BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
NGHIÊN CỨU THU NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG
KHÁNG KHUẨN ERWINIA SP. GÂY BỆNH THỐI NHŨN
TRÊN CÀ CHUA SAU THU HOẠCH CỦA CHITOSAN TỪ
MAI MỰC ỐNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
KHÁNH HÒA - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
NGHIÊN CỨU THU NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG
KHÁNG KHUẨN ERWINIA SP. GÂY BỆNH THỐI NHŨN
TRÊN CÀ CHUA SAU THU HOẠCH CỦA CHITOSAN TỪ
MAI MỰC ỐNG
NGÀNH ĐÀO TẠO : CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN THỦY SẢN
MÃ SỐ
: 62540105
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRANG SĨ TRUNG
PGS.TS. NGUYỄN ANH TUẤN
KHÁNH HÒA - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do chính tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả
trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những lời cam đoan của mình.
Nha Trang, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận án
Hoàng Ngọc Cương
i
LỜI CẢM ƠN
Luận án hoàn thành là nhờ có nhà trường, các tổ chức có liên quan tạo điều kiện;
thầy cô, bạn bè, gia đình giúp đỡ và hỗ trợ. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
PGS. TS. Trang Sĩ Trung và PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn đã định hướng, chỉ
dẫn và động viên trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận án này.
Ban giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, các Phòng, Ban, Khoa, Viện liên
quan đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện luận án.
Ban giám hiệu Trường Đại học Bình Dương, Lãnh đạo Khoa Công nghệ Sinh
học đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện luận án.
TS. Nguyễn Văn Hòa, Ths. Nguyễn Công Minh đã tận tình hướng dẫn, động
viên khích lệ, dành nhiều thời gian trao đổi trong quá trình thực hiện luận án.
TS. Huỳnh Thanh Tùng, PGS.TS. Ngô Đăng Nghĩa, TS. Khổng Trung Thắng
đã giúp đỡ, chia sẻ nhiều kinh nghiệm quí báu.
Các cán bộ kỹ thuật của Viện Công nghệ Sinh học và Môi trường, Trung tâm
Thí nghiệm Thực hành – Trường Đại học Nha Trang đã giúp đỡ và tạo điều kiện trọng
quá trình tiến hành nghiên cứu.
Cuối cùng, xin gửi tấm lòng ân tình tới gia đình, những người thân yêu luôn là
nguồn động viên và chia sẻ mọi khó khăn để luận án được hoàn thành.
Nha Trang, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận án
Hoàng Ngọc Cương
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. viii
DANH MỤC HÌNH ................................................................................................... viii
ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN ........................................................................... xii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ........................................................................................ 6
1.1. TIỀM NĂNG SỬ DỤNG PHẾ LIỆU MAI MỰC ỐNG LOLIGO SP. ĐỂ THU
NHẬN -CHITIN........................................................................................................... 6
1.1.1. Giới thiệu về nguyên liệu mực ống Loligo sp. và phế liệu từ mực sau chế biến .. 6
1.1.2. Cấu trúc và thành phần hóa học của nguyên liệu mai mực ống Loligo sp. ..... 7
1.2. TỔNG QUAN VỀ β-CHITIN VÀ CHITOSAN ................................................... 16
1.2.1. Cấu trúc hóa học, nguồn gốc tự nhiên và tính chất của các dạng chitin ........ 16
1.2.2. Cấu trúc hóa học và tính chất của chitosan .................................................... 20
1.2.3. Phương pháp thu nhận chitin và chitosan ...................................................... 23
1.2.4. Đặc tính sinh học kháng nấm, kháng khuẩn của chitosan ............................. 36
1.3. GIỚI THIỆU VỀ BỆNH THỐI NHŨN TRÊN CÀ CHUA SAU THU HOẠCH ...... 39
1.3.1. Giới thiệu chung về nguồn nguyên liệu cà chua sau thu hoạch ..................... 39
1.3.2. Tổng quan về bệnh thối nhũn (soft rot) gây hại cà chua sau thu hoạch ......... 41
1.3.3. Giới thiệu về chủng vi khuẩn Erwinia spp. gây bệnh thối nhũn .................... 42
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................... 45
2.1. VẬT LIỆU ............................................................................................................. 45
2.1.1. Mai mực ống Loligo sp. ................................................................................. 45
2.1.2. Trái cà chua Lycopersicon esculetum ............................................................ 45
2.1.3. Hóa chất dùng trong nghiên cứu .................................................................... 46
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................... 46
2.2.1. Sơ đồ nghiên cứu tổng quát ............................................................................ 46
2.2.2. Bố trí thí nghiệm xác định điều kiện thu nhận β-chitin ................................. 49
iii
2.2.3. Bố trí thí nghiệm xác định điều kiện deacetyl β-chitin thu nhận chitosan ..... 55
2.2.4. Bố trí thí nghiệm phân lập vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn ........... 62
2.2.5. Bố trí thí nghiệm tổng quát đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. gây
bệnh thối nhũn trên trái cà chua sau thu hoạch của β-chitosan ở điều kiện in
vitro và in vivo ................................................................................................. 64
2.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH, XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU ............................ 71
2.3.1. Phương pháp xác định các thành phần hóa học cơ bản ................................. 71
2.3.2. Phương pháp xác định thành phần acid amin và thành phần khoáng ............ 71
2.3.3. Phương pháp xác định tính chất của -chitin và chitosan ............................. 71
2.3.4. Phương pháp cắt mạch chitosan ..................................................................... 72
2.3.5. Phương pháp phân lập chủng vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn ............. 73
2.3.6. Phương pháp chuẩn bị mẫu dịch vi khuẩn Erwinia carotovora ..................... 74
2.3.7. Phương pháp gây bệnh nhân tạo .................................................................... 75
2.3.8. Phương pháp đánh giá hiệu quả kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vitro75
2.3.9. Phương pháp đánh giá hiệu quả kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vivo 75
2.3.10. Phương pháp xác định tổng hàm lượng phenol tổng số trong trái cà chua ......... 76
2.3.11. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................................ 76
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................. 77
3.1. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA MAI MỰC LOLIGO SP ...................................... 77
3.1.1. Thành phần hóa học cơ bản............................................................................ 77
3.1.2. Thành phần khoáng ........................................................................................ 79
3.1.3. Thành phần acid amin .................................................................................... 80
3.2. XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN THU NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ TÍNH CHẤT -CHITIN
TỪ MAI MỰC LOLIGO SP. ........................................................................................ 82
3.2.1. Đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đến quá
trình khử protein trong mai mực Loligo sp. .................................................... 82
3.2.2. Đánh giá ảnh hưởng chi tiết các yếu tố nhiệt độ, thời gian và nồng độ NaOH
đến hiệu quả khử protein và sự cắt mạch của sản phẩm β-chitin .................... 84
3.2.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hiệu quả khử protein và khối lượng phân tử
của sản phẩm β-chitin ...................................................................................... 85
3.2.2.2. Ảnh hưởng của thời gian đến hiệu quả khử protein và khối lượng phân tử
của sản phẩm β-chitin ...................................................................................... 88
iv
3.2.2.3. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH đến hiệu quả khử protein và khối lượng
phân tử của sản phẩm β-chitin ......................................................................... 90
3.2.3. Tính chất của sản phẩm β-chitin từ mai mực ống .......................................... 92
3.3. ĐIỀU KIỆN DEACETYL -CHITIN VÀ TÍNH CHẤT CHITOSAN TỪ MAI
MỰC LOLIGO SP. ..................................................................................................... 101
3.3.1. Đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của 3 yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian
đến hiệu quả deacetyl -chitin ....................................................................... 101
3.3.2. Ảnh hưởng chi tiết của các yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đến hiệu
quả deacetyl chitin và sự cắt mạch chitosan .................................................... 104
3.3.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hiệu quả deacetyl chitin và sự cắt mạch chitosan
....................................................................................................................... 104
3.3.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH đến hiệu quả deacetyl β-chitin và sự cắt
mạch chitosan ................................................................................................ 107
3.3.2.3. Ảnh hưởng của thời gian đến hiệu quả deacetyl chitin và sự cắt mạch chitosan 108
3.3.3. Điều kiện deacetyl lần 2 ............................................................................... 110
3.3.4. Hiệu suất thu nhận và tính chất của sản phẩm chitosan ............................... 111
3.3.5. Đề xuất quy trình thu nhận chitin, chitosan từ mai mực ống Loligo sp. ...... 119
3.4. KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN CỦA CHITOSAN .......................................... 120
3.4.1. Nghiên cứu phân lập, khẳng định chủng Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên
trái cà chua sau thu hoạch .............................................................................. 120
3.4.2. Khả năng kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vitro ......................... 127
3.4.3. Khả năng kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vivo ............................... 131
3.4.4. Đề xuất quy trình bảo quản cà chua sau thu hoạch bằng dung dịch chitosan từ mai
mực Loligo sp. ................................................................................................ 139
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................... 141
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ....................................... 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 144
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 158
v
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
AAS Atomic absorption spectrophotometric Phương pháp phổ hấp thu nguyên tử
AOAC Association of Official Analytical Chemists Hiệp hội các nhà hoá phân tích chính thống
ANOVA Analysis of Variance Phân tích phương sai
Chitosan từ β-chitin Chitosan from β-chitin -chitosan
Degree of crystallinity Độ kết tinh χcr
Tomato C95 Giống cà chua C95 C95
Crystalline Index Chỉ số kết tinh CrI
Degree of acetyl Độ acetyl DA
DNA Deoxyribonucleic acid Axit deoxyribonucleic
Degree of deacetyl Độ deacetyl DD
Deproteinization Quá trình khử protein DP
Demineralization Quá trình khử khoáng DM
Decolorization Quá trình khử màu DC
Ecc Erwinia carotovora subsp. carotovora Erwinia carotovora subsp. carotovora
Eca Erwinia carotovora subsp. atroseptica Erwinia carotovora subsp. atroseptica
Erwinia chrysanthemi Erwinia chrysanthemi Echr
Ethylenediaminetetraacetic acid Ethylenediaminetetraacetic axit EDTA
Fourier Transform Infrared Quang phổ hấp thụ hồng ngoại FTIR
D-glucosamine D-glucosamine GlcN
GlcNAc N-acetyl glucosamine N-acetyl glucosamine
Nồng độ ức chế tối thiểu MIC Minimum Inhibitory Concentration
MHS Mark-Houwink-Sakurada equation Phương trình Mark-Houwink- Sakurada
The average molecular weight Khối lượng phân tử trung bình Mw
NL/DM Material / solvent Nguyên liệu / dung môi
vi
Nd Not detected Không phát hiện
NMR Nuclear Magnetic Resonance Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
OD Optical density Độ hấp phụ quang học
Pl Pectate lyases Enzyme phân giải pectin
Pnl Pectin lyases Enzyme phân giải pectin
Pme Pectin methylesterases Enzyme phân giải pectin
PA Polyamide Bao nylon
PG Potato glucose Môi trường potato glucose
PCR Polymerase chain reaction Phương pháp khuếch đại gen
PDA Potato dextrose agar Môi trường thạch khoai tây
rARN Ribosomal ribonucleic ARN riboxom
SEM Scanning Electron Microscope Kính hiển vi điện tử quét
SEC-MALLS Size-exclusion chromatography- Multi-angle static light scattering Phương pháp sắc ký loại trừ kết hợp với phân tán ánh sáng tĩnh đa góc
sp. Species Loài
spp. Species pluriel Nhiều loài
subsp. Subspecies Phân loài
Phần mềm thống kê SPSS Statistical Package for the Social Sciences
SS Sum of Squares Tổng bình phương độ lệch
Kính hiển vi điện tử truyền qua TEM Transmission Electron Microscope
TpHCM Ho Chi Minh City Thành phố Hồ Chí Minh
TLTK References Tài liệu tham khảo
VASEP Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam
VNF Viet Nam Food Công ty Cp Việt Nam Food
XRD X-ray powder diffraction Phổ nhiễu xạ tia X
wt.% Weight percent Phần trăm theo khối lượng
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần hóa học trong nguyên liệu của một số loại phế liệu thủy sản
thông dụng để sản xuất chitin ................................................................................. 8
Bảng 1.2. Thành phần hóa học trong một số mai mực .................................................... 9
Bảng 1.3. Thành phần khoáng của nguyên liệu mai mực ............................................... 9
Bảng 1.4. Các dung môi thường sử dụng để hòa tan chitosan ...................................... 21
Bảng 1.5. Tính chất của chitosan ảnh hưởng bởi độ deacetyl ....................................... 22
Bảng 1.6. Thành phần và tính chất của một số loại chitosan thương mại ..................... 22
Bảng 1.7. Điều kiện khử protein trong quá trình sản xuất chitin từ các nguyên liệu
khác nhau .............................................................................................................. 30
Bảng 1.8. Nguồn nguyên liệu thủy sản, điều kiện xử lý và loại chitin............................ 32
Bảng 1.9. Điều kiện deacetyl thu nhận chitosan từ các nguồn chitin khác nhau .......... 34
Bảng 1.10. Khối lượng phân tử trung bình (Mw) của chitosan ở các điều kiện deacetyl
khác nhau .............................................................................................................. 36
Bảng 1.11. Bảng tổng hợp các chủng vi khuẩn gây bệnh thối nhũn (soft rot) .............. 43
Bảng 3.1. Thành phần hóa học cơ bản của mai mực ống Loligo sp .............................. 77
Bảng 3.2. Thành phần khoáng trong mai mực Loligo sp., các loại mực khác và vỏ tôm ..... 79
Bảng 3.3. So sánh thành phần acid amin trong mai mực ống Loligo sp. và kết quả tham
khảo ....................................................................................................................... 80
Bảng 3.4. Tính chất của mai mực ống và sản phẩm β-chitin ........................................ 94
Bảng 3.5. Thành phần khoáng trong mai mực và sản phẩm β-chitin ............................ 95
Bảng 3.6. Hàm lượng acid amin trong mai mực và sản phẩm β-chitin ......................... 95
Bảng 3.7. Độ dịch chuyển hóa học của các proton trong DCl/D2O ở 25oC của β-chitin .. 100
Bảng 3.8. Hiệu suất thu hồi chitin và chitosan ............................................................ 112
Bảng 3.9. So sánh chất lượng của thương mại chitosan và β-chitosan ....................... 113
Bảng 3.10. Hàm lượng acid amin còn lại trong β-chitin và β-chitosan ...................... 114
Bảng 3.11. Thành phần khoáng và kim loại trong mai mực, β-chitin và β-chitosan .. 115
Bảng 3.12. Độ dịch chuyển hóa học của các proton trong DCl/D2O ở 70oC của β-chitosan .. 118
Bảng 3.13. Mẫu cà chua thu nhận từ các chợ nông sản .............................................. 121
Bảng 3.14. Kết quả đánh giá đặc tính sinh hóa sinh lý của các dòng vi khuẩn .......... 123
Bảng 3.15. Khả năng kháng khuẩn Erwinia carotovora của chitosan với khối lượng
phân tử khác nhau và chitosan thương mại (C-120) ........................................... 128
viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Thống kê giá trị xuất khẩu mực, bạch tuộc; (a) Mực ống Loligo sp. (b) Mai
mực. ........................................................................................................................ 6
Hình 1.2. Mô hình cấu trúc chitin trong mai mực nguyên liệu . ................................... 10
Hình 1.3. Một kiểu mô phỏng những liên kết hóa học có thể tạo ra giữa chitin với
astaxanthin và các phân tử khác trong nguyên liệu. ............................................. 11
Hình 1.4. Mô hình cấu trúc lớp vỏ tôm. ........................................................................ 11
Hình 1.5. Ảnh quét kính hiển vi điện tử SEM của mai mực ống. ................................. 12
Hình 1.6. Quy trình thu nhận chitin/chitosan từ các nguồn nguyên liệu khác nhau. .... 13
Hình 1.7. Cấu trúc hóa học phân tử chitin. .................................................................... 17
Hình 1.8. Sự sắp xếp của chuỗi chitin: (a) α-chitin, (b) β-chitin, (c) γ-chitin. .............. 17
Hình 1.9. Cấu trúc phân tử (a) α-chitin (b) β-chitin. ..................................................... 18
Hình 1.10. Cấu trúc α-chitin và -chitin. ..................................................................... 19
Hình 1.11. Phổ XRD của α-chitin và β-chitin. .............................................................. 19
Hình 1.12. Cấu trúc hóa học của chitosan. .................................................................... 20
Hình 1.13. Sơ đồ quá trình sản xuất chitin/chitosan từ phế liệu thủy sản. .................... 24
Hình 1.14. Phản ứng deacetyl chitin thu chitosan. ........................................................ 33
Hình 1.15. Cà chua bị bệnh thối nhũn (soft rot). ........................................................... 41
Hình 2.1. Nguyên liệu mai mực ống Loligo sp. ............................................................ 45
Hình 2.2. Nguyên liệu cà chua Lycopersicon esculentum. ............................................ 46
Hình 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm tổng quát. ................................................................. 47
Hình 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của nồng độ NaOH, nhiệt độ và
thời gian đến khả năng khử protein trong mai mực ống nguyên liệu. .................. 49
Hình 2.5. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình khử
protein mai mực ống. ............................................................................................ 51
Hình 2.6. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của thời gian ..................................... 53
Hình 2.7. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của nồng độ NaOH đến quá trình khử
protein. .................................................................................................................. 54
Hình 2.8. Sơ đồ thí nghiệm tổng quát đánh giá ảnh hưởng các yếu tố nhiệt độ, nồng độ
NaOH và thời gian đến quá trình deacetyl -chitin. ............................................. 56
Hình 2.9. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình
deacetyl -chitin. .................................................................................................. 57
ix
Hình 2.10. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ NaOH đến quá
trình deacetyl -chitin. .......................................................................................... 59
Hình 2.11. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian đến quá trình
deacetyl -chitin. .................................................................................................. 60
Hình 2.12. Sơ đồ thí nghiệm deacetyl lần 2. ................................................................. 61
Hình 2.13. Sơ đồ phân lập vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên trái cà chua sau
thu hoạch. .............................................................................................................. 63
Hình 2.14. Sơ đồ thí nghiệm tổng quát đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. gây
bệnh thối nhũn trên cà chua sau thu hoạch của chitosan. ..................................... 64
Hình 2.15. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. của chitosan
ở điều kiện in vitro. ............................................................................................... 66
Hình 2.16. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng kháng bệnh thối nhũn của chitosan ở
điều kiện in vivo. ................................................................................................... 67
Hình 2.17. Sơ đồ thí nghiệm so sánh khả năng kháng bệnh thối nhũn của chitosan từ
mai mực ống và chitosan thương mại. .................................................................. 69
Hình 3.1. Hàm lượng protein còn lại sau quá trình khử protein dưới tác động của 3 yếu
tố (nhiệt độ, nồng độ NaOH, thời gian). ............................................................... 83
Hình 3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ, thời gian và nồng độ NaOH đến hiệu quả khử protein
và sự cắt mạch β-chitin. .......................................................................................... 86
Hình 3.3. (a) Ảnh của mực ống, (b) mai mực ống và (c) sản phẩm β-chitin. ............... 92
Hình 3.4. Hình SEM chụp bề mặt cắt của (a) mai mực ống và (b) sản phẩm β-chitin. ..... 97
Hình 3.5. Phổ XRD của mai mực ống và sản phẩm β-chitin thu được từ mai mực. ..... 98
Hình 3.6. Phổ FTIR của nguyên liệu mai mực ống và sản phẩm β-chitin. ................... 99
Hình 3.7. Phổ H1 NMR của β-chitin. .......................................................................... 100
Hình 3.8. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH, nhiệt độ và thời gian đến hiệu quả deacetyl. .. 103
Hình 3.9. Ảnh hưởng của các yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đến DD và
Mw của chitosan. ................................................................................................. 106
Hình 3.10. Ảnh hưởng của quá trình deacetyl lần 2 đến DD và Mw của chitosan. .......... 110
Hình 3.11. Sản phẩm -chitin và chitosan từ mai mực Loligo sp. .............................. 111
Hình 3.12. Hình SEM của (a) mai mực ống, (b) β-chitin và (c) chitosan. .................. 115
Hình 3.13. Phổ XRD của mai mực, β-chitin và β-chitosan. ........................................ 116
x
Hình 3.14. Phổ FTIR sản phẩm chitosan từ (a) β-chitosan, (b) α-chitosan thương mại
và (c) β-chitin. ..................................................................................................... 117
Hình 3.15. Phổ H1-NMR của β-chitosan. .................................................................... 117
Hình 3.16. Phổ SEC-MALLS của β-chitosan. ............................................................ 118
Hình 3.17. Quy trình thu nhận β-chitin và chitosan từ mai mực Loligo sp. ................ 119
Hình 3.18. Mẫu trái cà chua bệnh thối nhũn thu nhận từ chợ nông sản. ..................... 121
Hình 3.19. (a) Mẫu khuẩn lạc được chọn; (b) Mẫu vi khuẩn nhuộm Gram. ............... 122
Hình 3.20. Trình tự một đoạn gen 16S rRNA chủng vi khuẩn Erwinia carotovora. .. 124
Hình 3.21. Hình SEM chủng vi khuẩn Erwinia carotovora. ...................................... 125
Hình 3.22. Vết bệnh thối nhũn trên trái cà chua. ......................................................... 125
Hình 3.23. Sơ đồ phát triển bệnh thối nhũn trên cà chua. ........................................... 126
Hình 3.24. (a) Khả năng kháng khuẩn của S-655 và (b) của S-138 ở các nồng độ khác
nhau. C-120 là chitosan thương mại với Mw là120 kDa. .................................... 129
Hình 3.25. Hình TEM của vi khuẩn Erwinia sp. được xử lý trong dung dịch β-chitosan
1% (S-138) trong 60 phút. (a) Vi khuẩn Erwinia carotovora; (b) xử lý sau 15
phút; (c) xư lý sau 30 phút; (d) kết quả sau 60 phút. .......................................... 130
Hình 3.26. Khả năng kháng khuẩn của chitosan S-1740 ở điều kiện in vivo. ............. 132
Hình 3.27. Khả năng kháng khuẩn của chitosan S-655 ở điều kiện in vivo. ............... 133
Hình 3.28. Khả năng kháng khuẩn của chitosan S-138 ở điều kiện in vivo. ............... 134
Hình 3.29. Kích thước vết bệnh bên trong được xử lý S-138 trong (a) 24 giờ , (b) 36 giờ. .. 135
Hình 3.30. So sánh khả năng kháng bệnh thối nhũn ở điều kiện In vivo của S-138 và
chitosan thương mại C-120 (a) kích thước vết bệnh bên ngoài và (b) kích thước
vết bệnh bên trong. .............................................................................................. 136
Hình 3.31. Kích thước vết bệnh bên trong và bên ngoài khi xử lý chitosan S-138 và
chitosan thương mại C-120 sau 36 giờ. .............................................................. 137
Hình 3.32. Tổng hàm lượng phenol tổng số trong trái cà chua sau khi được xử lý các
loại chitosan có phân tử lượng khác nhau sau thời gian 24 và 72 giờ. ............... 138
Hình 3.33. Quy trình bảo quản cà chua sau thu hoạch bằng chitosan. ........................ 139
xi
TÓM TẮT NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án: Nghiên cứu thu nhận và đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia
sp. gây bệnh thối nhũn trên cà chua sau thu hoạch của chitosan
từ mai mực ống.
Ngành: Công nghệ chế biến thủy sản
Mã số: 62540105
Nghiên cứu sinh: Hoàng Ngọc Cương
Khóa: 2011
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trang Sĩ Trung
PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Nha Trang
Nội dung:
1. Đã xác định được thành phần hóa học của nguồn phế liệu mai mực Loligo sp.
thải ra sau quá trình chế biến tại các nhà máy chế biến thủy sản thuộc tỉnh Kiên Giang,
làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo.
2. Đã xác định được điều kiện thu nhận sản phẩm -chitin đạt tiêu chuẩn
thương mại. Sản phẩm -chitin thu được có khối lượng phân tử trung bình lớn (Mw) và
là nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất chitosan tinh khiết dùng trong các lĩnh vực
kỹ thuật cao. Điều kiện thu nhận có thể ứng dụng sản xuất ở qui mô lớn.
3. Đã xác định được điều kiện deacetyl -chitin thu nhận chitosan đạt tiêu
chuẩn thương mại, sản phẩm chitosan có độ deacetyl cao và khối lượng phân tử lớn.
Sản phẩm chitosan thu được là nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất các oligo
chitosan và các chế phẩm từ chitosan có thể ứng dụng trong các lĩnh vực kỹ thuật cao
như y dược, y sinh và công nghệ thực phẩm. Điều kiện deacetyl có thể ứng dụng sản
xuất ở qui mô lớn.
4. Đã đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên trái
cà chua sau thu hoạch ở điều kiện in vitro và in vivo khi sử dụng chitosan có khối
lượng phân tử khác nhau. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở ứng dụng chitosan trong bảo
quản nông sản sau thu hoạch và cơ sở khoa học cho các nghiên cứu hoạt tính kháng
khuẩn của chitosan.
NGHIÊN CỨU SINH
Hoàng Ngọc Cương
xii
KEY FINDINGS
Thesis title: Preparation and characterization of chitosan from squid pens and its
antibacterial activity against Erwinia sp. caused soft rot on tomato fruits.
Speciality Aquatic Products Technology :
Code 62540105 :
Ph.D Student : Hoang Ngoc Cuong
Course : 2011
Supervisors : 1. Assoc. Prof. PhD. TRANG SI TRUNG
2. Assoc. Prof. PhD. NGUYEN ANH TUAN
Intitution Nha Trang University :
Key findings:
- The data of chemical composition of the Loligo sp. squid pens in Kien Giang
province will be reported that can be used for futher studies and improve seafood
processing.
- The extraction conditions of -chitin with commercial standard from squid
pens will be reported. The obtained -chitin with a high molecular weight can be used
to prepare chitosan with a high purity and high molecular weight for various
applications. Those extraction conditions can be applied in large scale production.
- The deacetylation conditions of -chitin for chitosan with commercial
standard (Mw > 6338 kDa, DD >90%) will be reported. The obtained chitosan can be
used for biomedicine, biopharmacy, and food technology applications. Those
deacetylation conditions can be applied in large scale production.
- The antibacterial activity of chitosan against Erwinia carotovora caused soft
rot on tomato fruits in vitro and in vivo will be reported. The low moleculer weight of
chitosan is used, the high activity is observed.
Ph.D Student
Hoang Ngoc Cuong
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp chế
biến và xuất khẩu thủy sản, hằng năm đã thải ra hàng chục ngàn tấn phế liệu sau chế
biến. Tuy nhiên, hầu hết các phế liệu này chỉ được bán thô hoặc chế biến để tạo ra các
sản phẩm có giá trị kinh tế thấp gây lãng phí tài nguyên, trong khi đây là nguồn
nguyên liệu có thể sản xuất ra các sản phẩm có giá trị gia tăng và chất lượng cao.
Trong đó, hướng nghiên cứu thu nhận và ứng dụng các polyme sinh học tách chiết từ
nguồn phế liệu thủy sản đang rất được quan tâm của các nhà quản lý, nhà khoa học và
doanh nghiệp.
Trong số nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng từ phế liệu thủy sản, chitin và
chitosan (sản phẩm của quá trình deacetyl chitin) là 2 polyme sinh học được chứng
minh có nhiều tính chất đặc biệt như khả năng tương thích sinh học cao, khả năng tạo
màng, tạo gel, tính phân giải chậm, tính kháng oxy hóa, kháng nấm, kháng khuẩn. Do
đó, chitin và chitosan đã và đang được nghiên cứu thu nhận và ứng dụng nhiều trong
các lĩnh vực y dược, y sinh, công nghệ thực phẩm, xử lý môi trường, dệt nhuộm, công
nghệ sinh học. Ước tính mỗi năm có khoảng 10.000 tấn chitin và chitosan đã được sản
xuất, sử dụng trên toàn thế giới nhưng hầu hết được thu nhận từ vỏ tôm, vỏ cua, vỏ
ghẹ. Tuy nhiên, α-chitin/chitosan thường có độ rắn cao, khối lượng phân tử thấp và độ
tinh sạch chưa cao vì bản chất của nguồn nguyên liệu thu nhận là vỏ giáp xác có chức
năng bảo vệ cơ thể sinh vật bên trong nên được cấu tạo rất phức tạp và rắn chắc. Hơn
nữa trong nguyên liệu vỏ giáp xác ngoài thành phần chitin còn chứa nhiều khoáng,
protein và chất màu nên quá trình sản xuất cần qua nhiều công đoạn tách chiết, sử
dụng nhiều hoá chất gây ô nhiễm.
Mai mực ống có chứa hàm lượng khoáng thấp, lượng β-chitin khá cao (> 35%),
chitin này có khối lượng phân tử lớn gấp 3 lần α-chitin và hầu như không chứa các
kim loại nặng như Pb, Hg, As nên có độ tinh khiết cao [36, 79, 95]. Do đó, đây là
nguồn nguyên liệu cần thiết để sản xuất ra loại β-chitin/chitosan có khối lượng phân tử
lớn và độ tinh khiết cao để ứng dụng trong lĩnh vực như tạo gel trong mỹ phẩm, màng
kháng viêm, màng phân giải thuốc, chỉ khâu cấy ghép trong phẫu thuật, kỹ thuật mô
cấy ghép da nhân tạo [54, 89, 151]. Ngoài ra, β-chitin/chitosan đã được chứng minh có
độ rắn thấp, độ xốp cao nên dễ dàng deacetyl và được ứng dụng trong nuôi cấy mô, cố
định tế bào và enzyme, phân giải thuốc chậm mà các tính chất này vượt trội so với α-
2
chitin/chitosan. Tại Việt Nam, nguồn phế liệu mai mực thải ra sau quá trình chế biến
ước tính đạt khoảng 10-15 tấn/tháng [58, 8]. Tuy nhiên, nguồn phế liệu này chủ yếu là
phơi khô, bán thô với giá thành thấp, do đó gây lãnh phí tài nguyên. Trong khi, đây là
nguồn nguyên liệu quý để thu nhận chitin/chitosan chất lượng cao. Hơn nữa theo chúng
tôi tìm hiểu thì chưa có một nghiên cứu chính thức và có hệ thống đầy đủ nào được công
bố tại Việt Nam về quy trình thu nhận, đánh giá tính chất và ứng dụng β-chitin/chitosan
tách chiết từ mai mực ống.
Xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2012-2016 ước đạt 15 tỷ USD/năm,
góp phần đáng kể phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, công nghệ sau thu hoạch chưa
được áp dụng hiệu quả nên chất lượng nông sản còn thấp, hạn chế khả năng xuất khẩu,
tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch ở mức cao. Trong đó, bệnh thối nhũn trên trái cà chua
gây ra bởi vi khuẩn Erwinia sp. đã và đang gây thiệt hại 10-30% tổng sản lượng sau
thu hoạch [25, 77, 9]. Các hóa chất thường dùng để kháng bệnh này là thủy ngân clorua,
dung dịch formaldehyde, dung dịch natri hypocloric 12%, hydroxymercurinitrophenol
12% và hydromercurichloride phenol 2% [24, 25, 9]. Đây là các hóa chất độc hại đối với
người nông dân và người tiêu dùng nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Ngoài ra, một
số kỹ thuật di truyền để kiểm soát bệnh trước và sau thu hoạch cũng được áp dụng.
Tuy nhiên, các kỹ thuật này có giá thành cao và khó triển khai thực tế ở qui mô lớn.
Do đó, những phương pháp sử dụng các hợp chất có nguồn gốc tự nhiên và an toàn
như chitosan là rất cần thiết. Thực tế, chitosan điều chế từ α-chitin đã được nghiên cứu
và sử dụng để kháng khuẩn và kháng nấm có hiệu quả trong quá trình bảo quản sau thu
hoạch trên nhiều đối tượng như bơ, xoài, nho và ớt [25, 9]. Các kết quả nghiên cứu cho
thấy chitosan thu được từ β-chitin có tính kháng khuẩn và kháng nấm cao hơn so với
thu được từ α-chitin [79, 134]. Do đó, chitosan này được kỳ vọng sẽ có hiệu quả kháng
khuẩn cao đối với vi khuẩn Erwinia sp. gây ra bệnh thúi nhũn trên trái cà chua.
Từ những vấn đề thực tế được nêu, luận án này tiến hành nội dung “Nghiên cứu
thu nhận và đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên cà
chua sau thu hoạch của chitosan từ mai mực ống”. Đây là vấn đề cần thiết làm cơ sở
khoa học để thu nhận các sản phẩm β-chitin và chitosan có giá trị cao từ mai mực ống ở
Việt Nam và nâng cao giá trị kinh tế của nguồn phế liệu mực ống. Đồng thời, chứng
minh và bổ sung đầy đủ hơn về khả năng kháng khuẩn của chitosan từ -chitin làm đa
dạng hóa các ứng dụng của chitosan trong sản xuất nông nghiệp bền vững.
3
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Thu nhận -chitin đạt tiêu chuẩn thương mại từ nguồn phế liệu mai mực
Loligo sp. thải ra sau quá trình chế biến mực ống xuất khẩu.
2. Sản xuất chitosan đạt tiêu chuẩn thương mại từ -chitin thu nhận ở trên.
3. Đánh giá hiệu quả kháng khuẩn của chitosan đối với bệnh thối nhũn trên trái
cà chua sau thu hoạch do vi khuẩn Erwinia sp. gây ra.
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu trên đối tượng phế liệu mai mực Loligo
sp. được thu nhận tại các nhà máy chế biến thủy sản thuộc tỉnh Kiên Giang thải ra sau
quá trình chế biến mực ống xuất khẩu ở dạng tươi, có chiều dài từ 12-15 cm, rộng 1,0-
1,5 cm và độ dày trung bình 0,4 - 0,5 mm.
Phạm vi và nội dung nghiên cứu: Để đạt được 3 mục tiêu nghiên cứu, luận án tập
trung nghiên cứu, đánh giá làm rõ 4 nội dung:
1. Xác định thành phần hóa học cơ bản, các acid amin và kim loại của nguồn phế
liệu mai mực Loligo sp.
2. Khảo sát, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nồng độ NaOH, nồng độ HCl,
nhiệt độ và thời gian đến quá trình khử protein, khử khoáng để thu nhận sản phẩm -
chitin đạt tiêu chuẩn thương mại và hạn chế đến mức thấp nhất quá trình cắt mạch -
chitin trong quá trình thu nhận.
3. Khảo sát, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nồng độ NaOH, nhiệt độ và thời gian
đến quá trình deacetyl -chitin để thu nhận sản phẩm chitosan đạt tiêu chuẩn thương mại và
hạn chế đến mức thấp nhất quá trình cắt mạch chitosan trong quá trình deacetyl.
4. Phân lập, định danh chủng vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên trái cà
chua sau thu hoạch tại các chợ đầu mối nông sản. Khảo sát, đánh giá khả năng kháng
khuẩn của -chitosan với khối lượng phân tử khác nhau đối với vi khuẩn Erwinia sp.
gây bệnh thối nhũn trên trái cà chua ở điều kiện in vitro và in vivo.
4
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
1. Luận án đã xác định được thành phần hóa học của nguồn phế liệu mai mực Loligo
sp. tại các nhà máy chế biến thủy sản thuộc tỉnh Kiên Giang, làm cơ sở khoa học cho
các nghiên cứu tiếp theo.
2. Luận án đã xác định được điều kiện thu nhận sản phẩm -chitin đạt tiêu
chuẩn thương mại. Sản phẩm -chitin thu được có khối lượng phân tử lớn và là nguồn
nguyên liệu tiềm năng để sản xuất chitosan tinh khiết dùng trong các lĩnh vực kỹ thuật
cao. Điều kiện thu nhận có thể ứng dụng sản xuất ở qui mô lớn.
3. Luận án đã xác định được điều kiện deacetyl -chitin thu nhận chitosan đạt
tiêu chuẩn thương mại, sản phẩm chitosan có độ deacetyl cao và khối lượng phân tử
lớn. Sản phẩm chitosan thu được là nguồn nguyên liệu tiềm năng để sản xuất các oligo
chitosan và các chế phẩm từ chitosan có thể ứng dụng trong các lĩnh vực kỹ thuật cao
như y dược, y sinh và công nghệ thực phẩm. Điều kiện deacetyl có thể ứng dụng sản
xuất ở qui mô lớn.
4. Luận án đã đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn
trên trái cà chua sau thu hoạch ở điều kiện in vitro và in vivo khi sử dụng -chitosan có
khối lượng phân tử khác nhau. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở ứng dụng chitosan trong
bảo quản nông sản sau thu hoạch và cơ sở khoa học cho các nghiên cứu hoạt tính
kháng khuẩn của chitosan.
5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. TIỀM NĂNG SỬ DỤNG PHẾ LIỆU MAI MỰC ỐNG LOLIGO SP. ĐỂ THU
NHẬN -CHITIN
1.1.1. Giới thiệu về nguyên liệu mực ống Loligo sp. và phế liệu từ mực sau chế biến
Ở Việt Nam, hiện có khoảng 25 loài mực ống thuộc bộ Teuthida, tập trung
nhiều nhất ở vùng nước sâu khoảng 30-50 m. Mùa vụ khai thác từ tháng 6 đến tháng 9
(vụ Nam) và tháng 12 đến tháng 4 năm sau (vụ Bắc), trong đó chủ yếu có 4 loài được
đánh bắt với số lượng chiến trên 96% tổng sản lượng, bao gồm: Loligo japonica,
Loligo chinensis, Loligo beka và Todarodes pacificus.
Mực ống Loligo sp. (Hình 1.1a) được phân loại [58]:
Ngành động vật thân mềm Mullusca
Lớp chân đầu Cephalopoda
Bộ mực ống Teuthida
Họ Loliginidae
Chi Loligo
Hình 1.1. Thống kê giá trị xuất khẩu mực, bạch tuộc; (a) Mực ống Loligo sp. (b)
Mai mực.
6
Mực ống Loligo sp. có giá trị xuất khẩu cao với sản lượng khai thác trên toàn
vùng biển Việt Nam vào khoảng 24.000 tấn/năm. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội
chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), hiện nay các mặt hàng từ mực,
bạch tuộc của Việt Nam đang được xuất khẩu sang 25 thị trường trong đó có các thị
trường khó tính như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Châu Âu với tổng kim ngạch đạt 390-460
triệu USD/năm, trong đó giá trị xuất khẩu từ mực chiếm 55-65%, ước đạt 165 triệu
USD [1, 8]. Kết quả khảo sát cho thấy cứ sản xuất được 1 tấn mực thành phẩm sẽ thải
ra 0,45 tấn phế liệu, tỷ lệ này phụ thuộc vào loài, kích thước mực nguyên liệu. Hiện
nay, hầu hết các phế liệu này được thu gom và tận dụng để sản xuất các sản phẩm phụ
dùng trong thức ăn chăn nuôi.
Mai mực chiếm tỷ lệ khoảng 0,4-0,5% trọng lượng của toàn thân mực ống nguyên
liệu tươi hoặc 10-15% phế liệu nội tạng mực thải ra sau quá trình chế biến (Hình 1.1b).
Theo số liệu thống kê của Công ty Việt Nam Food thuộc tỉnh Cà Mau (VNF), lượng phế
liệu từ chế biến mực ống được công ty thu mua mỗi tháng khoảng 130 tấn. Do đó,
lượng mai mực thu được ước đạt trung bình 10-15 tấn/tháng. Tuy nhiên, hiện nay
nguồn nguyên liệu này chủ yếu là được phơi khô và bán thô cho các nhà máy chế biến
làm thức ăn chăn nuôi hoặc bán trực tiếp cho các thương lái sang thị trường Trung Quốc
với giá trị thấp.
1.1.2. Cấu trúc và thành phần hóa học của nguyên liệu mai mực ống Loligo sp.
Nguồn nguyên liệu khác nhau dẫn đến qui trình chiết rút chitin có khác nhau, tùy
thuộc vào hàm lượng khoáng và protein có trong phế liệu. Do đó thành phần hóa học
của nguồn nguyên liệu được xem là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn qui trình tách
chiết và chất lượng của sản phẩm chitin thu được. Kết quả tổng hợp về thành phần hóa
học một số nguồn phế liệu thủy sản thông dụng để sản xuất chitin hiện nay được trình
bày trong Bảng 1.1. So sánh các thành phần cho thấy, vỏ cua có hàm lượng khoáng
cao nhất, lên đến 56%, trong khi hàm lượng chitin lại thấp nhất, chỉ có 12,9%. Do đó,
việc thu nhận chitin từ vỏ cua gặp nhiều khó khăn trong quá trình loại khoáng trong
khi hiệu quả thu nhận chitin thấp.
7
Bảng 1.1. Thành phần hóa học trong nguyên liệu của một số loại phế liệu thủy
sản thông dụng để sản xuất chitin
Thành phần hóa học (%)
TLTK
Nguồn phế liệu
Độ ẩm Protein Khoáng Lipid α-Chitin
Tôm sú (Penaeus monodon)
Phế liệu vỏ đầu tôm
26,8
29,3
0,5
34,9
9,1
[2]
Phế liệu vỏ tôm
42,8
20,8
1,2
36,5
9,7
Vỏ tôm thẻ (Penaeus vannamei)
26,1
26,6
-
27,3
-
[158]
Vỏ tôm (Crangon crangon)
40,6
27,1
9,9
17,8
-
Vỏ tôm (Pandalus borealis)
41,9
29,2
10,2
17,0
-
[3]
Cua xanh (Callinectes sapidus)
4,5
24,0
56,0
2,0
12,9
Ghẹ chấm (Portunus trituberculatus)
12,9
10,3
57,9
0,3
17,1
Đối với phế liệu vỏ tôm có hàm lượng lipid tương đối cao, ví dụ vỏ tôm
Pandalus borealis (10,2%) do đó cần phải lưu ý công đoạn xử lý lipid. Tuy nhiên,
thông thường lượng lipid này có thể được loại bỏ trong công đoạn khử protein trong
môi trường kiềm. Như vậy, để thu nhận chitin từ nguyên liệu vỏ tôm, cua và ghẹ thì
bắt buộc phải tiến hành quá trình khử khoáng và khử protein.
Thành phần hóa học có trong mai của một loài mực đã được công bố trong các
nghiên cứu trước đây được tổng hợp ở Bảng 1.2. So với các nguồn phế liệu vỏ tôm,
cua và ghẹ, phế liệu mai mực có hàm lượng chitin cao hơn nhiều (khoảng 31-42%)
trong khi đó hàm lượng khoáng lại rất thấp (dưới 2%). Hàm lượng lipid cũng rất thấp
hoặc không phát hiện. Do đó, khi tách chiết thu nhận chitin có thể bỏ qua quá trình
khử khoáng và khử lipid mà chỉ tập trung vào quá trình khử protein.
8
Bảng 1.2. Thành phần hóa học trong một số mai mực
β-chitin
Protein
Lipid
CaCO3
Khoáng
TLTK
Nguyên liệu
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
[47]
2,3
Illex argentinus
31,0
64,0
0,1
Ommastrephes bartrami
[93]
35-40
58,0
-
-
-
[81]
Dosidicus gigas
-
-
-
< 1%
-
[36]
Loligo lessoniana
36,1
-
-
0,025
-
Loligo formosana
36,5
-
-
0,042
-
Loligo sanpaulensis
[95]
40-42
-
-
1,9
-
Loligo plei
[154]
Loligo vulgaris
40,0
-
-
1,7
-
Khi phân tích thành phần khoáng trong mai mực và trong vỏ tôm thẻ Penaeus
vanamei (Bảng 1.3) cho thấy hàm lượng các nguyên tố Ca, Fe, K, Mg, Na và Zn trong
mai mực thấp hơn rất nhiều lần so trong vỏ tôm. Ví dụ, hàm lượng Ca trong mai mực
Loligo lessoniana là 17,74 ppm trong khi trong vỏ tôm là 4856 pmm, cao gấp 250 lần.
Hơn nữa, đáng chú ý là các kết quả công bố đều cho thấy mai mực không chứa các
kim loại nặng như Hg, Pb và As. Như vậy, phế liệu mai mực ống là nguồn nguyên liệu
tiềm năng để thu nhận -chitin có độ tinh khiết cao.
Bảng 1.3. Thành phần khoáng của nguyên liệu mai mực
Ca
Fe
K Mg Na
Zn
Khoáng
TLTK
Nguyên liệu
(%)
(ppm)
Illex argentinus
1,00
170
-
210
100
450
-
[47]
0,04
17,74 7,73
-
3,30
-
-
[36]
Loligo lessoniana; Loligo formosana
Loligo sp.
2,4
1025
30
255 1220 8540 200
[38]
1,9
94,5
3,5
-
11,7
-
-
[95]
Loligo plei; Loligo sanpaulensis
Vỏ tôm thẻ (Penaeus vanamei)
26,6
4856 15,67 2437
-
1594 11,8
[2]
9
Trong nguyên liệu, chitin tồn tại dưới dạng liên kết với các thành phần như
protein, chất khoáng, chất màu, lipid và các hợp chất khác với hàm lượng biến đổi tùy
theo loại nguyên liệu, nên trong quá trình tách chiết, thu nhận chitin cần phải khử các
hợp chất phi chitin này. Có nhiều nghiên cứu công bố về sự tồn tại các liên kết này,
trong đó các nghiên cứu của Rinaudo (2006) và Lavall (2007) cho thấy chitin tồn tại
dưới dạng liên kết với các thành phần khác như protein, cacbonat canxi và nhiều hợp
chất hữu cơ khác dưới dạng phức hợp gây khó khăn cho việc tách chiết và thu nhận
chitin [95, 134].
Hình 1.2. Mô hình cấu trúc chitin trong mai mực nguyên liệu [112, 170].
Tương tự, Armenta (2009) và Nikolov (2010) đã đưa ra mô hình mô tả chitin
trong nguyên liệu được bao bọc bởi các sợi xoắn protein tạo nên cấu trúc vững chắc bảo
vệ cơ thể sinh vật (Hình 1.2 và Hình 1.3) [16, 112], nghiên cứu cho thấy cấu trúc chitin
trong lớp biểu bì có các thuộc tính bất đẳng hướng, các mô khoáng liên kết chặt chẽ với
các sợi chitin-protein tạo nên cấu trúc dạng tấm và được vôi hóa bằng các muối
cacbonat canxi làm cho lớp vỏ có độ cứng chắc bảo vệ cơ thể sinh vật mềm yếu bên
trong.
10
Hình 1.3. Một kiểu mô phỏng những liên kết hóa học có thể tạo ra giữa chitin với
astaxanthin và các phân tử khác trong nguyên liệu [16].
Các kết quả nghiên cứu Kristbergsson, Einrsson và Peter năm 2003 cũng cho
thấy chitin trong cấu trúc nguyên liệu có các liên kết rất chặt chẽ với các thành phần
khác như protein, cacbonat canxi, lipid, chất màu, khoáng chất và các hợp chất hữu cơ
khác gây khó khăn cho việc nghiên cứu tách chiết và thu nhận chitin (Hình 1.4).
Hình 1.4. Mô hình cấu trúc lớp vỏ tôm [88].
11
Mai mực ống là thành phần xương sụn bên trong các loài mực ống bao gồm
Loligo lessonicana, Loligo formosana, Loligo vulgaris, Ommasterphes bartrami, và
Illex argentines. Hiện nay, đây là nguồn duy nhất để thu nhận β-chitin [79]. Kết quả
ảnh quét điện tử (SEM) bề mặt mai mực ống nguyên liệu (Hình 1.5) cho thấy các lớp
chitin và protein được phân bố đan xen tạo nên cấu trúc sụn mềm của mai mực ống.
Hình 1.5. Ảnh quét kính hiển vi điện tử SEM của mai mực ống [95].
Như vậy, do hàm lượng các thành phần khoáng và màu trong mai mực rất thấp
hơn so với trong vỏ tôm, cua và ghẹ nên qui trình thu nhận chitin/chitosan từ mai mực
có thể bỏ qua 2 công đoạn khử khoáng và khử màu. So sánh các công đoạn thu nhận
chitin từ các nguồn khác nhau được trình bày trong Hình 1.6.
Qui trình sản xuất chitin thông thường gồm các công đoạn tách protein, tách
khoáng và tẩy màu. Đối với công đoạn tẩy màu ở các nước nhiệt đới như Việt Nam
thường thực hiện kết hợp với quá trình phơi khô trực tiếp sản phẩm chitin dưới ánh
nắng mặt trời. Sau đó quá trình deacetyl chitin được thực hiện nhằm tách nhóm acetyl
thu nhận sản phẩm chitosan (deacetylation). Hiện nay, tất cả các công đoạn trên có thể
thực hiện thông qua 3 phương pháp: Phương pháp hóa học, phương pháp sinh học và
phương pháp kết hợp hóa học và sinh học tùy theo loại nguyên liệu, công nghệ, và yêu
cầu về chất lượng sản phẩm chitin và chitosan mà các điều kiện xử lý sẽ khác nhau.
12
Hình 1.6. Quy trình thu nhận chitin/chitosan từ các nguồn nguyên liệu khác nhau.
1.1.3. Các nghiên cứu trong và ngoài nước về thu nhận β-chitin/chitosan
Mặc dù có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về thu nhận và ứng dụng của
chitin và chitosan. Tuy nhiên cho đến nay hầu hết các nghiên cứu này chỉ tập trung vào
thu nhận chitin và chitosan từ vỏ tôm. Chitosan thương mại cũng được thu chính từ vỏ
tôm. Chỉ có một số ít các công trình nghiên cứu thu nhận chitin và chitosan từ các
nguồn khác như cua, ghẹ, nấm và mai mực. Tại Việt Nam chưa có một công trình
nghiên cứu nào trước Luân án này về điều kiện thu nhận chitin và chitosan từ mai
13
mực. Các nghiên cứu chính đã được công bố ngoài nước liên quan đến đề tài, bao
gồm:
Tolaimate và cộng sự (2000) đã sử dụng mai mực ống Loligo vulgaris để xử lý
thu nhận -chitin. Trong quá trình xử lý, mai mực được loại khoáng trước trong dung
dịch acid HCl 0,55M, tỷ lệ 1/10 (w/v) ở nhiệt độ phòng, quá trình này được lập lại 2
lần, mỗi lần 2 giờ, sau đó tiếp tục khử protein trong dung dịch NaOH 0,3M, tỷ lệ 1/10
(w/v) ở nhiệt độ 80-85C, quá trình này cũng được lập lại 2 lần, mỗi lần 1 giờ. Mục
đích của việc xử lý nhiều lần trong thời gian ngắn là để hạn chế đến mức thấp nhất quá
trình cắt mạch chitin trong khi xử lý. Tuy nhiên, quá trình khử khoáng cũng dẫn đến sự
cắt mạch của chitin. Đồng thời, việc xử lý nước thải của quá trình khử khoáng cũng
dẫn đến tăng chi phí sản xuất và đặc biệt khi áp dụng ở quy mô công nghiệp.
Pawadee Methacanon và cộng sự (2003) thu nhận chitin và chitosan từ loài mực
ống Loligo formosana Sasaki, Thái Lan. Quá trình thu nhận chitin được tiến hành theo
2 bước: khử khoáng được thực hiện trong HCl 0,1M, tỷ lệ 1/10 (w/v) trong 12 giờ ở
nhiệt độ 30oC và khử protein ở NaOH 3M, tỷ lệ 1/10 trong 3 giờ ở 80-85oC. Sau đó,
chitin được tiến hành deacetyl thu nhận chitosan trong điều kiện: NaOH 60%, nhiệt độ
80C và thời gian 2 giờ. Chitosan thu được có DD > 90%. Mặc dù các điều kiện xử lý
khá phù hợp nếu đưa vào sản xuất ở qui mô lớn. Tuy nhiên, quá trình khử khoáng cũng
dẫn đến sự cắt mạch của chitin và cần tiến hành bước xử lý nước thải của quá trình
này.
Chaussard và Alain Domard (2004) đã nghiên cứu thu nhận β-chitin từ mai mực
ống (loligo) đánh bắt tại biển Ả-rập. Chitin thu nhận được từ mai mực thông qua khử
khoáng (HCl 1M, 24 giờ, nhiệt độ phòng) và khử protein (NaOH 1M, 24 giờ, nhiệt độ
phòng). Sản phẩm chitin chứa hàm lượng protein (1,9 1 wt.%) và khoáng (0,1 wt.%).
Mặc dù kết quả phân tích ICP cho thấy hàm lượng khoáng trong mai mực nhỏ (2,4
wt.%) nhưng các tác giả vẫn tiến hành bước khử khoáng. Điều này cũng có thể dẫn
đến sự cắt mạch chitin và tăng chi phí sản xuất, xử lý nước thải.
Chandumpai và cộng sự (2004) đã tách chiết và đánh giá tính chất β-chitin thu
được từ mai của mực Loligo lessoniana và Loligo formosana. Qui trình thu nhận bỏ
qua bước khử khoáng. Quá trình khử protein (NaOH 1M, tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch
1:13 (w/v), 50oC, 5 giờ). Sản phẩm chitin có hàm lượng khoáng không phát hiện với
14
hiệu suất thu hồi chitin là 35 – 38%. Quy trình thu nhận đã bỏ qua bước khử khoảng
bằng dung dịch HCl sẽ giảm sự cắt mạch của chitin, giảm chi phí sản xuất.
Quá trình deacetyl tiến hành trong dung dịch NaOH 50% (w/v), tỷ lệ nguyên
liệu/dung dịch 1:15 (w/v), 100oC và 8 giờ. Sản phẩm chitosan có khối lượng phân tử
9,50 0,12 x 106 Da (Loligo lessoniana) 9,69 0,10 x 106 Da (Loligo formosana) và
độ deacetyl là gần 90% đối với cả 2 loài sau thời gian 8 giờ. Mặc dù sản phẩm thu
được có khối lượng phân tử và độ deacetyl cao nhưng việc xử lý ở nhiệt độ cao có thể
gây cắt mạch chitosan và tăng chi phí sản xuất.
Rodrigo L. Lavall và cộng sự (2007) đã nghiên cứu thu nhận chitin trên mai
mực của 2 loài Loligo plei và Loligo sanpaulensis thu nhận ở Brazil. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hàm lượng chitin trong mai mực chiếm 40-42% tổng trọng lượng khô
tuyệt đối, do hàm lượng khoáng trong mai mực nguyên liệu thấp nên chỉ cần xử lý
kiềm 2 lần là đủ điều kiện hàm lượng khoáng còn lại trong chitin nhỏ hơn 1%. Tuy
nhiên, tác giả mới dừng lại ở việc thu nhận chitin, đánh giá tính chất hóa lý của sản
phẩm thu được mà chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng của điều kiện thu nhận đối với sự
cắt mạch của chitin, quá trình deacetyl thu nhận chitosan, tính chất sinh học của các
sản phẩm.
Barwin Vino và cộng sự (2011) đã công bố kết quả điều kiện thu nhận -chitin
và chitosan từ mai mực ống Doryteuthis sibogae tại Ấn Độ. Mai mực sau khi rửa sạch,
sấy khô, cắt nhỏ và khử khoáng trước ở điều kiện dung dịch HCl 2N ở nhiệt độ phòng,
thời gian 24 giờ với tỷ lệ nguyên liệu và dung dịch HCl là 1/5. Sau quá trình khử
khoáng mai mực được rửa sạch đến trung tính và tiếp tục được xử lý khử protein trong
điều kiện NaOH 1N ở nhiệt độ phòng, trong thời gian 24 giờ với tỷ lệ nguyên liệu và
dung dịch là 1/5. Kết quả đánh giá cho thấy hàm lượng -chitin đạt 33% và hàm lượng
protein từ 60-65% tổng trọng lượng khô tuyệt đối mai mực nguyên liệu, và có DD >
45%. Hàm lượng khoáng còn lại rất thấp, cụ thể: Mn (0.260ppm), Cu (0.905ppm), Mg
(11.01ppm) và Ca (24ppm). Quá trình deacetyl được thực hiện trong dung dịch NaOH
40% ở nhiệt độ 110C, trong 6 giờ với tỷ lệ nguyên liệu và dung dịch là 1/5. Chitosan
thu được có màu trắng, có DD > 78%. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành quá
trình khử khoáng bằng HCl. Do đó, nó cũng dẫn đến cắt mạch chitin, tăng chi phí sản
xuất. Ngoài ra, quá trình deacetyl tiến hành ở nhiệt độ cao, chitosan thu được có độ
deacetyl thấp cũng là các nhược điểm của phương pháp thu nhận.
15
Youn và cộng sự (2012, 2013) đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về thu nhận
chitin và chitosan từ mai mực Todarodes pacifica thu tại Hàn Quốc. Điều kiện tối ưu
cho quá trình thu nhận chitin: khử protein trong dung dịch NaOH 3%, thời gian 30
phút, nhiệt độ 121oC, áp suất 15 psi, tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch là 1/10; khử khoáng
trong dung dịch HCl 1N, thời gian 30 phút, nhiệt độ phòng, tỷ lệ nguyên liệu/dung
dịch là 1/10. Chitin thu được có hàm lượng protein (6,29% Nitơ) và khoáng thấp
(0,25%). Điều kiện deacteyl thu nhận chitosan: dung dịch NaOH 35-45%, thời gian
15-60 phút, nhiệt độ 121oC, áp suất 15 psi, tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch là 1/10. Độ
deacetyl của chitosan thu được là 87,1-96,2%. Mặc dù, sản phẩm thu được có chất
lượng tốt nhưng do quá trình xử lý ở nhiệt độ (121oC) và áp suất cao (15 psi), có khử
khoáng bằng HCl sẽ dễ dẫn đến cắt mạch chitin và chitosan, đồng thời khó khắn khi áp
dụng sản xuất ở qui mô công nghiệp.
Jung và cộng sự (2011, 2012, 2013) có những nghiên cứu hệ thống và tương đối
đầy đủ về thu nhận, đánh giá tính chất của chitin và chitosan từ mai mực Dosidicus
gigas thu tại công ty chế biến của Hoa Kỳ (Dosidicus LLC). Điều kiện tối ưu cho quá
trình thu nhận chitin: khử protein trong dung dịch NaOH 5%, thời gian 72 giờ, nhiệt
độ phòng, tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch là 1/10; bỏ qua quá trình khử khoáng. Quá trình
deacteyl thu nhận chitosan tiến hành theo hai phương pháp: (1) dung dịch NaOH 50%,
thời gian 6 giờ, nhiệt độ 90oC thu được chitosan có độ deactyl 97%, (2) dung dịch
NaOH 40%, thời gian 4 giờ, nhiệt độ 90oC thu được chitosan có độ deactyl 86%. Sản
phẩm chitin và chitosan có chất lượng tốt. Các tính chất hóa lý đã được đánh giá và
hoạt tính sinh học của chitosan thu được gồm hoạt tính kháng khuẩn (E. Coli và L.
innocua) và tính chất chống oxy hóa đã được khảo sát. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
chỉ tập trung vào một đối tượng mai mực (Dosidicus gigas), các nghiên cứu hoạt tính
sinh học mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu in vitro.
1.2. TỔNG QUAN VỀ β-CHITIN VÀ CHITOSAN
1.2.1. Cấu trúc hóa học, nguồn gốc tự nhiên và tính chất của các dạng chitin
Chitin là thành phần chính trong cấu trúc lớp vỏ của động vật chân đốt như vỏ
tôm, cua, ghẹ; trong xương của động vật thân mềm như mai mực, trong tảo và trong
thành vách tế bào nấm, nấm men [47, 93, 109]. Chitin được cấu tạo từ các đơn vị N-
acetyl-D-glucosamine (NADG) liên kết với nhau bằng các liên kết β-1,4-glucozid
được mô tả ở Hình 1.7.
16
Hình 1.7. Cấu trúc hóa học phân tử chitin.
Dựa trên nguồn gốc và cấu trúc hóa học, chitin được chia làm 3 dạng: Dạng α-
chitin đã được thương mại hóa và có nguồn thu nhận từ vỏ tôm, vỏ cua, vỏ ghẹ. Trong
khi dạng β-chitin thu nhận từ mai mực và dạng γ-chitin thu nhận từ vách tế bào nấm,
nấm men [10, 36, 57, 80, 85, 95]. Ba dạng chitin này khác nhau về số mạch chitin, sự
sắp xếp các mạch này và kích thước của chúng trong mỗi đơn vị cấu trúc (Hình 1.8).
Cụ thể, α-chitin gồm các mạch chitin sắp xếp song song ngược chiều nhau (Hình 1.8a)
và được thu nhận từ vỏ tôm, vỏ cua và vỏ ghẹ. Còn β-chitin gồm các mạch chitin sắp
xếp song song cùng chiều (Hình 1.8b), có tính hydrat hóa cao và được thu nhận chủ
yếu từ mai mực ống. Trong khi, γ-chitin là sự kết hợp của 2 dạng α và β (Hình 1.8c) và
thường được thu nhận từ vách tế bào nấm và vách tế bào vi khuẩn. Các cấu trúc khác
nhau dẫn đến tính chất cũng khác nhau. Cụ thể, α-chitin có độ rắn tinh thể (CrI) cao
nhất, còn β-chitin thì có độ rắn thấp nhất.
Hình 1.8. Sự sắp xếp của chuỗi chitin: (a) α-chitin, (b) β-chitin, (c) γ-chitin.
17
Sự khác biệt này ảnh hưởng đến đến tính hydrat hóa, độ rắn tinh thể của từng
dạng chitin, do đó ảnh hưởng đến khả năng khử gốc acetyl và dạng cấu trúc mạch tinh
thể trong dung môi hòa tan, điều này quyết định các tính chất chức năng sinh học đặc
biệt là khả năng kháng khuẩn của chúng [36, 93, 169].
Cấu trúc phân tử và các liên kết chính của hai dạng -chitin và β-chitin được
biểu diễn trong Hình 1.9. Từ cấu trúc phân tử có thể thấy chitin có cấu trúc chặt chẽ
nên rất khó bị hòa tan trong các dung môi khác nhau. Thực tế, chitin chỉ hòa tan được
trong một số dung dịch acid đậm đặc như HCl, H3PO4 và dimethylacetamide (DMAc)
chứa 5% lithium chloride.
Hình 1.9. Cấu trúc phân tử (a) α-chitin (b) β-chitin [21, 57].
Đặc biệt, các liên kết hydro nội phân tử giữa các nhóm hydroxyl và acetamide
được mô tả cụ thể hơn trong Hình 1.10. Trong đó cho thấy, các chuỗi chitin là tổ chức
ở dạng tấm sắp xếp song song và chúng được liên kết chặt chẽ với nhau thông qua các
liên kết hydro nội phân tử của các nhóm amin và carbonyl (C-O ··· NH) chạy dọc theo
một trục và có khoảng cách khoảng 0,47 nm. Đáng lưu ý là trong cấu trúc của α-chitin
có một số liên kết hydro giữa các tấm dọc theo trục b của các mạch đơn vị do các
nhóm hydroxymethyl của chuỗi liền kề, tính năng đặc biệt này không được tìm thấy
trong cấu trúc của β-chitin [94,100,106]. Điều này đã tạo ra sự khác biệt về cả tính
chất hóa lý và hoạt tính sinh học của các dạng α-chitin và β-chitin. Nghiên cứu trước
đây cũng chỉ ra rằng β-chitin có tính trương nở với nước cao hơn so với α-chitin [53].
18
Hình 1.10. Cấu trúc α-chitin và -chitin [134].
Chitin tự nhiên có độ deacetyl dao động trong khoảng từ 8-12%, phân tử lượng
trung bình lớn hơn 1 triệu dalton. Tuy nhiên, chitin chiết rút từ vi sinh vật thì có phân
tử lượng thấp, chỉ khoảng vài chục ngàn dalton. Khi đun nóng chitin trong dung dịch
NaOH đặc thì chitin bị khử gốc acetyl tạo thành chitosan. Khi đun nóng chitin trong
dung dịch HCl đặc thì chitin sẽ bị thủy phân tạo thành các phân tử glucosamine có
hoạt tính sinh học cao.
Hình 1.11. Phổ XRD của α-chitin và β-chitin [95].
19
Phổ nhiễu xạ tia X (XRD) trong Hình 1.11 cho thấy độ kết tinh của của α-chitin
(85%) từ vỏ ghẹ cao hơn nhiều so với độ kết tinh của β-chitin (72%) từ mai mực ống
[95]. Các nghiên cứu đã chứng minh độ kết tinh, kích thước của tinh thể và mức độ
định hướng của các mạch có ảnh hưởng rất lớn đến lượng nước hấp thụ trong mạng
lưới polyme cũng như độ tan của chúng [68, 79, 95, 112, 123]. Vì vậy, nó sẽ ảnh
hưởng đến những ứng dụng tiềm năng của chitin như trong hệ dẫn thuốc, màng chữa
lành vết thương nơi mà ái lực với nước đóng vai trò rất quan trọng. Hơn nữa, sự khác
biệt giữa -chitin và β-chitin dẫn đến sự khác nhau về các tính chất hóa lý của
chitosan thu được khi tiến hành quá trình deacetyl. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
chitosan thu được từ β-chitin có độ rắn thấp và độ xốp cao được nghiên cứu và ứng
dụng trong nuôi cấy mô, cố định tế bào và enzyme [76, 87, 89]. Hoạt tính kháng khuẩn
và kháng nấm của β-chitosan cũng được chứng minh tốt hơn -chitosan [42, 79, 148].
Ngoài ra, khi sản xuất chitosan mạch ngắn để tăng độ kháng nấm, kháng khuẩn thì
nguyên liệu β-chitin dễ thực hiện cắt mạch hơn vì tính xốp cao, độ rắn thấp, độ trương
cao.
1.2.2. Cấu trúc hóa học và tính chất của chitosan
Chitosan là một dẫn xuất của chitin được hình thành khi tách nhóm acetyl khỏi
mạch chitin còn gọi là quá trình deacetyl hoá, vì vậy chitosan là polyme chứa rất nhiều
các đơn vị Glucosamine nên có rất nhiều nhóm amin. So sánh cấu trúc hóa học phân tử
của chitin và chitosan được trình bày trong Hình 1.12. Công thức cấu tạo của chitosan
gần giống như chitin và cellulose, chỉ khác là chitosan chứa nhóm amin ở cacbon vi trí
thứ 2.
Hình 1.12. Cấu trúc hóa học của chitosan.
20
Không giống như chitin chỉ tan trong một số ít hệ dung môi, chitosan tan tốt
trong các acid hữu cơ thông thường như acid formic, acid acetic, acid propionic, acid
citric, acid lactic.
Hằng số phân li acid (pKa) của chitosan có giá trị từ 6,2 đến 6,8 nên khi hoà tan
trong môi trường acid loãng chitosan tạo thành dung dịch keo dương, đây là một điểm
rất đặc biệt vì đa số các keo polysaccharit tự nhiên tích điện âm. Trong khi chitosan
tích điện dương nên có khả năng bám dính bề mặt trên các ion tích điện âm, có khả
năng tạo phức với các ion kim loại và tương tác tốt với các polyme tích điện âm [6].
Ngoài ra, loại dung môi acid cũng ảnh hưởng đến các hoạt tính sinh học của chitosan
khi hòa tan. Beverlya và cộng sự (2008) đã cho thấy chitosan trong dung môi axit
acetic có khả năng kháng khuẩn tốt hơn so với acid lactic.
Một số dung môi thường sử dụng để hòa tan chitosan được trình bày ở Bảng
1.4. Tuy nhiên cần chú ý là chitosan không hoà tan trong nước, trong dung dịch kiềm
và cồn.
Bảng 1.4. Các dung môi thường sử dụng để hòa tan chitosan [7]
Nồng độ thường sử dụng (%) Dung môi
Acid acetic 1-2
Acid formic 1-2
Acid lactic 1-2
Acid propionic 1-2
Acid HCl 0,25-0,5
Acid citric 5-10
Acid glutamic 1-3%
Acid ascorbic 1-2%
Các đặc tính như khả năng hút nước, khả năng hấp phụ chất màu, hấp phụ kim
loại, kết dính với chất béo, tính kháng khuẩn, kháng nấm, mang DNA, phân giải
chậm,… của chitosan phụ thuộc rất lớn vào độ deacetyl hóa. Chitosan có độ deacetyl
càng cao thì có khả năng hấp phụ chất màu, tạo phức với kim loại càng tốt. Tương tự,
khả năng kháng khuẩn, kháng nấm của chitosan cao hơn ở các mẫu chitosan có độ
21
deacetyl cao. Cụ thể, khả năng kháng khuẩn tốt đối với chitosan có độ deacetyl trên
90%. Tuy nhiên, khả năng hút nước của chitosan thì giảm đi khi tăng độ deacetyl. Kết
quả nghiên cứu của Trung (2010) cho thấy khả năng hút nước của chitosan có độ
deacetyl hóa thấp (75%) đạt đến 659% cao hơn nhiều so với chitosan có độ deacetyl
hóa cao chỉ đạt 486% [6, 7].
Bảng 1.5. Tính chất của chitosan ảnh hưởng bởi độ deacetyl [144]
Chitosan với độ deacetyl khác nhau Tính chất 75% 87% 96%
Độ nhớt (cP) 111,2 9,5 103,4 7,9 107,3 9,6
Tính thấm nước (%) 659 33 472 35 486 29
Độ tan (%) 99,4 0,1 99,6 0,3 99,5 0,2
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại chitosan với tính chất và chất lượng
rất khác nhau, thể hiện rất rõ ở hàm lượng protein, khoáng, độ deacetyl và độ nhớt
(Bảng 1.5 và 1.6) do đó các tính chất công nghệ cũng rất khác nhau.
Độ deacetyl của chitin và chitosan (DD) là một thông số quan trọng, đặc trưng
cho tỉ lệ liên kết giữa 2-acetamido-2-deoxy-D-glucopyranose với 2-amin-2-deoxy-D-
glucopyranose trong phân tử chitin và chitosan. Chitin có độ deacetyl thấp còn
chitosan thì có độ deacetyl cao, tức là chứa nhiều nhóm amin.
Bảng 1.6. Thành phần và tính chất của một số loại chitosan thương mại [43]
Sản Hàm lượng Hàm lượng Độ deacetyl Mật độ khối Độ nhớt
phẩm nitơ (%) khoáng (%) (%) (g/ml) (cP)
1 7,13 ± 0,00 0,3 ± 0,1 90,6 ± 0,0 0,26 ± 0,02 120 ± 3
2 7,16 ± 0,03 0,2 ± 0,1 89,9 ± 1,1 0,38 ± 0,01 444 ± 6
3 7,14 ± 0,08 1,0 ± 0,2 83,0 ± 0,0 0,28 ± 0,00 1928 ± 11
4 6,91 ± 0,28 0,2 ± 0,1 72,5 ± 0,0 0,38 ± 0,01 72 ± 3
5 7,00 ± 0,05 1,7 ± 0,3 86,9 ± 1,1 0,20 ± 0,01 768 ± 8
22
Ngoài độ deacetyl thì sự phân bố của các nhóm glucosamine cũng ảnh hưởng
đến tính chất của chitosan [111]. Cụ thể, chitosan phân bố dạng rời rạc thì dễ tan hơn
chitosan phân bố dạng khối.
+ Dạng phân bố rời rạc (random) của phân tử chitosan:
D-D-A-D-D-A-D-D-D-D-A-D-D-A-D-D-A-D-D-D-A-D-D-D-D-
+ Dạng phân bố dạng khối (block) của phân tử chitosan:
D-D-D-D-D-D-D-A-A-A-A-A-D-D-D-D-D-D-D-D-A-A-A-D-D-
Trong đó: D: D-glucosamine, A: N-acetyl glucosamine
Khối lượng phân tử trung bình của chitosan (Mw) là một thông số cấu trúc quan
trọng, nó quyết định tính chất của chitosan như khả năng kết dính, tạo màng, tạo gel,
khả năng hấp phụ chất màu, đặc biệt là khả năng ức chế vi sinh vật. Chitosan có phân
tử lượng càng lớn thì có độ nhớt càng cao. Thông thường, phân tử lượng của chitosan
nằm trong khoảng từ 100.000 dalton đến 1.200.000 dalton [43]. Phân tử lượng của
chitosan phụ thuộc vào nguồn chitin, điều kiện deacetyl và thường thì rất khó kiểm
soát. Tuy nhiên, chitosan có phân tử lượng thấp thì thường có hoạt tính sinh học cao hơn
nên có nhiều ứng dụng trong nông nghiệp, y học và công nghệ sinh học. Chitosan có phân
tử lượng lớn có khả năng tạo màng tốt và màng chitosan tạo thành có sức căng tốt. Độ
nhớt của chitosan phụ thuộc vào phân tử lượng. Chitosan có phân tử lượng thấp có độ
nhớt từ 30-200 cps và chitosan có phân tử lượng lớn hơn 1 triệu dalton có độ nhớt lên đến
3000-4000 cps. Ngoài ra, độ nhớt của chitosan còn phụ thuộc vào độ deacetyl, cường
độ ion, pH, nhiệt độ.
1.2.3. Phương pháp thu nhận chitin và chitosan
Trong nguyên liệu, chitin liên kết chặt chẽ với các thành phần như protein,
khoáng, chất màu, lipid và các hợp chất khác dưới dạng các phức hợp với hàm lượng
biến đổi tùy theo loại nguyên liệu. Do đó để thu nhận chitin thì cần phải khử các hợp
chất phi chitin này. Hiện nay có 3 phương pháp thu nhận chitin và chitosan được sử
dụng (Hình 1.13).
23
Hình 1.13. Sơ đồ quá trình sản xuất chitin/chitosan từ phế liệu thủy sản.
1.2.3.1. Phương pháp hóa học
+ Nguyên tắc: Sử dụng các hóa chất vô cơ (ví dụ: HCl, NaOH, KOH) trong các
bước khử khoáng, khử protein và deacetyl thu nhận chitin và chitosan.
+ Ưu và nhược điểm: quá trình phản ứng nhanh, đơn giản, dễ thực hiện ở quy mô
lớn. Tuy nhiên, sản phẩm chitin và chitosan thường bị cắt mạch mạnh bởi các acid và
baz vô cơ. có phân tử lượng thấp, độ nhớt thấp, dư lượng hóa chất lớn. Hơn nữa,
những quá trình này thường sử dụng một lượng lớn hóa chất và nước, do đó sẽ tạo ra
24
một lượng lớn chất thải hóa học độc hại gây ô nhiễm môi trường và ăn mòn thiết bị
[13, 18, 55, 84, 86, 4, 5].
+ Một số nghiên cứu đã công bố: Các nghiên cứu đánh giá chi tiết về các
phương pháp xử lý hóa học khác nhau để thu nhận chitin từ phế thải động vật giáp xác,
nhuyễn thể đã được thực hiện từ năm 1954 đến 1993 [113]. Naznin và cộng sự (2005)
đã khảo sát các điều kiện khác nhau cho quá trình khử khoáng (DM) và khử protein
(DP) để thu chitin từ vỏ tôm (Metapenaeus monoceros) và quá trình đánh giá cho thấy
đầu tiên protein được tách ra khỏi nguyên liệu bằng cách xử lý với natri hydroxit
(NaOH) hoặc kali hydroxit (KOH) ở nhiệt độ cao, nồng độ kiềm thường là từ 1% đến
10% với nhiệt độ từ 30°C đến 100°C, khi tiến hành quá trình khử protein độc lập với
quá trình khử khoáng là tốt nhất. Thời gian phản ứng thường được sử dụng khác nhau
từ 30 phút đến 12 giờ [110]. Shahidi và cộng sự (1991) và Synowiecki và cộng sự
(2000) đã công bố điều kiện tối ưu cho quá trình khử protein (DP) vỏ cua và vỏ tôm đã
được báo cáo là 1-2% KOH ở 90°C với tỷ lệ dung dịch kiềm là 1:20 (w/v), khoảng
thời gian tối thiểu là 1 giờ, đây là thời gian cần thiết để loại bỏ 90% protein và sau 2
giờ khử sẽ loại bỏ hầu hết các protein trong nguyên liệu [141, 150].
Việc loại bỏ canxi cacbonat, canxi phosphat và các muối khoáng khác trong vỏ
phế thải thủy sản thường được thực hiện trong môi trường acid HCl loãng, ở nhiệt độ
phòng trong thời gian từ 2-3 giờ [113]. Để giảm thiểu những biến đổi của chitin trong
quá trình thu nhận, việc sử dụng của ethylenediaminetetraacetic acid (EDTA) cho DM
hoặc kết hợp DP và DM đã được đề xuất bởi Foster, Hackman (1957) và Austin
(1981) [17, 61].
1.2.3.2. Phương pháp sinh học
+ Nguyên tắc: Sử dụng các enzyme hoặc acid hữu cơ từ visinh vật trong các
bước khử khoáng, khử protein và deacetyl thu nhận chitin và chitosan.
+ Ưu và nhược điểm: Các kết quả nghiên cứu cho thấy khi sử dụng enzyme hoặc
vi sinh vật lên men khi để thủy phân, loại protein thì sản phẩm chitin, chitosan thu
được có phân tử lượng lớn và độ nhớt cao hơn so với sản phẩm thu được từ quy trình
xử lý hóa học. Tuy nhiên, các quy trình thủy phân protein bằng enzym hoặc sử dụng
quá trình lên men đều có nhược điểm là không tách triệt để protein, thông thường
lượng protein còn lại trong chitin tương đối cao từ 6-12%. Ngoài ra, chi phí xử lý bằng
25
enzym thường cao hơn xử lý bằng phương pháp hoá học, quá trình lên men thì cần
nhiều thời gian từ 5-14 ngày. Đây chính là một số khó khăn chính khi triển khai ở quy
mô lớn trong quá trình sản xuất chitin. Tổng hợp các nghiên cứu cho thấy, từ những
năm 1960, một số nghiên cứu đã ứng dụng enzym protease để thủy phân protein trong
phế liệu giáp xác đã được thực hiện bởi Takeda và Abe (1962), Takeda và Katsuura
(1964) [113]. Những năm tiếp theo và gần đây, sử dụng enzyme càng được quan tâm,
thể hiện qua các nghiên cứu của Shimahara và Takiguchi (1988) đã dùng enzym
protease vi sinh vật từ Pseudomonas maltophilia để khử protein trong vỏ tôm, cua.
Enzym proteinase từ cá ngừ tại pH 8,6 và 37,5oC, papain tại pH 5,5 – 6,0 và 37,5oC,
hoặc proteinase vi sinh ở pH 7,0 và 60oC trên 60 giờ cũng đã được nghiên cứu thủy
phân protein trong quá trình sản xuất chitin. Sau khi xử lý với enzym, hàm lượng
protein còn lại trong chitin khoảng 5% [92]. Nellie Gagne và cộng sự (1993) đã dùng
hai enzym protease là chymotrypsin và papain để thủy phân protein trong phế liệu tôm
đã được khử khoáng để thu hồi chitin. Các điều kiện tối ưu cho công đoạn khử protein
bằng chymotrypsin là nhiệt độ trong khoảng 40oC, pH 8,0 và tỷ lệ enzym với phế liệu
tôm (E/W) là 7:1000 (w/w). Với papain, nhiệt độ là 38oC, pH 8,7 và E/W là 10:1000
(w/w). Lượng protein còn lại trong phế liệu tôm sau khi khử protein là khá thấp, cụ thể
là 1,3 và 2,8% đối với các mẫu xử lý chymotripsin và papain [62]. Synowiecki và cộng
sự 2000 dùng enzym alcalase để thủy phân protein từ phế liệu tôm Crangon, thu hồi
được 64,3% protein. Sử dụng protease để thay thế cho NaOH khắc phục được các hạn
chế của việc sử dụng hóa chất [150].
Một số nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm quá trình khử khoáng bằng lên men
lactic hoặc sử dụng các axit hữu cơ như axit lactic, axit acetic thu nhận từ các quá trình
sinh học. Charoenvuttiham và cộng sự 2006 đã sử dụng hỗn hợp axit hữu cơ (0,25M
HCOOH và 0,25M C6H8O7 theo tỷ lệ 1:2, v/v) là 1:28 (w/v) để tách khoáng đạt được
độ tinh sạch của chitin thu được là 88,1 1,8%. Mahmoud và Ghaly (2006) đã dùng
các axit hữu cơ (lactic axit và acetic axit) từ quá trình lên men nước váng sữa để khử
khoáng của vỏ tôm, cua. Kết quả cho thấy hiệu quả của việc dùng lactic axit hoặc axit
acetic để khử khoáng tương đối cao, tuy có thấp hơn khi khử khoáng bằng HCl. Điều
kiện thích hợp để khử khoáng bằng axit hữu cơ: tỷ lệ nguyên liệu và axit là 1:20, nhiệt
26
độ 24oC, thời gian 2 giờ. Với điều kiện trên, khoáng được khử khỏi vỏ tôm đạt 97,4%
đối với lactic axit , 86,4% đối với axit acetic [65].
Ngoài ra, phương pháp lên men axit lactic là một trong những phương pháp ứng
dụng công nghệ sinh học để sản xuất chitin [82, 129, 131, 162]. Quá trình chiết rút
chitin từ phế liệu tôm dùng vi sinh vật để tạo axit và enzym protease trong các công
đoạn khử khoáng và khử protein từ vỏ tôm. Axit lactic được sinh ra từ glucose, tạo
môi trường pH thấp trong quá trình ủ xilô để ức chế sự phát triển của vi sinh vật gây
hư hỏng phế liệu [142]. Axit lactic phản ứng với các hợp chất calcium carbonate trong
vỏ giáp xác, hình thành kết tủa calcium lactate, bị loại ra sau khi rửa, giúp loại bỏ
khoáng khỏi vỏ. Quá trình khử protein xảy ra chủ yếu do các enzym protease được tạo
ra từ các chủng vi sinh vật Lactobacillus cấy vào và từ hệ enzym tồn tại trong phế liệu
tôm, cua [26, 46, 142]. Một số loại vi sinh vật đã được nghiên cứu gồm có
Lactobacillus plantarum [130], Pseudomonas aeruginosa và Pseudomonas
maltophilia [162], Bacillus subtilis [171], Lactobacillus paracasei [142],
Lecanicillium fungicola [128] và Penicillium chrysogenum [119].
Hiệu quả của quá trình lên men dùng vi khuẩn sinh axit lactic phụ thuộc vào
những yếu tố như lượng vi sinh vật cho vào, nồng độ glucose bổ sung vào, pH ban đầu
và pH trong quá trình nuôi cấy, nồng độ và loại axit được dùng và thời gian lên men.
Tất cả các yếu tố trên đã được Rao và cộng sự (2000) nghiên cứu trong quá trình sản
xuất chitin bằng phương pháp lên men vi sinh [130]. Kết quả cho thấy, bổ sung 5%
glucose vào phế liệu tôm đã thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn lactic và quá trình lên
men tốt hơn. Trong 4 loại axit dùng để điều chỉnh độ pH từ thời điểm bắt đầu lên men
và trong suốt quá trình lên men, axit acetic và axit citric có hiệu quả nhất. Phế liệu tôm
được lên men với 10% Lactobacillus plantarum cấy vào, bổ sung 5% glucose, pH 6,5
điều chỉnh bằng axit acetic, hiệu suất khử protein là 75%, khử khoáng được 86%. Nếu
thay thế axit acetic bằng axit citric thì hiệu suất khử protein là 88% và khử khoáng là
90%. Trong quá trình lên men này, hiệu suất khử khoáng và chất lượng của các sản
phẩm thu được rất cao và nếu bổ sung protease thương mại có thể nâng cao hiệu suất
khử protein. Sự hiện diện của vi khuẩn axit lactic trong dịch lỏng lên men sau khi lọc
thì rất bổ ích khi sản xuất thực phẩm cho người và thức ăn gia súc. Do đó, Rao và cộng
27
sự kết luận rằng xử lý kết hợp Lactobacillus với axit acetic vẫn duy trì được hiệu quả
kinh tế và mang lại lợi nhuận cao từ quá trình lên men phế liệu tôm.
Quá trình deacetyl bằng phương pháp sinh học được nghiên cứu khá nhiều
nhưng chủ yếu thực hiện ở quy mô phòng thí nghiệm [14, 102, 103, 132, 143, 152].
Chitin deacetylase (CDA) thu nhận từ nấm Absidia coerulia được sử dụng để thử
nghiệm deacetyl chitin. Áp dụng enzyme để deacetyl chitin có nhiều ý nghĩa như nâng
cao chất lượng sản phẩm chitosan (đặc biệt là độ nhớt và phân tử lượng), tránh sử
dụng hóa chất đậm đặc (NaOH đặc), hạn chế ô nhiễm môi trường. Các kết quả cho
thấy quá trình deacetyl bằng CDA chủ yếu thực hiện đối với chitin đã deacetyl một
phần (partially deacetylated chitin), còn đối với chitin tự nhiên thì còn quá trình
deacetyl bằng CDA không hiệu quả. Hiệu quả deacetyl của CDA sẽ được tăng lên nếu
chitin được xử lý giảm độ rắn trước khi deacetyl bằng CDA.
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã ứng dụng protease (papain, Alcalase,
Protamex, Flavourzyme) để khử protein trong quá trình sản xuất chitin từ phế liệu thủy
sản. Điều kiện xử lý khử protein bằng enzyme Flavourzyme. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này chỉ mới triển khai ở quy mô phòng thí nghiệm và kết quả nghiên cứu cho thấy
sử dụng enzym không khử triệt để được protein từ phế liệu thủy sản và hàm lượng
protein còn lại ở mẫu chitin khá cao (6-9%). Vì vậy, để triển khai ở quy mô sản xuất
lớn cần nghiên cứu thêm để nâng cao hiệu quả quy trình có sử dụng enzym và thử
nghiệm ở quy mô lớn.
1.2.3.3. Phương pháp cải tiến kết hợp phương pháp hóa học và sinh học
+ Nguyên tắc: Kết hợp sử dụng các acid vô cơ và enzyme hoặc acid hữu cơ từ
visinh vật trong các bước khử khoáng, khử protein và deacetyl thu nhận chitosan.
+ Ưu và nhược điểm: Việc nghiên cứu cải tiến quy trình sản xuất chitin từ phế
liệu thủy sản bằng việc kết hợp xử lý sinh học (dùng protease) và thu hồi hỗn hợp
protein và astaxanthin là rất cần thiết, góp phần hình thành và phát triển ngành công
nghiệp xử lý phế liệu thủy sản theo hướng bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Một số nghiên cứu đã công bố:
Shrinivas Rao và cộng sự (2007) đã sản xuất chitin bằng phương pháp cải tiến,
sản phẩm chitin thu được có chất lượng cao hơn so với phương pháp hóa học, thể hiện
28
qua hàm lượng protein và tro còn lại dưới 1%, thấp hơn rất nhiều so với mẫu chitin sản
xuất bằng phương pháp hóa học. Với hàm lượng protein và khoáng còn lại trong mẫu
chitin thấp <1%, chitin sản xuất theo quy trình cải tiến đã đáp ứng được yêu cầu chất
lượng của chitin công nghiệp [144]. Chitosan sản xuất bằng quy trình cải tiến có các
chỉ tiêu chất lượng tốt hơn so với mẫu chitosan sản xuất từ chitin của quy trình hóa học
truyền thống; cụ thể chitosan từ chitin của quy trình cải tiến có hàm lượng protein và
tro thấp hơn, độ tan tốt hơn và độ đục thấp so, đặc biệt độ nhớt của mẫu chitosan sản
xuất bằng quy trình cải tiến cao hơn rất nhiều so với mẫu chitosan sản xuất bằng
phương pháp hóa học. Độ nhớt của chitosan khi sử dụng enzyme để khử protein trong
quá trình sản xuất chitin từ phế liệu thủy sản cũng đạt được khi sử dụng papain [2, 5].
Dựa trên các nghiên cứu trước đây và mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm ứng
dụng vào sản xuất ở qui mô công nghiệp và phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam
hiện nay, nghiên cứu này chọn phương pháp hóa học để thu nhận chitin và chitosan.
Để lựa chọn điều kiện thu nhận phù hợp với đối tượng mai mực, luận án tiến hành
phân tích các kết quả nghiên cứu công bố liên quan, bao gồm:
1.2.3.1. Điều kiện khử protein
Như đã trình bày ở trên, hàm lượng protein khá cao có trong tất cả các nguyên
liệu sử dụng để thu nhận chitin. Hơn nữa, liên kết cộng hóa trị giữa chitin và protein
(Hình 1.3) là rất chặt chẽ. Do đó, để thu nhận được chitin thì phải tiến hành khử
protein bằng cách phá vỡ các liên kết giữa protein và chitin. Quá trình khử này có thể
thực hiện với các hóa chất khác nhau như NaOH, Na2CO3, NaHCO3, KOH, K2CO3,
Ca(OH)2 hoặc các enzyme thủy protein như chymotrypsin, alcalase và flavourzyme [3].
Tuy nhiên, trong thực tế NaOH là được sử dụng nhiều nhất với nồng độ dung dịch từ 1
đến 10% ở nhiệt độ phòng hoặc nhiệt độ cao, có khi sử dụng áp suất và nhiệt độ lên đến
120C, thời gian xử lý từ vài giờ đến vài ngày. Tùy theo tính chất của nguyên liệu mà
chúng ta có thể chọn chế độ để khử protein phù hợp. Các thông số có ảnh hưởng chủ
yếu đến điều kiện tách chiết thu nhận chitin bao gồm: Nồng độ dung dịch tác nhân khử
(ví dụ NaOH), nhiệt độ phản ứng, thời gian thủy phân và tỷ lệ nguyên liệu/dung môi.
Một số điều kiện khử protein từ các nguồn nguyên liệu khác nhau được trình bày trong
Bảng 1.7.
29
Bảng 1.7. Điều kiện khử protein trong quá trình sản xuất chitin từ các nguyên
liệu khác nhau
Nguồn NaOH Nhiệt độ Thời gian Tỷ lệ TLTK
(oC) (giờ) NL/DM
Vỏ tôm 4% 70 24 1/10 [120]
Vỏ tôm đỏ 10% 75 2 1/5 [37]
Vỏ tôm sú 6% 70 3 1/10 [12]
Mai mực 3M 80-85 3 1/10 [106]
Mai mực 1,2% 80-85 1 1/10 [154]
Mai mực 1M 50 5 1/13 [36]
Vỏ tôm tít 4% 70 12 1/10 [153]
Mai mực 1,2% 80-85 1 1/10 [95]
Mai mực 1N 30 24 1/5 [23]
Nồng độ chất thủy phân (NaOH) sử dụng ảnh hưởng đến chất lượng chitin và
chitosan thu được, nồng độ NaOH cao thì hiệu quả thủy phân protein cao, thời gian
phản ứng rút ngắn và hàm lượng protein còn lại trong sản phẩm chitin thấp. Tuy nhiên,
khi sử dụng nồng độ chất thủy phân cao gây ra hiện tượng cắt mạch sản phẩm chitin.
Thông thường nồng độ kiềm sử dụng là 3-5% tùy theo tính chất của nguyên liệu. Để
đáp ứng yêu cầu chất lượng của chitosan công nghiệp thì hàm lượng protein còn lại
trong sản phẩm chitin phải nhỏ hơn 1%.
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong quá trình khử protein, ở nhiệt độ thường
quá trình tách protein diễn ra chậm, thời gian thủy phân từ 1 ngày đến vài ngày. Khi
nâng nhiệt độ xử lý thì thời gian cần thiết để tách protein giảm đáng kể. Để tăng hiệu
quả tách protein, trong nhiều nghiên cứu quá trình tách protein được lập lại nhiều lần.
Tuy nhiên, cần phải lưu ý là sử dụng nhiệt độ cao hoặc thời gian xử lý dài sẽ dẫn đến
quá trình cắt mạch của sản phẩm chitin thu được.
30
Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả của quá trình tách protein thì trong quá trình xử
lý cần thực hiện khuấy đảo. Hơn nữa, kích thước của nguyên liệu cũng ảnh hưởng đến
hiệu quả tách protein, do đó trong rất nhiều qui trình sản xuất chitin, phế liệu được
nghiền nhỏ đến kích thước từ 2-5 mm.
Do độ kết tinh của β-chitin thấp hơn -chitin nên khả năng hấp thụ nước lên
mạng lưới polyme của mai mực tốt hơn so với vỏ tôm. Vì vậy, khi sử dụng cùng điều
kiện khử protein thì hiệu quả của quá trình thu nhận β-chitin sẽ cao hơn, đồng thời sản
phẩm chitin thu được sẽ có độ tinh khiết cao hơn.
1.2.3.2. Điều kiện khử khoáng
Các phế liệu như vỏ tôm, cua và ghẹ thường chứa một lượng khoáng khá cao,
chủ yếu là muối canxi cacbonat và canxi photphat [2, 3, 158]. Vì vậy, một trong những
công đoạn quan trọng trong qui trình sản xuất chitin từ các nguồn này là công đoạn
khử khoáng. Quá trình khử khoáng có thể thực hiện bằng cách xử lý với các acid vô cơ
(HCl, HNO3, H2SO4) hay các acid hữu cơ (acid formic, acid acetic và acid lactic, EDTA)
hoặc bằng các enzyme đặc hiệu. Tuy nhiên, thông thường quá trình khử khoáng được
thực hiện trong dung dịch HCl loãng ở nhiệt độ phòng theo phản ứng sau:
CaCO3 + 2HCl CO2 + CaCl2 + H2O
Tương tự như quá trình khử protein, theo các công trình nghiên cứu đã công bố,
chế độ khử khoáng cũng rất đa dạng, nồng độ HCl từ 0,5 N đến 2 N, nhiệt độ từ thấp
đến nhiệt độ phòng. Thời gian từ 0,5 giờ đến 48 giờ tùy theo từng đối tượng nguyên
liệu cụ thể.
Theo các kết quả đã công bố, tốc độ phản ứng của quá trình khử khoáng diễn ra
rất nhanh ở thời gian đầu (trong vòng 30 phút) với hàm lượng khoáng giảm đến 90%,
sau đó quá trình diễn ra rất chậm. Kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong nghiên
cứu của No và cộng sự (1989) và Percot và cộng sự (2003) [114, 120]. Theo kết quả
nghiên cứu của Percot, sau 30 giây 98% lượng acid HCl cho vào đã phản ứng, thể hiện
quá trình khử khoáng diễn ra rất nhanh ở giai đoạn đầu. Ngoài ra, khi thực hiện công
đoạn khử khoáng cần lưu ý đến tỷ lệ giữa nguyên liệu/dd acid vì nó ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả khử khoáng. Tỷ lệ nguyên liệu trên dung dịch acid tương ứng 1:15
31
là tốt nhất khi nồng độ acid sử dụng là 4%. Trong quá trình xử lý acid (khử khoáng)
thường thực hiện ở nhiệt độ thường, kết hợp với khuấy đảo, quá trình này chưa đạt nếu
vỏ còn cứng và không thấy bọt khí nổi lên, cần bổ sung thêm acid.
Trong quá trình khử khoáng có thể xảy ra quá trình cắt mạch chitin, đặc biệt nếu
tiến hành ở nồng độ acid và nhiệt độ cao. Do đó, quá trình khử khoáng chỉ thực hiện ở
nhiệt độ thường hoặc nhiệt độ thấp để hạn chế quá trình cắt mạch polyme. Ngoài ra,
người ta có thể sử dụng EDTA để khử khoáng mà không ảnh hưởng nhiều đến mạch
chitin. Tuy nhiên, việc ứng dụng EDTA để khử khoáng chỉ được thử nghiệm ở quy mô
nhỏ, chưa được áp dụng trên quy mô công nghiệp vì EDTA là một hóa chất tương đối
đắt tiền so với HCl.
Gần đây, một số nghiên cứu đã ứng dụng các acid hữu cơ để tách khoáng như
acid formic, acid acetic và acid lactic. Ở các nghiên cứu này, nồng độ acid sử dụng từ
khoảng dưới 1 M đối với acid formic và acid lactic. Có thể sử dụng các acid này xử lý riêng
hoặc kết hợp. Phương pháp sử dụng acid hữu cơ có nhiều ưu điểm hơn so với phương pháp
sử dụng acid vô cơ như sản phẩm chitin và chitosan thu được có phẩn tử lượng lớn, độ tinh
khiết cao và đây là phương pháp khử khoáng thân thiện hơn với môi trường.
Bảng 1.8. Nguồn nguyên liệu thủy sản, điều kiện xử lý và loại chitin [133, 144, 153]
Nguồn nguyên liệu Loại chitin Số lần xử lý HCl 0,55M Số lần xử lý NaOH 0,3 M Tỷ lệ thu nhận/phế liệu (%) Khử màu H2O2
Cua đỏ (Portunus puber) 3 Có 10 α 5
Cua Nhện (Maia squinado) 3 Có 16 α 3
Tôm Hùm (Homarus vulgaris) 3 Có 17 α 3
Tôm Hùm (Scyllarus arctus) 3 Có 25 α 2
Tôm Sú (Penaeus monodon) 1 (4%) 1(4%) 14-16 Có α
Tôm (Palaemon fabricius) 3 Có 22 α 3
Tôm bọ ngựa (Squilla mantis) 3 Có 24 α 3
Mực (Loligo vulgaris) Không 2 40 β 3
32
Trong sản xuất chitin, việc thực hiện công đoạn khử khoáng sau khi tách protein
thì sản phẩm chitin cuối cùng sẽ có hàm lượng khoáng còn lại thấp hơn so với sản
phẩm chitin trong qui trình bắt đầu bằng công đoạn tách khoáng trước. Điều này có thể
giải thích là acid HCl sẽ có tác dụng tốt hơn đối với mẫu phế liệu đã qua công đoạn
tách protein, HCl sẽ tiếp xúc tốt hơn với các thành phần khoáng có trong phế liệu, hòa
tan vào trong dung dịch. Tuy nhiên, theo Lertsutthiwong và cộng sự (2002) [97] sản
phẩm chitosan sản xuất từ chitin của qui trình bắt đầu bằng công đoạn khử khoáng sau
đó khử protein có độ nhớt cao hơn. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng chitin, người ta
có thể tiến hành khử khoáng nhiều lần với nồng độ acid xử lý thấp. Để xác định chế độ
xử lý khử khoáng phù hợp có thể dùng phương pháp thực nghiệm, kết hợp với tính
toán dựa trên phương trình phản ứng hóa học. Sau công đoạn khử protein và khoáng,
phế liệu được rửa sạch và chuyển sang công đoạn tẩy màu hoặc tiếp tục công đoạn
deacetyl. Bảng 1.8 tổng hợp một số kết quả nghiên cứu về điều kiện thu nhận chitin từ
các nguồn nguyên liệu khác nhau.
1.2.3.3. Điều kiện deacetyl thu nhận chitosan
Quá trình sản xuất chitosan từ chitin được thực hiện bởi công đoạn deacetyl, đây
là quá trình tách nhóm acetyl khỏi phân tử chitin, theo mô tả trong Hình 1.14. Tác
nhân deacetyl có thể là các bazơ mạnh như NaOH và KOH hoặc các enzyme như
chitinase. Trong thực tế, quá trình deacetyl thường được thực hiện bằng cách xử lý
chitin trong dung dịch NaOH hoặc KOH đậm đặc, nồng độ thường sử dụng từ 40-
50%, ở nhiệt độ 100C hoặc cao hơn. Công đoạn deacetyl được thực hiện ở các chế độ
rất đa dạng, phong phú, tùy thuộc vào nguồn chitin và yêu cầu về tính chất của sản
phẩm chitosan.
Hình 1.14. Phản ứng deacetyl chitin thu chitosan.
33
Ngoài ra, người ta có thể sử dụng acid đặc để thực hiện quá trình deacetyl. Tuy
nhiên, việc xử lý bằng acid đặc thường kèm theo quá trình cắt mạch của polyme, do đó
thực hiện deacetyl trong môi trường kiềm đặc vẫn là phương pháp thường được sử dụng.
Hiệu quả của quá trình deacetyl phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nồng độ dung
dịch NaOH, nhiệt độ và thời gian, tổng hợp một số kết quả công bố điều kiện deacetyl
trên các nguồn nguyên liệu khác nhau được trình bày trong Bảng 1.9 [3]. Trong đó, nồng
độ NaOH thường trong khoảng từ 40-60%. Nhiệt độ thường khoảng 90-100oC. Khi nhiệt
độ càng cao thì quá trình deacetyl diễn ra càng nhanh, sản phẩm chitosan thu được có độ
deacetyl cao. Tuy nhiên, nhiệt độ cao ảnh hưởng lớn đến phân tử lượng của chitosan.
Bảng 1.9. Điều kiện deacetyl thu nhận chitosan từ các nguồn chitin khác nhau [3]
Điều kiện deacetyl
Nguồn chitin Thời gian Tỷ lệ Nồng độ kiềm Nhiệt độ (oC) (h) (w/ v)
Tôm hùm 55% KOH 100 – 140 0,5 – 1,5 1:100
47% NaOH 60, 110 1,2x1 – 4 - Cua 40% NaOH 10 -
50% NaOH 100 0,5 – 5 -
50% NaOH 145 – 150 1/12, 1/4 1:10
50% NaOH 60 2 1:4 Tôm sú 50% NaOH 100 0,5x2 1:15
50% NaOH 100 0,75x2 1:15
50% NaOH 95 3 -
50% NaOH 30 24 – 144 1:14
Tôm thẻ 60% KOH 100 1 1:65
50% NaOH 100 2 -
Theo Kiruta (2001) [91] và Jung (2013) [79] khi thực hiện deacetyl với nồng độ
50% NaOH ở nhiệt độ 100oC quá trình deacetyl diễn ra nhanh trong khoảng thời gian
1 giờ đầu, độ deacetyl đạt được 68%. Sau đó, quá trình deacetyl diễn ra chậm lại và
34
sau 5 giờ tiếp theo sản phẩm chitosan thu được chỉ đạt được 78% DD. Kết quả của
nghiên cứu này cũng cho thấy, sau 2 giờ xử lý độ deacetyl không thay đổi nhiều so với
1 giờ mà chỉ có phân tử lượng của chitosan xử lý sau 2 giờ giảm đáng kể, điều đó cho
thấy, từ sau 1 giờ đến hết 2 giờ, chủ yếu diễn ra quá trình cắt mạch chitosan. Ngoài ra,
nồng độ kiềm cũng ảnh hưởng đến chất lượng chitosan. Nếu nồng độ kiềm quá cao thì
sẽ ảnh hưởng đến độ nhớt và phân tử lượng của chitosan. Tuy nhiên, nếu nồng độ
kiềm xử lý nhẹ dẫn đến sản phẩm chitosan sẽ không tan hoặc tan không hoàn toàn. Tỷ
lệ giữa chitin và dung dịch kiềm thường dùng là 1:10, trong một số nghiên cứu sử
dụng tỷ lệ 1:15.
Mặt khác, nếu chitin ban đầu không được chiết rút trong điều kiện phù hợp như
xử lý tách khoáng ở nồng độ acid HCl quá cao, thời gian dài thì chitin bị cắt mạch dẫn
đến sau quá trình deacetyl chitosan thu được có phân tử lượng và độ nhớt thấp. Kích
thước của chitin ban đầu càng nhỏ thì quá trình deacetyl hóa diễn ra nhanh và sản
phẩm chitosan thu được có chất lượng cao hơn (độ nhớt, phân tử lượng, độ tan tốt
hơn). Để hạn chế sự cắt mạch chitin trong quá trình deacetyl hóa, người ta thực hiện
công đoạn này trong môi trường khí nitơ để hạn chế sự tiếp xúc với oxy không khí.
Kết quả nghiên cứu của Bough và cộng sự 1978 khẳng định khi deacetyl hóa trong
môi trường khí nitơ thì tạo ra sản phẩm chitosan có phân tử lượng và độ nhớt cao hơn
sản phẩm chitosan được deacetyl hóa trong môi trường không khí [28].
Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, để đạt được độ deacetyl cao trên
90% thì cần thực hiện quá trình deacetyl nhiều lần [79, 93, 173]. Kết quả nghiên cứu
của Jung 2013 cho thấy muốn thu được chitosan thành phẩm đạt độ deacetyl trên 94%
thì cần phải thực hiện công đoạn deacetyl ở nồng độ kiềm (NaOH, KOH) 40-50%,
nhiệt độ 90oC và xử lý 2 lần từ 4-6 giờ. Thực hiện quá trình deacetyl một lần khó đạt
được độ deacetyl cao trên 90% vì giai đoạn cuối của quá trình deacetyl tốc độ tách
nhóm acetyl diễn ra rất chậm. Tuy nhiên, sau khi rửa sạch mẫu và tiếp tục deacetyl thì
quá trình deacetyl diễn ra nhanh hơn và đạt được độ deacetyl cao. Bảng 1.10 trình bày
35
sự ảnh hưởng của điều kiện của quá trình deacetyl đến khối lượng phân tử của sản
phẩm chitosan thu được.
Bảng 1.10. Khối lượng phân tử trung bình (Mw) của chitosan ở các điều kiện
deacetyl khác nhau [106]
Điều kiện xử lý Phân tử lượng *102 (kDa)
NaOH 40%, 80oC, 120 phút 8,74
NaOH 40%, 100oC, 60 phút 4,58
NaOH 60%, 80oC, 60 phút 10,9
NaOH 60%, 80oC, 120 phút 8,87
NaOH 60%, 100oC, 60 phút 4,53
NaOH 60%, 100oC, 120 phút 3,22
Tuy nhiên, cần phải lưu ý là chế độ deacetyl ảnh hưởng lớn đến phân tử lượng và
độ nhớt của sản phẩm chitosan, chế độ deacetyl càng cao (nồng độ NaOH cao, nhiệt độ
cao, thời gian dài) thì chitosan thu được có phân tử lượng thấp. Do đó, để đạt được độ
nhớt cao, phân tử lượng lớn thì thực hiện quá trình deacetyl ở chế độ phù hợp, không
nên sử dụng nồng độ NaOH quá cao, nhiệt độ quá cao.
1.2.4. Đặc tính sinh học kháng nấm, kháng khuẩn của chitosan
Các kết quả công bố của Campana-Fillho (2007) và Kumirska (2010) cho thất
hoạt tính sinh học của chitosan từ -chitin và chitosan từ α-chitin có sự khác nhau là
do nhiều nguyên nhân. Đầu tiên là do nguồn gốc thu nhận khác nhau -chitin từ mai
+) trong mạch chitosan hòa tan
mực và α-chitin từ vỏ tôm cua ghẹ [10, 34, 90]. Thứ hai là do cấu trúc nội bộ liên phân
tử như sự tương tác giữa các nhóm amin proton (NH3
trong môi trường acid làm thay đổi khả năng tương tác của chitosan với màng tế bào vi
khuẩn do đó ảnh hưởng đến khả năng kháng khuẩn của chitosan [159].
Chitosan có khả năng ức chế nhiều chủng vi sinh vật như vi khuẩn Gram âm,
Gram dương và vi nấm. Khả năng ức chế vi sinh vật của chitosan phụ thuộc vào độ
deacetyl (DD) và phân tử lượng trung bình (Mw) [44, 99, 105, 148, 175]. So với chitin,
36
chitosan có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm tốt hơn vì chitosan tích điện dương ở vị
trí C thứ 2, ở pH nhỏ hơn 6. Chitosan có độ deacetyl cao trên 85% thì có khả năng
kháng kháng khuẩn, kháng nấm tốt. Chitosan có phân tử lượng dưới 2000 dalton thì
khả năng ức chế vi sinh vật cao, chitosan có phân tử lượng trên 9000 dalton thì có khả
năng ức chế vi sinh vật kém [20, 79, 100, 165, 173].
Chitosan được hòa tan trong các dung môi hữu cơ như acid acetic, acid lactic và
được sử dụng để xử lý kháng khuẩn, kháng nấm. Chitosan có khả năng ức chế
Staphylococcus aureus [98], Bacillus cereus [148], Escherichia coli và Listeria
monocytogenes [100, 148, 173], Botrytis cinerea [20], Bacillus cereus và Bacillus
subtilis [148], Alternaria kikuchiana Tanaka và Physalospora piricola Nose [105],
Penicillium digitatum, Penicillium italicum, Botrydiplodia lecanidion và Botrytis
cinerea [41]. Nồng độ ức chế của chitosan phụ thuộc vào loại chitosan, loài vi sinh
vật, điều kiện áp dụng và nồng độ thường sử dụng trong khoảng 0,0075% đến 1,5%.
Ngoài ra, các dẫn xuất của chitosan cũng có khả năng kháng nấm, kháng khuẩn tốt. N-
carboxymethylchitosan ở nồng độ 0,1-5 mg/ml trong môi trường pH = 5,4 làm giảm
khả năng sinh độc tố aflatoxin của Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus
Shahidi và cộng sự 1999 [140].
Theo Wang (1992) nhận thấy rằng nồng độ chitosan cao (1% - 1,5%) sẽ bất hoạt
hoàn toàn sự phát triển của Staphylococcus aureus sau thời gian ủ 2 ngày, trong môi
trường pH 5,5 [161]. Ngoài ra, tác giả Chung (2005) đã nghiên cứu thấy rằng nồng độ
chitosan lớn hơn 0,005% có khả năng ức chế hoàn toàn Staphylococcus aureus [45].
Kết quả này phù hợp với kết quả của nhóm tác giả Darmadji và Izumimoto (1994) khi
khảo sát sự ảnh hưởng của chitosan lên quá trình bảo quản thịt [52]. Rabea và cộng sự
(2003) [125] cũng nghiên cứu hiệu quả kháng khuẩn của các loại môi trường nuôi cấy
vi khuẩn với các nồng độ chitosan khác nhau, kết quả nhận thấy đối với Bacillus
cereus thì nồng độ chitosan ức chế là 0,02%, còn đối với Escherichia coli và Proteus
vulgaris phát triển rất yếu ở nồng độ chitosan là 0,005% và hoàn toàn ức chế ở
0,0075%.
Hiệu quả ức chế Escherichia coli của chitosan đã được nghiên cứu và công bố rất
nhiều. Wang và cộng sự 2009 đã nghiên cứu thấy rằng Escherichia coli bị kìm hãm
hoàn toàn sau 2 ngày nuôi cấy với nồng độ chitosan 0,5% và 1% ở pH 5,5 và với nồng
37
độ chitosan cao hơn 1% thì vi khuẩn sẽ bị kìm hãm hoàn toàn chỉ trong 1 ngày [163].
Trong khi đó, Darmadji và Izumimoto (1994) [52] cho rằng khi sử dụng chitosan ở
nồng độ cao hơn 0,1% mới có khả năng kìm hãm sự phát triển của Escherichia coli.
Simpson và cộng sự lại cho rằng chỉ cần nồng độ chitosan 0,0075% cũng đã có khả
năng kìm hãm sự phát triển của Escherichia coli. Các kết quả khác nhau như vậy có
thể giải thích là do bản thân chitosan ban đầu được sử dụng của các nhóm nghiên cứu
có độ deacetyl hóa (DD) và khối lượng phân tử trung bình (Mw) không giống nhau. Độ
deacetyl và phân tử lượng của chitosan lại ảnh hưởng rất lớn đến khả năng kháng
khuẩn của nó.
No 2002, Zheng (2003) và Jung (2010) [78, 115, 175] đã nghiên cứu ảnh hưởng
của các phân tử lượng Mw khác nhau của chitosan và oligo chitosan đến khả năng
kháng khuẩn trên nhiều loại vi khuẩn Gram dương và Gram âm, kết quả thấy rằng khối
lượng phân tử của chitosan càng thấp thì chitosan có khả năng kháng khuẩn càng cao.
Hoạt tính kháng khuẩn của chitosan mạnh hơn ở vi khuẩn Gram âm hơn là vi khuẩn
Gram dương. Chỉ số nồng độ tối thiểu ức chế vi khuẩn (MIC) của chitosan biến động
trong khoảng 0,05-1% tùy thuộc vào khối lượng phân tử và loại vi khuẩn. No cũng
khẳng định rằng hoạt tính kháng khuẩn của chitosan thể hiện tốt hơn ở môi trường pH
thấp.
Tính kháng khuẩn của chitosan liên quan đến pH của môi trường và các yếu tố
khác trong môi trường, nhưng trước hết liên quan đến các đặc tính của chitosan như độ
deacetyl, chiều dài mạch hay khối lượng phân tử trung bình (mức độ polyme hóa),...
Như vậy, việc chọn loại chitosan có hoạt tính kháng khuẩn tốt là quan trọng trước khi
chúng ta tìm hiểu các yếu tố tác động khác có trong vật liệu và điều kiện ảnh hưởng
đến hoạt tính kháng khuẩn của chitosan. Nhiều nghiên cứu cho thấy chitosan có hiệu
quả trong việc ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn, khả năng kháng khuẩn của
chitosan phụ thuộc vào khối lượng phân tử, nồng độ, độ nhớt, loại vi khuẩn. Với 0,1%
chitosan có phân tử lượng 746 kDa có hiệu quả cao trong kháng Escherichia coli.
Ngoài ra chitosan có khối lượng phân tử 40 kDa có khả năng ức chế vi khuẩn
Staphylococcus aureus và Escherichia coli ở nồng độ 0,5%.
Hiện tại một số cơ chế đã được đề xuất để quan sát đặc tính kháng vi khuẩn của
chitosan và các dẫn xuất. Cơ chế được chấp nhận phổ biến nhất giải thích rằng vách tế
bào vi khuẩn tích điện âm dễ dàng phản ứng với phân tử chitosan tích điện dương, làm
38
biến đổi tính thấm tế bào, làm biến dạng và tổn thương màng tế bào. Hiệu ứng này
tăng theo thời gian dẫn đến phá hũy lớp màng ngoài (outer membrane), lớp
peptidoglycan và lớp màng sinh chất (plasma membrane) của màng tế bào vi khuẩn
Gram âm từ đó làm thoát ra các dịch nội bào (ví dụ như : protein, nucleicaxit, glucose
và dehydrogenase lactate) làm chết tế bào vi khuẩn. Quá trình tác động này thường
diễn ra rất nhanh (trong vài giờ). Thêm vào đó, chitosan có khả năng phân giải sinh
học và không gây độc đối với tế bào động vật hữu nhũ. Phổ kháng khuẩn của chúng
rộng, bao gồm cả vi khuẩn Gram âm và Gram dương. Tuy nhiên, cần chú ý là khả
năng tuyệt vời này bị hạn chế do tính tan hạn chế của chitosan (không tan trong môi
trường pH > 7,0). Bên cạnh đó, độ nhớt cao của dung dịch chitosan cũng là một trở
ngại, gây kết tụ protein ở điều kiện pH sinh lý.
1.3. GIỚI THIỆU VỀ BỆNH THỐI NHŨN TRÊN CÀ CHUA SAU THU HOẠCH
1.3.1. Giới thiệu chung về nguồn nguyên liệu cà chua sau thu hoạch
Cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) thuộc họ Cà Solanaceae, chi
Lycopersicon là loại quả phổ biến được tiêu dùng rộng rãi với số lượng lớn. Ngoài giá
trị kinh tế, cà chua và các sản phẩm chế biến từ cà chua còn là nguồn dinh dưỡng giàu
acid folic, vitamin C, kali, và quan trọng hơn là hợp chất carotenoid (tiền vitamin A có
hoạt tính kháng oxy hóa), trong đó có mặt nhiều nhất là lycopene, sau đó là β-carotene,
γ-carotene và phytoene [118, 124].
Mặc dù hiện nay đã có nhiều sự phát triển về loại giống có chất lượng tốt, thời
hạn bảo quản dài, cũng như sự cải tiến về công nghệ bảo quản sau thu hoạch, nhưng ở
các nước đang phát triển như Lào, Việt Nam và Campuchia tổn thất nông sản sau thu
hoạch là rất lớn do nhiều nguyên nhân như: thu hoạch không đúng thời điểm, kỹ thuật
thu hoạch, xử lý và bảo quản không đúng cách, bao gói và hệ thống vận chuyển kém,
thiếu các kho bảo quản, thiếu kỹ thuật chế biến nên tỷ lệ thối hỏng và tổn thương cơ
học cao. Bốn yếu tố chính được quan tâm trong và ngay sau khi thu hoạch cà chua là
độ chín thu hoạch, thời gian thu hoạch, phương pháp thu hoạch và xử lý trái đã thu
hoạch tại ruộng. Bất kỳ sự thiếu sót nào đối với những yếu tố này đều dẫn đến giảm
chất lượng trái, thậm chí là tổn thất hoàn toàn.
Cà chua được thu hoạch khi trái đã thuần thục về mặt sinh lý, vỏ còn xanh hoặc
ngả màu, hoặc chín hoàn toàn tùy vào mục đích sử dụng. Đối với những thị trường ở
39
xa hoặc đòi hỏi thời gian tồn trữ lâu, cà chua được thu hoạch khi còn xanh hoặc ửng
đỏ (đang chuyển màu). Cà chua là loại trái hô hấp đột biến, nghĩa là trái cà chua khi
thu hoạch đã thuần thục nhưng còn màu xanh nên có thể chín tiếp tự nhiên và có thể
đạt đến chất lượng tối ưu. Ngược lại, quả non sẽ không đạt được màu sắc và hương
thơm tốt, và sẽ dễ dàng bị hư hỏng sau thu hoạch [118]. Khi thu hoạch không cần thiết
phải loại đi phần cuống nhỏ, làm lộ ra phần cuối cuống, đây là nơi trao đổi khí chủ yếu
của trái, làm thoát hơi nước, gây mất nước và giảm khối lượng, là lối vào của O2 và lối
ra của CO2 vì thế làm tăng cường độ hô hấp và các hoạt động trao đổi chất khác. Một
việc khác cần lưu ý khi thu hoạch là tránh những thao tác làm tổn thương vật lý như
các vết cắt, lỗ thủng hoặc vết trầy xước. Ngoài việc ảnh hưởng đến chất lượng cảm
quan, các tổn thương vật lý còn làm tăng sự mất nước và tốc độ chín, và dẫn đường
cho vi sinh vật xâm hại.
Suslow (2005) [149] đã đưa ra chỉ số chất lượng tiêu chuẩn phân loại và tuyển
chọn cho các giống cà chua khác nhau, trước hết là dựa trên sự tương đồng về hình
dáng và không có khuyết tật, hư hỏng. Kích cỡ không phải là yếu tố để tuyển chọn
chất lượng nhưng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng về mặt thương phẩm. Các chỉ số
chất lượng này như sau:
+ Hình dạng: có cùng một kiểu hình dạng (hình tròn, hình cầu, hình cầu dẹt).
+ Màu sắc tương đồng: từ đỏ cam đến đỏ đậm, vàng nhạt.
+ Biểu hiện bên ngoài: Trơn mịn, sẹo cuống nhỏ, không có các vết rạn nứt, rám
nắng, vết thương do côn trùng, vết thương cơ giới, hoặc vết bầm tím.
+ Độ cứng: Chịu được áp lực. Không bị biến dạng do chín nẫu.
Tiêu thụ sản phẩm, đây là khâu quan trọng cuối cùng của hoạt động sau thu
hoạch giữa người sản xuất hoặc người vận chuyển với người mua hoặc người tiêu
dùng. Những hoạt động xử lý sau thu hoạch quyết định chất lượng cuối cùng của sản
phẩm cung cấp cho người tiêu dùng chất lượng tốt nhất có thể. Sản phẩm phải có bề
ngoài hấp dẫn như tươi, không bị khuyết tật, chất lượng cao. Cần có những xử lý thích
hợp, không chỉ quan tâm đến riêng sản phẩm mà còn phải chú ý đến thao tác của
người xử lý.
40
1.3.2. Tổng quan về bệnh thối nhũn (soft rot) gây hại cà chua sau thu hoạch
Theo Wakil và Sherifah Monilola (2011) [160] đã khảo sát cho thấy bệnh thối
nhũn (soft rot) do vi khuẩn gây hại trên các loại rau củ quả như carot, cà chua, hành
tây và khoai tây sau thu hoạch tại các chợ làm thất thoát từ 10-30% tổng sản lượng.
Nghiên cứu cũng cho thấy sự đa dạng các vi khuẩn gây bệnh thối nhũn, trong đó có 76
loài thuộc 3 chi: Erwinia, Pseudomonas và Xanthomonas, trong đó Erwinia spp. là chi
có tần suất xuất hiện rất cao 64,48% chủ yếu là các chủng Erwinia carotovora
(27,63%), Erwinia herbicola (11,84%), Erwinia chrysanthemi (10,4%), Erwinia
artroseptica (9,1%) và Erwinia amylovora (5,3%).
Hình 1.15. Cà chua bị bệnh thối nhũn (soft rot).
Bệnh chủ yếu do vi khuẩn Erwinia spp. gây thối nhũn trên các loại rau, củ, quả
sau thu hoạch, bệnh phát triển thích hợp ở nhiệt độ (25-35°C) trong điều kiện ẩm ướt
[66, 77]. Trên cà chua, vi khuẩn thâm nhập qua các tế bào bị tổn thương và phát triển
vết bệnh nhanh chóng cả về đường kính và chiều sâu, các khu vực bị ảnh hưởng trở
nên nhũn mềm và chảy nước trong khi bề mặt vết bệnh trở nên đổi màu, có thể xuất
hiện nếp nhăn hoặc phồng rộp. Biên độ gây tổn thương thường là chậm lúc đầu nhưng
sau đó trở nên rất nhanh, các mô trong khu vực bị ảnh hưởng bị phân hủy chảy nước,
các vết nứt phát triển và bề mặt vết bệnh trở nên nhầy nhụa, kèm theo mùi hôi hoặc
mùi lưu huỳnh đó là đặc trưng của bệnh. Trường hợp tiếp xúc với không khí vết bệnh
có thể chuyển sang màu xám hoặc màu nâu sẫm (Hình 1.15).
Hiện nay để kiểm soát bệnh thối nhũn trên rau củ quả sau thu hoạch, ngoài các
biện pháp bảo quản sau thu hoạch, kiểm soát dịch hại thì yêu cầu kỹ thuật xử lý phải
tránh việc sử dụng thuốc trừ sâu tổng hợp theo định hướng sinh thái để phát triển nền
nông nghiệp bền vững [72]. Theo Okonkwo (1995) và Bartz (1981) kiểm soát một
41
phần sự phát triển của bệnh là có thể bằng cách tránh làm bị thương củ, quả và rễ cây
trồng trong quá trình chăm sóc, làm cỏ, thu hoạch, vận chuyển và lưu trữ [22, 116].
Rahman 1991 đã cho thấy lưu trữ trong điều kiện khô mát là phương pháp hiệu quả
được nhiều nhà nghiên cứu đề nghị sử dụng để hạn chế bệnh thối nhũn do vi khuẩn
[127].
Việc sử dụng các hóa chất như thủy ngân clorua, dung dịch formaldehyde, dung
dịch natri hypoclorit 1,2%, hydroxymercurinitrophenol 12% và hydromercurichloride
phenol 2% trong 37,51 lít nước dường như loại bỏ các tác nhân gây bệnh thối nhũn từ
bề mặt của củ, quả sau thu hoạch [145]. Ngoài ra việc sử dụng kỹ thuật di truyền để
kiểm soát bệnh sau thu hoạch vẫn còn ở giai đoạn thử nghiệm mặc dù bước đầu đã có
một số kết quả nghiên cứu được báo cáo. Một số protein và peptide với hoạt tính
kháng khuẩn đã được thử nghiệm làm tăng khả năng phòng thủ của cơ thể gọi là quá
trình kích kháng, làm tăng cường khả năng chống vi khuẩn trong cây chuyển các gen
mã hóa một số loại protein và peptide, tuy nhiên công nghệ thực hiện các phương pháp
di truyền cao và tốn kém, vượt ra ngoài tầm với của nông dân trung bình [30, 35, 75],
[15]. Hiện nay chưa có biện pháp hiệu quả để kiểm soát bệnh thối nhũn do vi khuẩn
gây ra trên rau củ quả sau thu hoạch do khả năng dễ bị lây nhiễm bởi các tác nhân gây
bệnh [29, 139].
1.3.3. Giới thiệu về chủng vi khuẩn Erwinia spp. gây bệnh thối nhũn
Chi Erwinia spp. thuộc họ Enterobacteria là dòng vi khuẩn yếm khí tuỳ ý gây
bệnh thối nhũn (soft rot) trên nhiều loại cây trồng và rau, củ, quả sau thu hoạch như
khoai tây, cà chua, cải bắp, dứa, ớt, cà rốt, hành tây, súp lơ, hướng dương, cây xương
rồng và trên cây thuốc lá [19, 9]. Như các chi khác thuộc họ Enterobacteria, chi
Erwinia spp. là dòng vi khuẩn Gram âm, không sinh bào tử, hình que, có thể di chuyển
bằng các tiêm mao [77, 145] và là dạng vi khuẩn gây bệnh cơ hội có phổ ký chủ rất
rộng và khả năng lây nhiễm rất mạnh khi ở môi trường cận nhiệt đới và ôn đới [155].
Các nghiên cứu cho thấy các chủng gây bệnh chủ yếu trong chi này là Erwinia
carotovora subsp. carotovora (Ecc), Erwinia carotovora subsp. atroseptica (Eca) và
Erwinia chrysanthemi (Echr) [122, 145, 156].
Khả năng Erwinnia spp. phá hủy thành tế bào thực vật, làm vết bệnh lan rộng,
mềm và phân rã là do tác động của các enzyme ngoại bào. Robert và Blanchette
42
(1994) xác định các enzyme endo-β-1-4 arabinase và endo-β-1-4-xylanases được tạo ra
bởi Erwinia spp. có khả năng thủy phân thành phần carbohydrate của thành tế bào
thực vật [27]. Các enzyme khác bao gồm nhóm cellulase có pH tối ưu gần 7, phá hủy
vách tế bào thực vật endohydrolysis của liên kết 1,4-β-D-glucosidic trong cellulose,
lichenin và ngũ cốc. Nhóm cellulase hoạt động trong sự kết hợp với các enzym ngoại
bào khác để tấn công thành tế bào sơ cấp và thứ cấp của ký chủ [156]. Các enzyme
pectinase như pectate lyases (Pl), pectin lyases (Pnl) và pectin methylesterases (Pme)
cũng được Alghisi (1995) và Toth (2001) đề cập [11, 155]. Saarilahti (1990) đã cho
thấy nhóm polygalacturonases có pH tối ưu là 5,5 và nhiệt độ tối ưu 35-45ºC tấn công
các liên kết α-1,4-glycosidic trong pectate [136].
Bảng 1.11. Bảng tổng hợp các chủng vi khuẩn gây bệnh thối nhũn (soft rot)
Tên Ký chủ TLTK
Erwinia carotovora
subsp. atroseptica Khoai tây, cà chua. [64]
subsp. betavasculorum Củ cải, hướng dương, khoai tây, astiso. [64]
Khoai tây
subsp. brasiliensis Nhiều ký chủ [56]
subsp. carotovora Rau diếp, tỏi, cần tây. [69]
subsp. odorifera [69]
Erwinia chrysanthemi
pv. dieffenbachia (2, 3) Chuối, cà chua, dứa, cẩm chướng, khoai
lang, chuối, ngô.
pv. dianthicola (1, 7, 9) Cẩm chướng, rau diếp xoăn, actisô, cà
chua, khoai tây. [63]
pv. paradisiaca (3) Chuối, ngô.
pv. zeae (3, 8) Ngô, dứa, khoai tây, gạo, chuối, hoa cúc,
thuốc lá.
Hoa cúc, atisô, rau diếp xoăn, hướng pv. chrysanthemi (5, 6)
dương, cà chua.
43
Erwinia spp. là dòng vi khuẩn tuỳ ý yếm khí, có thể tồn tại ở các điều kiện môi
trường khác nhau. Không giống như các loài vi khuẩn khác, chúng không có khả năng
tạo bào tử để có thể tăng khả năng tồn tại khi gặp điều kiện sống không thuận lợi. Tuy
nhiên chúng thường tồn tại trong hạt giống, nguyên liệu nông sản bị nhiễm bệnh, trong
quá trình canh tác, lưu trữ bảo quản và trong đất nông nghiệp tự nhiên [53, 67, 136]. Vi
khuẩn này cũng được tìm thấy trong rễ của một số loại cỏ dại, cây trồng và nước tưới
[71, 135]. Côn trùng và gió đã tham gia vào sự lây lan của Erwinia spp., nông sản khi
bị côn trùng tấn công hoặc bị tổn thương do tác nhân cơ học sẽ tạo điều kiện tốt cho vi
khuẩn này xâm nhập gây bệnh, từ đó chúng sẽ lây nhiễm khắp nơi do đó côn trùng
cũng là nguyên nhân trong việc gây ra các tác nhân gây bệnh thối nhũn [145], [86].
Sự xâm nhập của Erwinia spp. gây bệnh thông qua các lỗ tự nhiên hoặc các vết
thương và chấn thương trong quá trình chăm sóc như làm cỏ, thu hoạch và trong quá
trình côn trùng tấn công. Quá trình lây nhiễm và phát triển của vi khuẩn gây thối nhũn
được xác định bởi ba yếu tố: số lượng nguyên liệu, mật độ vi khuẩn gây bệnh và điều
kiện môi trường [145]. Nhiệt độ và độ ẩm là yếu tố quan trọng trong phát triển bệnh và
làm ảnh hưởng đến khả năng gây bệnh của vi khuẩn, trong đó độ ẩm được coi là yếu tố
quyết định quan trọng nhất cho sự tăng trưởng và phát triển của vi khuẩn [104, 107].
Schober và Zadoks (1999) cho thấy nhiệt độ và nguồn nước trong quá trình sản xuất
củ, quả sau thu hoạch và bảo quản là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự
tồn tại, phát triển và nhiễm trùng bởi vi khuẩn gây thối nhũn, nhiệt độ thích hợp cho
Erwinia spp. từ 20-38C [138].
44
CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. VẬT LIỆU
2.1.1. Mai mực ống Loligo sp.
Mai mực ống Loligo sp. được thu nhận tại các nhà máy chế biến thủy sản thuộc
tỉnh Kiên Giang ở dạng tươi, có chiều dài từ 12-15 cm, rộng 1,0-1,5 cm và độ dày
trung bình 0,4 - 0,5 mm (Hình 2.1). Sau khi thu nhận, mai mực tươi được rửa sạch loại
tạp chất, đóng bao PA hút chân không và cấp đông - 4C cho đến khi được xử lý ở
phòng thí nghiệm. Khi sử dụng, mai mực được rửa sạch và sấy ở 60C qua đêm (16
giờ), sau đó được xay kích thước (3 - 5 mm) làm mẫu trong quá trình thí nghiệm.
Hình 2.1. Nguyên liệu mai mực ống Loligo sp.
2.1.2. Trái cà chua Lycopersicon esculetum
Cà chua thuộc Bộ: Solaneae; Chi: Lycopersicon; Loài: Lycopersicon esculentum
(Hình 2.2). Trái cà chua sau thu hoạch được chọn sử dụng trong suốt quá trình thực
hiện thí nghiệm có tên khoa học là Lycopersicun esculetun Mill [73], quả tròn thuộc
giống C95 đây là giống cà chua lai, được trồng phổ biến ở nước ta do có năng suất
cao, ngắn ngày và có thể trồng trái vụ. Mẫu được lựa chọn, thu mua tại các chợ đầu
mối nông sản Bình Dương, Thủ Đức (TpHCM) và Nha Trang đạt tiêu chuẩn TCVN
4845:2007.
Cà chua là loại trái hô hấp đột biến, nghĩa là trái cà chua khi thu hoạch đã thuần
thục về mặt sinh lý nhưng vỏ còn màu xanh hoặc ngả màu nên có thể chín tiếp tự
nhiên và có thể đạt đến chất lượng tối ưu [118]. Do đó mẫu trái cà chua khi thu nhận
vỏ có xanh hoặc ửng đỏ (đang chuyển màu) có kích thước đồng đều, không có khuyết
tật, không bị các vết thương vật lý như vết dập, vết cắt, lỗ thủng hoặc vết trầy xước.
45
Hình 2.2. Nguyên liệu cà chua Lycopersicon esculentum.
2.1.3. Hóa chất dùng trong nghiên cứu
Hóa chất dùng trong nghiên cứu đều thuộc loại tinh khiết, trong đó hóa chất dùng
trong quá trình thu nhận chitin, chitosan như: NaOH, HCl và các hóa chất dùng trong
phân tích các chỉ tiêu chất lượng đều do công ty Mecrk, Đức sản xuất. Các loại hóa
chất đều được bảo quản theo đúng yêu cầu của nhà sản xuất ghi trên bao bì.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Sơ đồ nghiên cứu tổng quát
Sơ đồ tổng quát các bước nghiên cứu trong phạm vi luận án được trình bày ở
Hình 2.3. Quá trình nghiên cứu xác định điều kiện thu nhận β-chitin và chitosan từ phế
liệu mai mực ống Loligo sp. được thực hiện bằng phương pháp hóa học dựa trên cở sở
các kết quả nghiên cứu đã công bố của Chandumpai 2004 [36], Jung 2013 [79], Kurita
1993 [93], Lavall 2007 [95], Domard 2011 [55], Cortizo 2008 [47], Chaussard 2004
[38] và Abdou 2008 [10]. Việc sử dụng dung dịch NaOH để khử protein thu nhận -
chitin và deacetyl thu nhận chitosan trên cơ sở sử dụng nồng độ NaOH thấp nhất để
hạn chế tối đa quá trình cắt mạch chitin trong quá trình xử lý và có thể ứng dụng kết
quả nghiên cứu trên quy mô sản xuất lớn đem lại hiệu quả thiết thực.
Giải thích quy trình:
Mai mực ống được thu nhận tại nhà máy chế biến thủy sản thuộc tỉnh Kiên Giang
ở dạng tươi thải ra sau quá trình chế biến có chiều dài từ 12-15cm, rộng 1-1,5cm và độ
dày trung bình 0,4-0,5mm. Sau khi thu nhận, mai mực ống được rửa sạch, đóng bao
PA hút chân không, vận chuyển về phòng thí nghiệm và bảo quản lạnh 4C cho đến
46
khi xử lý làm mẫu cho quá trình nghiên cứu. Mẫu mai mực ống ở phòng thí nghiệm
được rửa sạch, sau đó sấy qua đêm (16 giờ) ở nhiệt độ 60oC đến khi mẫu có độ ẩm đạt
dưới 10% thì dừng sấy, thu mai mực ống khô và xay nhỏ ở kích thước 3-5mm. Sau khi
xử lý, mẫu được tiến hành xác định các thành phần hóa học cơ bản như: protein,
khoáng, lipid, các acid amin và thành phần khoáng.
Hình 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm tổng quát.
Trên cơ sở xác định thành phần hóa học của nguyên liệu mai mực ống Loligo sp.,
mẫu mai mực sau xử lý được tiến hành khử các thành phần phi chitin như: protein,
khoáng, lipid để thu nhận β-chitin.
47
+ Khử protein: Mẫu mai mực được tiến hành khử protein trong môi trường
NaOH. Các yếu tố tác động đến quá trình được khảo sát, đánh giá như: nồng độ
NaOH, nhiệt độ khử và thời gian khử. Mục đích cần đạt được sau xử lý là hàm lượng
protein còn lại sau khử đạt dưới 1% và mạch β-chitin thu được ít bị phân cắt nhất trong
quá trình xử lý.
+ Khử khoáng: Mai mực được tiến hành khử các thành phần khoáng trong môi
trường acid HCl. Các yếu tố tác động đến quá trình khử được khảo sát, đánh giá: nồng
độ HCl, nhiệt độ khử và thời gian khử. Mục đích cần đạt được sau xử lý là hàm lượng
khoáng còn lại sau khử đạt dưới 1% và mạch β-chitin thu được ít bị phân cắt nhất
trong quá trình xử lý.
Sản phẩm -chitin sau xử lý được thu nhận và đánh giá các chỉ tiêu như độ tinh
sạch, khối lượng phân tử trung bình (Mw), độ deacetyl (DD), đặc điểm cấu trúc (phổ
nhiễu xạ tia X - XRD, phổ hồng ngoại - FTIR và phổ cộng hưởng từ hạt nhân - NMR)
và một số tính chất lý - hóa quan trọng khác.
+ Deacetyl: Sản phẩm -chitin được deacetyl trong môi trường NaOH. Các yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình deacetyl như: nồng độ NaOH, nhiệt độ và thời gian được khảo
sát, đánh giá. Mục đích của quá trình deacetyl là sản phẩm thu được có độ deacetyl trên
90% (DD > 90%) và mạch chitosan ít bị phân cắt nhất trong quá trình xử lý.
+ Đánh giá kháng khuẩn: Tiến hành phân lập chủng vi khuẩn Erwinia sp. gây
bệnh thối nhũn trên cà chua sau thu hoạch. Các mẫu cà chua bệnh được thu nhận từ
các chợ đầu môi nông sản, sau đó tiến hành phân lập chủng vi khuẩn Erwinia sp. gây
bệnh thối nhũn theo qui tắc Koch và các đặc tính sinh lý, sinh hóa được mô tả bởi Mân
(2007) và Janse (2005) [77, 9].
Từ đó khảo sát, đánh giá khả năng kháng khuẩn của chitosan từ mai mực ống:
Sản phẩm chitosan từ mai mực ống sẽ được cắt mạch bằng H2O2, phương pháp được
mô tả bởi Liu (2006) và Huang (2012) [74, 100]. Các sản phẩm chitosan thu được sau
xử lý cắt mạch có phân tử lượng rất khác nhau từ 6831-138 kDa. Các chitosan này
được đánh giá khả năng kháng khuẩn đối với vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn
trên cà chua sau thu hoạch ở điều kiện in vitro và in vivo.
48
2.2.2. Bố trí thí nghiệm xác định điều kiện thu nhận β-chitin
2.2.2.1. Thí nghiệm tổng quát, đánh giá ảnh hưởng của 3 yếu tố: nồng độ NaOH,
nhiệt độ và thời gian đến khả năng khử protein trong mai mực ống nguyên liệu
Dựa trên cở sở các kết quả nghiên cứu đã công bố Chandumpai 2004 [36], Jung
2013 [79], Kurita 1993 [93] cho thấy điều kiện thu nhận β-chitin từ phế liệu mai mực
được thực hiện bằng phương pháp hóa học (NaOH, KOH) đều phụ thuộc 3 thông số cơ
bản là nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian xử lý. Do đó để đánh đánh giá sơ bộ ảnh
hưởng của 3 yếu tố này đối với nguyên liệu mai mực Loligo sp. sơ đồ bố trí thí nghiệm
được trình bày ở Hình 2.4.
Hình 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của nồng độ NaOH, nhiệt
độ và thời gian đến khả năng khử protein trong mai mực ống nguyên liệu.
Mục đích: Thăm dò và đánh giá được mức tác động của 3 yếu tố: nhiệt độ, nồng
độ NaOH và thời gian đến quá trình khử protein, với yêu cầu mẫu mai mực sau quá
49
trình khử có hàm lượng protein còn lại đạt dưới 1% đáp ứng yêu cầu của 1 sản phẩm
chitin thương mại. Đây là cơ sở để chọn khoảng tác động của từng yếu tố, từ đó bố trí
thí nghiệm đánh giá tác động từng yếu tố đến quá trình khử.
Mô tả thí nghiệm: Tiến hành 3 lô thí nghiệm khử protein trong mai mực Loligo
sp. ở 3 mức nhiệt độ 30C, 60C và 90C với nồng độ NaOH thay đổi từ 3-5% theo
thời gian với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (NL/DM) là 1/10 (w/v). Mẫu sau xử lý được
rửa trung tính, sấy ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ) và kiểm tra hàm lượng protein
còn lại, các bước tiến hành cụ thể như sau:
+ Ở nhiệt độ 30oC: Mẫu mai mực được tiến hành khử protein trong môi
trường NaOH ở các mức nồng độ: 3%, 4% và 5% (w/v) theo thời gian với tỷ lệ nguyên
liệu/dung môi (1/10, w/v). Quá trình khử được định kỳ khuấy đảo sao cho nguyên liệu
tiếp xúc đều dung môi. Định kỳ theo thời gian: 12 giờ, 24 giờ, 36 giờ, 48 giờ, 60 giờ,
72 giờ tiến hành thu mẫu, rửa sạch trung tính, sấy khô ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12
giờ) sau đó tiến hành xác định hàm lượng protein và hàm lượng khoáng còn lại.
+ Ở nhiệt độ 60oC: Mẫu mai mực được tiến hành xử lý trong môi trường
NaOH ở các mức nồng độ: 3%, 4% và 5% (w/v) với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi
(1/10,w/v), mẫu được ủ ở nhiệt độ 60 2oC theo thời gian. Quá trình khử được định
kỳ khuấy đảo sao cho nguyên liệu tiếp xúc đều dung môi. Định kỳ theo thời gian: 2
giờ, 4 giờ, 6 giờ, 8 giờ, 10 giờ, 12 giờ tiến hành thu mẫu, rửa sạch trung tính, sấy khô
ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ) sau đó tiến hành xác định hàm lượng protein và hàm
lượng khoáng còn lại.
+ Ở nhiệt độ 90oC: Tương tự như quá trình xử lý mẫu ở nhiệt độ 60oC, mẫu
mai mực được tiến hành xử lý trong môi trường NaOH ở các mức nồng độ: 3%, 4% và
5% (w/v) với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v), mẫu được ủ ở nhiệt độ 90 2oC
theo thời gian. Quá trình khử được định kỳ khuấy đảo sao cho nguyên liệu tiếp xúc
đều dung môi. Định kỳ theo thời gian: 2 giờ, 4 giờ, 6 giờ, 8 giờ, 10 giờ, 12 giờ tiến
hành thu mẫu, rửa sạch, sấy khô ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ) và tiến hành xác
định hàm lượng protein và khoáng còn lại.
50
2.2.2.2. Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ khử đến quá trình
khử protein
Từ kết quả đánh giá sơ bộ mức tác động của 3 yếu tố: nhiệt độ, nồng độ NaOH
và thời gian đến quá trình khử protein được trình bày ở Hình 2.4. Tiến hành cố định 2
yếu tố: nồng độ NaOH ở mức 4% (w/v) và thời gian khử ở mức 12 giờ. Mẫu mai mực
được xử lý khử protein ở các mức nhiệt độ: 70oC 2, 75oC 2, 80oC 2, 85oC 2,
90oC 2 được trình bày Hình 2.5.
Hình 2.5. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình
khử protein mai mực ống.
51
Mục đích: Chọn được mức nhiệt độ thích hợp cho quá trình khử, sao cho hàm
lượng protein còn lại sau quá trình khử trong β-Chitin dưới 1%.
Mô tả thí nghiệm: Bố trí 5 lô thí nghiệm khử protein trong mai mực Loligo sp. ở
các mức nhiệt độ khác nhau: 70oC; 75oC; 80oC; 85oC và 90oC. Mỗi 5g mai mực ống
được xử lý với 500 ml NaOH 4% trong cốc 1000 ml với tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch
NaOH (1/10, w/v) và được ủ ở một mức nhiệt độ được xem là 1 thí nghiệm. Mỗi lô
được được thực hiện 3 thí nghiệm lại để lấy kết quả trung bình, định kỳ khuấy đảo để
nguyên liệu mai mực tiếp xúc hoàn toàn với dung môi. Mẫu sau khi xử lý được rửa
sạch (trung tính), sấy ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ), sau đó xác định hàm lượng
protein và khối lượng phân tử trung bình của chitin sau xử lý.
2.2.2.3. Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian khử
Sau khi xác định mức nhiệt độ thích hợp cho quá trình khử protein được trình
bày ở mục 2.2.2.2 và Hình 2.5. Tiếp tục cố định yếu tố thời gian khử ở mức 12 giờ,
tiến hành khảo sát, đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian đến quá trình khử protein.
Mục đích: Chọn được mức thời gian thích hợp cho quá trình khử, sao cho hàm
lượng protein còn lại trong mẫu sau quá trình khử dưới 1% và khối lượng phân tử
trung bình của chitin ít bị phân cắt nhất dưới tác động của các yếu tố khử.
Mô tả thí nghiệm: Bố trí 6 lô thí nghiệm khử protein trong mai mực Loligo sp. ở
các mức thời gian khác nhau: 4 giờ; 6 giờ; 8 giờ; 10 giờ; 12 giờ và 14 giờ. Mỗi 5g mai
mực ống được xử lý với 500 ml NaOH 4% trong cốc 1000 ml với tỷ lệ nguyên
liệu/dung dịch NaOH (1/10, w/v) và được ủ ở mức nhiệt độ đã được xác định theo kết
quả của mục 2.2.2.2 và Hình 2.5 được xem là 1 thí nghiệm. Mỗi lô được được thực
hiện 3 thí nghiệm lại để lấy kết quả trung bình, định kỳ khuấy đảo để nguyên liệu mai
mực tiếp xúc hoàn toàn với dung môi. Mẫu sau khi xử lý ở các mức thời gian được
rửa sạch (trung tính), sấy ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ), sau đó xác định hàm
lượng protein và khối lượng phân tử trung bình của chitin sau xử lý.
52
Hình 2.6. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của thời gian
đến quá trình khử protein.
2.2.2.4. Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ NaOH
Sau khi xác định mức nhiệt độ thích hợp cho quá trình khử protein theo kết quả ở
mục 2.2.2.2 và mức thời gian thích hợp theo kết quả ở mục 2.2.2.3. Tiến hành khảo
sát, đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ NaOH đến quá trình khử protein.
Mục đích: Chọn được mức nồng độ NaOH thích hợp cho quá trình khử, sao cho
hàm lượng protein còn lại trong mẫu sau quá trình khử dưới 1% và khối lượng phân tử
trung bình của chitin ít bị phân cắt nhất dưới tác động của các yếu tố khử.
53
Hình 2.7. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của nồng độ NaOH đến quá trình
khử protein.
Mô tả thí nghiệm: Bố trí 5 lô thí nghiệm khử protein trong mai mực Loligo ở các
mức nồng độ NaOH khác nhau: 3%, 3,5%, 4%, 4,5%, 5%. Mỗi 5g mai mực ống được
xử lý với 500 ml dung dịch NaOH trong cốc 1000 ml với tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch
NaOH (1/10, w/v) và được ủ ở mức nhiệt độ thích hợp đã được xác định theo kết quả
của mục 2.2.2.2 và ở mức thời gian khử thích hợp đã được xác định ở mục 2.2.2.3
được xem là 1 thí nghiệm. Mỗi lô được thực hiện 3 thí nghiệm lập lại để lấy kết quả
54
trung bình, định kỳ khuấy đảo để nguyên liệu mai mực tiếp xúc hoàn toàn với dung
môi. Mẫu sau khi xử lý ở các mức nồng độ NaOH được rửa sạch (trung tính), sấy ở
nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ), sau đó xác định hàm lượng protein và khối lượng
phân tử trung bình (Mw) của chitin sau xử lý.
2.2.3. Bố trí thí nghiệm xác định điều kiện deacetyl β-chitin thu nhận chitosan
2.2.3.1. Thí nghiệm tổng quát, đánh giá ảnh hưởng của nồng độ NaOH, nhiệt độ
và thời gian đến quá trình deacetyl -chitin
Mục đích: Thăm dò và đánh giá được mức tác động của 3 yếu tố: nhiệt độ, nồng
độ NaOH và thời gian đến quá trình deacetyl, với yêu cầu sản phẩm chitosan thu được
sau quá trình khử có độ deacetyl trên 90%. Đây là cơ sở để chọn khoảng tác động của
từng yếu tố, từ đó bố trí thí nghiệm chi tiết đánh giá khoảng tác động từng yếu tố đến
quá trình deacetyl.
Mô tả thí nghiệm: Tiến hành 3 lô thí nghiệm deacetyl -chitin ở 3 mức nhiệt độ
30C, 60C và 90C với nồng độ NaOH thay đổi từ 30-60% theo thời gian với tỷ lệ
NL/DM (1/10, w/v). Mẫu sau xử lý được rửa trung tính, sấy ở 60oC qua đêm (12 giờ)
và tiến hành đánh giá độ deacetyl của sản phẩm chitosan thu được, các bước tiến hành
cụ thể như sau:
+ Ở nhiệt độ 30oC: Mẫu -chitin được tiến hành deacetyl trong môi trường
NaOH ở các mức nồng độ: 30%, 40%, 50% và 60% (w/w) theo thời gian với tỷ lệ
nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v). Mẫu được để ở nhiệt độ thường và trong quá trình
khử được định kỳ khuấy đảo sao cho nguyên liệu tiếp xúc đều dung môi. Định kỳ theo
thời gian: 3 giờ, 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ, 24 giờ, 30 giờ, 36 giờ, 42 giờ, 48 giờ, 54 giờ, 60
giờ, 66 giờ và 72 giờ tiến hành thu mẫu, rửa sạch, sấy khô ở nhiệt độ 60oC qua đêm
(12 giờ), sau đó tiến hành xác định độ deacetyl và khối lượng phân tử trung bình của
sản phẩm chitosan thu được.
+ Ở nhiệt độ 60oC: Mẫu -chitin được tiến hành xử lý deacetyl trong môi
trường NaOH ở các mức nồng độ: 30%, 40%, 50% và 60% (w/w) với tỷ lệ nguyên
liệu/dung môi (1/10, w/v), mẫu được ủ ở nhiệt độ 60 2oC theo thời gian. Quá trình
khử được định kỳ khuấy đảo sao cho nguyên liệu tiếp xúc đều dung môi. Định kỳ theo
thời gian: 3 giờ, 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ, 24 giờ, 30 giờ, 36 giờ, 42 giờ, 48 giờ tiến hành
55
thu mẫu, rửa sạch, sấy khô ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ) và tiến hành xác định độ
deacetyl của sản phẩm chitosan thu được.
Hình 2.8. Sơ đồ thí nghiệm tổng quát đánh giá ảnh hưởng các yếu tố nhiệt độ,
nồng độ NaOH và thời gian đến quá trình deacetyl -chitin.
+ Ở nhiệt độ 90oC: Tương tự như quá trình xử lý mẫu ở nhiệt độ 60oC, mẫu
-chitin được tiến hành xử lý deacetyl trong môi trường NaOH ở các mức nồng độ:
30%, 40%, 50% và 60% (w/w) với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v), mẫu được
ủ ở nhiệt độ 90 2oC theo thời gian. Quá trình khử được định kỳ khuấy đảo sao cho
nguyên liệu tiếp xúc đều dung môi. Định kỳ theo thời gian: 3 giờ, 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ
và 24 giờ tiến hành thu mẫu, rửa sạch, sấy khô ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ) và
tiến hành xác định độ deacetyl của sản phẩm chitosan thu được.
56
2.2.3.2. Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình
deacetyl -chitin
Từ kết quả đánh giá sơ bộ mức tác động của 3 yếu tố: nhiệt độ, nồng độ NaOH
và thời gian đến quá trình deacetyl được trình bày mục 2.2.3.1 và Hình 2.8. Tiến hành
cố định 2 yếu tố: nồng độ NaOH ở mức 50% (w/w) và thời gian khử ở mức 10 giờ với
tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch NaOH (1/10, w/v). Mẫu -chitin được xử lý deacetyl ở các
mức nhiệt độ: 60oC ± 2, 70oC ± 2, 80oC ± 2, 90oC ± 2 được trình bày Hình 2.9.
Hình 2.9. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình
deacetyl -chitin.
57
Mục đích: Chọn được mức nhiệt độ thích hợp cho quá trình deacetyl, sao cho
độ deacetyl (DD) của sản phẩm chitosan thu được trên 90% và khối lượng phân tử
trung bình (Mw) ít bị phân cắt nhất dưới tác động của các yếu tố khử.
Mô tả thí nghiệm: Bố trí 4 lô thí nghiệm deacetyl -chitin ở các mức nhiệt độ
khác nhau, mỗi 5g β-chitin từ mai mực ống được xử lý với 50 ml NaOH 50% trong cốc
250 ml với tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch NaOH (1/10, w/v) và được ủ ở các mức nhiệt độ.
Mỗi lô được được thực hiện 3 thí nghiệm lại để lấy kết quả trung bình, định kỳ khuấy
đảo để nguyên liệu sao cho tiếp xúc hoàn toàn với dung môi. Mẫu sau khi xử lý được
rửa sạch đến trung tính, sấy ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ), sau đó xác định độ
deacetyl (DD) và khối lượng phân tử trung bình (Mw) của sản phẩm chitosan thu được.
2.2.3.3. Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ NaOH đến quá
trình deacetyl -chitin
Sau khi xác định mức nhiệt độ thích hợp cho quá deacetyl ở mục 2.2.3.2 và
Hình 2.9. Tiếp tục cố định yếu tố thời gian khử ở mức 10 giờ, tiến hành khảo sát, đánh
giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ NaOH đến quá trình deacetyl.
Mục đích: Chọn được mức nồng độ NaOH thích hợp cho quá trình deacetyl sao
cho sản phẩm chitosan thu được có độ deacetyl (DD) trên 90% và có khối lượng phân
tử trung bình ít bị phân cắt nhất dưới tác động của các yếu tố khử.
Mô tả thí nghiệm: Bố trí 4 lô thí nghiệm deacetyl -chitin ở các mức nồng độ
NaOH khác nhau, mỗi 5g -chitin được xử lý với 50 ml NaOH trong cốc 250 ml với tỷ
lệ nguyên liệu/dung dịch NaOH (1/10, w/v) ở các mức nồng độ khác nhau: 40%, 45%,
50%, 55% (w/w). Mỗi lô được được thực hiện 3 thí nghiệm lại để lấy kết quả trung
bình, định kỳ khuấy đảo để nguyên liệu tiếp xúc hoàn toàn với dung môi. Mẫu sau khi
xử lý được rửa sạch đến trung tính, sau đó sấy ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ), sau
đó mẫu được xác định độ deacetyl (DD) và khối lượng phân tử trung bình (Mw) của
sản phẩm chitosan thu được.
58
Hình 2.10. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ NaOH đến
quá trình deacetyl -chitin.
2.2.3.4. Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian đến quá trình
deacetyl β-chitin
Sau khi xác định mức nhiệt độ thích hợp cho quá deacetyl ở mục 2.2.3.2 và
mức nồng độ NaOH thích hợp ở mục 2.2.3.3. Tiến hành khảo sát, đánh giá ảnh hưởng
của yếu tố thời gian đến quá trình deacetyl.
Mục đích: Chọn được mức thời gian thích hợp cho quá trình deacetyl sao cho sản
phẩm chitosan thu được có độ deacetyl (DD) trên 90% và có khối lượng phân tử trung
bình (Mw) của chitosan thu được ít bị phân cắt nhất dưới tác động của các yếu tố khử.
59
Hình 2.11. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian đến quá
trình deacetyl -chitin.
Mô tả thí nghiệm: Bố trí 6 lô thí nghiệm deacetyl -chitin ở các mức thời gian
khử khác nhau, mỗi 5g -chitin được xử lý với 50 ml NaOH ở các mức thời gian: 4
giờ, 8 giờ, 12 giờ, 16 giờ, 20 giờ, 24 giờ trong cốc 250 ml với tỷ lệ nguyên liệu/dung
dịch NaOH (1/10, w/v) và được xử lý ở mức nhiệt độ thích hợp đã được xác định theo
kết quả của mục 2.2.3.2 và mức nồng độ NaOH thích hợp đã được xác định ở mục
2.2.3.3 được xem là 1 thí nghiệm. Mỗi lô được thực hiện 3 thí nghiệm lập lại để lấy kết
quả trung bình, định kỳ khuấy đảo để nguyên liệu tiếp xúc hoàn toàn với dung môi.
60
Mẫu sau khi xử lý được rửa sạch đến trung tính, sấy ở nhiệt độ 60oC qua đêm (12 giờ),
sau đó xác định độ deacetyl (DD) và khối lượng phân tử trung bình (Mw) của sản phẩm
chitosan thu được.
2.2.3.5. Bố trí thí nghiệm deacetyl lần 2
Vì mục đích nghiên cứu của Luận án là chọn điều kiện deacetyl sao cho có thể
ứng dụng sản xuất ở quy mô lớn do đó các yếu tố tác động như nhiệt độ, nồng độ
NaOH và thời gian khử đều phải phù hợp với yêu cầu sản xuất thực tế:
- Sử dụng nồng độ NaOH thấp nhất có thể để hạn chế thấp nhất lượng chất thải
thải ra môi trường sau xử lý, cũng như hạn chế thấp nhất chi phí sản xuất và chi phí xử
lý chất thải.
- Mức nhiệt độ sử dụng phải phù hợp sản xuất thực tế (dưới 100oC) vì nếu sử
dụng nhiệt độ trên 100oC ở qui mô sản xuất lớn các thì yêu cầu kỹ thuật của các thiết
bị sản xuất phải cao, đắt tiền.
Hình 2.12. Sơ đồ thí nghiệm deacetyl lần 2.
- Vì lý do hiệu quả kinh tế nên thời gian xử lý không quá dài, ngoài ra nếu kéo
dài thời gian xử lý thì khối lượng phân tử trung bình của chitin, chitosan đều bị ảnh
hưởng rất lớn làm hạ thấp chất lượng sản phẩm.
Dựa trên các kết quả thực nghiệm cho thấy nếu muốn thu nhận được sản phẩm
chitosan có độ deacetyl trên 90% và hạn chế thấp nhất quá trình cắt mạch thì việc thực
61
hiện phương pháp deacetyl nhiều lần là phù hợp. Nội dung này cũng đã được các kết
quả của Jung 2013, Kiruta 1993 và Broussignac 1968 công bố trên các tạp chí có uy
tín [31, 79, 93]. Từ những lý do trên sơ đồ bố trí thí nghiệm deacetyl lần 2 được trình
bày ở Hình 2.12.
Mô tả thí nghiệm: Mẫu -chitin được xử lý deacetyl trong môi trường NaOH,
dưới tác động của các yếu tố, các gốc acetyl trong mạch chitin bị khử. Tuy nhiên quá
trình khử sẽ chậm và khó đạt mức deacetyl trên 90%, do đó mẫu chitosan sau khi
deacetyl lần 1 sẽ được rửa sạch đến trung tính và tiếp tục deacetyl lần 2.
2.2.4. Bố trí thí nghiệm phân lập vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn
Dựa trên các kết quả nghiên cứu của Janse 2005 [77], Winslow 2003 [164] và
Simeon 2006 [145]. Quá trình phân lập vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn (soft rot)
trên trái cà chua sau thu hoạch được bố trí theo sơ đồ Hình 2.13.
Để xác định bệnh, cần thiết phải khẳng định sự có mặt của vi khuẩn trong mô bệnh,
phân lập từ mô bệnh để nuôi cấy vi khuẩn thuần khiết, sau đó lây bệnh nhân tạo để xác
định tính gây bệnh của chúng trên kí chủ theo quy tắc Koch. Tiếp tục nghiên cứu xác định
rõ đặc tính hình thái, sinh trưởng (khuẩn lạc) và phản ứng sinh hóa để có cơ sở phân loại,
giám định loại (giống) và loài vi khuẩn cần chẩn đoán.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu đã được công bố của Janse 2005 [77], Simeon 2006
[145] và Gnanamanickam 2006 [66]. Các mẫu cà chua bị bệnh thối nhũn được thu thập ở
nhiệt độ thường (30-32°C) trong điều kiện ẩm ướt. Việc thu thập các mẫu cà chua bị
bệnh được thực hiện thành nhiều đợt, tại các chợ nông sản đầu mối khác nhau. Các
mẫu cà chua bệnh sau khi thu nhận được bao giấy và vận chuyển về phòng thí nghiệm.
Các mẫu cà chua này tiếp tục được bảo quản trong điều kiện thường đến khi vết bệnh
có biểu hiện rõ theo mô tả bệnh học sẽ được chọn làm mẫu phân lập vi khuẩn.
Mô tả bệnh học: Các mẫu trong quá tình bảo quản ở điều kiện thường có vết bệnh
phát triển nhanh chóng cả về đường kính và chiều sâu, các vùng bị ảnh hưởng trở nên
nhũn mềm và chảy nước do các tế bào bị tổn thương, trong khi bề mặt vết bệnh trở nên
đổi màu, có thể xuất hiện nếp nhăn hoặc phồng rộp. Mức độ gây tổn thương lúc đầu chậm
nhưng sau đó tổn thương rất nhanh, các mô trong trái cà chua bị ảnh hưởng bị phân hủy
62
chảy nước, các vết nứt phát triển và bề mặt vết bệnh trở nên nhầy nhụa, kèm theo mùi hôi
hoặc mùi lưu huỳnh. Trường hợp tiếp xúc với không khí vết bệnh có thể chuyển sang màu
xám hoặc màu nâu sẫm.
Hình 2.13. Sơ đồ phân lập vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên trái cà chua
sau thu hoạch.
63
2.2.5. Bố trí thí nghiệm tổng quát đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp.
gây bệnh thối nhũn trên trái cà chua sau thu hoạch của β-chitosan ở điều kiện in
vitro và in vivo
Sơ đồ nghiên cứu tổng quát:
Hình 2.14. Sơ đồ thí nghiệm tổng quát đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp.
gây bệnh thối nhũn trên cà chua sau thu hoạch của chitosan.
Các kết quả thảo luận về hoạt tính kháng khuẩn của chitosan trong các điều kiện
khác nhau cho thấy hiệu quả kháng khuẩn của chitosan phụ thuộc vào khối lượng phân tử
trung bình (Mw), nồng độ chitosan sử dụng, nguồn gốc thu nhận của chitosan thử nghiệm
tùy theo đối tượng vi sinh cần kháng. Theo Sukmark 2011 [148] chitosan có DD > 95% từ
mai mực cho hiệu quả kháng khuẩn tốt hơn từ vỏ cua và vỏ tôm đối với cả vi khuẩn Gram
âm và Gram dương (ví dụ như: Escherichia coli, Salmonella, Staphylococcus aureus,
Bacillus subtilis), oligo chitosan từ mai mực (50-80 kDa) cho kháng khuẩn tốt nhất. Guan,
64
Fu, & Zhu (1997) cho thấy rằng chitosan tác động kháng khuẩn càng lớn khi trọng lượng
phân tử thấp (Mw). Một nghiên cứu khác của Xia và cộng sự 1996 đã chứng minh rằng
hiệu quả kháng khuẩn trên Escherichia coli của chitosan có Mw thích hợp là 1,5 kDa
[166]. Do đó trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, các bước đánh giá khả năng kháng khuẩn
của chitosan từ mai mực ống đối với vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn trên cà chua
sau thu hoạch được trình bày ở Hình 2.14.
Mô tả quy trình:
Chuẩn bị chitosan: Sản phẩm chitosan được thu nhận từ mai mực Loligo sp. ở
mục 2.2.3 có độ deacetyl trên 90% và khối lượng phân tử trung bình (Mw) cao sẽ được
cắt mạch bằng H2O2 theo phương pháp mô tả bởi Liu 2006 và Huang 2012 và được
trình bày ở mục 2.3.4. Các sản phẩm chitosan thu được sẽ có khối lượng phân tử trung
bình giảm dần.
Đánh giá khả năng kháng khuẩn của chitosan ở điều kiện in vitro và in vivo: Các
chitosan sau khi cắt mạch có các khối lượng phân tử khác nhau được hòa tan trong
dung dịch acid acetic 1% (v/v) ở các nồng độ khác nhau và được sử dụng để đánh giá
khả năng kháng khuẩn của chitosan ở điều kiện in vitro và in vivo. Quá trình đánh giá
kháng khuẩn được so sánh với 3 mẫu đối chứng như: Mẫu chitosan thương mại do
Công ty Sigma-Aldrich, Hòa Kỳ sản xuất có độ deacetyl (DD) 79-81% và khối lượng
phân tử (Mw) 120 kDa; Mẫu dung dịch acid acetic 1%và mẫu nước cất.
2.2.5.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm chi tiết đánh giá khả năng kháng khuẩn của
chitosan đối với vi khuẩn Erwinia sp. ở điều kiện in vitro
Mục đích: Đánh giá khả năng kháng khuẩn của chitosan từ mai mực Loligo sp. ở
các khối lượng phân tử trung bình (Mw) khác nhau đối với vi khuẩn Erwinia sp. ở điều
kiện in vitro được mô tả ở Hình 2.15.
Mô tả thí nghiệm: Sản phẩm chitosan từ mai mực Loligo sp. được thu nhận từ kết
quả nghiên cứu ở mục 2.2.3 có độ deacetyl (DD) trên 90% và có khối lượng phân tử
trung bình Mw cao được cắt mạch bằng H2O2 theo phương pháp được mô tả bởi Liu
2006 và Huang 2012 được trình bày ở mục 2.3.4. Bốn loại chitosan thu được đều có độ
deacetyl (DD) trên 90% và có khối lượng phân tử trung bình khác nhau.
65
Các chitosan này được hòa tan trong dung dịch acid acetic 1% ở các mức nồng
độ: 0,1%, 0,25%, 0,5%, 0,75%, 1%, 1,25%, 1,5%. Quá trình hòa tan chitosan được để
sau 24 giờ để chitosan tan hoàn toàn.
Mẫu vi khuẩn Erwinia sp. được nuôi trong môi trường potato glucose lỏng (PG)
ở điều kiện nhiệt độ 30oC trên máy lắc 120 vòng/phút, sau 24 giờ dung dịch vi khuẩn
được pha loãng điều chỉnh đến độ hấp thu 0,25 tại bước sóng 610 nm, số lượng vi
khuẩn được xác định 2,1103 CFU/ml bằng phương pháp cấy đếm khuẩn lạc Nan liu
2006 [100].
Hình 2.15. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. của
chitosan ở điều kiện in vitro.
66
Mô tả thực nghiệm: Tiến hành lấy 0,1 ml dịch chitosan và 0,1 ml dịch vi khuẩn
trộn đều và cấy trang trên mặt thạch môi trường potato dextrose agar (PDA) được
chuẩn bị trên đĩa petri 950 mm. Các đĩa thạch sau khi cấy được nuôi ủ ở nhiệt độ 30oC
sau thời gian 24 giờ được soi đếm khuẩn lạc và đánh giá khả năng kháng khuẩn của
chitrosan. Quá trình đánh giá được so sánh với các mẫu đối chứng như: mẫu chitosan
thương mại (Sigma-Aldrich) có độ deacetyl (DD) 79-81% và có khối lượng phân tử
trung bình (Mw) 120 kDa, mẫu acid acetic 1% và mẫu nước cất. Các nghiệm thức đều
lập lại 3 lần để lấy giá trị trung bình.
2.2.5.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm chi tiết đánh giá khả năng kháng bệnh thối nhũn
trên cà chua sau thu hoạch do vi khuẩn Erwinia sp. của chitosan ở điều kiện in vivo
Mục đích: Đánh giá khả năng kháng bệnh thối nhũn do vi khuẩn Erwinia sp. trên
trái cà chua sau thu hoạch của chitosan ở các mức khối lượng phân tử khác nhau.
Hình 2.16. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng kháng bệnh thối nhũn của
chitosan ở điều kiện in vivo.
67
Chuẩn bị dung dịch chitosan: Ba mẫu chitosan từ mai mực ống được đánh giá
đều có độ deacetyl (DD) trên 90% và có khối lượng phân tử giảm dần. Các mẫu
chitosan này được hòa tan trong dung dịch acid acetic 1% ở các mức nồng độ: 0,2%,
0,4%, 0,6%, 1%, 1,5%. Các dịch chitosan này đều được chuẩn pH = 5-5,5 trước khi
đánh giá khả năng kháng bệnh thối nhũn trên trái cà chua.
Chuẩn bị mẫu trái cà chua: Trái cà chua được chọn, rửa sạch để ráo, xử lý cồn
75%, sau đó được nhúng qua dịch chitosan đã chuẩn bị. Các mẫu này được để ráo 24 giờ
trước khi gây bệnh nhân tạo.
Chuẩn bị mẫu vi khuẩn gây bệnh: Mẫu vi khuẩn Erwinia sp. được nuôi trong môi
trường potato glucose lỏng (PG) ở điều kiện nhiệt độ 30oC trên máy lắc 120 vòng/phút,
sau 24 giờ làm dịch vi khuẩn gây bệnh.
Mô tả thực nghiệm: Dùng kim mũi mát chấm vào phần đầu trái cà chua đã xử lý
chitosan tạo vết thương có kích thước (ngang 1mm, sâu 2mm), sau đó dùng micropipet
cho 5l dịch vi khuẩn đã chuẩn bị vào vết thương. Các mẫu bệnh được đặt trong hộp
nhựa vô trùng, có lót giấy ẩm phía dưới tạo độ ẩm, các hộp nhựa được để ở nhiệt độ
thường và theo dõi kích thước vết bệnh theo phương pháp được mô tả bởi Meng và
cộng sự 2010) [105]. Quá trình đánh giá được so sánh với các mẫu đối chứng như:
mẫu chitosan thương mại (Sigma-Aldrich) có độ deacetyl (DD) 79-81% và có khối
lương phân tử trung bình (Mw)= 120 kDa, mẫu acid acetic 1% và mẫu nước cất. Các
nghiệm thức đều lập lại 3 lần để lấy giá trị trung bình.
2.2.5.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm so sánh đánh giá khả năng kháng bệnh của
chitosan từ mai mực ống và chitosan thương mại (Sigma-Aldrich)
Mục đích: Đánh giá khả năng kháng bệnh thối nhũn do vi khuẩn Erwinia sp. gây ra
đối với trái cà chua sau thu hoạch của chitosan từ mai mực Loligo sp. và chitosan thương
mại.
Chuẩn bị dung dịch chitosan: Mẫu chitosan từ mai mực ống có độ deacetyl (DD)
trên 90% và có khối lượng phân tử trung bình (Mw) tương đương với Mw của chitosan
thương mại và mẫu chitosan thương mại có độ deacetyl (DD) 79-81% và Mw = 120
kDa. Hai mẫu chitosan này được hòa tan trong dung môi acid acetic 1% ở mức nồng
68
độ 1,5%, sau đó các dịch chitosan này đều được chuẩn pH = 5-5,5 trước khi đánh giá
khả năng kháng bệnh thối nhũn trên trái cà chua.
Chuẩn bị trái cà chua: Trái cà chua được chọn, rửa sạch để ráo, xử lý cồn 75%,
sau đó được nhúng qua dịch chitosan đã chuẩn bị. Các mẫu cà chua sau khi nhúng dịch
chitosan sẽ được để ráo 24 giờ trước khi gây bệnh nhân tạo.
Chuẩn bị mẫu vi khuẩn gây bệnh: Mẫu vi khuẩn Erwinia sp. được nuôi trong môi
trường potato glucose lỏng (PG) ở điều kiện nhiệt độ 30oC trên máy lắc 120 vòng/phút,
sau 24 giờ làm dịch vi khuẩn gây bệnh.
Hình 2.17. Sơ đồ thí nghiệm so sánh khả năng kháng bệnh thối nhũn của chitosan
từ mai mực ống và chitosan thương mại.
Mô tả thực nghiệm: Dùng kim mũi mát chấm vào phần đầu trái cà chua đã xử lý
chitosan tạo vết thương có kích thước (ngang 1mm, sâu 2mm), sau đó dùng micropipet
cho 5l dịch vi khuẩn đã chuẩn bị vào vết thương. Các mẫu bệnh được đặt trong hộp
nhựa vô trùng, có lót giấy ẩm phía dưới tạo độ ẩm, các hộp nhựa được để ở nhiệt độ
thường. Định kỳ theo thời gian 12 giờ, 24 giờ, 36 giờ, 48 giờ đo kích thước vết bệnh
bên trong và bên ngoài. Quá trình đánh giá được so sánh với các mẫu đối chứng nước
cất. Các nghiệm thức đều lập lại 3 lần để lấy giá trị trung bình.
69
2.2.5.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm đánh giá khả năng tổng hợp phenol của trái cà
chua sau khi xử lý chitosan
Hình 2.18. Sơ đồ thí nghiệm đánh giá khả năng tổng hợp phenol của trái cà chua
sau khi xử lý chitosan.
Chuẩn bị dung dịch chitosan: Ba mẫu chitosan từ mai mực ống được đánh giá
đều có độ deacetyl (DD) trên 90% và có khối lượng phân tử 1740 kDa, 655 kDa và
138 kDa được hòa tan trong dung dịch acid acetic 1% ở nồng độ 1,5%. Các dịch
chitosan này đều được chuẩn pH = 5-5,5 trước khi xử lý trên trái cà chua.
Chuẩn bị mẫu vi khuẩn gây bệnh: Mẫu vi khuẩn Erwinia sp. được nuôi trong môi
trường potato glucose lỏng (PG) ở điều kiện nhiệt độ 30oC trên máy lắc 120 vòng/phút,
sau 24 giờ làm dịch vi khuẩn gây bệnh.
Mô tả thực nghiệm: Trái cà chua được chọn có kích thước và độ chín đồng đều,
rửa sạch để ráo, xử lý cồn 75%, sau đó được nhúng qua các dịch chitosan đã chuẩn bị,
các mẫu này được để ráo 24 giờ sau đó dùng kim mũi mát gây bệnh nhân tạo trên trái cà
chua. Sau khi xử lý, trái cà chua được định kiểm tra tổng hàm lượng phenol sau 24 giờ và
72 giờ bảo quản.
70
2.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH, XÁC ĐỊNH CÁC CHỈ TIÊU
2.3.1. Phương pháp xác định các thành phần hóa học cơ bản
- Xác định hàm lượng ẩm theo chuẩn AOAC 1990.
- Xác định hàm lượng khoáng theo chuẩn AOAC 1990.
- Xác định hàm lượng lipid bằng phương pháp Folch [60].
- Xác định hàm lượng chitin bằng phương pháp Rao và cộng sự [144].
- Xác định hàm lượng protein bằng phương pháp Biuret và MicroBiuret (Phụ lục
1 và 2).
2.3.2. Phương pháp xác định thành phần acid amin và thành phần khoáng
- Xác định thành phần acid amin: phân tích phương pháp GC với một bộ kit (GC-
EZ: FAAST) để phân tích acid amin tự do theo chuẩn AOAC.
- Xác định thành phần khoáng: Thành phần khoáng được phân xác định bằng
phương pháp quang phổ hấp thu nguyên tử AAS theo chuẩn AOAC (2000).
2.3.3. Phương pháp xác định tính chất của -chitin và chitosan
- Xác định hàm lượng protein còn lại (hàm lượng protein > 3%): được xác định
bằng phương pháp Biuret, nội dung chi tiết được trình bày ở Phụ lục 1.
- Xác định hàm lượng protein còn lại trên chitin (hàm lượng protein < 3%): bằng
phương pháp MicroBiuret được mô tả bởi Aye và Stevens 2006 [18], nội dung chi tiết
được trình bày ở Phụ lục 2.
- Xác định độ acetyl (DA) hoặc deacetyl (DD) của chitin: được xác định dựa vào đo
độ hấp phụ quang học sau khi thủy phân mẫu với H3PO4 theo Hein và cộng sự 2008 [70].
- Phân tử lượng trung bình (Mw) của chitin được xác định thông qua độ nhớt nội
và tính theo công thức Mark–Houwink theo Einbu và cộng sự 2007 [57], nội dung chi
tiết được trình bày ở Phụ lục 3.
- Phổ nhiễu xạ tia X (XRD): đo trên máy PANalytical, X’Pert-PRO –MPD, sử
dụng tia chiếu xạ CuKα (λ = 1,54A) với hiệu điện thế 40kV và cường độ 40mA, góc
quét 4 < 2θ < 44, bước quét 0,05, tốc độ quét 1/min, ở nhiệt độ 25C.
- Phổ hấp phụ hồng ngoại (FTIR): đo trên máy Nicolet iS10, Thermo Scientific,
bước sóng từ 548–4000cm-1.
71
- Phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMR: đo 1H NMR (400 MHz, Bruker) sử dụng
dung môi DCl và D2O.
- Kính hiển vi điện tử SEM: được chụp trên máy Hitachi S-4800.
- Kính hiển vi điện tử truyền qua TEM: được chụp trên máy H7600 (Hitachi,
Tokyo, Japan) ở mức điện thế 100 kv.
- Độ hòa tan của chitosan: được phản ánh thông qua mức độ hòa tan của 1g mẫu
trong 100ml dung dịch acid acetic 1% theo thủ tục được Samar và cộng sự 2013 [137]
có điều chỉnh, nội dung chi tiết được trình bày ở Phụ lục 4.
- Xác định độ kết tinh của chitin, chitosan: được xác định thông qua chỉ số kết
tinh (CrI - Crystalline Index) theo phương pháp được mô tả bởi Pareek và cộng sự
2013 [117] và mức độ kết tinh (χcr - Degree of Crystallinity) theo phương pháp được
Chebotok và cộng sự 2007 [40], nội dung cụ thể được trình bày ở Phụ lục 5.
2.3.4. Phương pháp cắt mạch chitosan
Sản phẩm chitosan ban đầu (CTS-1) có độ deacetyl DD = 91-93% và khối lượng
phân tử trung bình (Mw = 6831 kDa) được xử lý trong dung dịch NaOH 0,2% (w/v) ở
nhiệt độ phòng trong 8 giờ với tỷ lệ 1/15 (w/v), quá trình này sẽ giúp chitosan trương nở
cấu trúc mạch giúp H2O2 tiếp xúc tốt nhất trong cấu trúc mạch chitosan. Sau đó cho H2O2
10% (v/v) với tỷ lệ 1/10 (w/v) vào chitosan đã xử lý trương nở, theo thời gian: 3 giờ, 5
giờ, 7 giờ. Sau đó mẫu được đưa về pH = 10, lọc chitosan kết tủa, các mẫu chitosan
được thu nhận, sấy 60oC qua đêm (12 giờ). Các sản phẩm chitosan thu được có khối
lượng phân tử khác nhau được trình bày trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Tính chất các chitosan sau cắt mạch
Thời gian cắt mạch Chitosan DD (%) Mw (kDa) (giờ)
CTS-TM - 79-81 120
CTS-1 - 91-93 6831
CTS-2 3 91-93 1740
CTS-3 5 91-93 655
C-120: Chitosan thương mại (Sigma-Aldrich) có DD 79-81% và Mw 120 kDa.
CTS-4 7 91-93 138
72
2.3.5. Phương pháp phân lập chủng vi khuẩn Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn
- Phương pháp lựa chọn khuẩn lạc, chủng vi khuẩn: Mẫu cà chua bệnh được rửa
cồn, cắt đôi bằng dao vô trùng, sau đó lấy 1g phần thịt cà chua tại ranh giới bị bệnh cho
vào ống nghiệm chứa 5ml nước cất vô trùng, lắc đều. Sau 30 phút dùng pipet lấy 50l
dịch vi khuẩn cho lên mặt thạch PDA (đĩa petri 90mm) sau đó dùng que cấy trang trên
mặt thạch. Mẫu được đem ủ ở điều kiện nhiệt độ 30C, sau thời gian 24-48 giờ quan sát
và lựa chọn các khuẩn lạc phát triển trên mặt thạch. Theo mô tả của Janse 2005 [77] và
Mân 2007 [9] khuẩn lạc Erwinia sp. khi nuôi cấy trên môi trường PDA trong điều kiện
pH trung tính ở nhiệt độ từ 27-30C có màu trắng xám, hình tròn hoặc hình bầu dục
không đều, bề mặt khuẩn lạc nhầy ướt. Quá trình được thực hiện lập lại trên các mẫu bệnh
để chọn được các khuẩn lạc thuần khiết làm cơ sở cho các công đoạn tiếp theo. Sau đó
tiến hành nhuộm Gram và kiểm tra khả năng di động các dòng vi khuẩn được chọn, theo
Janse 2005 vi khuẩn Erwinia sp. có tế bào hình gậy (0,5-1,0 x 1,0-3,0 mm) đơn độc hoặc
tạo thành cặp, Gram âm, ưa khí tùy tiện, di động bằng chu mao.
- Đánh giá khả năng phân giải pectin trên môi trường CVP (Crystal Violet
Pectate): Việc thử nghiệm các chủng trên môi trường CVP sẽ đánh giá được khả năng
phân giải pectin của chúng [77]. Chuẩn bị môi trường CVP, dùng que cấy lấy chấm lên
khuẩn lạc chủng cần thử nghiệm, sau đó chấm 4 đến 6 chấm trên mặt thạch CVP, ủ ở
nhiệt độ 30ºC trong 48 giờ, quan sát khuẩn lực phát triển đánh giá kết quả. Các chủng có
khả năng phân giải pectin sẽ tạo thành các hố trên mặt thạch và hóa lỏng pectate trên môi
trường CVP, hình thành trên bề mặt hố là lớp pectin tinh khiết trong quá trình phát triển
của vi khuẩn [77], [172].
- Đánh giá khả năng lên men-oxy hóa glucose (Oxidative-Fermentative): Pha môi
trường PG lỏng phân vào mỗi ống nghiệm 15ml và được vô trùng, sau đó cho vào mỗi
ống nghiệm 2 giọt bromothymol blue đã được lọc qua màng lọc 0,2µm. Cấy 1 vòng
que cấy vi khuẩn vào ống nghiệm sau đó phủ 1 lớp parafil lên bề mặt môi trường và
nuôi cấy ở 30C trong 48 giờ. Tiến hành quan sát sự thay đổi màu của môi trường để
xác định kết quả. Theo Janse 2005 [77], việc thực hiện thí nghiệm khả năng lên men-
oxy hóa glucose nhằm loại các chủng vi khuẩn thuộc chi Xanthomonas spp. (hiếu khí
bắc buộc) và Pseudomonas spp. (hiếu khí) từ đó nhận diện chủng thuộc chi Erwinia
73
sp. (hiếu khí tùy tiện). Thí nghiệm nhằm mục đích xác định các vi khuẩn Gram âm có
khả năng chuyển hóa carbohydrate (glucose) trong điều kiện lên men kỵ khí hoặc hiếu
khí. Trong điều kiện lên men kỵ khí, acid pyruvat chuyển hóa thành 1 loạt các sản
phẩm acid tùy thuộc vào loại quá trình lên men. Hàm lượng các acid tạo thành trong
suốt quá trình lên men tăng lên sẽ làm cho chất chỉ thị bromthymol chuyển từ màu
xanh sang màu vàng trong điều kiện có hoặc không có mặt oxygen.
- Đánh giá khả năng oxy hóa tryptophan thành các hợp chất hữu cơ chứa vòng
indol: Môi trường pepton broth được chuẩn bị và cho vào mỗi ống nghiệm 5ml và
được vô trùng. Lấy một vòng que cấy vi khuẩn cấy vào môi trường và ủ ở 30C trong 48
giờ. Sau 48 giờ mỗi ống nghiệm cho 5 giọt thuốc thử Kovacs’s, lắc đều, để yên rồi đọc kết
quả thí nghiệm. Ống dương tính (+) sẽ có 1 lớp màu tím hoặc đỏ phía trên bề mặt môi
trường, ống âm tính (-) sẽ không tạo màu tím hoặc đỏ. Loài Ecc không có khả năng oxy
hóa tryptophan thành các hợp chất hữu cơ chứa vòng indol như Indole, Skatole (methyl
indole) và indole-acetate trong khi Echr thì có khả năng này [77].
- Đánh giá khả năng nhạy cảm với Erythromycine: Môi trường PDA sau khi khử
trùng được bổ sung erythromycine với hàm lượng 15µg/đĩa thạch (20 ml/đĩa). Vi khuẩn
được cấy điểm trên mặt thạch để kiểm tra khả năng phát triển sau 48 giờ ở nhiệt độ
thường. Loài Ecc không nhạy cảm với erythromycine trong khi Echr thì nhạy cảm với
kháng sinh này [77], [122].
- Phương pháp giải trình tự 16s rARN: Sau khi tiến hành các bước thí nghiệm loại
trừ, các dòng vi khuẩn đáp ứng yêu cầu xem như được nghi ngờ là Erwinia sp., được gửi
đến phòng xét nghiệm Nam Khoa, TpHCM để tiến hành định danh bằng phương pháp
khuếch đại gen PCR, giải trình tự gen mã hóa 16s rRNA và tra cứu trên BLAST
SEARCH.
2.3.6. Phương pháp chuẩn bị mẫu dịch vi khuẩn Erwinia carotovora
Mẫu vi khuẩn Erwinia sp. sau khi phân lập được nuôi cấy tăng sinh trên môi trường
PG lỏng sau 24 giờ ở nhiệt độ 30C. Mẫu được pha loãng và do OD ở 610 nm đạt giá trị
0,25, với kết quả mày mẫu dịch vi khuẩn đạt 2,1 x 103 tế bào/ml [100].
74
2.3.7. Phương pháp gây bệnh nhân tạo
Mẫu vi khuẩn Erwinia sp. được nuôi trong môi trường PG lỏng ở điều kiện phòng,
trên máy lắc 120 vòng/phút, sau 24 giờ mẫu được pha loãng và do OD ở 610 nm đạt giá
trị 0,25 dùng làm dung dịch vi khuẩn gây bệnh, với kết quả mày mẫu vi khuẩn đạt 2,1 x
103 tế bào/ml.
Các mẫu trái cà chua nguyên liệu được rửa sạch, để ráo, rửa cồn 75% trong 3 phút.
Dùng kim mũi giáo nhọn châm vào mẫu trái cà chua ngay phần đầu của trái, chiều sâu và
chiều rộng vết chấm cố định là 1 x 2 mm, sau đó cho 5 l dịch vi khuẩn Erwinia sp. đã
chuẩn bị vào vết thương. Các mẫu được phân thành 3 lô được ủ trong hộp nhựa đã khử
trùng (16 x 26 cm), dưới đáy hộp có đặt 1 lớp giấy tiệt trùng được làm ẩm bằng nước cất
vô trùng để tạo độ ẩm, các hộp được đặt ở điều kiện phòng, mỗi mẫu lập lại 3 lần và có 1
mẫu làm đối chứng. Tiến hành theo dõi kích thước vết bệnh bên trong, bên ngoài theo thời
gian và mô tả triệu chứng bệnh [49, 101, 157].
2.3.8. Phương pháp đánh giá hiệu quả kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in
vitro
Phương pháp đánh giá theo Zheng 2003 [175]: Các đĩa petri 950 mm đổ môi trường
PDA được chuẩn bị. Cho 0,1 ml dịch chitosan và 0,1 ml dịch vi khuẩn trộn đều sau đó
cho cấy trang trên mặt thạch, mẫu đối chứng dùng 0,1 ml nước cất và 0,1 ml dịch vi
khuẩn trộn đều, mỗi nồng độ chitosan được lập lại 3 lần. Các đĩa được ủ ở 30C sau 24
giờ sau đó đếm khuẩn lạc tính hiệu suất theo công thức:
Trong đó: N1 và N2 là số khuẩn lạc trên đĩa không và có
chitosan ở các nồng độ.
2.3.9. Phương pháp đánh giá hiệu quả kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vivo
Mẫu trái cà chua sau thu hoạch được rửa sạch để ráo, xử lý cồn 75%, sau đó được
nhúng vào các dung dịch chitosan cần đánh giá đã được chỉnh pH = 5-5,5 và để ráo sau 24
giờ, dùng kim châm gây vết thương (1 x 2 mm) trên đầu trái cà chua. Tiến hành nuôi cấy
tăng sinh vi khuẩn Erwinia sp. trong môi trường PG sau 24 giờ, pha loãng để đạt 2,1 x 103
tế bào/ml, sau đó cho 5 l dịch vi khuẩn Ecc vào vết thương. Ủ mẫu bệnh trong các hộp
nhựa vô trùng được giữ ẩm ở nhiệt độ phòng. Tiến hành dùng thước đo cặp 1/10 để theo
dõi kích thước vết bệnh bên trong và bên ngoài. Hiệu quả kháng bệnh các các chitosan
75
được so sánh dựa trên mẫu đối chứng không nhúng chitosan và mẫu nhúng dung dịch
chitosan thương mại ở các nồng độ tương ứng.
2.3.10. Phương pháp xác định tổng hàm lượng phenol tổng số trong trái cà chua
Tổng hàm lượng phenol trong trái cà chua được xác định bằng phương pháp so màu,
dùng thuốc thử Folin-Ciocalteu được mô tả bởi Liu và cộng sự 2007 [99]. Lấy 0,5g mô
thịt trái cà chua, nghiền nhỏ. Sau đó cho vào 5 ml mathanol 70% và ủ ở 70oC trong 10
phút. Mẫu được ly tâm 4200 vòng/phút trong 30 phút. Mẫu được pha loãng đến 10 ml để
xác định tổng hàm lượng phenol. Lấy 50 l dịch mẫu đã pha loãng, sau đó thêm vào 250
l thuốc thử Folin-Ciocalteu đã pha loãng tỷ lệ (1:10). Sau 5 phút thêm vào 200 l dung
dịch Na2CO3 (75g/l) và ủ ở nhiệt độ phòng trong 2 giờ, sau đó tiến hành do mẫu ở bước
sóng 760 nm. Kết quả được tham chiếu trên đường chuẩn acid Gallic, kết quả tổng hàm
lượng phenol được tính theo mg acid Gallic / 100g trái tươi.
2.3.11. Phương pháp xử lý số liệu
+ Sử dụng phần mềm SPSS phân tích ANOVA kết hợp với Duncan test để so
sánh giá trị trung bình của các mẫu nghiên cứu. Số liệu báo cáo là giá trị trung bình
của 3 lần phân tích, giá trị p < 0,05 được xem là có ý nghĩa về mặt thống kê.
+ Sử dụng phần mềm Visio 2013 để vẽ các sơ đồ khối.
+ Sử dụng Origin Pro 8.5.1 để vẽ đồ thị, các phổ FTIR, XRD.
76
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA MAI MỰC LOLIGO SP
Tiến hành thí nghiệm theo mô tả ở mục 2.2.1, mai mực Loligo sp. sau khi thu
nhận được rửa sạch để loại tạp chất, sau đó sấy ở 60C trong 12 giờ và xay đến kích
thước 3-5 mm. Kết quả xác định thành phần hóa học của nguyên liệu sau quá trình tiền
xử lý ở trên được trình bày ở Bảng 3.1, Bảng 3.2 và Bảng 3.3.
3.1.1. Thành phần hóa học cơ bản
Bảng 3.1 trình bày hàm lượng các thành phần chính của nguyên liệu mai mực
Loligo sp. bao gồm chitin, protein, lipid và khoáng.
Bảng 3.1. Thành phần hóa học cơ bản của mai mực ống Loligo sp
Chitin Protein Lipid Khoáng Nguyên liệu (%) (%) (%) (%)
[47]
35,8 57,2 1,9 1,37 Kết quả Mai mực (Loligo sp.) luận án 1,75 2,32 0,21 0,17
Mai mực (Illex argentinus) 31 64 2,3 1
[93]
[38]
Mai mực (Ommastrephes 35-40 58 - - bartrami)
Mai mực (Loligo sp.) 32-37 47,5 2,5 2,4
[36]
Mai mực (Loligo lessoniana 36-37 - 0,04 - và Loligo formosana)
[95]
Mai mực (Loligo plei và 40-42 - 1,9 - Loligo sanpaulensis)
[158]
Giá trị trong bảng được tính trung bình từ kết quả 3-5 lần thí nghiệm theo trọng lượng khô tuyệt đối.
Vỏ tôm thẻ chân trắng 29,4 24,3 2,2 26,5 (Penaeus vanamei)
77
Kết quả cho thấy phế liệu mai mực Loligo sp. có hàm lượng β-chitin là 35,8%.
Giá trị này cao hơn nhiều so với hàm lượng α-chitin có trong vỏ đầu tôm thẻ Penaeus
vanamei là 29,4% [158], vỏ cua Callinectes sapidus là 12,9% và vỏ ghẹ chấm
Portunus trituberculatus là 17,1% [3]. Trong khi đó, kết quả này tương tự với kết quả
đánh giá của Chandumpai 2004, Kiruta 1993 và Lavall 2007 trên mai mực thuộc các
loài Loligo lessoniana, Loligo formosana, Loligo plei và Loligo sanpaulensis với hàm
lượng -chitin từ 35-42% [36, 93, 95]. Như vậy, phế liệu mai mực Loligo sp. thu nhận
tại các nhà máy chế biến thủy sản thải ra sau quá trình chế biến ở tỉnh Kiên Giang có
chứa một lượng lớn β-chitin và là nguồn nguyên liệu lý tưởng để thu nhận β-chitin.
Ngoài ra, kết quả phân tích cũng cho thấy hàm lượng khoáng có trong mai mực
Loligo sp. là rất thấp với 1,37%. Giá trị này thấp hơn nhiều khi so sánh với hàm lượng
khoáng có trong vỏ tôm thẻ Penaeus vanamei với 26,5%. Tuy nhiên, so với các kết
quả đánh giá này cũng tương tự với một số kết quả đã công bố trước đây đối với mai
các loài mực khác như Loligo lessoniana, Loligo formosana (0,05%) [36]; Loligo
sanpaulensis (1,9%) [95]; Todarodes pacifica (0,8%) [173]; Illex argentines (0,1%)
[47] và Dosidicus gigas (<1%) [81]. Đây là thông số rất quan trọng có ảnh hưởng đến
việc lựa chọn quy trình chiết rút và thu nhận -chitin. Đó là việc xem xét bỏ qua quá
trình khử khoáng khi thu nhận β-chitin từ mai mực. Nó vừa tránh được việc sử dụng
hóa chất, vừa tránh được quá trình cắt mạch chitin. Trong thực tế, Jung 2013 [79] và
Chandumpai 2004 [36] đã dựa trên kết quả phân tích thành phần mai mực và bỏ qua
bước khử khoáng bằng acid HCl trong quá trình tách chiết thu nhận β-chitin từ mai
mực. Việc bỏ qua bước khử khoáng còn có ý nghĩa khi sản xuất ở qui mô lớn, do làm
giảm thời gian và chi phí sản xuất cũng như làm giảm nguồn chất thải sau quá trình
khử khoáng gây ô nhiễm môi trường.
Như vậy, dựa trên kết quả phân tích thành phần hóa học cơ bản trong mai mực
ống Loligo sp. cho thấy các thành phần như chitin, khoáng, protein, lipid có trong phế
liệu mai mực ống Loligo sp. khá khác biệt so với trong phế liệu vỏ tôm cua ghẹ. Trong
đó, hàm lượng protein rất cao (57,2%) nhưng hàm lượng khoáng rất thấp (1,37%) so
với các phế liệu vỏ tôm, cua, ghẹ với protein (15-26%) và khoáng (26-35%). Do đó, có
cơ sở để xem xét có thể bỏ qua bước khử khoáng và tập trung chủ yếu vào bước khử
protein trong quy trình tách chiết, thu nhận chitin từ mai mực ống Loligo sp..
78
3.1.2. Thành phần khoáng
Việc xác định cụ thể các khoáng chất có trong nguyên liệu sẽ giúp cho việc đánh
giá phần nào bản chất nguyên liệu, lựa chọn tác nhân khử protein và độ tinh khiết của
sản phẩm thu được. Kết quả phân tích thành phần khoáng trong mai mực ống Loligo
sp. được trình bày trong Bảng 3.2. Theo đó, hàm lượng các thành phần Ca, Mg, Fe đều
cao hơn đáng kể so với các kết quả của Chaidumpai 2004 khảo sát trên loài Loligo
formosana, Loligo lessoniana [36] và Lavall 2007 trên loài Loligo plei, Loligo
sanpaulensis [95] điều này có thể là do sự khác biệt về loài, môi trường khu vực sống,
tuổi trưởng thành của mực nguyên liệu cũng như thời điểm mùa vụ đánh bắt.
Bảng 3.2. Thành phần khoáng trong mai mực Loligo sp., các loại mực khác và vỏ tôm
Thành phần (ppm)
Nguyên liệu
Ca Fe K Mg Na Zn
Kết quả Mai mực (Loligo sp.) 254 17,12 29,3 20,8 152,3 206 luận án
- Mai mực (Illex argentinus) 170 - 210 100 450 [47]
Mai mực (Loligo lessoniana - 17,74 7,73 - 3,30 - [36] và Loligo formosana)
Mai mực (Loligo sp.) 1025 30 255 1220 8540 200 [38]
Mai mực (Loligo plei và - 94,5 3,5 - 11,7 - [95] Loligo sanpaulensis)
Mai mực (Ommastrephes - 344 4 19 121 170 [93] bartrami)
Vỏ tôm (Penaeus vanamei) 3254 24,6 2381 - 2125 17,4 [2]
Khi so sánh với nguyên liệu vỏ tôm, mai mực chứa thành phần Ca là rất thấp
(254 ppm) so vỏ đầu tôm thẻ Penaeus vanamei (3254 ppm) hoặc vỏ tôm thể Penaeus
vanamei (4856 ppm) [2]. Do đó, có thể suy ra hàm lượng thành phần CaCO3 trong mai
79
mực Loligo sp. là rất thấp so với hàm lượng CaCO3 trong vỏ tôm Penaeus aztecus
(48,9%), tôm Penaeus durarum (42,2%), vỏ cua (66,5%) [10]. Điều này khẳng định
quá trình thu nhận -chitin từ mai mực Loligo sp. sẽ thuận lợi hơn và là cơ sở để xem
xét bỏ qua quá trình khử khoáng bằng acid HCl như trong quy trình thu nhận chitin
thông thường hiện nay từ vỏ tôm, cua, ghẹ. Ngoài ra, không phát hiện thấy thành phần
các kim loại nặng như Hg, Pb, As trong mai mực Loligo sp. Kết quả này cũng tương tự
các kết quả công bố của Jung 2013, Chaidumpai 2004, Chaussard 2004, Lavall 2007.
Điều đó khẳng định, mai mực là nguồn nguyên liệu tốt để thu nhận sản phẩm -chitin
và chitosan có độ tinh khiết cao và có thể được sử dụng trong các lĩnh vực như y dược,
y sinh và thực phẩm.
Như vậy, trong mai mực ống Loligo sp. có chứa một lượng rất nhỏ các khoáng
chất bao gồm cả CaCO3. Hơn nữa mai mực không phát hiện chứa các kim loại nặng.
Do đó, qui trình tách chiết thu nhận chitin từ mai mực sẽ thuận lợi hơn, kinh tế hơn do
rút ngắn thời gian và giảm lượng hóa chất sử dụng so với việc khử các thành phần phi
chitin trong vỏ tôm, cua và ghẹ. Hơn nữa, sản phẩm chitin thu được sẽ có độ tinh khiết
cao hơn, đáp ứng cho thu nhận chitosan sau này cũng như để ứng dụng đối với con
người như trong thực phẩm và y dược.
3.1.3. Thành phần acid amin
Thành phần acid amin được xem là một tạp chất có trong sản phẩm chitin và
chitosan điều chế từ các nguồn tự nhiên, đặc biệt là nguyên liệu thủy sản. Các acid
amin này ảnh hưởng rất lớn đến việc ứng dụng của chitin và chitosan. Ví dụ, chúng có
thể gây dị ứng cho người sử dụng, làm giảm độ tan, giảm chất lượng của sản phẩm
chitin và chitosan. Kết quả phân tích thành phần acid amin có trong nguyên liệu mai
mực ống Loligo sp. được trình bày trong Bảng 3.3.
Bảng 3.3. So sánh thành phần acid amin trong mai mực ống Loligo sp. và kết quả
tham khảo
Thành phần
Kết quả luận án Các kết quả tham khảo Acid amin
80
Mai mực Mai mực Vỏ tôm Vỏ tôm
Loligo sp. T. pacifica P. vannamei P.vannamei
(g/100g) (g/100g) (g/100g) (g/100g)
[158] [173, 174] [2]
Alanine 4,53 4,91 1,13 1,62
Glycine 4,39 4,63 2,92 1,66
Valine 3,83 3,55 0,65 0,79
Leucine 2,60 4,09 0,13 1,15
Isoleucine 1,58 1,61 0,53 -
Threonine 1,51 2,45 0,65 -
Serine 1,60 2,03 0,59 0,54
Proline 5,98 4,99 - 0,94
Aspartic acid 4,65 4,53 1,56 1,93
4-Hydroxyproline
Methionine 0,53 0,32 0,35 0,12
0,00 - - -
Acid glutamic 1,57 2,35 2,04 3,04
Phenylalanine 1,13 1,74 0,71 0,33
Lysine 2,78 2,37 0,11 1,01
Histidine 6,40 6,17 0,28 0,19
Hydroxylysine 0,00 - -
Tyrosine 6,68 6,13 0,53 0,74
Tổng cộng 49,76 54,91 12,18 14,06
Theo đó, trong nguyên liệu mai mực Loligo sp. các thành phần như Alanine,
Proline, Tyrosine và Histidine chiếm tỷ lệ lớn nhất (4,39-6,68 g/100g) trong khi các
thành phần khác như Leucine, Isoleucine, Serine, Proline, Methionine, Glutamic acid,
Phenylalanine có tỷ lệ thấp hơn (0,53-2,6 g/100g). Kết quả này phù hợp với kết quả
công bố của Youn 2013 [174] về thành phần acid amin trong mai mực Todarodes
pacifica tuy nhiên có sự chênh lệch nhỏ giữa các thành phần, điều này có thể là do
khác nhau về đặc điểm giống loài mực và độ tuổi trưởng thành của mực.
Nếu so sánh với thành phần acid amin của vỏ tôm thẻ Penaeus vanamei được
công bố của Dương 2014 và Trung 2012 cho thấy có sự chênh lệch lớn về hàm lượng
81
các acid amin. Cụ thể, hầu hết các thành phần aicd amin như: Alanine, Valine,
Leucine, Isoleucine, Aspartic acid, Lysine, Histidine và Tyrosine của mai mực ống đều
lớn hơn gấy 3-6 lần so với trong vỏ tôm thẻ. Tuy nhiên, một số ít các acid amin như
Glutamic, Phenylalanine là xấp xỉ gần nhau. Nhìn chung, tổng hàm lượng acid amin
trong mai mực Loligo sp. (49-55g/100g) lớn hơn gấp 3-4 lần tổng hàm lượng acid
amin có trong vỏ tôm thẻ Penaeus vanamei (12-14 g/100g).
Tóm lại, nguyên mai mực ống có chứa một số thành phần acid amin có hàm
lượng khá cao so với trong nguyên liệu vỏ tôm thẻ. Điều này cho thấy, cần tập trung
cho quá trình khử protein để loại bỏ các acid amin trong quy trình tách chiết, thu nhận
chitin. Từ đó có thể thu được chitin và chitosan tinh khiết hơn và có khả năng sử dụng
các sản phẩm này cho nhiều ứng dụng đòi hỏi chitin và chitosan có độ tinh khiết cao.
3.2. XÁC ĐỊNH ĐIỀU KIỆN THU NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ TÍNH CHẤT -
CHITIN TỪ MAI MỰC LOLIGO SP.
3.2.1. Đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đến
quá trình khử protein trong mai mực Loligo sp.
Để có cơ sở tiến hành các khảo sát chi tiết, chúng tôi tiến hành khảo sát sơ bộ
trong một khoảng rộng ảnh hưởng của các yếu tố đến quá trình thu nhận chitin từ mai
mực ống. Dựa trên kết quả xác định thành phần hóa học có trong nguyên liệu mai mực
ống Loligo sp. ở mục 3.1 và các nghiên cứu đã công bố trước đây về tách chiết, thu
nhận chitin từ mai mực và vỏ tôm (Bảng 1.7) làm cơ sở để xác định điều kiện khử
protein có trong mai mực nguyên liệu.
Bố trí thí nghiệm cụ thể được mô tả ở mục 2.2.2.1 và Hình 2.4. Tiến hành 3 lô thí
nghiệm ở 3 mức nhiệt độ 30C, 60C và 90C để khảo sát ảnh hưởng của nồng độ
NaOH (3-5%) và thời gian khử đến quá trình khử protein trong mai mực Loligo sp.. Tỷ
lệ nguyên liệu/dung môi (NL/DM) được giữ cố định trong tất cả các thí nghiệm là 1/10
(w/v). Mẫu xử lý định kỳ theo thời gian sẽ được thu nhận, được rửa trung tính và kiểm
tra hàm lượng protein còn lại. Kết quả được trình bày trong Hình 3.1 và Phụ lục 3.1.
Kết quả trình bày ở Hình 3.1 cho thấy quá trình khử protein thực hiện ở nhiệt độ
30oC đạt hiệu quả rất thấp. Mặc dù, quá trình khử tiến hành sau 72 giờ thì hàm lượng
protein ở tất các các nồng độ khảo sát vẫn cao hơn 1%. Hơn nữa, quan sát thí nghiệm
82
cho thấy sản phẩm chitin thu được bị phân rã và có độ nhớt giảm mạnh sau thời gian
72 giờ khử. Điều này có thể giải thích do sự thấm nước hoàn toàn vào trong tấm mai
mực và xảy ra sự cắt mạch chitin. Do đó, cần tiến hành ở nhiệt độ cao hơn thì hiệu quả
khử mới đạt yêu cầu (hàm lượng protein còn lại dưới 1%), đồng thời rút ngắn thời gian
phản ứng và giảm sự cắt mạch chitin. Hơn nữa, với điều kiện này sẽ rất khó để triển
khai sản xuất ở qui mô lớn do thời gian sản xuất kéo dài, cắt mạch lớn.
Hình 3.1. Hàm lượng protein còn lại sau quá trình khử protein dưới tác động của
3 yếu tố (nhiệt độ, nồng độ NaOH, thời gian).
Khi tiến hành quá trình khử ở nhiệt độ 60oC thì hiệu quả khử tăng đáng kể đồng
thời rút ngắn được thời gian nhiều so với khi tiến hành ở 30oC. Cụ thể, chỉ sau 12 giờ
thì hàm lượng protein còn lại là 1,7; 1,4 và 1,05% khi dùng các dung dịch NaOH ở các
nồng độ 3, 4 và 5%, tương ứng. Tuy nhiên, có thể thấy mặc dù có cải thiện đáng kể với
thời gian khử là 12 giờ nhưng hiệu quả khử vẫn chưa đạt yêu cầu với hàm lượng
protein còn lại nhỏ hơn 1%. Do vậy, để rút ngắn thời gian và đạt được hiệu quả khử thì
cần tiến hành ở nhiệt độ cao hơn.
83
Khi tiến hành quá trình khử ở nhiệt độ 90oC thì hiệu quả khử tăng hơn và giảm
thời gian tương đối so với tiến hành ở 60oC. Cụ thể, chỉ sau 8 giờ thì hàm lượng
protein còn lại là 1,5; 0,9 và 0,6% khi dùng các dung dịch NaOH ở các nồng độ 3, 4 và
5%, tương ứng. Theo đó, nếu tiến hành khử ở nhiệt độ này thì chỉ cần dùng nồng độ
NaOH là 4% thì có thể đạt được yêu cầu sản phẩm sau 8 giờ khử. Tuy nhiên, khi tiến
hành ở nồng độ 3% thì dù thời gian khử là 12 giờ thì hiệu quả khử (1,3%) vẫn chưa đạt
yêu cầu với hàm lượng protein còn lại nhỏ hơn 1%. Do vậy, cần có thêm các nghiên
cứu trong khoảng nhiệt độ này để rút ngắn thời gian và đạt được hiệu quả khử theo yêu
cầu. Các kết quả thu được ở trên cũng khá tương đồng với những kết quả đã được công
bố trước đây của Kiruta 1993 và Gupta 2010 [48, 68, 93, 108, 123].
Như vậy, để đạt được mục tiêu yêu cầu về hiệu quả của quá trình khử protein (hàm
lượng protein còn lại nhỏ hơn 1%), đồng thời giảm thời gian khử, giảm sự cắt mạch
chitin và có thể được áp dụng vào sản xuất ở qui mô lớn thì nên tiến hành các khảo sát
chi tiết thêm trong khoảng ảnh hưởng của nồng độ NaOH 3-5 %, nhiệt độ từ 70-90oC
trong khoảng thời gian 4-14 giờ với tỷ lệ nguyên liệu giữ cố định là (1/10, w/v).
3.2.2. Đánh giá ảnh hưởng chi tiết các yếu tố nhiệt độ, thời gian và nồng độ NaOH
đến hiệu quả khử protein và sự cắt mạch của sản phẩm β-chitin
Cơ chế quá trình khử protein trong mai mực bằng NaOH ở các điều kiện phản
ứng khác nhau liên quan trược tiếp đến bản chất liên kết chitin-protein và cấu trúc mai
mực. Theo Brine và cộng sự (1982), các liên kết giữa chitin-protein có thể chia thành 4
nhóm, bao gồm: liên kết bazơ Schiff, acetal (O-glycosidic), amide (N-glycosidic và N-
acylglucosaminyl) và các liên kết cộng hóa trị. Ba loại liên kết đầu đóng góp 68-91%
tượng tác chitin-protein. Các liên kết cộng hóa trị đóng góp 32-9% và rất khó bị loại
bỏ trong quá trình khử protein. Về mặt không gian, các mạch và sợi chitin được phân
bố trong nền protein (Hamodrakas, 2002). Các sợi chitin bao bọc bởi protein, các sởi
nhỏ lại tập hợp thành sợi lớn hơn và mỗi sợi lớn hơn này lại được bao bọc bởi protein.
Cuối cùng các sợi lớn này sẽ tạo thành các lớp chitin và các lớp này cấu thành nên mai
mực, như mô tả trong Hình 1.2 và Hình 1.5.
Do đó, trong quá trình khử protein, tốc độ khử sẽ có sự khác nhau đáng kể phụ
thuộc vào thời gian phản ứng, nhiệt độ phản ứng và nồng độ NaOH. Các phân tử
protein tồn tại giữa các lớp chitin sẽ bị khử trước, các protein liên kết với chitin của
84
các sợi bên trong có sự liên kết và bao bọc chặt chẽ hơn và khó bị khử hơn rất nhiều.
Do đó, quá trình thủy phân protein ở các lớp sâu bên trong đòi năng lượng hoạt hóa
lớn hơn và tương tác nhiều hơn hay nói các khác cần nhiệt độ cao hơn, thời gian dài
hơn, nồng độ NaOH cao hơn. Cụ thể, khi nhiệt độ tăng thì động năng chuyển động của
các phần tử OH - (tách ra từ NaOH) sẽ lớn, dẫn đến sự cắt các liên kết giữa chitin-
protein mạnh hơn. Với thời gian phản ứng lâu hơn và nồng độ NaOH cao hơn, các ion
OH- có thời gian đi sâu hơn vào cấu trúc chặt chẽ của chitin-protein ở các lớp bên
trong. Do đó, hiệu quả khử protein tăng lên nhưng chậm hơn giai đoạn đầu và ở nồng
độ NaOH thấp. Tuy nhiên, sự cắt mạch chitin lại xảy ra mạnh hơn do sự tương tác lớn
giữa tác nhân OH- với các phân tử chitin tự do.
Kết quả đánh giá ảnh hưởng chi tiết các yếu tố nhiệt độ, thời gian và nồng độ
NaOH đến hiệu quả khử protein và quá trình cắt mạch của sản phẩm β-chitin được
trình bày trong Hình 3.2.
3.2.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hiệu quả khử protein và khối lượng phân tử
của sản phẩm β-chitin
Từ kết quả đánh giá sơ bộ điều kiện khử protein ở mục 3.2.1, tiến hành 5 lô thí
nghiệm khử protein từ mai mực Loligo sp. ở các mức nhiệt độ 70, 75, 80, 85 và 90C.
Quá trình khử protein được thực hiện ở nồng độ NaOH 4% (w/v), thời gian khử 12 giờ
với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v), mẫu sau khi xử lý được rửa trung tính, tiến
hành đánh xác định hàm lượng protein còn lại và khối lượng phân tử trung bình (Mw).
Kết quả được trình bày trong Hình 3.2a và Phụ lục 3.2.
Từ Hình 3.2a và Phụ lục 3.2 cho thấy, khi tăng nhiệt độ thì hiệu quả khử tăng nhưng quá trình cắt mạch chitin cũng tăng. Cụ thể, khi tăng nhiệt độ từ 70 lên 90oC thì
hàm lượng protein còn lại và khối lượng phân tử trung bình của chitin giảm từ DD =
1,65% và Mw = 8550 kDa xuống còn DD = 0,3% và Mw = 5040 kDa, tương ứng. Để
đạt mục tiêu đặt ra là hàm lượng protein còn lại < 1% thì chỉ cần tiến hành ở nhiệt độ 80oC. Ở nhiệt độ này, hàm lượng protein còn lại và khối lượng phân tử trung bình của
chitin lần lượt là DD = 0,7% và Mw = 8330 kDa.
85
Hình 3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ, thời gian và nồng độ NaOH đến hiệu quả khử
protein và sự cắt mạch β-chitin.
86
Khi so sánh điều kiện ảnh hưởng của cùng nhiệt độ đến hiệu quả khử protein và
sự cắt mạch polyme trong quá trình thu nhận chitin từ mai mực với các nguồn khác
như vỏ tôm, cua và ghẹ thì thấy rằng hiệu quả khử đối với mai mực tốt hơn nhiều. Ví
dụ, Chang và cộng sự 1997 [37] khử protein thu nhận chitin từ vỏ tôm đỏ Synuchus sp.
ở điều kiện NaOH 10%, thời gian 6 giờ, nhiệt độ 75oC. No và Mayers 1995 [113] khử
protein thu nhận chitin từ vỏ tôm hùm ở điều kiện NaOH 10%, thời gian 5 giờ, nhiệt
độ 100oC. Chien và cộng sự 2016 [42] khử protein thu nhận chitin từ vỏ cua
Chionoecetes sp. ở điều kiện NaOH 4%, thời gian 3 giờ, nhiệt độ 100oC. Điều này có
thể giải thích do cấu trúc và thành phần nguyên liệu ban đầu như độ đóng rắn của vỏ
tôm, cua, ghẹ cao hơn do có hàm lượng khoáng lớn hơn so với mai mực. Chitin có
trong vỏ tôm, cua và ghẹ là dạng -chitin với độ rắn cao hơn, trong khi chitin trong
mai mực là dạng β-chitin với độ rắn thấp hơn.
Khi phân tích các giá trị trung bình về hàm lượng protein còn lại sau quá trình
khử theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy các giá trị tại các mức nhiệt độ khác nhau
đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Hàm lượng protein còn lại sau khử tỷ lệ
nghịch với nhiệt độ sử dụng trong quá trình khử, khi tăng nhiệt độ khử thì hiệu suất
khử protein càng tăng hay hàm lượng protein còn lại trong mai mực càng giảm. Mục
tiêu nghiên cứu đạt được khi nhiệt độ ở mức 80C, 85C và 90C, ở các điều kiện khử
này các mẫu thu được đều có hàm lượng protein còn lại đều dưới 1% và lần lượt đạt
mức là 0,66%, 0,37% và 0,3%. Tuy nhiên khi so sánh giá trị trung bình theo chuẩn
Duncan (α= 0,005) thì hàm lượng protein còn lại của các mức nhiệt độ 85C và 90C
không có sự khác biệt.
Khi so sánh các giá trị trung bình của khối lượng phân tử trung bình (Mw) -
chitin trong quá trình khử theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy các giá trị Mw ở các
mức nhiệt độ 70, 75 và 80C không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê, điều này
chỉ rõ khi quá trình khử được thực hiện ở điều kiện NaOH 4%, thời gian khử 12 giờ, tỷ
lệ NL/DM (1/10, w/v) thì yếu tố nhiệt độ tăng từ 70-80oC đều không làm cắt đáng kể
mạch chitin trong quá trình khử, với các giá trị lần lượt là 8545, 8460 và 8320 kDa.
Các giá trị Mw ở các mức nhiệt độ 80, 85 và 90C đều có sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê. Khối lượng phân tử trung bình (Mw) của -chitin thu được giảm khi tăng
nhiệt độ khử, như vậy ở cùng điều kiện khử khi nhiệt độ khử tăng trên 80C sẽ làm
87
cho khối lượng phân tử trung bình giảm rất nhanh từ 8320 kDa ở 80oC xuống còn
7341 kDa ở 85C và 6093 kDa ở 90C.
Từ đó cho thấy nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quá trình khử
protein và tính chất của sản phẩm thu được. Có thể giải thích điều này, khi nhiệt độ
tăng thì các ion OH- (từ NaOH) sẽ chuyển động nhanh hơn, sự tương tác giữa OH- và
bề mặt mai mực và liên kết giữa protein và chitin cũng nhiều hơn. Do đó, sự cắt mạch
liên kết trên xảy ra nhanh và mạnh hơn. Mặt khác, ở nhiệt độ cao cũng có thể dẫn đến
sự cắt mạch chitin trong môi trường kiềm. Ngoài ra, khi tiến hành sản xuất ở qui mô
lớn phải đáp ứng yêu cầu năng lượng cũng như máy móc thiết bị để gia nhiệt, do đó sẽ
có thể làm tăng giá thành của sản phẩm thu được.
Như vậy, yếu tố nhiệt độ có sự tương tác mạnh với hàm lượng protein còn lại và
khối lượng phân tử trung bình của -chitin sau quá trình khử. Đặc biệt khi yếu tố nhiệt
độ tăng trên mức 80oC sẽ làm quá trình cắt mạch xảy ra mạnh mẽ trong khi hiệu suất
khử protein lại rất thấp. Từ các kết quả phân tích ở trên cho thấy để đạt được mục tiêu
nghiên cứu là thu được sản phẩm -chitin có hàm lượng protein dưới 1% và hạn chế
thấp nhất quá trình cắt mạch chitin trong quá trình khử thì nhiệt độ thích hợp để khử
protein là 80oC. Do đó, Mức nhiệt độ thích hợp được chọn là 80oC cho các thí nghiệm
nghiên cứu tiếp theo.
3.2.2.2. Ảnh hưởng của thời gian đến hiệu quả khử protein và khối lượng phân tử
của sản phẩm β-chitin
Tại cùng điều kiện nhiệt độ khử và nồng độ NaOH, thì kéo dài thời gian sẽ dẫn
đến sự hấp thụ hoàn toàn nước và gây trương nở các mạch polymer trong mai mực.
Khi đó, hiệu quả khử protein sẽ tăng nhưng sự cắt mạch polymer cũng sẽ nhiều hơn.
Ngoài ra, khi tiến hành sản xuất ở qui mô lớn, càng kéo dài thời gian thì chi phí sản
xuất sẽ càng tăng, do đó sẽ làm tăng giá thành của sản phẩm thu được.
Từ kết quả đánh giá sơ bộ điều kiện khử protein ở mục 3.2.1 và kết quả xác định
được nhiệt độ khử thích hợp để khử protein ở mục 3.2.2.1, tiến hành 6 lô thí nghiệm
khử protein từ mai mực Loligo sp. ở các mức thời gian khử 4, 6, 8, 10, 12 và 14 giờ.
Các điều kiện khác được giữ cố định gồm nồng độ NaOH 4% (w/v), nhiệt độ 80C với
tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v), mẫu sau khi xử lý được rửa trung tính, tiến
88
hành đánh xác định hàm lượng protein còn lại và khối lượng phân tử trung bình (Mw).
Kết quả được trình bày trong Hình 3.2b và Phụ lục 3.3.
Kết quả phân tích trong Hình 3.3b cho thấy, ở điều kiện khảo sát thì hiệu quả khử
protein tăng nhanh từ 4 giờ (4,35%) đến 6 giờ (1,85%) sau đó giảm dần và đạt mục
tiêu đặt ra sau 10 giờ (0,9%). Trong khi đó, khối lượng phần tử trung bình của chitin
thu được gần như không giảm nhiều từ 4 giờ (8630 kDa) cho đến 8 giờ (8240 kDa) và
sau đó giảm khá nhanh đến 14 giờ (5120 kDa). Như vậy, để đảm bảo hiệu quả cắt
mạch và tính chất mạch dài của sản phẩm chitin thì nên chọn thời gian khử là 10 giờ.
Khi so sánh với quá trình thu nhận chitin từ vỏ tôm thì nhận thấy rằng, nếu tăng
các điều kiện về nhiệt độ, nồng độ NaOH thì thời gian khử protein nhanh chóng hơn.
Ví dụ, Percot và cộng sự 2003 [120] khử protein thu nhận chitin từ vỏ tôm
Parapenaeopsis sp. ở điều kiện NaOH 4%, nhiệt độ 70oC cần thời gian 24 giờ để đạt
hiệu quả khử 99% protein. Nguyên nhân cũng có thể được giải thích do cấu trúc và
thành phần khác nhau giữa vỏ tôm và mai mực như giải thích ở mục 3.2.2.
Khi phân tích và so sánh các giá trị trung bình về hàm lượng protein còn lại sau
quá trình khử tại các mức thời gian khử khác nhau theo chuẩn Duncan (α = 0,005) cho
thấy các giá trị tại các mức thời gian 10, 12 và 14 giờ không có sự khác biệt về hiệu
xuất khử. Điều này cho thấy ở cùng điều kiện khử nhiệt độ 80C, nồng độ NaOH 4%
thì quá trình khử protein đạt hiệu quả trong thời gian 10 giờ khử, nếu tiếp tục kéo dài
thời gian khử thì hiệu suất khử thay đổi không đáng kể.
Khi phân tích và so sánh giá trị trung bình về khối lượng phân tử (Mw) của -
chitin ở các mức thời gian theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy các giá trị có sự
khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Kết quả phân tích ở Hình 3.2b cũng cho thấy khối
lượng phân tử của -chitin giảm khi kéo dài thời gian khử và giảm mạnh khi thời gian
khử vượt trên 8 giờ. Cụ thể ở mức 8238 kDa sau 8 giờ khử xuống còn 7010 kDa sau
10 giở khử và quá trình cắt mạch tiếp tục tăng mạnh khi thời gian khử tiếp tục kéo dài.
Như vậy, yếu tố thời gian khử có sự tương tác mạnh với hàm lượng protein còn
lại và khối lượng phân tử chitin sau quá trình khử (P = 0,000). Từ các kết quả phân
tích chỉ rõ, quá trình khử protein phải sau 10 giờ thì hàm lượng protein còn lại mới
đạt mục tiêu nghiên cứu dưới 1%, tuy nhiên quá trình cắt mạch chitin cũng xảy ra
nhanh sau 8 giờ xử lý. Vì vậy để hạn chế tối đa quá trình cắt mạch chitin thì thời gian
khử thích hợp là 10 giờ. Do đó, chúng tôi chọn thời gian khử là 10 giờ cho các thí
nghiệm sau.
89
3.2.2.3. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH đến hiệu quả khử protein và khối lượng
phân tử của sản phẩm β-chitin
Nồng độ NaOH có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quá trình khử protein
cũng như quá trình cắt mạch chitin xảy ra trong quá trình khử. Như đã trình bày trong
phần mục 1.1.2, trong mai mực thành phần chitin và protein có liên kết rất chặt chẽ với
nhau thông qua liên kết cộng hóa trị (Hình 1.3). Do đó, khi tăng nồng độ NaOH thì số
lượng các ion OH- tăng lên, sự tương tác giữa OH- và bề mặt mai mực và liên kết giữa
protein và chitin cũng nhiều hơn. Do đó, sự cắt liên kết giữa chitin và protein trong
mai mực xảy ra nhanh và mạnh hơn. Tuy nhiên, sự cắt mạch chitin cũng mạnh hơn
trong môi trường kiềm mạnh. Ngoài ra, khi tiến hành sản xuất ở qui mô lớn dùng
nhiều NaOH sẽ tăng giá thành sản xuất và tăng chi phí cho quá trình xử lý nước thải,
do đó sẽ có thể làm tăng giá thành của sản phẩm thu được.
Từ kết quả đánh giá sơ bộ điều kiện khử protein ở mục 3.2.1 và xác định được
nhiệt độ và thời gian khử thích hợp để khử protein trong mai mực ống Loligo sp. ở
mục 3.2.2.1. và mục 3.2.2.2. Tiến hành tiến hành 5 lô thí nghiệm khử protein từ mai
mực Loligo sp. ở nhiệt độ 80C, thời gian khử 10 giờ với tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch
(1/10, w/v), các lô thí nghiệm được thực hiện lần lượt ở các mức nồng độ NaOH: 3;
3,5; 4; 4,5 và 5%. Mẫu sau khi xử lý được rửa sạch đến trung tính, tiến hành đánh xác
định hàm lượng protein còn lại và khối lượng phân tử trung bình (Mw) của chitin thu
được. Các kết quả được trình bày trong Hình 3.2c và Phụ lục 3.4.
Kết quả phân tích cho thấy, ở cùng điều kiện nhiệt độ khử 80oC và sau thời gian
khử 10 giờ thì quá trình khử protein rất hiệu quả ở nồng độ NaOH từ 3,5% trở lên. Cụ
thể ở các mức nồng độ NaOH 3,5; 4; 4,5 và 5% hàm lượng protein còn lại trong mẫu
sau khử lần lượt là 0,93; 0,63; 0,33 và 0,23%. Tuy nhiên, khi mức nồng độ NaOH tăng
trên 4% thì quá trình cắt mạch chitin xảy ra đáng kể, khối lượng phân tử trung bình
của chitin Mw = 8545 kDa ở mức NaOH 4% đã bị phân cắt xuống còn 7940 kDa ở
mức NaOH 4,5% và chỉ còn 6320 kDa khi nồng độ NaOH tăng ở mức 5%. Do đó,
chúng tôi chọn nồng độ NaOH 4% là nồng độ phù hợp nhất để khử protein khi thu
nhận chitin từ mai mực.
Khi so sánh các giá trị trung bình của hàm lượng protein còn lại sau quá trình
khử ở các mức nồng độ NaOH khác nhau cho thấy các giá trị có sự khác biệt mang ý
nghĩa thống kê, tuy nhiên các giá trị tại mức nồng độ NaOH 4,5% và 5% không có sự
khác biệt, điều này cho thấy việc tăng nồng độ NaOH từ 4,5% lên 5% không có ý
90
nghĩa đối với quá trình khử protein ở cùng điều kiện nhiệt độ khử 80oC và thời gian
khử 10 giờ. Kết quả cho thấy để hàm lượng protein còn lại dưới 1% đạt mục tiêu
nghiên cứu thì nồng độ NaOH phải đạt mức 4%.
Khi so sánh các giá trị trung bình về khối lượng phân tử trung bình (Mw) của -
chitin ở các mức nồng độ NaOH khác nhau theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy có
sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê ở tất cả các giá trị. Khối lượng phân tử -chitin
giảm khi tăng tăng nồng độ NaOH và quá trình cắt mạch xảy ra mạnh mẽ khi nồng độ
NaOH tăng trên 4,5%, cụ thể khối lượng phân tử của chitin từ 7940 kDa ở NaOH
4,5% xuống còn 6320 kDa ở NaOH 5%.
Như vậy, yếu tố nồng độ NaOH có sự tương tác mạnh với hàm lượng protein còn
lại và khối lượng phân tử trung bình của -chitin trong quá trình khử. Với điều kiện
khử là nhiệt độ 80oC và thời gian khử 10 giờ, tỷ lệ nguyên liệu/dung môi nguyên
liệu/dung môi (1/10, w/v) thì hiệu suất khử chỉ đạt tối đa khi mức nồng độ NaOH tăng
đến 4,5%, nếu nồng độ NaOH tiếp tục tăng lên 5% thì hiệu xuất khử vẫn không cho
thấy sự khác biệt và thực nghiệm cho thấy lúc này chỉ xảy ra quá trình cắt mạch chitin.
Do đó để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu là hàm lượng protein còn lại sau quá trình khử
<1% và hạn chế thấp nhất quá trình cắt mạch chitin thì mức nồng độ NaOH thích hợp
cho quá trình khử protein được chọn là 4%.
Tóm lại, từ các kết quả phân tích ở các mục 3.2.1; 3.2.2.1; 3.2.2.2; 3.2.2.3 và phụ lục
3.5 cho thấy 3 yếu tố khảo sát: nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian khử đều có tương
tác mạnh đối với quá trình khử protein trong mai mực ống và quá trình cắt mạch chitin
trong quá trình khử. Khi tăng bất kỳ một trong 3 yếu tố sẽ là thay đổi hàm lượng
protein còn lại và sự cắt mạch chitin trong quá trình khử. Kết quả này là do các mạch
chitin liên kết rất chặt chẽ với các thành phần protein, khoáng thông qua 4 nhóm liên
kết chính: các liên kết cơ sở Schiff, liên kết O-glycosidic, liên kết N-glycosidic (68-
91%) và các liên kết cộng hóa trị rất khó bị phân cắt [37]. Trong môi trường NaOH,
mai mực bắt đầu trương nở cấu trúc và tiếp xúc với NaOH và cắt đứt các liên kết
protein và phức protein chitin từ đó khử dần protein trong mai mực. Tuy nhiên quá
trình cần hỗ trợ của yếu tố nhiệt độ và thời gian để NaOH có thể thấm sâu vào cấu trúc
và khử hoàn toàn protein trong nguyên liệu. Mặt khác, quá trình thấm sâu vào cấu trúc
để khử protein đã làm đứt các liên kết nội giữa các mạch chitin và làm giảm khối
lượng phân tử trung bình của chitin. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu là sản phẩm
91
chitin thu nhận có hàm lượng protein nhỏ hơn 1%, đồng thời hạn chế quá trình cắt
mạch của sản phẩm chitin, chúng tôi đề xuất điều kiện khử protein là nồng NaOH 4%
ở nhiệt độ 80C trong thời gian 10 giờ. Sản phẩm -chitin thu được có hàm lượng
protein còn lại 0,63% với Mw là 8545 kDa.
Khi so sánh với quá trình thu nhận chitin từ vỏ tôm, cua và ghẹ thì nhận thấy nếu
ở cùng các điều kiện về nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian thì hiệu quả khử protein
đối với mai mực cũng tốt hơn khử protein thu nhận chitin từ vỏ tôm. Nguyên nhân
cũng có thể được giải thích do cấu trúc và thành phần khác nhau giữa vỏ tôm và mai
mực như giải thích ở mục 3.2.2.
3.2.3. Tính chất của sản phẩm β-chitin từ mai mực ống
3.2.3.1. Thành phần và tính chất cơ bản của sản phẩm -chitin
Để đánh giá hiệu quả của quá trình khử protein, tính chất của sản phẩm, chúng ta
cần xác định thành phần hóa học cơ bản của sản phẩm β-chitin thu được sau quá trình
khử. Kết quả đánh giá này sẽ là cơ sở để sử dụng sản phẩm chitin thu được cho các
ứng dụng khác nhau cũng như khi dùng chitin này để điều chế chitosan thông qua quá
trình deacetyl. Sản phẩm chitin dùng để đánh giá ở đây là sản phẩm của quá trình khử
protein tại điều kiện tốt nhất đã khảo sát trong các mục 3.2.1, 3.2.2, 3.2.3 và 3.2.4.
Điều kiện thu nhận β-chitin sau khi xử lý nguyên liệu mai mực ống trong môi
trường NaOH 4%, ở nhiệt độ 80oC trong thời gian khử 10 giờ với tỷ lệ nguyên
liêu/dung môi (1:10, w/v). Các tính chất cơ bản của sản phẩm được trình bày trong
Hình 3.3; Bảng 3.4; Bảng 3.5 và Bảng 3.6.
Hình 3.3. (a) Ảnh của mực ống, (b) mai mực ống và (c) sản phẩm β-chitin.
92
Hình 3.3 cho thấy, so với mai mực ống có màu hơi vàng và trong suốt thì sản
phẩm -chitin ở dạng bột có màu trắng sáng. Trong thực tế, hiện nay chưa có sản
phẩm -chitin thương mại nên không thể so sánh. Còn sản phẩm -chitin thương mại
cũng có màu trắng sáng tương tự.
Bảng 3.4 cho thấy sản phẩm -chitin thu nhận từ mai mực đáp ứng các chỉ tiêu
chất lượng so với sản phẩm -chitin thương mại và có thể ứng dụng trong các lĩnh vực
dược và thực phẩm do công ty Heppe GmbH (Germany) công bố [146]. Cụ thể, sản
phẩm -chitin thu được có hàm ẩm dưới 10%, có hàm lượng kim loại nặng không phát
hiện, hàm lượng protein còn lại thấp hơn 0,63 %, khối lượng phân tử trung bình cao
(Mw = 8545 kDa) và có độ deacetyl (DD = 19,7%).
Đáng chú ý, mặc dù không qua giai đoạn khử khoáng bằng acid HCl và khử màu
như các quy trình thu nhận chitin thông thường nhưng sản phẩm -chitin vẫn đạt tiêu
chuẩn thương mại với độ tinh khiết cao. Điều này có thể giải thích là do bản chất mai
mực ống chứa các thành phần khoáng rất thấp dưới 2%, kết quả đánh giá thành phần
khoáng trong mai mực (Bảng 3.2) cũng cho thấy thành phần Ca rất thấp (254 ppm) so với
vỏ đầu tôm thẻ có thành phần Ca là 3254 ppm. Vì thế, khi tiến hành xử lý với dung dịch
NaOH thì hành lượng khoáng trên cũng bị loại bỏ. Trong khi đó, Chaussard và Domard
2004 [38] chứng minh rằng trong vỏ tôm thành phần CaCO3 chiếm 20% và quá trình khử
protein trong môi trường NaOH thì thành phần CaCO3 này không bị khử đi nhiều.
Kết quả tương tự đã được công bố đối với mai mực ống khi tiến hành khử protein
trong môi trường NaOH thì thành phần Ca đã giảm đáng kể từ 1025 ppm xuống còn
80 ppm [32]. Tác giả cũng kết luận rằng thành phần Ca trong mai mực ngoài ở dạng
CaCO3 còn tồn tại dưới dạng khác. Trong luận án này, kết quả thực nghiệm cũng cho
thấy hàm lượng Ca trong mai mực là 254 ppm và sau khử protein chỉ còn 10,4 ppm
(Bảng 3.5).
Như vậy, thông qua quá trình khử protein bằng NaOH, các thành phần khoáng
trong mai mực đã bị loại trừ. Sản phẩm -chitin thu được có hàm lượng protein còn lại
rất thấp (0,63%) đáp ứng yêu cầu chất lượng của sản phẩm chitin thương mại. Do đó
chúng tôi đề xuất bỏ qua quá trình khử khoáng bằng acid HCl là hợp lý.
93
Bảng 3.4. Tính chất của mai mực ống và sản phẩm β-chitin
Tính chất Mai mực Loligo sp. β-chitin
Màu sắc Trong suốt Trắng, sáng
Ẩm (%) < 12 < 10
β-chitin (%) 35,80 ± 1,75 99,30 ± 0,50
Protein (%) 57,20 ± 2,32 0,63 ± 0,02
Lipid (%) 1,90 ± 0,21 Nd
Khoáng (%) 1,37 ± 0,17 Nd
DD (%) - 19,7 ± 1,56
Nd: not detected (không phát hiện).
- 8545 ± 150 Mw (kDa)
Bảng 3.4 cũng cho thấy khối lượng phân tử trung bình (Mw) của β-chitin thu
nhận từ mai mực (8545 kDa) cao hơn rất nhiều so với sản phẩm chitin từ vỏ tôm thẻ
(1652 kDa) [2]. Với khối lượng phân tử cao, chitin từ mai mực sẽ là nguồn chitin nền
lý tưởng cho nhiều ứng dụng khác nhau và dùng để thu nhận chitosan có khối lượng
phân tử lớn dùng cho nhiều mục đích như tạo màng chống viêm chữa bỏng, da nhân
tạo [54, 89], chỉ khâu cấy ghép phẫu thuật [33], màng phủ y sinh [126], điều trị ung
thư mục tiêu (giữ và tích lũy thuốc trong khối u) [151].
Bảng 3.5 trình bày kết quả phân tích hàm lượng các kim loại bao gồm cả những
kim loại nặng độc hại có trong thành phần của mai mực ống nguyên liệu (chưa khử
protein) và sản phẩm -chitin (sau quá trình khử protein). Theo đó, mai mực sau khi
xử lý bằng NaOH 4% ở nhiệt độ 80oC trong thời gian 10 giờ thì hàm lượng các kim
loại còn lại trong sản phẩm chitin thấp hơn rất nhiều. Ví dụ, hàm lượng Canxi còn lại
là 10,4 ppm sau quá trình khử so với trong nguyên liệu ban đầu là 254 ppm. Đặc biệt,
hàm lượng tất cả các nguyên tố kim loại nặng như Pb, As, Cd đều không phát hiện.
94
Bảng 3.5. Thành phần khoáng trong mai mực và sản phẩm β-chitin
Kết quả luận án Kết quả tham khảo [93]
Thành phần Mai mực Sản phẩm Mai mực β-chitin
Loligo sp. β-chitin
Ca (ppm) 254 10,4 334 12
Fe (ppm) 17 8,2 4 2
K (ppm) 29 4,7 19 6
Mg (ppm) 21 6,3 121 13
Na (ppm) 152 55,4 170 79
Zn (ppm) 206 6,2 - -
Pb (ppm) Nd Nd Nd Nd
As (ppm) Nd Nd Nd Nd
Nd: not detected (không phát hiện).
Cd (ppm) Nd Nd Nd Nd
Bảng 3.6. Hàm lượng acid amin trong mai mực và sản phẩm β-chitin
Kết quả tham khảo [174]
Acid amin Mai mực (g/100g) β-chitin (g/100g)
Alanine Mai mực (g/100g) 4,91 4,53 0,17 β-chitin (g/100g) Nd
Glycine 4,39 0,07 4,63 Nd
Valine 3,83 0,05 3,55 0,018
Leucine 2,60 0,03 4,09 Nd
Isoleucine 1,58 Nd 1,61 Nd
Threonine 1,51 Nd 2,45 Nd
Serine 1,60 0,05 2,03 Nd
Proline 5,98 0,06 4,99 Nd
4,65 0,53 Nd 1,57 1,13 2,78 6,40 0,00 Nd Nd Nd 0,06 0,06 Nd 0,14 Nd 4,53 0,32 - 2,35 1,74 2,37 6,17 - 0,007 Nd - Nd Nd 0,23 0,22 - Acid Aspartic Methionine 4-Hydroxyproline Acid glutamic Phenylalanine Lysine Histidine Hydroxylysine
0,06 0,75 6,13 54,91 Nd 0,499 6,68 49,76
Tyrosine Tổng Nd: not detected (không phát hiện).
95
So sánh với các kết quả công bố của Kiruta 1993 thu nhận -chitin trên mai mực
Ornmastrephes bartrami [93] và Jung 2013 trên mai mực Dosidicus gigas [79] thì các
thành phần như Ca, K, Na đều có hàm lượng thấp hơn. Điều này có thể lý giải là do sự
khác biệt về loài và tuổi trưởng thành của mực. Hàm lượng các kim loại Fe, Zn đều
dưới mức giới hạn gây độc tính, điều này khẳng định rằng mai mực ống Loligo sp. thật
sự là nguồn nguyên liệu lý tưởng để thu nhận chitin, chitosan tinh khiết có thể ứng
dụng trong các lĩnh vực kỹ thuật cao như y dược, y sinh và thực phẩm, kết quả này
cũng tương tự như các công bố trước đây của Chaussard và Domard 2004 [38].
Bảng 3.6 trình bày kết quả phân tích thành phần acid amin có trong mai mực và
còn lại trong -chitin sau quá trình khử protein, đồng thời so sánh với công bố tương
tự trước đây của Youn và cộng sự 2003. Theo đó, khi so sánh với hàm lượng acid amin trước và sau quá trình xử lý NaOH 4%, nhiệt độ 80oC trong thời gian 10 giờ, cho
thấy hầu hết các acid amin đều bị loại bỏ đáng kể. Các thành phần như Alanine,
Proline, Tyrosine và Histidine chiếm hàm lượng cao đều bị khử còn lại dưới 0,05%,
các thành phần khác như Leucine, Isoleucine, Serine, Proline, Methionine, acid
glutamic, Phenylalanine có hàm lượng rất thấp gần như bị khử hoàn toàn sau quá trình
xử lý. Kết quả này phù hợp với kết quả công bố của Youn 2013 về hàm lượng các acid
amin còn lại trong -chitin được thu nhận từ mai mực Todarodes pacifica ở điều kiện
nồng độ NaOH 3%, nhiệt độ 121oC, áp suất 15 psi trong thời gian 30 phút [174].
Như vậy, kết quả thực nghiệm đã cho thấy sau quá trình khử, hàm lượng acid
amin giảm đáng kể từ 49,75 (g/100g) trong mai mực ban đầu xuống còn 0,75 (g/100g)
trong sản phẩm β-chitin. Điều này cho thấy quá trình khử protein đạt hiệu quả, đáp
ứng mục tiêu nghiên cứu và có độ tinh khiết phù hợp cho nhiều ứng dụng khác nhau.
So sánh với kết quả công bố của Youn 2013 thu nhận -chitin từ mai mực Todarodes
pacifica [174] cho thấy hàm lượng các acid amin Alanine, Glycine, Leucine, Serine,
Proline trong sản phẩm -chitin thu được đều cao hơn, tuy nhiên một số acid min khác
lại có hàm lượng thấp hơn như acid Aspartic, Lysine, Histidine. Điều này là do sự
khác biệt về nguồn nguyên liệu, và điều kiện thu nhận chitin.
3.2.3.2. Cấu trúc bề mặt của mai mực và sản phẩm β-chitin
Nghiên cứu cấu trúc bề mặt của mai mực cho biết cấu trúc và sự sắp xếp các
lớp chitin liên kết với protein và sự phân bố của khoáng giữa các lớp chitin trước khi
tiến hành khử protein. Trong khi đó, cấu trúc bề mặt của sản phẩm chitin cho thấy
phần nào độ tinh khiết do không phát hiện thấy các hạt khoáng và độ rắn giảm do các
lớp chitin không còn nguyên vẹn sau xử lý với dung dịch NaOH.
96
Hình 3.4 là ảnh chụp dưới kính hiển vi quét điện tử (SEM) đối với mặt cắt của
mai mực trước và sau quá trình xử lý với NaOH 4%. Quan sát bề mặt cắt của nguyên
liệu mai mực ống Loligo sp. (Hình 3.4a) thấy rõ các tấm chitin được sắp xếp song song
có định hướng (z) và liên kết chặt chẽ các với các thành phần khác như protein, lipid
và khoáng tạo nên cấu trúc của mai mực. Sau quá trình khử, cấu trúc các tấm chitin
vẫn được bảo toàn nhưng độ dày của chúng lại giảm đáng kể (Hình 3.4b). Điều này có
thể giải thích do các thành phần phi chitin như protein, lipid và khoáng đã được loại bỏ
sau khi xử lý. Đáng chú ý là sau quá trình khử các tấm chitin gần như được bảo toàn
dưới tác động của các yếu tố khử, chứng tỏ không có sự cắt mạch chitin đáng kể xảy
ra. Kết quả tương tự cũng đã được Lavall 2007 khẳng định trên 2 loài mực là Loligo
plei và Loligo sanpaulensis [95].
Hình 3.4. Hình SEM chụp bề mặt cắt của (a) mai mực ống và (b) sản phẩm β-chitin.
3.2.3.3. Độ kết tinh của mai mực và sản phẩm β-chitin
Độ kết tinh của mai mực phụ thuộc nhiều vào hàm lượng khoáng, protein và sự
sắp xếp của các mạch chitin. Thực tế, do hàm lượng khoáng trong mai mực rất thấp (<
2%) nên mai mực có độ rắn thấp hơn rất nhiều so với độ rắn của vỏ tôm, vỏ cua và vỏ
ghẹ. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn phương pháp và điều kiện khử các
thành phần phi chitin để thu nhận chitin từ các nguồn nêu trên. Mặt khác, độ rắn khác
nhau của các dạng chitin sẽ quyết định đến tính chất và khả năng ứng dụng của chúng
trong thực tế. Đồng thời, chitin có độ rắn khác nhau sau khi deacetyl cũng sẽ cho
chitosan với tính chất khác nhau. Độ kết tinh của các vật liệu thường được xác định
thông qua phổ nhiễu xạ tia X (XRD).
97
Hình 3.5 trình bày phổ nhiễu xạ tia X (XRD) của mai mực ống Loligo sp. và sản
phẩm β-chitin thu được sau quá trình khử protein và khoáng. Kết quả phân tích cho
thấy, trên phổ của cả mai mực nguyên liệu và β-chitin đều xuất hiện 2 peak đặc trưng
cụ thể như sau:
- Một peak xuất hiện tại góc 2θ = 8,1º là peak đặc trưng cho tính chất vô định
hình của chitin. Tuy nhiên, cường độ peak của mai mực thấp hơn của -chitin khá
nhiều chứng tỏ mai mực có độ rắn cao hơn chitin.
- Một peak xuất hiện tại góc 2θ = 19,6º là peak đặc trưng cho tính chất kết tinh
của chitin. Tuy nhiên, cường độ peak của mai mực cao hơn của -chitin khá nhiều một
lần nữa chứng tỏ mai mực có độ rắn cao hơn chitin.
Hình 3.5. Phổ XRD của mai mực ống và sản phẩm β-chitin thu được từ mai mực.
Dựa vào cường độ và diện tích peak kết tinh và vô định hình chúng ta có thể tính
được độ kết tinh tương đối (CrI) của các vật liệu. Ở đây, CrI được tính dựa trên thương
số của diện tích peak kết tinh (19,60) và diện tích của tổng peak kết tinh và peak vô
định hình (8,10) [10]. Kết quả, CrI của nguyên liệu mai mực và sản phẩm β-chitin lần
lượt là 52,5 và 62,1%. Độ kết tinh của sản phẩm chitin cao hơn của mai mực chứng tỏ
hiệu quả của quá trình khử protein.
98
3.2.3.4. Độ tinh khiết và cấu trúc hóa học của sản phẩm -chitin
Cấu trúc hóa học và độ tinh khiết của sản phẩm -chitin được đánh giá dựa trên
quang phổ hồng ngoại (FTIR) và phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR). Các phổ này sẽ
cho biết các peak đặc trưng của chitin giống với các peak của chitin chuẩn trong cơ sở
dữ liệu. Nếu có xuất hiện các peak lạ chứng tỏ sản phẩm thu được có chứa các tạp chất.
Hình 3.6. Phổ FTIR của nguyên liệu mai mực ống và sản phẩm β-chitin.
Kết quả phân tích phổ FTIR được trình bày trong Hình 3.6 cho thấy, mẫu -chitin
có xuất hiện tất cả các peak đặc trưng cho chitin tại các bước sóng 3277 cm−1 (O-H),
2877 cm−1 (C-H), 1627 cm−1 (amide I), 1543 cm−1 (amide II), 1374 cm−1 (C-H) và
950–1200 cm−1 (C-O-C and C-O). Không thấy xuất hiện các peak lạ, chứng tỏ sản phẩm
β-chitin thu được có độ tinh khiết cao. Kết quả này cũng tương tự như kết quả của các
công bố trước đây về phổ FTIR của -chitin theo Florek 2009 [59] và Laval 2007 [95].
Trong cấu trúc hóa học của chitin, mỗi đơn vị N-acetyl glucosamine (GlcNAc)
trong mạch polyme có chứa 6 cacbon và 6 hydro trong các liên kết C-H; 4 hydro và 4
oxy trong các nhóm O-H [83]. Để khẳng định sự tồn tại của các hydro trong các liên
kết kể trên, chúng tôi tiến hành phân tích mẫu sản phẩm β-chitin bằng máy cộng
hưởng proton từ hạt nhân (NMR).
99
Hình 3.7. Phổ H1 NMR của β-chitin.
Kết quả phổ H1-NMR của β-chitin được trình bày trong Hình 3.7 và Bảng 3.7
cho thấy các peak tại độ dịch chuyển hóa học 2,582 – 2,617 ppm tương ứng với 3
protons của nhóm N-acetyl glucosamine (GlcNAc-CH3), các peak tại 3,38 – 3,42 ppm
là proton H-2 của glucosamine (GlcN) và các peak tại 5,41 và 5,03 ppm do dao động
của proton α-H-1-A và β-H-1-A. Các peak ở 5,02 và 4,87 ppm lần lượt là của H-1-D
và H-1-A. Các proton còn lại (H-3; H-4; H-5; H-6) thể hiện trên các peak tại 3,7 - 4,27
ppm. Không có các peak xuất hiện trong khoảng 1 - 1,5 ppm. Điều này cũng khẳng
định độ tinh khiết của sản phẩm -chitin thu được từ mai mực Loligo sp. của quá trình
thu nhận. Kết quả này cũng phù hợp với các công bố trước đây về độ dịch chuyển hóa
học của các proton trong chitin Einbu 2007; Lavertu 2003; Kasaai 2010 và Dahmare
2014 [51, 57, 83, 96] khẳng định sản phẩm thu được là chitin.
Độ dịch chuyển hóa học (δ, ppm) 5,410 – 5,425 5,020 – 5,016 4,838 – 4,870
3,380 – 3,420
3,709 – 4,272
2,582 – 2,617 Bảng 3.7. Độ dịch chuyển hóa học của các proton trong DCl/D2O ở 25oC của β-chitin Loại proton α-H-1-A β-H-1-A + H-1-D H-1-A H2 của GluN H3; H4; H5; H6 HN-COCH3
100
3.3. ĐIỀU KIỆN DEACETYL -CHITIN VÀ TÍNH CHẤT CHITOSAN TỪ MAI MỰC LOLIGO SP.
3.3.1. Đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của 3 yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời
gian đến hiệu quả deacetyl -chitin
Quá trình deacetyl để chuyển chitin thành chitosan có thể được thực hiện theo hai
điều kiện: (1) phản ứng đồng thể (homogenous) khi chitin và tác nhân deacetyl
(NaOH, KOH, enzyme) ở trạng thái hòa tan trong dung dịch, (2) phản ứng dị thể
(heterogenous) khi chitin ở trạng thái rắn hoặc trương nở và tác nhân deacetyl (NaOH,
KOH, enzyme) được hòa tan trong dung dịch. Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu
chủ yếu tập trung vào deacetyl trong điều kiện dị thể. Quá trình deacetyl của chitin dị
thể sử dụng tác nhân NaOH phụ thuộc vào các yếu tố chính gồm nồng độ NaOH sử
dụng, dạng hydrat hóa của NaOH, nhiệt độ phản ứng và nồng độ CH3COONa tạo ra
[Lamarque 2007]. Khi sử dụng NaOH nồng độ cao và ở nhiệt độ cao, chitin sẽ bị
trương nở rất nhanh, năng lượng hoạt hóa của quá trình deacetyl cũng giảm. Theo
Lamarque 2007, năng lượng hoạt hóa của quá trình deacetyl dị thể của β-chitin là 80,3
±9,6 kJ/mol (NaOH 30% (w/v), >70oC), 71,0 ±4,0 kJ/mol (NaOH 50% (w/v), <70oC)
40,0 ±3,0 kJ/mol (NaOH 50% (w/v), >70oC). Do đó, phản ứng deacetyl xảy ra nhanh
hơn và hiệu quả hơn ở nồng độ NaOH và nhiệt độ phản ứng cao hơn. Tuy nhiên, khi
tăng nồng độ NaOH lên cao hơn 50% thì năng lượng hoạt hóa này là không giảm. Do
đó, dung dịch NaOH 50% được xem là nồng độ tốt nhất để tiến hành deacteyl chitin.
Ngoài ra, sự tạo thành các dạng hydrat NaOH(H2O)n trong dung dịch cũng có ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả của quá trình deacetyl của chitin ở phản ứng dị thể. Tại nhiệt
độ và nồng độ khác nhau sẽ có số phân tử nước (n) khác nhau. Ở nhiệt độ (90oC), nồng
độ (50%) thì số phân tử nước n bằng 1 hoặc 2. Đây là cấu trúc hydrat (ngậm nước) có
ái lực tốt nhất đối với chitin và cho hiệu quả deacetyl cao nhất [Lamarque 2007].
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả deacetyl của chitin đó là hàm lượng
muối NaOCOCH3 tạo ra trong quá trình phản ứng. Muối này cũng ngậm nước nên sẽ
làm tăng nồng độ của NaOH trong hệ phản ứng và có thể dẫn đến kết tủa. Do đó, hàm
lượng muối NaOCOCH3 càng cao thì hiệu quả deacetyl sẽ càng kém.
Các cân bằng có thể xảy ra trong quá trình deacetyl giữa chitin, NaOH, nước và
NaOCOCH3 như sau [Lamarque 2007]:
101
Trong luận án này, tương tự như quá trình khử protein để thu nhận β-chitin từ
mai mực. Trước khi tiến hành quá trình deacetyl, chúng tôi cũng dựa trên các công bố
trước đây và tính chất của sản phẩm -chitin thu được trong nghiên cứu này để tiến
hành khảo sát một khoảng rộng ảnh hưởng của các thông số của quá trình deacetyl.
Các yếu tố được khảo sát bao gồm nồng độ NaOH, nhiệt độ và thời gian với hàm mục
tiêu là hiệu quả deacetyl của chitin. Cụ thể, tiến hành deacetyl -chitin ở 3 mức nhiệt
độ 30, 60 và 90C trong dung dịch NaOH có nồng độ là 40, 50 và 60% theo thời gian
với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v). Kết quả khảo sát được trình bày trong
Hình 3.8.
Kết quả cho thấy, khi tăng nhiệt độ và nồng độ NaOH thì quá trình deacetyl xảy
ra nhanh và hiệu quả deacetyl tăng. Cụ thể như sau:
a. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Ở nhiệt độ thấp thì quá trình deacetyl diễn ra chậm và hiệu quả deacetyl thấp. Ví
dụ, ở nhiệt độ 30 và 60oC thì hiệu quả deacetyl chỉ đạt 42 và 68% với nồng độ NaOH
40% sau 24 giờ. Mặc dù, khi tăng nồng độ NaOH lên 50% và 60% thì quá trình khử
vẫn không đạt được mục tiêu nghiên cứu là sản phẩm chitosan thu được có độ deacetyl
trên 90%. Tuy nhiên, khi càng tăng nhiệt độ thì hiệu quả deacetyl tăng cao. Với các mẫu
xử lý ở nhiệt độ 90C, thời gian cần thiết để sản phẩm chitosan thu được có độ deacetyl
lớn hơn 90% khi sử dụng nồng độ NaOH 50 và 60% là 12 và 6 giờ, tương ứng.
Như vậy, để đạt được chitosan có độ deacetyl lớn hơn 90% thì nhiệt độ của quá
trình phản ứng phải trên 60oC.
102
Hình 3.8. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH, nhiệt độ và thời gian đến hiệu quả deacetyl.
b. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH
Khi tăng nồng độ NaOH thì hiệu quả deacetyl tăng. Tuy nhiên, ở tất cả các nồng
độ NaOH 40%, 50% và 60% nếu tiến hành deacetyl tại nhiệt độ 30C và 60C thì độ
deacetyl của chitosan thu được đều không đạt mục tiêu nghiên cứu là trên 90%. Nhưng
với nồng độ NaOH là 50 và 60% khi deacetyl ở nhiệt độ 90C thì chỉ sau 18 và 6 giờ
thì độ deacetyl của chitosan thu được đều đạt mục tiêu nghiên cứu với kết quả lần lượt
là 91 và 95%, tương ứng. Lưu ý, khi nồng độ NaOH là 40% thì dù tiến hành ở nhiệt độ
90oC, sau 18 giờ thì độ deacetyl của chitosan thu được vẫn nhỏ hơn 90%.
Như vậy, để đạt được chitosan có độ deacetyl lớn hơn 90% thì nồng độ dung
dịch NaOH cần dùng phải trên 40%.
c. Ảnh hưởng của thời gian
Kết quả đánh giá cho thấy ở cùng điều kiện deacetyl (cùng nồng độ NaOH và
nhiệt độ), nếu kéo dài thời gian thì hiệu quả deacetyl càng tăng. Tuy nhiên hiệu quả
deacetyl chỉ tăng cao khi điều kiện deacetyl ở nhiệt độ cao (> 60C). Bởi vì, khi tiến
hành quá trình deacetyl ở 30oC thì dù kéo dài thời gian đến 72 giờ, thì với tất cả các
103
nồng độ NaOH 40, 50 và 60% đều không đạt mục tiêu nghiên cứu với hiệu quả
deacetyl trên 90%.
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả công bố của Kiruta 1993 và Jung 2013 khi
sử dụng NaOH và Broussignac 1968 khi sử dụng KOH để deacetyl chitin thu nhận
chitosan [31, 79, 93]. Các kết quả công bố cho thấy để thu được sản phẩm chitosan có
DD > 90% thì việc sử dụng nồng độ dung dịch NaOH hoặc KOH phải trên 50% và nhiệt
độ khử trên 90C là điều cần thiết. Ngoài ra, có thể tiến hành quá trình deacetyl lặp lại
từ 2-4 lần.
Như vậy, các yếu tố khảo sát như nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đều có sự
tương tác mạnh đến độ deacetyl sau quá trình khử. Kết quả so sánh các giá trị trung
bình ở các điều kiện deacetyl theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy các giá trị đều
khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Trên cơ sở kết quả đánh giá tổng quát ảnh hưởng
của các yếu tố chính đến hiệu quả quá trình deacetyl ở Hình 3.8 cho thấy các yếu tố
nồng độ NaOH, nhiệt độ và thời gian tỷ lệ thuận với hiệu quả quá trình deacetyl. Tuy
nhiên để đạt được mục tiêu sản phẩm chitosan thu được có độ deacetyl lớn hơn 90%
và hạn chế thấp nhất quá trình cắt mạch chitosan thì các khoảng thông số ảnh hưởng
đến quá trình deacetyl của các yếu tố ảnh hưởng được xác định như sau: nồng độ
NaOH (45-55%) và nhiệt độ deacetyl (70-90oC) và thời gian khử (4 - 24 giờ) với tỷ lệ
nguyên liệu/dung dịch là 1/10 (w/v) làm cơ sở khảo sát, đánh giá chi tiết và chọn điều
kiện deacetyl phù hợp để sản phẩm chitosan thu được có độ deacetyl trên 90% và hạn
chế thấp nhất quá trình cắt mạch chitosan trong quá trình khử.
3.3.2. Ảnh hưởng chi tiết của các yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đến
hiệu quả deacetyl chitin và sự cắt mạch chitosan
Kết quả đánh giá ảnh hưởng chi tiết các yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời
gian đến hiệu quả deacetyl β-chitin và quá trình cắt mạch của sản phẩm β-chitosan
được trình bày trong Hình 3.9.
3.3.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hiệu quả deacetyl chitin và sự cắt mạch
chitosan
Nhiệt độ tăng không chỉ làm tăng tốc độ phản ứng dẫn tới tăng độ deacetyl (DD)
mà còn làm tăng sự cắt mạch của sản phẩm chitosan dẫn tới chitosan thu được có khối
lượng phân tử thấp [79]. Do đó, cần chọn nhiệt độ deacetyl thích hợp sao cho thu được
104
chitosan có độ deacetyl cao và phân tử chitosan ít bị phân cắt nhất. Từ kết quả đánh
giá chất lượng chitin và số liệu khảo sát sơ bộ điều kiện deacetyl, chúng tôi tiến hành
các thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình deacetyl ở 50, 60,
70, 80 và 90C. Quá trình deacetyl được thực hiện ở nồng độ NaOH 50%, thời gian
khử 12 giờ với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi (1/10, w/v), mẫu sau khi xử lý được rửa
trung tính, tiến hành đánh xác định độ deacetyl và khối lượng phân tử trung bình (Mw).
Kết quả được trình bày trong Hình 3.9a. Khi tăng nhiệt độ từ 50 lên 90oC thì DD của
sản phẩm chitosan tăng từ 60,2 lên 90,1% trong khi MW lại giảm từ 7784 xuống còn
5604 kDa.
Khi so sánh các giá trị trung bình độ deacetyl ở các mức nhiệt độ khác nhau theo
chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy có sự khác biệt khác biệt mang ý nghĩa thống kê.
Nhiệt độ khử càng tăng thì hiệu quả quá trình deacetyl càng tăng, kết quả DD của sản
phẩm chitosan đạt được là 87,9% khi khử ở 80C.
Khi so sánh các giá trị trung bình của khối lượng phân tử trung bình (Mw) của
chitosan sau quá trình khử theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy các giá trị Mw ở các
mức nhiệt độ 70C, 80C và 90C đều có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê, đáng
chú ý là ở mức nhiệt độ trên 70C cho thấy khối lượng phân tử trung bình bị giảm rất
nhanh từ 6824 kDa ở 70C xuống còn 6254 kDa ở 80C và 5604 kDa ở 90C.
Như vậy, yếu tố nhiệt độ có sự tương tác mạnh với độ deacetyl và khối lượng
phân tử trung bình của chitosan trong quá trình deacetyl. Từ các kết quả phân tích ở
trên cho thấy để đạt được mục tiêu nghiên cứu là thu được sản phẩm chitosan có độ
deacetyl cao và hạn chế thấp nhất quá trình cắt mạch chitosan. Do đó, chúng tôi lựa
chọn nhiệt độ thích hợp cho quá trình deacetyl là 80C để làm các khảo sát sau.
105
Hình 3.9. Ảnh hưởng của các yếu tố nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian đến DD
và Mw của chitosan.
106
3.3.2.2. Ảnh hưởng của nồng độ NaOH đến hiệu quả deacetyl β-chitin và sự cắt
mạch chitosan
Quá trình deacetyl thường được tiến hành bằng hai phương pháp tùy theo cơ chế
bao gồm quá trình deacetyl dạng rời rạc (random) và quá trình deacetyl dạng khối
[111]. Trong quá trình thứ nhất, chitin được xử lý môi trường kiềm thấp và nhiệt độ
thấp trong môi trường chân không. Sản phẩm chitosan thu được có sự tồn tại của các
nhóm N-acetyl trên toàn mạch polymer. Đối với quá trình deacetyl khối, chitin được
xử lý trong môi trường kiềm đặc và nhiệt độ cao. Sản phẩm chitosan thu được có sự
tồn tại của các nhóm N-acetyl cục bộ trên một số đoạn của mạch polymer. Trong thực
tế, phương pháp deacetyl khối thường được ứng dụng sản xuất chitosan trong quy mô
công nghiệp.
Dựa trên tính chất của chitin và kết quả khảo sát sơ bộ và trong mục 3.3.2.1,
chúng tôi tiến hành các thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của các mức nồng độ NaOH
với các nồng độ 30, 35, 40, 45, 50 và 55% đến hiệu quả deacetyl và sự cắt mạch của
chitosan. Tất cả các thí nghiệm được thực hiện ở nhiệt độ 80C, thời gian khử 12 giờ
với tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch (1/10, w/v). Các mẫu sau khi xử lý được rửa trung
tính, tiến hành đánh xác định độ deacetyl và khối lượng phân tử trung bình (Mw). Kết
quả được trình bày trong Hình 3.9b.
Khi so sánh các giá trị trung bình độ deacetyl ở các mức nồng độ NaOH khác
nhau theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê.
Ở cùng điều kiện nhiệt độ 80C và thời gian khử 12 giờ, khi tăng nồng độ NaOH thì
hiệu quả quá trình deacetyl càng tăng, kết quả DD của sản phẩm chitosan đạt được là
83,6% ở NaOH 50% và đạt 85,7% ở NaOH 55%.
Khi so sánh các giá trị trung bình của khối lượng phân tử trung bình (Mw) của
chitosan ở các mức nồng độ NaOH khác nhau sau quá trình khử theo chuẩn Duncan
(α= 0,005) cho thấy các giá trị Mw ở các mức nhiệt độ 35, 40, 45, 50 và 55% đều có sự
khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Kết quả đánh giá cũng cho thấy khối lượng phân tử
trung bình bị giảm rất nhanh khi nồng độ NaOH tăng trên 50%, cụ thể Mw 6702 kDa ở
NaOH 50% xuống còn 4916 kDa ở NaOH 55%.
107
Như vậy, yếu tố nồng độ NaOH có sự tương tác mạnh với độ deacetyl và khối
lượng phân tử trung bình Mw của chitosan sau quá trình khử. Các kết quả phân tích cho
thấy ở cùng điều kiện nhiệt độ khử 80C và thời gian khử 12 giờ, khi tăng nồng độ
NaOH thì hiệu quả quá trình deacetyl càng tăng. Tuy nhiên, khi nồng độ NaOH tăng thì
quá trình cắt mạch xảy ra càng mạnh. Do đó, để đạt được mục tiêu nghiên cứu là thu
được sản phẩm chitosan có đô deacetyl cao và hạn chế thấp nhất quá trình cắt mạch
chitosan trong quá trình khử thì nồng độ NaOH thích hợp cho quá trình deacetyl 50%.
3.3.2.3. Ảnh hưởng của thời gian đến hiệu quả deacetyl chitin và sự cắt mạch chitosan
Khi cố định các yếu tố nhiệt độ và nồng độ NaOH, nếu kéo dài thời gian thì hiệu
quả deacetyl tăng lên nhưng quá trình cắt mạch chitosan cũng tăng. Do đó, cần chọn
thời gian deacetyl thích hợp sao cho thu được chitosan có độ deacetyl cao và phân tử
chitosan ít bị phân cắt nhất. Trên cơ sở kết quả phân tích tính chất của chitin và đánh
giá ảnh hưởng sơ bộ và ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ và nồng độ NaOH đến quá trình
deacetyl ở mục 3.3.1, 3.3.2.1 và 3.3.2.3. Tiến hành 5 mẫu thí nghiệm deacetyl ở nhiệt
độ 80C và nồng độ NaOH 50% theo các mức thời gian: 4, 8, 12, 16, 20 và 24 giờ với
tỷ lệ nguyên liệu/dung dịch (1/10, w/v). Kết quả được thể hiện trong Hình 3.9c.
Khi so sánh các giá trị trung bình độ deacetyl ở các mức nồng độ NaOH khác
nhau theo chuẩn Duncan (α= 0,005) cho thấy các giá trị ở mức thời gian 4 và 8 giờ có
sự khác biệt khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Các giá trị ở các mức thời gian từ 12
đến 24 giờ khử đều không có ý nghĩa thống kê, điều này cho thấy ở cùng điều kiện
nhiệt độ 80C và nồng độ NaOH 50% hiệu quả quá trình deacetyl chỉ đạt tốt trong
khoảng 8 giờ khử ban đầu, khi kéo dài thời gian khử thì hiệu quả deacetyl có tăng
nhưng không đáng kể.
Khi so sánh các giá trị trung bình của khối lượng phân tử trung bình (Mw) của
chitosan ở các mức thời gian khử khác nhau sau quá trình khử theo chuẩn Duncan (α=
0,005) cho thấy các giá trị Mw đều có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Kết quả
đánh giá cũng cho thấy khối lượng phân tử trung bình bị giảm rất nhanh khi kéo dài
108
thời gian khử, cụ thể Mw = 7567 kDa ở 8 giờ khử xuống còn 7081 kDa ở 12 giờ khử
và tiếp tục giảm nhanh nếu thời gian khử kéo dài.
Như vậy, yếu tố thời gian có sự tương tác mạnh với độ deacetyl và khối lượng
phân tử trung bình Mw của chitosan sau quá trình khử. Các kết quả phân tích cho thấy
ở cùng điều kiện nhiệt độ khử 80C và nồng độ NaOH 50% thì thời gian khử tỷ lệ
thuận với hiệu suất quá trình deacetyl. Quá trình deacetyl xảy ra rất nhanh và hiệu
quả trong 8 giờ đầu và đạt mức DD = 84%. Sau đó quá trình deacetyl xảy ra chậm lại
và chỉ đạt 89,5% sau 24 giờ khử. Tuy nhiên, khi kéo dài thời gian khử thì quá trình cắt
mạch xảy ra mạnh, do đó để đạt được mục tiêu nghiên cứu là thu được sản phẩm
chitosan có độ deacetyl cao và hạn chế thấp nhất quá trình cắt mạch chitosan trong
quá trình khử thì thời gian thích hợp cho quá trình deacetyl là 8 giờ.
Tóm lại: Từ các kết quả đánh giá ở trên cho thấy điều kiện deacetyl thích hợp để
sản phẩm chitosan thu được có độ deacetyl cao và hạn chế thấp nhất cắt mạch chitosan
trong quá trình khử là nhiệt độ 80C, nồng độ NaOH 50% với thời gian 8 giờ. Kết quả
cũng cho thấy trong điều kiện này, nếu tăng bất cứ 1 trong 3 yếu tố sẽ đều làm quá
trình cắt mạch chitosan xảy ra. Tuy nhiên, sản phẩm chitosan thu được chỉ đạt độ
deacetyl đạt 84% và có khối lượng phân tử trung bình 7567 kDa.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu với chitosan thu được có DD > 90% có 2 cách:
1. Tăng một trong các yếu tố nhiệt độ hoặc nồng độ NaOH hoặc tăng cả hai
yếu tố này. Tuy nhiên, khi đó thì quá trình cắt mạch xảy ra rất mạnh.
2. Giữ nguyên nhiệt độ và nồng độ đã tiến hành ở trên nhưng tiến hành
deacetyl nhiều lần. Cách này ít gây cắt mạch polymer và có thể dễ dàng thực hiện ở
sản xuất lớn.
Các kết quả công bố của Methacanon 2003 [106], Kiruta 1993 [93], Chandumpai
2004 [36] và Jung 2013 [79] cũng sử dụng 2 phương pháp trên đối với quá trình
deacetyl chitin thu nhận từ vỏ tôm và mai mực.
Thật vậy, trong các nghiên cứu trước đây, để đạt được DD trên 90%, quá trình
deacetyl của chitin thường được thực hiện ở trên 1000C [154], [94], [106]. Tuy nhiên,
việc sử dụng nhiệt độ cao đòi hỏi thiết bị chuyên dụng và khó có thể ứng dụng để sản
109
xuất ở qui mô lớn. Từ kết quả thu được, so sánh đánh giá với các kết quả công bố của
Kiruta 1993 [93] và Jung 2013 [79] làm cơ sở để chúng tôi đề xuất phương án
deacetyl 2 bước. Thứ nhất, β-chitin được deacetyl lần một trong dung dịch NaOH 50
wt.% với tỷ lệ nguyên liệu/dung môi 1:10 (w/v) trong 8 giờ, mẫu sau khi xử lý được
rửa sạch và tiếp tục deacetyl lần 2 trong dung dịch NaOH 50 wt.% với tỷ lệ nguyên
liệu/dung môi 1:5 (w/v) ở 800C.
3.3.3. Điều kiện deacetyl lần 2
Dựa trên các kết quả phân tích ở trên cho thấy, quá trình deacetyl được thực hiện
hiệu quả ở điều kiện nhiệt độ 80C, nồng độ NaOH 50% trong thời gian khử 8 giờ, nếu
kéo dài thời gian khử thì quá trình cắt mạch chitosan sẽ xảy ra mạnh mẽ ảnh hưởng
đến chất lượng chitosan thu được. Do đó chúng tôi tiến hành ngưng quá trình deacetyl,
mẫu được rửa trung tính và mẫu tiếp tục được deacetyl lần 2 ở điều kiện nhiệt độ 80C,
nồng độ NaOH 50% theo thời gian. Kết quả đánh giá được trình bày trong Hình 3.10.
Hình 3.10. Ảnh hưởng của quá trình deacetyl lần 2 đến DD và Mw của chitosan.
110
Kết quả thể hiện trong Hình 3.10 cho thấy, khi xử lý bước 2 hiệu quả quá trình
deacetyl xảy ra mạnh mẽ và đạt DD = 91,3% chỉ sau 4 giờ khử và DD = 94% sau 20
giờ khử. Tuy nhiên quá trình cắt mạch cũng xảy ra mạnh ở bước 2 đặc biệt là sau 4 giờ
khử đầu tiên Mw = 7567 kDa giảm còn 6831 kDa.
Như vậy, để hạn chế sự cắt mạch trong quá trình deacetyl ở mức thấp nhất và
sản phẩm chitosan thu được có mức DD > 90% thì việc chọn phương án deacetyl 2 lần
là cần thiết. Do đó điều kiện deacetyl được lựa chọn là: Deacetyl bước 1: NaOH 50%,
nhiệt độ 80oC, thời gian khử 8 giờ với tỷ lệ (1/10, w/v), sau đó mẫu được rửa sạch
trung tính và deacetyl tiếp bước 2: NaOH 50%, nhiệt độ 80C, thời gian khử 4 giờ
với tỷ lệ (1/5, w/v). Sản phẩm chitosan thu được có DD = 91,3% và Mw = 6831 kDa.
3.3.4. Hiệu suất thu nhận và tính chất của sản phẩm chitosan
3.3.4.1. Hiệu suất thu nhận và tính chất cơ bản của chitosan
Kết quả đánh giá hiệu suất thu hồi và một số tính chất của chitosan từ mai mực
Loligo sp. được trình bày trong Hình 3.11, Bảng 3.8 và Bảng 3.9.
Hình 3.11. Sản phẩm -chitin và chitosan từ mai mực Loligo sp.
Kết quả trình bày ở Bảng 3.8 cho thấy, hàm lượng chitosan thu được từ mai mực
ống cao hơn nhiều so với từ vỏ đầu tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) và vỏ tôm
sú (Penaeus monodon). Có thể giải thích điều này là do cấu trúc và độ rắn khác nhau
giữa -chitin và β-chitin. Nếu tiến hành ở cùng điều kiện thì β-chitin bị deacetyl dễ
dàng hơn -chitin và sự cắt mạch chitosan cũng ít hơn. Kết quả này cũng phù hợp với
các nghiên cứu trước đây đối với mai mực Loligo formosana, Loligo lessoniana [36],
111
và mai mực Ornmastrephes bartrami [93]. Như vậy, mai mực ống là nguồn nguyên
liệu tiềm năng để thu nhận chitin và chitosan có khối lượng phân tử cao và dễ dàng áp
dụng vào sản xuất qui mô lớn.
Bảng 3.8. Hiệu suất thu hồi chitin và chitosan
Thành phần (wt.%) Nguyên liệu Chitina Chitosana Chitosanb
Kết quả Mai mực Loligo sp. 35,80 30,32 86,22 luận án
a Phần trăm chitin và chitosan tính theo nguyên liệu khô; b Phần trăm chitosan tính theo khối lượng
chitin khô
Vỏ tôm (Penaeus monodon) 22,18 17,35 78,23 [10]
Tính chất của sản phẩm chitosan từ mai mực ống (-chitosan) được thể hiện
trong Bảng 3.9. So với sản phẩm chitosan thương mại (Sigma-Aldrich), chitosan từ
mai mực ống sau khi thu nhận có độ tinh khiết cao hơn do chứa hàm lượng khoáng và
protein còn lại rất nhỏ (không phát hiện). Sản phẩm -chitosan có màu trắng sáng
(Hình 3.11) với phân tử lượng trung bình Mw 6831 kDa và độ deacetyl DD 91,3 %. Độ
tan của -chitosan là trên 99,7% trong dung dịch acid acetic 1% và độ đục là 9,5 NTU.
Đáng lưu ý, -chitosan thu được có khối lượng phân tử cao, độ tinh khiết cao hơn so
với -chitosan thương mại thu được từ vỏ tôm. Do đó, -chitosan có thể được ứng
dụng trong nhiều lĩnh vực công nghệ cao như tạo màng cho ngành y dược. Đồng thời
-chitosan được dùng làm chitosan nền để cắt mạch tạo thành những chitosan có phân
tử khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.
112
Bảng 3.9. So sánh chất lượng của thương mại chitosan và β-chitosan
Chitosan thương mại Sản phẩm β-chitosan Tính chất
Trắng đến trắng vàng Trắng sáng Màu sắc
Khoáng (%) < 1 Nd
Protein (%) < 0,5 Nd
DD (%) > 80 > 91
Độ ẩm (%) < 10 < 8
300 - 700 6831 Mw (kDa)
Độ tan trong 1% AA (%) > 99 > 99,7
Nd: Not detected (không phát hiện).
Độ đục (NTU) 9,5 30
3.3.4.2. Thành phần khoáng và acid amine
Hàm lượng khoáng và acid amin còn lại trong sản phẩm chitosan có ảnh hưởng
đến ứng dụng của nó trong thức tiễn. Đặc biệt, khi ứng dụng cho con người như thực
phẩm và y dược. Thành phần khoáng và acid amin của chitosan được trình bày trong
Bảng 3.10 và Bảng 3.11. Theo Bảng 3.10 cho thấy hàm lượng acid amin còn lại trong
chitosan là rất thấp. Sau quá trình deacetyl, hầu hết các acid amin được loại bỏ khỏi β-
chitosan trừ một lượng rất nhỏ còn lại của histidine, alanine, valine và serine. Kết quả
này tương tự như kết quả công bố của Youn 2013 [173] về hàm lượng acid amin còn
lại trong chitosan từ mai mực Todarodes pacifica.
Bảng 3.11 cho thấy hàm lượng khoáng chứa trong β-chitin và chitosan là rất nhỏ
(không phát hiện), đặc biệt các kim loại nặng như As, Hg, Pb không phát hiện có trong
các mẫu β-chitin và chitosan (số liệu không được thể hiện), kết quả này cũng tương tự
với kết quả của Chandumpai 2004 và Jung 2013.
113
Bảng 3.10. Hàm lượng acid amin còn lại trong β-chitin và β-chitosan
Acid amin β-chitin (ppm) β-chitosan (ppm)
Alanine 0,08 0,17
Glycine 0,07 0,07
Valine 0,07 0,05
Leucine Nd 0,03
Isoleucine Nd Nd
Threonine Nd Nd
Serine 0,06 0,05
Proline 0,03 0,06
Aspartic acid Nd Nd
Methionine Nd Nd
4-Hydroxyproline Nd Nd
Glutamic acid Nd 0,06
Phenylalanine 0,03 0,06
Lysine Nd Nd
Histidine 0,15 0,14
Hydroxylysine Nd Nd
Tyrosine Nd 0,06
Nd: Not detected (không phát hiện).
Tổng cộng 0,49 0,75
Như vậy, sản phẩm -chitin và chitosan từ mai mực ống có độ tinh khiết cao đáp
ứng yêu cầu cho các nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực thực phẩm và y sinh.
114
Bảng 3.11. Thành phần khoáng và kim loại trong mai mực, β-chitin và β-chitosan
Kim loại (ppm) Khoáng Vật liệu (%) Ca Fe K Mg Na Zn
Mai mực ống 1,37 - - - - - -
β-chitin Nd 10,4 8,20 4,7 6,3 55,4 6,2
Nd: Not detected (không phát hiện).
β-chitosan Nd 7,1 2,78 3,7 2,07 4,5 3,21
3.3.4.3. Cấu trúc bề mặt của chitin và chitosan
Sự khác nhau về tính chất bề mặt của mai mực, β-chitin và chitosan thể hiện
trong Hình 3.12.
Theo đó, bề mặt cắt của mai mực có các tấm chitin được sắp xếp song song xen
kẽ các với các thành phần khác như protein, lipid và khoáng (Hình 3.12a). Sau quá
trình khử thì các tấm chitin vẫn được bảo toàn nhưng độ dày của chúng lại giảm đáng
kể (Hình 3.12b). Điều này có thể giải thích do các thành phần khác như như protein,
lipit và khoáng được loại bỏ sau khi xử lý. Trong khi bề mặt β-chitosan trở nên vô
định hình và cấu trúc các lớp song song bị phá hủy gần như hoàn toàn (Hình 3.12c).
Hình 3.12. Hình SEM của (a) mai mực ống, (b) β-chitin và (c) chitosan.
115
3.3.4.4. Độ rắn tinh thể (CrI)
Phổ nhiễu xạ tia X (XRD) của mai mực, β-chitin và chitosan biểu diễn trong Hình
3.13. Kết quả cho thấy, trong tất cả các mẫu đều xuất hiện hai peak đặc trưng tại 2θ 7.90
và 19.60. Tuy nhiên, mai mực có cường độ peak cao nhất sao đó đến β-chitin và
chitosan, chứng tỏ mai mực và β-chitin có độ kết tinh cao hơn và quá trình khử protein
và deacetyl đã làm giảm độ kết tinh của vật liệu. Cụ thể, độ kết tinh tương đối (CrI) của
của hai mẫu được tính là thương số của diện tích peak tại 7.90 và tổng diện tích 2 peak
[10]. Kết quả, CrI của mai mực, β-chitin và β-chitosan lần lượt là 72, 62 và 43%.
Hình 3.13. Phổ XRD của mai mực, β-chitin và β-chitosan.
3.3.4.5. Cấu trúc hóa học và độ tinh khiết của chitosan
Kết quả phân tích phổ hồng ngoại (FTIR) sản phẩm chitosan từ mai mực Loligo
sp. và một sản phẩm chitosan thương mại có độ deacetyl (DD ≥75%, Sigma Aldrich)
được thể hiện trong Hình 3.14. Các peak đặc trưng của cả hai mẫu đều tương tự nhau
tại 3428 cm−1 (O-H), 2928-2872 cm−1 (C-H), 1655 cm−1 (amide I), 1593 cm−1 (amide
II), 1318 cm−1 (amide III), và 1028–1070 cm−1 (C-O-C và C-O). Điều này khẳng định
hiệu quả của quá trình deacetyl β-chitin, độ tinh khiết của sản phẩm. Kết quả này
tương tự với một số công bố về phổ của -chitosan [32, 50].
116
Hình 3.14. Phổ FTIR sản phẩm chitosan từ (a) β-chitosan, (b) α-chitosan thương
mại và (c) β-chitin.
Độ tinh khiết của sản phẩm chitosan được khẳng định trong Phổ H1-NMR trình bày
trong Hình 3.15 và Bảng 3.12. Các peak đặc trưng cho chitosan tại 5.10 ppm (H1), 3.2 ppm
(H2), 3.5~3.9 ppm (H3, H4, H5, H6) và 2.0 ppm (NHCOCH3). Không có sự xuất hiện
các peak trong khoảng 1,0 và 2,0 ppm chứng tỏ sự tinh sạch của sản phẩm chitosan thu
được. Kết quả cũng tương ứng với độ dịch chuyển hóa học của các proton của chitosan
từ mực của Subhapradha 2013 [147] và Pereira 2015 [121].
Hình 3.15. Phổ H1-NMR của β-chitosan.
117
Bảng 3.12. Độ dịch chuyển hóa học của các proton trong DCl/D2O ở 70oC của β-chitosan
Loại proton Độ dịch chuyển hóa học (δ, ppm)
H-1-D 5,06 – 5,12
H-1-A 4,81 – 4,97
H-2-D 3,08 – 3,31
3,37 – 4,08 H3; H4; H5; H6
1,96 – 2,13 HN-COCH3
3.3.4.6. Độ phân tán polymer và khối lượng phân tử trung bình Mw của β-chitosan
Để đánh giá khối lượng phân tử trung bình (Mw) và sự phân bố khối lượng tử của
sản phẩm chitosan từ β-chitin, chúng tôi tiến hành đo phổ sắc ký loại trừ kết hợp với
phân tán ánh sáng tĩnh đa góc (SEC-MALLS), kết quả được trình bày ở Hình 3.16. Kết
quả phổ SEC-MALLS cho thấy rõ sự phân bố phân tử lượng của sản phẩm β-chitosan
từ 106 – 108 (g/mol) và kết quả đo xác định khối lượng phân tử trung bình của β-
chitosan Mw = 1740 kDa.
Hình 3.16. Phổ SEC-MALLS của β-chitosan.
118
3.3.5. Đề xuất quy trình thu nhận chitin, chitosan từ mai mực ống Loligo sp.
Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu thu được từ mục 3.2 và 3.3 có thể khẳng
định quy trình thu nhận β-chitin và chitosan từ mai mực Loligo sp. bằng phương pháp
hóa học có thể ứng dụng để sản xuất ở quy mô lớn và sản phẩm β-chitin và chitosan
thu được có độ tinh khiết cao, ít bị cắt mạch là nguồn nguyên liệu tốt để ứng dụng
trong các lĩnh vực thực phẩm, y sinh và có thể cải biến tạo thành các sản phẩm khác
được đề xuất Hình 3.17.
Hình 3.17. Quy trình thu nhận β-chitin và chitosan từ mai mực Loligo sp.
119
Mai mực Loligo sp. được thu nhận từ các nhà máy chế biến thủy sản thải ra sau
quá trình chế biến được rửa sạch, sấy ở nhiệt độ 60oC sau 12 giờ, sau đó nguyên liệu
được xay thô ở kích thước 3-5mm.
Mẫu được khử protein trong dung dịch NaOH 4% (w/v), tỷ lệ 1/10 (w/v) ở
nhiệt độ 80oC tron 10 giờ. Trong quá trình khử mẫu được định kỳ khuấy đảo để dung
dịch NaOH tiếp xúc đều, quá trình khử được thực hiện đồng đều và triệt để. Sau khi
kết thúc quá trình khử, mẫu được rửa sạch đến trung tính. Sản phẩm β-chitin thu được
sẽ được sấy ở nhiệt độ 60oC trong 10 giờ.
Sản phẩm chitin sau khi thu nhận sẽ được deacetyl lần 1 trong dung dịch NaOH
50% (w/w) ở nhiệt độ 80oC trong 8 giờ với tỷ lệ chitin/dd NaOH (1/10, w/v). Sau quá
trình khử, mẫu được rửa sạch đến trung tính và tiếp tục deacetyl lần 2 trong dung dịch
NaOH 50% (w/w), tỷ lệ chitin/dd NaOH (1/10, w/v) ở nhiệt độ 80oC trong 4 giờ, mẫu
sau khi xử lý được rửa sạch đến trung tính, sau đó được sấy ở 60oC trong 12 giờ thu
được sản phẩm chitosan.
3.4. KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN CỦA CHITOSAN
3.4.1. Nghiên cứu phân lập, khẳng định chủng Erwinia sp. gây bệnh thối nhũn
trên trái cà chua sau thu hoạch
- Kết quả lựa chọn trái cà chua bệnh: Theo khảo sát, đánh giá tại các chợ đầu mối
nông sản, lượng cà chua sau khi được vận chuyển về đến các đại lý đầu mối thường bị
thất thoát từ 10 - 15%, chủ yếu là bị dập, bị tổn thương dưới tác động cơ học trong quá
trình vận chuyển và bảo quản. Tuy nhiên lượng cà chua này thường xãy ra quá trình
thối nhũn rất nhanh sau khi tổn thương, thường trong vòng 1-3 ngày. Nếu không được
xử lý thì quá trình thối nhũn sẽ lây lan qua các trái khác rất nhanh và gây thiệt hại lớn.
Hiện tại phương pháp được các nông dân, thương lái áp dụng là loại bỏ ngay các trái
cà chua bị dập, chảy dịch có mùi thối để tránh ảnh hưởng đến các trái còn lại. Kết quả
sau 3 đợt thu được 24 mẫu ở chợ đầu mối nông sản Thủ Đức TpHCM và 21 mẫu ở chợ
Vĩnh Hải Nha Trang. Sau khi vận chuyển về phòng thí nghiệm, các mẫu tiếp tục được
bảo quản ở điều kiện thường, tiếp tục quan sát đánh giá và chọn được 10 mẫu có biểu
hiện bệnh đặc trưng của bệnh thối nhũn (Bảng 3.15, Hình 3.18). Từ đó tiến hành phân
lập xác định đối tượng gây bệnh, theo Janse 2005 và Mân 2007 vết bệnh thối nhũn trên
trái cà chua sẽ phát triển nhanh ở điều kiện nhiệt độ 30-32oC, các khu vực bị ảnh hưởng
120
trở nên nhũn mềm và chảy nước do các tế bào bị tổn thương, bề mặt vết bệnh trở nên sẫm
màu, có thể xuất hiện nếp nhăn hoặc phồng rộp. Biên độ gây tổn thương thường là chậm
lúc đầu nhưng sau đó trở nên rất nhanh, các mô trong khu vực ảnh hưởng bị phân hủy
chảy nước, các vết nứt phát triển và bề mặt vết bệnh trở nên nhầy nhụa, kèm theo mùi thối
đặc trưng. Trường hợp tiếp xúc với không khí vết bệnh có thể chuyển sang màu xám hoặc
màu nâu sẫm [66, 77, 9].
Bảng 3.13. Mẫu cà chua thu nhận từ các chợ nông sản
Nơi lấy mẫu
Thời gian lấy
Đợt lấy mẫu Đợt 1
Tháng 12/2013
Số lượng mẫu thu nhận 10
Số lượng mẫu được chọn phân lập 2
Chợ nông sản
Đợt 2
Tháng 04/2014
7
2
Thủ Đức HCM
Đợt 3
Tháng 09/2014
7
1
Đợt 1
Tháng 12/2013
6
2
Đợt 2
Tháng 04/2014
8
1
Chợ Vĩnh Hải, Nha Trang
Đợt 3
Tháng 09/2014
7
2
Hình 3.18. Mẫu trái cà chua bệnh thối nhũn thu nhận từ chợ nông sản.
- Kết quả phân lập lựa chọn khuẩn lạc, nhuộm Gram, đánh giá hình thái và khả
năng di động: Từ 6 đợt thu mẫu, chọn được 10 mẫu cà chua bệnh. Tiến hành xử lý
mẫu và phân lập trên môi trường PDA trong điều kiện pH trung tính ở nhiệt độ từ
30C đã thu được 37 mẫu khuẩn lạc đặc trưng (Hình 3.19a). Các khuẩn lạc được chọn
đều có màu trắng xám đến vàng đục, hình tròn hoặc hình bầu dục không đều, bề mặt
khuẩn lạc lồi nhầy ướt [77, 9]. Kết quả nhuộm Gram 37 dòng vi khuẩn này đã chọn
được 20 dòng vi khuẩn là Gram âm có hình que, hai đầu hơi tròn, kích thước của các
tế bào vi khuẩn đều nằm trong khoảng (0,5-1,0 1,0-3,0m) và có khả năng di động
121
(Hình 3.19b) [77, 9]. Các kết quả này đã loại trừ hầu hết các tác nhân gây bệnh là nấm
và các vi khuẩn Gram dương như Bacillus spp.; Clotridium spp.; Clavibacter spp.,...
các tác nhân vi khuẩn gây bệnh nghi ngờ còn lại thuộc các chi Erwinia spp.;
Pseudomonas spp. và Xanthomonas spp.
Hình 3.19. (a) Mẫu khuẩn lạc được chọn; (b) Mẫu vi khuẩn nhuộm Gram.
- Kết quả đánh giá các đặc tính sinh hóa, sinh lý của chủng phân lập:
+ Khả năng lên men-oxy hóa glucose (Oxidative-Fermentative): Kết quả đánh giá
khả năng sử dụng glucose chuyển hóa thành các acid làm chuyển màu chất chỉ thị
bromothymol từ xanh sang vàng ở cả điều kiện hiếu khí và kỵ khí của 20 dòng vi
khuẩn được trình bày ở Bảng 3.14. Test sinh hóa này đã loại trừ các dòng vi khuẩn
Xanthomonas spp. có tế bào hình gậy, Gram âm, ưa khí bắt buộc và các dòng
Pseudomonas spp. có tế bào hình gậy, Gram âm, ưa khí. Kết quả đã chọn ra được 11
dòng vi khuẩn thuộc chi Erwinia spp. có khả năng chuyển hóa glucose ở cả 2 điều kiện
yếm khí và hiếu khí.
+ Khả năng phân giải pectin trên môi trường CVP (Crystal Violet Pectate): 11
dòng vi khuẩn được chọn đã được đánh giá khả năng phân giải pectin trên môi trường
CVP, kết quả được trình bình trong Bảng 3.14. Kết quả đánh giá cho thấy có 7 dòng
trong 11 dòng vi khuẩn được chọn có khả năng phân giải pectin, do đó đã loại được
các dòng vi khuẩn: Erwinia amylovora; Erwinia tracheiphila; Erwinia rubrifaciens;
Erwinia salics; Erwinia herbicola; Erwinia chrysanthemi; Erwinia cypripedii; Erwinia
nigrifluens; Erwinia stewartii và Erwinia uredovora không có khả năng phân giải
pectin. Theo Janse 2005 chi vi khuẩn Erwinia spp. có 14 loài bao gồm: Erwinia
carotovora; Erwinia amylovora; Erwinia tracheiphila; Erwinia mallotivora; Erwinia
122
rubrifaciens; Erwinia quercina; Erwinia salics; Erwinia herbicola; Erwinia
rhapontici; Erwinia chrysanthemi; Erwinia cypripedii; Erwinia nigrifluens; Erwinia
stewartii và Erwinia uredovora, trong đó chỉ có các dòng có khả năng phân giải pectin
mới là tác nhân gây bệnh thối nhũn [77].
Bảng 3.14. Kết quả đánh giá đặc tính sinh hóa sinh lý của các dòng vi khuẩn
Chỉ tiêu
Stt Mẫu
Sinh indol
1
EC11-NT
Lên men hiếu khí (O+) +
Lên men yếm khí (F+) +
Phân giải pectin (+) -
Sinh H2S (+)
(-)
Nhậy cảm với erythromycine (-)
2
EC15-NT
+
+
-
3
EC12-HCM
+
+
-
4
EC14-HCM
+
-
5
EC15-HCM
+
+
+
-
-
+
6
EC16-HCM
+
-
7
EC21-HCM
-
+
8
EC22-HCM
-
+
9
EC24-HCM
+
+
+
+
-
-
10 EC25-HCM
+
+
+
+
-
-
11 EC26-HCM
+
+
-
12 EC27-HCM
+
+
+
+
-
+
13 EC21-NT
+
-
14 EC24-NT
+
+
+
+
-
-
15 EC25-NT
+
+
+
+
-
-
16 EC26-NT
-
+
17 EC32-NT
-
+
18 EC34-NT
+
+
+
+
-
-
19 EC31-HCM
+
-
20 EC35-HCM
+
-
123
+ Khả năng oxy hóa tryptophan thành các hợp chất hữu cơ chứa vòng indol: Kết
quả đánh giá khả năng sinh H2S và indol của 7 dòng vi khuẩn có khả năng phân giải
pectin cho thấy cả 7 dòng vi khuẩn được chọn đều có khả năng sinh H2S và không sinh
indol (Bảng 3.14). Căn cứ theo đặc tính sinh hóa, sinh lý được Janse 2005 công bố
(Phụ lục 7) [77], kết quả này đã loại loại được các dòng vi khuẩn thuộc chi Erwinia sp.
nhưng không có khả năng sinh H2S là Erwinia mallotivora và Erwinia quercina.
+ Khả năng nhạy cảm với Erythromycine: Tiếp tục đánh giá khả năng nhạy cảm
với erythromycine đã chọn được 6 dòng trong 7 dòng vi khuẩn được chọn không nhạy
cảm với erythromycine, do đó đã loại được chủng Erwinia rhapontici nhạy cảm với
erythromycine
Như vậy, kết quả đánh giá các đặc tính sinh hóa, sinh lý các dòng vi khuẩn phân
lập cho thấy có 6 dòng vi khuẩn phân lập đáp ứng các yêu cầu, nằm trong nghi ngờ là
Erwinia carotovora.
+ Kết quả giải trình tự 16s rARN: Tiến hành giải trình tự gen 16s rARN 6 chủng
vi khuẩn được chọn. Kết quả giải trình tự một phần gen mã hóa cho tiểu phần
ribosome 16s được tra cứu trên ngân hàng gen của NCBI thông qua chương trình
BLAST SEARCH cho thấy, chủng EC24-NT có độ đồng nhất đạt đến 97% khi đối
chiếu với trình tự gen của chủng CP002038 Dickeya dadantii 3937 ở ngân hàng gen
(Hình 3.20). Như vậy, kết quả phân lập đã xác định được chủng vi khuẩn gây bệnh thối
nhũn trên cà chua sau thu hoạch là Dickeya dadantii 3937 hay Erwinia carotovora.
Ngoài ra, dòng vi khuẩn sau khi được định danh được chụp trên kính hiển vi điện tử
SEM (Hình 3.21) cho kết quả hình que, hai đầu hơi tròn, kích thước của các tế bào vi
khuẩn đều nằm trong khoảng (0,5-1,01,0-3,0m) , kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu và mô tả của Janse 2005 và Mân 2007.
Hình 3.20. Trình tự một đoạn gen 16S rRNA chủng vi khuẩn Erwinia carotovora.
124
Hình 3.21. Hình SEM chủng vi khuẩn Erwinia carotovora.
+ Kết quả đánh giá độc lực gây bệnh của chủng Erwinia carotovora trên trái cà
chua theo quy tắc Koch: Tiến hành gây bệnh nhân tạo trên trái cà chua theo quy tắc
Koch đã được mô tả ở phần 2.3.7. Kết quả đánh giá khả năng gây bệnh trên trái cà
chua của Erwinia carotovora được trình bày trong Hình 3.22 và Hình 3.23.
Thời gian 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Vết bệnh
bên ngoài
Vết bệnh
bên trong
Hình 3.22. Vết bệnh thối nhũn trên trái cà chua.
125
Kết quả đánh giá cho thấy thời gian hình thành vết bệnh đặc trưng trên trái cà
chua là 24 giờ. Quá trình phát triển bệnh cho thấy tỷ lệ trái nhiễm bệnh đạt 100%, tốc
độ phát triển bệnh khá nhanh cụ thể: Tthời gian bắt đầu chủng bệnh cho đến khi trái
thối nhũn hoàn toàn kéo dài 72 giờ, biên độ dao động vết bệnh trên các trái trong cùng
thời gian ổn định. Kết quả đánh giá độc lực gây bệnh của Erwinia sp. ở Hình 3.23 cho
thấy trái cà chua khi bị nhiễm Erwinia carotovora thì vết bệnh sẽ phát triển chậm
trong 24 giờ đầu, sau đó bệnh phát triển rất nhanh và sau 72 giờ bệnh phá hủy hoàn
toàn ký chủ. Bệnh phát triển khá đặc thù, vi khuẩn phá hủy bên trong nhanh và mạnh
hơn vết bệnh biểu hiện bên ngoài.
Hình 3.23. Sơ đồ phát triển bệnh thối nhũn trên cà chua.
Như vậy, từ các mẫu cà chua bệnh thu nhận tại các chợ đầu mối nông sản tại Thủ
Đức, TpHCM và tại chợ Vĩnh Hải, Nha Trang đã chọn được 6 dòng vi khuẩn có hình
que, hai đầu hơi tròn, chiều dài từ 1.0-2.5µm, Gram âm, yếm khí tùy ý, phân giải
pectin, sinh H2S, không tạo indol và không nhạy cảm với erythromycine. Các chủng này
được chủng bệnh trên trái cà chua đều có khả năng gây bệnh thối nhũn đặc trưng, vết
126
bệnh đổi màu nhũn mềm, thịt quả thối nát có màu sậm, vết bệnh chảy dịch mùi thối khó
ngửi. Phân tích trình tự gen 16S rRNA, tra cứu trên Blast Search và chụp SEM cho thấy
chủng EC24-NT phân lập được là Erwinia carotovora. Chủng Erwinia carotovora
(EC24-NT) sau khi phân lập được đánh giá khả năng gây bệnh trên cà chua sau thu
hoạch cho thấy thời gian phát triển bệnh rất nhanh chóng, sau 24 giờ hình thành vết bệnh
đặt trưng và sau 72 giờ bệnh phát triển ăn sâu phá hũy gần như hoàn toàn ký chủ. Đánh
giá cũng cho thấy vết bệnh bên trong phát triển nhanh và mạnh hơn vết bệnh bên ngoài
bề mặt trái.
3.4.2. Khả năng kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vitro
❖ Kết quả cắt mạch chitosan bằng H2O2
Nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng chitosan có khối lượng phân tử thấp
sẽ có tính kháng khuẩn cao. Do đó, trước khi khảo sát khả năng kháng khuẩn của sản
phẩm chitosan, chúng tôi tiến hành cắt mạch chitosan bằng chất oxy hóa khá mạnh. Cụ
thể, sản phẩm chitosan từ mai mực Loligo sp. có độ deacetyl 91,3% và khối lượng phân tử
Mw = 6831 kDa được tiến hành cắt mạch bằng H2O2 theo phương pháp được mô tả của
Liu 2006 và Huang 2012 có chỉnh sửa được mô tả ở mục 2.3.4. Kết quả, thu được 4
loại chitosan có khối lượng phân tử là 6831, 1740, 655 và 138 kDa.
Cơ chế cắt mạch chitosan bằng H2O2 trong môi trường kiềm được giải thích như
sau:
(1) H2O2 H+ + HOO-
NaOH OH-+ Na+ (2)
H+ từ (1) và OH- từ (2) sẽ phản ứng với nhau tạo thành H2O, do đó, phản ứng (1)
có khuynh hướng tạo ra nhiều anion HOO-. Các ion HOO- lại rất kém bền và dễ dàng
phản ứng với H2O2 để tạo ra các gốc tự do theo phương trình sau:
•- + H2O
(3) H2O2 + HOO- HO• + O2
Gốc tự do HO• là tác nhân oxy hóa mạnh, sẽ lấy nguyên tử hydro trong phân tử
chitosan tại liên kết 1,4-glucozit theo phản ứng sau:
127
(4) (GlcN)m −(GlcN)n + HO• → (GlcN•)m − (GlcN)n + H2O
(5) (GlcN•)m−(GlcN)n + H2O → (GlcN)m + (GlcN)n
Cấu trúc phân tử chitosan không thay đổi sau quá trình cắt mạch nhưng khối
lượng phân tử giảm do liên kết 1,4-glucozit bị cắt.
❖ Khả năng kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vitro
Tiến hành 5 lô thí nghiệm đánh giá khả năng kháng khuẩn của các loại chitosan
này ở các mức nồng độ: 0,1; 0,25; 0,5; 0,75; 1,0; 1,25 và 1,5% trong môi trường acid
acetic 1%. Kết quả kháng khuẩn Erwinia carotovora của các chitosan ở nồng độ và trọng
lượng phân tử Mw khác nhau ở điều kiện in vitro được thể hiện trong Bảng 3.15.
Bảng 3.15. Khả năng kháng khuẩn Erwinia carotovora của chitosan với khối
lượng phân tử khác nhau và chitosan thương mại (C-120)
Tỷ lệ ức chế (%)
Mw
Chitosan
Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu
(kDa)
0% 0,1% 0,25% 0,5% 0,75% 1% 1,25% 1,5%
C-120 120 0 10,2 23,2 73,2 94,8 100 100 0
S-6831 6831 0 27,7 57,3 Nd Nd Nd Nd 0
S-1740 1740 0 54,8 82,7 75,1 82,6 99,9 0 0
S-655 655 0 59,3 79,7 86,5 94,9 100 0 0
Nd: thí nghiệm không thực hiện do chitosan S-6831 chỉ có thể hòa tan tối đa ở nồng độ 0,5%
trong acid acetic 1%.
S-138 138 0 42,1 67,2 88,4 98,0 100 100 0
Kết quả cho thấy β-chitosan có khả năng ức chế sự phát triển của Erwinia
carotovora càng tăng khi sử dụng chitosan có khối lượng phân tử trung bình (Mw) càng
128
thấp và nồng độ chitosan cao. Trong đó, khả năng kháng khuẩn chỉ thể hiện rỏ khi các
chitosan đạt nồng độ từ 0,5% trở lên. Hiệu quả ức chế 100% khả năng phát triển vi
khuẩn Erwinia carotovora đạt được đối với chitosan có Mw trong khoảng 138-655 kDa
ở nồng độ 1,25 và 1,5%. Trong khi mẫu chitosan thương mại cho thấy hiệu quả kháng
khuẩn Erwinia carotovora đạt 100% ở nồng độ 1,25%. Kết quả này phù hợp với các
công bố trước đây của Zeng 2003 [175] và Xu 2007 [168].
Hình 3.24. (a) Khả năng kháng khuẩn của S-655 và (b) của S-138 ở các nồng độ
khác nhau. C-120 là chitosan thương mại với Mw là120 kDa.
Khi so sánh khả năng kháng Erwinia carotovora đối với chitosan thương mại cho
thấy ở cùng nồng độ 1,25%, chitosan S-138 cho hiệu quả kháng 100% khả năng phát triển
của Erwinia carotovora tương đương chitosan thương mại có độ deacetyl 75-85%, Mw =
120 kDa. Kết quả kháng khuẩn được nhìn thấy điều rõ ràng hơn trong Hình 3.24. Theo
đó, chitosan có phân tử lượng trung bình Mw càng thấp sẽ dẫn đến khả năng kháng khuẩn
được tăng cường. Đồng thời kết quả ở Bảng 3.15 cũng khẳng định, ở cùng nồng độ thì β-
chitosan có hoạt tính kháng khuẩn cao hơn chitosan thương mại thu được từ -chitin.
Điều này có thể được giải thích như sau: chitosan thu được từ β-chitin có độ rắn thấp hơn,
+) cũng mềm mại hơn và
đễ dàng hòa tan và trương nở trong dung dịch. Hơn nữa, khi đã được hòa tan trong dung
dịch acid thì cấu hình của polymer mang điện tích dương (-NH3
dễ dàng tiếp xúc với bề mặt tế bào mang điện tích âm của vi khuẩn hơn so với cấu trúc rất
bền và chặt chẽ của chitosan thu được từ -chitin.
129
Hình 3.25 biểu diễn hình ảnh chụp trên kính hiển vi truyền qua TEM khi vi khuẩn
Erwinia carotovora được xử lý bằng β-chitosan (S-138) ở nồng độ 1% trong dung môi
CH3COOH 1% (w/v) trong thời gian 60 phút. Kết quả cho thấy, đầu tiên sau 15 phút
chitosan gắn lên bề mặt của các tế bào (Hình 3.25b), sau đó màng tế bào bị phá vỡ, sự rò
rỉ của các chất trong tế bào đã được quan sát (Hình. 3.25c) và cuối cùng, bề mặt tế bào của
vi khuẩn Erwinia carotovora dần bị phá hủy hoàn toàn sau 60 phút và các tế bào trở nên
mờ trong dung dịch chitosan (Hình 3.25d). Kết quả này phù hợp với các kết quả của Kong
2010 [87] và Xing 2009 [167].
Hình 3.25. Hình TEM của vi khuẩn Erwinia sp. được xử lý trong dung dịch β-
chitosan 1% (S-138) trong 60 phút. (a) Vi khuẩn Erwinia carotovora; (b) xử lý sau
15 phút; (c) xư lý sau 30 phút; (d) kết quả sau 60 phút.
Sự tương tác giữa chitosan và bề mặt tế bào vi khuẩn đã được nhiều báo cáo
chứng minh:
Tsai và cộng sự (1999) đã kết luận rằng chitosan khi tương tác với bề mặt tế
bào vi khuẩn thông qua các lực tĩnh điện giữa của các nhóm -NH2 của phân tử chitosan
130
+) và bề mặt màng tế bào vi khuẩn mang
bị proton hóa mang điện tích dương (-NH3
điện tích âm. Sự tương tác này làm thay đổi tính thấm thấu của màng tế bào từ đó làm
rò rỉ các thành phần nội bào, chẳng hạn như glucose và lactate dehydrogenase (LDH),
do đó làm chết các tế bào vi khuẩn. Hoạt tính diệt khuẩn của chitosan đối với vi khuẩn
phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ tuổi của tế bào, ảnh hưởng đến điện tích âm trên bề mặt tế bào;
+ nhiệt độ, ảnh hưởng đến cấu trúc bề mặt tế bào và tốc độ phản ứng hóa học;
+ giá trị pH, làm thay đổi số proton của chitosan;
+ muối, tạo phức với chitosan và làm giảm số lượng các nhóm -NH2 của một
phân tử chitosan.
Chung và cộng sự (2004) cho thấy khả năng kháng khuẩn của chitosan trên các
vi khuẩn khác nhau phụ thuộc vào lượng chitosan hấp phụ vào các tế bào vi khuẩn và
khả năng tương tác của chitosan với bề mặt của thành tế bào vi khuẩn. Chitosan hấp
phụ tốt hơn sẽ làm thay đổi cấu trúc của thành tế bào lớn hơn và giảm tính thẩm thấu
+) sẽ tương tác với bề mặt tế bào vi khuẩn mang điện tích âm. Khi độ
của màng tế bào. Trong dung dịch acid loãng, chitosan mang các nhóm amin tích điện
dương (-NH3
deacetyl càng cao thì tương tác này càng lớn. Do đó, tính diệt khuẩn càng cao.
No và cộng sự (2002) và Kong 2010 chứng minh khối lượng phân tử trung bình
của chitosan càng nhỏ thì khả năng kháng khuẩn càng cao. Khi oligochitosan (LMw)
hoà tan trong dung dịch, chúng có thể xâm nhập qua thành tế bào của vi khuẩn, kết
hợp với DNA, làm ức chế quá trình tổng hợp mRNA và sao chép DNA. Ngoài ra, các
LMw tương tác với bề mặt tế bào tạo thành một lớp không thấm qua khắp tế bào, do
đó ngăn chặn việc vận chuyển các chất tan cơ bản vào tế bào.
3.4.3. Khả năng kháng khuẩn của β-chitosan ở điều kiện in vivo
Ảnh hưởng của phân tử lượng trung bình (Mw) và nồng độ của β-chitosan lên
bệnh thối nhũn do Erwinia carotovora gây ra trên trái cà chua sau thu hoạch được
đánh giá và thể hiện trong Hình 3.26, Hình 3.27 và Hình 3.28.
131
Hình 3.26. Khả năng kháng khuẩn của chitosan S-1740 ở điều kiện in vivo.
Kết quả đánh giá ở Hình 3.26 đối với β-chitosan có Mw = 1740 kDa cho thấy
khả năng kháng bệnh không hiệu quả và tương tự với mẫu đối chứng khi sử dụng S-
1740 để xử lý ở các nồng độ 0,2%, 0,4% và 0,6% (Hình 3.26). Trong đó, kích thước
vết bệnh ngoài và bên trong đều tương tự như 2 mẫu đối chứng là mẫu xử lý bằng
nước cất và mẫu xử lý bằng acid acetic 1%. Kết quả khẳng định S-1740 hầu như
132
không có khả năng hạn chế sự phát triển của bệnh thối nhũn do Erwinia carotovora
gây ra trên trái cà chua ở tất cả các nồng độ (0,2-0,6%).
Hình 3.27. Khả năng kháng khuẩn của chitosan S-655 ở điều kiện in vivo.
Kết quả khi sử dụng β-chitosan có Mw = 655 kDa ở nồng độ 0,2-0,6% được
đánh giá ở Hình 3.27 cho thấy, bắt đầu có sự khác biệt đối với cả vết bệnh bên ngoài
và bên trong khi xử lý S-655 ở nồng độ 0,6%. Kết quả khẳng định khi xử dụng β-
133
chitosan S-655 ở nồng độ 0,6% có khả năng hạn chế quá trình phát triển bệnh thối
nhũn do vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra trên trái cà chua, cụ thể kích thước vết
bệnh của cả bên trong và bên ngoài đều nhỏ hơn so với 2 mẫu đối chứng.
Hình 3.28. Khả năng kháng khuẩn của chitosan S-138 ở điều kiện in vivo.
Kết quả khi xử lý β-chitosan có Mw = 138 kDa ở các nồng độ 0,6%; 1% và
1,5% ở Hình 3.28 đều cho thấy, ở các nồng độ xử lý, S-138 đều có khả năng hạn chế
134
quá trình phát triển bệnh thối nhũn do vi khuẩn Erwinia carotovora trên trái cà chua,
cụ thể kích thước ở cả vết bệnh bên ngoài và bên trong đều có sự khác biệt và nhỏ hơn
nhiều so với 2 mẫu đối chứng. Kết quả cũng cho thấy kích thước của vết bệnh cả bên
trong và ngoài giảm đều tỉ lệ nghịch với nồng độ chitosan và ở nồng độ 1,5% cho kích
thước vết bệnh nhỏ nhất (Hình 3.29). Kết quả này có thể so sánh với một số kết quả
báo cáo trước đó, khẳng định chitosan được sử dụng để kiểm soát hiệu quả bệnh thối
trên quả táo, quả kiwi và lê sau thu hoạch của Bautista-Banõs 2006 [24], ở cà rốt theo
Cheah 1997 [39] và ở đu đủ theo Maisuria 2013 [101].
Hình 3.29. Kích thước vết bệnh bên trong được xử lý S-138 trong (a) 24 giờ , (b) 36 giờ.
Khả năng kiểm soát bệnh thối nhũn của chitosan từ mai mực có khối lượng
phân tử trung bình 138 kDa (S-138) và chitosan thương mại Sigma (C-120) được thể
hiện trong Hình 3.30 và Hình 3.31. Kết quả cho thấy cả 2 chitosan 138 kDa và
chitosan thương mại đều có khả năng hạn chế tốt sự phát triển bệnh thối nhũn do vi
khuẩn Erwinia carotovora trên trái cà chua sau thu hoạch. Kích thước vết bệnh khi xử
lý chitosan đều nhỏ hơn nhiều so với mẫu đối chứng theo thời gian thử nghiệm. Cụ thể
Hình 3.31 cho thấy, sau 36 giờ đường kính vết bệnh bên ngoài là 1,36 mm; 1,16 mm
và 1,84 mm và bên trong 1,4 mm; 1,33 mm và 1,41 mm lần lược đối với các mẫu trái
cà chua được xử lý bằng C-120 1,5%, S-138 1,5% và mẫu chứng. Tuy nhiên, không có
sự khác biệt về khả năng kháng bệnh giữa 2 loại chitosan 138 kDa và chitosan thương
mại.
135
Hình 3.30. So sánh khả năng kháng bệnh thối nhũn ở điều kiện In vivo của S-138
và chitosan thương mại C-120 (a) kích thước vết bệnh bên ngoài và (b) kích thước
vết bệnh bên trong.
Kết quả đánh giá cũng khẳng định rằng, việc xử lý chitosan chỉ có thể kiểm soát
hiệu quả bệnh thối nhũn trên trái cà chua do vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra
nhưng không có khả năng trị bệnh, vì kết quả thực nghiệm cho thấy mặc dù đã được
136
xử lý chitoan thì sau 72-96 giờ thì vết bệnh cũng phát triển và vi khuẩn sẽ phá hũy
hoàn toàn ký chủ trong khi ở mẫu đối chứng chỉ cần 48 giờ.
Hình 3.31. Kích thước vết bệnh bên trong và bên ngoài khi xử lý chitosan S-138
và chitosan thương mại C-120 sau 36 giờ.
Như vậy, chitosan từ mai mực Loligo sp. có (DD 91,3% và Mw 138 kDa) đã được
kiểm chứng và cho thấy có khả năng kiểm soát bệnh thối nhũn do vi khuẩn Erwinia sp.
gây ra trên trái cà chua sau thu hoạch. Kết quả này cũng được nhiều nghiên cứu khẳng
định và cho thấy rằng nhiều loại nấm bệnh, vi khuẩn và virut gây bệnh trước và sau
thu hoạch trên nhiều loại nông sản khác nhau có thể được kiểm soát bằng chitosan.
Ngoài hoạt động của vi khuẩn trực tiếp, các nghiên cứu cũng chứng minh rằng
chitosan gây ra một loạt các phản ứng phòng vệ có liên quan đến hoạt động enzyme
gọi là cơ chế kích kháng. Chitosan đã làm tăng sản xuất glucanohydrolases, các hợp
chất phenolic và tổng hợp các chất phytoalexins có hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm
hoặc tổng hợp lignin nhằm gia cố vách tế bào, chống lại các tác nhân phá hũy tế bào.
Ngoài ra, chitosan có khả năng tạo thành lớp màng bán thấm nên có thể kéo dài thời
gian bảo quản của trái cây và rau đã xử lý bằng cách giảm thiểu tốc độ hô hấp và giảm
137
lượng nước mất đi. Do đó, chitosan trở thành một loại tác nhân bảo vệ nông sản mới,
hỗ trợ cho mục tiêu của nông nghiệp bền vững. Để khẳng định điều này, luận án đã
tiến hành đánh giá tổng hàm lượng phenol trong các mẫu trái cà chua được xử lý
chitosan và giải thích một phần cơ chế tại sao khi trái cà chua sau khi được xư lý
chitosan có thể kháng được bệnh thối nhũn do vi khuẩn Erwinia sp. gây ra. Kết quả
đánh giá tổng hàm lượng phenol tổng số trong trái cà chua sau khi được xử lý các loại
β-chitosan có khối lượng phân tử khác nhau theo thời gian 24 và 72 giờ được trình bày
trong Hình 3.32.
Hình 3.32. Tổng hàm lượng phenol tổng số trong trái cà chua sau khi được xử lý
các loại chitosan có phân tử lượng khác nhau sau thời gian 24 và 72 giờ.
Kết quả đánh giá cho thấy trái cà chua sau thu hoạch sau khi xử lý chitosan đều
có tổng hàm lượng phenol cao hơn mẫu đối chứng và các mẫu chitosan có khối lượng
càng thấp thì tổng hàm lượng phenol trong trái cà chua càng tăng. Cụ thể đối với mẫu
trái cà chua sau khi được xử lý chitosan 138 kDa và chitosan thương mại sau 24 giờ có
138
hàm lượng phenol tổng số cao hơn gấp đôi mẫu đối chứng và sau 72 giờ tổng hàm
lượng polyphenol đạt 560-590 g/g. Kết quả nghiên cứu này cho thấy chitosan ngoài
việc tiếp xúc trực tiếp và tiêu diệt vi khuẩn Erwina carotovora thì chitosan còn có khả
năng kích kháng hệ thống đề kháng của bản thân trái cà chua, gia tăng tổng hàm lượng
phenol làm cơ sở gia tăng đề kháng, gia cố vách tế bào để chống lại sự phá hoại của vi
khuẩn gây bệnh. Kết quả này cũng phù hợp với một số kết quả báo cáo trước đó rằng
chitosan được sử dụng để kiểm soát bệnh thối trên quả táo, quả kiwi và lê sau thu hoạch
của Bautista-Banõs 2006 [24], ở cà rốt theo Cheah 1997 [39] và ở đu đủ theo Maisuria
2013 [101].
3.4.4. Đề xuất quy trình bảo quản cà chua sau thu hoạch bằng dung dịch chitosan từ
mai mực Loligo sp.
Từ các kết quả nghiên cứu ở các mục 3.4.1; 3.4.2 và 3.4.3 cho phép đề xuất quy
trình bảo quản cà chua sau thu hoạch bằng dung dịch chitosan nhằm hạn chế bệnh thối
nhũn do vi khuẩn Erwinia sp. được mô tả ở Hình 3.33.
Hình 3.33. Quy trình bảo quản cà chua sau thu hoạch bằng chitosan.
139
- Chuẩn bị trái cà chua: Trái cà chua sau khi thu hoạch sẽ được rửa sạch, để ráo.
- Chuẩn bị dung dịch chitosan: Chitosan có khối lượng phân tử 138 kDa được
hòa tan trong dung dịch acid acetic 1% ở nồng độ 1-1,5%, sau đó dung dịch chitosan
này được chuẩn pH về 5-5,5 bằng dung dịch NaOH 5%.
- Xử lý dung dịch chitosan lên trái cà chua: Trái cà chua sau khi xử lý sẽ được
phủ đều dung dịch chitosan bằng cách cho trái cà chua lăn qua 1 băng chuyền có chứa
dung dịch chitosan trong thời gian từ 5 đến 10 giây. Sau đó, trái cà chua được để ráo ở
nhiệt độ phòng.
- Sau xử lý chitosan, trái cà chua được đưa đi bảo quản trong khác kho hoặc đóng
thùng vận chuyển đến nơi tiêu thụ.
140
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Từ các kết quả nghiên cứu ở trên cho phép rút ra một số kết luận như sau:
1. Đã xác định được số liệu về thành phần hóa học của nguồn phế liệu mai mực Loligo
sp. thải ra sau quá trình chế biến. Trong đó, hàm lượng -chitin là 35,8% so với hàm
lượng mai mực khô tuyệt đối. Hàm lượng này cao hơn nhiều so với hàm lượng -
chitin có trong vỏ tôm thẻ 9,2%. Đặc biệt, hàm lượng khoáng rất thấp (1,38%) và
không chứa các kim loại nặng (Hg, Pb, As). Vì vậy, mai mực ống là nguồn nguyên
liệu tốt để thu nhận chitin có độ tinh khiết cao.
2. Đã xác định được số liệu về điều kiện thu nhận -chitin đạt tiêu chuẩn thương mại
từ mai mực ống. Trong đó, mai mực được xử lý trong dung dịch NaOH 4% ở nhiệt độ
80C trong thời gian 10 giờ với tỷ lệ nguyên liệu và dung môi là 1/10 (w/v), sản phẩm
-chitin thu được có hàm lượng protein còn lại < 1% và hàm lượng khoáng không phát
hiện. Chitin có độ deacetyl 19,7% và khối lượng phân tử trung bình là 8545 kDa. Qui
trình thu nhận bỏ qua bước khử khoáng bằng acid HCl thường sử dụng khi thu nhận
chitin từ vỏ tôm, cua và ghẹ. Điều này cũng hạn chế quá trình cắt mạch chitin xảy ra
khi xử lý với dung dịch acid.
3. Đã xác định được điều kiện deacetyl thu nhận chitosan từ -chitin. Trong đó, chitin
được xử lý lần 1 trong dung dịch NaOH 50% ở nhiệt độ 80C trong thời gian 8 giờ với
tỷ lệ nguyên liệu và dung môi 1/10 (w/v), sau khi mẫu được rửa trung tính, mẫu tiếp
tục xử lý lần 2 trong môi trường NaOH 50% ở nhiệt độ 80C trong thời gian 4 giờ. Sản
phẩm chitosan thu được đạt tiêu chuẩn thương mại với độ deacetyl 91,3% và khối
lượng phân tử là 6831 kDa.
4. Đã xác định được số liệu về khả năng kháng khuẩn của chitosan từ mai mực ống đối
với vi khuẩn Erwinia sp. ở điều kiện in vitro. Kết quả cho thấy chitosan với độ deacetyl
cao và khối lượng phân tử thấp (< 655 kDa) có khả năng kháng khuẩn tốt. Trong đó,
chitosan có độ deacetyl 91,3% và khối lượng phân tử 138 kDa ở nồng độ 1,25% trong
dung dịch acid acetic 1% (w/v) cho kết quả kháng khuẩn tốt nhất.
141
5. Đã xác định được số liệu về khả năng kháng bệnh thối nhũn trên trái cà chua sau thu
hoạch do vi khuẩn Erwinia sp. gây ra ở điều kiện in vivo. Kết quả cho thấy chitosan có
khối lượng phân tử 138 kDa với nồng độ trên 0,6% có thể hạn chế hiệu quả sự phát
triển bệnh thối nhũn trên trái cà chua.
2. KIẾN NGHỊ
1. Tiếp tục tiến hành đánh giá khả năng kháng khuẩn của chitosan từ mai mực ống ở
các khối lượng phân tử nhỏ hơn và trên nhiều đối tượng vi khuẩn và nấm gây hại
trên rau quả sau thu hoạch.
2. Do sản phẩm chitin và chitosan thu được từ mai mực có khối lượng phân tử lớn,
hoạt tính kháng khuẩn tốt và độ tinh khiết cao. Do đó, đề xuất chế tạo các màng
chitin và chitosan từ các sản phẩm trên và ứng dụng trong bao gói thực phẩm.
142
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Hoàng Ngọc Cương, Nguyễn Công Minh, Trang Sĩ Trung (2013). “Thu nhận
chitosan từ xương mực phế liệu và đánh giá khả năng kháng khuẩn Erwinia sp. gây
bệnh thối nhũn (soft rot) trên cà chua sau thu hoạch”. Hội nghị khoa học Công nghệ
sinh học toàn quốc 2013.
2. Hoang Ngoc Cuong, Nguyen Cong Minh, Nguyen Van Hoa, Trang Si Trung (2016).
“Preparation and characterization of high purity β-chitin from squid pens (Loligo
chenisis)”. International Journal of Biological Macromolecules 93 (2016) 442–447.
3. Hoang Ngoc Cuong, Nguyen Cong Minh, Nguyen Van Hoa, Trang Si Trung (2016).
“High purity and high molecular weight β-chitin from squid pens (Loligo chenisis)”.
11th Asia pacific chitin and chitosan & 5th Indian chitin and chitosan society
symposium, Kochi, Kerala, India, 28-30 September, 2016.
4. Hoang Ngoc Cuong, Nguyen Cong Minh, Nguyen Van Hoa, Khong Trung Thang,
Nguyen Anh Tuan, Trang Si Trung (2017). “Hight molecular weight and high degree
of deacetylation of chitosan prepared from squid pens (Loligo chenisis)”. Journal of
Polymer Materials, Vol. 34, No. 1, 2017, 103-114.
5. Hoang Ngoc Cuong, Huynh Thanh Tung, Nguyen Cong Minh, Nguyen van Hoa,
Pham Thi Dan Phuong, Trang Si Trung (2017). “Antibacterial activity of chitosan
from squid pen (Loligo chenisis) against Erwinia carotovora from soft rot postharvest
tomato fruit”. Journal of Polymer Materials, Vol. 34, No. 1, 2017, 319-330.
143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đoàn Lan Phương, Nguyễn Thị Thu, Cầm Thị Ính, Trần Thị Dung, Phạm Quốc
Long (2013), "Nghiên cứu đánh giá chất lượng mực ống Loligo chinenisis Gray
trên vùng đảo Cô Tô", Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế - Biển Đông 2012: p. 442-447.
2. Ngô Thị Hoài Dương (2014), "Tối ưu hóa quá trình thu nhận chitin-chitosan từ phế
liệu tôm thẻ chân trắng nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm", Luận án
Tiến sĩ. Đại học Nha Trang.
3. Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Quốc Hiến, Ngô Đại Nghiệp, Trang Sĩ Trung (2013),
"Chitin, chitosan và các dẫn xuất: Hoạt tính sinh học và ứng dụng". Việt Nam:
Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam. 12-80.
4. Trần Thị Luyến (2000), "Hoàn thiện qui trình sản xuất chitin-chitosan và chế biến
một số sản phẩm công nghiệp từ phế liệu tôm", Báo cáo khoa học đề tài cấp bộ,
Trường Đại học Nha Trang, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Trần Thị Luyến (2004), "Báo cáo tổng kết dự án sản xuất thử nghiệm cấp bộ sản
xuất Chitin, Chitosan từ phế liệu chế biến thủy sản", B2002-33-01-DA, Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
6. Trần Thị Ý Nhi (2011), "Nghiên cứu một số phản ứng biến tính hoá học chitin/
chitosan và khả năng hấp phụ ion kim loại nặng, thuốc nhuộm của sản phẩm chitin/
chitosan đã biến tính", Luận án Tiến sĩ. Viện Hóa học - Viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.
7. Trang Sĩ Trung, Trần Thị Luyến, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thị Hằng Phương
(2010), "Chitin - Chitosan từ phế liệu thủy sản và ứng dụng", Nhà Xuất Bản Nông
Nghiệp.
8. Vasep, Bản tin thương mại thủy sản in Hiệp hội chế biến và xuất khẩu Việt Nam.
2017. p. 31-33.
9. Vũ Triệu Mân (2007), "Giáo trình cây bệnh chuyên khoa". Vol. Bảo Vệ Thực Vật.
Đại học Nông nghiệp 1.
144
TIẾNG ANH
10. Abdou E.S., Nagy K.S., Elsabee M.Z. (2008), "Extraction and characterization of
chitin and chitosan from local sources", Bioresource Technology. 99 (5): p. 1359-
1367.
11. Alghisi P., Favaron F. (1995), "Pectin-degrading enzymes and plant-parasite
interactions", European Journal of Plant Pathology. 101 (4): p. 365-375.
12. Alishahi A., Mirvaghefi A., Tehrani M., Farahmand H., Shojaosadati S., Dorkoosh
F., Elsabee M.Z. (2011), "Enhancement and characterization of chitosan extraction
from the wastes of shrimp packaging plants", Journal of Polymers and The
Environment. 19 (3): p. 776-783.
13. Andrade V.S., de Barros Neto B., Fukushima K., de Campos-Takaki G.M. (2003),
"Effect of medium components and time of cultivation on chitin production by
Mucor circinelloides (Mucor javanicus IFO 4570)-A factorial study", Revista
Iberoamericana de Miccologia. 20 (4): p. 149-153.
14. Araki Y., Ito E. (1974), "A pathway of chitosan formation in Mucor rouxii:
enzymatic deacetylation of chitin", Biochemical and biophysical research
communications. 56 (3): p. 669-675.
15. Arce P., Moreno M., Gutierrez M., Gebauer M., Dell’Orto P., Torres H., Acuña I.,
Oliger P., Venegas A., Jordana X. (1999), "Enhanced resistance to bacterial
infection by Erwinia carotovora subsp. atroseptica in transgenic potato plants
expressing the attacin or the cecropin SB-37 genes", American Journal of Potato
Research. 76 (3): p. 169-177.
16. Armenta R.E., Guerrero-Legarreta I. (2009), "Amino acid profile and
enhancement of the enzymatic hydrolysis of fermented shrimp carotenoproteins",
Food Chemistry. 112 (2): p. 310-315.
17. Austin P., Brine C., Castle J., Zikakis J. (1981), "Chitin: New facets of research",
Science. 212 (4496): p. 749-753.
145
18. Aye K.N., Karuppuswamy R., Ahamed T., Stevens W.F. (2006), "Peripheral
enzymatic deacetylation of chitin and reprecipitated chitin particles", Bioresource
Technology. 97 (4): p. 577-582.
19. Aysan Y., Karatas A., Cinar O. (2003), "Biological control of bacterial stem rot
caused by Erwinia chrysanthemi on tomato", Crop Protection. 22 (6): p. 807-811.
20. Badawy M.E., Rabea E.I. (2009), "Potential of the biopolymer chitosan with
different molecular weights to control postharvest gray mold of tomato fruit",
Postharvest Biology and Technology. 51 (1): p. 110-117.
21. Barikani M., Oliaei E., Seddiqi H., Honarkar H. (2014), "Preparation and
application of chitin and its derivatives: a review", Iranian Polymer Journal. 23
(4): p. 307-326.
22. Bartz J.A. (1983), "Infiltration of tomatoes immersed at different temperatures to
different depths in suspensions of Erwinia carotovora subsp. carotovora", Plant
Disease. 66 (4): p. 302-306.
23. Barwin Vino A., Ramasamy P., Vairamani S., Shanmugan A. (2011),
"Physicochemical characterization of biopolymers chitin and chitosan extracted
from squid Doryteuthis sibogae adam, 1954 pen", International Journal Pharm.
Research Development. 2 (12): p. 181-190.
24. Bautista-Baños S., Hernandez-Lauzardo A.N., Velazquez-Del Valle M.G.,
Hernández-López M., Barka E.A., Bosquez-Molina E., Wilson C. (2006),
"Chitosan as a potential natural compound to control pre and postharvest diseases
of horticultural commodities", Crop Protection. 25 (2): p. 108-118.
25. Bautista-Baños S., Romanazzi G., Jiménez-Aparicio A. (2016), "Chitosan in the
preservation of agricultural commodities". 50 Hampshire Street, 5th Floor,
Cambridge, MA 02139, USA: Elsevier.
26. Bautista J., Jover M., Gutierrez J., Corpas R., Cremades O., Fontiveros E., Iglesias
F., Vega J. (2001), "Preparation of crayfish chitin by in situ lactic acid
production", Process Biochemistry. 37 (3): p. 229-234.
27. Blanchette R.A. (1995), "Degradation of the lignocellulose complex in wood",
Canadian Journal of Botany. 73 (S1): p. 999-1010.
146
28. Bough W., Salter W., Wu A., Perkins B. (1978), "Influence of manufacturing
variables on the characteristics and effectiveness of chitosan products. I. Chemical
composition, viscosity, and molecular‐ weight distribution of chitosan products",
Biotechnology and Bioengineering. 20 (12): p. 1931-1943.
29. Bourne W., McCalmont D., Wastie R. (1981), "Assessing potato tubers for
susceptibility to bacterial soft rot (Erwinia carotovora subsp. atroseptica)", Potato
Research. 24 (4): p. 409-415.
30. Bowman A., Bus C., Jellema P., Schepers A. Reducing blackleg spread in potato
by harvesting system. in 10th Triennial Conf European Assoc Potato Res, Aalborg,
Denmark. 1987.
31. Broussignac P. (1968), "Chitosan: A natural polymer not well known by the
industry", Chim. Ind. Genie Chim. 99 (9): p. 1241-1247.
32. Brugnerotto J., Lizardi J., Goycoolea F., Argüelles-Monal W., Desbrieres J.,
Rinaudo M. (2001), "An infrared investigation in relation with chitin and chitosan
characterization", Polymer. 42 (8): p. 3569-3580.
33. Bumgardner J.D., Wiser R., Gerard P.D., Bergin P., Chestnutt B., Marini M.,
Ramsey V., Elder S.H., Gilbert J.A. (2003), "Chitosan: potential use as a bioactive
coating for orthopaedic and craniofacial/dental implants", Journal of Biomaterials
Science, Polymer Edition. 14 (5): p. 423-438.
34. Campana-Filho S.P., de Britto D., Curti E., Abreu F.R., Cardoso M.B., Battisti
M.V., Sim P.C., Goy R.C., Signini R., Lavall R.L. (2007), "Extracao, estruturas e
propriedades de alpha-e beta-quitina", Química Nova. 30 (3): p. 644.
35. Carmona M.J., Molina A., Fernández J.A., López‐ Fando J.J., García‐ Olmedo F.
(1993), "Expression of the α‐ thionin gene from barley in tobacco confers
enhanced resistance to bacterial pathogens", The Plant Journal. 3 (3): p. 457-462.
36. Chandumpai A., Singhpibulporn N., Faroongsarng D., Sornprasit P. (2004),
"Preparation and physico-chemical characterization of chitin and chitosan from the
pens of the squid species, Loligo lessoniana and Loligo formosana", Carbohydrate
Polymers. 58 (4): p. 467-474.
147
37. Chang K.L.B., Tsai G. (1997), "Response surface optimization and kinetics of
isolating chitin from pink shrimp (Solenocera melantho) shell waste", Journal of
Agricultural and Food Chemistry. 45 (5): p. 1900-1904.
38. Chaussard G., Domard A. (2004), "New aspects of the extraction of chitin from
squid pens", Biomacromolecules. 5 (2): p. 559-564.
39. Cheah L., Page B., Shepherd R. (1997), "Chitosan coating for inhibition of
sclerotinia rot of carrots". Vol. Vol. 25. New Zealand Journal of Crop and
Horticultural Science
40. Chebotok E., Novikov V.Y., Konovalova I. (2007), "Kinetics of base
deacetylation of chitin and chitosan as influenced by their crystallinity", Russian
Journal of Applied Chemistry. 80 (10): p. 1753-1758.
41. Chien P.-J., Sheu F., Lin H.-R. (2007), "Coating citrus (Murcott tangor) fruit with
low molecular weight chitosan increases postharvest quality and shelf life", Food
Chemistry. 100 (3): p. 1160-1164.
42. Chien R.-C., Yen M.-T., Mau J.-L. (2016), "Antimicrobial and antitumor activities
of chitosan from shiitake stipes, compared to commercial chitosan from crab
shells", Carbohydrate Polymers. 138: p. 259-264.
43. Cho Y.I., No H.K., Meyers S.P. (1998), "Physicochemical characteristics and
functional properties of various commercial chitin and chitosan products", Journal
of Agricultural and Food Chemistry. 46 (9): p. 3839-3843.
44. Choi B.-K., Kim K.-Y., Yoo Y.-J., Oh S.-J., Choi J.-H., Kim C.-Y. (2001), "In
vitro antimicrobial activity of a chitooligosaccharide mixture against
Actinobacillus actinomycetemcomitans and Streptococcus mutans", International
Journal of Antimicrobial Agents. 18 (6): p. 553-557.
45. Chung Y.-C., Su Y.-P., Chen C.-C., Jia G., Wang H.-l., Wu J.G., Lin J.-G. (2004),
"Relationship between antibacterial activity of chitosan and surface characteristics
of cell wall", Acta Pharmacologica Sinica. 25: p. 932-936.
46. Cira L.A., Huerta S., Hall G.M., Shirai K. (2002), "Pilot scale lactic acid
fermentation of shrimp wastes for chitin recovery", Process Biochemistry. 37 (12):
p. 1359-1366.
148
47. Cortizo M.S., Berghoff C.F., Alessandrini J.L. (2008), "Characterization of chitin
from Illex argentinus squid pen", Carbohydrate polymers. 74 (1): p. 10-15.
48. Cuong H.N., Minh N.C., Van Hoa N., Trung T.S. (2016), "Preparation and
characterization of high purity β-chitin from squid pens (Loligo chenisis)",
International Journal of Biological Macromolecules. 93: p. 442-447.
49. Czajkowski R., Perombelon M.C., van Veen J.A., van der Wolf J.M. (2011),
"Control of blackleg and tuber soft rot of potato caused by Pectobacterium and
Dickeya species: a review", Plant Pathology. 60 (6): p. 999-1013.
50. Czechowska-Biskup R., Jarosińska D., Rokita B., Ulański P., Rosiak J.M. (2012),
"Determination of degree of deacetylation of chitosan-comparision of methods",
Prog. Chem. Appl. Chitin Its Deriv. 17: p. 5-20.
51. Dahmane E.M., Taourirte M., Eladlani N., Rhazi M. (2014), "Extraction and
characterization of chitin and chitosan from Parapenaeus longirostris from
Moroccan local sources", International Journal of Polymer Analysis and
Characterization. 19 (4): p. 342-351.
52. Darmadji P., Izumimoto M. (1994), "Effect of chitosan in meat preservation",
Meat Science. 38 (2): p. 243-254.
53. De Boer S., Copeman R., Vruggink H. (1979), "Serogroups of Erwinia carotovora
potato strains determined with diffusible somatic antigens", Phytopathology. 69
(3): p. 16319.
54. Ding F., Deng H., Du Y., Shi X., Wang Q. (2014), "Emerging chitin and chitosan
nanofibrous materials for biomedical applications", Nanoscale. 6 (16): p. 9477-
9493.
55. Domard A. (2011), "A perspective on 30 years research on chitin and chitosan",
Carbohydrate Polymers. 84 (2): p. 696-703.
56. Duarte V., De Boer S., Ward L., Oliveira A. (2004), "Characterization of atypical
Erwinia carotovora strains causing blackleg of potato in Brazil", Journal of
Applied Microbiology. 96 (3): p. 535-545.
149
57. Einbu A. (2007), "Characterisation of chitin and a study of its acid-catalysed
hydrolysis", PhD diss., Norwegian University of Science and Technology,
Trondheim.
58. FAO S.C.f.F.P. (2010), "Family Loliginidae", Cephalopods of The World. 2 (4).
59. Florek M., Fornal E., Gómez-Romero P., Zieba E., Paszkowicz W., Lekki J.,
Nowak J., Kuczumow A. (2009), "Complementary microstructural and chemical
analyses of Sepia officinalis endoskeleton", Materials Science and Engineering:
C. 29 (4): p. 1220-1226.
60. Folch J., Lees M., Sloane-Stanley G. (1957), "A simple method for the isolation
and purification of total lipids from animal tissues", Journal of Biological
Chemistry. 226 (1): p. 497-509.
61. Foster A., Hackman R. (1957), "Application of ethylenediaminetetra-acetic acid in
the isolation of crustacean chitin", Nature. 180 (4575): p. 40-41.
62. Gagné N. (1993), "Production of chitin and chitosan from crustacean waste and
their use as a food processing aid".
63. Gardan L. (2005), "Transfer of Pectobacterium chrysanthemi (Burkholder et al.
1953)", International Journal of Systematic and Evolutionary Microbiology. 55
(14151427): p. 0.02791-0.
64. Gardan L., Gouy C., Christen R., Samson R. (2003), "Elevation of three
subspecies of Pectobacterium carotovorum to species level: Pectobacterium
atrosepticum sp. nov., Pectobacterium betavasculorum sp. nov. and
Pectobacterium wasabiae sp. nov", International Journal of Systematic and
Evolutionary Microbiology. 53 (2): p. 381-391.
65. Ghaly A., Mahmoud N. (2006), "Optimum Conditions for Measuring
Dehydrogenase Activity of", American Journal of Biochemistry and
Biotechnology. 2 (4): p. 186-194.
66. Gnanamanickam S.S. (2006), "Plant-associated bacteria". Vol. 1. Heidelberg,
Germany: Springer.
67. Gudmestad N.C., Secor G.A. (1983), "The bionomics of Erwinia carotovora in
North Dakota", American Potato Journal. 60 (10): p. 759-771.
150
68. Gupta N.S. (2010), "Chitin: Formation and diagenesis". Vol. 34. Springer Science
& Business Media.
69. Hauben L., Moore E.R., Vauterin L., Steenackers M., Mergaert J., Verdonck L.,
Swings J. (1998), "Phylogenetic position of phytopathogens within the
Enterobacteriaceae", Systematic and Applied Microbiology. 21 (3): p. 384-397.
70. Hein S., Ng C.H., Stevens W.F., Wang K. (2008), "Selection of a practical assay
for the determination of the entire range of acetyl content in chitin and chitosan:
UV spectrophotometry with phosphoric acid as solvent", Journal of Biomedical
Materials Research Part B: Applied Biomaterials. 86 (2): p. 558-568.
71. Helias V., Andrivon D., Jouan B. (2000), "Internal colonization pathways of
potato plants by Erwinia carotovora ssp. atroseptica", Plant Pathology. 49 (1): p.
33-42.
72. Herren H.R. (1994), "Cassava pest and disease management: An overview",
African Crop Science Journal. 2.4: p. 345-353.
73. Heuvelink E. (2005), "Tomatoes". Vol. vol. 13. CABI Publ., Oxfordshire, UK
74. Huang J., Zhao D., Hu S., Mao J., Mei L. (2012), "Biochemical activities of low
molecular weight chitosans derived from squid pens", Carbohydrate polymers. 87
(3): p. 2231-2236.
75. Hultmark D. (1993), "Immune reactions in Drosophila and other insects: a model
for innate immunity", Trends in Genetics. 9 (5): p. 178-183.
76. Inbaraj B.S., Tsai T.-Y., Chen B.-H. (2016), "Synthesis, characterization and
antibacterial activity of superparamagnetic nanoparticles modified with glycol
chitosan", Science and Technology of Advanced Materials.
77. Janse J.D. (2005), "Phytobacteriology: principles and practice". British Library,
London, UK: CABI Publishing is a division of CAB International.
78. Jung E.J., Youn D.K., Lee S.H., No H.K., Ha J.G., Prinyawiwatkul W. (2010),
"Antibacterial activity of chitosans with different degrees of deacetylation and
viscosities", International Journal of Food Science & Technology. 45 (4): p. 676-
682.
151
79. Jung J. (2013), "New development of β-chitosan from jumbo squid pens
(Dosidicus gigas) and its structural, physicochemical, and biological properties".
80. Jung J., Zhao Y. (2011), "Characteristics of deacetylation and depolymerization of
β-chitin from jumbo squid (Dosidicus gigas) pens", Carbohydrate research. 346
(13): p. 1876-1884.
81. Jung J., Zhao Y. (2012), "Comparison in antioxidant action between α-chitosan
and β-chitosan at a wide range of molecular weight and chitosan concentration",
Bioorganic & Medicinal Chemistry. 20 (9): p. 2905-2911.
82. Jung W., Jo G., Kuk J., Kim Y., Oh K., Park R. (2007), "Production of chitin from
red crab shell waste by successive fermentation with Lactobacillus paracasei
KCTC-3074 and Serratia marcescens FS-3", Carbohydrate Polymers. 68 (4): p.
746-750.
83. Kasaai M.R. (2010), "Determination of the degree of N-acetylation for chitin and
chitosan by various NMR spectroscopy techniques: A review", Carbohydrate
Polymers. 79 (4): p. 801-810.
84. Khor E. (2014), "Chitin: fulfilling a biomaterials promise". 225, Wyman Street,
Waltham, MA 01803, USA: Elsevier's Science and Technology Rights
Department in Oxford, UK.
85. Kim S.-K. (2010), "Chitin, chitosan, oligosaccharides and their derivatives:
biological activities and applications". CRC Press.
86. Kloepper J., Schroth M. (1981), "Relationship of in vitro antibiosis of plant
growth-promoting rhizobacteria to plant growth and the displacement of root
microflora", Phytopathology. 71 (10): p. 1020-1024.
87. Kong M., Chen X.G., Xing K., Park H.J. (2010), "Antimicrobial properties of
chitosan and mode of action: A state of the art review", International Journal of
Food Microbiology. 144 (1): p. 51-63.
88. Kristbergsson K., Einarsson J.M., Hauksson S., Peter M.G., Gislason J. (2003),
"Recent developments in deacetylation of chitin, and possible applications in food
formulations", Trans Atlantic Fisheries Technology. Iceland: Reykjavik.
152
89. Kumar P.S., Raj N.M., Praveen G., Chennazhi K.P., Nair S.V., Jayakumar R.
(2012), "In vitro and in vivo evaluation of microporous chitosan
hydrogel/nanofibrin composite bandage for skin tissue regeneration", Tissue
Engineering Part A. 19 (3-4): p. 380-392.
90. Kumirska J., Czerwicka M., Kaczyński Z., Bychowska A., Brzozowski K.,
Thöming J., Stepnowski P. (2010), "Application of spectroscopic methods for
structural analysis of chitin and chitosan", Marine Drugs. 8 (5): p. 1567-1636.
91. Kurita K. (2001), "Controlled functionalization of the polysaccharide chitin",
Progress in Polymer Science. 26 (9): p. 1921-1971.
92. Kurita K. (2006), "Chitin and chitosan: functional biopolymers from marine
crustaceans", Marine Biotechnology. 8 (3): p. 203.
93. Kurita K., Tomita K., Tada T., Ishii S., Nishimura S.I., Shimoda K. (1993), "Squid
chitin as a potential alternative chitin source: Deacetylation behavior and
characteristic properties", Journal of Polymer Science Part A: Polymer Chemistry.
31 (2): p. 485-491.
94. Lamarque G., Viton C., Domard A. (2004), "Comparative study of the first
heterogeneous deacetylation of α-and β-chitins in a multistep process",
Biomacromolecules. 5 (3): p. 992-1001.
95. Lavall R.L., Assis O.B., Campana-Filho S.P. (2007), "β-Chitin from the pens of
Loligo sp.: Extraction and characterization", Bioresource Technology. 98 (13): p.
2465-2472.
96. Lavertu M., Xia Z., Serreqi A., Berrada M., Rodrigues A., Wang D., Buschmann
M., Gupta A. (2003), "A validated 1 H NMR method for the determination of the
degree of deacetylation of chitosan", Journal of pharmaceutical and biomedical
analysis. 32 (6): p. 1149-1158.
97. Lertsutthiwong P., How N.C., Chandrkrachang S., Stevens W.F. (2002), "Effect of
chemical treatment on the characteristics of shrimp Chitosan", Journal of Metals,
Materials and Minerals. 12 (1): p. 11-18.
153
98. Liu H., Du Y., Wang X., Sun L. (2004), "Chitosan kills bacteria through cell
membrane damage", International Journal of Food Microbiology. 95 (2): p. 147-
155.
99. Liu J., Tian S., Meng X., Xu Y. (2007), "Effects of chitosan on control of
postharvest diseases and physiological responses of tomato fruit", Postharvest
Biology and Technology. 44 (3): p. 300-306.
100. Liu N., Chen X.-G., Park H.-J., Liu C.-G., Liu C.-S., Meng X.-H., Yu L.-J.
(2006), "Effect of Mw and concentration of chitosan on antibacterial activity of
Escherichia coli", Carbohydrate Polymers. 64 (1): p. 60-65.
101. Maisuria V.B., Nerurkar A.S. (2013), "Characterization and differentiation of
soft rot causing Pectobacterium carotovorum of Indian origin", European
Journal of Plant Pathology. 136 (1): p. 87-102.
102. Martinou A., Bouriotis V., Stokke B.T., Vårum K.M. (1998), "Mode of action of
chitin deacetylase from Mucor rouxii on partially N-acetylated chitosans",
Carbohydrate research. 311 (1): p. 71-78.
103. Martinou A., Kafetzopoulos D., Bouriotis V. (1995), "Chitin deacetylation by
enzymatic means: monitoring of deacetylation processes", Carbohydrate
Research. 273 (2): p. 235-242.
104. Membré J., Burlot P. (1994), "Effects of temperature, pH, and NaCl on growth
and pectinolytic activity of Pseudomonas marginalis", Applied and
Environmental Microbiology. 60 (6): p. 2017-2022.
105. Meng X., Yang L., Kennedy J.F., Tian S. (2010), "Effects of chitosan and
oligochitosan on growth of two fungal pathogens and physiological properties in
pear fruit", Carbohydrate Polymers. 81 (1): p. 70-75.
106. Methacanon P., Prasitsilp M., Pothsree T., Pattaraarchachai J. (2003),
"Heterogeneous N-deacetylation of squid chitin in alkaline solution",
Carbohydrate Polymers. 52 (2): p. 119-123.
107. Mildenhall J.P., Prior B., Trollope L.A. (1981), "Water relations of Erwinia
chrysanthemi: growth and extracellular pectic acid lyase production",
Microbiology. 127 (1): p. 27-34.
154
108. Minh N.C., Cuong H.N., Phuong P.T.D., Schwarz S., Stevens W.F., Van Hoa N.,
Trung T.S. (2016), "Swelling-assisted reduction of chitosan molecular weight in
the solid state using hydrogen peroxide", Polymer Bulletin: p. 1-11.
109. Muzzarelli R.A., Jeuniaux C., Gooday G.W. Chitin in nature and technology. in
International Conference on Chitin and Chitosan 1985: Senigallia, Italy). 1986.
Plenum Press.
110. Naznin R. (2005), "Extraction of chitin and chitosan from shrimp (Metapenaeus
monoceros) shell by chemical method", Pakistan Journal of Biological Sciences.
8 (7): p. 1051-1054.
111. Nemtsev S., Gamzazade A., Rogozhin S., Bykova V., Bykov V. (2002),
"Deacetylation of chitin under homogeneous conditions", Applied Biochemistry
and Microbiology. 38 (6): p. 521-526.
112. Nikolov S., Petrov M., Lymperakis L., Friák M., Sachs C., Fabritius H.O., Raabe
D., Neugebauer J. (2010), "Revealing the design principles of high‐ performance
biological composites using ab initio and multiscale simulations: The example of
Lobster Cuticle", Advanced Materials. 22 (4): p. 519-526.
113. No H.K., Meyers S.P. (1995), "Preparation and characterization of chitin and
chitosan - a review", Journal of Aquatic Food Product Technology. 4 (2): p. 27-
52.
114. No H.K., Meyers S.P., Lee K.S. (1989), "Isolation and characterization of chitin
from crawfish shell waste", Journal of Agricultural and Food Chemistry. 37 (3):
p. 575-579.
115. No H.K., Park N.Y., Lee S.H., Meyers S.P. (2002), "Antibacterial activity of
chitosans and chitosan oligomers with different molecular weights",
International Journal of Food Microbiology. 74 (1): p. 65-72.
116. Okonkwo J., Ene L., Okoli O. (1995), "Potato production in Nigeria", National
Root Crops Research Institute, Umudike Umuahia, Abia State, Nigeria. 109.
117. Pareek N., Vivekanand V., Agarwal P., Saroj S., Singh R.P. (2013),
"Bioconversion to chitosan: A two stage process employing chitin deacetylase
155
from Penicillium oxalicum SAE M-51", Carbohydrate Polymers. 96 (2): p. 417-
425.
118. Parnell T., Suslow T., Harris L. (2004), "Tomatoes: safe methods to store,
preserve, and enjoy". University California Division of Agriculture and Natural
Resources Publications.
119. Patidar P., Agrawal D., Banerjee T., Patil S. (2005), "Optimisation of process
parameters for chitinase production by soil isolates of Penicillium chrysogenum
under solid substrate fermentation", Process Biochemistry. 40 (9): p. 2962-2967.
120. Percot A., Viton C., Domard A. (2003), "Optimization of chitin extraction from
shrimp shells", Biomacromolecules. 4 (1): p. 12-18.
121. Pereira A.G., Muniz E.C., Hsieh Y.-L. (2015), "1 H NMR and 1 H–13 C HSQC
surface characterization of chitosan–chitin sheath-core nanowhiskers",
Carbohydrate polymers. 123: p. 46-52.
122. Perombelon M., Van Der Wolf J. (2002), "Methods for the detection and
quantification of Erwinia carotovora subsp. atroseptica (Pectobacterium
carotovorum subsp. atrosepticum) on potatoes: a laboratory manual", Dundee,
Scotland: Scottish Crop Research Institute Occasional Publication, (10).
123. Pillai C., Paul W., Sharma C.P. (2009), "Chitin and chitosan polymers:
Chemistry, solubility and fiber formation", Progress in Polymer Science. 34 (7):
p. 641-678.
124. Preedy V.R., Watson R.R. (2008), "Tomatoes and tomato products: Nutritional,
medicinal and therapeutic properties". Science Publishers, Enfield, New
Hampshire, USA.
125. Rabea E.I., Badawy M.E.-T., Stevens C.V., Smagghe G., Steurbaut W. (2003),
"Chitosan as antimicrobial agent: Applications and mode of action",
Biomacromolecules. 4 (6): p. 1457-1465.
126. Radhakumary C., Nair P.D., Reghunadhan Nair C., Mathew S. (2012),
"Chitosan‐ graft‐ poly (vinyl acetate) for hemodialysis applications", Journal of
Applied Polymer Science. 125 (3): p. 2022-2033.
156
127. Rahman A., Brecht J., Sargent S. Influence of initial temperature on development
of bacterial soft rot in inoculated tomato fruit. in Proc. Fla. State Hort. Soc.
1991.
128. Ramírez-Coutiño L., del Carmen Marín-Cervantes M., Huerta S., Revah S.,
Shirai K. (2006), "Enzymatic hydrolysis of chitin in the production of
oligosaccharides using Lecanicillium fungicola chitinases", Process
Biochemistry. 41 (5): p. 1106-1110.
129. Rao M., Guyot J., Pintado J., Stevens W. (2002), "Improved conditions for
lactobacillus fermentation of shrimp waste into chitin", Advance in chitin
science. 5: p. 40-44.
130. Rao M., Munoz J., Stevens W. (2000), "Critical factors in chitin production by
fermentation of shrimp biowaste", Applied Microbiology and Biotechnology. 54
(6): p. 808-813.
131. Rao M., Tuyen M., Stevens W., Chandrkrachang S. (2001), "Deproteination by
mechanical, enzymatic and Lactobacillus treatment of shrimp waste for
production of chitin", Chitin and chitosan: chitin and chitosan in life science.
Kodansha, Tokyo: p. 301-304.
132. Rao M.S., Stevens W.F. (2005), "Chitin production by Lactobacillus
fermentation of shrimp biowaste in a drum reactor and its chemical conversion to
chitosan", Journal of chemical technology and biotechnology. 80 (9): p. 1080-
1087.
133. Rhazi M., Desbrieres J., Tolaimate A., Alagui A., Vottero P. (2000),
"Investigation of different natural sources of chitin: influence of the source and
deacetylation process on the physicochemical characteristics of chitosan",
Polymer International. 49 (4): p. 337-344.
134. Rinaudo M. (2006), "Chitin and chitosan: Properties and applications", Progress
in Polymer Science. 31 (7): p. 603-632.
135. Romantschuk M. (1992), "Attachment of plant pathogenic bacteria to plant
surfaces", Annual Review of Phytopathology. 30 (1): p. 225-243.
157
136. Saarilahti H., Heino P., Pakkanen R., Kalkkinen N., Palva I., Palva E. (1990),
"Structural analysis of the pehA gene and characterization of its protein product,
endopolygalacturonase, of Erwinia carotovora subspecies carotovora",
Molecular Microbiology. 4 (6): p. 1037-1044.
137. Samar M.M., El-Kalyoubi M., Khalaf M., El-Razik M.A. (2013),
"Physicochemical, functional, antioxidant and antibacterial properties of chitosan
extracted from shrimp wastes by microwave technique", Annals of Agricultural
Sciences. 58 (1): p. 33-41.
138. Schober B.M., Vermeulen T. (1999), "Enzymatic maceration of witloof chicory
by the soft rot bacteria Erwinia carotovora subsp. carotovora: the effect of
nitrogen and calcium treatments of the plant on pectic enzyme production and
disease development", European Journal of Plant Pathology. 105 (4): p. 341-
349.
139. Serrano C., Arce-Johnson P., Torres H., Gebauer M., Gutierrez M., Moreno M.,
Jordana X., Venegas A., Kalazich J., Holuigue L. (2000), "Expression of the
chicken lysozyme gene in potato enhances resistance to infection by Erwinia
carotovora subsp. atroseptica", American journal of potato research. 77 (3): p.
191-199.
140. Shahidi F., Arachchi J.K.V., Jeon Y.-J. (1999), "Food applications of chitin and
chitosans", Trends in Food Science & Technology. 10 (2): p. 37-51.
141. Shahidi F., Synowiecki J. (1991), "Isolation and characterization of nutrients and
value-added products from snow crab (Chionoecetes opilio) and shrimp
(Pandalus borealis) processing discards", Journal of Agricultural and Food
Chemistry. 39 (8): p. 1527-1532.
142. Shirai K., Guerrero I., Huerta S., Saucedo G., Castillo A., Gonzalez R.O., Hall
G.M. (2001), "Effect of initial glucose concentration and inoculation level of
lactic acid bacteria in shrimp waste ensilation", Enzyme and Microbial
Technology. 28 (4): p. 446-452.
143. Shrestha B., Blondeau K., Stevens W.F., Hegarat F.L. (2004), "Expression of
chitin deacetylase from Colletotrichum lindemuthianum in Pichia pastoris:
158
purification and characterization", Protein expression and purification. 38 (2): p.
196-204.
144. Shrinivas Rao M., Aye Nyein K., Si Trung T., Stevens W.F. (2007), "Optimum
parameters for production of chitin and chitosan from squilla (S. empusa)",
Journal of Applied Polymer Science. 103 (6): p. 3694-3700.
145. Simeon A.U. (2006), "Bacterial soft rot of tubers induced by Erwinia spp.
(Jones)".
146. Struszczyk H., Pośpieszny H., Gamzazade A. (2002), "Chitin and chitosan",
Polish-Russian Monograph, (1).
147. Subhapradha N., Ramasamy P., Shanmugam V., Madeswaran P., Srinivasan A.,
Shanmugam A. (2013), "Physicochemical characterisation of β-chitosan from
Sepioteuthis lessoniana gladius", Food chemistry. 141 (2): p. 907-913.
148. Sukmark T., Rachtanapun P., Rachtanapun C. (2011), "Antimicrobial activity of
oligomer and polymer chitosan from different sources against foodborne
pathogenic bacteria", Kasetsart Journal (Natural Science). 45: p. 636-643.
149. Suslow T., Cantwell M. (2009), "Tomato: recommendations for maintaining
postharvest quality", Produce Facts. Davis: Postharvest Technology Research &
Information Center.
150. Synowiecki J., Al-Khateeb N.A.A.Q. (2000), "The recovery of protein
hydrolysate during enzymatic isolation of chitin from shrimp Crangon crangon
processing discards", Food Chemistry. 68 (2): p. 147-152.
151. Ta H.T., Dass C.R., Dunstan D.E. (2008), "Injectable chitosan hydrogels for
localised cancer therapy", Journal of Controlled Release. 126 (3): p. 205-216.
152. Tokuyasu K., Ono H., Ohnishi-Kameyama M., Hayashi K., Mori Y. (1997),
"Deacetylation of chitin oligosaccharides of dp 2–4 by chitin deacetylase from
Colletotrichum lindemuthianum", Carbohydrate research. 303 (3): p. 353-358.
153. Tolaimate A., Desbrieres J., Rhazi M., Alagui A. (2003), "Contribution to the
preparation of chitins and chitosans with controlled physico-chemical
properties", Polymer. 44 (26): p. 7939-7952.
159
154. Tolaimate A., Desbrieres J., Rhazi M., Alagui A., Vincendon M., Vottero P.
(2000), "On the influence of deacetylation process on the physicochemical
characteristics of chitosan from squid chitin", Polymer. 41 (7): p. 2463-2469.
155. Toth I., Avrova A., Hyman L. (2001), "Rapid identification and differentiation of
the soft rot erwinias by 16S-23S intergenic transcribed spacer-PCR and
restriction fragment length polymorphism analyses", Applied and Environmental
Microbiology. 67 (9): p. 4070-4076.
156. Toth I., Sullivan L., Brierley J., Avrova A., Hyman L., Holeva M., Broadfoot L.,
Perombelon M., McNicol J. (2003), "Relationship between potato seed tuber
contamination by Erwinia carotovora ssp. atroseptica, blackleg disease
development and progeny tuber contamination", Plant Pathology. 52 (2): p. 119-
126.
157. Toth I., Van Der Wolf J., Saddler G., Lojkowska E., Hélias V., Pirhonen M.,
Elphinstone J. (2011), "Dickeya species: an emerging problem for potato
production in Europe", Plant Pathology. 60 (3): p. 385-399.
158. Trang Sĩ Trung, Phạm Thị Đan Phượng (2012), "Bioactive compounds from by-
products of shrimp processing industry in Vietnam", Journal of Food and Drug
Analysis. 20 (1): p. 195.
159. Tsai G.-J., Su W.-H. (1999), "Antibacterial activity of shrimp chitosan against
Escherichia coli", Journal of Food Protection®. 62 (3): p. 239-243.
160. Wakil S.M., Oyinlola K.A. (2011), "Diversity of pectinolytic bacteria causing
soft rot disease of vegetables in Ibadan, Nigeria", Journal of Applied Biosciences.
38: p. 2540-2550.
161. Wang G.-H. (1992), "Inhibition and inactivation of five species of foodborne
pathogens by chitosan", Journal of Food Protection®. 55 (11): p. 916-919.
162. Wang S.-L., Chio S.-H. (1998), "Deproteinization of shrimp and crab shell with
the protease of Pseudomonas aeruginosa K-187", Enzyme and Microbial
Technology. 22 (7): p. 629-633.
160
163. Wang S.-L., Yang C.-W., Liang T.-W., Peng J.-H., Wang C.-L. (2009),
"Degradation of chitin and production of bioactive materials by bioconversion of
squid pens", Carbohydrate Polymers. 78 (2): p. 205-212.
164. Winslow (2003), "Diagnosis protocols for organisms to plants", SMT Project
SMT-4-CT98-2252.
165. Wiśniewska-Wrona M., Niekraszewicz A., Ciechańska D., Pospieszny H.,
Orlikowski L.B. (2007), "Biological properties of chitosan degradation
products", Polish Chitin Society, Monograph. 12: p. 149-156.
166. Xia W., Wu Y. (1996), "Functional properties of chitooligosaccharides", J. Wuxi
Univ. Light Ind. 15: p. 297-302.
167. Xing K., Chen X.G., Kong M., Liu C.S., Cha D.S., Park H.J. (2009), "Effect of
oleoyl-chitosan nanoparticles as a novel antibacterial dispersion system on
viability, membrane permeability and cell morphology of Escherichia coli and
Staphylococcus aureus", Carbohydrate Polymers. 76 (1): p. 17-22.
168. Xu J., Zhao X., Wang X., Zhao Z., Du Y. (2007), "Oligochitosan inhibits
Phytophthora capsici by penetrating the cell membrane and putative binding to
intracellular targets", Pesticide Biochemistry and Physiology. 88 (2): p. 167-175.
169. Xu Y., Gallert C., Winter J. (2008), "Chitin purification from shrimp wastes by
microbial deproteination and decalcification", Applied microbiology and
biotechnology. 79 (4): p. 687-697.
170. Yang F.-C., Peters R.D., Dies H., Rheinstädter M.C. (2014), "Hierarchical, self-
similar structure in native squid pen", Soft Matter. 10 (30): p. 5541-5549.
171. Yang J.-K., Shih L., Tzeng Y.-M., Wang S.-L. (2000), "Production and
purification of protease from a Bacillus subtilis that can deproteinize crustacean
wastes☆", Enzyme and Microbial Technology. 26 (5): p. 406-413.
172. Yap M.-N., Barak J.D., Charkowski A.O. (2004), "Genomic diversity of Erwinia
carotovora subsp. carotovora and its correlation with virulence", Applied and
Environmental Microbiology. 70 (5): p. 3013-3023.
161
173. Youn D.K., No H.K., Prinyawiwatkul W. (2013), "Preparation and
characterisation of selected physicochemical and functional properties of
β‐ chitosans from squid pen", International Journal of Food Science &
Technology. 48 (8): p. 1661-1669.
174. Youn D.K., No H.K., Prinyawiwatkul W. (2013), "Preparation and characteristics
of squid pen β‐ chitin prepared under optimal deproteinisation and
demineralisation condition", International Journal of Food Science &
Technology. 48 (3): p. 571-577.
175. Zheng L.-Y., Zhu J.-F. (2003), "Study on antimicrobial activity of chitosan with
different molecular weights", Carbohydrate Polymers. 54 (4): p. 527-530.
162
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1.1. Phương pháp Biuret: Xác định hàm lượng protein còn lại trong chitin, chitosan
Phụ lục 1.2. Phương pháp Micro-Biuret: Xác định hàm lượng protein còn lại trên chitin, chitosan
Phụ lục 1.3. Phương pháp xác định độ deacetyl của chitin và chitosan
Phụ lục 1.4.
Phương pháp xác định khối lượng phân tử trung bình (Mw) của chitin, chitosan
Phụ lục 1.5. Phương pháp xác định độ hòa tan của chitosan
Phụ lục 1.6. Phương pháp xác định chỉ số kết tinh và mức độ kết tinh
Phụ lục 2.1. Số liệu đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của 3 yếu tố (nhiệt độ, nồng độ NaOH và thời gian) đến quá trình khử protein
Phụ lục 2.2. Số liệu đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình khử protein
Phụ lục 2.3. Số liệu đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian đến quá trình khử protein
Phụ lục 2.4. Số liệu đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ naoh đến quá trình khử protein
Phụ lục 3.1. Số liệu đánh giá sơ bộ ảnh hưởng của 3 yếu tố (nhiệt độ, nồng độ naoh và thời gian) đến quá trình deacetyl
Phụ lục 3.2. Số liệu đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nhiệt độ đến quá trình deacetyl
Phụ lục 3.3.
Số liệu đánh giá ảnh hưởng của yếu tố nồng độ naoh đến quá trình deacetyl
Phụ lục 3.4. Số liệu đánh giá ảnh hưởng của yếu tố thời gian đến quá trình deacetyl
Phụ lục 3.5. Số liệu deacetyl lần 1
Phụ lục 3.6. Kết quả kháng khuẩn trong điều kiện in vivo
Phụ lục 3.7. Đặc tính sinh hóa, sinh lý của erwinia spp.
PHỤ LỤC 1.1. PHƯƠNG PHÁP BIURET: XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG PROTEIN
CÒN LẠI TRONG CHITIN, CHITOSAN
Nguyên tắc: Trong môi trường kiềm, liên kết peptide của phân tử protein phản ứng
với thuốc thử biuret tạo ra phức chất màu tím hoặc xanh tím. Cường độ màu của dung
dịch phản ánh số lượng liên kết peptide. Thông qua đường chuẩn protein ta có thể xác
định được hàm lượng protein ở trong mẫu.
Hóa chất, thuốc thử: Bovine serum albumin (BSA) chuẩn, dung dịch NaOH 4% và
dung dịch thuốc thử Biuret: Hòa tan 1.5 g Copper Sulfate (CuSO4) và 6.0 g sodium
potassium tartrate (KNaC4H4O6. 4H2O) trong 500 ml nước cất, khuấy đều và cho thêm
300 ml NaOH 10%. Dung dịch trên được khuấy trộn đều rồi làm đầy đến 1000 ml
bằng nước cất.
Tiến hành: Ngâm 5 g mẫu trong dung dịch NaOH 4% với tỷ lệ 1: 10 (w/v) sau đó ủ ở
950C trong 6 giờ. Sau khi ủ, phần bả và phần dịch lỏng được tách riêng bằng lọc chân
không, dùng nước cất rửa sạch phần bả. Thu toàn bộ phần dịch và phần nước rửa làm
đầy đến 100ml. Sau khi trộn đều, tiến hành lấy khoảng 10ml dung dịch và lọc qua giấy
lọc Whatman No1. Dung dịch sau lọc được xác định hàm lượng protein bằng phương
pháp Biuret với chất chuẩn là Bovine Serum Albumin. Hàm lượng protein trong mẫu
ban đầu được xác định bằng công thức:
Trong đó:
V: Tổng thể tích dịch lọc (ml)
C: nồng độ protein trong dịch lọc (mg/ml), được suy ra từ phương trình đường
chuẩn có dạng y=0,049x+0,002 (R2=0,999) với chất chuẩn Bovine Serum Albumin và
kết quả đo mật độ quang của dịch lọc ở bước sóng 570nm.
m: Khối lượng mẫu ban đầu (g)
W: Hàm ẩm của mẫu (g)
1000: hệ số chuyển đổi từ đơn vị mg sang g
PHỤ LỤC 1.2. PHƯƠNG PHÁP MICRO-BIURET: XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG
PROTEIN CÒN LẠI TRÊN CHITIN, CHITOSAN
Trộn đều 1g chitin, chitosan với 10mL dung dịch NaOH 3%, sau đó gia nhiệt
lên 80oC trong khoảng 12h, làm nguội hỗn hợp đến nhiệt độ phòng và tiến hành lọc
để thu dịch lọc. Dịch lọc sau đó được ly tâm trong 15 phút ở tốc độ 5000 vòng/phút,
gạn lấy phần dịch nổi và pha loãng sao cho nồng độ protein nằm trong khoảng 0,05-
0,5gL-1. Lấy 4 ml trộn đều với 200µL thuốc thử Micro-Biuret và đo mật độ quang ở
bước sóng 330nm.
Cách pha thuốc thử Micro-Biuret: Hòa tan 173g Natri citrate và 100g Natri
carbonate trong nước ấm (nhiệt độ <100oC), tiếp đến hòa tan 17,3g đồng sulphate
trong 100ml nước và trộn hai dung dịch lại với nhau. Định mức toàn bộ đến thể tích
1000ml bằng nước cất. Hàm lượng protein trong mẫu ban đầu được xác định bằng
công thức:
Trong đó:
V: Tổng thể tích dịch lọc (ml)
C: Nồng độ protein trong dịch lọc (mg/ml), được suy ra từ phương
trình đường chuẩn có dạng y=1,5506x+0,0043 (R2=0,9999) và kết quả đo mật độ
quang của dịch lọc ở bước sóng 330nm.
m: Khối lượng mẫu ban đầu (g)
W: Hàm ẩm của mẫu (g)
1000: hệ số chuyển đổi từ đơn vị mg sang g
PHỤ LỤC 1.3. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH ĐỘ DEACETYL CỦA CHITIN VÀ
CHITOSAN [70]
Độ deacetyl của chitin, chitosan được xác định bằng phương pháp đo độ hấp
phụ quang học theo thủ tục được giới thiệu bởi Hein và cộng sự. Hòa tan 0,1g chitin,
chitosan trong 20ml dung dịch H3PO4 85% ở 60oC trong 40 phút. Lấy 1ml dung dịch
trên pha loãng với nước cất đã khử ion (25-30 lần tương ứng với mẫu phân tích là
chiosan hay chitin) và giữ tiếp trong 2 giờ ở 600oC. Dung dịch sau đó được làm nguội
và xác định mức độ hấp phụ quang học ở bước sóng 210nm. Độ deacetyl (DD) của
chitin, chitosan được tính theo công thức (2.3).
Trong đó:
w: lượng mẫu khô tuyệt đối có trong một ml dung dịch (mg/ml)
microMolNAG: hàm lượng N-acetyl glucosamine trong một ml dung dịch mẫu
đo, được xác định từ mức độ hấp phụ quang học đo được và phương trình đường
chuẩn y=862,6x+0,054, (R2=0,999).
microMolGlcN: hàm lượng D-glucosamine trong một ml dung dịch mẫu đo
được xác định theo công thức (2.4).
Các hệ số 0,20321 và 0,16117 là hệ số chuyển đổi từ đơn vị µmol/ml sang đơn
vị mg/ml và ngược lại của N-acetyl glucosamine và D-glucosamine, tương ứng.
PHỤ LỤC 1.4. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH KHỐI LƯỢNG PHÂN TỬ TRUNG
BÌNH (MW) CỦA CHITIN, CHITOSAN
Phân tử lượng trung bình độ nhớt của chitin, chitosan từ mai mực ống được xác
định theo phương pháp được mô tả bới Chandumpai 2004 và Jung 2013 [36, 79].
Cân 15mg chitin đã nghiền (0,2 mm) trộn đều với 5,5g dung dịch NaOH 40%
đã được làm lạnh. Giữ hỗn hợp trong tủ lạnh khoảng 72 giờ, kiểm tra và lắc nhẹ
khoảng 1 lần/ngày. Sau 72 giờ, bổ sung 16,5 g nước đá, dùng đũa thủy tinh khuấy cho
đến khi chitin tan hết. Tiến hành lọc dung dịch thu được bằng bộ lọc chân không, sử
dụng giấy lọc GF/D có kích thước lỗ lọc là 2,7 m và đầu lọc 5 m. Sau lọc thu được
dung dịch chitin gốc có nồng độ 0,75 mg/mL dung dịch NaOH 10% (tương đương
0,075%). Tiếp tục pha loãng dung dịch gốc thành các dung dịch có nồng độ trong
khoảng từ 0,0375-0,5mg/ml.
Đối với mẫu chitosan sử dụng dung môi CH3COOH 0,17M, và dung dịch gốc
có nồng độ 0,3% (w/v) và pha loãng thành các dung dịch có nồng độ từ 0,3-1,5mg/ml.
Đo mẫu: Theo dõi thời gian chảy của dung môi và các mẫu đã pha loãng có
nồng độ xác định trên thiết bị ViscoSystem® AVS 470 của hãng Schott, sử dụng nhớt
kế Ubbelohde Type 562-20 và 567-20 tương ứng cho mẫu chitin và chitosan ở nhiệt độ
20oC. Nhớt kế được làm sạch và sấy khô hoàn toàn sau mỗi lần đo.
Tính kết quả: Phân tử lượng trung bình độ nhớt được xác định dựa vào đồ thị
biểu diễn mối quan hệ giữa độ độ nhớt nội theo nồng độ dung dịch mẫu và phương
trình Mark-Houwink: . Giá trị của các hằng số trong phương trình MHS
đối với chitin:
Đối với chitin trong dung môi NaOH 10%: K = 0,1 (mL/g) và a = 0,68.
Đối với chitosan trong dung môi CH3COOH 0,17M: K = 1,81 x 103 (mL/g) và a
= 0,93.
PHỤ LỤC 1.5. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH ĐỘ HÒA TAN CỦA CHITOSAN
Độ hòa tan của chitosan được xác định theo phương pháp được Samar và cộng
sự giới thiệu, có điều chỉnh. Cân chính xác 1 ,0g chitosan cho vào 100ml acid
acetic 1%; khuấy đều trong 60 phút để chitosan tan hoàn toàn, sau đó tiến hành lọc
qua giấy lọc Whatman No1, phần không tan trên giấy lọc được rửa nhiều lần bằng
nước cất, để ráo, và sấy đến khối lượng không đổi ở 60oC trong 4h. Độ hòa tan của
chitosan được xác định theo công thức:
Trong đó: M: Khối lượng chitosan (1,0 g); A: Khối lượng phần không tan cùng
với giấy lọc sau sấy (g); B: Khối lượng giấy lọc trước khi lọc, đã sấy đến khối lượng
không đổi (g).
PHỤ LỤC 1.6. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CHỈ SỐ KẾT TINH VÀ MỨC ĐỘ
KẾT TINH
Chỉ số kết tinh (CrI - Crystalline Index) được xác định theo phương pháp
được mô tả bởi Pareek và cộng sự [179] với các công thức:
và
Trong đó I020 và I110 là cường độ cực đại (arbitray units) của phổ nhiễu xạ tại
vị trí 020 và 110 tương ứng khi góc chiếu 2θ ≈ 9o và 2θ ≈ 20o; Iam là cường độ của
phổ nhiễu xạ vô định hình khi góc 2θ ≈ 16o. Sử dụng phần mềm OriginPro 8 xử lý dữ
liệu phổ nhiễu xạ tia X để xác định cường độ chiếu xạ tại các vị trí ứng với góc chiếu
xạ 2θ ≈ 9o, 16o; và 20o. Mức độ kết tinh (χcr - Degree of Crystallinity) được tính theo
phương pháp được Chebotok và cộng sự [59] giới thiệu:
Trong đó Stot là tổng vùng diện tích có cấu trúc tinh thể trên phổ Nhiễu xạ tia X
(2θ=4o-44o) và Sam là diện tích của vùng vô định hình trên phổ tương ứng. Sử dụng
phần mềm OriginPro 8 xử lý dữ liệu phổ nhiễu xạ tia X để xác định diện tích của vùng
có cấu trúc tinh thể và vô định hình.
PHỤ LỤC 2.1. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ ẢNH HƯỞNG CỦA 3 YẾU TỐ
(NHIỆT ĐỘ, NỒNG ĐỘ NAOH VÀ THỜI GIAN) ĐẾN QUÁ TRÌNH KHỬ PROTEIN
XỬ LÝ ANOVA Ở 30oC:
Thời gian NaOH 3% NaOH 4% NaOH 5%
24 5.5 4.6 2.9
36 4.2 3.7 2.1
48 3.5 2.9 1.6
60 3.1 2.5 1.3
72 2.8 2.4 1.1
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Protein
Source Type III Sum df Mean Square F Sig.
of Squares
Corrected Model 31 8.522 232.284 264.174a .000
875.160 Intercept 875.160 23854.920 .000 1
.137 Laplai .069 1.869 .163 2
91.789 Thoigian 18.358 500.394 .000 5
165.256 Nongdo 41.314 1126.128 .000 4
Thoigian * 6.992 .350 9.529 .000 20 Nongdo
2.128 Error .037 58
1141.462 Total 90
266.302 Corrected Total 89
a. R Squared = .992 (Adjusted R Squared = .988)
XỬ LÝ ANOVA Ở 60oC:
Thời gian NaOH 3% NaOH 4% NaOH 5%
6.5 2 4.8 5.3
5.5 4 3.3 4.0
3.9 6 2.6 3.1
2.3 8 1.2 2
1.7 10 1.1 1.4
1.7 12 1.0 1.4
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Protein
Source Type III Sum df Mean Square F Sig.
of Squares
Corrected Model 115.347a 31 3.721 129.309 .000
Intercept 251.837 1 251.837 8751.956 .000
Laplai .903 2 .451 15.686 .000
Thoigian 33.667 5 6.733 234.001 .000
Nongdo 77.431 4 19.358 672.727 .000
Thoigian * 3.347 20 .167 5.815 .000 Nongdo
Error 1.669 58 .029
Total 368.853 90
Corrected Total 117.016 89
a. R Squared = .986 (Adjusted R Squared = .978)
XỬ LÝ ANOVA Ở 90oC:
Thời gian NaOH 3% NaOH 4% NaOH 5%
4.5 2 3.6 4.1
2.5 4 1.6 2.2
1.9 6 1.1 1.5
1.5 8 0.6 0.9
1.3 10 0.4 0.7
1.3 12 0.4 0.7
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Protein
Source Type III Sum df Mean Square F Sig.
of Squares
Corrected Model 246.013a 31 7.936 313.686 .000
372.100 1 Intercept 372.100 14708.178 .000
.713 2 Laplai .356 14.085 .000
113.288 5 Thoigian 22.658 895.598 .000
126.940 4 Nongdo 31.735 1254.405 .000
Thoigian * 5.072 20 .254 10.024 .000 Nongdo
1.467 58 Error .025
619.580 90 Total
247.480 89 Corrected Total
a. R Squared = .994 (Adjusted R Squared = .991)
PHỤ LỤC 2.2. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ NHIỆT ĐỘ ĐẾN QUÁ TRÌNH KHỬ PROTEIN
Nhiet Protein còn lại Mw do
1.8 1.65 8360 8550 8725 1.55 70
1.65 1.55 1.4 8675 8465 8240 75
0.5 0.8 0.7 8170 8328 8462 80
0.35 0.25 0.5 6730 6630 6830 85
0.4 0.2 0.3 5155 5040 5255 90
Nhietdo Pro Độ lệch Mw Độ lệch
1.67 0.13 8545 183 70
1.53 0.13 8460 218 75
0.67 0.15 8320 146 80
0.37 0.13 6730 100 85
0.30 0.10 5150 108 90
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Protein Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
78.289 762.722 78.289 .000 .000 .000
1.266 12.331 1.266 .016 5.063a 12.331 5.063 .162 17.555 5.224 4 1 4 10 15 14
Corrected Model Intercept Nhietdo Error Total Corrected Total a. R Squared = .969 (Adjusted R Squared = .957)
Protein
Duncan Nhietdo N
Subset 2 3 1
.3000 .3667
.6667
3 3 3 3 3
1.000 1.5333 1.6667 .228 .535
90.00 85.00 80.00 75.00 70.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = .016. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000. b. Alpha = 0.05.
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Mw Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
4 26352060.000a 6588015.000 266.529 .000
.000 .000
6588015.000 24717.800 830527215.000 26352060.000 247178.000 857126453.000 26599238.000 1 830527215.000 33600.370 4 266.529 10 15 14
Corrected Model Intercept Nhietdo Error Total Corrected Total a. R Squared = .991 (Adjusted R Squared = .987)
Mw
Duncan Nhietdo N
Subset 2 3
1 5150.0000
6730.0000
3 3 3 3 3
1.000 1.000 8320.0000 8460.0000 8545.0000 .125
90.00 85.00 80.00 75.00 70.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 24717.800. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000. b. Alpha = 0.05.
PHỤ LỤC 2.3. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ THỜI GIAN ĐẾN QUÁ TRÌNH KHỬ PROTEIN
Thoigian Protein còn lại Mw
4.74 3.9 4.35 8530 8650 8763 4
2 1.85 1.75 8350 8180 8520 6
1.35 1.3 1.35 8454 8240 8020 8
1.15 0.65 0.9 7150 7010 6870 10
0.55 0.65 0.7 6060 6140 5980 12
0.65 0.45 0.5 5220 5020 5120 14
Thoigian Protein Độ lệch Mw Độ lệch
4.33 0.42 8648 117 4
1.87 0.13 8350 170 6
1.33 0.15 8238 217 8
0.90 0.1 7010 140 10
0.63 0.08 6060 80 12
0.53 0.10 5120 100 14
Thời gian:
Tests of Between-Subjects Effects
df Mean Square F Sig. Dependent Variable: Protein Source
Type III Sum of Squares
6.094
134.172 46.048 1013.777 134.172 .000 .000 .000
6.094 .045 30.472a 46.048 30.472 .545 77.065 31.017 5 1 5 12 18 17
Corrected Model Intercept Thoigian Error Total Corrected Total a. R Squared = .982 (Adjusted R Squared = .975)
Protein
Duncan Thoigian N Subset
1 2 3 4
.5333 .6333 .9000
1.3333
1.8667
3 3 3 3 3 3
1.000 .067 4.3300 1.000
14.00 12.00 10.00 8.00 6.00 4.00 1.000 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = .045. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.
Khối lượng phân tử trung bình:
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Mw Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
5 30447885.611a 6089577.122 290.977 .000
.000 .000
6089577.122 20928.056 942894262.722 30447885.611 251136.667 973593285.000 30699022.278 1 942894262.722 45054.079 5 290.977 12 18 17
Corrected Model Intercept Thoigian Error Total Corrected Total a. R Squared = .992 (Adjusted R Squared = .988)
Mw
Duncan Thoigian N
Subset 3 5 4 2
6060.0000
7010.0000
8238.0000 8350.0000
1 3 5120.0000 3 3 3 3 3
1.000 1.000 1.000 .362 8647.6667 1.000
14.00 12.00 10.00 8.00 6.00 4.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 20928.056.
PHỤ LỤC 2.4. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ NỒNG ĐỘ NAOH ĐẾN QUÁ TRÌNH KHỬ PROTEIN
NaOH Protein còn lại Mw
2.1 2.2 2.4 9130 9305 9465 3.0
1 1 0.8 9110 9220 8994 3.5
0.65 0.5 0.75 8685 8405 8545 4.0
0.35 0.35 0.3 7860 8025 7935 4.5
0.2 0.25 0.25 6440 6320 6200 5.0
NaOH Protein Độ lệch Độ lệch Mw
2.23 0.15 9300 168 3.0
0.93 0.12 9108 113 3.5
0.63 0.13 8545 140 4.0
0.33 0.03 7940 83 4.5
0.23 0.03 6320 120 5.0
Nồng độ NaOH:
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Protein Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
1.959
180.831 11.441 1056.062 180.831 .000 .000 .000
1.959 .011 7.836a 11.441 7.836 .108 19.385 7.944 4 1 4 10 15 14
Corrected Model Intercept NaOH Error Total Corrected Total a. R Squared = .986 (Adjusted R Squared = .981)
Protein
Duncan NaOH N Subset
1 2 3 4
.2333 .3333
.6333
.9333
3 3 3 3 3
1.000 .267 1.000 2.2333 1.000
5.00 4.50 4.00 3.50 3.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = .011.
Khối lượng phân tử trung bình:
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Mw Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
4 17239245.600a 4309811.400 263.849 .000
.000 .000
4309811.400 16334.400 1019106821.400 17239245.600 163344.000 1036509411.000 17402589.600 1 1019106821.400 62390.221 263.849 4 10 15 14
Corrected Model Intercept NaOH Error Total Corrected Total a. R Squared = .991 (Adjusted R Squared = .987)
Mw
Duncan NaOH N Subset
1 2 3 4
6320.0000
7940.0000
8545.0000
3 3 3 3 3
1.000 1.000 9108.0000 9300.0000 .096 1.000
5.00 4.50 4.00 3.50 3.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 16334.400.
PHỤ LỤC 3.1. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ ẢNH HƯỞNG CỦA 3 YẾU TỐ (NHIỆT ĐỘ, NỒNG ĐỘ NAOH VÀ THỜI GIAN) ĐẾN QUÁ TRÌNH DEACETYL
Nhiệt độ 30C NaOH 50% 35 40 45 50 53 55 61 65 72 75 77 80 81 NaOH 40% 33 35 38 40 42 44 45 48 54 57 58 58 60 NaOH 60% 40 50 55 60 65 69 72 76 78 83 85 86 - Nhiệt độ 60C NaOH 50% 50 60 67 72 75 80 86 86.6 - - - - - NaOH 40% 41 50 60 66 68 74 79 83 83 - - - - NaOH 60% 55 70 80 87 88.6 - - - - - - - - Nhiệt độ 90C NaOH 50% 60 80 90 91.3 - - - - - - - - - NaOH 40% 52 65 70 80 88 88.2 - - - - - - - NaOH 60% 68 95 95.5 - - - - - - - - - - Thời gian 3 6 12 18 24 30 36 42 48 54 60 66 72
PHỤ LỤC 3.2. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ NHIỆT ĐỘ ĐẾN QUÁ TRÌNH DEACETYL
Nhietdo Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
DD Mw DD Mw
2.6 192 50 60.2 7784
1.3 182 60 65.7 6976
1.6 288 70 75.6 6824
0.4 0.6 182 328 80 90 87.9 90.1 6254 5604
Độ deacetyl (DD):
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: DD Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
520.177
210.371 86518.446 34989.888 210.371 .000 .000 .000
520.177 2.473 2080.710a 86518.446 2080.710 24.727 88623.882 2105.437 4 1 4 10 15 14
Corrected Model Intercept Nhietdo Error Total Corrected Total a. R Squared = .988 (Adjusted R Squared = .984)
DD
Duncan Nhietdo N Subset
3 4 2
1 60.2667 65.7667 75.6667
3 3 3 3 3 1.000 87.9333 90.1000 .122 1.000
50.00 60.00 70.00 80.00 90.00 Sig. 1.000 Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 2.473. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000. b. Alpha = 0.05.
Khối lượng phân tử trung bình (Mw):
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: DD Source df Mean Square F Sig. Type III Sum of Squares
4 8002667.600a 2000666.900 33.952 .000
.000 .000
2000666.900 58926.267 671123958.826 8002667.600 589262.672 679715889.098 8591930.272 1 671123958.826 11389.216 4 33.952 10 15 14
Corrected Model Intercept Nhietdo Error Total Corrected Total a. R Squared = .931 (Adjusted R Squared = .904) DD
Duncan Nhietdo N Subset
1 2 3 4
5604.3300 6254.3300
6824.3300 6976.6700 3 3 3 3 3 1.000 1.000 .460 7784.9200 1.000
90.00 80.00 70.00 60.00 50.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 58926.267. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000. b. Alpha = 0.05.
PHỤ LỤC 3.3. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ NỒNG ĐỘ NAOH ĐẾN QUÁ TRÌNH DEACETYL
NaOH Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
DD Mw DD Mw
2.7 0 30 43.3 8100
2.1 0 35 45.27 8100
1.9 246 40 59.73 7423
3.6 238 45 75.83 7211
1.7 213 50 83.57 6702
1.5 294 55 85.67 4916
Độ deacetyl (DD):
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: DD
Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
1065.255
188.382 77369.978 13682.258 188.382 1065.255 .000 .000 .000
5.655 5326.277a 77369.978 5326.277 67.857 82764.113 5394.134 Corrected Model Intercept NaOH Error Total Corrected Total 5 1 5 12 18 17
a. R Squared = .987 (Adjusted R Squared = .982)
DD
Duncan NaOH N Subset
2 4 3
1 43.3000 45.2700
59.7300
75.8300
3 3 3 3 3 3
.330 1.000 83.5700 85.6700 .301
30.00 35.00 40.00 45.00 50.00 55.00 1.000 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 5.655.
Khối lượng phân tử trung bình (Mw):
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Mw
Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
21123039.072a 5 4224607.814 101.304 .000 Corrected Model
Intercept 901100161.214 1 901100161.214 21607.913 .000
NaOH 21123039.072 5 101.304 .000
Error 500427.877
4224607.814 41702.323 Total 922723628.164
12 18 17 Corrected Total 21623466.949
a. R Squared = .977 (Adjusted R Squared = .967)
Mw
Duncan
NaOH N Subset
1 2 3 4
4916.0000 55.00
6702.3300 50.00
45.00
7211.0000 7423.0000 40.00
8100.0000 30.00
8100.0000 3 3 3 3 3 3 35.00
1.000 1.000 .228 1.000 Sig.
Means for groups in homogeneous subsets are displayed.
Based on observed means.
The error term is Mean Square(Error) = 41702.323.
a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.
b. Alpha = 0.05.
PHỤ LỤC 3.4. SỐ LIỆU ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ THỜI GIAN ĐẾN QUÁ TRÌNH DEACETYL
Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
DD 2.37 0.79 1.15 1.39 1.46 1.92 Mw 184 187 136 167 56 101 Thời gian 4 8 12 16 20 24 DD 62.9 84.0 87.1 88.1 89.1 89.5 Mw 7753 7567 7081 6512 5669 4963
Độ deacetyl (DD):
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: DD
Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
314.906
123.383 125365.266 49119.188 123.383 314.906 .000 .000 .000
2.552 1574.528a 125365.266 1574.528 30.627 126970.422 1605.155 Corrected Model Intercept Thoigian Error Total Corrected Total 5 1 5 12 18 17
a. R Squared = .981 (Adjusted R Squared = .973)
DD
Duncan Thoigian N
3 Subset 2
1 62.9300
84.0000
3 3 3 3 3 3
1.000 87.1000 88.1000 89.1000 89.5000 .113 1.000
4.00 8.00 12.00 16.00 20.00 24.00 Sig. Means for groups in homogeneous subsets are displayed. Based on observed means. The error term is Mean Square(Error) = 2.552. a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000. b. Alpha = 0.05.
Khối lượng phân tử trung bình (Mw):
Tests of Between-Subjects Effects
Dependent Variable: Mw
Source df Mean Square F Sig.
Type III Sum of Squares
18151139.516a 5 3630227.903 168.102 .000 Corrected Model
Intercept 781955712.771 1 781955712.771 36209.328 .000
Thoigian 18151139.516 5 3630227.903 168.102 .000
Error 259145.062 21595.422 12
Total 800365997.349 18
Corrected Total 18410284.577 17
a. R Squared = .986 (Adjusted R Squared = .980)
Mw
Duncan
Thoigian N Subset
1 2 3 4 5
24.00 3 4963.0000
20.00 5669.3300 3
16.00 3 6512.3300
12.00 3 7081.0000
8.00 3 7567.3300
4.00 3 7753.3300
Sig. 1.000 1.000 1.000 1.000 .147
Means for groups in homogeneous subsets are displayed.
Based on observed means.
The error term is Mean Square(Error) = 21595.422.
a. Uses Harmonic Mean Sample Size = 3.000.
b. Alpha = 0.05.
PHỤ LỤC 3.5. SỐ LIỆU DEACETYL LẦN 1
Thời Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn gian
DD Mw DD Mw
72.9 7753 1.3 184 4
84.0 7567 0.3 187 8
87.1 7081 0.9 36 12
88.1 6512 1.3 167 16
89.0 5669 0.5 56 20
89.5 4963 0.9 101 24
SỐ LIỆU DEACETYL LẦN 2
Thời Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn gian
DD Mw DD Mw
91.3 6831 1.0 36 4
92.7 5589 1.1 167 8
94 4745 1.3 56 12
94.2 3521 1.4 187 16
PHỤ LỤC 3.6. KẾT QUẢ KHÁNG KHUẨN TRONG ĐIỀU KIỆN IN VIVO
b a
Vết bệnh bên trong và bên ngoài trái cà chua ở thời điểm 36 giờ được xử lý với dung dịch chitosan S-138 có trọng lượng phân tử 138 kDa ở nồng độ 0,6%.
0% NC 0% NC
1.5%
0.6% 0.6% 1% 1.5% 1%
M
ĐC
M
N
N
ĐC
Kích thước vết bệnh bên trong và kích thước vết bệnh bên ngoài tại thời điểm 72 giờ sau khi chủng bệnh được xử lý với dung dịch chitosan S-138 ở các nồng độ (0; 0,6; 1; 1,5%).
Kích thước vết bệnh bên ngoài và kích thước vết bên trong trái cà chua tại thời điểm 36 giờ sau khi chủng bệnh được xử lý với chitosan 1,5%, chitosan thương mại (M), chitosan S-138 (N), trái không xử lý dung dịch chitosan (ĐC).
PHỤ LỤC 3.7. ĐẶC TÍNH SINH HÓA, SINH LÝ CỦA ERWINIA SPP.
Theo Janse 2005, chương 2, trang 48.