BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ NHẬT
NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ NHẬT
NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Tập thể hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Đinh Trí Dũng
TS. Lê Thanh Nga
NGHỆ AN – 2021
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................ iv
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................... v
BẢNG CHÚ THÍCH KÍ HIỆU VIẾT TẮT .......................................................................... vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................................. 3
5. Đóng góp của luận án .................................................................................................... 4
6. Cấu trúc luận án ............................................................................................................. 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI ................................................................................................................................. 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 6
1.1.1. Nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử.........................................................6
1.1.2. Nghiên cứu về nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 .... 26
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài ......................................................................................... 29
1.2.1. Giới thuyết một số khái niệm được dùng trong luận án ................................ 29
1.2.2. Quan niệm về người anh hùng và nhân vật anh hùng ................................... 36
1.2.3. Các tiêu chí xác định nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
hiện đại .................................................................................................................... 39
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................................. 45
Chƣơng 2. BỨC TRANH CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM
SAU 1975 ...................................................................................................................................... 46
2.1. Sơ lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trƣớc 1975 ............................................. 46
2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945 ..................................... 46
2.1.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1975 ............................................ 51
2.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 ................................................................... 54
2.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 ............ 54
2.2.2. Các chặng đường vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 ....... 56
2.2.3. Thành tựu và các khuynh hướng của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 .......... 59
ii
2.3. Bƣớc đầu nhận diện nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1975 ............................................................................................................................. 66
2.3.1. Nhân vật anh hùng - hình tượng trung tâm của tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam sau 1975 ....................................................................................................... 66
2.3.2. Những cảm hứng sáng tác chính chi phối việc xây dựng nhân vật anh hùng ........ 68
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................................. 72
Chƣơng 3. LOẠI HÌNH NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG TIỂU THUYẾT
LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975 ........................................................................................... 74
3.1. Nhìn chung về loại hình nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam sau 1975 .................................................................................................................... 74
3.1.1. Nhân vật anh hùng nhìn từ vai trò, chức năng của nhân vật trong tiểu thuyết ... 74
3.1.2. Nhân vật anh hùng nhìn từ công lao, sự nghiệp của người anh hùng .......... 76
3.1.3. Nhân vật anh hùng nhìn từ lý thuyết diễn ngôn ............................................. 84
3.2. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng đồng hƣớng với chính sử .... 86
3.2.1. Khẳng định vai trò của người anh hùng trong những bước ngoặt lịch sử .... 86
3.2.2. Đề cao trí tuệ, tài năng của người anh hùng ................................................. 90
3.2.3. Đề cao ý chí, bản lĩnh của người anh hùng ................................................... 95
3.3. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng bổ khuyết, đối thoại với
chính sử .............................................................................................................................. 97
3.3.1. Đối thoại để khẳng định, minh oan, chiêu tuyết ............................................ 97
3.3.2. Đối thoại với cách nhìn cá biệt, trái ngược với lịch sử ............................... 100
3.4. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng mƣợn lịch sử để đào sâu,
khám phá con ngƣời cá nhân, đời tƣ ........................................................................... 103
3.4.1. Quan tâm thể hiện những nét đời thường, gần gũi ...................................... 103
3.4.2. Bổ sung, làm rõ đời sống bản năng ............................................................. 105
3.4.3. Tô đậm phương diện bi kịch của nhân vật .................................................. 107
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................... 111
Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975 .................................................... 112
4.1. Đặt nhân vật anh hùng vào những tình huống gay cấn, căng thẳng ................ 112
4.1.1. Tình huống đất nước gian nguy, thù trong giặc ngoài ................................ 112
4.1.2. Tình huống cận kề cái chết .......................................................................... 114
4.1.3. Tình huống lựa chọn nghiệt ngã .................................................................. 117
iii
4.2. Kết hợp hài hoà nhiều thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nhân vật anh hùng ....... 118
4.2.1. Miêu tả người anh hùng qua chân dung, ngoại hình .................................. 118
4.2.2. Miêu tả người anh hùng qua lời nói, hành động ......................................... 120
4.2.3. Chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật anh hùng ......................................... 123
4.3. Luân chuyển điểm nhìn và tổ chức giọng điệu trong xây dựng nhân vật
anh hùng .......................................................................................................................... 127
4.3.1. Kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn .............................................................. 127
4.3.2. Kết hợp linh hoạt nhiều giọng điệu ............................................................. 134
4.4. Kết hợp sử dụng nhiều lớp ngôn từ trong xây dựng nhân vật anh hùng ......... 139
4.4.1. Lớp ngôn từ cổ xưa, đậm chất lịch sử ......................................................... 139
4.4.2. Lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ mang màu sắc đương đại .................... 141
4.4.3. Lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ) ....................................................... 144
Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................................... 145
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ……………………...151
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………… 152
PHỤ LỤC
iv
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Đinh Trí Dũng và TS. Lê Thanh Nga, cùng với sự góp ý của các nhà khoa
học. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực. Các tài liệu tham khảo, các trích
dẫn đảm bảo tường minh, rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình
nghiên cứu của mình.
Nghệ An, tháng 05 năm 2021
Tác giả luận án
Trần Thị Nhật
v
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đinh Trí Dũng, TS. Lê Thanh Nga
những người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình học tập, hoàn thành công trình
nghiên cứu này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ngành Ngữ văn, Viện Sư phạm xã hội, Phòng Đào tạo
Sau đại học, Trường Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong
quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, lãnh đạo Khoa Giáo dục Tiểu học,
các phòng ban liên quan của Trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi và
hỗ trợ để tôi học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn tới quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình
những người đã động viên, giúp đỡ, cổ vũ tôi hoàn thành khóa học và luận án.
Nghệ An, tháng 05 năm 2021
Tác giả luận án
Trần Thị Nhật
vi
BẢNG CHÚ THÍCH KÍ HIỆU VIẾT TẮT
TT Kí hiệu viết tắt Nội dung viết tắt
1 TTLS Tiểu thuyết lịch sử
2 NVAH Nhân vật anh hùng
3 Nxb Nhà xuất bản
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong văn học hiện đại Việt Nam, tiểu thuyết là thể loại đóng vai trò chủ
lực. Tiểu thuyết cũng là thể loại gặt hái nhiều thành tựu trong văn học Việt Nam
giai đoạn từ 1975 đến nay. Trong bức tranh văn xuôi sau 1975, đặc biệt là sau
1986, bộ phận tiểu thuyết lịch sử (TTLS) đã có những sáng tạo, cách tân mới mẻ.
Nhiều TTLS đặc sắc lần lượt ra đời: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác,
Tám triều vua Lý, Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Hồ Quý Ly của
Nguyễn Xuân Khánh, Gió lửa, Đất trời của Nam Giao, Hội thề của Nguyễn
Quang Thân, Nguyễn Du, Thông reo ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang, Sương
mù tháng giêng của Uông Triều, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh... Tâm
thế nhìn lại lịch sử một cách tỉnh táo; đào sâu vào quá khứ, chiêm nghiệm quá khứ
để hiểu hơn những gì cha ông đã trải qua và để rút ra những bài học cần thiết cho
cuộc sống hiện tại đã làm cho TTLS ngày càng chiếm được cảm tình sâu sắc của
bạn đọc. Trong những năm gần đây, một số hội thảo cấp quốc gia bàn về tiểu
thuyết lịch sử đã được tổ chức, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ… đã lấy tiểu thuyết lịch sử làm đối tượng nghiên cứu. Vì thế,
khảo sát TTLS nói chung, nhân vật anh hùng (NVAH) trong TTLS nói riêng sẽ
giúp chúng ta hiểu hơn bức tranh tiểu thuyết cũng như quy luật vận động của tiểu
thuyết và văn xuôi thời kỳ đổi mới.
1.2. TTLS Việt Nam sau 1975 là sự tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của
văn xuôi về đề tài lịch sử của dân tộc, từ các tiểu thuyết chương hồi có màu sắc
lịch sử trong văn xuôi chữ Hán thời trung đại, các TTLS giai đoạn từ đầu thế kỷ
XX đến 1945, TTLS mang màu sắc sử thi giai đoạn 1945 - 1975. Đó là một quá
trình liên tục, có những thăng trầm và có những kế thừa, phát triển. Dù màu sắc có
khác nhau, nhưng TTLS các giai đoạn trên đều thể hiện đậm nét những truyền
thống tốt đẹp của con người Việt Nam: lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí
quật cường, tấm lòng nhân ái, bao dung… Nghiên cứu TTLS nói chung, NVAH
trong TTLS nói riêng không chỉ giúp hiểu hơn vai trò, vị trí của TTLS trong dòng
chảy của văn xuôi mà còn hiểu sâu hơn những giá trị vững bền có tính truyền
thống của văn chương dân tộc.
2
1.3. Với tính chất là phương tiện khái quát hiện thực, là nơi thể hiện tập trung
quan niệm nghệ thuật về con người, xây dựng nhân vật là vấn đề quan trọng bậc
nhất trong tiểu thuyết. Trong TTLS, NVAH thường là nhân vật chính, nhân vật
trung tâm, nơi nhà văn dành nhiều tâm huyết để thể hiện những ý đồ nghệ thuật
của mình. Cách thể hiện NVAH trong tiểu thuyết gắn với quá trình nhận thức, tư
duy nghệ thuật của nhà văn. Với nhiều hình tượng NVAH đặc sắc, TTLS sau 1975
đã thể hiện chiều sâu nhận thức về con người, bổ sung những chuẩn mực mới mẻ
trong hệ giá trị của văn chương. Vì thế, so với NVAH trong các tiểu thuyết giai
đoạn trước, NVAH trong TTLS giai đoạn sau 1975 đã trở nên đầy đặn, chân thực,
sống động và cũng phức tạp hơn. Do đó, đi sâu tìm hiểu NVAH sẽ là một đầu mối
giúp chúng ta khám phá sâu hơn vấn đề xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết nói
chung, TTLS nói riêng. Điều này càng có ý nghĩa khi vấn đề xây dựng NVAH
trong TTLS sau 1975 cho đến nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
1.4. Hiện nay, văn xuôi về lịch sử nói chung, TTLS nói riêng là mảng sáng
tác được chú ý giới thiệu trong nhà trường phổ thông và đại học. Mảng sáng tác
này có ý nghĩa đặc biệt trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống anh hùng, ý
thức biết ơn, trân trọng công lao của tổ tiên, của các bậc anh hùng. Đề tài cũng
góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học các tác phẩm văn xuôi nói
chung, tiểu thuyết nói riêng trong nhà trường.
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau 1975. Từ các tiêu chí xác lập quan niệm về người anh hùng
nói chung, NVAH trong TTLS nói riêng, luận án đi sâu khảo sát loại hình NVAH,
phương thức xây dựng NVAH trong các TTLS Việt Nam tiêu biểu giai đoạn từ
1975 đến nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án quan tâm đến các nhân vật được xác định là NVAH trong TTLS
Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay (chúng tôi lấy cột mốc 1975 vì từ sau thời
điểm này, văn xuôi nói chung, TTLS nói riêng đã bắt đầu có những chuyển động
tích cực, tạo đà cho sự đổi mới toàn diện, sâu sắc cho văn xuôi nói chung, tiểu
3
thuyết lịch sử nói riêng sau 1986). Do số lượng TTLS từ 1975 đến nay (trong đó
có hiện diện nhân vật anh hùng) rất lớn nên luận án chỉ tập trung khảo sát và
nghiên cứu những tác phẩm nổi bật, tiêu biểu cho các khuynh hướng của TTLS,
các tác phẩm được dư luận bạn đọc và giới nghiên cứu chú ý, trong đó tập trung
vào một số tác giả, tác phẩm như: Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề
(Nguyễn Quang Thân), Tám triều vua Lý, Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải),
Gió lửa, Đất trời (Nam Giao), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Đức Thánh
Trần, Trần Thủ Độ (Trần Thanh Cảnh), Ngô Vương, Nam Đế vạn xuân (Phùng
Văn Khai), Trần Quốc Toản,Trần Khánh Dư (Lưu Sơn Minh), Thông reo ngàn
Hống (Nguyễn Thế Quang), Búp sen xanh (Sơn Tùng)… Ngoài ra, một số tác
phẩm thuộc những thể loại khác như truyện ngắn, ký về đề tài lịch sử... có miêu tả,
thể hiện NVAH (trong và ngoài nước, ở các thời kỳ) cũng được tìm hiểu, đối
chiếu với những mức độ nhất định nhằm làm sáng tỏ những mục tiêu nghiên cứu
mà đề tài đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. c ch nghi n cứ
Thực hiện đề tài “Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1975”, Luận án hướng tới mục tiêu làm r quan niệm về người anh hùng, loại hình
và cách thức xây dựng hình tượng NVAH, từ đó góp phần khẳng định vị trí,
những thành tựu, đóng góp của TTLS trong bối cảnh đổi mới của văn xuôi và tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975.
3.2. Nhi nghi n cứ
Trên cơ sở xác định đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu, luận án đặt ra
những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Xác định hệ thống các khái niệm liên quan như TTLS, NVAH trong TTLS,
phác họa bức tranh toàn cảnh và tiến trình vận động của TTLS Việt Nam hiện đại,
xác định tiêu chí nhận diện NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975.
- Phân tích, làm sáng tỏ loại hình NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975.
- Phân tích, làm sáng tỏ các phương thức xây dựng NVAH trong TTLS Việt
Nam sau 1975.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các mục tiêu khoa học đặt ra, luận án sử dụng các phương
4
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp cấu trúc, hệ thống: chúng tôi xem xét TTLS Việt Nam từ
1975 đến nay (khoảng đến năm 2020) như một chỉnh thể thống nhất, có tính hệ
thống, có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, đặt trong bức tranh chung của tiểu
thuyết Việt Nam thời kì đổi mới; khi tiếp cận từng tác giả, từng tiểu thuyết cụ thể,
thế giới NVAH, chúng tôi cũng quan tâm đến tính hệ thống, chỉnh thể trong cấu
trúc của nó.
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này giúp chúng tôi
lý giải các vấn đề xung quanh hình tượng NVAH trong TTLS sau 1975 từ góc
nhìn của các ngành khoa học liên quan như: lịch sử học, văn hóa học, dân tộc học,
mĩ học, tâm lí học…
4.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Luận án vận dụng lí thuyết thi
pháp học để tìm hiểu một số phương diện như quan niệm nghệ thuật về người
anh hùng, điểm nhìn nghệ thuật, giọng điệu trần thuật… trong TTLS Việt Nam
sau 1975.
4.4. Phương pháp so sánh: dùng để đối chiếu, so sánh các tác phẩm, hình
tượng, nhân vật… trong cùng hoặc khác loại hình, nhằm chỉ ra những điểm gặp
gỡ và khác biệt trong nội dung thể hiện, cách thức xây dựng NVAH.
4.5. Phương pháp thống kê, phân loại: hỗ trợ cho việc hình thành một
số luận điểm của luận án, giúp xác định số lượng hoặc tần số lặp lại của các
biểu tượng, các phương thức, các chi tiết… trong xây dựng NVAH ở các tác
phẩm cụ thể.
4.6. Phương pháp loại hình: là phương pháp khảo sát đối tượng nghiên cứu
từ nhiều phương diện khác nhau như cảm hứng, bút pháp, nghệ thuật tự sự… của
tiểu thuyết, đặt trong tương quan loại hình của chúng; ở đây là loại hình TTLS,
loại hình NVAH trong TTLS.
5. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp chủ yếu sau:
5.1. Về mặt lý luận, luận án góp phần làm r hơn tiêu chí nhận diện NVAH
trong TTLS Việt Nam hiện đại nói chung, TTLS sau 1975 nói riêng, chỉ ra sự bổ
sung, đổi mới trong quan niệm về người anh hùng trong các TTLS Việt Nam sau
1975; từ đó, góp phần nhận diện diện mạo, quy luật vận động, đổi mới của tiểu
5
thuyết Việt Nam đương đại nói chung, TTLS Việt Nam đương đại nói riêng.
5.2. Về mặt thực tiễn sáng tác, luận án đi sâu khảo sát, phân tích, làm r
loại hình NVAH và chỉ ra các phương thức xây dựng NVAH trong TTLS Việt
Nam sau 1975, có sự so sánh với các giai đoạn trước đó. Từ góc nhìn NVAH, luận
án cũng góp phần khẳng định vai trò, vị trí, sự phân hóa đa dạng của bộ phận
TTLS trong bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
Luận án được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2: Bức tranh chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
Chương 3: Loại hình nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1975
Chương 4: Phương thức xây dựng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam sau 1975.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử
1.1.1.1. Nghiên cứu lý luận và quan niệm tiểu thuyết lịch sử ở nước ngoài
Nhìn chung, thành tựu nghiên cứu lý thuyết về TTLS chủ yếu đến từ
phương Tây. Trong đó, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến cách thức xử lý,
diễn giải chất liệu lịch sử và vấn đề hư cấu, sáng tạo của nhà văn trong sự đối sánh
với tính chân thực của thực tế lịch sử.
Hai bình diện sự thật và sáng tạo trong TTLS, cho đến nay vẫn là vấn đề
thời sự của văn học. G. Lukacs, nhà m học người Hungari, trong công trình Tiểu
thuyết lịch sử đã cho rằng: “Sự thể hiện lịch sử không thể có được nếu không có
mối liên hệ có tính chất ấn tượng với hiện tại” 30; 133 . Cho nên, “nhiệm vụ của
nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là phải tạo dựng được một cách phong phú các tác
động tương hỗ, cụ thể khớp với hoàn cảnh lịch sử mô tả” 30; 132]. Theo G.
Lukacs, nhà văn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo nên một tác phẩm
có giá trị. Tác phẩm có giá trị “phải đạt tới chiều sâu của triết lí lịch sử. Tiểu
thuyết lịch sử không chỉ bảo đảm việc miêu tả hoàn cảnh duy trì được không khí
lịch sử, mà quan trọng hơn là miêu tả trung thực bằng nghệ thuật một thời kì lịch
sử cụ thể” 30; 299]. Ông kiến giải: “Việc mô tả hiện thực của một thời kì lịch sử
có thể thành công qua việc mô tả đời thường của nhân dân, nỗi đau và niềm vui
sướng của những con người bình thường. Trong lĩnh vực xây dựng tiểu thuyết lịch
sử, tài năng bộc lộ qua việc phản ánh những nguyên nhân dẫn đến sự thật trong trái
tim con người, những sự thật mà biến động của chúng đã bị giới sử học bỏ qua. Các
nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử, vì các nhân
vật của tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự sống còn các cá nhân lịch sử thì đã sống”
[30; 62]. Như vậy, vai trò của nhà sử học và nhà văn với đề tài lịch sử không đồng
nhất với nhau. Nhà sử học chỉ quan tâm đến sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, còn
nhà văn lại quan tâm tới số phận con người trong những cơn biến động của lịch sử.
7
Cũng nói về sự khác nhau giữa nhà văn và nhà sử học, M. Kundera trong
Nghệ thuật tiểu thuyết đã chỉ ra sự khác biệt: “Nhà sử học kể lại các sự kiện đã
xảy ra, còn nhà tiểu thuyết nắm bắt một khả năng của cuộc sống, khả năng của con
người và thế giới. Nhà tiểu thuyết lịch sử ghi nhận những kinh nghiệm nhân loại
mà sử gia không quan tâm hoặc không thấy giá trị. Chính điều đó làm ngã bổ
những định kiến chắc chắn, chính thống, làm sụp đổ những khái niệm vĩnh hằng
của thế giới vững tin đã định hình yên chí, nhất thành bất biến và thám hiểm
những mặt khác của vạn vật” 84; 135]. Ông đánh giá cao vai trò của người sáng
tác: “Nhà tiểu thuyết không phải là nhà sử học cũng chẳng phải nhà tiên tri: anh ta
là người thám hiểm cuộc sống” 84; 51]… Như vậy, đối với nhà văn, lịch sử là thế
giới hiện thực cần được tôn trọng, nhưng TTLS không phải là sự sao chép hiện
thực đó mà hướng đến những mục tiêu và giá trị riêng dưới cái nhìn và cảm quan
thẩm mĩ của người sáng tác.
Việc chỉ r sự khác biệt giữa mục tiêu, cách thức mà nhà văn và nhà sử
học khai thác sự kiện, nhân vật lịch sử giúp người viết TTLS xác định được đối
tượng, cách tiếp cận và giới hạn trong ngòi bút của mình. L. Tolstoi từng nói
rằng: “Trong khi vẽ lên bức tranh của một thời đại, nhà sử học và nhà nghệ sĩ có
hai đối tượng hoàn toàn khác nhau. Nhà sử học sẽ sai lầm muốn trình bày nhân
vật lịch sử trong toàn thể của nó, trong sự phức tạp của mối quan hệ của nhân vật
đó với tất cả các mặt của cuộc sống. Cũng như vậy, nhà nghệ sĩ sẽ không làm
tròn bổn phận của mình nếu anh ta bao giờ cũng trình bày nhân vật của mình
trong tư thế lịch sử của nhân vật đó... Nhà sử học chú trọng tới các kết quả của
một biến cố; còn nhà nghệ sĩ thì chú trọng tới bản thân của sự kiện trong biến
cố” 92 . Như vậy, L. Tolstoi đưa ra cái nhìn khái quát về cách tiếp cận lịch sử
của nhà sử học và nhà văn. Ông đánh giá cao vai trò của nhà văn trong việc sinh
động hóa nhân vật lịch sử.
H. White - một đại biểu của chủ nghĩa “Tân duy sử” khi bàn về metahistory
(siêu lịch sử) đã khẳng định: “Lịch sử như là tự sự”. Ông giải thích rằng: “lịch sử
chỉ như một thứ truyện kể được kể từ điểm nhìn của một ngôi thứ ba nào đó, như
chiết tự của từ “history” trong tiếng Anh. Các sự kiện quá khứ chưa phải là lịch
sử, chúng chỉ trở thành lịch sử khi diễn giải, từ đó, lịch sử chính là một trò chơi -
ngôn ngữ (language - game), để dùng một từ khóa của triết học hậu hiện đại”
8
[138; 115]. Theo H. White, tiền thân của TTLS đã là một “câu chuyện” - history.
Nó mang đầy tính chủ quan của “người kể”. Nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều
câu hỏi về lịch sử như: “Lịch sử nằm ở vị trí nào trong hệ thống tri thức của nhân
loại? Câu trả lời là “lịch sử nằm giữa khoa học và nghệ thuật, và vì vậy nó mang
bản chất hư cấu và tràn đầy định kiến” 138; 48]. Quan điểm H. White đã tạo ra
“hiệu ứng” đối thoại với lịch sử diễn ra rất mạnh mẽ trong nghiên cứu nghệ thuật
và sáng tạo nghệ thuật lấy lịch sử làm đề tài sáng tác.
Trong chuyên luận Tiểu thuyết hiện đại, hai tác giả D. Brewster và J.
Bureell cũng đã đưa ra quan niệm về TTLS, đồng thời đi sâu nghiên cứu TTLS từ
phương diện hoạt động tiếp nhận, các góc nhìn khác nhau của người đọc. Theo
ông: “Đọc tiểu thuyết lịch sử là để đưa mình vào những thời đại khác, vì khi người
ta khốn khổ thì ưa đi tìm bạn lương tri” 18; 196]. Trong cuốn Lịch sử và văn học,
nhà nghiên cứu G. Lenobl (người Nga) đưa ra ba tiêu chí để xác định một TTLS:
“Một là nhân vật và sự kiện lịch sử. Hai là nguyên tắc hay chủ nghĩa lịch sử, tức là
cho thấy sự xung đột các thời đại, sự quá độ các giá trị. Ba là nội dung của tiểu
thuyết phải là hiện thực đã qua, mà tác giả và người đọc không phải là người
đương thời của hiện thực đó. Người đọc luôn cảm thấy có một sự khác thời” [181;
288]. Trong nhận định của mình, G. Lenobl coi trọng tính xác thực của sự kiện và
nhân vật lịch sử và xem đó là tiêu chí căn bản trong sáng tác TTLS. Quan điểm
này của G. Lenobl có tính nguyên tắc, dùng để phân biệt với các loại tiểu thuyết
viết về đề tài lịch sử nhưng không phải là TTLS.
Trả lời câu hỏi Thế nào là tiểu thuyết lịch sử, các nhà nghiên cứu trên thế
giới (D. Brewster và J. Burell, A. Dumas, H. S. Haasse, G. Lukacs, W. Scott,
L. Tolstoi, Goncourt…) đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau. Trong chuyên luận
Tiểu thuyết hiện đại, D. Brewster và J. Burell cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử có thể
thoát thai từ ước ao của một tác giả muốn đào thoát khỏi hiện tại, đồng thời thỏa
mãn ước ao tương tự của độc giả. Nhưng tiểu thuyết lịch sử còn nhiều tác dụng
nữa. Nó có thể soi sáng những thời kì quá khứ con người đã trải qua, với những
mục đích r ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại”
[18; 197]. Với quan niệm này, TTLS trước hết là tiểu thuyết viết “về thời quá
khứ” của một dân tộc hay một quốc gia nào đó và quan trọng hơn, nó phụ thuộc
vào chủ quan của người phê bình muốn xếp nó vào danh mục nào. A. Dumas nói
9
một cách hình ảnh: “Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo
bức hoạ của tôi mà thôi”. Như vậy, Dumas coi sự kiện, nhân vật lịch sử chỉ là
phương tiện để nhà văn viết tiểu thuyết và gửi vào đó những thông điệp của mình.
Còn G. Lucaks lại cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử về nguyên tắc không khác gì tiểu
thuyết thông thường nhưng phải thể hiện sự vĩ đại của con người trong lịch sử với
những khả năng của tiểu thuyết nói chung” 30; 41 . Quan niệm này nhấn mạnh
đến việc thể hiện thành công tầm vóc lịch sử của cá nhân trong tác phẩm, tức tác
phẩm phải hướng đến những căn nguyên thúc đẩy các hành động thay đổi xã hội
bởi những con người lỗi lạc.
Quan niệm về TTLS không chỉ được phát biểu bởi các nhà nghiên cứu, mà
còn bởi cả các nhà văn. Hella S. Haasse, cây bút nổi tiếng Hà Lan thế kỷ XX nhấn
mạnh: “những cuốn tiểu thuyết của tôi có thể là tiểu thuyết lịch sử (bởi nó dựa trên
những sự kiện và biến cố lịch sử hoặc có liên quan đến những con người có
thật)… Trong văn học, đề tài lịch sử là một phương tiện chứ không phải là một
cứu cánh. Không thể phủ nhận được là có một sự đồng cảm thực sự giữa nhà văn
với thời đại lịch sử và các nhân vật mà họ quan tâm đến” [dẫn theo 101; 31]. Theo
quan điểm của Hella S. Haasse, trong TTLS, những chi tiết, sự kiện lịch sử không
phải tồn tại khô khan như trong nguồn tư liệu lịch sử, như trong chính sử, mà nó
mang dấu ấn cảm quan lịch sử của nhà văn với những giá trị thẩm m mới mẻ.
Nghệ thuật phải có sự sáng tạo, nghệ thuật không cần sự rập khuôn cứng nhắc.
Bởi thế, đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối của lịch sử trong TTLS là điều gần như
không tưởng. Trong TTLS, nhà văn có quyền hư cấu, sáng tạo nhưng vẫn phải tôn
trọng sự kiện lịch sử, vừa có tính chân thực, vừa có màu sắc hư cấu để tăng sức
hấp dẫn cho tác phẩm. L. Tolstoi nhấn mạnh: “Tiểu thuyết lịch sử phải chính xác
như một nghiên cứu lịch sử” dẫn theo 146]. Còn Goncourt (Pháp) quan niệm:
“Lịch sử là tiểu thuyết đã thành hiện thực, còn tiểu thuyết là lịch sử có khả năng
thành hiện thực. Tiểu thuyết lịch sử kết hợp hai yếu tố đối lập, nhà văn tùy theo
cảm hứng mà kéo mạnh về cực này hay cực kia. Người viết tiểu thuyết lịch sử là
một thầy lang bốc hai vị thuốc kỵ nhau, nhưng liều lượng phải tính thế nào để
chúng bổ sung cho nhau, để thuốc có hiệu quả - tác phẩm phải hay: vừa có vị tiểu
thuyết vừa có vị lịch sử” [184; 11 . Ở đây, Goncourt nhấn mạnh đến tầm vóc và
sức hấp dẫn của lịch sử. Theo ông, bản thân văn bản lịch sử đã là một dạng của
10
tiểu thuyết, còn TTLS là lịch sử của tương lai. Người viết TTLS phải đủ tài năng
để nối kết quá khứ với tương lai qua lăng kính của hiện sinh.
Nhìn chung, những nghiên cứu khái quát về TTLS của các tác giả nước
ngoài chủ yếu tập trung vào việc xác định những ranh giới của lịch sử với TTLS.
Các nghiên cứu đã làm r khái niệm TTLS, lý giải mối quan hệ giữa hiện thực
lịch sử và hư cấu nghệ thuật, yêu cầu của bức tranh hiện thực được miêu tả trong
thể loại TTLS, những đặc điểm làm cho một TTLS trở nên hấp dẫn bạn đọc…
1.1.1.2. Nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam
Việc nghiên cứu TTLS ở Việt Nam đã diễn ra từ lâu, với hàng trăm bài viết,
chuyên luận, công trình có quy mô và chất lượng. Các bài viết bao quát nhiều vấn
đề xung quanh TTLS như: tiến trình vận động, đặc điểm, diện mạo, đặc trưng thể
loại TTLS, các khuynh hướng sáng tác trong TTLS, hiện thực và hư cấu trong
TTLS, nhân vật trong TTLS…
* Về tiến trình vận động, đặc điểm, diện mạo và đặc trưng của TTLS: là các
vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong nhiều công trình, bài viết.
Trong Phan Cự Đệ tuyển tập (tập 1), tác giả đã dành hẳn 30 trang để bàn về TTLS
Việt Nam thế kỷ XX, điểm qua tiến trình phát triển của thể loại này gắn với quan
niệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Ông khẳng định: “Trong quá
trình sáng tác, các nhà tiểu thuyết lịch sử vừa phải tôn trọng các sự kiện lịch sử,
vừa phải phát huy cao độ vai trò của hư cấu, sáng tạo nghệ thuật. Nghiên cứu lịch
sử một cách công phu chính xác, đó là con đường của các nhà nghiên cứu hiện
thực chủ nghĩa” 41; 177].
Tác giả Lê Tú Anh trong công trình Văn xuôi Việt Nam hiện đại khảo cứu
và suy ngẫm, cũng đã đưa ra quan niệm về tiểu thuyết nói chung, TTLS nói riêng,
đồng thời đi sâu tìm hiểu TTLS Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Lê Tú Anh
đánh giá về cách thức sáng tạo của các tác giả TTLS giai đoạn này: “Tinh thần
dân tộc trong việc lựa chọn đề tài và nội dung phản ánh được thể hiện r nét hơn ở
các tác giả viết thể loại tiểu thuyết lịch sử” 3; 18].
Trong Từ điển văn học (bộ mới), nhóm tác giả đã khái quát quá trình nảy
sinh, phát triển và phân nhánh của thể loại TTLS ở các nền văn học khác nhau.
Đặc biệt, các tác giả phân tích khá k lưỡng sự nảy sinh và phát triển của thể loại
này ở các nền văn học Trung Quốc, châu Âu và Việt Nam. Nghiên cứu thể loại
11
TTLS ở Việt Nam, nhóm tác giả đã trình bày khái quát các giai đoạn phát triển
của thể loại này: thời trung đại, đầu thế kỷ XX - 1945, từ 1945 đến nay.
Năm 2012, Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương tổ
chức Hội thảo khoa học Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử. Hội thảo
đã tuyển chọn 60 bài phát biểu, tham luận của các nhà quản lý, nghiên cứu, lý
luận, phê bình, các văn nghệ sĩ tham dự hội thảo. Các bài viết đã làm r “những
nội dung lý luận và thực tiễn sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử; đánh
giá những thành công và hạn chế trong hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật về
đề tài lịch sử trong thời gian qua; lý giải quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu
nghệ thuật; quan hệ giữa sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử với cuộc
sống đương đại...” 63; 7 . Đồng thời, các tác giả đã đưa ra nhiều vấn đề lí luận cơ
bản, đặt mục tiêu giải quyết những vấn đề có tính thời sự trong thực tiễn sáng tác
về đề tài lịch sử. Đặc biệt, công trình này tập hợp 22 bài viết đề cập tới sáng tạo
văn học về đề tài lịch sử. Trong đó có các bài viết đáng chú ý như: “Lịch sử như là
hư cấu - quan điểm sáng tạo mới về đề tài lịch sử” của Phan Tuấn Anh; “Tiểu
thuyết lịch sử như một chiến lược tự sự thấm đầy cá tính nhà văn” của Nguyễn
Đăng Điệp; “Nhân đọc Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh nghĩ thêm về sáng
tạo văn học về đề tài lịch sử” của Trần Đăng Suyền; “Cần đổi mới suy nghĩ về lịch
sử và tiểu thuyết lịch sử của Trần Đình Sử; Sự thật lịch sử và hiện thực đời sống”
của Nguyễn Tường Lịch…
Năm 2019, tạp chí Văn nghệ Quân đội và Trường Đại học Hồng Đức tổ
chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia Nghiên cứu và giảng dạy văn học về đề tài
lịch sử dân tộc. Hội thảo đã ra kỷ yếu, với hơn 50 bài viết được cấu trúc thành ba
phần: Những nghiên cứu khái quát; Những nghiên cứu trường hợp; Những nghiên
cứu bàn về một số vấn đề trong dạy học văn học về đề tài lịch sử. Nhìn chung, các
tham luận đều được thực hiện nghiêm túc, công phu và đầy tâm huyết. Trong đó,
đáng chú ý là các bài: “Tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỷ XX: Cuộc “ra quân” đầu
tiên về đề tài lịch sử dân tộc” của Lê Tú Anh, “Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong
văn học Việt Nam từ 1986 đến nay - xu hướng và thành tựu nổi bật” của Đinh Trí
Dũng, “Đặc trưng thể loại tiểu thuyết lịch sử và các khuynh hướng tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn Thị Tuyết Minh, “Những đối thoại tiêu
biểu của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước diễn ngôn của sử gia” của V Thị
12
Minh Trang và Lê Thời Tân, “Khi lịch sử thuộc về cá nhân - Nhìn từ mối quan hệ
giữa lịch sử và văn học trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của
Thái Phan Vàng Anh,…
Trong công trình Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân
Khánh (tuyển tập các tham luận trong hội thảo khoa học về Nguyễn Xuân Khánh),
một lần nữa các tác giả đã thể hiện cái nhìn khách quan hơn về thành công cũng
như hạn chế của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nói riêng và TTLS Việt Nam
đương đại nói chung. Đáng chú ý là tham luận “Cái nhìn đa chiều về tiểu thuyết
lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn Đăng Điệp. Tác giả đã
chỉ ra rằng: “Có người khẳng định, nhà văn có quyền tưởng tượng đến vô hạn và
tác phẩm của họ thực chất là cách cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá nhân. Tại đó,
có một thứ lịch sử khác (ngoại vi) so với lịch sử được thừa nhận (trung tâm), và
lịch sử, khi đi vào lãnh địa tiểu thuyết, phải được tổ chức trên cơ sở hư cấu và
nguyên tắc trò chơi vốn là một đặc trưng của nghệ thuật” 124; 5-8 . Đặc biệt, hội
thảo đã mở ra nhiều cách hiểu mới về diễn ngôn lịch sử và khẳng định những
chuyển động của tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh với chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam sau 1975 đã đi sâu khái quát, khu biệt các loại hình nhân vật lịch sử, các
khuynh hướng tái tạo lịch sử cùng các phương thức tự sự của TTLS sau 1945 đến
những năm đầu thế kỉ XXI. Tác giả không chỉ đưa ra quan niệm của mình về
TTLS mà còn khái quát tiến trình vận động của TTLS Việt Nam từ 1945 đến
2008. Nguyễn Thị Tuyết Minh cũng phân tích khá k tư duy tự sự lịch sử trong
TTLS (cảm thức lịch sử, các khuynh hướng tái tạo lịch sử) và làm r các phương
thức nghệ thuật tự sự lịch sử (nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật
sử dụng ngôn ngữ). Nhìn chung, công trình đã tập trung dựng lại bức tranh toàn
cảnh về TTLS Việt Nam từ 1945 đến nay, đồng thời phân tích một số đặc điểm cơ
bản về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại 101]. Trong
quan niệm về TTLS, Nguyễn Thị Tuyết Minh cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử là
loại hình tiểu thuyết lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính. Đối tượng của nó là
nhân vật, sự kiện, thời kì hay tiến trình lịch sử. Đó có thể là một quá khứ xa xôi
hay một thời kì lịch sử đặc biệt. Nó đòi hỏi người viết phải có kiến thức uyên bác,
tỉ mỉ của một nhà sử học, lại vừa có khả năng biến những tri thức đó thành nghệ
13
thuật. Tiểu thuyết lịch sử nói chuyện xưa nhưng nhằm mục đích soi sáng những
vấn đề của hiện tại” 101; 28 . Có thể thấy người viết không chỉ nói về chủ đề, đối
tượng của TTLS, mà còn nhấn mạnh vai trò của người cầm bút.
Trong luận án tiến sĩ Tiểu thuyết Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến
1945 – diện mạo và đặc điểm, Bùi Văn Lợi đã chỉ ra được những đặc điểm cơ bản
cả về nội dung cũng như nghệ thuật của TTLS Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945.
Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra được những quan niệm về người anh hùng cứu
nước, về người phụ nữ anh hùng, đồng thời chỉ ra được mối quan hệ giữa tính
chân thực của lịch sử và hư cấu nghệ thuật... Theo tác giả, TTLS tuy mượn đề tài
và lấy cảm hứng từ lịch sử nhưng vẫn không hề xa rời thực tại.
Với luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 dưới góc nhìn tự sự
học, Nguyễn Văn Hùng đã nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử dựa trên nền tảng lý
thuyết tự sự học hiện đại, thể hiện qua hình tượng người kể chuyện, điểm nhìn tự
sự, nghệ thuật tổ chức thời gian, kết cấu tự sự. Luận án đã góp phần phác họa tiến
trình vận động, diện mạo của TTLS Việt Nam sau năm 1986, từ đó có cái nhìn đối
sánh với TTLS giai đoạn trước nhằm tìm ra những đổi mới trong tư duy về thể
loại, cảm thức, nghệ thuật viết tiểu thuyết cũng như vai trò, sứ mệnh của nhà văn
trong sáng tạo về đề tài lịch sử... Với công trình này, tác giả đã cho chúng ta thấy
được: “Cái nhìn về lịch sử của nhà văn giai đoạn này mang màu sắc và kinh
nghiệm cá nhân r nét. Các tiểu thuyết gia thiên về luận giải lịch sử hơn là mô tả,
minh họa lịch sử. Sự diễn giải ấy bao chứa quan niệm mới về lịch sử và diễn ngôn
về lịch sử” 72; 146].
Lê Thị Thu Trang trong luận án Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam đầu thế kỷ XXI chỉ ra sự đổi mới quan niệm thể loại trong bối cảnh mới.
Công trình dựa vào khung chủ đề và kết cấu của tác phẩm để xác định một số xu
hướng và dạng thức tiêu biểu của TTLS giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI, nhận
diện một số kiểu nhân vật và phương thức xây dựng nhân vật, đồng thời chỉ ra sự
vận động của thể loại này thông qua quan niệm nghệ thuật về con người. Lê Thị
Thu Trang cho rằng: “Xét về mặt đặc trưng, TTLS là một “loại” thuộc thể loại tiểu
thuyết nên tất yếu nó cũng mang những tố chất mĩ học của tiểu thuyết. Song bên
cạnh đó, xét về nội hàm khái niệm thì TTLS còn mang những đặc trưng riêng biệt
so với các loại hình tiểu thuyết khác: TTLS lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và
14
cảm hứng sáng tạo nghệ thuật (…). Nhân vật trong TTLS vừa là nhân vật lịch sử
vừa là nhân vật văn học (…). Hư cấu - phương thức tồn tại của TTLS (...). TTLS
dùng quá khứ làm phương tiện để đối thoại với hiện tại” [158; 10]. Như vậy, về
đặc trưng thể loại, TTLS khác với các loại hình tiểu thuyết khác. Bởi, tiểu thuyết
lịch sử lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, nhân
vật trong TTLS là nhân vật lịch sử…
Trong luận án Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt
Nam, Ngô Thanh Hải đã có những nghiên cứu khái quát về truyện lịch sử nói
chung và thể loại TTLS nói riêng. Tác giả cũng đi sâu tìm hiểu về ba mô hình
truyện lịch sử: truyền thuyết lịch sử, dụ ngôn lịch sử và giai thoại lịch sử. Tác
giả khẳng định: “Ba mô hình truyện lịch sử không tồn tại tách rời mà có sự
chuyển hóa, tương tác với nhau, là sản phẩm chủ đạo của một chủ thể gắn với
thời đại, bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, hệ tư tưởng, quan điểm thẩm m , tư
duy nghệ thuật nhất định” 55; 5].
Tập trung nghiên cứu về Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, Đỗ Thị Nhàn đã
đi sâu phân tích, lý giải một số đặc trưng của TTLS Lan Khai như: cảm hứng sáng
tác, sự kiện lịch sử và thế giới nhân vật, để qua đó làm nổi bật quan niệm nghệ
thuật về con người và những nhân tố chi phối đến sáng tác của ông. Luận án cũng
chỉ ra được “một số phương thức và phương tiện biểu hiện nghệ thuật trong TTLS
của Lan Khai ở các bình diện như: nghệ thuật hư cấu, tổ chức kết cấu, việc lựa
chọn cốt truyện và sự kiện; kiến tạo chân dung nhân vật, vấn đề không gian và
thời gian, nghệ thuật trần thuật; ngôn ngữ và giọng điệu” 117; 3 . Đỗ Thị Nhàn
cũng đã trình bày cách hiểu về TTLS như sau: “Tiểu thuyết lịch sử là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết với những tài liệu của
sử học trên cơ sở lấy lịch sử làm đề tài và tôn trọng sự kiện, nhân vật lịch sử. Tác
phẩm đưa ra những kiến giải sâu sắc về lịch sử, về cuộc sống bù lấp vào những
khoảng trống của sử học. Trong tiểu thuyết lịch sử, hư cấu nhằm phản ánh lịch sử
ở cả bề rộng, bề sâu và làm sống động bức tranh lịch sử, tăng tính chân thực nghệ
thuật trong tiểu thuyết” 117; 8 . Như vậy, TTLS phải có sự kết hợp giữa đặc
trưng của tiểu thuyết với sự kiện và nhân vật lịch sử, phải có những kiến giải sâu
sắc về lịch sử và đặc biệt phải đảm bảo tính chân thực nghệ thuật trong tiểu thuyết.
15
Trong công trình Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử
đương đại Việt Nam, Đoàn Thanh Liêm đã đi vào nghiên cứu một cách chuyên
sâu các hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong TTLS như hệ biểu tượng tự nhiên,
hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng. Từ đó góp phần bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc trong bối cảnh đất nước đổi
mới và hòa nhập quốc tế. Trong chuyên luận của mình, Đoàn Thanh Liêm cũng
nêu quan niệm về TTLS: “tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc thù riêng so
với các thể tài văn học khác. Như tên gọi, thể tài văn học này có sự kết hợp chặt
chẽ giữa hai thành tố lịch sử và tiểu thuyết, chất liệu hiện thực và đặc trưng phản
ánh của loại hình nghệ thuật ngôn từ” 90; 26]. Theo tác giả này, TTLS phải có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa lịch sử và tiểu thuyết.
* Về mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử. Mối quan hệ
giữa hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử luôn là vấn đề được nhiều người quan
tâm. Mối quan hệ giữa văn chương và lịch sử là sự thẩm thấu, hòa quyện vào
nhau. Phan Cự Đệ cho rằng, khó có sự phân biệt giữa văn và sử: “trong tiểu thuyết
lịch sử, sự kiện lịch sử và sự kiện hư cấu, nhân vật lịch sử và nhân vật sáng tạo
trộn lẫn vào nhau, vì thế khó lòng bảo đảm một sự chính xác lịch sử đến mức tuyệt
đối” 40; 62 . Đồng quan điểm với Phan Cự Đệ, Lê Tú Anh cũng cho rằng: “sự
thật của tiểu thuyết không phải thật 100%... Tuy nhiên, hư cấu không có nghĩa là
bịa đặt một cách tùy tiện, thiếu cơ sở” 3; 20-21].
Trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - phác họa một số xu
hướng chủ yếu, Nguyễn Văn Dân cũng nhận định: “Trong tiểu thuyết lịch sử, nghệ
thuật hư cấu chính là lĩnh vực chủ yếu để nhà văn thể hiện sự sáng tạo của mình,
làm cho tác phẩm đúng là một cuốn tiểu thuyết và làm cho tiểu thuyết lịch sử khác
với một công trình sử ký. Các sự kiện hư cấu cũng còn là sự thể hiện quan điểm
của tác giả đối với lịch sử”. Ông còn nhấn mạnh đến tính đặc thù của TTLS khi
đặt nó trong sự so sánh: “hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử có một nét đặc thù riêng,
không giống với hư cấu của tiểu thuyết nói chung. Tiểu thuyết lịch sử phải căn cứ
vào sự kiện và nhân vật lịch sử có thật, cho nên dù có hư cấu thì cũng chỉ có thể
tạo ra sự kiện giống như “chất phụ gia” cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch
sử” [28]. Ở đây, Nguyễn Văn Dân nhấn mạnh đến mức độ và giới hạn của hư cấu
trong sáng tác TTLS.
16
Trong bài “Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức”, Trần Vũ cũng đã
đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Hay trong
“Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử”, Bình Nguyên cũng đã đưa
ra một số kiến giải mới về mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và tính chân thực
lịch sử. Theo ông, TTLS “mang lại nhiều cách tiếp cận, cách kiến giải lịch sử…
giúp đẩy lùi khuynh hướng ca ngợi một chiều, thần thánh hóa quá mức, khiến cho
các nhân vật lịch sử trở nên xơ cứng, ít mang ý nghĩa giáo dục hay người đọc có
thể hoài nghi về sự tồn tại của chính các nhân vật đó” 175]. Những bài viết này
đều chỉ ra giới hạn của sự sáng tạo trong TTLS và vai trò của hư cấu làm lịch sử
thăng hoa qua nghệ thuật tiểu thuyết.
Trong bài “Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển biến
của tư tưởng”, Đỗ Hải Ninh đã đưa ra nhiều luận điểm xung quanh mối quan hệ
giữa chân lý lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Đó là: “Văn xuôi hư cấu lịch sử là
những tác phẩm mang tính hư cấu dựa trên nền lịch sử (2), chính vì vậy những
cuộc tranh luận thường xuất phát từ hai điểm cơ bản: a - mức độ chân thực so với
sự thật lịch sử (chính sử) và b - sự vênh lệch so với nhận thức/ quan điểm chung
của cộng đồng”. Chính vì vậy, hư cấu nghệ thuật là vấn đề không thể thiếu trong
tiểu thuyết lịch sử, bởi “hư cấu lịch sử vốn là một thách thức không nhỏ với nhà
văn bởi vì chạm vào lịch sử tức là đối diện với sự thật, cái đã xảy ra, được nhiều
người biết đến, đòi hỏi nhà văn vốn kiến thức phong phú. Đồng thời nó cũng đòi
hỏi sự từng trải và bản lĩnh nghệ thuật bởi qua thời gian, lịch sử được tích tụ lại
trong văn hóa, gắn với tâm thức dân tộc, cộng đồng”. Từ đó, tác giả đưa ra yêu
cầu của nhà văn khi sáng tác về đề tài lịch sử: “để hư cấu lịch sử nhuần nhuyễn
nhà văn phải am tường lịch sử. Hơn thế nữa, khác với sử gia, nhà văn tái tạo lịch
sử bằng chất liệu nghệ thuật để khám phá cái có thể xảy ra với kiến giải của cá
nhân. Khám phá và lý giải lịch sử bằng cái nhìn của cá nhân nên lịch sử trong
quan niệm của nhà văn sẽ không trùng khớp với quan niệm của cộng đồng và
không tránh khỏi sự “sai lệch tất yếu” 109]. Đồng thời tác giả cũng lưu ý người
đọc rằng, mỗi cách hư cấu lịch sử đều có thể gợi mở một hướng giải mã tác phẩm.
Có thể thấy, một mặt Đỗ Hải Ninh khẳng định hư cấu nghệ thuật là yếu tố không
thể thiếu trong sáng tác văn xuôi về đề tài lịch sử, một mặt nhấn mạnh đến cách
thức hư cấu trong TTLS luôn có tính đặc thù.
17
Hoàng Minh Tường trong bài “Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà
văn”, đã bày tỏ quan niệm: “nhà văn không thay thế được sử gia nhưng có thể bù
lấp những khoảng trống của lịch sử. Nhà văn bằng thiên tư của mình chiếu rọi vào
lịch sử cái nhìn nhân văn làm cho lịch sử được tái tạo lại với một tầm vóc vũ trụ
như nó vốn có. Trong một ý kiến khác cho rằng nhà văn viết về lịch sử có quyền
hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm nhân vật, sự kiện để làm sáng tỏ lịch
sử, soi rọi lịch sử nhưng không thể bóp méo hay bịa tạc lịch sử một cách phi logic,
theo ngẫu hứng riêng của mình” 168]. Bùi Văn Lợi với bài “Mối quan hệ giữa
tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX”, đăng trên Tạp chí Văn học số 9/1999 cũng có những phát hiện
độc đáo về kiểu hư cấu hoàn toàn vì lý tưởng của người viết, có kiểu bán hư cấu,
tôn trọng sự thật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX… Trong bài
viết “Lịch sử như là hư cấu - Quan niệm sáng tạo mới về đề tài lịch sử”, Phan
Tuấn Anh cũng cho rằng: “Sáng tạo lịch sử dẫu có tự do và dân chủ đến mức nào
đi chăng nữa, cũng không phải là không có giới hạn. Mọi sáng tạo và hư cấu về đề
tài lịch sử luôn phải dựa trên cứ liệu sử học (mốc thời gian, nhân vật lịch sử, ý
nghĩa lịch sử). Dẫu bổ sung, tái hiện quan niệm, giải thiêng hoặc thậm chí phủ
định, thì r ràng những sáng tạo văn học vẫn cần có sử học như một đối tượng để
đối thoại”. Tác giả nhấn mạnh thêm rằng: “Nếu không có sử học sẽ không có văn
học (viết về đề tài lịch sử), sử học dù có thể cũng mang tính chủ quan, cũng là một
loại hình diễn ngôn, nhưng bản thân giữa sử học và văn học khác xa về mặt bản
chất. Văn học xem trọng hư cấu, lấy hư cấu làm giá trị, sử học xem trọng biên
niên sự kiện/sự thật lịch sử, lấy sự thật làm giá trị” 4 . Theo nhận định của tác
giả, sáng tạo văn học về đề tài lịch sử phải xem trọng vai trò của hư cấu. Tuy
nhiên, hư cấu phải nằm trong những giới hạn nhất định và lịch sử luôn là chất liệu
cơ bản trong quá trình sáng tác.
Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Giải phóng ngày 25/08/2013, Hoàng Quốc
Hải cho rằng: “lịch sử đối với nhà văn chỉ là cái cớ”, vì thế “tiểu thuyết lịch sử
phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật”. Vấn đề là phải hư cấu như thế nào
đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người đọc
phải thừa nhận đây mới là lịch sử. Do đó, nhiệm vụ của nhà văn viết về lịch sử là
giải mã lịch sử chứ không lặp lại các thông tin lịch sử. Các thông tin lịch sử và
18
ngay cả các nhân vật lịch sử cũng chỉ là chất liệu, là phương tiện để nhà văn xây
dựng tác phẩm…” 54 . Trong cuộc trao đổi bằng thư với Nguyễn Mộng Giác về
TTLS, Nam Dao đã chia sẻ về cách viết tiểu thuyết Gió lửa của ông: "Cái khung
lịch sử đó được sử dụng như phương tiện cấu tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu
thuyết là phương tiện để tác giả thể hiện những tư duy, biện minh và dư phóng cho
chủ đề lịch sử..." 25 . R ràng, ở đây Nam Dao chú trọng vào hai vấn đề chính:
cái khung lịch sử được dùng làm phương tiện cấu tạo, chủ đề lịch sử được tái hiện
trên ba không gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là một luận điểm rất được
chúng tôi chú ý trong quá trình hoàn thành luận án.
Luận án Vấn đề hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương
đại (khảo sát tác phẩm của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn
Quang Thân, Nguyễn Mộng Giác) của Đoàn Thị Huệ là công trình đầu tiên nghiên
cứu một cách công phu, toàn diện các biểu hiện của vấn đề hư cấu nghệ thuật
trong TTLS Việt Nam đương đại trên các phương diện như: hư cấu trong nghệ
thuật xây dựng người kể chuyện và nhân vật, hư cấu trong nghệ thuật tổ chức kết
cấu, lời văn nghệ thuật trong tác phẩm. Luận án đã góp phần làm sáng tỏ thêm vấn
đề hư cấu nghệ thuật trong TTLS Việt Nam đương đại nói riêng và trong tự sự
tiểu thuyết nói chung, từ đó góp phần xử lý linh hoạt, hiệu quả mối quan hệ giữa
sự thật lịch sử với hư cấu nghệ thuật trong bút pháp sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghiên cứu, phê bình văn học, nhận định
đúng thành tựu và xu hướng vận động của TTLS Việt Nam đương đại [67].
Ngoài những công trình đã nêu, còn rất nhiều bài viết khác nghiên cứu
vấn đề hư cấu trong tiểu thuyết được đăng tải trên các tạp chí, kỉ yếu, như: “Quá
trình cá nhân hóa hư cấu - Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử” của
Phạm Xuân Thạch, “Tiểu thuyết lịch sử - hướng tiếp cận mới và vấn đề hư cấu
nghệ thuật” của Đoàn Đức Phương, “Mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và hư
cấu văn học” của Nguyễn Huy Thông; Như thế nào là đủ? của Thanh Ngọc,
“Lịch sử trong văn chương, hư cấu nhưng không được sai lệch của Bảo Thoa;
Không tùy tiện hư cấu lịch sử” của Phan Kỷ, “Tiểu thuyết lịch sử và giới hạn hư
cấu” của Hà An, Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - Hiện tại và hư cấu”
của Nguyễn Văn Dân, “Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật” của Đỗ Ngọc
Yên… Tựu trung, các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao vai trò của hư cấu trong
19
tiểu thuyết lịch sử. Tuy nhiên, mức độ hư cấu đến đâu, ở những giới hạn nào thì
vẫn chưa có sự thống nhất.
Về nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử. Có khá nhiều công trình đề cập đến
nhân vật trong TTLS. Với bài viết “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo
sau đổi mới”, Nguyễn Văn Hùng đã dẫn dắt hai trong bốn nguyên lí tiếp cận và
xử lí lịch sử của Milan Kundera: nguyên lí thứ 2 - tạo tình huống hiện sinh tiêu
biểu, mới mẻ cho nhân vật tiểu thuyết và nguyên lí thứ 4 - lịch sử của con người
chứ không phải là lịch sử của xã hội. Tác giả đã rút ra kết luận: nhân vật là nơi
thử thách và cũng là nơi khẳng định r nhất bản lĩnh, tài năng, phong cách, cá
tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Và đó cũng là một trong những bình diện thể hiện
sinh động nhất giới hạn trong biên độ sáng tạo, hư cấu, tưởng tượng của người
nghệ sĩ. Từ đó, ông đưa ra những lí giải, phân tích về nhân vật lịch sử trong văn
xuôi lịch sử sau đổi mới: 1. Nhân vật lịch sử - câu chuyện không mới nhưng
luôn “nóng” trên văn đàn Việt; 2. Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo; 3.
Nhân vật lịch sử: một mẫu hình nhiều “phiên bản” 74].
Trong bài “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với quan niệm nghệ thuật về con
người”, Nguyễn Thị Kim Tiến cũng cho rằng: “Để giải quyết mối quan hệ sự thật
và hư cấu phần đông các nhà văn đã lựa chọn giải pháp lấy tâm điểm là con người
để tiếp cận, soi chiếu qua quan niệm nghệ thuật về con người, biến con người làm
mục đích chuyển tải giá trị tư tưởng dưới “lớp bọc” của đường viền lịch sử, giúp
họ có cơ hội “chất vấn”, nhận thức cái tưởng như đã là chân lý của lịch sử nhưng
vẫn đảm bảo quyền toàn bích của việc sáng tạo hư cấu. Chính yếu tố này đã khiến
việc cắt nghĩa con người biểu hiện qua nhân vật cũng đi theo hai chiều hướng”: 1.
Con người đối thoại với lịch sử; 2. Kết nối với hiện tại 153]. Với bài viết “Nghệ
thuật biểu hiện phương diện đời tư thế sự của nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đương đại”, Đoàn Thị Huệ đã chỉ ra một số phương diện nghệ
thuật như: nhạt dần cảm hứng sử thi khi miêu tả nhân vật lịch sử; tái tạo vẻ đẹp
ngoại hình nhân vật lịch sử; nội soi vẻ đẹp nội tâm nhân vật lịch sử. Người viết đã
khảo sát tác phẩm của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng
Giác, Nguyễn Quang Thân để chứng minh cho những luận điểm của mình. [66].
Nguyễn Khắc Phê với bài viết “Nhân vật trung tâm và quyền sáng tạo của nhà
văn” đã có những phân tích khá sâu sắc về sự lựa chọn của các nhà văn đối với
20
nhân vật lịch sử. Điều dễ thấy là hầu hết TTLS đều dựa vào những nhân vật nổi
tiếng, có công lao, đã được xã hội tôn vinh. Về quyền sáng tạo của nhà văn, “đã
là tiểu thuyết thì tất phải hư cấu, nói nôm na là nhà văn có quyền tưởng tượng
những điều chưa ai biết đến nhưng “có thể có thật”. TTLS cũng vậy, nếu không,
đó chỉ là “chuyện danh nhân”. Với cuộc đời một nhân vật, hay một sự kiện dù
lớn đến đâu, dù sử sách, báo chí viết nhiều đến cỡ nào, thì cũng chỉ mới phản
ánh được một phần vạn, phần ngàn toàn bộ cuộc đời họ” 131 …
Trong chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945, Nguyễn Thị
Tuyết Minh cho rằng: “Đối với một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là nơi thử
thách và cũng là nơi khẳng định tài năng của nhà văn r nhất. Nhà văn phải bồi da
đắp thịt để phục sinh nhân vật có khi chỉ trừ một cái tên, một dòng chữ khắc trên
bia đá lịch sử. Nhà văn phải thổi sức sống cho nhân vật, làm cho nhân vật lịch sử
như đang đi lại, nói năng, buồn vui thật như cuộc đời để phục vụ tư tưởng nghệ
thuật của mình. Nhân vật thành công là nhân vật không quá xa lạ với người đọc
mà vẫn phù hợp với thời đại lịch sử mà nó đã sống” 100; 117 . Từ quan điểm
này, tác giả phân nhân vật trong TTLS Việt Nam thành bốn loại hình chủ yếu: 1.
Nhân vật mang khát vọng lịch sử; 2. Nhân vật có số phận trong dòng lịch sử; 3.
Nhân vật biểu tượng; 4. Nhân vật lưỡng diện - đa diện.
Luận văn thạc sĩ Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1986 đến
nay của Nguyễn Chương M Bình là công trình nghiên cứu chuyên biệt về nhân
vật trong TTLS giai đoạn sau 1986. Tác giả đã khảo sát hầu hết tác phẩm đạt các
giải thưởng lớn và được các nhà nghiên cứu phê bình quan tâm. Chương Thị M
Bình đã đưa ra quan niệm về thể loại tiểu thuyết lịch sử và nhân vật trong TTLS;
làm r một số phương diện đặc điểm nội dung của nhân vật, đặc trưng nghệ thuật
của nhân vật từ nguyên mẫu đến hư cấu trong TTLS Việt Nam đương đại.
Bàn về nhân vật trong TTLS còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí,
luận văn thạc sĩ của các trường đại học. Hầu hết các công trình đều tập trung khái
quát những đặc điểm về nội dung và phương thức nghệ thuật khi xây dựng nhân
vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý thuyết về nhân vật trong TTLS
nói riêng và trong văn học nói chung.
Về các tác phẩm và tác giả tiểu thuyết lịch sử. Bên cạnh những nghiên cứu
khái quát về TTLS, còn có khá nhiều cuộc tọa đàm, công trình nghiên cứu, bài
21
viết về các tác phẩm và tác giả tiểu thuyết lịch sử cụ thể. Riêng tác giả Nguyễn
Xuân Khánh cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và hội thảo đáng chú ý
như: Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly (Báo Văn nghệ số 44/2000); “Tiểu thuyết
Hồ Quý Ly; thưởng thức và cảm nhận” của Hoàng Cát; “Hồ Quý Ly và những giải
pháp mới cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà” của Trung Trung Đỉnh; “Hồ Quý Ly”
của Lại Nguyên Ân; “Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý
Ly của Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn Thị Thu Hương; “Nguyễn Xuân Khánh
tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới” của Quỳnh Châu; “Về những cách tân nghệ thuật
trong Hồ Quý Ly” của Lã Nguyên; “Tính khả dụng của Nho giáo trong đời sống
đương đại (qua diễn ngôn Hồ Quý Ly) và Cảm thức “Vô úy” trong Đội gạo lên
chùa của Nguyễn Xuân Khánh” của Lê Tú Anh; “Phương thức lựa chọn và thể
hiện hiện thực lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn Văn
Hùng; “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn
Thị Thu Hương; “Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh” của Trương Thị Nhung; “Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật
Nguyễn Xuân Khánh” do Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên),… Những nghiên cứu
trên đã mổ xẻ nhiều vấn đề, nhiều phương diện khác nhau về các tác phẩm của
Nguyễn Xuân Khánh. Riêng tiểu thuyết Hồ Quý Ly, các công trình nghiên cứu
cũng đã ghi nhận những thể nghiệm mới mẻ về lối viết TTLS của tác giả này. Đa số
ý kiến khẳng định rằng, tác phẩm ông đã đáp ứng yêu cầu tái hiện lịch sử nhưng
vẫn rất sáng tạo trong nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng hình tượng nhân vật bằng
lối viết có chủ kiến. Còn với Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, các bài viết
đã xoay quanh vấn đề về lịch sử và văn hóa phong tục được luận giải trong tác
phẩm. Mặc dù hiện nay còn một số băn khoăn khi xếp các tiểu thuyết này vào thể
tài tiểu thuyết lịch sử, song nhiều ý kiến thống nhất cho rằng, đây là một thể
nghiệm nhằm mở rộng biên độ của thể loại, tìm kiếm “hình hài” mới cho TTLS.
Các bài viết đều khẳng định, Nguyễn Xuân Khánh có ý thức vượt thoát khỏi chiếc
áo có phần chật hẹp của các sự kiện, biến cố lịch sử, đẩy Mẫu Thượng Ngàn, Đội
gạo lên chùa về phía văn hóa phong tục, tín ngưỡng dân tộc.
Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác cũng là một tác phẩm thu hút
nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Khi tác phẩm mới xuất hiện, người ta đã
hình dung sự manh nha của một trào lưu TTLS. Sông Côn mùa lũ đã được công
22
chúng và giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao. Có thể kể đến các bài viết như:
“Sông Côn mùa lũ một cuốn tiểu thuyết lịch sử công phu” của Nguyễn Khắc Phê,
“Sông Côn mùa lũ - trường thiên tiểu thuyết của nhà văn Việt kiều Nguyễn Mộng
Giác”, “Sông Côn mùa lũ - con sông của những số phận đời thường và số phận
lịch sử” của Mai Quốc Liên, “Tiểu thuyết lịch sử” của Phan Cự Đệ, “Nhân đọc
Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Vy Khanh… Các bài viết đã phần nào khẳng định
tài năng của Nguyễn Mộng Giác, nhấn mạnh vai trò sáng tạo của nhà văn trong
việc khám phá tâm hồn, đời tư của nhân vật lịch sử; khẳng định nhân cách văn hóa
Việt trong cái nhìn lịch sử - văn hóa của ông…
Giàn thiêu của V Thị Hảo cũng là một sáng tác được giới nghiên cứu phê
bình quan tâm. Tác phẩm này đã giúp “V Thị Hảo bứt phá khỏi lối đi đã quen
thuộc” và trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương
đại. Trong các nghiên cứu như: “Những thông điệp từ lửa và nước” của Trần
Khánh Thành, “Giàn thiêu - một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử” của
Nguyễn Hoài Nam, “Giàn thiêu của V Thị Hảo” của Lê Thanh Nga, “Tiểu thuyết
và lịch sử (nhân đọc Giàn thiêu của V Thị Hảo)” của Lại Nguyên Ân, “Yếu tố
liên văn bản trong tiểu thuyết Giàn thiêu (Văn học hậu hiện đại - diễn giải và tiếp
nhận)” của Nguyễn Văn Hùng, “Đọc Giàn thiêu của V Thị Hảo - chơi với người
chơi lửa” của Nguyễn Quang Huy… Các bài viết đã khẳng định được tài năng
nghệ thuật của V Thị Hảo qua tiếp cận tác phẩm ở nhiều góc độ khác nhau: ý
thức nữ quyền, yếu tố kì ảo, liên văn bản...
Hội thề của Nguyễn Quang Thân, tác phẩm đoạt giải A trong cuộc thi tiểu
thuyết lần thứ III (2006 - 2009) của Hội Nhà văn cũng thu hút sự chú ý của diễn
đàn nghiên cứu phê bình văn học. Tác phẩm đã tạo ra một cuộc tranh luận gay
gắt. Xuất hiện nhiều bài viết mang tính phản biện, tranh luận quanh Hội thề. Có
thể kể đến: “Hội thề - tiểu thuyết lịch sử hay phản lịch sử, Nguyễn Quang Thân
cho các tướng lĩnh Lam Sơn theo Mao khí sớm” của Trần Mạnh Hảo, “Đọc Hội
thề” của Phạm Viết Đào, “Kinh ngạc khi Hội Nhà văn tôn vinh cuốn tiểu thuyết
Hội thề” của Từ Quốc Hoài, “Thẩm bình Hội thề” của Vương Quốc Hoa, “Về
Hội thề” của Trần Hoài Dương,… Trước những ý kiến trái chiều về giá trị của
tác phẩm, nhiều tác giả đã lên tiếng bảo vệ Hội thề, cụ thể như: “Hội thề, một
cách nhìn về lịch sử của Hoài Nam, “Trớ trêu trí thức, bẽ bàng tình nhân” của
23
Văn Hồng, “Đọc Hội thề” của Trần Thanh Giảng, “Hội thề - đau đáu thế sự, tình
đời của V. Min, “Trong tiếng người xưa vẫn vọng về” của Ngô Thị Kim Cúc,
“Hội thề: Lịch sử và tiểu thuyết” của Lê Thành Nghị, “Mấy vấn đề chủ yếu
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại” (Nguyễn Văn Dân),… Qua các
công trình có thể thấy: Hội thề đặt những dấu ấn nhất định trong việc “luận giải
lịch sử” bằng quan điểm và kinh nghiệm cá nhân nhà văn.
Bão táp triều Trần (6 tập) và Tám triều vua Lý (4 tập) của Hoàng Quốc
Hải cũng là những tác phẩm nhận được nhiều sự quan tâm bình giá của các đồng
nghiệp, nhà nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu lịch sử. Trong đó, đáng chú
ý là các công trình khảo cứu như: “Nhà văn Hoàng Quốc Hải người viết lịch sử
bằng văn” của Đào Bá Đoàn, “Bão táp Triều Trần tác phẩm và dư luận” của
nhiều tác giả, “Nhà văn Hoàng Quốc Hải” của Phùng Văn Khai, “Đọc tiểu thuyết
lịch sử của Hoàng Quốc Hải” của Hoàng Tiến, “Nhà văn Hoàng Quốc Hải và các
nhân vật lịch sử” của Phùng Văn Khai, “Về tiểu thuyết lịch sử triều Trần của
Hoàng Quốc Hải và quan niệm về nhân vật anh hùng” của Hoài Anh; “Nhà văn
Hoàng Quốc Hải: Tái hiện thời Lý - Trần qua hơn 4000 trang tiểu thuyết” của
Bằng Việt, “Suy ngẫm về bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần” của Hoàng Quốc Hải
của Hoàng Công Khanh, “Nhà văn Hoàng Quốc Hải trái tim đập thăng trầm cùng
các nhân vật lịch sử” của Phùng Văn Khai, “Bộ tiểu thuyết Bão táp triều Trần
của Hoàng Quốc Hải một sự tái tạo lịch sử đáng tin cậy” của Đinh Công Vĩ,…
Bên cạnh đó, Tám triều vua Lý, bộ sách đồ sộ (3509 trang in khổ 14,5 x 20,5 cm)
được xuất bản đúng dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội cũng nhận
được nhiều sự quan tâm của văn đàn. Trong đó có một số bài viết tiêu biểu như:
“Tám triều vua Lý - Bão táp triều Trần hai bộ tiểu thuyết lịch sử đầy giá trị của
nhà văn Hoàng Quốc Hải” của Phùng Văn Khai, “Tám triều vua Lý” của Minh
Ngọc, “Tám triều vua Lý” của Minh Hiếu, “Vương triều Lý dưới góc nhìn của tiểu
thuyết gia Hoàng Quốc Hải” của Đặng Văn Sinh, “Tám triều vua Lý của Hoàng
Quốc Hải từ góc nhìn thể loại” của Nguyễn Thị Yến… Các bài viết đã đánh giá,
nhận định về cá tính sáng tạo, phong cách riêng của tác giả cũng như những thủ
pháp nghệ thuật làm nên thành công của các tác phẩm. Dưới con mắt của một số
nhà nghiên cứu, sự thành công của tiểu thuyết gia này được nhìn nhận ở khía
cạnh tôn trọng tính khách quan, tái hiện chân thực nhân vật, sự kiện lịch sử, từ
24
chân lí lịch sử thăng hoa thành sự thực nghệ thuật. Nhà văn Hoàng Tiến còn
khẳng định Bão táp triều Trần và Tám triều vua Lý là tác phẩm mang sứ mệnh
“nối kết quá khứ với hiện tại”. Bên cạnh đó còn có một số bài viết quan tâm đến
phương diện tái hiện nhân vật lịch sử và cái nhìn tiểu thuyết đối với nhân vật
trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải.
Gió lửa, Đất trời, Bể dâu của Nam Giao cũng là những tác phẩm tạo dấu ấn
đậm nét với công chúng yêu văn chương và giới nghiên cứu lí luận phê bình. Có
thể điểm qua một số công trình và bài viết đáng chú ý về những sáng tác này: Tiểu
thuyết lịch sử Gió lửa của Nam Giao của Trương Văn Quỳnh; “Gió lửa: mô hình
xã hội học, tiểu thuyết lịch sử” của Phạm Trọng Luật,… Các bài viết đã chỉ ra
những đóng góp của Nam Dao vào sự phát triển của thể loại và văn xuôi nước
nhà. Với quan niệm và cách tiếp cận mới về lịch sử, tác giả đã đem đến cho người
đọc những trải nghiệm lí thú qua từng trang viết sống động về các thời kì lịch sử
của dân tộc.
Với sự thành công của ba cuốn tiểu thuyết: Nguyễn Du (2010, giải A giải
thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương); Khúc hát những dòng sông (2013,
giải Ba cuộc thi Sáng tác, quảng bá tác phẩm Văn học, Nghệ thuật và Báo chí về
chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh); Thông reo ngàn
Hống (2015, giải A giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam); Đường về Thăng
Long (2019, giải tư - giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam), Nguyễn Thế
Quang đã trở thành một hiện tượng “mới” trong dòng TTLS đương đại. Có khá
nhiều công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm của Nguyễn Thế Quang như:
“Đọc Nguyễn Du - tiểu thuyết lịch sử” của Yến Nhi, “Nguyễn Du - Lịch sử và tiểu
thuyết” của Bùi Công Thuấn; “Nguyễn Du - Từ cuộc đời đến tiểu thuyết” của Lê
Thái Phong và Nguyễn Sĩ Đại; “Nguyễn Thế Quang và ba cuốn tiểu thuyết lịch sử
vừa xuất bản” của Nguyễn Khắc Phê; Lê Thanh Nga: “Nguyễn Thế Quang, những
chuyện kể bất tận về mẹ (nhân đọc Khúc hát những dòng sông)… Các bài viết đã
chỉ ra những đóng góp ấn tượng của Nguyễn Thế Quang cho nền văn xuôi nước
nhà. Ông được đánh giá không chỉ là người tái tạo những biến động lịch sử một
thời đã qua mà còn “biến lịch sử thành cái cớ để gửi đến con người hiện tại những
thông điệp về giá trị đạo đức tinh thần”…
25
Sau khi gây được tiếng vang lớn từ tác phẩm Búp sen xanh, Sơn Tùng tiếp
tục đã cho ra đời nhiều TTLS viết về Hồ Chí Minh. Giới nghiên cứu phê bình đã
ghi nhận những đóng góp của ông đối với thể loại TTLS cũng như công trình
nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh với rất nhiều bài viết, công trình khoa học.
Đáng chú ý là chuyên luận: “Hiện tượng Sơn Tùng trong văn học Việt Nam hiện
đại” của nhóm tác giả Hằng Thi, Thiên Sơn, Lưu Việt Quang (sưu tầm và biên
soạn). Chuyên luận với gần 200 bài viết đã có những đánh giá cao về cuộc đời và
những đóng góp của nhà văn Sơn Tùng cho văn học Việt Nam nói chung, TTLS
Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, các bài viết đã giúp người đọc có cái nhìn mới hơn,
toàn diện hơn về con người Hồ Chí Minh.
Ngoài những công trình nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm nói trên còn có
rất nhiều bài viết của nghiên cứu sinh, các học viên cao học trong cả nước, đề tài
nghiên cứu khoa học tại các trường đại học về TTLS Việt Nam sau 1975. Có thể
kể đến: “Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang
Thân” của Phan Trọng Hoàng Linh, “Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu
thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân” của Nguyễn Văn Hùng, “Bi kịch
về nỗi cô đơn của người trí thức trong tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh và Hội thề của Nguyễn Quang Thân” của Nguyễn Thị Hương Quê,
Lời giới thiệu Tây Sơn bi hùng truyện của Hoàng Minh Tường, “Lại bàn về
chuyện đọc sử, đọc văn Hoàng Quốc Hải trong bài Đôi điều về Tây Sơn bi hùng
truyện” của Nguyễn Hòa,… Bên cạnh đó, còn khá nhiều luận văn, đề tài nghiên
cứu về TTLS từ góc nhìn thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, văn hóa học, tiếp
nhận văn học… Hầu hết các công trình tập trung khai thác và làm sáng tỏ quan
niệm về thể loại và quan niệm sáng tác của nhà văn cùng những đặc trưng nghệ
thuật của các tác phẩm trên các phương diện như: cảm quan và tư duy tự sự lịch
sử; lằn ranh giữa hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật; phương thức thể hiện
hiện thực lịch sử từ góc độ trần thuật; diễn ngôn lịch sử,… Các ý kiến nhìn
chung khá đa dạng và sinh động, đều khẳng định tiềm năng, thành tựu và hạn
chế của TTLS trong đời sống văn học Việt Nam đương đại.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về TTLS, về các tác giả, tác phẩm
cụ thể đã tập trung làm r các vấn đề sau:
1. Thế nào là TTLS?
26
2. Vai trò của yếu tố lịch sử trong sáng tác TTLS.
3. Yếu tố hư cấu, giới hạn và phương thức hư cấu trong sáng tác TTLS.
4. Những nét nổi bật trong phương thức xây dựng hình tượng nghệ thuật
trong TTLS của các tác giả.
Từ những tổng lược nói trên, chúng tôi nhận thấy TTLS đã được giới
nghiên cứu phê bình trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều công
trình, bài viết làm r nhiều vấn đề, phương diện trong các TTLS. Ở Việt Nam, một
số công trình đã đi sâu khảo sát tiến trình vận động, đặc điểm, diện mạo, mối quan
hệ giữa hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử, về nhân vật trong tiểu thuyết lịch
sử… Tuy nhiên, vì sự đa dạng và sự vận động, phát triển không ngừng của TTLS,
vẫn cần thiết có thêm nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về khuynh hướng
tiểu thuyết này, trong đó có vấn đề NVAH trong TTLS Việt Nam từ 1975 đến nay.
1.1.2. Nghiên cứu về nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Vi t
Nam sau 1975
Cho đến nay chưa có công trình khoa học chuyên biệt nào nghiên cứu về
NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975. Mặc dù, một số công trình, luận văn, luận
án mỗi khi tiếp nhận, nghiên cứu về TTLS, cũng ít nhiều có đề cập tới khía cạnh
này. Có thể điểm lại một số công trình. Trong bài viết “Các xu hướng xây dựng
hình tượng người anh hùng trong văn học nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới”,
Tiêu Thị M Hồng đã có những phân tích khá k lưỡng hai xu hướng viết về
NVAH: xu hướng đầu tiên là ngợi ca người anh hùng, xu hướng thứ hai là bình
thường hoá các anh hùng trong chính sử. Tác giả cho rằng: cần phải “nhìn nhận
các nhân vật lịch sử một cách biện chứng ở cả hai mặt ưu điểm và hạn chế. Điều
đó biểu hiện cái nhìn dân chủ, tư duy phân tích lịch sử của người nghệ sĩ nói riêng
và văn học, nghệ thuật đương đại nói chung” 65 ; Nguyễn Văn Hùng trong bài
viết “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi mới” (2016), đã có
những nhận định về nhân vật anh hùng: “dẫu là… anh hùng dân tộc, danh nhân
văn hóa, huyền thoại tôn giáo, có công hay có tội, thì trước tiên họ cũng là con
người, mà đã là con người, tất cả luôn bị tác động bởi muôn vàn mối quan hệ phức
tạp, bị bủa vây bởi những giới hạn thường tình của kiếp nhân sinh. Lịch sử lúc này
được soi rọi từ chiều sâu thế giới nội tâm nhân vật, được khám phá ở từng trạng
huống hiện sinh, và kết tinh trong mỗi số phận, bi kịch cá nhân trong dòng xoáy
27
của lịch sử: bi kịch của dục vọng và ý chí quyền lực, bi kịch cô đơn, bi kịch bị lựa
chọn, bi kịch đánh mất bản thể…” [74]. Theo Nguyễn Văn Hùng, NVAH trong
TTLS không chỉ là những con người với chiến công lưu danh sử sách, mà cũng
như bao con người bình thường khác, luôn bị tác động bởi “muôn vàn mối quan
hệ phức tạp”. Trong đời sống, họ như một bản đàn nhiều cung bậc, khi cô đơn,
đau khổ, khi vui vẻ, tự hào. Tất cả đan xen nhau trong những thời khắc thăng hoa
hay trầm lắng của sự nghiệp. Người anh hùng trong cái nhìn của tiếp nhận hiện
sinh bao giờ cũng là bản thể của những cá nhân có đời sống nội tâm phong phú.
Trong luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX
đến 1945 (diện mạo và đặc điểm), Bùi Văn Lợi khái quát quan niệm về người
anh hùng trong TTLS Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX như sau: “hình tượng người
anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã đánh dấu một
bước trưởng thành mới của văn học Việt Nam từ chỗ phản ánh người anh hùng
phi thường đến chỗ phản ánh người anh hùng bình thường” 94; 107-108 . Ở
đây, tác giả có ý nhấn mạnh đến sự thay đổi có tính chất cách mạng trong quan
niệm về con người nói chung, người anh hùng nói riêng cả trong đời sống lẫn
trong văn học. Với chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay,
Nguyễn Thị Tuyết Minh đã phân chia các nhân vật lịch sử (trong đó có NVAH)
thành 4 loại hình: 1. Nhân vật mang khát vọng lịch sử; 2. Nhân vật số phận trong
dòng lịch sử; 3. Nhân vật biểu tượng; 4. Nhân vật lưỡng diện, đa diện. Không chỉ
phân loại NVLS mà tác giả còn phân tích khá k lưỡng đặc điểm của 4 loại hình
nhân vật này 101].
Với đề tài Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (2012),
công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Tiến đã nêu ra sự đổi mới trong quan
niệm về hiện thực, về con người (trong đó có người anh hùng) của văn học Việt
Nam thời kỳ Đổi mới nói chung, của tiểu thuyết nói riêng: “Nếu văn học trước
năm 1975 gắn tình cảm của họ với tình cảm lớn lao, vĩ đại của toàn dân thì văn
học giai đoạn sau lại khai thác thêm một dòng chảy nữa. Đó là những gì thuộc về
đời sống riêng tư, tình cảm cá nhân, những vấn đề thuộc về bản năng con người”
[154; 80 . NVAH theo tác giả phải là những người có tầm vóc lớn lao, vĩ đại
nhưng trước hết họ phải là “bản thể” của một con người theo logic tự nhiên.
28
Lê Thị Thu Trang trong luận án tiến sĩ Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI đã đi vào khảo sát các kiểu nhân vật
trong TTLS Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI. Tác giả đã có những nhận
định về NVAH, đưa ra một số đặc điểm của người anh hùng như: người anh
hùng mang khát vọng lịch sử; khát vọng nắm giữ vương quyền để xây dựng và
canh tân đất nước; người anh hùng đòi hỏi phải có những phẩm chất trí tuệ, tài
năng và lòng dũng cảm; NVAH biểu tượng cho lòng trung trinh son sắt với
thiên triều, với đại cuộc…
Với luận văn thạc sĩ Hình tượng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết hiện
đại Việt Nam, Nguyễn Văn Sang đã đưa ra 4 đặc điểm về NVAH: “Thứ nhất, hình
tượng người anh hùng lịch sử trong tiểu thuyết mang đặc điểm của hình tượng văn
học. Họ không còn giống hoàn toàn so với hình tượng lịch sử và hình tượng dân
gian nữa; Thứ hai, cảm hứng sử thi không còn giữ vai trò chủ đạo nhưng vẫn
không thể thiếu trong việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng. Nó mang lại
cho tiểu thuyết lịch sử không khí của quá khứ lịch sử và truyền cảm hứng ngưỡng
vọng vào lòng người đọc... Nhà văn dành sự ưu ái đặc biệt cho nhân vật anh hùng
và thời đại người anh hùng đó thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Hình tượng
người anh hùng vì vậy hiện lên rất đẹp, trau chuốt. Đó là một người hết lòng vì
dân vì nước, là người trung nghĩa, là hạng tài ba hiếm thấy và dường như đã được
lịch sử chọn sẵn để cầm cương; Thứ ba, hình tượng nhân vật anh hùng lịch sử
mang nặng yếu tố đời thường, yếu tố cá nhân và cảm hứng “giải thiêng” lịch sử;
Thứ tư, nhà văn coi hình tượng người anh hùng và bối cảnh lịch sử anh hùng là
phương tiện truyền đạt cảm hứng thế sự” [135; 26]. Như vậy, theo quan điểm của
tác giả luận văn, anh hùng phải là người mang đến sự phát triển cho xã hội và thúc
đẩy mọi người cùng phấn đấu noi theo. Tuy nhiên, công trình của Nguyễn Văn
Sang chỉ khảo sát Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải (với hai tập Bão táp
cung đình và Huyết chiến Bạch Đằng); Hội thề của Nguyễn Quang Thân và Sông
Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác nên chưa bao quát được hết các đặc điểm
cũng như cách thức xây dựng NVAH của TTLS Việt Nam hiện đại.
Trong công trình Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Bão táp triều Trần
của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Hải Hùng đã chỉ ra được vai trò, vị trí của NVAH
trong tiểu thuyết Bão táp triều Trần nói riêng và TTLS nói chung. Tuy nhiên,
29
công trình này chỉ nghiên cứu NVAH trong một tác phẩm cụ thể nên không thể lí
giải đầy đủ phương thức xây dựng NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã nhìn nhận người anh
hùng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong các công trình, bài viết, luận
văn, luận án… trước đây, vấn đề này có được đề cập nhưng chưa thật toàn diện,
các kiến giải vẫn chủ yếu tập trung làm rõ các phẩm chất, đặc điểm của NVAH,
phương thức xây dựng NVAH ở một số tác phẩm cụ thể mà chưa đặt nó trong mối
quan hệ với đặc trưng thể loại, khuynh hướng và phương thức sáng tác.
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.2.1. Giới thuyết một số khái niệm được dùng trong luận án
1.2.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thuật ngữ Hán Việt, xuất hiện sớm nhất trong sách của
Trang Tử (Trung Quốc), có nghĩa tương đương với Novel (Anh), Roman (Pháp),
Novela (Tây Ban Nha)... Ở Trung Quốc, khái niệm tiểu thuyết xuất hiện khá sớm.
Trong Từ điển Từ hải, tiểu thuyết được xác định như sau: “Một dạng thức lớn của
văn học, dùng phương thức tự sự, đặc biệt miêu tả một cách cụ thể mối quan hệ hỗ
tương hành động và sự kiện cho đến trạng thái tâm lí tương ứng và sự lưu động ý
thức của nhân vật trong một hoàn cảnh nhất định. Tiểu thuyết phản ánh đời sống
xã hội từ nhiều góc độ khác nhau. Góc độ tự sự của tiểu thuyết linh hoạt, đa dạng,
các thủ pháp biểu hiện như: miêu tả, tự thuật, trữ tình, nghị luận… đều có thể gồm
cả trong đó. Thông thường, tiểu thuyết dùng các dạng hình tượng nhân vật làm
phương tiện phản ánh đời sống… [186; 2902]. Ở phương Tây, đến khi xã hội cổ
đại tan rã, tiểu thuyết mới được xem là một thể loại độc lập thuộc phương thức tự
sự. Đến thời Phục hưng và đặc biệt là đến thế kỉ XIX, tiểu thuyết thực sự nở rộ,
nhiều công trình nghiên cứu khái niệm tiểu thuyết xuất hiện, trong đó, tiêu biểu là:
Từ điển Littré, Từ điển Robert (Pháp), Bách khoa từ điển (Hoa kỳ), G. Lukacs, M.
Bakhtin, Belinski, Ralph… Trong Từ điển Littré, tiểu thuyết là “Một câu chuyện
bịa đặt viết bằng văn xuôi, trong đó tác giả hoặc mô tả tình cảm, các phong tục,
hoặc kể về những sự kiện kỳ lạ cốt gây hứng thú cho độc giả”. Còn trong Từ điển
Robert, tiểu thuyết được định nghĩa một cách đầy đủ và mềm dẻo: “Tiểu thuyết là
một hư cấu bằng văn xuôi, khá dài, trình bày và làm sống động những nhân vật giả
thuyết như có thật tại môi trường, cho ta biết tâm lý, số phận, những biến cố của
30
họ” 37; 89 . Trong cuốn Lý luận văn học, N.A. Gulaiev định nghĩa tiểu thuyết là
“hình thức tự sự cỡ lớn, mô tả đời sống riêng của con người trong những mối quan
hệ rộng lớn với xã hội” 37; 244]. Còn Belinsky lại gọi tiểu thuyết là “Sử thi của
đời tư” 59; 326]. Ralph lại hình dung tiểu thuyết như “thiên trường ca về cuộc
đấu tranh của cá nhân với xã hội, với tự nhiên” 59; 327 …
Ở Việt Nam, đầu thế kỉ XX thuật ngữ tiểu thuyết mới được sử dụng như ở
Trung Quốc. Thuật ngữ tiểu thuyết được dùng để chỉ các tác phẩm truyện có quy
mô lớn (còn quy mô vừa và nhỏ được gọi là truyện). Mặc dù tiểu thuyết đã xuất
hiện, tồn tại và phát triển trong một khoảng thời gian khá dài, nhưng như M.
Bakhtin xác định: “tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang hình thành và chưa xong
xuôi”; vì thế, khái niệm tiểu thuyết luôn được bổ sung, điều chỉnh và đi tìm một
định nghĩa đầy đủ về nó quả là không dễ. Trong Từ điển văn học (bộ mới), tiểu
thuyết được hiểu là “thể loại tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào
số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần
thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ
để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” 121; 1716]. Theo các tác tác giả, tiểu
thuyết là một thể loại tự sự và trần thuật. Trong Từ điển thuật ngữ văn học do
nhóm Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên, tiểu thuyết
được hiểu là: “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở
mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của
nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều
kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng…”. Nó cũng là “thể loại
của tinh thần tự do, vượt ra khỏi sự gò bó của những luật lệ cũ và cho phép sự
sáng tạo về hình thức cũng như về chủ đề” 59; 328 . Theo định nghĩa này, tiểu
thuyết là thể loại văn học được sáng tác tự do nhất, khả năng hư cấu không giới
hạn nào nên đối tượng phản ánh của nó là vô cùng rộng mở (từ con người cá
nhân đến một nhóm, một tập thể, cả xã hội…). Trong Lý luận văn học, nhóm tác
giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà… đã đưa ra
một định nghĩa về tiểu thuyết khá rộng và đầy đủ: tiểu thuyết là “hình thức tự sự
cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng
rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều
cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều
31
kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Không phải ngẫu nhiên
mà thể loại tiểu thuyết chiếm địa vị trung tâm trong hệ thống thể loại văn học
cận đại, hiện đại” 122; 387 . Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến tính đa dạng, đa
diện, đa chiều trong xây dựng nhân vật, hình tượng và chủ đề tư tưởng của thể
loại tiểu thuyết.
M. Bakhtin đã mở ra một quan niệm mới về thể loại tiểu thuyết. Các sách lý
luận văn học ở ta xuất hiện trong khoảng vài thập kỷ trở lại đây khi bàn về tiểu
thuyết thường chịu nhiều ảnh hưởng của M. Bakhtin. Lý luận tiểu thuyết của M.
Bakhtin xác định đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trên những phương diện chính
sau: 1. Tiểu thuyết là thể loại thể hiện được tinh thần của thời hiện đại (tính dân
chủ, đối thoại, tiếp nhận để biến đổi). 2. Tiểu thuyết thể hiện con người trong sự
không trùng khít, không đồng nhất với chính nó (giữa nhân cách và địa vị xã hội,
giữa bên trong với bên ngoài…). 3. Tiểu thuyết là thể loại ở thì “chưa hoàn
thành”, có khả năng bổ sung, thu hút đặc trưng của các thể loại khác. 4. Tiểu
thuyết thể hiện tính phức điệu, trước hết là ngôn ngữ [10].
Quan niệm về tiểu thuyết của Milan Kundera (nhà văn Pháp gốc Tiệp) khá
phù hợp với tiểu thuyết giai đoạn hiện đại, hậu hiện đại. Theo Milan Kundera, tiểu
thuyết là sự bí ẩn của cái “tôi”, là là phương thức “tồn tại của con người, để giữ
cho con người còn là con người toàn vẹn”, chống lại sự tha hóa trong thời hiện
đại. Kundera cho rằng tiểu thuyết gắn liền với 4 tiếng gọi: 1. Tiếng gọi của trò
chơi; 2. Tiếng gọi của giấc mơ; 3. Tiếng gọi của tư duy; 4. Tiếng gọi của thời gian.
Lý luận tiểu thuyết của Kundera có ý nghĩa thiết thực giúp nhiều nhà nghiên cứu
đi sâu tìm hiểu các tiểu thuyết có ý nghĩa cách tân, mang màu sắc hậu hiện đại ở
Việt Nam trong thời gian gần đây 84].
Qua những kiến giải ở trên, chúng ta có thể khái quát khái niệm “tiểu
thuyết” bao gồm các đặc điểm sau: 1. Tiểu thuyết là sản phẩm của trí tưởng tượng,
của hư cấu, nhưng ít nhiều có dựa trên cơ sở sự thực; 2. Tiểu thuyết có khả năng
khái quát, tổng hợp nhiều mặt, nhiều hiện tượng đời sống, nhiều kiểu tính cách, số
phận nhân vật; 3. Tiểu thuyết tiếp cận con người dưới góc nhìn đời tư, thể hiện
tinh thần dân chủ, đối thoại trong phản ánh hiện thực phức tạp của đời sống và thế
giới nội tâm con người. 4. Tiểu thuyết là thể loại ở “thì hiện tại”, có khả năng thu
32
hút, bổ sung vào nó các đặc điểm của các thể loại khác; 5. Tiểu thuyết thể hiện
tính đa thanh, phức điệu, trước hết là trong lời văn.
1.2.1.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử
Thế nào là một TTLS là câu hỏi đã được đặt ra cách đây hàng thế kỉ. Tuy
nhiên, cho đến nay, nội hàm khái niệm này vẫn thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu. Nhìn chung, ở mỗi thời đại có một quan niệm riêng về TTLS. Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng, TTLS có cội nguồn từ thời Hi Lạp cổ nhưng công lao to
lớn phải nói đến chủ nghĩa lãng mạn với hai đại diện tiêu biểu là Walter Scott và
Victor Huygo. Ở nước ta, TTLS có tiền đề từ các thể loại truyền thuyết lịch sử, bộ
phận văn xuôi tự sự chữ Hán ghi chép lịch sử, thể liệt truyện, tiểu thuyết chương
hồi viết về đề tài lịch sử thời trung đại. Nói đến TTLS nhiều người nghĩ ngay đến
một thể loại văn chương lấy lịch sử làm đề tài sáng tác. Tuy nhiên, trong nền văn
học hiện đại, khái niệm TTLS không được hiểu một cách giản đơn như vậy. Khái
niệm này như là một thuật ngữ có nhiều cách tiếp cận nội hàm khác nhau khi đặt
chúng trong quan hệ đa chiều: lịch sử với tiểu thuyết, lịch sử với hư cấu, tiểu
thuyết có yếu tố lịch sử với TTLS… Trong Từ điển văn học (bộ mới), các tác giả
cho rằng, TTLS là “Tác phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính.
Lịch sử trong ý nghĩa khái quát là quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội. Các
khoa học xã hội (cũng được gọi là khoa học lịch sử) đều nghiên cứu quá khứ của
loài người trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy, những tiêu điểm chú ý
của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử thường đều là sự hình
thành, hưng thịnh, diệt vong của nhà nước, những biến cố lớn trong đời sống cộng
đồng, quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia, chiến tranh, cách mạng… Cuộc
sống và sự nghiệp của các nhân vật có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử” 121;
1725]. Ở đây, TTLS được hiểu là một loại hình văn học lấy đề tài lịch sử làm nội
dung chính, là quá khứ của loài người trong một thời kì lịch sử cụ thể. Trong Tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam, Trần Nghĩa đưa ra nhận định: “tiểu thuyết lịch sử cũng
gọi là “lịch sử diễn nghĩa” gồm các tác phẩm viết về đề tài lịch sử thông qua việc
miêu tả nhân vật và sự kiện, tái hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu
thế phát triển của lịch sử một thời, nhằm mang lại cho người đọc những khơi gợi
bổ ích và mĩ cảm văn học. Về phương diện bút pháp, một mặt phải dựa vào lịch
sử, nhưng mặt khác vẫn cho phép hư cấu trong chừng mực thích hợp, nhằm phát
33
huy trí tưởng tượng làm cho sự chân thực lịch sử được thăng hoa thành chân thực
nghệ thuật” 114]. Quan niệm này cho chúng ta một cách hiểu khái quát về TTLS,
đồng thời chỉ r phương thức phản ánh đặc trưng trong sáng tác TTLS là việc tái
hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu thế phát triển của lịch sử của một
thời đại đã qua thông qua việc miêu tả nhân vật và sự kiện lịch sử.
Quan niệm thế nào là “tiểu thuyết lịch sử” còn được đề cập cách sinh động
qua tiếng nói của chính các nhà văn. Hoàng Quốc Hải, tác giả của những cuốn
TTLS tiêu biểu thời kì đổi mới như Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý cho
rằng: "Nếu tiểu thuyết được coi là tiểu thuyết lịch sử mà không trung thành với sự
kiện lịch sử thì sẽ phá vỡ niềm tin của người đọc và như vậy sẽ không còn là tiểu
thuyết lịch sử nữa". Theo ông, TTLS trước hết phải trung thành với sự kiện lịch
sử. Tiếp đến, TTLS “phải giúp người đọc nhận biết được gương mặt lịch sử của
thời đại mà tác giả phản ánh nhưng những gì mà tác phẩm đó tái tạo đều không
được trái với lịch sử". Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh việc tôn trọng sự thật lịch
sử không có nghĩa là phụ thuộc hoàn toàn vào lịch sử: "Nếu người viết tiểu thuyết
lịch sử coi tác phẩm của mình như là truyện viết về người thật việc thật thì anh ta
thất bại hoàn toàn, làm như vậy tác phẩm của anh ta chỉ là một phiên bản vụng về
của chính sử. Điều quan trọng nhất với nhà tiểu thuyết là phải làm sao thổi hồn
vào lịch sử" [126; 69]. Theo Hoàng Quốc Hải, nhà văn phải biết sáng tạo trên cơ
sở các dữ liệu lịch sử đã có sẵn, thổi hồn vào lịch sử, làm cho lịch sử được thăng
hoa bằng nghệ thuật của tiểu thuyết. Nam Dao, tác giả của tiểu thuyết Gió lửa,
Đất trời…, trong bài viết “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử” đã nói r quan niệm
về TTLS: “lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù lì. Trong
tiểu thuyết lịch sử, quá khứ là lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn như là chủ thể”
[26 . Với quan niệm này, nhà văn khẳng định: trong TTLS, các sự kiện và nhân
vật lịch sử phải sống động, phải được tiểu thuyết hoá và đồng thời vai trò của nhà
văn rất quan trọng trong việc nhìn nhận và đánh giá lịch sử. Nguyễn Xuân Khánh
lại đưa ra một quan niệm ngắn gọn: “Tiểu thuyết lịch sử là tiểu thuyết viết về quá
khứ. Những tiểu thuyết về thời kỳ chống thực dân Pháp và chống đế quốc M
cũng có thể là những tiểu thuyết lịch sử thành công”; “Lịch sử chỉ là cái cớ để tôi
bám vào… tiểu thuyết lịch sử không phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà
phản ánh những vấn đề của con người hiện tại” [78]. Ông cho rằng, trong TTLS,
34
nhà văn chỉ mượn lịch sử để phản ánh những vấn đề đang được đặt ra của đời
sống hiện sinh. Nhà văn phải làm nhiệm vụ nối quá khứ với hiện tại, và hướng vào
giải quyết các vấn đề của hiện tại. Đây cũng là quan niệm của Nguyễn Quang
Thân: “viết về lịch sử thì chính là tôi đang viết về thời nay đấy ”. Uông Triều cho
rằng: “Một tác phẩm tự sự (không chỉ là tiểu thuyết) viết về đề tài lịch sử phải
thực sự chứa đựng các cứ liệu lịch sử, có nhân vật trung tâm là nhân vật có thật
trong lịch sử, với những biến cố lịch sử được xác định, phù hợp với không gian và
thời gian. Cứ liệu lịch sử là hành trang mà nhà văn bắt buộc phải mang theo trên
hành trình sáng tạo của mình. Nếu một tác phẩm chỉ dựng lên một bối cảnh lịch
sử, một cái phông nền lịch sử như một không gian nghệ thuật mà không đề cập tới
các sự kiện lịch sử, không có các nhân vật lịch sử có thật trong đó thì cũng chưa
phải là một tác phẩm viết về đề tài lịch sử” 63; 458]. Ở đây, Uông Triều cũng đã
nhắc đến nhân vật lịch sử trong TTLS như là một mảnh ghép không thể thiếu
trong bức tranh chung.
Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về TTLS, có quan niệm nghiêng
về cách nhìn truyền thống, có quan niệm nghiêng về hiện đại, có quan niệm mang
sắc thái văn hóa phương Đông hoặc nghiêng về cách nhìn của phương Tây. Các ý
kiến có những chỗ gặp nhau, nhưng cũng có những khác biệt, chẳng hạn bàn về
mức độ hư cấu trong TTLS, về tên gọi, đặc điểm TTLS của Nguyễn Xuân Khánh,
Nguyễn Quang Thân… Kế thừa các ý kiến của giới nghiên cứu, chúng tôi đưa ra
quan niệm, đặc điểm của TTLS như sau:
Thứ nhất, TTLS khai thác hiện thực diễn ra trong quá khứ, tâm thế của nhà
văn là tâm thế viết về quá khứ, “tác giả và người đọc không phải là người đương
thời của hiện thực đó” 181; 288]. Tuy nhiên, không phải tất cả những tác phẩm
viết về quá khứ đều được gọi là TTLS. Một số tiểu thuyết mượn lịch sử như một
cái cớ, làm phông nền để chuyển tải những chuyện phiêu lưu, kiếm hiệp, chuyện
tình yêu không nên xem là TTLS. Một số tiểu thuyết viết trong thời kỳ chống
Pháp, chống M nên định danh là tiểu thuyết “viết về chiến tranh”. Nhân vật, sự
kiện trong TTLS phải có độ lùi nhất định về thời gian, và tâm thế của người viết là
đang viết về một “hiện thực đã qua”, rút ra những bài học từ quá khứ, cho dù quá
khứ nào cũng được nhìn nhận ít nhiều từ hiện tại. Hiện nay, chưa có sự thống nhất
về “độ lùi thời gian” này trong TTLS Việt Nam là bao nhiêu? Có ý kiến cho rằng
35
TTLS chỉ nên đề cập đến các sự kiện trong thời kỳ phong kiến; có ý kiến cho rằng
TTLS có thể viết về “quá khứ gần”, nhưng cũng nên có khoảng cách ít nhất một
thế hệ (khoảng 30 năm). Theo chúng tôi, độ lùi này ít nhất là nửa thế kỷ, tức các
TTLS chỉ nên đề cập đến các sự kiện lịch sử diễn ra ở khoảng thời gian từ năm
1945 trở về trước.
Thứ hai, TTLS phải phản ánh lịch sử thông qua nghệ thuật tiểu thuyết.
TTLS thực chất là diễn ngôn của nhà văn về lịch sử. Khi chúng ta nói phải trung
thành với lịch sử, thực chất là đang nói rằng phải trung thành với chính sử. Thực
ra, chính sử cũng là sự thực được ghi lại trên một quan điểm, một cách nhìn nào
đó của nhà sử học. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà sử học, bên cạnh sự chi phối
của tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời, họ còn phải đứng trên lập trường
dân tộc, lợi ích nhân dân. Sự thực lịch sử khi đi vào văn chương lại được nhào nặn
lại qua lăng kính nhà văn. Nói cách khác, mỗi TTLS là một sự hình dung về lịch
sử, về những điều “có thể có thật” của nhà văn. Khi đi vào tiểu thuyết, chân lý lịch
sử phải được biến thành chân lý nghệ thuật thông qua hư cấu, tưởng tượng. Tuy
nhiên, hư cấu trong TTLS không phải là không có những giới hạn nhất định.
TTLS không cho phép nhà văn biến lịch sử thành một thứ “tùy tiện” của riêng
mình, mượn lịch sử để chuyển tải những định kiến cá nhân, những quan điểm sai
trái, ngược lại hoàn toàn với tinh thần dân tộc và tâm thức cộng đồng.
Thứ ba, TTLS cũng mang những đặc trưng của tiểu thuyết nói chung, đó là
nhìn nhận hiện thực từ số phận cá nhân con người. Nếu các sử gia quan tâm đến
sự kiện lịch sử, những thăng trầm của các triều đại thì nhà văn lại quan tâm khám
phá những nghịch lý của số phận, những thăng trầm của con người trong dòng
chảy của lịch sử. Vì thế, những khoảng trống, những điểm mờ của lịch sử, những
“nghi án” trong quá khứ, những sự kiện đôi khi không quan trọng với nhà sử học
lại là những “vùng thẫm m ” được các cây bút TTLS quan tâm, chú ý.
Thứ tư, nhà văn viết TTLS không phải chỉ để “dựng lại, phục hồi quá khứ”.
Viết về quá khứ chỉ để đắm chìm trong quá khứ không bao giờ là mục tiêu của
TTLS. Quá khứ trong TTLS phải được soi chiếu từ hiện tại, rút ra những bài học
cho đời sống nhân sinh. Lịch sử là những gì đã diễn ra, nhưng nó lại có ý nghĩa soi
đường cho các thế hệ sau trên hành trình gập ghềnh tiến về phía trước. Do đó,
36
“viết về lịch sử là viết về hiện tại” (Nguyễn Quang Thân), “Tiểu thuyết lịch sử
phải tạo “tình huống hiện sinh tiêu biểu” (Kundera).
1.2.2. Quan ni m về người anh hùng và nhân vật anh hùng
Có rất nhiều quan niệm về người anh hùng mà trong đó có những độ
“chênh” nhất định do quan điểm cá nhân, tính thời đại, đặc trưng văn hóa… Từ
điển văn hóa thế giới khái quát quan niệm “anh hùng” qua những biểu hiện của
văn hóa, văn học phương Tây: “Anh hùng thường là con của cuộc giao phối giữa
một vị thần với một người trần, người anh hùng tượng trưng cho sự kết hợp giữa
các lực lượng trên trời và dưới đất. Nhưng anh ta đương nhiên không được hưởng
sự bất tử của thánh thần, tuy vẫn giữ cho đến khi chết một khả năng siêu tự nhiên:
một vị thần giáng thế hay con người được phong thần” dẫn theo 176; 34]. Khi trả
lời câu hỏi: một vĩ nhân là như thế nào? F. Nietzche cho rằng: “Trước hết (họ)
phải có khả năng giương cao ý chí và khinh thường hoặc vứt bỏ mọi chi tiết, dù
trong số đó có những điều đẹp đẽ nhất. Thứ hai, đó là người lạnh lùng hơn những
người khác, cứng rắn hơn, tàn bạo hơn và không sợ “dư luận”, người đó không có
những đức tính khiến cho người ta phải kính nể, những đức tính đem lại sự tôn
trọng, cũng như không có tất cả cái gì là “đức tính của bầy đàn”. Thứ ba, đó là
người không muốn có những trái tim thông cảm, mà chỉ muốn có những đầy tớ,
những công cụ, trong quan hệ với người khác người ấy luôn luôn tìm cách dùng
họ làm một cái gì…” 63; 53 . Ở đây, F. Nietzche nhấn mạnh, anh hùng là người
thượng đẳng, vượt ra khỏi tiêu chuẩn cộng đồng và không có bất kỳ liên hệ nào
với những phẩm chất của con người bình thường. Với Nhân vật ch , Lưu Thiệu
cũng đã định nghĩa về "anh hùng" với những biểu hiện cụ thể: “Thứ tinh hoa tươi
đẹp nhất trong loài hoa cỏ gọi là anh, giống vật đặc sắc nhất nổi trội trong loài thú
gọi là hùng. Người có tài năng văn v nổi trội hàng đầu, được lấy tên như vậy. Vì
thế người có tài trí xuất chúng trong luân thường đạo lý được gọi là “anh”, kẻ có
lòng gan dạ sức khỏe địch chúng được gọi là “hùng”. Đây là sự phân biệt đại thể
trong cách xưng hô” [187; 23]. Theo quan niệm này, người có văn v dị thường,
tài năng xuất chúng, sức mạnh vô địch mới là anh hùng.
Trong công trình Giải th ch từ Hán Việt trong sách giáo khoa văn học hệ
phổ thông, Lê Anh Tuấn định nghĩa “anh hùng” là: “người giỏi xuất chúng, có tài
chí cao” 165; 9. Cách định nghĩa này khá giống với quan niệm của Lê Dân và
37
Thái Xuân Đệ: “anh hùng là bậc tài giỏi xuất chúng” 27; 9. Trong Từ điển tiếng
Việt do Quý Lâm - Kim Phượng chủ biên, “anh hùng” được giải thích là: 1.
“Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất nước”; 2.“Là
nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi thường”;
3. “Danh hiệu cao nhất nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn vị có thành tích
và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu”; 4. “Có tính chất
của người hành động anh hùng” 87; 7. Cách định nghĩa này bao gồm cả đối
tượng người anh hùng trong thực tế và trong tác phẩm văn học.
Trong Hán - Việt từ điển của Thiều Chửu, tác giả không nêu lên khái niệm
chung về hai chữ “anh hùng” mà giải thích nó bằng lối “chiết tự”: “anh” (英): Hoa
của các loài cây cỏ. Vì thế, hiểu rộng ra, vật gì đẹp khác thường đều được gọi là
“anh”; “hùng” (熊): là con gấu; “hùng” (雄): là 1. con đực, 2. mạnh” 21; 736].
Với cách định nghĩa này, tính chất anh hùng còn được chú ý ở phương diện
“giới”, thể hiện sức mạnh thể chất và yếu tố nam tính. Bùi Văn Nguyên cũng có
cách hiểu tương tự. Theo ông, hai chữ “anh hùng” có nghĩa gốc ở Hán văn: “anh”
(英): là tên chung của các loài hoa, theo nghĩa hẹp là thứ hoa tốt nhất, đẹp nhất,
theo nghĩa bóng là người có tài năng xuất chúng. “hùng”: là con chim trống, sóng
đôi với “thư” (雌) là con chim mái; theo nghĩa rộng là đực cái âm dương. Trong
Tự điển Việt Nam, do Hoàng Phê chủ biên, xuất bản năm 1995, khái niệm “anh
hùng”, được hiểu theo hai nghĩa sau: 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao
đối với nhân dân, đất nước; 2. Có tính chất của người anh hùng, hành động anh
hùng. Theo cách hiểu trên, “anh hùng” là từ để chỉ người đàn ông tài giỏi xuất
chúng, “anh thư” là để chỉ người đàn bà xuất chúng. Hoài Anh (dẫn ý kiến từ cuốn
Khái luận về văn hóa Tây phương của học giả Trung Quốc Khải Lương) có sự
phân biệt anh hùng của Trung Quốc và Tây phương ở một số điểm khu biệt: anh
hùng của người Trung Quốc là loại hình đạo đức, còn ở Tây phương là loại hình
sức mạnh. Tính cách của anh hùng của người Trung Quốc thường hướng nội và
coi trọng tu dưỡng tâm tính; còn anh hùng của người phương Tây lại hướng ngoại
và coi trong sự nghiệp bá vương. Anh hùng của người Trung Quốc bị chi phối bởi
cương thường luân lý của Nho gia nên nhân cách chủ thể rất ít khi thể hiện r ; còn
anh hùng của người Tây phương lại được cá thể hóa cao độ. Trung tâm giá trị của
anh hùng Trung Quốc ở dân tộc và quốc gia, lấy chủ nghĩa thân dân làm gốc, anh
38
hùng Tây phương lại là bản vị cá nhân, tôn sùng chủ nghĩa tự kỷ… Khi xem xét ý
kiến trên, nhà văn Hoài Anh cho rằng, quan niệm về người anh hùng của Khải
Lương là không hoàn toàn chính xác, cần được xem xét.
Nói tóm lại, các quan niệm về NVAH có nhiều điểm gặp gỡ nhau nhưng
cũng có những khác biệt khá lớn. Có quan niệm thiên về cách nhìn phương Đông
hoặc phương Tây; có quan niệm thiên về phẩm chất hoặc về công trạng. Tuy
nhiên, trong quan niệm về người anh hùng cũng có nhiều điểm nhất quán như: anh
hùng là người xuất chúng; có những phẩm chất và công trạng đặc biệt; được cộng
đồng, dân tộc tôn vinh, ngưỡng mộ; đáp ứng những đòi hỏi của lịch sử, thúc đẩy
lịch sử tiến lên. Trong thực tế đời sống xã hội, “không có một mẫu anh hùng
chung cho mọi thời đại, mọi giai cấp… xét về phạm trù đạo đức lẫn thẩm m thì
người anh hùng luôn mang tính lịch sử cụ thể, mang dấu ấn văn hóa, tâm lí, thị
hiếu của con người ở các thời đại. Lý tưởng của người anh hùng là lý tưởng của
thời đại, chịu sự chi phối và tác động của hệ tư tưởng nhân dân cũng như hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị. Nhìn trong thực tế phát triển của lịch sử tư tưởng và
văn hóa nhân loại, chúng ta không thấy một mẫu hình văn hóa chung cho mọi thời
đại, mà sẽ có quan niệm anh hùng, biểu tượng anh hùng, nhân vật anh hùng trong
một thời kỳ lịch sử nhất định” 176; 22 . Như vậy, điều đáng nói là có rất ít nghiên
cứu tập trung làm r khái niệm “nhân vật anh hùng” trong các TTLS. Trong một
số công trình nghiên cứu, quan niệm về người anh hùng dường như đã là điều có
sẵn, không cần phải bàn bạc thêm.
Trong tâm thức của người Việt - một đất nước thường xuyên phải chiến đấu
để bảo vệ bờ c i và sự sinh tồn của giống nòi, dân tộc, sự thức nhận về người anh
hùng thường nghiêng về khía cạnh hành động cứu nước, cứu dân. Người anh hùng
thường gắn với chiến trận, chiến tranh giải phóng dân tộc. Những anh hùng đầu
tiên được nhìn thấy trong văn học là ở các tác phẩm sử thi. Trong các tác phẩm
này, người anh hùng thường xuất hiện với sự phi thường về cả hai phương diện
tinh thần và thể chất. Các nhà nghiên cứu chỉ ra trong sử thi, thường xuất hiện hai
kiểu người anh hùng: anh hùng chiến đấu và anh hùng văn hóa, trong đó anh hùng
chiến đấu thường là những người thể hiện tài năng, công lao của mình trong các
cuộc chiến bảo vệ hoặc mở rộng lãnh thổ; anh hùng văn hóa là những người có
công lao kiến thiết nền văn hóa cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, cả người anh
39
hùng lao động và anh hùng văn hóa đồng thời xuất hiện trong bản thân một nhân
vật. Theo sự phát triển của xã hội và văn học, quan niệm về anh hùng ở cả hai loại
nói trên ngày càng thay đổi, mở rộng. Trong tác phẩm nghệ thuật, NVAH là hiện
thân của cái đẹp, là hình mẫu lí tưởng được nhà nghệ sĩ xây dựng theo cách thức
và tiêu chuẩn riêng của mình. Tuy nhiên, dù sự sáng tạo nghệ thuật có độc đáo đến
đâu, NVAH cũng phải mang những tiêu chuẩn chung phổ quát. Trong các công
trình nghiên cứu, nhiều khi người ta không phân biệt rành mạch “anh hùng” với
“nhân vật anh hùng”. Điều này cũng dễ hiểu vì các phẩm chất của người anh hùng
đều được văn học nghệ thuật phản ánh lại theo hướng điển hình hóa. Vậy nên, khi
trả lời cho câu hỏi thế nào là một NVAH cũng có nghĩa chúng ta đang “cụ thể
hóa” quan niệm về người anh hùng trong các tác phẩm văn chương.
Từ những quan niệm khác nhau về người anh hùng và NVAH ở trên, chúng
tôi đưa ra quan niệm về NVAH như sau: NVAH trong văn học và trong TTLS là
những cá nhân tiêu biểu, xuất chúng, có vai trò to lớn đối với cộng đồng, quốc
gia, dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nhất là ở những thời điểm
bước ngoặt của lịch sử. Khi đi vào văn học, NVAH thường được sáng tạo, hư cấu
theo cách nhìn và quan điểm riêng của nhà văn. Bản lĩnh, tài năng của nhà văn sẽ
bổ sung, làm phong phú hơn phẩm chất, vai trò, vị trí của người anh hùng, từ đó
NVAH trong văn học lại có ý nghĩa bổ khuyết, soi sáng các cứ liệu lịch sử, mở
rộng trường nhìn của cộng đồng tiếp nhận, làm giàu có hơn tâm thức cộng đồng
về các anh hùng dân tộc.
1.2.3. Các tiêu chí xác định nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam hiện đại
1.2.3.1. Căn cứ vào quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người của
nhà văn
NVAH là người có công lớn với quốc gia, dân tộc, thường được nhân dân
thờ phụng, được ghi lại trong chính sử và tồn tại trong tâm thức cộng đồng. Tuy
nhiên, nhà văn có cách nhìn về đời sống và con người theo cách riêng của mình.
Họ vừa giải thích hiện thực vừa sáng tạo lại hiện thực thông qua các hình tượng
nghệ thuật. Mỗi tác giả tiểu thuyết đều tạo cho mình một hệ giá trị, trong đó có
những điểm gặp gỡ với cái chung, đồng thời cũng thể hiện một cách nhìn độc đáo,
không lặp lại. Người viết TTLS vừa chịu áp lực từ phía chính sử, từ tâm thức cộng
40
đồng, đồng thời cũng có nhu cầu bứt phá khỏi các ràng buộc để tạo ra cách nhìn
riêng, và cách nhìn ấy lại tạo ra những nhận thức mới cho cộng đồng tiếp nhận.
Nếu như trong TTLS trước 1975, hiện thực cơ bản được khai thác ở phía sử
thi thì trong TTLS sau 1975, hiện thực được phản ánh là một hiện thực nhiều
chiều, được soi chiếu từ nhiều góc nhìn. Người anh hùng trong TTLS thời kỳ này
không chỉ được miêu tả ở những chiến công lưu danh sử sách mà còn được khám
phá, luận giải dưới góc độ con người cá nhân. Tuy nhiên, áp lực đối với nhà văn là
không hề nhỏ. Nếu “quá tay”, người viết sẽ rất dễ động chạm đến niềm tin, sự tôn
kính, thờ phụng theo truyền thống đạo lý dân tộc. Nói như nhà văn Hoàng Minh
Tường “sử học như một đối tượng để đối thoại”, và đó là điều nhà văn phải vượt
qua. Trong TTLS sau 1975, NVAH được sáng tạo, hư cấu trên nhiều phương diện.
Hư cấu ở đây không chỉ dừng lại ở việc thêm thắt một vài nội dung, chi tiết về
cuộc đời một nhân vật lịch sử, mà còn được bổ sung thêm những nét mới. Cái nhìn
về người anh hùng không còn cứng nhắc một chiều theo hướng sử thi hóa, thần thánh
hóa mà được bổ sung thêm nhiều nét đời tư, thậm chí cả những mặt trái, mặt khiếm
khuyết, có thể gây “sốc” cho nhiều người đọc. Hàng loạt tác phẩm không còn phản
ánh người anh hùng theo khuôn mẫu truyền thống. Nhiều tác phẩm viết về đề tài
lịch sử như Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Gió
lửa và Đất trời của Nam Giao, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Chim ưng và
chàng đan sọt của Bùi Việt S … đã gây nên nhiều phản ứng trái chiều trong dư
luận bởi những điều các nhà văn hư cấu về Quang Trung, về Lê Lợi, Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, những tiểu thuyết của V Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Nam Giao,
Trần Thanh Cảnh… cho ta thêm nhiều hiểu biết mới, nhiều suy ngẫm mới về lịch
sử. Trong Giàn Thiêu, V Thị Hảo thể hiện khát vọng về tự do, con người trăn trở
truy tìm bản thể, bi kịch của lòng hận thù, sức mạnh bất diệt của tự nhiên. Ám ảnh
suốt hơn 500 trang, Giàn thiêu là tình yêu định mệnh giữa Nhuệ Anh và Từ Lộ;
tình yêu điên rồ, đầy dục vọng của Lý Câu với Nhuệ Anh; tình yêu trong trẻo, bao
dung của chàng cá Bơn dành cho Nhuệ Anh… Đọc Giàn thiêu, độc giả như đứng
trước một thế giới va đập giữa thiện và ác, tốt và xấu, thánh thiện và dục vọng.
Nguyễn Huệ trong Gió lửa (Nam Giao) uy danh lẫy lừng đánh Nam dẹp Bắc, năm
ngày quét sạch quân Thanh xâm lược nhưng lại thất bại trong tình yêu. Hoặc một
Nguyễn Huệ thô lỗ, và đầy chất hoang dã cũng được Nam Giao miêu tả ở nhiều
41
trang bằng những chi tiết “shock”. Khi ra Thăng Long, Nguyễn Huệ của Nam
Giao chẳng khác gì Nguyễn Huệ của Trần Vũ trong Mùa mưa gai sắc. Hành động
và lời nói của Huệ với Ngọc Hân cho thấy ông là người rất trần tục và cuồng dâm:
“Huệ tiến lại gần, mắt đỏ lừ lừ như mắt cọp. Thình lình, Huệ nắm vào ngực xiêm,
kéo mạnh rồi xé ra, tiếng lụa kêu soàn soạt hệt tiếng dao chém…” 199; 375]. Ở
đây, Nam Giao đang đi trên đường biên mạo hiểm mà nếu quá đi chút nữa, ông sẽ
khiến nhiều bạn đọc bất bình, phản ứng.
TTLS giai đoạn sau 1975, đặc biệt sau 1986 đã bộc lộ cái nhìn về con người
như là một phức thể. Các NVAH như Trần Thủ Độ, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Hồ Quý
Ly, Quang Trung… được nhìn nhận trước tiên ở khía cạnh con người với tất cả
những phức tạp, đa đoan như nó vốn có. Họ cũng có buồn vui, sướng khổ, những
khát khao và cả những thất vọng đắng cay. Trên con đường tới đỉnh vinh quang,
họ không thể không trải qua những tục luỵ trần gian. Họ có nhiều thứ khiến người
ta ngưỡng vọng nhưng cũng không ít điều tiếng thị phi. Họ mạnh mẽ, quyết liệt thì
hẳn có lúc cũng tàn bạo, sai lầm. Trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải,
Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn, Trần Thủ Độ khi nhận ra vai
trò lịch sử của nhà Lý đã hết, đồng thời nhận thấy vận hội nhà Trần đã đến, đã thẳng
tay loại bỏ đấng quân vương ngu tối đang trị vì thiên hạ. Với bản lĩnh khác thường,
ông đã “thà chịu tiếng bất trung còn hơn mang tiếng ngu trung”, sắp đặt cho Lý Chiêu
Hoàng nhường ngôi, làm một cuộc đổi thay triều đại mà không hề sợ mang tiếng xấu.
Đó là bản lĩnh của một nhà chính trị đầy táo bạo, sáng suốt và khôn khéo. Rõ ràng,
với cách nhìn của Hoàng Quốc Hải, Trần Thủ Độ bộc lộ tính chất phức tạp, đầy mâu
thuẫn của một kẻ giàu khát vọng, lắm âm mưu. Hồ Quý Ly thường bị chính sử là
một kẻ “loạn thần tặc tử” nhưng khi đi vào tiểu thuyết lại được Nguyễn Xuân
Khánh lại lý giải theo một hướng khác. Tác giả đặt Hồ Quý Ly trong mối quan hệ đa
chiều với gia đình, xã hội, khám phá nhân vật trên nhiều phương diện (một cận thần,
một thái sư, một người cha, một người chồng, một con người đầy tham vọng…).
Nhận thức được vận mệnh nhà Trần đã hết, với khát vọng cải cách, chấn hưng lại đất
nước, Hồ Quý Ly đã “làm biến pháp”, “soán ngôi đoạt vị”, chủ trương bằng mọi cách
để làm cho đất nước “thay máu” một cách nhanh chóng. Khát vọng của Hồ Quý Ly là
khát vọng của một nhà chính trị có tinh thần trách nhiệm, dám tranh biện với cái cũ,
cái trì trệ, và tranh biện với chính mình để củng cố niềm tin vào con đường đã chọn.
42
Trên vũ đài chính trị là người cực kì quyết liệt, nhưng đối với vợ con, Hồ Quý Ly lại
rất mực nhẹ nhàng, chiều chuộng, yêu thương. Trong cách nhìn của Nguyễn Xuân
Khánh, Hồ Quý Ly tuy có mang tiếng là người tàn bạo, phản nghịch, nhưng về cơ
bản, ông có phẩm chất của một anh hùng hào kiệt.
Tóm lại, chính thế giới quan và nhân sinh quan của nhà văn đã định hướng cho
ngòi bút và quy định cách nhìn về người anh hùng. Dấu ấn của ngòi bút để lại r nét
trên mỗi NVAH. Không thể phủ nhận áp lực của chính sử, của tâm thức cộng đồng,
nhưng sự sáng tạo của các nhà văn trong xây dựng NVAH cũng không hề nhỏ. Và
điều này chính là sử thử thách lớn đối với bản lĩnh, tài năng của các cây bút TTLS,
trong bối cảnh đổi mới toàn diện của văn học và văn xuôi sau 1975.
1.2.2.2. Căn cứ vào đặc điểm t nh cách, phẩm chất và vai trò của nhân vật
trong tiểu thuyết
Quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn đã quy định nội dung,
phương thức tạo nên những kiểu NVAH trong TTLS. Đến lượt những quan niệm
đó được “cụ thể hóa” bằng các thủ pháp miêu tả tính cách, phẩm chất và vai trò
của người anh hùng. Đôi khi cùng một nguyên mẫu lịch sử nhưng mỗi nhà văn lại
có một cách khai thác riêng. Tính chất “một nguyên mẫu, nhiều phiên bản” là điều
dễ nhận thấy trong các TTLS. Họ không còn là những đối tượng được tô vẽ một
chiều, đơn điệu và khuôn mẫu nữa. Các nhân vật lịch sử đi vào trang viết với cái
nhìn đa diện và phù hợp với logic cuộc sống. Điều này khiến cho các hình tượng
nghệ thuật trở nên tươi mới, chân thực. Trong thực tế sáng tác tiểu thuyết, các nhà
văn đã rất khéo léo kết hợp tư liệu lịch sử với sự tưởng tượng, hư cấu.
Nguyễn Huệ là nhân vật lịch sử kiệt xuất được các sử gia cũng như các nhà
văn quan tâm đặc biệt. Hình tượng Quang Trung Nguyễn Huệ trong TTLS Việt
Nam sau 1975 được bổ sung nhiều điểm so với những gì đã có trong sử sách. Tư
duy sử thi kết hợp với tư duy tiểu thuyết khiến hình tượng Nguyễn Huệ trong
nhiều TTLS vừa mang hào khí của một thời đại lại vừa gần gũi, quen thuộc. Sông
Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác khai thác hình tượng người anh hùng áo vải
vừa là một anh hùng có tài thao lược, một con người thông minh, quyết đoán trong
từng bước ngoặt lớn lao của lịch sử, vừa nghĩa tình trong các mối quan hệ anh em,
thầy trò, tình yêu. Trong xây dựng hình tượng nhân vật, Nguyễn Mộng Giác đã rất
chú trọng miêu tả bối cảnh lịch sử và những điều kiện khách quan để con người
43
Nguyễn Huệ trở thành một người anh hùng. Trong Gió lửa, Nam Giao đã xây
dựng hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ với hai mặt đối lập: là một con
người dị tướng, hình dáng xấu xí, tính cách hung bạo nhưng đồng thời cũng là
người biết nhìn xa trông rộng, có tư tưởng cấp tiến, có cái nhìn vượt thời đại.
Trong Tây Sơn bi hùng truyện, Lê Đình Danh tái hiện một Nguyễn Huệ với bối
cảnh hỗn độn của thời loạn: chúa Nguyễn Đàng Trong, chúa Trịnh Đàng Ngoài và
Vương quốc Đại Thanh thời vua Càn Long hùng mạnh đang dòm ngó đợi thời cơ
xâm lược. Với Hoàng đế Quang Trung, ngòi bút Nguyễn Thu Hiền lại thiên về
miêu tả một Nguyễn Huệ chân thực và “đời” hơn trong những nỗi lòng và khát
vọng thầm kín cá nhân hơn là phong thái, đĩnh đạc hiên ngang của một vị anh
hùng. Tác giả đã tái hiện hình tượng Quang Trung từ thời cắp sách đến trường với
sự thông minh, tài trí, mưu lược, quyết chí cứu sơn hà qua cơn nguy biến cho đến
ngày băng hà. Tác giả đặc biệt chú trọng thể hiện tư cách của Nguyễn Huệ trong
các mối quan hệ son sắt với thầy Cao Hiến, với nữ chúa Lam Kiều, đến tình cảm
bạn bè với nữ tướng Bùi Thị Xuân và tình vợ chồng đối với Nhã Xuân và Ngọc
Hân công chúa… Dưới ngòi bút của Nguyễn Thu Hiền, Nguyễn Huệ hiện lên với
tư cách một người trí dũng song toàn, một bậc minh quân đáng kính nhưng đồng
thời cũng là một người yêu, một người chồng lí tưởng.
Nguyễn Trãi trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân là vị thủ lĩnh tinh thần,
nhà tư tưởng kiệt xuất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là
con người cô đơn khi trung thành tuyệt đối với tư tưởng nhân nghĩa, thân dân,
“điếu phạt tâm công” của một nhà Nho đi trước thời đại. Với Sao Khuê lấp lánh,
Nguyễn Đức Hiền tái hiện hình tượng Nguyễn Trãi qua ký ức của học trò, qua
cuộc đời cùng với kỳ án Lệ Chi Viên và qua lòng yêu mến, kính phục vô bờ của
người dân làng Đoài. Người dân ở đây đã bất chấp mọi nguy hiểm, tìm mọi cách
để bảo vệ giọt máu cuối cùng của ông cũng như lưu giữ những bài thơ, bài văn của
quan thừa chỉ còn sót lại sau cuộc can qua. Sao khuê lấp lánh tập trung miêu tả
tình vua tôi, thầy trò, cha con, vợ chồng... Và điều mà tác giả muốn truyền tải tới
bạn đọc chính là tư tưởng “nhân nghĩa” của Ức Trai thấm đượm truyền thống đạo
lí dân tộc. Nguyễn Trãi được miêu tả trong Oan khuất của Bùi Anh Tấn lại là một
con người có đời sống nội tâm phức tạp. Cuốn tiểu thuyết kể về thân thế Nguyễn
Trãi từ trong gia đình cho đến khi gặp phải thảm họa tru di. Tên gọi Oan khuất
44
cũng đã gợi lên được một cuộc đời long đong và đầy bi kịch của nhân vật lịch sử
này. Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy lại chú ý kể về cuộc gặp gỡ và mối tình
giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng như cuộc đời của người thôn nữ bán
chiếu ở Tây Hồ và nỗi đau khổ của con người này trước thời cuộc. Mặc dù trong
tác phẩm, Nguyễn Trãi không phải là nhân vật trung tâm nhưng qua những suy
nghĩ của Nguyễn Thị Lộ hay những đoạn tác giả miêu tả về ông, người đọc dễ
dàng nhận thấy chân dung của một hiền nhân. Nhà văn đã lí giải những bi kịch của
người anh hùng Nguyễn Trãi khá r nét. Trong Vằng vặc sao Khuê, Hoàng Công
Khanh lại xây dựng hình tượng Nguyễn Trãi một cách khá hoàn mĩ. Tác phẩm
như là một sự tôn vinh đối với vị anh hùng dân tộc “Ức Trai tâm thượng quang
khuê tảo” nhưng lại có số phận cực kì nghiệt ngã. Trong Lệ Chi Viên, Mai Thục
lại lấy đề tài là vụ án oan nghiệt làm bối cảnh chính để từ đó lý giải các khía
cạnh của vụ án thảm khốc nhất trong lịch sử liên quan tới cuộc đời của bậc vĩ
nhân. Với Cuộc thăng trầm, Minh Giang lại tập trung xoáy sâu vào những bi kịch
của người anh hùng Nguyễn Trãi, đặc biệt là bi kịch Lệ Chi Viên. Dùng tài năng
và trí tuệ để phò tá Lê Lợi đánh thắng giặc Minh xâm lược nhưng ông lại bị bọn
gian thần hãm hại.
Nhân vật Trần Quốc Tuấn trong Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh
không chỉ là một nhà chính trị, quân sự tài năng mà còn được soi chiếu ở phương
diện đời thường với những dục vọng bản năng như bao con người bình thường
khác… Ở đây, người anh hùng được “trả về” với cái nhân bản vốn có của con
người. Những nét tính cách này không làm mờ đi những phẩm chất anh hùng mà
chỉ làm cho nhân vật thật hơn, đời hơn và do đó cũng hấp dẫn hơn.
Như vậy, sự vận động của TTLS sau 1975 thể hiện khá r trong việc xây
dựng, sáng tạo các NVAH. Các nhà tiểu thuyết vẫn giữ lại những nét chủ yếu ở
phương diện “vĩ nhân” của nhân vật, và điều này đã làm thỏa mãn tâm lý tiếp nhận
của nhiều bạn đọc. Đặc biệt, vai trò của người anh hùng đối với cộng đồng, dân
tộc trong những bước ngoặt của lịch sử thường được đề cao, thể hiện. Tuy nhiên,
trong khi đào sâu vào những khoảng trống của lịch sử, các nhà văn cũng cố gắng
bổ sung, lấp đầy trên nhiều phương diện khác, trước hết là con người đời tư, đời
thường, số phận bi kịch của người anh hùng.
45
Tiểu kết chƣơng 1
Trên cái nhìn toàn cảnh, có thể thấy TTLS Việt Nam sau 1975 vận động,
phát triển nhanh chóng, phân hóa theo những khuynh hướng khác nhau: Có xu
hướng cơ bản trung thành với chính sử, với tâm thức cộng đồng, có hư cấu nhưng
ở một mức độ cho phép; Có xu hướng bổ sung, “đối thoại” với chính sử, thậm chí
coi lịch sử là “cái đinh để treo quan niệm”, là “sự tùy tiện ý thức”, “mượn lịch sử
để phản ánh những vấn đề đang được đặt ra của đời sống hiện sinh”; Có hướng
mượn lịch sử để đào sâu vào số phận con người cá nhân hoặc nghiêng về văn hóa,
phong tục. Cùng với sự vận động, phát triển của TTLS Việt Nam sau 1975, các
nhận định, đánh giá về tiểu thuyết lịch sử nói chung, các tiểu thuyết lịch sử cụ thể
của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Mộng Giác… nói riêng cũng khá sôi động và có nhiều khác biệt. Các
nghiên cứu về TTLS thường xoay quanh các vấn đề: mối quan hệ giữa lịch sử và
hư cấu, giới hạn của sự hư cấu, tưởng tượng, các khuynh hướng của TTLS, cá tính
sáng tạo và đóng góp riêng của từng nhà văn…
Để triển khai luận án, chúng tôi đã đưa ra quan niệm của mình về TTLS, về
NVAH trong TTLS. Chúng tôi cho rằng TTLS phải là tiểu thuyết mà ở đó nhà văn có
tâm thế viết về quá khứ, về những thời đã qua, một quá khứ đã có độ lùi nhất định
trong tương quan với ngày hôm nay (độ lùi này ít nhất khoảng nửa thế kỷ). TTLS rất
cần hư cấu, tưởng tượng nhưng sự tưởng tượng không thể là tùy tiện, vô giới hạn.
TTLS có thể góp phần “lấp đầy” những “khoảng trống”, hư cấu nên những nhân vật,
sự kiện không có trong chính sử, có thể mượn quá khứ để suy ngẫm về hiện tại, rút ra
những bài học cho hiện tại; nhưng nhà văn không thể nhân danh sáng tạo, hư cấu để
xuyên tạc lịch sử, phản bội lại tâm thức cộng đồng. Trên nguyên tắc ấy, nhà văn có
thể mở rộng quyền hư cấu, sáng tạo, giúp lịch sử và quá khứ hiện lên sống động trên
từng trang viết, giúp cho bạn đọc không chỉ hiểu về lịch sử mà còn hiểu sâu sắc về
truyền thống văn hóa, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, cả những bài học
đau đớn, thất bại của cha ông mà chúng ta phải suy tư, nghiền ngẫm để có thể làm
đầy hành trang tiến về phía trước.
46
Chƣơng 2
BỨC TRANH CHUNG
CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975
2.1. Sơ lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trƣớc 1975
2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945
TTLS Việt Nam hình thành và đã có những thành tựu trong thời kì văn học
trung đại và bắt đầu chiếm lĩnh văn đàn nước ta từ đầu thế kỉ XX cho đến nay.
Cho đến nay, vẫn có những cách gọi tên khác nhau về TTLS trong văn học trung
đại: tiểu thuyết chương hồi về lịch sử, ký sự lịch sử. Trong thời trung đại, các
TTLS thường dưới hình thức tiểu thuyết chương hồi, tuy số lượng không nhiều
nhưng chúng vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền văn xuôi dân tộc. Các tác phẩm
tiêu biểu có thể kể đến là Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa
Chiêm, Thiên Nam liệt truyện (khuyết danh), Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô
Gia Văn Phái… Những tác phẩm này được viết bằng chữ Hán và chịu ảnh hưởng
của hình thức tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Truyện được kể theo trục thời
gian tuyến tính, một chiều. Các sự kiện, nhân vật lịch sử được trình bày theo lối
mô tả, hiếm khi có sự phân tích, luận giải. Nhân vật chủ yếu được miêu tả qua
hành động, đời sống riêng tư và diễn biến tâm lí ít được quan tâm. Yếu tố hư cấu
tuy đã xuất hiện nhưng vẫn còn khá mờ nhạt. Từ đầu thế kỷ XX về sau, TTLS
được hiện đại hóa nhanh chóng, yếu tố hư cấu được quan tâm nhiều hơn, TTLS có
sự chuyển mình mạnh mẽ. Lịch sử từ chỗ là những chứng tích trong quá khứ đã trở
thành mảnh đất màu mỡ cho sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo của người nghệ sĩ.
Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945, trước yêu cầu hiện đại hóa nền văn
học, TTLS viết bằng chữ quốc ngữ đã có những bước phát triển lớn, hình thành
các phong cách khác nhau, chịu ảnh hưởng sâu sắc của các xu hướng tiểu thuyết,
trong đó có TTLS phương Tây. TTLS Việt Nam giai đoạn này có bước phát triển
mới với sự xuất hiện của các tác phẩm như: Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân
(1910) của Trương Duy Toản; Hưng Đạo Vương (1912) của Phan Kế Bính; Tiếng
sấm đêm đông (1928), Đinh Tiên Hoàng (1929), Vua Bố Cái (1929), Lê Đại
Hành (1929) của Nguyễn Tử Siêu; Gia Long phục quốc (1917), Giọt máu chung
tình (1926), Gia Long tẩu quốc (1930), Hoàng tử Cảnh như Tây (1931) của Tân
47
Dân Tử; Việt Nam anh kiệt (1926), Việt Nam Lý Trung Hưng (Việt Nam Lý
Thường Kiệt) (1929), Lê-triều Lý-thị (1931), Tiền - Lê vận - mạt (1932) của Phạm
Minh Kiên; Tiểu anh hùng Võ Kiết (1926) của Phú Đức; Máu chảy ruột
mềm (1928) của Hồng Tiêu; Việt Nam Lê Thái Tổ (1929) của Nguyễn Chánh Sắt;
Liều thân vì nước (1929 - 1930) của Nguyễn Ý Bửu; Nam cực tinh huy (1924)
và Nặng gánh cang thường (1930) của Hồ Biểu Chánh; Bà Chúa chè (1938), Loạn
kiêu binh (1939), Chúa Trịnh Khải (1940) của Nguyễn Triệu Luật…
Nhìn chung, TTLS giai đoạn này tuy chưa có nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng
nội dung khá phong phú và tập trung vào một số chủ đề chính. Thứ nhất, ca ngợi
những bậc vua chúa, những anh hùng dân tộc có công lớn trong sự nghiệp chống
giặc, giữ nước. Đó là các vua Hùng trong Hùng Vương diễn nghĩa, Phùng Hưng
trong Vua Bố Cái, Ngô Quyền và Dương Đình Nghệ trong Tiếng sấm đêm đông,
Đinh Bộ Lĩnh trong Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn trong Lê Đại Hành, Lý Thường
Kiệt trong Việt Nam Lý Trung Hưng, Trần Hưng Đạo trong Hưng Đạo Vương, Lê
Lợi trong Việt Nam Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi trong Máu chảy ruột mềm và Liều
thân vì nước… Với Vua Bố Cái, tác giả đã đề cao ý thức tự tôn và lòng tự hào dân
tộc, ca ngợi Phùng Hưng - hiện thân cho trí tuệ và phẩm chất đạo đức của nhân
dân: bình tĩnh, mưu lược, sáng suốt và vô cùng dũng cảm. Chính cái tên gọi “Bố
Cái Đại Vương” vừa thể hiện lòng tự hào, niềm kính yêu vừa thể hiện sự khâm
phục, sự ngưỡng mộ của quần chúng nhân dân đối với người anh hùng. Trong Việt
Nam Lê Thái Tổ, Nguyễn Chánh Sắt kể lại quá trình dựng nghiệp của người anh
hùng Lê Lợi, từ lúc dấy binh ở Lam Sơn cho đến ngày đánh lui quân xâm lược nhà
Minh, thu bờ c i về tay dân Việt. Tác giả một mặt ca ngợi tài năng bản lĩnh của
người anh hùng Lê Lợi như đã được ghi trong sử sách, mặt khác cũng mạnh dạn
đưa vào những quan hệ đời thường giữa các nhân vật, hư cấu thêm một số chi tiết
mang màu sắc huyền thoại khiến hình tượng người anh hùng hiện lên sinh động,
lôi cuốn hơn. Điểm nổi bật nhất trong TTLS của các nhà văn nửa đầu thế kỷ XX là
cảm hứng anh hùng ca, ca ngợi ý thức tự tôn dân tộc; người anh hùng không
những là các trang nam nhi, mà còn có cả những người phụ nữ. Trong Giọt máu
chung tình, Tân Dân Tử đã hoàn toàn thoát khỏi quan niệm phong kiến về người
phụ nữ, xây dựng nhân vật Bạch Thu Hà thành một tấm gương liệt nữ đáng
ngưỡng mộ. Cùng chung cảm hứng ngợi ca người phụ nữ tiết liệt còn có Máu chảy
48
ruột mềm của Hồng Tiêu. Trong tác phẩm này, người thiếu phụ Nguyễn Bằng
Tháo chỉ trong một thời gian ngắn đã phải đối diện với quá nhiều mất mát, chồng
bị giặc giết, cha thì bị giặc bắt đưa về Yên Kinh, em trai là Nguyễn Trãi bị giặc bắt
giam. Vượt lên hoàn cảnh, người thiếu phụ xuất thân dòng d i ấy đã ý thức rất r
bổn phận và trách nhiệm của mình. Nàng mạnh mẽ vực dậy, một mình nuôi dạy
con nhỏ, không những thế nàng còn “dùng kế m nhân” vào tận tư thất của quan
tổng trấn thành Thăng Long là Thốc Thành Long cứu được Nguyễn Trãi, giết
được tên tổng trấn khét tiếng gian ác. Xong mọi chuyện, nàng định quyên sinh để
thủ tiết với chồng... Ngoài ra, các nhân vật nữ khác như Hồ Ngọc Sương (Việt
Nam anh kiệt), Trần Lệ Nương (Việt Nam Lê Thái Tổ), Lý Vân Kiều (Việt Nam Lý
trung hưng)… đều là những con người kiên trinh, tiết liệt… Thứ hai, TTLS giai
đoạn này còn quan tâm thể hiện những trang đau thương, loạn lạc của lịch sử với
cái nhìn phê phán. Đáng chú ý có Gia Long tẩu quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây của
Tân Dân Tử, Đinh Tiên Hoàng của Nguyễn Tử Siêu, Bà Chúa Chè, Loạn kiêu
binh của Nguyễn Triệu Luật… Gia Long tẩu quốc phản ánh cuộc giao tranh ác liệt
giữa tập đoàn Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII; Đinh Tiên
Hoàng phản ánh thực trạng xã hội Việt Nam ở giai đoạn lịch sử đầy biến động
phức tạp, triều chính mục ruỗng đã đẩy đất nước vào thảm họa 12 sứ quân; Loạn
kiêu binh khắc họa bức tranh triều đại Lê - Trịnh với vô vàn những rối ren không
thể cứu vãn: các phe cánh quyền lực hãm hại lẫn nhau, tranh quyền đoạt vị, huynh
đệ tương tàn, hậu cung đấu đá, kiêu binh nổi loạn... Thứ ba, trong TTLS giai đoạn
1900 - 1945, quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà văn đã có sự thay
đổi. Các cây bút tiểu thuyết đã bắt đầu chú ý đến tính chất đời thường của nhân
vật, thể hiện các mối quan hệ đan xen, phức tạp. Đó là những suy nghĩ, những trằn
trọc, những trăn trở, buồn vui, hờn giận và cả những dục vọng cá nhân. Đỗ Quyên
trong Treo bức chiến bào của Lan Khai, An Tư trong tiểu thuyết cùng tên của
Nguyễn Huy Tưởng, Phạm Thái trong Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng… đều
khai thác các yếu tố đời thường một cách khá thành công. Một điểm độc đáo khác
thể hiện sự chuyển biến, đổi mới của TTLS giai đoạn này so với tiểu thuyết
chương hồi trung đại là quan tâm đến chủ đề tình yêu đôi lứa. Tình yêu được đưa
vào TTLS tạo sự hấp dẫn, lãng mạn cho hình tượng nhân vật. Đó là tình yêu của
những ông vua, bà chúa như tình yêu giữa Đặng Thị Huệ với chúa Tĩnh Đô
49
Vương trong Đêm Hội Long Trì; tình yêu giữa những bậc trai tài gái sắc của An
Tư với Trần Thông trong tác phẩm An Tư của Nguyễn Huy Tưởng; tình yêu giữa
Ngọc Hân công chúa với người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong tác phẩm Vua
Quang Trung của Phan Trần Chúc; tình yêu giữa Trần Nguyên công chúa với
Phạm Ngũ Lão trong tác phẩm Trần Nguyên chiến kỷ của Nguyễn Tử Siêu, Phạm
Thái và Quỳnh Như trong Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng… Nhìn chung yếu tố
tình yêu trong TTLS thời kỳ này chịu sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa yêu
nước và tư tưởng vị nghĩa. Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, bị nô
dịch về văn hóa, các tác phẩm TTLS ra đời đã thổi một luồng sinh khí mới vào
nền văn học, góp phần khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, chống thực dân,
gián tiếp chuẩn bị tinh thần cho các cuộc vận động cách mạng vĩ đại do Đảng ta
lãnh đạo.
Về nghệ thuật, mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng tiểu TTLS
giai đoạn 1900 - 1945 đã có bước tiến khá lớn đủ sức làm tiền đề cho thể loại này
vượt thoát khỏi mô hình truyền thống, tiến dần đến hiện đại và hội nhập sâu hơn
với văn đàn thế giới trên nhiều phương diện.
Thứ nhất, TTLS giai đoạn này có sự kết hợp nhiều cảm hứng, bút pháp
khác nhau trong thể hiện hiện thực và khắc họa nhân vật. Bút pháp sử thi biểu hiện
ở lòng nhiệt thành ca ngợi những chiến công vẻ vang, ca ngợi những vị anh hùng
đã có công cứu nước. Do ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, TTLS giai đoạn
từ đầu thế kỷ XX đến 1945, đặc biệt là từ 1930 đến 1945 đã có sự gia tăng cảm
hứng thế sự, đời tư. Nghệ thuật tự sự đã trở nên đa dạng hơn, vừa có kiểu kết cấu
chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi, vừa có kiểu kết cấu của tiểu thuyết
hiện đại phương Tây. Một số TTLS như Tiếng sấm đêm đông, Việt Thanh chiến
sử, Trần Nguyên chiến kỷ… của Nguyễn Tử Siêu vẫn còn chịu ảnh hưởng của bút
pháp kí sử biên niên. Sức hấp dẫn chủ yếu của tiểu thuyết vẫn do tình tiết, sự kiện
tạo ra hơn là sự phát triển trong tính cách, tâm lý nhân vật. Nhiều tác phẩm vẫn
duy trì lối kể theo trình tự thời gian, kết thúc có hậu, người đọc dễ dàng đoán biết
được diễn biến tiếp theo và kết thúc truyện ngay từ những trang đầu. Từ những
năm 1930 trở đi, dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, TTLS Việt Nam đã
xuất hiện những tác phẩm kết cấu theo diễn biến tâm lí nhân vật. Trong đó tiêu
biểu là Tiêu sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Đêm hội long trì của Nguyễn Huy
50
Tưởng, Cái hột mận của Lan Khai… Cách miêu tả nhân vật cũng đã có nhiều biến
chuyển, xu hướng đa diện trong khắc họa tính cách nhân vật đã được chú ý trong
nhiều tiểu thuyết. Tuy nhiên, các tác giả vẫn tập trung quá nhiều vào miêu tả hành
động, thông qua hành động để thể hiện tính cách con người. Tâm lý nhân vật chưa
thật sự có chiều sâu. Yếu tố độc thoại nội tâm đã bắt đầu xuất hiện trong một số
tác phẩm tuy vẫn còn mờ nhạt và chưa trở thành một phương thức thể hiện quan
trọng của nghệ thuật tiểu thuyết. Đặc biệt, các nhà văn đã có ý thức trong việc xây
dựng các nhân vật phụ để làm phong phú thêm cho hệ thống nhân vật cũng như
làm nổi bật nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Dấu ấn rõ nét của ảnh hưởng tiểu
thuyết cổ điển Trung Hoa là việc miêu tả ngoại hình NVAH thường gắn với sử
dụng yếu tố kỳ lạ, khác thường. Trong Vua Bố Cái, Nguyễn Tử Siêu cũng miêu tả
nhân vật Đỗ Luân có ngoại hình không khác gì Quan Vũ: “mặt trắng như mũi
ngọc, môi đỏ như son Tàu, lông mày thưa mày dài, mắt trong mà đen, đầu đội
khăn lượt thâm, mình mặc áo giáp tím, tay cầm trương thượng, vai đeo kinh nỗ”
[245; 55]. Lý Thường Kiệt trong Việt Nam Lý Trung Hưng là người “học rộng tài
cao, hình dong lẫm liệt, giọng nói như chuông, tướng đi như cọp”... Với tài v
nghệ siêu phàm, bản lĩnh tựa Thái Sơn, Lý Thường Kiệt đã lập nên nhiều chiến
công hiển hách đem lại sự hưng thịnh cho nhà Lý… Với cách xây dựng nhân vật
như vậy, các NVAH trong tiểu thuyết giai đoạn này cơ bản đều xuất hiện với tư
cách là những vĩ nhân, những anh hùng “siêu phàm”.
Thứ hai, về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, bên cạnh dấu ấn của văn biền
ngẫu còn sót lại, câu văn đã chuyển dần sang cách diễn đạt của ngôn ngữ văn
chương hiện đại. Một số tác phẩm vẫn sử dụng các từ ngữ mang tính công thức để
kết thúc hồi, chương hay chuyển ý, chuyển đoạn kiểu như “chuyện rằng”, “lại
nói”, “không nói đến nữa”, “không nói thêm nữa”,… Tiêu biểu cho cách viết này
là Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử, Việt Nam anh kiệt của Phạm Minh Kiên,
Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng của Nguyễn Tử Siêu. Tuy nhiên, trong một số tiểu
thuyết như Tiêu sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Đêm hội long trì của Nguyễn Huy
Tưởng, Bà chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật…, hành văn đã mang màu sắc hiện
đại với cách viết giản dị, chân thực, có những đoạn miêu tả tình huống, sự kiện
sinh động, sử dụng nhiều ngôn ngữ đời thường, bình dân.
51
Tóm lại, TTLS Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 có sự vận động, phát
triển theo hướng hiện đại hóa nhanh chóng. Bên cạnh một số tác phẩm vẫn chịu
ảnh hưởng của lối viết chương hồi, tính cách nhân vật chủ yếu dựa trên hành
động, với nhiều tình tiết gay cấn, câu văn vẫn còn dấu vết kiểu câu biền ngẫu...,
thì đồng thời cũng xuất hiện ngày càng nhiều các tiểu thuyết mang dấu ấn tiểu
thuyết hiện đại phương Tây, với kết cấu dựa trên diễn biến tâm lí nhân vật, kiểu
trần thuật hiện đại, lối kết thúc bỏ ngỏ hoặc không có hậu.
2.1.2. Tiểu thuyết lịch sử Vi t Nam từ 1945 ến 1975
Sau Cách mạng tháng Tám, nước ta bước sang một thời đại mới. Vừa
giành độc lập, đất nước lại bước vào những cuộc chiến mới với những kẻ thù hùng
mạnh hơn gấp nhiều lần. Văn học trước hết phải thực hiện vai trò phục vụ hai
cuộc chiến tranh cứu nước là chống thực dân Pháp và đế quốc M . Hiện thực đời
sống kháng chiến trở thành đối tượng phản ánh trung tâm của văn học. Vì không
còn là thể loại có thế mạnh trong việc phản ánh kịp thời những vấn đề, sự kiện
mang tính thời sự nóng bỏng, TTLS cũng như tiểu thuyết nói chung, tạm thời
nhường chỗ cho các thể loại “xung kích” khác như truyện ngắn, kí sự, thơ ca...
Phải đến những năm 60 - 70, TTLS mới xuất hiện trở lại với một số tác phẩm tiêu
biểu như Quận He khởi nghĩa, Tổ quốc kêu gọi của Hà Ân; Bóng nước Hồ Gươm
của Chu Thiên; Cờ nghĩa Ba Đình của Thái Vũ… Bên cạnh đó là sự hình thành và
phát triển xu hướng truyện lịch sử viết cho thiếu nhi. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn
tượng sâu đậm trong lòng độc giả nhỏ tuổi, trong đó phải kể đến Lá cờ thêu sáu
chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung của Nguyễn Huy Tưởng; Trên sông truyền
hịch của Hà Ân…
Về nội dung, TTLS giai đoạn này phản ánh những sự kiện quan trọng trong
lịch sử chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. Trước hết phải kể đến Hà Ân với một
loạt tiểu thuyết như Bên bờ Thiên Mạc, Trên sông truyền hịch, Trăng nước
Chương Dương… Các tác phẩm đều xoay quanh sự kiện lịch sử là những chiến
công oanh liệt của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên -
Mông. Ba câu chuyện cùng một chủ đề và bối cảnh, ngợi ca những chiến công hào
hùng của dân tộc. Đó là trận chiến trên bờ Thiên Mạc với sự hy sinh lẫm liệt của
Trần Bình Trọng cùng câu nói nổi tiếng tựa sấm truyền vang vọng suốt mấy ngàn
năm lịch sử: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Đó
52
là Hội nghị Diên Hồng quy tụ ý chí quyết tử của vua tôi, quân dân trên dưới một
lòng và lời Hịch tướng sĩ truyền đi trong đêm trên sông Thiên Đức hùng tráng, thể
hiện chí khí ngút trời của lời thề “Sát Thát”. Đó là những chiến thắng Thiên Mạc -
Hàm Tử - Chương Dương ngời lên dưới ánh trăng, trên con sông Cái, khắc ghi
những dấu mốc của một thời đại huy hoàng được mở ra từ chiến thắng của vua tôi
nhà Trần. Điểm khác biệt của TTLS giai đoạn này so với trước là song song với
cảm hứng ngợi ca truyền thống anh hùng từ ngàn đời, tiểu thuyết đã khắc họa hình
ảnh nhân dân, nâng họ lên thành biểu tượng cho vẻ đẹp về sức mạnh và khát khao
chiến thắng của dân tộc. Cùng với đó, âm hưởng sử thi đậm nét trên từng trang
văn và trong thể hiện chân dung nhân vật mang lại bức tranh lịch sử hoành tráng,
hào hùng. Tư duy tự sự cũng được nâng lên một bước khi kết hợp hài hòa giữa tư
liệu lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Tuy chưa gây được tiếng vang so với các thể
loại khác như thơ, truyện ngắn, kí…, song TTLS của giai đoạn này vẫn tiếp nối
được mạch cảm thức đã có từ trước. Những tìm tòi, thể nghiệm đã tạo tiền đề cho
quá trình đổi mới, cách tân của TTLS ở giai đoạn sau 1975. Các tác phẩm Lá cờ
thêu sáu chữ vàng, Kể truyện Quang Trung của Nguyễn Huy Tưởng; Tướng quân
Nguyễn Ch ch, Nguyễn Trung Trực, Phú Riềng đ của Hà Ân đều tập trung đề
cao, ca ngợi người anh hùng, mang đậm cảm hứng sử thi. Người anh hùng luôn
luôn là những con người ưu tú, tích cực, là những cá nhân tiêu biểu của một dân
tộc anh hùng. Điều này là hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh chiến tranh, văn học
phải làm nhiệm vụ tuyên truyền, động viên mọi người sẵn sàng hy sinh vì nền độc
lập, tự do, thống nhất đất nước.
Về nghệ thuật, cũng như văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975 nói chung, TTLS
giai đoạn này chịu sự chi phối mạnh mẽ của phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa là “phương pháp sáng tác tốt nhất” (cũng là duy nhất) được chấp nhận trong
giai đoạn này. Bức tranh hiện thực được tái hiện chủ yếu là những chiến công
oanh liệt. Các TTLS chủ yếu kết cấu theo hình thức phân tuyến rạch ròi: ta/ địch,
tốt/ xấu, chính nghĩa/ phi nghĩa... Cái nhìn sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng
mạn hóa đã xây dựng NVAH theo nguyên tắc “tạc tượng đài”. Cảm hứng sử thi
chi phối hầu như mọi phương diện của TTLS như giọng điệu, ngôn từ, hình
ảnh,… Giọng ngợi ca, hào sảng là giọng điệu chính trong nhiều tiểu thuyết (Trăng
nước Chương Dương, Trên sông truyền hịch của Hà Ân, Lá cờ thêu sáu chữ vàng
53
của Nguyễn Huy Tưởng…). Đây là đoạn mô tả cảnh thảm bại của quân Thanh và
hào khí chiến thắng của quân Tây Sơn trong Kể chuyện Quang Trung của Nguyễn
“Chúng không kịp dụi mắt, không kịp kêu. Sấm động trên đầu chúng, đất
động dưới chân chúng. Mắt cay sè chỉ thấy loang loáng chung quanh đồn một bể
lửa hãi hùng ngùn ngụt. Trong ánh lửa, chói lóa lên không biết cơ man nào là
quân áo đỏ, trùng trùng điệp điệp, vây kín lấy đồn, đến con sẻ cũng không chui
lọt. Lấp loáng vung lên những lưỡi mã tấu sáng lòe. Cờ xí đỏ vẫn bay, san sát như
cây rậm trong rừng, phồng lên như cánh buồm lướt gió. Cờ mở ra, hàng trăm
hàng ngàn quân kị ập tới. Ngựa hí vang lừng” [274; 203-204].
Huy Tưởng:
Về kết cấu, nhiều TTLS giai đoạn 1945 - 1975 vẫn gần với hình thức truyện
kể lịch sử, kết cấu, cốt truyện vẫn theo mạch thời gian tuyến tính. Về ngôn từ,
TTLS giai đoạn này có sự tăng cường, đan xen các lớp từ ngữ. Bên cạnh lớp ngôn
từ cổ xưa, đậm không khí lịch sử và lớp ngôn từ sử thi, hào sảng, có sự gia tăng
của lớp ngôn từ chính trị, thời sự, lớp ngôn từ đời thường, giản dị. Đoạn văn sau
đây trong miêu tả cảnh tuyển lính của Đội Cấn trong tiểu thuyết Tổ quốc kêu gọi
“Tỉnh lị Thái Nguyên thức dậy… tiếng reo hò vang lên khắp nơi. Ai nấy vội
vã chia việc cho nhau. Các cụ bà đun nước pha trà vào những chiếc ấm đất xách
ra cho các chiến sĩ. Những thanh niên khỏe mạnh xách dao phay, đòn xóc xin ra
được cùng chiến đấu. Những cô gái nhanh chống tìm vải đỏ xé làm băng buộc tay
làm hiệu cho binh lính khởi nghĩa… tiếng trống nổi lên thôi thúc mọi người”,
“Tiếng loa đọc bản tuyên cáo vang dậy mọi nẻo phố trong tỉnh lị Thái Nguyên.
Trai tráng nô nức kéo đến ghi tên tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Không khí
hào hứng như một ngày hội lớn” 193; 230].
của Hà Ân thật gần giống cảnh tuyển quân thời nay:
Nhìn chung, TTLS Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã có những thành tựu
đáng ghi nhận. Cũng như văn xuôi giai đoạn này, cảm hứng sử thi là cảm hứng sâu
đậm nhất trong nhiều TTLS. Chủ nghĩa yêu nước thấm đẫm trong nhiều tác phẩm.
Quan điểm, cách nhìn của nhà văn thường đồng nhất với quan điểm của cộng
đồng. Tuy không tránh khỏi những hạn chế, nhưng cảm hứng sử thi cũng đã tạo ra
nhiều NVAH với vẻ đẹp cao cả, có sức cuốn hút người đọc.
54
2.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
2.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, với những thay đổi lớn của môi trường
chính trị - xã hội, sự thay đổi của tâm lý, thị hiếu người đọc, văn học Việt Nam
đã chuyển mình để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của bạn đọc. Đại hội Đảng
toàn quốc lần VI (1986) đã mở ra bước ngoặt, đem lại những thay đổi trên nhiều
mặt của đời sống xã hội. Đổi mới bắt đầu từ “đổi mới tư duy” đã giải phóng tư
tưởng con người, khơi dậy những suy nghĩ, những tìm tòi, sáng tạo trong giới trí
thức, văn nghệ sĩ. Có thể nói, đại hội Đảng lần thứ VI đã thổi một luồng gió mới
vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà. Nền kinh tế từng bước chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, vừa tạo ra những bước phát triển thần kỳ của nền
kinh tế, vừa phơi bày ra tất cả sự phức tạp, gai góc và mặt trái của nó. Cuộc sống
thay đổi không ngừng, các giá trị cũ không còn là chuẩn mực được xem xét lại,
các giá trị mới đang dần hình thành. Mặt khác, sự giao lưu kinh tế và hội nhập
văn hóa với thế giới ngày càng sâu rộng, cũng tác động mạnh mẽ đến đời sống
văn học nghệ thuật.
Một trong những tiền đề quan trọng tạo nên sự “trở lại” một cách mạnh mẽ
của TTLS sau 1975 chính là sự ý thức một cách đầy đủ hơn vai trò của cái “tôi”,
của chủ thể sáng tạo. Đổi mới, sáng tạo là bản chất của văn học, là nhu cầu tinh
thần của mỗi cây bút. Và nhu cầu ấy càng trở nên mãnh liệt khi được sự tiếp sức
của Đổi mới. Suy ngẫm về quá khứ, về chặng đường đã qua để tìm một lỗi mở cho
đời sống, cho văn nghệ, cho tiểu thuyết nhanh chóng trở thành nhu cầu của các
nhà văn, và họ đã tìm đến TTLS như một vùng đất nhiều hứa hẹn. “Từ góc nhìn
của chủ thể sáng tạo, giờ đây văn học không chỉ là tiếng nói chung của dân tộc và
thời đại, cộng đồng mà trước hết là phát ngôn của mỗi cá nhân nghệ sĩ, là phương
tiện tự biểu hiện bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của
nhà văn về các vấn đề hôm qua và hôm nay. Nhà văn có quyền bày tỏ công khai
sự thức nhận của cá nhân trước những chân lí tưởng như bất di bất dịch, nghi ngờ
những tín điều, giải thiêng các thần tượng, đề xuất những chuẩn mực mới…” [74].
Nhà văn có nhu cầu nhận thức lại lịch sử, giải mã những bí ẩn, khuất lấp, hoài
nghi chân lí, thụ hưởng lịch sử bằng tinh thần khoa học nhân văn hiện đại. Lịch sử
55
không có “giá như”, nhưng lòng người lại luôn muốn có những “giá như”. Nhà
văn có thể đặt ra những giả thuyết, những khả năng có thể xảy ra, những bài học
cần suy ngẫm. “Lịch sử là một hiện thực đặc thù, nó tuy có thật nhưng đã thuộc về
quá khứ, tuy quá khứ nhưng nó vẫn là một bộ phận của hôm nay, không thể tách
rời hôm nay, hàm chứa nhiều bí ẩn của xã hội và thời đại” 140].
Một nguyên nhân nữa cũng rất quan trọng góp phần tạo nên sự trở lại khá
ngoạn mục của TTLS đó chính là nhu cầu phát triển “tự thân” của thể loại này.
Như trên đã nói, TTLS Việt Nam hiện đại ít nhiều đã kế thừa được các thành tựu
từ các tiểu thuyết chương hồi về lịch sử, đến giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
đã có sự bứt phá ngoạn mục, vận động theo hướng hiện đại hóa, đã có những tác
giả, tác phẩm được bạn đọc yêu thích. Trong giai đoạn 1945 - 1975, cũng như nền
văn học nói chung, các TTLS vận động theo hướng sử thi hóa. Cảm hứng sử thi đã
tạo ra các hình tượng đẹp đẽ, các NVAH cao cả, có ý nghĩa giáo dục con người,
động viên tinh thần, ý chí của họ trong hoàn cảnh chiến tranh. Tuy nhiên, các
TTLS cũng phải hy sinh nhiều mặt: con người cá nhân, đời tư bị xem nhẹ, những
góc khuất của lịch sử ít được quan tâm, cái nhìn lịch sử thường là một chiều. Khi
chiến tranh qua đi, đối mặt với xã hội hiện đại với vô vàn những câu hỏi về cuộc
sống, về nhân tình thế thái, các nhà văn lại trở lại đề tài lịch sử, tìm cách bổ sung
những gì mà thể loại trước đó còn khuyết thiếu. Tiểu thuyết, với ưu thế có thể tái
hiện những bức tranh hiện thực rộng lớn, có thể đi sâu khắc họa nhiều tính cách,
số phận trở thành một thể loại phù hợp hơn cả để nói được nhiều điều, nhiều
chiều, nhiều mặt hơn về lịch sử sử với những con người, sự kiện tưởng chừng như
đã được “an bài” trong quá khứ. Và vì thế TTLS trong giai đoạn này nghiễm nhiên
nhận được sự quan tâm của nhiều người cầm bút.
Một nguyên nhân nữa là từ sau 1986, cơ chế thị trường với sự chi phối của
quy luật cung cầu đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn
chương trở thành hàng hóa, xuất bản, in ấn phát triển, tiểu thuyết nước ngoài được
dịch, giới thiệu nhiều, các cuộc thi tiểu thuyết diễn ra thường xuyên… đã có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của văn xuôi, trong đó có TTLS. Trong hai thập kỷ trở
lại đây, số lượng các nhà xuất bản, số bản sách được xuất bản tăng lên đáng kể.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến thời điểm 09/08/2010,
cả nước có tới 55 nhà xuất bản. Hệ thống phát hành sách cũng phát triển mạnh mẽ
56
không kém. Với việc xem sách như một loại hàng hoá, các nhà làm sách đã rất chú
trọng đến việc quảng bá văn hóa đọc qua các phương tiện khác nhau. Sách và tiểu
thuyết không chỉ xuất bản trên giấy mà còn mở rộng thêm các hình thức khác như
sách điện tử, các trang blog, website,… Việc “số hoá” tác phẩm văn chương giúp
người đọc dễ dàng tiếp cận nó với một tâm thế mới. Không chỉ thị trường sách
trong nước, thị trường sách văn học dịch, trong đó có tiểu thuyết cũng phong phú
và đa dạng không kém. Nhiều tiểu thuyết nước ngoài, trong đó có TTLS nhanh
chóng có mặt ở Việt Nam. Việc phổ biến các tác phẩm văn học dịch sẽ giúp người
đọc tiếp cận nhanh hơn với các nền văn học trên thế giới và tạo điều kiện cho cuộc
hội nhập của văn học Việt Nam …
Một yếu tố nữa không kém phần quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển
của thể loại tiểu thuyết, trong đó có TTLS là nhu cầu, thị hiếu tiếp nhận của độc
giả. Bầu không khí dân chủ bao trùm đời sống xã hội tất yếu ảnh hưởng đến tâm
thế tiếp nhận của của công chúng. Người đọc trở nên cởi mở hơn, nhưng cũng khó
tính hơn. Người đọc không còn tiếp nhận tác phẩm một cách thụ động mà đã trở
thành những người đọc sáng tạo, đồng hành cùng nhà văn. Các trào lưu văn học
hiện đại, hậu hiện đại trên thế giới du nhập nhanh chóng vào Việt Nam cũng tác
động mạnh mẽ đến xu hướng tiếp nhận của người đọc. Người đọc hôm nay không
còn thỏa mãn với những chân lý đã định sẵn, những hiện thực đã sáo mòn. Nhu
cầu bàn luận, đối thoại giữa người sáng tác và người tiếp nhận đã kích thích sự tìm
tòi sáng tạo của nhà văn. Quan hệ nhà văn - người đọc là quan hệ bình đẳng, dân
chủ. Có thể nói, bối cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa sau 1975 nhìn chung là môi
trường thuận lợi, tích cực thúc đẩy sự vận động, phát triển mạnh mẽ của tiểu
thuyết, trong đó có TTLS.
2.2.2. Các chặng đường vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
Giai đoạn 1975 - 1985 là thời kỳ văn học nói chung, TTLS nói riêng có
nhiều chuyển biến với những trăn trở, tìm tòi. Đây được xem là giai đoạn “bản lề”,
“đêm trước của Đổi mới” với nhiều tín hiệu tích cực, có ảnh hưởng và tác động
đáng kể đối với văn học Việt Nam thời kì Đổi mới sau 1986. Do quán tính của văn
học, tiểu thuyết từ 1975 - 1985 nổi lên dòng mạch đề tài chiến tranh và người lính.
Mảng sáng tác này làm nên tên tuổi của một số nhà văn quen thuộc như Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Hồ Phương, Hữu Mai, Nguyễn Trọng
57
Oánh, Nam Hà, Nguyễn Trí Huân, Chu Văn, Thái Bá Lợi, Khuất Quang Thụy…
Những tác phẩm gây được tiếng vang là Đất trắng - Nguyễn Trọng Oánh, Cửa
gió - Xuân Đức, Họ cùng thời với những ai - Thái Bá Lợi, Nắng đồng bằng - Chu
Lai, Sao đổi ngôi - Chu Văn, Trong cơn gió lốc - Khuất Quang Thụy…
TTLS Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 cũng có những thành tựu nhất định,
tuy số lượng tác phẩm chưa nhiều. Một số nhà văn đã quen thuộc với bạn đọc
trước đó tìm thấy thế mạnh của mình ở xu hướng đi vào phong tục và lịch sử. Đi
theo hướng này, những Rừng động - Mạc Phi, Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên
ải - Ma Văn Kháng, Hoa hậu xứ Mường - Phượng Vũ… đã góp phần làm phong
phú hơn mảng đề tài dân tộc và miền núi mang đậm tính phong tục và lịch
sử. Ngoài ra có thể kể đến Núi rừng Yên Thế của Nguyên Hồng (1980), Lưỡi
gươm nhân ái (1981) của Hà Ân, Nhiếp chính Ỷ Lan (1985) của Quỳnh Cư, Sao
Khuê lấp lánh (1984) của Nguyễn Đức Hiền... Các tiểu thuyết xoay quanh những
nhân vật lịch sử nổi tiếng và những sự kiện tiêu biểu của nước nhà. Người viết ca
ngợi, tôn vinh công lao to lớn và những chiến công hiển hách của các anh hùng
dân tộc. Cảm hứng sử thi chi phối quan điểm nhìn nhận và cách thức xây dựng
nhân vật. Về nghệ thuật tự sự, nhà văn chủ yếu trần thuật theo ngôi thứ ba khách
quan. Cốt truyện, sự kiện vẫn là trung tâm chú ý của các tiểu thuyết. Nội tâm nhân
vật, các mâu thuẫn phức tạp của thế giới bên trong chưa được quan tâm đúng mức.
Nhân vật cơ bản vẫn phân tuyến theo kiểu địch - ta, thiện - ác, tốt - xấu… Giọng
điệu ngợi ca, trang trọng vẫn là giọng điệu chính.
Cùng với sự đổi mới của văn xuôi nói chung, TTLS Việt Nam từ 1986 đến
2000 đã chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư. Nhà văn không
chỉ quan tâm viết về các NVAH nổi tiếng, sự kiện lịch sử trọng đại mà chú ý hơn
đến các nhân vật lịch sử còn đứng giữa hai bờ tranh cãi về công tội, chú ý hơn đến
những điểm mờ, những vùng khuất lấp của lịch sử. Nhân vật không chỉ được nhìn
nhận ở vai trò đối với cộng đồng, đất nước mà còn được đánh giá với tư cách con
người. Lịch sử cũng không còn là những tượng đài nhìn từ chính diện mà được
khai thác ở các “góc khuất” của nó. Nhân vật được đặt trong nhiều mối quan hệ
phức tạp và đặc biệt là nhà văn đã thâm nhập vào thế giới nội tâm để phơi bày
những suy nghĩ, những dằn vặt, mâu thuẫn tinh tế của đời sống tinh thần con
người. Nghệ thuật trần thuật cũng có nhiều đổi mới, với sự dịch chuyển điểm
58
nhìn, sự đa thanh trong giọng điệu. Ngôn ngữ của tiểu thuyết giai đoạn này cũng
có những đổi mới đáng kể. Ngôn ngữ thường nhật, khẩu ngữ gia tăng tạo sự dung
dị, tự nhiên, gần gũi với bạn đọc. Có thể kể đến: Sông Côn mùa lũ (1998 - Nxb
Văn học tái bản trong nước) của Nguyễn Mộng Giác, Tuyên phi họ Đặng (1996),
Gươm thần Vạn Kiếp (1991) của Ngô Văn Phú, Gió lửa (1999) của Nam Giao,
Vằng vặc sao Khuê (1998) của Hoàng Công Khanh, Đặng nữ quận chúa (1999)
của Đặng Đình Lưu….
Từ 2000 đến nay, TTLS phát triển rầm rộ, trở thành một khuynh hướng
quan trọng của tiểu thuyết Việt Nam, với khoảng trên 120 tác phẩm được xuất bản
(xem phụ lục 1). Chỉ tính riêng trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ V (2016 - 2019)
của Hội Nhà văn, trong số 20 tác phẩm được trao giải có tới gần một nửa là TTLS,
với nhiều tác phẩm được trao giải cao như Từ Dụ Thái hậu của Trần Thùy Mai
(giải nhất), Mệnh đế vương của Trương Thị Thanh Hiền (giải nhì), Thị Lộ chính
danh của Võ Khắc Nghiêm (giải nhì), Chim bằng và Nghé hoa của Bùi Việt S
(giải 3), Gió bụi đầy trời của Thiên Sơn (giải 3). Nhiều tác phẩm TTLS xuất sắc,
có nhiều tìm tòi, cách tân trong nghệ thuật ra đời, nhận được sự chú ý của đông
đảo các tầng lớp độc giả. Có những tác giả chuyên tâm, chung thủy với TTLS và
gặt hái không ít thành tựu như Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn
Thế Quang, Phùng Văn Khai,… Các tác phẩm gây được tiếng vang có thể kể đến:
Bão táp triều Trần (2003, 4 tập), Tám triều vua Lý (2010, 4 tập) của Hoàng Quốc
Hải; Hồ Quý Ly (2000), Mẫu thượng ngàn (2006), Đội gạo lên chùa (2011) của
Nguyễn Xuân Khánh; Giàn thiêu (2003) của V Thị Hảo, Nguyễn Du (2010),
Thông reo ngàn Hống (2015) của Nguyễn Thế Quang, Phùng Vương (2018) của
Phùng Văn Khai, Sương mù tháng Giêng (2015) của Uông Triều, Trần Khánh Dư
(2016) của Lưu Sơn Minh…
TTLS từ năm 2000 đến nay là một bản hòa âm đủ mọi thanh sắc, cung bậc,
với những phong cách, bút pháp đa dạng. Ở đó, lịch sử được soi chiếu từ nhiều
góc độ, khía cạnh với nhiều chiều kích, quy mô khác nhau. Có cách bao quát lịch
sử rộng lớn, thiên về sử thi trong hai bộ tiểu thuyết đồ sộ: Bão táp triều Trần, Tám
Triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải; Có là cách khai thác lịch sử thiên về văn hóa,
phong tục, tín ngưỡng trong Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân
Khánh); Có cách viết quan tâm đến những góc khuất, những khía cạnh đời tư như
59
Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim
bằng và Nghé hoa, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt S …
TTLS Việt Nam từ 2000 đến nay có nhiều cách tân về nội dung và hình
thức nghệ thuật. Các tác giả có cái nhìn nhiều chiều, có tính suy ngẫm đối với lịch
sử, soi chiếu lịch sử ở nhiều phương diện, đưa người đọc vào các cuộc đối thoại
mà ở đó chưa thể có một kết luận cuối cùng. Các NVAH được nhìn nhận lại, được
soi chiếu r hơn ở mặt đời thường, mặt bi kịch, thậm chí những khiếm khuyết như
Hồ Quý Ly trong Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyên phi Ỷ Lan trong
Giàn thiêu của V Thị Hảo, Trần Khánh Dư trong Trần Khánh Dư của Lưu Sơn
Minh. TTLS giai đoạn này cũng có những bước tiến quan trọng về hình thức nghệ
thuật. Cùng với cái nhìn đa chiều về lịch sử, sự luân chuyển điểm nhìn, là sự đa
thanh, linh hoạt trong giọng điệu. Ngôn ngữ trong TTLS có sự phối hợp đan xen
của lớp ngôn ngữ cổ xưa và lớp ngôn ngữ đời thường, hiện đại. Chúng ta bắt gặp
cách nói rất chuẩn mực, uy nghi của các vị vua sáng, các bậc anh hùng như: Lý
Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần
Nhân Tông… Chúng ta cũng bắt gặp ngôn ngữ đậm nhà Phật của các bậc thiền sư
của Sư Vạn Hạnh, sư Không Lộ, Mãn Giác, Huệ Sinh… Chúng ta cũng bắt gặp
ngôn ngữ dân dã, nôm na của tầng lớp bình dân như của bà mẹ kế của Nguyên phi
Ỷ Lan (Giàn thiêu), bà cụ bán hàng nước (Bão táp triều Trần)…
2.2.3. Thành tự à các kh ynh hướng của tiểu thuyết lịch sử Vi t Nam
sau 1975
2.2.3.1. Sự phát triển vượt bậc của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
TTLS Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 1986 đã vận động, phát triển một
cách nhanh chóng, chiếm một vị trí quan trọng trên văn đàn. Nhiều tác giả, tác
phẩm gây được tiếng vang trong dư luận, đặt ra được những vấn đề bức thiết, góp
phần to lớn trong công cuộc đổi mới văn xuôi cả về nội dung và hình thức.
Về số lượng tác phẩm, từ đầu thế kỷ XX đến 1945, theo thống kê của
Nguyễn Văn Hùng (Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự
sự học), có khoảng 50 TTLS ra đời. Từ năm 1945 đến 1975 có khoảng 30 TTLS.
Nhưng từ 1975 đến nay đã có gần 200 TTLS được xuất bản. Số lượng không phải
là tất cả, nhưng cũng có thể coi là một trong những tiêu chí để đánh giá thành tựu
của TTLS Việt Nam ở giai đoạn này.
60
Về dung lượng, các TTLS Việt Nam giai đoạn này có sự đổi thay đáng kể.
Trước 1945, hầu hết TTLS có độ dày trên dưới 200 trang, số ít lên đến 300 trang
như Hai bà Trưng đánh giặc của Nguyễn Tử Siêu. Giai đoạn từ 1945 đến 1975,
đa số các tác phẩm vẫn duy trì dung lượng từ 200 - 300 trang. Tuy nhiên, cũng
đã xuất hiện lối viết dài hơi, liên hoàn về một sự kiện lịch sử, một triều đại như
Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên (2 tập - 840 trang). Sau 1975, bên cạnh các
tác phẩm có dung lượng vừa phải, số lượng các tác phẩm có dung lượng lớn có
sự phát triển đột biến. Đáng chú ý phải kể đến bộ Tám triều vua Lý (4 tập) và
Bão táp triều Trần (tái bản, 6 tập) của Hoàng Quốc Hải, Nhất thống sơn hà của
Vũ Thanh (4 tập), Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái (4 tập), Sông Côn mùa
lũ (3 tập) của Nguyễn Mộng Giác…
Về đội ngũ sáng tác, từ sau năm 1975, đội ngũ tác giả TTLS không chỉ phát
triển về số lượng, với khoảng hơn 80 tác giả so với gần 20 tác giả giai đoạn 1945 -
1975, mà còn đa dạng hơn về thành phần, tuổi tác. Các cây bút đã tham gia viết
TTLS từ trước 1975 vẫn là một lực lượng quan trọng, nay tiếp tục có các sáng tác
thành công như Hà Ân (13 tác phẩm, trong đó có 4 tác phẩm viết trước năm
1975), Thái Vũ (11 tác phẩm, trong đó có 2 tác phẩm trước năm 1975),… Ngoài
ra, có sự xuất hiện thêm nhiều những cây bút trẻ như V Thị Hảo với Giàn thiêu,
Trần Thu Hằng với Đàn đáy, Uông Triều với Sương mù tháng giêng, Lưu Sơn
Minh với Trần Khánh Dư… Các tác giả Việt kiều và các tác giả nước ngoài cũng
có nhiều sáng tác thành công như Nguyễn Mộng Giác với Sông Côn mùa lũ, Yên
Tử cư sĩ Trần Đại Nghĩa với 5 tác phẩm viết trong năm 2004 là Nam quốc sơn hà,
Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông, Anh hùng Đông A - gươm thiêng Hàm Tử, Anh
hùng Tiêu Sơn, Anh hùng Bắc Cương; Nam Dao với 3 tác phẩm là Đất trời, Gió
lửa, Bể dâu …
Trong các giải thưởng văn học từ năm 1986 đến nay, TTLS luôn được đánh
giá cao và đạt được những giải thưởng quan trọng. Cụ thể, Vằng vặc sao khuê của
Hoàng Công Khanh đạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1999; Hồ Quý Ly của
Nguyễn Xuân Khánh đạt ba giải thưởng (Giải thưởng cuộc thi viết tiểu thuyết của
Hội nhà văn Việt Nam năm 1998 - 2000; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội
năm 2001); Hội thề của Nguyễn Quang Thân đạt giải A cuộc thi viết tiểu thuyết
năm 2006 - 2010 của Hội Nhà văn Việt Nam; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo đạt giải
61
thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2004; Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006; Thông reo
Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm
2015 (trước đó, tiểu thuyết Nguyễn Du của tác giả này cũng đã đạt giải thưởng
cao ở Hà Tĩnh và Nghệ An); bộ tiểu thuyết Bão táp Triều Trần 6 tập của Hoàng
Quốc Hải được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2017; bộ tiểu
thuyết 3 tập về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh của Hoàng Quảng Uyên (Mặt
trời Pác Bó, Giải Phóng, Trông vời cố quốc), trong đó 2 tập đầu được tặng giải
thưởng trong cuộc thi Sáng tác và quảng bá các tác phẩm báo ch , văn học nghệ
thuật hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh năm 2010 và 2015; Trong cơn lốc xoáy của Trầm Hương đạt giải A trong
cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết về đề tài Cách mạng và kháng chiến (giai
đoạn 1930 - 1975) do Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam
trao tặng năm 2015… Sự phát triển về số lượng, sự đa dạng trong thành phần
sáng tác cho thấy ngày càng nhiều nhà văn quan tâm đến thể loại TTLS.
2.2.3.2. Các khuynh hướng sáng tác chính của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1975
Sự đa dạng của khuynh hướng sáng tác cũng thể hiện tính cởi mở của tự do
trong tư tưởng, một yếu tố vô cùng quan trọng cho sự phát triển của văn học -
nghệ thuật. Theo Trần Đình Sử, TTLS Việt Nam phát triển theo rất nhiều hướng:
hướng văn chương hóa lịch sử (tiêu biểu là các tác phẩm của Hoàng Quốc Hải);
hướng phi trung tâm hóa (tiêu biểu là Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác);
hướng đối thoại với lịch sử (tiêu biểu là Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê);
hướng nghiêng về văn hóa, giải thích lại lịch sử (tiêu biểu là tác phẩm của Nguyễn
Xuân Khánh, Hà Văn Thùy…). Theo Nguyễn Văn Dân, có ba xu hướng chính
trong TTLS: TTLS chương hồi khách quan, TTLS giáo huấn và TTLS luận giải.
Theo Đinh Trí Dũng, văn xuôi viết về lịch sử nói chung, truyện ngắn lịch sử nói
riêng, nhìn chung có hai xu hướng: xu hướng muốn tái hiện "chân thực" bức tranh
lịch sử và xu hướng mượn lịch sử để suy tư về hiện tại, về những "khả năng có thể
diễn ra" [32]. Nguyễn Thị Tuyết Minh chia TTLS Việt Nam đương đại thành 4
khuynh hướng chủ yếu: khuynh hướng minh định lịch sử (tiêu biểu là Quân sư
Nguyễn Trãi của Trần Bá Chí, Tây sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Bão táp
62
triều Trần và Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải…); khuynh hướng diễn giải
và đối thoại với lịch sử (tiêu biểu là Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Hồ Qúy Ly
của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…); khuynh hướng hư cấu
hóa lịch sử (Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt S , Sương mù tháng giêng
của Uông Triều, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…); khuynh hướng diễn
giải vấn đề lịch sử - văn hóa (tiêu biểu là Đàn đáy của Trần Thu Hằng, Mẫu
thượng ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Thế kỉ bị mất của
Phạm Ngọc Cảnh Nam…) 102]. Lê Thanh Nga với bài viết Giải mã hiện thực
lịch sử: trường hợp Nguyễn Huy Thiệp cho rằng, những tác phẩm viết về đề tài
lịch sử nói chung, TTLS nói riêng “có thể phân chia thành hai khuynh hướng lớn:
khuynh hướng tái hiện toàn bộ lịch sử ở một giai đoạn nào đó, với những biến
động xã hội dưới tác động của những nhân vật lịch sử (…) Một khuynh hướng
khác, tái hiện những nhân vật lịch sử với những số phận cụ thể, và thông qua nhân
vật, tác giả bộc lộ cái nhìn của thời đại mình hoặc sử dụng nhân vật như một
phương tiện để gửi gắm những ý nghĩ về cuộc sống” 110; 112-113]. Thực ra,
TTLS là một diễn ngôn của nhà văn, thể hiện một chủ thể, một mục đích phát
ngôn nhất định, trong đó ít nhiều các nhà văn đều có tâm thế đối thoại với lịch sử
(nói đúng ra là đối thoại với chính sử), với quan niệm của cộng đồng. Căn cứ vào
tiêu chí đó, chúng tôi đưa ra ba khuynh hướng sáng tác chủ đạo của TTLS Việt
Nam sau 1975 là: 1) Khuynh hướng sáng tạo trên cơ sở đồng hướng, thống nhất
với chính sử, với tâm thức cộng đồng; 2) Khuynh hướng sáng tạo trên cơ sở đối
thoại, phản biện lại chính sử; 3) Khuynh hướng sáng tạo trên cơ sở mượn lịch sử
để đi sâu vào bi kịch, số phận cá nhân hoặc khám phá những vấn đề văn hóa,
phong tục. Tất nhiên, sự phân chia khuynh hướng như trên chỉ có tính chất tương
đối và ranh giới giữa chúng ở từng tác giả hay một số tác phẩm không phải lúc
nào cũng r rệt.
Khuynh hướng thứ nhất là sáng tạo trên cơ sở đồng hướng, thống nhất với
chính sử, với tâm thức cộng đồng. Đây là khuynh hướng sáng tác mà các nhà
văn xem việc phục dựng, tái hiện chính xác các sự kiện lịch sử (thường đã được
ghi chép trong chính sử và tồn tại trong tâm thức cộng đồng) là điều đầu tiên cần
được tuân thủ. Ở đó, các nhà tiểu thuyết thường quan tâm nghiên cứu chính sử,
phác họa trung thực bức tranh về đời sống, xã hội, con người Việt Nam trong
63
quá khứ. Tất nhiên, nói trung thực với lịch sử ở đây là trên nguyên tắc tái hiện,
không có nghĩa là nhà văn chỉ chăm chú minh họa lịch sử. Lưu Sơn Minh đã nói
rất r điều này: “Có những ngưỡng mà hư cấu không thể vượt qua. Đó là ngưỡng
của chính lương tâm tác giả đối với lịch sử. Không thể vì đề cao người này mà
dìm người khác xuống bùn nhơ. Càng không thể mượn nhân vật lịch sử để
chuyển những thông điệp đầy tính cá nhân của chính tác giả” 99]. Các nhà văn
Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Thế Quang, Uông Triều cũng thường nói đến “sự tôn
trọng các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử”. Nhà văn Hoàng Minh Tường cho
rằng: “ nhà văn viết về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo
thêm nhân vật, sự kiện để làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử nhưng không thể
bóp méo hay bịa tạc lịch sử một cách phi logic, theo ngẫu hứng riêng của mình”
[168]. Vì thế, ở xu hướng này, cái mà nhà văn thường hướng đến là khai thác, tô
đậm thêm những sự kiện, con người đã lưu vết trong chính sử hoặc đã được định
vị trong ký ức số đông. Một số tác phẩm tiêu biểu của khuynh hướng này là
Vằng vặc sao Khuê của Hoàng Công Khanh, Thông reo ngàn hống và Đường về
Thăng Long của Nguyễn Thế Quang, Tây Sơn bi hùng truyện và Nẻo về Vạn
Kiếp của Lê Đình Danh, Lê Lợi của Hàn Thế Dũng, Không phải huyền thoại của
Hữu Mai, Nhất thống sơn hà của Vũ Thanh, Ngô Vương, Phùng Vương của
Phùng Văn Khai…
Khuynh hướng thứ hai là sáng tạo trên cơ sở đối thoại, phản biện lại lịch
sử. Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng này, sự kiện lịch sử được xem
như phương tiện, phông nền để nhà văn thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm.
Nhiều cây bút đi sâu khai thác những những khoảng trống, những điểm mờ của
những con người, sự kiện để đưa ra những cách lý giải khác nhau giữa công và
tội, giữa anh hùng và gian hùng, giữa vĩ nhân và bình thường… Đó là chuyện Lý
Thần Tông hóa hổ, Lê Văn Thịnh và vụ án Hồ Dâm Đàm, Trần Thủ Độ với nhà
Trần, Thị Lộ, Nguyễn Trãi và vụ án Lệ Chi Viên... Cách nhìn của nhà văn có khi
khác hẳn với cách nhìn của người chép sử. Nam Dao cho rằng: "Cái khung lịch
sử đó được sử dụng như phương tiện cấu tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu thuyết
là phương tiện để tác giả thể hiện những tư duy, biện minh và dư phóng cho chủ
64
đề lịch sử..." 25]. Các tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hồ Quý Ly
của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Gió lửa của Nam Giao,
Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy, Mạc Đăng
Dung của Lưu Văn Khuê, Kẻ sĩ thời loạn của Vũ Ngọc Tiến… Trong Hồ Quý
Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng hình tượng người anh hùng luôn cháy
bỏng ước vọng tự do, một đời ôm ấp giấc mộng canh tân Đại Việt. Con người ấy
luôn nuôi chí lớn dời non lấp bể song vẫn chứa chan tình yêu với gia đình mà cụ
thể là với hiền thê và ái nữ… Việc Hồ Quý Ly soán ngôi cũng được tác giả đặt
dưới nhiều cách nhìn đối lập nhau: khen - chê, lên án - ngợi ca. Cuối cùng, người
viết trao lại quyền phán xét nhân vật cho độc giả. Còn trong Hội thề, Nguyễn
Quang Thân lại tập trung tái hiện những hiềm khích, xung đột giữa một bên là
quyền lực của cánh v biền với một bên là nhân cách và trí tuệ hơn người của
Nguyễn Trãi. Song song với việc ca ngợi cái tâm, cái tài của Nguyễn Trãi, nhà
văn không ngần ngại chỉ r sự xấu xa của giới v biền những kẻ hữu dũng nhưng
mưu hèn kế bẩn. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca là giọng điệu chua xót, buồn
thương. Nhiều trang viết như những tiếng thở dài não ruột, chua xót về nhân tình
thế thái… Có khi, với cách nhìn của hôm nay, người anh hùng còn được nhìn
nhận như là một nạn nhân của lịch sử. Ở khuynh hướng này, lịch sử được đặt
trong lăng kính đa chiều. Những soi chiếu lại lịch sử vừa tạo ra những hiệu ứng
bất ngờ, đồng thời cũng tạo ra những nhận thức trái ngược ở người đọc.
Khuynh hướng thứ ba là sáng tạo trên cơ sở mượn lịch sử để đi sâu vào bi
kịch, số phận cá nhân hoặc khám phá những vấn đề văn hóa, phong tục. Khuynh
hướng này không tập trung vào những sự kiện lịch sử lớn lao, những chiến công…
mà chú trọng khai thác số phận con người trong những biến động, những cơn lốc
của lịch sử. Nhà văn đi sâu vào các khía cạnh đời tư, nhất là những bi kịch của con
người. Tiêu biểu có thể kể đến Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Hồ Quý Ly
(Nguyễn Xuân Khánh), Sương mù tháng giêng (Uông Triều), Đức Thánh Trần
(Trần Thanh Cảnh)… Bên cạnh đó, một số tác phẩm khai thác những tầng giá trị
ngầm của văn hóa, tín ngưỡng, tiêu biểu là các tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn, Đội
gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh)… Khuynh hướng này có điểm gặp gỡ với
65
khuynh hướng trên vì các nhà văn thường từ góc nhìn hiện tại, nhân danh giá trị,
hạnh phúc của con người cá nhân, đời tư để đối thoại, phản biện lại những gì đã
ghi chép trong chính sử, đã tồn tại tưởng như bất biến trong tâm thức cộng đồng.
Trong Sương mù tháng giêng, bên cạnh những trang hào hùng nói về
những chiến thắng của quân dân nhà Trần, Uông Triều đã thực sự thành công
khi xây dựng hệ thống nhân vật phong phú với tiếng nói nội tâm, cuộc sống đời
thường đầy những toan tính, ham muốn, buồn vui, lo sợ. Nhân Huệ vương Trần
Khánh Dư, tướng tài lừng lẫy, được phong Phiêu kỵ tướng quân, quyền chức
phán thủ nhưng vì mối tình ngang trái với công chúa Thiên Thụy mà phải về đất
Chí Linh bán than kiếm sống. Chính sử xem ông là kẻ hèn mọn, “có tính tham
lam, thô bỉ” (Đại Việt sử ký toàn thư) nhưng Uông Triều lại cho rằng “ngài chỉ
bạo liệt và không khéo” 269; 148 . Thượng hoàng Thánh Tông, vua Trần Nhân
Tông không chỉ hiện thân với tầm vóc khổng lồ mà còn là con người trần thế,
mang những nỗi niềm của cá nhân, dòng tộc. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn,
người đã lẫm liệt phụng sự hai vua đánh thắng giặc hai lần cũng có lúc “u sầu, lo
lắng, cả run sợ nữa”, luôn nặng lòng với lời dặn của An Sinh vương nhưng nhất
định không vì tình riêng mà hại xã tắc. Bên cạnh hệ thống nhân vật anh hùng hào
kiệt, Uông Triều còn dày công xây dựng chân dung những nhân vật nữ, đi sâu
vào đời sống cá nhân, lắng nghe những tâm tư rất mực đàn bà (công chúa Thiên
Thụy, công chúa An Tư).
Tóm lại, TTLS sau 1975 đã thể hiện khát vọng bứt phá, vượt thoát cái cũ.
Từ góc nhìn của chủ thể sáng tạo, giờ đây văn học không chỉ là tiếng nói của
cộng đồng, dân tộc mà còn là phát ngôn của mỗi cá nhân nghệ sĩ, là phương thức
tự biểu hiện bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của nhà
văn về xã hội và con người. Nhà văn có quyền bày tỏ công khai sự nhận thức
của mình trước những chân lý tưởng như bất di bất dịch, “giải thiêng” các thần
tượng, soát xét lại những niềm tin bền vững, đề xuất những chuẩn mực mới,
những hệ giá trị mới.
66
2.3. Bƣớc đầu nhận diện nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau 1975
2.3.1. Nhân vật anh hùng - hình tượng trung tâm của tiểu thuyết lịch sử
Vi t Nam sau 1975
Trong chính sử, mối quan tâm đầu tiên của người viết là ghi chép sự kiện
theo kiểu biên niên, quan tâm đặc biệt đến các sự kiện gắn với triều đình, các vị
vua chúa. Các chiến công, thành tích của vĩ nhân, anh hùng được nói đến như là
một trong những yếu tố góp phần củng cố các triều đại hoặc góp phần vào chiến
công chung. Ngược lại, trong văn học, sự kiện, tình huống, ngoại giới chỉ là “môi
trường nuôi sống nhân vật”. Ở đó, số phận con người mới là mục tiêu cơ bản và
cuối cùng của sự phản ánh. Vì vậy, con người, số phận con người mới là trung
tâm của bức tranh trong TTLS.
Sự vận động, phát triển của TTLS luôn gắn liền với sự thay đổi trong quan
niệm về con người và sự thể hiện nhân vật. Quan niệm về con người ngày càng
sâu sắc, đa diện thì thế giới nhân vật cũng trở nên phong phú, đa dạng. Lý luận
văn học phân chia nhân vật theo nhiều tiêu chí: nhân vật chức năng và nhân vật
tính cách, nhân vật chính và nhân vật phụ, nhân vật hữu danh và vô danh… Trong
đó, NVAH thường đóng vai trò trung tâm của các TTLS. Thế nào là nhân vật
trung tâm? Nhân vật trung tâm thường được hiểu là “Nhân vật chính, nhân vật
đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc
tuyến cốt truyện. Đó là con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm,
là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình (…) Đó là nơi quy tụ các mối
mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm” 122;
283]. Có thể thấy, nhân vật trung tâm thường hội tụ tất cả các mối quan hệ của hệ
thống nhân vật và phản ánh quan niệm mà nhà văn muốn gửi gắm. Tất nhiên, bên
cạnh nhân vật chính, nhân vật trung tâm còn có nhiều nhân vật khác, đóng vai trò
nhất định trong việc làm nên thành công của tác phẩm. Nhiều TTLS có số nhân
vật lên đến hàng trăm, với nhiều mối quan hệ đan xen, phân làm nhiều tuyến.
Hầu hết những TTLS mà chúng tôi khảo sát đều có NVAH là nhân vật
trung tâm. Trong 39 tác phẩm TTLS sau 1975 chúng tôi nhận thấy có 30 tác
phẩm thuộc dạng này (chiếm tỷ lệ 76,9 %), 09 tác phẩm còn lại NVAH đóng vai
trò là nhân vật chính (phụ lục 2). Tần suất xuất hiện của người anh hùng trong
67
tác phẩm chiếm tỉ lệ cao (tính theo sự xuất hiện ở các trang tiểu thuyết). Cụ thể:
nhân vật Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành trong Búp sen xanh (chiểm tỷ lệ
94%), nhân vật Nguyễn Trãi trong Đất trời (chiếm tỷ lệ 76 %), Trần Quốc Tuấn
trong Đức Thánh Trần (chiếm tỷ lệ 71 %)… Các tác phẩm tiêu biểu có nhân vật
trung tâm là NVAH có thể kể đến là Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác,
Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Đất trời của Nam Dao, Hội thề của
Nguyễn Quang Thân, Vằng vặc sao khuê của Hoàng Công Khanh, Ngô Vương
của Phùng Văn Khai, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…
Trong TTLS, nhân vật trung tâm thường có ảnh hưởng chi phối các nhân
vật khác. Nhân vật Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác
xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, đóng vai trò chính trong các sự kiện, kết nối
nhiều mối quan hệ cốt lõi. Tác giả rất có ý thức miêu tả Nguyễn Huệ trong sự so
sánh với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ: “có những phần trên gương mặt Huệ đậm lên
một chút, đầy lên một chút, khiến từ khuôn mặt ấy, toát ra một sự cân đối linh
động không có trên khuôn mặt Lữ, và niềm tin cẩn vững vàng khó tìm trên khuôn
mặt biện Nhạc” [208; 140-141]. Dùng phương thức miêu tả ngoại hình để nhà văn
đưa vào đó dự báo cuộc đời của Nguyễn Huệ: Anh hùng, quả cảm hơn Nguyễn
Nhạc, luôn linh hoạt và có khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh hơn Nguyễn
Lữ. Đặt Nguyễn Huệ, một con người tràn đầy khát vọng, tài năng, khí phách hơn
người bên cạnh Nguyễn Nhạc với tính cách ích kỷ, “lãnh chúa một phương”, đầy
tham vọng cá nhân là một dụng ý của người viết. Ở Nguyễn Nhạc, tính chất “lãnh
chúa vùng”, ích kỷ, mẹo vặt thể hiện rất rõ nét. Còn Nguyễn Lữ lại được nhà văn
xây dựng như một kẻ bất tài, chỉ biết thừa hành mệnh lệnh, nhiều khi ngơ ngác,
mơ hồ cảm nhận cuộc đời mình bị đánh cắp mà không đủ sức thoát ra để rồi cuối
đời nuối tiếc. Nguyễn Mộng Giác đã khéo léo đặt Nguyễn Huệ bên cạnh Nguyễn
Nhạc và Nguyễn Lữ để tạo nên một hệ quy chiếu đối sánh cùng tuyến, tạo ấn
tượng đặc biệt cho nhân vật trung tâm. Trong Bão táp triều Trần, mỗi tập đều
tập trung vào một nhân vật chính. Bão táp cung đình là người anh hùng Trần
Thủ Độ, người có vai trò trung tâm của bối cảnh của tác phẩm, giai đoạn chuyển
giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Nhà văn đặt nhân vật vào những biến
cố có tính bước ngoặt của lịch sử để từ đó phẩm chất người anh hùng được thể
hiện một cách rõ ràng. Trong Đuổi quân Mông Thát, Thăng Long nổi giận,
68
Huyết chiến Bạch Đằng, các hình tượng nổi bật là vị vua hiền Trần Thánh Tông
và Thượng hoàng Trần Nhân Tông, cùng các vị tướng lĩnh tài ba, với nhiều
chiến công hiển hách: Hưng Đạo đại vương, Chiêu minh vương Trần Quang
Khải, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, An Tư, Yến Ly... Trong Huyền Trân
công chúa, nhà văn đã xây dựng Huyền Trân thành một trang anh hùng, liệt nữ.
Trong tập Vương triều sụp đổ nổi lên hình tượng trung tâm là Chu Văn An, một
con người không sợ hiểm nguy mà dâng sớ chém bảy tên đại gian thần thân cận
của Dụ Tông.
2.3.2. Những cảm hứng sáng tác chính chi phối vi c xây dựng nhân vật
anh hùng
2.3.2.1. Cảm hứng sử thi
Gắn với việc đề cao, ca ngợi người anh hùng là cảm hứng sử thi sâu đậm
trong nhiều TTLS. Cảm hứng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc lớn lao
hướng về cộng đồng, về nhân dân, đất nước. Cảm hứng này thường chi phối mạnh
mẽ đến các sáng tác văn chương trong những giai đoạn đất nước bị ngoại xâm
giày xéo. Cũng gắn với cảm hứng sử thi là việc đề cao, ca ngợi vẻ đẹp của những
con người ưu tú, tiêu biểu của cộng đồng.
Trong nhiều TTLS, các nhà văn thường dùng cảm hứng và bút pháp sử thi
để đề cao vẻ đẹp, sự xuất chúng của các anh hùng, vĩ nhân. Nhân vật lịch sử
thường đi vào tác phẩm với những phẩm chất cao quý. Âm hưởng chủ đạo là âm
hưởng ngợi ca, lý tưởng hoá. Trong Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh),
người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ được khắc hoạ bằng tất cả niềm say mê,
ngưỡng mộ. Ông là hình ảnh một nhà quân sự kì lạ, một vị tướng bách chiến
bách thắng. Trong Đất trời của Nam Dao, Lê Lợi hiện lên với tài năng quân sự,
với tầm nhìn chiến lược của người gánh trên vai trọng trách chèo lái con thuyền
khởi nghĩa. Trong Ngô Vương của Phùng Văn Khai, Ngô Quyền - với vai trò
thống soái chỉ huy cuộc chiến chống lại mười vạn quân của Lưu Hoằng Tháo tại
bến Bạch Đằng - hiện ra như một “vị tướng nhà trời”, có tầm nhìn xa rộng, tài
phán đoán, khả năng quan sát tuyệt vời, dũng mãnh, mưu trí. Trong Búp sen
xanh của Sơn Tùng, Nguyễn Tất Thành được khắc họa với những phẩm chất nổi
bật như lòng thương dân sâu sắc, trí tuệ hơn người, lòng yêu nước thiết tha…
69
Trong nhiều tiểu thuyết, NVAH hiện ra với tổng hòa các sức mạnh thể chất
và tinh thần. Họ được khắc họa vẻ đẹp khác thường từ ngoại hình, lời nói đến
hành động. Có khi nhân vật còn được khoác lên mình những vẻ đẹp huyền thoại.
Lúc này họ như là thiên sứ giúp cộng đồng thoát khỏi đại nạn. Trong hàng loạt tác
phẩm, những NVAH như Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Sinh Côn… hiện ra với
vẻ đẹp của ánh hào quang thiêng liêng. Khát vọng cứu nước, khát vọng làm cho
dân giàu, nước mạnh, khát vọng về tiền đồ vẻ vang của dân tộc là ước nguyện và
mục tiêu của Nguyễn Huệ (trong Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh), Lê Lợi
(trong Đất trời của Nam Dao), Lý Thường Kiệt (trong Tám triều vua Lý của Hoàng
Quốc Hải)… Ngoài ra, khát vọng vương quyền với mục tiêu thế thiên hành đạo, loại
bỏ các triều đại mục ruỗng, các quân vương u tối cũng là mục tiêu của người anh
hùng. Đó là Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn),
“thà chịu tiếng bất trung còn hơn mang tiếng ngu trung”; sắp đặt việc nhường ngôi,
làm một cuộc đổi thay triều đại. Ngôi báu chỉ là phương tiện để “áp đặt” một khát
vọng hưng quốc… Những con người như Trần Thủ Độ (Trong Đàm đạo về Điều
Ngự Giác Hoàng), Hồ Quý Ly (trong Hồ Quý Ly), Lê Lợi (trong Hội thề)… là những
người có khát vọng vương quyền, nhưng điều đó đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, của
dân tộc trong những bước ngoặt tất yếu của lịch sử.
2.3.2.2. Cảm hứng thế sự
Xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và nhu cầu thẩm mĩ của người tiếp
nhận, TTLS Việt Nam sau 1975 hướng đến những vấn đề thế sự, đi vào khám phá,
phát hiện cái tốt - xấu, đúng - sai trong đời sống; đồng thời, thể hiện sự chiêm
nghiệm, suy tư về lẽ đời, tình đời. Cảm hứng thế sự có vai trò quan trọng làm nên
diện mạo mới cho TTLS và NVAH ở giai đoạn này. Người đọc hôm nay nhìn về
lịch sử không chỉ để biết sự thật, tự hào với những chiến công của cha ông mà còn
nhằm tìm kiếm những chân lý được đúc rút từ những thành bại của người trong
quá khứ. Những “vùng mờ” trong cuộc đời, những góc khuất trong tính cách,
những bí ẩn trong tâm hồn, những đa đoan trong số phận được luận giải bằng tư
duy phân tích, chiêm nghiệm, triết lý. Những nhân vật như Nguyễn Huệ (Sông
Côn mùa lũ, Gió lửa), Lê Lợi (Đất trời, Hội thề), Nguyễn Trãi (Oan khuất, Hội
thề), Trần Khánh Dư (Sương mù tháng giêng, Trần Khánh Dư)… đều lắng sâu
70
những chiêm nghiệm về cuộc sống và con người trong những chiều kích khác
nhau, nhờ đó trở nên sống động và mang một sức hút mới.
Trong Kẻ sĩ thời loạn, Nguyễn Hữu Chỉnh được mô tả như một NVAH dù
chính sử từng xem ông là một gian hùng, “một con người hai mặt”. Trong toàn
bộ tác phẩm, Vũ Ngọc Tiến đã phác họa một Nguyễn Hữu Chỉnh như hình mẫu
của một “kẻ sĩ thời loạn”, biết lấy động cơ, mục đích cao cả để biện giải cho các
hành động “bất đắc dĩ” của mình. Hay Hồ Quý Ly trong con mắt của các sử gia,
là “một kẻ tiếm quyền”, phản nghịch nhưng Nguyễn Xuân Khánh lại “lí giải”
ông theo một cách nhìn khác. Hồ Quý Ly hiện lên trong tác phẩm với những
phẩm chất của một người lãnh đạo, xoay chuyển tình thế bởi biết nhìn xa trông
rộng. Trước tình trạng giặc Chiêm Thành, quân phương Bắc dòm ngó, nhà Trần
mục ruỗng, hành động lật đổ nhà Trần của ông là hoàn toàn hợp lí. Trong Trần
Khánh Dư, Lưu Sơn Minh đã dũng cảm vượt qua những định kiến về con người
này để đưa ra những kiến giải mới về Trần Khánh Dư. Nhà văn đã khám phá,
luận giải chân thực, sâu sắc tính cách đa chiều, phức tạp của một vị tướng tài ba,
dũng cảm, mưu lược nhưng đa tình và liều lĩnh. Nhân vật hiện lên như một khối
cô đơn thăm thẳm. Cách nhìn, cách lý giải đó đem đến cho người đọc những
cảm nhận, hình dung thú vị, mới mẻ về nhân vật.
Với Trần Thủ Độ, Trần Thanh Cảnh đã thể hiện những suy tư sâu sắc về
nhân vật lịch sử “lắm công nhiều tội” - Trần Thủ Độ. Việc Trần Thủ Độ soán ngôi
nhà Lý được tác giả phân tích, luận giải rất r qua đoạn đối thoại của nhân vật
này với Lý Huệ Tông. Sự việc Trần Thủ Độ thông dâm với người đàn bà anh em
thúc bá Trần Nhị Nương - lúc ấy vẫn là vợ của Lý Huệ Tông - cũng được tác giả
giải thích: “Buổi chiều hôm trước khi gặp ngươi, ta và Trần Nhị Nương đã cùng
chèo thuyền hái sen trên đầm, đã cầm tay thề bồi đời này kiếp này là của nhau.
Thế nhưng cũng ngay hôm đó, ngươi đã cậy thế là Thái tử con vua mà ép bá phụ
ta phải gả Nhị Nương cho ngươi khi ta vắng nhà. Người đã chiếm người con gái
duy nhất của lòng ta” 195; 154 . Rồi việc Trần Thủ Độ “chuyên quyền” cũng
được tác giả lý giải là do Hoàng đế Trần Thái Tông bấy giờ còn nhỏ, chưa biết lo
toan việc quốc gia đại sự và hơn ai hết những việc làm của Trần Thủ Độ đều vì
đất nước Đại Việt, vì muôn dân.
71
Trong Hội thề, cảm hứng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý thể hiện qua
cách nhìn, suy nghĩ của nhà văn về vai trò của người trí thức đối với lịch sử. Ở đó,
Nguyễn Trãi trong vừa là người trực tiếp cầm quân đánh giặc, vừa giúp hoạch
định những đường lối, chiến lược, chiến thuật đúng đắn cho cuộc khởi nghĩa. Nếu
như không có Nguyễn Trãi với thuật đánh giặc “mưu phạt tâm công” thì “đánh
giặc ba mươi năm nữa, nghĩa quân cũng chỉ quanh quẩn rồi gầy mòn tiêu tán như
phường thảo khấu ở đất Lam Sơn mà thôi 265; 188 . R ràng, Lê Lợi có được
Nguyễn Trãi cũng giống như Lưu Bang có được Hàn Tín, Trương Lương; Lưu Bị
có được Gia Cát Lượng vậy. Có sự giúp sức của Nguyễn Trãi “Trước đây, nghĩa
quân chỉ biết chạy dưới đất, giờ đây đã biết bay lên trời” 265; 200]. Trong tác
phẩm, tác giả còn thể hiện suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa người trí thức
với nhà cầm quyền. Trước cuộc chiến, sự trọng dụng của Lê Lợi với người trí thức
đã giúp cuộc khởi nghĩa đi đến thắng lợi mĩ mãn. Nhưng sau này, sự nghi kị của
ông đối với trí thức không chỉ gây ra những bi kịch cho nhiều người, trong đó có
Nguyễn Trãi mà còn gây ra cả những sóng gió cho triều đại.
Sự xuất hiện cảm hứng thế sự là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh đổi
mới văn xuôi sau 1975 nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Tại đây, người anh hùng
đã trở thành tâm điểm để nhà văn suy tư về quá khứ, về những chiến công,
những nguyên nhân thắng lợi và cả những thất bại, những đau xót không đáng
có. Từ những bài học của quá khứ, nhà văn còn muốn người đọc hôm nay đi tìm
những lời giải cho nhiều vấn đề của đời sống. Vì thế, lịch sử vẫn đồng hành với
chúng ta, cùng chúng ta.
2.3.3.3. Cảm hứng đời tư
Cảm hứng đời tư gắn với việc nhà văn đưa NVAH về với những sinh hoạt
thường nhật, miêu tả họ như những con người bình thường. Cảm hứng này hình
thành và phát triển mạnh vào giai đoạn sau 1986. Cảm hứng thế sự, đời tư không
hề tầm thường hóa người anh hùng mà đặt họ vào trong những quan hệ đời sống,
soi chiếu họ trong tư cách con người bình thường. Ở đó, hình tượng người anh
hùng trở nên “thực” hơn và vì vậy cũng làm cho tác phẩm trở nên hấp dẫn hơn. Sự
trở lại với cảm hứng đời tư là một trong những phương thức cân bằng của các mặt
đối lập trong nhân cách con người: sáng - tối, đẹp - xấu, thiện - ác… Hai xu hướng
72
sử thi hóa và đời tư hóa bổ sung cho nhau, tạo ra được nhiều “hiệu ứng” tích cực
trong cảm xúc của người đọc.
Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác, Nam Giao, Nguyễn Quang Thân,
Trần Thanh Cảnh, Uông Triều, Bùi Việt S … chúng ta nhận thấy các nhà văn
dường như đã không hài lòng với cái nhìn phiến diện, một chiều về các vĩ nhân,
anh hùng trong chính sử hay phần lớn tiểu thuyết lịch sử truyền thống. Họ không
chỉ quan tâm đến vị thế lịch sử của nhân vật mà còn chú trọng khai thác yếu tố đời
tư cũng như tấn bi kịch cá nhân con người trong dòng chảy lịch sử. Bằng cái nhìn
đời tư, nhiều NVAH hiện lên với những nét tính cách hợp với logic đời thường, có
ưu điểm và khuyết điểm. Các nhà tiểu thuyết nhiều lúc đã “giải thiêng” nhân vật,
kéo thần tượng của cộng đồng trở về với cuộc đời trần tục. Dưới ngòi bút của
Nguyễn Quang Thân (Hội thề), bên cạnh một nhà chính trị tài ba, Lê Lợi còn là
một con người bình dị, đôi lúc dễ dãi đến xuề xòa hoặc cô đơn, bất hạnh trong đời
sống riêng tư… Còn trong Sương mù tháng giêng, Uông Triều đã dựng lên cả một
hệ thống nhân vật cốt l i của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông như
Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… mang
trong mình những suy nghĩ, tình cảm rất đời thường, có vui buồn, hờn giận, có
mâu thuẫn, giằng xé, bi kịch… Nhà văn đặc biệt quan tâm khắc họa đời sống riêng
tư, những tấn bi kịch tinh thần của các nhân vật thay vì miêu tả cảnh binh đao
chiến trận. Dưới những trang văn của Uông Triều, các vĩ nhân, anh hùng lịch sử
đều được nhìn dưới góc độ rất người, rất đời. Đọc chùm tiểu thuyết của nhà văn
Trần Thanh Cảnh, người ta dễ dàng nhận thấy, những người anh hùng như Trần
Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Thủ Độ… bên cạnh những phẩm chất anh
hùng, họ còn có những mặt rất đời, đặc biệt là đời sống bản năng mạnh mẽ.
Tái hiện nhân vật lịch sử với cảm hứng đời tư, các TTLS đã giảm đi sự khô
khan, công thức, một chiều. Bên cạnh vẻ đẹp của sự cao cả, khác thường, các
NVAH cũng là những con người, cũng sống, cũng suy nghĩ, vui, buồn, hờn, giận
như mọi người. Vì thế, NVAH trở nên sinh động, gần gũi với độc giả.
Tiểu kết chƣơng 2
TTLS Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay vận động, phát triển qua ba giai
đoạn: Từ đầu thế kỷ XX đến 1945, từ 1945 đến 1975 và từ 1975 đến nay. Ở giai
73
đoạn thứ nhất, TTLS tuy chưa có nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng nội dung khá
phong phú, đa dạng, bước đầu phân hóa theo những hướng khác nhau. TTLS giai
đoạn này chủ yếu phản ánh những sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc, đặc
biệt là các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc; ca ngợi
những bậc vua chúa, những người anh hùng có công lớn trong sự nghiệp chống
giặc, giữ nước. TTLS cũng quan tâm thể hiện những buổi hoàn hôn của các triều
đại với cái nhìn thẳng vào hiện thực (như kinh nghiệm, tri thức và trực giác mách
bảo) với tinh thần phê phán sâu sắc. Cũng như văn xuôi giai đoạn này, TTLS từ
đầu thế kỷ XX đến 1945 được hiện đại hóa một cách nhanh chóng, thể hiện những
bước tiến lớn về phía hiện đại trong nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn từ.
Trong giai đoạn từ 1945 - 1975, TTLS mang đậm cảm hứng sử thi, tập trung ca
ngợi những chiến công oanh liệt của cha ông trong quá khứ, góp phần động viên,
giáo dục truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện tinh
thần “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Bên cạnh hình ảnh cao đẹp của các bậc anh
hùng, hào kiệt, TTLS giai đoạn này đã khắc họa hình ảnh nhân dân, nâng họ lên
thành biểu tượng cho vẻ đẹp về sức mạnh và niềm tin chiến thắng. Nhìn chung,
tuy có những thành công nhất định, nhưng về cơ bản, TTLS giai đoạn này vẫn
chưa có được những vượt thoát, bứt phá mạnh mẽ. Phải từ sau 1975, đặc biệt là
sau 1986, TTLS mới phát triển sôi động, với nhiều thành tựu nổi bật, phân hóa
thành nhiều xu hướng, trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của văn
xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Cái nhìn đối với lịch sử, đối với người anh
hùng trở nên đa chiều và giàu sức gợi mở. Nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn
từ trở nên linh hoạt, đa dạng. Trong TTLS giai đoạn này, NVAH vẫn là hình
tượng trung tâm của nhiều tác phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp cao cả, gắn với
cảm hứng sử thi, ngợi ca người anh hùng, các TTLS đã gia tăng cảm hứng thế sự,
đời tư. Từ đó, hình tượng người anh hùng trở nên mới mẻ, sinh động, hấp dẫn hơn
bởi được được tô đậm thêm ở góc nhìn cá nhân, đời thường, với nhiều mặt khuất
lấp, nhiều suy tư, niềm vui, nỗi buồn, cả những bi kịch rất con người.
74
Chƣơng 3
LOẠI HÌNH NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975
3.1. Nhìn chung về loại hình nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam sau 1975
3.1.1. Nhân vật anh hùng nhìn từ vai trò, chức năng của nhân vật
trong tiểu thuyết
Nhân vật văn học nói chung, NVAH nói riêng là hiện tượng hết sức đa
dạng. Các nhân vật thành công thường là những hiện tượng độc đáo, không lặp lại.
Tuy nhiên, xét về mặt nội dung, cấu trúc, hình thức thể hiện, có thể thấy nhiều
hiện tượng lặp lại, tạo thành các kiểu loại nhân vật. Để chiếm lĩnh thế giới NVAH
đa dạng trong TTLS Việt Nam sau 1975, cần thiết tìm hiểu, phân chia hệ thống
nhân vật ấy từ góc độ loại hình.
Có nhiều cách phân chia loại hình nhân vật. Dựa trên vai trò của nhân vật
trong tiểu thuyết, có thể phân chia thành nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật
trung tâm. Ở chương trên, chúng tôi đã làm r vai trò là nhân vật chính, nhân vật
trung tâm của nhiều NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, trong
các TTLS Việt Nam sau 1975, các tác giả cũng chú ý đến vai trò của các NVAH
là nhân vật phụ, họ góp phần không nhỏ trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề của
các tiểu thuyết.
NVAH là nhân vật phụ trong TTLS Việt Nam có thể có tên tuổi hoặc
không. Đó là những ông Xí, ông V , bà Triệu, cô Chí, cu Trầm, chú Cửu, những
người dân tham gia kháng chiến trong tiểu thuyết của Phan Bội Châu, trong TTLS
của Hà Ân, Nguyễn Huy Tưởng… Trong TTLS sau 1975, rất nhiều tác phẩm như
Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái, Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải,
Nhất thống sơn hà của Vũ Thanh… xây dựng thành công hình tượng những người
anh hùng với vai trò là nhân vật phụ như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, các
tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đa số họ xuất thân từ tầng lớp bình dân.
Đó có thể là cư dân của vùng đất Thiên Mạc dũng cảm cùng vua tôi nhà Trần
chống quân Nguyên trong các truyện của Hà Ân, hay người dân Bình Định, Phú
Xuân trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Chí Hiển, Trê, anh em cả
75
Mộc, Thoan trong Trần Quốc Toản của Lưu Sơn Minh… Điểm chung của các
nhân vật này là đều có tinh thần yêu nước, dũng cảm, ý chí chiến đấu chống kẻ thù
xâm lược. Nếu như ở Trăng nước Chương Dương của Hà Ân, những nhân vật như
Chí Hiển, Trê hiện lên khá mờ nhạt thì trong Trần Quốc Toản, nhân vật Hoàng
Chí Hiển hiện lên khá đậm nét và sinh động. Hoàng Chí Hiển là phó tướng của
Trần Quốc Toản, cùng với Quốc Toản lãnh đạo đoàn quân tuổi trẻ trực tiếp ra trận
và lập được nhiều chiến công. Nhân vật Thoan - em vợ của tướng quân Nguyễn
Khoái, cô thiếu nữ thôn quê dưới trướng tướng quân Chiêu Văn Vương Trần Nhật
Duật tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã dũng cảm tham gia vào hàng ngũ đánh giặc. Giữa
Thoan và Trần Quốc Toản có mối tình chưa kịp nói thành lời để lại nhiều day dứt,
tiếc nuối… Những nhân vật như Chí Hiển, Thoan, Trê, anh em Cả Mộc tuy là
nhân vật hư cấu nhưng lại được miêu tả khá sinh động, góp phần làm nổi bật nhân
vật trung tâm Trần Quốc Toản.
Trong Bão táp triều Trần, bên cạnh các NVAH là nhân vật chính, nhân vật
trung tâm như Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Trần Thủ Độ thì những NVAH
hữu danh, vô danh là nhân vật phụ cũng được nhà văn quan tâm thể hiện. Đó là
nhân vật Lão Dương, một v sĩ thượng thặng, một cung thủ có tài bách bộ xuyên
dương đã cứu Trần Thánh Tông thoát khỏi cơn nguy khốn khi bị giặc Thát đuổi
bắt. Khi về già, lão vẫn góp công lao trùng hưng đất nước. Hay những người dân
và binh lính nhà Trần của một thời sát Thát, đại diện cho sức mạnh cộng đồng, có
thế đẩy nước lật thuyền. Tất cả họ là một tập thể anh hùng xoay quanh người anh
hùng thủ lĩnh. Các NVAH hữu danh và vô danh này có vai trò quan trọng trong
việc đề cao lòng yêu nước và vai trò của quần chúng nhân dân, coi nhân dân là
gốc rễ của đất nước, là cội nguồn sức mạnh, là yếu tố quyết định vận mệnh dân tộc
trong những cơn nguy biến.
Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác cũng xây dựng nhiều NVAH
là những con người áo vải, chân đất đứng bên cạnh nhân vật trung tâm Nguyễn
Huệ, góp phần làm nên bao chiến công trời long đất lở. Sự góp mặt của những
người anh hùng này đã góp phần mở rộng không gian tác phẩm. Tác giả đã đề cao
vai trò của những anh hùng xuất thân từ tầng lớp bình dân trong các chiến công
hiển hách và sự nghiệp của nhà Tây Sơn. Đó là chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút,
là không khí trang nghiêm trong ngày lễ lên ngôi của Nguyễn Huệ, âm hưởng
76
hùng tráng của những đoàn quân vô tận theo tiếng gọi của lòng yêu nước tiến ra
Bắc dẹp tan quân Thanh: “Dòng người áo vải chân đất nối tiếp mãi từ các làng
xóm, các khu phố, các bến đò đổ về núi Ba Tầng, tưởng không thể nào dứt. Cờ
đào bay phần phật trong gió, bụi đường tỏa lên bám vào thân áo vải, bước chân
dồn dập che lấp cả những tiếng rì rầm nói chuyện, tiếng thở leo dốc, tiếng ơi ới gọi
người thân, lời dặn dò cuối cùng” 210; 399].
Ngoài ra, dựa trên vai trò, sự nghiệp của NVAH có thể phân chia thành:
nhân vật anh hùng dựng nước, nhân vật anh hùng giữ nước, nhân vật anh hùng
đồng thời là danh nhân văn hóa. Trong các TTLS Việt Nam sau 1975, cách phân
chia này không mới, nhưng theo chúng tôi là rất có ý nghĩa trong việc nhận diện
vai trò, sự nghiệp của NVAH trong hành trình lịch sử dân tộc.
3.1.2. Nhân vật anh hùng nhìn từ công lao, sự nghiệp của người anh hùng
3.1.2.1. Nhân vật anh hùng dựng nước
NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975 là những con người mang trong
mình khát vọng giữ vững nền độc lập và xây dựng đất nước mạnh giàu, nhân dân
ấm no, hạnh phúc. Họ thường xuất hiện vào những thời điểm đặc biệt của lịch sử
dân tộc. Khi sơn hà lâm nguy hay triều chính mục ruỗng, dân chúng lầm than.
NVAH xuất hiện để cứu nước, an dân. Khi đất nước thanh bình, họ lại gánh vác
trọng trách lo cho dân giàu, nước mạnh, trong nước “không còn tiếng hờn giận,
oán sầu”. Đó là Lý Công Uẩn (Tám triều vua Lý - Hoàng Quốc Hải), Lý Bí (Nam
Đế vạn xuân - Phùng Văn Khai), Nguyễn Hoàng (Minh Sư - Thái Bá Lợi), Trần
Thủ Độ (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải, Trần Thủ Độ - Trần Thanh Cảnh),
Nguyễn Huệ (Sông Côn mùa lũ - Nguyễn Mộng Giác),…
Người anh hùng Lý Công Uẩn trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc
Hải, sau khi lên ngôi báu đã chọn kinh đô Thăng Long làm nơi xây dựng vương
triều mới và bắt tay ngay vào công cuộc kiến thiết nước nhà. Từ đây, bằng tài
năng, sự anh minh đức độ, ông đã mở ra một vận hội mới cho triều đại nhà Lý.
Trong Minh Sư, Thái Bá Lợi đã dày công xây dựng nhân vật Nguyễn Hoàng, một
người tài đức, khoan dung và nhân hậu. Đây là điển hình của bậc vua chúa có tầm
nhìn xa trông rộng. Tác giả đã bám sát các cứ liệu lịch sử và miêu tả một cách chi
tiết hành trình mang gươm đi mở cõi của nhân vật. Nguyễn Hoàng đã chọn Ái Từ,
vùng đất mới thu hồi từ tay nhà Mạc, còn hoang vu, nghèo nàn để phát triển mà
77
không đụng chạm đến quyền lợi của bất kỳ thế lực nào. Việc chọn vùng đất này
làm dinh trấn đã thể hiện trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của đấng quân vương.
Bằng tài đức và trí lực, Nguyễn Hoàng đã thu phục được lòng dân, muôn người
như một, mở mang bờ cõi, khẳng định chủ quyền của Đại Việt… Đinh Bộ Lĩnh
trong tác phẩm cùng tên của Hàn Thế Dũng cũng là người anh hùng mang trong
mình khát vọng độc lập cháy bỏng. Đây là nhân vật lịch sử kiệt xuất của nước ta thế
kỉ thứ X. Với khát vọng được cống hiến tài trí, dẹp bỏ mọi bất công ngang trái, giải
phóng cho muôn dân, ông đã đứng lên dẹp loạn 12 sứ quân, đưa đất nước trở lại thái
bình, thu giang sơn về một mối… Trần Thủ Độ trong Đàm đạo điếu ngư Giác
Hoàng của Bùi Anh Tấn, sau khi phế bỏ nhà Lý, đã quyết tâm xây dựng một triều
đại mới giàu mạnh hơn. Để thực hiện quyết tâm đó, ông một mực trung thành, hỗ
trợ Trần Cảnh hết mình trong việc canh tân xây dựng đất nước.
Theo ghi chép của các sử gia, Quang Trung - Nguyễn Huệ là người có
nhiều công lao trong công cuộc xây dựng và chấn hưng đất nước, sau những ly
loạn chiến tranh. Sau khi thống nhất sơn hà, trong khoảng thời gian từ năm 1789
đến 1792, ông đã cho ban bố Chiếu cầu hiền, Chiếu khuyến nông, Chiếu lập học,
tiến hành những cải cách tích cực nhằm phục hồi và xây dựng đất nước. Trong hầu
hết các TTLS Việt Nam sau 1975, Quang Trung đều được đề cao như một vị
hoàng đế hiếm có của lịch sử nước nhà. Các trang viết đều hết lời ca ngợi ông với
những chiến công lẫy lừng trong công cuộc chống ngoại xâm và cả những quyết
sách có tính cách mạng trong việc xây dựng triều đại mới. Trong Sông Côn mùa
lũ, sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, ông đã
bắt tay ngay vào công cuộc cải cách. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, ý thức tự lực
tự cường với một lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ. Đầu tiên, Quang Trung lập Ngọc
Hân công chúa làm Bắc cung hoàng hậu, đặt trong thế ngang hàng với Trung Hoa
về mặt thể chế triều chính. Đề cao lòng tự hào dân tộc, Quang Trung nhận thấy sự
rập khuôn máy móc theo Trung Hoa là không cần thiết và phải bãi bỏ. Áo hoàng
bào mặc khi đăng ngai hoàng đế, Quang Trung cũng tự mình vẽ mẫu, nhờ Ngọc
Hân may, thêu hộ. Tiếp đến nhà vua cho ban hành Chiếu cầu hiền, nội dung bài
chiếu thống nhất với mong muốn cầu hiền đãi sĩ của Nguyễn Huệ trước khi lên
ngôi. Trên phương diện kinh tế, vốn xuất thân từ tầng lớp nông dân, Nguyễn Huệ
ý thức rất rõ nỗi khổ của nông dân và cũng là nỗi khổ của toàn quân Tây Sơn khi
78
bị đói nghèo thúc bách. Cùng với Chiếu cầu hiền, trong thời gian này, ông cho ban
hành Chiếu khuyến nông nhằm động viên, khích lệ mọi người dân cùng hăng say
tham gia lao động sản xuất. Song hành với phát triển nông nghiệp, Quang Trung
cũng hết sức chú trọng xây dựng luật pháp, ông tỏ ra là một vị vua vô cùng
nghiêm khắc. Về giáo dục, Quang Trung ban hành Chiếu lập học, đề cao chữ
Nôm. Ông cho lập Viện Sùng Chính để các quan lại triều thần dịch sách chữ Hán
ra chữ Nôm, chủ trương lấy chữ Nôm làm ngôn ngữ chính thức của Nhà nước…
Như vậy, trên mọi phương diện đời sống, với cương vị một hoàng đế, Quang
Trung đều có nhiều quyết sách táo bạo. Các quyết sách đó đóng góp quan trọng
cho công cuộc ổn định và chấn hưng đất nước.
Một điều đặc biệt trong TTLS Việt Nam sau 1975 là rất nhiều anh hùng trận
mạc, có công lao lớn trong chiến trận, bảo vệ đất nước lại đồng thời là những người
có tầm nhìn xa rộng, tâm huyết với sự phát triển vững bền, phồn thịnh của dân tộc.
Như vậy, giữ nước phải luôn đi đôi với dựng nước. Đó là Lý Bí (Nam Đế vạn xuân -
Phùng Văn Khai), Trần Hưng Đạo (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải), Nguyễn
Trãi (Hội thề - Nguyễn Quang Thân), Quang Trung Nguyễn Huệ (Sông Côn mùa lũ
- Nguyễn Mộng Giác)…
3.1.2.2. Nhân vật anh hùng giữ nước
Là một dân tộc phải luôn phải đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh,
người anh hùng xuất hiện nhiều nhất, được nhân dân ngưỡng mộ, tôn thờ trước hết
là những người anh hùng có công chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Họ là những
người luôn tỏ rõ bản lĩnh, tài trí, đặc biệt là sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cứu
nước, an dân. Họ thường xuất hiện khi Tổ quốc lâm nguy, đất nước bị xâm lăng.
Họ đóng vai trò là người thủ lĩnh, đứng lên tập hợp nhân dân để chống lại kẻ thù,
bảo vệ nền độc lập. Đó là Ngô Quyền (Ngô Vương - Phùng Văn Khai), Bà Triệu
(Bà Triệu - Hàn Thế Dũng), Lê Lợi (Lê Lợi - Hàn Thế Dũng), Trần Hưng Đạo
(Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải, Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh),
Nguyễn Tất Thành (Búp sen xanh, Bông sen vàng - Sơn Tùng),…
Lê Lợi trong Lê Lợi (Hàn Thế Dũng) không thể cúi đầu cam chịu trước
cảnh giặc Minh xâm lược, vơ vét của cải, giết hại dân lành. Con người bản lĩnh,
hiên ngang ấy đã tụ họp nhân tài đứng lên chống giặc cứu nước. Xuyên suốt tác
phẩm, Lê Lợi hiện lên với vai trò một vị chủ tướng hoạch định đường lối, trực tiếp
79
tổ chức các cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Bằng tài năng về quân
sự, chính trị, ông đã cùng quân và dân ta từng bước đánh đuổi quân Minh ra khỏi
bờ cõi, khôi phục nền độc lập dân tộc, mở ra một triều đại mới phồn thịnh. Lý
Thường Kiệt trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải là người anh hùng tinh
thông văn - võ, có tài dụng binh hơn người, là người đưa ra kế sách “ra tay trước
để chặn giặc”, đánh vào tận nơi xuất phát của quân thù, đồng thời cũng là vị chỉ
huy tài ba của phòng tuyến sông Như Nguyệt, chặn đứng vó ngựa xâm lăng của
giặc Tống.
Trần Quốc Toản trong Trần Quốc Toản của Lưu Sơn Minh là một thiếu
niên yêu nước, có tài năng, lòng dũng cảm cùng ý chí kiên định. Tháng 10 năm
1282, các vua Trần mở hội nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên xâm
lược, không được tham gia hội nghị Bình Than để bàn kế sách đánh giặc (vì Trần
Quốc Toản chưa đủ tuổi), nhưng khi nghe nói trong hội nghị có một số vương hầu
trọn đời ăn lộc nước nhưng lại bàn đến việc cắt đất cầu hòa, Quốc Toản nghiến
răng “bóp nát quả cam vua ban” 237; 99 . Hành động của Trần Quốc Toản, được
ghi chỉ mấy dòng trong chính sử, đã trở thành những trang tuyệt đẹp trong các tiểu
thuyết viết về triều Trần (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải, Trần Quốc Toản -
Lưu Sơn Minh). Với lòng yêu nước, Trần Quốc Toản đã tự chiêu mộ binh sĩ,
thành lập đội quân tuổi trẻ với khẩu hiệu “phá cường địch, báo hoàng ân”, “Cậu
học trò ấy đã trở thành vị tướng của một đạo quân cũng trẻ không kém. Mà đạo
quân tính ra là không ít, đâu tới chừng cả ngàn người” 237; 111 . Tuy rằng còn
non trẻ, chưa từng có kinh nghiệm chiến trường, nhưng đội quân ấy đã khiến cho
các tướng giặc khét tiếng phải khiếp sợ. Đội quân của vị tướng trẻ này đã lập được
nhiều chiến công, góp phần không nhỏ vào chiến thắng chống quân Nguyên Mông
xâm lược của quân dân nhà Trần thế kỉ XV.
Trần Quốc Tuấn trong Bão táp Triều Trần (Hoàng Quốc Hải) và Đức
Thánh Trần (Trần Thanh Cảnh) là con người tài năng, đức độ, cả cuộc đời dốc hết
tài trí cho nước, cho dân. Hai mươi bảy năm ròng rã, ông đã âm thầm trù liệu kế
sách đánh giặc, không ngại hiểm nguy trực tiếp lãnh đạo quân dân ta ba lần đánh
thắng quân Nguyên Mông xâm lược. Với quốc sách Phú Quốc cường binh, chỉ
trong vài năm nhà nhà no đủ, quốc khố dư dật, thế binh mạnh mẽ như sóng cồn.
Trần Quốc Tuấn đã dốc toàn bộ trí tuệ và sức lực vào việc sáng tạo Vạn Kiếp tông
80
bí truyền thư, cuốn sách tổng kết các mưu thuật công thủ đối với kẻ thù. Ông lao
tâm khổ tứ để viết những dòng hịch như lời tự tâm can để khích lệ lòng quân sẵn
sàng cầm vũ khí đứng lên chống giặc. Đặc biệt, Trần Quốc Tuấn còn là người chủ
động từ bỏ mọi tị hiềm giữa hai dòng trưởng thứ để đoàn kết anh em trong gia tộc,
cùng dốc một lòng cứu quốc. Bởi trong ông, dân và nước là trên hết: “Cha bảo con
lấy lại nước là có ý tứ gì. Người chẳng phải có dân, có nước đây rồi sao? Con
cũng đang trong lòng dân, trong nước của mình…” 191; 33-34 . Điều thú vị là
hình tượng Trần Quốc Tuấn trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải, Trần Thanh
Cảnh hay Hồng Thái đều được xây dựng như một người anh hùng văn v toàn tài,
có tấm lòng sáng như nhật nguyệt, tài năng và công lao đối với sự nghiệp giữ
nước khó ai sánh bằng.
Lịch sử dân tộc Việt Nam ta là lịch sử liên tục phải chống ngoại xâm, vì thế
hình tượng người anh hùng xông pha trận mạc, ngồi trên mình ngựa, trên voi
chiến, “áo bào sạm khói súng” luôn luôn là hình tượng đẹp trong tâm thức cộng
đồng và cũng rất đẹp khi đi vào các TTLS Việt Nam sau 1975.
3.1.2.3. Nhân vật anh hùng đồng thời là danh nhân văn hóa
Trong TTLS Việt Nam sau 1975, có những hình tượng anh hùng vừa là
người giữ nước, dựng nước vừa là biểu tượng kết tinh những tinh hoa văn hóa dân
tộc. Có nhiều anh hùng dân tộc đã vượt qua tư duy chật hẹp của thời đại, thể hiện
những tư tưởng tiến bộ, tích cực, biết đề cao và phát triển những giá trị văn hóa
của dân tộc và nhân loại. Trong số các anh hùng được nhà TTLS xây dựng theo
hướng này, đáng chú ý hơn cả là Nguyễn Trãi (Đất trời - Nam Giao); Trần Nhân
Tông (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải); Nguyễn Công Trứ (Thông reo ngàn
Hống - Nguyễn Thế Quang)… Trong biên độ rộng mở của tiểu thuyết lịch sử,
nhân vật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặc biệt được các nhà văn quan tâm:
Cha và con - Hồ Phương, Búp sen xanh, Bông sen vàng - Sơn Tùng, Mặt trời Pác
Bó, Giải phóng - Hoàng Quảng Uyên, Gió bụi đầy trời - Thiên Sơn…
Trong lịch sử đời Trần, Trần Nhân Tông là vị vua được nhắc đến nhiều nhất
bởi cuộc đời của ông gắn liền với chiến công vang dội chống quân Nguyên Mông
xâm lược, gắn với đường lối trị quốc lấy nhân nghĩa làm gốc. Ông cũng là người
sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng, nơi được công nhận là di sản
văn hóa thế giới. Nói về Trần Nhân Tông, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ
81
Liên viết: “Tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh
Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng
11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể
chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử.
Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi
14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân núi
Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp
trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần” 91; 235].
Dưới con mắt các sử gia, Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, có nhiều công
lao với đất nước. Tuy nhiên, đánh giá về ông với mấy dòng ngắn ngủi như vậy quả
thật chưa xứng tầm với một đại anh hùng dân tộc. Với niềm yêu mến con người tài
đức vẹn toàn này, Hoàng Quốc Hải đã dành hẳn hai tập tiểu thuyết để ca ngợi ông.
Vua Trần Nhân Tông xuất hiện trong Thăng Long nổi giận khi cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông đến mức căng thẳng nhất. Hốt Tất Liệt phái năm chục
vạn binh do Thoát Hoan thống lĩnh đang tiến vào Đại Việt. Lúc này, trước tình thế
đất nước ngàn cân treo sợi tóc, Trần Nhân Tông đã nỗ lực hết mình huy động sức
mạnh của toàn quân, toàn dân đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi bờ c i Đại
Việt. Trước tiên phải dẹp yên những bất hòa và vướng mắc trong tôn thất nhà Trần
để hướng về mục tiêu chung. Trần Nhân Tông đã nói với Trần Nhật Duật rằng:
“Phải gỡ bỏ hiềm khích trong hoàng tộc. Nếu không thì mối nguy sẽ từ đấy mà ra”
[213; 110]. Sau này, đứng trước sự phản đối của cả triều đình, hầu hết các đại thần
đều muốn cất quân đòi lại miền đất hai châu Ô, Lý chứ không muốn gả công chúa
Huyền Trân cho Chế Mân, Trần Nhân Tông vẫn nhất quyết gả con gái về Chiêm.
Không mấy ai thấu hiểu hết được cao kiến và đức hi sinh của nhà vua trong hành
động “gây tình hoà hiếu cốt nhục để cùng nhau chống cái hoạ phương Bắc. Hai
nước dựa vào nhau làm thế ỷ dốc để cùng trường tồn” 213; 110]. Ông đặc biệt coi
trọng người tài, không phân biệt giai tầng, tuổi tác, nguồn gốc xuất thân. Nhà vua
đã giành trọn niềm tin cho Trần Quốc Tuấn, giao phó toàn bộ binh quyền cho vị
tướng có biệt tài dụng binh. Với cách dẫn dắt các sự kiện, tình tiết của câu chuyện,
nhà văn đã cho độc giả thấy một Trần Nhân Tông với tư tưởng “lòng dân là thành
trì vững chắc nhất, được lòng dân là có cả thiên hạ”. Ngoài ra, Trần Nhân Tông
82
còn là “Phật hoàng” trong tâm thức nhân dân, có vai trò quan trọng trong lịch sử
Phật giáo.
Trong chính sử và tâm thức cộng đồng, Nguyễn Trãi được đánh giá là một
trong những anh hùng dân tộc, đồng thời là danh nhân văn hóa tiêu biểu của dân
tộc. Nói về Nguyễn Trãi, Phan Huy Lê cho rằng: “Trong lịch sử Việt Nam,
Nguyễn Trãi là: một anh hùng dân tộc vĩ đại, một danh nhân văn hóa kiệt xuất. Đó
là một người văn v song toàn, tài đức trọn vẹn, gồm đủ nhân, trí, dũng” 88;
1099]. Trong một số TTLS Việt Nam sau 1975 như Sao khuê lấp lánh của Nguyễn
Đức Hiền, Đất trời của Nam Dao, Vằng vặc sao khuê của Hoàng Công Khanh,
Oan khuất của Bùi Anh Tấn…, các nhà văn đã phần nào khắc họa được chân dung
Nguyễn Trãi với những phẩm chất sáng chói về tư tưởng nhân văn, tầm nhìn vượt
thời đại của một thiên tài, một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ, nhà văn hóa
lớn. Hình tượng Nguyễn Trãi hiện lên trong Sao Khuê lấp lánh thật đẹp và vĩ đại.
Nguyễn Trãi không chỉ là một thiên tài hiếm có, văn v song toàn, một vị quan
công minh chính trực mà còn là tác giả của những khúc nhạc với lời ca trong sáng
“diễn tả được cuộc sống êm đềm và hạnh phúc của người dân” 222; 32]. Những
điệu “rí ren” mà dân Lam Kinh quen gọi của Nguyễn Trãi được các môn sinh hết
mực ca ngợi: “Đấy mới chính là cái góc văn, góc nhạc của nước Đại Việt ta” 222;
127]. Trong tâm trí của các môn sinh, ông là người thầy mẫu mực, đáng được tôn
kính. Bởi người thầy ấy giống như một người cha luôn chăm sóc và dạy bảo học
trò tận tình, nghiêm khắc và tràn đầy tình yêu thương. Với Đất trời, Nam Giao
cũng đã xây dựng một tượng đài văn hóa dân tộc thông qua hình tượng nhân vật
Nguyễn Trãi. Bi kịch cuộc đời của người anh hùng dân tộc được lý giải là “sự
xung đột văn hóa giữa người Kinh (người quyết tâm Nho giáo hóa nền văn hiến)
với người Mường (các v tướng Lam Sơn), lòng tận trung xung đột với sự hoài
nghi, đố kỵ” 200; 45]. Trong Những vì sao đất nước, tư tưởng văn hóa của
Nguyễn Trãi thể hiện rõ ở khát vọng xây dựng một đất nước “yên dân, yên thế
nước”. Để thực hiện khát vọng đó, ông đã đưa những bài học làm người vào trong
các bài dạy cho Thái tử để hướng đến mục tiêu lâu dài cho công cuộc an dân, trị
nước đúng đường, đúng “khuôn phép”. Khía cạnh văn hóa trong con người
Nguyễn Trãi còn được thể hiện trong tác phẩm qua những trang viết miêu tả cách
thức ngoại giao và cách ứng xử lịch lãm với mọi người.
83
Với người anh hùng thời hiện đại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều nghệ sĩ
của các ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu,
điện ảnh… đã sáng tạo và khai thác trên nhiều bình diện. Điều đó cũng trở thành
một thách thức lớn cho các nhà tiểu thuyết khi muốn xây dựng một tượng đài Hồ
Chí Minh độc đáo cho riêng mình. Trong cuộc đua tranh đó, một số tác giả TTLS
như Sơn Tùng, Hoàng Quảng Uyên, Nguyễn Thế Quang, Thiên Sơn… cũng đã để
lại được những dấu ấn khá đậm nét. Các trang văn đã dựng lại cả hành trình
trưởng thành của một thiên tài, từ cậu bé Cung, đến Nguyễn Tất Thành, đến nhà
yêu nước Nguyễn Ái Quốc và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân
tộc. Nếu như trong Cha và con, Hồ Phương tập trung làm nổi bật vai trò, sức ảnh
hưởng của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến quá trình hình thành nhân cách của
cậu bé Nguyễn Sinh Côn thì ở Khúc hát những dòng sông, Nguyễn Thế Quang lại
khắc họa hình ảnh người mẹ vĩ đại Hoàng Thị Loan trong hành trình dìu dắt, dạy
dỗ người con yêu thương của mình. R ràng, với Sơn Tùng, Hồ Phương và
Nguyễn Thế Quang, vĩ nhân, ngoài những phẩm chất phi thường, siêu việt còn là
con người bằng xương bằng thịt, tâm hồn, tính cách được kết tinh từ văn hóa
truyền thống, tình làng nghĩa xóm và sự giáo dưỡng của gia đình. Còn Trái tim
quả đất của Sơn Tùng, Trông vời cố quốc, Mặt trời Pác Bó, Giải phóng của
Hoàng Quảng Uyên, Hai ngày và mãi mãi của Cao Năm, Gió bụi đầy trời của
Thiên Sơn lại tô đậm những quãng đường khác nhau trên hành trình cứu nước vĩ
đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Các nhà văn, qua cuộc đời gian lao, cao
cả của nhân vật đã chứng minh một triết lí: nhân cách ấy, tài năng ấy là sự kết tinh
những gì tốt đẹp nhất của truyền thống gia đình, quê hương và văn hóa bốn ngàn
năm lịch sử của dân tộc, và sau đó là sự tiếp thu những gì tinh túy của văn hóa các
dân tộc trên thế giới.
Như vậy, NVAH trong các TTLS Việt Nam sau 1975 có thể được phân loại
theo những cách thức khác nhau, tùy theo quan điểm, tiêu chí phân chia loại hình
nhân vật. Trong chương 3 luận án, ở phần tiếp theo, chúng tôi muốn đề cập đến ba
kiểu loại NVAH nổi bật trong TTLS Việt Nam sau 1975, dựa trên lý thuyết diễn
ngôn, xem các TTLS trước hết là các diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết.
84
3.1.3. Nhân vật anh hùng nhìn từ lý thuyết diễn ngôn
Diễn ngôn là thuật ngữ do J. Lacan đưa ra, sau đó được G.Guillaume và E.
Benveniste dùng từ những năm 60 của thế kỷ XX. Từ đây, nghiên cứu diễn ngôn
(hay còn gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển
rầm rộ ở châu Âu và diễn ngôn trở thành một khái niệm được lưu hành rộng rãi
trong ngôn ngữ học và nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Với các nghiên
cứu của M. Foucault, J. Derrida, R. Barthes…, diễn ngôn lại xuất hiện với những
hàm nghĩa mới. Trong Từ điển Tu từ - Phong cách – Thi pháp học của Nguyễn
Thái Hòa (Nxb Giáo dục, 2005), tác giả đề cập đến 4 cách hiểu khác nhau về diễn
ngôn: 1/ Diễn ngôn là ngôn ngữ đang hoạt động (langage) được đảm nhận bởi chủ
đề nói, tức là đồng nghĩa với lời nói. 2/ Diễn ngôn là đơn vị tương đương trên câu,
nó được thiết lập bởi một thông báo (…) tức là tương đương với phát ngôn. 3/
Diễn ngôn khác với văn bản ở chỗ ghi lại bằng các ký hiệu chữ viết. 4/ Diễn ngôn
được xem như là cái nói ra, được xem xét từ quy tắc chuỗi kế tục các câu (…).
Các nhà phê bình văn học như T. Todorov, G. Genette đưa ra các cấp độ khác với
thức hay là lớp; cấp hình thức tương đương với diễn ngôn, cấp nội dung tương
đương với chuyện. Diễn ngôn không chỉ bao gồm thức kể chuyện mà còn có
giọng, điểm nhìn…, xếp đặt sự kiện và hiện thực hóa những mối liên hệ rộng hơn
giữa tác giả hàm ẩn và người đọc hàm ẩn.
Với sự ứng dụng phong phú, hiện nay, diễn ngôn đi theo ba hướng tiếp cận
chủ yếu: hướng tiếp cận ngôn ngữ học, hướng tiếp cận phong cách học và hướng
tiếp cận xã hội học (trong luận án, chúng tôi chú ý khai thác hướng tiếp cận phong
cách học, có kết hợp với hướng tiếp cận xã hội học). Trong hướng tiếp cận phong
cách học, tư tưởng về diễn ngôn của M. Bakhtin chú ý đến bình diện sinh thành
của ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ trong đời sống, trong hoạt động giao tiếp. Ông đề
xuất thuật ngữ “siêu ngôn ngữ”, coi ngôn ngữ như một thực thể đa dạng, sống
động, là mảnh đất mà ở đó diễn ra các đối thoại, tranh biện của những tư tưởng,
quan niệm khác nhau về con người và thế giới. Tiểu thuyết, trong quan niệm của
M. Bakhtin chính là thể loại “ở thì hiện tại”, nơi tồn tại các diễn ngôn phức tạp, ở
đó các tư tưởng luôn có xu hướng đối thoại với nhau, thể hiện ở cấp độ tác phẩm
là tiểu thuyết đa thanh (điển hình là tiểu thuyết Dostoyevsky), còn ở cấp độ ngôn
ngữ thể hiện ở lời văn phức điệu. Còn ở hướng tiếp cận xã hội học (gắn với những
85
quan niệm về diễn ngôn của M.Foucault), người ta coi tất cả các phát ngôn hoặc
văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó đều là diễn ngôn, ở đó luôn tồn tại hệ
thống những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức tư duy… được hình thành
trong một bối cảnh xã hội cụ thể.
Xem xét các TTLS dưới lý thuyết diễn ngôn, có thể nhận thấy mỗi tác
phẩm, mỗi NVAH là một quan niệm, là một phát ngôn của nhà văn, gắn với chủ
thể, nội dung, mục đích, môi trường phát ngôn. Lịch sử đã diễn ra theo một con
đường, đã được ghi lại trong sử sách. Nhưng cách diễn giải về nó, suy ngẫm về
nó thì luôn luôn tồn tại những khác biệt. Thực ra, cũng cần thấy rằng, chính sử là
sự ghi chép sự thật lịch sử, nhưng bao giờ cũng thể hiện một quan điểm, lập
trường nào đó. Các sử gia thời phong kiến - dù rất đề cao việc tôn trọng sự thật -
nhưng ít nhiều cũng phải chịu tác động từ quan điểm nho gia và cả sự chi phối
của chính quyền phong kiến đương thời. Đã có những nghi ngờ có sự can thiệp
của ai đó làm cho Ngô Sĩ Liên đã thiếu khách quan khi viết về Nguyễn Trãi, Thị
Lộ và vụ án Lệ Chi Viên. Đã có tư liệu nói về việc vua Lê Thánh Tông đòi các sử
gia phải cho mình biết những gì họ đã viết về mình. Đưa nhân vật, sự kiện vào
tiểu thuyết, các nhà văn lại sử dụng cách nhìn, quan điểm của riêng mình. Có thể
xem TTLS là một diễn ngôn phức tạp gồm một hệ thống các diễn ngôn của người
kể, của nhân vật, của nhà văn, của cộng đồng... Trong các TTLS, chủ thể phát
ngôn là nhà văn, thể hiện quan điểm của nhà văn, nhưng mục đích phát ngôn lại
hướng tới cộng đồng tiếp nhận, bao gồm cả người đọc thực tế và người đọc “tiềm
ẩn”. Khác với các tiểu thuyết thông thường, các cây bút TTLS chịu một áp lực là
họ đang viết lại “những cái đã có”. Và như chính các nhà văn tâm sự, họ luôn
phải đặt câu hỏi: có đúng với lịch sử như nó diễn ra không? có chỗ nào “xuyên
tạc lịch sử không”. Lưu Sơn Minh đã bộc lộ điều này khi nói rằng: “Có những
ngưỡng mà hư cấu không thể vượt qua. Đó là ngưỡng của chính lương tâm tác giả
đối với lịch sử. Không thể vì đề cao người này mà dìm người khác xuống bùn
nhơ. Càng không thể mượn nhân vật lịch sử để chuyển những thông điệp đầy tính
cá nhân của chính tác giả” 100]. Nguyễn Thế Quang thì cho rằng “tôi chọn viết
về đề tài lịch sử với mong muốn bạn đọc hiểu đúng lịch sử hơn. Tôi viết không
phải để hoài cổ mà để khám phá bản chất của lịch sử, cùng bạn đọc đối thoại với
thực tại để sống đúng hơn, tốt hơn” [134].
86
Như vậy, lịch sử (nói đúng hơn là chính sử) vừa là điểm tựa, đồng thời
cũng là “đối tượng để đối thoại” (chữ dùng của nhà văn Hoàng Minh Tường).
Đó là thuận lợi và cũng là khó khăn của các nhà TTLS. Nhà văn đối thoại bằng
hư cấu, bằng hệ thống nhân vật, giọng điệu, ngôn từ. Trong đó, nhân vật luôn
luôn là nơi tập trung nhất cái nhìn, quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Và tất
nhiên, bao giờ cũng có một độ “chênh” nào đó giữa những điều được ghi chép
lại trong chính sử, lưu truyền trong cộng đồng và những gì nhà văn hư cấu, suy
tư, chiêm nghiệm.
Xem xét các TTLS như các diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết, chúng tôi
muốn đi sâu vào ba kiểu loại NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975, dựa trên
quan điểm của lý thuyết diễn ngôn: 1. Loại NVAH xây dựng theo xu hướng đồng
hướng với ch nh sử; 2. Loại NVAH xây dựng theo xu hướng bổ khuyết, đối thoại
với ch nh sử; 3. Loại NVAH xây dựng theo xu hướng mượn lịch sử để đào sâu,
khám phá con người cá nhân, đời tư. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ là tương
đối, nhằm phân loại để nghiên cứu, còn trên thực tế ở thế giới NVAH thường có
sự kết hợp, đan xen sinh động. Sự giao thoa này không chỉ thể hiện trong sáng
tác của một nhà văn mà cả trong một NVAH nào đó. Chẳng hạn nhân vật Trần
Thủ Độ trong Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Hồ Quý Ly trong Hồ
Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Trần Hưng Đạo trong Đức Thánh Trần của
Trần Thanh Cảnh… có những mặt đồng hướng, thống nhất với cách nhìn của
chính sử, nhưng cũng có những mặt nhà văn muốn bổ sung, đối thoại với chính
sử, lại đồng thời có mặt nhà văn muốn phát huy thế mạnh tiểu thuyết, đi sâu
khám phá người anh hùng ở phương diện cá nhân đời tư.
3.2. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng đồng hƣớng với
chính sử
3.2.1. Khẳng định vai trò của người anh hùng trong những bước ngoặt lịch sử
Trong chính sử, trong tâm thức cộng đồng, người anh hùng luôn là những
vĩ nhân xuất hiện đúng lúc, ở những thời điểm gian nguy của đất nước. Họ là
những con người “thay trời hành đạo”, gánh vác trọng trách nặng nề trước trăm
họ. Cuộc đời họ gắn liền với các quyết định sáng suốt, các chiến công hiển hách,
giữ vững nền độc lập dân tộc, đem lại yên ổn cho nhân dân, thúc đẩy lịch sử tiến
về phía trước. NVAH được sáng tạo theo xu hướng đồng hướng với chính sử có
87
thể kể đến Bà Triệu trong tác phẩm cùng tên của Hàn Thế Dũng, Đinh Bộ Lĩnh trong
Mười hai sứ quân của Vũ Ngọc Đĩnh, Ngô Quyền trong Ngô Vương của Phùng Văn
Khai, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải,
Trần Hưng Đạo trong Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Huệ trong
Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh… Nói “đồng hướng với chính sử” trước
hết là nói ở quan điểm, cách nhìn, sau đó là bút pháp thể hiện nhân vật. Ở đây dường
như có sự gặp gỡ giữa chính sử, tâm thức cộng đồng và quan điểm của nhà văn.
“Đồng hướng” cũng không bao giờ là sự lặp lại, sao chép giản đơn.
Lịch sử Việt Nam đi qua những bước thăng trầm và những cuộc chiến tranh
khốc liệt. Rất nhiều TTLS đã tập trung xây dựng thành công tình huống xuất hiện
người anh hùng. Họ sinh ra do yêu cầu của thời đại, đồng thời họ làm nên những
trang lịch sử chói lọi. Khi đất nước bị xâm lăng, họ đã đứng lên tụ họp nhân tài,
lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại bang, giữ vững nền độc lập. Để thực hiện
khát vọng lớn lao đó, người anh hùng cần có đủ tài trí, đức độ và lòng dũng cảm.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư (phần Đại Việt sử ký ngoại sử toàn thư - kỷ Nam
Bắc phân tranh) có dành khoảng 1 trang (tr. 118-119) viết về sự nghiệp của Ngô
Quyền, từ việc giết Kiều Công Tiễn đến chiến thắng quân Hoằng Tháo nhà Nam
Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nhà nước Đại Việt.
Ngô Vương của Phùng Văn Khai cũng dựng lại cuộc đời Ngô Quyền cùng hướng
với những gì sử gia đã ghi. Ngô Quyền gặp cảnh trong nước có kẻ loạn thần rước
voi giày mả tổ và kẻ thù Nam Hán đang lăm le bờ c i: “Nay việc nước gặp phải
phản thần Kiều Công Tiễn làm trái đạo trời, tự tiện giết chúa rước giặc ngoại
xâm vào bờ c i (…). Hán đế Lưu Cung đã mấy lần phái binh xuống hòng chiếm
cứ An Nam, đặt nước ta thành quận huyện của Hán triều” 227; 282 . Ông đã
thấy được âm mưu của ngoại bang: “Nay Giao vương Lưu Hoàng Tháo đem
mười vạn binh thuyền, tiếng là giúp phản thần Kiều Công Tiễn tại vị song bên
trong là muốn nuốt trọn An Nam mà thôi”. Ông đau xót trước cảnh bọn nghịch
thần bán rẻ nền độc lập, tự chủ của dân tộc mà cha ông đã đổ bao máu xương
mới giành được: “Nhớ ngày trước, ta cùng các tướng đã hai phen huyết chiến với
bọn Lý Khắc Chính, Lý Tiến, Trần Bảo, tốn bao máu xương mới đuổi được
chúng về phương Bắc. Nay chỉ vì mưu riêng, vì lòng tham làm mờ mắt mà họ
Kiều lại rước hoạ xuống phương Nam”. Trước tình hình nguy nan đó, được sự
88
suy tôn của các tướng và sự chỉ bảo của các bậc trưởng lão, Ngô Quyền đã huy
động trí lực của tướng sĩ, cùng nhau chống giặc: “Nay ta được các tướng suy tôn
cầm binh đánh giặc, lại được các bậc lão trượng trong ngoài Đại La thành chỉ
cho điều hay lẽ phải ở đời, muốn nhân đây hỏi kế đánh giữ, tiến lui trước giặc
mạnh” 227; 282 . Có thể thấy, Phùng Văn Khai đã đặt người anh hùng Ngô
Quyền vào một tình thế nguy nan, để nhân vật vượt lên trên tất cả những thử
thách cam go đó, lãnh đạo toàn dân đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch
Bằng năm 938, chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ mới, thời
kỳ độc lập, tự chủ của dân tộc Đại Việt.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép khá tỉ mỉ về các sự kiện, các chiến công của
triều đại nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Trong Bão táp
triều Trần, Hoàng Quốc Hải cũng dựng lại sinh động bối cảnh, nhiều gương mặt
các bậc vua chúa, tướng lĩnh anh hùng nhà Trần khá sát với Quốc sử. Nhân vật
Trần Nhân Tông là một ví dụ. Sứ đoàn Đại Việt do Trần Di Ái sang Yên Kinh
cống tiến bị Hốt Tất Liệt giữ lại, lập ra triều đình bù nhìn, cử Sài Thung dẫn về
Thăng Long cùng đội quân năm nghìn tên hộ tống. Đây là một cuộc bang giao
bằng sức mạnh của cung kiếm. Nếu vua tôi nhà Trần cưỡng lệnh sẽ là cái cớ để
khơi ngòi cuộc chiến. Tình thế đó đòi hỏi nhà vua phải rất sáng suốt để cư xử cho
khéo làm sao để cuộc chiến nổ ra càng chậm càng tốt vì lúc này ta chưa đủ lực để
sẵn sàng nghênh chiến. Đoán biết Sài Thung với danh nghĩa sứ giả sẽ đi trước còn
triều đình bù nhìn núp bóng theo sau, Trần Nhân Tông đã gửi chiếu thư cho Hưng
Đạo Vương phải đón đánh bọn này ngay khi chúng đặt bước chân đầu tiên vào đất
ta và bắt cho được bè lũ phản bội đem về trị tội. Sài Thung nghênh ngang, phách
lối luôn tìm cớ để gây hấn, Nhân Tông nhún nhường nhưng không làm mất thể
diện quốc gia. Những gì hắn đòi nếu không phạm vào quốc thể nhà vua đều đáp
ứng. Còn như các yêu sách của nhà Nguyên như đòi quân trưởng tới chầu, nộp
sổ kê biên dân số… Trần Nhân Tông cũng khéo léo biện bác để cự tuyệt: “Xin
các hạ về tâu giùm thiên tử, tôi sinh trưởng ở chốn thâm cung, không biết cưỡi
ngựa, không quen phong thổ, sợ chết dọc đường lại nhọc lòng thiên tử xót
thương. Ngoài ra, con em từ bậc thái uý trở xuống cũng đều như thế cả. Còn như
thiên tử lên ngôi đó là việc lớn của toàn thiên hạ, tiên quân tôi trước đây tuổi cao
sức yếu không đi được đã cử sứ sang dâng biểu cùng các đồ phương vật tiến
cống”; “Quả như lời các hạ nói. Nhưng nước chúng tôi tuy nhỏ, đáng gì để thiên
89
tử bận tâm. Vả lại trong thôn ấp khó tìm ra được người thạo thông chữ nghĩa thì
làm sao mà kê khai được. Nếu như đưa tất cả quan lại của triều đình đi làm việc
này, phải gần hai chục năm mới xong. Tới lúc ấy còn ích gì nữa mà làm. Sợ sổ
sách dâng lên không được như ý, chỉ làm thiên tử nổi giận” 212; 173]. Với tài
năng, đức độ và các quyết sách khéo léo, Trần Nhân Tông đã đoàn kết được toàn
dân, từng bước đưa cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đến thắng lợi.
Nguyễn Huệ được thể hiện trong Hoàng Lê nhất thống ch như một nhân
vật xuất chúng có tài cầm quân, “xuất quỷ nhập thần”, đánh đuổi quân Thanh để
cứu muôn dân. Các tác giả Ngô Gia văn phái, vượt qua những chính kiến của giai
cấp mình, đã miêu tả Nguyễn Huệ như một anh hùng dân tộc vĩ đại, với áo bào
xạm khói, tiến vào kinh thành Thăng Long, thu phục giang sơn. Các tác giả
Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thu Hiền, Lê Đình Danh, Vũ Thanh… cũng đề cao
vai trò to lớn của Nguyễn Huệ. Điểm gặp nhau ở các nhà văn là đã tái hiện thành
công cuộc nội chiến liên miên giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn – cuộc nội chiến
khiến đất nước hoang tàn, nhân dân ly tán, quân thù tứ phía, kẻ sĩ hoang mang.
Tình thế ấy chỉ có thể được giải quyết bởi một cá nhân tài năng xuất chúng, với
khát vọng hưng quốc mãnh liệt, đủ khả năng tập hợp dân chúng và nhân sĩ mọi
miền thành một khối vững chắc để dẹp tan thù trong giặc ngoài. Trong Hoàng đế
Quang Trung, Nguyễn Thu Hiền đã tập trung tái hiện hình ảnh vua Quang Trung
không ngủ quên trên những chiến công hiển hách, vừa lên ngôi đã nhanh chóng
quy hợp nhân tài và dụng công tìm ra những phương sách độc đáo để xây dựng xã
tắc sơn hà hùng mạnh. Tác giả đã nhấn mạnh đến sự thấu triệt của nhà vua về mọi
nỗi đau của dân đen, vì nạn ngoại xâm đều bắt nguồn từ sự suy yếu của sức dân,
sự mục ruỗng của triều chính. Vị hoàng đế mới lên ngôi nhưng đã thấy hết tình
cảnh dân chúng loạn lạc, mỏi mệt sau chiến tranh, kỉ cương phép nước vừa mới
phôi thai, trong nước quân Nguyễn Ánh đang đe dọa Phú Xuân, bên ngoài thì các
đế quốc phương Tây lăm le tranh giành thuộc địa để vơ vét. Nhà vua đã nhận ra
chân lí lớn của thời đại qua câu nói nổi tiếng: "Một cây cột không thể chống đỡ
ngôi nhà cả, mưu lược một người không thể xoay trở cả khối công việc của một
nhà nước sơ khai non trẻ" 223; 263 . Từ sự sắc sảo trong nhìn nhận tình hình của
một trí tuệ lớn, hoàng đế Quang Trung đã tập hợp quanh mình những anh tài tứ
phương để tìm kiếm diệu kế nhằm nhanh chóng chấn hưng đất nước. Nhà vua đã
triệu Ngô Thì Nhậm vào bàn kế xây dựng đất và cho ra nhiều sách lược lớn. Bên
90
cạnh đó, nhà vua cũng đưa ra nhiều chính sách tiến bộ vượt thời đại để tập hợp
hiền tài, sức dân, xóa tan nghi kị tầng lớp, vùng miền và xây dựng khối đoàn kết
toàn quân dân chung tay lo việc nước. Nguyễn Thu Hiền đã dành nhiều trang
viết mô tả những chính sách, công việc của Quang Trung như chính sách tuyển,
luyện binh kết hợp phát triển nông nghiệp, khai khẩn đất đai, mở rộng giao
thương với ngoại quốc, xây dựng lòng tin, nếp sống, tín ngưỡng và phép nước
nghiêm minh, tiến bộ. Tác giả Nguyễn Thu Hiền đã tạo ra nhiều điểm nhấn đặc
tả sự sắc sảo trong trí tuệ của nhà vua. Trong đó phải nói đến việc Quang Trung
không những đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo phát triển hiền tài cho đất nước
mà còn hết sức chú trọng phát triển dân trí. Vua Quang Trung xem nguyên khí
xã tắc vừa là nhân tài vừa là dân trí: "Muốn nước mạnh, binh lực dồi dào, kẻ thù
không dám lăm le nhòm ngó, thì đời sống nhân dân chẳng những no đủ mà trí
tuệ cũng phải mở mang" 223; 273 . Trong đó nhà vua đã đưa ra những quyết
sách đối với việc xây dựng và hoàn thiện chữ Nôm bên cạnh việc tăng cường
bảo lưu, dịch thuật sử sách bằng chữ Hán. Quyết sách này không những thể hiện
tinh thần tự chủ, độc lập mà còn thể hiện một tầm nhận thức siêu việt của ông về
vai trò của thư tịch và lời ăn tiếng nói của dân chúng trong việc xây dựng thành
công một nền tảng xã hội hùng cường dài lâu. Chính nhờ những sách lược đúng
đắn trên của Quang Trung - Nguyễn Huệ mà đất nước nhanh chóng đi vào ổn
định, đời sống nhân dân được cải thiện.
3.2.2. Đề cao trí tuệ, tài năng của người anh hùng
Chính sử thường nhấn mạnh tài năng thiên bẩm của các bậc vua chúa, anh
hùng. Những người như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung… đều
được đánh giá cao ở trí tuệ hơn người, đặc biệt là khả năng thu phục quân sĩ, điều
binh khiển tướng. Trong Bão táp cung đình, sự thông tuệ của Trần Quốc Tuấn
xuất hiện ngay từ thời niên thiếu: “Tài kiêm văn v . Sáu tuổi chàng đã biết làm
thơ. Nay thì lục thao tam lược, không gì là không thông hiểu” [211; 424]. Còn
Nguyễn Huệ lúc mười lăm tuổi với những lời đối đáp rất thông minh làm cho thầy
giáo của mình kinh ngạc. Một lần khi nghe Thầy giáo dạy mình về sử Nam, Huệ
đáp: “Tại sao ta không học sử nước mình mà tụng làu làu Bắc sử? Tại sao không
học chữ nước mình? Cái loại chữ thường gọi là “chữ ta”, thưa thầy” 208; 152].
Hay trong Búp sen xanh, cậu bé Nguyễn Sinh Côn đã bộc lộ tư chất thông minh
sáng dạ từ khi còn nhỏ. Khi thầy cử Quý rót dầu vào đĩa đèn, vô ý để dầu chảy ra
91
đế đèn, thầy liền ra vế đối: “Thắp đèn lên dầu vương ra đế”. Trong khi trò Khiêm
(người anh trai) đưa ra vế đối: “Đốt nhang rồi gió thổi bay tàn” thì trò Côn đối:
“Cưỡi ngựa dong thẳng tấn lên đường”. Tấn có nghĩa là tiến lên cũng có nghĩa là
nhà Tấn; đường còn có nghĩa là nhà Đường. Nhà Tấn lập ngôi vua, nhà Đường lập
ngôi đế, vế đối vượt cả vế thầy ra” [271; 150 … Người anh hùng phải là người
thông minh thiên bẩm, “anh hoa phát tiết ra ngoài” ngay từ khi còn nhỏ. Đây là
một tiêu chuẩn có tính điển mẫu về người anh hùng.
Đặc điểm nổi bật nhất của người anh hùng trong TTLS là tài năng về
quân sự. Các tác phẩm như: Ngô Vương (Phùng Văn Khai), Sông Côn mùa lũ
(Nguyễn Mộng Giác), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Nhất thống sơn
hà (Vũ Thanh), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải), Hội thề (Nguyễn Quang
Thân)… đều đã miêu tả rất thành công tài năng cầm quân, phán đoán tình thế,
biết địch biết ta, bách chiến bách thắng của Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Nguyễn Huệ…
Trần Quốc Tuấn là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt
Nam. Trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông (1285 – 1288), ông -
trụ cột của triều đình nhà Trần, đã lãnh đạo quân dân ta đánh thắng quân Nguyên
- Mông xâm lược. Ở mỗi lần đó, Trần Quốc Tuấn đều đề ra những chiến lược,
sách lược quân sự phù hợp, sáng suốt để đối phó với giặc. Trong Bão táp triều
Trần, người đọc có thể hình dung ra một Trần Quốc Tuấn với tài năng quân sự
xuất chúng. Tài năng ấy thể hiện trước hết ở khả năng nhìn r được thế trận,
đoán đúng hướng đi của giặc từ đó đề ra kế sách phù hợp: “Từ Phú quốc cường
binh sách đến Vạn kiếp tông bí truyền thư, từ Dụ chư tì tướng hịch văn nay lại
đến kế Thanh dã. Tất cả những mưu thuật đó cấu thành quốc sách chống giặc
Nguyên Mông của nhà nước Đại Việt” 213; 286]. Trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn được vua Trần Thái
Tông giao nhiệm vụ đứng đầu một đạo quân bộ chặn đánh địch ở vùng lãnh thổ
phía tây Bắc Tổ quốc. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, toàn bộ
vùng lãnh thổ phía tây Bắc Tổ quốc được kiểm soát chặt chẽ. Không những thế,
những thông tin mà Trần Hưng Đạo gửi về có ý nghĩa quan trọng đối với việc
hoạch định kế sách chung của triều đình nhà Trần. Trần Thủ Độ đã đánh giá tài
năng của Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần
thứ nhất như sau: “Ta xem cách thu phục người man, cách sát cánh cùng họ lấy
92
một chọi mười mà thắng m mãn, đánh tan mấy vạn quân của Đoàn Hưng Trí dễ
như trở bàn tay, đủ biết Quốc Tuấn có tài làm tướng thiên bẩm… nếu không có
Quốc Tuấn phối hợp với mấy đầu mục chặt đứt được cái đuôi ấy, sao Ngột-
lương-hợp-thai chịu nhả Thăng Long ra cho ta” 212; 189]. Trong kháng chiến
chống Nguyên Mông lần hai, trước thế giặc như nước vỡ bờ, Trần Quốc Tuấn đã
vạch ra kế sách kìm chân địch, tích trữ lương thảo, chuẩn bị quân cơ. Và cuối
cùng, là bài hịch nổi tiếng khích lệ tướng sĩ. Với giọng điệu hùng hồn, thống
thiết, Hịch tướng sĩ của ông có giá trị khơi dậy khí thế, làm sáng bừng lên nghĩa
khí Đại Việt, phát huy sức mạnh của ba quân. Khi thế giặc mạnh khiến nhà vua
ngần ngại, Trần Quốc Tuấn đã nói lời quật khởi của núi sông, của trăm họ, của
khí phách mà các bô lão mang đến hội Diên Hồng: "Nếu bệ hạ muốn hàng, trước
hết xin hãy chém đầu thần. Đầu thần nếu còn, xã tắc cũng còn. Xin bệ hạ chớ lo,
thần đã có kế đánh bại giặc" [213; 318]. Hoàng Quốc Hải đã dùng khá nhiều
trang viết để mô tả trận chiến trên sông Bạch Đằng, từ việc Trần Hưng Đạo cùng
các tướng của mình đi “dò hỏi về thủy chế, về độ nông sâu của các con sông
quanh vùng, các ngòi lạch, cồn bãi” 214; 373 , đến việc chỉ huy quân binh thay
nhau làm việc ngày đêm đo đạc mực nước, cưa cắt, đẽo vát đầu cọc, mài lưỡi
rù… tất cả sẵn sang cho trận thủy chiến. Và thế trận trên sông Bạch Đằng đã
minh chứng cho tài quân sự của ông: “Nước rút nhanh, số thuyền giặc bị cọc
đâm thủng đáy hoặc bị cọc ngáng mỗi lúc vón lại nhiều thêm. Những chiếc
thuyền nan bốc cháy đùng đùng và như có trời phù, tự nhiên gió Tây Nam lại
nổi, đẩy những chiếc thuyền lửa phi nhanh như tên bắn, và chúng giăng thành
hàng như một vành đai lửa ôm lấy các chiến thuyền quân Nguyên đang giãy giụa
tháo chạy” 214; 409].
Theo chính sử, Nguyễn Huệ là một v tướng, nhà quân sự thiên tài. Tài
năng quân sự của ông được rất nhiều nhà văn khai thác, thể hiện như Nguyễn
Mộng Giác, Lê Đình Danh, Nguyễn Thu Hiền, Vũ Thanh… Với Tây Sơn bi hùng
truyện, Lê Đình Danh đã miêu tả Nguyễn Huệ là một vị tướng bách chiến bách
thắng, "có tài thao lược, dụng binh tính toán hơn người" 197; 84 . Điều này được
thể hiện khá r trong nhiều trang của tác phẩm. Chẳng hạn, khi Nguyễn Huệ bày
kế hỏa công đánh quân của Tôn Thất Hương: "Trong ống đựng đầy một thứ nhựa
cây, khi ra trận chỉ cần cầm ống này vung về phía địch, nhựa trong ống văng ra,
gặp lửa ở miệng ống lập tức bốc cháy. Giặc bị bỏng tất phải quăng gươm mà
93
chạy" 197; 105 . Hoặc người anh hùng dùng kế giả hoà để giết chết Tống Phước
Hiệp, chiếm được Phú Yên. Trong tác phẩm, Nguyễn Huệ được miêu tả là con
người không chỉ am hiểu binh pháp mà còn tỏ ra "trên thông thiên văn, dưới tường
địa lí", biết đón đúng thời điểm thuận lợi để dùng sức nước, sức gió cho nhiều trận
huyết chiến. Tài thao lược của Nguyễn Huệ cũng được Nguyễn Thu Hiền miêu tả
khá hấp dẫn trong Hoàng đế Quang Trung, đó là những trang kể về chuyện
Nguyễn Huệ thuần phục ngựa hoang thành ngựa chiến; huấn luyện binh sĩ, chế tạo
binh khí, chất nổ, hỏa lôi… Trong Sông côn mùa lũ, giữa lúc Nguyễn Nhạc và hầu
hết các tướng tá cùng mưu sĩ ở phủ Quy Nhơn phân vân chưa hiểu vì sao liên
quân Nguyễn - Xiêm - Miên lại chậm chạp và cố ý trì hoãn việc tiến quân về Gia
“Chúng không muốn tiến quân nhanh vì nhiều lí do:
Quân Xiêm là quân đánh thuê, nên phải tính toán thế nào để tổn thất thật ít mà
thu lợi lộc được thật nhiều. (…) Phần Nguyễn Ánh cũng không muốn quân Xiêm
tiến nhanh. Hắn sang thuê quân Xiêm nên hiểu r lòng dạ quân đánh thuê (….).
Nguyên do thứ ba là chúng không dễ gì nhích chân qua khỏi Sa Đéc. Quân ta ở
Long Hồ do phò mã Trương Văn Đa chỉ huy tuy ít, nhưng như quan đô đốc vừa
nói, ít mà dũng cảm, thiện chiến...” 209; 382-383].
Định thì Nguyễn Huệ đã đưa ra nhận định rất sắc sảo:
Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng, điều này luôn được Nguyễn Huệ ứng
dụng hiệu quả trong kế sách dùng binh “lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh”.
Chiến thắng lẫy lừng của quân Tây Sơn trước 5 vạn quân Xiêm, và lần tiến quân
ra Bắc nhanh chóng tiêu diệt 29 vạn quân Thanh là những minh chứng hùng hồn.
Bên cạnh thiên tài quân sự kiệt xuất, người anh hùng còn giỏi trong việc
phát hiện và trọng dụng nhân tài. Nhân vật Trần Hưng Đạo trong Thiệu Bảo Bình
Nguyên là một ví dụ. Biết Phạm Ngũ Lão là người khí phách, Hưng Đạo mời về
làm môn khách trong nhà. Vì mến mộ tài năng của Phạm Ngũ Lão mà Trần Hưng
Đạo chủ ý để ông trình diễn võ thuật mừng thọ Thượng hoàng, coi như là một
cách tiến cử nhân tài với triều đình, còn thuận lòng trao lá ngọc cành vàng trong
nhà về nâng khăn sửa túi cho đấng mày râu có tương lai sự nghiệp hiển hách. Để
thu hút nhân tài, Trần Hưng Đạo mở Giảng võ đường “thu nhận con em bách tính
vào học, cứ hai năm một lần tổ chức thi thố sức lực và quyền cước để lấy vài chục
người xuất sắc nhất” 257; 83]. Trần Hưng Đạo cũng có con mắt tinh tường biết
được điểm mạnh yếu của các thuộc hạ mình. Để chuẩn bị cho trận thủy chiến với
94
quân Nguyên – Mông, Trần Hưng Đạo đã gọi Yết Kiêu vào giao phó công việc,
Vương giao cho Yết Kiêu trong một tháng phải tuyển chọn được ít nhất ba mươi,
nhiều nhất là năm mươi tráng sĩ. Sỡ dĩ Trần Hưng Đạo giao trọng trách này cho
Yết Kiêu mà không phải ái khác, bởi vì “người nô bộc này là bậc kỳ tài trong
thiên hạ về khả năng bơi lội, rất chín chắn và kiên định, đã nhận việc là dứt khoát
làm đến nói đến chốn, bất kể khó khăn trở ngại, chấp nhận cả đổ máu hy sinh”
[258; 53]. Còn với Trần Khánh Dư, ông đã khuyên vị tướng bỏ qua mâu thuẫn cá
nhân, quay trở về “xúm tay gánh vác giang sơn”: “Ta đâu bảo ngài đăng lính, mà
muốn ngài trở lại vị thế Phiêu kỵ đại tướng quân. Chuyện xưa chỉ là mâu thuẫn cá
nhân, không hề làm lu mờ phẩm chất trung quân ái quốc của một chiến tướng lừng
lãy trận mạc như ngài. Phẩm chất ấy là vốn quý của giang sơn xã tắc, dứt khoát
phải cất nhắc vào vị trí xứng đáng” 258; 16]. Nhờ tài thương thuyết của Trần
Hưng Đạo mà Trần Khánh Dư đã quay trở lại triều đình, cùng góp sức vào cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên – Mông.
Nguyễn Huệ không chỉ giỏi đánh giặc mà còn là người biết "chiêu hiền đãi
sĩ". Trong Hoàng đế Quang Trung, Nguyễn Thu Hiền miêu tả Nguyễn Huệ là
người “am tường từng năng lực của chư vị anh hùng hơn ai hết" [223; 183].
Nguyễn Huệ lựa chọn Nguyễn Thung, Vũ Đình Tú bởi theo Nguyễn Huệ: "Vì đại
nghiệp, hai anh đã từ bỏ giàu sang về đây tụ nghĩa, thì chẳng thể không đảm nhận
một trọng trách để có cơ hội đóng góp cho sơn trại" [223; 183-184]. Khi thu phục
được tướng cướp V Dũng, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Nguyễn Huệ mừng rỡ
reo to: "Này đây, Diệu, Dũng là hai cánh tay đắc lực của anh em Tây Sơn, nay Sở
cho thêm đôi cánh nữa, thì lo chi đại nghiệp không thành" [223; 329]. Xuất phát
từ tấm lòng thành, Nguyễn Huệ đã thu phục được rất nhiều người tài giỏi bên
mình. Đúng như Nguyễn Mộng Giác đã viết: "Trí thức lớn của Bắc Hà cỡ như:
Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Huy Ích,… mà phải khuất phục trước
Nguyễn Huệ, không phải chỉ do sức mạnh quyền lực đâu" 210; 153]. Nguyễn
Huệ vì cầu tài mà không ngại đường xa vất vả, năm lần bảy lượt cho người mang
thư đi gặp La Sơn Phu tử. Khi Nguyễn Nhạc chế giễu các nhà nho trong đó có ám
chỉ thầy giáo Hiến, Nguyễn Huệ nói "Chỉ vì lâu nay chúng ta nghĩ thế nên kẻ sĩ
mới bỏ ta mà đi. Đến lúc cần một người có uy tín để nói cho dân nghe theo ta
không tìm thấy ai cả" [209; 104]. Nguyễn Huệ cũng khác ông anh cả về quan
điểm đối với Hoa Kiều. Theo Nguyễn Huệ, Hoa kiều là "cái ng để ta liên lạc với
95
nước ngoài" (...). Không có họ, ta không có hạng môi giới để buôn bán với tàu
buôn nước ngoài được" [210; 401].
Tài năng của các NVAH còn được thể hiện qua nghệ thuật ngoại giao.
Biết mình biết người, hiểu thấu sức mạnh dân tộc để thiết lập một đường lối
ngoại giao phù hợp. Ở Hội thề, nhân vật Nguyễn Trãi được tô đậm ở chiến lược
“mưu phạt tâm công” tác động đến nội bộ quân thù và phân hóa chúng, dụ chúng
quy hàng: “Nếu chúa công mở lượng hiếu sinh tha tội cho bọn Thôi Tụ, Hoàng
Phúc, dụ được chúng ra hàng thì thần vẫn nghĩ là thượng sách hơn là băm vằm
mấy vạn sinh linh trong một cuộc huyết chiến ở Xương Giang” 265; 105]. Theo
ông, việc tiêu diệt dục vọng xâm lược của kẻ thù còn quan trọng hơn là chỉ lo tàn
sát chúng. Bằng sự thấu triệt đời sống nhân sinh, Nguyễn Trãi đã dùng tâm, dùng
ngòi bút, góp phần đuổi quân Minh ra khỏi bờ c i, khôi phục nền độc lập cho dân
tộc. Nguyễn Trãi cho rằng: “Đúng là tội ác của giặc Ngô trời không thể dung, đất
không thể tha. Nhưng nền thịnh trị và thái bình muôn thuở của Đại Việt còn quan
trọng hơn ngàn lần việc trả thù. Rửa thù hôm nay tức là đang gieo mầm cho ngày
mai. Hôm nay giặc chịu thua nhưng ngày mai có thể chúng lại tới” 265; 283]. Vì
thế, trước lúc chia tay, Thái Phúc (tướng nhà Minh) đã ôm chầm lấy Nguyễn
Trãi, mượn thơ của Lý Bạch để bộc lộ: “Nhị Hà thanh thủy thâm thiên xích/Bất
cập Ức Trai tống ngã tình” [265; 322].
Trong Nhất thống sơn hà, sau khi thất bại nhục nhã trong việc xua quân
xâm lăng Đại Việt, Vua Càn Long dù uất ức cũng buộc lòng phải biến thù thành
bạn và dành cho vua Quang Trung tình cảm quý mến: “Càn Long đặc biệt ưu ái
vua Quang Trung giả của mình. Trước mặt bao nhiêu hoàng thân, quốc thích và
sứ thần các nước khác, ông ta đã tự tay phê một bài thơ Ngự Chế tặng vua Quang
Trung (…) Một kỳ sự chưa từng có xưa nay khiến cho cả triều đình nhà Thanh và
các sứ bộ lân bang đều kinh ngạc” 264; 314]. Có thể thấy, ngoại giao khéo léo
cũng góp phần ngăn chặn chiến tranh, giữ vững nền độc lập cho dân tộc.
3.2.3. Đề cao ý chí, bản lĩnh của người anh hùng
Bên cạnh vẻ đẹp của trí tuệ, tài năng, NVAH trong TTLS còn được tô đậm
bởi vẻ đẹp của bản lĩnh kiên cường, sự mạnh mẽ trong cá tính, sự chủ động, quyết
đoán trong suy nghĩ và hành động. Đó là các nhân vật Trần Quốc Toản, Lê Lợi,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…
Trong Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái, khi nhà vua mở hội nghị Bình
96
Than để bàn kế sách đánh giặc, triều đình chỉ cho mời những vương hầu đủ 18
tuổi, Hoài Văn bất bình: “Như vậy ta không phục. Tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng
chúng ta cũng biết phân biệt trắng đen, biết ứng thuận chống nghịch, biết ai là bạn,
ai là thù”; “Không được. Là nam tử ở đời, bất luận tuổi tác ai cũng có trách nhiệm
tham gia công việc phò vua giúp nước. Ta cứ đến, đến đấy tranh đấu cho ra lẽ”
[258; 34]. Thế là Hoài Văn và Hoài Nhân vận lễ phục đi đến thuyền rồng, dù bị
cấm vệ ngăn cản nhưng Quốc Toản vẫn một mực đòi vào, khi vào gặp được nhà
vua, Quốc Toản nói: “Khởi bẩm bệ hạ, thần và Hoài Nhân Vương đến đây chỉ cốt
bày tỏ thái độ sẵn sàng tham gia đánh giặc giữ nước, chứ không có ý gì khác”. Dù
được nhà vua khen ngợi về lòng nhiệt huyết: “Ta khen ngợi nhiệt huyết của mấy
đệ nhưng cho các em tham dự thì nếu cả trăm vương hầu trạc tuổi hai người cũng
đòi phá lệ để được vào, bấy giờ chỗ đâu mà chứa. Hãy nghe lời huynh các đệ về
đi” 258; 35 . Được vua ban cho quả cam quý nhưng Hoài Văn lòng vẫn uất
nghẹn, bi phẫn ngập tràn “bàn tay Toản bóp nát quả cam của vua ban mà không hề
hay biết”. Về nhà Quốc Toản nói với mẹ: “Hoàng thượng và triều đình họp bàn
việc nước ở Bình Than… nhưng vì còn nhỏ nên Quan gia không cho dự. Lòng con
uất ức lắm nhưng không biết làm sao có thể góp công sức đánh đuổi ngoại xâm,
báo đền ân nghĩa của hoàng triều”, sau khi được Hưng Đạo Vương chỉ dạy “chúng
con đã ngộ ra chân lý nên nhất quyết sẽ dựng tụ nghĩa, tuyển mộ dân binh, rèn
mác luyện võ, sẵn sàng đánh giặc khi chúng kéo sang” 258; 40]. Sau một thời
gian, với quyết tâm, nỗ lực của bản thân và sự góp sức của dân làng, đội quân của
Trần Quốc Toản đã có tổng cộng gần chín trăm người, thuyền, ngựa, vũ khí, trang
phục… cũng đã tạm ổn, đặc biệt lá cờ thêu sáu chũ vàng “Phá cường địch - báo
hoàng ân” như lời thề quyết tử của đoàn quân tuổi trẻ. Dù còn nhỏ tuổi, chưa có
kinh nghiệm chinh chiến nơi sa trường, nhưng đội quân tuổi trẻ của Quốc Toản đã
lập được nhiều chiến công, trở thành nổi khiếp đảm của quân địch, có những trận
họ trở thành đội quân tiên phong. Trong trận đánh trên sông Như Nguyệt, vị tướng
trẻ đã dẫn kị binh xông lên đánh bật quân Nguyên về bên kia chiến tuyến, dũng
cảm “vung trường kiếm đi đầu đoàn kị mã vọt qua lũy đất lao vào đội hình của
giặc, gươm đao lướt theo vó ngựa ra sức chặt chém bọn bộ binh Mông Thát” 260;
125]; “Vó ngựa của Trần Quốc Toản tung hoành ngang dọc, lưỡi kiếm trong tay
của vị tướng trẻ chém xả vô số giặc thù, cho đến lúc sức cùng lực kiệt, chàng bị
bọn kỵ binh Mông Thát vây chặt và hứng chịu hàng chục mũi gươm giáo. Không
97
rời yên ngựa, người anh hùng trẻ tuổi bước vào cõi bất tử mà bàn tay vẫn nắm chặt
dây cương” 260; 130].
Bản lĩnh của người anh hùng còn được thể hiện ở ý chí, nghị lực phi
thường, dám vượt qua bi kịch cá nhân, bi kịch gia đình để hoàn thành những
hoài bão lớn. Trong Sông Côn mùa lũ, lúc phải kháng lệnh vua anh, phải lạnh
lùng viết hịch tấn công Quy Nhơn, trong lòng Nguyễn Huệ rối bời, xót xa và day
dứt: “Chưa bao giờ Nguyễn Huệ cảm thấy cô đơn như vậy… Dù tự tin bao nhiêu
đi nữa, ở vào giờ phút quyết định này tay ông vẫn run rẩy” 210; 114-115 . Với
hành động này, có thể ông sẽ mất đi tình máu mủ, nhưng vì tương lai đất nước,
Nguyễn Huệ buộc lòng phải làm điều mình không muốn. Hay trong Búp sen
xanh, Sơn Tùng đã xây dựng hình tượng Nguyễn Sinh Côn nhỏ tuổi nhưng biết
vượt lên nỗi đau gia cảnh để hướng đến nỗi đau của dân tộc. Chứng kiến cảnh
nước mất nhà tan, nhân dân điêu đứng lầm than dưới ách cai trị hà khắc của thực
dân Pháp, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ rất nhiều về những gì
mình được “mắt thấy tai nghe”, để rồi đau thương biến thành hành động: “Con
không lỗi đạo thầy trò. Vừa qua, con hành động đúng. Con đã có năm ba chữ,
biết suy nghĩ, con sang tuổi mười tám rồi, con không thể thờ ơ trước việc đồng
bào mình bị chà đạp, phải đứng dậy đòi được quyền sống” 271; 212].
Tóm lại, nhiều NVAH như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huệ… trong các TTLS đã được xây dựng trên cái nhìn khá trung
thành với chính sử, với tâm thức cộng đồng, trước hết là tài năng xuất chúng,
những chiến công to lớn, đóng góp vào sự nghiệp cứu nước, an dân. Bối cảnh lịch
sử, các sự kiện lớn, vẻ đẹp, phẩm chất, đóng góp của các anh hùng luôn được đề
cao, trân trọng. Đây chính là cơ sở để các nhà văn mở rộng trường nhìn, phát huy
tưởng tượng, biến những anh hùng khô khan trong các trang sử thành những hình
tượng sinh động, hấp dẫn trong tiểu thuyết.
3.3. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng bổ khuyết,
đối thoại với chính sử
3.3.1. Đối thoại để khẳng định, minh oan, chiêu tuyết
Khi bàn về TTLS, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Tiểu thuyết
lịch sử nào cũng mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử thời đại đã qua và lịch
sử thời người viết đang sống. Chỉ quan tâm đến thời đã qua mà không nêu được
vấn đề quan tâm của người hiện tại thì tiểu thuyết cũng khó hấp dẫn. Chỉ nêu
98
quan tâm hiện tại mà bỏ mất lịch sử thì không có tiểu thuyết lịch sử nữa” 140].
Như vậy, mỗi nhà văn khi lựa chọn đề tài về lịch sử, thông qua các nhân vật lịch
sử đều chọn cho mình một cách thức để đối thoại với với hiện tại. Mỗi nhân vật
trong tiểu thuyết lịch sử là một kênh để nhà văn truyền tải một thông điệp nào
đó. Rất nhiều vấn đề của hiện tại cũng là những vấn đề mà cha ông cũng đã từng
đối diện, từng trăn trở. Và từ cách nhìn của hiện tại, nhiều cây bút TTLS đã lên
tiếng bổ sung, thậm chí minh oan cho nhiều người anh hùng đã bị chính sử
đương thời đánh giá thiếu khách quan, công bằng.
Trong chính sử, Ngô Sĩ Liên viết về Trần Thủ Độ: “tuy không có học vấn,
nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông
lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa
cậy, quyền lấn át vua” 91; 229 . Sử gia còn viết: “Thủ Độ tuy làm tể tướng,
nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp và
giữ được tiếng tốt cho đến lúc chết… Nhưng cái tội giết vua và thông dâm với
hoàng hậu thì khó lẫn tránh với đời sau vậy” 91; 229]. Điều băn khoăn nhất của
Hoàng Quốc Hải trước khi bắt tay viết tập 1 của Bão táp triều Trần là viết thế
nào về Trần Thủ Độ. Ông tâm sự: “Tôi thường suy ngẫm về vai trò của nhà chiến
lược thiên tài Trần Thủ Độ. Thế nhưng qua sử sách các đời, vẫn coi ông là kẻ tàn
bạo, lộng hành và bất trung. Càng nghiền ngẫm, tôi càng thấy không thể đồng
tình với các sử gia trung đại” (“Lời tựa”, Bão táp cung đình, Nxb Thanh niên,
2005). Hình tượng nhân vật Trần Thủ Độ trong tác phẩm của Hoàng Quốc Hải vì
thế vừa chân thật lại giàu sức biện giải, tranh luận (đây có lẽ là nhân vật thể hiện
r nhất cảm hứng đối thoại với chính sử của Hoàng Quốc Hải). Nhà văn xây
dựng một Trần Thủ Độ lão luyện, quyền biến và lắm cơ mưu, bằng nhiều thủ
đoạn cao tay, kể cả việc chấp nhận để người tình của mình là Trần Thị Dung
theo thái tử Sảm về Thăng Long, để từng bước đưa người họ Trần cài cắm vào
các vị trí trọng yếu trong triều đình nhà Lý. Mọi toan tính và sự hy sinh ấy cũng
chỉ nhằm đạt đến mục đích cuối cùng: Lấy thiên hạ của họ Lý về tay họ Trần.
Cách hành xử của Trần Thủ Độ vượt khỏi sự suy nghĩ tầm thường của những kẻ
hủ nho suốt đời chỉ biết ngu trung, làm tôi chỉ thờ một chủ. Là anh hùng thời
loạn, Trần Thủ Độ buộc phải chấp nhận lựa chọn giết một vài người, thậm chí
hàng trăm người để cứu cả một đất nước đang trong cơn loạn lạc. Theo Hoàng
Quốc Hải, đó mới là chữ "nhân" của người quân tử. Dường như muốn lí giải
99
thêm cho hình tượng nhân vật, Hoàng Quốc Hải cũng nhấn mạnh phẩm chất liêm
chính trong việc cai quản đất nước của Trần Thủ Độ. Cùng bắt gặp cách nhìn của
Hoàng Quốc Hải, trong tác phẩm của mình, Trần Thanh Cảnh cũng đã để cho
nhân vật Trần Thủ Độ tự bày tỏ quan điểm, tự biện giải cho những hành động
của mình. Trần Thanh Cảnh không nhìn Trần Thủ Độ như là “giặc của nhà Lý”,
một kẻ tàn bạo bất trung. Trần Thanh Cảnh lý giải việc giành ngôi từ tay nhà Lý
là với mục đích cải cách, vì dân chứ không phải do tham vọng quyền lực. Trần
Thủ Độ nói với Lý Huệ Tông: “Ta vốn là v tướng quen cầm gươm xông ra trận
tiền chứ không ham chuyện sách sử chữ nghĩa. Thế nhưng ta cũng biết trời đất
luôn có vận, con người có số. Hơn chục năm cầm quân dẹp giặc cướp khắp đất
nước Đại Việt, ta đã nhận ra vận số nhà Lý của ngươi đã hết từ lâu” [196; 155-
156]. Lý giải cho việc Trần Thủ Độ thông dâm với hoàng hậu, nhà văn cũng trao
quyền cho nhân vật tự biện giải: “Buổi chiều hôm trước khi gặp người, ta cùng
Trần Thị Nương đã cùng nhau hái sen trên đầm, đã cầm tay thề bồi đời này kiếp
này là của nhau. Thế nhưng cũng ngay hôm đó, ngươi đã cậy thế là Thái tử con
vua mà ép bá phụ ta phải gả Nhị Nương cho ngươi khi ta vắng nhà. Ngươi đã
chiếm người con gái duy nhất của lòng ta. Mối hận ấy ta không bao giờ quên”
[196; 115]. Ở đây Trần Thanh Cảnh đã lí giải hành động trái đạo lí của người
anh hùng Trần Thủ Độ trong logic của đời sống, với rất nhiều mối quan hệ có
tính nhân - quả đan chéo nhau.
Về Hồ Quý Ly, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Quý Ly tên tự là Lý
Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, đời Hậu Hán thời
Ngũ Quý sang làm thái thú Diễn Châu. Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột châu
này, rồi là trại chủ…”, đến năm 1399 “Quý Ly đến đây tội ác đã chất đầy rồi”
[91; 326]. Các nhà sử học phong kiến đã gay gắt lên án Hồ Quý Ly và triều đại
nhà Hồ, quy trách nhiệm cho ông về việc mất nước vào tay giặc Minh. Nguyễn
Trãi, trong Cáo bình Ngô cũng viết: “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/Để trong
nước lòng dân oán giận”. Ngày nay, lịch sử đã nhìn nhận công bằng hơn, đánh
giá khách quan, toàn diện hơn về công cuộc cải cách do ông đề xướng. Với tư
cách là một nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh đã soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ,
đi sâu khám phá những uẩn khuất bên trong nội tâm, phân tích động lực của
những hành động. Một mặt, Nguyễn Xuân Khánh vẫn miêu tả Hồ Quý Ly như
trong chính sử, đó là một con người đầy cơ mưu, quyền biến, lắm tham vọng,
100
không từ bất kỳ một thủ đoạn tàn bạo nào nhằm đạt được mục đích của mình.
Mặt khác, Nguyễn Xuân Khánh cũng công bằng khi khẳng định những công lao
của Hồ Quý Ly trong việc giúp Trần Nghệ Tông chống ngoại bang. Ông cũng
quá hiểu sự mục ruỗng của hoàng hôn triều Trần, muốn tiến hành những cải cách
để đất nước trở nên giàu mạnh. Hồ Quý Ly chủ trương dùng tiền giấy thay tiền
đồng để dành đồng làm vũ khí, thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô, nhằm tạo
sự ổn định cho xã hội, bắt các nhà sư hoàn tục vì sư sãi quá nhiều, tìm cách thu
hút người hiền tài... Bên cạnh một Hồ Quý Ly thủ đoạn, tàn bạo, Nguyễn Xuân
Khánh còn cho độc giả thấy một Hồ Quý Ly cô đơn, mềm yếu và hướng thiện,
“Ta cần, ta muốn, ta thèm được có người hiểu ta...” 231; 94 . Những lúc đứng
trước bàn thờ hay pho tượng của người vợ dịu dàng, Hồ Quý Ly lại ngập tràn
cảm xúc. Lòng biết ơn và tình yêu của ông dành cho bà Huy Ninh, những tiếng
nói giao cảm không nói nên lời đã an ủi, nâng đỡ tâm hồn ông trong những giây
phút riêng tư, lắng lòng nhất. Bằng những trang miêu tả tinh tế, Nguyễn Xuân
Khánh đã dựng lên một Hồ Quý Ly với những phẩm chất không hề có trong
chính sử nhưng lại hết sức hợp lí, thuyết phục. Thông qua hình tượng Hồ Quý
Ly, tác giả còn muốn đưa đến cho hậu thế một thông điệp đầy ý nghĩa: các cải
cách tiến bộ được tiến hành khi hoàn cảnh chưa chín muồi, lòng người chưa
thuận thì sự thất bại là điều khó tránh khỏi.
3.3.2. Đối thoại với cách nhìn cá biệt, trái ngược với lịch sử
Trong xu hướng “văn chương hóa lịch sử”, nhân danh quyền sáng tạo, một
số nhà văn đã mạo hiểm chọn cách đưa ra những kiến giải riêng, trái ngược với
cách nhìn của chính sử, của số đông. Với những hiện tượng này, rất cần những
đánh giá, nhìn nhận đúng mức. Có người muốn tạo ra cách thể nghiệm mới, nhưng
chưa đưa lại hiệu quả cả về tư tưởng và nghệ thuật. Có người có dụng ý xét lại lịch
sử, hạ bệ người anh hùng. Trong B mật hậu cung, Bùi Anh Tấn đã khắc họa nhân
vật Lý Thường Kiệt từ nhiều phương diện khác nhau. Một mặt, nhà văn vẫn cho
người đọc thấy được một Lý Thường Kiệt thông minh, bản lĩnh, kiệt xuất trong
vai trò một anh hùng dân tộc. Mặt khác, nhà văn đi sâu luận giải những góc khuất
của đời sống cá nhân với những giằng xé nội tâm khi biết mình là một người đồng
tính. Việc Bùi Anh Tấn hư cấu, giả định về mối “tình trai” của một danh tướng
kiệt xuất, một anh hùng dân tộc đã vấp phải những phản ứng gay gắt của độc giả.
Có lẽ, ẩn đằng sau đó, nhà văn muốn gửi đến người đọc một thông điệp nhân bản,
101
đời thường, nhưng có người đặt câu hỏi: có thực sự cần thiết khi dùng một người
anh hùng được nhân dân đề cao, thờ phụng để đưa vào đó quan điểm riêng của
mình về những người đồng tính? Và có hiện thực chăng khi đưa vấn đề người
đồng tính đặt vào bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam thời nhà Lý?
Hội thề của Nguyễn Quang Thân được nhiều người đọc đánh giá cao trong
đổi mới về cách tiếp cận TTLS và cách thể hiện NVAH. Tuy nhiên, cũng có
những trang khiến bạn đọc “rờn rợn” khi nhà văn tô đậm nét thô kệch, v biền của
Lê Lợi như một trang chủ miền sơn cước. Một số chi tiết liên quan đến thói quen
ăn uống, tình dục của Lê Lợi là những ví dụ. Đây là lúc người anh hùng nhận đĩa
bánh chưng rán từ Thị Lộ: “Thị Lộ bày đĩa bánh chưng rán lên án thư. Bình Định
Vương vồ lấy đôi đũa trên tay bà, gắp bánh. Nhưng ông vụng về, miếng bánh rơi
xuống sàn gỗ. Ông cáu tiết vứt đôi đũa, lấy tay nhón bánh ăn ngấu nghiến” 265;
12 . Một ông vua có lúc không giữ phép tắc lễ nghi, ngôn từ bình dân đến vụng
về, dáng dấp thô kệch, kém sang, háu ăn và háu gái khiến những trang sách của
Hội thề trở nên “nóng” trong dư luận.
Hay trường hợp người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đã từng được Trần
Trọng Kim miêu tả trong Việt Nam sử lược: “Ông Nguyễn Huệ trong sau đổi tên
là Nguyễn Quang Bình là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền
biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn, giúp anh là Nguyễn Nhạc lập
nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình vương, đóng đô ở đất Phú Xuân” 83;
335 . Trần Trọng Kim còn viết thêm: “Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là
ông vua anh dũng, lấy v lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am
hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học” 83; 343]. Thế nhưng
khi đi vào trang văn của Nam Giao, Trần Vũ…, hình tượng người anh hùng
Nguyễn Huệ đã có phần trở nên “lệch chuẩn”, khó chấp nhận. Trong Gió lửa,
người anh hùng đánh Nam dẹp Bắc, trong năm ngày tiêu diệt gọn hai mươi vạn
quân Thanh xâm lược, nhưng tính cách lại thô lỗ và cuồng dâm. Trước đó, trong
truyện ngắn Mùa mưa gai sắc, Trần Vũ đã miêu tả Nguyễn Huệ như là một bản
thể “ác dâm”, “khổ dâm” trong đời sống tình dục: “Huệ chụp lấy ngực áo cưới của
Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân
ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dẻ tưởng như giải lụa bạch
đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát
chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ” [279]. Qua nhân vật bạn Ngọc Hân, Trần Vũ còn
102
hạ những câu nặng nề: “ba anh em Huệ xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ
vận may mà có quyền bính, chứ không thuộc dòng d i quý tộc vương đế chính
thống lâu đời như Hân" 279]. Trong Gió lửa, Nam Giao cũng có những trang gặp
gỡ với Trần Vũ khi miêu tả việc làm tình của Nguyễn Huệ như một kẻ cuồng bạo:
“Huệ tiến lại, mắt đỏ lừ lừ như cọp… Huệ nắm vào ngực xiêm, kéo mạnh rồi xé
ra…Thò tay bóp vỡ trâm cài đầu của Ngọc Hân… Ném tấm vương bào, rồi từ từ
cởi chiếc cạp quần…” [199; 375].
Xuất hiện gần đây, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt S cũng bị một
bộ phận độc giả cho là nhiều trang miêu tả tính dục một cách quá đà. Nhân vật
Trần Khánh Dư - người anh hùng có công lao lớn trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông lần thứ 2 trong tiểu thuyết này được tô đậm ở nhiều tật xấu. Đó là
tính “trăng hoa” nổi tiếng, thú ăn chơi xa xỉ trong các sòng bạc, trường đá gà, đua
ngựa…, cổ vũ thói hoang phí, cá độ, cờ bạc của đám vương tôn, công tử trẻ tuổi…
Tính trăng hoa của ông không chỉ khiến hai vua đã phải ngao ngán lắc đầu mà còn
nổi tiếng khắp kinh thành đến tận Vân Đồn: “Cái thú của Nhân Huệ vương là các
thiếu nữ trắng trong kiểu “hoa đồng nội”, m nữ còn trinh trắng” 250; 111], Cái
“gu” của Khánh Dư là con gái nhà lành chân chất, nết na. Nên nếu dụ dỗ, mua
chuộc không được thì ông dùng quyền uy, tiền bạc, vũ lực để khuất phục. Việc
làm này của ông không những bị dân tình kêu ca mà cả khách buôn phương Bắc
cũng không chịu được. Nếu trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, mối tình
Trần Khánh Dư - Thiên Thụy là biểu hiện của khát khao ái ân, khát khao yêu
thương, khát khao được sống là chính mình, thì mối tình này trong con mắt của
Bùi Việt S lại chỉ toát ra chất bản năng trần tục. Đây là cảnh ân ái của hai người:
“Được lời như cởi tấm lòng, đôi chân dài của Khánh Dư theo sát công chúa vào
bên trong phủ. Khi cánh cửa gỗ lim phòng khách vừa đóng sập lại thì hai cơ thể đã
quấn chặt lấy nhau. Chẳng cần màn dạo đầu hôn hít. Khánh Dư bóc váy công chúa
Thiên Thụy. Và ngược lại những ngón tay của công chúa vội vàng cởi chiếc quần
đi ngựa rộng thùng thình của Khánh Dư. Hai cơ thể được bóc trần” 250; 37]. Với
cách miêu tả bản năng này, Chim ưng và chàng đan sọt đã gặp phải sự phản đối
gay gắt của nhiều bạn đọc. Hàng loạt các bài báo đã lên tiếng với những cái tít
như: “Ồn ào xung quanh tiểu thuyết lịch sử có cảnh sex khác người”, “Chim ưng
và chàng đan sọt có nhiều chi tiết sex thô tục”, “Chim ưng và chàng đan sọt: đạp
đổ thần tượng hay tự ngã dập mặt”…
103
Cũng có thể ở đây, các nhà văn muốn chống lại thói quen, lối nghĩ sáo mòn
về nhân vật lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng với các TTLS, điều này là
không dễ. Sự nỗ lực làm mới, làm khác trong việc xử lí chất liệu lịch sử là điều
đáng ghi nhận, song đôi khi “sự tùy tiện”, “phóng tay quá đà” đã khiến nhiều nhân
vật lịch sử ít nhiều bị méo mó, tính chân thực, giá trị nhân văn bị suy giảm, mà đó
là điều khó được bạn đọc chấp nhận.
3.4. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng mƣợn lịch sử để
đào sâu, khám phá con ngƣời cá nhân, đời tƣ
3.4.1. Quan tâm thể hiện những nét đời thường, gần gũi
Bản chất, thế mạnh của tiểu thuyết là miêu tả, thể hiện con người dưới góc
nhìn đời tư. Không có chính sử nào ghi lại được những suy tư thầm kín, những
dằn vặt, dằng xé trong nội tâm người anh hùng. Chính sử cũng không quan tâm
đến các quan hệ đời thường, nếu điều đó không can hệ gì đến sự hưng vong của
triều đại. Nhưng với các TTLS, đây lại là một phương diện được các nhà văn
quan tâm đặc biệt.
Đọc các tác phẩm TTLS Việt Nam sau 1975, chúng ta thấy phẩm chất đời
thường của người anh hùng hiện lên trong những mối quan hệ với người thân, gia
đình, trong tình bạn, tình yêu… Bên cạnh người anh hùng với những chiến công
lưu danh sử sách, chúng ta còn thấy hình ảnh những con người bình thường, gần
gũi, bình dị, cũng có tình yêu nam nữ, cũng có những khuyết điểm, sai lầm, bi
kịch… Rất nhiều tác phẩm đã thể hiện thành công hình tượng NVAH ở những
khía cạnh này như trong Hội thề - Nguyễn Quang Thân, Đất trời - Nam Giao,
Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh, Sông Côn mùa lũ - Nguyễn Mộng Giác, Búp
sen xanh - Sơn Tùng,…
Trong Đức Thánh Trần (Trần Thanh Cảnh), bên cạnh phẩm chất của một
đại anh hùng, Trần Quốc Tuấn còn được xây dựng là một con người bình thường,
giản dị, yêu thương binh sĩ, xem họ như người thân: “Tất cả các tướng sĩ của
mình, Vương đều coi như con cháu trong nhà nhưng khi tập luyện thì Vương rất
khắt khe. Những lúc ngoài giờ tập luyện, Vương chăm lo cho mọi người rất chu
đáo, từ chỗ ăn chỗ ở đến chu cấp cha mẹ già, vợ con ở quê” 195; 113-114]. Trần
Quốc Tuấn hiểu rằng, có chăm lo cho gia đình người lính được yên ấm thì họ mới
yên tâm xả thân vì nước. Một số ái tướng như Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Dã
Tượng được “ông xem như con đẻ”. Tấm lòng yêu thương của Trần Quốc Tuấn đã
104
khiến các tướng lĩnh của ông rất kính phục. Yết Kiêu đã nói với Trần Quốc Tuấn:
“Với con, cuộc đời được theo hầu Ngài, kính Ngài như cha, được Ngài dạy bảo
mọi điều, sau này ngọc hầu có thể lập công với đời, lưu danh trong sử sách là con
mãn nguyện lắm rồi” 195; 117]. Không những biết yêu thương tướng sĩ, Trần
Quốc Tuấn còn là những người biết giữ lễ nghĩa, coi trọng người trí thức, thân
thiện với dân chúng… Khi đến Làng Trầm, được dân làng ở đây ra chào đón,
người anh hùng Trần Quốc Tuấn đã thể hiện sự thân thiện: “Quốc Tuấn đi sau ông
đồ và luôn miệng đáp lễ, giơ tay chào mọi người” 195; 34]. Cuộc đối thoại của
Trần Quốc Tuấn và ông đồ Dương Đức Tụng cho thấy phần nào phẩm chất đó:
“Dạ, thưa sư phụ, con và nàng Quế Lan con gái người sáng nay gặp nhau ngoài
bãi dâu, đã trót… Xin sư phụ tha tội”, “Xin đội ơn sư phụ đã không trách mắng
mà còn rộng lượng. Nhưng trước mắt cứ xin nhận của Trần Quốc Tuấn này một
lạy, coi như đã là tử tế của người” 195; 36]. Chính nhờ cách đối xử và thái độ ân
tình này, ông đã có được những gia nô, gia thần, những mưu sĩ tận trung và một
đội quân “binh gia chi tử” góp nhiều công lớn trong công cuộc kháng Nguyên bảo
vệ đất nước.
Đọc Búp sen xanh, chúng ta nhận thấy ở cậu bé Nguyễn Sinh Côn một lối
sống hòa đồng, giản dị. Khi còn bé thơ, là con một ông cử nhân, một ông thầy học
nổi tiếng nhưng cậu đối xử thân tình với hàng xóm, láng giềng, ứng xử hòa nhã
với bạn bè, học được chữ cũng đem chia chữ cho bạn, vô kinh đô cũng lo lắng cho
bà, cho dì, cho chị, cho bạn ở quê nhà. Côn cũng là cậu bé giàu lòng thương
người, thường làm phúc cho người nghèo, lén xúc gạo, khoai lát đem cho. Nguyễn
Sinh Côn cũng là cậu bé biết yêu thương và có trách nhiệm với gia đình. Những
ngày sống ở kinh thành Huế, trong lúc cha và anh đi vắng, Côn đã thay cha chăm
sóc, đỡ đần lúc mẹ đau ốm, bệnh tật. Chính cậu tiếp thêm niềm tin, nguồn sống và
sức mạnh để bà Hoàng Thị Loan vượt qua những nhọc nhằn, cô đơn, hiu quạnh và
nỗi đau về thể xác. Ở Côn toát lên sự giản dị, dễ gần khiến người lớn lẫn trẻ nhỏ
đều yêu quý. Cậu luôn tâm niệm dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ nếp nhà,
sống tự trọng, có trước có sau, lễ phép, tôn trọng người bề trên, bênh vực kẻ yếu
thế và biết ơn những người đã giúp đỡ mình trong lúc hoạn nạn, khó khăn.
Chủ đề tình yêu, nhất là tình yêu của người anh hùng luôn có sức hút lớn
đối với người đọc. Đó là Trần Khánh Dư trong tiểu thuyết cùng tên của Lưu Sơn
Minh với mối tình định mệnh và trớ trêu với công chúa Thiên Thụy; là Trần Quốc
105
Tuấn trong Đức Thánh Trần với mối tình cuồng nhiệt và say đắm với người con
gái làng Trầm tên Quế Lan. Là mối tình giữa người anh hùng Nguyễn Huệ và cô
gái tên An trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác. Trong tác phẩm này,
nhà văn đã xây dựng nên An, một nhân vật hoàn toàn hư cấu để soi sáng thêm cho
tính cách người anh hùng. An là người có phẩm hạnh, đã cho Nguyễn Huệ những
rung động đầu đời. Nhưng An bị Huệ ghen tuông vô cớ, để rồi suốt cả đời, Huệ
luôn bị ám ảnh. Ngay cả khi gặp Ngọc Hân công chúa, “chiếc cổ dài trắng” đã
từng in trong tâm trí Huệ lại hiện về. Huệ yêu An nhưng tình yêu ấy chưa bao giờ
được nói ra, Huệ và cả An chôn sâu giấu chặt nó ở trong lòng... Với Búp sen xanh,
Sơn Tùng còn hư cấu thêm nhân vật Út Huệ, người con gái để lại những rung
động thầm kín trong lòng chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành. Nhưng rồi vì nợ
nước, người thanh niên ấy đã bỏ lại tình yêu, gia đình, ra đi vì một lý tưởng lớn
lao và thiêng liêng: cứu nước, cứu dân.
3.4.2. Bổ sung, làm rõ đời sống bản năng
Đối với con người, khát khao bản năng, trong đó có bản năng tính dục là
một vấn đề hiện hữu tất yếu. Trong khi văn hóa phương Tây sớm xem nhu cầu
này là một giá trị nhân bản, đáng coi trọng thì phương Đông từ xưa vẫn coi là
điều cấm kị. Khi làn gió đổi mới thổi tới, sự nhận thức về lịch sử, về con người
đã có những thay đổi, cách nhìn về tính dục cũng cởi mở hơn nhiều. Các nhà
TTLS đương đại đã chú ý đến điều này và thể hiện nó sinh động trong nhiều tác
phẩm (Gió lửa - Nam Giao, Hội thề - Nguyễn Quang Thân, Đức Thánh Trần,
Trần Thủ Độ - Trần Thanh Cảnh, Trần Khánh Dư - Lưu Sơn Minh …)
Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân không e ngại khi “khoác” cho Lê Lợi
những rung động bản năng. Đó là ánh nhìn của nhà vua khi gặp Thị Lộ. Trước
nhan sắc quyến rũ, mặn mà của vợ yêu Nguyễn Trãi, trong Lê Lợi vừa nhói lên
một chút ghen tức, vừa không giấu được cái nhìn đầy thèm muốn: “Lê Lợi nhìn
bà đại học sĩ giống như khi ông muốn xé một con gà luộc bốc hơi nghi ngút vừa
mới được mụ Lý quẳng vào rá” 265; 11 . Không chỉ dừng lại đó, nhà văn còn
“trưng” ra những tình tiết “động trời” về Lê Lợi qua mối tình vụng trộm, táo tợn
với mụ Lý, một người đầu bếp. Có lần mụ vờ ngã vào ông và thời khắc ấy, ông
không là minh chủ: “mụ quýnh lên còn ông thì làm vội làm vàng, sợ mấy thằng
thị vệ nhìn thấy, nhanh như con gà trống” 265; 12 . Lê Lợi cũng thừa biết đó
không phải là tình yêu, nhưng ông vẫn không lý giải được hành động của mình:
106
“vì ông cảm động với cái tài làm bếp và luộc gà của mụ, hay đơn giản chỉ là một
cơn ngẫu hứng đàn ông?” 265; 12 . Ông còn tự tin về năng lực tình dục của
mình: “Ông biết không người đàn bà nào có thể quên được ông khi được ngủ với
ông một lần. Lính một ngày bằng dân cày một tháng. Ông là chúa công nhưng
cũng là lính mà” 265; 12].
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đức Thánh Trần vừa một vĩ nhân,
“v nghiệp lẫy lừng” vừa là con người với những “cuộc tình bất diệt”. Trần Thanh
Cảnh đã soi chiếu nhân vật dưới cái nhìn đời tư, “bổ khuyết” nhiều góc khuất ẩn
phía sau ánh hào quang của con người vĩ đại. Đầu tiên là cái cảm giác như “bị thôi
miên”, “ngây ra” khi thấy một người con gái đẹp như Quế Lan, hay cái cảm giác
nóng bỏng vì dục vọng bản năng, cái hừng hực nhựa sống và tràn trề đam mê của
người đàn ông khi bên cạnh công chúa Thiên Thành trong đêm lễ hội Mo Nang.
Tất cả đều được lột tả một cách táo bạo nhưng phù hợp với logic của cuộc
sống. Chính sử ghi chép về chuyện tình ái của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn
chỉ với mấy dòng ít ỏi: “Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng
không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông
dâm với nàng” 195; 222]. Trần Thanh Cảnh đã miêu tả chuyện tình ngang trái
giữa Quốc Tuấn và Thiên Thành hết sức sinh động và hấp dẫn. Ông đã dành hẳn
một chương sách để nói về mối tình này. Đêm hội Mo Nang được miêu tả hết sức
li kì và sinh động. Đó là bút pháp tả thực về sự mãnh liệt trong các hành động
hoan lạc và sự hòa hợp cao độ về mặt tinh thần: “Quốc Tuấn đỡ Thiên Thành nằm
xuống thảm cỏ êm mượt. Họ tuột xiêm y nhau ra. Bàn tay họ da diết thèm muốn
quấn quýt vuốt ve vào chỗ đã từng khao khát thầm kín nhau bấy lâu nay... Quốc
Tuấn xiết chặt Thiên Thành, rùng mình” 195; 85]; Trong Kỳ nhân làng Ngọc và
Mỹ nhân làng Ngọc, Trần Thanh Cảnh cũng tạo ra sức hấp dẫn bởi những trang
viết đầy thăng hoa về bản năng phồn thực và niềm đam mê dục tính của nhiều
nhân vật. Nhưng ở đây, niềm hoan lạc được đặt trong không khí lễ hội vừa phồn
thực, vừa huyền bí. Có sự giao hòa, cổ vũ của vũ trụ, đất trời, cây cỏ, có sự đồng
điệu đến tuyệt đỉnh của “trai anh hùng” với “gái thuyền quyên”. Tất cả cùng hòa
điệu để làm cho “dục tính” thăng hoa. Bên cạnh mối tình với công chúa Thiên
Thành, Trần Thanh Cảnh còn xây dựng một nhân vật nữ khác là Quế Lan trong
một cuộc tình đầy ngang trái. Khung cảnh ái ân của Quốc Tuấn và Quế Lan nơi
bãi dâu được Trần Thanh Cảnh miêu tả hết sức lãng mạn, huyền bí: “Quốc Tuấn
107
tung bộ võ phục trải lên nền đất phù sa mát rượi. Siết chặt nàng Quế Lan. Xiêm y
tuột ra, hai thân thể đẹp đẽ cuốn vào nhau. Xung quanh, cả bãi dâu bát ngát bỗng
rung lên dào dạt…” [195; 26-27]. Những cuộc giao hoan với công chúa Thiên
Thành trong đêm hội Mo Nang và Quế Lan bên nương dâu xanh ngát được tác giả
miêu tả như những cuộc tình táo tợn và quyết liệt. Nhưng nhà văn đã khéo tay phủ
lên đó một làn sương huyền bí và lãng mạn, nhấn mạnh đến sự hòa hợp cao độ về
mặt tinh thần để không hạ thấp người anh hùng.
Như vậy, NVAH qua những trang văn của Trần Thanh Cảnh, Nguyễn
Quang Thân, Bùi Việt S , Nam Giao, Uông Triều… không chỉ có trí tuệ, tài năng,
phẩm chất hơn người mà còn rất tình, rất “đời” trong cuộc sống riêng tư, đặc biệt
là những cảm xúc tình yêu, rung động bản năng mãnh liệt. Qua những diễn ngôn
chân thực này, nhà văn muốn bổ khuyết những mặt khuyết thiếu của chính sử,
đồng thời cũng đưa người anh hùng đến gần hơn với người đọc.
3.4.3. Tô đậm phương diện bi kịch của nhân vật
NVAH còn được nhiều nhà văn miêu tả ở phương diện bi kịch. Họ không
phải lúc nào cũng mang ánh hào quang của những chiến công lẫy lừng cùng
những tiếng hò reo của quần chúng. Nhiều người trong họ đã rơi vào những éo
le, đau xót: Số phận nguy hiểm, bấp bênh của con người thời loạn, sự đố kỵ,
ghen ghét của người đời, sự đơn độc trong hành trình thực hiện khát
vọng…Trong nhiều trang TTLS, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Trần Thủ Độ, Nguyễn
Huệ... đều là những anh hùng cô đơn. Trần Thủ Độ phải hy sinh tình yêu cá nhân
vì dòng họ, vì đất nước; Nguyễn Trãi muốn thực thi lý tưởng nhưng bị dèm pha,
bôi nhọ; Lê Lợi đau khổ vì không được sống là chính mình, luôn phải “đeo mặt
nạ” của vị tướng lĩnh, người đứng đầu; Nguyễn Huệ chống lại Nguyễn Nhạc để
hoàn thành đại nghiệp…
Trước hết là bi kịch trên ch nh trường. Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân
đã xây dựng Nguyễn Trãi trong tư cách một nhà quân sư tài ba, suốt cuộc đời
tranh đấu cho tư tưởng nhân nghĩa, thân dân, nhưng luôn đơn độc giữa một triều
đình “đậm chất quân sự”, chỉ coi trọng giáo gươm. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là
thứ nhân nghĩa vượt trước thời đại. Nhân nghĩa trước hết và trên hết là vì dân,
đánh giặc cũng là để cho dân được hưởng thái bình, no ấm, điều mà đa số quan lại
lúc bấy giờ khó lòng chấp nhận. Ngay cả với kẻ thù cũng phải lấy nhân nghĩa để
đối xử: “giặc đã cầu hoà bậc đại nhân, đại trí không ai muốn máu đổ nữa làm chi”
108
[265; 281 . Ông ra sức khuyên Lê Lợi dùng binh pháp “tâm công”: “lấy máu để
rửa máu thì bao nhiêu cho đủ”; “rửa thù hôm nay tức là đang gieo mầm cho hận
thù ngày mai” 265; 283]. Ông kiên định theo đuổi chiến lược hoà hiếu, không
phải là mẹo đánh giặc mà đó là đạo của nghĩa quân: “muốn anh hàng xóm côn đồ
không sang đánh ta, phá nhà ta, giết lợn gà của ta thì chỉ có một cách là đi lại với
y, coi y như hàng xóm 265; 274 . Để kiên định với mục đích đó, ông đã phải trải
qua những tổn thất, những tị hiềm, cả những nhục nhã, những nỗi đau không thể
chia sẻ để có được sự đồng thuận của nhà vua. Hồ Quý Ly trong tiểu thuyết của
Nguyễn Xuân Khánh cũng là một con người bi kịch. Trong hành trình canh tân đất
nước, Hồ Quý Ly không được sự ủng hộ của quý tộc lẫn dân chúng dù những cải
cách của ông vượt tầm thời đại. Dù Nguyễn Trãi và Hồ Quý Ly được xây dựng
trong bối cảnh khác nhau, con đường thực hiện lý tưởng khác nhau, nhưng điểm
chung ở họ là những con người cô đơn, bi kịch, phải nhận cái kết cục bi thảm giữa
cơn biến động của lịch sử. Nguyễn Huệ cũng là một nhân vật cô đơn trong khát
vọng. Trong Sông Côn mùa lũ, khi buộc phải chĩa súng vào Quy Nhơn, khuấy
động bàn thờ tổ tiên, làm nứt rạn tình huynh đệ, Nguyễn Huệ mang nỗi đau khủng
khiếp, nhiều đêm mất ngủ bởi loạt câu hỏi do tự mình đặt ra nhưng không dễ tìm
được lời giải đáp thỏa đáng: “Ta dừng lại chăng? Ta bằng lòng đứng bên này Lũy
Thầy nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh, họ
Lê, họ Trịnh, quận Thạc, quận Liễn cùng lũ quan thị xâu xé nhau giữa một đất
nước tan hoang?” [210; 39].
Nhiều khi, người anh hùng lại là nạn nhân của sứ mệnh lịch sử. Trong Hội
thề, Nguyễn Quang Thân miêu tả khá kĩ lưỡng thế giới nội tâm của nhân vật Lê
Lợi, qua những đối thoại với tướng sĩ, đặc biệt là những đoạn độc thoại nội tâm.
Lê Lợi tự thừa nhận: “mình cũng có nhiều dục vọng bản năng của một con người
nơi sơn dã và rất sung sướng khi những dục vọng ấy được thỏa mãn... Trong thâm
tâm ông biết mình cũng chỉ là một con người như ai, khi cao cả, khi thấp hèn, một
con người từng quen được sống “tự nhiên nhi nhiên” như Đức Thánh Khổng từng
dạy” 265; 124 . Và khi trở thành Bình Định Vương, Lê Lợi phải miễn cưỡng tạo
ra cốt cách, phong thái của một bậc quân vương: “Còn bây giờ, khi đã là Bình
Định Vương, ông muốn “tự nhiên nhi nhiên” cũng không được nữa. Ông buộc
lòng phải cao cả, phải anh hùng mà thôi” 265; 124]. Cũng vì đại nghiệp, hai lần
Lê Lợi phải hy sinh người phụ nữ thân yêu trong cuộc đời mình (Hoàng hậu Ngọc
109
Trần). Thậm chí, ông còn ghen với hạnh phúc của Nguyễn Trãi, ông thèm và khao
khát cái cảm giác có một gia đình: “Bình Định Vương liếc xéo bà, ông ngửi thấy
mùi rơm mới nôn nao, lòng ông nhói lên một chút ghen tức” 265; 11 . Đọc Hội
thề ta nhận ra rằng, sứ mệnh đế vương của Lê Lợi bị lịch sử lựa chọn trước khi do
chính ông lựa chọn.
Bi kịch trong đời sống (bi kịch gia đình, tình yêu) cũng là một mảng được
các nhà văn chú trọng khai thác. Trong Sông Côn mùa lũ, bi kịch gia đình của
Nguyễn Huệ bắt đầu khi ông lập được chiến công vang dội. Năm 1785, sau khi
Nguyễn Huệ chiến thắng quân Xiêm ở Rạch Gầm Xoài Mút trở về, Nguyễn Nhạc
cho gỡ bỏ cổng chào. Nguyễn Huệ thắc mắc thì Nguyễn Nhạc giải thích "Ấy,
chính vì chiến thắng oanh liệt ở phương Nam mà ta phải dè dặt, đừng làm điều gì
khiến phương Bắc phải lo ngại. Dĩ nhiên không trước thì sau, thế nào ta cũng đòi
lại dải đất từ Lũy Thầy trở vào. Đất đai Đàng Trong thì phải trả lại cho chúa Đàng
Trong" [209; 432]. Vở tuồng Chàng Lía lại thêm một cái cớ nữa để tình anh em
thêm rạn nứt. Đỉnh cao quyền lực khiến Nhạc luôn dè chừng em, coi em là con
ngựa bất kham cần phải canh giữ cẩn thận. Nhưng chính điều này càng khiến
Nguyễn Huệ xa anh hơn. Sau khi tiến đánh Thuận Hóa, nghe lời Nguyễn Hữu
Chỉnh (và cũng chính là mong muốn của mình), Nguyễn Huệ đã kéo quân ra Bắc
để “phù Lê diệt Trịnh”, thống nhất sơn hà. Cũng từ đó, giữa Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Huệ đã hình thành một mâu thuẫn lớn không thể hàn gắn, đẩy hai anh em
đến cảnh “nồi da nấu thịt”.
Ở Búp sen xanh, Sơn Tùng cũng xoáy sâu vào những bi kịch tuổi thơ trong
gia đình của Nguyễn Sinh Côn. Trong những bi kịch nối tiếp nhau, cậu bé Côn
hiện ra như một con người bé nhỏ, bất lực. Lên ba tuổi, ông ngoại qua đời. Rồi mẹ
mất, sự bơ vơ của đứa trẻ đạt đến đỉnh điểm: “Chiếc quan tài đặt vào lòng con đò.
Côn gục đầu xuống nắp áo quan mẹ…”. Và đêm về là những tiếng ru tê tái: “À...
ơi... Bồng bồng bế bế bồng bồng.../ Cò con theo mẹ sang sông đắm đò.../ À... ơi
đắm đò ướt hết thân cò.../ Cò con cò mẹ lò dò sang sông/ Bồng... bồng... bế... ớ...
bồng... ơ... bồng” [271; 110-111 . Điệu hồn ca dao được sửa lời để thể hiện tâm
trạng của người con mất mẹ, của người anh với đứa em mồ côi khi vừa mới lọt
lòng. Tác giả đã khéo léo đan vào lời trần thuật những lời hát ru quen thuộc của
bao bà mẹ: “con cò mà đi ăn đêm”…; “cái cò lặn lội bờ sông”… Cũng trong tiếng
ru ấy, người anh đã dự cảm được sự sống vô cùng mong manh của đứa em mình
110
đang bế trên tay. Dòng sự kiện tiếp tục tuôn chảy với những cung bậc cao hơn.
Cha Côn trở về, bé Xin qua đời. Ba cha con lại trở về quê Nghệ. Nỗi buồn đau mất
người thân dằn vặt nhức nhối tâm can Côn suốt quãng đường về xen lẫn ký ức của
những kỷ niệm về kinh thành Huế.
Trong các bi kịch của người anh hùng, bi kịch ái tình ít được đề cập trong
tiểu thuyết các giai đoạn trước. TTLS sau 1975 đã rất chú trọng khai thác phương
diện này. Chính sử không viết nhiều về chuyện tình ái của người anh hùng, nhưng
đây lại là “miền đất hứa” của tiểu thuyết.
Ở Hội thề, Nguyễn Quang Thân đặt Lê Lợi trong bi kịch tình yêu với hoàng
hậu Ngọc Trần. Thật khó khăn và đau xót biết bao khi nhìn người vợ đầu gối tay
ấp, người mẹ của đứa con mình trầm mình dưới dòng sông để đổi lấy một lời hứa
cho ngôi vua sau này trong thời cuộc lắm đổi thay và để khích động quân sĩ: “Mặt
Bình Định Vương mềm ra. Ông muốn khóc mà không thể khóc” 265; 219].
Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác cũng đã có cách xử lí riêng khi miêu
tả bi kịch tình yêu của hoàng đế Quang Trung - một tình yêu đẹp nhưng vô vọng,
để rồi hình bóng An, người yêu thời trai trẻ cứ hiện về chập chờn trong thân xác
Ngọc Hân. Trong Gió lửa, Nam Dao miêu tả cuộc đời Nguyễn Huệ gắn liền với
ba người phụ nữ, đó là An, Hoàng hậu Phạm Thị và công chúa Ngọc Hân. Người
phụ nữ đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời người anh hùng áo vải là An. Người phụ
nữ đó được Nguyễn Huệ dành cho một tình yêu âm thầm nhưng sâu đậm. Tuy
nhiên, đó cũng chính là người đã đem lại cho Nguyễn Huệ những khổ đau, dằn vặt
đến phút cuối cuộc đời. Bởi lẽ, An không lấy Huệ, cũng không yêu Huệ. Nàng
cưới Lợi, một người bình thường nhưng mang lại cho nàng cảm giác hạnh phúc và
một gia đình đúng nghĩa. Huệ đã ốm liệt giường vì quá đau khổ và càng đau đớn
hơn khi người mình yêu bộc bạch: "vì Huệ không biết thế nào là hạnh phúc. Thứ
hạnh phúc bình thường..." 199; 372 . Bởi theo An hạnh phúc là: "sống một cuộc
đời bình thường. Bình thường ở chỗ sáng cũng cười, tối cũng cười... Hạnh phúc
bình thường là bụng no, còn đầu thì vui… không quyền uy, quan tước, danh vọng,
phú quí" [199; 373 . Nhưng hỡi ôi, những điều giản dị này lại quá sức với một bậc
đế vương . Người phụ nữ thứ hai trong cuộc đời Nguyễn Huệ là Phạm Thị. Hôn
nhân giữa Phạm Thị và ông không phải xuất phát từ tình yêu, nên dù đã có với
nhau hai mặt con thì sự gắn bó này cũng không có gì sâu sắc. Chính Phạm Thị là
người rắp tâm đầu độc Nguyễn Huệ. Công chúa Ngọc Hân, con gái yêu của vua
111
Lê, là người phụ nữ thứ ba có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Nguyễn Huệ. Nàng đến
với Nguyễn Huệ vì những mưu cầu chính trị của các “đấng bề trên” chứ không
phải là một mối lương duyên, nhưng tình yêu của nàng với người anh hùng lại là
điều có thật.
Như vậy, nhờ quan tâm, tô đậm con người cá nhân, đời tư của NVAH, các
nhà tiểu thuyết đã chuyển mối quan tâm từ phản ánh sự kiện, con người của lịch
sử sang khám phá con người số phận trong dòng chảy lịch sử. Người anh hùng vì
thế, trở nên đa diện trong tính cách, thật hơn, gần gũi hơn trong phẩm chất
người. Đây cũng là biểu hiện của cái nhìn hiện thực, đậm tính nhân bản về người
anh hùng.
Tiểu kết chƣơng 3
TTLS Việt Nam sau 1975 nhìn chung đã xây dựng thành công một thế giới
NVAH phong phú, đa dạng, vừa có nhiều mặt đồng hướng với chính sử, với tâm
thức cộng đồng, vừa có nhiều sáng tạo, cách tân, góp phần làm phong phú hơn
nhận thức của người đọc về người anh hùng. Việc nhận diện loại hình nhân vật
anh hùng là cần thiết, điều này sẽ làm r hơn quan niệm, cảm hứng, bút pháp thể
hiện đa dạng của các nhà văn. Có nhiều cách phân loại thế giới NVAH trong tiểu
thuyết. Dựa trên lý thuyết diễn ngôn, xem TTLS trước hết như các diễn ngôn về
lịch sử của nhà văn, chúng tôi đi sâu khảo sát 3 kiểu loại nhân vật nổi bật: 1. Loại
NVAH xây dựng theo xu hướng đồng hướng với chính sử; 2. Loại NVAH xây
dựng theo xu hướng bổ khuyết, đối thoại với chính sử; 3. Loại NVAH xây dựng
theo xu hướng mượn lịch sử để đào sâu, khám phá con người cá nhân, đời tư. Tất
nhiên, ba xu hướng này không phải lúc nào cũng r ràng mà có sự kết hợp, đan
xen sinh động trong thế giới NVAH của các nhà văn. Ba xu hướng sáng tạo này
thể hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới NVAH, đồng thời cũng là biểu hiện
sự phân hóa sinh động của TTLS Việt Nam sau 1975.
Tuy nhiên, không phải hình tượng NVAH nào cũng được xây dựng thành
công, được dư luận ghi nhận. Vẫn còn những cách nhìn xơ cứng về người anh
hùng, vẫn còn những NVAH không có sáng tạo gì mới so với chính sử. Đặc biệt
đây đó có hiện tượng mượn lịch sử, mượn NVAH để thể hiện những ý đồ cá nhân,
những định kiến khác biệt với tâm thức cộng đồng và trái ngược với tâm lý thành
kính đối với các anh hùng dân tộc.
112
Chƣơng 4
PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975
4.1. Đặt nhân vật anh hùng vào những tình huống gay cấn, căng thẳng
4.1.1. Tình huống đất nước gian nguy, thù trong giặc ngoài
Tình huống (situation) hay còn được gọi là tình thế thường được hiểu là
những thời điểm, những khoảng khắc thời gian nhất định mà ở đó cuộc sống thể
hiện những gì đậm đặc nhất, điển hình nhất, giúp cho tính cách nhân vật bộc lộ.
Tình huống thường được nảy sinh từ mâu thuẫn, xung đột (con người - hoàn cảnh,
xung đột tâm lý, nội tâm…). Tình huống là phạm trù đặc biệt quan trọng tạo nên
tính hấp dẫn của truyện ngắn, nhưng với tiểu thuyết, chúng cũng đóng vai trò
không nhỏ, nhất là với các TTLS. Thực ra, trong chính sử, các sử gia cũng rất biết
chọn các thời điểm, các sự kiện đặc biệt, quan trọng, đây là cơ sở để các nhà văn
tạo dựng tình huống. Để xây dựng NVAH, các cây bút TTLS đã quan tâm xây
dựng nhiều tình huống độc đáo, ấn tượng, gay cấn: tình huống đất nước gian nguy,
thù trong giặc ngoài, tình huống cận kề cái chết, tình huống lựa chọn nghiệt ngã…
Tình huống đất nước gian nguy, thù trong giặc ngoài là cách thức thể hiện
r vai trò, bản lĩnh của người anh hùng trong những khoảng khắc gian nan của lịch
sử. Trong Ngô Vương - Phùng Văn Khai đặt nhân vật Ngô Quyền vào bối cảnh đất
nước lâm nguy, bên trong có kẻ loạn thần bán nước, bên ngoài thì kẻ thù Nam Hán
lăm le bờ c i: “Nay việc nước gặp phải phản thần Kiều Công Tiễn làm trái đạo
trời, tự tiện giết chúa rước giặc ngoại xâm vào bờ c i… Phản thần tuy đã tự vẫn,
song mầm hoạ nó gây ra đang như dầu sôi lửa bỏng ập xuống đầu binh tướng cùng
muôn dân An Nam ta. Hán đế Lưu Cung đã mấy lần phái binh xuống hòng chiếm
cứ An Nam, đặt nước ta thành quận huyện của Hán triều” 227; 282]. Trước tình
hình nguy nan, Ngô Quyền được sự suy tôn của các tướng và sự chỉ bảo của các
bậc trưởng lão: “Nay Giao vương Lưu Hoàng Tháo đem mười vạn binh thuyền,
tiếng là giúp phản thần Kiều Công Tiễn tại vị song bên trong là muốn nuốt trọn
An Nam mà thôi. Nhớ ngày trước, ta cùng các tướng đã hai phen huyết chiến với
bọn Lý Khắc Chính, Lý Tiến, Trần Bảo, tốn bao máu xương mới đuổi được chúng
về phương Bắc. Nay chỉ vì mưu riêng, vì lòng tham làm mờ mắt mà họ Kiều lại
113
rước hoạ xuống phương Nam… Nay ta được các tướng suy tôn cầm binh đánh
giặc, lại được các bậc lão trượng trong ngoài Đại La thành chỉ cho điều hay lẽ phải
ở đời, muốn nhân đây hỏi kế đánh giữ, tiến lui trước giặc mạnh” 227; 282]. Ngô
Quyền nói với các tướng của mình: “Ngày trước, Tào Tháo từng đem trăm vạn
hùng binh xuống Đông Ngô cậy vào thuyền lớn trùng trùng mà khinh suất cơ trời
đến nỗi suýt nữa mạng vong. Nay giặc vào núi sông ta, ta tất sẽ nhờ vào linh khí
của núi sông bờ c i mà phá chúng. Nơi cửa biển Bạch Đằng sẽ là mồ chôn binh
tướng Giao Vương” 227; 290 . Qua ngòi bút Phùng Văn Khai, vượt lên trên tất cả
những thử thách cam go đó, Ngô Quyền đã lãnh đạo quân dân chuẩn bị thế trận
toàn diện để đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Bằng lịch sử, chấm dứt
một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ trong lịch sử dân tộc.
Nhân vật Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng - Vũ Xuân Tửu) là người mang
trong mình “khát vọng độc lập”. Nói về Đinh Bộ Lĩnh, nhà sử học Lê Văn Hưu
hết lời ca ngợi: “tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời… một
phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết”. Dựa vào nguồn sử liệu ít ỏi đó, Vũ
Xuân Tửu đã miêu tả tình huống cho sự xuất hiện của người anh hùng: “Từ khi,
Ngô Tiên Vương băng hà, dẫn đến chuyện Dương Tam Kha cướp ngôi cháu,
khiến trăm họ oán thán, quan quân không phục, nơi nơi đóng binh cát cứ.” 275;
12 , “Ất Sửu (965) thế mà loạn to.” 275; 21 . Loạn cát cứ 12 sứ quân, khiến tình
cảnh đất nước loạn ly, Đinh Bộ Lĩnh với tài năng sáng suốt, dũng cảm mưu lược
hơn người đã đứng lên dẹp loạn, làm cho đất nước được thái bình, người dân được
đoàn tụ.
Nhân vật Trần Thủ Độ trong Bão táp cung đình được đặt vào tình huống
đất nước rối ren, triều đại mới hưng thịnh thì kẻ thù lăm le dòm ngó. Đại Việt
những năm cuối triều đại nhà Lý đã trở nên hết sức bi đát. Trần Thủ Độ đã nói
với Lý Huệ Tôn: “Cũng chỉ trong vòng mấy chục năm cha con bệ hạ đã tiêu diệt
hết nửa số dân của mình bằng đói kém, dịch bệnh. Nếu bệ hạ tiếp tục nắm giữ
ngôi trời, tôi tin với tài năng và trí tuệ của bệ hạ chẳng bao lâu bệ hạ sẽ hoàn tất
sứ mệnh diệt chủng” 211; 37 . Trước thực trạng đất nước có nguy cơ tiêu vong,
Trần Thủ Độ tự nhủ: “Nếu lúc này còn chần chừ là mất cơ hội. Khi mà Đoàn
Thượng, Nguyễn Nộn - hai thế lực kình chống triều đình liên kết lại với nhau, thì
không những cơ đồ nhà Lý sụp đổ, mà vây cánh họ Trần cũng không có đất để
114
chôn” 211; 35 . Hoàng Quốc Hải đã tái hiện sinh động một Trần Thủ Độ sống
có trách nhiệm với dòng tộc, đất nước, đầy thông minh, linh hoạt trong đối phó
với gian nguy. Có công lớn củng cố triều đại mới, Trần Thủ Độ cũng đồng thời
là vị thủ lĩnh tinh thần, người góp phần to lớn vào những thắng lợi vĩ đại của
quân dân nhà Trần trong sự nghiệp chống Nguyên Mông, bảo vệ vững chắc bờ
c i đất nước.
Nhân vật Nguyễn Tất Thành trong Búp sen xanh được Sơn Tùng đặt vào
bối cảnh nước mất, nhà tan. Trước mắt Nguyễn Tất Thành là một xã hội nô lệ, đen
tối, bế tắc. Nguyễn Tất Thành lặng người trước cảnh: “Một người gầy gò, đội nón
gỗ, chân đất, vấn xà cạp từ đầu đến gối xuống mắt cá chân, đang khom người về
phía trước kéo xe gọng đồng mui trần. Trên xe một người ngồi ngả hẳn về phía
sau thành xe, bụng to vượt mặt, cái mũi to hình thuyền choán hết bộ mặt râu xồm
xoàm, mắt mèo, miệng ngậm cái điếu như củ tỏi, khói xì ra đằng mũi” 271; 62].
Rồi cảnh thành Vinh có hào bao bọc, có tường xây cao dày, có lính gác và có cả
cờ tam tài của nước Pháp. Trên hành trình dài từ Nghệ An đến kinh thành Huế,
đâu đâu Nguyễn Sinh Côn cũng gặp cảnh bất công với bộ mặt gian ác của những
tên thực dân cướp nước. Côn cũng trực tiếp chứng kiến giờ phút đức vua Thành
Thái bị chúng đày biệt xứ trong bộ dạng thảm thương, cảnh cố đô Huế với sự
nghênh ngang của bọn giặc Tây Dương… Tất cả những sự kiện đó đã kết lại bằng
hình ảnh Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng: “Anh nhìn vào mắt những
người thợ thuyền trao gửi niềm tin. Nước mình, dân mình sẽ không cam chịu cảnh
ngựa trâu này mãi được” 271; 346 ,… Sơn Tùng đã đạt được những ý đồ nghệ
thuật của mình khi đặt hành trình trưởng thành của cậu bé Côn gắn liền với bao
biến cố đau thương của gia đình và Tổ quốc. Những nghịch cảnh ấy đã thôi thúc
người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
4.1.2. Tình huống cận kề cái chết
NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975 nhiều khi còn được đặt vào tình
huống cận kề cái chết. Khi rơi vào ranh giới giữa sinh - tử, phẩm chất của người
anh hùng càng được thể hiện sâu sắc và nổi bật. Đó là Lý Thường Kiệt (Tám triều
vua Lý - Hoàng Quốc Hải), Trần Quốc Toản (Trần Quốc Toản - Lưu Sơn Minh),
Trần Quốc Tuấn (Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh), nhóm thám báo An Nam
(Thiệu Bảo Bình Nguyên - Hồng Thái),…
115
Trong Tám triều vua Lý, Hoàng Quốc Hải đặt Lý Thường Kiệt vào
những tình huống đầy cam go, thử thách, thậm chí có khi cận kề cái chết để từ
đó cho thấy tài năng của ông trong việc lãnh đạo quân sĩ qua cuộc chiến chống
quân xâm lược. Trong cuộc tấn công nhà Tống (1075), quân Đại Việt do Lý
Thường Kiệt dẫn quân đã bước đầu giành được chiến thắng. Quân đội của ông
đã chiếm được một số vùng đất quan trọng của người Tống như Khâm Châu,
Quảng Nguyên, nhưng khi đến thành Ung Châu đã gặp phải rất nhiều khó khăn
khi gặp sự kháng cự quyết liệt. Suốt hơn hai mươi ngày ròng rã, quân đội nhà Lý
đã dùng đủ mọi cách tấn công thành Ung Châu nhưng không thành công, đã thế
“quân ta cũng tổn thất tới mấy ngàn người, hơn chục thớt voi chiến bị chết, vũ
khí bị cháy cũng không ít. Tổn thất lớn nhất là ta có tới năm vị đô tướng bị thiệt
mạng” 220; 249 . Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt triệu các tướng về trung
quân để bàn kế sách phá thành: “Ta muốn nghe kế của các ông, nhưng kế gì thì
kế cũng không được hoang hủy máu xương của sĩ tốt” 220; 250]. Sau những
ngày nghị bàn với các tướng sĩ, Lý Thường Kiệt đã chọn cách dùng tù binh để
làm phu đắp thành: “Cứ mười tên tù binh sắp thành một dây. Mỗi tên đều bị
buộc một sợi dây vào cổ tay trái. Mười cổ tay ấy trong vào sợi dây dài, cứ cổ tay
nọ cách cổ tay kia là ba sải tay, đầu dây do mộ người lính của ta nắm giữ. Bất cứ
một biểu hiện nào có vẻ chống lại quan quân đều bị chém ngay lập tức mà không
cần phải tâu báo lên cấp trên. Tù binh chết hụt đều như gà phải cáo nên nhất nhất
tuân theo không một kẻ nào dám chống lại” 220; 251-252]. Và dưới sự chỉ đạo
trực tiếp, tài tình của Lý Thường Kiệt, cộng với sức mạnh của quân ta, cuối cùng
quân Đại Việt đã làm chủ được thành Ung Châu... Công lao của Lý Thường Kiệt
đối với đất nước đã được vua Lý Nhân Tông hết mực ca ngợi: “Thường Kiệt là
một vũ tướng trải thờ ba triều, công lao trùm thiên hạ. Lòng trung của lão tướng
khỏi phải nghĩ bàn” 220; 721-722].
Trong Trần Quốc Toản, Lưu Sơn Minh miêu tả nhiều trận chiến mà cái chết
luôn cận kề vị tướng trẻ. Thế nhưng đội quân “phá cường địch báo hoàng ân” do
Trần Quốc Toản chỉ huy là nỗi khiếp sợ của quân giặc. Đặc biệt, hình ảnh Trần
Quốc Toản trong trận chiến cuối cùng đã để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng
độc giả. Đó là trận chiến bên bờ sông Như Nguyệt với tướng giặc Thoát Hoan -
một trong những tướng nổi tiếng thiện chiến, vậy mà đội quân của Quốc Toản đã
116
khiến Thoát Hoan phải điên đầu. Hoài Văn Hầu đã bị trúng mũi tên độc. Tuy
nhiên không hề tỏ ra đau đớn hay mềm yếu, “Chàng nhổ phắt tên đi và cứ thế tung
hoành xung sát. Chân bên phải bị thuốc độc làm cho tê dại mà chàng không biết.
Mắt hoa lên chàng cũng không hay. Hoài Văn Hầu cứ tả xung hữu đột diệt giặc
cho tới khi bọn chúng tan tác chạy qua sông thì từ từ gục xuống” 237; 227]. Hình
ảnh này như một cuốn phim quay chậm đầy chất sử thi về vị tướng trẻ tuổi hiên
ngang ngã xuống trên chiến trường.
Nhân vật Trần Quốc Tuấn trong Đức Thánh Trần đã trực tiếp chỉ huy nhiều
trận đánh và có những trận quân Trần thương vong không nhỏ, tính mạng của
chính ông cũng bị đe dọa. Vương đau đớn tột cùng khi thấy hàng vạn sinh linh bị
nhấn chìm trong bể máu trên dòng sông Thiên Đức. Ở giây phút đau đớn ấy, Trần
Quốc Tuấn đã chắp tay vào ngực, ngửa mặt lên trời và quay lại nói với Dã Tượng:
“Ta đã từng mong đánh một trận cho bọn giặc sợ đến ngàn năm, không bao giờ
dám sang xâm phạm nước ta nữa. Nhưng xong rồi, ta thấy mình đã hại nhiều sinh
linh quá! Cầu mong sao nước Nam mình không bao giờ phải đánh những trận như
thế này nữa ” 195; 229].
Với Thiệu Bảo bình Nguyên, hình ảnh những người lính thám báo Đại Việt
được Hồng Thái khắc họa sinh động và sâu sắc. Trên đường trở về đất mẹ, nhóm
thám báo do Nguyễn Thế Quang chỉ huy đã gặp phải phục binh của quân Nguyên
Mông. Hai toán kỵ binh của chúng ồ ạt xông ra chặn ngang đường xuống núi của
các binh sĩ Đại Việt. Trước sức mạnh như hổ báo của quân giặc, dù bị một “nhát
chém vào đùi, máu chảy đầm đìa ướt sũng ống quần”, Thế Quang vẫn gắng sức
đánh trả lại bầy lang sói hung tợn. Còn Đỗ Thành cũng bị trúng dao, lưỡi dao cắm
sâu vào mạn sườn nhưng anh vẫn cố sức nhổ dao ra “phóng trả xuyên ngang ngực
gã Mông Cổ” 257; 161 , dù “máu ra xối xả” làm Thành kiệt sức, nhưng chàng
vẫn cố bám theo em lao xuống bờ dốc. Hàng loạt mũi tên phóng tới, một mũi
xuyên trúng lưng của Thành. Bấy giờ Thành đã trúng ba mũi tên, toàn thân nhuốm
máu, còn người em Phạm Thái cũng đầm đìa máu trên người. Nhưng ý chí quyết
tử và tinh thần đồng đội đã giúp họ không dễ dàng gục ngã: “Đỗ Thành dùng chút
hơi tàn cuối cùng gạt đỡ những mũi tên bay về phía Phạm Thái, chàng cố lết tới bờ
sông Bản Thí rồi gieo mình vào dòng nước xiết chảy xuôi về đất mẹ”. Ở dốc bên
kia, Thế Quang đang đánh nhau kịch liệt với Lý Hằng,… Bị một nhát sà mâu đâm
117
trúng ngực, Thế Quang ngã nhào khỏi mình ngựa, chàng gượng dậy, một tay vịn
vào gốc cây, một tay múa giáo cố chống chọi với hàng nghìn binh khí đâm xỉa.
Trước lúc lâm chung, Thế Quang mở mắt trừng trừng hướng về đất mẹ rồi mỉm
cười mãn nguyện lúc vọng tiếng quân reo” 257; 164-165].
4.1.3. Tình huống lựa chọn nghiệt ngã
Dưới ngòi bút của các nhà văn, nhiều NVAH được đặt trong những tình
huống lựa chọn nghiệt ngã. Lý Thường Kiệt trong Tám triều vua Lý phải đứng
trước sự lựa chọn đầy thử thách, một bên là nghĩa vua tôi, một bên là tình vợ
chồng: “Ta đã chọn vua mà bỏ nàng. Đó là điều tàn nhẫn, là góc tăm tối của đời ta
không gì có thể biện minh được, dù sau này ta có cơ may trở thành đấng bậc gì thì
đó vẫn cứ là điều bất cập của một con người” 219; 457 . Để rồi suốt cuộc đời
mình, ông luôn phải day dứt về nỗi khổ vì đã để mất mẹ con Thuần Khanh: “Thật
ra trong những năm qua ta cố ghìm nén lòng mình, coi như đây là số phận đã an
bài. Ta tìm niềm vui trong công việc, gắn cuộc đời và số phận mình vào sự cường
thịnh của quốc gia, dân tộc. Coi mấy năm chung sống với Thuần Khanh chỉ là một
giấc mơ đã thuộc về quá vãng” 219; 87].
Trong Hội thề, Lê Lợi buộc phải hy sinh hoàng hậu Ngọc Trần cho lễ tế
thần. Ngọc Trần là vợ vua, nhan sắc “khuynh thành”, thông minh, mạnh mẽ lại
có anh trai ở vị trí “dưới một người trên vạn người”. Những tưởng không còn gì
hạnh phúc hơn. Vậy mà chính những điều tưởng như hạnh phúc ấy là sức ép, tạo
nên số phận bi kịch của nàng. Lê Lợi đã gạt lệ hy sinh Ngọc Trần làm lễ tế quân:
“Lòng ta đau như cắt. Nhưng các tướng và quân sĩ muốn thế. Nàng cũng muốn
thế. Ta còn biết làm sao?”; “Mặt Bình Định Vương mềm ra. Ông muốn khóc mà
không thể khóc. Ngọc Trần như trong cơn hoảng loạn muốn dứt áo đi ngay… Lễ
xong,… nhà vua nhìn tất cả với đôi mắt vô cảm vô hồn. Không ai đoán được ông
đang nghĩ gì, vui vẻ hay hối tiếc” 265; 219-220]. Là minh chủ, Lê Lợi đặt lợi
ích của nghĩa quân lên trên hết, ông phản kìm nén nỗi đau, phải hy sinh kể cả
những người thân yêu của mình.
An Tư trong sử sách chỉ được biết đến với vài dòng sử liệu ngắn ngủi: là
một trong hai vị công chúa nổi tiếng nhất trong lịch sử nhà Trần, bà phải kết hôn
với Trấn Nam vương Thoát Hoan, giữ cho quân Trần rút lui an toàn trong chiến
tranh chống Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285). Nhưng trong Thăng Long nổi
118
giận, nàng công chúa này được xây dựng thành một nhân vật khá đầy đặn. Tác giả
đã hư cấu một tình huống éo le, khó xử: Thoát Hoan ngang ngược đòi Đại Việt
phải dâng công chúa An Tư, vua quan trong triều bàn tính mãi nhưng cũng chẳng
đưa ra được quyết sách gì: “Các đại thần không lạm bàn trong chuyện này.
Thượng hoàng không quyết, bệ hạ cũng không quyết” 213; 377 . Hoàng Quốc
Hải đặt An Tư vào tình huống buộc phải lựa chọn: hoặc giữ trọn tình yêu hoặc
đem thân vào chốn ô nhục để cứu vãn tình thế đất nước. An Tư đã phải đau đớn
lựa chọn: “Nàng đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan. Đêm nằm nhức nhối
không sao ngủ được. Phần thương anh, thương cháu, thương nước, thương dân.
Phần xót xa mối tình trong sáng giữa nàng với Chiêu Thành vương” 213; 377].
Trong tình thế bi kịch, giằng xé nội tâm, cuối cùng An Tư đã quyết định "gạt tình
riêng, đền nợ nước". Đây là hành động cao cả của một liệt nữ, giúp cứu vãn tình
hình khi thế nước nguy nan. Cũng như An Tư, Huyền Trân công chúa được hứa gả
cho Chế Mân vì tình hòa hiếu hai nước. Huyền Trân cũng bị đặt vào tình huống
lựa chọn giữa tình riêng và nợ nước, và nàng phải chấp nhận làm vợ Chế Mân để
lấy lại hai châu cho Đại Việt. Trong Sông Côn mùa lũ, nhân vật Nguyễn Huệ bị
đặt vào tình huống buộc phải lựa chọn: vì tình thân, giữ đạo hòa hiếu hay vì trăm
họ, vì khát vọng thống nhất non sông. Trong tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã
nhiều lần để nhân vật Nguyễn Huệ tự đấu tranh tâm lí, dằn vặt, đau khổ khi buộc
phải đem quân đánh lại anh mình.
Đặt NVAH vào tình huống gay cấn, căng thẳng là một cách thức để khẳng
định bản lĩnh, ý chí của người anh hùng. Tất nhiên, từ các sự kiện đã được chính
sử ghi chép lại, các nhà văn đã sáng tạo ra các tình huống hấp dẫn, mang tính điển
hình, và đây cũng là những trang hay nhất đề cao, khẳng định vẻ đẹp, tầm vóc của
các anh hùng dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
4.2. Kết hợp hài hoà nhiều thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nhân vật
anh hùng
4.2.1. Miêu tả người anh hùng qua chân dung, ngoại hình
Trong tiểu thuyết hiện đại, ngoại hình góp phần quan trọng thể hiện tính
cách nhân vật. Không còn những miêu tả mang tính ước lệ như trong văn xuôi
trung đại, tiểu thuyết hiện đại xem việc xây dựng ngoại hình nhân vật như một
“chiến lược” được cân nhắc kĩ càng. Nhà văn luôn ý thức việc lựa chọn những chi
119
tiết đặc sắc, ấn tượng, thể hiện nét riêng của nhân vật. L.Tolstoi là bậc thầy trong
khắc họa các nhân vật bằng chi tiết chân dung, đặc biệt là khuôn mặt. Với Anđrây
là nụ cười thánh thiện, sảng khoái; với Napôlêông là nụ cười ẩn ý và giả tạo; với
Natasa là cặp mắt luôn mở to, có khi mơ màng thả hồn về một thế giới xa xăm nào
đó. Còn La Quán Trung trong Tam quốc diễn nghĩa thì miêu tả nhân vật qua nhân
tướng học. Ví như, Quan Công thì ông luôn đặc tả khuôn mặt đỏ, kể cả lúc chết để
đối lập với những khuôn mặt trắng là bộ tướng của kẻ nịnh thần. Trong nhiều tiểu
thuyết cổ điển Trung Hoa, chân dung được miêu tả theo kiểu “truyền thần”, ngoại
hình đã hé lộ tính cách, phẩm chất của nhân vật.
Do ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi, nhiều TTLS Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến năm 1930 và một số TTLS giai đoạn 1930 - 1945 cũng sử dụng cách
thức miêu tả chân dung theo kiểu tô đậm nét khác biệt kiểu nhân tướng học để
khắc họa nhân vật. Hầu hết các tiểu thuyết của Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Triệu
Luật, Hà Ân, Nguyễn Huy Tưởng… đều rất quan tâm miêu tả ngoại hình theo
hướng này. Trong khi miêu tả, còn xen kẽ lời bình luận của tác giả có tác dụng
dẫn dắt tình cảm của người đọc.
Sau năm 1975, nhiều cây bút TTLS cũng chú trọng miêu tả ngoại hình, nhưng
chú ý kết hợp “nét người” và “nét thần”. Có nhiều trang miêu tả chân dung thành
công trong Ngô Vương của Phùng Văn Khai, Đức Thánh Trần của Trần Thanh
Cảnh, Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê
Đình Danh, Nhất thống sơn hà của Vũ Thanh,… Trong Bão táp triều Trần của
Hoàng Quốc Hải, ngoại hình Trần Quốc Tuấn được miêu tả ở nhiều độ tuổi, nhiều
thời điểm khác nhau, nhưng đều toát lên cốt cách, phong thái của một tướng lĩnh:
“Các bắp thịt tay chân ông nổi cuộn lên thành múi, như đô vật lúc gồng người giữ
thế… Cái đầu hổ phù xăm trên lồng ngực y hệt đầu hổ phù thêu trên áo.” 213;
267-268 . Còn khi vào thiết triều, ông luôn thể hiện sự uy nghi, trang nghiêm của
một vị tướng đứng đầu triều đình: “Trần Quốc Tuấn uy nghi trong bộ v phục màu
tía, đai vàng thêu chim phượng; ngực áo thêu hình hổ phù. Bữa nay Hưng Đạo đeo
giáp hộ tâm, nên ngực ông càng đẫy đà; đầu đội kim khôi, ngang sườn dắt thanh
trường kiếm, nom ông uy nghi lẫm liệt như một vị thiên tướng” 213; 270 . Chỉ
với một vài điểm nhấn trong nghệ thuật miêu tả, Hoàng Quốc Hải đã khắc họa
được phẩm chất của một con người văn v toàn tài. Trần Thanh Cảnh cũng rất
120
dụng công trong việc khắc họa ngoại hình Trần Quốc Tuấn ở Đức Thánh Trần:
“Khuôn mặt vuông vức ngời ngời. Mũi cao miệng rộng, cặp lông mày rậm càng
làm nổi bật đôi mắt to sáng rực” [195; 22]. Khi Quốc Tuấn xuất hiện mọi người
đều phải xuýt xoa ngưỡng mộ: “Cả kinh thành nhìn thấy chàng phi ngựa, múa
gươm, bắn cung và thi triển các tuyệt k v nghệ Đông A trên Giảng V Đường
đã xuýt xoa bảo nhau, Trần Quốc Tuấn như là tướng nhà trời được cử xuống giữ
yên bờ c i nước nhà Đại Việt vậy” [195; 22
Trong TTLS Việt Nam sau 1975, với cách nhìn mới, hình tượng anh hùng,
vĩ nhân ngày càng giảm tính sử thi mà gia tăng chất đời tư của tiểu thuyết. Trong
Hội thề, Nguyễn Quang Thân nhiều lúc mô tả Nguyễn Trãi như một kẻ thư sinh,
mệt mỏi: “Nguyễn Trãi đứng dậy. Cái vẻ mệt mỏi, ẻo lả thư sinh biến mất”;
“Thân hình mảnh khảnh của vị thái học sinh Nguyễn Trãi nổi danh khắp Bắc Hà
không chịu nổi sức nặng của một ông già to béo” 265; 38]. Trong Gió lửa, Nam
Giao lại nhấn mạnh những nét “dị tướng” ở Nguyễn Huệ: “to ngang, hơi thấp, tay
dài đến đầu gối, di chuyển vừa nhanh vừa chắc như một loài nửa gấu nửa vượn.
Mặt nổi mụn, mũi sư tử, một mắt to, một mắt nhỏ, Huệ nhìn ai cũng như chọc
gươm vào đồng tử người đối thoại” [199; 333]. Hình dáng ấy đã cho người đọc
thấy, cái dị thường của Nguyễn Huệ đã chứa đựng một điều gì đó bất thường
nhưng lớn lao và khó đoán định.
Như vậy, bằng nghệ thuật tạo hình đặc sắc, các tác giả TTLS Việt Nam
sau 1975 đã dựng nên nhiều chân dung nhân vật lịch sử sinh động. Các chân
dung không chỉ được thể hiện ở góc nhìn sử thi, thể hiện nét khác thường mà còn
ở cả phía đời thường của người anh hùng, khiến họ đến với người đọc vừa là
những vĩ nhân, vừa là những con người gần gũi, thân quen.
4.2.2. Miêu tả người anh hùng qua lời nói, hành động
Miêu tả nhân vật thông qua lời nói, hành động là thủ pháp quen thuộc trong
văn xuôi từ thời trung đại. Trong văn xuôi hiện đại, thủ pháp này vẫn được phát
huy trên một tinh thần mới, phù hợp với khuynh hướng sáng tác, bút pháp của nhà
văn. Các nhà TTLS sau 1975 đã khá thành công khi sử dụng thủ pháp này.
Khi khắc hoạ tính cách một nhân vật lịch sử toàn tài, toàn đức, được nhân
dân tôn thờ là Trần Quốc Tuấn, tác giả của Bão táp triều Trần đã chú ý khắc họa
lời nói, hành động của nhân vật, đặt trong nhiều mối quan hệ vua - tôi, cha - con,
121
tướng - sĩ. Trong quan hệ với vua, theo vai vế là bậc bề trên, là anh của Thánh
Tông, vừa là bá phụ vừa là cha vợ của vua Nhân Tông, nhưng mỗi khi gặp vua
ông luôn “kính cẩn giữ đạo bề tôi”; “Ông vừa quỳ lạy thượng hoàng xong, Nhân
Tông đến, ông lại quỳ” 213; 32]; hai vua xin được miễn lễ vua tôi để theo lễ cha
con, bác cháu, ông trả lời: “Quan gia thể tình mà rộng lượng, ấy là quyền của quan
gia; còn đạo làm tôi, Quốc Tuấn này đâu dám trái” [213; 32 . Quốc Tuấn là người
luôn lấy lợi ích dân tộc làm trọng. Ông luôn chủ động gỡ bỏ hiềm khích đã âm ỉ
giữa hai dòng trưởng - thứ mấy mươi năm. Nỗi uẩn ức, những tâm sự dấu kín đã
được nói ra bằng lời, bằng hành động làm cho Thánh Tông vô cùng cảm kích. Lời
nói chân tình và hành động trong buổi chia tay đầy cảm động, những giọt nước
mắt “hóa giải oan cừu” đã đưa hai vĩ nhân đi vào lịch sử. Đó còn là khi ông ra đón
vua ở bờ sông, thấy cảnh vua tôi lam lũ ông thực sự đau lòng và cảm thấy như
chính mình có lỗi: “Quốc công chống kích nhảy xuống ngựa, rồi lật đật leo lên
thuyền ngự sụp lạy” 213; 317]. Khi ngẩng lên thấy “ai nấy đều chú mục gườm
nhìn mình”. Ông hiểu mọi người đang có ý nghi ngại ông bởi cây kích ông chống
có đầu bịt sắt nhọn, Hưng Đạo “bèn ném chiếc kích xuống sông” 213; 317 . Hành
động ấy cho thấy sự trung chính của Hưng Đạo đối với nhà vua, đồng thời đã xua
tan mọi nghi ngờ của quân sĩ. Trong quan hệ cha con, ông luôn giáo dưỡng các
con theo nền nếp. Vương dạy các con thấu đáo đạo làm người, trước khi học đạo
làm tướng. Ông thử lòng trung của các gia nô, các con, người con út nói lời trái
và dân chúng, Trần Hưng Đạo luôn gần gũi, thân tình. Với họ, ông chưa bao giờ thể
hiện mình là tướng lĩnh, bề trên. Yết Kiêu và Dã Tượng là hai gia nô nhưng ông xem
họ như máu thịt của mình, chăm sóc họ như con cái trong nhà. Đối với dân chúng,
ông luôn ân cần thân mật. Mỗi lần đi qua các thôn ấp, bản làng, được người dân đón
tiếp với thái độ đầy kính trọng như quì xuống lạy, thì: “Hưng Đạo lập tức xuống
ngựa… Vương nâng ông lão đứng dậy và ra lệnh cho cả dân ấp cùng đứng dậy” 214;
29 . Chính cách đối xử và thái độ ân tình này đã giúp Trần Quốc Tuấn có được những
gia nô, gia thần, những mưu sĩ tận trung để từ đó có được một đội quân “binh gia chi
tử” góp nhiều công lớn trong cuộc kháng Nguyên bảo vệ đất nước.
đạo ông liền “đùng đùng nổi giận rút gươm chỉ vào mặt Tảng mắng”. Với gia nô
Miêu tả Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đặc biệt quan tâm thể hiện lời
nói, hành động quyết liệt của nhân vật. Hàng loạt quyết định được Hồ Quý Ly đưa
122
ra trong bối cảnh căng thẳng của nội tình đất nước: viết Minh Đạo luận, đánh
Chiêm Thành, thực hiện những cải cách: hạn nô, hạn điền, ban hành tiền giấy…
Rồi hàng loạt những mưu mô, toan tính: sắp đặt để Nguyên Trừng lấy công chúa
Quỳnh Hoa - con gái của Thái bảo Trần Nguyên Hàng, Thánh Ngẫu lấy Thuận
Tông - người kế vị vương triều nhà Trần. Bên cạnh đó là những vụ thanh toán,
giết loạn đảng, bức ép Thuận Tông uống thuốc độc. Đặc biệt là vụ giết người em
kết nghĩa Nguyễn Đa Phương (con trai cụ Sư Tề thầy dạy của Hồ Quý Ly) mà ai
cũng coi là tàn nhẫn. Nguyễn Xuân Khánh đã có những trang miêu tả Hồ Quý
Ly với chất “gian hùng” như chính sử đã chép. Nhưng ở một khía cạnh khác, nhà
văn nhìn thấy, cảm thông cho những hành động “không thể không làm” của Hồ
Quý Ly. Khi nói với con trai về những bức tranh mà ông đã được Nghệ Hoàng
ban tặng, Hồ Quý Ly cho rằng việc phò ấu chúa ngu độn “trong lúc triều chính
mục rỗng, thì quả thật là ngu trung” 231; 99]. Khi nghe Nguyên Trừng nói:
“Nay cha làm quan lại bàn việc của vua, thậm chí dám khen chê cả lời của Phu
Tử, vì muốn nhanh nên cũng chẳng theo vết người xưa. Cha đã phạm phải chính
danh. Chính vì vậy kẻ sĩ trong nước nhao nhao phản đối... Xin hãy nghe con.
Con xin dâng lời nói thẳng. Lòng dân không theo cha đâu” 231; 467]. Dẫu biết
điều con trai nói là đúng, nhưng ông vẫn kiên quyết cho rằng: đổi mới, cải cách
là cần thiết, bởi “đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên,
tàn nhẫn đấy, đau thương đấy, nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt đầu rơi máu chảy”
[231; 468]. Nguyễn Xuân Khánh đã khéo léo tạo ra cuộc thoại giữa Quý Ly với
Nguyên Trừng để từ đó khắc hoạ rõ nét tính cách, nội tâm nhân vật.
Cũng có lúc, nhà văn hư cấu thêm các chi tiết hành động đậm chất đời
thường, thậm chí tầm thường của người anh hùng. Tác giả Hội thề miêu tả Lê Lợi
qua ánh mắt ghen tức và thèm muốn khi gặp Thị Lộ: “Lê Lợi nhìn bà đại học sĩ
giống như khi ông muốn xé một con gà luộc bốc hơi nghi ngút vừa mới được mụ
Lý quẳng vào rá” 265; 11]; hay sự vụng về, háu ăn đến lố bịch: “Thị Lộ bày đĩa
bánh chưng rán lên án thư. Bình Định Vương vồ lấy đôi đũa trên tay bà, gắp bánh.
Nhưng ông vụng về, miếng bánh rơi xuống sàn gỗ. Ông cáu tiết vứt đôi đũa, lấy
tay nhón bánh ăn ngấu nghiến” 265; 12 . Dường như Nguyễn Quang Thân đã
khước từ những quy phạm cũ trong việc miêu tả, Lê Lợi vì thế đôi khi hiện lên rất
đời thường và có phần dung tục, khác hẳn với cách nhìn của chính sử.
123
4.2.3. Chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật anh hùng
Thế giới nội tâm là những suy nghĩ, cảm xúc bên trong con người, là khi
nhân vật tự sống với chính mình. Trong suốt một thời gian dài, TTLS Việt Nam có
lúc đã tạc nên những bức tượng có phần xơ cứng về người anh hùng do chưa quan
tâm đến miêu tả nội tâm. Sau 1975, trong xu thế đổi mới, các nhà TTLS đã nhận
ra sự cần thiết và sức hút của thế giới nội tâm con người, nơi mà khả năng hư cấu,
tưởng tượng của ngòi bút được chắp cánh.
Thế giới nội tâm ấy hiện lên qua nhiều thủ pháp: miêu tả thiên nhiên để thể
hiện tâm trạng, trực tiếp miêu tả thế giới nội tâm, sử dụng độc thoại nội tâm.
Thế giới nội tâm NVAH trước hết được thể hiện gián tiếp qua miêu tả bức tranh
thiên nhiên, như trong các sáng tác của Nguyễn Thế Quang, Thái Bá Lợi, Nguyễn
Quang Thân, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Sơn Tùng...
Trong Bão táp triều Trần, nhà văn nhiều lần miêu tả thiên nhiên để thể hiện
tâm trạng, nội tâm nhân vật anh hùng. Đây là tâm trạng của Trần Quốc Tuấn vào
một buổi sáng bình minh đẹp trời, khoảng lặng, khoảng bình yên hiếm thấy trong
“Ánh bình minh le lói dọi những tia nắng thu vàng qua khe cửa khép hờ vào thư
phòng. Tới lúc ấy, vương cũng vừa viết xong, vương buông bút vươn vai bước qua
thềm điện với đầu óc nhẹ nh m siêu thoát, như người mới từ c i thái hư trở về.
Sau một hồi đi dạo quanh khu hồ bán nguyệt có hàng liễu rủ rồi quành về bãi kim
cúc, hoa đã tãi vàng, hương đua thi thoảng hoà quyện với không khí thanh khiết của
buổi mai nắng đẹp khiến vương cảm thấy như đất, trời và cảnh vật này chưa có bao
giờ lại hiện lên với một vẻ đẹp bình dị mà đằm thắm tới mức thiếu nó cuộc đời
vương cũng chẳng có nghĩa lí gì hết. Vương khẽ nâng một bông cúc còn đang hàm
tiếu và hơi khom tấm thân đẫy đà xuống hít hà mùi hương thoáng nhẹ” [211; 235].
cuộc đời ông:
Trong Búp sen xanh, thiên nhiên tuy không hoàn toàn chiếm ưu thế nhưng
vẫn giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Chuyển động của thiên nhiên, phong cảnh
được bộc lộ theo nguyên tắc liên kết chặt chẽ với các hiện tượng tâm lý. Bản thân
mối liên hệ giữa thiên nhiên và tâm lý trở thành một tiêu điểm của nhận thức. Mỗi
khoảng không gian đều ẩn chứa tâm trạng con người. Nỗi đau mẹ mất, bà ngoại
qua đời như được nhân thêm gấp bội trong khoảng không xẩm tối, mịt mùng:
“Côn hơi chột dạ, Côn chạy dấn lên được mấy bước nữa thì nghe tiếng anh Khiêm
vừa gọi vừa khóc: Côn ơ...i Bà... Bà... che...ết...t... rồi Côn khựng lại, hai tay ôm
124
lấy mặt. Nấc Nấc Khiêm đỡ lấy em vào vòng tay mình để khỏi ngã. Một đám
mây như dải băng trắng trôi qua ngọn núi Lộc Đôi, che khuất mặt trời. Bóng râm
trùm xuống một vùng xẩm xẩm tối. Hai anh em Khiêm, Côn bước nặng nề trong
vùng bóng râm ảm đạm giữa cánh đồng chiêm mênh mông” 271; 142 . Đó còn là
bối cảnh cố đô Huế khi bọn giặc Tây Dương vươn cánh tay “khai hóa” ra khắp bờ
c i nước Nam mình, cảnh triều đình phong kiến rối ren, dân tình đau khổ, oán hận,
các sĩ phu yêu nước trong tâm trạng rối bời, bất lực vì chưa tìm ra được lối thoát
để đền nợ nước, trả thù nhà. Bản thân mỗi nét phác họa thiên nhiên dường như đã
ẩn chứa nét điển hình của hoàn cảnh, sự dồn nén của lòng người. Khi vua Thành
Thái đi đày, “mây... từng khối đen đè nặng bầu trời kinh Đô Huế”, “dòng sông
Hương như một khúc ruột quặn đau”, “cơn mưa chiều ập xuống kinh thành. Gió
Gió Gió nổi từng cơn Từng cơn gió xe mưa trời xa mù mịt ” 271; 192-193].
Thiên nhiên Huế ảm đạm, thê lương, quằn quại dưới con mắt của chàng thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành như xoáy vào tâm anh, khiến lòng anh quặn đau, thôi
thúc anh quyết tâm tìm con đường để giải phóng dân tộc.
Khắc hoạ thế giới nội tâm NVAH qua phương thức độc thoại là một thủ
pháp nghệ thuật quan trọng của tiểu thuyết hiện đại. Phương thức độc thoại là thủ
pháp không thể thiếu vắng trong việc khám phá thế giới bên trong con người. Độc
thoại nội tâm là “tiếng lòng” sâu lắng và chân thực nhất của của nhân vật. Họ tự
“đối thoại”, “chất vấn” chính mình. Bằng cách này, nhà văn có thể dễ dàng để cho
nhân vật tự phô bày những phẩm chất rất riêng của mình mà nhiều khi ngòi bút
miêu tả bất lực.
Nguyễn Quang Thân (Hội thề) đã dành rất nhiều trang viết để Lê Lợi tự
vấn với chính mình. Nhờ đó, người đọc cảm nhận rất r những trăn trở, dày vò,
suy tư của ông với những biến cố lịch sử, những người xung quanh và với chính
bản thân mình. Sau khi trải qua biết bao cảm giác (được trở về với kí ức đẹp đẽ
của tuổi thơ và khi đối diện với bổn phận, trách nhiệm của một chúa công), Lê
Lợi đã thốt lên trong tâm tưởng: “Tại sao đêm mai, có thể đêm ngày kia ta phải
ra lệnh chém giết hàng vạn con người? Tại sao xã tắc Đại Việt lại chọn ta mà
không phải ai khác? Ta đang là ông vua trên chót vót đỉnh cao quyền lực hay chỉ
là một kẻ khốn khổ bị tước đoạt mất một cuộc đời thú vị, sung sướng, tự do mà ta
luôn nuối tiếc” 265; 125 . Hay đứng trước những mối bất hòa trong đám quân
125
thần tâm phúc của mình, Lê Lợi đã không ít lần suy ngẫm về sự khác biệt và lẽ
công bằng: “Kẻ giỏi đao cung hay tâm trạng nhiều lại có quyền khinh rẻ người hay
chữ đến thế sao? Phải chăng đó là chuyện thường tình của mọi thời? Vậy thì người
làu làu kinh sử sao lại không được khinh miệt trở lại” [265; 136 . Thêm nữa, ông
còn có những suy nghĩ khác với Nguyễn Trãi và các nhà nho đương thời: “Sách là
của thánh hiền còn nồi cơm là của thiên hạ. Phải làm sao cho thiên hạ ăn no thì họ
sẽ đọc sách để hiểu được cái đạo của thánh hiền” 265; 116 … Có thể nói, bằng
phương thức độc thoại, Nguyễn Quang Thân đã làm cho hình tượng Lê Lợi hiện
lên gần gũi, sống động.
Trong Đức Thánh Trần, Trần Thanh Cảnh đã dành rất nhiều công sức,
tâm huyết miêu tả diễn biến tâm lí người anh hùng Trần Quốc Tuấn. Ông đã đặt
nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, những tình huống khác nhau, có khi
đầy éo le, bi kịch. Bằng cách đó, nhà văn thể hiện sở trường của mình qua việc
miêu tả những suy tư, trăn trở về nhân tình thế thái, về cuộc sống trần ai, về
những dằn vặt, giằng xé nội tâm không thể chia sẻ của nhân vật. Nhà văn có vài
lần đặt Quốc Tuấn trong những mối ưu tư về di ngôn của thân phụ An Sinh
Vương Trần Liễu: “Dân là đây, nước là đây. Cha bảo con lấy lại nước là có ý tứ
gì. Người chẳng có dân, có nước đây rồi sao. Con cũng đang trong lòng dân,
trong nước của mình…” 195; 34 . Rồi những băn khoăn, lo lắng, suy tư về vận
nước trước mỗi cuộc chiến:
thế trận sẵn sàng, kẻ địch sẽ được biết thế nào là hào khí Đông A, là khí phách
của quân dân Đại Việt. Và quan trọng hơn, có sự chuẩn bị từ trước cho chiến cuộc
thì tránh được cho người già, đàn bà, con trẻ của trăm họ sự tàn sát hung bạo của
đạo quân khát máu kia. Ta phải suy xét thật chu đáo và đầy đủ, lường hết mọi tình
thế có thể xảy ra trong chiến trận. Ta phải hạn chế mọi tổn thất về người và của.
Và ta phải chắc thắng” 195; 103].
“Chúng ta chuẩn bị nhân tài vật lực tốt, quân sĩ thao luyện k càng, vũ khí và
Những đoạn độc thoại như thế này thường xuất hiện trước hoặc sau những
trận đánh lớn, thể hiện một Trần Quốc Tuấn vừa tài giỏi, vừa đầy lo lắng trước số
phận quốc gia, dân tộc, đồng thời là người luôn suy tính vì từng tính mạng người
lính. Đánh, nếu thắng thì mới đánh. Còn bằng không, thì phải tìm cách thua để bảo
toàn lực lượng. Ông chưa bao giờ muốn lấy sinh mạng của binh lính để chứng tỏ
chí nam nhi. Đánh thế nào để tổn thất ít nhất, giữ lấy quân để mà còn đánh tiếp.
126
Cho nhân vật độc thoại, Trần Thanh Cảnh đã thành công khi khơi được những
điều sâu kín nhất trong lòng vị tướng uy dũng mà rất mực nhân văn trong bối cảnh
khắc nghiệt của chiến trận.
Theo nhà tâm lí học S. Freurd: “hệ thống vô thức là kho tàng của dục vọng
và bản năng sinh vật. Những bản năng và dục vọng này chất chứa những năng
lượng tâm lí mạnh mẽ phục tùng theo nguyên tắc khoái lạc và sự xâm nhập vào
cõi ý thức để thỏa mãn” 45; 268 . Như vậy, có thể hiểu vô thức là thế giới sâu
kín, nó bao gồm những mong muốn, khát khao bị dồn nén, không được thực hiện,
không được thỏa mãn nên nó thường bộc lộ trong những giấc mơ. Với thủ pháp
độc thoại nội tâm, c i vô thức phức tạp của người anh hùng được thể hiện một
cách da diết. Nhân vật Phan Châu Trinh trong Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh
Nam thường rơi vào nỗi ám ảnh cùng những cơn ác mộng kéo dài hàng chục năm
về hình ảnh thủ cấp cha mình bị bêu trên cọc tre. Điều đó càng thôi thúc ông bất
chấp mọi khó khăn theo đuổi đến cùng tư tưởng “bất bạo động” trong cuộc chiến
với người Pháp. Cái chết thảm khốc của cha mình là lí do hối thúc Phan Châu
Trinh bằng mọi cách phải “bẻ ghi cho con tàu lịch sử rẽ vào con đường khác, con
đường khôn ngoan hơn của kẻ yếu, là phải tự cường trước đã” 238; 414]. Với Đất
trời, Nam Dao đã để cho Nguyễn Trãi bộc lộ tâm sự thầm kín của mình bằng
những giấc mơ. Đó là giấc mơ về hình ảnh con rắn trở đi trở lại trong những cơn
mộng mị khiến ông phải thét lên trong sợ hãi: “Không không, loài người chúng ta
không ngu độn đến thế” 200; 80]. Rồi tình yêu của Xuyến, sự lo lắng, thu vén của
nàng đã giúp ông có điểm tựa mà giữ được “thăng bằng”. Vì vậy, bao nhiêu lần
sau những cuộc vui, trong cơn mê mệt, Nguyễn Trãi vẫn ú ớ gọi tên cô: “Tôi mơ,
một giấc mơ ban hạ ở góc chợ nhốn nháo. Mở mắt ra, nhìn đi. Tôi vẫn còn mơ ư?
Nhác thấy hình hài em, ở đó, có thật…” 200; 294]. Hay, nhiều đêm trong những
giấc mơ chập chờn, Nguyễn Trãi nghe thấy lời dặn dò của cha: “Tai Trãi văng
vẳng lời cha “làm trai thì về mà trả ơn nước, thế mới là báo hiếu. Nợ nước trước,
thù nhà sau” 200; 110 . Qua việc miêu tả giấc mơ, nhà văn đã làm phát lộ những
rung động thẳm sâu trong tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật là một hướng khai thác mới cho TTLS
Việt Nam sau 1975. Hướng khai thác này đã đem đến chiều sâu trong việc thể
hiện phẩm chất, tính cách người anh hùng. Đặt điểm nhìn vào thế giới bên trong
127
nhân vật, để cho nhân vật tự nói bằng tiếng nói của mình, tự suy tư, trăn trở, cật
vấn, phán xét và tự bạch lương tâm, một lần nữa, các nhà văn đã làm sống dậy một
cách sinh động chân dung những con người vừa là những vĩ nhân, đồng thời cũng
là những con người bình thường, với nhiều sai lầm, đau khổ, bi kịch.
4.3. Luân chuyển điểm nhìn và tổ chức giọng điệu trong xây dựng nhân
vật anh hùng
4.3.1. Kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn
4.3.1.1. Điểm nhìn khách quan
Trước 1975, điểm nhìn trong TTLS chủ yếu là điểm nhìn bên ngoài, điểm
nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba. Nhiều nhà tiểu thuyết giai đoạn này đã đứng
trên quan điểm của một người kể chuyện “biết tuốt” để phản ánh, nhìn nhận lịch sử.
Bằng cách này, họ nuốn cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khách quan, chân thực
về lịch sử (không khác xa so với chính sử). Trong nhiều TTLS của Phan Trần
Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân… nhiều trang của TTLS
khá giống với loại “kể chuyện lịch sử”. Sau 1975, điểm nhìn trong TTLS trở nên
đa dạng và linh hoạt hơn, kết hợp điểm nhìn khách quan và chủ quan, điểm nhìn
bên ngoài và bên trong, điểm nhìn tác giả và điểm nhìn nhân vật.
Với các tiểu TTLS mà điểm nhìn khách quan chiếm ưu thế (Phùng Vương
của Phùng Văn Khai, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Tám triều vua lý,
Bão táp triều trần của Hoàng Quốc Hải, Thông reo ngàn Hống của Nguyễn Thế
Quang…, người kể chuyện có thế mạnh bao quát bức tranh toàn cảnh, các sự kiện,
biến cố lịch sử, có khả năng tạo ra quan điểm chính thống để “dẫn dắt” người đọc.
Nhà văn cũng dễ dàng đẩy nhanh mạch thời gian tự sự.
Trong Bão táp triều trần, với điểm nhìn khách quan là chủ yếu, Hoàng Quốc
Hải đã bám sát các sự kiện lịch sử, với hơn 2000 trang sách, dựng lại đầy sức thuyết
phục cả một thời đại từ khởi nghiệp, hưng thịnh đến suy tàn dài tới 175 năm của
nhà Trần. Trong đó khoảng gần một nửa số trang dùng để thể hiện sinh động ba
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông oanh liệt của người dân Đại Việt.
Gương mặt hàng loạt NVAH hiện ra sáng r như Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo,
Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản…; các bậc liệt nữ như An Tư
công chúa, Huyền Trân công chúa, các vị minh quân, sáng suốt và đầy dũng khí
như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… Hoàng Quốc Hải qua đó không chỉ
128
dựng lại không khí, sự kiện, chiến công trong quá khứ, mà còn tôn vinh truyền
thống văn hóa, lòng tự tôn dân tộc, ý chí quật cường, tinh thần đoàn kết của cha
ông – những phẩm chất truyền thống thường nhất loạt trỗi lên ở những khi đất
nước lâm nguy. Qua bộ tiểu thuyết đồ sộ, thái độ của nhà văn cũng thể hiện rất rõ
ràng khát vọng, như ông từng tâm sự là: “ mở to đôi mắt nhìn vào quá khứ, thấy
được những điều kỳ diệu, và cả những khổ đau xưa cha ông ta đã tạo dựng và nếm
trải” (Lời tựa tiểu thuyết Bão táp cung đình, Nxb Thanh niên, 2005).
Trong Ngô Vương của Phùng Văn Khai, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn
Mộng Giác, Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trần Quốc Toản của Lưu
Sơn Minh, khi miêu tả các sự kiện lịch sử trọng đại, các trận đánh lớn…, các tác
giả cũng thường dùng điểm nhìn khách quan, kèm theo những đánh giá, ngợi ca
của nhà văn. Đây là một cảnh chiến trận trong tiểu thuyết Trần Quốc Toản của
Lưu Sơn Minh:
vung cây thương và thúc ngựa xuống vào. Và chỉ khi đối trận, gã mới biết rằng
mình đã quá coi thường địch thủ. Cây giáo cán mềm của viên tướng Việt cứ uốn
lượn như một con rồng trắng, xoắn xuýt lấy cây thương của Hắc Đích khiến gã
không sao phô diễn được hai mươi bảy đường thương tuyệt k gia truyền. Mũi
giáo sắc nhọn cứ lướt qua lướt lại trước mặt gã như trêu ngươi rồi chỉ nhè những
chỗ yếu hại mà đâm tới. Đau nhất là viên tướng trẻ con đâm ngang ngọn giáo
vào mặt gã rồi giật tung những sợi râu quai nón xù xì đang xoắn lại vì bụi đường
lẫn mồ hôi”… 237; 161-162].
“Khi thấy viên tướng Việt trẻ măng hoành giáo cản đường gã. Hắc Đích
Với điểm nhìn khách quan là chủ yếu, Trần Thanh Cảnh đã xây dựng một
nhân vật Trần Quốc Tuấn vừa vĩ đại, cao cả, vừa gần gũi, quen thuộc. Từ ngoại
hình, thần thái, dáng vẻ đến lời nói, suy nghĩ, hành động, ngài luôn toát lên ánh
hào quang thần thánh, những phẩm chất hơn người của một “thiên tướng nhà trời”,
một “thánh nhân” mang “thiên mệnh cứu giúp hộ trì cho muôn dân vượt qua cơn
binh lửa tàn khốc”. Với v công cái thế, sức mạnh phi thường, thần thái uy
nghiêm, tài đức trọn vẹn, vị tướng nhà Trần vừa có sức hút kì lạ với những người
xung quanh, vừa mang đến nỗi khiếp sợ kinh hoàng cho kẻ địch. Trong cuộc chiến
một mất một còn với quân Nguyên, Hưng Đạo Đại Vương chính là biểu hiện cho
sức mạnh bất diệt của dân tộc Đại Việt, là linh hồn, điểm tựa tinh thần giúp quân
dân Đại Việt vượt qua những khó khăn, thử thách. Ngài sẵn sàng quên đi “thù
129
riêng”, chủ động hóa giải đối kháng ngầm giữa hai chi trưởng - thứ, bỏ ngoài tai
những lời gièm pha, tập trung mọi sức lực, tâm trí vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì
bình yên, hạnh phúc của bách tính muôn dân.
4.3.1.2. Điểm nhìn chủ quan
Điểm nhìn chủ quan hay điểm nhìn bên trong là điểm nhìn mà ở đó, tác
giả vẫn kể chuyện từ ngôi thứ ba nhưng lại chuyển dịch, nhập thân vào nhân vật,
trần thuật theo quan điểm nhân vật. Cũng có lúc tác giả gần như “bàn giao” lời
kể chuyện cho nhân vật, giống như nhân vật đang tự kể về mình ở ngôi thứ nhất.
Điểm nhìn này thường thể hiện phổ biến qua lời trần thuật nửa trực tiếp và lời
độc thoại nội tâm.
Các TTLS chú trọng hơn đến điểm nhìn chủ quan (Giàn thiêu của Võ Thị
Hảo, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Đất
trời của Nam Giao…), thường có thế mạnh trong việc soi vào thế giới nội tâm
NVAH, miêu tả k những đấu tranh, giằng xé của họ, mạch thời gian tự sự chậm
lại, các sự kiện lịch sự như trôi đi chậm hơn.
Trong Đất trời của Nam Giao, hình tượng Nguyễn Trãi được soi chiếu từ cả
bên ngoài và bên trong. Ở nhiều trang, nhà văn cố gắng thâm nhập vào nội tâm
nhân vật, miêu tả Nguyễn Trãi khác với cách hình dung vốn có của người đọc.
Ông để Nguyễn Trãi trở thành nhân vật đầy cá tính và nhiều mâu thuẫn, là nhân
vật của những bi kịch kép. Trong con người Nguyễn Trãi tồn tại nhiều cực đối
cực: lý tưởng nhập thế và tâm lý thoát ly; ý chí, nghị lực và sự buông xuôi, tiêu
cực; niềm tin và sự thất vọng, tình yêu trong sáng và sự đam mê dục tính… Nhân
vật nhiều khi đau khổ, tự vấn: “Trãi bỗng nhận ra sự yếu đuối của thể xác là một
bất công của đấng cao xanh. Chữ với nghĩa, giờ tích sự gì?” 200; 75 ; “Trong cái
thế người bị trị cổ kê dưới lưỡi đao đầu kiếm, cớ sao ta vẫn cứ một điều nhân
nghĩa, hai điều tâm công?... Cớ sao cứ phải lập lại một Luận ngữ, Trung dung?...
rằng Đạo Thánh là của chung thiên hạ nhưng làm theo đạo thì mỗi nơi một phách,
chẳng qua chẳng đặng đừng?” 200; 92].
Nguyễn Quang Thân với Hội thề có nhiều trang thành công trong việc soi tả
nhân vật Lê Lợi từ bên trong. Bằng cách để cho nhân vật tự bộc bạch những suy
nghĩ thầm kín của mình, tác giả đã khắc họa được một Lê Lợi vừa sáng suốt, sắc
sảo, đồng thời cũng là một con người “nơi sơn dã” nhiều dục vọng, lắm nghi kỵ
130
nhỏ nhen. Lê Lợi hiểu hơn ai hết mình là ai, mình muốn gì; hiểu thấu giá trị to lớn
của trí thức nhưng không sao bỏ được cái “máu ghét học trò”; vừa muốn mình là
thánh lại vừa “không tin mình là vị thánh giáng trần” 265; 124 ; “ông thừa nhận
mình cũng có nhiều dục vọng bản năng của một con người nơi sơn dã và rất sung
sướng khi những dục vọng ấy được thỏa mãn” 265; 125 . Ông cảm thấy “sự khốn
khổ” của kẻ làm vua, “muốn “tự nhiên nhi nhiên”. Ông buộc lòng phải cao cả,
phải anh hùng mà thôi… Tại sao ta không giữ cô thôn nữ với mùi hương làm lòng
ta tan nát ấy lại?” 265; 125 . Những câu hỏi của Lê Lợi vừa tạo tính đối thoại,
vừa tạo sự kịch tính, vừa diễn tả chân thực những giằng xé, dằn vặt không thể thổ
lộ, giãi bày cùng ai. Nguyễn Trãi trong Hội thề cũng được nhà văn trao điểm nhìn
bên trong để có thể tự bộc lộ những suy nghĩ về chủ tướng, về tướng lĩnh Lam
Sơn, về thân phận của bản thân. Trong dòng độc thoại nội tâm của Nguyễn Trãi,
có thể thấy những day dứt, đau đớn của ông trước sự ghẻ lạnh của những người
anh em mà ông từng yêu mến: “Ông có thù oán gì họ không? Không, thật lòng là
không. Ông cảm phục lòng dũng cảm gan góc xả thân của họ, so với họ thì bọn có
học như Lương Nhữ Hốt chỉ là chó lợn mà thôi. Ông thương yêu họ, thành tâm
muốn gần gũi với họ dù cứ bị hắt ra như người ta coi chừng một kẻ lạc loài gian
manh, sớm đầu tối đánh bên cạnh mình” 265; 258 . Nguyễn Trãi còn tự soi chiếu
mình trong việc bộc lộ lòng trung thành với chủ tướng: “Ông chỉ là bầy tôi trung
thành với chủ tướng chứ không thể là bằng hữu, chưa bao giờ là bằng hữu như bọn
Vấn hay Sát” 265; 152 ; “Ông luôn là khách giữa đám quần thần tướng lĩnh của
một triều đại đang bắt đầu sửa soạn ngôi thứ. Họ là người nhà, còn ông là khách,
mãi mãi là khách” 265; 258]. Trong lời tự vấn, nhà văn đã để nhân vật Nguyễn
Trãi hiện ra với những đau buồn, xót xa rất người sau những cố gắng thể hiện lòng
trung thành nhưng vẫn bị Lê Lợi nghi ngại, vừa tôn trọng vừa xa cách.
Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh nhìn nhận nhân vật lịch sử với
những khía cạnh mới, con người với đủ mọi giận hờn, yêu ghét, với những phẩm
chất rất đỗi đời thường, con người của khát vọng và bi kịch. Hồ Quý Ly, ngoài
phẩm chất của một vĩ nhân, còn tồn tại những nét đời thường, thậm chí phàm
tục. Ông là cả một sự phức tạp và mâu thuẫn, có nhìn xa trông rộng và thiển cận,
có nhân ái và tàn bạo, có ảo tưởng và thực tế… Người kể chuyện hóa thân vào
nhân vật, đi sâu vào tâm hồn luôn dậy sóng của nó: “Còn ông, đêm ngày ông
131
phải bận rộn, tâm trạng lúc nào cũng khắc khoải, cuồng nộ. Và những đam mê,
những khát vọng cho đến lúc thành tựu, thực bụng lúc đó ông thấy kiêu hãnh và
thoả mãn... Cái đó có gọi là hạnh phúc không nhỉ? Còn tham vọng thì vẫn như
những đợt sóng; đợt này qua, đợt khác tới. Và ông lại say sưa đi tìm những tham
vọng mới...” 231; 548-549 . Có khi người kể chuyện đi sâu vào tiềm thức nhân
vật, buộc nhân vật phải đối diện với lương tâm mình: “Nghệ Vương Ông hãy
bình tĩnh lại đi Hãy hiểu cho tôi... Hãy hiểu đến lẽ tuần hoàn...”; “Quý Ly đau
một cái đau khủng khiếp, điếng dại cả tâm hồn...” 231; 459 . Những lời nói của
Quý Ly trong giấc mơ chính là sự tự biện hộ cho mình khỏi sự phán xét của toà
án lương tâm. Sau những cải cách được thi hành một cách nóng vội và không
hiệu quả, Quý Ly luôn trằn trọc suy nghĩ: “Thái sư thở dài. Ông hiểu rằng chế độ
mới được thi hành còn nhiều trục trặc. Đúng là ban đầu người dân có thể khổ
hơn. Tuy nhiên thái sư đang nghĩ ra những giải pháp...” 231; 537]. Khám phá
đến tầng sâu kín nhất của tâm hồn, người kể chuyện nhìn thấy một Hồ Quý Ly là
con người cô đơn tột cùng trên đỉnh cao quyền lực. Quý Ly khao khát có được
một người hiểu mình. Khi Công chúa Huy Ninh mất đi, nỗi cô đơn của Quý Ly
càng trở nên lớn lao: “Vì thế, khi bà mất, ông thấy choáng váng cô đơn. Những
người như ông cô đơn là bạn đồng hành. Ông kiêu hãnh vì sự cô đơn ấy. Thậm
chí, ông nghĩ phải có sự cô đơn, ông mới làm nên sự nghiệp lớn...” 231; 549 . Ở
đây, với điểm nhìn từ bên trong, những đau khổ, bi kịch của nhân vật được thể
hiện một cách tự nhiên, chân thực.
4.3.1.3. Kết hợp, luân chuyển điểm nhìn
Trong nhiều TTLS Việt Nam sau 1975, khi miêu tả NVAH, các nhà văn
thường chú ý kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn. Điểm nhìn trần thuật luôn dịch
chuyển giữa khách quan và chủ quan, giữa người kể chuyện và nhân vật, giữa các
nhân vật với nhau. Các tác phẩm thể hiện rõ sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật
linh hoạt là Đất trời của Nam Dao, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Sông Côn
mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Búp sen xanh của Sơn Tùng…
Chẳng hạn, trong Hội thề, điểm nhìn trần thuật thay đổi và dịch chuyển
liên tục, từ điểm nhìn khách quan sang điểm nhìn chủ quan. Người trần thuật
lúc thì đứng bên ngoài miêu tả chân dung, lời nói, hành động của NVAH; có lúc
lại dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong để khám phá chiều sâu trong tâm hồn,
132
tâm lí, tính cách nhân vật. Khi xây dựng hình tượng người anh hùng Lê Lợi,
Nguyễn Quang Thân đã khéo léo sử dụng thủ pháp dịch chuyển điểm nhìn từ
bên ngoài vào bên trong: “Bình Định vương Lê Lợi ngồi trước án thư. (…) Ông
đọc binh pháp Tôn tử. Thật mệt. (…) Trông ông bất yên, buồn ngủ nhưng
không ngủ được” 265; 9-10]. Từ ngôn ngữ trực tiếp chuyển dần sang ngôn ngữ
nửa trực tiếp bày tỏ sự đồng cảm trước vẻ mệt mỏi, có phần chán nản của Bình
Định vương khi ngồi trước quyển binh pháp ken đầy chữ nghĩa nhưng thường
“nhảy múa” trước mặt ông. Với Nguyễn Trãi cũng vậy. Nhà văn để Nguyễn
Trãi suy nghĩ về mình, về chủ tướng, về thời cuộc. Ngôn ngữ miêu tả nhanh
chóng nhập vào thế giới nội tâm: “Trãi thấy mắt cay xè (…) Ông thấy thương
xót nhà vua. Người có bản năng làm người mạnh mẽ, người cũng đòi hỏi được
yêu, được ân ái, được chiều chuộng, được chăm sóc như ai. Nhưng người phải
làm tướng, phải làm vua Gánh trên vai người quá nặng” 265; 84].
Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác thường sử dụng linh hoạt cả
điểm nhìn bên ngoài và bên trong, lời trực tiếp và nửa trực tiếp để thể hiện những
mâu thuẫn nội tâm của Nguyễn Huệ. Nhà văn đặt nhân vật vào trạng thái cô đơn,
phải đối diện, tự vấn chính mình. Khi nghe tin An lấy chồng, nhiều chữ “nếu” đặt
ra trong đầu Huệ: “Nhiều chữ nếu đặt ra đầu những câu giả thiết, và câu nào cũng
gây cho anh sự tiếc nuối… Tại sao nàng lại có thể yêu thương một người như thế
được? Nàng có lầm lẫn không? Nàng lầm lẫn về hắn ta hay lầm lẫn về nàng? Câu
hỏi oái oăm đó lại quấy rầy Huệ. Anh cảm thấy choáng váng phải đưa tay lên
chống trán” 208; 710 . Huệ đấu tranh với bản thân khi đứng trước cửa nhà ông
giáo vào cái đêm trước ngày An cưới: “Anh mạnh dạn quay lại đường cũ. Nhưng
đến ngã rẽ vào nhà thầy, anh lại nghĩ: “Thầy đi khép cửa sổ, tức là sắp đi ngủ. Vào
quấy rầy Thầy lúc này có tiện không?... Ta đến đây làm gì? Để nói gì với Thầy?
Với nàng? Ta có điên chưa mà toan tính rồ dại vậy?” 208; 699 . Những suy tư
trăn trở của Huệ trong đêm ở Thăng Long, suy nghĩ những giải pháp về vấn đề
Bắc Hà: “Ông phải làm gì đây? Họ Trịnh đã bị lật đổ khỏi phủ chúa… Chế độ vũ
trị không thể kéo dài. Quyền hành sau này sẽ thuộc về ai? Giao vận mệnh xứ sở xa
lạ này (cái xứ sở ông mới quen có hai tháng ngắn ngủi) cho sự đau yếu bạc nhược,
hay cho sự sợ hãi? Vả lại anh ông ở Quy Nhơn đang nghĩ gì khi được tin ông đã
đem đại quân vượt qua Lu Thầy?” 209; 603]; “Ta dừng lại chăng? Ta bằng lòng
133
đứng bên này Lu Thầy nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho
Nguyễn Hữu Chỉnh, họ Lê, họ Trịnh, quận Thạc, quận Liễn cùng lũ quan thị xâu
xé nhau giữa một đất nước tan hoang…” 210; 39 …
Trong Bão táp cung đình, miêu tả Trần Thủ Độ, Hoàng Quốc Hải luôn chú
ý kết hợp điểm nhìn của nhiều nhân vật. Trong con mắt của Hoàng tiên sinh, Trần
Thủ Độ vừa là một anh hùng, vừa là gian hùng: “Thủ Độ là một anh hùng, một tay
gian hùng. Giỏi. Y cực giỏi, đế nghiệp chắc chắn về tay họ Trần” 211; 83]. Với
Trần Thị Dung, Thái Tông, Huệ Tôn, Trần Thủ Độ là một gương sáng: “Ông ấy là
một người trọng nghĩa. Nhưng là một người sống mẫu mực, nghiêm chỉnh” 211;
144 ; “Quốc Công là một bậc kỳ tài có một không hai trong lịch sử nước nhà mà
không tự biết, hoặc không cần biết đến” 211; 416]. Còn phe cánh chống đối như
Nguyễn Nộn, Đào Hữu thì cho rằng Trần Thủ Độ là loại “vũ dũng vô mưu”: “Trần
Thủ Độ tuy là nhà hảo phú, lắm của, nhiều quân, được xem là loại vũ dũng.
Nhưng y xuất thân từ đám dân chài, lại vô học, hắn chí hùng hục như con trâu
mộng húc bừa, không có gì đáng sợ” 211; 104]. Cách thức luôn chuyển điểm
nhìn này giúp nhà văn khắc họa thành công một Trần Thủ Độ mà theo ông “không
thể đồng tình với các sử gia trung đại”, “mong trả lại sự công bằng cho nhân vật
lịch sử”.
Sự luân phiên điểm nhìn trần thuật cũng là một nét đặc sắc trong Gió lửa
của Nam Giao. Người trần thuật luôn linh hoạt trao điểm nhìn cho các nhân vật
để tạo ra sự đối thoại, tranh biện. Dưới con mắt của Ngô Thì Nhậm, Huệ là “một
thiên tài về mặt quân sự” thỏa sức vùng vẫy. Trong mắt của Nhật, Huệ là kẻ
“ngạo ngạn thách thức”. Dưới cái nhìn của người kể, Huệ “từ em một tên ấp
trưởng buôn trầu nguồn, đã trở thành phò mã vua Lê, mặc sức xoay vần cả một
đế chế” 199; 515 . Dưới cái nhìn của Thức: “Huệ đánh được xâm lăng nhà
Thanh, thì Huệ đáng làm vua” [199; 538]. Còn Nguyễn Ánh cho rằng: Huệ là
“con cọp, nó tát nó quào rồi nó bỏ đi. Còn ta trời sinh ra ta làm con sói. Ta
không tát không quào, chỉ biết cắn. Nhưng khác nó, ta cắn vào con mồi rồi thì
nhất định ta không nhả ra, dù trời có sập cũng vậy!” 199; 396 … Ở đây, các
điểm nhìn được đặt cạnh nhau, bổ sung cho nhau, giúp làm r hơn bản lĩnh, tài
năng, tầm vóc của người anh hùng Nguyễn Huệ.
134
Xây dựng NVAH từ nhiều điểm nhìn là một bằng chứng cho thấy những nỗ
lực của các nhà văn trong việc cách tân TTLS Việt Nam sau 1975. Bên cạnh điểm
nhìn bên ngoài, khách quan quen thuộc, nhiều nhà văn đã chú ý dịch chuyển điểm
nhìn vào bên trong, luân chuyển linh hoạt điểm nhìn, giúp soi chiếu sinh động thế
giới tâm hồn phức tạp của NVAH.
4.3.2. Kết hợp linh hoạt nhiều giọng i u
4.3.2.1. Giọng ngợi ca, hào sảng
Khi miêu tả NVAH, người trần thuật không thể không đứng trên quan điểm
dân tộc và cái nhìn của quần chúng nhân dân, trước hết là sự tôn thờ, kính trọng
những vĩ nhân đã thay trời hành đạo, cứu nước, an dân. Giọng điệu ngợi ca trước
hết, thể hiện trong những lời văn miêu tả ngoại hình, chân dung nhân vật.
Nguyễn Huệ trong Tây Sơn bi hùng truyện: "Huệ tuy còn niên thiếu mà lưng hùm
vai gấu, mặt vuông tai lớn, mắt sắc như gươm, ánh nhìn như chớp" 197; 30]. Và
sau này khi đã lập được nhiều chiến thắng, Nguyễn Huệ lại được Lê Đình Danh
phác hoạ: "ngồi trên bành voi, oai phong lẫm liệt, bệ vệ uy nghi" 198; 519]. Hay
một Nguyễn Huệ mang đầy nét đẹp hào hoa, lãng tử trong Hoàng đế Quang
Trung: “Một chàng trai đô khoẻ chưa lộ vẻ phong trần, các đường nét được sắp
xếp hài hoà cân đối trên một khuôn mặt vuông vức, đầy đặn như vừng dương
vươn lên với sắc hồng rạng rỡ, trông trẻ trung phơi phới và rất uy nghi trên lưng
con tuấn mã" 223; 130].
Giọng điệu ngợi ca còn được nhà văn sử dụng trong miêu tả tài năng và
phẩm chất của người anh hùng. Sự ngưỡng mộ được thể hiện trong những đoạn
văn miêu tả người anh hùng tả xung hữu đột nơi sa trường: “Lời còn chưa dứt,
Ngô Quyền đã như bay từ trên bành voi xuống lưng con bạch long câu. Ngô
Quyền nắm chắc trường thương, oai phong tế ngựa tiến thẳng ra phía trước”(…)
"càng đánh càng hăng, đường thương vun vút, khiến Lý Trí Thuận không khỏi
kinh động trong lòng” [227; 32]. Trong trận Bạch Đằng, hình ảnh của Ngô Quyền
“Ngô chủ tướng thân mang giáp trụ, lưng đeo trường kiếm lớn, dầu đội mũ
đâu mâu khảm ngọc, oai phong đĩnh đạc bước lên chính giữa đàn gỗ… Khi
Ngô tướng quân giơ tay về bốn phía, sóng người cuồn cuộn dâng lên, những
tiếng hô hét vang trời cùng chiêng trống thúc lên ầm ầm không dứt…, để ba
quân tỏ r lòng muốn được đánh giặc, Ngô Quyền ra hiệu cho bốn phái cùng
hiện lên oanh phong lẫm liệt:
135
yên lặng mới cất tiếng sang sảng như chuông đồng. Giọng Ngô tướng quân
chưa bao giờ vang ngân và xúc động đến nhường ấy” 227; 349-350].
Trần Quốc Tuấn trước hết là một v tướng “giỏi mọi môn v nghệ. Phi
ngựa bắn cung, đánh gươm, côn quyền cho đến cả môn v vật truyền thống”; “Khi
chàng múa giáo, tiếng gió rít lên như bão, xung quanh người chàng chỉ có những
vòng tròn liên hoàn bất tận đan kín, không thấy người. Gươm giáo tên đạn bắn
văng ra hết” 196; 49 . Không chỉ giỏi v nghệ, Trần Quốc Tuấn còn là người có
tầm nhìn xa, một thiên tài quân sự. Tài năng ấy làm cho bọn giặc khiếp sợ: “Trần
Quốc Tuấn là viên tướng tài số một của Đại Việt” [196; 56]. Trong con mắt của
Trần Thanh Cảnh, Trần Hưng Đạo là “vị tướng nhà trời”.
Giọng ngợi ca, hào sảng chính là sự tiếp nối truyền thống sử thi trong miêu
tả người anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1945 - 1975. Giọng điệu này
đã góp phần tạo dựng nhiều hình tượng NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975
hiện lên như những con người tuyệt đẹp, những biểu tượng về ý chí, tinh thần, trí
tuệ của con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, mà nói như Nguyễn Trãi
“tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ song hòa kiệt thời nào cũng có”.
4.3.2.2. Giọng trữ tình, đằm thắm
Lịch sử dân tộc có những trang dữ dội, oanh liệt, với những chiến công
vang dội chống ngoại xâm, những cuộc nội chiến đẫm máu, nhưng lịch sử cũng có
những trang êm đềm trong hòa bình, những khung cảnh, vùng đất, con người đầy
chất thơ. Các nhà văn thường sử dụng giọng điệu trữ tình trong tiểu thuyết để
miêu tả thiên nhiên, tình yêu hay những xúc động nội tâm khi xây dựng NVAH.
Giọng trữ tình chủ yếu được được nhà văn sử dụng để đi sâu phân tích
những diễn biến tinh tế, thầm kín trong tâm trạng nhân vật. Đây là đoạn văn thể
hiện tình thương của người kĩ nữ với Nguyễn Trãi (Hội thề - Nguyễn Quang
Thân): “Ông ấy yêu nàng, chăm sóc nàng như một chàng công tử tốt bụng lại
hào hoa, phong nhã chẳng chút thô lậu v tướng… Có khi ông ta khóc. Tự dưng
nàng thấy thương ông ta, nàng chưa từng có chồng nhưng nàng nghĩ nếu có
chồng chắc nàng cũng thương chồng mình như thế” 265; 68]. Có khi giọng điệu
trữ tình lại được dùng để thể hiện những hoài niệm, nuối tiếc của Nguyễn Trãi về
quá khứ: “Ôi những ngày tuyệt vời ấy đâu rồi? Thân phụ thân mẫu không còn,
ông đã mất tất cả, mất hết… ông đã mất hẳn cuộc đời thanh xuân cũ, cuộc đời
136
ông quý ông yêu biết bao vì không giấu ai, ông thừa nhận mình cũng có nhiều
dục vọng bản năng của một con người nơi sơn giã và rất sung sướng khi những
dục vọng ấy được thoả mãn”. Khi thể hiện những niềm vui, nỗi buồn của người
anh hùng, tác giả cũng sử dụng giọng trữ tình: “Nguyễn Trãi sung sướng vì hôm
nay nhà vua đã quyết đoán nhanh chóng. Người tự ví mình với con chim ưng
sáng suốt, dũng mãnh, nhưng ông thấy Người còn hơn thế. Cuộc dấy nghĩa đã
đến hồi kết thúc và chính ông cũng thấy ngỡ ngàng vì quá mừng rỡ khi đoạn kết
diễn ra m mãn. Lòng ông nhẹ nhàng, thảnh thơi và phơi phới như vừa trở về
nhà sau một buổi vãn cảnh chùa” [265; 288]. Với Hồ Qúy Ly, Nguyễn Xuân
Khánh sử dụng giọng điệu trữ tình đầy cảm xúc khi miêu tả tâm trạng của Hồ
Quý Ly sau khi đọc xong Minh Đạo Luận của Sử Văn Hoa:“Chao ôi Minh Đạo
một giàn nhạc khổng lồ mà những nhạc công vẫn còn tấu lên những điệu khúc
theo cách của họ” 231; 503].
Giọng trữ tình còn được nhà văn sử dụng để miêu tả những cung bậc cảm
xúc của tình yêu. Trong Đức Thánh Trần, hai giọng điệu chủ đạo mà nhà văn xây
dựng khi miêu tả nhân vật Trần Quốc Tuấn là giọng giọng ngơi ca hào sảng và
giọng trữ tình. Nếu như giọng ngợi ca được sử dụng với mục đích đề cao phẩm
chất, vẻ đẹp của người anh hùng thì giọng trữ tình lại hướng đến thể hiện những
cảm xúc thăng hoa đến tột đỉnh trong tình yêu của Trần Quốc Tuấn. Đây là đoạn
văn đầy cảm xúc miêu tả cảnh ân ái của Trần Quốc Tuấn và Quế Lan tại nương
dâu bên dòng Thiên Đức: “Cả nương dâu xanh ngát bên bờ sông Thiên Đức hân
hoan ca hát. Gió sông ào ạt thổi, nắng xuân nhảy nhót reo vui mừng mối duyên
trời. Lúc họ trao mình vào nhau, một đàn chim hồng hạc thốt nhiên tự trên trời cao
sà xuống mép nước. Những con linh điểu đẹp đẽ vươn mình tắm rửa trên dòng
nước ngọt lành của con sông. Chúng nhảy nhót gù nhau, những đôi cánh rộng lớn
giang ra vẫy gọi trong vũ điệu huyền bí. Những cái cổ kiêu hãnh thon thả vươn lên
mê đắm. Từ những đôi mỏ hồng xinh xắn, những tiếng yêu âu yếm như tiếng thầm
thì của tình yêu thần thánh thăng hoa…” 195; 31]. Trong Sông Côn mùa lũ, tác
giả cũng dùng những đoạn văn giàu chất thơ thể hiện tâm trạng Nguyễn Huệ trước
thiên nhiên hoặc trước tình yêu của An: "Huệ đứng bên cửa sổ nhìn những giọt lá
me vàng rơi đều, rơi đều, lòng bập bềnh bồi hồi. Buổi sáng qua mau trong cảm
giác bảng lảng đó của tâm hồn Huệ" [208; 296]. Mối tình Huệ - An ở Quy Nhơn
137
như những nốt nhạc trữ tình đan xen giữa những không gian chiến trận, thường
hiện lên trong tâm trí của người anh hùng dân tộc.
4.3.2.3. Giọng triết lý - chiêm nghiệm
Trong TTLS giai đoạn 1945 - 1975, giọng điệu chủ yếu là giọng sử thi.
Nguyễn Thị Bình cho rằng: “Nếu nhìn đại thể, văn xuôi nước ta từ 1945 đến
1975 tương đối nhất quán về giọng điệu: giọng khẳng định, ngợi ca của một cái
nhìn tin tưởng lạc quan bao trùm (những biến thái có thể là hào hùng, hào sảng,
đanh thép, vui tươi, trang nghiêm tự hào, đầm ấm tin yêu” 17; 82 . Đến giai
đoạn sau 1975, với xu thế dân chủ, soi xét lại các giá trị và đi tìm kiếm các giá
trị mới, tiểu thuyết lịch sử có sự gia tăng giọng triết lí, chiêm nghiệm. Giọng
điệu này lên ngôi khi nhà văn muốn đối thoại, chất vấn lịch sử, rút ra các bài học
từ lịch sử để định hướng cho hiện tại. Trong bài viết Ký ức nhân loại qua con
mắt của nhà văn, Uông Triều cho rằng: “Tôi thường viết khá nhiều về vua Trần
Nhân Tông… Tôi thường tự hỏi không biết vua Trần Nhân Tông đã nghĩ gì. Đôi
khi có những tình tiết hư cấu tôi lại đắn đo, không biết mình có đoán trúng ý
ngài không” 63; 463].
Giọng triết lý - chiêm nghiệm thể hiện trong những suy tư của tác giả, của
NVAH khi nghĩ về vận mệnh, tương lai của đất nước, về những bài học cần rút ra,
những dự định không thể thực hiện. Đó là lúc Lê Lợi tự vấn về cái giá phải trả và
mặt trái của ngai vàng khi bản thân đang ở tột đỉnh vinh quang: “Ta đang là ông
vua trên chót vót đỉnh cao quyền lực hay chỉ là một kẻ khốn khổ bị tước đoạt mất
cuộc đời thú vị, sung sướng, tự do mà ta nuối tiếc?” 265; 125-126 . Hay sự chiêm
nghiệm về so sánh giá trị của cung kiếm và chữ nghĩa, sách lược: “Kẻ giỏi cung
đao hay công trạng nhiều lại có quyền khinh rẻ người hay chữ đến thế sao? Phải
chăng đó là chuyện thường tình của mọi thời?” [265; 128 . Trong tiểu thuyết của
mình, Nguyễn Quang Thân đã đặt gần như toàn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào
trong những suy tư, chiêm nghiệm của Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Nhiều trang viết
như là những cuộc luận bàn về anh hùng, về nhân tình thế thái dưới hình thức tự
vấn của nhân vật, đồng thời đó cũng là những tự vấn khắc khoải trong tâm tư
người đọc.
Giọng triết lý, chiêm nghiệm đôi khi được nhà văn sử dụng để chất vấn lịch
sử như khi Nguyễn Mộng Giác đánh giá vai trò lịch sử của các cá nhân (Nguyễn
138
Huệ, Nguyễn Nhạc): “Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là những cá nhân ở đúng vào vị
trí vươn lên của một thế hệ mới. Dĩ nhiên (…) có tài trí đủ để nhận lãnh vai trò
lịch sử, nhưng họ không hoàn toàn chủ động. Tình thế đẩy họ tiến lên, đám đông
thúc họ đứng dậy” 208; 375]. Những con người như Nguyễn Huệ có “sự quả
cảm, trầm tĩnh và thông minh thiên phú” nhưng “ Bước đầu họ có lúng túng với
vai trò mới, họ cảm thấy bị đưa đẩy nên phải quyết định vội, nhưng dần dần quen
với vai trò lịch sử, họ tự tin hơn, chính lúc đó khả năng trí tuệ của họ mới biểu lộ
toàn diện để đối phó với các biến cố dồn dập, các thử thách lớn lao mà từ xưa đến
nay họ chưa từng gặp phải” 208; 375 . Nguyễn Mộng Giác không đánh giá thấp
vai trò của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, nhưng ông cũng suy tư nhiều về những
mầm mống của thất bại ngay khi xuất hiện cảnh “nồi da xáo thịt” giữa hai anh em
Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Trong Sông côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác đã trả
lời những câu hỏi ấy bằng việc dẫn ra những nguồn sử liệu, một của ta, một của
người ngoại quốc, ghi lại lập trường của Nguyễn Nhạc về vấn đề Bắc Hà: “Trong
cuộc hội kiến giữa Chapman và Nguyễn Nhạc năm 1778 (…) Nguyễn Nhạc cho
biết ước vọng cao nhất của mình là chiếm cả giang sơn Nam hà, từ Lu Thầy vào
đến Gia Định. Chỉ chừng ấy thôi! Trong cuộc hội kiến với vua Chiêu Thống nhà
Lê tám năm sau (1786) tại kinh đô Thăng Long, Nguyễn Nhạc cũng nhắc lại điều
ấy cho các quan nhà Lê nghe. Nói chuyện với dân Nghệ An, Nguyễn Nhạc cũng
nhún nhường tự coi là “họ ngoại của chúa Nam Hà” 210; 114]. Tác giả đã nhìn
thấu lực cản lịch sử không ở đâu xa mà chính là ở người anh cả của Nguyễn Huệ:
“R ràng, trước sau như một, Nguyễn Nhạc chỉ muốn dừng lại bên này lu
Thầy… Cho nên nếu không có vụ nồi da xáo thịt thì cái cớ thống nhất cũng không
thể thành tựu được” [210; 114]. Giọng điệu từ suy tư chuyển sang phán xét nhân
danh lịch sử: “Cho nên, nếu Nguyễn Huệ xứng đáng nhận lấy vinh quang vì can
đảm hy sinh cái tiểu tiết để phụng sự cái đại cuộc, thì chính Nguyễn Huệ phải một
mình chịu trách nhiệm về sự yếu đuối của mình. Ông dám bất tuân lệnh vua anh
vượt qua Lu Thầy, nhưng không đủ sức mạnh ý chí và sự lạnh lùng để vượt qua
cái lu vô hình là tình máu mủ” 210; 117]. Phải chăng sự yếu đuối đã khiến
Nguyễn Huệ đã bỏ lỡ cơ hội lịch sử, sinh ra ranh giới Bến Ván và “nuôi dưỡng” di
hoạ cho Tây Sơn: “Bến Ván Bến Ván Cái tên ấy sắc như một lưỡi gươm chém
đứt thân thể của xứ sở, chém đứt ước vọng thống nhất của một người anh hùng
139
dám một mình chịu đựng tất cả tai tiếng, dèm pha, đàm tiếu thực hiện cho được
cao vọng của mình. Những dao động thanh toán nội bộ sau biến cố quan trọng
này, tất nhiên không thể tránh khỏi. Kể tỉ mỉ làm gì những điều vụn vặt ấy ”.
Nguyễn Huệ dù bị tác giả phê phán, cũng vẫn được cảm thông: “Làm sao được
Ngoài khối óc, ông còn có trái tim nhạy cảm ” [210; 117].
Giọng triết lý - chiêm nghiệm đôi khi còn được các nhà văn dùng để nói lên
những trăn trở, suy ngẫm của người anh hùng về lẽ nhân sinh. Đó là những suy
ngẫm của Nguyễn Trãi (Đất trời) về sự sống và cái chết: “Liều chết để tìm ra
đường sống? Có thể lắm. Nhưng nếu không chỉ xuất phát từ bản năng mà là một
chọn lựa thì liều chết để tìm ra đường sống lại là một nghịch lý oái oăm và thê
thảm nhất của loài người” 200; 127]; “Điều kỳ diệu của sự sống là trong từng cái
nhỏ nhoi” 200; 155]. Nói về tình yêu với Tổ Quốc, Nguyễn Trãi chiêm nghiệm:
“Yêu một người, khó vô cùng. Yêu non sông xã tắc dễ hơn vì tình yêu đó trừu
tượng. Nó được gạn lọc qua chữ nghĩa thánh hiền, biến thành một thứ thần quyền
dính dấp u mê. Mà đã u mê, còn gì là ý thức. Không ý thức, làm sao có tự do?”
[200; 306 . Để tìm cách đối xử khéo léo với tên hàng xóm luôn đầy ắp dã tâm,
Nguyễn Trãi (Hội thề) nghĩ rằng: “Muốn anh hàng xóm côn đồ không sang đánh
ta, phá nhà ta, giết lợn gà của ta thì có một cách là đi lại với y, coi y như hàng
xóm. Chỉ có nước lã mới rửa được máu, lấy máu rửa máu chỉ làm bẩn mãi thêm”
[265; 274 . Có khi là suy nghĩ của Nguyễn Trãi về chữ nhẫn của kẻ quân tử:
“Nhẫn là quý, là sự nhường nhịn của kẻ có học trước tâm địa vô học xấu xa để
một lòng cho tình thế ổn định. Nhưng nếu sống chỉ có chữ nhẫn thì rất có thể
mang tiếng là kẻ hèn” 265; 82-83].
Như vậy, để khắc họa sinh động hình tượng người anh hùng, các nhà văn
đã sử dụng phối hợp, linh hoạt nhiều sắc giọng: giọng ngợi ca, hào sảng, giọng trữ
tình tha thiết, giọng suy tư chiêm nghiệm. Ngoài các sắc giọng chủ yếu trên, các
nhà văn còn sử dụng một số giọng khác như giọng khách quan trung tính, giọng
hoài niệm, xót xa, giọng hài hước, humor.
4.4. Kết hợp sử dụng nhiều lớp ngôn từ trong xây dựng nhân vật anh hùng
4.4.1. Lớp ngôn từ cổ xưa, đậm chất lịch sử
NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975 phần lớn đều là những nhân vật có
thật, sống cách chúng ta một khoảng thời gian dài. Một lớp bụi thời gian đã phủ
140
lên các sự kiện. Để phục dựng lại chân dung con người của một thời kì đã qua là
điều không hề dễ. Nhà văn ngoài việc nắm vững kiến thức lịch sử còn phải khảo
cứu không gian văn hóa, nghi thức giao tiếp, trang phục, ngôn ngữ… Hoàng Quốc
Hải cho biết khi viết Bão táp triều Trần, ngoài việc đọc k các bộ lịch sử như Đại
Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thời S , Lịch triều hiến
chương của Phan Huy Chú, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô S Liên…, ông còn
đi thực tế, dự các hội thảo, tìm hiểu văn hóa, phong tục thời Trần… Việc nhà văn
phải sử dụng vốn từ cổ xưa để phục dựng lại không khí thời đại, cách nói năng của
các nhân vật là một điều tất yếu. Tất nhiên, nếu lạm dụng quá đà sẽ gây nặng nề,
khó hiểu với người đọc.
Trong Bão táp triều Trần, khi miêu tả nhân vật, Hoàng Quốc Hải sử dụng
phổ biến lớp từ cổ. Đây là đoạn miêu tả uy quyền của Điện tiền chỉ huy sứ Trần
Thủ Độ trong buổi thiết triều công bố chiếu chỉ lập Chiêu Thánh (Lý Chiêu
Hoàng) làm hoàng tử và trao ngôi báu:
NVAH sống trong thời đại của họ, phần lớn xuất thân từ tầng lớp phong
kiến nên cách nói năng của họ mang tính quý tộc, khuôn phép. Trần Quốc Tuấn
(trong Bão táp triều Trần) khi tiếp xúc với vua, với quan lại trong triều luôn sử
dụng cách nói cung kính, thủ lễ, chuẩn mực: “Tâu thượng hoàng, tâu quan gia,
thưa chư vị, kế sách phá giặc, toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, núi non,
sông suối rừng cây, biển đảo tất tận thảy đều đánh giặc và trên từ nhà vua dưới
đến bách tính đều muôn người như một quyết tâm đánh giặc… Tâu, đó là kế sách
lớn giữ nước.” 213; 181 . Đặc biệt khi giao tiếp với nhà vua, Trần Hưng Đạo luôn
xưng “thần” và dùng động từ “tâu” để bắt đầu trình bày công việc. Trong Hội thề,
lớp ngôn ngữ cổ xưa là phương tiện giúp nhà văn tái hiện đời sống, sinh hoạt cung
đình, phủ chúa đời hậu Lê, với lớp từ trang trọng như: Bình Định Vương, đức vua,
chúa công, bình thân, các khanh, miễn lễ, thần, đại nhân, tấu trình… Nguyễn
Quang Thân trong Hội thề, đưa vào rất hợp lý vốn từ cổ, các từ Hán Việt, các điển
tích, điển cố. Đây là đoạn Lê Lợi đánh giá về Bình Ngô sách của Nguyễn Trãi:
“Đọc Bình Ngô sách của khanh, về đạo lớn thu hồi xã tắc ta chỉ thấy mấy chữ: “dĩ
đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi địch cường bạo”. Về thuật đánh giặc
thì ta tâm đắc: “mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất” 265; 188]. Trong
cuộc nói chuyện với công tử Tư Tề (con trưởng của Bình Định Vương Lê Lợi),
141
Nguyễn Trãi giải thích việc vì sao ông muốn Tư Tề vào thành làm con tin: “Thánh
nhân bất đắc dĩ dụng quyền… Chắc công tử biết r , hàng chục thành quách được
vua ta thu về bằng cách đánh vào lòng quân giặc. Đã từng ai dung lẽ phải trái mà
thu phục Thái Phúc? Nhưng “công tâm bất công thành” cũng chỉ là kế mọn. Ý đồ
chúa công trong trận “công tâm” ở Đông Quan mới là kế lạ muôn đời…” [265;
195 . Việc Nguyễn Quang Thân sử dụng lớp ngôn ngữ cổ trong miêu tả nhân vật
Lê Lợi, Nguyễn Trãi chứng tỏ ông rất am hiểu về văn hoá, con người thời đại nhà
hậu Lê.
Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác rất khéo léo kết hợp các lớp
ngôn từ để miêu tả NVAH. Lớp ngôn từ có màu sắc lịch sử chủ yếu xuất hiện
trong một số đoạn tái dựng không khí cung đình, quân doanh. Nhân vật Nguyễn
Huệ có lúc nói năng rất đời thường, bình dân, nhưng những lúc cần giữ lễ thì cách
nói năng lại rất cung kính, giữ lễ, đoạn đối thoại giữa Nguyễn Huệ và vua Lê ở
cung Vạn Thọ là một ví dụ: “Thần vì nghĩa tôn phù mà đến đây, đâu dám kể công
lao. Vả chăng chuyến này thần ra cũng bởi ý Trời. Không phải sức người làm
được. Nếu bảo thần có hậu tình riêng với bệ hạ mà kéo quân ra, thì những quân
lính, thuyền bè thần có thể điều khiển, nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió
nồm mạnh lên, há phải sức thần làm nổi? Đó thực là Trời muốn bệ hạ thống nhất
bờ c i, để lưu lại nền móng cho vạn ức năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ chấn chỉnh
giềng mối… Ấy là thần được bệ hạ ban tặng nhiều lắm vậy ” 209; 576].
4.4.2. Lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ mang màu sắc đương đại
Nếu lớp ngôn từ cổ xưa, mang tính “quy phạm” thường gắn với đời sống,
sinh hoạt, nói năng của các NVAH thuộc giới quý tộc phong kiến thì lớp ngôn từ
đời thường, khẩu ngữ mang màu sắc hiện đại lại gắn liền với đời sống của nhiều
tầng lớp bình dân. Những kiểu xưng hô như: ông, bà, tôi, anh, chị, em, ta, ngươi,
gọi đáp bằng tên riêng, các câu thoại mang màu sắc khẩu ngữ hiện đại có mặt
trong nhiều TTLS. Điều này giúp người đọc không bị chìm đắm trong lịch sử mà
vẫn được sống trong không khí hôm nay, cảm nhận được sự gần gũi, quen thuộc
trong từng lời kể, làm sống dậy “những xác chết biên niên sử”.
Trong Trần Quốc Toản, Lưu Sơn Minh khá linh hoạt trong kết hợp lớp
ngôn từ có màu sắc cổ xưa và lớp ngôn từ đời thường, hiện đại khi miêu tả nhân
vật Trần Quốc Toản. Quốc Toản có suy nghĩ phóng túng, nhiều lúc như một trang
142
thiếu niên của ngày hôm nay: “Chị Thoan pha chè kiểu gì mà uống say thế? Chị
có cho thêm cái gì vào không đấy?”, “Không, không, có gì đâu mà phải giữ lễ.
Anh em ta bây giờ cũng phải xưng hô thế nào cho thân mật chứ. Anh Nguyễn
Khoái, em còn kém tuổi chị Thoan cơ mà.” 237; 55]. Trong đối thoại với Thoan
và Nguyễn Khoái, lời của Trần Quốc Toản không giống một người xuất thân quý
tộc, cao sang mà lại gần gũi, thân thiết như những người bình dân xưng hô với
nhau. Ngôn ngữ hiện đại cũng xuất hiện trong đối thoại giữa Lê Lợi và các tướng
lĩnh trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân. Tác giả rất khéo léo kết hợp một số từ
“Ta nói ngay từ khởi thuỷ, buổi đàn hạc hôm nay không ai có tội. Nguyên
Hãn vốn nói năng thẳng thắn đã bày tỏ được lòng trung của mình. Khá khen! Còn
ông Sát, ta không bắt tội những lời phun ra từ miệng ông nhưng ông phải biết việc
rút gươm ra giữa triều có tội gì. Ta sẽ xét sau! Nào, bây giờ ta muốn nghe quân sư
Nguyễn Trãi” 265; 282].
cổ với cách diễn đạt, nói năng giống với con người hiện đại:
Dưới cái nhìn của Nguyễn Quang Thân, Lê Lợi là ông vua xuất thân tầng
lớp địa chủ, sinh ra từ núi đồi, lớn lên gặp buổi loạn lạc, phải đứng dậy đấu tranh
giành sự sống. Vì vậy, Lê Lợi (nhất là thời kỳ chưa lên ngôi) rất bình dị, đời
thường trong cách nói năng. Ông thường dùng lớp ngôn ngữ bình dân, khẩu ngữ
để đối thoại với mọi người: tôi, tao, mày, con, nhà con, ông anh, bọn, chúng nó,
thằng… Chẳng hạn, khi Lê Lợi nói với Phạm Vấn: Đừng nóng ông anh vợ! Ông
không biết rằng chuyến đi này Trãi có thành công cũng là nhờ sau lưng đã có
chiến công của đại quân và tướng lĩnh các ông sao?” 265; 295]. Hay khi Lê Lợi
nói với người lính cận vệ: “Ngươi ngồi xuống cùng ăn với ta. Ta hay đói, tính ấy
xấu phải không? Nhiều người trách ta cho đàn bà vào quân ngũ, họ thị phi là ta
quá nể ông Trãi. Nhưng họ biết đâu là chỉ vì ta hay đói và háu ăn…” 265; 11].
Nhiều lúc Lê Lợi còn có những phát ngôn trần trụi giống khẩu ngữ của ngày
hôm nay: “Đến thịt chuột chúng mày cũng sẽ không có mà ăn nữa đâu”; “Giết
chúng nó đi”; “Đánh bỏ mẹ chúng nó”… 265; 91 ; “Ngữ các ông không bằng
cục phân”; “Lương Như Hốt chỉ là chó lợn mà thôi”…
Nguyễn Mộng Giác rất hiện đại khi miêu tả chân dung, ngoại hình Nguyễn
Huệ: “Trên má, mấy nốt mụn thâm tím hiện lờ mờ lên làn da nâu. Một mảng tóc
quăn phủ xuống cái trán rộng” 209; 104]; “Nguyễn Huệ ngồi yên lặng như vậy
thật lâu, tay trái mơn man lần tìm những nốt mụn nổi hai bên má và dưới cằm. Hễ
143
mụn nổi nhiều là ông biết tâm hồn mình có nhiều bất định” 210; 140]. Hay miêu
tả tâm trạng Huệ trong lần ghé thăm An, người đọc cũng có cảm giác như đang
chứng kiến tình yêu nồng cháy của đôi nam nữ thời hiện đại: “Lòng Huệ rộn rã
(…) An mỉm cười đôn hậu, mắt lóng lánh dưới ánh đèn. Biết bao lần anh mơ
tưởng đến khuôn mặt này, đến mái tóc phủ lên chiếc cổ trắng, đến chiếc mũi thanh
tú, đến vẻ hờn dỗi hay hân hoan thay đổi tùy theo cách mím môi” [208; 370].
Trong Gió lửa, Nam Dao xây dựng Nguyễn Huệ với tính chất là NVAH
xuất thân từ tầng lớp bình dân, áo vải nên bên cạnh lớp ngôn từ bác học, quy
phạm, Nguyễn Huệ thường tự bộc lộ mình bằng một thứ ngôn ngữ bình dân, ít
khuôn phép. Chẳng hạn, trong lễ triều kiến, vua Hiển Tông phong Nguyễn Huệ
làm Nguyên soái, ông tỏ ra không vui và giận dữ: "Ta đánh một trận, dẹp yên
thiên hạ thì một hòn đất, một tên dân nước này là của ta, ta muốn xưng đế, xưng
vương thì xưng, ai cản được. Cái chức Nguyên soái quốc công với ta là cái gì?
Muốn lấy tiếng hão để lung lạc một kẻ mọi rợ à? Ta nhận, nhưng phải nói ra cho
"đám thây ma" ở triều đình đó biết" [199; 93]. Khi ngồi uống rượu với đám tả
hữu, Huệ nói: "Kẻ mọi rợ này nay bám vào cành vàng lá ngọc, thật là "thiên tải kỳ
duyên". Có khi Nguyễn Huệ tự xưng mình là “kẻ này”: "Kẻ này vâng mệnh Hoàng
huynh mang quân ra làm việc tôn phù đã xong. Ngày mai, làm xong việc tang tế
của con rể muốn tròn đạo với bố vợ, thế là trung hiếu vẹn cả hai bề, kẻ này sẽ rút
quân về nước" [195; 113-114]. Nguyễn Huệ còn dùng từ các từ như “gái tơ”, “con
ranh” để nói về Ngọc Hân: "Ta ra vì loạn, về lại đèo bồng thêm một đứa gái tơ, trẻ
con nó chắc bụm miệng cười!" [199; 95], "Ðêm nay động phòng. Xem con ranh
nó tròn hay méo..." [199; 97]. Có những lúc Huệ gọi anh trai mình là “hắn”, dùng
những từ “hao chó”, “sài lang” để ví von về Nhạc: "Không bảo hắn là heo chó, là
sài lang làm nhơ nhớp triều chính thì bảo hắn là cái giống gì?" [199; 118]. Việc
nhà văn để người anh hùng thốt ra những từ ngữ thông tục rõ ràng là dụng ý nghệ
thuật của nhà văn, phù hợp với cách nhìn “giải thiêng”. Tất nhiên, đi theo hướng
này, nếu quá đà, người viết rất dễ hứng chịu búa rìu dư luận.
Tóm lại, nếu lớp ngôn từ mang màu sắc cổ xưa góp phần tái hiện không
gian văn hóa, môi trường sống, cách nói năng của NVAH, phần lớn trong môi
trường giao tiếp cung đình thì lớp ngôn từ hiện đại, gần gũi với đời sống đã góp
144
phần rút ngắn khoảng cách sử thi trong nhìn nhận NVAH, giúp người đọc khám
phá lịch sử và đến với người anh hùng bằng tâm thế của con người hiện tại.
4.4.3. Lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ)
Ngôn ngữ toàn dân là phương tiện chính của nhà văn trong các TTLS.
Nhưng con người lại thuộc về một miền quê nhất định nên cách nói năng của họ
luôn có tính vùng miền. Ngôn từ địa phương là một thủ pháp quan trọng góp phần
khắc họa tính cách, cá tính nhân vật, giúp khắc họa bối cảnh sống, văn hóa vùng
miền nơi NVAH trưởng thành. Lớp ngôn từ này thể hiện trong cách dùng từ, tên
địa danh, từ xưng hô, cách diễn đạt… Khá nhiều tác phẩm sử dụng phương ngữ
thành công trong miêu tả NVAH như Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Hồ Qúy
Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Nguyễn
Du và Khúc hát những dòng sông của Nguyễn Thế Quang, Búp sen xanh và Bông
sen vàng của Sơn Tùng, Từ Dụ thái hậu của Trần Thùy Mai,…
Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân sử dụng khá nhiều các từ mang tính
vùng miền để thể hiện tính cách nhân vật Lê Lợi. Khi thị vệ hỏi chúa công có
dùng trà đêm không, Lê Lợi trả lời: “Trà, suốt ngày trà xót cả ruột Lấy cái chi
cho ta ăn. Bụng sôi ầm ầm đây ” 265; 10]. Trong Tây Sơn bi hùng truyện, ngoài
sử dụng ngôn từ toàn dân thì từ địa phương vùng Bình Định cũng được tác giả sử
dụng để miêu tả nhân vật. Các từ địa phương như: té ra (hóa ra, thì ra…), mau
(nhanh), phỉnh (lừa gạt), vời (mời),… Khi Nguyễn Nhạc và các tướng họp bàn
việc quân ở Tây Sơn Thượng, Biện Nhạc đã phong thầy giáo Hiến làm quân sư.
Văn Hiến thoái thác rằng: “Tôi tài cán gì mà dám nhận chức ấy. Bày kế làm biện
lại Vân Đồn nuôi quân là của Nguyễn Huệ. Giết tên biện lại cũ để chủ tướng thế
chân là Vũ Văn Nhậm. Nay tôi nhận chức ấy té ra là tranh công của Huệ và Nhậm
hay sao?” 197; 64]. Trong Khúc hát những dòng sông, Nguyễn Thế Quang đã sử
dụng rất nhiều lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh, xứ Huế để miêu tả nhân vật. Các
nhân vật trong gia đình bà Hoàng Thị Loan khi giao tiếp với nhau thường sử dụng
phương ngữ. Những từ ngữ như: rứa (vậy), răng (sao), mô (ở đâu), ni (này), can
chi (không sao, không vấn đề gì cả), O (cô) … Ngôn ngữ xứ Nghệ được Nguyễn
Thế Quang sử dụng khá nhuần nhuyễn. Đó là những câu hỏi của cậu bé Cung khi
đến làng Dương Nổ: “Cha ơi Sông ni là sông chi. Răng mà nhỏ rứa? Hắn chảy
đến mô” 242; 195 . Hay khi hai mẹ con đi trên sông Hương, Cung hỏi mẹ: “Nhà
145
ai to rứa? - Tòa Khâm sứ của Tây đó con ạ. - Răng họ lại ở đó? Ở đó làm chi?... -
Mẹ ơi Nhà chi như hai cái hộp dài, dưới to, trên nhỏ các góc uốn cong chồng lên
nhau rứa? À Đó là cổng trường Quốc học, sau cổng đó là cổng trường học lớn
của cả nước” 242; 208 - 209].
Với Búp sen xanh, Sơn Tùng đã vận dụng linh hoạt ngôn từ địa phương vào
tác phẩm. Trước hết, ông sử dụng nhiều từ ngữ và cách nói năng của người dân xứ
Nghệ. Đây là đoạn đối thoại giữa Côn và bà Ngoại: “Côn phụng phịu hỏi bà:
Khách ở mãi trên nớ, chúng cháu ở tận dưới nhà ni, răng lại không được nói to,
không được chạm bát đũa, hở bà?”; “Chị Thanh cạo cháy trong nồi mạnh tay cũng
bị dì An mắng, vì răng rứa bà?” [271; 109]. Ngôn từ địa phương xứ Huế cũng
được Sơn Tùng sử dụng với tần số cao. Đoạn đối thoại giữa Côn và Công tôn nữ
Huệ Minh: “Mệ ơi mệ, con sông ni có tên là Hương, cái lầu kia là Phu Văn Lâu,
cái cửa lớn ở chính giữa là Ngọ Môn… Vậy cái hòn núi tận xa kia là chi, hả mệ?”
[271; 85]. Đây chính là ngôn từ của ruộng đồng, lời ăn tiếng nói của những người
bình dân vùng Nghệ Tĩnh, Thừa thiên Huế. Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất
Thành đã ra đi từ cái nôi văn hóa của một vùng quê, một đất nước, để rồi từ đó,
sau 30 năm bôn tẩu nước ngoài tìm đường cứu nước, con người ấy vẫn giữ lại cốt
cách, tâm hồn của một con người xứ Nghệ, con người Việt Nam.
Như vậy, khi xây dựng hình tượng NVAH, lớp từ địa phương (phương ngữ)
nếu sử dụng thành công sẽ góp phần tạo dựng bối cảnh sống, cách suy nghĩ, nói
năng của NVAH, phù hợp với cái nôi văn hóa mà họ sinh ra. Điều này cũng góp
phần không nhỏ cho việc lý nét riêng trong tính cách, cá tính, sự lựa chọn con
đường đi của nhiều NVAH.
Tiểu kết chƣơng 4
Cùng với sự đa dạng, phong phú trong loại hình NVAH, kết hợp hài hòa
giữa yếu tố chính sử và yếu tố hư cấu trong xây dựng nhân vật, TTLS Việt Nam
sau 1975 cũng có bước tiến lớn trong việc vận dụng, sáng tạo các phương pháp,
thủ pháp xây dựng nhân vật. Nhiều sự kiện lớn được đề cập trong chính sử, gắn
liền với chiến công của các anh hùng, đi vào tiểu thuyết trở thành các tình huống
căng thẳng, gây cấn, hấp dẫn bạn đọc. Đó là tình huống đất nước nguy nan, thù
trong giặc ngoài vây bủa; Đó là tình huống người anh hùng cận kề cái chết; Đó là
tình huống lựa chọn khó khăn giữa lợi ích dòng họ và quyền lợi quốc gia, giữa chữ
146
trung, chữ hiếu, chữ tình… Các nhà văn cũng sáng tạo, kết hợp hài hòa nhiều thủ
pháp để xây dựng nhân vật như xây dựng nhân vật qua chân dung bên ngoài, qua
lời nói, hành động, đặc biệt là chú trọng thể hiện thế giới nội tâm với nhiều phức
tạp, giằng xé, bi kịch. Các nhà văn cũng vận dụng linh hoạt, kết hợp nhiều điểm
nhìn, nhiều sắc thái giọng điệu trong thể hiện NVAH, đặc biệt chú trọng nhiều hơn
điểm nhìn bên trong. Nhờ thế, nhiều NVAH trong tiểu thuyết không còn đơn
phiến một chiều mà trở nên mới mẻ, vừa là những con người phi thường, cao cả,
vừa là những con người gần gũi, bình dị, phù hợp với tâm thế người đọc đương
đại. Ngôn ngữ trong TTLS sau 1975 cũng rất đa dạng, với sự vận dụng, kết hợp
sinh động nhiều lớp ngôn từ như lớp ngôn từ cổ xưa, cung đình tái hiện thời gian
quá khứ; lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ gần gũi với ngôn ngữ con người
đương đại; lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ) tạo sắc thái văn hóa vùng miền.
147
KẾT LUẬN
1. Sau 1975, đặc biệt được tiếp sức bởi xu trào Đổi mới từ 1986, TTLS đã có
bước phát triển vượt bậc, làm phong phú thêm bức tranh văn xuôi Việt Nam
đương đại. Trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận
văn, luận án, một số hội thảo quốc gia đã lấy tiểu thuyết lịch sử làm đối tượng
nghiên cứu. Có nhiều cách phân chia khác nhau, tuy nhiên, từ cái nhìn toàn cảnh
có thể khái quát ba hướng phát triển chính của TTLS sau 1975: 1/ Xu hướng sáng
tạo trên cơ sở tôn trọng hiện thực, trung thành với chính sử, với tâm thức cộng
đồng, có hư cấu nhưng ở một “ngưỡng” cho phép. 2/ Xu hướng sáng tạo trên cơ
sở bổ khuyết, đối thoại với lịch sử. Mức độ bổ khuyết, đối thoại có thể đi từ bổ
sung, làm r các khoảng mờ, nhìn lại, minh oan cho các nhân vật lịch sử đến chỗ
phóng túng, mượn lịch sử làm “cái đinh để treo quan niệm”, biến lịch sử thành “sự
tùy tiện ý thức”. 3/ Xu hướng sáng tạo trên cơ sở dùng lịch sử để quan tâm, đào
sâu vào vấn đề con người cá nhân, đời tư hoặc vấn đề văn hóa, phong tục. Cùng
với sự vận động, phát triển của TTLS Việt Nam sau 1975, các nhận định, đánh giá
về TTLS nói chung, các tiểu thuyết lịch sử cụ thể của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn
Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác… nói riêng
cũng khá sôi động và có nhiều khác biệt. Để triển khai luận án, chúng tôi đã đưa ra
quan niệm của mình về tiểu thuyết lịch sử, về NVAH trong TTLS. Chúng tôi cho
rằng TTLS phải là tiểu thuyết mà ở đó nhà văn có tâm thế viết về quá khứ, về những
thời đã qua, một quá khứ đã có độ lùi nhất định trong tương quan với người viết và
với thời gian hiện tại. Tiểu thuyết lịch sử rất cần hư cấu, sáng tạo, nhưng “ngưỡng”
của hư cấu là không phá vỡ những giá trị chân thực có tính cốt l i của lịch sử, không
được phản lại những gì là thiêng liêng, thành kính của cộng đồng dành cho các anh
hùng dân tộc. Trên nguyên tắc ấy, nhà văn có thể mở rộng quyền sáng tạo, tưởng
tượng, điều đó không chỉ giúp lịch sử và quá khứ hiện lên sống động trên từng trang
viết mà còn giúp cho các thế hệ bạn đọc hiểu sâu sắc về văn hóa, truyền thống tốt đẹp
của cha ông, cả những bài học đau đớn, thất bại mà hậu thế phải suy tư, nghiền ngẫm,
rút ra những bài học cần thiết để làm đầy hành trang tiến về phía trước.
2. TTLS Việt Nam đã phát triển qua nhiều chặng đường. Mỗi một giai đoạn,
chúng ta chứng kiến những bước tiến ấn tượng của thể loại này trên nhiều phương
148
diện. Ở giai đoạn thứ nhất, từ đầu thế kỷ XX đến 1945, TTLS ra đời, tiếp thu những
thành tựu từ các tiểu thuyết chương hồi mang màu sắc lịch sử thời trung đại và
TTLS phương Tây để từng bước hiện đại hóa. Tuy ở giai đoạn này, TTLS chưa có
nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng nội dung khá phong phú, hình thức ngày càng tiếp
cận cách viết hiện đại. TTLS giai đoạn này tập trung phản ánh những sự kiện quan
trọng trong lịch sử dân tộc, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn giữa các tập đoàn phong kiến. Bên cạnh các trang hào
hùng, TTLS giai đoạn này cũng quan tâm thể hiện những thời kỳ loạn lạc của lịch
sử dân tộc với cái nhìn phê phán hiện thực sâu sắc. Trong giai đoạn từ 1945-1975,
trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, văn học nói chung, TTLS nói riêng vận
động theo xu hướng sử thi hóa, các nhà văn chú trọng thể hiện các chiến công oanh
liệt của cha ông, đề cao phẩm chất anh hùng, gan dạ, bất khuất của các anh hùng
dân tộc. TTLS đã hòa vào bức tranh chung của văn học thời chiến, có tác dụng
động viên tinh thần, ý chí chiến đấu, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
TTLS giai đoạn này cũng đã khắc họa hình ảnh nhân dân, nâng họ lên thành biểu
tượng cho vẻ đẹp về sức mạnh và niềm tin chiến thắng của con người Việt Nam.
Từ 1975, đặc biệt là từ 1986 đến nay, TTLS phát triển sôi động, có sự đổi mới, cách
tân trong nội dung cũng như nghệ thuật thể hiện. TTLS phân hóa thành nhiều xu
hướng, cái nhìn lịch sử trở nên đa chiều và giàu sức gợi mở, nhiều NVAH được soi
chiếu, xem xét dưới cái nhìn gần gũi, thấm đẫm nhân văn. Nhờ thế, nhiều NVAH
vừa giữ được vẻ đẹp cao cả, phi thường, đáng được tôn vinh, ngưỡng mộ, vừa được
bổ sung nhiều nét đời tư bình dị, khiến họ không phải là những vĩ nhân với “khoảng
cách sử thi” mà còn là những con người với số phận riêng, với những buồn vui, đau
khổ nhân sinh gần gũi với con người hiện đại.
3. Tuy không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung
TTLS Việt Nam sau 1975 đã xây dựng thành công một thế giới NVAH phong
phú, đa dạng, vừa có nhiều mặt đồng hướng với chính sử, với tâm thức cộng đồng,
đồng thời cũng có nhiều sáng tạo, cách tân mới mẻ, góp phần làm phong phú hơn
nhận thức của các thế hệ bạn đọc về người anh hùng. Việc nhận diện loại hình
nhân vật anh hùng là cần thiết, điều này sẽ làm r hơn quan niệm, cảm hứng, bút
pháp thể hiện đa dạng của các nhà văn. Có nhiều cách phân loại thế giới NVAH
trong tiểu thuyết (dựa trên chức năng, vị trí của nhân vật trong cấu trúc văn bản,
149
dựa trên vai trò, sự nghiệp của người anh hùng, dựa trên cấu trúc nhân vật…).
Trong luận án, chúng tôi quan tâm đến lý thuyết diễn ngôn, xem TTLS trước hết
như các diễn ngôn về lịch sử của nhà văn. Vận dụng lý thuyết diễn ngôn, chúng
tôi đi sâu khảo sát 3 kiểu loại nhân vật nổi bật: 1. Kiểu NVAH sáng tạo theo xu
hướng đồng hướng với chính sử; 2. Kiểu NVAH sáng tạo theo xu hướng bổ
khuyết, đối thoại với chính sử; 3. Kiểu NVAH sáng tạo theo xu hướng mượn
lịch sử để khám phá, tô đậm con người cá nhân, đời tư. Tất nhiên, ba xu hướng
này không phải lúc nào cũng có ranh giới r ràng mà có sự kết hợp, đan xen
sinh động trong thế giới NVAH ở các nhà văn. Ba xu hướng sáng tạo này thể
hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới NVAH, đồng thời cũng là biểu hiện của
sự phân hóa sinh động của TTLS Việt Nam sau 1975.
4. Cùng với sự đa dạng, phong phú trong loại hình NVAH, kết hợp hài hòa
giữa yếu tố chính sử và yếu tố hư cấu trong xây dựng nhân vật, TTLS Việt Nam
sau 1975 cũng có bước tiến lớn trong việc vận dụng, sáng tạo các phương pháp,
thủ pháp xây dựng nhân vật. Nhiều sự kiện lớn được đề cập trong chính sử, gắn
liền với chiến công của các anh hùng, đi vào tiểu thuyết trở thành các tình huống
căng thẳng, gây cấn, hấp dẫn bạn đọc. Đó là tình huống đất nước nguy nan, thù
trong giặc ngoài; Đó là tình huống người anh hùng cận kề cái chết; Đó là tình
huống lựa chọn khó khăn giữa lợi ích dòng họ và quyền lợi quốc gia, giữa chữ
trung, chữ hiếu và chữ tình… Các nhà văn cũng sáng tạo, kết hợp hài hòa nhiều
thủ pháp để xây dựng nhân vật như xây dựng nhân vật qua chân dung, ngoại hình;
qua lời nói, hành động; đặc biệt là chú trọng thể hiện thế giới nội tâm với nhiều
phức tạp, giằng xé, bi kịch. Các nhà văn cũng vận dụng linh hoạt, kết hợp, luân
chuyển nhiều điểm nhìn, nhiều sắc thái giọng điệu trong thể hiện NVAH, đặc biệt
chú trọng nhiều hơn điểm nhìn bên trong, quan tâm thể hiện thế giới nội tâm phức
tạp, đầy chất người của các anh hùng. Giọng điệu thể hiện NVAH cũng có sự đan
xen, phối hợp nhiều sắc thái, có giọng ngợi ca, hào sảng, có giọng trữ tình đằm
thắm, có giọng triết lý suy tư. Ngôn ngữ trong TTLS sau 1975 cũng rất đa dạng,
với sự vận dụng, kết hợp sinh động nhiều lớp ngôn từ như lớp ngôn từ cổ xưa, lớp
ngôn từ cung đình tái hiện thời gian quá khứ; lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ,
gần gũi với con người đương đại; lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ) tạo sắc
thái văn hóa vùng miền. Tuy nhiên, trong thế giới NVAH, cũng còn một số nhân
150
vật chưa được bạn đọc ghi nhận, thậm chí còn có phản ứng ở những mức độ nhất
định. Có NVAH còn xơ cứng trong cách nhìn, trong cách tạo dựng, có NVAH
không khác gì những ghi chép trong chính sử. Lẻ tẻ còn có hiện tượng mượn
TTLS, mượn NVAH để bộc lộ những định kiến riêng, trái ngược với tâm thức
cộng đồng, với tâm lý thành kính, tôn vinh những bậc anh hùng dân tộc đã làm vẻ
vang cho non sông, đất nước.
5. Các vĩ nhân, anh hùng dân tộc không chỉ là đối tượng thể hiện của TTLS
mà còn là mảnh đất màu mỡ để các ngành nghệ thuật khác như sân khấu, nhiếp
ảnh, m thuật, điện ảnh... Với vị trí địa lý quan trọng, nằm giữa các con đường
giao thông huyết mạch, để tồn tại, dân tộc Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều
kẻ thù ngoại xâm hùng mạnh. Vì thế, các anh hùng dân tộc trong sự nghiệp giữ
nước và dựng nước luôn luôn được nhân dân tôn vinh, ngưỡng mộ, thờ phụng.
Viết về họ sao cho mới mẻ, hấp dẫn, không hạ bệ, xuyên tạc lịch sử mà ngược lại
góp phần soi sáng lịch sử, làm sống dậy lịch sử trong cái nhìn của ngày hôm nay,
từ lịch sử để rút ra những bài học cần thiết cho hiện tại luôn là thử thách với các
cây bút TTLS. Từ những thành tựu của TTLS Việt Nam sau 1975 nói chung,
thành tựu trong xây dựng NVAH nói riêng, chúng ta hy vọng các nhà văn sẽ tiếp
tục có những thành công mới trên mảnh đất giàu tiềm năng sáng tạo này.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ
1. Trần Thị Nhật (2015), “Bức tranh ngôn ngữ về hình tượng Hồ Chí Minh trong
Búp sen xanh và Bông sen vàng của Sơn Tùng”, Tạp ch Ngôn ngữ, ISSN:
0866-7519, số 12, tr. 54-61.
2. Trần Thị Nhật (2019), “Chiêm bái và giải thiêng qua hình tượng Nguyễn Trãi
trong tiểu thuyết Vạn Xuân”, Tạp ch Khoa học Đại học Sài Gòn, ISSN 1859-
3208, số 63, tr. 19-25.
3. Trần Thị Nhật (2019), “Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật anh hùng trong
tiểu thuyết lịch sử sau 1975”, Tạp ch khoa học Đại học sư phạm Hà Nội 2,
ISN 1859 - 2325, số 61, tr. 62-74.
4. Trần Thị Nhật (2019), “Tiểu thuyết hóa hình tượng Hồ Chí Minh trong Búp
sen xanh của Sơn Tùng”, Tạp ch Khoa học trường Đại học Vinh, ISSN 1859-
2228, số 1B, tr. 37-42.
5. Trần Thị Nhật (2019), “Hiện tượng „phản điển mẫu‟ trong văn xuôi viết về đề
tài lịch sử Việt Nam sau 1975”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, ISSN 0494 -
6928, số 12, tr. 79-88.
6. Trần Thị Nhật (2020), “Nhân vật Trần Quốc Tuấn trong tiểu thuyết Đức
Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh”, Tạp ch Khoa học Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Ch Minh, ISSN 1859-3100, số 17 (1), tr. 62-72.
7. Trần Thị Nhật (tác giả thứ nhất) (2021), “Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật
khi miêu tả nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975”,
Tạp ch Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Ch Minh, ISSN 1859-
3100, tr. 731-744.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Thu An (2012), “Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng”, nguồn:
https://phebinhvanhoc.com.vn/tieu-thuyet-lich-su-thanh-tuu-va-trien-vong/,
truy cập ngày 29/03/2013.
2. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Lê Tú Anh (2018), Văn xuôi Việt Nam hiện đại khảo cứu và suy ngẫm,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Phan Tuấn Anh (2013), “Lịch sử như là hư cấu - quan điểm mới về đề tài
lịch sử”, Tạp ch Sông Hương, số 298 (T. 12-13).
5. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
7. Lại Nguyên Ân (2005), “Tiểu thuyết lịch sử (Nhân đọc Giàn thiêu của V
Thị Hảo)”, nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn, truy cập ngày 10/05/2012.
8. Lại Nguyên Ân (2009), “Tiểu thuyết và lịch sử”, Mênh mông và chật chội,
Nxb Trí thức, Hà Nội.
9. Lại Nguyên Ân (2010), “Mặt nạ tác giả” - một gợi ý cho việc tiếp cận một
vài hiện tượng văn học sử Việt Nam”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, số
2/2010, tr. 68-80.
10. M. Bakhtin (2004), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
11. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
12. R. Barthes (2008), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri thức,
Hà Nội.
13. Nguyễn Chương M Bình (2009), Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam từ 1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội.
153
14. Nguyễn Chương M Bình (2009), Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam từ 1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời
điểm đổi mới đến nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), “Cách tân nghệ thuật trong
tổ chức lời văn của văn xuôi đương đại Việt Nam”, Tạp ch Nghiên cứu văn học,
số 8/2011, tr. 102-112.
17. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội,
Hà Nội.
18. D. Brewster & J. Burrell (1971), Tiểu thuyết hiện đại (Dương Thanh Bình dịch),
Tủ sách Kim văn, Sài Gòn.
19. Minh Châu - DSC (2010), Hồn sử Việt, các truyền thuyết, giai thoại nổi tiếng,
Nxb Lao động, Hà Nội.
20. Phan Huy Chú (2014), Lịch triều hiến chương loại chí, (tập 2), (Nguyễn
Mạnh Duân, Trương Văn Chinh dịch), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
21. Thiều Chửu (2009), Tự điển Hán Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Duy Cường (2011), “Diễn ngôn trần thuật khơi mở lịch sử - lý giải số
phận con người”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/Dien-ngon-tran-thuat-
khoi-mo-lich-su-ly-giai-so-phan-con-nguoi.html, truy cập ngày 24/06/2011.
23. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
24. Nguyễn Việt Cường (2003), “Tiểu thuyết lịch sử - những quan niệm và sự
thách thức với các nhà văn trẻ”, Tạp chí Văn hóa văn nghệ Công an Thành phố
Hồ Ch Minh, số 9/2003, tr. 83 - 85.
25. Nam Dao và Nguyễn Mộng Giác, “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:
https://nguyenmonggiac.com/137-thao-luan-ve-tieu-thuyet-lich-su.html.
26. Nam Dao (2002), “Về tiểu thuyết lịch sử”, http://vanmagazine.saigonline.com,
truy cập ngày 31/03/2002.
27. Lê Dân - Thái Xuân Đệ (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
154
28. Nguyễn Văn Dân (2012), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại -
phác họa một số xu hướng chủ yếu”, Tạp ch Thông tin Khoa học xã hội,
số 12/2012, tr. 32-41.
29. Chu Xuân Diên (2009), “Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi
pháp huyền thoại trong sáng tác văn học”, nguồn: http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn, truy cập ngày 5/2005.
30. Trương Đăng Dung (1998), Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của
G. Lukack, trong sách Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
31. Lê Tiến Dũng (2007), Nhà văn và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
32. Đinh Trí Dũng - Hoàng Vĩnh Thắng (2011), “Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong văn
học Việt Nam từ 1986 đến nay”, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn, truy cập
ngày 16/12/2011.
33. George Dutton (2019), Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (Lê Nguyên dịch và
giới thiệu), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
34. Đoàn Ánh Dương (2010), “Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong
Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học,
số 9/2010, tr. 107-121.
35. Lê Văn Dương (2011), “Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua
một số tiểu thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn”, nguồn:
http://www.vanhoanghean.com.vn, truy cập ngày 17/12/2011.
36. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
37. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
38. Trần Xuân Đề (1964), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc (3 tập), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
39. Phan Cự Đệ (2002), “Tiểu thuyết lịch sử của Hellas Haasse”, Tạp ch Văn học,
số 3, tr. 12-19.
40. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập Phan Cự Đệ (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
155
42. Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh,
Nghệ An.
43. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
44. Trọng Đức (1968), “Hình tượng nhân vật anh hùng qua một số tác phẩm
văn học cổ Việt Nam”, Tạp ch Văn học, số 1/1968, tr. 60-70.
45. S. Freud (2004), Nhập môn phân tâm học (Nguyễn Xuân Hiến dịch),
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
46. S. Freud (2014), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn),
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
47. Hoàng Cẩm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu
thế kỉ XXI”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, số 4/2010, tr. 90-104.
48. Hoàng Cẩm Giang (2015), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI: Cấu trúc và
khuynh hướng (chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
49. Lại Giang - Hữu Nhuận (1968), “Vai trò sáng tạo của người viết khi thể hiện
các nhân vật anh hùng”, Tạp ch văn học, số 11/1968, tr. 4-12.
50. Lê Thị Diệu Hà (2012), “Phân biệt truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử
- Một góc nhìn”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 94-102.
51. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L.Tôn-xtôi, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
52. Vũ Thanh Hà (2012), “Từ điểm nhìn sử gia đến điểm nhìn tác giả tiểu thuyết
chương hồi chữ Hán Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8/2012,
tr. 88 - 96.
53. Nguyễn Thị Bích Hải (2005), Tiến trình thơ và tiểu thuyết Trung Quốc
(Bài giảng chuyên đề), Đại học Sư phạm Huế, Thành phố Huế.
54. Hoàng Quốc Hải (2004), “Lịch sử phải là những bài học soi sáng cho
đương đại”, Báo Sài Gòn giải phóng, 2/10/2004.
55. Ngô Thanh Hải (2018), Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
56. Cao Thị Hảo (2014), “Nhân vật người anh hùng trong một số truyện kí của
Phan Bội Châu”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 4/2014, tr. 64-74.
57. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Hà Nội.
156
58. Hoàng Xuân Hãn (2018), Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo
triều Lý, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
60. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
61. Nguyễn Hòa (2003), Phân t ch diễn ngôn, một số vấn đề lý luận và phương pháp,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
62. Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa (đồng chủ biên) (1996), Cải cách
Hồ Qúy Ly, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương (2013), Sáng
tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Tiêu Thị M Hồng (2014), Quan niệm của mỹ học mácxít về cái cao cả và
vấn đề hình tượng người anh hùng trong văn học, nghệ thuật nước ta thời kỳ
đổi mới, Luận án Tiến sĩ M học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Tiêu Thị M Hồng (2015), “Các xu hướng xây dựng hình tượng người anh
hùng trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới”, Tạp ch Khoa học xã hội Việt
Nam, số 94/2015, tr. 114-123.
66. Đoàn Thị Huệ (2016), “Nghệ thuật thể hiện phương diện đời tư thế sự của
nhân vật lịch sử”, Tạp ch Khoa học Đại học Đồng Nai, số 2/2016, tr. 81-90.
67. Đoàn Thị Huệ (2017), Vấn đề hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
68. Nguyễn Hải Hùng (2010), Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Bão táp
triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường
Đại học Vinh.
69. Phan Mạnh Hùng (2009), Tiểu thuyết lịch sử - một khuynh hướng nổi bật
trong văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, nguồn: http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn, truy cập ngày 13/02/2009.
70. Lại Việt Hùng (2002), “Vạn xuân” và “Hồ Qúy Ly” trên nền tiểu thuyết lịch
sử trong sách Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc Gia,
Hà Nội.
157
71. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Mã lịch sử và mã văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau 1986”, Tạp ch Văn nghệ Quân đội, số 4/2013.
72. Nguyễn Văn Hùng (2014), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc
nhìn tự sự học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội.
73. Nguyễn Văn Hùng (2016), “Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau đổi mới”, Tạp ch Sông Hương, số 326/04.
74. Nguyễn Văn Hùng (2016), “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau
đổi mới”, Tạp ch Văn nghệ quân đội, số 848, 7/2016.
75. Nguyễn Văn Hùng (2018), “Phác họa tiến trình phát triển tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam từ giai đoạn trung đại đến nay”, Tạp ch Văn nghệ quân đội,
số 898, tr. 99-105.
76. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam (tái bản lần 3),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
77. Trần Thiện Khanh (2010), “Bước đầu nhận diện diễn ngôn, diễn ngôn văn
học, diễn ngôn thơ”, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn846-buoc-dau-nhan-
dien-dien-ngon-dien-ngon-van-hoc-dien-ngon-tho, truy cập ngày 01/08/2010.
78. Nguyễn Xuân Khánh (2012), “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:
http://vanvn.net, truy cập ngày 23/09/2012.
79. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2004), Việt Nam kho tàng dã sử,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
80. Vũ Khiêu (1975), Anh hùng và nghệ sĩ, Nxb Văn học giải phóng, Hà Nội.
81. Khoa Ngữ văn (2020), “Suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:
http://nguvan.hnue.edu.vn/suy-nghi-ve-lich-su-va-tieu-thuyet-lich-su-1015,
truy cập ngày 15/10/2020.
82. Phùng Ngọc Kiếm (2000), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 -
1975, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
83. Trần Trọng Kim (2011), Việt Nam sử lược, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. M. Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa
Thông tin, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
85. Cao Kim Lan (2007), “Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và
dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại”, Tạp ch Nghiên cứu văn học,
số 12/2012, tr. 58-77.
158
86. Phạm Ngọc Lan (2015), Văn học siêu hư cấu và cảm quan hậu hiện đại trong
văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đạị học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
87. Quý Lâm - Kim Phượng (2014), Từ điển tiếng Việt, Nxb Lao động - Xã hội,
Hà Nội.
88. Phan Huy Lê (2011), Tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, Hà Nội.
89. Đoàn Thanh Liêm (2017), “Biểu tượng đấng minh quân qua một số tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam đương đại”, Tạp ch Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,
số 273, Hà Nội.
90. Đ Thanh Liêm (2020), Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
92. Nguyễn Trường Lịch (1996), “Thi pháp tự sự và mối quan hệ giữa lịch sử với
hư cấu trong tiểu thuyết L. Tonxtoi”, Tạp ch Văn học, số 10.
93. Phan Trọng Hoàng Linh (2012), “Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết
Hội thề của Nguyễn Quang Thân”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 4/2012,
tr. 141-150.
94. Bùi Văn Lợi (1998), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
95. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
96. Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
97. C. Mác - F. Angghen - Lê Nin - Stalin (1967), Bàn về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh - Lê Duẩn - Trường Chinh (1966), Bàn về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
99. Lưu Sơn Minh (2016), “Đừng bịa đặt để viết tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:
https://zingnews.vn/luu-son-minh-dung-bia-dat-de-viet-tieu-thuyet-lich-su-
post635115.html, truy cập ngày 20/03/2016.
100. Lưu Sơn Minh (2018), “Viết văn vì nỗi ám ảnh một án oan”, nguồn: https://nld.com.vn/luu-
son-minh-viet-van-vi-noi-am-anh-mot-an-oan-.htm, truy cập ngày 22/05/2018.
159
101. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945
(chuyên luận), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
102. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học,
số 4/2009, tr. 56 - 64.
103. Nguyễn Đăng Na (2001), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những
vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Hoài Nam (2005), “Giàn thiêu - một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử”,
Báo Người Đại biểu Nhân dân, Hà Nội.
105. Hoài Nam (2008), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: truyện kể hay tiểu
thuyết?”, nguồn: http://vietnamnet.vn, 17/10/2008.
106. Hoài Nam (2008), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Báo Văn nghệ, số 45/2008, tr. 12.
107. Đỗ Hải Ninh (2009), “Quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2/2009, tr. 77-85.
108. Đỗ Hải Ninh (2012), “Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại‟,
http://toquoc.vn/van-de-ngon-ngu-trong-tieu-thuyet-lich-su-viet-nam-duong-dai.htm,
truy cập ngày 03/11/2009.
109. Đỗ Hải Ninh (2012), “Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển
biến của tư tưởng”, nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn/nhung-tranh-luan-ve-van-
xuoi-hu-cau-lich-su-va-su-chuyen-bien-cua-tu-tuong, truy cập ngày 27/02/2014.
110. Lê Thanh Nga (2006), Văn học hiện thực con người (Tiểu luận – phê bình),
Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.
111. Ngô Thị Quỳnh Nga (2007), Những hướng tìm tòi văn xuôi viết về đề tài lịch
sử trong văn học Việt Nam sau 1975, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại
học Vinh, Nghệ An.
112. Ngô Thị Quỳnh Nga (2010), “Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết
lịch sử sau 1975”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn, truy cập ngày
09/02/2010.
113. Đường Thị Ngân (2018), Hình tượng nhân vật anh hùng trong Đại Việt sử ký
toàn thư và Thiên nam ngữ lục từ góc nhìn so sánh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
160
114. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam”, Tạp ch Hán Nôm, số
3-4/1997, tr. 34.
115. Bình Nguyên (2015), “Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử”,
Tạp ch Văn nghệ Quân đội, 13/10/2015.
116. Lã Nguyên (2012), “Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình”, nguồn:
https://phebinhvanhoc.com.vn/van-hoc-viet-nam-trong-buoc-chuyen-minh/,
truy cập ngày 06/05/2014.
117. Đỗ Thị Nhàn (2020), Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
118. Vương Trí Nhàn (2007), “Đề tài lịch sử, cảm hứng hiện đại”, in trong Lý
Nhuệ, Ngân Thành cố sự, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
119. Trần Thị Mai Nhân (2007), “Nhân vật đa diện trong tiểu thuyết Việt Nam
giai đoạn 1986 - 2000”, Tạp ch Nhà văn, số 2/2007, tr. 63 - 70.
120. Trần Thị Mai Nhân (2009), “Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong
một số tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, nguồn: http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/tim-hiu-phng-thc-huyu-thuyt-vhtml, truy cập ngày 27/2/2009.
121. Nhiều tác giả (1999), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
122. Nhiều tác giả (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
123. Nhiều tác giả (2006), Bão táp triều Trần – Tác phẩm và dư luận, Nxb Phụ nữ,
Hà Nội.
124. Nhiều tác giả (2012), Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân
Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
125. Nhiều tác giả (2013), Lịch sử, sự thật và sử học, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
126. Nhiều tác giả (2019), Nghiên cứu và giảng dạy về đề tài lịch sử dân tộc
(Kỷ yếu hội thảo Khoa học Quốc gia), Nxb Văn học, Hà Nội.
127. Nhiều tác giả (2021), Lược sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học Sư Phạm,
Hà Nội.
128. Mai Hải Oanh (2005), “Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết
Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp ch Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.
129. Mai Hải Oanh (2007), “Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 10/2007, tr. 112-124.
130. Vũ Ngọc Phan (2004), Nhà văn hiện đại (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
161
131. Nguyễn Khắc Phê (2018), “Nhân vật trung tâm và quyền sáng tạo của nhà văn
trong tiểu thuyết lịch sử”, nguồn: https://vanhien.vn/nhan-vat-trung-tam-va-quyen-
sang-tao-cua-nha-van-trong-tieu-thuyet-lich-su-64081, truy cập ngày 27/09/2018.
132. G. N. Pôpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
133. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại - Nhìn từ
góc độ diễn ngôn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
134. Nguyễn Thế Quang (2019), “Tôi viết lịch sử với mong muốn bạn đọc hiểu
đúng lịch sử, Tạp chí Sông Lam, số 1 (bộ mới), tr. 132-135.
135. Nguyễn Văn Sang (2015), Hình tượng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
136. Trần Huyền Sâm (2010), Những vấn đề lý luận văn học Phương Tây hiện đại
(Tự sự học kinh điển), Nxb Văn học, Hà Nội.
137. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
138. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học (tập 1), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
139. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học (tập 2), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
140. Trần Đình Sử (2013), “Suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:
https://trandinhsu.wordpress.com/suy-nghive-lich-su-va-tieu-thuyet-lich-su/,
truy cập ngày 03/04/2013.
141. Trần Đình Sử (2014), Trên đường biên của lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
142. Trần Đình Sử (2017), “Về tiểu thuyết lịch sử”, nguồn: http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/ly-luan-va-phe-binh-van-hoc, truy cập ngày 04/01/2017.
143. Phạm Xuân Thạch (2004), “Quá trình cá nhân hóa hư cấu (Tự sự đương đại
Việt nam về đề tài lịch sử giữa truyền thống và hiện đại)”, Hội thảo quốc tế
về Việt Nam học lần thứ II, Tp. Hồ Chí Minh.
144. Phạm Xuân Thạch (2012), “Nguyễn Xuân Khánh - Từ cấu trúc nghệ thuật
đến cấu trúc tư tưởng”, nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn/nguyen-xuan-
khanh-tu-cau-truc-nghe-thuat-den-cau-truc-tu-tuong, truy cập ngày 18/12/2012.
145. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
146. Hải Thanh (2012), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Tạp ch Văn nghệ Quân đội,
02/10/2012.
162
147. Nguyễn Thị Phương Thanh (2005), Những cách tân đáng chú ý của tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học
sư phạm, Hà Nội.
148. Nguyễn Thành (2012), “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại - Một số bình diện tiêu biểu”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học,
số 4/2012, tr. 5-15.
149. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu,
giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
150. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”,
Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 11, tr. 15-28.
151. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
152. Trương Đình Tín (2006), Vua chúa Việt Nam qua các triều đại, NXB Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
153. Nguyễn Thị Kim Tiến (2010), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại với quan niệm
nghệ thuật về con người”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/Tieu-thuyet-lich-su-
duong-dai-voi-quan-niem-nghe-thuat-ve-con-nguoi.html, truy cập ngày 01/07/2010.
154. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.
155. Trần Mạnh Tiến (2011), “Tiểu thuyết lịch sử và người đầu tiên mở hướng
cách tân”, nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/2015-tieu-thuyet-lich-
su-va-nguoi-dau-tien-mo-huong-cach-tan, truy cập ngày 24/02/2011.
156. Tz. Todorov (2008), Nguyên l đối thoại (Đào Ngọc Chương dịch), Nxb Đại
học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
157. Trần Hải Toàn (2020), Văn xuôi về đề tài lịch sử viết cho thiếu nhi từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
158. Lê Thị Thu Trang (2017), Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
thập niên đầu thế kỷ XXI, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế.
159. Lý Hoàn Thục Trâm (2009), “Văn học kịch Việt Nam với đề tài lịch sử”,
nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n, truy cập
ngày 27/02/2009.
163
160. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
161. Bùi Thanh Truyền (2010), “Búp sen xanh và Bông sen vàng từ góc độ tiếp
biến văn hóa”, nguồn: https://bachovoihue.violet.vn/bup-sen-xanh-va-bong-
sen-vang-nhin-tu-goc-do-tiep-bien-van-hoa-van-hoc-dan-gian-4681304.html,
truy cập ngày 25/12/2010.
162. Bùi Thanh Truyền (2011), “Hình tượng Bác Hồ trong một số tiểu thuyết tiêu biểu
viết cho thiếu nhi sau 1975”, Tạp ch Khoa học xã hội, số 5/2011, tr. 106-117.
163. Tạ Chí Đại Trường (2017), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802,
Nxb Trí thức, Hà Nội.
164. Nguyễn Thanh Tú (2020), “Tiểu thuyết lịch sử là sự sinh động hóa lịch sử”, nguồn:
http://baovannghe.com.vn/tieu-thuyet-lich-su-la-su-sinh-dong-hoa-lich-su-20277.html,
truy cập ngày 21/02/2020.
165. Lê Anh Tuấn (2006), Giải th ch từ Hán Việt trong Sách giáo khoa văn học
hệ phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
166. Nguyễn Văn Tùng (2009), Lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
167. Nguyễn Văn Tùng (Tuyển chọn và biên soạn) (2008), Tuyển tập các bài viết
về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
168. Hoàng Minh Tường (2005), Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà văn, nguồn:
http://vanchuongplusvn.blogspot.com/nha-van-hoang-minh-tuong-tieu-thuyet.html/,
truy cập ngày 19/11/2012.
169. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Trí thức,
Hà Nội.
170. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển,
Hà Nội.
171. Viện Triết học (1967), “Truyền thống anh hùng trong lịch sử dân tộc Việt
Nam”, Thông báo Triết học (Tư liệu về chủ nghĩa anh hùng), số 4/1967,
Tài liệu lưu hành nội bộ.
172. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp ch văn học 1960 - 1999 (tập 2),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
164
173. V.I. Xêmanốp (1962), “Tiểu thuyết anh hùng Trung Hoa và vai trò của nó
trong việc hình thành nền văn học mới Trung Quốc”, in trong chủ nghĩa hiện
thực và tương quan của nó với các phương pháp sáng tác, Nxb Viện Hàn lâm
Khoa học Liên Xô.
174. Thái Vũ (2001), “Tiểu thuyết lịch sử trong dòng văn hóa dân tộc”, Tạp ch
Sông Hương, số 6/2001, tr. 63-65.
175. Trần Vũ (2003), “Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức”, nguồn:
http://tranvu.free.fr/baiviet/lichsu.html, truy cập ngày 09/06/2003.
176. Nguyễn Ngọc Như Ý (2012), Phương thức thể hiện nhân vật anh hùng
trong Thủy Hử của Thi Nại Am, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
177. Đỗ Ngọc Yên (2010), “Hồ Qúy Ly - cách tân hay bạo chúa?”, nguồn:
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/Ho-Quy-Ly-cach-tan-hay-bao-chua.html,
truy cập ngày 24/05/2010.
178. Đỗ Ngọc Yên (2016), “Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật”, nguồn:
http://vanvn.net/su-that-lich-suva-hu-cau-nghe-thuat/496, truy cập ngày 17/06/2016.
Tiếng Anh
179. Allan Lazar, Dan Karlan, Jeremy Salter, The 101 Most Influential People
Who Never Lived - (How Characters of Fiction, Myth, Legends, Television,
and Movies Have Shaped Our Society, Changed Our Behavior, and Set a
Course of History), Harper Collins E-book.
180. David Lindenfeld (2009), Jungian archetypes & the discourse of history,
Rethingking History, Vol.13, No.2. June 2009.
181. G. Lenobl (1960), Lịch sử văn học, Nxb Nhà văn Xô Viết, Liên Xô.
182. Hayden White (2005), “Introduction: Historical Fiction, Fictional History, and
Historical Reality”, Rethinking History, Vol.9, No.2/3, June/September 2005.
183. Jens Eder, Fotis Jannidis, Ralf Schneider (2010), Characters in Fictional
Worlds: Understanding Imaginary Beings in Literature, Film, and Other
Media, Walter De Gruyter, Printed in Germany.
184. Pierre Louis – Rey (1992), Tiểu thuyết, Hachettt supérieur, Paris.
165
Tiếng Trung
185. 范文明 (2017), 越南改革后与中国新时期以来历史小说之新变比较研究
(Nghiên cứu so sánh những đổi mới trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
đổi mới và tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc từ thời kỳ mới đến nay): 博士学位
论文, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học, Thư viện Quốc gia Việt Nam.
186. Nhiều tác giả (1989), Từ Hải từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã,
Trung tập.
187. Lưu Thiệu (1996), Nhân vật ch , Bắc Kinh, Hồng Kỳ xuất bản xã.
DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT
188. Trường An (2017), Thiên hạ chi vương, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
189. Trường An (2017), Hồ Dương (tập 1), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
190. Trường An (2017), Hồ Dương (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
191. Hoài Anh (1999), Ngô Quyền, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
192. Hoài Anh (1999), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
193. Hà Ân (1972), Tổ quốc kêu gọi, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
194. Hà Ân (1975), Trăng nước Chương Dương, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
195. Trần Thanh Cảnh (2017), Đức Thánh Trần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
196. Trần Thanh Cảnh (2020), Trần Thủ Độ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
197. Lê Đình Danh (2006), Tây Sơn bi hùng truyện (tập 1), Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
198. Lê Đình Danh (2006), Tây Sơn bi hùng truyện (tập 2), Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
199. Nam Dao (1999), Gió lửa, Nxb Thi văn, Canada.
200. Nam Dao (2007), Đất trời, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
201. Hàn Thế Dũng (2002), Lê Lợi, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
202. Hàn Thế Dũng (2004), Bà Triệu, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
203. Hàn Thế Dũng (2004), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
204. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào kiệt Lam Sơn, Nxb Văn học, Hà Nội.
205. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Mười hai sứ quân, Nxb Văn học, Hà Nội.
166
(tập 1), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
206. Vũ Ngọc Đỉnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành - Hoàng đế phá Tống
207. Vũ Ngọc Đỉnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành - Hoàng đế phá Tống
(tập 2), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
208. Nguyễn Mộng Giác (2006), Sông Côn mùa lũ (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
209. Nguyễn Mộng Giác (2006), Sông Côn mùa lũ (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
210. Nguyễn Mộng Giác (2006), Sông Côn mùa lũ (tập 3), Nxb Văn học, Hà Nội.
211. Hoàng Quốc Hải (2016), Bão táp cung đình, Nxb Văn học, Hà Nội.
212. Hoàng Quốc Hải (2016), Đuổi quân Mông Thát, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
213. Hoàng Quốc Hải (2016), Thăng Long nổi giận, Nxb Văn học, Hà Nội.
214. Hoàng Quốc Hải (2016), Huyết chiến Bạch Đằng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
215. Hoàng Quốc Hải (2016), Huyền Trân công chúa, Nxb Văn học, Hà Nội.
216. Hoàng Quốc Hải (2016), Vương triều sụp đổ, Nxb Văn học, Hà Nội.
217. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 1: Thiền sư dựng nước),
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
218. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 2: Con ngựa nhà Phật),
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
219. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 3: Bình Nam dẹp Bắc),
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
220. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 4: Con đường định mệnh),
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
221. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
222. Nguyễn Đức Hiền (1984), Sao khuê lấp lánh, Nxb Kim Đồng.
223. Nguyễn Thu Hiền (2013), Hoàng đế Quang Trung, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Tp. Hồ Chí Minh.
224. Nguyên Hồng (1981), Núi rừng Yên Thế, Nxb Hà Bắc.
225. Phùng Văn Khai (2018), Nam đế vạn xuân, Nxb Văn học, Hà Nội.
226. Phùng Văn Khai (2018), Phùng Vương, Nxb Văn học, Hà Nội.
227. Phùng Văn Khai (2019), Ngô Vương, Nxb Văn học, Hà Nội.
228. Phùng Văn Khai (2020), Triệu Vương phục quốc, Nxb Văn học, Hà Nội.
229. Hoàng Công Khanh (1995), Danh tướng Trần Hưng Đạo, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
167
230. Hoàng Công Khanh (1999), Vằng vặc sao Khuê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
231. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
232. Thái Bá Lợi (2014), Minh Sư, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
233. Hữu Mai (2015), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
234. Trần Thùy Mai (2019), Từ Dụ thái hậu (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
235. Trần Thùy Mai (2019), Từ Dụ thái hậu (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
236. Lưu Sơn Minh (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học, Hà Nội.
237. Lưu Sơn Minh (2017), Trần Quốc Toản, Nxb Văn học, Hà Nội.
238. Phạm Ngọc Cảnh Nam (2011), Thế kỷ bị mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
239. Nguyễn Hữu Nam (2011), Huyền Trân, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
240. Nhiều tác giả (2016), Truyện ngắn đặc sắc Việt Nam về lịch sử từ 1986 đến
nay, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
241. Nguyễn Thế Quang (2015), Thông reo ngàn Hống, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
242. Nguyễn Thế Quang (2020), Khúc hát những dòng sông (tái bản), Nxb Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
243. Nguyễn Thế Quang (2020), Đường về Thăng Long, Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
244. Thiên Sơn (2020), Gió bụi đầy trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
245. Nguyễn Tử Siêu (1929), Vua Bố Cái, Nhà in Nguyễn Kinh, Hải Phòng.
246. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Nam quốc sơn hà, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
247. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông,
Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
248. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Anh hùng Tiêu Sơn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
249. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Anh hùng Bắc Cương, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
250. Bùi Việt S (2014), Chim Ưng và chàng đan sọt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
251. Bùi Việt S (2015), Chim bằng và Nghé hoa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
252. Bùi Anh Tấn (2009), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông),
Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.
253. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi (quyển 1: Oan khuất), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
254. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi (quyển 1: Bức huyết thư), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
255. Bùi Anh Tấn (2012), Bí mật hậu cung, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
256. Vũ Ngọc Tiến (2019), Kẻ sĩ thời loạn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
257. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 1: Điệp vụ thám báo), Nxb Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
168
258. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 2: Trước cơn giông tố),
Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
259. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 3: Sơn hà rựa lửa), Nxb Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
260. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 4: Khúc tráng ca mùa hạ),
Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
261. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 1: Áo vải cờ đào), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
262. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 2: Rạch Gầm xoài mút), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
263. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 3: Hào kiệt giai nhân), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
264. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 4: Mùa xuân hùng võ), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
265. Nguyễn Quang Thân (2009), Hội thề, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
266. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
267. Hà Văn Thùy (2005), Nguyễn Thị Lộ, Nxb Văn học, Hà Nội.
268. Nguyễn Vũ Tiềm (2014), Bắc Cung hoàng hậu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
269. Uông Triều (2015), Sương mù tháng giêng, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
270. Sơn Tùng (2000), Bông sen vàng, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
271. Sơn Tùng (2015), Búp sen xanh (tái bản), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
272. Nguyễn Huy Tưởng (1942), Đêm hội Long Trì, Nxb Tri ân, Hà Nội.
273. Nguyễn Huy Tưởng (2011), Những truyện ngắn viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng,
Hà Nội.
274. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (tái bản), Nxb Kim Đồng,
Hà Nội.
275. Vũ Xuân Tửu (2017), Đinh Tiên Hoàng, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
276. Hoàng Quảng Uyên (2010), Mặt trời Pác Bó, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
277. Hoàng Quảng Uyên (2013), Giải phóng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
278. Hoàng Quảng Uyên (2017), Trong vời cố quốc, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
279. Trần Vũ (1992), Mùa mưa gai sắc, http://tranvu.free.fr/baiviet/index.html.
PL i
PHỤ LỤC
Phụ lục số 01
BẢNG THỐNG KÊ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975
Năm
Nhà
Số
Tác giả
Tên tác phẩm
xuất bản
lƣợng
xuất bản
Vũ tịch
2017 Nxb Phụ nữ
Thiên hạ chi vương
2017 Nxb Phụ nữ
Trường An
4
Hồ Dương (2 tập)
2017 Nxb Phụ nữ
Ngoài bờ Đông
2017 Nxb Phụ nữ
là mặt trời
Đuốc lá dừa
1981 Nxb Trẻ
Ngựa ông đã về
1978 Nxb Kim Đồng
Rồng đá chuyển mình
1987 Nxb Kim Đồng
Chim gọi nắng
1989 Nxb Tiền Giang
Bùi Hữu Nghĩa, mối duyên
1998 Nxb Kim Đồng
vàng đá
Ngô Quyền
1999
Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Nxb Văn nghệ
Đinh Bộ Lĩnh
1999
Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Quý Đôn
1999 Nxb Trẻ
Hoài Anh
19
Nxb Văn nghệ
2000
Nguyễn Thông – Vọng Mai Đình
Thành phố Hồ Chí Minh
Đất thang Mộc
2006 Nxb Văn học
Mê Linh tụ nghĩa
2006 Nxb Văn học
Tấm lòng bào
2006 Nxb Văn học
Như Nguyệt
2006 Nxb Văn học
2006 Nxb Văn học
Hưng Đạo Vương và những truyện khác
Đất thang mộc (2 tập)
2006 Nxb Văn học
Lời thề lửa
2006 Nxb Văn học
PL ii
Mưu sĩ của Quang Trung:
2006 Nxb Văn học
Trần Văn Kỷ
Vua Minh Mạng
2006 Nxb Văn học
Nguyễn Anh
Ngô Quyền
1999 Nxb Thanh niên
1
Trăng nước Chương Dương 1975 Nxb Kim Đồng
Hà Ân
2
Khúc khải hoàn dang dở
2002 Nxb Hà Nội
Hào khí non Tây
1990 Nxb Bình Định
Trần Bảy
Thần tốc trời Nam
1997 Nxb Lao động
3
Nổi trống Trần triều
1998 Nxb Bình Định
Đức Thánh Trần
2018 Nxb Hội Nhà văn
Trần Thanh Cảnh
2
Trần Thủ Độ
2020 Nxb Hội Nhà văn
Nhiếp ch nh Ỷ Lan
1985 Nxb Phụ nữ
Quỳnh Cư
2
Đô đốc Bùi Thị Xuân
1985 Nxb Thanh niên
Trần Bá Chí
Quân sư Nguyễn Trãi
2001 Nxb Thanh niên
1
Tây Sơn bi hùng truyện
Lê Đình Danh
2006 Nxb Văn hóa - Thông tin
1
(2 tập)
1999 Nxb Thi văn, Canada
Gió lửa
2007 Nxb Đà Nẵng
Nam Dao
Đất trời
3
2014 Nxb Người Việt
Bể dâu
Mạc Đăng Dung
Lưu Văn Khuê
2007 Nxb Hải Phòng
1
Lê Lợi
2002 Nxb Công an Nhân dân
Hào kiệt Lạc Việt
2002 Nxb Công an Nhân dân
Hàn Thế Dũng
Bà Triệu
2004 Nxb Công an Nhân dân
5
Đinh Bộ Lĩnh
2004 Nxb Công an Nhân dân
Lý Nam Đế
2006 Nxb Công An Nhân dân
Trần Tuấn Đạt
Vũ Cố Đại Vương
2004 Nxb Lao động
1
Mười hai sứ quân (2 tập)
1999 Nxb Trẻ
Hào kiệt Lam Sơn (2 tập)
1995 Nxb Trẻ
Vũ Ngọc Đỉnh
4
Bắn rụng mặt trời (8 tập)
2000 Nxb Trẻ
2005 Nxb Văn hoá - Thông tin
Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành - Hoàng đế phá Tống
Nguyễn Mộng Giác
Sông Côn mùa lũ (3 tập)
2003 Nxb Văn học
1
Hoàng Lại Giang
Lê Văn Duyệt, từ nấm mồ 1999 Nxb Văn hoá - Thông tin
3
PL iii
oan khuất đến lăng Ông
Trương Vĩnh Ký,
2001 Nxb Văn hoá - Thông tin
bi kịch muôn đời
Trầm uất Hàm Nghi
2002
Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Bi kịch Lệ Chi Viên
1989 Nxb Thanh niên
Minh Giang
Bạch Vân cư sĩ
1997 Nxb Thanh niên
3
Cuộc thăng trầm
2005 Nxb Thanh niên
Nxb Văn hóa - Văn nghệ
Trần Thanh Hà
Người cận vệ
2014
1
Thành phố Hồ Chí Minh
Bão táp triều Trần (6 tập) 1991 NXb Phụ nữ
Hoàng Quốc Hải
2
Tám triều vua Lý (4 tập)
2007 NXb Phụ nữ
Bình Hải
Lửa rừng đêm
1979 Nxb Lao động
1
Bóng chiều Thăng Long
1995 Nxb Thanh niên
Siêu Hải
Nắng kinh thành
1997 Nxb Thanh niên
3
Mảnh trăng Tô Lịch
2004 Nxb Thanh niên
Trần Thu Hằng
Đàn đáy
2005 Nxb Hội nhà văn
1
V Thị Hảo
Giàn thiêu
2003 Nxb Phụ nữ
1
Nguyễn Đức Hiền
Sao khuê lấp lánh
1984 Nxb Kim Đồng
1
Nguyễn Ngọc Hiến Màu đen ám ảnh
1998 Nxb Văn học
1
Trần Hiệp
Quân sư Đào Duy Từ
2006 Nxb Phụ nữ
1
Dương Ngọc Hoàn Mắt đêm
2005 Nxb Phụ nữ
1
Nguyên Hồng
Núi rừng Yên Thế (2 tập)
1981 Nxb Hà Bắc
1
Đỗ Đức Hùng
Nhiếp ch nh Ỷ Lan
1985 Nxb Phụ nữ
1
Nguyễn Xuân Hưng An lạc dưới trời
2005 Nxb Văn hóa Sài Gòn
1
Đặng Ngọc Hưng
Hùng binh
2018 Nxb Trẻ
1
Lê Khánh
Ông già lười
1990 Nxb Kim Đồng
1
Phùng Vương
2018 Nxb Văn học
Ngô Vương
2019 Nxb Văn học
Phùng Văn Khai
4
Nam đế vạn xuân
2020 Nxb Văn học
Triệu Vương phục quốc
2020 Nxb Văn học
Danh tướng Trần Hưng Đạo 1995 Nxb Văn học
4
Hoàng Công Khanh
Vằng vặc sao khuê
1998 Nxb Văn học
PL iv
Vua đen Mai Hắc Đế
2000 Nxb Văn hoá - Thông tin
Hoàng hậu hai triều
2001 Nxb Kim Đồng
Dương Vân Nga
Hồ Quý Ly
2000 Nxb Phụ nữ
Nguyễn Xuân Khánh
Mẫu thượng ngàn
2006 Nxb Phụ nữ
3
Đội gạo lên chùa
2011 Nxb Phụ nữ
Lưu Văn Khuê
Mặc Đăng Dung
2007 Nxb Hải Phòng
1
Đinh Ngọc Lân
Ngôi đình bản Chang
1999 Nxb Văn hoá dân tộc
1
Chuyện tình
Viết Linh
2005 Nxb Thanh niên
1
Huyền Trân công chúa
Thanh kiếm Đông A:
Trần Thế Long
2003 Nxb Hội Nhà văn
1
hoàng hôn triều Lý
Đặng Đình Lưu
Đằng Nữ quận chúa
1999 Nxb Văn hoá - Thông tin
1
Không phải huyền thoại
2013 Nxb Trẻ
Hữu Mai
2
Ông cố vấn
2015 Nxb Trẻ
Trần Thùy Mai
Từ Dụ Thái Hậu
2019 Nxb Phụ nữ
1
Trần Quốc Toản
2017 Nxb Kim Đồng
Lưu Sơn Minh
2
Trần Khánh Dư
2016 Nxb Văn học
Phạm Ngọc Cảnh Nam Thế kỷ bị mất
2011 Nxb Hội Nhà văn
1
Huyền Trân
2011 Nxb Hội Nhà văn
Nguyễn Hữu Nam
2
Gốm
2018 Nxb Văn học
Ngô Quang Nam
Ngư Phong tướng công
2008 Nxb Công an Nhân dân
1
Người đi đày trên đại dương 1991 Nxb Văn hoá - Thông tin
Bút Ngữ
Người thời loạn
1996 Nxb Văn hoá - Thông tin
3
Cử nhân Bùi Viện
2004 Nxb Hội Nhà văn
Mọi đầm
2005 Nxb Hội Nhà văn
Duy Phi
2
Vực hiểm chốn thâm cung 2006 Nxb Hội Nhà văn
Vua Lê Đại Hành
1982 Nxb Thanh Hoá
Hoàng Tuấn Phổ
2
Bà chúa Liễu
1990 Nxb Thanh Hoá
Lê Kim Phùng
Anh hùng áo vải Lê Lợi
2005 Nxb Công an Nhân dân
1
1989 Nxb Hà Nội
Ngô Văn Phú
13
Ngôi vua và những chuyện tình Người đẹp ngậm oan
1990 Nxb Hà Nội
PL v
Gươm thần Vạn kiếp
1991 Nxb Hội Nhà văn
Tuyên Phi họ Đặng
1996 Nxb Hội Nhà văn
Ấn kiếm trời ban
1998 Nxb Hội Nhà văn
Câu sấm vĩ về ngàn lau tím
2000 Nxb Hội nhà văn
Ngang trái phủ Tây Hồ
2000 Nxb Hội Nhà văn
Trần Quang Khải
2000 Nxb Hội Nhà văn
tể tướng thời tao loạn
2001 Nxb Văn hoá dân tộc
Đọ súng trong rừng Vụ Quang
Cờ lau dựng nước
2001 Nxb Kim Đồng
Chiếc ngai vàng
2003 Nxb Hội Nhà văn
Uy viễn Tướng công
2004 Nxb Công an Nhân dân
Nguyễn Công Trứ
Lý Công Uẩn
2006 Nxb Công an Nhân dân
Kinh đô Rồng
2004 Nxb Thanh niên
Nguyễn Khắc Phục
Một mất một còn
2004 Nxb Thanh niên
3
Thời vàng son
2004 Nxb Hội Nhà văn
Hồ Phương
Cha và con
2007 Nxb Kim Đồng
1
Nguyễn
Người đi vắng
1999 Nxb Phụ nữ
1
Bình Phương
Nguyễn Du
2010 Nxb Hội Nhà văn
Khúc hát những dòng sông
2012 Nxb Trẻ
Nguyễn Thế Quang
4
Thông reo ngàn Hống
2015 Nxb Trẻ
Nxb Tổng hợp
Đường về Thăng Long
2019
Thành phố Hồ Chí Minh
1996 Nxb Văn học
Tướng quân Hoàng Hoa Thám
1997 Nxb Văn học
4
Lê Minh Quốc
Nguyễn An Ninh - Dấu ấn để lại
Nguyễn Thái Học
2019 Nxb Văn học
Loạn 12 sứ quân
2020 Nxb Văn hóa -Văn nghệ
Mạch nước trong
1986 Nxb Thanh niên
2
Vĩnh Quyền
Vầng trăng ban ngày
2001 Nxb Đà Nẵng
PL vi
Sống dợn Hồ Gươm
2000 Nxb Văn học
Mộng Bình Sơn
2
Gió lộng cờ đào
2001 Nxb Văn học
Gió bụi đầy trời
2020 Nxb Hội Nhà văn
Thiên Sơn
1
Cành ban r máu
1989 Nxb Văn hoá dân tộc
Vũ Hữu Sự
1
Nam quốc sơn hà
2007 Nxb Trẻ
Anh hùng Bắc Cương
2007 Nxb Trẻ
Anh linh thần võ tộc Việt
2007 Nxb Trẻ
Yên Tử cư s
6
Trần Đại S
2007 Nxb Trẻ
Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông
Anh hùng Tiêu Sơn
2007 Nxb Trẻ
Thuận thiên di sử
2007 Nxb Trẻ
2009 Nxb Thanh niên
Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông)
Bùi Anh Tấn
3
Nguyễn Trãi (2 tập)
2010 Nxb Thanh niên
B mật hậu cung
2012 Nxb Thanh niên
Nguyễn Vũ Tiềm
Bắc cung hoàng hậu
2014 Nxb Hội Nhà văn
1
Con ngựa Mãn Châu
2001 Nxb Hội Nhà văn
Nguyễn Quang Thân
2
Hội thề
2009 Nxb Hội Nhà văn
Đất Việt trời Nam
2007 Nxb Lao động
Đan Thành
1
Thiệu Bảo bình Nguyên
2018 Nxb Trẻ
Hồng Thái
1
Hàn Song Thanh
Ánh lửa trong đêm
1986 Nxb Cửu Long
1
Nhất thống sơn hà
2014 Nxb Hội Nhà văn
Vũ Thanh
1
Vương miệng lưu đầy
2004 Nxb Văn hoá - Thông tin
Mai Thục
1
Búp sen xanh
1982 Nxb Kim Đồng
Nxb Văn nghệ
Bông sen vàng
2000
Thành phố Hồ Chí Minh
4
Sơn Tùng
Trái tim quả đất
2000 Nxb Thanh niên
Lõm
2006 Nxb Thanh niên
Kiều Thanh Tùng
Sắc đẹp khuynh thành
2007 Nxb Thanh niên
1
Khói mây Yên Tử
2000 Nxb Kim Đồng
Quân sư Đào Duy Từ
2002 Nxb Kim Đồng
Vũ Ngọc Tiến
6
Giao Châu tụ nghĩa
2002 Nxb Kim Đồng
Qủy vương
2016 Nxb Hội Nhà văn
PL vii
Kẻ sĩ thời loạn
2019 Nxb Phụ nữ
Hoàng Tiến
Hồn thiêng sông núi
2010 Nxb Phụ nữ
1
Vinh Châu Tử
Máu tuôn xóm liễu
1989 Nxb Tiền Giang
1
Vũ Xuân Tửu
Đinh Tiên Hoàng
2017 Nxb Công an Nhân dân
1
Uông Triều
Sương mù tháng giêng
2015 Nxb Trẻ
1
B mật kho vàng Ninh Tốn 1994 Nxb Phụ nữ
Nghiêm Đa Văn
2
Sừng rượu thề
2000 Nxb Kim Đồng
Cờ nghĩa
1976 Nxb Quân đội Nhân dân
Ba Đình
1981 Nxb Quân đội Nhân dân
Biến động
1984 Nxb Thuận Hoá
Cờ nghĩa Ba Đình
1986 Nxb Thanh Hoá
Hịch truyền
2007 Nxb Quân đội Nhân dân
Thành thái - “người điên”
1996 Nxb Văn học
đầu thế kỷ XX
Tuổi xanh
Thái Vũ
11
2000 Nxb Trẻ
Nguyễn Đình Chiểu
Thất thủ
2002 Nxb Thuận Hoá
kinh đô Huế 1858
Hưng Đạo Đại Vương
2003 Nxb Thanh niên
thế trận những dòng sông
Tình sử Mỵ Châu
2003 Nxb Thanh niên
Nguyễn Đình Chiểu
2004 Nxb Thanh niên
thời niên thiếu
183
PL viii
Phụ lục 02
BẢNG THỐNG KÊ CÁC NVAH MÀ LUẬN ÁN CÓ ĐỀ CẬP
VÀ VAI TRÕ CỦA NVAH TRONG TTLS
(Khảo sát qua một số tác phẩm)
Xuất
Đóng vai trò
hiện
TT
Tác phẩm
Tác giả
nhân vật
trong số
Tỉ lệ
trung tâm
trang tác
phẩm
1
Phùng Vương
Phùng Văn Khai
Phùng Hưng
150/237
63 %
1
2 Ngô Quyền
Nguyễn Anh
Ngô Quyền
262/395
66 %
3 Ngô Vương
Phùng Văn Khai
Ngô Quyền
257/450
57 %
4 Mười hai sứ quân Vũ ngọc Đỉnh
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
5 Đinh Tiên Hoàng Vũ Xuân Tửu
Đinh Bộ Lĩnh
384/527
73 %
6 Hội thề
Nguyễn Quang Thân
Nguyễn Trãi
168/330
51 %
7 Vằng vặc sao khuê Hoàng Công Khanh
Nguyễn Trãi
500/772
65%
8 Nguyễn Thị Lộ
Hà Văn Thuỳ
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
9 Lê Lợi
Hàn Thế Dũng
Lê Lợi
374/481
78 %
10 Đất trời
Nam Giao
Nguyễn Trãi
294/447
76 %
11 Hào kiệt Lam Sơn Vũ Ngọc Đỉnh
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
Trăng nước
Hà Ân
Trần Quốc Tuấn
260/360
72%
12
Chương Dương
13 Tám triều vua Lý Hoàng Quốc Hải
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
Chim bằng
Bùi việt S
Lý Thường Kiệt
213/380
56 %
14
và Nghé hoa
15 Huyền Trân
Nguyễn Hữu Nam
Huyền Trân
340/400
85 %
16 Nam Đế vạn xuân Phùng Văn Khai
Lý Nam Đế
207/484
43 %
Triệu Vương
Phùng Văn Khai
Triệu Quang Phục
161/440
37 %
17
phục quốc
PL ix
18 Giàn thiêu
V Thị Hảo
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
19 Bão táp triều Trần Hoàng Quốc Hải
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
Sương mù
20
Uông Triều
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
tháng giêng
21 Trần Quốc Toản
Lưu Sơn Minh
Trần Quôc Toản
131/212
62%
22 Trần Khánh Dư
Lưu Sơn Minh
Trần Khánh Dư
156/266
59 %
23 Đức Thánh Trần
Trần Thanh Cảnh
Trần Quốc Tuấn
168/235
71%
24 Trần Thủ Độ
Trần Thanh Cảnh
Trần Thủ Độ
105/190
55 %
Danh tướng
Hoàng Công Khanh
Trần Hưng Đạo
262/345
76 %
25
Trần Hưng Đạo
Thiệu Bảo
Hồng Thái
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
26
Bình Nguyên
27 Hồ Qúy Ly
Nguyễn Xuân Khánh
Hồ Qúy Ly
395/779
51%
28 Sông côn mùa lũ Nguyễn Mộng Giác
Nguyễn Huệ
835/1940
43 %
Nam Giao
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
29 Gió lửa
Nam Giao
Nguyễn Trãi
406/652
62%
30 Đất trời
Tây sơn
Lê Đình Danh
Nguyễn Huệ
481/924
52 %
31
bi hùng truyện
Hoàng đế
Nguyễn Thu Hiền
Nguyễn Huệ
307/541
57 %
32
Quang Trung
33 Nhất thống sơn hà Vũ Thanh
Nguyễn Huệ
807/1437
56 %
34 Gió bụi đầy trời
Thiên Sơn
Hồ Chí Minh
192/384
40%
35 Từ Dụ thái hậu
Trần Thùy Mai
Không có NVAH là nhân vật trung tâm
36 Búp sen xanh
Sơn Tùng
Nguyễn Tất Thành
278/297
94 %
37 Cha và con
Hồ Phương
Nguyễn Tất Thành
296/367
81 %
38 Bông sen vàng
Sơn Tùng
Nguyễn Tất Thành
256/314
82 %
Đường về
Nguyễn Thế Quang
Võ Nguyên Giáp
405/555
73 %
39
Thăng Long
PL x
Phụ lục số 03
BẢNG THỐNG KÊ TTLS VIỆT NAM SAU 1975
(theo các thời kì lịch sử)
Thời
Pháp
Nhà
Nhà
Bắc
Nhà
Nhà
Nhà
Nhà
Nhà
thuộc,
TT
Tác phẩm
Tiền
Tây
thuộc
Ngô
Đinh
Lý
Trần
Hồ
chống
Lê
Sơn
Pháp,
M
x
1 Bà Triệu
x
2 Phùng Vương
x
3 Triệu Vương phục quốc
x
4 Nam Đế vạn xuân
x
5 Ngô Vương Quyền
x
6 Ngô Vương
x
7 Cờ lau dựng nước
x
8 Mười hai sứ quân
x
9 Đinh Bộ Lĩnh
x
10 Hội thề
x
11 Nguyễn Thị Lộ
x
12 Lê Lợi
x
13 Đất trời
Nguyễn Trãi
x
14
(Oan khuất)
Nguyễn Trãi
x
15
(Bức huyết thư)
x
16 Hào kiệt Lam Sơn
x
17 Gươm thần vạn kiếp
x
18 Cuộc thăng trầm
PL xi
x
19 Vằng vặc sao khuê
x
20 Sao khuê lấp lánh
x
21 Giàn thiêu
x
22 Tám triều vua Lý
x
23 Anh hùng Tiêu sơn
x
24 Nam quốc sơn hà
x
25 Bão táp triều Trần
x
26 Sương mù tháng giêng
Trăng nước
x
27
Chương Dương
x
28 Trần Thủ Độ
x
29 Trần Quốc Toản
x
30 Trần Khánh Dư
x
31 Đức Thánh Trần
x
32 Thiệu Bảo Bình Nguyên
Danh tướng
x
33
Trần Hưng Đạo
Anh hùng Đông A
x
34
dựng cờ bình Mông
Hưng Đạo Vương,
x
35
thế trận những dòng sông
x
36 Huyền Trân
x
37 Hồ Quý Ly
x
38 Sông côn mùa lũ
x
39 Gió lửa
x
40 Tây sơn bi hùng truyện
x
41 Hoàng đế Quang Trung
x
42 Nhất thống sơn hà
x
43 Bắc cung hoàng hậu
x
44 Kẻ sĩ thời loạn
PL xii
45 Vũ tịch
x
46 Hồ Dương
x
47 Búp sen xanh
x
48 Bông sen vàng
x
Khúc hát
49
x
những dòng sông
50 Bể dâu
x
51 Mặt trời Pác Bó
x
52 Giải phóng
x
53 Không phải huyền thoại
x
54 Cha và con
x
55 Đường về Thăng Long
x
56 Gió bụi đầy trời
x