BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN SONG HOÀN NGUYÊN

ĐẶC TRƯNG KHAI THÁC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN

VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KIẾN TRÚC

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN SONG HOÀN NGUYÊN

ĐẶC TRƯNG KHAI THÁC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN

VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kiến trúc

Mã số: 62.58.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KIẾN TRÚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS.TS.KTS LÊ THANH SƠN

2. PGS.TS.KTS TRỊNH DUY ANH

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2016

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 4

3. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 5

4. Các nghiên cứu liên quan và vấn đề còn tồn tại ............................................................. 5

5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 10

6. Cấu trúc của luận án ..................................................................................................... 10

CHƯƠNG I

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở VIỆT NAM

1.1 Giá trị văn hóa trong kiến trúc truyền thống Việt Nam ................................................ 11

1.1.1 Giá trị văn hóa truyền thống ............................................................................. 11

1.1.2 Giá trị văn hóa trong kiến trúc truyền thống Việt Nam .................................... 15

1.1.3 Giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam .......................... 16

1.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam ................ 18

1.2.1 Nhà ở nông thôn truyền thống .......................................................................... 20

1.2.2 Nhà ở đô thị truyền thống ................................................................................. 26

1.3 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt

Nam hiện nay ................................................................................................................ 30

1.3.1 Nhà phố (nhà ở liên kế mặt phố) ....................................................................... 31

1.3.2 Nhà ở biệt thự.................................................................................................... 36

1.3.3 Nhà ở chung cư ................................................................................................. 41

KẾT LUẬN CHƯƠNG I ..................................................................................................... 46

CHƯƠNG II

MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG

KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM

2.1 Mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở đô thị .......... 49

2.1.1 Giá trị văn hóa truyền thống như một hệ thống ................................................ 49

2.1.2 Cấu trúc hệ giá trị văn hóa truyền thống ........................................................... 51

2.1.3 Thang giá trị và sự tương tác giữa các giá trị văn hóa truyền thống ................. 55

2.1.4 Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với các học thuyết kiến trúc thế

giới .................................................................................................................... 61

2.2 Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với không gian công năng trong kiến

trúc nhà ở đô thị Việt Nam ........................................................................................... 63

2.2.1 Lý thuyết nhu cầu trong kiến trúc nhà ở đô thị ................................................. 63

2.2.2 “Tháp công năng” trong kiến trúc nhà ở đô thị ................................................. 66

2.2.3 “Tháp giá trị văn hóa truyền thống” trong kiến trúc nhà ở đô thị ..................... 70

2.2.4 Đặc điểm tương tác giữa giá trị văn hóa truyền thống với không gian công năng

trong kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam .............................................................. 73

2.3 Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với hình thức kiến trúc nhà ở đô thị Việt

Nam ............................................................................................................................. 76

2.3.1 Vai trò của giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức kiến trúc nhà ở đô thị76

2.3.2 Sự chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức kiến trúc nhà ở đô

thị ...................................................................................................................... 83

2.3.3 Đặc điểm tương tác giữa giá trị văn hóa truyền thống với hình thức kiến trúc

nhà ở đô thị Việt Nam ....................................................................................... 88

KẾT LUẬN CHƯƠNG II .................................................................................................... 90

CHƯƠNG III

MÔ HÌNH KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG KIẾN TRÚC

NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM

3.1 Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng .................................... 93

3.1.1 Mô hình khai thác giá trị văn hóa truyền thống ................................................ 93

3.1.2 Đặc điểm không gian công năng của giá trị văn hóa truyền thống ................... 99

3.1.3 Đặc trưng khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng ...... 105

3.2 Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức ................................... 111

3.2.1 Mô hình khai thác giá trị văn hóa truyền thống .............................................. 111

3.2.2 Đặc điểm hình thức của giá trị văn hóa truyền thống ..................................... 117

3.2.3 Đặc trưng khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức ....... 121

3.3 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị

lớn Việt Nam .............................................................................................................. 124

3.3.1 Tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và kiến trúc nhà ở trên thế giới .. 124

3.3.2 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng... 127

3.3.3 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức .... 131

3.4 Luận bàn về đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô

thị lớn Việt Nam ......................................................................................................... 134

3.4.1 Khai thác văn hóa truyền thống theo quan điểm hệ giá trị ............................. 134

3.4.2 Khai thác văn hóa truyền thống có tính quy luật ............................................ 134

3.4.3 Khai thác văn hóa truyền thống có thể định lượng ......................................... 135

3.4.4 Khai thác văn hóa truyền thống mang 2 thuộc tính chủ động và thụ động ..... 136

3.4.5 Khai thác văn hóa truyền thống trên cơ sở tham chiếu quan điểm phát triển

kiến trúc nhà ở thế giới ................................................................................... 137

KẾT LUẬN CHƯƠNG III ................................................................................................ 138

PHẦN KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ .................................................................................. 141

PHỤ LỤC

CHỮ VIẾT TẮT

VHTT : Văn hóa truyền thống

KTNO : Kiến trúc nhà ở

KTTT

: Kiến trúc truyền thống

DANH MỤC BẢNG BIỂU

I. DANH MỤC BẢNG BIỂU CHƯƠNG I

1. Bảng 1.1:

Giá trị VHTT Việt Nam

2. Bảng 1.2:

Giá trị văn hóa trong kiến trúc truyền thống Việt Nam

3. Bảng 1.3:

Giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống Việt Nam

4. Bảng 1.4:

Biểu hiện của giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở nông thôn

truyền thống tại các vùng tiêu biểu

5. Bảng 1.5:

Biểu hiện của giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở nông thôn

truyền thống tại các vùng tiêu biểu

6. Bảng 1.6:

Sự chuyển đổi giá trị văn hóa trong yếu tố công năng từ nhà ở nông thôn

sang nhà ở đô thị truyền thống tại các vùng tiêu biểu

7. Bảng 1.7:

Sự chuyển đổi giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức từ nhà ở nông thôn

sang nhà ở đô thị truyền thống tại các vùng tiêu biểu

8. Bảng 1.8:

Sự chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố công năng nhà phố tại các đô

thị lớn Việt Nam

9. Bảng 1.9:

Sự chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố hình thức nhà phố tại các đô thị

lớn Việt Nam

10. Bảng 1.10: Sự chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố công năng nhà ở biệt thự tại các

đô thị lớn Việt Nam

11. Bảng 1.11: Sự chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố hình thức nhà ở biệt thự tại các

đô thị lớn Việt Nam

12. Bảng 1.12: Sự chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố công năng nhà ở chung cư tại

các đô thị lớn Việt Nam

13. Bảng 1.13: Sự chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố hình thức nhà ở chung cư tại

các đô thị lớn Việt Nam

II. DANH MỤC BẢNG BIỂU CHƯƠNG II

14. Bảng 2.1: Thang giá trị VHTT trong KTNO Việt Nam;

15. Bảng 2.2: Biểu đồ biến thiên giá trị VHTT trong KTNO Việt Nam;

16. Bảng 2.3:

[Đề xuất 1] Thang giá trị VHTT chung trong KTNO tại các đô thị lớn

Việt Nam hiện nay (từ phương pháp định tính)

17. Bảng 2.4: So sánh thang giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống theo phương

pháp định tính và định lượng

18. Bảng 2.5: So sánh thang giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay theo

phương pháp định tính và định lượng

19. Bảng 2.6:

[Đề xuất 2] Thang giá trị VHTT chung trong KTNO tại các đô thị lớn

Việt Nam hiện nay (kết hợp giữa định tính và định lượng)

20. Bảng 2.7: Tổng hợp quan điểm của các học kiến trúc thế giới liên quan đến khai

thác giá trị VHTT

21. Bảng 2.8: So sánh các mô hình lý thuyết về nhu cầu và chất lượng ở trong kiến trúc

– quy hoạch nhà ở đô thị

22. Bảng 2.9: Vận dụng lý thuyết “Tháp nhu cầu” trong các lĩnh vực nghiên cứu

23. Bảng 2.10: [Đề xuất 3] Thang giá trị VHTT trên phương diện công năng trong

KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay

III. DANH MỤC BẢNG BIỂU CHƯƠNG III

24. Bảng 3.1: Trật tự nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống trong hình thức KTNO đô thị

Việt Nam hiện nay

25. Bảng 3.2: Các trạng thái khai thác giá trị thẩm mỹ truyền thống trong hình thức

KTNO đô thị Việt Nam hiện nay

26. Bảng 3.3: Tổng hợp quan điểm của các tác giả đạt giải Fritzker

27. Bảng 3.4:

[Đề xuất 4]: Thang giá trị VHTT cơ bản trong yếu tố công năng cho cấp

nhu cầu cơ bản và mở rộng

28. Bảng 3.5:

[Đề xuất 5]: Thang giá trị VHTT nâng cao trong yếu tố công năng

cho cấp nhu cầu phát triển

IV. DANH MỤC BẢNG BIỂU PHỤ LỤC

29. Bảng PL2.1: Quan điểm của kiến trúc Hữu cơ liên quan đến khai thác giá trị VHTT

30. Bảng PL2.2: Quan điểm của kiến trúc Hậu hiện đại liên quan đến khai thác giá trị

văn hóa truyền thống

31. Bảng PL2.3: Quan điểm của kiến trúc Bản địa mới liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

32. Bảng PL2.4: Quan điểm của kiến trúc Sinh thái liên quan đến khai thác giá trị VHTT

33. Bảng PL2.5: Quan điểm của kiến trúc Chuyển hóa luận liên quan đến khai thác giá

trị VHTT

34. Bảng PL2.6: Quan điểm của kiến trúc Cộng sinh liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

35. Bảng PL2.7: Quan điểm của học thuyết Nơi chốn liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

36. Bảng PL2.8: Quan điểm của Hiện tượng học kiến trúc liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

37. Bảng PL2.9: Quan điểm của Ký hiệu học kiến trúc liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

38. Bảng PL2.10: Quan điểm của kiến trúc High-tech liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

39. Bảng PL2.11: Quan điểm của kiến trúc Giải tỏa kết cấu liên quan đến khai thác giá trị

VHTT

40. Bảng PL3.1: Các quan điểm chức năng của nhà ở

41. Bảng PL3.2: Tổng hợp chức năng nhà ở và các không gian công năng tương ứng

DANH MỤC HÌNH MINH HỌA

I. DANH MỤC HÌNH CHƯƠNG I

1. Hình 1.1: Sơ đồ nghiên cứu biểu hiện giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống

Việt Nam

2. Hình 1.2: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở nông thôn truyền

thống Bắc Bộ

3. Hình 1.3: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở nông thôn truyền

thống Trung Bộ

4. Hình 1.4: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở nông thôn truyền

thống Nam Bộ

5. Hình 1.5: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở nông thôn truyền

thống Bắc Bộ

6. Hình 1.6: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở nông thôn truyền

thống Trung Bộ

7. Hình 1.7: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở nông thôn truyền

thống Nam Bộ

8. Hình 1.8: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở đô thị truyền

thống Bắc Bộ

9. Hình 1.9: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở đô thị truyền

thống Trung Bộ

10. Hình 1.10: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở đô thị truyền thống

Bắc Bộ

11. Hình 1.11: Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở đô thị truyền thống

Trung Bộ

12. Hình 1.12: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng nhà phố

13. Hình 1.13: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng nhà phố

14. Hình 1.14: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức nhà phố

15. Hình 1.15: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng biệt thự

16. Hình 1.16: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng biệt thự

17. Hình 1.17: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng biệt thự

18. Hình 1.18: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức biệt thự

19. Hình 1.19: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng nhà ở chung cư

20. Hình 1.20: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong công năng nhà ở chung cư

21. Hình 1.21: Biểu hiện giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức nhà ở chung cư

II. DANH MỤC HÌNH CHƯƠNG II

22. Hình 2.1: Cấu trúc hệ giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam

23. Hình 2.2: Tương tác giữa các giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống Việt Nam

24. Hình 2.3: Tương tác giữa các giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay

25. Hình 2.4: Mối quan hệ giữa giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam với các

học thuyết kiến trúc thế giới

26. Hình 2.5: Tháp nhu cầu (Hierarchy of Needs) cùa A. H. Maslow

27. Hình 2.6: Mô hình Tháp nhu cầu với các nhóm xã hội

28. Hình 2.7: Mô hình “Tháp công năng” trong KTNO đô thị

29. Hình 2.8:

“Tháp giá trị VHTT ” trong KTNO đô thị

30. Hình 2.9: Tương tác giữa giá trị VHTT với không gian công năng trong KTNO đô

thị Việt Nam

31. Hình 2.10: Vai trò của giá trị VHTT trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam

32. Hình 2.11: “Tam giác ký hiệu” dựa trên lý thuyết của Charles Sanders Peirce

33. Hình 2.12: Quan hệ giữa cái biểu đạt (Signifier) và cái được biểu đạt (Signified) theo

lý thuyết của Ferdinand de Saussure

34. Hình 2.13: Quan hệ giữa cái biểu đạt (Signifier), cái được biểu đạt (Signified) và

hàm nghĩa (Implication) theo lý thuyết của Ferdinand de Saussure

35. Hình 2.14: Mô hình “Tam giác ký hiệu học” của O.K.Ogden và I.A.Richard

36. Hình 2.15: Tam giác ký hiệu học trong kiến trúc

37. Hình 2.16: Cơ chế chuyển đổi giá trị VHTT trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam

38. Hình 2.17: Tương tác giữa giá trị VHTT với hình thức KTNO đô thị Việt Nam

III. DANH MỤC HÌNH CHƯƠNG III

39. Hình 3.1: Mô hình “Tháp nhu cầu” của Maslow theo 3 phân khúc phát triển

40. Hình 3.2 : Mô hình “Tháp Công Năng” theo 3 cấp độ nhu cầu

41. Hình 3.3: Mô hình tổng hợp giá trị VHTT trong yếu tố công năng (mô hình lý

thuyết)

42. Hình 3.4: Hai giai đoạn phát triển tính đa năng trong nhà ở

43. Hình 3.5: Mô hình ứng dụng giá trị VHTT trong yếu tố công năng

44. Hình 3.6: Đặc điểm không gian của giá trị văn hóa trong KTNO nông thôn truyền

thống

45. Hình 3.7: Đặc điểm không gian của giá trị văn hóa trong KTNO đô thị truyền thống

46. Hình 3.8: Đặc điểm không gian của tính linh hoạt/đa năng trong KTNO tại các đô

thị lớn Việt Nam theo các cấp độ nhu cầu

47. Hình 3.9: Đặc điểm không gian của tính dung hòa với tự nhiên trong KTNO tại các

đô thị lớn Việt Nam theo các cấp độ nhu cầu

48. Hình 3.10: Đặc điểm không gian của tính cộng đồng, tính tư hữu, truyền thống gia đình Việt trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam theo các cấp độ nhu cầu

49. Hình 3.11: Các xu hướng chuyển đổi cấu trúc công năng nhà ở theo nhu cầu

50. Hình 3.12: Đặc trưng khai thác giá trị VHTT trong yếu tố công năng

51. Hình 3.13: Mối quan hệ giữa giá trị thẩm mỹ truyền thống với hình thức KTNO đô

thị

52. Hình 3.14: Mô hình khai thác giá trị VHTT trong hình thức KTNO tại các đô thị lớn

Việt Nam

53. Hình 3.15: Sự phối hợp giữa quy luật thẩm mỹ, nguyên tắc thẩm mỹ và giá trị

VHTT trong KTNO đô thị

54. Hình 3.16: Đặc điểm hình thức của các giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống

Việt Nam

55. Hình 3.17: Sự chuyển đổi đặc điểm hình thức thẩm mỹ truyền thống trong KTNO tại

các đô thị lớn Việt Nam

56. Hình 3.18: Quy trình chuyển đổi và nhận diện giá trị thẩm mỹ truyền thống trong

hình thức KTNO đô thị Việt Nam

57. Hình 3.19: Đặc trưng khai thác giá trị VHTT trong hình thức KTNO tại các đô thị

lớn Việt Nam

58. Hình 3.20: Xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố công năng

59. Hình 3.21: Xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố hình thức

IV. DANH MỤC HÌNH PHỤ LỤC

60. Hình PL1: Phân nhóm giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống Việt Nam

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vấn đề khai thác văn hóa truyền thống (VHTT) trong kiến trúc nhà ở (KTNO)

tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều sự lựa chọn, diễn ra trên

cả phương diện lý thuyết và thực hành, ứng với 2 đối tượng chính là công năng và

hình thức. Trong yếu tố công năng, sự phân hóa đa dạng nhu cầu của con người đặt

ra những mục tiêu khác nhau về không gian chức năng nhà ở, xuất phát từ mức thấp

nhất là để duy trì hoạt động sống cho đến mức cao nhất nhằm thỏa mãn tiện nghi

nghỉ dưỡng, tự do phát triển năng lực và sở thích cá nhân. Trong yếu tố hình thức,

việc ứng dụng thành tựu công nghệ xây dựng và vai trò sáng tạo cá nhân cho ra đời

các giải pháp tạo hình mới. Sự giao lưu văn hóa trong xu thế toàn cầu mang đến xu

hướng và phong cách thẩm mỹ khác lạ so với truyền thống. Nhìn chung, cả công

năng và hình thức đều xuất hiện các nhân tố chưa từng có tiền lệ trong nhà ở truyền

thống.

Trong giai đoạn hiện nay, việc khai thác VHTT trong KTNO vẫn đang tiếp tục

diễn ra theo 2 phương thức chủ yếu là thụ động sao chép hay chủ động sáng tạo,

cùng với sự tham gia của giới chuyên môn lẫn đối tượng sử dụng. Điều đó chứng

minh đây là một nhu cầu thực tế và có thể tách rời những lý luận chuyên ngành còn

nhiều mâu thuẫn. Tham chiếu trong xu hướng phát triển kiến trúc thế giới cho thấy

sự tồn tại các quan điểm tìm về với giá trị truyền thống và bản địa, được diễn đạt

bằng nội dung của các học thuyết (Bản địa mới, Sinh thái, Hiện tượng học, Nơi

chốn…) và công trình của những cá nhân tiêu biểu (Shigeru Ban, Toyo Ito, Sejima

& Nishizawa, Peter Zumthor…). Như vậy, kế thừa giá trị truyền thống không chỉ là

vấn đề riêng của Việt Nam mà đã trở thành tiêu chí chung thế giới (Bản địa hóa

kiến trúc quốc tế - Quốc tế hóa kiến trúc bản địa).

Đánh giá từ công trình nhà ở xây dựng trong những năm gần đây cho thấy việc

khai thác truyền thống đạt được nhiều thành tựu khích lệ, thể hiện tính kế thừa có

2

chọn lọc và phù hợp với xu hướng phát triển năng động của thời đại. Đó là giải

pháp tạo dựng nhà ở thích ứng với điều kiện khí hậu nhiệt đới, sử dụng vật liệu tự

nhiên; thiết lập không gian ở hài hòa với môi trường sinh thái, phù hợp nhu cầu và

lối sống của đối tượng sử dụng (bao gồm nhu cầu văn hóa), vận dụng các quy luật

thẩm mỹ truyền thống… Những thành công này cần tiếp tục phát huy để đem đến

tính bản sắc cho KTNO Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình khai thác cũng mang lại

những kết quả không mong muốn. Tiêu biểu là hiện tượng sao chép mẫu hình nhà ở

truyền thống trong các đô thị hiện đại. Điều này đi ngược quy luật phát triển kiến

trúc do không xét đến vai trò của những yếu tố can thiệp luôn biến đổi liên tục.

Trong 5 yếu tố tác động đến nhà ở là kinh tế, văn hóa – xã hội, điều kiện tự nhiên,

công nghệ, sáng tạo thì chỉ có yếu tố tự nhiên duy trì sự ổn định lâu dài. Vì vậy,

phương thức kế thừa này chịu nhiều phê phán và có xu hướng bị đào thải. Tiếp đến

là phương thức lựa chọn thành phần thẩm mỹ đặt thù để khai thác (mái, cửa, chi tiết

lan can, con tiện…), có hiệu quả gợi nhắc tức thì đến vẻ đẹp truyền thống. Cách làm

đó gần tương đồng với quan điểm thực hành của kiến trúc Hậu hiện đại, nhưng

chính nó cũng bị phê phán do còn lệ thuộc nhiều vào yếu tố lịch sử. Theo Kenzo

Tange, không ai ấu trĩ đem mái nhà cổ úp lên một công trình kiến trúc hình hộp rồi

cho đó là dân tộc – hiện đại. Như vậy đây cũng không phải là phương thức kế thừa

truyền thống hợp lý và nhiều triển vọng.

Trên phương diện công năng, việc thiết lập cấu trúc không gian nhà ở cũng tồn

tại những bất cập, quy đồng mong muốn phát huy truyền thống cho mọi cấp độ nhu

cầu khác nhau mà chưa xem xét đặc thù của từng giá trị văn hóa và khả năng

chuyển tải của không gian. Điều này có thể dẫn đến sự mâu thuẫn trong cấu trúc

công năng, làm “lệch pha” giữa nhu cầu sử dụng và nhu cầu văn hóa, mang lại hiệu

quả khai thác kém. Bên cạnh đó, việc gạt bỏ hoàn toàn sự quan tâm văn hóa ở trong

các loại hình nhà xây dựng sẵn cũng gây bất lợi và khó khăn, dẫn đến hiện tượng

phá bỏ để xây dựng lại, làm lãng phí và suy giảm cảm nhận về “nơi chốn” – một

trong những yếu tố gắn kết con người với môi trường cư trú.

Từ thực tế phát triển KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam nhận thấy cần thiết

lập cơ sở lý thuyết có tính ứng dụng để định hướng cho việc khai thác truyền thống

3

đạt hiệu quả cao hơn; vừa phát huy vai trò công nghệ và sự sáng tạo, phù hợp với

nhu cầu sử dụng, vừa duy trì khả năng nhận diện tính dân tộc.

Vấn đề này đã được triển khai trong nhiều nghiên cứu trước đây, tựu chung

thể hiện quan điểm khai thác trong 2 khía cạnh có tính đối lập của văn hóa và kiến

trúc:

 Khai thác giá trị phi hiển thị: là những yếu tố thuộc phạm trù tinh thần, tư

tưởng, tập quán, lối sống, tín ngưỡng và tâm linh;

 Khai thác giá trị hiển thị: là các biểu hiện hình thể, vẻ đẹp bên ngoài của

KTNO truyền thống.

Nội dung của các nghiên cứu và đề xuất thường hướng đến việc tạo dựng môi

trường nhà ở hài hòa với thiên nhiên, phù hợp với phương thức tổ chức cuộc sống

của người Việt, khuyến khích sử dụng vật liệu tự nhiên, khai thác yếu tố mái và

hình thức trang trí truyền thống… Những đề xuất này dựa trên sự chọn lọc đặc tính

văn hóa và kiến trúc truyền thống để ứng dụng vào nhà ở đô thị, tuy nhiên chưa đề

cập đến mối quan hệ có tính hệ thống của chúng. Giữa văn hóa và kiến trúc luôn

tồn tại sự tương tác ràng buộc lẫn nhau; theo đó văn hóa chi phối quá trình tạo thành

kiến trúc và kiến trúc là phương tiện chuyển tải văn hóa. Cùng với tiến trình chuyển

đổi mô hình nhà ở từ nông thôn lên đô thị truyền thống và từ đô thị truyền thống

đến đô thị hiện đại, hệ giá trị văn hóa trong KTNO luôn chịu sự can thiệp của các

nhân tố mới xuất hiện, tạo ra môi trường tương tác đa dạng và phức tạp giữa yếu tố

cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại. Sức mạnh của hiện đại là khả năng đáp

ứng nhu cầu cần thiết cho hoạt động sống của con người trong môi trường nhà ở,

sức mạnh của truyền thống là để duy trì đặc điểm lối sống đã gắn liền với tâm thức

cá nhân và gia đình. Giữa hai yếu tố này luôn có sự tương đồng và mâu thuẫn, từ đó

dẫn đến xu hướng kế thừa và đào thải. Những giá trị còn phù hợp với nhu cầu hiện

tại sẽ tiếp tục được duy trì và phát huy, ngược lại sẽ bị suy yếu và loại bỏ. Như vậy,

khai thác VHTT trong KTNO hiện nay là việc chọn lọc các giá trị còn khả năng

thích ứng với nhu cầu hiện tại, và sự chọn lọc đó phải được đặt trong quan điểm tiếp

cận hệ thống. Nghĩa là, mối quan hệ nội sinh giữa các giá trị VHTT với nhau và

ngoại sinh giữa giá trị VHTT với các thành phần KTNO (gồm công năng và hình

4

thức) cần được nhận diện và chọn lọc bằng hệ thống tương tác. Thông qua hệ thống

này sẽ dẫn đến sự thiết lập trật tự, phản ánh tính chất “mạnh – yếu” của từng giá trị

trong mối tương quan lẫn nhau; ngoài ra còn cho thấy những giá trị nào duy trì mức

tác động cao lên các thành phần của KTNO. Tiếp đến, vận dụng kết quả nói trên để

hướng tới xây dựng mô hình khai thác trong cả 2 yếu tố công năng và hình thức, thể

hiện các bước ứng dụng giá trị VHTT nhằm phù hợp với nhu cầu sử dụng không

gian và đặc tính thẩm mỹ của nhà ở hiện đại. Như vậy, bằng quan điểm hệ thống,

quá trình khai thác đi từ chọn lọc cho đến giới thiệu mô hình ứng dụng giá trị

VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam là nội dung chưa từng được nghiên cứu trước

đây, và cũng là lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa giá trị VHTT với

KTNO đô thị, bao gồm cả 2 thành phần công năng và hình thức. Thông qua phân

tích mối quan hệ này để đi đến chọn lọc các giá trị tiêu biểu và xây dựng mô hình

ứng dụng trong KTNO đô thị hiện nay.

Trong tổng thể nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, luận án giới hạn phạm vi

nghiên cứu vào VHTT của người Việt (Kinh) bởi dân tộc này chiếm số lượng

đông nhất cả nước (khoảng 87% dân số) và có chiều dày lịch sử lâu đời. Cộng đồng

người Việt cũng là lực lượng dân cư chính trong các đô thị và là đối tượng có nhu

cầu nhà ở lớn nhất; theo đó VHTT sẽ hội đủ điều kiện để tương tác và tạo ra biểu

hiện rõ nét trong những hình thức cư trú. Đây là cơ sở quan trọng nhằm tập hợp dữ

liệu cần thiết cho nghiên cứu. Vì tính chất và phạm vi phân cấp đô thị hiện nay rất

đa dạng (788 đô thị) nên luận án xác định mục tiêu phân tích và khai thác vào

những đô thị lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh... Điều này xuất phát từ 3

lý do: 1) đô thị lớn là nơi mà KTNO truyền thống hình thành, phát triển và còn lưu

lại những công trình tiêu biểu được thừa nhận; 2) có cộng đồng người Việt tập trung

đông nhất; 3) hội tụ đầy đủ các loại hình nhà ở đô thị đặc trưng. Các đô thị nói trên

còn dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế, xã hội, công nghệ và giao lưu văn hóa.

5

Những yếu tố đó can thiệp trực tiếp đến mức độ gia tăng nhu cầu không gian chức

năng nhà ở và sự biến đổi hình thức thẩm mỹ kiến trúc; đóng góp các nhân tố mới

quan trọng vào quá trình tương tác và chọn lọc giá trị VHTT để tiếp tục kế thừa.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Nội dung nghiên cứu của luận án tập trung vào 3 mục tiêu chính sau đây:

 Tập hợp hệ giá trị VHTT và nhận diện biểu hiện của nó trong KTNO tại

các đô thị lớn Việt Nam hiện nay;

 Phân tích mối quan hệ giữa giá trị VHTT với công năng và hình thức, từ đó

chọn lọc những giá trị có mức tác động cao để tiếp tục kế thừa;

 Xây dựng mô hình và phương thức khai thác giá trị VHTT được chọn

trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam.

4. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI

Năm 1994, tác phẩm “Bàn về vấn đề dân tộc và hiện đại trong kiến trúc Việt

Nam” [64] lần đầu tiên tập hợp quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu có uy tín trong

nước như Nguyễn Cao Luyện, Tạ Mỹ Duật, Ngô Huy Quỳnh, Vũ Khiêu, Vũ Tam

Lang, Đàm Trung Phường, Nguyễn Kim Luyện,… Nội dung của tác phẩm này đề

cập đến mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính hiện đại trong kiến trúc và kiến

trúc nhà ở, thống nhất với 2 ý chính sau:

- Nền kiến trúc Việt Nam có bề dày lịch sử lâu đời và đã sản sinh ra các giá

trị truyền thống quý báu. Những giá trị đó cần được kế thừa xứng đáng trong suốt

chặng đường phát triển dựa trên tinh thần chọn lọc một cách sáng tạo để không là

rào cản cho các giá trị hiện đại.

- Kiến trúc Việt Nam được hình thành từ điều kiện đặc thù về tự nhiên và

phong tục tập quán, luôn có sự biến đổi để duy trì khả năng tồn tại. Vì vậy, việc kế

thừa giá trị truyền thống trong kiến trúc và KTNO hiện nay không rập khuôn theo

hình mẫu cố định mà phải có sự chọn lọc nhằm thích ứng với thực tế phát triển.

Năm 2000, với tinh thần kế thừa quan điểm của Kisho Kurokawa, Lê Thanh

6

Sơn đề cập đến xu hướng kết nối giữa truyền thống và hiện đại như một hiện tượng

cộng sinh kiến trúc, được trình bày trong luận án tiến sĩ “Hiện tượng cộng sinh văn

hóa giữa tính truyền thống và tính hiện đại trong kiến trúc Việt Nam từ cuối thế kỷ

XIX đến giữa thế kỷ XX” [45]. Từ những dẫn luận và phân tích, tác giả chứng minh

bản chất của kiến trúc là sự cộng sinh của ba vật thể: vật lý - xã hội - tinh thần.

Trong đó, vật thể vật lý là cái vỏ tạo nên kiến trúc, vật thể xã hội được diễn đạt bởi

các chức năng sử dụng. Hai vật thể đó chuyển tải giá trị mang ý nghĩa vật chất; vật

thể tinh thần thực hiện chức năng thẩm mỹ và tâm linh (hay biểu tượng). Cơ sở lý

luận này củng cố cho quan điểm kế thừa giá trị truyền thống trong kiến trúc và

KTNO hiện đại là cần thiết nhằm kết nối liên tục mạch nguồn văn hóa dân tộc.

Năm 2000, Hoàng Ngọc Hoa chọn yếu tố nước làm đối tượng nghiên cứu

trong luận án tiến sĩ "Yếu tố nước trong tổ chức không gian kiến trúc Việt Nam hiện

đại" [22]. Tác giả cho rằng kiến trúc truyền thống luôn tồn tại gắn bó với thiên

nhiên, cây xanh và mặt nước. Đây là những thành phần có giá trị trong tổ chức

không gian. Đặc biệt, yếu tố nước đã để lại dấu ấn trong tạo tác kiến trúc và tâm

thức của người dân bằng một số quy luật biểu đạt không gian; ngày nay vẫn tiếp tục

đóng vai trò quan trọng trong sáng tạo và thực hành kiến trúc. Vì vậy, tác giả đã tìm

về cội nguồn văn hóa của yếu tố nước nhằm phát hiện quy luật, giá trị lịch sử, nghệ

thuật và tâm linh để kế thừa trong các loại hình công trình công cộng và nhà ở.

Năm 2001, trong luận văn thạc sĩ “Mã dân gian trong nhà ở đô thị hiện nay”

[28], Lê Thị Thu Hương xem xét KTNO như một hệ thống ký hiệu không gian, còn

gọi là mã kiến trúc. Theo đó, cái biểu hình là lớp vỏ vật chất bên ngoài, còn cái biểu

nghĩa là các chức năng. Tác giả chứng minh tạo tác KTNO truyền thống là sự mã

hóa nhu cầu vật chất và tinh thần vào trong không gian, được con người giải mã

trong quá trình sử dụng. Đó cũng là nguyên tắc có thể tiếp tục vận dụng nhằm khai

thác giá trị truyền thống trong KTNO tại các đô thị Việt Nam hiện nay.

Năm 2003, trong luận án tiến sĩ “Tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các khu

nhà ở của Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng sống của môi trường đô thị” [61],

Đàm Thu Trang đề cập kinh nghiệm dân gian trong tổ chức kiến trúc cảnh quan

khuôn viên nhà ở và làng xóm cổ truyền. Những kinh nghiệm này được xem xét

7

dưới ba góc độ: chức năng – thẩm mỹ và môi trường; đồng thời là cơ sở để áp dụng

vào tổ chức môi trường nhà ở hiện nay khi mà yếu tố sinh thái, phát triển bền vững

là những yêu cầu của sự phát triển trong thế kỷ tới.

Năm 2006, trong tác phẩm “Kiến trúc nhà ở” [57], Nguyễn Đức Thiềm xác

định VHTT và bài học kinh nghiệm từ kiến trúc dân gian Việt Nam như là cơ sở

khoa học cho việc nghiên cứu thiết kế nhà ở hiện đại. Ông cho rằng cần nắm bắt

những nét riêng trong lối sống gia đình, trong quan hệ giữa gia đình với cộng đồng

để tổ chức không gian nhà ở hợp lý, đậm đà bản sắc dân tộc.

Năm 2010, Nguyễn Việt Châu đăng tải bài viết có nhan đề “Kiến trúc sinh

thái – đỉnh cao của kiến trúc hiện đại, truyền thống” [2]. Tác giả khẳng định chúng

ta đang lúng túng trên con đường xây dựng một nền kiến trúc hiện đại, đậm đà bản

sắc dân tộc. Đây là bài toán ra sai đầu bài do còn gò ép vào những giá trị hữu hình

của kiến trúc truyền thống; trong khi đó, bản sắc kiến trúc là cái không thể nhìn

thấy mà chỉ có thể cảm nhận được khi liên tưởng xâu chuỗi với lịch sử văn hóa xã

hội. Kiến trúc hiện đại – truyền thống thường chỉ dừng ở mức phản ánh và phù hợp

với các yếu tố thiên nhiên, tâm lý lối sống của con người bản địa; còn kiến trúc sinh

thái là sự giữ gìn thiên nhiên (sinh thái tự nhiên) và bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử,

văn hóa, xã hội (sinh thái nhân văn). Đây là đỉnh cao của kiến trúc hiện đại – truyền

thống.

Năm 2011, trong luận án tiến sĩ “Khai thác yếu tố nơi chốn nhằm tạo lập bản

sắc đô thị - lấy thành phố Đà Nẵng làm địa bàn nghiên cứu” [7], Nguyễn Văn

Chương trình bày những bài học kinh nghiệm từ truyền thống Việt Nam trong việc

khai thác yếu tố nơi chốn nhằm tạo lập bản sắc KTNO và kiến trúc đô thị tại thành

phố Đà Nẵng.

Năm 2011, trong luận án tiến sĩ “An analysis of passive design and unique

spatial characteristics inherent in Vietnamese indigenous housing and their

applications to contemporary high-rise housing in Vietnam" - (lược dịch: Phân tích

thiết kế thụ động và những đặc điểm đơn nhất vốn có trong kiến trúc nhà ở bản địa

và ứng dụng vào nhà ở cao tầng Việt Nam) [80], Lê Thị Hồng Na giới thiệu nguyên

tắc thiết kế thụ động (passive design) của các loại hình nhà ở cao tầng. Thông qua

8

phân tích kiến trúc nhà ở truyền thống, tác giả xác định những đặc trưng đơn nhất

vốn có và khả năng chuyển đổi tương ứng trong điều kiện hiện nay; từ đó đề xuất

phương thức ứng dụng qua mô hình căn hộ cao tầng trên cả 2 miền Bắc và Nam

Việt Nam;

Năm 2012, trong luận án tiến sĩ “A Critical Regionalist Approach to Housing

Design in Vietnam: Socio-Environmental Organisation of Living Spaces in Pre- and

Post-Reform Houses” (lược dịch: Tiếp cận chủ nghĩa địa phương phê phán trong

thiết kế nhà ở Việt Nam: Tổ chức môi trường – xã hội của không gian sống trước và

sau cải cách nhà ở) [81], Lý Thế Phương nghiên cứu quy luật tổ chức không gian

trước và sau đổi mới về nhà ở tại Việt Nam nhằm xác định sự ảnh hưởng của môi

trường - xã hội đến thiết kế kiến trúc. Tổng hợp kết quả phân tích, tác giả đề xuất

một số nguyên tắc tổ chức không gian nhà ở để phù hợp với lối sống của người Việt

trong hiện tại và tương lai.

Còn nhiều đề tài nghiên cứu khai thác giá trị VHTT trong kiến trúc và KTNO

Việt Nam nhưng chưa có dịp trình bày. Tuy nhiên, với những tóm lược trên đây cho

thấy hướng nghiên cứu tập trung vào 2 đối tượng chính là các giá trị vật thể và phi

vật thể của KTNO truyền thống. Khai thác giá trị vật thể quan tâm đến yếu tố tạo

hình bên ngoài để tìm ra nguyên tắc, quy luật nhằm vận dụng vào công trình kiến

trúc và nhà ở hiện đại. Khuynh hướng này từng phổ biến trong các giai đoạn trước

đây, tuy nhiên thường dẫn đến sự sa đà vào hình thức mà đôi khi làm suy giảm giá

trị tích cực của truyền thống với hiện tượng “nệ cổ”, “nhại cổ”. Khai thác các giá trị

phi vật thể tìm đến sự chọn lọc giá trị VHTT trong tổ chức không gian sinh hoạt,

sản xuất và tâm linh để ứng dụng vào KTNO. Khuynh hướng này khơi nguồn cho

các giá trị VHTT ẩn sâu dưới những biểu hiện bên ngoài của kiến trúc, có quá trình

biến đổi chậm chạp trước tác động của yếu tố ngoại sinh, chi phối đến sự hình thành

sắc thái riêng của kiến trúc Việt Nam truyền thống và hiện đại.

Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu hiện nay còn tồn tại những vấn đề sau:

 Về tính hệ thống: mối quan hệ giữa VHTT và kiến trúc nhà ở đã được xác

định khá đa dạng trên cả 2 phương diện vật thể và phi vật thể, ứng với các thành

9

phần công năng và hình thức; tuy nhiên thường tách rời các giá trị để xem xét mà

chưa tiếp cận từ hệ giá trị VHTT. Trên phương diện lý thuyết, mỗi giá trị văn hóa

luôn mang thuộc tính hệ thống, đại diện bằng các hình thức tương tác, ràng buộc

qua lại. Vì vậy, không phải giá trị nào cũng đóng vai trò quan trọng giống nhau mà

chúng có sự sắp xếp thứ bậc, thể hiện tính chất ưu tiên trong nội bộ hệ thống. Ngoài

ra, thông qua tương tác với kiến trúc nhà ở đô thị, hệ giá trị VHTT chịu thêm sự can

thiệp của các yếu tố mới có khả năng làm thay đổi thứ bậc của các giá trị. Nếu

không đặt vấn đề nghiên cứu xuất phát từ sự tương tác nội hệ (giữa các giá trị văn

hóa với nhau) và ngoại hệ (giữa giá trị văn hóa với những thành phần của kiến trúc

nhà ở) sẽ dễ dẫn đến nhận định chủ quan và cảm tính khi chọn lọc giá trị cốt lõi của

VHTT để khai thác trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay.

 Về tính liên ngành: nghiên cứu vai trò tác động của VHTT trong kiến trúc

nhà ở đô thị Việt Nam có thể xem là một nghiên cứu liên ngành, đòi hỏi phải có sự

vận dụng các khái niệm, lý thuyết liên quan đến văn hóa học, kiến trúc, tâm lý học,

mỹ học, ký hiệu học. Văn hóa học đóng góp lý luận về mối quan hệ 2 mặt giữa giá

trị vật thể và phi vật thể, ngoài ra còn thể hiện tính phân cấp giá trị trong thang giá

trị truyền thống của kiến trúc nhà ở. Kiến trúc diễn đạt nội dung cấu trúc không gian

và đặt tính thẩm mỹ theo nhu cầu sử dụng, cập nhật tiến bộ trong sáng tạo và ứng

dụng công nghệ mang tính thời đại. Tâm lý học giúp xác lập cấu trúc phân cấp nhu

cầu con người theo diễn trình phát triển cá nhân và xã hội, liên quan đến nhu cầu sử

dụng không gian nhà ở. Mỹ học và mỹ học kiến trúc xác định vai trò của VHTT

trong hình thức thẩm mỹ. Ký hiệu học xây dựng các cơ chế chuyển đổi giá trị

VHTT trong hình thức kiến trúc nhà ở đô thị hiện nay.

Như vậy, thông qua tập hợp các nghiên cứu cho thấy vấn đề khai thác VHTT

trong kiến trúc nhà ở chưa được tiếp cận từ hệ giá trị văn hóa. Theo đó, luận án sẽ

vận dụng những lý thuyết liên ngành, kết hợp tham chiếu quan điểm phát triển kiến

trúc thế giới để biện chứng, phân tích logic nhằm tìm ra các thuộc tính, quy luật và

xây dựng mô hình ứng dụng dựa trên phép tính toán học, có thể định lượng cấp độ

khai thác VHTT trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam. Đây là phương

thức tiếp cận và giải quyết vấn đề riêng của luận án mà chưa từng được các tác giả

10

thực hiện trước đó.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để triển khai nội dung nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp sau:

 Phương pháp lịch sử: được ứng dụng nhằm tìm hiểu nguồn gốc phát

sinh và quá trình chuyển đổi giá trị VHTT theo sự biến động mô hình nhà ở từ nông

thôn lên đô thị truyền thống, qua đó phát hiện bản chất và quy luật chi phối của nó

trong thành phần công năng và hình thức kiến trúc. Đây là cơ sở ban đầu để nhận

diện khả năng chuyển đổi giá trị VHTT trong kiến trúc nhà ở đô thị hiện nay.

 Phương pháp hệ thống cấu trúc: được ứng dụng nhằm tìm hiểu mối

quan hệ nội sinh và ngoại sinh giữa giá trị VHTT với các thành phần kiến trúc nhà

ở, phân tích sự tác động qua lại trong những hệ thống tương tác, từ đó xác lập trật tự

liên kết bằng các thang giá trị có tính phân cấp, thể hiện mức độ “mạnh – yếu” của

từng giá trị để được chọn lọc và khai thác.

 Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: được ứng dụng nhằm

phát hiện mối liên hệ giữa giá trị VHTT với quan điểm của các học thuyết kiến trúc

thế giới; ngoài ra còn để phân tích lý thuyết về văn hóa học, tâm lý học, mỹ học, ký

hiệu học. Tổng hợp và quy chiếu kết quả phân tích với hệ giá trị VHTT trong kiến

trúc nhà ở Việt Nam giúp xác lập các nguyên tắc và cơ chế chuyển đổi, hướng tới

phục vụ cho mục tiêu khai thác của luận án.

 Phương pháp mô hình hóa: được ứng dụng nhằm xây dựng mô hình

tương tác nội – ngoại hệ giữa giá trị văn hóa với kiến trúc nhà ở, thông qua đó chọn

lọc giá trị nào duy trì mức tác động cao đến công năng và hình thức để tiếp tục khai

thác. Ngoài ra, phương pháp mô hình hóa còn giúp thiết lập mô hình ứng dụng giá

trị VHTT phù hợp với nhu cầu công năng và hình thức thẩm mỹ nhà ở hiện nay.

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN

11

CHƯƠNG I

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở

VIỆT NAM

1.1 Giá trị văn hóa trong kiến trúc truyền thống Việt Nam

1.1.1 Giá trị văn hóa truyền thống

Văn hóa là lĩnh vực có tầm bao quát rộng trong các hoạt động sản sinh

ra giá trị vật chất và tinh thần của con người, vì vậy hiện nay tồn tại nhiều khái niệm

để diễn đạt nội dung và phạm vi ảnh hưởng của nó. Thế kỷ XVII, Samuel Von

Pufendorf (1632 – 1694) dùng từ “văn hóa” để biểu thị tất cả những gì mà con

người làm ra hay học được trong xã hội, văn hóa là nhân tạo [1]. Tương tự, Từ

Chi cho rằng cái gì không phải tự nhiên thì là văn hóa [59, tr.18]. Tuy nhiên Eluard

Heriot đề xuất chỉ xem văn hóa là cái còn đọng lại khi người ta quên đi tất cả [29].

Bằng cách tiếp cận hệ thống – loại hình, Trần Ngọc Thêm nhìn nhận văn hóa là hệ

thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy

trong quá trình hoạt động thực tiễn [54, tr.25]. Theo quan điểm này thì chỉ những

cái đã kết tinh thành giá trị mới là cốt lõi của văn hóa. Năm 2001, UNESCO cũng

đưa ra cách hiểu văn hóa nên được xem như một tập hợp các đặc điểm nổi bật về

tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội; ngoài văn

học, nghệ thuật, nó còn bao gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống

giá trị, các truyền thống và tín ngưỡng [9].

Như vậy chỉ với 5 dẫn chứng trên đây cho thấy có những quan điểm không

giống nhau về văn hóa, tuy nhiên vẫn làm sáng tỏ 2 nội dung: 1) tính bao hàm của

văn hóa: gộp chung tất cả những sản phẩm vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo ra để khu biệt với những gì thuộc về tự nhiên; 2) tính chọn lọc của văn hóa: là

những gì thực sự có ý nghĩa (có giá trị) chứ không phải tất cả sản phẩm do sự sáng

tạo của con người. Như vậy, quan điểm thứ nhất hàm chứa quan điểm thứ hai nhưng

được mở rộng hơn. Và 2 quan điểm cùng bổ sung để hướng đến khái niệm giá trị

12

văn hóa (cultural value).

Theo J.H. Ficher, tất cả những gì có ích lợi, đáng ham chuộng hoặc đáng

kính phục đối với con người hoặc nhóm đều “có một giá trị” [31, tr.173]. Ngô Đức

Thịnh cho rằng giá trị văn hóa là một hình thái của đời sống tinh thần và giá trị là

hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất cứ một hiện

tượng tự nhiên, xã hội nào [58, tr.131].

Dẫn chứng trên xác lập tính hệ thống của giá trị văn hóa với ý nghĩa là các

giá trị đó nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ tác động lẫn nhau. Ngoài ra, hệ giá trị văn

hóa có tính định hướng mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong

các xã hội. Hệ giá trị văn hóa thường bao hàm hai nội dung: 1) các giá trị riêng lẻ

kết hợp tạo nên hệ thống hữu cơ; 2) có sự sắp đặt trước sau, độ nhấn về tầm quan

trọng của từng nhân tố trong một thang giá trị [64, tr.55]. Đồng quan điểm này, Tạ

Văn Thành nhận định các giá trị văn hóa luôn tồn tại trong một hệ thống; gắn bó,

đan xen, tác động qua lại tạo thành một chỉnh thể thống nhất [50].

Như vậy, hệ giá trị văn hóa là hệ thống các giá trị kết hợp hữu cơ với nhau, có

tác dụng định hướng cho mục tiêu hành động của con người trong xã hội. Hệ giá trị

văn hóa mang tính chủ quan và tương đối. Do vậy, để đánh giá tính giá trị hay phi

giá trị, giá trị cao hay thấp thì phải đặt nó trong tọa độ về mặt không gian, thời gian và chủ thể văn hóa1. Điều này cho thấy hệ giá trị văn hóa có thể thay đổi chứ không

tồn tại “nhất thành bất biến”. Theo Nguyễn Văn Hiệu, giá trị văn hóa là một phạm

trù lịch sử, có quá trình vận động của nó. Ngay trong nội bộ một nền văn hóa, các

giá trị cụ thể và cả hệ giá trị cũng luôn vận động và biến đổi [20]. Ngoài ra, những

giá trị hình thành trong tiến trình phát triển dân tộc và còn ảnh hưởng đến xã hội

hiện nay được gọi là văn hóa truyền thống (VHTT).

Bách khoa thư Từ điển của Liên Xô (cũ) nêu khái niệm truyền thống là

những yếu tố của di tồn văn hóa từ đời này qua đời khác và được lưu giữ trong

các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội bởi một quá trình lâu dài. Truyền thống được

thể hiện trong các định chế xã hội, chuẩn mực và hành vi, các giá trị tư tưởng,

1 Trần Ngọc Thêm gọi là tọa độ C – T – K.

phong tục tập quán và lối sống [59, tr.20]. Theo từ điển Hán – Việt, truyền thống

13

được định nghĩa là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại từ lịch sử…

Truyền thống có tác động khống chế vô hình đến hành vi xã hội của con người và

biểu hiện tính kế thừa của lịch sử.

Như vậy, VHTT là hệ thống các giá trị được chọn lọc từ quá khứ, có sự lưu

truyền và biến đổi theo từng thời kỳ, tiềm ẩn sức mạnh chi phối hoạt động của con

người trong xã hội ngày nay. VHTT còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của các

dân tộc trong cộng đồng nhân loại nói chung; biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, tạo nên

bộ mặt tinh thần phong phú. Đó là những giá trị thuộc đời sống sinh hoạt (ăn, mặc,

ở, đi lại), tổ chức và quản lý xã hội, giáo dục, đào tạo, văn học, nghệ thuật, kiến

trúc,... Tóm lại, VHTT là những sáng tạo của nhân dân trải qua hàng nghìn năm đã

kết tinh thành giá trị, trở thành hệ điều tiết đối với sự phát triển xã hội... Giá trị

văn hóa của mỗi cộng đồng bao giờ cũng tạo nên một hệ thống, với ý nghiã là các

giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ, tác động hữu cơ với nhau [59, tr.7].

Trên thế giới, nhiều nền văn hóa và văn minh lớn đã định hình các hệ giá trị

tiêu biểu. Với Trung Hoa cổ đại là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín (ngũ thường); với phương

Tây cổ đại là chân, thiện, mỹ.

Ở Việt Nam, Đào Duy Anh đề xuất 7 giá trị VHTT, bao gồm: 1) sức kí ức tốt,

thiên về nghệ thuật và trực giác; 2) ham học, thích văn chương; 3) ít mộng tưởng

(thiết thực); 4) sức làm việc khó nhọc (cần cù); 5) nhẫn nhục; 6) chuộng hòa bình;

7) thích ứng và dung hòa [53]. Trần Văn Giàu cũng nêu 7 giá trị truyền thống là: 1)

yêu nước; 2) cần cù; 3) anh hùng; 4) sáng tạo; 5) lạc quan; 6) thương người; 7) vì

nghĩa [59, tr.95]. Ngô Đức Thịnh tóm lược hệ giá trị tổng quát gồm 5 thành tố: 1)

chủ nghĩa yêu nước; 2) tinh thần cộng đồng; 3) tinh thần lạc quan; 4) tinh thần cần

cù, chịu đựng gian khổ; 5) tiếp nhận có chọn lọc trong giao lưu văn hóa [59,

tr.178]. Với quan điểm cho rằng văn hóa Việt Nam là một “hệ thống mở”, Nguyễn

Kiến Giang đề xuất một số giá trị cơ bản như: 1) tục thờ cúng tổ tiên; 2) tư duy

thiên về “vận dụng”; 3) tâm thức duy cộng đồng; 4) tinh thần “nhu đạo”, linh hoạt,

lưu động [31, tr.19].

Nhìn chung, những quan điểm tương tự như vậy khá nhiều và có thể trùng lặp

giữa những tác giả, nhưng phần lớn đều là nhận định cảm tính. Do đó, vận dụng

14

phương pháp hệ thống – loại hình với thủ pháp “năm định”2, Trần Ngọc Thêm tổng

kết 5 giá trị cần và đủ để nhận diện và khu biệt VHTT Việt Nam, gồm có: 1) tính

cộng đồng; 2) tính ưa hài hòa; 3) tính trọng âm; 4) tính tổng hợp; 5) tính linh hoạt

[53, tr.173].

Tổng hợp quan điểm giá trị VHTT Việt Nam [bảng 1.1] nhận thấy giữa các

tác giả có sự thống nhất cao về 2 giá trị nổi trội là tính cộng đồng và tính linh hoạt.

Tuy nhiên, đây không phải là những giá trị riêng có mà sự khác biệt với các quốc

gia nằm ở sắc thái và cách biểu hiện do đặc thù lịch sử đem lại. Điều kiện tự nhiên,

kinh tế và tập quán tổ chức xã hội Việt Nam cấu thành nên tính cộng đồng và tính

linh hoạt rõ nét hơn các giá trị khác; ngược lại, chính các giá trị này cũng chi phối

sâu sắc nhiều lĩnh vực xã hội. Bên cạnh đó, việc chọn lọc hệ giá trị VHTT Việt

Nam còn tùy thuộc góc độ nghiên cứu của từng tác giả, phản ánh tính chủ quan và

tương đối của văn hóa. Từ quan điểm này mở ra khả năng xác lập hệ giá trị văn hóa

của kiến trúc truyền thống (KTTT) Việt Nam nói chung và kiến trúc nhà ở nói riêng

dựa trên phương pháp tổng hợp nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau, qua đó chọn

lọc những giá trị chung nhất để làm tiền đề lý thuyết cho luận án.

BẢNG 1.1: CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

Stt

Đào Duy Anh

Trần Văn Giàu

Ngô Đức Thịnh

Nguyễn K. Giang

Trần Ngọc Thêm

Thích ứng, dung hòa

Sáng tạo

Tiếp nhận chọn lọc

Linh hoạt

Tính linh hoạt

1

Chuộng hòa bình

Thương người

Cộng đồng

Cộng đồng

Tính cộng đồng

2

3

Cần cù

Cần cù

Cần cù

4

Lạc quan

Lạc quan

5

Yêu nước

Yêu nước

6

Thiết thực

Tư duy vận dụng

7

Sức kí ức

8

Ham học

9

Nhẫn nhục

10

Vì nghĩa

11

Thờ cúng tổ tiên

12

Tính tổng hợp

13

Tính trọng âm

14

Tính ưa hài hòa

2 Thủ pháp “năm định” bao gồm: 1) định vị đối tượng trong hệ tọa độ gốc C-T-K; 2) định vị đối tượng trong hệ loại hình văn hóa; 3) định tính phẩm chất trong cặp đối lập; 4) định lượng đối tượng trên thang giá trị; 5) định hệ cho các giá trị thu được.

15

1.1.2 Giá trị văn hóa trong kiến trúc truyền thống Việt Nam

Trong văn hóa của mỗi quốc gia có một mảng đặc thù và quan trọng là

kiến trúc – một biểu hiện đa diện của văn hóa – sự kết hợp của sáng tạo nghệ thuật

với kiến thức khoa học thuộc nhiều lĩnh vực trên cơ sở hiểu biết về thiên nhiên, con

người và xã hội [40]. Hiện nay đang tồn tại 2 xu hướng nghiên cứu giá trị bản sắc

văn hóa trong KTTT Việt Nam. Sự khác biệt này xuất phát từ cấu trúc hai bậc [14]

của văn hóa, đó là:

- Cấu trúc bề mặt (biểu tầng): những biểu hiện bên ngoài và biến đổi liên

tục. Đây là biến số - yếu tố động của văn hóa.

- Cấu trúc chiều sâu (cơ tầng): cấu trúc bên trong, ít biến đổi. Đây là hằng

số - yếu tố tĩnh của văn hóa. Nó được xem là cái gốc điều chỉnh mọi sinh hoạt đời

sống, giữ cho xã hội tính liên tục, ổn định và nằm sâu trong tâm thức, đức tin tâm

linh của con người, khắc họa nên bản sắc văn hóa của dân tộc này so với dân tộc

khác.

Giữa biểu tầng và cơ tầng có mối quan hệ tương tác; biểu tầng thường xuyên

biến đổi dù hỗn loạn và ngẫu nhiên vẫn theo một trật tự nhất định. Cái quy định sự

biến đổi này vừa trực tiếp vừa gián tiếp chính là hệ giá trị nằm sâu dưới cơ tầng.

Còn cơ tầng tuy ít biến đổi, nhưng do tác động của biểu tầng nên cũng biến đổi theo

dù rất chậm.

Dưới góc độ chuyên môn, Nguyễn Việt Châu cho rằng bản sắc kiến trúc là cái

không thể nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận được khi liên tưởng xâu chuỗi với lịch

sử phát triển văn hóa xã hội [2]. Theo Hoàng Đạo Kính thì bản sắc không phải là

một khái niệm hình thức [34]. Đồng quan điểm trên, Tạ Mỹ Duật nhận định tính dân

tộc trong hình tượng kiến trúc không phải là cái gì “trông vào thấy ngay”… sa vào

quan niệm như vậy sẽ không khỏi sơ lược và hẹp hòi [11].

Trong giai đoạn trước đây, nhiều nhà lý luận và thực hành kiến trúc đã xem

những giá trị hiển thị (biểu tầng) như là bản sắc của KTTT Việt Nam, cho nên

thường đề cập đến các chi tiết cụ thể (đầu đao hình rồng, con nghê, con phượng, bậc

tam cấp, cửa bức bàn...) và ứng dụng vào công trình hiện đại với mong muốn có

16

được ngôi nhà “đậm đà bản sắc”. Xét về lý thuyết thì phương thức này khó phản

ánh đúng giá trị cốt lõi của KTTT. Ngược lại, các nhà văn hóa học đặt trọng tâm

vào giá trị phi hiển thị (cơ tầng) và cho đó là những chuẩn mực tạo nên bản sắc

KTTT Việt Nam. Theo Trần Ngọc Thêm, các giá trị văn hóa có thể mang tính tĩnh

(ổn định) hoặc mang tính động (biến đổi). Vật chất thì tĩnh ngắn, động dài, còn tinh

thần thì động ngắn, tĩnh dài. Vì vậy, bản sắc văn hóa không nằm ở các giá trị vật

chất mà chỉ có thể nằm ở giá trị tinh thần [63, tr.42]. Tương tự, Nguyễn Thế

Nghĩa cho rằng bản sắc văn hóa là kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi của dân

tộc [63, tr.43]. Và bản sắc văn hóa không phải là một vật mà là một kiểu quan hệ.

Kiểu quan hệ kết hợp, chắp nối từ nhiều gốc khác nhau nhưng tạo nên một thể

thống nhất hữu cơ [42, tr.133].

Như vậy, trong khi tồn tại những quan điểm đề cao giá trị vật chất - hiển thị

(biểu tầng) là bản sắc của KTTT, thì cũng đồng thời xuất hiện quan điểm trái ngược

cho rằng đó phải là các giá trị tinh thần – phi hiển thị (cơ tầng). Từ tính không nhất

quán này, luận án xác lập cở sở luận dựa vào sự dung hòa 2 quan điểm nêu trên;

nghĩa là các giá trị hiển thị và phi hiển thị đều được chọn lọc cho nội dung nghiên

cứu.

Tổng hợp quan điểm giá trị văn hóa trong KTTT Việt Nam [bảng 1.2] cho

thấy giữa các nhà lý luận kiến trúc và văn hóa học thống nhất về 2 giá trị là tính

dung hòa với tự nhiên và tính linh hoạt. Đây có thể xem như hằng số văn hóa của

KTTT Việt Nam. Ngoài ra cũng có một số quan điểm gần giống nhau nhưng mức

độ thống nhất không cao tuyệt đối, tùy thuộc vào góc độ khảo sát của từng tác giả.

Như vậy, các biến số văn hóa còn lại có thể được suy luận và chọn lọc một cách

tương đối từ những nghiên cứu nêu trên để cấu thành hệ giá trị văn hóa trong

KTNO truyền thống Việt Nam.

1.1.3 Giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam

Giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống thường được hiểu là những

giá trị kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ, thực chất đó cũng là nét đặc trưng

17

của loại hình kiến trúc phi chính thống (không có kiến trúc sư). Tuy nhiên, các công

trình kiến trúc chính thống và phi chính thống ở Việt Nam đều có nguồn gốc từ dân

gian [62, tr.176], cho nên cùng mang một số giá trị cơ bản giống nhau. Tuy nhiên,

KTNO truyền thống không chỉ bó buộc trong khuôn mẫu của dòng kiến trúc chính

thống mà còn có điều kiện phát triển riêng, do đó cũng tự hình thành một số đặc thù

để làm phong phú thêm hệ giá trị VHTT Việt Nam.

Hiện nay có nhiều tác giả nghiên cứu KTNO truyền thống các vùng miền trên

cả nước, nhưng chiếm số lượng nhiều hơn hết vẫn là KTNO của người Việt tại vùng

đồng bằng sông Hồng, vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh duyên hải miền

Trung. Thông qua đó, các tác giả tổng hợp một số giá trị chung nhất, là nguồn gốc

sản sinh ra loại hình KTNO truyền thống Việt Nam. Xuất phát từ tác động của

những giá trị này, KTNO tại các vùng miền khác nhau sẽ có những biểu hiện chung

và riêng, làm phong phú thêm sắc thái truyền thống và bản địa. Mục tiêu của luận

án đặt trọng tâm nghiên cứu sự chuyển đổi giá trị truyền thống vào trong KTNO đô

thị hiện nay, cho nên những giá trị tổng hợp nói trên có thể được sử dụng để xây

dựng cơ sở lý thuyết ban đầu.

Nguyên tắc chọn lọc giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống được thực hiện

theo 2 bước: 1) tổng hợp từ nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau; 2) suy luận để

tìm ra giá trị chung nhất. Thao tác này giúp liệt kê các giá trị theo một “phổ” tương

đối rộng, kết tập thành hệ thống và tương tác lẫn nhau, đồng thời tương tác với

những thành phần (công năng & hình thức) của KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam;

thông qua đó chọn lọc các giá trị còn phù hợp với nhu cầu phát triển trong hiện tại

và tương lai.

Tổng hợp quan điểm giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống của các tác giả

[bảng 1.3] cho thấy 3 giá trị nổi trội là: tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa

năng và tính cộng đồng. Ngoài ra, với 10 giá trị văn hóa thì có tới 9 giá trị thuộc cơ

tầng và chỉ có một giá trị thuộc biểu tầng (tính biểu hình). Như vậy, đối với KTNO

truyền thống, các tác giả tập trung hướng nghiên cứu vào cấu trúc văn hóa chiều sâu

hơn là cấu trúc bề mặt. Điều này được hiểu là do KTNO truyền thống có hình thức

giản đơn, tuy nhiên chứa đựng nhiều phương thức tổ chức sinh hoạt, sản xuất, tâm

18

linh, gia đình và dòng tộc. Vì các giá trị văn hóa tập trung dưới cơ tầng nên sự biến

đổi của nó diễn ra chậm so với biến đổi xã hội; và sẽ là lực ngầm chi phối tiến trình

phát triển KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam. Một số giá trị vẫn mang tính thời đại

nhưng cũng có những giá trị không còn thích ứng với nhu cầu thực tế, cho nên

chúng cần được chọn lọc để khai thác trong môi trường nhà ở, phù hợp với lối sống

của người Việt tại các đô thị hiện nay. Nguồn gốc, đặc điểm và phân nhóm giá trị

văn hóa truyền thống được trình bày trong Phụ lục 1.

1.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt

Nam

Tìm hiểu biểu hiện của giá trị văn hóa sẽ được triển khai theo 2 yếu tố công

năng và hình thức KTNO truyền thống; thông qua đó nhận diện đặc điểm tăng

cường hoặc suy thoái do sự chuyển đổi từ nhà ở nông thôn một tầng sang nhà ở đô

thị nhiều tầng. Đây là bước chuyển đổi đầu tiên (phân khúc thứ nhất - sự lệch pha

về không gian) trong tiến trình hòa nhập văn hóa nông nghiệp nông thôn sang văn

hóa đô thị Việt Nam giai đoạn tiền công nghiệp. Nó còn là động lực để tiếp tục khảo

sát phân khúc thứ hai - sự lệch pha về thời gian (giữa nhà ở đô thị truyền thống và

nhà ở đô thị hiện đại). Dựa theo các phân khúc nói trên có thể khái quát mức độ di

tồn VHTT trong KTNO. Bước sau cùng là phân tích, đánh giá và chọn lọc phân

khúc thứ ba – khai thác giá trị VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam

hiện nay. Phân khúc này được trình bày trong chương II và III của luận án.

Nhận diện biểu hiện giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống ứng với 3 vùng

địa lý chính là Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ. Đây cũng là các vùng văn hóa tiêu

biểu của cộng đồng người Việt trên khắp cả nước. Loại hình nhà ở được chọn lọc

gồm nhà ở đô thị và nhà ở nông thôn với một số mẫu hình tiêu biểu. Đối với vùng

3 Công trình thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, chứng nhận ngày 19/05/2006;

Bắc bộ chọn nhà ở nông thôn (nhà bà Dương Lan, làng Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội, năm xây dựng 1780)3 và nhà ở đô thị (nhà cổ 87 Mã Mây, quận Hoàn Kiếm,

19

Hà Nội, năm xây dựng 1890)4; vùng Trung bộ chọn nhà ở nông thôn (nhà vườn An Hiên, thôn Xuân Hòa, xã Hương Long, Huế, năm xây dựng 1883)5 và nhà ở đô thị (nhà cổ Tấn Ký, 101 Nguyễn Thái Học, Hội An, xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII)6;

vùng Nam bộ chọn nhà ở nông thôn (nhà cổ Trần Công Vàng, số 21 đường Ngô Tùng Châu, Thủ Dầu Một, Bình Dương, năm xây dựng 1889)7.

Hầu hết mẫu chọn là những công trình đã được Bộ Văn hóa – Thông tin8 cấp

chứng nhận di sản quốc gia; nghĩa là chúng hội đủ các điều kiện đặc thù để đại diện

cho hình thái kiến trúc nhà ở người Việt trên 3 vùng miền của cả nước. Ngoài ra,

tham khảo thêm tài liệu “Nguồn gốc và quá trình phát triển kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống người Việt”9 của tác giả Trần Thị Quế Hà, tóm tắt kết quả nghiên

cứu từ 4287 ngôi nhà truyền thống tại 10 tỉnh đồng bằng, chia theo 3 vùng Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ10 cho thấy: trong cùng một vùng khảo sát, kiến trúc nhà ở truyền thống về cơ bản có nhiều đặc điểm giống nhau11; sự khác biệt chủ yếu nằm

trong giải pháp vì kèo và quy mô lớn nhỏ (3, 5, 7 gian). Như vậy, thay vì tập hợp

nhiều mẫu chọn cho từng vùng văn hóa, luận án kế thừa kết quả nghiên cứu trên và

sử dụng những công trình đã được Bộ văn hóa cấp chứng nhận nhằm thiết lập cứ

4 Công trình được cấp bằng di sản quốc gia ngày 16/02/2004; 5 Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế (http://thuathienhue.gov.vn) đánh giá: “An Hiên là nhà vườn

tiêu biểu nhất trong số các nhà vườn còn lại cho đến nay ở miền sông Hương núi Ngự”;

6 Công trình được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng chứng nhận “Công trình văn hóa” vào năm 1985; 7 Công trình được công nhận di tích cấp quốc gia ngày 07/01/1993; 8 Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch; 9 Đăng trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, năm 2008; 10 Nghiên cứu thuộc chương trình: “Nghiên cứu điều tra nhà ở dân gian truyền thống trên toàn quốc Việt Nam” được tiến hành năm 1997 với sự hợp tác giữa Cục Di sản, Bộ Văn hoá – Thông tin và Truờng Đại học Nữ Showa – Nhật Bản;

11 Ví dụ trích dẫn: “Thông thường, nhà ở dân gian miền Bắc được xây dựng kiểu hai mái với mặt bằng bố cục đối xứng và số gian lẻ (3, 5, 7), bao gồm ba gian giữa và hai gian buồng nằm về hai phía của gian giữa. Phía trước nhà thường có thêm một hàng hiên chạy dài suốt chiều ngang mặt đứng. Bên trong nhà, giữa gian giữa và hai gian buồng được ngăn cách bởi vách ngăn bằng gỗ (bức thuận), mặt hướng ra gian giữa được chạm trổ công phu. Phía trong cùng của gian giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Không gian hai bên và phía trước của bàn thờ được đặt các bộ phản hoặc bàn ghế là nơi tiếp khách và chỗ ngủ của chủ nhà..”.

12 Ngoài ra, việc phân tích tác động và biểu hiện của giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống không nhất thiết cần số lượng lớn công trình để chứng minh lại từ đầu mà chỉ nhằm kiểm chứng kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả thực hiện trước đó (đã được tập hợp trong hệ giá trị văn hóa – bảng 1.3), tạo tiền đề cho các phân tích tiếp theo trong nội dung luận án;

liệu (có tính tiêu biểu) cho việc phân tích tác động của văn hóa tới KTNO truyền thống12, triển khai theo sơ đồ sau [hình 1.1]:

20

Hình 1.1: Sơ đồ nghiên cứu biểu hiện giá trị văn hóa trong KTNO truyền thống Việt Nam

Đối tượng nghiên cứu được xác định theo 2 mục tiêu: 1) nhận diện sự tác

động của giá trị văn hóa đối với KTNO truyền thống thông qua những biểu hiện

trên 2 khía cạnh công năng và hình thức, đồng thời so sánh điểm tương đồng và

khác biệt của những biểu hiện đó trong KTNO các vùng miền (do sự sai khác về thứ bậc giá trị trên thang/hệ giá trị văn hóa)13; 2) phân tích sự chuyển đổi biểu hiện của

giá trị văn hóa từ nhà ở nông thôn sang nhà ở đô thị truyền thống.

1.2.1 Nhà ở nông thôn truyền thống

1.2.1.1 Biểu hiện của giá trị văn hóa trong yếu tố công năng

Biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở nông

thôn truyền thống vùng Bắc bộ [hình 1.2], Trung bộ [hình 1.3], Nam bộ [hình 1.4]

được trình bày theo cùng một định dạng; từng giá trị văn hóa diễn đạt tương ứng với

13 Sự khác nhau giữa các vùng văn hóa Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: 1) nguồn gốc cư dân; 2) điều kiện tự nhiên; 3) điều kiện kinh tế - xã hội. Mười giá trị VHTT đã được tổng hợp trong bảng 1.3 mang tính đặc trưng chung cho cả nước; tuy nhiên, theo lý thuyết về hệ giá trị thì giữa chúng có sự khác nhau về độ nhấn của tầm quan trọng và thứ tự ưu tiên trước sau. Vì vậy, sự khác nhau của văn hóa vùng cũng sẽ dẫn đến sự khác nhau về thứ tự các thành tố văn hóa trên thang giá trị. Ví dụ: trong khi văn hóa Bắc bộ đề cao tính cộng đồng thì Nam bộ phát triển vai trò cá nhân và tính tư hữu (nguyên nhân này xuất phát từ tình hình sở hữu ruộng đất công); hoặc truyền thống gia đình/gia tộc đối với người Bắc bộ rất quan trọng (do làng được hình thành từ các dòng họ định cư lâu dài) thì ở Nam bộ gần như không gia đình nào có gia phả (người Nam bộ phần nhiều là lưu dân từ các vùng miền khác đến và còn có thể di chuyển), thay vào đó họ đề cao tính hiếu khách (bao dung, hào sảng); văn hóa Nam bộ có tính năng động, linh hoạt và cởi mở hơn văn hóa Bắc bộ (vì là nơi hội tụ của dân cư các nơi, hợp lưu của các dòng văn hóa).

cấu trúc công năng để đem đến cái nhìn so sánh giữa các vùng miền.

21

Biểu hiện tính dung hòa với tự nhiên trong tổng thể mặt bằng nhà ở nông

thôn truyền thống là kiểu bố cục phân tán, các dãy nhà phụ tách ra khỏi nhà chính,

đặt song song hoặc vuông góc để thông gió; xen cài vào đó còn có các khoảng sân

vườn, cầu nối, hàng hiên... Nhìn chung, giữa không gian nhà ở và môi trường tự

nhiên có mối quan hệ hữu cơ [21, tr.7]. Ngôi nhà chính vùng Bắc bộ và Trung bộ

đối mặt với hướng gió chủ đạo là Nam và Đông Nam, kết hợp chủng loại cây trồng

thích hợp (trước cau, sau chuối) nhằm khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tự nhiên.

Vùng Nam bộ có khí hậu mát mẻ quanh năm nên linh hoạt hơn trong cách tổ chức.

Nhà chính có thể không theo nguyên tắc hướng Nam mà quay mặt về trục giao

thông thủy bộ; hàng hiên thiết lập xung quanh (4 mặt) như là không gian đệm

chuyển nối giữa trong nhà và ngoài trời, đồng thời cũng là không gian sinh hoạt

hằng ngày [62, tr.157]. Hàng hiên nhà ở Bắc bộ kéo dài suốt mặt trước, trong khi

nhà ở Trung bộ chỉ chiếm một phần các gian giữa.

Hoạt động cư trú và sản xuất trong nhà ở nông thôn được tổ chức đan xen lẫn

nhau, thúc đẩy sự phát triển kiểu cấu trúc không gian mở. Các chức năng không

ngăn thành phòng mà phát triển theo hướng sử dụng chung. Ngoài buồng ngủ đồng

thời là nơi cất giữ tài sản thường được ngăn riêng, nội thất trong nhà là một không

gian liền khối thông thoáng [62, tr.156]. Nhà chính, nhà phụ có tính đồng nhất và

liên tục, chuyển tải nhiều hoạt động như: tiếp khách, thờ cúng, nghỉ ngơi, sum họp

gia đình, sản xuất... Có thể nói, không gian trong – ngoài, đóng – mở chuyển hóa dễ

dàng là đặc trưng của nhà ở cổ truyền [21, tr.6], biểu hiện tác động của tính linh

hoạt/đa năng. Điểm khác nhau trong cấu trúc công năng nhà ở Bắc bộ là có chiều

sâu hẹp (thường 5 hàng cột) và kéo dài (3,5,7... gian), trong khi đó nhà ở Trung bộ

và Nam bộ phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu (7,8 hàng cột, chia thành 2

không gian trước - sau). Ngoài ra, tính chất sử dụng chung phát triển đã khống chế

sự gia tăng các phòng/không gian cá nhân, phản ánh văn hóa đề cao tính cộng đồng

của người Việt. Vì vậy tính tư hữu chưa can thiệp vào cấu trúc không gian bên

trong mà chỉ thể hiện bằng ranh giới tường rào và cổng ngõ, quy định phạm vi sử

dụng riêng của từng gia đình. Tuy nhiên sự ngăn cách này cũng mang tính ước lệ,

không cản trở giao tiếp giữa xóm giềng với nhau.

22

Tác động của truyền thống gia đình Việt trong nhà ở nông thôn tạo ra các

biểu hiện: 1) không gian thờ cúng tổ tiên luôn đặt tại gian giữa nhà chính, đây là nơi

trang trọng và thiêng liêng nhất, mọi hoạt động đều lấy đó làm trung tâm [62,

tr.171], thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”; 2) không gian sum họp phân bố đa

dạng theo các khu vực chức năng nhà ở để phát huy mối quan hệ huyết thống. Gia

đình cổ truyền của người Việt thường tập trung nhiều thế hệ, tạo nên sự gắn kết

khăng khít giữa các thành viên trong một không gian sinh hoạt chung [16]; 3)

không gian nhà ở chia thành 2 khu vực (nhà trên/nhà chính – nhà dưới/nhà phụ)

với sự ưu tiên cho các hoạt động của nam giới, thể hiện tư tưởng trật tự của Nho

giáo. Do cấu trúc phát triển theo cả 2 phương nên nhà ở Nam bộ còn chia nhà chính

thành 2 không gian phía trước (dành cho hoạt động giao tiếp đối ngoại, thờ cúng,

sum họp...) và phía sau (chỗ ngủ, làm nghề phụ, kho...), được ngăn cách bởi các bức

vách và cửa đi.

Cấu trúc công năng nhà ở nông thôn có tính hướng ngoại; các dãy nhà chính

và phụ mở ra sân phía trước với các dạng cửa có thể cơ động di chuyển, nối liền

không gian bên trong và bên ngoài. Hoạt động giao tiếp đối ngoại (tính cộng đồng)

và các sinh hoạt nội bộ không có sự ngăn cách, trải rộng từ gian giữa nhà chính cho

đến hàng hiên và sân vườn. Cách tổ chức đó còn cho thấy tính hiếu khách của các

gia đình truyền thống Việt Nam. Nơi tiếp khách luôn chiếm vị trí trang trọng và

cũng là trung tâm bố cục nhà chính, gắn liền với hoạt động tâm linh, tín ngưỡng.

Nhìn chung, quy mô và sự tinh xảo trong cách bày trí không gian tiếp khách nhà ở

Trung bộ và Nam bộ giai đoạn về sau phát triển hơn nhà ở Bắc bộ.

Không gian thờ cúng được phân bố đa dạng bên trong nhà ở là biểu hiện tác

động của văn hóa thờ cúng, hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên (dù thờ

chính hay thờ vọng). Ngoài ra, do đặc tính văn hóa đa thần, nhà ở truyền thống còn

có không gian thờ phụng các vị tôn thần [41]. Mỗi ngôi nhà thường có 3 khu vực

thờ, gồm: bàn thờ thiên bố trí ngoài sân; bàn thờ gia tiên bên trong nhà chính; bàn

thờ thần bếp đặt tại nhà phụ. Tùy theo tín ngưỡng từng vùng mà số lượng không

gian có sự thay đổi khác nhau.

Trong nhà ở nông thôn truyền thống, không gian sản xuất (tính sinh lợi) và cư

23

trú được bố trí đan xen để thích ứng với điều kiện kinh tế tiểu nông, tự cung tự cấp.

Hoạt động nuôi trồng, làm nghề thủ công kéo dài từ sân vườn cho đến nhà chính,

nhà phụ. Nhà ở Bắc bộ đặc trưng bởi mô hình vườn – ao – chuồng; Trung bộ có 2

hình thức: vườn phong thủy (kết hợp với sân, bình phong, bể cạn) và vườn canh tác

(trồng cây ăn trái và các loại rau). Vườn Nam bộ bố cục khá tự do gồm vườn cảnh

trước mặt nhà và vườn canh tác bố trí xung quanh. Ngoài ra, Nam bộ gắn liền với

yếu tố sông nước nên không gian cư trú còn có thêm hình thức nuôi trồng thủy sản.

Vận dụng thuật phong thủy trong xây dựng nhà ở truyền thống có những biểu

hiện sau: 1) số gian nhà thường lấy theo số lẻ (ứng với thuyết tam tài – ngũ hành);

2) chọn đất dựng nhà và chọn hướng nhà chính. Người Việt rất coi trọng việc chọn

địa điểm dựng nhà… được đất rồi lại phải tính đến hướng nhà [62, tr.151]. Về đặc

tính văn hóa này có thể xem nhà vườn Huế là hình mẫu tiêu biểu bởi nguyên tắc

phong thủy luôn được tuân thủ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, khi tiến dần về phía Nam

thì ảnh hưởng của thuật phong thủy suy giảm, ngôi nhà bố trí theo đường giao thông

thủy bộ. Đó là do khí hậu ôn hòa của khu vực và tính chất định cư không bền vững

của lưu dân nơi đây tạo nên. Điểm chung của nhà ở Nam bộ và Bắc bộ là cổng ngõ

thường không đối diện với nhà chính. Ở nông thôn, nhà chính không nhìn thẳng ra

đường làng, ngay đến cổng ngõ cũng bố trí sang bên cạnh để không nhìn vào nhà

chính [62, tr.15]; ngược lại, trong nhà vườn Huế thì cổng, sân trước và nhà chính

luôn nằm trên một trục (có bình phong che chắn).

Tổng hợp biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố công năng nhà ở nông thôn

truyền thống Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ được trình bày trong bảng 1.4

1.2.1.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức

Hình thức KTNO nông thôn truyền thống Việt Nam chịu tác

động của tính biểu hình gồm 3 yếu tố: kỹ thuật truyền thống, nghệ thuật tạo hình,

giải pháp dung hòa với tự nhiên. Đây còn gọi là giá trị thẩm mỹ truyền thống, đại

diện cho các nguyên tắc và quy luật tạo hình chi phối KTNO Bắc bộ [hình 1.5],

Trung bộ [hình 1.6], Nam bộ [hình 1.7].

Về kỹ thuật truyền thống, nhà ở nông thôn có đặc điểm sử dụng vật liệu địa

24

phương, sản xuất thủ công với các chủng loại phong phú như tre, gỗ, đá, đất

nung,… Nhà cửa dân gian dù tranh hay ngói đều được xây dựng từ những vật liệu

sẵn có trong thiên nhiên [62, tr.143]. Nhìn chung, hình thức ngôi nhà có thể thay

đổi tùy thuộc chất liệu sử dụng nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp thô mộc và gần gũi. Nhà

ở Bắc bộ được xây bằng tường gạch, mái lợp ngói, khung kết cấu tre, gỗ. Nhà ở

Trung bộ, Nam bộ có quy mô lớn hơn và vật liệu tinh xảo hơn (gỗ quí, ngói âm

dương, gạch tráng men...). Ngoài ra, kỹ thuật xây dựng truyền thống còn hình thành

kiểu cấu trúc tháo lắp (tính cơ động) với các chi tiết điển hình hóa (khung, cột,

kèo...), liên kết bằng mộng và lỗ mộng mà không cần sự tham gia của kim loại. Hệ

cấu trúc cửa và các tấm phên giại cũng có khả năng dịch chuyển để mở rộng không

gian. Quá trình xây dựng tiến hành theo một quy trình khoa học. Hệ khung kết cấu

có sự kế thừa cùng tiến trình chuyển dịch cư dân từ Bắc vào Nam, tuy vậy vẫn cho thấy tính sáng tạo cao14.

Trên phương diện nghệ thuật tạo hình, Nguyễn Đức Thiềm cho rằng cái đẹp,

cái khéo của KTNO truyền thống Việt Nam có thể tìm thấy ở tính hài hoà thống

nhất; thanh thoát gần gũi với con người thông qua hệ thống tỷ lệ đẹp, tinh tế giữa

các chi tiết và giữa chi tiết với tổng thể, giữa tổng thể với con người, với cảnh quan

[55, tr.166]. Thông qua phân tích hình thức nhà ở nông thôn truyền thống có thể

tổng hợp trong 7 đặc điểm: 1) sử dụng trang trí chạm trổ trực tiếp lên cấu kiện với

các đề tài mang tính dân gian như: tứ quí, bát bửu, hoa lá, chữ Tàu... Nội dung và kỹ

thuật trang trí tùy thuộc tay nghề của nghệ nhân từng vùng. Một số bộ phận nằm

trong kết cấu có tác dụng chịu lực như bẩy, kẻ, rường.. được trang trí chạm nổi,

đảm bảo độ đặc bền. Số khác như các xà, câu đầu chủ yếu trang trí bằng soi gờ,

chạy chỉ…[62, tr.166]; 2) màu sắc ngôi nhà thường là màu tự nhiên của vật liệu

(màu đất, màu ngói, màu gỗ...), ít sử dụng sơn; 3) tính vần điệu: số gian và cột hiên

sử dụng thủ pháp đồng dạng, lặp lại tạo thành vần điệu; 4) tính đối xứng, cân bằng

xuất hiện do cấu trúc nhà ở có số gian lẻ; 5) tỷ lệ hài hòa với tầm thước con người

14 Nhà ở Bắc bộ đặc trưng bởi kết cấu cột – xà – kẻ (bẩy); nhà rường Trung bộ là kết cấu cột – kèo chồng –

xuyên/trính; nhà ở Nam bộ là kết cấu kèo – cột giữa/trụ (trính) – đòn đông.

và hài hòa giữa các thành phần cấu tạo với nhau; 6) tính hình học (vuông, thẳng,

25

nghiên, tam giác…) do quá trình thiết lập bộ khung kết cấu dựa trên các thước chuẩn15; 7) tổ hợp theo phương ngang (3,5,7...gian) và chỉ cao 1 tầng.

Tuy nhiều điểm chung nhưng hình thức KTNO Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ

vẫn có sự khác nhau là do tác động của các yếu tố biến đổi như: nguồn vật liệu sử

dụng khác nhau; hình thức trang trí mỗi vùng mang đặc điểm riêng; sử dụng thước

chuẩn (modul) khác nhau; phương thức kết cấu thay đổi; con người sáng tạo không

giống nhau. Với kiến trúc, cùng một hiệp thợ nhưng mỗi công trình có vẻ đẹp riêng

[62, tr.10].

KTNO nông thôn truyền thống phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên nên

hình thức thẩm mỹ cũng phản ánh rõ nét mối liên hệ đó (giải pháp dung hòa với tự

nhiên). Trong môi trường khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, nhà ở Bắc bộ, Trung bộ và

Nam bộ hình thành 6 giải pháp thích ứng gồm: 1) thông gió tự nhiên nhằm giải

phóng lượng nhiệt tồn và làm mát không gian sinh hoạt, chống ẩm mốc. Vì vậy hình

thức cửa có kiểu “thượng song hạ bản” và luôn mở rộng về hướng gió; ngoài ra

còn sử dụng các tấm phên giại, mành che để cho gió xuyên qua nhưng vẫn hạn chế

tác hại của nắng. Phía trước hiên thường dựng hàng giại, chừa những gian để ra

vào thì treo mành, cũng có khi thay bằng những tấm liếp, sáo… để che mưa che

nắng mà không cản gió mát [62, tr.158]. Nhà ở Bắc bộ và Trung bộ ít mở cửa về

hướng Bắc, Tây và Đông; trong khi nhà ở Nam bộ có thể mở ra cả 4 hướng; 2) sử

dụng hàng hiên che nắng và mái nhà vươn xa khỏi mặt tường để hạn chế lượng

bức xạ mặt trời, kéo mái đua rộng xuống thấp che cho một phần tường đỡ bị nắng

nung và mưa xói mòn [62, tr.155]. Hàng hiên trong nhà ở Nam bộ bao quanh 4 mặt,

nhưng Trung bộ và Bắc bộ chỉ bố trí ở mặt trước; 3) sử dụng nguồn sáng gián tiếp

bằng hiện tượng khuếch tán qua một mặt cản (hiên, mái, phên, giại); 4) chống tạt

nước bằng hình thức mái nhà có độ dốc lớn, vươn xa. Nhà ở Bắc bộ thường có 2 mái bít dốc với độ nghiêng khoảng 350, nhà ở Trung bộ và Nam bộ thường 4 mái (kiểu nửa chỏm), có độ nghiên lần lượt là 300 và 250 ; 5) vùng bóng râm dày và

đậm hình thành trên mặt nhà do sử dụng hàng hiên, mái đua; 6) chống ẩm cho nhà

15 Bắc bộ sử dụng thước Tầm/Sàm, Trung bộ và Nam bộ dùng thước Nách;

ở bằng cách nâng nền cao hơn mặt sân từ 40 – 60 cm.

26

Như vậy, thông qua việc tạo hình để thích ứng với điều kiện khí hậu nhiệt đới

nóng ẩm, KTNO Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ có một số đặc điểm giống nhau như:

mái dốc lớn, vươn xa; hàng hiên kéo dài trước mặt nhà; cửa mở rộng và tấm che có

dạng song thưa (cản nắng mà không cản gió); vùng bóng râm dày và đậm trên bề

mặt.

Tổng hợp biểu hiện giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức nhà ở nông thôn

truyền thống Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ được trình bày trong bảng 1.5

1.2.2 Nhà ở đô thị truyền thống

Giữa nông thôn và đô thị truyền thống có sự khác nhau về môi trường

cư trú - sản xuất, tác động làm chuyển đổi cấu trúc công năng và hình thức nhà ở.

Giai đoạn chuyển đổi đó được xem là phân khúc thứ nhất - sự lệch pha về không

gian. Nhà ở đô thị truyền thống mang hình thể đặc trưng là chiều ngang hẹp, chiều

sâu lớn và nhiều tầng (2 tầng); tuy nhiên vẫn chuyển tải đầy đủ những chức năng cơ

bản như tiếp khách, thờ cúng, nghỉ ngơi, giao tiếp, sản xuất.

Trong phân khúc này sẽ tiến hành nhận dạng biểu hiện giá trị VHTT theo sự

biến động mô hình nhà ở. Mục đích nhằm chứng minh giá trị văn hóa có tính

chuyển đổi để thích ứng với điều kiện tồn tại mới, được triển khai bằng các mẫu

chọn là nhà ở đô thị truyền thống Bắc bộ và Trung bộ. Nhà ở đô thị Nam bộ chủ

yếu do người nước ngoài (Pháp, Hoa, Ấn…) xây dựng nên không thuộc đối tượng phân tích của luận án16.

1.2.2.1 Biểu hiện của giá trị văn hóa trong yếu tố công năng

Các chức năng của nhà ở đô thị truyền thống được tổ chức theo

chiều cao và chiều sâu, cũng là đặc điểm chung cho cả 2 vùng Bắc bộ [hình 1.8] và

Trung bộ [hình 1.9]. Do hạn chế về khả năng phát triển không gian cây xanh và mặt

16 Trong các nghiên cứu hiện nay không thấy đề cập đến nhà ở đô thị truyền thống Nam bộ (kiểu nhà phố thị); đồng thời trong hệ thống các công trình được cấp chứng nhận di sản cũng không có tên hạng mục này.

nước nên yếu tố tự nhiên (tính dung hòa với tự nhiên) được thay thế bằng hình

27

thức sân trong (giếng trời). Với hình thể dài và hẹp, cách tạo ra giếng trời giữa nhà

là giải pháp để thông thoáng và lấy sáng cho các phòng bên trong; đây là hình thức

chuyển tiếp cái sân trong nhà ở nông thôn truyền thống và là điển hình của nhà ở

kiểu ống [18]. Nhà ở Bắc bộ thường tổ chức 2 sân để tăng cường khả năng đối lưu

không khí. Hình thể ngôi nhà càng dài thì số lượng sân trong càng nhiều. Hàng hiên

được bố trí quay vào các sân này. Hướng của ngôi nhà không theo hướng gió mà

tùy thuộc vào đường giao thông. Nhà ở Trung bộ có 2 trục đường phía trước (dành

làm cửa hàng) và phía sau (tiếp cận bờ sông dành làm kho hàng). Nhìn chung, so

với nhà ở nông thôn thì giải pháp thích ứng khí hậu trong nhà ở đô thị mang tính thụ

động.

Tính chất sử dụng chung không gian (tính linh hoạt/đa năng) tiếp tục được

phát huy trong nhà ở đô thị truyền thống. Theo đó, các chức năng hoạt động triển

khai trong những không gian đồng nhất, ít ngăn chia và ít phòng ở cá nhân. Đối với

nhà phố xưa kia, không gian sử dụng thường mang tính đa năng, trong đó sự phân

bố và vận động của những không gian này phần lớn là quy ước, sự thay đổi đa dạng

trong chức năng đều có tính thời điểm…Ở đây, những khái niệm về “phòng” và

“buồng” chỉ tạm thời và được quy định theo thời điểm trong ngày hoặc mùa [26].

Giao thông theo kiểu xuyên phòng làm hạn chế các hoạt động riêng tư. Không gian

mua bán, sản xuất (tính sinh lợi) chiếm vị trí mặt trước, đẩy lùi không gian sinh

hoạt khác và làm gia tăng tính linh hoạt để lồng ghép các chức năng. Ngôi nhà

không chia buồng mà chia theo các gian cho từng công năng khác nhau [44]. Ngoài

ra, nhà ở đô thị còn có thể phân thành 2 vùng hoạt động riêng theo các tầng: tầng

trệt kết hợp giao tiếp, mua bán với các hoạt động nghỉ ngơi cơ bản (ăn uống, vệ

sinh..); tầng lầu dành cho sinh hoạt nội bộ gia đình.

Tuy có sự chuyển đổi mô hình cư trú nhưng truyền thống gia đình Việt vẫn

được duy trì trong nhà ở đô thị, thể hiện qua các giải pháp: 1) gian thờ tổ tiên không

còn chiếm vị trí trung tâm ngôi nhà nhưng vẫn được tổ chức trang trọng, thường

gắn liền với nơi tiếp khách; 2) không gian sum họp phân bố dàn trải theo nhiều chức

năng (ăn uống, giao tiếp, nghỉ ngơi, …), kéo dài từ trước ra sau nhà và lên trên tầng

lầu. Đặc tính không gian thiên về sử dụng chung tạo điều kiện thúc đẩy mối quan hệ

28

giao tiếp giữa các thành viên và duy trì thiết chế gia đình bền vững. Hoạt động đối

ngoại (tính cộng đồng) trong nhà ở đô thị thu hẹp phạm vi do hạn chế về diện tích,

thường chỉ được triển khai trong phòng khách hoặc kết hợp giữa không gian mua

bán với tiếp khách. Phòng khách có thể đặt tại tầng trệt (Trung bộ) hoặc tầng lầu

(Bắc bộ). Thông qua cách bày trí cho thấy đây vẫn là không gian quan trọng của

nhà ở, gắn liền với gian thờ tổ tiên, thể hiện tính hiếu khách của người Việt.

Trên phương diện sở hữu, nhà ở đô thị là một đơn vị cư trú độc lập và được

xác định bởi các ranh giới cụ thể, khẳng định sự riêng tư của từng gia đình (tính tư

hữu). Các hoạt động hướng vào bên trong, chỉ có cửa hàng phía trước tiếp xúc với

đường phố. Ngôi nhà thị dân buôn bán, thủ công đa năng hơn và là một đơn vị khép

kín hơn ngôi nhà nông thôn [44]. Không gian phát triển theo hướng sử dụng chung

nên ít có phòng ở cá nhân, không ưu tiên cho các sinh hoạt riêng. Vì vậy, tính tư

hữu chưa tác động nhiều đến cấu trúc công năng nhà ở đô thị truyền thống.

Cũng giống nhà ở nông thôn, văn hóa thờ cúng trong nhà ở đô thị tổ chức đa

dạng với nhiều vùng không gian khác nhau (thờ tổ tiên, thờ gia thần…). Tuy nhiên

cách thức bố trí linh hoạt hơn để thuận tiện sắp xếp các chức năng khác. Nhà ở Bắc

bộ đặt gian thờ tổ tiên trên tầng lầu (phía nhà trước) còn Trung bộ đặt tại tầng trệt

(liền sau cửa hàng) và hướng vào sân trong. Như vậy, gian thờ tổ tiên trong nhà ở

đô thị đã có sự chuyển đổi để phù hợp với điều kiện cư trú mới mà không nhất thiết

chiếm vị trí trung tâm và hướng ra bên ngoài.

Do đặc thù về khu đất nên ứng dụng thuật phong thủy trong nhà ở đô thị cũng

có nhiều thay đổi, hướng nhà do trục đường giao thông quyết định. Tuy nhiên, cấu

trúc ngôi nhà vẫn duy trì số gian lẻ (tam tài); nhà ở Bắc bộ và Trung bộ đều là

những ngôi nhà 3 gian mặc dù có chiều ngang không lớn.

Tóm lại, các giá trị văn hóa của nhà ở nông thôn truyền thống hầu hết đều

được chuyển đổi vào trong nhà ở đô thị, tuy biểu hiện có khác nhau nhưng vẫn phát

huy tác động lên cấu trúc công năng. Đó là những giá trị: tính linh hoạt/đa năng,

tính sinh lợi, tính cộng đồng, tính tư hữu, văn hóa thờ cúng, truyền thống gia đình

Việt,. Điểm khác nhau cơ bản là không gian nhà ở đô thị tổ chức linh hoạt hơn,

không tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc đối xứng, trước - sau, chính – phụ như

29

trong nhà ở nông thôn. Đặc biệt, không gian sinh lợi chiếm vị trí phía trước nhà đã

đẩy lùi các chức năng khác vào sâu bên trong, làm cho tính linh hoạt/đa năng phát

triển mạnh. Ngoài ra, trong nhà ở đô thị có 3 giá trị suy giảm mức độ can thiệp là:

tính dung hòa với tự nhiên, tính hiếu khách và thuật phong thủy.

Biểu hiện của sự chuyển đổi giá trị văn hóa trong yếu tố công năng từ nhà ở

nông thôn sang nhà ở đô thị truyền thống được tổng hợp trong bảng 1.6.

1.2.2.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa trong yếu tố hình thức

Tiếp tục áp dụng cách phân tích tương tự nhà ở nông thôn để

nhận dạng biểu hiện giá trị văn hóa trong hình thức kiến trúc nhà ở đô thị truyền

thống Bắc bộ [hình 1.10] và Trung bộ [hình 1.11].

Về yếu tố kỹ thuật truyền thống, nhà ở đô thị kế thừa giải pháp sử dụng vật

liệu địa phương, sản xuất thủ công và phương thức tháo ráp các cấu kiện điển hình.

Chủng loại vật liệu thay đổi theo từng khu vực: Bắc bộ sử dụng tường gạch, mái lợp

ngói ta, khung kết cấu bằng gỗ soan hoặc mít, nền lát gạch Bát Tràng; Trung bộ xây

tường gạch, mái lợp ngói âm dương, khung kết cấu bằng gỗ mít, kiền kiền, chua…,

nền lát gạch tráng men. Ngoài ra, hệ thống cửa bức bàn đóng mở linh hoạt cũng tiếp

tục được ứng dụng. Sự khác nhau giữa nhà ở nông thôn và đô thị nằm trong kết cấu

nhiều tầng. Do tính chất chịu lực phức tạp nên hệ khung cấu trúc giảm bớt yếu tố

thừa, đồng thời giảm số lượng mô típ trang trí; bắt đầu xuất hiện tường chịu lực

(Bắc bộ). Sự sáng tạo trong tạo hình kết cấu và sử dụng vật liệu làm cho hình thức

nhà ở đô thị không giống nhà ở nông thôn. Giữa nhà ở Bắc bộ và Trung bộ cũng

không hoàn toàn giống nhau.

Các quy luật của nghệ thuật tạo hình nhà ở nông thôn được chuyển đổi gần

như đầy đủ trong nhà ở đô thị truyền thống; theo đó có tới 6/7 yếu tố tạo hình giữ

nguyên mức độ tác động là tính hình học, tính đối xứng, tỷ lệ hài hòa, tính vần điệu,

màu sắc tự nhiên, trang trí hoa văn. Mặc dù phát triển về chiều cao nhưng nhà ở đô

thị vẫn duy trì tỷ lệ hài hòa giữa con người với công trình thông qua việc sử dụng

mái đua để phân vị các tầng. Hình thể ngôi nhà tuân theo quy tắc đối xứng với cấu

trúc 3 gian và là tổ hợp của các đường ngang, thẳng, ô vuông, chữ nhật, mái dốc (2

30

mái). Các yếu tố này tạo nên sự cân đối và vần điệu cho bề mặt công trình.

Trong việc thích ứng với điều kiện khí hậu (giải pháp dung hòa với tự nhiên),

nhà ở đô thị truyền thống kế thừa giải pháp tạo hình của nhà ở nông thôn nhưng

chuyển đổi để phù hợp với hình dạng mới. Đó là: sử dụng các cấu trúc dạng ô lưới

thông gió cho cửa và đỉnh tường; lắp dựng mái đua, hàng hiên che nắng, chống mưa

tạt và tạo bóng râm trên bề mặt; nền nhà nâng cao để chống ẩm.

Như vậy, xét trên phương diện hình thức thì nhà ở đô thị truyền thống chịu tác

động của các yếu tố tạo hình có nguồn gốc từ nhà ở nông thôn. Sự chuyển đổi đó

được tổng hợp trong bảng 1.7.

1.3 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở tại các

đô thị lớn Việt Nam hiện nay

Tinh thần kế thừa giá trị văn hóa truyền thống tạo nên động lực làm chuyển

đổi biểu hiện trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay. Đây được

xem là phân khúc thứ hai - sự lệch pha về thời gian. Nếu tính từ nhà ở nông thôn

truyền thống thì toàn bộ quá trình trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn đầu là sự chuyển

đổi môi trường cư trú từ nông thôn lên đô thị truyền thống; giai đoạn thứ 2 là từ đô

thị truyền thống đến đô thị hiện đại. Trong thế kỷ XXI, những thay đổi lớn trên

nhiều lĩnh vực xã hội đã chi phối vai trò và sức ảnh hưởng của VHTT; vì vậy, nhận

diện các biểu hiện là cơ sở thực tiễn chứng minh khả năng tác động liên tục của

VHTT đến sự phát triển kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam. Nội dung này triển khai

theo 3 loại hình nhà ở tiêu biểu là nhà phố, chung cư và biệt thự.

Luận án xác định phạm vi khảo sát trong các đô thị lớn vì tính chất phân cấp

đô thị Việt Nam hiện nay rất đa dạng, cho nên nhiều đô thị không hội tụ đầy đủ 3

loại hình nhà ở tiêu biểu nói trên. Hơn nữa, có thể trong những đô thị cấp II, III vẫn

đáp ứng được tiêu chí này thì mức độ hoàn thiện cấu trúc công năng và vai trò tiên

phong về tạo hình thẩm mỹ còn nhiều hạn chế, chưa khái quát sự đối trọng giữa tính

hiện đại và truyền thống cũng như những khả năng can dự của văn hóa trong điều

kiện phát triển kiến trúc nhà ở đương đại.

31

Quá trình phân tích tác động và biểu hiện VHTT được nhận diện từ thực tế

phát triển kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam. Vì tính chất đặc thù địa phương trong hầu hết các đô thị có xu hướng bị phá vỡ17 nên luận án không đặt mục

tiêu tiếp cận từng đô thị cụ thể mà hàm ý tổng hợp các biểu hiện chung nhất, tìm

hiểu vai trò can thiệp của văn hóa ứng với mỗi loại hình nhà ở tiêu biểu (nhà phố,

chung cư, biệt thự), có thể nhận thấy trong bất kỳ đô thị lớn nào (Hà Nội, Đà Nẵng,

Tp Hồ Chí Minh…). Ảnh hưởng mạnh mẽ của toàn cầu hóa làm cho sự phát triển

nhà ở dần xóa bỏ ranh giới khu vực, hướng đến đáp ứng nhu cầu sử dụng không

gian tiện nghi, hiện đại với các hình thức thẩm mỹ mới lạ, thể hiện vai trò sáng tạo

cá nhân và công nghệ xây dựng. Vì vậy, việc phân định tính chất “địa văn hóa” rất khó được thực hiện18 (điều này trái ngược với kiến trúc nhà ở truyền thống). Trong

bối cảnh chung đó, luận án tập trung phân tích đặc điểm cấu trúc công năng và hình

thức thẩm mỹ để phát hiện các quy luật chi phối có tính “ẩn danh” – là nhân tố tác

động đến sự tạo thành kiến trúc nhà ở truyền thống và đương đại. Những quy luật

này, nếu được phát hiện, sẽ chứng minh tính kế thừa liên tục giá trị VHTT; đồng

thời cho thấy sự linh hoạt chuyển đổi để phù hợp với điều kiện tồn tại mới; tạo tiền

đề cho các nghiên cứu tiếp theo (chọn lọc và xây dựng mô hình khai thác trong

Chương II, III).

1.3.1 Nhà phố (nhà ở liên kế mặt phố)

1.3.1.1 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng

Tính dung hòa với tự nhiên [hình 1.12a] là một trong những giá trị

17 “Có dịp đi đường bộ qua một loạt đô thị mới ở miền Bắc, miền Trung cũng như miền Nam ai cũng thấy là không thể phân biệt được nữa. Không nhớ được những nơi mình đã đi qua nữa. Sự giống nhau của các đô thị mới, đường phố mới, trung tâm mới, công trình mới thật thảm hại. Các đô thị phát triển bất chấp các đặc trưng và truyền thống, làm tiêu tán nhiều giá trị văn hoá địa phương” - (Lược trích bài viết của Kts Dương Hồng Hiến trong trang điện tử Http://ashui.com/mag/tuongtac/goc-nhin với chủ đề “Kiến trúc đô thị và những bản sao tạp nham”;

18 “Trong xu hướng toàn cầu hoá, việc xoá nhoà ranh giới “địa văn hoá” của kiến trúc là một nguy cơ. Nỗi lo về việc xoá nhoà hình ảnh đặc thù, nét riêng của từng đô thị khác nhau là có thật khi mà Singapore và Hong Kong không khác nhau mấy, TP.HCM sẽ không khác gì Đà Nẵng với các công trình kiến trúc lặp lại nét tân kỳ của Thượng Hải hay Quảng Châu” - (Lược trích tham luận của nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân tại Diễn đàn kiến trúc sư châu Á - ARCASIA Forum 16 với chủ đề “Đô thị châu Á thế kỷ 21”).

32

ưu tiên hàng đầu của quá trình thiết lập nhà ở, được kế thừa qua các giai đoạn phát

triển cho đến hiện nay. Phát huy ảnh hưởng của đặc tính này lên công năng nhà phố

có thể đem đến sự cân bằng giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo; biểu hiện bằng

sự chuyển tiếp hình thức sân trong (giếng trời) và không gian xanh. Sân được bố trí

giữa nhà tạo nên khoảng trống để đối lưu không khí và giải quyết yêu cầu chiếu

sáng. Đây là điểm đặc trưng của loại nhà ở có hình thể dài và hẹp, thường thấy

trong các đô thị Việt Nam. Ngoài ra, không gian xanh cũng được tổ chức linh hoạt

theo nhiều vị trí: sân trước, sân sau, sân thượng, trên tường hoặc xen cài vào các

không gian sử dụng chung và riêng. Mối liên hệ giữa không gian xanh với chức

năng nhà phố đa dạng và phong phú hơn nhà ở đô thị truyền thống, gia tăng tính

thẩm mỹ thông qua nghệ thuật vườn cảnh và non bộ. Bên cạnh đó, các hình thức

không gian đệm (hiên/logia) cũng tiếp tục được vận dụng để thích ứng với điều kiện khí hậu nhiệt đới, kết hợp với nghỉ ngơi và ngắm cảnh. Tùy theo loại hình nhà phố19

mà tính dung hòa tự nhiên đạt các cấp độ phát triển khác nhau, chuyển dần từ thụ

động (giống nhà ở đô thị truyền thống) sang chủ động thích ứng.

Hình thể nhà phố có xu hướng giới hạn chiều dài và phát triển theo chiều cao,

phân chia chức năng theo các tầng. Không gian có tính chất sử dụng chung, hướng

ngoại thường bố trí tại tầng thấp và không gian sử dụng riêng, hướng nội đặt trên

tầng cao. Điều này giúp hoạch định khu vực sinh hoạt rõ ràng, giảm thiểu sự ảnh

hưởng đan xen giữa các chức năng có tính chất hoạt động khác nhau. Không gian sử

dụng chung (tiếp khách, sinh hoạt, ăn uống, giải trí nghe nhìn, thờ cúng,…) tiếp tục

phát triển hình thức không gian mở nhằm gia tăng hiệu quả và tiện nghi nhà ở, thể

hiện sự tác động của tính linh hoạt/đa năng [hình 1.12b]. Ngoài ra, đặc tính này

còn có khả năng can thiệp sâu hơn vào không gian sử dụng riêng (phòng ngủ, không

gian chuyên dụng) để tối ưu hóa nhu cầu cá nhân theo hướng sử dụng tại chỗ, giảm

thời gian di chuyển. Biểu hiện đặc trưng là phòng ngủ chuyển từ tính chất đơn năng

sang đa năng, trở thành “tiểu tổ hợp” nghỉ ngơi – giải trí – làm việc, độc lập với các

chức năng hoạt động bên ngoài. Như vậy, tính linh hoạt/đa năng trong nhà phố đã

19 Có 2 loại hình nhà phố tiêu biểu trong các đô thị Việt Nam là nhà phố cư trú và nhà phố thương mại;

có bước chuyển đổi đa dạng hơn nhà ở đô thị truyền thống, triển khai trên cả 2 vùng

33

không gian sử dụng chung và riêng.

Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù biến động về cấu trúc với xu hướng tan rã

của gia đình nhiều thế hệ, nhưng thực tế vẫn cho thấy tính kế tục các mối quan hệ

truyền thống. Văn hóa gia đình đang chuyển sang hiện đại song vẫn không thể tách

rời những giá trị truyền thống [16]. Vì vậy, công năng nhà phố tiếp tục thiết lập

không gian để đáp ứng nhu cầu văn hóa nói trên (truyền thống gia đình Việt) [hình

1.13]. Thờ cúng tổ tiên được tổ chức trong không gian riêng hoặc kết hợp với không

gian sinh hoạt chung. Hoạt động sum họp thành viên phân bố đa dạng trong nhiều

không gian chức năng khác nhau, trải rộng từ sinh hoạt nghỉ ngơi cơ bản cho đến

các hình thức giải trí, nghỉ dưỡng cao cấp nhằm tăng cường, gắn kết mối quan hệ

huyết thống và kế thừa truyền thống gia đình. Bên cạnh gian thờ tổ tiên còn có

không gian thờ thần, thay đổi tùy theo tín ngưỡng tâm linh của đối tượng sử dụng

nhà ở (văn hóa thờ cúng).

Sự phát triển năng động của kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn hiện nay

tạo động lực nâng cao vai trò cá nhân, hướng đến đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn

biến đổi của con người. Nguyên nhân này tác động trực tiếp xu hướng phát triển

không gian sử dụng riêng (tính tư hữu) [hình 1.13] trong công năng nhà phố, tạo ra

sự khác biệt cơ bản so với nhà ở đô thị truyền thống. Số lượng phòng ngủ cá nhân

và các phòng chức năng chuyên dụng (phòng làm việc riêng, phòng sáng tác nghệ

thuật, phòng trưng bày cá nhân…) đang ngày càng gia tăng; trong mức phát triển

cao có thể vượt quá số người sử dụng. Như vậy, tính tư hữu đã chuyển đổi vai trò để

trở thành một trong những tác nhân chính chi phối công năng nhà phố.

Kế thừa tính cộng đồng [hình 1.13] của nhà ở truyền thống, chức năng giao

tiếp đối ngoại tiếp tục đóng vai trò quan trọng, thể hiện bằng sự phát triển đa dạng

các hình thức không gian. Hoạt động đối ngoại không chỉ giới hạn trong phạm vi

phòng khách mà có xu hướng gia tăng theo sự mở rộng chức năng nhà phố. Bên

cạnh kiểu sinh hoạt truyền thống (trò chuyện, uống trà), nhà ở ngày nay còn hình

thành không gian giải trí (karaoke, xem phim, chơi cờ, ngắm vườn cảnh…), nghỉ

dưỡng (mát xa, tắm hơi, ăn uống…) có tính sử dụng chung, dành cho các đối tượng

cả bên trong lẫn bên ngoài gia đình. Như vậy, tùy theo nhu cầu mà tính cộng đồng

34

được duy trì trong không gian giao tiếp đơn thuần hoặc phát triển sâu hơn vào các

không gian chức năng khác.

Đối với nhà phố thương mại, hoạt động sinh lợi (thương mại, dịch vụ, văn

phòng) thường bố trí tại tầng trệt, đẩy lùi các chức năng khác vào bên trong và lên

trên tầng cao; thể hiện sự kế thừa tính sinh lợi của nhà ở đô thị truyền thống. Đây

cũng là tác nhân dẫn đến sự phát triển không ngừng của loại hình nhà ở này trong

các đô thị lớn Việt Nam; ngoài khả năng sinh lợi, nó còn gây ra nhiều ảnh hưởng

tiêu cực đối với mỹ quan. Bức tranh đô thị trở nên hỗn độn như một bảng pallete

lấm màu, hệ quả là thẩm mỹ của kiến trúc đô thị bị phá vỡ kéo theo những bất cập

về môi trường văn hoá xã hội [24].

Ứng dụng thuật phong thủy trong xây dựng có tác dụng định vị hướng bếp,

hướng cửa, gian thờ,… Nguyễn Đức Thiềm cho đó như là xu hướng văn hóa trở về với thiên nhiên [56, tr.159]. Nhìn chung, ảnh hưởng của của giá trị văn hóa này lên

cấu trúc công năng không đem lại nhiều biểu hiện để nhận diện.

Tóm lại, bằng các phân tích trên cho thấy VHTT vẫn tiếp tục được kế thừa

trong yếu tố công năng nhà phố; biểu hiện trên 2 xu hướng có tính tăng cường hoặc

suy thoái tùy thuộc vào đặc điểm của từng giá trị văn hóa [bảng 1.8].

1.3.1.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức

Hình thức nhà ở ngày nay chịu tác động của 2 yếu tố có tính phát

triển năng động là công nghệ và sự sáng tạo, thiết lập nên các thể thức thẩm mỹ

mới phù hợp với xu thế chung toàn cầu. Vai trò của công nghệ can thiệp trực tiếp

đến giải pháp tạo hình nhà ở thông qua ứng dụng vật liệu và kỹ thuật xây dựng tiến

bộ. Tính sáng tạo cá nhân đem đến sự phong phú và đa dạng hình thức thẩm mỹ.

Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, nếu thiếu sự đối trọng của yếu tố truyền thống

sẽ dễ dẫn đến tình trạng quy đồng các giá trị, làm suy yếu khả năng nhận diện bản

sắc kiến trúc. Vì vậy, nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam cần tiếp tục kế thừa truyền

thống, đồng thời chuyển đổi để phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Trên quan

điểm đó, việc nhận diện biểu hiện thẩm mỹ kiến trúc nhà phố là nhằm phát hiện các

tiềm năng để duy trì và phát huy trong hiện tại và tương lai.

35

Yếu tố kỹ thuật luôn song hành với những tiến bộ của kiến trúc nhà ở và có

thể xem là nhân tố đại diện cho các giai đoạn phát triển. Vì vậy, việc ứng dụng kỹ

thuật truyền thống trong lắp dựng không còn phù hợp với điều kiện hiện nay; tuy

nhiên giá trị này vẫn có thể được khai thác thông qua hình thức sử dụng vật liệu tự

nhiên [hình 1.14a] sản xuất thủ công. Một số xu hướng kiến trúc thế giới (kiến trúc

Hữu cơ, Bản địa mới, Sinh thái,…) xem đây như là phương thức đem lại mỹ cảm

truyền thống cho các công trình hiện đại. Ngoài ra, tính cơ động [hình 1.14b] của

các cấu trúc dịch chuyển như khung cột, cửa, phên giại,… đang có xu hướng được

ứng dụng rộng rãi; chuyển đổi thành thể thức mái, mái hiên, ô văng di động; hệ

thống lam và cửa linh hoạt thay đổi góc che nắng.

Nghệ thuật tạo hình truyền thống là yếu tố có nhiều khả năng chuyển đổi, thể

hiện thông qua các quy luật thẩm mỹ sau: 1) tính hình học [hình 1.14c] của nhà ở

truyền thống là các dạng đường (thẳng, ngang, xiên) và mặt (mặt phẳng, mặt

nghiên, mặt lưới); được tổ hợp thành cấu trúc mái, thân và nền. Sự sáng tạo hình

thức nhà phố trên tinh thần chuyển đổi các đặc điểm hình học nói trên giúp tăng

cường khả năng nhận diện “tính quen thuộc” của nhà ở truyền thống; 2) tính đối

xứng [hình 1.14c] cũng là quy luật thẩm mỹ tiêu biểu của kiến trúc nhà ở truyền

thống, đang tiếp tục được khai thác trong giải pháp tạo hình nhà ở đương đại; 3)

tính vần điệu [hình 1.14d] diễn đạt thành thể thức đồng dạng hoặc lặp lại của các

yếu tố cấu tạo. Đây không chỉ là đặc trưng riêng của nhà ở truyền thống Việt Nam

mà còn là giá trị nghệ thuật tạo hình chung, có tác dụng duy trì sự trật tự và thống

nhất. Vì tính vần điệu mang cả 2 thuộc tính truyền thống và hiện đại nên vẫn còn

được ứng dụng; 4) tỷ lệ hài hòa [hình 1.14d] là sự tương quan về kích thước giữa

nhà ở với con người và giữa các thành phần cấu tạo với nhau, thể hiện rõ nét trong

công trình kiến trúc truyền thống. Tuy nhiên, hình dáng nhà phố có xu hướng phát

triển đột biến về chiều cao nên tiềm ẩn khả năng phá vỡ quy luật nói trên; vì vậy

hiện nay xuất hiện giải pháp sử dụng mái đua trên các tầng để chia nhỏ tỷ lệ và kéo

gần cảm giác về khoảng cách.

Giải pháp tạo hình để thích ứng với điều kiện tự nhiên cũng là đối tượng chịu

ảnh hưởng từ truyền thống (tính dung hòa với tự nhiên), biểu hiện trong các hình

36

thức cụ thể sau: 1) thông gió tự nhiên [hình 1.14e]: mở rộng cửa về hướng gió, sử

dụng cấu trúc dạng ô lưới để thông gió như cửa chớp, lam kim loại, tường 2 lớp,

tường hoa; 2) che nắng, chiếu sáng tự nhiên, tạo vùng bóng râm [hình 1.14f]:

thiết lập các không gian đệm có chiều sâu lớn như hiên, logia; sử dụng cấu trúc mái,

ô văng đua xa khỏi mặt nhà; các dạng lam di động và tường hoa làm cho ánh sáng

bị khuếch tán; 3) chống mưa tạt, chống ẩm [hình 1.14f]: để thoát nước nhanh và

chống mưa tạt vào kết cấu, nhà phố sử dụng mái đua, ô văng, hiên che với chức

năng giống như nhà ở truyền thống. Nền được tôn cao so với mặt sân để chống ẩm,

làm cho hình dáng ngôi nhà trở nên vững chắc.

Sự chuyển đổi giá trị VHTT trên phương diện hình thức được tổng hợp trong

bảng 1.9.

1.3.2 Nhà ở biệt thự

Biệt thự là loại hình nhà ở dẫn đầu về chất lượng thẩm mỹ và tiện nghi

sinh hoạt, hội tụ nhiều tiềm năng để các giá trị VHTT tham dự và phát huy. Đây

cũng là môi trường cho tiến bộ công nghệ và sự sáng tạo có tính thời đại được áp

dụng. Vì vậy, bằng việc phân tích biểu hiện trong kiến trúc biệt thự có thể tiếp tục

chứng minh xu hướng kế thừa giá trị VHTT trong kiến trúc nhà ở giai đoạn hiện

nay.

1.3.2.1 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng

Nhà ở biệt thự có nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy giải pháp

thích ứng với tự nhiên (tính dung hòa tự nhiên) [hình 1.15a]. Đối với khu đất có

diện tích lớn, không gian công năng có thể tổ chức phân tán giống nhà ở nông thôn

truyền thống nhằm tăng cường khả năng thống gió và chiếu sáng. Theo đó, không

gian xanh và mặt nước được bố trí xung quanh hoặc xen cài vào không gian ở làm

cho môi trường cư trú gắn kết hài hòa với thiên nhiên. Đây là ưu thế mà các loại

hình nhà ở khác không thể đạt được. Ngoài giá trị sinh thái, không gian thiên nhiên

còn nâng cao chất lượng thẩm mỹ bằng nghệ thuật trang trí vườn cảnh và non bộ;

37

đồng thời là nơi tổ chức các hoạt động nghỉ dưỡng (hồ bơi, ăn uống ngoài trời, thể

thao, ngắm cảnh, vui chơi trẻ em…), đem lại tiện nghi cao cấp cho người sử dụng.

Nhìn chung, các không gian chức năng quan trọng đều có xu hướng mở ra bên

ngoài để cân bằng giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo. Bên cạnh đó, biệt thự còn

kế thừa giải pháp không gian đệm (hiên/logia) trong nhà ở truyền thống để thích

ứng với điều kiện khí hậu nhiệt đới, kết hợp nghỉ ngơi với nghệ thuật trang trí tiểu

cảnh. Như vậy, nhà ở biệt thự đã chủ động tăng cường tính dung hòa tự nhiên của

nhà ở truyền thống, mở rộng sự can thiệp từ không gian chung cho đến không gian

riêng bằng nhiều hình thức phong phú như: vườn bên ngoài, vườn bên trong, vườn

trên tường, vườn trên mái.

Do yêu cầu tiện nghi sinh hoạt cao cấp nên công năng nhà ở biệt thự loại trừ

hoàn toàn tính chất sử dụng chung theo kiểu tất cả chức năng dồn nén trong một

không gian (đặc thù của nhà ở truyền thống). Các chức năng chính (nghỉ ngơi, giao

tiếp, giáo dục, làm việc..) được phân chia theo những nhóm không gian độc lập. Các

hoạt động có tính chất bổ trợ nhằm nâng cao mức độ tiện nghi được sắp đặt trong một không gian chung20. Ngoài ra, nhà ở biệt thự còn hình thành không gian nghỉ ngơi năng động21, có thể phá vỡ tính phân cấp nói trên để tham dự vào mọi chức

năng chính và làm gia tăng hiệu quả sử dụng thời gian rỗi. Việc sử dụng thời gian

rỗi theo truyền thống được bổ sung bằng nhiều dạng thức mới mẻ, hiện đại và được

hỗ trợ bởi những hình thức giải trí nhiều tiện ích [12]. Như vậy, đặc điểm cấu trúc

không gian vừa có tính phân li vừa có tính linh hoạt/đa năng [hình 1.15b]. Không

gian sử dụng chung triển khai cùng các nhóm chức năng chính tiếp tục vận hành

theo nguyên tắc đa năng. Không những vậy, không gian sử dụng riêng (phòng ngủ,

phòng chuyên dụng) cũng phát huy đặc tính này lên mức cao hơn, đáp ứng nhu cầu

phát triển cá nhân. Theo đó, phòng ngủ không còn mang tính đơn năng thuần nhất

20 Ví dụ: phòng khách có thể bao gồm không gian tiếp khách, nghe nhạc, chơi cờ, quầy bar, trưng bày nghệ

thuật, tiểu cảnh – không gian xanh … có tác dụng nâng cao tiện nghi của chức năng giao tiếp.

21 Nghỉ ngơi thụ động là các hoạt động để đáp ứng nhu cầu sinh lý cơ bản của con người như ăn, ngủ, vệ sinh…; Nghỉ ngơi năng động là các hoạt động nhằm hướng đến sự phát triển thể chất (vận động thể thao, nghỉ dưỡng tự do) và tinh thần của con người (hoạt động sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, hoạt động giải trí, hoạt động làm đẹp, hoạt động tâm linh);

mà chuyển đổi thành tổ hợp đa chức năng (nghỉ ngơi – giải trí – làm việc), tách biệt

38

với sinh hoạt bên ngoài và thiết lập theo sở thích của đối tượng sở hữu (tính tư

hữu) [hình 1.17]. Mục đích chuyển đổi nhằm giải quyết yêu cầu sử dụng tại chỗ, giảm thời gian di chuyển, tích hợp nhiều chức năng để đạt mức tiện nghi cao cấp22.

Ngoài ra, nhà ở còn có các phòng chuyên dụng, mở rộng nhu cầu sinh hoạt cá nhân

ra ngoài phạm vi phòng ngủ. Tổng hợp trên cả hai tính chất sử dụng chung và riêng

cho thấy công năng biệt thự có thể đáp ứng đầy đủ chức năng cần thiết cho các cấp

độ nhu cầu, thỏa mãn tối đa sự phát triển thể chất và tinh thần của đối tượng sử

dụng. Điều này chứng minh sự gia tăng vai trò tác động của hai giá trị VHTT là tính

linh hoạt/đa năng và tính tư hữu.

Chức năng giao tiếp (tính cộng đồng) [hình 1.16] của nhà ở biệt thự được

phát triển trong một nhóm không gian riêng, đóng vai trò quan trọng để tổ chức các

hoạt động đối ngoại. Do khả năng mở rộng diện tích và đáp ứng tiện nghi cao cấp

nên không gian giao tiếp có bước chuyển đổi vượt bậc so với nhà ở truyền thống.

Hình thức giao tiếp không chỉ bó hẹp trong phòng khách mà còn xuất hiện các

phòng/không gian chức năng mới để làm phong phú thêm hoạt động này, đồng thời

phá vỡ tính hướng ngoại của không gian truyền thống. Các loại hình nhà ở cao cấp

ngày nay có xu hướng kết hợp giữa hoạt động giao tiếp thông thường với hoạt động

nghỉ dưỡng, giải trí; nghĩa là cùng sử dụng các tiện ích sinh hoạt có tính nội bộ như:

bơi lội, ăn uống, mát xa, thể dục thẩm mỹ, xem phim, nghe nhạc, ngắm cảnh,

thưởng thức nghệ thuật, làm việc, đọc sách… Điều này thúc đẩy sự ra đời các

không gian chức năng mới như: phòng ăn tiếp khách, phòng ngủ khách, giao tiếp

ngoài nhà (chòi nghỉ, sân vườn)... Như vậy, sự can thiệp của tính cộng đồng phát

triển sâu hơn vào không gian sinh hoạt gia đình, làm xóa mờ tính phân lập giữa hoạt

động đối nội và đối ngoại; chứng minh vai trò tác động tăng cường của hai giá trị

VHTT là tính cộng đồng [hình 1.16] và tính hiếu khách.

Cùng với nghỉ ngơi và giao tiếp, công năng nhà ở biệt thự còn tạo điều kiện

phát triển chức năng giáo dục truyền thống gia đình, triển khai trong không gian thờ

22 Phòng ngủ có thể là một tổ hợp gồm không gian ngủ, trang điểm, làm việc, thể thao nhẹ, giải trí nghe

nhìn, ghế ngồi, tiểu cảnh – không gian xanh, vệ sinh (cũng có tính tổ hợp).

cúng tổ tiên và sum họp thành viên. Hoạt động thờ cúng tổ tiên là để kế thừa “tâm

39

thức” gia đình truyền thống thông qua tưởng nhớ và ghi ơn (có tính chất tĩnh); hoạt

động sum họp nhằm duy trì khuôn mẫu gia đình hiện tại bằng giáo dục con cái và

phát huy kinh nghiệm (có tính chất động). Giữa hai hoạt động này khác nhau về tính

chất động và tĩnh, làm cho không gian của nó cũng mang đặc tính tương tự. Nhà ở

biệt thự thường thiết lập nơi thờ cúng tổ tiên trong không gian trang nghiêm, tách

rời các sinh hoạt khác và thể hiện sự tôn kính. Ngoài ra, hình thức thờ cúng cũng

bao gồm tín ngưỡng và tôn giáo, phân bố trong nhiều vùng không gian khác nhau

để phù hợp với văn hóa đa thần (văn hóa thờ cúng). Không gian sum họp phát triển

năng động, kết hợp nhiều chức năng nhà ở nhằm gia tăng sự tiếp xúc giữa các thành

viên; đồng thời chuyển đổi đa dạng hình thức giao tiếp bằng cách sử dụng chung

tiện nghi sinh hoạt. Khi đó, việc phát huy truyền thống gia đình đi kèm với hoạt

động nâng cao thể chất và tinh thần. Như vậy, truyền thống gia đình Việt [hình

1.16] tiếp tục góp phần định hình công năng nhà ở biệt thự.

Trên phương diện kinh tế, nhà ở biệt thự không duy trì hoạt động thương mại

mua bán giống nhà phố mà chuyển đổi theo mô hình văn phòng, bố trí trong không

gian độc lập nhất định. Tuy nhiên đây cũng không phải là không gian đặc thù của

loại hình nhà ở cao cấp này. Trong thời đại thông tin hiện nay thì hình thức sinh lợi

truyền thống có thể chuyển đổi thành không gian làm việc tại nhà, sử dụng cho cả 2

mục đích sử dụng chung và riêng, kéo dài đến từng phòng ở cá nhân. Sự chuyển đổi

nói trên tác động đến công năng biệt thự làm xuất hiện 2 tổ hợp cấu trúc “nghỉ ngơi

– giải trí – làm việc”, phân bố theo các không gian chức năng là: “đại cấu trúc nhà

ở” và “tiểu cấu trúc phòng ở”. Nhìn chung, tính sinh lợi của nhà ở truyền thống đã

suy thoái hoặc chuyển đổi hoàn toàn trong công năng biệt thự.

Vận dụng thuật phong thủy có thể đưa đến một số biểu hiện giống nhà ở

truyền thống như: hướng nhà quay theo hướng gió mát, cổng ngõ lệch hướng nhà

chính. Ngoài ra nó còn được dùng để định vị các không gian chức năng; tuy nhiên

sự tác động đó khó nhận diện và có sự thay đổi tùy theo đối tượng sở hữu, không

mang tính phổ quát.

Sự chuyển đổi giá trị VHTT trên phương diện công năng nhà ở biệt thự được

tổng hợp trong bảng 1.10.

40

1.3.2.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức

Hình thức thẩm mỹ nhà ở biệt thự hiện nay phát triển phong phú và

đa dạng, thể hiện khả năng vận dụng linh hoạt các thủ pháp tạo hình và những tiến

bộ công nghệ xây dựng. Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng thẩm mỹ mới, hình thức

kiến trúc biệt thự vẫn chọn lọc giá trị truyền thống để kế thừa và phát huy trong các

đô thị lớn Việt Nam.

Đặt trong điều kiện tương tự nhà phố, quá trình xây dựng biệt thự không thể

ứng dụng phương thức lắp dựng thủ công của nhà ở truyền thống. Thay vào đó, yếu

tố kỹ thuật truyền thống được duy trì bằng hình thức sử dụng vật liệu tự nhiên

[hình 1.18a] cho cả 2 mục đích xây lắp và trang trí. Nhờ vào chất cảm bề mặt có

thể đem đến vẻ đẹp thô mộc và giản dị, gợi nhắc mỹ cảm nhà ở truyền thống. Cấu

trúc sử dụng vật liệu tự nhiên cũng đa dạng theo các vị trí, mở rộng phạm vi khai

thác từ nền, cửa, tường, các dạng bao che đặc thù (lam, tường hoa), khung cột cho

đến mái nhà. Bằng thể thức tạo hình có tính sáng tạo, vật liệu tự nhiên vừa thể hiện

vẻ đẹp hiện đại nhưng vừa duy trì tinh thần truyền thống. Ngoài ra, tính cơ động

[hình 1.18b] cũng được ứng dụng cho nhiều chi tiết cấu tạo như: mái, mái hiên, ô

văng di động; hệ thống lam và cửa có thể dịch chuyển góc chiếu sáng. Như vậy, bên

cạnh loại trừ giải pháp xây dựng không phù hợp thì tính cơ động và vật liệu tự nhiên

tiếp tục được ứng dụng trong loại hình nhà ở cao cấp của Việt Nam.

Các quy luật thẩm mỹ của nghệ thuật tạo hình được chuyển đổi trong kiến

trúc biệt thự có khả năng đem lại hiệu quả cao cho việc nhận diện. Sử dụng yếu tố

này cũng dễ dẫn đến tình trạng sao chép, tuy nhiên nếu được vận dụng linh hoạt sẽ

góp vai trò quan trọng để giữ gìn giá trị truyền thống và bản địa. Đó là: 1) tính hình

học [hình 1.18c]: đặc tính biểu hình của kiến trúc nhà ở truyền thống có thể được

cảm nhận nhanh chóng thông qua chuyển đổi mô thức hình học (đường thẳng, mặt

phẳng, khối); tuy nhiên quá trình vận dụng cần chọn lọc theo những đặc điểm cơ

bản, phối hợp đồng bộ với các quy luật tạo hình khác, đi kèm nguyên tắc sáng tạo

và ứng dụng công nghệ. Điều này giúp mang lại thẩm mỹ mới cho nhà ở biệt thự

nhưng không làm tách rời truyền thống. Hiện nay, một số yếu tố hình học vẫn tiếp

41

tục được phát triển như: mái dốc (2 mái hoặc 4 mái kiểu nửa chỏm), tổ hợp các

đường ngang - thẳng của thân và nền; cấu trúc mặt lưới, mặt phẳng, mặt nghiên;

đường bao của toàn bộ khối nhà. Trong đó, khai thác hình dáng mái và cấu trúc mặt

lưới dễ gây cảm nhận quen thuộc, phản ánh thẩm mỹ đặc thù của kiến trúc nhà ở

vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm; 2) tính đối xứng [hình 1.18c]: áp dụng trong hầu

hết công trình kiến trúc truyền thống; vì vậy đây được xem là phương thức tiếp cận

thuận lợi cho nhà ở biệt thự; 3) tính vần điệu [hình 1.18d]: nhằm duy trì trật tự và

ổn định của tất cả các biểu hiện nghệ thuật. Phân tích trong nhà ở truyền thống thì

đó là thể thức đồng dạng hoặc lặp lại của cấu trúc tường, cửa, khung cột, mái đua.

Vì vậy, sự chuyển đổi thể thức này giúp tiếp tục phát huy vẻ đẹp truyền thống; 4)

tính hài hòa [hình 1.18d]: có tác dụng tạo ra sự cân đối giữa con người với công

trình kiến trúc và giữa các cấu trúc công trình với nhau. Vì không mang xu hướng

phát triển đột biến về kích thước nên biệt thự có nhiều tiềm năng để kế thừa.

Do tác động ổn định và lâu dài của điều kiện khí hậu nhiệt đới nên nhà ở biệt

thự ngày nay cũng thiết lập giải pháp để thích ứng (tính dung hòa với tự nhiên),

sáng tạo hình thức bao che mới trên tinh thần chuyển đổi kinh nghiệm và đặc tính

của các giải pháp truyền thống; thể hiện trong những yếu tố sau: 1) thông gió tự

nhiên [hình 1.18e]: sử dụng hệ thống lam, cửa có cấu trúc dạng ô lưới; kết hợp

tường hoa, ô thông gió mái và đỉnh tường; tăng diện tích cửa trên các diện tường

đón gió; 2) Che nắng, tạo vùng bóng râm [hình 1.18f]: sử dụng mái dốc vươn xa,

hàng hiên/logia, mái đua che nắng và tạo hiệu ứng “vùng bóng râm” trên bề mặt; 3)

Chống ẩm: nền nhà được nâng cao so với mặt sân.

Tóm lại, vận dụng yếu tố kỹ thuật truyền thống, nghệ thuật tạo hình và giải

pháp dung hòa với tự nhiên đóng vai trò quan trọng để nhận diện hình thể và

nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống trong kiến trúc nhà ở biệt thự. Sự chuyển đổi các

giá trị đó được tổng hợp trong bảng 1.11.

1.3.3 Nhà ở chung cư

Nhà ở chung cư xuất hiện muộn tại Việt Nam, chính thức ra đời vào

42

khoảng đầu những năm 60 thế kỷ XX, gắn liền với việc khởi sự xây dựng tiểu khu

Kim Liên [51]. Trải qua nhiều giai đoạn, nhà ở này đã phát triển thành một trong

những loại hình cư trú tiêu biểu của các đô thị lớn hiện nay.

1.3.3.1 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng

Giống như nhà phố và biệt thự, công năng nhà ở chung cư có thể đáp

ứng đa dạng nhu cầu của đối tượng sử dụng, từ mức sinh hoạt cơ bản cho đến tiện

nghi nghỉ dưỡng cao cấp; do đó tùy theo tính chất phát triển không gian mà giá trị

VHTT gia tăng hoặc suy giảm mức độ can thiệp.

Trên quy mô tổng thể, chung cư được tổ hợp bằng các đơn nguyên, xác định vị

trí dựa vào mối quan hệ với trục đường giao thông và đặc điểm khí hậu. Trong điều

kiện lý tưởng, mọi đơn nguyên đều khai thác hướng gió mát và tránh nắng; đồng

thời xen cài giữa các khối nhà là khoảng trống để tổ chức sân vườn, hồ nước, công

viên… làm nơi sinh hoạt cộng đồng và vui chơi trẻ em. Xét trong phạm vi căn hộ,

không gian xanh được thiết lập trên các ban công, logia (không gian đệm) để đem

thiên nhiên vào gần không gian ở. Đặc biệt, với những căn hộ cao cấp diện tích lớn

(penthouse) có thể tổ chức sân vườn, hồ bơi gia đình để đáp ứng yêu cầu sinh thái

và nghỉ dưỡng. Ngoài ra, nhiều công trình còn tạo lập sân vườn công cộng, phân

theo nhóm tầng cao (từ 3 – 5 tầng có 1 sân vườn); hoặc trồng cây xanh trên mặt nhà

nhằm gây hiệu ứng thẩm mỹ và giảm nhiệt độ bức xạ. Như vậy, tuy chung cư không

có tiền lệ trong nhà ở truyền thống nhưng đã chuyển đổi tính dung hòa với tự

nhiên [hình 1.19a -b] để tạo lập môi trường cư trú sinh thái và tiện ích.

Cấu trúc công năng căn hộ chung cư thường phân chia thành 2 khu vực theo

tính chất sử dụng chung và riêng. Trong trường hợp phổ biến là các chức năng bố trí

trên một mặt bằng thì không gian sử dụng chung luôn vận hành theo nguyên tắc đa

năng, tích hợp cùng lúc các hoạt động: giao tiếp, sum họp gia đình, ăn uống, thờ

cúng, làm việc… Không gian này có đặc điểm gần tương tự nhà ở truyền thống

(tính linh hoạt/đa năng) [hình 1.19c]. Nếu căn hộ nhiều phòng ở thì có thể phân

tách một phần cho các chức năng nói trên để nâng cao hiệu quả hoạt động (phòng

43

làm việc, phòng thờ, phòng giải trí…). Hiện nay tại Việt Nam, việc đánh giá quy

mô căn hộ chung cư thường căn cứ theo số phòng ngủ, hướng đến bằng hoặc nhiều

hơn số người sử dụng; thiết lập không gian cho nhu cầu cá nhân (tính tư hữu)

[hình 1.20]. Trong cấp nhu cầu thấp, không gian sinh hoạt chung cũng có thể kết

hợp với chỗ ngủ. Ngược lại, cấp nhu cầu cao còn có thêm các phòng chuyên dụng

để mở rộng không gian riêng ra ngoài phạm vi phòng ngủ. Tùy điều kiện diện tích mà các phòng chức năng vận hành theo đơn năng (diện tích < 9m2) hoặc đa năng

(có tính tổ hợp). Nhìn chung, cấu trúc công năng căn hộ chung cư có thể mở rộng

hoặc thu hẹp theo cấp độ nhu cầu. Nhu cầu càng thấp thì tính sử dụng chung càng

gia tăng (đa năng theo kiểu truyền thống) và phòng ở có tính đơn năng (hoặc không

tồn tại). Ngược lại, trong cấp nhu cầu cao (nhiều phòng ở, diện tích lớn), không gian

sử dụng chung được phân vùng hoạt động để đạt chất lượng tiên nghi, giảm sự cản

trở qua lại; tính đa năng ứng dụng cho cả khu vực sử dụng chung và riêng, hình

thành kiểu căn hộ đa năng – phòng ở đa năng.

Xét trên quy mô đơn nguyên và tổ hợp đơn nguyên, nhà ở chung cư còn tích

hợp thêm các chức năng công cộng như: thương mại, thể thao, văn phòng làm việc,

trông giữ trẻ em, dịch vụ làm đẹp, rạp chiếu phim, nhà hàng, cà phê, … Các loại

hình này phát triển cùng tính chất cao cấp của nhà ở và giá trị thương mại khu đất

xây dựng. Điều đó cho thấy tính đa năng không những chi phối không gian căn hộ

mà còn mở rộng ra bên ngoài các đơn nguyên. Tuy nhiên nó không xuất phát hoặc

chuyển đổi từ nhà ở truyền thống mà do đặc tính vốn có của loại hình nhà ở này

đem lại; mục đích nhằm bổ sung nhu cầu tiện ích cho cộng đồng cư dân và cũng là

đặc điểm phổ quát của hầu hết mô hình chung cư trên thế giới.

Chức năng giao tiếp (tính cộng đồng) [hình 1.20] được lồng ghép sử dụng

chung với không gian sinh hoạt gia đình hoặc phân tách thành không gian riêng tùy

theo quy mô căn hộ. Nhưng trong bất kỳ điều kiện nào thì đây vẫn được xem là

không gian quan trọng, thể hiện thông qua cách sắp đặt và bày trí khang trang,

hướng tầm nhìn ra thiên nhiên. Khác với nhà phố, biệt thự và các loại hình nhà ở

truyền thống, hoạt động giao tiếp cộng đồng trong nhà ở chung cư được triển khai

cả bên trong theo tính chất sở hữu gia đình và bên ngoài theo tính chất sở hữu tập

44

thể. Giao tiếp bên ngoài căn hộ được tổ chức trong các khu vực công cộng như:

hành lang, sảnh, phòng cộng đồng, công viên, vườn cảnh, khu vực hồ bơi… nhằm

tăng cường mối liên hệ xóm giềng (cũng là đặc trưng VHTT) và phát triển không

gian vận động, góp phần nâng cao chất lượng nhà ở. Do phối hợp các không gian

giao tiếp nói trên nên nhà ở chung cư chuyển đổi tính cộng đồng của nhà ở truyền

thống lên mức cao hơn.

Việc thiết lập công năng căn hộ hiện nay ít hoặc chưa chú trọng đến không

gian thờ cúng. Tuy nhiên, do nhu cầu duy trì truyền thống gia đình Việt [hình

1.20] và văn hóa thờ cúng (đa thần) nên đối tượng sử dụng thường tự tổ chức, kết

hợp trong không gian sinh hoạt chung hoặc thay vào không gian phòng ngủ. Các

căn hộ cao cấp có thể chủ động dành phòng riêng cho sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh.

Ngoài ra, vì chung cư là loại hình nhà ở xây dựng sẵn nên thuật phong thủy không

còn chi phối cấu trúc không gian căn hộ.

Tóm lại, do nhà ở chung cư có tính ngoại lai, loại trừ sự can thiệp của đối

tượng sử dụng nên nhiều giá trị VHTT không được chủ động chuyển đổi trong quá

trình xây dựng và trở nên suy thoái. Tuy nhiên, bằng phân tích trên đây cho thấy

một số giá trị vẫn tiếp tục được kế thừa và phát huy, tổng hợp trong bảng 1.12.

1.3.3.2 Biểu hiện của giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức

Nhà ở chung cư là loại công trình quy mô lớn, được xây dựng bằng

công nghệ hiện đại và có tính chất đồng loạt; vì vậy, phương thức lắp dựng và sử

dụng vật liệu tự nhiên kiểu truyền thống không còn phù hợp. Yếu tố kỹ thuật truyền

thống được duy trì thông qua sự chuyển đổi tính cơ động [hình 1.21a-b] trong các

cấu trúc dịch chuyển như: lam che nắng, mái hiên di động, cửa trượt.

Các quy luật thẩm mỹ của nghệ thuật tạo hình cũng suy giảm mức độ ảnh

hưởng do hình thể chung cư chưa từng tồn tại trong nhà ở truyền thống Việt Nam,

đặc biệt là độ lớn của các chiều kích. Nó phá vỡ hoàn toàn tỷ lệ hài hòa với con

người mà chỉ có thể tạo ra sự hài hòa giữa các bộ phận công trình [hình 1.21d].

Tính hình học [hình 1.21c] thể hiện trong cấu trúc mái, thân, nền; đúc kết thành

45

các dạng đường và mặt vẫn được chọn lọc và khai thác để gợi nhắc đến vẻ đẹp

truyền thống; đặc biệt hiệu quả khi ứng dụng trong tạo hình mái và các cấu trúc mặt

lưới. Tính vần điệu [hình 1.21d] và tính đối xứng [hình 1.21c] là những quy luật

thẩm mỹ phổ quát, vừa có tính truyền thống vừa có tính hiện đại nên tiếp tục được

kế thừa.

Tác động nhiều nhất trong yếu tố tạo hình để chuyển tải giá trị thẩm mỹ truyền

thống là các giải pháp dung hòa với tự nhiên, phản ánh tính đặc thù của nhà ở vùng

khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Đó là: 1) thông gió tự nhiên [hình 1.21e]: do mật độ

xây dựng thấp (dưới 40%) nên các đơn nguyên có thể xác định theo hướng gió.

Trong căn hộ, diện tích cửa mở rộng trên diện tường đón gió và khai thác các dạng

kết cấu hở để thông gió như lam, mành thưa, ô văng, tường hoa; 2) Che nắng,

chiếu sáng tự nhiên, tạo vùng bóng râm [hình 1.21f]: sử dụng ban công, lôgia có

chiều sâu lớn chuyển tiếp tác động của nắng, giảm lượng bức xạ. Tổ hợp hình khối

giật cấp tạo bóng râm trên mặt nhà cũng là giải pháp che nắng hữu hiện. Nhà ở

chung cư tại Việt Nam ít sử dụng vách kính lớn; thay vào đó là các ô cửa và khoảng

không gian lùi sâu hình thành vùng bóng râm kéo dài nhịp điệu theo các tầng nhà;

3) Chống mưa tạt, chống ẩm: kết cấu ô văng, lam kim loại, ban công, logia…

ngoài chức năng đã trình bày còn có tác dụng chống mưa tạt. Nền nhà chung cư

thường nâng cao hơn mặt vỉa hè để chống ẩm và tạo thế vững chãi cho công trình.

Sự chuyển đổi giá trị VHTT trên phương diện hình thức nhà ở chung cư được

tổng hợp trong bảng 1.13.

46

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

1. VHTT là hệ thống các giá trị được chọn lọc từ quá khứ, luôn vận động và

biến đổi, tiềm ẩn sức mạnh chi phối nhiều lĩnh vực hoạt động của con người trong

xã hội ngày nay, bao gồm kiến trúc và những loại hình nghệ thuật khác. Hệ giá trị

VHTT có tính chủ quan và tương đối, được thống nhất trong một số giá trị tiêu biểu

nhưng không trùng lặp trong nhiều giá trị khác tùy thuộc góc độ nghiên cứu của

từng tác giả.

2. Việc xác định hệ giá trị văn hóa trong kiến trúc và KTNO truyền thống

Việt Nam phân lập theo 2 xu hướng, thể hiện tính 2 mặt của văn hóa là các giá trị

hiển thị và phi hiển thị. Trong khi tồn tại những quan điểm đề cao giá trị hiển thị là

bản sắc thì cũng đồng thời xuất hiện quan điểm trái ngược cho rằng đó phải là các

giá trị phi hiển thị. Từ tính không nhất quán này nên luận án xác lập cở sở luận dựa

vào sự dung hòa 2 quan điểm nêu trên, nghĩa là các giá trị hiển thị và phi hiển thị

đều được chọn lọc cho nội dung nghiên cứu.

3. Tìm hiểu KTNO truyền thống của người Việt tại các vùng Bắc bộ, Trung

bộ và Nam bộ, nhiều tác giả đúc kết thành những giá trị đặc trưng, tuy nhiên cũng

tồn tại quan điểm không giống nhau. Vì vậy, luận án sử dụng phương pháp tập hợp

và suy luận để chọn ra 10 giá trị tiêu biểu là: tính dung hòa với tự nhiên, tính linh

hoạt/đa năng, tính cộng đồng, tính tư hữu, tính sinh lợi, tính hiếu khách, truyền

thống gia đình Việt, văn hóa thờ cúng, thuật phong thủy, tính biểu hình.

4. Mỗi giá trị văn hóa tác động đến KTNO nông thôn truyền thống làm phát

sinh các biểu hiện cụ thể trong cả 2 yếu tố công năng và hình thức.

Trên phương diện công năng: tính dung hòa tự nhiên tạo ra không gian nhà ở

gắn kết hữu cơ với môi trường thiên nhiên xung quanh, bố cục phân tán và sử dụng

giải pháp hàng hiên che nắng; tính linh hoạt/đa năng thúc đẩy sự phát triển kiểu cấu

trúc không gian mở, các chức năng sử dụng chung; tính tư hữu thể hiện bằng ranh

giới tường rào và cổng ngõ, quy định phạm vi sử dụng riêng của từng gia đình;

truyền thống gia đình Việt hình thành không gian thờ cúng tổ tiên và các không gian

47

sum họp thành viên, phân bố đa dạng theo nhiều hình thức sinh hoạt; tính cộng

đồng, tính hiếu khách được nhận biết trong không gian giao tiếp khang trang, tập

trung tại gian giữa nhà chính và hướng ngoại; văn hóa thờ cúng làm xuất hiện nhiều

vùng không gian thờ cúng bên trong nhà ở (thờ tổ tiên, thờ gia thần); tính sinh lợi

đưa không gian sản xuất, làm nghề phụ xen cài vào không gian ở; thuật phong thủy

định hướng nhà theo hướng gió, số gian nhà lẻ, cổng ngõ lệch hướng nhà chính

hoặc có bình phong che chắn.

Trên phương diện hình thức: nhà ở chịu tác động của tính biểu hình gồm 3

yếu tố

- Kỹ thuật truyền thống: đại diện bởi giải pháp sử dụng vật liệu tự nhiên, sản

xuất thủ công; cấu trúc cơ động, dịch chuyển (khung cột, cửa bức bàn, phên giại…);

- Nghệ thuật tạo hình: sử dụng trang trí chạm trổ, màu sắc tự nhiên, tính vần

điệu, tính đối xứng/cân bằng, tỷ lệ hài hòa, tính hình học, tổ hợp theo phương

ngang;

- Giải pháp dung hòa với tự nhiên: thông gió tự nhiên, sử dụng hàng hiên che

nắng và mái nhà vươn xa khỏi mặt tường; nguồn sáng gián tiếp, chống mưa tạt; tạo

vùng bóng râm trên mặt nhà; chống ẩm.

5. Phân tích sự chuyển đổi giá trị văn hóa trong KTNO đô thị truyền thống

(phân khúc thứ nhất – sự lệch pha về không gian) cho thấy có sự tăng cường hoặc

suy giảm biểu hiện của các giá trị.

Trên phương diện công năng: tính dung hòa với tự nhiên chuyển từ chủ động

sang thụ động thích ứng bằng hình thức sân trong và không gian đệm (hiên/logia);

tính linh hoạt/đa năng gia tăng mức độ phối hợp không gian sinh hoạt; tính sinh lợi

chuyển đổi thành không gian mua bán, sản xuất bố trí phía trước nhà; truyền thống

gia đình Việt tiếp tục duy trì không gian thờ cúng tổ tiên và sum họp; tính cộng

đồng, tính hiếu khách thu hẹp phạm vi hoạt động; tính tư hữu thể hiện trong các

ranh giới sở hữu riêng của nhà ở; văn hóa thờ cúng linh hoạt tổ chức không gian thờ

theo các khu vực chức năng; thuật phong thủy suy giảm mức biểu hiện.

Trên phương diện hình thức: tiếp tục duy trì giải pháp sử dụng vật liệu tự

nhiên và các cấu trúc di động (kỹ thuật truyền thống); tuy nhiên, do nhà ở có kết cấu

48

nhiều tầng nên giảm bớt yếu tố thừa và trang trí. Vận dụng hầu hết các quy luật tạo

hình của nhà ở nông thôn (nghệ thuật tạo hình) và giải pháp thích ứng khí hậu

nhưng có sự chuyển đổi để phù hợp với hình thể mới.

6. Căn cứ đặc điểm không gian công năng và hình thức KTNO truyền thống

để phân tích biểu hiện trong nhà ở đô thị hiện nay cho thấy: giá trị VHTT tiếp tục có

sự chuyển đổi để vừa đáp ứng yêu cầu của thời đại mới, vừa duy trì tính truyền

thống và bản địa. Đây là phân khúc thứ hai – sự lệch pha về thời gian và cũng là

giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của VHTT. Trong yếu tố công năng, nhà ở đô thị

được phân chia rõ ràng theo cấp độ nhu cầu, từ mức cơ bản để duy trì hoạt động

sống cho đến các mức phát triển cao hơn, hướng vào tính tiện nghi và yêu cầu cá

nhân. Sự thay đổi cấu trúc nhu cầu diễn đạt cùng với tiến trình mở rộng không gian

chức năng của các loại hình nhà ở tiêu biểu là nhà phố, chung cư và biệt thự. Tương

ứng tiến trình này là sự tham dự và can thiệp của giá trị VHTT bằng 2 xu hướng

tăng cường hoặc suy thoái tùy theo đặc điểm của từng giá trị. Trong yếu tố hình

thức, do tác động mạnh mẽ của công nghệ và sự sáng tạo cá nhân nên giải pháp tạo

hình nhà ở cũng có những thay đổi lớn, loại trừ yếu tố không phù hợp và hướng đến

sự kế thừa các quy luật thẩm mỹ hay phương thức thích ứng với điều kiện khí hậu;

7. Tổng hợp biểu hiện giá trị VHTT trong nhà phố, chung cư và biệt thự cho

thấy tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính tư hữu, tính cộng

đồng và truyền thống gia đình Việt có xu hướng gia tăng mức độ tác động lên yếu

tố công năng, đồng thời chuyển đổi để đáp ứng các nhu cầu cao hơn chưa từng có

tiền lệ trong nhà ở truyền thống. Về phương diện hình thức, giải pháp tạo hình

truyền thống được chuyển đổi trên tinh thần sáng tạo và ứng dụng công nghệ xây

dựng tiến bộ. Vì vậy, nhà ở có xu hướng kế thừa các nguyên tắc và quy luật thẩm

mỹ như: tính hình học, tính hài hòa, tính đối xứng, tính vần điệu, tính cơ động,

tính thích ứng khí hậu. Sự kế thừa này được xem là bước chuyển đổi phù hợp với

nhu cầu phát triển nhà ở trong các đô thị lớn Việt Nam, tiếp tục duy trì sự ảnh

hưởng của VHTT nhưng không làm suy giảm vai trò của tính hiện đại.

49

CHƯƠNG II

MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG

KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM

2.1 Mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở

đô thị

2.1.1 Giá trị văn hóa truyền thống như một hệ thống

Trong nhiều phương pháp nghiên cứu giá trị VHTT thì luận án chọn

cách tiếp cận hệ thống, nhấn mạnh vào việc xác định và mô tả mối liên kết giữa các

yếu tố cấu tạo nên hệ thống và tương tác giữa chúng. Tiếp cận hệ thống nhìn nhận

thế giới qua cấu trúc, thứ bậc và động lực; đó là cách tiếp cận động và toàn diện [25, tr.28]. Theo Ludwig Von Bertalanffy23, các khoa học hiện đại đều tiến đến

nguyên lý chung về sự toàn vẹn năng động, gọi là hệ thống năng động. Ông định

nghĩa hệ thống là một tổng thể, duy trì sự tồn tại bằng tương tác giữa các tổ phần

tạo nên nó [25, tr.2]. Tiếp cận hệ thống trong học thuyết của Bertalanffy là phương

pháp tư duy khoa học, thể hiện quan điểm nhận thức các đối tượng, thực thể phức

tạp có đặc điểm của một hệ thống. Về mặt diễn ngôn, lý thuyết hệ thống có khả năng

diễn đạt các quy luật, định nghĩa về các khái niệm của nó một cách định lượng

dưới công thức toán học và vật lý học [26].

Như trình bày ở chương I, giá trị VHTT trong KTNO Việt Nam hàm chứa đầy

đủ tính chất của một hệ thống, được hợp thành từ những giá trị riêng lẻ liên quan

mật thiết với nhau (tương tác nội hệ) và biến động liên tục theo những thay đổi của

điều kiện hình thành nhà ở (tương tác ngoại hệ), làm đảo chiều thứ bậc trên thang

giá trị và mức độ quan trọng của từng giá trị; tuy nhiên vẫn duy trì được tính thống

23 Ludwig.Von. Bertalanffy (1901 – 1972) là người khởi xướng lý thuyết hệ thống, được đăng tải lần đầu tiên trên báo triết học của Anh số ra tháng 8 năm 1950: “An outline of General System Theory”.

nhất, hoàn chỉnh và ổn định. Chức năng của hệ giá trị VHTT vượt ra ngoài sự cộng

50

gộp từng giá trị thành phần, có khả năng đảm nhiệm vai trò mà mỗi giá trị độc lập

không thể có được. Vì vậy, tiếp cận hệ thống là hướng nghiên cứu khả thi và hứa

hẹn nhiều luận giải logic cho vấn đề phức tạp như sự ảnh hưởng của VHTT trong

KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam, mà dường như lâu nay chỉ được đánh giá và suy

luận theo cảm tính.

Cũng từ cách phân loại của Bertalanffy có thể xếp các hệ giá trị văn hóa là

những hệ thống mở; bởi vì một hệ thống mở là khi hệ thống có dòng vào và dòng

ra, và như vậy có sự biến đổi của các vật chất hợp thành. Ngược lại, một hệ thống

đóng là khi hệ thống không có vật chất nào xâm nhập vào hay không có vật chất

nào thoát ra khỏi nó [26]. Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, M.

Epstein cũng đề xuất văn hóa như một thể “thống nhất hữu cơ” – một hệ thống mở,

năng động [20]. Cho nên, hệ thống đóng là đối tượng nghiên cứu của vật lý học và

hóa học vô cơ; còn hệ thống mở là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học về

hệ thống sống, khoa học xã hội và nhân văn. Hệ thống mở đặc trưng bởi sự tương

tác với các hệ thống bên ngoài khác và biến đổi liên tục [26]. Đây là lý thuyết cốt

lõi để lý giải cho sự chuyển đổi biểu hiện VHTT trong các loại hình nhà ở tại các đô

thị lớn Việt Nam, mà nguyên nhân chủ yếu là do tác động từ bên ngoài (môi trường

của hệ thống) như đã được trình bày (sự lệch pha không - thời gian).

Trong nhiều cách tiếp cận hệ thống24 thì luận án chọn tiếp cận phân tích và

xây dựng mô hình.

 Tiếp cận phân tích giản hóa các thành tố cơ bản của hệ thống nhằm

nghiên cứu chi tiết và tìm hiểu các loại quan hệ của nó. Thông qua việc biến đổi

từng yếu tố, tiếp cận phân tích tìm ra quy luật chung cho phép dự đoán tính chất

của hệ thống trong những điều kiện khác nhau [25, tr.26]. Các thành tố được xét

đến ở đây là 10 giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam. Những giá trị này gắn

kết và liên tục tương tác với nhau theo một tiến trình năng động cùng với sự thay

đổi của hình thức nhà ở trong điều kiện lịch sử, xã hội, kinh tế và kỹ thuật khác

24 Thông thường có 5 cách tiếp cận hệ thống: 1) hộp đen; 2) phân tích - tổng hợp; 3) mô hình - mô phỏng;

4) tiếp cận cứng - tiếp cận mềm; 5) tập hợp thông tin - ra quyết định;

nhau. Cũng vì vậy mà từng giá trị văn hóa luôn biến thiên tăng giảm trên thang giá

51

trị. Có thể giản lược điểm khác biệt không đáng kể trong mỗi loại hình nhà ở để

thống nhất một thang giá trị chung (ví dụ: thang giá trị của nhà phố, biệt thự, chung

cư), nhưng giữa các loại nhà ở khác nhau thì thang giá trị không giống nhau. Tuy

nhiên vẫn nhận thấy tính thống nhất toàn vẹn của cả hệ giá trị VHTT qua sự khác

biệt đó. Nguồn gốc và đặc điểm những giá trị riêng lẻ được trình bày trong Phụ lục

1, cho nên ở đây chỉ phân tích cấu trúc và sự tương tác của chúng. Phần cấu trúc

gồm 2 nội dung: cấu trúc toàn thể (bối cảnh mà hệ giá trị được đặt vào) và cấu trúc

nội hệ (sự xếp đặt trật tự của các giá trị). Tương ứng với nó cũng sẽ có 2 mối quan

hệ xuất hiện là tương tác bên trong hệ thống (giữa các giá trị văn hóa với nhau – nội

sinh) và tương tác bên ngoài hệ thống (giữa giá trị văn hóa với không gian công

năng và hình thức KTNO - môi trường của hệ thống – ngoại sinh).

 Mô hình là sự hợp nhất các thành tố chính để xem xét hành vi của hệ thống

như một tổng thể, bằng cách đề cập thật nhiều (đến mức có thể) sự phụ thuộc qua

lại giữa các yếu tố. Xây dựng mô hình như một phần của cách tiếp cận phân tích

[25, tr.27]. Việc thiết lập mô hình tiến hành theo 2 nội dung tương tác nội hệ và

ngoại hệ nhằm đạt đến mục tiêu diễn tả đầy đủ những khả năng liên hệ/kết nối có

thể xãy ra giữa các giá trị VHTT với nhau và với các thành phần của KTNO. Số

lượng liên kết và tính chất liên kết (tương sinh hay tương khắc, chủ động hay thụ

động) phản ánh vai trò và tiềm năng của từng giá trị cũng như của cả hệ giá trị

VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay.

2.1.2 Cấu trúc hệ giá trị văn hóa truyền thống

Trên phương diện lý thuyết tổng quát, cấu trúc của một hệ thống là

“hình thức tổ chức nhất định của các thành tố”. Ngoài ra, “các thành tố của hệ

thống luôn kết hợp và có mối quan hệ qua lại với nhau: quan hệ bên trong (giữa

các thành tố của hệ thống) và quan hệ bên ngoài (giữa hệ thống với môi trường)”

[49, tr.83]. Khi nghiên cứu về phân hóa cấu trúc hệ thống xã hội, Talcott Parsons

cho biết: hệ thống bị phân hóa thành các thành phần hệ thống hay các tiểu hệ thống

tương tác với nhau theo một trật tự thứ bậc kiểm soát nhất định từ trên xuống dưới

52

[26]. Cũng vậy, L.A.Zadch nhận định: trật tự bên trong hệ thống, vị trí và sự sắp

xếp các bộ phận hay các yếu tố của một chỉnh thể cũng như những tương tác đặc

trưng của chúng trong khung cảnh hệ thống tạo nên cơ cấu của nó [5, tr.83]. Như

vậy có thể hiểu cấu trúc là hình thức cấu tạo bên trong hệ thống, bao gồm sự sắp

xếp trật tự các bộ phận, phần tử và quan hệ giữa chúng theo cùng một dấu hiệu nào

đó.

Lý luận trên cho phép phân tách cấu trúc hệ giá trị VHTT ra 2 nội dung: 1) trật tự của các giá trị văn hóa (còn gọi là thang giá trị)25; 2) sự tương tác của các

giá trị văn hóa (bao gồm tương tác nội hệ và ngoại hệ). Tuy hai nội dung này riêng

biệt nhưng chúng không độc lập mà có mối quan hệ nhân – quả. Nghĩa là, khi các

giá trị văn hóa xuất hiện thì đồng thời nảy sinh sự tác động qua lại theo 2 xu hướng:

tương sinh (bổ trợ lẫn nhau) hoặc tương khắc (loại trừ lẫn nhau), từ đó xác định

“độ” mạnh - yếu của từng giá trị trong hệ thống thông qua số lượng và tính chất

(chủ động hay thụ động) của liên kết. Những giá trị văn hóa cốt lõi (“hằng số” văn

hóa), gắn liền với đặc điểm và điều kiện hình thành nhà ở, thường đóng vai trò chủ

động trong tương tác (như tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính

cộng đồng…); chúng nắm giữ sức chi phối (làm gia tăng hoặc kiềm hãm) biểu hiện

của những giá trị khác một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, với vai trò kiểm soát đó, các

giá trị văn hóa này cũng chịu ràng buộc bởi giá trị có sức tương tác yếu hơn (chẳng

hạn tính tư hữu có khả năng kìm hãm biểu hiện của tính cộng đồng). Ngoài ra, hệ

giá trị VHTT khi đặt vào môi trường khác nhau cũng có những biến đổi không đồng

nhất. Đó là do tương tác từ yếu tố bên ngoài, được giản hóa thành các nhu cầu của

KTNO với những điều kiện cụ thể. Kết quả là tính từ một điểm xuất phát (nhà ở

nông thôn truyền thống) đã phân hóa thành nhiều thang giá trị văn hóa trong KTNO

đô thị Việt Nam.

Có 2 cách tiếp cận thang giá trị của từng loại hình nhà ở bằng định tính và

định lượng. Cách thứ nhất: suy luận biện chứng dựa trên mức độ biểu hiện giá trị

25 Theo Ngô Đức Thịnh thì có sự sắp đặt trước sau, độ nhấn về tầm quan trọng của từng nhân tố giá trị trong

một thang giá trị.

VHTT như đã trình bày ở chương I. Đây còn gọi là phương pháp ngoại suy. Cách

53

thứ 2: phân tích các mối quan hệ tương tác bằng mô hình – gọi là phương pháp nội

suy. Kết hợp cả 2 phương pháp này giúp nhận thức vai trò, tính chất và sự biến đổi

từng giá trị cũng như của cả hệ giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam; từ đó

chọn lọc những giá trị còn có thể tiếp tục duy trì và phát huy dựa trên các tiêu chí cơ

bản và hướng đến phục vụ những mục đích cụ thể mà luận án đề ra.

Hình 2.1 diễn đạt cấu trúc hệ giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam hiện

nay. Đầu vào của hệ thống gồm 2 nhóm yếu tố: các thành phần không gian công

năng và hình thức kiến trúc. Các yếu tố này được hiểu là khi chưa chịu sự tác động

của VHTT. Đây còn được xem như môi trường của hệ thống bởi nó là những đại

diện tương tác trực tiếp với hệ thống. Thay vì tìm hiểu vai trò và ảnh hưởng của hệ giá trị văn hóa toàn thể26 (siêu hệ thống - hệ thống mẹ) xét trong điều kiện các đô

thị lớn Việt Nam (môi trường, kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội); thì luận án đặt

mục tiêu nghiên cứu trực tiếp vào công năng và hình thức KTNO. Nghĩa là, những

đặc điểm và chức năng của 2 yếu tố nói trên trước khi tương tác với hệ giá trị

VHTT thì đã được định nghĩa theo các giá trị chung (có tính thời đại/tính toàn cầu và cả xu hướng phát triển)27. Việc phân chia như vậy nhằm làm rõ hơn đặc trưng và

tính chất của hệ giá trị VHTT. Yếu tố đầu ra của hệ thống là những tổ hợp không

gian công năng và hình thức KTNO, tức đã có sự sắp đặt theo một trật tự hoặc

nguyên tắc nào đó. Những tổ hợp này được tạo thành từ lập luận sáng tạo hay sự

giao thoa giữa các nguyên lý thiết kế, xu hướng kiến trúc, nhu cầu thực tế… trong

đó có sự đóng góp của giá trị VHTT. Nếu xét một cách tổng toàn thì theo chiều

thuận, giá trị VHTT là một trong những động lực thiết lập nên công năng và hình

thức KTNO đô thị. Còn theo chiều ngược lại, chính giải pháp công năng và sản

phẩm tạo hình thẩm mỹ giúp nhận diện tính dân tộc (bản sắc) của KTNO. Cần nhấn

mạnh thêm rằng, VHTT trong đầu ra không bao gồm tất cả 10 giá trị như đã trình

bày, mà chúng đã được chọn lọc thành những giá trị tiêu biểu bởi quá trình tương

26 Hệ giá trị văn hóa toàn thể: hệ giá trị văn hóa trong KTNO đô thị nói chung, bao gồm hệ giá trị VHTT và

đương đại;

27 Trong thực tế điều này không xãy ra mà luôn có sự đan xen, trộn lẫn và trên mức độ nào đó là sự tiếp diễn

đồng thời giữa VHTT và văn hóa đương đại.

tác, dựa trên 3 tiêu chí: 1) tính thời đại: phù hợp với nhu cầu thực tiễn, không tách

54

rời xu hướng phát triển chung của thế giới; 2) tính tương tác cao: có mối liên hệ

thường xuyên và chủ động với các giá trị khác; 3) tính ổn định: chậm bị biến đổi

theo những hấp lực toàn cầu hóa/khu vực hóa hay các nhu cầu nhất thời. Cuối cùng,

việc thiết lập, vận dụng và sáng tạo hệ giá trị VHTT trong KTNO đô thị là nhằm đạt

đến 4 mục đích, cũng đồng thời phản ánh 4 chức năng của hệ thống: 1) thích nghi

với điều kiện tự nhiên; 2) thích nghi với điều kiện đô thị hiện đại; 3) phù hợp với lối

sống của người Việt; 4) nhận diện tính dân tộc (bản sắc) của KTNO. Để đạt được 4

mục đích này thì tự thân các giá trị riêng lẻ phải phát huy vai trò của chính nó trong

sự tương tác với môi trường nhưng cũng đồng thời phát huy vai trò của cả hệ thống thông qua những hình thức liên kết, cộng tác dụng28. Ba chức năng đầu tiên hướng

đến các mục đích trọng tâm nhất (tính hướng đích của hệ thống), và khi đạt được thì

nó cũng đưa đến mục đích sau cùng là giúp nhận diện đặc trưng riêng biệt (bản sắc)

của KTNO đô thị Việt Nam.

Với cấu trúc của hệ giá trị VHTT nêu trên có thể chia thành 2 phân khúc:

 Phân khúc 1: tương tác giữa hệ giá trị VHTT với các thành phần (công

năng & hình thức) của KTNO đô thị. Đây là quá trình diễn ra xung động bên trong

và bên ngoài hệ thống nhằm đạt đến mục tiêu dung hòa và xác lập trật tự cũng như

khuynh hướng (gia tăng/suy giảm/duy trì) của các giá trị trong từng loại hình nhà ở

cụ thể.

 Phân khúc 2: chọn lọc và khai thác VHTT trong KTNO đô thị. Đây là kết

quả phân khúc thứ nhất nhằm phục vụ cho các mục tiêu của luận án. Tuy nhiên, để

tránh phán quyết chủ quan trong nghiên cứu thì luận án đặt thêm cơ sở tham chiếu

tính tương đồng/thống nhất giữa giá trị VHTT với quan điểm của các học thuyết

kiến trúc thế giới [mục 2.1.4]. Qua sự so sánh này sẽ giúp nhận thức các điểm

28 Ví dụ: tính linh hoạt/đa năng có thể phối kết cùng tính dung hòa với tự nhiên và thuật phong thủy để đạt

tới mục đích thích nghi với điều kiện tự nhiên của KTNO.

chung và riêng của việc khai thác giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam.

55

2.1.3 Thang giá trị và sự tương tác giữa các giá trị văn hóa truyền thống

2.1.3.1 Thang giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở

Việt Nam

Trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa các giá trị có thể xây

dựng những thang giá trị VHTT dựa vào biểu hiện của nó trong các loại hình

KTNO. Đây là cách tiếp cận định tính, có tác dụng khái quát trật tự thứ bậc thành

phần của hệ thống. Tuy mức độ tin cậy ở phương pháp này không cao nhưng bước

đầu cho thấy tính năng động trong xu hướng tăng giảm của từng giá trị. Để làm rõ

nội dung vừa nêu thì cần phân lập 2 thang giá trị theo các giai đoạn lịch sử như sau:

1) Thang giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống: 2 đối tượng

được xét đến gồm nhà ở đô thị và nông thôn. Như đã diễn đạt trong chương I, các

giá trị VHTT khởi nguồn từ nhà ở nông thôn, sau đó chuyển sang nhà ở đô thị. Sự

chuyển dịch này làm thay đổi thứ bậc các giá trị do phát sinh điều kiện cư trú mới;

trong đó có những giá trị vẫn giữ nguyên mức tác động (tính biểu hình, tính cộng

đồng, văn hóa thờ cúng…) nhưng cũng có một số giá trị gia tăng, đồng thời làm đẩy lùi các giá trị còn lại29 [bảng 2.1]. Đối chiếu 2 thang giá trị văn hóa trong KTNO

nông thôn và đô thị truyền thống cho thấy một số giá trị luôn giữ ở thang bậc cao,

mặc dù đã trải qua quá trình biến đổi như: tính linh hoạt/đa năng, tính dung hòa với

tự nhiên, tính biểu hình, tính cộng đồng. Điều này dẫn đến khả năng phán đoán: có

những giá trị VHTT luôn tiềm ẩn sức tương tác lớn trong điều kiện thay đổi của mô

hình nhà ở. Đó cũng là đối tượng cần được nhận dạng và chọn lọc cho nghiên cứu

của luận án.

2) Thang giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở đô thị hiện nay:

để xác lập vai trò và tiềm lực của các giá trị VHTT, luận án lập bảng so sánh thang

giá trị của từng loại hình nhà ở trên cơ sở chọn nhà ở đô thị truyền thống làm mốc

29 Ví dụ: tính sinh lợi trong nhà ở nông thôn xét trong mối quan hệ với các giá trị khác thì xếp vị trí thứ 6/10, nhưng khi chuyển đổi sang nhà ở đô thị đã nâng lên vị trí thứ 2/10 (sau tính linh hoạt/đa năng) và đẩy lùi tính dung hòa với tự nhiên xuống vị trí 5/10;

qui chiếu. Theo đó, vị trí của các giá trị trên thang giá trị này được đưa về mức tọa

56

độ (0); sự thay đổi tăng lên hay giảm xuống trong các thang giá trị còn lại được

đánh dấu (+) hay (-), kèm theo mức tăng giảm cụ thể của nó. Có 4 loại hình nhà ở được xét đến, đó là: nhà phố thương mại, nhà phố chỉ dành cho mục đích cư trú30, biệt thự và chung cư (cao tầng)31. Từ bảng 2.1 có thể rút ra những nhận định như

sau:

 Căn cứ vào sự gia tăng biểu hiện trong KTNO để lập ra các thang giá

trị VHTT, từ đó chia thành 3 mức độ: 1) mức biểu hiện cao; 2) mức biểu hiện trung

bình; 3) mức biểu hiện thấp. Trong 2 mức đầu tiên chủ yếu xuất hiện 6 giá trị, đó là:

tính linh hoạt/đa năng, tính dung hòa với tự nhiên, tính cộng đồng, tính tư hữu,

truyền thống gia đình Việt, tính biểu hình. Các giá trị còn lại ổn định ở mức thứ 3 -

thấp nhất.

 Luôn giữ vị trí cao nhất trên các thang giá trị là tính linh hoạt/đa

năng. Ngoài ra, tính tư hữu đạt mức tăng trưởng đột biến, từ rất thấp trong nhà ở

truyền thống lên đến các nấc thang cao hàng đầu trong nhà ở hiện nay, đồng thời

làm suy giảm thứ bậc của tính cộng đồng. Tính dung hòa với tự nhiên tăng trưởng

cao và ổn định. Truyền thống gia đình Việt có tăng lên nhưng không thể đạt tới mức

1. Tính biểu hình giảm xuống đáy của mức 2 do những thay đổi lớn về công nghệ

và sự sáng tạo trong xây dựng nhà ở hiện nay. Sau cùng, tính sinh lợi chỉ xuất hiện

1 lần (đạt mức 1) trong nhà phố thương mại nhưng sau đó rơi hẳn xuống mức 3

trong các nhà ở khác.

 Tập hợp kết quả biện chứng trong bảng 2.1 diễn đạt thành Biểu đồ

biến thiên giá trị văn hóa truyền thống [bảng 2.2]. Thông qua biểu đồ này cho phép

đánh giá tổng quan xu thế tăng giảm của các giá trị ứng với từng loại hình nhà ở.

Đây cũng là căn cứ để chọn lọc và đề xuất Thang giá trị VHTT chung trong

30 Cần phải xét riêng hai loại hình nhà ở này do sự khác biệt lớn về công năng và hình thức kiến trúc của

chúng.

31 Luận án chỉ xét chung cư cao tầng do trong hơn 10 năm trở lại đây, tại các đô thị lớn Việt Nam không còn

hướng đến đầu tư xây dựng loại nhà chung cư thấp tầng;

KTNO đô thị Việt Nam hiện nay (theo phương pháp định tính) như sau:

57

BẢNG 2.3 – [ĐỀ XUẤT 1]: THANG GIÁ TRỊ VHTT CHUNG TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở

TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM HIỆN NAY (THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÍNH)

GIÁ TRỊ VHTT

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

Ưu tiên 1

Tính linh hoạt/đa năng

Ưu tiên 2

Tính dung hòa với tự nhiên

Ưu tiên 3

Tính cộng đồng

Ưu tiên 4

Tính tư hữu

Ưu tiên 5

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 6

Tính biểu hình

2.1.3.2 Sự tương tác giữa các giá trị văn hóa truyền thống trong kiến

trúc nhà ở Việt Nam

Để bổ sung chứng cứ khoa học và gia tăng cơ sở biện luận cho

đề xuất trên, luận án tiếp tục triển khai mô hình tương tác giữa các giá trị VHTT

(phương pháp định lượng). Đây được hiểu là quá trình thiết lập các mối liên hệ tác

động qua lại dựa trên những khả năng kết nối có thể xãy ra giữa chúng. Các liên kết

này được phân biệt thành 2 xu hướng:

1) Tương sinh: đặc trưng của mối quan hệ có tính chất bổ trợ lẫn nhau, cùng

đem lại sự tiến triển. Trong đó phân thành 2 loại:

 Tương tác chủ động: xãy ra khi một giá trị có khả năng tác động theo

cách chi phối, định hướng và đa dạng hóa mức độ biểu hiện của các giá trị khác;

được gọi là giá trị chủ sinh;

 Tương tác thụ động: xãy ra khi một giá trị chịu tác động của một hay

nhiều giá trị chủ sinh, nhưng không bị làm suy giảm mà ngược lại còn gia tăng mức

độ biểu hiện và sự phong phú của nó; được gọi là giá trị thụ sinh.

Giữa 2 giá trị nêu trên thì giá trị chủ sinh được ưu tiên chọn lọc cho việc khai

thác VHTT trong KTNO đô thị.

2) Tương khắc: đặc trưng của mối quan hệ chế ngự, kìm hãm, loại trừ lẫn

nhau. Nếu 2 giá trị hình thành kiểu quan hệ tương khắc thì khi giá trị này gia tăng sẽ

làm suy giảm sức biểu hiện của giá trị kia và ngược lại. Tuy nhiên, hệ giá trị VHTT

58

luôn ràng buộc, đan xen giữa tác động tương sinh và tương khắc cho nên không có

giá trị nào bị triệt tiêu hoàn toàn bởi sự phát triển quá độ của giá trị khác. Nếu một

giá trị nào đó biến mất (ví dụ: thuật phong thủy không tồn tại trong nhà ở chung cư)

là do nhu cầu và đặc điểm của loại hình nhà ở chứ không phải do tương tác giữa các

giá trị.

Tiến hành thiết lập mô hình tương tác cũng phân biệt theo 2 giai đoạn lịch sử:

1) Mô hình tương tác giữa các giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền

thống [hình 2.2]: mô tả nội dung tương tác giữa các giá trị, được phân theo 5

nhóm: giá trị tự nhiên, giá trị sinh lợi, giá trị không gian, giá trị xã hội, giá trị tinh

thần & thẩm mỹ [phụ lục 1]. Vòng trong cùng thể hiện các mối liên kết theo 2 xu

hướng tương sinh và tương khắc; vòng ngoài cùng biểu thị mức độ biến thiên của

các giá trị (định tính) lấy từ mục 2.1.3.1 nhằm làm cơ sở so sánh. Tổng hợp các

tương tác đưa đến kết quả sau đây:

 Trong 3 cấp độ tương tác (cao – trung bình – thấp) thì ở 2 cấp độ đầu

có 6 giá trị văn hóa xếp theo trật tự từ trên xuống dưới lần lượt là: tính linh hoạt/đa

năng > tính dung hòa với tự nhiên > tính biểu hình >tính cộng đồng > truyền thống

gia đình Việt > tính sinh lợi. Những giá trị dẫn đầu chiếm số lượng lớn các tương

tác chủ động và không bị khống chế bởi quan hệ tương khắc. Mặc dù vậy, tính biểu

hình tuy không có tương tác chủ động nào nhưng vẫn được xếp vào cấp đầu tiên là

do nó chịu chi phối của rất nhiều giá trị chủ sinh khác (7/9 giá trị). Xét về thực tiễn

thì hình thức kiến trúc nói chung (trước khi có sự ra đời các học thuyết tìm về giá trị

tự thân của thẩm mỹ kiến trúc, đặc biệt nở rộ sau khi chủ nghĩa Hiện đại bị phê phán) là sự thể hiện thụ động32 các đặc điểm không gian và những giới hạn của vật

liệu, kỹ thuật xây dựng. Cho nên, càng chịu tác động của nhiều giá trị văn hóa thì

sức biểu hiện thẩm mỹ (tính biểu hình) càng cao.

 Mối quan hệ giữa tiếp cận định tính và định lượng: có sự thống nhất

giữa 2 phương pháp này về số lượng 6 giá trị mang cấp độ tương tác nằm trong mức

1 & 2 (tính linh hoạt/đa năng, tính dung hòa với tự nhiên, tính biểu hình, tính cộng

32 Hình thức đi sau nội dung

đồng, truyền thống gia đình Việt, tính sinh lợi). Đối với nhà ở nông thôn truyền

59

thống thì kết quả hoàn toàn trùng lắp giữa phân tích định tính và định lượng33; tuy

nhiên nhà ở đô thị có một số sai biệt phát sinh do quá trình chuyển đổi môi trường

cư trú. Đó là sự đảo chiều của tính sinh lợi và tính dung hòa với tự nhiên [bảng

2.4]. Nhìn chung 6 giá trị nói trên qua mô hình tương tác cho thấy khả năng liên kết

cao, do vậy dù biến động thứ bậc trên thang giá trị nhưng đều không thoát ra khỏi

mức 1 & 2.

BẢNG 2.4: SO SÁNH THANG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG

THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG

THANG GIÁ TRỊ VH THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÍNH

THANG GIÁ TRỊ VH THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

Nhà ở đô thị truyền thống

Nhà ở nông thôn truyền thống

Ưu tiên 1

Tính linh hoạt/đa năng

Tính linh hoạt/đa năng

Tính linh hoạt/đa năng

Ưu tiên 2

Tính sinh lợi

Tính dung hòa với tự nhiên

Tính dung hòa với tự nhiên

Ưu tiên 3

Tính biểu hình

Tính biểu hình

Tính biểu hình

Ưu tiên 4

Tính cộng đồng

Tính cộng đồng

Tính cộng đồng

Ưu tiên 5

Tính dung hòa với tự nhiên

Truyền thống gia đình Việt

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 6

Truyền thống gia đình Việt

Tính sinh lợi

Tính sinh lợi

2) Mô hình tương tác giữa các giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc

nhà đô thị Việt Nam hiện nay [hình 2.3]: mô hình này diễn đạt 2 nội dung chính:

1) thông qua số lượng và tính chất tương tác cho thấy khả năng của từng giá trị cũng

như xu thế thiết lập trật tự của chúng trên thang giá trị (vòng tròn trong cùng); 2)

đối chiếu mức độ biểu hiện (định tính) trong từng loại hình nhà ở cụ thể để phát

hiện tiềm năng thực sự của các giá trị (vòng tròn ngoài cùng). Nhìn vào bảng kết

quả nhận thấy có 6 giá trị được xếp đặt theo trật tự từ cao xuống thấp như sau: tính

linh hoạt/đa năng > tính dung hòa với tự nhiên > tính tư hữu > truyền thống gia

đình Việt > tính biểu hình > tính cộng đồng. Giữa phương pháp định tính và định

lượng sẽ xuất hiện các sai biệt, cho nên cần so sánh điểm chung và riêng của chúng

với nhau, sau đó biện luận để hướng tới hình thành Thang giá trị VHTT chung

33 Do nhà ở nông thôn truyền thống được xem là nguồn gốc chuyển đổi giá trị VHTT trong các loại hình

nhà ở khác;

trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay (kết hợp giữa định tính và định lượng).

60

Bảng 2.5 cho thấy sự giống nhau về trật tự thứ bậc của 2 giá trị là tính linh

hoạt/đa năng và tính dung hòa với tự nhiên, 4 giá trị còn lại chênh lệch trên thang

giá trị, trong đó đáng chú ý là tính cộng đồng có dung sai lớn. Bằng cách so sánh

này có thể đưa ra đề xuất thang giá trị như bảng 2.6, theo đó 6 giá trị chia thành 2

nhóm:

 Nhóm I (ổn định ở mức cao nhất) gồm: tính linh hoạt/đa năng và tính

dung hòa với tự nhiên. Đây được xem là “hằng số” trong khai thác giá trị VHTT;

 Nhóm II (biến động) gồm: tính tư hữu, truyền thống gia đình Việt,

tính cộng đồng, tính biểu hình. Mặc dù các giá trị này sắp xếp theo trật tự từ trên

xuống dưới nhưng có khả năng đảo lộn vị trí tùy theo việc ứng dụng vào từng loại

hình nhà ở.

BẢNG 2.5: SO SÁNH THANG GIÁ TRỊ VHTT TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở ĐÔ THỊ VIỆT NAM

HIỆN NAY THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG

THANG GIÁ TRỊ VHTT THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

THANG GIÁ TRỊ VHTT THEO PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÍNH [ĐỀ XUẤT 1]

Tính linh hoạt/đa năng

Tính linh hoạt/đa năng

Ưu tiên 1

Tính dung hòa với tự nhiên

Tính dung hòa với tự nhiên

Ưu tiên 2

Tính cộng đồng

Tính tư hữu

Ưu tiên 3

Tính tư hữu

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 4

Truyền thống gia đình Việt

Tính biểu hình

Ưu tiên 5

Tính biểu hình

Tính cộng đồng

Ưu tiên 6

BẢNG 2.6 -[ĐỀ XUẤT 2]: THANG GIÁ TRỊ VHTT CHUNG TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC

ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM HIỆN NAY (KẾT HỢP GIỮA ĐỊNH TÍNH & ĐỊNH LƯỢNG)

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

Tính linh hoạt/đa năng

Ưu tiên 1

NHÓM I

ỔN ĐỊNH

Tính dung hòa với tự nhiên

Ưu tiên 2

Tính tư hữu

Ưu tiên 3

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 4

NHÓM II

BIẾN ĐỘNG

Tính cộng đồng

Ưu tiên 5

Tính biểu hình

Ưu tiên 6

61

Thang giá trị VHTT chung trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam

hiện nay [Đề xuất 2] được xem là kết quả phân tích mối quan hệ nội sinh (tương

tác nội hệ) giữa các giá trị VHTT với nhau, tổng hợp từ 2 phương pháp định tính và

định lượng. Thông qua kết quả này có thể nhận biết trật tự phân cấp của các giá trị;

đồng thời phát hiện tiềm lực sẵn có của chúng dựa theo đặc tính ổn định và biến

động. Tuy nhiên, đây chưa phải là kết quả cuối cùng để ứng dụng vào trong kiến

trúc nhà ở đô thị Việt Nam, bởi vì các giá trị đó còn có khả năng tiếp tục biến đổi

khi tương tác trực tiếp với những thành phần công năng và hình thức kiến trúc nhà ở

(tương tác ngoại hệ).

2.1.4 Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với các học thuyết

kiến trúc thế giới

Nội dung Phụ lục 2 trình bày quan điểm của 11 học thuyết kiến trúc đề

cập đến vấn đề khai thác VHTT, được tổng hợp trong bảng 2.7. Trên thực tế, quy

mô này chưa phản ánh đầy đủ bối cảnh và xu hướng chung của kiến trúc thế giới,

nhưng phần nào chứng minh động lực phát triển nhà ở luôn song hành với việc duy

trì và phát huy giá trị bản sắc, thể hiện bằng tiêu chí: “Bản địa hóa kiến trúc quốc tế

- Quốc tế hóa kiến trúc bản địa”. Mỗi học thuyết xây dựng cách tiếp cận tính dân

tộc khác nhau nhưng vẫn cho thấy nhiều nét tương đồng, hơn nữa còn phát họa mối

quan hệ với giá trị VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam mà luận án đã phân tích.

Mối quan hệ đó có thể được giải thích dựa vào lý thuyết chung của các nền kiến

trúc bản địa, là sự dung hòa 3 yếu tố: kiến trúc – tự nhiên – xã hội. Trong đó, kiến

trúc đóng vai trò vật thể đa chức năng (vật lý – xã hội - tinh thần) chuyển tải những

khả năng thích ứng với môi trường tự nhiên, hoạt động xã hội của lối sống và các

hình thái ý thức cộng đồng. Như vậy, khai thác kiến trúc truyền thống đồng nghĩa

tạo dựng môi trường nhân tạo, mà qua đó các giá trị văn hóa được phô bày theo

nhiều thể thức khác nhau. Chúng có thể được giải mã bằng trực giác, xúc cảm và kí

ức; giúp con người định vị chính họ trong bối cảnh không gian địa lý và khu vực.

Để làm rõ nội dung trên, luận án sắp đặt quan điểm các học thuyết kiến trúc

62

theo thứ tự mốc thời gian xuất hiện [hình 2.4]. Ở những thập niên đầu thế kỷ XX,

kiến trúc nhấn mạnh đến sự hài hòa giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo, khai thác

giá trị biểu hình và đặc tính của không gian. Nhưng càng về sau, ngoài những yếu tố

đó còn thêm mối quan tâm đến văn hóa – xã hội, và hơn hết là sự cảm nhận của con

người trong môi trường kiến trúc. Chúng được cụ thể thành các mục tiêu và quan

điểm khai thác nhưng không rập khuôn cứng nhắc mà tỏ ra linh hoạt. Vì vậy, cùng

một xu hướng nhưng có nhiều cách thể hiện và trải nghiệm khác nhau, làm phong

phú và mở rộng sự tự do sáng tạo. Những quan điểm này được đồng nhất với giá trị

VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam thành 5 nhóm và rút ra 3 giá trị tiêu biểu là:

tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính biểu hình.

Đối chiếu với Đề xuất 2 [mục 2.1.3] một lần nữa khẳng định ưu thế vượt trội

của tính dung hòa với tự nhiên và tính linh hoạt/đa năng. Như vậy, đây không phải

là giá trị riêng có của kiến trúc truyền thống Việt Nam mà là đặc tính chung của các

nền kiến trúc bản địa trên thế giới. Sự khác nhau nằm trong cách thức vận dụng

chúng tùy theo mối quan hệ với các yếu tố tự nhiên, phong tục tập quán, lối sống và

kinh nghiệm cổ truyền.

Có thể thấy, các học thuyết kiến trúc đề cao tính biểu hình như là cơ sở quyết

định thực thi vấn đề khai thác VHTT. Nó có khả năng truyền đạt bằng trực giác một

cách nhanh nhất tính bản sắc của kiến trúc, tác động trực tiếp đến khả năng nhận

biết của đối tượng thưởng lãm. Đây cũng là điểm khác biệt với đề xuất của luận án

(tính biểu hình xếp vị trí sau cùng). Mặc dù vậy, giữa 2 cách tiếp cận này không

mâu thuẫn mà chỉ khác nhau về lối diễn đạt; cũng tương tự như phương pháp diễn

dịch và quy nạp trong văn phạm ngữ pháp. Luận án cho rằng trước tiên cần chuyển

tải 5 giá trị (tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính cộng đồng, tính

tư hữu, truyền thống gia đình Việt) thì tính biểu hình sẽ được cảm thụ một cách tự

nhiên và tất yếu. Điều này tương đồng với quan điểm của các nhà văn hóa học khi

khẳng định bản sắc kiến trúc truyền thống Việt Nam nằm trong các giá trị phi vật

thể - cơ tầng văn hóa [mục 1.1.2].

Xem xét số lượng quan điểm của các học thuyết kiến trúc qua sự đối chiếu với

giá trị VHTT Việt Nam cho thấy:

63

 Kiến trúc Bản địa mới có nhiều quan điểm gần nhất với việc khai thác

VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay;

 Bốn học thuyết kiến trúc bổ sung quan điểm cần thiết cho nội dung khai

thác là: cộng sinh văn hóa, hiện tượng học, nơi chốn, ký hiệu học.

2.2 Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với không gian công năng

trong kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam

2.2.1 Lý thuyết nhu cầu trong kiến trúc nhà ở đô thị

2.2.1.1 Lý thuyết Tháp nhu cầu (Hierarchy of Needs)

Năm 1945, Abraham Harold Maslow (1908-1970) đề xuất lý

thuyết hệ thống phân cấp nhu cầu của con người, diễn đạt thành 5 cấp độ phụ thuộc

lẫn nhau và được hiển thị như một kim tự tháp [77], gồm:

1) Nhu cầu sinh lý (Physiological Needs): là nhu cầu quan trọng nhất cho sự

tồn tại của con người như: thức ăn, nước uống, không khí và giấc ngủ. Maslow cho

rằng đây là nhu cầu cơ bản và bản năng nhất trong hệ thống, bởi vì tất cả các nhu

cầu khác sẽ trở thành thứ cấp cho đến khi nhu cầu sinh lý được đáp ứng.

2) Nhu cầu an toàn (Safety Needs): là nhu cầu được bảo vệ. Nhu cầu này

cũng quan trọng cho sự sống nhưng không đòi hỏi khắt khe như nhu cầu sinh lý. Ví

dụ: mong muốn công việc ổn định, bảo hiểm y tế, môi trường cư trú an ninh.

3) Nhu cầu xã hội (Social Needs): là nhu cầu quan hệ họ hàng, tình cảm,

hay thuộc về một nhóm xã hội. Maslow coi nhu cầu này ít cơ bản hơn nhu cầu sinh

lý và an toàn.

4) Nhu cầu tôn trọng (Esteem Needs): sau khi ba nhu cầu đầu tiên được đáp

ứng, nhu cầu tôn trọng trở nên cần thiết đối với cá nhân con người. Chúng bao gồm

những yếu tố để thỏa mãn lòng tự trọng, giá trị tự thân, sự thừa nhận của xã hội về

các thành tựu.

5) Nhu cầu tự thực hiện (Self-Actualizing Needs): đây là mức cao nhất

trong hệ thống nhu cầu của Maslow, bao gồm: tự nhận thức, quan tâm đến sự phát

64

triển cá nhân hơn là ý kiến của người khác, tập trung khai phá tiềm năng con người

với tư cách là các cá thể độc lập.

Maslow cho rằng những nhu cầu tương tự như bản năng và đóng vai trò động

lực của hành vi. Sinh lý, an toàn, xã hội, và lòng tự trọng là nhu cầu thiếu (Deficit

Needs), phát sinh do sự thiếu thốn. Ông gọi cấp cao nhất của kim tự tháp là nhu cầu

tăng trưởng (The being Needs). Nó không xuất phát vì thiếu một cái gì đó mà là từ

mong muốn phát triển như một con người.

Tuy nhiên, Maslow cũng lưu ý thứ bậc của các nhu cầu không phải luôn diễn

ra theo trình tự cứng nhắc như trên [82]. Ví dụ: đối với một số cá nhân, nhu cầu tự

trọng thì cần thiết hơn tình cảm. Đối với những người khác, sự thực hiện sáng tạo

có thể thay thế ngay cả nhu cầu cơ bản nhất. Như vậy trong bản chất cấu trúc nhu

cầu đã tồn tại những khả năng bị phá vỡ.

Tóm lại, tổng thể lý thuyết của Maslow sắp xếp nhu cầu con người trong một

hệ thống phân cấp theo nguyên tắc: nhu cầu cơ bản (duy trì sự tồn tại) phải được

đáp ứng thì mới xuất hiện các nhu cầu cao hơn. Thực tế chứng minh hiện nay các

nước đang phát triển tập trung cho nhu cầu cấp 1 và 2 với mục tiêu: xóa đói, giảm

nghèo, có nhà ở, việc làm...; trong khi đó, các nước phát triển đã đạt đến cấp 3, 4 và

5 (tự do thể hiện năng lực cá nhân) trên cơ sở thành tựu về kinh tế, xã hội và khoa

học kỹ thuật.

Cấu trúc Tháp nhu cầu có thể chia thành 2 cấp độ: nhu cầu cơ bản (sinh lý, an

toàn) và nhu cầu nâng cao (xã hội, tôn trọng, tự thực hiện) [hình 2.5].

Hình 2.5: Tháp nhu cầu (Hierarchy of Needs) cùa A. H. Maslow

65

Lý thuyết nhu cầu cũng được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý học,

quản trị, kinh tế, xã hội học, quy hoạch, kiến trúc... [bảng 2.8]

2.2.1.2 Ứng dụng lý thuyết Tháp nhu cầu trong phát triển nhà ở tại

các đô thị Việt Nam

Nội dung Phụ lục 3 trình bày phân nhóm chức năng nhà ở và

các thành phần không gian công năng tương ứng. Bằng cách tập hợp quan điểm của

nhiều tác giả, luận án tổng hợp thành 5 nhóm chức năng, gồm: nghỉ ngơi thụ động,

làm việc, giáo dục, giao tiếp đối ngoại, nghỉ ngơi năng động.

Trong cấu trúc công năng nhà ở, quan hệ giữa các chức năng không ngang

bằng nhau mà được thiết lập thứ tự ưu tiên theo cấp độ nhu cầu, gia tăng số lượng

theo mức độ tiện nghi. Trong cấp nhu cầu thấp, nhà ở cần không gian tối thiểu để

duy trì sự tồn tại của con người (tương ứng với nhu cầu cơ bản trong lý thuyết của

Maslow); tiến lên cấp cao hơn, các không gian phát triển thể chất và tinh thần lần

lượt xuất hiện, hướng đến thỏa mãn sở thích cá nhân và sự riêng tư (nhu cầu nâng

cao). Như vậy, với mỗi cấp độ nhu cầu sẽ có những không gian cần thiết nhất để

đáp ứng. Trên nguyên tắc đó có thể suy luận sự tương đồng giữa 5 cấp độ nhu cầu

con người trong lý thuyết của Maslow với 5 chức năng nhà ở và 5 nhóm không gian

công năng, diễn đạt theo trình tự: 1. nghỉ ngơi thụ động → 2. làm việc → 3. giáo

dục → 4. giao tiếp đối ngoại → 5. nghỉ ngơi năng động. Chức năng cơ bản (nghỉ

ngơi thụ động) là chức năng phải có trong bất kỳ loại hình nhà ở nào, nhưng thỏa

mãn nhu cầu phát triển thể chất, tinh thần và thẩm mỹ (nghỉ ngơi năng động) là

chức năng hướng đến trong quá trình nâng cấp tiện nghi. Theo Maslow, chính thang

bậc cuối cùng này mới phản ánh bản chất nhu cầu một cách trọn vẹn.

Như vậy, việc phân cấp các nhóm không gian công năng là cần thiết để phù

hợp với chất lượng tiện nghi nhà ở; có thể được đánh giá qua chỉ số diện tích, số

lượng các nhóm chức năng và đặc tính không gian. Ngoài ra, sự phân cấp công

năng còn là mục tiêu nghiên cứu quan trọng trong chiến lược phát triển nhà ở xét

trên các nhóm đối tượng xã hội. Theo công bố của Tổng cục Thống kê, Việt Nam

66

có 5 nhóm đối tượng chia theo mức thu nhập như sau: 1) nhóm thu nhập thấp nhất;

2) nhóm thu nhập dưới trung bình; 3) nhóm thu nhập trung bình; 4) nhóm thu nhập

khá; 5) nhóm thu nhập cao.

Đối tượng thuộc nhóm 1 & 2 gọi chung là nhóm thu nhập thấp cần chính sách

hỗ trợ để có nhà ở với tiện nghi tối thiểu (nhà ở xã hội). Diễn giải trên Tháp nhu cầu

thì nhóm này tương ứng với cấp cơ bản [hình 2.6]. Các nhóm còn lại thuộc đối

tượng nhà ở thị trường, tương ứng cấp nhu cầu nâng cao; do đó tùy theo đặc điểm

xã hội, nghề nghiệp, sở thích... để xác định không gian ở phù hợp. Như vậy, việc

thiết lập cấu trúc công năng theo đối tượng sử dụng có thể xây dựng kế hoạch phát

triển nhà ở hợp lý và hiệu quả.

Hình 2.6: Mô hình “Tháp nhu cầu” với các nhóm xã hội

2.2.2 “Tháp công năng” trong kiến trúc nhà ở đô thị

“Tháp nhu cầu” của Maslow được xem là mô hình lý thuyết dựa trên

phân tích lý tính chủ quan của tác giả. Tuy nhiên theo thời gian, bằng sự ảnh hưởng

và tính ứng dụng phổ biến của nó trong nhiều lĩnh vực khác nhau cho thấy logic

nghiên cứu này có giá trị khoa học; vì vậy có thể tiếp tục kế thừa để bổ sung cơ sở

lý thuyết cho luận án. Do công năng nhà ở là một trong những đối tượng của nhu

cầu, mà theo Maslow, nhu cầu có tính phân cấp nên công năng cùng mang đặc tính

nói trên.

Căn cứ lý thuyết Tháp nhu cầu của Maslow có thể thiết lập mô hình công năng

67

trong KTNO đô thị dựa trên 5 chức năng chính. Mục đích của thao tác này là nhằm

xây dựng cấu trúc thứ bậc các nhóm không gian công năng theo sự gia tăng chất

lượng tiện nghi.

Tính thống nhất giữa “Tháp nhu cầu” và “Tháp công năng” [hình 2.7] trong

KTNO đô thị được diễn giải như sau:

1) Nhu cầu sinh lý (ưu tiên 1): là nhu cầu quan trọng nhất cho sự tồn tại của

con người như; tương ứng với nhóm không gian thuộc chức năng nghỉ ngơi thụ

động, gồm: khu bếp, phòng ăn (nội bộ), phòng ngủ, vệ sinh, ban công, lô gia, hành

lang, sân trong/không gian xanh (diện tích nhỏ), không gian sinh hoạt cá nhân. Đây

là những không gian không thể thiếu trong bất cứ loại hình nhà ở nào và đòi hỏi

phải được xét đến trước khi có sự xuất hiện của các không gian chức năng khác.

2) Nhu cầu an toàn (ưu tiên 2): là nhu cầu được bảo vệ an toàn và an ninh.

Suy luận trong các nhóm chức năng nhà ở thì mức ưu tiên này thuộc chức năng làm

việc; vì sau nhu cầu tồn tại cơ bản, con người cần triển khai hoạt động sinh lợi để

duy trì và phát triển cuộc sống. Nhóm không gian thuộc chức năng làm việc gồm:

thương mại, dịch vụ, làm nghề thủ công, văn phòng, làm việc cá nhân. Những

không gian đó có sự chuyển đổi từ nhà ở truyền thống, xuất phát bởi đặc điểm kết

hợp giữa cư trú và sản xuất trong điều kinh tế tiểu nông, tiểu thương.

3) Nhu cầu xã hội (ưu tiên 3): là nhu cầu thuộc về một nhóm xã hội nào đó.

Đối với người Việt, gia đình là đơn vị xã hội cơ bản nhất, nơi mà con người được

gắn bó, yêu thương và đùm bọc. Tuy nhiên, để cho gia đình giữ trạng thái ổn định

và phát triển thì giáo dục luôn đóng vai trò tiên phong. Tương ứng với nó là nhóm

không gian thuộc chức năng giáo dục, gồm: phòng sinh hoạt chung, không gian

học tập & nghiên cứu, thư viện, không gian thờ cúng tổ tiên & gia thần, không gian

lưu niệm. Phòng sinh hoạt chung thực hiện kết nối và duy trì văn hóa gia đình hiện

tại; không gian thờ cúng tổ tiên và gia thần duy trì “tâm thức” gia đình thông qua

giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và đức tin tâm linh.

4) Nhu cầu tôn trọng (ưu tiên 4): là những đòi hỏi về sự tôn trọng của người

khác và mong muốn khẳng định địa vị xã hội; tương ứng với nhóm không gian

thuộc chức năng giao tiếp đối ngoại, gồm: phòng khách, phòng ăn chính (tiếp

68

khách), cổng ngõ, hiên nhà, tiền sảnh, hành lang công cộng, sân vườn. Các không

gian này diễn ra sự tiếp xúc giữa người ở với đối tượng bên ngoài. Phòng khách

trong nhà ở người Việt là nơi thể hiện vị thế, tính cách, lối sống của gia chủ một

cách trực quan và sinh động;

5) Nhu cầu tự thực hiện (ưu tiên 5): là nhu cầu tự do theo đuổi sở thích cá

nhân, tự trải nghiệm và sự hài lòng về cuộc sống; tương ứng với nhóm không gian

thuộc chức năng nghỉ ngơi năng động, gồm: phòng tập Thiền - Yoga, phòng giải

trí chuyên dụng, phòng tắm hơi, hồ bơi, phòng nghe nhạc - xem phim, phòng chơi

của trẻ em, sân vườn, tiểu cảnh, phòng sáng tác nghệ thuật…. Chất lượng và số

lượng các không gian này càng tăng đồng nghĩa với tiện nghi nhà ở càng cao.

Như vậy, giữa lý thuyết nhu cầu của Maslow và các nhóm không gian công

năng trong nhà ở có tính tương đồng về cấu trúc phân cấp; tuy nhiên, cách qui chiếu

này cũng chỉ tương đối để giúp nhận biết vai trò của các chức năng nhà ở tùy thuộc

vào cấp độ nhu cầu. Trong thực tế, công năng nhà ở không được thiết lập theo trật

tự cứng nhắc như trên mà có thể kết hợp linh hoạt giữa các không gian với nhau. Do

đó trong cấp nhu cầu thấp, nhà ở vẫn có thể xuất hiện những không gian của cấp

nhu cầu cao hơn thông qua giải pháp đa năng (dồn nén các chức năng trong một

không gian giống như nhà ở truyền thống). Tóm lại, việc phân chia cấu trúc công

năng theo nhu cầu là để khẳng định tính chất tồn tại chính thức (mặc định) và phi

chính thức (bổ sung/đa năng) của các nhóm không gian chức năng. Khái niệm tồn

tại chính thức nghĩa là cấp độ nhu cầu nào thì không gian đó (ví dụ: cấp nhu cầu cơ

bản cần thiết nhất là không gian nghỉ ngơi thụ động và làm việc); ngoài ra, nếu phát

sinh các nhu cầu sử dụng khác (tiếp khách, giải trí, thờ cúng…) thì sẽ được lồng

ghép vào 2 không gian chính thức trên theo hình thức sử dụng chung (bổ sung – phi

chính thức). Tuy nhiên, phương thức phối hợp đa năng này cũng phải tuân theo một

số nguyên tắc để đảm bảo sự vận hành không gian ở đạt hiệu quả, giảm dần tính cản

trở theo kiểu hoạt động này triển khai thì hoạt động khác tạm ngưng. Nguyên tắc đó

được diễn đạt bằng các liên hệ đa năng đồng cấp và đa cấp.

Căn cứ mô hình “Tháp công năng” nhận thấy có 4 liên hệ “ĐA NĂNG ĐỒNG

CẤP” trong KTNO như sau:

69

1) Liên hệ đa năng phổ quát (sử dụng chung): các chức năng khác nhau có

thể được kết hợp trong một không gian đồng nhất. Đó là: thờ cúng, tập Thiền

(Yoga), nghe nhạc – xem phim, chỗ chơi cho trẻ em, tiểu cảnh – không gian xanh,

tiếp khách, ăn uống, nấu bếp, sản xuất nhỏ, sinh hoạt chung, làm việc... Tùy theo

quy mô nhà ở và nhu cầu sử dụng mà có thể gộp nhiều chức năng vào cùng một

không gian, triển khai dựa trên mức độ tương đồng (đồng cấp) về tính chất sử dụng

theo hướng bổ trợ lẫn nhau (ít gây cản trở qua lại), gia tăng hiệu quả khai thác

không gian.

2) Liên hệ đa năng giới hạn (sử dụng riêng): chỉ sử dụng cho một số đối

tượng nhất định, thường triển khai trong không gian phòng ngủ và phòng chuyên

dụng. Ví dụ: phòng ngủ có thể phối hợp giữa chức năng ngủ, làm việc, nghe nhạc –

xem phim, bar, trang điểm – thay đồ, tiểu cảnh – không gian xanh.

3) Liên hệ đa năng chuyên biệt (sử dụng cho 1 mục đích): nhằm tăng

cường tính hiệu quả và tiện nghi cho một mục đích sử dụng. Ví dụ: phòng vệ sinh

có thể kết hợp giữa chức năng tắm, vệ sinh, xông hơi, trang điểm – thay đồ, nghe

nhạc, tiểu cảnh – không gian xanh, thể thao nhẹ….

4) Liên hệ đa năng sinh thái: là sự kết hợp giữa các không gian để nâng cao

mức tiện nghi sinh thái trong nhà ở như: tiểu cảnh – không gian xanh, sân trong

(giếng trời), sân vườn, ban công, lô gia, hiên, hành lang.

Ngoài ra trong KTNO, không gian công năng còn có các liên hệ “ĐA NĂNG

ĐA CẤP”, phá vỡ tính phân cấp, linh hoạt kết hợp với mọi chức năng sử dụng

chung và riêng để đáp ứng nhu cầu sử dụng tại chỗ, gia tăng tiện nghi sinh hoạt. Đó

là các không gian: nghe nhạc – xem phim, tiểu cảnh – không gian xanh, làm việc,

ban công, lô gia, chỗ chơi trẻ em... Ví dụ: tiểu cảnh – không gian xanh có thể xuất

hiện nhiều nơi như: phòng khách, phòng sinh hoạt chung, phòng ăn, phòng ngủ,

phòng tắm – vệ sinh....; không gian làm việc có thể kết hợp với phòng sinh hoạt

chung, phòng khách và phòng ngủ. Những không gian thuộc chức năng nghỉ ngơi

năng động thường sử dụng liên hệ đa năng đa cấp để nâng cao chất lượng nhà ở.

70

2.2.3 “Tháp giá trị văn hóa truyền thống” trong kiến trúc nhà ở đô thị

Hệ giá trị VHTT được hình thành dựa trên tư duy tổng hợp của phương

Đông; tuy nhiên thực tế phát triển kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam hiện

nay chịu nhiều ảnh hưởng của lối phân tích phương Tây (phân tích cấu trúc công

năng và các quy luật tạo hình thẩm mỹ). Có thể nói trong nhà ở, tính truyền thống

(phương Đông) và hiện đại (phương Tây) đang tồn tại đan xen lẫn nhau. Ngoài ra,

VHTT còn là đối tượng của nhu cầu, vì vậy luận án ứng dụng lý thuyết Maslow như

một cơ sở tham chiếu độc lập để xem xét khả năng thiết lập trật tự thang giá trị theo

tư duy phân tích, cung cấp thêm luận cứ khách quan cho việc xây dựng mô hình

trong nội dung Chương III.

Quy chiếu nguyên tắc thiết lập thang bậc nhu cầu trong lý thuyết Maslow vào

đối tượng nghiên cứu của luận án nhận thấy: các giá trị VHTT cũng có thể được xếp

đặt theo trật tự trước – sau tùy theo mức độ quan trọng và cần thiết của chúng.

Trong Đề xuất 2 [mục 2.1.3.2] có 6 giá trị được chọn lọc bằng phương pháp kết hợp

giữa định tính và định lượng; tuy nhiên, trên phương diện công năng thì tính biểu

hình không được xét đến vì nó chỉ đóng góp cho hình thức KTNO. Do đó, 5 giá trị

còn lại sẽ tiếp tục được phân tích để tìm ra thứ bậc tương ứng 5 cấp độ nhu cầu.

Mặc dù vậy, sự quy chiếu này cũng chỉ tương đối bởi nó thuộc 2 lĩnh vực hoàn toàn

khác biệt nhau (giữa tâm lý học và kiến trúc), diễn giải bằng phương pháp suy luận

biện chứng.

Trong thực tế, lý thuyết Tháp nhu cầu đã được mô tả lại bởi nhiều tác giả

thuộc các phạm vi nghiên cứu khác nhau [bảng 2.9], từ đó cho thấy lý thuyết này có

thể là cơ sở ban đầu để mở rộng đối tượng nghiên cứu. Đặc điểm chung trong các

mô tả là tính phân cấp của các phần tử thuộc một hệ thống cấu trúc. Như vậy, 5

cấp độ trong lý thuyết nhu cầu có thể đặt lại tên gọi tương ứng, tuy nhiên vẫn thể

hiện tính chất phát triển tuần tự của chúng như sau: Cấp 1: cơ sở → Cấp 2: tiêu

chuẩn → Cấp 3: cân bằng → Cấp 4: mở rộng → Cấp 5: phát triển. Căn cứ theo

tính phân cấp này để suy luận trật tự các giá trị VHTT trong yếu tố công năng của

kiến trúc nhà ở như sau: Cấp 1: tính dung hòa với tự nhiên → Cấp 2: truyền thống

71

gia đình Việt → Cấp 3: tính cộng đồng → Cấp 4: tính tư hữu → Cấp 5: tính linh

hoạt/đa năng.

BẢNG 2.9: VẬN DỤNG LÝ THUYẾT “THÁP NHU CẦU” TRONG CÁC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU

1) Cấp cơ sở: tính dung hòa với tự nhiên

Nguồn gốc tồn tại của nhà ở là nhằm bảo vệ con người trước những tác động

bất lợi từ bên ngoài; tiến đến hòa hợp, chung sống trên tinh thần tôn trọng và hiểu

biết thiên nhiên. Vì vậy, tính dung hòa với tự nhiên được xem là giá trị cơ bản và

cần thiết nhất.

2) Cấp tiêu chuẩn: truyền thống gia đình Việt

Ngoài chức năng che chở, ngôi nhà còn là nơi quần cư của “tiểu xã hội” – gia

đình. Đây được xem là môi trường nuôi dưỡng cho sự phát triển của con người

trước khi hòa nhập vào “đại xã hội” – dân tộc, quốc gia, nhân loại; đồng thời duy trì

bền vững các giá trị văn hóa tiêu biểu của cả 2 cộng đồng xã hội nói trên. Vì vậy,

truyền thống gia đình Việt được xếp vào vị trí cần thiết tiếp theo.

3) Cấp cân bằng: tính cộng đồng

Vượt ra ngoài phạm vi gia đình, con người có xu hướng hòa nhập vào môi

trường xã hội, hoạt động góp phần xây dựng các thể chế văn hóa và những giá trị

chung. Tuy nhiên với tư cách cá nhân, con người lại chịu sự chi phối và điều chỉnh

72

bởi các giá trị chung mà họ tạo ra; thể hiện mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, đặc

biệt phát huy trong các xã hội truyền thống phương Đông và Việt Nam. Như vậy,

tính cộng đồng có thể xếp vị trí tiếp theo về mức độ cần thiết.

4) Cấp mở rộng: tính tư hữu

Sau khi hòa nhập vào môi trường xã hội (từ gia đình cho đến làng xã, đô

thị…); con người tiếp tục có xu hướng hoạt động để khẳng định địa vị cá nhân, cần

sự tôn trọng bằng các hình thức sở hữu riêng. Vì vậy, tính tư hữu được xếp vào cấp

độ này.

5) Cấp phát triển: tính linh hoạt/đa năng

Cuối cùng, khi 4 tính cách văn hóa nói trên đã được thể hiện và đáp ứng, con

người hướng đến sự tự do hành động và tư duy mà không muốn bị ràng buộc bởi

những yêu cầu khắt khe nào. Để đáp ứng nhu cầu đó, trong những giới hạn về vật

chất và tinh thần, người Việt đã phát triển tính linh hoạt/đa năng lên mức cao nhất

nhằm thích ứng với các tình huống.

Tổng hợp tính phân cấp của các giá trị VHTT được trình bày trong hình 2.8.

Hình 2.8: “Tháp giá trị văn hóa truyền thống” trong kiến trúc nhà ở đô thị

So sánh “Tháp giá trị văn hóa truyền thống” với Đề xuất 2 [bảng 2.6] nhận

thấy có sự phân li về thứ tự ưu tiên giữa 2 giá trị cốt lõi: tính dung hòa với tự nhiên

và tính linh hoạt/đa năng. Điều này giúp nhận biết tiềm năng của các giá trị văn hóa

theo 2 cực trạng thái: 1) cần thiết nhất cho sự tồn tại (tính dung hòa với tự nhiên);

2) cần thiết nhất cho sự phát triển (tính linh hoạt/đa năng). Hai giá trị VHTT này

73

đã bao hàm những nội dung quan trọng nhất của tiến trình hình thành và thúc đẩy sự

hoàn thiện KTNO; cho nên chúng hiển nhiên chiếm vị trí cao nhất trong việc khai

thác và ứng dụng, không chỉ đối với KTNO Việt Nam mà còn với nhiều nền kiến

trúc khác [mục 2.1.4]. Các giá trị còn lại tùy theo nhu cầu văn hóa mà thiết lập trật

tự. Như vậy, “Tháp giá trị văn hóa truyền thống” có thể xem là mô hình lý thuyết

phân cấp giá trị văn hóa, được xây dựng dựa trên cơ sở qui chiếu với mô hình lý

thuyết phân cấp nhu cầu của con người (lý thyết của Maslow).

2.2.4 Đặc điểm tương tác giữa giá trị văn hóa truyền thống với không

gian công năng trong kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam

Thiết lập sự tương tác giữa giá trị VHTT với không gian công năng

trong KTNO đô thị Việt Nam nhằm 3 mục đích sau:

1) Xác định giá trị VHTT nào có vai trò ảnh hưởng lớn nhất đến không gian

công năng trong KTNO đô thị, được đánh giá thông qua số lượng và tính chất của

tương tác (chính/phụ);

2) Xác định không gian công năng nào chịu sự chi phối nhiều nhất của các

giá trị VHTT, được đánh giá thông qua cấp độ/vùng tương tác: cao – trung bình –

thấp;

3) Đề xuất thang giá trị VHTT trên phương diện công năng.

Nội dung tương tác được hiển thị trong hình 2.9 với các KẾT QUẢ CHÍNH

như sau:

 KẾT QUẢ 1 (theo trục dọc): căn cứ vào số lượng tương tác cho thấy 5 giá

trị văn hóa được chia thành 2 nhóm: quan trọng (tính dung hòa với tự nhiên, tính

linh hoạt đa năng) và ít quan trọng (truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu, tính

cộng đồng). Như vậy, tổng hợp tương tác nội hệ (giữa các giá trị văn hóa với nhau –

Đề xuất 2) và tương tác ngoại hệ (giữa giá trị văn hóa với không gian công năng)

vẫn đưa đến cùng kết quả: tính dung hòa với tự nhiên và tính linh hoạt đa năng là

2 giá trị dẫn đầu trong việc khai thác VHTT. Tuy nhiên, vị trí ưu tiên đã có sự đảo

chiều mà vai trò quan trọng nhất thuộc về tính dung hòa với tự nhiên. Đối chiếu với

74

“Tháp giá trị văn hóa truyền thống” cho thấy sự thống nhất trên quan điểm: nhu cầu

tồn tại cần phải đáp ứng trước tiên, sau đó mới tính đến nhu cầu phát triển. Các giá

trị còn lại có thự tự lần lượt là: truyền thống gia đình Việt → tính tư hữu → tính

cộng đồng. Mức độ chênh lệch chỉ số tương tác giữa tính tư hữu và tính cộng đồng

không đáng kể nên có nhiều khả năng thay đổi vị trí cho nhau.

 KẾT QUẢ 2 (theo trục ngang): căn cứ vào số giá trị VHTT tác động đến

không gian công năng trong KTNO đô thị để chia thành 3 cấp độ/vùng tương tác,

gồm:

 Vùng tương tác cao (vùng 1): chủ yếu tập trung vào các không gian

quan trọng hàng đầu của nhà ở như: ăn, ngủ, tiếp khách, sinh hoạt chung, sân

vườn,… Đây hầu hết là những không gian “đa năng phổ quát” [mục 2.2.2], có thể

dung chứa thêm nhiều chức năng hoạt động khác theo hướng bổ trợ lẫn nhau. Đặc

biệt, trong giới hạn tương tác này, 3 giá trị văn hóa gồm: tính dung hòa với tự nhiên,

tính linh hoạt/đa năng, truyền thống gia đình Việt có vai trò ngang nhau (cùng số

lượng tác động), và tính cộng đồng thì cao hơn tính tư hữu;

 Vùng tương tác trung bình (vùng 2): tập trung vào các không gian

sinh hoạt nội bộ gia đình (không gian chơi của trẻ em, thờ cúng tổ tiên & gia thần,

lưu niệm, học tập & nghiên cứu, sinh hoạt cá nhân,…). Tại đây, vai trò của tính

dung hòa với tự nhiên gần ngang bằng với tính linh hoạt/đa năng (chủ yếu là các

không gian “đa năng giới hạn”); truyền thống gia đình Việt thì cao hơn tính tư hữu

và tính cộng đồng;

 Vùng tương tác thấp (vùng 3): đa phần là các không gian đáp ứng cho

các nhu cầu phát triển thể chất, tinh thần và thẩm mỹ nhằm nâng cao chất lượng tiện

nghi nhà ở (ví dụ: giải trí chuyên dụng, tắm hơi, sáng tác nghệ thuật,…). Vì những

chức năng này hình thành muộn hơn (trong giai đoạn hiện đại) nên ít chịu tác động

của VHTT. Đặc điểm văn hóa cơ bản của chúng là tính dung hòa với tự nhiên, kế

đến là tính linh hoạt (để kết hợp với các chức năng khác) và sử dụng cho nhiều

thành viên gia đình (truyền thống gia đình Việt). Hai giá trị còn lại gồm tính cộng

đồng và tính tư hữu đóng góp vai trò rất thấp.

Tóm lại, tác động của VHTT xét trên các vùng không gian công năng trong

75

KTNO hầu hết đều có sự biến đổi mà không cố định theo một trật tự cứng nhắc.

Duy nhất chỉ có tính dung hòa với tự nhiên luôn giữ vị trí dẫn đầu và ổn định mức

độ tương tác trong cả 3 vùng không gian; tính linh hoạt/đa năng giữ vị trí kế tiếp

nhưng suy giảm nhiều trong vùng 3; các giá trị còn lại thì tùy theo vùng không gian

mà biểu hiện mức độ tác động khác nhau. Kết quả phân vùng tương tác trên đây

giúp giới hạn và định hướng cho việc vận dụng, khai thác VHTT trên khía cạnh

công năng một cách cụ thể và rõ nét hơn. Theo đó, các không gian chức năng thuộc

vùng 1 (tương tác cao) và vùng 2 (tương tác trung bình) sẽ là đối tượng chính để

khai thác giá trị VHTT.

 KẾT QUẢ 3: thang giá trị VHTT trên phương diện công năng (tương tác

ngoại hệ)

Căn cứ theo kết quả tương tác trong hình 2.9 có thể đề xuất thang giá trị

VHTT trên phương diện công năng như sau [Đề xuất 3]:

TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM HIỆN NAY

BẢNG 2.10 -[ĐỀ XUẤT 3]: THANG GIÁ TRỊ VHTT TRÊN PHƯƠNG DIỆN CÔNG NĂNG

THANG GIÁ TRỊ VHTT TRÊN PHƯƠNG DIỆN CÔNG NĂNG

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

Ưu tiên 1

Tính dung hòa với tự nhiên

ỔN ĐỊNH

Ưu tiên 2

Tính linh hoạt/đa năng

Ưu tiên 3

Truyền thống gia đình Việt

BIẾN ĐỘNG

Ưu tiên 4

Tính cộng đồng

Ưu tiên 5

Tính tư hữu

Giữa tương tác nội hệ [Đề xuất 2] và ngoại hệ [Đề xuất 3] có sự thống nhất

về 2 nhóm giá trị: ổn định (tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng) và

biến động (tính cộng đồng, tính tư hữu, truyền thống gia đình Việt). Tuy nhiên,

trong mỗi nhóm giá trị đó, các thành phần của nó có sự thay đổi thứ bậc tùy theo

môi trường tương tác. Điểm lưu ý lớn nhất là khi đối chiếu với Tháp giá trị VHTT

(dựa trên lý thuyết nhu cầu) thì xuất hiện sự khác biệt rõ rệt về vai trò và vị trí của

tính linh hoạt/đa năng, làm đảo lộn trật tự của cả hệ thống. Theo nguyên tắc thiết

lập Tháp giá trị văn hóa truyền thống, đặc tính này thuộc cấp độ thứ 5 – cấp phát

76

triển; nghĩa là nó sẽ xuất hiện sau khi các giá trị khác đã được đáp ứng. Tuy nhiên,

trong bối cảnh chung của KTNO Việt Nam, tính linh hoạt/đa năng thuộc vị trí thứ

2, ngay sau nhu cầu tồn tại; như vậy đã bỏ qua hoặc xem nhẹ các giá trị khác mà

không tính đến quy luật tất yếu của một tiến trình phát triển có tính ổn định, bền

vững là phải được thiết lập theo nguyên tắc trật tự từ thấp đến cao. Nói cách khác,

khó có thể đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu phát triển ngay khi mới vừa thỏa mãn nhu

cầu tồn tại. Vì lý do đó, nếu xem VHTT như là động lực thì trong nội tại của nó đã

xuất hiện các mâu thuẫn. Thực tế chứng minh rằng trong một thời gian dài, cách tổ

chức công năng nhà ở của người Việt có nhiều bất cập, và thích hợp cho lối sống

mà những đòi hỏi về nhu cầu chỉ ở mức độ sơ cấp, tạm chấp nhận theo kiểu “sử dụng chung” (nghỉ ngơi - làm việc – giải trí hòa lẫn vào nhau)34. Điều này dường

như không còn ý nghĩa với những đỏi hỏi tiện nghi cao hơn của nhu cầu không gian

công năng trong nhà ở đô thị hiện nay, khi mà động lực phát triển kinh tế và sự cần

thiết phải đáp ứng tính chất riêng tư ngày càng gia tăng; ngoài ra còn phải tính đến

trình độ nhận thức thẩm mỹ và nhu cầu giải trí, nghỉ dưỡng đã được nâng cao vượt

trội. Như vậy, tháp giá trị VHTT là một đóng góp có giá trị để định hướng cho việc

khai thác. Điều này không nhằm dẫn đến kết luận phản biện hoàn toàn vai trò của

thang giá trị VHTT trên phương diện công năng mà đặt lại cách hiểu và vận dụng

tính linh hoạt/đa năng ở một tầm mức khác hơn. Phương thức giải quyết sẽ được

trình bày trong Chương III của luận án, nhưng có thể khẳng định rằng những giá trị

văn hóa cần được đặt vào các vị trí tương xứng để phát huy vai trò và ảnh hưởng

của chúng trong xu hướng phát triển nhà ở hiện nay.

2.3 Mối quan hệ giữa giá trị văn hóa truyền thống với hình thức kiến trúc

nhà ở đô thị Việt Nam

2.3.1 Vai trò của giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức kiến trúc

34 Mô hình này thích hợp cho điều kiện kinh tế tiểu nông, tiểu thương và lạc hậu.

nhà ở đô thị

77

2.3.1.1 Tiếp cận quan điểm Mỹ học (Aesthetic) và Mỹ học Kiến trúc

(Aesthetic of Architecture)

Thẩm mỹ được xem là một trong những mục tiêu chính của

kiến trúc. Theo Vitruvius (80 – 15 TCN), một công trình kiến trúc tốt phải đáp ứng

3 yêu cầu: vẻ đẹp (venustas) – tiện ích (utilitas) – vững chắc (firmitas). Ngày nay

chúng được hiểu là: hình thức – công năng – kết cấu. Trong đó, hình thức đề cập

đến khía cạnh thẩm mỹ của tòa nhà và việc nghiên cứu được hỗ trợ bởi lý luận của

Mỹ học và Mỹ học kiến trúc.

Plato (427 – 347 TCN), người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết về cái Đẹp

(Beauty), xem nó thuộc đối tượng của nhận thức hơn là của thế giới hiện tượng; và

sự hiểu biết cái đẹp đòi hỏi phải được tư duy phân tích triết học. Giai đoạn về sau,

từ Descartes đến Hume và Collingwood tiếp tục làm rõ ý nghĩa thẩm mỹ như là

phạm trù tinh thần của con người [67].

Theo quan điểm của I. Kant (1724 – 1804), sai lầm của các nhà siêu hình học

cũ kể từ Aristote đến Bacon, Descartes, Spinoza… là khi nhận thức thế giới: hoặc

rơi vào Chủ nghĩa kinh nghiệm (Empiricism), tuyệt đối hóa vai trò của cảm giác,

kinh nghiệm; hoặc rơi vào Chủ nghĩa duy lý (Rationalism), đề cao vai trò của lý

tính, tư duy trong quá trình nhận thức. Để khắc phục hạn chế đó, trong tác phẩm

“Phê phán năng lực phán đoán”, Kant đề xuất quan điểm dung hòa: cái đẹp là một

phạm trù không xác định, vừa mang tính phổ quát tất yếu, vừa mang tính chủ quan

cá thể [48]; đồng thời xây dựng năng lực phán đoán thẩm mỹ dựa trên 4 phương

diện: chất lượng, số lượng, quan hệ và tình thái.

Đối với Hegel (1770 – 1831), vẻ đẹp của một tác phẩm nghệ thuật là sự kết

hợp 2 mặt: nội dung của nghệ thuật là ý niệm; hình dáng của nghệ thuật là hình

dáng dễ cảm nhận và giàu sức tưởng tượng [52]. Nghệ thuật còn được hiểu là: lý

tính của cái hiện thực.

Với tác phẩm “Beauty and Illusion” (Cái đẹp và Ảo giác), Samuel Alexander

trình bày khái niệm “tính phù du” của cái đẹp trong nghệ thuật như là khả năng

truyền đạt những gì không tồn tại (hoặc mô tả một cách rõ ràng). Ông ví dụ: câu từ

của một bài thơ không chỉ đơn thuần để mô tả mà còn tràn ngập các cảm xúc và ý

78

nghĩa. Vì như vậy, một mô tả khoa học đơn thuần sẽ không có [68]. Điều này dường

như tương đồng với kiến trúc, bởi ngoài chức năng sử dụng nó còn là đối tượng

mang thông tin, chuyển tải những “câu chuyện về lịch sử, văn hóa” thông qua ngôn

ngữ của hình thức và không gian.

Đầu thế kỷ XX, Le Corbusier (1887 - 1965) bàn về sự khác biệt và liên quan

giữa tính thẩm mỹ kỹ thuật với kiến trúc, ông cho rằng kỹ thuật lấy cảm hứng từ

nguyên tắc kinh tế và điều chỉnh nó thông qua những phép tính toán học để phù hợp

quy luật phổ quát, từ đó đạt được sự hài hòa. Nhưng kiến trúc thì không chỉ có hài

hòa mà còn gợi lên cảm xúc, và do đó đạt được vẻ đẹp. Kiến trúc là một vật thể

nghệ thuật, một hiện tượng của những cảm xúc và nằm ngoài vấn đề xây dựng

[79].

Susanne Langer (1895 - 1985) lần đầu tiên đề cập khái niệm “vùng dân tộc”

(ethnic domain) trong việc tìm hiểu thẩm mỹ kiến trúc bằng lập luận: hình ảnh của

cuộc sống được tạo ra trong các tòa nhà. Thông qua sự biểu hiện và tác động lẫn

nhau của các hình thức có thể nhận thấy “vùng dân tộc” hay các biểu tượng của

nhân loại. Langer cho rằng kinh nghiệm thẩm mỹ kiến trúc phụ thuộc vào sự tham

gia tích cực vào cuộc sống; và nhờ đó, kiến trúc sư sáng tạo ra hình ảnh công trình:

một thể vật lý của môi trường hiện tại, phản ánh đặc tính có quy luật của các hình

mẫu chức năng được cấu thành văn hóa [78].

Theo Roger Scruton (1944): thẩm mỹ kiến trúc trước tiên phải đến từ hiểu biết

về tính tiện ích, và nó là sự hợp nhất các kinh nghiệm của tư duy phân tích [89].

Ông đánh giá kiến trúc như là một đối tượng của nghệ thuật (bên cạnh tính tiện ích)

và khẳng định phong cách kiến trúc cổ điển (Phục hưng Ý) có "đạo đức" vượt trội

hơn phong cách Hiện đại. Quan điểm này thống nhất với xu hướng Hậu hiện đại.

Trong tác phẩm “Complexity and Contradiction in Architecture” (Sự phức tạp và

mâu thuẫn trong kiến trúc), Robert Venturi cho rằng việc sử dụng trang trí và

“ngôn từ biểu tượng” (symbolic rhetoric) là cần thiết, từ đó đặt trọng tâm khai thác

kiến trúc vào giá trị lịch sử, văn hóa địa phương nhằm gợi lên các ý nghĩa và cảm

xúc.

Với một số trích dẫn trên đây cho thấy thẩm mỹ là đề tài có tính bao quát rộng

79

và việc trình bày các khái niệm liên tục được cập nhật, sáng tạo bởi nhiều học giả

trong các khía cạnh nghiên cứu khác nhau. Mỹ học kiến trúc là một phân nhánh của

mỹ học thực dụng [19, tr.20]; nó không giống với vẻ đẹp của các bộ môn nghệ thuật

khác như điêu khắc, hội họa…. Trong cái đẹp kiến trúc chứa đựng tính kỹ thuật vật

chất và hiệu quả xã hội không thể chia tách. Mỹ học kiến trúc được giải thích bằng

một số lý thuyết (tóm lược) như sau [8, tr.55-78]:

 Thuyết Ích Mỹ: hữu dụng tức là đẹp. Chủ nghĩa công năng là một trong

những tư tưởng có sức ảnh hưởng mạnh nhất, điển hình của “ích mỹ” cận đại. Có 2

hình thức biểu hiện: 1) vẻ đẹp của sự “so sánh với sinh vật” (Kiến trúc hữu cơ –

Frank Lloyd Wright); 2) vẻ đẹp so sánh với máy móc (Nhà là cái máy để ở - Le

Corbusier);

 Thuyết Vui sướng: cái đẹp chỉ có thể nhìn thấy trong hình tượng (công

trình kiến trúc tự nó có quy luật riêng tồn tại khách quan). Lý thuyết này tìm kiếm

vẻ đẹp từ mối quan hệ tương hỗ của các yếu tố như: hình thể, kết cấu, tính cơ lý,…

bằng sự nhịp nhàng của tỷ lệ, sự hài hòa giữa các bộ phận, màu sắc tươi sáng. Theo

Le Corbusier, đường khống chế là loại đường làm thỏa mãn yêu cầu tinh thần, giúp

tìm được quan hệ hài hòa tuyệt diệu và đem đến một tác phẩm có hồn. Đó cũng là

nguyên nhân sự tồn tại vẻ đẹp của tác phẩm;

 Thuyết Biểu hiện: gồm

1) Biểu hiện chủ quan: hình thức kiến trúc chuyển tải ý nghĩa và quan

điểm nào đó, thể hiện tình cảm con người và môi trường thiên nhiên nhất định.

Theo Susanne Langer thì kiến trúc cần thông qua lĩnh vực khu vực, phạm vi, nơi chốn, không gian để biểu thị dấu hiệu tình cảm35. Ngoài ra, thuyết biểu hiện chủ

quan còn nhấn mạnh đến hình thái kết hợp từ các bộ phận và vật liệu như: mái nhà,

tường đỡ, cột, dầm, xà, cửa, nền và gạch, gỗ, ngói, đá,… Ở đây, hình thức kiến trúc như “một hệ thống ngôn ngữ” mà Chales Jencks đề xuất đó là thức cổ điển36 và đặc

tính của vật liệu.

35 Ví dụ: nhà ở là biểu tượng của gia đình; chùa miếu là dấu hiệu của “thiên đường thượng giới”… 36 Ví dụ: kiểu dáng cột Doric thể hiện vẻ đẹp của đàn ông tráng kiện, mạnh mẽ; kiểu cột Korinth thể hiện vẻ

đẹp nữ tính, tinh tế, diễm lệ…

2) Biểu hiện khách quan: thể hiện thế giới khách quan của tự nhiên và xã

80

hội37. Tiêu biểu: chủ nghĩa biểu hiện Đức, chủ nghĩa công năng Hoa Kỳ, chủ nghĩa

phong cách Hà Lan, chủ nghĩa kết cấu Nga, chủ nghĩa vị lai Ý, kiến trúc High-

tech… Chúng nặng về thể hiện đối tượng khách quan mà không phải thể hiện chủ

quan tự mình (biểu hiện “vật” mà không biểu hiện “người”).

 Thuyết Lưỡng tầng: vẻ đẹp của các công trình kiến trúc có thể chia thành 2

cấp độ:

1) Đẹp hình thức: đề cập đến các yếu tố của hình thức như tỷ lệ, sự hài

hòa, cân bằng, đối xứng, hư thực, màu sắc và cảm quan.

2) Đẹp nghệ thuật: ngoài các yếu tố nêu trên còn đề cập đến tính tư tưởng

và tính nghệ thuật, làm cho công trình có sức truyền cảm, có sáng tạo “ý cảnh” (thể

hiện nội dung qua hình ảnh).

2.3.1.2 Vai trò của văn hóa truyền thống trong hình thức kiến trúc

nhà ở đô thị Việt Nam

Từ việc phân tích các lý thuyết trên đây có thể nhận thấy 3 xu

hướng thẩm mỹ như sau [hình 2.10]:

1) Xu hướng chủ quan: quan điểm cái đẹp thuộc về phạm trù tinh thần hay

lý tính chủ quan khi xem xét một đối tượng bên ngoài - kiến trúc. Nói cách khác, tác

phẩm kiến trúc là phương tiện thể hiện ý chí, tình cảm, tư tưởng của con người và được sáng tạo bởi mỹ cảm38. Khi đó, kiến trúc có thể không tuân theo quy luật tạo

hình thẩm mỹ nào. Để cảm thụ được ý nghĩa của nó đòi hỏi người xem phải có một

thái độ thẩm mỹ nhất định, kinh nghiệm sống và trình độ văn hóa… Một số tác giả

đại diện cho quan điểm này như: Plato, Bacon, Descartes, Susanne Langer, Roger

Scruton, Chales Jecnks…;

2) Xu hướng khách quan: quan điểm cái đẹp thuộc về đối tượng/khách thể

hay vẻ đẹp tự thân của kiến trúc. Điều kiện đặt ra khi đó là kiến trúc phải đáp ứng

37 Ví dụ: biểu hiện sức sống thịnh vượng của thiên nhiên, hiện tại và tương lai, “lực” vận động và thời gian,

công năng vật liệu và kết cấu, sự phát triển của kỹ thuật hiện đại…

38 Mỹ cảm: ý thức thẩm mỹ, tâm lý thẩm mỹ, thái độ thẩm mỹ, lập trường thẩm mỹ, kinh nghiệm thẩm mỹ.

những tiêu chí nhất định, tuân theo các quy luật của tạo hình thẩm mỹ (có tính chất

81

khách quan) như: tính hài hòa, biến hóa và thống nhất, đối xứng, tỷ lệ, cân bằng, các

quy luật số học... Xu hướng khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa hình thức và các quy luật hình thức39. Những quy luật này tương đồng với bản chất tự nhiên của

con người, vì vậy gây nên sự rung cảm trước vẻ đẹp nhưng không truyền đạt một tư

tưởng hay lý giải nào. Vấn đề chính của chủ nghĩa hình thức, trong hình thái tiêu

chuẩn của nó, không phải là ở chỗ nó bỏ qua nội dung biểu hiện – dù đó cũng là

một lỗi nghiêm trọng – mà ở chỗ nó khăng khăng cho rằng điều quan trọng nhất

của tác phẩm là hình thức bề ngoài, chứ không phải lịch sử hình thành [86]. Ngoài

ra, khi tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn mất đi công dụng xã hội, chỉ còn dành để

thưởng thức thẩm mỹ thôi, nó trở thành “cái đẹp thuần túy”, một thứ trang sức

hoàn mỹ và có xu hướng suy vong [19, tr.180]. Một số tác giả đại diện cho quan điểm này như: Oscar Wlide40, Le Corbusier, Ludwig Mies Van Der Rohe…;

3) Xu hướng kết hợp (thống nhất chủ - khách quan): để đạt được vẻ đẹp

thì đối tượng thẩm mỹ - kiến trúc phải có những tố chất khách quan phù hợp với hình thái ý thức chủ quan41. Vì vậy, kiến trúc được sáng tạo theo quy luật của cái

đẹp và thống nhất với mỹ cảm; thể hiện tư tưởng, tình cảm, tư duy của con người.

Bản thể tình cảm hay cấu trúc tâm lý thẩm mỹ với tư cách là bộ phận quan trọng

của việc nhân hóa tự nhiên nội tại của con người, tác phẩm nghệ thuật chính là sản

phẩm đối ứng vật thể hóa của nó [19, tr.183]. Một số tác giả đại diện cho quan điểm

này như: Immanuel Kant, Theodor Lipps, Samuel Alexander, Kisho Kurokawa,...

Xét theo cách phân loại trên đây thì KTNO truyền thống là đối tượng thẩm mỹ

thuộc xu hướng thứ 3 (thống nhất chủ - khách quan), được tạo tác theo các quy luật

hình thức (tính hình học, tính vần điệu, tính đối xứng/cân bằng, tỷ lệ hài hòa…).

Hình thể mà nó mang lại tác động tới bản thể tình cảm của con người, khơi gợi nên

39 Qui luật hình thức: tạo hình theo qui luật của cái đẹp và là thuộc tính tự nhiên của vật chất; 40 Oscar Wlide (1854 – 1900): nhà mỹ học nổi tiếng Ireland, người khai sáng phong trào nghệ thuật vị nghệ

thuật;

41 “Thuyết đồng cấu” trong tâm lý học Gestal giải thích: do “lực” của thế giới bên ngoài (vật lý) và thế giới bên trong (tâm lý) về cấu trúc hình thức có quan hệ “đồng cấu”, giữa chúng có một sự đối ứng với nhau về mặt cấu trúc, gây nên trong đại não một xung động điện mạch. Vì vậy, đối tượng bên ngoài và tình cảm bên trong hòa thành một nhịp, chủ khách hợp điệu, sự vật và cái tôi thống nhất…nảy sinh niềm thích thú mỹ cảm.

ý nghĩa về nơi chốn, các truyền thống gia đình, triết lý vũ trụ quan, tư tưởng xã hội,

82

văn hóa cộng đồng… Chính vì vậy, KTNO truyền thống còn là một tác phẩm nghệ thuật 42, tổng hòa của vẻ đẹp tự thân và mỹ cảm.

Căn cứ vào quan điểm nêu trên nhận thấy giá trị VHTT có thể đóng góp cho

hình thức KTNO đô thị 3 vai trò sau đây:

1) Xây dựng quy luật thẩm mỹ truyền thống: gồm 3 yếu tố: nghệ thuật tạo

hình, kỹ thuật truyền thống, giải pháp dung hòa với tự nhiên. Đây là những yếu tố

khách quan tác động trực tiếp đến vẻ đẹp của ngôi nhà, đại diện bởi các thuộc tính

vật thể (vật liệu tự nhiên, màu sắc, motif trang trí…) và phi vật thể (tính vần luật,

tính hình học, tỷ lệ hài hòa…).

2) Chuyển tải hình thái ý thức: thông qua hình thức thẩm mỹ để truyền đạt

nội dung tinh thần, tư tưởng của người Việt. Đó là: triết lý Thiên Địa Nhân hợp nhất

(tính dung hòa với tự nhiên), tư tưởng Nho giáo (truyền thống gia đình Việt), tư duy

cộng đồng (tính cộng đồng), quan điểm cá nhân (tính tư hữu), quan điểm thích ứng

với môi trường tự nhiên và xã hội (tính linh hoạt/đa năng).

Hai vai trò nêu trên có nhiều điểm tương đồng với cách tiếp cận theo lý thuyết

Ký hiệu học (Semiology) [phụ lục 1], gồm cái biểu đạt (cấu trúc thẩm mỹ) và cái

được biểu đạt (hình thái ý thức); hay hình thức chuyển tải nội dung. Ngoài ra, bằng

cách tổng hợp chúng còn đưa đến sự xuất hiện vai trò thứ 3, đó là:

3) Xây dựng nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống: vừa mang tính khách quan

của đối tượng (hình thức KTNO) vừa mang tính chủ quan của con người (tư duy,

tình cảm, mỹ cảm…). Nguyên tắc thẩm mỹ bao gồm các quy luật thẩm mỹ và

những hàm nghĩa, đồng thời được cấu trúc theo một trật tự thứ bậc nhất định. Điều

này tương ứng với tính phân cấp của hệ giá trị VHTT như đã trình bày. Thông qua

nguyên tắc thẩm mỹ, quy luật thẩm mỹ và các hàm nghĩa có thể nhận diện đặc trưng

thẩm mỹ của kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam

Nguyên tắc thẩm mỹ của kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam bao gồm 5

yếu tố sau:

42 Theo định nghĩa của Lý Trạch Hậu [19, tr.180]: Chỉ khi một đối tượng vật chất được chế tác nhân tạo với hình thể tồn tại của riêng nó tác động tới bản thể tình cảm của con người thì tác phẩm nghệ thuật mới xuất hiện và tồn tại một cách hiện thực.

- Đẹp – Đẹp thành tố: vẻ đẹp tự thân của kiến trúc nhà ở, đại diện bởi các

83

thành phần có thuộc tính hình học và tỷ lệ như đường (đường thẳng của cột, đường

xiên của mái…), đường bao, mặt lưới (hình thức của phên, giại, nan cửa), bóng râm

(tạo thành dưới mái che, hàng hiên, ô văng), chi tiết cấu kiện (hoa văn trang trí đầu

cột, đỉnh mái, cửa…). Nguyên tắc đẹp thành tố dẫn nghĩa đến các giá trị riêng trong

văn hóa truyền thống (tính tư hữu).

- Đẹp – Đẹp hài hòa với tự nhiên: vẻ đẹp của ngôi nhà không tách rời với

khung cảnh, môi trường thiên nhiên xung quanh; dẫn nghĩa đến sự thích ứng với

điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm (tính dung hòa với tự nhiên).

- Đẹp – Đẹp tổng thể: vẻ đẹp của ngôi nhà được nâng cao bởi sự thống nhất

giữa các thành phần cấu trúc; dẫn nghĩa đến tính cộng đồng của người Việt;

- Đẹp – Đẹp trật tự: vẻ đẹp của ngôi nhà có tính thứ tự trước – sau, chính -

phụ theo các nguyên tắc đối xứng hoặc cân bằng; dẫn nghĩa đến giá trị truyền thống

gia đình Việt.

- Đẹp – Đẹp đa dạng: vẻ đẹp của ngôi nhà mang tính động và biến đổi bởi

các cấu trúc có khả năng dịch chuyển (phên, giại, cửa, khung cột); dẫn nghĩa đến

tính linh hoạt/đa năng.

Như vậy, các vai trò trên đây là cơ sở định hướng cho sự chuyển đổi giá trị

VHTT trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam hiện nay theo một thể thức trật tự và

thống nhất, đảm bảo việc ứng dụng không vượt ra khỏi đặc trưng thẩm mỹ truyền

thống nhưng vẫn có thể phát huy tính thời đại bằng công nghệ và sự sáng tạo.

2.3.2 Sự chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong hình thức kiến

trúc nhà ở đô thị

2.3.2.1 Tiếp cận phương pháp Ký hiệu học (Semiology)

Ký hiệu học là khoa học đề cập đến việc nhận biết và phân tích

các dấu hiệu (sign), biểu tượng (symbol) trong tất cả các hình thức và khía cạnh,

bao gồm ngôn ngữ (nói - viết) và phi ngôn ngữ như: sinh lý học, sinh học, ngữ

nghĩa học, hệ thống giá trị và tất cả các dạng chuyển động, tâm trạng, ý thức, vô

thức… Ký hiệu học hiện đại hình thành vào đầu thế kỷ XIX (dựa trên nền tảng ký

84

hiệu học Hy Lạp cổ đại), sử dụng trước tiên cho ngôn ngữ học, sau đó mở rộng để

nhận thức các cơ chế truyền thông. Học thuyết này được phát triển bởi nhiều tác giả

như Charles Sanders Peirce, Ferdinand de Saussure, Charles W. Morris, Umberto

Eco, Levi Strauss, Jacques Lacan, Roland Barthes [bảng 2.11]; trong đó, quan điểm

của Peirce [hình 2.11] và Saussure [hình 2.12; 2.13] được xem là lý thuyết cơ bản

nhất cho các nghiên cứu nhân học, văn hóa, lịch sử và nghệ thuật.

Trong kiến trúc, ứng dụng ký hiệu học gặp phải những thách thức vì đã tồn tại

quan niệm cho rằng kiến trúc được tạo ra là để thực hiện các chức năng chứ không

nhằm mục đích giao tiếp. Tuy nhiên, thực tế chứng minh kiến trúc vừa có thể chứa

đựng các hoạt động của con người nhưng cũng là đối tượng mang thông tin.

Phát triển từ lý thuyết của Ferdinand de Sassures, O.K.Ogden và I.A.Richard

đề xuất cách tiếp cận theo mô hình “Tam giác ký hiệu học” (Semiological Triangle)

[66], thể hiện mối quan hệ giữa 3 yếu tố: tư tưởng (thought) – biểu tượng (symbol)

– vật/sự ám chỉ (referent) [hình 2.14]. Trước đó, Chales Jencks cũng đã xây dựng

“Tam giác ký hiệu học” mà 3 đỉnh của nó gồm: tư tưởng (thought) - ngôn ngữ

(language) - thực tế (reality) [74].

Hình 2.14: Mô hình “Tam giác ký hiệu học” của O.K.Ogden và I.A.Richard

Theo mô hình này, các công trình kiến trúc là thực thể phản ánh những tham

số văn hóa - xã hội được gắn kết trên cả 2 khía cạnh không gian và hình thức thẩm

mỹ, thể hiện niềm tin và ý tưởng của con người trong cuộc sống. Ngoài ra, kiến trúc

còn được xem như một phần của văn hóa toàn thể, đại diện cho một xã hội hay dân

tộc. Cho nên, nó còn là phương tiện để nhận thức giá trị văn hóa, tư tưởng của xã

85

hội và dân tộc đó.

Ứng dụng mô hình trên vào việc phân tích giá trị VHTT trong KTNO thành

phố Bushehr – Iran, Mojtaba Parsaee, Mohammad Parva và Bagher Karimi đề xuất

“Tam giác ký hiệu học trong kiến trúc” [84] như sau:

Hình 2.15: Tam giác ký hiệu học trong kiến trúc

Luận điểm của các tác giả cho rằng cơ chế kiến trúc gồm 2 thành phần: tổ

chức không gian và hình thể vật lý. Chúng được tạo nên bởi nhu cầu sử dụng của

con người, gắn liền với vai trò tác động của các yếu tố văn hóa – xã hội. Như vậy,

bản thân mỗi thành phần kiến trúc đều có khả năng chuyển tải các giá trị đặc trưng

văn hóa – xã hội thông qua quá trình phân tích các nội dung của nó.

2.3.2.2 Cơ chế43 chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong hình

thức kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam dựa trên phương pháp

Ký hiệu học

Kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam xét trên khía cạnh hình

thức được chia thành 2 tiểu cấu trúc:

1) Cấu trúc bề mặt (đặc điểm nhận dạng/cái biểu đạt - signifier): là những

thành phần nhìn thấy được (hình thể vật lý), bao gồm: mái, cửa đi & cửa sổ, kết cấu

bao che đặc thù (phên, giại, ô thoáng), hàng hiên/lô gia, khung cột, nền. Mỗi thành

43 Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" (cơ chế) là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình thực hiện".

phần này mang đặc điểm nhận dạng riêng, tổng hợp trong bảng 2.12; thông qua đó

86

có thể phân biệt KTNO của từng dân tộc hay từng vùng văn hóa khác nhau.

2) Cấu trúc chiều sâu (hàm nghĩa/cái được biểu đạt – signified): là những

giá trị văn hóa tiềm ẩn nhưng đóng vai trò chi phối nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ

của hình thức KTNO. Đây được gọi là yếu tố tác động (cái được biểu đạt –

signified), gồm 3 giá trị: 1) kỹ thuật truyền thống; 2) nghệ thuật tạo hình; 3) giải

pháp dung hòa với tự nhiên. Phân tích vào bên trong, mỗi giá trị đó lại được hợp

thành bởi nhiều đặc tính thuộc phạm trù vật thể và phi vật thể, tạo nên một cơ tầng

văn hóa phong phú và đa dạng. Ngoài ra, sự tồn tại của chúng không phải ngẫu

nhiên mà dựa trên 3 cơ sở tham chiếu (referent) có tính chất bắt buộc và cũng là

những đại diện của môi trường kiến trúc, gồm: 1) điều kiện kinh tế; 2) điều kiện văn

hóa – xã hội; 3) điều kiện tự nhiên. Trong đó, 2 cơ sở tham chiếu đầu tiên luôn tiềm

ẩn những động lực biến đổi – bất định – theo xu hướng phát triển của xã hội loài

người nói chung và từng quốc gia, dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, phía sau sự bất

định vẫn tồn tại những giá trị mà mức độ thay đổi rất chậm chạp, được gọi chung là

các giá trị truyền thống hay bản sắc (tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa

năng, tính cộng đồng, truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu). Đối với KTNO truyền thống thì vai trò của công nghệ và tính sáng tạo44 không được đánh giá cao,

nhưng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự tạo thành thẩm mỹ của hình thức

KTNO đô thị Việt Nam hiện nay.

Bằng những phân tích trên cho thấy cơ chế chuyển đổi giá trị VHTT trong

hình thức KTNO đô thị Việt Nam đặt trọng tâm vào 5 đối tượng tham chiếu, với 4

đối tượng bất định là: điều kiện kinh tế, điều kiện văn hóa – xã hội, công nghệ và

tính sáng tạo; chỉ có điều kiện tự nhiên duy trì được sự ổn định lâu dài. Như vậy,

các động lực của hình thức KTNO mang thiên hướng vận động và biến đổi trên nền

tảng có tính chất quyết định của công nghệ và tư duy sáng tạo. Đây cũng là nguyên

nhân đưa đến điểm khác biệt và nở rộ của hình thức nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay

so với truyền thống. Tuy nhiên, nhờ vào vai trò của tính sáng tạo mà các giá trị

44 Công nghệ và sự sáng tạo cũng là các đối tượng biến đổi không ngừng theo sự phát triển của kinh tế - xã

hội và quan niệm thẩm mỹ hiện nay.

VHTT được gắn kết và còn tiếp tục phát huy trong sự tìm tòi và khai thác. Bên cạnh

87

đó cũng không thể tránh khỏi những trường hợp phủ nhận sạch trơn, gây ra các

phản biện trái ngược về lý luận kiến trúc giống những gì chủ nghĩa Hiện đại đã làm.

Cho đến nay, việc khôi phục các giá trị này là cần thiết và cấp bách. Mục tiêu xây

dựng cơ chế chuyển đổi là để nhận thức rõ hơn phương pháp tiếp cận giá trị thẩm

mỹ truyền thống trong kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay. Đó là các cơ chế

sau [hình 2.16]:

1) Chuyển đổi nguyên gốc: đặc trưng bởi sự sao chép (kế thừa thụ động) các

giá trị VHTT trong KTNO. Về nguyên tắc, điều này đi ngược lại tính chất năng

động của xu hướng phát triển, vì vậy phát sinh các trở lực và mâu thuẫn. Điểm then

chốt của sự chuyển đổi này là loại bỏ hoàn toàn tính sáng tạo, mức độ tương tác với

các yếu tố kinh tế, văn hóa – xã hội và công nghệ khá mờ nhạt; nhưng lại kế thừa

hoàn chỉnh khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên từ văn hóa và kiến trúc

truyền thống. Trong giai đoạn khởi đầu, khi mà nhu cầu cơ bản của xã hội chưa cao

thì sự sao chép có thể phù hợp nhất định với nhận thức thẩm mỹ và sáng tạo có giới

hạn. Tuy nhiên, xét về lâu dài, phương thức chuyển đổi này chỉ được xem là bước

trung chuyển cho chặng đường khai phá những tiềm năng to lớn hơn ở các giai đoạn

phát triển về sau.

2) Chuyển đổi một phần: sau khi phân tích và thống nhất một số đặc trưng

tiêu biểu của kiến trúc truyền thống (ví dụ: yếu tố mái, chi tiết trang trí hoa văn, lan

can, con tiện,…), tiếp đó chúng được vận dụng vào trong KTNO hiện đại để “gợi ý”

về tính dân tộc và bản sắc. Phương thức chuyển đổi như vậy gần tương đồng với

quan điểm thực hành của học thuyết kiến trúc Hậu hiện đại; tuy nhiên, chính nó

cũng bị phê phán bởi còn lệ thuộc nhiều vào yếu tố lịch sử. Trong cơ chế này, tính

sáng tạo và khả năng bức phá của công nghệ cho tạo hình thẩm mỹ vẫn còn thấp;

nhưng nhìn chung đã bắt đầu định vị vai trò sáng tạo cá nhân trong hình thức kiến

trúc nhà ở.

3) Chuyển đổi tương ứng: đại diện cho tính chủ động sáng tạo trong hình

thức KTNO đô thị Việt Nam hiện nay, bao hàm cả sự đóng góp không nhỏ của

những tiến bộ công nghệ xây dựng và sự kết nối chặt chẽ với những biến đổi của

điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội. Điểm nổi bật của cơ chế này là sự tự do phát

88

triển hình thức KTNO; tính kế thừa giá trị thẩm mỹ truyền thống như được đặt

trong môi trường rộng mở bằng những tìm tòi và khám phá. Nó tháo bỏ hoàn toàn

sự ràng buộc vào các khuôn mẫu cứng nhắc, cố định mà chỉ tập trung khai thác tiềm

lực bên trong, tồn tại dưới dạng động năng tạo thành thẩm mỹ KTNO. Đó là sự ứng

dụng các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ truyền thống để chuyển tải các hàm

nghĩa, thể hiện quan điểm về cái đẹp và những trạng thái tinh thần của người Việt.

Tại đây, VHTT được nhận diện thông qua sự giải mã các thông tin bằng cảm giác

nhiều hơn trực giác, bằng liên tưởng, phán đoán nhiều hơn sự chỉ định. Có nghĩa là

mức độ liên kết giữa ký hiệu (hình thức KTNO) - với sự ám chỉ (tham số văn hóa –

xã hội) khá phong phú chứ không theo một phương thức duy nhất, cố định theo kiểu

nhìn vào thấy ngay. Như vậy, hình thức KTNO hiện đại là một thể có tính trừu

tượng và hàm ý mà đòi hỏi người xem phải tích lũy kinh nghiệm tối thiểu về kiến

trúc truyền thống để cảm thụ chúng. Đây cũng là cơ chế sẽ được tập trung khai thác

trong Chương III của luận án.

2.3.3 Đặc điểm tương tác giữa giá trị văn hóa truyền thống với hình thức

kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam

Thiết lập mô hình tương tác giữa giá trị VHTT với hình thức KTNO đô

thị Việt Nam nhằm 2 mục đích sau:

1) Xác định thành phần kiến trúc nào chịu sự tác động nhiều nhất của VHTT,

được đánh giá thông qua số lượng tương tác;

2) Xác định giá trị VHTT nào có vai trò ảnh hưởng lớn nhất đến hình thức

KTNO đô thị, được đánh giá thông qua cấp độ tương tác (cao/thấp);

Nội dung tương tác được biểu thị trong hình 2.17 với các KẾT QUẢ CHÍNH

như sau:

 KẾT QUẢ 1 (theo trục dọc): căn cứ vào số lượng tương tác cho thấy 6

yếu tố của hình thức KTNO đô thị được chia thành 2 nhóm: quan trọng (kết cấu

bao che đặc thù, cửa, mái, hiên/logia) và ít quan trọng (khung/cột, nền nhà). Mức

độ quan trọng hay ít quan trọng tùy thuộc vào mối quan hệ với các giá trị VHTT.

89

Nghĩa là, đối với những yếu tố dẫn đầu về số lượng tương tác thì việc khai thác

chúng sẽ đem lại nhiều hiệu quả hơn để nhận diện giá trị VHTT. Mô hình tương tác

này được xét trong điều kiện là tất cả các giá trị thẩm mỹ truyền thống đều phát huy

hết khả năng tham dự trong từng yếu tố của hình thức KTNO. Chỉ bằng cách này

mới có thể xác lập và so sánh mức độ quan trọng của các giá trị, từ đó chọn lọc

những giá trị có nhiều tiềm năng để kế thừa. Trong thực tế, mối quan hệ đầy đủ như

vậy khó xãy ra, cho nên đây được xem là mô hình tương tác lý tưởng.

 KẾT QUẢ 2 (theo trục ngang): căn cứ vào số lượng tác động của từng

giá trị VHTT đối với các yếu tố hình thức KTNO đô thị để chia thành 2 cấp độ:

- Cấp độ 1 – tương tác cao: gồm 9 đặc tính thẩm mỹ là hình thức

thông gió tự nhiên, che nắng, tạo bóng râm, vật liệu tự nhiên, tính đối

xứng/cân bằng, tỷ lệ hài hòa, tính hình học, tính cơ động, tính vần

điệu. Đây là các đặc tính sẽ được chọn lọc để xây dựng mô hình khai

thác trong Chương III;

- Cấp độ 2 – tương tác thấp: gồm 7 đặc tính thẩm mỹ là vật liệu sản

xuất thủ công, hình thức chống ẩm, cấu trúc điển hình hóa, trang trí

hoa văn, tổ hợp theo phương ngang, hình thức chiếu sáng tự nhiên,

chống mưa tạt. Do khả năng chuyển tải giá trị thẩm mỹ truyền thống

hạn chế nên các đặc tính này sẽ bị loại trừ.

Như vậy, bằng cách thiết lập mô hình tương tác giữa giá trị VHTT với các yếu

tố của hình thức kiến trúc nhà ở đô thị đã chọn lọc được các đối tượng cần thiết để

xây dựng mô hình khai thác (triển khai trong Chương III). Đó là những yếu tố thuộc

nhóm quan trọng (kết cấu bao che đặc thù, cửa, mái, hiên/logia) và 9 đặc tính

thẩm mỹ truyền thống (hình thức thông gió tự nhiên, che nắng, tạo bóng râm, vật

liệu tự nhiên, tính đối xứng/cân bằng, tỷ lệ hài hòa, tính hình học, tính cơ động, tính

vần điệu). Quá trình chọn lọc này giúp tập trung hướng khai thác vào những đối

tượng có khả năng đem lại hiệu quả cao cho việc chuyển tải giá trị VHTT trong

hình thức kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay.

90

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

1. Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu giá trị VHTT được xem là cách tiếp

cận động và toàn diện, xác lập mối quan hệ giữa các thành phần giá trị theo một cấu

trúc thứ bậc, có thể định lượng bằng công thức toán học để xây dựng nên các thang

giá trị. Ngoài ra, hệ giá trị VHTT được xem là hệ thống mở, đặc trưng bởi sự tương

tác và biến đổi liên tục. Trong nhiều cách tiếp cận hệ thống thì luận án chọn tiếp

cận phân tích và xây dựng mô hình. Tiếp cận phân tích giản hóa thành tố cơ bản

của hệ thống (gồm 10 giá trị văn hóa) nhằm nghiên cứu chi tiết và tìm hiểu các loại

quan hệ của nó. Cách tiếp cận này giúp phân tích cấu trúc và sự tương tác của các

giá trị. Xây dựng mô hình là sự hợp nhất các giá trị để xem xét hành vi của hệ

thống như một tổng thể. Việc thiết lập mô hình tiến hành theo 2 nội dung tương tác

nội hệ và ngoại hệ nhằm đạt đến mục tiêu diễn tả đầy đủ những khả năng kết nối có

thể xãy ra giữa các giá trị VHTT với nhau và với thành phần của KTNO.

2. Cấu trúc hệ giá trị VHTT thể hiện thông qua trật tự (thang giá trị văn

hóa) và sự tương tác giữa các giá trị. Có 2 cách tiếp cận thang giá trị của từng loại

hình nhà ở bằng định tính (nội suy) và định lượng (ngoại suy). Sự tương tác cũng

được chia theo 2 nội dung: tương tác nội hệ (giữa các giá trị văn hóa với nhau – nội

sinh) và ngoại hệ (giữa giá trị văn hóa với công năng và hình thức KTNO – ngoại

sinh). Tổng hợp kết quả tương tác nội ngoại hệ là cơ sở quan trọng để phát hiện khả

năng duy trì tính ổn định hay biến động giá trị VHTT trong quá trình chuyển đổi mô

hình nhà ở. Những giá trị vẫn giữ mức ổn định cao sẽ là đối tượng chọn lọc chính

cho việc xây dựng mô hình khai thác VHTT.

3. Xét trong mối quan hệ nội sinh giữa các giá trị VHTT, bằng phương pháp

định tính có thể thiết lập thang giá trị theo sự tăng giảm biểu hiện trong từng mô

hình nhà ở; đối chiếu các thang giá trị này với nhau giúp nhận diện xu hướng biến

thiên của từng giá trị, từ đó đề xuất thang giá trị VHTT chung cho các loại hình nhà

ở đô thị. Phương pháp định lượng triển khai phân tích mối quan hệ giữa các giá trị

theo mô hình, thể hiện khả năng liên kết thông qua tính chất tương sinh và tương

91

khắc. Tổng hợp các khả năng đó cũng có thể xây dựng thang giá trị VHTT. Kết hợp

2 thang giá trị theo phương pháp định tính và định lượng dẫn đến đề xuất thang giá

trị VHTT chung trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay [lập luận 1].

4. Xét trong mối quan hệ ngoại sinh giữa giá trị VHTT với không gian công

năng và hình thức kiến trúc nhà ở đô thị cho thấy: việc xây dựng mô hình tương tác

giúp chọn lọc các giá trị và chỉ định những thành phần kiến trúc cần tập trung khai

thác. Với công năng, tổng hợp chỉ số tương tác đưa đến thang giá trị VHTT trong

yếu tố công năng [lập luận 2], ngoài ra còn xác lập vùng không gian có nhiều khả

năng chuyển tải giá trị VHTT. Với hình thức, tổng hợp chỉ số tương tác đưa đến sự

chọn lọc giá trị thẩm mỹ truyền thống và yếu tố tạo hình (mái, cửa, bao che,

hiên/logia) để ưu tiên khai thác.

5. Bản chất nhu cầu của con người có tính phân cấp, thiết lập từ mức cơ bản

và gia tăng theo các trạng thái phát triển. Đặc tính này được Maslow mô tả trong lý

thuyết Tháp nhu cầu và được nhiều tác giả diễn đạt lại bằng các lĩnh vực nghiên cứu

khác nhau. VHTT là đối tượng thuộc nhu cầu của con người và có tính phân cấp,

được định chế trong các thang giá trị; vì vậy có thể sử dụng nguyên tắc phân chia

của lý thuyết trên để xây dựng thang giá trị VHTT theo nhu cầu con người (Tháp

giá trị VHTT). Thang giá trị này này hoàn toàn độc lập với thang giá trị theo tương

tác nội ngoại hệ, xác định dựa vào cơ sở lý thuyết chung đã được thừa nhận rộng rãi

[lập luận 3].

Không gian công năng trong kiến trúc nhà ở cũng là đối tượng có tính phân

cấp, mở rộng và phát triển cùng với nhu cầu con người, thiết lập nên các loại hình

nhà ở có chất lượng tiện nghi từ cơ bản cho đến cao cấp. Vì vậy, luận án tiếp tục sử

dụng lý thuyết của Maslow để phân chia cấu trúc các nhóm không gian chức năng,

diễn đạt mức độ quan trọng và cần thiết theo cấp độ phát triển, xây dựng nên mô

hình “Tháp công năng” trong kiến trúc nhà ở đô thị [lập luận 4].

Kết hợp 4 lập luận trên cho thấy giữa giá trị VHTT, công năng nhà ở và nhu

cầu con người có cùng chung tính phân cấp mà nguồn gốc phát sinh là từ con

người; như vậy giữa chúng có mối liên hệ tương ứng với nhau, có thể thiết lập cùng

92

một mô hình cấu trúc, diễn đạt trình tự từ thấp đến cao. Tại đây hội đủ cơ sở để suy

luận trong kiến trúc nhà ở đô thị sẽ diễn ra chu trình phát triển có tính quy luật là:

nhu cầu nào thì công năng đó và văn hóa tương ứng. Đây là lập luận quan trọng

cho việc xây dựng mô hình khai thác giá trị VHTT trong Chương III.

6. Tiếp cận quan điểm Mỹ học và Mỹ học kiến trúc cho thấy hình thức kiến

trúc nhà ở truyền thống là đối tượng thẩm mỹ thể hiện sự thống nhất giữa quy luật

tạo hình khách quan và hàm nghĩa chủ quan của con người; vì vậy nó có khả năng

đóng góp cho hình thức kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay 3 vai trò: xây

dựng quy luật thẩm mỹ truyền thống; chuyển tải hình thái ý thức của người Việt;

xây dựng nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống. Những vai trò này giúp định hướng

chuyển đổi giá trị thẩm mỹ truyền thống mà vẫn phát huy ưu thế của thời đại bằng

công nghệ và sự sáng tạo.

7. Tiếp cận quan điểm Ký hiệu học nhận diện 3 cơ chế chuyển đổi giá trị

thẩm mỹ truyền thống trong kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay là: chuyển đổi

nguyên gốc; chuyển đổi một phần; chuyển đổi tương ứng. Trong đó chuyển đổi

tương ứng có khả năng khai thác ưu thế của công nghệ xây dựng và sự sáng tạo,

đồng thời vẫn kế thừa giá trị VHTT bằng các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ. Đây

là quá trình cài mã và giải mã có chọn lọc, cũng là mục tiêu nghiên cứu của luận án.

8. Bằng mô hình tương tác giữa giá trị VHTT với yếu tố hình thức kiến trúc

nhà ở đô thị chọn lọc được các đối tượng cần thiết để xây dựng mô hình khai thác.

Đó là những yếu tố thuộc nhóm quan trọng (kết cấu bao che đặc thù, cửa, mái,

hiên/logia) và 9 đặc tính thẩm mỹ truyền thống (hình thức thông gió tự nhiên, che

nắng, tạo bóng râm, vật liệu tự nhiên, tính đối xứng/cân bằng, tỷ lệ hài hòa, tính

hình học, tính cơ động, tính vần điệu).

9. Thông qua phương pháp đối chiếu quan điểm của những học thuyết kiến

trúc thế giới cho thấy có sự tương đồng với các giá trị VHTT; trong đó kiến trúc

Bản địa mới và học thuyết Cộng sinh văn hóa, Hiện tượng học, Nơi chốn, Ký hiệu

học có nhiều quan điểm gần nhất với việc khai thác VHTT trong KTNO đô thị Việt

Nam hiện nay.

93

CHƯƠNG III

MÔ HÌNH KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRONG

KIẾN TRÚC NHÀ Ở TẠI CÁC ĐÔ THỊ LỚN VIỆT NAM

3.1 Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công năng

3.1.1 Mô hình khai thác giá trị văn hóa truyền thống

Lý thuyết của Maslow chia cấu trúc nhu cầu theo 2 cấp độ: cơ bản và

nâng cao; đồng thời phân tách thành nhu cầu thiếu và nhu cầu phát triển [mục

2.2.1]. Giữa 2 cách phân chia có sự chênh lệch và giao của chúng phản ánh 3 phân

khúc nhu cầu của con người. Trong đó, phân khúc đầu tiên là các yếu tố quan trọng

nhất cho sự tồn tại; phân khúc thứ 2 là các yếu tố có tính xã hội (bên ngoài con

người); phân khúc thứ 3 đại diện cho sự phát triển không giới hạn các tiềm lực và

tính năng động tuyệt đối của nhu cầu con người [hình 3.1].

Hình 3.1 : Mô hình “Tháp nhu cầu” của Maslow theo 3 phân khúc phát triển

Lý thuyết này có thể diễn giải tương ứng với 3 cấp độ nhu cầu không gian

trong nhà ở, gồm: nhu cầu cơ bản – nhu cầu mở rộng – nhu cầu phát triển. Các nhu

cầu sau đã bao hàm nhu cầu trước nhưng mở rộng và nâng cao hơn, đồng thời hướng

đến yêu cầu cá nhân; chuyển dần từ tính chất sử dụng chung sang riêng. Như vậy,

các thành phần chức năng nhà ở có thể được thiết lập theo cấu trúc nhu cầu như sau:

94

Hình 3.2 : Mô hình “Tháp Công Năng” theo 3 cấp độ nhu cầu

Theo mô hình trên, công năng nhà ở xuất phát từ cấp cơ bản nhất gồm 2 chức

năng: nghỉ ngơi thụ động và làm việc. Đây là các chức năng tối thiểu cần có của bất

cứ loại hình nhà ở nào nhằm duy trì hoạt động sống của con người (ăn, ngủ, vệ sinh,

làm việc…) nhưng chưa tính đến tiện nghi giải trí hay thẩm mỹ. Trên mức cao hơn

(cấp mở rộng), nhà ở được chính thức bổ sung thêm chức năng giáo dục và giao tiếp

đối ngoại. Nghĩa là, sau khi đáp ứng yêu cầu tồn tại cơ bản, con người cần không

gian để duy trì khuôn mẫu gia đình, nâng cao năng lực cá nhân và nối dài hoạt động

giao tiếp xã hội; không gian riêng tư cũng đồng thời phát triển theo. Đầu tiên, nhà ở

chủ yếu đáp ứng cho hoạt động mang tính sử dụng chung, do đó không gian cá nhân ít xuất hiện hoặc không tồn tại45. Khi nhu cầu tăng lên, số lượng phòng ở cá nhân

(phòng ngủ, phòng làm việc, không gian thư giãn) đóng vai trò nhiều hơn. Đạt đến

cấp độ mở rộng, không gian nhà ở đã đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cần thiết cho hoạt

động sống với cả 3 tiêu chí: nghỉ ngơi – giải trí – làm việc [30]. Tuy nhiên, các tiêu

chí đó cũng chỉ dừng lại ở mức “đáp ứng” (responed) nhưng chưa thể “thỏa mãn”

(satisfied) nhu cầu của con người. Hiện nay, nhà ở có xu hướng tích hợp thêm nhiều

chức năng do các nhu cầu mới phát sinh, đặc biệt hướng tới sự gia tăng chất lượng

tiện nghi không gian bằng các hình thức nghỉ ngơi năng động kết hợp tính thẩm mỹ

chuyên nghiệp (sáng tạo nghệ thuật không gian ở). Sự tham dự của yếu tố thẩm mỹ

là một tiến trình tất yếu bởi “loài người sáng tạo thế giới theo nguyên tắc đẹp” (Karl

45 Nhà ở nông thôn truyền thống hoặc nhà tập thể được xây dựng trong những năm 60 (Tk XX) ở miền bắc

Việt Nam là các ví dụ tiêu biểu.

Marx). Như vậy, với cấp độ thứ 3 - nhu cầu phát triển, sự chuyển biến không gian

95

công năng nhà ở gần như không thể xác lập một cách cố định và chính xác, bởi nó

luôn thay đổi để thích ứng nhu cầu không giới hạn của con người. Tuy nhiên, công

năng nhà ở không vì vậy gia tăng vượt mức về số lượng hay quy mô diện tích mà có khuynh hướng phát triển tính linh hoạt/đa năng với tầm mức sâu rộng hơn46. Nghĩa

là, cùng với việc bổ sung một số chức năng mới, đặc tính không gian chuyển dần

theo xu hướng: “động - mở - tích hợp”; hay “một không gian – nhiều chức năng

phối hợp” trên cả 2 mục đích sử dụng chung và riêng nhằm đáp ứng yêu cầu tại chỗ,

giảm thời gian di chuyển, tăng chất lượng tiện nghi. Bằng cách này, nhà ở góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian rỗi47 - một trong những tiêu chí đánh giá chất

lượng cuộc sống con người ngày nay.

Mô hình tổng hợp giá trị VHTT (mô hình lý thuyết) [hình 3.3] được đúc kết từ 3 mô hình cơ sở gồm: 1) mô hình giá trị VHTT theo tương tác nội hệ48 [mục 2.1.3.2]; 2) mô hình giá trị VHTT theo tương tác ngoại hệ 49[mục 2.2.4]; 3) mô hình

giá trị VHTT theo lý thuyết nhu cầu [mục 2.2.3]. Mô hình tương tác nội - ngoại hệ

là kết quả phân tích mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa xét trong 2 môi trường tiêu

biểu (bên trong và bên ngoài hệ thống). Ngoài ra, để đối chiếu với phân tích trên,

mô hình giá trị thứ 3 được thiết lập dựa theo lý thuyết “Tháp nhu cầu”. Tổng hợp cả

3 mô hình này phản ánh sự kết hợp biện chứng giữa lý thuyết và thực tiễn. Do xuất

phát từ các điều kiện tham chiếu khác nhau nên cấu trúc thang giá trị của 3 mô hình

cũng có sự lệch pha, vị trí các giá trị có thể không trùng lặp. Vì vậy, nếu muốn

thống nhất về một mô hình chung thì cần xác lập thứ bậc giá trị theo số lần xuất

hiện và mức độ cần thiết của chúng trên cùng một hệ quy chiếu.

46 Khuynh hướng phát triển tính linh hoạt/đa năng tồn tại như một đặc tính chủ đạo trong nhà ở truyền thống

Việt Nam.

47 Thời gian rỗi là quãng thời gian mà con người không phải chịu những quy định, nguyên tắc ràng buộc

Nếu căn cứ kết quả tương tác nội - ngoại hệ để chia giá trị VHTT theo thứ tự ưu tiên thành 2 nhóm50 thì nhận thấy tính dung hòa với tự nhiên và tính linh hoạt/đa

của công việc, được tự do trong mọi hoạt động để thư giãn, giải tỏa áp lực công việc và cuộc sống. 48 Mô hình giá trị VHTT chung trong KTNO đô thị Việt Nam (kết hợp giữa định tính và định lượng); 49 Mô hình tương tác giữa giá trị VHTT với yếu tố công năng; 50 Kết quả tương tác nội hệ chia giá trị VHTT thành 2 nhóm: ổn định và biến động [bảng 2.6]; kết quả tương tác ngoại hệ cũng xác lập 2 nhóm: quan trọng và ít quan trọng [hình 2.9]; Như vậy, nhóm thứ nhất là các giá trị cơ bản và quan trọng nhất, luôn chi phối tổ chức không gian nhà ở trong mọi điệu kiện cư trú; nhóm thứ 2 là các giá trị có vai trò tác động ít hơn và không ổn định;

96

năng thuộc nhóm thứ nhất, đại diện cho mức quan trọng và cần thiết để được chọn

lọc khai thác trước tiên trong mọi điều kiện nhà ở.

Nếu căn cứ kết quả phân tích thứ bậc giá trị VHTT theo lý thuyết nhu cầu51 thì

tính dung hòa với tự nhiên thuộc nhóm thứ nhất – đại diện cho nhu cầu cơ bản, và

tính linh hoạt/đa năng thuộc nhóm thứ 2 – đại diện cho nhu cầu nâng cao [hình

2.8].

Kết hợp 2 kết quả phân tích trên cho thấy sự phân li của tính linh hoạt/đa

năng theo 2 cấp độ khác nhau. Điều đó được lý giải bởi 2 giai đoạn phát triển của

giá trị văn hóa này trong yếu tố công năng: giai đoạn đầu, nhà ở thường là một

không gian lớn đa năng (sử dụng chung/đa năng tiền cấp); về sau, tính đa năng chi

phối đến từng không gian sử dụng chung và riêng theo hình thức nhà ở đa năng –

phòng ở đa năng (đa năng nâng cao) [hình 3.4].

Hình 3.4: Hai giai đoạn phát triển tính đa năng trong nhà ở

Kết hợp 2 kết quả phân tích trên còn dẫn đến mâu thuẫn giữa mô hình theo

tương tác nội – ngoại hệ và theo lý thuyết nhu cầu. Tuy nhiên, nếu muốn thống nhất

về một mô hình giá trị chung thì phải nhìn nhận sự phân li của tính linh hoạt/đa

năng như là quy luật tất yếu trong tiến trình phát triển nhà ở. Do đó, mô hình tổng

hợp giá trị VHTT (mô hình lý thuyết) là phép cộng của 3 mô hình cơ sở phải được

chia thành 3 nhóm (để tương ứng với 3 cấp độ nhu cầu như đã phân tích):

51 Các giá trị VHTT theo lý thuyết nhu cầu cũng được chia thành 2 nhóm: cơ bản và nâng cao [mục 2.2.3].

- Nhóm văn hóa 1 (cơ bản): tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa

97

năng (tiền cấp);

- Nhóm văn hóa 2 (mở rộng): truyền thống gia đình Việt, tính cộng đồng,

tính tư hữu;

- Nhóm văn hóa 3 (phát triển): tính linh hoạt/đa năng (nâng cao).

Quy chiếu các cấp độ nhu cầu của mô hình “Tháp công năng” và các nhóm

trong mô hình tổng hợp giá trị VHTT (mô hình lý thuyết) thấy có sự giống nhau về cấu trúc 3 cấp độ52. Điều đó phản ánh quy luật phát triển đồng dạng của 2 khía cạnh

nghiên cứu có mối quan hệ tương tác trong cùng một đối tượng - nhà ở đô thị. Mô

hình “Tháp công năng” là diễn trình tất yếu nhu cầu của con người trong không

gian nhà ở; còn mô hình giá trị VHTT là kết quả biện chứng thực tiễn vai trò tham

dự của giá trị văn hóa trong diễn trình đó. Tính chất phát triển “cặp đôi” có thể được

nhận biết thông qua các loại hình KTNO Việt Nam như sau:

- Nhà ở nông thôn và đô thị truyền thống gồm 2 chức năng chủ yếu là cư trú

và sản xuất. Hoạt động của con người diễn ra trong các không gian lớn đồng nhất, ít

số lượng phòng ở cá nhân. Chức năng giáo dục và giao tiếp đối ngoại chưa tồn tại

riêng biệt mà được lồng ghép với các chức năng khác. Loại hình nhà ở này đại diện

- “Phổ” nhu cầu sử dụng không gian của nhà ở đô thị hiện nay được mở rộng

cho cấp nhu cầu đầu tiên (nhu cầu cơ bản) với 2 đặc tính tiêu biểu: tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp) và tính dung hòa với tự nhiên53;

và phong phú hơn, đi từ cấp cơ bản cho đến phát triển. Trong giới hạn trên của nhóm “nhu cầu thiếu”54, các chức năng nhà ở như nghỉ ngơi thụ động, làm việc,

giáo dục, giao tiếp đối ngoại chính thức khẳng định vai trò bằng những không gian

độc lập, đủ về số lượng, diện tích và cấu trúc ngăn chia để không bị ảnh hưởng đan xen lẫn nhau55. Tính chất sử dụng chung và riêng gần đạt tới trạng thái cân bằng; vì vậy, tính tư hữu, tính cộng đồng và truyền thống gia đình Việt56 gia tăng mức độ chi

52 Cấu trúc 3 cấp độ gồm: cơ bản – mở rộng – phát triển; 53 Thuộc nhóm văn hóa 1; 54 Nhu cầu thiếu gồm nhu cầu cơ bản và nhu cầu mở rộng (phân chia theo lý luận của Maslow); 55 Sự ảnh hưởng đan xen trong các hoạt động là do cùng một phạm vi không gian nhưng sử dụng nhiều mục

đích khác nhau;

56 Thuộc nhóm văn hóa 2;

phối lên phương thức tổ chức không gian. Tuy nhiên, phạm vi này vẫn chưa có

98

nhiều sự tham gia của hoạt động nghỉ ngơi năng động (tự do phát triển nhu cầu thể

chất và tinh thần của từng cá nhân), dẫn đến đặc điểm phối hợp giữa các chức năng

không cao. Đạt tới nhu cầu phát triển, thành phần công năng nhà ở có sự thay đổi

lớn bởi các yêu cầu sinh hoạt – làm việc - nghỉ dưỡng cao cấp. Cấu trúc không gian

vận động theo xu hướng “tích hợp - đa năng - tiện nghi - sinh thái - thẩm mỹ”,

hình thành các khái niệm mới như: nhà ở thông minh, chung cư cao cấp, biệt thự

nghỉ dưỡng … Mục tiêu lớn nhất của các loại hình nhà ở này là đem lại tiện ích tối

đa cho hoạt động sống của con người. Do kết hợp nhiều chức năng và sự tham dự

của hoạt động nghỉ ngơi năng động trong không gian nhà ở nên tính linh hoạt/đa năng (nâng cao)57 phát huy ưu thế nhiều hơn.

Xét trong mối quan hệ giữa các chức năng nhà ở đô thị hiện nay với yếu tố

VHTT thì không phải thành phần không gian nào cũng đóng vai trò giống nhau. Về

cơ bản, các không gian có nguồn gốc từ nhà ở truyền thống vẫn đạt mức tương tác

cao nhất [mục 2.2.4]. Cho nên, nếu cần phân định không gian để khai thác giá trị

văn hóa thì hầu hết đều không thuộc chức năng nghỉ ngơi năng động, bởi chúng gần

như chưa có tiền lệ trong các loại hình nhà ở trước đó. Vì vậy chỉ khoảng 2/3 số

lượng không gian nhà ở đô thị hiện nay được chọn lọc để xây dựng mô hình ứng

dụng giá trị VHTT trong yếu tố công năng [hình 3.5].

Cấu trúc mô hình nói trên phản ánh mối quan hệ giữa thành phần không gian

(đã được xếp đặt theo các cấp độ nhu cầu) với đặc tính VHTT. Tuy tính chất công

năng phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng (về mặt lý thuyết), nhưng khi chịu tác động

của giá trị văn hóa, đặc điểm không gian có sự chuyển biến theo khuynh hướng

riêng hoặc bổ sung thêm một số yếu tố chỉ để phục vụ cho đối tượng chủ thể của

văn hóa đó. Đây còn là nguyên tắc duy trì, phát huy tính truyền thống và bản địa

trong KTNO.

Ngoài ra, xét trong nội hàm mối quan hệ giữa công năng với VHTT, tuy có sự tương ứng “cặp đôi’ giữa nhu cầu không gian và nhóm giá trị văn hóa58 nhưng

hóa thuộc nhóm tương ứng (nhóm 1 – nhóm 2 – nhóm 3);

thông qua các hình thức liên kết đa năng “đồng cấp” và “đa cấp”, một không gian 57 Thuộc nhóm văn hóa 3; 58 Không gian công năng thuộc nhu cầu nào (cơ bản – mở rộng – phát triển) thì chịu tác động của giá trị văn

99

có thể chịu tác động cùng lúc của nhiều giá trị văn hóa thuộc các nhóm khác nhau59.

Điều này cũng phản ánh khả năng phá vỡ trật tự cấu trúc đã được trình bày trong lý

thuyết của Maslow.

Tóm lại, mô hình khai thác giá trị VHTT trong yếu tố công năng được diễn

đạt bởi 2 mô hình thành phần, gồm:

1) Mô hình tổng hợp giá trị VHTT (mô hình lý thuyết): là phép cộng của 3

mô hình cơ sở theo tương tác nội – ngoại hệ và lý thuyết nhu cầu; phản ánh cấu trúc

phân nhóm giá trị văn hóa phù hợp với các cấp độ phát triển không gian. Như vậy,

việc khai thác giá trị VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam tùy thuộc vào

nhu cầu công năng theo nguyên tắc “văn hóa tương ứng công năng”;

2) Mô hình ứng dụng giá trị VHTT: diễn đạt mối quan hệ có tính chất hệ

thống giữa các thành phần không gian (theo nhu cầu) và các nhóm giá trị VHTT

(tương ứng). Nó còn được hiểu như mô hình tương tác giữa hệ thống cấu trúc nhu

cầu công năng nhà ở với hệ thống giá trị VHTT. Qui trình ứng dụng của mô hình

này được thiết lập như sau:

- Đầu vào: chọn lọc thành phần không gian theo nhu cầu của đối tượng ở;

- Tương tác: đối chiếu mối quan hệ giữa thành phần không gian với giá trị

văn hóa đã được hoạch định trong sơ đồ hệ thống;

- Đầu ra: đặc điểm cần có của thành phần không gian nhằm phù hợp với lối

sống và văn hóa của người Việt trong các đô thị lớn Việt Nam hiện nay;

Như vậy, thông qua mô hình ứng dụng giá trị VHTT, thành phần không gian

nhà ở đô thị sẽ được xác lập theo nguyên tắc “công năng chuyển tải văn hóa”.

3.1.2 Đặc điểm không gian công năng của giá trị văn hóa truyền thống

Các giá trị VHTT có những đặc tính không gian khác nhau, biểu hiện

cụ thể trong KTNO nông thôn [hình 3.6] và nhà ở đô thị truyền thống [hình 3.7].

59 Ví dụ: nếu một không gian thuộc nhóm nhu cầu cơ bản kết hợp đa năng với không gian thuộc nhóm nhu cầu mở rộng, nó sẽ chịu tác động đồng thời của các giá trị văn hóa đại diện cho cả 2 nhóm; vì vậy đặc điểm của không gian này là phép cộng (dung hòa) của các đặc điểm thành phần.

Những đặc tính này khi ứng dụng vào KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay

100

sẽ được phân lập theo 3 cấp độ nhu cầu (cơ bản – mở rộng – phát triển) nhằm xác

định vai trò chính thức (mặc định) và phi chính thức (bổ sung) của các nhóm chức

năng.

Đối với nhu cầu cơ bản, chức năng quan trọng nhất là nghỉ ngơi thụ động và

làm việc, được thiết lập chính thức trong cấu trúc công năng nhà ở. Nếu phát sinh

nhu cầu khác, không gian sẽ bổ sung theo hình thức đa năng (phi chính thức). Đạt

đến nhu cầu mở rộng, nhà ở có thêm 2 chức năng chính thức là giáo dục và giao

tiếp đối ngoại; như vậy nghỉ ngơi năng động đóng vai trò là chức năng bổ sung.

Với nhu cầu phát triển, tất cả 5 chức năng nói trên đều cần thiết cho sự hoàn thiện

chất lượng tiện nghi nhà ở; thỏa mãn nhu cầu phong phú, đa dạng và luôn biến đổi của con người. Khi đó giải pháp đa năng60 phát huy lợi điểm, nhưng không phải để

dồn nén không gian mà nhằm gia tăng tính chất liên kết theo hướng bổ trợ và nâng

cao hiệu quả sử dụng.

Đặc điểm không gian của tính linh hoạt/đa năng [hình 3.8] trong nhà ở

truyền thống và nhà ở đô thị hiện nay (cấp nhu cầu cơ bản) có các biểu hiện tương

đồng. Với 2 chức năng chính là nghỉ ngơi thụ động và làm việc, hoạt động chủ yếu

diễn ra theo tính chất sử dụng chung (một không gian – nhiều chức năng), đan xen lẫn nhau. Hai hình thức liên kết đa năng phổ biến là không gian trong không gian61 và không gian giao thoa62. Ngoài ra, vì diện tích nhỏ (9 – 12m2)63 nên một số

phòng cá nhân thường chỉ đáp ứng một mục đích sử dụng (đơn năng). Với cấp nhu

cầu mở rộng, nhà ở chính thức xuất hiện thêm chức năng giáo dục và giao tiếp đối

ngoại, làm gia tăng quy mô và số lượng thành phần không gian trên cả hai phương

60 Khả năng phối hợp không gian (liên hệ đa năng) tương ứng với các cấp độ nhu cầu được thiết lập trong mô hình “Tháp công năng” [mục 2.2.2]. Ứng dụng mô hình này cho phép xác định những không gian có thể kết hợp với nhau trong các điều kiện liên hệ “đồng cấp” và “đa cấp”;

61 Một không gian lớn (nhà ở - căn hộ) chứa đựng nhiều vùng không gian hoạt động nhỏ hơn, ngăn chia ước

lệ bằng lối đi hoặc vật trang trí.

62 Cùng một phạm vi không gian sử dụng cho nhiều mục đích (ví dụ: vừa tiếp khách vừa là nơi sinh hoạt

chung gia đình hoặc ăn uống).

63 Tiêu chuẩn diện tích của một phòng chức năng cơ bản dành cho 1 – 2 người ở; 64 Sử dụng vách ngăn di động để linh hoạt đóng mở không gian;

diện sử dụng chung và riêng. Tại đây cũng có 2 hình thức liên kết đa năng phổ biến là không gian trong không gian và không gian tiếp nối64, đồng thời xóa bỏ hình

101

thức không gian giao thoa (chỉ phù hợp trong trường hợp thiếu diện tích). Các

phòng ở cá nhân có thể vận hành theo đơn năng hoặc đa năng. Khác biệt giữa cấp

nhu cầu cơ bản và nhu cầu mở rộng là sự phân vùng không gian. Trong cấp đầu

tiên (cơ bản), nhà ở chưa hình thành vùng không gian riêng (tất cả trong một);

nhưng với cấp tiếp theo (mở rộng), các chức năng được phân lập cụ thể theo mục

đích sử dụng (nghỉ ngơi, giao tiếp, giáo dục…) và theo tính chất (động – tĩnh,

hướng nội – hướng ngoại). Trong cấp nhu cầu phát triển, nhà ở đạt đến sự hoàn

thiện chức năng; gia tăng đáng kể về quy mô diện tích, số lượng thành phần và tính

chất phân vùng không gian. So với các nhu cầu trước đó, cấp nhu cầu này đặc trưng

bởi sự xuất hiện chính thức của không gian nghỉ ngơi năng động, kết hợp linh hoạt

và đa năng với tất cả chức năng khác; ngoài ra còn có sự tham dự của yếu tố thẩm

mỹ thông qua sáng tạo nghệ thuật vườn cảnh, non bộ. Vì hoạt động nghỉ ngơi năng

động có thể can thiệp vào bất cứ không gian nào (từ sử dụng chung cho đến sử dụng riêng) nên tính linh hoạt/đa năng đảm nhiệm vai trò cao hơn65. Phòng ở cá nhân cũng phát triển theo xu hướng tích hợp để nâng cao chất lượng tiện nghi66. Hình

thức liên kết đa năng được triển khai tùy theo mục đích: 1) sử dụng chung: không

gian trong không gian và không gian tiếp nối; 2) sử dụng riêng: không gian trong

không gian và không gian giao thoa. Theo đó, các không gian dành cho nhiều người

sẽ duy trì tính mở và cơ động (vách di động), không gian cá nhân tổ chức theo kiểu

khép kín và đa năng (tổ hợp).

Tính dung hòa với tự nhiên luôn gắn liền với các loại hình nhà ở và sự

chuyển đổi đặc điểm không gian cũng tùy thuộc các cấp độ nhu cầu [hình 3.9]; biểu

65 Ví dụ: phòng khách có thể bao gồm các không gian: tiếp khách, xem tivi, nghe nhạc, chơi cờ, uống trà,

chơi đàn, trưng bày tác phẩm nghệ thuật, tiểu cảnh – không gian xanh, quầy bar, làm việc;

66 Ví dụ: phòng ngủ có thể bao gồm các không gian: ngủ, trang điểm, làm việc, thể thao nhẹ, tiểu cảnh –

không gian xanh, vệ sinh (có tính chất tổ hợp), xem tivi, nghe nhạc, ghế ngồi.

hiện cụ thể bằng giải pháp che nắng, thông gió, không gian xanh, mặt nước và ô trống67. Nhà ở truyền thống có 2 hình thức kết hợp tự nhiên theo vị trí tiếp cận bên

67 Giải pháp che nắng: sử dụng hàng hiên hoặc logia; Giải pháp thông gió: xoay mặt nhà hoặc phòng ở theo hướng gió, sử dụng sân trong/giếng trời để đối lưu không khí và chiếu sáng; Không gian xanh, mặt nước: bố trí bên ngoài, bên trong nhà và trong các phòng ở;

102

ngoài và bên trong68; cấu trúc hiên được thiết lập phía trước hoặc xung quanh để

che nắng, ngôi nhà có thể chủ động xác định theo hướng gió. Các hình thức này khi

ứng dụng vào nhà ở đô thị hiện nay đã có nhiều thay đổi.

Với nhu cầu cơ bản, đặc tính chủ đạo là tất cả chức năng sử dụng chung, ít số

phòng cá nhân, điều kiện tiếp xúc tự nhiên hạn chế. Do đó, nhà ở thụ động thích

ứng tự nhiên theo phương thức lồng ghép sân (giếng trời) vào giữa để thông gió,

chiếu sáng (không gian tự nhiên bên trong); kết hợp logia và hiên che nắng (giao

thoa với không gian tự nhiên). Nhìn chung, các không gian này có diện tích nhỏ (<9m2), được trồng thêm cây xanh để trang trí nhưng tính thẩm mỹ thấp. Tiến đến

nhu cầu mở rộng, diện tích và số lượng thành phần không gian tăng lên đáng kể,

các mặt tiếp xúc tự nhiên nhiều hơn; đồng thời xuất hiện sân vườn bên ngoài và bên

trong nhà. Vì vậy, nhà ở chuyển dần sang chủ động thích ứng tự nhiên. Các phòng

chức năng quan trọng được bố trí theo hướng gió mát, tránh nắng. Sân trong, hiên và logia (>9m2) có thể tổ chức thành không gian nghỉ ngơi gồm tiểu cảnh, non bộ,

hồ nước, ghế ngồi, vật trang trí. Không gian xanh gắn kết với nhà ở theo 5 hình

thức: bên ngoài (sân vườn), bên trong (sân trong), giao thoa (hiên, logia), trên mái,

trên tường. Ngoài ra, yếu tố thông gió, chiếu sáng và cây xanh cũng được thiết lập

cho từng phòng cá nhân để đảm bảo tiện nghi vi khí hậu. Không gian tự nhiên trở

thành đối tượng thẩm mỹ bằng hình thức tạo hình vườn cảnh, non bộ, thác nước.

Đạt tới nhu cầu phát triển, nhà ở thích ứng tối đa với tự nhiên trong hầu hết thành

phần không gian sử dụng chung và riêng. Trên tổng thể, ngôi nhà có thể chủ động

định hướng theo điều kiện khí hậu. Xét về diện tích, từ sân vườn cho đến tiểu

cảnh/ô trống đều tăng cao hơn các cấp nhu cầu trước đó. Trong nhiều trường hợp

còn có thêm hồ bơi và hồ cảnh quan; mật độ phân bố không gian xanh và ô trống

dày hơn, có thể đến phòng ở cá nhân và phòng vệ sinh. Do chức năng nghỉ ngơi

năng động chính thức tồn tại nên sự hài hòa với tự nhiên đạt mức cao nhất, ngăn

cách giữa không gian sử dụng bên trong và không gian tự nhiên bên ngoài có thể

được xóa bỏ bằng cửa và vách di động. Các hình thức liên kết không gian xanh 68 Đối với nhà ở nông thôn truyền thống, không gian tự nhiên hoàn toàn nằm bên ngoài và bao quanh ngôi nhà; trong khi đó, nhà ở đô thị truyền thống đưa không gian tự nhiên vào giữa theo hình thức sân trong/giếng trời.

103

giống cấp nhu cầu mở rộng (5 hình thức) nhưng khác biệt về chất lượng thẩm mỹ,

số lượng và diện tích. Nghệ thuật vườn cảnh, non bộ cũng đóng vai trò đáng kể để

nâng cao giá trị cảnh quan nhà ở.

Tương tự đặc điểm của 2 giá trị văn hóa trình bày trên, tính cộng đồng, tính

tư hữu và truyền thống gia đình Việt cũng có các trạng thái chuyển đổi theo 3 cấp

nhu cầu với chiều hướng làm gia tăng quy mô và tính chất không gian [hình 3.10].

Với nhu cầu cơ bản, các chức năng vận hành phổ biến theo nguyên tắc sử

dụng chung trên toàn không gian nhà ở (ăn, sinh hoạt chung, làm việc, tiếp khách,

giải trí…). Mỗi hoạt động cơ bản chiếm một phạm vi nhất định, không phân chia và

ảnh hưởng qua lại lẫn nhau; ngoài ra, số phòng cá nhân còn hạn chế nên nhìn chung

tính tư hữu, tính cộng đồng và truyền thống gia đình Việt chưa phát huy vai trò cụ

thể lên cấu trúc công năng nhà ở. Tiến đến nhu cầu mở rộng, bên cạnh chức năng

nghỉ ngơi thụ động và làm việc, các chức năng giáo dục và giao tiếp đối ngoại

chính thức xác lập yêu cầu không gian riêng. Vì vậy, công năng nhà ở phân tách

thành các vùng không gian có tính độc lập tương đối, chia khu vực theo đặc điểm

sinh hoạt động – tĩnh, hướng nội – hướng ngoại. Không gian sum họp gia đình di

chuyển ra khỏi phòng khách và hình thành nhiều phòng/không gian có tên gọi khác nhau69. Hoạt động giao tiếp giữa các thành viên phân bố đa dạng chứ không tập

trung như cấp nhu cầu cơ bản. Số lượng và đặc điểm không gian được định hình tùy

theo nhu cầu, lối sống và văn hóa gia đình của đối tượng sử dụng. Vì vậy, truyền

thống gia đình Việt hội đủ điều kiện chi phối cấu trúc công năng nhà ở đô thị; tuy

nhiên cũng chỉ dừng ở mức đáp ứng nhu cầu không gian giao tiếp, giáo dục, truyền

đạt kinh nghiệm chứ chưa thể lồng ghép với hoạt động nghỉ ngơi năng động (giáo

dục truyền thống gia đình thông qua các hoạt động vận động thể chất và trí lực).

Hoạt động tiếp khách cũng xác lập vùng không gian quan trọng hàng đầu trong nhà ở với diện tích bằng hoặc lớn hơn một phòng chức năng cơ bản (9 – 18m2). Với

điều kiện đó, phòng khách có thể kết hợp giữa tiếp khách, xem tivi, góc làm việc

69 Ví dụ: phòng sinh hoạt chung, phòng ăn nội bộ, phòng thờ cúng, phòng lưu niệm, phòng giải trí (xem

phim, nghe nhạc), không gian sum họp ngoài trời;

nhỏ, quầy bar, chậu cảnh. Tính cộng đồng đặt yêu cầu lên không gian này làm cho

104

nó được kết nối liên tục với sân trước nhà và có tính hướng ngoại (tính mở). Điểm

khác biệt của cấp nhu cầu này so với trước đó là số phòng ở cá nhân đạt cân bằng

với số người, do vậy các thành viên có thể thiết lập nhu cầu sử dụng theo sở thích

riêng (thường triển khai trong các phòng ngủ); thể hiện sự tác động của tính tư hữu

lên yếu tố công năng. Tuy nhiên, diện tích của các phòng cũng chỉ duy trì như một phòng cơ bản (9 – 12m2) nên chưa thể kết hợp hoạt động nghỉ ngơi năng động vào bên trong, đa phần sử dụng vệ sinh chung70. Đạt cấp nhu cầu phát triển, nhà ở tăng

đồng loạt quy mô và chất lượng không gian trên tất cả các chức năng. Đặc điểm nổi

trội của cấp nhu cầu này là sự tham dự của hoạt động nghỉ ngơi năng động, đặt trọng tâm vào nhu cầu phát triển cá nhân71. Các không gian đáp ứng cho sự vận động cơ thể (phát triển thể lực)72, nghỉ dưỡng (cân bằng cơ thể)73 và hoạt động tư duy (phát triển trí lực)74 đều có thể gắn theo các chức năng cơ bản hoặc được thiết

lập thành không gian riêng. Tính cộng đồng, tính tư hữu và truyền thống gia đình

Việt chi phối công năng nhà ở với mức cao nhất. Chức năng giao tiếp đối ngoại xuất hiện thêm không gian mới để tăng tính tiện nghi cao cấp75. Ngoài ra, hoạt động giao

tiếp không dừng ở kiểu đối thoại truyền thống (trò chuyện, uống trà) mà chuyển

sang sử dụng chung các tiện ích thông qua hình thức ăn uống, giải trí, thể thao và

thưởng lãm nghệ thuật (tranh, tượng, vườn cảnh…). Vì vậy, không gian giao tiếp

không còn bị cô lập, hướng ngoại mà phát triển sâu hơn vào bên trong cấu trúc công

năng, lồng ghép với một số chức năng sinh hoạt nội bộ. Hoạt động sum họp, giao

tiếp giữa các thành viên (truyền thống gia đình Việt) cũng có tính chất phát triển

tương tự, mở rộng và chuyên sâu hơn các cấp nhu cầu trước. Mối quan hệ kiểu gia

70 Phòng ngủ của cấp nhu cầu này thường bao gồm chỗ ngủ, góc làm việc nhỏ, tủ quần áo, kệ tivi. Ngoài ra,

một số phòng còn kết hợp với ban công hoặc logia bên ngoài.

71 Điển hình là không gian phòng vệ sinh, ngoài chức năng sinh lý cơ bản, nó còn là không gian nghỉ ngơi với các tiện nghi cao cấp mang tính tổ hợp (tắm đứng, tắm nằm, xông hơi, ghế nghỉ, không gian xanh, nghe nhạc, xem tivi, thể thao nhẹ, tủ quần áo, quầy bar)

72 Tập thể thao trên máy, bơi lội, chạy bộ, cử tạ, thể dục thẩm mỹ; 73 Ghế nghỉ, ghế mát xa, ăn – uống nhẹ; 74 Xem phim, nghe nhạc, sáng tác/biểu diễn nghệ thuật, thưởng lãm tác phẩm nghệ thuật, đọc sách, chơi cờ. 75 Không gian tiếp khách trong nhà, ngoài vườn; phòng ăn chính, không gian ăn ngoài trời;

đình truyền thống được lồng ghép thêm chức năng truyền thụ giáo dục bằng các

105

hình thức sinh hoạt thể chất và tinh thần đa dạng76, triển khai trong nhiều vùng không gian khác nhau và tùy theo các cấp lứa tuổi77. Sau cùng, các yêu cầu sử dụng

riêng theo sở thích (tính tư hữu) trong cấp nhu cầu này cũng được đáp ứng nhiều

nhất; càng về sau mức phát triển càng tăng cao, thúc đẩy sự chuyển đổi công năng

một cách mạnh mẽ. Do nhu cầu con người không có giới hạn, luôn đồng hành với

tính năng động của các điều kiện xã hội nên đòi hỏi không gian nhà ở phải chuyển

đổi để thích ứng; đặc biệt là sự gia tăng đột biến số lượng phòng ở cá nhân. Trước

tiên, phòng ngủ không còn mang chức năng nghỉ ngơi thuần nhất mà trở thành một

“tổ hợp” độc lập. Đây có thể xem là “tiểu cấu trúc” không gian ở được lồng ghép

trong “đại cấu trúc” nhà ở, cũng gồm đủ 3 hoạt động: nghỉ ngơi – giải trí – làm việc78, giải quyết nhiều nhu cầu trong một phạm vi giới hạn, vận hành theo cơ chế

riêng của người sử dụng và hoàn toàn không chịu tác động bởi đối tượng ngoài sở

hữu. Bên cạnh đó, trong các nhóm chức năng còn xuất hiện nhiều không gian có tính chuyên môn/chuyên dụng cho số ít thành viên79; nối dài nhu cầu riêng tư ra bên

ngoài phòng ngủ, làm gia tăng qui mô và đa dạng cấu trúc công năng nhà ở.

3.1.3 Đặc trưng khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố công

năng

Yếu tố công năng trong KTNO đô thị được phân chia theo cấu trúc nhu

cầu gồm 3 cấp độ: cơ bản – mở rộng – phát triển. Mỗi cấp nhu cầu xác định sự tồn

tại của những thành phần không gian cần thiết để chuyển tải các chức năng. Về

phương diện lý thuyết, bất kỳ loại hình nhà ở nào cũng đều có thể đảm bảo hoạt

76 Gồm: giáo dục thể chất (sử dụng các phương tiện thể thao trong nhà như bơi lội, chạy bộ, thể dục thẩm mỹ) và giáo dục tinh thần (sinh hoạt thờ cúng tổ tiên, học tập – nghiên cứu, thưởng lãm và phân tích giá trị nghệ thuật thông qua phim ảnh, âm nhạc và các tác phẩm nghệ thuật);

77 Không gian dành cho trẻ em, không gian dành cho người lớn, không gian sum họp cha mẹ và con cái,

không gian “tự sự” – không gian tâm linh (giao tiếp giữa người còn sống với tổ tiên);

78 Loại phòng ngủ này có thể bao gồm: giường ngủ, bàn làm việc, kệ tivi, dàn nghe nhạc, phòng thay đồ, ghế nghỉ, quầy bar, bàn trang điểm, máy tập thể thao nhẹ, phòng vệ sinh (có tính chất tổ hợp), không gian xanh, logia.

79 Ví dụ: phòng làm việc cá nhân, phòng sáng tác nghệ thuật, phòng chơi bóng bàn/bi da, phòng tập

yoga/thiền, phòng chơi trẻ em, phòng rượu.

động sống của con người dựa trên 3 tiêu chí: nghỉ ngơi – giải trí – làm việc; và tùy

106

theo cấp độ mà triển khai bằng những phương thức khác nhau, chuyển dần từ mức thấp nhất (một không gian – nhiều chức năng – sử dụng chung)80 cho đến mức cao nhất (một chức năng – nhiều không gian – sử dụng riêng)81. Sự chuyển đổi đặc tính

không gian theo diễn trình phát triển công năng nhà ở được nhận biết bởi 3 xu

hướng chủ yếu sau [hình 3.11]:

Hình 3.11: Các xu hướng chuyển đổi cấu trúc công năng nhà ở theo nhu cầu

1) Xu hướng phân chia 5 nhóm chức năng thành những vùng không gian

riêng nhằm đảm bảo cho các hoạt động không bị chồng lấn, linh hoạt bổ sung không

gian phụ trợ do phát sinh nhu cầu; đồng thời duy trì sự độc lập tương đối của những sinh hoạt có tính chất khác biệt nhau82;

2) Xu hướng phát triển các phòng/không gian cá nhân để đáp ứng yêu cầu sử dụng riêng của mỗi thành viên bên trong nhà ở83. Những không gian này không

80 Nhiều chức năng của nhà ở sử dụng chung một không gian. Ví dụ: phòng sinh hoạt chung có thể kết hợp

giữa tiếp khách, thờ cúng, ăn uống, xem ti vi, học tập… ;

81 Một chức năng có thể phân bố trong nhiều không gian khác nhau. Ví dụ: không gian làm việc có thể vừa

phân chia theo phòng ngủ, vừa thiết lập thành phòng riêng theo nhu cầu cá nhân;

82 Cấp nhu cầu cơ bản dồn nén 5 chức năng nhà ở vào trong 1 – 2 không gian lớn đồng nhất, ít ngăn chia, sử dụng chung. Cấp nhu cầu phát triển chia 5 chức năng tương ứng với 5 vùng không gian độc lập (tương đối), phân theo khu vực tĩnh và động, tính chất sử dụng chung và riêng được hoạch định rõ ràng;

83 Điều 1 trong Hiến chương LHQ về nhà ở có ghi: “mọi người sống riêng hay sống chung trong gia đình đều có quyền bất di bất dịch sử dụng riêng cho mình một không gian để đem lại sức khỏe và hạnh phúc”; 84 Cấp nhu cầu cơ bản có thể không tồn tại phòng ở cá nhân; tuy nhiên đối với cấp nhu cầu phát triển, phòng ở cá nhân là điều kiện bắt buộc và vận hành như một “tổ hợp” nghỉ ngơi – giải trí - làm việc độc lập;

chỉ được xác định bởi số lượng phòng ngủ mà còn các phòng cá nhân bên ngoài phòng ngủ (có tính chuyên dụng) và phân bố theo từng nhóm chức năng cụ thể84.

107

3) Xu hướng gia tăng số lượng và quy mô không gian nghỉ ngơi năng

động trong từng nhóm chức năng cũng như trong cả 2 khu vực sử dụng chung và riêng, đáp ứng sự phát triển của chất lượng tiện nghi nhà ở hiện nay85.

Các xu hướng trên cũng có thể xem là dấu hiệu nhận biết mức độ phân cấp

nhu cầu trong cấu trúc công năng nhà ở. Đối với cấp nhu cầu thấp, các chức năng

được lồng ghép để sử dụng chung theo kiểu một không gian lớn đa năng (không

gian sơ cấp), hạn chế không gian cá nhân; hoạt động nghỉ ngơi năng động ít xuất

hiện và không có tính khu biệt. Trên cấp nhu cầu cao hơn, chức năng nhà ở và

phòng ở cá nhân gia tăng tính độc lập, phân li thành nhiều không gian thứ cấp do sự

phát triển của nhu cầu sử dụng riêng và tiện nghi sinh hoạt; nghỉ ngơi năng động dần thiết lập vùng không gian của chính nó để hoàn thiện chu trình vận hành86.

Ngoài ra, đánh giá sự khác nhau giữa các cấp nhu cầu công năng còn có thể

dựa trên tần suất xuất hiện và quy mô không gian sử dụng chung và riêng. Mục tiêu

cao nhất nhằm thỏa mãn nhu cầu không giới hạn và luôn biến đổi của con người

trong phạm vi nhà ở. Với cấp cơ bản, hoạt động diễn ra trong những không gian lớn

đồng nhất mà chưa đặt trọng tâm vào nhu cầu từng đối tượng. Đạt đến cấp mở rộng,

tính chất sử dụng chung được triển khai cùng với 4 nhóm chức năng tách biệt (nghỉ

ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp) và hình thành các phòng ở cá nhân

(phòng ngủ) để đáp ứng một phần yêu cầu sử dụng theo sở thích, độc lập với các

sinh hoạt bên ngoài. Trong cấp phát triển, không gian sử dụng chung và riêng triển

khai đồng loạt trên toàn nhà ở, đặc trưng bởi sự tồn tại chính thức của nhiều hoạt

động nghỉ ngơi năng động và số lượng không gian cá nhân vượt ra khỏi phạm vi

phòng ngủ. Như vậy, nhu cầu càng tăng cao thì không gian sử dụng chung càng mở

rộng (cả về số lượng cũng như diện tích) và không gian sử dụng riêng càng chuyên

ngoài ra còn có các không gian chuyên dụng (phòng làm việc riêng, phòng sáng tác nghệ thuật…) được bố trí bên ngoài phòng ngủ nhưng cũng chỉ để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân;

85 Nhiều không gian nghỉ ngơi năng động (thể thao, phòng sáng tác nghệ thuật, phòng tắm hơi, vườn cảnh…) chỉ có thể thiết lập trong cấp nhu cầu phát triển. Đối với nhu cầu cơ bản, một số không gian nghỉ ngơi năng động được lồng ghép với các chức năng khác để gia tăng tính tiện nghi, nhưng thường chiếm diện tích nhỏ và không đầy đủ (Vd: không gian chơi trẻ em có thể kết hợp không gian sinh hoạt chung). 86 Ví dụ: không gian thể thao tập trung, không gian trưng bày và sáng tác nghệ thuật, hồ bơi kết hợp vườn

cảnh quan…

sâu (kết hợp giữa đa năng có tính chất tổ hợp và chuyên năng), phân bố theo các

108

khu vực của nhà ở để đáp ứng nhiều yêu cầu mà không gian phòng ngủ không thể

kết tập một cách hoàn chỉnh.

Đồng thời với sự chuyển đổi đặc tính không gian theo các cấp độ nhu cầu,

việc khai thác giá trị VHTT cũng có sự chọn lọc và tham dự tương ứng. Tiến trình

phát triển công năng được hoạch định dựa trên tổng thể nhu cầu con người và có

tính quy luật tất yếu; tuy nhiên, sự can thiệp của VHTT là tùy thuộc vào từng đặc

tính dân tộc, có tác dụng điều chỉnh hình thức chuyển đổi không gian để phù hợp

với điều kiện sinh hoạt, lối sống của dân tộc đó. Theo lập luận phân tích trong mô

hình giá trị VHTT [mục 3.1.1], cấu trúc công năng nhà ở đô thị được quy chiếu

tương ứng với nhóm giá trị văn hóa và có cùng chung xu hướng phân chia 3 cấp độ:

cơ bản – mở rộng – phát triển. Điều này được hiểu là sự tác động của VHTT phụ

thuộc vào đặc điểm cấu trúc và nhu cầu công năng nhà ở (văn hóa tương ứng công

năng); nói cách khác, công năng định hình cho các giá trị văn hóa được tiếp cận và

ứng dụng. Ngược lại, thông qua hình thức tổ chức không gian có thể nhận biết tính

cách văn hóa và lối sống của đối tượng sở hữu (công năng chuyển tải văn hóa). Như

vậy, mối quan hệ giữa công năng và văn hóa có tính chất “cặp đôi” - tương hỗ -

hai chiều; ngoài ra, khai thác VHTT còn là sự chọn lọc giá trị tiêu biểu, phù hợp và

không giống nhau giữa các cấp nhu cầu.

Hình 3.12 diễn đạt đặc trưng khai thác giá trị VHTT trong yếu tố công năng,

phản ánh chi tiết nội dung trình bày trên đây và cũng có thể xem là ví dụ của mô

hình ứng dụng giá trị VHTT. Theo đó, 5 nhóm chức năng nhà ở được minh họa bởi

các thành phần không gian cơ bản nhất và có sự tương tác cao với giá trị VHTT

[mục 2.2.4]. Tùy theo cấp độ nhu cầu, các nhóm chức năng sẽ xuất hiện bằng 2 vai

trò: chính thức (mặc định) hoặc phi chính thức (bổ sung). Nghĩa là, với mỗi cấp

nhu cầu sẽ có những chức năng quan trọng nhất (mặc định) để đáp ứng cho sự vận hành của nhà ở; cấp càng thấp thì số nhóm chức năng chính càng ít và ngược lại87.

Tuy nhiên, trong những điều kiện giới hạn của cấp nhu cầu thấp, các không gian

không thuộc phạm vi chức năng chính thức vẫn cần thiết cho sinh hoạt của đối 87 Cấp nhu cầu cơ bản có 2 nhóm chức năng chính thức là nghỉ ngơi thụ động và làm việc; cấp nhu phát triển có 5 nhóm chức năng chính thức (nghỉ ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp, nghỉ ngơi năng động).

109

tượng sử dụng, và chúng sẽ tồn tại bằng giải pháp đa năng (bổ sung), lồng ghép vào

bên trong không gian chức năng chính. Bất lợi của hình thức này là hoạt động bị

dồn nén và ảnh hưởng lẫn nhau. Đạt đến cấp cao nhất (phát triển), nhà ở hoàn thiện

đầy đủ 5 nhóm chức năng; ngoài ra giải pháp đa năng có sự thay đổi cơ bản về nội

dung và tính chất liên kết. Các nhóm chức năng được phân chia độc lập, trong đó

những không gian có sự bổ trợ để nâng cao chất lượng tiện nghi nhà ở sẽ kết hợp

với nhau; loại trừ ảnh hưởng chồng lấn và cản trở theo kiểu hoạt động này triển khai

thì hoạt động khác tạm ngưng. Bên cạnh đó, giải pháp đa năng không chỉ ứng dụng

cho không gian sử dụng chung mà còn phát huy trong các không gian riêng. Cũng

vì những lý do trên, nhà ở bắt buộc gia tăng diện tích và số lượng thành phần không

gian.

Như đã trình bày, sự tham dự của giá trị VHTT tương ứng với cấp độ nhu cầu

công năng. Với cấp cơ bản, đặc trưng của nhà ở là không gian sử dụng chung (tất

cả trong một), do đó chịu sự chi phối của tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp). Ngoài

ra, tính dung hòa với tự nhiên là điều kiện tiên quyết của bất kỳ loại hình nhà ở nào,

vì vậy cũng đóng vai trò quan trọng trong cấp nhu cầu này. Với cấp mở rộng, chức

năng nhà ở phân chia thành 4 nhóm chính thức (nghỉ ngơi thụ động, làm việc, giáo

dục, giao tiếp) và phòng ở cá nhân đạt cân bằng với số người. Điều này mở rộng

điều kiện tham gia của các giá trị văn hóa tiếp theo là: tính cộng đồng, tính tư hữu

và truyền thống gia đình Việt. Tại đây vẫn duy trì tính linh hoạt đa năng (tiền cấp)

do phải dồn nén nhiều hoạt động nghỉ ngơi năng động theo các nhóm chức năng.

Tính dung hòa với tự nhiên được nhân rộng quy mô cùng với sự gia tăng thành phần

không gian sử dụng chung và riêng; đáng kể đến là sự xuất hiện của yếu tố sân

vườn và sân trong (giếng trời), tuy nhiên diện tích các sân này không lớn. Trong cấp

phát triển, cùng với sự tồn tại chính thức của 5 nhóm chức năng, giá trị VHTT phát

huy tối đa sự ảnh hưởng lên công năng nhà ở. Tính dung hòa với tự nhiên đạt trạng

thái tối ưu để cân bằng giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo, mang lại tiện nghi

sinh thái cao nhất đến từng không gian ở - phòng ở. Tính linh hoạt/đa năng chuyển

đổi hình thức liên kết để nâng tầm chất lượng tiện nghi sinh hoạt, nghỉ dưỡng, làm

việc tại chỗ. Tính cộng đồng phát triển sâu hơn vào bên trong cấu trúc công năng,

110

biểu hiện bằng sự kết hợp giữa giao tiếp đối ngoại với các hoạt động nghỉ ngơi năng

động (sử dụng chung không gian nghỉ dưỡng, giải trí). Tính tư hữu tạo động lực gia

tăng đột biến số lượng phòng ở cá nhân và phòng chức năng chuyên dụng; thỏa mãn

nhu cầu tự thể hiện lối sống và sở thích riêng. Truyền thống gia đình Việt thúc đẩy

hình thành nhiều không gian sum họp, giáo dục con cái và thờ cúng tổ tiên. Những

không gian này phân bố đa dạng theo nhóm chức năng nhà ở và có tính chất hoạt

động phong phú hơn các cấp nhu cầu trước đó.

Tóm lại, khai thác VHTT trong yếu tố công năng là tiến trình chọn lọc giá

trị tương ứng với sự phát triển của các cấp độ nhu cầu. Số lượng thành phần chức

năng càng nhiều (theo trạng thái tồn tại chính thức) thì càng mở rộng điều kiện tham

dự của VHTT. Trên bình diện tổng thể, tính dung hòa tự nhiên và tính linh hoạt/đa

năng (tiền cấp & nâng cao) tương tác lớn nhất theo sự chuyển đổi không gian. Điều

này phù hợp với 2 mục tiêu phát triển nhà ở, đó là cân bằng trạng thái sinh lý tự nhiên của cơ thể (vì con người là một bộ phận của tự nhiên)88 và tự do thực hiện

nhu cầu cá nhân luôn biến đổi không hạn định. Có thể nói, không gian nhà ở xác lập

điều kiện cho VHTT được can thiệp và phát huy. Trong giới hạn của cấp nhu cầu

thấp, công năng phân chia ước lệ thành các “tiểu không gian văn hóa - ở”, mọi hoạt

động đan xen, chồng lấn lẫn nhau; vì vậy nhận diện mức độ ảnh hưởng của VHTT

không rõ ràng. Tuy nhiên, đạt đến mức phát triển cao nhất, các “tiểu không gian văn

hóa – ở” vận hành trong những phạm vi độc lập, thỏa mãn điều kiện về diện tích và

tính chất hoạt động để phát huy tối đa chức năng sử dụng; cho nên giá trị VHTT hội

tụ các tiềm lực tham dự và tương tác. Như vậy, cấp độ phát triển công năng nhà ở

càng cao thì càng tạo môi trường thuận lợi cho giá trị truyền thống được khai thác;

vừa đáp ứng xu hướng phát triển không ngừng của cấu trúc nhu cầu, vừa thiết dựng

không gian văn hóa - ở phù hợp với lối sống của đối tượng sử dụng trong các đô thị

88 Sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người quan hệ khăng khít với tự nhiên, điều đó chẳng qua chỉ có ý nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiên, vì con người là một bộ phận của tự nhiên (Karl Marx);

lớn Việt Nam.

111

3.2 Khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình thức

3.2.1 Mô hình khai thác giá trị văn hóa truyền thống

Tính biểu hình là một trong những giá trị VHTT được chọn lọc bằng

phương pháp phân tích định tính [mục 2.1.3.1] và định lượng [mục 2.1.3.2]. Giá trị

này đại diện cho thẩm mỹ KTNO truyền thống và là tổng của nhiều giá trị thuộc 3

nhóm yếu tố: kỹ thuật truyền thống, nghệ thuật tạo hình, giải pháp dung hòa với tự

nhiên. Khi chuyển đổi vào trong KTNO đô thị hiện nay, các nhóm nói trên tiếp tục

được chọn lọc bởi sự tương tác với yếu tố hình thức (mái, kết cấu bao che, cửa, hiên/logia, khung cột, nền)89 để loại trừ những phần tử có mức biểu hiện thấp [mục 2.3.4], từ đó phân tách 9 giá trị 90 có thể khai thác và được xem là các giá trị tiêu

biểu của thẩm mỹ truyền thống. Theo cách tiếp cận Ký hiệu học [mục 2.3.2], trong 3 cơ chế chuyển đổi91 đã trình bày thì chuyển đổi tương ứng sẽ là mục tiêu của

nghiên cứu. Dựa trên quan điểm đề cao vai trò công nghệ và sự sáng tạo, quá trình

xây dựng cơ sở lý thuyết cho việc khai thác không đặt trọng tâm vào sự sao chép

đặc điểm tạo hình của KTNO truyền thống mà chỉ nhằm chuyển đổi các quy luật và nguyên tắc thẩm mỹ, dẫn nghĩa đến các giá trị VHTT92 phản ánh tinh thần và hệ

thức tư duy của người Việt [mục 2.3.1]. Bằng cách này cho thấy giữa công năng và

hình thức có cùng chung một nguồn gốc văn hóa. Vì vậy, việc khai thác cùng lúc 2

phương diện đó cũng sẽ củng cố và tăng cường khả năng nhận diện tính bản sắc

trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam.

Mô hình khai thác VHTT được thiết lập dựa trên mối quan hệ giữa giá trị thẩm

mỹ truyền thống với hình thức KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam, gồm 3 loại hình

89 Yếu tố hình thức (mái, kết cấu bao che, cửa, hiên/logia, khung cột, nền) còn có các tên gọi khác là yếu tố

tạo hình, cấu trúc hình thức, thành phần cấu trúc, yếu tố cấu tạo;

90 Gồm: tính hình học, tính đối xứng, tỷ lệ hài hòa, tính vần điệu, vật liệu tự nhiên, hình thức che nắng, tạo

bóng râm, thông gió, tính cơ động;

91 Ba phương thức chuyển đổi giá trị thẩm mỹ trong KTNO đô thị gồm: chuyển đổi nguyên gốc (thụ động);

chuyển đổi một phần (bán thụ động); chuyển đổi tương ứng (chủ động – sáng tạo);

92 Đó là các giá trị: tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính cộng đồng, tính tư hữu, truyền

thống gia đình Việt;

là nhà phố, chung cư và biệt thự. Trong đó, mỗi giá trị thẩm mỹ truyền thống chứa

112

đựng những yếu tố thẩm mỹ thành phần; và hình thức kiến trúc nhà ở là tập hợp

nhiều yếu tố cấu tạo (mái, cửa, bao che...). Vì vậy, quan hệ của 2 đối tượng chính

nói trên là tổng hợp mối quan hệ giữa các yếu tố thẩm mỹ thành phần và yếu tố cấu

tạo [hình 3.13]. Cách quy chiếu này giúp cung cấp dữ liệu cần thiết và cụ thể để

xây dựng mô hình khai thác.

Hình 3.13: Mối quan hệ giữa giá trị thẩm mỹ truyền thống với hình thức kiến trúc nhà ở đô thị

Các giá trị thẩm mỹ được tập hợp thông qua phân tích hình thức KTNO truyền

thống [mục 1.2] và sự chuyển đổi biểu hiện trong KTNO đô thị Việt Nam hiện nay

[mục 1.3]. Nhằm xây dựng mô hình khai thác có tính ứng dụng chung thì cả 3 loại

hình nhà ở (nhà phố, biệt thự, chung cư) đều được xét đến. Nội dung tương tác được

trình bày trong Chương II [mục 2.3.3] là để sơ lược loại trừ các phần tử có mức biểu

hiện thấp, còn mô hình tương tác trong chương này đặt mục tiêu phân tích chi tiết

và cụ thể hơn mối quan hệ của những yếu tố được chọn, hướng đến tiêu chí trọng

tâm khai thác.

Mô hình khai thác giá trị VHTT trong hình thức kiến trúc nhà ở tại các đô

thị lớn Việt Nam [hình 3.14] được xây dựng theo 3 tiêu chí sau:

1) Nhận diện giá trị thẩm mỹ truyền thống nào có khả năng tác động nhiều

113

nhất đến hình thức kiến trúc nhà ở đô thị. Mục đích nhằm thiết lập trật tự của các

quy luật và nguyên tắc thẩm mỹ, thể hiện tính phân cấp giá trị văn hóa trong yếu

tố hình thức.

2) Nhận diện thành phần cấu tạo nào có khả năng chuyển tải nhiều nhất giá

trị thẩm mỹ truyền thống. Mục đích nhằm chọn lọc đối tượng ưu tiên khai thác.

3) Xây dựng công thức tính chỉ số khai thác kết hợp. Mục đích nhằm phân

chia cấp độ khai thác và thiết lập cơ chế để đánh giá, thẩm định lại những công

trình đã xây dựng thực tế.

Các tiêu chí trên lần lượt được đáp ứng trong những kết quả sau:

 KẾT QUẢ 1:

Sử dụng phép cộng số lượng tương tác, mô hình khai thác không chỉ cho

thấy tính chất phân nhóm giá trị thẩm mỹ (tiêu biểu và phổ quát) mà còn có thể

xác lập trật tự của các nguyên tắc thẩm mỹ. Mục đích phân nhóm là để lựa chọn

những giá trị có mức tương tác cao nhất, còn xây dựng nguyên tắc là nhằm nhận

diện tính đặc thù của cái đẹp truyền thống, chuyển tải nội dung tinh thần và tư

tưởng của người Việt.

Theo phân tích từ mô hình thì không phải giá trị thẩm mỹ nào cũng đóng vai

trò giống nhau; trong đó tính hình học, tính đối xứng, tính vần điệu và tỷ lệ hài hòa

có mức tương tác cao nhất nên được xếp vào nhóm tiêu biểu. Các giá trị thẩm mỹ

còn lại (tính cơ động, vật liệu tự nhiên, giải pháp che nắng, thông gió, tạo bóng

râm) có mức tương tác thấp hơn nên được xếp vào nhóm phổ quát. Giữa 2 nhóm

nói trên thì nhóm tiêu biểu sẽ ưu tiên chọn lọc khai thác.

Giá trị thẩm mỹ tiêu biểu và phổ quát còn được xem là những quy luật thẩm mỹ93 và việc ứng dụng chúng mang lại vẻ đẹp tạo hình truyền thống cho kiến trúc

93 Quy luật thẩm mỹ truyền thống có tính khách quan, phổ biến và lặp lại; ứng dụng các quy luật này giúp

nhận diện vẻ đẹp tạo hình của KTNO truyền thống;

94 Nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống có tính chủ quan và chọn lọc; ứng dụng các nguyên tắc này giúp nhận

diện tính đặc thù của thẩm mỹ KTNO truyền thống, chuyển tải các nội dung tinh thần và tư tưởng.

nhà ở đô thị. Ngoài ra, bản thân các giá trị đó có thể tự nó là một nguyên tắc thẩm mỹ94, hoặc kết hợp nhiều giá trị với nhau để tạo thành một nguyên tắc [hình 3.15].

114

Sự phối hợp quy luật thẩm mỹ và nguyên tắc thẩm mỹ thể hiện tính thống nhất

giữa nội dung và hình thức, vừa chuyển tải vẻ đẹp khách quan (vẻ đẹp tự thân của

kiến trúc) vừa phản ánh các hàm nghĩa tinh thần và tư tưởng của người Việt (giá trị

VHTT) [mục 2.3.1]. Ngược lại, vì giá trị VHTT là một hệ thống có tính trật tự phân

cấp cho nên nguyên tắc thẩm mỹ cũng có cùng tính chất này.

Hình 3.15: Sự phối hợp giữa quy luật thẩm mỹ, nguyên tắc thẩm mỹ và giá trị VHTT trong

kiến trúc nhà ở đô thị

Hình 3.15 cho thấy sự liên quan giữa quy luật thẩm mỹ trong việc tạo thành

nguyên tắc thẩm mỹ và dẫn nghĩa đến giá trị VHTT. Các quy luật thẩm mỹ là đối

tượng trực tiếp tương tác với hình thức kiến trúc nhà ở đô thị, cho nên tổng chỉ số

tương tác của nó sẽ tạo ra trật tự phân cấp của nguyên tắc thẩm mỹ, tương ứng với

trật tự phân cấp giá trị VHTT và được mô tả trong bảng 3.1 như sau:

115

BẢNG 3.1: TRẬT TỰ NGUYÊN TẮC THẨM MỸ TRUYỀN THỐNG TRONG

HÌNH THỨC KTNO ĐÔ THỊ VIỆT NAM HIỆN NAY

THỨ TỰ ƯU TIÊN

THAM CHIẾU GIÁ TRỊ VHTT

NGUYÊN TẮC THẨM MỸ TRUYỀN THỐNG TRONG KTNO ĐÔ THỊ VN

GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRUYỀN THỐNG

CHỈ SỐ KHAI THÁC95

- Tính hình học

39

Tính tư hữu

Ưu tiên 1

ĐẸP - ĐẸP THÀNH TỐ

58

- Tỷ lệ hài hòa

19

- Tạo bóng râm

15

- Vật liệu tự nhiên

13

Tính dung hòa với tự nhiên

Ưu tiên 2

43

ĐẸP - ĐẸP HÀI HÒA VỚI TỰ NHIÊN

- Giải pháp thông gió

9

- Giải pháp che nắng

6

- Tính đối xứng

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 3

ĐẸP - ĐẸP TRẬT TỰ

36

- Tính vần điệu

Tính cộng đồng

Ưu tiên 4

ĐẸP - ĐẸP TỔNG THỂ

33

- Tính cơ động

Tính linh hoạt/đa năng

Ưu tiên 5

ĐẸP - ĐẸP ĐA DẠNG

9

1) Đẹp – Đẹp thành tố: hình thức ngôi nhà là tập hợp của các yếu tố tạo hình

(mái, cửa, kết cấu bao che, hiên/logia, khung cột, nền) mang đặc điểm hình học

được chuyển đổi từ nhà ở truyền thống; có tỷ lệ hài hòa với con người và hài hòa

giữa chúng với nhau;

2) Đẹp – Đẹp hài hòa với tự nhiên: hình thức ngôi nhà thể hiện sự thích ứng

với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chứng minh vai trò ảnh hưởng của tính bản

địa bằng việc sử dụng vật liệu tự nhiên (gạch, gỗ, đá, ngói đất nung,…), giải pháp

thông gió (cấu trúc đặc – rỗng của cửa, lam, tường hoa), che nắng (mái - ô văng

vươn xa, hàng hiên, logia), các vùng bóng râm trên mặt nhà;

3) Đẹp – Đẹp trật tự: hình thức ngôi nhà được tổ hợp từ các cấu trúc có tính

phân cấp chính – phụ, trước – sau, trên - dưới; diễn đạt thông qua thể thức đối xứng

và cân bằng;

4) Đẹp – Đẹp tổng thể: hình thức ngôi nhà mang vẻ đẹp tổng hòa của các

yếu tố có cùng chung ngôn ngữ tạo hình, được thực hiện bằng thủ pháp lặp lại hình

dáng hoặc sự đồng dạng (giống về hình, khác về quy mô) của cấu trúc;

95 Chỉ số khai thác = số lượng tương tác (dẫn từ mô hình khai thác giá trị thẩm mỹ truyền thống).

5) Đẹp – Đẹp đa dạng: hình thức ngôi nhà có tính thay đổi, biến hóa bằng

116

các cấu trúc có khả năng dịch chuyển và cơ động (lam di động, mái – mái che di

động, cửa xếp – trượt, cửa lá sách).

Trật tự nguyên tắc thẩm mỹ là cơ sở định hướng khai thác giá trị VHTT trong

KTNO đô thị Việt Nam, trong đó 2 nguyên tắc đầu đóng vai trò rất quan trọng (do

có chỉ số tương tác cao). Vượt ra khỏi hệ thống nguyên tắc này đồng nghĩa phá vỡ

cấu trúc có khả năng đem đến sự nhận diện hay cảm thụ thẩm mỹ truyền thống. Như

vậy đây là khung lý thuyết cơ sở để tiếp cận phương pháp khai thác phù hợp với

thực tiễn, phát huy khả năng sáng tạo và tránh được sự sao chép nguyên mẫu các

thể thức tạo hình truyền thống.

 KẾT QUẢ 2:

Căn cứ theo mô hình khai thác, tổng hợp số lượng tương tác giữa giá trị

thẩm mỹ truyền thống với hình thức KTNO đô thị cho thấy vai trò của từng thành

phần cấu tạo có sự khác nhau, trong đó yếu tố mái chiếm chỉ số khai thác cao nhất

và giảm dần theo thứ tự: kết cấu bao che → cửa → hiên/logia → nền → khung

cột; đồng thời có thể chia theo 2 nhóm: quan trọng (mái, kết cấu bao che, cửa,

hiên/logia) và ít quan trọng (khung cột, nền). Nhóm quan trọng thể hiện khả năng

can thiệp/tham dự cao của giá trị thẩm mỹ truyền thống và là đối tượng chính để

chọn lọc khai thác.

 KẾT QUẢ 3:

Mỗi yếu tố cấu tạo của từng loại hình nhà ở (nhà phố, chung cư, biệt thự )

đều được đánh dấu bằng khả năng tương tác và tổng số lượng tương tác thể hiện

năng lực chuyển tải giá trị thẩm mỹ truyền thống của chúng. Tuy nhiên, khi đối

chiếu chỉ số tổng của 3 loại nhà ở trong cùng một yếu tố cấu tạo thấy có sự chênh

lệch không cao, vì vậy có thể quy đồng về các chỉ số trung bình (chỉ số chung).

Trong trường hợp tất cả giá trị thẩm mỹ đều phát huy hết khả năng can thiệp

trong các yếu tố cấu tạo thì tổng chỉ số trung bình được gọi là chỉ số lý tưởng (61

tương tác - ứng với tỷ lệ 100%). Quy chiếu ngược lại, với những mức độ khai thác

không đầy đủ có thể căn cứ theo chỉ số lý tưởng để xác lập tỷ lệ % [xem phương

pháp tính chỉ số kết hợp trong hình 3.14]. Dựa trên nguyên tắc này để chia các mức

117

độ khai thác theo 2 cấp độ (giới hạn – đặc thù) hoặc theo 3 cấp độ: thấp (10 –

40%) – trung bình (40 – 70%) – cao (71 – 100%). Nội dung phân cấp sẽ được trình

bày cụ thể trong mục 3.2.3. Tỷ lệ 10% trong cấp thấp nhất (ứng với 6 tương tác của

thành phần khung cột) được gọi là chỉ số tới hạn, bởi vì nếu nhỏ hơn nữa thì không

còn bất kỳ dấu hiệu nào để nhận diện sự tham dự của giá trị thẩm mỹ truyền thống.

Mô hình trên đây còn được sử dụng để thẩm định lại các công trình đã triển

khai trong thực tế. Bằng cách nhận diện và tính điểm số lượng biểu hiện thẩm mỹ

truyền thống của từng yếu tố cấu tạo, sau đó chia với chỉ số lý tưởng sẽ cho ra kết

quả khai thác thuộc cấp độ nào. Như vậy, việc khai thác giá trị thẩm mỹ truyền

thống được lượng hóa thay vì chỉ suy luận cảm tính và không chắc chắn. Kết quả

này cũng là một trong những đóng góp của luận án.

3.2.2 Đặc điểm hình thức của giá trị văn hóa truyền thống

Đặc điểm hình thức của VHTT phân tích theo 9 giá trị thẩm mỹ96 đã được

chọn lọc qua sự tương tác với các yếu tố tạo hình nhà ở đô thị Việt Nam [mục

2.3.4]. Đây là những giá trị còn duy trì mức biểu hiện cao và xác lập nguyên tắc để

nhận diện vẻ đẹp truyền thống. Phân tích các “mặt nhìn thấy” của chúng có thể cô

đọng thành những quy luật chung nhất, từ đó suy luận khả năng chuyển đổi nhằm

thích ứng với điều kiện nhà ở hiện nay. Như vậy, nội dung này sẽ trình bày theo 2

bước: 1) phân tích đặc điểm tạo hình trong nhà ở truyền thống tương ứng với các

giá trị thẩm mỹ [hình 3.16]; 2) sự chuyển đổi các đặc điểm đó trong KTNO đô thị

hiện nay [hình 3.17]. Các bước nói trên cũng diễn ra đồng thời với việc truy cập dữ

liệu từ những yếu tố cấu tạo cơ bản gồm: mái, kết cấu bao che, cửa, hiên/logia,

khung cột, nền.

Dẫn đầu trong các giá trị thẩm mỹ truyền thống là tính hình học, chi phối

đồng loạt đến thành phần cấu trúc với 3 yếu tố chính: 1) đường: chủ yếu là đường

thẳng, ngang, xiên và rất ít đường cong; không tồn tại các đường “bất qui tắc”; 2)

thức che nắng; 7) tạo bóng râm; 8) giải pháp thông gió; 9) tính cơ động;

mặt: gồm mặt phẳng và mặt nghiên với cấu trúc đặc hoặc ô lưới; hình dạng các mặt 96 Gồm: 1) tính hình học; 2) tính đối xứng; 3) tỷ lệ hài hòa; 4) tính vần điệu; 5) vật liệu tự nhiên; 6) hình

118

là hình chữ nhật (có hoặc không vạt góc), hình vuông, hình tam giác; 3) khối: có 3

dạng khối lớn cơ bản là khối chữ nhật (phần thân nhà), khối tam giác (2 mái) và

khối nửa chỏm (4 mái). Độ nghiên của các đường và mặt nằm trong khoảng từ 25

đến 35 . Hình thức nhà ở được tổ hợp từ các dạng hình học trên và chia thành 3

phần: mái – thân – nền; trong đó nền nhà luôn nâng cao hơn mặt sân. Nhà thấp tầng

có xu hướng trải dài theo phương ngang (chiều rộng ≥ 2 lần chiều cao); nhà nhiều

tầng thường có chiều ngang hẹp và phát triển theo phương đứng. Các nguyên tắc

hình học này có thể tiếp tục kế thừa trong KTNO đô thị hiện nay, đem đến cảm

nhận về tính “quen thuộc” của truyền thống .

Giá trị thẩm mỹ đặc trưng tiếp theo là tính đối xứng, được diễn đạt bởi 2 thể

thức: 1) đối xứng tuyệt đối: là lối tạo hình phổ biến của KTNO truyền thống, thể

hiện tính trật tự của bố cục. Tất cả thành phần cấu trúc từ nền nhà đến mái được

thiết dựng qua một trục chính; kết hợp với số gian lẻ, trong đó gian giữa thường

rộng hơn các gian bên. 2) cân bằng (cân xứng): được tạo thành từ 2 tổ hợp đối

xứng ghép lại gồm nhà chính và nhà phụ; quy mô các hình và khối không giống

nhau nhưng vẫn duy trì cùng một “trọng lượng thị giác”, mang lại cảm giác về sự

cân xứng. Trong KTNO đô thị hiện nay, cả 2 thể thức này đều có thể tiếp tục được

ứng dụng; nhưng tính cân bằng đem đến sự đa dạng các hình thức sáng tạo nên có

nhiều tiềm năng phát triển hơn.

Tính vần điệu là một trong những giá trị thẩm mỹ cơ bản của KTNO truyền

thống, thể hiện sự lặp lại có quy luật và biến hóa có tổ chức của các yếu tố tạo hình

(đường, mặt, khối, chất liệu, màu sắc); đồng thời đảm bảo tính thống nhất và đa dạng của hình thức97. Tính vần điệu được nhìn thấy trong cấu trúc gian/chái (số lẻ);

các chi tiết lan can con tiện, cửa bức bàn, bậc cấp, mái… theo 2 thủ pháp: cấu trúc

đồng dạng (giống về hình, khác về quy mô) và cấu trúc lặp lại (do sự sắp xếp lặp

lại một cách liên tục những thành phần cơ bản). Trong nhà ở đô thị hiện nay, giá trị

này cũng được ứng dụng cho các cấu trúc mái, cửa, vỏ bao che, khung cột… nhằm

97 Theo Le Corbusier: "Sự thống nhất các thành phần xây dựng là một sự bảo đảm cho thẩm mỹ; tính đa dạng do các đơn vị ở đưa vào kiến trúc sẽ dẫn đến những bố cục lớn, những nhịp điệu kiến trúc chân chính".

tạo ấn tượng thẩm mỹ về tính trật tự và đa dạng; tránh sự phát triển hỗn độn.

119

Ngoài các giá trị thẩm mỹ quan trọng trên đây, KTNO truyền thống còn truyền

cảm vẻ đẹp thông qua tỷ lệ hài hòa, thể hiện sự tương quan về kích thước và cách

sắp xếp các thành phần cấu trúc để tạo ra cảm giác cân bằng. Giá trị này gồm 2 đặc

điểm chính: 1) tỷ lệ hài hòa với con người: hình dáng và kích thước ngôi nhà

không đồ sộ, lấn át con người; 2) sử dụng cấu trúc mái lặp lại để giảm cảm giác

chiều cao: đối với nhà nhiều tầng thường sử dụng yếu tố mái/mái vẩy/mái hiên để

chia nhỏ tỷ lệ chiều cao. Ngoài ra, do vật liệu truyền thống có tính cơ lý thấp nên

các chi tiết cấu tạo và trang trí thường mang qui mô nhỏ. Chuyển đổi vào trong nhà

ở đô thị hiện nay, 2 đặc điểm trên đều có thể ứng dụng cho nhà phố và biệt thự. Tuy

nhiên, chung cư có kích thước vượt trội nên đã phá vỡ tỷ lệ con người; cũng không

thể sử dụng yếu tố mái để phân vị trên tất cả các tầng, do đó hình thức nhà ở chung

cư không mang cảm giác gần gũi giống như các loại hình nhà ở khác.

Trên đây là 4 giá trị thẩm mỹ đặc trưng nhất (thuộc nhóm tiêu biểu) của

KTNO truyền thống được chuyển đổi vào trong nhà ở đô thị hiện nay. Việc xác lập

chỉ số tương tác cao [hình 3.14] cho thấy khả năng ứng dụng chúng dễ đưa đến sự

cảm nhận về vẻ đẹp truyền thống. Tất cả những giá trị này đều được nhận dạng theo

quy luật tạo hình mà hoàn toàn không đề cập đến sự sao chép hình thức cụ thể nào.

Ngoài ra, còn có thêm 5 giá trị dưới đây (thuộc nhóm phổ quát) với mức độ tương

tác thấp hơn, góp phần bổ trợ cho quá trình khai thác.

KTNO truyền thống được tạo thành từ vật liệu tự nhiên sẵn có như tre, gỗ, đất

nung… sử dụng cho tất cả các dạng cấu trúc, mang lại vẻ đẹp thô mộc và giản dị.

Ngày nay, việc sử dụng lại các loại vật liệu đó (thường thấy trong nhà phố và biệt

thự) với mục đích xây dựng và trang trí có thể gợi nhắc đến tính thẩm mỹ nói trên.

Thông qua thiết lập cấu trúc bao che để thích ứng với điều kiện khí hậu nhiệt

đới nóng ẩm, hình thức KTNO truyền thống cho thấy tính mở thoáng bằng các giải

pháp: 1) thông gió tự nhiên: sử dụng ô thông gió mái và kiểu cấu trúc đặc rỗng đan

xen cho cửa, phên/giại, đỉnh tường; 2) che nắng: do cường độ chiếu nắng cao và

kéo dài có thể làm ảnh hưởng không gian sinh hoạt nên nhà ở truyền thống sử dụng

mái/ô văng vươn xa khỏi mặt tường, kết hợp hàng hiên và logia lớn để hạn chế tác

hại, hình thành vùng đệm giữa bên trong và bên ngoài; 3) tạo bóng râm: hệ quả của

120

các giải pháp che nắng là xuất hiện vùng bóng râm dày và đậm trên bề mặt ngôi

nhà. Ba giải pháp trên là đặc trưng phổ biến cho kiến trúc khí hậu nhiệt đới nói

chung. Ngày nay, chúng được chuyển đổi vào trong nhà ở đô thị thông qua các hình

thức: lam, tường hoa, giàn hoa, cửa chớp lật/chống, ô thông gió mái và đỉnh tường,

các dạng tường có cấu trúc đặc rỗng đan xen, các kiểu hành lang/hàng hiên/logia,

các tấm ô văng che cửa và mái vươn xa.

Giá trị thẩm mỹ sau cùng trong KTNO truyền thống là tính cơ động, biểu hiện

bằng những cấu trúc có khả năng dịch chuyển linh hoạt như: tấm phên/giại, cửa bức

bàn có thể xếp hoặc tháo dỡ, cửa lật/chống. Ngoài ra, toàn bộ hệ khung kết cấu của

ngôi nhà được ghép bằng mộng, đặt trên đá tảng nên lắp dựng và di chuyển dễ dàng.

Tính chất này cho thấy sự chuyển đổi vào trong KTNO đô thị hiện nay thông qua

các hình thức mái/hiên che/ô văng di động, các dạng cửa và lam có thể cơ động góc

đóng mở, cửa xếp/trượt.

Tóm lại, tất cả 9 giá trị thẩm mỹ truyền thống chia thành 2 nhóm (tiêu biểu và

phổ quát) đều được chuyển đổi vào trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam theo

những quy luật và thể thức khác nhau. Việc khai thác các giá trị này đặt dưới sự

khống chế của trật tự nguyên tắc thẩm mỹ sẽ gợi nhắc vẻ đẹp và cảm nhận tính quen

thuộc của nhà ở truyền thống Việt Nam; tuy nhiên không ràng buộc vào sự sao chép

các hình thức đã cũ. Điều đó giải phóng khả năng sáng tạo, phát huy vai trò của

công nghệ và thích ứng với quan điểm thẩm mỹ mới do sự biến động của môi

trường kinh tế, xã hội và văn hóa trong giai đoạn hiện nay.

121

3.2.3 Đặc trưng khai thác giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố hình

thức

Bằng việc xây dựng mô hình khai thác VHTT kết hợp với phân tích các

đặc điểm hình thức cho thấy 2 nội dung quan trọng: 1) các giá trị thẩm mỹ truyền

thống có thể được chuyển đổi theo những nguyên tắc và quy luật mà không nhất

thiết sao chép hình dạng vốn có của KTNO truyền thống; 2) quá trình khai thác

được phân chia theo các cấp độ khác nhau. Những nội dung này thể hiện sự kế thừa

VHTT một cách có chọn lọc, chủ động và thích ứng với điều kiện phát triển năng

động của KTNO trong giai đoạn hiện nay.

Nguyên tắc thẩm mỹ là những đánh giá chung, có tính khuôn mẫu để nhận

diện vẻ đẹp truyền thống, được diễn đạt thành các quy luật cụ thể. Những quy luật

này tương tác trực tiếp đến yếu tố tạo hình của KTNO truyền thống và hiện đại.

Theo cách phân chia cấu trúc 2 bậc của văn hóa thì các nguyên tắc và quy luật thuộc

yếu tố bên trong (cơ tầng - nội hàm); còn biểu hiện hình thức là yếu tố bên ngoài

(biểu tầng – ngoại diện). Các yếu tố bên trong có tác dụng điều chỉnh, khống chế sự

vận hành và biến đổi của yếu tố bên ngoài để duy trì tính ổn định. Như vậy, nếu

giữa nhà ở truyền thống và hiện đại cùng có chung một cơ chế tác động thì, theo

tính chất bắc cầu, chúng sẽ xuất hiện những đặc tính thẩm mỹ giống nhau. Tuy

nhiên, mỗi giai đoạn phát triển nhà ở chịu ảnh hưởng của các điều kiện luôn biến

đổi như kỹ thuật (công nghệ) và sự sáng tạo, cho nên hình thức kiến trúc giai đoạn

về sau không thể lặp lại như các giai đoạn trước. Do đó, cảm nhận cái đẹp truyền

thống (hay kế thừa thẩm mỹ truyền thống) chỉ có thể thực hiện thông qua việc nhận

diện các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ. Hơn nữa, tác nhân hình thành các nguyên

tắc và quy luật này được định dạng trong hệ giá trị VHTT; nghĩa là chúng được

khởi sinh từ những đặc thù về lối sống, quan điểm và cách ứng xử với môi trường

tự nhiên - xã hội, cô đọng thành những giá trị. Vì vậy, qua sự nhận diện nói trên còn

có thể suy luận và tham chiếu đến hệ giá trị VHTT Việt Nam [hình 3.18].

122

Hình 3.18: Quy trình chuyển đổi và nhận diện giá trị thẩm mỹ truyền thống

trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam

Khai thác VHTT trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam có thể chia theo 2 cấp độ (giới hạn – đặc thù) hoặc 3 cấp độ (thấp – trung bình – cao)98. Các cấp độ

được xác lập thông qua chỉ số khai thác [mục 3.2.1]. Mức độ phân cấp càng nhiều

thì càng chi tiết hóa quá trình khai thác; tuy nhiên luận án chọn cách phân cấp đơn

giản nhất (2 cấp) để phân tích, từ đó có thể suy luận đến các phân cấp tiếp theo.

Việc phân chia cấu trúc 2 cấp độ [hình 3.19] được xác định bằng chỉ số phân

cấp (55% - quá bán), nhỏ hơn chỉ số này gọi là nhóm khai thác giới hạn và lớn

hơn gọi là nhóm khai thác đặc thù. Ngoài ra, mức thấp nhất của nhóm giới hạn

được khống chế bởi chỉ số tới hạn (10%,), ứng với 6 tương tác của yếu tố khung

cột. Nếu thấp hơn sẽ không còn dấu hiệu nào để nhận biết giá trị thẩm mỹ truyền

thống. Chỉ số cao nhất (chỉ số lý tưởng – 100%) thuộc nhóm đặc thù, cho thấy tất cả

98 Sự phân cấp có thể gia tăng thành 4 hoặc 5 cấp tùy theo mục đích sử dụng mô hình;

các giá trị đều được khai thác trong mọi yếu tố tạo hình nhà ở, ứng với 61 tương tác.

123

Từ các chỉ số trung bình trong mô hình [hình 3.14] có thể nhận biết 4 yếu tố

tạo hình của nhà ở đô thị hiện nay có mức tương tác cao với giá trị thẩm mỹ truyền

thống, xếp theo thứ tự lần lượt là: mái – kết cấu bao che – cửa – hiên/logia, thuộc

nhóm các yếu tố quan trọng. Nghĩa là, nếu tập trung khai thác vào các yếu tố này

dễ truyền cảm cái đẹp truyền thống. Các yếu tố còn lại (nền, khung cột) thuộc

nhóm ít quan trọng, có tác dụng bổ trợ khai thác.

Quá trình khai thác giá trị thẩm mỹ truyền thống thường là sự kết hợp của

nhiều yếu tố tạo hình với nhau; do đó, phép cộng các chỉ số của chúng (chỉ số kết

hợp) sẽ xác định được cấp độ khai thác (bằng cách chia với chỉ số lý tưởng để có tỷ

lệ %). Như vậy, các yếu tố tạo hình thuộc nhóm quan trọng có chỉ số kết hợp cao

sẽ là đối tượng chính của khai thác; trong đó giới hạn thấp nhất của nhóm này

cộng lại từ 3 yếu tố: kết cấu bao che, cửa, hiên/logia; có chỉ số kết hợp là 55%

(ứng với 35 tương tác). Vì 3 yếu tố tạo hình nói trên thỏa 2 điều kiện: 1) mỗi yếu tố

đều thuộc nhóm quan trọng; 2) chỉ số kết hợp vượt quá 50% (quá bán); cho nên

chúng tạo ra nhóm thành phần khai thác cơ bản để phân định giữa mức độ cao và

thấp (giữa giới hạn và đặc thù); đồng nghĩa với việc chọn tỷ lệ 55% làm chỉ số phân

cấp.

Như vậy, để nhận diện cái đẹp truyền thống thì quá trình khai thác phải

hướng đến nhóm đặc thù, xuất phát từ nhóm thành phần khai thác cơ bản và sự

mở rộng của nó để dần đạt đến trạng thái lý tưởng (kết hợp thêm các yếu tố tạo

hình khác). Xu hướng phát triển này được diễn đạt thành 7 trạng thái khai thác, thể

hiện tiến trình gia tăng mức độ khai thác theo sự phối hợp của các yếu tố tạo hình.

Những trạng thái này cũng chính là mục tiêu khai thác VHTT trong hình thức kiến

trúc nhà ở tại các đô thị Việt Nam hiện nay [bảng 3.2].

124

BẢNG 3.2: CÁC TRẠNG THÁI KHAI THÁC GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRUYỀN THỐNG

TRONG HÌNH THỨC KIẾN TRÚC NHÀ Ở ĐÔ THỊ VIỆT NAM

KẾT HỢP CÁC YẾU TỐ HÌNH THỨC

CHỈ SỐ (%)

TRẠNG THÁI KHAI THÁC

Trạng thái 1

Kết cấu bao che + Cửa + Hiên/Logia

55

Trạng thái 2

Mái + Kết cấu bao che + Cửa

64

Trung bình

Trạng thái 3

Kết cấu bao che + Cửa + Hiên/Logia + Nền nhà

66

Trạng thái 4

Kết cấu bao che + Cửa + Hiên/Logia + Nền nhà + Khung cột

75

Trạng thái 5

Mái + Kết cấu bao che + Cửa + Hiên/Logia

79

Trạng thái 6

Cao

Mái + Kết cấu bao che + Cửa + Hiên/Logia + Nền nhà

90

Trạng thái 7

Mái + Kết cấu bao che + Cửa + Hiên/Logia + Nền nhà + Khung cột

100

Tóm lại, phần trình bày trên đây cho thấy đặc trưng khai thác giá trị VHTT

trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam là một quá trình gồm 2 nội dung:

- Xác lập các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ truyền thống chi phối yếu tố

tạo hình của KTNO đô thị. Vận dụng các nguyên tắc và quy luật đó sẽ đem đến cảm

nhận về cái đẹp truyền thống và nhận dạng các giá trị văn hóa tiềm ẩn;

- Xác định nhóm thành phần khai thác cơ bản thông qua sự chọn lọc yếu

tố tạo hình; hoạch định các giới hạn khai thác và tiến trình mở rộng của nó để phát

huy giá trị thẩm mỹ truyền thống, thể hiện trong 2 nhóm trạng thái khai thác có cấp

độ trung bình và cao.

3.3 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong kiến trúc nhà ở

tại các đô thị lớn Việt Nam

3.3.1 Tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và kiến trúc nhà ở trên

thế giới

Nhận dạng xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT trong KTNO tại các đô

thị lớn Việt Nam được tiến hành dựa trên 2 cơ sở tham chiếu: 1) quan điểm của các

học thuyết kiến trúc thế giới [mục 2.1.4]; 2) quan điểm của các tác giả đạt giải

Pritzker trong những năm gần đây [phụ lục 4], tổng hợp trong bảng 3.3. Những

125

quan điểm này đều được chọn lọc theo sự tương đồng với giá trị VHTT, bổ trợ

chứng cứ cho việc suy luận khả năng chuyển đổi trên cả 2 phương diện công năng

và hình thức.

Căn cứ theo sơ đồ phân tích mối quan hệ giữa giá trị VHTT với các học thuyết

kiến trúc [hình 2.4] cho thấy tính dung hòa với tự nhiên là một trong những đặc

tính dẫn đầu về quan điểm phát triển. Mục tiêu của nó nhằm tạo ra trạng thái cân

bằng giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo (công trình và nhà ở), đại diện bởi các

xu hướng kiến trúc Hữu cơ, Cộng sinh, Bản địa mới và Sinh thái. Quan điểm này cũng tương đồng với nhiều tác giả đạt giải Pritzker 99 (Shigeru Ban, Toyo Ito,

Sejima & Nishizawa, Peter Zumthor…) khi xem sự hòa nhập của công trình kiến

trúc vào môi trường tự nhiên, hình thành mối liên hệ gần gũi, chặt chẽ, không thể

chia cắt như là tiêu chí của thiết kế.

Tính linh hoạt/đa năng cũng được đánh giá cao, thể hiện trong cả 2 yếu tố

công năng và hình thức. Theo quan điểm của các học thuyết kiến trúc, công năng

cần phát triển kiểu không gian mở (kiến trúc Hữu cơ, Bản địa mới), linh hoạt (kiến

trúc Sinh thái), có khả năng thay đổi (Chuyển hóa luận), chủ động dung hòa giữa

không gian sinh hoạt truyền thống và hiện đại (Nơi chốn, Hiện tượng học, Ký hiệu

học). Các tác giả Pritzker quan tâm đến sự phát triển tính linh hoạt/đa năng nhằm

tạo ra khả năng kết nối liên tục giữa bên trong và bên ngoài (Shigeru Ban, Sejima &

Nishizawa), tự do phát triển các hoạt động (Toyo Ito), linh hoạt tối đa để chuyển đổi

(Jean Nouvel), đáp ứng nhu cầu luôn biến động của con người (Richard Rogers) và

phục vụ các mục tiêu ngắn hạn (Jorn Utzon). Trên phương diện hình thức, tính linh

hoạt/đa năng thể hiện sự cộng sinh giữa yếu tố cố định và biến đổi (kiến trúc Cộng

sinh), sử dụng các dạng cấu trúc cơ động (Bản địa mới, Sinh thái). Đặc tính này còn

được tác giả Pritzker đề cao như một xu hướng quan trọng cho tạo hình thẩm mỹ.

Theo đó, kiến trúc phát triển “như một dòng chảy” và không bị giới hạn trong các

khuôn mẫu (Toyo Ito), có khả năng chuyển động và mang tính trình diễn (Jean

Nouvel), tạo thành một tổng thể liên tục thay đổi (Zaha Hadid); sử dụng cấu trúc cơ

99 Sau đây gọi tắt là tác giả Pritzker;

động, đa dạng (Wang Shu) và có thể thay đổi theo mùa (Glenn Murcutt).

126

Như vậy, theo cách đánh giá trên đây cho thấy tính dung hòa với tự nhiên và

tính linh hoạt/đa năng có tiềm năng lớn để tiếp tục được ứng dụng và khai thác.

Xếp sau các giá trị này, những giá trị văn hóa còn lại cũng được nêu ra nhưng mức

độ thống nhất không cao.

Thống kê trong quan điểm của các học thuyết kiến trúc và các tác giả thì tính

tư hữu cũng góp vai trò quan trọng, đáp ứng nhu cầu tạo ra không gian riêng tư

(kiến trúc Hữu cơ, Bản địa mới, Jorn Utzon), thiết lập hình thức các ngôi nhà khác

nhau (kiến trúc Hữu cơ), thể hiện sự kết hợp giữa yếu tố chung và riêng (kiến trúc

Cộng sinh); đồng thời dung hòa giữa lối sống hiện đại và truyền thống (Nơi chốn,

Hiện tượng học, Ký hiệu học). Việc tạo ra không gian ở cá nhân (tính tư hữu) cũng

được ghi trong Điều 1- Hiến chương LHQ về nhà ở, theo đó mọi người sống riêng

hay sống chung trong gia đình đều có quyền bất di bất dịch sử dụng riêng cho mình

một không gian để đem lại sức khỏe và hạnh phúc [65].

Trên phương diện hình thức, tác giả Pritzker đặt nhiều sự quan tâm đến việc

sử dụng vật liệu tự nhiên như là giải pháp bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời có

thể đưa đến cảm nhận vẻ đẹp truyền thống. Công trình kiến trúc nên sử dụng các

loại vật liệu tái chế, sản xuất tại địa phương (Shigeru Ban, Wang Shu), hay các dạng

vật liệu thông thường có hàm lượng công nghệ thấp, mang tính thủ công (Sejima &

Nishizawa, Glenn Murcutt). Yếu tố tỷ lệ hài hòa cũng được học thuyết liên quan

vấn đề khai thác truyền thống và bản địa đề cập đến (kiến trúc Hữu cơ, Hậu hiện

đại, Bản địa mới); ngoài ra còn có tác giả xác lập tầm quan trọng của tính hình học

(Eduardo Souto De Moura) và sự vận dụng quy luật đối xứng cân bằng (Jorn

Utzon).

Tính cộng đồng và truyền thống gia đình Việt không được nêu trong các quan điểm bởi những giá trị này thuộc đặc thù VHTT Việt Nam100. Tuy nhiên, học

thuyết kiến trúc Cộng sinh, Bản địa mới, Hiện tượng học, Nơi chốn, Ký hiệu học

cho rằng cần có sự cộng sinh giữa tính toàn cầu và tính bản địa, duy trì đặc thù lối

100 Tính cộng đồng là giá trị chung cho mọi quốc gia nhưng có thể không là giá trị văn hóa đặc thù, đặc biệt

là phương Tây – nơi mà vai trò cá nhân luôn được đề cao;

sống địa phương để phù hợp với nội hàm VHTT, do đó có thể xác nhận vai trò đóng

127

góp của các giá trị nói trên trong bối cảnh phát triển KTNO hiện nay tại Việt Nam.

Tóm lại, tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và KTNO trên thế giới cho

thấy nhiều điểm tương đồng với các giá trị VHTT. Trong đó, yếu tố công năng có 3

giá trị tiêu biểu là: tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính tư

hữu. Với yếu tố hình thức, tính dung hòa với tự nhiên được triển khai thành các giải

pháp để nhà ở hòa nhập vào môi trường, kết hợp sử dụng vật liệu tự nhiên, củng cố

cho nguyên tắc đẹp hài hòa của thẩm mỹ truyền thống. Ngoài ra, nguyên tắc đẹp

thành tố cũng đóng vai trò quan trọng, được minh chứng bởi quan điểm đề cao quy

luật tỷ lệ và tính hình học. Đặc biệt, tính cơ động (tạo thành từ tính linh hoạt/đa

năng) chứa đựng tiềm năng phát triển vượt bậc, được đề cập trong tôn chỉ thiết kế

của nhiều tác giả Pritzker, khẳng định vai trò ngày càng nâng cao của nguyên tắc

đẹp đa dạng.

3.3.2 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố

công năng

Kế thừa truyền thống trong yếu tố công năng nhà ở đô thị là quá trình

chuyển đổi đặc tính văn hóa theo các cấp độ như cầu (văn hóa tương ứng công

năng) [mục 3.1.3]. Tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và KTNO trên thế

giới cho thấy 2 vấn đề: 1) xu hướng chung của thế giới có điểm tương đồng với

đặc tính VHTT, từ đó xác lập diễn biến của một số giá trị trong điều kiện cụ thể đô thị Việt Nam101; 2) phát hiện “khoảng trống văn hóa” mà các giá trị đặc thù của

Việt Nam có thể can thiệp nhằm phát huy tính truyền thống và bản địa.

Xu hướng phát triển công năng nhà ở ngày nay đặt mục tiêu hòa nhập với môi

trường tự nhiên (tính dung hòa với tự nhiên); thiết lập không gian mở, linh hoạt bổ

sung và chuyển đổi chức năng để phù hợp với nhu cầu đa dạng của con người (tính

linh hoạt/đa năng); hình thành không gian sử dụng riêng cho các nhu cầu cá nhân

đang ngày càng tăng cao (tính tư hữu). Đây là những đặc tính của xu hướng chung

hướng chung của thế giới;

thế giới được thể hiện trong quan điểm của các học thuyết kiến trúc và các tác giả 101 Bởi vì xu hướng phát triển không gian công năng trong KTNO đô thị Việt Nam không thể tách rời xu

128

Pritzker; tuy nhiên những quan điểm này không có sự phân định về trật tự hay tính

chất ưu tiên giữa các giá trị. Loại trừ 3 đặc tính thuộc xu hướng chung thì truyền thống gia đình Việt và tính cộng đồng102 là những giá trị văn hóa đặc thù Việt

Nam, không được đề cập trong các quan điểm nói trên. Ngoài ra, tính đặc thù còn

thể hiện bằng trật tự phân cấp của các giá trị trong một hệ thống tác động đến công

năng nhà ở chứ không chỉ là những giá trị riêng lẻ [mô hình tổng hợp giá trị VHTT

– hình 3.3].

Quá trình phát triển công năng theo lý thuyết nhu cầu chia thành 3 cấp độ (cơ

bản – mở rộng – phát triển), tương ứng với sự tham dự của 3 nhóm văn hóa [mục

3.1.1]. Việc phân chia cấp độ công năng là để nhận dạng tính chất phát triển tuần tự

và đặc điểm không gian của cấu trúc nhu cầu; tuy nhiên, trong thực tế sự phân định

đó không tách biệt rõ ràng mà luôn tồn tại những vùng giao thoa. Giới hạn trên của

cấp nhu cầu thấp và giới hạn dưới của cấp nhu cầu cao hơn sẽ có những đặc điểm

giống nhau. Điều này được lý giải trong mô hình “Tháp công năng” thông qua hình

thức liên hệ đa năng “đồng cấp” và “đa cấp”; nghĩa là không gian chức năng thuộc

cấp nhu cầu cao có thể xuất hiện trong cấp nhu cầu thấp bằng cách lồng ghép sử

dụng chung theo sự phân nhóm tính chất hoạt động.

Từ các lập luận trên cho thấy xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố

công năng có thể được nhận dạng cùng với các cấp độ nhu cầu bằng 2 nhóm giá trị

[hình 3.20]: 1) các giá trị VHTT chuyển đổi theo xu hướng chung của thế giới; 2)

các giá trị VHTT chuyển đổi theo xu hướng riêng của Việt Nam để duy trì tính

truyền thống và bản địa.

Mục tiêu của cấp nhu cầu cơ bản là đáp ứng không gian cho sự tồn tại, đại

diện bởi 2 chức năng chính thức: nghỉ ngơi thụ động và làm việc; các hoạt động chủ

yếu diễn ra theo tính chất sử dụng chung. Tương ứng với cấp nhu cầu này có sự

tham dự của nhóm giá trị văn hóa gồm tính dung hòa với tự nhiên và tính linh

hoạt/đa năng (tiền cấp). Đây là những giá trị thuộc xu hướng chung thế giới mà

102 Truyền thống gia đình Việt đại diện bởi các không gian sum họp gia đình và thờ cúng tổ tiên; tính cộng

đồng đại diện bởi không gian giao tiếp đối ngoại.

chưa xuất hiện các giá trị đặc thù, vì vậy mức độ nhận diện tính truyền thống và bản

129

địa không rõ ràng. Tính dung hòa với tự nhiên có xu hướng phát triển cao hơn để

tạo ra sự cân bằng giữa môi trường tự nhiên và nhân tạo; nhưng tính linh hoạt/đa

năng (tiền cấp) có xu hướng suy thoái do công năng nhà ở sẽ tiếp tục phân li để

nâng cao tiện nghi sinh hoạt, loại trừ dần hình thức tất cả chức năng cùng sử dụng

một không gian.

Trong cấp nhu cầu mở rộng, nhà ở bổ sung thêm 2 chức năng chính thức là

giáo dục và giao tiếp đối ngoại, làm gia tăng quy mô và số lượng thành phần không

gian. Các chức năng được phân lập cụ thể theo mục đích và tính chất hoạt động. Tại

đây xuất hiện 2 giá trị văn hóa đặc thù là truyền thống gia đình Việt và tính cộng

đồng, can thiệp vào cấu trúc không gian nhà ở. Xu hướng chuyển đổi 2 giá trị trên là tùy biến, phụ thuộc vào đặc tính lối sống103 và văn hóa gia đình104 của đối tượng

sử dụng. Nếu nhà ở có nhiều thế hệ cộng cư thì các đặc tính này có khả năng tiếp

tục phát triển để kế thừa kiểu sinh hoạt gia đình truyền thống. Ngoài ra, nhu cầu sử

dụng không gian riêng (phòng ở cá nhân) cũng chính thức định hình, phản ánh xu

hướng phát triển tất yếu của tính tư hữu, phù hợp với quy luật chung thế giới. Bởi vì cấu trúc công năng trong cấp nhu cầu mở rộng chưa hoàn thiện105 nên có sự ưu

tiên các chức năng cơ bản, thiết lập theo trình tự giảm dần: nghỉ ngơi thụ động →

kinh tế → giáo dục → giao tiếp. Điều này phù hợp với lý giải của Maslow: nhu cầu

cao chỉ được hình thành sau khi đã đáp ứng các nhu cầu thấp. Vì vậy xuất hiện xu

hướng tác động nghịch, các chức năng cơ bản có thể chi phối những chức năng mở

rộng. Do văn hóa tương ứng với công năng [mô hình lý thuyết - hình 3.3] nên cũng

có chung xu hướng này và được chuyển đổi theo trật tự lần lượt là: tính dung hòa

với tự nhiên → tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp) → [truyền thống gia đình Việt ~

tính cộng đồng] → tính tư hữu. Các giá trị văn hóa đặc thù có tính tùy biến nên

giữa chúng có thể thay đổi vị trí cho nhau.

Trong cấp nhu cầu phát triển, nhà ở hoàn thiện đầy đủ 5 nhóm chức năng

(nghỉ ngơi thụ động, kinh tế, giáo dục, giao tiếp, nghỉ ngơi năng động), gia tăng

đáng kể quy mô diện tích, số lượng thành phần và tính chất phân vùng không gian; 103 Lối sống hướng nội hay hướng ngoại, tần suất giao tiếp với đối tượng bên ngoài nhiều hay ít; 104 Văn hóa đề cao cá nhân hay duy trì thể thức truyền thống – tập thể gia đình; 105 Cấp nhu cầu mở rộng thiếu chức năng nghỉ ngơi năng động;

130

thỏa mãn nhu cầu phong phú, đa dạng và luôn biến đổi của con người. Đặc trưng

của cấp nhu cầu này là sự tồn tại chính thức không gian nghỉ ngơi năng động, có thể

tham dự vào tất cả các chức năng nhà ở nhằm đem đến chất lượng tiện nghi nghỉ

dưỡng cao cấp. Tại đây, ngoài giá trị văn hóa theo xu hướng phát triển chung của

thế giới (tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính tư hữu) còn bao

gồm giá trị đặc thù của Việt Nam (truyền thống gia đình Việt, tính cộng đồng). Sự

khác biệt so với các cấp nhu cầu trước là tính dung hòa với tự nhiên đạt trạng thái

tối ưu; tính linh hoạt/đa năng (nâng cao) thay thế hoàn toàn tính linh hoạt/đa năng

(tiền cấp); tính tư hữu làm gia tăng đột biến các phòng/không gian cá nhân; tính

cộng đồng phát triển sâu hơn vào các chức năng nhà ở; truyền thống gia đình Việt

mở rộng quy mô và tính chất hoạt động. Nhìn chung, cấp nhu cầu phát triển phá

ngưỡng nhu cầu thiếu (cơ bản và mở rộng), chuyển sang một hình thái khác để tối đa hóa yêu cầu tự thực hiện có tính cá nhân của đối tượng sử dụng106. Theo lý

thuyết của Maslow thì việc ưu tiên nhu cầu cơ bản không còn quan trọng vì chúng

hiển nhiên được đáp ứng. Do đó, xu hướng tác động sẽ đảo chiều từ cấp nhu cầu

cao sang thấp (xu hướng tác động thuận), quy chiếu tương ứng trong cấu trúc giá

trị VHTT lần lượt là: tính linh hoạt/đa năng (nâng cao) → tính tư hữu → [tính

cộng đồng ~ truyền thống gia đình Việt] → tính dung hòa với tự nhiên. Trật tự

này xác lập nguyên tắc chuyển đổi của các giá trị chung, nhưng giữa các giá trị đặc

thù có thể thay đổi vì chúng có tính tùy biến.

Tóm lại, xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT trong yếu tố công năng diễn ra

tương ứng 3 cấp độ nhu cầu (cơ bản – mở rộng – phát triển). Trong đó, tính dung

hòa với tự nhiên, tính tư hữu, tính linh hoạt/đa năng (nâng cao) có xu hướng tiếp

tục phát triển, phù hợp với bối cảnh chung của thế giới; tính linh hoạt/đa năng (tiền

cấp) có xu hướng suy thoái do không thỏa mãn nhu cầu đa dạng của con người.

Tính cộng đồng và truyền thống gia đình Việt là những giá trị đặc thù của Việt

Nam, có xu hướng tùy biến (phát triển theo nhu cầu văn hóa và lối sống của đối

tượng sử dụng). Vì vậy, nếu muốn gia tăng mức độ ảnh hưởng VHTT thì cần phát

106 Nhằm tự do phát triển nhu cầu thể chất và tinh thần trong môi trường nhà ở;

huy các giá trị đặc thù này. Ngoài ra, quá trình chuyển đổi còn diễn ra theo 2 xu

131

hướng tác động, hình thành trật tự tham gia của các giá trị văn hóa và làm xuất hiện

các thang giá trị VHTT mới trong yếu tố công năng. Theo đó, cấp nhu cầu cơ bản

và mở rộng có xu hướng tác động nghịch, hình thành thang giá trị VHTT cơ bản

[bảng 3.4] và cấp nhu cầu phát triển có xu hướng tác động thuận, tương ứng với

thang giá trị VHTT nâng cao [bảng 3.5] .

BẢNG 3.4 – [ĐỀ XUẤT 4]: THANG GIÁ TRỊ VHTT CƠ BẢN TRONG YẾU TỐ CÔNG NĂNG

CHO CẤP NHU CẦU CƠ BẢN VÀ MỞ RỘNG

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

Ưu tiên 1

Tính dung hòa với tự nhiên

Ưu tiên 2

Tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp)

Ưu tiên 3

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 4

Tính cộng đồng

Ưu tiên 5

Tính tư hữu

BẢNG 3.5 – [ĐỀ XUẤT 5]: THANG GIÁ TRỊ VHTT NÂNG CAO TRONG YẾU TỐ CÔNG NĂNG

CHO CẤP NHU CẦU PHÁT TRIỂN

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

THỨ BẬC TRÊN THANG GIÁ TRỊ

Ưu tiên 1

Tính linh hoạt/đa năng (nâng cao)

Ưu tiên 2

Tính tư hữu

Ưu tiên 3

Tính cộng đồng

Ưu tiên 4

Truyền thống gia đình Việt

Ưu tiên 5

Tính dung hòa với tự nhiên

3.3.3 Xu hướng chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống trong yếu tố

hình thức

Giá trị VHTT được nhận dạng thông qua các nguyên tắc và quy luật tạo

hình thẩm mỹ, vì vậy sự chuyển đổi chúng trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam

giúp duy trì và phát huy tính bản sắc. Trong điều kiện hiện nay, quá trình này luôn

132

chịu tác động bởi các yếu tố có tính thời đại; đó là: 1) những phát minh công nghệ

làm xuất hiện chủng loại vật liệu và kỹ thuật xây dựng tiên tiến; 2) sự giao lưu văn

hóa – xã hội trong xu thế toàn cầu cho ra đời các quan điểm thẩm mỹ mới; 3) nhu

cầu tái lập cấu trúc nhà ở để thích nghi với tự nhiên - khí hậu; 4) sự sáng tạo cá

nhân góp phần tạo ra hình thức thẩm mỹ khác lạ; 5) động năng phát triển kinh tế

là cơ sở để thực thi những vấn đề nói trên. Trong thực tế, các yếu tố thời đại luôn

đặt vào tình trạng biến đổi (chỉ có điều kiện tự nhiên đạt sự ổn định), hình thành

năng lực làm đa dạng xu hướng chuyển đổi giá trị VHTT. Vì vậy, việc kế thừa

truyền thống không chỉ tuân theo trật tự nguyên tắc thẩm mỹ đã tồn tại mà còn có

xu hướng thiết lập trật tự nguyên tắc mới. Điều này phản ánh trong cấu trúc 2 bậc của văn hóa107 và cũng là nguyên nhân làm cho giá trị thẩm mỹ truyền thống luôn

mang xu hướng biến đổi. Xu hướng này có thể phát hiện thông qua phân tích mối

quan hệ giữa yếu tố thời đại với quy luật thẩm mỹ truyền thống, đồng thời tham

chiếu quan điểm phát triển kiến trúc thế giới để đưa ra nhận định có tính khách quan

[hình 3.21].

Trong 5 yếu tố can thiệp thì sự sáng tạo và công nghệ đại diện cho giá trị

chung toàn cầu, tác động đến xu thế phát triển của bất kỳ nền kiến trúc truyền thống

và bản địa nào. Nếu không thiết lập vai trò đối trọng của các giá trị truyền thống

riêng thì chúng có khả năng tạo ra hình thức KTNO giống nhau, làm suy yếu bản

sắc của các khu vực khác nhau trên thế giới. Cho nên, việc ứng dụng thành tựu công

nghệ và sự sáng tạo là xu hướng phát triển chung tất yếu, nhưng để duy trì và phát

huy giá trị thẩm mỹ truyền thống thì cần kết hợp với những yếu tố có tính khu biệt,

đặc thù của Việt Nam. Đó là tiếp tục chuyển đổi giải pháp tạo hình phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới108; kế thừa các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ truyền thống.

Lĩnh vực kinh tế không tham dự trục tiếp nhưng là động lực quan trọng làm cho quá

trình chuyển đổi trở nên khả thi. Bằng cách tổng hợp chỉ số quan hệ giữa các yếu tố

108 Sử dụng vật liệu tự nhiên, sản xuất tại địa phương; các hình thức che nắng, thông gió, tạo bóng râm;

can thiệp với giá trị thẩm mỹ truyền thống cho thấy có sự cân bằng vai trò giữa yếu 107 Giữa biểu tầng và cơ tầng có mối quan hệ tương tác; biểu tầng thường xuyên biến đổi dù hỗn loạn và ngẫu nhiên vẫn theo một trật tự nhất định. Cái quy định sự biến đổi này vừa trực tiếp vừa gián tiếp chính là hệ giá trị nằm sâu dưới cơ tầng. Còn cơ tầng tuy ít biến đổi, nhưng do tác động của biểu tầng nên cũng biến đổi theo dù rất chậm.

133

tố chung thế giới và yếu tố riêng Việt Nam, thể hiện khả năng vừa duy trì tính

truyền thống vừa phát huy tính hiện đại để hình thức KTNO Việt Nam không bị tụt

hậu và tách rời với thế giới.

Tổng hợp chỉ số tương tác giữa quy luật thẩm mỹ truyền thống với 5 yếu tố

can thiệp còn cho thấy xu hướng xuất hiện trật tự thẩm mỹ truyền thống mới. Theo

đó, nguyên tắc đẹp hài hòa (tham chiếu tính dung hòa với tự nhiên) vượt lên dẫn

đầu và có tiềm lực lớn để tiếp tục phát triển, khẳng định hình thức kiến trúc nhà ở

hướng tới sự thích ứng với điều kiện khí hậu. Nguyên tắc đẹp thành tố (tham chiếu

tính tư hữu) giảm xuống vị trí kế tiếp, đề cập đến sự duy trì các đặc tính hình học và

tỷ lệ truyền thống. Nguyên tắc đẹp đa dạng (tham chiếu tính linh hoạt/đa năng) tăng lên vị trí thứ 3, thể hiện khả năng ứng dụng các dạng cấu trúc cơ động109 trong

tạo hình. Cả 3 nguyên tắc trên đều thuộc xu hướng phát triển chung, được đề cập

trong quan điểm của các học thuyết và tác giả Pritzker. Ngoài ra, nguyên tắc đẹp

tổng thể (tham chiếu tính cộng đồng) và đẹp trật tự (tham chiếu truyền thống gia

đình Việt) xếp các vị trí sau cùng. Thứ hạng các nguyên tắc trên cho thấy sự chuyển

đổi giá trị VHTT có xu hướng thiết lập trật tự thẩm mỹ mới để phù hợp với yếu tố

biến động của thời đại. Tuy tồn tại 3 giá trị dẫn đầu thuộc xu hướng chung thế giới

nhưng trật tự cả hệ thống định hình nguyên tắc thẩm mỹ riêng của Việt Nam.

Tóm lại, bằng các phân tích có thể nhận dạng 2 xu hướng chuyển đổi giá trị

VHTT trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam hiện nay: 1) chuyển đổi các nguyên

tắc và quy luật thẩm mỹ truyền thống trên cơ sở duy trì nguyên vẹn trật tự đã được

xác lập từ trước (đẹp thành tố - đẹp hài hòa - đẹp trật tự - đẹp tổng thể - đẹp đa

dạng); 2) chuyển đổi các nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ truyền thống có tính đến

sự can thiệp của yếu tố thời đại (đẹp hài hòa - đẹp thành tố - đẹp đa dạng - đẹp

109 Mái và hiên di động; hệ thống lam có thể điều chỉnh góc chiếu sáng; cửa xếp/ trượt/lật…;

tổng thể - đẹp trật tự).

134

3.4 Luận bàn về đặc trưng khai thác văn hóa truyền thống trong kiến trúc

nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam

Tổng hợp nội dung nghiên cứu của luận án cho thấy có 5 đặc trưng khai thác

VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam sau đây:

3.4.1 Khai thác văn hóa truyền thống theo quan điểm hệ giá trị

Lập luận của các nhà văn hóa học khẳng định giá trị VHTT luôn mang

thuộc tính hệ thống, thể hiện bằng số lượng phần tử và hình thức tương tác, tạo nên

trật tự thang bậc; qua đó cho thấy tính chất “mạnh – yếu” của từng giá trị để được

chọn lọc và phát huy. Bằng cách tiếp cận hệ thống nhằm phân tích mối quan hệ nội

sinh và ngoại sinh đã chứng minh vai trò cũng như sự chuyển đổi hệ giá trị VHTT

trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam. Nếu cô lập từng giá trị để tìm hiểu khả

năng khai thác sẽ khó nhận diện và lý giải được tại sao VHTT có thể duy trì sức

mạnh tiềm ẩn, chi phối quá trình phát triển KTNO từ truyền thống cho đến hiện tại

(và cả trong tương lai). Bản chất vấn đề này tồn tại trong thuộc tính riêng có của

mỗi giá trị và, quan trọng hơn, trong sự cố kết của cả hệ giá trị để tạo nên tính bền

vững khi đặt vào những môi trường tác động luôn thay đổi. Nghĩa là, dựa vào tính

chất “tương sinh - tương khắc”, nội bộ hệ thống sẽ giữ cho từng giá trị mức ổn định

cần thiết khi tương tác với thành phần công năng và hình thức kiến trúc. Đặc biệt,

trong trường hợp có sự thích ứng với nhu cầu và điều kiện thực tiễn thì một số giá

trị cốt lõi (tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng…) gia tăng mức độ can

thiệp, từ đó tạo ra tính truyền thống trong môi trường nhà ở hiện đại. Như vậy, tiếp

cận hệ giá trị cho phép đánh giá một cách tổng quát tiềm lực và xu thế tham dự

của VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam.

3.4.2 Khai thác văn hóa truyền thống có tính quy luật

Theo quan điểm tiếp cận hệ giá trị, kết hợp phân tích mối quan hệ giữa

văn hóa với thành phần công năng và hình thức kiến trúc (dựa trên lý thuyết hệ

135

thống, lý thuyết phân cấp nhu cầu, ký hiệu học, mỹ học và mỹ học kiến trúc) cho

thấy vấn đề khai thác VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam cần tuân thủ

theo các quy luật.

Trước hết, trên phương diện công năng là quy luật phát triển đồng dạng. Việc

khai thác VHTT thể hiện bằng sự chọn lọc nhóm giá trị tương ứng các cấp độ phát

triển không gian theo nhu cầu. Với nhiều phân tích trong nội dung luận án cho thấy

cấu trúc công năng nhà ở đô thị có thể khái quát theo 3 cấp độ, diễn đạt tiến trình

nâng cấp tiện nghi từ mức thấp nhất là để duy trì sự tồn tại của con người cho đến

mức cao nhất nhằm thỏa mãn tối đa sở thích cá nhân, tự do phát triển thể chất và

tinh thần. Tương ứng với nó có 3 nhóm giá trị văn hóa tham dự và tương tác để tạo

ra không gian nhà ở phù hợp lối sống truyền thống của người Việt. Nhìn chung,

công năng nhà ở càng hoàn thiện thì càng tạo điều kiện để văn hóa can thiệp và phát

huy.

Trên phương diện hình thức là quy luật trật tự của nguyên tắc thẩm mỹ truyền

thống. Mỗi giá trị thẩm mỹ đều có khả năng góp phần nhận diện tính dân tộc, tuy

nhiên mức độ tác động của chúng tới hình thức kiến trúc nhà ở có khác nhau.

Những giá trị này còn đưa đến sự tồn tại các nguyên tắc thẩm mỹ, là những nhân tố

đặc thù trong nhận thức về vẻ đẹp truyền thống. Bằng cách xác lập chỉ số khai thác

từ mô hình cho thấy giữa 5 nguyên tắc thẩm mỹ có sự thiết lập trật tự, diễn đạt tính

chất ưu tiên từ thấp đến cao. Như vậy, ngoài việc khai thác từng giá trị thẩm mỹ độc

lập thì còn phải tuân thủ quy luật trật tự của nguyên tắc thẩm mỹ để đảm bảo sự

chuyển tải tính truyền thống trong hình thức KTNO đô thị Việt Nam đương đại.

3.4.3 Khai thác văn hóa truyền thống có thể định lượng

Thông thường, việc khai thác VHTT trong KTNO được thực hiện bằng

phương pháp nhận diện và chọn lọc định tính. Tuy nhiên, với cách tiếp cận hệ thống

đã chứng minh vấn đề trên còn có thể thực hiện bằng phương pháp định lượng; triển

khai theo các chỉ số tương tác trong cả 2 khía cạnh công năng và hình thức.

Xét trong mối quan hệ nội sinh giữa các giá trị VHTT, phương pháp định

136

lượng được thiết lập dựa trên khả năng tạo ra các mối liên hệ “tương sinh – tương

khắc” của từng giá trị với những giá trị còn lại trong nội bộ hệ thống; từ đó thu

được số lượng và tần suất tương tác để dẫn đến sự xuất hiện thang giá trị văn hóa.

Xét trong mối quan hệ ngoại sinh giữa giá trị VHTT với công năng và hình

thức kiến trúc cho thấy có thể định lượng các liên kết tác động qua lại để phân lập

cấp độ tương tác; từ đó chọn lọc nhóm không gian và thành phần tạo hình mang

nhiều khả năng chuyển tải giá trị truyền thống; đồng thời xác định được giá trị

truyền thống nào có mức độ can thiệp cao đến KTNO để tập trung khai thác.

Đặc biệt trên phương diện hình thức, thông qua lượng hóa các chỉ số khai thác

trong mô hình có thể xây dựng những cấp độ khai thác (giới hạn – đặc thù), đánh

giá theo tỷ lệ % từ mức thấp nhất (đủ để nhận diện tính truyền thống) cho đến mức

cao nhất trong điều kiện lý tưởng. Bằng cách này, phân tích giá trị thẩm mỹ truyền

thống của KTNO đô thị Việt Nam đương đại có thể đưa về cơ sở quy chiếu chung

mà không phải bằng cảm tính.

3.4.4 Khai thác văn hóa truyền thống mang 2 thuộc tính chủ động và thụ

động

Kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay chịu tác động từ

nhu cầu và điều kiện có tính thời đại, thể hiện xu thế phát triển chung trên các lĩnh

vực kinh tế, xã hội, công nghệ và giao lưu văn hóa. Đây là xu thế không thể đảo

ngược trong bối cảnh toàn cầu hóa và hiện đại hóa. Điều này tạo nên các động lực

chủ chốt làm chuyển đổi cấu trúc công năng và hình thức thẩm mỹ, dẫn đến sự khác

biệt so với KTNO truyền thống. Trong bối cảnh đó, để duy trì đặc tính dân tộc thì

quá trình khai thác văn hóa cần có sự chọn lọc tương thích với những điều kiện tiên

quyết nói trên. Trong việc thiết lập công năng nhà ở, tính chủ động thuộc về giải

pháp cấu trúc không gian theo các cấp độ nhu cầu (nhu cầu nào công năng đó) và

VHTT tham dự thụ động bằng sự chọn lựa các nhóm tương ứng (văn hóa tương

ứng công năng). Đối với tạo hình thẩm mỹ thì tính chủ động nghiên về giải pháp lựa

chọn vật liệu và kỹ thuật hiện đại, kết hợp vai trò sáng tạo cá nhân; sau đó mới tính

137

đến phương thức vận dụng các quy luật và nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống.

Tuy nhiên, trước sức áp đặt của những tác nhân tiên phong mang tầm thời đại

thì tính chủ động tham gia của VHTT là sự chọn lọc giá trị tiêu biểu và cả thang giá

trị để ứng dụng nhằm tăng cường tính dân tộc trên cả 2 phương diện công năng và

hình thức. Điều này còn cho thấy mối quan hệ tương hỗ - hai chiều giữa truyền

thống và hiện đại. Với quan điểm đó, VHTT được nhìn nhận có nhiều khả năng kế

thừa trong bối cảnh phát triển KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam như hiện nay.

3.4.5 Khai thác văn hóa truyền thống trên cơ sở tham chiếu quan điểm

phát triển kiến trúc nhà ở thế giới

Căn cứ theo sự phân tích các thuộc tính chủ động và thụ động của

VHTT cho thấy vấn đề khai thác truyền thống không thể tách rời xu thế phát triển

chung của thế giới; được diễn đạt cụ thể trong các học thuyết kiến trúc và quan

điểm của những cá nhân tiêu biểu (tác giả Pritzker). Đây là cơ sở tham chiếu quan

trọng, làm cho quá trình khai thác tránh những sai lệch do định kiến chủ quan –

nguyên nhân dẫn đến sự tụt hậu của KTNO Việt Nam so với thế giới. Việc tham

chiếu còn giúp phát hiện “khoảng trống văn hóa”, là môi trường để các giá trị

truyền thống đặc thù có thể can thiệp và phát huy. Hơn nữa, thao tác này phát họa

xu hướng chuyển đổi cần thiết của VHTT trong những giai đoạn tiếp theo để hoàn

thiện tiêu chí “Bản địa hóa kiến trúc quốc tế - Quốc tế hóa kiến trúc bản địa”.

Như vậy, bằng cách tiến hành các tham chiếu, vấn đề khai thác VHTT trong

KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam sẽ được thể hiện trong những giá trị đặc thù và

cả trật tự của hệ giá trị, là nền tảng để trực nhận tính dân tộc trong xu thế toàn cầu

hóa đang diễn ra mạnh mẽ và đa diện như hiện nay.

138

KẾT LUẬN CHƯƠNG III

1. Vận dụng lý thuyết của Maslow để chia cấu trúc công năng theo 3 cấp độ

(cơ bản – mở rộng – phát triển), diễn đạt tiến trình gia tăng khả năng đáp ứng nhu

cầu con người trong không gian nhà ở. Cùng với tiến trình đó, giá trị VHTT cũng

được phân chia thành 3 nhóm tương ứng để tham dự, thể hiện quy luật phát triển

đồng dạng giữa văn hóa và công năng (văn hóa tương ứng công năng). Bằng phép

cộng, quy chiếu và biện luận mối quan hệ giữa thang giá trị văn hóa theo tương tác

nội ngoại hệ và theo nhu cầu có thể xây dựng mô hình tổng hợp giá trị VHTT trong

yếu tố công năng (mô hình lý thuyết). Phối hợp mô hình này với mô hình Tháp

công năng (đã cấu trúc lại theo 3 cấp độ nhu cầu) đưa đến mô hình ứng dụng giá

trị VHTT trong công năng nhà ở đô thị. Thông qua mô hình ứng dụng, cấu trúc

không gian nhà ở sẽ chọn lọc các nhóm văn hóa để tham dự và phát huy (công năng

chuyển tải văn hóa). Như vậy, khai thác VHTT trong yếu tố công năng là quá

trình chọn lọc giá trị tương ứng với các cấp độ nhu cầu không gian ở.

2. Từng giá trị VHTT có sự chuyển đổi theo 3 cấp nhu cầu không gian khác

nhau. Trong cấp nhu cầu cơ bản, không gian nhà ở có 2 nhóm chức năng chính là

nghỉ ngơi thụ động và làm việc, chỉ có 2 giá trị văn hóa tham dự là tính dung hòa

với tự nhiên và tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp). Những giá trị này mang tính phổ

quát, thể hiện phương thức tổ chức nhà ở để phù hợp với điều kiện diện tích nhỏ (tất

cả chức năng sử dụng chung), hướng tới sự cân bằng với môi trường tự nhiên một

cách thụ động. Tiến đến cấp nhu cầu mở rộng, công năng nhà ở được cấu trúc bởi

4 nhóm chức năng chính thức là nghỉ ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp

đối ngoại; đi kèm với sự định hình không gian sinh hoạt cá nhân. Trong điều kiện

này, cả 5 giá trị VHTT hội đủ khả năng tham dự và chi phối là tính dung hòa với tự

nhiên, tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp), tính cộng đồng, truyền thống gia đình Việt,

tính tư hữu. Đạt cấp nhu cầu phát triển, nhà ở xuất hiện đầy đủ 5 nhóm chức năng,

xác lập sự tồn tại chính thức của không gian nghỉ ngơi năng động với các tiện nghi

sinh hoạt cao cấp, kéo dài từ không gian sử dụng chung cho đến không gian sử dụng

139

riêng. Trong cấp nhu cầu này có sự tác động của 5 giá trị VHTT là tính dung hòa

với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng (nâng cao), tính cộng đồng, truyền thống gia

đình Việt, tính tư hữu. Thông qua phân tích sự can thiệp của văn hóa với không gian

nhà ở cho thấy: mức độ phát triển công năng càng cao thì càng mở rộng phạm vi để

giá trị VHTT được khai thác. Trong đó, tính dung hòa với tự nhiên và tính linh

hoạt/đa năng đạt mức tương tác lớn nhất theo quá trình chuyển đổi; tính tư hữu có

xu hướng gia tăng cùng với sự hình thành các không gian cá nhân; tính cộng đồng

mở rộng sự tham dự vào không gian sinh hoạt nội bộ và truyền thống gia đình Việt

triển khai vùng hoạt động theo các nhóm chức năng, gắn kết với hoạt động phát

triển thể chất và tinh thần.

3. Mô hình khai thác giá trị thẩm mỹ truyền thống trong hình thức KTNO đô

thị được xây dựng dựa trên sự tương tác giữa 9 giá trị thẩm mỹ (xác định trong

Chương II) với các thành phần tạo hình của nhà ở. Thông qua đánh giá và so sánh

chỉ số tương tác chọn ra được 2 nhóm đối tượng có khả năng đem lại hiệu quả khai

thác cao. Đó là: đối tượng văn hóa – nhóm văn hóa tiêu biểu (tính hình học, tính

đối xứng, tính vần điệu và tỷ lệ hài hòa) và đối tượng tạo hình – nhóm cấu tạo

quan trọng (mái, kết cấu bao che, cửa, hiên/logia). Ngoài ra, đây còn được xem là

mô hình khai thác lý tưởng vì đã xác định đầy đủ các khả năng can thiệp của giá trị

thẩm mỹ truyền thống trong từng yếu tố cấu tạo; từ đó có thể làm cơ sở để thẩm

định lại những công trình xây dựng thực tế về mức độ khai thác VHTT.

4. Giá trị thẩm mỹ được chọn là những quy luật tạo hình có tính khách quan,

liên hệ đến việc xác lập các nguyên tắc thẩm mỹ chủ quan và dẫn nghĩa đến giá trị

VHTT, thể hiện nội dung tư tưởng và tinh thần của người Việt. Thông qua phép

cộng chỉ số tương tác của các giá trị đó làm xuất hiện trật tự nguyên tắc thẩm mỹ

truyền thống trong KTNO đô thị. Như vậy, sự kết hợp giữa 3 yếu tố (giá trị thẩm

mỹ, nguyên tắc thẩm mỹ, giá trị VHTT) tạo nên khung lý thuyết có tính phân cấp

để định hướng cho việc khai thác; thể hiện sự tương đồng với tính phân cấp của

các thang giá trị VHTT và lý thuyết nhu cầu. Ngoài ra, căn cứ vào mô hình còn có

thể phân chia nhiều cấp độ khai thác khác nhau, đại diện bởi các chỉ số phân cấp (có

140

được thông qua đánh giá chỉ số tương tác). Luận án chọn cách phân chia 2 cấp độ

để phân tích và xác lập 2 nhóm khai thác là nhóm giới hạn và nhóm đặc thù - đối

tượng khai thác chính. Phân tích sự kết hợp giữa các yếu tố tạo hình trong nhóm

đặc thù đưa đến 7 trạng thái khai thác và cũng là mục tiêu ứng dụng mô hình thác

VHTT trong hình thức KTNO đô thị.

5. Trong những giai đoạn tiếp theo, giá trị VHTT sẽ tiếp tục chuyển đổi như

một quy luật tất yếu của quá trình phát triển. Sự biến đổi năng động của các yếu tố

có tính thời đại tác động liên tục đến hệ giá trị VHTT làm cho nó có xu hướng thay

đổi để thiết lập nên những hệ giá trị VHTT mới. Trong nội dung phân tích của luận

án cho thấy mối quan hệ giữa giá trị VHTT với KTNO đô thị Việt Nam đặc trưng

bởi tính phân cấp, tác động lên cả công năng và hình thức. Trong mỗi phương diện

đó, VHTT thể hiện mức độ can thiệp thông qua trật tự phân cấp của các thang giá

trị. Như vậy, bằng sự tương tác với các yếu tố thời đại mới, xu hướng chuyển đổi

giá trị VHTT cũng là xu hướng chuyển đổi các thang giá trị.

6. Với công năng, sự phát triển cấu trúc không gian nhà ở là điều kiện để văn

hóa được tham dự, diễn biến theo tính chất của nhu cầu. Dựa trên quan điểm của

Maslow và các quan điểm phát triển kiến trúc thế giới cho thấy: tính dung hòa với

tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính tư hữu sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ; tính

cộng đồng, truyền thống gia đình Việt tùy biến theo lối sống của đối tượng sử dụng.

Nhìn chung, thang giá trị VHTT có xu hướng phân lập thành 2 thang giá trị: nhu

cầu cơ bản và mở rộng vận dụng chung thang giá trị VHTT cơ bản; nhu cầu phát

triển vận dụng thang giá trị VHTT nâng cao.

7. Trong yếu tố hình thức, do có sự can thiệp của công nghệ và sự sáng tạo

nên trật tự nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống cũng mang xu hướng thay đổi. Đó là

sự gia tăng của nguyên tắc đẹp hài hòa với tự nhiên, đẹp đa dạng, và sự suy giảm

của đẹp thành tố. Tuy nhiên cả 3 nguyên tắc này đều dẫn đầu trong hệ thống nguyên

tắc thẩm mỹ, tương đồng với quan điểm chung của thế giới. Sự đảo chiều của các

nguyên tắc thẩm mỹ làm thay đổi trật tự giá trị VHTT và tạo ra thang giá trị VHTT

mới trong hình thức KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam.

141

PHẦN KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ

1. Giá trị VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay được

chuyển đổi qua 2 giai đoạn: từ nông thôn lên đô thị truyền thống và từ đô thị truyền

thống đến đô thị hiện đại. Trong những giai đoạn này, các giá trị thể hiện sự gia

tăng hoặc suy giảm mức độ can thiệp lên thành phần công năng và hình thức của

KTNO; cho thấy tính kế thừa luôn đi kèm với đào thải văn hóa theo sự chuyển đổi

mô hình nhà ở qua nhiều thời kỳ. Từ việc truy xuất các định nghĩa chứng minh

VHTT là hệ thống có cấu trúc 2 bậc (hiển thị và phi hiển thị), liên tục tương tác với

nhau và với hệ thống bên ngoài trong suốt quá trình chuyển đổi để thích ứng điều

kiện tồn tại mới. Điều này giải thích cho cơ chế kế thừa – đào thải và cũng là nền

tảng lý thuyết cho việc nhận diện ảnh hưởng VHTT trong KTNO đô thị Việt Nam

hiện nay – đối tượng nghiên cứu của luận án.

2. Đặc điểm quan trọng của hệ giá trị VHTT là tính phân cấp, hiển thị bằng

các thang giá trị. Trật tự của thang giá trị được thiết lập thông qua mối quan hệ nội

sinh (giữa các giá trị VHTT với nhau) và ngoại sinh (giữa giá trị VHTT với các

thành phần kiến trúc). Thang giá trị đầu tiên hình thành từ nhà ở nông thôn; tuy

nhiên khi chuyển đổi lên đô thị truyền thống, các điều kiện ban đầu của nhà ở thay

đổi đã làm biến động thang giá trị văn hóa lần thứ nhất, từ đó nhận thấy sự suy yếu

của một số giá trị và “sức bền” của một số giá trị khác. Trong giai đoạn chuyển đổi

tiếp theo từ đô thị truyền thống đến đô thị hiện đại, những điều kiện tác động lên

KTNO gia tăng mạnh mẽ làm thay đổi trật tự thang giá trị VHTT lần thứ hai. Các

loại hình nhà ở phát triển nhanh chóng đã phá vỡ đặc điểm đơn giản thuần túy của

nhà ở truyền thống để hình thành nên những không gian sinh hoạt mới và hình thức

thẩm mỹ mới. Giai đoạn này đánh dấu nhiều sự loại bỏ giá trị truyền thống cũ, đặc

biệt là trên phương diện tạo hình; tuy nhiên, do VHTT còn có sức ảnh hưởng lớn

trong cộng đồng người Việt tại các đô thị nên vẫn tiếp tục được duy trì. Thông qua

phân tích sự biểu hiện của loại hình nhà phố, biệt thự và chung cư cho thấy có 6 giá

trị tập hợp thành thang/hệ giá trị VHTT gồm: tính dung hòa với tự nhiên, tính linh

hoạt/đa năng, tính tư hữu, tính cộng đồng, truyền thống gia đình Việt, tính biểu

142

hình. Đây là những giá trị đã được chọn lọc trong quá trình chuyển đổi và còn phù

hợp với điều kiện phát triển nhà ở hiện nay.

Để hướng đến mục tiêu kế thừa và phát huy giá trị VHTT trong KTNO đô thị

Việt Nam thì những giá trị trên cần tiếp tục được khai thác. Luận án triển khai mục

tiêu này theo 4 cơ sở tiếp cận (lý thuyết hệ thống, lý thuyết nhu cầu, ký hiệu học, mỹ

học và mỹ học kiến trúc); kết hợp tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc thế

giới của 11 học thuyết và 12 tác giả đạt giải Pritzker trong những năm gần đây.

3. Trên phương diện công năng, tiếp cận lý thuyết hệ thống cho phép xác

lập quan hệ giữa các giá trị bằng 2 hình thức tương tác nội hệ và ngoại hệ. Trong

đó, tương tác nội hệ (giữa các giá trị văn hóa với nhau) đem đến kết quả đề xuất

thang giá trị VHTT theo phân tích định tính và định lượng. Tương tác ngoại hệ

triển khai giữa thành phần không gian nhà ở với giá trị văn hóa đem đến thang giá

trị VHTT trên phương diện công năng. Hai thang giá trị này là kết quả biện chứng

các mối quan hệ nên còn mang tính chủ quan của nghiên cứu. Vì vậy, luận án vận

dụng lý thuyết phân cấp nhu cầu của Maslow để quy chiếu trật tự các giá trị theo

mức độ quan trọng và cần thiết, chuyển dần từ mức cơ bản cho đến phát triển, từ đó

xây dựng thang giá trị VHTT theo nhu cầu con người – “Tháp giá trị VHTT”. Sử

dụng phép cộng 3 thang giá trị trên đây đưa đến Mô hình tổng hợp giá trị VHTT

trong yếu tố công năng (mô hình lý thuyết). Ngoài ra, do văn hóa và công năng

đều xuất phát từ nhu cầu con người nên cấu trúc không gian cũng được chia theo 3

cấp độ, hình thành Mô hình “Tháp công năng”. Phối hợp 2 mô hình nói trên tạo ra

Mô hình ứng dụng, diễn đạt quá trình khai thác VHTT tùy thuộc vào tính chất phát

triển không gian nhà ở (văn hóa tương ứng công năng).

4. Quy chiếu sự tương ứng giữa văn hóa và công năng cho thấy tính chất tác

động của giá trị văn hóa gia tăng và mở rộng theo các cấp độ nhu cầu không gian.

Trong cấp nhu cầu cơ bản, nhà ở có 2 nhóm chức năng chính là nghỉ ngơi thụ động

và làm việc nên chỉ có 2 giá trị văn hóa tham dự là tính dung hòa với tự nhiên và

tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp). Tiến đến cấp nhu cầu mở rộng, công năng nhà ở

được cấu trúc bởi 4 nhóm chức năng chính thức là nghỉ ngơi thụ động, làm việc,

giáo dục, giao tiếp đối ngoại; đi kèm với sự định hình không gian sinh hoạt cá

143

nhân. Trong điều kiện này, cả 5 giá trị VHTT hội đủ khả năng tham dự và chi phối

là tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng (tiền cấp), tính cộng đồng,

truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu. Đạt cấp nhu cầu phát triển, nhà ở hoàn

thiện 5 nhóm chức năng, xác lập sự tồn tại chính thức của không gian nghỉ ngơi

năng động với các tiện nghi sinh hoạt cao cấp, kéo dài từ không gian sử dụng chung

cho đến sử dụng riêng. Trong cấp nhu cầu này có sự tác động của 5 giá trị VHTT là

tính dung hòa với tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng (nâng cao), tính cộng đồng,

truyền thống gia đình Việt, tính tư hữu. Thông qua phân tích sự can thiệp của văn

hóa với không gian nhà ở cho thấy: mức độ phát triển công năng càng cao thì càng

mở rộng phạm vi để giá trị VHTT được khai thác (công năng chuyển tải văn hóa).

5. Tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và KTNO trên thế giới cho

thấy giá trị VHTT được chia thành: nhóm theo xu hướng chung (tính dung hòa với

tự nhiên, tính linh hoạt/đa năng, tính tư hữu) và nhóm theo xu hướng riêng – đặc

thù của văn hóa Việt Nam (tính cộng đồng, truyền thống gia đình Việt). Bằng cách

phân lập này suy ra nhóm xu hướng chung sẽ tiếp tục phát triển trong tương lai;

nhóm xu hướng riêng là điều kiện để khai thác và nhận diện tính truyền thống, gia

tăng sự can thiệp của các đặc tính đó đồng nghĩa với việc kế thừa và phát huy

VHTT trong không gian nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam.

Với hai xu hướng chung và riêng nói trên trên, cấp nhu cầu cơ bản và mở

rộng có khả năng ứng dụng thang giá trị VHTT cơ bản; cấp nhu cầu phát triển

ứng dụng thang giá trị VHTT nâng cao. Như vậy những giai đoạn phát triển tiếp

theo của KTNO, thang giá trị VHTT trong yếu tố công năng có xu hướng phân

chia thành 2 thang giá trị khác nhau, thể hiện sự biến đổi của VHTT để phù hợp

với điều kiện tồn tại mới.

6. Trên phương diện hình thức, tiếp cận lý thuyết hệ thống để xây dựng mô

hình tương tác giữa giá trị thẩm mỹ truyền thống với các thành phần cấu tạo (mái,

kết cấu bao che, cửa, khung cột, nền nhà) đưa đến việc chọn lọc 9 giá trị thẩm mỹ

đặc trưng là tính hình học, tính đối xứng, tính vần điệu, tỷ lệ hài hòa, tính cơ động,

vật liệu tự nhiên, giải pháp che nắng, thông gió, tạo bóng râm. Ngoài ra, từ phương

pháp tiếp cận Mỹ học và Mỹ học kiến trúc nhận thấy VHTT có thể đóng góp cho

144

hình thức KTNO đô thị 3 vai trò: xây dựng quy luật thẩm mỹ truyền thống, chuyển

tải hình thái ý thức của người Việt, xây dựng nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống.

Giữa quy luật thẩm mỹ - nguyên tắc thẩm mỹ - hình thái ý thức có mối quan hệ

tương sinh; hình thành nên trật tự phân cấp của nguyên tắc thẩm mỹ, tương ứng với

trật tự phân cấp giá trị VHTT. Như vậy, kế thừa VHTT trong hình thức KTNO đô

thị là sự chuyển đổi các quy luật thẩm mỹ, nguyên tắc thẩm mỹ (dẫn nghĩa đến

VHTT) và cả hệ thống trật tự phân cấp của những yếu tố này. Đây là phương thức

chuyển đổi phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay; vừa phát huy vai trò của công

nghệ - sáng tạo, vừa tránh được tình trạng sao chép các hình thức nhà ở đã cũ.

Bằng phương pháp tiếp cận Ký hiệu học cho thấy giá trị thẩm mỹ truyền

thống có thể chuyển đổi trong hình thức KTNO đô thị theo 3 cơ chế: chuyển đổi

nguyên gốc, chuyển đổi một phần, chuyển đổi tương ứng (chuyển đổi các quy

luật, nguyên tắc thẩm mỹ). Trong đó, cơ chế chuyển đổi tương ứng chứng minh

nhiều khả năng để khai thác, vừa duy trì đặc trưng truyền thống có tính chi phối “ẩn

danh”, vừa phát huy những tiến bộ công nghệ và sáng tạo trên phương diện biểu thị.

7. Mô hình khai thác giá trị VHTT trong hình thức KTNO đô thị được xây

dựng dựa trên sự tương tác giữa giá trị thẩm mỹ được chọn với các yếu tố tạo hình;

thông qua đó xác lập 7 trạng thái khai thác, thể hiện khả năng phối hợp cần thiết

giữa các yếu tố cấu tạo để hướng đến chỉ số khai thác cao nhất. Ứng với mỗi trạng

thái này, vận dụng nguyên tắc và quy luật thẩm mỹ truyền thống sẽ đem đến các kết

quả khai thác khác nhau, chuyển dần từ mức khai thác trung bình (đủ để nhận diện

tính truyền thống, 55%) cho tới mức cao nhất (cấp lý tưởng, 100%).

8. Tham chiếu quan điểm phát triển kiến trúc và KTNO trên thế giới cho

thấy, kiến trúc nhà ở có xu hướng tạo ra các hình thức để thích ứng với điều kiện

khí hậu, kết hợp sử dụng vật liệu tự nhiên (đẹp hài hòa với tự nhiên); tăng cường

tính linh hoạt của yếu tố cấu tạo (đẹp đa dạng); đề cao quy luật tỷ lệ và hình học

(đẹp thành tố). Đây là những nguyên tắc chung thế giới có điểm tương đồng với

nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống riêng Việt Nam và sẽ còn tiếp tục phát triển.

Ngoài ra, bằng cách phân tích mối quan hệ giữa giá trị thẩm mỹ truyền thống với

các yếu tố can thiệp đến tạo hình nhà ở hiện nay (công nghệ, sáng tạo, tự nhiên, văn

145

hóa – xã hội, kinh tế) còn cho thấy khả năng xuất hiện trật tự nguyên tắc thẩm mỹ

truyền thống mới, thể hiện quy luật chuyển đổi VHTT để thích ứng với yêu cầu của

thời đại. Như vậy, việc khai thác VHTT trong hình thức KTNO đô thị sẽ bao gồm

duy trì trật tự nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống cũ và phát triển truyền thống

mới. Cả 2 phương thức này đều có tác dụng nhận diện tính dân tộc và bản sắc; thể

hiện sự linh hoạt của quá trình khai thác để phù hợp với xu hướng chung thế giới.

9. Tổng hợp nội dung nghiên cứu, luận án kiến nghị việc kế thừa và khai

thác giá trị VHTT trong KTNO tại các đô thị lớn Việt Nam hiện nay như sau:

 Đối với yếu tố công năng: quá trình khai thác cần xác định nhu cầu của

đối tượng sử dụng để xây dựng cấu trúc không gian ở phù hợp, tạo ra sự cân đối

giữa “tiện nghi ở” và “tiện nghi văn hóa”. Nghĩa là, tương ứng với mỗi cấp độ nhu

cầu được xác định sẽ có những nhóm giá trị VHTT cần chuyển tải. Với cấp nhu

cầu cơ bản, cấu trúc không gian không đủ điều kiện khai thác giá trị VHTT nhằm

phát huy tính đặc thù. Trong cấp nhu cầu mở rộng, nhà ở cần xây dựng 4 nhóm

không gian chức năng (nghỉ ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp); khai thác

thang giá trị VHTT cơ bản hoặc thang giá trị trong mô hình ứng dụng. Đối với

cấp nhu cầu phát triển, nhà ở cần tạo lập đầy đủ 5 nhóm không gian chức năng

(nghỉ ngơi thụ động, làm việc, giáo dục, giao tiếp, nghỉ ngơi năng động), khai thác

thang giá trị VHTT nâng cao hoặc thang giá trị trong mô hình ứng dụng.

 Đối với yếu tố hình thức: tiếp tục phát huy vai trò tích cực của công

nghệ và sự sáng tạo trong hình thức kiến trúc nhà ở; tùy theo nhu cầu chuyển tải giá

trị thẩm mỹ truyền thống mà chọn một trong 7 trạng thái khai thác. Ngoài ra, quá

trình đó cần kết hợp với trật tự nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống cũ hoặc mới.

Thẩm mỹ truyền thống mới tương đồng với xu hướng chung thế giới nên có khả

năng tạo ra công trình hiện đại nhưng vẫn thể hiện tính dân tộc và bản địa. Để thẩm

định công trình nhà ở đã xây dựng về mức độ khai thác truyền thống có thể sử dụng

mô hình của luận án. Việc ứng dụng mô hình này giúp đánh giá việc khai thác một

cách định lượng thay vì chỉ nhận định cảm tính. Bên cạnh đó, phương pháp xây

dựng mô hình khai thác giá trị VHTT cũng có thể được áp dụng tương tự để mở

rộng ra cho các loại hình công trình khác ngoài nhà ở.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Nguyễn Song Hoàn Nguyên (2009), Văn hóa truyền thống trong kiến trúc

nhà phố ở Việt Nam. Tạp chí Xây dựng số 40/2009;

2. Trần Văn Khải, Nguyễn Song Hoàn Nguyên (2009), Đề xuất một số giải

pháp kiến trúc nhà ở nội thành và ngoại thành trong điều kiện kinh tế phát

triển, Hội thảo “Quy hoạch phát triển thành phố Quy Nhơn đến năm 2030 và

tầm nhìn đến năm 2050”, UBND Thành phố Quy Nhơn – Bình Định;

3. Nguyễn Song Hoàn Nguyên (2015), Mô hình “Tháp công năng” trong kiến

trúc nhà ở, Tạp chí Kiến trúc số 11/2015;

4. Nguyễn Song Hoàn Nguyên (2016), Giá trị thẩm mỹ truyền thống trong kiến

trúc nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay, Tạp chí Kiến trúc số 04/2016;

5. Nguyễn Song Hoàn Nguyên (2016), Kiến trúc nông thôn vùng ngập nước

ĐBSCL (giáp biên giới Campuchia), Chuyên đề thuộc đề tài nghiên cứu cấp

Bộ “Nghiên cứu định hướng phát triển kiến trúc vùng ĐBSCL”, Khoa Kiến

trúc, Đại học Kiến trúc TP HCM;

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT

[1] Trần Văn Cảnh (2006), Khái niệm về văn hóa: Chữ văn hóa dịch từ chữ

“Culture”, http://www.ghhv.quetroi.net/63TVCANH/63TVCANHVanHoaGiaDi nhVietNam02.htm

[2] Nguyễn Việt Châu (2010), Kiến trúc sinh thái – đỉnh cao của kiến trúc hiện đại, truyền thống, Tạp chí Kiến trúc số 04/2010;

[3] Trần Trọng Chi (2008), Lược sử kiến trúc thế giới, NXB Xây dựng, Hà

Nội.

[4]

Hồ Đình Chiêu (2006), Những nguyên tắc cho giải pháp kiến trúc nhà ở sinh thái Tp Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hội kiến trúc sư Tp Hồ Chí Minh.

[5] Nguyễn Phúc Chỉnh (2013), Lý luận dạy học sinh học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[6] Mai Ngọc Chừ (2008), Giới thiệu văn hoá phương Đông, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

[7]

Nguyễn Văn Chương (2011), Khai thác yếu tố nơi chốn nhằm tạo lập bản sắc đô thị - lấy thành phố Đà Nẵng làm địa bàn nghiên cứu, Luận án tiến sĩ kiến trúc.

[8] Uông Chính Chương (2002), Mỹ học Kiến trúc, NXB Xây Dựng, (Nguyễn Văn Nam dịch), Hà Nội.

[9] Cục di sản văn hóa (2007), Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Hà nội.

[10] Nguyễn Thế Cường (2012), Giao lưu tiếp biến văn hóa và bảo tồn bản sắc

văn hóa Việt Nam trong toàn cầu hóa, Http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn;

[11] Tạ Mỹ Duật (1979), Thử tìm một quan niệm về tính hiện đại và dân tộc trong kiến trúc, Nội san Kiến trúc số 2/1979.

[12] Đinh Thị Dung (2012), Văn hóa thời gian rỗi, Hội thảo khoa học, Khoa Văn Hóa Học, ĐHKHXH – NV TP HCM, 12/2012.

[13] Nguyễn Đức Dương (2010), Phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, Số 02 – 2010.

[14] Phạm Đức Dương (2009), Giao lưu văn hóa Việt Nam và thế giới,

http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song- quanh-ta46/giao-luu-van-hoa-viet-nam-va-the-gioi, ngày 18/11/2009.

[15] Nguyễn Kiến Giang (2011), Văn hóa Việt Nam – đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục, Tp HCM.

[16]

Trương Thị Lam Hà (2008), Bữa cơm gia đình trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn, số 42, tháng 3/2008;

[17] Đinh Hồng Hải (2013), Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: Từ ký hiệu học đến nhân học biểu tượng, Bài giảng về Lý thuyết nhân học, Trường đại học KHXH & NV Hà Nội.

[18] Lưu Trọng Hải (2015), Vấn đề truyền thống trong phát triển kiến trúc và xây dựng đô thị, Tạp chí Kiến Trúc Việt Nam số 10/2005.

[19] Lý Trạch Hậu (2002), Bốn bài giảng Mỹ học, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội,

(Trần Đình Sử & Lê Tẩm dịch), Hà Nội.

[20] Nguyễn Văn Hiệu (2009), Tiếp cận hệ giá trị văn hóa Việt Nam từ góc nhìn xuyên văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 11/2009.

[21] Nguyễn Duy Hinh (1997), Kiến trúc cổ truyền Việt Nam, lưu hành nội bộ, Trường ĐH Kiến trúc TP HCM.

[22] Hoàng Ngọc Hoa (2004), Yếu tố nước trong tổ chức không gian kiến trúc Việt Nam hiện đại, Luận án tiến sĩ kiến trúc.

[23] Đặng Thái Hoàng - dịch (2013), Hiện tượng học kiến trúc, Http://kienviet.net/2013/12/11/hien-tuong-hoc-kien-truc.

[24] Lương Bửu Hoàng (2006), Bàn về các yếu tố thẩm mỹ trong kiến trúc đô thị, Tạp chí khoa học xã hội số 5/2006.

[25] Nguyễn Đình Hòe (2007), Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu môi trường và phát triển, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2007.

[26]

Lê Ngọc Hùng (2014), Lý thuyết hệ thống tổng quát và phân hóa xã hội: Từ Ludwig von Bertalanffy đến Talcott Parsons, Tạp chí KHXH & NV số 3/2014.

[27] Lê Quốc Hùng (2000), Nhà phố ở Chợ Lớn – sự vận động và chuyển hoá

của một mô hình nhà ở – Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 6/2000.

[28] Lê Thị Thu Hương (2000), Mã dân gian trong nhà ở đô thị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kiến trúc, Trường đại học Kiến trúc TP HCM.

[29] Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn hóa và văn hóa chính trị từ cách nhìn tiếp cận của triết học chính trị mácxít, Tạp chí Triết học, số 5 (168), tháng 5 – 2005.

[30] Trần Văn Khải (2005), Thiết kế và tổ chức không gian môi trường ở, Trường Đại học Kiến trúc Tp HCM, Lưu hành nội bộ.

[31] Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[32] Doãn Minh Khôi và Phạm Đình Việt (2002), Nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam, Tài liệu nghiên cứu khảo sát của Hội Kiến trúc sư Việt Nam, Hà Nội.

[33] Doãn Minh Khôi (2008), Sự biến đổi không gian bất đắt dĩ của nhà hàng phố Hà Nội, Tạp chí kiến trúc số 06/2008.

[34] Hoàng Đạo Kính, Bàn về một nền kiến trúc Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, Tạp chí Kiến trúc số 01/1998;

[35] Hoàng Đạo Kính (2003), Văn hóa thành thị truyền thống – lực quán tính và vai trò của nó trong phát triển đô thị, Tạp chí Kiến trúc số 1/2003.

[36] Kisho Kurokawa (2013), Triết lý kiến trúc cộng sinh, Đặng Thái Hoàng (dịch), http://kienviet.net/2013/09/16/triet-hoc-kien-truc-cong-sinh.

[37] Krashenhinnhikov, A. V (2005). Quy hoạch phát triển đối với công trình xây dựng nhà ở: nghiên cứu kinh nghiệm các nước phương Tây, Matxcơva: Kiến trúc-X, 2005. - 112 tr. (Lê Văn Dũng dịch & tổng hợp).

[38] Phạm Thúy Loan (2012), Không gian mặt nước – một nét đặc trưng của đô thị Hà Nội, Urban & Architectural Institute, Http://www.uai.org.vn.

[39] Trần Long (2012), Hướng nhà ở Nam Bộ, Bản tin Đại học quốc gia Tp HCM, số xuân 2012;

[40] Nguyễn Trực Luyện (2003), Vận hội của kiến trúc Việt Nam – cái nhìn từ vốn liếng của thế kỷ vừa quan, Tạp chí kiến trúc số 01/2003;

[41] Đinh Kiều Nga (2009), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bản sắc văn hóa của người Việt, http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1426;

[42] Phan Ngọc (2005), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

[43]

Phan Thành Nhâm (2012), Tính hai mặt trong tính cách con người Việt Nam, Luận văn thạc sĩ ngành triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

[44] Nguyễn Quân (1986), Mỹ thuật và ngôi nhà, Tạp chí kiến trúc số 2/1986.

[45] Nguyễn Sỹ Quế, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Hồng Hương (2010), Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam, NXB Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội.

[46]

Lê Thanh Sơn (2000), Hiện tượng cộng sinh văn hóa giữa tính truyền thống và hiện đại trong kiến trúc Việt Nam từ cuối thế kỷ IXX – giữa thế kỷ XX, Luận án tiến sĩ kiến trúc, TP HCM.

[47] Lê Thanh Sơn (2001), Một số xu hướng kiến trúc đương đại nước ngoài, NXB Xây dựng, Hà Nội.

[48] Lê Cộng Sự (2014), Giá trị người hay sự thống nhất giữa chân, thiện, và

mỹ trong triết học I. Kant, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3 (12) 2014;

[49] Lê Từ Thành (1996), Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Trẻ, TpHCM.

[50]

Trần Văn Thành (2009), Văn hóa nhìn dưới góc độ giá trị học, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX.03.14/06-10, Trường ĐH KHXH & NV, TPHCM.

[51] Trương Quang Thao (1995), Vấn đề đơn vị ở: từ tiểu khu đến quần thể đô thị, Tạp chí kiến trúc số 1/1995;

[52] Kiêm Thêm (2013), Đại cương về mỹ học, http://newvietart.com/index4.1552.html, ngày 31/08/2013.

[53]

Trần Ngọc Thêm (2009), Giá trị và sự chuyển đổi hệ giá trị VHTT Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX.03.14/06-10, Trường ĐH KHXH và NV, TPHCM.

[54] Trần Ngọc Thêm (2006), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp Tp HCM, Tp HCM.

[55] Nguyễn Đức Thiềm (2000), Góp phần tìm hiểu bản sắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà nội.

[56] Nguyễn Đức Thiềm (2008), Khía cạnh văn hóa – xã hội của kiến trúc, NXB Xây Dựng, Hà Nội.

[57] Nguyễn Đức Thiềm (2006), Kiến trúc nhà ở, NXB Xây dựng, Hà Nội.

[58] Ngô Đức Thịnh (2009), Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị VHTT trong đổi mới và hội nhập, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX.03.14/06-10, Trường ĐH KHXH và NV, TPHCM.

[59] Ngô Đức Thịnh (2010), Những giá trị VHTT Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội

[60] Đoàn Khắc Tình (2000), Một số bài viết – tiểu luận – phê bình – dịch thuật kiến trúc, NXB Xây dựng, Hà nội.

[61] Đàm Thu Trang (2003), Tổ chức kiến trúc cảnh quan trong các khu nhà ở của Hà Nội nhằm nâng cao chất lượng sống của môi trường đô thị, Luận án tiến sĩ kiến trúc.

[62] Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ Thuật, Hà Nội.

[63]

Trường ĐH KHXH & NV TPHCM (2009), Bảo tồn và phát huy các giá trị VHTT Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX.03.14/06-10, TPHCM.

[64] Nguyễn Quang Uẩn (1995), Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

[65] Viện nghiên cứu kiến trúc (1999), Bàn về vấn đề dân tộc và hiện đại trong kiến trúc Việt Nam, NXB Xây Dựng, Hà Nội.

II. TIẾNG ANH

[66] Amer A. Moustafa (1988), Architectural representation and meaning: towards a theory of interpretation, Requirements for the degree Master of Science in Architecture Studies at The Massachusetts Institute of Technology, June, 1988.

[67] Brian Gardner (2008), Ordering the Aesthetic (A+) in Architecture:

Advancing a Theory of Modular computation, Http://repository.cmu.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1048&conte xt=architecture, 06/2008.

[68] David Barrett Douglass (2008), Defining a sustainable aesthetic: A new paradigm for architecture, A thesis presented to Architecture University of Southern California.

[69] Douglas Kahl (2008), Robert Venturi and His Contributions to Postmodern Architecture, Oshkosh Scholar, Volume III, April 2008, pg60.

[70] Edgar Kaufman and Bea Raeburn (1969), Frank Lloyd Wright: Writings and Buildings, Cleveland: The World Publishing Company.

[71] Geoffery Bawa (2008), Philosophy, Http://geoffreybawa.blogspot.com, 07/2008.

[72] Heinrich Klotz (2011), Postmodern architecture,

Http://www.saylor.org/site/wp- content/uploads/2011/05/Postmodern-architecture.pdf.

[73] Jan Bovelet (1980), Architecture of langguage - semiotic componential anylysis of architecture, http://stadtinnenarchitektur.de/?p=410;

[74] Jenks, C. & Baird, G. (1969), Meaning in Architecture, The Cresset Press, England.

[75] Jillian Schuck (2014), Architectural Theories & Concepts, Http://www.indiana.edu/~iucdp/Jillian.pdf.

[76] John A. Walker (1992), Neo-Vernacular Architecture, http://www.artdesigncafe.com.

[77] Kendra Cherry (2008), Hierarchy of Needs - The Five Levels of Maslow's

Hierarchy of Needs, Http://psychology.about.com/od/theoriesofpersonality/a/hierarchyn eeds.htm

[78] Langer, Susanne K (1953). Feeling and Form. New York: Charles

Scribner’s Sons.

[79] Le Corbusier (1986), Towards a New Architecture. Translated from the

thirteenth French edition by Frederick Etchells. New York: Dover Publications, Inc.

[80]

Le Thi Hong Na (2011), An Analysis of Passive Design anf Unique Spatial Characteristics Inherent in Vietnamese Indigenous Housing and Their Applications to Contemporary High-rise Housing in Vietnam, PhD thesis, Inha University, Incheon City, South of Korea.

[81]

Ly The Phuong (2012), A Critical Regionalist Approach to Housing Design in Vietnam: Socio-Environmental Organisation of Living Spaces in Pre- and Post-Reform Houses, PhD thesis, Queensland University of Technology, Australia.

[82] Maslow, A. H. (1943). A Theory of Human Motivation, Psychological Review 50, 370-96, Http://abika.com.

[83] Mei Zhao (2012), Design languages of contemporary Neo-vernacular

architecture in China, Applied Mechanics and Materials Journal, 2012.

[84] Mojtaba Parsaee (2014), Space and place concepts analysis based on semiology approach in residential architecture : The case study of traditional city of Bushehr, Iran, HBRC Journal, August 2014;

[85] Parisa Shoja (2015), Intuition

in Phenomenology of Architecture, International Research Journal of Environmental Science, Vol 10, April 2015;

[86] Peter Lamarque (2010), The Uselessness of Art, The Journal of Aesthetics and Art Criticism, Summer 2010, pg 205-214.

[87] Puteri Shireen Jahnkassim (2006), Linking bioclimatic theory and

environmental performance in its climatic and cultural context – an analysis into the tropical highrises of Ken Yeang, Http://www.unige.ch/cuepe/html/plea2006/pdf/969_Jahnkassim.pdf

[88] Robert Powell (1997), The process of (Un)learning, Http://www.akitektenggara.com.

[89] Scruton, Roger (1979), The Aesthetics of Architecture. Princeton, NJ: Princeton University Press.

[90] The pritzker architecture prize (2015), Http://www.pritzkerprize.com, (tác giả dịch và tổng hợp);

[91] Zhi Wen-jun (2012), Neo-Vernacular, new details and new attitudes, http://www.menggang.com/murmur/doc/mg-neworg.pdf

MỤC LỤC PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

NGUỒN GỐC, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN NHÓM GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG

KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

1 Nguồn gốc và đặc điểm của giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt

Nam ............................................................................................................................... 1

2 Phân nhóm giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam ..................... 8

PHỤ LỤC 2

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT KIẾN TRÚC THẾ GIỚI LIÊN QUAN ĐẾN

KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

1 Kiến trúc Hữu cơ (Organic Architecture) .................................................................... 10

2 Kiến trúc Hậu hiện đại (Postmodern Architecture) ..................................................... 12

3 Kiến trúc Bản địa mới (Neo-Vernacular Architecture) ............................................... 14

4 Kiến trúc Sinh thái (Ecological Architecture) ............................................................. 16

5 Kiến trúc Chuyển hóa luận (Metabolism) ................................................................... 18

6 Kiến trúc Cộng sinh văn hóa (Cultural Symbiosis) ..................................................... 19

7 Học thuyết Nơi chốn (Genius Loci/Sense of Place) .................................................... 20

8 Hiện tượng học kiến trúc (Phenomenology of Architecture) ...................................... 22

9 Ký hiệu học kiến trúc (Semiology of Architecture) .................................................... 25

10 Kiến trúc High-tech (High-tech Architecture) ............................................................. 28

11 Kiến trúc giải tỏa kết cấu (Deconstruction Architecture) ............................................ 30

PHỤ LỤC 3

CHỨC NĂNG CỦA NHÀ Ở VÀ CÁC NHÓM KHÔNG GIAN CÔNG NĂNG

1. Chức năng của kiến trúc nhà ở .................................................................................... 33

2. Các nhóm không gian công năng trong kiến trúc nhà ở đô thị .................................... 35

PHỤ LỤC 4

THAM CHIẾU XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRÊN THẾ GIỚI

DỰA THEO QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ ĐẠT GIẢI PRITZKER

1. Rem Koolhaas (1944) - Pritzker 2000 ......................................................................... 40

2. Glenn Murcutt (1936) - Pritzker 2002 ......................................................................... 41

3.

Jorn Utzon (1918 - 2008) - Pritzker 2003 .................................................................... 42

4. Zaha Hadid (1950) - Pritzker 2004 .............................................................................. 43

5. Paulo Mendes Da Rocha (1928) - Pritzker 2006 ......................................................... 44

6. Richard Rogers (1933) - Pritzker 2007 ........................................................................ 45

7.

Jean Nouvel (1945) - Pritzker 2008 ............................................................................. 46

8. Peter Zumthor (1943) - Pritzker 2009 ......................................................................... 47

9. Kazuyo Sejima (1956) & Ryue Nishizawa (1966) - Pritzker 2010 ............................. 48

10. Eduardo Souto De Moura (1952) - Pritzker 2011 ....................................................... 49

11. Wang Shu (1963) - Pritzker 2012 ................................................................................ 50

12. Toyo Ito (1941) - Pritzker 2013 ................................................................................... 51

13. Shigeru Ban (1957) - Pritzker 2014 ............................................................................. 52

1

PHỤ LỤC 1

NGUỒN GỐC, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN NHÓM GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

Nội dung Phụ lục 1 diễn đạt nguồn gốc và đặc điểm giá trị văn hóa trong kiến

trúc nhà ở truyền thống Việt Nam được tổng hợp từ Bảng 1.3, sau đó phân chia

chúng vào những nhóm giá trị tương đồng. Các giá trị văn hóa này hình thành và ổn

định theo diễn trình lịch sử dựa trên bối cảnh đặc thù về hệ thức tư duy của người

Việt như: tính thích ứng với môi trường tự nhiên, các phong tục tập quán và lối

sống, đức tin tâm linh, quan niệm thẩm mỹ, tư duy kinh tế và sáng tạo kỹ thuật.

 Nguồn gốc và đặc điểm của giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền

thống Việt Nam

 Tính dung hòa với tự nhiên

Kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam được hình thành, phát triển trong điều

kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa và một nền sản xuất chủ đạo là lúa nước. Đến giữa

thế kỷ XX, Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tế bào của xã hội là

các hộ gia đình tiểu nông, cho nên hoạt động của con người phải nương tựa theo

những quy luật thiên nhiên. Dung hòa với tự nhiên đã trở thành triết lý và là một lối

hành xử có tính thường xuyên, ổn định trong cốt cách văn hóa của người Việt. Ông

cha ta từ ngàn xưa đã phần nào hiểu được các đặc điểm của đất trời, khí hậu, biết

khai thác chúng trong việc làm nhà… gắn chặt kiến trúc với thiên nhiên: mối quan

hệ giữa con người với kiến trúc và thiên nhiên được hình thành [56, tr.23]. Trong

làng xóm, những ngôi nhà chính đều quay về hướng nam hoặc đông nam để đón gió

mát. Không gian bên trong thoáng rộng và liên thông với nhau làm tăng hiệu quả

đối lưu không khí. Mái dốc vươn xa, sử dụng hàng hiên và các tấm phên giại để

ngăn tác động trực tiếp của mưa nắng. Cây xanh trồng xung quanh nhà theo nguyên

tắc “trước cau sau chuối”. Cái ao được xem là nhân tố quan trọng tạo nên hệ sinh

2

thái, đặt phía trước hay bên cạnh nhà chính và đầu hướng gió để tạo điều kiện thông

gió cho sân, phòng ngủ cũng như các bộ phận khác của ngôi nhà.

Với nguồn vật liệu tự nhiên phong phú sẵn có và được khai thác tại chỗ, nhà ở

của người Việt thường sử dụng các loại thảo mộc kết hợp đất đá. Bộ khung kết cấu

bằng tre hoặc gỗ, tường đất, mái lợp bằng cỏ tranh, rơm, rạ... Các công trình có qui

mô lớn sử dụng gỗ quí, mái ngói, trang trí hoa văn chạm trổ. Phương thức sử dụng

vật liệu đó được tiếp nối qua nhiều thế hệ, tạo thành dấu hiệu đặc thù của kiến trúc

nhà ở truyền thống Việt Nam.

 Tính linh hoạt/đa năng

Trên bình diện tổng thể, làng xóm người Việt hình thành theo một cấu trúc

linh hoạt của những ngôi nhà ghép tự nhiên với nhau, không tuân theo quy tắc nhất

định nào. Trong cấu trúc công năng, nhà ở truyền thống được triển khai theo kiểu

một không gian đồng nhất, không ngăn chia (mỗi không gian là một ngôi nhà: nhà

chính/nhà phụ) tạo ra mô hình nhà ở đa năng (tiền cấp). Nhà chính vừa là chỗ thờ

cúng, chỗ ngủ của nam giới, vừa là nơi tiếp khách, sum họp gia đình,… Mọi sinh

hoạt diễn ra nơi đây ảnh hưởng lẫn nhau vì không được phân chia rõ ràng. Nhìn

chung, tổ chức công năng của nhà ở dân gian thiên về chung hơn riêng, về đa năng

hơn đơn năng. Trên phương diện hình thức, tính linh hoạt được biểu hiện thông qua

việc sử dụng hệ khung kết cấu tháo lắp, cửa bức bàn và các tấm phên giại có thể

dịch chuyển để nối liền bên trong và bên ngoài thành một không gian liên tục.

 Tính cộng đồng

Về mặt xã hội, tính cộng đồng tiêu biểu cho lối sống truyền thống của nông

thôn Việt Nam, trong đó vị thế và nhân cách cá nhân phụ thuộc chặt chẽ vào gia

đình và tập thể. Đời sống sản xuất nông nghiệp gắn buộc con người lại với nhau để

cùng chống đỡ điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên như lũ lụt, hạn hán, hay cùng làm

công tác thuỷ lợi; thêm vào đó là những mối quan hệ làng xóm láng giềng, dòng họ

nương tựa giúp đỡ nhau trong các hoạt động ma chay, cưới hỏi, dựng nhà cửa… đã

làm cho tổ chức nông thôn mang tính cộng đồng sâu sắc. Mọi người sống trên tinh

thần “tối lửa tắt đèn có nhau”, coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tính đoàn kết

3

và cố kết làng xã. Sau hàng ngàn năm, sự cố kết cộng đồng và sức mạnh văn hóa

làng là một thực tế không thể phủ nhận [45, tr.15]. Tuy nhiên, tính cộng đồng được

đề cao quá mức đã kìm hãm sự phát triển cá nhân [43, tr.14].

Sinh hoạt cộng đồng diễn ra trong từng ngôi nhà cho đến không gian công

cộng như: ngõ xóm, đường làng, giếng nước, sân đình... Khuôn viên nhà ở rào dậu

đơn sơ, không ngăn cản sự tiếp xúc giữa xóm giềng với nhau. Hoạt động giao tiếp

mở rộng và liên tục từ nhà chính, nhà phụ kéo dài ra tới sân đa năng.

 Truyền thống gia đình Việt

Gia đình là một thiết chế xã hội bền vững của xã hội Việt Nam. Chế độ phong

kiến đi kèm hệ tư tưởng Nho giáo đã gắn chặt con người trong mối quan hệ không

thể tách rời với gia đình và dòng tộc, không công nhận vai trò độc lập của từng cá

nhân. Trong gia đình truyền thống, vai trò của người đàn ông được đề cao. Đặc

điểm của gia đình Việt là sống nhiều thế hệ dưới cùng một mái nhà; trong đó tồn tại

ba mối quan hệ lớn có ý nghĩa là cha – con, vợ – chồng, anh – em. Người Việt lấy

đạo hiếu làm đầu: con đối với cha mẹ thì hiếu thảo; cháu đối với ông bà thì tôn

kính, biết ơn; anh em đối với nhau thì hoà thuận, nghĩa tình; luôn duy trì đạo lý

“uống nước nhớ nguồn”, coi trọng việc thờ phụng tổ tiên.

Bởi do đặc tính văn hóa nêu trên nên tổ chức không gian nhà ở của người Việt

có một số đặc điểm nổi bật: 1) cấu trúc ngôi nhà thường đối xứng (3 gian, 5 gian...),

thể hiện tính trật tự của tư tưởng Nho giáo; 2) gian thờ tổ tiên chiếm vị trí trang

trọng giữa nhà chính; 3) không gian sum họp gia đình và giáo dục con cái phân bố

đa dạng theo các chức năng nhà ở. Nhìn chung, các không gian thiên về sử dụng

chung hơn riêng. Mọi thành viên có thể kiểm soát hoạt động lẫn nhau, làm triệt tiêu

tính riêng tư trong tổ chức không gian nhà ở.

 Tính tư hữu

Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ sản sinh ra hàng loạt

những ưu điểm và nhược điểm trong tính cách của người Việt [54, tr.195]. Làng xã

Việt Nam là một cộng đồng khép kín được bao bọc bởi luỹ tre xanh, khẳng định

tính tự trị cao độ, tạo nên tinh thần tự lập và nếp sống tự cung tự cấp. Ngoài ra, tính

4

tự trị cũng làm nảy sinh ý thức tư hữu, chiếm hữu cá nhân. Nền kinh tế nông nghiệp

tự cung tự cấp với tính tự trị làng xã buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải tự làm

ăn, tự lo liệu cuộc sống của mình. Do khoa học kỹ thuật chưa phát triển, sản xuất

phụ thuộc vào thiên nhiên nên người dân thường chỉ đủ ăn, đủ mặc. Đó là cơ sở tạo

ra tính tư hữu [6].

Biểu hiện trên phương diện kiến trúc, mỗi ngôi nhà là một cấu trúc độc lập

khép kín, khẳng định ranh giới sở hữu của từng gia đình. Trong khuôn viên đó, nhà

chính và phụ được tùy nghi kiến tạo để ứng với từng nhu cầu cụ thể mà không bị

ràng buộc bởi những qui tắc chung của làng xóm. Nhà nào cũng có rào giậu, cổng

ngõ với đầy đủ các bộ phận sinh hoạt [55, tr.39]. Tuy nhiên, tính tư hữu chỉ biểu

hiện bằng ranh giới khu đất xây dựng, nhưng công năng bên trong lại vận hành theo

nguyên tắc sử dụng chung, loại trừ không gian sinh hoạt cá nhân.

 Tính sinh lợi

Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước dưới chế độ phong kiến đã sản sinh ra hình

thức cư trú làng xã mà tế bào của nó là hộ gia đình tiểu nông. Ngôi nhà truyền thống

của người Việt ngoài chức năng cư trú còn mang thêm chức năng sản xuất (chức

năng sinh lợi). Mỗi ngôi nhà đều có đầy đủ các bộ phận: chỗ ăn ở sinh hoạt gia

đình và thờ cúng tổ tiên, chỗ sản xuất và nơi tiến hành làm nghề phụ, khu trồng trọt

chăn nuôi và khu dự trữ nguyên liệu làm nhà, phát triển cơ ngơi. Việc bố trí chúng

không có một nguyên tắc phân khu rõ rệt, nhưng đều toát ra một đặc điểm thống

nhất. Đó là yêu cầu sản xuất – sinh hoạt luôn cần sự kết hợp xen kẽ được thực hiện

bằng cách tạo ra các không gian thoáng rộng đa năng với kiến trúc có trong có

ngoài, có kín có hở, để thích hợp không chỉ cho việc hoạt động đời sống thiên về lao

động chân tay mà còn cả sự thích nghi với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm [55,

tr.40].

Chức năng cư trú – sản xuất còn biểu hiện rõ nét trong loại hình nhà ống tại

các đô thị cổ. Hoàng Đạo Kính cho rằng quá trình phát triển đô thị trong lịch sử đã

tạo nên 2 sản phẩm bền vững: phố thị và nếp nhà liền kề kiểu ống [35]. Đặc điểm

của loại hình nhà ở này là bề ngang hẹp (từ 2 – 5 m) nhưng phát triển mạnh theo

5

chiều sâu.. Phần lớn gian ngoài tiếp xúc với vỉa hè được tổ chức thành cửa hàng để

phục vụ buôn bán” [33]. Đôi khi nhà ở còn có thêm mái đua để mở rộng không

gian, làm cho phố phường trở nên chật hẹp và mất mỹ quan.

 Văn hóa thờ cúng

Thờ cúng tổ tiên tồn tại như một tín ngưỡng dân gian và là thành tố tạo nên

bản sắc văn hoá Việt. Nguyễn Đức Dương nhận định: thờ cúng tổ tiên là một loại

hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Nó trở thành

một tập tục truyền thống, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của

dân tộc [13]. Dưới góc độ của nhà nghiên cứu kiến trúc truyền thống, Nguyễn Sỹ

Quế cho rằng sự ảnh hưởng của phong tục tập quán, tín ngưỡng vào phong cách

kiến trúc truyền thống rất lớn... vừa mang tính tất yếu vừa mang tính ngẫu nhiên...

Tín ngưỡng trong kiến trúc phản ảnh giá trị truyền thống cao nhất [45, tr.16].

Trong nhà ở dân gian, bàn thờ tổ tiên thường đặt cố định ở khu vực trung tâm;

ngoài ra, người Việt còn thờ nhiều vị gia thần như: Thổ địa, thần Tài, thần Bếp, thờ

Thiên... với mong muốn về một cuộc sống no đủ. Vì vậy, không gian thờ cúng trong

nhà ở được phân bố đa dạng và phong phú, phù hợp với lối tín ngưỡng đa thần.

 Tính hiếu khách

Tính cách văn hóa này được cho là có mối liên hệ mật thiết với tính cộng đồng

truyền thống. Theo quan điểm của Trần Ngọc Thêm thì tính cộng đồng là nguyên

nhân khiến người Việt đặc biệt coi trọng sự giao tiếp và thích thăm viếng. Khi có

khách đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó đến đâu, cũng

cố gắng tiếp đón một cách chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình [54, tr.278].

Trong nhà ở truyền thống, nơi tiếp khách chiếm vị trí trang trọng tại gian giữa

của nhà chính, gần với gian thờ tổ tiên. Trong bố cục tổng thể khu đất ở, người nông

dân vùng đồng bằng Bắc bộ đã chứng minh rất rõ nguyên tắc hiếu khách và trọng

khách... Mặt khác, ý đồ tạo cho kiến trúc một bộ mặt trước khang trang, cởi mở và

biện pháp “cộng cộng hóa” nhiều chức năng riêng để dễ tiếp cận và gần gũi với

khách hơn [55, tr.40].

6

 Thuật phong thủy

Thiên nhiên dưới quan điểm học thuyết phương Đông và Việt Nam bao gồm

cả vùng núi sông, đồng ruộng, cây cối.. như một khung cảnh hoàn chỉnh. Đặt vào

khung cảnh thiên nhiên ấy, thuật phong thuỷ được xem là chìa khóa để mở ra môi

trường cư trú lý tưởng cho con người. Quan điểm chọn ngôi nhà chính theo hướng

nam là chủ yếu, nhưng không phải lúc nào ngôi nhà đó cũng quay mặt chính về

hướng nam để đón gió tốt, mà do địa thế đất và phải phù hợp với đường giao thông

[45, tr.182]. Nhà ở dân gian truyền thống khéo léo vận dụng những điều kiện vật

chất của tự nhiên và nhân tạo để tạo nên một bố cục không gian kiến trúc hài hoà

theo các nguyên lý phong thuỷ, thể hiện mối quan hệ bền chặt giữa con người với tự

nhiên. Nhà vườn Huế có thể xem là một ví dụ điển hình về sự kết hợp này. Khi tìm

hiểu về cách làm nhà của cư dân Nam Bộ, Trần Long cho rằng các yếu tố tự nhiên

thuộc về “Thiên” ở Nam Bộ cho phép cư dân nơi đây quay hướng nhà theo nhiều

phương vị khác nhau mà không sợ bị thiên nhiên làm hại đến sức khỏe… Khi xét

hướng nhà theo góc nhìn phong thủy thì trước hết phải thừa nhận rằng phong thủy

của vùng này rất đặc thù. Đó là thứ phong thủy đạt đến sự hài hòa một cách tự

nhiên, hài hòa đến mức không phải quan tâm nhiều đến nó nữa [39]. Như vậy, thuật

phong thủy trong xây dựng nhà ở của người Việt có thể linh hoạt thay đổi theo đặc

điểm tự nhiên và quan niệm của cư dân từng vùng miền khác nhau.

 Tính biểu hình

Tính biểu hình được hiểu là giá trị thẩm mỹ của kiến trúc nhà ở truyền thống.

Đây là những mô thức hình thể đã được chọn lọc, phản ánh nét đặc thù trong nghệ

thuật tạo hình nhà ở của người Việt.

Về mặt lý thuyết, giá trị thẩm mỹ là một thành tố của hệ thống văn hóa, cho

nên cũng mang cấu trúc 2 bậc là cấu trúc bề mặt (biểu tầng) và cấu trúc chiều sâu

(cơ tầng). Lập luận này cho thấy tính biểu hình có thể được xét đến như một dạng

thức ký hiệu hàm chứa 2 thành phần gồm: yếu tố biểu đạt (hình thức) và yếu tố được

biểu đạt (nội dung).

Đầu thế kỷ XX, Ferdinand De Saussure đã giới thiệu mô hình cấu trúc luận

với phương pháp tiếp cận ký hiệu học như sau:

7

Cái biểu đạt (Signifier) Ký hiệu (Sign) =

Cái được biểu đạt (Signified)

Theo đó, ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi hệ thống ký hiệu ngôn ngữ có

hai phần: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là

một hình ảnh thính giác, cái được biểu đạt là một khái niệm. Không có mối liên hệ

tất yếu nào giữa ký hiệu với vật được chỉ định, hay như người ta thường nói, liên hệ

giữa chúng là võ đoán [17, tr.22]. Từ mô hình trên, nhiều nhà khoa học đã tiếp tục

phát triển cấu trúc luận dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, cả trong cũng như

ngoài ngôn ngữ học, hình thành nên một hệ thống lý thuyết về cấu trúc phong phú

dựa trên nền tảng ký hiệu học.

Stephen Heaths cho rằng khái niệm mã là căn bản của ký hiệu học. Mã không

đơn giản là những quy ước giao tế mà còn là các hệ thống của những quy ước

tương thuộc lẫn nhau được dùng trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào [28, tr.11].

Như vậy, kiến trúc là một hệ thống ký hiệu, trong đó hình thức thẩm mỹ cũng là

một dạng mã.

Hình thức kiến trúc nhà ở truyền thống (lớp vỏ bên ngoài) được nhìn thấy

thông qua các cấu trúc như: mái, cửa, kết cấu bao che, khung cột, hiên/logia, nền,;

chúng tương ứng với cái biểu đạt trong lý thuyết ký hiệu học. Ẩn sau những biểu

hiện hình thể nói trên là các quy luật thẩm mỹ truyền thống có tính chi phối, tương

ứng với cái được biểu đạt. Các quy luật này hợp thành từ 3 yếu tố: kỹ thuật truyền

thống, nghệ thuật tạo hình, giải pháp dung hòa với tự nhiên. Như vậy, với lập luận

trên có thể thấy thấy tính biểu hình của kiến trúc nhà ở truyền thống là một dạng

thức ký hiệu, phản ánh mối quan hệ giữa hình thể và các quy luật thẩm mỹ, được

diễn đạt như sau [bảng 01]:

8

BẢNG 1: TÍNH BIỂU HÌNH CỦA KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

CÁI BIỂU ĐẠT (Signifier)

KÝ HIỆU (Sign) =

(Nền, mái, cửa, kết cấu bao che, hệ khung cột, hiên/logia)

CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT (Signified)

(Tính biểu hình của kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam)

 Quy luật thẩm mỹ truyền thống: kỹ thuật truyền thống, nghệ thuật tạo hình, giải pháp dung hòa với tự nhiên;

 Kỹ thuật truyền thống: vật liệu (địa phương, sản xuất thủ công) và cấu trúc

(điển hình hóa, sử dụng kỹ thuật tháo ráp).

 Nghệ thuật tạo hình: tính vần điệu; tính đối xứng/cân bằng; tính hình học;

tỷ lệ hài hòa; trang trí hoa văn; màu sắc tự nhiên; tổ hợp theo phương ngang.

 Giải pháp dung hòa với tự nhiên: thông gió tự nhiên; che nắng, chiếu sáng

tự nhiên; chống mưa tạt; tạo bóng râm; chống ẩm. Những giải pháp này là nguồn

gốc tạo thành kiểu kiến trúc nhiệt đới, qua đó nhận diện tính đặc thù của kiến trúc

nhà ở truyền thống Việt Nam.

Ba yếu tố trên đây được chọn lọc từ việc phân tích hình thể kiến trúc nhà ở

truyền thống Việt Nam của các vùng tiêu biểu Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ.

 Phân nhóm giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam

Giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam có thể phân chia

theo các nhóm có tính chất tương đồng như sau [hình PL1]:

Hình PL1: Phân nhóm giá trị văn hóa trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam

9

 Giá trị Tự nhiên: tính dung hòa với tự nhiên;

Giá trị tự nhiên thể hiện mối quan hệ hài hòa giữa kiến trúc nhà ở với môi

trường khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, tác động đến phương thức tổ chức không gian

công năng và hình thức thẩm mỹ.

 Giá trị Sinh lợi: tính sinh lợi;

Giá trị sinh lợi là đặc tính văn hóa tiêu biểu của hình thức cư trú kết hợp sản

xuất – mua bán nhỏ, phù hợp với mô hình kinh tế tiểu nông, tiểu thương của Việt

Nam. Giá trị này còn là động lực can thiệp gián tiếp đến điều kiện phát triển nhà ở;

có khả năng làm biến đổi cấu trúc không gian công năng.

 Giá trị Xã hội: tính cộng đồng, truyền thống gia đình Việt, tính hiếu

khách, tính tư hữu;

Giá trị xã hội thể hiện sự tương tác giữa các đặc tính văn hóa lối sống với kiến

trúc nhà ở truyền thống, định hình cách thức tổ chức không gian và hình thức thẩm

mỹ đặc thù.

 Giá trị không gian: tính linh hoạt/đa năng;

Giá trị không gian phản ánh phương thức tổ chức công năng theo kiểu không

gian mở; các chức năng phân bố trong những không gian đồng nhất, không ngăn

chia, tạo ra mô hình nhà ở đa năng (tiền cấp).

 Giá trị tinh thần và thẩm mỹ: thuật phong thủy, văn hóa thờ cúng, tính

biểu hình.

Giá trị tinh thần và thẩm mỹ thể hiện tư duy về cái đẹp, đức tin tâm linh và vũ

trụ quan của người Việt trong quá trình thiết lập nhà ở, chi phối trên cả 2 khía cạnh

công năng và hình thức kiến trúc.

10

PHỤ LỤC 2

QUAN ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT KIẾN TRÚC THẾ GIỚI

LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

1 Kiến trúc Hữu cơ (Organic Architecture)

Kiến trúc Hữu cơ trước đây được mô tả như một xu hướng lãng mạn của chủ

nghĩa hiện đại, nhưng ngày nay dường như được hiểu theo ý nghĩa cục bộ, bản địa

và khu vực. Trường phái này thường nhấn mạnh những nguồn cảm hứng tại chỗ,

chú ý đến đặc điểm của phong cảnh, địa hình, những đặc trưng được tạo nên do sử

dụng vật liệu, màu sắc và bố cục [60, tr.71]. Kiến trúc Hữu cơ bắt nguồn từ thiên

nhiên nhưng không ổn định, liên tục thay đổi để kiến trúc không sao chép mà thích

hợp với tự nhiên, tái hiện các nguyên tắc tự nhiên. Quan điểm thiết kế của Frank Lloyd Wright110 diễn đạt sự hài hòa giữa tự nhiên – con người và môi trường sống;

toàn bộ các thành phần bên trong và bên ngoài tích hợp thành một thể thống nhất

với khẩu hiệu “Form and function are one” (Hình thức và chức năng là một). Ông

khẳng định: “Quyển kinh thánh của tôi là thiên nhiên” hoặc “Các giải pháp của

mọi vấn đề đã được chứa đựng bên trong chính nó. Mặt bằng, hình thức và đặc

điểm ngôi nhà đã được xác định bởi địa điểm, cảnh quan, vật liệu sử dụng và cả hệ

sinh thái. Hài hòa tự nhiên có mối quan hệ trực tiếp và cũng là mục đích mà ngôi

nhà dựng nên” [75]. Do đó, Frank Lloyd Wright luôn tìm kiếm cái tự nhiên biểu

hiện trong mọi vật thể, từ cảnh quan xung quanh cho đến bản chất vật liệu. Sự thăng

hoa của kiến trúc sư phải dựa trên cơ sở của những truyền thống địa phương và

tính năng của những vật liệu tại chỗ [3, tr.107]

Tóm lược một số quan điểm chủ yếu của kiến trúc Hữu cơ [3, tr.106]:

- Kiến trúc gắn kết hài hòa với thiên nhiên; mô phỏng và tôn trọng thiên

nhiên, qua đó đề cao tính nguyên sơ và tính địa phương;

110 Frank Lloyd Wright (1867-1959) là một trong những kiến trúc sư tiên phong của trường phái này;

- Ngôi nhà phục vụ cho sở thích và yêu cầu đặc thù của từng cá thể nhất định.

11

Thiết kế phải từ trong ra ngoài; không gian cơ động, bên trong phù hợp với bên

ngoài;

- Thẩm mỹ cũng có giá trị như một loại công năng. Kiến trúc Hữu cơ chú

trọng sử dụng vật liệu tự nhiên có sẵn tại chỗ, đặc biệt là đá và gạch.

BẢNG PL2.1: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC HỮU CƠ LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC HỮU CƠ [70]

GIÁ TRỊ VHTT

Công trình và địa điểm: Giá trị của địa điểm được nâng cao

1

(enhanced) bởi công trình; ngược lại công trình phản ánh một

phần bản chất của địa điểm.

Tự nhiên: kiến trúc hữu cơ không sao chép tự nhiên nhưng có

2

Tính dung hòa với tự nhiên

liên quan tới các loại vật liệu tự nhiên, địa điểm và con người sử

dụng công trình.

Vật liệu: Hình thức ngôi nhà là sự thể hiện của các vật liệu tự

3

nhiên, cả bên trong lẫn bên ngoài.

Sự che chở: ngôi nhà cần truyền đạt cảm giác về nơi trú ẩn, bảo

4

vệ và không được thiếu sự riêng tư.

Tính tư hữu

Ngôn ngữ hình thức: mỗi ngôi nhà mang một ngôn ngữ riêng.

5

Tất cả các bộ phận từ tổng thể đến chi tiết đều cùng chung ngôn

ngữ nhưng các ngôi nhà khác nhau sử dụng ngôn ngữ khác nhau.

Tỷ lệ và qui mô: cơ thể con người nên là thước đo của công trình

Tính biểu hình

6

và vật dụng nội thất, cần đạt đến tỷ lệ hài hòa.

(Tỷ lệ hài hòa)

Không gian: không gian nội thất phải được xác định từ hình thức

bên ngoài; không nên bị đóng kín bằng các phòng mà là dòng

7

chảy tự do (flow freely). Một không gian có thể được tiếp nối bởi

Tính linh hoạt/đa năng

một không gian khác để nâng cao hiệu quả chức năng (funtion) và

sự thú vị (delightful).

12

2 Kiến trúc Hậu hiện đại (Postmodern Architecture)

Kiến trúc Hậu hiện đại ra đời trong khoảng thập niên 50 của thế kỷ XX và liên

tục duy trì ảnh hưởng cho đến ngày nay. Hậu hiện đại trong kiến trúc được cho là sự

trở lại của tính hài hước, trang trí và sử dụng nguồn tài liệu tham khảo [72]. Chức

năng, hình dạng và không gian của kiến trúc Hiện đại được thay thế bởi tính thẩm

mỹ đa dạng như: sự va chạm của các phong cách, hình thức theo nhu cầu cá nhân và

làm mới những phong cách quen thuộc. Kiến trúc Hậu hiện đại tái phát hiện các

biểu cảm (the expressive) và giá trị tượng trưng (symbolic value) của các yếu tố

hình thức mà kiến trúc Hiện đại đã bỏ qua.

Với khẩu hiệu: “Less is a bore”, Robert Venturi phê phán kiến trúc Hiện đại

bởi sự nhàm chán, trừu tượng, quá sạch sẽ và tinh khiết; đã tách rời các nhân tố lịch

sử, không chấp nhận kế thừa quá khứ nên để mất khả năng giao tiếp với quảng đại

quần chúng. Theo ông, việc sử dụng yếu tố trang trí có khả năng đáp ứng nhu cầu

về tính đa dạng và truyền thông. Kiến trúc Hậu hiện đại quan điểm kiến trúc phải

phong phú và nhiều nghĩa (nhập nhằng/ambuguity); cho nên chủ trương sử dụng

chủ nghĩa Cổ điển, chủ nghĩa Lịch sử để bù đắp cho những khiếm khuyết, những giá

trị mà kiến trúc Hiện đại đã bỏ rơi [47, tr.15]; Các tòa nhà được thiết kế xung

quanh bộ nhớ lịch sử (historical memory), bổi cảnh địa phương (local context) và

ẩn dụ (metaphor) [69].

Kiến trúc Hậu hiện đại hướng đến tăng cường khả năng giao tiếp của kiến trúc

với nhiều tầng lớp nhân dân bằng việc dung nạp cả hình thức bác học lẫn bình dân;

sử dụng những motif của quá khứ để gợi lên trong trí nhớ quần chúng những mã

hiệu (code) quen thuộc và dễ hiểu, tạo ra công trình có dáng dấp truyền thống; đồng

thời mang cả hai loại mã (double coding) là “mã trí thức” và “mã bình dân”; hay

“mã hiện đại” và “mã truyền thống”.

 “Mã hiện đại” dựa trên kiến thức và tính tư tưởng của các kiến trúc sư;

 “Mã truyền thống” dựa trên mối quan hệ của mỗi con người bình thường

đối với các yếu tố kiến trúc thông thường.

Theo Charles Jencks, kiến trúc Hậu hiện đại phải được “mã hóa kép” để cho

13

cả hai loại người chuyên môn và không chuyên môn, hoặc giới trí thức và đông đảo

quần chúng đều tiếp thu. Mã của loại thứ nhất có thể ngầm hiểu thông qua những

hình học trừu tượng. Mã của loại thứ hai phải rõ ràng và rất thông thường, quen

thuộc, dễ hiểu. Trong nghệ thuật kiến trúc, diễn đạt rõ rệt cái ẩn dụ của một công

trình tức là bức tử nó. Một công trình càng gợi nên nhiều ẩn dụ thì càng có sức hấp

dẫn.

Như vậy, kiến trúc Hậu hiện đại tương phản với kiến trúc Hiện đại ở những

điểm sau:

- Lấy sự phức tạp và đầy mâu thuẫn để chống lại tính đơn giản hoá cao độ;

- Lấy tính nhập nhằng nước đôi và kịch tính căng thẳng để chống lại tính

cứng đờ;

- Lấy tính hai mặt để chống tính chuyên nhất;

- Lấy tính lai tạp chống tính thuần khiết;

- Lấy tính nhiều chiều để chống tính một chiều;

- Lấy sức sống lộn xộn chống lại cái đơn nhất nguyên khối;

BẢNG PL2.2: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC HẬU HIỆN ĐẠI LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC HẬU HIỆN ĐẠI

GIÁ TRỊ VHTT

Khai thác tính địa phương bằng cách vay mượn và trích dẫn

nguồn tài liệu từ quá khứ để trang trí bề mặt (mái đầu hồi truyền

1

thống, thức cột cổ điển Hy Lạp – La Mã, tái hiện màu sắc, tính

biểu tượng của kiến trúc…) với thủ pháp pha trộn hỗ lốn, vận dụng

ngược đời các chi tiết;

Tính biểu hình

2

Hình thức không hoàn toàn phụ thuộc vào chức năng;

3

Công trình và các trang trí theo tỷ lệ con người;

4

Khai thác tính đa nguyên, tính mỉa mai và nghịch lý, tính hài hước.

14

3 Kiến trúc Bản địa mới (Neo-Vernacular Architecture)

Thuật ngữ Bản địa mới được Charles Jencks sử dụng để đặt tên cho một xu

hướng kiến trúc của những năm 1970. Xu hướng này khởi nguồn từ giữa thế kỷ XX

ở Anh và Mỹ thông qua một số công trình của các kiến trúc sư Andrew Derbyshire,

Jeremy Dixon, Darbourne & Darke, Edward Larabee Barnes... Họ đã thiết kế các

ngôi nhà bằng gạch, ván lợp và mái dốc cùng một số chi tiết kiến trúc truyền thống.

Công trình tiêu biểu là Civic Offices tại Hillingdon, Uxbridge của Robert Matthew,

Johnson-Marshall & cộng sự. Công trình này vay mượn ngôn ngữ kiến trúc địa

phương nhưng vẫn tuân thủ nguyên tắc tổ chức mặt bằng theo chủ nghĩa công năng.

Jencks cho rằng, xu hướng Bản địa mới có khả năng tạo ra dấu hiệu cộng đồng tức

thì (instant community),mang hơi thở của chủ nghĩa thực dụng lãng mạn (romantic pragmatis) [76].

Cũng trong khoảng thời gian đó, ở châu Á xuất hiện một số kiến trúc sư có

cùng tư tưởng như trên, tuy nhiên mỗi người có cách thực hành khác nhau. Đại diện

là Geoffery Bawa (Sri Lankan), Tay Kheng Soon (Malaysia), Charles Correa (Ấn

Độ).

Phương châm của Geoffery Bawa (1919 – 1998) là sự đồng cảm với nơi chốn

và những tương tác trực tiếp đến địa điểm xây dựng. Ông cho rằng bối cảnh văn

hóa và quá khứ lịch sử là chất liệu cho thiết kế. Những tiềm năng cảnh quan thiên

nhiên luôn hiện diện trong các không gian kiến trúc, cả bên trong lẫn bên ngoài,

theo tiêu chí tôn trọng, nâng cao và ca tụng (respect, enhance and celabrate the

environment) [71]; và trên tất cả là sự thích thú. Công trình tiêu biểu là tòa nhà

Quốc hội Sri Lankan và viện đại học Uhunan. Những công trình này mang phong

cách địa phương cả trong tạo hình lẫn giải pháp thích ứng khí hậu – sinh thái.

Một trong những vấn đề chính của thiết kế trong vùng nhiệt đới là sự khám

phá ra ngôn ngữ của đường, biên, lưới và bóng râm chứ không phải là kiến trúc

của mặt, khối, đặc và rỗng [88]. Quan điểm của Tay Kheng Soon đề cao tính dung

hòa với điều kiện tự nhiên của kiến trúc bản địa; đồng thời cho rằng, truyền thống

phương Đông phong phú có thể là nguồn cảm hứng sáng tạo cho chủ nghĩa Hiện đại

15

mới qua việc tìm kiếm sự cân bằng động giữa một thực tế phức tạp và đầy mâu

thuẫn. Công trình tiêu biểu là Dairy Farm Condominium và Singapore Conference

Hall.

Theo Zhi Wen-Jun [91], kiến trúc Bản địa mới mang nhiều ý nghĩa liên quan

đến tự nhiên và văn hóa địa phương, đóng vai trò điều chỉnh những hạn chế của

kiến trúc Bản địa nhằm thoát khỏi sự trói buộc của kỹ thuật lạc hậu. Cần thiết lập sự

cân bằng giữa công nghệ xây dựng với một địa điểm cụ thể; thông thường, đó là

việc tạo ra các kỹ thuật địa phương mới bằng những phương pháp đơn giản (low

tech). Kiến trúc Bản địa mới hướng mục tiêu vào bối cảnh thiên nhiên và khai thác

kinh nghiệm tổ chức không gian để thích ứng với nó. Điểm đến cuối cùng là sự tổng

hòa 3 yếu tố: tự nhiên – vật liệu địa phương – công nghệ thấp.

Mei Zhao định nghĩa: kiến trúc Bản địa mới là những công trình được xây

dựng bởi sự sáng tạo của các kiến trúc sư dựa trên cơ sở chắt lọc các yếu tố của

kiến trúc bản địa truyền thống; mang đến những hình thức và chức năng hiện đại...

Nó không sao chép cấu trúc một cách cứng nhắc mà thể hiện bản chất nguồn gốc

của kiến trúc, lưu giữ những mỹ cảm truyền thống trong công trình hiện đại [83].

Kiến trúc Bản địa mới tiếp nối quan điểm của kiến trúc Hiện đại trên phương

diện kỹ thuật và tổ chức công năng; đồng thời kế thừa kiến trúc Bản địa (kiến trúc

dân gian) về các giải pháp mang tính địa phương (hình thức, vật liệu,…). Mục đích

của kiến trúc Bản địa mới là tạo ra các công trình phản ánh tinh thần truyền thống,

nhưng đáp ứng tiêu chí của thời đại qua phương thức thiết lập không gian và tận

dụng ưu thế của khoa học công nghệ.

16

BẢNG PL2.3: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC BẢN ĐỊA MỚI LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC BẢN ĐỊA MỚI

GIÁ TRỊ VHTT

Vật liệu: có nguồn gốc tự nhiên, khai thác tại chỗ và qua công

1

Tính dung hòa với tự nhiên

đoạn sơ chế thủ công.

Kỹ thuật: làm mới các kỹ thuật đã có bằng những giải pháp đơn

2

giản (low tech).

Tính biểu hình

Hình thức: tái lập kiến trúc truyền thống theo những phương cách

3

mới.

Tính tư hữu;

Tổ chức không gian: kế thừa quan điểm công năng của kiến trúc

Tính linh hoạt/đa năng;

4

Hiện đại, kết hợp với các không gian mang tính truyền thống.

Tính cộng đồng;

Truyền thống gia đình

4 Kiến trúc Sinh thái (Ecological Architecture)

Ngay từ đầu thế kỷ XX, các nghiên cứu của James Marston Fitch, Victor

Olgygay,... đã cho thấy sự quan tâm của kiến trúc trong thiết kế thích ứng với khí

hậu. Từ đó đến nay lần lượt xuất hiện nhiều khái niệm như: kiến trúc Sinh thái

(Ecological Architecture), kiến trúc Môi trường (Environmental Architecture), kiến

trúc Xanh (Green Building), kiến trúc Bền vững (Sustainable Architecture), Kiến

trúc Hiệu quả năng lượng (Enegy – Efficient Building). Kiến trúc thế giới đang

mạnh mẽ bước lên đỉnh cao của con sóng “quốc tế hóa kiến trúc bản địa và bản địa

hóa kiến trúc quốc tế” là kiến trúc bền vững – kiến trúc sinh thái [2].

D. Porto nhận định: kiến trúc theo nguyên tắc sinh thái là một hệ thống cân

bằng không sản sinh ra chất thải, vì đầu ra của quá trình này sẽ trở thành đầu vào

của quá trình khác [4].

Kiến trúc Sinh thái hướng tới sự chung sống thân thiện bằng thái độ ứng xử

thông minh và hiểu biết thiên nhiên, thông qua một số nguyên tắc như: cộng sinh

với môi trường tự nhiên; sử dụng các vật liệu tuần hoàn, tái sinh; tạo môi trường

bên trong lành mạnh, dễ chịu; hoà nhập với môi trường nhân văn của lịch sử và khu

17

vực; ứng dụng các kỹ thuật mới tiết kiệm năng lượng;

Ken Yeang quan điểm: phong cách kiến trúc, kỹ thuật thi công và vật liệu xây

dựng có thể thay đổi theo thời gian, nhưng yếu tố khí hậu cơ bản không đổi; cho

nên kiến trúc hiện đại phải phù hợp với điều kiện khí hậu và môi cảnh thiên nhiên

của khu vực. Ông lấy nguồn cảm hứng sáng tác từ nhà ở dân gian truyền thống,

nghiên cứu kết hợp giữa sinh thái học và kiến trúc, đưa ra lý thuyết và giải pháp

thiết kế nhà cao tầng vùng khí hậu nhiệt đới Đông Nam Á, đúc kết thành 6 thủ pháp

đặc trưng [87]: 1) vườn trên cao; 2) tấm che nắng bên ngoài (theo chiều dọc); 3)

tạo cảnh quan theo phương đứng (trồng thực vật trên bề mặt); 4) tầng trệt thông

gió tự nhiên; 5) mái nhà như mặt tiền thứ năm; 5) định vị các lõi kỹ thuật (che

nắng).

BẢNG PL2.4: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC SINH THÁI LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC SINH THÁI

GIÁ TRỊ VHTT

STT

Sử dụng năng lượng hiệu quả: đưa cây xanh vào công trình (trên

mái, tường, sân trong…), chọn hướng, thông gió tự nhiên, chống

1

nóng, che nắng và chống chói, chống mưa, chống hấp thụ nhiệt

qua kết cấu bao che, tạo bóng râm mát, tường 2 lớp, bin mặt trời;

Tính dung hòa với tự nhiên

Vật liệu: sử dụng vật liệu tự nhiên hoặc hiện đại (bê tông, thép,

2

kính cường lực…);

Kỹ thuật: kết hợp cả 2 loại kỹ thuật – công nghệ cao (Eco – tech)

3

Tính biểu hình

và kỹ thuật thấp (Low tech);

Tổ chức không gian: linh hoạt, thoáng mát, vệ sinh, thích nghi với

4

Tính linh hoạt/đa năng;

con người;

18

5 Kiến trúc Chuyển hóa luận (Metabolism)

Học thuyết Chuyển hóa luận ra đời những năm 1960 do Kisho Kurokawa khởi

xướng, sau đó phát triển thành xu hướng kiến trúc gây được nhiều ảnh hưởng tại

Nhật Bản và trên thế giới. Chuyển hóa luận đề cập đến sự vận động và chuyển hóa,

chủ trương kiến trúc phải dung chứa khả năng thay đổi để theo kịp với sự phát triển

không ngừng của xã hội. Theo đó, kiến trúc cần tạo ra những không gian có thể biến

đổi chức năng và giải pháp kết cấu linh hoạt, thay vì bị áp đặt và cố định. Các nhà

chủ thuyết cho rằng kiến trúc có thể đáp ứng những yêu cầu khác nhau trong mỗi

thời điểm một cách hoàn chỉnh. “Do chú ý đến tính linh hoạt của kiến trúc nên công

trình “xây xong” vẫn còn như dang dở, còn phải tiếp tục” [47, tr.86].

Học thuyết Chuyển hóa luận chia kiến trúc làm 2 thành phần:

1) Thành phần bất biến (cố định): gồm các giá trị tinh thần như biểu tượng,

nội hàm tôn giáo, sở thích thẩm mỹ…, là những yếu tố chỉ có thể cảm nhận được

bằng vốn sống và nhận thức văn hóa;

2) Thành phần khả biến (có thể thay đổi): là các yếu tố công năng, công

nghệ, vật liệu xây dựng…, có thể nhận biết bằng trực giác, cân đo, đong đếm được.

Trong thực hành, kiến trúc sư Chuyển hóa luận luôn tạo nên sự khác biệt rõ

ràng giữa phần cố định và phần có thể thay đổi trong mỗi công trình.

BẢNG PL2.5: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC CHUYỂN HÓA LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN

KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC CHUYỂN HÓA LUẬN

GIÁ TRỊ VHTT

Công trình chia làm 2 phần:

1. Phần bất biến (cố định): các lõi kỹ thuật;

2. Phần khả biến (thay đổi): không gian chức năng, vật

1

liệu, công nghệ…

Tính linh hoạt/đa năng

Công trình có bố cục phong phú, nhịp nhàng, biểu đạt được khả

năng “biến đổi và thích ứng” của một cơ chế sống động, giống cơ

thể của một sinh vật [47, tr95].

19

6 Kiến trúc Cộng sinh văn hóa (Cultural Symbiosis)

Khái niệm cộng sinh được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực sinh học. Có ít nhất

hai thực thể trong cùng một môi trường không gian và thời gian, giữa chúng có mối

quan hệ đem lại những lợi thế mà trước khi liên kết không có được. Hơn nữa, trong

quá trình liên kết, mỗi thực thể vẫn giữ bản sắc của mình. Khái niệm cộng sinh sau

đó được sử dụng rộng rãi trong văn hóa và kiến trúc.

Cộng sinh văn hóa là sự cộng sinh giữa các nền văn hóa khác nhau hoặc cộng

sinh giữa một số yếu tố của cùng một nền văn hóa. Cộng sinh văn hóa hiện diện

khắp nơi trong đời sống. Chẳng hạn, chủ nghĩa chiết trung trong kiến trúc: nhiều

yếu tố kiến trúc thuộc các phong cách khác nhau được những kiến trúc sư thiết kế

lựa chọn, sắp xếp hợp lý theo một quan điểm thẩm mỹ nhất định [10].

Từ nền tảng văn hóa truyền thống Nhật Bản và tư tưởng luân hồi của Phật

giáo, Kisho Kurokawa thực thi trong nghiên cứu và sáng tác kiến trúc của mình một

hệ thống triết học mang tên là Cộng sinh (Symbiosis). Đó là sự cộng sinh giữa kiến

trúc và thiên nhiên, cộng sinh giữa con người và kỹ thuật, cộng sinh giữa nội thất và

ngoại thất, cộng sinh giữa kiến trúc bản xứ và kiến trúc thuần túy, cộng sinh giữa

tượng trưng và ý nghĩa,… Ông xác lập quan điểm công trình kiến trúc phải là thực

thể chứa đựng sự cộng sinh giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây,

giữa quá khứ và hiện tại, giữa không gian bên trong và không gian bên ngoài... Vì

vậy, kiến trúc không nên được thiết kế rõ ràng về không gian mà phải tạo ra ở đấy

những yếu tố nhập nhằng (ambuguity) và tối nghĩa [47, tr.93].

Nghiên cứu trường hợp kiến trúc truyền thống Nhật Bản, Kurokawa cho rằng:

thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản thực chất là thẩm mỹ của sự cộng sinh, trong đó

thẩm mỹ của Wabi và của Sabi được tồn tại một cách cộng sinh cùng với những

quan niệm thẩm mỹ khác, thực thể và phi thực thể, sự đơn giản và sự xa hoa, bóng

tối và ánh sáng, logic và phi logic”. Từ đó ông đi đến nhận định: thẩm mỹ cộng

sinh với sự không rõ ràng về hình thức và hàm nghĩa phong phú là một nền thẩm

mỹ đòi hỏi sự nhạy cảm phức tạp, phong phú hơn một thẩm mĩ đơn nhất [36].

Kurokawa không chủ trương thuần túy công năng và thường suy nghĩ đến

“Engawa” hay là không gian tối nghĩa, không gian hư ảo. Đây là vùng quá độ cho

20

phép thực hiện sự cộng sinh.

Bằng lý luận và thực tiễn, Kisho Kurokawa cùng một số kiến trúc sư như

Kenzo Tange, Fumihiko Maki, Tadao Ando,... đã mang đến luồng gió mới cho nền

kiến trúc Nhật Bản, tạo ra những công trình hiện đại song vẫn chuyển tải được các

giá trị văn hóa truyền thống.

Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại là một biểu hiện cộng sinh trong

kiến trúc; ở đó, những giá trị hình thành bởi các mốc thời gian khác nhau có thể

dung hòa cùng tồn tại. Truyền thống đem đến các giá trị về lịch sử, tư tưởng, tâm

linh, thói quen mỹ cảm, kinh nghiệm tổ chức không gian,... Hiện đại đóng góp kỹ

thuật, vật liệu tiên tiến, quan điểm thẩm mỹ mới, không gian cho các nhu cầu mới.

BẢNG PL2.6: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC CỘNG SINH LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỘNG SINH TRONG KIẾN TRÚC

GIÁ TRỊ VHTT

1

Cộng sinh giữa kiến trúc và tự nhiên

- Tính dung hòa với tự nhiên

2

Cộng sinh giữa không gian bên trong và bên ngoài

- Tính linh hoạt/đa năng

3

Cộng sinh giữa hình thức kiến trúc hiện đại và truyền thống

- Tính biểu hình

4

Cộng sinh giữa lối sống hiện đại và truyền thống

- Tính cộng đồng - Tính tư hữu - Truyền thống gia đình

7 Học thuyết Nơi chốn (Genius Loci/Sense of Place)

“Nơi chốn” là khái niệm chỉ về không gian vật chất gắn liền với địa điểm cụ

thể, nơi mà các hiện tượng của thế giới diễn ra, từ những hoạt động nhỏ nhặt thường

ngày cho đến tiến trình lịch sử của một quốc gia. Theo Canter (1977) “nơi chốn” là

một khái niệm mang các ý nghĩa địa lý, kiến trúc và xã hội; là tổng hợp của mối

quan hệ giữa các hoạt động của con người (activities), các thuộc tính thực thể

(physical properties) của một địa điểm và các ý niệm (thoughts) về nơi đó. Nói cách

khác, “nơi chốn” chỉ một bối cảnh được mường tượng ra, trong đó có các sự kiện,

21

các đối tượng và các hoạt động [38]. Như vậy, “nơi chốn” khác với khái niệm “địa

điểm” thông thường do ý nghĩa địa lý của nó liên hệ chặt chẽ với không gian thực

thể và không gian xã hội (cả lịch sử và hiện tại) và được phản ảnh qua tư duy của

con người.

Yếu tố vật lý của nơi chốn gồm môi trường tự nhiên và nhân tạo; đó là một

tổng thể vật chất, vật liệu, hình dạng, kết cấu, màu sắc, và không gian. Có thể nói,

nơi chốn quan trọng hơn những công trình kiến trúc riêng biệt. Ngoài ra, nơi chốn

biểu trưng cho sự kết hợp mối quan hệ xã hội; chứa các sự kiện, thông qua đó,

những kinh nghiệm chung quan trọng và cần thiết được tạo ra giữa những con người

với nhau. Cấu trúc của nơi chốn không phải là một điều kiện cố định và vĩnh cửu

mà thường thay đổi. Nơi chốn luôn được xác định và định nghĩa lại do sự phát triển

liên tục trong suốt quá trình lịch sử. Vì vậy, nó cần phải có khả năng tiếp nhận “các

nội dung khác nhau” theo một qui định nào đó [84].

Ý nghĩa của “nơi chốn” giúp phân biệt, nhận biết sự khác nhau giữa các địa

điểm. Những đặc điểm thực thể hoặc văn hóa được tích lũy và hình thành theo thời

gian, gợi nên những ký ức, tình cảm của con người về nơi đó. Nó cũng là phẩm chất

quyết định bản sắc của địa điểm. Về cơ bản, cảm nhận “ý nghĩa của một nơi chốn”

tức là một người - với tất cả các giác quan của mình - có thể định hướng bản thân

trong môi trường không gian tại nơi chốn đó. Trong kiến trúc, ý nghĩa “nơi chốn”

được hiểu đầy đủ hơn khi phân lập hai yếu tố không gian (space) và tính cách

(character). Không gian là cấu trúc ba chiều cấu thành “nơi chốn”, còn tính cách là

bầu không khí mà không gian ấy biểu thị.

Tóm lại, “nơi chốn” thể hiện bởi 3 yếu tố đặc trưng:

- Yếu tố thực thể (vật lý): tự nhiên và nhân tạo;

- Yếu tố xã hội: hoạt động của con người trong quá trình hình thành & phát

triển;

- Yếu tố tinh thần: cảm nhận, cảm xúc, ký ức, kỷ niệm.

Đây cũng là 3 yếu tố cộng sinh [46] trong kiến trúc. Thông qua trực giác về

thẩm mỹ và không gian, con người có thể nhận thức được giá trị văn hóa, xã hội và

tinh thần mà công trình thể hiện. Khai thác “nơi chốn” trong kiến trúc cũng bao hàm

22

khai thác giá trị truyền thống - những tinh hoa được lưu giữ từ quá khứ, gồm văn

hóa ứng xử với điều kiện tự nhiên và xã hội tại những địa điểm cụ thể. Kiến trúc

nhà ở với khả năng chuyển tải giá trị vật chất và tinh thần có thể xem là đối tượng

tạo lập “nơi chốn”.

BẢNG PL2.7: QUAN ĐIỂM CỦA HỌC THUYẾT NƠI CHỐN LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM “NƠI CHỐN” TRONG KIẾN TRÚC

GIÁ TRỊ VHTT

Yếu tố thực thể (hình thức & không gian): gắn liền với điều

1

kiện tự nhiên, vật liệu, hình dạng, kết cấu, màu sắc…

- Tính dung hòa với tự nhiên - Tính linh hoạt/đa năng

2

Yếu tố xã hội: hoạt động của con người

- Tính cộng đồng - Tính tư hữu - Truyền thống gia đình

3

Yếu tố tinh thần: cảm nhận, cảm xúc, ký ức, kỷ niệm

- Tính biểu hình

8 Hiện tượng học kiến trúc (Phenomenology of Architecture)

Hiện tượng học kiến trúc là cách tiếp cận lý thuyết Hiện tượng học để nghiên

cứu mối quan hệ giữa con người với môi trường trong lĩnh vực kiến trúc, còn được

gọi là Hiện tượng học địa điểm, Hiện tượng học môi cảnh cư trú.

Edmund Husseri là người sáng lập khoa học Hiện tượng học, xuất phát từ việc

nghiên cứu về sự tồn tại và ý nghĩa tồn tại của con người, về mối quan hệ cơ bản

giữa con người với không gian xung quanh. Tiếp theo Martin Heidegger đi sâu

thêm trong việc khảo sát “ thuộc tính” và “chân lý” sự tồn tại của con người, cũng

như mối quan hệ giữa ba yếu tố: thế giới – sự cư trú – kiến trúc, từ đó đề xuất

những tư tưởng chủ đạo cho môn triết học Hiện tượng học.

Hiện Tượng Học lấy kinh nghiệm trực giác của các hiện tượng (những gì thể

hiện chính nó cho chúng ta thấy trong nhận thức) như điểm khởi đầu và thử rút ra

những đặc trưng của các kinh nghiệm và bản chất những gì đã trải qua.

23

Theo Juhani Pallasmaa 111, kiến trúc mang thuộc tính đa cảm xúc (multi-

emotional) và các yếu tố của nó (vật liệu, không gian, tỷ lệ,…) đều có thể được đo

lường bởi các giác quan; cho nên việc đánh giá và cảm nhận kiến trúc không chỉ là

vấn đề của vật thể mà còn bao gồm các khía cạnh văn hóa và xã hội. Ông phê phán

lối tư duy rập khuôn theo những tiêu chuẩn cực đoan của phương Tây và tin tưởng

rằng chính nó đã dẫn đến sự hiểu biết không đầy đủ về môi trường. Pallasmaa nhìn

nhận Alto là một kiến trúc sư mà thay vì đưa ra những khái niệm và hình thức dựa

trên sự thuần khiết (Pureness), đã cố gắng tìm kiếm sự thỏa hiệp giữa thiên nhiên,

văn hóa, lịch sử và hiện đại, xã hội và cá nhân, truyền thống và đổi mới, tiêu chuẩn

hóa và đa dạng, tính khu vực và toàn cầu; đồng thời kêu gọi sự nổ lực để cung cấp

một kiến trúc nhân đạo (a humane architecture), sử dụng công nghệ để đáp ứng tâm

lý và nhu cầu vật chất của con người (như trong công trình Villa Mairea – Alvar

Alto). Ngoài ra, Pallasmaa còn dẫn chứng công trình của Tadao Ando (Koshino

house) được thiết kế dựa trên tư tưởng Thiền tông (Zen) và Thần đạo (Shinto) của

Nhật Bản để cho rằng các luận giải của mình là gần với Hiện tượng học của

Heidegger [85].

Hiện tượng học kiến trúc được nhiều nhà lý luận đúc kết thành 4 nội dung cơ

bản sau [23]:

1) Chất lượng và thuộc tính của môi trường kiến trúc:

- Chất lượng của môi trường kiến trúc được tạo ra bởi sự liên hệ và

tương tác giữa hai yếu tố tự nhiên và nhân tạo; nhiệm vụ của sáng tạo kiến trúc là

xây dựng, duy trì và phát triển môi trường tự nhiên và nhân tạo một cách tích cực.

- Môi trường kiến trúc mang thuộc tính là có trật tự, tính thông tin và

bao hàm một nội dung nhất định.

2) Sự trải nghiệm và ý nghĩa của môi trường kiến trúc: bao gồm

- Thể nghiệm và cảm thụ ý nghĩa của môi trường kiến trúc thông qua

cảm nhận trực giác từ các yếu tố: thực thể, không gian, bình diện, tỷ lệ, tỷ xích, màu

111 Juhani Pallasmaa là một trong những nhà lý thuyết có ảnh hưởng nhất trong phát triển hiện tượng trong kiến trúc.

sắc, chất cảm, nhịp điệu, ánh sáng và âm thanh.

24

- Lý giải và đánh giá môi cảnh kiến trúc đó bằng tâm lý và hành vi: con

người trong môi cảnh kiến trúc luôn luôn có nhu cầu “định vị” bản thân.

3) Thước đo văn hóa xã hội của môi trường kiến trúc: ghi nhận, hấp thu,

chỉnh lý, giải thích những thông tin chứa đựng trong kiến trúc.

4) Mối liên hệ giữa 3 yếu tố: địa điểm - kiến trúc - con người: nắm rõ ý nghĩa

bản chất của địa điểm, của nơi chốn.

Cùng hướng nghiên cứu trên, nhưng theo Chiristian Norberg Schulz thì nội

dung cơ bản của Hiện tượng học kiến trúc giản lược thành 3 yếu tố: môi cảnh tự

nhiên + môi cảnh nhân tạo + địa điểm (nơi chốn).

1) Môi cảnh tự nhiên: không hoàn toàn là một cấu trúc đồng nhất đặc định,

nó có bản sắc (Identity) khác nhau do bầu không khí khác nhau;

2) Môi trường nhân tạo: gồm 2 nội dung là cấu trúc vật chất và ý nghĩa của

nó. Nhiệm vụ chủ yếu của môi trường nhân tạo là cụ thể hóa các hiện tượng tự

nhiên và xây dựng quan hệ tích cực với nó;

3) Nơi chốn: là sự kết hợp hài hòa và có ý thức giữa môi cảnh nhân tạo và

môi cảnh tự nhiên; cộng thêm tọa độ, phương vị của khu vực.

Như vậy, Hiện tượng học kiến trúc đặt vấn đề nghiên cứu chính vào việc thiết

lập các giá trị vật thể (vật lý) của kiến trúc trong mối quan hệ hài hòa với môi cảnh

tự nhiên; giữa chúng luôn tương tác và không thể tách rời nhau để cùng tiến tới

những mục tiêu tích cực. Hơn nữa, giá trị vật thể không chỉ là lớp vỏ bên ngoài đơn

thuần ngăn cách giữa không gian tự nhiên và nhân tạo, mà còn hàm chứa các nội

dung cuộc sống và đầy ý nghĩa. Bằng sự trải nghiệm của giác quan, tâm lý, cảm

xúc, ký ức… con người có thể lý giải và đánh giá giá trị văn hóa & xã hội, tinh thần

& thẩm mỹ của kiến trúc trên nền bối cảnh (nơi chốn) mà nó được xây dựng.

25

BẢNG PL2.8: QUAN ĐIỂM CỦA HIỆN TƯỢNG HỌC KIẾN TRÚC LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM HIỆN TƯỢNG HỌC KIẾN TRÚC

GIÁ TRỊ VHTT

Chất lượng của môi trường kiến trúc: xây dựng, duy trì và

1

phát triển môi trường tự nhiên và nhân tạo một cách tích cực.

- Tính dung hòa với tự nhiên - Tính linh hoạt/đa năng

Thể nghiệm và cảm thụ ý nghĩa của môi trường kiến trúc:

2

- Tính biểu hình

thông qua cảm nhận trực giác.

3

Thước đo văn hóa xã hội của môi trường kiến trúc

- Tính cộng đồng - Tính tư hữu - Truyền thống gia đình

4

Ý nghĩa của nơi chốn: vật thể - xã hội – tinh thần

- Gồm 6 giá trị trên

9 Ký hiệu học kiến trúc (Semiology of Architecture)

Ký hiệu học là khoa học đề cập tới việc thực hiện và phân tích các dấu hiệu,

biểu tượng trong tất cả các lĩnh vực như: lời nói và văn bản, các hình thức ngôn

ngữ và phi ngôn ngữ (sinh lý và sinh học, ngữ nghĩa, hệ thống giá trị, tất cả các

dạng chuyển động, tâm trạng, ý thức hoặc vô thức) [84].

Trong tác phẩm The Language of Post - modern Architecture (Ngôn ngữ kiến

trúc Hậu hiện đại - 1977), Charles Jencks lần đầu tiên đề cập cách tiếp cận ký hiệu

học trong kiến trúc dựa trên nền tảng lý thuyết của Ferdinand De Saussure (1857–

1913). Xuất phát từ ý tưởng xem mọi thứ do con người tạo ra đều liên quan đến quá

trình dấu hiệu hóa, cho nên nếu muốn hiểu những gì mà họ đang đối mặt thì phải

nắm bắt được quá trình dấu hiệu hóa của nó [73]. Kiến trúc cũng không nằm ngoài

đối tượng nghiên cứu của ký hiệu học.

Jencks cho rằng ngôn ngữ là hình thức ký hiệu kiểu mẫu (the paradigmatic

sign system): ngôn ngữ thống trị tất cả các hình thức ký hiệu, vì vậy kiến trúc có thể

được hiểu trong sự tương đồng trực tiếp với ngôn ngữ; nó tái lập thuật ngữ ký hiệu

học bằng các mã hình ảnh (visual codes). Sự khác biệt trong ngôn ngữ cũng giống

như sự khác biệt các mã kiến trúc (architectural codes), gọi là nhóm ký hiệu học

(semiotic groups), tạo thành từ pha trộn hỗn độn, phức tạp của các đặc tính dân tộc,

26

tuổi tác, lịch sử, địa phương,... Và mỗi nhóm ký hiệu thì có ngôn ngữ kiến trúc

riêng. Ông khẳng định: bằng phương pháp phân tích các thành phần kiến trúc có thể

nhận diện những giá trị văn hóa và tính cách riêng biệt của nó. Đó cũng là quá trình

giải mã nội dung hàm nghĩa ẩn sau những biểu hiện hình thức của một ngôn ngữ

kiến trúc.

Về cơ bản, ngôn ngữ được tạo lập từ 2 thành phần: cái biểu đạt (signifier) và

cái được biểu đạt (signified). Cũng vậy, một biểu hiện kiến trúc thường chuyển tải

một ý nghĩa nhất định. Với quan niệm này, kiến trúc nên được xem xét bởi sự hợp

thành của các nhóm ký hiệu khác nhau (mã kép – double codes, đa mã – multi

codes), gắn liền với ý nghĩa và sự giải mã.

Mỗi công trình như là một phần của nền văn hóa kiến trúc, chứa đựng những

giá trị tinh thần thông qua các hình thức biểu hiện. Con người sống trong không

gian và liên tục tương tác, làm thay đổi thành phần của nó với những dấu hiệu mang

ý nghĩa riêng và có thể nhận biết từ bên ngoài. Hình thức kiến trúc không đơn thuần

được tạo thành từ những tác động vật lý. Đó là kết quả của một loạt các yếu tố văn

hóa – xã hội trên qui mô lớn, thể hiện mong muốn của con người thông qua thẩm

mỹ và không gian cũng như những liên hệ của chúng với một khu vực địa lý nhất

định.

Tiếp cận ký hiệu học trong kiến trúc, Mojtaba Pasaee đề xuất 2 mô hình

nghiên cứu như sau [84]:

 Mô hình tổng quát:

Hình PL2: Mô hình tổng quát về ký hiệu học trong kiến trúc

27

 Mô hình chi tiết:

Hình PL 2.3: Mô hình chi tiết về ký hiệu học trong kiến trúc

Dựa trên phương pháp này, khái niệm về không gian và địa điểm có thể được

phân tích và đối chiếu một cách rõ ràng trong các hệ thống kiến trúc khác nhau.

Hơn nữa, nó có thể sử dụng để đạt được các khái niệm về bản sắc và ý nghĩa của

nơi chốn.

BẢNG PL2.9: QUAN ĐIỂM CỦA KÝ HIỆU HỌC KIẾN TRÚC LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

QUAN ĐIỂM KÝ HIỆU HỌC HỌC KIẾN TRÚC

GIÁ TRỊ VHTT

1

Cái biểu đạt (signifier): hình ảnh

- Tính biểu hình

2

Cái được biểu đạt (signified): các tham số văn hóa – xã hội

- Tính dung hòa với tự nhiên - Tính linh hoạt/đa năng - Tính cộng đồng - Tính tư hữu - Truyền thống gia đình

28

10 Kiến trúc High-tech (High-tech Architecture)

Kiến trúc High-tech ra đời vào những năm 70 của thế kỷ XX cùng với sự phát

triển nhanh chóng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tạo ra xu hướng kiến trúc

mới của thế giới, được nhận diện thông qua công trình của các kiến trúc sư tiêu biểu

như: Richard Rogers, Renzo Piano, Norman Foster, Nicholas Grimshaw, Michael

Hopkins …

Kiến trúc High-tech lấy mỹ học cơ khí và mỹ học cấu trúc làm nền tảng lý

luận, có xu hướng cực đoan hóa kỹ thuật, chú trọng sử dụng vật liệu công nghệ cao

như thép và kính; công năng và hình khối được tổ chức một cách linh hoạt. Kiến

trúc High Tech thường sử dụng thủ pháp cách điệu chi tiết máy móc với khả năng

thi công nhanh, tiết kiệm thời gian xây dựng, tiện lợi trong tháo lắp cấu kiện. Nhìn

chung, kiến trúc High-tech là sản phẩm của giai đoạn công nghệ cao, ca ngợi tính

ưu việt của kết cấu và các loại vật liệu cao cấp, chống lại tính hàn lâm cổ điển, đề

cao công năng, loại trừ trang trí [3,tr260]. Kiến trúc High-tech phản ánh quan điểm

sáng tạo cá nhân dựa trên các điều kiện lịch sử nhằm tạo ra công trình độc quyền,

chuyển tải “tinh thần thời đại”, đặt mục tiêu vào chức năng và tính hiệu quả.

Bên cạnh đó, những sắc thái văn hóa địa phương vẫn có tác dụng tích cực

đến sự tăng cường diện mạo phong phú của kiến trúc High-tech, cho phép khắc

phục cái mà chủ nghĩa duy lý của Mies Van Der Rohe hay Phong cách Quốc tế đã

thiếu sót [47,tr67].

Tóm lược một số quan điểm chủ yếu của kiến trúc High-tech112:

- Chức năng và biểu tượng: cấu trúc được hiển thị ra bên ngoài thể hiện

niềm tin mới vào sức mạnh của công nghệ để cải thiện thế giới.

- Tôn vinh công nghệ: đặc điểm chung của kiến trúc High-tech là phô bày vẻ

đẹp hệ khung kết cấu thép, kết hợp sử dụng hiệu ứng ánh sáng và bóng râm. Ngoài

ra, xu hướng này còn có thể chia thành 2 nhóm giải pháp tạo hình khác nhau: 1) phô

112 Colin Davies (1988), High Tech Architecture,

Http://www.crowstep.co.uk/Resources/HighTechArchitecture.pdf;

bày hệ thống kỹ thuật (Richard Rogers). Toàn bộ cấu trúc và các đường ống được

29

phơi bày cứ như “lộn mặt trái” của không gian kiến trúc và đưa hết những gì trước

kia phải che dấu ra bên ngoài… Công trình thể hiện sự chính xác, trung thực, gạn

lọc của vật liệu và cấu trúc, không có bộ phận nào thừa và không dùng đến

[3,tr258-259]; 2) sử dụng tường kính và khung thép nhẵn bóng để che phủ mặt

ngoài (Norman Foster);

- Các dạng hình học: tòa nhà như một cỗ máy công nghệ bọc kim loại và

kính được xếp đặt một cách trật tự, trang trí mang đậm nét đồ họa; do đó các yếu tố

kỹ thuật trở thành đối tượng chính tạo thành thẩm mỹ tòa nhà.

- Sản xuất hàng loạt: cấu kiện của công trình được sản xuất hàng loạt tại nhà

máy, tuy nhiên từng công trình của kiến trúc High-tech thì không giống nhau.

- Không gian và tính linh hoạt: tòa nhà thường tuân theo nguyên tắc không

gian mở để linh hoạt thay đổi hoặc bổ sung chức năng; hơn nữa, tường ngoài, mái

và khung cấu trúc cũng có thể tháo dỡ. Vì vậy, trên phương diện lý thuyết, hình

thức của tòa nhà Hi-tech có thể linh hoạt thay đổi theo sự biến động công năng, biểu

hiện sự chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện (Trung tâm Pompidou – Pháp, tòa tháp Lloyd

– Anh).

- Tiết kiệm năng lượng: sử dụng công nghệ cao để giảm thiểu tiêu thụ năng

lượng, làm cho tòa nhà thêm sinh thái và thân thiện với môi trường.

- Sắc thái địa phương: cũng từ những vật liệu siêu cao cấp nhưng ở mỗi

hoàn cảnh địa phương cụ thể lại có những cách biểu hiện độc đáo khác nhau tùy

theo sở trường của từng tác giả [3,tr261]. Ví dụ: từ thiên nhiên và văn hóa bản địa

của thổ dân New Caledonia, Renzo Piano nghiên cứu mô hình nhà lều Kanak và

đưa vào ý tưởng thiết kế Trung tâm văn hoá Jean Marie Tjibaou - New Caledonia

(xây dựng năm 1992-1998), là sự kết hợp sử dụng vật liệu công nghệ cao và vật liệu

trang trí địa phương. Đối với phòng biểu diễn nhạc thính phòng (Auditorium - Parco

della Musica) ở Roma (xây dựng năm 2002), Renzo Piano thiết kế các nhà hát ngoài

trời theo kiểu truyền thống La Mã. Các phòng hòa nhạc sử dụng vật liệu vỏ mỏng,

mô phỏng kiến trúc gỗ truyền thống nước Ý.

30

BẢNG PL2.10: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC HI-TECH LIÊN QUAN ĐẾN KHAI THÁC

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC HI-TECH

GIÁ TRỊ VHTT

Tiết kiệm năng lượng: sử dụng công nghệ cao để giảm thiểu tiêu

1

thụ năng lượng, làm cho tòa nhà thêm sinh thái và thân thiện với

Tính dung hòa với tự nhiên

môi trường.

Tổ chức không gian: cấu trúc mở để linh hoạt thay đổi chức năng;

2

Hình thức: tháo ráp, có thể thay đổi.

Tính linh hoạt/đa năng

Cấu kiện của công trình được sản xuất hàng loạt tại nhà máy.

Tính đơn nhất: kiến trúc High-tech phản ánh quan điểm sáng tạo

3

cá nhân nhằm tạo ra công trình độc quyền, chuyển tải “tinh thần

Tính tư hữu

thời đại”.

Sắc thái địa phương: tùy theo hoàn cảnh địa phương cụ thể sẽ có

4

những cách biểu hiện độc đáo khác nhau tùy theo sở trường của

Tính biểu hình

từng tác giả.

11 Kiến trúc giải tỏa kết cấu (Deconstruction Architecture)113

Kiến trúc giải tỏa kết cấu là một trào lưu kiến trúc mới phát triển sau thời

kỳ kiến trúc Hậu hiện đại, chính thức ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Với

ý tưởng cho rằng Kiến trúc giải tỏa kết cấu là những cấu trúc không chặt chẽ, nên sự

bền vững không thuộc về bản thể của nó, và như thế có thể hiểu là một thứ kiến trúc

với những hình thể "phi kết cấu". Theo Mark Wigley, đây là kiến trúc của sự rối

loạn, lộn xộn, chệch hướng, sự méo mó chứ không phải là kiến trúc của sự phá vỡ,

sự mục nát, phân ly và tan rã. Nó đổi chỗ, định vị lại cấu trúc chứ không phải là

phá huỷ cấu trúc. Bằng quan điểm đó, ông cho rằng kiến trúc sẽ mạnh mẽ và tồn tại

lâu hơn do người ta không thể bỏ đi cấu trúc lộn xộn, không rõ ràng này được; và vì

nó là những thành phần của một thực thể "cộng sinh" thống nhất.

Theo Trần Trọng Chi, Kiến trúc giải tỏa kết cấu muốn tìm đến một thứ kiến

trúc mềm dẻo hơn, có thể thay đổi được, những hình khối nhỏ nhẹ, mảnh mai đặt

113 Tóm lược từ: Http://www.saylor.org/site/wp-content/uploads/2011/05/Deconstructivism.pdf.

bên cạnh những hình khối quá khổ và quái dị để tạo ra tình trạng dễ sụp đổ, không

31

ổn định nhằm chống lại những nguyên tắc nghiêm nghị, cứng nhắc và nhằm xóa bỏ

giấc mộng đạt tới hình thức thuần túy của Chủ nghĩa kiến trúc hiện đại [3,tr262].

Kiến trúc giải tỏa kết cấu vận dụng mọi phương tiện nhằm làm đảo lộn nhận

thức bình thường, dùng trí tưởng tượng để tạo ra bố cục mới, đặt trọng tâm vào việc

điều chỉnh sự sai lệch các bề mặt, tạo ra “sự hỗn loạn có kiểm soát”. Tiêu biểu của

xu hướng này là sự mất cân đối, có vẻ lộn xộn, gây nên cảm giác không ổn định

nhưng cũng đem lại nhiều sự thích thú mới lạ. Kiến trúc giải tỏa kết cấu thông qua

tính rối ren của hình học để bổ sung cho kiến trúc Hiện đại như một quá trình tự tìm

kiếm bản thân. Nỗ lực của Kiến trúc giải tỏa kết cấu nhằm tách rời kiến trúc ra xa

các quy tắc của Chủ nghĩa hiện đại như: “hình thức đi sau công năng”, “hình thức

tinh khiết” hay “sự chân thật của vật liệu”. Xu hướng này cũng tạo ra sự đối lập

với nhiều xu hướng khác (tiêu biểu là xu hướng Hậu hiện đại) do quan điểm chối bỏ

tính kế thừa các giá trị văn hóa lịch sử và hình thức trang trí thuần túy. Kiến trúc

giải tỏa kết cấu chấp nhận sự tồn tại chung của những mặt đối lập mà không tìm

cách hòa hợp chúng; vì vậy kiến trúc được xem như mảnh vụn của những yếu tố cơ

bản bị phá bỏ.

Kiến trúc giải tỏa kết cấu nhấn mạnh tính đồng thời và sự rắc rối trong không

gian cũng như hình thức, chú trọng yếu tố thời gian trong bố cục không gian. Phi

đối xứng bất định luôn hiện diện, hình thức mang tính động hơn là tĩnh. Quan điểm

về sự lặp lại và biến đổi được thể hiện trong các giải thích cho việc hình thành hình

khối và giải quyết các chức năng. Hình khối với chức năng tương ứng được tách rời

nhau, sau đó ráp lại một cách ngẫu nhiên nhằm gia tăng khả năng giao tiếp giữa

những nhóm người khác nhau trong các khu chức năng không giống nhau.

Điểm tương đồng giữa Kiến trúc giải tỏa kết cấu và Kiến trúc Hi-tech là dựa

vào thành tựu công nghệ kỹ thuật để tìm tòi nguyên tắc tạo hình, tái thẩm định các

giá trị kiến trúc hiện đại trong sự xem xét các vấn đề và tìm cách lý giải theo lối

khác. Hình thức kiến trúc được thể hiện ở những đặc tính dở dang, đảo ngược, tạo

trạng thái nước đôi, nhập nhằng, các trạng thái chuyển động, không ổn định, dễ sụp

đổ, sự hoàn hảo bị xáo trộn; gợi nhắc đến xu hướng lập thể và chủ nghĩa biểu hiện

trừu tượng. Đặc tính đó được cô đọng trong khẩu hiệu của Bernard Tschumi: “hình

32

thức sinh ra từ trí tưởng tượng”.

Cũng vì quan điểm khác biệt nêu trên nên Kiến trúc giải tỏa kết cấu luôn tạo ra

những công trình có tính đơn nhất và là con đẻ của một xã hội có nền kinh tế phát

triển cao…thường chỉ để phục vụ cho những ông chủ “chịu chơi” hơn là thứ kiến

trúc dành cho những con người bình thường [3,tr266].

BẢNG PL2.11: QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC GIẢI TỎA KẾT CẤU LIÊN QUAN ĐẾN

KHAI THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

STT

QUAN ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC GIẢI TỎA KẾT CẤU

GIÁ TRỊ VHTT

Tổ chức không gian: cấu trúc mở để linh hoạt thay đổi chức năng;

1

Tính linh hoạt/đa năng

Hình thức: mang tính động hơn là tĩnh

Tính đơn nhất: kiến trúc phản ánh quan điểm sáng tạo cá nhân

2

Tính tư hữu

nhằm tạo ra công trình độc quyền, chuyển tải “tinh thần thời đại”.

KẾT LUẬN

Tổng hợp quan điểm của các học thuyết kiến trúc thế giới trong việc khai thác

giá trị truyền thống và bản địa cho thấy: tuy cách diễn đạt của từng học thuyết có

khác nhau nhưng tựu chung có thể nhận diện và suy luận thành 9 nội dung chính,

xoay quanh 5 vấn đề: 1) kiến trúc phù hợp và thích ứng với điều kiện tự nhiên; 2)

phát triển tính linh hoạt của không gian và hình thức (phá vỡ nguyên tắc cứng nhắc

mà chủ nghĩa Hiện đại đã đặt định); 3) khai thác biểu hiện của các yếu tố hình thức

và trang trí truyền thống nhằm khơi gợi những cảm xúc/kí ức thẩm mỹ quen thuộc;

4) kiến trúc phải tham chiếu khía cạnh văn hóa và hoạt động xã hội tại địa điểm mà

nó được xây dựng; 5) kiến trúc cần thỏa mãn nhu cầu cá nhân (nhu cầu xã hội)

trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

Nhìn chung, những nội dung trên có sự thống nhất cơ bản với các giá trị

VHTT trong kiến trúc nhà ở đô thị Việt Nam. Diễn giải mối quan hệ này sẽ làm rõ

học thuyết kiến trúc nào tiếp cận gần nhất với mục tiêu khai thác VHTT mà luận án

đặt ra. Đó cũng còn là cách để kiểm chứng và củng cố lại các giá trị đã được chọn lọc ở mục 2.1.3, đồng thời định hướng cho các bước sẽ triển khai ở chương III.

33

PHỤ LỤC 3

CHỨC NĂNG CỦA NHÀ Ở VÀ CÁC NHÓM KHÔNG GIAN CÔNG NĂNG

1. Chức năng của kiến trúc nhà ở

Nhà ở được xây dựng để đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người trong tổng thể

môi trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, việc chọn lọc và phân định chức năng của

ngôi nhà cũng có những quan điểm khác nhau tùy theo góc độ nghiên cứu của các

tác giả. Trần Văn Khải xác định môi trường ở (bên trong và bên ngoài ngôi nhà)

phải thỏa mãn 3 chức năng: 1) nghỉ ngơi; 2) giải trí; 3) làm việc [30, tr.4]].

Trong khi đó, Nguyễn Đức Thiềm [57, tr.71] nêu 5 yêu cầu chức năng mà

ngôi nhà cần đáp ứng:

1) Bảo vệ và phát triển thành viên: nhà ở phải bảo vệ các thành viên gia đình

tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực của môi trường tự nhiên và xã hội;

2) Tái phục sức lao động: con người cần các không gian sinh hoạt để tái sản

xuất sức lao động xã hội, gồm:

- Ăn uống: bếp, phòng ăn...;

- Nghỉ ngơi: phòng ngủ yên tĩnh, kín đáo... và nơi nghỉ ngơi, hoạt động

riêng tư;

- Vệ sinh cá nhân: tắm rửa, xí tiểu;

- Hoàn thiện tri thức (nghiên cứu học tập và tổng kết kinh nghiệm), lành

mạnh hóa thể chất, tình cảm và tinh thần (thể dục và hưởng thụ, giao tiếp

với thiên nhiên, giải trí thư giãn...).

3) Giáo dục xã hội ban đầu: phòng khách, phòng sinh hoạt gia đình, không

gian giao tiếp xã hội (cổng, ngõ, hiên...), không gian dành cho trẻ em (sân

vườn, góc riêng cho trẻ…).

4) Thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tình cảm: không gian sinh hoạt tâm linh (thờ

cúng, tưởng niệm, cầu nguyện), không gian tiếp cận với thiên nhiên (sân

vườn, hồ cảnh, giếng trời…), không gian yên tĩnh...;

34

5) Kinh tế: không gian mua bán, sản xuất nhỏ...

Gần tương đồng với quan điểm của Nguyễn Đức Thiềm, nhóm tác giả trường

Đại học Xây dựng Hà Nội [32, tr.82] cũng xác định 5 chức năng của nhà ở, gồm: 1)

nghỉ ngơi tái tạo sức lao động; 2) thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý; 3) giao tiếp xã

hội; 4) giáo dục con cái; 5) kinh tế.

Như vậy, qua 3 dẫn chứng trên đây cho thấy các tác giả đã định nghĩa khá rõ

chức năng của nhà ở. Tuy nhiên, để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu, luận án tổng

hợp và xác định lại 5 chức năng của nhà ở đô thị Việt Nam hiện nay như sau

[bảng PL3.1]:

BẢNG PL3.1: CÁC QUAN ĐIỂM CHỨC NĂNG CỦA NHÀ Ở

Trong phần tổng hợp của luận án có 2 khái niệm nghỉ ngơi, gồm:

- Nghỉ ngơi thụ động: các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lý cơ bản

để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, ngủ, vệ sinh…;

- Nghỉ ngơi năng động: các hoạt động nhằm hướng đến sự phát triển thể

chất (vận động thể thao, nghỉ dưỡng tự do) và tinh thần của con người (hoạt động

sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, hoạt động giải trí, hoạt động làm đẹp, hoạt

động tâm linh);

Việc diễn đạt lại các chức năng như trên là để tương ứng với không gian công

năng của nhà ở, đồng thời tham chiếu theo theo lý thuyết Tháp nhu cầu của

35

Maslow (xem mục 2.2.1), tức là sự gia tăng mức độ tiện nghi từ cấp cơ bản cho đến

phát triển.

2. Các nhóm không gian công năng trong kiến trúc nhà ở đô thị

Hiện nay có nhiều tác giả nghiên cứu công năng trong kiến trúc nhà ở như:

- Đặng Thái Hoàng, kiến trúc nhà ở, NXB Xây dựng, 2002;

- Trần Văn Khải, Thiết kế và tổ chức không gian môi trường ở, Trường Đại

học Kiến trúc Tp HCM, Lưu hành nội bộ, 2005;

- Nguyễn Đức Thiềm, Kiến trúc nhà ở, NXB Xây dựng, 2006;

- Trần Xuân Đỉnh, Thiết kế nhà ở, NXB Xây dựng, 2010;

Tuy nhiên, những tác giả này chỉ trình bày số lượng và nội dung không gian

công năng trong kiến trúc nhà ở mà chưa phân nhóm và sắp xếp thứ bậc theo cấp

độ nhu cầu từ cơ bản (nhu cầu cần thiết để duy trì sự sống) cho đến nâng cao

(nhu cầu tự thực hiện sở thích cá nhân). Để làm được điều đó cần căn cứ vào cơ

sở lý thuyết phân cấp nhu cầu của con người trong môi trường tự nhiên và xã hội

(Lý thuyết “Tháp nhu cầu” của Maslow và những nghiên cứu tương tự trong lĩnh

vực Kiến trúc - Quy hoạch).

Nhà ở dân gian truyền thống Việt Nam là một tổ hợp không gian đa chức

năng, đáp ứng nhiều nhu cầu: nghỉ ngơi, giao tiếp, giáo dục, tâm linh, sản xuất...

Các chức năng đó được triển khai trong một số không gian lớn (nhà chính, nhà phụ

là những không gian đồng nhất, không ngăn chia), phù hợp với phương thức sản

xuất tiểu nông và điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Có thể xem đây là mô hình

nhà ở đa chức năng cấp độ cơ sở (theo kiểu một không gian lớn đa năng).

Hiện nay, tiện nghi nhà ở đang ngày càng gia tăng dẫn đến sự xuất hiện thêm

nhiều không gian mới (phòng làm việc riêng, thư viện, phòng nghe nhạc, phòng tập

thể thao, hồ bơi...); đồng thời diễn ra hiện tượng phối hợp giữa các không gian có

tính năng bổ trợ lẫn nhau theo hướng phục vụ tại chỗ, giảm thời gian di chuyển; từ

đó tạo thành kiểu phòng ở đa năng (ví dụ: phòng ngủ có thể gồm: nơi ngủ, làm

việc, trang điểm, nghe nhạc, xem ti vi, làm việc, không gian xanh...). Như vậy, cấu

trúc công năng trong nhà ở đô thị hiện nay hướng đến mô hình nhà ở nhà ở đa chức

36

năng cấp độ nâng cao (nhà ở đa năng, phòng ở đa năng).

Căn cứ theo 5 chức năng đã trình bày trong mục 1 có thể phân chia thành 5

nhóm công năng tương ứng sau đây:

1) Nhóm công năng Nghỉ ngơi thụ động: nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lý cơ

bản của con người như ăn, ngủ, vệ sinh... Đây là nhóm công năng không thể thiếu

trong bất cứ loại hình nhà ở nào.

- Khu bếp: có mối liên hệ đa dạng với các thành phần khác như: phòng sinh

hoạt chung, phòng ăn chính, nơi ăn ngoài sân, garage, sân vườn;

- Nơi ăn nội bộ: liên hệ trực tiếp với bếp theo 3 giải pháp: kiểu “bán đảo”,

“kiểu đảo” và kiểu bố trí ở một ngách riêng;

- Phòng ngủ: kết hợp đa năng giữa khu vực giường ngủ, khu vệ sinh, tủ

tường, nơi làm việc, nghe nhìn, trang điểm...;

- Không gian sinh hoạt cá nhân/góc nghỉ ngơi;

- Ban công, lô gia, hành lang; sân trong/giếng trời (diện tích nhỏ): đáp ứng

các yêu cầu về thông gió, che nắng, đi lại và ngắm cảnh;

- Phòng tắm - vệ sinh: bố trí chung hoặc riêng cho từng phòng. Mức độ

tiện nghi của phòng tắm – vệ sinh gia tăng đáng kể (đặc biệt là chất lượng của trang

thiết bị);

2) Nhóm công năng Làm việc: bắt nguồn từ nhà ở dân gian truyền thống và

được triển khai tùy vào từng loại hình nhà ở đô thị.

- Không gian thương mại – dịch vụ: tiếp xúc trực tiếp với bên ngoài, gần

mặt đường phố;

- Không gian sản xuất nhỏ, văn phòng làm việc: ít hoặc không có nhu cầu

tiếp xúc trực tiếp với bên ngoài, có thể bố trí lùi sâu vào bên trong ngôi nhà.

- Không gian làm việc cá nhân: có thể bố trí linh hoạt, kết hợp với nhiều

chức năng nhà ở.

3) Nhóm công năng Giáo dục: để thực hiện 3 loại hoạt động: giáo dục con

cái; tự đào tạo nâng cao kiến thức; duy trì văn hóa gia đình theo kiểu truyền thống.

- Phòng/không gian nghiên cứu, thư viện, góc học tập: đây được xem là

không gian đa cấp, phân bố linh hoạt bên trong nhà ở. Tùy theo qui mô và nhu cầu

37

mà bố trí thành phòng riêng hoặc kết hợp bên trong phòng ngủ, phòng sinh hoạt

chung, phòng khách.

- Phòng sinh hoạt chung: trước đây phòng khách còn đảm nhiệm chức năng

sum họp gia đình nhưng ngày nay có xu hướng tách thành không gian độc lập.

Phòng sinh hoạt chung có thể bố trí gần khu bếp hoặc các phòng ngủ; là nơi trò

chuyện, xem phim, học tập, nghe nhạc, vui chơi trẻ em...;

- Không gian thờ cúng tổ tiên & gia thần: bố trí thành phòng riêng hoặc kết

hợp với phòng khách, phòng sinh hoạt chung và một số không gian chức năng khác.

Hoạt động thờ cúng có tác dụng giáo dục truyền thống gia đình và đức tin/tín

ngưỡng nên được xếp vào nhóm công năng này.

- Phòng lưu niệm: lưu giữ các kỷ vật truyền thống của gia đình;

4) Nhóm công năng Giao tiếp đối ngoại: để thực hiện chức năng giao tiếp với

các đối tượng bên ngoài nhà ở.

- Phòng khách: thường bố trí phía trước, dễ tiếp cận từ bên ngoài. Kinh tế -

xã hội đô thị càng phát triển thì tầng suất sử dụng không gian này càng giảm, tuy

nhiên nó vẫn cần thiết để tổ chức các nghi thức tiếp khách, lễ tiệc... Xu hướng hiện

nay là tạo ra không gian “mở” gắn liền với sân vườn, phòng ăn, sinh hoạt chung…;

- Phòng ăn chính (tiếp khách): chỉ áp dụng đối với nhà ở có qui mô lớn như

biệt thự hoặc căn hộ cao cấp (Penthouse).

- Sân vườn, cổng ngõ, hiên nhà, tiền sảnh;

- Hành lang công cộng: là nơi vui chơi trẻ em và giao tiếp của người dân

trong các căn hộ chung cư.

5) Nhóm công năng Nghỉ ngơi năng động: đây là những không gian liên quan

đến chất lượng tiện nghi của nhà ở. Ngoài các nhu cầu cơ bản và thiết yếu, nhà ở

ngày nay cần có thêm không gian cho các hoạt động nghỉ ngơi liên quan đến văn hóa sử dụng thời gian rỗi, bao gồm: hoạt động tâm linh “siêu cá thể”114 (thiền,

yoga), vật lý trị liệu, thể dục thẩm mỹ, thể thao (bơi lội, chạy bộ trong nhà), trang

điểm, cảm thụ tinh thần nơi chốn, hoạt động nghe nhìn, sáng tạo nghệ thuật… Như

vậy, chất lượng và tiện nghi nhà ở đặt ra 2 tiêu chí: 1) diện tích các phòng chức 114 Mark Epstein, M.D, Con đường vô ngã, NXB Hồng Đức (Thái An dịch), TP HCM, 2015, tr29;

38

năng cơ bản (liên quan trực tiếp đến chỉ tiêu diện tích ở); 2) số lượng các không

gian để phát triển thể chất, tinh thần và thụ hưởng văn hóa. Vì đáp ứng 2 tiêu chí

này, nhà ở có xu hướng trở thành tổ hợp đa chức năng mở rộng và nâng cao.

- Không gian tâm tinh “siêu cá thể”: phòng tập Thiền, Yoga;

- Không gian phát triển thể chất: phòng thể dục thẩm mỹ, phòng tắm hơi &

mát xa, hồ bơi;

- Không gian giải trí: phòng nghe nhạc – xem phim, bar, phòng trang điểm,

phòng chơi cho trẻ em, phòng giải trí chuyên dụng (bi da, bóng bàn, đánh

cờ…), sân vườn ngoài trời, tiểu cảnh, sân trong/giếng trời (diện tích lớn).

- Không gian sáng tạo nghệ thuật: phòng vẽ tranh, điêu khắc, âm nhạc, thủ

công mỹ nghệ,…

Các chức năng nhà ở và không gian công năng của nó được tổng hợp trong

bảng PL3.2.

39

BẢNG PL3.2: TỔNG HỢP CHỨC NĂNG NHÀ Ở VÀ CÁC KHÔNG GIAN CÔNG NĂNG TƯƠNG ỨNG

STT

PHÒNG/KHÔNG GIAN CÔNG NĂNG

CHỨC NĂNG CỦA NHÀ Ở

Ngủ

Vệ sinh

Bếp

Sinh hoạt cá nhân (thư giãn)

1

NGHỈ NGƠI THỤ ĐỘNG

Ban công, lô gia

Sân trong, giếng trời (diện tích nhỏ)

Ăn nội bộ

Thương mại, Dịch vụ

Làm nghề thủ công

2

LÀM VIỆC

Văn phòng

Làm việc cá nhân

Thư viện

Thờ cúng tổ tiên & gia thần

Học tập & nghiên cứu

3

GIÁO DỤC

Lưu niệm gia đình

Sinh hoạt chung

Phòng khách

Phòng ăn chính

Hiên nhà, tiền sảnh

4

GIAO TIẾP ĐỐI NGOẠI

Hành lang công cộng (chung cư)

Cổng, ngõ

Giải trí chuyên dụng (bi da, bóng bàn, đánh cờ…)

Phòng chơi trẻ em

Tập thể dục thẩm mỹ

Tiểu cảnh, non bộ

Hồ bơi

Sáng tác nghệ thuật (hội họa, âm nhạc, thủ công mỹ nghệ,…)

5

NGHỈ NGƠI NĂNG ĐỘNG

Tắm hơi + mát xa

Giải trí nghe nhìn

Tập Thiền, Yoga

Sân trong, giếng trời (diện tích lớn)

Sân vườn

40

PHỤ LỤC 4

THAM CHIẾU XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC NHÀ Ở TRÊN THẾ GIỚI DỰA THEO QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ ĐẠT GIẢI PRITZKER [90]

1. REM KOOLHAAS (1944) - PRITZKER 2000

a. Quan điểm kiến trúc

- Trong mỗi công trình kiến trúc có một dòng chảy tự do, bình đẳng giữa các

không gian và chức năng với một nhánh giao thông không kiểm soát, tạo ra hình

thức hoàn toàn mới mẻ;

Nexus Housing, Fukuoka, Japan, 1991

Villa dall’Ava, Paris, France, 1991

b. Công trình tiêu biểu

41

2. GLENN MURCUTT (1936) - PRITZKER 2002

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc gắn liền với yếu tố nơi chốn, đáp ứng các yêu cầu cảnh quan.

Ngôi nhà được điều chỉnh để thích ứng tốt với điều kiện đất đai, thời tiết (ánh sáng,

nước, gió, mặt trời, mặt trăng) và sự thay đổi theo các mùa trong năm;

- Công trình là sự pha trộn hài hòa của mỹ cảm hiện đại, tính thủ công địa

phương, cấu trúc bản địa, và tôn trọng thiên nhiên, đặt vào bối cảnh theo nguyên tắc

"chạm đất nhẹ nhàng".

- Sử dụng nhiều loại vật liệu, từ kim loại, gỗ, thủy tinh, đá, gạch và bê tông

với ý thức về tiết kiệm năng lượng.

Magney House, New South Wales, Australia, 1984

Alderton House, Northern Territory, Australia, 1994

Done House, New South Wales, Australia, 1991 Simpson-Lee House, New South Wales, Australia, 1994

b. Công trình tiêu biểu

42

3. JORN UTZON (1918 - 2008) - PRITZKER 2003

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc mang tính nghệ thuật và điêu khắc, là sự kết hợp giữa các di sản

và sáng tạo cá nhân theo qui luật cân bằng; tìm kiếm vẻ đẹp từ các cạnh biên của

công trình;

- Cấu trúc hữu cơ thể hiện sự liên hệ với tự nhiên và điều kiện của địa điểm

xây dựng;

- Nhà ở được thiết kế để cung cấp không chỉ sự riêng tư cho các cư dân mà

còn mang đến sự thú vị của cảnh quan, linh hoạt để thay đổi cho các mục tiêu ngắn

hạn.

Kingo Houses, Helsingor, Denmark, 1953

Utzon House, Mallorca, Spain, 1972

b. Công trình tiêu biểu

43

4. ZAHA HADID (1950) - PRITZKER 2004

a. Quan điểm kiến trúc

- Công trình kiến trúc vừa là nơi trú ẩn nhưng cũng là để trải nghiệm sự thích

thú và bất ngờ;

- Hình thức kiến trúc hướng về sự chuyển động và chuyển tiếp, tạo thành một

tổng thể liên tục thay đổi;

- Phong cách kiến trúc mang tính đương đại, hữu cơ và sáng tạo; sử dụng vật

liệu và công nghệ mới;

Spaceship House, Barvikha, Moscow, 2012

Nassim Villas, Singapore, 2007

b. Công trình tiêu biểu

44

5. PAULO MENDES DA ROCHA (1928) - PRITZKER 2006

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc lấy cảm hứng từ các nguyên tắc và ngôn ngữ của chủ nghĩa hiện

đại, đáp ứng nhu cầu xã hội và thẩm mỹ của con người; sử dụng vật liệu đơn giản

(bê tông & thép);

- Công trình kiến trúc khai thác và hòa nhập vào môi trường thiên nhiên

phong phú;

- Tái khẳng định sự hiểu biết và tôn trọng di sản trong mối liên quan với tính

thời đại.

Residence for Mario Masetti, Cava Estate, Cabreuva, São Paulo, Brazil, 1995

Residence for Paulo Mendes da Rocha, São Paulo, Brazil, 1964.

b. Công trình tiêu biểu

45

6. RICHARD ROGERS (1933) - PRITZKER 2007

a. Quan điểm kiến trúc

- Hình thức công trình kiến trúc như những cổ máy, rõ ràng và minh bạch;

trong đó tích hợp các không gian công cộng và riêng tư; sáng tạo các giải pháp năng

lượng hiệu quả;

- Không gian kiến trúc linh hoạt để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của người

sử dụng;

- Vật liệu và kỹ thuật xây dựng công nghệ cao;

Flexi-Houses, Milton Keynes, England, 2007 Private Residence, Singapore, 2012

The Roof Garden Apartment, London, 2001

b. Công trình tiêu biểu

46

7. JEAN NOUVEL (1945) - PRITZKER 2008

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc tồn tại như một rạp chiếu phim xét trong chiều thời gian và

chuyển động (mang tính trình diễn). Sự vận hành của ánh sáng, các lớp bề mặt và

tính mờ ảo là thủ pháp chính cho hình thức kiến trúc;

- Thay đổi vật liệu theo chiều cao của công trình (tính từ chân đế tới đỉnh): đá

granite – nhôm – thép không gỉ - kính. Hình ảnh tòa nhà có xu hướng biến mất vào

bầu trời.

- Không có phong cách kiến trúc ưu tiên mà tùy thuộc vào bối cảnh, bao

gồm: văn hóa, địa điểm, các chương trình và đối tượng khách hàng.

- Căn hộ tốt là căn hộ lớn nhất có thể, linh hoạt tối đa và chuyển đổi được

(kết hợp hoặc chia tách)115.

Nemausus I public housing, Nimes, France, 1987

115 http://en.wikiarquitectura.com/index.php/Nemausus_Housing

b. Công trình tiêu biểu

47

8. PETER ZUMTHOR (1943) - PRITZKER 2009

a. Quan điểm kiến trúc

- Ngôn ngữ của kiến trúc không phải là câu hỏi cho một phong cách cụ thể.

Mỗi tòa nhà được xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố địa điểm và điều kiện xã

hội nhất định

- Công trình kiến trúc có hình thái tĩnh lặng; tôn trọng các giá trị địa điểm, di

sản văn hóa địa phương và những bài học từ lịch sử kiến trúc.

- Hình thức công trình khiêm tốn, giản dị được tổ hợp trong một tổng thể

mang tính đột phá, táo bạo;

- Vật liệu: tấm lợp bằng gỗ tuyết tùng, tấm thủy tinh phun cát, tường đá…

Annalisa Zumthor House, Swiss , 2009

Spittelhof Housing Estate, Biel-Benken , Switzerland 1996,

b. Công trình tiêu biểu

48

9. KAZUYO SEJIMA (1956) & RYUE NISHIZAWA (1966) -

PRITZKER 2010

a. Quan điểm kiến trúc

- Công trình kiến trúc là một thể thống nhất giữa hình thể vật lý, mỹ cảm, đối

tượng sử dụng, tính chất hoạt động và cảnh quan.

- Không gian kiến trúc liên tục (không phân cấp bởi những bức tường mà do

sự uốn lượn của mặt sàn liên tục, phù hợp với mục đích sử dụng khác nhau), nhẹ

nhàng và minh bạch.

- Hình thức tinh tế, mạnh mẽ, lưu chuyển và chính xác;

- Sử dụng vật liệu thông thường kết hợp với công nghệ hiện đại

- Các mối quan hệ của tòa nhà với bối cảnh luôn được xem trọng, không để

mất sự kết nối với tự nhiên và môi trường xung quanh;

Moriyama House, Ohta-ku, Tokyo, Japan, 2005

Garden & House, Tokyo, Japan, 2013

Okurayama Apartments, Okurayama, Japan, 2008

b. Công trình tiêu biểu

49

10. EDUARDO SOUTO DE MOURA (1952) - PRITZKER 2011

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc là một vấn đề toàn cầu. Không có kiến trúc sinh thái, kiến trúc

thông minh, kiến trúc bền vững mà tất cả chỉ là kiến trúc tốt. Luôn luôn có những

vấn đề mà công trình kiến trúc không được bỏ qua như: năng lượng, tài nguyên, chi

phí, khía cạnh xã hội;

- Công trình là sự kết hợp phức tạp của các yếu tố: đặc điểm khu vực, cảnh

quan, địa điểm và lịch sử kiến trúc. Đề cao tính hình học giản đơn và hiệu quả

tương tác của ánh sáng. Ngôn ngữ kiến trúc mang tính trừu tượng, kết hợp với vẻ

đẹp và tính xác thực của vật liệu đá granite, gỗ, đá cẩm thạch, gạch, thép, bê tông;

đồng thời tạo ra sự bất ngờ về màu sắc. Tránh sử dụng các loại vật liệu quí hiếm.

House in Cascais, Cascais, Portugal, 2002

House in Serra da Arrábida, Portugal, 2002

House in Bom Jesus, Braga, Portugal, 2007

Cinema House Manoel de Oliveira, Porto, Portugal,2003

b. Công trình tiêu biểu

50

11. WANG SHU (1963) - PRITZKER 2012

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc là tự phát vì bản thân nó là một trong những vấn đề của cuộc sống

hàng ngày. Các công trình có khả năng khơi gợi quá khứ, tôn trọng truyền thống và

bối cảnh mà không sao chép trực tiếp từ nguồn dữ liệu lịch sử;

- Thiên nhiên và kiến trúc không chỉ cùng tồn tại mà còn bổ sung cho nhau;

kết cấu, hình dạng và màu sắc công trình được xác định bởi cảnh quan thiên nhiên;

- Sử dụng vật liệu tái chế (ngói và gạch tường bị phá bỏ) để tạo hình ảnh

nghệ thuật và xúc giác phong phú;

- Đặc điểm nổi bật: sự đa dạng của ánh sáng, vật liệu, hình dạng; tính cơ

động và sử dụng cấu trúc đơn giản để có thể nhanh chóng xây dựng và tháo dỡ;

Ceramic House, 2003-2006, Jinhua, China

b. Công trình tiêu biểu

Vertical Courtyard Apartments, 2002-2007, Hangzhou, China

51

12. TOYO ITO (1941) - PRITZKER 2013

a. Quan điểm kiến trúc

- Kiến trúc như một dòng chảy và không bị giới hạn trong những khuôn mẫu,

công trình lấy cảm hừng từ các nguyên tắc của tự nhiên với thủ pháp tối giản, nhẹ

nhàng, vui tươi. Điều này phá vỡ tính đồng nhất và khô cứng của kiến trúc.

- Công trình kiến trúc có mối quan hệ gần gũi với môi trường tự nhiên xung

quanh nó. Các điều kiện khác nhau tạo nên những giải pháp kiến trúc khác nhau;

- Không gian kiến trúc mở rộng cho phép tự do phát triển các hoạt động bên

trong;

- Sử dụng vật liệu công nghiệp có trọng lượng nhẹ như ống thép, tấm nhôm

đục lỗ, lưới thép, vải,… hoặc bê tông cốt thép.

White O House, Marabella, Chile, 2009

b. Công trình tiêu biểu

52

13. SHIGERU BAN (1957) - PRITZKER 2014

a. Quan điểm kiến trúc

- Bền vững không phải là một khái niệm để thêm vào mà là nội tại của kiến

trúc. Công trình hòa nhập vào môi trường, sử dụng vật liệu tái chế và sản xuất tại

địa phương (tre, vải, giấy, các hợp chất của sợi giấy tái chế và nhựa);

- Không gian linh hoạt, kết nối liên tục giữa nội thất và ngoại thất;

- Cấu trúc gỗ không cần liên kết bằng kim loại.

Villa, Kanagawa, Japan, 2013

Villa Vista, Weligama, Sri Lanka, 2004

b. Công trình tiêu biểu