RƯỜ Ư M HÀ N I
VŨ THỊ HỒNG TIỆP
TÍNH TƢƠNG TÁC CỦA DIỄN NGÔN BÁO CHÍ
QUA MỘT SỐ BÁO ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2017
RƯỜ Ư M HÀ N I
VŨ THỊ HỒNG TIỆP
TÍNH TƢƠNG TÁC CỦA DIỄN NGÔN BÁO CHÍ
QUA MỘT SỐ BÁO ĐIỆN TỬ PHỔ BIẾN HIỆN NAY
Ữ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
ƯỜ ƯỚNG DẪN KHOA H C
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGÂN HOA
2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU THỦY
HÀ N I - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu thống kê là hoàn toàn trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các
kết luận khoa học chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Thị Hồng Tiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3
5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 4
6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT ........6
1.1. Tổng quan về đề tài nghiên cứu ........................................................................... 6
1.1.1. Các nghiên cứu về diễn ngôn, diễn ngôn báo chí, diễn ngôn báo điện tử ............... 6
1.1.2. Các nghiên cứu về tính tương tác của diễn ngôn báo điện tử ........................... 9
1.2. Cơ sở lí thuyết .................................................................................................... 13
1.2.1. Khái quát về hoạt động giao tiếp và giao tiếp báo chí .................................... 14
1.2.2. Khái quát về diễn ngôn và diễn ngôn báo chí ................................................. 19
1.2.3. Tính tương tác trong giao tiếp và diễn ngôn ................................................... 27
Tiểu kết ............................................................................................................. 49
Chƣơng 2: TƢƠNG TÁC CỦA THỂ PHÁT TRONG DIỄN NGÔN BÁO
ĐIỆN TỬ .................................................................................................................. 51
2.1. Tương tác giữa các thể phát trong diễn ngôn báo điện tử .................................. 52
2.1.1. Tương tác chủ đề ............................................................................................. 52
2.1.2. Tương tác thể loại ........................................................................................... 64
2.2. Tương tác giữa thể phát và thể nhận trong diễn ngôn báo điện tử ..................... 68
2.2.1. Quyền lực tương tác của thể phát .................................................................... 68
2.2.2. Các yếu tố thể hiện sự tương tác giữa thể phát và thể nhận ................................ 70
Tiểu kết ............................................................................................................. 93
Chƣơng 3: TƢƠNG TÁC CỦA THỂ NHẬN TRONG DIỄN NGÔN BÁO
ĐIỆN TỬ .................................................................................................................. 95
3.1. Hệ thống diễn ngôn phản hồi - diễn ngôn của thể nhận ..................................... 96
3.1.1. Đặc điểm diễn ngôn phản hồi ........................................................................ 96
3.1.2. Các loại diễn ngôn phản hồi .......................................................................... 103
3.2. Đối tượng tương tác của thể nhận .................................................................... 106
3.2.1. Tương tác giữa thể nhận với thể phát ............................................................ 106
3.2.2. Tương tác giữa các thể nhận ......................................................................... 114
3.3. Các yếu tố thể hiện sự tương tác của thể nhận ................................................. 117
3.3.1. Hành động ngôn từ ........................................................................................ 117
3.3.2. Một số phương tiện ngôn ngữ khác .............................................................. 129
Tiểu kết… ....................................................................................................... 145
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
QUY ƢỚC VIẾT TẮT
- DT: báo Dân trí
- VNN: báo VietNamNet
- DNBC: diễn ngôn báo chí
- HĐNT: hành động ngôn từ
- PTTT: phương thức tương tác
QUY ƢỚC TRÍCH DẪN
- Trích dẫn dẫn chứng
(Tên báo, thời gian xuất bản, trang theo phụ lục)
DT: báo Dân trí
VNN: báo VietNamNet
Ví dụ: (VNN 23/04/2015, PL3)
VNN: báo VietNamNet, thời gian xuất bản ngày 23/04/2015, chi tiết về bài
xem trang PL3.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp số lượng các bài báo được khảo sát ......................................... 52
Bảng 2.2: Thống kê lượng bài tương tác chủ đề ....................................................... 55
Bảng 2.3: Phân loại các thể loại ................................................................................ 65
Bảng 2.4: Các kiểu tiêu đề ........................................................................................ 71
Bảng 2.5: Tần số xuất hiện của các kiểu tiêu đề ....................................................... 72
Bảng 2.6: Tần số xuất hiện của các kiểu sapô .......................................................... 78
Bảng 2.7: Phân loại các PTTT dựa vào hành động ngôn từ .......................................... 85
Bảng 3.1: Số lượng các phản hồi .............................................................................. 99
Bảng 3.2: Thống kê lượng bài lấy nguồn từ báo khác ............................................ 100
Bảng 3.3: So sánh lượng phản hồi giữa bài báo gốc và bài báo lấy lại (1) ........................ 102
Bảng 3.4: So sánh lượng phản hồi giữa bài báo gốc và bài báo lấy lại (2) ........................ 102
Bảng 3.5: Số lượng các nhóm hành động ở lời trong phản hồi .............................. 118
Bảng 3.6: Ví dụ về các nhóm hành động ở lời trong phản hồi ............................... 120
DANH MỤC CÁC HÌNH, MÔ HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình
Hình 1.1: Các yếu tố trong quá trình giao tiếp của R. Jakobson…………………………...15
Hình 1.2: Quá trình giao tiếp báo chí ........................................................................ 16
Hình 1.3: Các yếu tố trong quá trình giao tiếp báo chí…………………………….17
Hình 1.4: Cấu trúc văn bản báo chí ........................................................................... 44
Hình 1.5: Cấu trúc văn bản báo chí: cấu trúc hình chữ nhật …………...........…….45
Hình 1.6: Cấu trúc văn bản báo chí: cấu trúc kim tự tháp xuôi ................................ 46
Hình 1.7: Cấu trúc văn bản báo chí: cấu trúc kim tự tháp ngược ............................. 46
Hình 2.1: Đường siêu liên kết chủ đề........................................................................ 54
Hình 2.2: Quy tắc vàng trong viết báo ...................................................................... 83
Hình 3.1: Quá trình tương tác của thể phát - thể nhận và các thể nhận .................... 95
Hình 3.2: Phản hồi dưới mỗi bài viết của báo điện tử .............................................. 97
Hình 3.3: Tương tác của thể nhận ........................................................................... 117
Hình 3.4: Một số phương tiện ngôn ngữ trong phản hồi ........................................ 145
Mô hình
Mô hình 1.1: Mô hình truyền thông báo chí ............................................................. 16
Mô hình 1.2: Mô hình truyền thông của Claude Shannon ........................................ 17
Mô hình 1.3: Mô hình hoạt động trao lời .................................................................. 28
Mô hình 1.4: Mô hình hoạt động đáp lời .................................................................. 28
Mô hình 2.1: Mô hình duy trì và phát triển chủ đề ................................................... 61
Mô hình 2.2: Mô hình duy trì và phát triển chủ đề ở các chủ đề .............................. 62
Mô hình 2.3: Mô hình tương tác thể loại .................................................................. 66
Mô hình 2.4: Mô hình tương tác thể loại cụ thể ở các chủ đề ................................... 67
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ các chủ đề ........................................................... 53
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xuất hiện của các kiểu tiêu đề ............................ 72
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xuất hiện của các kiểu sapô ................................ 79
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hiện nay, báo chí (newspaper, journal) với thế mạnh truyền thông đã và
đang trở thành cơ quan “quyền lực thứ tư” sau tam quyền (Lập pháp, Hành pháp và
Tư pháp). Quyền lực báo chí thể hiện ở khả năng tạo lập và định hướng dư luận. Thời
đại của Internet trong một thế giới phẳng đã thay đổi quá trình truyền thông báo chí -
không còn là quá trình truyền thông một chiều, mà giờ đây là sự tương tác hai chiều
và đa chiều. Xu hướng của báo chí truyền thông thế giới là tương tác hơn, đa dạng
hơn. Điều này tạo cho báo chí đương đại có tính tương tác cao.
1.2. Báo điện tử là loại hình báo chí phổ biến, có tính tương tác nổi bật và dễ
nhận diện nhất. Báo điện tử hiện nay đã thể hiện được những đặc điểm tương tác rõ nét.
Báo điện tử có hệ thống phản hồi được hiện lên trên giao diện tờ báo, rất dễ
để nhận ra. Ở báo điện tử, tính tương tác nổi rõ do mối quan hệ giữa nhà báo và độc
giả tiếp nhận là mối quan hệ mở trong thế đối thoại. Đây là một trong những đặc
điểm tiêu biểu của báo điện tử và là nhân tố quan trọng thu hút sự tham gia của
công chúng vào quá trình thông tin cùng với nhà báo và tòa soạn. Ngoài ra, đây
cũng là cách để tạo hứng thú cho công chúng, thu hút họ trở thành bạn đọc thường
xuyên của báo.
Vì vậy, tìm hiểu tính tương tác của diễn ngôn báo chí thông qua báo điện tử
là tìm hiểu một trong những đặc điểm tiêu biểu của báo chí đương đại. Hơn nữa, nó
còn là yếu tố tạo nên tính hấp dẫn, khả năng thu hút bạn đọc - yếu tố sống còn, lí do
cho sự tồn tại của các trang báo điện tử hiện nay.
1.3. Phân tích diễn ngôn nói chung và diễn ngôn báo chí nói riêng là một lĩnh
vực đa diện, đa chiều. Lí luận phân tích diễn ngôn cho thấy việc chuyển đối tượng
từ câu sang phát ngôn, văn bản sang diễn ngôn thực sự là một sự chuyển hệ quan
trọng thay đổi quan niệm về đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ. Với đối tượng là diễn
ngôn, nghiên cứu ngôn ngữ đã chuyển sang hệ giao tiếp và các yếu tố văn hóa có
tác động đến sự hành chức của ngôn ngữ.
Do đó, tìm hiểu tính tương tác trong diễn ngôn báo chí chính là tìm hiểu hoạt
2
động của ngôn ngữ trong một môi trường giao tiếp đặc biệt: lĩnh vực báo chí - công
luận. Đó là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ trong hệ thống với
ngôn ngữ ở dạng hành chức trong một phong cách chức năng cụ thể. Công việc này
hứa hẹn sẽ mang lại những kết quả thú vị.
Chính vì những lí do trên, cho nên chúng tôi quyết định chọn đề tài Tính
tƣơng tác của diễn ngôn báo chí qua một số báo điện tử phổ biến hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là chỉ ra tính tương tác của diễn ngôn báo chí thông
qua các đặc điểm về nội dung và hình thức của diễn ngôn báo điện tử. Từ đó chỉ ra
bản chất tương tác của diễn ngôn báo chí như một thuộc tính bao trùm chi phối mọi
đặc trưng của diễn ngôn báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lí thuyết về tương tác của diễn ngôn, tương tác của diễn
ngôn báo chí.
- Khảo sát hệ thống các bài báo điện tử ở các báo khác nhau để thấy rõ các
đặc điểm tương tác.
- Chỉ ra các đặc điểm, các yếu tố thể hiện tính tương tác của thể phát (nhà
báo, tòa soạn báo).
- Chỉ ra các đặc điểm, các yếu tố thể hiện tính tương tác của thể nhận (độc giả).
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tính tương tác của diễn ngôn báo chí
thông qua khảo sát các diễn ngôn của báo điện tử. Luận án lựa chọn nghiên cứu
trường hợp trên báo điện tử - một loại hình báo chí tiêu biểu của thời đại. Báo điện
tử là sự kết hợp của rất nhiều phương tiện: hình ảnh, video clip...; trong luận án,
chúng tôi chỉ khảo sát yếu tố văn bản (text).
Có hai phạm vi của diễn ngôn được xem xét trong luận án, đó là:
(1) Diễn ngôn của nhà báo (đại diện cho tờ báo): Diễn ngôn này bao gồm các
diễn ngôn cơ sở (chứa nguồn tin gốc, cung cấp thông tin đầu tiên) và các diễn ngôn
3
phái sinh trong cùng một tờ báo hoặc các tờ báo khác nhau (các diễn ngôn này có
liên quan về mặt chủ đề, đối tượng được nói đến với diễn ngôn cơ sở).
(2) Diễn ngôn phản hồi của độc giả: diễn ngôn xuất hiện sau khi độc giả tiếp
nhận thông tin từ các diễn ngôn trên.
Về mặt phạm vi, chúng tôi lựa chọn hai website báo điện tử: Dân trí
(dantri.com), VietNamNet (vietnamnet.vn). Theo Alexa (www.alexa.com) - trang
web uy tín trong việc thống kê và thông tin về lượng truy cập website hiện nay, đây
là hai tờ báo nằm trong top các báo điện tử có nhiều người đọc ở Việt Nam. Báo
điện tử Dân trí luôn thu hút lượng người đọc và bình luận phản hồi lớn còn
VietNamNet là tờ báo điện tử đầu tiên của Việt Nam. Ngữ liệu chủ yếu của luận án
là 185 bài báo mạng thuộc chuyên mục Giáo dục được xuất bản trong năm 2015 của
hai website này. Hệ thống các bình luận phản hồi được tính từ thời điểm bài báo
xuất bản đến ngày 31/12/2015. Ngoài ra, để đảm bảo tính cập nhật (update) của báo
chí nói chung và báo điện tử nói riêng; khi phân tích các trường hợp điển hình,
chúng tôi có đề cập tới một số bài báo xuất bản thời gian gần đây.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phƣơng pháp miêu tả (description): Trên cơ sở miêu tả đặc điểm về
chủ đề, thể loại, cấu trúc, hành động ngôn từ ... được thể hiện ra bằng ngôn ngữ của
diễn ngôn để nhận diện ra đặc điểm tương tác của diễn ngôn. Nhận diện tương tác
diễn ngôn thông qua miêu tả các đặc điểm nội dung và hình thức của nó.
(i) Miêu tả định lượng: Các yếu tố có thể định lượng, đo đếm được: số bài
báo, số phản hồi; số chủ đề, số tin liên quan tới một chủ đề cụ thể; số lượng các
hành động ngôn từ... Thống kê, phân loại, miêu tả đặc điểm các yếu tố dựa trên tần
số xuất hiện của nó.
(ii) Miêu tả định tính: Từ những miêu tả định lượng có những miêu tả định
tính. Đó là những phán đoán, tiên liệu liên quan tới phân tích ngữ cảnh. Có những
yếu tố có thể nhận diện được trực tiếp: chủ đề (đối tượng được nói đến), phạm vi đề
tài; thời gian (tin xuất bản trước, sau), kênh và môi trường truyền tin (mục, trang
tin)...: tất cả các yếu tố có thể nhìn thấy trên giao diện. Có những yếu tố phải nhận
diện gián tiếp như: các quan niệm, thái độ của nhà báo và độc giả (có thể tường minh,
có thể không tường minh); đích diễn ngôn của nhà báo và độc giả có tính hàm ẩn...
4
4.2. Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn (discourse analysis): Chúng tôi lựa
chọn cách tiếp cận diễn ngôn theo:
(1) đường hướng dụng học (pragmatics): dựa vào lí thuyết hành động nói
(speech acts)
(2) đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán (critical discourse analysis)
với ba kiểu phân tích tương ứng ba chiều đo đã được Fairclough chỉ ra: 1- Định
dạng văn bản (miêu tả diễn ngôn), 2- Phân tích quá trình sản sinh và thực hành diễn
ngôn (tìm hiểu diễn ngôn), 3- Phân tích các đặc điểm văn hóa - xã hội tác động ở bề
sâu diễn ngôn (giải thích diễn ngôn).
4.3. Thủ pháp so sánh đối chiếu (comparison): So sánh đối chiếu giữa các
văn bản, các diễn ngôn báo chí cùng một chủ đề thông tin. So sánh đặc điểm của
diễn ngôn: về nội dung (tiêu điểm thông tin, độ đậm nhạt của thông tin...); so sánh
về mặt đặc trưng loại hình của diễn ngôn (các thể loại); so sánh diễn ngôn trong
cùng một tờ báo và ở các tờ báo khác nhau...
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Về mặt lí luận
Luận án góp phần mở rộng biên độ nghiên cứu ngôn ngữ truyền thông hiện
đại, những kết luận của luận án sẽ bổ sung vào kho lí luận ngôn ngữ truyền thông.
Luận án tổng hợp và vận dụng một số lí thuyết liên quan tới tương tác của
diễn ngôn, từ đó góp phần làm rõ thêm lí thuyết về tính tương tác của diễn ngôn,
tương tác của diễn ngôn báo chí ở một thể loại cụ thể là báo điện tử.
5.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng vào việc giảng dạy,
nghiên cứu phong cách ngôn ngữ báo chí, đặc biệt ở loại hình báo điện tử.
Ngoài ra, luận án là tài liệu tham khảo giúp rèn luyện kĩ năng viết báo (đặc
biệt là báo điện tử). Các phân tích ngôn ngữ cụ thể của luận án chỉ ra một số cách sử
dụng ngôn ngữ để đạt được hiệu quả tương tác cao.
Những kết quả của luận án sẽ góp phần điều chỉnh, định hướng sự giao lưu,
tương tác báo chí theo hướng tích cực.
5
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục; phần
nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Chƣơng 2: Tƣơng tác của thể phát trong diễn ngôn báo điện tử
Chƣơng 3: Tƣơng tác của thể nhận trong diễn ngôn báo điện tử
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Dẫn nhập
Chương này tổng quan lại các công trình có liên quan tới đề tài nghiên cứu,
hệ thống những tiền đề lí thuyết làm cơ sở cho việc triển khai đề tài.
1.1. Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm tổng quan các công trình nghiên
cứu về diễn ngôn (diễn ngôn, diễn ngôn báo chí, diễn ngôn báo điện tử) và các
nghiên cứu về tính tương tác của diễn ngôn báo điện tử.
1.1.1. Các nghiên cứu về diễn ngôn, diễn ngôn báo chí, diễn ngôn báo điện tử
1.1.1.1. Các nghiên cứu về diễn ngôn
Tên gọi “Phân tích diễn ngôn” đã có từ năm 1952 với Z.Harris. Ông đã đề
xuất khái niệm “diễn ngôn - discourse” là văn bản liên kết, ở bậc cao hơn câu. Sau
đó, các nhà nghiên cứu J. McH. Sinclair và R. M. Coulthard (1975); R. M.
Coulthard (1977) đã sử dụng phổ biến thuật ngữ “diễn ngôn”. Năm 1979, R. De
Beaugrande đã ấn định sự kết thúc của giai đoạn ngôn ngữ học văn bản để chuyển
sang giai đoạn tiếp theo - giai đoạn phân tích diễn ngôn. Từ đây, các công trình của
M. Stubbs (1983); G. Brown và G. Yule (1983); nhà dụng học S. C. Levinson
(1983), D.Nunan (1993) đã nghiên cứu chuyên sâu về diễn ngôn. Nổi bật là công
trình Phân tích diễn ngôn (Discourse Analysis) của G. Brown và G. Yule [9]. Trong
công trình này, các tác giả đã chỉ ra phương thức để giải mã diễn ngôn gắn với ngữ
cảnh cụ thể và “phép luận suy” để tìm ra cái được nói đến trong diễn ngôn.
Theo Schiffrin (1994), kể từ khi phân tích diễn ngôn trở thành một lĩnh vực
được nhiều người quan tâm đã có nhiều đường hướng phân tích diễn ngôn ra đời.
Thứ nhất, đường hướng dụng học với hai nhánh. Một là, dựa trên lí thuyết hành
động nói (speech acts), Austin và Searle cho rằng bản chất của các phát ngôn ngôn
ngữ là thực hiện một hành động nói. Hai là, dựa trên sự phân biệt các loại ý nghĩa
khác nhau của Grice, ông đã lập luận rằng nguyên tắc cộng tác là căn cứ cho việc
suy ra ý định phát ngôn của người nói.
7
Một đường hướng khác bắt nguồn từ các lĩnh vực khác nhau như nhân chủng
học, xã hội học và ngôn ngữ học gọi là đường hướng ngôn ngữ học xã hội tương tác
(interactional sociolinguistics).
Đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán (critical discourse analysis-
CDA) ra đời vào những năm 70 của thế kỉ XX. Đường hướng này quan tâm đến vấn
đề quyền thế và hệ tư tưởng được thể hiện trong diễn ngôn.
Ở Việt Nam, sự quan tâm tới phân tích diễn ngôn bắt đầu từ đầu thập kỷ 80.
Các tác giả như Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu (1985), Trần Ngọc Thêm (1985),
Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo (1991), Diệp Quang Ban (1998), Nguyễn Thiện
Giáp (2000), Nguyễn Hòa… đã nghiên cứu những vấn đề của phân tích diễn ngôn.
Nguyễn Hòa (Phân tích diễn ngôn phê phán: Lí luận và phƣơng pháp) [49]
coi diễn ngôn như một quá trình giao tiếp tương tác. Còn trong Giao tiếp diễn ngôn
và cấu tạo văn bản [8]; Diệp Quang Ban đã hệ thống về văn bản, phân biệt văn bản
và diễn ngôn trong đó nổi bật là quan điểm diễn ngôn là một quá trình, thuộc về mặt
nghĩa, gắn với ngữ cảnh sử dụng.
Đỗ Hữu Châu trong Đại cƣơng Ngôn ngữ học tập 2 (Ngữ dụng học) [12] có
đề cập đến diễn ngôn như một khái niệm nền tảng của ngữ dụng học và phân biệt nó
với khái niệm câu, phát ngôn. Tác giả cũng đã chỉ ra các thành tố nội dung của diễn
ngôn và sử dụng thuật ngữ này một cách thống nhất trong công trình của mình.
Các công trình nghiên cứu về diễn ngôn nổi bật trên đã cung cấp một cái
nhìn tương đối toàn vẹn về diễn ngôn.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về diễn ngôn báo chí và báo điện tử
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam có khá nhiều nghiên cứu về vấn đề báo
chí và ngôn ngữ báo chí nói chung. Có thể kể tên một số công trình nổi bật ở Việt Nam
như: Ngôn ngữ báo chí - Những vấn đề cơ bản (Nguyễn Đức Dân, 2007) [22], Báo chí
- Những vấn đề lí luận và thực tiễn (Khoa Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, ĐH Quốc gia Hà Nội, 2005) [61], Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí
(Hoàng Anh, 2003) [1], Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại
chúng (Hoàng Anh, 2008) [2], Ngôn ngữ báo chí (Vũ Quang Hào, 2002) [36]… Các
8
công trình này, về cơ bản đã cung cấp một hệ thống lí luận đầy đủ về báo chí và phân
tích diễn ngôn báo chí ở các mặt: cấu trúc một diễn ngôn tin, các thành phần kết cấu,
các thể loại… Các công trình mà chúng tôi tiếp cận được có các hướng nghiên cứu
chính như:
- Các thành phần kết cấu của diễn ngôn báo chí: những phần hay được
nghiên cứu là tiêu đề (title) và sapô (sapo).
- Các thể loại của diễn ngôn báo chí: tin, phóng sự, thư tín thương mại,
quảng cáo, nghị luận, chính trị xã hội…
- Ngôn ngữ, phong cách báo chí thể hiện qua từ ngữ, câu, đoạn văn…
Trong đó, những công trình nghiên cứu về báo điện tử (E-newspaper, online
newspaper: báo điện tử, báo mạng, báo mạng điện tử) đã có những thành tựu bước
đầu. Trên thế giới phải kể đến cuốn Writing for web (Viết bài cho web) (1999) của
tác giả Kilian Crawford [dt 2; 61]. Đây gần như là tư liệu đầu tiên đề cập đến việc
sử dụng ngôn ngữ trong các bài viết được đăng tải trên báo điện tử. Tác giả chỉ dẫn
việc dùng từ, đặt câu, trình bày đoạn văn (như dùng dạng câu chủ động thay cho bị
động, đặt câu đơn giản, đoạn văn không nên quá 70 chữ, dài nhất là gồm 4 dòng,
các đoạn cách nhau một dòng)… Năm 2002, cuốn Journalism Online (Báo chí trực
tuyến) của Mike Ward [dt 2; 61] chỉ ra những điểm nổi bật mà các nhà báo cần quan
tâm khi sử dụng ngôn ngữ trong loại hình báo chí này (như cần ngắn gọn, súc tích,
dung lượng chỉ bằng 50% so với báo in, đi thẳng vấn đề, mỗi câu chỉ mang một
hoặc một thông tin nhất định, dùng từ dễ hiểu và gần gũi)… Các tác giả đã nghiên
cứu khá chi tiết về cách viết báo mạng điện tử. Tuy nhiên, đây là những nghiên
cứu mang tính tổng thể về việc viết như thế nào, sử dụng ngôn từ như thế nào để
phù hợp với việc thông tin trên báo mạng điện tử nói chung chứ không đi sâu vào
một vấn đề cụ thể nào.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về báo mạng điện tử thiên về phân tích các kĩ
năng cơ bản để viết báo. Các công trình của Nguyễn Thị Trường Giang (2010),
Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản [28]; Vũ Kim Hải, Đinh Thuận (biên
soạn) (2006), Các thủ thuật làm báo điện tử: Thiết kế báo điện tử [35]… tập trung
9
đi vào hướng dẫn cách đặt tít, viết sapô, dung lượng câu… Trên website
Vietnamjournalism.com [120], tác giả Lê Quốc Minh có một số bài viết về vấn đề
sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện tử như Giật tít trên báo điện tử, Nguyên tắc
viết bài cho báo điện tử, Đặt tít ngắn, Thủ thuật viết bài cho website… loạt bài thiên
về kĩ năng nghề nghiệp chung cho báo điện tử trên cơ sở kinh nghiệm.
Tại các cơ sở đào tạo nghề nghiệp chuyên về báo chí và báo điện tử; hệ
thống các khóa luận tốt nghiệp, luận văn Thạc sĩ xuất hiện tương đối nhiều. Các vấn
đề chủ yếu về báo điện tử đã được khai thác ở khá nhiều mảng khác nhau như:
thông tin trên báo mạng, tiêu đề, lời dẫn, giao diện, diễn đàn, phỏng vấn, ảnh, độc
giả… Về tổng thể, các công trình đã chỉ ra một số đặc điểm nổi bật của báo điện tử
như: thông tin trên báo điện tử bao gồm thông tin khai thác lại và thông tin tự khai
thác, quá trình xử lí thông tin có thể là: lựa chọn nguồn để đưa thông tin lên mạng,
làm giàu thông tin bằng các thông tin liên quan…; tiêu đề, lời dẫn trên báo mạng có
đặc điểm ngắn gọn, hấp dẫn trực tiếp người đọc; giao diện, ảnh, đồ họa trên báo
mạng cần bắt mắt; độc giả của báo mạng rất năng động với những phản hồi…
Những vấn đề này cung cấp kiến thức nền tảng về báo điện tử, tạo điều kiện
cho chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm có tính chất đặc trưng của tính tương tác.
1.1.2. Các nghiên cứu về tính tương tác của diễn ngôn báo điện tử
Các nghiên cứu về tính tương tác của diễn ngôn báo điện tử (The interaction
of E-newspaper discourse) đã bước đầu được đề cập đến ở các cấp độ khác nhau.
Về cơ bản, các công trình đã đề cập tới vấn đề các hình thức tương tác và vấn đề
độc giả tương tác với tòa soạn và nhà báo.
1.1.2.1. Nghiên cứu về sự tƣơng tác của độc giả với tòa soạn và nhà báo
Đây là những nghiên cứu phổ biến và nổi bật về tính tương tác của diễn ngôn
báo điện tử. Hầu hết các tác giả cho rằng tính tương tác của báo điện tử chính là
sự tương tác của độc giả với toà soạn và nhà báo.
Một số công trình đã bước đầu đề cập đến vấn đề này song chưa có những
phân tích đi sâu cụ thể. Trong Báo chí - những vấn đề lí luận và thực tiễn [61], các tác
giả khái quát và cho ví dụ về tính tương tác cao của báo điện tử qua vai trò của độc
10
giả phản hồi lại thông tin. “Một tin tức gửi đi nhanh chóng nhận ngay phản hồi của
rất nhiều độc giả, nhận xét về nội dung thông tin, chia sẻ tình cảm với ngƣời trong
cuộc thậm chí phản ứng ngay với tờ báo về cách đƣa tin (Ví dụ việc đƣa tin về vụ
sóng thần hồi cuối năm 2004 rất đƣợc quan tâm nhƣng không ít ngƣời phàn nàn về
việc đăng tải các hình ảnh quá thƣơng tâm). Đài phát thanh và truyền hình có một số
mục giao lƣu hay talkshow cho phép ngƣời xem, ngƣời nghe gọi điện trực tiếp, nhƣng
chắc chắn không “bì” kịp với kiểu trao đổi qua Internet” [61; 255].
Hoàng Anh (trong Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông
đại chúng, bài Các đặc điểm của ngôn ngữ báo mạng điện tử) [2] cũng chỉ ra tính
tương tác là một đặc điểm của ngôn ngữ báo điện tử. Tác giả phân tích kết cấu
mở là điểm làm cho báo điện tử khác với các loại hình báo chí khác. Nhiều tác
phẩm trên báo mạng điện tử có kết cấu mở để thu hút sự tham gia công chúng vào
quá trình thông tin. “Xuất phát từ nhận thức rằng thông tin mà nhà báo đƣa ra chỉ
là một lát cắt, một khía cạnh nhỏ trong cả mảng thông tin lớn đáng quan tâm, vì thế
nó cần đƣợc tiếp nối, đƣợc bổ sung, đƣợc làm rõ để bảo đảm tính đa dạng, phong
phú, nhiều chiều, đáp ứng sự chờ đợi của công chúng, các nhà báo mạng điện tử
thƣờng gợi mở thêm nhiều vấn đề để chính độc giả trả lời. Nhờ tính tƣơng tác cao,
báo mạng cho phép độc giả dễ dàng gửi ý kiến của mình tới tòa soạn và những ý
kiến nhƣ vậy có thể đƣợc biên tập và công bố tức thì.” [2;75]
Như vậy, theo tác giả, tính tương tác của báo mạng điện tử là do vai trò
năng động của độc giả. Cụ thể hơn, tác giả đưa ra ba cách phổ biến để công chúng
tham gia vào quy trình thông tin trong báo mạng điện tử: Thứ nhất là dạng lấy ý
kiến độc giả. Thứ hai là dạng giao lưu, hỏi đáp giữa độc giả và các nhân vật. Thứ ba
là mời độc giả tham gia vào diễn đàn nhằm thảo luận về một vấn đề thời sự đang
được quan tâm rộng rãi trong xã hội.
Tác giả kết luận kết cấu mở của các tác phẩm báo mạng là nhân tố quan
trọng giúp tòa soạn thu nhận được nhiều thông tin. Ngoài ra, đây cũng là cách để
tạo ra niềm hứng thú cho công chúng, thu hút họ trở thành bạn đọc thường xuyên
của mình.
11
Đây cũng là hướng phân tích trong Những kĩ năng về sử dụng ngôn ngữ
trong truyền thông đại chúng (www.journalism.org) [120]. Kết cấu mở của báo
mạng có ba dạng: lấy ý kiến độc giả, đặt câu hỏi độc giả trả lời, giao lưu trực tuyến.
Nhờ tính tương tác cao, độc giả gửi ý kiến của mình tới tòa soạn, tòa soạn biên tập
rồi công bố. Công trình Các thủ thuật làm báo điện tử (Nxb Thông Tấn 2006) [35]:
đề cập đến sự thay đổi vai trò của độc giả: độc giả bình đẳng, bình luận, tương tác
lại, phản hồi thông tin, chia sẻ tình cảm với bài báo.
Như vậy, các công trình kể trên đã bước đầu chỉ ra tính tương tác của báo
mạng điện tử là do sự tương tác qua phản hồi của độc giả với thông tin mà bài
báo đã đưa ra và kết cấu mở của báo mạng chính là đặc điểm thu hút sự tham gia
của độc giả vào quá trình làm báo. Đây là sự tương tác giữa độc giả với tòa soạn và
nhà báo.
Ngoài ra, trên website báo chí www.journalism.org [120] công bố một số
công trình nghiên cứu trực tiếp về tính tương tác của báo điện tử. Các tác giả đã chỉ
ra vai trò của độc giả trong việc tương tác, các phương tiện đa phương tiện để tương
tác, các tiêu chí đo tính tương tác và các biểu hiện tương tác. Cụ thể công trình:
Những đặc điểm mang tính tƣơng tác của báo điện tử (Keith Kenney, Alexander
Gorelik và Sam Mwangi). Công trình này đề cập tới mô thức mới của truyền thông
và độc giả, đưa ra các tiêu chí đo lường tính tương tác như: công cụ tìm kiếm, siêu
liên kết, phản hồi, các đặc điểm đa phương tiện… Ngoài phản hồi thuộc về mặt
ngôn ngữ, các tiêu chí này đều thuộc về mặt phi ngôn ngữ.
Như vậy, nghiên cứu này đã cho thấy có sự tương tác bằng ngôn ngữ và không
bằng ngôn ngữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi chỉ lựa chọn tương tác bằng ngôn ngữ.
Những nghiên cứu trên tuy trực tiếp đề cập tới những biểu hiện cụ thể của
tính tương tác song về cơ bản vẫn chỉ tập trung ở những đặc điểm về độc giả, về đặc
tính đa phương tiện của báo. Những biểu hiện này là đúng, là trúng nhưng chưa đủ
đối với sự tương tác đa dạng của diễn ngôn báo điện tử. Độc giả chỉ là một yếu tố,
một nhân vật tương tác trong quy trình tương tác của báo điện tử.
12
1.1.2.2. Nghiên cứu về hình thức tƣơng tác
Phần lớn hệ thống các khóa luận tốt nghiệp, luận văn Thạc sĩ ở các cơ sở đào
tạo ([53], [59], [63], [94]…) đã có nghiên cứu cụ thể về tính tương tác của báo điện
tử; song mới chỉ chỉ ra các hình thức tương tác bề mặt của diễn ngôn báo điện tử.
Rất nhiều công trình đã chỉ ra tính tương tác là đặc điểm làm nên sự khác
biệt lớn giữa báo điện tử và các loại hình báo chí còn lại; đồng thời cũng thống kê
một số hình thức tương tác giữa tòa soạn báo mạng và công chúng như: tương tác
qua box phản hồi; tương tác qua thư điện tử (e-mail); tương tác qua đường dây
nóng; tương tác qua thư tín; tương tác qua hình thức thăm dò dư luận (vote); tương
tác qua giao lưu trực tuyến. Từ đó, các tác giả thống kê các hình thức tương tác
chính trên báo mạng điện tử như sau: (1) Tương tác giữa người đọc và máy: công cụ
tìm kiếm (tìm kiếm theo chủ đề, theo ngày tháng, theo từ khóa), hình thức bỏ phiếu
(vote), đọc báo theo ý thích, RSS. (2) Tương tác giữa độc giả và tòa soạn: hộp thư
góp ý, giao lưu trực tuyến (chat với người nổi tiếng, bàn tròn trực tuyến. (3) Tương
tác giữa độc giả với độc giả. (4) Tương tác giữa độc giả với phóng viên, BTV.
Như vậy, các công trình này thực chất mới chỉ đề cập tới những hình thức
tương tác giữa tòa soạn, nhà báo - độc giả, người đọc và máy. Những khía cạnh về
nội dung, quan hệ, các nhân tố tương tác hoàn toàn chưa được đề cập đến.
Điểm lại các công trình có đề cập đến tính tương tác của diễn ngôn báo chí
và báo mạng điện tử có thể nhận thấy vấn đề này đã bước đầu được quan tâm
nghiên cứu. Hầu hết các tác giả đã chỉ ra tính tương tác là đặc điểm của báo chí nói
chung và đặc biệt thể hiện rõ ở báo mạng điện tử. Nguyên nhân được lí giải đó là do
báo điện tử có sự phản hồi của độc giả. Phần lớn các công trình đã khảo sát và
thống kê chi tiết, đầy đủ các hình thức tương tác. Song thực tế, tính tương tác của
diễn ngôn báo chí là một địa hạt với nhiều vấn đề phức tạp và hấp dẫn hơn rất
nhiều. Toàn bộ nội dung, quan hệ và các nhân tố tương tác là những vấn đề đang
còn bỏ ngỏ cần sự nghiên cứu chi tiết. Những vấn đề thiên về mặt cấu trúc hình
thức, ngôn ngữ có tác động lớn và chịu ảnh hưởng bởi tính tương tác hầu như chưa
được đề cập tới. Luận án sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về tương tác ở cả người
13
phát (nhà báo, tòa soạn) và người nhận (độc giả). Và điểm khác biệt chính là nghiên
cứu báo điện tử ở bình diện diễn ngôn với những đặc tính tiêu biểu liên quan tới hệ
tư tưởng - quyền lực - ngữ cảnh - hành động.
1.2. Cơ sở lí thuyết
“Tương tác” theo Từ điển tiếng Việt là “tác động qua lại lẫn nhau”
[76;1383], tác động là “làm cho một đối tƣợng nào đó có những biến đổi nhất
định” [76;1134]. Như vậy, tương tác chính là tác động qua lại khiến cho đối tượng
có sự biến đổi.
Theo Đỗ Hữu Châu [11], tác động là làm biến đổi trạng thái của các sự vật
chịu tác động. Ví dụ có A và B là hai sự vật nằm trong quá trình tương tác. Trước
khi tương tác A ở trạng thái a, B ở trạng thái b. Nếu sau khi tương tác a chuyển sang
trạng thái c và b chuyển sang trạng thái d thì A đã tác động vào B và ngược lại. Khi
đó quá trình tương tác đạt hiệu quả. Do đó, tương tác chính là quá trình tác động
qua lại giữa các yếu tố với nhau nhằm tạo ra sự biến đổi giữa các yếu tố đó.
Điểm khác biệt giữa tương tác và tác động chính là ở sự tác động qua lại. Tác
động là mối quan hệ một chiều từ A tới B hoặc B tới A nhưng tương tác là mối quan
hệ hai chiều giữa A và B (A tác động B và ngược lại B có sự tác động trở lại A).
Thuật ngữ tương tác (interaction) mà chúng tôi dùng ở đây xuất phát từ
tương tác hội thoại (interaction in dialogue) và tương tác diễn ngôn (discourse
interaction, discourse in interaction). Tương tác trong tương tác hội thoại được đặt
trong phạm vi giao tiếp. Tương tác trong tương tác diễn ngôn được xuất phát từ
mệnh đề “diễn ngôn nhƣ một sự tƣơng tác xã hội” (discourse as social interaction)
của Van Dijk.
Đặc tính về tương tác trong ngôn ngữ được chỉ ra khi ngôn ngữ học nghiên
cứu về giao tiếp. Vì thế, tương tác ở đây được dùng trong phạm vi giao tiếp và được
hiểu là một vấn đề của giao tiếp. Nó là một khái niệm của dụng học mà chỉ từ khi có
dụng học tương tác mới trở thành một đối tượng nghiên cứu (trong tương tác của
hội thoại). Tương tác trong tương tác hội thoại chỉ ra mối quan hệ tương tác giữa
các nhân vật giao tiếp (thể phát và thể nhận), tương tác của các nhân tố giao tiếp.
14
Ngoài ra, thuật ngữ tương tác xuất phát từ tương tác diễn ngôn với ba nguyên
lí cơ bản đã được thừa nhận là:
1- Giao tiếp là một quá trình tương tác.
2- Diễn ngôn là sản phẩm của giao tiếp trong quá trình tương tác.
3- Trong quá trình hoạt động, giữa các diễn ngôn luôn có sự tương tác.
Diễn ngôn báo chí cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong báo chí có
tương tác bằng lời và tương tác không bằng lời (ví dụ tương tác qua các hình ảnh,
giao diện website của báo điện tử...). Trong luận án này, chúng tôi chỉ xét đến
tương tác bằng lời và thông qua lời, tương tác giữa các nhân vật giao tiếp thông
qua lời và bằng lời trong phạm vi của diễn ngôn báo chí (cụ thể trên các trang tin
điện tử). Nghĩa là những tương tác được nghiên cứu ở đây có liên quan đến ngôn
ngữ. Tương tác bằng lời là một trường hợp riêng của tương tác nói chung. Tương
tác bằng lời là hoạt động giao tiếp sử dụng lời nói giữa những người tham gia giao
tiếp. Trong đó, diễn ngôn (sản phẩm của giao tiếp) thông qua các thành phần nội
dung thực hiện chức năng tác động đến các nhân vật giao tiếp. Lời bao gồm cả dạng
nói và dạng viết. Trong luận án, tương tác của diễn ngôn báo chí chỉ được xem xét
qua lời viết (loại trừ lời nói).
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày các vấn đề về hoạt động giao tiếp
và giao tiếp báo chí, diễn ngôn và diễn ngôn báo chí, tính tương tác trong giao tiếp
và diễn ngôn.
1.2.1. Khái quát về hoạt động giao tiếp và giao tiếp báo chí
1.2.1.1. Hoạt động giao tiếp
Theo định hướng xã hội, giao tiếp được hiểu như là một hoạt động mang tính
tương tác giữa những người tham gia để chia sẻ kinh nghiệm cộng đồng xuyên qua
thời gian. Vì thế, bản thân hoạt động giao tiếp đã mang tính tương tác cao. Hơn
nữa, tương tác còn là một kiểu quan hệ xã hội đặc trưng giữa người với người mà
nó thể hiện nổi bật ở hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. “Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ là sự tiếp xúc giữa con ngƣời (nhóm ngƣời) với con ngƣời (nhóm ngƣời),
trong đó diễn ra sự trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm, yêu cầu hoạt động,… đồng
15
thời thể hiện thái độ, cách đánh giá, cách ứng xử của các nhân vật giao tiếp đối với
nội dung giao tiếp và giữa các nhân vật giao tiếp với nhau” [16; 480]. Trong hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ, tính tương tác thể hiện ở quá trình vận động tương
tác trong hội thoại và mối quan hệ tương tác giữa các nhân tố giao tiếp.
Nhân tố giao tiếp được hiểu là các nhân tố có mặt trong một cuộc giao tiếp
chi phối cuộc giao tiếp đó và chi phối diễn ngôn về mặt hình thức cũng như nội
dung. Các nhân tố giao tiếp bao gồm: nhân vật giao tiếp (những người tham gia vào
quá trình giao tiếp: người phát, thể phát (Sp1) và người nhận, thể nhận (Sp2); nội
dung giao tiếp (hiện thực, thực tế khách quan được các nhân vật giao tiếp đưa vào
cuộc giao tiếp); tiền giả định giao tiếp (các đặc điểm tự nhiên và xã hội của một
dân tộc, một cộng đồng); môi trường giao tiếp (các đặc điểm về thời gian, nơi chốn
cụ thể); phương tiện và kênh giao tiếp (hệ thống tín hiệu); đích giao tiếp (ý đồ, ý
định mà các nhân vật giao tiếp đặt ra trong một cuộc giao tiếp nhất định). Đích giao
tiếp là yếu tố quan trọng nhất trong một cuộc giao tiếp bởi nó chi phối gần như toàn
bộ việc lựa chọn các yếu tố còn lại.
Jakobson là người đưa ra mô hình giao tiếp với sáu yếu tố giao tiếp được sắp
xếp theo hàng ngang và hàng dọc như sau:
NGỮ CẢNH
NGƯỜI PHÁT THÔNG ĐIỆP NGƯỜI NHẬN
....................................................................................
TIẾP XÚC
MÃ
Hình 1.1: Các yếu tố trong quá trình giao tiếp của R. Jakobson [dt 8; 31]
Theo hàng ngang có người phát (thể phát), thông điệp và người nhận (thể
nhận). Hàng dọc có ngữ cảnh, thông điệp, tiếp xúc và mã. Đây là những yếu tố quan
trọng với các chức năng khác nhau làm nên quá trình giao tiếp.
Có thể hình dung quá trình giao tiếp với hai quá trình mã hóa và giải mã như sau:
16
Ngôn bản Người phát Người nhận
Giải mã Mã hóa (diễn ngôn)
Hình 1.2: Quá trình giao tiếp
(1) Quá trình mã hóa: là quá trình một người, một tổ chức, một cơ quan
chuyển một thông điệp cho đối tượng tiếp nhận. Thông điệp đó được gửi đi dưới
dạng mã hóa (mã hóa bởi chữ viết, hình ảnh, âm thanh...)
(2) Quá trình giải mã: là quá trình từng đối tượng tiếp nhận bằng những con
đường khác nhau làm cho thông điệp được chuyển đến một cách rành mạch và rõ ràng.
Hoạt động báo chí cũng có những đặc điểm tương đồng với hoạt động giao tiếp
nói chung.
1.2.1.2. Hoạt động giao tiếp báo chí
a. Hoạt động báo chí là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Báo chí là một hoạt động giao tiếp sử dụng phương tiện là ngôn ngữ. Quá
trình truyền tin của báo chí cũng bao gồm hai quá trình mã hóa và giải mã. Quá
trình mã hóa là quá trình sáng tạo của tác giả (nhà báo). Quá trình giải mã là quá
trình tiếp nhận của độc giả. Nhà báo truyền đạt thông tin tới người đọc; người đọc
tiếp nhận thông tin và đánh giá, phản hồi lại theo mô hình:
Nguồn
Mã hóa Phản hồi
Nơi nhận Thông điệp
Giải mã
Mô hình 1.1: Mô hình truyền thông báo chí
17
Mô hình trên cho thấy trong báo chí, tương tác nổi bật sẽ là sự tác động,
giao tiếp hai chiều qua lại giữa thể phát - nguồn phát (tòa soạn, nhà báo...) và thể
nhận - nơi nhận (công chúng độc giả). Do tính chất giao tiếp gián cách, không
trực tiếp đối mặt (như giao tiếp hàng ngày) nên tương tác trong báo chí ngoài được
thực hiện thông qua các diễn ngôn của nhà báo còn được thực hiện thông qua phản
hồi của các độc giả. Nhà báo và độc giả ở đây không trực tiếp cùng hiện diện mà có
sự tác động qua lại lẫn nhau thông qua các sản phẩm giao tiếp là các diễn ngôn báo
chí và các phản hồi sau mỗi bài báo. Giao tiếp trong báo chí vì thế là giao tiếp gián
tiếp, giao tiếp cách mặt.
Cụ thể hơn, báo chí là một loại hình truyền thông. Điều quan trọng của
truyền thông đó là quá trình truyền đi thông tin với các quá trình như sau:
N
M S C R E
F
Mô hình 1.2: Mô hình truyền thông của Claude Shannon [25; 27-28]
Theo C. Shannon, thông tin được bắt đầu từ nguồn phát (S) thông qua các
kênh truyền thông đến với người nhận (R) rồi thu được hiệu quả (E). Các yếu tố
trong mô hình truyền thông hai chiều của C. Shannon bao gồm:
S (Source, Sender): Nguồn phát, chủ thể truyền thông
M (Message) : Thông điệp, nội dung truyền thông
C (Channel) : Kênh truyền thông
R (Receiver) : Người nhận thông điệp (đối tượng)
E (Effect) : Hiệu quả truyền thông
18
N (Noise) : Nhiễu (yếu tố gây ra sai số cản trở thông điệp)
F (Feedback) : Phản hồi
Mô hình này cho thấy mối quan hệ hai chiều giữa nguồn phát và người
nhận thông qua các thông điệp. Ở đây có sự tương tác, người nhận trở thành người
phát rồi ngược lại, liên tục đổi chiều giống như luân phiên lượt lời trong hội thoại.
Nguồn phát truyền đi bằng thông điệp báo chí, nguồn nhận tiếp nhận thông điệp và
phản hồi tương tác bằng việc đồng thuận hay phản đối, bộc lộ quan điểm…
b. Các nhân tố giao tiếp của hoạt động giao tiếp báo chí
Hoạt động giao tiếp báo chí cũng có đầy đủ các nhân tố giao tiếp: nhân vật
giao tiếp, nội dung giao tiếp, ngữ cảnh giao tiếp, đích giao tiếp. Trong đó, các nhân
tố giao tiếp (đặc biệt nhân tố nhân vật giao tiếp: thể phát và thể nhận) và sự tương
tác của chúng có ảnh hưởng to lớn đến quá trình tạo lập diễn ngôn và lĩnh hội diễn
ngôn. Người phát căn cứ vào các nhân tố giao tiếp để tạo diễn ngôn thích hợp. Còn
người nhận, căn cứ vào diễn ngôn và các nhân tố giao tiếp để giải mã diễn ngôn đó.
Vì thế, sự tương tác giữa các nhân tố giao tiếp có vai trò quan trọng trong việc
lĩnh hội và giải mã diễn ngôn báo chí.
Hơn nữa, sự tương tác trong báo chí bị chi phối bởi đích của các chủ thể diễn
ngôn (đích của thể phát và thể nhận). Trong báo chí, đích của thể phát Sp1 và thể
nhận Sp2 là khác nhau. Về cơ bản có thể thấy, đích của thể phát Sp1 là đưa ra thông
tin và đích của thể nhận Sp2 là tiếp nhận thông tin.
Mục đích của thể phát là đưa ra những thông tin quan trọng (thậm chí không
quan trọng cũng biến thành quan trọng) để thu hút độc giả. Có thể thấy các trường
hợp như: (1) thông tin quan trọng - nhà báo đưa thành thông tin quan trọng. (2)
thông tin không quan trọng - nhà báo đưa thành thông tin quan trọng. (3) thông tin
quan trọng - có thể bị biến thành không quan trọng (dìm đi). Theo đó, nhà báo sẽ có
các cách trình bày thông tin để thể hiện mục đích của mình. Tất cả những điều này
đều phải thể hiện ra bằng ngôn ngữ. Cụ thể, đó là những vấn đề về mặt kết cấu của
một bài báo (tiêu đề, sapô, cấu trúc tin); hành động ngôn từ…
Mục đích của thể nhận là tiếp nhận thông tin. Nhà báo tác động tới độc giả
về mặt thông tin, nhận thức và sẽ làm cho họ có những hành động tương ứng. Hành
19
động hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả hành động nói (comment phản hồi lại) và
làm (viết một bài báo khác, đi kiện…). Như thế, có hành động mang tính chất ngôn
từ và có hành động mang tính chất phi ngôn từ. Chúng tôi chỉ nhận diện chủ yếu
những hành động mang tính chất ngôn từ (được thể hiện bằng ngôn ngữ thông qua
các phản hồi), còn những hành động phi ngôn từ thì chỉ có thể tiên liệu chứ không
có khảo sát cụ thể.
Như vậy, nếu như với nhà báo, thông tin là cái đã biết và nhiệm vụ của họ là
làm cho độc giả tò mò, kích động về thông tin đó; thì với độc giả, thông tin là cái
chưa biết, cái muốn biết. Từ muốn biết, độc giả muốn bày tỏ thái độ về những thông
tin vừa được tiếp nhận. Có những thái độ mang tính chất cảm tính và có những thái
độ mang tính chất lí tính; những hành vi tương ứng ví dụ: tin hay không tin, xác tín
hay không xác tín. Điều nhà báo đưa ra thì nhà báo luôn xác tín, còn độc giả có tin
hay không thì đó thuộc về sự tiếp nhận của họ.
Đích của thể phát và thể nhận sẽ chi phối việc sử dụng ngôn ngữ của thể phát
và thể nhận để thể hiện mục đích. Thể phát sẽ sử dụng ngôn ngữ để tạo ra sự tương
tác hấp dẫn cho thông tin đã biết của mình đối với độc giả. Còn thể nhận sử dụng
ngôn ngữ để thể hiện thái độ về các thông tin vừa biết của mình.
Tóm lại, bản thân hoạt động giao tiếp đã mang tính tương tác cao. Hoạt động
báo chí là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong đó, tương tác nổi bật là sự
tác động, giao tiếp hai chiều qua lại giữa thể phát - nguồn phát (tòa soạn, nhà báo...)
và thể nhận - nơi nhận (công chúng độc giả) thông qua các thông điệp. Trong quá
trình giao tiếp báo chí, các nhân tố giao tiếp (nhân vật giao tiếp, ngữ cảnh giao tiếp,
mục đích giao tiếp…) luôn có sự tương tác với nhau. Điều đó chi phối hoạt động tạo
lập và giải mã thông điệp của báo chí.
1.2.2. Khái quát về diễn ngôn và diễn ngôn báo chí
1.2.2.1. Khái niệm diễn ngôn
“Diễn ngôn” (còn gọi là ngôn bản, tiếng Anh: discourse, tiếng Pháp:
discours) là khái niệm cơ bản trong lí luận phân tích diễn ngôn. Có rất nhiều ý kiến
về thuật ngữ này trong sự so sánh với thuật ngữ “văn bản” (text). Về bản chất, thuật
20
ngữ “văn bản” và “diễn ngôn” không đối chọi nhau mà dường như đây là hai thuật
ngữ dùng để gọi tên sản phẩm ngôn ngữ theo những hướng tiếp cận khác nhau. Có
thể xác định “văn bản” và “diễn ngôn” như là hai mặt của cùng một đối tượng. Nói
khác đi, văn bản là một hình thức biểu hiện bằng chữ viết của diễn ngôn.
Đối tượng của phân tích diễn ngôn là ngôn ngữ hoạt động trong hoàn cảnh xã
hội - văn hóa, chứ không phải đối tượng tĩnh (tức chuyển sang lời nói chứ không
phải ngôn ngữ, theo thuật ngữ của F.de.Saussure). Nghiên cứu diễn ngôn tức là
nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng (language in use). Nếu như trước đây, ngữ pháp
văn bản chuyên nghiên cứu văn bản một cách biệt lập, hoàn toàn tách rời khỏi ngữ
cảnh thì phân tích diễn ngôn nhằm làm nổi bật mối quan hệ chặt chẽ giữa kết cấu
ngôn từ bên trong văn bản với những yếu tố ngoài văn bản. Việc chuyển đối tượng
từ câu/phát ngôn sang diễn ngôn là một sự chuyển hệ quan trọng - chuyển sang hệ
giao tiếp. Và chỉ ở cấp độ diễn ngôn, chúng ta mới thấy rõ tính chất giao tiếp của
ngôn ngữ. T. A. Van Dijk trong công trình của D. Nunan (1993) [73] cũng xác
nhận: “Phân tích diễn ngôn liên quan đến phân tích ngôn ngữ trong sử dụng - so
sánh với phân tích các thuộc tính cấu trúc của ngôn ngữ bị tách khỏi các chức năng
giao tiếp của chúng”. Do đó, bản chất của việc phân tích (giải mã) diễn ngôn là
phân tích ngôn ngữ trong sử dụng để làm nổi bật giá trị và hiệu quả giao tiếp của
ngôn ngữ trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
1.2.2.2. Hƣớng tiếp cận diễn ngôn
Có nhiều đường hướng tiếp cận diễn ngôn. Một số đường hướng chính trong
phân tích diễn ngôn đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Hòa trình bày cụ thể trong
công trình Phân tích diễn ngôn Một số vấn đề lí luận và phƣơng pháp [48]. Về cơ
bản có các đường hướng: đường hướng dụng học, đường hướng biến đổi ngôn ngữ,
ngôn ngữ học xã hội tương tác, đường hướng dân tộc học giao tiếp, đường hướng
phân tích diễn ngôn trong tâm lí học xã hội, đường hướng phân tích diễn ngôn phê
phán, đường hướng giao tiếp liên văn hóa, đường hướng phân tích diễn ngôn tổng
hợp... Các đường hướng này có những khác biệt song đều nhìn nhận ngôn ngữ như
công cụ của một quá trình tương tác tạo nghĩa. Điểm chung của chúng trong phân
21
tích diễn ngôn là tìm ra mối quan hệ giữa cấu trúc và chức năng, văn bản và ngữ
cảnh, diễn ngôn và giao tiếp. Dưới đây, chúng tôi chỉ đề cập tới các hướng tiếp cận
diễn ngôn mà luận án lựa chọn đi theo. Đó là đường hướng dụng học và phân tích
diễn ngôn phê phán.
a. Đường hướng dụng học (pragmatics)
Dụng học là một đường hướng phân tích diễn ngôn có đối tượng rộng: ý
nghĩa, ngữ cảnh và giao tiếp. John Austin (1962) - người thường được coi là cha đẻ
của dụng học, đã phát hiện trong quá trình giao tiếp có một số phát ngôn thực hiện
một số hành động nhất định. Do đó, lí thuyết hành động nói (speech acts) được áp
dụng trong phân tích diễn ngôn. Searle (1969) là một trong những nhà ngôn ngữ có
công trong việc làm cho lí luận hành động nói có khả năng áp dụng trong phân tích
diễn ngôn. Ông cho rằng hành động nói là đơn vị cơ bản của giao tiếp - tức là đặt nó
trong mối quan hệ giữa việc nghiên cứu ngôn ngữ với ý nghĩa và giao tiếp.
Nguyễn Hòa đã rút ra: “...lí luận hành động nói đã tập trung xem xét đến ý
nghĩa của phát ngôn nhƣ là các hành động chứa nội dung giao tiếp. Các hành động
đƣợc thực hiện cho ta biết các hành động tiếp theo sẽ xảy ra (nhƣ hành động đề
nghị - chấp nhận hay từ chối), và nhƣ vậy là một cơ sở để tạo ra mạch lạc cho diễn
ngôn” [48; 81].
Theo Grice, dụng học về cơ bản được dựa trên hai căn cứ là ý nghĩa của
người nói và nguyên tắc cộng tác. Grice đã phân chia ra hai loại ý nghĩa là ý nghĩa
tự nhiên (ý nghĩa không hàm chứa ý định của người nói có thể mang nội dung hiện
thực) và ý nghĩa phi tự nhiên (ý nghĩa có chứa đựng nội dung thông báo có chủ định
của người nói). Sự đóng góp của Grice trong việc phân tích diễn ngôn là ở chỗ ông
đã chỉ ra “không phải bao giờ ý nghĩa thông báo của ngƣời nói cũng trùng với ý
nghĩa quy ƣớc của các kí hiệu ngôn ngữ” [48; 82]. Để có thể giải mã được ý nghĩa
của người nói, Grice cho rằng cả người nói và người nghe cần phải tuân thủ theo
nguyên tắc cộng tác. Thực tế, nguyên tác cộng tác thường bị vi phạm hơn là được
tuân thủ. Giá trị của nguyên tắc này ở chỗ nó chính là một phép thử để cho biết cuộc
hội thoại nào có các nhân vật giao tiếp cố tình vi phạm nguyên tắc cộng tác.
22
“Theo Schiffrin, ý nghĩa dụng học theo Grice còn có quan hệ với phân tích diễn
ngôn ở chỗ nó thừa nhận diễn ngôn là một hành động giao tiếp đƣợc dựa trên lí trí (khi
mọi ngƣời tham gia vào quá trình giao tiếp tự nguyện tuân thủ hay cố tình vi phạm
nguyên tắc cộng tác) cho phép ngƣời nói và ngƣời nghe tổ chức và sử dụng thông tin
trong diễn ngôn cùng với kiến thức văn hóa - xã hội nền và cho họ khả năng diễn đạt
nhiều hơn là cái nội dung quy ƣớc đƣợc thể hiện thông qua ngôn từ” [dt 48; 86].
Ở diễn ngôn báo chí, việc cố tình hay vô tình vi phạm nguyên tắc cộng tác
sẽ thể hiện được quyền lực của nhà báo. Có những diễn ngôn, khi tạo lập nhà
báo đã cố tình vi phạm nguyên tắc cộng tác của Grice để tác động đến người đọc.
Điều này tạo nên những hành động ngôn từ gián tiếp.
Hành động ngôn từ (HĐNT) có hai loại: trực tiếp và gián tiếp. Nó tạo ra hai
loại ý nghĩa: ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn tương ứng với phương thức
tương tác (PTTT) trực tiếp và gián tiếp trong diễn ngôn báo chí.
- Ý nghĩa tường minh (ý nghĩa hiển ngôn, ý nghĩa theo câu chữ): là ý nghĩa
trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ và cấu trúc của phát ngôn mang lại. Tương ứng với
ý nghĩa này là PTTT trực tiếp: những điều muốn tương tác được biểu hiện một cách
trực tiếp, rõ ràng, thông qua các tín hiệu ngôn ngữ tường minh, hiển ngôn.
- Ý nghĩa hàm ẩn (đối lập với ý nghĩa tường minh): là ý nghĩa không phải do
các yếu tố ngôn ngữ trong phát ngôn đem lại mà phải nhờ suy ý mới nắm bắt được.
Tương ứng với ý nghĩa này là PTTT gián tiếp: những điều muốn tương tác được
biểu hiện một cách gián tiếp, ẩn giấu, thông qua các tín hiệu ngôn ngữ hàm ẩn.
Trong luận án, dựa vào HĐNT của nhà báo (trực tiếp hay gián tiếp) và những
tín hiệu ngôn ngữ (tường minh hay hàm ẩn); chúng tôi có những thống kê, phân loại về
PTTT của nhà báo (trực tiếp hay gián tiếp).
Bên cạnh đó, đường hướng dụng học được chúng tôi sử dụng để chỉ ra các
hành động ngôn từ tiêu biểu và điển hình mà độc giả sử dụng để tương tác. Độc giả
đã sử dụng rất nhiều hành động ngôn ngữ khác nhau để đạt được mục đích nói của
mình. Đặc biệt, bên cạnh các hành động ở lời, trong các diễn ngôn báo chí còn có
hành động mượn lời. Đó là những phản hồi của độc giả nằm ngoài mục đích tạo lập
diễn ngôn của nhà báo.
23
b. Đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán (critical discourse analysis)
Phân tích diễn ngôn phê phán là hướng nghiên cứu ngôn ngữ từ điểm nhìn
chính trị với mục tiêu làm sáng tỏ quan hệ hệ tư tưởng - quyền lực - ngôn
ngữ. Những nhà ngôn ngữ có đóng góp quan trọng cho phân tích diễn ngôn phê
phán là Fairclough, Fowler, Kress, Van Dijk, Wodak...
Fairclough phát biểu về quan hệ giữa hệ tư tưởng - quyền lực - ngôn ngữ:
“Khi con ngƣời tƣơng tác bằng ngôn ngữ, hệ tƣ tƣởng và niềm tin đã gắn trong các
hình thức ngôn ngữ đƣợc ngƣời sử dụng thừa nhận một cách mặc nhiên. Hệ tƣ
tƣởng liên kết với quyền lực, bởi lẽ chúng là phƣơng tiện tồn tại hợp pháp của
những quan hệ xã hội và sự bất bình đẳng về quyền lực. Thông qua sự xuất hiện
của hệ tƣ tƣởng trong cách thức con ngƣời giao tiếp hàng ngày, những quan hệ xã
hội, sự bất bình đẳng quyền lực cũng đƣợc thừa nhận một cách mặc nhiên. Đồng
thời, hệ tƣ tƣởng liên kết với ngôn ngữ, bởi lẽ việc sử dụng ngôn ngữ là hình thức
phổ biến nhất của hoạt động xã hội, ngôn ngữ là một thực tiễn và tập quán xã hội
(social practice)” [dt 40]. Do đó, có thể thấy quan hệ quyền lực và ngôn ngữ của
hướng nghiên cứu này thể hiện: 1) Ngôn ngữ được coi là công cụ để truyền đạt, thể
hiện quyền lực và các tư tưởng khác; 2) Phân tích diễn ngôn cần mang lại sự hiểu
biết về mối quan hệ quyền lực xã hội được thể hiện trong ngôn ngữ và vai trò ngôn
ngữ trong việc duy trì, bảo vệ quyền lực xã hội. 3) Quyền lực có thể được thực thi
và cũng có thể mất đi trong đấu tranh xã hội, và ngôn ngữ chính là phương tiện
nguyên cấp của đấu tranh quyền lực [dt 40; 8].
Lí thuyết phân tích diễn ngôn phê phán với mối quan hệ biện chứng giữa
việc sử dụng ngôn ngữ và quyền lực đã cung cấp một hướng tiếp cận phân tích
chính trị đối với văn bản. Đồng thời, nó khẳng định sự quan trọng của ngôn ngữ
trong sản sinh, duy trì và thay đổi quan hệ xã hội cũng như về khả năng dự phần của
ngôn ngữ đối với sự điều khiển của cá nhân này đối với cá nhân khác trong xã hội.
Đường hướng này quan tâm diễn ngôn như là một quá trình giao tiếp/tương
tác giữa các thành viên của xã hội. Diễn ngôn được nhìn nhận như một tập quán và
24
một thực tiễn xã hội. Phân tích diễn ngôn trong mối quan hệ với quyền thế, hệ tư
tưởng và các mối quan hệ xã hội khác. Khái niệm ngữ cảnh đóng vai trò cốt yếu
trong lí luận của đường hướng này. Ngữ cảnh bao gồm các yếu tố tâm lí, chính trị,
văn hóa, tư tưởng.
Trong luận án, đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán trở thành định
hướng để việc phân tích diễn ngôn báo chí luôn gắn liền với ngữ cảnh và chúng
luôn thể hiện một quyền lực và hệ tư tưởng nhất định. Song do hệ tư tưởng và
quyền lực đều là những yếu tố không tường minh, đôi khi những suy luận về mang
tính chất chủ quan nên trong luận án, chúng tôi hạn chế việc tường minh các vấn đề
này. Do đó, đường hướng này giúp luận án dựa vào ngữ cảnh để phân tích các diễn
ngôn báo chí (cụ thể chúng tôi sẽ phân tích ở mục 1.2.3.2a dưới đây).
Tóm lại, trong luận án chúng tôi tiếp cận diễn ngôn theo: (1)- đường hướng
dụng học (chú ý tới hành động nói của các chủ thể diễn ngôn) và (2)- đường hướng
phân tích diễn ngôn phê phán (phân tích diễn ngôn trong mối quan hệ với quyền
lực, hệ tư tưởng trong đó ngữ cảnh đóng vai trò cốt yếu).
1.2.2.3. Diễn ngôn báo chí
Báo chí là tên gọi chung của các thể loại thông tin đại chúng. Đó là
những xuất bản phẩm định kỳ nhằm cung cấp tin về các sự vật, hiện tượng hay con
người nổi bật trong xã hội. Báo chí là một phong cách chức năng cơ bản với phạm
vi giao tiếp đặc thù là lĩnh vực thông tấn báo chí. Đây là một lĩnh vực sử dụng ngôn
từ phù hợp với chủ đề, hoàn cảnh, ngữ vực... và thể hiện vai của người tham gia
giao tiếp. Cụ thể, đó là vai của nhà báo, người đưa tin, người cổ động, người quảng
cáo, bạn đọc... - tất cả những ai tham gia vào hoạt động thông tin về tất cả các vấn
đề thời sự của xã hội.
Diễn ngôn báo chí là sản phẩm của quá trình giao tiếp báo chí. Sự giao tiếp
trong báo chí là một quy trình với bốn yếu tố: người phát tin (nhà báo), sự kiện,
phương tiện ngôn ngữ và người nhận tin (người đọc) theo sơ đồ tổng quát:
25
Hình 1.3: Các yếu tố trong quá trình giao tiếp báo chí [78; 46]
Nhà nghiên cứu Dương Văn Quảng [78; 47] nhấn mạnh rằng, diễn ngôn báo
chí là yếu tố thứ tư không thể thiếu trong quá trình khép kín của giao tiếp báo chí.
Diễn ngôn báo chí không phải là bản sao chụp thế giới bên ngoài, mà thực tế nó là
hình ảnh của thế giới đó thông qua lăng kính của người viết. Một trong những đặc
trưng của giao tiếp báo chí là nhà báo phải biết kiến tạo ngôn ngữ của mình sao cho
để vừa truyền tin, vừa thuyết phục được người nhận tin để họ suy diễn, hiểu đúng
được ý đồ của mình.
Phương tiện để tạo thành diễn ngôn báo chí chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ
trong báo chí là sự hòa kết của ba tiểu chức năng cơ bản: chức năng thông tin, chức
năng tác động, chức năng liên nhân. Thông tin là những nội dung cụ thể, là điều mà
nguồn, người gửi (tòa soạn, nhà báo) gửi gắm trong thông điệp (bài báo) chuyển đến
đích, người nhận (độc giả) với mong muốn thực hiện việc tác động. Qua thông tin,
ngôn ngữ báo chí thực hiện chức năng tác động có chủ đích, “làm cho đối tượng đích
có những thay đổi trong nhận thức (biết, hiểu, tin tưởng) dẫn đến thay đổi trong hành
vi (hành động theo định hướng của nguồn)” [13; 49]. Còn liên nhân là “khả năng tạo
ra sự liên kết chặt chẽ giữa nguồn và đích nhằm nâng cao hiệu quả giao tiếp” [13;
50]. Điều này thể hiện qua các chiến lược giao tiếp bằng ngôn từ gắn với văn hóa,
tâm lí, thói quen của từng nhóm đối tượng đích, của các cộng đồng cụ thể.
Hiện nay, báo chí có những loại hình cơ bản sau:
- Báo viết (còn gọi là báo in, báo giấy hay là báo chữ): Thể loại báo chí xuất
26
hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên giấy, có hình ảnh minh họa. Ưu điểm là
tính phổ cập cao, có nội dung sâu, người đọc có thể nghiên cứu. Nhược điểm là
thông tin chậm, khả năng tương tác hai chiều (giữa người đọc và người viết) kém.
- Báo nói: Thông tin được chuyển tải qua thiết bị đầu cuối là radio bằng ngôn
ngữ. Ưu điểm là thông tin nhanh. Nhược điểm là không trình bày được các thông tin
bằng hình ảnh (phóng sự ảnh) hoặc các thông tin có hình ảnh minh họa.
- Báo truyền hình: Thông tin được chuyển tải bằng hình ảnh và âm thanh qua
thiết bị đầu cuối là máy phát hình (đài truyền hình) và máy thu hình (television). Ưu
điểm là thông tin nhanh; nhược điểm là khả năng tương tác hai chiều chưa cao.
- Báo điện tử (báo mạng, báo mạng điện tử, báo trực tuyến online): Sử dụng
giao diện website trên Internet để truyền tải thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh,
các đoạn video gồm cả hình ảnh động và âm thanh (video clip). Ưu điểm là thông tin
cập nhật nhanh, tính tương tác hai chiều cao; nhược điểm là tính phổ cập yếu.
Trong các loại hình báo chí, báo điện tử là loại hình báo chí có ưu điểm lớn
về khả năng tương tác cao. Nó phá vỡ tính tuyến tính chặt chẽ của ngôn ngữ bởi
trên báo chí, cùng một lúc có thể đồng hiện nhiều diễn ngôn (diễn ngôn của nhà báo
- bài báo và diễn ngôn của độc giả - các phản hồi). Báo mạng ứng dụng các thành
tựu mới nhất của khoa học công nghệ, đã vượt tất cả các loại hình báo chí khác về
độ nhanh nhạy trong cập nhật tin tức, về khả năng kết nối đa chiều với độc giả. Vì
thế, các diễn ngôn báo điện tử cũng có thế mạnh tương tác nổi bật. Cụ thể, ở một
số khía cạnh sau:
Về nội dung, dung lƣợng và tốc độ thông tin của diễn ngôn báo điện tử: báo
điện tử có năng lực hàng đầu trong việc xã hội hóa các sự kiện và các vấn đề thời
sự, kết nối và truyền tải một dung lượng thông tin lớn với tốc độ nhanh. Báo mạng
cập nhật thông tin theo từng giờ, từng phút. Hơn nữa, nội dung thông tin có thể
được chỉnh sửa hoặc gỡ bỏ sau khi đã xuất bản để đảm bảo tính chính xác, cập nhật.
Để đăng tải thông tin, người ta không cần một hệ thống nhà in hay máy phát sóng
mà chỉ cần một máy tính nối mạng và ấn enter. Những tin tức liên quan ở những
ngày trước đó có thể được đọc lại nhờ sự trợ giúp của những đường link dẫn. Báo
mạng với dung lượng gần như vô tận cũng đã phá vỡ sự gò bó về mặt diện tích của
báo in hay thời lượng phát sóng của truyền hình, phát thanh.
27
Về đặc điểm ngôn ngữ của diễn ngôn báo điện tử: đa phương tiện, báo điện
tử có thể tích hợp nhiều hình thức đa phương tiện. Trên một trang báo mạng, thông
tin không chỉ thể hiện dưới dạng chữ viết mà còn bằng âm thanh và các hình ảnh cả
tĩnh lẫn động... Do đó, thông tin có thể được chuyển tải qua nhiều hình thức như
chữ viết, hình ảnh, âm thanh, đồ họa… Điều này đã khiến báo mạng trở thành kênh
truyền thông đa phương tiện, sinh động, hấp dẫn thu hút đông đảo người tham gia.
Công nghệ cho phép báo mạng điện tử hỗ trợ khả năng giao tiếp hai chiều với công
chúng trên phạm vi rộng lớn mà không một loại hình nào có được. Phát thanh và
truyền hình cũng tạo được sự tương tác cao nhưng có sự giới hạn về dung lượng,
không gian giao tiếp, tần suất và mức độ tương tác trong giao tiếp.
Về độc giả diễn ngôn báo điện tử: độc giả báo mạng có đặc điểm nổi bật
thường là trẻ, nhanh nhạy về tư duy và công nghệ. Người đọc nhanh nhạy về công
nghệ có khả năng tìm kiếm thông tin với những tiện ích rất nhanh chóng, hiệu quả.
Người đọc tư duy và tương tác với tòa soạn qua ý kiến dưới bài, qua email, thăm dò
ý kiến phản hồi; tương tác với công chúng, dư luận xã hội về những vấn đề mà họ
quan tâm. Qua đó, tòa soạn dễ dàng nắm được phản hồi và hiệu quả tác động của
những sự kiện và vấn đề mà họ đưa ra. Người đọc với nhà báo có khả năng giao tiếp
và kết nối siêu liên kết: giữa người đọc với nhân vật trong bài báo và nhà báo;
người đọc với người đọc… Vì thế, có thể thấy phương thức thông tin ở báo mạng đã
giảm đi nhiều tính độc quyền, áp đặt thông tin hoặc sự định hướng áp đặt từ phía
các cơ quan quyền lực. Mỗi người đều có thể bày tỏ ý kiến đánh giá, thái độ của
mình trước những sự kiện và vấn đề thời sự. Điều này cũng tạo nên sự tương tác xã
hội đặc biệt cho độc giả báo mạng. Tương tác xã hội vừa là đặc điểm, vừa là thế
mạnh vượt trội của báo mạng điện tử.
Tóm lại, diễn ngôn báo chí là sản phẩm của quá trình giao tiếp báo chí nên
nó mang những đặc điểm của phong cách báo chí. Trong các loại hình báo chí thì
báo điện tử bộc lộ thế mạnh tương tác nổi bật và dễ nhận diện. Diễn ngôn báo điện
tử, vì thế, cũng có tính tương tác cao hơn so với các loại hình báo chí khác.
1.2.3. Tính tương tác trong giao tiếp và diễn ngôn
1.2.3.1. Tƣơng tác trong hội thoại
Tính tương tác trong giao tiếp được thể hiện nổi bật ở tương tác trong hội
28
thoại bởi hội thoại là “hình thức giao tiếp thƣờng xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó
cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác” [12; 201]. Hội thoại là
sự tương tác bằng lời trong đó tương tác là một trong ba vận động đặc trưng của hội
thoại (trao lời, trao đáp, tương tác). Nói đến hội thoại là nói đến các nhân vật tham gia
hội thoại (người phát, thể phát: Sp1; người nhận, thể nhận: Sp2) và sự tương tác giữa
các nhân vật này.
Hội thoại được diễn ra trước hết với hoạt động trao lời. Đó là hoạt động
người phát Sp1 tạo ra diễn ngôn và hướng diễn ngôn của mình đến người nhận Sp2
theo mô hình:
Diễn ngôn Sp1 Sp2
Mô hình 1.3: Mô hình hoạt động trao lời
Trong hội thoại không chỉ có hoạt động trao lời một chiều mà còn có hoạt động
đáp lời. Đó là hoạt động người nhận chuyển thành vai người phát đáp lại lời trao, theo
mô hình: [16; 546]
Sp1 Sp2 Diễn ngôn Sp1
Diễn ngôn Sp2
Mô hình 1.4: Mô hình hoạt động đáp lời
Sự thay đổi luân phiên vai người phát - người nhận giữa các nhân vật giao
tiếp làm nên hoạt động trao - đáp trong hội thoại. Cuộc hội thoại được hình thành
khi người nhận đáp lại lời của người phát. Nếu lời trao không có lời đáp thì không
thành cuộc hội thoại.
Trong báo chí, đầu tiên, người phát (Sp1) là nhà báo (đại diện cho tòa soạn
báo) sẽ thực hiện hoạt động trao lời. Nhà báo tạo ra diễn ngôn báo chí và hướng nó
tới người nhận (Sp2) là các độc giả. Sau đó, độc giả đọc báo, thực hiện hoạt động
đáp lời trở lại (phản hồi). Lúc này, độc giả từ vai người nhận đã chuyển thành vai
người phát để đáp lời. Trong hội thoại thông thường, sự thay đổi vai người phát -
29
người nhận sẽ diễn ra luân phiên tạo thành nhiều cặp trao - đáp. Chúng tôi nhận
thấy, trong báo chí, các bài báo thuộc thể loại phỏng vấn cũng có rất nhiều cặp trao
- đáp giữa nhà báo và đối tượng được phỏng vấn. Song ở luận án này, chúng tôi sẽ
chỉ xem xét một cặp trao - đáp lớn bao trùm toàn bộ bài báo. Đó là việc nhà báo
trao lời (thông qua bài báo) và độc giả đáp lời (thông qua phản hồi). Nhà báo trao
một lời nhưng nhận được vô số lời đáp của các độc giả. Vì thế, trong báo chí luôn
xảy ra hiện tượng một bài báo với rất nhiều phản hồi.
Trong hoạt động trao - đáp, các nhân vật thông qua diễn ngôn tác động qua lại
lẫn nhau làm thay đổi nhau và làm nên sự tương tác trong hội thoại. Tương tác chính
là tác động chủ yếu trong hội thoại. Đó là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các
nhân vật hội thoại nhằm tạo nên sự điều hòa, nhịp nhàng của cuộc hội thoại, như sử
dụng các tín hiệu hòa phối về lượt lời, các cặp kế cận, các cặp củng cố, sửa chữa…
Từ đó, các thoại nhân ảnh hưởng lẫn nhau, tác động đến cách ứng xử của từng
người trong quá trình hội thoại. Trước khi hội thoại, giữa các thoại nhân có sự khác
biệt (tri thức, tâm lí, tình cảm…). Trong hội thoại và qua hội thoại sự khác biệt mất
dần đi. “Hội thoại là một vũ điệu giữa những nhân vật tương tác.” [dt 11; 219-220]
Sự tương tác trong báo chí, do đó, cũng được tạo thành do sự tác động qua lại
của các nhân vật là nhà báo và độc giả.
Như vậy, tương tác là một vận động tiêu biểu trong hội thoại. Tương tác hội
thoại trong báo chí được thể hiện ở cặp trao - đáp: toà soạn, nhà báo (người phát,
thể phát) - độc giả (người nhận, thể nhận). Các nhân vật này có sự tác động qua lại
với nhau thông qua các diễn ngôn làm nên tính tương tác trong diễn ngôn báo chí.
1.2.3.2. Tƣơng tác trong diễn ngôn
a. Đặc điểm tương tác diễn ngôn
Van Dijk đã đưa ra mệnh đề “Diễn ngôn như một sự tương tác xã hội” đồng
thời chỉ ra các đặc điểm, các yếu tố cần chú ý khi tiến hành phân tích diễn ngôn.
Mệnh đề này cũng là tên một cuốn sách nổi tiếng của ông (Discourse as social
interaction) [103]. Tập đầu của cuốn sách này đã chỉ ra rằng bên cạnh những hướng
phân tích trừu tượng theo cấu trúc, diễn ngôn có thể được nghiên cứu trong phạm vi
30
của quá trình tri nhận thực tiễn. “Diễn ngôn không nên bị phân tích chỉ nhƣ loại hình,
ý nghĩa và nhƣ một quá trình của trí óc mà còn nhƣ những cấu trúc và cấp bậc phức
tạp của sự tương tác, thực tiễn xã hội và những tính năng của chúng trong ngữ cảnh,
xã hội và văn hóa”. (Discourse should be studied not only as form, meaning and
mental process, but also as complex structures and hierarchies of interaction and
social practice and their function in context, society and culture) [103; 6].
Điều này đồng nghĩa với việc chú ý tới hiện tượng mang tính thực tiễn, xã
hội và văn hóa của diễn ngôn. Diễn ngôn được tạo lập và thấu hiểu bởi người sử
dụng ngôn ngữ. “Những ngƣời sử dụng ngôn ngữ tham gia diễn ngôn, hoàn thành
những hành động mang tính xã hội và tham gia vào quá trình tƣơng tác xã hội, điển
hình là trong đối thoại và những dạng thức khác của đối thoại.” (Language users
engaging in discourse accomplish social acts and participate in social interaction,
typicially so in conversation and other form of dialogue) [103; 2].
Dijk trong nghiên cứu của mình đã đưa ra quan điểm phổ biến và thừa nhận tính
xã hội của diễn ngôn (discourse to be social): “Diễn ngôn là một loại hình của hành
động và tương tác xã hội” (Discourse is a form of action and interaction) [103; 6].
Theo đó, con đường để tìm hiểu diễn ngôn là “từ cấu trúc và quá trình đến hoạt động
mang tính xã hội trong ngữ cảnh và xã hội” (from structure and process to social
action in context and society) [103; 2].
Vì thế, theo Dijk, khi phân tích diễn ngôn cần chú ý các yếu tố sau:
1- Hành động (action): chúng ta xác định diễn ngôn như hành động nhưng
cụ thể hành động nào và điều gì đã khiến diễn ngôn trở thành một loại hình của
tương tác xã hội? (We have defined discourse as action, but what exactly is action
and what makes discourses a form of social interaction? [103; 6])
2- Ngữ cảnh (context): Những nghiên cứu về diễn ngôn mang tính xã hội
thường nghiên cứu về diễn ngôn trong ngữ cảnh. Nhưng ý niệm về ngữ cảnh không
được nghiên cứu một cách chi tiết như văn bản hay lời nói. (Social discourse analysis
typically studies discourse in context. However, although frequently used, the notion
of context is not always analysed in as much detail as text and talk [103; 7]).
31
3- Quyền lực (power): Cả ngữ cảnh của hành động và diễn ngôn đều mô tả
người tham gia - những thành phần của những nhóm xã hội khác nhau. Quyền lực là
ý niệm then chốt trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa các nhóm xã hội. Nếu bất
kỳ đặc điểm nào của ngữ cảnh và xã hội tác động đến văn bản và lời nói (và ngược
lại) thì đó chính là quyền lực. (Both action and discourse contexts feature
participants who are members of different social groups. Power is a key notion in
the study of group relations in society. If any feature of context and society at large
impinges on text and talk (and vice versa), it is power [103; 7].)
4- Hệ tƣ tƣởng (ideology): Ở một cấp độ khác, những hệ tư tưởng cũng thiết
lập mối liên kết giữa diễn ngôn và xã hội. Hệ tư tưởng là nhân tố tri nhận khác đối
với quyền lực. Nó chi phối cách người sử dụng ngôn ngữ tham gia vào diễn ngôn.
Cùng lúc, diễn ngôn còn cần thiết cho sự tạo lập của hệ tư tưởng.
Để minh chứng về hệ tư tưởng, Dijk đưa ra những phân tích về bài phát biểu
của ngài Rohrabacher (diễn ngôn được đưa ra phân tích rất chi tiết trong tập đầu
cuốn Discourse as social interaction). Trong bài phát biểu này, những hậu quả tiêu
cực của Pháp chế về Quyền công dân được Rohrabacher tô đậm. Đặc biệt là những
ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ - đối tượng mà Đảng của ông cam kết bảo vệ.
Đồng thời họ cũng chính là những con người được ông tái hiện như những nạn nhân
khốn khổ của chính sách tự do. Theo Dijk, tất cả những mô tả này đều mang ngụ ý
nên diễn ngôn sẽ mang tính tư tưởng (ideological [103; 33-34] ).
Trong nghiên cứu của mình, Dijk bàn nhiều về hệ tư tưởng của tập thể và
cho rằng những tập thể nhận thức qua các thành viên (groups think through their
members [103; 31]). Các thành viên lại chính là những người tham gia vào diễn
ngôn - những người gắn với văn bản và lời nói. Vì thế, theo cách này, các tập thể
hoạt động thông qua những thành viên của họ. Và ông đi đến kết luận: “Hệ tƣ
tƣởng của ngƣời nói trong vai trò nhƣ một thành viên của tập thể có thể đƣợc
truyền tải qua mọi cấp độ và mọi đặc điểm của diễn ngôn, cũng nhƣ của ngữ cảnh”.
(All levels and structural properties of discourse and context may „code for‟ the
ideologies of language users acting as group members) [103; 34].
32
Như vậy, qua những nghiên cứu của Dijk có thể khẳng định rằng hệ tư tưởng
là một yếu tố cần chú ý khi phân tích diễn ngôn và chỉ ra sự tương tác của diễn
ngôn. Diễn ngôn mang tính tư tưởng và nó được thể hiện thông qua những người
tham gia vào diễn ngôn đặc biệt là người nói. Hệ tư tưởng là yếu tố ở cấp độ vĩ mô
bao trùm và chi phối diễn ngôn.
Dưới đây, chúng tôi sẽ đề cập tới các yếu tố còn lại theo trình tự từ vĩ mô đến
vi mô: quyền lực - ngữ cảnh - hành động.
a1. Quyền lực
Từ góc độ tiếp cận ngôn ngữ học, quyền lực không đơn thuần chỉ quyền
thống trị hay áp bức của giai cấp thống trị và bị trị theo cách hiểu truyền thống;
quyền lực tồn tại trong giao tiếp ngôn ngữ một cách khách quan, ngoài ý muốn chủ
quan của con người. Là một một phương tiện giao tiếp, ngôn ngữ vừa là công cụ
truyền tải những quan hệ quyền lực; vừa chịu sự chi phối, điều chỉnh của quyền lực.
“Quyền lực là sự kiểm soát hành động, điều mà đòi hỏi sự kiểm soát đối với
ý thức của cá nhân hay cộng đồng và ẩn sau đó là sự kiểm soát đối với những diễn
ngôn cộng đồng”. (Power is control of action, which requires control of personal
and social cognitions, which presupoposes control of public discourse”) [103; 22].
Một trong những luận điểm nổi tiếng của M. Foucault (1926 - 1984) về
quyền lực và ngôn ngữ là “Quyền lực xuyên thấm vào điều khiển cách tư duy và
cách nói năng giao tiếp của con người”. Đối với ông, quyền lực không đơn thuần là
sự cưỡng bức hay ngăn trở tự do hay ý nguyện của người khác mà còn là “điều kiện
tạo thành tất cả mọi lời nói” và “diễn ngôn có thể vừa là một công cụ, vừa là hệ quả
của quyền lực” [dt 4; 40]. Như vậy, tư tưởng về quyền lực là một trong những tư
tưởng chủ đạo tạo nên mối quan hệ giữa diễn ngôn và xã hội. Nói cách khác, muốn
hiểu về các chức năng cơ bản của diễn ngôn trong tương tác và xã hội thì nhận thức
sâu sắc về nguồn gốc của quyền lực của diễn ngôn là cần thiết.
Nhận thức về quyền lực là rất rộng, ở đây chúng tôi chỉ chỉ ra các cách thức
mà diễn ngôn liên quan tới quyền lực. Theo Dijk, tư tưởng chủ đạo dùng để xác định
quyền lực xã hội chính là tư tưởng về sự kiểm soát hành vi và lí trí (control of action
33
and mind). Những quyền lực trong xã hội không đơn thuần mang tính vũ lực mà phần
nhiều lại mang tính tâm lí. Vì thế, thay vì kiểm soát hành vi của người khác một cách
chặt chẽ bằng vũ lực, người ta sẽ kiểm soát lí trí người khác qua những hành động
và bằng lời nói. Nói cách khác, “một trong những phƣơng tiện quyết định đƣợc dùng
để tác động đến lí trí của ngƣời khác và khiến cho họ hành động nhƣ những gì ta
mong muốn chính là văn bản và lời nói” (one of the crucial means used to influence
others people‟s minds so that they will act as we want is text or talk” [103; 17]. Kết
luận này giúp chúng ta có thể thấy mối quan hệ cơ bản và rõ ràng nhất giữa diễn ngôn
và quyền lực (relationship between power and discourse).
Cụ thể, “diễn ngôn không chỉ là một phƣơng tiện trong sự đảm nhiệm của
quyền lực mà còn cùng lúc là nguồn gốc của quyền lực” (discourse is not only a
means in the enactment of power, as are other actions of the powerful, but at the
same time itself a power resource) [103; 20]. Quyền lực kiểm soát quá trình hình
thành diễn ngôn đồng thời diễn ngôn thể hiện sự kiểm soát của quyền lực.
Điều đặc biệt là sự kiểm soát này hoàn toàn không có sự ép buộc, thay vì các
mệnh lệnh, yêu cầu, gợi ý hay lời khuyên trực tiếp; chúng ta có thể gián tiếp khiến
người khác tự tạo lập hành vi mà chúng ta muốn thông qua các diễn ngôn. Nói như
Dijk thì “nếu diễn ngôn của chúng ta có thể khiến họ tin tƣởng theo cách nhƣ vậy
và chúng ta có thể hoàn toàn gián tiếp kiểm soát hành động của họ thì chúng ta đã
thao túng họ hoàn toàn bằng lời nói và văn bản” (if our discourse can make people
belive in this way and we thus indirectly control their actions such that they are in
our best interest, we have successfully manipulated them through text and talk)
[103; 19]. Sự thao túng này chính là quyền lực của diễn ngôn. Quyền lực thể hiện ở
việc kiểm soát hành động của những đối tượng khác qua việc dùng diễn ngôn kiểm
soát lí trí của họ (về mặt kiến thức, thái độ, hệ tư tưởng).
Vì thế, một trong những điều quan trọng nhất của phân tích diễn ngôn chính
là chỉ ra quyền lực được thể hiện qua và bằng các diễn ngôn như thế nào? Trên cơ
sở nào, người tạo lập diễn ngôn được nói như vậy và việc nói như vậy có tác động
đến các đối tượng nào? Sự tác động dẫn đến sự thay đổi như thế nào trong nhận
34
thức, hành động? Và tất cả những điều đó được biểu hiện bằng các phương tiện
ngôn ngữ như thế nào?
Mối quan hệ giữa diễn ngôn, lí trí và quyền lực đang được sử dụng rộng rãi
trong những văn bản và lời nói đại chúng, rất tiêu biểu là ở lĩnh vực báo chí. Diễn
ngôn báo chí mang đậm tính chính trị - xã hội và quyền lực. Ở đây, quyền lực của
diễn ngôn được thể hiện trước hết ở vai của nhà báo. Nhà báo là người được quyền
nói tất cả những vấn đề về xã hội. Và việc nhà báo nói như vậy luôn có tác động
đến tất cả đối tượng độc giả đọc bài báo đó.
Quyền lực của diễn ngôn (bao gồm sự tác động và làm cho một đối tượng
nào đó có sự biến đổi) chính là biểu hiện cho tính tương tác của diễn ngôn báo chí.
Có thể nói, tính tương tác của diễn ngôn được thể hiện gốc rễ ở vấn đề quyền lực
của diễn ngôn.
Song để có thể kiểm soát lí trí của người khác qua diễn ngôn, quyền lực cần
thiết phải kiểm soát những yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến người đó. Những kiểm
soát này được thể hiện trong các ngữ cảnh.
a2. Ngữ cảnh
Từ điển The Encyclopedia of Language and Linguistics định nghĩa: “Ngữ
cảnh là bối cảnh ngoài ngôn ngữ của một phát ngôn hay là những thông tin ngoài
ngôn ngữ góp phần tạo nên nghĩa (của phát ngôn)” [dt 10; 97]. Cụ thể, tập hợp các
nhân tố: nhân vật giao tiếp, hiện thực được nói tới, hoàn cảnh giao tiếp và môi
trường giao tiếp được gọi chung là ngữ cảnh.
Ngữ cảnh là một khái niệm quan trọng trong lí luận phân tích diễn ngôn. Bản
chất của phân tích diễn ngôn là phân tích ngôn ngữ trong ngữ cảnh cụ thể của chúng
và do đó, yếu tố quan trọng trong giải mã diễn ngôn là ngữ cảnh. I. Bellert, 1971 đã
đưa ra khái niệm: “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn S1,… Sn, trong đó
việc giải thuyết nghĩa của mỗi phát ngôn Si (với 2 ≤ i ≤ n) lệ thuộc vào sự giải thuyết
những phát ngôn trong chuỗi S1, …, Si-1. Nói cách khác, sự giải thuyết thỏa đáng một
phát ngôn tham gia diễn ngôn đòi hỏi phải biết ngữ cảnh đi trƣớc” [dt 10; 199]. Khái
niệm này nhấn mạnh vai trò của ngữ cảnh.
35
Trong những nghiên cứu về diễn ngôn như hành động và tương tác, ngữ cảnh
đóng vai trò then chốt. Ranh giới lớn nhất giữa những phân tích về diễn ngôn mang
tính trừu tượng và những phân tích về diễn ngôn mang tính xã hội chính là những
phân tích mang tính xã hội có kể đến ngữ cảnh. Trong những nghiên cứu về diễn
ngôn mang tính xã hội xác định, diễn ngôn được mô tả đặt trong một địa điểm hay
trong một bối cảnh xã hội.
“Diễn ngôn biểu thị hay bộc lộ cùng lúc hình thái và những đặc điểm liên quan
của ngữ cảnh văn hóa xã hội, cái đƣợc gọi là ngữ cảnh” (Discourse manifests or
expresses, and at the same time shapes, the many relavant properties of sociocultural
situation we call its context) [103; 4]. Một cách cảm tính, khái niệm ngữ cảnh thường
gợi ra môi trường hay tình huống mà sự kiện, hành động hay diễn ngôn xảy ra. Nó có
thể tạm thời được xác định bao gồm các yếu tố như: người tham gia, vai trò của họ,
mục đích và đặc điểm của bối cảnh: không gian, thời gian, địa điểm. Diễn ngôn được
tạo nên, hiểu và phân tích dựa trên các đặc điểm đó của ngữ cảnh.
Song “Những phân tích về ngữ cảnh có thể phức tạp nhƣ chính những phân
tích về diễn ngôn” (context analysis may be as complex as discourse analysis itself)
[103; 14]. Trong khi cấu trúc của một cuộc đối thoại thường nhật giữa những người
bạn có thể được kiểm soát bởi một số ít những dữ liệu về ngữ cảnh (như hoàn cảnh,
hiểu biết, vai xã hội - bạn bè) thì những bản tin, những cuộc tranh luận nghị viện hay
những tương tác trong phòng xử án có thể được nghiên cứu trong mối liên hệ với
những điều kiện và kết quả mang tính xã hội, chính trị và văn hóa phức tạp. Vì thế,
“nhà phân tích diễn ngôn làm việc trong thế giới thực phải có khả năng rút ra, xem
nhƣ là tƣơng thích, chỉ những phẩm chất của các đặc tính ngữ cảnh tƣơng thích với
hành vi giao tiếp cụ thể mà anh ta đang mô tả, và những phẩm chất của các đặc tính
ngữ cảnh hỗ trợ cho việc giải thuyết phát ngôn (hay ý nghĩa theo dự định)” [9; 99].
Gillian Brown, George Yule trong Phân tích diễn ngôn đã chỉ ra phương
thức để giải mã diễn ngôn là gắn với ngữ cảnh cụ thể và “phép luận suy” để tìm ra
cái được nói đến trong diễn ngôn. Phép luận suy giúp người đọc/người nghe không
nhất thiết phải chú ý đến mọi đặc điểm của ngữ cảnh mà chỉ chú ý đến những đặc
36
điểm cần thiết và tương thích trong các tình huống tương tự ở quá khứ để giải mã
diễn ngôn. Để giải mã thành công diễn ngôn, nhà phân tích cũng cần đến nguyên lý
“giải thuyết” cục bộ. Nguyên lý “giải thuyết cục bộ” cho phép người nghe “không
nên xây dựng một ngữ cảnh lớn hơn cần thiết để bảo đảm một giải thuyết” [9; 102].
Hơn nữa, không phải tất cả các đặc điểm của một bối cảnh xã hội đều nằm
trong ngữ cảnh của diễn ngôn. Do đó, “tùy thuộc vào bối cảnh về mặt lý thuyết,
chúng ta có thể giới hạn sự xác định của ngữ cảnh trong số ít những đặc điểm liên
quan rõ ràng nhƣ ngƣời tham gia, khung cảnh hay những hành động khác.”
(Depending on our theoretical perspective, we may limit the definition of context to a
small number of immediately relavant features of participants, settings and other acts
[103; 14]). Trong đó, phải khẳng định rằng những người tham gia (các nhân vật
giao tiếp) là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong ngữ
cảnh. “Về tính chất mà nói thì họ (ngƣời nói, ngƣời nghe và đối thể đƣợc chỉ định)
đƣợc phú cho vô vàn các đặc tính vật chất và xã hội, mà bất cứ đặc tính nào trong đó
cũng có thể là phẩm chất tƣơng thích cho một hành vi giao tiếp cụ thể” [48; 99]. Do
đó, vai trò của nhân tố nhân vật giao tiếp là vô cùng quan trọng.
Một ví dụ của Nguyễn Hòa [48; 36] về đầu đề diễn ngôn tin “THE
UNFINISHED WAR” xuất hiện đầu năm 2002 trên CNN. Đầu đề tin này không chỉ
nói về một cuộc chiến tranh chưa kết thúc. Hàm ngôn của nó rất mạnh mẽ nếu
người nghe/người đọc nhớ về cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Phần lớn các
phương tiện thông tin đại chúng và nhiều nhà chính trị của phương Tây vào những
năm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh vùng Vịnh đều phê phán Tổng thống Mĩ
G.Bush (bố) đã không hoàn tất cuộc chiến bằng cách đánh thẳng vào thủ đô của Irắc
để tiêu diệt Tổng thống Sadam Hussein. Và họ cho rằng cuộc chiến tranh vẫn chưa
kết thúc (unfinished). Sử dụng đầu đề này trong bối cảnh Mĩ đánh Afghanistan
chống khủng bố không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bush con không nên lặp
lại sai lầm của Bush bố đã mắc phải: phải đánh đến cùng. Để giải mã diễn ngôn
trong trường hợp này, người nghe cần những hiểu biết tương thích về cuộc chiến
tranh trong quá khứ và hiện tại.
37
Trong hoạt động báo chí, để độc giả hiểu đúng thông tin, cần thiết và bắt
buộc phải hướng tới sự đồng nhất ngữ cảnh của quá trình tạo lập diễn ngôn (nhà
báo) và ngữ cảnh của quá trình tiếp nhận, lĩnh hội diễn ngôn (độc giả). Điều đặc
biệt, nhà báo là người cung cấp thông tin về hoàn cảnh giao tiếp cho độc giả. Mở
đầu các bài báo, các yếu tố về thời gian, không gian, sự kiện cụ thể bao giờ cũng
được đề cập đến đầu tiên. Tính chất đầy đủ, chính xác về hoàn cảnh giao tiếp là yêu
cầu bắt buộc của báo chí.
Người ta thường đề cập đến cấu trúc tin của một văn bản báo chí gồm những
yếu tố quan trọng 5W và 1 H (5W: Ai? (Who?), Cái gì? (What?), Khi nào?
(When?), Ở đâu? (Where?), Tại sao? (Why?) và 1H: Như thế nào? (How?). Câu
chuyện nghề nghiệp của William Caldwell - nhà báo được giải thưởng Pulitzer của
Mĩ đã nhấn mạnh điều này. Ông từng nhắc đến một đoạn dẫn nhập mà ông cho là
hay nhất từ em trai vào năm 1922 khi ông còn là một biên tập viên bình thường của
một tuần báo địa phương. Trên đường về, em trai đã chạy đến đón ông vừa khóc và
nói: “Cha đã chết đuối sáng nay ở hồ George”. Ông phát hiện câu nói của người
em là một lời dẫn nhập hoàn hảo. Trong đó, “danh từ, động từ, vị ngữ, dấu chấm
câu và ai - cái gì - khi nào - ở đâu - cùng khởi động”.
Ngữ cảnh báo chí đặc biệt chính là căn cứ để nhà báo tạo ra các hàm ý. Trên mặt
báo, có những điều không được phép nói, không tiện nói ra hoặc nói thẳng chưa chắc đã
đạt hiệu quả cao bằng những lời nói tế nhị, chứa đựng hàm ý. Ngữ cảnh báo chí khi đó
có thể bộc lộ được những thông tin không công khai trên giấy trắng mực đen.
Nguyễn Đức Dân từng đưa ra những dẫn chứng thú vị về những trường hợp
“ý tại ngôn ngoại” biểu hiện những thông tin chìm của ngôn ngữ báo chí có được do
ngữ cảnh [20]. Bình thường câu “Ngọn lửa đã tắt vì ông X” không có hàm ý gì. Thế
nhưng, trong tình huống thủ tướng Đức G.Schroeder đến đài tưởng niệm các nạn
nhân Do Thái bị phát xít giết hại trong chiến tranh thì lại khác. Trong lễ tưởng
niệm, thủ tướng G.Schroeder định vặn nút điều chỉnh để khơi sáng thêm ngọn lửa
trên Đài tưởng niệm. Loay hoay thế nào, ngọn lửa lại leo lét rồi tắt. Một người thợ
phải dùng quẹt gas mồi lại ngọn lửa. Ngay hôm sau, bản tin của một phóng viên
38
hãng Reuters với hàng tít “Ngọn lửa Holocaust đã tắt vì ông Schroeder” xuất hiện
trên các báo điện tử khắp thế giới (Tuổi trẻ, 03.11.2000).
Nhà báo thậm chí có thể “lợi dụng” ngữ cảnh để tạo ra thông tin theo ý
muốn. Ví dụ của Nguyễn Đức Dân [20]: Một giáo chủ nọ lần đầu đến New York,
nghe nói rất dễ bị các nhà báo gài bẫy nên ông rất thận trọng trong nói năng. Ông
vừa xuống sân bay, một nhà báo tới hỏi: “Cha có định tới dạ hội không?” Giáo chủ
muốn tránh trả lời liền cười hỏi lại: “New York có dạ hội phải không?” Thế là ngày
hôm sau có một tờ báo đăng một tít lớn: “Câu hỏi đầu tiên khi giáo chủ xuống sân
bay là: New York có dạ hội phải không?” Trong trường hợp này, nhà báo có thể
viết như vậy mà giáo chủ không thể bác bỏ được.
Như vậy, ngữ cảnh có vai trò quan trọng trong việc giải mã diễn ngôn. Yếu
tố quan trọng hàng đầu của ngữ cảnh là người tham gia (nhân vật giao tiếp).
a3. Hành động
Khi nói năng chúng ta thực hiện những hành động khác nhau. “Nói là làm”
(how to do things with words) - là nhan đề cuốn sách nổi tiếng của Austin, người
khởi xướng lí thuyết hành động ngôn ngữ. Khi nêu ra điều kiện sử dụng các loại
hành động ngôn từ, Austin đã phát hiện ra nghĩa tương tác xã hội hay nghĩa liên
nhân của phát ngôn đồng thời bước đầu đề cập đến quyền lực của các nhân vật giao
tiếp. Searle sau đó hoàn chỉnh lí thuyết hành động ngôn từ bằng việc phân chia hành
động ngôn từ thành 5 phạm trù lớn với luận điểm: “đơn vị cơ bản của giao tiếp
ngôn ngữ là hành động ngôn từ” [dt 40]. Searle cho rằng hàng loạt những quy tắc
mà hành động của nhân loại phải tuân thủ cũng đồng thời là quy tắc mà hành động
ngôn từ phải tuân theo. Theo thời gian, lí thuyết hành động ngôn từ ngày càng được
nghiên cứu chuyên sâu. “Hành động ngôn từ đƣợc nhìn nhận nhƣ là đơn vị cơ sở
của diễn ngôn” (Katie Wales, 1989] [dt 83; 54]. Các lí thuyết này cho phép khẳng
định: Diễn ngôn như một hành động (discourse as a action), có diễn ngôn là có
hành động. Cụ thể, diễn ngôn là phương tiện chuyên chở các hành động ngôn từ của
người nói để tác động tới người nghe.
39
Nói năng nói chung và diễn ngôn nói riêng là một dạng hành động - hành
động bằng ngôn ngữ. Nó cũng chịu những quy tắc chung chi phối hành động nói
chung của con người. Đó là “phải đƣợc thực hiện theo một ý định nhất định với một
công cụ nhất định, đích có khi trực tiếp mà cũng có khi gián tiếp, ngầm ẩn. Thông
qua hành động mà con ngƣời tác động đến sự vật, ngƣời khác, làm thay đổi trạng
thái của sự vật, ngƣời đó. Cũng nhƣ vậy, bằng lời nói của mình, con ngƣời làm thay
đổi trạng thái tinh thần hay vật lí của ngƣời nghe” [12; 14]. Tương tự, khi tạo lập
diễn ngôn chúng ta luôn có một đích nhất định; bằng diễn ngôn đó, chúng ta có khả
năng tác động đến người nghe và thực hiện đích đã định trước của mình. Tất cả
những điều đó được thực hiện thông qua hành động ngôn từ. Hay nói cách khác,
quyền lực của diễn ngôn được thực thi thông qua các hành động ngôn từ. Bằng diễn
ngôn chứa hành động ngôn từ, chúng ta tác động tới người khác và làm thay đổi họ.
Vì vậy, khi phân tích diễn ngôn không thể không nói đến các hành động ngôn từ.
Cũng cần nói thêm rằng chủ định và mục đích được gán cho diễn ngôn có thể được
chủ định từ trước và mang tính mục đích, nó nằm trong tầm kiểm soát của người nói
(hành động ở lời). Song cũng có khi nhiều vấn đề của diễn ngôn vượt ra khỏi kiểm
soát của người nói hoặc chỉ được biểu đạt thông qua những người người nghe (hành
động mượn lời).
Cần chú ý các dạng thức của diễn ngôn trong việc thể hiện hành động ngôn từ.
Hầu hết những nghiên cứu về diễn ngôn như một hành động đều tập trung vào đối
thoại và hội thoại, hay nói cách khác là lời nói. Điển hình là nhà nghiên cứu Dijk chú
trọng tính thực tiễn và tính tương tác của diễn ngôn - được gắn kết vào việc sử dụng
ngôn ngữ như một hình thức tương tác dạng lời nói. Nói và viết là những dạng thức
khác nhau của lời nói. Một sự khác biệt chính là nói (ngoại trừ hội thoại qua điện
thoại) diễn ra trong sự gặp gỡ trực tiếp (mặt đối mặt) của những người sử dụng ngôn
ngữ. Họ có sự tương tác trực tiếp và cuộc hội thoại được tổ chức bởi sự chuyển vai.
Vì thế, người nói sẽ phản ứng lại trực tiếp với những gì đối phương nói hoặc hành
động. Còn ở văn bản viết, không có sự tương tác trực tiếp như vậy.
40
Ở đây, chúng tôi chỉ nghiên cứu diễn ngôn dạng văn bản viết ở lĩnh vực báo
chí. Vì thế, tương tác trong diễn ngôn báo chí có những điểm khác biệt so với tương
tác của diễn ngôn giao tiếp hàng ngày. Trong giao tiếp hàng ngày, các nhân vật giao
tiếp cùng hiện diện, cùng đối thoại, tương tác đối mặt trực tiếp. Còn diễn ngôn báo
chí là những loại hình diễn ngôn mang tính một mặt bởi sự phân chia rõ rệt chủ thể
giao tiếp và đối tác giao tiếp, người tạo lập và người tiếp nhận; những người tham
gia diễn ngôn ở những không gian, thời gian khác nhau. Do đó, sự tương tác diễn
ngôn là sự tương tác cách mặt giữa các chủ thể tương tác. Điều này xuất phát từ
sự khác biệt giữa các loại hình giao tiếp. Jackobson (1969) [dt 78; 44] quan niệm có
hai loại hình giao tiếp: giao tiếp trực tiếp (giao tiếp hai chiều) và giao tiếp gián tiếp
(giao tiếp một chiều). Giao tiếp giữa nhà báo và độc giả thuộc loại thứ hai. “Ngƣời
nhận thông điệp không cùng chung ngữ cảnh với ngƣời viết, do đó ngƣời viết chỉ có
thể sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt, phải dự đoán trƣớc thái độ và phản ứng của
ngƣời nhận, loại bỏ đƣợc mọi mập mờ có thể đồng thời có trong quá trình nhận
thông điệp và hạn chế tới mức tối đa những sai lệch trong quá trình suy giải thông
điệp”. Vì thế, Voyenne [dt 78; 45] cho rằng trong mọi giao tiếp, người nhận không
chỉ nhận thông điệp mà chủ yếu là suy giải thông điệp. Đọc báo là một quá trình suy
giải chủ quan của người đọc để dựng lại sự kiện được nói tới trong bài báo và phỏng
đoán ý đồ của nhà báo. Hay Giroud (1979) [dt 78; 45]) quan niệm rằng: “Báo chí
luôn luôn chứa đựng tính chủ quan và các chính kiến khác nhau. Vấn đề là phải
thông báo cho ngƣời đọc biết đâu là chủ quan, đâu là khách quan hay cụ thể hơn
đâu là chất xác thực của sự kiện mà ngƣời viết có thể tiếp cận đƣợc”. Để làm điều
này, trước hết, người đọc phải căn cứ vào những hành động ngôn từ được thể hiện
qua diễn ngôn truyền tải thông điệp của nhà báo.
b. Nhận diện tương tác diễn ngôn
Mệnh đề “diễn ngôn nhƣ một sự tƣơng tác xã hội” (như đã phân tích ở trên)
đã chỉ ra để nhận diện sự tương tác của diễn ngôn, cần thiết phải chú ý đến các yếu
tố: hệ tư tưởng - quyền lực - ngữ cảnh - hành động.
- Hệ tư tưởng: Diễn ngôn cần thiết cho sự tạo lập của hệ tư tưởng và hệ tư
tưởng chi phối cách người sử dụng ngôn ngữ tham gia vào diễn ngôn. Hệ tư tưởng
41
của người nói có thể được truyền tải qua mọi cấp độ và mọi đặc điểm của diễn
ngôn, cũng như của ngữ cảnh.
- Quyền lực: Quyền lực của diễn ngôn (tính hiệu quả và tính hiệu lực) bao
gồm sự tác động và làm cho một đối tượng nào đó có sự biến đổi cả về nhận thức và
hành động. Tính tương tác của diễn ngôn được thể hiện ở nguồn cội vấn đề quyền
lực của diễn ngôn. Quyền lực thể hiện ở việc kiểm soát hành vi của những đối
tượng khác qua việc dùng diễn ngôn kiểm soát lí trí của họ (về mặt kiến thức, thái
độ, tư tưởng).
- Ngữ cảnh: Trong những nghiên cứu về diễn ngôn như hành động và tương
tác, ngữ cảnh đóng vai trò then chốt. Yếu tố quan trọng hàng đầu của ngữ cảnh là
người tham gia (nhân vật giao tiếp).
- Hành động: Diễn ngôn là phương tiện chuyên chở các hành động ngôn từ
của người nói để tác động tới người nghe. Quyền lực của diễn ngôn được thực thi
thông qua các hành động ngôn từ. Bằng diễn ngôn chứa hành động ngôn từ, chúng
ta tác động tới người khác và làm thay đổi họ.
Các yếu tố kể trên đều xoay quanh một yếu tố đó là nhân vật giao tiếp. Đây
là nhân tố quan trọng hàng đầu của ngữ cảnh, là nhân tố thực hiện các hành động để
thể hiện quyền lực và hệ tư tưởng của diễn ngôn. Quyền lực và hệ tư tưởng là trừu
tượng, nó được thể hiện qua các hành động ngôn ngữ được nhân vật giao tiếp tạo lập
trong các ngữ cảnh khác nhau. Từ đó, chúng tôi xác lập tiêu chí để nhận diện tính
tương tác của diễn ngôn nói chung và của diễn ngôn báo chí nói riêng là: nhân vật
giao tiếp (thể phát Sp1 - thể nhận Sp2) và quan hệ giữa chúng trong những hoàn
cảnh xác định. Rõ ràng, đây là nhân tố quan trọng của ngữ cảnh thể hiện được quyền
lực và hệ tư tưởng của diễn ngôn thông qua các hành động ngôn ngữ.
Vậy các nhân vật giao tiếp (thể phát và thể nhận) có những đặc điểm và mối
quan hệ nào để thể hiện tính tương tác của diễn ngôn?
1.2.3.3. Các yếu tố thể hiện sự tƣơng tác trong diễn ngôn báo chí
Tương tác của diễn ngôn báo chí chính là sự tương tác (tác động qua lại)
của các nhân vật giao tiếp (thể phát và thể nhận). Chúng tôi đặt ra mục tiêu đi tìm
quan hệ của các nhân vật giao tiếp thể hiện tương tác; nhận diện bản chất của tương
42
tác diễn ngôn báo chí qua các mối quan hệ đó. Cụ thể, trong báo chí, đó là các mối
quan hệ:
(1) Mối quan hệ của các thể phát: qua diễn ngôn của các nhà báo với nhau.
Đây chính là sự tương tác giữa các bài báo (trên cơ sở chủ đề, đối tượng được nói đến).
(2) Mối quan hệ của thể phát với thể nhận: qua diễn ngôn của nhà báo. Đây
chính là sự tương tác của nhà báo với độc giả thông qua các bài báo.
(3) Mối quan hệ của thể nhận với thể phát: qua diễn ngôn của độc giả. Đây
chính là sự phản hồi trở lại của độc giả với nhà báo và bài báo.
(4) Mối quan hệ của các thể nhận: qua diễn ngôn của các độc giả với nhau.
Đây là chính là sự tương tác giữa các phản hồi.
Bản chất của tương tác diễn ngôn là những mối quan hệ để thể hiện ra đặc
điểm bản chất của diễn ngôn mà nó được đánh dấu bằng các phương tiện ngôn ngữ,
có thể nhận diện ra bằng các yếu tố bên trong diễn ngôn (nằm trong cấu tạo) và
những yếu tố bên ngoài diễn ngôn (ví dụ ngôn ngữ...) Những mối quan hệ ấy sẽ tác
động trở lại tới những đặc điểm cả về mặt nội dung và hình thức của diễn ngôn (bởi
tương tác là sự tác động qua lại). Dựa vào các mối quan hệ ấy thì đặc điểm nội dung
và hình thức của diễn ngôn được thể hiện như thế nào?
a. Tương tác thể hiện ở nội dung diễn ngôn: yếu tố chủ đề
Nội dung diễn ngôn có nhiều yếu tố, trong luận án chúng tôi chỉ đề cập tới
yếu tố nổi bật và bao trùm nhất, đó là chủ đề. Chủ đề của diễn ngôn là yếu tố quan
trọng của nội dung diễn ngôn giúp nhận diện tương tác diễn ngôn báo chí. Trong
báo chí, chủ đề được nói tới thường là những vấn đề công chúng quan tâm và cần
đối thoại. Những vấn đề nóng hổi, thu hút sự chú ý, có thể gây tranh cãi, bàn luận,
đánh giá theo nhiều cách khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt, chủ đề là “1. tƣ tƣởng trung tâm biểu hiện trong một
tác phẩm văn học nghệ thuật, là chủ thể và nòng cốt của nội dung tác phẩm, biểu
hiện nhận thức, sự đánh giá và tƣ tƣởng của tác giả đối với đời sống hiện thức. 2.
đề tài đƣợc chọn làm nội dung chủ yếu” [76; 237]. Ở đây, chúng tôi quan niệm chủ
đề chính là nội dung chủ yếu của bài báo; nó cũng thể hiện nhận thức, sự đánh giá
và tư tưởng của nhà báo đối với đời sống hiện thực.
43
Diễn ngôn luôn luôn tồn tại sự liên kết chủ đề. “Liên kết chủ đề là sợi dây
kết nối hợp lí giữa những vật, việc đƣợc nói đến trong các câu có liên kết với nhau”
[7; 135]. (Diệp Quang Ban chú giải thuật ngữ chủ đề được hiểu như đề tài; vật, việc
được nói đến). Có thể thực hiện việc liên kết chủ đề theo 2 cách:
- Duy trì chủ đề, hiểu một cách giản đơn là nhắc lại cùng một vật, một việc
nào đó trong các câu có liên kết với nhau.
- Triển khai chủ đề, là cùng với một (hoặc một vài) chủ đề đã cho, đưa thêm
vào một hoặc những chủ đề (vật, việc) khác nữa có liên quan với chủ đề ban đầu,
theo tiêu chuẩn cần và đủ của logic để bảo đảm cho các câu chứa chúng liên kết
được với nhau [7; 135].
Trong diễn ngôn báo chí cũng có sự liên kết chủ đề. Nó tạo nên sự tương tác
chủ đề với các kiểu tương tác tiêu biểu.
b. Tương tác thể hiện ở hình thức diễn ngôn: yếu tố cấu trúc, thể loại, các
phương tiện ngôn ngữ
Phong cách học chức năng nhấn mạnh phương diện chủ đề, cấu trúc của các
diễn ngôn. Từ đó nhấn mạnh phạm vi thể loại vì thể loại là phương diện thể hiện
đặc trưng cho cấu trúc của diễn ngôn. Mỗi thể loại sẽ có một cấu trúc đặc thù để
biểu đạt thông tin.
Lí thuyết phân tích diễn ngôn và lí thuyết hoạt động giao tiếp sẽ gặp nhau ở
quan điểm: phạm vi của hoạt động giao tiếp sẽ quy định đặc trưng tổ chức thông tin
và vai của người truyền tin. Có nghĩa là phạm vi giao tiếp báo chí sẽ quy định cách
tổ chức thông tin của bài báo và vai của người truyền tin - nhà báo. Mà cách tổ chức
thông tin lại được thể hiện ở cấu trúc hình thức của diễn ngôn. Do đó, trong luận án,
các đặc điểm hình thức thể hiện tính tương tác diễn ngôn báo chí sẽ được phân tích
qua các cấu trúc của diễn ngôn. Cụ thể, ở diễn ngôn báo chí, những điểm có thể
đánh dấu nổi bật chính là tiêu đề, sapô, cách tổ chức thông tin... Ở bề mặt cấu trúc,
đây là những thành phần dễ nhận diện tính tương tác nhất.
b1. Cấu trúc
Một văn bản báo chí có cấu trúc ba phần: (1) Phần mở đầu bao gồm tiêu đề
(tít, đầu đề), sapô (dẫn nhập, đề dẫn); (2) phần nội dung; (3) phần kết thúc. Ngoài
44
ra, một văn bản báo chí còn có thể có ảnh minh họa, box thông tin. Có thể hình
dung như sau:
Tiêu đề (tít, đầu đề)
Ảnh minh họa Sapô (dẫn nhập)
Nội dung
Box
Kết thúc
Hình 1.4: Cấu trúc văn bản báo chí
(i) Tiêu đề (tít, đầu đề): là “tên gọi chính thức của một văn bản” [80; 20].
Theo quan niệm của Halliday, tiêu đề chính là “đơn vị khởi xướng ngôn bản và chỉ
chứa thông tin mới” [dt 15; 117].
Nói về chức năng của tiêu đề báo chí, tác giả Jean - Luc Martin - Lagardette
chỉ ra hai chức năng cơ bản là thu hút sự chú ý và cung cấp một thông điệp đến cho
độc giả. “Về nguyên tắc chung, đầu đề tóm tắt bài báo. Đó là một cái nhãn mác
mang những thông tin chỉ dẫn cho phần nội dung. Nó mang lại nhận thức tức thời
về thông điệp chính. Vì vậy, nó quan trọng ở chỗ chỉ cần đọc đầu đề, độc giả đã biết
được cốt lõi thông tin” [dt 23; 24].
(ii) Sapô (dẫn nhập, đề dẫn): được tiếp nhận ngay sau tiêu đề và là phần đầu
của bài viết. Sapô là một đoạn văn ngắn tóm tắt ý chính của bài báo. Sapô xuất phát
từ từ Chapeau trong tiếng Pháp có nghĩa là “chiếc mũ”. Ở báo điện tử, sapô phải “đội
mũ cho toàn bài mà không che khuất nó”. Nếu một vài dòng của sapô đã đủ thông tin
cho một độc giả không có nhiều thời gian, thì mục đích của nó không phải là nói với
người đó rằng phần còn lại của bài báo không có gì đáng quan tâm cả. Trái lại, nó
phải làm cho người ta muốn đọc và muốn biết thêm chi tiết. “Nếu như tít báo nhóm
lên đốm lửa đầu tiên của sự đam mê trong lòng người đọc, thì sapô phải thổi bùng
45
đốm lửa ấy thành một ngọn lửa. Tức là sapô cần tạo ra một thứ ma lực khiến cho
người đọc không thể cưỡng lại ý muốn phải đọc toàn bộ tác phẩm” [1; 69].
Sapô có các chức năng cơ bản: “Giúp đỡ người đọc. Xác định chủ đề và góc
độ. Cung cấp các thông tin chính. Gợi ý về dàn bài. Làm cho độc giả muốn đọc.”
(Loic Hervouet, Đại học báo chí Lelli, Pháp) [dt 1; 68].
(iii). Nội dung: Nội dung thông tin là phần quan trọng nhất của bài báo. Diễn
ngôn báo chí được tổ chức, sắp xếp qua các cấu trúc nổi bật. Đó là cấu trúc hình chữ
nhật, cấu trúc hình kim tự tháp xuôi, cấu trúc hình tháp ngược (theo vietpr.net).
- Cấu trúc hình chữ nhật
Các chi tiết của tin được sắp xếp ngang hàng nhau. Mỗi chi tiết mang một
lượng thông tin mới. Không chi tiết nào nổi trội hoặc ngược lại không có giá trị
thông tin.
Hình 1.5: Cấu trúc văn bản báo chí: cấu trúc hình chữ nhật
- Cấu trúc kim tự tháp xuôi
Cấu trúc này bắt đầu bằng thông tin lôi cuốn người nghe, sau đó cung cấp
dần dần chi tiết phát triển đề tài của tin. Việc thông tin các sự kiện sẽ dẫn người
nghe “tự mình rút ra kết luận”. Đây là phương pháp tăng dần lượng thông tin đối
với người nghe.
46
Hình 1.6: Cấu trúc văn bản báo chí: cấu trúc kim tự tháp xuôi
- Cấu trúc kim tự tháp ngƣợc
Theo cấu trúc này, tin tức được trình bày như sau: Các yếu tố quan trọng
nhất và có ý nghĩa nhất được đưa lên đầu. Sau đó là các chi tiết ít quan trọng và ít ý
nghĩa hơn.
Hình 1.7: Cấu trúc văn bản báo chí: cấu trúc kim tự tháp ngƣợc
b2. Thể loại
Bàn đến đặc điểm tương tác diễn ngôn không thể không nhắc đến thể loại và
các nhân tố chi phối. Và thể loại chính là một sự biểu đạt hình thức của diễn ngôn.
Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của tương tác diễn ngôn báo chí được thể hiện qua đặc
trưng tổ chức hình thức của thể loại. Sự tương tác của các thể loại là khác nhau do
47
cách tổ chức thông tin của thể loại đó quy định. Cùng nói về một chủ đề nhưng cấu
trúc tin, cách tổ chức tin của thể loại phỏng vấn khác với thể loại bình luận, thể loại
bình luận...
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, báo chí phản ánh thực tại
khách quan thông qua các hình thức thể loại tương đối ổn định và những hình thức
chưa ổn định. Những hình thức chưa ổn định thường được gọi chung là “các dạng
bài thông tin, phản ánh báo chí”, còn những hình thức tương đối ổn định được gọi là
các thể loại (hoặc thể tài) trong một hệ thống.
Thể loại báo chí là “hình thức thể hiện cơ bản thống nhất và tƣơng đối ổn
định của các bài báo, đƣợc phân chia theo phƣơng thức phản ánh hiện thực, sử
dụng ngôn ngữ và công cụ khác để chuyển tải nội dung mang tính chính trị - tƣ
tƣởng nhất định” [60].
Có nhiều cách phân loại các thể loại báo chí. Đinh Trọng Lạc phân loại văn
bản báo chí: “Dựa vào nội dung ý nghĩa sự vật - logic, người ta chia văn bản báo chí
công luận ra các kiểu: văn bản cung cấp tin tức, văn bản phản ánh công luận và văn
bản thông tin - quảng cáo. Dựa vào những đặc điểm về kết cấu, về tu từ, người ta
chia văn bản báo chí công luận ra các thể loại như: mẩu tin, tin tổng hợp, điều tra,
phỏng vấn, phóng sự (thuộc kiểu tin tức); ý kiến bạn đọc, trả lời bạn đọc, tiểu phẩm
(thuộc kiểu công luận); nhắn tin, thông báo, rao vặt, quảng cáo (thuộc kiểu thông tin
- quảng cáo)” [62; 99]. Cụ thể hơn, theo Đinh Văn Hường [60] thì có 3 nhóm thể
loại báo chí sau:
- Nhóm các thể loại báo chí thông tấn gồm tin, phỏng vấn, tường thuật…
có thế mạnh để phản ánh, thông báo kịp thời, nhanh chóng các sự kiện, vấn đề xảy
ra trong cuộc sống hàng ngày. Thông tin sự kiện có yếu tố bình luận mức độ là tính
trội của nhóm các thể loại báo chí thông tấn.
- Nhóm các thể loại báo chí chính luận gồm xã luận, bình luận, chuyên luận,
điều tra, bài phê bình... với chất trí tuệ, tư duy, lý luận, lý lẽ, hùng biện trong tác
phẩm. Tính trội của nhóm các thể loại báo chí chính luận là thông tin lý lẽ.
- Nhóm các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật gồm phóng sự báo chí,
ký báo chí, tiểu phẩm báo chí, câu chuyện báo chí, ghi nhanh… là những thể loại
48
kết hợp yếu tố chính luận của báo chí (tư liệu, số liệu, sự kiện, nhân vật có thật, chất
lý luận, hùng biện...) với các yếu tố của văn học - nghệ thuật (ngôn ngữ, hình ảnh,
cảm xúc, thái độ, khái quát, so sánh và các thủ pháp khác) để thể hiện tác phẩm sinh
động, sâu sắc, mềm mại và hấp dẫn đối với công chúng. Thông tin sự kiện, lý lẽ và
thẩm mỹ là tính trội của nhóm thể loại này.
b3. Các phương tiện ngôn ngữ
Có rất nhiều phương tiện ngôn ngữ thể hiện tính tương tác của diễn ngôn,
trong đó nổi bật nhất là yếu tố hành động ngôn từ.
Trong mọi cuộc giao tiếp, một phát ngôn (diễn ngôn) thường được tạo ra do
ba loại hành động [12; 88-89]:
(1) Hành động tạo lời: hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm,
từ, các kiểu kết hợp từ thành câu... để tạo ra một phát ngôn.
(2) Hành động mượn lời: những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ,
mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở người nghe,
người nhận hoặc ở chính người nói.
(3) Hành vi ở lời: là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng.
Searle phân lập năm loại hành vi ở lời. Đó là:
1. Trình bày (tái hiện: representatives, xác tín: assertives): là hành động ở lời
miêu tả, thuật lại một trạng thái, sự kiện nào đó trong thực tế. Đó là các hành động
như trần thuật, kể, miêu tả, báo cáo, khẳng định…
2. Điều khiển (directives, directifs): là những hành động ở lời hướng vai nghe
thực hiện một hành động nào đó, như ra lệnh, yêu cầu, hỏi, mời, xin, cho phép…
3. Cam kết (commissives, commissifs): là hành động ở lời ràng buộc vai nói
vào trách nhiệm thực hiện một hành động nào đó trong tương lai. Đó là các hành
động như: hứa hẹn, bảo đảm, đe dọa…
4. Biểu cảm (expressives, expressifs): là hành động ở lời nhờ đó mà vai nói
trực tiếp bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với người, sự vật, sự việc nào đó.
Những hành động như: xin lỗi, cám ơn, khen tặng, kêu ca, phàn nàn, trách cứ… và
những lời cảm thán đều thuộc nhóm này.
49
5. Tuyên bố (declaration, desclaratifs): là hành động ở lời mà khi nói ra thì
thay đổi trạng thái của sự việc trong thực tế khách quan như tuyên bố, buộc tội,
tuyên án, tuyên ngôn…
Trong diễn ngôn báo chí, cả nhà báo và độc giả đều đã sử dụng nhiều hành
động ngôn từ để thực hiện sự tương tác và đạt được các đích tương tác của mình.
Tóm lại, vấn đề chủ đề, cấu trúc, thể loại và phương tiện ngôn ngữ đã chỉ ra
khi phân tích tương tác diễn ngôn báo chí cần chú ý tới chủ đề của diễn ngôn, cấu
trúc của diễn ngôn, các thể loại của diễn ngôn và các phương tiện ngôn ngữ. Chúng
chính là những yếu tố giúp nhận diện tương tác diễn ngôn báo chí.
Tiểu kết
1. Tính tương tác của diễn ngôn báo chí là một hướng đi đã được quan tâm
nghiên cứu. Các tác giả đã bước đầu chỉ ra tính tương tác là đặc điểm của báo chí
nói chung và đặc biệt nổi bật ở báo mạng điện tử. Phần lớn các công trình đã khảo
sát và phân tích chi tiết về các hình thức tương tác. Song các vấn đề về nội dung,
quan hệ, các nhân tố tương tác, đặc điểm hình thức, các yếu tố ngôn ngữ có tác
động lớn và chịu ảnh hưởng bởi tính tương tác… là những vấn đề đang cần sự
nghiên cứu chi tiết.
2. Hoạt động báo chí là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Các nhân tố
giao tiếp của diễn ngôn báo chí có mối quan hệ tác động qua lại làm nên tính tương
tác của diễn ngôn báo chí. Diễn ngôn báo chí là sản phẩm của quá trình giao tiếp
báo chí. Có nhiều loại hình báo chí, trong đó báo điện tử là loại hình có thế mạnh
hơn cả về tính tương tác.
Trong luận án, chúng tôi tiếp cận diễn ngôn theo đường hướng dụng học,
đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán. Đường hướng dụng học chú ý tới mối
quan hệ: hành động ngôn từ - ngữ cảnh - diễn ngôn. Đường hướng phân tích diễn
ngôn phê phán chú ý tới mối quan hệ: hệ tư tưởng - quyền lực - diễn ngôn.
Để nhận diện sự tương tác của diễn ngôn nói chung và diễn ngôn báo chí nói
riêng, cần thiết phải chú ý đến các yếu tố: hệ tư tưởng - quyền lực - ngữ cảnh - hành
50
động. Tiêu chí quan trọng để nhận diện tính tương tác của diễn ngôn là: nhân vật
giao tiếp (chủ thể phát - chủ thể nhận).
Xuất phát từ những cơ sở lí thuyết về giao tiếp và diễn ngôn, luận án nhận
định tính tương tác của diễn ngôn báo chí là sự tác động qua lại của các nhân vật,
chủ thể giao tiếp: các thể phát (tòa soạn, nhà báo) và các thể nhận (độc giả đọc báo).
Để nhận diện tính tương tác cần chỉ ra các mối quan hệ thể hiện sự tác động qua lại
của thể phát - thể nhận. Cụ thể là: mối quan hệ của thể phát với thể phát, thể phát
với thể nhận, thể nhận với thể phát và thể nhận với thể nhận. Bốn cặp quan hệ này
sẽ được phân tích cụ thể trong chương 2 (Tương tác của thể phát) và chương 3
(Tương tác của thể nhận).
3. Tương tác diễn ngôn báo chí được thể hiện ở nội dung (chủ đề) và hình
thức (cấu trúc, thể loại, các phương tiện ngôn ngữ) của diễn ngôn. Theo đó, luận án
chú ý đến yếu tố chủ đề của nội dung đồng thời không đi sâu vào các phương tiện
ngôn ngữ cụ thể như từ, câu... mà chú ý tới ngôn ngữ được tổ chức ở cấp độ cấu
trúc, thể loại, hành động ngôn từ. Đây chính là những tiền đề cơ sở để chúng tôi tiến
hành khảo sát, phân tích ở chương 2 và chương 3.
51
Chƣơng 2
TƢƠNG TÁC CỦA THỂ PHÁT TRONG DIỄN NGÔN BÁO ĐIỆN TỬ
Dẫn nhập
Chương này nghiên cứu sự tương tác giữa các nhà báo thông qua các diễn
ngôn của họ - các bài báo. Thể phát là người viết - nhà báo. Nhưng nhà báo ở đây
không phải là nhà báo cá nhân mà là đại diện cho các cơ quan, tổ chức truyền thông.
Vì thế, thể phát đích thực của các diễn ngôn báo chí là các cơ quan truyền thông,
các tòa soạn báo. Tương tác của thể phát là tương tác của các tòa soạn báo. Do đó,
khi bàn về tương tác của thể phát, chúng tôi quan niệm thể phát là các nhà báo đại
diện cho các tờ báo. Dưới đây, chúng tôi nhận diện tương tác của thể phát qua
tương tác với hai đối tượng: thể phát khác (tương tác giữa các thể phát) và thể nhận
(tương tác giữa thể phát với thể nhận).
Điều kiện để có tương tác chính là tính mở trong các chủ đề, nội dung tương
tác. Đó là một trong những nguyên tắc dân chủ trong đối thoại. Muốn vậy thì tương
tác rất cần sự công khai và minh bạch của thông tin. Theo đó, vai trò của thể phát là
rất quan trọng. Thể phát và thể nhận là hai chủ thể truyền thông trong đó thể phát là
nguồn khởi điểm của mọi sự tương tác. Nếu không có thể phát sẽ không có tương
tác. Thể phát chủ động trong việc đưa ra chủ đề, chủ động trong việc duy trì chủ đề
tương tác và tạo ra các phương tiện để tương tác.
Trong diễn ngôn báo chí, thể nhận và thể phát luân phiên thay đổi vị trí cho
nhau, tức là thể phát và thể nhận luôn ở trạng thái động. Có hai loại thể phát khác nhau:
(1) Thể phát1 là nhà báo (đại diện cho tòa soạn): đưa ra những thông tin
tương tác đầu tiên trong các bài báo.
(2) Thể phát2 là các độc giả: sau khi đóng vai trò là thể nhận1 (tiếp nhận thông tin của thể phát1) thì thay đổi vị trí trở thành thể phát2 để tương tác trở lại với thể phát1 (lúc này đóng vai trò là thể nhận2) thông qua các phản hồi. Cũng cần nói thêm rằng, độc giả ở đây có thể là những nhà báo khác (họ tạo ra các bài báo có
cùng chủ đề tiếp theo và trở thành những thể phát tiếp theo). Song đa số độc giả sẽ
tạo ra các phản hồi.
Hai thể phát nói trên thể hiện tính động của thể phát trong diễn ngôn. Trong
52
chương 2 này, chúng tôi chỉ đề cập tới những đặc điểm của thể phát1 còn thể phát2 sẽ được phân tích ở chương 3 khi nói tới những đặc điểm của thể nhận. Dưới đây, khi
nói đến thể phát tức là chỉ thể phát1.
Chủ đề là tiêu chí để tập hợp và khảo sát các bài báo trong luận án. Qua khảo
sát trên hai tờ báo mạng điện tử Dân trí và VietNamNet ở chuyên mục Giáo dục
năm 2015, chúng tôi lựa chọn được 185 bài báo. Chúng được phân loại theo nội
dung; mỗi bài báo được phân loại theo các kiểu tiêu đề, dẫn nhập (sapô), thể loại
(chi tiết xem phụ lục). Kết quả, chúng tôi phân loại 185 bài báo thành 7 chủ đề lớn
(7 tuyến bài lớn) với số lượng bài cụ thể như sau:
STT Chủ đề Tổng Lƣợng bài của Dân trí Lƣợng bài của VietNamNet
1 17 17 34 Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội
22 8 28 17 2 27 39 10 55
5 5 2 7
2 6 4 6
trường trên 19 7 15 34 2 ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS 3 Đà Nẵng kiện nhân tài Tích hợp môn Lịch sử 4 Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm Giảng viên nói xấu Facebook
101 84 Tổng 185
Bảng 2.1: Tổng hợp số lƣợng các bài báo đƣợc khảo sát
Tên các chủ đề (trong bảng trên) đƣợc lấy từ sự kiện bắt nguồn cho toàn bộ tuyến
bài. Đó cũng là sự kiện xuyên suốt trong tất cả các bài báo của tuyến bài đó.
2.1. Tƣơng tác giữa các thể phát trong diễn ngôn báo điện tử
Tương tác giữa các thể phát được thực hiện trên cơ sở chủ đề của các bài
báo. Các bài báo có liên quan với nhau về mặt chủ đề sẽ có sự tương tác với nhau.
Tương tác chủ đề là tương tác về mặt nội dung. Từ tương tác về mặt nội dung sẽ
dẫn đến tương tác về mặt hình thức là tương tác thể loại.
2.1.1. Tương tác chủ đề
Chủ đề là tiêu chí để nhận diện sự tương tác giữa các thể phát.
185 bài báo, với 7 chủ đề cụ thể trong bảng 2 trên, được thể hiện bằng biểu
đồ sau:
53
18.38% 18.38% Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội
ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS
Đà Nẵng kiện nhân tài 3.24%
3.78% Tích hợp môn Lịch sử
21.08% Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook
Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm
5.41%
29.73% Giảng viên nói xấu trường trên Facebook
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ các chủ đề
Nhìn vào biểu đồ có thể thấy 4 chủ đề có số lượng bài nhiều nhất đó là: Thạc
sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội (34 bài); ĐH Tôn Đức Thắng phong
GS, PGS (39 bài), Tích hợp môn Lịch sử (55 bài), Giảng viên nói xấu trường trên
Facebook (34 bài). Với số lượng bài nhiều, các chủ đề này đã khai thác được khá
triệt để các nội dung thông tin. Ba chủ đề có lượng bài ít đó là: Đà Nẵng kiện nhân
tài (10 bài), Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook (7 bài), Tranh cãi mở đầu
đoạn văn 0 điểm (6 bài). Những chủ đề này mới dừng lại ở việc nêu các vấn đề hoặc
chốt lại cách giải quyết vấn đề luôn, ít có những tranh cãi, bàn luận.
Cũng cần lưu ý rằng, không phải cứ hai bài báo cùng chủ đề là có sự tương
tác, rất có thể người viết độc lập với nhau và không có sự tương tác với nhau. Chính
vì thế, khi tiến hành thống kê các bài báo tương tác chủ đề, ngoài tiêu chí quan
trọng về nội dung là chủ đề (trong các bài báo có các từ khóa, cụm từ khóa được lặp
đi lặp lại); chúng tôi còn căn cứ vào hai tiêu chí hình thức, hiện trên giao diện mỗi
bài báo, đó là: (1) thời gian xuất bản của các bài báo và (2) các đường siêu liên kết.
Thời gian xuất bản của các bài báo cho biết bài nào xuất bản trước, bài nào xuất bản
sau (trong phần phục lục, các bài báo được liệt kê theo thứ tự thời gian xuất bản
54
trong từng báo). Những bài báo xuất bản sau có thể có sự tương tác chủ đề với các
bài báo xuất bản trước nó. Căn cứ hình thức thứ hai để tập hợp các bài báo tương
tác chủ đề là các đường siêu liên kết (link, superlink, hyperlink). Các bài báo được
định vị bằng các đường siêu liên kết có sự tương tác chủ đề theo ý đồ của nhà báo
và tòa soạn. Dựa vào các đường liên kết ở các bài báo mà chúng tôi tập hợp được
các bài báo có sự tương tác chủ đề. Ví dụ đường siêu liên kết chủ đề được đánh dấu
trong khung ở hai ví dụ dưới đây:
Ví dụ 1:
Ví dụ 2:
Hình 2.1: Đƣờng siêu liên kết chủ đề
55
Siêu liên kết là khả năng cho phép kết nối từ một trang web của tờ báo điện tử đến bất cứ một bài báo nào khác trên web đó và bất kì một trang web nào trên
mạng Internet. Với hệ thống siêu liên kết, mỗi bài báo được định vị bằng một địa
chỉ và kết nối với bài khác qua đường link. Các siêu liên kết tổ chức thông tin thành
từng lớp, tạo mối quan hệ giữa thông tin mới nhất với các thông tin tham chiếu, bổ sung trong cùng một chủ đề. Nhờ siêu liên kết, mỗi bài báo điện tử trở thành một hệ
thống mở, nó có thể liên kết với nhiều bài báo khác. Rõ ràng, về mặt hình thức, việc
sử dụng các đường siêu liên kết là một trong các hình thức để tạo dựng sự liên kết
chủ đề giữa các bài báo với nhau.
Theo khảo sát, diễn ngôn báo điện tử thực hiện việc liên kết và tương tác chủ đề theo ba kiểu: 1- tạo lập chủ đề (ở bài báo gốc), 2- duy trì chủ đề (giống của bài báo trước), 3- phát triển chủ đề (ngoài duy trì chủ đề còn mở rộng chủ đề khác với bài báo trước).
Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh sự tương tác về mặt chủ đề giữa các bài báo. Do
đó, vấn đề liên kết chủ đề cụ thể với những phép liên kết của ngôn ngữ sẽ không được
nhắc tới. Nghĩa là sẽ không có sự phân tích liên kết giữa từ với từ, câu với câu… mà
chủ yếu phân tích sự liên kết về mặt chủ đề của các văn bản với nhau. Cùng một chủ
đề bao nhiêu văn bản đề cập đến, đối tượng được nói đến như thế nào, chủ đề được
tạo lập, duy trì và phát triển như thế nào?
Cụ thể ở từng chủ đề, lượng bài ở các phương diện trên được thống kê như
sau: (chú thích: a- tạo lập chủ đề, b- duy trì chủ đề, c - duy trì và phát triển chủ đề):
STT Chủ đề Dân trí b VietNamNet c b a Tổng (Tỉ lệ %) C b a a c
1 1 5 11 23 12 4 1 2 9
2 1 2 19 34 15 1 1 2 3
1 1 4 4 3 23 4 40 1 17 0 9 1 1 2 2 4 13
5 1 3 1 2 1 0 1 2 3
6 1 0 1 4 3 0 1 2 0
7 1 12 6 7 7 1 2 13 19
Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS 3 Đà Nẵng kiện nhân tài 4 Tích hợp môn Lịch sử Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm Giảng viên nói xấu trường trên Facebook Tổng 7 7 64 30 56 21 14 (7,6%) 120 (64,9%) 51 (27,5%)
Bảng 2.2: Thống kê lƣợng bài tƣơng tác chủ đề
56
Nhìn vào bảng trên có thể thấy, sự duy trì chủ đề diễn ra nhiều nhất (64,9%) sau
đó đến sự duy trì và phát triển chủ đề (27,5%), còn sự tạo lập chủ đề là ít nhất (7,6%).
Điểm độc đáo cần nhấn mạnh qua sự tương tác chủ đề đó là sự thay đổi về
tiêu điểm thông tin (focus) giữa các bài báo ở cùng một chủ đề. Tuy các bài báo
đều hướng tới một đối tượng chung nhưng ở mỗi bài báo tiêu điểm thông tin lại
khác nhau. Sự thay đổi về tiêu điểm thông tin là điểm làm nên sự hấp dẫn, khác biệt
của các tin và cũng thể hiện quá trình khai thác thông tin của các nhà báo. Một ví dụ
cụ thể, báo chí những ngày đầu tháng 11/2016 đưa tin về vụ việc điều động giáo
viên nữ đi tiếp khách phục vụ các dịp lễ lớn ở Hà Tĩnh. Tuyến bài “Hà Tĩnh cử giáo
viên nữ đi tiếp khách” cho thấy sự thay đổi tiêu điểm thông tin qua các bài báo. Ban
đầu đưa tin “Lãnh đạo Hà Tĩnh cử giáo viên nữ đi tiếp khách”. Tiêu điểm của tin
này là lãnh đạo Hà Tĩnh (làm sai quy chế, nhân quyền - ứng xử với nhà giáo chưa
đúng). Sau đó tiêu điểm tin thay đổi qua các bài báo khác nhau: Bộ trưởng Giáo dục
nói gì về vụ việc này? (đối tượng của tin này là Bộ trưởng, cách ứng xử của Bộ
trưởng với tư cách là người đứng đầu...); hay chủ tịch Hà Tĩnh yêu cầu báo cáo vụ
việc (đối tượng tin là người đứng đầu địa phương xảy ra vụ việc). Ví dụ này cho
thấy sự tương tác chủ đề luôn đi kèm sự thay đổi về tiêu điểm thông tin.
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt phân tích ba kiểu tương tác chủ đề (tạo lập,
duy trì, phát triển chủ đề) đồng thời chỉ ra sự thay đổi về tiêu điểm thông tin trong
các bài báo.
2.1.1.1. Tạo lập chủ đề
Tạo lập chủ đề là hoạt động đầu tiên để tiến hành tương tác chủ đề. Đó là
việc các nhà báo tạo ra chủ đề ban đầu trong bài báo gốc. Do đặc thù của việc tạo
lập nên kiểu tương tác chủ đề này thường diễn ra ở các bài báo đầu tiên của các chủ
đề đã kể trên. Cụ thể:
1- Nhiều thạc sĩ, cử nhân xuất sắc, giỏi ở nƣớc ngoài trƣợt công chức Hà
Nội (DT, 23/04/2015, PL1)
30 thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc nƣớc ngoài trƣợt công chức (VNN, 23/04/2015, PL3)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội”.
57
2- Trƣờng ĐH tự phong GS, PGS cho giảng viên (DT, 15/09/2015, PL5)
Trƣờng ĐH phong giáo sƣ cho giảng viên (VNN, 14/09/2015, PL8)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS”.
3- “Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng (DT, 29/09/2015, PL10)
Đà Nẵng đòi “nhân tài” trả lại 10 tỷ đồng (VNN, 01/10/2015, PL11)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “Đà Nẵng kiện nhân tài”.
4- Góp ý chƣơng trình phổ thông mới: Môn Lịch sử sẽ… biến mất (DT,
10/08/2015, PL12)
Bộ Giáo dục giải thích tại sao Lịch sử là môn tự chọn (VNN, 21/10/2015, PL15)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “Tích hợp môn Lịch sử”.
5- Bị thôi học vì xúc phạm giáo viên trên Facebook: Phụ huynh khiếu nại
nhà trƣờng (DT 05/11/2015, PL18)
Nữ sinh bị thôi học 10 ngày vì xúc phạm giáo viên trên Facebook (VNN,
04/11/2015, PL18)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook”.
6- Tranh cãi mở đầu đoạn văn bị 0 điểm (DT, 18/11/2015, PL19)
Mở đoạn bài văn 0 điểm gây tranh cãi (VNN, 18/11/2015, PL19)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm”.
7- Nói xấu trƣờng trên Facebook, cựu quán quân Olympia bị kỷ luật? (DT,
01/12/2015, PL20)
“Nói xấu” trƣờng trên Facebook, cựu quán quân Olympia bị kỷ luật (VNN,
01/12/2015, PL21)
Hai bài báo này tạo lập chủ đề “Giảng viên nói xấu trường trên Facebook”.
Các bài báo trên đã tạo lập nên những từ khóa cơ bản mở đầu cho toàn bộ
tuyến bài (1-thạc sĩ, thủ khoa; 2-ĐH Tôn Đức Thắng; 3-nhân tài; 4-môn Lịch sử; 5-
học sinh và Facebook; 6-đoạn văn 0 điểm; 7-giảng viên và Facebook). Ở các bài
báo tạo lập chủ đề, thông tin đưa ra là những thông tin lần đầu xuất hiện trên báo
đó. Những thông tin này thường ngắn gọn, mang tính chất thông báo khách quan (1-
trượt công chức, 2-kiện nhân tài, 3-phong GS và PGS, 4-tích hợp môn Lịch sử, 5-
58
học sinh nói xấu giáo viên, 6-tranh cãi đoạn văn, 7-kỷ luật giảng viên nói xấu
trường). Sự tạo lập chủ đề trong các bài báo gốc là tiền đề cho sự duy trì và phát
triển chủ đề ở các bài báo sau.
2.1.1.2. Duy trì chủ đề
Duy trì chủ đề là việc nhắc lại cùng một sự vật, một sự việc nào đó trong các
bài báo (sự vật, sự việc này đã được đề cập tới trong bài báo đầu tiên có nhiệm vụ
tạo lập chủ đề khởi đầu cho toàn tuyến bài). Việc cùng nói về một sự vật, sự việc
nào đó khiến cho các bài báo có mối quan hệ tương tác về mặt chủ đề với nhau. Vì
thế trong các bài báo này, các từ khóa và cụm từ khóa thường được lặp đi lặp lại.
Ví dụ ở chủ đề 6-“Tranh cãi đoạn văn mở đầu 0 điểm”, sau hai bài báo đầu
tiên tạo lập chủ đề, bốn bài báo còn lại đều xoay quanh một đoạn văn mở đầu bị
chấm 0 điểm của một học sinh:
(1) Giáo viên lên tiếng về đoạn văn mở 0 điểm gây xôn xao (DT 19/11/2015, PL19)
(2) Giáo viên mổ xẻ mở đoạn bài văn 0 điểm (VNN 19/11/2015, PL19)
(3) Độc giả chấm điểm bài văn điểm 0 (VNN 19/11/2015, PL19)
(4) Trò chuyện với phụ huynh chia sẻ về đoạn văn 0 điểm (VNN 20/11/2015, PL19)
Các bài báo trên, từ tiêu đề đến nội dung đều nhắc đến một đối tượng đó là
“đoạn văn 0 điểm”. Xoay quanh đối tượng này, các bài báo khai thác các nội dung:
giáo viên phân tích, độc giả bình luận, phụ huynh học sinh chia sẻ. Tiêu điểm thông
tin của tuyến bài này đã thay đổi theo quy trình như sau: đoạn văn - giáo viên - độc
giả - phụ huynh. Để tạo sự liên kết, các bài báo đều nhắc lại thông tin về đoạn văn 0
điểm để làm cái cớ cho việc trình bày thông tin tiếp theo, ví dụ:
(1) “Sau khi Dân trí đăng tải thông tin về đoạn văn mở bị chấm 0 điểm,
nhiều giáo viên Văn đã chia sẻ về cách chấm này”. (Giáo viên lên tiếng về đoạn
văn mở 0 điểm gây xôn xao DT 19/11/2015, PL19)
(2) “Trao đổi với VietNamNet, chị Vũ Hoàng Huệ, ngƣời chia sẻ hình ảnh
mở đoạn bài văn 0 điểm của con nhấn mạnh: Một số bạn nếu chƣa rõ về câu
chuyện xin đừng kết tội cho cô. Ở đây chỉ đơn giản là chúng ta cùng trao đổi về một
vấn đề và tìm ra một cách dạy con sao cho vừa phù hợp… (Trò chuyện với phụ
huynh chia sẻ về đoạn văn 0 điểm VNN 20/11/2015, PL19)
59
Trong hai ví dụ trên, các cụm “đoạn văn mở bị chấm 0 điểm” và “mở đoạn
bài văn 0 điểm” chính là những cụm từ khóa mà sự xuất hiện của nó đã cung cấp
cho người đọc những thông tin cơ bản về chủ đề đang được nói đến. Bằng những
cụm từ khóa này, nhà báo thực hiện việc duy trì chủ đề trong bài báo của mình.
Ở chủ đề 1-“Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội”, 23/34 bài
báo cùng duy trì chủ đề trên. Trong đó, các bài báo đã khai thác quan điểm của những
người trong cuộc: chia sẻ của các thạc sĩ, thủ khoa tham gia kì thi; sở Nội vụ trả lời
những phản hồi hoặc phỏng vấn các thạc sĩ, thủ khoa ngoài cuộc để có cái nhìn nhiều
chiều. Tiêu điểm truyền tin của tuyến bài này là: thạc sĩ, thủ khoa trong cuộc - sở Nội
vụ - thạc sĩ, thủ khoa ngoài cuộc…. Sự thay đổi về tiêu điểm thông tin nhưng vẫn
xoay quanh một chủ đề chính tạo thông tin đa chiều cho độc giả tiếp nhận.
Cũng với phương thức như vậy, ở chủ đề 4-“Tích hợp môn Lịch sử” có một
sự kiện nổi bật là: trong dự thảo chương trình phổ thông mới môn Lịch sử sẽ được
tích hợp. Sự kiện này đã thu hút các nhà báo và kết quả 40/54 bài báo trực tiếp bàn
luận với những quan điểm trái chiều của các nhà Sử học, bộ Giáo dục… Sự khác
biệt của 40 bài báo này chính là ở mỗi bài báo có một tiêu điểm, một đối tượng khai
thác thông tin trực tiếp khác nhau.
Hay ở chủ đề 2-“ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS”, 34/39 bài báo được
khảo sát đều duy trì chủ đề. Ngoài, 2 bài báo tạo lập chủ đề, 3 bài báo duy trì và
triển khai chủ đề thì các bài báo còn lại đều xoay quanh vấn đề về trường ĐH Tôn
Đức Thắng phong GS, PGS: các bình luận, đánh giá của các GS, PGS, TS; đại diện
nhà trường lên tiếng; Bộ Giáo dục trả lời; trường phản hồi thông tin… Số lượng bài
báo nhiều, với các cách thức khai thác thông tin từ các đối tượng khác nhau đã cung
cấp một lượng thông tin đa dạng, nhiều chiều xung quanh chủ đề này.
(3) Ví dụ cụ thể hơn, ở chủ đề 5-“Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook”
có 2 bài báo duy trì chủ đề là:
(1) Đuổi học vì nói xấu GV trên Facebook: Nhà trƣờng là nơi giáo dục chứ
không phải là nơi kết tội học sinh! (DT 07/11/2015, PL18)
(4) Nữ sinh bị thôi học vì kể chuyện cô giáo trên Facebook xin chuyển
trƣờng (VNN 09/11/2015, PL18)
60
Cụm từ khóa của các bài báo trên là “nói xấu, xúc phạm giáo viên trên
Facebook”. Xoay quanh từ khóa này, các bài báo đưa thông tin việc một học sinh bị
thôi học vì nói xấu giáo viên trên Facebook với những chia sẻ của phụ huynh học
sinh, phỏng vấn sở Giáo dục và tin về học sinh xin chuyển trường. Có thể thấy, tiêu
điểm truyền tin của tuyến bài này là: phụ huynh - sở Giáo dục. Vụ việc của học sinh
là sợi dây liên hệ giữa các tiêu điểm này và nó gắn kết các bài báo với nhau. Bài báo
sau nhắc lại vụ việc, thông tin của bài báo trước:
(4) “Liên quan đến vụ việc nữ sinh Q. - Trường THPT Lê Lợi (quận Hà
Đông, Hà Nội) bị buộc thôi học 10 ngày vì lý do em xúc phạm cô giáo trên
Facebook, ngày 9/11 gia đình đã làm đơn xin chuyển trƣờng cho con gái.
Trƣớc đó, sự việc nữ sinh tên Q. bị nhà trường buộc thôi học 10 ngày với lý
do xúc phạm giáo viên trên Facebook. Bức xúc trƣớc việc làm này, bà Hà Phƣơng, phụ
huynh của nữ sinh Q. cho biết bà đã có phản hồi lãnh đạo Trƣờng THPT Lê Lợi vì đuổi
học con bà một cách tùy tiện, thiếu căn cứ, không đúng quy trình.” (Nữ sinh bị thôi học
vì kể chuyện cô giáo trên Facebook xin chuyển trƣờng VNN 09/11/2015, PL18)
Những thông tin của bài báo trên đưa ra có sự nhắc lại thông tin trong bài
báo đã đưa trước đó: Nữ sinh bị thôi học 10 ngày vì xúc phạm giáo viên trên
Facebook (VNN 04/11/2015, PL18)
Như vậy, để duy trì chủ đề giữa các bài báo, nhà báo thường nhắc lại sự việc
hoặc các từ, cụm từ khóa mà các bài báo trước đã đề cập tới. Sự duy trì chủ đề tạo
nên mối quan hệ trực tiếp về mặt chủ đề giữa các bài báo. Sự tương tác ở đây là sự
tương tác trực tiếp, các bài báo có sự tác động và tương tác lẫn nhau thông qua các
chủ đề chính - các đối tượng được nói đến.
2.1.1.3. Duy trì và phát triển chủ đề
Một cách đơn giản có thể hiểu, duy trì và phát triển chủ đề là cùng với chủ đề
đã cho (duy trì chủ đề), đưa thêm vào một hoặc những chủ đề (vật, việc) khác nữa
có liên quan với chủ đề ban đầu (phát triển chủ đề). Sự phát triển này theo tiêu
chuẩn cần và đủ của logic để bảo đảm cho các bài báo chứa chúng có mối liên hệ về
chủ đề với nhau.
Thông thường, đan xen với các bài báo có sự duy trì chủ đề (chủ đề A), nhà
61
báo phát triển vấn đề và tạo ra các bài báo khác có sự phát triển chủ đề rộng và sâu
hơn (chủ đề B). Trong đó, A và B có sự liên hệ về mặt logic. Có thể khái quát theo
mô hình sau:
Duy trì chủ đề Phát triển chủ đề
A B
Mô hình 2.1: Mô hình duy trì và phát triển chủ đề
Ví dụ, ở chủ đề (5) Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook, chủ đề được
phát triển tiếp theo là “Hạn chế học sinh dùng Facebook”. Cụ thể, có 3 bài báo phát
triển chủ đề:
(5) Việc một học sinh lớp 12 ở Trƣờng THPT Lê Lợi, Hà Đông, Hà Nội vừa
bị đình chỉ học 10 ngày vì nói xấu giáo viên trên Facebook. Nhiều ngƣời đặt câu
hỏi, liệu có nên cấm học sinh sử dụng Facebook? (Có nên cấm học sinh sử dụng
Facebook? DT, 04/11/2015, PL18). Trong bài báo, tác giả đưa ra các dẫn chứng về
quy định “cấm kỵ” học sinh khi sử dụng mạng xã hội của các trường như: Trường
THPT Nguyễn Đức Cảnh (Thái Bình), Trường PTDL Lương Thế Vinh (Hà Nội)…
Từ đó, bàn luận về vấn đề: có nên cấm học sinh sử dụng Facebook hay không?
(6) Thời gian qua, nhiều vụ học sinh chửi bới nhau, thậm chí chửi cả bố mẹ,
ngƣời thân trên Facebook. Mới đây nhất, một nữ sinh Trƣờng THPT Lê Lợi (Hà
Đông, Hà Nội) đã bị đình chỉ học 10 ngày vì nói xấu giáo viên trên Facebook.
Đấy là lý do vì sao, một số trường đã đưa những điều cấm kỵ với học sinh
khi sử dụng mạng xã hội. (Hạn chế học sinh sử dụng Facebook để ngăn ngừa
“loạn ngôn” DT, 05/11/2015, PL18). Từ vụ việc nguyên cớ ban đầu, bài báo tiếp
tục chủ đề với những chia sẻ của lãnh đạo một số trường về vấn đề học sinh và
Facebook. PGS Văn Như Cương (Chủ tịch Hội đồng Quản trị Trường THPT dân
lập Lương Thế Vinh, Hà Nội), thầy Vũ Trọng Lâm (Hiệu trưởng Trường THPT
Nguyễn Đức Cảnh) đã đưa ra các ý kiến bàn luận để phát triển chủ đề trong bài báo.
(7) “Em nghĩ chỉ nên hạn chế thôi chứ không cấm. Sở dĩ em đồng tình với
quan điểm này bởi em có khá nhiều bạn chỉ chúi đầu vào Facebook, gần nhƣ không
giao tiếp với các bạn trong lớp. Các bạn ấy dƣờng nhƣ không “tồn tại” trong lớp
mà chỉ làm bạn với Facebook…” Đó là chia sẻ của học sinh khi nói về việc sử dụng
Facebook hiện nay của học sinh. (Nhiều học sinh dƣờng nhƣ không “tồn tại” trong
62
lớp vì Facebook DT, 08/11/2015, PL18). Bài báo đưa ra nhiều chia sẻ của các học
sinh: nhiều bạn chỉ chúi đầu vào Facebook, Facebook điều khiển nhiều người như
rô-bốt, nên cấm học sinh sử dụng Facebook nhưng cũng không nên quá gò ép…
Đây là những bình luận cụ thể để tiếp tục cho chủ đề đang được triển khai: Hạn chế
học sinh dùng Facebook.
Như vậy, ở một chủ đề mới (được phát triển từ chủ đề cũ), nhà báo lại tiếp
tục thực hiện một sự duy trì chủ đề (cả 3 bài báo dẫn chứng trên đều cùng nói về
vấn đề hạn chế học sinh dùng Facebook). Vì thế, 3 bài báo này không những có mối
liên hệ với các bài báo cũ (ở chủ đề cũ) mà tự thân còn liên hệ mật thiết với nhau (ở
chủ đề mới). Giữa các bài báo này đồng thời có cả sự duy trì và sự phát triển chủ đề.
Từ khảo sát thực tế, chúng tôi rút ra các mô hình duy trì và phát triển chủ đề
ở các chủ đề cụ thể như sau (riêng chủ đề (6) không có sự phát triển chủ đề):
Thi công chức (1) Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc
trượt công chức Hà Nội
Tầm của GS, PGS (2) ĐH Tôn Đức Thắng
phong GS, PGS
Nhân tài và trách nhiệm (3) Đà Nẵng kiện nhân tài
Dạy và học Lịch sử (4) Tích hợp môn Lịch sử
Hạn chế học sinh dùng (5) Học sinh nói xấu
Facebook giáo viên trên Facebook
(7) (Giảng viên nói xấu Du học sinh về nước hay ở lại Dùng người tài
trường trên Facebook)
Mô hình 2.2: Mô hình duy trì và phát triển chủ đề ở các chủ đề
Trong mô hình 2.1.1.3b trên, chủ đề (7) là chủ đề có sự phát triển chủ đề
phức tạp nhất.
(7) (Giảng viên nói xấu Du học sinh về nước hay ở lại Dùng người tài
trường trên Facebook)
Mô hình trên cho thấy có hai chủ đề mới được phát triển từ chủ đề cũ:
1- Từ vụ việc giảng viên TS Doãn Minh Đăng nói xấu trường trên Facebook
- chủ đề mới: du học sinh nên về nước hay ở lại nước ngoài làm việc?
63
2- Từ chủ đề: Du học sinh nên về nước hay ở lại? - chủ đề mới: dùng người tài.
Ở chủ đề mới đầu tiên, một lượng lớn các bài báo đã tập trung phát triển chủ
đề này: Du học sinh: Đi đi, đừng về (VNN 04/12/2015, PL22); Tại sao nhân tài
ngại trở về? (VNN 07/12/2015, PL22); “Về nƣớc, có tiếc không?” (DT 09/12/2015
PL20); Doanh nhân Việt đƣợc Forbes lƣu danh bàn chuyện “du học sinh đi đi,
đừng về” (DT 10/12/2015, PL20); Du học trời Tây: Ai nên về, ai nên ở lại (VNN
10/12/2015, PL22); GS Đào Trọng Thi: “Chúng ta nên mừng nếu du học sinh ở lại
mà thành công”! (DT 13/12/2015, PL21); GS. TS Dƣơng Nguyên Vũ: “Mong các
em hãy về” (DT 15/12/2015, PL21)….
Doãn Minh Đăng - nhân vật chính trong sự kiện này là một du học sinh. Anh
đã lựa chọn trở về nước để làm việc. Trong quá trình làm việc có nhiều mâu thuẫn
xảy ra. Ngay lập tức đằng sau những “lùm xùm” đó có một vấn đề được đặt ra: nên
về hay nên ở sau khi đi du học ở nước ngoài? Chủ đề này được phát triển bắt nguồn
từ thực tế các thí sinh đoạt vòng nguyệt quế Olympia sau khi đi du học phần lớn lựa
chọn ở lại nước ngoài thay vì về nước. Doãn Minh Đăng cũng là một thí sinh đoạt
vòng nguyệt quế tuần trong cuộc thi Olympia và là một du học sinh. Mối liên hệ
logic của các vấn đề trên cho phép tác giả phát triển chủ đề mới với rất nhiều bình
luận, quan điểm của những người trong và ngoài cuộc: du học sinh, GS.TS Đào
Trọng Thi, GS.TS Dương Nguyên Vũ… Chủ đề mới này chiếm một lượng bài lớn
với thông tin đa dạng khiến các vấn đề đưa ra khá hấp dẫn và nhận được rất nhiều
phản hồi của độc giả.
Từ chủ đề du học sinh nên về hay ở lại, ở chủ đề mới thứ hai, các bài báo đã
tập trung phát triển chủ đề “dùng người tài”: Các nƣớc lớn trên thế giới thu hút và
trọng dụng nhân tài nhƣ thế nào? (DT 09/12/2015 PL20); Môi trƣờng trọng nhân
tài (DT 15/12/2015 PL21); Chiêu hiền đãi sĩ: Ngƣu tầm ngƣu, mã tầm mã (VNN
17/12/2015 PL22). Có thể nói, chủ đề mới được triển khai này là một sự nâng tầm
mới đến gốc rễ của vấn đề:
(8) “Đừng quá coi trọng ngƣời đi học nƣớc ngoài và cũng không cần quá
quan tâm họ có trở về hay không. Bởi vì, ngƣời đi du học ở các nƣớc nhiều, nhƣng
64
ngƣời giỏi không nhiều, mà ngƣời càng giỏi thì càng không phù hợp với điều kiện
làm việc ở VN hiện nay. Xin lấy gƣơng của ba ngƣời giỏi là Vũ Hà Văn, Đàm
Thanh Sơn, Ngô Bảo Châu ra để chứng minh.
Ngƣời giỏi không ai chịu nhận lƣơng ba đồng ba cọc để kiếm ăn bằng cách
mờ ám và ngồi chờ “chuyến tàu vét” của buổi hoàng hôn cuối nhiệm kỳ.
Nhân tài chỉ tồn tại trong môi trường trọng nhân tài.” (Môi trƣờng trọng
nhân tài DT 15/12/2015, PL21)
(9) Muốn có nhân tài thì những người hoạch định chính sách phải là
nhân tài, chỉ có nhân tài mới hiểu và biết đƣợc nhân tài cần gì, ngƣợc lại ngƣời tài
nếu rơi vào tay kẻ tiểu nhân bất tài thì sẽ là thảm họa. […]
Đừng bao giờ nhân danh lòng yêu nƣớc để “buộc tội” nhân tài ra đi là không
yêu nƣớc, bởi xƣa nay lòng yêu nƣớc sẽ tự khắc bùng cháy khi Tổ quốc lâm nguy.
Ngƣời xƣa có câu “ngƣu tầm ngƣu, mã tầm mã” quả thật đúng trong chiêu
hiền đãi sĩ, thu hút và giữ chân ngƣời tài rất dễ mà cũng rất khó. (Chiêu hiền đãi sĩ:
Ngƣu tầm ngƣu, mã tầm mã VNN 17/12/2015, PL22)
Những dẫn chứng trên cho thấy sự phát triển chủ đề đã mang đến cho các bài
báo một tầm triết lý sâu sắc. Các vấn đề được nhìn nhận từ gốc rễ và được lý giải
trong thực tiễn đồng thời đưa ra các kết luận thuyết phục. Sự phát triển chủ đề ở
những bài báo vì thế luôn thu hút được lượng lớn sự tương tác của độc giả. Rõ ràng,
các chủ đề mới đã giúp các bài báo nâng lên một tầm mới về mặt chủ đề, về quá
trình khai thác thông tin. Vì thế, bên cạnh các bài báo duy trì chủ đề, các bài báo
phát triển chủ đề tạo được một sự liên hệ mới rất thú vị và hấp dẫn bạn đọc.
Tóm lại, tương tác giữa các thể phát được thực hiện trên cơ sở chủ đề của
các bài báo. Các bài báo có cùng chủ đề thì có sự tương tác với nhau. Ba kiểu tương
tác chủ đề là: tạo lập chủ đề, duy trì chủ đề, duy trì và phát triển chủ đề. Tương tác
chủ đề (nội dung) sẽ dẫn tới tương tác thể loại (hình thức).
2.1.2. Tương tác thể loại
Tương tác thể loại thể hiện sự thay đổi về hình thức của diễn ngôn dưới sự
tác động của các mối quan hệ tương tác. Trong quá trình khai thác thông tin, tương
65
ứng với thông tin cần biểu đạt, nhà báo sẽ lựa chọn các thể loại thích hợp. Sự tương
tác về chủ đề nội dung thông tin dẫn đến sự tương tác về hình thức thể loại.
2.1.2.1. Phân loại các thể loại
185 bài báo theo khảo sát, chủ yếu thuộc nhóm thể loại báo chí thông tấn
(tin, phỏng vấn, tường thuật) và nhóm thể loại báo chí chính luận (bình luận).
- Tin: thể loại báo chí cơ bản, ngắn gọn nhất, cô đúc nhất, nhanh chóng nhất,
kịp thời nhất phản ánh những sự kiện.
- Tường thuật (phản ánh): thể loại phản ánh những sự kiện quan trọng, đặc
sắc có ý nghĩa thời sự được nhiều người quan tâm đón đọc; thông tin tường tận theo
diễn biến sự kiện, đảm bảo đúng trật tự như sự kiện diễn ra.
- Phỏng vấn: thể loại trình bày cuộc nói chuyện giữa nhà báo với một hoặc
một nhóm người về vấn đề mà xã hội quan tâm. Cuộc nói chuyện này là một cuộc
hỏi - đáp bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Bình luận: thể loại phân tích, đánh giá một vấn đề. Bình luận chủ yếu vận
dụng trí tuệ và tư duy logic để phân tích, đánh giá.
Thống kê ở 185 bài báo thu được kết quả cụ thể về 4 thể loại báo chí trên
như sau:
Thể loại
STT Chủ đề Tin Tường thuật Phỏng vấn Bình luận
1 10 9 9 6
2 3 4 10 3 17 14 0 10 4 3 14
5 1 3 1 2
6 1 0 1 4
7 5 6 10 13 Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS 11 4 Đà Nẵng kiện nhân tài 14 Tích hợp môn Lịch sử Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm Giảng viên nói xấu trường trên Facebook
46 45 46 Tổng
48 Bảng 2.3: Phân loại các thể loại
66
Bảng phân loại trên cho thấy số lượng bài ở các thể loại là ngang nhau, bốn
thể loại (tin, tường thuật, phỏng vấn, bình luận) được sử dụng với tần số gần như
nhau. Mỗi thể loại đều có một thế mạnh và khả năng tương tác riêng. Sử dụng đan
xen, hài hòa các thể loại đã phát huy được toàn bộ thế mạnh của từng thể loại.
2.1.2.2. Mô hình tƣơng tác các thể loại
Khi khảo sát ở tất cả các bài báo của từng chủ đề, chúng tôi nhận thấy có một
mô hình tương tác thể loại phổ biến như sau:
Mở đầu Khai thác thông tin Kết thúc
Tin Tường thuật, phỏng vấn, bình luận Tin
Mô hình 2.3: Mô hình tƣơng tác thể loại
Cụ thể, các mô hình tương tác thể loại ở các chủ đề như sau:
(1)
Nhiều thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc nước ngoài trượt công chức Tin
Các ý kiến đánh giá: các thạc sĩ thủ khoa (trong cuộc, ngoài cuộc) Phỏng vấn Phỏng vấn Tường thuật
Bộ Nội vụ lên tiếng Tường thuật
Bình luận về thi công chức Bình luận
Bộ Nội vụ phản hồi Tin
(2)
ĐH Tôn Đức Thắng tự phong GS, PGS Tin
Các ý kiến đánh giá: các GS, PGS, TS Phỏng vấn Phỏng vấn Tường thuật
ĐH Tôn Đức Thắng lên tiếng Tường thuật
Bình luận về danh và tầm của GS Bình luận
Bộ Giáo dục trả lời, ĐH Tôn Đức Thắng thay đổi chức danh GS Tin
(3)
Đà Nẵng kiện nhân tài Tin
Nhiều nhân tài thua kiện Tường thuật
Nhân tài và trách nhiệm Bình luận
Thêm nhân tài thua kiện Tin
67
(4)
Dự thảo tích hợp môn Lịch sử Tin
Phỏng vấn Tường thuật Các ý kiến đánh giá: các GS sử học, giáo viên, học sinh Phỏng vấn
Bộ GD lên tiếng Tường thuật
Bình luận về dạy và học Lịch sử Bình luận
Không tích hợp môn Lịch sử Tin
(5)
Nữ sinh bị thôi học vì nói xấu giáo viên trên Facebook Tin
Phỏng vấn Tường thuật Ý kiến đánh giá: đại diện sở Giáo dục Phỏng vấn
Phụ huynh khiếu nại vụ việc Tường thuật
Có nên cấm học sinh sử dụng Facebook Bình luận
Nữ sinh xin chuyển trường Tin
(6)
Đoạn văn có mở đầu 0 điểm Tin
Ý kiến đánh giá của các giáo viên, độc giả Bình luận
Phụ huynh lên tiếng giải thích vụ việc Phỏng vấn
(7)
Giảng viên nói xấu trường bị kỷ luật Tin
Các ý kiến đánh giá: giảng viên, nhà trường, các du học sinh, GS Phỏng vấn Phỏng vấn Tường thuật
Toàn bộ vụ việc tranh cãi giữa giảng viên và nhà trường Tường thuật
Bình luận về chuyện du học sinh về hay ở, dùng người tài Bình luận
Rút quyết định kỷ luật, giảng viên xin lỗi và chuyển công tác Tin
Mô hình 2.4: Mô hình tƣơng tác thể loại cụ thể ở các chủ đề
Hầu hết các chủ đề đều bắt đầu bằng thể loại tin và kết thúc cũng bằng thể
loại tin. (Trừ chủ đề (6) Tranh cãi về đoạn văn có mở đầu 0 điểm, mở đầu là thể loại
tin, kết thúc bằng phỏng vấn - phụ huynh học sinh có đoạn văn mở đầu 0 điểm lên
tiếng giải thích, khép lại sự việc). Thể loại tin với những đặc điểm nổi bật nhanh,
ngắn gọn đã đóng vai trò mở và đóng lại toàn bộ thông tin.
Quá trình triển khai thông tin của các chủ đề nổi bật bằng nhiều bài phỏng vấn
tường thuật và bình luận. Chúng có thế mạnh trong việc thông tin tường tận diễn
68
biến sự kiện đồng thời đưa ra nhiều ý kiến khách quan và chủ quan, đánh giá nhiều
chiều xung quanh sự kiện. Những thể loại này khiến thông tin có độ đậm. Các bài
bình luận là những bài báo có điểm nhấn đặc biệt. Thể loại này đã phát huy thế
mạnh khiến thông tin có độ sâu, hấp dẫn người đọc.
Như vậy, các chủ đề thường mở đầu bằng thể loại tin (tin ngắn để thông báo
sự việc). Các bài phỏng vấn tiến hành khai thác thông tin nhiều chiều khác nhau
được tiến hành. Sau đó là các bản tin đầy đủ bằng thể loại tường thuật. Và các bài
bình luận đan xen để thể hiện những quan điểm, đánh giá riêng. Đó là quá trình
triển khai thông tin để đi đến kết thúc bằng thể loại tin (giải quyết vấn đề). Sự
chuyển linh hoạt từ thể loại này sang thể loại khác cho thấy các bước để tìm hiểu
thông tin. Đó cũng là nghệ thuật khai thác thông tin của các nhà báo.
Tóm lại, tương tác thể loại là sự tương tác về mặt hình thức giữa các diễn
ngôn báo. Tương ứng với sự tương tác về nội dung sẽ kéo theo sự tương tác về hình
thức. Bốn thể loại (tin, tường thuật, phỏng vấn, bình luận) theo khảo sát được sử
dụng với tần số gần như nhau. Giữa các bài báo trong cùng một chủ đề cũng luôn có
một mô hình tương tác thể loại phổ biến (tin - tường thuật, phỏng vấn, bình luận -
tin). Việc sử dụng đan xen và linh hoạt nhiều thể loại cho thấy cùng với sự thay đổi
về nội dung trong từng bài báo, các nhà báo luôn phải tìm một hình thức (thể loại)
phù hợp đi kèm.
2.2. Tƣơng tác giữa thể phát và thể nhận trong diễn ngôn báo điện tử
2.2.1. Quyền lực tương tác của thể phát
Trong báo chí, nhà báo thể hiện quyền lực của mình trong việc tạo lập các diễn
ngôn báo chí. Hơn nữa, những diễn ngôn này không những có tác động tới độc giả
mà còn tác động tới xã hội thông qua dư luận. Sự vào cuộc của nhà báo, tiếng nói của
dư luận sẽ kéo theo sự lên tiếng của những người trong cuộc và các cơ quan chức
năng có liên quan. Như vụ thi công chức Hà Nội, từ thông tin ban đầu về việc các
Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc, giỏi ở nước ngoài trượt công chức ở Hà Nội; sở Nội vụ Hà
Nội đã phải lên tiếng (Sở Nội vụ Hà Nội: Sẵn sàng kiểm tra lại bài thi nếu ứng viên
làm đơn, Vụ sát hạch công chức Hà Nội: Bộ Nội vụ sẽ vào cuộc, “Lệch” con số sát
69
hạch công chức: Sở Nội vụ Hà Nội phản hồi, Sở Nội vụ sẵn sàng đối thoại với ngƣời
trƣợt công chức, Sở Nội vụ phản hồi những con số lạ trong sát hạch công chức).
Theo dõi thông tin ở các chủ điểm, chúng tôi nhận thấy các vụ việc đều được
giải quyết theo hướng tác động của nhà báo.
Vụ trường Đại học Tôn Đức Thắng tự phong GS, PGS khiến Tổng Liên đoàn
lao động, Bộ GD-ĐT lên tiếng: Vụ tự phong GS, PGS: Tổng LĐLĐ yêu cầu Trƣờng
ĐH Tôn Đức Thắng báo cáo; Bộ Giáo dục chính thức trả lời việc trƣờng ĐH Tôn
Đức Thắng tự bổ nhiệm giáo sƣ, Bộ Giáo dục: “Không thể tồn tại 2 hệ thống giáo
sƣ”. Kết quả, trường ĐH Tôn Đức Thắng đã phải có những thay đổi: Trƣờng Tôn
Đức Thắng điều chỉnh tên gọi giáo sƣ của trƣờng, ĐH Tôn Đức Thắng thay đổi
chức danh giáo sƣ của trƣờng.
Vụ tích hợp môn Lịch sử, Bộ GD- ĐT đã lên tiếng khá nhiều để phản hồi
xung quanh những ý kiến trái chiều: Lo ngại “khai tử” môn Lịch sử: Bộ Giáo dục
lên tiếng, Bộ Giáo dục “bác” thông tin khai tử môn Lịch sử, Bộ trƣởng Giáo dục
giải trình việc “hô biến” môn Lịch sử, Bộ GD-ĐT giải thích các vấn đề “nóng” về
môn Lịch sử, Bộ Giáo dục nhận thiếu sót đã gây hiểu nhầm “khai tử” môn Lịch sử,
Bộ trưởng giải trình về tích hợp môn Lịch sử
Kết quả là việc tích hợp môn Lịch sử sẽ không thực hiện: Quốc hội “lệnh”
giữ môn lịch sử trong sách giáo khoa mới, Quốc hội yêu cầu giữ môn Lịch sử trong
chƣơng trình phổ thông, Không tích hợp Lịch sử vào môn Công dân với Tổ quốc ở
bậc THPT.
Vụ việc Doãn Minh Đăng bị nhà trường kỷ luật vì nói xấu nhà trường, hiệu
trưởng đã phải lên tiếng: Vụ giảng viên nói xấu trƣờng: Hiệu trƣởng lên tiếng. Kết
quả là nhà trường rút quyết định kỷ luật: Tiến sĩ Doãn Minh Đăng công khai xin lỗi
nhà trƣờng, Tiến sĩ Doãn Minh Đăng sẽ đƣợc chuyển công tác, Sẽ rút quyết định kỉ
luật giảng viên Doãn Minh Đăng.
Để có những tác động này, quyền lực của báo chí thực hiện thông qua sự
tương tác với thể nhận là các độc giả trực tiếp đọc báo. Nhà báo là người được
quyền nói về tất cả những vấn đề trong xã hội. Các bài báo của họ luôn có một sự
70
tác động nhất định đối với độc giả. Đầu tiên là sự tác động về mặt thông tin (tiếp
nhận thông tin trong bài báo); sau đó là sự tác động về mặt nhận thức, tình cảm (làm
thay đổi ý kiến, quan điểm của độc giả) và cuối cùng có thể là tác động về mặt hành
vi, hành động (có những thay đổi về hành động). Nó tạo ra, trước hết, một hiệu quả
tác động tức thời (gây xôn xao dư luận, thay đổi quan điểm tư duy, quan niệm của
người đọc về một vấn đề gì đó). Từ hiệu quả (benefit), cao hơn nữa là dẫn đến các
hiệu lực (power) - liên quan trực tiếp đến các hành vi xã hội khác (có những thay
đổi về hành động). Ví dụ, trở lại với tuyến bài “Hà Tĩnh cử giáo viên nữ đi tiếp
khách” vào những ngày đầu tháng 11 (đã được đề cập đến trong mục 2.1.1. Tương
tác chủ đề). Những bài báo đầu tiên của tuyến bài này đã làm xôn xao dư luận với
rất nhiều luồng thông tin khác nhau; đặt ra trong xã hội những vấn đề về bình đẳng
giới với phụ nữ và các giáo viên nữ... (thông tin có tính hiệu quả). Nhưng không chỉ
dừng lại ở đó, đã có rất nhiều hành động được kéo theo từ hiệu quả đó (tính hiệu
lực): Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo gửi công văn hỏa tốc tới Hà Tĩnh, UBND
Hà Tĩnh chỉ đạo nóng: yêu cầu kiểm tra, báo cáo, giải trình về vụ việc… Tất cả
những hành động này chứng tỏ quyền lực của thông tin mà loạt bài trên đưa ra. Rõ
ràng, nhà báo nói không phải chỉ để là nói mà nói là liên quan tới hành vi xã hội, nói
là để tác động và làm thay đổi tư duy và hành động của người đọc.
Chính vì thế, xu hướng chung của các bài báo là sẽ tạo ra hiệu lực về hành
động (thay đổi nhận thức, tình cảm và hành động). Để làm được điều này, nhà báo
đã sử dụng nhiều yếu tố để tạo ra hiệu quả tương tác với các độc giả.
2.2.2. Các yếu tố thể hiện sự tương tác giữa thể phát và thể nhận
2.2.2.1. Cấu trúc diễn ngôn báo chí
Khảo sát cho thấy, tiêu đề và sapô là hai thành phần trong cấu trúc diễn ngôn
báo dễ nhận diện sự tương tác, thể hiện được sự tương tác đầu tiên và nổi bật trong
một bài báo.
a. Tiêu đề
a1. Phân loại tiêu đề
Có nhiều căn cứ để phân loại tiêu đề. Chúng tôi sử dụng các phân loại xuất
phát từ phương diện ý nghĩa - chức năng của tác giả Hoàng Anh [1]. Theo đó, có 7
71
kiểu tiêu đề: tiêu đề xác nhận có nhiệm vụ xác nhận sự tồn tại của các sự kiện, hiện
tượng, hoàn cảnh nào đó trong thực tế khách quan; tiêu đề câu hỏi vừa gợi ý phán
đoán của độc giả về một vấn đề bức xúc vừa hứa hẹn một câu trả lời thích đáng ở
dưới; tiêu đề kêu gọi để lôi kéo độc giả hướng về một suy nghĩ, một hành động…
cần thiết nào đó dưới cách nhìn nhận vấn đề của người viết; tiêu đề trích dẫn đem
dến cho người đọc độ tin cậy về nguồn tin được cung cấp; tiêu đề giật gân kích
thích trí tò mò của độc giả; tiêu đề gợi cảm có tính sinh động và hấp dẫn nhờ những
cách diễn đạt, lối nói mới lạ, độc đáo, hình ảnh. Tiêu chí để nhận diện các kiểu tiêu
đề này chỉ mang tính chất tương đối, bởi thực tế sẽ có những tiêu đề có thể xếp vào
nhiều kiểu tiêu đề (từ 2 kiểu tiêu đề trở lên). Ở đây, chúng tôi phân loại dựa vào
kiểu tiêu đề nổi bật, dễ nhận diện hơn.
Với các bài báo đã khảo sát, chúng tôi cũng nhận diện được 7 kiểu tiêu đề:
STT Kiểu tiêu đề Ví dụ
Nhiều thạc sĩ, cử nhân xuất sắc, giỏi ở nƣớc ngoài 1 Tiêu đề xác nhận trƣợt công chức Hà Nội (DT 23/04/2015, PL1)
2 Tiêu đề câu hỏi Tại sao nhân tài ngại trở về? (VNN 07/12/2015, PL22)
3 Tiêu đề kêu gọi Du học sinh: Đi đi, đừng về (DT 05/12/2015, PL20)
“Không thể giới thiệu một ông bí thƣ tỉnh uỷ là giáo 4 Tiêu đề trích dẫn sƣ” (VNN 23/09/2015, PL9)
Cuộc hội thảo “kỳ lạ” về môn Lịch sử (DT 5 Tiêu đề bình luận 16/11/2015, PL13)
Giáo viên mổ xẻ mở đoạn bài văn điểm 0 (VNN 6 Tiêu đề giật gân 19/11/2015, PL19)
Bảng 2.4: Các kiểu tiêu đề
Vụ “Đà Nẵng khởi kiện nhân tài”: Ký “hợp đồng trái tim”, 7 Tiêu đề gợi cảm xử bằng “hợp đồng luật pháp” (DT 02/10/2015, PL10)
72
Cụ thể, các kiểu tiêu đề này xuất hiện với số lượng như sau: Kiểu tiêu đề Chủ đề STT
Xác Câu Kêu Trích Bình Giật Gợi
nhận hỏi gọi dẫn luận gân cảm
1 15 4 6 5 0 4 0 Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội
1 2 17 2 0 1 0 ĐH Tôn Đức Thắng 18 phong GS, PGS
0 3 6 Đà Nẵng kiện nhân tài 0 0 0 4 0
5 4 17 Tích hợp môn Lịch sử 14 14 3 2 0
1 5 3 1 2 0 0 0 Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook
0 6 5 0 0 0 0 1 Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm
7 1 3 0 10 9 11 0 Giảng viên nói xấu trường trên Facebook
4 1 74 20 49 23 14 Tổng
Bảng 2.5: Tần số xuất hiện của các kiểu tiêu đề
Từ bảng trên có thể biểu thị tỉ lệ xuất hiện của các kiểu tiêu đề bằng biểu đồ sau:
7.57%
Xác nhận 12.43%
Câu hỏi 40.00% 0.54% Kêu gọi
Trích dẫn
Giật gân
26.49%
Bình luận
10.81%
Gợi cảm
2.16%
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xuất hiện của các kiểu tiêu đề
73
a2. Một số kiểu tiêu đề nổi bật
Nhìn vào biểu đồ có thể thấy, trong các bài báo khảo sát, kiểu tiêu đề xác
nhận xuất hiện nhiều nhất (40%). Kiểu tiêu đề này thường là một thông tin trọn vẹn
và khá cụ thể:
(10) 30 thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc nƣớc ngoài trƣợt công chức (VNN
23/04/2015, PL3)
(11) Trƣờng ĐH Tôn Đức Thắng giải thích về việc tự phong giáo sƣ, phó
giáo sƣ (DT 15/09/2015, PL5)
(12) Đà Nẵng đòi “nhân tài” trả lại 10 tỷ đồng (VNN 01/10/2015, PL11)
(13) Không tích hợp Lịch sử vào môn Công dân với Tổ quốc ở bậc THPT
(DT 08/12/2015, PL14)
(14) Nữ sinh bị thôi học vì kể chuyện cô giáo trên Facebook xin chuyển
trƣờng (VNN 09/11/2015, PL18)
(15) Trò chuyện với phụ huynh chia sẻ về đoạn văn 0 điểm (VNN
20/11/2015, PL19)
(16) Tiến sĩ Doãn Minh Đăng công khai xin lỗi nhà trƣờng (DT 24/12/2015, PL21)
Rõ ràng, trong các kiểu tiêu đề này, thông tin là yếu tố quan trọng nổi bật và
chiếm gần như toàn bộ. Tiêu đề càng bao quát được nhiều thông tin thì càng khắc
phục được sự thiếu đồng hiện thông tin của báo mạng. Bởi tiêu đề trên báo điện tử
thường xuất hiện không gắn liền ngữ cảnh. Trên báo in những yếu tố thể hiện thông
tin của một bài viết được đồng hiện cùng lúc trên trang báo. Tuy nhiên, ở báo điện
tử những yếu tố thể hiện thông tin bài viết (ảnh, tiêu đề, sapô, chính văn …) không
thể cùng một lúc xuất hiện trên trang báo do hạn chế về giao diện màn hình máy vi
tính. Thông tin mà độc giả báo điện tử thấy được khi truy cập vào một tờ báo nào đó
là những thông tin nóng, sơ lược nhất mà tờ báo cung cấp chủ yếu bằng các tiêu đề
ở trang chủ. Bằng cách này, tiêu đề đã đảm bảo có gì “đáng đọc” để công chúng có
thể lựa chọn ngay khi xem lướt trang chủ của tờ báo hoặc giúp “độc giả lựa chọn”
nghĩa là khi độc giả đọc tiêu đề rồi sau đó có thể quay lại đọc hoặc truy cập vào nội
dung của bài.
74
Hơn nữa, ở kiểu tiêu đề này, “tác giả chỉ nêu sự kiện với một thái độ điềm
đạm khách quan, nhƣờng mọi sự bàn luận, đánh giá cho độc giả” [1; 63]. Điều này
đã kích thích sự bàn luận, đánh giá thông tin của độc giả; thôi thúc độc giả đọc
thông tin để phản hồi, tương tác lại với thông tin.
Bên cạnh tiêu đề xác nhận, kiểu tiêu đề trích dẫn cũng được sử dụng khá
nhiều (26,63%). Kiểu tiêu đề này thường là các lời trích dẫn trực tiếp của các nhân
vật trong các bài phỏng vấn. Chủ thể của những lời nói được trích dẫn thường là các
nhân vật nổi tiếng, các chuyên gia của lĩnh vực đang bàn đến, những người trong
cuộc hoặc có liên quan đến vấn đề, sự kiện. Ý kiến, quan điểm của họ được nhiều
người quan tâm nên các tiêu đề loại này tạo cảm giác nguồn tin của tác giả là hoàn
toàn chính xác, đáng tin cây.
(17) Các nhà sử học kiến nghị: Lịch sử phải là môn học bắt buộc (DT
04/11/2015, PL12)
(18) GS Phan Huy Lê: Sẽ kiến nghị lãnh đạo cấp cao để “bảo vệ môn Sử”
(DT 16/11/2015, PL13)
(19) Cựu thí sinh Olympia: “Tôi không cần chức tƣớc, chỉ muốn làm khoa
học!” (DT 04/12/2015, PL20)
(20) GS Đào Trọng Thi: “Chúng ta nên mừng nếu du học sinh ở lại mà
thành công”! (DT 13/12/2015, PL21)
(21) GS. TS Dƣơng Nguyên Vũ: “Mong các em hãy về” (DT 15/12/2015, PL21)
(22) Thầy giáo Olympia: Cơ chế và nhân tài đang rất lệch pha (VNN
04/12/2015, PL22)
Trong nhiều trường hợp, chủ thể của lời nói được trích dẫn không xuất hiện
ở tiêu đề. Bằng cách này, tác giả bài viết đã kích thích một cách khá hiệu quả trí tò
mò của độc giả, khiến họ phải đọc tiếp ngay xem đối tượng nói là ai.
(23) “Không thể giới thiệu một ông bí thƣ tỉnh uỷ là giáo sƣ” (VNN
23/09/2015, PL9)
(24) “Học sinh ít học môn Sử khi đồng tiền lên ngôi” (VNN 09/11/2015 PL15)
(25) “Chúng em không muốn lúc nào cũng hân hoan với chiến thắng”
(Học sinh mong Lịch sử đƣợc viết và dạy theo nhiều chiều) (VNN
10/11/2015, PL15-16)
75
Trên trang VietNamNet ngày 10/11/2015 có bài viết với tiêu đề trích
dẫn“Chúng em không muốn lúc nào cũng hân hoan với chiến thắng”. Đây là lời
chia sẻ của một em học sinh khi được hỏi cảm nghĩ khi học môn Lịch sử. Từ tiêu đề
này có thể ngầm suy ra về sự phiến diện khi dạy học hiện nay. Sau đó, VietNamNet
đã đổi tiêu đề trích dẫn này thành tiêu đề xác nhận “Học sinh mong Lịch sử đƣợc
viết và dạy theo nhiều chiều”. Về dụng ý, hai tiêu đề trên hoàn toàn đồng nhất
hướng tới mong muốn của học sinh được học Lịch sử một cách toàn diện hơn. Song
với tiêu đề trích dẫn ban đầu, tính hiệu quả tác động và khả năng tương tác với
người đọc sẽ cao hơn.
Khi sử dụng kiểu tiêu đề trích dẫn, tác giả bài viết luôn cố gắng tìm những ý
hay nhất, nổi bật nhất trong tất cả những lời nói đã thu được để “giật tít” lại một
cách hấp dẫn nhất. Có nhiều cách để “giật tít” như việc chỉ lấy một vế câu trích dẫn:
(26) Tiêu đề: Hiệu trƣởng ĐH Tôn Đức Thắng: GS và PGS không phải là
hai chữ độc quyền! (DT 27/09/2015, PL6)
Bài viết: Một việc nữa gây tranh cãi, đó là chúng tôi vẫn dùng từ GS và
PGS. Họ cho rằng đất nƣớc song hành hai loại GS, PGS. Đây là tranh cãi không có
cơ sở. Từ GS và PGS không phải là hai chữ độc quyền mà HĐCDGSNN đã giữ
rồi thì các cơ sở khác không đƣợc dùng tới.
(27) Tiêu đề: Sẽ xảy ra hiện tƣợng “lách” luật nếu để trƣờng ĐH tự
phong giáo sƣ (DT 21/09/2015 PL5)
Bài viết: Học theo cách làm quốc tế nhƣng xin nhớ rằng cũng phải theo các
chuẩn mực khoa học quốc tế, nếu không, sẽ gây “loạn”, sẽ xảy ra hiện tượng
"lách" luật.
Hoặc tác giả chỉ lấy một ý có tính vấn đề để làm tiêu đề (trong hai ý trọn vẹn):
(28) Tiêu đề: “Trƣờng hạng bét cũng có thể công nhận giáo sƣ” (VNN
15/09/2015, PL8)
Bài viết: Một trường đại học hạng top hoặc một trường hạng bét cũng có
thể tự xác định GS, PGS cho trường mình. Khi các trƣờng đại học tự xác định
chức danh GS, PGS cho các cá nhân của trƣờng, cần lƣu ý để tránh những hậu quả
tiêu cực…
76
Trong lời trả lời phỏng vấn có nêu hai ý: trường hạng top cũng có thể tự xác
định GS, PGS cho trường mình và trường hạng bét có thể tự xác định GS, PGS cho
trường mình. Tác giả chọn ý thứ hai để tạo được sự mâu thuẫn, sự lựa chọn này rõ
ràng có tính vấn đề hơn.
Thậm chí, tác giả có thể chỉ chọn một từ để trích dẫn lại và tổ chức lại ngôn
từ theo ý của mình:
(29) Tiêu đề: GS, PGS không là chữ ai cũng “đeo” đƣợc lên ngƣời (VNN
22/09/2015, PL 8)
Bài viết: Vấn đề ở chỗ, dù hệ thống có thay đổi nhƣ thế nào cũng phải minh
bạch hóa các tiêu chuẩn, quy trình. Phải chốt lại GS, PGS là chức danh di dạy,
không dành để “trao”, “phong”, “tôn vinh” nhƣ các danh hiệu Nhà giáo nhân dân
hay Nhà giáo ƣu tú. Là chức danh gắn với việc làm cụ thể, nên phải tránh để những
ngƣời không gắn với công tác dạy học hay nghiên cứu khoa học ở các trƣờng đại
học, viện nghiên cứu “đeo” những chữ đó.
Nhiều trường hợp, tác giả diễn đạt lại lời trích dẫn ngắn gọn, có điểm trúng hơn:
(30) Tiêu đề: “Sẽ chẳng ai thiệt thòi nếu có nhiều giáo sƣ” (VNN
25/09/2015, PL9)
Bài viết: “Tôi không nghĩ sẽ có người cảm thấy thiệt thòi vì sẽ có quá
nhiều ngƣời đƣợc gọi là giáo sƣ. Cũng nhƣ các cầu thủ Barcelona chắc không cảm
thấy quá thiệt thòi khi biết rằng các cầu thủ Vientiane cũng đá bóng”.
Ở ví dụ trên, các tổ hợp“Sẽ chẳng ai thiệt thòi” và “Tôi không nghĩ sẽ có
ngƣời cảm thấy thiệt thòi” có ý nghĩa tương đồng, song tiêu đề của tác giả rõ ràng
ngắn gọn và rõ ràng hơn.
Có trường hợp về mặt hình thức từ ngữ thì tác giả chỉ thay đổi vị trí các từ
song nội dung đã thay đổi đi ít nhiều:
(31) Tiêu đề: Hội Lịch sử muốn viết sách giáo khoa nhƣng “cửa khóa”
(VNN 30/11/2015, PL16-17)
Bài viết: “Việc viết SGK là vô cùng quan trọng, chúng tôi nhiều lần kiến
nghị nhƣng chƣa bao giờ Bộ GD-ĐT thực hiện theo. Thầy cô có muốn dạy cái mới
77
cũng không đƣợc vì nhiều nơi SGK đƣợc coi nhƣ là pháp lệnh, thầy cô nói cái bên
ngoài có thể bị kỉ luật. Hội muốn tham gia nhƣng “vào nhà mà không có khóa cửa
thì sao vào đƣợc” - GS Ngọc chia sẻ.
“Cửa khóa” - không thể vào được và “không có khóa cửa” - không có đường
để vào. Hai cụm này có sự khác nhau về nội dung song ở đây cùng thể hiện sự
“không vào được”.
Tóm lại, tiêu đề với vị trí đầu tiên của văn bản chính là thành phần đầu tiên
thể hiện được thông tin và sự tác động của văn bản với người đọc. Ở tiêu đề báo chí,
cụ thể là báo điện tử, nhà báo luôn có xu hướng tìm tòi các cách diễn đạt để đảm
bảo tiêu chí “thu hút sự chú ý vào trang giấy, cung cấp thông tin chính trong một
cái liếc mắt, giúp độc giả lựa chọn bài, khiến độc giả muốn đọc, tổ chức trang, sắp
xếp thông tin” (Fabiene Gérault thuộc Đại học báo chí Lelli, Pháp) [dt 23; 27].
Nghĩa là tiêu đề khiến độc giả muốn đọc bài viết và có đọc bài viết thì mới có thể
phản hồi, tương tác được.
b. Sapô
b1. Phân loại sapô
Căn cứ vào ý nghĩa, mục đích, tác giả Hoàng Anh [1] đã chia sapô thành 9
kiểu cơ bản sau:
(1) Sapô gọi tên: gọi tên vấn đề, sự việc hay hiện tượng sẽ được trình bày
trong bài viết, kèm theo nó thường là lời bình luận ngắn gọn của tác giả.
(2) Sapô tóm tắt: những thông tin cốt lõi nhất liên quan tới nội dung của tác
phẩm, từ đó có cái nhìn khái quát về vấn đề hay sự kiện được phản ánh.
(3) Sapô nêu sự việc dẫn đường (nguyên cớ): nêu sự việc thúc đẩy tác giả
viết nên bài báo.
(4) Sapô chân dung: phác thảo những nét chân dung nào đó của nhân vật
chính trong tác phẩm.
(5) Sapô tả cảnh (ảnh): những hình ảnh miêu tả tạo bức tranh đủ âm thanh,
màu sắc, ánh sáng.
78
(6) Sapô nêu luận cứ: đưa ra các con số hay dữ kiện ấn tượng có khả năng
thu hút sự chú ý của người đọc. Chúng thường nằm trong mối quan hệ nhân quả với
vấn đề hoặc sự kiện được phản ánh.
(7) Sapô kể chuyện: nghe tác giả kể về một câu chuyện nào đó.
(8) Sapô nêu cảm xúc và suy tư riêng của tác giả: trình bày dấu ấn “cái tôi”
tác giả.
(9) Sapô tiếp nối tiêu đề: được viết tiếp theo tiêu đề và phụ thuộc vào nó cả
về mặt hình thức lẫn nội dung.
Trong các bài báo đã khảo sát, chúng tôi nhận diện các kiểu sapô trên với kết
quả như sau:
Kí hiệu:
a - Gọi tên f - Nêu luận cứ
b - Tóm tắt g - Kể chuyện
c - Nguyên cớ h - Nêu cảm xúc và những suy tư riêng của tác giả
d - Chân dung i - Tiếp nối tiêu đề
e - Tả cảnh
Kiểu sapô STT Chủ đề a b c d e f g h i
Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công 1 19 5 0 0 7 0 2 0 1 chức Hà Nội
2 ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS 20 8 0 0 0 0 3 7 1
3 Đà Nẵng kiện nhân tài 2 2 0 0 0 0 1 5 0
Tích hợp môn Lịch sử 14 24 6 0 0 1 0 10 0 4
Học sinh nói xấu giáo viên trên 2 2 1 0 0 1 0 0 1 5 Facebook
Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm 3 1 2 0 0 0 0 0 6 0
7 Giảng viên nói xấu trường trên Facebook 8 18 7 0 0 1 0 0 0
Bảng 2.6: Tần số xuất hiện của các kiểu sapô
40 86 31 0 0 10 0 16 2 Tổng
79
Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xuất hiện của các kiểu sapô:
8.65% 1.08% Gọi tên 21.62% 5.41%
Tóm tắt
Nguyên cớ
16.76%
Nêu luận cứ
Nêu cảm xúc và những suy tư riêng của tác giả
Tiếp nối tiêu đề
46.49%
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ xuất hiện của các kiểu sapô
b2. Một số kiểu sapô nổi bật
Nhìn vào biểu đồ trên có thể thấy kiểu sapô tóm tắt xuất hiện nhiều nhất
(46,49%), sau đó là kiểu sapô gọi tên (21,62%), kiểu sapô nguyên cớ (16,76%). Các
kiểu sapô chân dung, tả cảnh, kể chuyện không xuất hiện trong phạm vi khảo sát;
xuất hiện ít nhất là kiểu sapô tiếp nối tiêu đề với 2 lần (1,08 %). Kiểu sapô này có
nhiệm vụ làm rõ hơn thông tin chứa trong tiêu đề:
(32) Tiêu đề: Bộ Giáo dục: “Không thể tồn tại 2 hệ thống giáo sƣ” (VNN
22/09/2015 PL9)
Sapô: Phó Cục trƣởng Cục Nhà giáo (Bộ GD-ĐT) Nguyễn Hải Thập cho
biết như vậy trong cuộc trao đổi với VietNamNet xung quanh việc xét, công nhận
bổ nhiệm chức danh GS, PGS của Trƣờng ĐH Tôn Đức Thắng đang gây tranh cãi.
(33) Tiêu đề: Đuổi học vì nói xấu GV trên Facebook: Nhà trƣờng là nơi
giáo dục chứ không phải là nơi kết tội học sinh! (DT 07/11/2015, PL18)
Sapô: Đó là ý kiến của Phó Giám đốc Sở GD-ĐT Hà Nội Chử Xuân Dũng
80
sau khi làm việc với trƣờng THPT Lê Lợi chiều ngày 6/11 về vụ việc “Nữ sinh bị
đuổi học 10 ngày vì nói xấu giáo viên trên Facebook” gây xôn xao dƣ luận.
Về sơ bộ, có thể thấy kiểu sapô tóm tắt với những thông tin cốt lõi nhất của
bài báo đã đáp ứng được nhu cầu cần nắm bắt thông tin nhanh nhưng lại đầy đủ của
độc giả.
(34) Tiêu đề: Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trải lòng thi trƣợt công chức
(VNN 24/04/2015 PL3)
Sapô: Các thủ khoa đều chia sẻ họ nhận đƣợc kinh nghiệm sau kỳ kiểm tra,
sát hạch vừa qua của Hà Nội. Tuy nhiên, cũng có ý kiến ngƣợc cho rằng, cách
tuyển dụng làm ... trƣợt mất ngƣời tài?
Nội dung đoạn sapô này đã tóm tắt đầy đủ những nội dung chính của bài viết.
Chỉ cần đọc sapô, người đọc có thể nắm được các thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc thi trượt
công chức đã chia sẻ: rút ra các kinh nghiệm khi đi thi, phê phán cách thi tuyển.
Ở những bài viết tổng hợp các sự kiện đã xảy ra, sapô tóm tắt đã nêu được
tên gọi của các sự kiện nổi bật:
(35) Tiêu đề: Những vụ thi công chức, viên chức “tai tiếng” (DT
25/04/2015, PL1)
Sapô: Gian lận thi công chức ở cấp Bộ, trúng tuyển cấp huyện đổi thành cấp
tỉnh, hàng trăm giáo viên bỗng nhiên mất việc ... là những lùm xùm liên quan đến
thi tuyển công chức, viên chức trong thời gian vừa qua.
Tuy không cung cấp đầy đủ thông tin bằng kiểu sapô tóm tắt song sapô gọi
tên cũng được sử dụng nhiều bởi thế mạnh chỉ thẳng ra sự việc, hiện tượng trong bài
báo sẽ đề cập đến.
(36) Tiêu đề: Đà Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện kháng cáo (DT 09/11/2015, PL10)
Sapô: Tòa án nhân dân TP. Đà Nẵng đã nhận đƣợc 7 đơn kháng cáo của
các “nhân tài” sau khi bị Đà Nẵng khởi kiện và thua kiện vì vi phạm hợp đồng khi
tham gia Đề án Nguồn nhân lực chất lƣợng cao (Đề án 922) của thành phố.
Tiếp sau tiêu đề, đọc các sapô gọi tên người đọc đã sơ lược nắm bắt được
thông tin:
81
(37) Tiêu đề: Nói xấu trƣờng trên Facebook, cựu quán quân Olympia bị
kỷ luật? (DT 01/12/2015, PL20)
Sapô: Ông Doãn Minh Đăng, giảng viên trƣờng Đại học Kỹ thuật Công nghệ
Cần Thơ, từng là ngƣời mang vòng nguyệt quế cuộc thi Đƣờng lên đỉnh Olympya về
Cần Thơ cách đây 10 năm, sẽ bị xử lý vì “nói xấu” nhà trƣờng trên Facebook.
Còn kiểu sapô nguyên cớ lại cung cấp nguồn dẫn đến các thông tin trong bài:
(38) Tiêu đề: Tranh cãi mở đầu đoạn văn bị 0 điểm? (DT 18/11/2015, PL19)
Sapô: Một bài văn kiểm tra giữa kì có đoạn mở đầu bị 0 điểm vừa đƣợc đƣa
lên mạng khiến nhiều ngƣời tranh cãi.
(39) Tiêu đề: Giáo viên lên tiếng về đoạn văn mở 0 điểm gây xôn xao (DT
19/11/2015, PL19)
Sapô: Sau khi Dân trí đăng tải thông tin về đoạn văn mở bị chấm 0 điểm,
nhiều giáo viên Văn đã chia sẻ về cách chấm này.
Do đặc thù chú trọng thông tin nên ở báo chí nói chung và báo mạng điện tử
nói riêng, kiểu sapô nêu cảm xúc và suy tư riêng của tác giả xuất hiện không nhiều.
Đây là những yếu tố đan xen cùng với thông tin, còn đứng độc lập thì không được
sử dụng nhiều.
(40) Tiêu đề: Thi công chức: Thủ khoa, thạc sĩ “xịn” trƣợt còn dài dài
(VNN 28/04/2015 PL3)
Sapô: Sau khi kiểm tra đề cƣơng ôn tập và ngân hàng đề thi các năm trên
mạng, tôi rất buồn khi nhận thấy tƣ duy thi cử vẫn không có gì thay đổi so với thời
của tôi từ 20 năm trƣớc.
(41) Tiêu đề: “Con tôi đã đƣợc học Lịch sử ở Úc nhƣ thế này” (VNN
05/12/2015, PL17)
Sapô: Việc học lịch sử của con trai tôi trong một trƣờng tiểu học ở Úc chẳng
có gì to tát. Các cháu học về lịch sử bản thân và gia đình mình. Sách giáo khoa
cũng không có.
Tóm lại, đa số các kiểu sapô trên đều chú trọng đến tính thông tin, đây cũng
là chức năng của báo chí, đặc biệt ở báo mạng điện tử tính thông tin còn được đẩy
82
lên ở mức độ cao hơn: thông tin ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ. Nó tạo điều kiện để
người đọc nắm bắt thông tin nhanh và tương tác lại nhanh..
c. Sự tổ chức nội dung thông tin
Nội dung thông tin là phần quan trọng nhất của bài báo. Nó được tổ chức,
sắp xếp qua các cấu trúc nổi bật là cấu trúc hình chữ nhật, cấu trúc hình kim tự tháp
xuôi, cấu trúc hình tháp ngược.
Theo khảo sát thì cấu trúc được sử dụng nhiều nhất là kiểu hình kim tự tháp
ngược. Nhà báo tổ chức thông tin theo cách đưa các yếu tố quan trọng nhất và có ý
nghĩa nhất lên đầu. Sau đó là các chi tiết ít quan trọng và ít ý nghĩa hơn.
Ví dụ
(42) Trƣờng ĐH Tôn Đức Thắng công bố tiêu chuẩn phong giáo sƣ, phó
giáo sƣ (DT 14/10/2015, PL7)
Cấu trúc bài báo với các thông tin sau:
- Chi tiết quan trọng nhất: Trường ĐH Tôn Đức Thắng đã công bố hướng
dẫn bổ nhiệm GS, PGS của trường gạt qua những tranh cãi, phản ứng, góp ý về việc
làm của trường.
- Chi tiết ít quan trọng hơn: Lãnh đạo nhà trường cho biết mục tiêu của
những hướng dẫn này: hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, hồ sơ đề nghị xét và bổ
nhiệm chức vụ chuyên môn của trường.
- Thông tin không quan trọng: thông tin về tiêu chuẩn cho ngạch giảng dạy,
tiêu chuẩn cho ngạch nghiên cứu.
Ở báo điện tử, sự cạnh tranh rất khắc nghiệt. Để độc giả đọc đến nội dung bài
báo, cần phải đem vào đó cái tốt nhất (hoặc cuốn hút nhất) ngay lúc bắt đầu. Những
chi tiết khác sẽ được phát triển về sau. Vì thế, nhà báo đã luôn tuân thủ nguyên tắc
vàng khi viết báo để sản phẩm của mình thu hút được người đọc, có tính cạnh tranh
và tương tác cao. Có thể tóm lược nguyên tắc vàng ấy bằng hình sau:
83
Hình 2.2: Quy tắc vàng trong viết báo
Ngoài ra, các cấu trúc kim tự tháp xuôi và hình chữ nhật cũng xuất hiện.
Ví dụ: cấu trúc hình chữ nhật
(43) Giáo viên lên tiếng về đoạn văn mở 0 điểm gây xôn xao (DT
18/11/2015, PL 19)
Trong bài báo này, tác giả trình bày chia sẻ của nhiều giáo viên Văn về cách
chấm đoạn văn mở bị chấm 0 điểm mà trước đó báo đã đưa tin. Trong đó, các ý
kiến của các cô giáo được lần lượt đưa ra, ngang hàng nhau và được tập hợp thành
hai luận điểm song song với nhau là: Giáo viên cần chỉ lỗi cho học sinh, Theo văn
mẫu cũng nên cho điểm. Các chi tiết của bài báo được sắp xếp ngang hàng nhau.
Mỗi chi tiết mang một lượng thông tin mới. Không chi tiết nào nổi trội hoặc ngược
lại không có giá trị thông tin.
Ví dụ: cấu trúc kim tự tháp xuôi
(44) Tiến sĩ trƣợt vẫn phục, VN mới có “cú nhảy then chốt” (VNN
11/05/2015, PL4)
- Mở đầu ấn tượng: nêu sự việc nhiều thạc sĩ tốt nghiệp nước ngoài trượt kỳ
thi công chức với lời bình “có gì lạ đâu!”
Có gì lạ đâu!
Khi đƣợc hỏi quan điểm về sự kiện nhiều thạc sĩ tốt nghiệp nƣớc ngoài trƣợt
kỳ thi tuyển công chức của TP. Hà Nội vừa qua, một ngƣời bạn của tôi, từng lấy bằng
Thạc sĩ của một ĐH danh tiếng tại Hoa Kỳ thổ lộ: “Có gì lạ đâu! Họ trƣợt là đúng!”
84
- Mức độ quan trọng dần: nêu các ý kiến giải thích cho lời nhận xét trên, rồi
phân tích các những nguyên nhân khiến cho nguồn “nguyên khí” được đào tạo
ngoài nước này chưa đóng góp được nhiều và hợp lý cho sự phát triển của đất nước.
- Chi tiết quan trọng nhất: lời bình luận rút ra từ toàn bộ vấn đề.
Đến khi nào hàng trăm thạc sĩ, tiến sĩ (thay vì 30 ngƣời) đƣợc đào tạo cả
trong nƣớc lẫn ngoài nƣớc đều không buồn khi thi công chức trƣợt vì thấy rằng
những ngƣời đƣợc chọn xứng đáng hơn cả về trình độ lẫn sự phù hợp, thì Việt Nam
đã sẵn sàng cho một cú nhảy then chốt.
Bài báo bắt đầu bằng thông tin lôi cuốn người nghe, sau đó cung cấp dần dần
chi tiết phát triển đề tài của tin. Đây là phương pháp tăng dần lượng thông tin đối
với người nghe.
Tóm lại, tiêu đề, sapô là những phần dễ nhận diện tính tương tác của văn bản
báo chí. Tác giả khi tạo lập văn bản đã chú ý đến những thành phần cấu trúc này để
tạo tính có vấn đề, tính tương tác đầu tiên tới người đọc. Đây gần như là những
thành phần bề nổi, những thứ dễ “đập” vào mắt người đọc để tác động đến họ. Còn
bề sâu của văn bản, phần nội dung bài báo với các cách cấu trúc thông tin khác nhau
chính là phần quyết định tính chất, mức độ nông sâu của sự tương tác.
2.2.2.2. Hành động ngôn từ
Như đã trình bày ở chương 1, các yếu tố quan trọng khi phân tích diễn ngôn
là tư tưởng - quyền lực - ngữ cảnh - hành động. Diễn ngôn tương tác, tác động tới
người đọc là nhờ quyền lực của nó. Hơn nữa, diễn ngôn như một hành động; quyền
lực của diễn ngôn được thực thi thông qua các hành động ngôn từ. Bằng diễn ngôn
chứa hành động ngôn từ, người nói tác động tới người khác và làm thay đổi họ. Do
đó, dưới đây, chúng tôi xuất phát từ hành động ngôn từ trong các diễn ngôn với các
ngữ cảnh báo chí cụ thể để chỉ ra quyền lực và tư tưởng của các diễn ngôn đó.
Quyền lực ấy tạo ra sự tương tác trong diễn ngôn báo chí.
Khảo sát số lượng cụ thể ở 185 bài báo như sau: (do số lượng HĐNT ở các
bài báo rất nhiều nên dưới đây trong bảng thống kê, chúng tôi chỉ đưa ra số liệu
thống kê dựa trên PTTT nổi bật của bài báo đó)
85
Dân trí VietNamNet Tổng
PTTT PTTT PTTT PTTT STT Chủ đề PTTT PTTT gián trực gián trực trực tiếp gián tiếp tiếp tiếp tiếp tiếp
Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc 3 14 1 28 14 3 6 trượt công chức Hà Nội
ĐH Tôn Đức Thắng 2 2 36 16 1 3 20 phong GS, PGS
3 5 3 Đà Nẵng kiện nhân tài 7 2 0 3
1 27 Tích hợp môn Lịch sử 4 53 26 1 2
Học sinh nói xấu giáo 0 5 5 7 2 0 0 viên trên Facebook
Tranh cãi mở đầu đoạn 0 2 6 6 4 0 0 văn 0 điểm
Giảng viên nói xấu 3 16 7 28 12 3 6 trường trên Facebook
165 20 8 Tổng 89 12 76 (89,19%) (10,81%)
Bảng 2.7: Phân loại các PTTT dựa vào HĐNT
Nhìn vào bảng trên có thể thấy, PTTT trực tiếp được sử dụng chiếm đa số
(89,19%), PTTT gián tiếp khá ít (10,81%). Sự tương tác của diễn ngôn báo chí
thường được thể hiện trực tiếp, biểu hiện rõ ràng; ít những đối thoại, tương tác
ngầm hay nói cái này nảy cái khác.
a. HĐNT trực tiếp và PTTT trực tiếp
a1. PTTT trực tiếp được thể hiện rất hiển ngôn trên bề mặt ngôn từ từ tiêu đề,
sapô đến nội dung thể hiện nhất quán những thông tin rõ ràng mà người đọc “đọc là
có thể hiểu”. Trong đó, hành động kể, trần thuật (nhóm trình bày) với mục đích
thông tin là hành động được sử dụng nhiều nhất. Vì hành động này có đích ở lời
là miêu tả một sự tình đang được nói đến, hướng khớp ghép là lời - hiện thực (giá trị
đúng - sai mà nó nêu ra được xác định trên cơ sở lời có phù hợp hay không với sự
86
vật được nói tới), trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều mình xác tín, nội dung mệnh
đề là một mệnh đề có thể đánh giá tính đúng - sai lôgic. Những tiêu chí này phù hợp
với chức năng cung cấp thông tin của báo chí.
Ví dụ một số bài báo tường thuật chuyển tải những thông tin tương tác rõ
ràng tới người đọc như:
(45) Sáng 26/11, Tòa án Nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên sơ thẩm
dân sự xét xử trường hợp vi phạm hợp đồng Đề án nguồn nhân lực chất lƣợng cao
của thành phố Đà Nẵng (Gọi tắt là Đề án 922), buộc bồi hoàn số tiền hơn 1,7 tỷ
đồng. (Đà Nẵng: Nhân tài thua kiện, bị buộc trả 1,7 tỷ đồng VNN 27/11/2015, PL11)
Những cụm “xét xử trường hợp vi phạm”, “buộc bồi hoàn”… trong ví dụ
trên đã cung cấp thông tin cơ bản về trường hợp có người vi phạm, có người bị kiện
và có người thua kiện… - nghĩa là có người “sai” về mặt pháp luật. Từ đó, bài báo
đưa ra những thông tin có thể tương tác theo chiều hướng đánh giá tính chất đúng -
sai cả về pháp luật (cái lí) và tình cảm (cái tình).
Sau tin tóm tắt thông tin về vụ xét xử nhân tài trên, bài báo tường thuật lại
chi tiết về một trường hợp vi phạm hợp đồng: từ khi phê duyệt Đề án đến khi đi
học, trở về công tác và vi phạm hợp đồng bị ra quyết định chấm dứt tham gia Đề án
và bị khởi kiện. Toàn bộ bài báo là những hành động trần thuật, kể, miêu tả lại vụ
việc. Việc sử dụng những hành động như trần thuật, kể, miêu tả đã cung cấp những
thông tin cần thiết của vụ việc đến cho người đọc từ đó họ có thể tương tác lại bằng
cách đánh giá, nhận xét tính chất đúng - sai, bày tỏ quan điểm, lập trường, tư tưởng
của mình. Bài báo sử dụng HĐNT với ý nghĩa tường minh. Vì thế, những điều
muốn tương tác cũng được biểu hiện rõ ràng với các tín hiệu ngôn ngữ hiển ngôn:
“xét xử”, “khởi kiện”, “thua kiện”… Theo đó, trong những phản hồi tương tác lại ở
bài báo này, độc giả cũng tập trung bàn luận tới các vấn đề đã nêu ra trong bài báo
với các từ khóa “xét xử”, “thua kiện”…
Một ví dụ khác:
(46) Chiều tối 7/12, một cuộc họp giữa lãnh đạo Bộ GD-ĐT và Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam dƣới sự chủ trì của Ban Tuyên giáo TƢ xung quanh tranh luận có
nên để môn Lịch sử là môn học độc lập, bắt buộc trong chƣơng trình SGK mới.
87
[…] Theo đó, điều mà cả hai bên đều thống nhất là Lịch sử đóng vai trò
quan trọng trong chƣơng trình phổ thông và là nội dung giáo dục bắt buộc đối với
tất cả học sinh từ tiểu học lên THPT. (Không tích hợp Lịch sử vào môn Công dân
với Tổ quốc VNN 07/12/2015, PL17)
Đoạn trên sử dụng cấu trúc khẳng định với từ “là” (là nội dung giáo dục bắt
buộc), cấu trúc phủ định “không + động từ” (không tích hợp) – phủ định để khẳng
định (Lịch sử là môn độc lập). Người đọc có thể tiếp nhận thông tin qua tiêu đề và
nội dung bài báo rất hiển ngôn: môn Lịch sử sẽ là một môn học độc lập, không tích
hợp vào môn Công dân với Tổ quốc. Trong bài báo trên, nhà báo nói về một cuộc
họp để bàn về môn Lịch sử. Nội dung cuộc họp, các bên tham gia, các ý kiến tranh
luận và các điểm thống nhất sau cuộc họp… đã lần lượt được kể lại đầy đủ. Theo
đó, sự tương tác trở lại của độc giả cũng tập trung bàn luận về nội dung và kết luận
của cuộc họp này.
Như vậy, hầu hết HĐNT trong các bài báo kể trên là hành động trần thuật với
mục đích là miêu tả và thông báo. Nó được sử dụng đúng như khái niệm mà nó gợi
ra. Đó là những lời kể lại, thuật lại một câu chuyện hoặc sự việc với các chi tiết và
diễn biến của nó. Chúng nói về các sự kiện, các hiện tượng, các tình trạng hoặc
hành động. Các ý kiến nêu lên để người nghe biết, đồng tình, phản đối hoặc tư duy
cùng. Bản chất của HĐNT trong DNBC là việc sử dụng các phương tiện ngôn từ để
cung cấp thông tin cho người đọc, từ đó họ tương tác trở lại với thông tin đó. Cách
thức sử dụng HĐNT của nhà báo là sử dụng nhiều hành động trần thuật, miêu tả
mang tính chất thông báo thông tin khách quan. Và tác động, hiệu lực ở lời của
HĐNT chính là việc độc giả phản hồi đánh giá, nhận xét, bàn luận về những thông
tin đã được đưa ra.
a2. Ở PTTT trực tiếp này, chúng tôi bắt gặp các đối thoại trực tiếp với dạng
bài viết nhà báo hỏi và người được phỏng vấn trả lời với các thông tin khá tường
minh. Thông thường, nội dung đối thoại đã được thể hiện trên câu hỏi của nhà báo.
Người được phỏng vấn trả lời nội dung đó. Trên cơ sở câu trả lời đó, nhà báo lại
tiếp tục đặt câu hỏi để khai thác được tối đa lượng thông tin cần đạt. Đối thoại kiểu
này rất dễ được nhận diện. Ví dụ:
88
(47) Đuổi học vì nói xấu GV trên Facebook: Nhà trƣờng là nơi giáo dục
chứ không phải là nơi kết tội học sinh! (DT 07/11/2015, PL18)
Bài báo phỏng vấn Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội Chử Xuân
Dũng sau khi làm việc với trường THPT Lê Lợi chiều ngày 6/11 về vụ việc “Nữ
sinh bị đuổi học 10 ngày vì nói xấu giáo viên trên Facebook” gây xôn xao dư luận.
Thƣa ông, qua làm việc với nhà trƣờng, quan điểm của ông về sự việc này
nhƣ thế nào?
Chúng tôi đang yêu cầu nhà trường tường trình toàn bộ sự việc, báo cáo từng
bước xử lý, từng văn bản cụ thể từ trước tới nay về vấn đề này vào ngày 7/11.
Quan điểm của tôi phải nghe từ 2 phía….
Việc học sinh sử dụng Facebook để bày tỏ cảm nghĩ của mình, nói lên
những điều bức xúc của mình về việc học tập nhƣng không nói rõ đích danh ngƣời
nào đó có phải là hành động sai? Có phải chịu hình thức kỷ luật?
Việc học sinh viết ám chỉ chung chung, không cụ thể ai thì mình cần phải
xem lại. Đây chỉ là hành động nhất thời của học sinh. Làm giáo dục cái quan trọng
nhất là vì sự tiến bộ của học sinh. Nhà trường là nơi giáo dục chứ không phải là nơi
kết tội học sinh. Làm thế nào để nhà trường, học sinh và gia đình học sinh luôn tìm
được tiếng nói chung thì giáo dục mới hiệu quả. Khi nhà trường giải trình đầy đủ sự
việc, Sở sẽ có chỉ đạo chính thức về sự việc này.
Dẫn chứng trên là một đoạn phỏng vấn bao gồm hành động hỏi do phóng viên
đảm nhận và hành động trả lời do người được phỏng vấn trả lời. Cặp hành động hỏi -
trả lời tường minh thông tin cần truyền đạt với hai cặp trao đáp hỏi - trả lời.
Trong câu hỏi 1, điểm hỏi của nhà báo là về quan điểm của người được
phỏng vấn về vấn đề. Trong câu trả lời 1, điểm trả lời trực tiếp “quan điểm của tôi
phải nghe từ 2 phía…”. Từ khóa “quan điểm” ở đây đánh dấu hiệu lực tương tác
của cặp đối thoại hỏi - trả lời 1 này.
Trong câu hỏi 2, nhà báo đề cập tới một vấn đề khác: học sinh sử dụng
Facebook để nói điều bức xúc nhưng không nói rõ người nào, hành động đó sai hay
đúng. Trong câu hỏi này nhà báo liên tiếp hỏi hai câu hỏi: “có phải là hành động
89
sai?”, “có phải chịu hình thức kỷ luật?”. Điểm hỏi là vụ việc học sinh dùng
Facebook, điểm trả lời cũng xoay quanh vấn đề này với từ khóa là “việc học sinh
ám chỉ chung chung, không cụ thể ai”. Trong câu trả lời, người được phỏng vấn
không trực tiếp trả lời vào hai câu hỏi mà nhà báo đã nêu song quan điểm đã được
thể hiện rõ trong các lời khẳng định: Làm giáo dục…là vì học sinh, nhà trường là
nơi giáo dục chứ không phải là nơi kết tội học sinh.
Như vậy, ở dạng bài phỏng vấn đối thoại trực tiếp thì HĐNT thể hiện tương
tác của các bài báo là hành động hỏi - trả lời. Điểm hỏi - điểm trả lời xoay quanh
các từ khóa đánh dấu mức độ tương tác của DNBC.
b. HĐNT gián tiếp và PTTT gián tiếp
b1. Với PTTT gián tiếp, thông qua các HĐNT gián tiếp, người đọc phải suy ý
để nhận ra hàm ý ẩn giấu trong đó. Nguyễn Đức Dân gọi đây là “những thông tin
chìm trong báo chí”. Vì thông tin chìm nên sự tương tác với độc giả cũng chìm trong
các lớp ngôn từ. HĐNT gián tiếp ở đây đã góp phần làm nên những nét đặc sắc về
mặt ngôn từ cho diễn ngôn báo chí bởi “có những điều không được phép nói, không
tiện nói ra hoặc nói thẳng chưa chắc đã đạt hiệu quả cao bằng những lời nói tế nhị,
chứa đựng hàm ý” [ 20].
Trên mặt báo có những thông tin không được viết ra nhưng độc giả có thể
nhận biết được. Những thông tin này được thể hiện bằng những HĐNT gián tiếp.
Ví dụ:
(48) Ít có sai phạm trong tuyển dụng công chức ở Hà Nội? (DT
28/09/2015, PL2)
HĐNT ở tiêu đề bài báo này là hành động hỏi nhưng hỏi để chê, giễu, mỉa.
Bài báo đưa ra kết luận của thanh tra UBND Thành phố Hà Nội và các đơn vị về
quản lý biên chế công chức. Theo kết luận này thì “ưu điểm nhiều, khuyết điểm ít”,
việc tuyển dụng công chức không có sai sót đáng kể nào. Đặt các nội dung bài báo
này trong ngữ cảnh những lùm xùm trong việc sát hạch công chức của Hà Nội năm
2015 vừa được báo chí phản ánh mới thấy được hàm ý của bài báo. Nó đã được
nhắc đến trong bài như: kết luận của thanh tra “bỏ quên”, những lùm xùm “vắng
90
bóng”. Cuối cùng câu hỏi mà tiêu đề đặt ra mỗi độc giả đã có câu trả lời cho mình.
Ít có sai phạm trong tuyển dụng công chức ở Hà Nội, đó là theo kết luận của thanh
tra; còn thực tế thì ngược lại.
Những thông tin chìm này cũng được suy ra từ một bài báo tương tự:
(49) Môi trƣờng trọng nhân tài (DT 15/12/2015, PL21)
Bài báo đi tìm câu trả lời cho ba câu hỏi: Một, vì sao ngƣời Việt có trí tuệ,
học tập không thua kém các dân tộc khác nhƣng đất nƣớc lại không phát triển
nhanh nhƣ kỳ vọng. Hai, vì sao những ngƣời giỏi không tham gia nhiều vào các
hoạt động của cơ quan quản lý nhà nƣớc, trong khi đất nƣớc rất cần ngƣời tài để
xây dựng cơ chế chính sách? Ba, vì sao nhiều ngƣời giỏi đi học ở nƣớc ngoài lại
không muốn về?
Cần đặt ba câu hỏi này trong một ngữ cảnh vượt ngoài bài báo là vụ việc
của TS Doãn Minh Đăng và trường: TS Đăng là một người giỏi đi học ở nước
ngoài, trở về nước làm việc nhưng lại xảy ra những mâu thuẫn với nhà trường. Liên
hệ với vụ việc này mới hiểu rõ hơn hàm ý mà tác giả muốn nói trong lời kết của bài:
“Ngƣời giỏi không ai chịu nhận lƣơng ba đồng ba cọc để kiếm ăn bằng cách
mờ ám và ngồi chờ “chuyến tàu vét” của buổi hoàng hôn cuối nhiệm kỳ. Nhân tài
chỉ tồn tại trong môi trƣờng trọng nhân tài”.
Rõ ràng, vấn đề ở đây không còn chỉ là chuyện của nhân tài nữa mà là
chuyện môi trường có trọng dụng nhân tài hay không? Vì thế HĐNT hỏi trong bài
báo này không đơn thuần để hỏi mà hỏi để khẳng định những thực tế còn tồn tại
trong việc xây dựng môi trường làm việc cho người tài.
Hay trong bài báo Tiến sĩ trƣợt vẫn phục, VN mới có “cú nhảy then chốt”
(VNN 11/05/2015, PL4) có đoạn kết:
(50) Đến khi nào hàng trăm thạc sĩ, tiến sĩ (thay vì 30 ngƣời) đƣợc đào tạo
cả trong nƣớc lẫn ngoài nƣớc đều không buồn khi thi công chức trƣợt vì thấy rằng
những ngƣời đƣợc chọn xứng đáng hơn cả về trình độ lẫn sự phù hợp, thì Việt Nam
đã sẵn sàng cho một cú nhảy then chốt.
HĐNT trong đoạn kết trên là hành động khẳng định, khẳng định nhưng để
91
phê phán thực tại. Cần đặt bài báo trong ngữ cảnh cụ thể về việc 30 thạc sĩ, thủ
khoa xuất sắc nước ngoài trượt công chức; xung quanh vấn đề này có rất nhiều ý
kiến trong đó nổi bật là những chia sẻ của các thí sinh, bức xúc về đề thi, cách thi,
những nghi vấn ẩn đằng sau kết quả. Từ đó nhiều ý kiến mở rộng về vấn đề môi
trường công chức ở Việt Nam, công cuộc chạy đua vào đó. Biết về những ý kiến
này mới thấy được quan điểm của tác giả trong bài báo: khi những người tài trượt
mà vẫn phục thì Việt Nam mới phát triển được.
Một số ví dụ đã phân tích ở trên cho thấy ngữ cảnh cụ thể có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc hiểu hàm ý của diễn ngôn báo chí. Nó tạo ra PTTT gián tiếp
thú vị mà nhà báo sử dụng để hấp dẫn người đọc, lôi kéo họ vào quá trình phản hồi
tương tác lại.
b2. HĐNT gián tiếp còn tạo nên những kiểu đối thoại gián tiếp. Nhà báo đã thông qua nhiều “lời nhân vật khác” để thể hiện lời của mình. Dẫn lời người khác là
một cách tạo ra các cuộc tranh luận hiệu quả.
(51) Hạn chế học sinh sử dụng Facebook để ngăn ngừa “loạn ngôn” (DT
05/11/2015, PL18)
Trong bài báo thể hiện sự đối thoại về vấn đề cấm học sinh sử dụng
Facebook. Mở đầu, bài báo nêu vấn đề:
Thời gian qua, nhiều vụ học sinh chửi bới nhau, thậm chí chửi cả bố mẹ,
ngƣời thân trên Facebook. Mới đây nhất, một nữ sinh Trƣờng THPT Lê Lợi (Hà
Đông, Hà Nội) đã bị đình chỉ học 10 ngày vì nói xấu giáo viên trên Facebook. Đấy
là lý do vì sao, một số trƣờng đã đƣa những điều cấm kỵ với học sinh khi sử dụng
mạng xã hội.
Sau đó, bài báo đưa ra chia sẻ của lãnh đạo một số trường học với tinh thần
chung: mục đích của nhà trường không phải cấm các em dùng Facebook mà chỉ hạn
chế một số hành vi xấu dễ làm ảnh hưởng đến người khác.
PGS Văn Như Cương (Chủ tịch Hội đồng Quản trị Trường THPT dân lập
Lương Thế Vinh, Hà Nội): cấm nói tục chửi bậy, cấm chửi xéo... đều là những
nguyên tắc cần có của mỗi học sinh bởi nhƣ thế là “loạn ngôn”, không nghiêm túc
và thiếu văn hóa.
Thầy Vũ Trọng Lâm (Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Đức Cảnh): “Học
92
sinh có thể mỗi em đón nhận một kiểu, nhƣng những quy định nhƣ không nói tục,
chửi bậy, nói xấu, bôi nhọ ngƣời khác... đều là những nguyên tắc mà học sinh
trƣờng nào cũng phải thực hiện”.
Các diễn ngôn trên có HĐNT là trần thuật nhưng trần thuật để khẳng định
và thể hiện quan điểm phê phán của mình. Với việc đưa ra và phân tích ý kiến của
các nhà giáo, nhà báo đã gián tiếp bày tỏ quan điểm: hạn chế chứ không cấm học
sinh dùng Facebook và hạn chế học sinh sử dụng Facebook để ngăn ngừa “loạn
ngôn”. Đây chính là những nội dung đối thoại mà bài báo muốn chuyển tải tới
người đọc. Việc dẫn lời các nhân vật khác với các HĐNT gián tiếp rõ ràng đã làm
tăng thêm hiệu quả đối thoại.
Đặc biệt, các diễn ngôn báo chí còn luôn hướng tới lời của người khác hay
tới một điều gì khác để tranh luận, đối thoại. Điều này khiến cho các diễn ngôn
báo chí đã vượt lên nội dung ngôn từ bề nổi để hướng tới ngữ nghĩa bề sâu. Ví dụ:
(52) Liệu Doãn Minh Đăng có “tâm thần”, “dị dạng” hay… là “tàn
tích”?! (DT08/12/2015, PL20)
Bài bình luận này sử dụng khá nhiều HĐNT gián tiếp, hỏi nhưng để phê
phán, hỏi nhưng để chê, mỉa, giễu. Nội dung bài bình luận xuất phát từ vụ việc mâu
thuẫn của TS Đăng và nhà trường. Trong diễn biến câu chuyện, có một lời nói mà
người viết lưu ý: Có một chi tiết đáng lƣu ý là Hiệu trƣởng Dƣơng Thái Công còn
cho biết có thể anh Đăng “bị bệnh thần kinh”, cần phải đi chữa trị. Vì lời nói này
nên tác giả nảy sinh ý định phân giải xem TS Đăng có bị bệnh hay không?
Không biết nếu đi khám, các bác sĩ kết luận Doãn Minh Đăng có tâm thần thật
hay không, nhƣng việc ông Hiệu trƣởng bảo anh bị “thần kinh” có thể là… có lý. (1)
Nói có lý là bởi thời nay có chức, có quyền là có danh, có lợi, có bổng, có lộc
nên từ chối danh - lợi thì theo ông Hiệu trƣởng, chỉ có ngƣời bị… “thần kinh”. (2)
Rồi trong thiên hạ đua nhau chạy chức, chạy quyền, thậm chí “mua bán” với
những cái giá “khủng”, việc đƣợc - thua còn “ngàn cân treo sợi tóc”, có ai đó tự
dƣng đƣợc trao chức, trao quyền lại từ chối thì theo ông, “tâm thần” là… còn
nhẹ?! (3)
Đó là chƣa kể theo triết lý: “Sống ở đảo ngƣời gù, ai thẳng lƣng là dị dạng -
NV”, nên nếu sống ở thời và ở nơi chạy chức, chạy quyền, ai từ chối quyền chức sao
93
lại không “dị dạng” nhỉ? Trong trƣờng hợp may mắn nhất, có lẽ anh Đăng là “tàn tích
cuối cùng” còn sót lại của thời mà nhiều nhà khoa học tài năng đã từng từ chối quyền
chức để chuyên tâm vào khoa học. Tiếc thay, thời đó nay còn không?! (4)
Cho nên suy luận theo hƣớng anh Đăng bị “thần kinh” của ông Hiệu trƣởng,
có lẽ anh Doãn Minh Đăng nếu không “tâm thần”, “dị dạng” thì cũng là… “tàn
tích”?! (5)
Đoạn bình luận trên một mặt luôn hướng tới việc lí giải lời của hiệu trưởng
về việc nghi ngờ anh Đăng bị thần kinh (đoạn 1, 5); một mặt lại hướng tới một vấn
đề khác: suy ngẫm về thời cuộc, người tài từ chối chức quyền trong xã hội hiện nay.
Giọng triết lý (đoạn 4), giọng giễu nhại (đoạn 3) đan xen làm nên một giọng điệu
đối thoại sâu cay. Để rồi đằng sau giọng điệu ấy, độc giả đã tìm ra được câu trả lời
cho câu hỏi “anh Đăng bị “tâm thần” như lời ông hiệu trưởng nói, bị “dị dạng” so
với thời đại này hay là “tàn tích” của thời đại trước”. Những câu hỏi trong bài bình
luận đã mang hàm ý giễu sâu cay, tác động mạnh tới người đọc.
Tiểu kết
Thể phát là các nhà báo (đại diện cho các tờ báo). Đây là những người tạo
lập ra phần lớn các diễn ngôn báo chí. Tương tác của thể phát được thể hiện qua các
diễn ngôn của nhà báo với hai đối tượng là: thể phát (trên cơ sở chủ đề) và thể nhận.
1. Tương tác giữa các thể phát trên cơ sở chủ đề thể hiện mối quan hệ tương
tác về mặt chủ đề giữa các diễn ngôn của nhà báo. Đó là sự thay đổi và tương tác về
tiêu điểm thông tin trong các bài báo có cùng chủ đề với nhau. Mỗi bài báo có một
đối tượng hướng tới khác nhau song chúng cùng nằm trong mạch chung hướng tới
vấn đề chính của chủ đề.
Trong phạm vi khảo sát, tương tác chủ đề có ba kiểu là: tạo lập chủ đề, duy
trì chủ đề, duy trì và triển khai chủ đề. Tạo lập chủ đề tạo nên chủ đề đầu tiên trong
bài báo gốc và làm nền tảng cho sự duy trì chủ đề. Sự duy trì chủ đề tạo nên sự
tương tác trực tiếp. Đó là sự tác động và tương tác giữa các bài báo với nhau thông
qua các chủ đề chính. Còn các bài báo duy trì và phát triển chủ đề thì ngoài duy trì
chủ đề còn tạo được một chủ đề mới qua sự liên hệ với chủ đề cũ. Sự phát triển chủ
đề luôn logic và mới mẻ, thu hút được lượng lớn phản hồi tương tác của độc giả.
94
2. Tương tác thể loại thể hiện mối quan hệ tương tác về mặt thể loại giữa các
diễn ngôn. Theo khảo sát, có bốn thể loại (tin, tường thuật, phỏng vấn, bình luận)
được sử dụng với tần số gần như nhau. Mỗi thể loại đều có một thế mạnh và khả năng
tương tác riêng. Sử dụng đan xen, hài hòa các thể loại đã phát huy được toàn bộ thế
mạnh của từng thể loại. Giữa các bài báo cùng chủ đề có mô hình tương tác chủ đề
phổ biến. Đó là việc các chủ đề thường mở đầu bằng thể loại tin (tin ngắn để thông
báo sự việc). Tiếp đến là các bản tin đầy đủ bằng thể loại tường thuật. Các bài phỏng
vấn sau đó tiến hành khai thác thông tin nhiều chiều khác nhau được tiến hành. Các
bài bình luận đan xen để thể hiện những quan điểm, đánh giá riêng. Đó là quá trình
triển khai thông tin để đi đến kết thúc giải quyết vấn đề bằng thể loại tin. Sự chuyển
linh hoạt từ thể loại này sang thể loại khác cho ta thấy các bước để tìm hiểu thông tin
trong báo chí. Đó cũng là nghệ thuật khai thác thông tin của các nhà báo.
3. Tương tác của thể phát với thể nhận cho thấy quyền lực tương tác của nhà
báo. Nhà báo tạo ra các diễn ngôn có sự tác động tới các độc giả và dẫn tới các hành
vi xã hội khác. Các yếu tố thể hiện được quyền lực tương tác này là: cấu trúc diễn
ngôn và hành động ngôn từ.
Các thành phần của cấu trúc diễn ngôn báo chí thể hiện tính tương tác. Tiêu
đề với vị trí đầu tiên chính là thành phần nổi bật đầu tiên thể hiện được thông tin và
sự tác động của diễn ngôn tới người đọc. Đa số các kiểu sapô đều chú trọng đến tính
thông tin, đặc biệt ở báo mạng điện tử tính thông tin còn được đẩy lên ở mức độ cao
hơn: thông tin ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ; tạo điều kiện để người đọc nắm bắt
thông tin nhanh và tương tác nhanh lại. Cấu trúc thông tin được sử dụng nhiều nhất
là kiểu hình kim tự tháp ngược. Đây là kiểu cấu trúc đưa những thông tin hấp dẫn
lên đầu bài để thu hút sự quan tâm của độc giả.
Nhà báo đã tương tác thông qua các HĐNT trực tiếp và gián tiếp tương ứng
với hai PTTT (trực tiếp và gián tiếp). Sự tương tác của diễn ngôn báo chí thường
được thể hiện trực tiếp, biểu hiện rõ ràng với ý nghĩa tường minh; với phương thức
gián tiếp, người đọc phải suy ý để nhận ra hàm ý ẩn giấu trong đó.
95
Chƣơng 3
TƢƠNG TÁC CỦA THỂ NHẬN TRONG DIỄN NGÔN BÁO ĐIỆN TỬ
Dẫn nhập
Thể nhận là độc giả, công chúng đọc báo. Nếu như vai trò của thể phát đã
được thể hiện rõ trong việc tạo ra các diễn ngôn có tính tương tác thì vai trò của thể
nhận được thể hiện trong việc tiếp nhận, lĩnh hội các diễn ngôn đó và có ý kiến
phản hồi lại. Thể nhận ở đây lại tiếp tục tạo ra các diễn ngôn (các phản hồi) để
tương tác lại với diễn ngôn trước đó của thể phát. Ở quá trình này, thể nhận - độc
giả trở thành thể phát, chủ thể tương tác trực tiếp cho quá trình tương tác thứ hai
(độc giả - nhà báo) sau quá trình tương tác đầu tiên (nhà báo - độc giả) và có thể có
quá trình tương tác với các độc giả khác (độc giả - độc giả). Mô hình minh họa cho
Bài báo
Phản hồi
hai quá trình tương tác này:
Thể nhận Thể phát Thể nhận
Phản hồi Phản hồi
Hình 3.1: Quá trình tƣơng tác giữa thể phát - thể nhận và các thể nhận
Do đó, trong chương này, tương tác của thể nhận sẽ được miêu tả qua tương
tác giữa thể nhận với thể phát và tương tác giữa các thể nhận với nhau.
Trong diễn ngôn báo chí, thể nhận và thể phát luân phiên thay đổi vị trí cho
nhau nên thể nhận và thể phát ở trạng thái động. Có hai loại thể nhận khác nhau:
(1) Thể nhận1 là độc giả: tiếp nhận thông tin tương tác trong các bài báo.
(2) Thể nhận2 là các nhà báo, tòa soạn báo: sau khi đóng vai trò là thể phát1 (đưa ra thông tin tương tác với thể nhận1) thì thay đổi vị trí trở thành thể nhận2 để tiếp nhận sự tương tác trở lại với thể nhận1 (lúc này đóng vai trò là thể phát2). Hai thể nhận nói trên thể hiện tính động của thể nhận trong diễn ngôn báo chí.
Trong chương 3 này, chúng tôi chỉ đề cập tới những đặc điểm của thể nhận1. Dưới đây, khi nói đến thể nhận tức là chỉ thể nhận1.
Thể nhận - độc giả của báo chí đặc biệt là báo điện tử có đặc điểm riêng so
với độc giả ở các phong cách chức năng khác. Họ không tiếp nhận thông tin một
96
chiều. Họ có thể tham gia vào quá trình đưa tin, trở thành đồng tác giả của các bài
báo bằng cách phản hồi tức thời ý kiến của mình, cung cấp thêm các chi tiết, sự việc
liên quan mà phóng viên chưa có điều kiện khai thác hay tranh luận để mở rộng vấn
đề theo các hướng khác nhau. Vì thế, tính chủ động của độc giả là điều kiện để xuất
hiện quá trình tương tác trở lại của độc giả. Độc giả chủ động: chủ động trong tiếp
cận thông tin và chủ động trong việc đóng góp ý kiến.
Dưới đây, chúng tôi tiến hành thống kê, phân loại hệ thống phản hồi ở từng
chủ đề và từng báo cụ thể. Qua đó rút ra những đặc điểm về tần số phản hồi; đặc
điểm phản hồi (nội dung, hình thức phản hồi); các phương tiện ngôn ngữ thể hiện sự
tương tác trong phản hồi (hành động ngôn từ, một số phương tiện ngôn ngữ khác).
Đây chính là các đặc điểm thể hiện rõ hiệu quả tương tác của diễn ngôn báo chí.
3.1. Hệ thống diễn ngôn phản hồi - diễn ngôn của thể nhận
Báo điện tử có rất nhiều hình thức để độc giả tương tác: hệ thống thư điện tử
(email); các cuộc giao lưu, bàn tròn trực tuyến (online seminars); các diễn đàn; phản
hồi qua đường dây nóng, qua đường thư tín; bình chọn, thăm dò dư luận… Ở đây,
chúng tôi chỉ xét sự tương tác của độc giả qua hình thức phản hồi (comment, bình
luận) dưới mỗi bài viết. Ở báo mạng, sự tương tác trực tiếp của độc giả qua phản
hồi là một đặc điểm làm nên sự khác biệt so với các loại hình báo chí khác.
3.1.1. Đặc điểm diễn ngôn phản hồi
3.1.1.1. Mô hình xây dựng diễn ngôn phản hồi
Tận dụng tính năng của Internet, dưới sự hỗ trợ của các phương tiện công
nghệ, báo điện tử đã thiết lập được một kênh thông tin phản hồi tốc độ, tin cậy và
đặc biệt hiệu quả. Các loại hình báo chí truyền thống với các kênh thông tin phản
hồi qua viết thư, gọi điện thoại đến các chuyên mục: “bạn đọc viết” của báo in, “hộp
thư truyền hình” của truyền hình, “bạn nghe đài” của phát thanh… có thể gặp khó
khăn khi tiếp nhận thông tin do các yếu tố khách quan như thời gian, thất lạc, điện
thoại không liên lạc được… Báo điện tử với hệ thống các phản hồi được xây dựng
ngay dưới mỗi bài viết, chỉ cần viết bình luận và ấn gửi là tòa soạn nhận được. Mọi
phản hồi đều được gửi đúng địa chỉ với tốc độ nhanh và được tòa soạn tiếp nhận.
Hình ảnh sự xây dựng phản hồi dưới mỗi bài viết của các báo:
97
Hình 3.2: Phản hồi dƣới mỗi bài viết của báo điện tử
Nhờ mô hình phản hồi nhanh chóng và thuận tiện, độc giả dễ dàng viết và
gửi bình luận phản hồi trở lại với tòa soạn. Phản hồi trở thành diễn ngôn của các thể
nhận - các độc giả đọc báo điện tử.
Trong phạm vi khảo sát có hiện tượng nhà báo tập hợp các phản hồi của độc
giả, phân loại chúng theo nội dung rồi xây dựng thành một bài báo. Nghĩa là một
bài báo được xây dựng từ hệ thống phản hồi của độc giả đọc báo, nội dung phản hồi
chính là thông tin của bài báo. Trong trường hợp này, phản hồi được nhà báo tập
hợp lại trở thành bài báo - diễn ngôn của thể phát.
Ví dụ: Bài báo Độc giả chấm điểm bài văn điểm 0 (VNN, PL19) tóm tắt lại
nội dung chính hàng ngàn ý kiến phản hồi của độc giả về bài văn có mở đoạn được
0 điểm. Hệ thống các ý kiến khác nhau đã được nhà báo sắp xếp vào hai luận điểm
lớn là: Giáo viên và phụ huynh nên trao đổi trực tiếp và Khi con phải học văn mẫu.
Toàn bộ bài báo là tập hợp các phản hồi, nhà báo đưa ra các phản hồi này
một cách khách quan, không tham gia bình luận hay đánh giá đúng, sai.
Bài báo cung cấp một cái nhìn toàn diện về tất cả các nội dung tương tác trở
lại của độc giả đối với vấn đề nhà báo đưa ra. Điều này cho thấy, trong quá trình
khai thác thông tin, việc nhà báo và tòa soạn quan tâm tới phản hồi của độc giả là
cần thiết. Thậm chí, chúng còn được hiện diện trở thành nội dung của một bài báo
để tất cả các độc giả được biết.
Hiện tượng này theo khảo sát chỉ có duy nhất một trường hợp trên. Có thể
thấy rằng, bản chất phản hồi luôn do độc giả tạo ra trước; sau đó có thể được các
98
nhà báo biên tập, sử dụng các phản hồi này để tạo ra một bài báo mới. Vì thế, có thể
khẳng định phản hồi chính là các diễn ngôn của thể nhận, do thể nhận tạo ra.
Ở mỗi phản hồi đều có tên của người phản hồi (nickname bình luận). Theo
khảo sát, tên của độc giả phản hồi ở báo điện tử khá độc đáo và cũng có khả năng
tương tác. Nhiều trường hợp, các nicknamne thể hiện một phần thông tin cần phản
hồi. Đa số độc giả điền tên riêng song cũng nhiều độc giả điền các con số, các kí
hiệu, các tên mang hàm ý riêng… Ví dụ:
- Các nicknamne là tên riêng kèm theo địa chỉ rõ ràng:
(53) Bài viết quá hay. Đó là những lời tâm huyết các bạn trẻ nên tham
khảo để soi vào mình để xem mình đang là ai. Mình cần gì để có bƣớc đi tốt cho
tƣơng lai. (Lê Thị Việt Hồng THPTC Hùng Vương Gia Lai). (Thủ khoa từ chối
công chức, làm công dân toàn cầu VNN 24/04/2015, PL3)
- Các nickname kí hiệu: H2O, H2s, hhhhhh123, … (Dân trí)
- Các nickname ngẫu nhiên: Người Xa Lạ, Akiko, Cool cool Sat, Tờ Rí,
Fantasic, Haiku, Nuida Changtrai, Nơi Ấy Bình Yên, … (Dân trí)
- Các nickname mang hàm ý: Quá chuẩn, Bùng Văn Phát, Chém gió, Thái
cực, Con Thuyền Ngược Dòng, Nhân tài, Bình loạn, Người Trẻ Ngày Nay, That
that hoi, Dân Việt... (VietNamNet); Nhân v Quả, Chơi Suốt Năm, TTX Thoi nay,
Tiếng Nói, Dân Đen, Hoi Ngu Dân Tri, VÌ DÂN VÌ NƯỚC, Thuongdan, Nói
Phải… (Dân Trí)
Đặt các nickname trên cùng với nội dung phản hồi, có thể nhận thấy chúng
cũng thể hiện một phần nội dung muốn nói của độc giả. Có những nickname thể hiện
mục đích ngay ở tên phản hồi: Thương dân, Long Dân (Dân trí) hay thể hiện sự đả
kích: Nguyễn Hoàng Ăn Thuế (Dân trí), Suy ngam, Người Vĩ Đại, Con Nhà Nông…
Như vậy, để tương tác thì độc giả không chỉ chú ý tới nội dung phản hồi mà
còn chú ý từ những dấu hiệu bên ngoài nội dung như tên bình luận.
3.1.1.2. Số lƣợng diễn ngôn phản hồi
Dưới đây, chúng tôi sẽ phân loại, thống kê số lƣợng phản hồi của báo điện tử
đồng thời chỉ ra một số kiểu chênh lệch số lượng phản hồi kèm theo một số lí giải.
Việc quan tâm tới số lượng phản hồi là rất cần thiết vì nó chính là những chỉ số định
99
lượng (có thể đo đếm được) chỉ ra những chỉ số định tính về tính tương tác và hiệu
quả tương tác của báo điện tử.
a. Số lượng diễn ngôn phản hồi ở hai báo Dân trí và VietNamNet
Thống kê 185 bài báo của hai báo điện tử Dân trí và VietNamNet thu được
số lượng phản hồi cụ thể như sau:
STT Chủ đề Dân trí
Tổng bài
Tổng phản hồi Số bài Số phản hồi Số bài
VietNamNet Số phản hồi
17 1325 17 502 34 1827 1
22 836 17 461 39 1297 2 Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS
8 28 102 635 2 27 1 268 10 55 103 903 3 Đà Nẵng kiện nhân tài 4 Tích hợp môn Lịch sử
5 252 2 0 7 252 5
2 277 4 237 6 514 6
19 692 15 408 34 1100 7 Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm Giảng viên nói xấu trường trên Facebook
101 84 185 Tổng 4119 (68,7%) 1877 (31,3%) 5996 (100%)
Bảng 3.1: Số lƣợng các diễn ngôn phản hồi
Nhìn vào bảng thống kê có thể thấy lượng phản hồi của hai báo điện tử Dân
trí và VietNamNet là rất nhiều (5996 phản hồi ở 185 bài). Có những chủ đề lượng
phản hồi lên đến số lượng hàng trăm, nghìn (635, 836, 1325…). Đa số các bài báo ở
các chủ đề đều có nhiều phản hồi, rất ít bài báo có ít hoặc không có phản hồi. Điều
này chứng tỏ lượng độc giả đọc báo và tương tác ở báo điện tử là rất nhiều.
Ở tất cả các chủ đề, Dân trí đều có lượng phản hồi nhiều hơn VietNamnet,
hiệu quả tương tác của báo Dân trí có phần cao hơn báo VietNamNet. Song cũng
cần lưu ý rằng, các phản hồi ảo (làm giả phản hồi) do tòa soạn hay các cá nhân tự
100
tạo với mục đích riêng hoặc các phản hồi không được tòa soạn xét duyệt do nhiều lý
do khác nhau (thô tục, không phù hợp tôn chỉ của tờ báo…)… sẽ ảnh hưởng ít nhiều
tới số lượng phản hồi thực tế. Ở đây, chúng tôi chỉ căn cứ vào số phản hồi hiện lên
sau mỗi bài viết để tiến hành thống kê.
b. Lượng chênh lệch phản hồi ở hai báo Dân trí và VietNamNet
Trong phạm vi khảo sát xuất hiện hiện tượng các bài báo trích lại nguồn của
báo khác nhưng lại có lượng phản hồi hoàn toàn khác nhau, thậm chí rất chênh lệch
nhau. Nghĩa là các bài báo có nội dung hoàn toàn giống nhau nhưng khả năng tương
tác thì khác nhau. Hiện tượng này sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về khả
năng thu hút sự tương tác của từng báo.
b1. Hiện tượng trích dẫn lại bài ở hai báo Dân trí và VietNamNet Đó là hiện tượng một báo lấy bài từ nguồn một báo khác, không thay đổi
thêm bớt gì và có ghi rõ nguồn trích dẫn ở dưới bài viết. Chúng tôi nhận diện các
bài này nhờ nguồn được ghi ở cuối bài viết và căn cứ vào thời gian xuất bản trước,
sau của từng bài. Trong phạm vi 185 bài báo đã khảo sát, hiện tượng này xảy ra
chiếm tỉ lệ không nhỏ (19,35%). Cụ thể thống kê như sau:
Dân trí
STT Chủ đề Tổng bài Tổng tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) VietNamNet Số bài Tỉ lệ (%)
1 4 23,53 5,88 1 5 14,71
2 4 18,18 1 5,88 5 12,82 Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức Hà Nội ĐH Tôn Đức Thắng phong GS, PGS
5 9 62,50 32,14 2 3 0 11,11 7 12 70,00 22,22
5 0 0 0 0 0 0
6 0 0 0 0 0 0
7 4 4 7 21,05 26,67 20,59
3 Đà Nẵng kiện nhân tài Tích hợp môn Lịch sử 4 Học sinh nói xấu giáo viên trên Facebook Tranh cãi mở đầu đoạn văn 0 điểm Giảng viên nói xấu trường trên Facebook Tổng 26 25,74 11 12,94 36 19,35
Bảng 3.2: Thống kê lƣợng bài lấy nguồn từ báo khác
101
Nhìn vào bảng thống kê trên có thể thấy báo Dân trí đã lấy nguồn từ các báo khác
số lượng 25 bài/101 (chiếm tỉ lệ 25,74 %), VietNamNet 11 bài/85 (chiếm tỉ lệ 12,94%).
Cụ thể, Dân trí đã lấy nguồn từ 12 báo khác là: VietNamNet, Dân Việt, Pháp
luật TP.HCM, Tiền phong, Lao động, Đại Đoàn Kết, Báo điện tử ĐCSVN, Người
Lao Động, VOV, VTV, Giáo dục & thời đại, An ninh thủ đô. Còn VietNamNet đã
lấy nguồn từ 8 báo khác là: Đại Đoàn Kết, Tiền phong, VOV, Người Đô Thị, Pháp
luật TP HCM, VTV, Tri thức trẻ, Dân Việt.
Mỗi nguồn VietNamNet lấy một bài, không lặp lại nguồn báo đó. Ngược lại,
Dân trí có những nguồn thường xuyên lấy lại, có thể với số lượng nhiều (ví dụ:
VietNamNet). Trong tổng số 26 bài có nguồn từ báo khác, Dân trí có 8 bài lấy
nguồn từ VietNamNet (chiếm tỉ lệ 30,76%). Trong 11 bài có nguồn từ báo khác,
VietNamNet lại không lấy nguồn từ Dân trí bài nào.
Về mặt nội dung, những bài báo được lựa chọn để lấy lại nguồn thường là
những bài đưa ra những vấn đề có tính chất then chốt, bước ngoặt cho toàn tuyến
bài; hay những bài có điểm nhấn thông tin thu hút được người đọc mà báo bạn đã
khai thác được. Ví dụ: Bài báo của VietNamNet Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trƣợt
công chức do chƣa tâm huyết (VNN 26/04/2015, PL3) được Dân trí lấy lại. Từ bài
báo lấy lại này, Dân trí đã triển khai thêm được nhiều nội dung thông tin đồng thời
có nhiều phản hồi tương tác từ phía độc giả và các nhân vật được phỏng vấn có liên
quan tới bài báo này. Rõ ràng, Dân trí đã tìm được một bài “đinh” để biến nó thành
bài “nhấn” cho tuyến bài của mình; từ đó tiếp tục khai thác thông tin.
Hầu hết các bài lấy lại trên đều không thay đổi gì về mặt nội dung, câu chữ.
Duy chỉ có một trường hợp, Dân trí thay đổi tiêu đề một chút so với tiêu đề gốc của
VietNamNet:
(54) Hỡi các giáo sƣ, xin hãy bình tĩnh (VNN 25/11/2015, PL16)
Môn Lịch sử: Các giáo sƣ hãy bình tĩnh! (DT 25/11/2015, PL14)
Tiêu đề sau của Dân trí đã đưa thêm tên vấn đề đang bàn luận (về môn Lịch
sử), mức độ kêu gọi có phần nhẹ nhàng hơn tiêu đề gốc.
Hiện tượng lấy nguồn lại báo khác này nảy sinh nhiều điều thú vị về lượng
phản hồi của bài được lấy lại ở hai báo khác nhau.
102
b2. Sự chênh lệch phản hồi ở các bài báo trích dẫn của hai báo Dân trí và
VietNamNet
Chúng tôi tiến hành khảo sát lượng phản hồi của các bài báo trích dẫn (trên
hai tờ báo Dân trí và VietNamNet). Kết quả, chênh lệch phản hồi xảy ra ở một số
bài Dân trí lấy nguồn lại từ VietNamNet. Cùng nội dung bài viết, ở báo gốc
(VietNamNet) thì lượng phản hồi ít (thậm chí không có) nhưng ở báo lấy lại (Dân
trí) thì lượng phản hồi nhiều (thậm chí nhiều hơn rất nhiều). Ví dụ được thể hiện
qua bảng thống kê so sánh sau:
STT Tên bài Dân trí (báo lấy lại) VietNamNet (báo gốc)
1 109 77
2 106 9
3 42 18
4 12 0
5 18 0
Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trải lòng thi trượt công chức (PL1, PL3) Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trượt công chức do chưa tâm huyết (PL1, PL3) Thi công chức: Thủ khoa, thạc sĩ “xịn” trượt còn dài dài (PL1, PL3) “Sẽ chẳng ai thiệt thòi nếu có nhiều giáo sư” (PL6, PL9) Môn Lịch sử: Các giáo sư hãy bình tĩnh! (DT, PL14) Hỡi các giáo sư, xin hãy bình tĩnh (VNN, PL16)
Bảng 3.3: So sánh lƣợng phản hồi giữa bài báo gốc và bài báo lấy lại (1)
Cũng có trường hợp ngược lại, ở báo gốc (VietNamNet) thì lượng phản hồi
nhiều nhưng ở báo lấy lại (Dân trí) thì lượng phản hồi ít hơn rất nhiều (trường hợp
này xuất hiện ít hơn):
STT Tên bài Dân trí VietNamNet
(báo lấy lại) (báo gốc)
“Không thể giới thiệu một ông bí thư tỉnh 1 11 127 uỷ là giáo sư” (PL6, PL9)
2 7 91 Du học sinh: Đi đi, đừng về (PL20, PL22)
3 1 76 Tại sao nhân tài ngại trở về? (PL20, PL22)
Bảng 3.4: So sánh lƣợng phản hồi giữa bài báo gốc và bài báo lấy lại (2)
103
Những ví dụ trên cho thấy, cho dù diễn ngôn báo chí (yếu tố nội dung) là yếu
tố quyết định sự phản hồi của độc giả thì đôi khi lượng phản hồi của độc giả không
nhất thiết phụ thuộc vào nội dung bài viết. Ở những trường hợp này, có thể tạm thời
lý giải trên các góc độ như: lượng độc giả phản hồi quen thuộc của từng báo, các
dấu hiệu hình thức bài báo (do từng báo tạo ra) hấp dẫn lượng độc giả khác nhau, bộ
lọc phản hồi ở các báo...
3.1.2. Các loại diễn ngôn phản hồi
Phản hồi có nội dung đa chiều. Có phản hồi tích cực và phản hồi tiêu cực.
Phản hồi tích cực không nhất thiết phải là phản hồi nêu ý kiến đồng tình mà có thể
là phản hồi phản đối nội dung bài báo nhưng thái độ của người tham gia phản hồi là
thiện chí, giúp thông tin được hoàn thiện, chính xác và có định hướng xã hội. Phản
hồi tiêu cực là những phản hồi phá ngang, không có tính chất xây dựng thông tin.
3.1.2.1. Phản hồi tích cực
Có nhiều phản hồi hay, tích cực. Dễ dàng có thể thấy, dưới mỗi tin tức, bài
báo được quan tâm là hàng trăm bình luận, kèm theo đó là hàng trăm độc giả bấm
nút “like” các bình luận đó.
Bàn về những bình luận của độc giả dưới các tin, bài trên báo điện tử, một
nhà báo đã phải thốt lên: “Nhiều lúc đọc comment ở dưới bài còn hay và thú vị hơn
cả bài viết”. Một vị quan chức đã nhận xét về hiệu quả khi các dự thảo văn bản cần
lấy ý kiến nhân dân được đưa lên báo chí: “Chúng tôi lấy ý kiến rộng rãi người dân
về dự thảo, đăng tải công khai trên Cổng thông tin của bộ nhưng mãi không có ai
góp ý. Trong khi đó, chỉ đăng một phần nội dung dự thảo lên báo điện tử, trong một
buổi sáng đã nhận được hàng nghìn ý kiến đóng góp của người dân”. Thông tin từ
những bình luận do độc giả đem lại có thể là gợi ý cho tòa soạn triển khai các đề tài
tiếp theo. Nhà báo Hà Thành (biên tập viên một tờ báo điện tử ở Hà Nội) cho hay:
“Trong số hàng nghìn độc giả, có không ít người có kiến thức chuyên sâu về vấn đề
nêu trong bài viết, hoặc cả những người dân sinh sống ở nơi bài viết đề cập đến. Đối
với những vấn đề nóng được phản ánh trên báo, những bình luận, phản hồi của họ
rất có giá trị, có thể gợi mở để thực hiện các bài viết tiếp theo” (nguồn Dân Việt).
104
Dưới đây là một số ví dụ về phản hồi tích cực. Độc giả thể hiện quan điểm,
đưa những ý kiến nhận xét đối với thông tin bài báo đưa ra:
(55) Tôi cũng rất đồng tình với quan điểm của bài viết. Từ rất lâu rồi, sát
hạch công chức và thi tuyển công chức chỉ dựa chính vào nội dung các văn bản luật
cụ thể và đề thi cũng chỉ xoay quanh các văn bản đó, đôi khi câu hỏi tƣơng ứng với
một vài điều luật cụ thể và phải nhớ một cách hết sức là máy móc, không có nhiều
tính tƣ duy ở đó…. (Nguyễn Hồng Sơn) (Sát hạch công chức không phải kiểm tra
bài học sinh DT 25/04/2015, PL1)
(56) “Ngày xƣa, những ngƣời thi đậu trạng nguyên đƣợc vua trực tiếp gặp
nhƣng bây giờ nhiều ông vua con lắm, nhiều ông trời con lắm.” Cháu rất tâm đắc
với những phát biểu, đánh giá của Luật sƣ nhƣng những ngƣời có trách nhiệm họ
vẫn “mũ ni che tai” thôi... đúng là kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không hay.
(Nguyễn Minh Tưởng) (Thi công chức: Cửa vào hé rất nhỏ! DT 08/05/2015, PL2)
(57) Tôi đồng ý với ý kiến của tác giả bài viết. Thi công chức mà nhƣ thi vấn
đáp (học thuộc lòng) thì TRƢỢT LÀ ĐƢƠNG NHIÊN. Tôi cứ tƣởng, khi tuyển vào
BỘ PHẬN NÀO - NGÀNH NÀO VIỆC ĐẦU TIÊN LÀ THI CHUYÊN MÔN (thi cả lí
thuyết và thực hành); một khi chuyên môn TỐT - TỐT đúng nghĩa thì thái độ phục
vụ ắt sẽ TỐT THEO. Theo tôi, thi tuyển công chức nhƣ Hà Nội vừa qua, thủ khoa
lọai giỏi, tiến sĩ, học hàm học vị nƣớc ngoài thì làm sao ĐỖ đƣợc - “TRƢỢT LÀ
ĐÚNG”. TIẾC THAY CŨNG MỘT “KIẾP HỌC”! BUỒN THAY CHO VIỆC SỬ
DỤNG HIỀN TÀI CỦA THỦ ĐÔ (Lê Thị Hồng) (Sát hạch công chức không phải
kiểm tra bài học sinh DT 25/04/2015, PL1)
Nhiều độc giả phản biện lại báo với thái độ thiện chí xây dựng thông tin:
(58) Bài viết của tác giả mới chỉ nhìn nhận vấn đề theo 1 chiều nên chƣa
mang tính khách quan. Cần phải khẳng định rằng, đề thi công chức ra nhƣ vậy là
để thử thách thí sinh về tƣ duy quản lý, mà cụ thể ở đây là quản lý nhà nƣớc. Vì đã
thi công chức và chấp nhận làm công chức là thiếu tƣ duy quản lý nhà nƣớc thì rõ
ràng chƣa thể là công chức rồi. Yếu tố chuyên môn quan trọng, rất quan trọng
nhƣng nếu không biết quản lý thì sẽ phá nhiều hơn là xây. Trong bài thi công chức
105
rõ ràng có 2 phần: phần quản lý nhà nƣớc và phần chuyên môn. Và theo tôi hiểu,
phần chuyên môn là đề vừa kín vừa mở, vận dụng pháp luật để áp dụng cho thực
tiễn sáng tạo. Đề thi nhƣ vậy về cơ bản đã đáp ứng đƣợc nhu cầu tuyển chọn,
nhƣng cũng cần cải tiến theo từng năm cho phù hợp hơn với sự phát triển của kinh
tế, xã hội. (Hoàng Thanh Sơn) (Sát hạch công chức không phải kiểm tra bài học
sinh DT 25/04/2015, PL1)
Một số độc giả chỉ ra những điểm sai, chưa hợp lí của bài báo:
(59) Tại sao Sở nội vụ Hà Nội không để “các em ấy” vào vòng cuối rồi
cho trƣợt, để ngƣời đời không đàm tiếu (Trần Minh Hậu)
@Trần Minh Hậu: Trên thực tế, báo này viết sai. Chỉ tiêu chỉ có 1 mà có tới
3, 4 ngƣời dự tuyển dĩ nhiên phải có ngƣời bị đánh trƣợt rồi (Lâm Hà) (30 thạc sĩ,
thủ khoa xuất sắc nƣớc ngoài trƣợt công chức VNN 23/04/2015, PL3)
(60) Hình nhƣ ngƣời viết chƣa phân biệt đƣợc 3 khái niệm trợ giảng,
giảng viên và giảng viên chính nên viết linh tinh. (Liem) (Thi công chức: Thủ khoa,
thạc sĩ “xịn” trƣợt còn dài dài DT 29/04/2015, PL1)
Phản hồi tích cực là những phản hồi có giá trị đối với nhà báo và tòa soạn, nó giúp
thông tin được định hình đầy đủ và chính xác hơn.
3.1.2.2. Phản hồi tiêu cực
Bên cạnh những độc giả trung thành hay những bạn đọc có góp ý khách quan
với bài viết, có không ít những độc giả để lại những nhận xét, bình luận mang tính chất
phiến diện, có ý công kích người khác hay thậm chí là đưa ra những thông tin mang
tính chất sai lệch. Có rất nhiều phản hồi theo tâm lý đám đông và xuất hiện nhiều “anh
hùng bàn phím”. Báo chí rất cần sự tương tác giữa các quan điểm khác biệt, cần sự
phản biện và thông tin đa chiều. Tuy vậy, tranh luận cần phải dựa trên nguyên tắc tôn
trọng người khác, sử dụng chứng cứ và lý lẽ nhằm tìm ra sự thật và chân lý.
Một số ví dụ về phản hồi tiêu cực:
(61) Trƣợt là đúng chứ có vấn đề gì đâu. Lý do là chỗ đó không phải chỗ
phù hợp. Giỏi thì chui đầu vào đó để làm gì, lẽ ra đừng chui vào thi để đỡ mang
tiếng!!! (Thạc Trung) (Sát hạch công chức không phải kiểm tra bài học sinh DT
25/04/2015, PL1)
106
(62) Mọi ngƣời còn sống ở Việt Nam thì nên chấp nhận thôi đỡ đau đầu. (Người
Việt) (Sát hạch công chức không phải kiểm tra bài học sinh DT 25/04/2015, PL1)
Những phản hồi này không cung cấp thông tin cần thiết cho bài báo. Nó thể
hiện thái độ buông xuôi, không bàn luận và không muốn bàn luận về thông tin.
Tóm lại, phản hồi chính là diễn ngôn của thể nhận, các độc giả đọc báo.
Lượng phản hồi ở các báo điện tử là rất nhiều, thể hiện khả năng tương tác lớn của
báo điện tử. Ở mỗi báo có một lượng phản hồi đặc trưng riêng. Phản hồi có nội dung
khá đa chiều (phản hồi tích cực và phản hồi tiêu cực) và độc giả đã chú ý cả những
dấu hiệu hình thức bên ngoài (tên phản hồi) khi xây dựng các nội dung phản hồi.
Hệ thống phản hồi trên sẽ được phân tích cụ thể hơn ở khía cạnh nội dung để
làm rõ những đặc điểm tương tác.
3.2. Đối tƣợng tƣơng tác của thể nhận
Sự tương tác của thể nhận được thể hiện ở việc tương tác với hai đối tượng:
một là, tương tác trở lại với nhà báo (thể phát); hai là, tương tác với các độc giả
khác (các thể nhận khác). Các quá trình tương tác này đều được thực hiện thông qua
phản hồi.
3.2.1. Tương tác giữa thể nhận với thể phát
Đối tượng tương tác đầu tiên và nổi bật nhất của độc giả chính là nhà báo.
Thông qua phản hồi về bài báo, độc giả (chủ thể nhận) tương tác với người tạo lập
ra nó (nhà báo - chủ thể phát).
Trong các phản hồi, trường hợp độc giả tương tác trực tiếp với nhà báo không
nhiều. Ví dụ:
(63) Bác Đăng Dƣơng nói đến trách nhiệm công dân? Công dân trách
nhiệm quá còn gì: thuế, phí thu từ công dân, công dân còn phải đóng tiền trả án
oan do quan gây ra, công dân nuôi toàn bộ giới công chức. Còn trách nhiệm của
công chức là gì vậy? (Đặng Hưng) (DT, Nhân tài và trách nhiệm công dân, PL10).
Đăng Dương ở đây là tên nhà báo. Phản hồi này nhắc tới tên nhà báo, tên của
người mà độc giả tương tác trực tiếp.
Hầu hết độc giả tương tác với nhà báo - thể phát bằng cách bình luận về
những vấn đề mà nhà báo đã đưa ra và không nêu đích danh nhà báo. Các dẫn
107
chứng dưới đây thể hiện sự tương tác của độc giả với bài báo, qua đó thể hiện sự
tương tác của độc giả với nhà báo.
Ở chương 2, chúng tôi đã đề cập tới các thành phần cấu trúc thể hiện tính
tương tác của báo chí. Nổi bật là các thành phần: tiêu đề, sapô, cấu trúc (thể hiện
nội dung). Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt phân tích sự tương tác trở lại của độc giả
với các yếu tố này. Riêng thành phần sapô sẽ được gộp chung cùng với nội dung.
Do đó, chúng tôi sẽ chỉ ra sự tương tác trở lại của thể nhận với thể phát thông qua
các yếu tố: tiêu đề bài báo và nội dung bài báo.
Cũng cần lưu ý rằng, khi đi vào phân tích các phản hồi, quan điểm của chúng
tôi là trích dẫn các phản hồi một cách khách quan, không bình luận tính đúng - sai,
khi trích dẫn trung thành với nội dung các phản hồi (các trường hợp sai lỗi chính tả
- không cố ý, sẽ được đính chính lại).
3.2.1.1. Tƣơng tác với tiêu đề
Tiêu đề (như đã phân tích) là phần đầu tiên của văn bản báo chí tác động đến
người đọc. Vì thế, với những tiêu đề có điểm nhấn luôn tạo được sự tương tác
phản hồi nhiều của độc giả. Ví dụ:
(64) Tiêu đề: Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trƣợt công chức do chƣa tâm
huyết (DT 26/04/2015, PL1)
Tiêu đề và từ “tâm huyết” trong tiêu đề trên đã nhận được rất nhiều phản hồi
từ độc giả:
Hơ ơ... chưa tâm huyết hay chưa đủ tiền và đủ quyền... (Nguyễn Đăng Nhận)
Chưa tâm huyết hay là không muốn dùng thủ khoa? (LÊ HOÀNG)
Tại sao người giỏi lại chưa tâm huyết với nước nhà? Chúng ta cần xem lại
chính sách để thu hút người tài, thu phục họ để phục vụ cho công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Có như vậy Việt Nam mới tiến nhanh được. (Nguyễn Hiền)
“Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trƣợt công chức do chƣa tâm huyết”. Nói
như vậy thì những công chức hiện nay đều có tâm. (Đặng Thanh Vũ)
Ai hiểu tâm huyết cụ thể là gì không (!?) Có khả năng thứ đó không được
dạy chính thức đâu, nhất là các trường nước ngoài??? (Dinh Tuan)
108
Có thể nói, từ “tâm huyết” trong tiêu đề đã trở thành từ khóa trong nhiều
phản hồi của độc giả. Phần lớn phản hồi của bài báo này đã tập trung hoặc xoay
quanh những vấn đề của từ khóa này.
Hoặc độc giả bình luận trực tiếp vào tiêu đề các bài viết như ví dụ:
(65) Tiêu đề: “Ngƣời sát hạch có đầu óc bình thƣờng không ai đòi hỏi SV
ra trƣờng thành thạo công việc” (DT 01/05/2015, PL1)
…Với tít bài báo đưa ra, tôi có câu hỏi sau: - Nếu ông có công ty, ông có
muốn nhận vào một người không có khả năng mà vẫn phải trả lương theo bậc lương
đại học hay ông muốn nhận một người có đầy đủ khả năng, có thể làm việc được
ngay lập tức? Dựa trên cơ sở nào mà ông dám nói “Ngƣời sát hạch có đầu óc bình
thƣờng không ai đòi hỏi SV ra trƣờng thành thạo công việc”? Hay bản thân
trường ông hoặc ngay chính ông khi xây dựng đề cương đã không làm được việc là
đào tạo một con người có khả năng làm được việc sau hơn 4 năm học Đại học?
(Trần Văn Thành)
Hay độc giả liên hệ tít và nội dung bài để đưa ra so sánh, bình luận:
(66) Tiêu đề: Thủ khoa từ chối công chức, làm công dân toàn cầu (VNN
24/04/2015, PL3)
Giật tít rẻ tiền không liên quan tới nội dung! (Phong Ha)
Qua một số ví dụ trên có thể thấy, yếu tố tiêu đề luôn là yếu tố nhận được sự
quan tâm tương tác của độc giả.
3.2.1.2. Tƣơng tác với nội dung
Nội dung là phần quan trọng nhất của bài viết. Các tương tác ở phần này
luôn đa dạng. Có thể thấy một số hướng tương tác với nội dung nổi bật là:
a. Tương tác về nội dung toàn bài báo
Phản hồi của độc giả thể hiện quan điểm riêng (đồng tình hay phản đối ý
kiến của bài báo) đồng thời còn có những bình luận phân tích, thể hiện cảm xúc về
vấn đề đã nêu.
Rất nhiều ý kiến đồng tình, khen ngợi các bài báo. Ví dụ:
(67) Tôi đồng ý với ý kiến của tác giả bài viết. Thi công chức mà nhƣ thi vấn
109
đáp (học thuộc lòng) thì TRƢỢT LÀ ĐƢƠNG NHIÊN… TIẾC THAY CŨNG MỘT
“KIẾP HỌC”! BUỒN THAY CHO VIỆC SỬ DỤNG HIỀN TÀI CỦA THỦ ĐÔ. (Lê
Thị Hồng) (Sát hạch công chức không phải kiểm tra bài học sinh DT 25/04/2015, PL1)
(68) Cám ơn ngƣời viết đã phản ánh đúng một phần thực trạng tuyển "công
chức" của Việt Nam. (Đào Đình Hưng) (Tiến sĩ trƣợt vẫn phục, VN mới có “cú nhảy
then chốt” VNN 23/04/2015, PL4).
Song cũng nhiều độc giả phản biện lại báo, phản đối ý kiến:
(69) Vớ vẩn thật, báo đƣa vậy mà cũng chấp nhận đƣợc, chỉ tiêu đƣa ra 1,
trong khi có tới 3, 4 ngƣời dự tuyển, thế làm sao mà đạt đƣợc. (Lâm Hà) (30 thạc sĩ,
thủ khoa xuất sắc nƣớc ngoài trƣợt công chức VNN 23/04/2015, PL3)
Đặc biệt, độc giả cung cấp những trƣờng hợp thực tế của bản thân hoặc
bản thân mình biết để củng cố thêm vấn đề mà bài báo đã đƣa ra:
(70) Tôi từng dự thi viên chức tại Ban quản lý dự án hạ tầng TN ở Lạc Long
Quân. Trong tất cả các thí sinh tham gia chỉ có duy nhất tôi là ngƣời ngoài, còn
một em nữa nhƣng mà có ngƣời quen trong đó. Các câu hỏi sát hạch trong nội bộ
đều biết hết và đã học thuộc lòng. Ở một vị trí có 2 ứng viên, trong đó có tôi và
đƣơng nhiên tôi tạch vì phỏng vấn mặc dù các tiêu chuẩn tính điểm khác tôi đều tốt
hơn! Mất thời gian và tiền bạc nhƣng đƣợc an ủi là họ đã gọi điện thoại hẹn cho
lần tuyển dụng sau nếu có sẽ thông báo. Vì đọc báo Hà Nội thấy thông tin mới nhảy
vô, không bao giờ tự mình vào những nơi nhƣ thế nữa nếu không có chỉ đƣờng dẫn
lối. Đúng là đất có thổ công, sông có hà bá! (Phản hồi này đặc biệt cũng xuất hiện
trong một bài báo khác của VietNamNet Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trải lòng thi
trƣợt công chức, VNN 24/04/2015 PL3)
(71) 10 năm trƣớc, tôi đọc thông báo tuyển công chức tại công ty nƣớc sạch
tỉnh nhà. Có hơn 10 thí sinh dự thi, bài viết và bài phỏng vấn của tôi khá tốt. Có
điều 1 bạn thí sinh tham dự (cháu ông to, ở tỉnh khác về thi) bị nhỡ xe đến tận chiều
mới có mặt dự thi. Tôi không biết bạn này có làm bài thi viết và phỏng vấn không,
nhƣng chỉ biết sau đấy các bạn có mặt đúng giờ thì trƣợt, còn duy nhất bạn này thì
đỗ. Và từ đấy, tôi không nộp hồ sơ thi vào công chức lần nào nữa. (Tam Trang)
(Những vụ thi công chức, viên chức “tai tiếng” DT 25/04/2015, PL1)
110
Các bình luận trên rõ ràng đã đưa những bằng chứng sống minh chứng thêm
cho những vụ thi công chức “tai tiếng” mà tiêu đề và bài viết đã đưa ra.
Thú vị hơn, độc giả còn phản hồi trả lời cho nội dung bài viết:
(72) Bài báo: Trò chuyện với phụ huynh chia sẻ về đoạn văn 0 điểm (VNN
20/11/2015, PL19)
Bài báo là cuộc trò chuyện của nhà báo với phụ huynh học sinh đã chia sẻ về
đoạn văn 0 điểm của con. Cụ thể đoạn văn đó như sau:
Đề bài: Viết một đoạn văn cảm nhận về mùa yêu thích.
Mở đầu học sinh viết: “Một buổi sáng thức giấc, bạn chợt thấy những cơn
gió se lạnh len lỏi qua từng góc phố, từng hàng cây, mơn man trên da mặt, xua đi
cái nóng oi ả của mùa hè. Đó là bƣớc chuyển mình dịu dàng, tinh tế của mùa thu -
mùa tôi yêu thích nhất...”
Đoạn văn mở đầu được cô giáo ghi bên lề 0 điểm, không kèm lời phê.
Trong bài báo, phụ huynh chia sẻ: “Thực tình, khi nhận bài thi của con, tôi
có nhiều phân vân là có nhất thiết câu mở đoạn phải vào thẳng đƣợc vấn đề không;
mở đoạn bắt buộc phải chỉ là 1 câu hay có thể 2 - 3 câu…
Nếu cháu viết theo lối quy nạp, đƣa ra toàn bộ các thông tin rồi kết đoạn
bằng câu “Mùa thu là mùa tôi yêu thích nhất” thì có đƣợc không? Hay cứ nhất
thiết phải nói rõ ngay từ đầu.”
Trả lời những băn khoăn của vị phụ huynh này, một độc giả đã bình luận:
Thƣa chị, ngay ở câu 2, không phải ở câu kết, con chị đã viết “Đó là bƣớc chuyển
mình ... mùa mà tôi yêu thích nhất", tức là con chị đã không phải viết theo cách quy
nạp. Vậy thì câu đầu mở đoạn là 0 điểm chị nhé. (Vo Viet Lap).
Ở đây, phản hồi của độc giả đã trả lời cho chính các câu hỏi trong bài. Nghĩa
là độc giả đã tham gia vào quá trình hoàn thiện thông tin cho bài báo.
Phổ biến nhất là độc giả tìm ra mâu thuẫn trong nội dung bài báo đưa ra. Cụ
thể là:
(73) Giám đốc Sở Nội vụ Hà Nội khẳng định: “Việc sát hạch là minh bạch,
khách quan. Nếu ứng viên thấy điểm bài viết không đúng với kết quả bài làm của
111
mình thì làm đơn, Sở Nội vụ sẵn sàng kiểm tra lại”. NHƢNG: Theo quy định thí
sinh không thể khiếu nại, phúc khảo. Sao lại có quy định vô lý vậy... (Sở Nội vụ Hà
Nội: Sẵn sàng kiểm tra lại bài thi nếu ứng viên làm đơn DT 05/05/2015, PL1-2)
(74) “Ngày xƣa, những ngƣời thi đậu trạng nguyên đƣợc vua trực tiếp gặp
nhƣng bây giờ nhiều ông vua con lắm, nhiều ông trời con lắm”. Đọc thấy đúng quá,
hay quá, tâm đắc quá!!! (Thành Nam)
Rất tinh ý, có khi độc giả chỉ phản hồi với một dấu hiệu nhỏ trong bài báo:
(75) Ôi trời. Cái bài viết giấu tên kia đã thấy là ngƣời viết tự nặn ra rồi.
Thật là hết chỗ nói. (Dương) (Chia sẻ của thạc sĩ giỏi nƣớc ngoài trƣợt công chức
Hà Nội (VNN 04/05/2015, PL3). Trong bài viết, nhân vật chia sẻ anh T. - Chƣa
muốn tiết lộ tên tuổi và nơi công tác, một thạc sĩ tốt nghiệp loại giỏi ở nƣớc ngoài
trải lòng với VietNamNet về kỳ kiểm tra, sát hạch tuyển dụng công chức của Hà Nội
mà anh vừa trải qua với kết quả “không đạt”.
Như vậy, độc giả có khá nhiều cách để tương tác với các nội dung bài báo đưa ra.
b. Tương tác về một phần nội dung bài báo
Cũng có khi, độc giả chỉ tương tác với một phần nội dung bài báo đưa ra:
(76) “Kiến thức về công vụ, công chức gồm: Khái niệm cán bộ, công chức
và phân định cán bộ với công chức; Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức; Đạo
đức, văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức; Những việc công chức không đƣợc
làm”.... Hay cho cái nội dung này, nội dung đề thi đã bộc lộ sự ì ạch của cái cơ chế
hiện nay, ngƣời giỏi trƣợt hết là phải thôi…buồn. (Trịnh Thịnh) (Nhiều thạc sĩ, cử
nhân xuất sắc, giỏi ở nƣớc ngoài trƣợt công chức Hà Nội DT 23/04/2015, PL1)
Trong phản hồi trên, nội dung được đưa vào dấu “ ” chính là một phần nội dung
đã đề cập trong bài báo. Độc giả bình luận về nội dung này dựa trên cơ sở nội dung đã
đưa ra trong bài: Đƣợc biết, các thí sinh này đã trải qua kỳ sát hạch với các nội dung:
Kiến thức về công vụ, công chức gồm: Khái niệm cán bộ, công chức và phân định cán
bộ với công chức; Nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công chức; Đạo đức, văn hóa giao
tiếp của cán bộ, công chức; Những việc công chức không đƣợc làm.
112
Trong đó, nội dung tương tác với các nhân vật trong bài luôn nổi bật. Phản
hồi thể hiện sự tương tác với nhân vật được phỏng vấn hay các nhân vật được trích
dẫn ý kiến trong bài báo:
(77) Rất tâm đắc với ý kiến của đại biểu Dƣơng Trung Quốc, không phải
khoa học kỹ thuật hay cái gì khác mà chính truyền thống lịch sử anh hùng đã làm
nên sự khác biệt của Việt Nam với các nƣớc khác và đƣợc các nƣớc bạn nể phục.
Nếu học theo phƣơng Tây để đƣa vào dạy học tích hợp, ta đang tự làm mất đi giá
trị cốt lõi của dân tộc. Môn học này không những bắt buộc mà nên đƣa vào môn thi
tốt nghiệp bắt buộc bậc THPT. (Sinh Doan) (Các nhà sử học kiến nghị: Lịch sử
phải là môn học bắt buộc DT 04/11/2015, PL12)
(78) Thứ nhất xin nói thẳng với ông HT Lâm rằng: Không có cơ sở để nói
HS lớp 12 mà nhà trƣờng ông đuổi học 10 ngày, là xúc phạm cô giáo. Thứ hai: Ông
có thể cấm đƣợc học sinh không tôn trọng thầy, cô giáo trong suy nghĩ, tình cảm
của các em và cấm HS tâm sự điều đó với bạn bè hoặc những ngƣời khác hay
không? Những việc làm của nhà trƣờng chứng tỏ sự yếu kém về năng lực quản lý
học sinh và cả trình độ công nghệ thông tin. Chẳng qua là nhà trƣờng chỉ muốn che
đậy sự thật. (Vân Lâm Lương) (Hạn chế học sinh sử dụng Facebook để ngăn ngừa
“loạn ngôn” DT 05/11/2015, PL18)
(79) Tôi rất tâm đắc câu trả lời của Tiến sĩ Ngô Tự Lập là: “Chỉ có nhà
tuyển dụng mới biết họ muốn gì và phải thay đổi nhƣ thế nào. Còn tôi thì tôi biết
khá rõ phải làm thế nào nhƣng tôi cũng chịu không làm đƣợc cho mình; bởi vì ...
(Trần Đức Phong) (“Ngƣời sát hạch có đầu óc bình thƣờng không ai đòi hỏi SV ra
trƣờng thành thạo công việc” DT 01/05/2015, PL1)
(80) Tôi rất đồng ý với ý kiến của GS Dong rằng, Sở Nội vụ Hà Nội đánh
giá những ngƣời thi trƣợt công chức do không tâm huyết là không đúng. Tôi lại liên
tƣởng đến phát ngôn của Phó TGĐ Công ty Công viên nƣớc Hồ Tây sau sự kiện
mất văn hóa ngày 19/4 rằng: “chất lƣợng biniki của cô ấy kém” nên mới có cảnh
gần sex nhƣ vậy! (Nguyễn Thái Dương) (Vì sao thủ khoa xuất sắc vẫn trƣợt công
chức ở Hà Nội? DT 06/05/2015, PL2)
113
(81) Câu hỏi chỉ 1 vị trí chỉ 01 ngƣời đăng ký mà thi vẫn trƣợt thì ông Hoa
trả lời không thuyết phục. (Lê Thị Nga) (Sở Nội vụ sẵn sàng đối thoại với ngƣời
trƣợt công chức VNN 05/05/2015, PL3)
(82) Cái vụ này thì ông Tuấn nói đúng. Nhiều trƣờng hợp đi học ở nƣớc
ngoài vì thi trƣợt đầu vào đại học trong nƣớc, hoặc gia đình giàu có mà đi từ lúc
còn học kiến thức cơ bản (VN gọi là các cấp phổ thông). Đó cũng là một thực tế.
(Nhân) (“Không phải cứ tốt nghiệp nƣớc ngoài mới giỏi” VNN 07/05/2015, PL3-4)
c. Tương tác về nội dung ở bài báo khác
Nhiều phản hồi đã vượt ra ngoài khuôn khổ từng bài để tương tác với bài
khác trong cùng chủ đề:
(83) Thí sinh H trƣợt là do chƣa tâm huyết khi thi, lần sau “dồn hết tâm huyết”
vào nhé mà phải hỏi mấy cán bộ tâm huyết là gì? (Trunggia) (Thạc sĩ loại Giỏi ở
nƣớc ngoài trƣợt công chức: Hoang mang sau khi thi! DT 04/05/2015, PL1)
(84) Các bạn có kết quả học tập xuất sắc ở nƣớc ngoài mà vẫn trƣợt khi thi công
chức? Các bạn có biết vì sao? Không phải các bạn thiếu tâm huyết nhƣ lời giải
thích của công chức “lâu năm hơn” nói… (Phạm Minh Hùng) (Sở Nội vụ Hà Nội:
Sẵn sàng kiểm tra lại bài thi nếu ứng viên làm đơn DT 05/05/2015, PL1-2)
Các bình luận này có liên quan tới một bài viết trước đó Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc
trƣợt công chức do chƣa tâm huyết (DT 26/04/2015, PL1)
Thậm chí, nhiều phản hồi còn có sự liên hệ hàm ý với những vấn đề khác,
đưa ra các cách lý giải cho những “nổi cộm” trong xã hội. Ví dụ: từ câu chuyện về
các thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc thi trượt công chức liên hệ đến việc các nhà vô địch
chương trình Đƣờng lên đỉnh Olympia không trở về nước.
(85) Đây chính là lí do khiến các nhà vô địch chƣơng trình đƣờng lên đỉnh
Olympia sau khi học xong ở nƣớc ngoài không muốn về nƣớc phục vụ. Đừng trách
họ mà hãy trách cơ chế của chúng ta trƣớc. (Nguyễn Trần Liên Thùy)
Đây là câu trả lời rõ ràng nhất: Vì sao các chủ nhân vòng nguyệt quế của
Đƣờng lên đỉnh OLYMPIA ra đi không ngày trở về đất nƣớc là đây. (Sanu) (Sát
hạch công chức không phải kiểm tra bài học sinh DT 25/04/2015, PL1)
114
(86) Cái này cũng cong mềm mại nhƣ đƣờng Trƣờng Chinh! Nó chỉ hợp
thức hóa cho những con cháu đã ký hợp đồng thôi! Chặt cây chƣa xong lại đến
tuyển ngƣời! Sự minh bạch thật xa xỉ. (Hoàng An) (Sát hạch công chức ở Hà Nội:
Nhiều câu hỏi cần lời giải đáp DT 07/05/2015, PL2)
Tóm lại, sự tương tác của độc giả về nội dung bài báo rất đa dạng. Nó thể
hiện tư duy toàn diện của độc giả về tất cả các mặt của vấn đề mà bài báo đưa ra.
3.2.2. Tương tác giữa các thể nhận
Bên cạnh việc tương tác với nhà báo thông qua các diễn ngôn báo chí thì độc
giả còn tương tác với các độc giả khác - những người cùng đọc bài báo, cùng có
những ý kiến phản hồi dưới bài báo. Thông qua các phản hồi, độc giả tiếp tục phản
hồi lại, cùng bình luận, trao đổi ý kiến với các bạn đọc khác. Có thể nói sự phản hồi
này rất đặc biệt. Nó hiện lên trực tiếp và song song cùng các phản hồi với bài báo.
Nó tạo nên một cuộc tranh luận trực tiếp giữa các độc giả. Trong đó, độc giả thường
tương tác về nội dung của bài báo hoặc tương tác về nội dung của các phản hồi.
3.2.2.1. Tƣơng tác về nội dung của bài báo
Độc giả thường tương tác với nhau về nội dung của bài báo. Nội dung bài
báo chính là sợi dây liên kết các ý kiến tranh luận của độc giả.
Trong số các phản hồi của bài báo“Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa
chừng” (DT, 29/09/2015, PL10) có một phản hồi đặc biệt. Đó là phản hồi của một
người trong cuộc có liên quan tới vụ việc và biết rõ vụ việc. Độc giả này đã chất
vấn và đối đáp lại những vấn đề mà bài báo và các độc giả nêu ra.
(87) Độc giả Đinh Thiện Thuật có phản hồi: Với những ngƣời này cần phải
mạnh tay. Không chỉ buộc trả lại kinh phí đã cấp mà còn phải tính lãi suất cao hơn.
Hạng ngƣời này là loại trí thức không có nhân cách, vô liêm sỉ. Họ lừa Đảng bộ và
nhân dân Đà Nẵng. Nếu không có Đà Nẵng, những ngƣời này làm sao có cơ hội đi
du học. (DT, “Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng, PL10)
Sau phản hồi này là sự tương tác trực tiếp lại của độc giả đặc biệt:
(88) Mọi ngƣời khi chƣa nắm rõ vấn đề thì đừng nên vội phán xét một con
ngƣời nhƣ vậy. Trƣờng hợp đƣợc nêu ra ở đây là em tôi. Em tôi là học viên xuất sắc
115
thứ 2 toàn ngành, tháng 3 năm 2014 khi chƣa tốt nghiệp nhƣng đã đƣợc nhận học
bổng toàn phần một Đại học danh tiếng. Khi đó có gửi đơn về Trung tâm Phát triển
nguồn nhân lực chất lƣợng cao và các bác lãnh đạo thành phố nhƣng đều không
đƣợc chấp thuận. Em tôi chỉ xin thời gian để học tiếp. Gia đình chúng tôi không hề
có ý định ăn cháo đá bát nhƣ mọi ngƣời nói ở đây. [...] TÔI CHỈ KHUYÊN ĐỪNG
VỘI NHẬN XÉT MỘT CON NGƢỜI VÔ ĐẠO ĐỨC HAY QUA CẦU RÚT VÁN
QUÁ VỘI… (Quynh Ho) (DT, “Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng, PL10)
Phản hồi của độc giả Đinh Thiện Thuật là những lời lẽ rất quyết liệt phê phán
thái độ và nhân cách của những “nhân tài” được cử đi học nhưng không trở về làm
việc như cam kết. Đó chính là nguyên cớ dẫn đến phản hồi của độc giả Quynh Ho.
Trong phản hồi phía dưới phản hồi của Đinh Thiện Thuật, độc giả Quynh Ho tương
tác với tất cả độc giả (trong đó có cả nhà báo): Mọi ngƣời khi chƣa nắm rõ vấn đề thì
đừng nên vội phán xét một con ngƣời nhƣ vậy. Toàn bộ nội dung của phản hồi này
xoay quanh câu chuyện các nhân tài thua kiện vì không trở lại làm việc cho thành phố
Đà Nẵng như đúng cam kết ban đầu trước khi đi học (Nhân tài” thua kiện vì… bỏ
cuộc nửa chừng). Nội dung tương tác chính là nội dung mà bài báo đã đề cập tới.
3.2.2.2. Tƣơng tác về nội dung của phản hồi
Đây là phần tương tác phổ biến hơn. Thông thường có một ý kiến phản hồi
gây được sự chú ý và các độc giả bình luận trực tiếp vào nội dung của phản hồi đó.
Các phản hồi này thường cũng xoay quanh vấn đề bài báo đã đưa ra.
Ví dụ:
(89) Các cụ ơi... bây giờ không có chuyện xin việc nữa đâu, phải nói là
mua việc mới đúng. “Nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ”. Tôi cảm
thấy thất vọng vô cùng khi nhìn thấy cảnh mua việc diễn ra nhƣ mua rau ngoài chợ.
(Nguyễn Chí Cường)
Đây là phản hồi đầu tiên của bài viết Thạc sĩ, thủ khoa xuất sắc trải lòng thi
trƣợt công chức (DT 24/04/2015, PL1), cũng là phản hồi nhận được rất nhiều bình
luận của các độc giả khác cùng đọc bài báo này:
Tôi cơ bản đồng ý với bình luận của bạn Cường, nhƣng ở chợ làm gì có loại
rau mua bán sao mà đắt thế; từ hàng chục cho đến hàng trăm triệu đồng, thế thì nó
là cái rau gì? (Họ Tên Van Thiem)
116
Cường ơi mình thấy cũng không có đúng lắm đâu. Phải nói là cái giỏ sách
của thí sinh nào nặng hơn thôi. Mình cũng là ngƣời có học lực cũng nhƣ kinh
nghiệm và hiệu quả đứng lớp hơn nhiều ngƣời cùng thi với mình. Vậy mà họ vẫn đỗ
với điểm loại giỏi nữa mới kinh!!!!!!!! Khủng chứ. Về làm ông chủ trang trại không
cần phải xin thằng nào hết. (Võ Văn Dư)
Bạn Nguyễn Chí Cường nói rất đúng: “Nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền
tệ, bốn trí tuệ”. Giờ mà rà soát cuộc thi tuyển công chức ngành tôi thì trao ôi trƣợt
90%, vì kiến thức học xa với thực tế làm việc, thử hỏi khi ra đề thì họ làm kiểu gì,
ngƣời thì vẫn đỗ, kẻ vẫn trƣợt. Chao ôi muôn vàn lý lẽ để tuyển. (Maianh)
Bạn Nguyễn Chí Cường nói rất hay và rất rất đúng. Bái phục. (Tomas Vũ)
(90) Ngƣời giỏi mà thi trƣợt, chứng tỏ chƣa giỏi, đơn giản chỉ là vậy thôi!
(Nguyễn Ngọc Thể)
@Nguyễn Ngọc Thể: Không giỏi luồn cúi, phỉnh nịnh. (Chung Yen)
@Nguyễn Ngọc Thể: CHUẨN! (mr0909298310)
(91) Thi công chức: Thủ khoa, thạc sĩ “xịn” trƣợt còn dài dài (VNN
28/04/2015, PL3)
Bạn làm tôi nhớ truyện Rùa và Thỏ chủ quan cứ cho mình tài giỏi hơn ngƣời
khác trƣợt là phải. Đã thế không nhận lỗi lại đổ thừa cho ngƣời khác là ý thức kém
(Nguyễn Văn Vinh)
@Nguyễn Văn Vinh: Thỏ vẫn là Thỏ. Rùa có thể lừa đƣợc Thỏ 1 lần nhƣng
thực lực không có thì làm sao lừa đƣợc mãi. (Đặng Trần Hiệp)
Độc giả Đặng Trần Hiệp đã tranh luận (bằng hình ảnh Rùa và Thỏ) với phản
hồi của độc giả Nguyễn Văn Vinh. Độc giả Nguyễn Văn Vinh ví các thủ khoa, thạc
sĩ trượt công chức là Thỏ (trong câu chuyện ngụ ngôn Rùa và Thỏ), chủ quan nên
thất bại. Phản hồi này có ý chê trách các thủ khoa, thạc sĩ. Độc giả Trần Văn Hiệp
trái lại đã bênh vực cho họ với lý lẽ “Thỏ vẫn là Thỏ” - tài giỏi thì vẫn là tài giỏi, có
thể thất bại một lần (trong cuộc đua với Rùa) nhưng sẽ không thất bại mãi.
Thông qua các phản hồi tương tác qua lại giữa các độc giả, có thể thấy các
nội dung phản hồi được thể hiện có chiều sâu hơn. Sự tranh luận của độc giả sau với
phản hồi của độc giả trước làm cho vấn đề được nhìn nhận theo nhiều chiều.
117
Tóm lại, nội dung tương tác của thể nhận được phân tích qua sự tương tác
đối với hai đối tượng cụ thể là: (1) nhà báo (thể phát), (2) độc giả khác (thể nhận
khác). Qua đó có thể thấy sự tương tác của các phản hồi diễn ra rất đa dạng. Có thể
khái quát với mô hình sau:
Tương tác của thể nhận
Tương tác với thể nhận khác Tương tác với thể phát
Tương tác với tiêu đề
Tương tác với nội dung Tương tác với nội dung
Toàn bộ nội dung Một phần nội dung Nội dung bài báo Nội dung ở bài báo khác Nội dung của phản hồi khác
Hình 3.3: Tƣơng tác của thể nhận
3.3. Các yếu tố thể hiện sự tƣơng tác của thể nhận
Các yếu tố thể hiện sự tương tác của thể nhận là hành động ngôn từ và một
số phương tiện ngôn ngữ khác. Trong đó, hành động ngôn từ giữ vai trò nòng cốt
trong việc thể hiện tính tương tác.
3.3.1. Hành động ngôn từ
Hành động ngôn từ là yếu tố quan trọng trong việc nhận diện tương tác diễn
ngôn. Đó là yếu tố thể hiện hệ tư tưởng và quyền lực của diễn ngôn trong những
ngữ cảnh khác nhau. Khảo sát hành động ngôn từ qua các diễn ngôn phản hồi của
thể nhận, chúng tôi nhận thấy ngoài vấn đề hành động ở lời còn xuất hiện hành
động mượn lời.
118
3.3.1.1. Hành động ở lời
Chúng tôi khảo sát ngẫu nhiên phản hồi của một chủ đề: chủ đề 3-Đà Nẵng
kiện nhân tài. Chủ đề có nội dung liên quan tới việc Đà Nẵng khởi kiện các “nhân
tài” vì thành phố đã chi ngân sách hàng chục tỉ đồng để cử các học viên đi học nước
ngoài nhưng học xong họ không trở về làm việc cho thành phố như cam kết ban
đầu. Xung quanh vấn đề này có rất nhiều ý kiến của độc giả bàn về chuyện của các
“nhân tài” và chính sách Nhà nước.
Chủ đề này có 10 bài báo với 103 diễn ngôn phản hồi của độc giả. Mỗi diễn
ngôn phản hồi có thể bao gồm nhiều hành động ở lời khác nhau nhưng luôn có một
hành động ở lời chủ hướng. Bảng khảo sát số lượng hành động ở lời dưới đây dựa
trên hành động ở lời chủ hướng trong mỗi phản hồi. Chúng được phân loại theo 5
nhóm hành động ở lời của Searle: trình bày, điều khiển, cam kết, biểu cảm, tuyên
bố. Cụ thể:
STT Tên bài
Trình bày 14 Nhóm hành động ở lời Biểu Cam cảm kết 4 0 Điều khiển 8 Tuyên bố 0
1
3 0 0 0 0 2
7 0 1 0 0
3 “Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng Đà Nẵng tiếp tục khởi kiện “nhân tài” vi phạm hợp đồng Đề án 922 Vụ “Đà Nẵng khởi kiện nhân tài”: Ký 'hợp đồng trái tim', xử bằng 'hợp đồng luật pháp'
0 4 1 19 1 0 2 7 1 4 1 11 0 0 0 0 0 0 0 0
8 1 5 0 0
0 0 1 0 0 0 0 0 0 0
4 Vụ kiện nhân tài 5 Nhân tài bội tín 6 Nhân tài và trách nhiệm công dân Đà Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện 7 kháng cáo Thêm một “nhân tài” thua kiện, tòa 8 tuyên phải bồi hoàn gần 2 tỷ 9 Đà Nẵng đòi “nhân tài” trả lại 10 tỷ đồng Đà Nẵng: Nhân tài thua kiện, bị 10 buộc trả 1,7 tỷ đồng
Tổng 0 0
56 (54,4%) 31 (30,1%) 16 (15,5%)
Bảng 3.5: Số lƣợng các nhóm hành động ở lời trong phản hồi
119
Kết quả khảo sát cho thấy độc giả đã sử dụng rất nhiều hành động ở lời để
tương tác lại với nhà báo và các độc giả khác. Trong đó, nhóm hành động cam kết,
tuyên bố không xuất hiện trong phạm vi khảo sát. Hành động cam kết có đích ở lời
là trách nhiệm phải thực hiện hành động tương lai mà người nói ràng buộc; hướng
khớp ghép hiện thực – lời. Còn hành động tuyên bố liên quan tới vai xã hội, phải có
một vị thế xã hội với một quyền lực nào đó mới có thể đưa ra một hành động tuyên
bố. Bản chất của hành động tuyên bố liên quan tới hướng khớp ghép phải làm thay
đổi một hiện thực nào đó trước đó và liên quan tới vị thế xã hội. Thông thường, độc
giả phản hồi không chiếm giữ một vị trí xã hội, một địa vị chính trị quyền lực lớn
nào và cũng không ràng buộc mình vào trách nhiệm thực hiện hành động gì nên
không có hành động tuyên bố, cam kết.
Trình bày, điều khiển, biểu cảm là 3 nhóm hành động ở lời được sử dụng
nhiều với tần số lớn nhất. Mỗi nhóm hành động đều có các yếu tố ngôn ngữ đánh
dấu, ví dụ:
Nhóm Yếu tố
STT hành ngôn ngữ Ví dụ
động ở lời đánh dấu
Những học viên này theo tôi thấy là có tài mà ích 1 Trình bày thấy là
kỷ.
Xử và bắt đền là đúng. là
theo tôi Theo tôi, không chỉ đền tiền mà nên xem xét đến
cả mặt hình sự.
đừng Ai không ở trong cuộc thì đừng bình luận vu vơ. 2 Điều
Đừng vội trách ai. khiển
Nên cẩn trọng khi quyết định một điều gì nên
Hãy cẩn trọng đối với những nhà báo góp phần hãy
làm ô nhiễm môi trường.
đề nghị Đề nghị truy tố ra pháp luật, không gia hạn visa và
đề nghị nước bạn trục xuất về nước.
phải Với những người này cần phải mạnh tay.
120
Cần rút kinh nghiệm và xét duyệt kĩ các đối tượng
này trước khi cử đi học. cần
“có dễ gì” Các đối tượng này được ưu ái, có cơ hội là muốn 3 Biểu cảm
“còn gì “bùng” còn gì là đạo đức, đạo lý - ăn xong, quẹt
mỏ định bỏ đi ư? là…ư”
Thật hổ danh. thật
thật là Thật là vô đạo đức - ăn cháo đá bát.
thật quá là Một cô giáo người Nhật nói với tôi rằng cuộc sống
ở Việt Nam thật quá là khủng khiếp và khắc
nghiệt.
Bảng 3.6: Ví dụ về các nhóm hành động ở lời trong phản hồi
a. Trình bày
Trình bày (còn gọi là biểu hiện, miêu tả, xác tín) có đích là miêu tả, kể lại,
trần thuật lại một sự tình. Đây là nhóm hành động được sử dụng nhiều nhất trong
phạm vi khảo sát (54,4%). Phần lớn các phản hồi là sự bày tỏ quan điểm, cách đánh
giá, nhận xét của độc giả đối với nội dung được trình bày trong bài báo. Ví dụ:
(92) Đồng tình cách Trung tâm Phát triển nguồn lực Đà Nẵng đang làm.
Các tỉnh, thành phố khác nên học theo. (Nam Han) (Đà Nẵng: 7 “nhân tài” thua
kiện kháng cáo, DT, PL10)
(93) Ủng hộ Trung tâm phát triển nguồn nhân lực Đà Nẵng, có nên chăng
nên có một góc nhìn khác về câu chuyện cử ngƣời đi đào tạo bằng tiền của nhân
dân, tiền của cơ quan, tập đoàn, công ty. Nên chọn kỹ ngƣời, có chế tài thƣợng tôn
luật pháp với những trƣờng hợp không tôn trọng mồ hôi nƣớc mắt của nhân dân.
Nhiều ngƣời họ tự đi làm bỏ tiền lƣơng ra để đi học, mình đã đi học bằng tiền của
nhân dân mà còn không hiểu. (Hoàng Lê) (Đà Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện kháng
cáo, DT, PL10)
Trong đó, độc giả thường sử dụng những kết cấu ngôn ngữ quen thuộc như
“là”, “thấy là”.
121
Ví dụ độc giả nhận định về những người tài trong các câu chuyện đưa ra:
(94) Mình thấy là những kẻ cơ hội hơn là nhân tài, bởi vì nếu là nhân tài sao
không tự tìm học bổng mà đi? Nếu xác định đi thì biết là tiền của dân, sao không về
phục vụ? (Vuong Cuong) (Đà Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện kháng cáo, DT, PL10)
(95) Những học viên này theo tôi thấy là có tài mà ích kỷ. (Mai Hoa) (Đà
Nẵng tiếp tục khởi kiện “nhân tài” vi phạm hợp đồng Đề án 922, DT, PL10)
Độc giả nhận định về quyết định khởi kiện của thành phố:
(96) Xử và bắt đền là đúng, tôi ủng hộ. Biết bao học sinh nghèo học giỏi
muốn đƣợc du học và làm việc cho đất nƣớc có dễ gì đƣợc xét đâu. Các đối tƣợng
này đƣợc ƣu ái, có cơ hội là muốn “bùng” còn gì là đạo đức, đạo lý - ăn xong, quẹt
mỏ định bỏ đi ƣ? (Phạm Minh Anh) (Đà Nẵng tiếp tục khởi kiện “nhân tài” vi
phạm hợp đồng Đề án 922, DT, PL10)
(97) Đà Nẵng luôn chính trực, bỏ tiền ra đào tạo khi có bằng về phản bội,
bồi thƣờng là chính đáng. (Hữu Viễn) (Thêm một “nhân tài” thua kiện, tòa tuyên
phải bồi hoàn gần 2 tỷ, DT, PL10)
Có những phản hồi lặp đi lặp lại rất nhiều kết cấu “là” này.
(98) Đã nhận tiền nhà nƣớc đi học là phải trở về. Quyền lợi phải đi đôi
với nghĩa vụ. Khi đặt bút ký vào bảng cam kết, ai cũng biết là có ràng buộc trở về.
Nhƣng muốn đi nƣớc ngoài, muốn tìm cơ hội phát triển khác, nhiều ngƣời đã bất
chấp với suy nghĩ ngay từ đầu là không trở về. Họ nghĩ chẳng bao giờ bị đòi, vì
thực tế số lƣợng này là không ít. Nhƣng họ không có tự trọng khi cầm tiền thuế của
dân, trong đó có nhiều ngƣời bán từng bó rau thiếu ăn hàng ngày, phục vụ cho mục
đích cá nhân. Tôi ủng hộ Đà Nẵng trong vụ này 100%. Làm mạnh vào, phạt thẳng
tay cho những kẻ cơ hội không thể hút máu của nhân dân thêm nữa. (Hiep) (Đà
Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện kháng cáo, DT, PL10)
Không chỉ thể hiện quan điểm bằng kết cấu “là” phổ biến, độc giả còn trực
tiếp thể hiện cái tôi của mình bằng cụm từ phổ biến là “theo tôi”:
(99) Theo tôi, không chỉ đền tiền mà nên xem xét đến cả mặt hình sự.
Không thể khơi khơi nhƣ thế đƣợc. Đƣợc thì nhà nƣớc cho tiền đi học, còn không
thích nữa thì lại không về. Nói thật là nếu không khởi kiện thì chắc chắn toàn bộ số
122
tiền lo cho các anh/chị này sẽ mất. Thế thì khác gì tội lừa đảo. (Gianghaiyen) (Đà
Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện kháng cáo, DT, PL10)
Nhóm hành động ở lời trình bày thể hiện mong muốn được nói ra sự hiểu
biết, bày tỏ quan điểm cá nhân của độc giả với thông tin được đưa ra.
b. Điều khiển
Nhóm hành động này được sử dụng khá nhiều trong phạm vi khảo sát
(30,1%). Nhóm này có các hành động ở lời như yêu cầu, đề nghị, khuyên, khuyến
khích, kiến nghị…
Theo khảo sát; các từ hãy, đừng, phải, nên là những từ xuất hiện nhiều nhất
trong các phản hồi có hành động ngôn từ điều khiển. Độc giả luôn thể hiện mạnh
mẽ quan điểm của mình bằng những lời khuyên (nên), đề nghị (phải), yêu cầu
(đừng, hãy).
(100) Ai không ở trong cuộc thì đừng bình luận vu vơ. Cái gì cũng có mặt
trái mặt phải của nó. Thành phố cho đi học là may mắn lắm rồi. Nhƣng ở lại hay về
nƣớc chỉ là tƣơng đối. Ở lại chƣa chắc là không yêu nƣớc, không giúp gì cho đất
nƣớc. Về nƣớc nhiều lúc chẳng làm nên trò trống gì. Chỉ những ngƣời trong cuộc
mới hiểu nhau. Đừng vội trách ai. Còn việc trả lại tiền thì đƣơng nhiên. Không ai
gạt nhà nƣớc cả, nhất là đối với những ngƣời có trình độ. Việc trả nợ đã có nghị
định 143/NĐ-CP ngày 24/3/2014 rồi. Đừng lo. Nhƣng có một điều chắc chắn rằng
khi thời gian ngắn quá thì chƣa xong thôi. Kiện nhau là cực chẳng đã. Nhƣng khi
đã kiện nhau thì tình cảm mất hết, hơn nữa để lại một vết nhơ trong hồ sơ của
ngƣời bị kiện. Thành phố có hiểu cho điều này không. Nên cẩn trọng khi quyết định
một điều gì. Nhiều báo nhảy vào cuộc viết vu vơ, nhƣng có sức lan toả. Ai hiểu
ngọn ngành. Chƣa đánh đƣợc ngƣời thì mặt đỏ nhƣ vang, nhƣng đánh đƣợc ngƣời
rồi thì mặt vàng nhƣ nghệ. Hãy cẩn trọng đối với những nhà báo góp phần làm ô
nhiễm với những chuyện không đáng có, nhƣ nhà báo T.T trên báo PL TPHCM.
(Nguyễn Như Minh) (“Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng, DT, PL10).
(101) Gọi một câu cho đúng thì họ là những kẻ “ăn cháo đá bát”. Họ bội
tín không phải vì một lí do nào khác mà thực ra nó xuất phát từ lòng tham, lèo lá,
cơ hội.... của một bộ phận không nhỏ của ngƣời Việt Nam. Đừng đổ tại môi trƣờng
123
làm việc hay mức lƣơng. Phải hiểu cho đúng. Ngay từ đầu chấp nhận đi du học nhờ
tiền của dân thì phải có nghĩa vụ phục vụ. Nhƣng rồi sao? Một chút tự trọng cũng
không có. Phải xử thật nghiêm, qui vào tội lợi dụng tín nhiệm gây thiệt hại cho Nhà
nƣớc. (Người Vô Hình) (Nhân tài bội tín, DT, PL10)
Với chủ điểm nội dung liên quan tới vấn đề về xử lí người tài vi phạm hợp
đồng, độc giả đã chủ động kiến nghị rất nhiều hình thức phạt người tài. Các kiến
nghị này được thể hiện trực tiếp với động từ như đề nghị, yêu cầu, tƣớc bỏ…
(102) Bồi hoàn gấp 2 quá nhẹ tay, làm vài năm ở nƣớc ngoài là dƣ sức trả,
đề nghị truy tố ra pháp luật, không gia hạn visa và đề nghị nƣớc bạn trục xuất về
nƣớc. (Huan Dam) (“Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng, DT, PL10)
(103) Là công dân tôi đề nghị phải tính lãi tối thiểu theo lãi vay ngân hàng
vì đây là tiền thuế của dân. Yêu cầu hoàn trả ngay lập tức. Tước bỏ tƣ cách công
dân Việt Nam. Đề nghị Bộ ngoại giao và đại sứ quán các nƣớc sở tại tạm ngừng
học và không nhận những ngƣời này vào làm việc đến khi chấp hành xong đền bù.
(Dao Xuan Khoat) (“Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa chừng, DT, PL10)
(104) TP tạo điều kiện cho đi học vậy mà họ đi học xong lại không muốn về
cống hiến cho đất nƣớc. Ừ thì nƣớc mình còn nghèo không thể có những chế độ đãi
ngộ nhƣ nƣớc khác nhƣng muốn đất nƣớc đƣợc phát triển thì các nhân tài cần phải
gắn bó với đất nƣớc để đƣa nƣớc mình phát triển chứ. Đây giống nhƣ kiểu ăn cháo
đá bát ý. Ngƣời có tài mà không có đức thì cũng vứt đi mà thôi. Theo mình nên để
nhƣ lúc đầu nếu họ vi phạm cần phạt gấp 5 lần thì mới đúng. Chứ bồi hoàn có
100% đến 200% thì nhằm nhò gì. Mình thấy đây cũng là bài học cho những ai mà
đƣợc hỗ trợ đi học nhƣ vậy. (Nhàn Thu) (“Nhân tài” thua kiện vì… bỏ cuộc nửa
chừng, DT, PL10)
Nhóm hành động ở lời điều khiển thể hiện mong muốn của độc giả được tham
gia và có quyền quyết định đối với thông tin và cách xử lí thông tin mà họ đọc được.
c. Biểu cảm
Nhóm hành động này được sử dụng ít nhất trong phạm vi khảo sát (15,5%).
Song đây là nhóm hành động khá sinh động. Sự bày tỏ quan điểm, thái độ của độc
124
giả thường đi kèm với sự bộc lộ cảm xúc. Vì thế, một số phản hồi có hành động ở
lời thuộc nhóm biểu cảm.
Trong đó, nổi bật là hành động cảm thán về vật, việc đã nêu trong bài báo hoặc
đã nêu trong phản hồi của độc giả trước đó với các từ ngữ đặc trưng như: thật, quá…
(105) Cái kiểu dựa vào Nhà nƣớc lấy tiền ăn học nhƣ này có mà đầy rẫy
trong các bộ ngành liên quan đến ngân sách. Thật hổ danh. (Hoacaothuy) (Đà
Nẵng đòi “nhân tài” trả lại 10 tỷ đồng, VNN, PL11)
(106) Kỳ lạ thật. Đã không nhận tiền của Nhà nƣớc thì thôi. Nhận tiền đi
học thì phải có nghĩa vụ và trách nhiệm. Ai lại chơi “chạy làng” bao giờ. (Thêm
một “nhân tài” thua kiện, tòa tuyên phải bồi hoàn gần 2 tỷ, DT, PL10)
(107) Phải đòi lại tiền cho dân ko thể chấp nhận kiểu ăn cháo đá bát thế
đƣợc, thật đáng xấu hổ khi làm đơn kháng cáo!!! (Tang Nguyen) (Đà Nẵng: 7
“nhân tài” thua kiện kháng cáo, DT, PL10)
(108) Giá nhƣ nơi đâu cũng làm đƣợc nhƣ Đà Nẵng thì thật tuyệt vời. Cần
có chính sách đãi ngộ với những sinh viên tốt nghiệp trong nƣớc và có lòng nhiệt
huyết với quê hƣơng. Đừng lãng phí cho chất xám bay ra khỏi biên giới. (HOANG
BINH MINH) (Đà Nẵng: 7 “nhân tài” thua kiện kháng cáo, DT, PL10)
(109) Xử và bắt đền là đúng, tôi ủng hộ. Biết bao học sinh nghèo học giỏi
muốn đƣợc du học và làm việc cho đất nƣớc có dễ gì đƣợc xét đâu. Các đối tƣợng
này đƣợc ƣu ái, có cơ hội là muốn “bùng” còn gì là đạo đức, đạo lý - ăn xong, quẹt
mỏ định bỏ đi ư? (Phạm Minh Anh) (Đà Nẵng tiếp tục khởi kiện “nhân tài” vi
phạm hợp đồng Đề án 922, DT, PL10)
Những từ ngữ như thật, thật đáng, thật quá là… thể hiện cảm xúc ở mức độ
cao của độc giả. Kết cấu “còn gì là…ƣ?” thể hiện sự băn khoăn, thái độ phê phán
của người nói.
Có khi độc giả sử dụng từ ngữ chuyên biệt chỉ nụ cười chế giễu như ha ha:
125
(110) Vậy là hay rồi. Ngƣời có thực tài thì trong môi trƣờng, hoàn cảnh
nào cũng tài. Đâu cần suy nghĩ thiệt hơn. Ha ha. (Nguyễn Hữu Hạnh) (Vụ kiện
nhân tài, DT, PL10)
“Ha ha” thể hiện cảm xúc tức thời của độc giả ngay khi nói.
Tóm lại, khảo sát sơ bộ cho thấy khi tiến hành phản hồi, độc giả đã sử dụng rất
nhiều hành động ở lời với nhiều mục đích khác nhau (trình bày quan điểm, tham gia
điều khiển, biểu cảm về thông tin…) Một số từ ngữ, kết cấu ngôn ngữ phổ biến như
đã phân tích ở trên chỉ là một số trường hợp điển hình trong phạm vi khảo sát. Sự
phân chia ba nhóm hành động ở lời được sử dụng nhiều (trình bày, điều khiển, biểu
cảm) chỉ là tương đối bởi thực tế lượng phản hồi phong phú và có khá nhiều phong
cách. Có nhiều phản hồi có thể được xếp vào nhiều loại hành động ở lời và nó mang
nhiều đích khác nhau. Sự phong phú về hành động ở lời tạo nên sự “đa thanh”
trong phản hồi. Nghĩa là diễn ngôn phản hồi của độc giả bộc lộ nhiều tiếng nói.
3.3.1.2. Hành động mƣợn lời
Hành động mượn lời (hành vi mượn lời) là những hành động “mượn” các
phương tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả nào đó ngoài ngôn ngữ đối với người
nghe, người nhận hoặc ở chính người nói. “Có những hiệu quả mượn lời là đích của
một hành vi ở lời nhưng có những hiệu quả không thuộc đích của hành vi ở lời”.
[12; 89]. Vì thế, những hiệu quả mượn lời không có tính quy ước (trừ hành vi mượn
lời đích của hành vi ở lời).
Do đặc tính của diễn ngôn báo chí nên đối thoại trong diễn ngôn báo chí
không phải là song thoại hay tam thoại. Mỗi độc giả là một thoại nhân, có một cơ số
thoại nhân cùng tham gia tương tác với một diễn ngôn do nhà báo tạo lập. Điều này
dẫn đến sự xuất hiện của hành động mượn lời/ hành động ngoài lời bên cạnh hành
động ở lời/ hành động tại lời. Nếu như hành động ở lời được tạo lập nhằm ngôn ngữ
hóa cho mục đích giao tiếp, mục đích tạo lập diễn ngôn đồng thời hiện thực hóa cho
quyền lực của người tạo lập diễn ngôn; thì hành động mượn lời thể hiện quyền lực
của người tiếp nhận diễn ngôn trong việc lĩnh hội diễn ngôn vượt ngoài những mục
đích giao tiếp ban đầu của người tạo lập. Trong diễn ngôn báo chí, hành động mượn
126
lời thể hiện rõ nhất ở những phản hồi của độc giả nằm ngoài mục đích tạo lập diễn
ngôn của nhà báo.
Nếu như sự phong phú về hành động ở lời tạo nên sự “đa thanh” (nhiều tiếng
nói) thì sự đa dạng của hành động mượn lời tạo nên sự “dị thanh” (nhiều tiếng nói
khác nhau). Điều này phần nào lí giải lí do tại sao ở các báo đều có bộ lọc phản hồi.
Nhiều phản hồi đã được biên tập viên của báo chỉnh sửa câu chữ và một số phản hồi
thì không được đăng (với những lí do khác nhau chẳng hạn như thô tục, không phù
hợp tôn chỉ của tờ báo…). Đây cũng là điều khác hẳn với phản hồi trên Facebook.
Do tính chất đặc biệt của loại hành động mượn lời này, những dẫn chứng dưới
đây được chúng tôi thu thập qua khảo sát nhiều bài báo ở các chủ đề khác nhau.
(111) Ví dụ: Bài báo Bộ Giáo dục “bác” thông tin khai tử môn Lịch sử (DT
12/11/2015, PL12) trình bày thông tin Bộ Giáo dục khẳng định Lịch sử vẫn là môn
bắt buộc đối với học sinh và sẽ đứng độc lập như một môn tự chọn trong chương
trình THPT dành cho các học sinh chọn thi đại học vào các khối có tuyển sinh môn
Lịch sử. Bài báo đưa ra các ý kiến từ Thứ trưởng Bộ GD- ĐT. Ông cho biết thông
tin môn Lịch sử sẽ bị xóa bỏ khỏi chương trình phổ thông mới như nhiều ý kiến
phản ánh là chưa đầy đủ và chưa phản ánh đúng bản chất của việc đổi mới giáo dục
Lịch sử trong chương trình phổ thông.
Như vậy, mục đích của bài báo là thông báo và trình bày thông tin nhằm giúp
độc giả tiếp nhận thông tin đúng theo quan điểm của Bộ. Song hầu hết ở các phản
hồi của độc giả là sự phê phán giáo dục, phê phán cách dạy môn Lịch sử và phê
phán cách làm của Bộ. Những hiệu quả này là ngoài đích thông báo của bài báo.
(112) Tại sao giáo dục hiện nay càng đổi mới càng loạn lên vậy? Lịch sử ở
Việt Nam cần độc lập với tƣ cách là một môn học riêng. Đất nƣớc Việt Nam có bốn
nghìn năm lịch sử - Chúng ta vẫn tự hào nhƣ vậy. Là một môn học riêng mà nhiều
sự kiện lịch sử vẫn chƣa đƣợc biết, nếu gộp chung sẽ ra sao. Hiện nay việc học,
hiểu biết lịch sử ở Việt Nam đã quá sa sút rồi, xin các vị không có sáng kiến gì nổi
trội thì đừng xáo trộn thế. (Chien Nguyen)
Chủ yếu là do cách dạy lịch sử của ta quá nhàm chán khiến học sinh không
127
muốn học. Vì thế các bác lại nghĩ cách ghép lịch sử với các môn khác để né cái từ
"môn lịch sử" cho học sinh đỡ sợ. Mong rằng cải cách sẽ mang lại hiệu quả chứ
không nhƣ cải cách kỳ thi đại học năm 2015 vừa rồi. (Mai)
Cải cách giáo dục cách nào thì cũng phải đảm bảo môn Lịch sử là môn
chính, bắt buộc ở các kỳ thi. Tất cả các nƣớc trên thế giới đều chú trọng vấn đề lịch
sử dân tộc, nƣớc ta cần phải làm vậy mới giữ đƣợc độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh
thổ, mới phát triển đất nƣớc đƣợc. (Manh Ha)
Tất cả những hiệu quả mượn lời trên rất có thể nằm trong sự “tính toán” của
nhà báo bởi ngay từ tiêu đề bài viết đã bộc lộ ít nhiều khả năng gây ra tranh luận.
Những từ như “bác”, “khai tử” đã có tính chất châm ngòi mâu thuẫn giữa thông tin
đưa ra và phản hồi của độc giả.
Ở rất nhiều trường hợp, hiệu quả mượn lời thể hiện ở các phản hồi của độc
giả có thể vượt ngoài đích tạo lập diễn ngôn ban đầu của bài báo.
(113) Ví dụ: Trong bài báo Giáo viên lên tiếng về đoạn văn mở 0 điểm gây
xôn xao. (DT 19/11/2015, PL19) có những phản hồi như sau:
Con tôi giờ đang học lớp 1, sắp hết nửa học kỳ rồi mà giờ đánh vần còn
chƣa đƣợc, vậy mà đã cho các cháu học toán. Chữ chƣa rõ sao có thể đọc đƣợc đầu
bài để làm. Không biết do chƣơng trình mới yêu cầu dạy nhƣ vậy hay giáo viên giờ
thiếu trách nhiệm, hay vì đồng tiền mà quên đi đạo đức của nghề làm giáo. Tôi có
hỏi con tôi giờ không biết chữ sao con làm đƣợc toán, cô giáo có dạy đánh vần
không? Con tôi bảo là không, vậy tôi cũng không hiểu dạy kiểu gì??? Đạo đức giáo
viên giờ đi xuống trầm trọng. (Tuan Minh)
Bạn nên dành nhiều thời gian cho con cái hơn thay vì trách móc các cô thầy.
Thứ nữa là bố là mẹ khi xem xét vấn đề học hành của con, bạn không nên nghe phản
ánh từ một phía là con mình mà phải tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin rồi mới đi
đến suy nghĩ cuối cùng. Nếu bạn vẫn mang những suy nghĩ tiêu cực của bạn về giáo
viên về hệ thống giáo dục vào mâm cơm thì tôi tin rằng con bạn sẽ không bao giờ tiến
bộ hơn bạn bè đƣợc. Chúc bạn sớm tìm ra giải pháp thay vì ngồi than vãn. (Linh)
128
Con bạn có đi học thêm không? Kiến thức chính là lúc học phụ (thêm). Con
bạn kém thì đừng rên vì không đi học thêm! (Nguyễn Quốc Tiến)
Tôi hoàn toàn đồng ý với Linh, gia đình - môi trƣờng gần để tạo cho con có
thể tiếp thu những kiến thức sơ đẳng nhƣng vô cùng quan trọng là môi trƣờng do
chính bố mẹ, ông bà tạo ra! Thầy, cô không phải ai cũng cứ muốn dạy thêm để tăng
thu nhập. Ở quê tôi, các bậc phụ huynh thƣờng hay nhờ dạy thêm dịp hè để có thời
gian đi làm mà chẳng đƣợc! Giáo viên dạy các con bằng cả tấm lòng, trong khi
điều kiện kinh tế còn muôn phần khó khăn, vất vả! Ở họ, tôi học đƣợc điều rằng:
“Khi chƣa có những gì mình quý thì hãy quý những gì mình có”. Do vậy, dù thế nào
đi chăng nữa, mỗi chúng ta cũng cần nhận rõ một điều: Không Thầy, đố mày làm
nên! (Hung Pham)
Sau phản hồi đầu của độc giả TuanMinh về trường hợp con học lớp 1 của
mình thì những phản hồi sau tranh luận xung quanh phản hồi này với các vấn đề về:
cách dạy con, về chuyện học thêm ở trường, về sự kính trọng đối với người thầy.
Các phản hồi này đã vượt khỏi vấn đề đang đề cập trong bài báo (giáo viên đưa ý
kiến về một đoạn văn mở đầu bị chấm 0 điểm). Theo khảo sát, hệ thống phản hồi về
chủ đề này khá phong phú: ngoài tranh cãi đúng, sai về cách chấm điểm; độc giả
còn phân tích về cách dạy và học Văn hiện nay trong nhà trường. Đây là những
hướng phản hồi có thể nằm trong mục đích tạo lập diễn ngôn ban đầu của bài báo.
Song những trường hợp vượt đích giao tiếp ban đầu như đã phân tích ở trên chứng
tỏ khả năng nhìn nhận vấn đề nhiều chiều của độc giả, sự bình đẳng và quyền lực
trong việc tiếp cận diễn ngôn của độc giả. Vai trò định hướng tiếp nhận thông tin
của nhà báo không phải lúc nào cũng được bảo toàn.
Tóm lại, hành động ngôn từ là yếu tố quan trọng trong việc nhận diện tương
tác diễn ngôn báo chí. Đó là yếu tố thể hiện hệ tư tưởng và quyền lực của diễn ngôn
trong những ngữ cảnh khác nhau. Khảo sát hành động ngôn từ qua các diễn ngôn
phản hồi của độc giả báo điện tử; chúng tôi nhận thấy phản hồi của độc giả xuất
hiện cả hành động ở lời và hành động mượn lời. Hành động ở lời tạo nên sự “đa
thanh”, hành động mượn lời tạo nên sự “dị thanh” trong các phản hồi.
129
Trong đó, độc giả sử dụng rất nhiều hành động ở lời với nhiều mục đích
khác nhau mà nổi bật là ba nhóm: trình bày, điều khiển, biểu cảm. Nó thể hiện
quyền lực của độc giả trong việc muốn trình bày quan điểm, tham gia điều khiển,
biểu cảm về thông tin mà họ đọc được. Bên cạnh đó, hành động mượn lời thể hiện
quyền lực của người tiếp nhận diễn ngôn trong việc lĩnh hội diễn ngôn vượt ngoài
mục đích giao tiếp ban đầu của người tạo lập. Trong DNBC, hành động mượn lời
thể hiện rõ nhất ở những phản hồi của độc giả nằm ngoài mục đích tạo lập diễn
ngôn của nhà báo. Những hiệu quả mượn lời là rất phong phú, có thể nằm trong sự
tính toán ban đầu của nhà báo nhưng cũng khi vượt ngoài sự kiểm soát của họ.
3.3.2. Một số phương tiện ngôn ngữ khác
Độc giả đã sử dụng khá nhiều các thủ pháp, biện pháp ngôn ngữ độc đáo làm
tăng khả năng tác động đến với người đọc. Dưới đây, khi phân tích các đặc điểm
của ngôn ngữ phản hồi, chúng tôi sẽ chỉ ra những biểu hiện của sự độc đáo ấy.
Với 7 chủ đề đã phân loại, 185 bài báo và 5996 phản hồi, ngôn ngữ phản hồi
của độc giả báo mạng điện tử đã bộc lộ rất nhiều đặc điểm. Chúng tôi không có
tham vọng có thể phân tích được cụ thể ngôn ngữ trong từng phản hồi. Song khảo
sát sơ bộ có thể nhận thấy những đặc điểm về ngôn ngữ được bộc lộ khá tương đồng
ở tất cả các chủ đề. Trong tiểu mục này, chúng tôi lựa chọn khảo sát ngôn ngữ trong
các phản hồi của độc giả ở một chủ đề: Giảng viên nói xấu trường trên Facebook.
Cuối năm 2015, dư luận xã hội rất quan tâm tới vụ việc Doãn Minh Đăng
(một Tiến sĩ của trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ Cần Thơ) bị nhận các hình
thức kỷ luật do nói xấu nhà trường trên Facebook. Từ vụ việc của TS Đăng, các bài
báo đã đề cập tới vấn đề dùng người tài trong xã hội hiện nay. Hơn nữa, TS Đăng
từng là một thí sinh đạt giải nhất tuần cuộc thi Đƣờng lên đỉnh Olympia nên các bài
báo hướng đến quan điểm của các thí sinh từng vô địch cuộc thi Olympia, được học
bổng đi du học và ở lại lập nghiệp ở nước ngoài. Từ đó, bàn đến vấn đề du học sinh
nên đi hay về nước làm việc và cao hơn nữa là câu chuyện về lòng yêu nước, sự
cống hiến cho Tổ quốc. Trên hai tờ báo mạng Dân trí và VietNamNet, chủ đề này
có 34 bài báo (chi tiết tên bài xem PL20-22) với 1100 phản hồi (bình luận). Các
130
bình luận này đã thể hiện rất nhiều điểm độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ.
Trong đó nổi bật nhất là các thủ pháp: dùng thành ngữ, tục ngữ, ca dao; chơi chữ;
trích dẫn nhiều nguồn phong phú; sử dụng hình ảnh ẩn dụ, lặp giọng điệu... (Dưới
đây, chúng tôi qui ước trích dẫn dẫn chứng như sau: số trong ngoặc thể hiện số thứ
tự của bài báo trong bảng phụ lục theo từng báo. Các dẫn chứng cùng ở một chủ đề,
do đó, chúng tôi không nêu rõ tiêu đề bài viết mà viết tắt tên bài bằng số thứ tự
trong bảng phụ lục. Ví dụ: (DT, 6) báo Dân trí, bài số 6: Liệu Doãn Minh Đăng có
“tâm thần”, “dị dạng” hay… là “tàn tích”?!).
3.3.2.1. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao
Thành ngữ, tục ngữ, ca dao là một kho tàng quí giá của người Việt với những
ưu thế nổi trội như nội dung phong phú, hình thức đa dạng, giàu hình ảnh, dễ sử
dụng. Trong các phản hồi; độc giả đã sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao
để chuyển tải những nội dung ý nghĩa cần bình luận, tương tác phản hồi lại với bài
báo và nhà báo. Có thể thấy hai dạng thức cơ bản là:
a. Giữ nguyên dạng
Các thành ngữ, tục ngữ được dùng nguyên vẹn cả cấu trúc như chúng vốn có,
không bị thêm hoặc bớt các thành tố nào. Theo khảo sát có rất nhiều thành ngữ, tục
ngữ, ca dao được sử dụng: thƣợng vàng hạ cám (DT, 8); đất lành chim đậu (VNN,
5); ăn không ngồi rồi, run nhƣ cầy sấy (VNN, 6); vơ đũa cả nắm (VNN, 8); nói một
đàng làm một nẻo (DT, 6); đánh lận con đen (DT, 3); ra ngô ra khoai (VNN, 7);
đất thơm cò đậu (VNN, 9); tránh voi, không hổ mặt nào(VNN, 9); tiên trách kỷ, hậu
trách nhân (VNN, 10); kính trên nhƣờng dƣới (DT, 3)… Dễ dàng nhận thấy, bản
thân các thành ngữ, tục ngữ này đã thể hiện những nội dung cần biểu đạt của người
sử dụng. Không cần phải phân tích nhiều; người đọc cũng có thể nhận ra ngay dụng
ý thể hiện trong đó. Một số ví dụ cụ thể trong các phản hồi như:
(114) Thời thế lạ lùng. Trƣờng Kinh doanh cho đào tạo Y dƣợc, TS chuyên
môn bắt chuyển sang ngạch quản lý, không chịu thì gây khó dễ đủ điều… cứ râu
ông nọ cắm cằm bà kia thế này bao giờ giáo dục mới phát triển đƣợc….(DT, 2)
131
(115) Nói thật, chỉ nằm trong chăn mới biết chăn có rận. Bên ngoài cứ
nghĩ giảng viên là những ngƣời cao quý nhƣng có một số trong những giảng viên ấy
lại là những con ngƣời hoàn toàn khác trên bục giảng […]. (DT, 2)
(116) Không có lửa làm sao có khói. Hoan hô sự dũng cảm của thầy
Đăng! (VNN, 2)
(117) “Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại”. Không lẽ lại chịu
làm“tớ thằng dại” nữa hay sao? Có muốn cống hiến cũng không đƣợc thì về làm
gì? (DT, 14)
(118) Không có mợ thì chợ vẫn đông, trong xã hội thời nào cũng vậy, nếu
không có anh, thì có ngƣời khác (có thể là không bằng anh) nhƣng chẳng có việc gì
là làm không đƣợc. Anh không sai nhƣng cũng chẳng đúng. (DT, 8)
(119) Sau cơn mưa trời lại sáng. Tất cả đều cùng nhau đóng góp quê
hƣơng ngày càng phát triển. Chúc anh Đăng và nhà trƣờng đêm Noel vui vẻ, an
lành. (DT, 18)
(120) […] Ngày xƣa có câu: “Con không chê cha mẹ khó. Chó không chê
chủ nghèo”. Nhƣ vậy là đủ hiểu rồi. (DT, 8)
Lời bình luận trên đã thể hiện sự không đồng tình của độc giả đối với những
người thành công nhưng quay ra chê đất nước (nơi sinh ra và nuôi lớn họ), những
du học sinh đi học ở lại nước ngoài rồi quay lại chê đất nước mình.
Sự viện dẫn các yếu tố thành ngữ, tục ngữ đã làm cho các lời phản hồi vừa
ngắn gọn, hàm súc; vừa phong phú, đa nghĩa. Chúng làm tăng khả năng tương tác
cho các phản hồi.
b. Cải biên các yếu tố
Trên cơ sở các yếu tố gốc; độc giả đã thay thế, cho thêm hoặc lược bớt vào
cấu trúc của thành ngữ, tục ngữ, ca dao các yếu tố mới để thể hiện ý đồ của mình.
Theo thống kê, thành ngữ “đất lành chim/cò đậu” là thành ngữ được sử dụng
nhiều nhất trong các phản hồi. Bên cạnh việc sử dụng nguyên dạng thành ngữ này,
các độc giả còn cải biên thành nhiều dạng mà điển hình là việc thêm các từ biểu thị
quan hệ “thì, để” để nhấn mạnh ý cần diễn đạt:
132
(121) Ngƣời xƣa có câu đất thơm thì cò đậu. Với con cò nó còn biết chọn
mảnh đất tốt cho mình sinh sống huống chi là một con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt
[…]. (DT, 13)
(122) […] Ở đâu đất lành thì chim đậu ở đấy. Nếu cứ nói quanh co Tam
Quốc thì chẳng giải quyết đƣợc vấn đề. (VNN, 9)
(123) Chúc mừng TS Đăng đã giải quyết ổn thỏa công việc tại đơn vị. Chúc
anh sẽ có “đất lành để đậu”- thành công - đạt kết quả có giá trị cao - thực tế trong
cuộc sống. […] (DT, 19)
Phản hồi trên đã thêm yếu tố mục đích “để”, bỏ đi yếu tố “chim/cò” (ẩn về
con người) để nhấn mạnh sự “đậu” – tìm được nơi làm việc phù hợp của con người.
Hay trong những ví dụ sau, việc thêm các từ ngữ của độc giả cũng mang ý
nghĩa nhấn mạnh cho người đọc thấy nội dung bình luận:
(124) Có tài thì hay có tật, cái tật mà anh Đăng mắc phải là vô tổ chức
không xin phép khi dự hội nghị khoa học tại Hà Nội. […] (DT, 17)
(125) Không có thực sao vực được đạo... tây cũng vậy thôi có tiền họ mới
làm, nhƣng họ làm bằng cả sự chuyên nghiệp. (VNN, 12)
Ngược lại, có những trường hợp các câu thành ngữ, tục ngữ hay ca dao bị
lược bớt các yếu tố. Ví dụ:
(126) Đọc bài viết, tôi mới hiểu vì sao chúng ta đang “xúc tép nuôi cò” khi
bƣớc chân ra đi, các em nhận đƣợc lời nhắn: “Đi đi, đừng về!” (VNN, 6)
Câu ca dao xưa “Công anh xúc tép nuôi cò/ Cò ăn cò lớn cò rò lên cây” đã
được lược bớt chỉ còn lại vế “xúc tép nuôi cò”. Vế còn lại bị lược bớt không làm cản
trở quá trình nhận thức của người đọc, ngược lại còn giúp cho người đọc hiểu rõ hơn
định hướng thông tin của người viết: nhấn mạnh về hành động làm ơn, giúp đỡ (xúc
tép nuôi cò) nhưng bị bội bạc lại (cò ăn cò lớn cò rò lên cây). Câu ca dao quen thuộc
nên chỉ cần một vế ngắn gọn đã thể hiện được toàn bộ thông tin, thậm chí sự hàm súc
của nó còn có giá trị truyền đạt thông tin hơn. Đặt trong tương quan với lời nhắn “đi
đi, đừng về” với các du học sinh; người đọc có thể suy ra hàm ý của độc giả khi viết
lời bình luận này: chua xót khi nhận ra việc làm công cốc, công cò của mình.
133
Sáng tạo hơn, có những phản hồi, độc giả đã chủ động thay thế các yếu tố cũ
bằng các yếu tố mới. Ví dụ:
(127) Tại lính mà trình độ cao hơn, giỏi hơn lãnh đạo. Lính nói gà, lãnh
đạo nói vịt, thế nên trong hai ngƣời sẽ có một ngƣời nói sai. Vậy ai là ngƣời nói sai
??? […] (DT, 17)
Xuất phát từ câu thành ngữ “ông nói gà, bà nói vịt”; độc giả thay các chủ
thể ông/ bà thành lính/lãnh đạo (cấp dưới/cấp trên) để thể hiện sự mâu thuẫn của hai
người “nói” (ở đây là TS Đăng và thầy hiệu trưởng). Sự thay thế này chỉ ra rõ hơn
sự không đồng nhất trong lời nói của hai cá nhân trong một tập thể để đi đến một
kết luận có tính chắc chắn: một người sai.
Không dùng nguyên văn các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao; chỉ lấy ý có sẵn,
sáng tạo lại tự do, linh hoạt từ ngữ là cách mà nhiều độc giả đã sử dụng khi phản
hồi. Sự sáng tạo này mang lại hiệu quả tương tác hơn.
3.3.2.2. Chơi chữ
Chơi chữ theo từ điển tiếng Việt là “dùng các hiện tƣợng đồng âm, đa nghĩa,
nói lái… trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định trong lời nói (nhƣ bóng
gió, châm biếm, hài hƣớc…) trong lời nói [76; 235]. Nhờ chơi chữ, lời nói của chủ
thể phát ngôn trở nên sinh sộng, hấp dẫn.
Trong các phản hồi được khảo sát, độc giả sử dụng chơi chữ ở nhiều dạng
khác nhau. Nổi bật là một số kiểu cơ bản như: sử dụng từ đồng âm hoàn toàn, đồng
âm không hoàn toàn (khác nhau ở vần, khác nhau ở phụ âm đầu).
a. Sử dụng từ đồng âm hoàn toàn
Độc giả ưa sử dụng phép đồng âm đa nghĩa giữa các từ. Cùng một từ A
nhưng dùng với các nét nghĩa khác nhau theo mô hình khái quát A (x1) – A (x2)
trong đó A là vỏ âm thanh của từ; còn x1, x2 là hai ý nghĩa khác nhau của vỏ âm
thanh đó. Ví dụ từ “bằng” - (A):
(128) Không biết ông có phải dân kỹ thuật không? Tôi mấy chục năm nay làm
kỹ thuật từ khi về nƣớc đến khi về hƣu mới nhận ra bằng gì cũng thua bằng lòng. Mấy
thằng em khá về kỹ thuật cũng giống tôi làm trƣởng phòng đến khi nghỉ. (VNN, 6)
134
“Bằng” thứ nhất (x1) là danh từ chỉ bằng cấp (thứ để chứng nhận năng lực,
trình độ, thành tích), “bằng” thứ hai (x2) lại là động từ chỉ việc cảm thấy vừa ý, cho
là ổn, là được.
(129) Vậy là bác Công sắp thành “Công toi rồi”. Sự việc có thể rất đơn
giản nhƣng đã trở nên phức tạp.[…] (DT, 17)
Thầy hiệu trưởng của trường nơi TS Đăng làm việc tên là Công. Độc giả đã
chơi chữ tên thầy hiệu trưởng (công – công lao) trở thành nghĩa đối lập “công toi”.
Qua đó ngầm ý phê phán việc làm của thầy hiệu trưởng “cách chức, thậm chí cho
thôi việc anh Đăng đi rồi sẽ có nhiều tập đoàn, đơn vị mời anh Đăng về làm vì
ngƣời ta cần ngƣời làm thực sự. Và hệ lụy càng nhiều ngƣời tài sẽ không dám làm
cho cơ quan nhà nƣớc”.[…] (DT, 17)
Hay cùng một từ “cơ hội” nhưng độc giả lại đặt nó trong những sắc thái
nghĩa khác nhau để tạo hiệu quả ý nghĩa bất ngờ:
(130) Hiệu trƣởng Công nhấn mạnh: ...“Tôi lấy làm tiếc khi anh Đăng rời
bỏ những cơ hội lớn của mình...” Đó là ông Công nghĩ nhƣng anh ta không phải là
ngƣời cơ hội. (DT, 17)
Đặt trong thế đối lập “cơ hội lớn” mang sắc thái tích cực và “người cơ hội”
mang sắc thái tiêu cực mới thấy được lời bình luận quả là sâu cay. Việc chơi chữ từ
“cơ hội”, đặt nó trong thế so sánh giữa lời nói của thầy hiệu trưởng và suy nghĩ
đánh giá về con người anh Đăng của độc giả; lời bình luận đã tạo được điểm nhấn
thông tin vừa sâu sắc, vừa bất ngờ.
b. Sử dụng từ đồng âm không hoàn toàn (gần âm)
Các từ đồng âm không hoàn toàn thường có vỏ âm thanh gần giống nhau, chỉ
khác nhau ở phụ âm đầu (giống nhau về vần) hoặc khác nhau về vần (giống nhau về
phụ âm đầu) hoặc thanh điệu.
b1. Thứ nhất, giống nhau về vần
Ví dụ một loạt các từ (hay các âm tiết) trong các bình luận sau cùng có vần “ê”:
(131) Tình trạng con ông cháu cha, cha truyền con nối nữa. Thứ nhất hậu
duệ, thứ nhì quan hệ, thứ ba tiền tệ và cuối cùng mới là trí tuệ. (DT, 14)
135
(132) Thứ nhất là hậu duệ, thứ nhì là huynh đệ, thứ ba tiền tệ, thứ tƣ là trí
tuệ. Quân bây giờ rất ghét cấp dƣới giỏi hơn, thông minh hơn. (DT, 17)
(133) Ở Nhật không theo quy tắc: Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ,
bốn trí tuệ. (VNN, 12)
(134) Trả lời luôn, ngƣời tài không quan hệ (thế, thân), không tiền tệ,
không phải là đồ đệ chắc chắn là đứng thứ 5. (VNN, 13)
Vần “ê” giàu sức gợi, xoáy sâu và gây nên một ám ảnh với người đọc về các
bậc xếp hạng thứ tự trong xã hội theo đánh giá của độc giả: hậu duệ - quan hệ,
huynh đệ, đồ đệ - tiền tệ - trí tuệ.
Hoặc các từ có cùng vần “iêu” trong ví dụ sau:
(135) “Biết điều thì gặp nhiều may mắn” TS Đăng nếu biết luồn cúi thì
chẳng mấy chốc là thay thế ông hiệu trƣởng. Đằng này... Haizz. (DT, 17)
Vần “iêu” với hai từ “điều” và “nhiều” đã thể hiện được suy nghĩ của độc giả
về sự kéo theo: biết điều – nhiều may mắn.
b2. Thứ hai, giống nhau về phụ âm đầu
Trong phản hồi sau có rất nhiều âm tiết cùng bắt đầu bằng phụ âm đầu “t”,
tác động mạnh vào người đọc:
(136) Nếu cứ coi ông Doãn Minh Đăng, mấy trò đoạt Ô lim píc .v.v… ra đi
không hẹn ngày trở về, thì ở ta chữ “Tài” với chữ “Tai” vốn đều cùng vần Tê với
“Thần kinh”, “Tâm thần” thì không phải là “Tàn tích”(cũng Tê nốt) nữa đâu ông
Tám ơi! Bởi sáu Tê lậng. Ông phải sửa lại đi, thảng có quan nào rỗi hơi men gái
gú ghé vào đọc thì may ra họ “Tỉnh” ra cũng không chừng!!!- Lại một Tê nữa đấy.
Nhiều Tê cỡ đó thì phải dùng “Phế tích” mới hợp. Cỡ chín Tê đấy ông Tám ạ. Ông
Tám là Điểm Mƣời của nghiệp viết. (DT, 6)
Người viết đã lựa chọn công phu để tìm ra được các từ vừa có ý nghĩa phù
hợp với tư tưởng mình muốn thể hiện, lại vừa có vỏ âm thanh gần giống nhau. Hình
thức chơi chữ bằng các từ đồng âm hay gần âm khiến những âm thanh được lặp đi
lặp lại, xoáy sâu vào người đọc.
(137) Thẳng thắn, thật thà thƣờng thua thiệt - Lọc lừa luồn lọt lại lên lƣơng.
(VNN, 9). Để trả lời cho câu hỏi của tiêu đề bài “Tại sao nhân tài ngại trở về”, độc
136
giả chỉ bình luận ngắn gọn bằng tất cả những từ cùng giống nhau về phụ âm đầu (th,
l). Người đọc có thể liên tưởng đến những cách nói gần âm, rất vần, rất ấn tượng
tương tự như: Lƣơn lẹo len lỏi lại leo lên, Luồn lách lƣơn lẹo lại lên lƣơng.
Chơi chữ bằng từ gần âm như trên có thể khái quát theo mô hình: A---A’---
A’’… trong đó A, A’, A’’ là các từ (âm tiết) có vỏ âm thanh gần giống nhau.
b3. Thứ ba, liên tưởng bất ngờ
Có những trường hợp độc giả có sự liên tưởng bất ngờ giữa vỏ âm thanh của
từ với ý nghĩa cần biểu đạt như:
(138) Ổng hiệu trƣởng đã đặt phòng cho anh Đăng ở trung tâm tâm thần Biên Hòa
rồi. Bởi anh là giảng viên khoa điên nặng nên bị “tâm thần” đấy! (DT, 6)
Trong phản hồi này, độc giả đã đánh vần từ “điện” thành “điên nặng” để nó
mang nghĩa tương đồng với ý tâm thần trong bài. Cách nói lái “điện = điên nặng,
điên nặng = tâm thần” cho thấy một tư duy nhanh của độc giả.
Không chỉ khai thác vỏ âm thanh của từ, việc bóc tách các từ thành các vỏ
âm thanh độc lập cũng được độc giả sử dụng.Ví dụ sau minh họa cho việc chơi chữ
từ “hành chính” → “hành là chính”:
(139) Cứ cho một ông du học sinh làm một dự án liên quan đến vài cơ quan
quản lý nhà nƣớc xem có nản không? Tôi cam đoan là sau khi bị “hành là chính”
thì không nản mới lạ. (DT, 8)
Từ “hành chính” được tách thành hai từ đứng độc lập để mang ý nghĩa tương
phản với từ gốc. Giữa hai từ có từ “là” theo mô hình bóc tách: AB -> A là B.
Chơi chữ qua khảo sát trong các phản hồi của độc giả báo mạng điện tử là
một thủ pháp ngôn ngữ tạo tính bình giá nổi bật. Khi sử dụng nó, người viết luôn
thể hiện được thái độ, tình cảm rõ ràng đối với vấn đề được phản ánh. Nó là kết quả
của một sự tìm tòi, khám phá, xử lý tinh tế ngôn từ của người viết.
3.3.2.3. Trích dẫn nhiều nguồn phong phú
Điểm qua các nguồn trích dẫn của các phản hồi, có thể thấy độc giả đã sử
dụng rất nhiều nguồn để khai thác làm ý cho bình luận của mình như thơ, văn,
truyện; châm ngôn, danh ngôn, các câu nói nổi tiếng, bài hát,…
137
a. Trích thơ, văn, truyện
Khi cảm tác về xã hội, thời cuộc, vụ việc rối ren; những câu thơ xưa của nhà
thơ Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm được viện dẫn hiệu quả:
(140) Cám ơn cụ Nguyễn Du đã nói hộ thời hậu thế bây giờ: Trải qua ngàn
cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Đến bao giờ đất nƣớc, xã
hội Việt Nam mới hết sự đau đớn đến cùng cực này đây? (DT, 6)
(141) Có tài nhƣng cần phải có tâm: chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Không nên cậy có tài mà ngạo mạn. Cần phải có sự khiêm tốn!
Nếu nói “BỆNH” của anh Đăng theo kiểu nói của nhà thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm thì tôi “bắt bệnh” của anh ấy là Anh “tâm thần” anh tìm nơi vắng vẻ/ Ông
hiệu trƣởng “khôn” ông đến chốn lao xao”. (DT, 6)
Xuất phát từ câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Ngƣời
khôn ngƣời đến chỗ lao xao”, phản hồi của độc giả hàm ý ý nghĩa về đánh giá sự
khôn – dại của TS Đăng và thầy hiệu trưởng trong cuộc tranh luận gay gắt đang
diễn ra. Ai khôn, ai dại thì mỗi người đọc đều có đáp án cho riêng mình.
Mở rộng hàm nghĩa hơn, khi nói về việc có sẵn công việc (chỗ ngồi, ghế) khi
đi du học ở nước ngoài của một số du học sinh; độc giả sử dụng câu Kiều xưa nói
về Mã Giám Sinh“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”:
(142) Nói đâu xa những du học sinh Olympia có bạn nào về nƣớc. Toàn hạt
giống đỏ đi du học bằng tiền bố mẹ rồi khi về nƣớc là ghế trên ngồi tót sỗ sàng mà
chẳng có cái thành tích gì. (DT, 7)
Chỉ một từ liên hệ “ghế” cộng với các thái độ của những từ “tót”, “sỗ sàng”
đã được phân tích bấy lâu nay; đã cho thấy quan điểm của tác giả về những trường
hợp cá biệt du học sinh đi học bằng tiền của gia đình, bằng đẹp, trở về nước có sẵn
công việc.
Khi kết thúc vụ việc, để đúc kết những kinh nghiệm sống cho mỗi người, độc
giả bình luận:
(143) Hy vọng mỗi ngƣời đều có bài học cho riêng mình cho cuộc sống còn
dài phía trƣớc... Trong bài thơ “Dậy mà đi” nhà của thơ Tố Hữu có câu – “Ai lên
khôn mà chẳng dại một đôi lần” thật đúng đấy à. (DT, 18)
138
Sự trích dẫn những câu thơ vốn đã rất nổi tiếng đã làm cho người đọc có thể
suy ra được ý nghĩa bình luận. Có khi trích dẫn, song có khi độc giả lại bình luận
luôn bằng thơ rất thông minh, dí dỏm:
(144) Ừ thì: Có ngƣời mê Khổng có ngƣời không/ Quân tử Tiểu nhân
chẳng lộn sòng/ Hà cớ đan tâm “dìm” lớp trẻ/ “Làm anh khó lắm...” nhắn giùm
ông!(DT, 6)
Không chỉ có những câu thơ mà những câu chuyện với những nội dung ý
nghĩa tương ứng cũng được sử dụng: từ những truyện ngụ ngôn xưa đến những câu
chuyện thời nay, của Việt Nam, của thế giới, tất cả đều có mặt trong các bình luận:
(145) Có hiểu phân công lao động là gì không? Giỏi về khoa học cũng có nhiều loại
khoa học, bạn làm khoa học về vật lý khác với khoa học về sinh học, bạn có biết là
có chuyên ngành quản lý giáo dục không? Đừng có thấy mỗi cái vòi rồi phán đó là
con voi. (VNN, 5)
Lấy ý từ truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi”, độc giả phê phán cách nhìn
vấn đề phiến diện, không đa chiều về vụ việc của thầy Đăng.
Hay độc giả lấy câu chuyện nổi tiếng của Nexin là dẫn chứng phản bác cho
việc các du học sinh đổ lỗi cho hoàn cảnh đất nước, môi trường để không về nước
làm việc:
(146) Bác Hồ nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài
mà không có đức thì thành ngƣời vô dụng”. […] Một ngƣời thật sự tài đức không bao
giờ đổ cho hoàn cảnh (giống nhƣ truyện“phải chi không có ruồi”của Nexin). (VNN, 9)
“Phải chi không có ruồi” - “Giá nhƣ không có ruồi” là một truyện ngắn của
nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ nổi tiếng thế giới Azit Nexin. Truyện kể về một gã vô tích sự
nọ, lúc nào cũng chỉ đổ tại giá như thế nọ thế kia mà hắn không làm gì nên chuyện.
Năm 42 tuổi, hắn quyết trở thành nhà văn viết nên một tác phẩm để đời, nhưng rồi
cuối cùng vì ruồi vo ve bên tai khiến mất tập trung tư tưởng nên cái tác phẩm để đời
ấy không bao giờ có. Nhắc tới câu chuyện, lời bình luận đã hàm ẩn ý nghĩa giễu cợt,
phê phán.
139
b. Trích lời bài hát
Tranh luận của độc giả về việc du học sinh nên ở lại hay về nước thường
được gắn liền với hình ảnh quê hương, Tổ Quốc từ những bài hát quen thuộc:
(147) …quê hương nếu ai không nhớ… sẽ không lớn nỗi thành người… lúc đó
bạn hãy nghĩ về cố hƣơng của bạn trƣớc nhé... (VNN, 6)
Bàn về câu chuyện lòng yêu nước, sự cống hiến cho Tổ Quốc qua vụ việc du
học sinh nên ở hay về nước làm việc; những ý tứ, lời hát trong bài hát Khát vọng
tuổi trẻ được trích dẫn đã nói lên quan điểm, tư tưởng của người bình luận:
(148) […] Thiết nghĩ nếu ai có thực tài, có trách nhiệm với xã hội... thì họ
sẽ sớm thích nghi với môi trƣờng, cơ chế để hòa nhập, đoàn kết cùng nhau vì công
việc, vì cộng đồng. Rất mong các bạn trẻ hãy ghi nhớ gốc gác tổ tiên, hãy hỏi mình
đã làm gì cho Tổ Quốc, quê hương! (DT, 8)
(149) Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta, mà ta phải làm gì cho Tổ
Quốc. Đất nƣớc ta trải qua mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc. Các thế hệ ông
cha ta đã đổ bao xƣơng máu, trí tuệ, công sức để đến năm 1975 đất nƣớc mới hoà
bình và bắt đầu công cuộc xây dựng đất nƣớc. […] (VNN, 8)
(150) Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta (DT, 8)
(151) Hãy hỏi: mình đã làm gì cho đất nước, rồi hãy hỏi đất nước cho
mình hưởng những gì? (VNN, 6)
Cũng với quan điểm cống hiến cho Tổ Quốc, phản hồi lại tiêu đề bài báo“Du
học sinh: Đi đi, đừng về!”, độc giả bình luận ngắn gọn bằng một câu hát trong Một
đời ngƣời, một rừng cây:
(152) Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng gian khổ biết giành phần ai. (VNN, 6)
Chỉ bằng một câu hát này, người viết đã ngầm chỉ rõ những du học sinh ở lại
nước ngoài để chọn cuộc sống đầy đủ, sung túc là chọn việc nhẹ nhàng; bỏ lại
những gian khổ, khó khăn, vất vả của quê hương, đất nước.
Có khi độc giả không trích dẫn nguyên vẹn lời hát, thậm chí thay đổi bằng một
từ khác hoàn toàn để thể hiện sắc thái riêng biệt. Lời bình luận vì thế trở nên rất độc:
140
(153) Ai cũng hiểu chỉ giả vờ không hiểu, nên có một gã khờ .... (VNN, 2)
Bài hát gốc là “một người không hiểu” đã được thay bằng “giả vờ không
hiểu” để phản hồi lại bài báo“Phức tạp vụ giảng viên nói xấu trƣờng trên
Facebook” với nhiều ý kiến lãnh đạo phân trần. Bản thân từ “giả vờ” đặt vào câu
hát đã thể hiện sự bình giá của độc giả trước thông tin đưa ra trong bài báo, nghi
ngờ tính không trung thực của các lời đánh giá, bình luận trong bài báo.
c. Trích lời người xưa, lời các nhân vật nổi tiếng
Bàn về cách dùng người hiện nay qua vụ việc dùng người tài là TS Đăng ở
trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ Cần Thơ, độc giả không quên nhắc tới lời các
cụ xưa với những câu quen thuộc như “dụng nhân như dụng mộc” – hàm ý không
có người nào là vô dụng, chỉ cần sử dụng đúng người, đúng việc ắt sẽ hiệu quả.
Theo đó, lời tiền nhân dạy quả không sai cho những bậc lãnh đạo thời nay:
(154) Vấn đề này cần cân nhắc kỹ nếu không dễ mất chất xám. Nhà nƣớc cần
hiểu rõ tâm lý từng đối tƣợng để bố trí công việc thích hợp. Các cụ ta có nói: “dụng
nhân như dụng mộc”. Đây cũng là một mặt của sự tôn trọng nhân quyền. (DT, 3)
(155) Dụng nhân như dụng mộc. Cha ông dạy thế rồi. Làm cho ngƣời tài
quy phục mới xứng đáng làm lãnh đạo. (DT, 17)
Song theo các lời bình luận, cách dùng người hiện nay là chưa thỏa đáng. Và
TS Đăng đang phải đội “vòng kim cô” – chiếc vòng tượng trưng cho sự kiểm soát
trí tuệ, quyền lực:
(156) Ở đây Doãn Minh Đăng không đƣợc tự do phục vụ mà phải “đội
vòng kim cô”, bị lèo lái theo mong muốn Đăng thấy không hay cho “ý tƣởng về
nƣớc phục vụ” trƣớc đây của mình, mới đáng nói chớ. (VNN, 6)
(157) Sử dụng ngƣời tài, ngƣời giỏi là cái thành quả họ sẽ mang lại cho
ngƣời sử dụng, chứ không phải đội vào đầu họ cái vòng kim cô. (VNN, 9)
Có những phản hồi lại trích dẫn những câu nói nổi tiếng tạo chiều sâu triết lí
cho vụ việc đang bàn luận như:
(158) Bill Cosby viết: “Tôi không biết chìa khóa của thành công là gì,
nhƣng tôi biết chìa khóa của thất bại là cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi ngƣời”.
141
Trong cuộc sống, đôi khi phải cúi mình nhƣng ở một chừng mực nào đó thôi, có lúc
chúng ta cũng phải sống thực với chính mình mặc dù nhƣ vậy sẽ gây khó khăn cho
chính bản thân. (DT, 3)
Từ việc trích câu nói nổi tiếng của Bill Cosby - doanh nhân có tầm ảnh
hưởng lớn trên thế giới, người bình luận đúc kết triết lí từ sự việc thực tế để suy ra
bài học cho chúng ta: sống thật với chính mình, không cố làm hài lòng người khác.
3.3.2.4. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ, lặp giọng điệu
Để thể hiện hàm ý trong các lời bình luận, độc giả đã sử dụng rất nhiều cách
khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới hai thủ pháp nổi bật ở chủ đề này. Đó là
việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ và sự lặp giọng điệu.
a. Hình ảnh ẩn dụ
Ẩn dụ là “sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tƣợng, dựa trên sự tƣơng
đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc tƣởng tƣợng ra) giữa khách thể
(hoặc hiện tƣợng, hoạt động, tính chất) A đƣợc định danh với khách thể (hoặc hiện
tƣợng, hoạt động, tính chất) B có tên gọi đƣợc chuyển sang dùng cho A” [68; 52].
Nhận định về TS Đăng, không cần phân tích, bình luận nhiều; độc giả chỉ sử
dụng một hình ảnh ẩn dụ anh Đăng (A) – một điệu kèn lạc lõng giữa thời cuộc (B)
đã đủ nói lên tất cả. Câu chuyện TS Đăng “lạc lõng” không ăn nhập với cuộc sống
hiện đại khi từ chối chức tước, chỉ mong làm khoa học đã khiến độc giả ví anh như
một người thổi kèn, nhưng lại thổi điệu kèn “lạc lõng”. Bởi chính con người anh
cũng đang “lạc lõng” giữa xã hội hiện nay:
(159) Khẳng định anh Đăng này không phải bị thần kinh đâu mà chỉ không tức thời
với thời cuộc mà thôi. Giờ đây cả thiên hạ ai cũng náo nức lo chạy chức chạy
quyền. Có chức có quyền là có tiền, có nhiều bổng lộc mà có khi chả cần nghiên
cứu khoa học làm gì. Vậy anh ta lại thổi một điệu kèn lạc lõng giữa thời cuộc vậy
thì ai mà ƣa thích đƣợc […] (DT, 6)
Song song với câu chuyện TS Đăng, câu chuyện về cống hiến cho Tổ Quốc
của du học sinh luôn có những ý kiến trái chiều. Một mặt, độc giả dùng nhiều lí lẽ
để chỉ ra việc trở về quê hương của du học sinh là cần thiết. Hình ảnh đất nước, quê
142
hương (A) được ví như chùm khế ngọt, như người mẹ (B) là những hình ảnh hàm ý
có chiều sâu trong các bình luận:
(160) Các bạn du học thì hãy cứ ở nƣớc ngoài mà “cống hiến”, đó là lựa
chọn của các bạn cũng nhƣ lựa chọn ở đất Việt mình. Đất nƣớc còn nghèo khổ lắm
(dƣa hấu không bán đƣợc, thanh long đầy bờ ruộng, chuối tiêu hồng đầy gốc).
Chúng tôi đang cố gắng vun đắp cho “cây khế” quê hương ra nhiều quả ngọt để
khi đó có đủ điều kiện để các bạn về hái quả ngọt ... (VNN, 5)
(161) Tôi tôn trọng quyết định của mỗi cá nhân nhƣng tôi nghĩ nếu ai coi
đất nước như một người mẹ thì dù ngƣời mẹ đó có ốm yếu, xấu xa cỡ nào thì họ
cũng không thể bỏ mặc ngƣời mẹ đó. Họ sẽ về chăm sóc mẹ để mẹ ngày càng khỏe
mạnh hơn. (VNN, 12)
So sánh đất nước – người mẹ để đánh vào tấm lòng những người con, những
người con cần chăm sóc mẹ, cần trở về đất nước để xây dựng nó ngày một to đẹp
hơn. Đó là hàm ý ẩn trong lời bình luận.
Sự trở về đất nước luôn ẩn chứa nhiều khó khăn, nhưng đó chỉ là những
“chướng ngại vật” mà các thí sinh từng chinh phục đỉnh Olympia đã vượt qua dễ
dàng – một ẩn dụ trong một phản hồi:
(162) Khi chinh phục đỉnh Olympia tôi thấy các bạn vƣợt chƣớng ngại vật
giỏi nhƣ vậy mà. Việt Nam mình văn hóa khác Tây, chắc các bạn là ngƣời hiểu
nhất; đất nƣớc đang cần các bạn mà. (DT, 8)
Ẩn dụ hình ảnh “chướng ngại vật” ở Olympia chính là những “chướng ngại
vật” ngoài đời – những vật cản, khó khăn, thử thách cần vượt qua. Khi chinh phục
đỉnh Olympia vượt chướng ngại vật giỏi thì trong cuộc sống cũng cần vượt qua
những khó khăn, thử thách. Đất nước đang cần những người tài như các du học
sinh. Lời bình luận đã trở nên tường minh về nghĩa qua ẩn dụ “chướng ngại vật”
(của chương trình Olympia) – khó khăn, thách thức (của cuộc đời).
Ngược lại với việc hô hào cần quay trở lại để dựng xây đất nước thì có
những phản hồi lại phản bác bằng cách ẩn ý những người hô hào kia là những người
đang ở “cung trăng”, không có thực tế:
143
(163) “Có ngƣời nhƣ đang ở trên cung trăng, nên cứ ra sức hô hào phải ở
trong nƣớc mới là cống hiến. […] (DT, 13)
Hình ảnh cung trăng chỉ hàm ý không phải mặt đất, không thực tế. Phản hồi
này phản bác lại và cho rằng thật không thực tế khi hô hào về nước mới là cống
hiến bởi ở đâu cũng có thể cống hiến.
Các hình ảnh ẩn dụ đã giúp các độc giả nói được nhiều hơn qua lớp ngôn từ.
b. Lặp giọng điệu
Giọng điệu khi phản hồi của độc giả rất phong phú. Khi phản hồi, độc giả
thường kết hợp nhiều giọng điệu khác nhau (đa giọng điệu). Ở đây, chúng tôi chỉ
nói đến một điểm độc đáo trong giọng điệu phản hồi đó là sự trùng lặp giọng điệu
của độc giả và nhà báo trong cùng một bài viết.
Trong bài báo Du học sinh, đi đi đừng về! (II, 6) có câu kết: Trong vô vàn du
học sinh, có ai không mơ ƣớc về một Việt Nam tốt đẹp hơn? Nhƣng có lẽ các em sẽ
phải đợi. Và chờ nhiều năm nữa...
Độc giả phản hồi lại với cùng một giọng điệu:
(164) Nhƣng có lẽ các em sẽ phải đợi. Và chờ nhiều thế kỉ nữa... (VNN, 6)
Việc thay từ chỉ thời gian “năm” của bài báo bằng từ chỉ thời gian “thế kỉ” (rất
lâu, lâu gấp nhiều lần năm) với một giọng điệu tương đồng cho thấy dụng ý của độc
giả. Nói quá lên bằng từ “thế kỉ” và bằng giọng của nhà báo, độc giả muốn tô đậm
hơn nữa thời gian chờ đợi của các em du học sinh mà tác giả bài báo đã đề cập tới.
Trong bài bình luận “Liệu Doãn Minh Đăng có “tâm thần”,“dị dạng” hay là
“tàn tích”?! (DT, 6), tác giả Bùi Hoàng Tám đã thể hiện trong bài viết của mình sự
đa giọng điệu khi vừa giễu, vừa thương TS Doãn Minh Đăng, vừa đả kích xã hội.
Sau bài viết, độc giả đã có những phản hồi mang chính giọng điệu của tác giả:
(165) “Sống ở đảo ngƣời gù, thằng nào đứng thẳng là thẳng ấy dị dạng,
nguy hiểm cần loại bỏ”. (DT, 6)
(166) “Ai cũng gù không lẻ để một tên không gù. Phải làm cho nó giống
mình mới có hàng có ngũ. Xã hội mà.(DT, 6)
(167) Đúng là ở đảo ngƣời GÙ thì một ngƣời THẲNG lƣng rõ ràng là dị
dạng. Và đó lại là hiện thực của xã hội chúng ta. (DT, 6)
144
(168) May thay trong đảo ngƣời gù vẫn có ngƣời dị dạng. Xã hội sẽ dần
thay đổi khi có những ngƣời “dị dạng” nhƣ thế này. Nếu không có ông thầy “dị
dạng” thì những đứa học trò vẫn mãi là “ngƣời gù”. (DT, 6)
Ở đây có một sự trùng lặp về giọng điệu giữa nhà báo và độc giả. Nhà báo
viết: “Thời nay, có ai đó tự dƣng đƣợc trao chức, trao quyền lại từ chối thì “tâm
thần” là… còn nhẹ?! Đó là chƣa kể theo triết lý: “Sống ở đảo ngƣời gù, ai thẳng
lƣng là dị dạng - NV”, nên nếu sống ở thời và ở nơi chạy chức, chạy quyền, ai từ
chối quyền chức sao lại không “dị dạng” nhỉ? Sự trùng lặp giọng điệu cùng với sự
lặp lại các từ “dị dạng”, “người gù” trong bài nhằm thể hiện sự đồng tình, ủng hộ
của người bình luận đối với quan điểm của nhà báo. Nhà báo và độc giả đã cùng chỉ
ra rằng xã hội là một “đảo người gù”, TS Đăng là kẻ “thẳng lưng”, vì thế là “dị
dạng” trong xã hội.
Cũng thể hiện sự tán đồng, ở một phản hồi khác, độc giả không còn sử dụng
hình ảnh “người gù” và “dị dạng” thay vào đó là hình ảnh “người mù” và “kẻ bị chột”:
(169) “Ở xứ sở của những ngƣời mù thì kẻ bị chột làm vua”. (DT, 6)
Với những dẫn chứng trên, có thể thấy việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ và sự lặp
giọng điệu của độc giả với giọng điệu nhà báo là một thủ pháp ngôn ngữ được sử
dụng hiệu quả tạo nên những sắc thái ý nghĩa độc đáo cho các phản hồi.
Các ví dụ đã trình bày trên chưa thể bao quát hết được những đặc điểm ngôn
ngữ phản hồi của độc giả báo mạng điện tử. Còn rất nhiều điều thú vị mà chúng tôi
chưa đề cập đến như vấn đề về dấu câu, cách viết hoa, sử dụng tiếng lóng, từ địa
phương, từ nước ngoài, điệp từ, cấu trúc câu đối, song song… Song với những thủ
pháp ngôn ngữ như đã phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng độc giả báo mạng
điện tử có khả năng sử dụng ngôn từ rất đa dạng. Đây là những điểm độc đáo của
ngôn ngữ độc giả khi tham gia vào quá trình đọc báo, phản hồi và tương tác lại với
nhà báo và bài báo. Vì thế, ngôn ngữ phản hồi mang những đặc điểm tương tác. Có
thể khái quát đặc điểm tương tác của ngôn ngữ phản hồi qua mô hình sau:
145
Một số phương tiện ngôn ngữ trong phản hồi
Chơi chữ Sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao Trích dẫn nhiều nguồn Hình ảnh ẩn dụ, lặp giọng điệu
Lời bài hát Giữ nguyên dạng Cải biên các yếu tố Thơ, văn, truyện
Sử dụng từ đồng âm hoàn toàn Lời người xưa, nhân vật nổi tiếng
Sử dụng từ đồng âm không hoàn toàn
Hình 3.4: Một số phƣơng tiện ngôn ngữ trong phản hồi
Tiểu kết
Trong chương 3, chúng tôi tiến hành phân tích tính tương tác giữa thể phát
với thể nhận và giữa các thể nhận với nhau.
1. Tương tác của thể nhận được thể hiện qua kênh thông tin phản hồi quan
trọng của báo điện tử. Phản hồi chính là diễn ngôn của các thể nhận. Lượng phản
hồi của báo điện tử là rất lớn, thể hiện khả năng tương tác mạnh của độc giả đọc
báo. Phản hồi báo điện tử là một đặc điểm đặc trưng làm nên sự khác biệt giữa
tương tác của báo điện tử với các loại hình báo chí khác.
2. Tương tác của thể nhận được thể hiện trong việc tương tác trở lại với thể
phát và tương tác với các thể nhận khác.
Ở đối tượng tương tác đầu tiên là thể phát - nhà báo, độc giả phản hồi về các
thành phần của bài báo như: tiêu đề, nội dung... Tiêu đề là phần đầu tiên của văn
bản báo chí tác động đến người đọc. Vì thế, với những tiêu đề có điểm nhấn luôn
tạo được sự tương tác phản hồi nhiều của độc giả. Nội dung là phần quan trọng nhất
của bài báo. Các tương tác ở phần này luôn đa dạng. Một số hướng tương tác với
146
nội dung nổi bật là: Tương tác với nội dung toàn bài báo, tương tác với một phần
nội dung bài báo, tương tác với nội dung ở bài báo khác.
Đối tượng thứ hai độc giả tương tác là các độc giả cùng đọc báo. Sự tương
tác này hiện lên trực tiếp và song song cùng các phản hồi với bài báo. Nó tạo nên
một cuộc tranh luận trực tiếp giữa các độc giả. Đây cũng là một kiểu tương tác rất
đặc biệt của báo mạng điện tử mà những loại hình báo chí khác không có được.
Trong đó các độc giả tương tác với nhau về nội dung bài báo và tương tác với nhau
về nội dung của phản hồi.
3. Các yếu tố thể hiện sự tương tác của thể nhận là hành động ngôn từ và các
phương tiện ngôn ngữ. Hành động ngôn từ nổi bật ở hành động ở lời với ba nhóm
hành động: trình bày, điều khiển, biểu cảm; với các yếu tố ngôn ngữ đánh dấu tiêu
biểu: “là…”, “thật…”, “thật là…”, “đồng tình”, “phản đối”, “ủng hộ”… Có hành
động mượn lời là nét riêng biệt ở thể nhận. Thông qua phản hồi, những hiệu quả tác
động ngoài ngôn ngữ được thể hiện. Nó chứng tỏ tính bình đẳng, quyền lực của độc
giả trong việc tiếp nhận và đánh giá thông tin.
Ngôn ngữ phản hồi mang đặc điểm tương tác cao. Các phản hồi đã thể hiện
rất nhiều điểm độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ làm tăng khả năng tương tác,
tác động đến người đọc. Trong đó nổi bật nhất là các thủ pháp: dùng thành ngữ, tục
ngữ, ca dao; chơi chữ; trích dẫn nhiều nguồn phong phú; sử dụng hình ảnh ẩn dụ,
lặp giọng điệu...
147
KẾT LUẬN
Luận án là công trình đầu tiên phân tích tính tương tác của diễn ngôn báo chí
trên báo mạng điện tử. Đây là một loại hình báo chí tiêu biểu và nổi bật của thời đại
công nghệ ngày nay. Độc giả phản hồi nhanh, trực tiếp, đa dạng là điểm đặc trưng
làm nên sự khác biệt của tương tác báo mạng so với các loại hình báo chí khác.
Trên cơ sở khảo sát 185 bài báo mạng của hai báo điện tử Dân trí và VietNamNet,
luận án thu được những kết quả chính như sau:
1. Bước đầu luận án chỉ ra tính tương tác của diễn ngôn là một hướng đi
được quan tâm nghiên cứu bởi diễn ngôn có tính tương tác cao. Để nhận diện sự
tương tác của diễn ngôn, cần chú ý đến các yếu tố: hệ tư tưởng - quyền lực - ngữ
cảnh - hành động. Luận án xác lập tiêu chí quan trọng để nhận diện sự tương tác là:
nhân vật giao tiếp (thể phát - thể nhận). Tính tương tác của diễn ngôn báo chí là
sự tác động qua lại của các nhân vật giao tiếp (thể phát - thể nhận). Cụ thể, luận
án phân tích các quan hệ tương tác giữa các nhân vật giao tiếp: tương tác của thể
phát (giữa các thể phát và giữa thể phát với thể nhận); tương tác của thể nhận (giữa
thể nhận với thể phát và giữa các thể nhận với nhau). Các mối quan hệ này thể hiện
đặc điểm bản chất của diễn ngôn và chúng được đánh dấu bằng các đặc điểm về nội
dung diễn ngôn (chủ đề) và hình thức của diễn ngôn (cấu trúc, thể loại, hành động
ngôn từ, các phương tiện ngôn ngữ).
2. Tương tác của thể phát là tương tác của các nhà báo đại diện cho các tờ
báo, các cơ quan truyền thông. Thể phát tương tác với hai đối tượng là: thể phát
khác và thể nhận. Tương tác của thể phát được thực hiện thông qua các diễn ngôn
của nhà báo (các bài báo).
Tương tác giữa các thể phát được thể hiện ở tương tác chủ đề (tương tác nội
dung) và tương tác thể loại (tương tác hình thức). Luận án khảo sát 7 chủ đề và phân
loại thành ba kiểu tương tác: tạo lập chủ đề, duy trì chủ đề, duy trì và phát triển chủ
đề. Ở các bài báo gốc có sự tạo lập chủ đề (7,6%), còn phổ biến các bài báo duy trì
chủ đề (64,9%), một số bài ngoài duy trì chủ đề còn có sự phát triển chủ đề mới trên
148
cơ sở chủ đề cũ (27,5%). Tương tác giữa các thể phát trên cơ sở chủ đề thể hiện mối
quan hệ tương tác về mặt chủ đề giữa các diễn ngôn của nhà báo. Đó là sự thay đổi và
tương tác về tiêu điểm thông tin trong các bài báo có cùng chủ đề với nhau.
Tương tác thể loại thể hiện mối quan hệ tương tác về mặt thể loại giữa các
diễn ngôn báo chí. Bốn thể loại (tin, tường thuật, phỏng vấn, bình luận) được khảo
sát đều có thế mạnh và khả năng tương tác riêng. Các chủ đề có một mô hình tương
tác thể loại phổ biến, đó là: mở đầu bằng thể loại tin (tin ngắn để thông báo sự việc,
vấn đề) rồi đến các bài phỏng vấn (khai thác thông tin nhiều hướng) - các bài tường
thuật với các bản tin đầy đủ - các bài bình luận, đánh giá và cuối cùng kết thúc bằng
thể loại tin (giải quyết vấn đề). Sự đan xen và chuyển linh hoạt từ thể loại này sang
thể loại khác cho ta thấy các bước để tìm hiểu thông tin trong báo chí.
Tương tác của thể phát với thể nhận thể hiện quyền lực tương tác của nhà báo.
Nhà báo là người tạo lập ra các diễn ngôn báo chí và nó có tác động tới độc giả.
Thông qua độc giả, quyền lực của thể phát tạo ra các dư luận và giải quyết các vấn đề
theo định hướng. Các yếu tố thể hiện được quyền lực tương tác này là: cấu trúc diễn
ngôn (tiêu biểu là tiêu đề, sapô - những thành phần dễ nhận diện nhất trong cấu trúc
diễn ngôn báo chí) và hành động ngôn từ (trong đó, hành động kể, trần thuật (nhóm
trình bày) với mục đích thông tin là hành động được sử dụng nhiều nhất).
3. Tương tác của thể nhận được thực hiện qua kênh thông tin phản hồi quan
trọng của báo mạng điện tử. Đây là một yếu tố quan trọng thể hiện hiệu quả tương
tác. Phản hồi báo điện tử là một đặc điểm đặc trưng làm nên sự khác biệt giữa tương
tác của báo điện tử với các loại hình báo chí khác. Phản hồi chính là diễn ngôn của
các thể nhận. Qua khảo sát, luận án chỉ ra lượng phản hồi của báo điện tử là rất lớn
thể hiện khả năng tương tác cao của loại hình báo chí này.
Tương tác của thể nhận được thể hiện trong việc tương tác trở lại với thể phát
và tương tác với các thể nhận khác. Luận án khai thác phương diện tương tác về nội
dung diễn ngôn ở hai đối tượng này. Ở đối tượng tương tác đầu tiên là thể phát - nhà
báo, độc giả phản hồi với các thành phần cấu trúc (tiêu biểu là tiêu đề) và nội dung.
Nội dung tương tác ở phần này luôn đa dạng. Một số hướng tương tác với nội dung
149
nổi bật là: tương tác về nội dung toàn bài báo, tương tác về một phần nội dung bài
báo, tương tác về nội dung ở bài báo khác.
Đối tượng thứ hai độc giả tương tác chính là các thể nhận - độc giả cùng đọc
báo. Đây là một kiểu tương tác rất đặc biệt của báo mạng điện tử mà những loại
hình báo chí khác không có được. Tương tác của các thể nhận thể hiện ở sự tương
tác về nội dung bài báo và tương tác về nội dung của phản hồi khác. Sự tương tác
này hiện lên trực tiếp và song song cùng các phản hồi với bài báo. Nó tạo nên một
cuộc tranh luận trực tiếp giữa các độc giả.
Các yếu tố thể hiện tương tác của thể nhận là hành động ngôn từ và các
phương tiện ngôn ngữ. Phản hồi của thể nhận thể hiện hành động ở lời và hành
động mượn lời. Khảo sát cho thấy có ba nhóm hành động ở lời là: trình bày (thể
hiện thông tin) - 54,4%, điều khiển (quyết định thông tin) - 30,4 % và biểu cảm
(cảm xúc về thông tin) - 15,5%. Ba nhóm hành động ở lời này thể hiện quyền lực
của độc giả trong việc muốn thể hiện thái độ, quan điểm, hiểu biết về thông tin mà
nhà báo đưa ra. Ngoài những hành động ở lời, phản hồi còn thể hiện những hành
động ở lời với hiệu quả ngoài mục đích tạo lập diễn ngôn của nhà báo. Nếu như sự
phong phú về hành động ở lời tạo nên sự “đa thanh” (nhiều tiếng nói) thì sự đa dạng
của hành động mượn lời tạo nên sự “dị thanh” (nhiều tiếng nói khác nhau).
Bên cạnh đó, các phản hồi đã thể hiện rất nhiều điểm độc đáo trong cách sử
dụng ngôn ngữ làm tăng khả năng tương tác, tác động đến người đọc.
4. Tính tương tác là sợi dây liên kết chặt chẽ giữa nhà báo với nhà báo, nhà báo
với độc giả, độc giả với nhà báo và độc giả với độc giả khác. Nó thúc đẩy nhà báo phải
tìm cách hấp dẫn người đọc không chỉ đọc mà còn tương tác với thông tin mà nhà báo
đưa ra. Tận dụng lợi thế về tính tương tác không những đưa người đọc vào thế giới
thông tin một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất; mà còn tạo điều kiện cho họ tham gia
vào quá trình cung cấp thông tin, thu hẹp dần khoảng cách giữa nhà báo, tờ báo và bạn
đọc. Đó là lợi thế của báo mạng điện tử so với báo chí truyền thống. Quá trình này đã
tạo cho báo chí nói chung và báo mạng điện tử một vị thế mới./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Vũ Thị Hồng Tiệp (2013), “Tiếp nhận tác phẩm văn học, diễn ngôn báo chí từ
lý thuyết hoạt động giao tiếp ngôn ngữ”, Ngôn ngữ và văn học (Kỉ yếu hội thảo
Ngôn ngữ học toàn quốc), Nxb ĐH Sư phạm, tr.823-833.
2. Vũ Thị Hồng Tiệp (2016), “Ngôn ngữ bình luận của độc giả báo mạng điện tử”,
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục ngôn ngữ trong nhà trƣờng
(tập 2) (Kỉ yếu hội thảo khoa học), Nxb Dân trí, tr.1112-1123.
3. Vũ Thị Hồng Tiệp (2016), “Một số kiểu tương tác của quan hệ liên văn bản
trong diễn ngôn báo chí (qua một số báo điện tử phổ biến hiện nay)”, Tuyển tập
công trình nghiên cứu Ngữ văn học (tập 2) (Hội thảo khoa học Sau đại học
ngành Ngữ văn), Nxb ĐH Sư phạm, tr.661-670.
4. Vũ Thị Hồng Tiệp (2016), “Về tương tác diễn ngôn từ lí thuyết kí hiệu học”, Kí
hiệu học - từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn (Kỉ
yếu Hội thảo khoa học quốc gia), Nxb Giáo dục Việt Nam, tr.581-588.
5. Vũ Thị Hồng Tiệp (2016), “Đặc điểm tương tác của các phản hồi báo mạng
điện tử”, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các phƣơng tiện thông tin
đại chúng (Tóm tắt báo cáo hội thảo khoa học Đài tiếng nói Việt Nam), Nxb
Dân trí, tr.265.
6. Vũ Thị Hồng Tiệp (2017), “Tương tác của diễn ngôn báo chí qua tiêu đề và
sapô”, Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 1 (255), tr.53-59.
7. Vũ Thị Hồng Tiệp (2017), “Hành động ngôn từ trong diễn ngôn phản hồi của độc
giả báo điện tử”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ Việt Nam, số 3 (47).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề sử dụng ngôn từ trên báo chí, Nxb Lao
động, HN.
2. Hoàng Anh (2008), Những kĩ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông
đại chúng, Nxb ĐH Quốc gia, HN.
3. Chu Vân Anh (2012), Sự tƣơng tác giữa truyền thông xã hội và báo mạng điện
tử ở Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, HN.
4. M.Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb
Hội nhà văn, HN.
5. M.Bakhtin, Vấn đề các thể loại lời nói (Lã Nguyên dịch),
http://phebinhvanhoc.com.vn.
6. R. Barthes, Cái chết của tác giả (Trần Đình Sử dịch),
lythuyetvanhoc.wordpress.com.
7. Diệp Quang Ban (2008), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
8. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo
dục VN, HN.
9. Gillian Brown - Goerge Yule (2001), Phân tích diễn ngôn (Trần Thuần dịch),
Nxb ĐH Quốc gia, HN.
10. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, HN.
11. Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở ngữ dụng học (tập 1), Nxb ĐH Sư phạm, HN.
12. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cƣơng ngôn ngữ học (tập 2), Nxb Giáo dục, HN.
13. Đinh Kiều Châu (2016), Ngôn ngữ truyền thông và tiếp thị Góc nhìn từ lí
luận đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, HN.
14. V.I. Chiupa, Diễn ngôn nhƣ một phạm trù của tu từ học và thi pháp học hiện
đại (Lã Nguyên dịch), http://vannghiep.vn.
15. Huỳnh Thị Chuyên (2014), Ngôn ngữ bình luận trong báo in tiếng Việt hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện khoa học xã hội, HN.
16. Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh
Toán (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, HN.
17. Phạm Vĩnh Cư (2007), Sáng tạo giao lƣu, Nxb Giáo dục, HN.
18. Phạm Vĩnh Cư, M. Bakhtin với Lý luận tiểu thuyết, lyluanvanhoc.com.vn.
19. Nguyễn Đức Dân (2001), Ngữ dụng học (tập 1), Nxb Giáo dục, HN.
20. Nguyễn Đức Dân (2004), “Ý tại ngôn ngoại những thông tin chìm trong ngôn
ngữ báo chí”, Tạp chí Ngôn ngữ số 2.
21. Nguyễn Đức Dân (2004), “Vận dụng tục ngữ, thành ngữ và danh ngôn trên
báo chí”, Tạp chí Ngôn ngữ số 10.
22. Nguyễn Đức Dân (2007), Ngôn ngữ báo chí: những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo
dục, HN.
23. Trần Thị Dung (2011), Đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa và phong cách của
ngôn ngữ trong phần tiêu đề và dẫn nhập báo chí (qua khảo sát phóng sự
ảnh trên báo mạng Việt Nam), Khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học
Sư phạm Hà Nội, HN.
24. Lê Thị Thùy Dương (2013), Tƣơng tác giữa các block trong diễn ngôn
truyện kể của Nguyễn Huy Thiệp (qua khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu),
Khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, HN.
25. Nguyễn Văn Dững (2006), Truyền thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb
Lý luận chính trị, HN.
26. Nguyễn Văn Dững chủ biên (2012), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao động, HN.
27. Hữu Đạt (2011), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục VN, HN.
28. Nguyễn Thị Trường Giang (2004), Tổ chức diễn đàn trên báo mạng điện tử ở
Việt Nam hiện nay (khảo sát Nhân dân điện tử, VnExpress, Vietnamnet,
VOVNews, VTV từ tháng 9/2003 – 6/2004), Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền.
29. Nguyễn Thị Trường Giang (2010), Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản,
Nxb Chính trị Hành chính, HN.
30. Nguyễn Thiện Giáp (2006), Những ứng dụng của Việt ngữ học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, HN.
31. Nguyễn Thiện Giáp (2007), Các phƣơng pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số QX.2007.07, HN.
32. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
33. Hallliday M.A.K (2004), Dẫn luận ngữ pháp chức năng (Hoàng Văn Vân
dịch), Nxb ĐH Quốc gia, HN.
34. Nguyễn Thị Hà (2010), Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn bản quản lí nhà
nƣớc qua phƣơng pháp phân tích diễn ngôn, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân văn, HN.
35. Vũ Kim Hải, Đinh Thuận (biên soạn) (2006), Các thủ thuật làm báo điện tử:
Thiết kế báo điện tử, Nxb Thông Tấn, HN.
36. Vũ Quang Hào (2002), Ngôn ngữ báo chí, Nxb ĐH Quốc gia, HN.
37. Cao Xuân Hạo (2001), Câu trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
38. Loic Hervouet (1999), Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), Hội nhà báo
Việt Nam, HN.
39. Lương Thị Hiền, Mối quan hệ quyền lực và diễn ngôn từ cách tiếp cận của lí
thuyết phân tích diễn ngôn phê phán, http://nguvan.hnue.edu.vn/.
40. Lương Thị Hiền (2014), Các phƣơng tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực trong giao
tiếp hành chính tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện khoa học xã hội, HN.
41. Trần Thị Thu Hiền (2012), Tìm hiểu đặc trƣng phong cách của ngôn ngữ
quảng cáo tiếng Việt (trong sự so sánh với tiếng Anh), Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Viện khoa học xã hội, HN.
42. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn Hà Nội, HN.
43. Phạm Minh Hoa (2009), Từ mƣợn gốc Anh trong một số bài báo viết và báo điện
tử tiếng Việt, Báo cáo khoa học khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, HN.
44. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2013), Vận dụng lý thuyết tƣơng tác biểu tƣợng tìm
hiểu biến thể ý nghĩa của biểu tƣợng ngôn từ, http://nguvan.hnue.edu.vn/.
45. Nguyễn Hòa và Đinh Văn Đức (1999), Quan yếu trong cấu trúc diễn ngôn
bản tin chính trị - xã hội trong báo tiếng Anh và tiếng Việt, Tạp chí Ngôn
ngữ số 2. tr.25-34
46. Nguyễn Hòa (1999), Nghiên cứu diễn ngôn về chính trị - xã hội (trên tƣ liệu
báo chí tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, HN.
47. Nguyễn Hòa (2002), Ngữ cảnh trong lí luận phân tích diễn ngôn, Tạp chí
Ngôn ngữ số 11.
48. Nguyễn Hòa (2003), Phân tích diễn ngôn: Một số vấn đề lí luận và phƣơng
pháp, Nxb Quốc gia HN, HN.
49. Nguyễn Hòa (2006), Phân tích diễn ngôn phê phán: lí luận và phƣơng pháp,
Nxb Quốc gia HN, HN.
50. Đồng Thanh Hoàn (2014), Tác động của mạng xã hội đến hệ thống báo in
của lực lƣợng công an (khảo sát báo Công an nhân dân, báo An ninh thủ đô,
báo Công an Nghệ An từ tháng 3/2013 đến tháng 3/2014), Luận văn Thạc sĩ
Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
51. Dương Nam Hoàng (2013), Tác động của mạng xã hội đến việc xử lý thông
tin của báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
52. Nguyễn Thị Minh Huệ (2008), Cách thức tổ chức và trình bày trang nhất
của một số tờ báo mạng điện tử ở Việt Nam (khảo sát: Vietnamnet,
VnExpress, Dân trí điện tử, Tienphongonline), Khóa luận tốt nghiệp, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
53. Vũ Thị Huệ (2004), Tính tƣơng tác của báo chí trực tuyến, Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, HN.
54. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa (2004), Phân tích phong cách ngôn ngữ trong
tác phẩm văn học: Ngôn từ - Tác giả - Hình tƣợng, Nxb ĐH Sư phạm Hà Nội, HN.
55. Đỗ Việt Hùng (2014), Ngữ nghĩa học - Từ bình diện hệ thống đến hoạt động,
Nxb ĐH Sư phạm, HN.
56. Trần Quang Huy (2006), Hoạt động tƣơng tác trên báo mạng điện tử, Luận văn
Thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
57. Mai Xuân Huy (2001), Các đặc điểm của ngôn ngữ quảng cáo dƣới ánh
sáng của lí thuyết giao tiếp (cấu trúc ngữ nghĩa – ngữ dụng của diễn ngôn
quảng cáo), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện ngôn ngữ học.
58. Phạm Thị Mai Hương (2017), Ngôn ngữ hội thoại trong thể loại phỏng vấn
(trên tƣ liệu báo in tiếng Việt hiện nay), Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội, HN.
59. Nguyễn Hoàng Quỳnh Hương (2012), Tƣơng tác giữa tòa soạn và công
chúng báo mạng điện tử (khảo sát báo Vietnamnet.vn. VnExpress.net và
Tuoitre.com.vn từ 01/2006 đến 01/2011), Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
60. Đinh Văn Hường (2006), Các thể loại báo chí thông tấn, NXB ĐH Quốc gia
Hà Nội, HN.
61. Khoa Báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội (2005),
Báo chí - Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, HN.
62. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) (1997), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
63. Nguyễn Tùng Lâm (2013), Các hình thức tƣơng tác giữa tòa soạn báo mạng điện
tử và bạn đọc (khảo sát trên các báo VOV Online và VnExpress tháng 04/2012
đến 04/2013), Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
64. Nguyễn Lực - Lương Văn Đang (1993), Thành ngữ tiếng Việt, Nxb Khoa học
xã hội, HN.
65. John Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch), Nxb
Giáo dục Việt Nam, HN.
66. Nguyễn Thị Ngọc Minh, Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn,
http://phebinhvanhoc.com.vn
67. Nguyễn Thị Ngọc Minh (2013), Kí nhƣ một loại hình diễn ngôn, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, HN.
68. Thái Thị Mơ (2008), Một số đặc điểm cú pháp ngôn ngữ báo điện tử, Luận
văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, HN.
69. Phùng Lan Nga (2012), Phản hồi của công chúng trên báo mạng điện tử ở
Việt Nam hiện nay (khảo sát báo Dân trí, Tuổi trẻ Online, VOV Online từ
tháng 11/2012 đến tháng 3/2012), Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, HN.
70. Đỗ Chí Nghĩa, Nhận diện thể loại bình luận ngắn trên báo chí hiện nay,
http://daotao.vtv.vn.
71. Nguyễn Tri Niên (2006), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Thanh niên, HN.
72. Trần Kim Nở - Lê Xuân Khuê - Dương Ngọc Dũng - Trần Huỳnh Phúc
(1993), Từ điển Anh - Việt, NXB Chính trị quốc gia, HN.
73. David Nunan (1997), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, Nxb Giáo dục, HN.
74. Hoàng Phê (1989), Logic - ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, HN.
75. Hoàng Phê (2008), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
76. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
77. Phạm Mai Phương (2012), Phân tích diễn ngôn hội thoại trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp (qua một số tác phẩm tiêu biểu), Khóa luận tốt nghiệp
khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, HN.
78. Dương Văn Quảng (1998), “Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ báo chí”, Tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, Viện thông tin Khoa học xã hội, 98(6), HN.
79. Saussure.F.D (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng (Cao Xuân Hạo
dịch), Nxb Khoa học xã hội, HN.
80. Trịnh Sâm (2008), Tiêu đề văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục, HN.
81. Trịnh Sâm (2014), Lí thuyết ngữ vực và việc nhận diện các đặc điểm của
diễn ngôn, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Vol.30, No.1S, tr1-6
82. Dương Xuân Sơn - Đinh Văn Hường - Trần Quang (2005), Cơ sở lý luận báo
chí và truyền thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, HN.
83. Đặng Thị Hảo Tâm (2010), Hành động ngôn từ gián tiếp và sự tri nhận, Nxb
Đại học Sư phạm, HN.
84. Nguyễn Thị Thịnh (2011), Vai trò của chất liệu văn học đối với việc hình
thành phong cách nhà báo thể thao (khảo sát phong cách của ba nhà báo thể
thao Bùi Hàn Sĩ, L. Trung, Đông Tà), Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại
chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
85. Nguyễn Diệu Thương (2009), Từ tiền giả định đến hàm ý ngữ dụng, Luận
văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
86. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, HN.
87. Bùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, HN.
88. Tzvetan Todorov (Đào Ngọc Chương dịch) (2004), Mikhail Bakhtin -
Nguyên lý đối thoại, Nxb ĐH Quốc gia TP. HCM.
89. T. Todorov (2011), Di sản Bakhtin (La Khắc Hòa dịch), vienvanhoc.org.vn
90. Nguyễn Vũ Diệu Trang (2005), Cơ quan báo chí đa loại hình ở Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
91. Trần Lệ Trang (2008), Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt trên báo mạng
điện tử (khảo sát trên báo mạng điện tử Vietnamnet, VnExpress, Dân trí),
Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
92. Nguyễn Thị Thu Trà (2015), Hoạt động tƣơng tác trong các chƣơng trình
truyền hình trên kênh VTV6 (Khảo sát các chƣơng trình: Bữa trƣa vui vẻ,
Thƣ viện cuộc sống, Có gì mới sáng nay từ 1/2014 -6/2014), Luận văn Thạc
sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
93. Trần Hồng Vân (2004), Thực trạng và giải pháp xử lí thông tin trong tòa
soạn báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Báo chí, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
94. Đồng Tiến Việt (2007), Tính tƣơng tác trong báo mạng điện tử ở Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
95. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo
dục, HN.
96. Lê Minh Yến (2011), Vấn đề sử dụng ảnh báo chí trên báo mạng điện tử Việt
Nam hiện nay (khảo sát các báo Vietnamnet, Dantri, VnExpress từ tháng 1
đến tháng 9/2011), Luận văn Thạc sĩ truyền thông đại chúng, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, HN.
97. Nguyễn Thị Hải Yến (2009), Sử dụng chất liệu văn học thế giới trong sáng
tạo tác phẩm báo chí ở Việt Nam (khảo sát báo: Lao động, Bóng đá, Hoa
học trò và một số tờ báo khác từ 2003 – 2008), Luận văn Thạc sĩ truyền
thông đại chúng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, HN.
98. Trần Hải Yến (2012), Giải mã diễn ngôn miêu tả trong sáng tác của Nam
Cao, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội, HN.
99. G.Yule (2001), Dụng học, (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch), Trư-
ờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, HN.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
100. R.E. Asher, J.M.Y. Simpson, The Encyclopedia of Language and Linguistics,
Volume 2, Pergamon Press, Oxford, New York, Seoul, Tokyo, 1994.
101. Gillian Brown, George Yule (1983), Discourse Analysis (Cambridge
Textbooks in Linguistics), Cambridge University Press, Cambridge.
102. Teun A. van Dijk (1985), Handbook of Discourse Analysis, Academic
Press, London.
103. Teun A. van Dijk (1997), Discourse as social interaction, Sage, London.
104. Diane Gayeski, David Williams (1985), Interactive Media, Englewood
Cliffs, NJ: Prentice-Hall.
105. Helen E Katz, H. (2008), The Media Handbook, New Jersey, Lawrence
Erlbaum Asociates, Inc.
106. Fairclough N. (1995), Critical Discourse Analysis: The Critical Study of
language and Power, Edinburgh: Pearson Education Limited.
107. Fairclough N. (2001), Language and Power, Longman Group Limited.
108. www.journalism.org, Vietnamjournalism.com