i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phùng Thăng Long và PGS.TS. Lê Đình Phùng. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án này là trung thực, chính xác và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Mọi sự giúp đỡ trong quá trình thực hiện luận án này đã được cảm ơn và các

thông tin trích dẫn trong luận án này đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng 04 năm 2017

Nghiên cứu sinh

Lê Đức Thạo

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được sự

giúp đỡ từ nhiều cá nhân và tổ chức.

Lời đầu tiên tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS. Phùng Thăng Long và PGS.TS. Lê Đình Phùng, hai thầy hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi Thú y, phòng Đào tạo Sau Đại học, Quý thầy cô giáo Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án.

Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tập thể của Ban Lãnh đạo, Cán bộ của Viện Công nghệ Sinh học - Đại học Huế, đã giúp đỡ về mọi mặt, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành luận án.

Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn Bộ môn Di truyền và Chọn giống Vật nuôi, Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã luôn ủng hộ và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình phân tích chất lượng thịt lợn.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt, giúp đỡ và động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận án này.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng 04 năm 2017

Nghiên cứu sinh

Lê Đức Thạo

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………… i

LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………………….. ii

MỤC LỤC……………………………………………………………………………... iii

DANH MỤC CÁC BẢNG…………………………………………………………….. vii

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH……………………………………………………….. ix

MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………. 1

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI………………………………………………….. 1

2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI………………………………………………………………… 3

3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN…………………………………………. 3

3.1. Ý nghĩa khoa học………………………………………………………………….. 3

3.2. Ý nghĩa thực tiễn………………………………………………………………….. 3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU………………………………………………….. 4

1.1. LAI GIỐNG VÀ ƯU THẾ LAI…………………………………………………... 4

1.1.1. Lai giống và cơ sở lựa chọn phương pháp lai tạo để cải biến khả năng sản xuất

của vật nuôi……………………………………………………………………………. 4

1.1.2. Ưu thế lai………………………………………………………………………... 4

1.2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG SUẤT SINH SẢN VÀ YẾU TỐ ẢNH

HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI…………………………... 9

1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái…………………………... 9

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái……………………… 10

1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỨC SẢN XUẤT, CHẤT LƯỢNG THỊT LỢN

VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG………………………………………………….. 17

1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất thịt và chất lượng thịt………………………. 17

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt và chất lượng thịt………………... 18

1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG LAI GIỐNG NÂNG CAO SỨC

SẢN XUẤT CỦA LỢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC……………………... 33

1.4.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng lai giống ở lợn trên thế giới………………... 33

1.4.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng lai giống lợn ở nước ta…………………….. 36

1.5. GIỚI THIỆU CÁC GIỐNG LỢN VCN-MS15, DUROC, LANDRACE,

PIETRAIN……………………………………………………………………………... 41

1.5.1. Giống lợn VCN-MS15 (Meishan)………………………………………………. 41

iv

1.5.2. Giống lợn Landrace……………………………………………………………... 42

1.5.3. Giống lợn Duroc………………………………………………………………… 43

1.5.4. Giống lợn Pietrain ………………………………………………………………. 43

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………. 44

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU……………………………………………………. 44

2.1.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu……………………………………………… 44

2.1.2. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………… 44

2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU……………………………………………………… 44

2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………………… 45

2.3.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục và năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2

giống VCN-MS15 (thí nghiệm 1)…………………………………………………….. 45

2.3.2. Năng suất và chất lượng thịt xẻ của các tổ hợp lợn lai F1(Pietrain x VCN-

52 MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) (thí nghiệm 2)……………………………………

2.3.3. Năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-

MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

(thí nghiệm 3)………………………………………………………………………….. 57

2.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU………………………………………………. 61

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN……………………………. 62

3.1. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH DỤC VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN

NÁI VCN-MS15 VÀ LỢN NÁI LAI 1/2 GIỐNG VCN-MS15………………………. 62

3.1.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15… 62

3.1.2. Năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và lợn nái lai 1/2 giống VCN-

MS15…………………………………………………………………………………... 64

73

3.1.3. Tiêu tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1kg lợn con cai sữa 3.1.4. Khả năng sinh trưởng, tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa đến 60 ngày tuổi …………………………………………………………………………………….. 74

3.2. SINH TRƯỞNG VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA TỔ HỢP LỢN LAI

75 F1(PIETRAIN X VCN-MS15) VÀ F1(DUROC X VCN-MS15)……………………..

3.2.1 Khối lượng và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của lợn lai F1(Pietrain x VCN-

75 MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi……………………………….

3.2.2. Lượng thức ăn ăn vào/con/ngày và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn

qua các tháng nuôi…………………………………………………………………. 77

3.2.3. Phẩm chất thịt xẻ của lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-

v

MS15)………………………………………………………………………………….. 79

3.3. SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA CÁC TỔ HỢP

LỢN LAI THƯƠNG PHẨM 1/4 GIỐNG VCN-MS15……………………………….. 80

3.3.1. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của các tổ hợp lợn lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace

80 x F1(Duroc x VCN-MS15)…………………………………………………………….

3.3.2. Năng suất thịt của các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc

83 x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)………………...

3.3.3. Chất lượng thịt ở các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc

85 x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)…………………

Chương 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ………………………………………………... 94

4.1. KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. 94

4.1.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục và năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2

giống VCN-MS15 được nuôi ở tỉnh Thừa Thiên Huế………………………………… 94

4.1.2. Sinh trưởng, sức sản xuất thịt của lợn lai thương phẩm 1/2 và 1/4 giống VCN-

MS15 được nuôi ở Thừa Thiên Huế…………………………………………………… 94

4.2. ĐỀ NGHỊ…………………………………………………………………………. 95

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN… 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………... 97

11 PHỤ LỤC……………………………………………………………………………… 6

vi

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Giá trị màu đỏ a*

Giá trị màu vàng b*

Protein thô CP

Cộng sự cs

Duroc Du

DFD Dark, firm, dry

h2 Hệ số di truyền

IMF Mỡ giắt

Khối lượng KL

Giá trị màu sáng L*

Landrace L

Large White LW

Số trung bình M

Dung lượng mẫu n

Pietrain Pi

Giá trị pH sau 24 giờ giết mổ pH24

Giá trị pH sau 45 phút giết mổ pH45

PiDu Tổ hợp lai đực Pietrain x nái Duroc

PiDu25 Tổ hợp lợn lai có 25% giống Pietrain và 75% giống Duroc

PiDu50 Tổ hợp lợn lai 50% giống Pietrain và 50% giống Duroc

PiDu75 Tổ hợp lợn lai 75% giống Pietrain và 25% giống Duroc

PSE Pale, Soft, Exudative

SE Sai số tiêu chuẩn

TĂ Thức ăn

TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam

Y Yorkshire

TTTĂ Tiêu tốn thức ăn

VCK Vật chất khô

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Giá trị dinh dưỡng các loại thức ăn cho lợn nái và lợn con …..…………... 46

Bảng 2.2. Lượng thức ăn/ngày cho từng loại lợn .…………………………………… 47

Bảng 2.3. Giá trị dinh dưỡng các loại thức ăn cho lợn thịt .………………………….. 53

Bảng 3.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15 và lợn nái lai 1/2 giống

VCN-MS15 ..…………………………………………………………...……………. 62

Bảng 3.2. Năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 …………………………….. 65

Bảng 3.3. Năng suất sinh sản của lợn nái 1/2 giống VCN-MS15 ..…………………. 69

Bảng 3.4. So sánh năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-

MS15 cơ bản …………………………………………………………………………. 72

Bảng 3.5. Tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống

VCN-MS15 cơ bản ………...…………………………………………………………. 73

Bảng 3.6. Khả năng sinh trưởng và hiệu quả chuyển hoá thức ăn của lợn con sau cai

sữa đến 60 ngày tuổi ………………………………………………….………………. 74

Bảng 3.7. Khối lượng và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của lợn lai F1(Pietrain x VCN-

76 MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi …………………..................

Bảng 3.8. Lượng thức ăn ăn vào/con/ngày và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của

78 lợn F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi……...

Bảng 3.9. Phẩm chất thịt xẻ của lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x

VCN-MS15) ………………………………………………………………………..... 79

Bảng 3.10. Sinh trưởng, lượng thức ăn ăn vào/con/ngày và tiêu tốn thức ăn/1kg tăng

khối lượng của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x

81 VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) ……………………………….

Bảng 3.11. Năng suất thịt của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) ………………… 83

Bảng 3.12. Giá trị pH thịt ở các thời điểm khác nhau sau khi giết thịt của lợn lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace

x F1(Duroc x VCN-MS15) ............................................................................................ 85

Bảng 3.13. Tỷ lệ mất nước của thịt ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) .............. 87

viii

Bảng 3.14. Độ dai của thịt ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) .......................... 89

Bảng 3.15. Các chỉ tiêu màu sắc của thịt ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-

MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15).. 90

Bảng 3.16. Thành phần hóa học cơ thăn của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-

MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15).. 92

ix

DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH

52 Hình 2.1. Đo độ dày mỡ lưng vị trí P2

53 Hình 2.2. Đo diện tích mắt thịt và độ dày mỡ lưng giữa xương sườn 10-11

1

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Ở nước ta, chăn nuôi lợn là nghề truyền thống, nó đóng một vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và cung cấp thực phẩm cho người tiêu dùng. Theo Tổng cục Thống kê (2014) [76], thịt lợn chiếm tỷ trọng 76-77% trong sản lượng các loại thịt của gia súc, gia cầm. Hiện tại, đàn lợn nước ta có khoảng 26,7 triệu con đứng đầu các nước Đông Nam Á, thứ 2 châu Á [119]. Tuy nhiên, năng suất và chất lượng các sản phẩm của đàn lợn nước ta còn thấp nên hiệu quả chăn nuôi và sức cạnh tranh của sản phẩm còn hạn chế [18].

Đứng trước nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và thế giới về số lượng, chất lượng thịt lợn, định hướng và kế hoạch phát triển chăn nuôi lợn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đến năm 2020 phải đạt 30 triệu con lợn, trong đó đàn lợn ngoại và lợn lai đạt trên 90%. Để đạt được mục tiêu này cần nâng cao cơ cấu lợn ngoại trong tổng đàn và đẩy mạnh chăn nuôi trang trại, chăn nuôi công nghiệp [18], nâng cao năng suất, chất lượng thịt, hiệu quả chăn nuôi và tính cạnh tranh của sản phẩm [10].

Trong chăn nuôi nói chung, chăn nuôi lợn nói riêng, giống là yếu tố tiền đề, đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Mỗi một giống lợn đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định liên quan đến khả năng sản xuất. Một trong những giải pháp để hạn chế những nhược điểm và phát huy ưu điểm của mỗi giống là sử dụng lai tạo. Lai tạo có ý nghĩa quan trọng trong việc mang lại ảnh hưởng bổ sung và ưu thế lai ở con lai. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới kể cả nước ta đã và đang tích cực nghiên cứu chọn lọc và lai tạo các giống/dòng lợn có các đặc tính tốt với nhau để sử dụng ưu thế lai nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.

Ở nước ta, công tác lai tạo ở lợn đã được khởi xướng từ cuối những năm 1950, đầu những năm 1960. Đến nay chúng ta đã nhập được nhiều giống lợn ngoại khác nhau về cho lai tạo với các giống lợn nội, với các nhóm lợn nái lai để tạo con lai thương phẩm và đã thu được nhiều thành tựu to lớn [25], [36], [82]. Các tổ hợp lợn lai giữa lợn đực ngoại và lợn nái nội có khả năng sinh sản tốt, tăng khối lượng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao hơn lợn nội thuần [25], [29]. Các tổ hợp lai kinh tế giữa lợn đực ngoại với lợn nái ngoại cũng đã được nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất đã đưa tỷ lệ nạc/thân thịt xẻ đạt 52-53% ở lợn lai 2 giống và đạt 56-58% ở lợn lai 3 giống [92], và đạt trên 60% ở các tổ hợp lai giữa đực lai tổng hợp và nái (Landrace x Yorkshire) [63].

2

Thừa Thiên Huế, một tỉnh ở miền Trung có điều kiện thời tiết khí hậu khắc nghiệt, điều kiện kinh tế còn kém phát triển, đầu tư cho chăn nuôi còn hạn chế. Chăn nuôi lợn trong nông hộ, gia trại với giống lợn nái Móng Cái, lợn nái lai 1/2 giống Móng Cái làm nái nền và lợn 1/2, 1/4 giống Móng Cái nuôi thịt là phổ biến và được cho là phù hợp với điều kiện của địa phương. Tuy nhiên, giống lợn này có khả năng sinh trưởng chậm, tỷ lệ nạc trong thân thịt còn thấp. Để cải thiện sức sản xuất của đàn lợn, gần đây đã có một số nghiên cứu ứng dụng các giống lợn mới như Pietrain, Duroc trong lai tạo. Các kết quả lai tạo với các giống lợn này là rất khả quan, góp phần thúc đẩy phát triển chăn nuôi ở Thừa Thiên Huế [43] [45]. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về thịt lợn có chất lượng cao ở Thừa Thiên Huế, cần phải có thêm các giống lợn/tổ hợp lai có năng suất sinh sản cao, sinh trưởng nhanh và chất lượng thịt tốt để đa dạng hóa giống lợn và tăng tính lựa chọn nhằm phục vụ sản xuất. Trong bối cảnh đó, một trong những hướng nghiên cứu khả thi, cần được tiếp tục là sử dụng lai tạo để cải thiện năng suất sinh sản, sức sản xuất thịt và đặc biệt là chất lượng thịt của đàn lợn và tạo ra các sản phẩm đặc thù phù hợp với điều kiện của địa phương, phục vụ sản xuất có hiệu quả.

Giống lợn Meishan có nguồn gốc từ Trung Quốc là một giống lợn nổi tiếng thế giới về khả năng sinh sản cao và thịt thơm ngon. Lợn cái Meishan có đặc điểm thuần thục về tính sớm, số vú nhiều, đẻ sai con hơn rất nhiều so với các giống lợn trắng Châu Âu [100], [133], do lợn Meishan có tỷ lệ phôi sống sót cao hơn trong cùng một tỷ lệ rụng trứng [133]. Giống lợn Meishan đã được nhập khẩu vào Châu Âu và Mỹ từ những năm 80 của thế kỷ trước để khai thác đặc tính mắn đẻ và đẻ sai con của chúng. Kết quả đã tạo ra được một số dòng lợn nái tổng hợp có giống Meishan và sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao chiếm lĩnh thị trường của nhiều nước trên thế giới. Tập đoàn PIC (Pig Improvement Company) của Anh Quốc sử dụng lợn Meishan tạo ra con lai L95 có khả năng sinh sản tốt, năng suất, chất lượng thịt cao. Ở Trung Quốc, giống lợn Meishan đã được sử dụng làm nái nền lai tạo với giống lợn Duroc và chọn tạo thành công giống lợn Sutai. Nó cũng được dùng để lai với đực giống Landrace hoặc Yorkshire tạo ra lợn thương phẩm cho năng suất và chất lượng thịt cạnh tranh so với tổ hợp lai 3 giống ngoại Duroc x (Landrace x Yorkshire) [165], Một số nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng các giống lợn Trung Quốc trong đó có giống lợn Meishan khi sử dụng với tỷ lệ 1/8 trong các công thức lai thương phẩm có khả năng cải thiện chất lượng thịt xẻ [147], nâng cao tỷ lệ thịt nạc, giảm độ dày mỡ lưng [107].

Giống lợn Meishan được đưa vào Việt nam cuối năm 2010 và đầu năm 2011 [53], [67], được Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương (Viện chăn nuôi) nuôi khảo nghiệm. Kết quả khảo nghiệm cho thấy giống lợn này ưu việt hơn giống lợn Móng Cái [75], đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận giống mới với tên gọi VCN-MS15, và được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam [11]. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu và công bố nào về việc sử dụng giống lợn VCN-MS15 trong lai tạo ở Thừa Thiên Huế nói riêng và miền Trung nói chung.

3

Việc nghiên cứu sử dụng giống lợn VCN-MS15 và lai tạo ra các nhóm nái lai có khả năng sinh sản cao, các tổ hợp lợn lai thương phẩm có năng suất và chất lượng thịt cạnh tranh, phù hợp với điều kiện của Thừa Thiên Huế nói riêng và miền Trung nói chung để từ đó đa dạng hóa giống lợn và tăng tính lựa chọn nhằm phục vụ sản xuất là rất cần thiết. Vì vậy tôi đã tiến hành đề tài luận án “Nghiên cứu khả năng sản xuất của một số tổ hợp lợn lai giữa cái VCN-MS15 với đực ngoại ở Thừa Thiên Huế”

2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI

Nghiên cứu sử dụng giống lợn VCN-MS15 trong lai tạo các tổ hợp lợn lai và đánh giá năng suất sinh sản, năng suất, chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai 1/2, 1/4 giống VCN-MS15 trong điều kiện chăn nuôi tỉnh Thừa Thiên Huế, làm cơ sở khuyến cáo đa dạng hóa giống lợn và sử dụng các tổ hợp lai khác nhau có giống VCN-MS15 để cải thiện năng suất, chất lượng thịt và hiệu quả chăn nuôi lợn ở Thừa Thiên Huế và các tỉnh có điều kiện tương đồng ở miền Trung.

3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN

3.1. Ý nghĩa khoa học

- Kết quả nghiên cứu của đề tài bổ sung thêm tư liệu khoa học về đặc điểm sinh

lý sinh dục và khả năng sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15.

- Đóng góp các kết quả nghiên cứu mới về khả năng sinh trưởng và chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai mới có 1/2 giống VCN-MS15 là F1(Pietrain x VCN-MS15), F1(Duroc x VCN-MS15) và 1/4 giống VCN-MS15 gồm Pietrain x F1(Duroc x VCN- MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15).

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án là cơ sở để cơ quan chuyên môn có thể khuyến cáo, và người chăn nuôi lựa chọn và áp dụng các nhóm nái lai và các tổ hợp lợn lai khác nhau có giống VCN-MS15 vào sản xuất nhằm nâng cao khả năng sinh sản, năng suất, chất lượng thịt và hiệu quả trong chăn nuôi lợn ở Thừa Thiên Huế và miền Trung.

- Làm phong phú thêm tư liệu cho công tác nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh

vực chăn nuôi lợn.

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. LAI GIỐNG VÀ ƯU THẾ LAI

1.1.1. Lai giống và cơ sở lựa chọn phương pháp lai tạo để cải biến khả năng sản xuất của vật nuôi

Lai giống là phương pháp nhân giống bằng cách cho đực giống và cái giống thuộc hai quần thể khác nhau phối giống với nhau, hai quần thể này có thể là hai dòng, hai giống, hai loài khác nhau. Lai giống làm lay động tính bảo thủ di truyền của các cá thể, các dòng, các giống. Thông qua chọn lọc, chọn phối và hiện tượng phối hợp tạo nên những tổ hợp di truyền mới và cũng là cách để làm phong phú thêm các đặc tính di truyền. Lai giống làm cho tần số kiểu gen đồng hợp tử ở thế hệ sau giảm đi, còn tần số kiểu gen dị hợp tử ở thế hệ sau tăng lên. Lai giống là phương pháp chủ yếu làm biến đổi di truyền của quần thể gia súc, nó thường mang lại cho con lai sức sống cao hơn, khỏe mạnh hơn, chống chịu tốt hơn với bệnh tật và các điều kiện bất lợi của môi trường và có sức sản xuất cao hơn trung bình của bố mẹ gọi là ưu thế lai.

Trong sản xuất, để đi đến lựa chọn một hệ thống lai giống hiệu quả nói riêng cũng như chiến lược nâng cao khả năng sản xuất của vật nuôi nói chung, chúng ta cần xem xét các khía cạnh chính sau:

- Mục đích sản xuất của hệ thống chăn nuôi

- Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất chăn nuôi

- Điều kiện sinh thái nơi mà hệ thống chăn nuôi tồn tại

- Nguồn thức ăn cho vật nuôi

- Khả năng sản xuất của vật nuôi

- Tình trạng sức khoẻ vật nuôi

- Khả năng quản lý, trình độ của cơ sở chăn nuôi

Từ phân tích các đặc điểm của hệ thống chăn nuôi, mà người chăn nuôi đưa ra quyết định phương pháp cải biến khả năng sản xuất của vật nuôi bằng con đường chọn lọc, lai tạo, nhập các giống hay thay đổi điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng.

1.1.2. Ưu thế lai

Thuật ngữ ưu thế lai được Shull một nhà di truyền học người Mỹ đề cập đến từ năm 1914, sau đó vấn đề ưu thế lai được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng rãi ở thực vật và động vật. Có thể hiểu ưu thế lai theo nghĩa toàn bộ là hiện tượng con lai giữa

5

các cá thể không cùng nguồn gốc, huyết thống có sức sống cao hơn, khỏe mạnh hơn, sức chống chịu tốt hơn với bệnh tật và các điều kiện bất lợi của môi trường và có sức sản xuất cao hơn mức trung bình của thế hệ bố mẹ. Ưu thế lai là hiện tượng sinh học phức tạp và đã được ứng dụng từ lâu vào sản xuất nông nghiệp. Ưu thế lai được tính bằng % năng suất tăng lên của con lai so với trung bình của bố mẹ chúng.

Trong thực tế, ưu thế lai cũng có thể chỉ biểu hiện theo từng mặt, từng tính trạng một, có khi chỉ một vài tính trạng biểu hiện ưu thế lai còn các tính trạng khác vẫn giữ nguyên như khi chưa lai tạo, thậm chí có tính trạng còn giảm đi. Các tính trạng có hệ số di truyền thấp thường có ưu thế lai cao, vì vậy để cải tiến các tính trạng này, so với chọn lọc, lai tạo là giải pháp nhanh hơn và hiệu quả hơn.

1.1.2.1. Cơ sở di truyền của ưu thế lai

Ưu thế lai trong di truyền học được giải thích bằng các thuyết khác nhau như

thuyết siêu trội, thuyết trội và thuyết tương tác gen.

- Thuyết trội: Các gen có lợi phần lớn là gen trội, giả thiết này cho rằng mỗi bên cha mẹ có những cặp gen trội đồng hợp tử khác nhau. Khi lai giống ở thế hệ F1 sẽ có các gen trội ở tất cả các locus. Nếu bố có kiểu gen AABBCCddeeff và mẹ có kiểu gen aabbccddEEFF thì thế hệ F1 có kiểu gen là: AaBbCcDdEeFf. Do tính trạng số lượng được quyết định bởi nhiều gen, nên xác suất có một kiểu gen đồng hợp hoàn toàn là thấp. Ngoài ra, vì sự liên kết giữa các gen trội và gen lặn trên cùng một nhiễm sắc thể, nên xác suất tổ hợp được kiểu gen tốt nhất cũng thấp.

- Thuyết siêu trội: Hiệu quả của một alen trạng thái dị hợp tử sẽ khác với hiệu quả từng alen ở trạng thái đồng hợp tử và các alen dị hợp tử có tác động lớn hơn các cặp alen đồng hợp tử Aa>AA>aa. Do vậy, kiểu gen dị hợp tử sẽ có khả năng thích nghi tốt hơn với những thay đổi của môi trường.

- Tương tác gen: Lai giống đã hình thành nên các tổ hợp gen mới trong đó có tác

động tương hỗ giữa các alen không cùng locus là nguyên nhân tạo ra ưu thế lai.

Có thể hiểu cơ sở của ưu thế lai là kết quả của sự tăng lên của tần số kiểu gen dị hợp. Khi tần số của kiểu gen dị hợp tăng lên thì giá trị kết hợp của các gen sẽ tăng lên và đó là cũng là cơ sở gốc rễ của ưu thế lai. Khi tần số kiểu gen dị hợp tăng lên thì giá trị ưu thế lai sẽ tăng theo.

1.1.2.2. Hình thức biểu hiện của ưu thế lai

Ưu thế lai có thể có các hình thức biểu hiện sau:

6

- Giá trị trung bình tính trạng của con lai có thể vượt trội so với giá trị tính trạng của một trong hai bố mẹ gốc và trung bình giá trị tính trạng của cả hai bố mẹ gốc. Có thể mô tả bằng sơ đồ sau: H

PP P2 P1 P0

Trong đó:

H: là ưu thế lai tính trạng

P1, P2: là giá trị tính trạng của giống/dòng bố và mẹ

Pp: là giá trị trung bình tính trạng của giống/dòng bố và mẹ

P0: là giá trị trung bình tính trạng của con lai

- Giá trị trung bình tính trạng của con lai có thể vượt trội so với giá trị tính trạng của cả hai bố mẹ gốc và trung bình giá trị tính trạng của cả hai bố mẹ. Có thể mô tả bằng sơ đồ sau:

H

PP P0 P1 P2

- Giá trị trung bình tính trạng của con lai bằng giá trị trung bình tính trạng của

bố và mẹ còn gọi là ưu thế lai trung gian. Có thể mô tả bằng sơ đồ sau:

P2

P1 PP

P0

1.1.2.3. Thành phần ưu thế lai

Chúng ta đã biết rằng thành phần di truyền quyết định đến giá trị của một tính

trạng nào đó bao gồm:

- Thành phần trực tiếp: là thành phần do chính kiểu gen của cá thể đó quy định.

- Thành phần của con mẹ: là thành phần do kiểu gen của con mẹ quy định

thông qua môi trường do con mẹ cung cấp.

7

- Thành phần của con bố: là thành phần do kiểu gen của con bố quy định thông

qua môi trường do con bố cung cấp.

Tỷ lệ thụ thai là một ví dụ điển hình về cả 3 thành phần di truyền: Thành phần trực tiếp: khả năng sống của hợp tử do kiểu gen của hợp tử quy định; thành phần con mẹ: do môi trường tử cung, khả năng mang thai; thành phần con bố: chính là khả năng thụ tinh của tinh trùng.

Mỗi thành phần di truyền như vậy đều có khả năng cho ưu thế lai và ta gọi là ưu thế lai cá thể (Individual Heterosis - IH), ưu thế lai con mẹ (Maternal Heterosis - MH) và ưu thế lai con bố (Parental Heterosis - PH). Mục đích của mọi hệ thống giao phối là tận dụng triệt để cả ba thành phần ưu thế lai trên.

1.1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến ưu thế lai

- Công thức lai

Ưu thế lai đặc trưng cho mỗi công thức lai. Theo Trần Đình Miên và cs (1994) [49], mức độ ưu thế lai đạt được có tính cách riêng biệt cho từng cặp lai cụ thể. Theo Trần Kim Anh (2000) [2], ưu thế lai của lợn nái ảnh hưởng đến số con/ổ và tốc độ sinh trưởng của lợn con theo mẹ.

Ưu thế lai cá thể ảnh hưởng đến sinh trưởng và sức sống của lợn con, đặc biệt ở giai đoạn sau cai sữa. Ưu thế lai của bố thể hiện tính hăng của con đực, kết quả phối giống, tỷ lệ thụ thai. Khi lai hai giống, số lợn con cai sữa/nái/năm tăng 5 - 10%, khi lai 3 giống hoặc lai số lợn con cai sữa/nái/năm tăng tới 10 - 15%, số lợn con cai sữa/ổ nhiều hơn 1,0 - 1,5 con và khối lượng cai sữa/con tăng được 1 kg ở 28 ngày tuổi so với giống thuần [111].

Nghiên cứu của McLaren và cs (1987) [172], về ưu thế lai cá thể và ảnh hưởng của giống ở các giống lợn Duroc, Landrace, Yorkshire, Pietrain đối với các tính trạng sinh trưởng và chất lượng thịt cho thấy: con lai F1 giữa đực và cái của các giống trên có chỉ tiêu tăng khối lượng hằng ngày cao hơn, tuổi đạt đến khối lượng 91 kg ở con cái và 100 kg ở con đực sớm hơn so với bố mẹ thuần, đạt ưu thế lai tương ứng là 10,5% và - 7,5% ở hai tính trạng trên.

Ở Việt Nam, Nguyễn Hữu Tỉnh và cs (2015) [70], cũng đã báo cáo về ưu thế lai của tính trạng tăng khối lượng ở các tổ hợp lai giữa giống Du x Pi; Pi x Du; Du x (Pi x Du); Pi x (Du x Pi) trong giai đoạn 20 -100 kg lần lượt là: 5,1; 4,5; 1,4; 2,7 %; độ dày mỡ lưng là -2,8; -3,9; -0,4; 2,0 và hệ số chuyển hoá thức ăn là: -2,7; -2,0; 0,0; 0,2.

- Tính trạng

Ưu thế lai phụ thuộc vào tính trạng, các tính trạng khác nhau thì có mức độ di truyền khác nhau. Những tính trạng liên quan đến khả năng nuôi sống và khả năng

8

sinh sản có hệ số di truyền thấp thường có ưu thế lai cao. Vì vậy, để cải tiến các tính trạng này, so với chọn lọc, lai giống là một biện pháp nhanh hơn và hiệu quả hơn.

- Sự khác biệt giữa bố và mẹ

Ưu thế lai phụ thuộc vào sự khác biệt giữa hai giống đem lai, hai giống càng khác xa nhau về di truyền thì ưu thế lai thu được càng lớn. Lasley (1974) [40], cho biết: nếu các giống hay các dòng đồng hợp tử đối với một tính trạng nào đó thì mức độ dị hợp tử sẽ giảm dần.

- Điều kiện nuôi dưỡng: trong điều kiện nuôi dưỡng kém thì ưu thế lai có được

sẽ thấp, ngược lại trong điều kiện nuôi dưỡng tốt thì ưu thế lai có được sẽ cao.

1.1.2.5. Ứng dụng của lai tạo trong chăn nuôi và một số phương pháp lai tạo trong chăn nuôi lợn

Bằng phương pháp chọn lọc và nhân giống thuần chủng sẽ nâng cao được năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên tiến bộ di truyền do chọn lọc thường chậm và chỉ có hiệu quả khi tính trạng được chọn lọc có hệ số di truyền cao. Muốn tiếp tục nâng cao năng suất ngoài chọn giống phải tiến hành lai tạo để có tổ hợp gen mới. Trong chăn nuôi nói chung, chăn nuôi lợn nói riêng, thường sử dụng lai tạo để thay đổi đặc điểm di truyền của các giống vật nuôi đã có hoặc tạo ra giống mới nhằm mục đích cải tiến di truyền và đạt hiệu quả kinh tế cao. Như vậy chọn lọc thuần chủng và lai giống là hai quá trình diễn biến liên tục, hỗ trợ nhau và tạo ra năng suất chăn nuôi cao hơn.

Lai tạo nhằm mục đích tạo giống: Có 3 phương pháp lai

Lai cải tạo: Là phương pháp sử dụng một giống cao sản, tốt hơn nhiều mặt, cho giao phối với một giống kém hơn để cải tạo giống sau. Khi cần cải tạo một giống nào đó không đáp ứng được yêu cầu trong sản xuất thì có thể dùng phương pháp lai cải tạo. Trong chăn nuôi lợn, thường người ta dùng một giống lợn có năng suất cao để cải tạo một giống địa phương có năng suất thấp, qua nhiều thế thệ cho đến khi con lai đáp ứng được mục tiêu lúc đó mới cho tự giao để cố định phần giống.

Lai cải tiến: Khi chúng ta có một giống lợn đã khá hoàn chỉnh đã có được nhiều đặc điểm tốt, tuy nhiên vẫn còn một vài đặc điểm chưa tốt cần phải cải tiến để giống lợn trở nên hoàn thiện theo yêu cầu của con người. Trong trường hợp này người ta chọn một giống có các đặc điểm tốt (giống đi cải tiến) tương phản với các đặc điểm chưa tốt của giống ta có để cho lai với giống ta đang có (giống bị cải tiến). Giống đi cải tiến chỉ được dùng một lần để tạo ra con lai thế hệ thứ nhất (F1), sau đó người ta cho con nái lai F1 lai trở lại với giống bị cải tiến một hoặc nhiều lần, đồng thời ta phải tiến hành kiểm tra đánh giá các tính trạng đang muốn cải tiến, chọn lọc những cá thể đạt yêu cầu đề ra. Khi nào các tính trạng cần cải tiến đạt yêu cầu thì ngừng việc lai, tiến hành cho tự giao để cố định tính trạng đến khi các con mới đã có tính ổn định thì

9

nhân rộng chúng ra. Trong giống cải tiến thì tỷ lệ máu của giống đi cải tiến thường thấp (chỉ 1/4 đến 1/8) giống bị cải tiến là 3/4 - 7/8.

Lai gây thành: Là một phương pháp lai sử dụng nhiều giống tốt phối hợp lại để tạo nên giống mới có các tính trạng tốt hơn các giống gốc tham gia. Trong phép lai này người ta sử dụng nhiều hơn hai giống cho lai tạo với nhau (có thể là 3, 4 giống hay nhiều giống hơn nữa). Người ta lần lượt cho các giống tham gia vào tổ hợp lai, mỗi giống có thể được tham gia một, hai hay nhiều lần trong quá trình lai. Trong quá trình lai người ta theo dõi/kiểm tra các sản phẩm tạo ra để chọn lọc lấy những cá thể đạt yêu cầu để tiếp tục lai cho đến khi có được một tổ hợp lai như ý muốn. Đến đây người ta ngừng công việc lai, tiến hành chọn lấy các cá thể tốt cho chúng tự giao với nhau để cố định các đặc điểm/tính trạng và hình thành giống mới.

Lai tạo nhằm mục đích kinh tế

Là việc cho các cá thể đực và cái của các giống, dòng khác nhau cho giao phối với nhau, các con lai sinh ra được đem nuôi thương phẩm (mục đích nuôi thịt), không giữ lại làm giống người ta gọi là lai kinh tế.

- Phương pháp lai kinh tế đơn giản (lai giữa 2 giống hoặc 2 dòng): Lai kinh tế đơn giản: là lai giữa hai cá thể của hai giống hoặc hai dòng. Lai kinh tế đơn giản có ưu điểm là đơn giản, dễ tiến hành, ở ngay thế hệ F1 tất cả con lai đều được sử dụng vào mục đích kinh tế (nuôi lấy thịt) để tận dụng ưu thế lai. Công thức phổ biến nhất là cho một giống nội (thường là con cái) lai với một giống ngoại (thường là con đực) thế hệ con sinh ra (F1) có ưu thế lai cao để nuôi lấy thịt.

- Lai kinh tế phức tạp (lai 3, 4 giống hoặc lai 3, 4 dòng): Lai kinh tế phức tạp là lai giữa ba giống, dòng trở lên. Người ta tiếp tục cho lai thế hệ con cái của các phép lai kinh tế đơn giản hơn với các giống khác để tạo ra con lai mang nhiều máu của nhiều giống khác nhau. Lai kinh tế phức tạp lợi dụng triệt để ưu thế lai ở nái lai F1 để khắc phục nhược điểm của lai kinh tế đơn giản, lợi dụng được ưu thế lai từ các giống dòng khác nhau.

Hiện nay trong chăn nuôi lợn ở các nước trên thế giới cũng như ở nước ta tùy theo yêu cầu sản phẩm thịt lợn và điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà áp dụng các công thức lai khác nhau.

1.2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG SUẤT SINH SẢN VÀ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI

1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái

Hiệu quả của chăn nuôi lợn nái sinh sản được đánh giá bằng số lợn con cai sữa/nái/năm và tổng khối lượng lợn con cai sữa/nái/năm. Hai chỉ tiêu này phụ thuộc

10

vào tuổi thành thục về tính, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra, số lứa đẻ/năm, tỷ lệ nuôi sống lợn con theo mẹ, sản lượng sữa của mẹ, khối lượng cai sữa của lợn con, kỹ thuật nuôi dưỡng chăm sóc… Chính vì vậy việc cải tiến để nâng cao số lợn con cai sữa, khối lượng lợn con lúc cai sữa là một trong những biện pháp làm tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản nói chung và sản xuất lợn con nói riêng. Bên cạnh đó nhất thiết phải làm giảm khoảng cách giữa hai lứa đẻ bằng cách cai sữa sớm lợn con và làm giảm số ngày động dục trở lại sau cai sữa của lợn mẹ ở những lứa kế tiếp.

Ở nước ta theo tiêu chuẩn nhà nước TCVN - 1280 - 81 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 2003b) [5], các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái giống nuôi tại các cơ sở công nghiệp bao gồm:

- Thời gian mang thai (ngày)

- Số con sơ sinh (con/ổ)

- Số con sơ sinh sống (con/ổ)

- Khối lượng sơ sinh (kg/con)

- Số con để nuôi (con/ổ)

- Số lợn con sống đến 21 ngày tuổi (con/ổ)

- Số lợn con sống đến cai sữa (con/ổ)

- Khối lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi (kg/con)

- Khối lượng lợn con lúc cai sữa (kg/con)

- Tỷ lệ hao mòn lợn mẹ (%)

- Thời gian động dục trở lại sau cai sữa (ngày)

- Khoảng cách lứa đẻ (ngày)

- Số lứa đẻ/năm (lứa)

- Số lợn con cai sữa/nái/năm (con)

- Số kg lợn con cai sữa/nái/năm (kg)

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái

Năng suất sinh sản của lợn nái chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, nó không chỉ được quyết định bởi lợn nái mà còn chịu tác động của rất nhiều yếu tố bên ngoài. Những yếu tố bên ngoài vừa liên quan trực tiếp đến lợn nái lại vừa liên quan đến lợn con.

1.2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố di tryền

- Giống lợn

Giống lợn có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái. Giữa các dòng, giống lợn có sự khác nhau về tuổi thành thục, sức sản xuất. Gia súc có tầm vóc nhỏ thì sự thành thục về tính thường sớm hơn gia súc có tầm vóc lớn. Lợn nội thành

11

thục về tính thường sớm hơn lợn ngoại. Sự thành thục về tính ở lợn cái được định nghĩa là thời điểm rụng trứng lần đầu tiên và xảy ra lúc 3 - 4 tháng tuổi đối với các giống lợn thành thục sớm (các giống lợn nội Việt Nam và một số giống lợn Trung Quốc) và 6 - 7 tháng tuổi đối với hầu hết các giống lợn phổ biến ở các nước phát triển [190]. Giống lợn Meishan có tuổi thành thục về tính sớm, năng suất sinh sản cao và chức năng làm mẹ tốt. So với giống lợn Large White lợn Meishan đạt tuổi thành thục về tính sớm hơn khoảng 100 ngày và có số con đẻ ra nhiều hơn từ 2,4 - 5,2 con trên lứa [114]. Một số đặc điểm sinh học, khả năng sinh sản của lợn Meishan tại Anh cho thấy đây là giống lợn có khả năng sinh sản tốt: số vú là 17,3; số lượng trứng rụng là 18,9; tỷ lệ con sống trước khi đẻ là 71%; số lượng lợn con đẻ ra sống là 13,2 con/ổ; khối lượng sơ sinh là 0,93 kg/con [88].

Theo Lê Đình Phùng và cs (2011) [60], khi nghiên cứu trên đàn nái Landrace, Yorkshire và F1(Landrace x Yorkshire) cho biết giống đã ảnh hưởng đến hầu hết các tính trạng sinh sản như tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, số con sơ sinh, số con sơ sinh sống.

Theo tác giả Đoàn Phương Thuý và cs (2015) [90], khi đánh giá năng suất sinh sản, đối với đàn nái cụ kỵ của Công ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Lợn Giống Hạt Nhân Dabaco cho rằng giống có ảnh hưởng đến hầu hết các tính trạng sinh sản.

Các chỉ tiêu sinh sản thường có hệ số di truyền thấp, tuổi đẻ lứa đầu có hệ số di truyền h2 = 0,27 [192], hệ số di truyền cộng gộp đối với tính trạng số con đẻ ra/ổ và số con cai sữa/ổ của một số công bố đều dao động từ 0,03 đến 0,12: số con đẻ ra/lứa với h2 = 0,09 [168], và h2 = 0,12 [193], số con cai sữa/ổ có h2 = 0,11 [193].

Khối lượng sơ sinh/ổ với h2 = 0,07 [128], và h2 = 0,18 [193], khối lượng sơ sinh/con có h2 = 0,44 [193], khối lượng cai sữa/ổ có h2 = 0,20 [128], h2 = 0,21 [168], và h2 = 0,22 [193], khoảng cách giữa hai lứa đẻ với h2 = 0,08 [192]. Các chỉ tiêu sinh sản có hệ số di truyền thấp nên năng suất sinh sản chịu ảnh hưởng lớn bởi tác động của các yếu tố môi trường.

- Lai giống và ưu thế lai

Đánh giá ảnh hưởng của lai giống đối với năng suất sinh sản, nhiều tác giả cho biết nhờ có ưu thế lai cao mà lai giống có thể cải thiện năng suất sinh sản của lợn. Các lợn nái lai có tuổi thành thục về tính sớm hơn (11,3 ngày), tỷ lệ thụ thai cao hơn (2 - 4%), số trứng rụng nhiều hơn (0,5 trứng), số con đẻ ra/ổ cao hơn (0,6 - 0,7 con) và số con cai sữa/ổ (0,8 con) nhiều hơn so với lợn nái thuần chủng. Tỷ lệ nuôi sống lợn con ở các lợn nái lai cao hơn (5%), khối lượng sơ sinh/ổ (1 kg), khối lượng 21 ngày/ổ (4,2 kg) cao hơn so với lợn nái giống thuần [130].

Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2011) [66], cho biết các loại lợn nái khác

12

nhau có ảnh hưởng rõ rệt đến các chỉ tiêu số con đẻ ra, số con để nuôi, tỷ lệ nuôi sống tới cai sữa, khối lượng sơ sinh và khối lượng cai sữa.

Theo Lê Đình Phùng và cs (2011) [60], lợn nái lai F1(Landrace x Yorkshire) có khả năng sinh sản tốt hơn lợn nái Landrace và Yorkshire; tính trạng tổng hợp số kg lợn con/nái/năm tương ứng là: 146,5 so với 142,2 và 140,6 kg/nái/năm; giá trị ưu thế lai là 3,53%.

Nhiều năm qua, chương trình lai tạo các giống lợn của các nước phương Tây đã sử dụng lợn Meishan để nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái với việc khai thác tối đa ưu thế lai của con mẹ trong các tổ hợp lai có giống Meishan [152]. Điều đặc biệt là ưu thế lai giữa lợn Meishan và các giống lợn trắng của châu Âu cao hơn khi lai giữa các giống lợn trắng Châu Âu với nhau [174].

- Kiểu gen

RNF4 (the ring finger protein 4 gene) đóng vai trò phát triển tế bào mầm của

bào thai trong trứng [140].

Properdin có chức năng sinh lý quan trọng trong sinh sản như phát triển biểu

mô của tử cung [134].

Hoạt tính FUT1 (alpha-1,2fucosyltransferase) liên quan với lượng estrogen và

progesteron [115].

Chính vì vậy các RNF4, properdin, FUT1 được chọn lọc như là ứng cử gen về số con sơ sinh của lợn. Phân tích đa hình các gen này có mối liên kết với số con sơ sinh sống của lợn đã được nghiên cứu trong một số công trình.

Niu và cs (2009) [183], phân tích đa hình gen PNF4 trong quần thể lợn nái cho thấy lợn mang kiểu gen CC có số con sơ sinh sống cao hơn đáng kể so với lợn mang kiểu gen TT.

Buske và cs (2005) [105], phân tích mối liên quan của các kiểu gen properdin với số con sơ sinh của quần thể lợn thương phẩm cho thấy lợn mang kiểu gen BB có tổng số con sơ sinh và số con sơ sinh sống cao hơn so với lợn mang kiểu gen AA.

Horák và cs (2005) [142], phân tích các kiểu gen FUT1 và ESR cho thấy lợn nái

mang kiểu FUT1A/FUT1A có số con sơ sinh thấp nhất.

1.2.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh

- Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng

Chế độ dinh dưỡng: Là một trong những yếu tố ngoại cảnh quan trọng tác động đến năng suất sinh sản, làm thế nào để có chế độ ăn phù hợp đối với lợn nái, đảm bảo làm tăng tính dục, tăng số lượng trứng rụng và sự phát triển của phôi thai để có số con

13

đẻ ra cao và khối lượng sơ sinh cao.

+ Ảnh hưởng của năng lượng

Năng lượng là yếu tố cần thiết cho mọi hoạt động sống của cơ thể. Việc cung cấp năng lượng theo nhu cầu của lợn nái cho từng giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng, vừa đảm bảo cho sinh lý bình thường và nâng cao được năng suất sinh sản.

Nếu cung cấp thừa hay thiếu năng lượng đều không tốt. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh sản của lợn nái. Cung cấp thừa năng lượng trong thời gian mang thai sẽ làm cho lợn nái béo gây chết phôi, đẻ khó và sau khi đẻ sẽ kém ăn làm giảm khả năng tiết sữa đặc biệt là sữa đầu, từ đó ảnh hưởng đến sức sống cũng như sự phát triển của đàn con. Mặt khác làm cho lợn con có tỷ lệ ỉa chảy cao do sữa nhiễm mỡ. Nếu cung cấp thiếu năng lượng cho lợn nái trong giai đoạn mang thai sẽ làm cho lợn nái quá gầy, không đảm bảo cho quá trình sinh trưởng và phát triển của thai. Nếu thiếu trầm trọng có thể dẫn đến tiêu thai, sẩy thai. Theo tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi – thức ăn hỗn hợp cho lợn [8], khuyến cáo thì mức năng lượng trong khẩu phần cho lợn nái mang thai tối thiểu là 2800 Kcal ME/kg thức ăn, lợn nái nuôi con tối thiểu là 3000 Kcal ME/kg thức ăn

+ Ảnh hưởng của protein

Protein và axít amin đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sinh sản của lợn nái. Nếu cung cấp thừa hay thiếu protein đều ảnh hưởng tới sinh sản của lợn nái. Nếu thiếu ở giai đoạn mang thai sẽ làm khối lượng sơ sinh thấp, số con đẻ ra ít, thể trạng yếu ớt. Ở giai đoạn nuôi con sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng sữa từ đó ảnh hưởng đến khả năng nuôi con của lợn mẹ. Nếu cung cấp protein thừa ở giai đoạn mang thai sẽ làm tăng tỷ lệ thai chết, gây lãng phí protein, không đem lại hiệu quả kinh tế.

Pettigrew và Yang (1997) [188], báo cáo rằng cung cấp đầy đủ các axít amin và protein trong quá trình mang thai lợn nái sẽ duy trì năng suất sinh sản, hàm lượng protein trong khẩu phần lợn nái nuôi con phù hợp có thể tối đa hóa sản xuất sữa và năng suất sinh sản lứa tiếp theo. Theo tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi – thức ăn hỗn hợp cho lợn [8], thì hàm lượng protein thô trong khẩu phần cho lợn nái mang thai tối thiểu là 13%, lợn nái nuôi con là 15%. Theo NRC (1998) [179], đề nghị mức protein thô trong khẩu phần lợn nái hậu bị và mang thai là 12,9% (với giống lợn nái có khối lượng trung bình 125 kg). Tuy nhiên, đối với lợn nái có khối lượng và sản lượng sữa cao, đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao hơn để sinh trưởng và chu kỳ sinh sản bình thường [106]. Hàm lượng protein có trong khẩu phần thức ăn tùy thuộc vào từng giai đoạn nuôi dưỡng của lợn nái.

Tăng mức protein trong khẩu phần lợn nái mang thai không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu số con/ổ nhưng lại có ảnh hưởng rõ rệt đến khối lượng 21 ngày của nái

14

lứa đầu [146]. Mặt khác, chế độ cho ăn phù hợp với từng giai đoạn cũng ảnh hưởng tới năng suất của lợn nái. Theo Hughes và cs (1980) [143], lợn nái hậu bị tăng mức ăn trước phối giống 10 ngày số trứng rụng nhiều hơn 1,6 trứng, từ 12 – 14 ngày số trứng rụng tăng 3,1 trứng. Tác giả khuyến cáo rằng lợn hậu bị trước khi động dục lần đầu đến khi phối giống (chu kỳ 2), tăng mức ăn lên 3 kg thức ăn/con/ngày bằng thức ăn của loại lợn choai hay nái nuôi con. Theo Nguyễn Tấn Anh (1998) [1], trước phối giống 14 ngày cho ăn chế độ kích dục, tăng lượng thức ăn 1,0 – 1,5 kg thức ăn có bổ sung khoáng, sinh tố sẽ làm tăng số trứng rụng từ 2,0 – 2,1 trứng, (điều chỉnh mức ăn để khối lượng đạt 120 – 140 kg ở chu kỳ động dục lần thứ ba và được phối giống).

+ Ảnh hưởng của khoáng chất

Trong khẩu phần thức ăn của lợn nái không những phải cung cấp đầy đủ Ca và P mà phải cung cấp đầy đủ Vitamin D và có sự cân bằng giữa Ca và P, điều này rất cần thiết cho quá trình hấp thu Ca và P. Thiếu Ca và P ảnh hưởng rất lớn tới lợn nái, đặc biệt trong giai đoạn mang thai, trong giai đoạn mang thai lợn mẹ cần rất nhiều Ca và P để cung cấp cho quá trình tạo mô xương của bào thai. Khi bị thiếu cơ thể mẹ huy động Ca và P trong các mô xương ra, do đó hệ xương của cơ thể mẹ bị loãng và yếu dẫn đến lúc đẻ và sau đẻ lợn nái dễ bị bại liệt. Ngược lại nếu thừa Ca và P cũng ảnh hưởng đến lợn nái và gây ra một số bệnh như sỏi thận, gây lắng đọng Ca ở phủ tạng, thừa Ca và P làm tăng nhu cầu Zn và vitamin K và cản trở sự hấp thụ P. Nhu cầu Ca, P phụ thuộc vào từng giai đoạn của quá trình mang thai, bào thai chủ yếu phát triển vào giai đoạn cuối của thời kỳ mang thai. Trong giai đoạn này cần lượng Ca, P lớn nhất. Trong giai đoạn nuôi con lượng Ca, P còn phụ thuộc vào lượng sữa tiết ra trong ngày.

+ Ảnh hưởng của vitamin

Vitamin có vai trò quan trọng trong việc điều hòa các hoạt động sinh lý của cơ thể. Thiếu vitamin A dẫn đến chết phôi, chết non, thai phát triển kém, sẩy thai, khô mắt. Thiếu vitamin D cũng như thiếu Ca, P thì lợn con đẻ ra còi cọc, lợn nái sẽ bị bại liệt trước và sau đẻ, chất lượng sữa và số lượng sữa cũng kém. Thiếu vitamin B1 dẫn tới hiện tượng thần kinh yếu, co giật, bại liệt tứ chi. Thiếu vitamin C làm giảm sức đề kháng của cơ thể, vi khuẩn dễ xâm nhập và gây bệnh. Thiếu vitamin E có hiện tượng chết phôi, chết thai, trứng rụng ít dẫn đến số con đẻ ra ít, ngoài ra còn gây bệnh trắng cơ.

Nếu bổ sung vitamin thừa cũng là liều thuốc độc cho cơ thể. Ví dụ, thừa vitamin A sẽ gây ảnh hưởng hấp thu vitamin E gây cho lợn không động dục hay động dục kém, thai phát triển kém. Thừa vitamin D thì sẽ bị vôi hóa tim, phổi và thận.

Bổ sung vitamin E trong khẩu lợn nái mang thai làm tăng số con sơ sinh/ổ và giảm tỷ lệ chết trước cai sữa của lợn con [169]. Bổ sung Vitamin E ở lợn nái mang

15

thai và nuôi con đã nâng cao năng suất sinh sản cụ thể rút ngắn thời gian động dục trở lại, khoảng cách lứa đẻ và tăng số con sơ sinh/ổ, số con con sống và số con cai sữa/ổ [201].

- Ảnh hưởng của tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ chết phôi

+ Tỷ lệ thụ tinh: ảnh hưởng của con đực và phương thức phối giống, kỹ thuật phối giống đến tỷ lệ thụ tinh, chọn thời điểm phối giống thích hợp sẽ làm tăng số con/ổ. Cho phối giống quá sớm hay quá muộn tỷ lệ thụ thai và số con/ổ giảm sút, nếu tiến hành phối giống kép sẽ làm tăng tỷ lệ thụ tinh. Thụ tinh nhân tạo có thể làm giảm tỷ lệ thụ thai từ 10 - 20% so với phối giống trực tiếp do phát hiện thời điểm rụng trứng không chính xác.

Tỷ lệ thụ tinh của các trứng rụng trong chu kỳ động dục của lợn nái chủ yếu phụ thuộc vào thời điểm phối giống. Thời điểm phối giống thích hợp nhất không phải có khoảng cách dài mà chỉ ở một biên độ thời gian nhất định. Thời gian động dục kéo dài 5 -7 ngày, nhưng thời gian chịu đực chỉ khoảng 2,5 ngày. Muốn nâng tỷ lệ thụ thai phải nắm được thời điểm rụng trứng và quãng thời gian trứng rụng, phối tinh quá sớm hoặc quá muộn đều dẫn đến kết quả thụ tinh không cao. Thời điểm phối tinh thích hợp cho lợn nái sinh sản là phối trước 6-12 giờ trước khi trứng rụng, tương ứng khoảng từ 24 – 36 giờ tính từ 0 giờ chịu đực.

+ Tỷ lệ chết phôi: Bên cạnh sự rụng trứng và tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ chết phôi ảnh hưởng sâu sắc đến số con/ổ. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng sự chết phôi xảy ra mọi giai đoạn mang thai vì vậy nó tác động sâu sắc đến số con/ổ [189]. Tỷ lệ chết phôi trong giai đoạn 30 ngày đầu mang thai khoảng 20 đến 30%. Trong suốt quá trình phát triển của bào thai khoảng 10-20%. Sau khi phối giống có kết quả, giai đoạn 9 - 13 ngày phôi làm tổ ở sừng tử cung, đây là giai đoạn phôi chết nhiều nhất. Đây còn được gọi là pha khủng hoảng về sự phát triển của phôi và phần lớn phôi chết diễn ra trong giai đoạn này. Để cải thiện chỉ tiêu số con/ổ bằng cách tối thiểu sự mất mát này. Để làm được điều này cần rất nhiều điều kiện như dinh dưỡng, chăm sóc và quản lý nái tốt... Ngoài ra yếu tố gen cũng có ảnh hưởng lớn tới chỉ tiêu này [189]. Meishan là giống lợn được biết đến nổi tiếng với khả năng sinh sản cao [132]. So với các giống lợn Tây Âu, số con/ổ cao hơn 3,6 (con) [101]. Theo Haley và cs (1995) [133], chỉ tiêu số con/ổ của lợn Meishan là thuộc về kiểu gen của con mẹ. Vì vậy kiểu gen của lợn con không ảnh hưởng đến số con/ổ. Haley và cs (1995) [133], tìm thấy tỷ lệ trứng rụng của lợn Meishan cao hơn 5 tế bào trứng so với các giống lợn trắng Châu Âu. Mặc dù một số nghiên cứu khác cho rằng tỷ lệ trứng rụng và tỷ lệ thụ tinh ở lợn Meishan và Yorkshire là tương đương nhau [120]. Vì vậy tỷ lệ chết phôi thấp là nguyên nhân làm tăng khả năng sinh sản của lợn Meishan.

- Ảnh hưởng của tuổi và lứa đẻ

16

Tuổi và lứa đẻ đều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ. Lợn nái kiểm định có tỷ lệ đẻ thấp hơn so với lợn nái sinh sản. Số lượng trứng rụng thấp nhất ở chu kỳ động dục thứ nhất, tăng dần ở chu kỳ động dục thứ hai và đạt tương đối cao ở chu kỳ động dục thứ ba. Để tiến hành phối giống lần đầu thì lợn nái hậu bị phải thành thục cả về tính và phải đạt được khối lượng nhất định. Nếu khối lượng phối giống lần đầu quá sớm hay quá muộn, đều ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái. Nếu lợn hậu bị đưa vào khai thác quá sớm cơ thể phát triển chưa hoàn thiện thì số trứng rụng ít, tỷ lệ thụ thai kém. Hơn nữa nó còn ảnh hưởng đến phát triển thể chất, tầm vóc sau này. Nếu lợn hậu bị đưa vào khai thác muộn, thời gian sử dụng lợn sẽ bị rút ngắn, giảm hiệu quả kinh tế.

Lứa đẻ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái vì có sự khác nhau về chức năng theo tuổi của lợn nái. Khả năng sinh sản của lợn nái thường thấp nhất ở lứa đẻ thứ nhất, đạt cao nhất ở lứa đẻ thứ 3, 4, 5 sau đó giảm dần khi lứa đẻ tăng lên. Lợn nái kiểm định có tỷ lệ đẻ thấp hơn lợn nái cơ bản. Sự thay đổi này liên quan đến số lượng trứng rụng trong một chu kỳ, bằng kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng có thể kéo dài thành tích sinh sản từ lứa thứ 6 – 10. Đinh Văn Chỉnh và cs (2001) [15], nghiên cứu trên đàn lợn nái sinh sản Landrace và Yorkshire từ lứa đẻ thứ 1 đến lứa đẻ thứ 6 cho biết, số lợn con đẻ ra ở lứa đẻ thứ 1 là thấp nhất, sau đó tăng dần từ lứa đẻ thứ 2 và đạt giá trị cao nhất ở lứa đẻ thứ 5, ở lứa đẻ thứ 6 trở lên chỉ tiêu này giảm dần. Theo tác giả Lê Đình Phùng và Phan Hữu Tuần (2008) [56], thì lứa đẻ có ảnh hưởng lớn đến số con sơ sinh, số con sống đến 24 giờ, số con cai sữa/ổ, thời gian từ cai sữa đến phối lại có kết quả, khoảng cách lứa đẻ và hệ số lứa đẻ ở lợn nái Móng Cái nuôi tại Thừa Thiên Huế. Serenius và cs (2002) [194], theo dõi đàn nái Landrace và Large White qua 5 lứa đẻ đã nhận xét, số con sơ sinh/ổ tăng dần từ lứa 1 đến lứa 5.

- Thời gian cai sữa

Thời gian động dục trở lại sau cai sữa không giống nhau giữa các giống. Theo Nguyễn Thiện và Hoàng Kim Giao (1996) [86], cai sữa sớm không đi liền với động dục sớm và ngược lại, cai sữa càng sớm thì khoảng cách từ cai sữa tới ngày động dục càng dài, rụng trứng ít. Cai sữa vào 10 ngày có thời gian động dục trở lại là 14,7 ngày; cai sữa 28 ngày động dục trở lại sau 12,20 ngày, cai sữa 50 ngày thì động dục trở lại 6 ngày và số trứng rụng 15 - 16 trứng. Tác giả cho rằng tốt nhất là cai sữa lợn con từ 21 - 28 ngày tuổi. Lợn nái cai sữa ở 28 - 35 ngày, thời gian động dục trở lại 4 - 5 ngày có thể phối giống và có thành tích sinh sản tốt [111]. Nếu giảm thời gian cai sữa từ 20 ngày xuống 15 ngày thì có thể làm giảm 0,2 con lứa ở lứa tiếp theo [127].

- Mùa vụ

Mùa vụ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái. Lợn

nái phối giống vào các tháng nóng có tỷ lệ thụ thai thấp, làm tăng số lần phối giống,

17

giảm khả năng sinh sản. Nhiệt độ cao làm tăng tỷ lệ lợn nái không động dục, giảm tỷ

lệ thụ thai, giảm khả năng sống của thai. Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ ảnh hưởng của

stress nhiệt đến khả năng sinh sản của lợn nái. Stress nhiệt có thể làm giảm tỷ lệ thụ

thai tới 20%, giảm số phôi sống 20% và do đó làm giảm thành tích sinh sản của lợn nái

(Peltoniemi và cs, 2000) [186]. Số con đẻ ra/ổ khi phối giống vào mùa hè có thể ít hơn

một con so với khi phối giống vào mùa thu, mùa đông (Peltoniemi và cs 2000) [186].

Mùa có nhiệt độ cao là nguyên nhân làm kết quả sinh sản ở lợn nái nuôi chăn thả thấp,

tỷ lệ chết ở lợn con cao (Akos và cs 2004) [95]. Theo Quiniou và cs. (2000) [185].,

nhiệt độ cao làm lợn nái thu nhận thức ăn thấp, tăng tỷ lệ hao mòn lợn mẹ và tỷ lệ

động dục trở lại sau cai sữa giảm.

- Ảnh hưởng của bệnh

Năng suất sinh sản của lợn có thể bị ảnh hưởng do các loại bệnh. Những ảnh hưởng có thể kể ra là không lên giống, tỷ lệ mang thai giảm, không mang thai, sẩy thai, đẻ non, chết khô, chết lưu, số lợn con đẻ ra giảm, chết sau khi đẻ, lợn con còi cọc với các triệu chứng và nguyên nhân đa dạng. Do nguyên nhân gây bệnh đa dạng nhưng có thể chia làm hai loại bệnh: một loại có thể lây nhiễm và một loại không lây nhiễm.

Bệnh lây nhiễm: Bệnh do Parvovirus, bệnh tai xanh (PRRS), bệnh giả dại, bệnh

sẩy thai truyền nhiễm trên lợn, bệnh đo xoắn khuẩn (Leptospirosis)…

Các nguyên nhân không lây nhiễm: các chất độc tố, các loại hóa chất như thuốc sát trùng, chất bảo quản, hóc-môn, vắc-xin có thể gây tác dụng phụ ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của lợn. Các loại độc tố nấm mốc như zearalenone (F-2 toxin) ảnh hưởng tới nái. Các bệnh ở buồng trứng: chậm tăng trưởng buồng trứng; u nang buồng trứng; lợn bị stress…

Tóm lại khả năng sản xuất của lợn nái phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống lợn nái, đực giống phối với lợn nái, phương thức phối, mùa vụ, điều kiện chuồng trại, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, tuổi phối giống, khối lượng phối giống lần đầu, thời gian động dục lại sau cai sữa… Trong thực tiễn sản xuất, tùy theo thực trạng của các cơ sở sản xuất, địa phương để có các giải pháp phù hợp để nâng cao sức sản xuất của đàn lợn nái sinh sản.

1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỨC SẢN XUẤT, CHẤT LƯỢNG THỊT VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG

1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất, chất lượng thịt

1.3.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất thịt

Các chỉ tiêu quan trọng đánh giá sức sản suất thịt trong chăn nuôi lợn được các

nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến bao gồm:

18

- Tăng khối lượng/ngày nuôi (g/con/ngày)

- Lượng thức ăn ăn vào (kg/con/ngày)

- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng (kg)

- Tỷ lệ móc hàm (%)

- Tỷ lệ thịt xẻ (%)

- Tỷ lệ nạc (%)

- Độ dày mỡ lưng (mm)

- Diện tích cơ thăn (cm2)

1.3.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thịt

Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thịt. Theo Baas (2000) [97], các chỉ

tiêu thường được sử dụng để đánh giá chất lượng thịt là:

- pH sau giết mổ

- Khả năng giữ nước (%)

- Màu sắc thịt

- Mỡ giắt (Intramuscular Fat - IMF) (%)

- Lực cắt của thịt (N)

Các chỉ tiêu này có vai trò quan trọng vì liên quan đến tính hấp dẫn, vị ngon, độ

mềm của thịt, sự bảo quản và chế biến sản phẩm.

Ngoài ra, còn có các chỉ tiêu hóa học để đánh giá chất lượng dinh dưỡng của

thịt như:

- Hàm lượng vật chất khô (%)

- Hàm lượng chất khoáng (%)

- Hàm lượng protein (%)

- Hàm lượng chất béo (%)

Hầu hết các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thịt đều được xác định trên cơ thăn (Musculus longissimus dorsi) [141], [204], vì cơ thăn là vùng cơ lớn đại diện cho sự tích lũy nạc của cơ thể, có thành phần hóa học đặc trưng của phẩm giống.

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt và chất lượng thịt

1.3.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt

Tính trạng về khả năng sinh trưởng và cho thịt của vật nuôi nói chung và của lợn nói riêng được gọi chung là tính trạng sản xuất, hầu hết các tính trạng sản xuất là tính trạng số lượng, do đó nó chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền và ngoại cảnh.

19

- Ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền

Trong chăn nuôi lợn yếu tố dòng, giống ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh trưởng của lợn, các giống khác nhau có khả năng sinh trưởng khác nhau, đó là quá trình tích luỹ các chất mà chủ yếu là protein. Tốc độ tổng hợp protein phụ thuộc vào sự hoạt động của gen điều khiển sự sinh trưởng của cơ thể, tiềm năng di truyền về sinh trưởng của gia súc thông qua hệ số di truyền.

+ Giống Lợn

Các giống khác nhau có tốc độ sinh trưởng khác nhau, các giống lợn nội có tốc độ sinh trưởng và sức sản xuất thấp hơn các giống lợn ngoại. Lợn Móng Cái tốc độ tăng khối lượng đạt 179 - 480g/con/ngày [135]. Lợn Vân Pa tại Quảng Trị có khối lượng 23,5 kg khi đạt 12 tháng tuổi hay tương đương mức tăng khối lượng bình quân 64,38 g/con/ngày [20]. Lợn Bản nuôi tại Sơn La có mức tăng khối lượng bình quân là 66 - 85 g/con/ngày [162], Lợn Hạ Lang có khối lượng lúc 8 tháng tuổi đạt 60,14 kg; tăng khối lượng bình quân từ sau cai sữa đến 8 tháng tuổi đạt 288,74 g/con/ngày; tỷ lệ móc hàm đạt 76,60%; tỷ lệ thịt xẻ 69,05% và tỷ lệ nạc là 40,64% [52]. Lợn Hung có khối lượng giết thịt lúc 8 tháng tuổi đạt 43,82 kg; tăng khối lượng bình quân từ sau cai sữa đến 8 tháng tuổi đạt 211,03g/con/ngày; tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là 4,12 kg; tỷ lệ móc hàm đạt 73,82%; tỷ lệ thịt xẻ 60,92% và tỷ lệ nạc 37,84 [31]. Trong khi đó trên đối tượng lợn ngoại theo kết quả nghiên cứu của Phùng Thị Vân và cs (2001) [93], công bố lợn Landrace và Yorkshire giai đoạn từ 25 - 90 kg có khả năng tăng khối lượng là 551,40 và 640,30 g/con/ngày. Phan Xuân Hảo (2002) [32], công bố lợn Landrace và Yorkshire giai đoạn từ 20 - 100 kg có khả năng tăng khối lượng là 646,0 và 619,7 g/con/ngày. Ngô Thị Kim Cúc và cs (2015) [19], hệ số di truyền tính trạng tăng khối lượng ở lợn Pietrain, Duroc và Landrace lần lượt là: 0,29; 0,30 và 0,32. Theo Tu, P. K. và cs (2010) [200], cho biết, giống lợn Móng Cái có tốc độ tăng khối lượng thấp, tiêu tốn thức ăn cao, năng suất thịt thấp so với lợn (Yorkshire x Móng Cái), (Yorkshire x (Landrace x Móng Cái)).

Theo Trịnh Hồng Sơn và cs (2014) [68], hệ số di truyền của tính trạng độ dày mỡ lưng ở dòng đực VCN03 có hệ số di truyền (h2 = 0,34); Nguyễn Hữu Tỉnh (2009) [69], cho biết độ dày mỡ lưng của giống lợn Yorkshire và Landrace tại thời điểm 90 kg có hệ số di truyền tương ứng là 0,47 và 0,60. Theo Ngô Thị Kim Cúc và cs (2015) [19], hệ số di truyền tính trạng độ dày mỡ lưng ở lợn Pietrain, Duroc và Landrace lần lượt là: 0,32; 0,44 và 0,46.

Bên cạnh hệ số di truyền còn có một mối tương quan giữa các tính trạng. Tương quan di truyền giữa một số cặp tính trạng là thuận và chặt chẽ như tăng khối lượng và thu nhận thức ăn (r = 0,65). Tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn có mối tương quan di truyền nghịch và khá chặt chẽ đã được nhiều tác giả nghiên cứu và kết luận, đó là: -

20

0,51 đến - 0,56 [25]. Bên cạnh đó là các tương quan nghịch và chặt như tỷ lệ nạc với độ dày mỡ lưng (r = -0,87).

+ Kiểu gen

Gen RYR1 (Ryanodine receptor 1; gen halothan): Ở lợn gen halothane nằm trên nhiễm sắc thể số 6 gồm 2 allen: allen bình thường là N và allen đột biến là n. Đột biến được biết là làm tăng tỷ lệ mắc hội chứng stress ở lợn, tăng tỷ lệ thịt PSE và hoại tử cơ đen. Lợn mang gen halothan làm tăng tỷ lệ nạc trong thân thịt và tăng hiệu quả chuyển hóa thức ăn. Người ta nhận thấy rằng những lợn mang gen halothan có những ưu điểm là có tăng khối lượng nhanh, hệ số chuyển hóa thức ăn thấp, tỷ lệ nạc trong thân thịt cao, diện tích thịt thăn, tỷ lệ thịt xẻ cao hơn và khối lượng xương đùi, dày mỡ lưng thấp hơn lợn có kiểu gen NN, Nn [191]. Gen halothan có mối tương quan dương với tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ nạc nhưng có mối tương quan âm với chất lượng thịt [136].

Gen RN (Redement Napole) chỉ được tìm thấy ở giống lợn Hamspire và được biết đến là một gen có tác dụng nâng cao tỷ lệ nạc trong thân thịt nhưng là nguyên nhân làm giảm chất lượng thịt, đặc biệt là giảm giá trị pH 24.

Gen MC4R (Melanocortin 4 receptor) đã được biết là gen đóng vai trò quan trọng trong điều hòa ảnh hưởng của leptin trên khả năng ăn vào và khối lượng cơ [121]. Kim và cs (2000) [149], đã chứng minh rằng đột biến sai chiều ở MC4R có liên quan đến độ dày mỡ lưng, tăng trưởng và lượng thức ăn tiêu thụ ở nhiều dòng lợn khác nhau.

Gen IGF2 (Insulin-like growth factor 2) ảnh hưởng của hormone tăng trưởng Growth hormone hay Somatotropin trên chất lượng thân thịt đã được biết từ lâu. Growth hormone không những ảnh hưởng trực tiếp trên tế bào cơ mà còn là chất trung gian trong hàng loạt các hoạt động truyền tín hiệu của hormone làm gia tăng khả năng tăng trưởng. Các hoạt động này bao gồm yếu tố sao chép đặc hiệu của tuyến yên - PIT1 (Pituitary specific transcription factor 1), hormone phóng thích hormone tăng trưởng - GHRH (Growth hormone realeasing hormone), yếu tố tăng trưởng như Insulin 1 - IGF1 (Insulin like growth factor 1) và sự ức chế phản hồi (feedback inhibition) bởi Somatostain. Bất kỳ sự thay đổi của một trong số gen nội tiết này hay các thụ thể tương ứng của chúng có thể làm thay đổi khả năng tăng trưởng IGF2 là một trong số những chất trung gian trong con đường nội tiết của Growth hormone. Đột biến basơ A, G ở exon 2 của IGF2 được biết là làm tăng sản lượng thịt nạc 2,7% ở lợn Pietrain [181].

Gen HFABP (Heart fatty acid-binding protein) là một thành phần của nhóm protein gắn kết axít béo - FABP (fatty axit biding protein family). Chất này có liên quan đến vận chuyển axít béo từ màng tế bào đến vị trí bên trong tế bào sử dụng axít béo. HFABP ở nhiễm sắc thể số 6 của lợn được xem như là môt gen ứng viên cho tỷ lệ

21

mỡ trong cơ và độ dày mỡ lưng ở lợn do vai trò sinh lý của nó. Gerbens và cs (1999) [125], đã công bố có 3 vị trí đa hình ở gen HFABP ở lợn (Haelll, Mspl và hinfl) và có sự khác biệt về tỷ lệ mỡ trong cơ và dày mỡ lưng giữa các nhóm có kiểu gen HAFBP.

- Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh

+ Ảnh hưởng của dinh dưỡng

Trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng, chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ khá cao tới 70 - 75% giá thành, do đó chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.

Thực tế cho thấy vật nuôi có khả năng sinh trưởng tốt do khả năng đồng hoá cao, hiệu quả sử dụng thức ăn cao thì tiêu tốn thức ăn thấp, do đó thời gian nuôi sẽ được rút ngắn. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng chính là tỷ lệ chuyển hoá thức ăn của cơ thể đạt được tốc độ tăng khối lượng và đó cũng chính là kết quả của quá trình chuyển hoá thức ăn. Chỉ tiêu về tiêu tốn thức ăn và tăng khối lượng có mối tương quan nghịch do đó khi nâng cao khả năng tăng khối lượng sẽ dẫn tới giảm chi phí thức ăn.

 Ảnh hưởng của năng lượng

Lợn thường xuyên cần năng lượng từ thức ăn để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho các hoạt động sống. Năng lượng cung cấp cho lợn đang sinh trưởng trước hết là đáp ứng nhu cầu duy trì cơ thể, sau đó là dành cho sự tăng khối lượng hàng ngày.

Tăng mật độ năng lượng bằng cách thêm 5% mỡ trong khẩu phần ăn có tác dụng làm giảm lượng ăn vào, tăng khả năng tăng khối lượng và vì vậy tăng hiệu quả chuyển hóa thức ăn mà không ảnh hưởng tới năng suất [206]. Tuy nhiên vài nghiên cứu cũng cho thấy, việc bổ sung chất béo trong khẩu phần ăn làm tăng tỷ lệ mỡ trong thân thịt tăng hàm lượng mỡ giắt trong cơ. Kết quả khác nhau giữa các nghiên cứu là do việc cung cấp chất béo trong khẩu phần liên quan nhiều tới sự tương tác với các chất dinh dưỡng trong khẩu phần được thiết lập.

Theo Lê Phạm Đại và cs (2015) [22], với mức năng lượng cao trong chế độ ăn đã ảnh hưởng đến khả năng tăng khối lượng của lợn. Kết quả nghiên cứu trên đối tượng lợn lai Duroc x (Landrace x Yorskshire) cho thấy, tăng khối lượng ở giai đoạn 135-165 ngày tuổi cao nhất ở những khẩu phần có mức năng lượng trao đổi 3300 Kcal tiếp đến là khẩu phần có mức năng lượng 3100 Kcal, sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05), ở giai đoạn 165-195 ngày tuổi tăng khối lượng cũng có xu hướng tăng ở những khẩu phần dinh dưỡng có mức năng lượng cao. Tương tự, tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm tỷ lệ nghịch với mức năng lượng trong khẩu phần ăn của lợn thí nghiệm, tuy nhiên, sự sai khác này chưa có ý nghĩa thống kê (P>0,05).

22

Như vậy khi tăng mức năng lượng ăn vào thì làm lợn tăng khối lượng nhanh,

giảm lượng tiêu tốn thức ăn trên 1kg tăng khối lượng. Chính vì thế, theo từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của lợn cần khẩu phần có mật độ năng lượng phù hợp

giúp tối ưu hóa năng suất trong chăn nuôi lợn thịt. Tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn

chăn nuôi – thức ăn hỗn hợp cho lợn [8], khuyến cáo mức năng lượng trao đổi cho lợn

thịt, tính theo Kcal/kg thức ăn, cho giai đoạn khởi động là 3100 Kcal, giai đoạn lợn choai và lợn vỗ béo tối thiểu là 2900 Kcal.

 Ảnh hưởng của mức protein và tỷ lệ protein:năng lượng trong khẩu phần

Trong các chất dinh dưỡng cần thiết cho gia súc, protein đóng vai trò rất quan

trọng, nó quyết định cho sự sinh trưởng và phát triển của gia súc, bởi mọi hoạt động

sống của cơ thể như hoạt động của hệ thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa, sinh sản, chống bệnh… đều liên quan đến quá trình trao đổi protein trong cơ thể.

Theo Wood và cs (2004) [208], khi nuôi khẩu phần protein thấp, lợn sinh

trưởng chậm, khối lượng giết mổ thấp. Lượng protein ăn vào hằng ngày có liên quan

chặt chẽ với sự phát triển của tổ chức nạc trong cơ thể.

Theo Phùng Thăng Long (2003) [42], nghiên cứu trên lợn thịt Yorkshire x

(Yorkshire x Móng Cái) đã kết luận mức protein thô 16 – 18% và 14 – 16% cho lợn lai Yorkshire x (Yorkshire x Móng Cái) nâng cao tăng khối lượng, khối lượng móc hàm,

thịt xẻ, diện tích mắt thịt và tỷ lệ nạc trong thân thịt, có xu hướng làm giảm tiêu tốn

thức ăn để làm giảm sản xuất ra 1kg thịt lợn so với khẩu phần có hàm lượng protein

thô 12 – 14%. Tác giả đã khuyến cáo mức protein thích hợp cho lợn lai Yorkshire x

(Yorkshire x Móng Cái) nuôi thịt là 16 -14%.

Với khẩu phần ăn thiếu protein hay các axít amin đã làm giảm tốc độ tăng khối

lượng, tăng hàm lượng mỡ [210]. Giảm tỷ lệ lysine/năng lượng tiêu hóa từ 0,5/0,43

xuống 0,36/0,3 (khoảng 28%) sẽ giảm tăng khối lượng 119 g/con/ngày trong giai đoạn

30-60 kg và 151g/con/ngày giai đoạn từ 60 đến 105 kg [198].

Các giống khác nhau thì đáp ứng với điều kiện môi trường theo các cách khác nhau, Tu, P. K và cs (2010) [200], cho biết, khả năng tăng khối lượng của giống lợn Móng Cái, F1(Large White x Móng Cái), F2 Large White x (Large White x Móng Cái), cao nhất ở mức protein tương ứng là 13 – 14%, 16 – 17% và 16 – 18%.

Trong quá trình sinh trưởng, động vật cần protein làm vật liệu xây dựng các tổ chức cơ thể, song cũng cần năng lượng để tổng hợp protein và kiến thiết các tổ chức cơ thể đó. Tỷ lệ cân đối giữa năng lượng/protein khẩu phần ăn đối với từng giống vật nuôi có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu quả sử dụng thức ăn và năng suất cũng như

23

chất lượng sản phẩm. Nhiều tác giả đã chứng minh rằng, lợn được cho ăn tự do với khẩu phần năng lượng cao và hàm lượng protein thấp so với nhu cầu cơ thể trong quá trình sinh trưởng của lợn thịt sẽ làm giảm khả năng tăng khối lượng, tăng độ dày mỡ lưng hay tăng tỷ lệ mỡ trong thân thịt nhưng có tác dụng nâng cao độ mềm, độ mọng của thịt, tăng mỡ giắt trong cơ [106]. Nghiên cứu của Castell và cs (1994) [106], ở lợn ăn tự do với mức protein thô trong khẩu phần 13,3% và 17,6%, kết quả cho thấy độ dày mỡ lưng của lợn ở hai nghiệm thức tương ứng là 15,3 mm và 14,3 mm, trong khi đó tỷ lệ mỡ giắt trong cơ tương ứng 3,4% và 1,4%. Ngược lại, giảm tỷ lệ lysine: năng lượng kết hợp với giảm mức năng lượng trong khẩu phần gây ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh trưởng của vật nuôi nhưng không làm thay đổi tỷ lệ các thành phần thân thịt xẻ và độ dày mỡ lưng cùng khối lượng giết thịt [159]. Theo Lê Phạm Đại và cs (2015) [22], khi đánh giá ảnh hưởng của lysine đến khả năng tăng khối lượng và hiệu quả chuyển hóa thức ăn của lợn thí nghiệm khi sử dụng khẩu phần dinh dưỡng có tỷ lệ lysine khác nhau, kết quả cho thấy, tăng khối lượng ở giai đoạn 135-165 ngày tuổi cao nhất ở những khẩu phần có tỷ lệ lysine cao 1,9% (884g) và thấp nhất ở mức 1,5% (863g), sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Ở giai đoạn 165-195 ngày tuổi, tăng khối lượng cũng có xu hướng tăng ở những khẩu phần dinh dưỡng có tỷ lệ lysine cao. Tương tự, hiệu quả chuyển hóa thức ăn của lợn thí nghiệm tỷ lệ nghịch với tỷ lệ lysine trong khẩu phần ăn của lợn thí nghiệm, tuy nhiên, sự sai khác này chưa có ý nghĩa thống kê (P>0,05).

 Cân bằng axít amin

Cân bằng axít amin trong khẩu phần để nâng cao hiệu quả sử dụng protein là vấn đề vô cùng quan trọng, do việc hấp thu các protein phụ thuộc lớn vào nồng độ các axít amin trong thức ăn. Có 2 loại axít amin (phân loại theo quan điểm sinh lý học): Là axít amin thay thế và axít amin không thể thay thế. Việc cân bằng axít amin trong thức ăn giúp lợn có thể hấp thu tối đa lượng protein được cung cấp trong thức ăn làm giảm các chi phí trong chăn nuôi và nâng cao sức sản xuất cũng như quá trình sinh trưởng của lợn. Các axít amin được bổ sung trong thức ăn nếu không được sử dụng hết chúng bị ôxy hóa để tạo ra năng lượng và các axít amin không được dự trữ trong cơ thể, sự thiếu hụt một axít amin trong khẩu phần ăn sẽ ngăn cản quá trình tổng hợp protein. Do đó sự mất cân bằng của axít amin trong thức ăn làm con vật mất tính ngon miệng, giảm sinh trưởng và phát triển gây thiệt hại kinh tế rất nặng nề. Ngoài ra, việc tổng hợp protein trong cơ thể còn phụ thuộc vào tỷ lệ các axít amin trong khẩu phần, nếu thiếu một trong số các axít amin thì quá trình tổng hợp bị dừng lại gây rối loạn tiêu hóa và nếu một axít amin không thay thế có trong khẩu phần thức ăn ít hơn mức quy định thì việc tổng hợp protein bị gián đoạn do thiếu axít amin và khi đó các axít amin còn lại bị ô xy hóa tạo năng lượng làm con vật giảm tính thèm ăn và giảm hiệu quả kinh tế.

24

Việc cân bằng axít amin trong khẩu phần: (tăng tốc độ tăng trưởng; tăng hiệu quả sử dụng thức ăn; giảm protein tổng số trong thức ăn; giảm nitơ trong chất thải, hạn chế ô nhiễm môi trường). Tuy nhiên việc cân bằng các axít amin cần chú ý tới hiệu quả kinh tế do các axít amin tổng hợp có giá thành rất cao có thể ảnh hưởng tới giá thức ăn chăn nuôi do vậy cần tính toán hợp lý và phù hợp với hiệu quả mang lại.

+ Ảnh hưởng của tính biệt

Lợn cái, lợn đực hay lợn đực thiến đều có tốc độ phát triển và cấu thành của cơ thể khác nhau. Lợn đực có khối lượng nạc cao hơn lợn cái và lợn thiến. Tuy nhiên nhu cầu về năng lượng cho duy trì của lợn đực cũng cao hơn lợn cái và lợn đực thiến. Tính biệt có ảnh hưởng rõ rệt đối với tăng khối lượng [25]. Hà Xuân Bộ và cs (2013) [12], khi nghiên cứu trên đối tượng lợn Pietrain kháng stress lúc 7,5 tháng tuổi cho thấy tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ và dài thân thịt của lợn cái không có sự sai khác so với lợn đực.

Ngô Thị Kim Cúc và cs (2015) [19], khi nghiên cứu trên đối tượng lợn thí nghiệm giống Landrace, Duroc, Pietrain cho biết: giới tính ảnh hưởng đến tốc độ tăng khối lượng, hiệu quả chuyển hoá thức ăn và độ dày mỡ lưng.

+ Ảnh hưởng của chuồng trại

Cơ sở chăn nuôi và chuồng trại có ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất của lợn. Cơ sở chăn nuôi biểu thị tổng hợp chế độ quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng đàn lợn. Thông thường, lợn bị nuôi chật hẹp thì khả năng tăng khối lượng thấp hơn lợn được nuôi trong điều kiện chuồng trại rộng rãi.

Thí nghiệm của Brumm và Mille (1996) [104], cho thấy: diện tích chuồng nuôi 0,56m2/con thì lợn ăn ít hơn và tăng khối lượng cũng chậm hơn, so với lợn được nuôi với diện tích 0,78m2/con, năng suất của lợn đực thiến đạt tối đa khi nuôi ở diện tích 0,84 - 1,0m2/con. Nghiên cứu của Nielsen và cs (1995) [182], cho biết: lợn nuôi thành đàn thì ăn nhanh hơn, lượng thức ăn trong một bữa được nhiều hơn, nhưng số bữa ăn trong ngày lại giảm và lượng thức ăn thu nhận hàng ngày ít hơn so với lợn nuôi nhốt riêng ở từng ô chuồng. Nghiên cứu của White và cs (2008) [205], cho thấy rằng khi thay đổi diện tích chuồng nuôi từ 0,66 m2/con lên 0,93 m2/con đã ảnh hưởng đến các chỉ tiêu: tăng khối lượng, lượng ăn vào và hiệu quả chuyển hoá thức ăn ở lợn.

+ Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm môi trường

Nhiệt độ và ẩm độ môi trường là hai yếu tố chính thường xuyên tác động tới vật nuôi [64]. Lợn chỉ có thể sống và phát triển trong ngưỡng nhiệt độ cho phép, lợn thịt sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ 18 – 200C. Nhiệt độ chuồng nuôi cao hơn hay thấp hơn nhiệt độ tới hạn đều là yếu tố bất lợi đối với sinh trưởng của lợn thịt. Ở nhiệt độ cao, lợn phải tăng cường quá trình thải nhiệt thông qua tăng cường hô hấp để cân bằng thân nhiệt. Đặc biệt, các giống lợn nhập nội cao sản dễ mẫn cảm với nhiệt độ môi trường

25

cao hơn so với các giống nội. Ngoài ra khi nhiệt độ cao sẽ làm cho khả năng thu nhận thức ăn hằng ngày của lợn giảm, do đó khả năng tăng khối lượng bị ảnh hưởng cũng như khả năng chuyển hóa thức ăn kém [167], [205]. Ngược lại, khi nuôi lợn ở nhiệt độ thấp dưới nhiệt độ tới hạn thì phải cung cấp thêm cho lợn năng lượng chống rét từ thức ăn. Cứ 1oC dưới giới hạn thấp thì bổ sung thêm một lượng nhiệt năng là 0,017 MJ DE/1 kg khối lượng trao đổi, do vậy, tiêu tốn thức ăn sẽ cao hơn so với nhiệt độ trung hòa.

+ Ảnh hưởng của tuổi và khối lượng giết mổ

Khả năng sản xuất và chất lượng thịt cũng phụ thuộc vào tuổi và khối lượng lúc giết thịt. Nếu giết thịt sớm tức là khối lượng giết thịt thấp thì năng suất còn thấp vì giai đoạn này lợn tăng khối lượng chưa cao, song nếu kéo dài thời gian nuôi thì làm giảm hiệu quả kinh tế do tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cao, hơn nữa lợn tích lũy mỡ nhiều. Latorre và cs (2003) [156], nghiên cứu ảnh hưởng của giới tính và khối lượng giết thịt ở lợn đến khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt cho thấy: cứ tăng 10 kg khối lượng giết mổ ở lợn có khối lượng trên 116 kg sẽ làm giảm tuyến tính 38 g/con/ngày đối với tăng khối lượng hằng ngày và giảm khả năng chuyển hóa thức ăn (tăng khối lượng:thức ăn) 0,01 kg thức ăn/kg tăng khối lượng; dày mỡ lưng, tỷ lệ xương da cao hơn nhưng chu vi và khối lượng thịt vùng mông lớn hơn so với những con có khối lượng giết mổ thấp.

Khối lượng giết thịt ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, sức sản xuất thịt. Đã có nhiều nghiên cứu cho rằng tăng khối lượng sẽ giảm từ 1,7 đến 4,4 g cho mỗi kg khối lượng sống tăng lên tại thời điểm giết thịt [156], và lượng thức ăn ăn vào tăng từ 7,9 đến 11,1 g cho mỗi kg khối lượng tăng thêm lúc giết thịt [156]. Độ dày mỡ lưng tại vị trí xương sườn số mười tăng lên từ 0,08 đến 0,26 mm cho mỗi kg tăng lên lúc giết thịt [157], [158].

1.3.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thịt

Chất lượng thịt bị ảnh hưởng bởi một số lượng lớn các yếu tố bao gồm các đặc điểm của cơ (kích thước sợi và chủng loại, chất béo và các mô liên kết), điều kiện sản xuất và điều kiện môi trường (tốc độ tăng trưởng, dinh dưỡng, độ tuổi và điều kiện giết mổ) và di truyền của con vật (giống, kiểu gen).

- Ảnh hưởng của yếu tố di truyền

+ Giống lợn

Nghiên cứu của Hermesch và cs (1997) [137], trên 1011 lợn Large White, 870 lợn Landrace đã thấy rằng hệ số di truyền (h2) của hàm lượng mỡ giắt (IMF) của lợn khi mổ giết ở 100 kg lần lượt là 0,29 và 0,42. Hệ số di truyền này không cao, chứng tỏ ngoài yếu tố di truyền còn có những yếu tố khác chi phối tính trạng IMF. Như vậy để

26

nâng cao IMF, ngoài biện pháp giống còn cần những biện pháp khác về dinh dưỡng và môi trường.

Do con giống Duroc có IMF khá cao (2,46%) nên người ta cũng đã dùng con giống này để lai với các con giống khác mong tạo ra những tổ hợp lai có IMF cao hơn. Trong số các giống nặng cân và tỷ lệ nạc cao, Duroc được cho là giống có chất lượng thịt tốt và thường được người tiêu dùng ưa chuộng, do thịt lợn Duroc có màu đỏ, hàm lượng mỡ giắt trong cơ cao làm cho thịt có mùi thơm, có vị ngọt khi chế biến. Các tác giả nhận định, khi tăng tỷ lệ máu Duroc trong con lai giữa Duroc và các giống lợn trắng (như Landrace hay Yorkshire) sẽ cải thiện rất nhiều chất lượng thịt trong con lai. Nghiên cứu của Edwards và cs (2003) [117], trên đối tượng con lai hai giống giữa đực Duroc và đực Pietrain với lợn nái Landrace cho thấy con lai của đực Duroc có dài thân, khối lượng thịt xẻ, khối lượng thịt mông, khối lượng thịt vai, khối lượng thịt vùng bụng cao hơn so với con lai của đực Pietrain, nhưng xét về tỷ lệ các phần thịt so với thịt xẻ thì con lai đực Pietrain cao hơn. Hơn nữa, con lai của đực Pietrain có độ dày mỡ lưng thấp hơn và diện tích mắt thịt cao hơn rất nhiều so với con lai của đực Duroc. Khi xét sự khác nhau về chất lượng thịt của hai đối tượng con lai trên, kết quả cho thấy chất lượng thịt ở con đực Duroc tốt hơn, cụ thể: mất nước bảo quản; mất nước chế biến; pH 24 giờ; màu sắc L*; lực cắt; mỡ giắt lần lượt là 2,88%; 28,63%; 5,53; 54,77; 6,94N; 2,42%. Trong khi đó các thông số này ở con lai đực Pietrain là 3,8%; 29,23%; 5,48; 55,37; 7,11N; 1,78%.

+ Kiểu gen

Nhiều nghiên cứu di truyền ở mức phân tử trên lợn thịt cho thấy có rất nhiều gen ảnh hưởng đến chất lượng thịt, được biết đến đầu tiên là gen Ryanodine receptor (gen HAL hay RYR1) điều hòa vận chuyển Ca++ qua màng tế bào cơ [123].

Gen RYR1 (gen halothan) nằm trên nhiễm sắc thể số 6, gồm 2 alen: N và n, tạo nên 3 kiểu gen NN, Nn và nn. Gen đột biến lặn n là kết quả của sự đột biến C-cytosin thành T-thymin ở vị trí base 1843 của gen mã hóa thụ thể ryanodin (ryr-1), thụ thể này nằm trong kênh phóng thích canxi của lưới nội bào ở tế bào cơ [143]. Lợn mang gen này sẽ dễ bị hội chứng PSS (porcine stress syndrom), hội chứng này rất nhạy cảm với các tác nhân gây stress. Stress trước khi giết mổ là nguyên nhân làm giảm pH nhanh chóng trong thịt do sự phân giải nhanh chóng glycogen trước đó, dẫn đến thịt PSE. Gen halothan có mối tương quan dương với tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ nạc nhưng có mối tương quan âm với khả năng giữ nước và màu sắc thịt [136]. Đây là hội chứng gây thiệt hại rất lớn đối với ngành chăn nuôi lợn công nghiệp đặc biệt là những tác động của nó lên phẩm chất thịt. Tuy nhiên gen halothan có hiệu ứng làm tăng tỷ lệ nạc trong thân thịt và tăng hiệu quả chuyển hóa thức ăn. Người ta nhận thấy rằng những lợn mang gen halothan có những ưu điểm là có tăng khối lượng, hệ số chuyển hóa thức ăn,

27

tỷ lệ nạc trong thân thịt cao, diện tích thịt thăn, tỷ lệ thịt xẻ cao hơn và trọng lượng xương đùi, dày mỡ lưng thấp hơn lợn có kiểu gen NN, Nn [191].

Ngược lại, gen RN chỉ được tìm thấy ở giống lợn Hamspire và được biết đến là một gen có tác dụng nâng cao tỷ lệ nạc trong thân thịt nhưng là nguyên nhân làm giảm chất lượng thịt, đặc biệt là giảm giá trị pH 24 giờ. Alen lặn không đột biến RN+ không ảnh hưởng đến chất lượng thịt, song alen trội đột biến RN- có tác dụng mã hóa loại chất cảm ứng đồng phân với Adenosin Monophosphate của enzyme dị lập thể Protein Kinase trong chu trình đường phân phân giải glycogen, hay nói cách khác sự tồn tại allen RN- sẽ ức chế quá trình phân giải và tăng tổng hợp glycogen trong cơ. Do vậy, ở những con lợn mang gen trội RN- có hàm lượng glycogen trong cơ rất cao. Trong quá trình giết mổ và sau giết mổ, hàm lượng glycogen dồi dào này sẽ được phân giải yếm khí thành axít lactic để tạo năng lượng ATP, hàm lượng lớn glycogen sẽ dẫn đến hàm lượng lớn axít lactic, người ta gọi loại thịt này là thịt axít (hay thịt Hamspire) với giá trị pH 24 giờ thấp, khả năng giữ nước kém và hàm lượng protein trong cơ thấp. Một nghiên cứu ở Canada cho thấy hơn 25% mẫu thịt có hàm lượng glycogen cao quá mức [173].

Phospholipid và triacylglycerol là hai thành phần chính đóng góp vào tỷ lệ mỡ giắt trong thân thịt. Phospholipid là thành phần chính của màng tế bào nên hàm lượng không thay đổi, do đó khi tăng hàm lượng mỡ giắt trong các tế bào sẽ làm tăng hàm lượng mỡ giắt trong các mô cơ [195]. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định các gen liên quan đến quá trình di truyền chuyển hóa triacylglycerol và hàm lượng mỡ giắt trong các mô cơ. Nhiều tác giả đã báo cáo rằng gen H-FABP (Heart Fatty Acid- Binding Protein) nằm trên nhiễm sắc thể số 6 là gen ảnh hưởng chính đến quá trình chuyển hóa triacylglycerol qua màng tế bào vào trong cơ [125]. Gen H-FABP mã hóa protein H-FABP, một protein nhỏ nội bào liên kết với các axít béo để vận chuyển các axít béo qua màng tế bào chất để cung cấp năng lượng cho tế bào. Hơn nữa, gen này cũng có thể điều chỉnh nồng độ và trao đổi lipid (tổng hợp triacylglycerol và phospholipid) cũng như các quá trình khác kết nối với trao đổi chất của tế bào [146]. Các kết quả của những nghiên cứu đều cho thấy H-FAPB có thể đóng vai trò như một chỉ thị phân tử trong việc cải thiện hàm lượng IMF trong thịt lợn.

Ngoài ra, một số gen liên quan đến chất lượng thịt cũng đã được xác định như gen IGF2 liên quan đến sự phát triển sợi cơ và hàm lượng thịt nạc; gen MC4R liên quan đến lượng ăn vào, sinh trưởng và tỷ lệ mỡ; gen CAST ảnh hưởng đến độ mềm và một số tính trạng chất lượng thịt khác.

Thành phần hóa học của thịt phụ thuộc vào di truyền (giống, lai giống, giới tính) và yếu tố tố môi trường (dinh dưỡng, quản lý và tuổi giết thịt). Nghiên cứu của Lachowicz và cs (2003) [154], cho rằng thành phần hóa học của thịt không chỉ phụ thuộc vào giống mà còn phụ thuộc vào kiểu gen nhạy với stress.

28

- Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh

+ Thức ăn và dinh dưỡng

Trong chăn nuôi lợn thịt dinh dưỡng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thịt. Trong các chất dinh dưỡng cần thiết cho gia súc, protein đóng vai trò rất quan trọng, nó quyết định cho sự sinh trưởng và phát triển của gia súc, bởi mọi hoạt động sống của cơ thể như hoạt động của hệ thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa, sinh sản, chống bệnh… đều liên quan đến quá trình trao đổi protein trong cơ thể.

 Năng lượng/protein

Trong quá trình sinh trưởng, động vật cần protein làm vật liệu xây dựng các tổ chức cơ thể, song cũng cần năng lượng để tổng hợp protein và kiến thiết các tổ chức cơ thể đó. Tỷ lệ cân đối giữa năng lượng/protein khẩu phần ăn đối với từng giống vật nuôi có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu quả sử dụng thức ăn và năng suất cũng như chất lượng sản phẩm.

Nhiều tác giả đã chứng minh rằng, lợn được cho ăn tự do với khẩu phần năng lượng cao và hàm lượng protein thấp so với nhu cầu cơ thể trong quá trình sinh trưởng của lợn thịt sẽ làm giảm khả năng tăng khối lượng, tăng độ dày mỡ lưng hay tăng tỷ lệ mỡ trong thân thịt nhưng có tác dụng nâng cao độ mềm, độ mọng của thịt, tăng mỡ giắt trong cơ [106].

Một trong những chiến lược để tăng nồng độ IMF thịt lợn là giảm protein thô (CP) hoặc nồng độ lysine của khẩu phần lợn. Khi mức CP khẩu phần ở giai đoạn lợn sinh trưởng và vỗ béo giảm thì IMF đã tăng 13,4-176,5% [208]. Khi giảm hàm lượng lysin khẩu phần này giúp nâng nồng độ IMF từ 66,7-136,8% [148]. Như vậy, sử dụng lâu dài khẩu phần thiếu CP và lysine cho lợn sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng khối lượng và hiệu suất chuyển đổi thức ăn, nhưng nếu chỉ cho ăn khẩu phần kiểu này trong 5-6 tuần cuối cùng trước khi xuất thịt thì hầu như không có tác động đến hiệu suất tăng trưởng trong khi đó lại cải thiện được nồng độ IMF [102].

Khẩu phần lợn vỗ béo thêm 2% Leucine làm tăng hàm lượng mỡ giắt trong cơ thăn nhưng không làm thay đổi năng suất chăn nuôi [145]. Các nhà khoa học cho rằng thêm Leucine làm tăng IMF là do mất cân bằng axít amin khẩu phần (giảm tỷ lệ Lysine) chứ không phải là do tác động trực tiếp của Leucine. Nghiên cứu của Bee và cs (2006) [99], đã chỉ ra rằng khẩu phần nhiều chất béo (17-19%), giàu protein (19- 25% protein thô), ít carbohydrate sẽ làm giảm nồng độ glycogen trong cơ bắp trước khi giết thịt.

 Lipit

Lợn là động vật dạ dày đơn, vì vậy lợn sử dụng chất béo trong khẩu phần rất hiệu quả và khả năng chuyển hoá từ chất béo khẩu phần thành mô mỡ trong cơ thể

29

cũng rất cao, nên thành phần lipid trong thịt thường phản ánh thành phần lipid trong khẩu phần. Ở lợn có sự tích lũy một số lượng đáng kể axít béo hấp thu trực tiếp từ khẩu phần vào mô mỡ. Các axít béo không bão hòa từ khẩu phần được hiệu chỉnh rất ít về mặt hóa học trước khi đưa vào tích lũy trong mô mỡ, nên thành phần axít béo của thịt rất giống với thành phần axít béo của khẩu phần. Chất béo trong khẩu phần có tác dụng khác nhau lên lipid của thân thịt, nó phụ thuộc vào thành phần, nguồn gốc, mức độ trong khẩu phần và thời gian cho ăn.

Các nghiên cứu cho thấy, việc bổ sung chất béo trong khẩu phần ăn làm tăng tỷ lệ mỡ trong thân thịt, tăng hàm lượng mỡ giắt trong cơ [187]. Apple và cs (2008) [96], cho rằng việc tăng lượng dầu ngô sử dụng trong khẩu phần sẽ làm tăng lượng IMF trong cơ. Eggert và cs (2007) [118], cho biết khẩu phần chứa 5% mỡ bò cũng làm tăng IMF lên khoảng 25%. Ngược lại, khẩu phần bổ sung với dầu hướng dương hoặc dầu hạt cải đã được chứng minh là giảm điểm số chất béo trong cơ thăn [177].

Axít linoleic liên hợp (CLA) là một hỗn hợp của đồng phân vị trí và đồng phân hình học của axít béo linoleic có ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Khi làm thức ăn cho lợn, CLA đã được cho là giúp giảm mỡ lưng, cải thiện hiệu quả chuyển hóa thức ăn, nâng cao tỷ lệ nạc, tăng tỷ lệ mỡ giắt trong cơ thăn. Bổ sung khẩu phần lợn với CLA thường xuyên sẽ làm tăng tỷ lệ của axít béo no, đặc biệt là palmitic (C16:0) và axít stearic (C18:0), trong cả mỡ và cơ [170].

+ Ảnh hưởng của phương thức cho ăn

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển ở lợn thịt, sự phát triển mô cơ ổn định ở giai đoạn đầu sau đó giảm trong khi đó mô mỡ phát triển nhanh và mạnh ở giai đoạn vỗ béo, hạn chế cho ăn ở giai đoạn vỗ béo ảnh hưởng đến sự phát triển mô mỡ nhiều hơn là mô cơ. Vì vậy, hạn chế ăn dẫn đến tăng tỷ lệ nạc cao giảm tỷ lệ mỡ giắt trong cơ so với ăn tự do [116], [159]. Bởi vậy chất lượng thịt bị ảnh hưởng xấu với việc giảm thấp độ mềm và độ mọng của thịt [116]. Tuy nhiên, các chỉ tiêu pH 45 phút, pH 24 giờ, mất nước và màu sắc thịt thông thường không bị ảnh hưởng bởi khẩu phần ăn hạn chế [159].

Trong trường hợp cho lợn ăn khẩu phần hạn chế ở giai đoạn sinh trưởng sớm (từ 28 đến 90 ngày tuổi), sau đó nâng mức ăn ở giai đoạn tiếp theo thì sẽ diễn ra cơ chế tăng khối lượng bù ở lợn. Tuy nhiên mức tăng khối lượng bù của cách thức cho ăn này phụ thuộc vào cường độ và khoảng thời gian cho lợn ăn hạn chế [199]. Bên cạnh đó, việc tăng khối lượng bù làm thay đổi sự phát triển của các tổ chức trong cơ thể đặc biệt là tổ chức mỡ, kéo theo sự thay đổi tỷ lệ nạc: mỡ lúc giết thịt. Khối lượng cơ thể có được từ tăng khối lượng bù phần lớn bắt nguồn từ tăng mô mỡ và sự phát triển của các cơ quan nội tạng, mà không phải từ việc tăng sự phát triển tổ chức nạc, do vậy thành phần thịt xẻ lúc giết mổ tương đương nhau nhưng không có tác dụng nâng cao tỷ lệ mỡ

30

giắt trong cơ cũng như các chỉ tiêu chất lượng thịt khác [138]. Nghiên cứu của Lebret và cs (2007) [160], về sự ảnh hưởng của mức cho ăn hạn chế giai đoạn lợn từ 30 – 80 kg và mức cho ăn tự do ở lợn có khối lượng từ 80 – 110 kg cho thấy tốc độ phát triển của mỡ trong cơ cao hơn so với những con được cho ăn tự do trong toàn giai đoạn sinh trưởng, tuy nhiên hàm lượng mỡ giắt trong cơ không khác nhiều so với lô đối chứng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, mức cho ăn cao – thấp không ảnh hưởng tới chất lượng thịt, ngay cả khi khoảng thời gian cho ăn giới hạn khá dài [138].

+ Ảnh hưởng của tính biệt và khối lượng giết thịt

Giới tính và khối lượng giết thịt không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ tới các chỉ tiêu sinh trưởng, năng suất thịt mà còn ảnh hưởng tới chất lượng thịt [157]. Do sự khác nhau về loại hocmon sinh dục trong mỗi giới tính dẫn đến sự khác nhau về khả năng chuyển hóa dinh dưỡng trong cơ thể. Con đực có tỷ lệ mỡ giắt cao hơn con cái [155]. Đực thiến có màu sắc thịt sáng và đỏ hơn lợn nái [156]. Giới tính không ảnh hưởng đến pH của thịt và khả năng mất nước [155], [156]. Lợn đực chưa thiến tỷ lệ nạc cao hơn lợn đực thiến và lợn nái, do đó tỷ lệ mỡ giắt thấp hơn [156]. Lampe và cs (2006) [155], tìm thấy sự khác nhau về độ vân mỡ giữa lợn đực thiến và lợn nái.

Khối lượng giết thịt có ảnh hưởng đến cả năng suất và chất lượng thịt. Nếu giết thịt sớm tức là khối lượng giết thịt thấp thì năng suất còn thấp vì giai đoạn này lợn tăng khối lượng chưa cao, song nếu kéo dài thời gian nuôi thì làm giảm hiệu quả kinh tế do tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng cao, hơn nữa lợn tích lũy mỡ nhiều [157]. Latorre và cs (2004) [157], nghiên cứu ảnh hưởng của giới tính và khối lượng giết thịt ở lợn đến khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt cho thấy: khi tăng khối lượng giết mổ sẽ giảm được tỷ lệ mất nước bảo quản, mất nước giải đông và mất nước chế biến, giá trị pH 24 giờ cũng cao hơn.

+Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm môi trường

Nhiệt độ môi trường tăng cao ảnh hưởng xấu đến sản xuất của ngành chăn nuôi lợn. Lợn rất nhạy cảm với điều kiện nóng, điều này chủ yếu là do khả năng tiết mồ hôi thấp. Nhiệt độ và độ ẩm môi trường làm thay đổi hệ thống trao đổi chất của lợn và làm giảm sức sản xuất và chất lượng thịt xẻ [120]. Theo Gregory (2010) [129], lợn nuôi từ cai sữa đến khi giết mổ trong nhiệt độ môi trường thay đổi thiếu ổn định làm cho thịt nhạt màu hơn so với được nuôi ở nhiệt độ ổn định phù hợp. Lợn Landrace (Đan Mạch), nuôi trong điều kiện mùa hè có màu sắc thịt nhạt màu hơn so với mùa đông. Nhiệt độ cao cũng có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện thịt PSE. Van de Perre và cs (2010) [202], báo cáo rằng vào mùa hè, nguy cơ thịt PSE là gần gấp đôi so với mùa đông vì lợn rất nhạy cảm với nhiệt độ cao.

31

Lợn Large White nuôi trong khí hậu nhiệt đới có pH cao hơn, độ rỉ dịch thấp hơn điều này có thể là khí hậu nhiệt đới có tác động tích cực đến chất lượng thịt lợn [178]. Lefaucheur và cs (1991) [161], đã đề cập rằng pH 45 phút và pH 24 giờ sau khi giết mổ trong cơ thăn của lợn nuôi ở nhiệt độ 12°C thấp hơn lợn nuôi ở 28°C đáng kể. Dalla Costa và cs (2007) [113], phát hiện ra rằng giá trị phản xạ ánh sáng trong cơ thăn và cơ đùi bị ảnh hưởng đáng kể bởi các mùa trong năm.

+ Ảnh hưởng của vận chuyển và giết mổ

Stress trước giết mổ là nguyên nhân dẫn đến tăng tỷ lệ chết, giảm sản lượng thịt và ảnh hưởng xấu đến chất lượng thịt. Trong quá trình vận chuyển để giết thịt, con vật được nhốt trong thùng xe với mật độ đông, chúng cũng có thể cắn xé lẫn nhau giữa các đàn khác nhau gây nên tình trạng stress trước lúc giết mổ. Nếu lợn bị stress thời gian ngắn trước lúc giết mổ, glycogen trong bị phân giải nhanh dẫn đến giá trị pH sau giết mổ giảm nhanh, trong trường hợp con vật bị stress dài trước lúc giết mổ thì ngược lại, sự phân giải glycogen trước đó làm hàm lượng glycogen bị cạn kiệt nên giá trị pH 24 giờ cao, dẫn đến thịt PSE hay DFD tùy mức độ và thời gian bị stress.

Mặt khác, tiến trình giết mổ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thịt, lợn bị rượt đuổi và bị giết thủ công làm con vật bị stress ngay trước và trong lúc giết thịt, dẫn đến sự phân giải nhanh glycogen, giảm thấp giá trị pH 45 phút và pH 24 giờ sau giết mổ. Hiện nay, ở các nước tiên tiến có kỹ thuật giết mổ và chế biến hiện đại, người ta sử dụng phương pháp sock điện có tác dụng giảm đau đớn, giảm stress ở con vật và đảm bảo chất lượng thịt không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh này.

Ngưng thức ăn trước khi giết mổ: Việc điều tiết lượng dự trữ glycogen trong cơ bắp dẫn đến những biến đổi của pH sau khi giết thịt, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Có nhiều nghiên cứu cho rằng ngưng thức ăn 16-36 giờ trước khi giết mổ sẽ làm giảm nồng độ glycogen cơ, nâng cao giá trị pH cơ ban đầu và cuối cùng, làm cho màu thịt đậm hơn và cải thiện khả năng giữ nước của thịt [197]. Tuy nhiên, thời gian ngưng thức ăn 16 giờ hoặc ít hơn không có tác dụng gì đáng kể đến chất lượng thân thịt [122]. Hơn nữa, việc ngưng cho ăn không có tác dụng nào trên lợn có kiểu gen RN- ngay cả khi thời gian ngưng ăn lên đến 60 giờ trước khi giết mổ. Điều này cho thấy rằng một mình việc nhịn ăn là chưa đủ để điều tiết lượng dự trữ glycogen cơ ở lợn mang đột biến gen này [102]. Ngoài các tác dụng có lợi đến chất lượng thân thịt, nhịn ăn trước giết mổ cũng làm giảm tỷ lệ tử vong của lợn trong quá trình vận chuyển và nhốt, giảm nguy cơ ô nhiễm thân thịt bởi các vi khuẩn đường ruột và tạo ra ít chất thải hơn [176].

Các phương pháp làm choáng trước khi giết mổ: Gây choáng là làm cho con vật mất khả năng nhận biết nhưng hệ hô hấp và tuần hoàn vẫn hoạt động bình thường. Ý

32

nghĩa của việc gây choáng là làm cho con vật không bị hoảng sợ, căng thẳng khi giết mổ, đảm bảo an toàn cho người giết mổ. Có nhiều phương pháp gây choáng như: Dùng búa, dùng súng phá hành tủy, dùng khí CO2, dùng điện... Bất kỳ phương pháp gây choáng nào cũng là yếu tố gây stress nghiêm trọng cho con vật. Do vậy khi gây choáng cần lưu ý: Không để con vật giãy nhiều; thời gian gây choáng nhanh chính xác và hiệu quả; đảm bảo con vâṭ bị hôn mê tuyệt đối. Lợn khi làm choáng bằng điện trước khi giết mổ thì pH trong thân thịt giảm nhanh hơn, khả năng giữ nước kém hơn so với lợn được làm choáng bằng khí CO2, trong khi pH 24 giờ không bị ảnh hưởng [108].

+ Ảnh hưởng của các yếu tố khác

 Vi sinh vật

Thành phần hoá học của thịt cho thấy thịt là môi trường thích hợp cho vi sinh vật phát triển. Trong số này thường gặp là vi khuẩn gây thối rửa, các bào tử nấm mốc và các bào tử nấm mem…

Vi sinh vật nhiễm vào thịt theo hai con đường chính:

Nhiễm nội sinh: là do con vật bị bệnh, mầm bệnh ở một số bộ phận cơ quan nào đó của con vật sau đó lan vào máu, thịt và các cơ quan khác. Ngoài ra nếu con vật bị đói, lạnh thì cũng làm cho các vi sinh vật từ đường tiêu hoá tràn vào máu, thịt và các cơ quan khác theo mạch máu.

Nhiễm ngoại sinh: là do nhiễm bẫn từ ngoài vào trong thịt trong quá trình giết mỗ và vận chuyển. Trong quá trình giết mỗ, vi sinh vật trong da, lông, nước, không khí… cũng có thể nhiễm vào thịt.

Sự phát triển của các loài vi sinh vật trên thịt tuỳ thuộc vào các tính chất, môi trường của thịt (pH thịt, tính chất vật lý của thịt), môi trường bảo quản thịt cũng như các công đoạn giết mỗ. Vi sinh vật khi xâm nhập vào thịt sẽ gây ra những biến đổi đối với thịt: gây hư hỏng thịt, sinh ra các độc tố trong quá trình phát triển (nội độc tố, ngoại độc tố) ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng.

 Hoocmon kích thích sinh trưởng

Trong những chất thuộc nhóm β-agonists thì Salbutamol, Clenbuterol và Ractopamine là ba chất đứng đầu trong danh mục cấm sử dụng trong chăn nuôi ở Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới. Trong các loại β-agonist sử dụng trái phép trong chăn nuôi thì phổ biến hơn cả là Salbutamol. Việc sử dụng các loại β-agonists bổ sung trong thức ăn gia súc để làm tăng khối lượng nhanh, tăng tỷ lệ thịt nạc, giảm mỡ, làm thịt nạc có màu đỏ và đẹp hơn. Các chất kích thích này là những hóa chất có khả năng tồn dư lâu trong cơ thể động vật ngay cả khi đã chế biến ở nhiệt độ cao như chiên, nướng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng.

33

1.4. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG LAI GIỐNG NÂNG CAO SỨC SẢN XUẤT CỦA LỢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

1.4.1. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng lai giống ở lợn trên thế giới

Nâng cao năng suất, chất lượng con giống trong quá trình sản xuất lợn luôn là yếu tố hàng đầu, then chốt được các nhà nghiên cứu, các tập đoàn chăn nuôi của mọi quốc gia trên thế giới quan tâm. Việc nghiên cứu lai tạo tìm ra các tổ hợp nái lai đạt số con sơ sinh sống/ổ cao, tỷ lệ nạc cao, tiêu tốn thức ăn thấp và độ dày mỡ lưng thấp đã thành công ở các nước có nền chăn nuôi tiên tiến như: Mỹ, Đức, Canada, Anh, Hà Lan, Đan Mạch và Ốt-xtrây-li-a [137].

1.4.1.1. Nghiên cứu và ứng dụng lai giống nâng cao năng suất sinh sản

Năng suất sinh sản của lợn nái là một chỉ tiêu tổng hợp quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngành chăn nuôi lợn. Vì vậy, ở nhiều nước phát triển trên thế giới cũng như ở nước ta đã và đang quan tâm đến nghiên cứu nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái.

Các tính trạng sinh sản là nhóm tính trạng quan trọng ảnh hưởng lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái. Các tính trạng sinh sản thường có hệ số di truyền thấp nên năng suất sinh sản chịu ảnh hưởng lớn bởi lai tạo và các yếu tố ngoại cảnh như điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, thời tiết khí hậu [56], [57]. Do vậy, để nâng cao năng suất sinh sản của lợn nái cần nghiên cứu chọn tạo ra các giống, các tổ hợp lai mới có khả năng sinh sản tốt, mặt khác cần chú ý nghiên cứu tác động lên các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Việc nghiên cứu chọn lọc các giống lợn tốt và lai tạo giữa các giống đó với nhau để sử dụng ưu thế lai ở đời con cải thiện năng suất sinh sản là một hướng nghiên cứu quan trọng.

Năng suất sinh sản của lợn phụ thuộc vào phẩm chất giống và các giống phối với nhau. Đối với các nước chăn nuôi phát triển giống lợn Landrace, Yorkshire hoặc nái lai F1(Landrace x Yorkshire) được sử dụng làm nái nền phổ biến. Các nghiên cứu của Gerasimov và cs (1997) [124], cho biết lai hai, ba giống điều có tác dụng nâng cao các chỉ tiêu sinh sản như: số con để ra/ổ, tỷ lệ nuôi sống và khối lượng ở 60 ngày tuổi/con. Lai hai giống làm tăng số con đẻ ra/ổ so với giống thuần, tăng khối lượng sơ sinh và khối lượng sau khi cai sữa. Vì vậy, việc sử dụng lai hai, ba giống là phổ biến để nâng cao khả năng sinh sản và sản xuất thịt thương phẩm.

Gunsett và Robison (1990) [130], cho biết lợn nái lai có tuổi thành thục về tính sớm hơn (11,3 ngày), tỷ lệ thụ thai cao hơn (2 - 4%), số trứng rụng nhiều hơn (0,5 trứng), số con đẻ ra/ổ cao hơn (0,6 - 0,7 con) và số con cai sữa/ổ (0,8 con) nhiều hơn so với lợn nái thuần chủng. Tỷ lệ nuôi sống lợn con ở các lợn nái lai cao hơn (5%), khối lượng sơ sinh/ổ (1 kg), khối lượng 21 ngày/ổ (4,2 kg) cao hơn so với lợn nái giống thuần.

34

Gondret và cs (2005) [126], cho biết con lai giữa (Large White x Pietrain) x (Large White x Landrace) có khối lượng sơ sinh/con là 1,50 kg, khối lượng cai sữa là 8,22 kg ở 27 ngày tuổi, khả năng tăng khối lượng giai đoạn 27 - 67 ngày tuổi là 481,5 g/con/ngày.

Giống lợn Meishan có nguồn gốc từ Trung Quốc được biết đến là một giống lợn nỗi tiếng thế giới về số lượng vú nhiều, thành thục về tính sớm và có khả năng sinh sản cao [131]. Nhiều nước trên thế giới (Pháp, Mỹ, Anh...) đã nghiên cứu sử dụng lợn Meishan để nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái thông qua khai thác ưu thế lai của con mẹ trong các tổ hợp lai. Nhiều năm qua, các nhà khoa học Châu Âu cũng đã sử dụng lợn Meishan để nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái với việc khai thác tối đa ưu thế lai của con mẹ trong các tổ hợp lai có giống Meishan [152]. Điều đặc biệt là ưu thế lai giữa lợn Meishan và các giống lợn trắng của châu Âu cao hơn khi lai giữa các giống lợn trắng Châu Âu với nhau [174]. Hill và Web (2002) [139], cho biết, tại Pháp người ta đã dùng tỷ lệ 1/2 giống lợn Trung Quốc trong công thức lai (Large White x Meishan) có thể làm tăng 3,7 lợn con/ổ, 3,5 lợn con cai sữa/ổ, giảm giá thành của lợn con cai sữa từ 25-30% so với nuôi lợn thuần bản địa châu Âu.

1.4.1.2. Nghiên cứu và ứng dụng lai giống nâng cao năng suất, chất lượng thịt

Trên thế giới, người ta không chỉ quan tâm đến các chỉ tiêu về số lượng như: khả năng tăng khối lượng, tiêu tốn thức ăn, tỷ lệ thịt nạc...mà còn đặc biệt quan tâm đến các chỉ tiêu về chất lượng thịt như: Màu sắc thịt, tỷ lệ mỡ giắt, độ giữa nước của thịt, cấu trúc thịt cũng như hương vị thịt...Để giải quyết vấn đề này, lai tạo các dòng đực lai để có thể kết hợp được nhiều ưu điểm về chất lượng thịt của các giống là hướng chủ đạo, đặc biệt là trong những công thức lai cuối để tạo ra lợn thương phẩm. Hầu hết những công ty lớn trên thế giới như PIC của Anh quốc, Hoa Kỳ, Danbred của Đan Mạch, Flanders Pigbreeders Association của Bỉ đều nghiên cứu và đưa ra thị trường nhiều loại đực lai riêng biệt cho các công thức lai giống khác nhau. Các nước chăn nuôi tiên tiến đã xác định rõ dòng đực cuối cùng trong các chương trình lai và họ đã thu được kết quả cao trong chăn nuôi lợn.

Hiện nay, các dòng tổng hợp - đực lai cuối cùng được sử dụng rất phổ biến trên thế giới vì có ưu thế lai cao, giá thành sản xuất hạ. Tuy vậy, tùy theo nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau, việc sử dụng hệ thống lai thương phẩm cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực hay giữa các quốc gia.

Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả cho thấy lợn lai có mức tăng khối lượng tốt hơn so với lợn thuần. Theo Gerasimov và cs (1997) [124], công thức lai hai giống (Duroc x Large White) và công thức lai ba giống Duroc x (Poltava Meat x

35

Russian Large White) có khả năng tăng khối lượng cao nhưng tiêu tốn thức ăn lại thấp hơn so với các công thức lai khác.

Lợn đực giống Pietrain đã cải tiến có tỷ lệ nạc cao được sử dụng là dòng đực cuối cùng để sản xuất lợn thịt [163]. Warnants và cs (2003) [203], cho biết tại Bỉ việc sử dụng lợn nái lai phối với đực Pietrain để sản xuất lợn thịt có tỷ lệ nạc cao và tiêu tốn thức ăn thấp.

Leroy và cs (2000) [164], cho biết, khi sử dụng đưc Pietrain kháng stress phối với nái thương phẩm cho những kết quả như sau: TTTĂ/kg tăng khối lượng là 2,96 kg, tăng khối lượng trung bình 649 g/con/ngày, tỷ lệ móc hàm 82,60%, độ dày mỡ lưng là 20 mm và tỷ lệ nạc đạt 58,55%.

Kết quả nghiên cứu của Kusec và cs (2005) [153], trên lợn lai 4 giống (Pietrain x Hampshire) x (Landrace x Yorkshire) cho thấy tăng khối lượng trong thời gian nuôi thịt là 913 g/con/ngày, tiêu tốn thức ăn là 2,50 kg thức ăn/kg tăng khối lượng.

Ở khu vực Bắc Mỹ, dòng đực P76 là một trong những dòng đực lai tổng hợp cuối cùng đầu tiên trên thế giới, được lai tạo bởi công ty Penarlan - Canada vào năm 1972. Đây là dòng đực tổng hợp đã được lai tạo và chọn lọc trong nhiều năm dựa trên nguồn gen Hampshire, Large White, Duroc và Pietrain. Đặc điểm nổi bật của dòng đực lai này có tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ nạc cao và diện tích thăn thịt lớn [159]. Gần đây, công ty Penarlan tiếp tục phát triển dòng đực lai tổng hợp mới có tên là Huron) cho thị trường Bắc Mỹ và Nhật Bản chủ yếu dựa trên tỷ lệ mỡ giắt cao.

Ở châu Âu, công ty TOPIGS đã phát triển một số dòng đực cuối cùng cho các hệ thống lai thương phẩm ở các quốc gia châu Âu dựa trên các giống thuần hoặc lai giữa các giống Large White, Landrace và Pietrain. Trong đó nổi bật là một số dòng như TEMPO (Large White thuần), TYPOR (lai giữa Pietrain và Large White) và TOP PIE (Pietrain thuần). Dòng đực TEMPO (Large White thuần) cho đời con có tính đồng nhất cao, lợn con khỏe mạnh, số con cai sữa tăng, sức đề kháng bệnh cao và chất lượng thịt cao. Dòng TYPOR có tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt xẻ, cơ bắp cao và chi phí thức ăn thấp. Trong khi đó dòng TOP PIE đáp ứng các yêu cầu về chất lượng thịt cao, thịt xẻ và cơ bắp nhiều, chất lượng thịt cao, tiêu tốn thức ăn thấp. Công ty Rattlerow Seghers Holding (Bỉ) đã chọn tạo dòng đực Pietrain trắng (khoảng 90% giống Pietrain và 10% giống Large White) từ năm 1989 và đã sử dụng chúng như dòng đực cuối cùng trong hệ thống lai thương phẩm.

Cho đến nay, các tổ hợp lai đực cuối cùng phổ biến ở các quốc gia phát triển có thể kể tới như Pietrain x Duroc, Hampshire x Duroc, Pietrain x Large White, Duroc x Landrace White, Duroc x Yorkshine, Pietrain x Landrace và Duroc x Landrace.

36

Do trong thời gian dài, con người tập trung lai tạo để nâng cao năng suất, tỷ lệ nạc ở đàn lợn thương phẩm nên một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng thịt lợn như tỷ lệ mỡ dắt trong cơ có xu hướng bị giảm. Gần đây người ta sử dụng giống lợn Meishan (Trung Quốc) để cải thiện chất lượng thịt. Theo Haley và Lee (1990) [131], ở Mỹ năm 1989 đã nhập lợn nái hậu bị giống Meishan và Menzhu từ vùng Taihu Trung Quốc. Các lợn này cho phối với lợn địa phương của Mỹ tạo thành quần thể lợn hướng mỡ - thịt; thịt - mỡ, hướng nạc... và khi người Mỹ lấy chỉ tiêu sinh sản làm chính và tính toán nếu lợn đẻ 8-11 con/lứa thì cứ 18 kg thịt, giá thành giảm được 9 USD. Trước đó, các nước như Anh, Anbani, Nhật, Hungari, Hàn Quốc, Thái Lan đã nhập giống lợn Taihu của Trung Quốc vào năm 1986 và Tây Ban Nha nhập giống Jiaxing của Trung Quốc vào năm 1987 - 1988 để cải thiện chất lượng thịt, mỡ giắt khi cho lai với lợn Châu Âu. Gần đây các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu khai thác tối đa ưu thế lai của con mẹ trong các tổ hợp lai có giống Meishan điển hình Jiang và cs (2012) [147], nghiên cứu khi sử dụng với tỷ lệ 1/8 trong các công thức lai thương phẩm có khả năng cải thiện chất lượng thịt xẻ, nâng cao tỷ lệ thịt nạc, giảm độ dày mỡ lưng.

Ở Trung Quốc, lợn Meishan được sử dụng khá phổ biến làm nái nền hoặc tạo nái lai để lai với các giống lợn ngoại như Landrace hoặc Duroc tạo ra lợn lai thương phẩm 2, 3 giống có năng suất thân thịt được cải thiện và chất lượng thịt tốt [147].

Giống lợn Meishan cũng được dùng làm nguyên liệu để lai tạo giống mới. Giống lợn Sutai là sản phẩm của lai tạo giữa đực Duroc và nái Meishan, nó được dùng để lai với đực giống Landrace hoặc Yorkshire tạo lợn thương phẩm cho năng suất và chất lượng thịt cạnh tranh so với tổ hợp lợn lai 3 giống ngoại Duroc x (Landrace x Yorkshire) [165].

1.4.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng lai giống lợn ở nước ta

Để nâng cao năng suất và chất lượng giống trong chăn nuôi lợn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng và phù hợp với nền sản xuất hàng hoá hiện nay, chúng ta đã từng bước cải thiện những nhược điểm của các giống lợn địa phương. Từ những năm 60 nước ta đã nhập một số giống lợn ngoại để lai kinh tế với lợn địa phương, với những công thức lai như: Đại Bạch với lợn Móng Cái, Landrace với Lang Hồng… Trong những năm gần đây công tác lai tạo được đẩy mạnh với các giống lợn mới (Pietrain, Duroc, Hamshire...), các nhà khoa học nghiên cứu chọn lọc, ghép đôi giao phối những con giống tốt theo định hướng sản xuất, phù hợp với điều kiện chăn nuôi của từng địa phương.

1.4.2.1. Nghiên cứu và ứng dụng lai giống nâng cao sức sinh sản

Các công thức lai giữa lợn ngoại và lợn nội đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc nâng cao năng suất sinh sản trong chăn nuôi lợn ở nước ta. Các kết quả nghiên cứu trước đây đã khẳng định khi lai giữa đực ngoại và nái nội đã có tác dụng nâng cao

37

khả năng sinh sản ở con lai so với giống lợn nội thuần. Theo Võ Trọng Hốt và cs (1999) [39], đã khẳng định sử dụng lợn nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) làm nền để sản xuất lợn lai nuôi thịt có năng suất và tỷ lệ nạc cao có thể phát triển tốt trong điều kiện chăn nuôi nông hộ, số con sinh ra đạt 11,73 con/ổ, số con cai sữa 10,69 con. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức và cs (2001) [25], Trần Thị Minh Hoàng và cs (2003) [36], cho biết tổ hợp lợn lai giữa Pietrain và Móng Cái có khả năng sinh sản tốt, số con để nuôi đạt 11,00 con/ổ, số con ở 60 ngày tuổi/ổ đạt 10,25 con, khối lượng sơ sinh và khối lượng 60 ngày tuổi/con đạt tương ứng là: 1,04 và 12,45 kg. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2006a) [82], cho thấy năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) là: số con để nuôi và số con cai sữa/ổ đạt 11,09 và 10,47 con. Khả năng sinh sản của lợn nái lai (Yorkshire x Móng Cái) tăng dần từ lứa 1 đến lứa 4, số con cai sữa khá cao đạt 10,42 con/ổ, khối lượng xuất bán 20,36 kg/con ở thời điểm 80,75 ngày [71]. Tác giả Lê Đình Phùng và Mai Đức Trung (2008) [57], khi nghiên cứu khả năng sinh sản trên đối tượng lợn lai F1(Yorkshire x Móng Cái) và lợn Móng Cái cho thấy tổ hợp lai (Yorkshire x Móng Cái) có khả năng sinh sản tốt hơn lợn nái Móng Cái về các chỉ tiêu: Số con sơ sinh, số con sơ sinh sống đến 24 giờ, khối lượng sơ sinh của lợn con, khối lượng cai sữa của lợn con. Nghiên cứu của Đặng Vũ Bình và cs (2008) [14], về năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) phối với đực giống Duroc, Landrace và (Pietrain × Duroc) cho kết quả số con đẻ ra/ổ cao nhất ở công thức lai Landrace × (Yorkshire × Móng Cái) là 12,80 con, tiếp đến là công thức lai Duroc × (Yorkshire x Móng Cái): 12,35 con, thấp nhất là công thức lai (Pietrain × Duroc) × (Yorkshire x Móng Cái): 11,44 con. Tỷ lệ nuôi sống ở 3 công thức trên lần lượt là 93,53%; 91,37%; 95,69%. Khối lượng cai sữa/con đạt cao nhất ở công thức lai Landrace × (Yorkshire × Móng Cái) 6,13 kg, sau đó là công thức lai (Pietrain × Duroc) × (Yorkshire x Móng Cái): 6,16 kg và thấp nhất là công thức lai Duroc × (Yorkshire x Móng Cái): 6,00 kg. Tác giả Nguyễn Văn Đức (2010) [27], khi nghiên cứu khả năng sinh sản của các tổ hợp lợn lai (Landrace x Móng Cái); (Yorkshire x Móng Cái); (Pietrain x Móng Cái) cho thấy số con sơ sinh của các tổ hợp lai là: 12,14; 12,13; 12,52 con/lứa. Khối lượng sơ sinh là: 1,10; 1,12; 1,15 (kg/con).

Theo tác giả Phùng Thăng Long (2006) [45], lợn nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) và (Pietrain x Móng Cái) nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế có số con sơ sinh/ổ lần lượt là: 11,97 và 12,37 con/ổ; số cai sữa là: 10,83 và 11,20 con/ổ; khối lượng sơ sinh là; 0,87 và 0,88 kg/con; khối lượng cai sữa (30 ngày tuổi) là 5,82 và 5,97 kg/con. Phùng Thăng Long và cs (2011) [47], khi nghiên cứu cứu khả năng sinh sản của lợn nái lai Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái) phối tinh với lợn đực Duroc cho biết số con sơ sinh là: 10,77 con/ổ; khối lượng sơ sinh là 1,10 kg/con.

Những năm gần đây, những tổ hợp lai ngoại ngoại đã được nghiên cứu và thu được nhiều kết quả. Nghiên cứu về năng suất sinh sản của nái tổng hợp giữa 2 giống

38

(Yorkshire và Landrace) Nguyễn Thị Viễn (2004) [94], cho biết nhóm nái lai (Yorkshire x Landrace) nâng cao được số con sơ sinh là 0,24 - 0,62 con/ổ và có tuổi đẻ lứa đầu sớm hơn 4 - 11 ngày, nhóm lai (Landrace x Yorkshire) nâng cao được khối lượng cai sữa từ 0,65 - 0,42 con/ổ so với nái thuần. Hai nhóm nái lai đã giảm được số ngày chờ phối sau cai sữa 0,25 - 0,42 ngày. Ưu thế lai về tính trạng sinh sản của nhóm nái lai đạt được từ 0,99- 7,11% và tính trạng tăng khối lượng g/con/ngày giai đoạn 90 - 150 ngày tuổi đã được cải thiện 2,03- 3,48%. Kết quả nghiên cứu của Lê Đình Phùng (2009) [58], về năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(Landrace x Yorkshire) phối tinh với đực (Pietrain x Duroc) trong điều kiện chăn nuôi trang trạng tại Quảng Bình cho biết, số con sơ sinh là 10,31 con/ổ; khối lượng sơ sinh đạt 1,35 kg/con; khối lượng cai sữa lúc 23 ngày tuổi đạt 5,88kg/con. Theo Lê Đình Phùng và cs (2011) [60], lợn nái lai F1(Landrace x Yorkshire) có khả năng sinh sản tốt hơn lợn nái Landrace và Yorkshire; tính trạng tổng hợp số kg lợn con/nái/năm tương ứng là: 146,5 so với 142,2 và 140,6 kg/nái/năm; giá trị ưu thế lai là 3,53%. Theo tác giả Lê Thị Mến (2015) [50], khi khảo sát năng suất sinh sản của lợn nái lai (Landrace x Yorkshire) và (Yorkshire x Landrace) cho biết lợn nái lai của hai tổ hợp đều cho năng suất sinh sản cao và tỷ lệ hao mòn cơ thể thấp với số con sơ sinh; số con để nuôi và tỷ lệ hao mòn là: 10,95; 11,36; 10,60; 10,90 và 5,39, 4,33.

Kết quả nghiên cứu về năng suất sinh sản và chất lượng thịt của lợn nái lai Duroc x (Landrace x Yorkshire), Landrace × (Landrace × Yorkshire), (Pietrain × Duroc) × (Landrace × Yorkshire) tại các trang trại chăn nuôi Hải Dương, Phạm Thị Đào (2006) [23], cho biết các công thức lai đều thể hiện ưu thế lai cao về các chỉ tiêu sinh sản, nhất là ưu thế lai về khối lượng cai sữa và khối lượng 60 ngày tuổi

Ở nước ta, một số nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng các tổ hợp lợn nái lai có giống Meishan có nguồn gốc từ Công ty cải biến lợn PIC (Anh quốc) cho năng suất sinh sản cao và ổn định [54]. Theo nghiên cứu của Lê Đình Phùng và Trương Tấn Huệ (2011) [61], thì lợn lai cấp giống ông bà C1230 là con lai của dòng lợn L95 (dòng Meishan tổng hợp) và dòng lợn L06 (dòng Landrace) có khả năng sinh sản tốt, đặc biệt là các tính trạng như số con sơ sinh/ổ, số con sơ sinh sống và số con cai sữa.

Đinh Thị Thu Lan (2014) [41] khi nghiên cứu năng suất sinh sản của lợn nái Rừng, Meishan và F1(Rừng x Meishan) nuôi tại Tam Điệp, Ninh Bình cho biết tuổi phối giống lần đầu của lợn Meishan (144,25 ngày), tuổi đẻ lứa đầu là 265,88, khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 149,42 ngày.

Theo Phạm Duy Phẩm và cs (2014) [53] cho biết giống lợn VCN-MS15 nuôi tại Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, có đặc điểm ngoại hình ngắn, mặt nhăn, lông da đen tai to rủ, lưng võng và số vú nhiều (> 18vú). Quá trình nghiên cứu và chọn lọc qua các thế hệ cho thấy đàn lợn VCN -MS15 đến thế hệ 3 đã dần ổn định về mặt ngoại hình và có đặc điểm nổi trội về khả năng sinh sản: tuổi động dục lần đầu từ 108 đến

39

115,7 ngày, khối lượng động dục lần đầu từ 28,7 đến 32,4 kg, tuổi phối giống lần đầu từ 142,1 đến 152,2 ngày. Số con sơ sinh sống trung bình ở thế hệ thứ 3 đạt 13,7 con/ổ, tương ứng với số con cai sữa đạt 12,3 con/ổ.

1.4.2.2. Nghiên cứu và ứng dụng lai giống nâng cao năng suất, chất lượng thịt

Các công thức lai giữa lợn ngoại và lợn nội đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc nâng cao năng suất năng suất và tỷ lệ nạc trong chăn nuôi lợn ở nước ta. Tuy nhiên các công thức lai này còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cao của người chăn nuôi hiện nay. Chính vì vậy trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu lai giống để sản xuất lợn lai nuôi thịt có tỷ lệ máu ngoại cao với nhiều công thức khác nhau. Lê Thanh Hải và cs (2001) [29], cho biết: công thức lai (Pietrain x Móng Cái) đạt mức tăng khối lượng 509 g/con/ngày trong thời gian nuôi thí nghiệm từ 23,02 kg (90 ngày tuổi) đến 80,03 kg (202 ngày tuổi), tiêu tốn thức ăn là 3,8 kg thức ăn/kg tăng khối lượng và có tỷ lệ nạc so với thịt xẻ là 44,90%.

Theo nghiên cứu của Vũ Đình Tôn và cs (2008) [72], kết luận lợn lai ba giống Landrace x (Yorkshire x Móng Cái) nuôi thịt đạt khối lượng 82,96 kg ở thời điểm nuôi 6 tháng tuổi, tốc độ sinh trưởng khá cao 605,59 g/con/ngày, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là 3,04 kg, tỷ lệ nạc so với khối lượng thịt móc hàm 49,99%.

Theo tác giả Phùng Thăng Long (2004) [43], lợn lai 3/4 máu ngoại Yorkshire x (Yorkshire x Móng Cái) và Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái) có khả năng tăng khối lượng nhanh (577,8 và 661,1 g/con/ngày trong giai đoạn từ 27-81 kg), tỷ lệ nạc cao (48,02 và 54,08%).

Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2006a) [82], công bố tổ hợp lai Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái) cho năng suất sinh trưởng, tiêu tốn thức ăn và chất lượng thịt xẻ (tỷ lệ móc hàm và diện tích mắt thịt) tốt hơn so với tổ hợp lai Landrace x (Yorkshire x Móng Cái), trong khi đó sử dụng công thức lai Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái) trong sản xuất sẽ có tác dụng nâng cao tỷ lệ nạc.

Lai hai, ba giống tạo con lai nuôi thịt 7/8 máu ngoại như Landrace x [Landrace x (Yorkshire x Móng Cái)] và Landrace x [Landrace x (Landrace x Móng Cái)] cho các chỉ tiêu sinh sản cao, khả năng nuôi thịt và chất lượng thịt xẻ tốt. Mức tăng khối lượng đạt 523-568 g/con/ngày, tỷ lệ nạc/thịt xẻ đạt 48,90- 50,38% [85].

Nghiên cứu khác của Trần Văn Chính (2001) [16], đã cho biết các chỉ tiêu tỷ lệ thịt xẻ, diện tích mắt thịt, độ dày mỡ lưng là tốt nhất ở tổ hợp lai (Pietrain x Yorkshire), tương ứng là 77,3%; 51,8 cm2 và 12 mm; trong khi tỷ lệ thịt nạc cao nhất được tìm thấy ở nhóm lợn lai Duroc x (Landrace x Yorkshire).

Theo tác giả Phùng Thị Vân (2001) [93], cũng cho biết sử dụng đực thuần Duroc lai với nái (Yorkshire x Landrace) và (Landrace x Yorkshire) đều cho năng suất sinh trưởng và tỷ lệ nạc cao hơn tổ hợp lai hai giống giữa hai giống Landrace và

40

Yorkshire. Khi sử dụng đực Duroc như đực cuối cùng, tốc độ sinh trưởng và chi phí thức ăn của tổ hợp lai thương phẩm Duroc x (Landrace x Yorkshire) cao hơn tổ hợp lai Duroc x (Yorkshire x Landrace) từ 2,12 - 4,38%.

Phạm Thị Đào và cs (2013) [24], cho biết khả năng tăng khối lượng của tổ hợp lai PiDu25 x F1(Landrace x Yorkshire) trong giai đoạn 60 – 169 ngày tuổi là 829 gam/ngày, ở tổ hợp lai PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) trong giai đoạn 60 – 167 ngày tuổi là 797 gam/ngày và tổ hợp lai PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) giai đoạn 60 – 164 ngày tuổi là 765 gam/ngày. Kết quả về tiêu tốn thức ăn của các tổ hợp lai PiDu25 x F1(Landrace x Yorkshire), PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) và PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) là (2,31, 2,33 và 2,38 kg thức ăn/kg tăng khối lượng). Tỷ lệ thịt nạc đạt tương ứng là 54,66; 56,32 và 59,97%, tỷ lệ thịt nạc của tổ hợp lai PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) đạt cao nhất so với hai tổ hợp còn lại. Chất lượng thịt của cả 3 tổ hợp lai như pH, màu sắc, tỷ lệ mất nước, độ cứng của thịt đều nằm trong giới hạn bình thường.

Tác giả Lê Đình Phùng và Nguyễn Trường Thi (2009) [59], cho biết lợn thịt 3 giống ngoại (Duroc x Landrace) x (Yorkshire x Landrace) có lượng ăn vào bình quân là 1,91kg thức ăn/con/ngày, tăng khối lượng tuyệt đối là 742 g/con/ngày, hệ số chuyển hóa thức ăn là 2,55 kg/kg, tỷ lệ nạc là 59,3%, độ dày mỡ lưng tại điểm P2 là 1,01 con.

Theo công bố của tác giả Lê Thanh Hải và cs (2007) [30], khi nghiên cứu trên con lai 4 giống C22 x (Pietrain x Yorkshire) có tỷ lệ nạc trong thân thịt đạt mức 66,2% và con lai 5 giống CA x (Pietrain x Yorkshire) có tỷ lệ nạc là 64,9%

Nguyễn Ngọc Phục và cs (2009) [54], cho biết lợn thương phẩm 3 giống Duroc x (Landrace x Yorkshire) và 4 giống VCN23 x (Landrace x Yorkshire) nuôi tại các trang trại ở Quảng Bình trong giai đoạn từ 23 - 90kg có tăng khối lượng cao và tiêu tốn thức ăn thấp, đồng thời chúng cũng thể hiện ưu thế rõ rệt về mức tăng khối lượng và tiêu tốn thức ăn đối với lợn thương phẩm 2 giống (Landrace x Yorkshire).

Phan Xuân Hảo và Nguyễn Văn Chi (2010) [35], công bố thành phần thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai giữa nái lai F1(L x Y) phối với đực lai Omega (Landrace x Duroc) và Pietrain x Duroc (PiDu). Tổ hợp lợn lai Omega x F1(L x Y) đạt các tỷ lệ: thịt móc hàm (81,28%), xương (14,28%) và da (6,99%) đạt tương đương so với PiDu x F1(L x Y) và tương ứng lần lượt là 80,64; 14,99 và 6,87%. Cả hai tổ hợp lợn lai Omega x F1(L x Y) và PiDu x F1(L x Y) đều cho tỷ lệ thịt nạc cao và tỷ lệ mỡ thấp. Tổ hợp lai Omega x F1(L x Y) có tỷ lệ thịt nạc 61,54% và tỷ lệ mỡ 14,66%, ở PiDu x F1(L x Y) tương ứng là 57,09 và 18,45%. Mặt khác, tổ hợp lai Omega x F1(L x Y) có diện tích cơ thăn là 56,25 cm2, dày mỡ lưng là 10,56 mm so với PiDu x F1(L x Y) có giá trị tương ứng là 49,71 cm2 và 17,60 mm với sự sai khác tương ứng là P < 0,01 và P < 0,001. Thông qua các chỉ tiêu chất lượng thịt như giá trị pH45, pH24, màu sáng thịt (L*) và tỷ lệ mất nước bảo quản cho thấy thịt ở cả hai tổ hợp lai đảm bảo chất

41

lượng tốt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sử dụng đực lai Omega và PiDu phối với nái lai F1(L x Y) có thể nâng cao được tỷ lệ thịt nạc và vẫn đảm bảo được chất lượng thịt tốt.

Kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Đình Phùng và cs (2015) [63], cho thấy 2 tổ hợp lai PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) và PIC399 x F1(Landrace x Yorkshire) trong giai đoạn 60 - 150 ngày tuổi có khả năng sinh trưởng và năng suất thịt cao, lần lượt có tăng khối lượng trung bình 765 và 879 g/con/ngày, tiêu tốn thức ăn 2,74 và 2,61 kg thức ăn/kg tăng khối lượng, tỷ lệ thịt xẻ 70 và 69%, dày mỡ lưng vị trí xương sườn 10 - 11 là 21,7 và 20,7 mm.

Hiện nay, nhu cầu của thị trường về thịt lợn có chất lượng cao ngày càng tăng, nên hướng nghiên cứu nâng cao chất lượng thịt đang được quan tâm [180]. Các tính trạng thuộc năng suất và chất lượng thịt lợn phụ thuộc vào các tổ hợp lai [147], do vậy, lai giống vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi để nâng cao năng suất, chất lượng thịt và hiệu quả chăn nuôi lợn.

Ở Việt Nam, từ năm 1997 trại lợn giống hạt nhân Tam Điệp (Ninh Bình) đã sử dụng dòng lợn cái tổng hợp L95 có máu Meishan có nguồn gốc từ PIC để lai với lợn đực Landrace tạo ra dòng ông bà C1230 và cho lai với lợn đực tổng hợp dòng L19 tạo ra lợn cái bố mẹ CA để sản xuất lợn thương phẩm 5 máu có năng suất cao và chất lượng thịt tốt được người chăn nuôi ở các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh miền Trung ưa dùng. Theo Lê Đình Phùng và cs (2012) [62], thì lợn lai Duroc x CA có khả năng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất thịt tốt trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp. Cụ thể là tăng khối lượng từ 60-150 ngày tuổi là 830 g/con/ngày; tỷ lệ nạc là 62,9%.

1.5. GIỚI THIỆU CÁC GIỐNG LỢN VCN-MS15, DUROC, LANDRACE, PIETRAIN

1.5.1. Giống lợn VCN-MS15 (Meishan)

Giống lợn Meishan là giống được nuôi ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Xuất xứ của giống lợn Meishan là ở vùng thung lũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Giống lợn Meishan chủ yếu được nuôi ở miền Bắc và Trung của Trung Quốc, một số vùng ven sông Trường Giang và bờ biển phía Đông Nam.

Giống lợn này có màu đen, mặt và da nhăn, lông đen toàn thân và có vành lông trắng vắt qua vai bao gồm cả chân trước và ngực. Lợn cỏ đầu nhỏ thanh, cổ dài và hẹp thân. Lợn Meishan lớn chậm, nhiều mỡ và cấu tạo thân thịt kém. Tuy lớn chậm và nhiều mỡ nhưng thịt lợn Meishan có mùi vị thơm ngon rất đặc trưng. Ngoài ra giống lợn này còn có khả năng chống chịu với rất nhiều loại bệnh tật khác nhau.

Lợn Meishan hiện là giống mắn đẻ nhất trong số các giống lợn trên thế giới với trung bình mỗi lứa từ 15-16 con/lứa, có khi 20 -22 con, lợn có khả năng tăng khối lượng tương đối tốt. Lợn Meishan có nhiều vú, thành thục sinh dục sớm ngay từ lúc

42

chưa đầy 2,5 tháng tuổi so với 5 tháng tuổi ở các giống lợn khác. Con nái trông bề ngoài thì dữ dằn nhưng lại rất hiền và nuôi con rất tốt. Giống lợn Meishan có khối lượng tương đối lớn so với các giống lợn châu Á. Lợn nái trưởng thành có chiều cao 57,8cm, vòng ngực 100cm và trọng lượng 61,6kg. Tỷ lệ thịt xẻ thấp khoảng 68%, tỷ lệ mỡ cao.

Giống lợn Meishan được nhập 2 đợt về Việt Nam vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011. Những kết quả nghiên cứu bước đầu về đặc điểm sinh học của giống lợn Meishan nuôi thuần ở Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương (Viện Chăn Nuôi) đã cho thấy giống lợn này đã thích nghi tại Việt Nam và có những ưu việt so với các giống lợn nội nuôi phổ biến ở nước ta hiện nay [75].

+ Về ngoại hình: Đàn lợn Meishan có sự ổn định rất cao về mặt ngoại hình, 100% số cá thể sinh ra ở thế hệ 1, 2 đều có ngoại hình đồng nhất với thế hệ xuất phát với các đặc điểm: Mặt nhăn, tai to rủ, lông da đen, lưng không võng bụng không xệ, số vú nhiều. Các chiều đo cơ bản tại thời điểm 6 tháng tuổi: vòng ngực đạt 85,2 - 90,8 cm, cao vai từ 47,5 - 54,0 cm và dài thân từ 88,7 - 94,1 cm

+ Về sinh sản: Tuổi động dục lần đầu từ 108 - 111 ngày, khối lượng động dục lần đầu trung bình từ 27 - 30,2 kg; tuổi phối giống lần đầu trung bình 162 - 165 ngày; khối lượng phối giống lần đầu trung bình 38,1 - 44,4 kg; Số con sơ sinh sống/ổ trung bình 12,4 - 12,9 con; số con cai sữa/ổ trung bình 11,1 - 11,6.

+ Về sinh trưởng: Tăng khối lượng của lợn đực từ 267 - 281 g/ngày, đối với lợn cái là 294 - 318 g/ngày; dày mỡ lưng tại điểm P2 với lợn đực từ 16,7 - 17,0mm còn với lợn cái là 17,3 - 17,8mm.

Tháng 8 Năm 2014, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã công nhận Meishan là một giống lợn mới (với tên VCN-MS15) và được phép sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam (thông tư số 18/2014/TT-BNNPTNT).

1.5.2. Giống lợn Landrace

Lợn Landrace có nguồn gốc từ Đan Mạch. Đặc điểm ngoại hình toàn thân có màu trắng tuyền, tầm vóc to, dài mình bụng thon, ngực rộng, tai cúp về phía trước, mõm thẳng, thân hình dài, mông nở. Lợn nái Landrace có khả năng sinh sản cao, mắn đẻ và đẻ nhiều: Trung bình đạt 1,8-2 lứa/năm, mỗi lứa đẻ 10-12 con. Khối lượng sơ sinh của lợn con trung bình đạt 1,2-1,3kg/con, khối lượng cai sữa đạt 12-15kg/con, sức tiết sữa 5-9kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn thịt rất tốt, tăng khối lượng 750- 800g/ngày, ở 6 tháng tuổi có thể đạt 105-125kg/con. Lợn đực trưởng thành nặng 400kg, lợn nái nặng 280-300kg. Đực Landrace luôn dẫn đầu trong hệ thống lai bởi độ dày cơ, tỷ lệ nạc khá cao, xương nhẹ.

43

1.5.3. Giống lợn Duroc

Lợn Duroc có nguồn gốc từ miền Đông nước Mỹ và vùng CornBelt. Đặc điểm

ngoại hình toàn thân có màu hung đỏ (thường gọi lợn bò), đầu to vừa phải, mõm dài,

tai to và dài, cổ nhỏ và dài, mình dài, vai-lưng-mông-đùi rất phát triển. Giống lợn

Duroc là giống lợn tiêu biểu cho hướng nạc, có tầm vóc trung bình so với các giống

lợn ngoại. Lợn Duroc có khả năng sinh sản tương đối cao. Trung bình đạt 1,7 - 1,8

lứa/năm. Mỗi lứa đẻ từ 9 đến 11 con, Khối lượng sơ sinh lợn con trung bình đạt 1,2 -

1,3 kg/con. Khả năng sinh trưởng của lợn tốt, tiêu tốn thức ăn thấp, tỷ lệ nạc cao và

chất lượng thịt tốt. Lợn có khả năng tăng khối lượng từ 750 – 800 g/ngày, 6-19 tháng

tuổi lợn thịt có thể đạt 105 - 125 kg. Lợn Duroc trưởng thành con đực nặng tới 370 kg,

con cái 250 - 280 kg. Lợn Duroc được coi là giống lợn tốt trên thế giới hiện nay và

được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt nuôi theo hướng nạc.

1.5.4. Giống lợn Pietrain

Lợn Pietrain có nguồn từ nước Bỉ, màu lông da trắng đan xen lẫn từng đám đen

trắng không đồng đều trên cơ thể, tai thẳng đứng, đầu to vừa phải, mõm thẳng, 4 chân

thẳng, cơ thể khá nhỏ song chắc chắn, vóc dáng có hình khối với sự phát triển cơ vùng

mông, cơ thăn, tỷ lệ nạc trong thân thịt khác cao, xương nhỏ, tỷ lệ thịt xẻ cao (60 -

62%). Lợn đực trưởng thành nặng 270 - 350 kg/con, lợn cái nặng 220 - 250 kg/con,

mỗi lứa đẻ 8-10 con. Tăng khối lượng nhanh, nuôi 6 tháng tuổi đạt 100 kg/con, tỷ lệ

nạc 60-62%. Lợn Pietrain có nhược điểm tim yếu vì có tỷ lệ gen Halothane cao khi

hoạt động mạnh dễ bị vỡ tim (chết đột tử), khả năng chịu đựng kém, nhạy cảm với

stress. Lợn Pietrain thường sử dụng lai với Duroc để tạo đực cuối cùng nhằm nâng cao

năng suất thịt và tỷ lệ nạc.

44

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

- Thí nghiệm nghiên cứu năng suất sinh sản của lợn nái và của lợn thịt được triển khai và thực hiện tại: Viện Công nghệ Sinh học - Đại học Huế từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 12 năm 2015. Địa chỉ: thôn Ngọc Anh, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Năng suất và chất lượng thịt xẻ của lợn thương phẩm được đánh giá tại Viện Công nghệ Sinh học - Đại học Huế ngay sau khi kết thúc thí nghiệm; các chỉ tiêu chất lượng thịt được phân tích tại Bộ môn Di truyền - Giống vật nuôi, Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Địa chỉ: Trâu Quỳ - Gia Lâm - Hà Nội.

2.1.2. Đối tượng nghiên cứu

- Lợn nái

 Lợn nái hậu bị VCN-MS15 đảm bảo tiêu chuẩn làm giống được nhập từ Viện

Chăn nuôi Quốc gia, và được nuôi và theo dõi đến hết lứa đẻ thứ 6.

 Lợn nái lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) được tạo ra từ đực Pietrain và đực Duroc đảm bảo chất lượng làm giống được nhập về từ trại giống cấp I, thành phố Hồ Chí Minh cho phối giống với lợn nái VCN-MS15 trưởng thành tại Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế)

- Lợn nuôi thịt

 Lợn lai 1/2 giống VCN-MS15: Gồm 2 tổ hợp lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và

F1(Duroc x VCN-MS15).

 Lợn lai 1/4 giống VCN-MS15: Gồm 3 tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN- MS15), Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15), lợn được tạo ra từ đực Pietrain, Landrace phối với nái F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc phối với nái F1(Pietrain x VCN-MS15) và tại Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế).

2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

1. Đặc điểm sinh lý sinh dục và năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và

lợn nái 1/2 giống VCN-MS15:

45

 Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15 và lợn nái 1/2 giống

VNC-MS15

 Năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 được phối với đực giống Duroc

và Pietrain,

 Năng suất sinh sản của lợn nái F1(Duroc x VCN-MS15) và lợn nái

F1(Pietrain x VCN-MS15) được phối với đực giống Pietrain, Landrace và Duroc.

2. Sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt xẻ của các tổ hợp lợn lai thương

phẩm 1/2 giống VCN-MS15:

 F1(Pietrain x VCN-MS15),

 F1(Duroc x VCN-MS15).

3. Sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai thương phẩm

1/4 giống VCN-MS15:

 Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

 Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15),

 Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15).

2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.3.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục và năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15 (thí nghiệm 1)

2.3.1.1. Động vật thí nghiệm và quản lý

Nghiên cứu được tiến hành trên 15 lợn nái VCN-MS15, 18 lợn nái 1/2 giống VCN-MS15 gồm 9 lợn nái F1(Pietrain x VCN-MS15) và 9 lợn nái F1(Duroc x VCN- MS15). Lợn ở mỗi nhóm khi đưa vào thí nghiệm đảm bảo tính đồng đều. Giai đoạn hậu bị, lợn được nuôi 4-5 con/ô chuồng, cho ăn tự do thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, nuôi trong chuồng hở thiết kế theo kiểu chuồng công nghiệp đến khi động dục lần đầu. Sau đó, lợn được nuôi cá thể đến khi phối giống. Đến thời điểm phối giống, mỗi một nhóm 5 lợn nái VCN-MS15 (3 nhóm) được phối giống nhân tạo bằng tinh dịch của lợn đực giống Duroc, Pietrain hoặc Landrace. 6 lợn nái F1(Pietrain x VCN-MS15) được phối giống nhân tạo bằng tinh dịch của đực giống Duroc, 6 lợn nái F1(Duroc x VCN- MS15) được phối giống bằng tinh dịch của đực giống Pietrain và số còn lại được phối bằng tinh dịch của lợn đực giống Landrace. Khi lợn động dục, lợn nái được phối giống 2 lần, lần sau cách lần đầu 12 giờ. Trong giai đoạn mang thai, lợn tiếp tục được nuôi

46

cá thể trong các ô chuồng kích thước (0,6 x 2,2) m2/con. Trước khi đẻ 1 tuần và trong quá trình nuôi con (30 ngày) lợn mẹ được nuôi trên ô lồng đẻ có kích thước (1,8 x 2,2) m2/con.

Lợn con sau cai sữa giai đoạn từ cai sữa (31 ngày tuổi) – 60 ngày tuổi được

nuôi bầy đàn trong ô chuồng lồng có kích thước (1,65 x 2,4)m2/đàn.

2.3.1.2. Thức ăn

Thức ăn sử dụng trong nghiên cứu này là các hỗn hợp thức ăn hoàn chỉnh của công ty Cargill (Bảng 2.1). Lợn thí nghiệm VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15 được nuôi dưỡng, chăm sóc phù hợp với các giai đoạn sinh trưởng, sinh sản [8]. Nước uống được cung cấp cho lợn đầy đủ qua hệ thống các núm uống đặt trong chuồng nuôi.

Bảng 2.1. Giá trị dinh dưỡng các loại thức ăn cho lợn nái và lợn con

(Theo công bố của nhà sản xuất)

Loại thức ăn Thức ăn cho nái Thức ăn cho Thức ăn cho Thức ăn cho lợn

mang thai nái đẻ lợn con tập ăn con từ 8-15kg

Thành phần (Mã số thức ăn 1042) (Mã số thức ăn 1052) (Mã số thức ăn 1012) (Mã số thức ăn 8002) dinh dưỡng

Protein thô 14 16 21 20 (%)

Năng lượng trao đổi 2800 3000 3200 3200 tối thiểu Kcal/kg

Xơ thô (%) 9 9 6 6 max

Độ ẩm (%) 14 14 14 14 max

P tổng số (%) 0,4-1,4 0,4-1,5 0,4-1,5 0,4-1,5 min-max

Ca (%) 0,5-1,8 0,5-1,8 0,5-1,8 0,5-1,8 min-max

Lysine tổng số (%) 0,5 0,5 1,2 1,2 min

Methionine+Cystine 0,4 0,5 0,9 0,6 (%)

47

Bảng 2.2. Lượng thức ăn/ngày cho từng loại lợn

Giai đoạn Lượng thức ăn Đối tượng (ngày) (kg/con/ngày)

1 - 80 1,4 - 1,8

81- 110 1,8 - 2,4

Lợn nái chửa 111 - 112 1,5

113 0,5

Ngày cắn ổ đẻ 0

Ngày thứ nhất sau đẻ 1,0

Ngày thứ hai sau đẻ 2,0

3,0 Lợn nái nuôi con Ngày thứ ba sau đẻ

Ngày thứ tư sau đẻ - cai sữa Tự do

Ngày cai sữa Không cho ăn

Tự do Lúc tập ăn (7 ngày tuổi) - đến cai sữa Lợn con theo mẹ

Ngày cai sữa Giảm 1/2 lượng thức ăn

Lợn con sau cai sữa 31 – 60 ngày tuổi Tự do

2.3.1.3. Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu

- Các chỉ tiêu nghiên cứu

 Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15

được theo dõi qua một số chỉ tiêu:

 Số vú lợn cái (cái)

 Tuổi động dục lần đầu (ngày)

 Khối lượng lúc động dục lần đầu (kg)

 Tuổi phối giống lần đầu (ngày)

 Khối lượng lúc phối giống lần đầu (kg)

 Tuổi đẻ lứa đầu (ngày)

48

 Năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15 được

đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cơ bản:

 Thời gian mang thai (ngày)

 Số lợn con sơ sinh (con/ổ)

 Số lợn con sơ sinh sống (con/ổ)

 Khối lượng lợn con sơ sinh (kg/con)

 Số lợn con sống đến 21 ngày tuổi (con/ổ)

 Khối lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi (kg/con)

 Số lợn con sống đến cai sữa (30 ngày tuổi) (con/ổ)

 Khối lượng lợn con lúc cai sữa (kg/con)

 Tỷ lệ hao mòn cơ thể lợn mẹ (%)

 Thời gian động dục trở lại của lợn mẹ sau khi cai sữa (ngày)

 Số lứa đẻ/nái/năm (lứa)

 Khối lượng lợn con cai sữa/nái/năm (kg)

 Tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1kg lợn con cai sữa

 Thức ăn cho lợn nái chờ phối (kg/nái/lứa)

 Thức ăn cho lợn nái chửa (kg/nái/lứa)

 Thức ăn cho lợn nái nuôi con (kg/nái/lứa)

 Thức ăn tập ăn cho lợn con (kg/nái/lứa)

 Tổng thức ăn cho một nái/lứa (kg/nái/lứa)

 Tiêu tốn TĂ/kg lợn con cai sữa (kg thức ăn/kg tăng khối lượng)

 Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn sau cai sữa giai đoạn 31-60 ngày tuổi

 Thời gian cai sữa (ngày)

 Khối lượng lợn con khi cai sữa (kg/con)

 Thời gian từ cai sữa- 60 ngày tuổi (ngày)

 Khối lượng lợn con 60 ngày tuổi (kg/con)

 Tăng khối lượng lợn con từ sau cai sữa đến 60 ngày tuổi (g/con/ngày)

49

- Phương pháp xác định các chỉ tiêu về sinh lý sinh dục của lợn cái

 Số vú: Sử dụng phương pháp đếm trực tiếp trên từng các thể lợn cái hậu bị

 Tuổi động dục lần đầu (ngày): Xác định chỉ tiêu này bằng cách xác định khoảng thời gian từ khi lợn sinh ra đến khi động dục lần đầu. Theo dõi lợn xuất hiện động dục 2 lần vào buổi sáng và chiều trong ngày, khi lợn nái hậu bị ở giai đoạn từ 3-5 tháng tuổi.

 Tuổi phối giống lần đầu (ngày): Xác định chỉ tiêu này bằng cách xác định

khoảng thời gian từ khi lợn sinh ra đến thời điểm lợn được phối giống lần đầu.

 Tuổi đẻ lứa đầu (ngày): Xác định chỉ tiêu này bằng cách xác định khoảng thời

gian từ khi lợn sinh ra đến thời điểm khi lợn đẻ lứa đầu.

 Khối lượng động dục lần đầu (kg): Là khối lượng lợn nái lúc có các biểu hiện động dục lần đầu, được xác định bằng cân đĩa có khả năng cân tối đa 150 kg với phân độ nhỏ nhất là 200 gram.

 Khối lượng phối giống lần đầu (kg): Là khối lượng lợn được xác định khi lợn nái được phối giống lần đầu có kết quả, được xác định bằng cân đĩa có khả năng cân tối đa 150 kg với phân độ nhỏ nhất là 200 gram.

- Phương pháp xác định các chỉ tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái

 Thời gian mang thai (ngày): Xác định chỉ tiêu này bằng cách xác định khoảng

thời gian từ khi lợn được phối giống có chữa đến khi đẻ.

 Số lợn con sơ sinh (con/ổ): Là số con khi đẻ xong kể cả những con chết và được xác định bằng cách đếm tổng toàn bộ lợn con được sinh ra tính thời điểm lợn đẻ xong con cuối cùng.

 Số lợn con sơ sinh sống (con/ổ): Xác định bằng cách đếm số lợn con sống từ

lúc sinh xong đến lúc 24 giờ.

 Số lợn con sống đến 21 ngày tuổi/lứa (con/ổ): Được xác định bằng cách đếm

số lợn con sống trong tại thời điểm 21 ngày tuổi kể từ ngày đẻ.

 Số lợn con sống đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa (con/ổ): Xác định bằng cách

đếm số lợn con sống trong tại thời điểm 30 ngày tuổi kể từ ngày đẻ.

 Tỷ lệ nuôi sống lợn con đến cai sữa (%) được xác định bằng công thức:

Số lợn con sống đến lúc cai sữa 30 ngày tuổi/ổ

Tỷ lệ nuôi sống (%)

= × 100

Số lợn con để nuôi/ổ

50

 Khối lượng lợn con sơ sinh (kg/con): Là khối lượng lợn con được xác định ngay sau khi đẻ được lau khô, cắt rốn, bấm răng nanh và chưa cho bú sữa đầu. Được xác định bằng cân đồng hồ có khả năng cân tối đa 2 kg với phân độ nhỏ nhất là 10 gram, cân khối lượng từng con. Lợn thí nghiệm đều được bấm tai vào thời điểm khi sinh.

 Khối lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi (kg/con): Là khối lượng lợn con được xác định lúc 21 ngày tuổi. Được xác định bằng cân đĩa có khả năng cân tối đa 15 kg với phân độ nhỏ nhất là 50 gram, cân khối lượng từng con.

 Khối lượng lợn con lúc cai sữa (30 ngày tuổi) (kg/con): Là khối lượng lợn con lúc 30 ngày tuổi. Được xác định bằng cân đĩa có khả năng cân tối đa 15 kg với phân độ nhỏ nhất là 50 gram, cân khối lượng từng con.

 Tỷ lệ hao mòn lợn mẹ (%) (TLHM) được xác định như sau:

Khối lượng lợn mẹ sau khi đẻ 24 giờ - Khối lượng lợn mẹ khi cai sữa

= × 100 TLHM (%)

Khối lượng lợn mẹ sau khi đẻ 24 giờ

 Thời gian động dục trở lại sau cai sữa (ngày): Xác định khoảng thời gian từ

lúc cai sữa đến lúc lợn mẹ có biểu hiện động dục trở lại.

 Số lứa đẻ/năm (lứa): Được xác định như sau:

365 ngày Số lứa đẻ/năm = (lứa) Khoảng cách lứa đẻ (ngày)

Trong đó:

365 là số ngày của một năm

Khoảng cách lứa đẻ (ngày) là khoảng thời thời gian từ lứa đẻ này đến lứa đẻ

tiếp theo.

 Số kg lợn con cai sữa/nái/năm: Được xác định như sau:

Số kg lợn con cai sữa/nái/năm (kg) = Số lứa đẻ/năm x trung bình tổng khối

lượng lợn con cai sữa/ổ/nái.

- Phương pháp xác định chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1kg lợn

con cai sữa.

Tiêu tốn thức ăn/1kg lợn cai sữa được xác định theo công thức:

51

Lượng thức ăn tiêu thụ (kg) Tiêu tốn thức ăn/1kg lợn = con cai sữa Tổng khối lượng lợn con cai sữa/ổ (kg)

Trong đó: Lượng thức ăn tiêu thụ = (lượng thức ăn cho nái chờ phối + lượng

thức ăn cho nái mang thai + lượng thức ăn cho nái nuôi con + lượng thức ăn cho lợn

con tập ăn/ổ).

- Phương pháp xác định các chỉ tiêu về khả năng sinh trưởng, tiêu tốn thức

ăn của lợn con sau cai sữa đến 60 ngày tuổi

+ Cân khối lượng lợn con khi cai sữa bằng cân đồng hồ 10 kg với phân độ nhỏ

nhất 20g. Cân khối lượng khi 60 ngày tuổi bằng cân đồng hồ loại 30 kg, phân độ nhỏ

nhất 100 g, theo phương pháp cân từng cá thể.

- Tăng khối lượng lợn con trong thời gian từ sau cai sữa đến 60 ngày tuổi: dựa

trên khối lượng lợn con khi cai sữa và lúc 60 ngày tuổi và số ngày nuôi thí nghiệm để

tính toán.

Khối lượng 60 ngày tuổi (kg) - Khối lượng cai sữa (kg) Tăng khối lượng = x 1000 (g/con/ngày) Số ngày nuôi (ngày)

- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng: dựa trên tổng khối lượng thức ăn và tăng

khối lượng trong thời gian từ sau cai sữa đến 60 ngày tuổi để tính toán. Tiêu tốn thức

ăn/1kg tăng khối lượng được xác định theo công thức:

Tổng lượng thức ăn lợn ăn vào trong giai đoạn (kg) TTTĂ = (kg TĂ/kg TKL) Khối lượng thịt hơi tăng trong giai đoạn đó (kg)

2.3.2. Năng suất và chất lượng thịt xẻ của các tổ hợp lợn lai F1(Pietrain x VCN-

MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) (thí nghiệm 2)

2.3.2.1. Thiết kế thí nghiệm

Để đánh giá khả năng sinh trưởng và sức sản xuất thịt của lợn lai F1(Pietrain x

VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15), thí nghiệm theo dõi được thiết kế theo kiểu

52

hoàn toàn ngẫu nhiên với 2 tổ hợp lai: F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-

MS15), mỗi tổ hợp lai 14 con gồm (7 đực thiến, 7 cái), lợn được nuôi cá thể (n=14),

được ăn thức ăn công nghiệp. Thời gian nuôi lợn thí nghiệm là 105 ngày.

Sơ đồ 1. Bố trí thí nghiệm

Diễn giải Tổ hợp lai 1/2 giống VCN-MS15

F1(Pi x VCN-MS15) F1(Du x VCN-MS15) Tổ hợp (n=14) (n=14)

105 ngày Thời gian nuôi lợn thí nghiệm (từ 60 - 165 ngày tuổi)

Phương thức nuôi và theo dõi Cá thể

Hỗn hợp thức ăn hoàn chỉnh, cho ăn

Thức ăn, phương thức cho ăn và uống nước và uống tự do

2.3.2.2. Quản lý gia súc và thức ăn

Lợn thí nghiệm được nuôi cá thể trong các ô chuồng có kích thước (0,9 x 1,7)

m2 trong hệ thống chuồng hở, thông thoáng tự nhiên, được cho ăn tự do các hỗn hợp

thức ăn hoàn chỉnh của Công ty Cargill cho 2 giai đoạn sinh trưởng tương ứng từ 15-

30 kg và 31- giết thịt (Bảng 2.3).

53

Bảng 2.3. Giá trị dinh dưỡng các loại thức ăn lợn thịt

(Theo công bố của nhà sản xuất)

Loại thức ăn Thức ăn giai đoạn Thức ăn giai đoạn

15-30 kg 31-xuất chuồng Thành phần (Mã số thức ăn 1032) (Mã số thức ăn 1202S) dinh dưỡng

Protein thô (%) 18 16

NLTĐ tối thiểu (Kcal/kg) 3100 3075

Xơ thô max (%) 6 9

Độ ẩm max (%) 14 14

P tổng số min-max (%) 0,4-1,2 0,4-1,4

Ca min-max (%) 0,5-1,8 0,5-1,8

Lysine tổng số min (%) 1 0,8

Methionine+Cystine (%) 0,5 0,6

Lợn được uống nước đầy đủ thông qua các vòi uống tự động đặt trong từng ô

chuồng thí nghiệm. Lợn trước khi thí nghiệm đã được tiêm phòng đầy đủ các loại

vacxin theo quy định của Chi cục Chăn nuôi Thú y Thừa Thiên Huế (Dịch tả, Tụ huyết

trùng, Mycoplasma, PRRS).

Trong thời gian thí nghiệm, thức ăn cung cấp cho lợn được cân hàng ngày, khối

lượng lợn được cân vào các thời điểm: ngay trước khi đưa vào thí nghiệm, định kỳ

hàng tháng và kết thúc thí nghiệm để tính toán các chỉ tiêu.

2.3.2.3. Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu

- Các chỉ tiêu nghiên cứu

+ Khả năng sinh trưởng của lợn lai được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cơ

bản là:

 Khối lượng lợn qua các tháng nuôi thí nghiệm (kg)

 Tăng khối lượng trung bình của lợn qua các tháng nuôi (g/con/ngày)

54

 Lượng thức ăn ăn vào (kg/con/ngày)

 Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng khối lượng (kg)

+ Năng suất thịt của lợn lai được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu cơ bản là:

 Khối lượng giết thịt (kg)

 Khối lượng móc hàm (kg)

 Khối lượng thịt xẻ (kg)

 Tỷ lệ móc hàm (%)

 Tỷ lệ thịt xẻ (%)

 Độ dày mỡ lưng ở vị trí P2 (cm)

 Diện tích mắt thịt ở vị trí giữa xương sườn số 10-11 (cm2)

 Tỷ lệ nạc (%)

 Dài thân thịt (cm)

- Phương pháp nghiên cứu

Để đánh giá khả năng sinh trưởng, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn thí nghiệm chúng tôi sử dụng các phương pháp thường quy áp dụng trong nghiên cứu chăn nuôi lợn. Tóm tắt phương pháp:

+ Các chỉ tiêu về khả năng sinh trưởng của lợn

 Khối lượng lợn qua các tháng nuôi thí nghiệm (kg): Lợn được cân từng cá thể bằng cân đồng hồ 150 kg, với phân độ nhỏ nhất là 200 gram, vào buổi sáng trước lúc cho ăn, tại các thời điểm: Bắt đầu thí nghiệm 60 ngày tuổi và 90, 120, 150, 165 ngày tuổi.

 Tăng khối lượng (TKL) trung bình của lợn qua các tháng nuôi (g/con/ngày)

Trên cơ sở ghi chép số liệu khối lượng lợn qua các tháng nuôi để xác định tăng

khối lượng trung bình của lợn qua từng tháng nuôi theo công thức:

P tháng sau (kg) - P tháng trước (kg)

= × 1000 TKL (g/con/ngày) Khoảng thời gian giữa hai lần cân (ngày)

 Lượng thức ăn ăn vào (LĂV) (kg/con/ngày/): Công thức tính lượng ăn vào

trung bình hàng tháng như sau:

Tổng lượng thức ăn lợn ăn vào trong tháng

= LĂV (kg/con/ngày) 30 (ngày)

55

 Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng khối lượng (TTTĂ): Tiêu tốn thức ăn cho

một kg tăng khối lượng trung bình của từng tháng nuôi được tính theo công thức sau:

Tổng lượng thức ăn lợn ăn vào trong tháng (kg) TTTĂ = (kg TĂ/kg TKL) Khối lượng thịt hơi tăng trong tháng đó (kg)

+ Các chỉ tiêu theo dõi về năng suất và chất lượng thịt xẻ

Để xác định năng suất và chất lượng thịt xẻ của lợn thí nghiệm, sau khi thí nghiệm kết thúc, 6 lợn thịt (3 đực, 3 cái)/tổ hợp lợn lai có khối lượng trong khoảng 80- 90 kg/con được đưa đến lò mỗ của địa phương để giết thịt và đánh giá theo TCVN 3899-84 [4]. Tóm tắt phương pháp:

 Tỷ lệ móc hàm (%): Là tỷ lệ giữa khối lượng thịt móc hàm so với khối lượng

giết thịt. Tỷ lệ móc hàm được xác định theo công thức sau:

Khối lượng móc hàm (kg)

Tỷ lệ móc hàm (%) = x 100

Khối lượng giết thịt (kg)

Trong đó:

Khối lượng móc hàm (kg) là khối lượng của lợn sau khi chọc tiết, cạo lông, bỏ nội tạng (trừ 2 lá mỡ). Được xác định bằng cân đồng hồ 100 kg, với phân độ nhỏ nhất là 200 gram.

Khối lượng giết thịt (kg) là khối lượng của lợn sau khi bỏ đói 24 giờ và cho uống nước đầy đủ. Được xác định bằng cân đồng hồ 100 kg, với phân độ nhỏ nhất là 200 gram.

 Tỷ lệ thịt xẻ (%) là tỷ lệ giữa khối lượng thân thịt xẻ so với khối lượng giết

thịt của lợn. Tỷ lệ thịt xẻ được xác định bởi công thức sau:

Khối lượng thịt xẻ (kg)

Tỷ lệ thịt xẻ (%) = x 100

Khối lượng giết thịt (kg)

Trong đó: Khối lượng thịt xẻ (kg) là khối lượng thịt móc hàm sau khi cắt bỏ

đầu, 4 chân (từ móng đến khoeo), đuôi, bóc bỏ 2 lá mỡ.

 Độ dày mỡ lưng ở vị trí P2 (cm): Vị trí P2 được xác định từ giao điểm giữa xương sườn cuối cùng vuông góc với cột sống và cách sống lưng 6,5 cm về phía bên và được xác định bằng thước kẹp.

56

Hình 2.1. Đo độ dày mỡ lưng vị trí P2

 Tỷ lệ nạc (%):

Khối lượng nạc trong thân thịt xẻ (kg)

Tỷ lệ nạc (%) = x 100

Khối lượng thịt xẻ (kg)

Khối lượng nạc trong thân thịt được xác định theo phương pháp của National

Pork Produce Council - NPPC (2002) theo công thức :

Khối lượng nạc trong thân thịt xẻ (lb, pound) = 8,588 + (0,465 x khối lượng thân thịt nóng, lb) – (21,896 x dày mỡ lưng tại vị trí xương sườn 10, inch) + (3,005 x diện tích cơ thăn ở vị trí xương sườn 10, inch2).

Trong đó:

Diện tích cơ thăn (mắt thịt) ở vị trí xương sườn số 10-11 (cm2): được đo bằng cách cắt một đường vuông góc với trục lưng và cơ thăn tại điểm giữa xương sườn 10 và 11. Cắt khớp nối ngay giữa xương sườn 10 và 11 để có một mặt cắt vuông góc với cơ thăn. Dùng tấm nhựa mica (có thể nhìn xuyên qua) áp sát lên mặt cơ thăn, dùng bút xạ đánh dấu chu vi phần tiết diện cơ thăn lên mặt tấm nhựa mica, sau đó sao chép tiết diện cơ thăn lên giấy scan có khối lượng 40g/m2. Cắt phần rìa ngoài không liên quan đến diện tích cơ thăn trên giấy scan, cân phần còn lại bằng cân kỹ thuật 4 số.

Diện tích cơ thăn được tính bằng công thức sau:

B x 10000 A =

40

57

A là diện tích cơ thăn (cm2)

B là khối lượng phần giấy can (g)

Dày mỡ lưng ở vị trí xương sườn số 10 được xác định bằng cách: chia bằng mắt đường kính lớn của cơ thăn thành 4 phần. Đo dộ dày mỡ lưng tại vị trí đối diện với điểm 3/4 đường kính về phía bụng (bao gồm cả da).

Độ dày mỡ lưng ở giữa xương sườn 10-11

Diện tích mắt thịt ở giữa xương sườn 10-11

Hình 2.2. Đo diện tích mắt thịt và độ dày mỡ lưng giữa xương sườn 10-11

Tỷ lệ quy đổi: 1 cm = 0,3937008 inch

1 cm2 = 0,1550003 inch2

1 kg = 2,2045855 lb

1 lb = 0,4536 kg

2.3.3. Năng suất và chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x

VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-

MS15) (thí nghiệm 3)

2.3.3.1. Thiết kế thí nghiệm

Để đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15), thí nghiệm được thiết kế theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn với 3 tổ hợp lai, 10 con lợn/tổ hợp lai (5 đực thiến, 5 cái). Lợn ở cả 3 tổ hợp lai được nuôi cá thể (n=10), được ăn thức ăn công nghiệp. Thời gian nuôi lợn thí nghiệm là 100 ngày.

58

Sơ đồ 3. Bố trí thí nghiệm

Tổ hợp lai 1/4 giống VCN-MS15

Pi x F1(Du x Du x F1(Pi x L x F1(Du x Diễn giải VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15)

(n=10) (n=10) (n=10)

100 ngày Thời gian nuôi lợn thí nghiệm (từ 60 - 160 ngày tuổi)

Phương thức nuôi và theo dõi Cá thể

Phương thức cho ăn và uống nước Tự do

2.3.3.2. Quản lý gia súc và thức ăn

Lợn thí nghiệm được nuôi cá thể trong các ô chuồng có kích thước (0,9 x 1,7) m2 trong hệ thống chuồng hở, thông thoáng tự nhiên, được cho ăn tự do các hỗn hợp thức ăn hoàn chỉnh của công ty Cargill theo 2 giai đoạn sinh trưởng tương ứng 15-30

kg và 31- giết thịt với thành phần và giá trị dinh dưỡng như thí nghiệm 1 (bảng 2.3

trang 49 ).

2.3.3.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp theo dõi

- Các chỉ tiêu nghiên cứu khả năng sinh trưởng của lợn

Các chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu khả năng sinh trưởng của lợn trong thí

nghiệm 3 này tương tự như đã mô tả ở thí nghiệm 2 trang 54-55.

- Các chỉ tiêu nghiên cứu năng suất thịt

Để xác định năng suất và chất lượng thịt của lợn thí nghiệm, sau khi kết thúc thí nghiệm, 4 lợn (2 cái, 2 đực)/tổ hợp lợn lai có khối lượng trong khoảng 80-90 kg/con được giết thịt để đánh năng suất cho thịt.

Chỉ tiêu và phương pháp nghiên cứu năng suất thịt của lợn thí nghiệm tương tự

như đã mô tả trong thí nghiệm 2 trang 55-56-57.

- Các chỉ tiêu nghiên cứu chất lượng thịt và phương pháp xác định

+ Các chỉ tiêu nghiên cứu

Chất lượng thịt (cơ thăn) được đánh giá thông qua các chỉ tiêu:

59

 Giá trị pH (pH45, pH24 và pH48)

 Màu sắc thịt (L*, a*, b*)

 Tỷ lệ mất nước (%) (mất nước bảo quản, mất nước chế biến)

 Độ dai/lực cắt (N).

Thành phần hoá học của thịt (cơ thăn) được đánh giá thông qua các chỉ tiêu:

 Hàm lượng VCK (%)

 Hàm lượng protein thô (%)

 Hàm lượng lipit (%)

 Hàm lượng khoáng tổng số (%)

+ Các phương pháp nghiên cứu

Lấy mẫu: Để đánh giá chất lượng thịt của lợn thí nghiệm, 4 mẫu cơ thăn (Musculus longissimus dorsi) có khối lượng khoảng 2 kg/mẫu ở vị trí giữa xương sườn thứ 10 - 14 được lấy từ 4 lợn/một công thức lai ngay sau khi lợn được giết thịt để đánh giá các chỉ tiêu.

 Giá trị pH thịt ở 45 phút (pH45), ở 24 giờ (pH24) và 48 giờ (pH48) sau khi giết thịt. Giá trị pH được xác định theo phương pháp của Warner và cs (1997) [204], bằng được đo ngay máy đo pH meter (Testo 230, Cộng Hòa Liên Bang Đức). Giá trị pH45 tại lò mổ, pH24 và pH48 được đo tại phòng thí nghiệm.

Chất lượng thịt được đánh giá dựa vào giá trị pH theo phương pháp của Warner

và cs (1997) [204], như sau:

>5,80

Thịt bình thường: pH45

Thịt PSE: pH45 ≤ 5,80

Thịt DFD: pH24 ≥ 6,10

≤ 5,40

Thịt “axít”: pH24

 Màu sắc thịt: Màu sắc thịt với các chỉ số L* (Lightness, độ sáng), a* (Redness, màu đỏ), b* (Yellowness, màu vàng) tại thời điểm 24 và 48 giờ sau khi giết thịt đo trên cơ thăn giữa xương sườn 10-14 được xác định theo phương pháp của Warner và cs (1997) [204], bằng máy Minolta CR-410 (Nhật Bản). Phương pháp xác định: các mẫu cơ thăn có độ dày khoảng 2,5 cm, với khối lượng khoảng 150 g được bọc vào các túi nilon và được bảo quản ở nhiệt độ 2 - 4 ºC trong 24 giờ. Sau đó được

60

đo màu sắc thịt tại 5 điểm khác nhau/một mẫu. Giá trị màu sắc thịt là trung bình của 5 lần đo trên 5 điểm khác nhau.

Đánh giá chất lượng thịt dựa vào tiêu chuẩn màu sắc thịt theo Warner và cs

(1997) [204], như sau:

L* > 50: thịt PSE (nhợt màu, mềm, rỉ nước)

L* từ 50 - 37: thịt bình thường

L* < 37: thịt DFD (thẫm, chắc, khô)

 Tỷ lệ mất nước bảo quản sau 24 và 48 giờ: Được xác định dựa trên khối lượng mẫu trước và sau khi bảo quản theo phương pháp của Honikel (1998) [141]. Phương

pháp đo cụ thể như sau: Cắt khoảng 80 - 100g mẫu cơ thăn giữa xương sườn 10 – 14 bảo quản mẫu trong túi nhựa kín ở nhiệt độ 2 - 4 0C trong thời gian 24 giờ và 48 giờ. Sau thời gian bảo quản, mẫu được thấm khô bề mặt bằng giấy mềm, hút nước. Cân

mẫu trước vào sau bảo quản để xác định tỷ lệ mất nước bảo quản theo công thức:

P1 – P2 Tỷ lệ mất nước bảo quản (%) = x 100 P1

P1: Khối lượng mẫu trước khi bảo quản

P2: Khối lượng mẫu sau khi bảo quản

Phân loại thịt theo tỷ lệ mất nước của cơ thăn sau 24 giờ bảo quản như sau:

Tỷ lệ mất nước 2 - 5 (%): thịt bình thường

Tỷ lệ mất nước < 2 (%): thịt DFD

Tỷ lệ mất nước > 5 (%): thịt PSE

 Tỷ lệ mất nước chế biến sau 24 và 48 giờ: Được xác định dựa trên khối lượng mẫu trước và sau khi chế biến theo phương pháp của Honikel (1998) [141]. Lấy khoảng 100 gam mẫu cơ thăn cho vào túi nhựa kín, chịu nhiệt, mẫu được hấp cách thủy bằng máy Water Bath ở nhiệt độ 750C trong vòng 60 phút. Sau đó, lấy túi mẫu ra và làm mát dưới vòi nước chảy ngoài túi mẫu khoảng 30 phút. Làm khô mẫu sau chế biến bằng giấy mềm, hút nước. Xác định tỷ lệ mất nước chế biến theo chênh lệch khối

lượng mẫu trước và sau khi chế biến.

P1 – P2 Tỷ lệ mất nước chế biến (%) = x 100 P1

61

P1 : Khối lượng mẫu trước khi chế biến

P2 : Khối lượng mẫu sau khi chế biến

 Xác định độ dai của thịt: Độ dai của thịt (N) ở thời điểm 24 và 48 giờ sau giết thịt được xác định theo phương pháp của Channon và cs (2003) [109], bởi máy Warner Bratzler 2000D (Hoa Kỳ). Mẫu thịt sau khi làm chín đến nhiệt độ 750C được đưa vào bảo quản ở nhiệt độ 0 - 40C trong vòng 24 giờ và 48 giờ. Sau đó, từ mỗi mẫu thịt dùng dụng cụ lấy mẫu hình trụ có diện tích thiết diện là 1cm2, lấy các mẫu song song với chiều dọc của các sợi cơ. Thiết bị lấy mẫu phải sắc, đường kính mẫu phải đúng, đồng nhất (không có mô liên kết) để tránh sai số khi cắt. Mẫu sau đó đưa vào máy Warner – Bratzler để cắt vuông góc với các sợ cơ để xác định lực cắt. Độ dai của mẫu thịt được xác định thông qua lực cắt, là trung bình của giá trị 5 lần đo.

 Xác định hàm lượng VCK (%) theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8135:2009 [9].

 Xác định hàm lượng protein thô (%) bằng phương pháp Kjeldahl theo tiêu

chuẩn quốc gia TCVN 4328:2007 [7].

 Xác định hàm lượng lipit (%) bằng phương pháp Soxhlet theo tiêu chuẩn quốc

gia TCVN 4331:2001 [3].

 Xác định hàm lượng khoáng tổng số (%) theo theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN

4327:2007 [6].

2.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU

Số liệu ở thí nghiệm 1 được phân nhóm theo giống (VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15), lứa đẻ (≤ 2 lứa đẻ, > 2 lứa đẻ) và xử lý thống kê theo phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) qua mô hình GLM trên phần mềm Mimitab phiên bản 16.0. Kết quả được trình bày là giá trị trung bình ± sai số của giá trị trung bình. Các giá trị trung bình được cho là khác nhau có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05.

Số liệu ở thí nghiệm 2 và 3 được thu thập và xử lý thống kê theo phương pháp phân tích phương sai (ANOVA) qua mô hình GLM trên phần mềm Minitab phiên bản 16.0. Các kết quả được trình bày là giá trị trung bình và sai số của giá trị trung bình. Turkey test được sử dụng để so sánh giá trị trung bình. Các giá trị trung bình được coi là khác nhau có ý nghĩa thống kê khi P < 0,05.

62

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH DỤC VÀ NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI VCN-MS15 VÀ LỢN NÁI LAI 1/2 GIỐNG VCN-MS15

3.1.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15

Kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15 và lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 [F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15)] nuôi bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, và trong chuồng hở thiết kế theo kiểu chuồng công nghiệp tại Thừa Thiên Huế được trình bày trên Bảng 3.1.

Bảng 3.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái VCN-MS15

và lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15

Lợn nái

Chỉ tiêu P VCN-MS15 1/2 VCN-MS15

(n=15) (n=18)

Số vú (cái) 18,73 ± 0,48 16,11 ± 0,18 <0,01

Tuổi động dục lần đầu (ngày) 115,47 ± 0,74 146,05 ± 1,46 < 0,01

Khối lượng động dục lần đầu (kg) 34, 93 ± 0,62 69,78 ± 1,34 < 0,01

Tuổi phối giống lần đầu (ngày) 150,13 ± 2,01 181,17 ± 1,61 < 0,01

Khối lượng phối giống lần đầu (kg) 42,46 ± 0,88 91,11 ± 0,91 < 0,01

Tuổi đẻ lần đầu (ngày) 268,07 ± 2,90 298,56 ± 2,09 < 0,01

Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy:

Số lượng vú trung bình của đàn lợn cái giống VCN-MS15 là 18,73 vú và của

lợn cái giống 1/2 VCN-MS15 là 16,11 vú. Số vú của lợn cái VCN-MS15 trong nghiên

cứu này của chúng tôi là tương đương với kết quả trong báo cáo khảo nghiệm của

Viện chăn nuôi Quốc gia [75] là lợn cái VCN-MS15 có số vú trung bình là 17,6 cái,

Số vú nhiều cũng là một đặc điểm nổi bật của giống lợn VCN-MS15. Số vú của lợn

VCN-MS15 nhiều hơn hẳn so với các giống lợn nội phổ biến tại Việt Nam hiện nay.

Theo Nguyễn Văn Đức (2005) [26], số vú của giống lợn Móng Cái thường dao động

63

từ 10 – 16 vú, trong đó đa số là từ 12 – 14 vú, như vậy giống VCN-MS15 có số vú

nhiều hơn.

Trong nghiên cứu này lợn cái VCN-MS15 có số vú là 18,73 vú, nhiều hơn lợn

cái 1/2 giống VCN-MS15 là 16,11 vú (P<0,01). Điều này có thể giải thích là lợn cái có

1/2 giống VCN-MS15 trong nghiên cứu này có 50% nguồn gen của các giống lợn

ngoại: Pietrain hoặc Duroc, hai giống lợn này có đặc điểm là số vú ít hơn hẳn lợn

VCN-MS15 thuần.

Tuổi và khối lượng lúc động dục và phối giống lần đầu ở lợn nái lai 1/2 giống

VCN-MS15 cao hơn ở lợn VCN-MS15 (P < 0,01). Kết quả này là phù hợp vì lợn nái

lai 1/2 giống VCN-MS15 trong nghiên cứu hiện tại có 50% nguồn gen của các giống

lợn ngoại: Pietrain hoặc Duroc, hai giống lợn này có đặc điểm là tuổi thành thục về

tính muộn, tốc độ sinh trưởng nhanh và tầm vóc lớn hơn lợn VCN-MS15 thuần.

Tuổi, khối lượng khi động dục và phối giống lần đầu ở lợn VCN-MS15 nuôi ở

Thừa Thiên Huế trong nghiên cứu này của chúng tôi nằm trong độ tuổi động dục lần

đầu từ 108 - 115,7 ngày, tuổi phối giống lần đầu từ 142,1 - 152,2 ngày, khối lượng

phối giống lần đầu từ 36,2 - 42,8 kg trong báo cáo của Phạm Duy Phẩm và cs (2014)

[53]. Tuổi động dục lần đầu ở lợn nái VCN-MS15 trong nghiên cứu này cũng tương

đương với báo cáo của Christenson (1993) [110], là 118 ngày tuổi, Hunter và cs

(1993) [144], là 115 ngày tuổi trên lợn Meishan, nhưng sớm hơn đáng kể so với các

kết quả nghiên cứu trước đây trên lợn nái Móng Cái. Theo tác giả Lê Đình Phùng và

Mai Đức Trung (2008) [57], lợn nái Móng Cái nuôi trong nông hộ tại Quảng Bình có

tuổi động dục lần đầu là 5,81 tháng tuổi (khoảng 174,3 ngày), theo Lê Thị Thúy và Bùi

Khắc Hùng (2008) [89], với lợn nái Móng Cái nuôi trong nông hộ tại Sơn La có tuổi

động dục lần đầu là 139 ngày.

Tuổi phối giống lần đầu của lợn VCN-MS15 trong nghiên cứu này là 150,13

ngày sớm hơn so với kết quả nghiên cứu của Giang Hồng Tuyến (2008) [77], trên

giống lợn Móng Cái3000 qua 4 thế hệ chọn lọc (240,6 - 261,2 ngày), và thấp hơn so với

giống lợn Móng Cái tổng hợp là 236,34 ngày [78].

Tuổi động dục lần đầu ở lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 trong nghiên cứu này

là 146,05 ngày, kết quả nhiên cứu này là tương đương với kết quả nghiên cứu của

Young (1995) [209], là 146 ngày ở lợn nái lai 1/2 giống Meishan (VCN-MS15). Khi

so sánh tuổi động dục lần đầu của lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 với các nghiên cứu

64

trên đối tượng lợn nái lai ngoại x nội ở nước ta thì kết quả này sớm hơn rất nhiều, cụ

thể là: 225,2 ngày ở lợn (Yorkshire x Móng Cái) nuôi tại Quảng Trị [28], 8,17 tháng

(245 ngày) ở lợn (Yorkshire x Móng Cái) nuôi trong nông hộ tại Quảng Bình [57], 196

ngày ở lợn (Yorkshire x Móng Cái) và 195 ngày ở lợn (Pietrain x Móng Cái) nuôi tại

Thừa Thiên Huế [45].

Khối lượng phối giống lần đầu ở lợn nái 1/2 giống VCN-MS15 là 91,11 kg cao

hơn so với các kết quả nghiên cứu trước đây trên lợn lai 1/2 giống Móng Cái. Theo tác

giả Nguyễn Kim Đường và Trần Văn Do (2000) [28], thì lợn F1(Móng Cái x

Yorkshire) có khối lượng lúc phối giống lần đầu là 74,4 kg.

Tuổi đẻ lứa đầu ở lợn nái VCN-MS15 trong nghiên cứu này là 268,1 ngày, ở

lợn 1/2 giống VCN-MS15 kết quả này là 298,6 ngày. So sánh kết quả tuổi đẻ lứa đầu

của lợn VCN-MS15 trong nghiên cứu này với một số kết quả nghiên cứu trên giống

lợn Móng Cái trước đây thì kết quả tuổi đẻ lứa đầu lợn VCN-MS15 sớm hơn rất nhiều:

388,1 ngày của (Duc, 1997) [116], 374,1 ngày của (Nguyễn Văn Thiện và cs 1999)

[87], 13,3 - 13,6 tháng Nguyễn Văn Nhiệm và cs (2002) [51], 11,8 tháng (khoảng

354,6 ngày) trong báo cáo của Lê Đình Phùng và Phan Hữu Tuần (2008) [56], 354,6-

375,4 ngày trên nhóm MC3000 qua 4 thế hệ chọn lọc của Giang Hồng Tuyến (2008)

[77], 350,6 ngày trên lợn Móng Cái tổng hợp Giang Hồng Tuyến (2010) [78], 351,2

ngày trên lợn Móng Cái tổng hợp nuôi tại Hải Phòng và Lào Cai [79].

So sánh kết quả tuổi đẻ lứa đầu của lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 kết quả

thu được cũng sớm hơn kết quả nghiên cứu của Lê Đình Phùng và Mai Đức Trung

(2008) [57], trên lợn 1/2 giống Móng Cái nuôi tại Quảng Bình là 12,15 tháng (khoảng

364,5 ngày).

Từ những kết quả thu được trên, có thể nhận xét lợn nái VCN-MS15 và lợn nái

lai 1/2 giống VCN-MS15 nuôi nuôi bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, trong chuồng

hở thiết kế theo kiểu chuồng công nghiệp tại Thừa Thiên Huế có đặc điểm thành thục

về tính sớm và tuổi phối giống lần đầu sớm; lợn sinh trưởng nhanh và có khối lượng

khi phối giống lần đầu cao hơn lợn Móng Cái và lợn nái lai 1/2 giống Móng Cái.

3.1.2. Năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15

Do năng suất sinh sản giữa các lợn nái VCN-MS15 khi được phối giống với

từng loại lợn đực Duroc, Pietrain và Landrace trong nghiên cứu này không có sự khác

65

biệt có ý nghĩa thống kê, nên kết quả năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 được

xử lý chung theo lứa đẻ và được trình bày trên Bảng 3.2.

Bảng 3.2. Năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15

Chỉ tiêu n Nái đẻ ≤ 2 lứa n Nái đẻ > 2 lứa P

Thời gian mang thai 23 114,52 ± 0,22 32 114,09 ± 0,24 > 0,05 (ngày)

Số lợn con sơ sinh 23 11,78 ± 0,32 32 15,12 ± 0,38 < 0,01 (con/lứa)

Số lợn con sơ sinh sống 23 10,95 ± 0,27 32 13,71 ± 0,36 < 0,01 (con/lứa)

Số lợn con sống đến 21 ngày 23 10,65 ± 0,23 32 13,12 ± 0,32 < 0,01 tuổi (con/lứa)

Số lợn con sống đến cai sữa 23 10,65 ± 0,23 32 13,03 ± 0,31 < 0,01 (30 ngày tuổi) (con/lứa)

Tỷ lệ nuôi sống lợn con đến 23 97,44 ± 0,82 32 95,39 ± 0,91 > 0,05 cai sữa (%)

Khối lượng lợn con sơ sinh 252 1,05 ± 0,01 439 1,01 ± 0,01 > 0,05 (kg/con)

Khối lượng lợn con 21 ngày tuổi 245 4,04 ± 0,05 422 4,01 ± 0,03 > 0,05 (kg/con)

Khối lượng lợn con cai sữa 30 245 5,55 ± 0,06 420 5,61 ± 0,05 > 0,05 ngày tuổi (kg/con)

Tỷ lệ hao mòn cơ thể lợn mẹ 23 13,56 ± 0,72 32 14,36 ± 0,49 >0,05 (%)

22 4,72 ± 0,36 32 5,34 ± 0,32 > 0,05 Thời gian động dục trở lại (ngày)

22 2,43 ± 0,01 32 2,44 ± 0,01 > 0,05 Số lứa đẻ/nái/năm (lứa/ năm)

22 143,92 ± 4,15 32 178,62 ± 4,20 < 0,01 Khối lượng lợn con cai sữa/nái/năm (kg)

Qua Bảng 3.2 cho thấy lợn nái VCN-MS15 đẻ từ lứa thứ 3 trở lên (cơ bản) và lợn nái VCN-MS15 đẻ ≤ 2 lứa (kiểm định) có thời gian mang thai lần lượt là 114,52 và

66

114,09 ngày (P>0,05). Kết quả này là tương đương với giống lợn Móng Cái và các

nhóm nái lai giữa lợn Móng Cái với lợn đực ngoại. Theo tác giả Lê Đình Phùng và Mai Đức Trung (2008) [57], thì lợn Móng Cái có thời gian mang thai là 114,23 ngày, lợn lai F1(Yorkshire x Móng Cái) là 114,5 ngày. Vũ Đình Tôn, Nguyễn Công Oánh (2010b) [74], cho biết lợn lai F1(Yorkshire x Móng Cái) khi được phối với đực Duroc, Landrace và F1(Landrace x Yorkshire) có thời gian mang thai trong khoảng từ 113,3- 113,9 ngày. Đặng Vũ Bình và cs (2008) [14], cho biết lợn lai F1(Yorkshire x Móng Cái) khi phối tinh đực Duroc, Landrace và F1(Pietrain x Duroc) có thời gian mang thai

lần lượt là: 114,1; 114; 114,1 ngày. Sự giống nhau về chỉ tiêu này giữa các kết quả

nghiên cứu là điều hiển nhiên vì tính trạng thời gian mang thai là tính trạng đặc trưng

cho loài.

Các chỉ tiêu: số lợn con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống đến 21

ngày tuổi và đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa ở lợn nái VCN-MS15 cơ bản lần lượt là 15,12; 13,71; 13,12 và 13,03 con cao hơn (P < 0,01) so với các kết quả tương ứng trên lợn nái

VCN-MS15 kiểm định là 11,78; 10,95; 10,65 và 10,65 con. Kết quả này là phù hợp với

quy luật: lợn nái cơ bản thường có các chỉ tiêu về sinh sản cao hơn lợn kiểm định.

Trong chăn nuôi lợn nái số lợn con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống đến 21 ngày tuổi và đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa là những tính trạng quan trọng,

là chìa khoá quyết định năng suất chất lượng đàn nái và hiệu quả chăn nuôi lợn nái.

Kết quả nghiên cứu cho thấy số con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống

đến 21 ngày tuổi và đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa của lợn nái VCN-MS15 trong nghiên

cứu này lần lượt là 15,12; 13,71; 13,12; 13,03 con. Các kết quả này là tương đương với

kết quả nghiên cứu ở ngoài nước trên lợn VCN-MS15. Theo tác giả Bidanel và cs

(1990) [100], thì lợn nái Meishan khi cho phối giống với lợn đực Meishan, (Large

White x Meishan) và đực Large White có số con sơ sinh là: 14,3; 13,2; 14,9 con/lứa,

số con sơ sinh sống là: 13,5; 12,9; 14,5 con/lứa và số con cai sữa (30 ngày tuổi) là: 12,0; 11,7; 13,0 con/lứa. Ở trong nước, tác giả Phạm Duy Phẩm và cs (2014) [53], cho biết lợn Meishan có số con sơ sinh là: 13,7 con/lứa, số con cai sữa là: 12,25 con/lứa. Như vậy, các nghiên cứu đều cho thấy lợn VCN-MS15 khả năng sinh sản cao đặc biệt

là số con, điều này có thể là do lợn nái VCN-MS15 có số lượng tế bào trứng rụng cao và tỷ lệ sống của bào thai trong giai đoạn trước khi đẻ cao [98], [131].

Kết quả về số con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống đến 21 ngày

tuổi và đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa ở lợn nái VCN-MS15 trong nghiên cứu này cao

hơn các kết quả nghiên cứu trước đây trên đối tượng lợn Móng Cái được phối giống

bằng tinh dịch của lợn ngoại. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ

67

Bình (2006a) [82], trên lợn Móng Cái được phối với đực Pietrain có số con sơ sinh

sống là 10,85 con/lứa, Theo Phùng Thăng Long (2003) [42], số lợn con sơ sinh/lứa; số lợn con sơ sinh sống/lứa; số lợn con sống đến 21 ngày tuổi/lứa; số lợn con sống đến

cai sữa (55 ngày tuổi) ở lợn Móng Cái phối tinh đực Yorkshire và Landrace trung bình

là 9,77; 9,54; 9,08; 8,69 con/lứa; ở lợn Móng Cái phối tinh đực giống Pietrain là 11,62;

10,92; 10,46; 10,23 con/lứa. Theo Lê Đình Phùng và Mai Đức Trung (2008) [57], lợn nái Móng Cái nuôi trong nông hộ tại Quảng Bình khi phối tinh đực giống Yorkshire có

số lợn con sơ sinh/lứa; số lợn con sơ sinh sống/lứa; số lợn con sống đến cai sữa (trung

bình 42,76 ngày tuổi) là 10,49: 10,27; 9,85 con/lứa. Theo Giang Hồng Tuyến và cs (2008) [77], số con sơ sinh; số con cai sữa/ổ của lợn Móng Cái3000 (nhóm được chọn lọc nâng cao số con sơ sinh sống/lứa) qua 4 thế hệ là: 11,81; 12,31; 12,88; 13,01 và 9,48; 9,59; 9,61; 9,64 con/lứa. Theo Đặng Hoàng Biên và cs (2009) [13], lợn Móng

Cái nuôi trong nông hộ tại Quảng Trị có số lợn con sơ sinh/lứa; số lợn con sơ sinh

sống/lứa; số lợn con sống đến cai sữa (45 ngày tuổi) là: 10,93; 10,65; 9,77 con/lứa.

Theo Nguyễn Văn Đức và cs (2010) [27], lợn nái Móng Cái nuôi trong nông hộ Đông

Anh - Hà Nội khi phối tinh đực Yorkshire, Landrace và Pietrain có số lợn con sơ sinh

còn sống/lứa tương ứng là 12,13; 12,14 và 12,52 con/lứa; số lợn con sống cai sữa/lứa (trung bình 42 ngày tuổi) tương ứng là: 9,60, 9,54, 10,19 con/lứa. Kết quả nghiên cứu

của Giang Hồng Tuyến (2010) [78], trên lợn Móng Cái tổng hợp có số con sơ sinh

12,28 con/lứa. Theo tác giả Lê Hồng Minh (2000) [48], thì lợn Móng Cái nuôi tại

Tuyên Quang có số con sơ sinh 11,10 con/lứa, và 11,70 con/lứa trên lợn Móng Cái

nuôi tại Quảng Trị [17].

Khối lượng lợn con sơ sinh, lúc 21 ngày tuổi và lúc cai sữa 30 ngày tuổi ở lợn

nái VCN-MS15 cơ bản và kiểm định là tương đương nhau, lần lượt là 1,01 và 1,05 kg;

4,01 và 4,04 kg; 5,61 và 5,55 kg (P > 0,05), nhưng tổng khối lượng (kg) lợn con cai

sữa/nái/năm ở lợn nái VCN-MS15 cơ bản đạt 178,62 kg cao hơn đáng kể so với lợn

nái VCN-MS15 kiểm định là 143,92 kg (P < 0,01). Điều này có thể giải thích bởi sự vượt trội về số lợn con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống đến 21 ngày tuổi và đến lúc cai sữa 30 ngày tuổi/lứa ở lợn nái VCN-MS15 cơ bản cao hơn so với

lợn nái VCN-MS15 kiểm định (P < 0,01).

Các chỉ tiêu về khối lượng của lợn con qua các giai đoạn ở lợn VCN-MS15

trong nghiên cứu này cao hơn so với một số nghiên cứu trên lợn Móng Cái phối tinh lợn đực ngoại. Theo Phùng Thăng Long (2003) [42], lợn nái Móng Cái được phối tinh

đực Pietrain và Yorkshire có khối lượng ở lợn con lúc sơ sinh, khối lượng 21 ngày tuổi

là: 0,76 và 0,7 kg/con; 3,08 và 2,98 kg/con. Theo Lê Đình Phùng và Phan Hữu Tuần

68

(2008) [56], lợn Móng Cái nuôi tại Thừa Thiên Huế khi phối tinh đực Landrace và

Yorkshire có khối lượng lợn con lúc sơ sinh; khối lượng lợn con cai sữa (54 ngày tuổi) là: 0,58 và 0,57kg/con; 9,48 và 9,63 kg/con. Kết quả nghiên cứu này là tương đương

với nghiên cứu trước đây của tác giả Bidanel và cs (1990) [100], trên đối tượng lợn nái

Meishan phối với lợn đực Large White có khối lượng sơ sinh 1,04 kg/con và khối

lượng 21 ngày là: 4,12 kg/con.

Các chỉ tiêu: tỷ lệ nuôi sống lợn con đến cai sữa, tỷ lệ hao mòn cơ thể lợn mẹ,

thời gian động dục trở lại, số lứa đẻ/nái/năm ở lợn nái VCN-MS15 đẻ > 2 lứa và đẻ ≤ 2

lứa là tương đương nhau (P > 0,05), lần lượt và tương ứng là 95,39% và 97,40%;

14,36% và 13,56%; 5,34 và 4,72 ngày; 2,44 và 2,43 lứa. Kết quả về tỷ lệ hao mòn lợn

mẹ trong nghiên cứu này là thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Bidanel và cs (1990) [100], trên cùng đối tượng lợn nái Meishan. Theo tác giả thì lợn Meishan có tỷ

lệ hao mòn lợn mẹ là 20,08%.

Kết quả số lứa đẻ/nái/năm ở lợn nái VCN-MS15 trong nghiên cứu này cao hơn

kết quả nghiên cứu của Lê Đình Phùng và Mai Đức Trung (2008) [57], là 2,15

lứa/nái/năm ở lợn Móng Cái nuôi trong nông hộ tại Quảng Bình của Lê Đình Phùng và

Phan Hữu Tuần (2008) [56], là 1,92-1,97 lứa/nái/năm ở lợn nái Móng Cái nuôi trong nông hộ tại tỉnh Thừa Thiên Huế và cao hơn kết quả nghiên cứu của Đặng Đình Trung

và cs (2007) [91], khi nghiên cứu khả năng sinh sản của lợn nái Móng Cái nuôi tại các

tỉnh phía Bắc.

Kết quả thời gian động dục trở lại sau cai sữa trong nghiên cứu này ngắn hơn

kết quả nghiên cứu của Lê Đình Phùng và Phan Hữu Tuần (2008) [56], 13,20 ngày

trên đối tượng lợn nái Móng Cái nuôi trong nông hộ tại tỉnh Thừa Thiên Huế, điều này

có thể giải thích là lợn nái VCN-MS15 trong thí nghiệm này nuôi trong điều kiện chăn

nuôi công nghiệp được cung cấp thức ăn đầy đủ, cân đối chất dinh dưỡng, thời gian nuôi con ngắn nên rút ngắn được thời gian chờ phối sau khi cai sữa.

Như vậy, các kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh sản của lợn nái VCN- MS15 cao hơn lợn nái Móng Cái, cụ thể là về số con và khối lượng lợn con. Điều này có thể là do lợn nái VCN-MS15 có tiềm năng sinh sản cao hơn lợn Móng Cái [98],

[131], mặt khác sự khác nhau về điều kiện chăm sóc nuôi duỡng trong các thí nghiệm cũng có thể là nguyên nhân về sự sai khác giữa các kết quả nghiên cứu này.

Tương tự, do năng suất sinh sản giữa lợn nái F1(Pietrain x VCN-MS15) khi được phối giống với lợn đực Duroc, và lợn nái F1(Duroc x VCN-MS15) được phối giống với lợn đực Pietrain và Landrace trong nghiên cứu này không có sự khác biệt có

69

ý nghĩa thống kê, nên kết số liệu năng suất sinh sản của lợn nái 1/2 giống VCN-MS15

được xử lý chung theo lứa đẻ và được trình bày trên Bảng 3.3.

Bảng 3.3. Năng suất sinh sản của lợn nái 1/2 giống VCN-MS15

Chỉ tiêu n Nái đẻ ≤ 2 lứa n Nái đẻ > 2 lứa P

Thời gian mang thai 28 113,61 ± 0,18 34 113,97 ± 0,21 >0,05 (ngày)

Số lợn con sơ sinh 28 12,64 ± 0,30 34 13,64 ± 0,34 <0,05 (con/lứa)

Số lợn con sơ sinh sống 28 11,96 ± 0,38 34 12,64 ± 0,49 <0,05 (con/lứa)

Số lợn con sống đến 21 ngày tuổi 25 11,12 ± 0,22 33 12,24 ± 0,23 <0,01 (con/lứa)

Số lợn con sống đến cai sữa 25 10,96 ± 0,19 33 12,15 ± 0,23 <0,01 (30 ngày tuổi) (con/lứa)

Tỷ lệ nuôi sống lợn con đến 25 93,41 ± 1,13 33 95,58 ± 1,08 >0,05 cai sữa (%)

Khối lượng lợn con sơ sinh 335 1,18 ± 0,01 430 1,24 ± 0,01 <0,05 (kg/con)

Khối lượng lợn con 21 ngày tuổi 278 4,48 ± 0,06 407 4,89 ± 0,05 <0,01 (kg/con)

Khối lượng lợn con cai sữa 274 6,27 ± 0,07 405 6,51 ± 0,06 <0,05 30 ngày tuổi (kg/con)

Tỷ lệ hao mòn cơ thể lợn mẹ 25 9,75 ± 0,27 33 10,42 ± 0,30 >0,05 (%)

Thời gian động dục trở lại 24 5,29 ± 0,24 33 4,84 ± 0,16 >0,05 (ngày)

Số lứa đẻ/nái/năm 24 2,45 ± 0,01 33 2,45 ± 0,01 >0,05 (lứa/năm)

Khối lượng lợn con cai 24 166,71± 11,50 33 193,94 ± 3,70 <0,01 sữa/nái/năm (kg)

70

Qua bảng 3.3 cho thấy lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 đẻ > 2 lứa (cơ bản) và

đẻ ≤ 2 lứa (kiểm định) có thời gian mang thai tương đương nhau, lần lượt là 113,97

và 113,61 ngày (P>0,05). Kết quả về thời gian mang thai của lợn nái lai 1/2 giống

VCN-MS15 trong nghiên cứu này là tương đương với kết quả nghiên cứu trên lợn

nái lai 1/2 giống Móng Cái của các tác giả Phùng Thăng Long (2006) [45], Lê Đình

Phùng và Mai Đức Trung (2008) [57]. Kết quả này có thể hiểu do đây là chỉ tiêu đặc

trưng cho loài.

Các chỉ tiêu: số lợn con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống đến 21

ngày tuổi và đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa ở lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 cơ bản

lần lượt là 13,64; 12,64; 12,24 và 12,15 con cao hơn so với các kết quả tương ứng

12,64; 11,96 ; 11,12 và 10,96 (P<0,05) trên lợn nái 1/2 giống VCN-MS15 kiểm định.

Khi so sánh kết quả nghiên cứu về số lợn con/lứa qua các thời điểm ở đàn lợn

nái lai 1/2 giống VCN-MS15 cơ bản trong nghiên cứu này với một số kết quả nghiên

cứu trên các giống/tổ hợp lai nuôi phổ biến tại Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên

Huế nói riêng như: lợn Landrace, Yorkshire, lợn lai F1(Landrace x Yorkshire), lợn nái

lai 1/2 giống Móng Cái như: (Yorkshire x Móng Cái), (Landrace x Móng Cái),

(Pietrain x Móng Cái) thì kết quả này thu được cao hơn. Số lợn con sơ sinh sống/lứa ở

lợn nái F1(Yorkshire x Móng Cái) là 10,69; ở lợn nái F1(Landrace x Móng CáiTH) là

11,32; ở lợn nái F1(Yorkshire x Móng CáiTH) là 11,30 và ở lợn nái F1(Pietrain x Móng

CáiTH) là 11,94 [80], số lợn con sống đến cai sữa tương ứng ở 3 nhóm lợn nái lai trên

là 10,40; 10,34; 10,82 con [80]. Theo kết quả nghiên cứu của Võ Trọng Hốt và cs

(1993) [38], thì số con đẻ ra trên ổ của lợn nái F1(Yorkshire x Móng Cái) là 10,40 con

(lứa 1, 2) và 11,7 con/lứa (lứa 3,4). Võ Trọng Hốt và cs (1999) [39], cho biết nái lai

F1(Yorksshire x Móng Cái) phối tinh với lợn đực Landrace có số con đẻ ra/lứa đạt

12,76 con. Đặng Vũ Bình và cs (2008) [14], cho biết lợn nái F1(Yorkshire x Móng

Cái) nuôi tại Hải Dương, Bắc Ninh và Hưng Yên khi cho phối tinh với đực giống

Duroc, Landrace và (Pietrain x Duroc) có số con đẻ ra/lứa là: 12,35; 12,80; 11,44

con/lứa, số con sống/lứa là: 11,68; 12,07; 10,72 con/lứa, số con cai sữa/lứa là: 10,26;

10,40; 9,91 con/lứa.

Kết quả số con/lứa qua các thời điểm ở đàn lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 cơ

bản trong nghiên cứu này cũng cao hơn các kết quả nghiên cứu trên các đối tượng lợn

nái ngoại, nái lai khác. Theo Lê Đình Phùng và Trương Tấn Huệ (2011) [61], thì lợn

71

nái C1230 (con lai của dòng L06 Landrace và L95 VCN-MS15) và lợn nái C1050 (con

lai của dòng L06 Landrace và L11 Yorkshire) nuôi tại Quảng Bình có số con đẻ ra, số

con sơ sinh sống, số con cai sữa lần lượt là: 12,51; 11,76; 10,52 và 11,42; 10,73; 9,88

con/lứa. Lợn nái thuần Landrace, Yorkshire, lợn nái lai VCN22 (con lai giữa

Landrace, Yorkshire và Duroc trắng) và F1(LY/YL) nuôi tại Quảng Bình có số con đẻ

ra, số con sơ sinh sống, số con cai sữa lần lượt là: 9,75; 9,68; 8,74 con/ổ, 10,54; 10,40;

9,54 con/lứa và 10,58; 10,35; 9,46 con/lứa [55].

Khối lượng lợn con sơ sinh, khối lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi, khối lượng

cai sữa của lợn con lúc 30 ngày tuổi/con, số kg lợn con cai sữa/nái/năm trung bình ở

lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 cơ bản cao hơn so với ở lợn nái kiểm định lần lượt

là 1,24 và 1,18 kg (P<0,05); 4,89 và 4,48 kg (P<0,01); 6,51 và 6,27 kg (P<0,05);

193,94 và 166,71 kg (P<0,01).

Kết quả sinh sản của đàn nái 1/2 giống VCN-MS15 có phần cao hơn kết quả

công bố của Young (1995) [209], khi nghiên cứu khả năng sinh sản trên nái F1

Meishan tại Mỹ (số con sơ sinh sống là 11,3 con/ổ, khối lượng sơ sinh là 13,6 kg/ổ,

số con cai sữa là 10,4 con). So với kết quả của Wolter và cs (2000) [207], nghiên cứu

trên tổ hợp lai Landrace x (Meishan x Yorkshire) thì số con sơ sinh sống và số con

cai sữa có phần cao hơn (10,67 con sơ sinh và 10,44 con cai sữa) nhưng khối lượng

sơ sinh/con lại thấp hơn rất nhiều (1,35 kg/con so với 1,88 kg/con). Khối lượng sơ

sinh/con tương đương với nghiên cứu của Bidanel và cs (1990) [100], trên đàn con

1/4 giống Meishan (1,29 kg).

Các chỉ tiêu: tỷ lệ nuôi sống lợn con đến cai sữa, tỷ lệ hao mòn cơ thể lợn mẹ,

thời gian động dục trở lại, số lứa đẻ/nái/năm ở lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 cơ

bản và kiểm định là tương đương nhau (P>0,05), lần lượt và tương ứng là 95,58% và

93,41%; 10,42 và 9,75%; 4,8 và 5,3 ngày; 2,45 và 2,45 lứa.

Kết quả số lứa đẻ/nái/năm ở lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 trong nghiên cứu

này cao hơn kết quả nghiên cứu trên đối tượng lợn nái lai 1/2 giống Móng Cái. Giang

Hồng Tuyến và Hà Thu Trang (2011) [80], cho biết số lứa đẻ/nái/năm của lợn nái lai

1/2 giống Móng Cái tổng hợp là: 2,26 - 2,3 lứa/nái/năm.

Kết quả so sánh năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-

MS15 cơ bản (đẻ > 2 lứa) được trình bày trên bảng 3.4.

72

Bảng 3.4. So sánh năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15

và giống 1/2 VCN-MS15 cơ bản

Chỉ tiêu n n 1/2 VCN-MS15) P VCN-MS15

Thời gian mang thai 32 114,09 ± 0,24 34 113,97 ± 0,21 >0,05 (ngày)

Số lợn con sơ sinh 32 15,12 ± 0,38 34 13,64 ± 0,34 <0,05 (con/lứa)

Số lợn con sơ sinh 32 13,71 ± 0,36 34 12,64 ± 0,49 <0,05 sống (con/lứa)

Số lợn con sống đến 32 13,12 ± 0,32 33 12,24 ± 0,23 <0,05 21 ngày tuổi (con/lứa)

Số lợn con sống đến cai sữa 32 13,03 ± 0,31 33 12,15 ± 0,23 <0,05 (30 ngày tuổi) (con/lứa)

Tỷ lệ nuôi sống lợn con đến 32 95,39 ± 0,91 33 95,58 ± 1,08 >0,05 cai sữa (%)

Khối lượng lợn con sơ sinh 439 1,01 ± 0,01 430 1,24 ± 0,01 <0,01 (kg/con)

Khối lượng lợn con 21 ngày 422 4,01 ± 0,03 407 4,89 ± 0,05 <0,01 tuổi (kg/con)

Khối lượng lợn con cai sữa 420 5,61 ± 0,05 405 6,51 ± 0,06 <0,01 30 ngày tuổi (kg/con)

Tỷ lệ hao mòn cơ thể lợn mẹ 32 14,36 ± 0,49 33 10,42 ± 0,30 <0,01 (%)

Thời gian động dục trở lại 32 5,34 ± 0,32 33 4,84 ± 0,16 >0,05 (ngày)

Số lứa đẻ/nái/năm 32 2,44 ± 0,01 33 2,45 ± 0,01 >0,05 (lứa/năm)

Khối lượng lợn con cai 32 178,62 ± 4,20 33 193,94 ± 3,70 <0,01 sữa/nái/năm (kg)

Qua bảng 3.4 chúng tôi thấy, mặc dù số lợn con sơ sinh, số lợn con sơ sinh sống, số lợn con sống đến 21 ngày tuổi và đến cai sữa 30 ngày tuổi/lứa ở lợn nái VCN- MS15 cơ bản đều cao hơn (P<0,05) so với ở lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15, nhưng

73

do lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 có khối lượng lợn con sơ sinh, khối lượng lợn con lúc 21 ngày tuổi, khối lượng cai sữa của lợn con lúc 30 ngày tuổi đều cao hơn so với lợn VCN-MS15 (P<0,01) nên kết quả khối lượng (kg) lợn con cai sữa/nái/năm trung bình ở lợn nái lai 1/2 giống VCN-MS15 cao hơn ở lợn VCN-MS15 (P<0,01).

3.1.3. Tiêu tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 1kg lợn con cai sữa

Chi phí thức ăn chiếm phần lớn trong tổng chi phí chăn nuôi. Tiêu tốn thức ăn

cho 1 kg lợn con cai sữa phụ thuộc vào giống, tuổi, khẩu phần ăn, sự cân đối các chất

dinh dưỡng và khối lượng toàn ổ khi cai sữa. Vì vậy, tiêu tốn thức ăn để sản xuất 1 kg

lợn cai sữa thấp sẽ nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Chúng tôi tiến hành tính toán về

lượng thức ăn cho lợn nái trong một lứa đẻ bao gồm lượng thức ăn các giai đoạn chờ

phối, chửa, nuôi con và thức ăn tập ăn cho lợn con. Kết quả về tiêu tốn thức ăn/kg lợn

con ở thời điểm cai sữa được trình bày ở bảng 3.5.

Bảng 3.5. Tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa của lợn nái VCN-MS15

và 1/2 giống VCN-MS15 cơ bản

VCN-MS15 1/2 VCN-MS15 Chỉ tiêu P (n=31) (n=32)

Thức ăn cho lợn nái chờ phối 9,1 ± 0,70 9,7 ± 0,99 0,69 (kg/nái/lứa)

Thức ăn cho lợn nái chửa 204,9 ± 3,24 213,6 ± 2,05 0,07 (kg/nái/lứa)

Thức ăn cho lợn nái nuôi con 93,9 ± 3,61 125,1 ± 3,00 <0,01 (kg/nái/lứa)

Thức ăn tập ăn cho lợn con 4,2 ± 0,51 5,5 ± 0,69 0,19 (kg/lứa) (7 ngày - 30 ngày tuổi)

Tổng thức ăn cho một nái/lứa 312,1 ± 5,39 353,9 ± 3,05 <0,01 (kg/nái/lứa)

Tiêu tốn TĂ/kg lợn con cai sữa 4,86 ± 0,21 4,96 ± 0,14 0,99 (kg)

74

Qua bảng 3.5 cho thấy tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa (kg) ở lợn nái VCN-

MS15 và lợn nái 1/2 VCN-MS15 lần lượt là 4,86 và 4,96 kg. Không có sự sai khác

giữa hai nhóm nái, tuy kết quả chỉ tiêu thức ăn cho lợn nái nuôi con (kg) và tổng thức

ăn cho một nái/lứa (kg) ở nhóm nái 1/2 VCN-MS15 có cao hơn nái VCN-MS15.

Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2006b)

[83] , mức tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa của tổ hợp lai Du × F1(L × Y) là 5,76 kg.

Các tổ hợp lai giữa lợn nái F1(L × Y) phối giống với đực Du, L có mức tiêu tốn thức

ăn/kg lợn con cai sữa 5,47 và 6,01 kg [73]. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn

Thắng và Vũ Đình Tôn (2010) [84], cho thấy, các tổ hợp lai giữa lợn nái F1(L × Y)

phối giống với đực L, Du, PiDu có mức tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa tương ứng

là 6,57; 6,38 và 6,29 kg. Kết quả về tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa trong nghiên

cứu này thấp hơn so với công bố của các tác giả trên.

3.1.4. Khả năng sinh trưởng, tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa đến 60

ngày tuổi

Nâng cao năng suất sinh trưởng và giảm tiêu tốn thức ăn là mục tiêu quan trọng

để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi lợn thịt ở các trạng trại hiện nay. Để

đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn con chúng tôi tiến hành theo dõi các chỉ tiêu về

tăng khối lượng của lợn con từ sau cai sữa đến 60 ngày tuổi, kết quả theo dõi được

trình bày trong bảng 3.6.

Bảng 3.6. Khả năng sinh trưởng và hiệu quả chuyển hoá thức ăn của lợn con sau cai

sữa đến 60 ngày tuổi.

Đực ngoại x Đực ngoại x 1/2 Chỉ tiêu n n P VCN-MS15 VCN-MS15)

Khối lượng cai sữa/con (kg) 404 5,44 ± 007 389 6,31 ± 0,12 <0,01

Khối lượng 60 ngày/con (kg) 399 15,58 ± 0,22 384 18,92 ± 0,27 <0,01

Tăng khối lượng/ngày (g/ngày) 399 337,8 ± 6,27 384 418,1 ± 7,07 <0,01

TTTĂ/kg tăng khối lượng (kg) 31 1,45 ± 1,49 33 1,43 ±1,47 0,14

Qua bảng 3.6 cho thấy khối lượng lợn con cai sữa, khối lượng lợn lúc 60 ngày

tuổi, tăng khối lượng của lợn con từ sau cai sữa đến 60 ngày tuổi ở lợn nái lai 1/2

75

giống VCN-MS15 cơ bản đều cao hơn (P<0,05) so với ở lợn nái VCN-MS15, nhưng

tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng giai đoạn cai sữa (30 ngày tuổi) - 60 ngày tuổi là

không có sự khác nhau.

3.2. SINH TRƯỞNG VÀ SỨC SẢN XUẤT THỊT CỦA TỔ HỢP LỢN LAI

F1(PIETRAIN X VCN-MS15) VÀ F1(DUROC X VCN-MS15)

3.2.1. Khối lượng và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của lợn lai F1(Pietrain x VCN-

MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi

Kết quả về khối lượng và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của lợn lai F1(Pietrain x

VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi được thể hiện qua bảng 3.7.

Qua bảng 3.7 cho thấy rằng khối lượng của lợn bắt đầu vào thí nghiệm lúc 60

ngày tuổi ở 2 tổ hợp lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) là tương

đương nhau (17 kg/con) và không có sự sai khác có ý nghĩa (P>0,05). Khối lượng của

lợn tăng dần sau thời gian 30, 60, 90, 105 ngày nuôi thứ tự là 34,35 và 35,47 kg, 53,97

và 53,20 kg, 72,30 và 70,93 kg, 80,89 và 80,73 kg/con và tuân theo qui luật sinh trưởng

chung của gia súc. Không có sự khác biệt về khối lượng lợn qua các tháng nuôi giữa 2

tổ hợp lai (P>0,05).

Kết quả về sinh trưởng tích luỹ của con lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và

F1(Duroc x VCN-MS15) ở nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của

Nguyễn Hải Quân và cs (1993) [65], trên đối tượng lợn lai đực (Landrace x Yorkshire)

x nái Móng Cái). Lê Thanh Hải và cs (2001) [29], cho biết con lai F1(Pietrain x Móng

Cái) đạt khối lượng cơ thể 80,03 kg ở 202 ngày tuổi. Kết quả của Nguyễn Quang Hộ

(2004) [37], với khối lượng bắt đầu nuôi của con lai F1(Yorkshire x Móng Cái),

F1(Pietrain x Móng Cái) là 15,01 và 15,82 kg, sau 135 ngày nuôi đạt khối lượng tương

ứng: 86,80 và 90,62 kg.

Tăng khối lượng là một trong những tính trạng rất quan trọng trong chăn nuôi

lợn thịt. Lợn nuôi thịt có khả năng tăng khối lượng nhanh sẽ giảm được thời gian nuôi

thịt, giảm vốn đầu tư, giảm công nuôi, giảm thời gian chiếm dụng chuồng từ đó nâng

cao hiệu quả chăn nuôi. Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của lợn ở tổ hợp lai F1(Pietrain x

VCN-MS15) ở tháng nuôi thứ 2 cao hơn so với tổ hợp (Duroc x VCN-MS15)

(P<0,05). Tuy nhiên, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trung bình trong thời gian thí nghiệm

giữa 2 tổ hợp lai là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05), ở tổ hợp lai

76

F1(Pietrain x VCN-MS15) là 607,5 g/con/ngày và ở tổ hợp lai F1(Duroc x VCN-

MS15) là 601,0 g/con/ngày.

Bảng 3.7. Khối lượng và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của lợn lai F1(Pietrain x VCN- MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi

Chỉ tiêu Đơn vị tính P

F1(Pi x VCN- MS15) (n=14) (M ± SE) F1(Du x VCN- MS15) (n=14) (M ± SE)

17,10 ± 0,38 17,26 ± 0,38 0,76 kg Khối lượng khởi đầu (60 ngày tuổi)

34,35 ± 1,02 35,47 ± 1,21 0,48 kg Khối lượng sau tháng nuôi thứ 1 (90 ngày tuổi)

53,97 ± 1,21 53,20 ± 1,30 0,71 kg Khối lượng sau tháng nuôi thứ 2 (120 ngày tuổi)

72,30 ± 1,58 70,93 ± 1,59 0,55 kg Khối lượng sau tháng nuôi thứ 3 (150 ngày tuổi)

80,89 ± 1,72 80,37 ± 1,69 0,83 kg Khối lượng kết thúc TN (165 ngày tuổi)

g/con/ngày 575,00 ± 24,40 606,70 ± 34,50 0,46 Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trong tháng nuôi thứ 1

g/con/ngày 653,90 ± 17,90 591,10 ± 23,10 0, 04 Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trong tháng nuôi thứ 2

g/con/ngày 611,10 ± 25,50 591,10 ± 20,20 0,54 Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trong tháng nuôi thứ 3

g/con/ngày 572,60 ± 27,00 628,90 ± 24,50 0,14 Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trong tháng nuôi thứ 4

g/con/ngày 607,50 ± 14,60 601,00 ± 14,60 0,74 Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trung bình toàn kỳ

Kết quả về tốc độ sinh trưởng tuyệt đối trong nghiên cứu này của lợn lai

F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) thấp hơn kết quả trong báo cáo

của Lim và cs (2009) [166], trên lợn lai F1(Yorkshire x Meishan) là 698,8 g/con/ngày,

F1(Berkshire x Meishan) là 691 g/con/ngày và F1(Duroc x Meishan) là 717,3

g/con/ngày với tuổi giết thịt là 160-161 ngày tuổi và chế độ nuôi tương đương với thí

nghiệm này.

77

Tuy nhiên, các kết quả về tốc độ sinh trưởng của 2 tổ hợp lai trong nghiên cứu của chúng tôi (601,0 và 607,5 g/con/ngày) cao hơn so với công bố của Nguyễn Hải Quân và cs (1993) [65], Hoàng Nghĩa Duyệt và cs (2002) [21], trên lợn lai F1(Yorkshire x Móng Cái). Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thanh Hải và cs (2001) [29], cho thấy con lai F1(Pietrain x Móng Cái) có mức tăng khối lượng là 509 g/con/ngày trong thời gian nuôi thịt từ 90 đến 202 ngày tuổi. Nguyễn Quang Hộ (2004) [37], cho biết con lai F1(Pietrain x Móng Cái) và lai F1(Yorkshire x Móng Cái) có mức tăng khối lượng trung bình trong thời gian nuôi thịt là: 554,1 g/con/ngày và 531,8 g/con/ngày. Theo Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2004) [81], lợn lai F1(Pietrain x Móng Cái) nuôi từ 10,91 kg đến 74,90 kg có tăng khối lượng là 529,8 g/con/ngày. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức (2010) [27], lợn lai F1(Pietrain x Móng Cái), lợn lai F1(Landrace x Móng Cái) và F1(Yorkshire x Móng Cái) lần lượt là 519,9 g/con/ngày, 509,6 g/con/ngày và 510,6 g/con/ngày. Kết quả về tốc độ sinh trưởng của 2 tổ hợp lai trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả trên lợn lai [Landrace x (Yorkshire x Móng Cái)] là 605,6 g/con/ngày [74], và lợn Yorkshire thuần nuôi thịt ở miền Trung [44].

Điều này cho thấy lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN- MS15) sinh trưởng nhanh khi nuôi bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh với hệ thống chuồng hở thiết kế theo phương thức công nghiệp và có thể bổ sung giống lợn VCN- MS15 này vào sản xuất ở miền Trung để phục vụ lai tạo cải thiện tốc độ sinh trưởng của đàn lợn nuôi thịt.

3.2.2. Lượng thức ăn ăn vào/con/ngày và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn qua các tháng nuôi

Kết quả về lượng thức ăn ăn vào/ngày và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng

của lợn F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi

được trình bày ở bảng 3.8.

Chi phí thức ăn là phần chi phí lớn nhất trong chăn nuôi lợn thịt, bởi vậy hiệu

quả sử dụng thức ăn có vai trò lớn trong chăn nuôi lợn và đây là một chỉ tiêu quan

trọng trong đánh giá quá trình chuyển hóa thức ăn vào cơ thể, chất lượng thức ăn và

chế độ dinh dưỡng. Chỉ tiêu này có tương quan nghịch với chỉ tiêu tăng khối lượng.

Qua bảng 3.8 cho thấy lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15)

nuôi thịt giai đoạn 60 - 165 ngày tuổi có khả năng ăn vào tăng dần và đạt lượng thức

ăn ăn vào trung bình 1,56 kg/con/ngày ở lợn F1(Pietrain x VCN-MS15) và 1,58

kg/con/ngày ở lợn F1(Duroc x VCN-MS15). Tiêu tốn thức ăn (kg thức ăn/kg tăng khối

lượng) cũng tăng dần qua các tháng nuôi và đạt trung bình là 2,60 kg thức ăn/kg tăng

78

khối lượng ở lợn F1(Pietrain x VCN-MS15) và 2,62 kg thức ăn/kg tăng khối lượng ở

lợn lai F1(Duroc x VCN-MS15) và không có sự khác biệt thống kê (P>0,05) về chỉ tiêu

này giữa 2 tổ hợp lai.

Bảng 3.8. Lượng thức ăn ăn vào/con/ngày và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng

của lợn F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) qua các tháng nuôi

F1(Pi x VCN-MS15) F1(Du x VCN-MS15) P Chỉ tiêu (n=14) (n=14)

Lượng thức ăn ăn vào trong 1,07 ± 0,03 1,19 ± 0,05 0,04 tháng nuôi thứ 1 (kg/con/ngày)

Lượng thức ăn ăn vào trong 1,67 ± 0,05 1,44 ± 0,05 0,01 tháng nuôi thứ 2(kg/con/ngày)

Lượng thức ăn ăn vào trong 1,76 ± 0,06 1,77 ± 0,05 0,91 tháng nuôi thứ 3(kg/con/ngày)

Lượng thức ăn ăn vào trong 1,75 ± 0,09 1,90 ± 0,07 0,18 tháng nuôi thứ 4(kg/con/ngày)

Lượng thức ăn ăn vào trung 1,56 ± 0,03 1,58 ± 0,03 0,76 bình(kg/con/ngày)

Tiêu tốn thức ăn trong tháng 1,90 ± 0,06 2,00 ± 0,05 0,16 nuôi thứ 1 (kg thức ăn/kg)

Tiêu tốn thức ăn trong tháng 2,56 ± 0,05 2,45 ± 0,05 0, 10 nuôi thứ 2 (kg thức ăn/kg)

Tiêu tốn thức ăn trong tháng 2,90 ± 0,04 3,02 ± 0,07 0,13 nuôi thứ 3 (kg thức ăn/kg)

Tiêu tốn thức ăn trong tháng 3,05 ± 0,02 3,02 ± 0,02 0,41 nuôi thứ 4 (kg thức ăn/kg)

Tiêu tốn thức ăn trung bình 2,60 ± 0,02 2,62 ± 0,03 0,57 toàn kỳ (kg thức ăn/kg)

Kết quả về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng trong nghiên cứu này thấp hơn

đáng kể so với lợn lai F1(Pietrain x Móng Cái) là 3,32 kg [42], 3,42 kg [81]. Điều này

79

cho thấy 2 tổ hợp lợn lai có 1/2 giống VCN-MS15 trong nghiên cứu này có khả năng

chuyển hóa thức ăn cao.

3.2.3. Phẩm chất thịt xẻ của lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15)

Kết quả về phẩm chất thịt xẻ của lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc

x VCN-MS15) được thể hiện qua bảng 3.9. Qua bảng 3.9 chúng ta có nhận xét: các chỉ

tiêu tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, dài thân thịt, tỷ lệ nạc/thân thịt xẻ ở tổ hợp lợn lai

F1(Pietrain x VCN-MS15) có xu hướng cao hơn ở tổ hợp lợn lai F1(Duroc x VCN-

MS15). Tuy nhiên sự sai khác này chưa có ý nghĩa thống kê (P>0,05).

Bảng 3.9. Phẩm chất thịt xẻ của lợn lai

F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15)

Chỉ tiêu F1(Pi x VCN-MS15) (n = 6) F1(Du x VCN-MS15) (n = 6) P

Khối lượng giết thịt (kg) 86,33 ± 2,64 82,67 ± 3,00 0,38

Khối lượng móc hàm (kg) 66,32 ± 2,52 62,72 ± 2,59 0,34

Tỷ lệ móc hàm (%) 76,73 ± 0,67 75,08 ± 0,56 0,31

Khối lượng thịt xẻ (kg) 59,73 ± 2,47 56,50 ± 2,31 0,36

Tỷ lệ thịt xẻ (%) 69,08 ± 0,79 68,30 ± 0,58 0,44

Dài thân thịt (cm) 87,00 ± 0,62 85,67 ± 0,58 0,28

2,10 ± 0,12 2,16 ± 0,07 0,47 Dày mỡ lưng ở vị trí P2 (cm)

Diện tích mắt thịt (cm2) 39,02 ± 0,94 33,33 ± 1,56 0,01

Tỷ lệ nạc/thân thịt xẻ (%) 51,76 ± 0,25 51,16 ± 0,41 0,24

Về độ dày mỡ lưng ở vị trí P2 giữa 2 tổ hợp lợn lai là tương đương nhau: 2,10

cm ở lợn F1(Pietrain x VCN-MS15) và 2,16 cm ở lợn F1(Duroc x VCN-MS15)

(P>0,05). Trong khi đó, diện tích mắt thịt ở vị trí giữa xương sườn 10-11 ở lợn lai

F1(Pietrain x VCN-MS15) là 39,02 cm2 cao hơn có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với ở

lợn F1(Duroc x VCN-MS15) là 33,33cm. Kết quả trên cho thấy lợn lai F1(Pietrain x

VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) có tiềm năng cho thịt cao và lợn lai

F1(Pietrain x VCN-MS15) có xu hướng cao hơn lợn F1(Duroc x VCN-MS15).

80

Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng thịt xẻ trong nghiên cứu này với lợn

F1(Pietrain x Móng Cái) tổ hợp lai được xác định có chất lượng thịt xẻ vượt trội lợn

F1(Yorkshire x Móng Cái) hoặc F1(Landrace x Móng Cái) [42], ta thấy: tỷ lệ thịt xẻ

trong nghiên cứu này 68,30 - 69,08% tương đương với kết quả của Phùng Thăng Long

(2003) [42], là 70,30%, Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2004) [81], là 70,30%.

Tuy nhiên, tỷ lệ nạc của tổ hợp lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-

MS15) lần lượt là 51,76 và 51,16 % cao hơn đáng kể so với lợn F1(Pietrain x Móng

Cái) là 47,53% [42]; 44,01% [81]. Kết quả này cho thấy khả năng cho thịt của lợn lai

F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) là khá cao.

3.3. SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA CÁC TỔ

HỢP LỢN LAI THƯƠNG PHẨM 1/4 GIỐNG VCN-MS15

3.3.1. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của các tổ hợp lợn lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và

Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Kết quả sinh trưởng, lượng thức ăn ăn vào và tiêu tốn thức ăn của 3 tổ hợp lợn

lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và

Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) được trình bày ở bảng 3.10.

Số liệu ở bảng 3.10 cho thấy mặc dù khối lượng của lợn ở cả ba tổ hợp lai lúc

bắt đầu thí nghiệm là tương đương nhau dao động từ 18 - 18,55 kg/con (P>0,05)

nhưng sau 100 ngày nuôi, có sự vượt trội có ý nghĩa thống kê về khối lượng và tăng

khối lượng của lợn ở tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) so với tổ hợp lai Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

(P<0,05). Tăng khối lượng trung bình cao nhất là ở tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x

VCN-MS15) đạt 755,5 g/con/ngày, tiếp đến là tổ hợp lai Duroc x F1(Pietrain x VCN-

MS15) 722,0 g/con/ngày và thấp nhất là ở tổ hợp lai Landrace x F1(Duroc x VCN-

MS15) 620,0 g/con/ngày.

81

Bảng 3.10. Sinh trưởng, lượng thức ăn ăn vào/con/ngày và tiêu tốn thức ăn/1kg tăng khối lượng của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN- MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x F1(Du x Du x F1(Pi x L x F1(Du x

Chỉ tiêu VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15) P

(n=10) (n=10) (n=10)

0,63 18,55  0,16 18,00  0,45 18,00  0,65 Khối lượng lợn lúc 60 ngày tuổi (kg/con)

94,10a  1,49 90,20a  1,63 80,00b  2,65 <0,01 Khối lượng lợn lúc 160 ngày tuổi (kg/con)

755,5a  15,10 722,0a  17,10 620,0b  25,10 <0,01 Tăng khối lượng trung bình (g/con/ngày)

<0,01 2,01a  0,05 1,90a  0,03 1,67b  0,05 Lượng thức ăn ăn vào (kg/con/ngày)

a, b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác

0,56 2,56  0,05 2,60  0,04 2,63  0,05 Tiêu tốn thức ăn (kg thức ăn/kg tăng khối lượng)

biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

So sánh với các tổ hợp lợn lai nuôi thịt phổ biến hiện nay cho thấy tổ hợp lợn

lai Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) trong nghiên cứu này mặc dù có khả năng tăng

khối lượng thấp nhất nhưng cũng cao hơn kết quả 589,9 g/con/ngày ở lợn lai (Pietrain

x (Yorkshire x Móng Cái) [44]. Hai tổ hợp lai còn lại Pietrain x F1(Duroc x VCN-

MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) có khả năng tăng khối lượng cao hơn

lợn lai Duroc x F1(Pietrain x Móng Cái) với 670,6 g/con/ngày [46], và cũng cao hơn

lợn Landrace (710 g/con/ngày), lợn Yorkshire (664 g/con/ngày) và lợn lai F1(Landrace

x Yorkshire) (685 g/con/ngày) [33]; tương đương với tăng khối lượng tuyệt đối 749

gam/con/ngày [34]; với 735 g/con/ngày ở lợn lai F1(Pi x Du) x F1(Landrace x

Yorkshire) [84], và thấp hơn tăng khối lượng của lợn lai PiDu25 x F1(Landrace x

Yorkshire) với 829 g/con/ngày, tổ hợp lai PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) với 797

g/con/ngày và tổ hợp lai PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) là 765 g/con/ngày [24];

82

thấp hơn mức tăng khối lượng của lợn lai PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) và

PIC399 x F1(Landrace x Yorkshire) với 786 và 845 g/con/ngày [63]. Kết quả trên cho

thấy các tổ hợp lợn lai 1/4 giống VCN-MS15 nuôi ở Thừa Thiên Huế có tốc độ sinh

trưởng nhanh.

Về khả năng ăn vào giữa 3 tổ hợp lai, lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) có khả năng ăn vào tương đương nhau (2,01 và

1,90 kg/con/ngày) (P >0,05), lợn Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) có khả năng ăn

vào thấp hơn (1,67 kg/con/ngày) (P <0,05). Tuy vậy, so sánh về tiêu tốn thức ăn/kg

tăng khối lượng giữa 3 tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) không có sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05), kết quả lần lượt là 2,56, 2,60 và 2,63 kg thức ăn/kg

tăng khối lượng. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là một chỉ tiêu quan trọng đánh

giá quá trình chuyển hóa thức ăn trong cơ thể gia súc, nó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả

kinh tế chăn nuôi. Trong nghiên cứu này tiêu tốn thức ăn ở 3 tổ hợp lai thấp hơn so với

kết quả được công bố bởi một số tác giả khác. Nguyễn Ngọc Phục và cs (2009) [54],

cho biết lợn lai 2 giống Landrace x Yorkshire và Yorkshire x Landrace, 3 giống Duroc

x F1(Landrace x Yorkshire) và lợn 4 giống F1(Pi x Du) x F1(Landrace x Yorkshire)

trong điều kiện chăn nuôi trang trại tại Quảng Bình có mức tiêu tốn thức ăn/kg tăng

khối lượng tương ứng là 2,84, 2,73 và 2,64 kg. Vũ Đình Tôn và Nguyễn Công Oánh

(2010a) [73], cho biết lợn Duroc x (Landrace x Yorkshire) nuôi thịt từ 60 ngày tuổi

đến 152 ngày tuổi tiêu tốn 2,72 kg thức ăn/kg tăng khối lượng. Tiêu tốn thức ăn ở 3

tổ hợp lai trong nghiên cứu của chúng tôi tương đương với báo cáo của Lê Đình

Phùng và cs (2015) [63], trên lợn lai PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) và PIC399

x F1(Landrace x Yorkshire) là 2,6 và 2,5 kg thức ăn/kg tăng khối lượng.

Các kết quả trên cho thấy mặc dù tổ hợp lợn lai Landrace x F1(Duroc x VCN-

MS15) có tốc độ sinh trưởng chậm hơn lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15), nhưng nhìn chung các tổ hợp lai nghiên cứu đều

thích ứng tốt với điều kiện sinh thái miền Trung, có tốc độ sinh trưởng nhanh, tiêu tốn

thức ăn/kg tăng khối lượng thấp, đặc biệt 2 tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-

MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, tiêu

tốn thức ăn để sản xuất ra 1 kg thịt lợn hơi thấp hơn, là các tổ hợp lai có nhiều triển

vọng để phát triển.

83

3.3.2. Năng suất thịt của các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Kết quả nghiên cứu về năng suất thịt của 3 tổ hợp lai thí nghiệm được thể hiện ở

Bảng 3.11.

Bảng 3.11. Năng suất thịt của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x F1(Du x Du x F1(Pi x L x F1(Du x

Chỉ tiêu VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15) P

(n=4) (n=4) (n=4)

Khối lượng giết thịt (kg) 0,08 90,80  0,86 88,00  1,95 85,20  1,88

Khối lượng móc hàm (kg) 0,04 72,58a  0,86 70,34ab  1,88 66,40b  1,59

Tỷ lệ móc hàm (%) 0,01 79,92a  0,30 79,90a  0,52 77,92b  0,23

Khối lượng thịt xẻ (kg) 0,04 65,58a  1,01 63,78ab  1,76 59,92b  1,41

Tỷ lệ thịt xẻ (%) 0,02 71,21a  0,48 72,44a  0,53 70,32b  0,32

Dài thân thịt (cm) 0,59 87,60  0,81 86,60  2,38 88,00  1,64

Dày mỡ lưng P2 (mm) 0,47 15,80  1,90 13,00  1,90 12,90  1,10

Diện tích mắt thịt (cm2) 0,01 54,74a  2,04 46,64ab  1,21 40,92b  3,86

a,b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác

Tỷ lệ nạc (%) 0,33 56,40  0,96 56,09  0,82 54,61  0,62

biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Kết quả trên bảng 3.11 cho thấy: tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) lần lượt là 79,92, 72,21% và 79,90, 72,44%, và các giá trị giữa 2 tổ hợp lai không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tuy nhiên, tỷ lệ móc hàm và tỷ lệ thịt xẻ của lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) lại có sự khác biệt có ý nghĩa so với lợn Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) (77,92, 70,32%) (P<0,05). Kết quả về tỷ lệ móc hàm và tỷ lệ thịt xẻ của 03 tổ hợp lai trong nghiên cứu này tương

84

đương với các tổ hợp lai phổ biến khác. Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn (2010) [84], cho biết các tổ hợp lai giữa nái F1(Landrace x Yorkshire) với đực giống Landrace, Duroc và đực F1(Pi x Du) có tỷ lệ móc hàm và tỷ lệ thịt xẻ tương ứng là 80% và 69,8%; 79,7% và 69,8%; 81,6% và 72,3%. Lợn lai F1(Pi x Du) x Yorkshire, F1(Pi x Du) x Landrace và F1(Pi x Du) x F1(Landrace x Yorkshire) có tỷ lệ móc hàm và tỷ lệ thịt xẻ tương ứng 79,5% và 71,3%; 79,9% và 71,5%; 80,1% và 71,6 [34]. Theo Phan Xuân Hảo và Nguyễn Văn Chi (2010) [35], tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ của con lai giữa nái lai F1(Landrace x Yorkshire) phối hợp với đực lai Omega x (Duroc x Landrace), đực lai F1(Pi x Du) là 81,3%, 73,5% và 80,6%; 73,2%.

Về độ dày mỡ lưng đo tại vị trí P2 ở cả 3 tổ hợp lai đều thấp, dao động từ 12,9 - 15,8 mm và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Với khối lượng giết thịt trong khoảng 80 - 90 kg, lợn lai 2 giống, 3 giống và 4 giống nuôi tại Quảng Bình có độ dày mỡ lưng lần lượt 23,6, 21,7 và 19,9 mm [54]; lợn lai Duroc x F1(Landrace x Yorkshire) và Landrace x F1(Landrace x Yorkshire) có dày mỡ lưng trung bình 19,5 và 23,9 mm [73]. Như vậy, 3 tổ hợp lai trong nghiên cứu này có dày mỡ lưng thấp hơn so với các nghiên cứu trên.

Diện tích mắt thịt ở vị trí giữa xương sườn 10-11 của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) tương ứng là 54,74 và 46,64 cm2 (P>0,05) cao hơn kết quả 40,92 cm2 ở lợn Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) (P<0,05). Kết quả diện tích cơ thăn trên lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) trong nghiên cứu này là tương đương với diện tích cơ thăn của lợn lai 4 giống (52,4 cm2), lợn lai 3 giống (48,1 cm2), lợn lai 2 giống (42,6 cm2) nuôi tại Quảng Bình [54], và lợn lai Omega x F1(Landrace x Yorkshire) (56,2 cm2) và F1(Pi x Du) x F1(Landrace x Yorkshire) (49,7 cm2) [35].

Tỷ lệ nạc là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng thịt xẻ. Tỷ lệ nạc/thân thịt xẻ ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) trong nghiên cứu này khá cao và tương đương nhau: 56,4 % so với 56,1 %, và cao hơn so với tổ hợp lợn lai Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) (54,6%), nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa (P>0,05). Khi so sánh chỉ tiêu này với các tổ hợp lai phổ biến khác cho thấy kết quả ở tổ hợp lợn lai Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) tương đương với tỷ lệ nạc của tổ hợp lai PiDu25 x F1(Landrace x Yorkshire) (54,6%), kết quả ở tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN- MS15) tương đương với lợn lai PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) (56,3%) [24]. Tuy nhiên các kết quả trên lại thấp hơn so với kết quả ở tổ hợp lai 3 giống F1(Duroc x Landrace) x F1(Yorkshire x Landrace) có tỷ lệ nạc là 59,3% [59], tổ hợp lai PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) là 59,9 [24]. Theo Hà Xuân Bộ và cs (2013) [12], lợn

85

Pietrain kháng stress có tỷ lệ nạc đạt 63,5% ở khối lượng giết thịt 85kg; ở tổ hợp lai PIC399 x F1(Landrace x Yorkshire) là 66% và PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) là 59,9% [63].

3.3.3. Chất lượng thịt ở các tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Chất lượng thịt được thể hiện qua các tính trạng như: pH, màu sắc, tỷ lệ mất

nước, độ dai và thành phần hoá học của cơ thăn.

3.3.3.1. Các chỉ tiêu pH thịt

Các kết quả thu được đối với chỉ tiêu đánh giá về độ pH thịt của tổ hợp lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x

F1(Duroc x VCN-MS15) thông qua mổ khảo sát được trình bày ở bảng 3.12.

Bảng 3.12. Giá trị pH thịt ở các thời điểm khác nhau sau khi giết thịt của lợn lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x

F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x (Du x Du x (Pi x L x (Du x

Chỉ tiêu P VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15)

(n=4) (n=4) (n=4)

0,01 pH45 6,78a  0,05 6,76a  0,04 6,13b  0,09

0,40 pH24 5,75  0,06 5,63  0,04 5,66  0,06

a,b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác biệt

0,12 pH48 5,58  0,05 5,60  0,03 5,51  0,04

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Kết quả qua bảng 3.12 cho thấy pH45 cơ thăn sau giết thịt ở lợn lai Pietrain x

F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc

x VCN-MS15) lần lượt là 6,78, 6,76 và 6,13. Có sự sai khác về các giá trị pH45 giữa

lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) so với

lợn Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) (P<0,05). pH24 và pH48 của cơ thăn ở 3 tổ hợp

lai lần lượt là 5,75, 5,63, 5,66 và 5,58, 5,60, 5,51 và không có sự khác biệt giữa các tổ

86

hợp lai khi ở cùng thời điểm (P>0,05). Giá trị pH48 giờ sau khi giết mổ không có sự

thay đổi so với giá trị pH24 giờ điều này có nghĩa là quá trình phân giải glucogen diễn

ra chậm.

pH là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng của thịt. Giá

trị pH có khuynh hướng giảm dần theo thời gian, điều này là hoàn toàn phù hợp với

quy luật và đảm bảo tính bình thường của thịt. Theo một số báo cáo, thịt được xem là

bình thường khi pH45 >5,8.

Các giá trị pH45 của tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) và Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) trong nghiên cứu này cao hơn tổ hợp lai Landrace x

F1(Duroc x VCN-MS15) (P<0,01). Tuy nhiên các giá trị pH24 của các tổ hợp lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x

F1(Duroc x VCN-MS15) là tương đương nhau và tương đương với các kết quả nghiên

cứu của các tác giả khác. Theo tác giả Vũ Đình Tôn và Nguyễn Công Oánh (2010a)

[73], cho biết pH45 của tổ hợp lai Duroc x F1(Landrace x Yorkshire) và Landrace x

F1(Landrace x Yorkshire) là 6,13 và 6,32; pH24 tương ứng là 5,56 và 5,58. Giá trị pH45

và pH24 ở con lai Pi x F1(LY) là 6,15 và 5,90; Du x F1(LY) 6,55 và 5,98 [81]; Pi x

F1(LW x L) là 6,43 và 5,56; Pi x F1(Du x L) là 6,42 và 5,53 [175]. Theo Phạm Thị Đào

và cs (2013) [24], pH45 và pH24 của cơ thăn ở 3 tổ hợp lợn lai PiDu25 x F1(Landrace

x Yorkshire), PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) và PiDu75 x F1(Landrace x

Yorkshire) tương ứng là 6,48, 6,36, 6,59 và 5,45, 5,54, 5,45. Lê Đình Phùng và cs

(2015) [63], cho biết pH45 và pH24 của cơ thăn ở 2 tổ hợp lợn lai PIC399 x

F1(Landrace x Yorkshire) và PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) tương ứng là 6,10,

5,60 và 6,40, 5,70.

Giá trị pH45, pH24 và pH48 của ba tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) nằm trong

giới hạn của thịt bình thường theo tiêu chuẩn phân loại của Warner và cs (1997) [204],

và Correa và cs (2007) [112].

87

3.3.3.2. Các chỉ tiêu về tỷ lệ mất nước của thịt

Các kết quả về tỷ lệ mất nước của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15),

Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) được trình

bày ở bảng 3.13.

Bảng 3.13. Tỷ lệ mất nước của thịt ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x (Du x Du x (Pi x L x (Du x

Chỉ tiêu P VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15)

(n=4) (n=4) (n=4)

0,57 1,56  0,26 1,93  0,24 1,52  0,15 Tỷ lệ mất nước bảo quản 24 giờ (%)

0,07 27,59  0,65 29,23  0,67 30,47  0,96 Tỷ lệ mất nước chế biến 24 giờ (%)

0,10 2,09  0,31 2,81  0,31 1,96  0,17 Tỷ lệ mất nước bảo quản 48 giờ (%)

a,b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác biệt

0,12 33,11  0,77 30,24 0,80 31,62  0,74 Tỷ lệ mất nước chế biến 48 giờ (%)

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Tỷ lệ mất nước phản ánh khả năng giữ nước của thịt, tỷ lệ mất nước càng cao

chứng tỏ khả năng giữ nước của thịt càng kém và ngược lại. Nếu độ mất nước của thịt

cao, làm cho bề mặt thịt kém hấp dẫn (rỉ nước) và do vậy không chỉ làm giảm khối

lượng thịt mà còn làm giảm giá trị của thịt được bán dưới dạng tươi cũng như làm

giảm tính ngon miệng của thịt lúc chế biến. Tỷ lệ mất nước là chỉ tiêu quan trọng

phản ánh chất lượng thịt. Trong nghiên cứu này tỷ lệ mất nước bảo quản 24 và 48 giờ

của cơ thăn ở 3 tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) lần lượt là 1,56;

1,93; 1,52 % (P>0,05) và 2,09; 2,81; 1,96% (P>0,05), có xu hướng tăng dần theo thời

gian bảo quản. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật và biến đổi hoá sinh của thịt

sau khi giết mỗ.

Các kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của Vũ Đình Tôn và cs (2008)

[72], trên đối tượng lợn lai Landrace x (Yorkshire x Móng Cái) nuôi trong điều kiện

88

nông hộ. Theo tác giả thì tỷ lệ mất nước bảo quản 24 giờ của thịt ở là 1,45 %. Theo

báo cáo của Phan Xuân Hảo và Nguyễn Văn Chi (2010) [35], rằng tỷ lệ mất nước bảo

quản 24 h của thịt ở tổ hợp lai Omega x F1(Landrace x Yorkshire) là 2,83%; ở tổ hợp

lai F1(Pi x Du) x F1(Landrace x Yorkshire) là 2,84%; tỷ lệ mất nước bảo quản của thịt

24 và 48 giờ ở ba tổ hợp lai giữa đực PiDu25, PiDu50 và PiDu75 với nái F1(Landrace

x Yorkshire) tương ứng là 2,10, 1,83, 1,87% và 2,77, 2,57, 2,71% [24].

Kết quả mất nước bảo quản 24 và 48 giờ trong nghiên cứu này là thấp hơn một

số kết quả công bố trước đây. Theo kết quả nghiên cứu của Vũ Đình Tôn và Vũ Công

Oánh (2010b) [74], thì tỷ lệ mất nước bảo quản 24 giờ của thịt ở tổ hợp lai Duroc x

(Yorkshire x Móng Cái); Landrace x (Yorkshire x Móng Cái) và (Landrace x

Yorkshire) x Yorkshire x Móng Cái) lần lượt là: 2,29; 2,92 và 2,32. Theo báo cáo của

Lê Đình Phùng và cs (2015) [63], trên 2 tổ hợp lai PIC399 x F1(Landrace x Yorkshire)

và PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) lần lượt là 8,40, 4,80%, và 12,00, 5,50%; tỷ lệ

mất nước bảo quản 24 giờ là 3,78% ở tổ hợp lai 3 giống Pietrain x (Landrace x

Yorkshire) và 3,53% ở Pietrain x (Landrace x Yorkshire) [83]; 3,61% ở Landrace và

3,14% ở Yorkshire [33]; 2,88% ở Duroc x (Landrace x Yorkshire) và 3,80% ở Pietrain

x (Landrace x Yorkshire) [118].

Tỷ lệ mất nước chế biến 24 và 48 giờ lần lượt là 27,59; 29,30; 30,47% (P>0,05)

và 33,11; 30,24; 31,62% (P>0,05). Kết quả mất nước chế biến 24 giờ trong nghiên cứu

này là tương đương với các tổ hợp lợn lai giữa đực PiDu25, PiDu50 và PiDu75 với nái

F1(Landrace x Yorkshire) tương ứng là 27,46%, 26,23% và 29,79% [24]. Phù hợp với

kết quả công bố ở tổ hợp lai 3 giống Duroc x F1(Landrace x Yorkshire) là 28,63%; ở

Pietrain x F1(Landrace x Yorkshire) là 29,23% [118]; ở Pietrain x F1(LW x Landrace)

là 29,79% và ở Pietrain x F1(Durroc x Landrace) là 29,25% [175].

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này lại cao hơn so với một số kết quả công bố

của Phan Xuân Hảo và cs (2009) [34], ở lợn (PiDu x Y) và (PiDu x L) lần lượt là

22,28% và 22,62%; Phan Xuân Hảo và Nguyễn Văn Chi (2010) [35], ở lợn Omega x

F1(L x Y) và PiDu x F1(L x Y) lần lượt là 24,96% và 24,40%.

Theo cách phân loại chất lượng thịt dựa vào tỷ lệ mất nước thì 3 tổ hợp lợn lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x

F1(Duroc x VCN-MS15) có chất lượng thịt bình thường vì có tỷ lệ mất nước bảo quản

sau 24 và 48 giờ <5%.

89

3.3.3.3. Các chỉ tiêu về độ dai của thịt

Độ dai/mềm của thịt là một chỉ tiêu quan trọng được người tiêu dùng quan tâm.

Lực cắt là chỉ tiêu được dùng để đánh giá độ dai của thịt. Kết quả lực cắt đo ở cơ thăn

24 giờ sau khi giết thịt của 3 tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x

F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) được thể hiện qua

bảng 3.14.

Bảng 3.14. Độ dai của thịt ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x (Du x Du x (Pi x L x (Du x

Chỉ tiêu P VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15)

(n=4) (n=4) (n=4)

0,88 40,27  7,61 40,01  8,06 38,19  2,06 Lực cắt (độ dai của thịt) 24 giờ (N)

a,b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác biệt

0,36 46,49  6,94 38,95  4,02 36,21  1,78 Lực cắt (độ dai của thịt) 48 giờ (N)

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Qua bảng 3.14. cho thấy, kết quả lực cắt đo ở cơ thăn 24 giờ sau khi giết thịt của 3 tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN- MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) lần lượt là 40,27 N, 40,01 N và 38,19 N (P>0,05). Ở 48 giờ sau khi giết thịt là 46,49 N, 38,95 N và 36,21 N (P>0,05).

Kết quả này trong nghiên của chúng tôi thấp hơn giá trị ở các lợn lai giữa đực PiDu với nái Yorkshire, Landrace và F1(Landrace x Yorkshire) tương ứng là 42,90, 42,28, 42,26 [34]; thấp hơn ở lợn lai Omega x F1(Landrace x Yorkshire) và F1(Pi x Du) x F1(Landrace x Yorkshire) lần lượt với giá trị là 48,8 và 50,6 N [35]; thấp hơn kết quả trong báo cáo của Phạm Thị Đào và cs (2013) [24], cho biết độ dai của thịt 24 giờ sau khi giết thịt của 3 tổ hợp lai PiDu25 x F1(Landrace x Yorkshire), PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) và PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) lần lượt là 47,16; 47,47 và 46,49 N, và cũng thấp hơn đáng kể so với giá trị ở 2 tổ hợp lai PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) và PIC399 x F1(Landrace x Yorkshire) lần lượt là 57,5 N, 44,7 N và 63 N, 45,9 N [63].

Lực cắt cơ thăn phản ánh độ dai của thịt. Kết quả lực cắt 24 và 48 giờ sau khi giết thịt ở 3 tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-

90

MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) trong nghiên cứu này thấp cho thấy thịt của chúng mềm.

Phạm Thị Đào và cs (2013) [24], nghiên cứu trên 3 tổ hợp lai lai giữa PiDu với tỷ lệ Pietrain khác nhau 25, 50 và 75% với nái (L x Y) cho biết lần lượt độ dai của thịt bảo quản 24 giờ sau khi giết thịt tương ứng là 47,16; 47,47 và 46,49 N. Phan Xuân Hảo và cs (2009) [34], cho biết các tổ hợp lai giữa đực PiDu với nái L, Y và (L x Y) có độ dai của thịt bảo quản 24 giờ sau giết thịt tương ứng là 42,90; 42,28 và 42,26 N.

3.3.3.4. Các chỉ tiêu màu sắc của thịt

Các kết quả thu được đối với chỉ tiêu đánh giá về màu sắc của thịt thông qua mổ

khảo sát được trình bày ở bảng 3.15

Bảng 3.15. Các chỉ tiêu màu sắc của thịt ở lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x (Du x Du x (Pi x L x (Du x

Chỉ tiêu P VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15)

(n=4) (n=4) (n=4)

0,20 L* 24 giờ 55,34  1,37 58,34  0,64 55,35  1,37

a* 24 giờ 16,59a  0,48 13,77b  0,25 15,34ab  0,51 <0,01

0,25 b* 24 giờ 7,93  0,83 7,29  0,32 6,50  0,32

0,20 L* 48 giờ 56,16  1,25 58,37  0,55 54,98  1,45

0,01 a* 48 giờ 17,01a  0,32 13,92b  0,20 15,81a  0,67

a,b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác biệt

0,04 b* 48 giờ 9,08a  0,64 7,22ab  0,28 7,06b  0,51

có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Màu sắc thịt là chỉ tiêu phản ánh giá trị cảm quan của thịt bởi người tiêu dùng.

Thịt lợn có giá trị L* càng lớn thì thịt càng nhợt nhạt, giá trị L* bé thì thịt có màu tối,

L* được dùng làm chỉ tiêu quan trọng để đánh giá và phân loại chất lượng thịt, trong

khi đó giá trị a* chỉ phản ánh sắc đỏ của cơ còn b* phản ánh màu vàng của cơ. Sự thay

đổi giá trị pH sau giết thịt có ảnh hưởng đáng kể đến màu sắc thịt, nó thông qua tác

động đến cấu trúc bề mặt thịt và thông qua mức độ chiếu ánh sáng.

Về màu sắc thịt, kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị L* (màu sáng), a* (màu

đỏ), b* (màu vàng) của cơ thăn ở 24 giờ sau khi giết thịt trên 3 tổ hợp lai Pietrain x

91

F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc

x VCN-MS15) lần lượt là 55,34, 16,59, 7,93; 58,34, 13,77, 7,29 và 55,35, 15,34, 6,50.

Các giá trị tương ứng ở 48 giờ sau giết thịt của 3 tổ hợp lai thứ tự là 56,16, 17,01, 9,08;

58,37, 13,92, 7,22 và 54,98, 15,81, 7,06. Khi so sánh kết quả giữa 3 tổ hợp lai nghiên

cứu thấy không có sự sai khác về giá trị L* của cơ thăn ở 24 và 48 giờ sau giết thịt

(P>0,05), nhưng có sự sai khác về giá trị a* giữa tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x

VCN-MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) ở 24 giờ (P<0,05), và giữa 3 tổ

hợp lai ở 48 giờ sau giết thịt (P<0,05). Giá trị b* ở 48 giờ sau giết thịt ở tổ hợp lai

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) cao hơn so với tổ hợp lai Landrace x F1(Duroc x

VCN-MS15) (P<0,05). Kết quả phân tích về màu sắc thịt cho thấy các giá trị L*, a*,

b* của cơ thăn đều nằm trong giá trị cho phép.

Theo công bố của Phạm Thị Đào và cs (2013) [24], giá trị L*24 và L*48 của cơ

thăn ở tổ hợp lai PiDu25 x F1(Landrace x Yorkshire) là 55,04 và 54,71, ở tổ hợp lai

PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) là 53,89 và 53,94, ở tổ hợp lai PiDu75 x

F1(Landrace x Yorkshire) là 56,09 và 55,78. Tương tự, giá trị a*24 và a*48 của cơ

thăn 3 tổ hợp lai lần lượt là 15,58, 16,40, 14,10 và 16,19, 16,06, 14,65, và giá trị b*24

và b*48 lần lượt là 8,25, 8,16, 8,58 và 8,79, 8,24, 9,33.

3.3.3.5. Thành phần hóa học của thịt

Thành phần hóa học của thịt lợn phản ánh chất lượng dinh dưỡng. Cơ thăn đại

diện cho sự tích luỹ thịt nạc trong cơ thể và có thành phần hoá học khá ổn định đặc

trưng cho phẩm giống.

Kết quả về các chỉ tiêu tỷ lệ vật chất khô, protein, lipit thô và chất khoáng tổng

số trong cơ thăn được trình bày ở bảng 3.16.

Kết quả cho thấy tỷ lệ vật chất khô cơ thăn ở tổ hợp lai Duroc x F1(Pietrain x

VCN-MS15) là cao nhất 27,78%, cao hợn ở tổ hợp lai Landrace x F1(Duroc x VCN-

MS15) với 25,26 % (P<0,05), và thấp nhất là ở tổ hợp lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-

MS15) là 23,98% (P<0,05).

Tỷ lệ Protein thô ở 2 tổ hợp lai Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace

x F1(Duroc x VCN-MS15) là tương đương nhau, lần lượt là 23,90% và 23,44%

(P>0,05), và cao hơn so với kết quả 21,17% ở lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15)

(P<0,05).

Tỷ lệ Lipit thô ở tổ hợp lai Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) là 2,53%, cao

hơn ở lợn Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) 1,64% (P>0,05), và cao hơn so với giá

92

trị 1,18% ở lợn Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) (P<0,05). Tỷ lệ khoáng tổng số ở

lợn Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) là 1,55%, tương đương với kết quả ở lợn

Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) là 1,47% (P>0,05), và cao hơn so với kết quả

1,35% ở Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) (P<0,05). Ngoài trừ tỷ lệ vật chất khô và

Protein thô ở tổ hợp lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15).

Bảng 3.16. Thành phần hóa học cơ thăn của lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN- MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15)

Pi x (Du x Du x (Pi x L x (Du x

Chỉ tiêu VCN-MS15) VCN-MS15) VCN-MS15) P

(n=4) (n=4) (n=4)

0,01 Vật chất khô (%) 23,98c  0,25 27,78a  0,39 25,26b  0,21

Protein thô (%) 21,17b  0,25 23,90a  0,21 23,44a  0,15 0,01

Lipit thô (%) 1,64ab  0,19 2,53a  0,48 1,18b  0,13 0,05

a,b Các số trung bình trong cùng một hàng có mũ các chữ cái khác nhau khác

Khoáng tổng số (%) 1,47ab  0,04 1,35b  0,05 1,55a  0,02 0,01

biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Các kết quả khác về tỷ lệ vật chất khô, Protein thô, Lipit thô, Khoáng tổng số ở 3 tổ hợp lợn lai nghiên cứu đều cao hơn hoặc tương đương so với các kết quả nghiên

cứu của Hà Xuân Bộ và cs (2013) [12], trên lợn Pietrain kháng stress mang kiểu gen

CC và CT thứ tự là 26,29%, 23,51%, 1,04% và 1,26%, và 25,88%, 23,24%, 0,90% và

1,26% và kết quả của Phạm Thị Đào và cs (2013) [24], trên 3 tổ hợp lai PiDu25 x F1(Landrace x Yorkshire), PiDu50 x F1(Landrace x Yorkshire) và PiDu75 x F1(Landrace x Yorkshire) lần lượt là 26,23; 21,53; 2,02; 1,39%, 26,30; 22,18; 2,02; 1,44% và 26,30; 22,63; 2,06; 1,63%. Khi phân tích thành phần hoá học của thịt ở cơ thăn với khối lượng móc hàm khoảng 80-90kg, Sieczkowska và cs (2009) [196], cho tổ hợp lợn lai Duroc x (Landrace x Yorkshire), (Duroc x Pietrain) x (Landrace x Yorkshire) thì chỉ tiêu tỷ lệ vật chất khô là: 25,38; 22,76% và tỷ lệ protein thô là:

22,64; 22,54% và tỷ lệ mỡ thô tương ứng là: 2,08; 1,44. Kortz và cs (2005) [150], cho biết ở lợn thuần (Yorkshire x Yorkshire) các chỉ tiêu tỷ lệ vật chất khô, protein thô và

mỡ thô tương ứng là 25,71; 21,32; 3,20% và ở lợn lai (Yorkshire x Polish White

93

Large) tương ứng là 25,64; 22,03; 2,37%. Tỷ lệ mỡ thô trong thịt thăn của tổ hợp lai

Duroc x (Landrace x Yorkshire) là 2,08%; ở tổ hợp lai Pietrain x (Landrace x Yorkshire) là 2,40% [171]. Theo Kosovac và cs (2009) [151], tỷ lệ mỡ trong cơ của tổ

hợp lai Pietrain x (Landrace x Yorkshire) thấp hơn so với tổ hợp lai Duroc x (Landrace

x Yorkshire) (1,23 so với 1,67%), với khối lượng giết mổ ở 111,60 kg và mẫu là cơ

thăn. Okrouhla và cs (2008) [184], cho biết thịt có mức tỷ lệ nạc khác nhau thì có thành phần khác nhau. Cụ thể, ở mức tỷ lệ nạc ≥ 60% tỷ lệ mỡ thô, protein thô và

khoáng tổng số đạt tương ứng 1,56; 23,28; 1,40% và ở ở mức tỷ lệ nạc 55,00 -59,90%

tỷ lệ mỡ thô, protein thô và khoáng tổng số tương ứng là 1,61; 23,20; 1,39%.%. Kết

quả thành phần hóa học cho thấy thịt của các tổ hợp lợn lai nghiên cứu có chất lượng

dinh dưỡng cao.

94

Chương 4

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

4.1. KẾT LUẬN

4.1.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục và năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15 được nuôi ở tỉnh Thừa Thiên Huế

- Lợn nái VCN-MS15 và 1/2 giống VCN-MS15 (F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15)) có nhiều vú, phát dục sớm: tuổi động dục và tuổi phối giống lần đầu lần lượt và tương ứng là 115,5, 150,1 ngày và 146,0, 181,2 ngày; Khối lượng lúc động dục và lúc phối giống lần đầu tương ứng là 34,9, 42,5 kg và 69,8, 91,7 kg.

- Lợn nái VCN-MS15 và 1/2 VCN-MS15 cơ bản được phối giống nhân tạo bằng tinh dịch của lợn đực giống ngoại Pietrain, Duroc và Landrace và nuôi bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, trong chuồng hở thiết kế theo kiểu chuồng nuôi công nghiệp có năng suất sinh sản cao.

- Lợn nái 1/2 giống VCN-MS15 có năng suất sinh sản cao hơn so với lợn VCN- MS15: Ở các lứa đẻ 3-6, lợn nái VCN-MS15 và 1/2 VCN-MS15 có số lợn con sơ sinh trung bình/ổ tương ứng là 15,12 và 13,64 con, số lợn con sơ sinh còn sống/ổ là 13,71 và 12,37 con, số lợn con cai sữa lúc 30 ngày tuổi/ổ là 13,03 và 12,15 con. Khối lượng lợn con sơ sinh trung bình tương ứng là 1,01 và 1,24 kg/con, khối lượng của lợn con cai sữa lúc 30 ngày tuổi là 5,61 và 6,51 kg/con, số lứa đẻ/nái/năm là 2,44 và 2,45 lứa, và khối lượng lợn con cai sữa/nái/năm tương ứng là 178,3 và 193,9 kg.

- Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng lợn con cai sữa ở lợn nái giống VCN-MS và 1/2 giống VCN-MS khi phối tinh với đực ngoại lần lượt là 4,86 và 4,96 kg, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng giai đoạn 31- 60 ngày tuổi là 1,45 và 1,43kg.

4.1.2. Sinh trưởng, sức sản xuất thịt của lợn lai thương phẩm 1/2 và 1/4 giống VCN-MS15 được nuôi ở Thừa Thiên Huế

- Lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) nuôi thịt bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, trong chuồng hở thiết kế theo kiểu chuồng nuôi công nghiệp có tốc độ sinh trưởng tuyệt đối nhanh từ 601 - 608 g/con/ngày, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng trong giai đoạn từ 60 đến 165 ngày tuổi thấp dao động từ 2,60 - 2,62 kg, tỷ lệ móc hàm đạt 75,1 - 76,7 %, tỷ lệ thịt xẻ là 68,3 - 69,1%, và tỷ lệ nạc/thịt xẻ đạt cao 51,2 - 51,7%. Kết quả trên cho thấy sức sản xuất thịt của lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) và F1(Duroc x VCN-MS15) được cải thiện.

- Các tổ hợp lợn lai 1/4 giống VCN-MS15 gồm Pietrain x F1(Duroc x VCN- MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) nuôi thịt bằng thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, trong chuồng hở thiết kế theo kiểu chuồng nuôi công nghiệp từ 60 đến 160 ngày tuổi có tốc độ sinh trưởng nhanh (620 - 756

95

g/con/ngày), tiêu tốn thức ăn/1 kg tăng khối lượng thấp (2,56 - 2,63 kg), tỷ lệ nạc/thân thịt cao (54,5 – 56,4%); các chỉ tiêu về chất lượng thịt (pH, màu sắc, tỷ lệ mất nước bảo quản, tỷ lệ mất nước chế biến, lực cắt và thành phần hóa học thịt) bình thường, nằm trong giới hạn cho phép. Đặc biệt, 2 tổ hợp lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN- MS15) và Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, rất có triển vọng phát triển.

4.2. ĐỀ NGHỊ

- Các cơ quan chuyên môn và cơ quan quản lý chăn nuôi ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng như ở các địa phương có điều kiện tương đồng cần quy hoạch và khuyến cáo phát triển hợp lý giống lợn VCN-MS15 và các nhóm nái lai 1/2 giống VCN-MS15, cũng như áp dụng các nhóm lợn lai thương phẩm 1/2, 1/4 giống VCN-MS15 vào sản xuất để làm đa dạng các giống lợn và góp phần nâng cao sức sản xuất của đàn lợn ở Địa phương.

- Người chăn nuôi ở tỉnh Thừa Thiên Huế tùy theo điều kiện và mục đích chăn nuôi cụ thể có thể lựa chọn nuôi giống lợn VCN-MS15 và các nhóm lợn nái lai F1(Pietrain x VCN-MS15), F1(Duroc x VCN-MS15), cũng như áp dụng các tổ hợp lợn lai thương phẩm F1(Pietrain x VCN-MS15), F1(Duroc x VCN-MS15) và Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15), Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) và Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả chăn nuôi.

- Tiếp tục nghiên cứu khả năng sinh sản và sức sản xuất thịt của các tổ hợp lợn lai có giống VCN-MS15 với các mức độ khác nhau để có kiến nghị đầy đủ về việc sử dụng giống lợn VCN-MS15 ở Thừa Thiên Huế và miền Trung.

96

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN

1. Lê Đức Thạo, Phùng Thăng Long, Đinh Thị Bích Lân, Lê Đình Phùng. Đặc điểm sinh lý sinh dục, năng suất sinh sản của lợn nái VCN-MS15 (Meishan) và 1/2 giống VCN-MS15 nuôi theo phương thức công nghiệp tại Thừa Thiên Huế, Tạp Chí Khoa học Đại học Huế, 2016, Tập: 119, Số: 05, Trang: 193-202.

2. Lê Đức Thạo, Phùng Thăng Long, Đinh Thị Bích Lân, Lê Đình Phùng, Nguyễn Văn An. Khả năng sinh trưởng và sức sản xuất thịt của tổ hợp lai F1(Pietrain x Meishan) và F1(Duroc x Meishan) nuôi theo phương thức công nghiệp tại Thừa Thiên Huế, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 2015, Tập: 100, Số: 01, Trang: 165-173.

3. Phùng Thăng Long, Lê Đức Thạo, Đinh Thị Bích Lân, Lê Đình Phùng. Sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của một số tổ hợp lai 1/4 giống VCN-MS15 (Meishan) nuôi theo phương thức công nghiệp, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2015, Tập: 20, Trang: 65-73.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

[1] Nguyễn Tấn Anh (1998), Dinh dưỡng tác động đến sinh sản ở lợn nái, Chuyên

San Chăn Nuôi Lợn, Hội Chăn Nuôi Việt Nam, tr. 50-61.

[2] Trần Kim Anh (2000), Sự cần thiết mở rộng ứng dụng hệ thống giống lợn hình tháp và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi lợn, Chuyên san chăn nuôi lợn, Hội Chăn nuôi Việt Nam, tr. 94-112.

[3] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2001), Tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN

4331:2001 Thức ăn chăn nuôi-Xác định hàm lượng chất béo.

[4] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2003a), Tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN 3899-84, Quy trình mổ khảo sát phẩm chất thịt lợn nuôi béo, Tuyển tập tiêu chuẩn nông nghiệp Việt Nam, Tập 5, Tiêu chuẩn chăn nuôi, Phần 1 Chăn nuôi thú y, Cơ quan xuất bản: Trung tâm Thông tin và Phát triển Nông thôn.

[5] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2003b), Tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN - 1280 - 81), các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái nuôi tại các cơ sở công nghiệp.

[6] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007a), Tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN

4327:2007 Thức ăn chăn nuôi-Xác định tro thô.

[7] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007b), Tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN 4328:2007 Thức ăn chăn nuôi-Xác định hàm lượng nitơ và tính hàm lượng protein thô.

[8] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2007c), Tiêu chuẩn Việt Nam -TCVN

1547:2007 thức ăn chăn nuôi – thức ăn hỗn hợp cho lợn.

[9] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2009), Tiêu chuẩn Việt Nam-TCVN

8135:2009 Thịt và sản phẩm của thịt-Xác định độ ẩm.

[10] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2014a), Kế hoạch 2016-2020 nghành

nông nghiệp và phát triển nông thôn, tr. 28.

[11] Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2014b), Thông tư (18/2014/TT-

BNNPTNT).

[12] Hà Xuân Bộ, Đỗ Đức Lực, Đặng Vũ Bình (2013), Ảnh hưởng của kiểu gen Halothane, tính biệt đến năng suất thân thịt và chất lượng thịt lợn Pietrain kháng stress, Tạp chí Khoa Học và Phát Triển, Trường Đại Học Nông nghiệp Hà Nội, 11(8), tr. 1126-1133.

[13] Đặng Hoàng Biên, Nguyễn Văn Đồng và Tạ Thị Bích Duyên (2009), Nâng cao năng suất sinh sản của lợn Móng Cái tại tỉnh Quảng Trị bằng phương pháp làm tươi máu, Tạp chí Khoa Học Công Nghệ Chăn Nuôi, (20), tr. 16-23.

[14] Đặng Vũ Bình, Vũ Đình Tôn, Nguyễn Công Oánh (2008), Năng suất sinh sản của

nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) phối với đực giống Landrace, Duroc và (Pietrain x Duroc), Tạp chí Khoa Học và Phát Triển, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, 6(4), tr. 326-330.

98

[15] Đinh Văn Chỉnh, Phan Xuân Hảo, Đỗ Văn Trung (2001), Đánh giá khả năng sinh sản của lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại Trung tâm giống vật nuôi Phú Lãm- Hà Tây, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật - Khoa chăn nuôi thú y (1999- 2001), NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 11.

[16] Trần Văn Chính (2001), Khảo sát năng suất của một nhóm lợn lai tại Trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Chăn Nuôi, (6), tr. 13-14.

[17] Nguyễn Quế Côi, Trần Thị Minh Hoàng, Lê Minh Lịnh và Đặng Hoàng Biên (2003), Nghiên cứu đánh giá, lựa chon giải pháp công nghệ nhằm phát triển chăn nuôi lợn hướng nạc tại tỉnh Quảng Trị, Báo cáo khoa học phần nghiên cứu kỹ thuật chăn nuôi và các vấn đề khác năm, tr. 203-208.

[18] Cục chăn nuôi (2007), Đề án phát triển chăn nuôi lợn giai đoạn 2007-2020, Hà

Nội, Cục chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn.

[19] Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Văn Trung, Tạ Thị Bích Duyên, Trần Thị Minh Hoàng, Bùi Minh Hạnh, Phạm Văn Sơn, Lê Thanh Hải, Trịnh Hồng Sơn, Đinh Ngọc Bách, Nguyễn Thuý Hằng, Phạm Sỹ Tiệp Và Nguyễn Thanh Sơn (2015), Phân tích tương quan di truyền trên một (tính trạng giữa các giống lợn Dr, Pr, Lr thuần và các tổ hợp lai lợn DrPr/PrDr; DrLr/LrDr; PrLr/LrPr, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2013 - 2015, Phần Di truyền Giống Vật nuôi, tr. 2-13.

[20] Trần Văn Do (2006), Sinh trưởng phát triển của lợn Vân Pa tại Đakrông, Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Báo cáo tóm tắt đề tài Nghiên cứu Khoa học, Sở KHCN tỉnh Quảng Trị.

[21] Hoàng Nghĩa Duyệt, Vũ Duy Giảng, Hoàng Văn Tiến, Đào Huyên (2002), Nghiên cứu mức năng lượng và lysine, tỷ lệ lysine/năng lượng thích hợp cho lợn lai nuôi thịt F1(Yorkshire x Móng Cái) ở khu vực miền Trung, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (12), tr. 1091-1092.

[22] Lê Phạm Đại, Trần Vân Khánh, Phạm Sỹ Tiệp, Phạm Tất Thắng (2015), Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến tỷ lệ mỡ giắt ở lợn thịt năng suất cao, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2013 - 2015, Phần Dinh dưỡng và Thức ăn chăn nuôi, tr. 144-153.

[23] Phạm Thị Đào (2006), Đánh giá khả năng sinh sản và năng suất, chất lượng thịt lợn trên một (công thức lai trong các trang trại chăn nuôi tại tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, tr. 45-54.

99

[24] Phạm Thị Đào, Nguyễn Văn Thắng, Vũ Đình Tôn, Đỗ Đức Lực và Đặng Vũ Bình (2013), Năng suất sinh trưởng, thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa lợn nái F1(Landrace x Yorkshire) với đực giống (Pietrain x Duroc) có thành phần Pietrain kháng stress khác nhau, Tạp chí Khoa học và Phát triển, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, 11, tr. 200-208.

[25] Nguyễn Văn Đức, Lê Thanh Hải, Giang Hồng Tuyến (2001), Nghiên cứu tổ hợp lợn lai PIxMC tại Đông Anh-Hà Nội, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (6), tr. 382-384.

[26] Nguyễn Văn Đức, (2005). Nguồn gen giống lợn Móng Cái. Nhà xuất bản Lao

động-Xã hội.

[27] Nguyễn Văn Đức, Bùi Quang Hộ, Giang Hồng Tuyến, Đặng Đình Trung, Nguyễn Văn Trung, Trần Quốc Việt và Nguyễn Thị Viễn (2010), Năng suất sinh sản của lợn Móng Cái, Pietrain, Landrace, Yorkshire và ưu thế lai của lợn lai F1(LR x MC), F1(Y x MC) và F1(Pi x MC), Tạp chí Khoa Học Công Nghệ Chăn Nuôi, (22), tr. 29-36.

[28] Nguyễn Kim Đường và Trần Văn Do (2000), Khả năng sinh sản của lợn nái lai F1 và khả năng sản xuất của lợn lai 3/4 máu ngoại ở Quảng Trị, Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ Nông Lâm nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm-Đại Học Huế, (1998-1999), Nhà xuất Nông nghiệp, tr. 265-272.

[29] Lê Thanh Hải và cs (2001), Nghiên cứu chọn lọc, nhân thuần chủng và xác định công thức lai thích hợp cho heo cao sản để đạt tỷ lệ nạc từ 50-55%, Báo cáo tổng hợp đề tài cấp nhà nước KHCN 08-06.

[30] Lê Thanh Hải, Nguyễn Văn Đồng, Nguyễn Ngọc Phục, Khuất Văn An và Phạm Thị Thúy (2007), Khả năng sinh trưởng và cho thịt của lợn thương phẩm 3,4 và 5 giống ngoại nuôi tại trung tâm nghiên cứu của lợn Thụy Phương, Tạp chí Khoa Học Công Nghệ Chăn Nuôi, 6, tr.7-11.

[31] Hoàng Thanh Hải, Phạm Hải Ninh, Nguyễn Khắc Khánh, Trịnh Phú Cử và Trần Quang Bằng (2015), Đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt lợn Hung, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2013 - 2015, Phần Di truyền Giống Vật nuôi, tr. 65-73.

[32] Phan Xuân Hảo (2002), Xác định một chỉ tiêu về sinh sản, năng suất và chất lượng thịt của lợn Landrace và Yorkshire có các kiểu gen Halothane khác nhau. Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

[33] Phan Xuân Hảo (2007), Đánh giá khả năng sinh trường, năng suất và chất lượng thịt của lợn Landrace, Yorkshire và F1(Landrace x Yorkshire), Tạp chí Khoa Học và Phát Triển, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, 5(1), tr. 31 - 35.

100

[34] Phan Xuân Hảo, Hoàng Thị Thúy, Đinh Văn Chỉnh, Nguyễn Chí Thành và Đặng Vũ Bình (2009), Đánh giá năng suất và chất lượng thịt của con lai giữa đực PiDu (Pietrain x Duroc) và nái Landrace, Yorkshire hay F1(Landrace x Yorkshire), Tạp chí Khoa Học và Phát Triển, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 7, tr. 484-490.

[35] Phan Xuân Hảo và Nguyễn Văn Chi (2010), Thành phần thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa nái F1(Landrace x Yorkshire) phối với đực lai Landrace x Duroc (Omega) và Pietrain x Duroc (PiDu), Tạp chí Khoa Học và Phát Triển, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, 8(3), tr. 439-447.

[36] Trần Thị Minh Hoàng, Nguyễn Hữu Cường, Nguyễn Văn Đức (2003), Một số tính trạng cơ bản của tổ hợp lợn lai giữa PI và MC nuôi trong nông hộ huyện Đông Anh-Hà Nội, Tạp chí Chăn Nuôi, 6(56), tr. 4-6.

[37] Nguyễn Quang Hộ (2004), Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng và cho thịt của ba tổ hợp lợn lai F1(LR x MC), (LR x MC), (PI x MC) nuôi trong nông hộ tại tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội.

[38] Vũ Trọng Hốt, Đỗ Đức Khôi, Vũ Đình Tôn và Đinh Văn Chỉnh (1993), Sử dụng lợn lai F1 làm nái nền để sản xuất con lai máu ngoại làm sản phẩm thịt, Kết quả nghiên cứu khoa học kỷ thuật Khoa Chăn nuôi Thú y (1991-1993), Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội.

[39] Vũ Trọng Hốt, Nguyễn Văn Thắng, Đinh Thị Nông (1999), Sử dụng nái lai F1(ĐB x MC) làm nền trong sản xuất nông hộ vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả nghiên cứu khoa học kỷ thuật Khoa Chăn nuôi Thú y (1996-1998), Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội, tr. 14-18.

[40] Lasley J. F. (1974), Di truyền học ứng dụng vào cải tạo giống gia súc, (Nguyễn

Phúc Giác Hải dịch), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr. 281-283.

[41] Đinh Thị Thu Lan (2014), Năng suất sinh sản của lợn nái Rừng, Meishan và F1(Rừng x Meishan) nuôi tại Tam Điệp, Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam.

[42] Phùng Thăng Long (2003), Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức Protein khác nhau trong khẩu phần đến khả năng sản xuất và phẩm chất thịt xẻ của lợn lai (Móng Cái x Yorkshire) x Yorkshire, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (6), tr. 714-715.

[43] Phùng Thăng Long (2004), Nghiên cứu khả năng sản xuất và chất lượng thịt xẻ của lợn lai (Móng Cái x Yorkshire) x Pietrain, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (5), tr. 605-606.

[44] Phùng Thăng Long, Trần Văn Hạnh (2005), Nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của một (tổ hợp lợn lai ngoại x ngoại ở miền Trung, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (60), tr. 29-30 và 36.

101

[45] Phùng Thăng Long (2006), Nghiên cứu đặc điểm sinh lý sinh sản và một (tính trạng sinh sản cơ bản của lợn nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) và F1(Pietrain x Móng Cái) nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (77-78), tr. 86-87.

[46] Phùng Thăng Long (2007), Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, sức sản xuất thịt của tổ hợp lợn lai Duroc x (Pietrain x Móng Cái), Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (4), tr. 23-25.

[47] Phùng Thăng Long, Lê Đức Thạo, Hoàng Ngọc Bình (2011), Khả năng sinh sản của lợn nái lai Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái) và sức sản xuất thịt của con lai Duroc x {Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái)}, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn 2+3(162-163), tr. 104-110.

[48] Lê Hồng Minh (2000), Kết quả 6 năm (1992-1998) thực hiện Móng Cái hoá đàn

lợn nái nền ở Tuyên Quang, Tạp chí Chăn Nuôi, (2), tr. 16-18.

[49] Trần Đình Miên, Phan Cự Nhân, Nguyễn Văn Thiện, Trịnh Đình Đạt (1994), Di

truyền chọn giống động vật, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

[50] Lê Thị Mến (2015), Khảo sát năng suất sinh sản của lợn nái lai (Landrace x Yorkshire) và (Yorkshire x Landrace) và sự sinh trưởng của heo con đến 60 ngày tuổi thuộc hai nhóm giống Duroc x (Landrace x Yorkshire) và Duroc x (Yorkshire x Landrace) ở trang trại, Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ, Phần B: Nông nghiệp, Thuỷ sản và Công nghệ Sinh học, 40(2), tr. 15-22.

[51] Nguyễn Văn Nhiệm, Đặng Vũ Bình, Nguyễn Văn Đức (2002), Một số nhân tố ảnh hưởng tới các tính trạng sinh sản của lợn nái Móng Cái, Tạp chí Chăn Nuôi, (30), tr. 11-13.

[52] Phạm Hải Ninh, Phạm Đức Hồng, Nguyễn Khắc Khánh, Hoàng Thanh Hải,Vũ Ngọc Sơn và Nông Văn Căn (2015), Đặc điểm ngoại hình và khả năng sản xuất của lợn Hạ Lang. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2013 - 2015, Phần Di truyền Giống Vật nuôi, tr. 53-64.

[53] Phạm Duy Phẩm, Lê Thanh Hải, Hoàng Đức Long, Lý Thị Thanh Hiên, Nguyễn Gia Long, Đào Tuấn Tú (2014), Khả năng sản xuất của giống lợn VCN-MS15, Tạp chí Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam, (21), tr. 61-64.

[54] Nguyễn Ngọc Phục, Nguyễn Văn Đồng, Trịnh Hồng Sơn (2003), Nghiên cứu một số chỉ tiêu năng suất sinh sản của lợn nái ông bà PIC 1230 và PIC 1050, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (5), tr. 721-723.

[55] Nguyễn Ngọc Phục, Lê Thanh Hải và Đinh Hữu Hùng (2009), Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái thuần LR, YS, nái lai F1(LY/YL), nái VNC22 và khả năng sinh trưởng, cho thịt của lợn thương phẩm 2, 3 và 4 giống trong điều kiện chăn nuôi trang trại tại Quảng Bình, Tạp chí Khoa Học Công Nghệ và Chăn Nuôi, 16, tr. 21-26.

102

[56] Lê Đình Phùng và Phan Hữu Tuần (2008), Ảnh hưởng của một số yếu tố đến các tính trạng sinh sản của lợn nái Móng Cái tại huyện Hương thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí Khoa Học, Đại Học Huế, (46), tr. 73-81.

[57] Lê Đình Phùng, Mai Đức Trung (2008), Mức độ đóng góp của một số yếu tố đến khả năng sinh sản của lợn nái lai F1(Móng Cái x Yorkshire) và nái Móng Cái nuôi trong nông hộ tại Quảng Bình, Tạp chí Khoa Học, Đại Học Huế, (49), tr. 123-131.

[58] Lê Đình Phùng (2009), Năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(Landrace x Yorskshire) phối tinh đực (Duroc x Pietrain) trong điều kiện chăn nuôi trang trại tại Quảng Bình, Tạp chí Khoa Học Đại Học Huế, (22), tr. 41-51.

[59] Lê Đình Phùng và Nguyễn Trường Thi (2009), Khả năng sinh sản của lợn nái lai F1(Yorkshire x Landrace) và năng suất của lợn thịt lai 3 máu (Duroc x Landrace) x (Yorkshire x Landrace), Tạp chí Khoa Học Đại Học Huế, 22, tr. 53-60.

[60] Lê Đình Phùng, Lê Thị Lan Phương, Phạm Khánh Từ, Hoàng Nghĩa Duyệt (2011), Ảnh hưởng của một số nhân tố đến khả năng sinh sản của lợn nái Landrace, Yorkshire và F1(Landrace x Yorkshire) nuôi trong các trang trại tại tỉnh Quảng Bình, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (2+3), tr. 95-103.

[61] Lê Đình Phùng và Trương Tấn Huệ (2011), Năng suất sinh sản của lợn nái lai cấp giống ông bà C1230 và C1050 trong hệ thống giống của PIC nuôi tại Quảng Bình, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (14), tr. 55-62. [62] Lê Đình Phùng, Nguyễn Thị Thanh, Lê Thị Lan Phương và Phùng Thăng Long (2012), Khả năng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất thịt của lợn lai thương phẩm Duroc x CA và Duroc x C22 trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp, Tạp chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (3), tr. 23-31.

[63] Lê Đình Phùng, Phùng Thăng Long, Lê Đức Thạo, Ngô Mậu Dũng, Nguyễn Văn Danh, Phạm Thị Thuy Thủy, Nguyễn Ngọc Hảo, Phạm Khánh Từ, Lê Thị Lan Phương (2015), Đánh Giá sinh trưởng, năng suất và phẩm chất thịt của con lai PIC399 x F1(Landrace x Yorkshire) và PIC280 x F1(Landrace x Yorkshire) trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp, Tạp Chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, (5), tr. 95-102.

[64] Lê Văn Phước, Lê Đức Ngoan, Nguyễn Kim Đường (2008), Ảnh hưởng của nhiệt độ chuồng nuôi đến một số chỉ tiêu sinh lý ở lợn Yorkshire và con lai F1(MC x Y) nuôi thịt, Tạp chí Khoa Học Đại Học Huế, (46), tr. 89-96.

[65] Nguyễn Hải Quân, Đinh Văn Chỉnh, Trần Xuân Việt (1993), Dùng lợn đực F1(Landrace x Yorkshire) phối giống với lợn nái nội Móng Cái để tạo thành con lai ba máu (Landrace x Yorkshire) x Móng Cái nuôi theo hướng nạc đạt yêu cầu xuất khẩu cao, Kết quả nghiên cứu KHCN khoa CNTY (1991-1992), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 24-26.

[66] Đoàn Văn Soạn, Đặng Vũ Bình (2011), Khả năng sinh sản của các tổ hợp lai

giữa nái lai F1(Landrace x Yorkshire), F1(Yorkshire x Landrace) với đực Duroc và L19, Tạp chí Khoa học và Phát triển, Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội, 9(4), tr. 614 – 621.

103

[67] Trịnh Hồng Sơn, Phạm Duy Phẩm, Trịnh Quang Tuyên, Lê Văn Sáng, Nguyễn Hữu Xa, Vương Thị Mai Hồng, Ngô Văn Tấp, Đàm Tuấn Tú, Nguyễn Văn Tuấn (2011), Bước đầu xác định đặc điểm sinh học của giống lợn Meishan, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Viện Chăn nuôi, Báo cáo khoa học năm 2010, Phần di truyền - giống vật nuôi, tr. 272-280.

[68] Trịnh Hồng Sơn, Nguyễn Quế Côi và Đinh Văn Chỉnh (2014), Hệ số di truyền và giá trị giống ước tính về một số chỉ tiêu năng suất của lợn đực dòng VCN03, Tạp chí Khoa Học Kỹ Thuật Chăn Nuôi, 4, tr. 2-12.

[69] Nguyễn Hữu Tỉnh (2009), Đánh giá di truyền đàn giống thuần Yorkshire và Landrace liên kết giữa các trại nhằm khai thác hiệu quả nguồn gen và nâng cao chất lượng giống. Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Viện Khoa Học Kỷ Thuật Nông Nghiệp Miền Nam.

[70] Nguyễn Hữu Tỉnh, Trần Văn Hào, Phạm Tất Thắng, Nguyễn Văn Hợp và Nguyễn Quốc Vũ (2015), Sinh trưởng, dày mỡ lưng và chuyển hóa thức ăn của tổ hợp lai lợn đực cuối giữa Duroc, Pietrain Và Landrace, Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2013 - 2015, Phần Di truyền Giống Vật nuôi, tr. 33-45.

[71] Vũ Đình Tôn, Nguyễn Văn Duy, Phan Văn Chung (2007), Năng suất và hiệu quả chăn nuôi lợn nái lai F1(Yorkshire x Móng Cái) trong điều kiện nông hộ, Tạp chí Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp, 5(4), tr. 38-43.

[72] Vũ Đình Tôn, Nguyễn Văn Duy, Phan Văn Chung (2008), Kết quả nuôi vỗ béo, chất lượng thân thịt và hiệu quả chăn nuôi lợn lai 3 giống Landrace x (Yorkshire x Móng Cái) trong điều kiện nông hộ, Tạp chí Khoa Học Và Phát Triển, Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội, 6(1), tr. 56-61.

[73] Vũ Đình Tôn và Nguyễn Công Oánh (2010a), Năng suất sinh sản, sinh trưởng và chất lượng thân thịt của các tổ hợp lai giữa nái F1(LY) với đực Duroc, Landrace nuôi ở Bắc Giang, Tạp chí Khoa Học Và Phát Triển, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 8(1), tr. 106 - 113.

[74] Vũ Đình Tôn, Nguyễn Công Oánh (2010b), Khả năng sản xuất của các tổ hợp lợn lai giữa nái F1(Yorkshire x Móng Cái) với đực giống Duroc, Landrace và F1(Landrace x Yorkshire) nuôi tại Bắc Giang, Tạp chí Khoa Học và Phát Triển, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 8(2), tr. 269-276.

[75] Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương-Viện chăn nuôi Quốc gia (2014), Báo

cáo kết quả nuôi khảo nghiệm giống lợn Meishan tại Việt Nam.

[76] Tổng cục thống kê (2014), Niên giám thống kê tóm tắt năm 2014.

104

[77] Giang Hồng Tuyến (2008), Nghiên cứu chọn lọc nâng cao số con sơ sinh sống/ổ đối với nhóm lợn MC3000, khả năng tăng khối lượng và tỷ lệ nạc đối với nhóm lợn MC15, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội. [78] Giang Hồng Tuyến (2010), Giá trị giống ước tính về số con sơ sinh sống/ổ của nhóm lợn Móng CáiTH và kết quả ước tính hiệu quả chọn lọc về tính trạng này khi sử dụng chương trình PIGBLUP, Tạp chí Khoa Học Công Nghệ Chăn Nuôi, (27), tr. 30-36.

[79] Giang Hồng Tuyến (2011), Năng suất sinh sản của nhóm lợn Móng Cái tổng hợp nuôi tại Hải Phòng và Lào Cai, Tạp chí Khoa Học Công Nghệ Chăn Nuôi, (28), tr. 1-8.

[80] Giang Hồng Tuyến và Hà Thu Trang (2011), Năng suất sinh sản của lợn F1(LR x MCTH), F1(LR x YTH) và F1(Pi x MCTH) nuôi tại Lào Cai. Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, (31), tr. 21-27.

[81] Nguyễn Văn Thắng, Đặng Vũ Bình (2004), Khả năng sinh trưởng, năng suất và phẩm chất thịt của các cặp lai (Pietrain x Móng Cái), Pietrain x (Yorkshire x Móng Cái) và (Pietrain x Yorkshire), Tạp chí Khoa Học Kỷ Thuật Nông Nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2(4), tr. 261-265.

[82] Nguyễn Văn Thắng, Đặng Vũ Bình (2006a), Năng suất sinh sản, nuôi thịt, chất lượng thịt của lợn nái lai (Yorkshire x Móng Cái) phối với lợn đực Landrace và Pietrain, Tạp chí Khoa Học Kỹ Thuật Chăn nuôi (11), tr. 9-13.

[83] Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2006b), Năng suất sinh sản, sinh trưởng và chất lượng thịt của các công thức lai giữa lợn nái F1(LandracexYorkshire) phối giống với lợn đực Duroc và Pietrain, Tạp chí Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 4(6), tr. 48-55.

[84] Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn (2010), Năng suất sinh sản, sinh trưởng, thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa lợn nái F1(Landrace x Yorkshire) với đực giống Landrace, Duroc và (Pietrain x Duroc), Tạp chí Khoa Học Kỹ Thuật Nông Nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 8(1), tr. 98 - 105.

[85] Nguyễn Thiện, Phùng Thị Vân, Nguyễn Khánh Quắc, Phạm Hữu Doanh, Phạm Nhật Lệ và cs (1995), Kết quả nghiên cứu các công thức lai giữa lợn ngoại và lợn Việt Nam, Tuyển tập công trình nghiên cứu Khoa học kỹ thuật chăn nuôi (1969-1995), Viện Chăn nuôi, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 13-21. [86] Nguyễn Thiện, Hoàng Kim Giao (1996), Nâng cao năng suất sinh sản của gia

súc cái, Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp, Hà Nội.

[87] Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Văn Đức, Tạ Thị Bích Duyên (1999), Sức sinh sản cao của lợn Móng Cái nuôi tại Nông trường Thành Tô, Tạp chí Chăn Nuôi, (4), tr. 16-17.

[88] Nguyễn Văn Thiện (2006), Lợn Meishan Trung Quốc, Tạp chí Khoa Học Kỷ

Thuật Chăn Nuôi 12-06.

105

[89] Lê Thị Thúy, Bùi Khắc Hùng (2008), Một số chỉ tiêu sinh trưởng, phát dục, khả năng sinh sản của lợn Bản và lợn Móng Cái nuôi trong nông hộ vùng cao huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, Tạp chí Chăn Nuôi, (7), tr. 6-7.

[90] Đoàn Phương Thuý, Phạm Văn Học, Trần Xuân Mạnh, Lưu Văn Tráng, Đoàn Văn Soạn, Vũ Đình Tôn, Đặng Vũ Bình (2015), Năng suất sinh sản và định hướng chọn lọc đối với lợn nái duroc, Landrace và Yorkshire tại công ty TNHH lợn giống hạt nhân Dabaco, Tạp chí Khoa học và Phát Triển, Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội, 13(8), tr. 1397-1404.

[91] Đặng Đình Trung, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Thị Viễn (2007), Hiện trạng chăn nuôi lợn tại một số tỉnh phía Bắc Việt Nam, Báo cáo khoa học năm 2006, Phần Công nghệ Sinh học và các Vấn đề Kỹ thuật Chăn nuôi, Viện Chăn nuôi Quốc gia, Hà Nội, tr. 194-200.

[92] Phùng Thị Vân, Hoàng Hương Trà, Trương Hữu Dũng (2000), Nghiên cứu khả năng cho thịt của lợn lai D(LY) và D(YL) và ảnh hưởng của hai chế độ nuôi tới khả năng cho thịt của lợn ngoại có tỷ lệ nạc > 52%, Tạp chí Khoa học Công nghệ và Quản lý KT, (9), tr. 397-398.

[93] Phùng Thị Vân, Hoàng Hương Trà, Lê Thị Kim Ngọc, Trương Hữu Dũng (2001), Nghiên cứu khả năng cho thịt giữ hai giống L, Y, giữa ba giống L, Y và D, ảnh hưởng của hai chế độ nuôi tới khả năng cho thịt của lợn ngoại có tỷ lệ nạc trên 52%, Báo cáo khoa học Chăn nuôi thú Y (1999 - 2000), phần Chăn nuôi Gia súc, TP Hồ Chí Minh, tr. 207-219.

[94] Nguyễn Thị Viễn (2004), Năng suất sinh sản của nái tổng hợp giữa hai nhóm giống Yorskshire x Landrace, Báo cáo khoa học chăn nuôi thú y, Nhà xuất bản Nông Nghiệp, tr. 240-248.

II. Tiếng Anh

[95] Akos, K., & Bilkei, G. (2004). Comparison of the reproductive performance of sows kept outdoors in Croatia with that of sows kept indoors. Livestock Production Science, 85(2), 293-298.

[96] Apple, J.K., Sawyer, J.T., Maxwell, C.V., Woodworth, J.C., Yancey, J.W.S., Musser, R.E. (2008), Effect of L carnitine supplementation on the performance and pork quality traits of growing finishing swine fed three levels of corn oil, Journal Animal Science; 86 E-Suppl 2, pp. 37.

[97] Bass, T.J. (2000), Meat Quality Traits and Genetic Selection, Iowa State

University.

[98] Bazer, F.W., Thatcher W.W., Martinat-Botle F. and Terqui M. (1988), Sexual maturation and morphological development of the reproductive tract in Largewhite and prolific Chinese Meishan pigs, Journal of Reproduction Fertility, 83: pp. 723-728.

106

[99] Bee, G., Biolley, C., Guex, G., Herzog, W., Lonergan, S.M., Huff-Lonergan, E. (2006), Effects of available dietary carbohydrate and preslaughter treatment on glycolytic potential, protein degradation, and quality traits of pig muscles, Journal Animal Science, 84, pp. 191-203.

[100] Bidanel, J. P., Caritez, J. C., & Legault, C. (1990), Estimation of crossbreeding parameters between Large White and Meishan porcine breeds. II. Growth before weaning and growth of females during the growing and reproductive periods, Genetics Selection Evolution, 22(4), pp. 431-445.

[101] Bidanel, J.P. (1997), Genetic aspects of prolificacy in Meishan pigs. What have we learned from the Meishan pig, Institute of Animal Science, Seminar (polycopy), Wageningen, pp. 1-6.

[102] Bidner, B.S., Ellis, M., Witte, D.P., Carr, S.N., McKeith, F.K. (2004), Influence of dietary lysine level, pre-slaughter fasting, and rendement napole genotype on fresh pork quality, Meat Science, 68, pp. 53-60.

[103] Boyd, R. D., Touchette, K. J., Castro, G. C., Johnston, M. E., Lee, K. U., & Han, I. K. (2000), Recent advances in amino acid and energy nutrition of prolific sows, Asian Australasian Journal of Animal Sciences, 13(11), pp. 1638-1652.

[104] Brumm, M. C., & Miller, P. S. (1996), Response of pigs to space allocation and diets varying in nutrient density, Journal of Animal Science, 74(11), pp. 2730-2737.

[105] Buske, B., Brunsch, C., Zeller, K., Reinecke, P., & Brockmann, G. (2005), Analysis of properdin (BF) genotypes associated with litter size in a commercial pig cross population, Journal of Animal Breeding And Genetics 122(4), pp. 259-263.

[106] Castell, A. G., Cliplef, R. L., Poste-Flynn, L. M., & Butler, G. (1994), Performance, carcass and pork characteristics of castrates and gilts self-fed diets differing in protein content and lysine: energy ratio, Canadian Journal of Animal Science, 74(3), pp. 519-528.

[107] Cesar, A. S. M., Silveira, A. C. P., Freitas, P. F. A., Guimaraes, E. C., Batista, D. F. A., Torido, L. C., ... & Antunes, R. C. (2010), Influence of Chinese breeds on pork quality of commercial pig lines, Genetics and Molecular Research, 9(2), pp. 727-733.

[108] Channon, H. A., Payne, A. M., & Warner, R. D. (2002), Comparison of CO2 stunning with manual electrical stunning (50 Hz) of pigs on carcass and meat quality, Meat Science, 60, pp. 63–68.

[109] Channon, H. A., Payne, A. M., & Warner, R. D. (2003), Effect of stun duration and current level applied during head to back and head only electrical stunning of

pigs on pork quality compared with pigs stunned with CO2. Meat Science, 65(4), pp. 1325-1333.

107

[110] Christenson, R. K. (1993), Ovulation rate and embryonic survival in Chinese

Meishan and white crossbred pigs, Journal of Animal Science, 71, pp. 3060-3066.

[111] Colin T. Whittemore (1998), The science and practice of pig production Second

Edition, Blackwell Science Ltd, pp. 91-130.

[112] Correa, J.A., Methot, S., and Faucitano, L. (2007), A modifided meat juice contain (EZ-dripp loss) procedure for more reliable asessment of drip loss and related quality changes in pork meat, Journal, Muscle Foods 18, pp.67 - 77.

[113] Dalla Costa, O.A., Faucitano, L., Coldebella, A., Ludke, J.V., Peloso, J.V., Dalla Roza, D., Paranhos da Costa, M.J.R. (2007), Effects of the season of the year, truck type and location on truck on skin bruises and meat quality in pigs, Livestock Science, 107(1), pp. 29-36.

[114] Després P., Martinal - BottÐ F., Lagant H., Terqui M. and Legault C. (1992), Comparison of reproduction perfomance of three genetic types of sows: Large White (LW), hyperprolific Large White (LWH), Meishan (MS) (in Frech), Journ Ðes de la Recherche Porcine en France, 24, pp. 25 - 30.

[115] Domino, S. E., Zhang, L., Gillespie, P. J., Saunders, T. L., & Lowe, J. B. (2001), Deficiency of reproductive tract α (1, 2) fucosylated glycans and normal fertility in mice with targeted deletions of the FUT1 or FUT2 α (1, 2) fucosyltransferase locus. Molecular and Cellular Biology, 21(24), pp. 8336-8345.

[116] Duc N.V. (1997), Genetic Characterization of indigenous and exotic pig breed and crosses in VietNam, A thesis submitted for the degree of doctor of philosophy, The University of New England, Australia.

[117] Edwards, D.B., Bates, R.O. and Osburn, W.N. (2003), Evaluation of Duroc- vs. Pietrain-sired pigs for carcass and meat quality measures, Journal of Animal Science, 81, pp. 1895 -1899.

[118] Eggert, J.M., Grant, A.L., Schinckel AP. (2007), Factors affecting fat

distribution in pork carcasses, Prof Animal Science, 23, pp. 42-53.

[119] Fao (2016), Data Live Animals, Online available October 1St 2016:

http://www.fao.org/faostat/en/#data/QA

[120] Fagundes, A.C.A., Da Silva, R.G., Gomes, J.D.F., D’Souza, L.W., Fukushima, R.S. (2009), Influence of environmental temperature, dietary energy level and sex on performance and carcass characteristics of pigs, Brazilian Journal of Veterinary Research and Animal Science, 46 (1), pp. 1385-1396.

108

[121] Fan B., Onteru S.K., Plastow G.S., Rothschild M.F. (2009), Detailed characterization of the porcine MC4R gene in relation to fatness and growth, Animal Genetics 40, pp. 40-409.

[122] Faucitano, L., Saucier. L., Correa. J.A., Méthot, S., Giguère, A., Foury, A. (2006), Effect of feed texture, meal frequency and pre-slaughter fasting on carcass and meat quality, and urinary cortisol in pigs, Meat Science, 74, pp. 697-703.

[123] Fujii, J., Otsu, K., Zorzato, F. (1991), Identification of a mutation in porcine ryanodine receptor associated with malignant hyperthermia, Science, 253, pp. 448-451.

[124] Gerasimov V. I., Danlova T. N; Pron E. V. (1997), The results of 2 and 3 breed

crossing of pigs, Animal Breeding Abstracts, 65(3), pp. 1395

[125] Gerbens, F., Van Erp, Aj., Harders, F.L., Verburg, F.J., Meuwissen, T.H., Veerkamp, J.H., te Pas, M.F. (1999), Effect of genetic variants of the heart fatty axit-binding protein gene on intramuscular fat and performance traits in pigs, Journal Animal Science, 77, pp. 846-852.

[126] Gondret, F., Lefaucheur, L., Louveau, I., Lebret, B., Pichodo, X., & Le Cozler, Y. (2005), Influence of piglet birth weight on postnatal growth performance, tissue lipogenic capacity and muscle histological traits at market weight, Livestock Production Science, 93(2), pp. 137-146.

[127] Gordon, I. (2004). Reproductive technologies in farm animals. CABi.

[128] Grandinson, K., Rydhmer, L., Strandberg, E., & Solanes, F. X. (2005), Genetic analysis of body condition in the sow during lactation, and its relation to piglet survival and growth, Animal Science, 80(01), pp. 33-40.

[129] Gregory, N.G. (2010), How climatic changes could affect meat quality, Food

Research International, 43(7), pp. 1866-1873.

[130] Gunsett, F.C. and Robinson, O.W. (1990), Crossbreeding effects on reproduction, growth and carcass traits. In: Young, L.D (ed) Genetics of Swine. NC-103 Publication. pp. 57-72.

[131] Haley, C.S., and Lee G. S. (1990), Genetic components of litter size in Meishan and Large White pigs and their crosses. Proceedings of the 4th world Congress of Genetics Applied to liverstock production Edinburgh XV: pp. 458-461.

[132] Haley, C.S., and Lee, G. J. (1992), Genetic basis of prolificacy in Meishan pigs,

Journal of Reproduction and Fertility, Supplement 48, pp. 247-259.

109

[133] Haley, C.S., Lee, G.J., Ritchie, M. (1995), Comparative reproductive performance in Meishan and Large White pigs and their crosses, Animal Science, 60, pp. 259-267.

[134] Hasty, L. A., Brockman, W. W., Lambris, J. D., & Lyttle, C. R. (1993), Hormonal regulation of complement factor B in human endometrium, American Journal of Reproductive Immunology, 30(203), pp. 63-67.

[135] Hau, N.V. (2008), On farm performance of Vietnamese pig breeds and its relation to candidate genes. PhD thesis. Institute of Animal Production in the Tropics and Subtropics Universität Hohenheim, Stuttgart, Germany.

[136] Herfort Pedersen, P., Oksbjerg, N., Karlsson, A. H., Busk, H., Bend-ixen, E., & Henckel, P. (2001), A within litter comparison of muscle fibre characteristics and growth of Halothane carriers and halothane free crossbreed pigs, Livestock Production Science, 73, pp. 15–24.

[137] Hermesch, S., Luxford, B.G. and Graser, H.U. (1997), Genetic relationships between intramuscular fat content and meat quality, carcase, production and reproduction traits in Australian pigs. Proc Assoc Advmt Animal Breed Genet, 12, pp. 499-502.

[138] Heyer, A. and Lebret, B. (2007), Compensatory growth response in pigs: effects on growth performance, composition of weight gain at carcass and muscle levels, and meat quality, Journal of Animal Science, 85, pp. 769–778.

[139] Hill G.J. và Web L.I. (2002), Australian Pig Industry Hanbok - Pig Stats, 2000 -

2001, pp. 31-39.

[140] Hirvonen-Santti, S. J., Sriraman, V., Anttonen, M., Savolainen, S., Palvimo, J. J., Heikinheimo, M., ... & Janne, O. A. (2004), Small nuclear RING finger protein expression during gonad development: regulation by gonadotropins and estrogen in the postnatal ovary, Endocrinology, 145(5), pp. 2433-2444.

[141] Honikel, K.O. (1998), Reference Methold for the Assessment of Physical

Characteriscs of Meat, Meat Science, 49, pp. 447-457.

[142] Horák, P., Urban, T., & Dvořák, J. (2005), The FUT1 and ESR genes–their variability and associations with reproduction in Přeštice Black‐Pied sows, Journal of Animal Breeding and Genetics 122(3), pp. 210-213.

[143] Hughes P.E.M., Varley (1980), Reproduction in the pig butter worth and

Co.(Publishers L.t.d.), pp. 2-3.

[144] Hunter, M. G., Biggs, C., Foxcroft, G. R., McNeilly, A. S., & Tilton, J. E. (1993), Comparisons of endocrinology and behavioural events during the

periovulatory period in Meishan and Large-White hybrid gilts, Journal of Reproduction and Fertility, 97(2), pp. 475-480.

110

[145] Hyun, Y., Ellis, M., McKeith, F.K. and Baker, D.H. (2003), Effect of dietary leucine level on growth performance, and carcass and meat quality in finishing pigs, Canadian Journal Animal Science, 83, pp. 315–318.

[146] Jang, Y. D., Jang, S. K., Kim, D. H., Oh, H. K., & Kim, Y. Y. (2014), Effects of dietary protein levels for gestating gilts on reproductive performance, Blood Metabolites and Milk Composition, Asian-Australasian Journal of Animal Sciences, 27(1), pp. 83.

[147] Jiang, Y. Z., Zhu, L., Tang, G. Q., Li, M. Z., Jiang, A. A., Cen, W. M., & Wang, Q. (2012), Carcass and meat quality traits of four commercial pig crossbreeds in China, Genetics and Molecular Research, 11(4), pp. 4447-4455.

[148] Katsumata, M., Kobayashi, S., Matsumoto, M., Tsuneishi, E. and Kaji, Y. (2005), Reduced intake of dietary lysine promotes accumulation of intramuscular fat in the Longissimus dorsi muscles of finishing gilts, Animal Science Journal, 76(3), pp. 237–244.

[149] Kim, K. S., Larsen, N. J., & Rothschild, M. F. (2000), Rapid communication: linkage and physical mapping of the porcine melanocortin-4 receptor (MC4R) gene, Journal of Animal Science-Menasha Then Albany Then Champaign Illinois, 78(3), pp. 791-792.

[150] Kortz, J., Otolińska, A., Rybarczyk, A., Karamucki, T., & Natalczyk- Szymkowska, W. (2005), Meat quality of Danish Yorkshire porkers and their hybrids with Polish Large White pigs, Polish Journal of Food And Nutrition Sciences, 14(55), pp. 1.

[151] Kosovac, O., Živković, B., Radović, Č., & Smiljaković, T. (2009), Quality indicators: Carcass side and meat quality of pigs of different genotypes, Biotechnology in Animal Husbandry, 25(3-4), pp. 173-188.

[152] Kuhlers, D. L., Jungst, S. B., & Moore, R. A. (1988), Comparisons of specific crosses from Yorkshire-Landrace, Chester White-Landrace and Chester White- Yorkshire sows, Journal of Animal Science, 66(5), pp. 1132-1138.

[153] Kusec, G. O. R. A. N., Baulain, U. L. R. I. C. H., Henning, M. A. R. T. I. N. A., Köhler, P. E. T. E. R., & Kallweit, E. R. H. A. R. D. (2005), Fattening, carcass and meat quality traits of hybrid pigs as influenced by MHS genotype and feeding systems. Arch. Tierz, 48(1), pp. 40-49.

111

[154] Lachowicz, K., Sobczak M., Gajowiecki, L., Żych, A. (2003), Effect of massaging time on texture, rheological properties and structure of three pork ham muscles, Meat Science, 63, pp. 225-233.

[155] Lampe, J.F., Baas, T.J. and Mabry, J.W. (2006), Comparison of grain sources for swine diets and their effect on meat and fat quality traits, Journal Animal Science, 84, pp. 1022–1029.

[156] Latorre, M.A., Lazaro, R., Gracia, M.I., Nieto, M., Mateos, G.G. (2003), Effect of sex and terminal sire genotype on performance, carcass characteristics and meat quality of pigs slaughtered at 177 kg body weight, Meat Science, 65(4), pp. 1369-1377.

[157] Latorre M.A, Lázaro R, Valencia D.G, Medel P, Mateos G.G. (2004), The effects of gender and slaughter weight on the growth performance, carcass traits, and meat quality characteristics of heavy pigs, Journal Animal Science, Feb; 82(2), pp. 526-533.

[158] Latorre, M. A., García-Belenguer, E., & Ariño, L. (2008), The effects of sex and slaughter weight on growth performance and carcass traits of pigs intended for dry- cured ham from Teruel (Spain), Journal of Animal Science, 86(8), pp. 1933-1942.

[159] Lebret, B., Juin, H., Noblet, J., & Bonneau, M. (2001), The effects of two methods of increasing age at slaughter on carcass and muscle traits and meat sensory quality in pigs, Animal Science, 72(1), pp. 87-94.

[160] Lebret, B., Heyer, A., Gondret, F. and Louveau, I. (2007), The response of various muscle types to a restriction–re-alimentation feeding strategy in growing pigs, Cambridge Journal, 1(06), pp. 849-857.

[161] Lefaucheur, L., Le Dividich, J., Mourot, J., Monin, G., Ecolan, Pa. and Krauss, D. (1991), Influence of environmental temperature on growth, muscle and adipose tissue metabolism, and meat quality in swine, Journal of Animal Science, 69(7), pp. 2844-2854.

[162] Lemke, U., Kaufmann, B., Thuy, L. T., Emrich, K., & Zárate, A. V. (2006), Evaluation of smallholder pig production systems in North Vietnam: Pig production management and pig performances, Livestock Science, 105(1), pp. 229-243.

[163] Leroy P., G.Monin, J. M.Elsen, J.C. Caritez, A.Talmant, B. Lebret, L.Lefaucheur, J.Mourot, H. Juin and P.Sellier (1996), Effect of the RN genotype on growth and carcass traist in pigs, 47th Anual meeting of the EAAP, Lillhammer, Norway, AG 7, 9, pp. 8.

[164] Leroy, P. L., Verleyen, V., Wenk, C., & Dupuis, M. (2000), Performances of the Piétrain ReHal, the new stress negative Piétrain line. In Quality of meat and fat in pigs as affected by genetics and nutrition. Proceedings of the joint session of the EAAP commissions on pig production, animal genetics and animal nutrition, Zurich, Switzerland, 25 August 1999. pp. 161-164).

112

[165] Li C. L, Pan Y.C, Meng H. (2006), Polymorphism of the H-FABP, MC4R and ADD1 genes in the Meishan and four other pig populations in China. South African Journal of Animal Science, 36 (1), pp. 1-6.

[166] Lim, K. S., Jang, H. I., Kim, J. M., Lee, S. H., Kim, B. C. K., Han, K. J., & Hong, K. C. (2009), Comparison of muscle fibre characteristics and production traits among offspring from Meishan dams mated to different sires, Italian Journal of Animal Science, 8(4), pp. 727-734.

[167] Lopez, J., G.W. Jesse, B.A. Becker and M.R. Ellersieck. (1991), Effects of temperature on the performance of finishing swine: I. Effects of a hot, diurnal temperature on average daily gain, feed intake, and feek efficiency, Journal of Animal Science, 69, pp. 1843-1849.

[168] Lundgren, H., Canario, L., Grandinson, K., Lundeheim, N., Zumbach, B., Vangen, O., & Rydhmer, L. (2010), Genetic analysis of reproductive performance in Landrace sows and its correlation to piglet growth, Livestock Science, 128(1), pp. 173-178.

[169] Mahan, D. C. (1991), Assessment of the influence of dietary vitamin E on sows and offspring in three parities: reproductive performance, tissue tocopherol, and effects on progeny, Journal of Animal Science, 69(7), pp. 2904-2917.

[170] Martin, D., Muriel, E., Gonzalez, E., Viguera, J., Ruiz, J. (2008), Effect of dietary conjugated linoleic acid and monounsaturated fatty acids on productive, carcass and meat quality traits of pigs, Livestock Science, 117, pp. 155-164.

[171] McCann, M. E. E., Beattie, V. E., Watt, D., & Moss, B. W. (2008), The effect of boar breed type on reproduction, production performance and carcass and meat quality in pigs, Irish Journal of Agricultural and Food Research, pp. 171-185.

[172] McLaren, D. G., Buchanan, D. S., & Johnson, R. K. (1987), Individual heterosis and breed effects for postweaning performance and carcass traits in four breeds of swine, Journal of Animal Science, 64(1), pp. 83-98.

[173] Meadus, W. J., and MacInnis, R. (2000), Testing for the RN− gene in retail pork

chops, Meat Science, 54(3), pp. 231-237.

[174] Mercer. J.T., and S. Hoste, (1994), Prospects for the commercial use of Chinese pigs,

Proc. 5th World Congress Genetic Applied. Livestock Production, 17, pp. 327-334.

[175] Morlein, D., Link, G., Werner, C., & Wicke, M. (2007), Suitability of three commercially produced pig breeds in Germany for a meat quality program with emphasis on drip loss and eating quality, Meat Science, 77(4), pp. 504-511.

[176] Murray, A., Robertson, W., Nattress, F., Fortin, A. (2001), Effect of preslaughter overnight feed withdrawal on pig carcass and muscle quality, Canadian Journal Animal Science, 81, pp. 89-97.

113

[177] Myer, R.O., Lamkey, J.W., Walker, W.R., Brendemuhl, J.H., Combs, G.E. (1992), Performance and carcass characteristics of swine when fed diets containing canola oil and copper to alter the unsaturated:saturated ratio of pork fat, Journal of Animal Science, 70, pp. 1417-1423.

[178] Nardone, A., Ronchi, B., Lacetera, N., Ranieri, M.S., Bernabucci, U. (2010), Effects of climate changes on animal production and sustainability of livestock systems, Livestock Science, 130(1-3), pp. 57-69.

[179] NCR, N. (1998). Nutrient requirements of swine.

[180] Newcom D.W., Stalder K.J., Baas T.J., Goodwin R.N., Parrish F.C., Wiegand B.R. (2004), Breed differences and genetic parameters of myoglobin concentration in porcine longissimus muscle, Journal Animal Science, 82(8), pp. 2264-2268.

[181] Nezer, C., Moreau, L., Brouwers, B., Coppieters, W., Detilleux, J., Hanset, R., . & Georges, M. (1999), An imprinted QTL with major effect on muscle mass and fat deposition maps to the IGF2 locus in pigs, Nature genetics 21(2), pp. 155-156. [182] Nielsen, B. L., Lawrence, A. B., & Whittemore, C. T. (1995), Effect of group size on feeding behaviour, social behaviour, and performance of growing pigs using single-space feeders, Livestock Production Science, 44(1), pp. 73-85.

[183] Niu, B. Y., Ye, L. Z., Li, F. E., Deng, C. Y., Jiang, S. W., Lei, M. G., & Xiong, Y. Z. (2009), Identification of polymorphism and association analysis with reproductive traits in the porcine RNF4 gene, Animal Reproduction Science, 110(3), pp. 283-292.

[184] Okrouhla, M., Stupka, R., Citek, J., Sprysl, M., Trnka, M., & Kluzakova, E. (2008), Effect of lean meat proportion on the chemical composition of pork, Czech Journal of Food Sciences-UZPI (Czech Republic),

[185] Quiniou, N., Gaudré, D., Rapp, S., & Guillou, D. (2000). Effect of ambient temperature and diet composition on lactation performance of primiparous sows. Journées de la Recherche Porcine en France, 32, 275-282.

[186] Peltoniemi, O. A., Heinonen, M., Leppävuori, A., & Love, R. J. (1998). Seasonal effects on reproduction in the domestic sow in Finland--a herd record study. Acta Veterinaria Scandinavica, 40(2), 133-144.

[187] Pettigrew, J.E. and Moser, R.L. (1991), Fat in Swine Nutrition. In: Swine Nutrition, Miller, E.R., D.E. Ullrey and A.J. Lewis (Eds.), Butterworth- Heinemann, Stoneham, MA.

[188] Pettigrew, J. E., and Yang, H. (1997), Protein nutrition of gestating sows,

Journal of Animal Science, 75(10), pp. 2723.

114

[189] Pope, W. F. (1994), Embryonic mortality in swine. In: Zavy, M.T., Geisert, R.D. (Eds.), Embryonic Mortality in Domestic Species. CRC Press, Boca Raton, FL, pp. 53–77.

[190] Rothschild, M. F., Bidanel, J. P., & Ruvinsky, A. (1998), Biology and genetics

of reproduction, The Genetics of the Pig, pp. 313-343.

[191] Rundgren, M., Lundstrom, K., and Edfors-Lilja, I. (1990), A within - litter comparison of the three halothane genotype. 2. Performance, carcass quality, 59 organ development and long-term effects of transportation and amperozide, Liverstock Production Science, 26, pp. 231-243.

[192] Rydhmer, L., Lundeheim, N., & Johansson, K. (1995), Genetic parameters for reproduction traits in sows and relations to performance‐test measurements, Journal of Animal Breeding and Genetics 112(1‐6), pp. 33-42.

[193] Schneider, J. F., Rempel, L. A., Rohrer, G. A., & Brown-Brandl, T. M. (2011), Genetic parameter estimates among scale activity score and farrowing disposition with reproductive traits in swine, Journal of Animal Science, 89(11), pp. 3514-3521.

[194] Serenius, T., Sevón-Aimonen, M. L., & Mäntysaari, E. A. (2002), Effect of service sire and validity of repeatability model in litter size and farrowing interval of Finnish L and LW populations, Livestock Production Science, 81, pp.213-222.

[195] Shi-Zheng, G.,and Su-Mei, Z. (2009), Physiology, Affecting Factors and Strategies for Control of Pig Meat Intramuscular Fat, Recent Patents on Food, Nutrition & Agriculture, 1(1), pp. 59-74.

[196] Sieczkowska, H., Kocwin-Podsiadla, M., Krzecio, E., Antosik, K., & Zybert, A. (2009), Quality and technological properties of meat from Landrace-Yorkshire x Duroc and Landrace-Yorkshire x Duroc-Pietrain fatteners, Polish Journal of Food and Nutrition Sciences, 59(4), pp. 329-333

[197] Sterten, H., Frøystein, T., Oksbjerg, N., Rehnberg, A.C., Ekker, A.S., Kjos, NP. (2009), Effect of fasting prior to slaughter on technological and sensory properties of the loin muscle (M. longissimus dorsi) of pigs, Meat Science, 83, pp. 351-357.

[198] Szabo, C., Jansman, A. J., Babinszky, L., Kanis, E., & Verstegen, M. W. (2001), Effect of dietary protein source and lysine: DE ratio on growth performance, meat quality, and body composition of growing-finishing pigs, Journal of Animal Science, 79(11), pp. 2857-2865.

and meat texture: protein effects

[199] Therkildsen, M., Riis, B., Karlsson, A., Kristensen, L., Ertbjerg, P., Purslow, PP., Aaslyng, M.D. and Oksbjerg, N. (2002), Compensatory growth response in pigs, muscle of turnover restriction/realimentation period, Animal Science, 75, pp. 367–377.

115

[200] Tu, P. K., Hoang, N. D., Ngoan Le Duc, Hendriks, W. H., Van Der Peet- Schwering, C. M. C., & Verstegen, M. W. A. (2010), Effect of genotype and dietary protein level on growth performance and carcass characteristics of fattening pigs in Central Vietnam, Asian-Australasian Journal of Animal Sciences, 23(8), pp. 1034-1042.

[201] Umesiobi, D. O. (2009), Vitamin E supplementation to sows and effects on fertility rate and subsequent body development of their weanling piglets, Journal of Agriculture and Rural Development in the Tropics and Subtropics (JARTS), 110(2), pp. 155-168.

[202] Van de Perre, V., Permentier, L., De Bie, S., Verbeke, G., Geers, R. (2010), Effect of unloading, lairage, pig handling, stunning and season on pH of pork, Meat Science, 86(4), pp. 931-937.

[203] Warnants N; Oeckel M J Van; Paepe M De (2003), Response of growing pigs to different levels of ideal standardised digestible lysine using diets balanced in threonine, methionine and tryptophan, Livestock Production Science, 82, pp. 201-209.

[204] Warner, R.D., Kauffman., R.G. and Greaser, M.L. (1997), Muscle Protein Changes Post Mortem in Relation to Pork Quality Traits, Meat Science, 45(3), pp. 339-352.

[205] White, H. M., Richert, B. T., Schinckel, A. P., Burgess, J. R., Donkin, S. S., & Latour, M. A. (2008), Effects of temperature stress on growth performance and bacon quality in grow-finish pigs housed at two densities, Journal of Animal Science, 86(8), pp. 1789-1798.

[206] Williams, N. H., Cline, T. R., Schinckel, A. P., & Jones, D. J. (1994), The impact of ractopamine, energy intake, and dietary fat on finisher pig growth performance and carcass merit, Journal Of Animal Science, 72(12), pp. 3152-3162.

[207] Wolter, B. F., Hamilton, D. N., & Ellis, M. (2000), Comparison of one-quarter Chinese Meishan and three-breed conventional cross females for sow productivity, and growth and carcass characteristics of the progeny, Canadian Journal of Animal Science, 80(2), pp. 281-286.

[208] Wood, J. D., Nute, G. R., Richardson, R. I., Whittington, F. M., Southwood, O., Plastow, G., ... & Chang, K. C. (2004), Effects of breed, diet and muscle on fat deposition and eating quality in pigs, Meat Science, 67(4), pp. 651-667.

[209] Young, L.D. (1995), Reproduction of F1 Meishan, Fenging, Minzhu and Durroc

gilts and sows, Journal of Animal Science, 73, pp. 711-721.

[210] Zhang, J. X., Yin, J. D., Zhou, X., Li, F. N., Ni, J. J., & Dong, B. (2008), Effects of lower dietary lysine and energy content on carcass characteristics and meat quality in growing-finishing pigs, Asian-Australasian Journal of Animal Sciences, 21(12), pp. 1785-1793.

116

PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN THÍ NGHIỆM

Lợn nái VCN-MS15

Lợn nái VCN-MS15 nuôi con

117

Lợn nái VCN-MS15 nuôi con

Lợn lai F1(Duroc x VCN-MS15) nuôi thịt

118

Lợn lai F1(Pietrain x VCN-MS15) nuôi thịt

119

Lợn nái F1(Duroc x VCN-MS15)

120

Lợn nái F1(Pietrain x VCN-MS15)

121

Lợn con lúc 30 ngày tuổi

Lợn con giai đoạn cai sữa

122

Lợn lai Landrace x F1(Duroc x VCN-MS15) nuôi thịt

123

Lợn lai Pietrain x F1(Duroc x VCN-MS15) nuôi thịt

124

Lợn lai Duroc x F1(Pietrain x VCN-MS15) nuôi thịt

125

Vận chuyển lợn đi giết mổ

Xác định khối lượng lợn khi kết thúc thí nghiệm