thánh, chúc tụng, những bài hát “kết duyên với người tình nhân” trữ

17

tình hoặc ca ngợi sự lao động cần cù, siêng năng của người dân lao động.

Thể thức của Hát Xoan với 13 quả cách và 9 giọng vặt được khảo trong

“Hát Xoan Phú Thọ” (Nguyễn Lộc 1974, tr.83-89); các dạng thang âm như thang

ba, thang bốn, thang năm (dạng “thang âm không có bán âm”) trong Hát Xoan của

tác giả Tú Ngọc trong Bước đầu tìm hiểu Hát Xoan Vĩnh Phú (1981), Hát Xoan

(12 bản phổ) (1997). Trình tự các cuộc hát (chặng nghi lễ, chặng hát hội), các

chặng Hát Xoan như chặng một, Hát chúc, Giáo trống, Giáo pháo, Thơ nhang,

Đóng đám; chặng hai, trình diễn các quả cách; chặng 3, hát các giọng vặt và có

phần múa minh họa, gồm các tiết mục: Bợm gái, Bỏ bộ, Xin hoa - Đố chữ, Gài

hoa…; lệ giữ cửa đình và tục kết nghĩa, vai trò của ông trùm trong phường

Xoan, khả năng và trình độ văn hóa âm nhạc của đào kép trong Hát Xoan, trang

phục, đạo cụ và nhạc cụ của phường Xoan được khảo tả trong các nghiên cứu

“Vị trí, ý nghĩa của Hát Xoan trong văn hóa âm nhạc Việt Nam” của Phạm

Trọng Toàn (2001), Hát Xoan Phú Thọ (Nguyễn Khắc Xương 2003); “Lễ hội Hát

Xoan và sự tích bánh chưng, bánh dày xã Kim Đức” (Phạm Thị Thiên Nga 2012),

“Đôi điều về Hát Xoan” của Dương Anh (2005), Âm nhạc dân gian Phú Thọ

(Trần Văn Thục 2009)...

Vấn đề về múa Xoan, cách truyền dạy Hát Xoan, mối họ Xoan, quan hệ

kết nước nghĩa cũng được các nghiên cứu đề cập tới (Nguyễn Lộc 1975). Ngoài

ra, Hát Xoan còn được nghiên cứu trong mối quan hệ với Ca trù trong bài viết “Mối

quan hệ giữa Hát Xoan và hát Ca trù” (Tú Ngọc 1997), với hát Ví, hát Đúm, hát

Ghẹo, hát Trống quân; Hát Xoan và hát Dậm, hát Ch o tàu. Mối quan hệ Hát Xoan

và hát Quan họ được nghiên cứu trong “Tương đồng, khác biệt giữa Hát Xoan, hát

Ghẹo Phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh” của Phạm Trọng Toàn (2006).

Các công trình nghiên cứu về Hát Xoan nói trên đều ít nhiều đề cao giá trị

của di sản này, nhất là khi Xoan được ghi danh DSVHPVT cần được bảo vệ

khẩn cấp. Các giá trị của Hát Xoan được nói tới như giá trị lịch sử, giá trị tín

ngưỡng (thờ thần thành hoàng), lệ tục (giữ cửa đình, kết nước nghĩa), giá trị

18

nghệ thuật (loại hình diễn xướng dân gian mang tính nguyên hợp bao gồm nói,

kể, ví, vè, ca hát, múa, diễn trò, hô ứng đệm; lại có cả hình thức hát nước nghĩa, hát

theo cuộc, hội, đám, phường; lại có nhiều giọng như giọng nguyên, giọng vặt; lại có

nhiều thể thức hát như hát lề lối, hát đối đáp, hát tự do; môi trường diễn xướng đa

dạng như ngoài trời, trong nhà, ngoài sân đình, sân chùa, sân khấu...).

Nghiên cứu về bảo tồn và phát huy di sản Hát Xoan

Công tác bảo tồn và phát huy di sản Hát Xoan được đề cập tới trong một

số nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhạc sĩ từ những năm 90 của thế kỉ XX,

và được quan tâm nhiều hơn là sau khi loại hình dân ca này được UNESCO công

nhận là DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Hướng bảo tồn và phát

triển Hát Xoan được tác giả Tú Ngọc (1994) đề xuất trong “Hát Xoan Vĩnh Phú

(mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc trưng loại hình và hướng bảo tồn phát triển)”, với

bốn hướng gồm: 1) Lễ hội hóa Hát Xoan bằng cách tổ chức các cuộc hát trong

các lễ hội ở Phú Thọ, tiêu biểu là lễ hội Đền Hùng; 2) Phổ cập hóa Hát Xoan

bằng cách truyền dạy những làn điệu Hát Xoan trên chính những làng Xoan cổ,

Xoan mới và trong các trường học; 3) Khuyến khích các nghệ sĩ, nhạc sĩ sáng

tác, dàn dựng các chương trình nghệ thuật mang chất liệu Xoan; 4) Đưa Hát

Xoan hội nhập với du lịch địa phương (tr.24-26). Đồng tình với những giải pháp

bảo tồn Hát Xoan của Tú Ngọc, nhạc sĩ Cao Khắc Thùy đề xuất thêm rằng, cần

tạo môi trường “sống” cho loại hình di sản này bằng cách trả Hát Xoan về với

những tục lệ của cộng đồng chủ thể đồng thời cần tập trung “trồng” lại vốn dân

ca Xoan trên đất xưa của nó (tr. 57). Câu chuyện về bảo tồn Hát Xoan dù được

bàn thảo trở lại vào năm 2003 trong các nghiên cứu của Tổng tập văn nghệ dân

gian đất Tổ nhưng do Xoan và Ghẹo vẫn được lồng ghép về thể loại nên việc bảo

tồn Hát Xoan không có nhiều thay đổi. Đến năm 2011, khi Hát Xoan được

UNESCO công nhận là DSVHPVT của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp, các nhà

nghiên cứu, quản lý mới đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý, bảo tồn loại hình

dân ca này. Cao Khắc Thùy trong Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường

19

(2011), Cao Hồng Phương trong Hát Xoan, hát Ghẹo một giá trị văn hóa phi vật thể

(2011) bàn luận về khôi phục, bảo tồn, củng cố, mở rộng, thành lập phường Hát

Xoan, công tác đào tạo cán bộ và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước và

chính quyền tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra còn có các bài tham luận bàn về vấn đề bảo tồn

Hát Xoan trong giai đoan hiện nay được trình bày tại Hội thảo quốc tế về Hát

Xoan do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ chủ trì năm 2012.

Nghiên cứu về di sản hóa Hát Xoan

Vấn đề di sản hóa Hát Xoan được nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Phương

Châm nói tới trong bài viết “Thực hành hát Xoan từ khi được UNESCO ghi danh

và những vấn đề đặt ra” (2017) và trong nghiên cứu cùng nhóm tác giả Hoàng

Cầm, Nguyễn Thị Hiền “Bảo vệ và phát huy DSVHPVT được UNESCO ghi

danh: thành tựu, bất cập và các khuyến nghị” (2018). Cách thức đưa Hát Xoan

thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp, bảo vệ và phát huy Xoan của tỉnh Phú Thọ

đặt ra nhiều vấn đề đối với diện mạo di sản. Việc thành lập các CLB Hát Xoan

trong toàn tỉnh, cách thức đưa Hát Xoan vào dạy trong công sở, trường học và

cách Hát Xoan xuất hiện trong mọi chương trình nghệ thuật tại địa phương đã

dẫn đến nhiều các nguy cơ cụ thể. Theo các tác giả, việc chính quyền các cấp

dành sự quan tâm quá mức cho các hoạt động bảo vệ di sản Hát Xoan, từ vấn đề

truyền dạy lẫn hoạt động quảng bá và phát huy đã dẫn đến sự mất cân đối khá rõ

giữa các di sản trong địa bàn. Nguy cơ mai một của các loại hình dân ca khác là

khá cao, khi hầu như mọi sự đầu tư, đề cao là dành cho Hát Xoan. Chưa kể, việc

Xoan hóa một di sản vốn chỉ thuộc về một số cộng đồng trong phạm vi hẹp

thành thực hành trên toàn tỉnh khiến dẫn tới sự phản cảm với nhiều người dân tại

các địa bàn khác trong tỉnh. Thêm vào đó, quá trình ghi danh và bảo vệ Hát

Xoan cũng đặt ra vấn đề chính thống hóa, với sự can thiệp của Sở VHTTDL

trong mọi công việc liên quan đến Hát Xoan như điều tra, sưu tầm, kiểm kê, tư

liệu hóa, nghiên cứu, truyền dạy, quảng bá, quản lý các phường Xoan, lịch và

chương trình biểu diễn, công tác nghệ nhân... với các thực hành vốn dĩ nằm

20

trong tầm kiểm soát của cộng đồng 4 làng Xoan cổ. Những câu chuyện hành

chính hóa Hát Xoan như các lớp truyền dạy Xoan do Sở VHTTDL quản lý,

người đến dạy, học kí nhận, trả tiền; sự can thiệp của Sở để đưa Hát Xoan vào

chương trình kịch bản nhiều lễ hội trong tỉnh; mẫu trang phục Hát Xoan nghệ

nhân mặc theo thiết kế của tỉnh, công tác xét công nhận nghệ nhân theo các tiêu

chí hành chính... và các bất cập trong truyền dạy và công tác nghệ nhân cũng

được nhóm tác giả đề cập trong các bài viết.

Các nghiên cứu về di sản hóa, về Hát Xoan, về di sản hóa Hát Xoan đã

gợi mở nhiều vấn đề cho tác giả luận án. Các nghiên cứu đi trước đã cung cấp hệ

thống lý luận về di sản hóa, đồng thời chỉ ra các nguy cơ di sản hóa với các di

sản trong quá trình được ghi danh và giai đoạn hậu ghi danh. Những nghiên cứu

đã có về Hát Xoan cho thấy, đây là một loại hình dân ca nghi lễ, gắn với tục thờ thần

tại các đình miếu địa phương. Các chặng hát, bài bản hát, quy tắc múa Xoan liên

quan chặt chẽ với yếu tố tín ngưỡng, vậy nên nguy cơ di sản hóa Hát Xoan khi loại

hình di sản này bị tách khỏi môi trường nghi lễ và trong các bối cảnh diễn xướng là

rất lớn. Từ các công trình đã có, luận án nhận thấy còn một khoảng trống lớn trong

nghiên cứu về Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa tại Việt Nam. Quá trình di sản hóa

Hát Xoan, gồm việc lập hồ sơ công nhận di sản và những tác động di sản hóa sau ghi

danh như vừa tăng quyền vừa giới hạn quyền của chủ thể di sản; sự tham gia, quản lý,

sân khấu hóa, sáng tạo truyền thống với Hát Xoan cũng như vấn đề về sự tồn tại của

di sản Hát Xoan như một sinh thể sống với nhiều các biến đổi nhằm thích ứng với

nhu cầu của người dân, trong bối cảnh đời sống kinh tế, chính trị xã hội tại địa

phương... vẫn còn chưa được đề cập nhiều trong các nghiên cứu. Khoảng trống này

chính là các nội dung mà luận án hướng tới.

1.2. Khái quát chung về Hát Xoan

1.2.1. Hát Xoan: những vấn đề về thể loại và nguồn gốc

Về thể loại Hát Xoan

Hát Xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thuộc loại hình dân ca nghi lễ phong

21

tục, có lịch sử hình thành và quá trình tồn tại gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng

Hùng Vương của cư dân Việt nơi này. Hát Xoan, hay hát Lãi L n, hát Thờ, hát

Khúc môn đình… là lối hát thờ, thường được tổ chức vào mùa xuân. Các nghiên

cứu đã có về Hát Xoan đều khẳng định đây là loại hình dân ca có lịch sử lâu đời,

gắn liền với thời Văn Lang. Hiện tại, Hát Xoan gắn với 30 cửa đình, đền tại Phú

Thọ và Vĩnh Phúc, trong đó đa số là các di tích thờ các vua Hùng và các nhân vật

thời Hùng Vương. Trong số đó, chỉ có 4 làng được xem là có họ Xoan cổ là An

Thái, Thét, Phù Đức và Kim Đái (trước cách mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, này đều thuộc thành phố Việt Trì)1. Các làng Xoan gốc này thuộc vùng

sơn phận núi Hùng, cũng là những nơi hiện còn lưu giữ được 31 bài bản Hát Xoan

cổ. Hát Xoan là loại hình dân ca địa phương, các làng Xoan là những ngôi làng cổ

nằm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - vùng đất Tổ gắn với nước Văn Lang của các vua

Hùng. Tỉnh trung du Phú Thọ nằm ở Tây Bắc, Bắc Bộ Việt Nam, trước đây được

biết đến với tên gọi Vĩnh Phú. Từ tháng 3/1997, Vĩnh Phú được chia tách thành hai

tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Dựa theo các tư liệu lịch sử văn hóa về vùng đất Phú

Thọ đã được các tác giả Tú Ngọc (1997), Nguyễn Khắc Xương (2008), Dương Huy

Thiện (2015), … bàn định trong hầu hết các cuốn sách về Xoan, chúng tôi xin điểm

một số nội dung chính liên quan đến không gian văn hóa của Xoan như sau.

Địa bàn tỉnh Phú Thọ ngày nay thuộc vùng đất tổ Hùng Vương. Đại việt sử

kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Việt sử lược, Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán

triều Nguyễn) đều cung cấp thông tin về vùng đất của Hùng Vương ở châu Phong/

đất Phong Châu xưa. Vùng đất này gắn với truyền thuyết về các vua Hùng dựng

nước Văn Lang. Cương vực của nước Văn Lang đến đâu hiện vẫn còn tồn tại nhiều

giả thuyết, nhưng đều có một điểm thống nhất chung là trung tâm của nhà nước

Văn Lang nằm tại Châu Phong, giới hạn ở khu vực tam giác Ngã ba Hạc – núi

Hùng thời Lê và Nguyễn thuộc huyện Bạch Hạc rồi Hạc Trì. Đây cũng chính là

không gian tập trung của các làng Xoan cổ. Và những truyền thuyết về nguồn gốc

ra đời của Xoan, các lời hát và nghi thức hát thờ trong Xoan gắn bó chặt chẽ với

1 Cả 4 họ Xoan đều được gọi theo tên làng.

22

thời đại và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trên dải đất này.

Các tư liệu khảo cổ học cho thấy, trên đất Phú Thọ ngày nay đã có dấu tích

sinh sống của người Việt cổ cách nay hàng chục nghìn năm. Tại địa bàn huyện

Phong Châu (Phú Thọ) đã phát hiện thấy các di chỉ khảo cổ thuộc về giai đoạn văn

hóa Sơn Vi (cách ngày nay 10.000 – 20.000 năm, thuộc cuối thời Đá Cũ); cùng với

đó là các di chỉ phát hiện trên đất Phú Thọ thuộc thời kì văn hóa Tiền Đông Sơn

cách đây trên dưới 4000 năm Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun, giai đoạn văn

hóa Đông Sơn (với các di chỉ Chính Nghĩa, Làng Cả, Đồng Se, Vạn Thắng…) cho

thấy sự cư trú lâu đời cùng những thành tựu văn hóa qua từng thời kì của cư dân

Việt cổ tại vùng đất này. Tầng văn hóa sâu dày tạo nên một lớp trầm tích văn hóa,

trong đó rất nổi bật là tín ngưỡng và truyền thuyết dân gian liên quan tới hai nhân

vật: vua Hùng và Tản Viên. Theo thống kê, trên đất Phú Thọ có trên 700 đình miếu

thờ các vị thần thời Hùng Vương – Văn Lang. Nhiều làng xã ở Phú Thọ còn bảo

lưu một số tín ngưỡng như thờ thần núi cao, thần nước, thần mặt trời, thần lúa với

những nghi thức tín ngưỡng phồn thực (Tú Ngọc, 1997, tr.20). Trên khắp địa bàn

tỉnh Phú Thọ hiện vẫn thực hành các lễ hội, nghi thức và trò diễn liên quan đến các

tín ngưỡng dân gian. Các loại hình dân ca cũng phát triển rất đa dạng và phong phú,

với Hát Xoan, hát Ghẹo, hát Trống quân Hữu Bổ, hát Ví… Trong dân gian còn phổ

biến nhiều bài vè, tục ngữ, truyện kể gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp

lúa nước, những biến cố lịch sử của người dân nơi này.

Ngoài ra, Phú Thọ còn là vùng đất nổi bật với những kiến trúc truyền thống

tiêu biểu gắn với sinh hoạt tôn giáo như đình, đền, chùa, tháp… Những công trình

kiến trúc cổ mang nhiều giá trị thẩm mỹ và văn hóa như đình Tam Canh (Tam

Dương), Thổ Tang (Vĩnh Tường), Lâu Thượng (Việt Trì), Hữu Bổ, Do Ngãi, Hùng

Lô (Lâm Thao, Phù Ninh), tháp Bình Sơn (Lập Thạch) … Văn hóa Phú Thọ còn

được đa dạng thêm bởi những di sản văn hóa truyền thống của cư dân các dân tộc

thiểu số sống trên địa bàn như dân tộc Mường với nghệ thuật đánh trống đồng (ở

Thanh Sơn), tục đâm đuống, ném còn, hát ví; dân tộc Cao Lan với múa chim gâu,

sọc cộng (xúc tép); dân tộc Dao, Sán Dìu với hát đám cưới, giao duyên… và kho

23

tàng truyện kể, trường ca, lễ tục và lễ hội mang đậm bản sắc riêng có.

Hát Xoan sinh ra từ các làng Xoan Phù Đức, Kim Đức, An Thái, Thét và giữ 14 cửa đình ở 181 xã thuộc cả hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. “Các làng Xoan nối

nhau thành một dải, vắt từ sông Lô sang sông Thao, vòng mé trước núi Hùng nơi có

đền Hùng mộ tổ như một chuỗi hạt châu” (Nguyễn Khắc Xương, 2008, tr.10).

Quê hương Xoan là vùng trung du bán sơn địa, đồi nối đồi. Các làng Xoan ở

vào địa thế đồi cao núi thấp, với những đầm nước, khe ngòi xen kẽ. Vùng đất sỏi,

đất cát pha, với đồi đá ong đất vàng đỏ, trước đây phần lớn là đồi trọc, đồi hoang

với sim, mua, ràng ràng… Xen giữa đồi núi là những tràn ruộng kiểu chân ruộng

sâu úng nước, đất chua và lầy thụt, để có thể cày cấy gặt phải dùng kĩ thuật quăng

nứa tre làm đà để dựa vào đó cho khỏi bị chìm. Ngoài lúa, người dân trồng thêm sắn

làm lương thực. Cây đặc sản ở các làng Xoan còn có cọ, sơn, ch , dứa.

Các làng Xoan nằm trên địa bàn xưa là thủ đô nước Văn Lang. Đối chiếu với

bản đồ khảo cổ, đây cũng là vùng dày đặc các di chỉ cho thấy những giai đoạn phát

triển văn hóa của người Việt cổ từ thời nguyên thủy tới thời kì của nhà nước Văn

Lang. Chỉ riêng trong vùng đất Phong Châu và Việt Trì hiện có tới trên 30 di chỉ

khảo cổ, cung cấp các bằng chứng cho thấy đây là một trung tâm tụ cư của người

Việt cổ, cũng là cái nôi văn hóa Văn Lang thời Hùng Vương. Tác giả Nguyễn Khắc

Xương (2008) đã căn cứ vào sự trùng hợp giữa vùng Xoan và vùng khảo cổ, với

những phát hiện khảo cổ về nền văn hóa Văn Lang và đưa ra một số nhận định:

1/Vùng Xoan là vùng văn hóa cổ có một truyền thống văn hóa rất lâu đời hình

thành từ buổi bình minh của dân tộc. 2/ Tính chất cổ sơ của địa bàn Xoan cũng như

tính truyền thống của văn hóa đã tạo nên nếp sinh hoạt và văn hóa vùng Xoan. 3/

Xoan bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa cổ (Nguyễn Khắc Xương, 2008, tr.20).

Lõi của không gian văn hóa Xoan Phú Thọ là 4 làng Xoan cổ An Thái, Phù

24

Đức, Kim Đới, Thét. Đây được gọi là vùng “Xoan gốc”. Bốn làng này trước cách 1 18 xã ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc có Hát Xoan: 1. Xã An Thái (Phượng Lâu – Việt Trì); 2. Xã Kim Đức (Phủ Đức – Việt Trì); 3. Xã Thụy Vân (Việt Trì); 4. Xã Nông Trang (Việt Trì); 5. Xã Dữu Lâu (Việt Trì); 6. Xã Thành Đình (Việt Trì); 7. Xã Trưng VƯơng (Việt Trì); 8. Xã Cao Mại (Lâm Thao); 9. Xã Hữu Bổ (Lâm Thao); 10. Xã Tử Đà (Phù Ninh); 11. Xã Y Kỳ (Phù Ninh); 12. Xã Phù Ninh (Phù Ninh); 13. Xã Nha Môn (Phù Ninh); 14. Xã Tây Cốc (Đoan Hùng); 15. Xã Hương Nộn (Tam Nông); 16. Xã Hoàng Thượng (Kim Xá, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc); 17. Xã Đức Bác (Lập Thạch – Vĩnh Phúc); 18. Xã Tử Du (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).

mạng thuộc tổng Phượng Lâu huyện Phù Ninh, và cả bốn làng đều thuộc vùng địa

phận núi Hùng.

Về nguồn gốc của Hát Xoan

Tìm hiểu về nguồn gốc của Hát Xoan, thực tế tư liệu cho thấy, những câu

chuyện kể liên quan trực tiếp đến nguồn gốc của loại hình dân ca nghi lễ này đều mang

đậm màu sắc huyền thoại. Lời giải thích về nguồn cội Xoan luôn gắn với các truyền

thuyết, những câu chuyện dã sử. Thêm vào đó, các câu chuyện nguồn gốc Xoan lại có

nhiều dị bản, và hiện tại, mỗi làng Xoan đều có một bản riêng của mình về gốc tích

Xoan nhằm khẳng định địa bàn Xoan của mình mới là phường „Xoan gốc‟. Chính bởi

vậy, các nhà nghiên cứu buộc phải tìm kiếm câu trả lời thông qua nhiều cách thức khác

nữa, bên cạnh việc sưu tầm những lời kể về nguồn gốc ra đời này.

Để tìm hiểu về nguồn gốc Hát Xoan, các nhà nghiên cứu đã tiến hành dựa

trên ba đường hướng: từ các câu chuyện về nguồn gốc Hát Xoan hiện vẫn được kể

và phổ biến trong các làng Xoan cổ và một số làng Xoan kết nước nghĩa để phỏng

đoán về thời điểm ra đời của Xoan; từ chính bản thân loại hình nghi lễ diễn xướng

này (với ca từ, tục lệ, nghi thức thờ phụng và diễn xướng) để đưa ra những phỏng

đoán về không gian truyền thống lâu đời của Xoan; đặt Hát Xoan trong mối tương

quan với các lại hình dân ca khác (hát Dặm, hát Nhà tơ, hát Quan họ…) nhằm

khẳng định nguồn gốc chung của các loại hình diễn xướng này.

Từ những câu chuyện nhuốm màu huyền thoại về nguồn gốc Hát Xoan, với

nhiều bản kể khác biệt ở các làng, khó có thể đưa ra một luận điểm chính xác về

nguồn gốc ra đời của Xoan. Những câu chuyện của làng Phù Đức, Cao Mại có liên

quan đến thời điểm lịch sử tồn tại của Hát Xoan là từ thời Hùng Vương; truyện kể

của các nghệ nhân An Thái lại kết nối Xoan và triều đại nhà Lý (khoảng thế kỉ thứ

XII) nhưng đầy huyền hoặc, không thể là một cơ sở lịch sử vững chắc và cụ thể.

Thêm vào đó, các truyền thuyết và huyền thoại còn được lưu truyền và kể lại với

mục đích rõ ràng trong việc coi vùng đất của mình mới là nơi phát tích của tục lệ,

25

thêm thắt những địa danh và yếu tố điển hình nào đó của địa phương vào truyện kể

nhằm gia tăng tính thuyết phục. Nhưng những truyện kể mang tính huyền thoại này

về nguồn gốc và tục lệ của Xoan đều có một điểm chung là niềm tin vào tính thiêng

của các vị nhân thần, nhiên thần; và niềm tin đó đã biểu hiện thành tập tục thờ cúng

các vị thần hòng mong cộng đồng có một cuộc sống no đủ, phồn thịnh. Và niềm tin,

tục lệ thờ thần này đã trở thành yếu tố cốt lõi hình thành nên các lễ hội trong nhiều

cộng đồng cư dân cư trú trên mảnh đất Văn Lang xưa.

Ngoài ra, khi tìm hiểu về nguồn gốc của Hát Xoan, ngoài việc sưu tầm tìm

kiếm những câu chuyện liên quan đến sự ra đời của loại hình dân ca nghi lễ này, các

nhà nghiên cứu còn tiến hành thao tác „bóc tách‟ những dấu ấn văn hóa trong các ca

từ, thể thức, tục lệ Hát Xoan nhằm thêm khẳng định về nguồn gốc xa xưa và vốn

văn hóa sâu dày tiềm chứa trong loại hình dân ca nghi lễ này. Qua các mối quan hệ

kết nghĩa giữa phường Xoan và các nơi mà Xoan đến hát, qua tục lệ tế thần ở những

hội làng mà Xoan hiện diện, qua những bài bản, trò diễn trong nghi thức của Xoan

hiện vẫn còn đang được thực hành, các nghiên cứu cho thấy một số vấn đề nổi bật.

Xoan gắn với lễ hội truyền thống của các cộng đồng. Trong các lễ hội tại

„vành đai‟ Xoan, có riêng một phần bài bản Hát Xoan cho nghi lễ thờ phụng tại các

đình đền. Lời hát thờ hướng lòng kính ngưỡng và cầu xin sự phù trợ từ các lực

lượng tự nhiên gắn bó thiết thân với cư dân nông nghiệp (thần lúa, thần mặt trời,

cầu sấm, cầu mưa…); hướng tới các vị nhiên thần, nhân thần bảo trợ cho cuộc sống

của con người (vua Hùng và các tướng lĩnh của nhà vua, Thánh Tản, các công

chúa…); hướng tới sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người (cầu của, cầu

con…). Xoan và lệ tục trong Hát Xoan còn cho thấy một đời sống tín ngưỡng sinh

động và đa dạng của cư dân Việt. Đó là tín ngưỡng thờ các vị thần nông nghiệp như

thần lúa, thần lửa…; tín ngưỡng thờ vật linh cổ xưa được gợi lên từ tục thờ bánh

nẳng, thịt bò (miếu Lãi L n, Phù Đức); tín ngưỡng phồn thực với những lời hát bày

tỏ ước nguyện về một cuộc sống „phong đăng hòa cốc‟, „thóc lúa đề đa‟, „lắm của

đông con‟; tín ngưỡng thờ Hùng Vương và các tướng lĩnh của vua Hùng (vừa có ý

26

nghĩa thờ tổ tiên, vừa thờ các anh hùng dân tộc, lại vừa được thờ làm Thành hoàng

làng). Không gian tiến hành nghi thức diễn xướng Xoan cho thấy một số vấn đề về

sự chồng lấp các lớp văn hóa. Ngày nay, Xoan còn được xếp vào hình thức „hát cửa

đình‟. Lối hát cửa đình bộc lộ tính chất cơ bản của Hát Xoan và chi phối lề lối cũng

như nội dung và hình thức diễn xướng của lối hát này. Lấy ngôi đình làm trung tâm,

Hát Xoan gắn bó với sự phát triển của đình làng. Nhưng điều này không đồng nghĩa

với sự đồng nhất về thời gian xuất hiện trong lịch sử giữa ngôi đình và Hát Xoan.

Những nghi thức thờ cúng và lễ hội mà Xoan gắn bó chặt chẽ (tín ngưỡng vật linh,

phồn thực, tổ tiên…) cho thấy lớp văn hóa này sớm hơn sự xuất hiện của đình làng

(vốn được tạm chấp nhận dấu mốc xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ XVI, với vết

tích từ các ngôi đình Tây Đằng (Hà Tây), Thổ Hà (Bắc Ninh). Ngoài ra, đình làng

không phải là không gian thiêng duy nhất trong nghi thức diễn xướng Hát Xoan.

Dựa trên hiện tượng hát lệ tại miếu Lãi Lèn, thậm chí là còn phải dựng lại cảnh hát

xướng ngoài bãi cỏ (nơi đất thiêng theo truyền thuyết có liên quan đến sự hiện diện

của anh em vua Hùng trong truyền thuyết) hiện vẫn còn sót lại ở làng Phù Đức, có

thể thấy không gian thiêng của Xoan trước khi xuất hiện đình có thể là một nơi linh

thiêng nào đó trong ý niệm của cộng đồng như gò, miếu, đền. Chỉ sau này, khi đình

làng có vị trí trung tâm thì việc tế thờ và diễn xướng mới được chuyển dần về đây.

Dấu ấn lịch sử được bộc lộ trong nội dung các bài bản và sự mở rộng về mặt

thể loại của Hát Xoan là điểm nổi bật có thể nhận thấy từ chính ca từ của Hát Xoan.

Trong lời ca của Giáo pháo, Tứ mùa cách, Đóng đám là triều đại Hậu Lê cùng địa

danh, nhân vật, chính sách xã hội của triều đại đó: Nhà tôi nhà Lê/ Là sông Bồ đề/

Là núi Việt Nam/ Trở về thiên hạ (Giáo pháo); Đền cũ chúa ông/ Thái Tổ Thái

Tông/ Là vua lão hoàng (Tứ mùa cách); Văn áo đỏ, võ ở cửa quyền/ Ở đất này càng

thêm nhang thịnh/ Văn – Thái thú, Thái Bảo, Thái đế/ Võ – Tư đồ, Tư mã, Tư

chiêng (Đóng đám); Cày bừa ruộng Lê/ Là núi Năm Le (Giáo pháo); Là văn đi thi/

Chiếm bảng khôi khoa/ Là võ dẹp giặc/ Bảng khoa choi chói/ Là đã làm nên/ Nhà

ngói năm gian/ Là trong muôn đời/ Sống được làm quan/ Cưỡi ngựa bên Tàu/ Vinh

27

quy bái tổ (Giáo pháo)… Từ những dấu ấn lịch sử cụ thể này, đối chiếu với cứ liệu

về sự thay đổi địa vị độc tôn của Nho giáo vào triều đại nhà Lê (thế kỉ XV), nhà

nghiên cứu Tú Ngọc (1997) đã nhận định “quá trình phát triển của Hát Xoan từ giai

đoạn đền miếu đến giai đoạn cửa đình cũng bao gồm cả quá trình từ văn hóa bản

địa – dân gian đến sự xâm nhập của văn hóa Nho giáo. Khi thiết chế nhà nước

phong kiến yếu kém và xã hội bộc lộ nhiều mâu thuẫn thì yếu tố bản địa – dân gian

lại có điều kiện phát triển, thu nạp thêm cái mới” (tr.89). Và điều này theo ông càng

thêm thuyết phục khi chiếu vào sự dung nạp những nội dung giao duyên trong một

số bài bản Xoan vốn nghiêm trang, giàu chất tri thức như Gài hoa, Giã cá; hoặc

việc thêm các trò chơi nam nữ như hát Đúm, hát Trống quân Đức Bác vào quá trình

diễn xướng Hát Xoan.

Việc xác định nguồn gốc của Xoan còn được dựa vào cơ sở rằng, Xoan có

chung một nguồn gốc với hát Dặm, hát Nhà tơ hoặc hát Quan họ. Đây thực chất

mới chỉ là một giả định, dựa hoàn toàn trên những nét khá giống nhau của các thể

loại này để suy đoán. Giả thuyết này cũng chưa phân tích được một cách thuyết

phục về căn nguyên của những nét tương đồng giữa các thể loại này; và không cắt

nghĩa được sự khác nhau giữa các loại hát đó.

Nhìn chung, từ những tư liệu hiện tại, vẫn chưa thể đưa ra được một câu trả

lời thuyết phục về thời điểm ra đời của Hát Xoan. Những câu chuyện dân gian về sự

ra đời của Xoan được lưu truyền từ đời này qua đời khác, vừa được huyền thoại

hóa, vừa được lịch sử hóa; vừa có những yếu tố thực của con người, thời đại lịch sử

lại vừa có những yếu tố huyền hoặc linh thiêng. Những truyền thuyết cho rằng Hát

Xoan có từ thời Hùng Vương, dù được minh chứng tưởng chừng rất thuyết phục

bằng tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã và đang phổ biến ở các làng Xoan, bằng

niềm tin chắc chắn trong tâm thức của cư dân nhiều phường Xoan; nhưng không thể

mang lại nhiều cơ sở khoa học bởi chúng mang đậm màu sắc huyền thoại. Câu

chuyện nguồn gốc Hát Xoan lên quan đến công chúa Kiều Giang dù cung cấp một

cái tên và triều đại cụ thể (nhà Lê), dù giúp cắt nghĩa được lề lối hát của quả cách

28

đầu tiên (Kiều Giang cách, hát có phách k m theo) nhưng lại vẫn rất mơ hồ khi đối

chiếu với các dữ liệu lịch sử: công chúa con của vua Lê nào? Hành trạng ra sao?

Bến Chương Lương ở đâu tại Phú Thọ? Những dữ liệu về triều Lê với một số chính

sách kinh tế xã hội, đặc thù văn hóa song vẫn không thể giúp khẳng định Hát Xoan

ra đời từ đó, vì những yếu tố thời đại cụ thể hoàn toàn có thể là yếu tố tích hợp vào

loại hình Xoan đã có từ trước.

1.2.2. Tổ chức, lệ tục Hát Xoan

Tổ chức của Hát Xoan

Điều đặc biệt trong tổ chức mang tính truyền thống của Xoan là đơn vị

phường/ họ Xoan. Phường Xoan là một tổ chức tập hợp những người đi hát trong

một làng, thôn hay xã. Xoan không phải là một loại hình diễn xướng mang tính cá

nhân hay tùy hứng mà có tính tập thể và sinh hoạt phường hội rất chặt chẽ. Điều

này thể hiện rõ trong lịch sinh hoạt chung (hiện nay, lịch sinh hoạt này khá cố định

và đều đặn, diễn ra hàng tuần, khi có lịch biểu diễn thì sinh hoạt tập luyện hàng

ngày); trong văn bản chép tay các bài hát lề lối cũng những động tác múa, trống

phách đi k m; trong những quy định về trò diễn kết hợp trong khi diễn xướng.

Phú Thọ có 4 họ Xoan được gọi theo tên làng là các họ An Thái, Phù Đức,

Kim Đới và Thét. Tuy nhiên, không gian Xoan không bó hẹp chỉ ở 4 làng này mà

lan tỏa cùng với những làng mà Xoan kết nước nghĩa, đến hát vào mỗi dịp hội tế. Theo

những nghiên cứu điền dã của các nhà văn hóa dân gian đi trước (Tú Ngọc, 1997;

Nguyễn Khắc Xương, 2008; Dương Huy Thiện, 2015); phường Xoan được mô tả rất

sống động với kết cấu tổ chức độc đáo và chặt chẽ. Chúng tôi xin tóm lược một số

điểm nổi bật trong mô tả về các phường Xoan truyền thống này như sau:

Về tính chất, đây là một tổ chức văn nghệ của những người trong một làng.

Hoạt động của phường Xoan diễn ra song song với công việc lao động mưu sinh.

Hát Xoan là sinh hoạt tín ngưỡng và giải trí mang tính tự nguyện, không phải và

không thể là một nghề mưu sinh. Vì là tổ chức của làng, liên quan đến hoạt động tín

ngưỡng của làng và làng kết nước nghĩa nên phường Xoan chỉ nhận người làng mà

29

không bao giờ nhận nạp người nơi khác. Vì thế, nhiều trường hợp người trong gia

đình, trong chi họ ở cùng một phường, lần lượt vào phường theo từng thế hệ, hình thành nên tính truyền thống kiểu „kế thế Xoan phường‟1. Đặc điểm này sẽ chi phối

đến các hoạt động khác cũng như quan hệ của những người trong một phường

Xoan. Cách họ đối đãi giao tiếp với nhau như trong gia đình, xưng hô theo tuổi và

thứ bậc họ hàng. “Phường Xoan là một tổ chức phường họ mang tính gia trưởng”

(Nguyễn Khắc Xương, 2008, tr.24).

Về số lượng, mỗi phường Xoan có khoảng 13 đến 16 người (có tài liệu ghi

16 tới 20 người), trong đó có một trùm phường, 4 đến 5 kép và các đào (số đào

nhiều hơn số kép).

Về thành phần, một phường Xoan luôn có trùm phường (người đứng đầu

phường); kép (giữ phần giáo trống, giáo phách (phần mở đầu của buổi hát); đào

(những diễn viên của phường, còn được gọi với tên cô đào, ả đào). Trùm phường –

người đứng đầu một phường Xoan – theo mô tả của các nhà nghiên cứu đi trước,

bao giờ cũng là nam. Nhưng thực tế hiện nay trong 4 phường Xoan cổ thì có một bà

trùm nữ (bà Nguyễn Thị Lịch), làm trùm phường nối nghiệp cha. Có vẻ giới tính

của trùm phường không phải là vấn đề quá quan trọng trong bối cảnh hiện tại, miễn

là người đó có những tố chất mà một trùm phường cần có. Đó là một người đứng

tuổi, đã đi hát lâu năm, thuộc nhiều làn điệu, bài bản Xoan, có uy tín, kinh nghiệm,

biết giao thiệp ứng xử (cả đối nội và đối ngoại). Trùm phường chịu trách nhiệm về

hoạt động của phường mình trên mọi phương diện, từ việc tập dượt nội dung các

bài bản Xoan và phương thức trình diễn cho đào kép đến việc quản lý tài sản của cả

phường (gồm quần áo, trống phách, tiền thưởng). Vai trò của trùm phường còn thể

hiện trong việc chia tiền thưởng sau mỗi năm đi hát, giữ một số tiền thưởng để mua

lợn nuôi làm vốn cho cả phường. Việc chia thưởng này còn cần tính đến phần hơn

cho những đào kép giỏi có công lao nổi bật với phường Xoan, và nếu làm không

công tâm, không khéo léo, rất có thể sẽ là nguồn cơn của các mâu thuẫn. Chính vì

1 Tại phường Xoan, có trường hợp người ở 3, 4 thế hệ trong một gia đình đều là thành viên của phường.

30

thế, tiêu chuẩn chọn trùm phường luôn ngặt ngh o, và hướng đến những năng lực,

phẩm chất mà một người cụ thể trong phường có, chứ không chịu chi phối của giai

tầng hay giàu nghèo. Và vì hát có mùa nên việc làm trùm cũng theo thì, không quá

bận rộn. Và trong nhiều trường hợp, trùm phường phải bỏ tiền ra cho sinh hoạt

chung của phường (tiền mua dầu thắp, củi nước, trầu cau… khi phường Xoan tập).

Đổi lại, trùm có phần thịt lợn ngày cúng tổ và món gạo tiền thù lao khi hát bài hát

Nhập tịch và Chào giã ở các làng mà Xoan đến hát. Trùm cũng được toàn quyền

chỉ đạo và điều phối các hoạt động, ý kiến của trùm phường là quyết định với các

hoạt động của phường.

Đào kép trong phường Xoan: có thể là những người trẻ, trong độ tuổi đôi

mươi, chưa lập gia đình hoặc cũng có thể là những người có tuổi. Điều quan trọng

với đào là cần có giọng hát tốt và dáng xinh đẹp, với kép là vốn Xoan và giáo trống

thành thạo.

Về hoạt động của phường Xoan: trước đây, Xoan chỉ biểu diễn theo mùa lễ

hội, một năm một mùa. Vậy nên đơn vị tổ chức phường Xoan hoạt động dù chặt

chẽ quy củ nhưng có tính thời vụ. Cả năm, những thành viên của phường vẫn phải

lao động mưu sinh, chỉ đến khi „vào vụ‟ thì bắt đầu tập trung để tập dượt và biểu

diễn. Thời gian tập thông thường từ khoảng giữa tháng 11 đến cuối tháng Chạp âm

lịch, chuẩn bị cho mùa hát vào đầu tháng Giêng năm mới. Trong thời gian đó, các

đào kép ban ngày đi làm, tối đến tập trung tại nhà trùm phường để tập các bài bản,

điệu bộ, quả cách đã được ghi trong sách của trùm phường. Những buổi tập luyện

này trở thành quãng thời gian sinh hoạt cộng đồng – nơi đào kép say sưa tập luyện,

người dân trong làng thì kéo đến xem, vừa thưởng thức vừa bình phẩm bàn tán.

Bước sang thời điểm biểu diễn, Xoan sẽ được diễn xướng trong không gian lễ hội

tại cộng đồng mình và ở những làng kết nghĩa. Hết vụ Xoan, những thành viên của

phường về lại với nhịp sinh hoạt thường ngày, lao động mưu sinh và lại tiếp tục

chuẩn bị cho một mùa Xoan mới…

Như vậy, có thể thấy, đơn vị tổ chức của Hát Xoan không nằm ngoài kiểu tổ

31

chức phường họ trong văn hóa Việt Nam. Phường là một tổ chức của những người

có chung một nghề hoặc chung sinh hoạt, chung sở thích, đoàn kết nhau lại để hoạt

động và chia sẻ, trợ giúp lẫn nhau. Loại hình phường rất phổ biến tại các làng quê

và đô thị Việt – đó có thể là phường của những người cùng nghề thủ công nghiệp

(phường gốm, phường giấy, phường in); của những người buôn bán (phường sơn,

phường nón); cùng sinh hoạt (phường hiếu, phường hỉ). Bên cạnh đó còn là những

phường của những người cùng chung một loại hình văn hóa nghệ thuật (phường

lân, sư tử, phường rối, phường tuồng, phường ch o…). Và phường Xoan chính là

một tổ chức phường thuộc loại này – quy tụ những người cùng hoạt động trong một

loại hình diễn xướng.

Những lệ tục trong Hát Xoan

Vào mùa Xoan, các phường họ mở đầu mùa hát từ ngay ngày mồng một Tết.

Và luôn luôn, ngày hát đầu tiên sẽ ở chính tại trên quê của phường Xoan. Buổi

sáng, các phường hát tại đình của làng mình, và đến chiều tối, các họ Xoan họp với

nhau và lần lượt hát tại các đình miếu theo quy định: mồng một hát tại đình Cả và

miếu Cấm (làng An Thai và Phượng An); mồng hai hát tại đình Đơi (Kim Đới);

mồng ba hát tại miếu Lãi L n (Phù Đức); mồng bốn hát tại miếu Thét (Phù Đức).

Bốn cuộc hát tại bốn đình miếu này đều hát từ tối cho tới gà gáy sáng hôm sau. Đây

là những đêm hội xuân của cả mấy làng. Là không gian mà người Hát Xoan –

người chơi Xoan được phô diễn hết những vốn liếng mà mình có.

Bắt đầu từ ngày mùng bốn tết trở đi, các họ Xoan lần lượt đi hát ở các làng

nước nghĩa. Khác với việc hát tại bốn đình chính có cả 4 họ Xoan, khi đi hát theo

tục giữ cửa đình, thường cứ hai phường Xoan đi cùng nhau, ít khi đi hát cả 4

phường hoặc chỉ có một phường.

Tục giữ cửa đình có liên quan tới tục nước nghĩa. Xoan giữ cửa đình nào là

có quan hệ kết nghĩa với làng và dân ở đó. Nước nghĩa của Xoan không phải là tục

kết nghĩa giữa các làng với nhau – chỉ là của họ Xoan với làng, giữa dân với họ.

Đây là một điểm rất khác biệt trong tục lệ Hát Xoan, so với tục kết nghĩa của hát

32

Ghẹo (Phú Thọ) và Quan họ (Bắc Ninh). Trong mối quan hệ kết nghĩa này, dân địa

phương luôn ở vai anh, còn họ Xoan là vai em. Và việc kết nghĩa này là mãi mãi

không thay đổi. Và khi đã có quan hệ kết nghĩa, thì cấm người hai bên dân họ được

kết hôn với nhau – vì là anh em thì không lấy nhau được. Điều thú vị ở chỗ, khi đưa

ra tục cấm kết hôn thì “gia đình hóa” quan hệ nước nghĩa giữa dân và họ Xoan,

nhưng trong cách ứng xử ngoài vụ Hát Xoan thì mối quan hệ này lại không hề là

gánh nặng hay phiền toái gì cho cả hai bên, xét cả trên phương diện kinh tế lẫn ứng

xử. Mối quan hệ này chỉ đơn thuần diễn ra trong dịp hội làng, và kết nghĩa vì Xoan,

vì nghệ thuật và vì tín ngưỡng thờ thần linh giữa các làng.

Các phường Xoan giữ cửa đình sẽ tham gia trực tiếp vào các nghi lễ tế thần

của cộng đồng làng (trùm xoan đứng chiếu nhất, ngang hàng với chủ tế và ông từ,

đào Xoan tham gia rước Thành hoàng hoặc khiêng kiệu, chạy kiệu). Theo nghiên

cứu cụ thể từ tục hát cửa đình, có thể nhận thấy Xoan được sử dụng như một

phương thức giao tiếp chính với thần linh trong lễ tế - múa thờ, hát Nhập tịch mời

thần linh về dự lễ và hát Chào giã cuối lễ.

Ngoài ra, Xoan còn gánh trên vai trọng trách trong việc giao tiếp với thánh

thần nhằm đáp ứng các nhu cầu của cá nhân trong và ngoài làng. Điều này thể hiện

rõ trong tục lệ thù lao Xoan bằng ngô và gạo trước đây ở xã Đức Bác nhằm cầu

đinh (cầu con trai). Người trong làng hoặc người làng khác có thể đến cầu và tặng

ngô, gạo cho Xoan. Theo tục lệ này, Xoan hiện diện như một cầu nối trung gian,

Xoan dâng lời cầu xin của con người lên thánh thần và nhận phần lễ vật hậu hĩnh từ

phía người cầu cúng.

Căn cứ theo một số câu chuyện nhuốm màu huyền thoại lí giải việc các làng

phải mời các họ Xoan đến hát tại làng mình trong dịp tế thần linh, có thể thấy sự nổi

bật của việc “xuất hiện những điều không lành”; và Xoan chính là giải pháp cho

những điều không lành, bất an đó. Sự xuất hiện của Xoan đồng nghĩa với sự an yên,

thuận lợi, may mắn. Xoan như một món quà mà con người dành tặng tới thần linh

33

để đổi lại một cuộc sống như mong cầu.

Ngoài ra, trong không gian Xoan còn có tục lệ đón và tiếp đãi Xoan đến hát

tại làng; tục lệ nghiêm cấm việc đùa cợt chọc ghẹo các đào Xoan. Người vi phạm

điều cấm này sẽ bị bắt trói cột đình và phải sửa lễ tạ làng. Những tục lệ này một mặt

phản ánh sự trọng thị mà cộng đồng dành cho Hát Xoan – một loại hình dân ca nghi

lễ; mặt khác cho thấy tục lệ Xoan như một mảnh ghép trong bức tranh phong tục ở

nông thôn truyền thống với sức mạnh của lệ làng.

1.2.3. Diễn xướng Hát Xoan

Khi tìm hiểu về nghệ thuật diễn xướng Xoan, luận án sử dụng khái niệm „sự

diễn xướng‟ của Richard Bauman (2005[1975]) “một việc làm có tính folklore, và

một sự kiện có tính nghệ thuật – đó là tình huống biểu diễn, bao gồm người biểu

diễn, hình thức nghệ thuật, thính giả và bối cảnh” (tr.744). Theo quan điểm này,

những yếu tố về tổ chức và tục lệ của Xoan không hoàn toàn nằm ngoài diễn

xướng, song thuộc về các yếu tố tác động lên sự diễn xướng, bởi Xoan không đơn

giản là một loại hình nghệ thuật mà còn liên quan trực tiếp và chặt chẽ với tín

ngưỡng thờ cúng tại các đình miếu. Chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu diễn xướng Xoan

thông qua bản thân thực hành này, trong những bối cảnh mà nó diễn ra.

Hát Xoan được xếp vào loại hình diễn xướng dân gian mang tính nguyên

hợp bao gồm nói, kể, ví, vè, ca hát, múa, diễn trò, hô ứng đệm; lại có cả hình

thức hát nước nghĩa, hát theo cuộc, hội, đám, phường; lại có nhiều giọng như

giọng nguyên, giọng vặt; lại có nhiều thể thức hát như hát lề lối, hát đối đáp, hát

tự do; môi trường diễn xướng đa dạng như ngoài trời, trong nhà, ngoài sân đình,

sân chùa, sân khấu... (Sở Văn hóa thông tin Phú Thọ 1995; tr.65). Yếu tố nổi bật

trong diễn xướng Xoan là thanh nhạc, khí nhạc và múa. Hình thức biểu diễn

thường thấy của Xoan là các cô đào vừa múa vừa hát trên chiếu trước bàn thờ,

với một kép nam đứng bên cột đình hát dẫn cách, cứ sau một đoạn các cô đào lại

hát họa theo hình thức xướng xô. Nhạc cụ Hát Xoan khá đơn giản, với chủ đạo là

34

chiếc trống con, có bài thêm phách, quạt hoặc trống cái.

Lời ca Hát Xoan cũng rất phong phú, ngoài các bài khấn nguyện thần

thánh, chúc tụng làng xã còn có những bài hát “kết duyên với người tình nhân”

thật trữ tình hoặc ca ngợi cuộc sống lao động cần cù, siêng năng của người dân

lao động (Nguyễn Khắc Xương 2003; tr.85).

Từ gợi ý về „sự diễn xướng‟ của Bauman, dựa trên nghiên cứu của những

người đi trước và theo tư liệu điền dã cá nhân, diễn xướng Xoan được trình bày trên

các phương diện: hình thức nghệ thuật, thính giả và bối cảnh.

Hình thức trình diễn nghệ thuật Hát Xoan

Nói đến Hát Xoan là nói tới loại hình hát thờ, nói đến các lề lối, bài bản (quả

cách). Bài bản (quả cách) ở đây là thứ tự trình diễn Xoan (đã thành quy ước); lề lối

là quy chuẩn trong mỗi cách Xoan. Hát Xoan khi trình diễn đầy đủ thường có ba

chặng hát: hát thờ (tưởng nhớ các vị thần, vị vua có công với dân với nước); hát

quả cách (ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt

cộng đồng); hát hội (hát giao duyên với những làn điệu vui nhộn, chủ yếu dưới

hình thức hát đối đáp giữa các đào, kép và trai gái làng nước nghĩa). Đặc điểm

và chức năng cơ bản của Xoan là sinh hoạt văn hóa lễ hội và ca hát lễ nghi thờ

cúng thần linh nên phương thức trình diễn của Xoan rất lề lối, có tổ chức. “Gắn

với đình đám và tế lễ, Xoan không được phép tự do phóng khoáng mà phải ghép

mình vào một khuôn khổ, khuôn khổ này là do những tục lệ, do yêu cầu đình

đám đặt ra” (Nguyễn Khắc Xương 2008; tr.55). Tuy nhiên, Xoan không chỉ

mang trong mình hình thức hát thờ mà còn là một loại hình nghệ thuật cộng

đồng. Bên cạnh những nội dung tín ngưỡng mang tính lề lối và quy định chặt chẽ

trong không gian thờ tự (đình, miếu), Xoan còn có phần hát hội tại các gian bên

của đình, miếu, thậm chí ngoài sân đình, với những lời hát giao duyên nam nữ,

tiết tấu âm nhạc phong phú sôi nổi, thu hút nhiều thành phần tham gia diễn

xướng (cả phường Xoan lẫn thanh niên nam nữ trong làng). Một cuộc Hát Xoan

phải tuần tự đi theo bài bản với Phần khai cuộc (hát Nhập tịch, phần hát khai cuộc,

35

mời thần linh về hưởng lễ và nghe hát thờ); Phần 1 với bốn giọng lề lối gồm Giáo

trống (nổi trống), Giáo pháo (đốt pháo), Thơ nhang (dâng hương), Đóng đám (vào

đám); Phần 2 (14 quả cách) do đào múa với đội hình 4 người, kép hát chính. 14

cách gồm: 1- Kiều Dương cách. 2- Nhàn ngâm cách. 3-Tràng mai cách. 4-Xoan

thời cách. 5-Hạ thời cách. 6. Thu thời cách. 7- Đông thời cách. 8-Tứ mùa cách. 9-

Ngư tiều canh mục cách. 10- Đối rẫy cách. 11- Hò chèo cách. 12- Hồi liên cách. 13

– Tứ dân cách. 14 – Chơi dân cách; Phần 3 là phần hát giọng nhà tơ, tạm nghỉ

không Hát Xoan (phường Xoan còn gọi phần hát này là „hát chơi bời‟). Phần này

chỉ có một hay 2 đào hát đổi nhau; Phần 4 gồm các lề lối Bỏ bộ, Chơi bợm/ Bợm

gái, Đúm, Xin huê Đố chữ và Cài huê - Mó cá; Phần 5 (Chào giã) - lời chào giã

đám tan hội của ông trùm Xoan. Phần này, 4 cô đào múa từ lòng đình múa ra sân

đình, với hàm ý tiễn thánh ra về.

Từ các bài bản trong một cuộc Xoan, có thể thấy rõ tính tổng hợp trong diễn

xướng của loại hình dân ca này, với hai đặc trưng cơ bản là phần ca hát và phần múa.

Cách hát của Xoan khá đa dạng, bao gồm cả hát nói, hát ngâm, hình thức hát

ca khúc và hát đệm láy. Hát nói là chính trong các quả hát thờ, hát ngâm chỉ xen kẽ

và là một phần nhỏ nhưng lại là nhạc của các bài bản giàu trữ tình mà nội dung là

giao duyên. Hình thức hát ca khúc mang lại cho Xoan những tiết mục vui nhộn, trữ

tình mang tính diễn xướng hoạt cảnh trong Bỏ bộ, Bợm gái, Xin huê Đố chữ, Mó

cá. Theo nhà nghiên cứu Tú Ngọc (1997), “Những bài bản, những điệu hát cấu trúc

theo kiểu ca khúc được coi là vị trí then chố trong âm nhạc của Xoan”. Hát đệm láy

(tầm vông, tình tang…) là kiểu hát nam hát một câu đệm, nữ hát láy lại cũng câu

đệm ấy nhưng ở giọng cao hơn. Ngoài ra, loại hình ca hát trình diễn này còn rất đa

dạng trong hình thức hát – có hát đồng ca nam, đồng ca nữ, tốp ca, đối ca, hát đa

thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và hát đối đáp. Sự đa dạng trong

cách hát và kiểu hát hình thành nên sắc thái âm nhạc khi nghiêm trang thong thả,

lúc dồn đuổi khỏe khoắn vui nhộn khi duyên dáng trữ tình.

Múa trong Xoan là múa nghi lễ, múa chúc múa mừng trình diễn trước bàn

36

thờ thần linh. Trừ hát đối đáp Đúm và Xin huê Đố chữ, còn lại toàn bộ cuộc Xoan

là cuộc hát múa với rất nhiều dạng thức múa khác nhau. Khi là múa cùng nhịp

phách theo kiểu múa Sinh tiền với động tác nhanh, uốn lộn nhiều (trong Giáo trống

Giáo pháo); khi thì đào múa theo đội hình vuông góc chiếu, điệu bộ nhẹ nhàng

thong thả, khoan thai chậm rãi với điệu chụm hai tay lại trước trán với ý khấn chúc

hoặc làm điệu bộ dâng hương, tay đặt trước ngực, quỳ gối (trong Thơ nhang và

Đóng đám). Vào phần Bỏ bộ, múa Xoan lại mang tính minh họa theo lời hát.

Nhưng sang phần Cài huê và Mó cá kết thúc cuộc hát thì Xoan lại chuyển sang hình

thức múa tập thể nam nữ. Tính đồng diễn này tạo cho múa Xoan một dáng vẻ sinh

động và có tính nghệ thuật cao, đồng thời cuối cuộc hát (Mó cá), múa Xoan biến

thành một trò chơi đuổi bắt mà cả nam và nữ đều không bỏ đội hình.

Như thế, có thể thấy múa Xoan chịu sự chi phối mang tính quyết định bởi

bản chất múa tôn giáo tế lễ. Do yếu tố tôn giáo này mà Xoan không quá đa dạng và

phức tạp trong các điệu múa, cũng không có những điệu múa quá khó, quá tốn sức

nhưng lại rất khó bởi người múa phải luôn luôn chú ý đến bối cảnh là không gian

nghi lễ, đồng thời phải tiết chế các động tác sao cho phù hợp với việc hát thờ.

Khán thính giả và bối cảnh

Bản chất Hát Xoan là hát thờ, bối cảnh của Hát Xoan là một bối cảnh mang

tính nghi lễ, gắn chặt chẽ với tế lễ trong đình, miếu hướng đến các vị thánh thần.

Chính bối cảnh này chi phối và trong nhiều bài bản, quyết định diện mạo của Hát

Xoan. Với tư cách là loại hình diễn xướng dâng lên thần linh, Xoan được bài bản

hóa, lề lối và quy chuẩn hóa trong mọi yếu tố - từ lời ca, cách giáo trống giáo pháo,

động tác múa đến nghi thức trình diễn. Ngay cả trong phần cuối cùng của cuộc

Xoan (Cài huê – Mó cá), với hình thức múa hát tập thể vui nhộn, Xoan vẫn không

quên „nhiệm vụ‟ tương tác với thần linh. Những trò chơi cài huê, bắt nhau, đánh cá

cũng chính là những hình thức nghi lễ dâng hoa, dâng lúa, dâng cá lên thần linh,

kiểu dạng của những trò chơi nghi lễ.

Nói đến bối cảnh Hát Xoan, một yếu tố thứ hai không thể không nhắc tới là

37

bối cảnh hội xuân. Hát Xoan là hát xuân, hát thờ nhưng cũng là hát giao duyên nam

nữ vào đám hội đầu xuân. Trong Xoan kết hợp cả hai yếu tố - tính quy chuẩn của

hát cửa đình và tính vui nhộn của hát hội mùa xuân. Sự kết hợp này mang lại cho

Xoan một diện mạo đặc biệt và cho thấy tính đa dạng của Xoan trong các cuộc hát.

Trong bối cảnh này, khán thính giả của Xoan cũng chính là những người đang

mang theo những niềm mong cầu hướng đến thần linh, chờ đợi và thưởng thức

Xoan như với một phương tiện dâng cúng thánh thần của họ. Xoan không đơn giản

là một loại hình nghệ thuật mang tính giải trí mà Xoan đã là một nghi lễ, chuyên

chở những mong muốn và khát vọng về một cuộc sống no đủ bình an, phong đăng

hòa cốc của các cá nhân và cộng đồng.

1.3. Cơ sở lý luận

1.3.1. Các khái niệm công cụ dùng trong luận án

Di sản văn hóa

Trong lĩnh vực văn hóa, di sản văn hóa là một trong những thuật ngữ xuất

hiện với nhiều định nghĩa, khái niệm. Jukka Jokilehto đã tuyển chọn được 60

định nghĩa về di sản văn hóa/tài sản văn hóa, trong đó có đến 18 định nghĩa do

UNESCO đưa ra. Tại điều 1 của Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên

nhiên thế giới 1972 của UNESCO, di sản văn hóa được hiểu là: các di tích, các

công trình kiến trúc, các công trình điêu khắc và hội họa, các yếu tố hoặc các cấu

trúc có tính chất khảo cổ học, các dấu khắc, các nơi cư trú hang động và tổ hợp

các đặc điểm có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật

hay khoa học.

Ở Việt Nam, từ những năm 90 của thế kỷ XX, khái niệm “di sản văn hóa”

được hiểu là tài sản của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau, hay “chỉ chung cho

các tài sản văn hóa như văn học dân gian, các công trình kiến trúc, các tác phẩm

điêu khắc, các tác phẩm văn học… mà các thế hệ trước để lại cho thế hệ sau”

(Từ điển bách khoa Việt Nam, tr.39). Theo Luật di sản văn hóa (2009), “Di sản

văn hóa là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,

38

được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam” (tr.2). Theo cách tiếp cận giá trị văn hóa, di sản văn hóa bao gồm hầu

hết các giá trị văn hóa do con người tạo nên trong quá trình tương tác với môi

trường tự nhiên và xã hội, là phần tinh túy nhất, tiêu biểu nhất đọng lại sau hàng loạt

hoạt động sáng tạo của con người từ thế hệ này qua thế hệ khác. Do phải được thẩm

định một cách khắt khe bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng trong một thời gian

dài, nên di sản văn hóa về phương diện giá trị là đặc biệt bền vững, về số lượng

cũng lớn hơn nhiều so với các giá trị của thời hiện tại. Bởi vậy, di sản văn hóa luôn

được xem là bộ phận quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền văn hóa.

Di sản văn hóa phi vật thể

Theo điều 2 Công ước về việc Bảo vệ DSVHPVT (2003) của UNESCO:

“DSVHPVT được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ

năng và k m theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có

liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá

nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật Di sản văn hóa năm 2009 định nghĩa: “DSVHPVT là sản phẩm tinh thần gắn

với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử,

văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được

lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và

các hình thức khác” (tr.4). Cùng với khái niệm DSVHPVT còn có quan điểm về

DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp. Theo Công ước 2003, việc lập ra danh sách các

DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp mang mục đích “thực hiện các biện pháp bảo vệ

thích hợp” với các di sản văn hóa đứng trước nguy cơ bị mai một.

Việc bảo vệ di sản phi vật thể cũng được UNESCO xác định trong Công ước

về việc Bảo vệ DSVHPVT (2003) là “các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng

tồn tại của DSVHPVT, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn,

bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thông qua hình thức giáo dục

chính thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác

39

nhau của loại hình di sản này”.

Di sản hóa

Trong Ngành công nghiệp di sản: Vương quốc Anh trong sự đi xuống

(The Heritage Industry: Britain in a Climate of Decline) của Robert Hewison

(1987), di sản hóa (heritagization) được dùng để chỉ sự can thiệp của bên ngoài

(nhà nước, tổ chức...) vào một số không gian di sản văn hóa vật thể nhất định.

Kể từ đó một loạt các học giả khác như Nikki Macleod (2006), Melanie Smith

(2009)... đã sử dụng khái niệm di sản hóa cho những di sản văn hóa vật thể ở

châu Âu. Từ năm 2009, 2010, khái niệm di sản hóa được dùng khá phổ biến

trong các nghiên cứu về di sản phi vật thể. Di sản hóa được xem là kết quả của

quá trình tôn vinh một vật thể, một phong cảnh, một tập quán thành di sản bởi

một quyền lực quốc gia hoặc quốc tế hay bởi một hiệp hội, tổ chức hoặc bởi

những người dân thường. Và khái niệm di sản hóa sẽ gần với khái niệm “nghi

thức thể chế” (Bourdieu, 1982), theo đó di sản hóa giống như một nghi lễ/quá

trình chuyển tiếp thông qua đó một vật thể, một phong cảnh, một tập quán sẽ

chuyển thành di sản và chúng sẽ tách rời khỏi đời sống xã hội vốn có của mình.

Cũng đồng quan điểm trên, Oscar Salemink (2014) cho rằng, di sản hóa được

hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là gắn cho các di tích và thực hành văn hóa danh

hiệu di sản (tr.494). Đối với các loại hình văn hóa được UNESCO công nhận là

di sản văn hóa của nhân loại, quá trình di sản hóa có thể được chia ra làm hai

giai đoạn: 1) Giai đoạn lập hồ sơ đến khi công nhận là di sản (với các công tác

kiểm kê, sưu tầm, nghiên cứu, đánh giá loại hình văn hóa để lập hồ sơ xếp hạng);

2) Giai đoạn kể từ sau khi một loại hình văn hóa được công nhận là di sản, với

những tác động của quá trình di sản hóa như quản lý, trùng tu, tôn tạo hoặc sân

khấu hóa, sáng tạo truyền thống, truyền dạy... lên thực hành văn hóa đó. Tuy

nhiên, quá trình di sản hóa này có khả năng đưa đến sự xói mòn các của cộng

đồng sở hữu di sản, cao hơn là sự tước mất quyền của các cộng đồng địa phương

và biến các vật thể và thực hành văn hóa của họ thành những địa điểm của bên

40

ngoài - nhà nước, tổ chức phi chính phủ, chuyên gia.

Từ những gợi mở trên, luận án quan niệm di sản hóa là quá trình lựa chọn

và đưa các yếu tố (một biểu đạt hay thực hành văn hoá nào đó) trở thành di sản

văn hoá. Việc làm này thường diễn ra qua hai giai đoạn: lập hồ sơ khoa học và

bảo vệ di sản sau ghi danh.

Cộng đồng

Theo quan điểm của Keith W. Sproule và Ary S. Suhand (1998): “Cộng

đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng một khu vực địa lý, tự xác

định mình thuộc về cùng một nhóm, thường có quan hệ huyết thống hoặc hôn

nhân và có thể thuộc cùng nhóm tôn giáo, tầng lớp chính trị” (Dẫn theo Võ Quế

2006: 11). Tại Hội nghị quốc tế về DSVHPVT năm 2002, UNESCO thống nhất

định nghĩa về cộng đồng “là những người tự ý thức về sự gắn bó lẫn nhau, điều

này được thể hiện ở ý thức về bản sắc chung hoặc các hành vi chung, hoặc các

hoạt động chung và lãnh thổ chung”, bao gồm: Cộng đồng văn hóa: là một cộng

đồng mà thông qua văn hóa của mình, qua cách tiếp cận văn hóa hoặc qua sự

biến thể từ văn hóa chung mà được phân biệt với các cộng đồng khác (hiểu rộng

hơn, một quốc gia có thể là một cộng đồng văn hóa); Cộng đồng bản địa: là một

cộng đồng mà các thành viên thuộc cộng đồng này cho rằng họ có nguồn gốc từ

một khu vực lãnh thổ nhất định; Cộng đồng địa phương: là cộng đồng sống ở

một địa phương nhất định. Định nghĩa trên tương đối gần với quan niệm mà các

nhà nghiên cứu và thực hành phát triển cộng đồng đang sử dụng, đặc biệt trong các

dự án chăm sóc sức khoẻ ban đầu, coi “cộng đồng là một nhóm cư dân cùng sinh

sống trong một địa vực nhất định, có cùng các giá trị và tổ chức xã hội cơ bản”

(Dẫn theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang, Phát triển cộng đồng - Lý thuyết

và Vận dụng, tr.15).

Trong bối cảnh ở Việt Nam, cộng đồng được hiểu là một tập hợp các chủ

thể văn hóa, những người cùng cư trú trong một môi trường tự nhiên cụ thể, chia

sẻ bối cảnh kinh tế xã hội, lịch sử văn hóa chung, cùng thừa nhận những di sản

41

văn hóa nhất định là một phần trong bản sắc văn hóa của họ. Theo đó, cộng đồng

là tập thể người dân của một làng, một xã, hoặc liên xã, chủ nhân của di sản,

tham gia vào thực hành, phát huy giá trị của di sản trong đời sống tinh thần của

họ, cũng như duy trì những thực hành có ý nghĩa trong đời sống cộng đồng.

1.3.2. Nghiên cứu Hát Xoan trong bối cảnh di sản hóa

Với tên gọi Hát Xoan Phú Thọ trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam,

luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu như sau:

1. Quá trình di sản hóa Hát Xoan Phú Thọ diễn ra như thế nào?

2. Những động thái chi phối quá trình di sản hóa Hát Xoan và những vấn

đề đặt ra với Hát Xoan hiện nay?

Để trả lời những câu hỏi trên, luận án quan tâm và sử dụng một số quan

điểm lý thuyết liên quan đến quá trình bảo vệ, phát huy di sản văn hóa, gồm:

quan điểm Bảo vệ DSVHPVT theo Công ước 2003 của UNESCO, quan điểm

Quản lý di sản bảo tồn - phát triển của Ashworth (1997), lý thuyết Di sản hóa

của Oscar Salemink (2014).

Quan điểm Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ DSVHPVT nhấn

mạnh đến vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể bằng

một số biện pháp mà các quốc gia thành viên cần phải thực hiện như: nhận diện,

lập danh mục thống kê, xây dựng chính sách, xây dựng thiết chế, sử dụng khoa

học công nghệ để nghiên cứu và bảo vệ, tư liệu hoá đào tạo và truyền dạy (Công

ước 2003 UNESCO, Điều 11-14). Tuy nhiên, cộng đồng mới là chủ sở hữu di

sản và cũng là một phần của di sản, sẽ không thể tiếp cận với DSVHPVT nếu

không tôn trọng tập tục của cộng đồng (Công ước 2003 UNESCO, Điều 13).

Bên cạnh đó cần có sự tham gia tối đa của các cộng đồng vào toàn bộ các hoạt

động bảo tồn văn hóa phi vật thể (Công ước 2003 UNESCO, Điều 15) từ nhận

dạng, kiểm kê, tư liệu hoá, nghiên cứu, làm sống lại, đảm bảo sự tiếp cận tới các

địa điểm và vật chất liên quan, trao truyền thông qua giáo dục, nâng cao nhận

thức, đảm bảo sự bền vững cho di sản trong bối cảnh xã hội phát triển. Di sản

42

văn hoá phi vật thể có đời sống của nó. Chỉ có di sản mà cộng đồng thừa nhận,

mong muốn bảo tồn mới cần thiết để bảo vệ. Sự can thiệp thái quá của công

chúng hoặc nhà nước sẽ làm DSVHPVT bị biến dạng. Tiếp cận từ góc nhìn Bảo

vệ DSVHPVT của Công ước 2003 - UNESCO, luận án sẽ phân tích vai trò, mối

quan hệ của nhà nước và cộng đồng trong bảo tồn và phát huy các giá trị của di

sản Hát Xoan trước và sau khi được ghi danh.

Quan điểm Quản lý di sản bảo tồn - phát triển là một trong ba quan điểm

bảo tồn di sản được Ashworth (1997: 165-191) tổng kết từ thực tế bảo tồn di sản

ở nhiều nước trên thế giới (gồm có Bảo tồn nguyên gốc, Bảo tồn có kế thừa, Bảo

tồn - phát triển). Bảo tồn - phát triển đang chiếm vị trí chủ đạo trong giới học

thuật cũng như giới quản lý văn hóa ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Theo

quan điểm này, cộng đồng và các nhà quản lý di sản không nên bận tâm đến vấn

đề bảo tồn nguyên vẹn như thế nào, kế thừa cái gì từ quá khứ mà nên quan tâm

đến làm thế nào để di sản văn hóa sống và phát huy các giá trị văn hóa của nó

trong đời sống xã hội đương đại. Nội hàm quan trọng nhất của quan điểm này

bàn về “tính xác thực” của di sản văn hóa. Nếu các quan điểm truyền thống cho

rằng tính xác thực là cốt lõi của di sản, mang giá trị khách quan thì ngày nay

người ta lại cho rằng, trải nghiệm của cá nhân và cộng đồng, được các cá nhân

và cộng đồng đồng thuận, tin theo mới là thước đo giá trị của di sản. Từ đó trách

nhiệm đối với di sản văn hóa và việc quản lý di sản đó trước hết là của cộng

đồng văn hóa đã sản sinh ra nó. Bên cạnh đó, nhìn nhận theo quan điểm quản lý

di sản trong mối quan hệ giữa bảo vệ và phát triển, các nhà nghiên cứu không

còn coi di sản văn hóa là sự vật của quá khứ với hàm nghĩa những giá trị và hình

thái bất di bất dịch, có giá trị vĩnh viễn. Thay vào đó, di sản văn hóa được nhìn

nhận lại như một quá trình sáng tạo văn hóa trong những môi trường vận động

xã hội thực tại. Và như vậy, văn hóa chính là sản phẩm của thực tại, được tạo ra

bởi cảm nhận về các giá trị của quá khứ, dẫn đường bởi những mối quan tâm đến

vai trò của quá khứ trong các các mối lo toan về thực tại và tương lai (Dẫn theo

43

Phạm Duy Đức 2010: 25-27).

Laurajane Smith và Natsuko Akagawa trong Intangible Heritage: Key

Issues in Cultural Heritage (Di sản phi vật thể: các vấn đề chủ yếu trong di sản

văn hóa) cho rằng, cần dựa vào thực tiễn để đánh giá, nhìn nhận lại các nguyên

tắc và nhận thức liên quan đến di sản văn hóa và quản lý di sản văn hóa. Mọi sự

tồn tại của di sản văn hóa cùng quá trình quản lý nó phải có mục đích và phải tạo

ra những đóng góp tích cực cho sự phát triển xã hội và văn hóa nói chung. Thực

tiễn tồn tại của các nền văn hóa cho thấy, vấn đề quản lý di sản văn hóa không

còn nằm ở công thức ứng xử với những sản phẩm được coi là “di sản” - mà chủ

yếu nằm ở nhận thức về giá trị di sản và cách thức duy trì các giá trị đó - như

những nền tảng cơ bản của xã hội cần thiết cho cuộc sống hôm nay và ngày mai

(2008: 17-21).

Vận dụng quan điểm bảo vệ - phát triển di sản, luận án sẽ nhìn nhận hát

Xoan Phú Thọ như một quá trình tái tạo văn hóa trong môi trường xã hội luôn

vận động và biến đổi, được tạo ra bởi cảm nhận về các giá trị của quá khứ, trong

nhu cầu thực hành của cộng đồng.

Ngoài ra, luận án vận dụng lý thuyết Di sản hóa với luận điểm chính của

Oscar Salemink (2010) để nghiên cứu về Hát Xoan Phú Thọ. Quan điểm của

Salemink thể hiện trong bài viết “Di sản hóa văn hóa sống ở Việt Nam như

DSVHPVT” (2014) và trong “Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về

DSVHPVT ở Việt Nam” (Appropriating Culture: The politics of intangible

cultural heritage in Vietnam) (2012). Theo đó, việc công nhận, ghi danh di sản

chính là một hình thức chính danh để nhà nước sở hữu và tăng cường sự quản lý,

can thiệp đối với di sản. Sự can thiệp này của nhà nước có khả năng đưa đến sự

xói mòn các quyền (quản lý, tổ chức, tạo ra và nhận món lợi) của cộng đồng sở

hữu di sản, hơn nữa, có thể tước quyền, ngoài lề hóa cộng đồng chủ tại địa

phương, biến các vật thể và thực hành văn hóa (vốn trong quá khứ là của họ)

thành tài sản của bên ngoài - nhà nước, tổ chức phi chính phủ, chuyên gia (tr.

44

488). Khi một thực hành được dán nhãn di sản văn hóa, đồng nghĩa với việc thực

hành đó buộc phải chịu sự can thiệp từ bên ngoài - đơn cử như việc các di sản

đạt danh hiệu UNESCO phải kí các cam kết với tổ chức này về việc bảo vệ, phát

huy giá trị di sản văn hóa, hay các di sản cấp tỉnh, cấp quốc gia buộc phải tuân

thủ chặt chẽ các yêu cầu theo Luật Di sản văn hóa và những hướng dẫn mà nhà

nước, tỉnh đã ban hành. Nói cách khác, các cấp quản lý của nhà nước sẽ trở

thành chủ sở hữu của di sản, và có quyền tham gia, quyết định mọi hoạt động

liên quan tới việc bảo vệ và khai thác di sản. Quá trình này thực chất biến di sản

từ chỗ là thực hành độc quyền của cộng đồng chủ trở thành thực hành của nhiều

bên với mục đích nào đó về chính trị, kinh tế, du lịch. Quá trình di sản hóa mở

rộng môi trường, đối tượng, mục đích thực hành của di sản, và khi được mở rộng

cho các đối tượng bên ngoài sẽ dẫn đến nguy cơ biến dạng của di sản. Di sản hóa

như vậy phục vụ cho mục đích của nhiều nhóm khác nhau - có thể là của nhà

nước, của địa phương hoặc nhóm cộng đồng nào đó. Một thực hành khi được ghi

danh di sản sẽ mang lại nhiều lợi ích, chẳng hạn, gia tăng sự chú ý từ bên ngoài,

có ý nghĩa với sự phát triển du lịch địa phương, góp phần vào sự tăng trưởng

kinh tế,... Rõ ràng rằng, trong bối cảnh di sản văn hóa có thể mang lại nhiều

quyền lợi trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, những tính toán liên

quan đến việc chọn lọc, ghi danh, bảo vệ, phát huy di sản sẽ tác động mạnh mẽ

đến quá trình di sản hóa.

Vận dụng lý thuyết di sản hóa và quan điểm bảo vệ - phát triển di sản văn

hóa, luận án tập trung tìm hiểu, bàn luận quá trình di sản hóa Hát Xoan. Thực

hành Hát Xoan được UNESCO ghi danh DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của

nhân loại (2011), được UNESCO đưa ra khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp và trở

thành DSVHPVT đại diện của nhân loại (2017). Các quan điểm lý thuyết đã

được gợi mở về Di sản hóa, về bảo vệ - phát triển di sản sẽ được tác giả luận án

vận dụng để tìm hiểu các nội dung cụ thể: 1) Bối cảnh, quá trình và mục đích của

việc lựa chọn ghi danh Hát Xoan, đưa Hát Xoan trở thành di sản văn hóa; 2) Quá

45

trình ghi danh Hát Xoan, sự chuẩn bị, tham gia của các bên (nhà khoa học, chính

quyền, cộng đồng) trong thời gian chuẩn bị hồ sơ di sản Hát Xoan; 3) Những tác

động của quá trình ghi danh sau khi Hát Xoan trở thành DSVHPVT cần bảo vệ

khẩn cấp, và sau khi Hát Xoan được ghi danh DSVHPVT đại diện của nhân loại.

Những tác động này là rất đa dạng và diễn ra trên nhiều phương diện: sự tác

động, biến đổi các không gian trình diễn Xoan, sự tác động, biến đổi thực hành

Hát Xoan (ký âm, cố định hóa các bài bản Hát Xoan cổ, thành lập các CLB Hát

Xoan, sân khấu hóa Hát Xoan, truyền dạy và thực hành Hát Xoan trong các

không gian khác như công sở, trường học, các hoạt động văn hóa trong và ngoài

tỉnh,...). Mối quan hệ giữa các bên liên quan (nhà nước, cộng đồng) và diện mạo

46

của di sản hậu vinh danh là vấn đề được đặc biệt chú ý trong luận án.

Tiểu kết Chƣơng 1

Trong Chương 1, luận án đã điểm luận tình hình nghiên cứu về Hát Xoan,

tình hình nghiên cứu về di sản và di sản hóa ở Việt Nam. Các tư liệu đã có cho

thấy, Hát Xoan đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện, từ nguồn gốc, thể

loại, bài bản, hình thức, bối cảnh diễn xướng cũng như phương thức khai thác,

bảo vệ và phát huy di sản. Tuy nhiên, Hát Xoan được nghiên cứu sâu trong giai

đoạn trước ghi danh di sản, các biến đổi trong thực hành và diện mạo của di sản

Hát Xoan thời kì sau ghi danh vẫn còn là một khoảng trống cần bổ khuyết.

Trong chương này, luận án cũng cung cấp các vấn đề Cơ sở lý luận của đề

tài, hệ thống các khái niệm về di sản văn hóa, di sản văn hóa phi vật thể, di sản

hóa, cộng đồng trong thực hành di sản; các quan điểm lý thuyết liên quan đến

quá trình bảo vệ, phát huy di sản văn hóa như quan điểm Bảo vệ di sản văn hóa

phi vật thể theo Công ước 2003 của UNESCO, quan điểm Quản lý di sản bảo

tồn - phát triển của Ashworth (1997), lý thuyết Di sản hóa của Oscar Salemink

(2014). Các vấn đề về Hát Xoan như thể loại, nguồn gốc, tổ chức, lệ tục trong

các phường Xoan, đặc điểm của diễn xướng Hát Xoan cũng được luận án đề cập

47

trong chương, cung cấp một hình dung khái quát về thực hành văn hóa này.

Chƣơng 2

BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH

GHI DANH DI SẢN HÁT XOAN PHÚ THỌ

Trong Chương 2, luận án hướng đến việc trình bày các vấn đề bối cảnh tác

động tới quá trình ghi danh di sản Hát Xoan. Quá trình Hát Xoan được sưu tầm,

khôi phục và được ghi danh, trở thành DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân

loại cũng được mô tả trong chương, với sự tham gia của các bên liên quan với nhiều

mục đích và động thái.

2.1. Bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam

2.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa

Đổi mới năm 1986 khởi đầu cho những thay đổi trên nhiều phương diện

trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của Việt Nam. Trước Đổi mới, Việt Nam

gặp nhiều khó khăn về kinh tế khi bị các nước bao vây cấm vận, cắt giảm viện trợ

từ các nước Liên Xô và Đông Âu. Thời kì bao cấp khó khăn đói ngh o để lại trong

ký ức của người dân về từng tờ tem phiếu, sổ gạo, về cảm giác đói triền miên và sự

thiếu thốn đủ thứ. Trước thực tế đó, Đại hội Đảng 6 (12/1986) đã đề ra đường lối

đổi mới, thay đổi trước hết từ tư duy, với "tư duy kinh tế" - kinh tế được điều tiết

theo chuyển động của thị trường - được đặt lên hàng đầu. Sự thay đổi này dẫn đến

những bước tiến của Việt Nam trong một thời gian ngắn, khi nền kinh tế vượt qua

nhiều khó khăn và thách thức, duy trì mức độ tăng trưởng, đa dạng hóa các loại

hình kinh tế. Các báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng được công bố chính

thức trong các kì Đại hội Đảng XI, XII, XIII cho thấy rõ sự tăng trưởng kinh tế của

Việt Nam trong hơn 30 năm qua, đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo

nhất trên thế giới thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ năm 2002 đến 2018,

GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người

1 Nguồn: https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview#1.

48

thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (đánh giá của World Bank, tháng 7/2021)1.

Bên cạnh sự thay đổi về kinh tế, các hoạt động khoa học, giáo dục, văn

hóa có nhiều thay đổi, đời sống của người dân được nâng cao. Cùng sự phát triển

nhanh chóng của kinh tế thị trường là sự mở rộng mối quan hệ giữa Việt Nam

với các nước, sự tham gia vào hệ thống các công ước, quy ước và các hoạt động

quốc tế. Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á -

Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm

2006, … Việt Nam hòa mình vào dòng chảy chung của thế giới và tham gia vào

rất nhiều các sân chơi mới, trong đó có lĩnh vực dành riêng cho các hoạt động

trình diễn và thể hiện bản sắc văn hóa riêng có của Việt Nam. Các Tuần lễ văn

hóa Việt Nam được tổ chức ở nhiều quốc gia tại châu Âu, châu Á, châu Mỹ

nhằm giới thiệu và quảng bá về Việt Nam. Bối cảnh này đặt ra vấn đề nhận thức

lại và nhận thức đúng về văn hóa và vai trò của văn hóa, là cơ sở để hình thành

nhận thức "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự

phát triển kinh tế - xã hội" (Hội nghị lần 4 BCH TW Đảng khóa VII năm 1993),

"Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (…) Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm

mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.

Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế,

các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên

mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,… biến thành

nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển" (Nghị quyết Hội nghị lần thứ

5 BCH TW khóa VIII năm 1998). Đặc biệt, sự ra đời của Nghị quyết Trung

ương 5 khóa VIII (Nghị quyết "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc") (1998) đã có những tác động mạnh mẽ đến

nhận thức, hành động và thực tiễn hoạt động văn hóa trong xã hội, tạo tiền đề

cho những hoạt động khai thác, bảo tồn, khuyến khích phát huy, phát triển các

thực hành văn hóa trên khắp các vùng miền, ở các nhóm cộng đồng dân tộc ở

49

Việt Nam. Như Đỗ Thị Minh Thúy (2004a) khẳng định, Nghị quyết Trung ương

5 là sự hưởng ứng trực tiếp với chương trình "Một thập kỉ thế giới cho phát triển

Việt Nam 1988-1997" của UNESCO (tr. 8-9), và Nghị quyết Trung ương 5 đã

lồng ghép cả khái niệm cơ bản của chương trình UNESCO, và rộng hơn, là "xu

thế tiến bộ chung của thế giới" (tr.9-10). Nói như Meeker (2019), Nghị quyết

Trung ương 5 được các cán bộ văn hóa và quan chức chính phủ xem như một

bước ngoặt trong công tác bảo tồn, trưng bày và phát triển di sản văn hóa tại Việt

Nam, là một sự hưởng ứng trực tiếp với các xu hướng quốc tế (tr.129). Trên thực

tế, Nghị quyết TW5 là nền tảng cơ bản cho công việc phát triển và bảo tồn văn

hóa ở Việt Nam. Nhiều các không gian tín ngưỡng, nhiều lễ hội và thực hành

văn hóa được khôi phục, nhiều hoạt động bảo vệ, phát huy được thực hiện

(chẳng hạn như việc dạy chữ trong các nhóm cộng đồng dân tộc thiểu số, việc

sưu tầm vốn văn hóa dân gian như sử thi, truyền thuyết, truyện cổ...; hay việc

truyền dạy các thực hành văn hóa được xem là có nguy cơ mai một….) sau một

thời gian thực hiện Nghị quyết này.

Trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của Việt Nam kể

từ sau Đổi mới trong lĩnh vực văn hóa, có thể kể đến những tác động từ Internet,

từ các hoạt động và chương trình hành động của UNESCO và nhiều tổ chức

quốc tế tại Việt Nam. Internet bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam từ năm 1997, và

số liệu từ Digital Marketing Việt Nam 2019 đã cho biết, có 64 triệu người dùng

Internet trên tổng số gần 97 triệu người Việt Nam (chiếm 66% dân số), số thời

gian sử dụng Internet trung bình của người Việt lên tới gần 7 tiếng/ ngày (Phạm

Quỳnh Phương 2020). Sự phát triển của Internet và sự xuất hiện của nhiều nền

tảng mạng xã hội (Facebook, Zalo, YouTube…) tạo một điều kiện thuận lợi cho

sự phát triển của thông tin và truyền thông, cũng đồng thời khiến các không gian

và thực hành văn hóa vốn xa lạ và cách xa nhau trở nên quen thuộc và gần gũi

hơn. Sự phát triển rộng khắp của Internet là một yếu tố thuận lợi, kích thích và

50

gia tăng sự tương tác giữa các không gian văn hóa khác nhau.

Với UNESCO (United Nations Educational Scientific and Cultural

Organization), tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc, tổ

chức này hoạt động với mục đích "thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về

giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng của tất cả các nước về

công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân

biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo" mà Hiến chương Liên Hợp Quốc đã

công nhận đối với tất cả các dân tộc”. Việt Nam tham gia UNESCO vào ngày 12-7-

1976, và Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt

Nam (15/6/1977) để thực hiện hiệu quả các chính sách của Nhà nước trong các

công việc liên quan tổ chức này. Việt Nam hành động cùng UNESCO nhằm giới

thiệu với quốc tế về một quốc gia có hàng ngàn năm lịch sử, với bề dày và sự đa

dạng, phong phú về truyền thống văn hóa. Riêng trong lĩnh vực văn hóa, UNESCO

đã ghi danh 22 di sản văn hóa tại Việt Nam (8 di sản văn hóa vật thể và 14 di sản

phi vật thể), và quá trình ghi danh, bảo vệ và phát huy di sản này đã có những tác

động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương liên quan trong

cả nước. Các di sản này đã trở thành các điểm tham quan du lịch nổi tiếng cả trong

nước và quốc tế, thu hút lượng khách du lịch gia tăng trong từng năm.

Việc Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình ghi danh các di sản của

UNESCO, đặc biệt với các DSVHPVT, có thể nói, không phải là những tính toán

đã có sẵn ngay từ ban đầu, mà liên quan đến cả một quá trình thay đổi nhận thức và

quan niệm về DSVHPVT tại Việt Nam. Theo Salemink (2014), thuật ngữ

"DSVHPVT" đã được UNESCO đưa ra chính tại Việt Nam, trong bối cảnh

UNESCO tổ chức hai cuộc họp tại Việt Nam vào năm 1994 để bàn thảo về

DSVHPVT của các dân tộc thiểu số và văn hóa Cố đô Huế. DSVHPVT trở thành

một khái niệm mới trong UNESCO, dẫn đến sự thành lập một phân khu mới tại

Paris để phụ trách về lĩnh vực di sản này. Sự ra đời của Luật về Di sản văn hóa năm

2001 cũng cho thấy quan điểm của Việt Nam về khái niệm DSVHPVT, cũng như

51

cung cấp các hướng dẫn cụ thể cho việc bảo tồn và phát triển các loại di sản này.

Và Salemink nhận thấy rằng, sự quan tâm đến DSVHPVT ở Việt Nam chỉ

bắt đầu sau khi 5 di sản vật thể chính thức được UNESCO công nhận (gồm di

tích lịch sử Huế, Hội An, quần thể đền tháp Mỹ Sơn, Vịnh Hạ Long, động Phong

Nha), khiến tạo nên hiện tượng tăng vọt về số khách tham quan du lịch, cũng

như khiến gia tăng niềm tự hào dân tộc tại Việt Nam. Những lợi ích to lớn cả về

vật chất và tinh thần này khiến tạo nên một "cơn sốt" di sản tại Việt Nam, với

liên tiếp các thực hành văn hóa được lập hồ sơ đệ trình UNESCO và được ghi

danh di sản. Năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế, năm 2005, Không gian văn

hóa cồng chiêng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên được UNESCO ghi danh

"Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại", và đến năm 2008, cả

hai loại hình này được đưa vào danh sách DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp.

Đến năm 2007, Việt Nam đề cử Quan họ và Ca trù, và đến 5/2009, hai loại hình

di sản âm nhạc này được UNESCO chính thức ghi danh. Sau đó là liên tiếp các

năm: 2010 ghi danh Lễ hội Gióng đền Phù Đổng, năm 2011 là Hát Xoan Phú

Thọ, 2012 ghi danh Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, 2013 là Đờn

ca tài tử Nam Bộ, 2014 với Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, 2015 với Nghi lễ và trò

chơi kéo co, 2016 với Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt,

2017 là Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ của Việt Nam, 2019 là Thực hành Then

của người Tày, Nùng, Thái và 2021 là Nghệ thuật Xòe Thái.

Nhìn vào con số các di sản phi vật thể tại Việt Nam được UNESCO ghi

danh liên tục theo các năm, có thể thấy sự hợp lý trong nhận định của Salemink

(2014) rằng, quá trình tuyên bố và công nhận di sản ở Việt Nam là một quá trình

có tính chính trị ở nhiều cấp độ, chồng chéo và có tính tương tác, liên quan đến

tham vọng chính trị của địa phương trong bối cảnh quốc gia, cũng như lợi ích

chính trị và văn hóa quốc gia trên trường quốc tế. Ở cấp độ quốc gia, các di sản

được ghi danh liên quan đến những tính toán về sự cân bằng vùng miền, tộc

người, địa phương, và đến những kì vọng của Việt Nam trong việc xây dựng

52

hình ảnh trên trường quốc tế về một quốc gia lâu đời, có vốn văn hóa truyền

thống sâu dày,... thông qua diện mạo các di sản được xem là "tiêu biểu". Từ phía

các địa phương, việc một thực hành văn hóa được UNESCO ghi danh di sản có ý

nghĩa như sự khẳng định về truyền thống văn hóa tại nơi chốn đó, và đồng thời,

mở ra các cơ hội về mặt kinh tế từ hoạt động quảng bá di sản.

Trên thực tế và trong diễn trình lịch sử, ở Việt Nam, động thái nhà nước

hóa, chính trị hóa các thực hành văn hóa như vậy là không hề xa lạ. Trong quá

khứ, việc "khai thác được những giá trị văn hóa để phục vụ cho mục đích chính

trị một cách khéo léo và nhuần nhuyễn" (Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị

Phương Châm 2014: 35) đã được các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện,

tiêu biểu là việc nhà Lê sắc phong Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng

thần cho các thần thánh địa phương qua công phu khảo cứu, biên soạn, phụng

sao các thần tích thần sắc của hai nhân vật Nguyễn Bính và Nguyễn Hiền. Việc

sắc phong này, theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng, xuất phát từ nhu cầu

mang tính thời đại về việc thống nhất về một mối vừa để quản lý, vừa để gây ảnh

hưởng của triều đình lên các làng xã vốn luôn được coi là một lãnh thổ tự trị

riêng của các cộng đồng cư dân Việt (dẫn theo Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý,

Nguyễn Thị Phương Châm 2014: 33). Việc biên soạn lại, sửa chữa, hợp lý hóa

của nhà nước với các thần tích từ địa phương gửi lên mang tính chính trị rõ nét,

và tạo một sự chính danh cho nhà nước trong việc nắm giữ các làng xã trong

vòng ảnh hưởng, thông qua văn hóa, tín ngưỡng, lệ tục một cách đầy khôn khéo.

Và theo các nhà nghiên cứu, sự thống nhất, quyền quản lý, nắm giữ này của nhà

nước luôn luôn được đặt ra trong mọi thời đại.

Tính chính trị này còn thể hiện rõ khi trên thực tế, các thực hành và các xu

hướng văn hóa trong nhiều thời kì đều là ảnh xạ của các chính sách của nhà

nước, và thể hiện rõ nhận thức chính trị của thời kì đó về mặt văn hóa. Những

động thái trong khôi phục, bảo vệ, phát huy di sản của nhà nước từ những năm

1990 còn cho thấy sự chuyển đổi lớn trong định hướng và nhận thức về văn hóa

53

ở Việt Nam trong một chặng dài từ 1945 đến 1986 - thời kì có nhiều thay đổi,

biến động trong nhận thức về vấn đề văn hóa, dẫn tới những tác động mạnh mẽ

đến thực hành văn hóa trong đời sống của nhân dân, đặc biệt trong lĩnh vực tôn

giáo tín ngưỡng và lễ hội. Giai đoạn 1945-1954, "do hoàn cảnh chiến tranh, công

tác kháng chiến bận rộn, một phần do địch tàn phá những đình chùa, ngăn cấm

nhân dân đi lại, hội h nên đồng bào ta đành phải chịu đựng, không được tổ chức những hội h vui chơi nữa"1, nên đến năm 1956, Thông tư số 1845 VH/TT của

Bộ Văn hóa về việc tổ chức những ngày hội hè của nhân dân chủ trương khôi

phục lại những ngày hội hè là dựa trên chính sách phục hồi những phong tục tập

quán tốt đẹp của dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng, quan tâm đến việc nâng cao

đời sống văn hóa của nhân dân. Thông tư xác định, nhu cầu tổ chức lại hội hè

theo phong tục, tập quán là "thỏa lòng tín ngưỡng và để vui chơi giải trí", và "là

một yêu cầu chính đáng về sinh hoạt tinh thần của đồng bào ta mà Đảng, Chính

phủ phải quan tâm đầy đủ, mang lại quyền lợi đó cho nhân dân". Từ nhận thức

này, nhà nước chủ trương "giúp đỡ duy trì và khôi phục lại, với điều kiện có

hướng dẫn, có lãnh đạo, làm cho những ngày hội có nội dung vui chơi phong

phú, lành mạnh, và có tác dụng động viên, giáo dục tốt đối với nhân dân và đảm

bảo tự do tín ngưỡng" các ngày hội hè, ngày giỗ, những ngày hội có tính chất tôn

giáo, ngày hội có tính chất thuần túy vui chơi như hội mùa,... Với phương châm

"không hạn chế, ngăn cản ý muốn mở hội của nhân dân", "khuyến khích những

ngày hội có tính chất vui tươi, lành mạnh", "thực sự tôn trọng tự do tín ngưỡng,

tôn trọng phong tục tập quán, mọi hình thức vui chơi cũ của nhân dân, nhưng

phải có hướng dẫn khéo léo và kết hợp các hình thức mới để làm cho nội dung

ngày hội thêm phong phú, lành mạnh, tránh được những lệch lạc có hại"; nhà

nước đã thực hiện chủ trương khôi phục các lễ hội, các thực hành tín ngưỡng

trên tinh thần tôn trọng tập quán địa phương. Chủ trương này còn được bổ sung

thêm bởi Công văn 2361 VH/ NC về việc tôn trọng những ngày Tết, ngày hội của

1 Trích Thông tư số 1845 VH/TT (1956).

54

các dân tộc thiểu số (13/1/1957), quy định rõ về việc "cần hết sức tránh động

chạm đến phong tục tập quán của đồng bào địa phương", "Đối với một vài tục lệ

kiêng kị mê tín không có lợi cho việc sản xuất và vệ sinh, chúng ta nên nhẫn nại

giáo dục để đồng bào tự nguyện tự giác bỏ dần, đi đôi với việc nâng cao mức

sống của nhân dân, tuyệt đối không được dùng mệnh lệnh ép buộc"; "giúp đỡ

phát triển tác dụng tích cực của những ngày đó (ngày hội, ngày tết) để động viên

đoàn kết, sản xuất và phát triển văn nghệ dân gian". Chính nhận thức này đã mở

ra một giai đoạn sưu tầm, khôi phục, phát triển các lễ hội, các thực hành diễn

xướng, tôn giáo tín ngưỡng,... ở khắp các vùng tại miền Bắc. Hát Xoan lần đầu

tiên được phát hiện, nhiều bài bản, thực hành được sưu tầm, khôi phục cũng là

trong giai đoạn này.

Tuy nhiên, ngay sau giai đoạn khôi phục này, nhà nước đã có những "lo

ngại" về việc "bên cạnh những mặt tốt, cũng nảy nở và phát triển nhiều lệch lạc, có hại"1, và đưa ra những nguyên tắc tổ chức để các địa phương thực hiện nhằm

"kịp thời uốn nắn những lệch lạc, ngăn ngừa tệ nạn xã hội, đồng thời đảm bảo

lãnh đạo các hoạt động văn hóa phát triển một cách đúng mực, có được tác dụng

tốt", thể hiện rõ trong Thông tư số 131 VH/TT của Bộ Văn hóa v/v hướng dẫn tổ

chức các hội hè, hoạt động văn nghệ trong mùa xuân và ngăn ngừa các hiện

tượng xấu đang nảy nở. Sau đó, trong năm 1958, Thông tư số 28 TT/NC đã có

những chỉ đạo cụ thể hơn nhằm can thiệp vào các hoạt động hội hè, lễ tết, phong

tục tín ngưỡng của người dân, xác định "trong hội h nói chung thường có hai

mặt tốt và xấu", cần hạn chế "mặt xấu như mê tín dị đoan, hủ tục hư phong...";

còn với mặt tốt, "cần phải đề cao nhưng với tinh thần hạn chế: hạn chế thời gian,

1 Trích Thông tư 131 VH/TT, Bộ Văn hóa (1957). Những điểm có hại được xác định gồm: tổ chức văn nghệ phát triển quá rộng, tập hợp số người quá đông (có đội gần 100 người), tập dượt, biểu diễn liên miên, ảnh hưởng nhiều đến các công tác khác và đến việc chống hạn, sản xuất; tài chính sinh hoạt văn nghệ lấy vào của công, ruộng công, hoặc quyên cúng gò ép quần chúng; dịp đầu xuân, nhiều nơi tổ chức hội h đình đám kéo dài, làm quá rầm rộ, phải huy động nhiều sức người, sức của và thì giờ của nhân dân, ảnh hưởng đến việc làm ăn, đến sức khỏe của nhân dân, có hại cho phong trào sản xuất và tiết kiệm; các tệ nạn xã hội cũ như cờ bạc, rượu chè, trai gái và những hủ tục cũng được dịp hồi lai và phát triển, gây nên tình trạng xã hội không tốt, ảnh hưởng đến sự làm ăn, đời sống và tư tưởng của nhân dân.

55

hạn chế số người, hạn chế tuyên truyền...". Ngay trong giai đoạn này, dù vẫn trên

tinh thần tôn trọng phần lễ bái của đồng bào nhưng với những hội có tính chất

mê tín dị đoan, nhà nước yêu cầu có biện pháp hạn chế người các địa phương

khác đến, có biện pháp tích cực hạn chế lên đồng, xóc thẻ, bói toán..., có kế hoạch giáo dục riêng với những người làm nghề mê tín ở địa phương1 để họ tự

giác chuyển nghề.

Đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX, sau thời kì Mỹ chấm dứt chiến

tranh phá hoại ở miền Bắc, sau 2 năm 1969 - 1970 khi "người đi lễ từ các tỉnh và

thành phố kéo về các nơi có hội lên đến hàng vạn người, đông nhất là thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ"2, Bộ Văn hóa ban

hành Chỉ thị số 10/VH -VP về vấn đề hội hè (1971) nhằm "quan tâm đầy đủ đến

việc chỉ đạo và hướng dẫn hội hè", có các biện pháp thích hợp để "giáo dục quần

chúng trừ bỏ mê tín dị đoan, hạn chế đến mức tối đa người đi lễ bái mê tín";

Thông tri số 24 VH/TT về vấn đề hội hè (1972) yêu cầu "các địa phương tiến

hành điều tra, nghiên cứu, lập danh sách và phân loại các ngày hội trong địa

phương", "trên cơ sở đó đề ra chủ trương, biện pháp xử lý thích hợp đối với từng

loại". Thông tri 24 còn nhấn mạnh nhiệm vụ của các địa phương trong việc đẩy

mạnh tuyên truyền quần chúng về hai nhiệm vụ trung tâm của đất nước trong

thời kì chiến tranh là "sản xuất và chiến đấu", không để công tác hội hè ảnh

hưởng tới các nhiệm vụ này. Đến năm 1975, Quyết định 56-CP của Hội đồng

Chính phủ về việc ban hành bản thể lệ về tổ chức việc cưới, việc tang, ngày giỗ,

ngày hội đã có những quy định chi tiết, tác động trực tiếp đến các thực hành tín

ngưỡng, các hoạt động diễn xướng dân gian,... Theo quyết định này, "Đối với

các hội làng ở nông thôn mà từ lâu không tổ chức nữa thì nay không được phục

hồi", "Cần xóa bỏ những hội hè mang tính chất mê tín dị đoan, như hội Phủ Giầy

ở Nam Hà, hội đồng bằng ở Thái Bình..."; "Đối với những ngày hội vừa có tính

1 Thông tư xác định phân những người làm nghề mê tín dị đoan làm 2 loại để giáo dục, loại làm nghề bói toán phù thủy và loại đồng bóng, cung văn, thủ từ, chủ hội. 2 Trích Chỉ thị số 10/VH -VP về vấn đề hội hè (1971).

56

chất tôn giáo, vừa có tính chất danh lam thắng cảnh, cần tôn trọng phần tự do tín

ngưỡng của nhân dân, đồng thời cần bài trừ các hình thức mê tín dị đoan". Thông

tư số 26/ VH-QC (1975) còn nêu rõ chủ trương "Từ năm 1975 trở đi, Nhà nước

ta không mở hội và bằng mọi hình thức tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết

phục, phải làm cho toàn dân thấm nhuần chủ trương đó, để từng người tự nguyện

không đi trảy hội". Từ chủ trương này, các hoạt động lễ hội, nhiều hình thức sinh

hoạt tín ngưỡng rơi vào tình trạng trầm lắng, không được khuyến khích, thậm chí

không được phép diễn ra ở nhiều nơi.

Khảo sát các chính sách văn hóa trong cả chặng đường lịch sử từ 1945 đến

1986, có thể thấy, như phân tích của Meeker (2019), sau cách mạng tháng Tám năm

1945, xu hướng quan tâm thu thập văn hóa dân gian được thể hiện không phải vì nỗi

lo sợ việc di sản biến mất, mà thể hiện sự cần thiết của việc tái phát hiện văn hóa

dân gian được xem là những thứ đã bị triệt tiêu dưới chế độ thực dân, và những thể

loại văn hóa dân gian này sẽ được sử dụng như là nền tảng của văn hóa của nhà

nước Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đầy tươi mới. Sang thời kì Đổi mới, sự thu thập

các thực hành văn hóa dân gian được xem như việc "tái tạo các 'nguồn gốc' đã mất

đi" (Meeker 2019: 130), và các hoạt động văn hóa, các nghệ nhân được đào tạo vào

thời kì trước 1945 "được nhìn nhận như một phần của cái chính thống/ xác thực

ngày càng lùi xa", và "tuổi tác và sự qua đời của các thế hệ được xem là mất mát và

là động lực cho việc bảo tồn khẩn cấp" (Meeker 2019: 131).

Ngoài ra, việc khai thác giá trị các di sản trong bối cảnh hội nhập về kinh

tế, chính trị, văn hóa của Việt Nam còn cho thấy sự thay đổi quan niệm trong

nhận thức về di sản, khi các di sản được xem như là nguồn lực quan trọng đóng

góp vào quá trình phát triển kinh tế. Nhìn từ chiều cạnh kinh tế, các di sản đã

góp phần vào việc tăng thu nhập và vị thế cho địa phương, giải quyết công ăn

việc làm cho người dân. Nhà nước, chính quyền địa phương cũng đầu tư nhiều

tới các di sản. Trên thực tế, ở nhiều nơi, di sản được xem như một thứ tài

nguyên, có thể tham gia và giúp cải thiện về xã hội, chính trị và kinh tế, được kì

57

vọng mang lại các giá trị.

Nhưng chính nhận thức và quá trình kinh tế hóa, hàng hóa hóa văn hóa này

đã tác động mạnh mẽ tới diện mạo của di sản, và dẫn đến nhiều hệ lụy, khiến nảy

sinh nhiều nguy cơ và vấn đề liên quan đến sức sống của di sản. Những thuận

lợi, thách thức, thành công và thất bại trong việc phục hồi và bảo tồn di sản đã

được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu. Đó là nguy cơ và hệ lụy của sự phục hồi,

bảo tồn di sản gắn liền với quan điểm bảo tồn có chọn lọc ở Việt Nam, biểu hiện

rõ qua hai phương thức tiếp cận phổ biến là " tạo dựng truyền thống" (invention

the tradition) (theo quan điểm của Hobsbawm & Ranger, 1983) và "sân khấu

hóa"/"dân gian hóa" (folkloritazion) (Seitel, 2002, p.6) được nhóm các nhà

nghiên cứu Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm chỉ ra

(2014). Quan điểm và phương thức tiếp cận này khiến một số thực hành văn hóa

dân gian bị tách khỏi môi trường diễn xướng truyền thống (Fjielstad & Nguyễn

Thị Hiền 2006, Lê Hồng Lý và cộng sự 2010), khiến cho những thực hành văn

hóa này bị biến đổi hoặc mai một (Salemink 2001). Sự tác động mạnh mẽ của

kinh tế thị trường, sự thay đổi môi trường tự nhiên và cơ cấu cây trồng khiến giải

thiêng các nghi lễ truyền thống (Salemink 2001), hay những tác động của du lịch

với sự "thương mại hóa" thực hành văn hóa, mang đến nguy cơ tàn phá văn hóa

nếu phát triển chỉ dựa vào những mối quan tâm thương mại thuần túy (Evans,

2001) (dẫn theo Lê Hồng Lý và các cộng sự 2014: 14-15). Trong câu chuyện

phục hồi, phát huy di sản, việc phục hồi thế nào, bảo tồn cái gì, ai/ chủ thể nào là

người quyết định trong quá trình ấy cũng như cách tạo dựng môi trường tương

đối nguyên bản cho các thực hành văn hóa thì luôn là một vấn đề được đặt ra với

mọi di sản.

2.1.2. Bối cảnh văn hóa, chính trị và những tác động đến thực hành Hát Xoan

Hát Xoan có một lịch sử đầy thăng trầm. Kể từ khi được phát hiện lần đầu

tiên vào năm 1954, các chặng phát triển của Hát Xoan tương ứng với những giai

đoạn thay đổi nhận thức về văn hóa cùng các chính sách văn hóa liên quan của

58

nhà nước và chính quyền địa phương.

Theo ghi chép trong các tư liệu điền dã từ năm 1954 của một số cán bộ

văn hóa địa phương, Hát Xoan vẫn được thực hành cho đến năm 1945. Sau

1945, do đặc tính của Xoan là hát cửa đình, là diễn xướng phục vụ tế lễ, sự tồn tại

của Xoan gắn liền với sự tồn tại của cửa miếu mái đình, lễ nghi và lễ hội, nên khi

nhiều đình miếu bị phá hoặc bỏ hoang, nhiều đám rước và hội làng không còn

nhộn nhịp, Hát Xoan cũng dần vắng bóng, 'đứt đoạn' trong suốt cuộc kháng

chiến chống Pháp và trong công cuộc Cải cách ruộng đất.

Năm 1954, sau thời kì kháng chiến chống Pháp, với nhu cầu trình diễn các

tiết mục văn nghệ để biểu diễn phục vụ xây dựng đời sống xã hội mới, các làn điệu

dân ca truyền thống được các đoàn văn công sưu tầm và sử dụng làm chất liệu cho

các tiết mục dàn dựng. Hát Xoan cũng được một số cán bộ văn hóa tỉnh Phú Thọ

„phát hiện‟ trong thời kì này, đầu tiên là từ xã Xoan ngọn Tây Cốc hẻo lánh ở Đoan

Hùng rồi lần về vùng Xoan gốc Phù Đức, An Thái; và Xoan đã được các đoàn văn

công trung ương tìm đến. Theo tư liệu của Nguyễn Khắc Xương (2008), tiết mục

Xoan đầu tiên được trình diễn trong thời kì này là vào ngày 2.9.1954, trong hội diễn

của Phú Thọ. Lần xuất hiện trên sân khấu đầu tiên này của Xoan gồm cả các bài bản

truyền thống lẫn một số bài có lời mới, và Xoan được đón nhận rất tích cực. Sau lần

biểu diễn này, các cụ nghệ nhân Xoan còn được mời đi diễn ở nhiều hội diễn văn

nghệ lớn khác ở miền Bắc. Sau khi được phát hiện và được đón nhận, Hát Xoan

được bắt đầu giới thiệu, sưu tầm, chỉnh lý, đưa vào các sáng tác ca nhạc, biên

soạn hoạt cảnh, thành các tiết mục "tủ" của các đoàn "Văn công", và Hát Xoan

được giới thiệu rộng rãi hơn với công chúng.

Những hiệu ứng tích cực từ việc phục hồi hát Xoan bước đầu này đã khích lệ nhiều nhà nghiên cứu, nhạc sĩ tham gia khai thác, phục hồi và bảo tồn Xoan1. Các

nhà nghiên cứu đã ghi chép các lời hát, làn điệu và chụp hình các nghệ nhân trong

1 Giai đoạn quan trọng này của công tác sưu tầm, phục hồi hát Xoan gắn liền với tên tuổi của các nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu: Nguyễn Kính, Cao Khắc Thùy, Chu Minh, Ngọc Oánh, Tú Ngọc, Nguyễn Viêm, Nguyễn Đăng Hòe, Nguyễn Đình Nghi và Anh Thơ.

59

quá trình biểu diễn. Và một đặc điểm nổi bật của thời kì này trong lịch sử của Xoan

là việc các cán bộ văn hóa địa phương đã dựa trên hình thức diễn xướng và làn điệu

Xoan cổ để xây dựng những tiết mục sân khấu và đặt lời mới. Từ năm 1954 đến

năm 1966, có nhiều ca khúc, tiết mục dựa trên nền tảng Xoan được ra mắt công chúng trong các chương trình hội diễn văn nghệ cấp địa phương và toàn quốc1.

Trong bối cảnh văn nghệ lúc đó, Xoan cũng như nhiều loại hình dân ca khác được

khai thác để phục vụ mục đích sáng tác và trình diễn của nghệ thuật quần chúng

cách mạng hơn là chú trọng đến việc phục dựng và bảo tồn Xoan trong môi trường

diễn xướng của chính nó. Chính vì thế, nghệ nhân Xoan trong thời kì này không

diễn xướng Xoan theo đúng nghĩa của loại hình nghệ thuật này (tức là trong môi

trường nghi lễ và hội đám, với khán giả là người dân trong cộng đồng) mà chỉ biểu

diễn để phục vụ công tác sưu tầm và lấy tư liệu, cho những nhà nghiên cứu và

những người sáng tác. Có thể gọi Xoan thời kì này là Xoan khai thác hay Xoan mô

phỏng. Trên sân khấu không tồn tại một loại hình Hát Xoan đích thực, mà Xoan lúc

này tồn tại như một thứ ngữ liệu.

Khi Hội văn nghệ dân gian Phú Thọ được thành lập năm 1967, dựa trên nền

tảng những chú ý về Hát Xoan đã có từ trước, với nhiệm vụ về việc xây dựng một

diện mạo văn nghệ dân gian mang màu sắc của riêng tỉnh nhà, công việc khai thác

và phát huy Xoan có nhiều thay đổi. Nhiều những buổi nói chuyện về Xoan, nhiều

những tiết mục Xoan xuất hiện trong các hội nghị và lễ kỉ niệm của tỉnh… đã lan

tỏa thông tin và phần nào đó tri thức về loại hình nghệ thuật này trong tỉnh. Thêm

vào đó, Xoan tiếp tục được sử dụng làm nền làn điệu cho nhiều bài hát lời mới,

được đưa vào trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật hiện đại (trên sân khấu

Vĩnh Phú năm 1980) như một yếu tố bản sắc của văn nghệ địa phương, được một số

người yêu Xoan đưa vào truyền dạy (tự phát) trong các tổ chức và trường học (xem

thêm Dương Huy Thiện 2015: 154-157). Diện mạo của Xoan còn được khắc họa rõ

1 Có thể kể đến các tiết mục: Trẩy hội mùa xuân (Nguyễn Kính và Cao Khắc Thùy, 1955); Sông Thao truyền thống anh hùng (Nguyễn Kính, 1965); ca cảnh Tiễn đưa (Nguyễn Kính, 1954); Hái hoa xuân (Nguyễn Kính, 1963); Trên đồi chè (Cao Khắc Thùy, 1965); Tiễn đưa (Hải Yến, 1967).

60

nét thêm trong đời sống văn hóa văn nghệ bởi những công trình nghiên cứu quan

trọng của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian (Tú Ngọc với Hát Xoan năm 1977,

Nguyễn Khắc Xương và Dương Huy Thiện với tập Hát Xoan, hát Ghẹo Vĩnh Phú

năm 1979 và một số bài đăng trên báo chí của Nguyễn Đăng Hòe, Nguyễn Vũ,

Phạm Khương…). Thời kì chiến tranh (1954 -1975), Xoan cũng như nhiều các

loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống khác chưa được tạo điều kiện để phục

hồi và phát triển nhưng những động thái tìm kiếm, khôi phục và khai thác Xoan

diễn ra rải rác từ năm 1954 đến 1977 của giới văn nghệ sỹ, đặc biệt là của Hội

văn nghệ dân gian tỉnh Vĩnh Phú, với các nhạc sỹ - nhà nghiên cứu như Cao

Khắc Thùy, Tú Ngọc, Nguyễn Kính, Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy

Thiện…) là vô cùng quý giá, tạo tiền đề cho những bước khôi phục và bảo tồn

Xoan trong những năm tiếp theo.

Trong giai đoạn này, không thể không nhắc tới một dấu mốc quan trọng

trong nghiên cứu và phục hồi, bảo tồn Xoan: Hội thảo khoa học “Dân ca Xoan –

Ghẹo Vĩnh Phú” (Lần thứ nhất, 11/1994). 22 bản tham luận cùng những tiết mục và

ý kiến đóng góp của các nhà khoa học ở Trung ương, địa phương và của các nghệ

nhân Ghẹo gốc thôn Nam Cường (Tam Nông), nghệ nhân Xoan xã Kim Đức (Phù

Ninh) đã có ý nghĩa vô cùng quan trọng với việc „chấn hưng‟ Xoan – Ghẹo sau đó

(Dương Huy Thiện 2015). Dù lúc này, Xoan trong chính cộng đồng chủ vẫn còn

chưa sống trở lại, song có thể nói, bầu không khí Xoan đã dày đặc hơn, tạo tiền đề

cho sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ trở lại của hát Xoan tại không gian Xoan

gốc và trên toàn tỉnh Phú Thọ từ 1995 trở đi.

Sau 1995 là thời kì phát triển đặt biệt của Hát Xoan. Những tác động của thời

chiến, của sự sai lầm về chính sách (đặc biệt trong các thời kì chống mê tín 1956-

1957; 1961; 1975) đã tàn phá nặng nề các di tích liên quan đến môi trường tín

ngưỡng của Xoan khiến việc thực hành Xoan (dưới hình thức sinh hoạt cộng đồng)

bị đứt gãy trong một thời gian dài đã gây nhiều khó khăn cho chính cộng đồng chủ

trong việc duy trì lại loại hình nghệ thuật – tín ngưỡng này. Sự thay đổi về chính

61

sách văn hóa sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986, đặc

biệt sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 về việc “Xây dựng và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, các hoạt động phục

hồi (văn hóa vật thể và phi vật thể) được tiến hành trên diện rộng và trở thành

nhiệm vụ quan trọng ở các cấp từ trung ương đến địa phương. Cơ chế văn hóa thay

đổi; đời sống kinh tế xã hội của người dân được cải thiện; nhu cầu tín ngưỡng và

thực hành văn hóa ngày càng lớn,… đã tạo điều kiện cho Xoan phát triển mạnh mẽ

trở lại. Giai đoạn này, có những cán bộ Sở văn hóa, đạp xe thường xuyên xuống các

làng Xoan cổ, làm việc cùng các nghệ nhân, khuyến khích họ biểu diễn lại trong

chính cộng đồng mình, sưu tầm và gom góp từng bàn bản Xoan: “lúc ấy vất vả lắm,

nhưng mà mê lắm. Còn phải khuyến khích các ông bà tập trung lại để diễn Xoan nữa cơ”1. Năm 2005, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam chỉ đạo nghiên cứu, khôi

phục và truyền dạy Hát Xoan. Hát Xoan được giới thiệu tại Hội thảo Khoa học

Quốc tế Những nét văn hóa tương đồng Đông Nam Á về phong tục nghi lễ tại Thái

Lan (với sự tài trợ của quỹ Ford) và Giao lưu văn nghệ truyền thống tại Hàn Quốc.

Dấu mốc quan trọng nhất ở thời kì này là sự kiện 4 phường Xoan gốc được

phục hồi vào năm 2006. Những năm từ 1998 – 2006 là quãng thời gian Sở Văn

hóa Thông tin Phú Thọ nỗ lực để tổ chức lại các phường Xoan cổ (với tên gọi là

các Câu lạc bộ Xoan), trực tiếp tổ chức CLB hát Xoan ở quê Xoan Kim Đức và

An Thái. Tháng 7-2006, từ CLB Xoan Kim Đức đã tách ra làm 3 phường Xoan

là Phù Đức, Thét và Kim Đái, hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo chuyên môn

của Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh (thuộc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Phú

Thọ). Và cũng trong năm 2006, phường Xoan An Thái được công nhận là

phường Xoan cấp tỉnh. Phường Xoan hoạt động với mô hình gốc, với sự dẫn dắt

của các cụ trùm Xoan. Xoan được thực hành và truyền dạy theo lịch cụ thể, mỗi

tuần hai buổi tối, mỗi năm tổ chức hát Xoan vào dịp hội làng và hội đền Hùng, với

các thành viên tham gia thường xuyên và tự nguyện. Sự khôi phục các thực hành

1 Tư liệu phỏng vấn, 5/10/2018.

62

Hát Xoan còn liên quan tới những động thái của nhà nước trong việc đưa Giỗ tổ

Hùng Vương vào ngày 10.3 hàng năm thành Quốc lễ vào năm 1995, và từ năm

Hùng Vương (theo Luật số 84/2007/QH11).

2007, người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương vào ngày Giỗ tổ

Trong bối cảnh nhà nước khuyến khích ghi danh các di sản (vật thể và phi

vật thể) ở cả cấp quốc gia và quốc tế, tỉnh Phú Thọ đã có chủ trương tìm kiếm một

loại hình văn hóa điển hình để đại diện cho tỉnh. Quá trình tìm kiếm này thể hiện rõ

qua các cuộc họp bàn chiến lược của tỉnh (Nguyễn Anh Tuấn 2015); qua các bộ hồ

sơ di sản đã được chuẩn bị như “Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di tích

khảo cổ học thời đại đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ”, “Di tích Đền Hùng và di

tích khảo cổ đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ” (Văn bản 3867/VPVP-VX do Chính

phủ kí ngày 11/7/2007). Và cuộc Hội thảo ngày 07 tháng 7 năm 2008 có một ý

nghĩa rất quan trọng, chuyển hướng chiến lược của tỉnh từ việc xây dựng hồ sơ

về một không gian văn hóa vật thể sang tìm kiếm ứng viên từ di sản phi vật thể.

Và cuộc hội thảo tuyển lựa vào ngày 28 tháng 12 năm 2008 đã thay đổi số phận

của Xoan. Từ danh sách 5 di sản của tỉnh được Sở VHTTDL trình lên, Hát Xoan

đã được lựa chọn.

Việc lựa chọn này đã dẫn đến hàng loạt những hoạt động mạnh mẽ về sau

để xây dựng hồ sơ di sản, cũng là những hoạt động tác động mạnh mẽ đến diện

mạo của hát Xoan. Đó là những cuộc sưu tầm, nghiên cứu về Xoan trên mọi

phương diện (không gian thực hành, người thực hành, bài bản, tư liệu…) từ cuối

năm 2008. Tư liệu về Xoan dần dày lên, bản đồ không gian vùng Xoan được dày

lên dần dần. Những nỗ lực điều tra, khảo sát, sưu tầm các tư liệu về Xoan thời kì

này có một ý nghĩa rất lớn đối với việc đánh giá hiện trạng và các hình thức sinh

hoạt liên quan tới hội Xoan và nghệ thuật hát Xoan. Một cái nhìn tương đối tổng thể

về Xoan đã được hình thành – từ cách thức tổ chức sinh hoạt văn hóa tới các di tích

di vật liên quan như trang phục, dụng cụ, âm nhạc, tài liệu chữ Hán, chữ Nôm…

Những tư liệu dày dặn trên nhiều phương diện về Xoan chính là nền tảng

63

để những hội thảo lớn về Xoan được tổ chức. Hát Xoan Phú Thọ (13/10/2019)

và hội thảo Quốc tế Hát Xoan Phú Thọ (15/01/2010) được tổ chức với sự tham

gia đông đảo của các nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc, nghệ thuật trong và

ngoài nước. Những bài tham luận, những ý kiến đóng góp trong các hội thảo là

nguồn tư liệu quý giá cho quá trình khôi phục và phát triển Xoan. Đồng thời với

những nghiên cứu chuyên sâu về Xoan, bộ hồ sơ di sản Xoan cũng được chuẩn

bị để trình UNESCO xét duyệt. Và đến ngày 24 tháng 11 năm 2011, Hsát Xoan

được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân

loại cần bảo vệ khẩn cấp, trở thành dấu mốc quan trọng, tác động mạnh mẽ đến

thực hành văn hóa này. Việc Xoan được UNESCO ghi danh vào năm 2011 được

xem là kết quả của một chặng đường dài những nỗ lực và quyết tâm của chính

quyền và những người làm văn hóa, cũng như những nỗ lực thực hành lại Hát

Xoan của chính cộng đồng chủ.

2.2. Quá trình ghi danh di sản Hát Xoan

2.2.1. Quá trình lựa chọn Hát Xoan

Trong bối cảnh nhiều địa phương có nhu cầu ghi danh di sản cho riêng

mình nhằm phục vụ các mục đích chính trị, kinh tế, du lịch, văn hóa, việc Phú

Thọ lựa chọn Hát Xoan để lập hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh di sản là một

quá trình chuẩn bị dài, liên quan đến những tính toán của Ủy ban Di sản và

UBND tỉnh Phú Thọ về việc xây dựng một hồ sơ di sản văn hóa nhân loại gắn

với tỉnh Phú Thọ, gắn với Đền Hùng. Từ nhiệm vụ “phải xây dựng Đền Hùng để

từ Đền Hùng nhìn ra cả nước và cả nước hướng về Đền Hùng” (Tổng bí thư Lê

Duẩn, 1977), với mục tiêu “nơi đất Tổ với núi mẹ Nghĩa Lĩnh Đền Hùng phải trở

thành di sản của nhân loại được UNESCO công nhận”, “Đền Hùng phải trở

thành di sản đại diện của nhân loại” (Nguyễn Anh Tuấn 2015), lãnh đạo tỉnh đã

yêu cầu ngành văn hóa tham mưu và vào cuộc trong “chiến dịch” này. Và Hát

Xoan không phải là lựa chọn đầu tiên của Phú Thọ nhằm phục vụ mục đích này.

Đầu tiên, tỉnh Phú Thọ hướng đến việc xin xây dựng hồ sơ “Nghiên cứu,

64

bảo tồn và phát huy giá trị di tích khảo cổ học thời đại đồng thau sắt sớm ở Phú

Thọ”, vì nhận thấy nếu đệ trình UNESCO di sản vật thể về Đền Hùng thì rất khó

khả thi. Nghiên cứu về tiêu chí di sản của UNESCO, tỉnh nhận thấy, “tiêu chí di

sản có giá trị nổi bật toàn cầu luôn là yêu cầu và tiêu chí hàng đầu của một thực

thể muốn trở thành di sản văn hóa thế giới” (Nguyễn Anh Tuấn 2015). Những

nhận định và tính toán đó đã dẫn đến quyết định lập hồ sơ “Di tích Đền Hùng và

di tích khảo cổ đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ” (Văn bản 3867/VPVP-VX do

Chính phủ kí ngày 11/7/2007). Hồ sơ này, với cơ sở quan trọng là kết quả nghiên

cứu các di tích thuộc thời đại đồng thau sắt sớm ở Phú Thọ, hướng đến giải

quyết vấn đề xây dựng Đền Hùng – không gian tín ngưỡng và thực hành tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam – trở thành khu di sản thế giới.

Nhưng Hội thảo ngày 07 tháng 7 năm 2008 đã chuyển hướng chiến lược

của tỉnh. Hội thảo này do UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp tổ chức cùng Bộ

VHTT&DL, với sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học trên các lĩnh vực:

sử học, khảo cổ học, văn nghệ dân gian; các tham luận nêu rõ sự cần thiết của

việc xây dựng hồ sơ không gian văn hóa vùng đất Tổ Hùng Vương đề nghị

UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới với tên gọi “Không gian văn hóa

vùng đất Tổ Hùng Vương”; hướng đến và kết luận về việc “cần ưu tiên xây dựng

hồ sơ DSVHPVT đại diện của nhân loại”. Sau hội thảo, ngành VHTT&DL tỉnh

được giao để nghiên cứu tìm hướng đi thích hợp với quyết nghị. Đền Hùng vẫn

được coi là tâm điểm cho việc xây dựng hồ sơ, nhưng không thể là hồ sơ cho

một di sản vật thể, vì hướng đi này là khó thành công. Từ gợi ý của nhà nghiên

cứu Tô Ngọc Thanh (Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam) về việc tìm

kiếm xây dựng hồ sơ một di sản từ trong chính kho tàng văn hóa tại tỉnh, trong

hai ngày 28 và 29 tháng 12 năm 2008 đã diễn ra Hội thảo “tuyển lựa” di sản

mang tên "Hội thảo cấp chuyên gia tư vấn và lựa chọn DSVHPVT đề nghị

UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới". Hội thảo được tổ chức với sự

tham gia của 14 nhà khoa học, nhà quản lý từ Trung ương, các chuyên gia, cán

65

bộ quản lý địa phương. Tại Hội thảo, 5 loại hình di sản của tỉnh được đưa ra

tuyển lựa gồm: Hát Xoan Phú Thọ, Hát Ghẹo Phú Thọ, Hát Trống quân Phú

Thọ, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội vùng Đất Tổ Hùng Vương. Ban tổ chức Hội thảo

còn tổ chức đoàn đi thực tế tại xã Phượng Lâu và xã Kim Đức (Việt Trì) nghe

hát và xem trình diễn của 04 phường Xoan cổ. Sau Hội thảo, Hát Xoan Phú Thọ

được lựa chọn, và bắt đầu từ đó, việc xây dựng Hồ sơ Hát Xoan được xem là

nhiệm vụ chính trị của cả tỉnh.

Kể về lí do Hát Xoan được lựa chọn, một nhạc sỹ trong hội đồng, cũng là

người có nhiều đóng góp với quá trình xây dựng hồ sơ Hát Xoan cho biết, Xoan

được lựa chọn thứ nhất do "Xoan là nghệ thuật hát thờ Hùng Vương", chẳng

hạn, so với Hát Trống quân Hữu Bổ (một trong số 5 ứng cử viên), thì Hát Trống

quân chỉ là "hát thờ đình làng, chỉ ở cái đình ấy thôi, không có giá trị quốc gia,

không có giá trị văn hóa cao". Thứ hai, "tổ chức nghệ thuật của Hát Xoan cao

hơn tất cả các hình thức khác, thí dụ Ghẹo chỉ có ngồi hát với nhau thôi, Trống

quân chỉ đánh trống bục bục bục bục xong xong thì hát thôi, còn Xoan thì vừa

hát vừa múa, Xoan hơn hẳn chứ, Xoan hát có tiết tấu mạch lạc hơn, tức là nghệ

thuật so với các hình thức kia là hay hơn, giá trị văn hóa cao hơn". Nhà nghiên

cứu còn bổ sung thêm, câu chuyện truyền thuyết về hát Xoan hay hơn, "bây giờ

mấy anh khác (ý là các loại hình nghệ thuật khác - Đ.T.N) bảo kể cái câu chuyện

truyền thuyết về nghệ thuật của anh thì có kể được không, không kể được, có gì đâu mà kể"1. Thông tin về việc, Hát Xoan là "hát thờ các Vua Hùng" được nhiều

nhà nghiên cứu, nhà quản lý trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhấn mạnh trong các cuộc

phỏng vấn, như một lí do đầu tiên và quan trọng nhất của việc Xoan được lựa

chọn, cũng là nét riêng biệt của loại hình di sản này. Như một vị Phó Chủ tịch

tỉnh chủ trì Hội thảo tuyển chọn nhấn mạnh, thời điểm làm hồ sơ Hát Xoan,

không ít người thấy Xoan "khó nghe", "thấy khó chịu vì chưa quen, trong khi cái

Quan họ vừa mới được ghi danh hay như thế, làn điệu mượt mà như thế, rồi cả

1 Thông tin phỏng vấn, ngày 21/12/2021.

66

Đờn ca tài tử cũng bắt đầu vào trận". Theo bà, trong bối cảnh ấy, chiến lược

được tỉnh Phú Thọ lựa chọn để "thuyết minh" và "bảo vệ được" cho Xoan là

"Xoan là cái bắt đầu, cái khởi nguồn của tất cả các loại hình nghệ thuật, của

những câu ca dân gian (…) nó là nơi khởi nguồn ở một mảnh đất bắt đầu của nền

văn minh sông Hồng. Nền văn minh ấy chảy dài rực rỡ 4000 năm thì hát Xoan là

lối hát đầu tiên, là cái hát thờ Vua, là lối hát thể hiện tín ngưỡng, tín ngưỡng đầu

tiên của dân tộc Việt". Quá trình bảo vệ Xoan được bà xem là "cuộc chiến cam go",

"nhiều khó khăn", nhưng "truyền thuyết Hùng Vương, vua Hùng là có thật, truyền

thuyết nhưng đã ngấm vào máu, trở thành di sản, cái di sản độc đáo đặc sắc có một

không hai trong lịch sử nhân loại, là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mà trong phần lễ thì không nói, nhưng phần hội thì không thể thiếu lối hát Xoan này"1.

Yếu tố "tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương" trở thành một lợi thế của Hát

Xoan, và khía cạnh này được khai thác triệt để trong nhiều thuyết minh về Hát

Xoan, thể hiện rõ trong Hồ sơ di sản Hát Xoan. Thực hành tín ngưỡng của Hát

Xoan được đồng nhất với cội nguồn, chiều dài lịch sử, yếu tố cổ của loại hình

nghệ thuật này: "Theo truyền thuyết, các Vua Hùng đã có công trong thời kì đầu

dựng nước ở vùng đất cổ Phú Thọ. Vì vậy, người dân Phú Thọ đã sáng tạo ra Hát

Xoan để tưởng nhớ công lao của các Vua Hùng. Hát Xoan được lưu truyền hàng ngàn năm nay và được cộng đồng coi là một phần di sản văn hóa của họ"2. Ngoài

ra, có thể nói, việc lựa chọn Hát Xoan còn liên quan đến một nhu cầu khác của

tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa về việc tìm kiếm một loại hình nghệ thuật gắn với

Đền Hùng, với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương biểu trưng cho ý thức cội

nguồn, ý niệm về tổ tông của người Việt. Hát Xoan không đơn giản là một thực

hành văn hóa của cộng đồng địa phương mà mang ý nghĩa biểu trưng cho nguồn

gốc và giai đoạn dựng nước hào hùng của cả một dân tộc. Hàm nghĩa này của

1 Thông tin phỏng vấn bà H., ngày 09/01/2022. 2 Trích: Hồ sơ đăng kí vào Danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011. 3 Như lời kể của nhạc sỹ Đ.H.L, khi được Bộ Văn hóa tham vấn lựa chọn giữa Hát Xoan và Hát Ghẹo (một loại hình nghệ thuật diễn xướng tại Phú Thọ), ông trả lời "Ghẹo không thể so với Xoan được (...) có mấy yếu

67

Xoan được nhấn mạnh, nên trong sự đối sánh với các loại hình nghệ thuật khác tại địa phương, Hát Xoan luôn giữ một thế mạnh nổi bật3.

Ngoài ra, thông tin phỏng vấn một số thành viên tham gia Hội thảo tham

vấn lựa chọn di sản vào 28/12/2008 cũng cho biết, việc lựa chọn Hát Xoan để lập

hồ sơ UNESCO ghi danh trong mục "Di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của

nhân loại" còn dựa trên sự "tư vấn" của một số cán bộ làm việc tại Đại sứ quán.

Từ kinh nghiệm quan sát được qua các lần xét duyệt hồ sơ di sản của UNESCO,

các chuyên gia này cho rằng, việc xây dựng hồ sơ di sản trong danh mục "cần bảo vệ khẩn cấp" sẽ "nắm chắc phần thắng"1 hơn, dựa trên các tiêu chí bảo vệ và

phát huy di sản đã được UNESCO công bố. Việc Hát Xoan không được thực

hành và dần mai một trong giai đoạn 1945-1975; việc Hát Xoan được thực hành

trở lại từ 1987, các CLB Hát Xoan được thành lập đầu những năm 90 với nòng

cốt là 31 đào, kép tại 4 phường Xoan Thét, An Thái, Kim Đái, Phù Đức từng trình diễn Xoan trước năm 1945 và số nghệ nhân nòng cốt này hiện2 còn 8 người

cuối cùng (từ 80-104 tuổi) trong tình trạng sức khỏe yếu, trí nhớ suy giảm không

thể trình diễn, không còn nhớ bài Xoan cổ, không thể truyền dạy được,… trở

thành những ngữ liệu vô cùng thuyết phục cho câu chuyện "cần bảo vệ khẩn

cấp". Vấn đề về không gian văn hóa của Xoan, vùng Xoan gốc đang trong quá

trình hiện đại hóa, đô thị hóa, với sự xuất hiện của nhiều nhà máy, khu công

nghiệp cũng được nhấn mạnh như một yếu tố quan trọng khiến gia tăng nguy cơ

mai một các tập quán, lễ hội liên quan đến Hát Xoan.

Thêm vào đó, các thông tin phỏng vấn cũng cho thấy, việc lựa chọn Hát

Xoan còn liên quan đến những "tính toán xa hơn" trong việc lập hồ sơ di sản tiếp theo của Phú Thọ liên quan tới Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương3.

Như lời của một cán bộ Phú Thọ có nói, "thờ cúng Hùng Vương là thờ cúng

tố đấy nhưng trước tiên là yếu tố thờ cúng Hùng Vương, rồi câu chuyện truyền thuyết về nghệ thuật này" (Tư liệu phỏng vấn 21/12/2021). 1 Tư liệu phỏng vấn, ngày 22/12/2021. 2 Tính đến năm 2009, thời điểm lập Hồ sơ di sản. 3 Trên thực tế, trong khi chuẩn bị hồ sơ Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ đồng thời chuẩn bị cho bộ hồ sơ thứ hai, và Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ được UNESCO ghi danh di sản ngay trong năm 2012, sau Hát Xoan chỉ 01 năm.

68

nguồn gốc của dân tộc, không thể có di sản UNESCO ở khắp cả nước mà riêng

đất gốc lại không có di sản là không được". Việc có được một loại hình di sản tại

"không gian gốc", liên quan tới Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

của cả nước là nguyện vọng, là nhiệm vụ mà tỉnh Phú Thọ đặt ra và quyết tâm

thực hiện.

2.2.2. Quá trình xây dựng hồ sơ di sản Hát Xoan

Ngày 24 tháng 11 năm 2011, tổ chức UNESCO đã thông qua quyết định

số 6.COM.8.23 ghi danh Hát Xoan là DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp của

nhân loại. Các thông tin trong hồ sơ ghi rõ, Hát Xoan Phú Thọ (Xoan Singing of

Phu Tho Province), với các tên gọi khác như Hát Lãi L n (vì sự tích Hát Xoan

gắn với ngôi miếu cổ tên là Lãi L n), Hát Đúm (vì ở trong bài bản Hát Xoan có

thể loại hát Đúm); Hát Thờ (vì Hát Xoan gắn liền với tín ngưỡng thờ Thần của

người Phú Thọ); Hát Cửa đình (vì Hát Xoan được thực hành ở đình làng), là loại

hình "nghệ thuật trình diễn" gắn với 4 phường Xoan gốc gồm phường An Thái

(xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì, với 42 người); phường Phù Đức (xã Kim

Đức, thành phố Việt Trì, với 23 người); phường Thét (xã Kim Đức, thành phố

Việt Trì, với 31 người), phường Kim Đái (hay Kim Đới, xã Kim Đức, thành phố

Việt Trì, với 25 người). Ngoài ra 121 người tham gia thực hành Hát Xoan tại các

phường Xoan cổ, hồ sơ còn ghi rõ, còn có 03 đội (47 người Hát Xoan mới học

và thực hành Hát Xoan từ năm 2006 nhưng không thường xuyên tại thị trấn Lâm

Thao (17 người), huyện Tiên Du (12 người), xã Phù Ninh (18 người). Đây là loại

hình nghệ thuật mà "trước đây người thực hành Hát Xoan là nông dân. Ngày

nay, người thực hành Hát Xoan đa dạng hơn, gồm có: nông dân, người về hưu,

học sinh..." (trích Hồ sơ di sản Hát Xoan, tr.2).

Kết quả trên liên quan tới một quá trình dày công chuẩn bị hồ sơ đệ trình

lên tổ chức UNESCO, với sự tham gia của UBND tỉnh Phú Thọ, Sở VH,

TT&DL Phú Thọ, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, Viện Âm nhạc (thuộc Học

viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), của nhiều nhà khoa học và nhiều nghệ nhân;

69

nhưng cũng là quá trình chuẩn bị để "di sản được dán nhãn", mở rộng quyền sở

hữu. Hát Xoan không chỉ thuộc về cộng đồng chủ nhân (những người thực hành

hát Xoan) mà còn thuộc quyền quản lý của cơ quan chính quyền các cấp (tỉnh,

nhà nước). Quá trình này, mở đầu bằng việc lựa chọn Hát Xoan, và sau đó là

những động thái điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phục dựng, mua bản quyền để

nhà nước lập hồ sơ về các tư liệu, hiện vật, con người và địa điểm liên quan đến

loại hình di sản này.

Sau Hội thảo xác định tiêu chí xây dựng Hồ sơ di sản văn hóa thế giới ngày 12/9/20081 và dựa trên kết luận của hội thảo tham vấn chuyên gia trong

việc lựa chọn loại hình di sản vào 28-29/12/2008, UBND tỉnh Phú Thọ, Sở VH,

TT&DL Phú Thọ lên kế hoạch tổ chức khảo sát xây dựng nội dung hồ sơ Di sản

Hát Xoan (2009) với các nội dung chính: Khảo sát hiện trạng không gian di sản

Hát Xoan tại tỉnh Phú Thọ; Xây dựng kế hoạch tiến độ, nội dung và kinh phí lập

hồ sơ; Xác định đối tác chuyên môn khoa học làm tư vấn xây dựng hồ sơ Di sản2. Quá trình khảo sát có sự tham gia của các chuyên gia Âm nhạc, Văn hóa,

cán bộ văn hóa Sở và Viện nghiên cứu, tập trung khảo sát 5 ngày tại 4 phường

Xoan gốc và nhiều địa phương khác trong và ngoài tỉnh Phú Thọ như Cao Mại,

Lâm Thao, Hương Nộn, Tam Nông, Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Đoan Hùng. Cùng

thời điểm này, Bảo tàng tỉnh Phú Thọ được giao nhiệm vụ điều tra, khảo sát hiện

trạng các hình thức sinh hoạt văn hóa liên quan đến hát Xoan và nghệ thuật Hát

Xoan tại hai xã Kim Đức, Phượng Lâu, nghiên cứu, sưu tầm tư liệu di sản Hát

Xoan tại hai địa điểm trên và từ nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu dân gian

địa phương nhằm phục vụ công tác lập hồ sơ Di sản (trong 2 tháng, từ

5/10/2009-5/12/2009). Các tư liệu sưu tầm về Hát Xoan được hướng đến gồm:

Điều tra, khảo sát hiện trạng các hình thức sinh hoạt văn hóa liên quan đến hát

1 Ngày 12/8/2009, Bộ VHTT&DL hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ xây dựng hồ sơ “Hát Xoan Phú Thọ” trình Tổ chức khoa học, giáo dục và văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) xem xét đưa vào danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân theo văn bản số 5547/VPCP - KGVX. 2 Trích Kế hoạch số 18/KH-SVHTTDL, 08/06/2009.

70

Xoan và nghệ thuật hát Xoan (người biết hát, người biết múa, biết sử dụng trống,

phách, các di tích gắn với Hát Xoan, các hiện vật liên quan đến Hát Xoan, các tổ

chức sinh hoạt Hát Xoan, tư liệu văn bản về Hát Xoan, những địa danh đã tổ

chức phường Xoan, trang phục sử dụng trong hát Xoan); Hệ thống hóa các tư

liệu liên quan đến Hát Xoan (nguồn gốc, quá trình ra đời và phát triển Hát Xoan,

Các bài hát Xoan chữ Hán, chữ Nôm, tiếng Việt, Các sách đã xuất bản liên quan

đến Hát Xoan, Các bài viết về Hát Xoan trên các báo, tạp chí,...; Các băng, đĩa,

ghi âm, ảnh về Hát Xoan) (Kết quả của nhiệm vụ này, xin xem Phụ lục số 3, 4,

5, 6, 7, 8).

Tiếp theo đó, các lãnh đạo ngành VHTTDL cùng các nhà nghiên cứu đi

làm phim tư liệu, phỏng vấn, gặp gỡ nghệ nhân ở 4 làng Xoan cổ và 20 cửa đình

thuộc các làng xã thuộc hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Những bến sông, cửa

đình, cửa miếu…. nơi diễn ra Hát Xoan ngày xưa của các làng Xoan đều được

tìm đến. Những tư liệu về Xoan dần dày lên. Bản đồ không gian vùng Xoan

được bổ sung thêm dần dần. Những nỗ lực điều tra, khảo sát, sưu tầm các tư liệu

về Xoan thời kì này có một ý nghĩa rất lớn với việc đánh giá hiện trạng và các

hình thức sinh hoạt liên quan tới hội Xoan và nghệ thuật Hát Xoan. Trong vòng

gần một tháng (từ tháng 9 đến tháng 10/ 2009), các nhà khoa học, các cán bộ văn

hóa đã tập trung tìm hiểu và phần nào có một cái nhìn tổng thể về Xoan, với cách

thức tổ chức sinh hoạt văn hóa, các di tích di vật liên quan như trang phục, dụng

cụ, âm nhạc, tài liệu chữ Hán, chữ Nôm…

Song song với công tác sưu tầm các tư liệu đã có và hiện có về Hát Xoan,

UBND tỉnh Phú Thọ lên kế hoạch tổ chức Hội thảo, tọa đàm khoa học phục vụ

công việc xây dựng Hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ" trình UNESCO vào 12-13/10/2009.

Với mục đích "Kiểm kê toàn diện kết quả nghiên cứu Hát Xoan Phú Thọ" làm cơ sở

để xây dựng kế hoạch chi tiết cho các nhiệm vụ xây dựng hồ sơ, xây dựng và tổ

chức các cuộc Hội thảo trong nước và quốc tế nhằm hoàn thiện hồ sơ di sản.

Ngày 19/10/2009, Sở Văn hoá thể thao và Du lịch Phú Thọ phối hợp với

71

Viện âm nhạc Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học về Hát Xoan Phú Thọ với sự

tham dự của các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, các nhạc sĩ, các nhà quản lý

và đại diện cộng đồng địa phương. Thông báo kết luận của hội thảo nêu rõ, các

nhà nghiên cứu văn hóa, các nhạc sỹ đã đóng góp ý kiến cụ thể về các vấn đề:

nguồn gốc, lịch sử, giá trị văn hóa, nghệ thuật của Hát Xoan; thực trạng Hát

Xoan hiện nay đang bị mai một và những thách thức trong việc bảo tồn, duy trì

và truyền dạy Hát Xoan trong đời sống đương đại; các biện pháp phục hồi làm

sống lại di sản Hát Xoan, cách thức truyền dạy và phổ biến Hát Xoan; kế hoạch

và biện pháp xây dựng hồ sơ Hát Xoan cũng như các vấn đề khác có liên quan để

hoàn thành hồ sơ đúng thời gian quy định; Công bố các nguồn tư liệu đã được

nghiên cứu và công tác khảo sát thực địa vùng có di sản Hát Xoan. Hội thảo

thống nhất kết luận các vấn đề: (1) Xác định và thống nhất những quan điểm,

cách tiếp cận nghiên cứu cơ bản về Hát Xoan; (2) Tiến hành điều tra, khảo sát,

thu thập tư liệu về Hát Xoan từ nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu, nhạc sỹ, từ

trí nhớ, ký ức của cộng đồng, từ đó nghiên cứu thẩm định và phân loại di sản phi

vật thể; (3) Cần tiếp tục Hội thảo để xác định giá trị và biện pháp bảo vệ về các

vấn đề: Nguồn gốc lịch sử, sự ra đời, phát triển và sức lan tỏa của Hát Xoan; Xác

định giá trị truyền thống của Hát Xoan trong xã hội đương đại; Những giá trị

nghệ thuật và văn hóa của Hát Xoan; Vấn đề quảng bá và phổ biến Hát Xoan

trong tình hình hiện nay; (4) Cần phục hồi và làm sống lại Hát Xoan trong đời

sống cộng đồng, trong nhận thức của xã hội, trong môi trường văn hóa của quốc

gia. Cần phải tạo ra môi trường diễn xướng và công chúng cho Hát Xoan; (5)

Các biện pháp truyền dạy và hỗ trợ thực hành Hát Xoan trong cộng đồng, cần lấy

4 làng Xoan gốc tại 2 xã Kim Đức và Phượng Lâu (thành phố Việt Trì) là chủ

thể Hát Xoan, phải lấy họ làm trung tâm của việc xây dựng hồ sơ, phục hồi phát

huy giá trị của Hát Xoan; (6) Cần đưa Hát Xoan vào giảng dạy ngoại khóa trong

chương trình sân khấu học đường tại các trường phổ thông của Phú Thọ và xây

dựng chương trình dạy hát dân ca Xoan, Ghẹo Phú Thọ trên sóng Đài phát thanh

72

và truyền hình tỉnh Phú Thọ; (7) Ngành văn hóa địa phương cần xây dựng kế

hoạch để tổ chức đêm "Hát Xoan Phú Thọ" phục vụ Hội thảo trong nước và quốc

tế. Cần tổ chức các CLB Hát Xoan, hát Ghẹo Phú Thọ và liên hoan "Hát Xoan Phú

Thọ" để tăng sức lan tỏa Hát Xoan trong cộng đồng; (8) Xây dựng mạng lưới các cơ

quan, tổ chức, các nhà nghiên cứu và cộng đồng để xây dựng hồ sơ Hát Xoan, bao

gồm: Hồ sơ viết, phim, bản đồ, ảnh, các bản cam kết, danh mục kiểm kê, sách về

Hát Xoan; (8) Đề nghị Ban chỉ đạo thực hiện cải tạo, tổ chức phục hồi, truyền dạy,

nâng cao nhận thức của cộng đồng, xã hội, xây dựng hồ sơ có chất lượng, nộp đúng

kì hạn, tiến hành các công việc để việc đề cử đạt yêu cầu đặt ra.

Ngày 25/12/2009 Bộ VHTT&DL ra Quyết định số 4938 thành lập Ban chỉ

đạo xây dựng hồ sơ “Hát Xoan Phú Thọ” gồm 13 cán bộ, do ông Nguyễn Doãn

Khánh - Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, ông Trần Chiến Thắng - Thứ

trưởng Bộ VH,TT&DL và bà Nguyễn Thị Kim Hải - Phó Chủ tịch UBND tỉnh

Phú Thọ làm Phó trưởng ban. Tiếp theo ngày 28/12/2009 Bộ VH,TT&DL ra

quyết định giao Viện Âm nhạc thuộc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam và

Sở VHTTTDL Phú Thọ xây dựng hồ sơ “Hát Xoan Phú Thọ” và hai đơn vị này

có trách nhiệm phối hợp với Cục Di sản văn hóa thực hiện quy trình, tham vấn ý

kiến chuyên môn và sớm thông qua để báo cáo Lãnh đạo Bộ.

Ngày 15/01/2010 diễn ra hội thảo Quốc tế về “Hát Xoan Phú Thọ” tại

phòng họp của UNND tỉnh Phú Thọ. Hội thảo có sự tham gia của các nhà nghiên

cứu Việt Nam và Quốc tế đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Miama, Lào,

Campuchia, Pháp, Anh, Mỹ…

Đến ngày 30/03/2010 toàn bộ Hồ sơ Di sản Hát Xoan đã được chuyển tới

Paris thủ đô của nước Pháp, nơi có trụ sở tổ chức UNESCO để xét duyệt. Trong

bộ hồ sơ này còn có một tập các bản cam kết của cộng đồng, nhóm người, cá nhân1 thuộc xã Phượng Lâu (Việt Trì, Phú Thọ), xã Kim Đức2 (Việt Trì, Phú

73

Thọ), bản cam kết của chính quyền và phòng Văn hóa - Thông tin các huyện, xã 1 Các cá nhân này là các nghệ nhân thực hành Xoan tại phường, Câu lạc bộ Xoan An Thái (44 thành viên viết cam kết). 2 Các cá nhân này là các nghệ nhân thực hành Xoan tại phường, Câu lạc bộ Xoan Phù Đức (xã Kim Đức) (32 thành viên viết cam kết).

thuộc tỉnh Phú Thọ có liên quan đến loại hình nghệ thuật Hát Xoan. Với Bản

cam kết dành cho các Phường, CLB Hát Xoan, ngoài nội dung đồng thuận với

việc đệ trình hồ sơ đề cử Hát Xoan Phú Thọ với UNESCO để ghi danh

DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp, nội dung còn ghi rõ: "Với trách nhiệm và

ý thức công dân cùng với lòng say mê, yêu mến vốn DSVHPVT Hát Xoan do cha

ông truyền lại. Chúng tôi đồng ý và xin được tự nguyện tham gia vào các hoạt

động nhằm khôi phục để bảo tồn, phổ biến và truyền dạy Hát Xoan - Một

DSVHPVT mang đậm bản sắc truyền thống của vùng Đất Tổ Hùng Vương nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung"1. Với đoàn thể, chính quyền (một số

UBND xã, huyện, tỉnh), bản cam kết hướng đến nội dung "có trách nhiệm đồng

thuận ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích mọi hình thức sinh hoạt

văn hóa và trình diễn phổ biến, truyền dạy Hát Xoan nhằm bảo tồn vốn DSVHPVT tiêu biểu tại địa bàn do chính quyền địa phương đang quản lý"2.

Riêng đối với từng nghệ nhân, bản cam kết nêu rõ: "Bằng khả năng, lòng nhiệt

tình và sự đam mê đối với loại hình văn hóa nghệ thuật Hát Xoan, tôi đồng ý

tham gia một cách tự nguyện vào các hoạt động khôi phục, truyền dạy, bảo tồn vốn di sản quý giá này và không đòi hỏi kinh phí dưới mọi hình thức nào"3.

Như vậy, từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 3 năm 2010 là một hành trình

kéo dài gần hai năm của quá trình lựa chọn và làm hồ sơ ghi danh Hát Xoan là

DSVHPVT của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp. Quá trình này bao gồm các bước

sưu tầm, kiểm tra, nghiên cứu, đánh giá về mọi phương diện liên quan tới Hát

Xoan và thực hành Hát Xoan; và cuối cùng là việc hoàn thiện hồ sơ để trình

UNESCO đánh giá. Việc Xoan được ghi danh, việc Phú Thọ và Việt Nam có

thêm một di sản tầm quốc tế là kết quả của nỗ lực và quyết tâm mạnh mẽ của

1 Trích Bản cam kết của cả phường CLB Xoan Phù Đức, ngày 29/01/2010. 2 Trích Bản cam kết do UBND xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì kí ngày 12/02/2010. 3 Trích Bản cam kết của nghệ nhân Phùng Thị P. (sinh năm 1931) tại phường Xoan Kim Đái (Kim Đức, thành phố Việ Trì), kí ngày 12/02/2010. Bản cam kết của 75 nghệ nhân khác có nội dung tương tự.

74

tỉnh Phú Thọ, với những bước tổ chức bài bản từ sưu tầm tại thực địa đến tổ

chức hội thảo nghiên cứu của tỉnh và các ban ngành; với sự đóng góp lớn của các

chuyên gia nghiên cứu và các nhà khoa học. Trong quá trình này, cộng đồng địa

phương có những tham gia hết sức tích cực trong việc tái hiện lại những bài bản

Xoan và những thực hành Xoan, xuất phát từ nhu cầu tinh thần và tâm linh của

chính cộng đồng chủ và sự khuyến khích, động viên của các nhà nghiên cứu và

người làm văn hóa. Xoan đã được tạo điều kiện tốt nhất để tái sinh và đây cũng

chính là tiền đề cho những phát triển mạnh mẽ về sau của loại hình nghệ thuật

dân gian độc đáo này.

Sau khi được UNESCO công nhận, UNND tỉnh Phú Thọ cũng đã ban

hành Chương trình hành động số 382/CTr-UBND ngày 13/02/2012 về Bảo vệ và

phát huy và phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp - Hát Xoan Phú Thọ

(giai đoạn 2012-2015); Kế hoạch số 3864/KH-UBND Về việc triển khai một số

nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp

của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ năm 2013-2014 (23/09/2013). Ngày

7/11/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2058/QĐ-TTg phê

duyệt “Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp của nhân

loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2013-2020)". Nhiệm vụ và nội dung thực

hiện đề án giai đoạn 2013-2015 bao gồm: triển khai chương trình giáo dục về

DSVHPVT Hát Xoan lồng ghép trong các chương trình chính thức và ngoại

khóa tại các trường học trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; đào tạo các lớp nghệ nhân kế

cận tại các phường Xoan gốc, lớp trẻ tại cộng đồng. Ngày 11 tháng 7 năm

2014, UBND tỉnh Phú Thọ ban hành Kế hoạch 2836/KH-UBND Về việc Xây dựng

hồ sơ trình UNESCO công nhận Hát Xoan Phú Thọ là DSVHPVT đại diện của

nhân loại năm 2015. Ngày 22 tháng 12 năm 2014, UBND tỉnh Phú Thọ ban hành

Kế hoạch 5478/KH-UBND Về việc Triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về bảo

tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại –

75

Hát Xoan Phú Thọ năm 2015.

2.3. Di sản hóa Hát Xoan trong quá trình ghi danh di sản

2.3.1. Lập hồ sơ di sản và quá trình mở rộng quyền sở hữu

Trong một nghiên cứu về di sản hóa mang tên Mô tả, ghi rõ, viết tắt: Di

sản hóa là (ngắt) kết nối (Described, inscribed, written off: Heritagization as

(dis)connection), Salemink (2014) nói tới quá trình dán nhãn di sản chính là quá

trình chuyển đổi quyền sở hữu thực hành di sản từ cộng đồng chủ nhân sang cho

nhà nước và UNESCO. Di sản vốn thuộc về cộng đồng, do cộng đồng làm chủ,

thực hành theo mong muốn và nhu cầu của cộng đồng, nhưng quá trình ghi danh

di sản đã mở rộng quyền sở hữu này cả cho nhà nước và UNESCO, trao quyền

cho các tổ chức này trong việc can thiệp và quyết định với các hình thức thực

hành và bảo vệ di sản. Quá trình mở rộng quyền sở hữu này diễn ra từ thời gian

lập hồ sơ, đánh giá về di sản, và Hát Xoan cũng không phải là một ngoại lệ.

Toàn bộ quá trình từ khi lựa chọn Hát Xoan (cuối năm 2008) đến khi Hát Xoan

được UNESCO ghi danh di sản (2010) có thể xem là quá trình mở rộng quyền sở

hữu Hát Xoan. Từ một thực hành của cộng đồng, cụ thể ở đây là các phường

Xoan trong 4 làng Xoan cổ, gồm Thét, Kim Đái, An Thái, Phù Đức, Hát Xoan

được nhà nước hóa, thông qua hàng loạt các thao tác khai thác, sưu tầm, nghiên

cứu,... diễn ra trên diện rộng. Trong các văn bản và chương trình hành động, tỉnh

Phú Thọ huy động rất nhiều các cá nhân vào cuộc để khai thác về Hát Xoan. Đó

là các nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm văn hóa dân gian (cả ở trung ương và địa

phương), các cán bộ văn hóa, nhạc sỹ, cán bộ quản lý, các nghệ nhân,... UBND

tỉnh Phú Thọ huy động tối đa các cán bộ, các nhà nghiên cứu đã, đang nghiên

cứu về Hát Xoan Phú Thọ và một số nghệ nhân đang gìn giữ, bảo tồn hát Xoan tại các địa phương Xoan gốc"1. Hệ thống các tư liệu lịch sử, văn hóa, phong tục

liên quan đến Hát Xoan, các hình thức biểu diễn Hát Xoan, các không gian trình

diễn Hát Xoan trước đây, âm nhạc Hát Xoan, hệ thống các tài liệu ghi chép cá

1 Trích Kế hoạch tổ chức Hội thảo.

76

nhân, các tài liệu đã xuất bản (bản nhạc, sách, báo, tạp chí...), các tài liệu Hán

Nôm, bản dập các văn bia liên quan đến Hát Xoan trong và ngoài nước, các địa

chỉ có tài liệu liên quan đến Hát Xoan trong và ngoài nước... đều được liệt kê

trong danh mục các tư liệu cần sưu tầm. Đặc biệt, UBND tỉnh Phú Thọ còn tính

đến phương án "nhượng quyền sở hữu các tài liệu cá nhân theo giá thỏa thuận"

với những tài liệu viết chưa xuất bản; những tài liệu do cá nhân thu thập được;

những tài liệu tranh, ảnh, bản khắc, của cá nhân sưu tập được; những bản nhạc

Hát Xoan đã ký âm, đã chỉnh lý hoặc nguyên dạng đã được sử dụng trên sân

khấu, trên đài phát thanh, truyền hình; những trang phục, đạo cụ, nhạc cụ có liên

quan đến phường Xoan, nghệ nhân Xoan. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc với

mục tiêu, nắm bắt, sở hữu mọi thông tin, tư liệu về Hát Xoan trong và ngoài địa

bàn tỉnh. Kết quả, ngoài việc sở hữu các nghệ nhân, các phường Xoan, các

không gian thực hành Hát Xoan, tỉnh còn nắm chủ quyền với toàn bộ hệ thống tư

liệu và hiện vật Hát Xoan. Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, tỉnh hiện

có 1.987 tư liệu ảnh, 11 đầu sách, 32 bài bản (18 bản gốc, có những bản trên giấy

dó, bản phô tô và 14 file đánh máy), 05 đề tài nghiên cứu, 40 đĩa DVD, 265 file

video, phim tư liệu, đĩa, 103 hiện vật, 143 file ghi âm phỏng vấn,... và nhiều tư

liệu khác về Hát Xoan (xem thêm Phụ lục 3).

Trong Hồ sơ di sản trình UNESCO, Bộ Văn hóa (cơ quan kí đại diện của

Việt Nam) "Chuyển nhượng các quyền và danh mục tư liệu nộp kèm theo Hồ sơ

đề cử vào Danh sách Bảo vệ khẩn cấp", với cam kết "trao UNESCO các quyền

thông thường (non-exclusive rights) để sử dụng, xuất bản, tái tạo, phân phối,

trưng bày, liên lạc hoặc công bố rộng rãi đến công chúng ở bất kì ngôn ngữ hoặc

hình thức nào và bằng bất kì phương tiện gì, bao gồm kĩ thuật số, toàn bộ hoặc

một phần (các) tư liệu dưới đây"; "trao cho UNESCO những quyền không thể

bãi bỏ này không hạn định về thời gian và áp dụng đối với toàn cầu". Theo đó,

Việt Nam ký giấy cho phép UNESCO sử dụng các loại ảnh chụp (trình diễn Hát

Thờ Vua, Bức chạm khắc gỗ Múa trong Hát Xoan tại đình Hùng Lô, Hát Mó cá -

77

tiết mục trong hát hội của cộng đồng Xoan, ảnh một số nghệ nhân dạy các thanh

thiếu nhi hát múa tại phường Xoan,...); các tư liệu nghe nhìn khác (phim 10 phút

và phim 60 phút, đĩa CD, audio Hát Xoan Phú Thọ dài 42 phút 42 giây, Bản đồ

điện tử Phân bố Di sản văn hóa nghệ thuật Xoan Phú Thọ).

Như vậy, sau khi ghi danh di sản, các hiện vật, con người và địa điểm liên

quan đến Hát Xoan đều đã được mở rộng quyền sở hữu, với sự quản lý, kiểm tra

của chính quyền tỉnh Phú Thọ và UNESCO. Điều này mở đường cho những can

thiệp về sau trong quá trình mang tên "bảo vệ và phát huy di sản", tác động đến

diện mạo của các thực hành Hát Xoan và các nghệ nhân liên quan cả trong và

ngoài các phường Xoan cổ.

2.3.2. Chọn lọc các yếu tố để có một hồ sơ di sản "có tính truyền thống và có

tính xác thực"

David Lowenthal (1996), tác giả của Bị sở hữu bởi quá khứ: Cuộc thập tự

chinh di sản và chiến lợi phẩm của lịch sử khi tìm kiếm nguyên do của hiện

tượng ghi danh các di sản phổ biến trên toàn thế giới đã nhấn mạnh rằng, các bên

sử dụng di sản cho các mục đích hiện tại, và sự thánh hóa các câu chuyện lịch sử

cụ thể về quá khứ. Điều này được Rodney Harrison (2013) mở rộng thêm trong

Di sản: Những phương pháp tiếp cận phê bình khi cho rằng, sự bùng nổ của di

sản là một sự tham gia sáng tạo quá khứ trong hiện tại giúp chúng ta định hình

tương lai của mình (tr.4), di sản là mối quan hệ giữa con người, đồ vật, địa điểm

và thực hành, liên quan đến những cách thức khác nhau mà con người và những

hiện vật, địa điểm được kết nối và vận hành để giữ cho quá khứ tồn tại trong hiện

tại và tương lai (tr.4-5). Ý niệm về việc di sản gắn với quá khứ và kết nối quá khứ

như vậy khiến cho các di sản được hiểu là "cũ", "truyền thống", "cổ". Điều này tác

động mạnh đến quá trình xây dựng hồ sơ di sản, khiến trên thực tế, việc tìm kiếm

các yếu tố cổ và xác thực của di sản trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Quá trình lập hồ sơ di sản Hát Xoan gắn với quá trình sưu tầm các tư liệu

và phục dựng các thực hành liên quan. Các tư liệu được khai thác bởi các cán bộ

78

Sở văn hóa từ năm 1954 về Hát Xoan được "đào lại", nhiều bài bản cổ trong đó

được yêu cầu các nghệ nhân hát lại. Theo lời kể của một nhạc sỹ tham gia quá

trình lập hồ sơ di sản Hát Xoan, nhiều bài bản trong các băng cối từ năm 1954

lưu tại Viện Âm nhạc, các nghệ nhân cao tuổi "nhớ lõm bõm", vì đó là "bố các

ông các bà ấy hát, lúc họ còn rất nhỏ, nên không còn nhớ". Một trong các nhiệm

vụ của nhà nghiên cứu và cán bộ văn hóa là "gợi lại cho nghệ nhân, họ quên thì mình phải nghe trước rồi gợi ra cho họ nhớ dần"1. Vì Hát Xoan và các thực hành

văn hóa liên quan đến Hát Xoan bị gián đoạn trong thời gian dài, từ 1945-1987

nên nhiều bài bản, thực hành được gợi lại theo trí nhớ của người cao tuổi trong

các làng Xoan cổ. Quá trình gợi lại này được tiến hành trên diện rộng, cả trong

các làng Xoan cổ, tại các đình miếu ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Các tư liệu đã

được khai thác trong các đợt từ 1954, 1967, 1998, 1999, 2002 trở thành ngữ liệu

cho các hình dung về Hát Xoan, hình thành một diện mạo mang tính xác thực

của di sản. Không chỉ các bài bản Xoan cổ, các lệ tục liên quan tới Xoan (hát thờ

thần đầu năm, hát tại các đình miếu kết nước nghĩa vào đầu năm mới) cũng được

mô phỏng và phục dựng lại. Việc chọn lọc để di sản mang dáng vẻ cổ, xác thực

còn được tiến hành với việc, ký âm các bài bản Xoan chủ yếu với các nghệ nhân

đã cao tuổi (31 nghệ nhân, tuổi từ 80 - 104). Mục tiêu của việc phục dựng Xoan

cổ cũng được nói tới trong Hồ sơ di sản Hát Xoan "phải phục hồi đầy đủ Hát

Xoan cổ trong thời gian ngắn nhất khi các nghệ nhân cuối cùng còn trợ giúp

được công việc này". Quan điểm này tác động mạnh mẽ cả quá trình xây dựng

hồ sơ di sản, và về sau, tác động trực tiếp đến cách Phú Thọ bảo vệ, phát huy di

sản này, điển hình là quy định yêu cầu các nghệ nhân trong các phường Xoan cổ

không được trình diễn các bài bản Xoan mới, phải trình diễn các bài bản Xoan

1 Thông tin phỏng vấn, ngày 21/11/2021.

79

cổ như đã ký âm khi thực hiện hồ sơ.

Tiểu kết Chƣơng 2

Trong Chương 2, luận án đề cập đến bối cảnh của quá trình di sản hóa ở

Việt Nam, với việc tập trung phân tích sự thay đổi và tác động từ phát triển kinh

tế thị trường, quá trình mở cửa trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước và sự

nhận thức lại về vai trò của văn hóa trong phát triển. Các phân tích đã cho thấy,

việc ghi danh các di sản trở thành nhu cầu của Việt Nam trong việc khẳng định

vị thế của mình trên trường quốc tế, và các địa phương, thông qua các di sản,

cũng muốn khẳng định vị thế của mình với quốc gia và thế giới.

Trong chương này, bối cảnh của việc Phú Thọ tìm kiếm một thực hành văn

hóa làm hồ sơ ghi danh di sản cũng được luận án mô tả và phân tích, kết quả cuối

cùng là sự lựa chọn loại hình Hát Xoan. Quá trình triển khai sưu tầm, quảng bá, xây

dựng hồ sơ, tổ chức các hội thảo liên quan tới thực hành văn hóa này cũng được

phân tích cụ thể trong chương. Những thông tin đã cho thấy, Hát Xoan được lựa

chọn liên quan đến những tính toán chiến lược về sự kết nối với thực hành tín

ngưỡng thờ cúng Hùng Vương diễn ra phổ biến và rộng khắp tại Phú Thọ, trong

nhu cầu tìm kiếm một bản sắc văn hóa mang tính đại diện của tỉnh trong bối cảnh di

sản hóa ở Việt Nam. Từ quan điểm lý thuyết di sản hóa, quá trình lập hồ sơ ghi

danh di sản Hát Xoan chính là quá trình mở rộng quyền sở hữu di sản từ một nhóm

cộng đồng chủ nhân sang cho nhà nước (và về sau là UNESCO), với những can

thiệp của các tổ chức, cá nhân trong việc tạo dựng một diện mạo xác thực, mang

80

tính truyền thống cho di sản.

Chƣơng 3

DIỆN MẠO HÁT XOAN PHÚ THỌ

SAU GHI DANH DI SẢN

Sau nhiều nỗ lực của tỉnh Phú Thọ trong việc tìm kiếm loại hình di sản để

trình UNESCO xét duyệt; tiếp đó là quyết định lựa chọn Hát Xoan và xây dựng

hồ sơ Hát Xoan; ngày 24 tháng 11 năm 2011, Hát Xoan đã được UNESCO chính

thức công nhận là DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại; và đến

năm 2017, Hát Xoan được ghi danh vào danh sách DSVHPVT đại diện của nhân

loại. Sự công nhận này của UNESCO khiến rất nhiều bên tham gia và tác động

trực tiếp (hoặc gián tiếp) đến Hát Xoan, hình thành nên một diện mạo Xoan với

rất nhiều vấn đề đáng chú ý. Từ năm 2011 đến nay (năm 2019), thực hành Hát

Xoan về cơ bản đi qua hai chặng bảo vệ và phát huy. Chặng thứ nhất, từ 2011

đến 2017, giai đoạn bảo vệ khẩn cấp, với hàng loạt các chương trình và hành

động liên tục và mạnh mẽ nhằm đưa Xoan sống trên diện rộng (không phải chỉ ở

bốn làng Xoan cổ mà trong phạm vi toàn tỉnh Phú Thọ). Chặng thứ hai, từ 2017

đến nay, sau khi Xoan được chuyển từ danh sách Di sản cần bảo vệ khẩn cấp sang danh sách Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại1. Bối cảnh này đã dẫn

tới việc triển khai nhiều chính sách, tác động lớn tới thực hành Hát Xoan và tới

diện mạo của di sản.

3.1. Hoạt động kiểm kê, sƣu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Xoan

Sau khi được ghi danh trong danh mục loại hình Di sản “cần được bảo vệ

khẩn cấp của nhân loại”, Nhà nước và tỉnh Phú Thọ đã ban hành và thực hiện

nhiều chính sách, chương trình, kế hoạch hành động với mục đích bảo vệ và phát

huy Xoan. Năm 2012, chương trình hành động số 382/CTr-UBND về Bảo vệ và

1Ngày 8/12/2017, tại Hội nghị lần thứ 12, Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ DSVHPVT của UNESCO đã chính thức đưa Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại danh sách DSVHPVT đại diện của nhân loại. Chính thức đến ngày 3/2/2018, UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức trọng thể Lễ đón nhận bằng UNESCO ghi danh “Hát Xoan Phú Thọ” là DSVHPVT đại diện của nhân loại tại miếu Lãi L n, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì.

81

phát huy và phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp - Hát Xoan Phú Thọ

(giai đoạn 2012-2015) được UBND tỉnh Phú Thọ ban hành. Năm 2013, tiếp tục

là Kế hoạch số 3864/KH-UBND về việc triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về

bảo tồn, phát huy giá trị ghi danh cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan

Phú Thọ năm 2013-2014. Trong các chương trình đó, luôn có một phần quan

trọng dành cho công tác kiểm kê, sưu tầm, sáng tác, ký âm bài bản Hát Xoan.

3.1.1. Hoạt động kiểm kê tư liệu Hát Xoan

Các báo cáo về Hát Xoan cho thấy, công tác kiểm kê tư liệu Hát Xoan

luôn được chú trọng thực hiện thường xuyên. Công việc kiểm kê này đã được

thực hiện từ trước năm 2011 (giai đoạn từ tháng 11/2009 đến 3/2010), phục vụ

cho việc xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận Hát Xoan thuộc loại hình

DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp; và tiếp tục được triển khai vào năm 2015, bốn

năm sau khi Xoan được UNESCO công nhận, nhằm hướng tới việc đánh giá

chương trình hành động đưa Hát Xoan thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp của

tỉnh Phú Thọ và các ban ngành. Qua 11 báo cáo kiểm kê tại 30 CLB Hát Xoan

trong tỉnh, chúng tôi nhận thấy nổi bật một số nội dung như sau:

Việc kiểm kê di sản Hát Xoan được thực hiện bằng phương pháp điền dã

với phỏng vấn, ghi âm, ghi hình. Đối tượng được phỏng vấn là Chủ nhiệm các

CLB Xoan và một số thành viên trong đội (cán bộ điền dã có chú ý đến tính đại

diện của đối tượng phỏng vấn, chủ yếu liên quan đến lứa tuổi). Cán bộ phỏng

vấn lấy thông tin qua hai cách thức: phát phiếu câu hỏi và phỏng vấn trực tiếp.

Nội dung kiểm kê tập trung vào các vấn đề: khai thác thông tin về tình hình thực

hành Xoan cụ thể tại địa phương (CLB) với số lượng người tham gia, thời gian

thực hiện (cả về lịch tập luyện cố định và các chương trình khác có tham gia);

những kiến thức về Xoan mà cá nhân tham gia CLB có được, trên cơ sở đó để

người viết đánh giá về “chức năng văn hóa và xã hội của Hát Xoan ngày nay”

(tên tiểu mục B.1 trong báo cáo kiểm kê) và “sức sống của Hát Xoan và những

nguy cơ hiện nay” (tên tiểu mục B.2). Tiếp đó, báo cáo tập trung vào thông tin

82

người thực hành và truyền dạy Hát Xoan trong CLB, với những thông tin phỏng

vấn cụ thể về cách thức thực hành, truyền dạy, các nội dung bài bản Xoan được

yêu thích và thường xuyên trình diễn. Các nội dung phỏng vấn cụ thể về đánh

giá của các thành viên CLB với các nghệ nhân trong các phường Xoan gốc, về

bài bản tại các làng Xoan cổ hay về từng bài bản Xoan được viết thẳng thắn rõ

ràng trong các báo cáo. Tình trạng học và truyền dạy Xoan ra sao, yêu thích Xoan

thế nào cũng được phản ánh cụ thể trong nội dung của các báo cáo. Vấn đề về quy

cách tổ chức của CLB, với các vấn đề về nhân sự, về kinh phí, địa điểm hoạt động

và không gian/ phạm vi hoạt động, giao lưu, những hạn chế và khó khăn cũng được

phỏng vấn/ trả lời chi tiết. Những trao đổi về nhận thức, giáo dục Hát Xoan trong

cộng đồng, đặc biệt với thế hệ trẻ và trong trường học tại xã nhằm bảo tồn và phát

huy di sản được thể hiện rõ trong các báo cáo. Các biện pháp để đưa di sản sống

trong cộng đồng cũng được trao đổi thảo luận với thành viên CLB.

Hệ thống báo cáo kiểm kê cùng danh sách các CLB Xoan trên toàn tỉnh

cung cấp lượng thông tin phong phú về việc thực hành loại hình di sản này.

Ngoài bốn phường Xoan gốc, tính đến tháng 1/ năm 2016, trên địa bàn tỉnh có

30 CLB, rải từ thành phố Việt Trì (07) tới các huyện Đoan Hùng (04), Phù

Ninh (04), thị xã Phú Thọ (01), Lâm Thao (02), Thanh Thủy (04), Tam Nông

(01), Thanh Sơn (01), Thanh Ba (01), Tân Sơn (01), Cẩm Khê (04). Số lượng

người tham gia trong các CLB là 1287 người. Con số này đến tháng 11/2017 đã

tăng lên là 37 CLB, và số bài bản Xoan cổ được thực hành ở mức gần đủ (năm

2010) lên tới đủ 31 bài bản từ năm 2016.

Kết quả khảo sát cho thấy, mô hình hoạt động chủ yếu của các CLB là:

thành lập mới - mời nghệ nhân về truyền dạy hoặc cử người đi học tại phường

Xoan cổ - truyền dạy lẫn nhau trong cộng đồng (truyền dạy cả ở một số trường

học trong xã) - trình diễn trong các thời điểm đặc biệt hoặc tham gia giao lưu

83

trình diễn giữa các CLB hoặc hội diễn. Hoạt động cố định thường diễn ra vào

cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật), trình diễn trong các dịp hội hè lễ tết1, có giao lưu

trình diễn giữa các CLB và phường Xoan (nhưng không thường xuyên). Trong

các CLB luôn có một vài thành viên đóng vai trò nòng cốt cho quá trình thực

hành Xoan được diễn ra đều đặn tại địa phương. Những người này thường đã

được tham gia các lớp tập huấn về Xoan tại tỉnh, được các nghệ nhân tại

phường Xoan gốc truyền dạy, đam mê/ yêu thích với loại hình nghệ thuật này

và luôn mang trong mình ý thức về việc giúp “di sản thoát khỏi tình trạng bảo vệ khẩn cấp”2. Niềm tự hào của một người dân sống tại vùng quê của di sản, ý

thức trách nhiệm về việc bảo tồn di sản và trao truyền lại di sản cho thế hệ sau

thể hiện rất rõ trong phát ngôn của các cá nhân này.

3.1.2. Hoạt động sưu tầm và ký âm Xoan

Sƣu tầm các bài bản Xoan

Trong một thời gian dài, đặc biệt là thời kì chiến tranh với những khó

khăn vật chất của thời chiến, những di tích bị phá hủy, những chính sách hạn chế

thực hành tín ngưỡng đã khiến hội Xoan không còn được tổ chức đều đặn. Dù

nhiều bài bản Xoan vẫn được lưu giữ và âm thầm truyền dạy trong cộng đồng

nhưng sự đứt đoạn của thực hành Xoan, đặc biệt trong các không gian lễ hội, vẫn

khiến kho tàng bài bản Xoan bị mai một. Bắt đầu từ những năm 60, 70, nhiều

nhà nghiên cứu, nhạc sỹ đã quan tâm tìm hiểu, thu thập các làn điệu Xoan và

giới thiệu với công chúng. Đổi Mới năm 1986 đã tạo điều kiện cho sự phục hồi

của các thực hành văn hóa vốn đã bị đứt đoạn trong quá khứ, chứng kiến sự hồi

phục trở lại của nhiều lễ hội và thực hành tâm linh, và Hát Xoan là một trong số

đó. Bổ khuyết sự thiếu hụt các bài bản Xoan cổ chính là một trong những nhiệm

vụ cấp bách của công tác sưu tầm. Khi chia sẻ về quãng thời gian „làm Xoan’

1“CLB trình diễn Hát Xoan tại các lễ hội đình làng, và các lễ hội đình lân cận, biểu diễn phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương, giao lưu với các CLB khác để trao đổi kinh nghiệm...” (Trích thông tin phỏng vấn trong Báo cáo kiểm kê CLB Hát Xoan Minh Phú, 2016).

2 Báo cáo kiểm kê CLB Hát Xoan Minh Phú, 2016.

84

này, một số cán bộ văn hóa tại Sở văn hóa Phú Thọ (lúc đó là tỉnh Vĩnh Phú)

không thể quên những kỉ niệm „vất vả nhưng mà vui‟. Đạp xe rong ruổi ngày này

qua ngày khác, nghe tiếng nghệ nhân Xoan nào là tìm đến, thuyết phục họ bỏ

việc làm đồng để làm Xoan. “Lúc ấy mọi thứ vẫn mới lắm, Xoan thì hát hội từ

lâu lắm rồi, chỗ nhớ chỗ quên. Còn phải thuyết phục các cụ mãi mới hát lại

Xoan cho, vì lâu rồi không ai hát cả. Mọi người cũng ngại” (Phỏng vấn cán bộ

văn hóa tỉnh Phú Thọ, Tư liệu phỏng vấn 10/2018).

Ngay sau khi Hát Xoan được UNESCO ghi danh, tỉnh Phú Thọ đã xây

dựng một Chương trình hành động với 8 vấn đề để bảo vệ Hát Xoan, trong đó

nhiệm vụ đầu tiên chính là “ưu tiên kiểm kê, nghiên cứu và hệ thống hóa tư

liệu”. Trên thực tế, công việc này đã được triển khai quyết liệt và đạt nhiều kết

quả cụ thể. Trong giai đoạn 2012-2015, Viện Âm nhạc đã ghi thu 31 bài bản

Xoan cổ do các nghệ nhân lão luyện trình diễn; sưu tầm tài liệu nghiên cứu về

Hát Xoan; biên dịch các thần tích, thần phả tại các đình, miếu có liên quan và số

hóa; nhà xuất bản âm nhạc đã ghi âm, thu hình, xuất bản DVD 26 bài xoan cổ

của 4 phường xoan gốc phát hành rộng rãi (…) Tỉnh đã giao cho các ngành phối

hợp với các chuyên gia nghiên cứu, sưu tầm biên soạn Tổng tập Hát Xoan Phú

Thọ. Đến nay cơ bản đã hoàn thành bản thảo, chuẩn bị xuất bản. Đây là một bộ

tài liệu nghiên cứu toàn bộ về lịch sử, giá trị về hoạt động bảo vệ từ năm 1957

đến nay làm cơ sở cho truyền dạy, quảng bá và bảo vệ Hát Xoan. Tỉnh đã nghiên

cứu sưu tầm và biên tập xuất bản 4.000 đĩa CD, VCD và 3.000 cuốn sách Hát

Xoan Phú Thọ - tuyển chọn 1 và chuẩn bị xuất bản 3.000 đĩa DVD chọn lọc

nhằm tuyên truyền quảng bá giá trị di sản Hát Xoan, cũng như giới thiệu chọn

lọc những đặc trưng của nghệ thuật Hát Xoan Phú Thọ thông qua các bài bản

Xoan cổ ở các làng Xoan truyền thống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đồng thời là tư

liệu giúp cho nghệ nhân ở các địa phương trong vùng Xoan khác nhau, cán bộ,

giáo viên sử dụng khi truyền dạy.Xây dựng cơ sở dữ liệu, tư liệu hoá và số hoá

hàng năm đã tiến hành nghiên cứu sưu tầm tại các cơ quan trung ương và địa

85

phương như Đài tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và Viện Âm

nhạc,... Sưu tầm ảnh tư liệu hiện vật liên quan đến Hát Xoan Phú Thọ xưa và

nay, xây dựng bộ sưu tập trưng bày chuyên đề: Hát Xoan Phú Thọ tại Bảo Tàng

Hùng Vương. Hiện nay đã sưu tầm được phim tư liệu, file ghi âm các bài bản

Hát Xoan chữ Hán, tư liệu điền dã viết tay về Hát Xoan Phú Thọ từ những năm

1970, các tư liệu sách, báo tại các cơ quan Trung ương, địa phương và tiếp tục

sưu tầm tiếp đồng thời đã lên được danh mục tài liệu, tư liệu (Báo cáo đánh giá

kết quả sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp

của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ, 12/2015, Sở VHTTDL tỉnh Phú Thọ).

Những sản phẩm của quá trình sưu tầm, nghiên cứu Xoan nói trên cũng

được sử dụng trực tiếp cho việc tuyên truyền quảng bá và thực hành loại hình di

sản này. Trên các phương tiện truyền thông, trong các chương trình nghệ thuật

tại tỉnh (từ cấp xã phường đến tỉnh), Xoan xuất hiện thường xuyên và đều đặn,

với nhiều các bài bản có được từ quá trình sưu tầm.

Ký âm bài bản Xoan

Nhiệm vụ này được Sở VHTTDL giao cho Trung tâm văn hóa tỉnh thực

hiện, với mục đích văn bản hóa Xoan, phục vụ cho việc lưu giữ và truyền dạy

Xoan trong cả hiện tại và tương lai. Nhiệm vụ này được đặt ra, một phần từ

việc thay đổi hình thức lưu giữ - từ việc chỉ giữ trong dân gian, tại cộng đồng, ở

chính nghệ nhân - chuyển thành cố định dưới dạng văn bản; phần khác, xuất

phát từ những khó khăn trong việc truyền dạy, quảng bá Xoan. Ký âm lại, sẽ dễ

dàng hơn trong việc đọc nốt nhạc, nắm giai điệu, bài bản Xoan, cũng là thuận

tiện cho cả người dạy và người học loại hình di sản này. Tuy nhiên, công việc

này đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, từ sự khác nhau về bài bản Xoan giữa

các phường, đến tính dị bản của những bài bản truyền miệng; sự khác biệt ở

những văn bản ghi chép tại các thời điểm khác nhau, rồi sự khác biệt trong lựa

chọn ký âm ở tone (giọng) nam hoặc nữ.... Tính đến thời điểm năm 2017, đã có

31 bài bản Xoan được ký âm, với sự chuẩn hóa về cả phần lời lẫn phần nhạc.

86

Khi ký âm thì gặp phải chuyện là phải giải quyết thế nào với các bài có nhiều

lời khác nhau, "Ví dụ bài Bỏ bộ chỉ tính là một Bỏ bộ thôi, nhưng nó có nhiều

lời, có tới 11 lời. Còn hát phú, hát lý ít khi dùng, nhưng vẫn phải ký âm tất.

Những bài đấy ký âm khó lắm. Đầy đủ cả ba chặng nhưng mỗi tội chỉ một

phường được lựa chọn, mà phong cách của các phường khác nhau. Thế rồi là

giọng nam giọng nữ thì ký làm sao, bản hát từ những năm bảy mươi nó thế này,

trong khi giờ các cụ lại hát khác" (Tư liệu phỏng vấn cán bộ ký âm, 5/2019).

Sự đa dạng của bài bản Xoan trên thực tế là khó khăn đầu tiên trong việc

ký âm. Bài bản ghi chép lời hát của các phường Xoan có những chỗ khác nhau,

dẫn đến việc, giai điệu âm nhạc cũng phải thay đổi để hợp với âm của lời. Sự đa

dạng của bài bản Xoan có thể ví dụ qua điệu Xe chỉ, vá may trong phần hát Bỏ bộ

với nhiều dị bản:

Viện Âm nhạc

Bản chép của cụ Đào Ngọc Hân

Bản ghi âm của Tú Ngọc

(Băng thu thanh

(Làng Thét, xã Phù Đức)

(Dẫn theo Cao Khắc Thùy

11/2002)

(Tư liệu do Đặng Hoành Loan sưu

2016)

tầm trong Những bản lời ca Xoan cổ)

Chỉ là chỉ ớ xe (2

Chỉ mà chỉ xe. Ớ rằng xe chỉ. Là bớ

“Chỉ mà chỉ ớ xe (2 lần). Ối

lần). Có rằng thời là

ru hời qua nọ chỉ xe là chỉ ớ xe

rằng xe chỉ (2 lần). Ta bớ ru

hời này ta ru hời qua nọ chỉ

xe chỉ (2 lần). Là ta á

xe là chỉ xe”

a ru hời là ta á a ru

hời qua nọ chỉ xe là

chỉ ớ ơ xe

Bảng : So sánh các dị bản của bài bản Xe chỉ, vá may

Sự đa dạng này đến từ những khác biệt giữa các phường, đồng thời liên

quan tới tính dị bản của tác phẩm văn hóa dân gian. Theo nhà nghiên cứu Cao

Khắc Thùy (2016), dù về cơ bản, bài bản giữa các phường Xoan không có những

khác biệt lớn khiến thay đổi cấu trúc, về thang âm, điệu thức trong mỗi điệu hát,

nhưng điều có thể nhận thấy rất rõ là không hề có sự đồng nhất hoàn toàn trong

87

31 bài bản cổ giữa các phường Xoan. Điều này khiến cho việc ký âm Xoan trở

nên khó khăn, và nhiều trường hợp, cán bộ ký âm không biết phải chọn ký âm

bài bản nào, vì “các cụ thì phường nào cũng muốn làm (ký âm) lời của phường

mình” (Phỏng vấn cán bộ ký âm, 5/2019).

Thêm vào đó, còn có cả vấn đề về sự lựa chọn tone (giọng) cho bản nhạc

để ký âm. Việc nhạc sỹ lựa chọn tone nam hoặc tone nữ sẽ quyết định độ cao của

một điệu thức cụ thể. Điều này nếu chỉ nằm trong văn bản lưu trữ thì không sao,

nhưng quá trình sử dụng các bản ký âm cho mục đích truyền dạy thì lại là một

vấn đề mà cán bộ ký âm phải giải quyết. Cán bộ ký âm cho biết: "Có cái lớp của

giáo viên phối kết hợp giữa Sở Giáo dục với Sở văn hóa. Bây giờ dạy cho giáo

viên thì không thể dạy không nốt nhạc được. Thế nên từ năm 2016 có cái lớp đấy

thì lựa chọn một số bài của nhạc sỹ L.N. Nhưng ông ấy ký âm mỗi bài chỉ một

đoạn thôi, và bản thân ông ấy ký âm một tone giọng, giọng nam hoặc giọng nữ.

Bản thân ông cũng ký âm sai chứ không phải không. Nam nữ cách nhau quãng

4, nhưng ông ý viết cùng một tone giọng luôn. Cái sách đỏ mà Sở phát hành là

ký âm cùng chỉ một giọng nam. Nên giờ các chị phải tự ký âm để có tài liệu mà

dạy. Nhưng thiếu người có chuyên môn nên lê lết mãi đến năm 2018 mới tạm ổn"

(Phỏng vấn chị An, cán bộ ký âm Xoan, 11/2018).

Việc ký âm các bài bản Xoan cũng đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết và

khiến người làm ký âm nhận thấy vấn đề mấu chốt của bản thân công việc này.

Việc ký âm các sáng tác dân gian, văn bản và cố định chúng mâu thuẫn với tính

vận động liên tục, với sự sáng tạo của các thế hệ chủ nhân di sản. Thực tế đa

dạng và phong phú của di sản đã trở nên đơn giản và khô cứng trong bài bản ký

âm, và chính người ký âm sẽ không tự tin vào sản phẩm của mình, vì thực chất

văn bản mà họ đã hoàn thiện chỉ là một sự lựa chọn ở thời điểm đó mà thôi.

Thế nên, họ nói về việc ký âm sai, không chuẩn, không chính xác… “Từ trước

1 Thông tin ghi lại theo hồi cố của nhân vật, 11/2018.

88

đến nay, ngay cả bản thân tôi và các nhạc sỹ ký âm các bài bản của dân ca người Việt, tôi chả tin bài nào, kể cả bài của tôi, tôi ký âm tôi cũng chả tin”1.

Trên thực tế, không có văn bản ký âm nào là chính xác cả, vì đối tượng trình

diễn và thời gian trình diễn là không trùng khớp.

Chúng tôi ký âm thời điểm này là 2018, chứ không phải là những năm

1970. Những năm bẩy mấy là các cụ hát khác chứ, hát khác hẳn luôn.

Thời bố ông Ngũ (ông Ngũ là cựu trùm phường Xoan Phù Đức- chú

thích của người viết) hát khác nhá, huống chi là đời ông Ngũ. Bây giờ

chúng tôi chỉ ký âm Hát Xoan từ khi được công nhận. Khi ghi nhận là

đã trình diễn trước UNESCO người ta xem xét rồi thì ký âm từ giai

đoạn công nhận đến nay thôi, không ký âm từ trước. Từ năm 2010 Hát

Xoan lan tỏa ra, mọi người đều hát như thế thì ta ký lại trong cái thời

điểm lưu giữ từ lúc đó, chứ không phải lưu giữ từ những năm bẩy mấy

(…) Thế nên không thể so sánh các bài bản ở những thời điểm khác

nhau được, mà các ông ký âm ở thời điểm trước chúng tôi có biết đâu,

đừng so sánh, vì kể cả về lời cũng sai lè lẹt ra. Thì vì các cụ này lời

này, cụ khác lại lời khác. Ví dụ là lải lốt hay là lại lốt (Tư liệu phỏng

vấn, 11/2018).

Và để hạn chế những rủi ro mà quá trình ký âm có thể mang lại, phương

thức được những cán bộ ký âm lựa chọn là “làm cho thật kín kẽ”:

Bọn mình phải cực kỳ là kĩ, làm việc với bảo tàng, làm việc với bên di

sản, rồi về các phường Xoan. Bọn mình có năm bài bản này của

phường này, gọi tất cả các cụ nghệ nhân. Bây giờ soát lại lời, các cụ

công nhận nó là như thế này thì là đóng dấu luôn, cả xã cả phường

cũng ký hết tên vào đấy. Thế nên có sai như nào là do các cụ chịu.

Còn về lời thì mình đi theo thằng di sản, nên nếu chết là chết thằng di

sản, bọn mình chỉ cần chú ý nốt nhạc với giai điệu có sai hay không

thôi (Tư liệu phỏng vấn, tháng 11/2018).

3.1.3. Đặt lời mới và sáng tác dựa trên ngữ liệu Xoan cổ

Trong nhiều chương trình nghệ thuật diễn ra tại tỉnh Phú Thọ, có sự xuất

89

hiện của các sáng tác mới dựa trên nền các bài bản Xoan cổ, hoặc các sáng tác

mới có sử dụng chất liệu Hát Xoan. Một số cuộc thi đặt lời mới cho Xoan cũng

được triển khai trong tỉnh.

Khi Xoan trở thành di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại,

hình thức bảo tồn và phát huy Hát Xoan thông qua việc đưa Xoan vào các loại

hình nghệ thuật như ch o, kịch…., khuyến khích những sáng tác mới có yếu tố

Xoan được đưa vào Đề án bảo tồn của tỉnh Phú Thọ. Cách bảo tồn này mở

đường cho thuật ngữ “Xoan mới” xuất hiện tại tỉnh - “là sự cải biên các làn điệu

Xoan cổ theo nhiều cách khác nhau hoặc kết hợp Xoan với các loại hình dân ca

hay ca hát hiện đại khác” (Nguyễn Thị Phương Châm 2017: 55). Xoan mới xuất

hiện trong hầu khắp các chương trình nghệ thuật của tỉnh, được sự đồng thuận

của những cán bộ lãnh đạo và người làm văn hóa của tỉnh, bởi nhiều nguyên do.

Đó là bởi “Xoan cổ không dễ nghe, nghe cả buổi thì sao mà chịu được”; rồi

“không thành quy định, nhưng cứ một chương trình nghệ thuật thì cứ tính 1/3 là Xoan cổ, 2/3 là Xoan cải biên, thì mới có đất sáng tạo chứ”1. Nhưng “nếu biểu

diễn mà bỏ Hát Xoan thì sao”? “Không được, Xoan là di sản, bỏ sao được, phải đưa vào chứ, có điều phải điều chỉnh cho phù hợp thôi”2.

3.2. Hoạt động trình diễn và truyền dạy Hát Xoan hậu ghi danh di sản

Đối với việc bảo tồn, truyền dạy và thực hành Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ

ban hành các quyết định nhằm tập trung tổ chức đào tạo lớp nghệ nhân kế cận,

lớp trẻ trong cộng đồng các phường Xoan gốc và các cán bộ xã, phường, hạt

nhân văn nghệ ở các CLB dân ca trên địa bàn tỉnh. Năm 2013, Thủ tướng Chính

phủ đã ban hành Quyết định số 2058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát

huy di sản văn hóa cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai

đoạn 2013-2020), với nhiệm vụ và nội dung thực hiện đề án giai đoạn 2013-

2015 bao gồm việc triển khai chương trình giáo dục về DSVHPVT Hát Xoan

lồng ghép trong các chương trình chính thức và ngoại khóa tại các trường học

90

trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; đào tạo các lớp nghệ nhân kế cận tại các phường 1 Tư liệu phỏng vấn, tháng 10 năm 2018. 2 Tư liệu phỏng vấn, tháng 10 năm 2018.

Xoan gốc, lớp trẻ tại cộng đồng. Theo Báo cáo Đánh giá kết quả sau 4 năm bảo

tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại “Hát Xoan

Phú Thọ” của UBND tỉnh, Sở VHTT&DL tỉnh Phú Thọ (tháng 12 năm 2015), từ

năm 2011-2015, tỉnh đã thực hiện nhiều hoạt động trên nhiều lĩnh vực nhằm

giúp Hát Xoan thoát khỏi tình trạng “bảo vệ khẩn cấp”. Từ năm 2013-2015 “tỉnh

đã tổ chức được 5 lớp truyền dạy Hát Xoan cho 62 học viên lớp nghệ nhân kế

cận (thành phố Việt Trì)”. Từ năm 2013 “đã đào tạo được nhiều khóa đào tạo,

giáo dục về Hát Xoan cho cộng đồng tại xã Kim Đức, Phượng Lâu, Hùng Lô tạo

ra thế hệ công chúng, khán giả tiềm năng cho nhu cầu tồn tại của Hát Xoan”;

“Hát Xoan được đưa vào giảng dạy, giới thiệu ở Trường Trung cấp Văn hóa

Nghệ thuật và Du lịch tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Hùng Vương và 80/90

trường ở 4 khối từ mầm non đến trung học phổ thông ở thành phố Việt Trì, góp

phần nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh, dần hình thành thế hệ khán giả

mới hiểu biết và yêu Xoan”. Thêm vào đó, “đến tháng 11 năm 2015 đã thành lập

được 28 CLB Hát Xoan trên địa bàn tỉnh” (con số này năm 2016 là 34 CLB cấp

tỉnh với 1.413 hội viên và 99 CLB cấp huyện, xã/phường, khu/làng). Thành tích

này còn được làm dày thêm với số liệu “hàng năm tỉnh đã giao cho Sở VHTTDL

phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức tập huấn cho gần 100 người là cán bộ văn

hóa xã, phường hạt nhân văn nghệ các CLB dân ca trên địa bàn thành phố Việt

Trì và 16 xã có Xoan lan tỏa”.

3.2.1. Những không gian Xoan sau ghi danh

Hát Xoan là loại hình dân ca nghi lễ, hát thờ, hát cửa đình. Không gian

của Xoan là tại đình, miếu; gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Kể từ

năm 2006, khi 4 phường Xoan cổ được phục hồi, Xoan theo đó cũng tái hiện

diện tại các đình miếu vào mỗi đầu xuân, thực hành theo đúng tục lệ Xoan

truyền thống. Trong thời gian 4 năm (từ 2011-2015), thực hiện Đề án bảo tồn và

phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại „Hát Xoan Phú

91

Thọ’, việc đầu tư bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phục hồi các không gian văn hóa Hát

Xoan đã được thực hiện nhanh chóng. Tính đến năm 2017, đã có 20/ 30 đình,

miếu là nơi có tục lệ Hát Xoan thờ thần vào dịp đầu Xuân được bảo tồn, tôn tạo,

trong đó, tu bổ, khôi phục 5 di tích tại các phường Xoan gốc và vùng lân cận

gồm: miếu Lãi L n, đình làng Kim Đới, đình Thét (xã Kim Đức), đình An Thái,

miếu Cấm (xã Phượng Lâu) và đình Bảo Đà (phường Dữu Lâu). Đặc biệt miếu

Lãi Lèn, đình Thét, đình làng Kim Đới xã Kim Đức và đình An Thái xã Phượng

Lâu là những di tích cổ nhất đã được đầu tư phục dựng, tôn tạo và đưa vào sử

dụng. Không gian vật chất gắn liền với tín ngưỡng thờ vua Hùng/thần linh được

khôi phục và tôn tạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực hành Xoan diễn ra trong

không gian truyền thống, dù “các bài bản Xoan được tỉnh và một số nhà nghiên

cứu yêu cầu chỉnh sửa, đặc biệt là cắt bớt phần lời ở một số lối hát, hay bổ sung thêm cho sinh động, ngắn gọn súc tích”1. Miếu Lãi L n đã được khánh thành vào

năm 2012, dự án giai đoạn 2 bao gồm sân vườn, các công trình phụ trợ và nhà

trưng bày kết hợp trình diễn nghệ thuật Hát Xoan cũng đã được hoàn thiện và

đưa vào sử dụng, thực hiện quy hoạch mở rộng và đầu tư hoàn chỉnh các công

trình khu di tích. Như vậy, sau 6 năm thực hiện cam kết về bảo vệ di sản Hát

Xoan, các không gian trình diễn Hát Xoan tại các làng Xoan gốc đã được Nhà

nước và cộng đồng khôi phục 100% (Nguyễn Đắc Thủy, 2019: 87).

Tuy nhiên, Hát Xoan không chỉ diễn ra tại các cửa đình của các phường

Xoan gốc mà còn tại các đình miếu của các làng Xoan nước nghĩa. Tục lệ này của

Xoan đã mở rộng không gian thực hành Xoan ra nhiều làng khác, nhiều cửa đình,

miếu khác. Đây vừa là đặc trưng riêng có, độc đáo của Xoan, cũng lại là một thách

thức của công tác bảo tồn. Việc trùng tu, khôi phục các di tích cổ (đã xuống cấp

hoặc không còn dấu vết) cần nhiều thời gian và kinh phí. Chính vì vậy, những

khoản kinh phí lớn được ưu tiên cho việc phục dựng các đình miếu tại không gian

Xoan gốc; còn các không gian khác (đình, miếu nước nghĩa) nằm trong danh sách

1 Tư liệu phỏng vấn em H., 10/2018.

92

chờ đợi bảo tồn về sau. Vậy nên ở nhiều làng Xoan nước nghĩa chưa thể mời

phường Xoan đến hát theo lệ cũ vào dịp đầu năm, vì đình miếu chưa khôi phục

được (Xem thêm Phạm Bá Khiêm, 2016; Nguyễn Mai Thoa, 2016).

Với tư cách là một DSVHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp, Hát Xoan được

các cấp chính quyền Phú Thọ bảo vệ và phát huy “khẩn cấp” trong mọi không

gian có thể. Như một nhiệm vụ chính trị đặt ra trên toàn tỉnh, Quyết định số

2058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cần bảo vệ

khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2013-2020); kế hoạch

2836/KH-UBND về xây dựng Hồ sơ báo cáo quốc gia Hát Xoan Phú Thọ thoát

khỏi DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp; kế hoạch số 5478/KH-UBND của UBND

tỉnh về triển khai các nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát huy giá trị DSVHPVT

cần bảo vệ khẩn cấp năm 2015; kế hoạch số 162/KH-UBND năm 2016 đã giúp

Xoan “khuếch tán” trong toàn tỉnh chứ không chỉ được thực hành và bảo tồn tại

các làng Xoan cổ. Xoan được trình diễn, truyền dạy và thực hành tại các không

gian công sở, trường học; tại các CLB Hát Xoan trên toàn tỉnh; tại các sân khấu

lớn nhỏ trong các sinh hoạt văn hóa văn nghệ hoặc các cuộc thi phong trào trong

và ngoài tỉnh. Thêm vào đó, Xoan (đã được tư liệu hóa đầy đủ trong băng đĩa

CD, DVD) cũng hiện diện dày hơn trong những ngôi nhà, không gian công cộng;

và dày đặc trên các chương trình ti vi của tỉnh Phú Thọ. Theo Báo cáo Đánh giá

kết quả sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp

của nhân loại “Hát Xoan Phú Thọ” của UBND tỉnh, Sở VHTT&DL tỉnh Phú

Thọ (tháng 12 năm 2015), từ năm 2013-2015, tỉnh đã tổ chức nhiều lớp truyền

dạy cho cán bộ văn hóa, viên chức, người dân, nghệ nhân kế cận, giáo viên, học

sinh sinh viên… Những thông tin trong báo cáo cho thấy Hát Xoan đã được thực

hành, trình diễn và truyền dạy tại rất nhiều các không gian khác nhau, bên ngoài

những không gian truyền thống.

Thống kê cho thấy, có trên 30 buổi biểu diễn giới thiệu, quảng bá về Hát

Xoan trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh và trung ương đã được tổ

93

chức. Hàng tháng Đài phát thanh Truyền hình tỉnh tổ chức phát các chương trình

biểu diễn của các phương Xoan, các CLB Hát Xoan của tỉnh… các cuộc biểu

diễn ghi âm ghi hình đã góp phần quan trọng tuyên truyền giới thiệu Hát Xoan

tới công chúng đất tổ, ngoài ra còn có sự tham gia tuyên truyền của mạng xã

hội… Đã đăng nhiều bài trên báo Phú Thọ về “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản

Hát Xoan”; báo Văn hóa, báo Bảo vệ pháp luật; cổng giao tiếp điện tử tỉnh Phú

Thọ; Đài Truyền hình Việt Nam; Kênh truyền hình – Thông tấn xã Việt Nam;

Truyền hình Quốc hội; Đài tiếng nói Việt Nam; Đài Phát thanh – truyền hình

Phú Thọ, các Website… (Trích, Báo cáo đánh giá kết quả sau 4 năm bảo tồn và

phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại Hát Xoan Phú

Thọ, 12/2015, Sở VHTTDL tỉnh Phú Thọ).

Không chỉ gia tăng vị thế cho cộng đồng chủ tại 4 phường Xoan cổ, Hát

Xoan còn giúp mở đường cho sự lớn mạnh của những CLB, đơn vị văn nghệ của

tỉnh. Mô hình CLB phủ sóng rộng khắp tỉnh, được sử dụng với tên gọi “CLB Hát

Xoan và dân ca Phú Thọ”, riêng CLB tại Việt Trì được UBND thành phố hỗ trợ

mỗi năm 30 triệu đồng. Quyền lợi từ Xoan cũng giúp sinh hoạt của các CLB

khởi sắc hơn, những chương trình nghệ thuật có Xoan được đầu tư và chú ý hơn.

3.2.2. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan sau ghi danh tại các làng Xoan cổ

Khác với trước đây khi Hát Xoan chỉ trình diễn trong dịp đầu xuân, hiện

tại, Hát Xoan hậu ghi danh được thực hành và truyền dạy trong nhiều bối cảnh

và không gian khác nhau. Có thể chia thực hành Hát Xoan làm các nhóm mục

đích: 1) Phục vụ cho sinh hoạt tín ngưỡng, giải trí tại cộng đồng, đặc biệt vào dịp

đầu năm và trong lễ hội đền Hùng; 2) Biểu diễn, tiếp đón các nhà nghiên cứu,

nhà báo tới tìm hiểu về Hát Xoan, thường là thực hành tại đình, miếu nơi phường

Xoan hoạt động; 3) Phục vụ khách du lịch (Việt Nam hoặc nước ngoài), thường

là kết hợp cùng các công ty du lịch, và phần diễn xướng Xoan nằm trong tour du

lịch về nguồn, thăm đền Hùng, trình diễn trong không gian di sản (đình, miếu);

4) Phục vụ các hoạt động văn hóa nghệ thuật diễn ra trong và ngoài tỉnh, đặc biệt

94

là tham gia các hội diễn văn nghệ cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia. Tuy nhiên, với tư

cách là chủ nhân của một di sản văn hóa nhân loại, các nghệ nhân Hát Xoan còn

tham gia nhiều các hoạt động khác, chẳng hạn việc trình diễn để ghi âm ghi hình,

làm phóng sự về Xoan; được mời truyền dạy cho cán bộ, giáo viên trong tỉnh,

cho các CLB; làm cố vấn, giám khảo trong các chương trình nghệ thuật của các

trường, các phường/ huyện… Ngoài ra, còn có một số cá nhân, biết Xoan, yêu

Xoan, muốn học Xoan, cũng tìm đến các phường Xoan này, ăn ở tại nhà các

trùm phường, sinh hoạt cùng phường Xoan để xin được học về Xoan, để được

truyền dạy và thực hành tại chính không gian Xoan gốc.

Theo bà A., trùm một phường Xoan cổ, việc tập luyện Hát Xoan bây giờ

“diễn ra quanh năm”, cứ thứ 7 là tập, thậm chí nếu có bài nào chưa ưng, chưa

nhuyễn thì còn tăng buổi tập lên. Những đợt có hội diễn hoặc chương trình nào

đó do tỉnh đặt hàng, phường Xoan lại tập hát hàng đêm. Ban ngày đi làm, chiều

hoặc tối tập hát, cứ thế, các lớp nghệ nhân truyền dạy cho nhau hết bài bản này

đến bài bản khác. Khi thì tập tại đình, lúc tập tại nhà trùm phường, nhiều buổi

tập thu hút bà con chòm xóm đến xem, đặc biệt là các em nhỏ, “cứ nghe xem mãi

rồi ngấm, thế là các cháu nó thích nó thuộc lúc nào cũng không biết” (Tư liệu

phỏng vấn 10/2018). Tại các phường Xoan, hình ảnh các em nhỏ 5, 6 tuổi lẩm

nhẩm hát theo các nghệ nhân, múa theo bà theo mẹ là không hề hiếm.

Tại các phường Xoan gốc, từ năm 2011 đến năm 2016, Sở VHTT&DL

Phú Thọ đã mở 5 lớp truyền dạy Hát Xoan cho các lớp nghệ nhân kế cận, trực

tiếp do các nghệ nhân cao tuổi, có kinh nghiệm lâu năm trong việc thực hành và

truyền dạy Hát Xoan đứng lớp đào tạo. Lớp nghệ nhân kế cận này phải đáp ứng

đầy đủ các tiêu chuẩn: là thành viên của các phường Xoan trong nhiều năm; có

khả năng thực hành Xoan; phải ổn định, gắn bó với phường Xoan lâu dài. Những

nghệ nhân kế cận được đào tạo nhằm mục đích thay thế các nghệ nhân cao tuổi

khi họ không còn khả năng thực hành và truyền dạy. Tính đến năm 2016, đã đào

tạo được 122 nghệ nhân kế cận, nâng cao cả về số lượng lẫn trình độ, kĩ năng

trình diễn cho các nghệ nhân ở lớp kế cận (bao gồm những nghệ nhân trung tuổi

95

và các em thiếu niên, nhi đồng tại các làng Xoan cổ). Trong những năm vừa qua,

lớp nghệ nhân kế cận này đã dần khẳng định được vai trò, năng lực trong việc

duy trì thực hành và tiếp tục truyền dạy Xoan trong và ngoài cộng đồng.

Theo Báo cáo Cập nhật kết quả kiểm kê Hát Xoan Phú Thọ (từ tháng

2/2016 đến tháng 11/2017), tính đến năm 2017, số thành viên tham gia chính

thức tại 4 phường Xoan cổ là 330 người. Con số này là rất lớn, nếu so với số

lượng nghệ nhân thực hành Xoan từ trước khi Xoan được ghi danh (năm 1998,

có 46 người, năm 2009 có 121 người). Có thể hình dung về không khí thực hành

và truyền dạy này tại một số phường Xoan. Như phường Xoan An Thái hiện có

105 thành viên qua 5 thế hệ, thành viên lớn tuổi nhất là 94 tuổi và nhỏ tuổi nhất

là 6 tuổi. Số nghệ nhân hiện có 12 người, trong đó có 5 nghệ nhân ưu tú, 7 nghệ

nhân cấp tỉnh. Phường Xoan đã xây dựng quy chế làm việc của phường, sinh hoạt,

ôn luyện và truyền dạy vào các tối thứ 7, Chủ nhật hàng tuần. Để nhớ bài bản của

Hát Xoan, phường còn mở 3 lớp học Hát Xoan trong dịp hè vừa qua, mỗi lớp có 32

thành viên, mỗi học viên khi đi học phường đã trích tiền hỗ trợ là 20.000 đ/ ngày

(Báo cáo của trùm phường Xoan An Thái về việc truyền dạy, 2016).

Việc truyền dạy hiện kết hợp cả kiểu truyền thống, tức là học truyền khẩu,

học lời hát trước rồi động tác múa sau, với việc sử dụng “giáo án, ghi chép”. Các

nghệ nhân tập luyện thường xuyên (tại nhà trùm phường hoặc tại đình), truyền

dạy trực tiếp cho các lớp kế cận. Về bài bản Xoan, các phường đã xây dựng giáo

án truyền dạy theo từng lứa tuổi nhằm phù hợp cho các học viên cũng như cộng

đồng khi tham gia học Hát Xoan, có vậy các học viên sẽ dễ hiểu, dễ tiếp thu và

học thuộc Xoan một cách nhanh nhất (…) Cách truyền dạy của nghệ nhân phải

truyền dạy chi tiết đến từng câu, từ, cách mở giọng lấy hơi, lời bài hát hòa vào

nhịp trống phách phải ăn ý, khi dạy múa cần uốn tay từng ngón cho thật dẻo

(Báo cáo của trùm phường Xoan An Thái về việc truyền dạy, 2016).

Việc truyền dạy này được xác định là cần thời gian lâu dài, “không ngày

một ngày hai được”, “Say Xoan lắm ấy, cứ rảnh ra là hát là tập. Nhiều điệu nên

96

phải làm lâu thì mới nhớ mới có vốn được (…) không học cẩn thận là chưa phải

người nắm kiến thức nhiều, chàng màng (Tư liệu phỏng vấn, 4/2019). Như tại

phường Xoan Kim Đức, cách thức truyền dạy cụ thể như sau: “Việc truyền dạy

do các nghệ nhân trong phường đảm nhận. Hướng dẫn, dạy đánh trống và hát,

mỗi làn điệu sử dụng các loại trống khác nhau, đánh trống theo nhịp các bài hát,

múa (hát thờ, hát cách, hát hội). Khi dạy hát và múa, người học cần chép bài,

hướng dẫn cho các thành viên hiểu ý nghĩa của từng bài, học thuộc lời, giai điệu

của các bài Hát Xoan, sau đó dạy động tác múa, đi lại nhịp nhàng phù hợp, tay

chân uốn nắn làm sao cho ăn nhịp với trống phách. Từng nhịp điệu trong lời hát

phải thể hiện tình cảm trên nét mặt theo lời, điệu hát. Ngoài ra, tổ chức hát

truyền khẩu cho những người không biết chữ (…) trong truyền dạy cần phải tạo

sự đam mê, yêu thích của người học biểu hiện trong từng điệu bộ, lời ca tiếng

hát” (Báo cáo tham luận hội thảo Hát Xoan, Bùi Thị Kiều Nga, trưởng phường

Xoan Kim Đức, 2016).

Kể từ khi Hát Xoan được ghi danh di sản, nhiều đơn vị vào cuộc để tham

gia bảo vệ và phát huy Xoan, nhiều hoạt động liên quan đến Xoan được tổ chức

dẫn đến nhiều vấn đề về cách thức hoạt động và kinh phí mà các trùm phường

phải giải quyết. Trước đây, Hát Xoan được trình diễn vào dịp lễ hội đầu xuân,

việc tập luyện không diễn ra thường xuyên. Nay, Xoan được trình diễn gần như

quanh năm, ngoài thời điểm hát đầu xuân còn trong các không gian và các sinh

hoạt văn hóa khác trong và ngoài tỉnh dẫn đến phường Xoan phải có những kế

hoạch thực hành cho phù hợp. Lo toan làm sao để phường Xoan có thể đảm nhận

các công việc mà Sở văn hóa yêu cầu, điều phối người tham gia các hoạt động

trong khi nghệ nhân vẫn phải đi làm kiếm tiền… là vấn đề đau đầu với các trùm

phường. Rồi vấn đề về kinh phí để duy trì được các hoạt động trong năm. Hiện

tại, mỗi phường Xoan gốc được tỉnh hỗ trợ 55 triệu đồng/1 năm. Số tiền này

được trùm phường quản lý, nhưng con số này là quá eo hẹp cho một phường với

số lượng mấy chục con người để chi dùng trong một năm. Chưa kể kinh phí đi

97

lại biểu diễn chia theo đầu người cũng là quá ít ỏi. Người nghệ nhân không sống

được bằng Xoan mà vẫn phải lo cơm áo gạo tiền, chính vì thế, việc huy động

mọi người tham gia tập luyện và trình diễn gần như phụ thuộc vào tinh thần tự

nguyện, “vì say mà làm”; “vì của ông cha mà giữ gìn”. Nhưng những hoạt động liên

quan đến Hát Xoan là rất nhiều, cũng lấy nhiều thời gian công sức của nghệ nhân trong

khi kinh phí cho cả đoàn không đáng là bao nên nảy sinh tâm lý tiêu cực:

Dạy đến giờ này đã có chế độ lương đâu, từ tháng 7 đến giờ (…) Hiện

tại đi trình diễn cho khách du lịch, mình làm nhiệt tình như thế, người

ta thích như thế, được có 1 triệu/ 1 ngày làm. Đội có bao nhiêu người

thì mặc xác anh. Đối với khách Việt Nam, trước kia thì còn được 700

ngàn, bây giờ chỉ còn 500 với 600 ngàn thôi… Đưa qua bên du lịch,

không đưa thẳng tay cho mình. Nên là vuốt xuôi xuống (động tác đặt

tay lên ngực rồi vuốt xuống), bảo thế này: trước đây ông cha mình

chả có gì vẫn giữ được di sản cho đến bây giờ, mình mà nói người ta

lại bảo là vì đồng tiền hay thế nọ thế kia, thôi tốt nhất là im cho nó

xong (Phỏng vấn nghệ nhân, 11/2018).

Việc thực hành và truyền dạy bài bản trong thực tế còn bị chi phối bởi

những tác động từ cơ quan quản lý. Trước đây, trùm phường là người quyết định

lề lối bài bản của phường mình, nay, tính tự quyết này chịu ảnh hưởng từ quan

điểm của các cấp lãnh đạo về việc bảo tồn di sản: “Bà trùm phường Xoan tận

tình truyền dạy tất cả các thế hệ học sinh ở các đơn vị nhưng lại e ngại khi nhắc

về lề lối cổ của Xoan và rất nguyên tắc khô cứng khi thực hành, tuân thủ theo

đường lối của cấp trên. Vì vậy, ngay trong chính phường Xoan cũng bị thay đổi khá nhiều”1. Sự thay đổi này phần lớn là uốn nắn các thực hành tại phường theo một số

quy chuẩn về Xoan đã được thống nhất là Xoan cổ, theo “các bài Hát Xoan được

ghi chép cẩn thận từng câu từ và không được sai sót” (Báo cáo của trùm phường

Xoan An Thái về việc truyền dạy, 2016), và hạn chế tối đa sự sáng tạo theo kiểu đặt

1 Tư liệu phỏng vấn, 11/2018

98

lời mới cho Xoan hay thực hành, truyền dạy những bài bản mới này.

Ngoài ra, việc truyền dạy này cũng khác biệt với thực hành Hát Xoan diễn

ra đa dạng tại các làng Xoan cổ hàng năm. Theo lệ tục, hàng năm, làng An Thái

hát và sáng sớm mồng một ở miếu Cấm, tối hát ở đình cả, mồng hai ở đình Kim

Đái, mồng ba ở miếu Lãi Lèn, mồng bốn ở miếu Thét, rồi sang hát cửa đình các

nơi. Xoan Kim Đái không chính thức giữ cửa đình nào mà chỉ theo các họ bạn và

thường chỉ hát trong phạm vi huyện Phù Ninh, ít khi ra ngoài huyện (Dẫn theo

Nguyễn Anh Tuấn, 2016). Trong trình diễn, ở phường Phù Đức hát Mời vua rồi

sau đó mới đến các bài hát theo giọng lề lối, các quả cách và cuối cùng là hát

hội, còn Xoan ở Thét và An Thái thì trình diễn các giọng lề lối Giáo trống, Giáo

pháo, Thơ nhanh, Đóng đám sau đó đến phần quả cách và quả cách Kiều Dương

(được coi là bài hát mời vua), cuối cùng là hát các bài hát hội giao lưu với các

trai làng sở tại (Dẫn theo Nguyễn Anh Tuấn, 2016).

Và chính sách đầu tư cho các lớp đào tạo nghệ nhân kế cận trên diện rộng,

học tập trung theo lịch quy định của Sở VHTTDL cũng đã nảy sinh vấn đề trong

việc lựa chọn người truyền dạy cho nghệ nhân của cả 4 phường, vấn đề về việc

lựa chọn bài bản của phường nào để truyền dạy trong các lớp học. Trên thực tế,

đã phổ biến một tâm lý rằng, hễ bài bản hay nghệ nhân phường nào được chọn

truyền dạy thì phường đó nổi, có Xoan cổ hơn, gốc hơn các phường khác, và

nghệ nhân ngầm có sự so sánh cạnh tranh giữa các phường “sau khi thu âm,

nghe lại thì thấy long lanh lắm, đấy là chưa chỉnh sửa gì. Các phường khác thì

không ganh tị được, vì múa của phường mình nó lề lối, múa của người ta mình

không dám chê nhưng họ (phường Xoan khác) họ làm thế, chán quá, giải thích

mãi cho tỉnh mà họ không nghe” (phỏng vấn nghệ nhân, 11/2018). Tâm lý muốn

phát triển Xoan của phường mình thể hiện rất rõ, đến mức cán bộ đi ký âm cũng

phải kêu than “phong cách của các phường khác nhau (…) các cụ cứ thế,

phường nào cũng muốn làm (ký âm bài bản Xoan) của phường mình” (Tư liệu

99

phỏng vấn 11/2018).

Đó là còn chưa kể thời gian học tập trung quá ngắn để người học có thể có

đủ “vốn Xoan” tương đối. Các con số trong báo cáo của tỉnh đều rất tích cực, ví

dụ, năm 2009 các phường Xoan cổ có 31 nghệ nhân cao tuổi (từ 80 đến 104

tuổi), trong đó chỉ vỏn vẹn 7 nghệ nhân còn có thể thực hành và truyền dạy các

bài bản Xoan; sau khi công tác truyền dạy được đẩy mạnh thì đến năm 2015 đã

có tới 249 nghệ nhân có thể thực hành và truyền dạy (Nguyễn Đắc Thủy, 2018).

Nhưng trên thực tế, chất lượng thực hành và truyền dạy của các nghệ nhân lớp

kế cận này còn là vấn đề lớn. Hiện nay, khi mở các lớp truyền dạy mới, việc tìm

kiếm nghệ nhân đạt yêu cầu để đi dạy Hát Xoan cũng là cả một vấn đề với chính

Sở văn hóa tỉnh.

3.2.3. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại các CLB Hát Xoan và dân ca

Phú Thọ

Ngoài mô hình phường Xoan tại các làng Xoan cổ, Hát Xoan còn được

thực hành và truyền dạy theo mô hình CLB. Mô hình CLB Hát Xoan và dân ca

được tỉnh Phú Thọ khuyến khích thành lập và mở rộng nhằm đẩy mạnh công tác

truyền dạy và thực hành Hát Xoan trên diện rộng. Nếu như năm 2009, cả tỉnh

mới chỉ có 3 CLB tự phát (Phù Ninh, Tiên Du, Cao Mại), đến 2010 có 13 CLB

(với 298 hội viên) thì tính đến tháng 10 năm 2016, trên toàn tỉnh đã có 34 CLB

cấp tỉnh, với 1.413 hội viên tham gia sinh hoạt và 99 CLB từ cấp huyện,

xã/phường, khu/ làng. Ngoài ra, còn có nhiều nhóm Hát Xoan tự thành lập xuất

phát từ niềm yêu thích với loại hình nghệ thuật này. “Đầu tiên thì cũng không

biết về Xoan nhiều đâu, nhưng được đi học, được gặp các nghệ nên giờ thì biết. Giờ chiều nào cũng hẹn nhau để ra đây tập rồi hát múa với nhau”1.

Tại các CLB Hát Xoan, hàng năm, Sở VHTT&DL và thành phố Việt Trì

có tổ chức các lớp truyền dạy Hát Xoan do các nghệ nhân ở phường Xoan gốc

trực tiếp truyền dạy cho các thành viên chủ chốt của các CLB (sau khi học, các

1 Tư liệu điền dã, 11/2017.

100

thành viên này lại dạy lại cho các thành viên khác trong CLB của mình). Một số

CLB mời nghệ nhân của các làng Xoan gốc trực tiếp về dạy cho các thành viên.

Những sinh hoạt Xoan diễn ra đều đặn tại một số CLB, đặc biệt là quanh các

phường Xoan cổ và trong khu vực thành phố Việt Trì.

Trên thực tế, hoạt động của các CLB Hát Xoan (về sau đổi thành CLB

Hát Xoan và Dân ca Phú Thọ) diễn ra đa dạng và phong phú. Việc thực hành

Hát Xoan diễn ra tại một số CLB không hề đơn giản và dễ dàng. Sự khó khăn

này đến từ ngay những ngày đầu tiên, khi tại một số địa phương diễn ra nỗ lực

hoạt động để được công nhận là CLB cấp tỉnh. Đa số thành viên trong CLB đều

là người trung niên và cao tuổi nên việc tiếp thu Xoan khá khó do sức khỏe yếu

và trí nhớ không được tốt. Thời gian đầu, các thành viên còn chán nản và có lúc

còn chống đối bằng các lời nói khó nghe hay những buổi trốn tập. Nhưng qua

thời gian động viên, khích lệ, đến tận nhà các thành viên để tâm sự về Xoan,

hỏi han về gia đình,… các thành viên đã suy nghĩ rồi dần dần có ý thức đi tập

đều đặn, tự bảo ban nhau tập luyện. (Tư liệu điền dã, Thanh Ba, 11/2018).

Không những thế, Xoan còn bị “trốn tránh”, nhiều thành viên “nhất quyết

không chịu tham gia”, có người vốn là hạt nhân trong đội Chèo còn “hát giễu

Xoan” và trốn tập. Thậm chí, dù đã thuyết phục được các thành viên tham gia và

trình diễn thành công, nhưng “vẫn chưa có ai hiểu và thực sự yêu Xoan”. Tại

một số địa phương, việc tham gia các kì Liên hoan đã giúp “các thành viên có

nhận thức tích cực hơn về Hát Xoan, một số người còn cảm thấy yêu thích”. Và

không phải ở xã nào, Xoan cũng được cán bộ xã chào đón, “hát cái gì thì hát nhưng đừng có Hát Xoan Ghẹo”, “có cho tiền cũng không đi Hát Xoan”1.

Thực hành Hát Xoan tại các CLB nổi bật lên vai trò của những người đứng

đầu, vì đam mê mà thành lập và theo đuổi việc duy trì CLB. Có thể hình dung kĩ

hơn về vai trò của các cá nhân này và tình hình hoạt động của CLB Xoan qua câu

1 Tư liệu phỏng vấn, tháng 11/ 2018. Riêng phần này, chúng tôi xin phép không đưa bất kì thông tin nào về đối tượng phát ngôn để đảm bảo quy tắc bảo mật cho đối tượng được phỏng vấn.

101

chuyện về một cá nhân rất nổi bật trong việc truyền dạy Xoan trong tỉnh.

Hồi ấy, khi chị làm việc trong ngành văn hóa, chị bỏ qua luôn trưởng

phòng, lên gặp phó chủ tịch huyện, bảo tôi có hai việc muốn đề nghị với

anh như thế này: một là bóng chuyền, hai là Hát Xoan. Khẩn cấp đấy (khi

đó là sau khi UNESCO ghi danh Hát Xoan). Trong hai việc ấy, cho tôi

làm Hát Xoan để tôi mở lớp tập huấn. Chị mới dựa vào cái công văn và

những hướng dẫn của tính về mở lớp, truyền dạy và khôi phục Hát Xoan

để làm kế hoạch. Ông phó chủ tịch cho 6.890.000đ để mở 2 lớp, ngay lúc

ấy đã có chương trình chào mừng bằng Hát Xoan hẳn hoi. Mình cùng ông

trưởng phòng đánh xe con sang phường Xoan đón nghệ nhân về dạy 3

ngày, yêu cầu bà “dạy bài nào khó nhất nhưng mà phải hay nhất”. Trong

3 ngày, bà dạy cho 4 bài, học sinh mới học ngây ngô không biết cái gì bảo

“thế nào học Xoan sao mà chán thế”, đến ngày thứ hai là ngấm dần ngấm

dần, ngày thứ ba là ngấm hẳn, hết ngày thứ ba xin dạy thêm mà chương

trình chỉ đến thế thôi. Rồi mình lại xin tiền tiếp, mở thêm hai lớp nữa, một

lớp cho 8 xã, một cho 7 xã, làm rất là bài bản. Sau khi truyền dạy xong thì

mình lại đề nghị huyện có một công văn gửi về xã để thành lập CLB, họ

dựa trên công văn đó và bài bản mà mình truyền dạy để thành lập đồng

loạt trên toàn huyện 15 CLB Hát Xoan của các xã (cấp xã). Các CLB

trước khi thành lập là phải làm 2 bộ hồ sơ, một bộ gửi tỉnh và một bộ gửi

huyện, nói rõ quy chế hoạt động, nguồn kinh phí, làm bài bản, có chữ kí,

con dấu của ủy ban xã hẳn hoi. Trước khi thành lập, mình đi dạy lại, chau

chuốt cho cái xã đấy để làm sao khi mà thành lập CLB thì nó “ngon nghẻ,

không rối rắm”. Chị cũng yêu cầu CLB phải có chủ nhiệm, phó chủ

nhiệm, kế toán thủ quỹ. Phải có thủ quỹ vì CLB mình toàn phải đi xin, xin

các nhà hảo tâm. “ông này làm doanh nghiệp, mai tôi thành lập CLB này,

ông cho tôi một triệu hay bác cho tôi 50 ngàn cũng quý, hoặc không có thì

ủng hộ cho tôi cái trống hoặc bộ ăm ly, thế là dân họ đồng tình, họ ủng hộ

102

tích cực, thích lắm”. Xoan nó mới nên họ háo hức. Sau đó cứ dần dần,

mình âm thầm mình làm, đợt này thành lập được 5 CLB, đợt khác lại đi

xuống tận xã vận động. “Nếu khó khăn không có ai dạy thì tôi trực tiếp tôi

dạy, không có quần áo, tôi trực tiếp cho mượn quần áo”. Giờ nhà chị có

tới 30 bộ quần áo Xoan (cười). Chỗ nào khá khá thì cho thuê, một bộ chỉ

lấy 20 ngàn hoặc 15 ngàn, còn xã nào khó khăn thì cho mượn không. Tức

là mình đã say rồi thì mình không tiếc gì tiền mình bỏ ra mình sắm. Cả

huyện giờ có 15 xã thì có 15 CLB cấp xã, cấp tỉnh có 5 CLB. Tổng cả

huyện mình có 58 CLB các cấp, hầu hết các khu đều đã có CLB rồi (…)

Cứ nói đến Hát Xoan như ai đang xui mình bắt mình phải làm, thúc mình

phải làm bằng được, không biết như thế nào lại thế. Mình chọn Hát Xoan

vì mình rất thích, cái nữa là nhà nước và tỉnh người ta đang cần đang bảo

vệ phẩn cấp tại sao mình không làm, cái này là Đảng và Nhà nước đang

cần mà mình lại đang làm trong ngành văn hóa, mình phải có trách nhiệm

(…) Mình cũng từng sang nhà bà A. (nghệ nhân phường Xoan cổ) học từ

năm 1999, trước năm 2000! Lúc ấy Xoan chưa rầm rộ. Đi sang học vì “Ôi

dồi ôi thích đấy”. Không biết như thể ai sui khiến mình lại mời được bà A.

(trùm một phường Xoan cổ) kết nghĩa. CLB Hát Xoan của mình là CLB

duy nhất của huyện kết nghĩa được với phường An Thái (một trong 4

phường Xoan cổ), mà kết nghĩa tại đình, cho nên có có nhiều cái hay. Khi

mà đình An Thái có hội thì lại mời bên này sang, hay khi mà đình bên này

có hội thì lại mời An Thái sang (Tư liệu ghi chép, phỏng vấn chị H., phụ

trách các CLB Hát Xoan tại huyện T.D., 5/2019).

Với nhiều người, việc có mối quan hệ/ quan hệ kết nghĩa với các phường

Xoan gốc là một điều rất đặc biệt, đáng tự hào, vừa thể hiện “sự năng động” của

cá nhân, vừa ngầm cho thấy sự được thừa nhận về năng lực Hát Xoan của bản

thân cá nhân/ CLB đó. Và những hoạt động của CLB vì thế cũng đa dạng, phong

103

phú hơn, được xem là gần hơn với di sản.

Việc thực hành và truyền dạy Hát Xoan trong các CLB Hát Xoan và dân

ca Phú Thọ cũng đặt ra không ít vấn đề. Con số về 34 CLB Hát Xoan với 1.557

thành viên là rất ấn tượng, tuy nhiên trên thực tế, không phải CLB nào cũng tiến

hành hoạt động Hát Xoan đều đặn theo như báo cáo. Và điều này cũng không có

gì lạ, vì thực hành và truyền dạy Hát Xoan vốn không phải là nhu cầu tự thân của

người dân những nơi này. Thêm vào đó, tại một số CLB dân ca khác, trong trào

lưu Xoan hóa của toàn tỉnh, việc đưa Xoan vào sinh hoạt cũng gặp không ít khó

khăn và mang tính phong trào.

Đa số thành viên trong CLB là người trung niên và cao tuổi nên việc

tiếp thu Xoan khá khó do sức khỏe yếu và trí nhớ không được tốt. Thời

gian đầu các thành viên còn chán nản và có lúc như chống đối bằng

các lời khó nghe hay các buổi trốn tập (…) do chưa có nhận thức

đúng về Hát Xoan nên các thành viên không hứng thú và biểu hiện là

không đi tập đều (…) Sau thời gian động viên khích lệ, các thành viên

đã trình diễn thành công nhưng chưa có ai hiểu và yêu Xoan (…) (Tư

liệu phỏng vấn thành viên CLB Xoan cấp tỉnh, 11/2018).

Đặc biệt với những CLB xa vùng Xoan trung tâm, quá trình thành lập và

hoạt động phần lớn liên quan tới niềm yêu thích/ ý chí của một cá nhân nào đó.

Gặp gỡ với một số người nổi tiếng là “có công” với Xoan ở một số CLB trong

tỉnh, chúng tôi nhận thấy một mẫu số chung: niềm yêu thích với Xoan, và hơn cả

vậy, là một thứ tự ý thức về trách nhiệm của cá nhân trong việc bảo tồn và thực

hành di sản Hát Xoan. “Mình là con cháu vua Hùng cơ mà”, “mình ở đất Tổ của

Xoan”, vậy nên việc yêu Xoan, thực hành Xoan và bảo vệ Xoan được nhận thức

như một điều hiển nhiên. Những cá nhân này có một ảnh hưởng quan trọng,

trong nhiều trường hợp, là quyết định với diện mạo của các CLB, của việc thực

hành truyền dạy Xoan tại địa phương. Từ cảm nhận cá nhân, họ sẽ quyết định

việc CLB của mình học trình diễn và truyền dạy theo phong cách của phường

104

Xoan nào trong số 4 phường Xoan cổ. Từ mạng lưới quan hệ cá nhân, họ sẽ huy

động kinh phí để đầu tư cho CLB của mình, kết nối trong việc kết nghĩa với các

phường Xoan, quyết định các thời điểm mà Xoan được trình diễn trong lễ hội.

Tại một số nơi, phải đến sau khi Hát Xoan được UNESCO công nhận,

thực hành Xoan mới được đưa vào trình diễn trong lễ hội ở đình làng, thông qua

hoạt động của các CLB. Tức là có một thứ truyền thống mới được tạo lập, xuất

phát từ mục đích giữ gìn di sản và từ khuôn mẫu đình - Xoan ở các phường Xoan

gốc. Tuy nhiên, việc tiếp nhận mới này dừng lại ở việc đưa Xoan vào hát hội,

như một loại hình nghệ thuật giải trí, còn phần nghi lễ thì vẫn tuân thủ truyền

thống đã có trước đó của đình, đền địa phương.

Như ở đình làng của chị, gần đây năm nào cũng có Hát Xoan. Xoan được

hát vào tối hôm trước, và vào buổi chào mừng sáng hôm sau, chỉ có

nguyên Hát Xoan, không có gì khác, mà hát đủ cả 3 chặng. Ở đây không

phải gốc tích của Hát Xoan nhưng phong trào nó lên như thế thứ nhất là

do bản thân mình năng động, thứ hai là mình cũng thích và thứ ba là thấy

một phần trách nhiệm của mình với tỉnh (…) Đặc thù của Lăng Xương là

lễ hội, nên là năm nào cũng phải có Hát Xoan, Hát Xoan là đem của nơi

khác đến đình thôi. Lễ hội đầu năm bắt đầu từ mùng một đến 15, phần lễ

là theo nghi lễ rước nước từ bờ sông vào, tế lễ xong thì bắt đầu đến phần

hội, đủ các trò chơi, có bóng chuyền, bóng đá, ném còn, đập niêu, chọi gà

(…) Hát Xoan là phần văn nghệ chào mừng, còn đến phần lễ thì họ cứ

làm theo nghi thức truyền thống. Hát Xoan tối hôm trước là để hát cho

người ta xem, hôm sau thì chỉ là hát trình diễn trước cửa đình, chứ không

phải là trong phần lễ giống như ở Hùng Lô chẳng hạn. Hùng Lô cũng

không có Hát Xoan từ ngày xưa, bây giờ mới đưa vào. Không giống như

Kim Đái là có Hát Xoan thường xuyên quanh năm, ngày đến ngày lễ là có

Hát Xoan cả, hay AnThái khi có phần lễ là đều phải có Hát Xoan. Ở đây

chỉ là phần chào mừng thôi, tất cả các đình đền đều hoạt động như thế.

105

Họ chỉ đưa vào phần hội thôi, liên hoan là để người ta xem. Mục tiêu

mình làm cái đấy là để quảng bá giữ gìn di sản chứ không phải là hát để

thờ vua hay là hát lên để thờ cái đình đấy, vì nó không phải là đặc thù ở

đây (…) Đình Đào Xá có Hát Xoan nhưng cũng là chỉ hát theo kiểu đấy,

Bảo Yên cũng hát theo như thế thôi(…) Chỉ Hát Xoan cho người ta xem

thôi, dạng văn nghệ chào mừng trước khi diễn ra lễ. Bảo Yên ngày xưa làm

gì có Hát Xoan (…) Hát Xoan không bao giờ mất được. Còn đình, còn đền là

còn Hát Xoan, chỉ khi các đình đền mất thì mới không còn Hát Xoan.

Các CLB mang tên “CLB Hát Xoan và dân ca Phú Thọ”. Tuy nhiên, từ

những thông tin mà chúng tôi có thì các thực hành chủ yếu là hướng đến việc

truyền dạy và trình diễn Hát Xoan, sinh hoạt liên quan đến các loại hình dân ca

khác là rất ít ỏi. Lí do một phần bởi những động thái của Sở văn hóa cũng hướng

chủ yếu đến Xoan “cái gì cũng phải có tí Xoan vào mới được”; phần khác bởi “Hát

Xoan còn được quốc tế người ta công nhận là hay thì sao mình ở đây lại không hát chứ”1. Có thể nói, ý thức trách nhiệm của chủ thể di sản là điều chi phối nổi bật việc

lựa chọn tìm đến Xoan để thực hành và truyền dạy ở các CLB này.

3.2.4. Thực hành và truyền dạy Hát Xoan tại công sở, trường học

Trong các chương trình hành động và đề án bảo tồn và phát huy giá trị

Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ đều rất coi trọng công tác truyền dạy với mục đích trước

mắt giúp Xoan thoát khỏi tình trạng “bảo vệ khẩn cấp”, và sau đó là được phát

huy lâu dài. Công tác truyền dạy được phổ biến: 1) tại các phường Xoan gốc; 2)

tại các CLB Hát Xoan (trong toàn tỉnh, ở các cấp); 3) tại các cơ quan, đơn vị,

trường học trên địa bàn tỉnh. Tính đến năm 2016, Sở VHTT&DL Phú Thọ đã tổ

chức 5 lớp truyền dạy Hát Xoan cho các nghệ nhân kế cận tại các phường Xoan

gốc; 8 lớp truyền dạy cộng đồng (với 609 học viên); 2 lớp truyền dạy Hát Xoan

cho các CLB dân ca của các xã trên địa bàn tỉnh với 120 lượt người tham gia;

lớp tập huấn cho gần 100 người là cán bộ văn hóa xã, phường, những thành viên

1 Tư liệu phỏng vấn, 5/2019.

106

hạt nhân của các CLB dân ca ở thành phố Việt Trì và 16 xã có Xoan lan tỏa. Về

việc truyền dạy Xoan trong các trường học, 100% các trường học trong tỉnh đã

triển khai việc thực hiện dạy Hát Xoan trong các tiết học âm nhạc và hoạt động

ngoại khóa của nhà trường. Hát Xoan còn được đưa vào giảng dạy, giới thiệu tại

các trường Đại học Hùng Vương, Trung cấp Văn hóa nghệ thuật và du lịch Phú

Thọ, Trường Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tính Phú Thọ…

Không những thế, Xoan còn được đưa vào truyền dạy tại các công sở, cơ quan

trên địa bàn tỉnh.

Với công sở và trường học, việc đi học Hát Xoan là để “góp phần nâng cao nhận thức”, “dần hình thành thế hệ khán giả mới hiểu biết và yêu Xoan”1.

Với nhiều cán bộ công chức của tỉnh hoặc thành phố Việt Trì (những người phải

đi học để hiểu về Hát Xoan), dù được xem về hình ảnh Hát Xoan, dù được biết

về sự tồn tại của 4 phường Xoan cổ nhưng ấn tượng cụ thể và sâu sắc nhất về

Hát Xoan, kiến thức về loại hình nghệ thuật này lại nằm ở chính người nghệ

nhân được lựa chọn để truyền dạy cho họ. Với các nghệ nhân được lựa chọn, họ

thường dạy cán bộ theo lề lối của phường mình, chính vì vậy, hình thành nên

một nhận thức sau khi được truyền dạy là “các cụ dạy mỗi người một phách”, và

“ai cũng cổ, ai cũng đúng”, “bên này thì bà A. dạy thế này, nhưng ông N. của

phường Xoan khác ông ấy lại dạy khác, các cụ còn chả thống nhất được, người học thì biết làm sao được, nên phải học thì cứ biết vậy thôi”2.

Nhận thức về “việc bảo vệ và phát huy giá trị của nghệ thuật Hát Xoan

trong nhà trường sẽ góp phần tích cực cho việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa quê hương, đất nước và duy trì tính đa dạng của văn hóa nhân loại”3,

Sở Giáo dục và Đạo tạo tỉnh Phú Thọ đã ban hành các văn bản để chỉ đạo các cơ

1Theo Báo cáo Đánh giá kết quả sau 4 năm bảo tồn và phát huy giá trị DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại “Hát Xoan Phú Thọ”, Sở VHTTDL Phú Thọ, 12/2015. 2Tư liệu điền dã 10/2018.

3Báo cáo “Truyền dạy Hát Xoan trong trường học: thuận lợi, khó khăn và giải pháp bảo tồn, phát huy”, Nguyễn Minh Tường, Giám đốc Sở GD&ĐT.

107

sở giáo dục triển khai thực hiện việc truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường.

Theo đó, các cơ sở giáo dục phải xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện việc

truyền dạy Hát Xoan, tổ chức các hoạt động giáo dục có sử dụng di sản Hát

Xoan trong nhà trường. Nội dung Hát Xoan được đưa vào giảng dạy chính khóa

ở các trường tiểu học và trung học cơ sở (qua bộ môn Âm nhạc), tích hợp tuyên

truyền, sử dụng Hát Xoan trong các hoạt động giáo dục gắn với các hoạt động

ngoài giờ lên lớp, trải nghiệm sáng tạo, văn hóa văn nghệ cho học sinh, sinh

viên. Bản thân các giáo viên và học sinh cũng tham gia vào các buổi giao lưu,

biểu diễn Hát Xoan trong các dịp lễ, hội của địa phương, trong lễ hội Đền Hùng.

Trên thực tế, tại Phú Thọ, Hát Xoan đã gắn bó với ngành giáo dục từ những năm

97-98 của thế kỉ 20. Nhưng lúc đó, Xoan chỉ là một trong các loại hình dân ca

của Phú Thọ xuất hiện và được giảng dạy trong trường học, cùng với Ghẹo và

một số loại hình khác. Xoan và Ghẹo vẫn chưa tách ra, vẫn được gọi chung là

Xoan Ghẹo, và trở thành một trong những nội dung giáo dục trong các tiết học

về dân ca địa phương. Đến khi Xoan được UNESCO công nhận, Xoan tách ra

khỏi Ghẹo, và được chính thức đưa vào giảng dạy trong nhà trường.

Ngoài ra, Sở GD&ĐT Phú Thọ còn tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng

cho giáo viên về nội dung sử dụng Di sản văn hóa trong dạy học và tổ chức các

hoạt động giáo dục ở trường phổ thông (trong đó có Hát Xoan); các lớp tập huấn

theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về việc sử dụng di sản văn hóa trong hoạt động

giáo dục. Tháng 8/2016, Sở GD&ĐT phối hợp với Sở VHTTDL tổ chức lớp bồi

dưỡng Hát Xoan cho 258 giáo viên dạy môn Âm nhạc cấp tiểu học và trung học

cơ sở. Sở GD&ĐT còn tham gia lựa chọn, thẩm định các bài Hát Xoan để làm

đĩa, in tài liệu cấp phát cho các cơ sở giáo dục tham khảo và sử dụng trong dạy

học và tổ chức các hoạt động. Các hoạt động giao lưu ngoại khóa cũng được Sở

thực hiện với sự kết hợp với ngành Văn hóa, các trung tâm văn hóa địa phương,

các phường Xoan gốc, các nghệ nhân… Tại các cơ sở giáo dục, các CLB Hát

108

Xoan cũng được thành lập, luyện tập và tham gia biểu diễn trong dịp đầu xuân

và các ngày lễ lớn: 8-3, 26-3, 20-11, trong lễ Khai giảng, Bế giảng năm học,

ngày Hội trường…

Chỉ đạo của tỉnh giao cho Sở Giáo dục với Sở Văn hóa tổ chức bồi dưỡng

cho giáo viên và đưa vào chương trình các làn điệu Xoan cổ bắt buộc, đưa vào

dạy học. Trường Văn hóa nghệ thuật bồi dưỡng giáo viên Mầm non, Tiểu học,

trung học cơ sở, bồi dưỡng được hai khóa rồi đấy, hai hè rồi. Một giáo viên thì

phải đi tập huấn trong vòng một tuần hay mười ngày, xong có cấp chứng chỉ hết

đấy. Bồi dưỡng cho giáo viên có hai đợt. Đợt 2 là năm vừa đây, tức là năm 2017

– 2018 có 1 đợt này và một đợt trước nữa vào dịp hè 2016 – 2017. Hai năm liền

có bồi dưỡng giáo viên hẳn về Hát Xoan cho hai cái cấp Tiểu học và THCS. Cái

năm đầu, dự kiến có 277 xã thì cố gắng phủ kín làm sao mỗi một xã không ở

Tiểu học thì ở THCS phải có một giáo viên biết Hát Xoan, dạy được Hát Xoan.

Thế còn đến năm 2017 – 2018 thì coi như gần như phủ kín cho các đối tượng

còn lại. Đối tượng đấy cả của Tiểu học và trường THCS phải tầm 500 – 600 giáo

viên đấy. Sách học tập là do Sở Văn hóa chịu trách nhiệm về nội dung, họ có

làm tài liệu, có làm đĩa, bài bản lắm, làm thành đĩa hẳn hoi cơ mà, cái đấy là cái

đề tài rất là lớn của bên ngành văn hóa. Mỗi đợt bồi dưỡng khoảng 3 lớp, hai

năm là 6 lớp. Nhiều lớp cứ kế nhau. Lớp để 80 – 90 học viên học ấy, đợt đấy thì

khoảng 300 người, hiệu quả của nó không cao nên lần sau các lớp chuyển sang

làm lớp nhỏ hơn, chia nhiều lớp hơn (Tư liệu phỏng vấn anh T., cán bộ Sở

GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).

Tại Trường Đại học Hùng Vương, trường đại học duy nhất của tỉnh, việc

bảo vệ và phát huy di sản Hát Xoan cũng trở thành một trong những nhiệm vụ

được đặt ra với nhà trường và cán bộ giáo viên. “Trường Đại học Hùng Vương

đã triển khai nhiều việc làm thiết thực, đặc biệt là đẩy mạnh công tác giảng dạy

Hát Xoan trong các khoa chuyên môn. Nhà trường đã chỉ đạo, đầu tư nguồn kinh

phí cho các Khoa thành lập các CLB Hát Xoan và tổ chức hoạt động đều đặn.

109

Tính đến nay, toàn trường đã có 8 CLB ở 8 khoa, thu hút được gần 200 thành

viên tham gia. Các CLB hoạt động thường xuyên và hiệu quả, nhất là trong các

chương trình giao lưu văn nghệ, các hội thảo, hội nghị (…) Các hoạt động ngoại

khóa được diễn ra sôi nổi ở các khoa: Giáo dục tiểu học và mầm non, Nghệ

thuật, Khoa học xã hội và Nhân văn… Ở đây, sinh viên được tham gia luyện tập,

được học các làn điệu Xoan cổ, hát các bài Xoan cải biên và được tham gia biểu

diễn (…) Với riêng khoa Nghệ thuật, từ năm 2014 đến nay, Khoa đã xây dựng

học phần thay thế tốt nghiệp cho sinh viên năm thứ 3 với môn học Âm nhạc dân

gian Phú Thọ gồm có 3 tín chỉ, 45 tiết học. Môn học đã giúp sinh viên ngành

Âm nhạc hiểu rõ hơn về lịch sử ra đời, về nghệ thuật Hát Xoan và được trực tiếp

diễn xướng các làn điệu Xoan cổ…” (Dẫn theo Cao Văn, Bùi Thị Mai Lan,

2016). Các hoạt động này được đánh giá là “qua môi trường giáo dục, thế hệ trẻ

đã được tiếp cận, tìm hiểu và có sự nhận thức sâu sắc hơn những di sản quý của dân tộc nói chung và các làn điệu Xoan của Phú Thọ nói riêng”1.

Khi Hát Xoan được đưa vào dạy trong các tiết học âm nhạc và ngoại khóa

tại các trường Tiểu học và Trung học Cơ sở, thông thường, giáo viên âm nhạc

của trường sẽ đảm nhiệm công việc này. Sở VHTTDL hàng năm có tổ chức các

lớp tập huấn cho các giáo viên âm nhạc tại các trường, trực tiếp do các nghệ

nhân tại làng Xoan cổ truyền dạy. Phong trào dạy và học Hát Xoan được đánh

giá là “phát triển mạnh mẽ” với những con số rất ấn tượng tại một số trường,

như trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng, trường tiểu học Gia Cẩm (trên địa bàn

thành phố Việt Trì). Ở cả hai trường này, sau 6 năm đưa Hát Xoan vào dạy trong

trường, có tới hơn 3.600 học sinh biết Hát Xoan, mỗi học sinh thuộc trung bình

từ 2 - 3 bài hát. Có thể hình dung về không khí Hát Xoan tại trường học qua

những mô tả dưới đây tại một ngôi trường được xem là triển khai rất thành công

hoạt động này.

Tại một trường cấp 1 có tiếng ở thành phố Việt Trì, bà Hiệu trưởng

1 Cao Văn, Bùi Thị Mai Lan (2016), “Tăng cường công tác giảng dạy Hát Xoan trong trường Đại học Hùng Vương”, Hội thảo Những điểm tương đồng và khác biệt giữa các phường Xoan, Phú Thọ, 2016.

110

muốn cho khách mời chứng kiến thành quả mà bà và đồng nghiệp

(chủ yếu là cô giáo tổng phụ trách, cũng là một giáo viên âm nhạc) đã

làm được trong mấy năm qua. Một hồi trống nổi lên, và hàng trăm học

sinh trong toàn trường ùa đến tập trung tại khoảng sân rộng nằm chính

giữa. Chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn, các lớp đã hàng ngũ

chỉnh tề, và tuân thủ nhịp nhàng theo hiệu lệnh của cô tổng phụ trách.

Hơn 10 học sinh mẫu biểu diễn trên bục, và ở dưới là hàng trăm học

sinh cùng say sưa hát và trình diễn Mó cá. Thấy sự choáng ngợp của

chúng tôi trước một cảnh tượng “chưa bao giờ được thấy” với hàng trăm

học sinh mặc đồng phục, đều tăm tắp trong bài bản Xoan, các cô hào

hứng kể về những lần Đài truyền hình trung ương, nhà báo đến quay

phim chụp ảnh tại trường, về những lần mang Xoan đi biểu diễn trong

những đợt công diễn lớn tại Đền Hùng, về sự trầm trồ của mọi người và

cả về niềm tự hào cho thành tích mà chỉ ở ngôi trường này mới có.

Cách giải quyết việc dạy Hát Xoan trong nhà trường cũng được cán bộ

giáo dục chia sẻ, khi ký âm Xoan, có những bài thấy không đập được nhịp để dạy cho học sinh (“phải đập nhịp được thì dạy học sinh mới theo, mới vào”1) thì giải

quyết theo cách “có những bài nó ở nhịp 1/4 và có bài nó không có nhịp nhưng một

số nhà khoa học bảo, thôi chỗ này điền những cái nhịp 2/4 vào học sinh nó mới dễ

học, giáo viên nó mới đập được chứ. Đấy cũng là cách làm thay đổi toàn bộ diện

mạo của bài” (Tư liệu phỏng vấn cán bộ văn hóa Sở GD&ĐT, 5/2019)

Thêm vào đó còn là những khó khăn trong việc lựa chọn các bài bản Xoan

để dạy trong nhà trường. Hát Xoan ngoài các bài bản hát thờ là hát hội, hát xuân,

hát ghẹo, với nhiều lời hát không phù hợp với lứa tuổi tiểu học, trung học cơ sở,

việc lựa chọn dạy bài bản Xoan nào để dạy cho trẻ cũng là cả một vấn đề với

giáo viên. Vậy nên, việc lựa chọn bài để dạy này cũng lại tùy vào cảm nhận của

1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên Âm nhạc trường T.N, Việt Trì, 11/2018.

111

giáo viên về “sự phù hợp”.

Từ nhiều những vấn đề bất cập như vậy, giáo viên rất mong muốn thay

đổi hình thức truyền thụ về di sản này. Nguyện vọng về một “kế hoạch chương

trình cụ thể, ví dụ như là trong chương trình Âm nhạc tiết nào dạy Hát Xoan, cụ

thể được ra thì dễ cho bọn em hơn, đây toàn tự làm không có quy định”; “em

nghĩ nên sáng tạo về lời ca, có thể là thay lời cho phù hợp với các em học sinh

tiểu học chẳng hạn. Lời ca bây giờ nó hay nhưng kiểu người lớn quá, như các cụ

ngày xưa hát, còn bài trẻ con lại ít, không có ấy. Học sinh học bài đấy không

thấy phù hợp lắm. Thay về lời thôi, âm nhạc thì của các cụ ngày xưa truyền lại

nên nếu thay thì nó sẽ biến thành cái thể loại khác không phải Hát Xoan nữa”;

“đã đưa vào thì cũng nên có giáo trình theo mức độ phù hợp với lứa tuổi tiểu

học riêng, THCS riêng và THPT riêng, và làm căn cứ để cho các nhà trường

triển khai sao cho phù hợp. Trên cơ sở cái chung để nhà trường nghiên cứu triển

khai riêng. Thực ra hiện tại chủ yếu là nghe tuyên truyền, tìm hiểu trên báo đài,

các phương tiện thông tin đại chúng hoặc là một số cuốn sách giới thiệu thôi, chứ triển khai cụ thể như thế nào cho nó bài bản thì cũng chưa có”1. Ý tưởng

gặp nhiều nhất qua các phỏng vấn giáo viên và cán bộ Sở Giáo dục là nên đưa

Hát Xoan vào nhà trường theo hình thức CLB, hoặc môn tự chọn, và những học

sinh có năng khiếu hoặc đam mê có thể lựa chọn theo học sâu với hình thức này.

Như chia sẻ của một cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, "đưa vào trường thì nên đưa

vào một CLB, chỉ cần một CLB thôi, không phải đưa rộng quá, đưa rộng quá mà

trong khi đó mình không làm được nó chu đáo. Đưa rộng ở đây nói theo ý về

quảng bá là Phú Thọ này nó có cái Hát Xoan, thì người dân Phú Thọ phải biết là

có tên cái Hát Xoan, nó là một cái di sản. Chứ còn để hiểu về nó thì chưa, đây

mới chỉ là biết thôi. Vì vậy mình muốn đưa vào đây một CLB để làm sao, để vấn

đề được sâu (…) Triển khai trong nhà trường hiện nay mới chỉ là biết về Xoan

1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan tại trường Đ.X, 5/2019.

112

thôi, còn để hiểu về nó thì không. Nên giờ mình nghĩ là lập CLB để cho thực

chất, để hiểu và rõ việc triển khai những nội dung gì về Hát Xoan" (Tư liệu

phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).

Việc học kiểu tự chọn theo hình thức CLB sẽ không “lấy mất thời gian của học sinh, vì các em bây giờ phải học nặng, học nhiều môn lắm”1. Trong bối

cảnh quá tải của hệ thống giáo dục tại Việt Nam hiện nay, việc đảm nhận thêm

môn Hát Xoan với nhiều học sinh lại thành thêm một gánh nặng, khiến “một bộ

phận các em nó không thích lắm”. Kiểu sinh hoạt tự chọn này cũng có thể được

thực hiện trong những dịp lễ lớn hay hoạt động đội, đưa thành các nội dung thi

đua để các lớp tập luyện “bây giờ thời lượng học tăng, cộng với áp lực thi cử,

đặc biệt với học sinh trung học cơ sở, nên nhiều khi cũng phải có những cái khéo léo trong hoạt động2”.

Thêm vào đó còn là vấn đề về cách tiếp cận với di sản từ góc độ ngành

giáo dục. Trong các cuộc phỏng vấn, chúng tôi nhận thấy giáo viên đều xem việc

đưa Hát Xoan vào nhà trường là hợp lý, phù hợp, đúng đắn… Tinh thần bảo vệ

di sản mạnh mẽ của tỉnh Phú Thọ ngấm trong ý thức của từng giáo viên, tinh

thần coi trọng tính giáo dục về mặt lịch sử, thẩm mỹ, đạo đức của di sản khiến

họ coi việc yêu Xoan, truyền dạy Xoan cho học sinh là việc hiển nhiên và cần

phải làm. Ai cũng vào cuộc, vậy thì ngành giáo dục không thể đứng ngoài.

Nhiệm vụ đó được thể hiện rõ với tinh thần chung của nhiều giáo viên được thể

hiện trong nhiều cuộc phỏng vấn, vì "Hát Xoan đưa vào trường học cũng có

nhiều cái hay, ít nhất học sinh nó cũng phải biết được đây là bản sắc văn hóa

vùng miền Phú Thọ mình, tức là nó mang cái tính cội nguồn rất là tốt, rèn luyện

cho các cháu về tình yêu quê hương đất nước, và thật sự đặc biệt vì đây là cái

văn hóa nổi bật của mình. Nhưng nếu đúng để so sánh với lớp trẻ hiện đại thì

Hát Xoan nó sẽ không được hay như các loại nhạc khác, học sinh hiện nay thích

những loại nhạc hip hop nọ kia cái đó là sở thích thì các em, cứ phát triển theo

113

sở thích chứ không ai ngăn cấm các em điều đó. Nhưng bên cạnh cái đó theo 1 Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019. 2 Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019.

mình thì các em vẫn nên phải biết về cái truyền thống cội nguồn, đăc biệt là ở

trường tại đây, học sinh vẫn hát, múa Xoan tự nhiên lắm" (Tư liệu phỏng vấn

cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).

Vậy nên khi được hỏi về việc, có nên đưa Hát Xoan vào trường học hay

không, phần lớn các câu trả lời đều hướng đến ý nghĩa tích cực của hoạt động

này. Với nhiều giáo viên, việc đưa Hát Xoan vào trường học là nên, vì “ít nhất

nó là một cái vốn văn hóa quý báu của dân tộc mình, hai nữa là mình đưa vào,

không đơn giản chỉ là bảo tồn, nó còn giáo dục thẩm mĩ cho các em, vì Xoan góp

phần giáo dục cho các em về cái hiểu biết văn hóa văn nghệ dân tộc, để từ đấy giáo dục về đạo đức, hỗ trợ rất nhiều vấn đề ấy, tốt mà”1. Hát Xoan “mang tính

chất giáo dục lịch sử nói chung. Hiện nay đang bị mai một nên cần đưa vào, đặc biệt là của địa phương thì càng nên đưa vào”2. Thêm nữa, “cái Xoan này nó là di

sản được quốc tế người ta công nhận cơ mà, mình đưa vào dạy học sinh là đúng quá rồi”3.

Một số “cái được”, “phù hợp” của Hát Xoan với đối tượng học sinh cũng

được giáo viên nhấn mạnh trong các cuộc phỏng vấn. Đó là tình yêu của học

sinh với loại hình nghệ thuật truyền thống này: "Học sinh không phải nó chỉ

thích cái nhạc ngoại bây giờ đâu. Ngay sang Hát Xoan nhìn khuôn mặt nó rất

hạnh phúc, quan trọng nhất là nhìn học sinh nó thấy được, không bị khiên cưỡng

như những năm đầu. Ví dụ năm đầu đưa vào rất là khó. Dạy Xoan hợp lý bởi vì

bản chất cái nhạc cái phách của Xoan nó đơn giản cũng dễ tiếp cận, chứ còn ví

dụ nhạc nước ngoài chẳng hạn phải chọn bài rất là vui nhộn, phải đơn giản mới

được" (Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở GD&ĐT Phú Thọ, 5/2019).

Sự phù hợp của Hát Xoan với môi trường nông thôn cũng được nói tới để

lý giải cho việc truyền dạy Hát Xoan cho học sinh tại vùng xa lại trở nên dễ dàng

1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan, 5/2019. 2 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan, 5/2019. 3 Tư liệu phỏng vấn giáo viên dạy Hát Xoan, 5/2019.

114

hơn ở thành phố. Tại thành phố, khi các hình thức giải trí khác lấn át, Xoan trở

thành bình thường, học sinh múa Hát Xoan là do sức ép của thầy cô mà phải

làm, nhưng trẻ ở vùng quê lại khác, hào hứng hơn rất nhiều. Chính vì vậy, việc

đưa Xoan vào dạy trong nhà trường ở đây lại rất dễ. Ngoài ra, sự tương thích

giữa một loại hình nghệ thuật dân gian mang tính truyền miệng, tự dạy (truyền

miệng và nghe nhịp phách đánh trống rồi làm theo) là chính với cách tự học của

học sinh cũng được dùng để lí giải cho việc Xoan không khó để dạy trong

trường. Với học sinh và giáo viên, dạy và học Xoan thậm chí còn thuận lợi hơn

với những bài nhạc hiện đại bây giờ, vì phải đúng nốt, đúng phách, cao độ, trường

độ, tiết tấu. Lối hát dân gian như vậy được xem là dễ tiếp nhận hơn với học sinh, và

lứa tuổi các em cũng chỉ cần hiểu những thứ cơ bản, chưa đòi hỏi hiểu sâu hoặc chi

tiết. Và vì thế, việc truyền dạy Hát Xoan có sai lệch cũng được nhìn nhận rất bình

thường, bởi tính khắt khe của dân gian là không nhiều. Bởi vậy, một số em học sinh

cảm thấy rất thoải mái khi Hát Xoan, vì cái kiểu nó rất dân dã, múa đúng múa đều

không phải uốn nọ uốn kia nên giống như là chơi, rất nhẹ nhàng.

Hai ngôi trường được báo cáo là thực hiện công việc truyền dạy này tốt

nhất là trường tiểu học Gia Cẩm và Đinh Tiên Hoàng (đều trên địa bàn thành

phố Việt Trì), với hơn 3.600 em học sinh (từ lớp 1 đến lớp 5) thuộc và hát được

3 – 5 bài Hát Xoan đều là nơi có Hiệu trưởng và giáo viên âm nhạc rất “mê

Xoan” và coi việc phải dạy về di sản cho học sinh là trách nhiệm của nhà trường.

Dù việc truyền dạy Xoan trong nhà trường đặt ra nhiều vấn đề về việc “nặng về

hình thức”, “tách Hát Xoan khỏi không gian văn hóa của chính nó”,… nhưng khi

chứng kiến cảnh hàng ngàn học sinh cùng trình diễn Xoan, nhiều em càng học

càng thích Xoan, thì chúng tôi cũng khá băn khoăn. Nên chăng, việc truyền dạy

Hát Xoan trong nhà trường không cần chạy theo các quy định nặng về hình thức,

các công văn yêu cầu bắt buộc? Di sản của tỉnh và vẫn đang được thực hành tại

tỉnh, các trường hoàn toàn có thể dạy và bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào về

di sản thông qua các chuyến dã ngoại về các phường Xoan, thậm chí mời các

115

phường Xoan về biểu diễn tại trường. Còn việc truyền dạy Xoan trong nhà

trường cần hết sức cân nhắc, vì việc “đồng phục Xoan” kiểu hát đồng ca, bắt

buộc với tất cả các học sinh dễ dẫn đến tình trạng “dị ứng Xoan” với chính trẻ

nhỏ. Thêm nữa, ngay cả khi học sinh có yêu Xoan, thì với việc chọn lọc bài bản

Xoan cho phù hợp với không gian trường học, với tâm lý và trình độ lứa tuổi của

học sinh tiểu học (loại bỏ các bài hát thờ, các bài hát hội nam nữ trêu ghẹo nhau)

cũng dễ dẫn đến sự hiểu biết sai lệch về Xoan – nhìn cây mà ngỡ là rừng, nghĩ

Xoan chỉ đơn giản là vậy…

Tuy nhiên, có một thực tế diễn ra tại các trường học tại Phú Thọ là việc

làm tốt Xoan trong nhà trường sẽ có một ý nghĩa lớn trong việc tạo dựng hình

ảnh, nâng cao vị thế của trường. Khi nói chuyện về Xoan, các trường đều trầm

trồ với thành tích truyền dạy Xoan tại một số trường điểm trong địa bàn thành

phố. Những lần tham dự hội diễn về Xoan, những chương trình lớn nhỏ có các

tiết mục dàn dựng Xoan và được giải đều được liệt kê rất chi tiết trong các buổi

nói chuyện, như một thứ thành tích mới của ngành giáo dục tại địa phương. Có

thể nói, trong bối cảnh Hát Xoan được ghi danh di sản, việc sử dụng Hát Xoan

đã mang lại nhiều lợi ích cho các trường học, và đôi khi, còn là một chiến lược

để minh họa cho tính hiệu quả và hướng đi đúng đắn của ngôi trường đó trong

ngành giáo dục tại địa phương.

Việc đưa Hát Xoan vào truyền dạy trong các trường học (hệ tiểu học và

phổ thông cơ sở) trên toàn tỉnh là một trong 8 nhiệm vụ cấp bách được tỉnh Phú

Thọ ưu tiên thực hiện, ngay sau khi Hát Xoan được ghi danh. Động thái này

được nhìn nhận là một trong những cách bảo vệ và phát huy di sản kiểu đón đầu

- truyền dạy cho thế hệ trẻ trong tỉnh để hiểu và yêu Xoan. Hát Xoan được đưa

vào dạy trong các tiết học Âm nhạc, trong phần giáo dục về văn hóa địa phương

(2 tiết/ tuần). Và trong các báo cáo, việc truyền dạy Hát Xoan trong trường học

đều được khẳng định là rất hiệu quả và thiết thực. Nhưng thực tế lại cung cấp

116

một bức tranh rất khác, với nhiều vấn đề cần bàn luận.

Trên thực tế, dù tỉnh đã có công văn yêu cầu đưa Xoan vào trường học, đã

mở các lớp yêu cầu hai giáo viên của trường đi học Hát Xoan nhưng việc truyền

dạy Xoan tại các trường hiện nay vẫn đang trong tình trạng “thả nổi” – chất

lượng việc dạy và học phụ thuộc rất nhiều vào sự “đam mê” hoặc “đầu tư” của

từng trường. Một số trường không có giáo viên bộ môn Âm nhạc riêng nên phải

lựa chọn “phân công các thầy cô giáo có năng khiếu một chút đi học, không sử

dụng được đàn trống các kiểu thôi chứ nhìn chung là ổn”. Một số trường thì nhờ

các nghệ nhân trong CLB Hát Xoan tại địa phương sang truyền dạy cho các học

sinh và giáo viên. Thời gian học ít, lại qua nhiều cấp như thế nên thực tế, hình

ảnh của Xoan ở trong các ngôi trường khá đa dạng.

Trước tiên là các vấn đề đặt ra với hình thức truyền dạy trong trường học.

Việc truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường được đảm nhiệm bởi giáo viên Âm

nhạc hoặc những giáo viên có năng khiếu âm nhạc, hay trong một số trường hợp

là do thành viên các CLB Hát Xoan trong xã. Với riêng các giáo viên, việc

truyền dạy Hát Xoan dù luôn được ý thức là “rất hợp lý”, “đúng đắn”, “có ý

nghĩa giáo dục sâu sắc” nhưng với nhiều người, thực sự là một gánh nặng. Việc

không thường xuyên thực hành Xoan, chỉ học thông qua một vài lớp do nghệ

nhân truyền dạy, lại bận rộn với nhiều công tác liên quan đến chuyên môn nên

việc truyền dạy bài bản Xoan là không hề dễ dàng. Việc này cũng đã được các

nghệ nhân nói tới khi trò chuyện về vấn đề này:

Nếu muốn gìn giữ được thì phải dạy cho nó đúng, dạy phải đúng ngay

từ đầu, đằng này các cô giáo đi học bước đi đã không đúng rồi, tay thì

cứ như thế này (vừa nói vừa để tay lên). Thế tay đúng của Hát Xoan

phải là như thế này, đây, 1234-5678-2234 đấy thì nó mới ra, đằng này

cứ lộn thế này. Tay là phải dẻo, mới đầu là cứng như này đấy xong

sau thì tay nó dẻo đi, thế cho nên là để các cô giáo cấp 1 dạy xong là

phải uốn lại, các cô giáo được đi học mà không học sâu. Thế nên

117

đang mai một, người ta không biết Xoan là thế nào đâu. Giáo viên họ

không thích nên họ học không sâu, nắm không kĩ, cho nên là truyền

dạy nó không đúng. Mà dạy các cháu học sinh thì nhanh lắm nên càng

lo… (Phỏng vấn nghệ nhân Hát Xoan huyện Thanh Thủy, 11/2018).

Các giáo viên chịu trách nhiệm về việc truyền dạy Xoan trong nhà trường

luôn nói về “nhiều cái khó” khi đảm nhận công việc này. Cái khó đầu tiên là

“Xoan rất khó hát, các giáo viên âm nhạc họ còn kêu là khó. Nếu là trẻ em và học sinh tiểu học thì nó học cũng vất vả”1. Cái khó này của Xoan do nhịp điệu

của Xoan, bài thì có nhịp, bài lại không, nên khó cho việc dạy học sinh. Khó còn

vì dung lượng của một bài bản Xoan “có nhiều những bài Hát Xoan dài, hát rất

khó thuộc”, nội dung bài bản Xoan thì “các cụ ngày xưa toàn hát về tình yêu,

nghi lễ và giao duyên”, “những bài về trẻ con ít lắm, khó lựa chọn”. Cái khó còn

nằm ở những đặc thù của môi trường giáo dục, khi học sinh vừa phải học

chương trình chính khóa với nhiều nội dung hoạt động khác vừa phải học thêm

Xoan “khó khăn nằm ở thời gian, thường lượng dạy được ít bài quá, ít thời gian quá”2; “sau khi đi tập huấn về em cũng triển khai được ít, tức là một năm học thì

em triển khai theo kiểu là đưa một vài tiết mục văn nghệ mà có Hát Xoan, hoặc

là trong chương trình học có 2 tiết, một tiết là cuối học kì 1, một tiết cuối học kì 2 dành cho bài hát địa phương tự chọn thì em đưa một bài Hát Xoan vào”3. Thời

gian khó khăn như thế nên nếu giáo viên tâm huyết với Xoan thì “toàn phải

tranh thủ. Giờ hội ý trong hội đồng, mình nói là sẽ không làm ảnh hưởng đến tiết

học của các giáo viên khác và giờ học của học sinh. Sau giờ học Âm nhạc chính

khóa thì tranh thủ 5-10 phút dạy thêm các em, tự phô tô bài hát rồi tranh thủ dạy”4. Dạy trong trường, không có nhạc cụ phù hợp, không gian hạn chế, giáo

viên cũng phải tự xử lý vấn đề: “trống thì em cũng chưa mua được trống, khi dạy

1 Tư liệu phỏng vấn cán bộ Sở Giáo dục, 5/2019. 2 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường A., huyện Thanh Thủy, 5/2019 3 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường N., huyện Tam Nông, 5/2019 4 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường N., huyện Tam Nông, 5/2019

118

thì em gõ xuống bàn hoặc dùng cái trống đội thôi. Còn múa thì thực ra cũng khó

khăn vì trong lớp nó rất là chật, nếu cho học sinh theo thì sẽ làm ảnh hưởng đến các lớp học khác”1.

Nguy cơ với Xoan đến từ chính việc truyền dạy theo kiểu phong trào như

thế này, bởi chính các cô giáo cũng “chỉ biết mang máng thì làm sao dạy đúng cho học sinh”2. Có một khoảng cách rất xa giữa những người thực hành Hát

Xoan thường xuyên và chuyên nghiệp với những người coi Xoan như một bộ

môn phải học và thực hành, mà lại học trong thời gian quá ngắn. Điều này đặt ra

câu hỏi về tính hợp lý, khả thi và hiệu quả của việc phổ cập Hát Xoan trong nhà

trường tại Phú Thọ. Hát Xoan được công nhận là DSVHPVT của nhân loại, cần

được bảo vệ và phát huy, nhưng thực sự có cần thiết phải đưa Xoan vào trường

học trên toàn tỉnh? Liệu sự truyền dạy, bảo vệ và phát huy trong nhà trường, với

sự hiểu biết không đến nơi đến chốn về Hát Xoan như hiện nay có dẫn đến nguy

cơ biến dạng di sản? Việc lựa chọn truyền dạy Hát Xoan dưới hình thức CLB,

theo nguyện vọng và sở thích của học sinh cũng là một phương án khá phù hợp

trong bối cảnh hiện nay, khi thời lượng chương trình học của học sinh ít ỏi và

đặc biệt là, không phải học sinh nào cũng yêu thích và có đam mê với loại hình

di sản này.

3.2.5. Thực hành và trình diễn Hát Xoan trong quảng bá du lịch và văn hóa

Với mục tiêu phổ biến Hát Xoan trên diện rộng, tích cực tuyên truyền

quảng bá để mọi người dân trong tỉnh đều biết đến Xoan, tỉnh Phú Thọ đã mở

nhiều lớp truyền dạy Hát Xoan có sự tham gia của nghệ nhân và một số trung

tâm văn hóa. Điều này thoạt nhìn có vẻ rất bình thường, hợp lý, nhưng thực tế có

khá nhiều vấn đề và mâu thuẫn giữa các bên tham gia. Khi dạy cùng với các cán

bộ trung tâm văn hóa, vấn đề mà nghệ nhân bức xúc là “sự chàng màng” về Hát

Xoan, về sự dạy sai, dạy không đúng của những cán bộ này: “Bản thân cô N. đấy

1 Tư liệu phỏng vấn giáo viên trường A., huyện Thanh Thủy, 5/2019 2 Tư liệu phỏng vấn, 10/2018.

119

cô ấy múa chưa đúng, có cái thì khác hoàn toàn. Nhắc nhở thì cô bảo là con cứ

xem trên mạng, con quên, con xin lỗi”1. Vì thế, với nghệ nhân “phải là người trực tiếp truyền dạy thì mới hiểu biết hết được”2. Sự bức xúc này còn bởi một

nguyên do khác, đó là cách tổ chức và phân chia về kinh phí. Những bức xúc của

nghệ nhân: "Rồi trong việc truyền dạy, thực tế của việc “cấy người vào dạy”

cùng nghệ nhân, dẫn đến mâu thuẫn giữa nghệ nhân và bên trung tâm phụ trách

việc truyền dạy “trung tâm nó cứ vào dạy nhằm mục đích kinh tế (…) Đương

nhiên nó ngồi cạnh nó không dạy, lớp có 1, 2 nghệ nhân dạy lại thành 4 người,

trung tâm 2 người, nó không thuộc, cũng không quen (…) Cấy người trung tâm

vào dạy với mình, chia theo bài, ví dụ 500 ngàn đồng/ một bài, chia bài đó ta

thành bao nhiêu người, thấy khổ quá thôi” (Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân truyền

dạy, 11/2018)

Điều này khiến dẫn đến những lo ngại về việc Hát Xoan tuy được tuyên

truyền rộng nhưng lại là thứ “Xoan không phải là Xoan”. Theo nghệ nhân, mục

đích kinh tế trong nhiều trường hợp được đặt lên hàng đầu, họ không bận tâm

đến việc Hát Xoan sẽ thế nào, nên các cụ cảm thấy rất lo lắng. Rồi việc trình

diễn cho bên du lịch “mình làm nhiệt tình như thế, người ta thích như thế, được

có 1 triệu/ 1 ngày làm. Bao nhiêu người đi hát cũng mặc xác anh. Đối với khách

Việt Nam, trước kia thì còn được 700 ngàn, bây giờ có 500 với 600 ngàn thôi.

Mà đưa qua bên du lịch, không đưa thẳng tay cho mình”. Bức xúc là thế, nhưng

mà “vuốt xuôi xuống, bảo thế này: trước đây ông cha mình chả có gì vẫn giữ

được di sản cho đến bây giờ, mình mà nói thì người ta lại bảo là vì đồng tiền hay thế nọ thế kia, thôi tốt nhất là im cho nó xong”3.

Trong thực tế, các tour du lịch của Phú Thọ đều có thêm phần trình diễn

Hát Xoan (tại Hùng Lô hoặc miếu Lãi L n). Hát Xoan trở thành một phần không

thể thiếu trong việc quảng bá hình ảnh về Phú Thọ, gắn bó với tín ngưỡng thờ cúng

1 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân truyền dạy, 11/2018 2 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân truyền dạy, 11/2018 3 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân phường Xoan, 11/2018.

120

tổ tiên của người Việt, với Đền Hùng. Sự gắn bó và mối liên hệ giữa các công ty du

lịch, trung tâm du lịch của Sở VHTTDL tỉnh với các phường Xoan theo kiểu tồn tại

cộng sinh, đôi bên đều có lợi. Lợi nhuận từ du lịch cũng chính là nguyên nhân gây

nên những vấn đề về tâm lý của người thực hành di sản trong việc tiền công không

thỏa đáng, về sự b o bọt của việc trình diễn, trong khi để biểu diễn được một

chương trình cần phải huy động số lượng người không phải nhỏ (tầm khoảng trên

10 người). Nhưng, như các nghệ nhân có chia sẻ, “không đi thì bảo vì đồng tiền, đi

1 Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân phường Xoan, 11/2018.

121

vì danh dự”, nghệ nhân không thể từ chối vì đây “là di sản nhân loại”, là “niềm tự hào của tỉnh”, “mình cũng phải có trách nhiệm”1.

Tiểu kết chƣơng 3

Như vậy, kể từ sau khi được UNESCO ghi danh trong danh sách

DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại (2011), Hát Xoan đã được đặc

biệt ưu tiên đầu tư bảo tồn và phát triển tại Phú Thọ, với các chương trình hành

động được xem là rất “quyết liệt và hiệu quả”. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ

2011 đến 2017), Hát Xoan đã chính thức chuyển sang danh sách DSVHPVT của

nhân loại, thoát khỏi tình trạng phải bảo vệ khẩn cấp. Hát Xoan được thực hành

và truyền dạy tại các làng Xoan cổ, trong các CLB Hát Xoan và dân ca trong

toàn tỉnh, tại công sở, trường học và trong các hoạt động văn hóa của tỉnh Phú

Thọ. Quá trình bảo vệ và phát huy Xoan tại Phú Thọ trên thực tế đã đặt ra nhiều

vấn đề về chính diện mạo và sự phát triển của di sản, từ việc cố định hóa các bài

bản Hát Xoan để sử dụng trong trình diễn và truyền dạy, tới các bất cập trong

việc phổ quát hóa Hát Xoan tới các không gian trình diễn khác nhau, trong các

bối cảnh khác nhau và với các nhu cầu khác nhau về chính trị, văn hóa, kinh tế,

122

du lịch, giáo dục… trong toàn tỉnh.

Chƣơng 4

DI SẢN HOÁ HÁT XOAN: NHỮNG VẤN ĐỀ BÀN LUẬN

Những mô tả trong chương 3 cho thấy, quá trình bảo vệ, phát huy Hát

Xoan đã nảy sinh nhiều vấn đề. Từ thực tế này, trong chương 4, luận án sẽ dành

bàn luận về một số nội dung liên quan đến vấn đề di sản hóa Hát Xoan, bao gồm:

nguy cơ nhất thể hóa bài bản, bảo tồn theo hướng “bảo tàng hóa” Hát Xoan, phổ

quát hóa di sản Hát Xoan, vấn đề về sự định giá Hát Xoan, về đời sống riêng của

di sản, cũng như về sự tồn tại của hai hình thức Xoan tín ngưỡng và Xoan văn

nghệ như hiện nay.

4.1. Hát Xoan và nguy cơ nhất thể hóa bài bản Xoan, xu hƣớng bảo tồn “bảo

tàng hóa” và vai trò, nhu cầu của cộng đồng chủ

Cộng đồng giữ vai trò quyết định đến quá trình sáng tạo, thực hành và

truyền thụ di sản. Trong Công ước 2003, UNESCO đã khẳng định vai trò của

cộng đồng trong hoạt động bảo vệ và phát huy di sản “không có văn hóa nếu

không có người dân và cộng đồng”. Nhận thức này là vô cùng quan trọng trong mọi

hoạt động bảo vệ và phát huy di sản. Oscar Salemink trong bài viết của mình về di

sản hóa đã cảnh báo về nguy cơ “ngoài lề hóa cộng đồng chủ” tại các di sản, và điều

này cũng không hề xa lạ trong công tác bảo tồn di sản ở Việt Nam.

Tại các phường Xoan Phú Thọ, Hát Xoan được tổ chức theo mô hình

phường hội, mang tính chất tự nguyện. Đứng đầu các phường Xoan là trùm

phường, “một kép đã có tuổi, lâu năm đi hát, thuộc nhiều, nhớ nhiều, được bà

con trong làng và đào kéo trong phường tin cậy, mến phục. Nhiệm vụ của trùm

phường là tổ chức phường, hướng dẫn cho đào kép trong phường thành thạo các

điệu bộ, bài bản và quản lý tài sản của cả phường (quần áo, trống phách, tiền

thưởng)” (Dương Huy Thiện, 2015: 66). Chính mô hình phường này đã tạo một

cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phát huy vai trò của cộng đồng chủ trong việc thực hành

123

và truyền dạy Hát Xoan.

Các tư liệu điền dã cho thấy, vấn đề về vai trò của cộng đồng chủ với di

sản Hát Xoan có những biểu hiện đa dạng và liên quan chặt chẽ với những chính

sách của nhà nước. Cộng đồng chủ của Xoan vừa được “tăng quyền”, nhưng

trong nhiều trường hợp, họ cũng bị hạn chế quyền hạn trong việc tự quyết nhiều

vấn đề liên quan trực tiếp tới việc thực hành di sản của chính mình. Nhà nước

thể hiện rõ vai trò của mình với di sản Hát Xoan trong cả quá trình lập hồ sơ và

hậu ghi danh di sản, và điều này đã có những tác động (trong nhiều trường hợp

là mang tính quyết định) đến việc thực hành Hát Xoan diễn ra trong cộng đồng

(cụ thể là ở tại 4 phường Xoan cổ).

Trước hết, cần phải nói đến vai trò của nhà nước trong việc lựa chọn Hát

Xoan để xây dựng hồ sơ di sản. Sự lựa chọn này nằm trong chiến lược di sản hóa

khu di tích đền Hùng của tỉnh Phú Thọ, với mục tiêu “nơi đất Tổ với núi mẹ

Nghĩa Lĩnh Đền Hùng phải trở thành di sản đại diện của nhân loại” (Nguyễn

Anh Tuấn, 2015). Những dự định ban đầu trong việc xây dựng hồ sơ di sản liên

quan trực tiếp đến không gian đền Hùng (di tích thuộc thời đại đồng thau sắt sớm

ở Phú Thọ) đã tỏ ra không khả thi khi đối chiếu với các tiêu chí phong di sản của

UNESCO. Sự lựa chọn Hát Xoan đến từ mối liên quan của loại hình dân ca này

với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, từ những nét độc đáo của bản thân thực

hành văn hóa này, đồng thời từ yếu tố “vùng Xoan” (Hát Xoan không phải chỉ có

tại một làng). Sự lựa chọn này cũng là một tính toán đầy lí trí, vì khi được ghi

danh bởi UNESCO, Hát Xoan không chỉ mang lại niềm tự hào, mà còn được đầu

tư trên mọi phương diện để “bảo vệ khẩn cấp” và phát huy. Tính chiến lược sau

đó còn thể hiện rõ khi tiếp nối sau Hát Xoan, Phú Thọ tiếp tục làm hồ sơ về “Tín

ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” và được UNESCO công nhận là DSVHPVT của

nhân loại vào tháng 12/2012, chỉ một năm sau ngày Xoan được ghi danh.

Sau khi Hát Xoan được ghi danh, hàng loạt các chương trình, đề án hành

động được chính quyền tỉnh Phú Thọ ban hành và thực hiện, cho thấy sự can

124

thiệp rất sâu của hệ thống quản lý nhà nước với di sản. Về mặt hành chính, mọi

công việc liên quan đến thực hành, quản lý và bảo vệ, phát huy di sản này đều

được giao cho Sở VHTT&DL tỉnh Phú Thọ. Và mọi việc liên quan đến Hát

Xoan đều có sự can thiệp của Sở này. Và ngành văn hóa quản lý Hát Xoan rất

chặt chẽ. Sở - chính quyền giữ vai trò tiên phong (và trong nhiều trường hợp là

tiên quyết) trong công tác tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, ký âm, phát hành ấn bản

về Xoan (văn bản hóa, cố định hóa các bài bản Xoan cổ); trong việc truyền dạy

nghệ nhân kế cận và nghệ nhân cộng đồng; trong việc phục hồi các di tích liên

quan đến Hát Xoan; trong việc quảng bá Hát Xoan trong phạm vi tỉnh (thông qua

mô hình CLB Xoan, qua việc truyền dạy tại các cơ quan đơn vị, trường học

trong địa bàn tỉnh). Sở cũng can thiệp vào việc truyền dạy và thực hành Xoan tại các phường Xoan gốc, không cho phép nghệ nhân hát theo lề lối cải biên1; tham

gia vào kịch bản biểu diễn Hát Xoan trong các chương trình lớn (trong các dịp

giỗ Tổ hoặc liên hoan Hát Xoan trong tỉnh). Các hoạt động của nghệ nhân, của

phường Xoan cũng phải xin ý kiến và được sự cho phép của Sở để thực hiện.

Thậm chí, việc trang phục Xoan cụ thể như thế nào cũng là do Sở VHTTDL

quyết định. Những can thiệp và quản lý chặt chẽ đến từng chi tiết của Sở văn hóa

tỉnh Phú Thọ dẫn đến cảm giác “trói buộc”, mất tự do, thiếu chủ động của người

dân với di sản. Điều này cũng là nguyên nhân của tâm lý có phần thỏa hiệp của

cộng đồng chủ trong việc thực hành di sản của chính mình. Cộng đồng chủ vừa

phải tuân thủ theo những quy định chặt chẽ về mặt hình thức tại phường Xoan,

lại nhiều khi phải chấp nhận những sáng tạo sân khấu hóa của các đạo diễn trong

các chương trình biểu diễn. Họ cũng phải thỏa hiệp trong việc trình diễn Xoan

với bên ngoài, khi chấp nhận biểu diễn theo đơn đặt hàng trong các chương trình

nghệ thuật của Nhà nước (hoặc các Đài truyền hình, đài phát thanh), hoặc cho

khách du lịch…, chấp nhận đơn đặt hàng cả trong việc lựa chọn bài bản trình

diễn, cách thể hiện, sắp đặt không gian hoặc số lượng người hát. Như nghệ nhân

1 Tư liệu phỏng vấn tại phường Xoan cổ năm 2018.

125

cho biết: “Bài hát đi diễn là theo ý đồ tổ chức. Bên bác N. (trung tâm văn hóa

tỉnh) gọi điện cho mình (trùm phường), yêu cầu 4 người, 2 nam 2 nữ, tham gia

làm chương trình cùng đoàn chèo cho tỉnh. Đương nhiên hát bài gì cụ thể thế

nào mình không biết nhưng sẵn sàng cung cấp con người, khi xuống đấy thì

thường là đạo diễn khác (…) Tổ chức người ta gọi mình đi làm cái gì thì mình

làm cái đấy” (Tư liệu phỏng vấn nghệ nhân, 11/2018).

Thực tế về việc nghệ nhân “gọi đi làm cái gì thì làm cái đấy” cũng đã

được nói tới trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Châm (2017: 58) “Nhiều

khi chính do các cơ quan thông tin truyền thông sắp đặt khiến cho Xoan phải

thay đổi cho đẹp hơn, đáng lẽ người ta hát trước bàn thờ, nay lôi người ta ra sân

hát để lấy hậu cảnh, trước là bốn người hát thì nay bắt nhiều người cùng hát hơn

để cho đẹp”. Hát Xoan được sử dụng cho các mục đích khác nhau (trình diễn,

quảng bá…) nên nhiều những nguyên tắc thực hành vốn đã được quy ước lâu

nay trong cộng đồng Xoan bị phá vỡ.

Chính sách của cơ quan quản lý về việc tổ chức các lớp truyền dạy cho

nghệ nhân kế cận cũng nảy sinh các vấn đề. Trong công tác đào tạo nghệ nhân,

tỉnh bố trí đào tạo nghệ nhân kế cận và nghệ nhân cộng đồng theo các lớp học

tập trung, do các nghệ nhân cao tuổi và có kinh nghiệm lâu năm đào tạo. Về mặt

hình thức, đây là một chủ trương đúng đắn và tưởng chừng không có gì đáng bàn

cãi. Nhưng trên thực tế, nghệ nhân vừa phải thực hành những lề lối bài bản mang

màu sắc riêng biệt của phường mình, lại vừa phải tham gia vào các lớp học tập

trung để học một thứ Hát Xoan được “thống nhất” hoặc lề lối do nghệ nhân

phường Xoan khác truyền dạy. Cách truyền dạy kiểu này gián tiếp ảnh hưởng

đến tính đa dạng của Hát Xoan giữa các phường Xoan cổ, tạo nên một xu hướng

thống nhất các bài bản Xoan để tiện cho việc thực hiện. Một trong những nét đặc

trưng của Hát Xoan (cũng như của nhiều hình thức nghệ thuật dân gian khác) là

sự khác biệt trong bài bản và phong cách trình diễn giữa các phường. Những

khác biệt nằm ở lời ca, điệu múa, ở lịch trình diễn tại các đình miếu, trong trình

126

tự diễn xướng, khác biệt về số lượng quả cách, trong múa phụ họa (số lượng đào

khác biệt trong các quả cách, cách di chuyển lên xuống hoặc không), trong cách

hát hội và các tục lệ… là một trong những đặc trưng làm nên tính hấp dẫn cho

Hát Xoan. Sự khác biệt này giữa các phường Xoan được nghệ nhân lí giải “trong

Hát Xoan, mỗi phường Xoan có những phong tục, tập quán, làm ăn, sinh hoạt

riêng, do đó trong lối hát của các làng, điệu múa của các làng thì mô tả những

nét riêng phù hợp với nội dung phong tục tập quán của từng làng quê, con người,

nên có những nét khác nhau trong lời ca, điệu múa (Bùi Thị Kiều Nga, trường

phường Xoan Thét, 2016). Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan (2016) thì cho rằng,

“Sự bảo thủ phong cách của các phường Xoan xưa nay” được xem là “không làm

ngh o nghệ thuật Xoan, mà nó làm cho nghệ thuật Xoan giàu có và đa dạng”.

Chính vì thế, cách truyền dạy tập trung, “đem cách trình diễn riêng của từng

phường pha trộn với nhau” (Nguyễn Anh Tuấn, 2016) chính là sự “nhất thể hóa

các phong cách nghệ thuật, bắt phường này học phường kia” và “làm nghèo Xoan”

(Đặng Hoành Loan, 2016). Sự thiếu tôn trọng tính đa dạng này với nghệ nhân, với

Hát Xoan đã gặp phải nhiều ý kiến phản đối từ các nhà nghiên cứu và quản lý. Theo

tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2016), "Tôn trọng sắc thái riêng của từng phường, bảo

tồn trình tự, lối hát thờ nguyên gốc trong đình của mỗi phường Xoan. Lễ hội Hát

Xoan cũng như các lễ hội khác phải giữ được sắc thái cổ truyền. Theo tôi, chỉ có

vùng Xoan có hội Xoan mới bảo tồn và phát huy được tinh hoa văn hóa, bởi đó mới

chính là môi trường sống. Hạn chế sự áp đặt của cơ quan quản lý nhà nước về di sản

đối với việc bảo tồn và gìn giữ di sản của từng phường".

Hát Xoan không phải là một loại hình dân ca có bài bản cứng, được thực

hành theo một khuôn mẫu tại tất cả các phường Xoan. Cái thú vị của Hát Xoan,

sự đa dạng về bài bản Xoan tại các phường Xoan cổ đã bị “thống nhất hóa” qua

cách truyền dạy theo mô hình lớp học tập trung đã dẫn đến một cái nhìn đơn

giản, thậm chí sai lệch về Xoan.

Những phản hồi này về sự nhất thể hóa, thống nhất bài bản trong trình

127

diễn giữa các phường Xoan, về nguy cơ làm mất đi tính đa dạng của di sản từ

phía nhà nghiên cứu, từ phía các nghệ nhân đã tác động đến cơ quan quản lý.

Sau hội thảo mang tên “Âm nhạc Hát Xoan – vấn đề chung và riêng của các

phường Xoan gốc” (2016), tinh thần của Sở là “Tổ chức tập huấn cho trùm

phường và cán bộ văn hóa cơ sở về nhận thức, năng lực nhận diện Hát Xoan,

tính nghệ thuật và tính đa dạng phong cách của mỗi phường”; “giúp cộng đồng

nhận diện giá trị di sản và truyền dạy một cách bài bản, bảo vệ sắc thái riêng của

mỗi phường” (Theo Báo cáo cập nhật kết quả kiểm kê Hát Xoan Phú Thọ từ

2/2016 đến 11/2017, ngày 20/11/2017, Sở VHTTDL Phú Thọ). Tính đa dạng

trong thực hành của các phường Xoan gần đây đã được nhận thức và chú ý bởi

các cơ quan quản lý nhà nước về di sản.

Sự can thiệp của nhà nước với Xoan còn trực tiếp đến cả những vấn đề cụ

thể như trang phục biểu diễn, nội dung hát, cách thức trình diễn, và nhiều trường

hợp, các nghệ nhân phải thỏa hiệp với những quy định này. Bộ trang phục hiện

tại được Sở VHTTDL đặt may cho nghệ nhân 4 phường là do “tỉnh và viện âm

nhạc nghiên cứu đưa ra kết luận: không có như ngày xưa nữa nên chọn bộ bây

giờ, màu nó tươi hơn, cái áo có năm cái thân”. Từ cái nhìn của nghệ nhân, trang

phục này “không khác nhiều so với bộ Quan họ, thích bộ ngày xưa hơn” (Phỏng

vấn nghệ nhân 11/2018; 5/2019), “trông nó chả ra Quan họ cũng chả ra Xoan”

(phỏng vấn người dân, 11/2018). Tuy nhiên, đây là trang phục do Sở VHTTDL

yêu cầu nên “vẫn phải mặc, không mặc khác được”. Trong thực hành bài bản

Xoan, Sở SVTTDL yêu cầu các phường Xoan phải trình diễn nguyên gốc, nghệ

nhân không được Hát Xoan cải biên mà phải bảo tồn và phát huy vốn cổ. Tuy

nhiên, nghệ nhân dù thực hiện theo quy định của Sở nhưng vẫn rất thích “phóng

tác Xoan” theo lối mới, thích đặt lời mới cho Xoan. Họ phải “hát trộm” Xoan

mới (vì bị cấm về mặt hình thức), và cũng chỉ dám hát với nhau những khi

không có khách tham dự.

Bà thích hát những bài lời mới lắm, nhưng mà ông Sở ông ấy không cho,

128

bảo là phải hát bài Xoan cổ, không được thay đổi (…) Thế nhưng vẫn

hát trộm đấy (nói và cười). Nghe nó hay lắm, vì hát mãi bài cũ rồi cũng

chán, mà các cháu có nhiều từ cổ giờ nó không hiểu, nó hỏi bà cũng chả

hiểu mà giải thích cho nó. Hát lời mới thì nó dễ thuộc mà lại dễ hiểu

hơn, lại thích nữa (Tư liệu phỏng vấn tại phường Xoan, 5/2019).

Điều này đặt ra một câu hỏi về việc, di sản là của ai, và ai có toàn quyền

trong việc quản lý và thực hành di sản? Chủ nhân của di sản có quyền thay đổi

những yếu tố được coi là thuộc về truyền thống hay không? Sự ngăn cấm những

sáng tác, sáng tạo mới này liệu có ngăn cản sự phát triển tự nhiên của di sản?

Thực tiễn cho thấy, văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo dựa trên các nhu

cầu của cá nhân và cộng đồng. Xoan cổ là sản phẩm của Xoan những thế kỉ

trước, giờ chủ nhân hiện tại của Xoan tiếp tục muốn sáng tạo, đưa vào Xoan hơi

thở của đời sống đương đại, thì điều đó có thuộc về việc phát huy di sản? Những

sáng tác Xoan hiện nay của nghệ nhân về chính đời sống đang diễn ra của họ,

trong vài thế kỉ nữa sẽ trở thành ngữ liệu nghiên cứu về xã hội của chính họ

trong thế kỉ này, liệu có nên bị ngăn cản? Và việc các nghệ nhân “hát trộm” các

bài bản Xoan lời mới đã phản ánh một thứ nhu cầu có thật của chủ nhân Xoan về

việc thực hành song song cả hai hình thức Xoan cổ và Xoan mới tại cộng đồng.

Quy định cấm như vậy liệu có can thiệp vào quá trình tiếp tục sáng tạo của nghệ

nhân, cũng chính là khiến ảnh hưởng tới sức sống của di sản?

Ngoài ra, sự hạn chế vai trò của cộng đồng chủ Hát Xoan còn thể hiện

gián tiếp trong việc họ bị định giá trong quá trình thực hành di sản. Khi các nghệ

nhân phải tham gia truyền dạy trong các lớp học cho cán bộ công chức, cho giáo

viên, cho các CLB Xoan và dân ca Phú Thọ, họ bị xem xét và bình luận về năng

lực truyền dạy, năng lực trình diễn. “Ông A. trùm phường này hát thì được đấy,

nhưng mà ông ấy dạy thì khó tiếp thu lắm, chán ơi là chán”, “bà N. trùm phường

này ấy à, bà ấy được khiếu nói, đâu ra đấy, học thấy thích hẳn” (Tư liệu điền dã,

10/2018). Những so sánh, đánh giá Xoan giữa phường nọ phường “khi con nghe

129

trên kia (ở phường Xoan khác - chú thích của người phỏng vấn) thấy khác, nghe

ở đây Xoan mới là Xoan, con thấy hát hay quá, mà đi vào lòng người. Con chả

hiểu gì về Xoan cả, con chán lắm thôi, nhưng hôm nay người thật việc thật, con

chắp tay con xin lỗi mẹ ngàn lần” (Phỏng vấn nghệ nhân A., 11/2018). Chính

các nghệ nhân cũng thấy mình bị áp lực với việc truyền dạy này “khi được công

nhận thì vui vẻ rồi nhưng đứng trước lớp truyền dạy chủ động mình phải bị áp

lực từ người khác” (Phỏng vấn nghệ nhân A., 11/2018).

Trong bối cảnh Hát Xoan được ký âm, được bài bản cố định lại để phục

vụ cho việc truyền dạy, những thực hành đa dạng của nghệ nhân, sự ứng tác của

họ trong nhiều trường hợp lại bị xem như gây rắc rối cho những người liên quan,

và họ phải chịu sự điều chỉnh từ các đối tượng này. “Các cụ này hát lời này, các

cụ kia lại hát lời khác. Ví dụ là lại lốt hay lải lốt (…) Giáo viên nó hiểu về âm

nhạc, nghệ nhân hát thế này người ta bảo ớ cụ ơi chỗ này sai (…) các cụ cãi

cũng không được vì chính các cụ hát chứ đâu. Các cụ dạy sai là các cụ phải chịu

không được cãi” (Tư liệu phỏng vấn, 11/2018). Và vì thế, ý tưởng về việc không

cần có sự xuất hiện của nghệ nhân cũng đã được nghĩ tới: “tới đây là có đĩa hình

quay các cụ để mà sau đấy các học viên tự học chẳng cần các cụ nữa, người ta

nghe đĩa, người ta nhìn hình người ta làm được. Nó là sách phổ biến. Cả hệ

thống giáo dục sẽ học theo được cái đấy (Tư liệu phỏng vấn, 11/2018).

Thực tế này cảnh báo về việc sử dụng Xoan trong nhiều mục đích khác

nhau và truyền dạy trên diện rộng, trong khi trên thực tế, chỉ cần việc bảo vệ và

phát huy Xoan tốt tại 4 phường Xoan cổ, để Xoan thực sự sống bền vững trong môi

trường tâm linh, lễ hội và trong đời sống cộng đồng chủ đã là mục đích lý tưởng, và

tránh được những nguy cơ định giá của cộng đồng rộng bên ngoài, từ những người

không thực sự có một nhu cầu thực hành Xoan trong đời sống của họ.

Nhưng dù bị can thiệp sâu, cộng đồng chủ của Hát Xoan vẫn có những ưu

thế nhất định, và trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý nhà nước buộc phải

nhượng bộ. Nhận thức rõ về vai trò mang tính quyết định của các phường Xoan

130

cổ, ý thức được về tính chất tự nguyện của những đào kép tham gia Hát Xoan,

chính quyền tỉnh đã có những hỗ trợ thường niên về mặt vật chất với các phường

(50 triệu đồng/ phường/ năm). Các phường có toàn quyền tự chủ trong việc thu

chi kinh phí tại phường mình. Số tiền này không phải là nhiều, và không dư dả gì

với các phường Xoan mà đôi khi, riêng việc thuê sắm thêm trang phục, đi lại

biểu diễn đã rất tốn kém. Nhưng việc đầu tư này của nhà nước đã góp phần quan

trọng trong việc tăng thêm vị thế của phường Xoan. Hát Xoan hậu ghi danh thực

sự đã mang lại một đời sống tinh thần phong phú, tạo thêm nhiều cơ hội biểu

diễn giao lưu trong và ngoài tỉnh cho các đào kép, đặc biệt là các trùm phường.

Xoan được quảng bá, cũng đồng thời gia tăng vị thế của nghệ nhân và của

phường Xoan. Nghệ nhân “đượcđi đây đi đó”, đi quay phim tư liệu, biểu diễn

nơi này nơi khác, “có đồng ra đồng vào”, được đi truyền dạy ở nhiều nơi, ở

nhiều lớp học cho cán bộ, “các bà (nghệ nhân) đi nhiều lắm, bây giờ Xoan kiếm

tiền ghê lắm. Bọn nó giả cho các cụ tiền hơn ngày xưa, hồi ấy thì bèo bọt” (Tư

liệu phỏng vấn 11/2018). Trùm phường có vị thế hơn, và có người thì nổi tiếng

trong toàn tỉnh.

Bà đi nhiều lắm rồi. Có lần còn đi thành phố Hồ Chí Minh, cái ông

nhiếp ảnh gia Nguyễn Á mời phường Xoan, sáu người, hỗ trợ tiền ăn,

tiền máy bay đi và về (…) Rồi có lần đi làm cho Đài phát thanh và

truyền hình Hưng Yên, đi 11 người, đến 20h tối về tới nhà. Tiền xe họ

đã lo, còn lại họ trả mình 20 triệu. Mới bảo là từ bé đi Hát Xoan tới

giờ, bây giờ mới được nhiều như thế (…) (Phỏng vấn bà Liên, trùm

phường Xoan cổ, 11/2018).

Tiếng nói của các nghệ nhân cũng rất có trọng lượng trong các hoạt động

bảo vệ và phát huy di sản Hát Xoan, và họ (nghệ nhân) thường xuyên có những

phản hồi về các chính sách của nhà nước liên quan tới việc thực hành di sản này.

Chẳng hạn, trong công tác văn bản hóa các bài bản Xoan, quan điểm của nghệ

131

nhân rất được coi trọng.

Theo kế hoạch của tỉnh, sách ký âm Xoan sẽ được in trong năm 2019.

Nhiều các nhạc sỹ của tỉnh và trung ương đã được mời để tham gia dự án này.

Cuốn sách này vừa để văn bản hóa bài bản Xoan, cũng đồng thời là một phương

tiện chính thống để phục vụ cho công tác truyền dạy Hát Xoan trong nhà trường

và các cơ quan, đơn vị. Nhưng khi thực hiện dự án, các nhạc sỹ và người làm

văn hóa gặp không ít khó khăn. Trong bài bản Xoan có rất nhiều các từ cổ hiện

chưa thể giải mã, có cách hát “lơi” rất đặc trưng của Xoan mà phương thức ký

âm hiện đại không thể xử lý được. Thực tế là nhiều bài không thể ký âm được,

bất lực với cái “lơi ra” đó. Điều này dẫn đến những tranh luận, thậm chí cả việc

đề xuất với nghệ nhân về việc hát thống nhất theo nốt nhạc để việc ký âm được

thuận lợi. Nhưng câu trả lời mà các nhạc sỹ nhận được là “không”, “xưa nay

chúng tôi được dạy thế, vẫn hát thế”, và các nghệ nhân họ rất gay gắt, không

chấp nhận bất kì phương án thay đổi nào mà nhóm thực hiện dự án đưa ra. Thậm

chí, ngay cả việc “hôm nay hát thế này, ngày mai vẫn bài đấy lại hát khác đi”

của nghệ nhân khiến các nhạc sỹ ký âm đau đầu thì cũng phải trao đổi với họ để

tìm phương án giải quyết. Và với câu hỏi rằng, liệu “có dám tự thay đổi cho tiện

việc ký âm hay không”, các nhạc sỹ đều khẳng định họ không dám làm thế. Vì

những bản ký âm sau đó cần phải đưa lại cho nghệ nhân kiểm tra, được sự đồng ý của họ thì mới đưa in và xuất bản1.

Vị thế của chủ nhân của di sản trong những tình huống này, cũng như

những bất đồng giữa các bên cũng đặt ra câu hỏi về tính hợp lý của chính sách

truyền dạy Hát Xoan tại các nơi chốn bên ngoài không gian thực hành gốc tại

tỉnh Phú Thọ; về vấn đề cố định hóa, văn bản hóa một thực hành văn hóa dân

gian. Cái làm nên nét độc đáo của Xoan ở chỗ lơi ra đó, giờ phải khuôn vào để

tiện cho việc ký âm, dễ cho việc truyền dạy (đặc biệt là trong trường học, cho

các cháu nhỏ); rồi thống nhất hóa một văn bản/ lời/ nhạc cho 4 phường Xoan,

1 Tư liệu phỏng vấn, tháng 10/2018.

132

trong khi thực hành Xoan ở mỗi phường đều có những nét riêng... cho thấy nguy

cơ xơ cứng, quy giản hóa một thực hành Hát Xoan vốn dĩ rất độc đáo, sinh động

và đa dạng. Sức sống của di sản nằm tại môi trường gốc và trong đời sống, với

nghệ nhân, với cộng đồng chủ, chứ không nằm trong những văn bản có tính quy

chuẩn và ở những truyền dạy thuần túy để cho biết và mang tính phong trào

trong nhà trường hay tại công sở.

Mặt khác, việc “được các cấp chính quyền quan tâm”, việc Xoan được

thánh hóa trong toàn tỉnh đã hình thành nên các nhu cầu mới của người thực

hành. Đó là nhu cầu về chính sách dành riêng cho nghệ nhân, dành riêng cho

phường Xoan:

Chế độ hàng tháng, báo chí cũng hỏi, cũng đã nói rất nhiều rồi, hiện

nay chúng tôi chỉ có mong muốn duy nhất của nghệ nhân là: chúng tôi

xin mỗi năm phải đóng 700 tiền bảo hiểm, thì cho chúng tôi xin. Và

đồng thời có chút ít nhiều hàng tháng động viên những người nghệ

nhân trực tiếp giữ gìn di sản mà giờ vẫn không thấy có. Sở về thẩm

tra ở địa phương, xem mình có chế độ gì không, nhưng không có chế

độ gì cả (Phỏng vấn nghệ nhân phường Xoan, 11/2018).

Trên thực tế, trước khi được phong di sản, Hát Xoan vốn được thực hành

như một nhu cầu tâm linh và tinh thần. Trong quá khứ, chưa ai Hát Xoan để

nhận tiền hay được nhận tiền cả. Hiện tại, khi Xoan là di sản, thù lao biểu diễn,

kinh phí duy trì hoạt động đã trở thành một vấn đề: "Có người bảo, sao suốt ngày

bà cứ vì tiền thế? Đừng có nặng nề vì tiền quá. Tôi bảo: tôi không sao, mọi

người và các cháu ít tiền nó khó điều động (…) Đi diễn cho khách quốc tế, về

phương tiện, trang phục thì mình phải lo toàn bộ. Mình tự đạp xe đi, đạp xe về,

trưa về nhà ăn cơm, chiều 2h lại làm tiếp. Không đi thì bảo vì đồng tiền, đi thì

chỉ vì danh dự. Đi thu âm quay hình cả ngày mới được 50 ngàn. Lý tưởng thì của

tỉnh, nghệ nhân chỉ làm theo thôi. Trang phục thì sở may cho, đào hát phải có bộ

xà tích nhưng mà bây giờ không có nữa, không có tiền mà mua" (Phỏng vấn

133

nghệ nhân phường Xoan, 11/2018).

Những tính toán này một phần quan trọng đến từ việc, nghệ nhân và cộng

đồng phường Xoan buộc phải tham gia vào nhiều các hoạt động, chương trình

của nhà nước. Xoan được dùng vào nhiều việc, nhiều mục đích nên đã ảnh

hưởng đến nhịp sống thông thường của nghệ nhân. Một số nghệ nhân đôi khi

phải bỏ công việc mưu sinh của họ để phục vụ cho các sự vụ liên quan đến

Xoan, trong khi thu nhập từ Xoan lại không đủ để sống.

Tại Phú Thọ có tình trạng, ở đâu cũng có Xoan, nhưng thực sự hiểu về

Xoan thì không nhiều. Sự phổ cập Xoan dễ dẫn đến những cái nhìn sai lệch, đơn

giản hóa Xoan và những thực hành liên quan. Trong các chương trình biểu diễn,

cứ phải có “tí Xoan dính vào”, dễ hình thành tâm lý tiêu cực cho người xem

(“đấy, lại Xoan”). Và theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Phương Châm “tình

trạng “ăn theo Xoan” đã xuất hiện, khi thì hiện hữu, khi thì ẩn sau các diễn ngôn

là bảo vệ và phát huy Hát Xoan”, ví dụ như trong việc phục hồi di tích đã mất,

trong các hoạt động, sự kiện, lễ kỉ niệm, đề tài nghiên cứu khoa học, chương

trình giảng dạy… “đưa Hát Xoan vào để dễ dàng hơn trong việc xin kinh phí

triển khai”. Và cũng trong bài viết này, từ thực tế điền dã, nhà nghiên cứu còn

nói tới “sự mất cân đối khá rõ giữa các di sản ở đây, trong khi Hát Xoan được đề

cao như vậy thì các loại hình dân ca khác dường như bị lu mờ, ít được quan tâm

khiến cho nguy cơ mai một khá cao và khi người dân muốn gìn giữ và duy trì

trong đời sống thì nhiều khi lại phải ăn theo Xoan” (tr.55). Đây là vấn đề rất lớn

không chỉ với Hát Xoan, mà còn liên quan đến số phận của nhiều các loại hình di

sản khác ở Phú Thọ. Khi Xoan trở thành di sản, được đẩy lên vị trí trung tâm

trong sinh hoạt nghệ thuật tại tỉnh dẫn đến những thay đổi cả trong nhận thức lẫn

thực hành, và vô hình chung, gián tiếp ngoài lề hóa các di sản văn hóa khác mà

về mặt hành chính không được xếp cùng mức (di sản của nhân loại) như Hát

Xoan. Việc bảo tồn Xoan trên diện rộng và có tính phổ cập dễ dẫn đến việc

“ngh o nàn hóa” chính Xoan và các loại hình di sản khác, hình thành trong chính

người dân tâm lý về việc, cứ nói đến nghệ thuật là nói tới Xoan, và đã biểu diễn

134

mà không có Xoan là không được.

Chính sách phổ cập Xoan với việc thành lập các CLB, truyền dạy Xoan

trên diện rộng, ngoài các không gian Xoan gốc, ở nhiều nơi mà trước đó chưa hề

biết đến Xoan hoặc chỉ biết về Xoan mang máng cũng đặt ra nguy cơ cho chính

Hát Xoan. Xoan tại những không gian này vốn dĩ không xuất phát từ nhu cầu tự

thân, người dân có thể thực hành loại hình di sản khác. Ngoài ra, từ hiện trạng

của các CLB, có thể thấy một vấn đề có thể đe dọa đến diện mạo/ hiểu biết về di

sản. Các bàn bản Xoan không phải chỉ học một vài lần, một vài ngày, thậm chí

một vài tuần là được. Học Xoan kiểu tập huấn mới chỉ dừng lại ở mức biết về

Xoan. Xét ở phương diện nâng cao ý thức về di sản là có thể chấp nhận được.

Nhưng khi không được học bài bản, nhiều người còn lên youtube để học cách

Hát Xoan, thì thực chất đang tuyên truyền và bảo tồn một thứ Xoan khác. Và

điều này còn dẫn đến một thực tế, là sinh hoạt Hát Xoan không có tính lâu bền.

Bản thân những cộng đồng khác ngoài 4 làng Xoan cổ không phải là cộng đồng

chủ của Xoan, tức là Xoan với họ có vai trò không khác gì các loại hình nghệ thuật

như hát đúm, ghẹo... Địa phương của họ có thể có xu hướng thực hành loại hình

nghệ thuật riêng có của mình, nhưng cái gì cũng phải dính một tí Xoan, nên nhiều

CLB chết yểu theo nghĩa không dám chính thức giải thể mà chỉ tồn tại trên danh

nghĩa, các hoạt động èo uột và có tính thực dụng (cần phải huy động thì tham gia,

không phải là các thực hành theo nhu cầu tự thân). Tuyên truyền và đam mê là đến

từ bên ngoài, nên tính bền vững của các thực hành Xoan kiểu này bị đe dọa.

4.2. Hát Xoan: củng cố ý thức bảo vệ di sản hay một hình thức phổ quát hóa

di sản

Các báo cáo kiểm kê về tình hình di sản Hát Xoan cung cấp thông tin cho

thấy, mô hình CLB thực hành Hát Xoan có sức tác động trực tiếp đến ý thức bảo

vệ di sản và thôi thúc việc thực hành di sản này tại địa phương (phạm vi hoạt

động của các CLB). Một số văn bản có phản ánh thực tế, “trước khi được

UNESCO công nhận (2011) rất ít người biết Hát Xoan, có biết một số bài Xoan

135

phát triển. Nhưng hiện nay đã rất nhiều người biết và rất nhiều người ở các tầng

lớp thích Hát Xoan”1; “những năm đầu 2009 - 2010 gần như không ai thích xem

Hát Xoan, nhưng qua trải nghiệm và tuyên truyền rộng rãi đến nay công chúng

trên địa bàn xã Đào Xá thực sự đã thích Hát Xoan” (Báo cáo kiểm kê CLB Đào

Xá). Sở dĩ có thực trạng này bởi trước khi được UNESCO ghi danh di sản, Hát

Xoan được biết tới là một loại hình văn hóa dân gian của Phú Thọ, nhưng chỉ

gắn liền với bốn làng Xoan cổ (Kim Đái, An Thái, Thét, Phù Đức), các thực

hành Xoan được khôi phục mạnh mẽ từ những năm 90 chủ yếu diễn ra tại không

gian gốc này, và về sau có thêm một vài nơi vốn trước là đơn vị kết nước nghĩa.

Việc Xoan được ghi danh và phải bảo vệ khẩn cấp đã dẫn đến những hình thức

bảo vệ Xoan trên diện rộng, mà một trong số đó là việc tuyên truyền quảng bá và

khuyến khích thực hành Xoan thông qua hình thức các CLB Hát Xoan tại các xã,

huyện trong toàn tỉnh. Khi thành lập, các CLB này được cung cấp kinh phí, và có

những cam kết trong phương hướng hoạt động cụ thể.

Thực tế thực hành Hát Xoan tại các CLB đặt ra vấn đề về việc Xoan – sản

phẩm văn hóa thuộc về một không gian hạn định (bốn phường Xoan cổ) - khi

được truyền dạy rộng rãi tại các nơi khác nhau trên địa bàn tỉnh đã dẫn đến

những đón nhận trái chiều, rất được yêu thích hoặc ngược lại, không được chào

đón. Trong các cuộc phỏng vấn, nhiều cán bộ công chức, giáo viên, người dân

dù biết đến Hát Xoan và rất tự hào với "di sản UNESCO" của tỉnh nhưng khi

được hỏi có thực sự yêu thích Xoan không, nhiều người trả lời không, vì Xoan

"rất khó nghe, khó hát, nghe mãi mà thành quen thôi". Việc phải đi học các lớp

học về Xoan (do các nghệ nhân dạy, theo kế hoạch bắt buộc của tỉnh) với nhiều người là một công việc hành chính, và "trốn được càng tốt"2. Riêng đối với

ngành giáo dục, do Hát Xoan được đưa vào trường học nên các giáo viên phụ

trách môn học này (thường là giáo viên âm nhạc hoặc tổng phụ trách công tác

đoàn đội) phải đi học các lớp bồi dưỡng hàng năm vào dịp hè, và tự trau dồi

136

thêm để có thể truyền dạy cho học sinh. 1Thông tin phỏng vấn, phần về Người thực hành và truyền dạy, Báo cáo kiểm kê CLB Đào Xá. 2 Tư liệu phỏng vấn, 12/7/2019.

Chính sách phổ quát hóa Hát Xoan của tỉnh Phú Thọ nằm trong kế hoạch

"đưa hát Xoan trở lại với đời sống thường ngày của nhân dân Phú Thọ và Vĩnh

Phúc" như đã được ghi trong mục tiêu tại Hồ sơ di sản trình UNESCO. Các

chính sách bảo vệ và phát huy Hát Xoan của tỉnh từ năm 2011 đến nay cũng cho

thấy rõ điều đó. Tại các phường Xoan cổ, việc hát Xoan, tập luyện và trao truyền

được quy định diễn ra vào tối thứ 7 hàng tuần. Với các CLB Hát Xoan và Dân ca

Phú Thọ, công việc này cũng được quy định diễn ra đều đặn. Các công sở,

trường học, những nơi tưởng chừng không liên quan đến thực hành Hát Xoan

cũng thường diễn ra các lớp tập huấn để cán bộ, giáo viên hiểu và thực hành

Xoan. Nhưng điều này liệu có hợp lý hay không, khi trong quá khứ, các thực

hành Hát Xoan cũng chỉ diễn ra vào đầu và cuối năm âm lịch, khi người dân

chuẩn bị cho các cuộc hát thờ và hát hội đầu xuân tại các đình miếu địa phương.

Việc tập luyện hàng tuần với nghệ nhân trong các làng Xoan cổ là mang tính

hình thức, vì trên thực tế, các quan sát của tác giả luận án cho thấy, nghệ nhân có

thể tập luyện bất kì lúc nào nếu đó là nhu cầu của họ để phục vụ các buổi trình

diễn, cũng như họ không cần tập vào tối thứ 7 tuần đó nếu không có nhu cầu.

Trong các phường Xoan hiện tại, việc sinh hoạt không chỉ diễn ra theo nhu cầu

hát Xoan, mà còn xuất phát từ nhiều các nhu cầu đời sống khác như giải trí, giao

lưu, chia sẻ,… Các nghệ nhân gắn bó, chia sẻ với nhau trong đời sống, trong

nhiều các công việc và biến cố, và họ có thể hát cùng nhau bất cứ khi nào có nhu

cầu. Như chia sẻ của người dân tại làng Xoan cho biết, mỗi khi nghe tiếng trống

Xoan, bà lại nhớ hồi nhỏ, cứ vào đầu năm là các cụ hát rộn ràng, đám trẻ đi theo

nghe mãi rồi thuộc và nghiện, "thích lắm", "các cụ cứ hát cả mấy tháng đầu xuân, đi hết đình này miếu kia, cần gì tập luyện đâu"1. Điều này cho thấy tính

đời sống và tính nhu cầu của văn hóa, của di sản trong cuộc sống của con người.

Các yêu cầu mang tính hành chính, nhu cầu phổ quát hóa di sản là những chính

1 Tư liệu phỏng vấn, 12/2021.

137

sách không thực sự gắn với đời sống riêng của di sản.

4.3. Giữ gìn, bảo vệ Hát Xoan và đời sống riêng của di sản

Xét ở một khía cạnh nào đó, việc phổ cập Xoan tại nhiều không gian trên

toàn tỉnh Phú Thọ để mang lại nhận thức chung về loại hình nghệ thuật này có

những ý nghĩa tích cực. Nhiều người từ chỗ không biết gì đến Xoan hoặc “biết

mang máng” đã hiểu rõ hơn về di sản này, “nghe nhiều, xem nhiều đâm ra thích nó, yêu nó”1. Tuy nhiên, việc Xoan xuất hiện với tần suất liên tục tại các không

gian khác ngoài không gian gốc (các làng Xoan cổ) đã khiến nhận thức và thực

hành về loại hình này trở nên rất đa dạng. Đó có thể là một ý niệm về Xoan được

hình thành sau một khóa học mang tính hành chính tại cơ quan “thì bà A. (nghệ nhân) bà ấy dạy như thế thì biết Xoan nó là thế”2. Rồi có thể là một Hát Xoan

thực hành tại trường học, nơi phụ thuộc quá nhiều vào sự chủ động và ý thức cá

nhân của người truyền dạy (giáo viên hoặc nghệ nhân), nên học sinh thực hành

Hát Xoan tại ngôi trường đó như thế nào là sản phẩm/ hệ quả trực tiếp của giáo

viên phụ trách và hiệu trưởng nhà trường, giống như câu chuyện ở ngôi trường

điểm tại Việt Trì “từ hồi giao cho cô M. phụ trách, Xoan ở trường mình nó khác hẳn”3. Việc đưa Xoan lên sâu khấu trong các chương trình biểu diễn lớn nhỏ hay

tại các CLB Xoan tại huyện, xã/ phường cũng như vậy, phụ thuộc rất nhiều vào

trải nghiệm, kinh nghiệm, hiểu biết về Hát Xoan của những cá nhân tham gia và

chịu trách nhiệm thực hiện chương trình, vào cách họ hiểu về việc bảo vệ và

thực hành di sản.

Việc đưa Hát Xoan vào cộng đồng trên diện rộng, tại các không gian khác

nhau như vậy không chỉ khiến hình thành nên những nhận thức khác biệt về

Xoan mà còn làm mờ đi nhiều những yếu tố quan trọng của loại hình di sản này.

Yếu tố hát thờ, gắn liền với không gian đình miếu và các thực hành nghi lễ của

Hát Xoan phai dần đi trong nhận thức, và hình thành tâm lý về việc có thể biểu

1 Tư liệu phỏng vấn 10/2018. 2 Tư liệu phỏng vấn 10/2018. 3 Tư liệu phỏng vấn 10/2018.

138

diễn Xoan ở mọi nơi, mọi chốn và mọi thời điểm. Thêm vào đó, mọi hoạt động

văn hóa “cứ phải dính một tí Xoan vào, nếu không là thấy thiếu thiếu”1. Tâm lý

này còn khiến cho nhiều những loại hình di sản khác trong tỉnh không còn

được lưu tâm đến, hay nói cách khác, sự “chiếm sóng” của Xoan trong mọi

không gian có nguy cơ làm mất đi tính đa dạng của các loại hình nghệ thuật

khác tại Phú Thọ.

Trước những phương thức bảo vệ và phát huy di sản Hát Xoan của cơ

quan quản lý, từ những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hành di sản cả trong

các phường Xoan cổ và tại công sở, trường học, CLB Hát Xoan và dân ca trên

toàn tỉnh Phú Thọ, câu chuyện về đời sống riêng của di sản, về phương cách bảo

vệ di sản nổi lên như một chủ đề trọng tâm. Di sản, trong thực tế luôn được hình

dung một cách tĩnh tại, gắn với truyền thống, có tính đặc trưng, cố định, bất biến,

và vì thế, gắn với phương thức bảo tồn kiểu "bảo tàng hóa" các di sản. Việc xem

di sản như một đại diện của truyền thống dễ dẫn đến cách tiếp cận xem di sản

như một tấm thẻ căn cước để qua đó, chủ thể thực hành và bản sắc địa phương/

dân tộc được nhận diện. Hát Xoan, trong quá trình làm hồ sơ và chính thức được

ghi danh di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, đã luôn được bảo vệ và phát huy

trong cách tiếp cận này, biểu hiện rõ nhất nằm ở việc ký âm các bài bản Hát

Xoan, cố định hóa các văn bản cũng như hình thức truyền dạy và thực hành theo

đúng một khuôn mẫu đã được thống nhất. Mọi sự sáng tạo tại chỗ, của cộng

đồng chủ tại 4 phường Xoan cổ không được khuyến khích, thậm chí còn bị ngăn

cấm bởi lo ngại rằng, di sản sẽ bị biến dạng hoặc biến mất.

Nhiều nghiên cứu nhân học đã chỉ ra rằng, không có một thứ "văn hóa" và

"truyền thống" bất biến kiểu một khung cố định để nhìn lướt qua mà có thể dễ

dàng phân biệt người, nhóm người, cộng đồng này và người, nhóm, cộng đồng

khác. Hiện đại hóa, toàn cầu hóa với vai trò và tác động mạnh mẽ của khoa học

kĩ thuật và công nghệ đã tạo một điều kiện tối ưu cho sự tiếp xúc, tiếp biến và

1 Tư liệu phỏng vấn 10/2018.

139

thay đổi về văn hóa. "Lai tạo là một biểu hiện chung của quá trình thay đổi xã

hội và văn hóa trong tất cả các nền văn hóa. Chúng ta nên nhớ rằng không có nền

văn hóa truyền thống thuần túy, không thay đổi" (Evans, 2001, tr.277).Vì lẽ đó,

trong nghiên cứu của mình, Salemink (2001) đề nghị dùng "tạo dựng truyền

thống" (construction of tradition), thay cho "phát minh truyền thống" (invention

of tradition), với ý nghĩa là truyền thống và văn hóa luôn luôn được tái tạo trong

một hoàn cảnh luôn thay đổi. Nói cách khác, không có một truyền thống ban

đầu, những thứ cố định đang dần dần bị thay thế bởi nền văn hóa toàn cầu

(Salemink, 2001). Sự đổi thay của văn hóa, của một di sản là tất yếu, gắn với

thuộc tính biến đổi của văn hóa. Và Hát Xoan cũng không là ngoại lệ. Vậy nên,

mọi nỗ lực để bảo tồn một di sản Hát Xoan bất biến sẽ là đi ngược lại với quy

luật sinh tồn của văn hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, cơ quan quản lý di

sản văn hóa cần trao quyền tự quyết về phương thức bảo vệ, thực hành và phát

huy di sản cho chính các chủ thể thực hành, bởi chính họ mới là những người

quyết định việc di sản nên được sử dụng như thế nào, trong bối cảnh nào và theo

hình thức nào. Với di sản, điều quan trọng nằm ở sự trao quyền và tăng quyền

cho chủ thể văn hóa, vì chính cộng đồng chủ mới là người quyết định diện mạo

của di sản sẽ như thế nào. Điều này đã được các nhà nghiên cứu về văn hóa và di

sản đề cập tới, khi ở Việt Nam đã diễn ra những nỗ lực để "cố gắng ngăn chặn

tác động của thời gian" lên di sản (Salemink, 2001; Evans, 2001; Lê Hồng Lý,

Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm, 2011). Bài học kinh nghiệm với

những nhà nghiên cứu và quản lý được chỉ ra rất rõ ràng, rằng sự bảo tồn văn

hóa theo kiểu "đông lạnh giả định" (chữ dùng của Evans, 2001, tr.277) hay bảo

tàng hóa cần được thay thế bằng những nỗ lực "tạo ra các những điều kiện thuận

lợi cho sự biểu hiện và thực hành văn hóa" (Salemink, 2001, tr.207). Di sản

không cố định và bất biến mà là một thực thể sống, "bản chất của văn hóa là luôn

luôn thay đổi, vì các tác nhân văn hóa ở trong những hoàn cảnh luôn thay đổi và

tìm những phương cách mới để đối phó với những hoàn cảnh đó" (Salemink,

140

2001, tr.206).

4.4. Di sản Hát Xoan và sự định giá di sản

Trong Di sản văn hóa thế giới và nền kinh tế văn hóa, Barbara

Kirshenblatt-Gimblett (2006) thảo luận về một số nghịch lý nằm trong chương

trình 'di sản văn hóa thế giới', theo nghĩa là một mặt, di sản văn hóa phi vật thể là

duy nhất - và gắn liền với một nhóm hoặc cộng đồng người cụ thể - và mặt khác

là phổ quát - theo nghĩa là di sản cho nhân loại - chịu sự quản lý của quốc gia.

Khi văn hóa trở nên được đánh giá, có giá trị, thì quyền của những người mang

văn hóa (chủ nhân của di sản) đang gặp nguy hiểm, vì việc định giá các di sản

(thứ gắn liền với họ) dễ gây vướng mắc bởi việc định giá này được thực hiện bởi

các chuyên gia bên ngoài, và bởi các giá trị kinh tế tiềm năng mà văn hóa được

kì vọng sẽ mang lại, đặc biệt là với du lịch. Vấn đề này được Rosemary Coombe

và Joseph Turcotte (2012) nhấn mạnh trong bài viết "Di sản văn hóa bản địa

trong phát triển và thương mại: Quan điểm từ động thái của chính sách và luật

di sản văn hóa", rằng, sự nhấn mạnh về việc phát minh DSVHPVT, sửa đổi di

sản, chỉ định những người chăm sóc, bảo vệ thích hợp cho di sản, đầu tư vào

nâng cao năng lực phát triển chuyên môn về di sản tại địa phương được cho là

tạo thành một thể chế quyền lực mới mang lại những hứa hẹn và cả những nguy

cơ cho cộng đồng và người dân địa phương - những người phải gánh chịu một

nền văn hóa đặc biệt mà thể chế mới này tìm kiếm các giá trị. Bàn luận về điều

này, Salemink (2014) cho rằng, do sự vướng mắc của các hệ thống định giá khác

nhau từ những người thực hành, từ các chuyên gia văn hóa, từ các quan chức nhà

nước, từ thị trường, theo các cấp độ khác nhau (địa phương, quốc gia, xuyên

quốc gia và quốc tế), việc công nhận DSVHPVT có thể là một may mắn mang

tính phức hợp cho các cộng đồng là những 'người mang' - nhưng có lẽ không còn

là 'chủ' - của thực hành văn hóa được coi là di sản phi vật thể. Tính giá trị của di

sản được thẩm định bởi những người bên ngoài, khiến gây nên nhiều những tác

141

động không mong đợi đến cộng đồng chủ.

Trong các cuộc nói chuyện về Hát Xoan, người dân địa phương, các nghệ

nhân luôn tỏ ra rất tự hào về di sản của họ. Giá trị của Hát Xoan, như được nhấn

mạnh trong các bài phát biểu, trong các báo cáo, trong các chương trình truyền

hình, chương trình nghệ thuật, là về nhiều phương diện, cả về mặt lịch sử (Hát

Xoan gắn liền với thời kỳ Hùng Vương dựng nước, tạo dựng nước Việt), về tín

ngưỡng (Hát Xoan thờ các Vua Hùng có công với nước, thờ các vị thần thánh có

công với cộng đồng, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của người Việt), về

nghệ thuật (tinh hoa của lời hát, của điệu múa, tiếng trống trong nghệ thuật Hát

Xoan),… Ý niệm về tính giá trị này khiến nảy sinh tâm lý về việc, di sản "không thể lúi xùi được", làng Xoan "phải được đầu tư", "đình miếu phải hoành tráng"1.

Điều này trên thực tế dẫn tới việc nhà nước và tỉnh Phú Thọ đầu tư rất nhiều tiền vào việc trùng tu, xây dựng các đình miếu phục vụ cho Hát Xoan2, cho các công

trình nghệ thuật biểu diễn Hát Xoan. Nhưng việc đầu tư nhiều tiền vào di tích và

các hoạt động bề nổi giống như việc chú tâm vào "phần xác", trong khi nhiều

vấn đề liên quan đến đời sống, chính sách cho nghệ nhân còn đang bỏ ngỏ, dẫn

đến tâm lý chán nản ở không ít người. Ngoài ra, còn có tâm lý rằng, Hát Xoan

cần phải được xuất hiện trong mọi sự kiện và hoạt động văn hóa, kinh tế, chính

trị tại địa phương. Vì thế, các nghệ nhân, thành viên các CLB phải tham gia thực

hành Hát Xoan, tham gia phục vụ các chương trình liên quan đến Hát Xoan

trong bất kì hoàn cảnh nào và bất kì khi nào với kinh phí hỗ trợ ít ỏi khiến ảnh

hưởng đến cuộc sống của nhiều nghệ nhân, và khiến với nhiều người, việc "là

nghệ nhân" lại khiến họ thêm không ít gánh nặng.

Thêm vào đó, việc định giá di sản bằng các giá trị kinh tế đơn thuần xuất

phát từ quan niệm "di sản mang lại giá trị" khiến dẫn tới tâm lý chờ đợi của

chính quyền và người dân địa phương về những đầu tư cho sự phát triển kinh tế

1 Tư liệu phỏng vấn tại làng Xoan Phù Đức, 12/2021. 2 Miếu Lãi L n (Kim Đức) được đầu tư 40 tỷ đồng, xây mới các hạng mục nghi môn, bình phong, hồ sen, tả vu, hữu vu, nhà trưng bày nghệ thuật,… trên diện tích 1,7 ha.

142

của địa phương từ bên ngoài, và từ chính những giá trị mà Hát Xoan có thể mang

lại. Như Quyết định Ban hành Đề án gìn giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi

vật thể đại diện của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ, giai đoạn 2020-2025 (QĐ số

2410/QĐ-UBND, ngày 11/9/2020) nêu rõ, "tiếp tục đầu tư khôi phục lễ hội, di

tích gắn với lễ hội, các trò diễn dân gian, các hoạt động văn hóa nghệ thuật

truyền thống, các hoạt động vui chơi giải trí, ẩm thực, mua sắm sản phẩm lưu

niệm,…; đầu tư cơ sở hạ tầng và công trình dịch vụ nhằm phát triển du lịch và

nâng cao đời sống cộng đồng Xoan", Hát Xoan được xem là nguồn lực quan

trọng để phát triển nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa phương.

Kì vọng này từ Xoan cũng thể hiện rõ trong các cuộc nói chuyện với cán bộ

UBND xã Phượng Lâu (nơi có phường Xoan An Thái) và xã Kim Đức (nơi có 3

phường Xoan Thét, Phù Đức, Kim Đái). Như một cán bộ xã Kim Đức vẫn đau

đáu về việc, "hoành tráng thế thôi chứ xã nghèo lắm, đủ các loại không: không

có đường bộ, không có đường thủy, không có nhà máy xí nghiệp, không có chợ,

không có trung tâm thương mại, không có quan to", và dù "rất muốn đầu tư cho

Hát Xoan nhưng không có tiền, mà cũng muốn là Hát Xoan mang lại nhiều thứ

hơn chứ không phải chỉ là việc đầu tư vào đình miếu như thế". Đau đáu vì "câu

chuyện làm công tác quảng bá rồi gìn giữ phát triển chỉ chăm chăm nghĩ đến

tiền thì không được", nhưng "xót xa" khi thấy nghệ nhân lúc nào cũng nhiệt tình

mà "không có lương, không có phụ cấp, xin cái bảo hiểm y tế cho các bác mà còn khó"1. Những quyền lợi mà nghệ nhân được hưởng ít ỏi như vậy nên mỗi khi

có việc phải huy động đến các nghệ nhân, cán bộ xã đều có tâm lý "ái ngại". Khi

di sản liên quan đến quyền lợi và tính toán về giá trị của nhiều bên nhưng lại

khiến những người mang di sản phải chịu nhiều gánh nặng dẫn đến những bất

cập trong chính sách và những bất ổn trong tâm lý của những người liên quan.

Chuyện được, hơn giữa các phường Xoan, chuyện so sánh giữa các cá nhân nghệ

1 Tư liệu phỏng vấn, 17/12/2021.

143

nhân, các phường Xoan khi người/ phường biết lựa để theo đúng yêu cầu từ

chính quyền, từ nhu cầu của khách du lịch, người lại muốn giữ các thực hành cổ

của cha ông… cũng là điều trăn trở của nhiều người trong các cuộc bàn luận.

4.5. Di sản hóa Hát Xoan và các hình thức khác nhau của di sản

Các nỗ lực kiểm kê, khảo sát, bảo vệ, phát huy Hát Xoan tại Phú Thọ trên

thực tế đã kiến tạo một diện mạo đa dạng cho thực hành văn hóa này. Trên thực

tế, Hát Xoan Phú Thọ hiện có hai tiểu loại: (1) Xoan tín ngưỡng, với những bài

bản và thực hành gắn với tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng và các thần linh tại

đình, miếu địa phương; (2) Xoan văn nghệ, với đa dạng các hình thức Xoan phục

vụ các nhu cầu văn hóa khác như giải trí, du lịch, các hoạt động biểu diễn mang

tính chính trị nhằm thể hiện bản sắc văn hóa địa phương thông qua loại hình di

sản Hát Xoan được UNESCO ghi danh…

Trong các thuyết minh về Hát Xoan đều kèm thêm các tên gọi khác của

loại hình nghệ thuật này, với Hát Lãi Lèn (vì sự tích Hát Xoan gắn với ngôi miếu

cổ tên là Lãi Lèn), Hát Thờ (vì Hát Xoan gắn với tín ngưỡng thờ Thần của người Phú Thọ), hát Cửa Đình (vì Hát Xoan được thực hành ở đình làng)1. Các câu

chuyện kể về nguồn gốc của Hát Xoan hiện lưu truyền tại địa phương cũng cho

thấy, thực hành Hát Xoan gắn liền với nghi lễ thờ cúng tại đình, miếu, với tín

ngưỡng thờ Vua Hùng và các thần linh địa phương. Trong lời giới thiệu về Hát

Xoan tại các buổi trình diễn của nghệ nhân luôn nêu rõ "Trong Hát Xoan có 3

phần: phần nghi lễ, phần hát các quả cách và phần hát hội (…) Bắt đầu vào hát

Xoan, mở đầu là hát nghi lễ. Trong hát nghi lễ có hát giáo trống, giáo pháo, hát

thơ nhang và đóng đám. Hát giáo pháo là lối hát trống pháo dẹp đường để rước

vua về đình làng nghe hát (…) Hát đóng đám là lối hát dân làng mở tiệc đón vua

quan, chúc vua quan vạn tuế, chúc cho quan văn, quan võ của triều đình được

sống lâu muôn tuổi (…) Hát cách là lối hát hết cách này lại sang cách khác,

chàng mai cách là hát mừng vua dựng lên nhà nước Văn Lang đầu tiên của

144

người Việt, người dân được sống no đủ (…) Đối dẫy cách là cách hát của các 1 Trích theo thuyết minh về "Tên gọi khác của di sản" Hát Xoan Phú Thọ trong Hồ sơ đăng kí vào danh sách DSVHPVT cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011.

đào xoan đi theo hình trái đất, cầu chúc cho dân làng đầy đồng lúa tốt, cầu chúc

cho bốn nghề nhà nông sĩ nông công thương được vẹn tròn như ý (…) Tứ dân

Xoan cách là cách hát của người dân cầu vua ban phước lành, ban cuộc sống no đủ cho dân làng và các đào và kép hát mừng vua quan trong triều đình"1. Lời ca

trong các bài bản Hát thờ cũng thể hiện rõ tinh thần này "Tám người chân kiệu

bước vào/ Tay lót khăn đào, rước lấy cơ đồ mà vua lên/ Vua lên thánh đức trị vì/

Vua về nghe hát mừng làng sống lâu (…) Vua về phù hộ dân làng/ Thơm huê thơm quế, trâu bò lúa đầy đa"2. Với các chặng hát thờ, nghệ nhân luôn tuân thủ

các quy tắc về câu, chữ, làn điệu, động tác, tiếng trống, "hát thờ là phải chuẩn chỉnh không là các ngài quở"3. Như động tác tay "cuộn ra cuộn vào" thường thấy

trong các điệu múa Xoan, nghệ nhân Thái (phường Xoan An Thái) luôn giải

thích trong các buổi truyền dạy rằng, đó là hát mời Vua, hát dâng thần, nên tay

mình phải chìa ra rồi uốn lại như nụ hoa dâng các ngài ấy, không xòe ra như múa thông thường được4. Tâm thế này chi phối cách các nghệ nhân trình diễn, đặc

biệt trong các buổi diễn tại đình, miếu, trong các nghi lễ thờ thần Thành hoàng

tại địa phương.

Trên thực tế, Hát Xoan không phải là một chặng của nghi lễ thờ thần.

Những quan sát tại miếu Lãi L n (Kim Đức), đình Thét, miếu Cấm, đình An

Thái (Phượng Lâu) trong các lễ cúng đầu năm và trong dịp lễ hội Đền Hùng cho

thấy, sau phần lễ dâng cúng các thần là phần trình diễn Hát Xoan. Hát Xoan có

thể được trình diễn trong đình miếu (tại Thét, Kim Đái, trong tổ miếu Hùng

Vương) hoặc hát bên ngoài đình (An Thái), nhưng không thuộc về phần nghi lễ,

mà hát với mục đích mời, làm vui cho thần linh. Việc giao tiếp hướng tới thần

linh này trên thực tế chỉ diễn ra trong hai thời điểm: Tết Nguyên đán (đầu năm

âm lịch) và dịp giỗ tổ Hùng Vương (10.3 âm lịch). Về mặt tâm thức, hình thức

145

Hát Xoan tín ngưỡng chỉ được thực hành trong hai thời điểm này trong năm. 1 Trích lời Giới thiệu của phường Xoan An Thái dùng khi trình diễn (Tư liệu từ nghệ nhân, 17/12/2021). 2 Trích Hát mời vua (Hát Xoan Phú Thọ 2012). 3 Phỏng vấn nghệ nhân, 17/12/2021. 4 Tư liệu phỏng vấn.

Tuy nhiên, mục đích tín ngưỡng của Hát Xoan luôn được nhấn mạnh

trong nhiều hình thức giới thiệu, bảo vệ, phát huy di sản. Điều này khiến nảy

sinh một hướng bảo tồn và phát huy trọng tâm Hát Xoan trong sự gắn kết với tín

ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, và gần như, phần hát hội của Xoan không mấy

được chú tâm phục hồi, đặc biệt trong giai đoạn 2011-2015, và nảy sinh nhiều

vấn đề trong quá trình bảo vệ, phát huy Xoan. Vốn dĩ, Hát Xoan thờ diễn ra

trong không gian tín ngưỡng, tại đình, miếu, nhưng ngay cả khi Hát Xoan được

tách khỏi bối cảnh tâm linh, tham gia vào các chương trình biểu diễn, văn nghệ,

giải trí, các hình thức hát thờ vẫn buộc phải giữ nguyên, khiến gây nên các tranh

cãi trong việc cần "bảo tồn nguyên dạng" hay "có thể cải biên" để đáp ứng các

nhu cầu đa dạng của các đối tượng thực hành khác nhau trên thực tế. Xoan được

tách khỏi bối cảnh tâm linh, nhưng phong cách trình diễn vẫn buộc phải giữ

nguyên như khi trình diễn tại các không gian tâm linh, ngay cả khi đó là thực

hành diễn ra trên sân khấu, tại công sở hay trường học. Điều này khiến chính các

nghệ nhân cũng thấy gò bó khi buộc phải thực hành các bài bản Xoan hát thờ

146

bên ngoài các không gian mà phần hát thờ của thể loại này vốn thuộc về.

Tiểu kết Chƣơng 4

Trong Chương 4, luận án thảo luận về các vấn đề đặt ra với Hát Xoan sau

khi di sản được UNESCO ghi danh. Những hình thức bảo vệ và phát huy di sản

được tiến hành tại Phú Thọ, cả trong các phường Xoan cổ, tại các CLB Hát Xoan

và dân ca trên toàn tỉnh, tại công sở, trường học… cho thấy nhiều các vấn đề cần

bàn luận cả trong thực hành và truyền dạy. Hát Xoan hiện được thực hành,

truyền dạy và trình diễn trong các bối cảnh khác nhau, và Hát Xoan tham gia vào

nhiều khía cạnh đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa tại tỉnh Phú Thọ.

Sự tham gia của di sản trên nhiều khía cạnh đời sống như vậy tự thân nó đặt ra

một đòi hỏi cần tôn trọng đời sống riêng của di sản, và tôn trọng quyền quyết

định thực hành, sử dụng di sản của cộng đồng chủ ở cả 4 làng Xoan và chính

người dân Phú Thọ, tránh những hình thức quản lý "bảo tàng hóa", "hóa thạch

văn hóa" đối với di sản. Ngoài ra, diện mạo hiện tại của Hát Xoan cũng cho thấy,

có một dạng thức Xoan văn nghệ hướng ra bên ngoài, phục vụ cho các nhu cầu

về chính trị, văn hóa, du lịch trong nhiều không gian khác nhau trong và ngoài

Phú Thọ, và một dạng thức Xoan tín ngưỡng của cộng đồng, hướng đến và gắn

147

với các nhu cầu tâm linh, văn hóa của người dân tại địa phương.

Tính đến năm 2021, Việt Nam có 14 DSVHPVT được UNESCO ghi

danh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại. Số lượng này sẽ còn

tăng lên trong thời gian tới do chính sách của UNESCO phát huy những giá

trị văn hoá phi vật thể phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội và văn hoá của

các nước thành viên. Thực tế cho thấy, việc công nhận của UNESCO đã taọ

điều kiện cho các nước có di sản giữ gìn, bảo vệ, khai thác tốt các giá trị văn

hoá của mỗi quốc gia, mà đâu đó một thời chúng bị coi nhẹ, thậm chí còn bị

phá huỷ. Song với sự ghi danh này nhiều di sản văn hoá phi vật thể được coi

trọng bảo vệ và phát huy giá trị của nó trong mỗi nước thành viên, hơn thế

còn quảng bá các giá trị văn hoá ra toàn thế giới. Việt Nam chúng ta cũng

không phải ngoại lệ. Với việc ghi danh những di sản văn hoá này, một mặt

những di sản văn hoá đó được bảo vệ và coi trọng, mặt khác, nó còn được bè

bạn năm châu biết đến những giá trị văn hoá độc đáo của Việt Nam, đồng thời

góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá, nhất là du

lịch văn hoá, một hiện tượng đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam và thế giới

hiện nay. Di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho nhân loại Hát Xoan của Phú

Thọ chính là một hiện tượng đó. Cùng với 13 di sản văn hoá phi vật thể khác

của Việt Nam đã được công nhận như: Nhã nhạc cung đình Triều Nguyễn,

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Ca

trù…., Hát Xoan Phú Thọ cũng trải qua tất cả những vấn đề của một di sản từ

việc lập hồ sơ ghi danh đến những hoạt động sau khi được ghi danh là một di

sản danh giá. Luận án này đã nhìn nhận Hát Xoan trong bối cảnh đó.

Từ quan điểm di sản hoá văn hoá với ý nghĩa nhà nước sử dụng các di

sản văn hoá được quốc tế công nhận như một công cụ chính trị của mình

trong việc thể hiện những ý tưởng, đường lối và quyền lực đối với người dân

sở tại và qua đó là đến rộng rãi toàn dân nhằm quản lý người dân trong khuôn

148

KẾT LUẬN

khổ của chế độ. Điều này đôi khi cho thấy người dân bị đứng ngoài lề bên

chính những di sản mà cha ông họ truyền lại. Tuy nhiên, về phía người dân,

bằng những thực hành của mình, họ cũng khai thác những điều đó phục vụ

cho cuộc sống hàng ngày sao cho họ không bị đứng ngoài lề, đồng thời còn

tồn tại được một cách tốt nhất trong bối cảnh tồn tại của di sản đó để họ tồn

tại và phát triển mà vẫn bảo vệ được di sản của cha ông. Đó cũng là tính chính

trị của việc di sản hoá, một vấn đề lý luận được nhiều nhà nghiên cứu quan

tâm đối với những trường hợp như hiện tượng này. Đây là những vấn đề lý

luận được luận án sử dụng để xem xét, soi rọi vào thực tế của di sản phi vật

thể Hát Xoan Phú Thọ.

Nội dung luận án đã làm rõ diện mạo của Hát Xoan Phú Thọ trong quá

khứ đối với người dân Phú Thọ, đặc biệt là những làng có giá trị văn hoá phi

vật thể này. Luận án không nhằm giới thiệu về Hát Xoan Phú Thọ, song bằng

việc khái quát nguồn gốc, thể loại, cách tổ chức, các phong tục tập quán liên

quan…, nhằm giúp người đọc có một hình dung về loại hình văn hoá phi vật

thể này của Phú Thọ. Có thể thấy, Hát Xoan là một loại hình nghệ thuật đã

tồn tại lâu đời trên mảnh đất này. Hát Xoan đã gắn bó với người dân Phú Thọ

từ thế hệ này qua thế hệ khác, được người dân thực hành trong những dịp lễ

tết, trong đời sống tâm linh cũng như sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của họ. Từ

đó để thấy tại sao trong suốt chặng đường lịch sử, Hát Xoan đã tồn tại và phát

triển trong đời sống của người dân nơi đây. Những vấn đề này như nền cảnh

cho việc ghi danh và duy trì sự phát triển của Hát Xoan trong thời hiện đại.

Cũng như mọi hiện tượng văn hoá khác, Hát Xoan Phú Thọ sau khi

được vinh danh đã chịu mọi tác động của bối cảnh mà nó tồn tại. Trước hết là

bối cảnh kinh tế xã hội. Trước xu thế phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất

nước, Phú Thọ cũng không nằm ngoài dòng chảy đó. Điều kiện kinh tế hiện

tại đã có nhiều thay đổi, các khu công nghiệp xuất hiện ngày một nhiều, đô thị

149

hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ, đời sống người dân được nâng cao.

Những làng truyền thống xưa, trong đó có các làng Xoan nay đã lên phố,

thành xã, phường. Điều này đã kéo theo những thay đổi về không gian, cơ sở

vật chất và nhu cầu thị hiếu của con người. Hát Xoan trước đây chỉ diễn ra

trong làng, trong hội làng, để lễ thần và phục vụ người dân của một làng, nay

Hát Xoan đã mở rộng đáng kể ra nhiều làng và rộng hơn là khách du lịch từ

khắp nơi, kể cả quốc tế. Đặc biệt Hát Xoan lại nằm trong Không gian tín

ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một di sản văn hoá phi vật thể đại diện cho

nhân loại đã được UNESCO ghi danh trước đó. Do vậy, việc hai di sản thế

giới cùng hiện diện trong một không gian đã tạo ra một bối cảnh có sự tác

động, hỗ trợ lẫn nhau mạnh mẽ. Thêm nữa đó là nhu cầu của người dân địa

phương cũng như du khách xã gần trong thời hiện đại không khỏi có những

tác động lên di sản văn hoá này cả mặt tích cực lẫn hạn chế.

Đặt Hát Xoan của ngày hôm nay trong bối cảnh di sản hóa ở Việt Nam,

luận án đã xem xét quá trình sau khi di sản được ghi danh đã diễn ra như thế

nào; những chủ trương, chính sách của chính quyền địa phương nhằm phát

triển loại hình nghệ thuật này cụ thể ra sao. Hát Xoan đã được tìm hiểu, sưu

tầm, ghi chép ra sao trong quá khứ cũng như hiện tại. Sau khi được vinh danh

các thực hành Hát Xoan đã được tiến hành như thế nào? Công tác kiểm kê,

sưu tầm, thậm chí sáng tác những bài Xoan mới; đặc biệt là công việc truyền

dạy Hát Xoan đã được làm ra sao trong không gian của các làng Xoan, trong

các câu lạc bộ, trường học… trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Hát Xoan đã được

thay đổi ra sao trong lời hát, âm nhạc, được trình diễn tại công sở, trường học,

các điểm du lịch như thế nào… Đây là những công việc được tiến hành rất

tích cực và mạnh mẽ trong toàn tỉnh Phú Thọ và trong chừng mực nào đó đã

có những thành công đáng kể. Luận án đã chỉ ra quá trình này và những kết

quả của nó tại địa bàn nghiên cứu.

150

Có thể thấy, Hát Xoan Phú Thọ sau khi vinh danh đã trở thành một di

sản đáp ứng được nhu cầu của địa phương trong việc khẳng định vị thế và giá

trị của nó trong đời sống của người dân nơi đây. Hát Xoan Phú Thọ với sự kết

nối với thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương diễn ra phổ biến và rộng

khắp tại Phú Thọ, tạo nên một bản sắc văn hóa riêng của Phú Thọ trong bối cảnh

mới. Điều này đã thể hiện ở thực hành Hát Xoan diễn ra tại Phú Thọ sau khi

được UNESCO ghi danh. Với các hoạt động phục dựng, bảo vệ, phát huy Hát

Xoan trên toàn tỉnh, trong các làng Xoan cổ, trong các câu lạc bộ Hát Xoan và

dân ca Phú Thọ, trong môi trường công sở, trường học, có thể thấy những

thay đổi tích cực cũng như những hạn chế mà nó đem lại.

Trên thực tế, Hát Xoan không phải là một hình thức di sản với các thực

hành mang tính cố định. Lịch sử Hát Xoan từ quá khứ tới hiện tại cho thấy

một quá trình phát triển của loại hình nghệ thuật này, với sự ảnh hưởng mạnh

mẽ của các vấn đề bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau trong

các thời điểm khác nhau. Hát Xoan sau ghi danh di sản mang một diện mạo

khác, với các thực hành liên quan tới các mục đích cụ thể (tín ngưỡng, giáo

dục, du lịch, chính trị… ) trong bối cảnh hiện tại, và các thực hành này vẫn

đang tiếp tục được kiến tạo, theo những nhu cầu cụ thể tại địa phương.

Quá trình Hát Xoan được bảo vệ và phát huy trên toàn tỉnh Phú Thọ

như cách làm hiện tại đã khiến trong thực tế, hình thành nên hai tiểu loại Hát

Xoan khác nhau gồm Xoan tín ngưỡng và Xoan văn nghệ, đáp ứng các nhu

cầu tín ngưỡng và ngoài tín ngưỡng tại địa phương. Thực tế này vừa là sản

phẩm phát sinh của quá trình bảo vệ di sản, vừa đặt ra thách thức với công tác

bảo vệ di sản hiện đang được thực hiện tại địa phương. Một điều không thay

đổi là Xoan tín ngưỡng vẫn tồn tại bền vững tại các nghi lễ, lễ hội ở đình, đền

vào các dịp tế lễ, hội làng, thể hiện hát Xoan là một sinh hoạt tín ngưỡng như

hát cửa đình ở những lễ hội khác. Tại đây, hát Xoan được duy trì đúng như

151

truyền thống trước đây đó là hát thờ thánh nhằm cầu mong sự che chở của

ngài đối với dân làng được bình an, nhân khang vật thịnh trong năm. Những

lời ca tiếng hát để dâng lên thần thánh nhằm ca ngợi công đức của các ngài,

bên cạnh việc cảm ơn sự phù hộ độ trì của ngài, còn là làm cho các ngài vui

vẻ để tiếp tục giúp đỡ dân làng trong năm mới. Những thực hành Xoan tín

ngưỡng này đảm bảo phong tục, giữ gìn truyền thống được thế hệ này truyền

cho thế hệ kia. Trong khi đó, Xoan văn nghệ đã vượt khỏi ranh giới của tín

ngưỡng để đi vào cuộc sống cuả người dân. Những thực hành này có thể diễn

ra ở khắp mọi nơi ngoài khuôn viên các nơi thờ tự truyền thống như tại các

câu lạc bộ, các liên hoan, hội h vui vẻ, tại trường học, nàh văn hoá và những

khu du lịch giải trí với ý nghĩa của một loại hình nghệ thuật độc đáo chỉ Phú

Thọ mới có. Chính vì thế nó trở thành “đặc sản” của Phú Thọ để có thể phục

vụ và thu hút du khách khi đến thăm vùng đất này. Khác với Xoan tín ngưỡng

phải tuân thủ những quy định nghiêm túc của phong tục, thì Xoan văn nghệ

cởi mở hơn, thoải mái hơn và khuyến khích sự sáng tạo của người hát. Người

hát có thể đáp ứng mọi đối tượng người nghe, nếu muốn nghe Xoan cổ thì họ

hát Xoan cổ đối với người khắt khe hoặc muốn tìm hiểu, nghiên cứu, nếu

muốn nghe các bài vui vẻ, thoải mái thì họ được đáp ứng điều họ muốn.

Giống như một số hiện tượng văn hoá khác trong nước, chẳng hạn như hiện

tượng cồng chiêng Tây Nguyên được người Lạch, người Chil ở Đà Lạt biểu

diễn cho khách. Ai muốn tìm hiểu các làn điệu chiêng cổ thì có nhóm biểu

diễn riêng, ai muốn nghe và xem các bài chiêng mới thì có nhóm nghệ nhân

đáp ứng cho họ. Như vậy, đối với người dân, tính chính trị của di sản được họ

thể hiện rất rõ rệt. Một mặt, theo yêu cầu của phong tục, của việc giữ gìn bản

sắc như yêu cầu của nhà nước, họ giữ các làn điệu Xoan tín ngưỡng nhằm

phục vụ nhu cầu đó, ngoài ra họ dùng Xoan văn nghệ để khai thác những lợi

thế kinh tế trong các hoạt động du lịch.

152

Cách thực hành di sản Hát Xoan hiện đang được bảo vệ cho thấy cả

quan điểm bảo vệ di sản mang tính tĩnh, không thay đổi, như một hình thức

“bảo tàng hoá” của hiện tượng văn hoá phi vật thể, hướng đến các yếu tố

được xem là giá trị được phục hồi từ truyền thống. Bên cạnh đó là quan điểm

bảo tồn động để giá trị văn hoá phi vật thể này được phổ biến hơn, đa dạng

hơn, đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng du khách trong bối cảnh mở

cửa của kinh tế thị trường và phát triển du lịch. Từ đây dẫn tới những cách

tiếp nhận và phản ứng trái chiều trong thực hành và truyền dạy không chỉ đối

với Hát Xoan, mà cũng là thực tế ở các loại hình di sản văn hoá phi vật thể

khác. Đây cũng là một vấn đề mở ra từ luận án này cho các nghiên cứu khác

về di sản văn hoá phi vật thể ở nước ta.

Từ thực tế nghiên cứu, luận án cũng đặt ra vấn đề tiếp cận "di sản văn

hóa sống", với việc xem di sản như một yếu tố trong chỉnh thể văn hóa và xã

hội, tôn trọng đời sống riêng của di sản cũng như quyền sử dụng di sản của

các chủ thể thực hành nhằm hướng tới việc phát huy các giá trị của di sản

trong bối cảnh di sản hóa hiện nay ở Việt Nam. Giống như các di sản văn hoá

phi vật thể khác, di sản Hát Xoan có một đời sống của riêng nó trong đời sống

hiện nay. Việc khai thác Xoan như thế nào để một mặt vẫn bảo tồn các giá trị

vốn có, mặt khác, vẫn có thể đưa di sản này vào thực hành văn hoá hiện đại

và đem lại những lợi ích kinh tế của người dân Phú Thọ. Đây là vấn đề cần

được tiếp tục nghiên cứu ở những công trình tiếp theo.

153

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

(Có liên quan trực tiếp tới đề tài luận án)

1. Tác giả (2016), Xây dựng và biên soạn tài liệu một số điệu hát Xoan và

Dân ca Phú Thọ cho giáo viên Âm nhạc trường tiểu học tỉnh Phú Thọ giai

đoạn hiện nay, Đề tài cấp trường, Trường Bồi dưỡng Nhà giáo và Cán bộ

Quản lý giáo dục tỉnh Phú Thọ.

2. Đồng tác giả (2 tác giả) (2018), “Tín ngưỡng thờ Xuân Nương ở xã

Hương Nha, Phú Thọ”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 413 (2018), tr.

13-16.

3. Tác giả (2019), “Bàn thêm về nguồn gốc của hát Xoan Phú Thọ”, Tạp chí

Văn hóa học, Số 5 (45), tr. 39-45.

4. Tác giả (2021), “Hát Xoan trong trường học và vấn đề giáo dục Di sản”,

Tạp chí Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Số 2(194), tr.74-80.

5. Tác giả (2022), “Hát Xoan Phú Thọ và các hoạt động kiểm kê, sưu tầm,

sáng tác, ký âm trong bảo vệ, phát huy di sản”, Tạp chí Giáo dục và xã

154

hội, số 4/2022 (kì 1), tr.330-334.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Trần Thị An, Phạm Minh Thảo, Bùi Xuân Mỹ. 1998. Truyền thuyết Việt

Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

2. Dương Anh. 2005. “Đôi điều về hát Xoan”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,

Số 11, tr.103-104.

3. Phan Phương Anh. 2014. “Di sản hóa lễ hội truyền thống và tính thiêng

của nghi lễ ”, trong 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di sản văn hóa phi

vật thể của UNESCO bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Kỷ

yếu hội thảo khoa học quốc tế. Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, tr. 33-42.

4. Trần Thị Kim Anh. 2010. “Từ những chữ Nôm “Lý liên” và “Lễ liên” - Đôi

điều suy nghĩ về nguồn gốc hát Xoan”, Tạp chí Hán Nôm, Số 6, tr.66-68.

Toan Ánh. 1991. Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 5.

Đặng Văn Bài. 2007. “Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể - từ góc nhìn 6.

toàn cầu hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 3, tr.3-9.

7. Đức Bằng. 1982. “Mùa Xuân nhớ về hát Xoan”, Tạp chí Âm nhạc, Số 1,

tr.10-14, tr.37.

8. Nguyễn Chí Bền. 2005. “Di sản văn hóa phi vật thể từ sưu tầm, nghiên

cứu đến bảo tồn và phát huy”, in trong Bảo tồn và phát huy di sản văn

hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam xuất bản,

Hà Nội.

9. Nguyễn Chí Bền. 2009. “Nhìn lại nhiệm vụ sưu tầm, bảo tồn và phát huy di

sản văn hóa phi vật thể trong chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai

đoạn 2001 - 2005”, in trong Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở

Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam xuất bản, Hà Nội.

10. Nguyễn Chí Bền. 2013. “Nhà nước và công tác bảo tồn, phát huy Di sản

văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, những bài học từ lịch sử”, Chuyên đề Bảo

155

tồn Di sản văn hóa, Số 4, tr.8-17.

11. Trương Quốc Bình. 2013. “Vận dụng những quan điểm của UNESCO vào

việc hoạch định chính sách và hệ thống pháp lý về bảo tồn di sản văn hóa

phi vật thể ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo 10 năm thực hiện Công ước bảo

vệ di sản văn hóa Phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm vàđịnh

hướng tương lai, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

12. Phan Kế Bính. 1990. Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp, Đồng Tháp.

13. Bộ Chính trị. 1998. Chỉ thị số 27-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương về

việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, Hà Nội.

14. Bộ Văn hóa. 1956. Thông tư số 1845 VH/TT của Bộ Văn hóa về việc tổ chức

những ngày hội hè của nhân dân, Hà Nội.

15. Bộ Văn hóa. 1957a. Công văn 2361 VH/ NC về việc tôn trọng những ngày

Tết, ngày hội của các dân tộc thiểu số, Hà Nội.

16. Bộ Văn hóa. 1957b. Thông tư số 131 VH/TT của Bộ Văn hóa v/v hướng

dẫn tổ chức các hội hè, hoạt động văn nghệ trong mùa xuân và ngăn ngừa

các hiện tượng xấu đang nảy nở, Hà Nội.

17. Bộ Văn hóa. 1958. Thông tư số 28 TT/NC bổ khuyết kế hoạch lãnh đạo hội hè

6 tháng cuối năm 1958 và xuân hè năm 1959, Hà Nội.

18. Bộ Văn hóa. 1971. Chỉ thị số 10/VH-VP về vấn đề hội hè, Hà Nội.

19. Bộ Văn hóa. 1977. Chỉ thị số 54/VH-QC về việc chỉ đạo các ngày hội, Hà Nội.

20. Bộ Văn hóa. 1989. Quy chế mở hội truyền thống dân tộc số 54/VHQC, Hà Nội.

21. Bộ văn hóa - Thông tin. 1994. Quy chế lễ hội Ban hành kèm theo quyết định

số 636/QĐ-QC ngày 21 t hang 5 năm 1994 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

22. Bộ Văn hoá thông tin. 1976. Dân ca Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

23. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Quyết định Thành lập Ban chỉ

đạo xây dựng hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ" đề nghị UNESCO đưa vào danh

sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Số 4938/ QĐ-

156

BVHTTDL, ngày 25/12/2009, Hà Nội.

24. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Quyết định Về việc xây dựng hồ

sơ đề cử quốc gia "Hát Xoan Phú Thọ" đề nghị UNESCO đưa vào danh

sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, Số 4953/QĐ-

BVHTTDL, ngày 28/12/2009, Hà Nội.

25. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2010. Hồ sơ đăng kí vào danh sách di

sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp năm 2011: Hát Xoan Phú

Thọ, Hà Nội.

26. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia.

2012. Lễ hội - Nhận thức, giá trị và giải pháp quản lý, Tài liệu Hội thảo

khoa học.

27. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2013. Hội thảo 10 năm thực hiện Công

ước UNESCO về bảo vệ Di sản văn hóa phivật thể - những bài học, kinh

nghiệm và định hướng tương lai, Quảng Nam, 23-24/6/2013.

28. Lê Ngọc Canh. 1990. Văn hóa dân gian Việt Nam - những thành tố,Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Phương Châm. 2017. “Thực hành hát Xoan từ khi được

UNESCO ghi danh và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số

6/2017, tr.52-59.

30. Nguyễn Thị Phương Châm, Hoàng Cầm, Nguyễn Thị Hiền. 2018. “Bảo vệ

và phát huy di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh: thành

tựu, bất cập và các khuyến nghị”, Hội thảo Bảo vệ và phát huy di sản văn

hóa dân gian dân tộc thiểu số, thực trạng và giải pháp, Đồng Mô,

14/12/2018.

31. Nguyễn Từ Chi. 2003. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

32. Cục Di sản văn hóa. 2007. Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, tập 1, Hà Nội.

33. Phạm Duy Đức (Chủ biên). 2010. Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn

157

2010-2020 - xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Phan Hồng Giang. 2009. “Về chương trình Bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa phi vật thể” trong Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt

Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.

35. Nguyễn Thị Thu Hà. 2013. “Bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam: phát

triển ngành công nghiệp văn hóa”, Kỷ yếu Hội thảo 10 năm thực hiện

Công ước bảo vệ di sản văn hóa Phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh

nghiệm và định hướng tương lai, Quảng Nam.

36. Nguyễn Duy Hinh. 1996. Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

37. Hội đồng Chính phủ. 1975. Quyết định số 56-CP của Hội đồng Chính phủ

về việc ban hành bản thể lệ về tổ chức việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày

hội, Hà Nội.

38. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. 1995.

Từ điển bách khoa Việt Nam, tập I, Trung tâm biên soạn Từ điển bách

khoa Việt Nam, Hà Nội.

39. Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang. 2000. Phát triển cộng đồng - Lý

thuyết và vận dụng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

40. Lê Huy, Huy Trân. 1984. Nhạc khí dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Huy (2012). Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội

truyền thống: thảo luận về một số khái niệm cơ bản. Tạp chí Dân tộc học,

số 4, tr.44-54.

42. Vũ Ngọc Khánh. 1994. Tín ngưỡng làng xã, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

43. Trần Văn Khê. 2002. “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật chất của

các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, trong Tính đa dạng của văn hóa Việt

Nam - những tiếpcận về sự bảo tồn, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân

văn quốc gia Hà Nội.

44. Nguyễn Bá Khiêm (Chủ biên). 2012. Tổng tập Về miền lễ hội cội nguồn

158

dân tộc Việt Nam, Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.

45. Nguyễn Bá Khiêm. 2005. “Lễ hội hát Xoan và sự tích bánh chưng bánh

dày (xã Kim Đức - huyện Phù Ninh)”, in trong Lễ hội truyền thống vùng

đất Tổ và Các làng văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc Phú Thọ, Nxb

Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Phú Thọ xuất bản, tr.96-106, Phú Thọ.

46. Nguyễn Xuân Kính. 2009. “Nghệ nhân dân gian”, trong Bảo tồn và phát

huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt

Nam xuất bản, Hà Nội.

47. Klaus, P. Hasen. 1999. “Văn hóa và Văn hóa học”, tạp chí Văn hóa Nghệ

thuật, số 10, tr.11-13.

48. Bùi Thị Mai Lan. 2013. Hát Xoan làng Phù Đức, xã Kim Đức, thành phố

Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học

xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Xuân Lâm. 1974. Địa chí Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh Phú xuất

bản, Vĩnh Phú.

50. Quản Hoàng Linh. 2012. “Bảo tồn và phát huy Di sản văn hóa phi vật thể

ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Số 337, tr.3-7.

51. Nguyễn Thụy Loan. 2005. Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb Đại học Sư

phạm Hà Nội.

52. Lâm Tô Lộc. 1997. Nghệ thuật múa dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

53. Nguyễn Lộc. 1974. “Hát Xoan Phú Thọ”, Tạp chí Dân tộc học, Số 3, tr.83-89.

54. Nguyễn Lộc. 1975. “Múa hát Xoan (nguồn gốc, thể thức)”, trong Những

vấn đề lịch sử Vĩnh Phú, tập 1, Ty Văn hóa Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.

55. Luật Di sản văn hóa. 2009. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009 tại

văn bản số 32/2009/QH12.

56. Lê Hồng Lý, Nguyễn Thị Hiền, Đào Thế Đức, Hoàng Cầm. 2014. “Bảo

tồn và phát huy di sản văn hóa trong quá trình hiện đại hóa: nghiên cứu

159

trường hợp Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), Hội Gióng (Hà

Nội), Tháp bà Poh Nagar (Khánh Hòa) và văn hóa cồng chiêng của người

Lạch (Lâm Đồng)”, in trong Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương

đại, Nxb Tri thức, Hà Nội.

57. Lê Thị Minh Lý. 2013. “Đưa di sản văn hóa phi vật thể vào chương trình

giáo dục trong nhà trường”, Kỷ yếu Hội thảo10 năm thực hiện Công ước

bảo vệ di sản văn hóa Phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và

định hướng tương lai, Quảng Nam.

58. Meeker, Lauren. 2019. "Tìm kiếm chỗ đứng trên sân khấu văn hóa thế

giới: "Di sản văn hóa" lễ hội làng Quan họ" (tr.122-159), in trong Hiện đại

và động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học

(Quyển 5: Di sản, tự sự và ký ức), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Phạm Phúc Minh. 1994. Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

60. Lê Thị Ngà. 2015. “Quá trình di sản hóa và thực hành văn hóa xã hội ở

Đường Lâm hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học

xã hội.

61. Hữu Ngọc (Chủ biên). 1994. Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

62. Phan Ngọc. 1994. Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

63. Tú Ngọc. 1994. Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

64. Tú Ngọc. 1995. “Hát Xoan Vĩnh Phú (mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc

trưng loại hình và hướng bảo tồn phát triển)”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học

Dân ca Xoan GhẹoVĩnh Phú lần thứ Nhất 11-1994, Sở Văn hóa thông tin

thể thao Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.

65. Tú Ngọc. 1997. Hát Xoan Dân ca nghi lễ - phong tục, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

66. Tú Ngọc. 1997. “Mối quan hệ giữa hát Xoan và hát Ca trù”, Tạp chí Văn

hóa nghệ thuật, Số 9, tr.89-90.

160

67. Tú Ngọc. 1997. Hát Xoan (12 bản phổ), NXb Văn hóa, Hà Nội.

68. Tú Ngọc. 1981. Bước đầu tìm hiểu hát Xoan Vĩnh Phú, Ty văn hóa thông

tin Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.

69. Nhiều tác giả. 1975. Những vấn đề lịch sử Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh

Phú xuất bản, Vĩnh Phú.

70. Nhiều tác giả. 2005. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở

ViệtNam, Viện Văn hóa - Thông tin xuất bản, Hà Nội.

71. Nhiều tác giả. 2006. Không gian văn hóa quan họ Bắc Ninh - Bảo tồn

và pháthuy, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh, Viện Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

72. Đỗ Thị Nhung (Chủ nhiệm). 2016. Xây dựng chương trình và Biên soạn

tài liệu bồi dưỡng một số làn điệu hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cho giáo

viên dạy Âm nhạc các trường Tiểu học tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện nay,

Đề tài cấp cơ sở, Trường Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý nhà giáo

tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.

73. Nguyễn Thị Nhung. 1991. Hình thức âm nhạc, Nxb Âm Nhạc, Hà Nội.

74. Nguyễn Thị Nhung. 2017. Vai trò của nhà nước trong lễ hội chùa Hương, Luận

văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

75. Cao Hồng Phương (Chủ biên). 2011. “Hát Xoan, hát Ghẹo một giá trị văn

hóa phi vật thể”, Đề tài khoa học cấp Trường, Trường Đại học Hùng

Vương xuất bản, Phú Thọ.

76. Lương Hồng Quang (2013). Đa dạng về các biểu đạt văn hóa từ các di sản

văn hóa phi vật thể (Bàn về khuynh hướng chính sách và thực tiễn cổ vũ

cho sự tham gia của cộng đồng). Trong 10 năm thực hiện công ước bảo vệ

di sản văn hóa phi vật thể của Unesco – Bài học kinh nghiệm và định

hướng tương lai. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế. Hội An 2013.

77. Võ Quế. 2006. Du lịch cộng đồng-lý thuyết và vận dụng, Nxb Khoa học

161

và kỹ thuật, Hà Nội.

78. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII. 2009. Luật

Di sản văn hóa, văn bản số 32/2009/QH12.

79. Đào Xuân Quý (2016), “Lễ hội đình, đền làng Cổ Tích (Phú Thọ) hậu di

sản”, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

80. Salemink, Osar. 2012. “Di sản hóa văn hóa ở Việt Nam: Di sản văn hóa

phi vật thể giữa các cộng đồng, nhà nước và thị trường”, trong Kỷ yếu Hội

thảo quốc tế Việt Nam học Lần thứ 4, tháng 11/2012.

81. Salemink, Oscar (2014), ““Di sản hóa” văn hóa sống ở Việt Nam như di

sản văn hóa phi vật thể”, Hội thảo 10 năm thực hiện công ước bảo vệ di

sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và định

hướng tương lai (Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế), Nxb Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội.

82. Sở Văn hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú. 1986. Văn hóa dân gian vùng đất

Tổ (Địa chí Vĩnh Phú), Sở Văn hóa, thông tin, Thể thao Vĩnh Phú xuất bản.

83. Sở Văn hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú. 1995. Kỉ yếu hội thảo khoa học

Dân ca Xoan GhẹoVĩnh Phú lần thứ Nhất 11-1994, Sở Văn hóa thông tin thể

thao Vĩnh Phú xuất bản.

84. Sở Văn hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú. 1996. Dân ca Vĩnh Phú (Tập bài

hát Dân ca chọn lọc), Sở Văn hóa, thông tin, Thể thao Vĩnh Phú xuất bản.

85. Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Phú Thọ. 2003. Tổng tập văn nghệ dân

gian đất Tổ (tập 4), Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Phú Thọ và Hội Văn

nghệ dân gian Phú Thọ xuất bản.

86. Sở Văn hoá thể thao và Du lịch Phú Thọ, Bảo tàng Tỉnh. 2009. Kế hoạch

điều tra, khảo sát, sưu tầm tư liệu di sản Hát Xoan. Phú Thọ, 29/9/2009.

87. Sở Văn hoá thể thao và Du lịch Phú Thọ, Viện âm nhạc Việt Nam. 2009.

Hát Xoan Phú Thọ, Phú Thọ, 2009.

88. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ. 2012. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế

162

về hát Xoan, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ xuất bản.

89. Bùi Hoài Sơn. 2010. “Di sản cho ai và câu chuyện tổ chức lễ hội truyền

thống ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản văn hóa, Số 3, tr.10-14.

90. Trần Hữu Sơn. 2017. Văn hóa dân gian ứng dụng. Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

91. Tô Ngọc Thanh. 2007. Ghi chép về văn hóa và âm nhạc. Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

92. Cao Tự Thanh. 2013. “Cơ chế và đặc điểm của sự mất mát các di sản văn

hóa phi vật thể ở Việt Nam”, Tạp chí Xưa và Nay, Số 421, 422, tr.10-12.

93. Dương Huy Thiện. 2015. Hát Xoan - Dân ca cội nguồn, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

94. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (Chủ biên). 2005. Folklore - Một số

thuật ngữ đương đại. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội.

95. Ngô Đức Thịnh. 2010. Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập. Nxb Khoa học xã hội.

96. Trần Văn Thục (Chủ biên). 2009. Âm nhạc dân gian Phú Thọ, Trường Đại

học Hùng Vương xuất bản, Phú Thọ.

97. Thủ tướng Chính phủ. 2013. Quyết định Phê duyệt Đề án bảo tồn và phát

huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại -

Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2013-2020), Số 2058/QĐ-TTg, 07/11/2013,

Hà Nội.

98. Cao Khắc Thùy. 2011. Hát Xoan - Hát Ghẹo dấu ấn một chặng đường,

Nxb Âm nhạc, Hà Nội.

99. Đỗ Thị Minh Thúy. 2004a. Báo cáo đề dẫn Hội thảo "Xây dựng và phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" trong Xây

dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc: Thành tựu và kinh nghiệm (Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung

ương 5 Khóa VIII), Đỗ Thị Minh Thúy (Chủ biên), tr.7-12, Nxb Văn hóa

163

Thông tin, Hà Nội,

100. Đỗ Thị Minh Thúy. 2004b (Chủ biên). Xây dựng và phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: Thành tựu và kinh nghiệm

(Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII). Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

101. Phạm Trọng Toàn. 2001. “Vị trí, ý nghĩa của hát Xoan trong văn hóa âm

nhạc Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Số 7, tr.66-73.

102. Phạm Trọng Toàn. 2006. Tương đồng, khác biệt giữa hát Xoan, hát Ghẹo

Phú Thọ và Quan họ Bắc Ninh, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện văn

hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.

103. Tạ Chí Đại Trường. 2006. Thần, người và đất Việt, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

104. UNESCO. 1972. Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế

giới, Cục Di sản Văn hóa biên dịch, Văn phòng UNESCO tại Việt Nam

hiệu đính và in ấn.

105. UNESCO. 1997. “Tuyên bố của UNESCO tại kỳ họp lần thứ 29 (tháng

11) của Hội nghị toàn thể về di sản truyền miệng của nhân loại”, trong

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa

Nghệ thuật Việt Nam xuất bản, Hà Nội.

106. UNESCO. 1997. “Thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống (tài sản người

đang sống) tại UNESCO” trong Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi

vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam xuất bản, Hà Nội.

107. UNESCO. 2003. Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Cục Di sản

Văn hóa biên dịch, Văn phòng UNESCO tại Việt Nam hiệu đính, in ấn.

108. UNESCO. 2012. Hướng dẫn thực hiện công ước di sản Thế giới, Văn

phòng UNESCO Hà Nội dịch và xuất bản.

109. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2008. Kế hoạch

Tổ chức Hội thảo cấp chuyên gia tư vấn và lựa chọn DSVHPVT đề nghị

164

UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Phú Thọ, 17/12/2008.

110. UBND tỉnh Phú Thọ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2008. Không

gian văn hóa vùng đất Tổ Hùng Vương, Hội thảo khoa học do UBND tỉnh

Phú Thọ phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.

111. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Kế hoạch

Tổ chức khảo sát xây dựng nội dung hồ sơ Di sản Hát Xoan. Phú Thọ, Số

18/KH-SVHTTDL, 08/6/2009.

112. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 2009. Kế hoạch

Tổ chức Hội thảo, tọa đàm khoa học xây dựng hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ"

trình Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc

(UNESCO) xem xét đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo

vệ khẩn cấp. Phú Thọ, Số 38/KH-SVHTTDL, 09/10/2009.

113. UBND tỉnh Phú Thọ. 2009. Thông báo kết luận Hội thảo khoa học "Hát

Xoan Phú Thọ" lần thứ nhất, Phú Thọ, 13/10/2009.

114. UBND tỉnh Phú Thọ. 2009. Thông báo kết luận Hội thảo khoa học "Hát

Xoan Phú Thọ", Phú Thọ, 19/10/2009.

115. UBND tỉnh Phú Thọ. 2010. Kế hoạch Tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả

công tác kiểm kê Hát Xoan Phú Thọ, Số 12/KH-SVHTTDL, ngày

20/2/2010, Phú Thọ.

116. UBND tỉnh Phú Thọ. 2010. Hát Xoan Phú Thọ, Hội thảo khoa học quốc tế

do UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức.

117. UBND tỉnh Phú Thọ. 2011. Thông báo Kết luận của đồng chí Hà Kế San -

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ, Phó Trưởng Ban chỉ dạo Xây dựng, vận

động hồ sơ "Hát Xoan Phú Thọ" và hồ sơ "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng

Vương ở Phú Thọ" tại Hội nghị thống nhất công tác chuẩn bị cho Đêm hát

Xoan ngoại giao tại Hà Nội, Số 83/ TB-UBND, ngày 22/9/2011, Phú Thọ.

118. UBND tỉnh Phú Thọ. 2013. Kế hoạch Triển khai một số nhiệm vụ trọng

165

tâm về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ

khẩn cấp của nhân loại - Hát Xoan Phú Thọ (Năm 2013-2014), Số

3864/KH-UBND (Hỏa tốc), Phú Thọ.

119. UBND tỉnh Phú Thọ. 2014. Về việc tiếp tục triển khai các nhiệm vụ trọng

tâm bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hát Xoan Phú Thọ năm 2014,

Số 2724/UBND-VX5, Phú Thọ.

120. UBND tỉnh Phú Thọ. 2016. Kế hoạch Triển khai các nhiệm vụ trọng tâm

về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp

của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ năm 2016, số 162/KH-UBND, ngày

15/01/2016, Phú Thọ.

121. UBND tỉnh Phú Thọ. 2017. Báo cáo Cập nhật kết quả kiểm kê Hát Xoan

Phú Thọ (từ tháng 02/2016 đến tháng 11/2017), Số 154/BC-SVHTTDL,

ngày 20/11/2017, Phú Thọ.

122. UBND tỉnh Phú Thọ, Sở VHTT&DL. 2017. Nội dung rà soát cam kết

cộng đồng Hồ sơ Hát Xoan Phú Thọ, Phú Thọ.

123. UBND tỉnh Phú Thọ. 2020. Quyết định Ban hành Đề án gìn giữ, phát huy

giá trị di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ,

giai đoạn 2020-2025, Số 2410/QĐ-UBND, ngày 11/9/2020, Phú Thọ.

124. UBND xã Hùng Lô. 2021. Bản thuyết minh về điều kiện công nhận điểm

du lịch, Phú Thọ.

125. Đặng Nghiêm Vạn. 1994. “Lễ hội - Thái độ ứng xử xưa và nay”, in trong

Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, tr.275 - 282.

126. Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam. 2009. Bảo tồn và phát huy

disản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Hà Nội.

127. Hoàng Vinh. 2006. Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam

hiện nay, Nxb Văn hóa - Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội

128. Lê Trung Vũ (Chủ biên). 1992. Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội,

166

Hà Nội.

129. Tô Vũ. 1996. Sức sống của âm nhạc truyền thống Việt Nam, Nxb Âm

nhạc, Hà Nội.

130. Nguyễn Khắc Xương. 1975. Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Vĩnh Phú, Sở Văn

hóa, Thông tin - Thể thao Vĩnh Phú xuất bản, Vĩnh Phú.

131. Nguyễn Khắc Xương. 1978. “Sự tích hát Xoan”, in trong Truyền thuyết

Hùng Vương, Nxb Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh Phú Thọ, tr.61-62.

132. Nguyễn Khắc Xương (Chủ biên). 2003. Hát Xoan Phú Thọ, Hội Văn nghệ

dân gian Phú Thọ xuất bản, Phú Thọ.

133. Nguyễn Khắc Xương, Dương Huy Thiện. 1979. Hát Xoan hát Ghẹo Vĩnh

Phú, Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phú.

Tiếng Anh

134. Ashworth, G. J.,. 1997. “Elements of planning and managing heritage

sites”, [Yếu tố quy hoạch và quản lý các di sản] in Tourism and Heritage

Management, Gadjah Mada UniversityPress, pp.165-191.

135. Bendix, Regina. 2009. "Heritage between economy and politics: An

assessment from the perspective of cultural anthropology" [Di sản giữa

kinh tế và chính trị: Đánh giá từ góc độ nhân học văn hóa], In L. Smith,

& N. Akagawa (Eds.), Intangible Heritage (pp. 253-269). Londra:

Routledge Falmer,.

136. Bourdieu, Pierre (1982), “Les rites d‟institution”, Actes de le recherche

en sciences sociales, 43, 58-63.

137. Coombe, Rosemary, Joseph Turcotte. 2012. "Indigenous Cultural

Heritage in Development and Trade: Perspectives from the Dynamics of

Cultural Heritage Law and Policy", in Christoph B. Graber, Karolina

Kuprecht (ed,) International Trade in Indigenous Cultural Heritage.

138. Endres, Kirsten W. (2002). Beautiful Customs, Worthy Traditions:

Changing State Discourse on the Role of Vietnamese Culture.

167

Internationales Asienforum 33(3-4):303-322.

139. Evans, Grant (2001). "Tourism and minorities", in Vietnam's cultural

diversity: approaches to preservation (edited by Oscar Salemink).

Published by United Nations Educational, Scientific and Cultural

Organization, Paris, pp.277-280.

140. Harrison, Rodney. 2013. Heritage: Critical approaches, Routledge.

141. Hewison, Robert. 1987. The heritage industry: Britain in a climate of

decline. London: Methuen London.

142. Hobsbawm, Eric (1983). Introduction: Inventing Traditions. In Eric

Hobsbawm & Terence Ranger (eds.). The Invention of Tradition.

Cambridge University Press, pp. 1-14.

143. Jang, Hanbyeol, Jeremy Mennis. 2021. The Role of Local Communities

and Well-Being in UNESCO World Heritage Site Conservation: An

Analysis of the Operational Guidelines, 1994–2019. Sustainability 2021,

13, 7144. https://doi.org/ 10.3390/su13137144.

144. Jixiang Shan. 2006. "Speech on Urban Development and Cultural

Heritage Conservation in the New Century" [Phát triển đô thị và bảo tồn

di sản văn hóa trong thế kỷ mới],The 2nd International Conference on

Heritage Conservation and Sustainable Development, Shaoxing, China.

145. Jokilehto, J. 2005. “Definition of Cultural Heritage - Reference to

Documents in History” [Định nghĩa về di sản văn hóa - Tham khảo các tư

liệu lịch sử], ICCROM Working Groups 'Heritage and Society.

146. Kirshenblatt-Gimblett, Barbara. 2006. "World Heritage and Cultural

Economics", in Museum Frictions, Duke University Press.

147. Lowenthal, David. 1996. Possessed by the past: The heritage crusade and

the spoils of history [Bị sở hữu bởi quá khứ: Cuộc thập tự chinh di sản và

những chiến lợi phẩm của lịch sử], Free Press, First Edition.

148. Salemink, Oscar (2001). Who decides who preserves what? Cultural

168

preservation and cultural representation. In Oscar Salemink (eds.).

Vietnam's cultural diversity: approaches to preservation (pp. 205-212).

Published by United Nations Educational, Scientific and Cultural

Organization, Paris.

149. Salemink, Oscar (2012). Appropriating Culture: The politics of intangible

cultural heritage in Vietnam. In Hue-Tam Ho Tai, Sidel, Mark (eds).

Property and Power: State, society ang market in Vietnam (pp.158-180).

New York and London: Routledge.

150. Salemink, Oscar. 2012. "Appropriating Culture: The politics of intangible

cultural heritage in Vietnam" [Chiếm đoạt để sở hữu văn hóa: Chính trị về

di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam], in H-T. Ho Tai, & M. Sidel

(Eds.), State, Society and the Market in Contemporary Vietnam: Property,

Power and Values (Chapter 9, pp. 158-180). Oxon, OX, UK: Routledge.

151. Smith, Lauranjane, Natsuko Akagawa. 2008. Intangible Heritage: Key

Issues in Cultural Heritage [Di sản phi vật thể: các vấn đề chủ yếu trong

di sản văn hóa], London & New York, Routledge.

152. Walsh, Kevin. 1992. The Representation of the Past: Museums and

Heritage in the Post-modern World, Published by Routledge.

Bài báo, từ điển trực tuyến

153. Phùng Tấn Đông (2017). Nghĩ về văn hóa dân gian trong quá trình biến đổi

văn hóa. Website: http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-

hoc/van-hoa-va-phat-trien/3077-phung-tan-dong-nghi-ve-van-ho-a-dan-gian-

trong-qua-tri-nh-bie-n-do-i-van-ho-a.html. Truy cập ngày 5/4/2018.

154. Từ điển online Merriam-Webster, http://mw1.merriam-

webster.com/dictionary/stakeholder, Truy cập ngày 20/07/2017.

155. Từ điển Oxford Advanced Learner, Oxford University Press, 2005

http://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/stakeholder

169

?q=Stakeholde, Truy cập ngày 20/07/2017.

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ NHUNG

HÁT XOAN PHÚ THỌ

TRONG BỐI CẢNH DI SẢN HÓA Ở VIỆT NAM

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2022

DANH MỤC PHỤ LỤC LUẬN ÁN

PHỤ LỤC 1. Danh mục 31 bài bản Hát Xoan ............................................................ Pl.2

PHỤ LỤC 2. Danh mục kiểm kê Hát Xoan 2010 - 2017............................................ Pl.4

PHỤ LỤC 3. Danh mục tư liệu, hiện vật Hát Xoan .................................................... Pl.6

PHỤ LỤC 4. Danh mục các bài bản Hát Xoan ......................................................... Pl.14

PHỤ LỤC 5. Danh mục đĩa DVD Hát Xoan ............................................................ Pl.15

PHỤ LỤC 6. Các đầu mục sách Hát Xoan tại Bảo tàng Hùng Vương ..................... Pl.16

PHỤ LỤC 7. Các tài liệu, đề tài nghiên cứu về Hát Xoan ........................................ Pl.17

PHỤ LỤC 8. Danh mục các bài viết trên báo, tạp chí, Internet về Hát Xoan .......... Pl.18

PHỤ LỤC 9. Bản ký âm một số bài bản Hát Xoan .................................................. Pl.26

PHỤ LỤC 10. Báo cáo tình trạng di sản Hát Xoan của CLB ................................... Pl.45

PL.1

PHỤ LỤC 1. Danh mục 31 bài bản Hát Xoan

01

Phần 1: Hát Thờ (Chặng hát nghênh thần) Hát mời vua

02

Giáo trống

03

Giáo pháo

04

Thơ nhang

05

06

Đóng đám Phần 2: Hát quả cách (Chặng hát quả cách) Kiều giang cách

07

Nhàn ngâm cách

08

Tràng mai cách

09

Xoan thời cách

10

Hạ thời cách

11

Thu thời cách

12

Đông thời cách

13

Tứ mùa cách

14

Ngư tiều canh mục cách

15

Đối dẫy cách

16

Hò chèo cách

17

Hồi liên cách

18

Tứ dân xoan cách

19

20

Chơi dâu cách Phần 3: Hát hội (Chặng hát giao duyên) Trống quân - Đón đào

21

Bợm gái (Thết trầu)

22

Đường đi trên suối dưới đầm

23

Tr o lên cây bưởi hái hoa

24

Hát ru (Mời rượu)

25

Bỏ Bộ:

1. Trồng bông luống đậu

2. Ngựa bạch

3. Đ n thương ai

PL.2

4. Giương cung

5. Xẻ ván cho dày

6. Dắt mẹ qua đ o

7. Lên núi hái chè

8. Cầu bạch cầu bông

9. Ngựa hồng

10. Ai nhuộm cho mình

11. Mua lấy miệng cười

12. Bắc cầu xẻ ván

13. Rượu quỳnh dương

14. Xe chỉ vá may

26

Hát đúm

27

Hát phú

28

Xin huê

29

Đố huê - Đố chữ

30

Gài huê

31

Mó cá

PL.3

PHỤ LỤC 2. Danh mục kiểm kê Hát Xoan 2010 - 2017

Chú thích

11/ 2010

01/2016

11/2017

Nội dung 1. Số đơn vị/tổ chức thực hành Hát

Xoan - -

4 Phường 13 CLB

4 Phường 33 CLB

Phường Xoan gốc Câu lạc bộ (CLB) cấp tỉnh công nhận

4 Phường Ổn định 37 CLB Tăng 4 CLB so với mốc tháng 01/2016

-

106 CLB

Câu lạc bộ cấp huyện, xã công nhận

2. Số lượng bài bản được thực hành

Bài bản Xoan cổ (31 bài)

Gần đủ

31 bài

31 bài Đang củng cố

phong cách của mỗi Phường

3. Số lượng thành viên tham gia (chính thức) thực hành, truyền dạy Hát Xoan

-

4 Phường Xoan

249 người

330 người

Tăng 81 người so với mốc tháng 01/2016

-

Các Câu lạc bộ cấp tỉnh ở Phú Thọ

298 người/13 CLB

1287 người/30 CLB

1557 người/34 CLB

Tăng 270 người so với mốc tháng 01/2016

-

Các Câu lạc bộ cấp huyện, xã ở Phú Thọ

Ổn định

-

Các Câu lạc bộ ở tỉnh Vĩnh Phúc

89 người/3 CLB

2755 người/10 6 CLB 89 người/3 CLB 4731 người

 Tổng số người tham gia tại 4 Phường Xoan và các CLB Hát Xoan ở 2 tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc hiện nay có:

Không kể người tham gia không thường xuyên

4. Số lượng nghệ nhân được phong tặng danh hiệu -

20 Nghệ nhân ưu tú

Danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú (công nhận cấp nhà nước)

Đang hoàn thiện hồ sơ của 14 nghệ nhân để được xét đợt II, 2018

-

Danh hiệu Nghệ nhân Hát Xoan Phú Thọ (công nhận cấp tỉnh)

52 nghệ nhân

PL.4

-

29 nghệ nhân

Danh hiệu Nghệ nhân dân gian (do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công nhận)

62 người

-

Đang hoàn thiện hồ sơ của 2 nghệ nhân để gửi Hội VNDGVN. 62 người Có khả năng thay thế nghệ nhân cao niên

Các nghệ nhân kế cận đang là nòng cốt, truyền dạy, tại các Phường và Câu lạc bộ

Một số ít trường

100 % trường

100 % trường

5. Giáo dục Hát Xoan trong nhà trường Số trường đưa giáo dục Hát - Xoan vào chương trình chính thức và ngoại khóa

Dạy chính thức qua môn âm nhạc

6. Không gian văn hóa liên quan được tu bổ, tôn tạo

-

Một số ít di tích

19/30 di tích

20/30 di tích

Tăng 1 di tích so với mốc tháng 01/2016

Số đình, đền, miếu … liên quan Hát Xoan đã được phục hồi, tu bổ, tôn tạo

PL.5

PHỤ LỤC 3. Danh mục tƣ liệu, hiện vật Hát Xoan

(Bảo tàng Hùng Vƣơng, năm 2018)

STT

TÊN TƢ LIỆU/HIỆN VẬT

SỐ LƢỢNG

GHI CHÚ

Số liệu tổng

TÀI LIỆU TRÊN GIÁ KHO TƢ LIỆU, NHÀ TRƢNG BÀY

Sách viết về Hát Xoan gồm:

Tổng cộng: 11

1

cuốn sách (07

đầu sách)

(Có danh mục

riêng)

- Hát Xoan Phú Thọ - Nguyễn

01 cuốn

Sách mới,

Khắc Xương

-Xoan singing in Phu Tho

02 cuốn

Sách mơí

-Hát Xoan dân ca cội nguồn –

04 cuốn

Sách mới

Dương Huy Thiện

-Xoan singing in Phu Tho

01 cuốn

Sách phô tô

-Tìm hiểu hát Xoan - Tú Ngọc

01 cuốn

Sách phô tô

- Dân ca Xoan Ghẹo: Kỷ yếu

01 cuốn

Sách phô tô

Hội thảo lần 1 - 1994

- Hát Xoan – dân ca nghi lễ

01 cuốn

Sách phô tô

phong tục – Tú Ngọc

2

Bài bản hát Xoan gồm:

Tổng cộng :18

bài bản.

(Có danh mục

riêng)

- Bản Xoan chữ Nôm của

01 bản

Bản gốc giấy

phường An Thái

dó, cũ,

-Bản Xoan chữ Nôm của ông

02 bản

Phô tô

Nguyễn Văn Chế - phường An

Thái

-Tập Hát Xoan Phú Thọ tuyển

02 quyển

Bản in, còn

chọn 1 (2012)

mới

-Tập bài hát xoan của 04 phường

01 quyển

Phô tô

gồm 4 tập của ông Nguyễn Văn

PL.6

Chế, ông Nguyễn Tất Thắng (An

Thái), ông Lê Xuân Ngũ, ông

Đào Ngọc Hàn (Kim Đức)

-Bải bản hát Xoan chép tay của

12 bản

Phô tô

nghệ nhân: Đào Ngọc Hàn,

Nguyễn Văn Vị, Nguyễn Thị

Sủng, Lê Xuân ngũ, Nguyến Tất

Thắng, Vũ Vắn Dinh, Nguyễn

Thị Sủng

3

Tài liệu, đề tài Nghiên cứu về

Tổng cộng:

hát Xoan gồm:

04 tài liệu

nghiên cứu.

(Có danh mục

riêng)

- Đề tài luận án tiến sĩ “ Tương

01 quyển

Phô tô, còn

đồng khác biệt giữa Hát Xoan,

mới

hát Ghẹo Phú Thọ và Quan họ

Bắc Ninh” của Phạm Trọng

Toàn.

- Đề tài Nghiên cứu Hội Xoan

01 quyển

Phô tô báo cáo

Phú Thọ - Nguyễn Anh Tuấn

tổng kết toàn

diện kết quả

nghiên cứu KH

- Tổng tập Tài liệu Nghiên cứu-

01 quyển

Mới

lý luận lời ca và hình ảnh Hát

Xoan Phú Thọ của NS Đặng

Hoành Loan tập 1

-Tổng tập hát Xoan Phú Thọ của

01 quyển

Mới

Sở Văn hóa TTDL

4

Tƣ liệu quảng bá hát Xoan

Tổng cộng:

gồm:

22 tài liệu

- Các bài viết trên báo, tạp chí

01 quyển

Một quyển

Trung ương và địa phương

gồm 156 bài

PL.7

viết

- Tư liệu phổ biến, truyền dạy

01 tập

- Catalog hình ảnh các di sản

01 tờ

văn hóa thế giới trong đó có hát

Xoan Phú Thọ

- Sách ảnh hát Xoan - Nguyễn Á

19 cuốn Mới

5

Văn bản liên quan đến hát

Tổng cộng:

Xoan

254 tài liệu,

văn bản

(Có danh mục

riêng)

- Biên bản

14

- phân công nhiệm vụ

21

-Báo cáo

12

- VB Trung ương (Chính phủ,

23

các Bộ…)

-Văn bản liên quan của tỉnh

72

- Kế hoạch

23 bản

- Giấy mời + DS khách mời

64

-Kịch +Chương trình + bài phát

25 bản

biểu

6

Lý lịch nghệ nhân gồm:

Tổng cộng: 97

lý lịch

-Lý lịch nghệ nhân hát Xoan Phú

87 lý lịch

Phô tô

Thọ (đã làm)

-Lý lịch nghệ nhân xét nghệ

10 lý lịch

Phô tô

nhân ưu tú đợt 1, 2015 (đã làm)

7

Bản cam kết cộng đồng:

Tổng cộng:

84 phiếu.

-Phiếu cam kết (đã làm)

77 phiếu

-Phiếu cam kết (có dấu chưa

7 phiếu

làm)

8

Tƣ liệu điều tra Xoan gồm:

Tổng cộng:

PL.8

248 tài liệu

-Thống kê danh mục tài liệu Hát

37 tài liệu

Xoan 2014, 2015

-Phiếu điều tra hát Xoan tại 18

17 phiếu

Phô tô

xã có hát Xoan và Xoan lan tỏa

(Bảng số 5)

-Phiếu điều tra múa trong hát

17 phiếu

Phô tô

Xoan năm 2010 (biểu số 6)

-Phiếu điều tra thực trạng

23 phiếu

Phô tô

VHPVT (biểu số 1)

- Bảng tổng hợp kiểm kê hát

7 bảng

Đánh máy

Xoan năm 2010 (bảng số 2, 3,

4,5, 7, 8)

-Phiếu điều tra nghệ nhân hát

28 phiếu

Bản gốc

Xoan (năm 2009)

-Phiếu điều tra hát Xoan về sự

101 phiếu

bản gốc viết

đồng thuận của cộng đồng 04

tay,

phường Xoan

-Phiếu điều tra hát Xoan về sự

01 quyển

01 tập phô tô

đồng thuận của cộng đồng 04

có có 101

phường Xoan

phiếu

-Bản ghi chép điền dã chép tay

17 bản

Gồm 12 bản

gốc ghi chép

tại các phường

Xoan gốc, 06

bản phô tô.

9

Đĩa Hát Xoan DVD gồm:

Tổng cộng: 40

chiếc

(Có danh mục

riêng)

-Xoan singing

30 đĩa

Còn tốt

- Hát Xoan Phú Thọ chọn lọc

04 đĩa

Còn tốt

-Câu chuyện văn hóa

01 đĩa

Còn tốt

PL.9

-Hát Xoan Phú Thọ (Xb. 2012)

03 đĩa

Còn tốt

-Hát Xoan Phú Thọ tuyển chọn

01 đĩa

Còn tốt

I (Xb. 2013)

-Hát Xoan Phú Thọ 26 bài Xoan

01 đĩa

Còn tốt

cổ

10

Ănh Hát Xoan gồm:

Tổng cộng:

402 ảnh

- Ảnh to trưng bày

107 ảnh

(Có danh mục

Kho tư liệu có 58 ảnh + Phòng

ảnh riêng)

trưng bày chuyên đề có 49 ảnh

(có khung của Miếu Lãi L n

chuyển về)

- Ảnh nhỏ tư liệu:

288 ảnh

103 hiện vật

11 Hiện vật liên quan Hát Xoan

Tổng hiện

lƣu tại Bảo tàng ( trƣng bày +

vật: 103 hiện

vật (Có danh

Kho bảo quản)

mục riêng)

TƢ LIỆU HÁT XOAN LƢU TRÊN MÁY TÍNH CỦA KHO BẢO TÀNG

1

Video, đĩa DVD, phim tài liệu,

Tổng cộng:

phóng sự và tin tức về Hát

265 đĩa, file

Xoan lƣu trên máy tính

video, phim,

tin tức.

(Có danh mục

riêng)

- Đĩa hát Xoan

13 file đĩa

-Phim tài liệu, phóng sự và tin

78 file

tức về hát Xoan

174 video

-Video hát Xoan

1.585 ảnh

2

Ảnh tƣ liệu lƣu trong máy tính

Tổng: 1.585

của Kho.

ảnh

lƣu trong file

PL.10

máy tính.

3

Bài bản Xoan đánh máy (file

Tổng cộng :

mềm) gồm:

14 file đánh

máy

(Có danh mục

riêng)

- Bài bản trong tổng tập nhạc sỹ

05 file

Đặng Hoành Loan

Gồm: Bài bản hát Xoan thu

thanh 1957; bản thu thanh 2002;

bản của ô Vị; Ô Thắng và Ô

Khả, Hàn, Ngũ , Bảo.

- Bài bản Hát Xoan đánh máy

09 file

khác:

Bài bản Nguyễn Khắc Xương

sưu tầm; Bài Hat Xoan An Thai

(Ban dich) – Phạm Bá Khiêm;

Bản Xoan Nôm của Tây Cốc –

Lê Công Luận dịch ; Bài bản

Xoan: Ô.Khả, Ô Hàn, Ô.

Ngũ,Ô.Bảo, Bà Sủng, làng Hữu

Bổ.

4

Bài tham luận hội thảo (file

Tổng cộng: 24

mềm) gồm:

bài

-Tham luận tiếng Anh:

10 bản

Gồm: Ô Xương, Cao Khắc

Thùy, Ô Ân, Mai Thoa, Lê Văn

Lan, Phạm Trọng Toàn, Trần

Quang Hải, Xoan

singing,

XiaoMeis, Sheen Dae Cheol.

-Tham Luận tiếng Việt

14 bản

Gồm: Ô Xương, Ô Ân, Ô Thuận,

PL.11

Ông Tuấn, Ô Thiện, Ô Toán, Ô

LV Lan, Ông Thoan, Bà Sinh,

Bà Kim Anh, Bà Cẩm Ly, Ông

Hải, Ô Gisa Jahnichen, Bà Thoa.

5

Bản đồ phân bố vùng Xoan

01 fle

Tổng cộng: 01

bản đồ

6

Bài viết về hát Xoan báo, tạp

146 file

Đánh máy

Tổng cộng:

chí, trên Internet (file mêm)

146 file bài

viết.

(Có danh mục

riêng)

7

Tổng tập hát Xoan Phú Thọ (bản

01 file

Đánh máy

Tổng cộng: 01

ngày 29.6.2016)

file

8

Danh sách, lý lịch nghệ nhân

07 file

Đánh máy

Tổng cộng: 07

danh sách và

lý lịch

9

Hồ sơ nghệ nhân ưu tú lần 1

17 flie

Đánh máy

Tổng cộng: 17

(2014)

lý lịch nghệ

nhân

10

Scan văn bản liên quan đến Hát

35 file

Đánh máy

Tổng cộng: 35

Xoan

file văn bản.

(Có danh mục

riêng)

11

Văn bản dự án số hóa

04 file

Đánh máy

Tổng cộng: 04

file

12

Băng ghi âm, Bóc băng ghi âm

Tổng cộng:

điều tra hát Xoan

143 file (Đã

bóc được 115

file ghi âm

phỏng vấn;

Còn 28 file ghi

âm bài hát

không bóc)

PL.12

- Băng ghi âm điều tra, phỏng

143 file

vấn hát Xoan và Bóc băng ghi

âm

Gồm: ghi âm điền da 2010 , ghi

âm Mai Thoa phỏng vấn; ghi âm

Lưu Vân; Ghi âm lấy ý kiến

cộng đồng và trùm phường

Xoan; ghi âm bài hát xoan của 4

phường.

13

68 file

Thống kê hát Xoan các năm

Tổng cộng: 68

(2012 – 2016)

file

Danh sách thống kê số lượng

nghệ nhân các phường Xoan,

danh sách các bảng kiểm kê các

năm, báo cáo kiểm kê, tài liệu

hướng dẫn kiểm kê…

Tổng cộng toàn bộ tƣ liệu và hiện vật hát Xoan của Bảo tàng: 3.593.

1. Ảnh tư liệu: 1.987 ảnh ( 402 ảnh phóng to và nhỏ + 1.585 ảnh lưu trên file)

2. Sách hát Xoan: 11 cuốn (07 đầu sách)

3. Bài bản hát Xoan: 32 bản (18 bản gốc, phô tô bằng giấy + 14 file đánh máy)

4. Tài liệu, đề tài nghiên cứu: 05 bản ( 04 bản in trên giấy + 01 file mềm)

5. Đĩa DVD hát Xoan: 40 chiếc

6. Video, phim tư liệu, đĩa hát Xoan trên máy tính: 265 file (lưu trên máy tính)

7. Hiện vật hát Xoan: 103 hiện vật.

8. File ghi âm phỏng vấn: 143 file (bóc 115 file + 28 file ghi âm bài hát Xoan)

PL.13

PHỤ LỤC 4. Danh mục các bài bản Hát Xoan

(kho tƣ liệu Bảo tàng Hùng Vƣơng)

STT

TÊN BÀI BẢN

TÌNH TRẠNG

SỐ

GHI

LƢỢNG

CHÚ

1

Bản Xoan chữ Nôm của phường An

01 bản

Bản gốc giấy dó, cũ

Thái

2

Bản Xoan chữ Nôm của ông Nguyễn

02 bản

Phô tô

Văn Chế - phường An Thái

3

Tập Hát Xoan Phú Thọ tuyển chọn 1

02 quyển

Bản in, còn mới

(2012)

4

Tập bài hát xoan của 04 phường

4 tập của ông Nguyễn Văn Chế, ông

01 quyển

Nguyễn Tất Thắng (An Thái), ông Lê

Phô tô

Xuân Ngũ, ông Đào Ngọc Hàn (Kim

Đức)

5

Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ

02 bản

Phô tô

nhân Đào Ngọc Hàn,

6

Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ

03 bản

Phô tô

nhân Nguyễn Văn Vị,

7

Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ

02 bản

Phô tô

nhân Nguyễn Thị Sủng,

8

Bải bản hát Xoan chép tay của nghệ

02 bản

Phô tô

nhân Lê Xuân ngũ,

9

Bài bản hát Xoan chép tay của nghệ

02 bản

Phô tô

nhân Nguyến Tất Thắng,

10 Bài bản hát Xoan chép tay của nghệ

01 bản

Phô tô

nhân Vũ Văn Dinh,

Tổng cộng

18 bài bản

PL.14

PHỤ LỤC 5. Danh mục đĩa DVD Hát Xoan

(Kho tƣ liệu Bảo tàng Hùng Vƣơng)

STT

TÊN ĐĨA HÁT XOAN

SỐ LƢỢNG

TÌNH TRẠNG

30 đĩa

1

Xoan singing

Còn tốt

04 đĩa

2

Hát Xoan Phú Thọ chọn lọc

Còn tốt

01 đĩa

3

Câu chuyện văn hóa VTV

Còn tốt

Ngày

5/3/2015

03 đĩa

4

Hát Xoan Phú Thọ (Xb. 2012)

Còn tốt

01 đĩa

5

Hát Xoan Phú Thọ tuyển chọn I

Còn tốt

(Xb. 2013)

6

Hát Xoan Phú Thọ 26 bài Xoan cổ

01 đĩa

Còn tốt

Tổng cộng: 40 đĩa

PL.15

PHỤ LỤC 6. Các đầu mục sách Hát Xoan tại Bảo tàng Hùng Vƣơng

TT TÊN SÁCH

SỐ LƢỢNG

TÌNH

GHI

TRẠNG

CHÚ

1

- Hát Xoan Phú Thọ - Nguyễn Khắc

01 cuốn

Sách mới,

Xương

02 cuốn

Sách mơí

-Xoan singing in Phu Tho

2

04 cuốn

Sách mới

-Hát Xoan dân ca cội nguồn – Dương

3

Huy Thiện

01 cuốn

Sách phô tô

-Xoan singing in Phu Tho

4

01 cuốn

Sách phô tô

-Tìm hiểu hát Xoan - Tú Ngọc

5

01 cuốn

Sách phô tô

- Dân ca Xoan Ghẹo: Kỷ yếu Hội thảo

6

lần 1 - 1994

7

- Hát Xoan – dân ca nghi lễ phong tục

01 cuốn

Sách phô tô

– Tú Ngọc

TỔNG CỘNG: 11 cuốn sách (07 đầu sách)

PL.16

PHỤ LỤC 7. Các tài liệu, đề tài nghiên cứu về Hát Xoan

(Bảo tàng Hùng Vƣơng)

STT TÊN TÀI LIỆU/ĐỀ TÀI

SỐ LƢỢNG

TÌNH TRẠNG

GHI

CHÚ

1

- Đề tài luận án tiến sĩ “ Tương

01 quyển

Phô tô, còn mới

đồng khác biệt giữa Hát Xoan, hát

Ghẹo Phú Thọ và Quan họ Bắc

Ninh” của Phạm Trọng Toàn.

2

- Đề tài Nghiên cứu Hội Xoan Phú

01 quyển

Phô tô báo cáo tổng kết

Thọ - Nguyễn Anh Tuấn

toàn diện kết quả nghiên

cứu KH

3

- Tổng tập Tài liệu Nghiên cứu- lý

01 cuốn

Mới

luận lời ca và hình ảnh Hát Xoan

Phú Thọ của NS Đặng Hoành Loan

tập 1

Tổng tập Hát Xoan Phú Thọ

01 cuốn

4

Mới

Của Sở VHTTDL

Tổng cộng: 04 tài liệu

PL.17

PHỤ LỤC 8. Danh mục các bài viết trên báo, tạp chí, Internet về Hát Xoan

(Thống kê của Bảo tàng Hùng Vƣơng, Phú Thọ)

STT

TÊN BÀI

TÁC GIẢ

GHI CHÚ

SỐ LƢỢNG 01

1. 165 tỷ đồng để bảo

Lâm Đào An - TTXVN

tồn làn điệu hát Xoan Phú Thọ

2. 2015 đưa hát xoan ra

01

khỏi tình trạng bv khẩn cấp

3. Bầm về rộn rã Phường

01

Xoan

QĐND - Thứ tư, 26/12/2012

4. Bàn về vùng văn hóa

01

hát Xoan

Hoàng Hà BáoTổ quốc ngày 12/7/2013 Đào Đức Hanh Nguyễn Khắc Xương TTXVN

01

Báo Phú Thọ - Ngày 20/2/2012

5. Bảo tồn hát xoan phải gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng hùng vương

6. Bảo tồn hát Xoan qua

01

Phạm Bá Khiêm

Báo Phú Thọ ngày 31/5/2014

thử thách của thời gian

01

7. Bảo tồn Hát XoanCâu hỏi còn bỏ ngỏ 8. Bảo tồn nguyên gốc từ

01

Vũ Thanh Minh Ánh KH

01

Báo Đại Đoàn kết – ngày 30/3/2012 Báo Làng Việt – ngày 01/9/204

nội lực của Hát Xoan 9. Bảo vệ và làm lan tỏa giá trị di sản Hát Xoan

10. Bí quyết nghề xoan

01

Đỗ Hà

11. Cả tỉnh hát xoan

01

Báo Biên phòng - 17/04/204 Báo Gia đình

01

Báo Tin tức 11/5/2013

12. Câu hát Xoan vang vọng mái đình

13. câu xoan sâu lắng hội

Hoàng Phương Nguyễn Thế Lượng Hà Phương

01

đình

Vũ Mạnh

01

14. Chung tay truyền lửa giữ hồn hát xoan

01

Báo Phú Thọ online 4/5/2013 Báo Đại đoàn kết 11/4/2011 Giadinhnet

15. Chuyện ảnh độc đáo nghệ thuật hát xoan

Tuấn Ngọc

01

Báo Một thế giới - 14/3/2011

16. Có những lúc ngã lòng bà đã vịn câu xoan mà đứng dậy

17. Cội nguồn nghệ thuật

01

hát xoan

Nguyễn Duy Cách

PL.18

Lâm Đào An

01

18. Cùng làn điệu Xoan

TTXVN – BaoVietplus 17/4/2013

Báo Phú Thọ 6/11/2014

cổ tìm về văn hóa Hùng Vương 19. Đặc trưng của lễ hội

01

hát Xoan Phú Thọ

Nguyễn Anh Tuấn Minh Hằng

01

Hạ Phương Đỗ Hà Tùng Duy

01 01 01

Báo Phú Thọ 19/12/2012 Báo Nhân dân Báo Phú Thọ 25/5/2013 Báo Tiền Phong 17/11/2014

20. đặc trưng văn hóa xã hội vùng xoan 21. Đắm đuối câu Xoan 22. Đắm say điệu xoan 23. Dân làng mổ lợn, hát Xoan mừng ngày hội đoàn kết

24. Đào tạo nghệ nhân kế

Huyền Nga

01

Báo Phú Thọ 02/12/2012

cận truyền dạy hát xoan – Nhiệm vụ cấp thiết

Hồng Nhung

Báo Phú Thọ 17/2/2012

01

25. Dạy hát xoan ở trường tiểu học kim đức

26. Để câu hát xoan còn

Tạ Văn Toàn

Báo Tin tức 20/3/2012

01

mãi

27. Để câu xoan còn vang

Phạm Bá Khiêm

01

mãi

Lưu Huyền

01

Báo Tuyên giáo 07/4/2014 Báo VOV 10/2/2013

28. Để hát Xoan còn mãi mỗi dịp Xuân về 29. Để hát Xoan còn mãi

Dương Huy Thiện 01

xuân

30. Để hát Xoan vang mãi Thảo Sang

01

31. Di sản hát xoan Phú

Không rõ tác giả

01

Báo Phú Thọ 12/01/2012 Báo Quân đội nhân dân 22/4/2014

Thọ và vấn đề bảo tồn phát huy giá trị 32. Di sản hát xoan: sau

Lâm Đào An

01

TTXVN –

vinh danh vẫn còn chăm lo tiếp

Không rõ tác giả

01

33. Di sản Phú Thọ trong tiến trình hội nhập và phát triển

34. Điệu xoan vẫn... chờ 35. Đình thét với di sản

Vũ Bắc (TTXVN Hải Yến

Báo Tin tức 9/8/2014 Báo Phú Thọ 22/2/2012

01 01

văn hóa hát xoan 36. Độc đáo hát xoan

01

Hữu Thọ

01

37. Độc đáo nghệ thuật Hát xoan Phú Thọ 38. Đôi điều về lịch sử hát

Theo Báo An ninh thủ đô Báo Bạc Liêu 15/05/2015

01

Xoan

TS.Nguyễn Anh Tuấn

39. Dự án sưu tầm, nghiên TH

01

PL.19

cứu, bảo vệ và phát huy hát Xoan Phú Thọ giai đoạn 2012-2015 40. Đưa hát Xoan ra khỏi

Thanh Thảo

01

Báo Biên phòng 11/4/2014

“sách đỏ” Unesco

41. Dựng lại "chân dung" của

Vũ Kim Biên

01

hát xoan

42. Về miền Xoan trong

Nguyễn Linh

01

Báo Thể thao và Văn hóa 12/2/2012 Báo Nhân dân 09/4/2014

ngày Giỗ Tổ Hùng Vương

01

NSND Trọng Bằng

Báo Văn học nghệ thuật Phú Thọ 30/12/2011.

43. Gắn bó trăn trở với Hát Xoan, Hát ghẹo

01

Hạnh Vân

Báo Gia đình 31/3/2013

44. Gặp nghệ nhân hát Xoan cao tuổi nhất Việt Nam

45. Giữ gìn điệu xoan nơi

Thanh Huyền

Báo TNVN

01

đất Tổ

01

Việt Hà

ĐềnhungPhutho.gov

01

46. Giữ làn điệu xoan cho muôn đời sau. 47. Giới thiệu hát Xoan đến bạn b quốc tế

01

Thu Trang- Minh Nhật Phạm Bá Khiêm

48. Hát Quả cách

Không rõ tác giả

01

Báo Nhân Dân 16/10/2011 Báo Phú Thọ 18/02/2012 Báo Thể thao và Văn hóa

01

49. hát xoan - hành trình trở thành di sản văn hóa nhân loại 50. Hát Xoan – Hành

01

Nguyễn Anh Tuấn Dạ Minh

Báo Tổ quốc 22/2/2012

Không rõ tác giả

01

Báo VOV

trình một năm nhìn lại 51. Hát Xoan cũng bị xâm hại bản quyền 52. Hát Xoan đang được

bảo tồn đúng cách

Không rõ tác giả

01

Theo TTXVN

53. Hát Xoan - Di sản văn hóa độc đáo của người Việt

54. Hát Xoan di sản văn

Đinh Quang Tú

01

Báo Phú Thọ

hóa Việt Nam và nhân loại

Không rõ tác giả

01

55. Hát Xoan Di sản văn hóa đặc sắc của Phú Thọ

56. Hát Xoan - Di sản văn

Không rõ tác giả

01

Báo Văn hóa ngày 05/4/2012

hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp

PL.20

01

57. Xát xoan là biểu

tượng cổ của dân tộc

58. Hát Xoan là dấu ấn

Phỏng vấn Ông Tô Ngọc Thanh – Chủ tịch Hội VNDGVN Vũ Kim Biên

01

Báo QĐND 04/4/2012

thời Hùng Vương

Huyền Trang

01

Cổng Giao tiếp điện tử Phú Thọ,

59. hát xoan làng cổ phú thọ-hành trình du lịch hấp dẫn

Dương Huy Thiện 01

60. Hát Xoan một di sản có giá trị văn hóa lớn

Văn hoá, Thể thao - Du lịch Phú Thọ, Số 1,năm 2009) TTXVN

Tạ Văn Toàn

01

61. Hát Xoan ngân vang loại hình nghệ thuật độc đáo

62. Hát xoan Phú Thọ: Huyền

Không rõ tác giả

01

Báo Đảng Cộng sản VN

thoại một làn điệu dân ca

63. Hát Xoan Phú Thọ

LưuNhung

01

BáoĐạiĐoànKết 18/4/2013

sức sống bền bỉ một di sản

64. Hát Xoan Phú thọ

Thanh Tùng

Báo tin tức 10/11/2012

01

Đặng Đình Thuận 01

SVHTTDL/GOV

Minh Ngọc

Báo Hà Nội mới

Tinh hoa của dân tộc 65. hát xoan phú thọ-một số vấn đề cần trao đổi 66. Hát Xoan (Phú Thọ):

01

Nguy cơ mai một

Thu Hà

Báo Phú Thọ

01

67. Hát Xoan - Sau một năm được vinh danh

68. hát xoan sự hồi cố và

Phạm Bá Khiêm

01

Báo Phú Thọ 2/3/2013

lan tỏa

01

69. Hát xoan tài sản dân

ca đặc sắc

Cù Kiên Trinh Không rõ tác giả

01

Tạp chí Du lịch Phú Thọ Theo Tạp chí Làng Việt

70. Hát xoan – thông điệp

văn hóa, tâm linh và vui hội

71. hát xoan trong các

Anh Thơ

Báo Phú Thọ 13/2/2014

01

trường học ở việt trì

72. Hát Xoan trước nỗi lo

Báo Quân đội nhân dân

01

Đức Tuấn – Vũ Mạnh

thất truyền

73. Hát Xoan

01

Cao Quý – Đạt Thức Mai Lan

VOV1 23/01/2013

01

74. hat xoan-mot nam la di san van loay hoay

PL.21

bao ton

75. hát xoan-nghệ thuật

Nguyễn Quỳnh

01

VOV 17/10/2011

dân gian cần được bảo tồn

01

76. hat xoan-ton vinh và bao ve khan cap 77. hóa ra xoan chính là

TS NGUYỄN MINH SAN Văn Công Hùng

01

xuân

Hương Thu

01

Báo Quân đội nhân dân 2/3/2013 Tạp chí Sức khỏe và đời sống 13/7/2014 Báo Vietnamplus 16/01/2010

78. Hộithảokhoahọcquốct ếtônvinhhátXoanPhúT họ

79. Hội Xoan rộn rã cửa

Đào Đức Hanh

01

Báo Quân đội ND

đình

80. Hát Xoan Phú Thọ

Không rõ tác giả

01

được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại

81. Kép xoan chơi xuân

01

82. Kết nối hát Xoan với

Nguyễn Quang Long Hoàng Vy

01

Báo Tiền phong 3/2/2014 Báo Tổ quốc 29/01/2013

Tín ngưỡng Hùng Vương

Không rõ tác giả

01

Báo Quân đọi Nhân dân 21/07/2013

83. Khẩn trương đưa hát xoan khỏi tình trạng khẩn cấp

01

Đầu đề Báo Phú Thọ

Trích phát biểu của đ/c Hà Kế San

84. Là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại - Hát xoan Phú Thọ nâng tầm lịch sử văn hóa Việt 85. Lan tỏa hát Xoan

Báo Phú Thọ 21/3/2015

01

Nguyễn Xuân Ngọc

lắng đọng câu xoan cổ Hà Phương

86.

01

87. Lắng đọng cùng hát

Liên Minh

Báo Phú Thọ 24/12/2011 TTH

01

Xoan

88. Lễ hội hát xoan an

Không rõ tác giả

01

Pthoporta

thái

01

89. Mây vấn đề lịch sử và ý nghĩa của hát Xoan 90. Lời chia sẻ từ hai thế

Nguyễn Anh Tuấn Thanh Khánh

Báo mới 11/4/2011

01

hệ học hát Xoan cổ

91. Lời hẹn hát Xoan mùa

Kiều Anh

Báo Phú Thọ

01

Xuân

92. Mai này ai đi hát xoan Không rõ tác giả

01

Tuổi trẻ cuối tuần 9/4/2011

PL.22

Hà Hồng Hà

01

Khúc Hồng Thiện 01

Nhân dân cuối tuần 15/1/2012 Nhân dân 30/11/2011

93. Miếu lãi lèn ngân vang điệu hát 94. Một đời đắm đuối câu

xoan.

Đỗ Hà

01

Báo Phú Thọ 11/10/2014

95. Một đời đắm đuối khúc ca Xoan

96. Mùa Xuân đắm say

Phi Đông Hạ

01

Hội văn học nghệ thuật org.vn

cùng câu xoan Đất Tổ

01

Báo Người Phú Thọ

Nguyễn Khắc Xương

97. Mùa Xuân, hát Xoan và ước vọng

98. Năm 2015 đưa Hát

Không rõ tác giả

01

Đảng CSVN

Xoan trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

01

Đỗ Hà

Báo tin tức 26/01/2014

100.

01

101.

01

Nguyễn Anh Tuấn Phạm Bá Khiêm

Báo Phú Thọ 02/8/2014

102.

Không rõ tác giả

01

Báo mới 15/4/2014

103.

Không rõ tác giả

01

Văn Hiến

104.

01

Quốc Hội

Báo Phú Thọ 07/4/2014

105.

01

Nguyễn Sản

Báo Phú Thọ

106.

01

Việt Báo

Yến Dương – Hồng Mây

107.

01

Đỗ Hà

Báo Phú Thọ 21/1/2014

108.

01

Vũ Bắc

109.

01

Công Lý

Báo Thể thao và Văn hóa 15/1/2014 17/4/2012

110.

01

Hà Phương

Báo Phú THọ 3/12/2011

111.

01

Duy Ngợi

99. Nghệ nhân của phường Xoan Nhan dien hat xoan Phu Tho-1 Nhận diện vai trò nghệ nhân dân gian hát xoan Nhân lễ hội Đền Hùng 2014 về nghe xoan ghẹo ở làng Nhìn lại lịch sử giá trị của di sản hát xoan Như mạch ngầm chảy mãi Như những ngọn lửa cháy Những câu chuyện chưa thể lý giải ở nơi khởi nguồn hát Xoan Những "cổ thụ" giữ hồn Xoan Những người giữ hồn Xoan Những người giữ lửa cho hát xoan Niềm vui ông trùm làng Xoan Nữ thủ khoa mê hát xoan

Báo Tiền Phong 20/8/2012

PL.23

112.

01

113.

Nguyễn Quang Long Không rõ tác giả

01

Thể thao và Văn hóa 9/4/2014 Báo Phú THọ 27/8/2015

114.

Hương Giang

01

Báo Phú Thọ

115.

Vũ Kim Biên

01

TTXVN

116.

Thanh Khánh

01

117.

Vũ Bắc

Kinh tế và Đô thị 13/7/2013 TTXVN

01

118.

Dạ Minh

Tổ quốc 22/2/2012

01

119.

Báo Phú Thọ 13/9/2011

01

120.

Nguyễn Anh Tuấn Kim Chi

01

121.

HỒng Hà

Cổng giao tiếp điện tử Phú Thọ Tổ quốc 16/7/2013

01

122.

Tạ Văn Toàn

Tin tức 20/01/2015

01

123.

Không rõ tác giả

01

Báo Phú Thọ

124.

Thảo Phương

01

Thể thao Việt Nam.vn

125.

01

126. 127.

Nguyễn Ngọc Minh thực hiện tại Bali Không rõ tác giả

01 01

Người Phú Thọ.com

128.

Ngọc Long

01

Nhân dân 21/11/2013

129.

Ông trùm phường Xoan 8X Phat hiện mới về vai trò của Hát Xoan trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương Phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ Phu nhân vua Lý Thần Tông với hát Xoan Phú Thọ Phú Thọ chuẩn bị phổ cập hát xoan Phú Thọ đưa hát Xoan đến gần hơn với thế hệ trẻ Phú Thọ không hề có chủ trương làm “Xoan mới quá trình ra đời và phát triển của hát xoan Rộn ràng đêm hội hát Xoan Sao định xoan hóa cả tỉnh phú thọ Sớm đưa hát xoan khỏi tình trạng khẩn cấp Sức sống trường tồn của hát xoan Thả hồn vào làn điệu Xoan dân tộc thế giới vinh di sản văn hóa hát xoan phú thọ tìm hiểu về hát xoan Tinh hoa đất tổ :: Hát xoan Phú Thọ: Huyền thoại một làn điệu dân ca Tôn vinh các nghệ nhân hát Xoan 2015: đưa Hát Xoan

Đặng Đình Thuận 01

PL.24

ĐV

01

PTO

130.

Cao Văn Đình

Báo Phú Thọ

131.

01

Tạ Văn Toàn

Tin tức 10/11/2013

132.

01

Lâm Đào An

Tin tức 08/4/2014

133.

01

Hương Giang

Báo Phú Thọ

134.

01

(P/v TTXVN tại Pháp

135.

01

Lê Hà – Trung Dũng

136.

01

137.

01

Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần Trích Tổng tập VNDG Đất TỔ năm 2003

138.

01

Nguyễn Đình Ảnh Cao Văn Định

139.

01

Cao Văn Định

NLH

Cinnet DSTG

140.

01

141.

01

khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm bảo tồn, phát huy giá trị hát xoan trình diễn hát xoan thời hiện đại Truyền dạy nghệ nhân tại 4 phường xoan gốc Truyền đời giọng hát từ thuở Vua Hùng tu bổ tôn tạo di tích gắn với các phường xoan gốc UNESCO đánh giá cao nghệ thuật hát xoan Về đất tổ đắm đuối khúc hát Xoan Vẻ đẹp những lời ca xưa Xoan trên Đất Tổ ve nhung tu co trong Hat Xoan về tuổi tác của hát xoan Việt Nam xd chiến lược............cho từng giai đoạn Hát Xoan Phú Thọ - Vinh danh và thách thức

Vietnamnet 04/4/2012

142.

01

UVBCH Hội VNDG Phú Thọ - Chi hội trưởng Hội VNDG Việt Trì Vĩ Lam

Vừa được công nhận, hat xoan đã bị cải biên xoan cửa đình Xuân về làng Xoan

143. 144.

01 01

Vĩnh Minh Hương Giang

Dân Việt 29/3/2011 Cổng giao tiếp điện tử Phú Thọ Ven.vn 8/2/2012

145.

01

Thanh Tâm

Đặng Đình Thuận 01

PTO

146.

Xuân về theo câu hát Xoan ý nghĩa nhân văn trong hát xoan Tổng cộng: 146 bài viết

PL.25

PHỤ LỤC 9. Bản ký âm một số bài bản Hát Xoan

PL.26

PL.27

PL.28

PL.29

PL.30

PL.31

PL.32

PL.33

PL.34

PL.35

PL.36

PL.37

PL.38

PL.39

PL.40

PL.41

PL.42

PL.43

PL.44

PHỤ LỤC 10. Báo cáo tình trạng di sản Hát Xoan của CLB

BÁO CÁO TÌNH TRẠNG DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ

CẦN BẢO VỆ KHẨN CẤP – HÁT XOAN PHÚ THỌ

(17/03/2015)

I. THÔNG TIN CHUNG

1.1. Tên phường/câu lạc bộ hát Xoan: CLB hát Xoan và dân ca Phú Thọ, xã Tây

Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ

1.2. Thời gian thành lập Câu lạc bộ hát Xoan và dân ca Phú Thọ xã Tây Cốc được thành lập theo quyết định số 446/QĐ ngày 16 tháng 9 năm 2010 của Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh

Phú Thọ.

1.3. Thời gian triển khai kiểm kê hát Xoan

1.4. Những người cung cấp thông tin * Đối tượng dành cho chủ nhiệm câu lạc bộ

Họ tên: Ông Nguyễn Văn Lợi – Chủ nhiệm CLB Năm sinh: 1953

Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu Địa chỉ: Thôn 26, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.

* Đối tượng dành cho hội viên có nhiều năm tham gia câu lạc bộ có uy tín Họ tên: Ông Nguyễn Duy Phụ – Hội viên CLB

Năm sinh: 1950 Nghề nghiệp: Cán bộ nghỉ hưu

Địa chỉ: Thôn 5, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. * Đối tượng dành cho hội viên mới tham gia câu lạc bộ

Họ tên: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc – Hội viên CLB Năm sinh: 1972

Nghề nghiệp: Công nhân Địa chỉ: Thôn 26, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. 1.5. Bối cảnh câu lạc bộ Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết:

1.5.1. Vị trí địa lý Xã Tây Cốc nằm ở phía Tây Bắc của huyện Đoan Hùng. Chiều dài khoảng 6 km,

chiều ngang khoảng 3 km, có đường quốc lộ 70 chạy qua. Tổng số hộ toàn xã là 1.700 hộ với gần 7.000 nhân khẩu. Nghề nghiệp chủ yếu của nhân dân ở đây là trồng ch và chế

biến ch .

Câu lạc bộ hát Xoan và dân ca xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ được đặt địa điểm sinh hoạt tại Nhà văn hóa, thôn 26, xã Tây Cốc. Nhà văn hóa được trang bị

PL.45

cơ sở vật chất (bàn, ghế, hội trường), hệ thống loa truyền thông, loa đài, điện, nước đầy đủ đảm bảo cho sinh hoạt của câu lạc bộ.

1.5.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nơi CLB sinh hoạt Xã Tây Cốc là xã có nền kinh tế phát triển vững mạnh của huyện Đoan Hùng. Các

hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục, đặc biệt là phong trào văn hóa, văn nghệ ngày càng được quan tâm, duy trì và phát triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ của nhân

dân. Nhân dân xã Tây Cốc luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn vốn di sản hát Xoan và dân ca đặc trưng của địa phương mình nói riêng và của tỉnh Phú Thọ nói chung.

II. TÌNH TRẠNG CỦA HÁT XOAN 2.1. Các chức năng văn hóa và xã hội của Hát Xoan ngày nay

Hát Xoan vẫn thỏa mãn nhu cầu tâm linh của người dân Việt Nam chung và người dân ở Phú Thọ. Theo ông Nguyễn Văn Lợi cho biết: Vào những ngày đầu xuân năm mới,

giỗ Tổ Hùng Vương, hội làng, Câu lạc bộ hát Xoan và dân ca xã Tây Cốc thường biểu diễn Xoan ở các đền, đình, chùa. Các bài hát Xoan ngày nay không chỉ biểu diễn ở trong đình,

ngoài sân đình mà còn được trình diễn ở sân khấu phục vụ đại hội,hội nghị và tham gia hội thi, hội diễn… Câu lạc bộ chủ yếu tham gia trình diễn các quả cách và phần hát hội.

Hát Xoan không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh mà còn đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của người dân. Từ xưa, hát Xoan là món ăn tinh thần của người nông dân. Những năm

gần đây, nhất là khi hát Xoan được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, mọi người nhận thức rõ hơn giá trị và trách nhiệm bảo vệ hát Xoan. Họ tự

hào về điều đó và đến với hát Xoan nhiều hơn đặc biệt là lớp trẻ. Một số lời Xoan mới cũng được sáng tác thêm để làm phong phú bài bản Xoan, phù hợp với cuộc sống và hấp

dẫn hơn đối với thế hệ trẻ.

2.2. Đánh giá sức sống của hát Xoan và những nguy cơ hiện nay

2.2.1. Về tổ chức câu lạc bộ Theo Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết:

* Lịch sử hình thành và phát triển CLB: Trước đây là câu lạc bộ văn thể, hoạt động rất sôi nổi từ nhiều năm. Năm 2009 tỉnh Phú Thọ ra quyết định thành lập Câu lạc bộ hát Xoan xã Tây Cốc. Tây Cốc là xã có cội nguồn hát Xoan của các cụ để lại, cho nên xã rất quan tâm đến việc gìn giữ, bảo tồn giá trị di sản này, vì vậy, xã đã tích cực lựa chọn những hạt nhân văn nghệ tham gia vào câu lạc

bộ hát Xoan.Từ ngày thành lập đến nay, Câu lạc bộ thường xuyên duy trì hoạt động. Tổ chức đào tạo các đối tượng trẻ tuổi; đồng thời, thường xuyên tập luyện và tham gia biểu

diễn phục vụ hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ, các sự kiện của huyện. Tuy nhiên, CLB còn gặp rất nhiều khó khăn về trang phục, đạo cụ, âm thanh và kinh phí hoạt động. Không

những thế, hát Xoan là lối hát cổ truyền không phù hợp với giới trẻ hiện nay, cho nên vận động được thành viên tham gia câu lạc bộ là điều rất khó khăn. Lời bài hát khó hát và khó nhớ, luyện tập rất công phu, mất nhiều thời gian.

* Tổ chức và điều hành CLB:

PL.46

Khi mới thành lập, câu lạc bộ có 8 hội viên. Từ năm 2011 đến nay, câu lạc bộ kết nạp thêm 53 hội viên. Các thành viên trong câu lạc bộ tăng lên hàng năm ở độ tuổi từ 10

đến 30 tuổi gồm cả nam và nữ vì họ yêu thích hát Xoan. Như vậy, hiện nay câu lạc bộ có 61 hội viên (trong đó có 16 nam và 45 nữ). Các thành viên trong câu lạc bộ ở các độ tuổi:

thiếu niên (từ 6 đến 15 tuổi) gồm 19 người (08 nam, 11 nữ); thanh niên ( từ 29 tuổi đến 36 tuổi) gồm 05 người (1 nam, 4 nữ) ; trung niên (43 tuổi) gồm 1 người (nữ) và cao tuổi (từ

55 tuổi đến đến 85 tuổi) gồm 36 người (7 nam, 29 nữ). Các hội viên tham gia câu lạc bộ chủ yếu là học sinh, cán bộ nghỉ hưu và một số ít là công nhân, công chức, bí thư đoàn.

Câu lạc bộ sinh hoạt vào các tối thứ 7 và chủ nhật cuối tháng. Trong thời gian tham gia có một số hội viên không tham gia nữa do tuổi cao sức yếu nên không thể tham gia hát

và múa được.

Câu lạc bộ thường biểu diễn phục vụ các hội nghị ở huyện và xã; hội đình, chùa;

tham gia biểu diễn giao lưu tại các xã lân cận. Thời điểm đi biểu diễn nhiều nhất là dịp đầu năm từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch.

Chủ nhiệm câu lạc bộ là người đứng ra lựa chọn các thành viên trong câu lạc bộ đi tham gia biểu diễn. Tiêu chí của người được chọn đi trình diễn là người có ngoại hình đẹp,

độ tuổi trẻ, có giọng hát tốt và múa dẻo.

Câu lạc bộ đã từng đi giao lưu với các đơn vị bạn: xã Vĩnh Trân – huyện Hạ Hòa và

các xã lân cận thuộc huyện Đoan Hùng như: Quế Lâm, Phúc Lai, Hùng Long, Nghinh Xuyên . Đây là dịp để Câu lạc bộ và các xã được giao lưu, học hỏi lẫn nhau góp phần bảo

tồn và phát huy di sản hát Xoan quý giá của Phú Thọ. Trong các bài hát Xoan tham gia trình diễn cho thấy: Về bài bản, lời ca, nhạc điệu, cách hát, cách múa giữa các câu lạc bộ

đã được đi tập huấn thì đều giống nhau; nhưng cũng có những đơn vị không hát được phải nhờ người hát hộ như xã Minh Phú nhờ CLB hát Xoan xã Tây Cốc hát hộ, đánh trống các

quả cách không đúng cụ thể là: đánh theo hát hội. * Nguồn kinh phí hoạt động của CLB:

Kinh phí hoạt động của câu lạc bộ không có cấp nào hỗ trợ cả. Kinh phí của câu lạc bộ có được chủ yếu từ nguồn vận động xã hội hóa của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp, nhân dân trong xã. Trang phục biểu diễn Xoan do các hội viên trong câu lạc bộ đóng tiền tự mua. Câu lạc bộ đã tích cực vận động các gia đình trong xã, các cơ quan, doanh nghiệp ủng hộ. Năm 2013, các gia đình trong xã ủng hộ với số tiền 15.000.000đ. Năm 2014, câu

lạc bộ được ủng hộ 4.000.000đ từ các công ty, doanh nghiệp tiêu biểu như: Hùng Anh, Hương Thảo, Lâm trường Đoan Hạ và các gia đình ông, bà trong xã: Phong Kiểm, Thái

Hòa. Kinh phí do phó chủ nhiệm câu lạc bộ nắm giữ, quản lý dùng để chi cho việc thu âm thu tiếng, phục vụ biểu diễn như thuê xe, tiền ăn, ở. Kinh phí cho người đi tập huấn, người

truyền dạy và người tham gia biểu diễn không có bồi dưỡng, hỗ trợ từ cấp xã đến cấp huyện mà phải tự túc về xăng xe, ăn ở, tài liệu.

*Trang phục, nhạc cụ,đạo cụ:

PL.47

Hiện nay, câu lạc bộ có 24 bộ quần áo cho đào, 16 bộ quần trắng áo the cho nam; 10

chiếc trống con, 01 chiếc trống cái; 1 âm ly, 02 micro, 02 loa.

* Sự quan tâm của chính quyền, cơ quan văn hóa: + Cấp tỉnh: Sở VH,TT&DL Phú Thọ chỉ đạo Trung tâm VHTT Phú Thọ trực tiếp

quản lý, quan tâm, tạo điều kiện hướng dẫn câu lạc bộ tổ chức và hoạt động.

Từ khi thành lập, câu lạc bộ được tỉnh cấp cho 01 đôi loa, 01 âm ly, 02 chiếc míc, 01

trống, 01 bộ quần áo xoan nam và 01 chiếc áo dài nữ.

+ Cấp huyện: không có gì

+ Cấp xã: tạo điều kiện về địa điểm, cơ sở vật chất (bàn, ghế, điện, nước) cho sinh

hoạt của câu lạc bộ.

* Định hướng để duy trì và phát triển câu lạc bộ: Câu lạc bộ tiếp tục duy trì sinh hoạt, nghiêm túc thực hiện theo đúng quy chế của

câu lạc bộ. Câu lạc bộ luôn đón nhận và kết nạp các hội viên tự nguyện và yêu thích hát Xoan; đồng thời, thường xuyên luyện tập các bài bản Xoan đã học; đào tạo, phát triển thêm

nhân lực, nhất là thanh thiếu niên.

* Nhu cầu và mong muốn của lãnh đạo CLB:

Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB mong muốn: Để duy trì, phát triển câu lạc bộ, các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa về hỗ trợ kinh phí cho câu lạc bộ hoạt động;

đặc biệt là người đi truyền dạy, người đi tập huấn từ huyện đến xã nên có chế độ hỗ trợ cụ thể.

2.2.2. Các bài bản Xoan Theo Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết: câu lạc bộ luôn duy trì ôn

luyện và biểu diễn các bài bản xoan cổ với mong muốn gìn giữ di sản văn hóa phi vật thể quý giá này của Phú Thọ nói riêng và của nhân loại nói chung.

Câu lạc bộ hiện nay đã sưu tầm, lưu giữ và thực hành 27 bài bản Xoan: hát nghi lễ (05 bài bản: nhập tịch mời vua, giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám); hát quả cách

(13 bài bản: Kiều dương cách, nhàn ngâm cách, tràng mai cách, ngư tiều canh mục cách, đối rẫy cách, hồi liên cách, xoan thời cách, hạ thời cách, thu thời cách, đông thời cách, tứ mùa cách, hò ch o cách, tứ dân cách) và hát giao duyên (hát phú lý -hát hội) gồm 09 bài bản: bỏ bộ (xe chỉ vá may), Bợm gái (Ch o lên cây bưởi hái hoa), đón đào, xin huê -đố chữ, cài huê, giã (mó) cá, bợm gái, trồng nhiều chuối ngọt ch thơm, hát ru.

Cách thức để câu lạc bộ sưu tầm, lưu giữ các bài bản Xoan cổ là tài liệu ghi chép và băng đĩa. Tài liệu ghi chép để lưu giữ lời hát; băng đĩa để lưu giữ các động tác múa và cách

phát âm. Câu lạc bộ đã sử dụng tài liệu ghi chép, đánh máy photo cho mỗi hội viên trong câu lạc bộ một bản kết hợp với sử dụng đĩa video.

Câu lạc bộ hiện chỉ biểu diễn thực hành các bài bản Xoan cổ, chưa có các sáng tác

mới dựa trên làn điệu Xoan cổ.

2.2.3. Con người tham gia học, thực hành và truyền dạy

PL.48

* Ông Nguyễn Văn Lợi - chủ nhiệm CLB cho biết: Ông tham gia hát Xoan từ năm 2000. Ông làm trưởng thôn, phụ trách câu lạc bộ văn thể và là chủ nhiệm câu lạc bộ hát

Xoan. Khi tham gia hát Xoan ông thấy lời bài hát rất hay nên ông rất thích. Ông học hát Xoan từ trước khi thành lập câu lạc bộ. Ông được bà Lê Thị Sửu (85 tuổi- hiện vẫn còn

sống) và một số cụ (hiện nay đã mất) trong thôn truyền dạy. Năm 2010 và năm 2014 ông tham gia lớp tập huấn truyền dạy hát Xoan do Sở VH,TT&DL tỉnh Phú Thọ tổ chức tại địa

điểm Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thành phố Việt Trì. Tại lớp tập huấn ông được các nghệ nhân ở các phường Xoan gốc truyền dạy: ông Lê Xuân Ngũ – phường Xoan Phù

Đức, ông Nguyễn Ngọc Bảo – phường Xoan Thét thuộc xã Kim Đức và bà Nguyễn Thị Lịch – phường Xoan An Thái – xã Phượng Lâu. Trước khi học, ông đã từng biết đến hát

Xoan. Ông tự nguyện tham gia học hát Xoan do yêu quý và mong muốn giữ gìn, bảo tồn vốn cổ này. Mới đầu học ông thấy rất khó hát, nhưng càng học ông càng thấy say mê vì

từng lời hát, điệu múa xoan thấm đậm ý nghĩa đời sống xã hội; tác động trực tiếp đến nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Ông làm chủ nhiệm câu lạc bộ do được tập thể tín nhiệm vì

lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm. Trong gia đình ông có 06 người biết hát Xoan trong đó có 05 người thường xuyên đi tham gia biểu diễn: ông, vợ ông là bà Nguyễn Thị

Phương (sinh năm 1953), con dâu Trịnh Thị Hồng (sinh năm 1980), 02 cháu Nguyễn Thị Diệu Linh (sinh năm 2000) và cháu Nguyễn Thị Quỳnh Hoa (sinh năm 2002). Trong thời

gian học hát Xoan tại tỉnh không có cấp nào hỗ trợ kinh phí cả nên ông phải sáng đi tối về rất vất vả nhưng vì yêu thích hát Xoan nên ông đã cố gắng theo học không bị gián đoạn.

Ông đã học được 25 bài: hát nghi lễ (05 bài bản: nhập tịch mời vua, giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám); hát quả cách (13 bài bản: Kiều dương (giang) cách, nhàn ngâm

cách, tràng mai cách, ngư tiều canh mục cách, đối rẫy cách, hồi liên cách, xoan thời cách, hạ thời cách, thu thời cách, đông thời cách, tứ mùa cách, hò (thuyền) ch o cách, tứ dân

cách) và hát giao duyên (hát phú lý -hát hội) gồm 07 bài bản: bỏ bộ (xe chỉ vá may), Bợm gái (Ch o lên cây bưởi hái hoa), đón đào, xin huê -đố chữ, cài huê, giã (mó) cá, bợm gái.

Bài bản đầu tiên ông được học là: giáo trống, giáo pháo. Các bài bản khó học nhất đối với ông là Kiều dương cách, nhàn ngâm cách, song học mãi rồi quen lại thấy say mê yêu thích. Một bài bản học hết khoảng 2 tiếng nhưng để hát và biểu diễn thành thục được ít nhất phải mất một tuần.

Các bài bản xoan đã được học đều được ông tham gia trình diễn. Câu lạc bộ thường

tham gia biểu diễn hát Xoan phục vụ hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ ở cấp huyện và cấp xã; phục vụ các lễ hội ở đình, chùa và được các xã lân cận mời đi biểu diễn giao lưu.

Ông đã từng đi truyền dạy hát Xoan cho 5 xã với hơn 100 học viên. Ông thích đi dạy

vì muốn nhiều người biết đến các làn điệu Xoan cổ Phú Thọ. Ông dạy theo phương pháp

truyền thống đó là truyền miệng cách phát âm, diễn xướng và hướng dẫn các động tác múa.

Ông tận tình hướng dẫn các học viên cho đến khi hát được, múa được và biểu diễn được.

Ông chủ yếu dạy các bài bản xoan cổ, không dạy bài bản mới nào cả cụ thể:Mời vua, giáo

PL.49

trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám, kiều dương cách, nhàn ngâm cách, tràng mai cách,

đối dẫy cách, tứ dân cách, xoan thời cách, hò ch o cách, bỏ bộ (02 bài), đón đào, xin huê

đố chữ, giã cá, trồng nhiều chuối ngọt ch thơm, hát ru. Ngoài việc truyền dạy Xoan trong

xã, ông còn tham gia truyền dạy ở các xã: Ngọc Quan, Yên Kiện, Hùng Long, Quế Lâm.

Ngoài ra, ông còn tham gia truyền dạy cho học sinh các trường như: Trường cấp III Quế

Lâm, trường cấp II Tây Cốc theo yêu cầu của nhà trường. Phương pháp truyền dạy giống

như ở xã. Những người theo học hầu hết là những người thích hát Xoan ở tất cả các độ

tuổi. Trong quá trình tham gia học có một số người bỏ giữa chừng vì họ không hát và múa

được. Trong số những người đã học có 7 người hát tốt cụ thể là: Ông Nguyễn Duy Phụ

(sinh năm 1949), ông Nguyễn Duy Đoàn (sinh năm 1951), ông Cao Văn Minh, bà Nguyễn

Thị Khương (sinh năm 1958), bà Nguyễn Thị Bích Ngọc (sinh năm 1972), bà Trần Thị

Hương (sinh năm 1972), bà Lê Thị Kiểm (sinh năm 1951).

* Ông Nguyễn Duy Phụ – hội viên có nhiều năm tham gia câu lạc bộ, có uy tín cho

biết: Ông tham gia hát Xoan phục vụ hội diễn ở Đền Hùng từ năm 2008. Ông tham gia vì

phong trào của địa phương và yêu thích hát Xoan bởi các bài hát Xoan giàu tính nhân văn.

Trước đây ông làm Bí thư Đảng ủy xã, hiện nay đang làm chủ tịch hội người cao tuổi và là

hội viên câu lạc bộ hát Xoan của xã. Trong gia đình có ông và vợ ông là bà Nguyễn Thị

Thu Hồng (61 tuổi) là biết đến hát Xoan.

Ông tham gia học hát Xoan từ năm 2010 do ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm câu

lạc bộ truyền dạy. Ông học và tham gia hát Xoan vì ông yêu thích và mong muốn gìn giữ

vốn di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan quý giá của cha ông để lại. Trước khi học hát

Xoan, ông đã từng biết đến hát Xoan nhưng không hát và biểu diễn được.Trong quá trình

tham gia học hát Xoan: ông cũng như các thành viên trong câu lạc bộ thấy rất khó nhớ, tuy

nhiên không bị gián đoạn vì ông và mọi người đều là hội viên câu lạc bộ. Ông đã học các

phần hát nghi lễ, hát quả cách, hát giao duyên (hát Hội) nhưng ông chỉ thành thạo 11 bài,

đó là: Mời vua, giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám, xoan thời cách, tứ dân cách,

hò chèo cách, xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào), bỏ bộ. Bài bản đầu tiên ông được

học là: giáo trống, giáo pháo. Trong các bài bản mà ông đã học, ông thấy khó nhất là bài

giáo trống, giáo pháo. Học một bài bản ít nhất 2 tuần mới có thể thuộc lời bài hát và biểu

diễn thành thục được.

Ông thường tham gia biểu diễn bài: Xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào) vì các

bài hát này vui nhộn. Ông thường tham gia biểu diễn cho câu lạc bộ xã Tây Cốc; biểu diễn

phục vụ các đại hội, hội nghị của huyện, của xã; các lễ hội của địa phương, của tỉnh. Thời

điểm đi diễn nhiều nhất là vào dịp lễ hội Đền Hùng (tháng 3 âm lịch). Trong những dịp

này, ông thường tham gia trình diễn các bài: tứ dân cách, hò chèo cách, xin huê – đố chữ,

thơ nhang, đóng đám, giáo trống, giáo pháo.

PL.50

Ông chưa từng tham gia truyền dạy hát Xoan cho ai.

Ông cho biết: để gìn giữ các bài bản Xoan truyền thống, câu lạc bộ nên thường

xuyên tổ chức ôn luyện và biểu diễn.

Ông mong muốn các cấp chính quyền quan tâm, đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho câu lạc

bộ sinh hoạt. Có chế độ bồi dưỡng cụ thể cho người truyền dạy và người biểu diễn. Đồng

thời nên phổ biến truyền dạy Xoan rộng rãi ở các trường học.

* Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc – hội viên mới tham gia câu lạc bộ cho biết:

Bà tham gia hát Xoan từ khi thành lập câu lạc bộ năm 2009. Bà tham gia hát Xoan vì

tất cả mọi người trong thôn ai cũng hát Xoan, trong đó có rất nhiều các cụ già, bản thân bà

còn trẻ cũng thấy được trách nhiệm cuả mình trong việc kế tục, bảo tồn và phát huy bản

sắc văn hóa của quê hương. Trước đây bà là công nhân, hiện nay bà vẫn đang làm, tuy

nhiên bà cũng thu xếp giành thời gian tham gia vào câu lạc bộ hát Xoan. Trong gia đình bà

có 4 người thì có 3 người yêu thích và biết hát Xoan: bà và 2 con của bà. Chồng bà rất ủng

hộ cho bà và các con.

Bà tham gia học hát Xoan từ năm 2010 tại lớp học của xã do cán bộ tỉnh về truyền

dạy và được ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB truyền dạy. Ông là người đã từng

được xã Tây Cốc cử tham gia các lớp tập huấn hát Xoan do tỉnh tổ chức. Bà học theo

phương pháp truyền khẩu, ghi chép và hướng dẫn thực hành các động tác múa. Bà học hát

Xoan vì yêu thích văn nghệ và nghe mọi người nói rằng, hát Xoan học rất khó cho nên bà

lại càng muốn học. Trước khi học hát Xoan, bà chưa biết gì về Xoan. Trong quá trình tham

gia học, bà nói: không chỉ riêng bà mà ai cũng gặp khó khăn vì mới đầu chưa có đủ người,

quá trình tham gia cũng bị gián đoạn do bà bận việc gia đình hoặc những lý do khác do

khách quan đem lại. Bà mới chỉ học được 10 bài, đó là: mời vua, giáo trống, giáo pháo,

tràng mai cách, đối dẫy cách, xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào), giã cá, bỏ bộ, bợm

gái. Bài bản đầu tiên bà được học là: Bỏ bộ. Trong các bài bản đã học, bà thấy khó nhất là

bài bợm gái. Học một bài bản hết khoảng từ 3 đến 5 ngày.

Bà thường tham gia biểu diễn bài: Bỏ bộ, Xin huê – đố chữ, trống quân (đón đào) vì

thấy lời hát hay, vui nhộn, dễ học. Bà và câu lạc bộ thường được mời tham gia biểu diễn

vào dịp kỷ niệm các ngày lễ, tết nguyên đán, phục vụ các hội nghị, khánh thành đình, chùa

mới của huyện, của xã…..Ngoài ra, còn được một số gia đình mời tham gia trong tổ chức

lễ mừng thọ, được xã Vĩnh Trân huyện Hạ Hòa mời tham gia giao lưu. Thời điểm bà cùng

câu lạc bộ đi biểu diễn nhiều nhất là vào dịp đầu năm Tết nguyên đán, vào các dịp lễ hội.

Bài bản tham gia biểu diễn chủ yếu là xoan cổ, không có sáng tác mới nào cả.

Bà chưa từng truyền dạy hát Xoan cho ai cả.

Bà cho biết: muốn gìn giữ các bài bản Xoan truyền thống thì mỗi một bài bản Xoan

được học và biểu diễn cần ghi chép lại rồi in, photo thành tài liệu để lưu giữ lâu dài.

PL.51

Bà mong muốn lãnh đạo các cấp tạo điều kiện hỗ trợ kinh phí để mỗi khi đi tham gia

biểu diễn hoặc sinh hoạt câu lạc bộ tại địa phương vẫn có kinh phí hoạt động, mua sắm

trang phục, đạo cụ biểu diễn cần thiết.

2.2.4.Không gian thực hành hát Xoan

 Địa điểm thực hành

Theo Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết: Câu lạc bộ thường biểu diễn

Xoan ở khu vực trong và ngoài hội trường -nơi tổ chức ngày lễ, ngày kỷ niệm, ở các đình,

chùa của huyện, của xã.

 Các tập tục liên quan đến hát Xoan

Ông Nguyễn Văn Lợi –chủ nhiệm CLB cho biết:

- Tục hát cửa đình:

Câu lạc bộ từng trình diễn xoan ở các cửa đình, cửa chùa vào dịp đầu xuân năm

mới, khánh thành đình, chùa và các lễ hội của tỉnh và của địa phương.

- Tục kết nước nghĩa:

Từ khi thành lập và hoạt động đến nay, câu lạc bộ chưa kết nghĩa với câu lạc bộ

khác nào.

2.2.5.Khán giả và công chúng

Trước khi hát Xoan được UNESCO công nhận năm 2011, theo ông Nguyễn Văn Lợi

– Chủ nhiệm CLB cho biết: có nhiều người còn mơ hồ không biết hát Xoan duy trì được

hay không? Nhưng từ khi hát Xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể

cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại thì người dân ngày càng hiểu rõ ý nghĩa của hát Xoan và

họ ngày càng yêu thích. Ông Nguyễn Duy Phụ - hội viên câu lạc bộ lâu năm cho biết:

Trước khi hát Xoan được UNESCO công nhận thì ít người biết hát, trong xã chỉ có khoảng

từ 3 đến 5 người cao tuổi biết hát Xoan. Còn theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết:

Trước khi được UNESCO công nhận cũng có nhiều người biết đến, nhưng đối tượng chỉ là

những người cao tuổi, đến nay hát Xoan đã thực sự khẳng định được vị trí của mình bởi lối

hát nhẹ nhàng, tình cảm dễ đi vào lòng người, vì thế hát Xoan đã thu hút được đông đảo

các tầng lớp tham gia.

Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết: Mỗi khi CLB biểu diễn xoan, thu

hút rất đông khán giả đến xem và cổ vũ. Đối tượng khán giả nghe và xem hát Xoan đủ các

tầng lớp: cao tuổi, trung niên, thanh niên, thiếu niên, thiếu nhi. Hát Xoan Phú Thọ đã và

đang được nhân dân xã Tây Cốc yêu mến, vì càng hát và nghe hát càng thấy hay và đặc

biệt đây là vốn di sản quý giá của tỉnh nhà cần được bảo tồn và gìn giữ.

2.2.6. Nhận thức và giáo dục về hát Xoan

Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết:

PL.52

2.2.6.1.Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị của hát Xoan của tỉnh tác động đến

nhận thức của nhân dân

Nhân dân rất phấn khởi, ngày càng yêu thích Xoan và hiểu rõ hơn giá trị ý nghĩa của

Xoan, biết trân trọng, nâng niu, gìn giữ vốn văn hóa cổ truyền quý giá của cha ông để lại.

2.2.6.2.Nhận thức của các cấp chính quyền địa phương và cơ sở về bảo tồn hát Xoan

Các cấp chính quyền địa phương và cơ sở có nhiều đổi mới trong việc bảo tồn hát

Xoan cụ thể:

Các cấp chính quyền địa phương và cơ sở ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về giá

trị , tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể hát Xoan Phú Thọ và sự cần thiết của

việc giữ gìn, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể này cụ thể:

- Chính quyền cấp tỉnh:

Từ năm 2013 đến nay, tỉnh đã triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm về bảo tồn, phát

huy giá trị hát xoan là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Tỉnh

tập trung truyền dạy và thực hành Hát Xoan thông qua việc tổ chức mở các lớp đào tạo

nghệ nhân kế cận, lớp xoan cộng đồng, lớp truyền dạy hát Xoan cho các phường Xoan gốc

và cán bộ văn hóa xã, phường, hạt nhân văn nghệ các câu lạc bộ hát Xoan và dân ca trên

địa bàn tỉnh.

Tỉnh đã quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ cho CLB xã Tây Cốc về tăng âm, loa đài và

một số trang phục, đạo cụ. Đồng thời Sở VH,TT&DL Phú Thọ chỉ đạo Trung tâm VHTT

Phú Thọ trực tiếp quản lý, quan tâm, tạo điều kiện hướng dẫn câu lạc bộ duy trì tổ chức và

hoạt động.

- Chính quyền cấp huyện: chưa thực sự quan tâm đúng mức

- Chính quyền cấp xã:

Đảng ủy và UBND xã Tây Cốc rất chú trọng tới phong trào văn hóa văn nghệ, đặc

biệt là bảo tồn hát Xoan và dân ca Phú Thọ trong tỉnh.

Quan tâm, tạo điều kiện về địa điểm, cơ sở vật chất ( nhà văn hóa, bàn ghế, điện,

nước, tăng âm, hệ thống truyền thanh…) cho câu lạc bộ hoạt động. Trong các chương trình

văn nghệ phục vụ đại hội, hội nghị được cấp huyện và xã quan tâm đưa từ 1-2 tiết mục

xoan vào biểu diễn.

- Câu lạc bộ hát Xoan xã Tây Cốc:

Chủ nhiệm và các hội viên trong câu lạc bộ luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của

việc gìn giữ, bảo tồn di sản hát xoan, do đó, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm tích cực

luyện tập, tham gia biểu diễn và truyền dạy về hát Xoan.

- Cộng đồng về hát Xoan: nhân dân địa phương nhận thức rõ tầm quan trọng của việc

gìn giữ, bảo tồn hát Xoan, từ đó, có trách nhiệm hơn trong việc duy trì và truyền dạy hát

xoan.

PL.53

2.2.7. Tác động của việc UNESCO công nhận hát Xoan là di sản cần bảo vệ khẩn

cấp

Làm cho nhiều người biết đến Xoan và hiểu về Xoan hơn, thu hút nhiều người tham

gia vào câu lạc bộ hát Xoan và dân ca Phú Thọ; thu hút sự quan tâm, hỗ trợ, bảo tồn hát

Xoan của Nhà nước và các tổ chức. Mọi người thấy tự hào về di sản văn hóa phi vật thể

quý giá này, từ đó tích cực hơn trong việc tham gia học, biểu diễn và truyền dạy hát Xoan.

Hát Xoan là nguồn di sản quý giá góp phần khai thác phát triển du lịch đem lại lợi ích kinh

tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng.

2.2.8. Tác động của thông tin đại chúng đến nhận thức và hiểu biết về xoan

Thông tin đại chúng đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hiểu biết về xoan của

quần chúng nhân dân. Hát Xoan được giới thiệu, quảng bá đến nhân dân Phú Thọ, nhân

dân cả nước và thế giới thông qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng như: sách, báo

chí, đài phát thanh và truyền hình, cổ động trực quan…. ở trung ương và địa phương.

2.3. Các hoạt động bảo vệ khác

Ngoài những hoạt động để bảo tồn và phát huy giá trị hát Xoan của Nhà nước và các

tổ chức như: mở lớp truyền dạy hát Xoan, phục dựng lại không gian thực hành (miếu Lãi

L n), quay phim tư liệu... thì ở địa phương – nơi có câu lạc bộ hát Xoan đang được thực

hành cũng có một số biện pháp để bảo vệ di sản như:

- Để góp phần bảo vệ Xoan, đưa Xoan đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là thế

hệ trẻ, xã Tây Cốc thường kết hợp một số tiết mục Xoan trong các chương trình văn nghệ

phục vụ hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ như ngày 8/3, 26/3, 20/10...

2.4. Cam kết bảo vệ

Trong quá trình kiểm kê, chúng tôi nhận thấy quyết tâm của cộng đồng trong việc

giữ gìn Xoan qua những biểu hiện cụ thể sau:

- Ông Nguyễn Văn Lợi – chủ nhiệm CLB cho biết “Tôi tham gia và phụ trách câu lạc

bộ hát Xoan với mong muốn bảo tồn, phát huy giá trị di sản hát Xoan quý giá của quê

hương Phú Thọ".

- Ông Nguyễn Duy Phụ - hội viên tham gia câu lạc bộ lâu năm cho biết: “ Học Xoan

rất khó nhớ, nhưng càng khó, tôi càng quyết tâm học vì muốn sau này có thể truyền dạy lại

Xoan cho các thế hệ sau, để Xoan mãi tồn tại và tỏa sáng trong đời sống cộng đồng”

- Chị Nguyễn Thị Bích Ngọc – hội viên mới tham gia câu lạc bộ cho biết, “ Trước

kia chưa tham gia hát Xoan, tôi nghe mọi người bảo rằng, hát Xoan học khó lắm, nhưng

chính vì khó nên tôi lại càng thích khám phá và quyết tâm theo học hát Xoan. Tôi tham gia

vào câu lạc bộ hát Xoan với mong muốn cống hiến một phần nhỏ bé vào việc gìn giữ, bảo

tồn Xoan”.

PL.54

Qua những lời nói của cộng đồng – những người trực tiếp thực hành và gìn giữ di

sản, chúng ta có thể thấy được họ đều mong muốn và quyết tâm gìn giữ Xoan để Xoan có

thể sống mãi.

2.5. Sự tham gia của các thành viên Câu lạc bộ hát Xoan trong việc chuẩn bị báo

cáo

Để công tác kiểm kê về hát Xoan đạt hiệu quả, các thông tin trong báo cáo xác thực

và thể hiện được đúng sức sống của hát Xoan, Trung tâm VHTT tỉnh Phú Thọ đã soạn 03

bộ câu hỏi phỏng vấn dành cho 03 đối tượng chủ yếu trong câu lạc bộ đó là: chủ nhiệm câu

lạc bộ, người tham gia câu lạc bộ lâu năm có uy tín và người mới tham gia câu lạc bộ.

Đồng thời cử 8 đồng chí, mỗi đồng chí trực tiếp tiến hành kiểm kê và làm báo cáo 03 câu

lạc bộ. Phương pháp kiểm kê: dùng phiếu yêu cầu các đối tượng cung cấp thông tin theo

nội dung câu hỏi; đồng thời kết hợp phỏng vấn trực tiếp. Bản thân tôi, trực tiếp được phân

công đảm nhận kiểm kê CLB hát Xoan và dân ca Phú Thọ, xã Tây Cốc, huyện Đoan Hùng,

trong quá trình thực hiện, tôi đã được các thành viên trong câu lạc bộ nhiệt tình giúp đỡ,

cung cấp những thông tin họ nắm được một cách tích cực và xác thực.

PL.55

PHỤ LỤC ẢNH

PL.Ảnh.1

Ảnh: Đình thôn Kim Đái, xã Kim Đức Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Đình Thét, xã Kim Đức Nguồn: Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.2

Ảnh: Đình An Thái, xã Phượng Lâu Nguồn: Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Đình Kim Đái (Kim Đơi) Nguồn: Nguồn: Tác giả, 11/2021

PL.Ảnh.3

Ảnh: Miếu Lãi L n, xã Kim Đức Nguồn: Tác giả, 3/2021

Ảnh: Miếu An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, 10/2021

PL.Ảnh.4

Ảnh: Miếu An Thái, xã Phượng Lâu Nguồn: Tác giả, 10/2021

Ảnh: Đình Thét, xã Kim Đức Nguồn: Tác giả, 9/2020

PL.Ảnh.5

Ảnh: Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức dâng lễ trình Thánh

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Phường Xoan Thét, xã Kim Đức dâng lễ trình Thánh

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.6

Ảnh: Phường Xoan Kim Đái, xã Kim Đức dâng lễ trình Thánh

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Cụ từ lễ trình Thánh, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.7

Ảnh: Cụ từ lễ trình Thánh, Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Lãnh đạo UBND xã Kim Đức làm lễ tạ Thánh cuối năm tại Miếu Lãi Lèn

Nguồn: Tác giả, Việt Trì 17/01/2022

PL.Ảnh.8

Ảnh: Cụ Từ Nguyễn Xuân Hội, trùm Phường Xoan Phù Đức xã Kim Đức tại Miếu Lãi Lèn. (cụ đến phục vụ mở cửa, dọn dẹp và sắp lễ cho các lãnh đạo)

Nguồn: Tác giả, Việt Trì 17/01/2022

Ảnh: Cụ Từ Nguyễn Xuân Hội, trùm Phường Xoan Phù Đức và đại diện

Ban văn hóa xã Kim Đức chuẩn bị lễ tạ Thánh cuối năm tại Miếu Lãi Lèn

Nguồn: Tác giả, Việt Trì 17/01/2022

PL.Ảnh.9

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.10

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.11

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Dắt mẹ qua đ o. Cụ Nguyễn Thị Quy 104 tuổi, đào Xoan An Thái, xã Phượng Lâu (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.12

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.13

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.14

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may, Cụ Lê Thị Đá 102 tuổi, đào Xoan Phù Đức, xã Kim Đức (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Ngựa hồng, Cụ Nguyễn Thị Quy 104 tuổi, đào Xoan An Thái, xã Phượng Lâu (thực hiện các động tác hát, múa ghi âm lưu giữ tư liệu)

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.15

Ảnh: Cụ Lê Xuân Ngũ, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức dẫn cách;

Cụ: Nguyễn Xuân Hội đánh trống dẫn cách

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Giáo trống - Giáo Pháo, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 2/2008

PL.Ảnh.16

Ảnh: Tiết mục: Giáo trống - Giáo Pháo, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo Pháo, Phường Xoan Kim Đái, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.17

Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008

Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008

PL.Ảnh.18

Ảnh: Tiết mục: Đóng đám, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008

Ảnh: Tiết mục: Bỏ bộ, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008

PL.Ảnh.19

Ảnh: Tiết mục: Đóng đám, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách, Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.20

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách, Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Tứ mùa cách, Phường Xoan Thét, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.21

Ảnh: Tiết mục: Thuyền ch o cách, Phường Xoan Kim Đái, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, 1/2008

Ảnh: Tiết mục: Thuyền ch o cách, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

PL.Ảnh.22

Ảnh: Tiết mục: Giã cá, Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, năm 2008

Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

PL.Ảnh.23

Ảnh: Tiết mục: Tứ dân Xoan cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Tứ dân Xoan cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

PL.Ảnh.24

Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

PL.Ảnh.25

Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

PL.Ảnh.26

Ảnh: Tiết mục: Nhập tịch mời vua (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

Ảnh: Tiết mục: Giáo pháo (buổi tập luyện truyền dạy), Phường Xoan Phù

Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

PL.Ảnh.27

Ảnh: Tiết mục: Giáo pháo (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan

Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

PL.Ảnh.28

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan

Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Trồng bông luống đậu (buổi tập luyện, truyền dạy),

Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

PL.Ảnh.29

Ảnh: Tiết mục: Trồng bông luống đậu (buổi tập luyện, truyền dạy),

Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

Ảnh: Tiết mục: Mó cá (buổi tập luyện truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

PL.Ảnh.30

Ảnh: Tiết mục: Tứ dân cách (buổi tập luyện truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Mó cá (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An

Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

PL.Ảnh.31

Ảnh: Tiết mục: Giáo pháo (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

PL.Ảnh.32

Ảnh: Tiết mục: Thuyền chèo cách (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Trồng bông luống đậu (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan An Thái, xã Phượng Lâu

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2021

PL.Ảnh.33

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan

Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

Ảnh: Tiết mục: Thơ nhang (buổi tập luyện, truyền dạy), Phường Xoan Phù Đức, xã Kim Đức

Nguồn: Tác giả, tháng 10/2021

PL.Ảnh.34

Ảnh: Tiết mục: Dắt mẹ qua đ o (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).

Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy

Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019

Ảnh: Tiết mục: Dắt mẹ qua đ o (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).

Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy

Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019

PL.Ảnh.35

Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ).

Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

PL.Ảnh.36

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).

Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy

Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019

Ảnh: Tiết mục: Xe chỉ vá may (buổi tập luyện, sinh hoạt giữa giờ).

Học sinh Trường tiểu Đào Xá 1, huyện Thanh Thủy

Nguồn: Tác giả, tháng 4/2019

PL.Ảnh.37

Ảnh: Tiết mục: Trống quân – Đón đào, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020

Ảnh: Tiết mục: Trống quân – Đón đào, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020

PL.Ảnh.38

Ảnh: Tiết mục: Lễ Bế mạc và trao chứng chỉ

Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020

Ảnh: Tiết mục: Bỏ bộ, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB

hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.

Nguồn: Tác giả, tháng 11/2019

PL.Ảnh.39

Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 3/2019

PL.Ảnh.40

Ảnh: Tiết mục: Hát mời vua (buổi sinh hoạt giữa giờ). Học sinh Trường

tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo pháo (tiết học Âm nhạc). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

PL.Ảnh.41

Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo pháo (tiết học Âm nhạc). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

Ảnh: Tiết mục: Giáo trống – Giáo pháo (tiết học Âm nhạc). Học sinh Trường tiểu học Gia Cẩm, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 5/2018

PL.Ảnh.42

Ảnh: Tiết mục: Trống quân – Đón đào, Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho CLB hát Xoan và Dân ca Phú Thọ cấp tỉnh.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2020

Ảnh: Tiết mục: Kiều giang cách, Nghệ nhân dạy hát và đánh trống.

Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan, GV Âm nhạc Trường tiểu học, THCS.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019

PL.Ảnh.43

Ảnh: Tiết mục: Kiều giang cách, Nghệ nhân dạy hát và đánh trống.

Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan cho Giáo viên Tiểu học, THCS.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019

Ảnh: Tiết mục: Tràng mai cách, Biểu diễn báo cáo kết quả học tập

Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan, GV Âm nhạc trường Tiểu học, THCS.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019

PL.Ảnh.44

Ảnh: Tiết mục: Trống quân – đón đào, Biểu diễn báo cáo kết quả học tập

Lớp truyền dạy và thực hành hát Xoan, GV Âm nhạc trường Tiểu học, THCS.

Nguồn: Tác giả, tháng 7/2019

Ảnh: Tặng cở lưu niệm cho các trường tham gia Liên hoan hát Xoan, Học sinh Tiểu học, THCS

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 9-10/11/2019

PL.Ảnh.45

Ảnh: Tiết mục: Liên khúc hát Xoan “Thết trầu – Bợm gái”

Biểu diễn: Trung tâm Văn hóa tỉnh Phú Thọ tại triển lãm Danh thắng Việt Nam và Sản phẩm thủ công truyền thống

Nguồn: Trung tâm văn hóa tỉnh Phú Thọ, Ninh Bình 12/2021

Ảnh: Tiết mục: Xin huê – đố huê

Biểu diễn: Trung tâm Văn hóa tỉnh Phú Thọ tại triển lãm “Danh thắng Việt Nam và Sản phẩm thủ công truyền thống”

Nguồn: Trung tâm văn hóa tỉnh Phú Thọ, Ninh Bình 12/2021

PL.Ảnh.46

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 3/2019

Ảnh: Tiết mục: Tr o lên cây bưởi hái hoa, Học sinh trường Tiểu học Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, Liên hoan hát Xoan, Học sinh Tiểu học, THCS

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 9-10/11/2019

PL.Ảnh.47

Ảnh: Tiết mục: Tr o lên cây bưởi hái hoa, Học sinh trường Tiểu học Thọ Sơn, thành phố Việt Trì, Liên hoan hát Xoan, Học sinh Tiểu học, THCS

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 9-10/11/2019

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, tháng 3/2019

PL.Ảnh.48

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Chương trình biểu diễn Ngoại khóa tại Quảng trường Hùng Vương. Học sinh Trường THCS Tiên Cát, thành Phố Việt Trì

Nguồn: Trường THCS Tiên Cát, tháng 3/2019

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019

PL.Ảnh.49

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019

PL.Ảnh.50

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, do 450 Học sinh trường THCS Tiên Cát biểu diễn trong Lễ hội văn hóa dân gian đường phố nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 4/2019

Ảnh: Tiết mục: Hát ru mời rượu, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn “Khảo sát du lịch Tây Bắc” và Hội nghị tổng kết liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và thành phố Hồ Chí Minh

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

PL.Ảnh.51

Ảnh: Tiết mục: Trống quân – đón đào, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn “Khảo sát du lịch Tây Bắc” và Hội nghị tổng kết liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và thành phố Hồ Chí Minh

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/20

Ảnh: Tiết mục: Trống quân – đón đào, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn “Khảo sát du lịch Tây Bắc” và Hội nghị tổng kết liên kết hợp tác 8 tỉnh Tây Bắc mở rộng và thành phố Hồ Chí Minh

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

PL.Ảnh.52

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.53

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.54

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.55

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Tiết mục: Mó cá, Phường Xoan An Thái

Biểu diễn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.56

Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái

Đang tập luyện các động tác hát, múa cho các cháu nhỏ của Phường An Thái tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương , thành phố Việt Trì phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái

Đang tập luyện các động tác hát, múa cho các cháu nhỏ của Phường An Thái tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương , thành phố Việt Trì phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.57

Ảnh: Các Đào, Kép phường Xoan An Thái thực hiện cảnh chụp khi đi vào đình hát Xoan, do CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) dàn dựng tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái

Đang tập luyện các động tác hát, múa cho các cháu nhỏ của Phường An Thái tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương , thành phố Việt Trì phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.58

Ảnh: Các Đào, Kép phường Xoan An Thái thực hiện cảnh chụp khi đi vào đình hát Xoan, do CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) dàn dựng tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch Trùm phường Xoan An Thái

Đang hướng dẫn các cháu nhỏ phường Xoan An Thái đội khăn phục vụ đoàn CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) chụp ảnh quảng bá tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

PL.Ảnh.59

Ảnh: Các Đào, Kép phường Xoan An Thái thực hiện cảnh chụp khi đi vào đình hát Xoan, do CLB Nhiếp ảnh Nghệ thuật Việt (VietArt) dàn dựng tại đình ngoại Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 11/1/2022

Ảnh: Trang phụ Cổ của Đào, Kép Xoan

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

PL.Ảnh.60

Ảnh: Trang phụ của Đào, Kép Xoan hiện nay

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

Ảnh: Trống Xoan (trống cầm trầu hay còn gọi là trống Nhỏ, trống Con), đạo cụ được sử dụng trong khi hát Xoan.

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

PL.Ảnh.61

Ảnh: Phách (đạo cụ được sử dụng trong khi hát Xoan)

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

Ảnh: Trống cầm trầu hay còn gọi là trống Cái (đạo cụ được sử dụng trong

khi hát Xoan)

Nguồn: Tác giả, Việt Trì, 12/2021

PL.Ảnh.62