ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------------------------
Vũ Văn Tâm
NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI CƠ THỂ
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA TRẺ 2-5 TUỔI
Ở MỘT SỐ KHU VỰC MIỀN BẮC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Hà Nội, 2020RƯỜNG
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------------------------
Vũ Văn Tâm
NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI CƠ THỂ
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA TRẺ 2-5 TUỔI
Ở MỘT SỐ KHU VỰC MIỀN BẮC
Chuyên ngành: Nhân chủng học
Mã số:
9420101.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Hoàng Quý Tỉnh
PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
được bảo vệ.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận án đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Vũ Văn Tâm
i
LỜI CẢM ƠN
Luận án được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hoàng Quý Tỉnh
và PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân, tại Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học cùng với các
thầy cô giáo trong Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học
Quốc gia Hà Nội đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin được cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo, phụ huynh các
trường mầm non thuộc địa bàn nghiên cứu đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình nghiên cứu và thu thập số liệu.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã luôn ở
bên cạnh, động viên giúp tôi vượt qua mọi khó khăn trong học tập và nghiên cứu để
hoàn thành luận án này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận án
Vũ Văn Tâm
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................ v
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................. vi
DANH MỤC HÌNH................................................................................................ viii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4
1.1. Khái quát về hình thái cơ thể trẻ em ................................................................... 4
1.1.1. Sự tăng trưởng và phát triển hình thái cơ thể trẻ em .................................... 4
1.1.2. Một số đặc điểm về hình thái cơ thể trẻ em .................................................... 5
1.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể trẻ em ............................ 6
1.1.4. Dinh dưỡng và sự phát triển cơ thể trẻ em ..................................................... 9
1.1.5. Hậu quả của tình trạng suy dinh dưỡng và thừa cân-béo phì ................... 13
1.1.6. Lịch sử nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng .................................................... 15
1.2. Sự phát triển của răng và tình trạng sâu răng ............................................... 24
1.2.1. Cấu tạo giải phẫu răng ..................................................................................... 24
1.2.2. Sinh lý mọc răng ................................................................................................. 25
1.2.3. Bệnh sâu răng ..................................................................................................... 26
1.2.4. Một số yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng .................................................. 29
1.2.5. Hậu quả của sâu răng đến sự phát triển cơ thể trẻ em .............................. 31
1.2.6. Lịch sử nghiên cứu tình trạng sâu răng ......................................................... 32
1.3. Mối liên quan của dinh dƣỡng và sâu răng đến sự phát triển
cơ thể trẻ em ......................................................................................................... 35
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA BÀN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 38
2.1. Đối tƣợng, thời gian nghiên cứu ......................................................................... 38
2.2. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................................ 38
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 39
2.3.1. Phương pháp tính tuổi ...................................................................................... 39
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu .................................................................................... 39
iii
2.3.3. Phương pháp tính cỡ mẫu ................................................................................ 42
2.3.4. Phương pháp đo một số kích thước và chỉ số nhân trắc ............................ 44
2.3.5. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng ............................................. 45
2.3.6. Phương pháp điều tra và đánh giá tình trạng sâu răng ............................. 46
2.3.7. Phương pháp thống kê ...................................................................................... 48
2.4. Lập phiếu nghiên cứu cho đối tƣợng ................................................................. 49
2.5. Kỹ thuật khống chế sai số ..................................................................................... 50
2.6. Hạn chế của nghiên cứu ........................................................................................ 50
2.7. Đạo đức nghiên cứu ................................................................................................ 50
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN ..................................... 51
3.1. Các chỉ tiêu nhân trắc, thực trạng dinh dƣỡng và các yếu tố liên quan
của trẻ trong nghiên cứu ................................................................................................ 51
3.1.1. Các chỉ tiêu nhân trắc của trẻ trong nghiên cứu ......................................... 51
3.1.2. Thực trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan của trẻ
trong nghiên cứu ............................................................................................................ 69
3.1.3. Mô hình hồi quy đa biến logistic dự đoán tình trạng dinh dưỡng
của trẻ trong nghiên cứu............................................................................................... 96
3.2. Thực trạng sâu răng và các yếu tố liên quan của trẻ trong
nghiên cứu .......................................................................................................................... 99
3.2.1. Thực trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu ............................................ 99
3.2.2. Một số yếu tố liên quan và mô hình hồi quy logistic dự đoán
tình trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu ........................................................ 106
3.3. Mối liên quan giữa tình trạng dinh dƣỡng và tình trạng sâu răng ........ 113
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 117
KIẾN NGHỊ ........................................................................................................... 118
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................. 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 120
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Area Under the Curve AUC (Diện tích dưới đường cong)
Body Mass Index BMI (Chỉ số khối của cơ thể)
International Caries Detection and Assessment System ICDAS (Hệ thống phát hiện và đánh giá sâu răng quốc tế)
Kinh tế-xã hội KT-XH
Receiver Operating Characteristic ROC (Đường cong ROC)
SDD Suy dinh dưỡng
smt Sâu mất trám răng sữa
SMT Sâu mất trám răng vĩnh viễn
TC-BP Thừa cân-Béo phì
United Nations Children's Fund UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc)
VCTTD Vòng cánh tay trái duỗi
World Health Organization WHO (Tổ chức Y tế Thế giới)
v
DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Phân bố của đối tượng khảo sát trong nghiên cứu theo địa bàn ............... 43 Bảng 2.2. Chuẩn suy dinh dưỡng cho trẻ 0 - 19 tuổi của WHO ............................... 45 Bảng 2.3. Sơ đồ phần bố vị trí răng sữa .................................................................... 46 Bảng 2.4. Tiêu chuẩn phát hiện sâu răng theo ICDAS ............................................. 47 Bảng 3.1. Chiều cao đứng trung bình (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính ................ 51 Bảng 3.2. Chiều cao đứng trung bình (cm) của trẻ theo khu vực nghiên cứu .......... 52 Bảng 3.3. So sánh chiều cao đứng trung bình (cm) của trẻ với một số nghiên cứu ....... 53 Bảng 3.4. Cân nặng trung bình (kg) của trẻ theo tuổi và giới tính ........................... 55 Bảng 3.5. Cân nặng trung bình (kg) của trẻ theo khu vực nghiên cứu ..................... 56 Bảng 3. 6. So sánh cân nặng trung bình (kg) của trẻ với một số nghiên cứu ........... 57 Bảng 3.7. Chỉ số BMI trung bình (kg/m2) theo tuổi của trẻ trong nghiên cứu ......... 58 Bảng 3.8. So sánh chỉ số BMI (kg/m2) của trẻ với một số nghiên cứu .................... 59 Bảng 3.9. Vòng cánh tay trái duỗi trung bình (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính .... 60 Bảng 3. 10. So sánh vòng cánh tay trái duỗi (cm) của trẻ với một số nghiên cứu ... 61 Bảng 3.11. Vòng đầu (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính ......................................... 62 Bảng 3.12. So sánh vòng đầu (cm) của trẻ với một số nghiên cứu .......................... 63 Bảng 3.13. Vòng ngực bình thường trung bình (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính ....... 64 Bảng 3.14. So sánh kích thước vòng ngực bình thường của trẻ với kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 2003 ................................................................................. 65 Bảng 3.15. Mối tương quan giữa các kích thước nhân trắc ...................................... 66 Bảng 3.16. Các phương trình hồi quy tuyến tính giữa các kích thước nhân trắc ..... 69 Bảng 3.17. Tình trạng dinh dưỡng chiều cao/tuổi của trẻ trong nghiên cứu ............ 70 Bảng 3.18. Tình trạng dinh dưỡng chiều cao/tuổi theo khu vực nghiên cứu ........... 71 Bảng 3.19. Tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi theo giới trong nghiên cứu ...... 72 Bảng 3.20. Tình trạng dinh dưỡng cân nặng/tuổi của trẻ trong nghiên cứu ............. 75 Bảng 3.21. Tình trạng dinh dưỡng cân nặng/tuổi theo địa bàn nghiên cứu .............. 76 Bảng 3.22. Tình trạng suy dinh dưỡng thể nhẹ cân theo giới tính trong nghiên cứu.. 77 Bảng 3.23. Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi của trẻ trong nghiên cứu .................... 79 Bảng 3.24. Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi của trẻ theo tuổi và giới tính.............. 80 Bảng 3.25. Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi theo địa bàn nghiên cứu .................... 81 Bảng 3.26. Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi của trẻ theo tuổi và giới tính.............. 82 Bảng 3.27. Mối tương quan giữa tình trạng dinh dưỡng với vòng cánh tay trái duỗi ... 85 Bảng 3.28. Diện tích dưới đường cong ROC giữa tình trạng suy dinh dưỡng và vòng cánh tay trái duỗi ....................................................................................................... 86 Bảng 3.29. Xác định điểm cắt của vòng cánh tay trái duỗi ...................................... 87
vi
Bảng 3.30. Mối liên quan giữa nghề nghiệp bố mẹ và tình trạng dinh dưỡng ......... 89 Bảng 3. 31. Mối liên quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ và tình trạng dinh dưỡng ................................................................................................................ 90 Bảng 3.32. Mối liên quan giữa số con trong mỗi gia đình với tình trạng dinh dưỡng ................................................................................................................ 92 Bảng 3.33. Mối liên quan giữa nguồn nước sử dụng trong sinh hoạt của gia đình với tình trạng dinh dưỡng ......................................................................................... 93 Bảng 3.34. Mối liên quan giữa khu vệ sinh của gia đình với tình trạng dinh dưỡng ..... 94 Bảng 3. 35. Mối liên quan giữa hoạt động vận động của trẻ với tình trạng dinh dưỡng ................................................................................................................ 95 Bảng 3.36. Mối liên quan giữa sở thích ăn thực phẩm chế biến sẵn với tình trạng dinh dưỡng ................................................................................................................ 96 Bảng 3.37. Hệ số hồi quy của các yếu tố liên quan trong phương trình hồi quy đa biến dự đoán tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ trong nghiên cứu ..... 98 Bảng 3.38. Tỷ lệ sâu răng của trẻ trong nghiên cứu ............................................... 100 Bảng 3.39. Tình trạng sâu răng của trẻ theo tuổi và giới tính trong nghiên cứu .... 101 Bảng 3.40. So sánh tỷ lệ sâu răng của trẻ với một số nghiên cứu .......................... 102 Bảng 3.41. Phân bố sâu răng theo vị trí răng .......................................................... 103 Bảng 3.42. Tỷ lệ sâu răng theo độ sâu tổn thương ................................................. 104 Bảng 3.43. Chỉ số smt của trẻ trong nghiên cứu ..................................................... 104 Bảng 3.44. Chỉ số smt của trẻ theo giới tính trong nghiên cứu .............................. 105 Bảng 3.45. Chỉ số smt của trẻ theo tuổi trong nghiên cứu ...................................... 105 Bảng 3.46. So sánh chỉ số smt với một số nghiên cứu ........................................... 106 Bảng 3.47. Mối liên quan giữa tuổi và tình trạng sâu răng ..................................... 108 Bảng 3.48. Mối liên quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ và tình trạng sâu răng .............................................................................................. 108 Bảng 3.49. Mối liên quan giữa số con trong gia đình và tình trạng sâu răng ......... 109 Bảng 3.50. Mối liên quan giữa thời gian cai sữa mẹ và tình trạng sâu răng .......... 110 Bảng 3.51. Mối liên quan giữa thời gian chải răng và tình trạng sâu răng ............. 111 Bảng 3.52. Mối tương quan giữa tình trạng sâu răng với cân nặng và chiều cao của trẻ trong nghiên cứu ......................................................................................... 114 Bảng 3.53. So sánh tỷ lệ mắc bệnh sâu răng theo tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu ..................................................................................................... 115 Bảng 3.54. Mối tương quan giữa tình trạng sâu răng với tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu ......................................................................................... 115
vii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. 1. Diễn biến suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi qua các năm ở Việt Nam ...... 19
Hình 1. 2. Cấu tạo giải phẫu răng ............................................................................. 24
Hình 1. 3. Sơ đồ Keyes giải thích nguyên nhân gây bệnh sâu răng ......................... 27
Hình 1. 4. Sơ đồ White nguyên nhân gây bệnh sâu răng ......................................... 28
Hình 1. 5. Sơ đồ nguyên nhân gây sâu răng của Fejerskov và Manji....................... 29
Hình 2. 1. Xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang ...................................... 40
Hình 2. 2. Phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình .................... 41
Hình 2. 3. Xã Vân Xuân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ................................. 42
Hình 3.1. Chỉ số BMI theo tuổi và giới tính của trẻ trong nghiên cứu ..................... 59
Hình 3.2. Biểu đồ phân dư chuẩn hóa với chiều cao là biến phụ thuộc ................... 68
Hình 3.3. Biểu đồ Scatter Plot với chiều cao là biến phụ thuộc ............................... 68
Hình 3.4. So sánh tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi .................. 73
Hình 3.5. So sánh tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi .................. 78
Hình 3.6. So sánh tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ dưới 5 tuổi ................. 83
Hình 3.7. So sánh tỷ lệ thừa cân-béo phì của trẻ dưới 5 tuổi .................................... 84
Hình 3.8. Đường cong ROC thể hiện mối liên hệ giữa độ nhạy và độ đặc hiệu vòng
cánh tay trái duỗi của trẻ trong nghiên cứu .............................................................. 86
Hình 3.9. Các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
trong nghiên cứu ....................................................................................................... 88
Hình 3.10. Tỷ lệ sâu răng của trẻ theo nhóm tuổi trong mỗi địa bàn nghiên cứu ..... 101
Hình 3.11. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sâu răng của trẻ
trong nghiên cứu ..................................................................................................... 107
viii
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trẻ em là nguồn lực to lớn cho sự phát triển của mỗi đất nước. Vì vậy, trẻ em
luôn có một vị trí quan trọng trong công tác giáo dục về cả thể chất, trí tuệ, thẩm
mỹ, tình cảm. Để trẻ em phát triển một cách toàn diện, gia đình, nhà trường và xã
hội cần quan tâm đến mọi vấn đề có thể ảnh hưởng đến trẻ ngay từ giai đoạn đầu
đời. Một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ là vấn đề
dinh dưỡng và chăm sóc răng miệng. Sự tác động của dinh dưỡng và vấn đề răng
miệng không tốt cũng là một nguyên nhân chính gây nên nhiều bệnh tật ở trẻ em.
Tình trạng dinh dưỡng ảnh hưởng đến khả năng vận động, lao động và các
bệnh tật khác ở trẻ em. Tình trạng dinh dưỡng không tốt làm giảm khả năng vận
động, suy giảm trí tuệ, giảm năng suất lao động và nhiều bệnh tật kèm theo. Hiện
nay, thế giới đang phải gánh chịu tình trạng dinh dưỡng kép, đó là tình trạng suy
dinh dưỡng (SDD) và thừa cân-béo phì (TC-BP). Đặc biệt, ở các nước đang phát
triển thì gánh nặng kép này càng được thể hiện rõ, bên cạnh tỷ lệ SDD còn cao thì
tỷ lệ TC-BP cũng đang tăng lên [35].
Theo thống kê của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) năm 1990, thế
giới có khoảng 500 triệu trẻ em bị SDD, trong đó có khoảng 150 triệu trẻ em dưới 5
tuổi bị SDD thể nhẹ cân và hơn 20 triệu trẻ em bị SDD nặng [164, 165]. Theo báo
cáo của UNICEF năm 2008, trên thế giới có khoảng 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
được xem là nhẹ cân, trong đó có khoảng 20 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD nặng
cần được chăm sóc khẩn cấp, phần lớn tập trung ở châu Á, châu Phi, và Mỹ Latin
(trong đó có khoảng 2 triệu trẻ em từ Việt Nam) [166]. Đến năm 2018, có gần 200
triệu trẻ em trên thế giới bị thấp còi hoặc gầy còm, trong khi đó từ năm 2000-2016
tình trạng TC-BP tiếp tục tăng, tỷ lệ trẻ em thừa cân (từ 5 đến 19 tuổi) tăng gấp đôi
(từ 1/ 10 trẻ lên 1/ 5 trẻ) [169].
Năm 2000, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố báo cáo “Thừa cân và
béo phì - một đại dịch toàn cầu” và kêu gọi các quốc gia nên có chương trình hành
động cụ thể. Năm 2003, số liệu của WHO cho thấy có khoảng 17,6 triệu trẻ em dưới
5 tuổi bị thừa cân [182], tỷ lệ TC-BP đang tăng lên ở cả nước phát triển và nước
1
đang phát triển. Béo phì được coi là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất
đối với y tế công cộng trong thế kỉ XXI với số lượng béo phì năm 2014 đã cao hơn
gấp đôi năm 1980. Tỷ lệ trẻ em béo phì tăng nhanh ở khu vực thành thị. Ước tính
đến năm 2030, gần một phần ba thế giới có thể bị TC-BP [118].
Tại Việt Nam, theo thống kê của Viện dinh dưỡng Quốc gia năm 1999, tỷ lệ
trẻ dưới 5 tuổi bị SDD thể nhẹ cân là 37,7%, thể thấp còi là 38,75%. Đến năm 2015,
tỷ lệ SDD đã giảm xuống (SDD thể nhẹ cân còn 14,1%, thể thấp còi là 24,6%).
Trong khi tỷ lệ SDD ngày càng giảm, tỷ lệ TC-BP của trẻ em Việt Nam ngày càng
tăng. Từ trước năm 1995, tỷ lệ TC-BP của trẻ em Việt Nam không đáng kể, không
có báo cáo nào thống kê có tình trạng TC-BP. Nhưng từ sau năm 1995, rất nhiều
báo cáo có liên quan đến tình trạng TC-BP ở cả trẻ em và người lớn [10, 29, 37,
49], đến giai đoạn hiện nay tình trạng TC-BP trong các báo cáo ngày càng tăng lên.
Song song với tình trạng dinh dưỡng kép, tình trạng sâu răng của trẻ em cũng
là một vấn đề được rất nhiều nước trên thế giới hiện nay quan tâm. Năm 1986,
WHO đã coi bệnh răng miệng là mối quan tâm thứ ba của loài người sau bệnh ung
thư và bệnh tim mạch [178]. Năm 2007, tại hội nghị sức khỏe răng miệng thế giới
lần thứ 60, các nước thành viên của WHO đã thông qua nghị quyết về xúc tiến và
phòng ngừa bệnh sâu răng vào quy hoạch phòng ngừa và điều trị tổng hợp bệnh
mạn tính [142].
Trong những năm gần đây, tỷ lệ trẻ em Việt Nam mắc các bệnh răng miệng
tăng nhanh. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tình trạng sâu răng tại nhiều địa
phương trong cả nước cho thấy bệnh sâu răng có xu hướng đang gia tăng [1, 4, 66].
Đối với lứa tuổi mầm non, đây là giai đoạn cấu trúc của hàm răng chưa hoàn thiện,
trẻ chưa tự ý thức được vấn đề chăm sóc răng miệng, do đó tỷ lệ sâu răng, mất răng
sữa rất cao. Việc sâu răng và mất răng làm trẻ nhai kém, phát âm không chuẩn, hàm
răng vĩnh viễn có thể bị xô lệch ảnh hưởng đến thẩm mỹ và thể chất trong giai đoạn
sau này [45, 47].
Có nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tình trạng dinh dưỡng và tình trạng
sâu răng có mối liên quan với nhau và đều ảnh hưởng đến sự phát triển hình thái cơ
thể của trẻ em. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá sự tác
động qua lại của hai vấn đề này, đặc biệt tìm hiểu mối quan hệ giữa suy dinh dưỡng
2
và sâu răng trên đối tượng trẻ mầm non là rất cần thiết. Mặt khác, sự phát triển giữa
các vùng sinh thái trong cả nước chưa đồng đều, cần có những nghiên cứu để xác
định tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sâu răng của trẻ tại nhiều khu vực khác nhau
để có cái nhìn toàn diện về sự phát triển hình thái của trẻ em trong cả nước. Xuất phát
từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự phát triển
hình thái cơ thể và các yếu tố liên quan của trẻ 2-5 tuổi ở một số khu vực miền Bắc”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu 1: Đánh giá sự phát triển hình thái cơ thể dựa vào một số chỉ tiêu
nhân trắc, thực trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan của trẻ 2-5 tuổi ở một số
khu vực miền Bắc.
- Mục tiêu 2: Xác định tỷ lệ sâu răng và các yếu tố ảnh hưởng, mối quan hệ
giữa tình trạng sâu răng và tình trạng dinh dưỡng của trẻ 2-5 tuổi trong nghiên cứu.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Kết quả của luận án góp phần làm rõ tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sâu
răng cùng các yếu tố liên quan đến sự phát triển hình thái cơ thể của trẻ mầm non
trong khu vực nghiên cứu. Các tài liệu trong luận án có thể được sử dụng trong
nghiên cứu và giảng dạy thuộc các lĩnh vực liên quan đến nhân chủng học, đặc biệt
là sự phát triển hình thái của trẻ em từ 2-5 tuổi.
- Kết quả của luận án giúp cho gia đình, nhà trường, các cơ sở liên quan đến
trẻ em tại khu vực nghiên cứu có phương hướng và biện pháp giảm thiểu tình trạng
suy dinh dưỡng, thừa cân-béo phì, sâu răng của trẻ.
4. Bố cục luận án
Bố cục của luận án bao gồm các phần:
Mở đầu;
Chƣơng 1: Tổng quan tài liệu;
Chƣơng 2: Đối tượng, địa bàn và phương pháp nghiên cứu;
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu và bàn luận;
Kết luận và kiến nghị;
Tài liệu tham khảo;
Phụ lục.
3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về hình thái cơ thể trẻ em
1.1.1. Sự tăng trưởng và phát triển hình thái cơ thể trẻ em
Trẻ em là một cơ thể đang lớn, sự tăng trưởng cơ thể là một đặc điểm sinh
học cơ bản của trẻ em. Cơ thể trẻ em nói chung và các cơ quan nói riêng không
hoàn toàn giống người trưởng thành. Những đặc điểm về giải phẫu, sinh lý của trẻ
em cũng có đặc điểm riêng. Từ thế kỉ thứ XVIII, nhà triết học nổi tiếng người Pháp
là J.J Rousseau đã khẳng định rằng “Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ”. Mỗi
giai đoạn của trẻ có những đặc điểm về hình thái, giải phẫu và sinh lý khác nhau.
Sự tăng trưởng là một khái niệm bao gồm quá trình lớn lên và phát triển hoàn
thiện cơ thể. Có hai loại tăng trưởng: tăng trưởng về thể chất và tăng trưởng về chức
năng. Hai quá trình này có mối liên quan mật thiết với nhau, nhưng thời điểm
trưởng thành không giống nhau [62]. Tuy nhiên, sự lớn lên và phát triển là sự vận
động đi lên theo chiều hướng hoàn thiện về cả cấu tạo và chức năng của cơ thể trẻ.
Vì cấu tạo và chức năng cơ thể trẻ chưa hoàn thiện ở giai đoạn mẫu giáo nên sự
tăng trưởng của trẻ chịu rất nhiều ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài.
Mô hình tăng trưởng thể chất của trẻ em không phải đứng yên mà thay đổi
theo thời gian. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, ở lứa tuổi mầm non đều có sự
gia tăng về chiều cao, cân nặng, đặc biệt tăng nhanh ở khu vực thành phố. Theo
nghiên cứu của Lê Nam Trà, Trần Đình Long năm 1997, chiều cao, cân nặng của cả
nam và nữ đều tăng cao hơn 1 cm so với hằng số sinh học người Việt Nam (1975)
trong giai đoạn 1-9 tuổi [60]. Ở trẻ 2-5 tuổi mức tăng chiều cao diễn ra đều đặn, mỗi
năm tăng khoảng 4,75-7,08 cm, cân nặng tăng 0,98-1,69 kg [61].
Cân nặng theo tuổi của trẻ em đều tăng rất nhanh trong năm đầu đời, nhưng
từ năm thứ hai trở đi mức độ tăng có chiều hướng chậm hơn và duy trì mức tăng
cho đến 9 - 10 tuổi. Sau đó cân nặng tiếp tục tăng mạnh ở lứa tuổi trước dậy thì và
dậy thì [99]. Nếu tính theo BMI, trong năm đầu chỉ số BMI tăng dần nhưng từ năm
2 tuổi đến 6 tuổi thì chỉ số BMI thường giảm dần theo tuổi ở cả hai giới [61, 99].
Theo Mei Z. và cộng sự nghiên cứu trên 10844 trẻ 0-60 tháng cho thấy tốc độ tăng
4
trưởng thay đổi phổ biến nhất là trẻ dưới 6 tháng tuổi, ít thay đổi hơn là giai đoạn 6-
24 tháng và ít hơn nữa là giai đoạn 24-60 tháng [134].
Giai đoạn 2-5 tuổi, trẻ em có chức năng vận động phát triển nhanh, hoạt
động vui chơi có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ em và quyết
định sự phát triển tâm lý. Giai đoạn này việc giáo dục thể chất và tạo môi trường
thuận lợi cho sự phát triển tâm sinh lý có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự
phát triển toàn diện của trẻ [62].
1.1.2. Một số đặc điểm về hình thái cơ thể trẻ em
Các kích thước và chỉ số hình thái là một trong những tiêu chí quan trọng để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thể lực của trẻ. Theo Bộ Y tế, các giá trị sinh học
về hình thái của trẻ giai đoạn 2-5 tuổi cần được đánh giá bao gồm chiều cao, cân
nặng, BMI, vòng đầu, vòng ngực, vòng cánh tay trái duỗi. Đây là những kích thước
và chỉ số nhân trắc quan trọng phản ánh rõ rệt sự phát triển cơ thể trẻ giai đoạn này.
Chiều cao: là một trong những kích thước nhân trắc quan trọng nhất để đánh
giá thể chất và sức khỏe ở trẻ em. Chiều cao chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như
di truyền, dinh dưỡng, vận động thể lực v.v. trong đó yếu tố dinh dưỡng là rất quan
trọng đối với giai đoạn trẻ 2-5 tuổi. Sự tăng trưởng của chiều cao chia làm 3 giai
đoạn là: giai đoạn tăng trưởng chậm, giai đoạn dậy thì và giai đoạn sau dậy thì [15].
Cân nặng: cũng là một kích thước nhân trắc cơ bản trong đánh giá tình trạng
dinh dưỡng của trẻ. Cân nặng cơ thể thường chia làm 2 phần: phần cố định chiếm
1/3 tổng cân nặng cơ thể bao gồm: xương, da, các tạng và thần kinh; phần thay đổi
chiếm 2/3 tổng số cân nặng bao gồm 3/4 cơ, 1/4 mỡ và nước. Sự tăng giảm cân
nặng phần lớn có liên quan đến vấn đề dinh dưỡng [53].
BMI: là chỉ số khối cơ thể dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của một
người. Chỉ số này được nhà khoa học người Bỉ Adolphe Quetelet đưa ra năm 1982,
tuy nhiên nó có nhược điểm là không tính được lượng chất béo trong cơ thể. Đến
năm 1997, WHO khuyến cáo sử dụng chỉ số BMI/tuổi để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng của trẻ là SDD hay TC-BP [176].
Vòng đầu: Kích thước vòng đầu phản ánh sự tăng trưởng của não bộ. Trẻ sơ
sinh có kích thước não khoảng 350g và khi 1 tuổi đạt 1000g, đến 2 tuổi não đạt
5
khoảng 1200g. Não người trưởng thành khoảng 1250g ở nữ và 1400g ở nam. Như
vậy, sau giai đoạn 1 tuổi não bộ có sự phát triển chậm lại về khối lượng, tuy nhiên
cần phải theo dõi sự phát triển của não bộ thông qua kích thước vòng đầu [53].
Vòng ngực: là một chỉ số hình thái có liên quan mật thiết với chiều cao, cân
nặng của cơ thể. Sự phát triển của lồng ngực cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các
cơ quan bên trong như hô hấp, tuần hoàn v.v [53].
Vòng cánh tay trái duỗi: VCTTD của trẻ tăng nhanh ở giai đoạn đầu đời, từ
sau 2 tuổi thì kích thước VCTTD tăng chậm lại. Kích thước VCTTD chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi dinh dưỡng, vì vậy đây cũng là một chỉ số quan trọng trong
đánh giá nhanh tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em [2].
1.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển cơ thể trẻ em
1.1.3.1. Yếu tố kinh tế - xã hội
Yếu tố kinh tế có mối quan hệ qua lại với tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Nguyên nhân gốc rễ của SDD là tình trạng đói nghèo, lạc hậu về các mặt phát triển
nói chung, bao gồm cả mất bình đẳng về kinh tế [150]. Trong quá trình phát triển
kinh tế hiện nay của các nước phát triển, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia
tăng, tác động đến xã hội ngày càng sâu sắc [94]. Ở các nước có nền kinh tế chậm
phát triển, tỷ lệ trẻ SDD cao hơn hẳn các nước phát triển. Trên thế giới, trẻ SDD tập
trung chủ yếu ở hai châu lục là Châu Phi và Châu .
Thu nhập là một biểu hiện quan trọng phản ánh tình trạng KT-XH. Nghiên
cứu của Ahmed và cộng sự (1991) về ảnh hưởng của tình trạng kinh tế - xã hội đến
sự phát triển của trẻ em học đường ở Bangladesh cho thấy trẻ từ các gia đình có thu
nhập cao có cân nặng và chiều cao theo tuổi cao hơn trẻ từ các gia đình có thu nhập
thấp [82]. Một nghiên cứu khác ở Anh về vấn đề liên quan giữa tình trạng thất
nghiệp của người cha với sự phát triển của trẻ cho thấy những trẻ có bố bị thất
nghiệp có chiều cao thấp hơn những đứa trẻ khác [147]. Cơ cấu nhân khẩu ảnh
hưởng đến sự phân bố và tiêu thụ thực phẩm trong gia đình. Quy mô gia đình cũng
ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ đặc biệt ở các nước đang phát triển.
Một nghiên cứu trên trẻ em học đường ở Mexico (1991) đã đưa ra kết luận rằng có
mối liên hệ giữa yếu tố kinh tế - xã hội với khẩu phần ăn và tình trạng dinh dưỡng
6
của trẻ. Gia đình đông con có chế độ ăn nghèo nàn hơn gia đình ít con, đặt biệt là
thức ăn có nguồn gốc động vật, nghiên cứu cũng cho thấy trẻ sinh ra trong gia đình
đông con thì có chiều cao thấp hơn [109].
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa SDD ở trẻ em
với các yếu tố kinh tế, xã hội. Những hộ có thu nhập cao hơn thì trẻ thường được ăn
uống tốt hơn, do đó tình trạng dinh dưỡng của trẻ tốt hơn. Bên cạnh đó, một bộ
phận hộ gia đình có thu nhập cao nhưng vẫn có trẻ em bị SDD, điều này gợi ý cho
các phân tích về sử dụng thu nhập ở hộ gia đình cũng cần được quan tâm. Các hộ
gia đình nghèo, đặc biệt là hộ nghèo đói lương thực, thực phẩm có tỷ lệ SDD cao.
Yếu tố vùng trong đó có cả yếu tố dân tộc được phân tích cho thấy ở những vùng
khó khăn và hay xảy ra thiên tai trẻ em bị SDD nhiều hơn. Tuy nhiên yếu tố vùng
và yếu tố thu nhập thường đi đôi với nhau. Điều này phản ánh rõ sự phân hoá giữa
các vùng kinh tế của nước ta hiện nay. Trình độ văn hoá của bố, mẹ có liên quan với
tỷ lệ SDD giữa các nhóm trẻ, con của các gia đình mà bố, mẹ biết chữ có tình trạng
dinh dưỡng tốt hơn so với gia đình mà bố mẹ không biết chữ. Tuy nhiên, khi đưa
trình độ văn hoá lên cao dần và phân tích từng bộ số liệu cho thấy sự khác biệt
không lớn về tỷ lệ SDD giữa nhóm gia đình bố mẹ có 7-10 năm đi học và nhóm gia
đình mà bố mẹ có trình độ văn hoá cao hơn. Điều này có thể giải thích nhóm bố mẹ
có trình độ văn hoá cao thường bận rộn hơn với công việc và ít có thời gian chăm
sóc con [33].
1.1.3.2. Khẩu phần ăn
Khẩu phần ăn là yếu tố tác động trực tiếp và quan trọng tới tình trạng dinh
dưỡng của trẻ. Ở độ tuổi học đường, trẻ phát triển chậm hơn giai đoạn trước nhưng
là giai đoạn chuẩn bị quan trọng cho sự phát triển nhanh chóng khi vào tuổi dậy thì
nên nhu cầu năng lượng của trẻ khá cao. Thói quen ăn uống, khẩu phần ăn không
hợp lý sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe và sự phát triển của trẻ.
Đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập quốc tế, điều kiện KT-XH đã có
nhiều cải thiện. Điều đó đã dẫn đến những sự thay đổi trong mô hình của bệnh tật.
Song song với sự tồn tại của bệnh thiếu dinh dưỡng là sự gia tăng các bệnh mãn tính
do thừa dinh dưỡng gây ra như TC-BP, các bệnh tim mạch, đái tháo đường…
7
Những khẩu phần ăn không đủ dinh dưỡng làm chậm khả năng phát triển của
trẻ, dẫn đến tình trạng SDD. Tuy nhiên, sư mất cân bằng về kinh tế cũng làm cho
tình trạng TC-BP đang ở mức cao. Hiện nay ở nước ta, khi nền kinh tế đang có sự
thay đổi theo xu hướng tăng trưởng thì chế độ ăn hàng ngày cũng đang thay đổi rất
nhanh: tỷ lệ chất béo và chất ngọt cao hơn và cũng đa dạng phong phú hơn. Những
người có thói quen ăn nhiều chất ngọt sẽ dễ bị béo phì. Theo nghiên cứu khẩu phần
ăn của Nguyễn Tố Mai năm 1988, tỷ lệ P: L: G là 12:10:78 [42]. Năm 1992, nghiên
cứu khẩu phần ăn của Nguyễn Thị Ngọc Trâm có tỷ lệ P: L: G là 14:11:75 [63],
nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt năm 2002 tỷ lệ P: L: G là 15:23: 62 [50]. Có
thể thấy rằng năng lượng do lipid cung cấp tăng nhanh từ 1992 đến 2002, năng
lượng do Protein cung cấp tăng từ từ. Điểm chú ý là tỷ lệ năng lượng từ Glucid
giảm dần theo thời gian (78-75-62%). Bên cạnh đó tỷ lệ Protein động vật so với
tổng số tăng lên khá nhanh (28,2-43,2-57,3%), nhưng tỷ lệ Lipid thực vật lại giảm
đi (40,3-34,0-26,3%) [50]. Đây chính là hình ảnh cơ cấu bữa ăn của nền kinh tế
trong thời kỳ chuyển tiếp.
1.1.3.3. Yếu tố di truyền
Yếu tố di truyền có vai trò nhất định đối với tình trạng dinh dưỡng của trẻ, đặc
biệt là với béo phì. Nhiều nghiên cứu cho rằng cả hai yếu tố gen và môi trường đều
góp phần làm phát triển béo phì ở trẻ em[34]. Người ta thấy có đến 200 gen có quan
hệ đến tính nhạy cảm với béo phì ở các cá thể khác nhau trong đó có gen Ob với sản
phẩm là leptin được chú ý nhất [35]. Thực nghiệm trên chuột người ta thấy mối tương
tác giữa insulin và leptin giữ vai trò trung tâm trong cơ chế gây béo phì và thèm ăn,
leptin ức chế thèm ăn ở trung ương còn insulin thúc đẩy sự tạo thành mô mỡ [38].
Nghiên cứu của Ritchie L. et al cho thấy nếu chỉ có bố hoặc mẹ TC-BP thì con có
nguy cơ mắc béo phì là 3 lần, nếu cả hai bố mẹ TC-BP thì nguy cơ là 13 lần [149].
1.1.3.4. Yếu tố môi trường
Môi trường ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Ở những
khu vực còn giữ phong tục tập quán lạc hậu, bố mẹ không có tư duy thay đổi trong
cách chăm sóc trẻ làm cho trẻ không được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng rất
dễ dẫn đến tình trạng SDD. Ngoài ra, các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, sởi, lao,
8
giun, sốt rét v.v. gây rối loạn chuyển hóa các chất, làm cho trẻ biếng ăn, sụt cân.
SDD là nguyên nhân thuận lợi cho các bệnh phát triển, ngược lại bệnh tật lại làm
nặng thêm tình trạng SDD [18].
Tại các khu vực thành phố, môi trường sống góp phần làm tăng tình trạng
TC-BP của trẻ. Nguyên nhân là do lối sống tĩnh làm giảm các hoạt động thể lực của
trẻ. Hầu hết các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy nguy cơ tăng cân, thừa cân và béo
phì ít hơn ở những người tham gia đều đặn vào các hoạt động thể lực hiện tại với số
lượng từ trung bình tới nhiều [182]. Các hoạt động thể lực giảm đi đặc biệt ở các
nghề nghiệp có tính chất tĩnh tại, vui chơi giải trí không tích cực như xem vô tuyến
nhiều đã thúc đẩy sự tăng cân không lành mạnh. Theo dõi ở trẻ em Mehico cho thấy
nguy cơ béo phì giảm đi 10 % nếu mỗi ngày có tập luyện từ mức độ trung bình đến
mức độ nặng [101].
1.1.4. Dinh dưỡng và sự phát triển cơ thể trẻ em
1.1.4.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ
Giai đoạn trước 6 tuổi là giai đoạn các cơ quan chức năng của trẻ đang dần
hoàn thiện, hơn nữa các loại thức ăn cũng ngày càng phong phú và cơ cấu bữa ăn
càng giống người lớn trong gia đình. Đây là giai đoạn quan trọng để hình thành tập
quán ăn uống và thói quen dinh dưỡng vì thế cần tôn trọng nguyên tắc cho ăn như
lứa tuổi trước đó. Khi cho trẻ ăn cần phải cho ăn đúng giờ và giữ yên tĩnh khi ăn,
không cho ăn quá nhiều trong một bữa, cho ăn bàn riêng, ăn sớm hơn người lớn và
không cho ăn đồ ngọt trước bữa ăn [44].
Về nhu cầu dinh dưỡng đối với trẻ em, khái niệm đậm độ dinh dưỡng thường
được dùng trong hướng dẫn chế độ ăn hơn là các nhu cầu tuyệt đối về các chất dinh
dưỡng. Đậm độ dinh dưỡng thể hiện tương quan giữa các chất dinh dưỡng (protein
và các vi chất thiết yếu) với năng lượng. Một khẩu phần có đậm độ dinh dưỡng thấp
có nguy cơ bị thừa năng lượng trong điều kiện thiếu các chất dinh dưỡng thiết yếu.
WHO có khuyến nghị về độ đậm các chất dinh dưỡng cho các đối tượng khác nhau
[104, 177]. Dựa vào hướng dẫn của WHO, phần lớn các nước đều xây dựng bảng
nhu cầu cho các đối tượng người dân của nước mình. Ở Việt Nam, Viện Dinh
dưỡng Quốc gia năm 2016 đã xây dựng tháp dinh dưỡng cho trẻ em 3-5 tuổi giai
đoạn 2016-2020 [77] [Phụ lục 4].
9
1.1.4.2. Tình trạng dinh dưỡng và sự phát triển cơ thể trẻ em
Suy dinh dưỡng và TC-BP là trạng thái dinh dưỡng liên quan tới việc hấp thụ
không đủ hoặc thừa hoặc hấp thụ không đúng nhu cầu về thức ăn và phản ứng của
cơ thể với hàng loạt các bệnh lây nhiễm dẫn tới hấp thụ không tốt hoặc không có
khả năng sử dụng các chất dinh dưỡng một cách hợp lý để duy trì sức khỏe. Về mặt
lâm sàng, SDD và TC-BP được đặc trưng bởi sự hấp thụ thiếu hoặc thừa protein,
năng lượng và các vi chất như vitamin và hậu quả là sự xuất hiện của các bệnh lây
nhiễm và rối loạn [36, 179, 180].
Theo WHO, tình trạng dinh dưỡng được phân thành các loại sau: SDD thể
thấp còi , SDD thể nhẹ cân, SDD thể gầy còm, thừa cân-béo phì [185].
Nhân trắc học dinh dưỡng có mục đích đo các biến đổi về kích thước và cấu
trúc cơ thể theo tuổi và tình trạng dinh dưỡng. Phương pháp nhân trắc học có những
ưu điểm là đơn giản, an toàn và có thể điều tra trên một mẫu lớn. Có thể khai thác
đánh giá được các dấu hiệu về tình trạng dinh dưỡng trong quá khứ và xác dịnh
được mức độ SDD. Tuy nhiên phương pháp nhân trắc học cũng có một vài nhược
điểm như: không đánh giá được sự thay đổi về tình trạng dinh dưỡng trong giai
đoạn ngắn hoặc không nhạy để xác định các thiếu hụt dinh dưỡng đặc hiệu.
Một số kích thước thường được dùng trong các cuộc điều tra dinh dưỡng tại
thực địa là: chiều cao, cân nặng, vòng cánh tay, vòng đầu, vòng ngực.v.v.
Hiện nay, tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em được đánh giá chủ yếu dựa vào 3
chỉ số: chiều cao theo tuổi, cân nặng theo tuổi và cân nặng theo chiều cao.
Chiều cao theo tuổi (chiều cao/tuổi) phản ánh sự tăng trưởng về chiều dài
của cơ thể, những thiếu hụt về chiều dài (cao) theo tuổi phản ánh những nguy cơ
dài hạn về sức khỏe và dinh dưỡng của cơ thể trẻ. Chiều dài cơ thể và chiều cao
đứng là hai thuật ngữ đều chỉ chiều cao nhưng chiều dài là thuật ngữ sử dụng đối
với những trẻ em chưa thể đứng vững (khi đo người ta để trẻ nằm) và chiều cao
đứng sử dụng với những trẻ đã đứng vững (thường 3 tuổi trở lên). Để thuận tiện,
người ta sử dụng thuật ngữ chiều cao để chỉ chung cho cả chiều dài và chiều cao
đứng của trẻ.
10
Chiều cao/tuổi thấp hơn so với bình thường: “ Thể thấp còi” là một thuật ngữ
thường dùng khác để đề cập tới tình trạng chiều cao thấp là do bệnh lý, thuật ngữ
này chỉ sự tăng trưởng không bình thường của cơ thể và nguyên nhân của điều này
có thể là do sức khỏe hoặc tình trạng dinh dưỡng không tốt hoặc cả hai lý do này.
Chiều cao/tuổi cao hơn so với bình thường là chỉ số ít có ý nghĩa về phương
diện sức khỏe cộng đồng. Về phương diện lâm sàng, chỉ số này chỉ được quan tâm ở
những khu vực phát triển do có các rối loạn nội tiết (ví dụ: khối u gây tăng sinh
hormone tăng trưởng có thể dẫn tới sự tăng trưởng quá mức bình thường).
Cân nặng/tuổi thấp hơn bình thường: “Nhẹ cân” cũng được sử dụng để đề
cập tới quá trình bệnh lý của cơ thể.
Cân nặng/tuổi cao hơn bình thường: chỉ số này hiếm khi được sử dụng vì các
chỉ số khác như cân nặng/chiều cao thường được sử dụng trong việc đánh giá tình
trạng TC-BP.
Cân nặng/ chiều cao là chỉ số thường được sử dụng khi gặp những khó khăn
trong quá trình xác định tuổi, đặc biệt là ở các khu vực đang phát triển. Tuy vậy,
điều đáng chú ý là chỉ số này không thể thay thế cho chiều cao/tuổi hoặc cân
nặng/tuổi bởi mỗi chỉ số phản ánh một tổ hợp các quá trình sinh học khác nhau.
Cân nặng/chiều cao thấp hơn bình thường là thể gầy còm. Thể gầy còm là
thuật ngữ được sử dụng rộng rãi để mô tả quá trình sụt cân đáng kể xảy ra do hậu
quả của thiếu ăn hoặc bệnh tật. Thuật ngữ “gầy còm” dùng để chỉ những trẻ bị gầy
do nguyên nhân bệnh lý, thuật ngữ này cũng có thể được áp dụng với những quần
thể có tỷ lệ trẻ gầy vượt quá 2-3% tổng số trẻ (ở những quần thể như vậy, có thể hầu
hết những trẻ gầy đều bị gầy còm).
Cân nặng/chiều cao cao hơn bình thường là thừa cân và béo phì. Trên
phương diện quần thể, chỉ số cân nặng/chiều cao cao có thể được dùng để chỉ tình
trạng TC-BP bởi đa số những trẻ có cân nặng/chiều cao cao đều dẫn đến TC-BP.
Tuy vậy, chỉ nên sử dụng thuật ngữ béo phì khi đo đạc các chỉ số về tình trạng béo
phì như bề dày lớp mỡ dưới da.
Ở trẻ, chiều cao theo tuổi (chiều cao/tuổi) bị ảnh hưởng bởi cả chiều cao và
cân nặng điều này sẽ gây nhiều phức tạp khi giải thích về chỉ số này. Tuy nhiên, nếu
11
trong một quần thể có tỷ lệ trẻ bị gầy còm cao thì các chỉ số cân nặng/tuổi và chiều
cao/tuổi đều cho các thông tin tương tự nhau, cả hai chỉ số này đều phản ánh tình
trạng dinh dưỡng và sức khỏe dài hạn của cá thể hoặc quần thể.
Để kiểm soát sự tăng trưởng của trẻ nói chung thì việc chỉ sử dụng chỉ số
chiều cao/tuổi và cân nặng/tuổi là không đủ mà người ta thường sử dụng chỉ số
BMI/tuổi để bổ sung trong việc đánh giá mức độ gầy còm (BMI/tuổi thấp), TC-BP
(BMI/tuổi cao) đối với trẻ em và người trưởng thành [138]. Sử dụng riêng chỉ số
cân nặng/tuổi chỉ có thể đánh giá sự tăng trưởng của trẻ trong giai đoạn trước 10
tuổi, bởi vì sau 10 tuổi thì chỉ số này không phân biệt được chiều cao và cân nặng
khi có nhiều trẻ đang trải qua đỉnh tăng trưởng dậy thì và nhiều trẻ có biểu hiện
thừa cân nhưng thực tế là do chúng chỉ cao lên đơn thuần. BMI/tuổi là chỉ số đơn
giản dựa trên cân nặng theo chiều cao thường được dùng để phân loại tình trạng
TC-BP [186].
Tình trạng dinh dưỡng có thể được đánh giá theo thang phân loại của WHO
năm 2006 dựa vào cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều
cao để xác định tình trạng nhẹ cân, thấp còi, gầy còm, TC-BP của trẻ.
Ngoài ra, số đo vòng cánh tay trái duỗi cũng là một kích thước nhân trắc cho
phép đánh giá nhanh được tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Chu vi vòng cánh tay trái
duỗi thường được khuyến cáo để đánh giá các tác động của dinh dưỡng bởi vì có
thể đo dễ dàng và sử dụng công cụ đo lường rẻ tiền. Chu vi vòng cánh tay cũng
được đề xuất như là một kĩ thuật học thích hợp dùng để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng ở cộng đồng bởi vì nó cho phép tiến hành một cách nhanh chóng, không đòi
hỏi cân, thước đo để đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Một nghiên cứu tiến hành ở
Malawi đối với những trẻ từ 12 đến 48 tháng tuổi, điểm cắt 13,5 cm của vòng cánh
tay trái duỗi là hợp lí để đánh giá SDD: nó có độ nhạy cảm 82% và độ đặc hiệu 70%
[88]. Tuy vậy tác giả Siziya khi nghiên cứu trẻ em Zimbabwe cho rằng điểm cắt của
chu vi vòng cánh tay là 15,5 cm mới là hợp lí và có độ nhạy cảm 66,7% và độ đặc
hiệu 76,2% [157]. Các nghiên cứu này cho thấy tính giá trị của vòng cánh tay trong
đánh giá dinh dưỡng là khá cao nhưng điểm cắt thích hợp để chẩn đoán SDD thay
12
đổi ở các cộng đồng khác nhau. Một điểm cũng còn gây nhiều tranh luận là số đo
vòng cánh tay trái duỗi phản ánh sự thiếu hụt cân nặng theo tuổi hay sự thiếu hụt
cân nặng theo chiều cao tốt hơn. Nghiên cứu ở Guatemala cho thấy ở trẻ SDD thể
nhẹ cân mặc dù trọng lượng so với chiều cao là bình thường nhưng chu vi vòng
cánh tay lại giảm rõ rệt [129], giảm cả khối lượng mỡ và khối lượng cơ cánh tay.
Điều này gợi ý sử dụng số đo vòng cánh tay để xác định tình trạng SDD thể nhẹ cân
theo tuổi của trẻ. Một số nghiên cứu có kết quả phù hợp với nhận xét này: một
nghiên cứu ở Mexico cho thấy vòng cánh tay có độ đặc hiệu và nhạy cảm tốt đối
với tình trạng SDD thể nhẹ cân (cân nặng/tuổi) nhưng có độ đặc hiệu thấp đối với
SDD thể gầy còm (BMI/tuổi) [185].
1.1.5. Hậu quả của tình trạng suy dinh dưỡng và thừa cân-béo phì
1.1.5.1. Hậu quả của tình trạng suy dinh dưỡng
Tăng gánh nặng bệnh tật và tử vong
Suy dinh dưỡng làm tăng gấp đôi nguy cơ bệnh tật và tử vong so với trẻ em
không bị SDD. SDD làm tăng gánh nặng cho xã hội, ước tính mỗi năm trên toàn thế
giới có khoảng 2,1 triệu trẻ dưới 5 tuổi chết vì lý do SDD, đồng thời SDD cũng gây
ra 35% gánh nặng bệnh tật ở trẻ duới 5 tuổi [121, 122].
Ảnh hưởng đến nhận thức, phát triển trí tuệ và khả năng lao động
SDD ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của não bộ trong giai đoạn trẻ
dưới 6 tuổi. Trẻ bị SDD cũng thường chậm chạp, lờ đờ vì vậy giao tiếp xã hội
thường kém, kéo theo học hỏi, tiếp thu kém. Nhiều nghiên cứu cho thấy, những trẻ
SDD thể thấp còi có khả năng chậm đi học, thi lại và tỉ lệ bỏ học cao hơn trẻ bình
thường [82, 123].
Ảnh hưởng đến vóc dáng, chiều cao khi trưởng thành
Chiều cao của trẻ được quy định bởi di truyền nhưng dinh dưỡng chính là
điều kiện cần thiết để trẻ đạt tối đa tiềm năng di truyền của mình. Ở tất cả các nước
đã tiến hành nghiên cứu về chiều cao của trẻ cho thấy, chiều cao của những trẻ bình
thường cao hơn nhiều so với những trẻ bị SDD thể thấp còi khi dưới 5 tuổi. Những
trẻ SDD thể thấp còi đến khi trưởng thành sẽ trở thành người có chiều cao dưới mức
bình thường [7, 92].
13
1.1.5.2. Hậu quả của tình trạng thừa cân-béo phì
Nguy cơ đầu tiên của trẻ em là khả năng béo phì kéo dài đến tuổi trưởng thành
cùng với các hậu quả của nó. TC-BP cũng dễ xảy ra khi béo phì lúc nhỏ và tuổi
thiếu niên hoặc béo phì mức độ nặng [37].
Bệnh đái tháo đường
Có khoảng 177 triệu người trên thế giới bị đái tháo đường, dự kiến vào năm
2030 con số này sẽ tăng gấp đôi. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy có mối liên
quan chặt chẽ giữa béo phì và đái tháo đường typ II. Nếu giảm trọng lượng cơ thể
được 5-10 kg là giảm được cả nguy cơ đái tháo đường typ 2, giảm cholesterol và
tăng huyết áp [140]. Một nghiên cứu gần đây cho thấy có thể giảm tới 64% trường
hợp đái tháo đường týp II ở nam và 74% ở nữ nếu BMI không vượt quá 24. Các
nguy cơ trên tiếp tục tăng lên khi mắc béo phì ở giai đoạn trẻ mầm non và thiếu
niên, hoặc tăng cân liên tục hoặc béo bụng [35].
Bệnh tim mạch
Có tới 30% trẻ em béo phì bị tăng huyết áp, mức độ nguy hiểm càng cao khi
tuổi càng trẻ [35]. Theo Dzoãn Thị Tường Vi và Nguyễn Thị Lâm, người lớn béo
phì ở Việt nam có tỷ lệ tăng huyết áp cao 3,2 lần so với người không bị béo phì,
Lipid và đường máu cũng cao hơn [71], có khoảng 65% người béo phì có
Triglyxerit cao hơn bình thường [48], béo phì thúc đẩy quá trình dẫn đến suy tim
nếu không điều trị kịp thời.
Rối loạn hô hấp, gan nhiễm mỡ
Trẻ mắc béo phì thường bị khó thở đường hô hấp trên, đặc biệt khi ngủ có
khó thở kèm theo ngáy to. Nghiên cứu trẻ 2-18 tuổi ở Mỹ thấy có mối liên quan
tăng lên tỷ lệ trẻ mắc hen phế quản với béo phì [124].
Theo ước tính hiện nay có khoảng 3% trẻ em mắc bệnh gan nhiễm mỡ ở tất
cả các vùng khác nhau trên trái đất, trong đó có 23-53% là trẻ béo phì và 70% trong
số này mắc xơ gan [124]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoa tại bệnh viện Nhi Đồng
I (TP. Hồ Chí Minh) cho thấy trẻ em mắc béo phì có rối loạn lipid máu là 74,3% và
gan nhiễm mỡ 39,1% [19].
14
Hậu quả về mặt tâm lý
Trẻ béo phì phải trải qua nhiều khó khăn về mặt tâm lý hơn trẻ không béo
phì, trẻ nữ có nguy cơ cao hơn trẻ nam và nguy cơ mắc các bệnh về tâm lý tăng lên
theo tuổi. Strauss cho biết, 34% trẻ nữ béo phì 13-14 tuổi có tính tự trọng kém hơn
trẻ nam so với trẻ không bị béo phì (8%) [161], chúng dường như kém nhanh nhẹn
và đôi khi còn xấu hổ hoặc gặp khó khăn khi tham gia các hoạt động thể thao [153].
1.1.6. Lịch sử nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng
1.1.6.1. Lịch sử nghiên cứu tình trạng suy dinh dưỡng
Nghiên cứu trên thế giới
Năm 1984, WHO đã tổ chức một hội nghị về dinh dưỡng ở Fiji để đánh giá
tình hình và kinh nghiệm phòng chống suy dinh dưỡng ở các nước trong khu vực
Tây Thái Bình Dương. Hội nghị kết thúc đã đưa ra một quyết định quan trọng:
“SDD trẻ em có rất nhiều nguyên nhân, cho nên việc phòng chống SDD trẻ em
không thể hoạt động riêng rẽ của từng ngành (ngành nhi, ngành phòng dịch, ngành
nông nghiệp và chế biến thực phẩm), mà phải do những người đứng đầu các nước
đứng ra nhận trách nhiệm phối hợp các ngành và giáo dục vận động nhân dân, các
gia đình tự giác tham gia bằng khả năng và phương tiện hiện có của mình”. Hội
nghị đã đưa ra việc phòng chống SDD bắt đầu từ thời kì nhi khoa chuyển sang thời
kì phòng dịch [theo 22].
Tại Hội nghị thượng đỉnh về dinh dưỡng diễn ra tại Roma năm 1992, các
chuyên gia dinh dưỡng đã đưa ra chương trình hành động, có sự cam kết của các
quốc gia nhằm giảm tình trạng SDD trẻ em xuống còn một nửa vào năm 2000 so
với năm 1990 [172].
Năm 1995, WHO đã đề nghị lấy Quần thể NCHS (National Centre of Health
Satistics) của Hoa Kỳ làm Quần thể tham chiếu. Từ trước những năm 90 của thế kỷ
trước, đề nghị này được ứng dụng rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới trong đó có
cả Việt Nam. Trong đó, WHO lưu ý rằng không nên coi quần thể tham chiếu là
chuẩn mà chỉ là cơ sở để đưa ra các nhận định thuận tiện cho các so sánh trong nước
và quốc tế [174].
15
Năm 2006, WHO đã công bố bộ chuẩn tăng trưởng thứ nhất của trẻ dưới 5
tuổi, gồm các chuẩn về chiều cao theo tuổi (chiều cao/tuổi), cân nặng theo tuổi (cân
nặng/tuổi), cân nặng theo chiều cao (cân nặng/chiều cao) và BMI theo tuổi
(BMI/tuổi) [184]. Năm 2007, WHO tiếp tục công bố bộ chuẩn tăng trưởng thứ 2
cho trẻ dưới 5 tuổi gồm các chuẩn về vòng đầu theo tuổi (vòng đầu/tuổi), vòng cánh
tay trái duỗi theo tuổi (VCTTD/tuổi), bề dày lớp mỡ dưới da tại cơ tam đầu cánh tay
theo tuổi và bề dày lớp mỡ dưới mỏm bả theo tuổi [187, 188].
Theo báo cáo của WHO năm 1995, trên thế giới có khoảng 169,5 triệu trẻ em
nhẹ cân (27,8%), 213,1 triệu trẻ thấp còi (34,9%) và 50,2 triệu gầy còm (8,4%).
Trong đó, các nước đang phát triển chiếm 98,2% trẻ nhẹ cân, 86% trẻ thấp còi và
81% trẻ gầy còm. Tỷ lệ SDD cao nhất nằm ở các nước Châu Á, Châu Phi [174].
Nghiên cứu của Larrea C. và Freire W. tại các nước Nam Mỹ năm 1999 cho thấy tỷ
lệ trẻ em thấp còi ở các tộc người bản xứ có liên quan với điều kiện kinh tế đói
nghèo và cao hơn cách biệt so với trẻ em các tộc người không phải bản xứ như ở
Ecuador (58,2% so với 24,2%), Peru (47% so với 22,5%) và Bolivia (50,5% so với
23,7%) [120]. Alessandra M. và cộng sự khảo sát tại Guatemala năm 2003 cho thấy
trẻ em tộc người bản xứ có tỷ lệ thấp còi (57,6%) và nhẹ cân (27,8%) cao hơn tỷ lệ
chung tương ứng là 44,2% và 22,3% (trong đó tộc người Mam (65,3% và 39,4%) và
tộc người Mayan (62,5% và 31,9%) tương ứng) [80]. Năm 2000, Amy L.Rice, Lisa
Sacco và cộng sự nghiên cứu về tử vong ở trẻ em bị SDD tại các nước đang phát
triển nhận thấy có mối liên quan giữa SDD và bệnh tiêu chảy [85]. Năm 2002,
Nitabhandari và cộng sự nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng trẻ em ở các gia đình
giàu có tại phía Nam New Dheli, Ấn Độ cho thấy tỉ lệ SDD có liên quan mật thiết
tới học vấn và tình trạng kinh tế gia đình [136].
Tình trạng SDD trẻ em trên toàn cầu chủ yếu phân theo các châu lục, vùng
lãnh thổ và theo từng quốc gia; chưa chú trọng đúng mức việc xác định tình trạng
SDD theo từng chủng tộc, tộc người trong các báo cáo thường niên của WHO và
UNICEF [165, 189]. Năm 2012, điều tra của Hatlekk M. cho thấy tỷ lệ trẻ em thấp
còi có sự khác nhau giữa các tộc người ở vùng Nam Á: tộc người Brahmin (45,1%),
Hill Dalits (56,1%), Yadav (70,7%), Newar (72,3%) và Hồi giáo (72,8%) [111].
Năm 2011, theo nghiên cứu của UNICEF tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương
16
cũng cho thấy tỷ lệ SDD cũng có sự chênh lệch giữa các tộc người. Tỷ lệ trẻ 18-23
tháng tuổi tại Campuchia bị SDD thể thấp còi là 50% và nhẹ cân là 45%, ở Lào
tương ứng là 40% và 37% (tỷ lệ SDD chủ yếu là trẻ em các dân tộc thiểu số). Ở
Phillipines, tỷ lệ trẻ nhẹ cân ở thủ đô là 15,7% thấp hơn nhiều so với 36,1% trẻ sống
ở vùng khó khăn Bitol [167].
Nghiên cứu trong nƣớc
Hiện nay, tình trạng SDD trẻ em ở Việt Nam vẫn là vấn đề phổ biến. Tỷ lệ
trẻ SDD cộng đồng đều đã giảm đáng kể tuy nhiên vẫn ở mức cao hoặc rất cao.
Mức độ suy dinh dưỡng cũng có sự phân hóa giữa các vùng sinh thái trong cả nước.
Trẻ từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn phát triển thể lực, trí lực quan trọng và có nguy cơ
cao khi bị thiếu hụt dinh dưỡng. Nhiều nghiên cứu cho thấy ở các nước đang phát
triển trong đó có nước ta, giai đoạn trẻ có nguy cơ SDD cao nhất là từ 6 đến 24
tháng tuổi và tỷ lệ SDD giữ ở mức cao cho đến 60 tháng [33]. Theo các chuyên gia
dinh dưỡng trẻ bị SDD nặng trong những năm đầu của cuộc sống sẽ ảnh hưởng đến
phát triển thể lực, đặc biệt là chiều cao của trẻ ở tuổi vị thành niên, trí lực của những
trẻ này cũng kém hơn những trẻ khác.
Năm 1974, cuốn “Nhân trắc học và sự ứng dụng nghiên cứu trên người Việt
Nam” của Nguyễn Quang Quyền ra đời. Cuốn sách này có ý nghĩa rất quan trọng
cho việc nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam [53]. Năm 1975, Bộ Y tế xuất bản
cuốn “Hằng số Sinh học người Việt Nam” do Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên, đã
tổng hợp kết quả nghiên cứu từ năm 1960-1972 trên đối tượng chủ yếu là trẻ em,
học sinh thành thị ở phía Bắc nước ta, làm cơ sở cho nhiều công trình nghiên cứu
tăng trưởng trẻ em sau này [64].
Năm 2003, Hoàng Khải Lập và Nguyễn Minh Tuấn nghiên cứu trên các trẻ
em dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc như Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ
SDD trẻ em người dân tộc Tày dưới 5 tuổi là 41,9%, cao hơn nhiều so với trẻ em
người dân tộc Kinh sống cùng khu vực. Tỷ lệ SDD chung là 39,1%, tỷ lệ SDD thể
thấp còi là 45,3%, tỷ lệ SDD thể gầy còm là 9,4% [41]. Cũng tác giả này nghiên cứu
tại Hà Giang năm 2004 cho thấy, tỷ lệ SDD trẻ em các dân tộc ở đây là 41,6%, cao
hơn so với tỷ lệ SDD toàn quốc [67].
17
Trong báo cáo của PhanVăn Hải và cộng sự năm 2004 về “Tình trạng SDD
của trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố ảnh hưởng tại tỉnh Kon Tum - 2001” cho
thấy tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 36,9%, thể thấp còi là 46,3%, thể gầy còm là 8,3%.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng con của những người mẹ mù chữ có tỷ lệ SDD cao
nhất [11]. Cũng trong năm 2004, nhóm tác giả Phan Lê Thu Hằng, Lê Thanh Sơn
với nghiên cứu đề tài “Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới tình trạng SDD của
trẻ em dưới 5 tuổi tại 4 xã tỉnh Hà Tây” cho thấy tỉ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân ở các xã
nghiên cứu là 30,3%, tỷ lệ SDD thể thấp còi là 27% và tỉ lệ SDD thể gầy còm còn ở
mức cao 10,4% [14]. Nguyễn Đình Học (2004) với nghiên cứu phát triển thể chất,
mô hình bệnh tật và một số yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dân tộc Dao ở Thái Nguyên
đã đưa ra một số kết luận: Cân nặng và chiều cao của trẻ em dân tộc Dao trong địa
bàn nghiên cứu tăng truởng theo quy luật chung của trẻ em khu vực miền núi phía
Bắc. Sau dậy thì, riêng cân nặng bé gái phát triển ngang bằng, còn lại cân nặng của
bé trai và chiều cao của cả hai giới đều thấp hơn so với cân nặng và chiều cao ở khu
vực thành thị khác [22].
Nguyễn Công Khẩn và cộng sự năm 2007 đã nghiên cứu tình hình SDD trẻ
em từ 1990 đến 2004 cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 45% (năm
1990) đã giảm xuống còn 26,6% (năm 2004). Mức giảm SDD nhanh nhất ở thành
thị, ở cả 3 thể nhẹ cân, thấp còi và gầy còm, đều giảm trên 47%, nông thôn với mức
giảm SDD thể nhẹ cân là 35,1%, thể thấp còi là 40,6% và thể gầy còm là 46,5%. Tỉ
lệ SDD giảm chậm ở vùng núi [33].
Tình trạng SDD trẻ em trong nhiều công trình nghiên cứu cho thấy hầu như
không có sự khác biệt về giới tính [6, 8], tuy nhiên có liên quan đến nhóm tuổi của
trẻ, tình trạng SDD tăng dần theo nhóm tuổi [9, 24]. Có sự chênh lệch rõ rệt về tình
trạng SDD giữa các vùng sinh thái: tỷ lệ SDD ở miền núi cao hơn đồng bằng [30],
nông thôn cao hơn thành thị [31]. Những vùng có tỷ lệ nhẹ cân cao thường có tỷ lệ
thấp còi cao [76].
Ngày 23/12/2008, lễ tổng kết 10 năm chương trình mục tiêu phòng chống
SDD trẻ em ở Việt Nam (1998-2008) đã diễn ra tại Hà Nội. Qua 10 năm thực hiện,
mục tiêu giảm tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân ở trẻ em Việt Nam là dưới
18
20% vào năm 2010, nhưng với sự nỗ lực của ngành y tế, sự phối hợp chặt chẽ của
các địa phương, Bộ, Ngành và sự phát triển về kinh tế - xã hội, Việt Nam đã đạt
được mức 19,9% ngay trong năm 2008. Đến năm 2009 thì tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5
tuổi thể nhẹ cân ở Việt Nam giảm còn 18,9% đã vượt trước 2 năm so với Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Đây là một dấu mốc quan trọng khi lần
đầu tiên Việt Nam đã giảm tình trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ em xuống dưới
ngưỡng cao theo phân loại của WHO [74]. UNICEF khảo sát năm 2011cho thấy sự
thiếu hụt chăm sóc sức khỏe ở người Kinh là 31,6%; Mường 46,5%; Thái 77,6%
[167]. Báo cáo năm 2011của Tổng cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ trẻ nhẹ cân, thấp
còi, gầy còm của nhóm đồng bào Kinh và Hoa (10,0%, 19,6%, 3,8%), thấp hơn hẳn
so với tỷ lệ tương ứng của trẻ em dân tộc thiểu số (22,0%, 40,9%, 5,7%) [108].
Hình 1. 1. Diễn biến suy dinh dƣỡng của trẻ dƣới 5 tuổi qua các năm
ở Việt Nam [76]
Mặc dù tỷ lệ trẻ em SDD đã giảm nhanh trong những năm qua, tuy nhiên
tình trạng SDD hiện nay vẫn còn ở mức khá cao (nhẹ cân: 14,1%; thấp còi: 24,6%
trong năm 2015). Trong đó tỷ lệ SDD của trẻ em dưới 5 tuổi khu vực miền núi và
cao nguyên cao hơn so với khu vực nông thôn, khu vực nông thôn cao hơn khu vực
19
thành thị (tỷ lệ SDD thể thể thấp còi, nhẹ cân và thể gầy còm của các khu vực tương
ứng là 30,1%/19,8%/3,9%; 21,8%/13,8%/6,6% và 12,1%/7,1%/5%). Giữa các dân
tộc thì tỷ lệ SDD trẻ em dân tộc thiểu số cao hơn nhiều so với trẻ em dân tộc Kinh
(tỷ lệ SDD thể thể thấp còi, nhẹ cân và thể gầy còm của các dân tộc tương ứng là
31,1%/21,9%/9,1% và 16,2%/9,7%/5,5%) [76].
1.1.6.2. Lịch sử nghiên cứu tình trạng thừa cân-béo phì
Nghiên cứu trên thế giới
Trẻ em trên toàn thế giới hiện nay có xu hướng trở nên cao hơn, dậy thì sớm
hơn và trong một số trường hợp có cân nặng nặng hơn so với tuổi. Điều này rất
khác nhau giữa các quần thể, tỷ lệ thừa cân trung bình lứa tuổi trường học hiện nay
ở Châu Phi và Châu Á là < 10%, Châu Mỹ Latin và Châu Âu > 20% [124].
Tình trạng thừa cân ở trẻ em (2-18 tuổi) đang tăng lên nhanh chóng, ở Bắc Mỹ
và Châu Âu có mức thừa cân cao nhất, tỷ lệ tăng hàng năm rất cao ví dụ như ở Mỹ và
Brazil tăng 0,5%/năm, ở Canada, Úc, Anh tăng 1%/năm [124]. Ở Mỹ, theo nghiên
cứu từ năm 1971-1974, tỷ lệ béo phì ở trẻ nam 6-11 tuổi là 18,2%, nữ là 13,9% và
đến năm 1988-1991 thì tỷ lệ này đã là 22,3% và 22,7%. Tại Mỹ, thừa cân trẻ em gái
4-5 tuổi tăng từ 5,8% năm 1974, lên 10,8% năm 1994. Năm 1986-1998, nghiên cứu
của Strauss trên 8270 trẻ em 4-12 tuổi cho thấy tỷ lệ thừa cân trẻ em tăng lên rõ rệt (p
< 0,001), năm 1998 tỷ lệ trẻ em Mỹ gốc Phi mắc thừa cân là 21,5%, trẻ Mỹ gốc Tây
Ban Nha mắc thừa cân là 21,8%. Số liệu người lớn thừa cân cũng chỉ ra rằng thừa cân
tăng 50% trong vòng 10 năm [162]. Năm 1990 - 1999, trẻ em Mỹ thừa cân chiếm
20% [144], đến năm 2001 tỷ lệ trẻ em thừa cân tăng lên 25% [106]. Tỷ lệ béo phì ở
Mỹ tăng gần gấp đôi trong những năm 1990, từ khoảng 12% năm 1990 lên 23% năm
1998. Hiện nay, bệnh béo phì ở Mỹ đang được quan tâm hàng đầu.
Xu hướng thừa cân có vẻ đối lập nhau ở các nước phát triển và đang phát
triển, ở các nước phát triển tỷ lệ thừa cân cao phổ biến ở tầng lớp nghèo và ngược
lại ở nước đang phát triển thừa cân có xu hướng gặp ở tầng lớp giàu có hơn. Theo
số liệu WHO năm 2003, có khoảng 17,6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thừa cân, hơn 1
tỷ người lớn bị thừa cân sống ở các nước đang phát triển và ít nhất 300 triệu trong
20
số này là béo phì [182]. Ở Trung quốc, giai đoạn 1989-1997 biến động tỷ lệ thừa
cân chung trẻ 2-6 tuổi tăng từ 4,2% (1989) đến 6,4% (1997), tính riêng ở thành phố
tỷ lệ béo phì tăng từ 1,5% (năm 1989) đến 12,6% (1997) và thừa cân tăng từ 14,6%
đến 28,9% trong cùng thời gian trong khi tỷ lệ thiếu cân giảm từ 12,4 % xuống
10%. Nếu tính trung bình cứ một năm ở Trung quốc khu vực thành phố tỷ lệ thừa
cân tăng 0,2% và nông thôn tăng 0,1% [124, 125]. Ở Brazil từ năm 1974-1997 tỷ lệ
thừa cân béo phì 6-17 tuổi tăng gấp 3 lần (4,1-13,9%) trong khi tỷ lệ trẻ thiếu cân
giảm từ 14,8% xuống 8,6% [124].
Xu hướng tăng lên về béo phì ở trẻ em Châu Á - Thái Bình Dương đã được
thấy rõ trong nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu ở Malaysia cho thấy tỷ lệ béo phì tăng
lên từ 1% năm 1990 đến 6% năm 1997 ở trẻ 13-17 tuổi, Thái lan béo phì 5-12 tuổi
tăng từ 12,2% lên 15,6% chỉ trong vòng 2 năm [35, 182] và Nhật bản tỷ lệ béo phì 9
tuổi trẻ trai tăng từ 2,9% (1970) lên 9,7% (1997) so với trẻ gái là 3,4% và 8% [35,
180] trong khi lứa tuổi 6-14 trung bình BMI tăng 0,32 đối với nam và 0,24 đối với
nữ trong vòng 10 năm. Béo phì tăng 6,1% ở nam và 7,1% ở nữ từ 1976-1980 lên
11,1% (nam) và 10,2% (nữ) vào năm 1996-2000 [132].
Hiện nay tình trạng béo phì đang gia tăng trên toàn cầu, nghiên cứu của
Martorel so sánh tỷ lệ TC-BP ở phụ nữ 38 nước đang phát triển chỉ ra rằng mức TC-
BP rất thấp ở Nam Châu Á. Các nước nghèo như vùng Sahara Châu Phi,tỷ lệ TC-
BP cũng thấp, tỷ lệ cao chủ yếu tập trung ở phụ nữ thành phố và có trình độ văn hóa
cao. Những nước đã phát triển như Mỹ, Đông Âu thì mức béo phì cao hơn và phân
bố đều trong dân cư. Tỷ lệ này còn cao ở vùng Trung Đông và Bắc Phi, tương
đương với tỷ lệ của nước Mỹ [131]. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy béo phì ở
phụ nữ Haiti là 3%, các nước Mỹ Latin 10% và Mehico là 29%, béo phì chủ yếu
gặp ở thành phố và những hộ gia đình có mức kinh tế cao hơn [130].
Từ thập niên 90 của thế kỉ 19 đến nay, tỷ lệ trẻ em TC-BP trên thế giới có xu
hướng gia tăng đáng kể. Đến năm 2010 trên thế giới có 43 triệu trẻ TC-BP, trong đó
35% số trẻ này ở các nước đang phát triển. Số trẻ TC-BP tăng từ 4,2% năm 1990
lên 7,7% năm 2010, dự đoán đến năm 2020 tăng lên 9,1% [139].
21
Nghiên cứu trong nƣớc
Hiện nay, TC-BP đang là một vấn đề quan trọng làm gia tăng các bệnh
không lây nhiễm như đái tháo đường, tăng huyết áp và ung thư. Nguyên nhân của
vấn đề này là do lối sống ít vận động và tiêu thụ một chế độ dinh dưỡng quá nhiều
năng lượng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh TC-BP được gây ra bởi nhiều yếu tố;
sự phát triển của bệnh béo phì bị ảnh hưởng bởi sự tương tác của yếu tố sinh học, di
truyền và môi trường [110].
Thừa cân-béo phì thật sự là một mối đe dọa trong tương lai, gặp cả ở người
lớn và trẻ em, bệnh này phổ biến ở các thành phố, tuy nhiên các vùng nông thôn và
miền núi bệnh TC-BP cũng có xu hướng gia tăng. Thừa cân - béo phì có thể phòng
ngừa được, nhưng điều trị rất khó khăn, tốn kém và hầu như không có kết quả. Theo
WHO ước tính các chi phí trực tiếp cho béo phì chiếm tới 6,8% trong tổng chi phí
cho chăm sóc sức khỏe [181]. Béo phì trẻ em không chỉ ảnh hưởng tới sức khoẻ lâu
dài và tuổi thọ mà còn là yếu tố nguy cơ cho béo phì ở người lớn vì 75% béo phì ở
trẻ em tồn tại đến tuổi trưởng thành (gần 1/3 số người lớn bị béo phì có tiền sử béo
phì từ giai đoạn trẻ em).
Ở Việt Nam, các cuộc điều tra dịch tễ học trước năm 1995 cho thấy tỷ lệ
thừa cân không đáng kể, béo phì hầu như không có [34]. Từ sau năm 1995 đã có
nhiều thông báo về thừa cân - béo phì ở trẻ em.
Năm 1999, Nguyễn Thìn và cộng sự điều tra lứa tuổi mẫu giáo tại thành phố
Nha Trang, kết quả là 4,2% trẻ mắc bệnh TC-BP, tỷ lệ TC-BP ở trẻ nam cao hơn trẻ
nữ [57]. Năm 2000, nghiên cứu điều tra của Hà Huy Khôi và cộng sự ở Hải Phòng
đưa ra tỷ lệ thừa cân là 9%, béo phì là 6% ở trẻ em lứa tuổi tiểu học [37]. Năm
2002, trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền và cộng sự cũng tại Hải Phòng
cho thấy, tỷ lệ trẻ tiểu học BP khoảng 10% [16]. Năm 2013, nghiên cứu của Phạm
Minh Khuê và Vũ Đức Long tại 3 trường tiểu học của thành phố Hải Phòng thu
được kết quả: tỷ lệ TC-BP là 11,3% (tỷ lệ TC-BP ở trẻ nam cao hơn ở nữ). Các yếu
tố trình độ học vấn của bố mẹ, tình trạng mẹ TC-BP, sở thích uống nước ngọt có
liên quan đến tình trạng TC-BP của trẻ trong nghiên cứu [39]. Đến năm 2014 cũng
22
tại Hải Phòng, nghiên cứu của Hoàng Thị Đức Ngân và cộng sự cho thấy tỷ lệ TC-
BP đã có sự tăng lên đáng kể, trong đó tỷ lệ thừa cân là 16,8%, béo phì là 14,7%.
Nghiên cứu cũng cho thấy những trẻ tiêu thụ thực phẩm giàu chất béo và tinh bột ở
những gia đình có yếu tố kinh tế xã hội thấp có thể làm tăng nguy cơ TC-BP [51].
Theo nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt năm 2002 trên 2466 trẻ 4-6 tuổi
tại Hà Nội, tỷ lệ TC-BP ở trẻ em chiếm 4,9%. Trong đó, tỷ lệ TC-BP ở các quận
trung tâm thành phố như quận Hoàn Kiếm và quận Ba Đình có tỷ lệ cao nhất (8,7%
và 7,1%), tiếp đến là quận Hai Bà Trưng (6,5%). Các quận ở xa trung tâm có tỷ lệ
thừa cân béo phì thấp hơn (quận Thanh Xuân 3,6%, quận Tây Hồ 3,1% và quận Cầu
Giấy 3,1%). Nghiên cứu cũng đưa ra kết quả tỷ lệ thừa cân chung ở trẻ 4-6 tuổi là
4,9%, béo phì là 3,1% trong đó, cao nhất là ở trẻ 6 tuổi với 6,1% [49]. Theo đánh
giá của Viện dinh dưỡng Quốc gia năm 2003, tỷ lệ TC-BP ở trẻ 7-12 tuổi ở nội
thành Hà Nội là 7,9% [73].
Năm 2013, nghiên cứu của Nguyễn Phúc Hưng và cộng sự tại một số trường
mầm non trên địa bàn thành phố Hà Nội cho thấy, tỷ lệ TC-BP của trẻ 3-5 tuổi
tương đối cao (13,04%). Các yếu tố dinh dưỡng, vận động, di truyền có ảnh hưởng
rất lớn đến tình trạng béo phì của trẻ trong nghiên cứu này [29]. Trong nghiên cứu
của Trương Tuyết Mai và cộng sự năm 2013 tại Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, tỷ lệ
TC-BP của trẻ 4-9 tuổi là 39,9% (thừa cân: 21,9%; béo phì: 18%); tỷ lệ TC-BP tăng
dần theo lứa tuổi và học sinh nam có tỷ lệ TC-BP cao hơn học sinh nữ [43]. Tại các
khu vực miền núi và nông thôn, tỷ lệ TC-BP thấp hơn so với khu vực thành phố, tuy
nhiên theo các nghiên cứu gần đây, tỷ lệ TC-BP cũng gia tăng đáng kể. Trong
nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn trên học sinh tiểu học năm 2003 tại thành phố
Thái Nguyên, tỷ lệ thừa cân là 4,4% và béo phì là 2,9%, đến năm 2012, tỷ lệ TC-BP
tăng lên 18,1% (thừa cân: 9,8%; béo phì: 8,3%) [67, 69].
Theo tóm tắt điều tra dinh dưỡng năm 2009-2010 của Viện Dinh dưỡng cho
thấy tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị TC-BP ở nước ta là 5,6%, cao gấp 6 lần so với năm
2000 và đang tiếp tục gia tăng [75]. Đến năm 2015, tỷ lệ TC-BP của trẻ dưới 5 tuổi
cả nước là 7%, các thành phố lớn tỷ lệ TC-BP rất cao như: Quảng Ninh: 9,7%, Hà
23
Nội: 7%, Bình Phước: 8%, Đồng Nai: 8,9%, TP Hồ Chí Minh: 15,3% [76]. Điều
này cho thấy, có sự phân hóa rõ rệt về tình trạng TC-BP theo từng khu vực sinh thái
khác nhau, tỷ lệ TC-BP của trẻ có liên quan chặt chẽ với tình hình kinh tế - xã hội
(những khu vực thành phố, thành thị nền kinh tế phát triển có tỷ lệ trẻ TC-BP cao
hơn những khu vực nông thôn, miền núi).
1.2. Sự phát triển của răng và tình trạng sâu răng
1.2.1. Cấu tạo giải phẫu răng
Răng là một bộ phận nằm trong hệ thống nhai, là một đơn vị cấu tạo và chức
năng của bộ răng. Cấu tạo của răng bao gồm men răng, ngà răng và tủy răng. Mỗi
răng đều có phần thân răng và chân răng. Giữa phần thân răng và chân răng là
đường cổ răng, còn gọi là đường nối men-xê măng. Thân răng được bao bọc bởi
men răng, chân răng được xê măng bao phủ [25, 59].
Hình 1. 2. Cấu tạo giải phẫu răng
Lợi răng bao quanh cổ răng tạo thành bờ, gọi là cổ răng sinh lý. Phần thấy
được trong miệng là thân răng.
Men răng: có nguồn gốc ngoại bì, là tổ chức cứng nhất cơ thể. Lớp men phủ
thân răng thường dày mỏng không đều, chỗ dày nhất là núm răng (hơn 1,5 mm), ở
vùng cổ, men răng mỏng dần và tận cùng bằng một cạnh sắc nhọn. Bên ngoài men
răng có phủ một lớp hữu cơ gọi là màng thứ phát. Hình dáng và bề dày của men
được xác định từ trước khi răng mọc ra, trong đời sống, men răng không có sự bồi
24
đắp thêm mà chỉ mòn dần theo tuổi nhưng có sự trao đổi về vật lý và hóa học với
môi trường trong miệng [25]. Lúc răng mới mọc, men răng còn non, có tới 30%
chất hữu cơ và nước. Dần dần men răng già đi, chất vô cơ tăng dần, có thể là do các
tinh thể sắp xếp lại sát nhau hơn. Mặt khác men răng cũng thấm dần các chất vi
lượng, chủ yếu là flour làm cho apatit chuyển thành flourapatit.
Ngà răng: Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, nhưng không giòn
và dễ vỡ như men, chứa tỷ lệ chất vô cơ thấp hơn men (75%), chủ yếu là
3[(PO4)2Ca3).2H2O]. Ở điều kiện bình thường ngà răng không lộ ra ngoài và được
bao phủ hoàn toàn bởi men răng và xương răng. Trong ngà răng có nhiều ống ngà,
chứa đuôi bào tương của nguyên bào ngà. Bề dày ngà răng thay đổi trong đời sống
do hoạt động của nguyên bào ngà, ngà răng ngày càng dày theo hướng về phía hốc
tủy răng, làm hẹp dần ống tủy. Ngà có cảm giác vì có chứa các ống thần kinh
Tomes. Ngà răng tự nhiên có màu vàng nhạt, có độ đàn hồi cao. Ngà răng xốp và có
tính thấm.
Tủy răng: là mô liên kết lỏng lẻo trong buồng và ống tủy, là đơn vị sống
chủ yếu của răng. Trong tủy có mạch máu, thần kinh, bạch huyết. Có một loại tế
bào đặc biệt là các tạo ngà bào xếp thành một hàng ở sát vách tủy. Các tạo ngà bào
liên tục sinh ra các ngà bào làm cho hốc tủy ngày càng hẹp lại. Tủy răng có 4
nhiệm vụ chính: hình thành ngà răng, nuôi dưỡng ngà răng, dẫn truyền cảm giác,
bảo vệ răng [25].
1.2.2. Sinh lý mọc răng
Sự mọc răng góp phần quan trọng trong việc hình thành khuôn mặt, giúp
hoàn thiện sự phát âm và chức năng nhai. Các mầm răng được hình thành từ trong
xương hàm, lần lượt di chuyển và một phần thoát ra khỏi cung hàm, đó là phần răng
nhìn thấy trong khoang miệng.
Mỗi răng có thời gian mọc và vị trí nhất định trên cung hàm, nhờ đó mà
răng hàm trên và răng hàm dưới sắp xếp thứ tự ăn khớp với nhau. Chân răng được
cấu tạo dần dần và hoàn tất sau 3 năm kể từ thời điểm mọc răng. Có hai thời kỳ
mọc răng:
25
Thời kỳ mọc răng sữa: bộ răng sữa bắt đầu mọc khi trẻ được khoảng 6 tháng
tuổi và mọc đầy đủ khi trẻ được 24 tháng tuổi. Bộ răng sữa gồm 20 chiếc: 10 răng ở
hàm trên và 10 răng ở hàm dưới. Răng sữa có chức năng nhai, phát âm, đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển xương hàm. Ngoài ra răng sữa còn có tác dụng giữ
vị trí cho các răng vĩnh viễn mọc sau này. Trẻ từ 6-11 tuổi có sự xuất hiện của cả
răng sữa và răng vĩnh viễn, được gọi là răng hỗn hợp.
Thời kỳ mọc răng vĩnh viễn: Mầm răng vĩnh viễn, một số được hình thành từ
trong thời kỳ bào thai, số còn lại hình thành sau khi sinh đến tháng thứ 9. Riêng
mầm răng khôn xuất hiện lúc 4 tuổi. Răng vĩnh viễn được lắng đọng chất men, ngà
(khoáng hóa) bắt đầu từ lúc sinh ra đến 6-7 tuổi. Răng vĩnh viễn mọc thay thế dần
các răng sữa từ khi trẻ 6 tuổi.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự mọc răng:
+ Chiều cao và cân nặng: Trẻ cao và mập, răng mọc sớm hơn trẻ thấp và gầy
+ Giới tính: Nữ mọc răng sớm hơn nam
+ Kích thước xương hàm: Hàm rộng, răng mọc sớm và thưa, hàm hẹp, răng mọc
chậm và chen chúc
+ Răng sữa: Răng sữa rụng sớm hoặc chậm sẽ làm chậm mọc răng vĩnh viễn
+ Dinh dưỡng: Dinh dưỡng kém thì răng mọc chậm
+ Viêm nhiễm xương hàm: Xương hàm bị viêm nhiễm trong thời kỳ mọc răng sẽ
làm răng mọc sớm.
+ Di truyền: Trẻ thừa hưởng những đặc điểm về hình dáng và cấu trúc răng từ bố
mẹ [47, 95].
1.2.3. Bệnh sâu răng
Định nghĩa
Sâu răng là một bệnh nhiễm khuẩn tổ chức canxi hoá được đặc trưng bởi sự
huỷ khoáng của thành phần vô cơ và sự phá huỷ thành phần hữu cơ của mô cứng.
Tổn thương là quá trình phức tạp bao gồm các phản ứng hoá lý liên quan đến sự di
chuyển các Ion bề mặt giữa răng và môi trường miệng và là quá trình sinh học giữa
các vi khuẩn mảng bám với cơ chế bảo vệ của vật chủ [46].
26
Nguyên nhân, cơ chế gây bệnh
Cơ chế gây bệnh sâu răng được thể hiện bằng hai quá trình hủy khoáng và tái
khoáng. Nếu quá trình hủy khoáng lớn hơn quá trình tái khoáng thì sẽ gây sâu răng.
Tóm tắt cơ chế sâu răng như sau [28]:
Sâu răng = Hủy khoáng > Tái khoáng
Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu răng:
- Mảng bám vi khuẩn; - Chế độ ăn nhiều đường; - Nước bọt thiếu hay nước bọt acid pH<5,5; - Acid dạ dày tràn lên miệng; Các yếu tố bảo vệ:
- Nước bọt - Khả năng kháng acid của men răng - Fluor có ở bề mặt men răng - Trám bít hố rãnh - pH > 5,5
Bệnh sâu răng là bệnh do nhiều yếu tố gây nên. Năm 1960, nguyên nhân của
bệnh sâu răng được giải thích bằng sơ đồ Keyes [13].
Vi khuẩn
Thức ăn
Sâu răng
Men răng
Hình 1. 3. Sơ đồ Keyes giải thích nguyên nhân gây bệnh sâu răng
Với sơ đồ Key người ta chú ý nhiều đến chất đường và vi khuẩn
Streptococcus Mutans, nên việc dự phòng sâu răng cũng quan tâm nhiều đến chế độ
ăn như hạn chế đường và vệ sinh răng miệng.
27
Sau năm 1975 người ta làm sáng tỏ hơn nguyên nhân của bệnh sâu răng và
giải thích bằng sơ đồ White [13].
Dòng chảy pH quanh răng
Nƣớc bọt
Vi khuẩn
Thức ăn
Sâu răng
Men răng
Hình 1. 4. Sơ đồ White nguyên nhân gây bệnh sâu răng
Sơ đồ White cho thấy có nhiều yếu tố tác động đến việc sâu răng như: làm
hạn chế quá trình hủy khoáng, tăng cường quá trình tái khoáng và có tác dụng bảo vệ răng không bị sâu như nước bọt, khả năng acid của men, các ion F-, Ca++, pH
trên 5 và sự trám bít hố rãnh… Với những hiểu biết sâu hơn về cơ chế bệnh sinh của
quá trình sâu răng nên trong hai thập kỷ qua con người đã đạt được những thành tựu
to lớn trong việc dự phòng sâu răng cho cộng đồng.
Năm 1990, nguyên nhân gây bệnh sâu răng được Fejerskov và Manji bổ
sung, cho thấy mối liên quan giữa yếu tố bệnh căn - lớp lắng vi khuẩn và các yếu tố
sinh học quan trọng ảnh hưởng tới sự hình thành thương tổn bề mặt răng. Ngoài ra
còn có các yếu tố thuộc về hành vi và kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến khả năng hình
thành thương tổn ở mức độ cá nhân và cộng đồng [105].
28
Hình 1. 5. Sơ đồ nguyên nhân gây sâu răng của Fejerskov và Manji
1.2.4. Một số yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng
Có rất nhiều yếu tố có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bệnh sâu răng
của cả trẻ em và người lớn, một trong những yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đó là:
tuổi, giới tính, vi khuẩn, di truyền, chế độ dinh dưỡng.v.v. [59].
Tuổi
Sâu răng có thể mắc ở tất cả các lứa tuổi, tuy nhiên 3 giai đoạn thường xuất
hiện bệnh sâu răng nhiều nhất là: 4-8 tuổi, 9-11 tuổi, 55-65 tuổi. Bệnh sâu răng đang
trở thành bệnh của cả cuộc đời, khi về già (khoảng trên 65 tuổi) bệnh sâu chân răng
đang trở nên phổ biến, nguyên nhân là do sự co lợi dẫn đến: lộ chân răng, mòn cổ
răng và giắt thức ăn, ngoài ra việc vệ sinh răng miệng của người già và trẻ em
không còn khéo léo [59].
Giới tính
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sâu răng ở nữ cao hơn ở nam trong suốt thời
kỳ đến trường và cả giai đoạn trưởng thành. Tuy nhiên cũng có nhiều nghiên cứu
cho thấy không có sự khác biệt về tình trạng sâu răng giữa nam và nữ. Sự tăng mắc
29
bệnh sâu răng ở nữ có thể lý giải do nữ mọc răng sớm, ưa đồ ngọt và có sự thay đổi
về hoocmon [59].
Vi khuẩn
Bệnh sâu răng bắt đầu từ sự hình thành các mảng bám răng. Hydratcacbon
trong thức ăn được chuyển thành gluco sau đó được polyme hóa thành dextran bởi
enzym dextranase và glucosyltranferase. Dextran có tính dính bám nên tạo điều kiện
để các vi khuẩn khác và thức ăn bám thêm vào. Sự dính bám còn được gia tăng bởi
protein trên bề mặt vi khuẩn đang sinh sống ở đó và polysaccarit do chúng chuyển
hóa thành như glucan [133]. Các vi khuẩn tham gia chủ yếu vào quá trình này là
Streptococcus mutans, Antinomyces viscosus, Streptococcus sobrinus và một số
chủng Lactobacillus [90, 126].
Streptococcus mutans được phát hiện ở tất cả các mảng bám răng và có số
lượng rất cao ở những vùng răng sâu. Streptococcus mutans có những đặc điểm
đặc biệt:
+ Có khả năng chuyển hoá được nhiều loại hydratcacbon khác nhau.
+ Chuyển hoá đường bằng cách lên men sinh ra rất nhiều axit lactic.
+ Có khả năng dùng đường sucroce tổng hợp chất polyglucans làm khung (matrix)
cho mảng bám vi khuẩn.
+ Chống chịu được pH rất thấp của môi trường.
Nghiên cứu trên người đã tìm thấy trong mảng bám có ít nhất 3 loại
polyglucans được tổng hợp. Vì thế, vai trò gây sâu răng của Streptococcus mutans ở
người bắt đầu bị nghi ngờ [27].
Ở Việt Nam khi nghiên cứu từ mảng bám răng của người Việt Nam người ta
đã phân lập và nhận dạng hai chủng 74 và 94 thuộc chi Streptococus, có khả năng
sinh axit mạnh, có sức sống cao đối với tác dụng của một số chất diệt khuẩn thí
nghiệm [26].
Chế độ dinh dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố chủ quan vì mỗi cá nhân, tùy thuộc sở thích mà lựa
chọn loại thức ăn phù hợp cho mình, có những người thích protein trong khi nhiều
người lại thích các thức ăn giàu carbonhydrate.
30
Các bằng chứng dịch tễ học cũng chỉ ra rằng sự thiếu hụt dinh dưỡng kéo dài
trong thời kỳ phát triển của răng có thể dẫn tới thiểu sản và dẫn đến sâu răng. Do
chế độ ăn ảnh hưởng lên sâu răng do tác động với bề mặt men răng và cung cấp chất
nền cho vi khuẩn gây sâu răng. Đường saccharose được cho là nguyên nhân chính
của bệnh sâu răng. Bằng chứng về mối liên quan của sâu răng và chế độ ăn được rút
ra từ các nghiên cứu dịch tễ học. Thức ăn và đồ uống của mỗi người đều là chất nền
cho quá trình lên men của vi khuẩn trong mảng bám răng, tạo ra các acid hữu cơ
dẫn tới sự hủy khoáng cấu trúc răng và gây ảnh hưởng trực tiếp đến sâu răng. Thành
phần thức ăn và thói quen ăn uống của mỗi cá nhân cũng ảnh hưởng tới sự phát
triển loại sâu răng, thành phần vi khuẩn tìm thấy trong mảng bám răng, do đó gián
tiếp ảnh hưởng tới quá trình sâu răng [159].
1.2.5. Hậu quả của sâu răng đến sự phát triển cơ thể trẻ em
Bệnh sâu răng được WHO xem là một trong ba mối nguy cho sức khỏe con
người sau bệnh tim mạch và ung thư, hậu quả của sâu răng có mối liên quan chặt
chẽ với các vấn đề về sức khỏe răng miệng và kinh tế - xã hội [178].
Về sức khỏe răng miệng
Khi lỗ sâu mới hình thành hầu như không gây khó chịu cho người bệnh nên
ít người phát hiện ra. Khi xuất hiện những tổn thương có thể nhìn thấy bằng mắt
thường thì đa phần các bệnh nhân thường than phiền về việc dắt thức ăn và những
cơn đau nhức khiến họ ăn ngủ không ngon. Từ sâu ngà không điều trị, bệnh sâu
răng sẽ tiến triển đến tủy gây viêm tủy cấp, sau đó tủy sẽ bị hoại tử dần đưa đến
viêm tủy mãn rồi đến tủy chết, thối. Những chất hoại tử của tủy có thể thoát qua lỗ
chóp chân răng gây nên những bệnh lý vùng quanh chóp, viêm tổ chức liên kết,
viêm xương hàm, v.v., hoặc tụ lại ở chân răng tạo nên u hạt, nang chân răng. Ngoài
ra, vi khuẩn có thể gây những biến chứng ở xa như viêm xoang hàm, viêm nội tâm
mạc (Osler), v.v.[59].
Đặc biệt đối với trẻ nhỏ, bệnh sâu răng lại có những tác động tiêu cực
không chỉ trong một thời gian ngắn mà còn kéo dài đến khi trẻ trưởng thành.
Những lỗ sâu răng ban đầu xuất hiện trên bề mặt răng sẽ khiến trẻ có cảm giác ê
buốt mỗi khi ăn. Nếu trẻ không còn ăn nữa thì cảm giác này sẽ hết, vì thế trẻ dễ có
31
suy nghĩ muốn bỏ bữa để tránh cơn đau. Ngoài ra, nếu không được điều trị sớm,
các lỗ sâu sẽ lớn dần và sâu vào tận buồng tủy. Cảm giác đau răng sẽ xuất hiện với
mật độ dày hơn khiến trẻ sẽ chán ăn dẫn đến sụt cân. Tình trạng này kéo dài sẽ
làm trẻ suy nhược, rối loạn cảm xúc, lo âu, giảm sức đề kháng do thiếu chất dinh
dưỡng, có thể dẫn đến SDD [45].
Về mặt kinh tế - xã hội
Người bị bệnh sâu răng thường lo lắng vì hơi thở có mùi khó chịu của mình
gây ra những khó khăn trong giao tiếp, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và công
việc. Người bệnh phải tốn một khoảng chi phi khá lớn cho việc điều trị sâu răng,
nhất là khi đã có biến chứng viêm tủy.
Đối với trẻ em, bệnh sâu răng khiến trẻ trở nên thụ động, ngại tiếp xúc với
bạn bè, học hành cũng giảm sút. Theo thời gian, trẻ sẽ dễ cô lập bản thân với mọi
người không chỉ bạn bè xung quanh mà còn cả gia đình. Điều này rất ảnh hưởng
đến sự định hình tâm lý sau này của trẻ [45].
1.2.6. Lịch sử nghiên cứu tình trạng sâu răng
Nghiên cứu trên thế giới
Theo WHO, từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến năm 1975, tình trạng
sâu răng ở các nước phát triển ngày càng cao (chỉ số SMT từ 7,4 đến 12). Tuy nhiên,
đến các năm từ 1979-1982 thì chỉ số này giảm xuống còn từ 1,7 đến 4. Ngược lại, sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai thì các nước đang phát triển có tỷ lệ sâu răng thấp,
đến những năm 1980 lại tăng cao [171]. Từ 1983 đến 2002, nhiều nghiên cứu cho
thấy sâu răng ở trẻ ít biến động và có xu hướng giảm xuống. Một điều tra của cơ quan
Giám sát Dinh dưỡng và Sức khỏe Hoa Kỳ trong các năm1988-1994 và 1999-2002
cho thấy ở lứa tuổi 6-12 chỉ số SMT là 1,62 và 1,67 [89].
Davies G. và cs (2013) ghi nhận tại Anh, tỷ lệ trẻ em bị sâu răng giảm từ
30,9% năm 2008 còn 27,9% vào năm 2012, tương đương với phần trăm thay đổi là
9,7%. Chỉ số SMT giảm từ 1,11 năm 2008 còn 0,94 năm 2012, giảm 15,3% [97].
Trong khi đó ở các nước đang phát triển, thì tỷ lệ sâu răng lại có khuynh
hướng gia tăng, chỉ số SMT từ 1960 đến 1972 là 0,1 đến 6,5 nhưng từ 1976 đến
1982 tăng lên từ 2,3 đến 10,7. Từ 1983 đến nay, nhiều công trình khoa học công bố
với tỷ lệ sâu răng khác nhau nhưng đều ở mức cao [135].
32
Alamoudi N., Salako N.O., Massoud I. (1996) nghiên cứu sâu răng của 1522
trẻ em 6-9 tuổi tại Jeddah, Ả Rập Xê Út, kết quả cho thấy chỉ số sâu mất trám trung
bình răng sữa và răng vĩnh viễn theo thứ tự là 4,23 và 1,85. Có một tỷ lệ cao sâu
răng không được điều trị và hầu hết các răng bị sâu được nhổ bỏ, từ đó cho thấy tầm
quan trọng của các biện pháp phòng ngừa [78].
Theo nghiên cứu của J.M. Tang và cộng sự trên 5.171 trẻ từ 5 tháng đến 4
tuổi ở Arizona năm 1997, tỷ lệ sâu răng tăng dần theo tuổi: trẻ 3 tuổi tỷ lệ sâu răng
là 35%, trẻ 4 tuổi tỷ lệ sâu răng là 49% [163].
Ở một số nước trong khu vực lân cận của Việt Nam: theo thông báo của
WHO năm 1994 và năm 1997, hầu hết các nước trong khu vực này có trên 90% dân
số bị sâu răng và chỉ số SMT tuổi 12 ở nhiều nước còn ở mức cao, từ 0,7 (Trung
quốc) đến 4,9 (Campuchia) [141]. Ở Malaysia năm 1997, kết quả của điều tra sức
khỏe răng miệng toàn quốc ở học sinh cho thấy ở trẻ 6 tuổi, số răng sâu trung bình
trên một em là 4,1 nhưng có hơn 90% răng sâu không được điều trị, tỷ lệ răng sâu
được trám chiếm khoảng 10% [175]. Theo nghiên cứu của Mahejabeen R. và cộng
sự trên 1500 trẻ từ 3 đến 5 tuổi ở Hubli - Dharwad Ấn Độ (2006) thì tỷ lệ sâu răng ở
trẻ 3 tuổi là 42,6%, trẻ 4 tuổi là 50,7%, trẻ 5 tuổi là 60,9% [127]. Cho đến gần đây,
Datta P., Datta PP. (2013) nghiên cứu tần suất sâu răng ở học sinh bang Sundarban,
Ấn Độ là 71%, tỷ lệ sâu răng cao ở trẻ thuộc những gia đình có thu nhập thấp [96].
Đầu thế kỷ XXI, bệnh sâu răng vẫn còn là một vấn đề sức khỏe răng miệng ở
hầu hết các nước công nghiệp hóa, ảnh hưởng đến 60-90% học sinh và đa số người
lớn. Nó cũng là một bệnh về răng miệng phổ biến nhất ở một số nước châu Á và Mỹ
Latinh, trong khi đó lại ít phổ biến và ít nghiêm trọng trong ở các nước châu Phi
[183]. Ở Nam Phi, nghiên cứu 30876 trẻ 5-12 tuổi ở 9 vùng cho thấy tình trạng sâu
răng có giảm với chỉ số SMT từ 2,2 năm 1989 còn 1,1 vào năm 2002, tuy nhiên trên
80% trẻ em sâu răng chưa được điều trị [87]. Do sự thay đổi điều kiện sống, tỷ lệ
sâu răng tăng ở các nước đang phát triển ở châu Phi từ những năm 1970 đến 2004,
đặc biệt do tăng tiêu thụ các loại đường và nguồn fluor không đầy đủ [93].
Nhiều nghiên cứu dịch tễ học đều ghi nhận thực trạng báo động của sức khỏe
răng miệng toàn cầu, ảnh hưởng đến trẻ em cũng như người lớn, răng sữa cũng như
33
răng vĩnh viễn. Điều này đòi hỏi sự cấp bách của chiến lược y tế công cộng mà đã
rất thành công trong quá khứ, một chiến dịch mới cho fluor dưới mọi hình thức,
chương trình giáo dục sức khỏe răng miệng ở trường học, dùng chỉ nha khoa, chế
độ ăn uống thích hợp và khám răng định kỳ [86].
Nghiên cứu trong nước
Từ những năm 60 của thế kỉ XX có nhiều tác giả công bố kết quả điều tra sâu
răng tại nhiều địa phương, cho thấy tình trạng sâu răng đang rất phổ biến ở nước ta.
Một nghiên cứu năm 1977 thông báo, 77% trẻ em 6 tuổi ở Hà Nội và nông thôn bị
sâu răng sữa, 30% trẻ em 13 tuổi sâu răng vĩnh viễn [28]. Năm 1978, bộ môn Răng
Hàm Mặt trường Đại học Y Hà Nội thông báo tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn của trẻ em 6
tuổi trở lên khoảng 39,0%, sâu răng sữa 1-5 tuổi là 31,3% [27]. Năm 1981, Hoàng
Tử Hùng đưa ra tỷ lệ sâu răng sữa ở một số tỉnh Miền Nam: 70,5%, ở Thuận Hải là
72,1% [25].
Từ năm 1991 đến năm 1998 tiếp tục có nhiều nghiên cứu đưa ra tỷ lệ sâu
răng và chỉ số SMT ở một số địa phương như Yên Bái, Hoà Bình, Nam Định, Hà
Nội, Đà Nẵng .v.v. cho thấy tỷ lệ sâu răng dao động trong khoảng 34,5% - 62,0%,
SMT từ 1,3 - 4,3 [13]. Nhìn chung các nghiên cứu đều cho thấy sâu răng ở Việt
Nam là bệnh phổ biến và tỷ lệ mắc cao. Càng về sau càng có nhiều nghiên cứu ở địa
phương, nhiều lứa tuổi và có quy mô rộng hơn. Qua đó thấy rằng khi chưa có công
tác nha học đường, tình trạng sâu răng ở trẻ em Việt Nam có chiều hướng tăng cao.
Viện Răng - Hàm - Mặt Hà Nội phối hợp với Viện nghiên cứu và thống kê
sức khỏe răng miệng Australia tiến hành điều tra bệnh răng miệng ở Việt Nam trong
3 năm 1999-2001 thu được các kết quả: 6-8 tuổi có 85% sâu răng sữa, 25,4% sâu
răng vĩnh viễn (smt: 5,4; SMT: 0,48), 9-11 tuổi là 56,3% và 54,6% (smt: 1,96;
SMT: 1,19) [66].
Trương Mạnh Dũng và cộng sự (2011) nghiên cứu cắt ngang 7775 trẻ 4-8
tuổi tại 5 tỉnh thành Việt Nam ghi nhận 81,4 % sâu răng sữa (smt là 4,7), 16,3% sâu
răng vĩnh viễn (SMT là 0,3), 90,6% có cặn bám, 81,1% có cao răng, 11,9% chảy
máu lợi [4]. Theo nghiên cứu của Võ Văn Thanh, tỷ lệ sâu răng chung ở học sinh
tiểu học huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định năm 2011 là 78,8%, trong đó sâu răng sữa
93,7% và sâu răng vĩnh viễn chiếm 28,3% [56].
34
1.3. Mối liên quan của dinh dƣỡng và sâu răng đến sự phát triển cơ thể trẻ em
Sâu răng vẫn là bệnh mạn tính thường gặp nhất trong thời thơ ấu, mặc dù
có thể phòng ngừa được. Sức khỏe răng miệng kém gây rất nhiều bất lợi đến khả
năng dinh dưỡng, sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em. Do đó, cần phải xác
định yếu tố nguy cơ và có biện pháp phòng ngừa đối với sâu răng ở trẻ em. Một số
nghiên cứu của Gerdin EW và Hooley M đã tìm hiểu về mối liên hệ hai chiều giữa
sâu răng và một số chỉ số nhân trắc ở trẻ em (bao gồm: chiều cao và cân nặng).
Các nghiên cứu đã lập luận rằng sâu răng có tương quan với việc tăng trọng lượng,
điều này được cho là do tiêu thụ đường [107, 112]. Nghiên cứu của Shen A, et al
năm 2019 cho thấy, sâu răng có tác động tiêu cực đến sự phát triển chiều cao và
cân nặng của trẻ, ngược lại, tình trạng dinh dưỡng cũng ảnh hưởng đến sự phát
triển sâu răng [155].
Tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sâu răng cũng là hai yếu tố có mối liên
quan chặt chẽ với nhau, khi tình trạng dinh dưỡng và thể chất tốt thì sức khỏe răng
miệng sẽ tốt và ngược lại. Tình trạng SDD, TC-BP có thể gây ảnh hưởng đến sức
khỏe và tình trạng răng miệng của trẻ, ngược lại những trẻ mắc sâu răng làm giảm
chức năng của khoang miệng cũng sẽ tác động lại thể chất của trẻ.
Dinh dưỡng là sự đồng hóa của thực phẩm và những ảnh hưởng của nó đối
với quá trình trao đổi chất của cơ thể. Theo Psoter WJ và Ehizele AO: “Dinh dưỡng
là khoa học về thực phẩm và có liên quan đến sức khỏe” và “Suy dinh dưỡng là sự
mất cân bằng tế bào giữa việc cung cấp chất dinh dưỡng, năng lượng với nhu cầu
của cơ thể để đảm bảo sự tăng trưởng, duy trì và các chức năng khác”. Suy dinh
dưỡng là tình trạng khi cơ thể không nhận đủ lượng vitamin, khoáng chất và các
chất dinh dưỡng khác cần thiết để duy trì chức năng các mô và các cơ quan khỏe
mạnh. Suy dinh dưỡng Protein - Năng lượng (PEM) xảy ra khi thiếu hụt protein,
thực phẩm giàu năng lượng hoặc cả hai, liên quan đến nhu cầu của cơ thể [102,
146]. Sự thiếu hụt năng lượng và protein trong chế độ ăn uống có thể ảnh hưởng
đến cấu trúc của răng (Bảng 1.1) [102, 151].
35
Bảng 1.1. Sự ảnh hƣởng của suy dinh dƣỡng đến cấu trúc răng miệng
[102, 151]
Thiếu hụt protein / Chậm thay răng, giảm kích thước răng, rối loạn chức năng
năng lượng tuyến nước bọt
Giảm sự phát triển biểu mô, suy yếu quá trình hình thành Thiếu Vitamin A răng, giảm sự hình thành men răng
Thiếu Vitamin D / Hạ canxi huyết tương, tổn thương răng vĩnh viễn, chậm
Canxi phốt pho mọc răng, khung xương ổ răng bất thường
Hình thành ngà răng không đều, chảy máu lợi, chậm chữa Thiếu Vitamin C lành vết thương, hình thành collagen khiếm khuyết.
Thiếu Vitamin B1 Môi nứt nẻ (Thiamine)
Thiếu Vitamin B2
(Riboflavin), Vitamin Viêm lưỡi, viêm loét lợi
B3 (Niacin)
Bệnh nha chu, thiếu máu, viêm lưỡi, cảm giác nóng rát Thiếu Vitamin B6 trong khoang miệng
Thiếu Vitamin B12 Hôi miệng, viêm lợi, xuất huyết,viêm loét ở miệng
Rối loạn chức năng tuyến nước bọt, lưỡi đau với cảm giác Thiếu sắt nóng rát, khó thở
Suy dinh dưỡng là một bệnh do nhiều yếu tố gây ra, có thể khởi phát sớm
trong thời gian sống trong tử cung hoặc thời thơ ấu, hoặc nó có thể xảy ra trong suốt
cuộc đời của một cá nhân do dinh dưỡng kém. Suy dinh dưỡng có ảnh hưởng nhiều
đến các mô ở miệng và sự phát triển bệnh răng miệng. Nó ảnh hưởng đến sự phát
triển của khoang miệng và sự tiến triển của các bệnh răng miệng thông qua sự thay
đổi cân bằng nội mô, giảm sức đề kháng đối với màng sinh học vi khuẩn và giảm
khả năng sửa chữa mô.
Răng đang trong giai đoạn tiền ăn mòn bị ảnh hưởng bởi tình trạng dinh
dưỡng của cơ thể. Sự thiếu hụt vitamin A, B, C, D và suy dinh dưỡng năng lượng
36
protein (PEM) có liên quan đến các rối loạn trong cấu trúc miệng [154]. Nghiên cứu
của Infante và Gillespie đã quan sát thấy mối tương quan mạnh mẽ giữa mức độ
giảm sản sinh men răng và tình trạng sâu răng ở răng nguyên thủy của trẻ em
Guatemala thiếu dinh dưỡng [114]. Nhiều nghiên cứu đã quan sát thấy mối liên
quan giữa suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ và suy giảm men răng ở răng nguyên thủy bằng
cách sử dụng các thiết kế nghiên cứu khác nhau [146]. Trong ba nghiên cứu cắt
ngang, các tác giả đã cho thấy rằng SDD ở trẻ em không chỉ gây ra sự chậm mọc
răng mà nó còn làm cho những răng rụng sớm dễ bị sâu trong cuộc sống sau này
[83, 117]. Một nghiên cứu theo chiều dọc tương tự khác của Alvarez JO cho thấy
mối liên quan giữa suy dinh dưỡng sớm và sự tăng lên của bệnh sâu răng [84]. Các
nghiên cứu này cho thấy rằng suy dinh dưỡng gây ra sự chậm phát triển của răng,
ảnh hưởng đến sự phân bố tuổi sâu răng và dẫn đến sự tăng lên của bệnh sâu răng.
Ngoài ra, một số nghiên cứu còn cho thấy rằng, tình trạng béo phì cũng có thể làm
tăng tình trạng sâu răng của trẻ [145].
Tóm lại, nhiều nghiên cứu khác nhau ở trong và ngoài nước đều cho thấy
tình trạng SDD, TC-BP và tình trạng sâu răng có mối liên quan đến nhau. Các kết
quả cho thấy SDD, TC-BP tác động lên sự mọc răng, giảm men răng, tỷ lệ nhiễm
sâu răng và các bệnh nha chu. Ngược lại, tình trạng sâu răng cũng ảnh hưởng đến sự
phát triển chiều cao, cân nặng của trẻ, tỷ lệ sâu răng càng lớn thì sự ảnh hưởng càng
nhiều. Vì vậy, chúng tôi đề xuất nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sâu
răng của trẻ mầm non tại các vùng sinh thái khác nhau để có thể đánh giá toàn diện
hơn, từ đó đưa ra các kiến nghị có liên quan đến kết quả nghiên cứu.
37
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA BÀN
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, thời gian nghiên cứu
Khảo sát được tiến hành trên 2090 trẻ mầm non từ 24 đến 72 tháng tuổi trong
nghiên cứu.
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng khảo sát
Tất cả trẻ mầm non tham gia vào nghiên cứu đều đang học tại các trường
mầm non, là những trẻ bình thường, không vắng mặt trong những ngày khảo sát.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những trẻ không khảo sát là những trẻ có bệnh mạn tính, có dị tật, khuyết tật
về hình thể và tinh thần.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến năm 2020
2.2. Thiết kế nghiên cứu
+ Sử dụng phương pháp nghiên cứu cắt ngang để khảo sát về các chỉ số nhân trắc,
tình trạng sâu răng và các yếu tố liên quan của trẻ mầm non thuộc các vùng sinh
thái khác nhau.
+ Các bước nghiên cứu:
Thu thập các tài liệu liên quan đến nghiên cứu
Họp thống nhất, tập huấn cho cán bộ công tác
Xây dựng kế hoạch để triển khai nghiên cứu
Tiền trạm: liên hệ với các trường đã chọn làm nghiên cứu, làm việc với Ban
giám hiệu nhà trường để tìm sự đồng thuận và giúp đỡ. Thống nhất thời gian
điều tra phù hợp với lịch học của nhà trường. Làm việc với Hội phụ huynh
của trường để nhận được sự hợp tác từ bố mẹ của học sinh.
Tập huấn nhóm cộng tác
Mục tiêu, yêu cầu và nội dung nghiên cứu
Thống nhất cách điều tra nhân trắc và tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng
Cách sử dụng các mã số trong điều tra và ghi chép kết quả nghiên cứu
Triển khai công tác điều tra, khảo sát
38
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp tính tuổi
Tuổi của trẻ mầm non trong nghiên cứu được tính theo quy ước của WHO.
Số liệu về ngày sinh và ngày khảo sát được đưa vào phần mềm WHO AnthroPlus
để tính ra số tuổi của trẻ. Trẻ từ 24 tháng đến dưới 36 tháng là 2 tuổi; 36 tháng đến
dưới 48 tháng là 3 tuổi; 48 tháng đến dưới 60 tháng là 4 tuổi; 60 tháng đến dưới 72
tháng là 5 tuổi.
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
Do mục tiêu của nghiên cứu cắt ngang là nên chúng tôi sử dụng phương pháp
chọn mẫu theo mục đích theo cách phân tầng để xem xét có sự khác nhau giữa các
vùng sinh thái hay không.
Qua phân tích điều kiện kinh tế - xã hội, tính khả thi và ý nghĩa của việc triển
khai nghiên cứu này, chúng tôi đã chọn ba tầng, một tầng là nông thôn vùng miền
núi cao, một tầng là thành thị miền núi và một tầng là nông thôn đồng bằng. Cụ thể
là chọn xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang đại diện cho tầng nông thôn
miền núi cao, chọn phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình đại
diện cho tầng thành thị miền núi, còn xã Vân Xuân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh
Phúc đại diện nông thôn đồng bằng.
Các địa bàn nghiên cứu
- Xã Cao Mã Pờ là một xã nông thôn miền núi đặc biệt khó khăn, thuộc khu
vực III, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang bao gồm 4 dân tộc (dân tộc Mông, Hán,
Dao, Tày), tuy nhiên dân tộc Tày chiếm tỷ lệ rất thấp (0,5%).
39
(Nguồn bản đồ: http://hagiang.ban-do.net/2017/12/xa-cao-ma-po-huyen-quan-ba.html)
Hình 2. 1. Xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
Xã Cao Mã Pờ có tổng diện tích đất tự nhiên là 3.940.04 ha, đa số là núi non
hiểm trở, được chia thành nhiều thôn/bản (Chín Sang, Thèn Ván 1, Thèn Ván 2, Vả
Thàng 1, Vả Thàng 2, Chỉn Chu Lìn, Vàng Chả Phìn, Cao Mã Pờ), với tổng số dân
là 2566 người (năm 2015). Mỗi thôn/bản đều có một trường mầm non với điểm
trường chính là điểm trường Cao Mã Pờ. Kinh tế của khu vực còn nghèo, vẫn còn
nhiều hộ gia đình bị đói hàng năm. Chính vì vậy, cơ sở vật chất phục vụ cho giáo
dục mầm non còn thiếu, đặc biệt các trường mầm non của các xã và các điểm
trường trong cùng một xã cách rất xa nhau, giao thông đi lại khó khăn. Tại xã Cao
Mã Pờ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở 7 điểm trường là điểm trường Chín Sang,
Thèn Ván 1, Thèn Ván 2, Vả Thàng 1, Vả Thàng 2, Chỉn Chu Lìn, Vàng Chả Phìn
thuộc các thôn/bản và 1 điểm trường chính Cao Mã Pờ.
- Phường Phương Lâm là một phường thành thị miền núi thuộc thành phố
Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, là một trong những cái nôi của nền văn hóa Đông Sơn rực
rỡ, hấp dẫn bởi nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Mường.
40
(Nguồn bản đồ: http://hoabinh.ban-do.net/2018/01/phuong-phuong-lam-thanh-pho-hoa-binh.html)
Hình 2. 2. Phƣờng Phƣơng Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình
Phường Phương Lâm thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, có diện tích
3,3 km², dân số 10517 người (năm 1999). Trong những năm qua ở thành phố Hòa
Bình đã có nhiều chính sách thúc đẩy và thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn nhờ đó 5 năm qua bộ mặt đô thị của thành phố từng bước được đổi mới,
nền kinh tế chuyển biến tích cực và có xu hướng phát triển bền vững. Tại phường
Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, chúng tôi chọn Trường mầm non tư thục Sao
Mai để tiến hành nghiên cứu.
- Xã Vân Xuân là một xã nông thôn đồng bằng châu thổ sông Hồng thuộc
huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, là nơi sinh sống của đa số dân tộc Kinh.
41
(Nguồn bản đồ: http://vinhphuc.ban-do.net/2018/01/xa-van-xuan-huyen-vinh-tuong.html)
Hình 2. 3. Xã Vân Xuân, huyện Vĩnh Tƣờng, tỉnh Vĩnh Phúc
Xã Vân Xuân có diện tích 3,34 km², dân số 5160 người (năm 2009). Kinh tế
của khu vực này phần lớn vẫn là nông nghiệp, tỷ lệ các gia đình làm nông nghiệp
chiếm 67,2%. Cơ sở vật chất các trường mầm non ở đây hiện nay vẫn còn thiếu các
phòng học và các phòng chức năng. Tại xã Vân Xuân, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu trẻ mầm non tại Trường mầm non Vân Xuân.
2.3.3. Phương pháp tính cỡ mẫu
Với mục tiêu của nghiên cứu nên cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi
phải đủ lớn để phân tích thống kê. Công thức tính cỡ mẫu:
(1)
Trong đó: n là tổng số đối tượng cần điều tra.
Z1-α/2 là hệ số tin cậy = 1,96, với độ tin cậy α = 95%.
p là tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi trung bình tại các tỉnh trong
nghiên cứu năm 2014
d là độ chính xác mong muốn
42
Cỡ mẫu điều tra trong nghiên cứu dựa vào tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng tại mỗi
khu vực nghiên cứu theo điều tra của Bộ Y tế năm 2014. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
thể thấp còi năm 2014 tại tỉnh Hà Giang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc lần lượt là p1 =
0,352, p2 = 0,256, p3 = 0,239 [76];
Với độ chính xác mong muốn d = 0,02
Tổng số trẻ mầm non cần nghiên cứu theo công thức tính cỡ mẫu ở cả 3 địa
bàn ít nhất là 1945 trẻ. Cỡ mẫu thực tế điều tra đạt yêu cầu là 2090 trẻ mầm non. Cỡ
mẫu của trẻ trong mỗi địa bàn nghiên cứu được tính theo công thức (1) dựa trên tình
trạng suy dinh dưỡng của trẻ từng khu vực.
Phân bố số lượng trẻ mầm non trong nghiên cứu của chúng tôi được thể hiện
trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân bố của đối tƣợng khảo sát trong nghiên cứu theo địa bàn
Giới tính Tổng
Nam Nữ Địa bàn nghiên cứu
% 54,1 n 178 % 45,9 n 388 n 210 Xã Cao Mã Pờ
47,8 528 52,2 1012 484 Phường Phương Lâm
51,6 334 48,4 690 356 Xã Vân Xuân
50,2 1040 49,8 2090 1050 Tổng
Bảng 2.1 cho thấy, số lượng trẻ nghiên cứu nhiều nhất tại phường Phương
Lâm (1012 trẻ chiếm 48,5%), xã Vân Xuân (690 trẻ chiếm 33%), ít nhất là xã Cao
Mã Pờ (388 trẻ chiếm 18,5%). Tỷ lệ nam và nữ trong nghiên cứu gần tương đương
nhau (nam: 50,2%, nữ: 49,8%). Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ mầm non tại xã
Cao Mã Pờ bao gồm 3 dân tộc là dân tộc Mông 88 trẻ (22,7%), dân tộc Hán 136 trẻ
(35,1%), dân tộc Dao 164 trẻ (42,2%). Tại phường Phương Lâm, trẻ mầm non trong
khảo sát của chúng tôi bao gồm 2 dân tộc là dân tộc Kinh 530 trẻ (52,4%) và dân
tộc Mường 482 trẻ (47,6%). Riêng xã Vân Xuân, toàn bộ 690 trẻ em trong khảo sát
là dân tộc Kinh.
43
2.3.4. Phương pháp đo một số kích thước và chỉ số nhân trắc
Do đối tượng trong nghiên cứu là trẻ mầm non từ 24-72 tháng tuổi nên trước
khi đo các kích thước nhân trắc cần phải tạo không gian và trạng thái thoải mái cho
trẻ, tránh đo những trường hợp khi trẻ không hợp tác, không đúng tư thế. Có thể
nhờ bố mẹ hoặc giáo viên hỗ trợ cho trẻ tập trung chú ý và hướng dẫn trẻ di chuyển
trong quá trình khảo sát.
- Cân nặng (kg): Sử dụng cân điện tử có độ chính xác đến 0,1 kg. Cân được
đặt ở vị trí ổn định và bằng phẳng. Cân được kiểm tra và hiệu chỉnh trước khi cân.
Trẻ được cân mặc quần áo mỏng, đứng giữa bàn cân, không cử động, mắt nhìn
thẳng, trọng lượng chia đều cả hai chân. Cân nặng được tính bằng kg với 1 số lẻ.
- Chiều cao đứng (cm): Sử dụng thước Martin để đo chiều cao đứng của trẻ
trong nghiên cứu, với độ chính xác đến 0,1 cm. Đặt thước đo theo chiều thẳng đứng,
vuông góc với mặt đất nằm ngang. Trẻ đi chân không, đứng quay lưng vào thước
đo. Gót chân, mông, vai và chẩm theo một đường thẳng áp sát vào thước đo đứng,
mắt nhìn thẳng ra phía trước theo đường thẳng nằm ngang, hai tay bỏ thõng hai bên
mình. Kéo thước vuông áp sát đỉnh đầu vuông góc với thước đo để đọc kết quả.
Chiều cao đứng được tính bằng cm với 1 số lẻ.
- BMI (kg/m2): Chỉ số khối cơ thể của một người tính bằng cân nặng (kg)
chia cho bình phương chiều cao (mét).
Các kích thước về vòng cánh tay trái duỗi, vòng đầu, vòng ngực bình thường
được đo bằng thước dây. Cách đo kích thước các vòng như sau:
- Vòng đầu (cm): Để đo chu vi của đầu, đặt thước dây phía trước qua ụ trán
giữa, phía sau qua ụ chẩm.
- Vòng ngực bình thường (cm): Đo chu vi của vòng ngực qua mũi ức khi trẻ
đứng hít thở bình thường. Đặt thước dây sao cho song song với mặt đất và ở ngay
bên dưới nách. Vòng thước dây ra sau lưng và kéo hai đầu thước dây về phía trước,
quấn quanh vị trí rộng nhất của phần ngực.
- Vòng cánh tay trái duỗi (cm): Trẻ đứng thẳng, cánh tay trái bỏ thõng tự
nhiên, lòng bàn tay hướng vào đùi. Vòng thước dây theo vòng cánh tay, đo ở giữa
cánh tay trái. Vòng đo đi qua điểm giữa cánh tay tính từ mỏm cùng xương vai đến
mỏm trên lồi xương cầu cánh tay. Đọc kết quả và ghi số cm với 1 số lẻ.
44
2.3.5. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Các chỉ số nhân trắc, ngày tháng năm sinh, giới tính và ngày đo được nhập
vào phần mềm WHO AnthroPlus, phần mềm này giúp xử lí các thông tin để đưa ra
chỉ số Z -score về cân nặng/tuổi, chiều cao/tuổi, BMI/tuổi [58]. Các chỉ số trên tiếp
tục được xử lý bằng phần mềm SPSS 11.5 để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ
dựa vào bảng chuẩn dinh dưỡng cho trẻ từ 0-19 tuổi của WHO [138, 185]. Ngoài ra,
phần mềm SPSS11.5 cũng giúp tìm hiểu các yếu tố liên quan đến sự phát triển các
kích thước nhân trắc của trẻ trong nghiên cứu, đồng thời đưa ra được cái yếu tố ảnh
hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu.
Bảng 2.2. Chuẩn suy dinh dƣỡng cho trẻ 0 - 19 tuổi của WHO
Chuẩn suy dinh dƣỡng cho trẻ dƣới 5 tuổi của WHO [185] Z -score Chiều cao/tuổi Cân nặng/tuổi BMI/tuổi
Xem chú thích 1 Béo phì > 3 SD
Bình thường Xem chú thích 2 > 2 SD
Thừa cân Có nguy cơ thừa cân3 Bình thường > 1 SD
Bình thường Bình thường Bình thường 0 (TB)
Bình thường Bình thường < -1 SD
Nhẹ cân Gầy còm < - 2 SD
Bình thường Thấp còi4 Rất thấp còi4 Rất nhẹ cân Rất gầy còm < - 3 SD
Chuẩn suy dinh dƣỡng cho trẻ từ 5 - 19 tuổi của WHO [138]
Xem chú thích 1 Béo phì nặng > 3 SD
Bình thường Xem chú thích 2 > 2 SD
Bình thường Béo phì Thừa cân > 1 SD
Bình thường Bình thường Bình thường 0 (TB)
Bình thường Bình thường < -1 SD
Gầy còm Nhẹ cân < - 2 SD
Chú thích: 1. Trẻ trong phạm vi này trẻ có chiều cao khá lớn, gồm cả những trẻ cao quá mức như
do rối loạn tuyến nội tiết gây ra thì cũng được xếp trẻ vào loại này; 2. Trẻ thuộc ô này có cân nặng
theo tuổi thấp, có thể có vấn đề trong tăng trưởng, nhưng vấn đề này sẽ được đánh giá tốt hơn với
tiêu chuẩn cân nặng theo chiều cao hoặc BMI theo tuổi; 3. Trên 1 SD cho thấy nguy cơ thừa cân
có thể xảy ra; 4. Có thể một đứa trẻ thấp còi (hoặc rất thấp còi) trở thành TC-BP.
Bình thường Thấp còi4 Rất thấp còi4 Rất nhẹ cân Rất gầy còm < - 3 SD
45
2.3.6. Phương pháp điều tra và đánh giá tình trạng sâu răng
- Việc khám lâm sàng tình trạng răng được thực hiện bởi các điều tra viên dưới sự
hướng dẫn của các bác sỹ chuyên khoa Răng Hàm Mặt đã thống nhất và đồng nhất
phương pháp khám. Trên mỗi đối tượng nghiên cứu, điều tra viên khám tuần tự tất
cả các răng sữa ở cả hàm răng trên và hàm răng dưới.
Bảng 2.3. Sơ đồ phần bố vị trí răng sữa
Răng hàm 55 54 53 52 51 61 62 63 64 65 trên
Răng hàm 85 84 83 82 81 71 72 73 74 75 dưới
- Phương tiện khám: khám bằng mắt thường, sử dụng ánh sáng tự nhiên và dùng
đèn hỗ trợ.
- Phương tiện thổi khô: bông gạc, bóng thổi khô
- Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ khám và phiếu ghi kết quả khám:
+ Bộ khay khám: Khay quả đậu, gương, gắp, thám châm.
+ Dụng cụ khác: đèn, khay, chậu, các phương tiện tiệt khuẩn dụng cụ.
+ Phiếu ghi kết quả khám: các thông tin sau khi thu thập được ghi vào phiếu kết quả
khám răng miệng (Phụ lục).
Trước khi tiến hành khám và đánh giá cần phải hướng dẫn trẻ làm sạch răng
(có thể sử dụng bàn chải) và làm khô răng. Sử dụng tay xịt hơi, bóng thổi khô, gạc
làm khô răng để quan sát được những tổn thương sớm trên bề mặt răng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng ở trẻ em:
Nghiên cứu của chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng: dựa theo
hệ thống đánh giá và phát hiện sâu răng quốc tế (ICDAS) [156]. Hệ thống đánh giá
và phát hiện sâu răng quốc tế (ICDAS) là hệ thống mới được WHO đưa ra năm
2003 và được chỉnh sửa lần hai năm 2005.
Ưu điểm: khác với tiêu chuẩn chẩn đoán sâu răng trước đó (WHO – 1997),
hệ thống ICDAS giúp phát hiện, đánh giá và chẩn đoán được các tổn thương sâu
răng ngay từ các giai đoạn sớm, thông qua khám và quan sát bằng mắt thường.
46
Nhược điểm: khó khăn khi áp dụng hệ thống này trong việc phát hiện, chẩn
đoán các tổn thương sâu răng giai đoạn sớm vì đòi hỏi kỹ thuật thổi khô tốt và điều
kiện ánh sáng thật đầy đủ, đồng thời đội ngũ khám cần phải được tập huấn kỹ, đồng
nhất phương pháp khám. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu của chúng tôi, khi áp dụng
trên đối tượng là những trẻ nhỏ trước tuổi đến trường, khó khăn có thể gặp phải
trong vấn đề hợp tác của trẻ.
Những nhược điểm nêu trên có thể dẫn đến các sai số gặp phải trong quá
trình thu thập số liệu. Tuy nhiên, với mong muốn góp phần vào công tác dự phòng
bệnh, việc phát hiện các tổn thương do sâu răng là hết sức có ý nghĩa, nếu áp dụng
kịp thời các biện pháp kiểm soát - dự phòng thì mức độ trầm trọng của bệnh sẽ giảm
đi và việc điều trị trở nên dễ dàng, hiệu quả, không làm gia tăng chi phí. Điều đó
càng có ý nghĩa hơn trên các đối tượng là trẻ nhỏ, vì sự hợp tác trong điều trị của trẻ
rất hạn chế. Chính vì lý do đó, chúng tôi lựa chọn sử dụng hệ thống đánh giá
ICDAS trong nghiên cứu.
Các mức độ tổn thương sâu thân răng được đánh giá theo các mã số từ 0 đến
6, với mã số càng lớn thì tổn thương sâu thân răng càng lan rộng, và được phân loại
ra ba nhóm chính theo bảng dưới đây:
Bảng 2.4. Tiêu chuẩn phát hiện sâu răng theo ICDAS
Mã số Phân loại Mô tả
Không sâu Răng lành mạnh 0
Có sự thay đổi trên men răng sau khi thổi khô 1 Sâu giai đoạn sớm Có sự thay đổi được nhìn rõ trên men răng ướt 2
Mất chất khu trú ở men răng (không lộ ngà) 3
Có ánh đen bên dưới qua bề mặt men liên tục 4 Sâu đã hình thành
lỗ sâu Có lỗ sâu lộ ngà răng 5
Có lỗ sâu lớn lộ ngà răng >1/2 mặt răng 6
+ Răng mất do sâu: khi răng được chỉ định nhổ và đã nhổ do sâu (ghi m).
+ Răng trám: khi trên thân răng có một hay nhiều miếng trám vĩnh viễn và không
sâu thứ phát hay không có bất kỳ chỗ nào trên thân răng bị sâu nguyên phát (ghi t).
+ Một đối tượng được chẩn đoán là sâu răng khi có ít nhất 01 răng bị sâu.
47
+ Để đánh giá mức độ sâu răng sữa của trẻ, chúng tôi sử dụng chỉ số sâu-mất-trám
(smt). Chỉ số này nói lên số trung bình răng sâu, mất, trám của trẻ nhằm xác định và
đánh giá tình trạng sâu răng hiện có trong miệng [5].
Sâu mất trám răng sữa (smt) được đánh giá: smt (1 ngƣời) = s + m + t
Trong đó: s: răng sâu; m: răng mất do sâu răng; t: răng sâu được trám
Cách tính chỉ số smt quần thể:
smt quần thể = (Tổng số s + m + t)/( Tổng số ngƣời đƣợc khám)
2.3.7. Phương pháp thống kê
- Số liệu điều tra trong các phiếu phiếu điều tra được xử lý bằng phần mềm
WHO AnthroPlus, SPSS 11.5 và EPI - INFO 6.04.
- Sử dụng thống kê mô tả: tần số, tỷ lệ % cho các biến số định tính; giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn cho các biến số định lượng.
- Sử dụng test χ2 ở mức ý nghĩa α = 0,05, so sánh sự khác biệt giữa 2 hay
nhiều tỷ lệ như tỷ lệ SDD, tỷ lệ sâu răng.
- Sử dụng kiểm định Student-t test để so sánh biến định lượng phân bố chuẩn
giữa 2 nhóm độc lập. Sử dụng phân tích phương sai một yếu tố (One way ANOVA)
để so sánh biến định lượng của 3 nhóm và sử dụng post-hoc test để so sánh từng
cặp 2 nhóm. Kiểm định này dùng so sánh các số đo nhân trắc (chiều cao, cân nặng,
BMI, số đo vòng cánh tay duỗi, vòng ngực, vòng đầu ) giữa 3 xã/phường.
- Tính OR (Odds ratio) và 95%CI để tìm mối quan hệ nhân quả giữa các yếu
tố nguy cơ của tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sâu răng.
- Hệ số tương quan Pearson (r) đo lường mức độ tương quan tuyến tính giữa hai
biến, có giá trị từ +1 đến -1.
+ Nếu r càng tiến về 1 hoặc -1 thì tương quan tuyến tính càng mạnh
+ Nếu r càng tiến về 0 thì tương quan tuyến tính càng yếu
Khi r > 0 cho biết một sự tương quan dương giữa hai biến, nghĩa là nếu giá
trị của biến này tăng thì sẽ làm tăng giá trị của biến kia và ngược lại. Khi r < 0 cho
biết một sự tương quan âm giữa hai biến, nghĩa là nếu giá trị của biến này tăng thì
sẽ làm giảm giá trị của biến kia và ngược lại. Khi r = 0 thì hai biến không có mối
tương quan tuyến tính.
48
- Phương pháp phân tích hồi qui tuyến tính đa biến:
+ Phương trình hồi quy tuyến tính đa biến có dạng: Y = β0 + β1 X1+ β2X2+…
Trong đó: X1, X2... là các biến độc lập
Y là biến phụ thuộc; β0, β1, β2… là hệ số hồi quy
- Phương pháp phân tích hồi quy logistic đa biến :
+ Phương trình hồi quy logistic đa biến có dạng như sau:
0 +
1X1 +
2X2 +
3X3 + ….
=
0 là hằng số hồi quy;
1,
2…. là các hệ số hồi quy
Y = Loge = Trong đó: pi là xác suất xảy ra sự kiện ;
X1, X2, X3…. là các biến độc lập
Mô hình hàm dự báo : p =
Tiêu chí để chọn mô hình logistic đa biến tối ưu trong dự đoán:
+ Mô hình đơn giản, it biến tiên lượng, có thể ứng dụng trong thực tế
+ Mô tả dữ liệu một cách thỏa đáng, tức là tiên đoán gần nhất với giá trị thực
tế của biến phụ thuộc trong mô hình
+ Có ý nghĩa trong sinh học, lâm sàng
- Đường cong ROC được sử dụng để diễn dịch kết quả các kiểm tra trong
chẩn đoán y học. Mỗi điểm trên đường cong ROC là tọa độ tương ứng với tần suất
dương tính thật (độ nhạy) trên trục tung và tần suất dương tính giả (1-độ đặc hiệu)
trên trục hoành. Đường biểu diễn càng lệch về phía bên trên và bên trái thì sự phân
biệt giữa 2 trạng thái càng rõ.
Độ chính xác của chẩn đoán được đo lường bằng diện tích dưới đường cong
ROC (RUAC). Mức độ chính xác của chẩn đoán dựa vào hệ thống điểm như sau:
0,9-1: Rất tốt; 0,8-0,9: Tốt; 0,7-0,8: Khá tốt
0,6-0,7: Trung bình; 0,5-0,6: Không có ý nghĩa
2.4. Lập phiếu nghiên cứu cho đối tƣợng
- Phiếu khảo sát các kích thước nhân trắc của trẻ mầm non và phỏng vấn phụ huynh (phụ lục 1):
49
+ Thông tin chung của trẻ mầm non: ngày sinh, giới tính, dân tộc, nơi ở, các kích thước nhân trắc khảo sát.
Thông tin chung về bố mẹ: Nghề nghiệp, trình độ học vấn, số con trong gia
đình,….Các câu hỏi liên quan đến những hiểu biết về tình hình dinh dưỡng và tình trạng răng miệng của trẻ.
- Phiếu đánh giá tình trạng răng: Ghi nhận các dữ kiện khi khám răng miệng cho đối
tượng nghiên cứu (phụ lục 2):
2.5. Kỹ thuật khống chế sai số
Sai số có thể xảy ra khi trẻ mầm non từ chối không tham gia, bỏ cuộc, không
cộng tác hoặc cán bộ cộng tác không khách quan khi thu thập số liệu. Do đó khống
chế sai số bằng cách:
- Đối với sai số ngẫu nhiên: chọn đủ cỡ mẫu như đã trình bày trên.
- Đối với sai số hệ thống:
+ Thiết kế bộ câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, dễ trả lời.
Cán bộ khám, phỏng vấn được tập huấn kỹ và thống nhất cách thu thập số
liệu. Không thay đổi cán bộ thu thập các thông tin chính.
+ Số liệu được chuẩn bị tốt trước khi phân tích.
2.6. Hạn chế của nghiên cứu - Đối tượng trong nghiên cứu là trẻ mầm non 2-5 tuổi nên khi đo các kích thước
nhân trắc và khám răng gặp nhiều khó khăn, trong thời gian ngắn trẻ có thể không
hợp tác.
- Các trường hợp sâu răng sớm rất khó xác định do đòi hỏi người khám phải có kỹ
thuật cao.
- Khi phỏng vấn trực tiếp phụ huynh có thể cố ý trả lời không đúng.
2.7. Đạo đức nghiên cứu - Nghiên cứu đã được sự đồng thuận, hợp tác của Ban giám hiệu, bố mẹ học sinh các trường được chọn nghiên cứu. - Mọi thông tin liên quan đến đối tượng nghiên cứu đều được giữ bí mất, chỉ công
bố dưới hình thức số liệu. - Quá trình nghiên cứu không ảnh hưởng gì đến sức khỏe của các đối tượng tham gia vào nghiên cứu.
50
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1. Các chỉ tiêu nhân trắc, thực trạng dinh dƣỡng và các yếu tố liên quan
của trẻ trong nghiên cứu
3.1.1. Các chỉ tiêu nhân trắc của trẻ trong nghiên cứu
3.1.1.1. Chiều cao đứng
Chiều cao đứng là một trong những giá trị sinh học cơ bản nhất phản ánh sự
tăng trưởng và phát triển của cơ thể người qua các lớp tuổi. Các nghiên cứu về lĩnh
vực này cho thấy, chiều cao đứng thay đổi theo lứa tuổi, theo giới tính và chịu ảnh
hưởng của môi trường sống.
Khảo sát chiều cao của trẻ mầm non trong nghiên cứu chúng tôi thấy, chiều
cao trung bình của trẻ mầm non đều tăng dần theo tuổi. Chiều cao đứng trung bình
ở cả hai giới tính của trẻ mầm non trong nghiên cứu có sự tương đương nhau trong
từng nhóm tuổi, sự thay đổi về chiều cao theo tuổi và giới tính được trình bày
trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Chiều cao đứng trung bình (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính
Giới tính Chung Nam Nữ Tuổi p
n SD n SD
224 85,4 5,7 2 84,7 208 6,7 < 0,05 85,1±6,2
274 93,0 5,5 3 93,6 290 6,4 < 0,05 93,3±5,9
324 101,3 5,4 4 306 100,4 5,1 < 0,05 100,9±5,2
228 106,9 6,4 5 236 106,3 6,4 < 0,05 106,6±6,4
Chiều cao đứng trung bình của trẻ theo từng nhóm tuổi trong nghiên cứu có
sự tăng trưởng nhanh ở cả hai giới, mức tăng chiều cao khá lớn qua từng lứa tuổi.
Mức tăng chiều cao của trẻ trong nghiên cứu trung bình 7,2 cm/tuổi. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Lê Nam Trà [61], đó là có sự tăng
trưởng chiều cao tương đối lớn của trẻ giai đoạn 2-5 tuổi. Tốc độ tăng trưởng chiều
cao đứng nhanh nhất là 2-3 tuổi (8,2 cm), thấp nhất là 4-5 tuổi (5,7 cm), sự tăng
trưởng chiều cao đứng của trẻ nam và nữ qua các nhóm tuổi tương đối đồng đều.
51
Chiều cao đứng của trẻ nam các nhóm 2 tuổi, 4 tuổi và 5 tuổi cao hơn trẻ nữ, riêng
nhóm 3 tuổi chiều cao của trẻ nữ cao hơn trẻ nam (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê,
p < 0,05), sự chênh lệch về chiều cao đứng trung bình giữa hai giới trong một nhóm
tuổi là không đáng kể.
So sánh chiều cao đứng của trẻ mầm non trong từng nhóm tuổi theo địa bàn
nghiên cứu chúng tôi thu được kết quả trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2. Chiều cao đứng trung bình (cm) của trẻ theo khu vực nghiên cứu
Nam
Xã Xã Phường Phương
p
Tuổi Cao Mã Pờ Vân Xuân Lâm
n n n
46 2 80±6,0 156 86,6±4,6 22 88,2±5,6 < 0,05
50 3 85,6±3,5 112 95±4,2 112 94,2±4,5 < 0,05
52 4 96,3±6,0 162 101,5±4,3 110 103,3±4,9 < 0,05
62 5 101,4±6,6 54 109±6,5 112 109±4,1 < 0,05
Nữ
40 2 75,8±7,4 140 86,8±4,4 28 87,4±4,4 < 0,05
38 3 86,5±3,2 156 96,1±4,6 96 92,3±7,3 < 0,05
42 4 92,9±4,8 170 101,7±3,9 94 101,4±4,3 < 0,05
58 5 62 100,9±8,5 109,6±3,8 116 107,2±4,3 < 0,05
Bảng 3.3 cho thấy, trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ có chiều cao đứng trung bình
thấp hơn nhiều so với trẻ thuộc hai khu vực còn lại ở tất cả các nhóm tuổi và ở cả hai
giới. Chiều cao đứng trung bình của trẻ mầm non phường Phương Lâm và xã Vân
Xuân là gần tương đương nhau, có sự chênh lệch không lớn về chiều cao của trẻ mầm
non hai khu vực này ở các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Khảo sát sâu về chiều cao trung bình của trẻ mầm non các dân tộc trong
nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng trẻ mầm non dân tộc Kinh có chiều cao trung bình
lớn nhất (98,7 cm), thấp hơn là trẻ mầm non dân tộc Mường, Dao, Hán (96,8 cm;
91,3 cm; 90,9 cm), thấp nhất là trẻ mầm non dân tộc Mông (90,8 cm) (sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
52
Chiều cao đứng trung bình của trẻ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó
các yếu tố kinh tế - xã hội, giáo dục, trình độ dân trí của khu vực có ảnh hưởng
tương đối lớn. Chiều cao đứng trung bình của trẻ theo địa bàn trong nghiên cứu của
chúng tôi có sự chênh lệch rõ rệt, có sự khác nhau lớn giữa khu vực miền núi, nông
thôn và thành phố. Trẻ em ở xã Cao Mã Pờ là khu vực miền núi sát biên giới, tình
trạng giao thông và kinh tế - xã hội còn kém phát triển nên trẻ không được cung cấp
đầy đủ các yếu tố cần thiết để phát triển thể chất, đặc biệt là yếu tố dinh dưỡng so
với hai khu vực còn lại.
Để đánh giá sự tăng trưởng hình thái của trẻ trong nghiên cứu, chúng tôi so
sánh với giá trị sinh học người Việt Nam thập kỉ 90 - thế kỉ XX theo điều tra của Bộ
Y tế năm 2003 [2] và WHO năm 2007 [187].
So sánh chiều cao đứng trung bình của trẻ trong nghiên cứu với kết quả điều
tra toàn quốc của Bộ Y tế năm 2003 và WHO năm 2007, chúng tôi thu được kết quả
trong Bảng 3.3.
Bảng 3.3. So sánh chiều cao đứng trung bình (cm) của trẻ
với một số nghiên cứu
Chiều cao đứng trung bình trẻ nam (cm)
Bộ Y tế WHO Phường Xã Cả 3 Xã Cao Tuổi Phương (2003) (2007) Mã Pờ Vân Xuân khu vực Lâm [2] [187]
2 80,0 86,6 88,2 85,3 91,4 85,4
3 85,6 95,0 94,2 92,6 99,5 93,3
4 96,3 101,5 103,3 100,7 106,7 100,9
5 101,4 109,0 109,0 106,1 - 106,6
Chiều cao đứng trung bình trẻ nữ (cm)
2 75,8 86,8 87,4 84 90,2 84,7
3 86,5 96,1 92,3 91,8 98,7 93,6
4 92,9 101,7 101,4 100,1 105,9 100,4
5 100,9 109,6 107,2 105,4 - 106,3
53
Bảng 3.3 cho thấy, chiều cao đứng trung bình chung của trẻ nam trong
nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm 2 tuổi và 5 tuổi cao hơn so với số liệu của Bộ Y tế
năm 2003 (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05), nhóm 3 tuổi và 4 tuổi sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Nguyên nhân là do chiều cao đứng trung bình
của trẻ nam thuộc xã Cao Mã Pờ thấp hơn so với hai địa bàn còn lại, so với điều tra
của Bộ Y tế năm 2003 thì chiều cao trung bình của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ thấp
hơn trung bình 6,04 cm ở mỗi nhóm tuổi. Trong khi đó, chiều cao đứng trung bình
của trẻ nam thuộc phường Phương Lâm và xã Vân Xuân đều cao hơn so với điều tra
của Bộ Y tế ở tất cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). So
với kết quả điều tra của WHO năm 2007 thì chiều cao đứng trung bình chung của
trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn ở tất cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Tương tự như chiều cao đứng trung bình chung của trẻ nam thì chiều cao
đứng trung bình chung của trẻ nữ trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn so
với điều tra của Bộ Y tế năm 2003 và thấp hơn so với thống kê của WHO năm 2007
ở tất cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Trong đó, chiều
cao đứng trung bình của trẻ nữ xã Cao Mã Pờ vẫn thấp hơn so với kết quả điều tra
của Bộ Y tế năm 2003 (thấp hơn trung bình 7,3 cm ở mỗi nhóm tuổi) (sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Tuy nhiên ở phường Phương Lâm và xã Vân Xuân
là tín hiệu đáng mừng khi chiều cao đứng trung bình của trẻ trong nghiên cứu đã
cao hơn đáng kể so với kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 2003 (sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê, p < 0,05), nhưng chưa đạt đến chiều cao trung bình theo điều tra
của WHO năm 2007.
Tóm lại, sự tăng trưởng chiều cao đứng của trẻ mầm non trong nghiên cứu
của chúng tôi tuân theo tính quy luật tăng trưởng về chiều cao của trẻ em Việt Nam.
Chiều cao đứng trung bình của trẻ thuộc xã Cao Mã Pờ thấp hơn so với điều tra của
Bộ Y tế năm 2003, nguyên nhân là do xã này là xã vùng cao biên giới, bao gồm
nhiều dân tộc thiểu số, giao thông không thuận lợi, điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, chưa có chế độ chăm sóc hợp lý để nâng cao tầm vóc cho trẻ. Trong khi đó trẻ
ở phường Phương Lâm và xã Vân Xuân đã có sự cải thiện, chiều cao đứng trung
54
bình tương đương hoặc cao hơn so với điều tra của Bộ Y tế năm 2003. Hai khu vực
này có sự phát triển về y tế, giáo dục, kinh tế - xã hội, chế độ chăm sóc và sinh hoạt
của trẻ cũng được quan tâm hơn. Mặc dù vậy, trẻ mầm non của cả ba địa bàn trong
nghiên cứu đều chưa đạt được chiều cao trung bình theo thống kê của WHO năm
2007. Vì vậy, cần có các biện pháp nhằm cải thiện hơn nữa về kích thước chiều cao
của trẻ em trong nghiên cứu cũng như toàn bộ trẻ em Việt Nam.
3.1.1.2. Cân nặng
Trong các điều tra cơ bản về hình thái người, cân nặng cơ thể là một trong
những thông số rất quan trọng. Cân nặng liên quan đến nhiều kích thước nhân trắc
khác nên thường được sử dụng để đánh giá sự phát triển cơ thể. Cơ thể trẻ mầm non
đang trong giai đoạn tăng trưởng mạnh nên cân nặng cơ thể thường tăng nhanh.
Sự tăng trưởng cân nặng trung bình của trẻ mầm non trong nghiên cứu của
chúng tôi cũng có sự thay đổi theo tuổi và giới tính. Tốc độ tăng trưởng cân nặng
giữa các nhóm tuổi của trẻ trong tất cả các khu vực đều tương đối cao. Kết quả cân
nặng của trẻ theo tuổi và giới tính được thể hiện trong Bảng 3.4.
Bảng 3.4. Cân nặng trung bình (kg) của trẻ theo tuổi và giới tính
Giới tính Chung Nam Nữ Tuổi p
n SD n SD
2 224 12,1 1,6 208 11,8 < 0,05 11,9 ± 1,8 1,9
3 274 13,9 1,7 290 14,0 > 0,05 13,9 ± 1,9 2,0
4 324 16,2 2,4 306 16,0 > 0,05 16,1 ± 2,5 2,7
5 228 17,9 2,8 236 17,2 < 0,05 17,6 ± 2,9 3,0
Bảng 3.4 cho thấy, cân nặng trung bình của trẻ trong nghiên cứu tăng dần
theo độ tuổi, phù hợp với qui luật tăng trưởng của trẻ em Việt Nam. Cân nặng trung
bình của trẻ nam cao hơn ở nữ ở các nhóm 2 tuổi, 5 tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, p > 0,05), nhóm 3 tuổi, 4 tuổi khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Mức
độ tăng cân nặng trung bình của trẻ là 1,9 kg/tuổi, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
phù hợp với nghiên cứu của Lê Nam Trà [61]. Tốc độ tăng trưởng cân nặng cao
nhất của trẻ là 3-4 tuổi (2,2 kg), thấp nhất là 4-5 tuổi (1,5 kg). Mức độ tăng cân
55
nặng trung bình ở trẻ nam tăng cao hơn trẻ nữ (trẻ nam là 1,93 kg/tuổi và 1,8
kg/tuổi ở trẻ nữ).
So sánh cân nặng trung bình của trẻ mầm non giữa ba địa bàn trong nghiên
cứu, chúng tôi thu được kết quả trong Bảng 3.5.
Bảng 3.5. Cân nặng trung bình (kg) của trẻ theo khu vực nghiên cứu
Nam
Xã Xã p Phường Phương Tuổi Cao Mã Pờ Vân Xuân Lâm
< 0,05 n n n
46 11,2±1,6 156 12,2±1,6 22 13,2±0,7 < 0,05 2
50 12,7±1,1 112 14,4±1,6 112 13,8±1,6 < 0,05 3
52 15±2,2 162 16,8±2,6 110 16±1,9 < 0,05 4
62 16,1±2 54 20±3,6 112 17,9±1,9 < 0,05 5
Nữ
40 10,2±1,7 140 12±1,8 28 12,8±1,4 < 0,05 2
38 12,5±1,2 156 14,7±2,2 96 13,5±1,4 < 0,05 3
42 14±1,3 170 16,6±3,1 94 15,9±1,8 < 0,05 4
58 15,7±1,7 62 20±3,8 116 16,5±2 < 0,05 5
Bảng 3.5 cho thấy, cân nặng trung bình của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ ở
cả hai giới trong tất cả các nhóm tuổi đều thấp hơn so với hai khu vực còn lại (sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Cân nặng trung bình của trẻ mầm non
phường Phương Lâm cao hơn trẻ mầm non xã Vân Xuân ở các nhóm 3 tuổi, 4
tuổi, 5 tuổi trong cả hai giới, riêng nhóm 2 tuổi thì thấp hơn (sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê, p < 0,05).
Khảo sát về cân nặng trung bình của trẻ mầm non của các dân tộc trong
nghiên cứu, chúng tôi thu được kết quả như sau: Cân nặng trung bình lớn nhất là trẻ
mầm non dân tộc Kinh (15,3 kg), thấp hơn là trẻ mầm non dân tộc Mường, Dao,
Hán (15,2 kg; 13,8 kg; 13,7 kg), thấp nhất là trẻ mầm non dân tộc Mông (13,5 kg)
(sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
56
So sánh cân nặng trung bình của trẻ trong nghiên cứu với giá trị sinh học
người Việt Nam thập kỉ 90 – thế kỉ XX theo kết quả điều tra toàn quốc của Bộ Y tế
năm 2003 [2] và WHO năm 2007 [187], kết quả được thể hiện trong Bảng 3.6.
Bảng 3. 6. So sánh cân nặng trung bình (kg) của trẻ với một số nghiên cứu
Nam
Tuổi Xã Cao Mã Pờ Xã Vân Xuân Cả 3 khu vực
Phường Phương Lâm 12,2 13,2 Bộ Y tế (2003) [2] 11,6 WHO (2007) [187] 13,2 12,1 2 11,2
15,3 14,4 13,8 13,3 13,9 3 12,7
16,8 16,0 15,0 17,3 16,2 4 15,0
20,0 17,9 16,3 - 17,9 5 16,1
Nữ
12,0 12,8 11,0 12,6 11,8 2 10,2
14,9 14,7 13,5 12,9 14,0 3 12,5
16,6 15,9 14,7 17,1 16,0 4 14,0
- 20,0 16,5 15,8 17,2 5 15,7
Cân nặng trung bình chung của trẻ mầm non ở cả hai giới trong nghiên cứu
của chúng tôi cao hơn so với kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 2003 (sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê, p < 0,05), nhưng vẫn thấp hơn so với điều tra của WHO năm 2007
ở tất cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Cân nặng trung
bình của trẻ nam thấp hơn điều tra của WHO trung bình 1,2 kg/tuổi , ở trẻ nữ là
0,93 kg/tuổi. Trẻ mầm non nhóm 2 tuổi xã Vân Xuân có cân nặng ngang bằng (ở trẻ
nam) và lớn hơn (ở trẻ nữ) so với điều tra của WHO năm 2007, nhưng nhóm 3-4
tuổi cân nặng vẫn thấp hơn.
Bảng 3.6 cho thấy, cân nặng trung bình của trẻ mầm non ở xã Cao Mã Pờ
vẫn thấp hơn so với điều tra của Bộ Y tế năm 2003 ở cả hai giới (sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê, p < 0,05). Cân nặng trung bình của trẻ mầm non thuộc phường
Phương Lâm và xã Vân Xuân đã có sự cải thiện đáng kể, lớn hơn tương đối nhiều
so với giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỉ 90 – thế kỉ XX, đặc biệt
là phường Phương Lâm.
57
Tóm lại, cân nặng trung bình của trẻ mầm non trong nghiên cứu của chúng
tôi có sự chênh lệch giữa các khu vực trong nghiên cứu, cân nặng trung bình chung
của tất cả trẻ trong nghiên cứu theo tuổi và giới tính cao hơn so với giá trị sinh học
người Việt Nam thập kỉ 90 – thế kỉ XX theo điều tra của Bộ Y tế năm 2003 nhưng
thấp hơn so với điều tra của WHO năm 2007. Chiều cao, cân nặng trung bình của
trẻ mầm non trong nghiên cứu của chúng tôi đã phản ánh một phần về thực trạng
kinh tế - xã hội, giáo dục và y thế của mỗi vùng sinh thái.
3.1.1.3. Chỉ số BMI
Chỉ số khối cơ thể - Body Mass Index (BMI) do nhà bác học người Bỉ
Adolphe Quetelet đưa ra năm 1832 [103]. Chỉ số BMI thể hiện mối quan hệ giữa
cân nặng và chiều cao của cơ thể, được tính theo công thức:
Trong đó: W là cân nặng (kg); H là chiều cao (m)
Chỉ số BMI có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ khối mỡ trong cơ thể, do đó, chỉ
số BMI là một chỉ số được WHO khuyến nghị để đánh giá mức độ gầy béo. Ở trẻ
em, chỉ số BMI có sự thay đổi theo tuổi và giới tính, chỉ số BMI ở trẻ nam thường
cao hơn trẻ nữ. Chỉ số BMI có thể được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng, tuy
nhiên không có một chỉ số BMI cố định để chẩn đoán tình trạng dinh dưỡng mà
thay vào đó là việc sử dụng BMI/tuổi để đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em
[23]. Chỉ số BMI trung bình của trẻ mầm non trong nghiên cứu của chúng tôi được
thể hiện trong Bảng 3.7.
Bảng 3.7. Chỉ số BMI trung bình (kg/m2) theo tuổi của trẻ trong nghiên cứu
Tuổi n
2 432 16,5±1,69
3 564 16,1±2,69
4 630 15,8±1,86
5 464 15,4±2,04
Bảng 3.7 cho thấy, chỉ số BMI chung của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi giảm dần từ 2 tuổi đến 5 tuổi. Chỉ số BMI của trẻ 2-5 tuổi lần lượt là 16,5 (kg/m2), 16,1 (kg/m2), 15,83 (kg/m2), 15,4 (kg/m2).
58
So sánh chỉ số BMI theo tuổi và giới tính của trẻ trong nghiên cứu chúng tôi
thu được kết quả trong Hình 3.1.
Hình 3.1. Chỉ số BMI theo tuổi và giới tính của trẻ trong nghiên cứu
Hình 3.1 cho thấy chỉ số BMI của trẻ nam cao hơn trẻ nữ trong nhóm 5 tuổi
(sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05), chỉ số BMI trong nhóm 3 tuổi tương
đương nhau ở cả hai giới, chỉ số BMI của trẻ mầm non nhóm 2 tuổi và 4 tuổi khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
So sánh chỉ số BMI của trẻ trong nghiên cứu với giá trị sinh học người Việt
nam thập kỉ 90 – thế kỉ XX theo điều tra của Bộ Y tế năm 2003 [2] và WHO năm
2007 [187] chúng tôi thu được kết quả thể hiện trong Bảng 3.8.
Bảng 3.8. So sánh chỉ số BMI (kg/m2) của trẻ với một số nghiên cứu
Tuổi Xã Cao Mã Pờ Xã Vân Xuân Cả 3 khu vực
Phƣờng Phƣơng Lâm 16,1 2 17,7 16,5 16,9 Bộ Y tế năm 2003 [2] 15,4 WHO năm 2007 [187] 15,7
15,9 3 17,1 16,1 15,9 14,9 15,4
16,1 4 16,2 15,8 15,2 14,7 15,3
16,6 5 15,7 15,4 14,7 14,4 -
59
Chỉ số BMI của trẻ theo tuổi trong mỗi khu vực có sự khác nhau, sự tăng
giảm của chỉ số BMI cũng có sự khác biệt. Trẻ thuộc xã Cao Mã Pờ và xã Vân
Xuân có chỉ số BMI giảm dần từ nhóm 2 tuổi đến nhóm 5 tuổi. Riêng trẻ thuộc
phường Phương Lâm chỉ số BMI giảm từ nhóm 2 tuổi đến nhóm 3 tuổi, nhưng tăng
lên ở nhóm 4 tuổi và 5 tuổi mặc dù mức tăng không lớn. Chỉ số BMI trung bình
theo tuổi của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi lớn hơn so với điều tra của Bộ Y tế
năm 2003 và WHO năm 2007 (sự khác biệt có ý nghĩa thống kế, p < 0,05).
Chỉ số BMI của trẻ mầm non dân tộc Hán trong nghiên cứu của chúng tôi là lớn nhất (16,63 kg/m2), thấp hơn là trẻ mầm non dân tộc Dao, Mông, Mường (16,58 kg/m2, 16,42 kg/m2, 16 ,0 kg/m2), thấp nhất là trẻ mầm non dân tộc Kinh (15,73 kg/m2). Thông thường, chỉ số BMI ở trẻ em tăng nhanh chóng ở tuổi sơ sinh, giảm
xuống ở tuổi mầm non và rồi tăng trở lại suốt thời kỳ thiếu niên và giai đoạn sớm ở
người trưởng thành. Sự khác nhau về chỉ số BMI này cũng cho thấy có sự khác
nhau về tình trạng dinh dưỡng của trẻ tại mỗi khu vực nghiên cứu.
3.1.1.4. Vòng cánh tay trái duỗi
Vòng cánh tay trái duỗi (VCTTD) là một kích thước nhân trắc dễ xác định và
chịu ảnh hưởng nhiều từ tình trạng dinh dưỡng (đặc biệt là trẻ em), vì vậy kích
thước này thường được sử dụng rộng rãi trên thế giới để đánh giá nhanh tình trạng
dinh dưỡng của trẻ em. Ở những đứa trẻ được nuôi dưỡng tốt, kích thước VCTTD
tăng lên nhanh ở năm đầu tiên, sau đó tăng chậm ở năm thứ 2 cho đến 5 tuổi [2].
Phân tích về VCTTD theo tuổi và giới tính, chúng tôi thấy có sự chênh lệch
không lớn về VCTTD của trẻ giữa hai giới trong nghiên cứu theo từng nhóm tuổi
(Bảng 3.9).
Bảng 3.9. Vòng cánh tay trái duỗi trung bình (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính
Giới tính Chung Nam Nữ Tuổi p
n SD n SD
2 14,5 224 1,0 208 14,2 1,1 < 0,05 14,4±1,1
3 14,9 274 1,2 290 15,1 1,3 < 0,05 15±1,3
4 15,4 324 1,2 306 15,4 1,2 < 0,05 15,4±1,2
5 15,7 228 1,4 236 15,5 1,2 < 0,05 15,6±1,3
60
Bảng 3.9 cho thấy, kích thước VCTTD của trẻ trong nghiên cứu của chúng
tôi tăng dần theo tuổi ở cả hai giới. Mức độ tăng của VCTTD trung bình là 0,31
cm/tuổi (tăng nhanh nhất là trẻ 2-3 tuổi: 0,6 cm; thấp nhất là trẻ 4-5 tuổi: 0,2 cm).
VCTTD trung bình ở trẻ nam cao hơn trẻ nữ ở nhóm 2 tuổi và 5 tuổi, VCTTD nhóm
3 tuổi của nữ lớn hơn nam (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05), nhóm 4 tuổi
thì VCTTD bằng nhau ở cả hai giới.
Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng của trẻ hiện nay trong nghiên cứu của
chúng tôi có sự thay đổi tích cực, cùng với đó là sự cải thiện về tình trạng dinh
dưỡng cũng như tầm vóc của trẻ.
Khi xét kích thước VCTTD trung bình theo từng địa bàn, chúng tôi thấy rằng
VCTTD giữa hai giới trong mỗi địa bàn nghiên cứu cũng gần tương đương nhau
trong từng nhóm tuổi. So sánh kích thước VCTTD của trẻ trong nghiên cứu với giá
trị sinh học người Việt Nam thập kỉ 90 - thế kỉ XX theo điều tra của Bộ Y tế năm
2003 [2] và WHO năm 2007 [188], kết quả thu được trong Bảng 3.10.
Bảng 3. 10. So sánh vòng cánh tay trái duỗi (cm) của trẻ với một số nghiên cứu
Nam
WHO Phường Xã Cao Xã Vân Cả 3 khu Bộ Y tế Phương Tuổi (2007) Mã Pờ Xuân vực (2003) [2] Lâm [188]
2 13,8 14,7 14,6 15,5 14,4 14,5
3 14,4 15,5 14,6 15,9 15 14,9
4 14,8 15,7 15,4 16,3 15,4 15,4
5 14,9 16,1 16 - 15,6 15,7
Nữ
2 13,1 14,5 14,3 15,3 14,2 14,2
3 14,3 15,6 14,5 15,9 15,1 14,5
4 14,4 15,7 15,3 16,4 15,4 14,9
5 14,8 16 15,4 - 15,5 14,9
61
Bảng 3.10 cho thấy, trong nghiên cứu của chúng tôi kích thước VCTTD
trung bình của trẻ tại phường Phương Lâm là cao nhất và xã Cao Mã Pờ là thấp nhất
ở tất cả các nhóm tuổi trong cả hai giới (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
VCTTD của trẻ mầm non phường Phương Lâm và xã Vân Xuân cao hơn so với
VCTTD của trẻ em Việt Nam thập kỉ 90 - thế kỉ XX, riêng trẻ mầm non thuộc xã
Cao Mã Pờ thì thấp hơn ở tất cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p
< 0,05). So với VCTTD theo điều tra của WHO năm 2007 thì kết quả nghiên cứu
chung tại 3 khu vực của chúng tôi thấp hơn ở các nhóm 2-4 tuổi trong cả hai giới
[188] (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Kết quả trên cho thấy rằng, tình trạng dinh dưỡng của trẻ em miền núi thuộc
xã Cao Mã Pờ hầu như ít có sự cải thiện, nó thể hiện một phần qua VCTTD của trẻ
thuộc khu vực này. Trong khi đó, khu vực phường Phương Lâm và xã Vân Xuân đã
có được sự thay đổi tích cực, VCTTD theo tuổi của trẻ đều tăng cao hơn tương đối
nhiều so với kết quả của Bộ Y tế năm 2003.
3.1.1.5. Vòng đầu
Vòng đầu cũng là một kích thước nhân trắc quan trọng trong việc đánh giá sự
phát triển thể chất của trẻ. Chu vi vòng đầu thường tăng nhanh trong giai đoạn sơ
sinh và tăng chậm hơn ở các lứa tuổi tiếp theo, sự thay đổi về kích thước vòng đầu
thể hiện sự phát triển của não bộ. Vòng đầu lớn hơn hoặc nhỏ hơn kích thước trung
bình của trẻ theo từng lứa tuổi có thể là dấu hiệu của các vấn đề nghiêm trọng.
Vòng đầu của trẻ mầm non trong nghiên cứu ít có sự chênh lệch theo tuổi và
giới tính. Kết quả về vòng đầu của trẻ được thể hiện trong Bảng 3.11.
Bảng 3.11. Vòng đầu (cm) của trẻ theo tuổi và giới tính
Giới tính Chung Nam Nữ Tuổi p
n SD n SD
2 224 48,3 1,6 208 < 0,05 48,0 ± 1,6 1,5 47,8
3 274 48,8 1,6 290 > 0,05 48,7 ± 1,6 1,7 48,6
4 324 49,9 2,9 306 >0,05 49,8 ± 2,4 1,8 49,7
5 228 50,3 1,3 236 < 0,05 50,0 ± 2,9 3,8 49,8
62
Bảng 3.11 cho thấy, chu vi vòng đầu của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi
tăng dần theo lứa tuổi, phù hợp với qui luật tăng trưởng về vòng đầu của trẻ em Việt
Nam. Vòng đầu trung bình của trẻ trong nghiên cứu giai đoạn 2-5 tuổi tăng trung
bình là 0,5 cm/tuổi. Trong nhóm 2 tuổi và 5 tuổi, vòng đầu của trẻ nam lớn hơn
vòng đầu của trẻ nữ, tuy nhiên sự chênh lệch không đáng kể (sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê, p < 0,05 ), nhóm 3-4 tuổi sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p
> 0,05). Vòng đầu tăng nhanh nhất giai đoạn từ 3 tuổi đến 4 tuổi (nam tăng 0,9 cm;
nữ tăng: 1,1 cm).
Vòng đầu có sự thay đổi không lớn so với các kích thước nhân trắc khác của
trẻ. Giữa ba khu vực trong nghiên cứu thì vòng đầu của trẻ ít có sự chênh lệch. Trẻ
mầm non các dân tộc Mông, Hán, Dao sống tại xã Cao Mã Pờ cũng có chu vi vòng
đầu gần tương đương với trẻ dân tộc Kinh, Mường sống tại phường Phương Lâm và
xã Vân Xuân. So với giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế
kỉ XX theo kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 2003, vòng đầu trung bình chung của
trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi đều cao hơn ở tất cả các nhóm tuổi [2] (sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Vòng đầu của trẻ mầm non phường Phương
Lâm và xã Vân Xuân đều cao hơn so với kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 2003.
Riêng xã Cao Mã Pờ, nhóm 2 tuổi, 4 tuổi ở trẻ nam và nhóm 4 tuổi, 5 tuổi ở trẻ nữ
là thấp hơn không nhiều so với kết quả điều tra của Bộ Y tế năm 2003 (sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Ít có sự chênh lệch về kích thước vòng đầu của trẻ
trong nghiên cứu của chúng tôi với điều tra của WHO năm 2007 [188].
Bảng 3.12. So sánh vòng đầu (cm) của trẻ với một số nghiên cứu
Vòng đầu trung bình trẻ nam (cm)
Xã Cao Xã Vân Bộ Y tế Chung Tuổi Mã Pờ Xuân (2003)[2]
2 WHO (2007) [188] 48,9 Phường Phương Lâm 48,4 47,6 48,3 47,9 48,7
3 49,8 48,7 48,7 48,8 48,7 48,9
4 50,5 50,4 49,4 49,9 49,6 49,5
5 - 50,7 50,2 50,3 50 50,2
63
Vòng đầu trung bình trẻ nữ (cm)
47,1 48,0 47,7 47,8 46,8 47,8 2
47,9 49,1 48,2 48,6 47,9 48,9 3
48,2 50,2 49,4 49,7 48,6 49,6 4
48,6 51,2 49,7 49,8 49,1 - 5
Bảng 3.12 cũng cho thấy kích thước vòng đầu của trẻ tăng chậm ở giai đoạn
2-5 tuổi. Mặc dù trẻ em xã Cao Mã Pờ có các kích thước nhân trắc như chiều cao,
cân nặng đều thấp nhưng vòng đầu không có sự chênh lệch lớn so với hai khu vực
còn lại và so với kết quả của Bộ Y tế năm 2003, ngược lại phường Phương Lâm và
xã Vân Xuân có điều kiện KT-XH, y tế, giáo dục tốt hơn nhiều nhưng vòng đầu
trung bình cũng không tăng cao hơn nhiều so với trẻ em xã Cao Mã Pờ và so với kết
quả của Bộ Y tế năm 2003.
3.1.1.6. Vòng ngực bình thường
Vòng ngực bình thường là một kích thước nhân trắc thường được sử dụng để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thể lực của con người. Kích thước vòng ngực
bình thường trung bình của trẻ theo tuổi và giới tính trong nghiên cứu của chúng tôi
tăng dần theo nhóm tuổi, phù hợp với qui luật tăng trưởng của trẻ em Việt Nam,
được thể hiện trong Bảng 3.13.
Bảng 3.13. Vòng ngực bình thƣờng trung bình (cm)
của trẻ theo tuổi và giới tính
Giới tính Chung Nam Nữ p Tuổi
n SD n SD
2 224 49,9 2,5 208 48,8 < 0,05 49,4±2,6 2,6
3 274 50,6 2,3 290 50,1 < 0,05 50,4±2,7 3,0
4 324 52,6 3,1 306 51,6 < 0,05 52,1±3,3 3,4
5 228 53,5 2,6 236 52,1 < 0,05 52,8±2,6 2,6
64
Bảng 3.13 cho thấy vòng ngực bình thường của trẻ nam lớn hơn của trẻ nữ
trong tất cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Giai đoạn từ
2 tuổi đến 5 tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi, vòng ngực bình thường trung bình
của trẻ nam tăng nhanh hơn so với trẻ nữ, mặc dù sự chênh lệch không lớn (tăng
trung bình ở trẻ nam là 1,17 cm và 1,1 cm ở trẻ nữ). Ở cả hai giới, kích thước vòng
ngực bình thường trung bình tăng nhanh nhất ở giai đoạn từ 3 tuổi đến 4 tuổi (tăng 2
cm ở trẻ nam và 1,5 cm ở trẻ nữ).
Bảng 3.14. So sánh kích thƣớc vòng ngực bình thƣờng của trẻ với kết quả
điều tra của Bộ Y tế năm 2003
Vòng ngực bình thƣờng trẻ nam (cm)
Phường Xã Cao Mã Xã Vân Bộ Y tế Phương Chung Tuổi Xuân (2003) [2] Pờ Lâm
49,5 50,0 49,5 49,9 48,2 2
50,2 3 51,3 50,1 50,6 49,4
52,4 53,3 51,8 52,6 51,2 4
53,0 5 54,4 53,3 53,5 52
Vòng ngực bình thƣờng trẻ nữ (cm)
47,1 49,5 47,8 48,8 47,0 2
49,5 3 51,1 48,8 50,1 48,4
49,8 4 52,9 50,0 51,6 49,7
51,4 5 54,2 51,4 52,1 50,8
So với giá trị sinh học người Việt Nam thập kỉ 90 - thế kỉ XX thì vòng ngực
bình thường của trẻ trong mỗi khu vực nghiên cứu của chúng tôi đều cao hơn ở tất
cả các nhóm tuổi (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05). Bảng 3.14 cho thấy,
vòng ngực bình thường trung bình cao nhất ở nhóm trẻ mầm non phường Phương
Lâm ở tất cả các nhóm tuổi và ở cả hai giới (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p <
0,05). Mặc dù kinh tế còn một số khu vực còn khó khăn nhưng không có khu vực
nào trong nghiên cứu có vòng ngực bình thường của trẻ mầm non thấp hơn kết quả
của Bộ Y tế năm 2003. Đây là một tín hiệu tốt về sự thay đổi tầm vóc của trẻ em
65
hiện nay, đặc biệt là khu vực khó khăn như xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà
Giang. Vòng ngực bình thường của trẻ trong nghiên cứu có sự khác nhau giữa các
dân tộc. Trong nghiên cứu của chúng tôi, vòng ngực bình thường của trẻ mầm non
dân tộc Mường là cao nhất ở tất cả các nhóm tuổi, thấp nhất là dân tộc Mông (nhóm
2 tuổi, 3 tuổi, 4 tuổi), riêng nhóm 5 tuổi có vòng ngực bình thường thấp nhất là dân
tộc Dao. Tuy nhiên sự chênh lệch về vòng ngực bình thường giữa các dân tộc không
lớn (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05)
3.1.1.7. Mối tương quan và phương trình hồi quy tuyến tính giữa các kích thước
nhân trắc trong nghiên cứu
Để đánh giá mối tương quan giữa các kích thước nhân trắc của trẻ mầm non
trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tương quan Pearson
bằng phần mềm SPSS. Mối tương quan giữa các kích thước nhân trắc được thể hiện
trong Bảng 3.15.
Bảng 3.15. Mối tƣơng quan giữa các kích thƣớc nhân trắc
0,806**
0,475**
0,676**
0,594**
r
1
p
-
0,000
0,000
0,000
0,000
Tƣơng Cân Chiều Vòng Vòng quan VCTTD nặng cao đầu ngực Pearson
n
2090
2090
2090
2090
2090
r
0,806**
1
0,396**
0,513**
0,484**
p
0,000
-
0,000
0,000
0,000
Cân nặng
n
2090
2090
2090
2090
2090
0,475**
0,396**
0,458**
0,370**
r
1
p
0,000
0,000
-
0,000
0,000
Chiều cao
n
2090
2090
2090
2090
2090
r
1
0,614**
0,676**
0,513**
0,458**
p
0,000
0,000
0,000
-
0,000
Vòng đầu
n
2090
2090
2090
2090
2090
r
1
0,594**
0,484**
0,370**
0,614**
p
0,000
0,000
0,000
0,000
-
Vòng ngực
n
2090
2090
2090
2090
2090
VCTTD
66
Trong đó: r: là hệ số tương quan; p: là mức ý nghĩa
n: là kích thước mẫu
** Tương quan có mức ý nghĩa 0,01
Bảng 3.15 cho thấy các kích thước nhân trắc của trẻ trong nghiên cứu đều có
tương quan tuyến tính với nhau (p < 0,05), độ tin cậy 99% (mức ý nghĩa = 0,01).
Cân nặng là một kích thước nhân trắc dễ điều tra, phương pháp tiến hành đơn
giản và có tương quan mạnh nhất với tất cả các kích thước nhân trắc còn lại của trẻ
trong nghiên cứu. Vì vậy chúng tôi tiến hành xây dựng mô hình hồi quy tuyến tính
với cân nặng và tuổi là biến độc lập để xác định nhanh các kích thước nhân trắc còn
lại, từ đó có thể đánh giá nhanh được tình trạng dinh dưỡng của trẻ 2-5 tuổi trong
khu vực nghiên cứu. Sử dụng phần mềm SPSS 11.5 để phân tích mô hình hồi quy
tuyến tính đa biến giữa các kích thước nhân trắc.
+ Phân tích hồi quy tuyến tính với chiều cao là biến phụ thuộc, tuổi và cân
nặng là biến độc lập:
- Tóm tắt mô hình
Std. Error of Model R R2 Adjusted R2 the Estimate
1 0,877 0,77 0,769 4,627
Hệ số tương quan R2 hiệu chỉnh (Adjusted R2) = 0,769 > 0,5, như vậy tuổi và
cân nặng ảnh hưởng 76,9% sự thay đổi của chiều cao.
- Phân tích ANOVA
Sum of Mean Model F Sig. df Squares Square
Regression 149268,340 74634,170 3486,126 0,000 2
Residual 44680,404 2087 21,409
Total 193948,745 2089
Giá trị F = 3486,126, với p < 0,05, mô hình tuyến tính xây dựng phù hợp với
tổng thể.
- Hệ số hồi quy với chiều cao là biến phụ thuộc
67
Hệ số hồi quy 95%CI
t p Lower Upper β Std. Error Bound Bound
Constant 58,214 0,503 115,811 0,000 57,228 59,200
Tuổi 4,176 0,127 32,927 0,000 3,927 4,425
Cân nặng 1,590 0,043 36,788 0,000 1,505 1,675
- Biểu đồ tần số phân dư chuẩn hóa Histogram
Tần số
Phần dư chuẩn hóa
Hình 3.2. Biểu đồ phân dƣ chuẩn hóa với chiều cao là biến phụ thuộc
Hình 3.2 cho thấy đường cong có dạng hình chuông phù hợp với đồ thị của phân
phối chuẩn, với = 0, SD = 1 nên giả định phần dư có dạng phân phối chuẩn
không bị vi phạm.
- Biểu đồ Scatter Plot kiểm tra giả định liên hệ tuyến tính
Hình 3.3. Biểu đồ Scatter Plot với chiều cao là biến phụ thuộc
68
Hình 3.3 cho thấy phân dư chuẩn hóa tập trung xung quanh đường tung độ 0,
do vậy giả thuyết tuyến tính không bị vi phạm.
Các giả định của phân tích hồi quy tuyến tính đều thỏa mãn. Vì vậy tuổi và
cân nặng có liên hệ tuyến tính với chiều cao theo phương trình hồi quy tuyến tính:
Chiều cao = 58,214 + 4,176*Tuổi+ 1,59*Cân nặng
Tiến hành phân tích hồi quy tương tự đối với vòng ngực, VCTTD là biến phụ
thuộc (phụ lục 5), tuổi và cân nặng là biến độc lập, chúng tôi xây dựng được các
phương trình hồi quy tuyến tính như sau (Bảng 3.16):
Bảng 3.16. Các phƣơng trình hồi quy tuyến tính giữa các kích thƣớc nhân trắc
Biến độc lập
Tuổi và cân nặng
Biến phụ thuộc
Chiều cao = 58,214 + 4,176*Tuổi+ 1,59*Cân nặng Chiều cao
Vòng ngực = 40,93 - 0,167*Tuổi+ 0,726*Cân nặng Vòng ngực
VCTTD = 11,468 - 0,108*Tuổi+ 0,269*Cân nặng VCTTD
Từ những phương trình hồi quy tuyến tính này có thể tính được chiều cao,
vòng ngực, VCTTD của trẻ dựa vào tuổi và cân nặng.
Ví dụ, trẻ 3 tuổi có cân nặng là 15 kg thì chiều cao, vòng ngực, VCTTD
tương ứng là:
Chiều cao = 58,214 + 4,176*3 + 1,59 *15 = 94,6 (cm)
Vòng ngực = 40,93 – 0,167*3 + 0,726*15 = 51,3 (cm)
VCTTD = 11,468 – 0,108*3 + 0,269*15 = 15,2 (cm)
3.1.2. Thực trạng dinh dưỡng và các yếu tố liên quan của trẻ trong nghiên cứu
Để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ, chúng tôi dựa trên những số liệu
đã khảo sát, tình trạng dinh dưỡng được đánh giá theo tiêu chuẩn của WHO năm
2006 và 2007 [138, 185]. Sử dụng phần mềm WHO Anthroplus và SPSS 11.5 để
xác định được Z-score của các chỉ số chiều cao/tuổi, cân nặng/tuổi và BMI/tuổi, từ
đó đánh giá được tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu.
69
3.1.2.1. Thực trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu
Thực trạng dinh dưỡng chiều cao/tuổi
Tình trạng dinh dưỡng chiều cao/tuổi (SDD thể thấp còi) của trẻ em là một
trong các chỉ tiêu nhanh nhất phản ánh tình trạng sức khỏe và phát triển của trẻ. Tình
trạng SDD ở trẻ em thường để lại nhiều hậu quả nặng nề cả về thể chất và tinh thần.
Tỷ lệ SDD thể thấp còi của trẻ mầm non trong nghiên cứu của chúng tôi là
28,1%. Phân bố tình trạng dinh dưỡng chiều cao/tuổi trong nghiên cứu được thể
hiện trong Bảng 3.17.
Bảng 3.17. Tình trạng dinh dƣỡng chiều cao/tuổi của trẻ trong nghiên cứu
Giới tính p Tỷ lệ (1)-(2) Nam Nữ chung Tuổi Thấp còi (1) Bình thường Thấp còi (2) Bình thường (%) % n % % n % n n
70 2 31,3 154 68,7 94 45,2 54,8 38,3 < 0,05 114
84 3 30,7 190 69,3 92 31,7 68,3 31,2 > 0,05 198
64 4 19,8 260 80,2 76 24,8 75,2 22,2 > 0,05 230
46 5 20,2 182 79,8 62 26,3 73,7 23,3 > 0,05 174
716 74,9 324 31,2 68,8 28,1 < 0,05
Tổng 264 25,1 786
Bảng 3.17 cho thấy, tỷ lệ trẻ SDD chiều cao/tuổi của trẻ mầm non trong
nghiên cứu ở cả hai giới đều cao. Tỷ lệ SDD thể thấp còi chung ở trẻ nam thấp hơn
so với trẻ nữ (trẻ nam: 25,1% ; trẻ nữ: 31,2%) (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p <
0,05), tỷ lệ trẻ SDD chung cao nhất ở nhóm 2 tuổi (38,3%). Theo phân loại của
WHO, có 4 mức độ SDD thể thấp còi là mức độ thấp (tỷ lệ thấp còi < 20%), trung
bình (tỷ lệ thấp còi từ 20 - 29%), cao (tỷ lệ thấp còi từ 30 - 39%) và rất cao (tỷ lệ
thấp còi ≥ 40%) [176], thì tỷ lệ SDD thể thấp còi chung của trẻ em trong nghiên cứu
của chúng tôi ở mức trung bình (28,1%), trong đó tỷ lệ SDD thể thấp còi của trẻ
nhóm 2-3 tuổi ở mức cao, còn nhóm 4-5 tuổi ở mức trung bình.
Tỷ lệ SDD thể thấp còi cao nhất là ở nhóm 2 tuổi trong cả hai giới, ở trẻ nam
là 31,3% và ở trẻ nữ là 45,2%; tỷ lệ SDD thể thấp còi thấp nhất ở trẻ nam là nhóm 5
70
tuổi (26,3%) và ở trẻ nữ là nhóm 4 tuổi (24,8%). Tỷ lệ SDD của trẻ trong nghiên
cứu có xu hướng giảm dần ở nhóm 4 tuổi và 5 tuổi, đó cũng là một dấu hiệu tích
cực cho sự phát triển thể chất của trẻ mầm non trong nghiên cứu. Mặc dù tỷ lệ SDD
của trẻ trong nghiên cứu là ở mức trung bình (28,1%), nhưng có sự chênh lệch lớn
về tỷ lệ SDD thể thấp còi giữa 3 khu vực trong nghiên cứu này.
Một nghiên cứu của Mercedes de Onis và cộng sự cho thấy mặc dù tỷ lệ trẻ bị
thấp còi đang giảm ở hầu hết các quốc gia đang phát triển nhưng ở một vài quốc gia
thuộc nhóm này, tỷ lệ thấp còi vẫn đang tăng [137]. Việt Nam là một quốc gia đang
phát triển, mặc dù tình trạng SDD thể thấp còi của cả nước đang có xu hướng giảm,
nhưng một số khu vực khó khăn có tỷ lệ SDD thể thấp còi vẫn còn tương đối cao.
Bảng 3.18. Tình trạng dinh dƣỡng chiều cao/tuổi theo khu vực nghiên cứu
Tình trạng dinh dƣỡng
Thấp còi Bình thường Địa bàn
n % p n %
Xã Cao Mã Pờ 298 76,8 90 23,2
Phường Phương Lâm 164 16,2 < 0,05 848 83,8
Xã Vân Xuân 126 18,3 564 81,7
Tổng 588 28,1 1502 71,9
Bảng 3.18 cho thấy, tỷ lệ SDD của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ cao gấp 4,7
lần so với phường Phương Lâm và 4,2 lần so với xã Vân Xuân (sự khác biệt có ý
nghãi thống kê, p < 0,05). Theo phân loại dinh dưỡng của WHO thì tỷ lệ thấp còi
của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ thuộc mức rất cao (76,8%), còn tại phường Phương
Lâm và xã Vân Xuân tỷ lệ thấp còi thuộc mức thấp (phường Phương Lâm: 16,2%;
xã Vân Xuân: 18,3%). Phân tích sâu về tình trạng suy dinh dưỡng thể thấp còi của
trẻ mầm non các dân tộc sống trong khu vực nghiên cứu chúng tôi thấy rằng, tỷ lệ
trẻ SDD thể thấp còi của trẻ mầm non dân tộc Mông, Hán, Dao là rất cao (81,8 %,
77,9% và 73,2%), tỷ lệ SDD thể thấp còi của trẻ mầm non dân tộc Mường, Kinh ở
mức thấp (15,4% và 17,7%).
71
Bảng 3.19. Tình trạng suy dinh dƣỡng thể thấp còi theo giới trong nghiên cứu
Tình trạng suy dinh dƣỡng
Nam Nữ Địa bàn Tuổi p Chung n % n %
2 28 60,1 36 90 < 0,05 74,4%
3 50 100 36 94,7 - 97,7% Xã Cao Mã Pờ 4 34 65,4 38 90,5 < 0,05 76,6%
5 38 61,3 38 65,5 > 0,05 63,3%
2 36 23,1 50 35,7 < 0,05 29,1%
3 12 10,7 18 11,5 > 0,05 11,2% Phường 4 22 13,6 22 12,9 > 0,05 13,3% Phương Lâm 5 2 3,7 2 3,2 > 0,05 3,4%
2 6 27,3 8 28,6 > 0,05 28%
3 22 19,6 38 39,6 < 0,05 28,8% Xã Vân Xuân
4 8 7,3 16 17 < 0,05 11,8%
5 6 5,3 22 18,9 < 0,05 12,3%
Bảng 3.19 cho thấy, tại xã Cao Mã Pờ, tỷ lệ trẻ SDD thể thấp còi ở tất cả các
nhóm tuổi đều cao, trong đó nhóm 3 tuổi có tỷ lệ SDD thể thấp còi là lớn nhất
chiếm 97,7% (đặc biệt là nhóm trẻ nam 3 tuổi có tỷ lệ SDD là 100%). Tại phường
Phương Lâm, nhóm 2 tuổi có tỷ lệ SDD thể thấp còi là lớn nhất chiếm 29,1% (trong
đó trẻ nam: 23,1%; trẻ nữ: 35,7%), riêng nhóm trẻ 5 tuổi tỷ lệ thấp còi (3,4%) đã
giảm nhiều ở cả hai giới (nam: 3,7%; nữ: 3,2%). Tỷ lệ SDD thể thấp còi cao nhất tại
xã Vân Xuân cũng là nhóm 3 tuổi (28,8%) và thấp nhất là nhóm 4 tuổi (11,8%). Từ
đó cho thấy rằng, trong những khu vực nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ SDD thể
thấp còi ở nhóm 2 tuổi, 3 tuổi chiếm tỷ lệ lớn hơn nhóm 4 tuổi, 5 tuổi. Nó cũng thể
hiện một phần chế độ chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ từ giai đoạn còn nhỏ.
So sánh tỷ lệ SDD thể thấp còi của trẻ theo từng khu vực với toàn tỉnh năm
2015 ở mỗi khu vực nghiên cứu chúng tôi thu được kết quả trong Hình 3.4.
72
Hình 3.4. So sánh tỷ lệ suy dinh dƣỡng thể thấp còi của trẻ dƣới 5 tuổi
Theo số liệu thống kê của Viện dinh dưỡng, từ năm 1999 đến năm 2015, tỷ
lệ SDD thể thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi trong cả nước giảm từ 38,7% xuống còn
24,6% [76]. Như vậy, tại phường Phương Lâm và xã Vân Xuân, tỷ lệ trẻ SDD thể
thấp còi đã giảm đáng kể nhưng trẻ thuộc xã Cao Mã Pờ tỷ lệ thấp còi vẫn cao gấp
3,4 lần so với cả nước năm 2015.
Tình trạng SDD thể thấp còi của mỗi địa bàn nghiên cứu đã phản ảnh tương
đối về mức độ phát triển kinh tế - xã hội và chế độ chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
của mỗi vùng. Xã Cao Mã Pờ là xã vùng biên giới giáp ranh với Trung Quốc, nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, chủ yếu người dân sống bằng nghề nông nghiệp, thu
nhập không ổn định. Theo khảo sát của chúng tôi tại xã Cao Mã Pờ năm 2016, tỷ
lệ hộ nông dân tại xã chiếm 93,3%, với trình độ học vấn của phụ huynh dưới tiểu
học là 38,2% (trong đó có 9,3% mù chữ), đây là hai vấn đề rất quan trọng liên
quan đến việc thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ mầm non. Ngoài ra, tỷ lệ hộ
nghèo và thiếu ăn của khu vực cũng rất lớn (34%), nên việc quan tâm đến vấn đề
dinh dưỡng, sức khỏe của trẻ còn hạn chế. Với đặc điểm kinh tế - xã hội như vậy
nên tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi SDD thể thấp còi ở xã Cao Mã Pờ cao gấp 2,35 lần toàn
tỉnh Hà Giang năm 2015 (xã Cao Mã Pờ: 82,6%; Hà Giang năm 2015: 35,1%). So
73
với huyện miền núi Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam trong nghiên cứu của Đinh Đạo
(2009) [6], một số xã miền núi tỉnh Bắc Kạn năm 2006 trong nghiên cứu của Đỗ
Thị Hòa và cộng sự [20], huyện Khánh Vĩnh, Khánh Hòa trong nghiên cứu của Lê
Phán năm 2008 [52] thì tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi SDD thể thấp thấp còi trong nghiên
cứu của chúng tôi còn cao hơn nhiều (Bắc Trà My: 62,8%, một số xã miền núi
tỉnh Bắc Kạn: 52,2%, huyện Khánh Vĩnh, Khánh Hòa: 53,6% so với xã Cao Mã
Pờ: 82,6%).
Tuy nhiên, hai khu vực còn lại trong nghiên cứu của chúng tôi thì đã có sự
thay đổi tích cực. Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi SDD thể thấp còi đã giảm so với toàn tỉnh
và cả nước. Đặc biệt là phường Phương Lâm, đây là khu vực phát triển kinh tế
mạnh nhất của tỉnh Hòa Bình (tỷ lệ gia đình giàu có, khá giả, đủ ăn chiếm 98,4%)
nên tỷ lệ trẻ SDD thể thấp còi đã giảm đáng kể (thấp hơn 7,5% so với toàn tỉnh
Hòa Bình năm 2015). So với tỷ lệ thấp còi của vùng cao nguyên phía Bắc [76] thì
tỷ lệ thấp còi của phường Phương Lâm đã thấp hơn nhiều (phường Phương Lâm:
17,9%; vùng cao nguyên phía Bắc: 30,3%), nhưng so với tỷ lệ thấp còi của khu
vực thành thị thì tỷ lệ thấp còi của trẻ mầm non phường Phương Lâm trong nghiên
cứu của chúng tôi lại cao hơn (tỷ lệ thấp còi khu vực thành thị: 12,1%). Xã Vân
Xuân, tỷ lệ trẻ SDD thể thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi thấp hơn so với toàn tỉnh Vĩnh
Phúc năm 2015 (23,7%) và cũng thấp hơn so với tỷ lệ chung của khu vực nông
thôn năm 2015 (21,8%) [76]
Thực trạng dinh dưỡng cân nặng/tuổi
Chỉ số cân nặng/tuổi được sử dụng để theo dõi quá trình tăng trưởng của trẻ
em. Với những trẻ lớn tuổi (trên 10 tuổi) thì cân nặng/tuổi không phải là chỉ số đánh
giá phù hợp vì 2 lý do: 1) Chỉ số này không thể giúp phân biệt được giữa chiều cao
đứng và khối lượng cơ thể trong giai đoạn nhiều trẻ đang trải qua đỉnh tăng trưởng
của dậy thì; 2) Dễ dẫn tới việc đánh giá nhầm trẻ bị quá cân (cân nặng/tuổi cao hơn
bình thường) trong khi thực tế đứa trẻ đó chỉ đơn thuần là cao. Đối tượng trong
nghiên cứu của chúng tôi là trẻ mầm non 2-5 tuổi nên chỉ số cân nặng/tuổi rất phù
hợp cho việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Tình trạng dinh dưỡng cân nặng/tuổi
của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi được thể hiện trong Bảng 3.20.
74
Bảng 3.20. Tình trạng dinh dƣỡng cân nặng/tuổi của trẻ trong nghiên cứu
Giới tính p Tỷ lệ (1)-(2) Nam Nữ chung Tuổi Nhẹ cân (1) Bình thường Nhẹ cân (2) Bình thường (%) n % n % n % n %
202 90,2 34 16,3 174 83,7 13 < 0,05 2 22 9,8
262 95,6 34 11,7 256 88,3 8,2 < 0,05 3 12 4,4
304 93,8 34 11,1 272 88,9 8,6 < 0,05 4 20 6,2
214 93,9 56 23,7 180 76,3 15,1 < 0,05 5 14 6,2
68 6,5 982 93,5 158 15,2 882 84,8 10,8 < 0,05 Tổng
Bảng 3.20 cho thấy, tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân trong nghiên cứu của chúng
tôi chiếm 10,8%. Tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân lớn nhất ở nhóm 5 tuổi (15,1%) và thấp
nhất ở nhóm 3 tuổi (8,2%). Tỷ lệ SDD của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi
(10,8%) thấp hơn so với tỷ lệ trẻ nhẹ cân trong cả nước năm 2015 (14,1%) [76],
thấp hơn so với tỷ lệ trẻ nhẹ cân trên toàn cầu năm 2012 (15,7%) [158], cũng như
thấp hơn so với tỷ lệ trẻ nhẹ cân ở châu năm 2011 (19,3%), đặc biệt là Nam Á
(33,2%) [168]. Điều này cho thấy, tình trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ trong nghiên
cứu đã có sự cải thiện tích cực hơn so với tình trạng SDD thể thấp còi.
Tỷ lệ SDD nhẹ cân cao nhất là nhóm 5 tuổi ở trẻ nữ (23,7%) và nhóm 2 tuổi
ở trẻ nam (9,8%), tỷ lệ SDD nhẹ cân thấp nhất là nhóm 4 tuổi ở trẻ nữ (11,1%) và
nhóm 3 tuổi ở trẻ nam (4,4%), có sự chênh lệch tương đối lớn về tỷ lệ SDD giữa hai
giới và trong từng nhóm tuổi. Theo phân loại của WHO, có 4 mức độ nhẹ cân là
mức độ thấp (tỷ lệ nhẹ cân < 10%), trung bình (tỷ lệ nhẹ cân từ 10 - 19%), cao (tỷ lệ
nhẹ cân từ 20 - 29%) và rất cao (tỷ lệ nhẹ cân ≥ 30%) [176] thì tỷ lệ nhẹ cân chung
của trẻ em trong nghiên cứu của chúng tôi ở mức trung bình (10,8%) (tỷ lệ nhẹ cân
ở trẻ nam ở mức thấp: 6,5%, tỷ lệ nhẹ cân ở trẻ nữ ở mức trung bình: 15,2%). Tình
trạng SDD thể nhẹ cân trong nghiên cứu theo từng địa bàn có sự khác nhau rõ rệt,
thể hiện rõ sự phát triển của từng vùng trong nghiên cứu. Sự khác biệt về tỷ lệ SDD
thể nhẹ cân trong mỗi khu vực trong nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 3.21.
75
Bảng 3.21. Tình trạng dinh dƣỡng cân nặng/tuổi theo địa bàn nghiên cứu
Tình trạng dinh dƣỡng Địa bàn Nhẹ cân Bình thường
n % p n %
Xã Cao Mã Pờ 96 24,7 < 0,05 292 75,3
Phường Phương Lâm 68 6,7 944 93,3
Xã Vân Xuân 62 9,0 628 91,0
Chung 226 10,8 1864 89,2
Bảng 3.21 cho thấy, tỷ lệ SDD thể nhẹ cân của trẻ mầm non cao nhất là xã
Cao Mã Pờ (24,7%), thấp nhất là phường Phương Lâm (6,7%). Theo phân loại của
WHO, tỷ lệ SDD nhẹ cân của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ xếp loại cao (24,7%), tỷ
lệ SDD nhẹ cân củatrẻ mầm non phường Phương Lâm và xã Vân Xuân thuộc loại
thấp (6,7% và 9%). Theo khảo sát của chúng tôi, tại xã Cao Mã Pờ có 34% hộ
nghèo và thiếu ăn nên tình trạng SDD thể nhẹ cân cũng rất lớn.Tình trạng SDD thể
thấp còi và thể nhẹ cân đều phản ánh đúng thực trạng sự phát triển về mặt KT-XH,
sự quan tâm chăm sóc cho trẻ trong mỗi khu vực nghiên cứu. Đánh giá tình trạng
SDD thể nhẹ cân của trẻ mầm non các dân tộc trong nghiên cứu, chúng tôi thấy
rằng tỷ lệ SDD của trẻ mầm non dân tộc Mông, Dao ở mức cao (29,5 % và
26,8%), dân tộc Hán ở mức trung bình (19,1%) và dân tộc Kinh, Mường ở mức
thấp (8,2% và 6,2%).
Phân tích chi tiết tình trạng SDD thể nhẹ cân trong từng khu vực trong
nghiên cứu, chúng tôi thu được kết quả trong Bảng 3.22.
76
Bảng 3.22. Tình trạng suy dinh dƣỡng thể nhẹ cân theo giới tính trong nghiên cứu
Tình trạng suy dinh dƣỡng Trung
Địa bàn Tuổi Nam Nữ bình p (%) n % n %
12 26,1 18 2 > 0,05 34,9 45
4 8 14 3 36,8 > 0,05 20,5 Xã
Cao Mã Pờ 4 7,7 10 4 23,8 > 0,05 14,9
12 19,4 22 5 37,9 > 0,05 28,3
10 6,4 14 2 10 > 0,05 8,1
2 1,8 8 3 5,1 > 0,05 3,7 Phường 8 4,9 22 4 12,9 < 0,05 9 Phương Lâm
0 0 4 5 6,5 - 3,4
0 0 2 2 7,1 - 4
6 5,4 12 3 12,5 > 0,05 8,7 Xã Vân Xuân
8 7,3 2 4 2,1 > 0,05 4,9
2 1,8 30 5 25,9 < 0,05 14
Bảng 3.22 cho thấy, tại các địa bàn nghiên cứu, hầu hết ở tất cả các nhóm
tuổi tỷ lệ nhẹ cân của nữ cao hơn của nam (trừ nhóm 5 tuổi thuộc xã Vân Xuân tỷ lệ
nhẹ cân của nam cao hơn của nữ). Tỷ lệ nhẹ cân cao thể hiện rõ trong tất cả các
nhóm tuổi ở cả hai giới của trẻ mầm non tại xã Cao Mã Pờ. Nghiên cứu của Nguyễn
Công Khẩn và cộng sự năm 2007, cũng cho thấy tình trạng SDD của trẻ em có xu
hướng giảm, mức giảm nhanh nhất ở thành thị, đến nông thôn và chậm nhất là ở
miền núi [33].
So sánh tỷ lệ nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi với toàn tỉnh năm 2015 trong mỗi
địa bàn nghiên cứu chúng tôi được kết quả trong Hình 3.5.
77
Hình 3.5. So sánh tỷ lệ suy dinh dƣỡng thể nhẹ cân của trẻ dƣới 5 tuổi
Từ năm 1999 đến năm 2015, tỷ lệ SDD thể nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi trong
cả nước giảm từ 36,7% xuống còn 14,1% [76]. So với tỷ lệ trẻ nhẹ cân dưới 5 tuổi
của cả nước năm 2015 thì tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân tại phường Phương Lâm và xã
Vân Xuân thấp hơn, riêng xã Cao Mã Pờ tỷ lệ này vẫn cao gấp 1,63 lần. Tình trạng
nhẹ cân của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi tại phường Phương Lâm và xã Vân
Xuân so với toàn tỉnh năm 2015 đều thấp hơn đáng kể, tại xã Cao Mã Pờ tình trạng
nhẹ cân của trẻ vẫn cao hơn toàn tỉnh Hà Giang năm 2015. Tỷ lệ nhẹ cân của trẻ
thuộc phường Phương Lâm và xã Vân Xuân thấp hơn toàn tỉnh tương ứng là 10,4%
và 7,8%, tức là tỷ lệ nhẹ cân của trẻ mầm non phường Phương Lâm giảm nhanh hơn
so với xã Vân Xuân. Tỷ lệ nhẹ cân của trẻ thuộc xã Cao Mã Pờ còn tương đối cao,
tỷ lệ này trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn 0,3% so với toàn tỉnh Hà Giang
năm 2015. Sự chênh lệch này cho thấy rằng, phường Phương Lâm và xã Vân Xuân
đã có sự thay đổi không chỉ về KT-XH, mà các gia đình đã có sự quan tâm, chăm
sóc tốt hơn đối với trẻ mầm non, đã cải thiện được tình trạng dinh dưỡng đáng kể
cho trẻ, bên cạnh đó tỷ lệ SDD cao của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ cũng cho thấy
đây là một khu vực khó khăn, chế độ dinh dưỡng và mức độ quan tâm chăm sóc trẻ
còn kém. Bên cạnh sự khác biệt về các điều kiện kinh tế, xã hội; một số đồng bào
78
dân tộc thiểu số vẫn còn những tập tục lạc hậu, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe
trẻ em như lao động nặng và kiêng khem ăn uống khi mang thai [6].
Trong chương trình quốc gia phòng chống SDD trẻ em đã tác động hiệu quả
lên nhiều vùng miền trong cả nước, tỷ lệ nhẹ cân giảm liên tục từ 58,5% năm 1985
[1], xuống còn 14,1% năm 2015 [76], nhưng sự tác động đó còn hạn chế đối với
vùng miền núi, các đồng bào dân tộc thiểu số. Theo kết quả nghiên cứu của Lê Phán
năm 2008, khảo sát trên đối tượng là trẻ em dân tộc thiểu số huyện Khánh Vĩnh,
Khánh Hòa thì tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 57,8% [52], cũng như nghiên cứu của
Nguyễn Minh Tuấn tại vùng đồng bào dân tộc Sán Chay tỉnh Thái Nguyên năm
2008 là 41,6% [68] đều cao hơn nhiều so với kết quả của chúng tôi. Chứng tỏ rằng
tỷ lệ SDD của trẻ em hiện nay ở nước ta khác nhau ở các vùng miền cũng như cần
đặc biệt chú ý tới vùng miền núi cao, nơi các dân tộc thiểu số sinh sống.
Thực trạng dinh dưỡng BMI/tuổi
Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi phản ánh các thể trạng gầy còm, bình
thường, có nguy cơ thừa cân, thừa cân-béo phì của trẻ mầm non. Chỉ số BMI/tuổi
chỉ ra được gánh nặng kép về tình trạng dinh dưỡng ở các nước trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng. Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi của trẻ trong
nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 3.23.
Bảng 3.23. Tình trạng dinh dƣỡng BMI/tuổi của trẻ trong nghiên cứu
Tình trạng dinh dƣỡng nhóm dƣới 5 tuổi
Có nguy cơ Gầy còm Bình thường Thừa cân Béo phì Tuổi thừa cân
n % n % n % n % n %
8 1,9 284 65,7 84 19,4 48 11,1 8 1,9 2
14 2,5 406 72,0 106 18,8 24 4,3 14 2,5 3
8 1,3 464 73,7 102 16,2 44 7,0 12 1,9 4
Tình trạng dinh dƣỡng nhóm 5 tuổi
Béo phì Gầy còm Bình thường Thừa cân Béo phì nặng
22 4,7 356 76,7 52 11,2 22 4,7 12 2,6 5
79
Bảng 3.23 cho thấy, tình trạng SDD thể gầy còm của trẻ trong nghiên cứu
xảy ra ở tất cả các nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm trung bình là 2,5%, trong
đó nhóm 5 tuổi tỷ lệ SDD thể gầy còm cao nhất (4,7%), thấp nhất là nhóm trẻ 2 tuổi
(1,3%). Theo phân loại của WHO, có 4 mức độ SDD thể gầy còm là mức độ thấp
(tỷ lệ gầy còm < 5%), trung bình (tỷ lệ nhẹ cân từ 5 - 9%), cao (tỷ lệ nhẹ cân từ 10 -
14%) và rất cao (tỷ lệ nhẹ cân ≥ 15%) [176] thì tỷ lệ nhẹ cân của trẻ em trong
nghiên cứu của chúng tôi ở mức thấp ở tất cả các nhóm tuổi. Tỷ lệ trẻ mắc TC-BP
trong nghiên cứu của chúng tôi là 11,3%, trong đó tỷ lệ trẻ TC-BP cao nhất là nhóm
5 tuổi (18,5%), thấp nhất là nhóm 3 tuổi (6,8%).
Gánh nặng kép về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam được thể hiện
rất rõ trong nghiên cứu của chúng tôi, bên cạnh tỷ lệ SDD tương đối cao (thấp còi:
28,1%; nhẹ cân: 10,8%), còn có tỷ lệ tương đối lớn trẻ TC-BP (11,3%), đây là tình
trạng chung của tất cả những nước đang phát triển. Ngoài ra, trong nghiên cứu của
chúng tôi, còn có một số lượng lớn trẻ dưới 5 tuổi có nguy cơ thừa cân (18%).
Tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm và TC-BP của hai giới trong nghiên cứu cũng có
sự khác nhau theo từng nhóm tuổi, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa hai
giới (Bảng 3.24). Tỷ lệ SDD thể gầy còm ở trẻ nam là 1,9% và trẻ nữ là 3,1%. Tỷ lệ
TC-BP ở trẻ nam là 11,5% và trẻ nữ là 11,2%.
Bảng 3.24. Tình trạng dinh dƣỡng BMI/tuổi của trẻ theo tuổi và giới tính
Nam
Gầy còm Béo phì Thừa cân Bình thường Tuổi Giới tính
Nữ
Nam
2
Nữ
Nam
3
Nữ
4 Tình trạng dinh dƣỡng nhóm dƣới 5 tuổi Có nguy cơ thừa cân % n 22,3 50 16,3 34 22,6 62 15,2 44 18,5 60 13,7 42 % 14,3 7,7 4,4 4,1 6,2 7,8 % 61,6 70,2 69,3 74,5 73,5 73,9 n 138 146 190 216 238 226 % 1,8 1,9 1,5 3,4 1,9 0,7 n 4 4 4 10 6 2 n 0 8 6 8 0 12 % 0 3,8 2,2 2,8 0 3,9
n 32 16 12 12 20 24 Tình trạng dinh dƣỡng nhóm 5 tuổi
Nam
Béo phì nặng
Nữ
5
Gầy còm 2,6 6 6,8 16 Bình thường 75,4 172 78,0 184 Thừa cân 16,7 38 5,9 14 Béo phì 12 10 5,3 4,2 0 12 0 5,1
80
Khi đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ theo từng địa bàn nghiên cứu
chúng tôi thấy tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm thấp nhất là phường Phương Lâm (1,8%),
cao nhất là xã Vân Xuân (3,5%) (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05).
Tuy nhiên, tình trạng TC-BP của trẻ trong nghiên cứu cao nhất là xã Cao Mã Pờ
(19,1%), thấp nhất là xã Vân Xuân (7%) (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p <
0,05) (Bảng 3.25).
Bảng 3.25. Tình trạng dinh dƣỡng BMI/tuổi theo địa bàn nghiên cứu
Tình trạng dinh dƣỡng
Có nguy Bình Thừa cân Gầy còm cơ thừa Địa bàn thường Béo phì cân
% % % % p p
Xã Cao Mã Pờ 2,5 19,7 19,1 58,7
1,8 15,3 Phường Phương Lâm > 0,05 71,5% 11,4 < 0,05
Xã Vân Xuân 3,5 8,7 7,0 80,8
Tình trạng SDD và TC-BP phản ánh một phần thực trạng về chế độ dinh
dưỡng của trẻ tại ba khu vực trong nghiên cứu. Khi khẩu phần ăn không có sự
cân đối về các thành phần dinh dưỡng, bữa ăn không đa dạng, thiếu các vi chất
dinh dưỡng dẫn đến sự phát triển thể chất không đồng đều, trẻ có thể vừa bị suy
dinh dưỡng vừa bị TC-BP. Theo khảo sát của chúng tôi tại xã Cao Mã Pờ, 36,6%
gia đình cho rằng chỉ cần cho trẻ ăn no, 20,1% gia đình không biết cho trẻ ăn thế
nào là đúng cách, ngoài ra, 14,4% trẻ chỉ được ăn 2 bữa chính trong 1 ngày và
70,1% trẻ được ăn đủ 3 bữa trong 1 ngày. Số liệu này cho thấy sự chăm sóc dinh
dưỡng không khoa học cho trẻ tại xã Cao Mã Pờ làm cho trẻ vừa mắc SDD vừa
mắc TC-BP.
Phân tích tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi của trẻ theo từng dân tộc trong
nghiên cứu chúng tôi thấy tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm và tình trạng TC-BP có sự
khác nhau. Tỷ lệ SDD thể gầy còm của trẻ dân tộc Kinh, Mường, Mông, Hán, Dao
trong nghiên cứu lần lượt là (2,8%, 1,7%, 4,5%, 1,5%, 2,4%) và tỷ lệ TC-BP lần
81
lượt là (9,5%, 9,5%, 18,2%, 17,6%, 20,8%). Tỷ lệ trẻ TC-BP thuộc các dân tộc ở
xã Cao Mã Pờ là tương đối lớn mặc dù điều kiện KT-XH, giáo dục, y tế v.v. còn
rất thấp. Có thể lý giải điều này là do sự phát triển chiều cao của trẻ các dân tộc
Mông, Hán, Dao đều chậm hơn rất nhiều so với sự phát triển cân nặng theo từng
tuổi. Ngoài ra, do số lượng trẻ mầm non tham gia nghiên cứu của mỗi dân tộc
trong từng nhóm tuổi không đủ lớn để đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ tình
trạng SDD thể gầy còm và tình trạng TC-BP của trẻ tại xã Cao Mã Pờ.
Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi của trẻ theo từng nhóm tuổi và giới tính tại
mỗi khu vực nghiên cứu cũng có sự khác nhau rõ rệt. Sự khác biệt này được thể
hiện trong Bảng 3.26.
Bảng 3.26. Tình trạng dinh dƣỡng BMI/tuổi của trẻ theo tuổi và giới tính
Tình trạng dinh dƣỡng
Nam Nữ
Thừa Thừa Địa bàn Tuổi Gầy Có nguy Gầy Có nguy cân-Béo cân-Béo còm cơ thừa còm cơ thừa phì phì (%) cân (%) (%) cân (%) (%) (%)
2 0 35 0 30 34,8 26,1
3 0 10,6 0 26,3 20 44 Xã
Cao Mã Pờ 4 3,8 14,3 4,8 19 15,4 15,4
5 9,7 17,2 6,9 0 16,1 0
2 1,3 5,7 2,9 5,7 7,7 20,5
3 1,8 5,1 5,1 16,7 3,5 21,4 Phường
Phương Lâm 4 0 14,1 0 11,7 6,2 28,4
5 0 35,5 3,2 0 48 0
2 9,1 7,1 0 50 36,4 9,1
3 1,8 8,4 2,1 8,3 3,6 14,3 Xã
Vân Xuân 4 3,6 6,4 0 14,9 1,8 5,5
5 3,6 3,4 8,6 0 12,5 0
82
Tại xã Cao Mã Pờ, tình trạng SDD thể gầy còm của trẻ ở cả hai giới đều tập
trung vào nhóm 4 tuổi và 5 tuổi. Ở nhóm 4 tuổi tỷ lệ SDD thể gầy còm của trẻ nữ
cao hơn trẻ nam (trẻ nữ: 4,8%; trẻ nam: 3,8%), nhóm 5 tuổi thì tỷ lệ SDD thể gầy
còm của trẻ nam cao hơn nữ (trẻ nữ: 6,9%; trẻ nam: 9,7%). Tại phường Phương
Lâm, tình trạng SDD thể gầy còm ở trẻ nam nhóm 2 tuổi và 3 tuổi thấp hơn ở nữ
(Nhóm 2 tuổi, trẻ nam: 1,3%, trẻ nữ: 2,9%; Nhóm 3 tuổi, trẻ nam: 1,8%, trẻ nữ:
5,1%), nhóm 5 tuổi chỉ có trẻ nữ bị SDD thể gầy còm (3,2%), riêng nhóm 4 tuổi ở
cả 2 giới và nhóm trẻ nam 5 tuổi không bị SDD thể gầy còm. Tại xã Vân Xuân, tỷ lệ
trẻ SDD thể gầy còm cao nằm ở nhóm trẻ nam 2 tuổi và trẻ nữ 5 tuổi (nhóm trẻ nam
2 tuổi: 9,1%; nhóm trẻ nữ 5 tuổi: 8,6%), riêng nhóm trẻ nữ 2 tuổi và 4 tuổi không có
trẻ bị SDD thể gầy còm.
So sánh tình trạng SDD thể gầy còm của trẻ dưới 5 tuổi trong nghiên cứu với
toàn tỉnh chúng tôi thấy, tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm của trẻ ở tất cả các địa bàn
nghiên cứu đều thấp hơn toàn tỉnh tương ứng năm 2015 [76] (Hình 3.6). Tỷ lệ gầy
còm của trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ, phường Phương Lâm và xã Vân Xuân thấp
hơn tương ứng là 5,6%, 6,7%, 3,2% so với toàn tỉnh năm 2015, mức độ giảm tình
trạng SDD thể gầy còm tương đối lớn. So với tình trạng SDD thể gầy còm của cả
nước năm 2015 (6,4%) [76] thì tỷ lệ SDD thể gầy còm của toàn tỉnh Hà Giang và
Hòa Bình lớn hơn.
Hình 3.6. So sánh tỷ lệ suy dinh dƣỡng thể gầy còm của trẻ dƣới 5 tuổi
83
Khác với tình trạng SDD thể gầy còm, tình trạng TC-BP của trẻ hầu như có ở
tất cả các nhóm tuổi và ở cả hai giới. Tại xã Cao Mã Pờ và xã Vân Xuân, tỷ lệ trẻ
TC-BP cao nhất là nhóm trẻ 2 tuổi ở cả hai giới (Xã Cao Mã Pờ, trẻ nam: 34,8%, trẻ
nữ: 30%; Xã Vân Xuân, trẻ nam: 36,1%, trẻ nữ: 7,1%). Tại phường Phương Lâm thì
tỷ lệ trẻ TC-BP cao nhất là nhóm 5 tuổi (trẻ nam: 48%; trẻ nữ: 35,5%). So sánh tình
trạng TC-BP của trẻ mầm non dưới 5 tuổi trong nghiên cứu với tình trạng TC-BP
của toàn tỉnh năm 2015 chúng tôi thu được kết quả trong Hình 3.7.
Hình 3.7. So sánh tỷ lệ thừa cân-béo phì của trẻ dƣới 5 tuổi
Hình 3.7 cho thấy, tỷ lệ trẻ TC-BP dưới 5 tuổi đã gia tăng đáng kể trong
nghiên cứu của chúng tôi tại tất cả các địa bàn nghiên cứu. Tại phường Phương Lâm
và xã Vân Xuân, tỷ lệ TC-BP cao hơn lần lượt là 5,2% và 3,2%, riêng xã Cao Mã
Pờ tỷ lệ TC-BP cao hơn 17,2%. Tỷ lệ TC-BP này cho thấy sự thay đổi về tình hình
dinh dưỡng của các nước đang phát triển hiện nay. Theo nghiên cứu của Popkin
năm 1996, trẻ em 3-6 tuổi và 7-9 tuổi ở 4 nước (Nga, Brazil và Cộng hòa Nam Phi
và Trung Quốc) có mối liên quan có ý nghĩa giữa tình trạng SDD thể thấp còi và
thừa cân, tỷ lệ nguy cơ thừa cân đối với những trẻ SDD thể thấp còi dao động từ 1,7
đến 7,8 lần. Mặc dù cơ chế vẫn chưa được khám phá, nhưng mối liên hệ này vẫn có
ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng, đặc biệt đối với các nước thu nhập
thấp. Khi các quốc gia này bước vào giai đoạn chuyển đổi dinh dưỡng, trải qua
84
những thay đổi lớn trong chế độ ăn uống và sinh hoạt, họ có thể phải đối mặt với
nhiều vấn đề khác nhau, một trong những khó khăn là cuộc chiến chống béo phì
[143]. Tại khu vực khó khăn như xã Cao Mã Pờ, tỷ lệ trẻ SDD cao đồng thời tỷ lệ
trẻ TC-BP cũng cao. Nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như Popkin, đó là
những trẻ SDD thể thấp còi có nguy cơ TC-BP cao gấp 1,84 lần [143] (trẻ SDD thể
thấp còi xã Cao Mã Pờ có nguy cơ TC-BP cao gấp 4,31 lần). Sự nghèo nàn về mặt
kinh tế, chế độ chăm sóc dinh dưỡng không hợp lý đã dẫn đến sự mất cân bằng về
tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Tóm lại, tỷ lệ SDD của trẻ trong nghiên cứu đã giảm và tỷ lệ TC-BP có xu
hướng gia tăng. Cần phải có các biện pháp thích hợp để giảm tỷ lệ SDD hơn nữa, đồng
thời hạn chế tình trạng TC-BP cũng đang gia tăng tại các khu vực nghiên cứu này.
3.1.2.2. Xác định chu vi vòng cánh tay trái duỗi để đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Ở Việt Nam cho đến nay chưa có tài liệu chuẩn xác định chu vi VCTTD
trong chẩn đoán SDD. Vì vậy, chúng tôi tiến hành xác định điểm cắt chu vi VCTTD
của trẻ trong từng khu vực nghiên cứu để đánh giá tình trạng dinh dưỡng.
Mối tương quan giữa tình trạng SDD thể thấp còi, thể nhẹ cân và thể gầy
còm với chu vi VCTTD trong nghiên cứu của chúng tôi được đánh giá bằng tương
quan Pearson.
Bảng 3.27. Mối tƣơng quan giữa tình trạng dinh dƣỡng với
vòng cánh tay trái duỗi
VCTTD Thấp còi Nhẹ cân Gầy còm
r 1 0,338** 0,297** 0,156** VCTTD
p - 0,000 0,000 0,000
n 2090 2090 2090 2090
** Tương quan có mức ý nghĩa 0,01
Bảng 3.27 cho thấy VCTTD có tương quan với tình trạng SDD thể thấp còi,
thể nhẹ cân và thể gầy còm. Chúng tôi tiến hành tính diện tích dưới đường cong
ROC để xác định mức độ ảnh hưởng của tình trạng SDD và VCTTD. Độ chính xác
của chẩn đoán được đo lường bằng diện tích dưới đường cong ROC (UAC). Mức
độ chính xác của chẩn đoán dựa vào hệ thống điểm như sau:
85
0,9-1: Rất tốt; 0,8-0,9: Tốt; 0,7-0,8: Khá tốt
0,6-0,7: Trung bình; 0,5-0,6: Không có ý nghĩa
Sử dụng phần mềm SPSS 11.5 chúng tôi tính được diện tích dưới đường
cong như sau:
Bảng 3.28. Diện tích dƣới đƣờng cong ROC giữa tình trạng suy dinh dƣỡng và
vòng cánh tay trái duỗi
95%CI
UAC p
SDD thể thấp còi và VCTTD 0,721 0,00 Lower Bound 0,697 Upper Bound 0,746
SDD thể nhẹ cân và VCTTD 0,00 0,74 0,803 0,771
SDD thể gầy còm và VCTTD 0,531 0,04 0,454 0,609
Bảng 3.28 cho thấy, diện tích dưới đường cong giữa tình trạng SDD thể nhẹ
cân và VCTTD là lớn nhất 0,771, mức độ chính xác của chẩn đoán khá tốt. Diện
tích dưới đường cong giữa tình trạng SDD thể gầy còm và VCTTD là 0,531 nên
không có ý nghĩa trong chuẩn đoán. Do đó, chúng tôi sử dụng kích thước VCTTD
để đánh giá trình trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ trong nghiên cứu. Đường cong
Độ nhạy
1 – Độ đặc hiệu
ROC giữa SDD thể nhẹ cân và VCTTD (Hình 3.8).
Hình 3.8. Đƣờng cong ROC thể hiện mối liên hệ giữa độ nhạy và độ đặc hiệu
vòng cánh tay trái duỗi của trẻ trong nghiên cứu
86
Để xác định điểm cắt của VCTTD trong đánh giá tình trạng SDD thể nhẹ
cân, chúng tôi dựa vào chỉ số J cao nhất [170], J = Độ đặc hiệu + Độ nhạy – 1.
Bảng 3.29. Xác định điểm cắt của vòng cánh tay trái duỗi
Độ đặc hiệu (Sp) Độ nhạy (Se) Chỉ số J
0 1 0 VCTTD (cm) 10
0,133 0,977 0,11 12,65
0,221 0,953 0,174 13,15
0,46 0,889 0,349 13,65
0,571 0,811 0,382 14,15
0,752 0,654 0,406 14,65
15,15 0,885 0,531 0,416
0,934 0,358 0,292 15,65
0,951 0,218 0,169 16,15
0,982 0,102 0,084 16,65
0,982 0,039 0,021 17,15
1 0 0 21
Từ Bảng 3.29, chúng tôi có thể xác định được điểm cắt tốt nhất cho VCTTD
trong việc đánh giá tình trạng SDD thể nhẹ cân trong nghiên cứu này là 15,15 cm,
tương ứng với độ đặc hiệu 0,885 độ nhạy 0,531 và J = 0,416.
Sau khi tìm được điểm cắt của VCTTD là 15,15 cm, chúng tôi phân tích
được bảng sau:
Tình trạng dinh dƣỡng Tổng
Nhẹ cân Bình thường
200 875 1075 VCTTD < 15 cm
26 989 1015 VCTTD ≥ 15 cm
226 1864 2090 Tổng
Độ nhạy (Se) = = 0,885
Độ đặc hiệu (Sp) = = 0,53
Giá trị tiên đoán dương = = 0,186
87
Giá trị tiên đoán âm = = 0,974
Tỷ lệ dương tính giả = 1 – Sp = 1 – 0,53 = 0,47
Tỷ lệ âm tính giả = 1- Se = 1 – 0,885 = 0,115
Đo kích thước VCTTD là một phương pháp đơn giản, hiệu quả và dễ sử
dụng để đánh giá nhanh được tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong bất cứ khu vực
nghiên cứu nào trên cả nước, đặc biệt áp dụng tốt đối với trẻ mầm non ở những khu
vực có điều kiện hoàn cảnh khó khăn.
3.1.2.3. Các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu
Mỗi đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ đến khi ra đời và lớn lên đều
chịu ảnh hưởng của gia đình, nhà trường, xã hội. Đã có nhiều công trình nghiên cứu
cho thấy các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tình trạng dinh dưỡng
của trẻ, đặc biệt giai đoạn trẻ học trường mầm non như nghề nghiệp [82], trình độ
học vấn của bố mẹ [54, 70, 136], số con trong gia đình [109].v.v. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, đề tìm hiểu các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của
trẻ, chúng tôi sử dụng phiếu khảo sát và thu được kết quả như sau:
Sở thích tham gia các hoạt động Nghề nghiệp bố mẹ Trình độ học vấn của bố mẹ
Thừa cân – béo phì Suy dinh dƣỡng Tình trạng dinh dƣỡng
Số con
Khu vệ sinh
Nguồn nước Mức độ thường xuyên sử dụng thực phẩm chế biến sẵn
Hình 3.9. Các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dƣỡng của trẻ
trong nghiên cứu
88
Mối liên quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và tình trạng dinh dưỡng
Nghề nghiệp của bố mẹ là một yếu tố rất quan trọng, liên quan đến tình hình
kinh tế và mức thu nhập của gia đình. Do đó, nghề nghiệp của bố mẹ có ảnh hưởng
lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Theo nghiên cứu của Almed và cộng sự năm 1991 tại Bangladesh cho thấy,
những trẻ ở những gia đình có thu nhập cao có chiều cao, cân nặng theo tuổi cao
hơn trẻ ở những gia đình có thu nhập thấp [82]. Mối liên quan giữa nghề nghiệp
của bố mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu được thể hiện trong
bảng sau:
Bảng 3.30. Mối liên quan giữa nghề nghiệp bố mẹ và tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng
Cân nặng/tuổi Chiều cao/tuổi Nghề nghiệp của bố mẹ Bình Bình Nhẹ cân Thấp còi thường thường
Nông dân 130 698 454 374
Công nhân viên chức, kinh 96 1166 1046 216 doanh, buôn bán
2,26 3,99 OR
(1,69-3,02) (3,25-4,9) (95%CI)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ gia đình có bố mẹ là nông dân chiếm
39,6%, còn lại 60,4% là gia đình có bố mẹ là công nhân viên chức, kinh doanh,
buôn bán. Những trẻ có bố mẹ là nông dân thường có mức thu nhập không ổn định,
phụ thuộc nhiều vào mùa vụ, vì vậy nguồn thu nhập kinh tế cũng thấp hơn những
trẻ mà bố mẹ là công nhân viên chức, kinh doanh buôn bán.
Bảng 3.30 cho thấy, nghề nghiệp của bố mẹ có ảnh hưởng lớn đến tình trạng
SDD thể nhẹ cân và thể thấp còi của trẻ trong khu vực nghiên cứu. Đối với những
trẻ có bố mẹ là nông dân, khả năng trẻ mắc SDD thể nhẹ cân, thể thấp còi cao gấp
2,26 lần và 3,99 lần so với trẻ có bố mẹ là công nhân viên chức, kinh doanh, buôn
bán. Đặc biệt, tại xã Cao Mã Pờ, đa số bố mẹ của trẻ trong nghiên cứu là nông dân
89
(93,3%), trong đó số trẻ nhẹ cân và trẻ thấp còi trong các gia đình này chiếm tỷ lệ
lần lượt là 23,1%, 74,7%.
Mối liên quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ và tình trạng dinh dưỡng
Học vấn cao là cơ sở để bố mẹ hiểu biết, tiếp thu những thông tin về chăm
sóc trẻ như các thông tin về chăm sóc dinh dưỡng, phòng bệnh, phát hiện sớm các
bệnh cho trẻ, cho phép họ cải thiện môi trường sống, ăn uống có khoa học để giúp
con mình phát triển khỏe mạnh bình thường. Mối liên quan giữa trình độ học vấn
của bố mẹ với tình trạng dinh dưỡng của trẻ được thể hiện trong Bảng 3.31.
Bảng 3. 31. Mối liên quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ và
tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng
Cân nặng/tuổi Chiều cao/tuổi Trình độ học vấn
của bố mẹ Bình Nhẹ cân Bình thường Thấp còi thường
Dưới Trung học cơ sở 46 162 130 78
Trên Trung học cơ sở 180 1702 460 1422
2,68 5,15 OR
(1,84-3,91) (3,78-7,03) (95%CI)
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ SDD thể nhẹ cân, SDD thể còi ở những
trẻ có bố mẹ trình độ học vấn dưới trung học cơ sở cao gấp 2,68 lần và 5,15 lần
những trẻ có bố mẹ trình độ học vấn trên trung học cơ sở.
Nghiên cứu của Nita Bhandari về tình trạng dinh dưỡng của trẻ ở một vùng
giàu có tại Ấn Độ cho biết tỷ lệ SDD tại vùng này rất thấp (6%) và hầu hết các bà
mẹ ở đây học hết trung học phổ thông, một nửa trong số đó học hết đại học [136].
Một số nghiên cứu của Sở Y tế Hà Nội cho thấy, người mẹ có trình độ học vấn càng
cao thì càng có điều kiện hiểu biết các kiến thức dinh dưỡng và các vấn đề có liên
quan trực tiếp đến việc chăm sóc, nuôi dạy con tốt hơn, do vậy trẻ em có tỷ lệ SDD
thấp hơn so với bà mẹ có trình độ học vấn thấp [54]. Nghiên cứu của Phan Văn Hải
90
và cộng sự cho thấy trình độ học vấn của bà mẹ là yếu tố liên quan mật thiết đến
tình trạng dinh dưỡng của trẻ (con của những người mẹ mù chữ có tỷ lệ SDD cao
nhất) [11]. Nghiên cứu của Lê Danh Tuyên và cộng sự cho thấy, tỷ lệ SDD thể thấp
còi có liên quan đến các yếu tố trình độ văn hóa của bố mẹ [70]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ bố mẹ có trình độ học vấn dưới trung học cơ sở chiếm 9,95%,
trong đó tập trung cao nhất tại xã Cao Mã Pờ. Tại xã Cao Mã Pờ, tỷ lệ bố mẹ có
trình độ học vấn dưới trung học cơ sở chiếm 38,1%, trong đó còn có 9,3% số gia
đình có bố mẹ không biết chữ, tỷ lệ trẻ bị SDD thể nhẹ cân và thể thấp còi trong các
gia đình này lần lượt là 24,3%; 82,4%.
Trình độ học vấn của bố mẹ cao đồng nghĩa với việc nhận thức và tiếp thu
các kiến thức về chăm sóc con cái, cũng như dễ có được những công việc tốt tạo thu
nhập ổn định, như vậy sẽ có điều kiện tốt hơn để chăm sóc con cái. Trình độ học
vấn của mẹ thể hiện qua cách chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ. Bà mẹ có trình độ học
vấn thấp sẽ ảnh hưởng tới việc tiếp thu những phương pháp khoa học trong việc
nuôi dạy trẻ. Đồng thời khả năng tiếp cận với những phương pháp khoa học được
tuyên truyền qua các phương tiện công nghệ hiện đại cũng không tốt nên việc nuôi
con dễ dẫn đến dựa vào thói quen, những tập quán đã lạc hậu…
Mối liên quan giữa số con trong mỗi gia đình và tình trạng dinh dưỡng
Số con trong gia đình cũng phản ánh được mức độ chăm sóc dinh dưỡng của
bố mẹ đến các con, những gia đình có số con đông sẽ dẫn theo gánh nặng về mặt
kinh tế và thời gian chăm sóc cho trẻ. Đặc biệt đối với các gia đình thuộc khu vực
có nền kinh tế khó khăn thì số con trong gia đình ảnh hưởng càng lớn, gia đình càng
đông con thì kinh tế càng khó khăn, chất lượng cuộc sống thấp và thời gian chăm
sóc cho từng trẻ càng ít. Năm 1991, một nghiên cứu của Greteh H. về trẻ em ở
Mexico cho thấy có mối liên hệ giữa yếu tố kinh tế xã hội với khẩu phần ăn và tình
trạng dinh dưỡng của trẻ. Gia đình có đông con có chế độ ăn nghèo nàn hơn gia
đình có ít con, đặc biệt thức ăn có nguồn gốc động vật, nghiên cứu cũng cho thấy trẻ
sinh ra trong gia đình đông con thì có chiều cao thấp hơn [109].
91
Bảng 3.32. Mối liên quan giữa số con trong mỗi gia đình với
tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng chiều cao/tuổi Số con trong gia đình Thấp còi Bình thường
Từ 3 con trở lên 176 242
Có 1 hoặc 2 con 414 1258
2,21 OR
(1,76-2,78) (95%CI)
Bảng 3.32 cho thấy, những gia đình có số con từ 3 con trở lên thì trẻ có
nguy cơ mắc SDD thể thấp còi cao gấp 2,21 lần những gia đình chỉ có 1 hoặc 2
con. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Lê Danh
Tuyên, đó là các gia đình càng đông con thì mức độ quan tâm, chăm sóc cho trẻ
càng ít, tỷ lệ SDD của trẻ trong những gia đình trên 2 con cao hơn những gia đình
có 1 hoặc 2 con [70]. Đặc biệt trong nghiên cứu này, tỷ lệ các gia đình đông con
tập trung chủ yếu tại xã Cao Mã Pờ và xã Vân Xuân. Tại xã Cao Mã Pờ, tỷ lệ gia
đình có từ 3 con trở lên chiếm 42,3% (trong đó có 52/388 hộ gia đình có 4 con trở
lên), tại xã Vân Xuân tỷ lệ gia đình có 3 con trở lên cũng tương đối cao (27,8%),
tỷ lệ gia đình có 3 con trở lên tại phường Phương Lâm là thấp nhất (6,1%). Nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu cùng với tỷ lệ gia đình có đông con cao làm cho tỷ lệ
trẻ SDD của xã Cao Mã Pờ trong các hộ gia đình này cũng ở mức rất cao (81,7%).
Trong khi đó, tại hai khu vực nghiên cứu còn lại có nền kinh tế phát triển hơn,
cùng với tỷ lệ gia đình có đông con ít hơn nên tỷ lệ trẻ SDD tại các gia đình đông
con của hai khu vực này thấp hơn (phường Phương Lâm: 12,9%; xã Vân Xuân:
17,7%). Từ kết quả nghiên cứu này chúng tôi thấy rằng, việc tuyên truyền và phổ
biến các biện pháp kế hoạch hóa gia đình là rất cần thiết đối với tất cả các khu vực
trên cả nước, đặc biệt là những khu vực miền núi có nền kinh tế còn khó khăn.
Việc sinh con ít sẽ giảm bớt gánh nặng kinh tế cũng như tăng điều kiện chăm sóc
cho trẻ tốt hơn trong mỗi gia đình.
92
Mối liên quan giữa nguồn nước sử dụng trong sinh hoạt của gia đình và tình
trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu
Nước là một thành phần quan trọng nhất trong cơ thể con người, nó có thể là
dung môi cho các phản ứng hóa học, là chất tham gia phản ứng, cung cấp một số
chất khoáng, điều hòa nhiệt độ cơ thể … Nước luôn luôn cần thiết và cần được cung
cấp đầy đủ, thường xuyên để cơ thể có thể hoạt động tốt nhất. Tuy nhiên, nguồn
nước sử dụng hằng ngày trong mỗi gia đình cũng cần phải được đảm bảo để tránh
các tác nhân gây bệnh, đặc biệt đối với hệ tiêu hóa còn non nớt của trẻ nhỏ. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, nguồn nước các gia đình sử dụng cũng có ảnh hưởng
tương đối lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Bảng 3.33. Mối liên quan giữa nguồn nƣớc sử dụng trong sinh hoạt của gia
đình với tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng cân nặng/tuổi Nguồn nƣớc sử dụng sinh hoạt Nhẹ cân Bình thường
Giếng khơi, Sông, Suối 86 294
Nước máy, giếng khoan, nước mưa 140 1570
3,28 OR
(2,41-4,46) (95%CI)
Tỷ lệ các gia đình sử dụng nguồn nước đảm bảo đã qua xử lý là nước máy,
nước giếng khoan, nước mưa trong sinh hoạt tương đối cao (81,8%), còn lại 18,2%
các hộ gia đình sử dụng nguồn nước không đảm bảo (nước giếng khơi, nước sông,
suối). Hiện nay, môi trường bị ô nhiễm tương đối nặng, việc sử dụng các nguồn
nước không qua xử lý rất dễ gây ra nhiều bệnh, đặc biệt với trẻ nhỏ như giun, tiêu
chảy hoặc các bệnh đường ruột khác.
Bảng 3.33 cho thấy, những gia đình sử dụng nguồn nước sinh hoạt là nước
giếng khơi, nước sông, suối thì khả năng trẻ mắc SDD thể nhẹ cân cao gấp 3,28
lần những gia đình sử dụng nước máy, nước giếng khoan, nước mưa. Tại xã Cao
Mã Pờ, đa số các gia đình vẫn sử dụng nguồn nước chính là nước sông, suối
(71,1%) và tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân trong những gia đình này chiếm 27,5%. Tỷ
93
lệ các gia đình sử dụng nguồn nước không đảm bảo tại phường Phương Lâm, xã
Vân Xuân tương đối thấp (5,3%; 7,2%) và tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân lần lượt là
(7,4%; 12%).
Mối liên quan giữa khu vệ sinh của gia đình và tình trạng dinh dưỡng
Khu vực vệ sinh ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của mỗi gia đình, đặc biệt
là môi trường sống hằng ngày và an toàn vệ sinh thực phẩm. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, phường Phương Lâm có 97,8% các gia đình sử dụng hố xí tự hoại,
hố xí 2 ngăn để tránh gây ô nhiễm môi trường, đồng thời tránh gây lan truyền dịch
bệnh. Ngược lại, xã Cao Mã Pờ thì đa số các gia đình (82,5%) sử dụng hố xí tự
đào hoặc không sử dụng hố xí trong sinh hoạt hằng ngày. Sự ảnh hưởng của khu
vực vệ sinh của gia đình với tình trạng dinh dưỡng của trẻ trong nghiên cứu được
thể hiện trong Bảng 3.34.
Bảng 3.34. Mối liên quan giữa khu vệ sinh của gia đình
với tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng cân nặng/tuổi Khu vệ sinh gia đình Nhẹ cân Bình thường
Hố xí tự đào, không có hố xí 90 292
Hố xí tự hoại, hố xí hai ngăn 136 1572
3,56 OR
(2,63-4,63) (95%CI)
Bảng 3.34 cho thấy, khu vệ sinh của gia đình ảnh hưởng rất lớn đến tình
trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ. Những gia đình không có hố xí hoặc sử dụng hố xí
tự đào thì khả năng trẻ mắc SDD thể nhẹ cân cao gấp 3,56 lần những gia đình sử
dụng hố xí tự hoại hoặc hố xí hai ngăn. Đặc biệt tại xã Cao Mã Pờ, trong số những
gia đình không có hố xí hoặc hố xí tự đào có 26,25% trẻ SDD thể nhẹ cân, còn
trong những gia đình có sử dụng hố xí tự hoại hoặc hố xí hai ngăn tại khu vực này
tỷ lệ trẻ nhẹ cân thấp hơn (17,6%). Tại xã Vân Xuân, tỷ lệ gia đình dùng hố xí tự
đào chiếm 5,8%, trong đó tỷ lệ trẻ nhẹ cân trong những gia đình này chiếm 15%.
94
Mối liên quan giữa sở thích hoạt động của trẻ và tình trạng dinh dưỡng
Thường xuyên tham gia các hoạt động vận động, thể dục thể thao giúp trẻ
khỏe mạnh, tăng cường thể lực, tăng sức đề kháng của cơ thể. Những trẻ mắc bệnh
TC-BP thường ít tham gia các hoạt động vận động, mà thường dành nhiều thời gian
cho các hoạt động tĩnh. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có mối liên quan giữa
hoạt động vận động với tình trạng TC-BP của trẻ.
Bảng 3. 35. Mối liên quan giữa hoạt động vận động của trẻ
với tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng Sở thích hoạt động Thừa cân-béo phì Bình thường
Chơi điện tử, xem tivi, hoạt động tĩnh nhiều 340 820
Rèn luyện thể dục thể thao 188 690
1,52 OR
(1,23-1,88) (95%CI)
Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng, những trẻ thường xuyên chơi điện tử, xem
tivi, hoạt động tĩnh nhiều thì khả năng trẻ mắc TC-BP cao hơn 1,52 lần những trẻ
chăm chỉ luyện tập thể dục thể thao. Khi điều tra sâu tại địa bàn phường Phương
Lâm chúng tôi thấy rằng có 50,4% số trẻ thường xuyên xem tivi trên 2h/ ngày, trong
số đó có 6,7% trẻ bị TC-BP và 18,4% trẻ có nguy cơ thừa cân. Vì vậy, các gia đình
nên khuyến khích trẻ thường xuyên tham gia các hoạt động vận động, thể dục thể
thao để giảm tình trạng TC-BP. Ngoài ra cũng nên hạn chế cho trẻ xem tivi, vì làm
hạn chế những hoạt động vận động đồng thời cũng là một yếu tố gây nguy hại cho
thị giác của trẻ.
Mối liên quan giữa mức độ thường xuyên ăn thực phẩm chế biến sẵn và tình
trạng dinh dưỡng
Đồ ăn sẵn có rất nhiều tác dụng khi chăm sóc trẻ như sự tiện lợi, làm nhanh,
nhiều hương vị kích thích vị giác của trẻ … Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực
đó thì cũng có rất nhiều mặt có hại đối với tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Trong đồ
ăn sẵn thường chứa đường, muối, dầu mỡ với hàm lượng cao, có chất bảo quản,
95
ngoài ra nhiều loại vitamin, khoáng chất đã bị phân hủy. Vì vậy những gia đình cho
trẻ sử dụng đồ ăn sẵn thường xuyên có thể ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của
trẻ. Trong nghiên cứu của chúng tôi, sở thích ăn uống những thực phẩm chế biến
sẵn của trẻ có ảnh hưởng đến tình trạng TC-BP, mức độ ảnh hưởng này được thể
hiện trong Bảng 3.36.
Bảng 3.36. Mối liên quan giữa sở thích ăn thực phẩm chế biến sẵn
với tình trạng dinh dƣỡng
Tình trạng dinh dƣỡng Sở thích ăn thực phẩm
Thừa cân-béo phì Bình thường chế biến sẵn
Có 258 658
Không 270 852
1,24 OR
(1,01-1,52) (95%CI)
Bảng 3.36 cho thấy, những trẻ có sở thích ăn thực phẩm chế biến sẵn có
nguy cơ TC-BP cao gấp 1,24 lần những trẻ không thích ăn thực phẩm chế biến sẵn.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ trẻ có sở thích ăn thực phẩm chế biến sẵn tương đối cao
(43,8%). Tỷ lệ trẻ mầm non thích sử dụng thực phẩm chế biến tại phường Phương
Lâm là lớn nhất (54,7%), thấp hơn là trẻ mầm non xã Cao Mã Pờ (44,3%) và xã
Vân Xuân là 30,7%. Ngoài ra, theo khảo sát của chúng tôi, đa số trẻ trong nghiên
cứu có sở thích ăn bánh kẹo ngọt (81,8%), đây là một trong những yếu tố làm tăng
nguy cơ TC-BP ở trẻ. Vì vậy, để giảm thiểu tình trạng TC-BP của trẻ, các gia đình
nên hạn chế cho trẻ sử dụng đồ ngọt, thực phẩm, đồ ăn chế biến sẵn. Các gia đình
và nhà trường nên bổ sung các thực phẩm có nguồn gốc tự nhiên, giàu dinh dưỡng
để trẻ có thể phát triển khỏe mạnh, toàn diện.
3.1.3. Mô hình hồi quy đa biến logistic dự đoán tình trạng dinh dưỡng của trẻ
trong nghiên cứu
Để dự đoán tình trạng SDD và TC-BP của trẻ trong nghiên cứu, chúng tôi tiến
hành khảo sát bằng phiếu phỏng vấn đối với phụ huynh của trẻ mầm non. Từ những
dữ liệu thu thâp được trong phiếu khảo sát chúng tôi tiến hành xây dựng phương trình
hồi quy logistic dự đoán tình trạng SDD và TC-BP của trẻ trong nghiên cứu.
96
Áp dụng các tiêu chí về mô hình hồi quy logistic tối ưu, chúng tôi tiến hành
lựa chọn các biến độc lập là các câu hỏi trong phiếu khảo sát phù hợp với từng biến
phụ thuộc. Các biến độc lập được chúng tôi mã hóa thành các biến thứ tự (phụ lục
6) để đưa vào phân tích hồi quy logistic.
+ Mô hình hồi quy logistic với tình trạng SDD thể nhẹ cân là biến phụ thuộc
Các biến độc lập trong mô hình phân tích hồi quy logistic là C1, C2, C6,
C34, C38, C39, C40, trong đó :
Trình độ học vấn của bố mẹ?
C1 Nghề nghiệp của bố mẹ?
Sau khi sinh bao lâu thì trẻ được cai sữa mẹ?
C2
Trẻ có hay xem tivi không?
C6
Gia đình dùng nguồn nước nào để ăn uống?
C34
Loại nhà vệ sinh gia đình đang sử dụng?
C38
Theo anh (chị) cần rửa tay sạch cho trẻ khi nào?
C39
C40
Kiểm định Chi bình phương cho thấy mô hình hồi quy phù hợp với tổng thể (p < 0,05).
Chi bình phƣơng df p
Step 95,457 7 0,000
Block 95,457 7 0,000
Model 95,457 7 0,000
Trong mô hình này có trị số -2LL = 1336,595
Step -2 LL Cox & Snell R Square Nagelkerke R Square
1 1336,595 0,045 0,090
Tỷ lệ dự đoán đúng của phương trình hồi quy dự đoán tình trạng SDD thể
nhẹ cân của trẻ trong nghiên cứu là 89,2%.
SDD Tỷ lệ dự Bình thƣờng thể nhẹ cân đoán đúng
224 0,9 2 SDD thể nhẹ cân
1862 99,9 2 Bình thƣờng
89,2 Tỷ lệ dự đoán đúng trung bình
97
Hệ số hồi quy logistic của các yếu tố trong mô hình hồi quy đa biến được thể
hiện trong Bảng 3.37.
Bảng 3.37. Hệ số hồi quy của các yếu tố liên quan trong phƣơng trình
hồi quy đa biến dự đoán tình trạng suy dinh dƣỡng thể nhẹ cân
của trẻ trong nghiên cứu
95,0% CI B S.E. p OR Lower Upper
-0,148 0,116 0,204 0,862 0,686 1,084 C1
0,256 0,115 0,026 1,292 1,031 1,619 C2
0,142 0,107 0,182 1,153 0,936 1,421 C6
0,358 0,168 0,033 1,430 1,029 1,987 C34
0,218 0,125 0,080 1,244 0,974 1,588 C38
0,971 0,187 0,000 2,641 1,832 3,807 C39
0,003 0,496 0,315 0,782 -0,701 0,232 C40
0,433 0,541 -0,615 0,785 Constant
Bảng 3.37 cho thấy, các biến độc lập C2, C34, C39, C40 có ảnh hưởng đến
biến phụ thuộc là tình trạng SDD thể nhẹ cân (p < 0,05). Phương trình hồi quy đa
biến dự đoán tình trạng SDD thể nhẹ cân của trẻ trong nghiên cứu:
Y1 = -0,615 + 0,256*C2 + 0,358*C34 + 0,971*C39 – 0,701*C40
Ví dụ: Nếu trẻ có bố mẹ có trình độ học vấn bậc trung học phổ thông (C2 =
4); trẻ thường xuyên xem tivi (C34 = 2); gia đình sử dụng hố xí tự hoại (C39 = 3),
trẻ chỉ rửa tay trước khi ăn (C40 = 2) thì ta có:
Y1 = -0,615 + 0,256*4 + 0,358*2 + 0,971*3 – 0,701*2 = 2,636
p = = 0,933 (93,3%)
Xác suất trẻ bị SDD thể nhẹ cân trong trường hợp này là 93,3%
Phân tích tương tự với mô hình hồi quy logistic về tình trạng SDD thể
thấp còi và TC-BP của trẻ trong nghiên cứu (Phụ lục 7), chúng tôi thu được kết
quả như sau:
98
+ Mô hình hồi quy logistic dự đoán tình trạng SDD thể thấp còi của trẻ trong
nghiên cứu.
Các biến độc lập trong phân tích mô hình hồi quy logistic là C1, C2, C6,
C14, C38, C39, C40, C42.
Các biến độc lập C2, C6, C14, C38, C39, C42 có ảnh hưởng đến biến phụ
thuộc là tình trạng SDD thể thấp còi (p < 0,05). Phương trình hồi quy đa biến dự
Y2 = -3,628 + 0,268*C2 – 0,354*C6 + 0,502*C14 + 0,356*C38 + 1,254*C39 –
0,355*C42
đoán tình trạng SDD thể thấp còi của trẻ trong nghiên cứu:
+ Mô hình hồi quy logistic dự đoán tình trạng TC-BP của trẻ trong nghiên cứu.
Các biến độc lập trong phân tích mô hình hồi quy logistic là C1, C2, C6,
C14, C30, C31, C34, C39, trong đó:
C1 Nghề nghiệp của bố mẹ?
Trình độ học vấn của bố mẹ?
C2
Sau khi sinh bao lâu thì trẻ được cai sữa mẹ?
Gia đình có thường xuyên theo dõi cân nặng, chiều cao của trẻ không?
C6
Trẻ có hay ăn thực phẩm chế biễn sẵn không
C14
Trẻ có hay ăn bánh kẹo ngọt không?
C30
Trẻ có hay xem tivi không?
C31
Loại nhà vệ sinh gia đình đang sử dụng?
C34
C39
Các biến độc lập C2, C14, C31 có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc là tình
trạng TC-BP (p < 0,05). Phương trình hồi quy đa biến dự đoán tình trạng TC-BP
của trẻ trong nghiên cứu:
Y3 = 2,823 - 0,336*C2 +0,597*C14 – 0,541*C31
3.2. Thực trạng sâu răng và các yếu tố liên quan của trẻ trong nghiên cứu
3.2.1. Thực trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu
Sâu răng là một trong những bệnh rất phổ biến ở trẻ em Việt Nam cũng như
toàn thế giới, sâu răng để lại nhiều hậu quả cho trẻ nếu không được thăm khám và
điều trị kịp thời. Sâu răng sữa có thể làm cho trẻ chán ăn, bỏ bữa, ảnh hưởng đến thể
chất và tâm lý của trẻ.
99
Để đánh giá tình trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu, chúng tôi dựa vào
hai tiêu chí của WHO:
- Tỷ lệ hiện mắc sâu răng để đánh giá tình hình lưu hành sâu răng tại cộng đồng.
- Chỉ số smt để đánh giá nguy cơ sâu răng trong cộng đồng.
Sau khi khám lâm sàng cho tất cả trẻ, chúng tôi thấy tỷ lệ sâu răng chung của
trẻ trong nghiên cứu là 56,1%. Tuy nhiên, tại mỗi địa bàn nghiên cứu tỷ lệ sâu răng
của trẻ có sự khác nhau, sự chênh lệch về tỷ lệ sâu răng của trẻ trong nghiên cứu
được thể hiện trong Bảng 3.38.
Bảng 3.38. Tỷ lệ sâu răng của trẻ trong nghiên cứu
Tình trạng sâu răng
Địa bàn nghiên cứu Sâu răng Không sâu răng
n % p n %
Xã Cao Mã Pờ 218 56,2 170 43,8
Phường Phương Lâm 45,7 < 0,05 462 550 54,3
Xã Vân Xuân 492 71,3 198 28,7
Chung 1172 56,1 918 43,9
Bảng 3.38 cho thấy, tỷ lệ trẻ mầm non mắc sâu răng cao nhất trong nghiên
cứu của chúng tôi là ở xã Vân Xuân (71,3%), thấp hơn là xã Cao Mã Pờ (56,2%),
thấp nhất là tại phường Phương Lâm (45,7%), (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p <
0,05). Theo WHO, có 3 mức phân loại tình trạng sâu răng của trẻ, xếp loại thấp (tỷ
lệ sâu răng <50%), xếp loại trung bình (tỷ lệ sâu răng 50% - 80%), xếp loại cao (tỷ
lệ sâu răng > 80%) [173]. Dựa vào thang phân loại của WHO thì tỷ lệ sâu răng
chung của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi thuộc loại trung bình (56,1%), trong
đó tỷ lệ sâu răng của trẻ tại xã Cao Mã Pờ và xã Vân Xuân thuộc loại trung bình
(56,1% và 71,3%), tại phường Phương Lâm xếp loại thấp (45,7%).
Tình trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu có sự khác nhau theo tuổi và
giới tính. Sự khác nhau về tỷ lệ sâu răng theo tuổi và giới tính được thể hiện trong
Bảng 3.39.
100
Bảng 3.39. Tình trạng sâu răng của trẻ theo tuổi và giới tính trong nghiên cứu
Giới tính Tỷ lệ sâu răng Nam Nữ Tuổi p chung (%) n % n %
62 27,7 74 35,6 2 > 0,05 31,5
148 54 144 49,7 3 > 0,05 51,8
228 70,4 196 64,1 4 > 0,05 67,3
160 70,2 160 67,7 5 > 0,05 69
598 56,9 574 55,2 Tổng > 0,05 56,1
Bảng 3.39 cho thấy, tỷ lệ sâu răng trung bình của trẻ nam là 56,9%, trẻ nữ là
55,2%, (sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, p > 0,05). Tỷ lệ sâu răng chung của
trẻ tăng dần theo nhóm tuổi (thấp nhất là nhóm 2 tuổi: 31,5%; cao nhất là nhóm 5
tuổi: 69%), (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Khi phân tích tỷ lệ sâu răng của trẻ trong mỗi địa bàn nghiên cứu theo từng
nhóm tuổi cũng có sự khác nhau (Hình 3.10).
Hình 3.10. Tỷ lệ sâu răng của trẻ theo nhóm tuổi trong mỗi địa bàn nghiên cứu
Hình 3.10 cho thấy, tỷ lệ sâu răng của trẻ tại mỗi địa bàn nghiên cứu đều
tăng dần theo độ tuổi (riêng xã Vân Xuân tỷ lệ sâu răng của trẻ nhóm 5 tuổi thấp
hơn so với nhóm 4 tuổi). Trong nhóm 2 tuổi, tỷ lệ sâu răng của trẻ cao nhất tại xã
101
Cao Mã Pờ (48,8%), trong các nhóm 3 tuổi, 4 tuổi, 5 tuổi thì tỷ lệ sâu răng tại xã
Vân Xuân luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (77,5% và 72,8%) (sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, p < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, ngay từ nhỏ trẻ đã rất dễ bị
mắc bệnh sâu răng. Sâu răng từ giai đoạn sớm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng nhai,
thẩm mỹ và có thể ảnh hưởng đến thể chất của trẻ trong quá trình phát triển.
Khi đánh giá tình trạng sâu răng của trẻ theo các dân tộc, chúng tôi thấy rằng
tỷ lệ sâu răng trung bình của trẻ em dân tộc Kinh, Mường, Mông, Hán, Dao lần lượt
là 59,5%, 47,3%, 65,9%, 51,5%, 54,9%. Chỉ có tỷ lệ sâu răng của trẻ mầm non dân
tộc Mường xếp loại thấp, còn lại trẻ mầm non các dân tộc khác trong nghiên cứu
xếp loại trung bình theo phân loại của WHO [173].
So sánh tỷ lệ sâu răng của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi với một số
nghiên cứu khác thu được kết quả thể hiện trong Bảng 3.40.
Bảng 3.40. So sánh tỷ lệ sâu răng của trẻ với một số nghiên cứu
Tỷ lệ sâu răng Các nghiên cứu Tỷ lệ chung 2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi 5 tuổi
56,1% 31,5% 51,7% 67,3% 69% Vũ Văn Tâm (2018)
22,7% - - - - Dye B.A et al. (US-2015) [100]
51,4% - 42,6% 50,7% 60,9% Mahejabeen R. et al. (Ấn Độ - 2006) [127]
89,6% - 85% 90% 94% Carino et.al (Philippine - 2003) [91]
81,6% - - - - Bộ Y tế (Việt Nam -2010) [1]
Bảng 3.40 cho thấy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với một số
nghiên cứu khác trong nước và trên thế giới, đó là có tỷ lệ sâu răng tăng dần giữa
các nhóm tuổi. Tỷ lệ sâu răng chung của trẻ mầm non trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn nghiên cứu của Mahejabeen R. (Ấn Độ - 2006) [127] và Dye B.A.
(US-2015) [100] nhưng thấp hơn nghiên cứu của Carino (Philippine - 2003) [91]
và điều tra của Bộ Y tế năm 2010 [1]. Ngoài ra, theo nghiên cứu của Dye B.A và
102
cộng sự năm 2015 tại Hoa Kỳ, tỷ lệ sâu răng của trẻ 2-8 tuổi chiếm 37%, trong đó
tỷ lệ sâu răng nhóm 2-5 tuổi là 22,7% [100], tức là tỷ lệ sâu răng của trẻ trong
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn rất nhiều. Tỷ lệ răng được điều trị của trẻ nhóm
2-5 tuổi trong nghiên cứu của Dye B.A. rất cao (90%), do đó tỷ lệ sâu răng trong
nghiên cứu này rất thấp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự phân bố sâu răng theo vị trí của răng
cũng có sự khác nhau, tỷ lệ sâu răng phần lớn ở các răng hàm (Bảng 3.41).
Bảng 3.41. Phân bố sâu răng theo vị trí răng
% 2,3 2.3 3,3 2,1 1,2 1,6 7,8 9,6 8,6 8,4
Răng 55 54 53 52 51 61 62 63 64 65
Răng 85 84 83 82 81 71 72 73 74 75
% 2,9 1,2 1,3 1,6 1,0 3,1 22,3 23,7 26,2 21,3
Bảng 3.41 cho thấy tỷ lệ mắc sâu răng theo vị trí răng của trẻ giảm dần theo
trình tự sau: cao nhất là nhóm các răng hàm hàm dưới (21,3% - 26,2%); thấp hơn
là các răng hàm hàm trên (7,8% - 9,6%), ít gặp hơn ở các răng tiền hàm, răng cửa,
răng nanh (1,0% - 3,3%). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như kết quả
nghiên cứu của Jean-Marc Brodeur (2006) [115], đó là mức độ sâu răng ảnh
hưởng nhiều nhất là bốn răng hàm sữa thứ hai (24%) và răng hàm sữa thứ nhất
hàm dưới (21%), các răng cửa trên (4-8%), các răng nanh (1,5-2%), răng cửa hàm
dưới ít bị ảnh hưởng (0,7%). Trong bộ răng sữa các răng hàm đóng vai trò nhai
chính, cấu trúc giải phẫu có các hố rãnh nên dễ mắc đọng thức ăn và dễ bị sâu hơn
các răng khác.
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán dựa theo hệ thống
đánh giá và phát hiện sâu răng quốc tế (ICDAS) [156], nhằm phát hiện cả các mức độ
tổn thương của sâu răng. Kết quả trong Bảng 3.42 cho thấy, các tổn thương sâu giai
đoạn sớm (ICDAS 1-2) chiếm 4,8% (trong đó tại phường Phương Lâm tỷ lệ sâu răng
sớm cao nhất 10,7%), các tổn thương sâu răng đã hình thành lỗ sâu (ICDAS 3-4-5-6)
chiếm 95,2%. Do hạn chế trong quá trình thăm khám tại cộng đồng, điều kiện hỗ trợ
về ánh sáng, thổi khô chưa thật chuẩn xác nên quá trình phát hiện các tổn thương sâu
sớm có thể còn chưa đầy đủ, nên theo chúng tôi tỷ lệ này có thể cao hơn nữa.
103
Bảng 3.42. Tỷ lệ sâu răng theo độ sâu tổn thƣơng
Độ sâu tổn thƣơng Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Sâu răng giai đoạn sớm ICDAS 1-2 154 4,8%
Sâu răng đã hình thành lỗ sâu ICDAS 3-4-5-6 3022 95,2%
3176 100% Tổng
Nếu phát hiện được sâu răng sớm và kịp thời áp dụng các biện pháp kiểm
soát - dự phòng sâu răng, nhằm ngăn chặn sự tiến triển của tổn thương và ngăn chặn
sự lan rộng vi khuẩn sang bề mặt khác, mức độ trầm trọng của bệnh sẽ giảm và quá
trình điều trị trở nên đơn giản, hiệu quả hơn.
Để đo lường mức độ của bệnh sâu răng, chúng tôi dùng chỉ số smt (chỉ số
smt của từng người có thể ghi từ 0 đến 20). Chỉ số smt của trẻ trong nghiên cứu
được thể hiện trong Bảng 3.43.
Bảng 3.43. Chỉ số smt của trẻ trong nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu p Chỉ số smt
n = 388 Sâu răng 656 Mất răng 18 Trám răng 6 Xã 1,75 Cao Mã Pờ Trung bình 1,69 0,04 0,02
n = 1012 1210 14 64 Phường 1,27 < 0,05 Phương Lâm Trung bình 1,19 0,01 0,07
n = 690 1310 74 40 Xã 2,06 Vân Xuân Trung bình 1,89 0,11 0,06
Chung (n = 2090) 3176 106 110 1,62
Chỉ số smt chung của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,62, trong đó chỉ
số smt cao nhất tại xã Vân Xuân (smt = 2,06), thấp nhất là tại phường Phương Lâm
(smt = 1,27). Chỉ số smt cũng cho thấy rằng, tỷ lệ răng sâu trung bình tại phường
Phương Lâm thấp nhất (1,19), đồng thời sự quan tâm của gia đình tới vấn đề sâu
răng của trẻ cao nhất thông qua tỷ lệ trám răng của trẻ (64/1012). Còn tỷ lệ trung
bình răng được trám lại xã Vân Xuân và xã Cao Mã Pờ thấp hơn, lần lượt là (40/690
và 6/388). Điều này cho thấy, tại những khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội phát
triển như phường Phương Lâm thì vấn đề chăm sóc răng miệng của trẻ được phụ
huynh quan tâm hơn so với những khu vực có nền kinh tế còn thấp như ở nông thôn
104
(xã Vân Xuân) và khu vực miền núi (xã Cao Mã Pờ). Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy, đa số các răng sâu của trẻ hầu như không được điều trị. Tương tự như kết quả
nghiên cứu của Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải năm 2001 [66], tỷ lệ sâu răng sữa
trẻ 6-8 tuổi có tỷ lệ lớn (85%) nhưng hầu hết không được điều trị (95%). Điều đó
chỉ ra một thực tế rằng, sâu răng trẻ em vẫn chưa được cộng đồng quan tâm đúng
mức. Đó cũng chính là một lý do góp phần làm cho tình trạng sâu răng trẻ nhỏ trở
nên phức tạp và khó điều trị.
Khi phân tích chỉ số smt của trẻ theo giới tính và nhóm tuổi chúng tôi thu
được kết quả trong Bảng 3.44 và Bảng 3.45.
Bảng 3.44. Chỉ số smt của trẻ theo giới tính trong nghiên cứu
Trám Giới tính Sâu răng Mất răng Chỉ số smt p răng
n = 1050 1614 36 66 Nam 1,63 Trung bình 1,54 0,03 0,06 < 0,05 n = 1040 1562 70 44 Nữ 1,61 Trung bình 1,5 0,07 0,04
Bảng 3.44 cho thấy, chỉ số smt của trẻ ở cả hai giới trong nghiên cứu của
chúng tôi gần tương đương nhau (chỉ số smt của trẻ nam: 1,63; trẻ nữ: 1,61). Tuy
nhiên, tỷ lệ mất răng trung bình của nữ cao hơn ở nam (trẻ nữ: 0,07; trẻ nam: 0,03),
trong khi đó tỷ lệ trẻ nam được trám răng cao hơn của nữ (trẻ nam: 0,06; trẻ nữ:
0,04) (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05).
Bảng 3.45. Chỉ số smt của trẻ theo tuổi trong nghiên cứu
Tuổi Sâu răng Mất răng Trám răng Chỉ số smt
n = 432 262 0 2 2 0,61 Trung bình 0,6 0 0,01
n = 564 776 12 18 3 1,43 Trung bình 1,38 0,02 0,03
n = 630 1168 28 34 4 1,95 Trung bình 1,86 0,04 0,05
n = 464 970 66 56 5 2,35 Trung bình 2,09 0,14 0,12
105
Bảng 3.45 cho thấy, chỉ số smt của trẻ trong nghiên cứu tăng dần theo
nhóm tuổi, cao nhất là nhóm 5 tuổi (2,35), thấp nhất là nhóm 2 tuổi (0,61). So
sánh chỉ số smt trong nghiên cứu của chúng tôi với một số nghiên cứu khác thu
được kết quả như sau:
Bảng 3.46. So sánh chỉ số smt với một số nghiên cứu
Chỉ số smt Tác giả 2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi 5 tuổi
Vũ Văn Tâm (2019) 0,61 1,43 1,95 2,35
Tang J.M. (1997) [163] - - 2,36 -
Mahejabeen R. (2006) [127] - - - 2,69
Carino K.M.G.(2003) [91] - 8,8 9,9 10,1
Hua M. (2013) [113] - - - 3,9
Bảng 3.46 cho thấy, so với một số nghiên cứu trong nước và quốc tế thì chỉ
số smt của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi đều thấp hơn ở tất cả các nhóm tuổi,
đặc biệt trong nghiên cứu của Carino K.M.G tại Philipine chỉ số smt ở các nhóm
tuổi đều rất cao.
Như vậy, thực trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi có một
số đặc điểm sau:
- Tỷ lệ sâu răng chung của trẻ trong nghiên cứu thuộc loại trung bình theo phân loại
của WHO. Tỷ lệ sâu răng có sự phân hóa theo khu vực, cao nhất tại khu vực nông
thôn (xã Vân Xuân), thấp hơn là khu vực nghèo miền núi (xã Cao Mã Pờ), thấp nhất
là khu vực thành phố (phường Phương Lâm).
- Mức độ sâu răng cộng đồng (chỉ số smt chung) thấp hơn so với một số nghiên cứu
trong nước và trên thế giới, tỷ lệ trám răng của trẻ còn thấp ở tất cả các nhóm
nghiên cứu.
3.2.2. Một số yếu tố liên quan và mô hình hồi quy logistic dự đoán tình trạng sâu
răng của trẻ trong nghiên cứu
106
3.2.2.1. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu
Tương tự như các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng, chúng tôi tiến
hành khảo sát để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng sâu răng của trẻ trong
nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu cho thấy các yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng sâu
răng của trẻ như trình độ học vấn của bố mẹ [91], số con trong gia đình [55], thời
gian cai sữa mẹ [46], thời gian chải răng [4]. Khảo sát của chúng tôi cũng đưa ra
được một số yếu tố có ảnh hưởng đến tình trạng sâu răng của trẻ mầm non trong
nghiên cứu (Hình 3.11)
Thời gian chải răng Tuổi
Trình độ học vấn của bố mẹ
Tình trạng sâu răng
Thời gian Số con cai sữa mẹ
Hình 3.11. Các yếu tố ảnh hƣởng đến tình trạng sâu răng của trẻ
trong nghiên cứu
Mối liên quan giữa tuổi của trẻ và tình trạng sâu răng
Bộ răng sữa của nhóm trẻ 2 tuổi đã bắt đầu hoàn thiện, đến giai đoạn 5 tuổi
thì bộ răng sữa lại chuẩn bị được thay thế bằng bộ răng vĩnh viễn. Tuy nhiên, tỷ lệ
sâu răng của trẻ cũng có sự thay đổi rõ rệt theo từng nhóm tuổi. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tỷ lệ sâu răng của trẻ tăng dần từ nhóm 2-3 tuổi đến nhóm 4-5 tuổi.
Mối liên hệ giữa tuổi và tình trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu này được thể
hiện trong Bảng 3.47 .
107
Bảng 3.47. Mối liên quan giữa tuổi và tình trạng sâu răng
Tình trạng sâu răng Tuổi
Nhóm 2-3 tuổi Nhóm 4-5 tuổi Sâu răng 744 428 Không sâu răng 350 568
OR
2,82 (2,35-3,39) (95%CI)
Bảng 3.47 cho thấy, khả năng mắc bệnh sâu răng của trẻ trong các nhóm 4-5
tuổi cao gấp 2,82 lần so với tỷ lệ sâu răng trong nhóm 2-3 tuổi. Lý giải cho điều này
là do trong giai đoạn 2-3 tuổi răng của trẻ mới bắt đầu hoàn thiện, thời gian tiếp xúc
của răng với thức ăn còn ít nên tỷ lệ sâu răng thấp, đến giai đoạn 4-5 tuổi thì bộ
răng sữa đã hoàn thiện đầy đủ cùng với thói quen sinh hoạt, việc chăm sóc răng
miệng thường do trẻ tự làm nên kỹ thuật chưa tốt, dẫn đến thức ăn dư thừa còn mắc
lại trên răng gây ra sâu răng. Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ trẻ
nhóm 4-5 tuổi bị sâu răng ở các gia đình đông con (từ 3 con trở lên) và mức độ sử
dụng thực phẩm ăn nhanh nhiều hơn nhóm trẻ 2-3 tuổi.
Mối liên quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ và tình trạng sâu răng
Trình độ học vấn không những ảnh hưởng đến nghề nghiệp của bố mẹ mà nó
còn liên quan đến vấn đề tìm hiểu các kiến thức trong việc chăm sóc con trẻ, trong
đó có vấn đề chăm sóc răng miệng cho trẻ. Với những gia đình mà bố mẹ có trình
độ học vấn cao, có điều kiện tìm hiểu và hướng dẫn trẻ cách chăm sóc răng miệng
thì sẽ làm giảm tình trạng sâu răng của trẻ.
Bảng 3.48. Mối liên quan giữa trình độ học vấn của bố mẹ
và tình trạng sâu răng
Tình trạng sâu răng Trình độ học vấn
Sâu răng Không sâu răng của bố mẹ
Dưới trung học phổ thông 426 258
Trên trung học phổ thông 746 666
1,51 OR
(1,25-1,83) (95%CI)
108
Những trẻ có bố mẹ trình độ học vấn dưới trung học phổ thông thì nguy cơ
mắc sâu răng cao gấp 1,51 lần những trẻ có bố mẹ học trên trung học phổ thông.
Carino và cộng sự điều tra về tình trạng sâu răng sớm năm 2003 tại phía bắc
Philippine ở trẻ từ 2 đến 6 tuổi, kết luận phần lớn trẻ có thực hành chải răng, nhưng
hầu hết không có sự giám sát của ba mẹ [91]. Việc chải răng được tập cho trẻ làm
quen ở độ tuổi trung bình là 2 tuổi. Sự gia tăng về mức độ sâu răng đáng lưu ý ở
những trẻ bắt đầu tập chải răng muộn, và ăn thường xuyên những đồ ăn/ bữa ăn nhẹ.
Hiện nay, đa số trẻ lứa tuổi mẫu giáo đã được cung cấp kiến thức về việc
chăm sóc răng miệng, tuy nhiên những kiến thức đó chưa chắc được trẻ áp dụng
đúng cách hoặc thực hành tốt. Mặc dù bố mẹ có ý thức về việc chăm sóc răng
miệng cho trẻ, nhưng lại chưa có cách truyền đạt thích hợp để trẻ yêu thích hoạt
động này hoặc trẻ thực hiện một cách gượng ép. Tâm lý của trẻ nhỏ chưa tiếp nhận
những kiến thức quá mô phạm dành cho người lớn, cũng như chưa quen với việc vệ
sinh cá nhân nên việc tự chăm sóc răng miệng thường thực hiện không đúng cách.
Vì vậy, vai trò của gia đình và các thầy cô là rất quan trọng, đặc biệt là mẹ của trẻ
phải là người thường xuyên nhắc nhở, hướng dẫn, tạo hứng thú để trẻ tự thực hành
chăm sóc răng miệng đúng cách [152].
Mối liên quan giữa số con trong gia đình và tình trạng sâu răng
Gia đình đông con vừa là một gánh nặng về kinh tế vừa gây khó khăn trong
việc chăm sóc con, đặc biệt là ở những khu vực miền núi khi nền kinh tế còn nghèo
nàn, lạc hậu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những gia đình đông con có tỷ lệ trẻ
SDD rất cao, đồng thời tình trạng sâu răng của trẻ trong những gia đình này cũng
tăng lên.
Bảng 3.49. Mối liên quan giữa số con trong gia đình và tình trạng sâu răng
Tình trạng sâu răng
Số con trong gia đình Sâu răng Không sâu răng
Từ 3 con trở lên 256 162
Có 1 hoặc 2 con 916 756
1,3 OR
(1,04-1,63) (95%CI)
109
Bảng 3.49 cho thấy, những trẻ trong gia đình có từ 3 con trở lên có nguy cơ
mắc bệnh sâu răng cao gấp 1,3 lần những trẻ trong gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con. Kết
quả nghiên cứu của Trần Tấn Tài (2016) cũng tương tự nghiên cứu của chúng tôi,
đó là những gia đình có trên 2 con có tình trạng sâu răng cao gấp 2,54 lần những gia
đình có ít hơn 2 con [55]. Những gia đình đông con, bố mẹ thường ít quan tâm đến
việc chăm sóc răng miệng của trẻ, đặc biệt là việc chải răng và kỹ thuật chải răng
làm cho thức ăn thừa bám lại trên răng, lâu ngày vi khuẩn tấn công gây sâu răng.
Mối liên quan giữa thời gian cai sữa mẹ và tình trạng sâu răng
Nuôi con bằng sữa mẹ là cung cấp một khởi đầu tốt nhất cho trẻ, đảm bảo
cho sự phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, đồng thời hạn chế được nhiều
bệnh cho trẻ, trong đó có bệnh sâu răng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những trẻ
cai sữa mẹ sớm (trước 6 tháng) có nguy cơ mắc bệnh sâu răng cao gấp 1,37 lần
những trẻ cai sữa mẹ trên 6 tháng (Bảng 3.50).
Bảng 3.50. Mối liên quan giữa thời gian cai sữa mẹ và tình trạng sâu răng
Tình trạng sâu răng Thời gian
cai sữa mẹ Sâu răng Không sâu răng
Trước 6 tháng 190 114
Trên 6 tháng 982 806
1,37 OR
(1,06-1,77) (95%CI)
Sữa mẹ là thức ăn hoàn thiện nhất cho trẻ từ lúc mới sinh ra, sữa mẹ chứa
đầy đủ các chất dinh dưỡng, dễ hấp thu và có chứa nhiều kháng thể giúp bảo vệ trẻ
khỏi các bệnh nhiễm khuẩn. Những trẻ cai sữa trước 6 tháng tuổi phải sử dụng sữa
hoặc các thực phẩm khác bên ngoài từ sớm thì rất dễ mắc các bệnh về tiêu hóa, hô
hấp [46]. Đặc biệt khi trẻ đã mọc răng thường xuyên sử dụng thực phẩm bên ngoài
nhưng việc chăm sóc răng miệng không tốt rất dễ dẫn đến sâu răng.
Mối liên quan giữa thời gian chải răng và tình trạng sâu răng
Chải răng là biện pháp chăm sóc răng miệng hiệu quả, giúp trẻ làm sạch
răng, hạn chế được tình trạng sâu răng. Nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng và
110
cộng sự (2011) về các yếu tố liên quan đến bệnh răng miệng của trẻ em Việt Nam
cho thấy số trẻ chải răng ngày 3 lần chỉ chiếm 5,5% và có 68,2% trẻ có nguy cơ sâu
răng cao, đa số trẻ chải răng vẫn chưa đủ thời gian để làm sạch hai hàm răng, thói
quen ăn vặt của trẻ chiếm tỷ lệ cao [4]. C.Stecks n-Blicks, L. Gustafsson (1986), đã
nghiên cứu đánh giá hiệu quả của việc vệ sinh răng miệng và việc sử dụng của fluor
đối với sâu răng ở trẻ em. Ở trẻ 8-13 tuổi, tần suất sâu răng thấp ở trẻ đánh răng
hằng ngày và sử dụng kem đánh răng chứa fluor hoặc súc miệng với NaF [160].
Bảng 3.51. Mối liên quan giữa thời gian chải răng và tình trạng sâu răng
Tình trạng sâu răng Thời gian chải răng
Sâu răng Không sâu răng
Dưới 3 phút 1054 782
Trên 3 phút 118 136
1,55 OR
(1,18-2,04) (95%CI)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 8,8% trẻ không đánh răng sau khi ăn và
chỉ có 12,2% trẻ đánh răng trên 3 phút trong một lần đánh răng nên tỷ lệ sâu răng
còn cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những trẻ có thời gian chải răng dưới 3
phút có nguy cơ sâu răng cao gấp 1,55 lần những trẻ có thời gian đánh răng trên 3
phút, tương tự kết quả nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng [4]. Thời gian chải răng
lâu giúp trẻ loại bỏ hoàn toàn thức ăn dư thừa, giảm tỷ lệ răng bị vi khuẩn phá hủy.
Đồng thời kỹ thuật chải răng cũng là một yếu tố quan trọng để làm sạch bộ răng của
trẻ, bố mẹ cần hướng dẫn trẻ cách chải răng theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, trẻ nên cầm bàn chải nghiêng 450 trong rãnh giữa răng và nướu đối với
răng hàm, xoay tròn đối với răng cửa.
3.2.2.2. Mô hình hồi quy đa biến logistic dự đoán tình trạng sâu răng của trẻ trong
nghiên cứu
Tương tự như phân tích hồi quy đa biến logistic dự đoán tình trạng dinh
dưỡng, chúng tôi phân tích các dữ liệu trong khảo sát để dự đoán tình trạng sâu răng
của trẻ trong nghiên cứu.
111
Các biến độc lập trong phân tích mô hình hồi quy logistic là C1, C2, C6,
C30, C31, C34, C44, C46, C52, trong đó:
C1 Nghề nghiệp của bố mẹ?
Trình độ học vấn của bố mẹ?
C2
Sau khi sinh bao lâu thì trẻ được cai sữa mẹ?
Trẻ có hay ăn thực phẩm chế biễn sẵn không?
C6
Trẻ có hay ăn bánh kẹo ngọt không?
C30
Trẻ có hay xem tivi không?
C31
Số lần đánh răng trong ngày?
C34
Thời gian đánh răng?
C44
Theo gia đình, trẻ bị sâu răng có tác hại không?
C46
C52
Kiểm định Chi bình phương cho thấy mô hình hồi quy phù hợp với tổng thể (p < 0,05).
Chi bình phƣơng df p
Step 60,955 9 0,000
Block 60,955 9 0,000
Model 60,955 9 0,000
Trong mô hình này có trị số -2LL = 2805,455.
Step -2 LL Cox & Snell R Square Nagelkerke R Square
1 2805,455 0,029 0,039
Tỷ lệ dự đoán đúng của phương trình hồi quy dự đoán tình trạng sâu răng
của trẻ trong nghiên cứu là 56,1%.
Tình trạng Tỷ lệ dự Bình thƣờng sâu răng đoán đúng
263 77,6% 909 Tình trạng sâu răng
263 28,6% 655 Bình thƣờng
56,1% Tỷ lệ dự đoán đúng trung bình
112
Hệ số hồi quy logistic của các yếu tố trong mô hình hồi quy đa biến
950% CI B S.E. p OR Lower Upper
0,283 0,068 0,000 1,327 1,162 1,515 C1
0,109 0,079 0,170 1,115 0,955 1,302 C2
0,258 0,066 0,000 1,295 1,138 1,472 C6
0,084 0,093 0,370 1,087 0,905 1,306 C30
-0,173 0,124 0,165 0,842 0,659 1,074 C31
0,254 0,122 0,038 1,289 1,014 1,638 C34
-0,075 0,075 0,316 0,928 0,801 1,074 C44
0,200 0,068 0,003 1,222 1,068 1,397 C46
-0,400 0,147 0,006 0,670 0,503 0,894 C52
0,480 0,002 0,219 Constant -1,520
Các biến độc lập C1, C6, C34, C46, C52 ảnh hưởng đến biến phụ thuộc là
tình trạng sâu răng (p < 0,05). Phương trình hồi quy đa biến dự đoán tình trạng sâu
răng của trẻ trong nghiên cứu:
Y4 = -1,52 + 0,283*C1 +0,258*C6 + 0,254*C34 + 0,2*C46 – 0,4*C52
Nếu trẻ có bố mẹ làm kinh doanh (C1 = 3); trẻ cai sữa >12 tháng tuổi (C6 =
3); trẻ hay xem tivi (C34 = 2); thời gian đánh răng dưới 2 phút (C46 = 1); gia đình
không biết tác hại của sâu răng (C52 = 1),thì ta có:
Y4 = -1,52 + 0,283*3 +0,258*3 + 0,254*2 + 0,2*1 – 0,4*1 = 1,51
p = = 0,602 (60,2%)
Xác suất trẻ mầm non bị sâu răng trong trường hợp này là 60,2%.
3.3. Mối liên quan giữa tình trạng dinh dƣỡng và tình trạng sâu răng
Sâu răng là một bệnh khá phổ biến đối với trẻ em và người lớn ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng sâu răng của trẻ nằm ở mức trung bình
theo phân loại của WHO (50%-80%). Bên cạnh đó, tình trạng SDD của trẻ em ở
Việt Nam có giảm trong những năm vừa qua nhưng tại một số khu vực tỷ lệ SDD
vẫn còn cao. Nhiều nghiên cứu cho rằng sâu răng ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
113
triển của trẻ em, hầu hết ở các nước và khu vực có thu nhập thấp. Ảnh hưởng trực
tiếp của sâu răng và viêm răng lợi liên quan đến khả năng ăn uống của trẻ và dẫn
đến chế độ ăn uống kém góp phần làm cân nặng và chiều cao tăng chậm [81].
Để đánh giá mối tương quan giữa tình trạng sâu răng với cân nặng và chiều
cao của trẻ trong nghiên cứu, chúng tôi tiến hành phân tích tương quan Pearson
bằng phần mềm SPSS 11.5. Kết quả của phân tích được thể hiện trong Bảng 3.52.
Bảng 3.52. Mối tƣơng quan giữa tình trạng sâu răng với cân nặng và chiều cao
của trẻ trong nghiên cứu
Tƣơng quan Pearson Cân nặng Chiều cao
r -0,144(**) -0,226(**) Tình trạng p 0,000 0,000 sâu răng n 2090 2090
** Tương quan có mức ý nghĩa 0,01
Hệ số tương quan Pearson giữa tình trạng sâu răng với cân nặng, chiều cao
đều âm lần lượt là r1 = -0,144 và r2 = -0,226 với p < 0,05. Hệ số tương quan Pearson
trong phân tích (r < 0) cho thấy, tình trạng sâu răng và cân nặng, chiều cao có tương
quan nghịch. Tức là tình trạng sâu răng tăng sẽ làm chậm sự tăng trưởng về cân
nặng, chiều cao của trẻ trong nghiên cứu và ngược lại. Kết quả của chúng tôi phù
hợp với nghiên cứu của Alkarimi HA, Gerdin EW, Hooley M, Shen A et.al [81,
107, 112, 155], đó là tình trạng sâu răng có tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng của
chiều cao và cân nặng của trẻ. Sâu răng có thể ảnh hưởng đến khả năng ăn uống,
làm gián đoạn giấc ngủ, dẫn đến mất cảm giác ngon miệng và tăng các yếu tố nguy
cơ khác liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em thông qua nhiễm trùng hoặc
viêm. Theo nghiên cứu của Alkarimi et. al năm 2014, sâu răng nghiêm trọng không
được điều trị có thể tác động tiêu cực đến mức độ tăng chiều cao và cân nặng thông
qua phản ứng miễn dịch, nội tiết, quá trình chuyển hóa hoặc trực tiếp thông qua việc
hạn chế khả năng ăn uống [81].
Một số nghiên cứu của Delgado-Angulo EK et. al [98] và Ribeiro CCC et. al
[148], những trẻ bị SDD thể nhẹ cân hoặc thể thấp còi có thể ảnh hưởng đến sự phát
triển của sâu răng. Tình trạng suy dinh dưỡng có thể gây sâu răng thông qua tác
114
động đến sự hình thành men răng và khả năng nhai của trẻ [119]. Sự thiếu hụt
vitamin A và D và thiếu protein và các vi chất dinh dưỡng khác như vitamin, kẽm
và sắt làm hạn chế tác dụng bảo vệ của nước bọt đối với khoang răng [154].
So sánh tỷ lệ trẻ mầm non trong nghiên cứu mắc bệnh sâu răng trong những
trẻ bị SDD và TC-BP chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3.53. So sánh tỷ lệ mắc bệnh sâu răng theo tình trạng dinh dƣỡng của trẻ
trong nghiên cứu
Tình trạng răng Tình trạng Sâu răng Không sâu răng p dinh dƣỡng n % n %
Thể nhẹ cân 132 58,4 94 41,6 < 0,05
Thể thấp còi 318 54,1 270 45,9 < 0,05
Thể gầy còm 30 57,7 22 42,3 > 0,05
TC-BP 118 50 118 50 -
Bảng 3.53 cho thấy những trẻ bị SDD thể nhẹ cân và thể thấp còi có tỷ lệ mắc
sâu răng cao hơn (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05); trẻ bị SDD thể gầy
còm và TC-BP khác biệt về tình trạng sâu răng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Để phân tích sự ảnh hưởng của sâu răng và tình trạng dinh dưỡng (cân
nặng/tuổi, chiều cao/tuổi và BMI/tuổi), chúng tôi tiến hành phân tích tương quan
Pearson. Sử dụng phần mềm SPSS 11.5 chúng tôi tiến hành phân tích tương quan
Pearson, thu được kết quả trong Bảng 3.54.
Bảng 3.54. Mối tƣơng quan giữa tình trạng sâu răng với tình trạng dinh dƣỡng
của trẻ trong nghiên cứu
Tình trạng dinh dƣỡng Tƣơng quan Cân Chiều cao/tuổi BMI/tuổi Pearson nặng/tuổi
0,016 -0,025 0,063(**) r
Tình trạng sâu răng 0,455 0,250 0,004 p
2090 2090 2090 n
** Tương quan có mức ý nghĩa 0,01
115
Bảng 3.54 cho thấy, trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng SDD thể nhẹ
cân (cân nặng/tuổi) và thể thấp còi (chiều cao/tuổi) không có tương quan với tình
trạng sâu răng (p > 0,05). Tình trạng dinh dưỡng BMI/tuổi có tương quan thuận với
tình trạng sâu răng của trẻ trong nghiên cứu với r = 0,063 (p = 0,004 < 0,05). Tình
trạng BMI/tuổi phản ánh tình hình SDD thể gầy còm và TC-BP của trẻ trong nghiên
cứu, tức là tỷ lệ tỷ lệ trẻ SDD thể gầy còm và TC-BP tăng thì làm tăng tỷ lệ sâu răng
của trẻ và ngược lại. Theo đánh giá của Hội Sức khỏe cộng đồng người Anh cũng
cho kết quả tương tự, đó là có mối tương quan yếu đến trung bình giữa sự tăng của
tỷ lệ béo phì và tỷ lệ mắc sâu răng [145].
Tóm lại, tình trạng sâu răng có tương quan nghịch với cân nặng và chiều cao
của trẻ trong nghiên cứu. Mức độ sâu răng càng nghiêm trọng thì chiều cao, cân
năng của trẻ càng chậm tăng trưởng và ngược lại. Ngoài ra, trong nghiên cứu của
chúng tôi, tỷ lệ trẻ bị SDD thể gầy còm và TC-BP tăng thì tỷ lệ bị sâu răng cũng
tăng và ngược lại. Không có sự tương quan giữa tình trạng SDD thể còi, thể nhẹ cân
với tình trạng sâu răng.
116
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu về sự phát triển hình thái cơ thể, tình trạng dinh
dưỡng và tình trạng sâu răng của trẻ mầm non 2-5 tuổi tại một số khu vực miền Bắc,
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
- Hình thái cơ thể của trẻ mầm non 2-5 tuổi có sự phát triển tăng dần theo tuổi
thông qua các chỉ tiêu nhân trắc:
Chiều cao, cân nặng, BMI, vòng đầu, vòng ngực bình thường, vòng cánh tay
trái duỗi của trẻ trong nghiên cứu tăng dần từ 2 đến 5 tuổi, phù hợp với quy luật
tăng trưởng của trẻ em Việt Nam.
Xây dựng được các phương trình hồi quy tuyến tính giữa các kích thước
nhân trắc nhằm đánh giá nhanh tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
- Thực trạng dinh dƣỡng và các yếu tố liên quan
+ Dựa theo tiêu chuẩn phân loại của WHO, tỷ lệ trẻ SDD thể thấp còi, thể
nhẹ cân của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi ở mức trung bình (28,1% và 10,8%),
thể gầy còm ở mức thấp (2,5%), tỷ lệ thừa cân-béo phì của trẻ trong nghiên cứu ở
mức trung bình (11,3%).
Các yếu tố như tuổi, trình độ học vấn của bố mẹ, số con trong gia đình,
nguồn nước sử dụng trong sinh hoạt, khu vệ sinh của gia đình, thói quen rửa tay
bằng xà phòng, mức độ thường xuyên theo dõi chiều cao, cân nặng của trẻ là những
yếu tố có liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ. Ngoài ra, các yếu tố như
sở thích hoạt động, mức độ thường xuyên sử dụng thực phẩm chế biến sẵn có liên
quan đến tình trạng TC-BP của trẻ.
Xây dựng được các mô hình hồi quy logistic dự đoán tình trạng dinh dưỡng
của trẻ thông qua phiếu khảo sát tại địa bàn nghiên cứu.
- Thực trạng sâu răng và các yếu tố liên quan
Dựa theo tiêu chuẩn phân loại của WHO, tỷ lệ sâu răng chung của trẻ trong
nghiên cứu ở mức độ trung bình (56,1%). Phân bố các răng sâu tập trung chủ yếu ở
các răng hàm hàm dưới và răng hàm hàm trên, ít hơn là các răng nanh và răng cửa.
Chỉ số smt chung của trẻ là 1,62, đa số các răng bị tổn thương của trẻ mầm
non trong nghiên cứu không được điều trị.
117
Các yếu tố như nghề nghiệp, trình độ học vấn của bố mẹ, số con trong gia
đình, thời gian cai sữa, thời gian chải răng là các yếu tố có liên quan đến tình trạng
sâu răng của trẻ.
Xây dựng được mô hình hồi quy logistic dự đoán tình trạng sâu răng của trẻ
thông qua phiếu khảo sát tại địa bàn nghiên cứu.
Tình trạng sâu răng có tương quan nghịch với chiều cao, cân nặng, nhưng có
tương quan thuận với tình trạng suy dinh dưỡng thể gầy còm và TC-BP trẻ trong
nghiên cứu.
KHUYẾN NGHỊ
Từ kết quả của đề tài, chúng tôi có một số khuyến nghị như sau:
- Áp dụng các phương trình hồi quy tuyến tính để xác định nhanh các chỉ tiêu
nhân trắc của trẻ mầm non, đặc biệt tại các khu vực gặp khó khăn trong việc điều tra.
- Áp dụng mô hình dự đoán tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sâu răng để
có những khuyến cáo thích hợp trong công tác chăm sóc trẻ.
- Nâng cao nhận thức về sự ảnh hưởng của suy dinh dưỡng, thừa cân-béo phì
và sâu răng đến sự phát triển cơ thể trẻ đối với các đối tượng chăm sóc trẻ.
118
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Văn Tâm, Nguyễn Hữu Nhân, Hoàng Quý Tỉnh (2016), “Thực trạng sâu
răng và một số yếu tố lien quan đến tình trạng sâu răng của trẻ trường mầm non
Sao Mai, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập
446, tr.101-109.
2. Vũ Văn Tâm, Đào Thị Trang, Hoàng Quý Tỉnh, Nguyễn Hữu Nhân, Nguyễn
Phúc Hưng (2016), “Sử dụng mô hình hồi qui logistic dự đoán tình trạng sâu
răng của trẻ trường mầm non Sao Mai, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình”,
Tạp chí Y học Việt Nam, tập 446, tr.109-116.
3. Vu Van Tam, Nguyen Huu Nhan, Hoang Quy Tinh, Nguyen Phuc Hung (2016),
“The impacts of malnutrition status and relevant factors on preschool children
in Cao Ma Po Commune, Quan Ba District, Ha Giang Province”, VNU Journal
of Science, vol.32, pp.368-376.
4. Vũ Văn Tâm, Hoàng Quý Tỉnh, Nguyễn Hữu Nhân (2017), “Xác định điểm cắt
đo vòng cánh tay trái duỗi để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ mầm
non ở xã Cao Mã Pờ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang”, Tạp chí Y dược học
Quân sự, số 42, tr.34-38.
5. Vũ Văn Tâm, Nguyễn Hữu Nhân, Hoàng Quý Tỉnh (2017), “Nghiên cứu tình
trạng sâu răng của trẻ mầm non 3-6 tuổi thuộc xã Vân Xuân, huyện Vĩnh
Tường, tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, số 33,
tr.134-139.
6. Vũ Văn Tâm, Nguyễn Hữu Nhân, Hoàng Quý Tỉnh (2019), “Mối liên quan giữa
tình trạng dinh dưỡng và sâu răng của trẻ em xã Vân Xuân, huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp Y học Việt Nam, tập 483, tr.239-247.
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Y tế (2001), Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-2010, Ban
hành kèm theo Quyết định số 21/2001/QĐ-TTg, ngày 22/2/2001 của Thủ
tướng chính phủ, Hà Nội, tr. 12-29.
2. Bộ Y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 -
Thế kỷ XX, Nxb Y học, Hà Nội.
3. Nguyễn Cẩn (1994), Khảo sát và phân tích bệnh nha chu tại ba tỉnh phía nam
và thành phố Hồ Chí Minh - Phương hướng điều trị và dự phòng, Luận án phó
tiến sỹ khoa học Y dược.
4. Trương Mạnh Dũng, Vũ Mạnh Tuấn (2011), “Thực trạng bệnh răng miệng và
một số yếu tố liên quan ở trẻ 4-8 tuổi tại 5 tỉnh thành của Việt Nam năm
2010”, Tạp chí Y học thực hành, tập 797, số 12, tr. 56-59.
5. Trương Mạnh Dũng, Ngô Văn Toàn (2013), Nha khoa cộng đồng, Nxb Giáo
dục Việt Nam, tr.33-40; 107-113.
6. Đinh Đạo, Đinh Thanh Huề (2009), “Tình hình suy dinh dưỡng của trẻ em
dưới 5 tuổi người dân tộc thiểu số huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam năm
2009”, Tạp chí Y học thực hành, số 666, tr. 50-52.
7. Nguyễn Thanh Hà (2011), Hiệu quả bổ sung kẽm và sprinkles đa vi chất trên
trẻ 6 - 36 tháng tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, Luận án tiến sĩ dinh dưỡng cộng
đồng, Hà Nội.
8. Lương Thị Thu Hà, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Minh Tuấn (2008), “Thực
trạng suy dinh dưỡng thiếu calo protein ở trẻ em dưới 5 tuổi tại 2 xã huyện
Phú Lương tỉnh Thái Nguyên năm 2006”, Tạp chí Y học thực hành, số 5, tr.
75-77.
9. Trần Văn Hà, Phạm Văn Phú, Phạm Duy Tường (2008), “Thực trạng suy dinh
dưỡng thể thấp còi, thể gầy gầy còm và một số yếu tố liên quan tại xã Việt
Long và Phù Ninh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”, Tạp chí Y học thực
hành, số 585, tr. 119-123.
120
10. Lê Thị Hải, Nguyễn Thị Lâm (2003), "Thực trạng thừa cân, béo phì của trẻ 7-
12 tuổi tại Hà Nội năm 2002", Tạp Chí Y học thực hành, số 9, tr. 25-29.
11. Phan Văn Hải, Trần Văn Bình, Nguyễn Thị Vân (2004), “Tình trạng suy dinh
dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi và một số yếu tố ảnh hưởng tại tỉnh Kon Tum năm
2001”, Tạp chí Y học dự phòng, tập 1 số 64, tr. 71 - 76.
12. Trịnh Đình Hải (1999), “Sử dụng fluor”, Đề tài nghiên cứu hiệu quả chăm sóc
răng miệng trẻ em học đường, Hà Nội, tr. 3 - 22.
13. Trịnh Đình Hải (2004), Giáo trình sâu răng và dự phòng sâu răng, Nxb Y học.
14. Phan Lê Thu Hằng, Lê Thanh Sơn (2004), “Thực trạng và một số yếu tố liên
quan tới tình trạng dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại 4 xã tỉnh Hà Tây”, Tạp
chí Y học thực hành, tập 4 số 478, tr. 39-42.
15. Phạm Thị Thu Hậu (2011), Bí quyết dinh dưỡng giúp trẻ tăng chiều cao tối
ưu, Nxb Phụ Nữ.
16. Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Văn Trịnh, Phạm Văn Hán (2002), “Nghiên cứu
tình trạng béo phì, các yếu tố liên quan ở lứa tuổi 6 - 11 tuổi tại một quận nội
thành Hải Phòng”, Tạp chí Y học thực hành, số 418, tr. 47-49.
17. Vũ Hưng Hiếu, Lê Thị Hợp (2002), “Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ ảnh
hưởng tới tình trạng thừa cân của học sinh tiểu học quận Đống Đa- Hà Nội”, Y
học thực hành, số 418, tr. 50-55.
18. Lê Thị Mai Hoa (2006), Dinh dưỡng trẻ em, Nxb Giáo dục.
19. Nguyễn Thị Hoa (2002), Đặc điểm bệnh nhân béo phì tại khoa dinh dưỡng
Bệnh viện Nhi đồng I trong năm 2000-2002, Luận án chuyên khoa cấp II, Đại
học Y dược TP Hồ Chí Minh.
20. Đỗ Thị Hòa, Trần Xuân Bách, Trần Thị Hoàng Long (2008), “Tình trạng dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở một số xã của hai huyện Chợ Đồn và Ngân Sơn
tỉnh Bắc Kạn năm 2006”, Tạp chí Y học thực hành, số 5, tr. 63-67.
21. Phạm Văn Hoan (2005), Phương pháp xây dựng kế hoạch, quản lý, theo dõi
và đánh giá các dự án can thiệp dinh dưỡng ở cộng đồng, Nxb Y học, Hà Nội.
22. Nguyễn Đình Học (2004), Nghiên cứu sự phát triển thể chất, mô hình bệnh tật
và một số yếu tố ảnh hưởng ở trẻ em dân tộc Dao Bắc Thái, Luận án Tiến sỹ
Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
121
23. Lê Thị Hợp, Huỳnh Phương Nam (2011), "Thống nhất về phương pháp đánh
giá tình trạng dinh dưỡng bằng nhân trắc học", Tạp chí Dinh dưỡng và Thực
phẩm, tập 7 số 2, tr.1 - 8.
24. Đinh Thanh Huề (2005), “Nghiên cứu tình hình suy dinh dưỡng và các yếu tố
liên quan ở trẻ dưới 5 tuổi huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh năm 2003”, Tạp
chí Y học thực hành, tập 1 số502, tr. 33-36.
25. Hoàng Tử Hùng (2000), Giải phẫu răng, Nxb Y học, TP Hồ Chí Minh.
26. Nguyễn Quang Huy, Bùi Thanh Duyên (2011), “Một số đặc tính của
Streptococus phân lập từ mảng bám răng trẻ em Việt Nam”, Tạp chí Y học
Việt Nam, tập 1 số 2, tr. 55- 60.
27. Mai Đình Hưng (1996), Sâu răng - Chăm sóc răng miệng ban đầu, Nxb Y học.
28. Mai Đình Hưng (2005), Bệnh sâu răng, Nxb Y học.
29. Nguyễn Phúc Hưng, Hoàng Quý Tỉnh, Nguyễn Hữu Nhân (2013), “Thực trạng
thừa cân - béo phì và một số yếu tố liên quan ở trẻ mẫu giáo 3-5 tuổi tại Hà
Nội”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 411, tr. 9-14.
30. Phạm Hoàng Hưng (2008), Hiệu quả của truyền thông tích cực đến đa dạng
hóa bữa ăn và tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ, trẻ em, Luận án tiến sĩ dinh
dưỡng cộng đồng, Viện dinh dưỡng, Hà Nội.
31. Vũ Thị Thanh Hương (2010), Đặc điểm tăng trưởng và hiệu quả bổ sung sản
phẩm giàu dinh dưỡng trên trẻ từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi tại huyện Sóc Sơn,
thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ dinh dưỡng cộng đồng, Viện dinh dưỡng,
Hà Nội.
32. Nguyễn Công Khẩn, Hà Huy Khôi (2003), “Nhận xét bước đầu về gánh nặng
kép của suy dinh dưỡng ở nước ta”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 9, tr. 8-16.
33. Nguyễn Công Khẩn, Lê Danh Tuyên, Hà Huy Khôi, Phạm Văn Hoan (2007),
"Tiến triển suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi từ năm 1990 đến 2004", Tạp
chí Y học Việt Nam, số 337, tr. 16-22.
34. Hà Huy Khôi (1996), Mấy vấn đề dinh dưỡng trong thời kì chuyển tiếp, Nxb Y
học, Hà Nội.
35. Hà Huy Khôi (2002), Dinh dưỡng dự phòng các bệnh mạn tính, Nxb Y học,
Hà Nội.
122
36. Hà Huy Khôi (2002), Dinh dưỡng lâm sàng, Nxb Y học, Hà Nội.
37. Hà Huy Khôi, Nguyễn Công Khẩn (2002), “Thừa cân và béo phì, một vấn đề
sức khoẻ cộng đồng mới ở nước ta”, Tạp chí Y học thực hành, số 418, tr. 5-9.
38. Hà Huy Khôi (2004), Những đường biên mới của dinh dưỡng học, Nxb Y học,
Hà Nội.
39. Phạm Minh Khuê, Vũ Đức Long (2014), “Một số yếu tố liên quan đến thừa
cân, béo phì ở trẻ 6-11 tuổi tại 3 trường tiểu học thành phố Hải Phòng năm
2013”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 2, tr. 51-54.
40. Nguyễn Thị Lâm (2002), “Đánh giá mức độ và nguy cơ của béo phì”, Tạp chí
Y học thực hành, số 418, tr. 15-19.
41. Hoàng Khải Lập (2004), Nghiên cứu tình trạng sức khỏe, bệnh tật và dinh
dưỡng của phụ nữ và trẻ em miền núi phía Bắc Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số B2002-04-27, Thái Nguyên.
42. Nguyễn Tố Mai, Phạm Mai Chi (1988), “Kết quả điều tra chất lượng bữa ăn
của một số trường mẫu giáo đại diện phía Bắc”, Báo cáo nghiên cứu khoa học
1987-1989, tập 1 tháng 10/1989, tr.141-149.
43. Trương Tuyết Mai, Lê Thị Hợp, Nguyễn Thị Lâm, Ngô Thị Xuân (2013),
“Tình trạng thừa cân béo phì và rối loạn lipid máu ở trẻ 4-9 tuổi tại một số
trường Quận Hoàn Kiếm Hà Nội”, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 9
số 3, tr. 92-98.
44. Hoàng Tích Mịnh, Hà Huy Khôi (1977), Vệ sinh dinh dưỡng và vệ sinh thực
phẩm, Nxb Y học, Hà Nội.
45. Trần Thúy Nga, Phan Thị Thanh Yên, Phan i Hùng, Đặng Thị Nhân Hòa
(2001), Nha khoa trẻ em, Nxb Y học.
46. Võ Trương Như Ngọc (2007), Giáo trình sâu răng và dự phòng sâu răng,
Trường Đại học Răng Hàm Mặt, NXB Y học.
47. Võ Trương Như Ngọc (2013), Răng trẻ em, Nxb Giáo dục.
48. Trần Thị Xuân Ngọc, Từ Ngữ, Lê Thị Hợp (2002), “Thực trạng thừa cân và
béo phì ở phụ nữ 20-59 tuổi tại quận Ba đình Hà nội”, Tạp chí Y học dự
phòng, tập 12 số 57, tr. 37-40.
123
49. Trần Thị Phúc Nguyệt (2002), Nghiên cứu tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ
4-6 tuổi và thử nghiệm một số giải pháp can thiệp ở cộng đồng, Luận án tiến
sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
50. Trần Thị Phúc Nguyệt, Nguyễn Thị Lâm, Hà Huy Khôi (2003), “Tình trạng
thừa cân, béo phì và biến động khẩu phần ăn thực tế ở trẻ 4-6 tuổi nội thành
Hà Nội”, Tạp chí Y học Việt Nam, số 9, tr. 70-77.
51. Hoàng Thị Đức Ngân, Lê Thị Hợp, Cao Thị Thu Hương, Vũ Đức Hưởng
(2014), “Mối liên quan tiêu thụ thực phẩm, hoạt động thể lực với thừa cân, béo
phì ở trẻ em tiểu học và tác động của điều kiện kinh tế xã hội”, Tạp chí Dinh
dưỡng và Thực phẩm, tập 10 số 1, tr. 7-13.
52. Lê Phán (2008), Đánh giá kết quả phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi dân tộc thiểu số tại 4 xã đặc biệt khó khăn huyện Khánh Vĩnh tỉnh Khánh
Hòa, Luận án chuyên khoa cấp II, chuyên ngành quảnlý y tế, Trường Đại học
Y Dược Huế.
53. Nguyễn Quang Quyền (1974), Nhân trắc học và sự ứng dụng nghiên cứu trên
người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội.
54. Sở Y tế Hà Nội (1997), Đánh giá thực trạng thể lực và suy dinh dưỡng của trẻ
từ 0 - 60 tháng tuổi ở Hà Nội, Hà Nội.
55. Trần Tấn Tài (2016), Thực trạng bệnh sâu răng và hiệu quả của giải pháp can
thiệp cộng đồng của học sinh tại một số trường tiểu học ở Thừa Thiên Huế,
Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Dược Huế.
56. Võ Văn Thanh (2013), Nghiên cứu tình hình bệnh sâu răng, viêm lợi và các
yếu tố liên quan của học sinh tiểu học tại huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định năm
2011, Luận án Chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược Huế.
57. Nguyễn Thìn, Hoàng Đức Thịnh (1999), “Tình trạng thừa cân và béo phì ở
học sinh tuổi mẫu giáo và tiểu học tại Nha Trang”, Tạp chí Y Học Dự Phòng,
tập 3 số 41, tr. 57-62.
58. Hoàng Quý Tỉnh, Nguyễn Hữu Nhân, Nguyễn Thị Thùy Linh (2009), “Ứng
dụng phần mềm Anthro của WHO trong nghiên cứu một số kích thước nhân
trắc”, Tạp chí Y Dược học Quân sự, số 34, tr. 1-5.
59. Nguyễn Toại (2008), Giáo trình Răng Hàm Mặt, Nxb Y học.
124
60. Lê Nam Trà, Trần Đình Long (1997), “Tăng trưởng trẻ em”, Bàn về đặc điểm
tăng trưởng người Việt Nam, Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước
KX- 07, Hà Nội, tr. 6-35.
61. Lê Nam Trà (2000), “Nhận xét và bàn luận về các chỉ tiêu nhân trắc trẻ em”,
Báo cáo toàn văn dự án điều tra cơ bản một số chỉ tiêu sinh học người Việt
Nam bình thường ở thập kỷ 90, Hà Nội, tr. 85-94.
62. Lê Nam Trà (2003), Bài giảng nhi khoa, tập I, Nxb Y học, Hà Nội.
63. Nguyễn Thị Ngọc Trâm (1996), “Đặc điểm phát triển thể lực, sức khoẻ, tình
trạng dinh dưỡng của trẻ mẫu giáo ở một số vùng sinh thái”, Kỷ yếu nghiên
cứu khoa học giáo dục mầm non (1976-1996).
64. Nguyễn Tấn Gi Trọng (1975), Hằng số sinh học người Việt Nam, Bộ Y tế.
65. Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải (1999), “Sự phát triển chương trình nha học
đường ở Việt Nam”, Tạp chí Y học Việt Nam – Chuyên đề RHM, tr. 1-11.
66. Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải (2001), “Kết quả điều tra sức khoẻ Răng
miệng toàn quốc ở Việt Nam (1999 - 2000)”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 264
số 10, tr. 8-21.
67. Nguyễn Minh Tuấn, Hoàng Khải Lập (2005), “Thực trạng dinh dưỡng của phụ
nữ và trẻ em dưới 5 tuổi tại một xã miền núi”, Tạp chí Y học thực hành, tập 4
số 506, tr.15-19.
68. Nguyễn Minh Tuấn (2009), Huy động nguồn lực cộng đồng chăm sóc dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ Y
học, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
69. Nguyễn Minh Tuấn (2012), “Tỷ lệ thừa cân béo phì tại một số trường tiểu học
thành phố Thái Nguyên năm 2012”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 412, tr. 85-89.
70. Lê Danh Tuyên, Nguyễn Công Khẩn, Lê Ngọc Bảo (2005), “Một số yếu tố
nguy cơ của suy dinh dưỡng thấp còi ở một số xã thuộc các vùng sinh thái
nước ta hiện nay”, Tạp chí Y học thực hành, số 3, tr. 55-58.
71. Dzoãn Thị Tường Vi, Nguyễn Thị Lâm, Từ Ngữ (2002),“Tìm hiểu yếu tố
nguy cơ bệnh béo phì ở người trưởng thành”, Tạp chí Y học thực hành, số 418,
tr. 62-68.
125
72. Cao Quốc Việt (1995), Béo phì ở trẻ em : Nguyên nhân, điều trị và phòng
bệnh, Viện bảo vệ sức khoẻ trẻ em.
73. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2004), “Tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ 7-12
tuổi tại Hà Nội và đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp”, Báo cáo
nhanh đề tài cấp nhà nước KC.10.05,2004.
74. Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2009), Số liệu thống kê suy dinh dưỡng trẻ em
qua các năm, Hà Nội.
75. Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế (2010), Báo cáo tóm tắt điều tra dinh dưỡng năm
2009 - 2010, Hà Nội.
76. Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2015), Thống kê dinh dưỡng năm 2015, Hà Nội.
77. Viện dinh dưỡng Quốc gia (2016), Dinh dưỡng và sức khỏe, Hà Nội.
Tiếng Anh
78. Alamoudi N., Salako N.O., Massoud I. (1996), “Caries experience of children
aged 6-9 years in Jeddah, Saudi Arabia”, Int J Paediatr Dent., vol. 6(2), pp.101-5.
79. Alderman H., et al (2006), “Long term consequences of early childhood
malnutrition”, Oxf Econ Pap, vol. 58, pp. 450-574.
80. Alessandra M., Gragnolati M. (2003), “Malnutrition and Poverty in
Guatemala”, Policy Research Working Paper , vol. 2967, pp. 2-9.
81. Alkarimi HA, Watt RG, Pikhart H, Sheiham A, Tsakos G (2014), “Dental caries
and growth in school-age children”, Pediatrics, vol. 133(3), pp. 616-623.
82. Almed F., Bhuyan M.A., Shaheen N. (1991), "Effect of socio-demographic
condition on growth of urban schoolchildren of Bangladesh", Euro Clinic
Nutrition, No 45, p. 4.
83. Alvarez JO, Eguren JC, Caceda J, Navia JM (1990), “The effect of nutritional
status on the age distribution of dental caries in the primary teeth”, J Dent
Res., vol. 69(9), pp. 1564-1566.
84. Alvarez JO, Caceda J, Woolley TW, Carley KW, Baiocchi N, Caravedo L,
Navia JM (1993), “A longitudinal study of dental caries in the primary teeth of
children who suffered from infant malnutrition”, J Dent Res., vol. 72(12), pp.
1573-1576.
126
85. Amy L. Rice, Lisa Sacco, Adnan Hyder and Robert E. Black (2000),
“Malnutrion as an underlying cause of childhood deaths associated with
infectious diseases in developing countries”, Buletin of World Health
Organization, vol. 78 (10), Geneva, pp.1207-1219.
86. Bagramian R. A., F. Garcia-Godoy & A.R. Volpe (2009), “The global increase
in dental caries. A pending public health crisis”, Am J Dent., vol. 21(1), pp.3-8.
87. Bajomo AS, Rudolph MJ, Ogunbodede EO. (2004), “Dental caries in 6, 12
and 15 year old Venda children in South Africa”, East Afr Med J., vol. 81(5),
pp. 236-243.
88. Ball TM, Pust RE (1993), “Arm circumference vs arm circumference/head
circumference ratio in the assessment of malnutrition in rural Malawian
children”, Journal of Tropical Pediatrics, vol. 39(5), pp. 298-303.
89. Beltrán-Aguilar E. D., Laurie K. Barker, Maria Teresa Canto and coll. (2005),
“Surveillance for dental caries, dental sealants, tooth retention, edentulism,
and enamel fluorosis - United States, 1988-1994 and 1999-2002”, MMWR,
vol. 54(3), pp. 1-44.
90. Bender G.R., Marquis R.E. (1987), “Membrane ATPases and acid to lerance
of Antinomyces viscosus and Lactobacillus casei”, Appl. Environ. Micrbiol,
vol. 53, pp. 2124-2128.
91. Carino KMG, Shinida K, Kawaguchi Y (2003), “Early childhood caries in
northern Philippines”, Community Dent Oral Epidemiol, vol. 31, pp. 81-89.
92. Cesar G. Victoria, et al (2008), “Maternal and child under nutrition:
consequences for adult health and human capital”, The Lancet, Maternal and
Child Under Nutrition Series, pp. 23-40.
93. Cleaton-Jones P., Fatti P., Bönecker M. (2006), “Dental caries trends in 5 to 6
year-old and 11 to 13 year-old children in three UNICEF designated regions-
Sub Saharan Africa, Middle East and North Africa, Latin America and
Caribbean: 1970-2004”, Int Dent J., vol. 56(5), pp. 294-300.
94. Cole T.J. (2000),“Secular Trends in Growth”, Proceedings of the Nutrition
Society, vol. 59, pp. 317-324.
127
95. Darshana Bennadi, Veeara Reddy (2014), “Influence of Genetic factor on
Dental Caries”, Indian Journal of Research in Pharmacy and Biotechnology,
vol. 2(3), pp. 1196-1207.
96. Datta P., Datta P.P. (2013), “Prevalence of Dental Caries among School
Children in Sundarban, India”, Epidemiol., vol. 3, pp. 1-4.
97. Davies G., Neville J., Rooney E., Robinson M., Jones A., Perkins C. (2013),
“National dental epidemiology programme for England: Oral health survey of
five-year-old children 2012”, A report on the prevalence and severity of dental
decay, Public Health England, pp. 6-9.
98. Delgado-Angulo EK, Hobdell MH, Bernabé E (2013), “Childhood stunting
and caries increment in permanent teeth: a three and a half year longitudinal
study in Peru”, International journal of paediatric dentistry, vol. 23(2), pp.
101-109.
99. Dietz W.H., Robinson T.N. (2005), “Overweight Children and Adolescents”,
New England Journal of Medicine, vol. 352, pp. 2100-2109.
100. Dye B.A., Thornton-Evans G., Li X., Iafolla T.J. (2015), “Dental caries and
sealant prevalence in children and adolescents in the United States, 2011-
2012”, NCHS data brief, vol. 191.
101. Ebbeling C. B., Pawlak D. B., Ludwig D.S. (2002), “Childhood obesity:
Public-health crisis, common sense cure”, The Lancet, vol. 360, pp. 473-482.
102. Ehizele AO, Ojehanon PI, Akhionbare O. (2009), “Nutrition and Oral
health”, Journal of Postgraduate Medicine, vol. 11(1), pp. 76-82.
103. Eknoyan G. (2007), “Adolphe Quetelet (1796-1874)-the average man and indices
of obesity”, Nephrology Dialysis Transplantation, vol. 23 (1), pp. 47-51.
104. FAO (1994), “Fat and oild in human nutrition”, Report of a joint expert
consultation, FAO Food and Nutrition paper, vol. 57.
105. Fejerskov O. (2004), “Changing Paradigms in Concepts on Dental Caries:
Consequneces for Oral Health Care”, Caries Res 2004, vol. 38, pp. 182-191.
106. French SA, Story M, Jeffery RW (2001), “Environmental influences on eating
and physical activity”, Annual review of public health , vol. 22, pp. 309-335.
128
107. Gerdin EW, Angbratt M, Aronsson K, Eriksson E, Johansson I (2008), “Dental
caries and body mass in Swedish index by socio‐economic status
children”, Community dentistry and oral epidemiology, vol. 36(5), pp. 459-465.
108. General Statistics Office (2011), Viet Nam Multiple Indicator Cluster Survey
2010-2011, Final Report, 2011, Ha Noi, Viet Nam, pp. 49-64.
109. Gretel H., et al (1991), “Household size, food instake an anthropometic status
of school- age children in a Highland Mexico area”, Soc Sci Med., vol. 33(10),
pp. 1135-1140.
110. Halliday JA. (2014), “The relationship between family functioning and child
and adolescent overweight and obesity: a systematic review”, International
Journal of Obesity, vol. 38(4), pp. 480-493.
111. Hatlebakk M. (2012), Malnutrition in South-Asia Poverty, diet or lack of
female empowerment?, Chr. Michelsen Institute, pp. 8-13.
112. Hooley M, Skouteris H, Millar L (2012), “The relationship between childhood
weight, dental caries and eating practices in children aged 4-8 years in
Australia, 2004-2008”, Pediatric obesity, vol. 7(6), pp. 461-470.
113. Hua M. (2013), Conference proceedings of International Dental Conference
on “Caries Control throughout Life in Asia, pp. 117–120.
114. Infante PF, Gillespie GM. (1976), “Dental caries experience in the deciduous
dentition of rural Guatemalan children ages 6 months to 7 years”, J Dent Res.,
vol. 55, pp. 951-957.
115. Jean-Marc Brodeur, Chantal Galarneau (2006), “The high incidence of early
childhood caries in kindergarten-age children", JODQ - Supplement, April,
pp.3-5.
116. Jia W. P., Xiang K.S., Chen L., Lu J.X., Wu Y.M. (2002), “Epidemiological
study on obesity and its comorbidities in urban Chinese older than 20 years of
age in Shanghai, China”, Obesity reviews, vol. 3(3), pp. 157-165.
117. Jose o Alvarez (1995), “Nutrition, tooth development, and dental caries”, Am J
Clin Nutr., vol. 61, pp. 410-416.
118. Kelly T., Yang W., Chen C. S. (2008), “Global burden of obesity in 2005 and
projections to 2030”, Int J Obes (Lond), vol. 32(9), pp. 1431-1437.
129
119. Khanh LN, Ivey SL, Sokal-Gutierrez K, Barkan H, Ngo KM, Hoang HT
(2015), “Early childhood caries, mouth pain, and nutritional threats in
Vietnam”, American journal of public health, vol. 105(12), pp. 2510-2517
120. Larrea C., Freire W. (2002), “Social inequality and child malnutrition in four
Andean countries”, Rew Panam Salud Publica/Pan Americian Journal Health,
vol. 11(5), pp. 356-359.
121. Laura E. Caufield, Mercedes De Onis, Juan Rivera (2008), “Maternal and
child under nutrition: global and regional disease burden from under
nutrition”, The Lancet, vol. 1, pp. 12-18.
122. Lauren S. Blum, Rasheda Khan, Robert E. Black (2004), “Integrated
management of childhood illness (IMCI) in Bangladesh: early findings from a
cluster randomized study”, The Lancet, vol. 364, pp. 595-602.
123. Lawrence Haddad, Smith Lisa (2000), Overcoming child malnutrition in
developing countries: Past achievement and future choices, IFPRI,
Washington DC, USA.
124. Lobstein T., Baur L., Uauy R. (2004), “Obesity in children and young people:
a crisis in public health”, Obesity reviews, vol. 5, pp. 4-72.
125. Luo J., Hu F. B. (1998), “Time trends of childhood Obesity in China from
1989 to 1997”, Harvard School of public health, Boston, pp. 1-16.
126. Losche W.J. (1986), “Role of Streptococcus Mutans in Human Dental Decay”,
Microbiol. Rev, vol. 50, pp. 353-380.
127. Mahejabeen R., Sudha P., Kulkarni S.S., Anegundi R. (2006), “Dental caries
prevalence among preschool children of Hubli: Dharwad city”, Journal of
Indian Society of Pedodontics and Preventive Dentistry, pp. 19-22.
128. Malina R.M. et al (1975), “Head of chest circumferences in rural Guatemanian
Ladino children, birth to seven years of age”, American Journal of Clinical
Nutrition, 1975, vol. 28, pp. 1061-1070.
129. Martorell R. , Yarbrough C., Lechtig A., Delgado H., Klein
R.E. (1976), “Upper Arm Anthropometric Indicators of Nutritional status”,
American Journal of Clincal Nutrition, vol. 29, pp. 46-53.
130
130. Martorell R., Khan L. K., Hunghes M.L., Grumer-Strawn L.M. (1998),
“Obesity in Latin American women and children”, Journal Nutrition, vol.
128(9), pp. 1464-1473.
131. Martorell R., Khan L. K., Hughes M.L, Grummer-Strawn L.M. (2000),
“Overweight and obesity in preschool children from developing countries”,
International Journal of Obesity, vol. 24 (8), pp. 959-967.
132. Matsuchia Y., Yoshiike N. (2004), “Trend in childhood obesity in Japan over
the last 25 years from the national nutrition survey”, Obesity Review, vol.
12(2), pp. 205-214.
133. Marsh P., Martin M.V. (2000), “Antimicrobial therapy and prophylaxis for
oral infections”, Oral microbiology, Reed Educational and Professional
Publishing Ltd. USA, pp. 170-177.
134. Mei Z., Grummer - Strawn L.M., Thompson D., Dietz W.H. (2004), “Shifts in
percentiles of growth during early childhood: Analysis of longitudinal data
from the Calofornia child health and development study”, Pediatrics, vol.
113(6), pp. 617-627.
135. Moreira R.S. (2012), “Epidemiology of Dental Caries in the World”, in: Oral
Health Care - Pediatric, Research, Epidemiology and Clinical Practices, Prof.
Mandeep Virdi (Ed.), InTech, pp.149-168.
136. Nitabhandari, Rajiav, Sunita Taneja, Mercedes De Onis, Maharaij K. Bhan
(2002), “Growth performance of affluent Indian children is similar to that in
developed countries”, Bulentin of World Heath Organization, vol. 77(11),
Geneva, pp.189-195.
137. Onis M.D., Frongillo E.A. Jr., Blossner M. (2000), “Is malnutrition declining?
An analysis of changes in levels of child malnutrition since 1980”, Bulletin of
World Health Organization ,vol. 78, pp. 1222-1233.
138. Onis M.D., Onyango A.W., Borghi E., Siyam A., Nishidaa C., Siekmanna J.
(2007), “Development of a WHO growth reference for school-aged children
and adolescents”, Bulletin of the World Health Organization, September 2007,
vol. 85 (9), pp. 660-667.
131
139. Onis M.D., Blossner M., Borghi E. (2010), “Global prevalence and trends of
overweight and obesity among preschool children”, American Journal of
Clinical Nutrition, vol. 92, pp. 57-64.
140. Parr R. B. (1997), “Exercising to lose 10 to 20 pounds”, The physian and
sports medicine, vol. 25(4), pp. 32-36.
141. Petersen P.E., Bin Peng, Baojun Tai, Zhuan Bian and Mingwen Fan (2004),
“Effect of a school-based oral health education programme in Wuhan City,
Peoples Republic of China”, International Dental Journal, vol. 54(1), pp.33-41.
142. Petersen P.E. (2008), “World Health Organization global policy for
improvement of oral helth - World Health Assembly 2007”, International
Dental Journal, vol. 58(3), pp. 115-121.
143. Popkin B.M., Richards M.K., Montiero C.A. (1996), “Stunting is associated
with overweight in children of four nations that are undergoing the nutrition
transition”, Journal Nutrition, vol. 126(12), pp. 3009-3016.
144. Popkin B.M., Horton S., Kim S. (2001), “The Nutrition transition and Diet
Related chronic diseases Asea”, Implication for prevention IFPRI, FCND, vol.
105, pp. 23-26.
145. Public Health England (2015), The relationship between dental caries and
obesity in children: an evidence summary, Accessed 8 Oct 2015.
146. Psoter W.J., Reid B.C., Katz R.V. (2005), “Malnutrition and Dental Caries: A
Review of the Literature”, Caries Res., vol. 39(6), pp. 441-447.
147. Roma R.J., Chinn S. (1991), “Father unumployment and height of primery
school children in Britain”, Ann Hum Biol, vol. 18(5), pp. 441 - 448.
148. Ribeiro C.C.C., Silva M.C.Bd., Nunes A.M.M., Thomaz E.Bd.A.F., Carmo
C.D.S., Ribeiro M.R.C. (2017), “Overweight, obese, underweight, and
frequency of sugar consumption as risk indicators for early childhood caries in
Brazilian preschool children”, International journal of paediatric dentistry,
vol. 27(6), pp. 532-539.
149. Ritchie L., Ivey S., Masch M., Lopez G.W., Ikeda J., Crawford P. (2001),
“Prevalence of Pediatric Overweight: A review of the literature, The center for
132
weight and health”, College of National Resources University of California,
Berkeley, pp. 7-14, 45-50.
150. Robert E. Black et al (2008), “Maternal and child under nutrition: global and
regional exposes and health consequences”, The Lancet, Maternal and Child
Under Nutrition Serrie, pp. 5-11.
151. Russell S.L., Psoter W.J., Charles G.J., Prophte S., Gebrian B. (2010),
“Protein-energy malnutrition during early childhood and periodontal disease in
the permanent dentition of Haitian adolescents aged 12-19 years: a
retrospective cohort study”, Int J Paediatr Dent., vol. 20(3), pp. 222-29.
152. Saied-Moallemi Z., Virtanen J.I., Ghofranipour F., Murtomaa H. (2008),
“Influence of mothers' oral health knowledge and attitudes on their children's
dental health”, Eur Arch Paediatr Dent., vol. 9(2), pp.79-83.
153. Shaw V., Lawson M. (2001), “Clinical Pediatric Dietetics”, Blackwell Science,
vol. 333, pp. 371-379.
154. Sheetal A., Hiremath V.K., Patil A.G., Sajjansetty S., Kumar S.R.
(2013), “Malnutrition and its oral outcome-a review”, Journal of clinical and
diagnostic research, vol. 7(1), pp. 178-180.
155. Shen A., Bernabé E., Sabbah W. (2019), “The bidirectional relationship
between weight, height and dental carries among preschool children in China”,
PLoS One, vol. 14(4).
156. KM Shivakumar et al. (2009), “International Caries Detection and Assessment
System: A new paradigm in detection of dental caries”, National Center for
Biotechnology Information, pp. 22-63.
157. Siziya S., Matchaba-Hove R.B. (1994), “Comparison of arm circumference
against standard anthropometric indices using data from a high density town
near Harare, Zimbabwe”, Central African Journal of Medicine, vol. 40(9), pp.
250-254.
158. Spencer N. (2003), Poverty and child health in the European Region, School
of Health and Social Studies, University of Warwick, pp. 1-20.
159. Splieth C., Meyer G. (1996), “Factors for changes of caries prevalence among
adolescents in Gemany”, Eu J.O.Sci, vol. 104(4), pp. 444-451.
133
160. Stecksén-Blicks C., Gustafsson L. (1986), “Impact of oral hygiene and use of
fluorides on caries increment in children during one year”, Community
Dentistry and Oral Epidemiology, vol. 14( 4), pp. 185-189.
161. Strauss R.S. (2000), “Childhood Obesity and self-esteem”, PEDIATRICS, vol.
105(1), p.15.
162. Strauss R.S., Pollack H.A. (2001), “Epidemic increase in childhood
overweight, 1986-1998”, JAMA, vol. 286(22), pp. 2845-2848.
163. Tang J.M. (1997), “Dental caries prevalence and treatment levels in Arizona
preschool children”, Public Health Rep, vol.112, pp. 319-331.
164. UNICEF (1990), Situation Analysis of Woman and Children in Viet Nam,
UNICEF Ha Noi, pp. 108-109.
165. UNICEF (1990), Strategy for Improved Nutrition of Children and Woman in
Developing Countries, pp. 10-11.
166. UNICEF (2008), UNICEF Humanitarian Action Report 2008, New York.
167. UNICEF (2011), Child Poverty in East Asia and the Pacific: Deprivations and
Disparities, A Study of Seven Countries, UNICEF East Asia and Pacific,
Bangkok, pp. 28-30.
168. UNICEF (2012), Level and trends in child malnutrition,1990-2011, New York.
169. UNICEF (2019), The State of the Wolrd’s Children 2019, Vietnam.
170. Youden W.J. (1950), “Index for Rating Diagnostic Tests”, American Cancer
Society Journals, vol. 3, pp. 32-35.
171. World Health Organization (1984), Prevention methods and programmes for
oral diseases, Geneva.
172. World Health Organization (1992), Final Report of the Conference,
International Conference on Nutrition, Rome, December, pp. 42-55.
173. World Health Organization (1994), “Oral Hygiene Indices”, Oral-Health.
174. World Health Organization (1995), Physical Status: The use and Interpretion
of Anthropometry, Geneva.
175. World Health Organization (1997), Oral health survey, basic method, 4th
edition, Geneva, pp. 1-34.
134
176. World Health Organization (1997), WHO Global Database on Child Growth
and Malnutrition, Geneva, pp. 7-28.
177. World Health Organization (1998), “Preparation and use of food - based
dietary guidelines”, Technical Report series 880, Geneva.
178. World Health Organization (2000), Global data on dental caries prevalence
(DMFT) in children aged 12 years, pp. 1-9.
179. World Health Organization (2001), Water-related Diseases, Geneva.
180. World Health Organization (2000), “Obesity preventing and managing the
global epidemic”, Report of a WHO Consultation on Obesity, WHO report
series 894, pp. 174-183.
181. World Health Organization (2003), World Health Report: Diet and physical
activity, a public health priority, pp. 1-17.
182. World Health Organization (2003), Diet, nutrition and the prevention of
chronic diseases, Geneva, Seri 916.
183. World Health Organization (2003), Continuous improvement of oral health
in the 21st century - the approach of the WHO Global Oral Health
Programme, Geneva.
184. World Health Organization (2006), World Health Statistics 2006, Geneva.
185. World Health Organization (2006), WHO Child Growth Standards: Training
Course on Child Growth Assessment: C. Interpreting Growth Indicators, Geneva.
186. World Health Organization (2006), Fact sheet N°311: Obesity and
Overweight, Geneva.
187. World Health Organization (2007), WHO Child Growth Standards:
Length/height-for-age, weight-for-age, weight-for-length, weight-for-height
and body mass index-for-age : Methods and Development, Geneva.
188. World Health Organization (2007), WHO Child Growth Standards: Head
circumference-for-age, arm circumference-for-age, triceps skinfold-for-age
and subscapular skinfold-for-age: Methods and Development, Geneva.
189. World Health Organization (2009), Global database on child growth and
malnutrition WHO, Geneva.
135
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU KHẢO SÁT
Họ và tên học sinh:………………………………
Ngày tháng năm sinh:……………….. Giới tính:…………… Dân tộc:…………… ......
Xã:……………………..Huyện:……………………..Tỉnh:…………………………………
Trường:………………………………………Lớp:…………………………………………
Ngày phỏng vấn:…………………………….
I. Một số chỉ số nhân trắc
Cân nặng (kg):………….. Chiều cao đứng (cm):…………… Vòng đầu (cm):……………
Vòng ngực bình thường(cm):…………… Vòng cánh tay trái duỗi (cm):…………..
II. Điều tra các yếu tố liên quan
Câu hỏi
Trả lời
1. Nông dân 3. Kinh doanh
1 Nghề nghiệp của bố mẹ?
2. Công nhân viên chức nhà nước 4. Các ngành khác
1. Tiểu học 3. Trung học phổ thông trở lên
2 Trình độ học vấn của bố mẹ?
2. Trung học cơ sở 4. Không biết chữ.
1. 1-2 con 2. 3 con 3. Trên 3 con
3 Tổng số con trong gia đình?
Tổng số ngƣời trong hộ gia
4
1. 3-4 người 2. 4-5 người 3. Trên 5 người
đình?
1. Khá giả 2. Đủ ăn 3.Thiếu ăn 4. Hộ nghèo
5 Tình trạng kinh tế gia đình?
1. < 6 tháng 2. 6-11 tháng
Sau khi sinh bao lâu thì trẻ
6
3. 12-24 tháng 4. Trên 24 tháng
đƣợc cai sữa mẹ?
Gia đình có đo chiều cao, cân
7
1. Có 2. Không
nặng định kỳ cho trẻ không?
Sau khi cai sữa gia đình cho
8
1. Sữa 2. Bột 3. Cháo 4. Cơm nhai
trẻ ăn bổ sung chủ yếu thực
phẩm nào?
Trẻ có ăn sáng trƣớc khi đi
9
1. Có 2. Không
học không?
1. Có 2. Không
Trẻ có phải làm việc giúp đỡ
10
Nếu có cháu phải làm gì:………………
gia đình không?
- 1 -
1. Đồ ăn ngọt, thức uống có ga
2. Thịt, các đồ ăn nhanh, chiên, xào
11 Sở thích ăn uống của trẻ?
3. Rau, hoa quả
4. Khác:……………………………………………
1. Chơi điện tử, xem ti vi
Sở thích chơi của trẻ?
12
2. Tham gia vào các hoạt động thể thao
3. Khác:..................................................................
1. Cơm, rau
2. Cơm, rau, thịt, cá
13 Bữa ăn hàng ngày của trẻ?
3. Cho ăn theo yêu cầu của trẻ, những đồ ăn trẻ thích
4. Đồ ăn đa dạng thay đổi hàng ngày
1. Có, rất thường xuyên
Gia đình có thƣờng xuyên
14
2.Thỉnh thoảng, chỉ khi nào nhà trường cân cho trẻ
theo dõi chiều cao, cân nặng
3.Hiếm khi 4. Không theo dõi
của trẻ không?
1. Cho trẻ ăn đúng bữa
2. Cho trẻ ăn đúng bữa, phong phú thực đơn, có rau xanh
Theo gia đình để phòng ngừa
và cho trẻ tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao,
tình trạng suy dinh dƣỡng ở
15
theo dõi thường xuyên cân nặng của trẻ
trẻ thì cần tiến hành biện
3. Cho trẻ ăn theo sở thích, ăn bất cứ thời gian nào trẻ
pháp nào sau đây:
thích
4. Khác (nêu rõ):…………………………………………
1. Đài, TV, internet, sách báo 2. Cán bộ Y tế
Gia đình nhận thông tin về
16
3. Bạn bè/Hàng xóm 4. Không theo dõi/Không biết
dinh dƣỡng cho trẻ từ đâu?
Gia đình có đƣợc tuyên
17
1. Có 2. Không
truyền về nuôi dƣỡng chăm
sóc trẻ không?
1. Cán bộ y tế 2. Cán bộ phụ nữ
18 Ai là ngƣời tuyên truyền?
3. Cán bộ chính quyền 4. Khác
1. Dựa vào cân nặng 2. Dựa vào chiều cao
Làm thế nào để biết trẻ bị suy
19
3. Nhà trường, cán bộ y tế thông báo 4. Không biết
dinh dƣỡng?
1. Ăn ít cơm 2. Ăn ít thịt, mỡ
Gia đình có biết nguyên nhân
20
3. Không tập thể dục 5. Không biết
trẻ bị suy dinh dƣỡng?
6. Khác (Nêu rõ):………………………………………
- 2 -
1. Gây bệnh tật 2. Giảm trí nhớ
Tác hại của thiếu dinh dƣỡng
21
3. Học kém 4. Không biết
ở trẻ?
1. Ăn uống vừa đủ no
Theo gia đình để đề phòng
2.Ăn uống đúng giờ, cho trẻ tập thể dục
22
suy dinh dƣỡng phải làm nhƣ
3. Không biết
thế nào?
4. Khác (nêu rõ):…………………………………….
1. 1 bữa 2. 2 bữa
Hằng ngày ở nhà thì trẻ
23
3. 3 bữa 4.>3 bữa
thƣờng ăn mấy bữa cơm?
1.1. Thừa lượng 1.2. Đủ lượng 1.3. Thiếu lượng
Theo gia đình, trẻ ăn có đủ
24
2.1. Thừa chất 2.2. Đủ chất 2.3. Thiếu chất
lƣợng và đủ chất không
1. 1 bữa chính 2. 2 bữa chính
Nếu trẻ ăn bán trú, đƣợc ăn
25
3. 1 bữa chính,1 bữa phụ 4. 2 bữa chính, 1bữa phụ
mấy bữa chính và phụ?
5. Khác (nêu rõ):………………………………….
Quát mắng, ép buộc trẻ ăn hết
1.
Dỗ dành, vừa ăn vừa nói chuyện
2.
Khi cháu biếng ăn, gia đình
26
3.
Chế biến, thay đổi thức ăn thường xuyên, cho trẻ
xử lí thế nào?
ăn thức ăn mà trẻ thích
4.
Không làm gì
1. Có 2. Không
27 Trẻ có hay mắc bệnh không?
Nếu có là bệnh gì: ……………………...
1. Đến các cơ sở y tế
2. Dùng thuốc thảo mộc, dân tộc
Khi trẻ bị mắc bệnh gia đình
28
3. Cúng bái
điều trị nhƣ thế nào cho trẻ?
4. Không làm gì
5. 5. Khác (nêu rõ):………………………………………
Trẻ có ngủ trong màn
29
1. Có 2. Không
không?
Trẻ có hay ăn thực phẩm chế
30
1. Có 2. Không
biến sẵn không?
Trẻ có hay ăn bánh kẹo ngọt
31
1. Có 2. Không
không?
- 3 -
Hằng ngày gia đình đƣa đón
32
1. Đi bộ 2. Đi xe đạp 3. Đi xe máy, oto 4. Trẻ tự đi
con đi học bằng phƣơng tiện
gì?
1. Cầu lông 2. Nhảy dây 3. Bóng bàn
Trẻ thƣờng xuyên chơi môn
33
4. Bóng đá 5. Đá cầu 6. Bơi 7. Không
thể thao nào nhất?
1. Có 2. Không
34 Trẻ có hay xem tivi không?
1.<1 giờ 2. 1 giờ 3. 2 giờ
Nếu có, một ngày trẻ xem tivi
35
4. 3 giờ 5. >3 giờ
mấy giờ?
Trong gia đình có ai bị suy
36
1. Có 2. Không
dinh dƣỡng không?
Phụ huynh có khuyến khích
37
1. Có 2. Không
con em mình tập thể dục thể
thao không?
1. Giếng khơi 2. Giếng khoan
Gia đình dùng nguồn nƣớc
38
3. Nước sông, suối 4. Nước mưa
nào để ăn uống?
5. Khác (Nêu rõ):………………………………..
1. Hố xí tự hoại 2. Hố xí 2 ngăn
Loại nhà vệ sinh gia đình
39
3. Hố xí đào 4. Không có 5. Khác
đang sử dụng?
1. Trước khi cho trẻ ăn 2. Sau khi trẻ đi vệ sinh
Theo anh (chị) cần rửa tay
40
3. Trước khi trẻ ăn và sau khi trẻ đi vệ sinh
sạch cho trẻ khi nào?
4. Không rửa, không cần
Khi rửa tay trẻ có sử dụng xà
41
1. Có 2. Không
phòng không?
1. 6 tháng 2. 1 năm 3. > 1 năm
Bao lâu thì trẻ đƣợc tẩy giun
42
4. Không cần 5.Không biết
định kỳ?
1. Đánh răng 2. Súc miệng
Gia đình làm gì sau khi cho
43
3. Dùng tăm 4. Không làm gì
trẻ ăn?
1. 1 lần 2. 2 lần 3. Trên 2 lần 4. Không đánh răng
44 Số lần đánh răng trong ngày
Thời điểm nên đánh răng cho
45
1. Sáng 2. Tối 3. Sáng và tối 4. Sau khi ăn
trẻ?
1. Dưới 2 phút 2. 2-3 phút 3. Trên 3 phút
46 Thời gian đánh răng?
1. Lên xuống 2. Ngang 3. Xoay tròn
47 Kỹ thuật đánh răng cho trẻ?
- 4 -
Số lần nên thay bàn chải răng
48
1. 1 lần 2. 2 lần 3. 3 lần 4. Không thay
cho trẻ trong 1 năm?
Số lần khám răng cho trẻ
49
1. 1 lần 2. 2 lần 3. Trên 2 lần 4. Không kiểm tra
trong một năm?
Hiện tại trẻ có bị sâu răng
50
1. Có 2. Không
không?
1. Đến cơ sở y tế 2. Dùng thuốc dân tộc
Nếu trẻ bị sâu răng gia đình
51
3. Không cần chữa 4. Không biết
điều trị ở đâu?
Theo gia đình, trẻ bị sâu răng
52
1. Có 2. Không 3. Không biết
có tác hại không?
Theo gia đình, nguyên nhân
53
Ghi rõ:…………………………………………………..
gây sâu răng ở trẻ là gì?
1. Gây mất thẩm mĩ 2. Lâu mọc răng vĩnh viễn
Theo gia đình, trẻ bị sâu răng
54
3. Ảnh hưởng đến đường tiêu hóa 4. Không ảnh hưởng
có những ảnh hƣởng gì?
Khi răng sữa của trẻ bị đau
55
1. Để răng tự rụng 2. Nhổ răng lung lay
hoặc lung lay, gia đình xử lí
nhƣ thế nào?
1. Đến nha khoa chỉnh sửa
Nếu răng trẻ mọc không đều
56
2. Không làm gì
gia đình thƣờng làm gì?
ĐIỀU TRA VIÊN
- 5 -
PHỤ LỤC 2
PHIẾU KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG RĂNG
Họ và tên học sinh:………………………………
Ngày tháng năm sinh:………………… Giới tính:………… Dân tộc:……………...
Xã:……………………..Huyện:……………………..Tỉnh:…………………………
Trường:……………………………………………….Lớp:…………………………
Ngày phỏng vấn:……………………………
Hàm
trên 55 54 53 52 51 61 62 63 64 65
85 84 83 82 81 71 72 73 74 75 Hàm
dƣới
(ĐTV đánh mã tình trạng răng vào ô phù hợp sau khi quan sát)
ĐIỀU TRA VIÊN
- 6 -
PHỤ LỤC 3
TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN SÂU RĂNG THEO ICDAS
ICDAS 4 ICDAS 0 Có bóng đen bên Lành mạnh, dưới từ ngà răng không có dấu ánh qua bề mặt hiệu sâu răng men liên tục
ICDAS 1
Thay đổi nhìn ICDAS 5
thấy sau khi thổi Có lỗ sâu lộ
khô đốm trắng ngà răng
đục hay màu nâu
ICDAS 2 ICDAS 6 Thay đổi được Có lỗ sâu lớn lộ nhìn rõ trên men ngà răng >1/2 răng ướt và lan mặt răng rộng qua hố rãnh
ICDAS 3
Mất chất khu
trú ở men
(không lộ ngà)
- 7 -
PHỤ LỤC 4
THÁP DINH DƢỠNG CHO TRẺ EM VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
- 8 -
PHỤ LỤC 5
PHÂN TÍCH HỒI QUY TUYẾN TÍNH
GIỮA CÁC KÍCH THƢỚC NHÂN TRẮC
Phụ lục 5.1. Phân tích hồi quy tuyến tính với vòng ngực là biến phụ thuộc, tuổi
và cân nặng là biến độc lập.
- Tóm tắt mô hình
Std. Error of the Model R R2 Adjusted R2 Estimate
1 0,677 0,458 0,458 2,3167
Hệ số tương quan R2 hiệu chỉnh (Adjusted R2) = 0,458, như vậy tuổi và cân
nặng ảnh hưởng 45,8% sự thay đổi của vòng ngực của trẻ trong nghiên cứu.
- Phân tích ANOVA
Sum of Model df Mean Square F Sig. Squares
Regression 9475,801 2 4737,901 882,787 0,000
Residual 11200,882 2087 5,367
Total 20676,684 2089
Giá trị F = 882,787, với p < 0,05, mô hình tuyến tính xây dựng phù hợp với
tổng thể.
- Hệ số hồi quy với vòng ngực là biến phụ thuộc
Hệ số hồi quy 95%CI
t p Lower Upper β Std. Error Bound Bound
Constant 40,930 0,252 162,630 0,000 40,437 41,424
Tuổi -0,167 0,063 -2,623 0,009 -0,291 -0,042
Cân nặng 0,726 0,022 33,533 0,000 0,683 0,768
- 9 -
- Biểu đồ tần số phân dư chuẩn hóa Histogram
Biểu đồ phân dƣ chuẩn hóa với vòng ngực là biến phụ thuộc
Biểu đồ phân dư chuẩn hóa với vòng ngực là biến phụ thuộc cho thấy đường cong
có dạng hình chuông phù hợp với đồ thị của phân phối chuẩn, với = 0, SD = 1
nên giả định phần dư có dạng phân phối chuẩn không bị vi phạm.
- Biểu đồ Scatter Plot kiểm tra giả định liên hệ tuyến tính
Biểu đồ Scatter Plot với vòng ngực là biến phụ thuộc
- 10 -
Biểu đồ Scatter Plot với vòng ngực là biến phụ thuộc cho thấy phân dư
chuẩn hóa tập trung xung quanh đường tung độ 0, do vậy giả thuyết tuyến tính
không bị vi phạm.
Các giả định của phân tích hồi quy tuyến tính đều thỏa mãn. Vì vậy tuổi và
cân nặng có liên hệ tuyến tính với vòng ngực theo phương trình hồi quy tuyến tính:
Vòng ngực = 40,93 - 0,167*Tuổi+ 0,726*Cân nặng
Phụ lục 5.2. Phân tích hồi quy tuyến tính với VCTTD là biến phụ thuộc, tuổi
và cân nặng là biến độc lập.
- Tóm tắt mô hình
Std. Error of the Model R R2 Adjusted R2 Estimate
1 0,598 0,358 0,357 1,0212
Hệ số tương quan R2 hiệu chỉnh (Adjusted R2) = 0,357, như vậy tuổi và cân
nặng ảnh hưởng 35,7% sự thay đổi của VCTTD của trẻ trong nghiên cứu.
- Phân tích ANOVA
Sum of Mean Model df F p Squares Square
Regression 1213,626 2 606,813 581,893 0,000
Residual 2176,377 2087 1,043
Total 3390,003 2089
Giá trị F = 581,893, với p < 0,05, mô hình tuyến tính xây dựng phù hợp với
tổng thể.
- Hệ số hồi quy với VCTTD là biến phụ thuộc
Hệ số hồi quy 95%CI
t p Lower Upper β Std. Error Bound Bound
Constant 11,468 0,111 103,369 0,000 11,250 11,685
Tuổi -0,108 0,028 -3,861 0,000 -0,163 -0,053
Cân nặng 0,269 0,010 28,236 0,000 0,251 0,288
- 11 -
- Biểu đồ tần số phân dư chuẩn hóa Histogram
Biểu đồ phân dƣ chuẩn hóa với VCTTD là biến phụ thuộc
Biểu đồ phân dư chuẩn hóa với VCTTD là biến phụ thuộc cho thấy đường cong có
dạng hình chuông phù hợp với đồ thị của phân phối chuẩn, với = 0, SD = 1 nên
giả định phần dư có dạng phân phối chuẩn không bị vi phạm.
- Biểu đồ Scatter Plot kiểm tra giả định liên hệ tuyến tính
Biểu đồ Scatter Plot với VCTTD là biến phụ thuộc
- 12 -
Biểu đồ Scatter Plot với VCTTD là biến phụ thuộc cho thấy phân dư chuẩn
hóa tập trung xung quanh đường tung độ 0, do vậy giả thuyết tuyến tính không bị
vi phạm.
Các giả định của phân tích hồi quy tuyến tính đều thỏa mãn. Vì vậy tuổi và
cân nặng có liên hệ tuyến tính với VCTTD theo phương trình hồi quy tuyến tính:
VCTTD = 11,468 - 0,108*Tuổi+ 0,269*Cân nặng
- 13 -
PHỤ LỤC 6
BẢNG LƢỢNG HÓA CÁC BIẾN ĐỊNH TÍNH THÀNH BIẾN THỨ TỰ
Biến thứ Biến định tính tự
Nông dân 1
Công nhân viên chức nhà nước
Kinh doanh và các ngành nghề khác
2 C1 Nghề nghiệp của bố mẹ
3
Không biết chữ 1
Tiểu học 2
Trình độ học vấn
C2
của bố mẹ?
Trung học cơ sở 3
Trug học phổ thông trở lên 4
1-2 con 1
Tổng số con
3 con 2 C3
trong gia đình?
Trên 3 con 3
3-5 người 1
Tổng số ngƣời trong
C4
hộ gia đình?
Từ 5 người trở lên 2
Dưới 6 tháng 1
Sau khi sinh bao lâu thì
6-11 tháng 2 C6
trẻ đƣợc cai sữa mẹ?
Từ 12 tháng trở lên 3
Không theo dõi 1
Gia đình có thƣờng
Hiếm khi, thỉnh thoảng 2
xuyên theo dõi cân nặng,
C14
chiều cao của trẻ không?
Thường xuyên 3
Không 1
Trẻ có hay ăn thực phẩm
C30
chế biễn sẵn không
Có 2
Không 1
Trẻ có hay ăn bánh kẹo
C31
ngọt không?
Có 2
Không 1
Trẻ có hay xem tivi
C34
không?
Có 2
- 14 -
Nước sông, suối, nước mưa, giếng 1 khơi
Gia đình dùng nguồn
C38
nƣớc nào để ăn uống?
Giếng khoan 2
Nước máy 3
Không có 1
Loại nhà vệ sinh gia đình
Hố xí đào 2 C39
đang sử dụng
Hố xí 2 ngăn, hố xí tự hoại 3
Không rửa, không cần rửa 1
Theo anh (chị) cần rửa
Trước khi ăn hoặc sau khi đi vệ sinh 2 C40
tay sạch cho trẻ khi nào?
Trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh 3
Từ 1 năm trở lên 1
Bao lâu thì trẻ đƣợc tẩy
C42
giun định kỳ?
Dưới 1 năm 2
Không đánh răng 1
Số lần đánh răng
1 lần 2 C44
trong ngày
Từ 2 lần trở lên 3
Dưới 2 phút 1
Từ 2-3 phút 2 C46 Thời gian đánh răng?
Trên 3 phút 3
Không hoặc không biết 1
Theo gia đình, trẻ bị sâu
C52
răng có tác hại không?
Có 2
- 15 -
PHỤ LỤC 7
MÔ HÌNH HỒI QUY LOGISTIC
+ Mô hình hồi quy logistic với tình trạng SDD thể thấp còi là biến phụ thuộc
Các biến độc lập trong mô hình là C1, C2, C3, C6, C14, C34, C38, C39,
C40, C42, trong đó:
Trình độ học vấn của bố mẹ?
Nghề nghiệp của bố mẹ? C1
Tổng số con trong gia đình?
C2
Sau khi sinh bao lâu thì trẻ được cai sữa mẹ?
C3
Gia đình có thường xuyên theo dõi cân nặng, chiều cao của trẻ không?
C6
Trẻ có hay xem tivi không?
C14
Gia đình dùng nguồn nước nào để ăn uống?
C34
Loại nhà vệ sinh gia đình đang sử dụng?
C38
Theo anh (chị) cần rửa tay sạch cho trẻ khi nào?
C39
Bao lâu thì trẻ được tẩy giun định kỳ?
C40
C42
Kiểm định Chi bình phương cho thấy mô hình hồi quy phù hợp với tổng thể
(p < 0,05).
Step Block Model Chi bình phƣơng 459,731 459,731 459,731 df 8 8 8 p 0,000 0,000 0,000
Trong mô hình này có trị số -2LL = 2024,084
Cox & Snell R Square Nagelkerke R Square
Step 1 -2 LL 2024,084 0,197 0,284
Tỷ lệ dự đoán đúng của phương trình hồi quy dự đoán tình trạng SDD thể
thấp còi của trẻ trong nghiên cứu là 81%.
Bình thƣờng
Tỷ lệ dự đoán đúng 44,2% 95,3% 81,0% 328 1432 SDD thể nhẹ cân 260 70 SDD thể nhẹ cân Bình thƣờng Tỷ lệ dự đoán đúng trung bình
- 16 -
Hệ số hồi quy logistic của các yếu tố trong mô hình hồi quy đa biến
950% CI B S.E. p OR Lower Upper
0,031 0,085 0,719 0,873 1,219 1,031 C1
0,274 0,097 0,005 1,088 1,590 1,315 C2
-0,355 0,094 0,000 0,583 0,843 0,701 C6
0,501 0,093 0,000 1,375 1,982 1,651 C14
0,355 0,092 0,000 1,190 1,709 1,426 C38
1,254 0,159 0,000 2,566 4,781 3,503 C39
-0,081 0,169 0,631 0,662 1,285 0,922 C40
-0,357 0,152 0,018 0,520 0,942 0,700
C42 Constant -3,734 0,642 0,000 0,024
Y2 = -3,934 + 0,274*C2 – 0,355*C6 + 0,501*C14 + 0,355*C38 + 1,254*C39 – 0,357*C42
Các biến độc lập C2, C6, C14, C38, C39, C42 có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc là tình trạng SDD thể thấp còi (p < 0,05). Phương trình hồi quy đa biến dự đoán tình trạng SDD thể thấp còi của trẻ trong nghiên cứu:
+ Mô hình hồi quy logistic với tình trạng TC-BP là biến phụ thuộc
Các biến độc lập trong mô hình là C1, C2, C6, C14, C30, C31, C34, C39,
Gia đình có thường xuyên theo dõi cân nặng, chiều cao của trẻ không?
Trẻ có hay ăn thực phẩm chế biễn sẵn không
Trẻ có hay ăn bánh kẹo ngọt không?
Trẻ có hay xem tivi không?
Loại nhà vệ sinh gia đình đang sử dụng?
Nghề nghiệp của bố mẹ? Trình độ học vấn của bố mẹ? Sau khi sinh bao lâu thì trẻ được cai sữa mẹ?
trong đó: C1 C2 C6 C14 C30 C31 C34 C39
Kiểm định Chi bình phương cho thấy mô hình hồi quy phù hợp với tổng thể
(p < 0,05).
Step Chi bình phƣơng 39,038 df 8 p 0,000
Block 39,038 8 0,000
Model 39,038 8 0,000
- 17 -
Trong mô hình này có trị số -2LL = 1434,723
Step -2 LL Cox & Snell R Square Nagelkerke R Square
1 1434,723 0,019 0,037
Tỷ lệ dự đoán đúng của phương trình hồi quy dự đoán tình trạng SDD thể
thấp còi của trẻ trong nghiên cứu là 88,7%.
Tỷ lệ dự SDD thể nhẹ Bình thƣờng đoán cân đúng
0 236 0,0% SDD thể nhẹ cân
0 1854 100% Bình thƣờng
88,7% Tỷ lệ dự đoán đúng trung bình
Hệ số hồi quy logistic của các yếu tố trong mô hình hồi quy đa biến
950% CI B S.E. p OR Lower Upper
-0,030 0,106 0,775 0,788 1,194 0,970 C1
-0,336 0,134 0,012 0,549 0,929 0,714 C2
-0,094 0,104 0,366 0,742 1,116 0,910 C6
0,597 0,121 0,000 1,435 2,302 1,818 C14
-0,064 0,144 0,657 0,707 1,244 0,938 C30
-0,541 0,221 0,014 0,378 0,897 0,582 C31
0,010 0,192 0,957 0,694 1,471 1,010 C34
0,134 0,187 0,474 0,793 1,649 1,143 C39
2,823 0,700 0,000 Constant 16,820
Các biến độc lập C2, C14, C31 ảnh hưởng đến biến phụ thuộc là tình trạng
TC-BP (p < 0,05). Phương trình hồi quy đa biến dự đoán tình trạng TC-BP của trẻ
trong nghiên cứu:
Y3 = 2,823 - 0,336*C2 +0,597*C14 – 0,541*C31
- 18 -