BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ NHẬT

NHÂN VẬT ANH HÙNG

TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN – 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ NHẬT

NHÂN VẬT ANH HÙNG

TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Tập thể hướng dẫn khoa học:

PGS.TS Đinh Trí Dũng

TS. Lê Thanh Nga

NGHỆ AN – 2021

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................ iv

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................................... v

BẢNG CHÚ THÍCH KÍ HIỆU VIẾT TẮT .......................................................................... vi

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1

2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................................. 3

5. Đóng góp của luận án .................................................................................................... 4

6. Cấu trúc luận án ............................................................................................................. 5

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT

CỦA ĐỀ TÀI ................................................................................................................................. 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 6

1.1.1. Nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử.........................................................6

1.1.2. Nghiên cứu về nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 .... 26

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài ......................................................................................... 29

1.2.1. Giới thuyết một số khái niệm được dùng trong luận án ................................ 29

1.2.2. Quan niệm về người anh hùng và nhân vật anh hùng ................................... 36

1.2.3. Các tiêu chí xác định nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

hiện đại .................................................................................................................... 39

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................................. 45

Chƣơng 2. BỨC TRANH CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM

SAU 1975 ...................................................................................................................................... 46

2.1. Sơ lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trƣớc 1975 ............................................. 46

2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945 ..................................... 46

2.1.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1975 ............................................ 51

2.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 ................................................................... 54

2.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 ............ 54

2.2.2. Các chặng đường vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 ....... 56

2.2.3. Thành tựu và các khuynh hướng của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 .......... 59

ii

2.3. Bƣớc đầu nhận diện nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

sau 1975 ............................................................................................................................. 66

2.3.1. Nhân vật anh hùng - hình tượng trung tâm của tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam sau 1975 ....................................................................................................... 66

2.3.2. Những cảm hứng sáng tác chính chi phối việc xây dựng nhân vật anh hùng ........ 68

Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................................. 72

Chƣơng 3. LOẠI HÌNH NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG TIỂU THUYẾT

LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975 ........................................................................................... 74

3.1. Nhìn chung về loại hình nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam sau 1975 .................................................................................................................... 74

3.1.1. Nhân vật anh hùng nhìn từ vai trò, chức năng của nhân vật trong tiểu thuyết ... 74

3.1.2. Nhân vật anh hùng nhìn từ công lao, sự nghiệp của người anh hùng .......... 76

3.1.3. Nhân vật anh hùng nhìn từ lý thuyết diễn ngôn ............................................. 84

3.2. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng đồng hƣớng với chính sử .... 86

3.2.1. Khẳng định vai trò của người anh hùng trong những bước ngoặt lịch sử .... 86

3.2.2. Đề cao trí tuệ, tài năng của người anh hùng ................................................. 90

3.2.3. Đề cao ý chí, bản lĩnh của người anh hùng ................................................... 95

3.3. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng bổ khuyết, đối thoại với

chính sử .............................................................................................................................. 97

3.3.1. Đối thoại để khẳng định, minh oan, chiêu tuyết ............................................ 97

3.3.2. Đối thoại với cách nhìn cá biệt, trái ngược với lịch sử ............................... 100

3.4. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng mƣợn lịch sử để đào sâu,

khám phá con ngƣời cá nhân, đời tƣ ........................................................................... 103

3.4.1. Quan tâm thể hiện những nét đời thường, gần gũi ...................................... 103

3.4.2. Bổ sung, làm rõ đời sống bản năng ............................................................. 105

3.4.3. Tô đậm phương diện bi kịch của nhân vật .................................................. 107

Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................................... 111

Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG

TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975 .................................................... 112

4.1. Đặt nhân vật anh hùng vào những tình huống gay cấn, căng thẳng ................ 112

4.1.1. Tình huống đất nước gian nguy, thù trong giặc ngoài ................................ 112

4.1.2. Tình huống cận kề cái chết .......................................................................... 114

4.1.3. Tình huống lựa chọn nghiệt ngã .................................................................. 117

iii

4.2. Kết hợp hài hoà nhiều thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nhân vật anh hùng ....... 118

4.2.1. Miêu tả người anh hùng qua chân dung, ngoại hình .................................. 118

4.2.2. Miêu tả người anh hùng qua lời nói, hành động ......................................... 120

4.2.3. Chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật anh hùng ......................................... 123

4.3. Luân chuyển điểm nhìn và tổ chức giọng điệu trong xây dựng nhân vật

anh hùng .......................................................................................................................... 127

4.3.1. Kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn .............................................................. 127

4.3.2. Kết hợp linh hoạt nhiều giọng điệu ............................................................. 134

4.4. Kết hợp sử dụng nhiều lớp ngôn từ trong xây dựng nhân vật anh hùng ......... 139

4.4.1. Lớp ngôn từ cổ xưa, đậm chất lịch sử ......................................................... 139

4.4.2. Lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ mang màu sắc đương đại .................... 141

4.4.3. Lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ) ....................................................... 144

Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................................... 145

KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ……………………...151

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………… 152

PHỤ LỤC

iv

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của

PGS.TS Đinh Trí Dũng và TS. Lê Thanh Nga, cùng với sự góp ý của các nhà khoa

học. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực. Các tài liệu tham khảo, các trích

dẫn đảm bảo tường minh, rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công trình

nghiên cứu của mình.

Nghệ An, tháng 05 năm 2021

Tác giả luận án

Trần Thị Nhật

v

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đinh Trí Dũng, TS. Lê Thanh Nga

những người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình học tập, hoàn thành công trình

nghiên cứu này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ngành Ngữ văn, Viện Sư phạm xã hội, Phòng Đào tạo

Sau đại học, Trường Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất trong

quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, lãnh đạo Khoa Giáo dục Tiểu học,

các phòng ban liên quan của Trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi và

hỗ trợ để tôi học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Xin được bày tỏ lòng biết ơn tới quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình

những người đã động viên, giúp đỡ, cổ vũ tôi hoàn thành khóa học và luận án.

Nghệ An, tháng 05 năm 2021

Tác giả luận án

Trần Thị Nhật

vi

BẢNG CHÚ THÍCH KÍ HIỆU VIẾT TẮT

TT Kí hiệu viết tắt Nội dung viết tắt

1 TTLS Tiểu thuyết lịch sử

2 NVAH Nhân vật anh hùng

3 Nxb Nhà xuất bản

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trong văn học hiện đại Việt Nam, tiểu thuyết là thể loại đóng vai trò chủ

lực. Tiểu thuyết cũng là thể loại gặt hái nhiều thành tựu trong văn học Việt Nam

giai đoạn từ 1975 đến nay. Trong bức tranh văn xuôi sau 1975, đặc biệt là sau

1986, bộ phận tiểu thuyết lịch sử (TTLS) đã có những sáng tạo, cách tân mới mẻ.

Nhiều TTLS đặc sắc lần lượt ra đời: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác,

Tám triều vua Lý, Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Hồ Quý Ly của

Nguyễn Xuân Khánh, Gió lửa, Đất trời của Nam Giao, Hội thề của Nguyễn

Quang Thân, Nguyễn Du, Thông reo ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang, Sương

mù tháng giêng của Uông Triều, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh... Tâm

thế nhìn lại lịch sử một cách tỉnh táo; đào sâu vào quá khứ, chiêm nghiệm quá khứ

để hiểu hơn những gì cha ông đã trải qua và để rút ra những bài học cần thiết cho

cuộc sống hiện tại đã làm cho TTLS ngày càng chiếm được cảm tình sâu sắc của

bạn đọc. Trong những năm gần đây, một số hội thảo cấp quốc gia bàn về tiểu

thuyết lịch sử đã được tổ chức, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án tiến sĩ,

luận văn thạc sĩ… đã lấy tiểu thuyết lịch sử làm đối tượng nghiên cứu. Vì thế,

khảo sát TTLS nói chung, nhân vật anh hùng (NVAH) trong TTLS nói riêng sẽ

giúp chúng ta hiểu hơn bức tranh tiểu thuyết cũng như quy luật vận động của tiểu

thuyết và văn xuôi thời kỳ đổi mới.

1.2. TTLS Việt Nam sau 1975 là sự tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của

văn xuôi về đề tài lịch sử của dân tộc, từ các tiểu thuyết chương hồi có màu sắc

lịch sử trong văn xuôi chữ Hán thời trung đại, các TTLS giai đoạn từ đầu thế kỷ

XX đến 1945, TTLS mang màu sắc sử thi giai đoạn 1945 - 1975. Đó là một quá

trình liên tục, có những thăng trầm và có những kế thừa, phát triển. Dù màu sắc có

khác nhau, nhưng TTLS các giai đoạn trên đều thể hiện đậm nét những truyền

thống tốt đẹp của con người Việt Nam: lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí

quật cường, tấm lòng nhân ái, bao dung… Nghiên cứu TTLS nói chung, NVAH

trong TTLS nói riêng không chỉ giúp hiểu hơn vai trò, vị trí của TTLS trong dòng

chảy của văn xuôi mà còn hiểu sâu hơn những giá trị vững bền có tính truyền

thống của văn chương dân tộc.

2

1.3. Với tính chất là phương tiện khái quát hiện thực, là nơi thể hiện tập trung

quan niệm nghệ thuật về con người, xây dựng nhân vật là vấn đề quan trọng bậc

nhất trong tiểu thuyết. Trong TTLS, NVAH thường là nhân vật chính, nhân vật

trung tâm, nơi nhà văn dành nhiều tâm huyết để thể hiện những ý đồ nghệ thuật

của mình. Cách thể hiện NVAH trong tiểu thuyết gắn với quá trình nhận thức, tư

duy nghệ thuật của nhà văn. Với nhiều hình tượng NVAH đặc sắc, TTLS sau 1975

đã thể hiện chiều sâu nhận thức về con người, bổ sung những chuẩn mực mới mẻ

trong hệ giá trị của văn chương. Vì thế, so với NVAH trong các tiểu thuyết giai

đoạn trước, NVAH trong TTLS giai đoạn sau 1975 đã trở nên đầy đặn, chân thực,

sống động và cũng phức tạp hơn. Do đó, đi sâu tìm hiểu NVAH sẽ là một đầu mối

giúp chúng ta khám phá sâu hơn vấn đề xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết nói

chung, TTLS nói riêng. Điều này càng có ý nghĩa khi vấn đề xây dựng NVAH

trong TTLS sau 1975 cho đến nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

1.4. Hiện nay, văn xuôi về lịch sử nói chung, TTLS nói riêng là mảng sáng

tác được chú ý giới thiệu trong nhà trường phổ thông và đại học. Mảng sáng tác

này có ý nghĩa đặc biệt trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống anh hùng, ý

thức biết ơn, trân trọng công lao của tổ tiên, của các bậc anh hùng. Đề tài cũng

góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học các tác phẩm văn xuôi nói

chung, tiểu thuyết nói riêng trong nhà trường.

2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam sau 1975. Từ các tiêu chí xác lập quan niệm về người anh hùng

nói chung, NVAH trong TTLS nói riêng, luận án đi sâu khảo sát loại hình NVAH,

phương thức xây dựng NVAH trong các TTLS Việt Nam tiêu biểu giai đoạn từ

1975 đến nay.

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án quan tâm đến các nhân vật được xác định là NVAH trong TTLS

Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay (chúng tôi lấy cột mốc 1975 vì từ sau thời

điểm này, văn xuôi nói chung, TTLS nói riêng đã bắt đầu có những chuyển động

tích cực, tạo đà cho sự đổi mới toàn diện, sâu sắc cho văn xuôi nói chung, tiểu

3

thuyết lịch sử nói riêng sau 1986). Do số lượng TTLS từ 1975 đến nay (trong đó

có hiện diện nhân vật anh hùng) rất lớn nên luận án chỉ tập trung khảo sát và

nghiên cứu những tác phẩm nổi bật, tiêu biểu cho các khuynh hướng của TTLS,

các tác phẩm được dư luận bạn đọc và giới nghiên cứu chú ý, trong đó tập trung

vào một số tác giả, tác phẩm như: Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Hội thề

(Nguyễn Quang Thân), Tám triều vua Lý, Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải),

Gió lửa, Đất trời (Nam Giao), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Đức Thánh

Trần, Trần Thủ Độ (Trần Thanh Cảnh), Ngô Vương, Nam Đế vạn xuân (Phùng

Văn Khai), Trần Quốc Toản,Trần Khánh Dư (Lưu Sơn Minh), Thông reo ngàn

Hống (Nguyễn Thế Quang), Búp sen xanh (Sơn Tùng)… Ngoài ra, một số tác

phẩm thuộc những thể loại khác như truyện ngắn, ký về đề tài lịch sử... có miêu tả,

thể hiện NVAH (trong và ngoài nước, ở các thời kỳ) cũng được tìm hiểu, đối

chiếu với những mức độ nhất định nhằm làm sáng tỏ những mục tiêu nghiên cứu

mà đề tài đặt ra.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. c ch nghi n cứ

Thực hiện đề tài “Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau

1975”, Luận án hướng tới mục tiêu làm r quan niệm về người anh hùng, loại hình

và cách thức xây dựng hình tượng NVAH, từ đó góp phần khẳng định vị trí,

những thành tựu, đóng góp của TTLS trong bối cảnh đổi mới của văn xuôi và tiểu

thuyết Việt Nam sau 1975.

3.2. Nhi nghi n cứ

Trên cơ sở xác định đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu, luận án đặt ra

những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Xác định hệ thống các khái niệm liên quan như TTLS, NVAH trong TTLS,

phác họa bức tranh toàn cảnh và tiến trình vận động của TTLS Việt Nam hiện đại,

xác định tiêu chí nhận diện NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975.

- Phân tích, làm sáng tỏ loại hình NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975.

- Phân tích, làm sáng tỏ các phương thức xây dựng NVAH trong TTLS Việt

Nam sau 1975.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để hoàn thành các mục tiêu khoa học đặt ra, luận án sử dụng các phương

4

pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

4.1. Phương pháp cấu trúc, hệ thống: chúng tôi xem xét TTLS Việt Nam từ

1975 đến nay (khoảng đến năm 2020) như một chỉnh thể thống nhất, có tính hệ

thống, có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, đặt trong bức tranh chung của tiểu

thuyết Việt Nam thời kì đổi mới; khi tiếp cận từng tác giả, từng tiểu thuyết cụ thể,

thế giới NVAH, chúng tôi cũng quan tâm đến tính hệ thống, chỉnh thể trong cấu

trúc của nó.

4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này giúp chúng tôi

lý giải các vấn đề xung quanh hình tượng NVAH trong TTLS sau 1975 từ góc

nhìn của các ngành khoa học liên quan như: lịch sử học, văn hóa học, dân tộc học,

mĩ học, tâm lí học…

4.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Luận án vận dụng lí thuyết thi

pháp học để tìm hiểu một số phương diện như quan niệm nghệ thuật về người

anh hùng, điểm nhìn nghệ thuật, giọng điệu trần thuật… trong TTLS Việt Nam

sau 1975.

4.4. Phương pháp so sánh: dùng để đối chiếu, so sánh các tác phẩm, hình

tượng, nhân vật… trong cùng hoặc khác loại hình, nhằm chỉ ra những điểm gặp

gỡ và khác biệt trong nội dung thể hiện, cách thức xây dựng NVAH.

4.5. Phương pháp thống kê, phân loại: hỗ trợ cho việc hình thành một

số luận điểm của luận án, giúp xác định số lượng hoặc tần số lặp lại của các

biểu tượng, các phương thức, các chi tiết… trong xây dựng NVAH ở các tác

phẩm cụ thể.

4.6. Phương pháp loại hình: là phương pháp khảo sát đối tượng nghiên cứu

từ nhiều phương diện khác nhau như cảm hứng, bút pháp, nghệ thuật tự sự… của

tiểu thuyết, đặt trong tương quan loại hình của chúng; ở đây là loại hình TTLS,

loại hình NVAH trong TTLS.

5. Đóng góp của luận án

Luận án có những đóng góp chủ yếu sau:

5.1. Về mặt lý luận, luận án góp phần làm r hơn tiêu chí nhận diện NVAH

trong TTLS Việt Nam hiện đại nói chung, TTLS sau 1975 nói riêng, chỉ ra sự bổ

sung, đổi mới trong quan niệm về người anh hùng trong các TTLS Việt Nam sau

1975; từ đó, góp phần nhận diện diện mạo, quy luật vận động, đổi mới của tiểu

5

thuyết Việt Nam đương đại nói chung, TTLS Việt Nam đương đại nói riêng.

5.2. Về mặt thực tiễn sáng tác, luận án đi sâu khảo sát, phân tích, làm r

loại hình NVAH và chỉ ra các phương thức xây dựng NVAH trong TTLS Việt

Nam sau 1975, có sự so sánh với các giai đoạn trước đó. Từ góc nhìn NVAH, luận

án cũng góp phần khẳng định vai trò, vị trí, sự phân hóa đa dạng của bộ phận

TTLS trong bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.

6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của

Luận án được triển khai trong 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài

Chương 2: Bức tranh chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975

Chương 3: Loại hình nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

sau 1975

Chương 4: Phương thức xây dựng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam sau 1975.

6

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết lịch sử

1.1.1.1. Nghiên cứu lý luận và quan niệm tiểu thuyết lịch sử ở nước ngoài

Nhìn chung, thành tựu nghiên cứu lý thuyết về TTLS chủ yếu đến từ

phương Tây. Trong đó, các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến cách thức xử lý,

diễn giải chất liệu lịch sử và vấn đề hư cấu, sáng tạo của nhà văn trong sự đối sánh

với tính chân thực của thực tế lịch sử.

Hai bình diện sự thật và sáng tạo trong TTLS, cho đến nay vẫn là vấn đề

thời sự của văn học. G. Lukacs, nhà m học người Hungari, trong công trình Tiểu

thuyết lịch sử đã cho rằng: “Sự thể hiện lịch sử không thể có được nếu không có

mối liên hệ có tính chất ấn tượng với hiện tại” 30; 133 . Cho nên, “nhiệm vụ của

nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là phải tạo dựng được một cách phong phú các tác

động tương hỗ, cụ thể khớp với hoàn cảnh lịch sử mô tả” 30; 132]. Theo G.

Lukacs, nhà văn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo nên một tác phẩm

có giá trị. Tác phẩm có giá trị “phải đạt tới chiều sâu của triết lí lịch sử. Tiểu

thuyết lịch sử không chỉ bảo đảm việc miêu tả hoàn cảnh duy trì được không khí

lịch sử, mà quan trọng hơn là miêu tả trung thực bằng nghệ thuật một thời kì lịch

sử cụ thể” 30; 299]. Ông kiến giải: “Việc mô tả hiện thực của một thời kì lịch sử

có thể thành công qua việc mô tả đời thường của nhân dân, nỗi đau và niềm vui

sướng của những con người bình thường. Trong lĩnh vực xây dựng tiểu thuyết lịch

sử, tài năng bộc lộ qua việc phản ánh những nguyên nhân dẫn đến sự thật trong trái

tim con người, những sự thật mà biến động của chúng đã bị giới sử học bỏ qua. Các

nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử, vì các nhân

vật của tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự sống còn các cá nhân lịch sử thì đã sống”

[30; 62]. Như vậy, vai trò của nhà sử học và nhà văn với đề tài lịch sử không đồng

nhất với nhau. Nhà sử học chỉ quan tâm đến sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, còn

nhà văn lại quan tâm tới số phận con người trong những cơn biến động của lịch sử.

7

Cũng nói về sự khác nhau giữa nhà văn và nhà sử học, M. Kundera trong

Nghệ thuật tiểu thuyết đã chỉ ra sự khác biệt: “Nhà sử học kể lại các sự kiện đã

xảy ra, còn nhà tiểu thuyết nắm bắt một khả năng của cuộc sống, khả năng của con

người và thế giới. Nhà tiểu thuyết lịch sử ghi nhận những kinh nghiệm nhân loại

mà sử gia không quan tâm hoặc không thấy giá trị. Chính điều đó làm ngã bổ

những định kiến chắc chắn, chính thống, làm sụp đổ những khái niệm vĩnh hằng

của thế giới vững tin đã định hình yên chí, nhất thành bất biến và thám hiểm

những mặt khác của vạn vật” 84; 135]. Ông đánh giá cao vai trò của người sáng

tác: “Nhà tiểu thuyết không phải là nhà sử học cũng chẳng phải nhà tiên tri: anh ta

là người thám hiểm cuộc sống” 84; 51]… Như vậy, đối với nhà văn, lịch sử là thế

giới hiện thực cần được tôn trọng, nhưng TTLS không phải là sự sao chép hiện

thực đó mà hướng đến những mục tiêu và giá trị riêng dưới cái nhìn và cảm quan

thẩm mĩ của người sáng tác.

Việc chỉ r sự khác biệt giữa mục tiêu, cách thức mà nhà văn và nhà sử

học khai thác sự kiện, nhân vật lịch sử giúp người viết TTLS xác định được đối

tượng, cách tiếp cận và giới hạn trong ngòi bút của mình. L. Tolstoi từng nói

rằng: “Trong khi vẽ lên bức tranh của một thời đại, nhà sử học và nhà nghệ sĩ có

hai đối tượng hoàn toàn khác nhau. Nhà sử học sẽ sai lầm muốn trình bày nhân

vật lịch sử trong toàn thể của nó, trong sự phức tạp của mối quan hệ của nhân vật

đó với tất cả các mặt của cuộc sống. Cũng như vậy, nhà nghệ sĩ sẽ không làm

tròn bổn phận của mình nếu anh ta bao giờ cũng trình bày nhân vật của mình

trong tư thế lịch sử của nhân vật đó... Nhà sử học chú trọng tới các kết quả của

một biến cố; còn nhà nghệ sĩ thì chú trọng tới bản thân của sự kiện trong biến

cố” 92 . Như vậy, L. Tolstoi đưa ra cái nhìn khái quát về cách tiếp cận lịch sử

của nhà sử học và nhà văn. Ông đánh giá cao vai trò của nhà văn trong việc sinh

động hóa nhân vật lịch sử.

H. White - một đại biểu của chủ nghĩa “Tân duy sử” khi bàn về metahistory

(siêu lịch sử) đã khẳng định: “Lịch sử như là tự sự”. Ông giải thích rằng: “lịch sử

chỉ như một thứ truyện kể được kể từ điểm nhìn của một ngôi thứ ba nào đó, như

chiết tự của từ “history” trong tiếng Anh. Các sự kiện quá khứ chưa phải là lịch

sử, chúng chỉ trở thành lịch sử khi diễn giải, từ đó, lịch sử chính là một trò chơi -

ngôn ngữ (language - game), để dùng một từ khóa của triết học hậu hiện đại”

8

[138; 115]. Theo H. White, tiền thân của TTLS đã là một “câu chuyện” - history.

Nó mang đầy tính chủ quan của “người kể”. Nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều

câu hỏi về lịch sử như: “Lịch sử nằm ở vị trí nào trong hệ thống tri thức của nhân

loại? Câu trả lời là “lịch sử nằm giữa khoa học và nghệ thuật, và vì vậy nó mang

bản chất hư cấu và tràn đầy định kiến” 138; 48]. Quan điểm H. White đã tạo ra

“hiệu ứng” đối thoại với lịch sử diễn ra rất mạnh mẽ trong nghiên cứu nghệ thuật

và sáng tạo nghệ thuật lấy lịch sử làm đề tài sáng tác.

Trong chuyên luận Tiểu thuyết hiện đại, hai tác giả D. Brewster và J.

Bureell cũng đã đưa ra quan niệm về TTLS, đồng thời đi sâu nghiên cứu TTLS từ

phương diện hoạt động tiếp nhận, các góc nhìn khác nhau của người đọc. Theo

ông: “Đọc tiểu thuyết lịch sử là để đưa mình vào những thời đại khác, vì khi người

ta khốn khổ thì ưa đi tìm bạn lương tri” 18; 196]. Trong cuốn Lịch sử và văn học,

nhà nghiên cứu G. Lenobl (người Nga) đưa ra ba tiêu chí để xác định một TTLS:

“Một là nhân vật và sự kiện lịch sử. Hai là nguyên tắc hay chủ nghĩa lịch sử, tức là

cho thấy sự xung đột các thời đại, sự quá độ các giá trị. Ba là nội dung của tiểu

thuyết phải là hiện thực đã qua, mà tác giả và người đọc không phải là người

đương thời của hiện thực đó. Người đọc luôn cảm thấy có một sự khác thời” [181;

288]. Trong nhận định của mình, G. Lenobl coi trọng tính xác thực của sự kiện và

nhân vật lịch sử và xem đó là tiêu chí căn bản trong sáng tác TTLS. Quan điểm

này của G. Lenobl có tính nguyên tắc, dùng để phân biệt với các loại tiểu thuyết

viết về đề tài lịch sử nhưng không phải là TTLS.

Trả lời câu hỏi Thế nào là tiểu thuyết lịch sử, các nhà nghiên cứu trên thế

giới (D. Brewster và J. Burell, A. Dumas, H. S. Haasse, G. Lukacs, W. Scott,

L. Tolstoi, Goncourt…) đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau. Trong chuyên luận

Tiểu thuyết hiện đại, D. Brewster và J. Burell cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử có thể

thoát thai từ ước ao của một tác giả muốn đào thoát khỏi hiện tại, đồng thời thỏa

mãn ước ao tương tự của độc giả. Nhưng tiểu thuyết lịch sử còn nhiều tác dụng

nữa. Nó có thể soi sáng những thời kì quá khứ con người đã trải qua, với những

mục đích r ràng là gạn lọc những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của hiện tại”

[18; 197]. Với quan niệm này, TTLS trước hết là tiểu thuyết viết “về thời quá

khứ” của một dân tộc hay một quốc gia nào đó và quan trọng hơn, nó phụ thuộc

vào chủ quan của người phê bình muốn xếp nó vào danh mục nào. A. Dumas nói

9

một cách hình ảnh: “Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo

bức hoạ của tôi mà thôi”. Như vậy, Dumas coi sự kiện, nhân vật lịch sử chỉ là

phương tiện để nhà văn viết tiểu thuyết và gửi vào đó những thông điệp của mình.

Còn G. Lucaks lại cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử về nguyên tắc không khác gì tiểu

thuyết thông thường nhưng phải thể hiện sự vĩ đại của con người trong lịch sử với

những khả năng của tiểu thuyết nói chung” 30; 41 . Quan niệm này nhấn mạnh

đến việc thể hiện thành công tầm vóc lịch sử của cá nhân trong tác phẩm, tức tác

phẩm phải hướng đến những căn nguyên thúc đẩy các hành động thay đổi xã hội

bởi những con người lỗi lạc.

Quan niệm về TTLS không chỉ được phát biểu bởi các nhà nghiên cứu, mà

còn bởi cả các nhà văn. Hella S. Haasse, cây bút nổi tiếng Hà Lan thế kỷ XX nhấn

mạnh: “những cuốn tiểu thuyết của tôi có thể là tiểu thuyết lịch sử (bởi nó dựa trên

những sự kiện và biến cố lịch sử hoặc có liên quan đến những con người có

thật)… Trong văn học, đề tài lịch sử là một phương tiện chứ không phải là một

cứu cánh. Không thể phủ nhận được là có một sự đồng cảm thực sự giữa nhà văn

với thời đại lịch sử và các nhân vật mà họ quan tâm đến” [dẫn theo 101; 31]. Theo

quan điểm của Hella S. Haasse, trong TTLS, những chi tiết, sự kiện lịch sử không

phải tồn tại khô khan như trong nguồn tư liệu lịch sử, như trong chính sử, mà nó

mang dấu ấn cảm quan lịch sử của nhà văn với những giá trị thẩm m mới mẻ.

Nghệ thuật phải có sự sáng tạo, nghệ thuật không cần sự rập khuôn cứng nhắc.

Bởi thế, đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối của lịch sử trong TTLS là điều gần như

không tưởng. Trong TTLS, nhà văn có quyền hư cấu, sáng tạo nhưng vẫn phải tôn

trọng sự kiện lịch sử, vừa có tính chân thực, vừa có màu sắc hư cấu để tăng sức

hấp dẫn cho tác phẩm. L. Tolstoi nhấn mạnh: “Tiểu thuyết lịch sử phải chính xác

như một nghiên cứu lịch sử” dẫn theo 146]. Còn Goncourt (Pháp) quan niệm:

“Lịch sử là tiểu thuyết đã thành hiện thực, còn tiểu thuyết là lịch sử có khả năng

thành hiện thực. Tiểu thuyết lịch sử kết hợp hai yếu tố đối lập, nhà văn tùy theo

cảm hứng mà kéo mạnh về cực này hay cực kia. Người viết tiểu thuyết lịch sử là

một thầy lang bốc hai vị thuốc kỵ nhau, nhưng liều lượng phải tính thế nào để

chúng bổ sung cho nhau, để thuốc có hiệu quả - tác phẩm phải hay: vừa có vị tiểu

thuyết vừa có vị lịch sử” [184; 11 . Ở đây, Goncourt nhấn mạnh đến tầm vóc và

sức hấp dẫn của lịch sử. Theo ông, bản thân văn bản lịch sử đã là một dạng của

10

tiểu thuyết, còn TTLS là lịch sử của tương lai. Người viết TTLS phải đủ tài năng

để nối kết quá khứ với tương lai qua lăng kính của hiện sinh.

Nhìn chung, những nghiên cứu khái quát về TTLS của các tác giả nước

ngoài chủ yếu tập trung vào việc xác định những ranh giới của lịch sử với TTLS.

Các nghiên cứu đã làm r khái niệm TTLS, lý giải mối quan hệ giữa hiện thực

lịch sử và hư cấu nghệ thuật, yêu cầu của bức tranh hiện thực được miêu tả trong

thể loại TTLS, những đặc điểm làm cho một TTLS trở nên hấp dẫn bạn đọc…

1.1.1.2. Nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam

Việc nghiên cứu TTLS ở Việt Nam đã diễn ra từ lâu, với hàng trăm bài viết,

chuyên luận, công trình có quy mô và chất lượng. Các bài viết bao quát nhiều vấn

đề xung quanh TTLS như: tiến trình vận động, đặc điểm, diện mạo, đặc trưng thể

loại TTLS, các khuynh hướng sáng tác trong TTLS, hiện thực và hư cấu trong

TTLS, nhân vật trong TTLS…

* Về tiến trình vận động, đặc điểm, diện mạo và đặc trưng của TTLS: là các

vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong nhiều công trình, bài viết.

Trong Phan Cự Đệ tuyển tập (tập 1), tác giả đã dành hẳn 30 trang để bàn về TTLS

Việt Nam thế kỷ XX, điểm qua tiến trình phát triển của thể loại này gắn với quan

niệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Ông khẳng định: “Trong quá

trình sáng tác, các nhà tiểu thuyết lịch sử vừa phải tôn trọng các sự kiện lịch sử,

vừa phải phát huy cao độ vai trò của hư cấu, sáng tạo nghệ thuật. Nghiên cứu lịch

sử một cách công phu chính xác, đó là con đường của các nhà nghiên cứu hiện

thực chủ nghĩa” 41; 177].

Tác giả Lê Tú Anh trong công trình Văn xuôi Việt Nam hiện đại khảo cứu

và suy ngẫm, cũng đã đưa ra quan niệm về tiểu thuyết nói chung, TTLS nói riêng,

đồng thời đi sâu tìm hiểu TTLS Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Lê Tú Anh

đánh giá về cách thức sáng tạo của các tác giả TTLS giai đoạn này: “Tinh thần

dân tộc trong việc lựa chọn đề tài và nội dung phản ánh được thể hiện r nét hơn ở

các tác giả viết thể loại tiểu thuyết lịch sử” 3; 18].

Trong Từ điển văn học (bộ mới), nhóm tác giả đã khái quát quá trình nảy

sinh, phát triển và phân nhánh của thể loại TTLS ở các nền văn học khác nhau.

Đặc biệt, các tác giả phân tích khá k lưỡng sự nảy sinh và phát triển của thể loại

này ở các nền văn học Trung Quốc, châu Âu và Việt Nam. Nghiên cứu thể loại

11

TTLS ở Việt Nam, nhóm tác giả đã trình bày khái quát các giai đoạn phát triển

của thể loại này: thời trung đại, đầu thế kỷ XX - 1945, từ 1945 đến nay.

Năm 2012, Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương tổ

chức Hội thảo khoa học Sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử. Hội thảo

đã tuyển chọn 60 bài phát biểu, tham luận của các nhà quản lý, nghiên cứu, lý

luận, phê bình, các văn nghệ sĩ tham dự hội thảo. Các bài viết đã làm r “những

nội dung lý luận và thực tiễn sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử; đánh

giá những thành công và hạn chế trong hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật về

đề tài lịch sử trong thời gian qua; lý giải quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu

nghệ thuật; quan hệ giữa sáng tạo văn học, nghệ thuật về đề tài lịch sử với cuộc

sống đương đại...” 63; 7 . Đồng thời, các tác giả đã đưa ra nhiều vấn đề lí luận cơ

bản, đặt mục tiêu giải quyết những vấn đề có tính thời sự trong thực tiễn sáng tác

về đề tài lịch sử. Đặc biệt, công trình này tập hợp 22 bài viết đề cập tới sáng tạo

văn học về đề tài lịch sử. Trong đó có các bài viết đáng chú ý như: “Lịch sử như là

hư cấu - quan điểm sáng tạo mới về đề tài lịch sử” của Phan Tuấn Anh; “Tiểu

thuyết lịch sử như một chiến lược tự sự thấm đầy cá tính nhà văn” của Nguyễn

Đăng Điệp; “Nhân đọc Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh nghĩ thêm về sáng

tạo văn học về đề tài lịch sử” của Trần Đăng Suyền; “Cần đổi mới suy nghĩ về lịch

sử và tiểu thuyết lịch sử của Trần Đình Sử; Sự thật lịch sử và hiện thực đời sống”

của Nguyễn Tường Lịch…

Năm 2019, tạp chí Văn nghệ Quân đội và Trường Đại học Hồng Đức tổ

chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia Nghiên cứu và giảng dạy văn học về đề tài

lịch sử dân tộc. Hội thảo đã ra kỷ yếu, với hơn 50 bài viết được cấu trúc thành ba

phần: Những nghiên cứu khái quát; Những nghiên cứu trường hợp; Những nghiên

cứu bàn về một số vấn đề trong dạy học văn học về đề tài lịch sử. Nhìn chung, các

tham luận đều được thực hiện nghiêm túc, công phu và đầy tâm huyết. Trong đó,

đáng chú ý là các bài: “Tiểu thuyết quốc ngữ đầu thế kỷ XX: Cuộc “ra quân” đầu

tiên về đề tài lịch sử dân tộc” của Lê Tú Anh, “Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong

văn học Việt Nam từ 1986 đến nay - xu hướng và thành tựu nổi bật” của Đinh Trí

Dũng, “Đặc trưng thể loại tiểu thuyết lịch sử và các khuynh hướng tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn Thị Tuyết Minh, “Những đối thoại tiêu

biểu của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước diễn ngôn của sử gia” của V Thị

12

Minh Trang và Lê Thời Tân, “Khi lịch sử thuộc về cá nhân - Nhìn từ mối quan hệ

giữa lịch sử và văn học trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của

Thái Phan Vàng Anh,…

Trong công trình Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân

Khánh (tuyển tập các tham luận trong hội thảo khoa học về Nguyễn Xuân Khánh),

một lần nữa các tác giả đã thể hiện cái nhìn khách quan hơn về thành công cũng

như hạn chế của tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh nói riêng và TTLS Việt Nam

đương đại nói chung. Đáng chú ý là tham luận “Cái nhìn đa chiều về tiểu thuyết

lịch sử - văn hóa của Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn Đăng Điệp. Tác giả đã

chỉ ra rằng: “Có người khẳng định, nhà văn có quyền tưởng tượng đến vô hạn và

tác phẩm của họ thực chất là cách cấu tạo lịch sử theo quan điểm cá nhân. Tại đó,

có một thứ lịch sử khác (ngoại vi) so với lịch sử được thừa nhận (trung tâm), và

lịch sử, khi đi vào lãnh địa tiểu thuyết, phải được tổ chức trên cơ sở hư cấu và

nguyên tắc trò chơi vốn là một đặc trưng của nghệ thuật” 124; 5-8 . Đặc biệt, hội

thảo đã mở ra nhiều cách hiểu mới về diễn ngôn lịch sử và khẳng định những

chuyển động của tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới.

Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Minh với chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam sau 1975 đã đi sâu khái quát, khu biệt các loại hình nhân vật lịch sử, các

khuynh hướng tái tạo lịch sử cùng các phương thức tự sự của TTLS sau 1945 đến

những năm đầu thế kỉ XXI. Tác giả không chỉ đưa ra quan niệm của mình về

TTLS mà còn khái quát tiến trình vận động của TTLS Việt Nam từ 1945 đến

2008. Nguyễn Thị Tuyết Minh cũng phân tích khá k tư duy tự sự lịch sử trong

TTLS (cảm thức lịch sử, các khuynh hướng tái tạo lịch sử) và làm r các phương

thức nghệ thuật tự sự lịch sử (nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật

sử dụng ngôn ngữ). Nhìn chung, công trình đã tập trung dựng lại bức tranh toàn

cảnh về TTLS Việt Nam từ 1945 đến nay, đồng thời phân tích một số đặc điểm cơ

bản về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của thể loại 101]. Trong

quan niệm về TTLS, Nguyễn Thị Tuyết Minh cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử là

loại hình tiểu thuyết lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính. Đối tượng của nó là

nhân vật, sự kiện, thời kì hay tiến trình lịch sử. Đó có thể là một quá khứ xa xôi

hay một thời kì lịch sử đặc biệt. Nó đòi hỏi người viết phải có kiến thức uyên bác,

tỉ mỉ của một nhà sử học, lại vừa có khả năng biến những tri thức đó thành nghệ

13

thuật. Tiểu thuyết lịch sử nói chuyện xưa nhưng nhằm mục đích soi sáng những

vấn đề của hiện tại” 101; 28 . Có thể thấy người viết không chỉ nói về chủ đề, đối

tượng của TTLS, mà còn nhấn mạnh vai trò của người cầm bút.

Trong luận án tiến sĩ Tiểu thuyết Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến

1945 – diện mạo và đặc điểm, Bùi Văn Lợi đã chỉ ra được những đặc điểm cơ bản

cả về nội dung cũng như nghệ thuật của TTLS Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945.

Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra được những quan niệm về người anh hùng cứu

nước, về người phụ nữ anh hùng, đồng thời chỉ ra được mối quan hệ giữa tính

chân thực của lịch sử và hư cấu nghệ thuật... Theo tác giả, TTLS tuy mượn đề tài

và lấy cảm hứng từ lịch sử nhưng vẫn không hề xa rời thực tại.

Với luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986 dưới góc nhìn tự sự

học, Nguyễn Văn Hùng đã nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử dựa trên nền tảng lý

thuyết tự sự học hiện đại, thể hiện qua hình tượng người kể chuyện, điểm nhìn tự

sự, nghệ thuật tổ chức thời gian, kết cấu tự sự. Luận án đã góp phần phác họa tiến

trình vận động, diện mạo của TTLS Việt Nam sau năm 1986, từ đó có cái nhìn đối

sánh với TTLS giai đoạn trước nhằm tìm ra những đổi mới trong tư duy về thể

loại, cảm thức, nghệ thuật viết tiểu thuyết cũng như vai trò, sứ mệnh của nhà văn

trong sáng tạo về đề tài lịch sử... Với công trình này, tác giả đã cho chúng ta thấy

được: “Cái nhìn về lịch sử của nhà văn giai đoạn này mang màu sắc và kinh

nghiệm cá nhân r nét. Các tiểu thuyết gia thiên về luận giải lịch sử hơn là mô tả,

minh họa lịch sử. Sự diễn giải ấy bao chứa quan niệm mới về lịch sử và diễn ngôn

về lịch sử” 72; 146].

Lê Thị Thu Trang trong luận án Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam đầu thế kỷ XXI chỉ ra sự đổi mới quan niệm thể loại trong bối cảnh mới.

Công trình dựa vào khung chủ đề và kết cấu của tác phẩm để xác định một số xu

hướng và dạng thức tiêu biểu của TTLS giai đoạn thập niên đầu thế kỉ XXI, nhận

diện một số kiểu nhân vật và phương thức xây dựng nhân vật, đồng thời chỉ ra sự

vận động của thể loại này thông qua quan niệm nghệ thuật về con người. Lê Thị

Thu Trang cho rằng: “Xét về mặt đặc trưng, TTLS là một “loại” thuộc thể loại tiểu

thuyết nên tất yếu nó cũng mang những tố chất mĩ học của tiểu thuyết. Song bên

cạnh đó, xét về nội hàm khái niệm thì TTLS còn mang những đặc trưng riêng biệt

so với các loại hình tiểu thuyết khác: TTLS lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và

14

cảm hứng sáng tạo nghệ thuật (…). Nhân vật trong TTLS vừa là nhân vật lịch sử

vừa là nhân vật văn học (…). Hư cấu - phương thức tồn tại của TTLS (...). TTLS

dùng quá khứ làm phương tiện để đối thoại với hiện tại” [158; 10]. Như vậy, về

đặc trưng thể loại, TTLS khác với các loại hình tiểu thuyết khác. Bởi, tiểu thuyết

lịch sử lấy đối tượng lịch sử làm nội dung và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, nhân

vật trong TTLS là nhân vật lịch sử…

Trong luận án Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt

Nam, Ngô Thanh Hải đã có những nghiên cứu khái quát về truyện lịch sử nói

chung và thể loại TTLS nói riêng. Tác giả cũng đi sâu tìm hiểu về ba mô hình

truyện lịch sử: truyền thuyết lịch sử, dụ ngôn lịch sử và giai thoại lịch sử. Tác

giả khẳng định: “Ba mô hình truyện lịch sử không tồn tại tách rời mà có sự

chuyển hóa, tương tác với nhau, là sản phẩm chủ đạo của một chủ thể gắn với

thời đại, bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, hệ tư tưởng, quan điểm thẩm m , tư

duy nghệ thuật nhất định” 55; 5].

Tập trung nghiên cứu về Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, Đỗ Thị Nhàn đã

đi sâu phân tích, lý giải một số đặc trưng của TTLS Lan Khai như: cảm hứng sáng

tác, sự kiện lịch sử và thế giới nhân vật, để qua đó làm nổi bật quan niệm nghệ

thuật về con người và những nhân tố chi phối đến sáng tác của ông. Luận án cũng

chỉ ra được “một số phương thức và phương tiện biểu hiện nghệ thuật trong TTLS

của Lan Khai ở các bình diện như: nghệ thuật hư cấu, tổ chức kết cấu, việc lựa

chọn cốt truyện và sự kiện; kiến tạo chân dung nhân vật, vấn đề không gian và

thời gian, nghệ thuật trần thuật; ngôn ngữ và giọng điệu” 117; 3 . Đỗ Thị Nhàn

cũng đã trình bày cách hiểu về TTLS như sau: “Tiểu thuyết lịch sử là sự kết hợp

nhuần nhuyễn giữa những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết với những tài liệu của

sử học trên cơ sở lấy lịch sử làm đề tài và tôn trọng sự kiện, nhân vật lịch sử. Tác

phẩm đưa ra những kiến giải sâu sắc về lịch sử, về cuộc sống bù lấp vào những

khoảng trống của sử học. Trong tiểu thuyết lịch sử, hư cấu nhằm phản ánh lịch sử

ở cả bề rộng, bề sâu và làm sống động bức tranh lịch sử, tăng tính chân thực nghệ

thuật trong tiểu thuyết” 117; 8 . Như vậy, TTLS phải có sự kết hợp giữa đặc

trưng của tiểu thuyết với sự kiện và nhân vật lịch sử, phải có những kiến giải sâu

sắc về lịch sử và đặc biệt phải đảm bảo tính chân thực nghệ thuật trong tiểu thuyết.

15

Trong công trình Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử

đương đại Việt Nam, Đoàn Thanh Liêm đã đi vào nghiên cứu một cách chuyên

sâu các hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong TTLS như hệ biểu tượng tự nhiên,

hệ biểu tượng con người, hệ biểu tượng văn hóa cộng đồng. Từ đó góp phần bảo

tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử dân tộc trong bối cảnh đất nước đổi

mới và hòa nhập quốc tế. Trong chuyên luận của mình, Đoàn Thanh Liêm cũng

nêu quan niệm về TTLS: “tiểu thuyết lịch sử là thể tài văn học có đặc thù riêng so

với các thể tài văn học khác. Như tên gọi, thể tài văn học này có sự kết hợp chặt

chẽ giữa hai thành tố lịch sử và tiểu thuyết, chất liệu hiện thực và đặc trưng phản

ánh của loại hình nghệ thuật ngôn từ” 90; 26]. Theo tác giả này, TTLS phải có sự

kết hợp nhuần nhuyễn giữa lịch sử và tiểu thuyết.

* Về mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử. Mối quan hệ

giữa hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử luôn là vấn đề được nhiều người quan

tâm. Mối quan hệ giữa văn chương và lịch sử là sự thẩm thấu, hòa quyện vào

nhau. Phan Cự Đệ cho rằng, khó có sự phân biệt giữa văn và sử: “trong tiểu thuyết

lịch sử, sự kiện lịch sử và sự kiện hư cấu, nhân vật lịch sử và nhân vật sáng tạo

trộn lẫn vào nhau, vì thế khó lòng bảo đảm một sự chính xác lịch sử đến mức tuyệt

đối” 40; 62 . Đồng quan điểm với Phan Cự Đệ, Lê Tú Anh cũng cho rằng: “sự

thật của tiểu thuyết không phải thật 100%... Tuy nhiên, hư cấu không có nghĩa là

bịa đặt một cách tùy tiện, thiếu cơ sở” 3; 20-21].

Trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - phác họa một số xu

hướng chủ yếu, Nguyễn Văn Dân cũng nhận định: “Trong tiểu thuyết lịch sử, nghệ

thuật hư cấu chính là lĩnh vực chủ yếu để nhà văn thể hiện sự sáng tạo của mình,

làm cho tác phẩm đúng là một cuốn tiểu thuyết và làm cho tiểu thuyết lịch sử khác

với một công trình sử ký. Các sự kiện hư cấu cũng còn là sự thể hiện quan điểm

của tác giả đối với lịch sử”. Ông còn nhấn mạnh đến tính đặc thù của TTLS khi

đặt nó trong sự so sánh: “hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử có một nét đặc thù riêng,

không giống với hư cấu của tiểu thuyết nói chung. Tiểu thuyết lịch sử phải căn cứ

vào sự kiện và nhân vật lịch sử có thật, cho nên dù có hư cấu thì cũng chỉ có thể

tạo ra sự kiện giống như “chất phụ gia” cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch

sử” [28]. Ở đây, Nguyễn Văn Dân nhấn mạnh đến mức độ và giới hạn của hư cấu

trong sáng tác TTLS.

16

Trong bài “Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức”, Trần Vũ cũng đã

đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Hay trong

“Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử”, Bình Nguyên cũng đã đưa

ra một số kiến giải mới về mối quan hệ giữa hư cấu nghệ thuật và tính chân thực

lịch sử. Theo ông, TTLS “mang lại nhiều cách tiếp cận, cách kiến giải lịch sử…

giúp đẩy lùi khuynh hướng ca ngợi một chiều, thần thánh hóa quá mức, khiến cho

các nhân vật lịch sử trở nên xơ cứng, ít mang ý nghĩa giáo dục hay người đọc có

thể hoài nghi về sự tồn tại của chính các nhân vật đó” 175]. Những bài viết này

đều chỉ ra giới hạn của sự sáng tạo trong TTLS và vai trò của hư cấu làm lịch sử

thăng hoa qua nghệ thuật tiểu thuyết.

Trong bài “Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển biến

của tư tưởng”, Đỗ Hải Ninh đã đưa ra nhiều luận điểm xung quanh mối quan hệ

giữa chân lý lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Đó là: “Văn xuôi hư cấu lịch sử là

những tác phẩm mang tính hư cấu dựa trên nền lịch sử (2), chính vì vậy những

cuộc tranh luận thường xuất phát từ hai điểm cơ bản: a - mức độ chân thực so với

sự thật lịch sử (chính sử) và b - sự vênh lệch so với nhận thức/ quan điểm chung

của cộng đồng”. Chính vì vậy, hư cấu nghệ thuật là vấn đề không thể thiếu trong

tiểu thuyết lịch sử, bởi “hư cấu lịch sử vốn là một thách thức không nhỏ với nhà

văn bởi vì chạm vào lịch sử tức là đối diện với sự thật, cái đã xảy ra, được nhiều

người biết đến, đòi hỏi nhà văn vốn kiến thức phong phú. Đồng thời nó cũng đòi

hỏi sự từng trải và bản lĩnh nghệ thuật bởi qua thời gian, lịch sử được tích tụ lại

trong văn hóa, gắn với tâm thức dân tộc, cộng đồng”. Từ đó, tác giả đưa ra yêu

cầu của nhà văn khi sáng tác về đề tài lịch sử: “để hư cấu lịch sử nhuần nhuyễn

nhà văn phải am tường lịch sử. Hơn thế nữa, khác với sử gia, nhà văn tái tạo lịch

sử bằng chất liệu nghệ thuật để khám phá cái có thể xảy ra với kiến giải của cá

nhân. Khám phá và lý giải lịch sử bằng cái nhìn của cá nhân nên lịch sử trong

quan niệm của nhà văn sẽ không trùng khớp với quan niệm của cộng đồng và

không tránh khỏi sự “sai lệch tất yếu” 109]. Đồng thời tác giả cũng lưu ý người

đọc rằng, mỗi cách hư cấu lịch sử đều có thể gợi mở một hướng giải mã tác phẩm.

Có thể thấy, một mặt Đỗ Hải Ninh khẳng định hư cấu nghệ thuật là yếu tố không

thể thiếu trong sáng tác văn xuôi về đề tài lịch sử, một mặt nhấn mạnh đến cách

thức hư cấu trong TTLS luôn có tính đặc thù.

17

Hoàng Minh Tường trong bài “Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà

văn”, đã bày tỏ quan niệm: “nhà văn không thay thế được sử gia nhưng có thể bù

lấp những khoảng trống của lịch sử. Nhà văn bằng thiên tư của mình chiếu rọi vào

lịch sử cái nhìn nhân văn làm cho lịch sử được tái tạo lại với một tầm vóc vũ trụ

như nó vốn có. Trong một ý kiến khác cho rằng nhà văn viết về lịch sử có quyền

hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo thêm nhân vật, sự kiện để làm sáng tỏ lịch

sử, soi rọi lịch sử nhưng không thể bóp méo hay bịa tạc lịch sử một cách phi logic,

theo ngẫu hứng riêng của mình” 168]. Bùi Văn Lợi với bài “Mối quan hệ giữa

tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa

đầu thế kỷ XX”, đăng trên Tạp chí Văn học số 9/1999 cũng có những phát hiện

độc đáo về kiểu hư cấu hoàn toàn vì lý tưởng của người viết, có kiểu bán hư cấu,

tôn trọng sự thật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX… Trong bài

viết “Lịch sử như là hư cấu - Quan niệm sáng tạo mới về đề tài lịch sử”, Phan

Tuấn Anh cũng cho rằng: “Sáng tạo lịch sử dẫu có tự do và dân chủ đến mức nào

đi chăng nữa, cũng không phải là không có giới hạn. Mọi sáng tạo và hư cấu về đề

tài lịch sử luôn phải dựa trên cứ liệu sử học (mốc thời gian, nhân vật lịch sử, ý

nghĩa lịch sử). Dẫu bổ sung, tái hiện quan niệm, giải thiêng hoặc thậm chí phủ

định, thì r ràng những sáng tạo văn học vẫn cần có sử học như một đối tượng để

đối thoại”. Tác giả nhấn mạnh thêm rằng: “Nếu không có sử học sẽ không có văn

học (viết về đề tài lịch sử), sử học dù có thể cũng mang tính chủ quan, cũng là một

loại hình diễn ngôn, nhưng bản thân giữa sử học và văn học khác xa về mặt bản

chất. Văn học xem trọng hư cấu, lấy hư cấu làm giá trị, sử học xem trọng biên

niên sự kiện/sự thật lịch sử, lấy sự thật làm giá trị” 4 . Theo nhận định của tác

giả, sáng tạo văn học về đề tài lịch sử phải xem trọng vai trò của hư cấu. Tuy

nhiên, hư cấu phải nằm trong những giới hạn nhất định và lịch sử luôn là chất liệu

cơ bản trong quá trình sáng tác.

Trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Giải phóng ngày 25/08/2013, Hoàng Quốc

Hải cho rằng: “lịch sử đối với nhà văn chỉ là cái cớ”, vì thế “tiểu thuyết lịch sử

phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật”. Vấn đề là phải hư cấu như thế nào

đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người đọc

phải thừa nhận đây mới là lịch sử. Do đó, nhiệm vụ của nhà văn viết về lịch sử là

giải mã lịch sử chứ không lặp lại các thông tin lịch sử. Các thông tin lịch sử và

18

ngay cả các nhân vật lịch sử cũng chỉ là chất liệu, là phương tiện để nhà văn xây

dựng tác phẩm…” 54 . Trong cuộc trao đổi bằng thư với Nguyễn Mộng Giác về

TTLS, Nam Dao đã chia sẻ về cách viết tiểu thuyết Gió lửa của ông: "Cái khung

lịch sử đó được sử dụng như phương tiện cấu tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu

thuyết là phương tiện để tác giả thể hiện những tư duy, biện minh và dư phóng cho

chủ đề lịch sử..." 25 . R ràng, ở đây Nam Dao chú trọng vào hai vấn đề chính:

cái khung lịch sử được dùng làm phương tiện cấu tạo, chủ đề lịch sử được tái hiện

trên ba không gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là một luận điểm rất được

chúng tôi chú ý trong quá trình hoàn thành luận án.

Luận án Vấn đề hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương

đại (khảo sát tác phẩm của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn

Quang Thân, Nguyễn Mộng Giác) của Đoàn Thị Huệ là công trình đầu tiên nghiên

cứu một cách công phu, toàn diện các biểu hiện của vấn đề hư cấu nghệ thuật

trong TTLS Việt Nam đương đại trên các phương diện như: hư cấu trong nghệ

thuật xây dựng người kể chuyện và nhân vật, hư cấu trong nghệ thuật tổ chức kết

cấu, lời văn nghệ thuật trong tác phẩm. Luận án đã góp phần làm sáng tỏ thêm vấn

đề hư cấu nghệ thuật trong TTLS Việt Nam đương đại nói riêng và trong tự sự

tiểu thuyết nói chung, từ đó góp phần xử lý linh hoạt, hiệu quả mối quan hệ giữa

sự thật lịch sử với hư cấu nghệ thuật trong bút pháp sáng tạo nghệ thuật của nhà

văn, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghiên cứu, phê bình văn học, nhận định

đúng thành tựu và xu hướng vận động của TTLS Việt Nam đương đại [67].

Ngoài những công trình đã nêu, còn rất nhiều bài viết khác nghiên cứu

vấn đề hư cấu trong tiểu thuyết được đăng tải trên các tạp chí, kỉ yếu, như: “Quá

trình cá nhân hóa hư cấu - Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử” của

Phạm Xuân Thạch, “Tiểu thuyết lịch sử - hướng tiếp cận mới và vấn đề hư cấu

nghệ thuật” của Đoàn Đức Phương, “Mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và hư

cấu văn học” của Nguyễn Huy Thông; Như thế nào là đủ? của Thanh Ngọc,

“Lịch sử trong văn chương, hư cấu nhưng không được sai lệch của Bảo Thoa;

Không tùy tiện hư cấu lịch sử” của Phan Kỷ, “Tiểu thuyết lịch sử và giới hạn hư

cấu” của Hà An, Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - Hiện tại và hư cấu”

của Nguyễn Văn Dân, “Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật” của Đỗ Ngọc

Yên… Tựu trung, các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao vai trò của hư cấu trong

19

tiểu thuyết lịch sử. Tuy nhiên, mức độ hư cấu đến đâu, ở những giới hạn nào thì

vẫn chưa có sự thống nhất.

Về nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử. Có khá nhiều công trình đề cập đến

nhân vật trong TTLS. Với bài viết “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo

sau đổi mới”, Nguyễn Văn Hùng đã dẫn dắt hai trong bốn nguyên lí tiếp cận và

xử lí lịch sử của Milan Kundera: nguyên lí thứ 2 - tạo tình huống hiện sinh tiêu

biểu, mới mẻ cho nhân vật tiểu thuyết và nguyên lí thứ 4 - lịch sử của con người

chứ không phải là lịch sử của xã hội. Tác giả đã rút ra kết luận: nhân vật là nơi

thử thách và cũng là nơi khẳng định r nhất bản lĩnh, tài năng, phong cách, cá

tính sáng tạo của mỗi nhà văn. Và đó cũng là một trong những bình diện thể hiện

sinh động nhất giới hạn trong biên độ sáng tạo, hư cấu, tưởng tượng của người

nghệ sĩ. Từ đó, ông đưa ra những lí giải, phân tích về nhân vật lịch sử trong văn

xuôi lịch sử sau đổi mới: 1. Nhân vật lịch sử - câu chuyện không mới nhưng

luôn “nóng” trên văn đàn Việt; 2. Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo; 3.

Nhân vật lịch sử: một mẫu hình nhiều “phiên bản” 74].

Trong bài “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam với quan niệm nghệ thuật về con

người”, Nguyễn Thị Kim Tiến cũng cho rằng: “Để giải quyết mối quan hệ sự thật

và hư cấu phần đông các nhà văn đã lựa chọn giải pháp lấy tâm điểm là con người

để tiếp cận, soi chiếu qua quan niệm nghệ thuật về con người, biến con người làm

mục đích chuyển tải giá trị tư tưởng dưới “lớp bọc” của đường viền lịch sử, giúp

họ có cơ hội “chất vấn”, nhận thức cái tưởng như đã là chân lý của lịch sử nhưng

vẫn đảm bảo quyền toàn bích của việc sáng tạo hư cấu. Chính yếu tố này đã khiến

việc cắt nghĩa con người biểu hiện qua nhân vật cũng đi theo hai chiều hướng”: 1.

Con người đối thoại với lịch sử; 2. Kết nối với hiện tại 153]. Với bài viết “Nghệ

thuật biểu hiện phương diện đời tư thế sự của nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam đương đại”, Đoàn Thị Huệ đã chỉ ra một số phương diện nghệ

thuật như: nhạt dần cảm hứng sử thi khi miêu tả nhân vật lịch sử; tái tạo vẻ đẹp

ngoại hình nhân vật lịch sử; nội soi vẻ đẹp nội tâm nhân vật lịch sử. Người viết đã

khảo sát tác phẩm của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng

Giác, Nguyễn Quang Thân để chứng minh cho những luận điểm của mình. [66].

Nguyễn Khắc Phê với bài viết “Nhân vật trung tâm và quyền sáng tạo của nhà

văn” đã có những phân tích khá sâu sắc về sự lựa chọn của các nhà văn đối với

20

nhân vật lịch sử. Điều dễ thấy là hầu hết TTLS đều dựa vào những nhân vật nổi

tiếng, có công lao, đã được xã hội tôn vinh. Về quyền sáng tạo của nhà văn, “đã

là tiểu thuyết thì tất phải hư cấu, nói nôm na là nhà văn có quyền tưởng tượng

những điều chưa ai biết đến nhưng “có thể có thật”. TTLS cũng vậy, nếu không,

đó chỉ là “chuyện danh nhân”. Với cuộc đời một nhân vật, hay một sự kiện dù

lớn đến đâu, dù sử sách, báo chí viết nhiều đến cỡ nào, thì cũng chỉ mới phản

ánh được một phần vạn, phần ngàn toàn bộ cuộc đời họ” 131 …

Trong chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945, Nguyễn Thị

Tuyết Minh cho rằng: “Đối với một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhân vật là nơi thử

thách và cũng là nơi khẳng định tài năng của nhà văn r nhất. Nhà văn phải bồi da

đắp thịt để phục sinh nhân vật có khi chỉ trừ một cái tên, một dòng chữ khắc trên

bia đá lịch sử. Nhà văn phải thổi sức sống cho nhân vật, làm cho nhân vật lịch sử

như đang đi lại, nói năng, buồn vui thật như cuộc đời để phục vụ tư tưởng nghệ

thuật của mình. Nhân vật thành công là nhân vật không quá xa lạ với người đọc

mà vẫn phù hợp với thời đại lịch sử mà nó đã sống” 100; 117 . Từ quan điểm

này, tác giả phân nhân vật trong TTLS Việt Nam thành bốn loại hình chủ yếu: 1.

Nhân vật mang khát vọng lịch sử; 2. Nhân vật có số phận trong dòng lịch sử; 3.

Nhân vật biểu tượng; 4. Nhân vật lưỡng diện - đa diện.

Luận văn thạc sĩ Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1986 đến

nay của Nguyễn Chương M Bình là công trình nghiên cứu chuyên biệt về nhân

vật trong TTLS giai đoạn sau 1986. Tác giả đã khảo sát hầu hết tác phẩm đạt các

giải thưởng lớn và được các nhà nghiên cứu phê bình quan tâm. Chương Thị M

Bình đã đưa ra quan niệm về thể loại tiểu thuyết lịch sử và nhân vật trong TTLS;

làm r một số phương diện đặc điểm nội dung của nhân vật, đặc trưng nghệ thuật

của nhân vật từ nguyên mẫu đến hư cấu trong TTLS Việt Nam đương đại.

Bàn về nhân vật trong TTLS còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí,

luận văn thạc sĩ của các trường đại học. Hầu hết các công trình đều tập trung khái

quát những đặc điểm về nội dung và phương thức nghệ thuật khi xây dựng nhân

vật lịch sử góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý thuyết về nhân vật trong TTLS

nói riêng và trong văn học nói chung.

Về các tác phẩm và tác giả tiểu thuyết lịch sử. Bên cạnh những nghiên cứu

khái quát về TTLS, còn có khá nhiều cuộc tọa đàm, công trình nghiên cứu, bài

21

viết về các tác phẩm và tác giả tiểu thuyết lịch sử cụ thể. Riêng tác giả Nguyễn

Xuân Khánh cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và hội thảo đáng chú ý

như: Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly (Báo Văn nghệ số 44/2000); “Tiểu thuyết

Hồ Quý Ly; thưởng thức và cảm nhận” của Hoàng Cát; “Hồ Quý Ly và những giải

pháp mới cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà” của Trung Trung Đỉnh; “Hồ Quý Ly”

của Lại Nguyên Ân; “Vấn đề xây dựng nhân vật lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý

Ly của Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn Thị Thu Hương; “Nguyễn Xuân Khánh

tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới” của Quỳnh Châu; “Về những cách tân nghệ thuật

trong Hồ Quý Ly” của Lã Nguyên; “Tính khả dụng của Nho giáo trong đời sống

đương đại (qua diễn ngôn Hồ Quý Ly) và Cảm thức “Vô úy” trong Đội gạo lên

chùa của Nguyễn Xuân Khánh” của Lê Tú Anh; “Phương thức lựa chọn và thể

hiện hiện thực lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn Văn

Hùng; “Yếu tố huyền thoại trong tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh” của Nguyễn

Thị Thu Hương; “Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn

Xuân Khánh” của Trương Thị Nhung; “Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật

Nguyễn Xuân Khánh” do Nguyễn Đăng Điệp (chủ biên),… Những nghiên cứu

trên đã mổ xẻ nhiều vấn đề, nhiều phương diện khác nhau về các tác phẩm của

Nguyễn Xuân Khánh. Riêng tiểu thuyết Hồ Quý Ly, các công trình nghiên cứu

cũng đã ghi nhận những thể nghiệm mới mẻ về lối viết TTLS của tác giả này. Đa số

ý kiến khẳng định rằng, tác phẩm ông đã đáp ứng yêu cầu tái hiện lịch sử nhưng

vẫn rất sáng tạo trong nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng hình tượng nhân vật bằng

lối viết có chủ kiến. Còn với Mẫu Thượng Ngàn và Đội gạo lên chùa, các bài viết

đã xoay quanh vấn đề về lịch sử và văn hóa phong tục được luận giải trong tác

phẩm. Mặc dù hiện nay còn một số băn khoăn khi xếp các tiểu thuyết này vào thể

tài tiểu thuyết lịch sử, song nhiều ý kiến thống nhất cho rằng, đây là một thể

nghiệm nhằm mở rộng biên độ của thể loại, tìm kiếm “hình hài” mới cho TTLS.

Các bài viết đều khẳng định, Nguyễn Xuân Khánh có ý thức vượt thoát khỏi chiếc

áo có phần chật hẹp của các sự kiện, biến cố lịch sử, đẩy Mẫu Thượng Ngàn, Đội

gạo lên chùa về phía văn hóa phong tục, tín ngưỡng dân tộc.

Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác cũng là một tác phẩm thu hút

nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Khi tác phẩm mới xuất hiện, người ta đã

hình dung sự manh nha của một trào lưu TTLS. Sông Côn mùa lũ đã được công

22

chúng và giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao. Có thể kể đến các bài viết như:

“Sông Côn mùa lũ một cuốn tiểu thuyết lịch sử công phu” của Nguyễn Khắc Phê,

“Sông Côn mùa lũ - trường thiên tiểu thuyết của nhà văn Việt kiều Nguyễn Mộng

Giác”, “Sông Côn mùa lũ - con sông của những số phận đời thường và số phận

lịch sử” của Mai Quốc Liên, “Tiểu thuyết lịch sử” của Phan Cự Đệ, “Nhân đọc

Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Vy Khanh… Các bài viết đã phần nào khẳng định

tài năng của Nguyễn Mộng Giác, nhấn mạnh vai trò sáng tạo của nhà văn trong

việc khám phá tâm hồn, đời tư của nhân vật lịch sử; khẳng định nhân cách văn hóa

Việt trong cái nhìn lịch sử - văn hóa của ông…

Giàn thiêu của V Thị Hảo cũng là một sáng tác được giới nghiên cứu phê

bình quan tâm. Tác phẩm này đã giúp “V Thị Hảo bứt phá khỏi lối đi đã quen

thuộc” và trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi đương

đại. Trong các nghiên cứu như: “Những thông điệp từ lửa và nước” của Trần

Khánh Thành, “Giàn thiêu - một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử” của

Nguyễn Hoài Nam, “Giàn thiêu của V Thị Hảo” của Lê Thanh Nga, “Tiểu thuyết

và lịch sử (nhân đọc Giàn thiêu của V Thị Hảo)” của Lại Nguyên Ân, “Yếu tố

liên văn bản trong tiểu thuyết Giàn thiêu (Văn học hậu hiện đại - diễn giải và tiếp

nhận)” của Nguyễn Văn Hùng, “Đọc Giàn thiêu của V Thị Hảo - chơi với người

chơi lửa” của Nguyễn Quang Huy… Các bài viết đã khẳng định được tài năng

nghệ thuật của V Thị Hảo qua tiếp cận tác phẩm ở nhiều góc độ khác nhau: ý

thức nữ quyền, yếu tố kì ảo, liên văn bản...

Hội thề của Nguyễn Quang Thân, tác phẩm đoạt giải A trong cuộc thi tiểu

thuyết lần thứ III (2006 - 2009) của Hội Nhà văn cũng thu hút sự chú ý của diễn

đàn nghiên cứu phê bình văn học. Tác phẩm đã tạo ra một cuộc tranh luận gay

gắt. Xuất hiện nhiều bài viết mang tính phản biện, tranh luận quanh Hội thề. Có

thể kể đến: “Hội thề - tiểu thuyết lịch sử hay phản lịch sử, Nguyễn Quang Thân

cho các tướng lĩnh Lam Sơn theo Mao khí sớm” của Trần Mạnh Hảo, “Đọc Hội

thề” của Phạm Viết Đào, “Kinh ngạc khi Hội Nhà văn tôn vinh cuốn tiểu thuyết

Hội thề” của Từ Quốc Hoài, “Thẩm bình Hội thề” của Vương Quốc Hoa, “Về

Hội thề” của Trần Hoài Dương,… Trước những ý kiến trái chiều về giá trị của

tác phẩm, nhiều tác giả đã lên tiếng bảo vệ Hội thề, cụ thể như: “Hội thề, một

cách nhìn về lịch sử của Hoài Nam, “Trớ trêu trí thức, bẽ bàng tình nhân” của

23

Văn Hồng, “Đọc Hội thề” của Trần Thanh Giảng, “Hội thề - đau đáu thế sự, tình

đời của V. Min, “Trong tiếng người xưa vẫn vọng về” của Ngô Thị Kim Cúc,

“Hội thề: Lịch sử và tiểu thuyết” của Lê Thành Nghị, “Mấy vấn đề chủ yếu

trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại” (Nguyễn Văn Dân),… Qua các

công trình có thể thấy: Hội thề đặt những dấu ấn nhất định trong việc “luận giải

lịch sử” bằng quan điểm và kinh nghiệm cá nhân nhà văn.

Bão táp triều Trần (6 tập) và Tám triều vua Lý (4 tập) của Hoàng Quốc

Hải cũng là những tác phẩm nhận được nhiều sự quan tâm bình giá của các đồng

nghiệp, nhà nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu lịch sử. Trong đó, đáng chú

ý là các công trình khảo cứu như: “Nhà văn Hoàng Quốc Hải người viết lịch sử

bằng văn” của Đào Bá Đoàn, “Bão táp Triều Trần tác phẩm và dư luận” của

nhiều tác giả, “Nhà văn Hoàng Quốc Hải” của Phùng Văn Khai, “Đọc tiểu thuyết

lịch sử của Hoàng Quốc Hải” của Hoàng Tiến, “Nhà văn Hoàng Quốc Hải và các

nhân vật lịch sử” của Phùng Văn Khai, “Về tiểu thuyết lịch sử triều Trần của

Hoàng Quốc Hải và quan niệm về nhân vật anh hùng” của Hoài Anh; “Nhà văn

Hoàng Quốc Hải: Tái hiện thời Lý - Trần qua hơn 4000 trang tiểu thuyết” của

Bằng Việt, “Suy ngẫm về bộ tiểu thuyết lịch sử thời Trần” của Hoàng Quốc Hải

của Hoàng Công Khanh, “Nhà văn Hoàng Quốc Hải trái tim đập thăng trầm cùng

các nhân vật lịch sử” của Phùng Văn Khai, “Bộ tiểu thuyết Bão táp triều Trần

của Hoàng Quốc Hải một sự tái tạo lịch sử đáng tin cậy” của Đinh Công Vĩ,…

Bên cạnh đó, Tám triều vua Lý, bộ sách đồ sộ (3509 trang in khổ 14,5 x 20,5 cm)

được xuất bản đúng dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội cũng nhận

được nhiều sự quan tâm của văn đàn. Trong đó có một số bài viết tiêu biểu như:

“Tám triều vua Lý - Bão táp triều Trần hai bộ tiểu thuyết lịch sử đầy giá trị của

nhà văn Hoàng Quốc Hải” của Phùng Văn Khai, “Tám triều vua Lý” của Minh

Ngọc, “Tám triều vua Lý” của Minh Hiếu, “Vương triều Lý dưới góc nhìn của tiểu

thuyết gia Hoàng Quốc Hải” của Đặng Văn Sinh, “Tám triều vua Lý của Hoàng

Quốc Hải từ góc nhìn thể loại” của Nguyễn Thị Yến… Các bài viết đã đánh giá,

nhận định về cá tính sáng tạo, phong cách riêng của tác giả cũng như những thủ

pháp nghệ thuật làm nên thành công của các tác phẩm. Dưới con mắt của một số

nhà nghiên cứu, sự thành công của tiểu thuyết gia này được nhìn nhận ở khía

cạnh tôn trọng tính khách quan, tái hiện chân thực nhân vật, sự kiện lịch sử, từ

24

chân lí lịch sử thăng hoa thành sự thực nghệ thuật. Nhà văn Hoàng Tiến còn

khẳng định Bão táp triều Trần và Tám triều vua Lý là tác phẩm mang sứ mệnh

“nối kết quá khứ với hiện tại”. Bên cạnh đó còn có một số bài viết quan tâm đến

phương diện tái hiện nhân vật lịch sử và cái nhìn tiểu thuyết đối với nhân vật

trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải.

Gió lửa, Đất trời, Bể dâu của Nam Giao cũng là những tác phẩm tạo dấu ấn

đậm nét với công chúng yêu văn chương và giới nghiên cứu lí luận phê bình. Có

thể điểm qua một số công trình và bài viết đáng chú ý về những sáng tác này: Tiểu

thuyết lịch sử Gió lửa của Nam Giao của Trương Văn Quỳnh; “Gió lửa: mô hình

xã hội học, tiểu thuyết lịch sử” của Phạm Trọng Luật,… Các bài viết đã chỉ ra

những đóng góp của Nam Dao vào sự phát triển của thể loại và văn xuôi nước

nhà. Với quan niệm và cách tiếp cận mới về lịch sử, tác giả đã đem đến cho người

đọc những trải nghiệm lí thú qua từng trang viết sống động về các thời kì lịch sử

của dân tộc.

Với sự thành công của ba cuốn tiểu thuyết: Nguyễn Du (2010, giải A giải

thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương); Khúc hát những dòng sông (2013,

giải Ba cuộc thi Sáng tác, quảng bá tác phẩm Văn học, Nghệ thuật và Báo chí về

chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh); Thông reo ngàn

Hống (2015, giải A giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam); Đường về Thăng

Long (2019, giải tư - giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam), Nguyễn Thế

Quang đã trở thành một hiện tượng “mới” trong dòng TTLS đương đại. Có khá

nhiều công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm của Nguyễn Thế Quang như:

“Đọc Nguyễn Du - tiểu thuyết lịch sử” của Yến Nhi, “Nguyễn Du - Lịch sử và tiểu

thuyết” của Bùi Công Thuấn; “Nguyễn Du - Từ cuộc đời đến tiểu thuyết” của Lê

Thái Phong và Nguyễn Sĩ Đại; “Nguyễn Thế Quang và ba cuốn tiểu thuyết lịch sử

vừa xuất bản” của Nguyễn Khắc Phê; Lê Thanh Nga: “Nguyễn Thế Quang, những

chuyện kể bất tận về mẹ (nhân đọc Khúc hát những dòng sông)… Các bài viết đã

chỉ ra những đóng góp ấn tượng của Nguyễn Thế Quang cho nền văn xuôi nước

nhà. Ông được đánh giá không chỉ là người tái tạo những biến động lịch sử một

thời đã qua mà còn “biến lịch sử thành cái cớ để gửi đến con người hiện tại những

thông điệp về giá trị đạo đức tinh thần”…

25

Sau khi gây được tiếng vang lớn từ tác phẩm Búp sen xanh, Sơn Tùng tiếp

tục đã cho ra đời nhiều TTLS viết về Hồ Chí Minh. Giới nghiên cứu phê bình đã

ghi nhận những đóng góp của ông đối với thể loại TTLS cũng như công trình

nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh với rất nhiều bài viết, công trình khoa học.

Đáng chú ý là chuyên luận: “Hiện tượng Sơn Tùng trong văn học Việt Nam hiện

đại” của nhóm tác giả Hằng Thi, Thiên Sơn, Lưu Việt Quang (sưu tầm và biên

soạn). Chuyên luận với gần 200 bài viết đã có những đánh giá cao về cuộc đời và

những đóng góp của nhà văn Sơn Tùng cho văn học Việt Nam nói chung, TTLS

Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, các bài viết đã giúp người đọc có cái nhìn mới hơn,

toàn diện hơn về con người Hồ Chí Minh.

Ngoài những công trình nghiên cứu về các tác giả, tác phẩm nói trên còn có

rất nhiều bài viết của nghiên cứu sinh, các học viên cao học trong cả nước, đề tài

nghiên cứu khoa học tại các trường đại học về TTLS Việt Nam sau 1975. Có thể

kể đến: “Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang

Thân” của Phan Trọng Hoàng Linh, “Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu

thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân” của Nguyễn Văn Hùng, “Bi kịch

về nỗi cô đơn của người trí thức trong tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn

Xuân Khánh và Hội thề của Nguyễn Quang Thân” của Nguyễn Thị Hương Quê,

Lời giới thiệu Tây Sơn bi hùng truyện của Hoàng Minh Tường, “Lại bàn về

chuyện đọc sử, đọc văn Hoàng Quốc Hải trong bài Đôi điều về Tây Sơn bi hùng

truyện” của Nguyễn Hòa,… Bên cạnh đó, còn khá nhiều luận văn, đề tài nghiên

cứu về TTLS từ góc nhìn thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, văn hóa học, tiếp

nhận văn học… Hầu hết các công trình tập trung khai thác và làm sáng tỏ quan

niệm về thể loại và quan niệm sáng tác của nhà văn cùng những đặc trưng nghệ

thuật của các tác phẩm trên các phương diện như: cảm quan và tư duy tự sự lịch

sử; lằn ranh giữa hiện thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật; phương thức thể hiện

hiện thực lịch sử từ góc độ trần thuật; diễn ngôn lịch sử,… Các ý kiến nhìn

chung khá đa dạng và sinh động, đều khẳng định tiềm năng, thành tựu và hạn

chế của TTLS trong đời sống văn học Việt Nam đương đại.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về TTLS, về các tác giả, tác phẩm

cụ thể đã tập trung làm r các vấn đề sau:

1. Thế nào là TTLS?

26

2. Vai trò của yếu tố lịch sử trong sáng tác TTLS.

3. Yếu tố hư cấu, giới hạn và phương thức hư cấu trong sáng tác TTLS.

4. Những nét nổi bật trong phương thức xây dựng hình tượng nghệ thuật

trong TTLS của các tác giả.

Từ những tổng lược nói trên, chúng tôi nhận thấy TTLS đã được giới

nghiên cứu phê bình trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều công

trình, bài viết làm r nhiều vấn đề, phương diện trong các TTLS. Ở Việt Nam, một

số công trình đã đi sâu khảo sát tiến trình vận động, đặc điểm, diện mạo, mối quan

hệ giữa hư cấu nghệ thuật và sự thật lịch sử, về nhân vật trong tiểu thuyết lịch

sử… Tuy nhiên, vì sự đa dạng và sự vận động, phát triển không ngừng của TTLS,

vẫn cần thiết có thêm nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về khuynh hướng

tiểu thuyết này, trong đó có vấn đề NVAH trong TTLS Việt Nam từ 1975 đến nay.

1.1.2. Nghiên cứu về nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Vi t

Nam sau 1975

Cho đến nay chưa có công trình khoa học chuyên biệt nào nghiên cứu về

NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975. Mặc dù, một số công trình, luận văn, luận

án mỗi khi tiếp nhận, nghiên cứu về TTLS, cũng ít nhiều có đề cập tới khía cạnh

này. Có thể điểm lại một số công trình. Trong bài viết “Các xu hướng xây dựng

hình tượng người anh hùng trong văn học nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới”,

Tiêu Thị M Hồng đã có những phân tích khá k lưỡng hai xu hướng viết về

NVAH: xu hướng đầu tiên là ngợi ca người anh hùng, xu hướng thứ hai là bình

thường hoá các anh hùng trong chính sử. Tác giả cho rằng: cần phải “nhìn nhận

các nhân vật lịch sử một cách biện chứng ở cả hai mặt ưu điểm và hạn chế. Điều

đó biểu hiện cái nhìn dân chủ, tư duy phân tích lịch sử của người nghệ sĩ nói riêng

và văn học, nghệ thuật đương đại nói chung” 65 ; Nguyễn Văn Hùng trong bài

viết “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau đổi mới” (2016), đã có

những nhận định về nhân vật anh hùng: “dẫu là… anh hùng dân tộc, danh nhân

văn hóa, huyền thoại tôn giáo, có công hay có tội, thì trước tiên họ cũng là con

người, mà đã là con người, tất cả luôn bị tác động bởi muôn vàn mối quan hệ phức

tạp, bị bủa vây bởi những giới hạn thường tình của kiếp nhân sinh. Lịch sử lúc này

được soi rọi từ chiều sâu thế giới nội tâm nhân vật, được khám phá ở từng trạng

huống hiện sinh, và kết tinh trong mỗi số phận, bi kịch cá nhân trong dòng xoáy

27

của lịch sử: bi kịch của dục vọng và ý chí quyền lực, bi kịch cô đơn, bi kịch bị lựa

chọn, bi kịch đánh mất bản thể…” [74]. Theo Nguyễn Văn Hùng, NVAH trong

TTLS không chỉ là những con người với chiến công lưu danh sử sách, mà cũng

như bao con người bình thường khác, luôn bị tác động bởi “muôn vàn mối quan

hệ phức tạp”. Trong đời sống, họ như một bản đàn nhiều cung bậc, khi cô đơn,

đau khổ, khi vui vẻ, tự hào. Tất cả đan xen nhau trong những thời khắc thăng hoa

hay trầm lắng của sự nghiệp. Người anh hùng trong cái nhìn của tiếp nhận hiện

sinh bao giờ cũng là bản thể của những cá nhân có đời sống nội tâm phong phú.

Trong luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX

đến 1945 (diện mạo và đặc điểm), Bùi Văn Lợi khái quát quan niệm về người

anh hùng trong TTLS Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX như sau: “hình tượng người

anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã đánh dấu một

bước trưởng thành mới của văn học Việt Nam từ chỗ phản ánh người anh hùng

phi thường đến chỗ phản ánh người anh hùng bình thường” 94; 107-108 . Ở

đây, tác giả có ý nhấn mạnh đến sự thay đổi có tính chất cách mạng trong quan

niệm về con người nói chung, người anh hùng nói riêng cả trong đời sống lẫn

trong văn học. Với chuyên luận Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay,

Nguyễn Thị Tuyết Minh đã phân chia các nhân vật lịch sử (trong đó có NVAH)

thành 4 loại hình: 1. Nhân vật mang khát vọng lịch sử; 2. Nhân vật số phận trong

dòng lịch sử; 3. Nhân vật biểu tượng; 4. Nhân vật lưỡng diện, đa diện. Không chỉ

phân loại NVLS mà tác giả còn phân tích khá k lưỡng đặc điểm của 4 loại hình

nhân vật này 101].

Với đề tài Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (2012),

công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Tiến đã nêu ra sự đổi mới trong quan

niệm về hiện thực, về con người (trong đó có người anh hùng) của văn học Việt

Nam thời kỳ Đổi mới nói chung, của tiểu thuyết nói riêng: “Nếu văn học trước

năm 1975 gắn tình cảm của họ với tình cảm lớn lao, vĩ đại của toàn dân thì văn

học giai đoạn sau lại khai thác thêm một dòng chảy nữa. Đó là những gì thuộc về

đời sống riêng tư, tình cảm cá nhân, những vấn đề thuộc về bản năng con người”

[154; 80 . NVAH theo tác giả phải là những người có tầm vóc lớn lao, vĩ đại

nhưng trước hết họ phải là “bản thể” của một con người theo logic tự nhiên.

28

Lê Thị Thu Trang trong luận án tiến sĩ Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam thập niên đầu thế kỉ XXI đã đi vào khảo sát các kiểu nhân vật

trong TTLS Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI. Tác giả đã có những nhận

định về NVAH, đưa ra một số đặc điểm của người anh hùng như: người anh

hùng mang khát vọng lịch sử; khát vọng nắm giữ vương quyền để xây dựng và

canh tân đất nước; người anh hùng đòi hỏi phải có những phẩm chất trí tuệ, tài

năng và lòng dũng cảm; NVAH biểu tượng cho lòng trung trinh son sắt với

thiên triều, với đại cuộc…

Với luận văn thạc sĩ Hình tượng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết hiện

đại Việt Nam, Nguyễn Văn Sang đã đưa ra 4 đặc điểm về NVAH: “Thứ nhất, hình

tượng người anh hùng lịch sử trong tiểu thuyết mang đặc điểm của hình tượng văn

học. Họ không còn giống hoàn toàn so với hình tượng lịch sử và hình tượng dân

gian nữa; Thứ hai, cảm hứng sử thi không còn giữ vai trò chủ đạo nhưng vẫn

không thể thiếu trong việc xây dựng hình tượng nhân vật anh hùng. Nó mang lại

cho tiểu thuyết lịch sử không khí của quá khứ lịch sử và truyền cảm hứng ngưỡng

vọng vào lòng người đọc... Nhà văn dành sự ưu ái đặc biệt cho nhân vật anh hùng

và thời đại người anh hùng đó thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Hình tượng

người anh hùng vì vậy hiện lên rất đẹp, trau chuốt. Đó là một người hết lòng vì

dân vì nước, là người trung nghĩa, là hạng tài ba hiếm thấy và dường như đã được

lịch sử chọn sẵn để cầm cương; Thứ ba, hình tượng nhân vật anh hùng lịch sử

mang nặng yếu tố đời thường, yếu tố cá nhân và cảm hứng “giải thiêng” lịch sử;

Thứ tư, nhà văn coi hình tượng người anh hùng và bối cảnh lịch sử anh hùng là

phương tiện truyền đạt cảm hứng thế sự” [135; 26]. Như vậy, theo quan điểm của

tác giả luận văn, anh hùng phải là người mang đến sự phát triển cho xã hội và thúc

đẩy mọi người cùng phấn đấu noi theo. Tuy nhiên, công trình của Nguyễn Văn

Sang chỉ khảo sát Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải (với hai tập Bão táp

cung đình và Huyết chiến Bạch Đằng); Hội thề của Nguyễn Quang Thân và Sông

Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác nên chưa bao quát được hết các đặc điểm

cũng như cách thức xây dựng NVAH của TTLS Việt Nam hiện đại.

Trong công trình Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Bão táp triều Trần

của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Hải Hùng đã chỉ ra được vai trò, vị trí của NVAH

trong tiểu thuyết Bão táp triều Trần nói riêng và TTLS nói chung. Tuy nhiên,

29

công trình này chỉ nghiên cứu NVAH trong một tác phẩm cụ thể nên không thể lí

giải đầy đủ phương thức xây dựng NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã nhìn nhận người anh

hùng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong các công trình, bài viết, luận

văn, luận án… trước đây, vấn đề này có được đề cập nhưng chưa thật toàn diện,

các kiến giải vẫn chủ yếu tập trung làm rõ các phẩm chất, đặc điểm của NVAH,

phương thức xây dựng NVAH ở một số tác phẩm cụ thể mà chưa đặt nó trong mối

quan hệ với đặc trưng thể loại, khuynh hướng và phương thức sáng tác.

1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài

1.2.1. Giới thuyết một số khái niệm được dùng trong luận án

1.2.1.1. Khái niệm tiểu thuyết

Tiểu thuyết là một thuật ngữ Hán Việt, xuất hiện sớm nhất trong sách của

Trang Tử (Trung Quốc), có nghĩa tương đương với Novel (Anh), Roman (Pháp),

Novela (Tây Ban Nha)... Ở Trung Quốc, khái niệm tiểu thuyết xuất hiện khá sớm.

Trong Từ điển Từ hải, tiểu thuyết được xác định như sau: “Một dạng thức lớn của

văn học, dùng phương thức tự sự, đặc biệt miêu tả một cách cụ thể mối quan hệ hỗ

tương hành động và sự kiện cho đến trạng thái tâm lí tương ứng và sự lưu động ý

thức của nhân vật trong một hoàn cảnh nhất định. Tiểu thuyết phản ánh đời sống

xã hội từ nhiều góc độ khác nhau. Góc độ tự sự của tiểu thuyết linh hoạt, đa dạng,

các thủ pháp biểu hiện như: miêu tả, tự thuật, trữ tình, nghị luận… đều có thể gồm

cả trong đó. Thông thường, tiểu thuyết dùng các dạng hình tượng nhân vật làm

phương tiện phản ánh đời sống… [186; 2902]. Ở phương Tây, đến khi xã hội cổ

đại tan rã, tiểu thuyết mới được xem là một thể loại độc lập thuộc phương thức tự

sự. Đến thời Phục hưng và đặc biệt là đến thế kỉ XIX, tiểu thuyết thực sự nở rộ,

nhiều công trình nghiên cứu khái niệm tiểu thuyết xuất hiện, trong đó, tiêu biểu là:

Từ điển Littré, Từ điển Robert (Pháp), Bách khoa từ điển (Hoa kỳ), G. Lukacs, M.

Bakhtin, Belinski, Ralph… Trong Từ điển Littré, tiểu thuyết là “Một câu chuyện

bịa đặt viết bằng văn xuôi, trong đó tác giả hoặc mô tả tình cảm, các phong tục,

hoặc kể về những sự kiện kỳ lạ cốt gây hứng thú cho độc giả”. Còn trong Từ điển

Robert, tiểu thuyết được định nghĩa một cách đầy đủ và mềm dẻo: “Tiểu thuyết là

một hư cấu bằng văn xuôi, khá dài, trình bày và làm sống động những nhân vật giả

thuyết như có thật tại môi trường, cho ta biết tâm lý, số phận, những biến cố của

30

họ” 37; 89 . Trong cuốn Lý luận văn học, N.A. Gulaiev định nghĩa tiểu thuyết là

“hình thức tự sự cỡ lớn, mô tả đời sống riêng của con người trong những mối quan

hệ rộng lớn với xã hội” 37; 244]. Còn Belinsky lại gọi tiểu thuyết là “Sử thi của

đời tư” 59; 326]. Ralph lại hình dung tiểu thuyết như “thiên trường ca về cuộc

đấu tranh của cá nhân với xã hội, với tự nhiên” 59; 327 …

Ở Việt Nam, đầu thế kỉ XX thuật ngữ tiểu thuyết mới được sử dụng như ở

Trung Quốc. Thuật ngữ tiểu thuyết được dùng để chỉ các tác phẩm truyện có quy

mô lớn (còn quy mô vừa và nhỏ được gọi là truyện). Mặc dù tiểu thuyết đã xuất

hiện, tồn tại và phát triển trong một khoảng thời gian khá dài, nhưng như M.

Bakhtin xác định: “tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang hình thành và chưa xong

xuôi”; vì thế, khái niệm tiểu thuyết luôn được bổ sung, điều chỉnh và đi tìm một

định nghĩa đầy đủ về nó quả là không dễ. Trong Từ điển văn học (bộ mới), tiểu

thuyết được hiểu là “thể loại tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào

số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần

thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ

để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” 121; 1716]. Theo các tác tác giả, tiểu

thuyết là một thể loại tự sự và trần thuật. Trong Từ điển thuật ngữ văn học do

nhóm Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên, tiểu thuyết

được hiểu là: “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở

mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của

nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều

kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng…”. Nó cũng là “thể loại

của tinh thần tự do, vượt ra khỏi sự gò bó của những luật lệ cũ và cho phép sự

sáng tạo về hình thức cũng như về chủ đề” 59; 328 . Theo định nghĩa này, tiểu

thuyết là thể loại văn học được sáng tác tự do nhất, khả năng hư cấu không giới

hạn nào nên đối tượng phản ánh của nó là vô cùng rộng mở (từ con người cá

nhân đến một nhóm, một tập thể, cả xã hội…). Trong Lý luận văn học, nhóm tác

giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà… đã đưa ra

một định nghĩa về tiểu thuyết khá rộng và đầy đủ: tiểu thuyết là “hình thức tự sự

cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng

rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều

cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều

31

kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Không phải ngẫu nhiên

mà thể loại tiểu thuyết chiếm địa vị trung tâm trong hệ thống thể loại văn học

cận đại, hiện đại” 122; 387 . Định nghĩa này đã nhấn mạnh đến tính đa dạng, đa

diện, đa chiều trong xây dựng nhân vật, hình tượng và chủ đề tư tưởng của thể

loại tiểu thuyết.

M. Bakhtin đã mở ra một quan niệm mới về thể loại tiểu thuyết. Các sách lý

luận văn học ở ta xuất hiện trong khoảng vài thập kỷ trở lại đây khi bàn về tiểu

thuyết thường chịu nhiều ảnh hưởng của M. Bakhtin. Lý luận tiểu thuyết của M.

Bakhtin xác định đặc trưng của thể loại tiểu thuyết trên những phương diện chính

sau: 1. Tiểu thuyết là thể loại thể hiện được tinh thần của thời hiện đại (tính dân

chủ, đối thoại, tiếp nhận để biến đổi). 2. Tiểu thuyết thể hiện con người trong sự

không trùng khít, không đồng nhất với chính nó (giữa nhân cách và địa vị xã hội,

giữa bên trong với bên ngoài…). 3. Tiểu thuyết là thể loại ở thì “chưa hoàn

thành”, có khả năng bổ sung, thu hút đặc trưng của các thể loại khác. 4. Tiểu

thuyết thể hiện tính phức điệu, trước hết là ngôn ngữ [10].

Quan niệm về tiểu thuyết của Milan Kundera (nhà văn Pháp gốc Tiệp) khá

phù hợp với tiểu thuyết giai đoạn hiện đại, hậu hiện đại. Theo Milan Kundera, tiểu

thuyết là sự bí ẩn của cái “tôi”, là là phương thức “tồn tại của con người, để giữ

cho con người còn là con người toàn vẹn”, chống lại sự tha hóa trong thời hiện

đại. Kundera cho rằng tiểu thuyết gắn liền với 4 tiếng gọi: 1. Tiếng gọi của trò

chơi; 2. Tiếng gọi của giấc mơ; 3. Tiếng gọi của tư duy; 4. Tiếng gọi của thời gian.

Lý luận tiểu thuyết của Kundera có ý nghĩa thiết thực giúp nhiều nhà nghiên cứu

đi sâu tìm hiểu các tiểu thuyết có ý nghĩa cách tân, mang màu sắc hậu hiện đại ở

Việt Nam trong thời gian gần đây 84].

Qua những kiến giải ở trên, chúng ta có thể khái quát khái niệm “tiểu

thuyết” bao gồm các đặc điểm sau: 1. Tiểu thuyết là sản phẩm của trí tưởng tượng,

của hư cấu, nhưng ít nhiều có dựa trên cơ sở sự thực; 2. Tiểu thuyết có khả năng

khái quát, tổng hợp nhiều mặt, nhiều hiện tượng đời sống, nhiều kiểu tính cách, số

phận nhân vật; 3. Tiểu thuyết tiếp cận con người dưới góc nhìn đời tư, thể hiện

tinh thần dân chủ, đối thoại trong phản ánh hiện thực phức tạp của đời sống và thế

giới nội tâm con người. 4. Tiểu thuyết là thể loại ở “thì hiện tại”, có khả năng thu

32

hút, bổ sung vào nó các đặc điểm của các thể loại khác; 5. Tiểu thuyết thể hiện

tính đa thanh, phức điệu, trước hết là trong lời văn.

1.2.1.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử

Thế nào là một TTLS là câu hỏi đã được đặt ra cách đây hàng thế kỉ. Tuy

nhiên, cho đến nay, nội hàm khái niệm này vẫn thu hút sự quan tâm của giới

nghiên cứu. Nhìn chung, ở mỗi thời đại có một quan niệm riêng về TTLS. Nhiều

nhà nghiên cứu cho rằng, TTLS có cội nguồn từ thời Hi Lạp cổ nhưng công lao to

lớn phải nói đến chủ nghĩa lãng mạn với hai đại diện tiêu biểu là Walter Scott và

Victor Huygo. Ở nước ta, TTLS có tiền đề từ các thể loại truyền thuyết lịch sử, bộ

phận văn xuôi tự sự chữ Hán ghi chép lịch sử, thể liệt truyện, tiểu thuyết chương

hồi viết về đề tài lịch sử thời trung đại. Nói đến TTLS nhiều người nghĩ ngay đến

một thể loại văn chương lấy lịch sử làm đề tài sáng tác. Tuy nhiên, trong nền văn

học hiện đại, khái niệm TTLS không được hiểu một cách giản đơn như vậy. Khái

niệm này như là một thuật ngữ có nhiều cách tiếp cận nội hàm khác nhau khi đặt

chúng trong quan hệ đa chiều: lịch sử với tiểu thuyết, lịch sử với hư cấu, tiểu

thuyết có yếu tố lịch sử với TTLS… Trong Từ điển văn học (bộ mới), các tác giả

cho rằng, TTLS là “Tác phẩm tự sự hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính.

Lịch sử trong ý nghĩa khái quát là quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội. Các

khoa học xã hội (cũng được gọi là khoa học lịch sử) đều nghiên cứu quá khứ của

loài người trong tính cụ thể và đa dạng của nó. Tuy vậy, những tiêu điểm chú ý

của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử thường đều là sự hình

thành, hưng thịnh, diệt vong của nhà nước, những biến cố lớn trong đời sống cộng

đồng, quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia, chiến tranh, cách mạng… Cuộc

sống và sự nghiệp của các nhân vật có ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử” 121;

1725]. Ở đây, TTLS được hiểu là một loại hình văn học lấy đề tài lịch sử làm nội

dung chính, là quá khứ của loài người trong một thời kì lịch sử cụ thể. Trong Tiểu

thuyết chữ Hán Việt Nam, Trần Nghĩa đưa ra nhận định: “tiểu thuyết lịch sử cũng

gọi là “lịch sử diễn nghĩa” gồm các tác phẩm viết về đề tài lịch sử thông qua việc

miêu tả nhân vật và sự kiện, tái hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu

thế phát triển của lịch sử một thời, nhằm mang lại cho người đọc những khơi gợi

bổ ích và mĩ cảm văn học. Về phương diện bút pháp, một mặt phải dựa vào lịch

sử, nhưng mặt khác vẫn cho phép hư cấu trong chừng mực thích hợp, nhằm phát

33

huy trí tưởng tượng làm cho sự chân thực lịch sử được thăng hoa thành chân thực

nghệ thuật” 114]. Quan niệm này cho chúng ta một cách hiểu khái quát về TTLS,

đồng thời chỉ r phương thức phản ánh đặc trưng trong sáng tác TTLS là việc tái

hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu thế phát triển của lịch sử của một

thời đại đã qua thông qua việc miêu tả nhân vật và sự kiện lịch sử.

Quan niệm thế nào là “tiểu thuyết lịch sử” còn được đề cập cách sinh động

qua tiếng nói của chính các nhà văn. Hoàng Quốc Hải, tác giả của những cuốn

TTLS tiêu biểu thời kì đổi mới như Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý cho

rằng: "Nếu tiểu thuyết được coi là tiểu thuyết lịch sử mà không trung thành với sự

kiện lịch sử thì sẽ phá vỡ niềm tin của người đọc và như vậy sẽ không còn là tiểu

thuyết lịch sử nữa". Theo ông, TTLS trước hết phải trung thành với sự kiện lịch

sử. Tiếp đến, TTLS “phải giúp người đọc nhận biết được gương mặt lịch sử của

thời đại mà tác giả phản ánh nhưng những gì mà tác phẩm đó tái tạo đều không

được trái với lịch sử". Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh việc tôn trọng sự thật lịch

sử không có nghĩa là phụ thuộc hoàn toàn vào lịch sử: "Nếu người viết tiểu thuyết

lịch sử coi tác phẩm của mình như là truyện viết về người thật việc thật thì anh ta

thất bại hoàn toàn, làm như vậy tác phẩm của anh ta chỉ là một phiên bản vụng về

của chính sử. Điều quan trọng nhất với nhà tiểu thuyết là phải làm sao thổi hồn

vào lịch sử" [126; 69]. Theo Hoàng Quốc Hải, nhà văn phải biết sáng tạo trên cơ

sở các dữ liệu lịch sử đã có sẵn, thổi hồn vào lịch sử, làm cho lịch sử được thăng

hoa bằng nghệ thuật của tiểu thuyết. Nam Dao, tác giả của tiểu thuyết Gió lửa,

Đất trời…, trong bài viết “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử” đã nói r quan niệm

về TTLS: “lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù lì. Trong

tiểu thuyết lịch sử, quá khứ là lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn như là chủ thể”

[26 . Với quan niệm này, nhà văn khẳng định: trong TTLS, các sự kiện và nhân

vật lịch sử phải sống động, phải được tiểu thuyết hoá và đồng thời vai trò của nhà

văn rất quan trọng trong việc nhìn nhận và đánh giá lịch sử. Nguyễn Xuân Khánh

lại đưa ra một quan niệm ngắn gọn: “Tiểu thuyết lịch sử là tiểu thuyết viết về quá

khứ. Những tiểu thuyết về thời kỳ chống thực dân Pháp và chống đế quốc M

cũng có thể là những tiểu thuyết lịch sử thành công”; “Lịch sử chỉ là cái cớ để tôi

bám vào… tiểu thuyết lịch sử không phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử mà

phản ánh những vấn đề của con người hiện tại” [78]. Ông cho rằng, trong TTLS,

34

nhà văn chỉ mượn lịch sử để phản ánh những vấn đề đang được đặt ra của đời

sống hiện sinh. Nhà văn phải làm nhiệm vụ nối quá khứ với hiện tại, và hướng vào

giải quyết các vấn đề của hiện tại. Đây cũng là quan niệm của Nguyễn Quang

Thân: “viết về lịch sử thì chính là tôi đang viết về thời nay đấy ”. Uông Triều cho

rằng: “Một tác phẩm tự sự (không chỉ là tiểu thuyết) viết về đề tài lịch sử phải

thực sự chứa đựng các cứ liệu lịch sử, có nhân vật trung tâm là nhân vật có thật

trong lịch sử, với những biến cố lịch sử được xác định, phù hợp với không gian và

thời gian. Cứ liệu lịch sử là hành trang mà nhà văn bắt buộc phải mang theo trên

hành trình sáng tạo của mình. Nếu một tác phẩm chỉ dựng lên một bối cảnh lịch

sử, một cái phông nền lịch sử như một không gian nghệ thuật mà không đề cập tới

các sự kiện lịch sử, không có các nhân vật lịch sử có thật trong đó thì cũng chưa

phải là một tác phẩm viết về đề tài lịch sử” 63; 458]. Ở đây, Uông Triều cũng đã

nhắc đến nhân vật lịch sử trong TTLS như là một mảnh ghép không thể thiếu

trong bức tranh chung.

Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về TTLS, có quan niệm nghiêng

về cách nhìn truyền thống, có quan niệm nghiêng về hiện đại, có quan niệm mang

sắc thái văn hóa phương Đông hoặc nghiêng về cách nhìn của phương Tây. Các ý

kiến có những chỗ gặp nhau, nhưng cũng có những khác biệt, chẳng hạn bàn về

mức độ hư cấu trong TTLS, về tên gọi, đặc điểm TTLS của Nguyễn Xuân Khánh,

Nguyễn Quang Thân… Kế thừa các ý kiến của giới nghiên cứu, chúng tôi đưa ra

quan niệm, đặc điểm của TTLS như sau:

Thứ nhất, TTLS khai thác hiện thực diễn ra trong quá khứ, tâm thế của nhà

văn là tâm thế viết về quá khứ, “tác giả và người đọc không phải là người đương

thời của hiện thực đó” 181; 288]. Tuy nhiên, không phải tất cả những tác phẩm

viết về quá khứ đều được gọi là TTLS. Một số tiểu thuyết mượn lịch sử như một

cái cớ, làm phông nền để chuyển tải những chuyện phiêu lưu, kiếm hiệp, chuyện

tình yêu không nên xem là TTLS. Một số tiểu thuyết viết trong thời kỳ chống

Pháp, chống M nên định danh là tiểu thuyết “viết về chiến tranh”. Nhân vật, sự

kiện trong TTLS phải có độ lùi nhất định về thời gian, và tâm thế của người viết là

đang viết về một “hiện thực đã qua”, rút ra những bài học từ quá khứ, cho dù quá

khứ nào cũng được nhìn nhận ít nhiều từ hiện tại. Hiện nay, chưa có sự thống nhất

về “độ lùi thời gian” này trong TTLS Việt Nam là bao nhiêu? Có ý kiến cho rằng

35

TTLS chỉ nên đề cập đến các sự kiện trong thời kỳ phong kiến; có ý kiến cho rằng

TTLS có thể viết về “quá khứ gần”, nhưng cũng nên có khoảng cách ít nhất một

thế hệ (khoảng 30 năm). Theo chúng tôi, độ lùi này ít nhất là nửa thế kỷ, tức các

TTLS chỉ nên đề cập đến các sự kiện lịch sử diễn ra ở khoảng thời gian từ năm

1945 trở về trước.

Thứ hai, TTLS phải phản ánh lịch sử thông qua nghệ thuật tiểu thuyết.

TTLS thực chất là diễn ngôn của nhà văn về lịch sử. Khi chúng ta nói phải trung

thành với lịch sử, thực chất là đang nói rằng phải trung thành với chính sử. Thực

ra, chính sử cũng là sự thực được ghi lại trên một quan điểm, một cách nhìn nào

đó của nhà sử học. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà sử học, bên cạnh sự chi phối

của tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời, họ còn phải đứng trên lập trường

dân tộc, lợi ích nhân dân. Sự thực lịch sử khi đi vào văn chương lại được nhào nặn

lại qua lăng kính nhà văn. Nói cách khác, mỗi TTLS là một sự hình dung về lịch

sử, về những điều “có thể có thật” của nhà văn. Khi đi vào tiểu thuyết, chân lý lịch

sử phải được biến thành chân lý nghệ thuật thông qua hư cấu, tưởng tượng. Tuy

nhiên, hư cấu trong TTLS không phải là không có những giới hạn nhất định.

TTLS không cho phép nhà văn biến lịch sử thành một thứ “tùy tiện” của riêng

mình, mượn lịch sử để chuyển tải những định kiến cá nhân, những quan điểm sai

trái, ngược lại hoàn toàn với tinh thần dân tộc và tâm thức cộng đồng.

Thứ ba, TTLS cũng mang những đặc trưng của tiểu thuyết nói chung, đó là

nhìn nhận hiện thực từ số phận cá nhân con người. Nếu các sử gia quan tâm đến

sự kiện lịch sử, những thăng trầm của các triều đại thì nhà văn lại quan tâm khám

phá những nghịch lý của số phận, những thăng trầm của con người trong dòng

chảy của lịch sử. Vì thế, những khoảng trống, những điểm mờ của lịch sử, những

“nghi án” trong quá khứ, những sự kiện đôi khi không quan trọng với nhà sử học

lại là những “vùng thẫm m ” được các cây bút TTLS quan tâm, chú ý.

Thứ tư, nhà văn viết TTLS không phải chỉ để “dựng lại, phục hồi quá khứ”.

Viết về quá khứ chỉ để đắm chìm trong quá khứ không bao giờ là mục tiêu của

TTLS. Quá khứ trong TTLS phải được soi chiếu từ hiện tại, rút ra những bài học

cho đời sống nhân sinh. Lịch sử là những gì đã diễn ra, nhưng nó lại có ý nghĩa soi

đường cho các thế hệ sau trên hành trình gập ghềnh tiến về phía trước. Do đó,

36

“viết về lịch sử là viết về hiện tại” (Nguyễn Quang Thân), “Tiểu thuyết lịch sử

phải tạo “tình huống hiện sinh tiêu biểu” (Kundera).

1.2.2. Quan ni m về người anh hùng và nhân vật anh hùng

Có rất nhiều quan niệm về người anh hùng mà trong đó có những độ

“chênh” nhất định do quan điểm cá nhân, tính thời đại, đặc trưng văn hóa… Từ

điển văn hóa thế giới khái quát quan niệm “anh hùng” qua những biểu hiện của

văn hóa, văn học phương Tây: “Anh hùng thường là con của cuộc giao phối giữa

một vị thần với một người trần, người anh hùng tượng trưng cho sự kết hợp giữa

các lực lượng trên trời và dưới đất. Nhưng anh ta đương nhiên không được hưởng

sự bất tử của thánh thần, tuy vẫn giữ cho đến khi chết một khả năng siêu tự nhiên:

một vị thần giáng thế hay con người được phong thần” dẫn theo 176; 34]. Khi trả

lời câu hỏi: một vĩ nhân là như thế nào? F. Nietzche cho rằng: “Trước hết (họ)

phải có khả năng giương cao ý chí và khinh thường hoặc vứt bỏ mọi chi tiết, dù

trong số đó có những điều đẹp đẽ nhất. Thứ hai, đó là người lạnh lùng hơn những

người khác, cứng rắn hơn, tàn bạo hơn và không sợ “dư luận”, người đó không có

những đức tính khiến cho người ta phải kính nể, những đức tính đem lại sự tôn

trọng, cũng như không có tất cả cái gì là “đức tính của bầy đàn”. Thứ ba, đó là

người không muốn có những trái tim thông cảm, mà chỉ muốn có những đầy tớ,

những công cụ, trong quan hệ với người khác người ấy luôn luôn tìm cách dùng

họ làm một cái gì…” 63; 53 . Ở đây, F. Nietzche nhấn mạnh, anh hùng là người

thượng đẳng, vượt ra khỏi tiêu chuẩn cộng đồng và không có bất kỳ liên hệ nào

với những phẩm chất của con người bình thường. Với Nhân vật ch , Lưu Thiệu

cũng đã định nghĩa về "anh hùng" với những biểu hiện cụ thể: “Thứ tinh hoa tươi

đẹp nhất trong loài hoa cỏ gọi là anh, giống vật đặc sắc nhất nổi trội trong loài thú

gọi là hùng. Người có tài năng văn v nổi trội hàng đầu, được lấy tên như vậy. Vì

thế người có tài trí xuất chúng trong luân thường đạo lý được gọi là “anh”, kẻ có

lòng gan dạ sức khỏe địch chúng được gọi là “hùng”. Đây là sự phân biệt đại thể

trong cách xưng hô” [187; 23]. Theo quan niệm này, người có văn v dị thường,

tài năng xuất chúng, sức mạnh vô địch mới là anh hùng.

Trong công trình Giải th ch từ Hán Việt trong sách giáo khoa văn học hệ

phổ thông, Lê Anh Tuấn định nghĩa “anh hùng” là: “người giỏi xuất chúng, có tài

chí cao” 165; 9. Cách định nghĩa này khá giống với quan niệm của Lê Dân và

37

Thái Xuân Đệ: “anh hùng là bậc tài giỏi xuất chúng” 27; 9. Trong Từ điển tiếng

Việt do Quý Lâm - Kim Phượng chủ biên, “anh hùng” được giải thích là: 1.

“Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất nước”; 2.“Là

nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi thường”;

3. “Danh hiệu cao nhất nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn vị có thành tích

và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu”; 4. “Có tính chất

của người hành động anh hùng” 87; 7. Cách định nghĩa này bao gồm cả đối

tượng người anh hùng trong thực tế và trong tác phẩm văn học.

Trong Hán - Việt từ điển của Thiều Chửu, tác giả không nêu lên khái niệm

chung về hai chữ “anh hùng” mà giải thích nó bằng lối “chiết tự”: “anh” (英): Hoa

của các loài cây cỏ. Vì thế, hiểu rộng ra, vật gì đẹp khác thường đều được gọi là

“anh”; “hùng” (熊): là con gấu; “hùng” (雄): là 1. con đực, 2. mạnh” 21; 736].

Với cách định nghĩa này, tính chất anh hùng còn được chú ý ở phương diện

“giới”, thể hiện sức mạnh thể chất và yếu tố nam tính. Bùi Văn Nguyên cũng có

cách hiểu tương tự. Theo ông, hai chữ “anh hùng” có nghĩa gốc ở Hán văn: “anh”

(英): là tên chung của các loài hoa, theo nghĩa hẹp là thứ hoa tốt nhất, đẹp nhất,

theo nghĩa bóng là người có tài năng xuất chúng. “hùng”: là con chim trống, sóng

đôi với “thư” (雌) là con chim mái; theo nghĩa rộng là đực cái âm dương. Trong

Tự điển Việt Nam, do Hoàng Phê chủ biên, xuất bản năm 1995, khái niệm “anh

hùng”, được hiểu theo hai nghĩa sau: 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao

đối với nhân dân, đất nước; 2. Có tính chất của người anh hùng, hành động anh

hùng. Theo cách hiểu trên, “anh hùng” là từ để chỉ người đàn ông tài giỏi xuất

chúng, “anh thư” là để chỉ người đàn bà xuất chúng. Hoài Anh (dẫn ý kiến từ cuốn

Khái luận về văn hóa Tây phương của học giả Trung Quốc Khải Lương) có sự

phân biệt anh hùng của Trung Quốc và Tây phương ở một số điểm khu biệt: anh

hùng của người Trung Quốc là loại hình đạo đức, còn ở Tây phương là loại hình

sức mạnh. Tính cách của anh hùng của người Trung Quốc thường hướng nội và

coi trọng tu dưỡng tâm tính; còn anh hùng của người phương Tây lại hướng ngoại

và coi trong sự nghiệp bá vương. Anh hùng của người Trung Quốc bị chi phối bởi

cương thường luân lý của Nho gia nên nhân cách chủ thể rất ít khi thể hiện r ; còn

anh hùng của người Tây phương lại được cá thể hóa cao độ. Trung tâm giá trị của

anh hùng Trung Quốc ở dân tộc và quốc gia, lấy chủ nghĩa thân dân làm gốc, anh

38

hùng Tây phương lại là bản vị cá nhân, tôn sùng chủ nghĩa tự kỷ… Khi xem xét ý

kiến trên, nhà văn Hoài Anh cho rằng, quan niệm về người anh hùng của Khải

Lương là không hoàn toàn chính xác, cần được xem xét.

Nói tóm lại, các quan niệm về NVAH có nhiều điểm gặp gỡ nhau nhưng

cũng có những khác biệt khá lớn. Có quan niệm thiên về cách nhìn phương Đông

hoặc phương Tây; có quan niệm thiên về phẩm chất hoặc về công trạng. Tuy

nhiên, trong quan niệm về người anh hùng cũng có nhiều điểm nhất quán như: anh

hùng là người xuất chúng; có những phẩm chất và công trạng đặc biệt; được cộng

đồng, dân tộc tôn vinh, ngưỡng mộ; đáp ứng những đòi hỏi của lịch sử, thúc đẩy

lịch sử tiến lên. Trong thực tế đời sống xã hội, “không có một mẫu anh hùng

chung cho mọi thời đại, mọi giai cấp… xét về phạm trù đạo đức lẫn thẩm m thì

người anh hùng luôn mang tính lịch sử cụ thể, mang dấu ấn văn hóa, tâm lí, thị

hiếu của con người ở các thời đại. Lý tưởng của người anh hùng là lý tưởng của

thời đại, chịu sự chi phối và tác động của hệ tư tưởng nhân dân cũng như hệ tư

tưởng của giai cấp thống trị. Nhìn trong thực tế phát triển của lịch sử tư tưởng và

văn hóa nhân loại, chúng ta không thấy một mẫu hình văn hóa chung cho mọi thời

đại, mà sẽ có quan niệm anh hùng, biểu tượng anh hùng, nhân vật anh hùng trong

một thời kỳ lịch sử nhất định” 176; 22 . Như vậy, điều đáng nói là có rất ít nghiên

cứu tập trung làm r khái niệm “nhân vật anh hùng” trong các TTLS. Trong một

số công trình nghiên cứu, quan niệm về người anh hùng dường như đã là điều có

sẵn, không cần phải bàn bạc thêm.

Trong tâm thức của người Việt - một đất nước thường xuyên phải chiến đấu

để bảo vệ bờ c i và sự sinh tồn của giống nòi, dân tộc, sự thức nhận về người anh

hùng thường nghiêng về khía cạnh hành động cứu nước, cứu dân. Người anh hùng

thường gắn với chiến trận, chiến tranh giải phóng dân tộc. Những anh hùng đầu

tiên được nhìn thấy trong văn học là ở các tác phẩm sử thi. Trong các tác phẩm

này, người anh hùng thường xuất hiện với sự phi thường về cả hai phương diện

tinh thần và thể chất. Các nhà nghiên cứu chỉ ra trong sử thi, thường xuất hiện hai

kiểu người anh hùng: anh hùng chiến đấu và anh hùng văn hóa, trong đó anh hùng

chiến đấu thường là những người thể hiện tài năng, công lao của mình trong các

cuộc chiến bảo vệ hoặc mở rộng lãnh thổ; anh hùng văn hóa là những người có

công lao kiến thiết nền văn hóa cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, cả người anh

39

hùng lao động và anh hùng văn hóa đồng thời xuất hiện trong bản thân một nhân

vật. Theo sự phát triển của xã hội và văn học, quan niệm về anh hùng ở cả hai loại

nói trên ngày càng thay đổi, mở rộng. Trong tác phẩm nghệ thuật, NVAH là hiện

thân của cái đẹp, là hình mẫu lí tưởng được nhà nghệ sĩ xây dựng theo cách thức

và tiêu chuẩn riêng của mình. Tuy nhiên, dù sự sáng tạo nghệ thuật có độc đáo đến

đâu, NVAH cũng phải mang những tiêu chuẩn chung phổ quát. Trong các công

trình nghiên cứu, nhiều khi người ta không phân biệt rành mạch “anh hùng” với

“nhân vật anh hùng”. Điều này cũng dễ hiểu vì các phẩm chất của người anh hùng

đều được văn học nghệ thuật phản ánh lại theo hướng điển hình hóa. Vậy nên, khi

trả lời cho câu hỏi thế nào là một NVAH cũng có nghĩa chúng ta đang “cụ thể

hóa” quan niệm về người anh hùng trong các tác phẩm văn chương.

Từ những quan niệm khác nhau về người anh hùng và NVAH ở trên, chúng

tôi đưa ra quan niệm về NVAH như sau: NVAH trong văn học và trong TTLS là

những cá nhân tiêu biểu, xuất chúng, có vai trò to lớn đối với cộng đồng, quốc

gia, dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nhất là ở những thời điểm

bước ngoặt của lịch sử. Khi đi vào văn học, NVAH thường được sáng tạo, hư cấu

theo cách nhìn và quan điểm riêng của nhà văn. Bản lĩnh, tài năng của nhà văn sẽ

bổ sung, làm phong phú hơn phẩm chất, vai trò, vị trí của người anh hùng, từ đó

NVAH trong văn học lại có ý nghĩa bổ khuyết, soi sáng các cứ liệu lịch sử, mở

rộng trường nhìn của cộng đồng tiếp nhận, làm giàu có hơn tâm thức cộng đồng

về các anh hùng dân tộc.

1.2.3. Các tiêu chí xác định nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam hiện đại

1.2.3.1. Căn cứ vào quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người của

nhà văn

NVAH là người có công lớn với quốc gia, dân tộc, thường được nhân dân

thờ phụng, được ghi lại trong chính sử và tồn tại trong tâm thức cộng đồng. Tuy

nhiên, nhà văn có cách nhìn về đời sống và con người theo cách riêng của mình.

Họ vừa giải thích hiện thực vừa sáng tạo lại hiện thực thông qua các hình tượng

nghệ thuật. Mỗi tác giả tiểu thuyết đều tạo cho mình một hệ giá trị, trong đó có

những điểm gặp gỡ với cái chung, đồng thời cũng thể hiện một cách nhìn độc đáo,

không lặp lại. Người viết TTLS vừa chịu áp lực từ phía chính sử, từ tâm thức cộng

40

đồng, đồng thời cũng có nhu cầu bứt phá khỏi các ràng buộc để tạo ra cách nhìn

riêng, và cách nhìn ấy lại tạo ra những nhận thức mới cho cộng đồng tiếp nhận.

Nếu như trong TTLS trước 1975, hiện thực cơ bản được khai thác ở phía sử

thi thì trong TTLS sau 1975, hiện thực được phản ánh là một hiện thực nhiều

chiều, được soi chiếu từ nhiều góc nhìn. Người anh hùng trong TTLS thời kỳ này

không chỉ được miêu tả ở những chiến công lưu danh sử sách mà còn được khám

phá, luận giải dưới góc độ con người cá nhân. Tuy nhiên, áp lực đối với nhà văn là

không hề nhỏ. Nếu “quá tay”, người viết sẽ rất dễ động chạm đến niềm tin, sự tôn

kính, thờ phụng theo truyền thống đạo lý dân tộc. Nói như nhà văn Hoàng Minh

Tường “sử học như một đối tượng để đối thoại”, và đó là điều nhà văn phải vượt

qua. Trong TTLS sau 1975, NVAH được sáng tạo, hư cấu trên nhiều phương diện.

Hư cấu ở đây không chỉ dừng lại ở việc thêm thắt một vài nội dung, chi tiết về

cuộc đời một nhân vật lịch sử, mà còn được bổ sung thêm những nét mới. Cái nhìn

về người anh hùng không còn cứng nhắc một chiều theo hướng sử thi hóa, thần thánh

hóa mà được bổ sung thêm nhiều nét đời tư, thậm chí cả những mặt trái, mặt khiếm

khuyết, có thể gây “sốc” cho nhiều người đọc. Hàng loạt tác phẩm không còn phản

ánh người anh hùng theo khuôn mẫu truyền thống. Nhiều tác phẩm viết về đề tài

lịch sử như Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Gió

lửa và Đất trời của Nam Giao, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Chim ưng và

chàng đan sọt của Bùi Việt S … đã gây nên nhiều phản ứng trái chiều trong dư

luận bởi những điều các nhà văn hư cấu về Quang Trung, về Lê Lợi, Nguyễn Trãi.

Bên cạnh đó, những tiểu thuyết của V Thị Hảo, Nguyễn Quang Thân, Nam Giao,

Trần Thanh Cảnh… cho ta thêm nhiều hiểu biết mới, nhiều suy ngẫm mới về lịch

sử. Trong Giàn Thiêu, V Thị Hảo thể hiện khát vọng về tự do, con người trăn trở

truy tìm bản thể, bi kịch của lòng hận thù, sức mạnh bất diệt của tự nhiên. Ám ảnh

suốt hơn 500 trang, Giàn thiêu là tình yêu định mệnh giữa Nhuệ Anh và Từ Lộ;

tình yêu điên rồ, đầy dục vọng của Lý Câu với Nhuệ Anh; tình yêu trong trẻo, bao

dung của chàng cá Bơn dành cho Nhuệ Anh… Đọc Giàn thiêu, độc giả như đứng

trước một thế giới va đập giữa thiện và ác, tốt và xấu, thánh thiện và dục vọng.

Nguyễn Huệ trong Gió lửa (Nam Giao) uy danh lẫy lừng đánh Nam dẹp Bắc, năm

ngày quét sạch quân Thanh xâm lược nhưng lại thất bại trong tình yêu. Hoặc một

Nguyễn Huệ thô lỗ, và đầy chất hoang dã cũng được Nam Giao miêu tả ở nhiều

41

trang bằng những chi tiết “shock”. Khi ra Thăng Long, Nguyễn Huệ của Nam

Giao chẳng khác gì Nguyễn Huệ của Trần Vũ trong Mùa mưa gai sắc. Hành động

và lời nói của Huệ với Ngọc Hân cho thấy ông là người rất trần tục và cuồng dâm:

“Huệ tiến lại gần, mắt đỏ lừ lừ như mắt cọp. Thình lình, Huệ nắm vào ngực xiêm,

kéo mạnh rồi xé ra, tiếng lụa kêu soàn soạt hệt tiếng dao chém…” 199; 375]. Ở

đây, Nam Giao đang đi trên đường biên mạo hiểm mà nếu quá đi chút nữa, ông sẽ

khiến nhiều bạn đọc bất bình, phản ứng.

TTLS giai đoạn sau 1975, đặc biệt sau 1986 đã bộc lộ cái nhìn về con người

như là một phức thể. Các NVAH như Trần Thủ Độ, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Hồ Quý

Ly, Quang Trung… được nhìn nhận trước tiên ở khía cạnh con người với tất cả

những phức tạp, đa đoan như nó vốn có. Họ cũng có buồn vui, sướng khổ, những

khát khao và cả những thất vọng đắng cay. Trên con đường tới đỉnh vinh quang,

họ không thể không trải qua những tục luỵ trần gian. Họ có nhiều thứ khiến người

ta ngưỡng vọng nhưng cũng không ít điều tiếng thị phi. Họ mạnh mẽ, quyết liệt thì

hẳn có lúc cũng tàn bạo, sai lầm. Trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải,

Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn, Trần Thủ Độ khi nhận ra vai

trò lịch sử của nhà Lý đã hết, đồng thời nhận thấy vận hội nhà Trần đã đến, đã thẳng

tay loại bỏ đấng quân vương ngu tối đang trị vì thiên hạ. Với bản lĩnh khác thường,

ông đã “thà chịu tiếng bất trung còn hơn mang tiếng ngu trung”, sắp đặt cho Lý Chiêu

Hoàng nhường ngôi, làm một cuộc đổi thay triều đại mà không hề sợ mang tiếng xấu.

Đó là bản lĩnh của một nhà chính trị đầy táo bạo, sáng suốt và khôn khéo. Rõ ràng,

với cách nhìn của Hoàng Quốc Hải, Trần Thủ Độ bộc lộ tính chất phức tạp, đầy mâu

thuẫn của một kẻ giàu khát vọng, lắm âm mưu. Hồ Quý Ly thường bị chính sử là

một kẻ “loạn thần tặc tử” nhưng khi đi vào tiểu thuyết lại được Nguyễn Xuân

Khánh lại lý giải theo một hướng khác. Tác giả đặt Hồ Quý Ly trong mối quan hệ đa

chiều với gia đình, xã hội, khám phá nhân vật trên nhiều phương diện (một cận thần,

một thái sư, một người cha, một người chồng, một con người đầy tham vọng…).

Nhận thức được vận mệnh nhà Trần đã hết, với khát vọng cải cách, chấn hưng lại đất

nước, Hồ Quý Ly đã “làm biến pháp”, “soán ngôi đoạt vị”, chủ trương bằng mọi cách

để làm cho đất nước “thay máu” một cách nhanh chóng. Khát vọng của Hồ Quý Ly là

khát vọng của một nhà chính trị có tinh thần trách nhiệm, dám tranh biện với cái cũ,

cái trì trệ, và tranh biện với chính mình để củng cố niềm tin vào con đường đã chọn.

42

Trên vũ đài chính trị là người cực kì quyết liệt, nhưng đối với vợ con, Hồ Quý Ly lại

rất mực nhẹ nhàng, chiều chuộng, yêu thương. Trong cách nhìn của Nguyễn Xuân

Khánh, Hồ Quý Ly tuy có mang tiếng là người tàn bạo, phản nghịch, nhưng về cơ

bản, ông có phẩm chất của một anh hùng hào kiệt.

Tóm lại, chính thế giới quan và nhân sinh quan của nhà văn đã định hướng cho

ngòi bút và quy định cách nhìn về người anh hùng. Dấu ấn của ngòi bút để lại r nét

trên mỗi NVAH. Không thể phủ nhận áp lực của chính sử, của tâm thức cộng đồng,

nhưng sự sáng tạo của các nhà văn trong xây dựng NVAH cũng không hề nhỏ. Và

điều này chính là sử thử thách lớn đối với bản lĩnh, tài năng của các cây bút TTLS,

trong bối cảnh đổi mới toàn diện của văn học và văn xuôi sau 1975.

1.2.2.2. Căn cứ vào đặc điểm t nh cách, phẩm chất và vai trò của nhân vật

trong tiểu thuyết

Quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn đã quy định nội dung,

phương thức tạo nên những kiểu NVAH trong TTLS. Đến lượt những quan niệm

đó được “cụ thể hóa” bằng các thủ pháp miêu tả tính cách, phẩm chất và vai trò

của người anh hùng. Đôi khi cùng một nguyên mẫu lịch sử nhưng mỗi nhà văn lại

có một cách khai thác riêng. Tính chất “một nguyên mẫu, nhiều phiên bản” là điều

dễ nhận thấy trong các TTLS. Họ không còn là những đối tượng được tô vẽ một

chiều, đơn điệu và khuôn mẫu nữa. Các nhân vật lịch sử đi vào trang viết với cái

nhìn đa diện và phù hợp với logic cuộc sống. Điều này khiến cho các hình tượng

nghệ thuật trở nên tươi mới, chân thực. Trong thực tế sáng tác tiểu thuyết, các nhà

văn đã rất khéo léo kết hợp tư liệu lịch sử với sự tưởng tượng, hư cấu.

Nguyễn Huệ là nhân vật lịch sử kiệt xuất được các sử gia cũng như các nhà

văn quan tâm đặc biệt. Hình tượng Quang Trung Nguyễn Huệ trong TTLS Việt

Nam sau 1975 được bổ sung nhiều điểm so với những gì đã có trong sử sách. Tư

duy sử thi kết hợp với tư duy tiểu thuyết khiến hình tượng Nguyễn Huệ trong

nhiều TTLS vừa mang hào khí của một thời đại lại vừa gần gũi, quen thuộc. Sông

Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác khai thác hình tượng người anh hùng áo vải

vừa là một anh hùng có tài thao lược, một con người thông minh, quyết đoán trong

từng bước ngoặt lớn lao của lịch sử, vừa nghĩa tình trong các mối quan hệ anh em,

thầy trò, tình yêu. Trong xây dựng hình tượng nhân vật, Nguyễn Mộng Giác đã rất

chú trọng miêu tả bối cảnh lịch sử và những điều kiện khách quan để con người

43

Nguyễn Huệ trở thành một người anh hùng. Trong Gió lửa, Nam Giao đã xây

dựng hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ với hai mặt đối lập: là một con

người dị tướng, hình dáng xấu xí, tính cách hung bạo nhưng đồng thời cũng là

người biết nhìn xa trông rộng, có tư tưởng cấp tiến, có cái nhìn vượt thời đại.

Trong Tây Sơn bi hùng truyện, Lê Đình Danh tái hiện một Nguyễn Huệ với bối

cảnh hỗn độn của thời loạn: chúa Nguyễn Đàng Trong, chúa Trịnh Đàng Ngoài và

Vương quốc Đại Thanh thời vua Càn Long hùng mạnh đang dòm ngó đợi thời cơ

xâm lược. Với Hoàng đế Quang Trung, ngòi bút Nguyễn Thu Hiền lại thiên về

miêu tả một Nguyễn Huệ chân thực và “đời” hơn trong những nỗi lòng và khát

vọng thầm kín cá nhân hơn là phong thái, đĩnh đạc hiên ngang của một vị anh

hùng. Tác giả đã tái hiện hình tượng Quang Trung từ thời cắp sách đến trường với

sự thông minh, tài trí, mưu lược, quyết chí cứu sơn hà qua cơn nguy biến cho đến

ngày băng hà. Tác giả đặc biệt chú trọng thể hiện tư cách của Nguyễn Huệ trong

các mối quan hệ son sắt với thầy Cao Hiến, với nữ chúa Lam Kiều, đến tình cảm

bạn bè với nữ tướng Bùi Thị Xuân và tình vợ chồng đối với Nhã Xuân và Ngọc

Hân công chúa… Dưới ngòi bút của Nguyễn Thu Hiền, Nguyễn Huệ hiện lên với

tư cách một người trí dũng song toàn, một bậc minh quân đáng kính nhưng đồng

thời cũng là một người yêu, một người chồng lí tưởng.

Nguyễn Trãi trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân là vị thủ lĩnh tinh thần,

nhà tư tưởng kiệt xuất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là

con người cô đơn khi trung thành tuyệt đối với tư tưởng nhân nghĩa, thân dân,

“điếu phạt tâm công” của một nhà Nho đi trước thời đại. Với Sao Khuê lấp lánh,

Nguyễn Đức Hiền tái hiện hình tượng Nguyễn Trãi qua ký ức của học trò, qua

cuộc đời cùng với kỳ án Lệ Chi Viên và qua lòng yêu mến, kính phục vô bờ của

người dân làng Đoài. Người dân ở đây đã bất chấp mọi nguy hiểm, tìm mọi cách

để bảo vệ giọt máu cuối cùng của ông cũng như lưu giữ những bài thơ, bài văn của

quan thừa chỉ còn sót lại sau cuộc can qua. Sao khuê lấp lánh tập trung miêu tả

tình vua tôi, thầy trò, cha con, vợ chồng... Và điều mà tác giả muốn truyền tải tới

bạn đọc chính là tư tưởng “nhân nghĩa” của Ức Trai thấm đượm truyền thống đạo

lí dân tộc. Nguyễn Trãi được miêu tả trong Oan khuất của Bùi Anh Tấn lại là một

con người có đời sống nội tâm phức tạp. Cuốn tiểu thuyết kể về thân thế Nguyễn

Trãi từ trong gia đình cho đến khi gặp phải thảm họa tru di. Tên gọi Oan khuất

44

cũng đã gợi lên được một cuộc đời long đong và đầy bi kịch của nhân vật lịch sử

này. Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy lại chú ý kể về cuộc gặp gỡ và mối tình

giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng như cuộc đời của người thôn nữ bán

chiếu ở Tây Hồ và nỗi đau khổ của con người này trước thời cuộc. Mặc dù trong

tác phẩm, Nguyễn Trãi không phải là nhân vật trung tâm nhưng qua những suy

nghĩ của Nguyễn Thị Lộ hay những đoạn tác giả miêu tả về ông, người đọc dễ

dàng nhận thấy chân dung của một hiền nhân. Nhà văn đã lí giải những bi kịch của

người anh hùng Nguyễn Trãi khá r nét. Trong Vằng vặc sao Khuê, Hoàng Công

Khanh lại xây dựng hình tượng Nguyễn Trãi một cách khá hoàn mĩ. Tác phẩm

như là một sự tôn vinh đối với vị anh hùng dân tộc “Ức Trai tâm thượng quang

khuê tảo” nhưng lại có số phận cực kì nghiệt ngã. Trong Lệ Chi Viên, Mai Thục

lại lấy đề tài là vụ án oan nghiệt làm bối cảnh chính để từ đó lý giải các khía

cạnh của vụ án thảm khốc nhất trong lịch sử liên quan tới cuộc đời của bậc vĩ

nhân. Với Cuộc thăng trầm, Minh Giang lại tập trung xoáy sâu vào những bi kịch

của người anh hùng Nguyễn Trãi, đặc biệt là bi kịch Lệ Chi Viên. Dùng tài năng

và trí tuệ để phò tá Lê Lợi đánh thắng giặc Minh xâm lược nhưng ông lại bị bọn

gian thần hãm hại.

Nhân vật Trần Quốc Tuấn trong Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh

không chỉ là một nhà chính trị, quân sự tài năng mà còn được soi chiếu ở phương

diện đời thường với những dục vọng bản năng như bao con người bình thường

khác… Ở đây, người anh hùng được “trả về” với cái nhân bản vốn có của con

người. Những nét tính cách này không làm mờ đi những phẩm chất anh hùng mà

chỉ làm cho nhân vật thật hơn, đời hơn và do đó cũng hấp dẫn hơn.

Như vậy, sự vận động của TTLS sau 1975 thể hiện khá r trong việc xây

dựng, sáng tạo các NVAH. Các nhà tiểu thuyết vẫn giữ lại những nét chủ yếu ở

phương diện “vĩ nhân” của nhân vật, và điều này đã làm thỏa mãn tâm lý tiếp nhận

của nhiều bạn đọc. Đặc biệt, vai trò của người anh hùng đối với cộng đồng, dân

tộc trong những bước ngoặt của lịch sử thường được đề cao, thể hiện. Tuy nhiên,

trong khi đào sâu vào những khoảng trống của lịch sử, các nhà văn cũng cố gắng

bổ sung, lấp đầy trên nhiều phương diện khác, trước hết là con người đời tư, đời

thường, số phận bi kịch của người anh hùng.

45

Tiểu kết chƣơng 1

Trên cái nhìn toàn cảnh, có thể thấy TTLS Việt Nam sau 1975 vận động,

phát triển nhanh chóng, phân hóa theo những khuynh hướng khác nhau: Có xu

hướng cơ bản trung thành với chính sử, với tâm thức cộng đồng, có hư cấu nhưng

ở một mức độ cho phép; Có xu hướng bổ sung, “đối thoại” với chính sử, thậm chí

coi lịch sử là “cái đinh để treo quan niệm”, là “sự tùy tiện ý thức”, “mượn lịch sử

để phản ánh những vấn đề đang được đặt ra của đời sống hiện sinh”; Có hướng

mượn lịch sử để đào sâu vào số phận con người cá nhân hoặc nghiêng về văn hóa,

phong tục. Cùng với sự vận động, phát triển của TTLS Việt Nam sau 1975, các

nhận định, đánh giá về tiểu thuyết lịch sử nói chung, các tiểu thuyết lịch sử cụ thể

của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo,

Nguyễn Mộng Giác… nói riêng cũng khá sôi động và có nhiều khác biệt. Các

nghiên cứu về TTLS thường xoay quanh các vấn đề: mối quan hệ giữa lịch sử và

hư cấu, giới hạn của sự hư cấu, tưởng tượng, các khuynh hướng của TTLS, cá tính

sáng tạo và đóng góp riêng của từng nhà văn…

Để triển khai luận án, chúng tôi đã đưa ra quan niệm của mình về TTLS, về

NVAH trong TTLS. Chúng tôi cho rằng TTLS phải là tiểu thuyết mà ở đó nhà văn có

tâm thế viết về quá khứ, về những thời đã qua, một quá khứ đã có độ lùi nhất định

trong tương quan với ngày hôm nay (độ lùi này ít nhất khoảng nửa thế kỷ). TTLS rất

cần hư cấu, tưởng tượng nhưng sự tưởng tượng không thể là tùy tiện, vô giới hạn.

TTLS có thể góp phần “lấp đầy” những “khoảng trống”, hư cấu nên những nhân vật,

sự kiện không có trong chính sử, có thể mượn quá khứ để suy ngẫm về hiện tại, rút ra

những bài học cho hiện tại; nhưng nhà văn không thể nhân danh sáng tạo, hư cấu để

xuyên tạc lịch sử, phản bội lại tâm thức cộng đồng. Trên nguyên tắc ấy, nhà văn có

thể mở rộng quyền hư cấu, sáng tạo, giúp lịch sử và quá khứ hiện lên sống động trên

từng trang viết, giúp cho bạn đọc không chỉ hiểu về lịch sử mà còn hiểu sâu sắc về

truyền thống văn hóa, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, cả những bài học

đau đớn, thất bại của cha ông mà chúng ta phải suy tư, nghiền ngẫm để có thể làm

đầy hành trang tiến về phía trước.

46

Chƣơng 2

BỨC TRANH CHUNG

CỦA TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975

2.1. Sơ lƣợc về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trƣớc 1975

2.1.1. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XX đến 1945

TTLS Việt Nam hình thành và đã có những thành tựu trong thời kì văn học

trung đại và bắt đầu chiếm lĩnh văn đàn nước ta từ đầu thế kỉ XX cho đến nay.

Cho đến nay, vẫn có những cách gọi tên khác nhau về TTLS trong văn học trung

đại: tiểu thuyết chương hồi về lịch sử, ký sự lịch sử. Trong thời trung đại, các

TTLS thường dưới hình thức tiểu thuyết chương hồi, tuy số lượng không nhiều

nhưng chúng vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền văn xuôi dân tộc. Các tác phẩm

tiêu biểu có thể kể đến là Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa

Chiêm, Thiên Nam liệt truyện (khuyết danh), Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô

Gia Văn Phái… Những tác phẩm này được viết bằng chữ Hán và chịu ảnh hưởng

của hình thức tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Truyện được kể theo trục thời

gian tuyến tính, một chiều. Các sự kiện, nhân vật lịch sử được trình bày theo lối

mô tả, hiếm khi có sự phân tích, luận giải. Nhân vật chủ yếu được miêu tả qua

hành động, đời sống riêng tư và diễn biến tâm lí ít được quan tâm. Yếu tố hư cấu

tuy đã xuất hiện nhưng vẫn còn khá mờ nhạt. Từ đầu thế kỷ XX về sau, TTLS

được hiện đại hóa nhanh chóng, yếu tố hư cấu được quan tâm nhiều hơn, TTLS có

sự chuyển mình mạnh mẽ. Lịch sử từ chỗ là những chứng tích trong quá khứ đã trở

thành mảnh đất màu mỡ cho sự thăng hoa cảm xúc sáng tạo của người nghệ sĩ.

Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945, trước yêu cầu hiện đại hóa nền văn

học, TTLS viết bằng chữ quốc ngữ đã có những bước phát triển lớn, hình thành

các phong cách khác nhau, chịu ảnh hưởng sâu sắc của các xu hướng tiểu thuyết,

trong đó có TTLS phương Tây. TTLS Việt Nam giai đoạn này có bước phát triển

mới với sự xuất hiện của các tác phẩm như: Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân

(1910) của Trương Duy Toản; Hưng Đạo Vương (1912) của Phan Kế Bính; Tiếng

sấm đêm đông (1928), Đinh Tiên Hoàng (1929), Vua Bố Cái (1929), Lê Đại

Hành (1929) của Nguyễn Tử Siêu; Gia Long phục quốc (1917), Giọt máu chung

tình (1926), Gia Long tẩu quốc (1930), Hoàng tử Cảnh như Tây (1931) của Tân

47

Dân Tử; Việt Nam anh kiệt (1926), Việt Nam Lý Trung Hưng (Việt Nam Lý

Thường Kiệt) (1929), Lê-triều Lý-thị (1931), Tiền - Lê vận - mạt (1932) của Phạm

Minh Kiên; Tiểu anh hùng Võ Kiết (1926) của Phú Đức; Máu chảy ruột

mềm (1928) của Hồng Tiêu; Việt Nam Lê Thái Tổ (1929) của Nguyễn Chánh Sắt;

Liều thân vì nước (1929 - 1930) của Nguyễn Ý Bửu; Nam cực tinh huy (1924)

và Nặng gánh cang thường (1930) của Hồ Biểu Chánh; Bà Chúa chè (1938), Loạn

kiêu binh (1939), Chúa Trịnh Khải (1940) của Nguyễn Triệu Luật…

Nhìn chung, TTLS giai đoạn này tuy chưa có nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng

nội dung khá phong phú và tập trung vào một số chủ đề chính. Thứ nhất, ca ngợi

những bậc vua chúa, những anh hùng dân tộc có công lớn trong sự nghiệp chống

giặc, giữ nước. Đó là các vua Hùng trong Hùng Vương diễn nghĩa, Phùng Hưng

trong Vua Bố Cái, Ngô Quyền và Dương Đình Nghệ trong Tiếng sấm đêm đông,

Đinh Bộ Lĩnh trong Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn trong Lê Đại Hành, Lý Thường

Kiệt trong Việt Nam Lý Trung Hưng, Trần Hưng Đạo trong Hưng Đạo Vương, Lê

Lợi trong Việt Nam Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi trong Máu chảy ruột mềm và Liều

thân vì nước… Với Vua Bố Cái, tác giả đã đề cao ý thức tự tôn và lòng tự hào dân

tộc, ca ngợi Phùng Hưng - hiện thân cho trí tuệ và phẩm chất đạo đức của nhân

dân: bình tĩnh, mưu lược, sáng suốt và vô cùng dũng cảm. Chính cái tên gọi “Bố

Cái Đại Vương” vừa thể hiện lòng tự hào, niềm kính yêu vừa thể hiện sự khâm

phục, sự ngưỡng mộ của quần chúng nhân dân đối với người anh hùng. Trong Việt

Nam Lê Thái Tổ, Nguyễn Chánh Sắt kể lại quá trình dựng nghiệp của người anh

hùng Lê Lợi, từ lúc dấy binh ở Lam Sơn cho đến ngày đánh lui quân xâm lược nhà

Minh, thu bờ c i về tay dân Việt. Tác giả một mặt ca ngợi tài năng bản lĩnh của

người anh hùng Lê Lợi như đã được ghi trong sử sách, mặt khác cũng mạnh dạn

đưa vào những quan hệ đời thường giữa các nhân vật, hư cấu thêm một số chi tiết

mang màu sắc huyền thoại khiến hình tượng người anh hùng hiện lên sinh động,

lôi cuốn hơn. Điểm nổi bật nhất trong TTLS của các nhà văn nửa đầu thế kỷ XX là

cảm hứng anh hùng ca, ca ngợi ý thức tự tôn dân tộc; người anh hùng không

những là các trang nam nhi, mà còn có cả những người phụ nữ. Trong Giọt máu

chung tình, Tân Dân Tử đã hoàn toàn thoát khỏi quan niệm phong kiến về người

phụ nữ, xây dựng nhân vật Bạch Thu Hà thành một tấm gương liệt nữ đáng

ngưỡng mộ. Cùng chung cảm hứng ngợi ca người phụ nữ tiết liệt còn có Máu chảy

48

ruột mềm của Hồng Tiêu. Trong tác phẩm này, người thiếu phụ Nguyễn Bằng

Tháo chỉ trong một thời gian ngắn đã phải đối diện với quá nhiều mất mát, chồng

bị giặc giết, cha thì bị giặc bắt đưa về Yên Kinh, em trai là Nguyễn Trãi bị giặc bắt

giam. Vượt lên hoàn cảnh, người thiếu phụ xuất thân dòng d i ấy đã ý thức rất r

bổn phận và trách nhiệm của mình. Nàng mạnh mẽ vực dậy, một mình nuôi dạy

con nhỏ, không những thế nàng còn “dùng kế m nhân” vào tận tư thất của quan

tổng trấn thành Thăng Long là Thốc Thành Long cứu được Nguyễn Trãi, giết

được tên tổng trấn khét tiếng gian ác. Xong mọi chuyện, nàng định quyên sinh để

thủ tiết với chồng... Ngoài ra, các nhân vật nữ khác như Hồ Ngọc Sương (Việt

Nam anh kiệt), Trần Lệ Nương (Việt Nam Lê Thái Tổ), Lý Vân Kiều (Việt Nam Lý

trung hưng)… đều là những con người kiên trinh, tiết liệt… Thứ hai, TTLS giai

đoạn này còn quan tâm thể hiện những trang đau thương, loạn lạc của lịch sử với

cái nhìn phê phán. Đáng chú ý có Gia Long tẩu quốc, Hoàng tử Cảnh như Tây của

Tân Dân Tử, Đinh Tiên Hoàng của Nguyễn Tử Siêu, Bà Chúa Chè, Loạn kiêu

binh của Nguyễn Triệu Luật… Gia Long tẩu quốc phản ánh cuộc giao tranh ác liệt

giữa tập đoàn Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII; Đinh Tiên

Hoàng phản ánh thực trạng xã hội Việt Nam ở giai đoạn lịch sử đầy biến động

phức tạp, triều chính mục ruỗng đã đẩy đất nước vào thảm họa 12 sứ quân; Loạn

kiêu binh khắc họa bức tranh triều đại Lê - Trịnh với vô vàn những rối ren không

thể cứu vãn: các phe cánh quyền lực hãm hại lẫn nhau, tranh quyền đoạt vị, huynh

đệ tương tàn, hậu cung đấu đá, kiêu binh nổi loạn... Thứ ba, trong TTLS giai đoạn

1900 - 1945, quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà văn đã có sự thay

đổi. Các cây bút tiểu thuyết đã bắt đầu chú ý đến tính chất đời thường của nhân

vật, thể hiện các mối quan hệ đan xen, phức tạp. Đó là những suy nghĩ, những trằn

trọc, những trăn trở, buồn vui, hờn giận và cả những dục vọng cá nhân. Đỗ Quyên

trong Treo bức chiến bào của Lan Khai, An Tư trong tiểu thuyết cùng tên của

Nguyễn Huy Tưởng, Phạm Thái trong Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng… đều

khai thác các yếu tố đời thường một cách khá thành công. Một điểm độc đáo khác

thể hiện sự chuyển biến, đổi mới của TTLS giai đoạn này so với tiểu thuyết

chương hồi trung đại là quan tâm đến chủ đề tình yêu đôi lứa. Tình yêu được đưa

vào TTLS tạo sự hấp dẫn, lãng mạn cho hình tượng nhân vật. Đó là tình yêu của

những ông vua, bà chúa như tình yêu giữa Đặng Thị Huệ với chúa Tĩnh Đô

49

Vương trong Đêm Hội Long Trì; tình yêu giữa những bậc trai tài gái sắc của An

Tư với Trần Thông trong tác phẩm An Tư của Nguyễn Huy Tưởng; tình yêu giữa

Ngọc Hân công chúa với người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong tác phẩm Vua

Quang Trung của Phan Trần Chúc; tình yêu giữa Trần Nguyên công chúa với

Phạm Ngũ Lão trong tác phẩm Trần Nguyên chiến kỷ của Nguyễn Tử Siêu, Phạm

Thái và Quỳnh Như trong Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng… Nhìn chung yếu tố

tình yêu trong TTLS thời kỳ này chịu sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa yêu

nước và tư tưởng vị nghĩa. Trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, bị nô

dịch về văn hóa, các tác phẩm TTLS ra đời đã thổi một luồng sinh khí mới vào

nền văn học, góp phần khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, chống thực dân,

gián tiếp chuẩn bị tinh thần cho các cuộc vận động cách mạng vĩ đại do Đảng ta

lãnh đạo.

Về nghệ thuật, mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng tiểu TTLS

giai đoạn 1900 - 1945 đã có bước tiến khá lớn đủ sức làm tiền đề cho thể loại này

vượt thoát khỏi mô hình truyền thống, tiến dần đến hiện đại và hội nhập sâu hơn

với văn đàn thế giới trên nhiều phương diện.

Thứ nhất, TTLS giai đoạn này có sự kết hợp nhiều cảm hứng, bút pháp

khác nhau trong thể hiện hiện thực và khắc họa nhân vật. Bút pháp sử thi biểu hiện

ở lòng nhiệt thành ca ngợi những chiến công vẻ vang, ca ngợi những vị anh hùng

đã có công cứu nước. Do ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, TTLS giai đoạn

từ đầu thế kỷ XX đến 1945, đặc biệt là từ 1930 đến 1945 đã có sự gia tăng cảm

hứng thế sự, đời tư. Nghệ thuật tự sự đã trở nên đa dạng hơn, vừa có kiểu kết cấu

chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi, vừa có kiểu kết cấu của tiểu thuyết

hiện đại phương Tây. Một số TTLS như Tiếng sấm đêm đông, Việt Thanh chiến

sử, Trần Nguyên chiến kỷ… của Nguyễn Tử Siêu vẫn còn chịu ảnh hưởng của bút

pháp kí sử biên niên. Sức hấp dẫn chủ yếu của tiểu thuyết vẫn do tình tiết, sự kiện

tạo ra hơn là sự phát triển trong tính cách, tâm lý nhân vật. Nhiều tác phẩm vẫn

duy trì lối kể theo trình tự thời gian, kết thúc có hậu, người đọc dễ dàng đoán biết

được diễn biến tiếp theo và kết thúc truyện ngay từ những trang đầu. Từ những

năm 1930 trở đi, dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, TTLS Việt Nam đã

xuất hiện những tác phẩm kết cấu theo diễn biến tâm lí nhân vật. Trong đó tiêu

biểu là Tiêu sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Đêm hội long trì của Nguyễn Huy

50

Tưởng, Cái hột mận của Lan Khai… Cách miêu tả nhân vật cũng đã có nhiều biến

chuyển, xu hướng đa diện trong khắc họa tính cách nhân vật đã được chú ý trong

nhiều tiểu thuyết. Tuy nhiên, các tác giả vẫn tập trung quá nhiều vào miêu tả hành

động, thông qua hành động để thể hiện tính cách con người. Tâm lý nhân vật chưa

thật sự có chiều sâu. Yếu tố độc thoại nội tâm đã bắt đầu xuất hiện trong một số

tác phẩm tuy vẫn còn mờ nhạt và chưa trở thành một phương thức thể hiện quan

trọng của nghệ thuật tiểu thuyết. Đặc biệt, các nhà văn đã có ý thức trong việc xây

dựng các nhân vật phụ để làm phong phú thêm cho hệ thống nhân vật cũng như

làm nổi bật nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Dấu ấn rõ nét của ảnh hưởng tiểu

thuyết cổ điển Trung Hoa là việc miêu tả ngoại hình NVAH thường gắn với sử

dụng yếu tố kỳ lạ, khác thường. Trong Vua Bố Cái, Nguyễn Tử Siêu cũng miêu tả

nhân vật Đỗ Luân có ngoại hình không khác gì Quan Vũ: “mặt trắng như mũi

ngọc, môi đỏ như son Tàu, lông mày thưa mày dài, mắt trong mà đen, đầu đội

khăn lượt thâm, mình mặc áo giáp tím, tay cầm trương thượng, vai đeo kinh nỗ”

[245; 55]. Lý Thường Kiệt trong Việt Nam Lý Trung Hưng là người “học rộng tài

cao, hình dong lẫm liệt, giọng nói như chuông, tướng đi như cọp”... Với tài v

nghệ siêu phàm, bản lĩnh tựa Thái Sơn, Lý Thường Kiệt đã lập nên nhiều chiến

công hiển hách đem lại sự hưng thịnh cho nhà Lý… Với cách xây dựng nhân vật

như vậy, các NVAH trong tiểu thuyết giai đoạn này cơ bản đều xuất hiện với tư

cách là những vĩ nhân, những anh hùng “siêu phàm”.

Thứ hai, về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, bên cạnh dấu ấn của văn biền

ngẫu còn sót lại, câu văn đã chuyển dần sang cách diễn đạt của ngôn ngữ văn

chương hiện đại. Một số tác phẩm vẫn sử dụng các từ ngữ mang tính công thức để

kết thúc hồi, chương hay chuyển ý, chuyển đoạn kiểu như “chuyện rằng”, “lại

nói”, “không nói đến nữa”, “không nói thêm nữa”,… Tiêu biểu cho cách viết này

là Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử, Việt Nam anh kiệt của Phạm Minh Kiên,

Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng của Nguyễn Tử Siêu. Tuy nhiên, trong một số tiểu

thuyết như Tiêu sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Đêm hội long trì của Nguyễn Huy

Tưởng, Bà chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật…, hành văn đã mang màu sắc hiện

đại với cách viết giản dị, chân thực, có những đoạn miêu tả tình huống, sự kiện

sinh động, sử dụng nhiều ngôn ngữ đời thường, bình dân.

51

Tóm lại, TTLS Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 có sự vận động, phát

triển theo hướng hiện đại hóa nhanh chóng. Bên cạnh một số tác phẩm vẫn chịu

ảnh hưởng của lối viết chương hồi, tính cách nhân vật chủ yếu dựa trên hành

động, với nhiều tình tiết gay cấn, câu văn vẫn còn dấu vết kiểu câu biền ngẫu...,

thì đồng thời cũng xuất hiện ngày càng nhiều các tiểu thuyết mang dấu ấn tiểu

thuyết hiện đại phương Tây, với kết cấu dựa trên diễn biến tâm lí nhân vật, kiểu

trần thuật hiện đại, lối kết thúc bỏ ngỏ hoặc không có hậu.

2.1.2. Tiểu thuyết lịch sử Vi t Nam từ 1945 ến 1975

Sau Cách mạng tháng Tám, nước ta bước sang một thời đại mới. Vừa

giành độc lập, đất nước lại bước vào những cuộc chiến mới với những kẻ thù hùng

mạnh hơn gấp nhiều lần. Văn học trước hết phải thực hiện vai trò phục vụ hai

cuộc chiến tranh cứu nước là chống thực dân Pháp và đế quốc M . Hiện thực đời

sống kháng chiến trở thành đối tượng phản ánh trung tâm của văn học. Vì không

còn là thể loại có thế mạnh trong việc phản ánh kịp thời những vấn đề, sự kiện

mang tính thời sự nóng bỏng, TTLS cũng như tiểu thuyết nói chung, tạm thời

nhường chỗ cho các thể loại “xung kích” khác như truyện ngắn, kí sự, thơ ca...

Phải đến những năm 60 - 70, TTLS mới xuất hiện trở lại với một số tác phẩm tiêu

biểu như Quận He khởi nghĩa, Tổ quốc kêu gọi của Hà Ân; Bóng nước Hồ Gươm

của Chu Thiên; Cờ nghĩa Ba Đình của Thái Vũ… Bên cạnh đó là sự hình thành và

phát triển xu hướng truyện lịch sử viết cho thiếu nhi. Nhiều tác phẩm đã để lại ấn

tượng sâu đậm trong lòng độc giả nhỏ tuổi, trong đó phải kể đến Lá cờ thêu sáu

chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung của Nguyễn Huy Tưởng; Trên sông truyền

hịch của Hà Ân…

Về nội dung, TTLS giai đoạn này phản ánh những sự kiện quan trọng trong

lịch sử chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. Trước hết phải kể đến Hà Ân với một

loạt tiểu thuyết như Bên bờ Thiên Mạc, Trên sông truyền hịch, Trăng nước

Chương Dương… Các tác phẩm đều xoay quanh sự kiện lịch sử là những chiến

công oanh liệt của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên -

Mông. Ba câu chuyện cùng một chủ đề và bối cảnh, ngợi ca những chiến công hào

hùng của dân tộc. Đó là trận chiến trên bờ Thiên Mạc với sự hy sinh lẫm liệt của

Trần Bình Trọng cùng câu nói nổi tiếng tựa sấm truyền vang vọng suốt mấy ngàn

năm lịch sử: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Đó

52

là Hội nghị Diên Hồng quy tụ ý chí quyết tử của vua tôi, quân dân trên dưới một

lòng và lời Hịch tướng sĩ truyền đi trong đêm trên sông Thiên Đức hùng tráng, thể

hiện chí khí ngút trời của lời thề “Sát Thát”. Đó là những chiến thắng Thiên Mạc -

Hàm Tử - Chương Dương ngời lên dưới ánh trăng, trên con sông Cái, khắc ghi

những dấu mốc của một thời đại huy hoàng được mở ra từ chiến thắng của vua tôi

nhà Trần. Điểm khác biệt của TTLS giai đoạn này so với trước là song song với

cảm hứng ngợi ca truyền thống anh hùng từ ngàn đời, tiểu thuyết đã khắc họa hình

ảnh nhân dân, nâng họ lên thành biểu tượng cho vẻ đẹp về sức mạnh và khát khao

chiến thắng của dân tộc. Cùng với đó, âm hưởng sử thi đậm nét trên từng trang

văn và trong thể hiện chân dung nhân vật mang lại bức tranh lịch sử hoành tráng,

hào hùng. Tư duy tự sự cũng được nâng lên một bước khi kết hợp hài hòa giữa tư

liệu lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Tuy chưa gây được tiếng vang so với các thể

loại khác như thơ, truyện ngắn, kí…, song TTLS của giai đoạn này vẫn tiếp nối

được mạch cảm thức đã có từ trước. Những tìm tòi, thể nghiệm đã tạo tiền đề cho

quá trình đổi mới, cách tân của TTLS ở giai đoạn sau 1975. Các tác phẩm Lá cờ

thêu sáu chữ vàng, Kể truyện Quang Trung của Nguyễn Huy Tưởng; Tướng quân

Nguyễn Ch ch, Nguyễn Trung Trực, Phú Riềng đ của Hà Ân đều tập trung đề

cao, ca ngợi người anh hùng, mang đậm cảm hứng sử thi. Người anh hùng luôn

luôn là những con người ưu tú, tích cực, là những cá nhân tiêu biểu của một dân

tộc anh hùng. Điều này là hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh chiến tranh, văn học

phải làm nhiệm vụ tuyên truyền, động viên mọi người sẵn sàng hy sinh vì nền độc

lập, tự do, thống nhất đất nước.

Về nghệ thuật, cũng như văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975 nói chung, TTLS

giai đoạn này chịu sự chi phối mạnh mẽ của phương pháp hiện thực xã hội chủ

nghĩa là “phương pháp sáng tác tốt nhất” (cũng là duy nhất) được chấp nhận trong

giai đoạn này. Bức tranh hiện thực được tái hiện chủ yếu là những chiến công

oanh liệt. Các TTLS chủ yếu kết cấu theo hình thức phân tuyến rạch ròi: ta/ địch,

tốt/ xấu, chính nghĩa/ phi nghĩa... Cái nhìn sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng

mạn hóa đã xây dựng NVAH theo nguyên tắc “tạc tượng đài”. Cảm hứng sử thi

chi phối hầu như mọi phương diện của TTLS như giọng điệu, ngôn từ, hình

ảnh,… Giọng ngợi ca, hào sảng là giọng điệu chính trong nhiều tiểu thuyết (Trăng

nước Chương Dương, Trên sông truyền hịch của Hà Ân, Lá cờ thêu sáu chữ vàng

53

của Nguyễn Huy Tưởng…). Đây là đoạn mô tả cảnh thảm bại của quân Thanh và

hào khí chiến thắng của quân Tây Sơn trong Kể chuyện Quang Trung của Nguyễn

“Chúng không kịp dụi mắt, không kịp kêu. Sấm động trên đầu chúng, đất

động dưới chân chúng. Mắt cay sè chỉ thấy loang loáng chung quanh đồn một bể

lửa hãi hùng ngùn ngụt. Trong ánh lửa, chói lóa lên không biết cơ man nào là

quân áo đỏ, trùng trùng điệp điệp, vây kín lấy đồn, đến con sẻ cũng không chui

lọt. Lấp loáng vung lên những lưỡi mã tấu sáng lòe. Cờ xí đỏ vẫn bay, san sát như

cây rậm trong rừng, phồng lên như cánh buồm lướt gió. Cờ mở ra, hàng trăm

hàng ngàn quân kị ập tới. Ngựa hí vang lừng” [274; 203-204].

Huy Tưởng:

Về kết cấu, nhiều TTLS giai đoạn 1945 - 1975 vẫn gần với hình thức truyện

kể lịch sử, kết cấu, cốt truyện vẫn theo mạch thời gian tuyến tính. Về ngôn từ,

TTLS giai đoạn này có sự tăng cường, đan xen các lớp từ ngữ. Bên cạnh lớp ngôn

từ cổ xưa, đậm không khí lịch sử và lớp ngôn từ sử thi, hào sảng, có sự gia tăng

của lớp ngôn từ chính trị, thời sự, lớp ngôn từ đời thường, giản dị. Đoạn văn sau

đây trong miêu tả cảnh tuyển lính của Đội Cấn trong tiểu thuyết Tổ quốc kêu gọi

“Tỉnh lị Thái Nguyên thức dậy… tiếng reo hò vang lên khắp nơi. Ai nấy vội

vã chia việc cho nhau. Các cụ bà đun nước pha trà vào những chiếc ấm đất xách

ra cho các chiến sĩ. Những thanh niên khỏe mạnh xách dao phay, đòn xóc xin ra

được cùng chiến đấu. Những cô gái nhanh chống tìm vải đỏ xé làm băng buộc tay

làm hiệu cho binh lính khởi nghĩa… tiếng trống nổi lên thôi thúc mọi người”,

“Tiếng loa đọc bản tuyên cáo vang dậy mọi nẻo phố trong tỉnh lị Thái Nguyên.

Trai tráng nô nức kéo đến ghi tên tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Không khí

hào hứng như một ngày hội lớn” 193; 230].

của Hà Ân thật gần giống cảnh tuyển quân thời nay:

Nhìn chung, TTLS Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã có những thành tựu

đáng ghi nhận. Cũng như văn xuôi giai đoạn này, cảm hứng sử thi là cảm hứng sâu

đậm nhất trong nhiều TTLS. Chủ nghĩa yêu nước thấm đẫm trong nhiều tác phẩm.

Quan điểm, cách nhìn của nhà văn thường đồng nhất với quan điểm của cộng

đồng. Tuy không tránh khỏi những hạn chế, nhưng cảm hứng sử thi cũng đã tạo ra

nhiều NVAH với vẻ đẹp cao cả, có sức cuốn hút người đọc.

54

2.2. Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975

2.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975

Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, với những thay đổi lớn của môi trường

chính trị - xã hội, sự thay đổi của tâm lý, thị hiếu người đọc, văn học Việt Nam

đã chuyển mình để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của bạn đọc. Đại hội Đảng

toàn quốc lần VI (1986) đã mở ra bước ngoặt, đem lại những thay đổi trên nhiều

mặt của đời sống xã hội. Đổi mới bắt đầu từ “đổi mới tư duy” đã giải phóng tư

tưởng con người, khơi dậy những suy nghĩ, những tìm tòi, sáng tạo trong giới trí

thức, văn nghệ sĩ. Có thể nói, đại hội Đảng lần thứ VI đã thổi một luồng gió mới

vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà. Nền kinh tế từng bước chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường, vừa tạo ra những bước phát triển thần kỳ của nền

kinh tế, vừa phơi bày ra tất cả sự phức tạp, gai góc và mặt trái của nó. Cuộc sống

thay đổi không ngừng, các giá trị cũ không còn là chuẩn mực được xem xét lại,

các giá trị mới đang dần hình thành. Mặt khác, sự giao lưu kinh tế và hội nhập

văn hóa với thế giới ngày càng sâu rộng, cũng tác động mạnh mẽ đến đời sống

văn học nghệ thuật.

Một trong những tiền đề quan trọng tạo nên sự “trở lại” một cách mạnh mẽ

của TTLS sau 1975 chính là sự ý thức một cách đầy đủ hơn vai trò của cái “tôi”,

của chủ thể sáng tạo. Đổi mới, sáng tạo là bản chất của văn học, là nhu cầu tinh

thần của mỗi cây bút. Và nhu cầu ấy càng trở nên mãnh liệt khi được sự tiếp sức

của Đổi mới. Suy ngẫm về quá khứ, về chặng đường đã qua để tìm một lỗi mở cho

đời sống, cho văn nghệ, cho tiểu thuyết nhanh chóng trở thành nhu cầu của các

nhà văn, và họ đã tìm đến TTLS như một vùng đất nhiều hứa hẹn. “Từ góc nhìn

của chủ thể sáng tạo, giờ đây văn học không chỉ là tiếng nói chung của dân tộc và

thời đại, cộng đồng mà trước hết là phát ngôn của mỗi cá nhân nghệ sĩ, là phương

tiện tự biểu hiện bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của

nhà văn về các vấn đề hôm qua và hôm nay. Nhà văn có quyền bày tỏ công khai

sự thức nhận của cá nhân trước những chân lí tưởng như bất di bất dịch, nghi ngờ

những tín điều, giải thiêng các thần tượng, đề xuất những chuẩn mực mới…” [74].

Nhà văn có nhu cầu nhận thức lại lịch sử, giải mã những bí ẩn, khuất lấp, hoài

nghi chân lí, thụ hưởng lịch sử bằng tinh thần khoa học nhân văn hiện đại. Lịch sử

55

không có “giá như”, nhưng lòng người lại luôn muốn có những “giá như”. Nhà

văn có thể đặt ra những giả thuyết, những khả năng có thể xảy ra, những bài học

cần suy ngẫm. “Lịch sử là một hiện thực đặc thù, nó tuy có thật nhưng đã thuộc về

quá khứ, tuy quá khứ nhưng nó vẫn là một bộ phận của hôm nay, không thể tách

rời hôm nay, hàm chứa nhiều bí ẩn của xã hội và thời đại” 140].

Một nguyên nhân nữa cũng rất quan trọng góp phần tạo nên sự trở lại khá

ngoạn mục của TTLS đó chính là nhu cầu phát triển “tự thân” của thể loại này.

Như trên đã nói, TTLS Việt Nam hiện đại ít nhiều đã kế thừa được các thành tựu

từ các tiểu thuyết chương hồi về lịch sử, đến giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945

đã có sự bứt phá ngoạn mục, vận động theo hướng hiện đại hóa, đã có những tác

giả, tác phẩm được bạn đọc yêu thích. Trong giai đoạn 1945 - 1975, cũng như nền

văn học nói chung, các TTLS vận động theo hướng sử thi hóa. Cảm hứng sử thi đã

tạo ra các hình tượng đẹp đẽ, các NVAH cao cả, có ý nghĩa giáo dục con người,

động viên tinh thần, ý chí của họ trong hoàn cảnh chiến tranh. Tuy nhiên, các

TTLS cũng phải hy sinh nhiều mặt: con người cá nhân, đời tư bị xem nhẹ, những

góc khuất của lịch sử ít được quan tâm, cái nhìn lịch sử thường là một chiều. Khi

chiến tranh qua đi, đối mặt với xã hội hiện đại với vô vàn những câu hỏi về cuộc

sống, về nhân tình thế thái, các nhà văn lại trở lại đề tài lịch sử, tìm cách bổ sung

những gì mà thể loại trước đó còn khuyết thiếu. Tiểu thuyết, với ưu thế có thể tái

hiện những bức tranh hiện thực rộng lớn, có thể đi sâu khắc họa nhiều tính cách,

số phận trở thành một thể loại phù hợp hơn cả để nói được nhiều điều, nhiều

chiều, nhiều mặt hơn về lịch sử sử với những con người, sự kiện tưởng chừng như

đã được “an bài” trong quá khứ. Và vì thế TTLS trong giai đoạn này nghiễm nhiên

nhận được sự quan tâm của nhiều người cầm bút.

Một nguyên nhân nữa là từ sau 1986, cơ chế thị trường với sự chi phối của

quy luật cung cầu đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn

chương trở thành hàng hóa, xuất bản, in ấn phát triển, tiểu thuyết nước ngoài được

dịch, giới thiệu nhiều, các cuộc thi tiểu thuyết diễn ra thường xuyên… đã có tác

dụng thúc đẩy sự phát triển của văn xuôi, trong đó có TTLS. Trong hai thập kỷ trở

lại đây, số lượng các nhà xuất bản, số bản sách được xuất bản tăng lên đáng kể.

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến thời điểm 09/08/2010,

cả nước có tới 55 nhà xuất bản. Hệ thống phát hành sách cũng phát triển mạnh mẽ

56

không kém. Với việc xem sách như một loại hàng hoá, các nhà làm sách đã rất chú

trọng đến việc quảng bá văn hóa đọc qua các phương tiện khác nhau. Sách và tiểu

thuyết không chỉ xuất bản trên giấy mà còn mở rộng thêm các hình thức khác như

sách điện tử, các trang blog, website,… Việc “số hoá” tác phẩm văn chương giúp

người đọc dễ dàng tiếp cận nó với một tâm thế mới. Không chỉ thị trường sách

trong nước, thị trường sách văn học dịch, trong đó có tiểu thuyết cũng phong phú

và đa dạng không kém. Nhiều tiểu thuyết nước ngoài, trong đó có TTLS nhanh

chóng có mặt ở Việt Nam. Việc phổ biến các tác phẩm văn học dịch sẽ giúp người

đọc tiếp cận nhanh hơn với các nền văn học trên thế giới và tạo điều kiện cho cuộc

hội nhập của văn học Việt Nam …

Một yếu tố nữa không kém phần quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển

của thể loại tiểu thuyết, trong đó có TTLS là nhu cầu, thị hiếu tiếp nhận của độc

giả. Bầu không khí dân chủ bao trùm đời sống xã hội tất yếu ảnh hưởng đến tâm

thế tiếp nhận của của công chúng. Người đọc trở nên cởi mở hơn, nhưng cũng khó

tính hơn. Người đọc không còn tiếp nhận tác phẩm một cách thụ động mà đã trở

thành những người đọc sáng tạo, đồng hành cùng nhà văn. Các trào lưu văn học

hiện đại, hậu hiện đại trên thế giới du nhập nhanh chóng vào Việt Nam cũng tác

động mạnh mẽ đến xu hướng tiếp nhận của người đọc. Người đọc hôm nay không

còn thỏa mãn với những chân lý đã định sẵn, những hiện thực đã sáo mòn. Nhu

cầu bàn luận, đối thoại giữa người sáng tác và người tiếp nhận đã kích thích sự tìm

tòi sáng tạo của nhà văn. Quan hệ nhà văn - người đọc là quan hệ bình đẳng, dân

chủ. Có thể nói, bối cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa sau 1975 nhìn chung là môi

trường thuận lợi, tích cực thúc đẩy sự vận động, phát triển mạnh mẽ của tiểu

thuyết, trong đó có TTLS.

2.2.2. Các chặng đường vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975

Giai đoạn 1975 - 1985 là thời kỳ văn học nói chung, TTLS nói riêng có

nhiều chuyển biến với những trăn trở, tìm tòi. Đây được xem là giai đoạn “bản lề”,

“đêm trước của Đổi mới” với nhiều tín hiệu tích cực, có ảnh hưởng và tác động

đáng kể đối với văn học Việt Nam thời kì Đổi mới sau 1986. Do quán tính của văn

học, tiểu thuyết từ 1975 - 1985 nổi lên dòng mạch đề tài chiến tranh và người lính.

Mảng sáng tác này làm nên tên tuổi của một số nhà văn quen thuộc như Nguyễn

Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Hồ Phương, Hữu Mai, Nguyễn Trọng

57

Oánh, Nam Hà, Nguyễn Trí Huân, Chu Văn, Thái Bá Lợi, Khuất Quang Thụy…

Những tác phẩm gây được tiếng vang là Đất trắng - Nguyễn Trọng Oánh, Cửa

gió - Xuân Đức, Họ cùng thời với những ai - Thái Bá Lợi, Nắng đồng bằng - Chu

Lai, Sao đổi ngôi - Chu Văn, Trong cơn gió lốc - Khuất Quang Thụy…

TTLS Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 cũng có những thành tựu nhất định,

tuy số lượng tác phẩm chưa nhiều. Một số nhà văn đã quen thuộc với bạn đọc

trước đó tìm thấy thế mạnh của mình ở xu hướng đi vào phong tục và lịch sử. Đi

theo hướng này, những Rừng động - Mạc Phi, Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên

ải - Ma Văn Kháng, Hoa hậu xứ Mường - Phượng Vũ… đã góp phần làm phong

phú hơn mảng đề tài dân tộc và miền núi mang đậm tính phong tục và lịch

sử. Ngoài ra có thể kể đến Núi rừng Yên Thế của Nguyên Hồng (1980), Lưỡi

gươm nhân ái (1981) của Hà Ân, Nhiếp chính Ỷ Lan (1985) của Quỳnh Cư, Sao

Khuê lấp lánh (1984) của Nguyễn Đức Hiền... Các tiểu thuyết xoay quanh những

nhân vật lịch sử nổi tiếng và những sự kiện tiêu biểu của nước nhà. Người viết ca

ngợi, tôn vinh công lao to lớn và những chiến công hiển hách của các anh hùng

dân tộc. Cảm hứng sử thi chi phối quan điểm nhìn nhận và cách thức xây dựng

nhân vật. Về nghệ thuật tự sự, nhà văn chủ yếu trần thuật theo ngôi thứ ba khách

quan. Cốt truyện, sự kiện vẫn là trung tâm chú ý của các tiểu thuyết. Nội tâm nhân

vật, các mâu thuẫn phức tạp của thế giới bên trong chưa được quan tâm đúng mức.

Nhân vật cơ bản vẫn phân tuyến theo kiểu địch - ta, thiện - ác, tốt - xấu… Giọng

điệu ngợi ca, trang trọng vẫn là giọng điệu chính.

Cùng với sự đổi mới của văn xuôi nói chung, TTLS Việt Nam từ 1986 đến

2000 đã chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư. Nhà văn không

chỉ quan tâm viết về các NVAH nổi tiếng, sự kiện lịch sử trọng đại mà chú ý hơn

đến các nhân vật lịch sử còn đứng giữa hai bờ tranh cãi về công tội, chú ý hơn đến

những điểm mờ, những vùng khuất lấp của lịch sử. Nhân vật không chỉ được nhìn

nhận ở vai trò đối với cộng đồng, đất nước mà còn được đánh giá với tư cách con

người. Lịch sử cũng không còn là những tượng đài nhìn từ chính diện mà được

khai thác ở các “góc khuất” của nó. Nhân vật được đặt trong nhiều mối quan hệ

phức tạp và đặc biệt là nhà văn đã thâm nhập vào thế giới nội tâm để phơi bày

những suy nghĩ, những dằn vặt, mâu thuẫn tinh tế của đời sống tinh thần con

người. Nghệ thuật trần thuật cũng có nhiều đổi mới, với sự dịch chuyển điểm

58

nhìn, sự đa thanh trong giọng điệu. Ngôn ngữ của tiểu thuyết giai đoạn này cũng

có những đổi mới đáng kể. Ngôn ngữ thường nhật, khẩu ngữ gia tăng tạo sự dung

dị, tự nhiên, gần gũi với bạn đọc. Có thể kể đến: Sông Côn mùa lũ (1998 - Nxb

Văn học tái bản trong nước) của Nguyễn Mộng Giác, Tuyên phi họ Đặng (1996),

Gươm thần Vạn Kiếp (1991) của Ngô Văn Phú, Gió lửa (1999) của Nam Giao,

Vằng vặc sao Khuê (1998) của Hoàng Công Khanh, Đặng nữ quận chúa (1999)

của Đặng Đình Lưu….

Từ 2000 đến nay, TTLS phát triển rầm rộ, trở thành một khuynh hướng

quan trọng của tiểu thuyết Việt Nam, với khoảng trên 120 tác phẩm được xuất bản

(xem phụ lục 1). Chỉ tính riêng trong cuộc thi tiểu thuyết lần thứ V (2016 - 2019)

của Hội Nhà văn, trong số 20 tác phẩm được trao giải có tới gần một nửa là TTLS,

với nhiều tác phẩm được trao giải cao như Từ Dụ Thái hậu của Trần Thùy Mai

(giải nhất), Mệnh đế vương của Trương Thị Thanh Hiền (giải nhì), Thị Lộ chính

danh của Võ Khắc Nghiêm (giải nhì), Chim bằng và Nghé hoa của Bùi Việt S

(giải 3), Gió bụi đầy trời của Thiên Sơn (giải 3). Nhiều tác phẩm TTLS xuất sắc,

có nhiều tìm tòi, cách tân trong nghệ thuật ra đời, nhận được sự chú ý của đông

đảo các tầng lớp độc giả. Có những tác giả chuyên tâm, chung thủy với TTLS và

gặt hái không ít thành tựu như Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn

Thế Quang, Phùng Văn Khai,… Các tác phẩm gây được tiếng vang có thể kể đến:

Bão táp triều Trần (2003, 4 tập), Tám triều vua Lý (2010, 4 tập) của Hoàng Quốc

Hải; Hồ Quý Ly (2000), Mẫu thượng ngàn (2006), Đội gạo lên chùa (2011) của

Nguyễn Xuân Khánh; Giàn thiêu (2003) của V Thị Hảo, Nguyễn Du (2010),

Thông reo ngàn Hống (2015) của Nguyễn Thế Quang, Phùng Vương (2018) của

Phùng Văn Khai, Sương mù tháng Giêng (2015) của Uông Triều, Trần Khánh Dư

(2016) của Lưu Sơn Minh…

TTLS từ năm 2000 đến nay là một bản hòa âm đủ mọi thanh sắc, cung bậc,

với những phong cách, bút pháp đa dạng. Ở đó, lịch sử được soi chiếu từ nhiều

góc độ, khía cạnh với nhiều chiều kích, quy mô khác nhau. Có cách bao quát lịch

sử rộng lớn, thiên về sử thi trong hai bộ tiểu thuyết đồ sộ: Bão táp triều Trần, Tám

Triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải; Có là cách khai thác lịch sử thiên về văn hóa,

phong tục, tín ngưỡng trong Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân

Khánh); Có cách viết quan tâm đến những góc khuất, những khía cạnh đời tư như

59

Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim

bằng và Nghé hoa, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt S …

TTLS Việt Nam từ 2000 đến nay có nhiều cách tân về nội dung và hình

thức nghệ thuật. Các tác giả có cái nhìn nhiều chiều, có tính suy ngẫm đối với lịch

sử, soi chiếu lịch sử ở nhiều phương diện, đưa người đọc vào các cuộc đối thoại

mà ở đó chưa thể có một kết luận cuối cùng. Các NVAH được nhìn nhận lại, được

soi chiếu r hơn ở mặt đời thường, mặt bi kịch, thậm chí những khiếm khuyết như

Hồ Quý Ly trong Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyên phi Ỷ Lan trong

Giàn thiêu của V Thị Hảo, Trần Khánh Dư trong Trần Khánh Dư của Lưu Sơn

Minh. TTLS giai đoạn này cũng có những bước tiến quan trọng về hình thức nghệ

thuật. Cùng với cái nhìn đa chiều về lịch sử, sự luân chuyển điểm nhìn, là sự đa

thanh, linh hoạt trong giọng điệu. Ngôn ngữ trong TTLS có sự phối hợp đan xen

của lớp ngôn ngữ cổ xưa và lớp ngôn ngữ đời thường, hiện đại. Chúng ta bắt gặp

cách nói rất chuẩn mực, uy nghi của các vị vua sáng, các bậc anh hùng như: Lý

Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần

Nhân Tông… Chúng ta cũng bắt gặp ngôn ngữ đậm nhà Phật của các bậc thiền sư

của Sư Vạn Hạnh, sư Không Lộ, Mãn Giác, Huệ Sinh… Chúng ta cũng bắt gặp

ngôn ngữ dân dã, nôm na của tầng lớp bình dân như của bà mẹ kế của Nguyên phi

Ỷ Lan (Giàn thiêu), bà cụ bán hàng nước (Bão táp triều Trần)…

2.2.3. Thành tự à các kh ynh hướng của tiểu thuyết lịch sử Vi t Nam

sau 1975

2.2.3.1. Sự phát triển vượt bậc của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975

TTLS Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 1986 đã vận động, phát triển một

cách nhanh chóng, chiếm một vị trí quan trọng trên văn đàn. Nhiều tác giả, tác

phẩm gây được tiếng vang trong dư luận, đặt ra được những vấn đề bức thiết, góp

phần to lớn trong công cuộc đổi mới văn xuôi cả về nội dung và hình thức.

Về số lượng tác phẩm, từ đầu thế kỷ XX đến 1945, theo thống kê của

Nguyễn Văn Hùng (Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự

sự học), có khoảng 50 TTLS ra đời. Từ năm 1945 đến 1975 có khoảng 30 TTLS.

Nhưng từ 1975 đến nay đã có gần 200 TTLS được xuất bản. Số lượng không phải

là tất cả, nhưng cũng có thể coi là một trong những tiêu chí để đánh giá thành tựu

của TTLS Việt Nam ở giai đoạn này.

60

Về dung lượng, các TTLS Việt Nam giai đoạn này có sự đổi thay đáng kể.

Trước 1945, hầu hết TTLS có độ dày trên dưới 200 trang, số ít lên đến 300 trang

như Hai bà Trưng đánh giặc của Nguyễn Tử Siêu. Giai đoạn từ 1945 đến 1975,

đa số các tác phẩm vẫn duy trì dung lượng từ 200 - 300 trang. Tuy nhiên, cũng

đã xuất hiện lối viết dài hơi, liên hoàn về một sự kiện lịch sử, một triều đại như

Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên (2 tập - 840 trang). Sau 1975, bên cạnh các

tác phẩm có dung lượng vừa phải, số lượng các tác phẩm có dung lượng lớn có

sự phát triển đột biến. Đáng chú ý phải kể đến bộ Tám triều vua Lý (4 tập) và

Bão táp triều Trần (tái bản, 6 tập) của Hoàng Quốc Hải, Nhất thống sơn hà của

Vũ Thanh (4 tập), Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái (4 tập), Sông Côn mùa

lũ (3 tập) của Nguyễn Mộng Giác…

Về đội ngũ sáng tác, từ sau năm 1975, đội ngũ tác giả TTLS không chỉ phát

triển về số lượng, với khoảng hơn 80 tác giả so với gần 20 tác giả giai đoạn 1945 -

1975, mà còn đa dạng hơn về thành phần, tuổi tác. Các cây bút đã tham gia viết

TTLS từ trước 1975 vẫn là một lực lượng quan trọng, nay tiếp tục có các sáng tác

thành công như Hà Ân (13 tác phẩm, trong đó có 4 tác phẩm viết trước năm

1975), Thái Vũ (11 tác phẩm, trong đó có 2 tác phẩm trước năm 1975),… Ngoài

ra, có sự xuất hiện thêm nhiều những cây bút trẻ như V Thị Hảo với Giàn thiêu,

Trần Thu Hằng với Đàn đáy, Uông Triều với Sương mù tháng giêng, Lưu Sơn

Minh với Trần Khánh Dư… Các tác giả Việt kiều và các tác giả nước ngoài cũng

có nhiều sáng tác thành công như Nguyễn Mộng Giác với Sông Côn mùa lũ, Yên

Tử cư sĩ Trần Đại Nghĩa với 5 tác phẩm viết trong năm 2004 là Nam quốc sơn hà,

Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông, Anh hùng Đông A - gươm thiêng Hàm Tử, Anh

hùng Tiêu Sơn, Anh hùng Bắc Cương; Nam Dao với 3 tác phẩm là Đất trời, Gió

lửa, Bể dâu …

Trong các giải thưởng văn học từ năm 1986 đến nay, TTLS luôn được đánh

giá cao và đạt được những giải thưởng quan trọng. Cụ thể, Vằng vặc sao khuê của

Hoàng Công Khanh đạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1999; Hồ Quý Ly của

Nguyễn Xuân Khánh đạt ba giải thưởng (Giải thưởng cuộc thi viết tiểu thuyết của

Hội nhà văn Việt Nam năm 1998 - 2000; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội

năm 2001); Hội thề của Nguyễn Quang Thân đạt giải A cuộc thi viết tiểu thuyết

năm 2006 - 2010 của Hội Nhà văn Việt Nam; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo đạt giải

61

thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2004; Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn

Xuân Khánh đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006; Thông reo

Ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm

2015 (trước đó, tiểu thuyết Nguyễn Du của tác giả này cũng đã đạt giải thưởng

cao ở Hà Tĩnh và Nghệ An); bộ tiểu thuyết Bão táp Triều Trần 6 tập của Hoàng

Quốc Hải được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2017; bộ tiểu

thuyết 3 tập về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh của Hoàng Quảng Uyên (Mặt

trời Pác Bó, Giải Phóng, Trông vời cố quốc), trong đó 2 tập đầu được tặng giải

thưởng trong cuộc thi Sáng tác và quảng bá các tác phẩm báo ch , văn học nghệ

thuật hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh năm 2010 và 2015; Trong cơn lốc xoáy của Trầm Hương đạt giải A trong

cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết về đề tài Cách mạng và kháng chiến (giai

đoạn 1930 - 1975) do Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam

trao tặng năm 2015… Sự phát triển về số lượng, sự đa dạng trong thành phần

sáng tác cho thấy ngày càng nhiều nhà văn quan tâm đến thể loại TTLS.

2.2.3.2. Các khuynh hướng sáng tác chính của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

sau 1975

Sự đa dạng của khuynh hướng sáng tác cũng thể hiện tính cởi mở của tự do

trong tư tưởng, một yếu tố vô cùng quan trọng cho sự phát triển của văn học -

nghệ thuật. Theo Trần Đình Sử, TTLS Việt Nam phát triển theo rất nhiều hướng:

hướng văn chương hóa lịch sử (tiêu biểu là các tác phẩm của Hoàng Quốc Hải);

hướng phi trung tâm hóa (tiêu biểu là Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác);

hướng đối thoại với lịch sử (tiêu biểu là Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê);

hướng nghiêng về văn hóa, giải thích lại lịch sử (tiêu biểu là tác phẩm của Nguyễn

Xuân Khánh, Hà Văn Thùy…). Theo Nguyễn Văn Dân, có ba xu hướng chính

trong TTLS: TTLS chương hồi khách quan, TTLS giáo huấn và TTLS luận giải.

Theo Đinh Trí Dũng, văn xuôi viết về lịch sử nói chung, truyện ngắn lịch sử nói

riêng, nhìn chung có hai xu hướng: xu hướng muốn tái hiện "chân thực" bức tranh

lịch sử và xu hướng mượn lịch sử để suy tư về hiện tại, về những "khả năng có thể

diễn ra" [32]. Nguyễn Thị Tuyết Minh chia TTLS Việt Nam đương đại thành 4

khuynh hướng chủ yếu: khuynh hướng minh định lịch sử (tiêu biểu là Quân sư

Nguyễn Trãi của Trần Bá Chí, Tây sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Bão táp

62

triều Trần và Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải…); khuynh hướng diễn giải

và đối thoại với lịch sử (tiêu biểu là Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Hồ Qúy Ly

của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…); khuynh hướng hư cấu

hóa lịch sử (Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt S , Sương mù tháng giêng

của Uông Triều, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…); khuynh hướng diễn

giải vấn đề lịch sử - văn hóa (tiêu biểu là Đàn đáy của Trần Thu Hằng, Mẫu

thượng ngàn và Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Thế kỉ bị mất của

Phạm Ngọc Cảnh Nam…) 102]. Lê Thanh Nga với bài viết Giải mã hiện thực

lịch sử: trường hợp Nguyễn Huy Thiệp cho rằng, những tác phẩm viết về đề tài

lịch sử nói chung, TTLS nói riêng “có thể phân chia thành hai khuynh hướng lớn:

khuynh hướng tái hiện toàn bộ lịch sử ở một giai đoạn nào đó, với những biến

động xã hội dưới tác động của những nhân vật lịch sử (…) Một khuynh hướng

khác, tái hiện những nhân vật lịch sử với những số phận cụ thể, và thông qua nhân

vật, tác giả bộc lộ cái nhìn của thời đại mình hoặc sử dụng nhân vật như một

phương tiện để gửi gắm những ý nghĩ về cuộc sống” 110; 112-113]. Thực ra,

TTLS là một diễn ngôn của nhà văn, thể hiện một chủ thể, một mục đích phát

ngôn nhất định, trong đó ít nhiều các nhà văn đều có tâm thế đối thoại với lịch sử

(nói đúng ra là đối thoại với chính sử), với quan niệm của cộng đồng. Căn cứ vào

tiêu chí đó, chúng tôi đưa ra ba khuynh hướng sáng tác chủ đạo của TTLS Việt

Nam sau 1975 là: 1) Khuynh hướng sáng tạo trên cơ sở đồng hướng, thống nhất

với chính sử, với tâm thức cộng đồng; 2) Khuynh hướng sáng tạo trên cơ sở đối

thoại, phản biện lại chính sử; 3) Khuynh hướng sáng tạo trên cơ sở mượn lịch sử

để đi sâu vào bi kịch, số phận cá nhân hoặc khám phá những vấn đề văn hóa,

phong tục. Tất nhiên, sự phân chia khuynh hướng như trên chỉ có tính chất tương

đối và ranh giới giữa chúng ở từng tác giả hay một số tác phẩm không phải lúc

nào cũng r rệt.

Khuynh hướng thứ nhất là sáng tạo trên cơ sở đồng hướng, thống nhất với

chính sử, với tâm thức cộng đồng. Đây là khuynh hướng sáng tác mà các nhà

văn xem việc phục dựng, tái hiện chính xác các sự kiện lịch sử (thường đã được

ghi chép trong chính sử và tồn tại trong tâm thức cộng đồng) là điều đầu tiên cần

được tuân thủ. Ở đó, các nhà tiểu thuyết thường quan tâm nghiên cứu chính sử,

phác họa trung thực bức tranh về đời sống, xã hội, con người Việt Nam trong

63

quá khứ. Tất nhiên, nói trung thực với lịch sử ở đây là trên nguyên tắc tái hiện,

không có nghĩa là nhà văn chỉ chăm chú minh họa lịch sử. Lưu Sơn Minh đã nói

rất r điều này: “Có những ngưỡng mà hư cấu không thể vượt qua. Đó là ngưỡng

của chính lương tâm tác giả đối với lịch sử. Không thể vì đề cao người này mà

dìm người khác xuống bùn nhơ. Càng không thể mượn nhân vật lịch sử để

chuyển những thông điệp đầy tính cá nhân của chính tác giả” 99]. Các nhà văn

Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Thế Quang, Uông Triều cũng thường nói đến “sự tôn

trọng các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử”. Nhà văn Hoàng Minh Tường cho

rằng: “ nhà văn viết về lịch sử có quyền hư cấu, tưởng tượng, thậm chí sáng tạo

thêm nhân vật, sự kiện để làm sáng tỏ lịch sử, soi rọi lịch sử nhưng không thể

bóp méo hay bịa tạc lịch sử một cách phi logic, theo ngẫu hứng riêng của mình”

[168]. Vì thế, ở xu hướng này, cái mà nhà văn thường hướng đến là khai thác, tô

đậm thêm những sự kiện, con người đã lưu vết trong chính sử hoặc đã được định

vị trong ký ức số đông. Một số tác phẩm tiêu biểu của khuynh hướng này là

Vằng vặc sao Khuê của Hoàng Công Khanh, Thông reo ngàn hống và Đường về

Thăng Long của Nguyễn Thế Quang, Tây Sơn bi hùng truyện và Nẻo về Vạn

Kiếp của Lê Đình Danh, Lê Lợi của Hàn Thế Dũng, Không phải huyền thoại của

Hữu Mai, Nhất thống sơn hà của Vũ Thanh, Ngô Vương, Phùng Vương của

Phùng Văn Khai…

Khuynh hướng thứ hai là sáng tạo trên cơ sở đối thoại, phản biện lại lịch

sử. Trong các tác phẩm viết theo khuynh hướng này, sự kiện lịch sử được xem

như phương tiện, phông nền để nhà văn thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm.

Nhiều cây bút đi sâu khai thác những những khoảng trống, những điểm mờ của

những con người, sự kiện để đưa ra những cách lý giải khác nhau giữa công và

tội, giữa anh hùng và gian hùng, giữa vĩ nhân và bình thường… Đó là chuyện Lý

Thần Tông hóa hổ, Lê Văn Thịnh và vụ án Hồ Dâm Đàm, Trần Thủ Độ với nhà

Trần, Thị Lộ, Nguyễn Trãi và vụ án Lệ Chi Viên... Cách nhìn của nhà văn có khi

khác hẳn với cách nhìn của người chép sử. Nam Dao cho rằng: "Cái khung lịch

sử đó được sử dụng như phương tiện cấu tạo tiểu thuyết và sau đó thì tiểu thuyết

là phương tiện để tác giả thể hiện những tư duy, biện minh và dư phóng cho chủ

64

đề lịch sử..." 25]. Các tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hồ Quý Ly

của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Gió lửa của Nam Giao,

Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thị Lộ của Hà Văn Thùy, Mạc Đăng

Dung của Lưu Văn Khuê, Kẻ sĩ thời loạn của Vũ Ngọc Tiến… Trong Hồ Quý

Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng hình tượng người anh hùng luôn cháy

bỏng ước vọng tự do, một đời ôm ấp giấc mộng canh tân Đại Việt. Con người ấy

luôn nuôi chí lớn dời non lấp bể song vẫn chứa chan tình yêu với gia đình mà cụ

thể là với hiền thê và ái nữ… Việc Hồ Quý Ly soán ngôi cũng được tác giả đặt

dưới nhiều cách nhìn đối lập nhau: khen - chê, lên án - ngợi ca. Cuối cùng, người

viết trao lại quyền phán xét nhân vật cho độc giả. Còn trong Hội thề, Nguyễn

Quang Thân lại tập trung tái hiện những hiềm khích, xung đột giữa một bên là

quyền lực của cánh v biền với một bên là nhân cách và trí tuệ hơn người của

Nguyễn Trãi. Song song với việc ca ngợi cái tâm, cái tài của Nguyễn Trãi, nhà

văn không ngần ngại chỉ r sự xấu xa của giới v biền những kẻ hữu dũng nhưng

mưu hèn kế bẩn. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca là giọng điệu chua xót, buồn

thương. Nhiều trang viết như những tiếng thở dài não ruột, chua xót về nhân tình

thế thái… Có khi, với cách nhìn của hôm nay, người anh hùng còn được nhìn

nhận như là một nạn nhân của lịch sử. Ở khuynh hướng này, lịch sử được đặt

trong lăng kính đa chiều. Những soi chiếu lại lịch sử vừa tạo ra những hiệu ứng

bất ngờ, đồng thời cũng tạo ra những nhận thức trái ngược ở người đọc.

Khuynh hướng thứ ba là sáng tạo trên cơ sở mượn lịch sử để đi sâu vào bi

kịch, số phận cá nhân hoặc khám phá những vấn đề văn hóa, phong tục. Khuynh

hướng này không tập trung vào những sự kiện lịch sử lớn lao, những chiến công…

mà chú trọng khai thác số phận con người trong những biến động, những cơn lốc

của lịch sử. Nhà văn đi sâu vào các khía cạnh đời tư, nhất là những bi kịch của con

người. Tiêu biểu có thể kể đến Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Hồ Quý Ly

(Nguyễn Xuân Khánh), Sương mù tháng giêng (Uông Triều), Đức Thánh Trần

(Trần Thanh Cảnh)… Bên cạnh đó, một số tác phẩm khai thác những tầng giá trị

ngầm của văn hóa, tín ngưỡng, tiêu biểu là các tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn, Đội

gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh)… Khuynh hướng này có điểm gặp gỡ với

65

khuynh hướng trên vì các nhà văn thường từ góc nhìn hiện tại, nhân danh giá trị,

hạnh phúc của con người cá nhân, đời tư để đối thoại, phản biện lại những gì đã

ghi chép trong chính sử, đã tồn tại tưởng như bất biến trong tâm thức cộng đồng.

Trong Sương mù tháng giêng, bên cạnh những trang hào hùng nói về

những chiến thắng của quân dân nhà Trần, Uông Triều đã thực sự thành công

khi xây dựng hệ thống nhân vật phong phú với tiếng nói nội tâm, cuộc sống đời

thường đầy những toan tính, ham muốn, buồn vui, lo sợ. Nhân Huệ vương Trần

Khánh Dư, tướng tài lừng lẫy, được phong Phiêu kỵ tướng quân, quyền chức

phán thủ nhưng vì mối tình ngang trái với công chúa Thiên Thụy mà phải về đất

Chí Linh bán than kiếm sống. Chính sử xem ông là kẻ hèn mọn, “có tính tham

lam, thô bỉ” (Đại Việt sử ký toàn thư) nhưng Uông Triều lại cho rằng “ngài chỉ

bạo liệt và không khéo” 269; 148 . Thượng hoàng Thánh Tông, vua Trần Nhân

Tông không chỉ hiện thân với tầm vóc khổng lồ mà còn là con người trần thế,

mang những nỗi niềm của cá nhân, dòng tộc. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn,

người đã lẫm liệt phụng sự hai vua đánh thắng giặc hai lần cũng có lúc “u sầu, lo

lắng, cả run sợ nữa”, luôn nặng lòng với lời dặn của An Sinh vương nhưng nhất

định không vì tình riêng mà hại xã tắc. Bên cạnh hệ thống nhân vật anh hùng hào

kiệt, Uông Triều còn dày công xây dựng chân dung những nhân vật nữ, đi sâu

vào đời sống cá nhân, lắng nghe những tâm tư rất mực đàn bà (công chúa Thiên

Thụy, công chúa An Tư).

Tóm lại, TTLS sau 1975 đã thể hiện khát vọng bứt phá, vượt thoát cái cũ.

Từ góc nhìn của chủ thể sáng tạo, giờ đây văn học không chỉ là tiếng nói của

cộng đồng, dân tộc mà còn là phát ngôn của mỗi cá nhân nghệ sĩ, là phương thức

tự biểu hiện bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của nhà

văn về xã hội và con người. Nhà văn có quyền bày tỏ công khai sự nhận thức

của mình trước những chân lý tưởng như bất di bất dịch, “giải thiêng” các thần

tượng, soát xét lại những niềm tin bền vững, đề xuất những chuẩn mực mới,

những hệ giá trị mới.

66

2.3. Bƣớc đầu nhận diện nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam sau 1975

2.3.1. Nhân vật anh hùng - hình tượng trung tâm của tiểu thuyết lịch sử

Vi t Nam sau 1975

Trong chính sử, mối quan tâm đầu tiên của người viết là ghi chép sự kiện

theo kiểu biên niên, quan tâm đặc biệt đến các sự kiện gắn với triều đình, các vị

vua chúa. Các chiến công, thành tích của vĩ nhân, anh hùng được nói đến như là

một trong những yếu tố góp phần củng cố các triều đại hoặc góp phần vào chiến

công chung. Ngược lại, trong văn học, sự kiện, tình huống, ngoại giới chỉ là “môi

trường nuôi sống nhân vật”. Ở đó, số phận con người mới là mục tiêu cơ bản và

cuối cùng của sự phản ánh. Vì vậy, con người, số phận con người mới là trung

tâm của bức tranh trong TTLS.

Sự vận động, phát triển của TTLS luôn gắn liền với sự thay đổi trong quan

niệm về con người và sự thể hiện nhân vật. Quan niệm về con người ngày càng

sâu sắc, đa diện thì thế giới nhân vật cũng trở nên phong phú, đa dạng. Lý luận

văn học phân chia nhân vật theo nhiều tiêu chí: nhân vật chức năng và nhân vật

tính cách, nhân vật chính và nhân vật phụ, nhân vật hữu danh và vô danh… Trong

đó, NVAH thường đóng vai trò trung tâm của các TTLS. Thế nào là nhân vật

trung tâm? Nhân vật trung tâm thường được hiểu là “Nhân vật chính, nhân vật

đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện hoặc

tuyến cốt truyện. Đó là con người liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm,

là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình (…) Đó là nơi quy tụ các mối

mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm” 122;

283]. Có thể thấy, nhân vật trung tâm thường hội tụ tất cả các mối quan hệ của hệ

thống nhân vật và phản ánh quan niệm mà nhà văn muốn gửi gắm. Tất nhiên, bên

cạnh nhân vật chính, nhân vật trung tâm còn có nhiều nhân vật khác, đóng vai trò

nhất định trong việc làm nên thành công của tác phẩm. Nhiều TTLS có số nhân

vật lên đến hàng trăm, với nhiều mối quan hệ đan xen, phân làm nhiều tuyến.

Hầu hết những TTLS mà chúng tôi khảo sát đều có NVAH là nhân vật

trung tâm. Trong 39 tác phẩm TTLS sau 1975 chúng tôi nhận thấy có 30 tác

phẩm thuộc dạng này (chiếm tỷ lệ 76,9 %), 09 tác phẩm còn lại NVAH đóng vai

trò là nhân vật chính (phụ lục 2). Tần suất xuất hiện của người anh hùng trong

67

tác phẩm chiếm tỉ lệ cao (tính theo sự xuất hiện ở các trang tiểu thuyết). Cụ thể:

nhân vật Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành trong Búp sen xanh (chiểm tỷ lệ

94%), nhân vật Nguyễn Trãi trong Đất trời (chiếm tỷ lệ 76 %), Trần Quốc Tuấn

trong Đức Thánh Trần (chiếm tỷ lệ 71 %)… Các tác phẩm tiêu biểu có nhân vật

trung tâm là NVAH có thể kể đến là Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác,

Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Đất trời của Nam Dao, Hội thề của

Nguyễn Quang Thân, Vằng vặc sao khuê của Hoàng Công Khanh, Ngô Vương

của Phùng Văn Khai, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…

Trong TTLS, nhân vật trung tâm thường có ảnh hưởng chi phối các nhân

vật khác. Nhân vật Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác

xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, đóng vai trò chính trong các sự kiện, kết nối

nhiều mối quan hệ cốt lõi. Tác giả rất có ý thức miêu tả Nguyễn Huệ trong sự so

sánh với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ: “có những phần trên gương mặt Huệ đậm lên

một chút, đầy lên một chút, khiến từ khuôn mặt ấy, toát ra một sự cân đối linh

động không có trên khuôn mặt Lữ, và niềm tin cẩn vững vàng khó tìm trên khuôn

mặt biện Nhạc” [208; 140-141]. Dùng phương thức miêu tả ngoại hình để nhà văn

đưa vào đó dự báo cuộc đời của Nguyễn Huệ: Anh hùng, quả cảm hơn Nguyễn

Nhạc, luôn linh hoạt và có khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh hơn Nguyễn

Lữ. Đặt Nguyễn Huệ, một con người tràn đầy khát vọng, tài năng, khí phách hơn

người bên cạnh Nguyễn Nhạc với tính cách ích kỷ, “lãnh chúa một phương”, đầy

tham vọng cá nhân là một dụng ý của người viết. Ở Nguyễn Nhạc, tính chất “lãnh

chúa vùng”, ích kỷ, mẹo vặt thể hiện rất rõ nét. Còn Nguyễn Lữ lại được nhà văn

xây dựng như một kẻ bất tài, chỉ biết thừa hành mệnh lệnh, nhiều khi ngơ ngác,

mơ hồ cảm nhận cuộc đời mình bị đánh cắp mà không đủ sức thoát ra để rồi cuối

đời nuối tiếc. Nguyễn Mộng Giác đã khéo léo đặt Nguyễn Huệ bên cạnh Nguyễn

Nhạc và Nguyễn Lữ để tạo nên một hệ quy chiếu đối sánh cùng tuyến, tạo ấn

tượng đặc biệt cho nhân vật trung tâm. Trong Bão táp triều Trần, mỗi tập đều

tập trung vào một nhân vật chính. Bão táp cung đình là người anh hùng Trần

Thủ Độ, người có vai trò trung tâm của bối cảnh của tác phẩm, giai đoạn chuyển

giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần. Nhà văn đặt nhân vật vào những biến

cố có tính bước ngoặt của lịch sử để từ đó phẩm chất người anh hùng được thể

hiện một cách rõ ràng. Trong Đuổi quân Mông Thát, Thăng Long nổi giận,

68

Huyết chiến Bạch Đằng, các hình tượng nổi bật là vị vua hiền Trần Thánh Tông

và Thượng hoàng Trần Nhân Tông, cùng các vị tướng lĩnh tài ba, với nhiều

chiến công hiển hách: Hưng Đạo đại vương, Chiêu minh vương Trần Quang

Khải, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, An Tư, Yến Ly... Trong Huyền Trân

công chúa, nhà văn đã xây dựng Huyền Trân thành một trang anh hùng, liệt nữ.

Trong tập Vương triều sụp đổ nổi lên hình tượng trung tâm là Chu Văn An, một

con người không sợ hiểm nguy mà dâng sớ chém bảy tên đại gian thần thân cận

của Dụ Tông.

2.3.2. Những cảm hứng sáng tác chính chi phối vi c xây dựng nhân vật

anh hùng

2.3.2.1. Cảm hứng sử thi

Gắn với việc đề cao, ca ngợi người anh hùng là cảm hứng sử thi sâu đậm

trong nhiều TTLS. Cảm hứng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc lớn lao

hướng về cộng đồng, về nhân dân, đất nước. Cảm hứng này thường chi phối mạnh

mẽ đến các sáng tác văn chương trong những giai đoạn đất nước bị ngoại xâm

giày xéo. Cũng gắn với cảm hứng sử thi là việc đề cao, ca ngợi vẻ đẹp của những

con người ưu tú, tiêu biểu của cộng đồng.

Trong nhiều TTLS, các nhà văn thường dùng cảm hứng và bút pháp sử thi

để đề cao vẻ đẹp, sự xuất chúng của các anh hùng, vĩ nhân. Nhân vật lịch sử

thường đi vào tác phẩm với những phẩm chất cao quý. Âm hưởng chủ đạo là âm

hưởng ngợi ca, lý tưởng hoá. Trong Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh),

người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ được khắc hoạ bằng tất cả niềm say mê,

ngưỡng mộ. Ông là hình ảnh một nhà quân sự kì lạ, một vị tướng bách chiến

bách thắng. Trong Đất trời của Nam Dao, Lê Lợi hiện lên với tài năng quân sự,

với tầm nhìn chiến lược của người gánh trên vai trọng trách chèo lái con thuyền

khởi nghĩa. Trong Ngô Vương của Phùng Văn Khai, Ngô Quyền - với vai trò

thống soái chỉ huy cuộc chiến chống lại mười vạn quân của Lưu Hoằng Tháo tại

bến Bạch Đằng - hiện ra như một “vị tướng nhà trời”, có tầm nhìn xa rộng, tài

phán đoán, khả năng quan sát tuyệt vời, dũng mãnh, mưu trí. Trong Búp sen

xanh của Sơn Tùng, Nguyễn Tất Thành được khắc họa với những phẩm chất nổi

bật như lòng thương dân sâu sắc, trí tuệ hơn người, lòng yêu nước thiết tha…

69

Trong nhiều tiểu thuyết, NVAH hiện ra với tổng hòa các sức mạnh thể chất

và tinh thần. Họ được khắc họa vẻ đẹp khác thường từ ngoại hình, lời nói đến

hành động. Có khi nhân vật còn được khoác lên mình những vẻ đẹp huyền thoại.

Lúc này họ như là thiên sứ giúp cộng đồng thoát khỏi đại nạn. Trong hàng loạt tác

phẩm, những NVAH như Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Sinh Côn… hiện ra với

vẻ đẹp của ánh hào quang thiêng liêng. Khát vọng cứu nước, khát vọng làm cho

dân giàu, nước mạnh, khát vọng về tiền đồ vẻ vang của dân tộc là ước nguyện và

mục tiêu của Nguyễn Huệ (trong Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh), Lê Lợi

(trong Đất trời của Nam Dao), Lý Thường Kiệt (trong Tám triều vua Lý của Hoàng

Quốc Hải)… Ngoài ra, khát vọng vương quyền với mục tiêu thế thiên hành đạo, loại

bỏ các triều đại mục ruỗng, các quân vương u tối cũng là mục tiêu của người anh

hùng. Đó là Trần Thủ Độ (Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng của Bùi Anh Tấn),

“thà chịu tiếng bất trung còn hơn mang tiếng ngu trung”; sắp đặt việc nhường ngôi,

làm một cuộc đổi thay triều đại. Ngôi báu chỉ là phương tiện để “áp đặt” một khát

vọng hưng quốc… Những con người như Trần Thủ Độ (Trong Đàm đạo về Điều

Ngự Giác Hoàng), Hồ Quý Ly (trong Hồ Quý Ly), Lê Lợi (trong Hội thề)… là những

người có khát vọng vương quyền, nhưng điều đó đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, của

dân tộc trong những bước ngoặt tất yếu của lịch sử.

2.3.2.2. Cảm hứng thế sự

Xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và nhu cầu thẩm mĩ của người tiếp

nhận, TTLS Việt Nam sau 1975 hướng đến những vấn đề thế sự, đi vào khám phá,

phát hiện cái tốt - xấu, đúng - sai trong đời sống; đồng thời, thể hiện sự chiêm

nghiệm, suy tư về lẽ đời, tình đời. Cảm hứng thế sự có vai trò quan trọng làm nên

diện mạo mới cho TTLS và NVAH ở giai đoạn này. Người đọc hôm nay nhìn về

lịch sử không chỉ để biết sự thật, tự hào với những chiến công của cha ông mà còn

nhằm tìm kiếm những chân lý được đúc rút từ những thành bại của người trong

quá khứ. Những “vùng mờ” trong cuộc đời, những góc khuất trong tính cách,

những bí ẩn trong tâm hồn, những đa đoan trong số phận được luận giải bằng tư

duy phân tích, chiêm nghiệm, triết lý. Những nhân vật như Nguyễn Huệ (Sông

Côn mùa lũ, Gió lửa), Lê Lợi (Đất trời, Hội thề), Nguyễn Trãi (Oan khuất, Hội

thề), Trần Khánh Dư (Sương mù tháng giêng, Trần Khánh Dư)… đều lắng sâu

70

những chiêm nghiệm về cuộc sống và con người trong những chiều kích khác

nhau, nhờ đó trở nên sống động và mang một sức hút mới.

Trong Kẻ sĩ thời loạn, Nguyễn Hữu Chỉnh được mô tả như một NVAH dù

chính sử từng xem ông là một gian hùng, “một con người hai mặt”. Trong toàn

bộ tác phẩm, Vũ Ngọc Tiến đã phác họa một Nguyễn Hữu Chỉnh như hình mẫu

của một “kẻ sĩ thời loạn”, biết lấy động cơ, mục đích cao cả để biện giải cho các

hành động “bất đắc dĩ” của mình. Hay Hồ Quý Ly trong con mắt của các sử gia,

là “một kẻ tiếm quyền”, phản nghịch nhưng Nguyễn Xuân Khánh lại “lí giải”

ông theo một cách nhìn khác. Hồ Quý Ly hiện lên trong tác phẩm với những

phẩm chất của một người lãnh đạo, xoay chuyển tình thế bởi biết nhìn xa trông

rộng. Trước tình trạng giặc Chiêm Thành, quân phương Bắc dòm ngó, nhà Trần

mục ruỗng, hành động lật đổ nhà Trần của ông là hoàn toàn hợp lí. Trong Trần

Khánh Dư, Lưu Sơn Minh đã dũng cảm vượt qua những định kiến về con người

này để đưa ra những kiến giải mới về Trần Khánh Dư. Nhà văn đã khám phá,

luận giải chân thực, sâu sắc tính cách đa chiều, phức tạp của một vị tướng tài ba,

dũng cảm, mưu lược nhưng đa tình và liều lĩnh. Nhân vật hiện lên như một khối

cô đơn thăm thẳm. Cách nhìn, cách lý giải đó đem đến cho người đọc những

cảm nhận, hình dung thú vị, mới mẻ về nhân vật.

Với Trần Thủ Độ, Trần Thanh Cảnh đã thể hiện những suy tư sâu sắc về

nhân vật lịch sử “lắm công nhiều tội” - Trần Thủ Độ. Việc Trần Thủ Độ soán ngôi

nhà Lý được tác giả phân tích, luận giải rất r qua đoạn đối thoại của nhân vật

này với Lý Huệ Tông. Sự việc Trần Thủ Độ thông dâm với người đàn bà anh em

thúc bá Trần Nhị Nương - lúc ấy vẫn là vợ của Lý Huệ Tông - cũng được tác giả

giải thích: “Buổi chiều hôm trước khi gặp ngươi, ta và Trần Nhị Nương đã cùng

chèo thuyền hái sen trên đầm, đã cầm tay thề bồi đời này kiếp này là của nhau.

Thế nhưng cũng ngay hôm đó, ngươi đã cậy thế là Thái tử con vua mà ép bá phụ

ta phải gả Nhị Nương cho ngươi khi ta vắng nhà. Người đã chiếm người con gái

duy nhất của lòng ta” 195; 154 . Rồi việc Trần Thủ Độ “chuyên quyền” cũng

được tác giả lý giải là do Hoàng đế Trần Thái Tông bấy giờ còn nhỏ, chưa biết lo

toan việc quốc gia đại sự và hơn ai hết những việc làm của Trần Thủ Độ đều vì

đất nước Đại Việt, vì muôn dân.

71

Trong Hội thề, cảm hứng phân tích, chiêm nghiệm, triết lý thể hiện qua

cách nhìn, suy nghĩ của nhà văn về vai trò của người trí thức đối với lịch sử. Ở đó,

Nguyễn Trãi trong vừa là người trực tiếp cầm quân đánh giặc, vừa giúp hoạch

định những đường lối, chiến lược, chiến thuật đúng đắn cho cuộc khởi nghĩa. Nếu

như không có Nguyễn Trãi với thuật đánh giặc “mưu phạt tâm công” thì “đánh

giặc ba mươi năm nữa, nghĩa quân cũng chỉ quanh quẩn rồi gầy mòn tiêu tán như

phường thảo khấu ở đất Lam Sơn mà thôi 265; 188 . R ràng, Lê Lợi có được

Nguyễn Trãi cũng giống như Lưu Bang có được Hàn Tín, Trương Lương; Lưu Bị

có được Gia Cát Lượng vậy. Có sự giúp sức của Nguyễn Trãi “Trước đây, nghĩa

quân chỉ biết chạy dưới đất, giờ đây đã biết bay lên trời” 265; 200]. Trong tác

phẩm, tác giả còn thể hiện suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa người trí thức

với nhà cầm quyền. Trước cuộc chiến, sự trọng dụng của Lê Lợi với người trí thức

đã giúp cuộc khởi nghĩa đi đến thắng lợi mĩ mãn. Nhưng sau này, sự nghi kị của

ông đối với trí thức không chỉ gây ra những bi kịch cho nhiều người, trong đó có

Nguyễn Trãi mà còn gây ra cả những sóng gió cho triều đại.

Sự xuất hiện cảm hứng thế sự là một xu hướng tất yếu trong bối cảnh đổi

mới văn xuôi sau 1975 nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Tại đây, người anh hùng

đã trở thành tâm điểm để nhà văn suy tư về quá khứ, về những chiến công,

những nguyên nhân thắng lợi và cả những thất bại, những đau xót không đáng

có. Từ những bài học của quá khứ, nhà văn còn muốn người đọc hôm nay đi tìm

những lời giải cho nhiều vấn đề của đời sống. Vì thế, lịch sử vẫn đồng hành với

chúng ta, cùng chúng ta.

2.3.3.3. Cảm hứng đời tư

Cảm hứng đời tư gắn với việc nhà văn đưa NVAH về với những sinh hoạt

thường nhật, miêu tả họ như những con người bình thường. Cảm hứng này hình

thành và phát triển mạnh vào giai đoạn sau 1986. Cảm hứng thế sự, đời tư không

hề tầm thường hóa người anh hùng mà đặt họ vào trong những quan hệ đời sống,

soi chiếu họ trong tư cách con người bình thường. Ở đó, hình tượng người anh

hùng trở nên “thực” hơn và vì vậy cũng làm cho tác phẩm trở nên hấp dẫn hơn. Sự

trở lại với cảm hứng đời tư là một trong những phương thức cân bằng của các mặt

đối lập trong nhân cách con người: sáng - tối, đẹp - xấu, thiện - ác… Hai xu hướng

72

sử thi hóa và đời tư hóa bổ sung cho nhau, tạo ra được nhiều “hiệu ứng” tích cực

trong cảm xúc của người đọc.

Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác, Nam Giao, Nguyễn Quang Thân,

Trần Thanh Cảnh, Uông Triều, Bùi Việt S … chúng ta nhận thấy các nhà văn

dường như đã không hài lòng với cái nhìn phiến diện, một chiều về các vĩ nhân,

anh hùng trong chính sử hay phần lớn tiểu thuyết lịch sử truyền thống. Họ không

chỉ quan tâm đến vị thế lịch sử của nhân vật mà còn chú trọng khai thác yếu tố đời

tư cũng như tấn bi kịch cá nhân con người trong dòng chảy lịch sử. Bằng cái nhìn

đời tư, nhiều NVAH hiện lên với những nét tính cách hợp với logic đời thường, có

ưu điểm và khuyết điểm. Các nhà tiểu thuyết nhiều lúc đã “giải thiêng” nhân vật,

kéo thần tượng của cộng đồng trở về với cuộc đời trần tục. Dưới ngòi bút của

Nguyễn Quang Thân (Hội thề), bên cạnh một nhà chính trị tài ba, Lê Lợi còn là

một con người bình dị, đôi lúc dễ dãi đến xuề xòa hoặc cô đơn, bất hạnh trong đời

sống riêng tư… Còn trong Sương mù tháng giêng, Uông Triều đã dựng lên cả một

hệ thống nhân vật cốt l i của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông như

Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… mang

trong mình những suy nghĩ, tình cảm rất đời thường, có vui buồn, hờn giận, có

mâu thuẫn, giằng xé, bi kịch… Nhà văn đặc biệt quan tâm khắc họa đời sống riêng

tư, những tấn bi kịch tinh thần của các nhân vật thay vì miêu tả cảnh binh đao

chiến trận. Dưới những trang văn của Uông Triều, các vĩ nhân, anh hùng lịch sử

đều được nhìn dưới góc độ rất người, rất đời. Đọc chùm tiểu thuyết của nhà văn

Trần Thanh Cảnh, người ta dễ dàng nhận thấy, những người anh hùng như Trần

Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Trần Thủ Độ… bên cạnh những phẩm chất anh

hùng, họ còn có những mặt rất đời, đặc biệt là đời sống bản năng mạnh mẽ.

Tái hiện nhân vật lịch sử với cảm hứng đời tư, các TTLS đã giảm đi sự khô

khan, công thức, một chiều. Bên cạnh vẻ đẹp của sự cao cả, khác thường, các

NVAH cũng là những con người, cũng sống, cũng suy nghĩ, vui, buồn, hờn, giận

như mọi người. Vì thế, NVAH trở nên sinh động, gần gũi với độc giả.

Tiểu kết chƣơng 2

TTLS Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay vận động, phát triển qua ba giai

đoạn: Từ đầu thế kỷ XX đến 1945, từ 1945 đến 1975 và từ 1975 đến nay. Ở giai

73

đoạn thứ nhất, TTLS tuy chưa có nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng nội dung khá

phong phú, đa dạng, bước đầu phân hóa theo những hướng khác nhau. TTLS giai

đoạn này chủ yếu phản ánh những sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc, đặc

biệt là các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc; ca ngợi

những bậc vua chúa, những người anh hùng có công lớn trong sự nghiệp chống

giặc, giữ nước. TTLS cũng quan tâm thể hiện những buổi hoàn hôn của các triều

đại với cái nhìn thẳng vào hiện thực (như kinh nghiệm, tri thức và trực giác mách

bảo) với tinh thần phê phán sâu sắc. Cũng như văn xuôi giai đoạn này, TTLS từ

đầu thế kỷ XX đến 1945 được hiện đại hóa một cách nhanh chóng, thể hiện những

bước tiến lớn về phía hiện đại trong nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn từ.

Trong giai đoạn từ 1945 - 1975, TTLS mang đậm cảm hứng sử thi, tập trung ca

ngợi những chiến công oanh liệt của cha ông trong quá khứ, góp phần động viên,

giáo dục truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thể hiện tinh

thần “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Bên cạnh hình ảnh cao đẹp của các bậc anh

hùng, hào kiệt, TTLS giai đoạn này đã khắc họa hình ảnh nhân dân, nâng họ lên

thành biểu tượng cho vẻ đẹp về sức mạnh và niềm tin chiến thắng. Nhìn chung,

tuy có những thành công nhất định, nhưng về cơ bản, TTLS giai đoạn này vẫn

chưa có được những vượt thoát, bứt phá mạnh mẽ. Phải từ sau 1975, đặc biệt là

sau 1986, TTLS mới phát triển sôi động, với nhiều thành tựu nổi bật, phân hóa

thành nhiều xu hướng, trở thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của văn

xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Cái nhìn đối với lịch sử, đối với người anh

hùng trở nên đa chiều và giàu sức gợi mở. Nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn

từ trở nên linh hoạt, đa dạng. Trong TTLS giai đoạn này, NVAH vẫn là hình

tượng trung tâm của nhiều tác phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp cao cả, gắn với

cảm hứng sử thi, ngợi ca người anh hùng, các TTLS đã gia tăng cảm hứng thế sự,

đời tư. Từ đó, hình tượng người anh hùng trở nên mới mẻ, sinh động, hấp dẫn hơn

bởi được được tô đậm thêm ở góc nhìn cá nhân, đời thường, với nhiều mặt khuất

lấp, nhiều suy tư, niềm vui, nỗi buồn, cả những bi kịch rất con người.

74

Chƣơng 3

LOẠI HÌNH NHÂN VẬT ANH HÙNG

TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975

3.1. Nhìn chung về loại hình nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam sau 1975

3.1.1. Nhân vật anh hùng nhìn từ vai trò, chức năng của nhân vật

trong tiểu thuyết

Nhân vật văn học nói chung, NVAH nói riêng là hiện tượng hết sức đa

dạng. Các nhân vật thành công thường là những hiện tượng độc đáo, không lặp lại.

Tuy nhiên, xét về mặt nội dung, cấu trúc, hình thức thể hiện, có thể thấy nhiều

hiện tượng lặp lại, tạo thành các kiểu loại nhân vật. Để chiếm lĩnh thế giới NVAH

đa dạng trong TTLS Việt Nam sau 1975, cần thiết tìm hiểu, phân chia hệ thống

nhân vật ấy từ góc độ loại hình.

Có nhiều cách phân chia loại hình nhân vật. Dựa trên vai trò của nhân vật

trong tiểu thuyết, có thể phân chia thành nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật

trung tâm. Ở chương trên, chúng tôi đã làm r vai trò là nhân vật chính, nhân vật

trung tâm của nhiều NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975. Tuy nhiên, trong

các TTLS Việt Nam sau 1975, các tác giả cũng chú ý đến vai trò của các NVAH

là nhân vật phụ, họ góp phần không nhỏ trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề của

các tiểu thuyết.

NVAH là nhân vật phụ trong TTLS Việt Nam có thể có tên tuổi hoặc

không. Đó là những ông Xí, ông V , bà Triệu, cô Chí, cu Trầm, chú Cửu, những

người dân tham gia kháng chiến trong tiểu thuyết của Phan Bội Châu, trong TTLS

của Hà Ân, Nguyễn Huy Tưởng… Trong TTLS sau 1975, rất nhiều tác phẩm như

Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái, Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải,

Nhất thống sơn hà của Vũ Thanh… xây dựng thành công hình tượng những người

anh hùng với vai trò là nhân vật phụ như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, các

tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Đa số họ xuất thân từ tầng lớp bình dân.

Đó có thể là cư dân của vùng đất Thiên Mạc dũng cảm cùng vua tôi nhà Trần

chống quân Nguyên trong các truyện của Hà Ân, hay người dân Bình Định, Phú

Xuân trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Chí Hiển, Trê, anh em cả

75

Mộc, Thoan trong Trần Quốc Toản của Lưu Sơn Minh… Điểm chung của các

nhân vật này là đều có tinh thần yêu nước, dũng cảm, ý chí chiến đấu chống kẻ thù

xâm lược. Nếu như ở Trăng nước Chương Dương của Hà Ân, những nhân vật như

Chí Hiển, Trê hiện lên khá mờ nhạt thì trong Trần Quốc Toản, nhân vật Hoàng

Chí Hiển hiện lên khá đậm nét và sinh động. Hoàng Chí Hiển là phó tướng của

Trần Quốc Toản, cùng với Quốc Toản lãnh đạo đoàn quân tuổi trẻ trực tiếp ra trận

và lập được nhiều chiến công. Nhân vật Thoan - em vợ của tướng quân Nguyễn

Khoái, cô thiếu nữ thôn quê dưới trướng tướng quân Chiêu Văn Vương Trần Nhật

Duật tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã dũng cảm tham gia vào hàng ngũ đánh giặc. Giữa

Thoan và Trần Quốc Toản có mối tình chưa kịp nói thành lời để lại nhiều day dứt,

tiếc nuối… Những nhân vật như Chí Hiển, Thoan, Trê, anh em Cả Mộc tuy là

nhân vật hư cấu nhưng lại được miêu tả khá sinh động, góp phần làm nổi bật nhân

vật trung tâm Trần Quốc Toản.

Trong Bão táp triều Trần, bên cạnh các NVAH là nhân vật chính, nhân vật

trung tâm như Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Trần Thủ Độ thì những NVAH

hữu danh, vô danh là nhân vật phụ cũng được nhà văn quan tâm thể hiện. Đó là

nhân vật Lão Dương, một v sĩ thượng thặng, một cung thủ có tài bách bộ xuyên

dương đã cứu Trần Thánh Tông thoát khỏi cơn nguy khốn khi bị giặc Thát đuổi

bắt. Khi về già, lão vẫn góp công lao trùng hưng đất nước. Hay những người dân

và binh lính nhà Trần của một thời sát Thát, đại diện cho sức mạnh cộng đồng, có

thế đẩy nước lật thuyền. Tất cả họ là một tập thể anh hùng xoay quanh người anh

hùng thủ lĩnh. Các NVAH hữu danh và vô danh này có vai trò quan trọng trong

việc đề cao lòng yêu nước và vai trò của quần chúng nhân dân, coi nhân dân là

gốc rễ của đất nước, là cội nguồn sức mạnh, là yếu tố quyết định vận mệnh dân tộc

trong những cơn nguy biến.

Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác cũng xây dựng nhiều NVAH

là những con người áo vải, chân đất đứng bên cạnh nhân vật trung tâm Nguyễn

Huệ, góp phần làm nên bao chiến công trời long đất lở. Sự góp mặt của những

người anh hùng này đã góp phần mở rộng không gian tác phẩm. Tác giả đã đề cao

vai trò của những anh hùng xuất thân từ tầng lớp bình dân trong các chiến công

hiển hách và sự nghiệp của nhà Tây Sơn. Đó là chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút,

là không khí trang nghiêm trong ngày lễ lên ngôi của Nguyễn Huệ, âm hưởng

76

hùng tráng của những đoàn quân vô tận theo tiếng gọi của lòng yêu nước tiến ra

Bắc dẹp tan quân Thanh: “Dòng người áo vải chân đất nối tiếp mãi từ các làng

xóm, các khu phố, các bến đò đổ về núi Ba Tầng, tưởng không thể nào dứt. Cờ

đào bay phần phật trong gió, bụi đường tỏa lên bám vào thân áo vải, bước chân

dồn dập che lấp cả những tiếng rì rầm nói chuyện, tiếng thở leo dốc, tiếng ơi ới gọi

người thân, lời dặn dò cuối cùng” 210; 399].

Ngoài ra, dựa trên vai trò, sự nghiệp của NVAH có thể phân chia thành:

nhân vật anh hùng dựng nước, nhân vật anh hùng giữ nước, nhân vật anh hùng

đồng thời là danh nhân văn hóa. Trong các TTLS Việt Nam sau 1975, cách phân

chia này không mới, nhưng theo chúng tôi là rất có ý nghĩa trong việc nhận diện

vai trò, sự nghiệp của NVAH trong hành trình lịch sử dân tộc.

3.1.2. Nhân vật anh hùng nhìn từ công lao, sự nghiệp của người anh hùng

3.1.2.1. Nhân vật anh hùng dựng nước

NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975 là những con người mang trong

mình khát vọng giữ vững nền độc lập và xây dựng đất nước mạnh giàu, nhân dân

ấm no, hạnh phúc. Họ thường xuất hiện vào những thời điểm đặc biệt của lịch sử

dân tộc. Khi sơn hà lâm nguy hay triều chính mục ruỗng, dân chúng lầm than.

NVAH xuất hiện để cứu nước, an dân. Khi đất nước thanh bình, họ lại gánh vác

trọng trách lo cho dân giàu, nước mạnh, trong nước “không còn tiếng hờn giận,

oán sầu”. Đó là Lý Công Uẩn (Tám triều vua Lý - Hoàng Quốc Hải), Lý Bí (Nam

Đế vạn xuân - Phùng Văn Khai), Nguyễn Hoàng (Minh Sư - Thái Bá Lợi), Trần

Thủ Độ (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải, Trần Thủ Độ - Trần Thanh Cảnh),

Nguyễn Huệ (Sông Côn mùa lũ - Nguyễn Mộng Giác),…

Người anh hùng Lý Công Uẩn trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc

Hải, sau khi lên ngôi báu đã chọn kinh đô Thăng Long làm nơi xây dựng vương

triều mới và bắt tay ngay vào công cuộc kiến thiết nước nhà. Từ đây, bằng tài

năng, sự anh minh đức độ, ông đã mở ra một vận hội mới cho triều đại nhà Lý.

Trong Minh Sư, Thái Bá Lợi đã dày công xây dựng nhân vật Nguyễn Hoàng, một

người tài đức, khoan dung và nhân hậu. Đây là điển hình của bậc vua chúa có tầm

nhìn xa trông rộng. Tác giả đã bám sát các cứ liệu lịch sử và miêu tả một cách chi

tiết hành trình mang gươm đi mở cõi của nhân vật. Nguyễn Hoàng đã chọn Ái Từ,

vùng đất mới thu hồi từ tay nhà Mạc, còn hoang vu, nghèo nàn để phát triển mà

77

không đụng chạm đến quyền lợi của bất kỳ thế lực nào. Việc chọn vùng đất này

làm dinh trấn đã thể hiện trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của đấng quân vương.

Bằng tài đức và trí lực, Nguyễn Hoàng đã thu phục được lòng dân, muôn người

như một, mở mang bờ cõi, khẳng định chủ quyền của Đại Việt… Đinh Bộ Lĩnh

trong tác phẩm cùng tên của Hàn Thế Dũng cũng là người anh hùng mang trong

mình khát vọng độc lập cháy bỏng. Đây là nhân vật lịch sử kiệt xuất của nước ta thế

kỉ thứ X. Với khát vọng được cống hiến tài trí, dẹp bỏ mọi bất công ngang trái, giải

phóng cho muôn dân, ông đã đứng lên dẹp loạn 12 sứ quân, đưa đất nước trở lại thái

bình, thu giang sơn về một mối… Trần Thủ Độ trong Đàm đạo điếu ngư Giác

Hoàng của Bùi Anh Tấn, sau khi phế bỏ nhà Lý, đã quyết tâm xây dựng một triều

đại mới giàu mạnh hơn. Để thực hiện quyết tâm đó, ông một mực trung thành, hỗ

trợ Trần Cảnh hết mình trong việc canh tân xây dựng đất nước.

Theo ghi chép của các sử gia, Quang Trung - Nguyễn Huệ là người có

nhiều công lao trong công cuộc xây dựng và chấn hưng đất nước, sau những ly

loạn chiến tranh. Sau khi thống nhất sơn hà, trong khoảng thời gian từ năm 1789

đến 1792, ông đã cho ban bố Chiếu cầu hiền, Chiếu khuyến nông, Chiếu lập học,

tiến hành những cải cách tích cực nhằm phục hồi và xây dựng đất nước. Trong hầu

hết các TTLS Việt Nam sau 1975, Quang Trung đều được đề cao như một vị

hoàng đế hiếm có của lịch sử nước nhà. Các trang viết đều hết lời ca ngợi ông với

những chiến công lẫy lừng trong công cuộc chống ngoại xâm và cả những quyết

sách có tính cách mạng trong việc xây dựng triều đại mới. Trong Sông Côn mùa

lũ, sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, ông đã

bắt tay ngay vào công cuộc cải cách. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, ý thức tự lực

tự cường với một lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ. Đầu tiên, Quang Trung lập Ngọc

Hân công chúa làm Bắc cung hoàng hậu, đặt trong thế ngang hàng với Trung Hoa

về mặt thể chế triều chính. Đề cao lòng tự hào dân tộc, Quang Trung nhận thấy sự

rập khuôn máy móc theo Trung Hoa là không cần thiết và phải bãi bỏ. Áo hoàng

bào mặc khi đăng ngai hoàng đế, Quang Trung cũng tự mình vẽ mẫu, nhờ Ngọc

Hân may, thêu hộ. Tiếp đến nhà vua cho ban hành Chiếu cầu hiền, nội dung bài

chiếu thống nhất với mong muốn cầu hiền đãi sĩ của Nguyễn Huệ trước khi lên

ngôi. Trên phương diện kinh tế, vốn xuất thân từ tầng lớp nông dân, Nguyễn Huệ

ý thức rất rõ nỗi khổ của nông dân và cũng là nỗi khổ của toàn quân Tây Sơn khi

78

bị đói nghèo thúc bách. Cùng với Chiếu cầu hiền, trong thời gian này, ông cho ban

hành Chiếu khuyến nông nhằm động viên, khích lệ mọi người dân cùng hăng say

tham gia lao động sản xuất. Song hành với phát triển nông nghiệp, Quang Trung

cũng hết sức chú trọng xây dựng luật pháp, ông tỏ ra là một vị vua vô cùng

nghiêm khắc. Về giáo dục, Quang Trung ban hành Chiếu lập học, đề cao chữ

Nôm. Ông cho lập Viện Sùng Chính để các quan lại triều thần dịch sách chữ Hán

ra chữ Nôm, chủ trương lấy chữ Nôm làm ngôn ngữ chính thức của Nhà nước…

Như vậy, trên mọi phương diện đời sống, với cương vị một hoàng đế, Quang

Trung đều có nhiều quyết sách táo bạo. Các quyết sách đó đóng góp quan trọng

cho công cuộc ổn định và chấn hưng đất nước.

Một điều đặc biệt trong TTLS Việt Nam sau 1975 là rất nhiều anh hùng trận

mạc, có công lao lớn trong chiến trận, bảo vệ đất nước lại đồng thời là những người

có tầm nhìn xa rộng, tâm huyết với sự phát triển vững bền, phồn thịnh của dân tộc.

Như vậy, giữ nước phải luôn đi đôi với dựng nước. Đó là Lý Bí (Nam Đế vạn xuân -

Phùng Văn Khai), Trần Hưng Đạo (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải), Nguyễn

Trãi (Hội thề - Nguyễn Quang Thân), Quang Trung Nguyễn Huệ (Sông Côn mùa lũ

- Nguyễn Mộng Giác)…

3.1.2.2. Nhân vật anh hùng giữ nước

Là một dân tộc phải luôn phải đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh,

người anh hùng xuất hiện nhiều nhất, được nhân dân ngưỡng mộ, tôn thờ trước hết

là những người anh hùng có công chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Họ là những

người luôn tỏ rõ bản lĩnh, tài trí, đặc biệt là sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cứu

nước, an dân. Họ thường xuất hiện khi Tổ quốc lâm nguy, đất nước bị xâm lăng.

Họ đóng vai trò là người thủ lĩnh, đứng lên tập hợp nhân dân để chống lại kẻ thù,

bảo vệ nền độc lập. Đó là Ngô Quyền (Ngô Vương - Phùng Văn Khai), Bà Triệu

(Bà Triệu - Hàn Thế Dũng), Lê Lợi (Lê Lợi - Hàn Thế Dũng), Trần Hưng Đạo

(Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải, Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh),

Nguyễn Tất Thành (Búp sen xanh, Bông sen vàng - Sơn Tùng),…

Lê Lợi trong Lê Lợi (Hàn Thế Dũng) không thể cúi đầu cam chịu trước

cảnh giặc Minh xâm lược, vơ vét của cải, giết hại dân lành. Con người bản lĩnh,

hiên ngang ấy đã tụ họp nhân tài đứng lên chống giặc cứu nước. Xuyên suốt tác

phẩm, Lê Lợi hiện lên với vai trò một vị chủ tướng hoạch định đường lối, trực tiếp

79

tổ chức các cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Bằng tài năng về quân

sự, chính trị, ông đã cùng quân và dân ta từng bước đánh đuổi quân Minh ra khỏi

bờ cõi, khôi phục nền độc lập dân tộc, mở ra một triều đại mới phồn thịnh. Lý

Thường Kiệt trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải là người anh hùng tinh

thông văn - võ, có tài dụng binh hơn người, là người đưa ra kế sách “ra tay trước

để chặn giặc”, đánh vào tận nơi xuất phát của quân thù, đồng thời cũng là vị chỉ

huy tài ba của phòng tuyến sông Như Nguyệt, chặn đứng vó ngựa xâm lăng của

giặc Tống.

Trần Quốc Toản trong Trần Quốc Toản của Lưu Sơn Minh là một thiếu

niên yêu nước, có tài năng, lòng dũng cảm cùng ý chí kiên định. Tháng 10 năm

1282, các vua Trần mở hội nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên xâm

lược, không được tham gia hội nghị Bình Than để bàn kế sách đánh giặc (vì Trần

Quốc Toản chưa đủ tuổi), nhưng khi nghe nói trong hội nghị có một số vương hầu

trọn đời ăn lộc nước nhưng lại bàn đến việc cắt đất cầu hòa, Quốc Toản nghiến

răng “bóp nát quả cam vua ban” 237; 99 . Hành động của Trần Quốc Toản, được

ghi chỉ mấy dòng trong chính sử, đã trở thành những trang tuyệt đẹp trong các tiểu

thuyết viết về triều Trần (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải, Trần Quốc Toản -

Lưu Sơn Minh). Với lòng yêu nước, Trần Quốc Toản đã tự chiêu mộ binh sĩ,

thành lập đội quân tuổi trẻ với khẩu hiệu “phá cường địch, báo hoàng ân”, “Cậu

học trò ấy đã trở thành vị tướng của một đạo quân cũng trẻ không kém. Mà đạo

quân tính ra là không ít, đâu tới chừng cả ngàn người” 237; 111 . Tuy rằng còn

non trẻ, chưa từng có kinh nghiệm chiến trường, nhưng đội quân ấy đã khiến cho

các tướng giặc khét tiếng phải khiếp sợ. Đội quân của vị tướng trẻ này đã lập được

nhiều chiến công, góp phần không nhỏ vào chiến thắng chống quân Nguyên Mông

xâm lược của quân dân nhà Trần thế kỉ XV.

Trần Quốc Tuấn trong Bão táp Triều Trần (Hoàng Quốc Hải) và Đức

Thánh Trần (Trần Thanh Cảnh) là con người tài năng, đức độ, cả cuộc đời dốc hết

tài trí cho nước, cho dân. Hai mươi bảy năm ròng rã, ông đã âm thầm trù liệu kế

sách đánh giặc, không ngại hiểm nguy trực tiếp lãnh đạo quân dân ta ba lần đánh

thắng quân Nguyên Mông xâm lược. Với quốc sách Phú Quốc cường binh, chỉ

trong vài năm nhà nhà no đủ, quốc khố dư dật, thế binh mạnh mẽ như sóng cồn.

Trần Quốc Tuấn đã dốc toàn bộ trí tuệ và sức lực vào việc sáng tạo Vạn Kiếp tông

80

bí truyền thư, cuốn sách tổng kết các mưu thuật công thủ đối với kẻ thù. Ông lao

tâm khổ tứ để viết những dòng hịch như lời tự tâm can để khích lệ lòng quân sẵn

sàng cầm vũ khí đứng lên chống giặc. Đặc biệt, Trần Quốc Tuấn còn là người chủ

động từ bỏ mọi tị hiềm giữa hai dòng trưởng thứ để đoàn kết anh em trong gia tộc,

cùng dốc một lòng cứu quốc. Bởi trong ông, dân và nước là trên hết: “Cha bảo con

lấy lại nước là có ý tứ gì. Người chẳng phải có dân, có nước đây rồi sao? Con

cũng đang trong lòng dân, trong nước của mình…” 191; 33-34 . Điều thú vị là

hình tượng Trần Quốc Tuấn trong tiểu thuyết của Hoàng Quốc Hải, Trần Thanh

Cảnh hay Hồng Thái đều được xây dựng như một người anh hùng văn v toàn tài,

có tấm lòng sáng như nhật nguyệt, tài năng và công lao đối với sự nghiệp giữ

nước khó ai sánh bằng.

Lịch sử dân tộc Việt Nam ta là lịch sử liên tục phải chống ngoại xâm, vì thế

hình tượng người anh hùng xông pha trận mạc, ngồi trên mình ngựa, trên voi

chiến, “áo bào sạm khói súng” luôn luôn là hình tượng đẹp trong tâm thức cộng

đồng và cũng rất đẹp khi đi vào các TTLS Việt Nam sau 1975.

3.1.2.3. Nhân vật anh hùng đồng thời là danh nhân văn hóa

Trong TTLS Việt Nam sau 1975, có những hình tượng anh hùng vừa là

người giữ nước, dựng nước vừa là biểu tượng kết tinh những tinh hoa văn hóa dân

tộc. Có nhiều anh hùng dân tộc đã vượt qua tư duy chật hẹp của thời đại, thể hiện

những tư tưởng tiến bộ, tích cực, biết đề cao và phát triển những giá trị văn hóa

của dân tộc và nhân loại. Trong số các anh hùng được nhà TTLS xây dựng theo

hướng này, đáng chú ý hơn cả là Nguyễn Trãi (Đất trời - Nam Giao); Trần Nhân

Tông (Bão táp triều Trần - Hoàng Quốc Hải); Nguyễn Công Trứ (Thông reo ngàn

Hống - Nguyễn Thế Quang)… Trong biên độ rộng mở của tiểu thuyết lịch sử,

nhân vật Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặc biệt được các nhà văn quan tâm:

Cha và con - Hồ Phương, Búp sen xanh, Bông sen vàng - Sơn Tùng, Mặt trời Pác

Bó, Giải phóng - Hoàng Quảng Uyên, Gió bụi đầy trời - Thiên Sơn…

Trong lịch sử đời Trần, Trần Nhân Tông là vị vua được nhắc đến nhiều nhất

bởi cuộc đời của ông gắn liền với chiến công vang dội chống quân Nguyên Mông

xâm lược, gắn với đường lối trị quốc lấy nhân nghĩa làm gốc. Ông cũng là người

sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng, nơi được công nhận là di sản

văn hóa thế giới. Nói về Trần Nhân Tông, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ

81

Liên viết: “Tên húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh

Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng

11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể

chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử.

Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi

14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân núi

Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp

trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần” 91; 235].

Dưới con mắt các sử gia, Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh, có nhiều công

lao với đất nước. Tuy nhiên, đánh giá về ông với mấy dòng ngắn ngủi như vậy quả

thật chưa xứng tầm với một đại anh hùng dân tộc. Với niềm yêu mến con người tài

đức vẹn toàn này, Hoàng Quốc Hải đã dành hẳn hai tập tiểu thuyết để ca ngợi ông.

Vua Trần Nhân Tông xuất hiện trong Thăng Long nổi giận khi cuộc kháng chiến

chống quân Nguyên Mông đến mức căng thẳng nhất. Hốt Tất Liệt phái năm chục

vạn binh do Thoát Hoan thống lĩnh đang tiến vào Đại Việt. Lúc này, trước tình thế

đất nước ngàn cân treo sợi tóc, Trần Nhân Tông đã nỗ lực hết mình huy động sức

mạnh của toàn quân, toàn dân đánh đuổi quân Nguyên Mông ra khỏi bờ c i Đại

Việt. Trước tiên phải dẹp yên những bất hòa và vướng mắc trong tôn thất nhà Trần

để hướng về mục tiêu chung. Trần Nhân Tông đã nói với Trần Nhật Duật rằng:

“Phải gỡ bỏ hiềm khích trong hoàng tộc. Nếu không thì mối nguy sẽ từ đấy mà ra”

[213; 110]. Sau này, đứng trước sự phản đối của cả triều đình, hầu hết các đại thần

đều muốn cất quân đòi lại miền đất hai châu Ô, Lý chứ không muốn gả công chúa

Huyền Trân cho Chế Mân, Trần Nhân Tông vẫn nhất quyết gả con gái về Chiêm.

Không mấy ai thấu hiểu hết được cao kiến và đức hi sinh của nhà vua trong hành

động “gây tình hoà hiếu cốt nhục để cùng nhau chống cái hoạ phương Bắc. Hai

nước dựa vào nhau làm thế ỷ dốc để cùng trường tồn” 213; 110]. Ông đặc biệt coi

trọng người tài, không phân biệt giai tầng, tuổi tác, nguồn gốc xuất thân. Nhà vua

đã giành trọn niềm tin cho Trần Quốc Tuấn, giao phó toàn bộ binh quyền cho vị

tướng có biệt tài dụng binh. Với cách dẫn dắt các sự kiện, tình tiết của câu chuyện,

nhà văn đã cho độc giả thấy một Trần Nhân Tông với tư tưởng “lòng dân là thành

trì vững chắc nhất, được lòng dân là có cả thiên hạ”. Ngoài ra, Trần Nhân Tông

82

còn là “Phật hoàng” trong tâm thức nhân dân, có vai trò quan trọng trong lịch sử

Phật giáo.

Trong chính sử và tâm thức cộng đồng, Nguyễn Trãi được đánh giá là một

trong những anh hùng dân tộc, đồng thời là danh nhân văn hóa tiêu biểu của dân

tộc. Nói về Nguyễn Trãi, Phan Huy Lê cho rằng: “Trong lịch sử Việt Nam,

Nguyễn Trãi là: một anh hùng dân tộc vĩ đại, một danh nhân văn hóa kiệt xuất. Đó

là một người văn v song toàn, tài đức trọn vẹn, gồm đủ nhân, trí, dũng” 88;

1099]. Trong một số TTLS Việt Nam sau 1975 như Sao khuê lấp lánh của Nguyễn

Đức Hiền, Đất trời của Nam Dao, Vằng vặc sao khuê của Hoàng Công Khanh,

Oan khuất của Bùi Anh Tấn…, các nhà văn đã phần nào khắc họa được chân dung

Nguyễn Trãi với những phẩm chất sáng chói về tư tưởng nhân văn, tầm nhìn vượt

thời đại của một thiên tài, một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ, nhà văn hóa

lớn. Hình tượng Nguyễn Trãi hiện lên trong Sao Khuê lấp lánh thật đẹp và vĩ đại.

Nguyễn Trãi không chỉ là một thiên tài hiếm có, văn v song toàn, một vị quan

công minh chính trực mà còn là tác giả của những khúc nhạc với lời ca trong sáng

“diễn tả được cuộc sống êm đềm và hạnh phúc của người dân” 222; 32]. Những

điệu “rí ren” mà dân Lam Kinh quen gọi của Nguyễn Trãi được các môn sinh hết

mực ca ngợi: “Đấy mới chính là cái góc văn, góc nhạc của nước Đại Việt ta” 222;

127]. Trong tâm trí của các môn sinh, ông là người thầy mẫu mực, đáng được tôn

kính. Bởi người thầy ấy giống như một người cha luôn chăm sóc và dạy bảo học

trò tận tình, nghiêm khắc và tràn đầy tình yêu thương. Với Đất trời, Nam Giao

cũng đã xây dựng một tượng đài văn hóa dân tộc thông qua hình tượng nhân vật

Nguyễn Trãi. Bi kịch cuộc đời của người anh hùng dân tộc được lý giải là “sự

xung đột văn hóa giữa người Kinh (người quyết tâm Nho giáo hóa nền văn hiến)

với người Mường (các v tướng Lam Sơn), lòng tận trung xung đột với sự hoài

nghi, đố kỵ” 200; 45]. Trong Những vì sao đất nước, tư tưởng văn hóa của

Nguyễn Trãi thể hiện rõ ở khát vọng xây dựng một đất nước “yên dân, yên thế

nước”. Để thực hiện khát vọng đó, ông đã đưa những bài học làm người vào trong

các bài dạy cho Thái tử để hướng đến mục tiêu lâu dài cho công cuộc an dân, trị

nước đúng đường, đúng “khuôn phép”. Khía cạnh văn hóa trong con người

Nguyễn Trãi còn được thể hiện trong tác phẩm qua những trang viết miêu tả cách

thức ngoại giao và cách ứng xử lịch lãm với mọi người.

83

Với người anh hùng thời hiện đại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều nghệ sĩ

của các ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu,

điện ảnh… đã sáng tạo và khai thác trên nhiều bình diện. Điều đó cũng trở thành

một thách thức lớn cho các nhà tiểu thuyết khi muốn xây dựng một tượng đài Hồ

Chí Minh độc đáo cho riêng mình. Trong cuộc đua tranh đó, một số tác giả TTLS

như Sơn Tùng, Hoàng Quảng Uyên, Nguyễn Thế Quang, Thiên Sơn… cũng đã để

lại được những dấu ấn khá đậm nét. Các trang văn đã dựng lại cả hành trình

trưởng thành của một thiên tài, từ cậu bé Cung, đến Nguyễn Tất Thành, đến nhà

yêu nước Nguyễn Ái Quốc và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân

tộc. Nếu như trong Cha và con, Hồ Phương tập trung làm nổi bật vai trò, sức ảnh

hưởng của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến quá trình hình thành nhân cách của

cậu bé Nguyễn Sinh Côn thì ở Khúc hát những dòng sông, Nguyễn Thế Quang lại

khắc họa hình ảnh người mẹ vĩ đại Hoàng Thị Loan trong hành trình dìu dắt, dạy

dỗ người con yêu thương của mình. R ràng, với Sơn Tùng, Hồ Phương và

Nguyễn Thế Quang, vĩ nhân, ngoài những phẩm chất phi thường, siêu việt còn là

con người bằng xương bằng thịt, tâm hồn, tính cách được kết tinh từ văn hóa

truyền thống, tình làng nghĩa xóm và sự giáo dưỡng của gia đình. Còn Trái tim

quả đất của Sơn Tùng, Trông vời cố quốc, Mặt trời Pác Bó, Giải phóng của

Hoàng Quảng Uyên, Hai ngày và mãi mãi của Cao Năm, Gió bụi đầy trời của

Thiên Sơn lại tô đậm những quãng đường khác nhau trên hành trình cứu nước vĩ

đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Các nhà văn, qua cuộc đời gian lao, cao

cả của nhân vật đã chứng minh một triết lí: nhân cách ấy, tài năng ấy là sự kết tinh

những gì tốt đẹp nhất của truyền thống gia đình, quê hương và văn hóa bốn ngàn

năm lịch sử của dân tộc, và sau đó là sự tiếp thu những gì tinh túy của văn hóa các

dân tộc trên thế giới.

Như vậy, NVAH trong các TTLS Việt Nam sau 1975 có thể được phân loại

theo những cách thức khác nhau, tùy theo quan điểm, tiêu chí phân chia loại hình

nhân vật. Trong chương 3 luận án, ở phần tiếp theo, chúng tôi muốn đề cập đến ba

kiểu loại NVAH nổi bật trong TTLS Việt Nam sau 1975, dựa trên lý thuyết diễn

ngôn, xem các TTLS trước hết là các diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết.

84

3.1.3. Nhân vật anh hùng nhìn từ lý thuyết diễn ngôn

Diễn ngôn là thuật ngữ do J. Lacan đưa ra, sau đó được G.Guillaume và E.

Benveniste dùng từ những năm 60 của thế kỷ XX. Từ đây, nghiên cứu diễn ngôn

(hay còn gọi là phân tích diễn ngôn) trở thành một trào lưu khoa học phát triển

rầm rộ ở châu Âu và diễn ngôn trở thành một khái niệm được lưu hành rộng rãi

trong ngôn ngữ học và nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Với các nghiên

cứu của M. Foucault, J. Derrida, R. Barthes…, diễn ngôn lại xuất hiện với những

hàm nghĩa mới. Trong Từ điển Tu từ - Phong cách – Thi pháp học của Nguyễn

Thái Hòa (Nxb Giáo dục, 2005), tác giả đề cập đến 4 cách hiểu khác nhau về diễn

ngôn: 1/ Diễn ngôn là ngôn ngữ đang hoạt động (langage) được đảm nhận bởi chủ

đề nói, tức là đồng nghĩa với lời nói. 2/ Diễn ngôn là đơn vị tương đương trên câu,

nó được thiết lập bởi một thông báo (…) tức là tương đương với phát ngôn. 3/

Diễn ngôn khác với văn bản ở chỗ ghi lại bằng các ký hiệu chữ viết. 4/ Diễn ngôn

được xem như là cái nói ra, được xem xét từ quy tắc chuỗi kế tục các câu (…).

Các nhà phê bình văn học như T. Todorov, G. Genette đưa ra các cấp độ khác với

thức hay là lớp; cấp hình thức tương đương với diễn ngôn, cấp nội dung tương

đương với chuyện. Diễn ngôn không chỉ bao gồm thức kể chuyện mà còn có

giọng, điểm nhìn…, xếp đặt sự kiện và hiện thực hóa những mối liên hệ rộng hơn

giữa tác giả hàm ẩn và người đọc hàm ẩn.

Với sự ứng dụng phong phú, hiện nay, diễn ngôn đi theo ba hướng tiếp cận

chủ yếu: hướng tiếp cận ngôn ngữ học, hướng tiếp cận phong cách học và hướng

tiếp cận xã hội học (trong luận án, chúng tôi chú ý khai thác hướng tiếp cận phong

cách học, có kết hợp với hướng tiếp cận xã hội học). Trong hướng tiếp cận phong

cách học, tư tưởng về diễn ngôn của M. Bakhtin chú ý đến bình diện sinh thành

của ngôn ngữ, tức là ngôn ngữ trong đời sống, trong hoạt động giao tiếp. Ông đề

xuất thuật ngữ “siêu ngôn ngữ”, coi ngôn ngữ như một thực thể đa dạng, sống

động, là mảnh đất mà ở đó diễn ra các đối thoại, tranh biện của những tư tưởng,

quan niệm khác nhau về con người và thế giới. Tiểu thuyết, trong quan niệm của

M. Bakhtin chính là thể loại “ở thì hiện tại”, nơi tồn tại các diễn ngôn phức tạp, ở

đó các tư tưởng luôn có xu hướng đối thoại với nhau, thể hiện ở cấp độ tác phẩm

là tiểu thuyết đa thanh (điển hình là tiểu thuyết Dostoyevsky), còn ở cấp độ ngôn

ngữ thể hiện ở lời văn phức điệu. Còn ở hướng tiếp cận xã hội học (gắn với những

85

quan niệm về diễn ngôn của M.Foucault), người ta coi tất cả các phát ngôn hoặc

văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó đều là diễn ngôn, ở đó luôn tồn tại hệ

thống những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức tư duy… được hình thành

trong một bối cảnh xã hội cụ thể.

Xem xét các TTLS dưới lý thuyết diễn ngôn, có thể nhận thấy mỗi tác

phẩm, mỗi NVAH là một quan niệm, là một phát ngôn của nhà văn, gắn với chủ

thể, nội dung, mục đích, môi trường phát ngôn. Lịch sử đã diễn ra theo một con

đường, đã được ghi lại trong sử sách. Nhưng cách diễn giải về nó, suy ngẫm về

nó thì luôn luôn tồn tại những khác biệt. Thực ra, cũng cần thấy rằng, chính sử là

sự ghi chép sự thật lịch sử, nhưng bao giờ cũng thể hiện một quan điểm, lập

trường nào đó. Các sử gia thời phong kiến - dù rất đề cao việc tôn trọng sự thật -

nhưng ít nhiều cũng phải chịu tác động từ quan điểm nho gia và cả sự chi phối

của chính quyền phong kiến đương thời. Đã có những nghi ngờ có sự can thiệp

của ai đó làm cho Ngô Sĩ Liên đã thiếu khách quan khi viết về Nguyễn Trãi, Thị

Lộ và vụ án Lệ Chi Viên. Đã có tư liệu nói về việc vua Lê Thánh Tông đòi các sử

gia phải cho mình biết những gì họ đã viết về mình. Đưa nhân vật, sự kiện vào

tiểu thuyết, các nhà văn lại sử dụng cách nhìn, quan điểm của riêng mình. Có thể

xem TTLS là một diễn ngôn phức tạp gồm một hệ thống các diễn ngôn của người

kể, của nhân vật, của nhà văn, của cộng đồng... Trong các TTLS, chủ thể phát

ngôn là nhà văn, thể hiện quan điểm của nhà văn, nhưng mục đích phát ngôn lại

hướng tới cộng đồng tiếp nhận, bao gồm cả người đọc thực tế và người đọc “tiềm

ẩn”. Khác với các tiểu thuyết thông thường, các cây bút TTLS chịu một áp lực là

họ đang viết lại “những cái đã có”. Và như chính các nhà văn tâm sự, họ luôn

phải đặt câu hỏi: có đúng với lịch sử như nó diễn ra không? có chỗ nào “xuyên

tạc lịch sử không”. Lưu Sơn Minh đã bộc lộ điều này khi nói rằng: “Có những

ngưỡng mà hư cấu không thể vượt qua. Đó là ngưỡng của chính lương tâm tác giả

đối với lịch sử. Không thể vì đề cao người này mà dìm người khác xuống bùn

nhơ. Càng không thể mượn nhân vật lịch sử để chuyển những thông điệp đầy tính

cá nhân của chính tác giả” 100]. Nguyễn Thế Quang thì cho rằng “tôi chọn viết

về đề tài lịch sử với mong muốn bạn đọc hiểu đúng lịch sử hơn. Tôi viết không

phải để hoài cổ mà để khám phá bản chất của lịch sử, cùng bạn đọc đối thoại với

thực tại để sống đúng hơn, tốt hơn” [134].

86

Như vậy, lịch sử (nói đúng hơn là chính sử) vừa là điểm tựa, đồng thời

cũng là “đối tượng để đối thoại” (chữ dùng của nhà văn Hoàng Minh Tường).

Đó là thuận lợi và cũng là khó khăn của các nhà TTLS. Nhà văn đối thoại bằng

hư cấu, bằng hệ thống nhân vật, giọng điệu, ngôn từ. Trong đó, nhân vật luôn

luôn là nơi tập trung nhất cái nhìn, quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Và tất

nhiên, bao giờ cũng có một độ “chênh” nào đó giữa những điều được ghi chép

lại trong chính sử, lưu truyền trong cộng đồng và những gì nhà văn hư cấu, suy

tư, chiêm nghiệm.

Xem xét các TTLS như các diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết, chúng tôi

muốn đi sâu vào ba kiểu loại NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975, dựa trên

quan điểm của lý thuyết diễn ngôn: 1. Loại NVAH xây dựng theo xu hướng đồng

hướng với ch nh sử; 2. Loại NVAH xây dựng theo xu hướng bổ khuyết, đối thoại

với ch nh sử; 3. Loại NVAH xây dựng theo xu hướng mượn lịch sử để đào sâu,

khám phá con người cá nhân, đời tư. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ là tương

đối, nhằm phân loại để nghiên cứu, còn trên thực tế ở thế giới NVAH thường có

sự kết hợp, đan xen sinh động. Sự giao thoa này không chỉ thể hiện trong sáng

tác của một nhà văn mà cả trong một NVAH nào đó. Chẳng hạn nhân vật Trần

Thủ Độ trong Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Hồ Quý Ly trong Hồ

Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Trần Hưng Đạo trong Đức Thánh Trần của

Trần Thanh Cảnh… có những mặt đồng hướng, thống nhất với cách nhìn của

chính sử, nhưng cũng có những mặt nhà văn muốn bổ sung, đối thoại với chính

sử, lại đồng thời có mặt nhà văn muốn phát huy thế mạnh tiểu thuyết, đi sâu

khám phá người anh hùng ở phương diện cá nhân đời tư.

3.2. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng đồng hƣớng với

chính sử

3.2.1. Khẳng định vai trò của người anh hùng trong những bước ngoặt lịch sử

Trong chính sử, trong tâm thức cộng đồng, người anh hùng luôn là những

vĩ nhân xuất hiện đúng lúc, ở những thời điểm gian nguy của đất nước. Họ là

những con người “thay trời hành đạo”, gánh vác trọng trách nặng nề trước trăm

họ. Cuộc đời họ gắn liền với các quyết định sáng suốt, các chiến công hiển hách,

giữ vững nền độc lập dân tộc, đem lại yên ổn cho nhân dân, thúc đẩy lịch sử tiến

về phía trước. NVAH được sáng tạo theo xu hướng đồng hướng với chính sử có

87

thể kể đến Bà Triệu trong tác phẩm cùng tên của Hàn Thế Dũng, Đinh Bộ Lĩnh trong

Mười hai sứ quân của Vũ Ngọc Đĩnh, Ngô Quyền trong Ngô Vương của Phùng Văn

Khai, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt trong Tám triều vua Lý của Hoàng Quốc Hải,

Trần Hưng Đạo trong Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Huệ trong

Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh… Nói “đồng hướng với chính sử” trước

hết là nói ở quan điểm, cách nhìn, sau đó là bút pháp thể hiện nhân vật. Ở đây dường

như có sự gặp gỡ giữa chính sử, tâm thức cộng đồng và quan điểm của nhà văn.

“Đồng hướng” cũng không bao giờ là sự lặp lại, sao chép giản đơn.

Lịch sử Việt Nam đi qua những bước thăng trầm và những cuộc chiến tranh

khốc liệt. Rất nhiều TTLS đã tập trung xây dựng thành công tình huống xuất hiện

người anh hùng. Họ sinh ra do yêu cầu của thời đại, đồng thời họ làm nên những

trang lịch sử chói lọi. Khi đất nước bị xâm lăng, họ đã đứng lên tụ họp nhân tài,

lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại bang, giữ vững nền độc lập. Để thực hiện

khát vọng lớn lao đó, người anh hùng cần có đủ tài trí, đức độ và lòng dũng cảm.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư (phần Đại Việt sử ký ngoại sử toàn thư - kỷ Nam

Bắc phân tranh) có dành khoảng 1 trang (tr. 118-119) viết về sự nghiệp của Ngô

Quyền, từ việc giết Kiều Công Tiễn đến chiến thắng quân Hoằng Tháo nhà Nam

Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nhà nước Đại Việt.

Ngô Vương của Phùng Văn Khai cũng dựng lại cuộc đời Ngô Quyền cùng hướng

với những gì sử gia đã ghi. Ngô Quyền gặp cảnh trong nước có kẻ loạn thần rước

voi giày mả tổ và kẻ thù Nam Hán đang lăm le bờ c i: “Nay việc nước gặp phải

phản thần Kiều Công Tiễn làm trái đạo trời, tự tiện giết chúa rước giặc ngoại

xâm vào bờ c i (…). Hán đế Lưu Cung đã mấy lần phái binh xuống hòng chiếm

cứ An Nam, đặt nước ta thành quận huyện của Hán triều” 227; 282 . Ông đã

thấy được âm mưu của ngoại bang: “Nay Giao vương Lưu Hoàng Tháo đem

mười vạn binh thuyền, tiếng là giúp phản thần Kiều Công Tiễn tại vị song bên

trong là muốn nuốt trọn An Nam mà thôi”. Ông đau xót trước cảnh bọn nghịch

thần bán rẻ nền độc lập, tự chủ của dân tộc mà cha ông đã đổ bao máu xương

mới giành được: “Nhớ ngày trước, ta cùng các tướng đã hai phen huyết chiến với

bọn Lý Khắc Chính, Lý Tiến, Trần Bảo, tốn bao máu xương mới đuổi được

chúng về phương Bắc. Nay chỉ vì mưu riêng, vì lòng tham làm mờ mắt mà họ

Kiều lại rước hoạ xuống phương Nam”. Trước tình hình nguy nan đó, được sự

88

suy tôn của các tướng và sự chỉ bảo của các bậc trưởng lão, Ngô Quyền đã huy

động trí lực của tướng sĩ, cùng nhau chống giặc: “Nay ta được các tướng suy tôn

cầm binh đánh giặc, lại được các bậc lão trượng trong ngoài Đại La thành chỉ

cho điều hay lẽ phải ở đời, muốn nhân đây hỏi kế đánh giữ, tiến lui trước giặc

mạnh” 227; 282 . Có thể thấy, Phùng Văn Khai đã đặt người anh hùng Ngô

Quyền vào một tình thế nguy nan, để nhân vật vượt lên trên tất cả những thử

thách cam go đó, lãnh đạo toàn dân đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch

Bằng năm 938, chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ mới, thời

kỳ độc lập, tự chủ của dân tộc Đại Việt.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép khá tỉ mỉ về các sự kiện, các chiến công của

triều đại nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Trong Bão táp

triều Trần, Hoàng Quốc Hải cũng dựng lại sinh động bối cảnh, nhiều gương mặt

các bậc vua chúa, tướng lĩnh anh hùng nhà Trần khá sát với Quốc sử. Nhân vật

Trần Nhân Tông là một ví dụ. Sứ đoàn Đại Việt do Trần Di Ái sang Yên Kinh

cống tiến bị Hốt Tất Liệt giữ lại, lập ra triều đình bù nhìn, cử Sài Thung dẫn về

Thăng Long cùng đội quân năm nghìn tên hộ tống. Đây là một cuộc bang giao

bằng sức mạnh của cung kiếm. Nếu vua tôi nhà Trần cưỡng lệnh sẽ là cái cớ để

khơi ngòi cuộc chiến. Tình thế đó đòi hỏi nhà vua phải rất sáng suốt để cư xử cho

khéo làm sao để cuộc chiến nổ ra càng chậm càng tốt vì lúc này ta chưa đủ lực để

sẵn sàng nghênh chiến. Đoán biết Sài Thung với danh nghĩa sứ giả sẽ đi trước còn

triều đình bù nhìn núp bóng theo sau, Trần Nhân Tông đã gửi chiếu thư cho Hưng

Đạo Vương phải đón đánh bọn này ngay khi chúng đặt bước chân đầu tiên vào đất

ta và bắt cho được bè lũ phản bội đem về trị tội. Sài Thung nghênh ngang, phách

lối luôn tìm cớ để gây hấn, Nhân Tông nhún nhường nhưng không làm mất thể

diện quốc gia. Những gì hắn đòi nếu không phạm vào quốc thể nhà vua đều đáp

ứng. Còn như các yêu sách của nhà Nguyên như đòi quân trưởng tới chầu, nộp

sổ kê biên dân số… Trần Nhân Tông cũng khéo léo biện bác để cự tuyệt: “Xin

các hạ về tâu giùm thiên tử, tôi sinh trưởng ở chốn thâm cung, không biết cưỡi

ngựa, không quen phong thổ, sợ chết dọc đường lại nhọc lòng thiên tử xót

thương. Ngoài ra, con em từ bậc thái uý trở xuống cũng đều như thế cả. Còn như

thiên tử lên ngôi đó là việc lớn của toàn thiên hạ, tiên quân tôi trước đây tuổi cao

sức yếu không đi được đã cử sứ sang dâng biểu cùng các đồ phương vật tiến

cống”; “Quả như lời các hạ nói. Nhưng nước chúng tôi tuy nhỏ, đáng gì để thiên

89

tử bận tâm. Vả lại trong thôn ấp khó tìm ra được người thạo thông chữ nghĩa thì

làm sao mà kê khai được. Nếu như đưa tất cả quan lại của triều đình đi làm việc

này, phải gần hai chục năm mới xong. Tới lúc ấy còn ích gì nữa mà làm. Sợ sổ

sách dâng lên không được như ý, chỉ làm thiên tử nổi giận” 212; 173]. Với tài

năng, đức độ và các quyết sách khéo léo, Trần Nhân Tông đã đoàn kết được toàn

dân, từng bước đưa cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đến thắng lợi.

Nguyễn Huệ được thể hiện trong Hoàng Lê nhất thống ch như một nhân

vật xuất chúng có tài cầm quân, “xuất quỷ nhập thần”, đánh đuổi quân Thanh để

cứu muôn dân. Các tác giả Ngô Gia văn phái, vượt qua những chính kiến của giai

cấp mình, đã miêu tả Nguyễn Huệ như một anh hùng dân tộc vĩ đại, với áo bào

xạm khói, tiến vào kinh thành Thăng Long, thu phục giang sơn. Các tác giả

Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thu Hiền, Lê Đình Danh, Vũ Thanh… cũng đề cao

vai trò to lớn của Nguyễn Huệ. Điểm gặp nhau ở các nhà văn là đã tái hiện thành

công cuộc nội chiến liên miên giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn – cuộc nội chiến

khiến đất nước hoang tàn, nhân dân ly tán, quân thù tứ phía, kẻ sĩ hoang mang.

Tình thế ấy chỉ có thể được giải quyết bởi một cá nhân tài năng xuất chúng, với

khát vọng hưng quốc mãnh liệt, đủ khả năng tập hợp dân chúng và nhân sĩ mọi

miền thành một khối vững chắc để dẹp tan thù trong giặc ngoài. Trong Hoàng đế

Quang Trung, Nguyễn Thu Hiền đã tập trung tái hiện hình ảnh vua Quang Trung

không ngủ quên trên những chiến công hiển hách, vừa lên ngôi đã nhanh chóng

quy hợp nhân tài và dụng công tìm ra những phương sách độc đáo để xây dựng xã

tắc sơn hà hùng mạnh. Tác giả đã nhấn mạnh đến sự thấu triệt của nhà vua về mọi

nỗi đau của dân đen, vì nạn ngoại xâm đều bắt nguồn từ sự suy yếu của sức dân,

sự mục ruỗng của triều chính. Vị hoàng đế mới lên ngôi nhưng đã thấy hết tình

cảnh dân chúng loạn lạc, mỏi mệt sau chiến tranh, kỉ cương phép nước vừa mới

phôi thai, trong nước quân Nguyễn Ánh đang đe dọa Phú Xuân, bên ngoài thì các

đế quốc phương Tây lăm le tranh giành thuộc địa để vơ vét. Nhà vua đã nhận ra

chân lí lớn của thời đại qua câu nói nổi tiếng: "Một cây cột không thể chống đỡ

ngôi nhà cả, mưu lược một người không thể xoay trở cả khối công việc của một

nhà nước sơ khai non trẻ" 223; 263 . Từ sự sắc sảo trong nhìn nhận tình hình của

một trí tuệ lớn, hoàng đế Quang Trung đã tập hợp quanh mình những anh tài tứ

phương để tìm kiếm diệu kế nhằm nhanh chóng chấn hưng đất nước. Nhà vua đã

triệu Ngô Thì Nhậm vào bàn kế xây dựng đất và cho ra nhiều sách lược lớn. Bên

90

cạnh đó, nhà vua cũng đưa ra nhiều chính sách tiến bộ vượt thời đại để tập hợp

hiền tài, sức dân, xóa tan nghi kị tầng lớp, vùng miền và xây dựng khối đoàn kết

toàn quân dân chung tay lo việc nước. Nguyễn Thu Hiền đã dành nhiều trang

viết mô tả những chính sách, công việc của Quang Trung như chính sách tuyển,

luyện binh kết hợp phát triển nông nghiệp, khai khẩn đất đai, mở rộng giao

thương với ngoại quốc, xây dựng lòng tin, nếp sống, tín ngưỡng và phép nước

nghiêm minh, tiến bộ. Tác giả Nguyễn Thu Hiền đã tạo ra nhiều điểm nhấn đặc

tả sự sắc sảo trong trí tuệ của nhà vua. Trong đó phải nói đến việc Quang Trung

không những đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo phát triển hiền tài cho đất nước

mà còn hết sức chú trọng phát triển dân trí. Vua Quang Trung xem nguyên khí

xã tắc vừa là nhân tài vừa là dân trí: "Muốn nước mạnh, binh lực dồi dào, kẻ thù

không dám lăm le nhòm ngó, thì đời sống nhân dân chẳng những no đủ mà trí

tuệ cũng phải mở mang" 223; 273 . Trong đó nhà vua đã đưa ra những quyết

sách đối với việc xây dựng và hoàn thiện chữ Nôm bên cạnh việc tăng cường

bảo lưu, dịch thuật sử sách bằng chữ Hán. Quyết sách này không những thể hiện

tinh thần tự chủ, độc lập mà còn thể hiện một tầm nhận thức siêu việt của ông về

vai trò của thư tịch và lời ăn tiếng nói của dân chúng trong việc xây dựng thành

công một nền tảng xã hội hùng cường dài lâu. Chính nhờ những sách lược đúng

đắn trên của Quang Trung - Nguyễn Huệ mà đất nước nhanh chóng đi vào ổn

định, đời sống nhân dân được cải thiện.

3.2.2. Đề cao trí tuệ, tài năng của người anh hùng

Chính sử thường nhấn mạnh tài năng thiên bẩm của các bậc vua chúa, anh

hùng. Những người như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung… đều

được đánh giá cao ở trí tuệ hơn người, đặc biệt là khả năng thu phục quân sĩ, điều

binh khiển tướng. Trong Bão táp cung đình, sự thông tuệ của Trần Quốc Tuấn

xuất hiện ngay từ thời niên thiếu: “Tài kiêm văn v . Sáu tuổi chàng đã biết làm

thơ. Nay thì lục thao tam lược, không gì là không thông hiểu” [211; 424]. Còn

Nguyễn Huệ lúc mười lăm tuổi với những lời đối đáp rất thông minh làm cho thầy

giáo của mình kinh ngạc. Một lần khi nghe Thầy giáo dạy mình về sử Nam, Huệ

đáp: “Tại sao ta không học sử nước mình mà tụng làu làu Bắc sử? Tại sao không

học chữ nước mình? Cái loại chữ thường gọi là “chữ ta”, thưa thầy” 208; 152].

Hay trong Búp sen xanh, cậu bé Nguyễn Sinh Côn đã bộc lộ tư chất thông minh

sáng dạ từ khi còn nhỏ. Khi thầy cử Quý rót dầu vào đĩa đèn, vô ý để dầu chảy ra

91

đế đèn, thầy liền ra vế đối: “Thắp đèn lên dầu vương ra đế”. Trong khi trò Khiêm

(người anh trai) đưa ra vế đối: “Đốt nhang rồi gió thổi bay tàn” thì trò Côn đối:

“Cưỡi ngựa dong thẳng tấn lên đường”. Tấn có nghĩa là tiến lên cũng có nghĩa là

nhà Tấn; đường còn có nghĩa là nhà Đường. Nhà Tấn lập ngôi vua, nhà Đường lập

ngôi đế, vế đối vượt cả vế thầy ra” [271; 150 … Người anh hùng phải là người

thông minh thiên bẩm, “anh hoa phát tiết ra ngoài” ngay từ khi còn nhỏ. Đây là

một tiêu chuẩn có tính điển mẫu về người anh hùng.

Đặc điểm nổi bật nhất của người anh hùng trong TTLS là tài năng về

quân sự. Các tác phẩm như: Ngô Vương (Phùng Văn Khai), Sông Côn mùa lũ

(Nguyễn Mộng Giác), Tây Sơn bi hùng truyện (Lê Đình Danh), Nhất thống sơn

hà (Vũ Thanh), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải), Hội thề (Nguyễn Quang

Thân)… đều đã miêu tả rất thành công tài năng cầm quân, phán đoán tình thế,

biết địch biết ta, bách chiến bách thắng của Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,

Nguyễn Huệ…

Trần Quốc Tuấn là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt

Nam. Trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông (1285 – 1288), ông -

trụ cột của triều đình nhà Trần, đã lãnh đạo quân dân ta đánh thắng quân Nguyên

- Mông xâm lược. Ở mỗi lần đó, Trần Quốc Tuấn đều đề ra những chiến lược,

sách lược quân sự phù hợp, sáng suốt để đối phó với giặc. Trong Bão táp triều

Trần, người đọc có thể hình dung ra một Trần Quốc Tuấn với tài năng quân sự

xuất chúng. Tài năng ấy thể hiện trước hết ở khả năng nhìn r được thế trận,

đoán đúng hướng đi của giặc từ đó đề ra kế sách phù hợp: “Từ Phú quốc cường

binh sách đến Vạn kiếp tông bí truyền thư, từ Dụ chư tì tướng hịch văn nay lại

đến kế Thanh dã. Tất cả những mưu thuật đó cấu thành quốc sách chống giặc

Nguyên Mông của nhà nước Đại Việt” 213; 286]. Trong cuộc kháng chiến

chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn được vua Trần Thái

Tông giao nhiệm vụ đứng đầu một đạo quân bộ chặn đánh địch ở vùng lãnh thổ

phía tây Bắc Tổ quốc. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, toàn bộ

vùng lãnh thổ phía tây Bắc Tổ quốc được kiểm soát chặt chẽ. Không những thế,

những thông tin mà Trần Hưng Đạo gửi về có ý nghĩa quan trọng đối với việc

hoạch định kế sách chung của triều đình nhà Trần. Trần Thủ Độ đã đánh giá tài

năng của Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần

thứ nhất như sau: “Ta xem cách thu phục người man, cách sát cánh cùng họ lấy

92

một chọi mười mà thắng m mãn, đánh tan mấy vạn quân của Đoàn Hưng Trí dễ

như trở bàn tay, đủ biết Quốc Tuấn có tài làm tướng thiên bẩm… nếu không có

Quốc Tuấn phối hợp với mấy đầu mục chặt đứt được cái đuôi ấy, sao Ngột-

lương-hợp-thai chịu nhả Thăng Long ra cho ta” 212; 189]. Trong kháng chiến

chống Nguyên Mông lần hai, trước thế giặc như nước vỡ bờ, Trần Quốc Tuấn đã

vạch ra kế sách kìm chân địch, tích trữ lương thảo, chuẩn bị quân cơ. Và cuối

cùng, là bài hịch nổi tiếng khích lệ tướng sĩ. Với giọng điệu hùng hồn, thống

thiết, Hịch tướng sĩ của ông có giá trị khơi dậy khí thế, làm sáng bừng lên nghĩa

khí Đại Việt, phát huy sức mạnh của ba quân. Khi thế giặc mạnh khiến nhà vua

ngần ngại, Trần Quốc Tuấn đã nói lời quật khởi của núi sông, của trăm họ, của

khí phách mà các bô lão mang đến hội Diên Hồng: "Nếu bệ hạ muốn hàng, trước

hết xin hãy chém đầu thần. Đầu thần nếu còn, xã tắc cũng còn. Xin bệ hạ chớ lo,

thần đã có kế đánh bại giặc" [213; 318]. Hoàng Quốc Hải đã dùng khá nhiều

trang viết để mô tả trận chiến trên sông Bạch Đằng, từ việc Trần Hưng Đạo cùng

các tướng của mình đi “dò hỏi về thủy chế, về độ nông sâu của các con sông

quanh vùng, các ngòi lạch, cồn bãi” 214; 373 , đến việc chỉ huy quân binh thay

nhau làm việc ngày đêm đo đạc mực nước, cưa cắt, đẽo vát đầu cọc, mài lưỡi

rù… tất cả sẵn sang cho trận thủy chiến. Và thế trận trên sông Bạch Đằng đã

minh chứng cho tài quân sự của ông: “Nước rút nhanh, số thuyền giặc bị cọc

đâm thủng đáy hoặc bị cọc ngáng mỗi lúc vón lại nhiều thêm. Những chiếc

thuyền nan bốc cháy đùng đùng và như có trời phù, tự nhiên gió Tây Nam lại

nổi, đẩy những chiếc thuyền lửa phi nhanh như tên bắn, và chúng giăng thành

hàng như một vành đai lửa ôm lấy các chiến thuyền quân Nguyên đang giãy giụa

tháo chạy” 214; 409].

Theo chính sử, Nguyễn Huệ là một v tướng, nhà quân sự thiên tài. Tài

năng quân sự của ông được rất nhiều nhà văn khai thác, thể hiện như Nguyễn

Mộng Giác, Lê Đình Danh, Nguyễn Thu Hiền, Vũ Thanh… Với Tây Sơn bi hùng

truyện, Lê Đình Danh đã miêu tả Nguyễn Huệ là một vị tướng bách chiến bách

thắng, "có tài thao lược, dụng binh tính toán hơn người" 197; 84 . Điều này được

thể hiện khá r trong nhiều trang của tác phẩm. Chẳng hạn, khi Nguyễn Huệ bày

kế hỏa công đánh quân của Tôn Thất Hương: "Trong ống đựng đầy một thứ nhựa

cây, khi ra trận chỉ cần cầm ống này vung về phía địch, nhựa trong ống văng ra,

gặp lửa ở miệng ống lập tức bốc cháy. Giặc bị bỏng tất phải quăng gươm mà

93

chạy" 197; 105 . Hoặc người anh hùng dùng kế giả hoà để giết chết Tống Phước

Hiệp, chiếm được Phú Yên. Trong tác phẩm, Nguyễn Huệ được miêu tả là con

người không chỉ am hiểu binh pháp mà còn tỏ ra "trên thông thiên văn, dưới tường

địa lí", biết đón đúng thời điểm thuận lợi để dùng sức nước, sức gió cho nhiều trận

huyết chiến. Tài thao lược của Nguyễn Huệ cũng được Nguyễn Thu Hiền miêu tả

khá hấp dẫn trong Hoàng đế Quang Trung, đó là những trang kể về chuyện

Nguyễn Huệ thuần phục ngựa hoang thành ngựa chiến; huấn luyện binh sĩ, chế tạo

binh khí, chất nổ, hỏa lôi… Trong Sông côn mùa lũ, giữa lúc Nguyễn Nhạc và hầu

hết các tướng tá cùng mưu sĩ ở phủ Quy Nhơn phân vân chưa hiểu vì sao liên

quân Nguyễn - Xiêm - Miên lại chậm chạp và cố ý trì hoãn việc tiến quân về Gia

“Chúng không muốn tiến quân nhanh vì nhiều lí do:

Quân Xiêm là quân đánh thuê, nên phải tính toán thế nào để tổn thất thật ít mà

thu lợi lộc được thật nhiều. (…) Phần Nguyễn Ánh cũng không muốn quân Xiêm

tiến nhanh. Hắn sang thuê quân Xiêm nên hiểu r lòng dạ quân đánh thuê (….).

Nguyên do thứ ba là chúng không dễ gì nhích chân qua khỏi Sa Đéc. Quân ta ở

Long Hồ do phò mã Trương Văn Đa chỉ huy tuy ít, nhưng như quan đô đốc vừa

nói, ít mà dũng cảm, thiện chiến...” 209; 382-383].

Định thì Nguyễn Huệ đã đưa ra nhận định rất sắc sảo:

Biết địch biết ta trăm trận trăm thắng, điều này luôn được Nguyễn Huệ ứng

dụng hiệu quả trong kế sách dùng binh “lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh”.

Chiến thắng lẫy lừng của quân Tây Sơn trước 5 vạn quân Xiêm, và lần tiến quân

ra Bắc nhanh chóng tiêu diệt 29 vạn quân Thanh là những minh chứng hùng hồn.

Bên cạnh thiên tài quân sự kiệt xuất, người anh hùng còn giỏi trong việc

phát hiện và trọng dụng nhân tài. Nhân vật Trần Hưng Đạo trong Thiệu Bảo Bình

Nguyên là một ví dụ. Biết Phạm Ngũ Lão là người khí phách, Hưng Đạo mời về

làm môn khách trong nhà. Vì mến mộ tài năng của Phạm Ngũ Lão mà Trần Hưng

Đạo chủ ý để ông trình diễn võ thuật mừng thọ Thượng hoàng, coi như là một

cách tiến cử nhân tài với triều đình, còn thuận lòng trao lá ngọc cành vàng trong

nhà về nâng khăn sửa túi cho đấng mày râu có tương lai sự nghiệp hiển hách. Để

thu hút nhân tài, Trần Hưng Đạo mở Giảng võ đường “thu nhận con em bách tính

vào học, cứ hai năm một lần tổ chức thi thố sức lực và quyền cước để lấy vài chục

người xuất sắc nhất” 257; 83]. Trần Hưng Đạo cũng có con mắt tinh tường biết

được điểm mạnh yếu của các thuộc hạ mình. Để chuẩn bị cho trận thủy chiến với

94

quân Nguyên – Mông, Trần Hưng Đạo đã gọi Yết Kiêu vào giao phó công việc,

Vương giao cho Yết Kiêu trong một tháng phải tuyển chọn được ít nhất ba mươi,

nhiều nhất là năm mươi tráng sĩ. Sỡ dĩ Trần Hưng Đạo giao trọng trách này cho

Yết Kiêu mà không phải ái khác, bởi vì “người nô bộc này là bậc kỳ tài trong

thiên hạ về khả năng bơi lội, rất chín chắn và kiên định, đã nhận việc là dứt khoát

làm đến nói đến chốn, bất kể khó khăn trở ngại, chấp nhận cả đổ máu hy sinh”

[258; 53]. Còn với Trần Khánh Dư, ông đã khuyên vị tướng bỏ qua mâu thuẫn cá

nhân, quay trở về “xúm tay gánh vác giang sơn”: “Ta đâu bảo ngài đăng lính, mà

muốn ngài trở lại vị thế Phiêu kỵ đại tướng quân. Chuyện xưa chỉ là mâu thuẫn cá

nhân, không hề làm lu mờ phẩm chất trung quân ái quốc của một chiến tướng lừng

lãy trận mạc như ngài. Phẩm chất ấy là vốn quý của giang sơn xã tắc, dứt khoát

phải cất nhắc vào vị trí xứng đáng” 258; 16]. Nhờ tài thương thuyết của Trần

Hưng Đạo mà Trần Khánh Dư đã quay trở lại triều đình, cùng góp sức vào cuộc

kháng chiến chống quân Nguyên – Mông.

Nguyễn Huệ không chỉ giỏi đánh giặc mà còn là người biết "chiêu hiền đãi

sĩ". Trong Hoàng đế Quang Trung, Nguyễn Thu Hiền miêu tả Nguyễn Huệ là

người “am tường từng năng lực của chư vị anh hùng hơn ai hết" [223; 183].

Nguyễn Huệ lựa chọn Nguyễn Thung, Vũ Đình Tú bởi theo Nguyễn Huệ: "Vì đại

nghiệp, hai anh đã từ bỏ giàu sang về đây tụ nghĩa, thì chẳng thể không đảm nhận

một trọng trách để có cơ hội đóng góp cho sơn trại" [223; 183-184]. Khi thu phục

được tướng cướp V Dũng, Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Nguyễn Huệ mừng rỡ

reo to: "Này đây, Diệu, Dũng là hai cánh tay đắc lực của anh em Tây Sơn, nay Sở

cho thêm đôi cánh nữa, thì lo chi đại nghiệp không thành" [223; 329]. Xuất phát

từ tấm lòng thành, Nguyễn Huệ đã thu phục được rất nhiều người tài giỏi bên

mình. Đúng như Nguyễn Mộng Giác đã viết: "Trí thức lớn của Bắc Hà cỡ như:

Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Huy Ích,… mà phải khuất phục trước

Nguyễn Huệ, không phải chỉ do sức mạnh quyền lực đâu" 210; 153]. Nguyễn

Huệ vì cầu tài mà không ngại đường xa vất vả, năm lần bảy lượt cho người mang

thư đi gặp La Sơn Phu tử. Khi Nguyễn Nhạc chế giễu các nhà nho trong đó có ám

chỉ thầy giáo Hiến, Nguyễn Huệ nói "Chỉ vì lâu nay chúng ta nghĩ thế nên kẻ sĩ

mới bỏ ta mà đi. Đến lúc cần một người có uy tín để nói cho dân nghe theo ta

không tìm thấy ai cả" [209; 104]. Nguyễn Huệ cũng khác ông anh cả về quan

điểm đối với Hoa Kiều. Theo Nguyễn Huệ, Hoa kiều là "cái ng để ta liên lạc với

95

nước ngoài" (...). Không có họ, ta không có hạng môi giới để buôn bán với tàu

buôn nước ngoài được" [210; 401].

Tài năng của các NVAH còn được thể hiện qua nghệ thuật ngoại giao.

Biết mình biết người, hiểu thấu sức mạnh dân tộc để thiết lập một đường lối

ngoại giao phù hợp. Ở Hội thề, nhân vật Nguyễn Trãi được tô đậm ở chiến lược

“mưu phạt tâm công” tác động đến nội bộ quân thù và phân hóa chúng, dụ chúng

quy hàng: “Nếu chúa công mở lượng hiếu sinh tha tội cho bọn Thôi Tụ, Hoàng

Phúc, dụ được chúng ra hàng thì thần vẫn nghĩ là thượng sách hơn là băm vằm

mấy vạn sinh linh trong một cuộc huyết chiến ở Xương Giang” 265; 105]. Theo

ông, việc tiêu diệt dục vọng xâm lược của kẻ thù còn quan trọng hơn là chỉ lo tàn

sát chúng. Bằng sự thấu triệt đời sống nhân sinh, Nguyễn Trãi đã dùng tâm, dùng

ngòi bút, góp phần đuổi quân Minh ra khỏi bờ c i, khôi phục nền độc lập cho dân

tộc. Nguyễn Trãi cho rằng: “Đúng là tội ác của giặc Ngô trời không thể dung, đất

không thể tha. Nhưng nền thịnh trị và thái bình muôn thuở của Đại Việt còn quan

trọng hơn ngàn lần việc trả thù. Rửa thù hôm nay tức là đang gieo mầm cho ngày

mai. Hôm nay giặc chịu thua nhưng ngày mai có thể chúng lại tới” 265; 283]. Vì

thế, trước lúc chia tay, Thái Phúc (tướng nhà Minh) đã ôm chầm lấy Nguyễn

Trãi, mượn thơ của Lý Bạch để bộc lộ: “Nhị Hà thanh thủy thâm thiên xích/Bất

cập Ức Trai tống ngã tình” [265; 322].

Trong Nhất thống sơn hà, sau khi thất bại nhục nhã trong việc xua quân

xâm lăng Đại Việt, Vua Càn Long dù uất ức cũng buộc lòng phải biến thù thành

bạn và dành cho vua Quang Trung tình cảm quý mến: “Càn Long đặc biệt ưu ái

vua Quang Trung giả của mình. Trước mặt bao nhiêu hoàng thân, quốc thích và

sứ thần các nước khác, ông ta đã tự tay phê một bài thơ Ngự Chế tặng vua Quang

Trung (…) Một kỳ sự chưa từng có xưa nay khiến cho cả triều đình nhà Thanh và

các sứ bộ lân bang đều kinh ngạc” 264; 314]. Có thể thấy, ngoại giao khéo léo

cũng góp phần ngăn chặn chiến tranh, giữ vững nền độc lập cho dân tộc.

3.2.3. Đề cao ý chí, bản lĩnh của người anh hùng

Bên cạnh vẻ đẹp của trí tuệ, tài năng, NVAH trong TTLS còn được tô đậm

bởi vẻ đẹp của bản lĩnh kiên cường, sự mạnh mẽ trong cá tính, sự chủ động, quyết

đoán trong suy nghĩ và hành động. Đó là các nhân vật Trần Quốc Toản, Lê Lợi,

Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…

Trong Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái, khi nhà vua mở hội nghị Bình

96

Than để bàn kế sách đánh giặc, triều đình chỉ cho mời những vương hầu đủ 18

tuổi, Hoài Văn bất bình: “Như vậy ta không phục. Tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng

chúng ta cũng biết phân biệt trắng đen, biết ứng thuận chống nghịch, biết ai là bạn,

ai là thù”; “Không được. Là nam tử ở đời, bất luận tuổi tác ai cũng có trách nhiệm

tham gia công việc phò vua giúp nước. Ta cứ đến, đến đấy tranh đấu cho ra lẽ”

[258; 34]. Thế là Hoài Văn và Hoài Nhân vận lễ phục đi đến thuyền rồng, dù bị

cấm vệ ngăn cản nhưng Quốc Toản vẫn một mực đòi vào, khi vào gặp được nhà

vua, Quốc Toản nói: “Khởi bẩm bệ hạ, thần và Hoài Nhân Vương đến đây chỉ cốt

bày tỏ thái độ sẵn sàng tham gia đánh giặc giữ nước, chứ không có ý gì khác”. Dù

được nhà vua khen ngợi về lòng nhiệt huyết: “Ta khen ngợi nhiệt huyết của mấy

đệ nhưng cho các em tham dự thì nếu cả trăm vương hầu trạc tuổi hai người cũng

đòi phá lệ để được vào, bấy giờ chỗ đâu mà chứa. Hãy nghe lời huynh các đệ về

đi” 258; 35 . Được vua ban cho quả cam quý nhưng Hoài Văn lòng vẫn uất

nghẹn, bi phẫn ngập tràn “bàn tay Toản bóp nát quả cam của vua ban mà không hề

hay biết”. Về nhà Quốc Toản nói với mẹ: “Hoàng thượng và triều đình họp bàn

việc nước ở Bình Than… nhưng vì còn nhỏ nên Quan gia không cho dự. Lòng con

uất ức lắm nhưng không biết làm sao có thể góp công sức đánh đuổi ngoại xâm,

báo đền ân nghĩa của hoàng triều”, sau khi được Hưng Đạo Vương chỉ dạy “chúng

con đã ngộ ra chân lý nên nhất quyết sẽ dựng tụ nghĩa, tuyển mộ dân binh, rèn

mác luyện võ, sẵn sàng đánh giặc khi chúng kéo sang” 258; 40]. Sau một thời

gian, với quyết tâm, nỗ lực của bản thân và sự góp sức của dân làng, đội quân của

Trần Quốc Toản đã có tổng cộng gần chín trăm người, thuyền, ngựa, vũ khí, trang

phục… cũng đã tạm ổn, đặc biệt lá cờ thêu sáu chũ vàng “Phá cường địch - báo

hoàng ân” như lời thề quyết tử của đoàn quân tuổi trẻ. Dù còn nhỏ tuổi, chưa có

kinh nghiệm chinh chiến nơi sa trường, nhưng đội quân tuổi trẻ của Quốc Toản đã

lập được nhiều chiến công, trở thành nổi khiếp đảm của quân địch, có những trận

họ trở thành đội quân tiên phong. Trong trận đánh trên sông Như Nguyệt, vị tướng

trẻ đã dẫn kị binh xông lên đánh bật quân Nguyên về bên kia chiến tuyến, dũng

cảm “vung trường kiếm đi đầu đoàn kị mã vọt qua lũy đất lao vào đội hình của

giặc, gươm đao lướt theo vó ngựa ra sức chặt chém bọn bộ binh Mông Thát” 260;

125]; “Vó ngựa của Trần Quốc Toản tung hoành ngang dọc, lưỡi kiếm trong tay

của vị tướng trẻ chém xả vô số giặc thù, cho đến lúc sức cùng lực kiệt, chàng bị

bọn kỵ binh Mông Thát vây chặt và hứng chịu hàng chục mũi gươm giáo. Không

97

rời yên ngựa, người anh hùng trẻ tuổi bước vào cõi bất tử mà bàn tay vẫn nắm chặt

dây cương” 260; 130].

Bản lĩnh của người anh hùng còn được thể hiện ở ý chí, nghị lực phi

thường, dám vượt qua bi kịch cá nhân, bi kịch gia đình để hoàn thành những

hoài bão lớn. Trong Sông Côn mùa lũ, lúc phải kháng lệnh vua anh, phải lạnh

lùng viết hịch tấn công Quy Nhơn, trong lòng Nguyễn Huệ rối bời, xót xa và day

dứt: “Chưa bao giờ Nguyễn Huệ cảm thấy cô đơn như vậy… Dù tự tin bao nhiêu

đi nữa, ở vào giờ phút quyết định này tay ông vẫn run rẩy” 210; 114-115 . Với

hành động này, có thể ông sẽ mất đi tình máu mủ, nhưng vì tương lai đất nước,

Nguyễn Huệ buộc lòng phải làm điều mình không muốn. Hay trong Búp sen

xanh, Sơn Tùng đã xây dựng hình tượng Nguyễn Sinh Côn nhỏ tuổi nhưng biết

vượt lên nỗi đau gia cảnh để hướng đến nỗi đau của dân tộc. Chứng kiến cảnh

nước mất nhà tan, nhân dân điêu đứng lầm than dưới ách cai trị hà khắc của thực

dân Pháp, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã suy nghĩ rất nhiều về những gì

mình được “mắt thấy tai nghe”, để rồi đau thương biến thành hành động: “Con

không lỗi đạo thầy trò. Vừa qua, con hành động đúng. Con đã có năm ba chữ,

biết suy nghĩ, con sang tuổi mười tám rồi, con không thể thờ ơ trước việc đồng

bào mình bị chà đạp, phải đứng dậy đòi được quyền sống” 271; 212].

Tóm lại, nhiều NVAH như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn

Trãi, Nguyễn Huệ… trong các TTLS đã được xây dựng trên cái nhìn khá trung

thành với chính sử, với tâm thức cộng đồng, trước hết là tài năng xuất chúng,

những chiến công to lớn, đóng góp vào sự nghiệp cứu nước, an dân. Bối cảnh lịch

sử, các sự kiện lớn, vẻ đẹp, phẩm chất, đóng góp của các anh hùng luôn được đề

cao, trân trọng. Đây chính là cơ sở để các nhà văn mở rộng trường nhìn, phát huy

tưởng tượng, biến những anh hùng khô khan trong các trang sử thành những hình

tượng sinh động, hấp dẫn trong tiểu thuyết.

3.3. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng bổ khuyết,

đối thoại với chính sử

3.3.1. Đối thoại để khẳng định, minh oan, chiêu tuyết

Khi bàn về TTLS, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Tiểu thuyết

lịch sử nào cũng mang trong mình hai lần lịch sử: lịch sử thời đại đã qua và lịch

sử thời người viết đang sống. Chỉ quan tâm đến thời đã qua mà không nêu được

vấn đề quan tâm của người hiện tại thì tiểu thuyết cũng khó hấp dẫn. Chỉ nêu

98

quan tâm hiện tại mà bỏ mất lịch sử thì không có tiểu thuyết lịch sử nữa” 140].

Như vậy, mỗi nhà văn khi lựa chọn đề tài về lịch sử, thông qua các nhân vật lịch

sử đều chọn cho mình một cách thức để đối thoại với với hiện tại. Mỗi nhân vật

trong tiểu thuyết lịch sử là một kênh để nhà văn truyền tải một thông điệp nào

đó. Rất nhiều vấn đề của hiện tại cũng là những vấn đề mà cha ông cũng đã từng

đối diện, từng trăn trở. Và từ cách nhìn của hiện tại, nhiều cây bút TTLS đã lên

tiếng bổ sung, thậm chí minh oan cho nhiều người anh hùng đã bị chính sử

đương thời đánh giá thiếu khách quan, công bằng.

Trong chính sử, Ngô Sĩ Liên viết về Trần Thủ Độ: “tuy không có học vấn,

nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông

lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa

cậy, quyền lấn át vua” 91; 229 . Sử gia còn viết: “Thủ Độ tuy làm tể tướng,

nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp và

giữ được tiếng tốt cho đến lúc chết… Nhưng cái tội giết vua và thông dâm với

hoàng hậu thì khó lẫn tránh với đời sau vậy” 91; 229]. Điều băn khoăn nhất của

Hoàng Quốc Hải trước khi bắt tay viết tập 1 của Bão táp triều Trần là viết thế

nào về Trần Thủ Độ. Ông tâm sự: “Tôi thường suy ngẫm về vai trò của nhà chiến

lược thiên tài Trần Thủ Độ. Thế nhưng qua sử sách các đời, vẫn coi ông là kẻ tàn

bạo, lộng hành và bất trung. Càng nghiền ngẫm, tôi càng thấy không thể đồng

tình với các sử gia trung đại” (“Lời tựa”, Bão táp cung đình, Nxb Thanh niên,

2005). Hình tượng nhân vật Trần Thủ Độ trong tác phẩm của Hoàng Quốc Hải vì

thế vừa chân thật lại giàu sức biện giải, tranh luận (đây có lẽ là nhân vật thể hiện

r nhất cảm hứng đối thoại với chính sử của Hoàng Quốc Hải). Nhà văn xây

dựng một Trần Thủ Độ lão luyện, quyền biến và lắm cơ mưu, bằng nhiều thủ

đoạn cao tay, kể cả việc chấp nhận để người tình của mình là Trần Thị Dung

theo thái tử Sảm về Thăng Long, để từng bước đưa người họ Trần cài cắm vào

các vị trí trọng yếu trong triều đình nhà Lý. Mọi toan tính và sự hy sinh ấy cũng

chỉ nhằm đạt đến mục đích cuối cùng: Lấy thiên hạ của họ Lý về tay họ Trần.

Cách hành xử của Trần Thủ Độ vượt khỏi sự suy nghĩ tầm thường của những kẻ

hủ nho suốt đời chỉ biết ngu trung, làm tôi chỉ thờ một chủ. Là anh hùng thời

loạn, Trần Thủ Độ buộc phải chấp nhận lựa chọn giết một vài người, thậm chí

hàng trăm người để cứu cả một đất nước đang trong cơn loạn lạc. Theo Hoàng

Quốc Hải, đó mới là chữ "nhân" của người quân tử. Dường như muốn lí giải

99

thêm cho hình tượng nhân vật, Hoàng Quốc Hải cũng nhấn mạnh phẩm chất liêm

chính trong việc cai quản đất nước của Trần Thủ Độ. Cùng bắt gặp cách nhìn của

Hoàng Quốc Hải, trong tác phẩm của mình, Trần Thanh Cảnh cũng đã để cho

nhân vật Trần Thủ Độ tự bày tỏ quan điểm, tự biện giải cho những hành động

của mình. Trần Thanh Cảnh không nhìn Trần Thủ Độ như là “giặc của nhà Lý”,

một kẻ tàn bạo bất trung. Trần Thanh Cảnh lý giải việc giành ngôi từ tay nhà Lý

là với mục đích cải cách, vì dân chứ không phải do tham vọng quyền lực. Trần

Thủ Độ nói với Lý Huệ Tông: “Ta vốn là v tướng quen cầm gươm xông ra trận

tiền chứ không ham chuyện sách sử chữ nghĩa. Thế nhưng ta cũng biết trời đất

luôn có vận, con người có số. Hơn chục năm cầm quân dẹp giặc cướp khắp đất

nước Đại Việt, ta đã nhận ra vận số nhà Lý của ngươi đã hết từ lâu” [196; 155-

156]. Lý giải cho việc Trần Thủ Độ thông dâm với hoàng hậu, nhà văn cũng trao

quyền cho nhân vật tự biện giải: “Buổi chiều hôm trước khi gặp người, ta cùng

Trần Thị Nương đã cùng nhau hái sen trên đầm, đã cầm tay thề bồi đời này kiếp

này là của nhau. Thế nhưng cũng ngay hôm đó, ngươi đã cậy thế là Thái tử con

vua mà ép bá phụ ta phải gả Nhị Nương cho ngươi khi ta vắng nhà. Ngươi đã

chiếm người con gái duy nhất của lòng ta. Mối hận ấy ta không bao giờ quên”

[196; 115]. Ở đây Trần Thanh Cảnh đã lí giải hành động trái đạo lí của người

anh hùng Trần Thủ Độ trong logic của đời sống, với rất nhiều mối quan hệ có

tính nhân - quả đan chéo nhau.

Về Hồ Quý Ly, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Quý Ly tên tự là Lý

Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, đời Hậu Hán thời

Ngũ Quý sang làm thái thú Diễn Châu. Sau đó, làm nhà ở hương Bào Đột châu

này, rồi là trại chủ…”, đến năm 1399 “Quý Ly đến đây tội ác đã chất đầy rồi”

[91; 326]. Các nhà sử học phong kiến đã gay gắt lên án Hồ Quý Ly và triều đại

nhà Hồ, quy trách nhiệm cho ông về việc mất nước vào tay giặc Minh. Nguyễn

Trãi, trong Cáo bình Ngô cũng viết: “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/Để trong

nước lòng dân oán giận”. Ngày nay, lịch sử đã nhìn nhận công bằng hơn, đánh

giá khách quan, toàn diện hơn về công cuộc cải cách do ông đề xướng. Với tư

cách là một nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh đã soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ,

đi sâu khám phá những uẩn khuất bên trong nội tâm, phân tích động lực của

những hành động. Một mặt, Nguyễn Xuân Khánh vẫn miêu tả Hồ Quý Ly như

trong chính sử, đó là một con người đầy cơ mưu, quyền biến, lắm tham vọng,

100

không từ bất kỳ một thủ đoạn tàn bạo nào nhằm đạt được mục đích của mình.

Mặt khác, Nguyễn Xuân Khánh cũng công bằng khi khẳng định những công lao

của Hồ Quý Ly trong việc giúp Trần Nghệ Tông chống ngoại bang. Ông cũng

quá hiểu sự mục ruỗng của hoàng hôn triều Trần, muốn tiến hành những cải cách

để đất nước trở nên giàu mạnh. Hồ Quý Ly chủ trương dùng tiền giấy thay tiền

đồng để dành đồng làm vũ khí, thực hiện chính sách hạn điền, hạn nô, nhằm tạo

sự ổn định cho xã hội, bắt các nhà sư hoàn tục vì sư sãi quá nhiều, tìm cách thu

hút người hiền tài... Bên cạnh một Hồ Quý Ly thủ đoạn, tàn bạo, Nguyễn Xuân

Khánh còn cho độc giả thấy một Hồ Quý Ly cô đơn, mềm yếu và hướng thiện,

“Ta cần, ta muốn, ta thèm được có người hiểu ta...” 231; 94 . Những lúc đứng

trước bàn thờ hay pho tượng của người vợ dịu dàng, Hồ Quý Ly lại ngập tràn

cảm xúc. Lòng biết ơn và tình yêu của ông dành cho bà Huy Ninh, những tiếng

nói giao cảm không nói nên lời đã an ủi, nâng đỡ tâm hồn ông trong những giây

phút riêng tư, lắng lòng nhất. Bằng những trang miêu tả tinh tế, Nguyễn Xuân

Khánh đã dựng lên một Hồ Quý Ly với những phẩm chất không hề có trong

chính sử nhưng lại hết sức hợp lí, thuyết phục. Thông qua hình tượng Hồ Quý

Ly, tác giả còn muốn đưa đến cho hậu thế một thông điệp đầy ý nghĩa: các cải

cách tiến bộ được tiến hành khi hoàn cảnh chưa chín muồi, lòng người chưa

thuận thì sự thất bại là điều khó tránh khỏi.

3.3.2. Đối thoại với cách nhìn cá biệt, trái ngược với lịch sử

Trong xu hướng “văn chương hóa lịch sử”, nhân danh quyền sáng tạo, một

số nhà văn đã mạo hiểm chọn cách đưa ra những kiến giải riêng, trái ngược với

cách nhìn của chính sử, của số đông. Với những hiện tượng này, rất cần những

đánh giá, nhìn nhận đúng mức. Có người muốn tạo ra cách thể nghiệm mới, nhưng

chưa đưa lại hiệu quả cả về tư tưởng và nghệ thuật. Có người có dụng ý xét lại lịch

sử, hạ bệ người anh hùng. Trong B mật hậu cung, Bùi Anh Tấn đã khắc họa nhân

vật Lý Thường Kiệt từ nhiều phương diện khác nhau. Một mặt, nhà văn vẫn cho

người đọc thấy được một Lý Thường Kiệt thông minh, bản lĩnh, kiệt xuất trong

vai trò một anh hùng dân tộc. Mặt khác, nhà văn đi sâu luận giải những góc khuất

của đời sống cá nhân với những giằng xé nội tâm khi biết mình là một người đồng

tính. Việc Bùi Anh Tấn hư cấu, giả định về mối “tình trai” của một danh tướng

kiệt xuất, một anh hùng dân tộc đã vấp phải những phản ứng gay gắt của độc giả.

Có lẽ, ẩn đằng sau đó, nhà văn muốn gửi đến người đọc một thông điệp nhân bản,

101

đời thường, nhưng có người đặt câu hỏi: có thực sự cần thiết khi dùng một người

anh hùng được nhân dân đề cao, thờ phụng để đưa vào đó quan điểm riêng của

mình về những người đồng tính? Và có hiện thực chăng khi đưa vấn đề người

đồng tính đặt vào bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam thời nhà Lý?

Hội thề của Nguyễn Quang Thân được nhiều người đọc đánh giá cao trong

đổi mới về cách tiếp cận TTLS và cách thể hiện NVAH. Tuy nhiên, cũng có

những trang khiến bạn đọc “rờn rợn” khi nhà văn tô đậm nét thô kệch, v biền của

Lê Lợi như một trang chủ miền sơn cước. Một số chi tiết liên quan đến thói quen

ăn uống, tình dục của Lê Lợi là những ví dụ. Đây là lúc người anh hùng nhận đĩa

bánh chưng rán từ Thị Lộ: “Thị Lộ bày đĩa bánh chưng rán lên án thư. Bình Định

Vương vồ lấy đôi đũa trên tay bà, gắp bánh. Nhưng ông vụng về, miếng bánh rơi

xuống sàn gỗ. Ông cáu tiết vứt đôi đũa, lấy tay nhón bánh ăn ngấu nghiến” 265;

12 . Một ông vua có lúc không giữ phép tắc lễ nghi, ngôn từ bình dân đến vụng

về, dáng dấp thô kệch, kém sang, háu ăn và háu gái khiến những trang sách của

Hội thề trở nên “nóng” trong dư luận.

Hay trường hợp người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, đã từng được Trần

Trọng Kim miêu tả trong Việt Nam sử lược: “Ông Nguyễn Huệ trong sau đổi tên

là Nguyễn Quang Bình là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền

biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn, giúp anh là Nguyễn Nhạc lập

nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình vương, đóng đô ở đất Phú Xuân” 83;

335 . Trần Trọng Kim còn viết thêm: “Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là

ông vua anh dũng, lấy v lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am

hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học” 83; 343]. Thế nhưng

khi đi vào trang văn của Nam Giao, Trần Vũ…, hình tượng người anh hùng

Nguyễn Huệ đã có phần trở nên “lệch chuẩn”, khó chấp nhận. Trong Gió lửa,

người anh hùng đánh Nam dẹp Bắc, trong năm ngày tiêu diệt gọn hai mươi vạn

quân Thanh xâm lược, nhưng tính cách lại thô lỗ và cuồng dâm. Trước đó, trong

truyện ngắn Mùa mưa gai sắc, Trần Vũ đã miêu tả Nguyễn Huệ như là một bản

thể “ác dâm”, “khổ dâm” trong đời sống tình dục: “Huệ chụp lấy ngực áo cưới của

Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân

ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dẻ tưởng như giải lụa bạch

đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát

chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ” [279]. Qua nhân vật bạn Ngọc Hân, Trần Vũ còn

102

hạ những câu nặng nề: “ba anh em Huệ xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ

vận may mà có quyền bính, chứ không thuộc dòng d i quý tộc vương đế chính

thống lâu đời như Hân" 279]. Trong Gió lửa, Nam Giao cũng có những trang gặp

gỡ với Trần Vũ khi miêu tả việc làm tình của Nguyễn Huệ như một kẻ cuồng bạo:

“Huệ tiến lại, mắt đỏ lừ lừ như cọp… Huệ nắm vào ngực xiêm, kéo mạnh rồi xé

ra…Thò tay bóp vỡ trâm cài đầu của Ngọc Hân… Ném tấm vương bào, rồi từ từ

cởi chiếc cạp quần…” [199; 375].

Xuất hiện gần đây, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt S cũng bị một

bộ phận độc giả cho là nhiều trang miêu tả tính dục một cách quá đà. Nhân vật

Trần Khánh Dư - người anh hùng có công lao lớn trong cuộc kháng chiến chống

Nguyên Mông lần thứ 2 trong tiểu thuyết này được tô đậm ở nhiều tật xấu. Đó là

tính “trăng hoa” nổi tiếng, thú ăn chơi xa xỉ trong các sòng bạc, trường đá gà, đua

ngựa…, cổ vũ thói hoang phí, cá độ, cờ bạc của đám vương tôn, công tử trẻ tuổi…

Tính trăng hoa của ông không chỉ khiến hai vua đã phải ngao ngán lắc đầu mà còn

nổi tiếng khắp kinh thành đến tận Vân Đồn: “Cái thú của Nhân Huệ vương là các

thiếu nữ trắng trong kiểu “hoa đồng nội”, m nữ còn trinh trắng” 250; 111], Cái

“gu” của Khánh Dư là con gái nhà lành chân chất, nết na. Nên nếu dụ dỗ, mua

chuộc không được thì ông dùng quyền uy, tiền bạc, vũ lực để khuất phục. Việc

làm này của ông không những bị dân tình kêu ca mà cả khách buôn phương Bắc

cũng không chịu được. Nếu trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, mối tình

Trần Khánh Dư - Thiên Thụy là biểu hiện của khát khao ái ân, khát khao yêu

thương, khát khao được sống là chính mình, thì mối tình này trong con mắt của

Bùi Việt S lại chỉ toát ra chất bản năng trần tục. Đây là cảnh ân ái của hai người:

“Được lời như cởi tấm lòng, đôi chân dài của Khánh Dư theo sát công chúa vào

bên trong phủ. Khi cánh cửa gỗ lim phòng khách vừa đóng sập lại thì hai cơ thể đã

quấn chặt lấy nhau. Chẳng cần màn dạo đầu hôn hít. Khánh Dư bóc váy công chúa

Thiên Thụy. Và ngược lại những ngón tay của công chúa vội vàng cởi chiếc quần

đi ngựa rộng thùng thình của Khánh Dư. Hai cơ thể được bóc trần” 250; 37]. Với

cách miêu tả bản năng này, Chim ưng và chàng đan sọt đã gặp phải sự phản đối

gay gắt của nhiều bạn đọc. Hàng loạt các bài báo đã lên tiếng với những cái tít

như: “Ồn ào xung quanh tiểu thuyết lịch sử có cảnh sex khác người”, “Chim ưng

và chàng đan sọt có nhiều chi tiết sex thô tục”, “Chim ưng và chàng đan sọt: đạp

đổ thần tượng hay tự ngã dập mặt”…

103

Cũng có thể ở đây, các nhà văn muốn chống lại thói quen, lối nghĩ sáo mòn

về nhân vật lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng với các TTLS, điều này là

không dễ. Sự nỗ lực làm mới, làm khác trong việc xử lí chất liệu lịch sử là điều

đáng ghi nhận, song đôi khi “sự tùy tiện”, “phóng tay quá đà” đã khiến nhiều nhân

vật lịch sử ít nhiều bị méo mó, tính chân thực, giá trị nhân văn bị suy giảm, mà đó

là điều khó được bạn đọc chấp nhận.

3.4. Loại nhân vật anh hùng xây dựng theo xu hƣớng mƣợn lịch sử để

đào sâu, khám phá con ngƣời cá nhân, đời tƣ

3.4.1. Quan tâm thể hiện những nét đời thường, gần gũi

Bản chất, thế mạnh của tiểu thuyết là miêu tả, thể hiện con người dưới góc

nhìn đời tư. Không có chính sử nào ghi lại được những suy tư thầm kín, những

dằn vặt, dằng xé trong nội tâm người anh hùng. Chính sử cũng không quan tâm

đến các quan hệ đời thường, nếu điều đó không can hệ gì đến sự hưng vong của

triều đại. Nhưng với các TTLS, đây lại là một phương diện được các nhà văn

quan tâm đặc biệt.

Đọc các tác phẩm TTLS Việt Nam sau 1975, chúng ta thấy phẩm chất đời

thường của người anh hùng hiện lên trong những mối quan hệ với người thân, gia

đình, trong tình bạn, tình yêu… Bên cạnh người anh hùng với những chiến công

lưu danh sử sách, chúng ta còn thấy hình ảnh những con người bình thường, gần

gũi, bình dị, cũng có tình yêu nam nữ, cũng có những khuyết điểm, sai lầm, bi

kịch… Rất nhiều tác phẩm đã thể hiện thành công hình tượng NVAH ở những

khía cạnh này như trong Hội thề - Nguyễn Quang Thân, Đất trời - Nam Giao,

Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh, Sông Côn mùa lũ - Nguyễn Mộng Giác, Búp

sen xanh - Sơn Tùng,…

Trong Đức Thánh Trần (Trần Thanh Cảnh), bên cạnh phẩm chất của một

đại anh hùng, Trần Quốc Tuấn còn được xây dựng là một con người bình thường,

giản dị, yêu thương binh sĩ, xem họ như người thân: “Tất cả các tướng sĩ của

mình, Vương đều coi như con cháu trong nhà nhưng khi tập luyện thì Vương rất

khắt khe. Những lúc ngoài giờ tập luyện, Vương chăm lo cho mọi người rất chu

đáo, từ chỗ ăn chỗ ở đến chu cấp cha mẹ già, vợ con ở quê” 195; 113-114]. Trần

Quốc Tuấn hiểu rằng, có chăm lo cho gia đình người lính được yên ấm thì họ mới

yên tâm xả thân vì nước. Một số ái tướng như Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Dã

Tượng được “ông xem như con đẻ”. Tấm lòng yêu thương của Trần Quốc Tuấn đã

104

khiến các tướng lĩnh của ông rất kính phục. Yết Kiêu đã nói với Trần Quốc Tuấn:

“Với con, cuộc đời được theo hầu Ngài, kính Ngài như cha, được Ngài dạy bảo

mọi điều, sau này ngọc hầu có thể lập công với đời, lưu danh trong sử sách là con

mãn nguyện lắm rồi” 195; 117]. Không những biết yêu thương tướng sĩ, Trần

Quốc Tuấn còn là những người biết giữ lễ nghĩa, coi trọng người trí thức, thân

thiện với dân chúng… Khi đến Làng Trầm, được dân làng ở đây ra chào đón,

người anh hùng Trần Quốc Tuấn đã thể hiện sự thân thiện: “Quốc Tuấn đi sau ông

đồ và luôn miệng đáp lễ, giơ tay chào mọi người” 195; 34]. Cuộc đối thoại của

Trần Quốc Tuấn và ông đồ Dương Đức Tụng cho thấy phần nào phẩm chất đó:

“Dạ, thưa sư phụ, con và nàng Quế Lan con gái người sáng nay gặp nhau ngoài

bãi dâu, đã trót… Xin sư phụ tha tội”, “Xin đội ơn sư phụ đã không trách mắng

mà còn rộng lượng. Nhưng trước mắt cứ xin nhận của Trần Quốc Tuấn này một

lạy, coi như đã là tử tế của người” 195; 36]. Chính nhờ cách đối xử và thái độ ân

tình này, ông đã có được những gia nô, gia thần, những mưu sĩ tận trung và một

đội quân “binh gia chi tử” góp nhiều công lớn trong công cuộc kháng Nguyên bảo

vệ đất nước.

Đọc Búp sen xanh, chúng ta nhận thấy ở cậu bé Nguyễn Sinh Côn một lối

sống hòa đồng, giản dị. Khi còn bé thơ, là con một ông cử nhân, một ông thầy học

nổi tiếng nhưng cậu đối xử thân tình với hàng xóm, láng giềng, ứng xử hòa nhã

với bạn bè, học được chữ cũng đem chia chữ cho bạn, vô kinh đô cũng lo lắng cho

bà, cho dì, cho chị, cho bạn ở quê nhà. Côn cũng là cậu bé giàu lòng thương

người, thường làm phúc cho người nghèo, lén xúc gạo, khoai lát đem cho. Nguyễn

Sinh Côn cũng là cậu bé biết yêu thương và có trách nhiệm với gia đình. Những

ngày sống ở kinh thành Huế, trong lúc cha và anh đi vắng, Côn đã thay cha chăm

sóc, đỡ đần lúc mẹ đau ốm, bệnh tật. Chính cậu tiếp thêm niềm tin, nguồn sống và

sức mạnh để bà Hoàng Thị Loan vượt qua những nhọc nhằn, cô đơn, hiu quạnh và

nỗi đau về thể xác. Ở Côn toát lên sự giản dị, dễ gần khiến người lớn lẫn trẻ nhỏ

đều yêu quý. Cậu luôn tâm niệm dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ nếp nhà,

sống tự trọng, có trước có sau, lễ phép, tôn trọng người bề trên, bênh vực kẻ yếu

thế và biết ơn những người đã giúp đỡ mình trong lúc hoạn nạn, khó khăn.

Chủ đề tình yêu, nhất là tình yêu của người anh hùng luôn có sức hút lớn

đối với người đọc. Đó là Trần Khánh Dư trong tiểu thuyết cùng tên của Lưu Sơn

Minh với mối tình định mệnh và trớ trêu với công chúa Thiên Thụy; là Trần Quốc

105

Tuấn trong Đức Thánh Trần với mối tình cuồng nhiệt và say đắm với người con

gái làng Trầm tên Quế Lan. Là mối tình giữa người anh hùng Nguyễn Huệ và cô

gái tên An trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác. Trong tác phẩm này,

nhà văn đã xây dựng nên An, một nhân vật hoàn toàn hư cấu để soi sáng thêm cho

tính cách người anh hùng. An là người có phẩm hạnh, đã cho Nguyễn Huệ những

rung động đầu đời. Nhưng An bị Huệ ghen tuông vô cớ, để rồi suốt cả đời, Huệ

luôn bị ám ảnh. Ngay cả khi gặp Ngọc Hân công chúa, “chiếc cổ dài trắng” đã

từng in trong tâm trí Huệ lại hiện về. Huệ yêu An nhưng tình yêu ấy chưa bao giờ

được nói ra, Huệ và cả An chôn sâu giấu chặt nó ở trong lòng... Với Búp sen xanh,

Sơn Tùng còn hư cấu thêm nhân vật Út Huệ, người con gái để lại những rung

động thầm kín trong lòng chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành. Nhưng rồi vì nợ

nước, người thanh niên ấy đã bỏ lại tình yêu, gia đình, ra đi vì một lý tưởng lớn

lao và thiêng liêng: cứu nước, cứu dân.

3.4.2. Bổ sung, làm rõ đời sống bản năng

Đối với con người, khát khao bản năng, trong đó có bản năng tính dục là

một vấn đề hiện hữu tất yếu. Trong khi văn hóa phương Tây sớm xem nhu cầu

này là một giá trị nhân bản, đáng coi trọng thì phương Đông từ xưa vẫn coi là

điều cấm kị. Khi làn gió đổi mới thổi tới, sự nhận thức về lịch sử, về con người

đã có những thay đổi, cách nhìn về tính dục cũng cởi mở hơn nhiều. Các nhà

TTLS đương đại đã chú ý đến điều này và thể hiện nó sinh động trong nhiều tác

phẩm (Gió lửa - Nam Giao, Hội thề - Nguyễn Quang Thân, Đức Thánh Trần,

Trần Thủ Độ - Trần Thanh Cảnh, Trần Khánh Dư - Lưu Sơn Minh …)

Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân không e ngại khi “khoác” cho Lê Lợi

những rung động bản năng. Đó là ánh nhìn của nhà vua khi gặp Thị Lộ. Trước

nhan sắc quyến rũ, mặn mà của vợ yêu Nguyễn Trãi, trong Lê Lợi vừa nhói lên

một chút ghen tức, vừa không giấu được cái nhìn đầy thèm muốn: “Lê Lợi nhìn

bà đại học sĩ giống như khi ông muốn xé một con gà luộc bốc hơi nghi ngút vừa

mới được mụ Lý quẳng vào rá” 265; 11 . Không chỉ dừng lại đó, nhà văn còn

“trưng” ra những tình tiết “động trời” về Lê Lợi qua mối tình vụng trộm, táo tợn

với mụ Lý, một người đầu bếp. Có lần mụ vờ ngã vào ông và thời khắc ấy, ông

không là minh chủ: “mụ quýnh lên còn ông thì làm vội làm vàng, sợ mấy thằng

thị vệ nhìn thấy, nhanh như con gà trống” 265; 12 . Lê Lợi cũng thừa biết đó

không phải là tình yêu, nhưng ông vẫn không lý giải được hành động của mình:

106

“vì ông cảm động với cái tài làm bếp và luộc gà của mụ, hay đơn giản chỉ là một

cơn ngẫu hứng đàn ông?” 265; 12 . Ông còn tự tin về năng lực tình dục của

mình: “Ông biết không người đàn bà nào có thể quên được ông khi được ngủ với

ông một lần. Lính một ngày bằng dân cày một tháng. Ông là chúa công nhưng

cũng là lính mà” 265; 12].

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đức Thánh Trần vừa một vĩ nhân,

“v nghiệp lẫy lừng” vừa là con người với những “cuộc tình bất diệt”. Trần Thanh

Cảnh đã soi chiếu nhân vật dưới cái nhìn đời tư, “bổ khuyết” nhiều góc khuất ẩn

phía sau ánh hào quang của con người vĩ đại. Đầu tiên là cái cảm giác như “bị thôi

miên”, “ngây ra” khi thấy một người con gái đẹp như Quế Lan, hay cái cảm giác

nóng bỏng vì dục vọng bản năng, cái hừng hực nhựa sống và tràn trề đam mê của

người đàn ông khi bên cạnh công chúa Thiên Thành trong đêm lễ hội Mo Nang.

Tất cả đều được lột tả một cách táo bạo nhưng phù hợp với logic của cuộc

sống. Chính sử ghi chép về chuyện tình ái của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn

chỉ với mấy dòng ít ỏi: “Quốc Tuấn muốn lấy công chúa Thiên Thành, nhưng

không làm thế nào được, mới nhân ban đêm lẻn vào chỗ ở của công chúa thông

dâm với nàng” 195; 222]. Trần Thanh Cảnh đã miêu tả chuyện tình ngang trái

giữa Quốc Tuấn và Thiên Thành hết sức sinh động và hấp dẫn. Ông đã dành hẳn

một chương sách để nói về mối tình này. Đêm hội Mo Nang được miêu tả hết sức

li kì và sinh động. Đó là bút pháp tả thực về sự mãnh liệt trong các hành động

hoan lạc và sự hòa hợp cao độ về mặt tinh thần: “Quốc Tuấn đỡ Thiên Thành nằm

xuống thảm cỏ êm mượt. Họ tuột xiêm y nhau ra. Bàn tay họ da diết thèm muốn

quấn quýt vuốt ve vào chỗ đã từng khao khát thầm kín nhau bấy lâu nay... Quốc

Tuấn xiết chặt Thiên Thành, rùng mình” 195; 85]; Trong Kỳ nhân làng Ngọc và

Mỹ nhân làng Ngọc, Trần Thanh Cảnh cũng tạo ra sức hấp dẫn bởi những trang

viết đầy thăng hoa về bản năng phồn thực và niềm đam mê dục tính của nhiều

nhân vật. Nhưng ở đây, niềm hoan lạc được đặt trong không khí lễ hội vừa phồn

thực, vừa huyền bí. Có sự giao hòa, cổ vũ của vũ trụ, đất trời, cây cỏ, có sự đồng

điệu đến tuyệt đỉnh của “trai anh hùng” với “gái thuyền quyên”. Tất cả cùng hòa

điệu để làm cho “dục tính” thăng hoa. Bên cạnh mối tình với công chúa Thiên

Thành, Trần Thanh Cảnh còn xây dựng một nhân vật nữ khác là Quế Lan trong

một cuộc tình đầy ngang trái. Khung cảnh ái ân của Quốc Tuấn và Quế Lan nơi

bãi dâu được Trần Thanh Cảnh miêu tả hết sức lãng mạn, huyền bí: “Quốc Tuấn

107

tung bộ võ phục trải lên nền đất phù sa mát rượi. Siết chặt nàng Quế Lan. Xiêm y

tuột ra, hai thân thể đẹp đẽ cuốn vào nhau. Xung quanh, cả bãi dâu bát ngát bỗng

rung lên dào dạt…” [195; 26-27]. Những cuộc giao hoan với công chúa Thiên

Thành trong đêm hội Mo Nang và Quế Lan bên nương dâu xanh ngát được tác giả

miêu tả như những cuộc tình táo tợn và quyết liệt. Nhưng nhà văn đã khéo tay phủ

lên đó một làn sương huyền bí và lãng mạn, nhấn mạnh đến sự hòa hợp cao độ về

mặt tinh thần để không hạ thấp người anh hùng.

Như vậy, NVAH qua những trang văn của Trần Thanh Cảnh, Nguyễn

Quang Thân, Bùi Việt S , Nam Giao, Uông Triều… không chỉ có trí tuệ, tài năng,

phẩm chất hơn người mà còn rất tình, rất “đời” trong cuộc sống riêng tư, đặc biệt

là những cảm xúc tình yêu, rung động bản năng mãnh liệt. Qua những diễn ngôn

chân thực này, nhà văn muốn bổ khuyết những mặt khuyết thiếu của chính sử,

đồng thời cũng đưa người anh hùng đến gần hơn với người đọc.

3.4.3. Tô đậm phương diện bi kịch của nhân vật

NVAH còn được nhiều nhà văn miêu tả ở phương diện bi kịch. Họ không

phải lúc nào cũng mang ánh hào quang của những chiến công lẫy lừng cùng

những tiếng hò reo của quần chúng. Nhiều người trong họ đã rơi vào những éo

le, đau xót: Số phận nguy hiểm, bấp bênh của con người thời loạn, sự đố kỵ,

ghen ghét của người đời, sự đơn độc trong hành trình thực hiện khát

vọng…Trong nhiều trang TTLS, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Trần Thủ Độ, Nguyễn

Huệ... đều là những anh hùng cô đơn. Trần Thủ Độ phải hy sinh tình yêu cá nhân

vì dòng họ, vì đất nước; Nguyễn Trãi muốn thực thi lý tưởng nhưng bị dèm pha,

bôi nhọ; Lê Lợi đau khổ vì không được sống là chính mình, luôn phải “đeo mặt

nạ” của vị tướng lĩnh, người đứng đầu; Nguyễn Huệ chống lại Nguyễn Nhạc để

hoàn thành đại nghiệp…

Trước hết là bi kịch trên ch nh trường. Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân

đã xây dựng Nguyễn Trãi trong tư cách một nhà quân sư tài ba, suốt cuộc đời

tranh đấu cho tư tưởng nhân nghĩa, thân dân, nhưng luôn đơn độc giữa một triều

đình “đậm chất quân sự”, chỉ coi trọng giáo gươm. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là

thứ nhân nghĩa vượt trước thời đại. Nhân nghĩa trước hết và trên hết là vì dân,

đánh giặc cũng là để cho dân được hưởng thái bình, no ấm, điều mà đa số quan lại

lúc bấy giờ khó lòng chấp nhận. Ngay cả với kẻ thù cũng phải lấy nhân nghĩa để

đối xử: “giặc đã cầu hoà bậc đại nhân, đại trí không ai muốn máu đổ nữa làm chi”

108

[265; 281 . Ông ra sức khuyên Lê Lợi dùng binh pháp “tâm công”: “lấy máu để

rửa máu thì bao nhiêu cho đủ”; “rửa thù hôm nay tức là đang gieo mầm cho hận

thù ngày mai” 265; 283]. Ông kiên định theo đuổi chiến lược hoà hiếu, không

phải là mẹo đánh giặc mà đó là đạo của nghĩa quân: “muốn anh hàng xóm côn đồ

không sang đánh ta, phá nhà ta, giết lợn gà của ta thì chỉ có một cách là đi lại với

y, coi y như hàng xóm 265; 274 . Để kiên định với mục đích đó, ông đã phải trải

qua những tổn thất, những tị hiềm, cả những nhục nhã, những nỗi đau không thể

chia sẻ để có được sự đồng thuận của nhà vua. Hồ Quý Ly trong tiểu thuyết của

Nguyễn Xuân Khánh cũng là một con người bi kịch. Trong hành trình canh tân đất

nước, Hồ Quý Ly không được sự ủng hộ của quý tộc lẫn dân chúng dù những cải

cách của ông vượt tầm thời đại. Dù Nguyễn Trãi và Hồ Quý Ly được xây dựng

trong bối cảnh khác nhau, con đường thực hiện lý tưởng khác nhau, nhưng điểm

chung ở họ là những con người cô đơn, bi kịch, phải nhận cái kết cục bi thảm giữa

cơn biến động của lịch sử. Nguyễn Huệ cũng là một nhân vật cô đơn trong khát

vọng. Trong Sông Côn mùa lũ, khi buộc phải chĩa súng vào Quy Nhơn, khuấy

động bàn thờ tổ tiên, làm nứt rạn tình huynh đệ, Nguyễn Huệ mang nỗi đau khủng

khiếp, nhiều đêm mất ngủ bởi loạt câu hỏi do tự mình đặt ra nhưng không dễ tìm

được lời giải đáp thỏa đáng: “Ta dừng lại chăng? Ta bằng lòng đứng bên này Lũy

Thầy nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh, họ

Lê, họ Trịnh, quận Thạc, quận Liễn cùng lũ quan thị xâu xé nhau giữa một đất

nước tan hoang?” [210; 39].

Nhiều khi, người anh hùng lại là nạn nhân của sứ mệnh lịch sử. Trong Hội

thề, Nguyễn Quang Thân miêu tả khá kĩ lưỡng thế giới nội tâm của nhân vật Lê

Lợi, qua những đối thoại với tướng sĩ, đặc biệt là những đoạn độc thoại nội tâm.

Lê Lợi tự thừa nhận: “mình cũng có nhiều dục vọng bản năng của một con người

nơi sơn dã và rất sung sướng khi những dục vọng ấy được thỏa mãn... Trong thâm

tâm ông biết mình cũng chỉ là một con người như ai, khi cao cả, khi thấp hèn, một

con người từng quen được sống “tự nhiên nhi nhiên” như Đức Thánh Khổng từng

dạy” 265; 124 . Và khi trở thành Bình Định Vương, Lê Lợi phải miễn cưỡng tạo

ra cốt cách, phong thái của một bậc quân vương: “Còn bây giờ, khi đã là Bình

Định Vương, ông muốn “tự nhiên nhi nhiên” cũng không được nữa. Ông buộc

lòng phải cao cả, phải anh hùng mà thôi” 265; 124]. Cũng vì đại nghiệp, hai lần

Lê Lợi phải hy sinh người phụ nữ thân yêu trong cuộc đời mình (Hoàng hậu Ngọc

109

Trần). Thậm chí, ông còn ghen với hạnh phúc của Nguyễn Trãi, ông thèm và khao

khát cái cảm giác có một gia đình: “Bình Định Vương liếc xéo bà, ông ngửi thấy

mùi rơm mới nôn nao, lòng ông nhói lên một chút ghen tức” 265; 11 . Đọc Hội

thề ta nhận ra rằng, sứ mệnh đế vương của Lê Lợi bị lịch sử lựa chọn trước khi do

chính ông lựa chọn.

Bi kịch trong đời sống (bi kịch gia đình, tình yêu) cũng là một mảng được

các nhà văn chú trọng khai thác. Trong Sông Côn mùa lũ, bi kịch gia đình của

Nguyễn Huệ bắt đầu khi ông lập được chiến công vang dội. Năm 1785, sau khi

Nguyễn Huệ chiến thắng quân Xiêm ở Rạch Gầm Xoài Mút trở về, Nguyễn Nhạc

cho gỡ bỏ cổng chào. Nguyễn Huệ thắc mắc thì Nguyễn Nhạc giải thích "Ấy,

chính vì chiến thắng oanh liệt ở phương Nam mà ta phải dè dặt, đừng làm điều gì

khiến phương Bắc phải lo ngại. Dĩ nhiên không trước thì sau, thế nào ta cũng đòi

lại dải đất từ Lũy Thầy trở vào. Đất đai Đàng Trong thì phải trả lại cho chúa Đàng

Trong" [209; 432]. Vở tuồng Chàng Lía lại thêm một cái cớ nữa để tình anh em

thêm rạn nứt. Đỉnh cao quyền lực khiến Nhạc luôn dè chừng em, coi em là con

ngựa bất kham cần phải canh giữ cẩn thận. Nhưng chính điều này càng khiến

Nguyễn Huệ xa anh hơn. Sau khi tiến đánh Thuận Hóa, nghe lời Nguyễn Hữu

Chỉnh (và cũng chính là mong muốn của mình), Nguyễn Huệ đã kéo quân ra Bắc

để “phù Lê diệt Trịnh”, thống nhất sơn hà. Cũng từ đó, giữa Nguyễn Nhạc và

Nguyễn Huệ đã hình thành một mâu thuẫn lớn không thể hàn gắn, đẩy hai anh em

đến cảnh “nồi da nấu thịt”.

Ở Búp sen xanh, Sơn Tùng cũng xoáy sâu vào những bi kịch tuổi thơ trong

gia đình của Nguyễn Sinh Côn. Trong những bi kịch nối tiếp nhau, cậu bé Côn

hiện ra như một con người bé nhỏ, bất lực. Lên ba tuổi, ông ngoại qua đời. Rồi mẹ

mất, sự bơ vơ của đứa trẻ đạt đến đỉnh điểm: “Chiếc quan tài đặt vào lòng con đò.

Côn gục đầu xuống nắp áo quan mẹ…”. Và đêm về là những tiếng ru tê tái: “À...

ơi... Bồng bồng bế bế bồng bồng.../ Cò con theo mẹ sang sông đắm đò.../ À... ơi

đắm đò ướt hết thân cò.../ Cò con cò mẹ lò dò sang sông/ Bồng... bồng... bế... ớ...

bồng... ơ... bồng” [271; 110-111 . Điệu hồn ca dao được sửa lời để thể hiện tâm

trạng của người con mất mẹ, của người anh với đứa em mồ côi khi vừa mới lọt

lòng. Tác giả đã khéo léo đan vào lời trần thuật những lời hát ru quen thuộc của

bao bà mẹ: “con cò mà đi ăn đêm”…; “cái cò lặn lội bờ sông”… Cũng trong tiếng

ru ấy, người anh đã dự cảm được sự sống vô cùng mong manh của đứa em mình

110

đang bế trên tay. Dòng sự kiện tiếp tục tuôn chảy với những cung bậc cao hơn.

Cha Côn trở về, bé Xin qua đời. Ba cha con lại trở về quê Nghệ. Nỗi buồn đau mất

người thân dằn vặt nhức nhối tâm can Côn suốt quãng đường về xen lẫn ký ức của

những kỷ niệm về kinh thành Huế.

Trong các bi kịch của người anh hùng, bi kịch ái tình ít được đề cập trong

tiểu thuyết các giai đoạn trước. TTLS sau 1975 đã rất chú trọng khai thác phương

diện này. Chính sử không viết nhiều về chuyện tình ái của người anh hùng, nhưng

đây lại là “miền đất hứa” của tiểu thuyết.

Ở Hội thề, Nguyễn Quang Thân đặt Lê Lợi trong bi kịch tình yêu với hoàng

hậu Ngọc Trần. Thật khó khăn và đau xót biết bao khi nhìn người vợ đầu gối tay

ấp, người mẹ của đứa con mình trầm mình dưới dòng sông để đổi lấy một lời hứa

cho ngôi vua sau này trong thời cuộc lắm đổi thay và để khích động quân sĩ: “Mặt

Bình Định Vương mềm ra. Ông muốn khóc mà không thể khóc” 265; 219].

Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác cũng đã có cách xử lí riêng khi miêu

tả bi kịch tình yêu của hoàng đế Quang Trung - một tình yêu đẹp nhưng vô vọng,

để rồi hình bóng An, người yêu thời trai trẻ cứ hiện về chập chờn trong thân xác

Ngọc Hân. Trong Gió lửa, Nam Dao miêu tả cuộc đời Nguyễn Huệ gắn liền với

ba người phụ nữ, đó là An, Hoàng hậu Phạm Thị và công chúa Ngọc Hân. Người

phụ nữ đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời người anh hùng áo vải là An. Người phụ

nữ đó được Nguyễn Huệ dành cho một tình yêu âm thầm nhưng sâu đậm. Tuy

nhiên, đó cũng chính là người đã đem lại cho Nguyễn Huệ những khổ đau, dằn vặt

đến phút cuối cuộc đời. Bởi lẽ, An không lấy Huệ, cũng không yêu Huệ. Nàng

cưới Lợi, một người bình thường nhưng mang lại cho nàng cảm giác hạnh phúc và

một gia đình đúng nghĩa. Huệ đã ốm liệt giường vì quá đau khổ và càng đau đớn

hơn khi người mình yêu bộc bạch: "vì Huệ không biết thế nào là hạnh phúc. Thứ

hạnh phúc bình thường..." 199; 372 . Bởi theo An hạnh phúc là: "sống một cuộc

đời bình thường. Bình thường ở chỗ sáng cũng cười, tối cũng cười... Hạnh phúc

bình thường là bụng no, còn đầu thì vui… không quyền uy, quan tước, danh vọng,

phú quí" [199; 373 . Nhưng hỡi ôi, những điều giản dị này lại quá sức với một bậc

đế vương . Người phụ nữ thứ hai trong cuộc đời Nguyễn Huệ là Phạm Thị. Hôn

nhân giữa Phạm Thị và ông không phải xuất phát từ tình yêu, nên dù đã có với

nhau hai mặt con thì sự gắn bó này cũng không có gì sâu sắc. Chính Phạm Thị là

người rắp tâm đầu độc Nguyễn Huệ. Công chúa Ngọc Hân, con gái yêu của vua

111

Lê, là người phụ nữ thứ ba có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Nguyễn Huệ. Nàng đến

với Nguyễn Huệ vì những mưu cầu chính trị của các “đấng bề trên” chứ không

phải là một mối lương duyên, nhưng tình yêu của nàng với người anh hùng lại là

điều có thật.

Như vậy, nhờ quan tâm, tô đậm con người cá nhân, đời tư của NVAH, các

nhà tiểu thuyết đã chuyển mối quan tâm từ phản ánh sự kiện, con người của lịch

sử sang khám phá con người số phận trong dòng chảy lịch sử. Người anh hùng vì

thế, trở nên đa diện trong tính cách, thật hơn, gần gũi hơn trong phẩm chất

người. Đây cũng là biểu hiện của cái nhìn hiện thực, đậm tính nhân bản về người

anh hùng.

Tiểu kết chƣơng 3

TTLS Việt Nam sau 1975 nhìn chung đã xây dựng thành công một thế giới

NVAH phong phú, đa dạng, vừa có nhiều mặt đồng hướng với chính sử, với tâm

thức cộng đồng, vừa có nhiều sáng tạo, cách tân, góp phần làm phong phú hơn

nhận thức của người đọc về người anh hùng. Việc nhận diện loại hình nhân vật

anh hùng là cần thiết, điều này sẽ làm r hơn quan niệm, cảm hứng, bút pháp thể

hiện đa dạng của các nhà văn. Có nhiều cách phân loại thế giới NVAH trong tiểu

thuyết. Dựa trên lý thuyết diễn ngôn, xem TTLS trước hết như các diễn ngôn về

lịch sử của nhà văn, chúng tôi đi sâu khảo sát 3 kiểu loại nhân vật nổi bật: 1. Loại

NVAH xây dựng theo xu hướng đồng hướng với chính sử; 2. Loại NVAH xây

dựng theo xu hướng bổ khuyết, đối thoại với chính sử; 3. Loại NVAH xây dựng

theo xu hướng mượn lịch sử để đào sâu, khám phá con người cá nhân, đời tư. Tất

nhiên, ba xu hướng này không phải lúc nào cũng r ràng mà có sự kết hợp, đan

xen sinh động trong thế giới NVAH của các nhà văn. Ba xu hướng sáng tạo này

thể hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới NVAH, đồng thời cũng là biểu hiện

sự phân hóa sinh động của TTLS Việt Nam sau 1975.

Tuy nhiên, không phải hình tượng NVAH nào cũng được xây dựng thành

công, được dư luận ghi nhận. Vẫn còn những cách nhìn xơ cứng về người anh

hùng, vẫn còn những NVAH không có sáng tạo gì mới so với chính sử. Đặc biệt

đây đó có hiện tượng mượn lịch sử, mượn NVAH để thể hiện những ý đồ cá nhân,

những định kiến khác biệt với tâm thức cộng đồng và trái ngược với tâm lý thành

kính đối với các anh hùng dân tộc.

112

Chƣơng 4

PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT ANH HÙNG

TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975

4.1. Đặt nhân vật anh hùng vào những tình huống gay cấn, căng thẳng

4.1.1. Tình huống đất nước gian nguy, thù trong giặc ngoài

Tình huống (situation) hay còn được gọi là tình thế thường được hiểu là

những thời điểm, những khoảng khắc thời gian nhất định mà ở đó cuộc sống thể

hiện những gì đậm đặc nhất, điển hình nhất, giúp cho tính cách nhân vật bộc lộ.

Tình huống thường được nảy sinh từ mâu thuẫn, xung đột (con người - hoàn cảnh,

xung đột tâm lý, nội tâm…). Tình huống là phạm trù đặc biệt quan trọng tạo nên

tính hấp dẫn của truyện ngắn, nhưng với tiểu thuyết, chúng cũng đóng vai trò

không nhỏ, nhất là với các TTLS. Thực ra, trong chính sử, các sử gia cũng rất biết

chọn các thời điểm, các sự kiện đặc biệt, quan trọng, đây là cơ sở để các nhà văn

tạo dựng tình huống. Để xây dựng NVAH, các cây bút TTLS đã quan tâm xây

dựng nhiều tình huống độc đáo, ấn tượng, gay cấn: tình huống đất nước gian nguy,

thù trong giặc ngoài, tình huống cận kề cái chết, tình huống lựa chọn nghiệt ngã…

Tình huống đất nước gian nguy, thù trong giặc ngoài là cách thức thể hiện

r vai trò, bản lĩnh của người anh hùng trong những khoảng khắc gian nan của lịch

sử. Trong Ngô Vương - Phùng Văn Khai đặt nhân vật Ngô Quyền vào bối cảnh đất

nước lâm nguy, bên trong có kẻ loạn thần bán nước, bên ngoài thì kẻ thù Nam Hán

lăm le bờ c i: “Nay việc nước gặp phải phản thần Kiều Công Tiễn làm trái đạo

trời, tự tiện giết chúa rước giặc ngoại xâm vào bờ c i… Phản thần tuy đã tự vẫn,

song mầm hoạ nó gây ra đang như dầu sôi lửa bỏng ập xuống đầu binh tướng cùng

muôn dân An Nam ta. Hán đế Lưu Cung đã mấy lần phái binh xuống hòng chiếm

cứ An Nam, đặt nước ta thành quận huyện của Hán triều” 227; 282]. Trước tình

hình nguy nan, Ngô Quyền được sự suy tôn của các tướng và sự chỉ bảo của các

bậc trưởng lão: “Nay Giao vương Lưu Hoàng Tháo đem mười vạn binh thuyền,

tiếng là giúp phản thần Kiều Công Tiễn tại vị song bên trong là muốn nuốt trọn

An Nam mà thôi. Nhớ ngày trước, ta cùng các tướng đã hai phen huyết chiến với

bọn Lý Khắc Chính, Lý Tiến, Trần Bảo, tốn bao máu xương mới đuổi được chúng

về phương Bắc. Nay chỉ vì mưu riêng, vì lòng tham làm mờ mắt mà họ Kiều lại

113

rước hoạ xuống phương Nam… Nay ta được các tướng suy tôn cầm binh đánh

giặc, lại được các bậc lão trượng trong ngoài Đại La thành chỉ cho điều hay lẽ phải

ở đời, muốn nhân đây hỏi kế đánh giữ, tiến lui trước giặc mạnh” 227; 282]. Ngô

Quyền nói với các tướng của mình: “Ngày trước, Tào Tháo từng đem trăm vạn

hùng binh xuống Đông Ngô cậy vào thuyền lớn trùng trùng mà khinh suất cơ trời

đến nỗi suýt nữa mạng vong. Nay giặc vào núi sông ta, ta tất sẽ nhờ vào linh khí

của núi sông bờ c i mà phá chúng. Nơi cửa biển Bạch Đằng sẽ là mồ chôn binh

tướng Giao Vương” 227; 290 . Qua ngòi bút Phùng Văn Khai, vượt lên trên tất cả

những thử thách cam go đó, Ngô Quyền đã lãnh đạo quân dân chuẩn bị thế trận

toàn diện để đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Bằng lịch sử, chấm dứt

một nghìn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ trong lịch sử dân tộc.

Nhân vật Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng - Vũ Xuân Tửu) là người mang

trong mình “khát vọng độc lập”. Nói về Đinh Bộ Lĩnh, nhà sử học Lê Văn Hưu

hết lời ca ngợi: “tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời… một

phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết”. Dựa vào nguồn sử liệu ít ỏi đó, Vũ

Xuân Tửu đã miêu tả tình huống cho sự xuất hiện của người anh hùng: “Từ khi,

Ngô Tiên Vương băng hà, dẫn đến chuyện Dương Tam Kha cướp ngôi cháu,

khiến trăm họ oán thán, quan quân không phục, nơi nơi đóng binh cát cứ.” 275;

12 , “Ất Sửu (965) thế mà loạn to.” 275; 21 . Loạn cát cứ 12 sứ quân, khiến tình

cảnh đất nước loạn ly, Đinh Bộ Lĩnh với tài năng sáng suốt, dũng cảm mưu lược

hơn người đã đứng lên dẹp loạn, làm cho đất nước được thái bình, người dân được

đoàn tụ.

Nhân vật Trần Thủ Độ trong Bão táp cung đình được đặt vào tình huống

đất nước rối ren, triều đại mới hưng thịnh thì kẻ thù lăm le dòm ngó. Đại Việt

những năm cuối triều đại nhà Lý đã trở nên hết sức bi đát. Trần Thủ Độ đã nói

với Lý Huệ Tôn: “Cũng chỉ trong vòng mấy chục năm cha con bệ hạ đã tiêu diệt

hết nửa số dân của mình bằng đói kém, dịch bệnh. Nếu bệ hạ tiếp tục nắm giữ

ngôi trời, tôi tin với tài năng và trí tuệ của bệ hạ chẳng bao lâu bệ hạ sẽ hoàn tất

sứ mệnh diệt chủng” 211; 37 . Trước thực trạng đất nước có nguy cơ tiêu vong,

Trần Thủ Độ tự nhủ: “Nếu lúc này còn chần chừ là mất cơ hội. Khi mà Đoàn

Thượng, Nguyễn Nộn - hai thế lực kình chống triều đình liên kết lại với nhau, thì

không những cơ đồ nhà Lý sụp đổ, mà vây cánh họ Trần cũng không có đất để

114

chôn” 211; 35 . Hoàng Quốc Hải đã tái hiện sinh động một Trần Thủ Độ sống

có trách nhiệm với dòng tộc, đất nước, đầy thông minh, linh hoạt trong đối phó

với gian nguy. Có công lớn củng cố triều đại mới, Trần Thủ Độ cũng đồng thời

là vị thủ lĩnh tinh thần, người góp phần to lớn vào những thắng lợi vĩ đại của

quân dân nhà Trần trong sự nghiệp chống Nguyên Mông, bảo vệ vững chắc bờ

c i đất nước.

Nhân vật Nguyễn Tất Thành trong Búp sen xanh được Sơn Tùng đặt vào

bối cảnh nước mất, nhà tan. Trước mắt Nguyễn Tất Thành là một xã hội nô lệ, đen

tối, bế tắc. Nguyễn Tất Thành lặng người trước cảnh: “Một người gầy gò, đội nón

gỗ, chân đất, vấn xà cạp từ đầu đến gối xuống mắt cá chân, đang khom người về

phía trước kéo xe gọng đồng mui trần. Trên xe một người ngồi ngả hẳn về phía

sau thành xe, bụng to vượt mặt, cái mũi to hình thuyền choán hết bộ mặt râu xồm

xoàm, mắt mèo, miệng ngậm cái điếu như củ tỏi, khói xì ra đằng mũi” 271; 62].

Rồi cảnh thành Vinh có hào bao bọc, có tường xây cao dày, có lính gác và có cả

cờ tam tài của nước Pháp. Trên hành trình dài từ Nghệ An đến kinh thành Huế,

đâu đâu Nguyễn Sinh Côn cũng gặp cảnh bất công với bộ mặt gian ác của những

tên thực dân cướp nước. Côn cũng trực tiếp chứng kiến giờ phút đức vua Thành

Thái bị chúng đày biệt xứ trong bộ dạng thảm thương, cảnh cố đô Huế với sự

nghênh ngang của bọn giặc Tây Dương… Tất cả những sự kiện đó đã kết lại bằng

hình ảnh Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng: “Anh nhìn vào mắt những

người thợ thuyền trao gửi niềm tin. Nước mình, dân mình sẽ không cam chịu cảnh

ngựa trâu này mãi được” 271; 346 ,… Sơn Tùng đã đạt được những ý đồ nghệ

thuật của mình khi đặt hành trình trưởng thành của cậu bé Côn gắn liền với bao

biến cố đau thương của gia đình và Tổ quốc. Những nghịch cảnh ấy đã thôi thúc

người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

4.1.2. Tình huống cận kề cái chết

NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975 nhiều khi còn được đặt vào tình

huống cận kề cái chết. Khi rơi vào ranh giới giữa sinh - tử, phẩm chất của người

anh hùng càng được thể hiện sâu sắc và nổi bật. Đó là Lý Thường Kiệt (Tám triều

vua Lý - Hoàng Quốc Hải), Trần Quốc Toản (Trần Quốc Toản - Lưu Sơn Minh),

Trần Quốc Tuấn (Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh), nhóm thám báo An Nam

(Thiệu Bảo Bình Nguyên - Hồng Thái),…

115

Trong Tám triều vua Lý, Hoàng Quốc Hải đặt Lý Thường Kiệt vào

những tình huống đầy cam go, thử thách, thậm chí có khi cận kề cái chết để từ

đó cho thấy tài năng của ông trong việc lãnh đạo quân sĩ qua cuộc chiến chống

quân xâm lược. Trong cuộc tấn công nhà Tống (1075), quân Đại Việt do Lý

Thường Kiệt dẫn quân đã bước đầu giành được chiến thắng. Quân đội của ông

đã chiếm được một số vùng đất quan trọng của người Tống như Khâm Châu,

Quảng Nguyên, nhưng khi đến thành Ung Châu đã gặp phải rất nhiều khó khăn

khi gặp sự kháng cự quyết liệt. Suốt hơn hai mươi ngày ròng rã, quân đội nhà Lý

đã dùng đủ mọi cách tấn công thành Ung Châu nhưng không thành công, đã thế

“quân ta cũng tổn thất tới mấy ngàn người, hơn chục thớt voi chiến bị chết, vũ

khí bị cháy cũng không ít. Tổn thất lớn nhất là ta có tới năm vị đô tướng bị thiệt

mạng” 220; 249 . Trước tình hình đó, Lý Thường Kiệt triệu các tướng về trung

quân để bàn kế sách phá thành: “Ta muốn nghe kế của các ông, nhưng kế gì thì

kế cũng không được hoang hủy máu xương của sĩ tốt” 220; 250]. Sau những

ngày nghị bàn với các tướng sĩ, Lý Thường Kiệt đã chọn cách dùng tù binh để

làm phu đắp thành: “Cứ mười tên tù binh sắp thành một dây. Mỗi tên đều bị

buộc một sợi dây vào cổ tay trái. Mười cổ tay ấy trong vào sợi dây dài, cứ cổ tay

nọ cách cổ tay kia là ba sải tay, đầu dây do mộ người lính của ta nắm giữ. Bất cứ

một biểu hiện nào có vẻ chống lại quan quân đều bị chém ngay lập tức mà không

cần phải tâu báo lên cấp trên. Tù binh chết hụt đều như gà phải cáo nên nhất nhất

tuân theo không một kẻ nào dám chống lại” 220; 251-252]. Và dưới sự chỉ đạo

trực tiếp, tài tình của Lý Thường Kiệt, cộng với sức mạnh của quân ta, cuối cùng

quân Đại Việt đã làm chủ được thành Ung Châu... Công lao của Lý Thường Kiệt

đối với đất nước đã được vua Lý Nhân Tông hết mực ca ngợi: “Thường Kiệt là

một vũ tướng trải thờ ba triều, công lao trùm thiên hạ. Lòng trung của lão tướng

khỏi phải nghĩ bàn” 220; 721-722].

Trong Trần Quốc Toản, Lưu Sơn Minh miêu tả nhiều trận chiến mà cái chết

luôn cận kề vị tướng trẻ. Thế nhưng đội quân “phá cường địch báo hoàng ân” do

Trần Quốc Toản chỉ huy là nỗi khiếp sợ của quân giặc. Đặc biệt, hình ảnh Trần

Quốc Toản trong trận chiến cuối cùng đã để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng

độc giả. Đó là trận chiến bên bờ sông Như Nguyệt với tướng giặc Thoát Hoan -

một trong những tướng nổi tiếng thiện chiến, vậy mà đội quân của Quốc Toản đã

116

khiến Thoát Hoan phải điên đầu. Hoài Văn Hầu đã bị trúng mũi tên độc. Tuy

nhiên không hề tỏ ra đau đớn hay mềm yếu, “Chàng nhổ phắt tên đi và cứ thế tung

hoành xung sát. Chân bên phải bị thuốc độc làm cho tê dại mà chàng không biết.

Mắt hoa lên chàng cũng không hay. Hoài Văn Hầu cứ tả xung hữu đột diệt giặc

cho tới khi bọn chúng tan tác chạy qua sông thì từ từ gục xuống” 237; 227]. Hình

ảnh này như một cuốn phim quay chậm đầy chất sử thi về vị tướng trẻ tuổi hiên

ngang ngã xuống trên chiến trường.

Nhân vật Trần Quốc Tuấn trong Đức Thánh Trần đã trực tiếp chỉ huy nhiều

trận đánh và có những trận quân Trần thương vong không nhỏ, tính mạng của

chính ông cũng bị đe dọa. Vương đau đớn tột cùng khi thấy hàng vạn sinh linh bị

nhấn chìm trong bể máu trên dòng sông Thiên Đức. Ở giây phút đau đớn ấy, Trần

Quốc Tuấn đã chắp tay vào ngực, ngửa mặt lên trời và quay lại nói với Dã Tượng:

“Ta đã từng mong đánh một trận cho bọn giặc sợ đến ngàn năm, không bao giờ

dám sang xâm phạm nước ta nữa. Nhưng xong rồi, ta thấy mình đã hại nhiều sinh

linh quá! Cầu mong sao nước Nam mình không bao giờ phải đánh những trận như

thế này nữa ” 195; 229].

Với Thiệu Bảo bình Nguyên, hình ảnh những người lính thám báo Đại Việt

được Hồng Thái khắc họa sinh động và sâu sắc. Trên đường trở về đất mẹ, nhóm

thám báo do Nguyễn Thế Quang chỉ huy đã gặp phải phục binh của quân Nguyên

Mông. Hai toán kỵ binh của chúng ồ ạt xông ra chặn ngang đường xuống núi của

các binh sĩ Đại Việt. Trước sức mạnh như hổ báo của quân giặc, dù bị một “nhát

chém vào đùi, máu chảy đầm đìa ướt sũng ống quần”, Thế Quang vẫn gắng sức

đánh trả lại bầy lang sói hung tợn. Còn Đỗ Thành cũng bị trúng dao, lưỡi dao cắm

sâu vào mạn sườn nhưng anh vẫn cố sức nhổ dao ra “phóng trả xuyên ngang ngực

gã Mông Cổ” 257; 161 , dù “máu ra xối xả” làm Thành kiệt sức, nhưng chàng

vẫn cố bám theo em lao xuống bờ dốc. Hàng loạt mũi tên phóng tới, một mũi

xuyên trúng lưng của Thành. Bấy giờ Thành đã trúng ba mũi tên, toàn thân nhuốm

máu, còn người em Phạm Thái cũng đầm đìa máu trên người. Nhưng ý chí quyết

tử và tinh thần đồng đội đã giúp họ không dễ dàng gục ngã: “Đỗ Thành dùng chút

hơi tàn cuối cùng gạt đỡ những mũi tên bay về phía Phạm Thái, chàng cố lết tới bờ

sông Bản Thí rồi gieo mình vào dòng nước xiết chảy xuôi về đất mẹ”. Ở dốc bên

kia, Thế Quang đang đánh nhau kịch liệt với Lý Hằng,… Bị một nhát sà mâu đâm

117

trúng ngực, Thế Quang ngã nhào khỏi mình ngựa, chàng gượng dậy, một tay vịn

vào gốc cây, một tay múa giáo cố chống chọi với hàng nghìn binh khí đâm xỉa.

Trước lúc lâm chung, Thế Quang mở mắt trừng trừng hướng về đất mẹ rồi mỉm

cười mãn nguyện lúc vọng tiếng quân reo” 257; 164-165].

4.1.3. Tình huống lựa chọn nghiệt ngã

Dưới ngòi bút của các nhà văn, nhiều NVAH được đặt trong những tình

huống lựa chọn nghiệt ngã. Lý Thường Kiệt trong Tám triều vua Lý phải đứng

trước sự lựa chọn đầy thử thách, một bên là nghĩa vua tôi, một bên là tình vợ

chồng: “Ta đã chọn vua mà bỏ nàng. Đó là điều tàn nhẫn, là góc tăm tối của đời ta

không gì có thể biện minh được, dù sau này ta có cơ may trở thành đấng bậc gì thì

đó vẫn cứ là điều bất cập của một con người” 219; 457 . Để rồi suốt cuộc đời

mình, ông luôn phải day dứt về nỗi khổ vì đã để mất mẹ con Thuần Khanh: “Thật

ra trong những năm qua ta cố ghìm nén lòng mình, coi như đây là số phận đã an

bài. Ta tìm niềm vui trong công việc, gắn cuộc đời và số phận mình vào sự cường

thịnh của quốc gia, dân tộc. Coi mấy năm chung sống với Thuần Khanh chỉ là một

giấc mơ đã thuộc về quá vãng” 219; 87].

Trong Hội thề, Lê Lợi buộc phải hy sinh hoàng hậu Ngọc Trần cho lễ tế

thần. Ngọc Trần là vợ vua, nhan sắc “khuynh thành”, thông minh, mạnh mẽ lại

có anh trai ở vị trí “dưới một người trên vạn người”. Những tưởng không còn gì

hạnh phúc hơn. Vậy mà chính những điều tưởng như hạnh phúc ấy là sức ép, tạo

nên số phận bi kịch của nàng. Lê Lợi đã gạt lệ hy sinh Ngọc Trần làm lễ tế quân:

“Lòng ta đau như cắt. Nhưng các tướng và quân sĩ muốn thế. Nàng cũng muốn

thế. Ta còn biết làm sao?”; “Mặt Bình Định Vương mềm ra. Ông muốn khóc mà

không thể khóc. Ngọc Trần như trong cơn hoảng loạn muốn dứt áo đi ngay… Lễ

xong,… nhà vua nhìn tất cả với đôi mắt vô cảm vô hồn. Không ai đoán được ông

đang nghĩ gì, vui vẻ hay hối tiếc” 265; 219-220]. Là minh chủ, Lê Lợi đặt lợi

ích của nghĩa quân lên trên hết, ông phản kìm nén nỗi đau, phải hy sinh kể cả

những người thân yêu của mình.

An Tư trong sử sách chỉ được biết đến với vài dòng sử liệu ngắn ngủi: là

một trong hai vị công chúa nổi tiếng nhất trong lịch sử nhà Trần, bà phải kết hôn

với Trấn Nam vương Thoát Hoan, giữ cho quân Trần rút lui an toàn trong chiến

tranh chống Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285). Nhưng trong Thăng Long nổi

118

giận, nàng công chúa này được xây dựng thành một nhân vật khá đầy đặn. Tác giả

đã hư cấu một tình huống éo le, khó xử: Thoát Hoan ngang ngược đòi Đại Việt

phải dâng công chúa An Tư, vua quan trong triều bàn tính mãi nhưng cũng chẳng

đưa ra được quyết sách gì: “Các đại thần không lạm bàn trong chuyện này.

Thượng hoàng không quyết, bệ hạ cũng không quyết” 213; 377 . Hoàng Quốc

Hải đặt An Tư vào tình huống buộc phải lựa chọn: hoặc giữ trọn tình yêu hoặc

đem thân vào chốn ô nhục để cứu vãn tình thế đất nước. An Tư đã phải đau đớn

lựa chọn: “Nàng đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan. Đêm nằm nhức nhối

không sao ngủ được. Phần thương anh, thương cháu, thương nước, thương dân.

Phần xót xa mối tình trong sáng giữa nàng với Chiêu Thành vương” 213; 377].

Trong tình thế bi kịch, giằng xé nội tâm, cuối cùng An Tư đã quyết định "gạt tình

riêng, đền nợ nước". Đây là hành động cao cả của một liệt nữ, giúp cứu vãn tình

hình khi thế nước nguy nan. Cũng như An Tư, Huyền Trân công chúa được hứa gả

cho Chế Mân vì tình hòa hiếu hai nước. Huyền Trân cũng bị đặt vào tình huống

lựa chọn giữa tình riêng và nợ nước, và nàng phải chấp nhận làm vợ Chế Mân để

lấy lại hai châu cho Đại Việt. Trong Sông Côn mùa lũ, nhân vật Nguyễn Huệ bị

đặt vào tình huống buộc phải lựa chọn: vì tình thân, giữ đạo hòa hiếu hay vì trăm

họ, vì khát vọng thống nhất non sông. Trong tác phẩm, Nguyễn Mộng Giác đã

nhiều lần để nhân vật Nguyễn Huệ tự đấu tranh tâm lí, dằn vặt, đau khổ khi buộc

phải đem quân đánh lại anh mình.

Đặt NVAH vào tình huống gay cấn, căng thẳng là một cách thức để khẳng

định bản lĩnh, ý chí của người anh hùng. Tất nhiên, từ các sự kiện đã được chính

sử ghi chép lại, các nhà văn đã sáng tạo ra các tình huống hấp dẫn, mang tính điển

hình, và đây cũng là những trang hay nhất đề cao, khẳng định vẻ đẹp, tầm vóc của

các anh hùng dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

4.2. Kết hợp hài hoà nhiều thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nhân vật

anh hùng

4.2.1. Miêu tả người anh hùng qua chân dung, ngoại hình

Trong tiểu thuyết hiện đại, ngoại hình góp phần quan trọng thể hiện tính

cách nhân vật. Không còn những miêu tả mang tính ước lệ như trong văn xuôi

trung đại, tiểu thuyết hiện đại xem việc xây dựng ngoại hình nhân vật như một

“chiến lược” được cân nhắc kĩ càng. Nhà văn luôn ý thức việc lựa chọn những chi

119

tiết đặc sắc, ấn tượng, thể hiện nét riêng của nhân vật. L.Tolstoi là bậc thầy trong

khắc họa các nhân vật bằng chi tiết chân dung, đặc biệt là khuôn mặt. Với Anđrây

là nụ cười thánh thiện, sảng khoái; với Napôlêông là nụ cười ẩn ý và giả tạo; với

Natasa là cặp mắt luôn mở to, có khi mơ màng thả hồn về một thế giới xa xăm nào

đó. Còn La Quán Trung trong Tam quốc diễn nghĩa thì miêu tả nhân vật qua nhân

tướng học. Ví như, Quan Công thì ông luôn đặc tả khuôn mặt đỏ, kể cả lúc chết để

đối lập với những khuôn mặt trắng là bộ tướng của kẻ nịnh thần. Trong nhiều tiểu

thuyết cổ điển Trung Hoa, chân dung được miêu tả theo kiểu “truyền thần”, ngoại

hình đã hé lộ tính cách, phẩm chất của nhân vật.

Do ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi, nhiều TTLS Việt Nam từ đầu thế

kỉ XX đến năm 1930 và một số TTLS giai đoạn 1930 - 1945 cũng sử dụng cách

thức miêu tả chân dung theo kiểu tô đậm nét khác biệt kiểu nhân tướng học để

khắc họa nhân vật. Hầu hết các tiểu thuyết của Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Triệu

Luật, Hà Ân, Nguyễn Huy Tưởng… đều rất quan tâm miêu tả ngoại hình theo

hướng này. Trong khi miêu tả, còn xen kẽ lời bình luận của tác giả có tác dụng

dẫn dắt tình cảm của người đọc.

Sau năm 1975, nhiều cây bút TTLS cũng chú trọng miêu tả ngoại hình, nhưng

chú ý kết hợp “nét người” và “nét thần”. Có nhiều trang miêu tả chân dung thành

công trong Ngô Vương của Phùng Văn Khai, Đức Thánh Trần của Trần Thanh

Cảnh, Thiệu Bảo bình Nguyên của Hồng Thái, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê

Đình Danh, Nhất thống sơn hà của Vũ Thanh,… Trong Bão táp triều Trần của

Hoàng Quốc Hải, ngoại hình Trần Quốc Tuấn được miêu tả ở nhiều độ tuổi, nhiều

thời điểm khác nhau, nhưng đều toát lên cốt cách, phong thái của một tướng lĩnh:

“Các bắp thịt tay chân ông nổi cuộn lên thành múi, như đô vật lúc gồng người giữ

thế… Cái đầu hổ phù xăm trên lồng ngực y hệt đầu hổ phù thêu trên áo.” 213;

267-268 . Còn khi vào thiết triều, ông luôn thể hiện sự uy nghi, trang nghiêm của

một vị tướng đứng đầu triều đình: “Trần Quốc Tuấn uy nghi trong bộ v phục màu

tía, đai vàng thêu chim phượng; ngực áo thêu hình hổ phù. Bữa nay Hưng Đạo đeo

giáp hộ tâm, nên ngực ông càng đẫy đà; đầu đội kim khôi, ngang sườn dắt thanh

trường kiếm, nom ông uy nghi lẫm liệt như một vị thiên tướng” 213; 270 . Chỉ

với một vài điểm nhấn trong nghệ thuật miêu tả, Hoàng Quốc Hải đã khắc họa

được phẩm chất của một con người văn v toàn tài. Trần Thanh Cảnh cũng rất

120

dụng công trong việc khắc họa ngoại hình Trần Quốc Tuấn ở Đức Thánh Trần:

“Khuôn mặt vuông vức ngời ngời. Mũi cao miệng rộng, cặp lông mày rậm càng

làm nổi bật đôi mắt to sáng rực” [195; 22]. Khi Quốc Tuấn xuất hiện mọi người

đều phải xuýt xoa ngưỡng mộ: “Cả kinh thành nhìn thấy chàng phi ngựa, múa

gươm, bắn cung và thi triển các tuyệt k v nghệ Đông A trên Giảng V Đường

đã xuýt xoa bảo nhau, Trần Quốc Tuấn như là tướng nhà trời được cử xuống giữ

yên bờ c i nước nhà Đại Việt vậy” [195; 22

Trong TTLS Việt Nam sau 1975, với cách nhìn mới, hình tượng anh hùng,

vĩ nhân ngày càng giảm tính sử thi mà gia tăng chất đời tư của tiểu thuyết. Trong

Hội thề, Nguyễn Quang Thân nhiều lúc mô tả Nguyễn Trãi như một kẻ thư sinh,

mệt mỏi: “Nguyễn Trãi đứng dậy. Cái vẻ mệt mỏi, ẻo lả thư sinh biến mất”;

“Thân hình mảnh khảnh của vị thái học sinh Nguyễn Trãi nổi danh khắp Bắc Hà

không chịu nổi sức nặng của một ông già to béo” 265; 38]. Trong Gió lửa, Nam

Giao lại nhấn mạnh những nét “dị tướng” ở Nguyễn Huệ: “to ngang, hơi thấp, tay

dài đến đầu gối, di chuyển vừa nhanh vừa chắc như một loài nửa gấu nửa vượn.

Mặt nổi mụn, mũi sư tử, một mắt to, một mắt nhỏ, Huệ nhìn ai cũng như chọc

gươm vào đồng tử người đối thoại” [199; 333]. Hình dáng ấy đã cho người đọc

thấy, cái dị thường của Nguyễn Huệ đã chứa đựng một điều gì đó bất thường

nhưng lớn lao và khó đoán định.

Như vậy, bằng nghệ thuật tạo hình đặc sắc, các tác giả TTLS Việt Nam

sau 1975 đã dựng nên nhiều chân dung nhân vật lịch sử sinh động. Các chân

dung không chỉ được thể hiện ở góc nhìn sử thi, thể hiện nét khác thường mà còn

ở cả phía đời thường của người anh hùng, khiến họ đến với người đọc vừa là

những vĩ nhân, vừa là những con người gần gũi, thân quen.

4.2.2. Miêu tả người anh hùng qua lời nói, hành động

Miêu tả nhân vật thông qua lời nói, hành động là thủ pháp quen thuộc trong

văn xuôi từ thời trung đại. Trong văn xuôi hiện đại, thủ pháp này vẫn được phát

huy trên một tinh thần mới, phù hợp với khuynh hướng sáng tác, bút pháp của nhà

văn. Các nhà TTLS sau 1975 đã khá thành công khi sử dụng thủ pháp này.

Khi khắc hoạ tính cách một nhân vật lịch sử toàn tài, toàn đức, được nhân

dân tôn thờ là Trần Quốc Tuấn, tác giả của Bão táp triều Trần đã chú ý khắc họa

lời nói, hành động của nhân vật, đặt trong nhiều mối quan hệ vua - tôi, cha - con,

121

tướng - sĩ. Trong quan hệ với vua, theo vai vế là bậc bề trên, là anh của Thánh

Tông, vừa là bá phụ vừa là cha vợ của vua Nhân Tông, nhưng mỗi khi gặp vua

ông luôn “kính cẩn giữ đạo bề tôi”; “Ông vừa quỳ lạy thượng hoàng xong, Nhân

Tông đến, ông lại quỳ” 213; 32]; hai vua xin được miễn lễ vua tôi để theo lễ cha

con, bác cháu, ông trả lời: “Quan gia thể tình mà rộng lượng, ấy là quyền của quan

gia; còn đạo làm tôi, Quốc Tuấn này đâu dám trái” [213; 32 . Quốc Tuấn là người

luôn lấy lợi ích dân tộc làm trọng. Ông luôn chủ động gỡ bỏ hiềm khích đã âm ỉ

giữa hai dòng trưởng - thứ mấy mươi năm. Nỗi uẩn ức, những tâm sự dấu kín đã

được nói ra bằng lời, bằng hành động làm cho Thánh Tông vô cùng cảm kích. Lời

nói chân tình và hành động trong buổi chia tay đầy cảm động, những giọt nước

mắt “hóa giải oan cừu” đã đưa hai vĩ nhân đi vào lịch sử. Đó còn là khi ông ra đón

vua ở bờ sông, thấy cảnh vua tôi lam lũ ông thực sự đau lòng và cảm thấy như

chính mình có lỗi: “Quốc công chống kích nhảy xuống ngựa, rồi lật đật leo lên

thuyền ngự sụp lạy” 213; 317]. Khi ngẩng lên thấy “ai nấy đều chú mục gườm

nhìn mình”. Ông hiểu mọi người đang có ý nghi ngại ông bởi cây kích ông chống

có đầu bịt sắt nhọn, Hưng Đạo “bèn ném chiếc kích xuống sông” 213; 317 . Hành

động ấy cho thấy sự trung chính của Hưng Đạo đối với nhà vua, đồng thời đã xua

tan mọi nghi ngờ của quân sĩ. Trong quan hệ cha con, ông luôn giáo dưỡng các

con theo nền nếp. Vương dạy các con thấu đáo đạo làm người, trước khi học đạo

làm tướng. Ông thử lòng trung của các gia nô, các con, người con út nói lời trái

và dân chúng, Trần Hưng Đạo luôn gần gũi, thân tình. Với họ, ông chưa bao giờ thể

hiện mình là tướng lĩnh, bề trên. Yết Kiêu và Dã Tượng là hai gia nô nhưng ông xem

họ như máu thịt của mình, chăm sóc họ như con cái trong nhà. Đối với dân chúng,

ông luôn ân cần thân mật. Mỗi lần đi qua các thôn ấp, bản làng, được người dân đón

tiếp với thái độ đầy kính trọng như quì xuống lạy, thì: “Hưng Đạo lập tức xuống

ngựa… Vương nâng ông lão đứng dậy và ra lệnh cho cả dân ấp cùng đứng dậy” 214;

29 . Chính cách đối xử và thái độ ân tình này đã giúp Trần Quốc Tuấn có được những

gia nô, gia thần, những mưu sĩ tận trung để từ đó có được một đội quân “binh gia chi

tử” góp nhiều công lớn trong cuộc kháng Nguyên bảo vệ đất nước.

đạo ông liền “đùng đùng nổi giận rút gươm chỉ vào mặt Tảng mắng”. Với gia nô

Miêu tả Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đặc biệt quan tâm thể hiện lời

nói, hành động quyết liệt của nhân vật. Hàng loạt quyết định được Hồ Quý Ly đưa

122

ra trong bối cảnh căng thẳng của nội tình đất nước: viết Minh Đạo luận, đánh

Chiêm Thành, thực hiện những cải cách: hạn nô, hạn điền, ban hành tiền giấy…

Rồi hàng loạt những mưu mô, toan tính: sắp đặt để Nguyên Trừng lấy công chúa

Quỳnh Hoa - con gái của Thái bảo Trần Nguyên Hàng, Thánh Ngẫu lấy Thuận

Tông - người kế vị vương triều nhà Trần. Bên cạnh đó là những vụ thanh toán,

giết loạn đảng, bức ép Thuận Tông uống thuốc độc. Đặc biệt là vụ giết người em

kết nghĩa Nguyễn Đa Phương (con trai cụ Sư Tề thầy dạy của Hồ Quý Ly) mà ai

cũng coi là tàn nhẫn. Nguyễn Xuân Khánh đã có những trang miêu tả Hồ Quý

Ly với chất “gian hùng” như chính sử đã chép. Nhưng ở một khía cạnh khác, nhà

văn nhìn thấy, cảm thông cho những hành động “không thể không làm” của Hồ

Quý Ly. Khi nói với con trai về những bức tranh mà ông đã được Nghệ Hoàng

ban tặng, Hồ Quý Ly cho rằng việc phò ấu chúa ngu độn “trong lúc triều chính

mục rỗng, thì quả thật là ngu trung” 231; 99]. Khi nghe Nguyên Trừng nói:

“Nay cha làm quan lại bàn việc của vua, thậm chí dám khen chê cả lời của Phu

Tử, vì muốn nhanh nên cũng chẳng theo vết người xưa. Cha đã phạm phải chính

danh. Chính vì vậy kẻ sĩ trong nước nhao nhao phản đối... Xin hãy nghe con.

Con xin dâng lời nói thẳng. Lòng dân không theo cha đâu” 231; 467]. Dẫu biết

điều con trai nói là đúng, nhưng ông vẫn kiên quyết cho rằng: đổi mới, cải cách

là cần thiết, bởi “đất nước ta quá ư hỗn loạn, cần có một sự đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên,

tàn nhẫn đấy, đau thương đấy, nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt đầu rơi máu chảy”

[231; 468]. Nguyễn Xuân Khánh đã khéo léo tạo ra cuộc thoại giữa Quý Ly với

Nguyên Trừng để từ đó khắc hoạ rõ nét tính cách, nội tâm nhân vật.

Cũng có lúc, nhà văn hư cấu thêm các chi tiết hành động đậm chất đời

thường, thậm chí tầm thường của người anh hùng. Tác giả Hội thề miêu tả Lê Lợi

qua ánh mắt ghen tức và thèm muốn khi gặp Thị Lộ: “Lê Lợi nhìn bà đại học sĩ

giống như khi ông muốn xé một con gà luộc bốc hơi nghi ngút vừa mới được mụ

Lý quẳng vào rá” 265; 11]; hay sự vụng về, háu ăn đến lố bịch: “Thị Lộ bày đĩa

bánh chưng rán lên án thư. Bình Định Vương vồ lấy đôi đũa trên tay bà, gắp bánh.

Nhưng ông vụng về, miếng bánh rơi xuống sàn gỗ. Ông cáu tiết vứt đôi đũa, lấy

tay nhón bánh ăn ngấu nghiến” 265; 12 . Dường như Nguyễn Quang Thân đã

khước từ những quy phạm cũ trong việc miêu tả, Lê Lợi vì thế đôi khi hiện lên rất

đời thường và có phần dung tục, khác hẳn với cách nhìn của chính sử.

123

4.2.3. Chú trọng khắc họa nội tâm nhân vật anh hùng

Thế giới nội tâm là những suy nghĩ, cảm xúc bên trong con người, là khi

nhân vật tự sống với chính mình. Trong suốt một thời gian dài, TTLS Việt Nam có

lúc đã tạc nên những bức tượng có phần xơ cứng về người anh hùng do chưa quan

tâm đến miêu tả nội tâm. Sau 1975, trong xu thế đổi mới, các nhà TTLS đã nhận

ra sự cần thiết và sức hút của thế giới nội tâm con người, nơi mà khả năng hư cấu,

tưởng tượng của ngòi bút được chắp cánh.

Thế giới nội tâm ấy hiện lên qua nhiều thủ pháp: miêu tả thiên nhiên để thể

hiện tâm trạng, trực tiếp miêu tả thế giới nội tâm, sử dụng độc thoại nội tâm.

Thế giới nội tâm NVAH trước hết được thể hiện gián tiếp qua miêu tả bức tranh

thiên nhiên, như trong các sáng tác của Nguyễn Thế Quang, Thái Bá Lợi, Nguyễn

Quang Thân, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Mộng Giác, Sơn Tùng...

Trong Bão táp triều Trần, nhà văn nhiều lần miêu tả thiên nhiên để thể hiện

tâm trạng, nội tâm nhân vật anh hùng. Đây là tâm trạng của Trần Quốc Tuấn vào

một buổi sáng bình minh đẹp trời, khoảng lặng, khoảng bình yên hiếm thấy trong

“Ánh bình minh le lói dọi những tia nắng thu vàng qua khe cửa khép hờ vào thư

phòng. Tới lúc ấy, vương cũng vừa viết xong, vương buông bút vươn vai bước qua

thềm điện với đầu óc nhẹ nh m siêu thoát, như người mới từ c i thái hư trở về.

Sau một hồi đi dạo quanh khu hồ bán nguyệt có hàng liễu rủ rồi quành về bãi kim

cúc, hoa đã tãi vàng, hương đua thi thoảng hoà quyện với không khí thanh khiết của

buổi mai nắng đẹp khiến vương cảm thấy như đất, trời và cảnh vật này chưa có bao

giờ lại hiện lên với một vẻ đẹp bình dị mà đằm thắm tới mức thiếu nó cuộc đời

vương cũng chẳng có nghĩa lí gì hết. Vương khẽ nâng một bông cúc còn đang hàm

tiếu và hơi khom tấm thân đẫy đà xuống hít hà mùi hương thoáng nhẹ” [211; 235].

cuộc đời ông:

Trong Búp sen xanh, thiên nhiên tuy không hoàn toàn chiếm ưu thế nhưng

vẫn giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Chuyển động của thiên nhiên, phong cảnh

được bộc lộ theo nguyên tắc liên kết chặt chẽ với các hiện tượng tâm lý. Bản thân

mối liên hệ giữa thiên nhiên và tâm lý trở thành một tiêu điểm của nhận thức. Mỗi

khoảng không gian đều ẩn chứa tâm trạng con người. Nỗi đau mẹ mất, bà ngoại

qua đời như được nhân thêm gấp bội trong khoảng không xẩm tối, mịt mùng:

“Côn hơi chột dạ, Côn chạy dấn lên được mấy bước nữa thì nghe tiếng anh Khiêm

vừa gọi vừa khóc: Côn ơ...i Bà... Bà... che...ết...t... rồi Côn khựng lại, hai tay ôm

124

lấy mặt. Nấc Nấc Khiêm đỡ lấy em vào vòng tay mình để khỏi ngã. Một đám

mây như dải băng trắng trôi qua ngọn núi Lộc Đôi, che khuất mặt trời. Bóng râm

trùm xuống một vùng xẩm xẩm tối. Hai anh em Khiêm, Côn bước nặng nề trong

vùng bóng râm ảm đạm giữa cánh đồng chiêm mênh mông” 271; 142 . Đó còn là

bối cảnh cố đô Huế khi bọn giặc Tây Dương vươn cánh tay “khai hóa” ra khắp bờ

c i nước Nam mình, cảnh triều đình phong kiến rối ren, dân tình đau khổ, oán hận,

các sĩ phu yêu nước trong tâm trạng rối bời, bất lực vì chưa tìm ra được lối thoát

để đền nợ nước, trả thù nhà. Bản thân mỗi nét phác họa thiên nhiên dường như đã

ẩn chứa nét điển hình của hoàn cảnh, sự dồn nén của lòng người. Khi vua Thành

Thái đi đày, “mây... từng khối đen đè nặng bầu trời kinh Đô Huế”, “dòng sông

Hương như một khúc ruột quặn đau”, “cơn mưa chiều ập xuống kinh thành. Gió

Gió Gió nổi từng cơn Từng cơn gió xe mưa trời xa mù mịt ” 271; 192-193].

Thiên nhiên Huế ảm đạm, thê lương, quằn quại dưới con mắt của chàng thanh niên

yêu nước Nguyễn Tất Thành như xoáy vào tâm anh, khiến lòng anh quặn đau, thôi

thúc anh quyết tâm tìm con đường để giải phóng dân tộc.

Khắc hoạ thế giới nội tâm NVAH qua phương thức độc thoại là một thủ

pháp nghệ thuật quan trọng của tiểu thuyết hiện đại. Phương thức độc thoại là thủ

pháp không thể thiếu vắng trong việc khám phá thế giới bên trong con người. Độc

thoại nội tâm là “tiếng lòng” sâu lắng và chân thực nhất của của nhân vật. Họ tự

“đối thoại”, “chất vấn” chính mình. Bằng cách này, nhà văn có thể dễ dàng để cho

nhân vật tự phô bày những phẩm chất rất riêng của mình mà nhiều khi ngòi bút

miêu tả bất lực.

Nguyễn Quang Thân (Hội thề) đã dành rất nhiều trang viết để Lê Lợi tự

vấn với chính mình. Nhờ đó, người đọc cảm nhận rất r những trăn trở, dày vò,

suy tư của ông với những biến cố lịch sử, những người xung quanh và với chính

bản thân mình. Sau khi trải qua biết bao cảm giác (được trở về với kí ức đẹp đẽ

của tuổi thơ và khi đối diện với bổn phận, trách nhiệm của một chúa công), Lê

Lợi đã thốt lên trong tâm tưởng: “Tại sao đêm mai, có thể đêm ngày kia ta phải

ra lệnh chém giết hàng vạn con người? Tại sao xã tắc Đại Việt lại chọn ta mà

không phải ai khác? Ta đang là ông vua trên chót vót đỉnh cao quyền lực hay chỉ

là một kẻ khốn khổ bị tước đoạt mất một cuộc đời thú vị, sung sướng, tự do mà ta

luôn nuối tiếc” 265; 125 . Hay đứng trước những mối bất hòa trong đám quân

125

thần tâm phúc của mình, Lê Lợi đã không ít lần suy ngẫm về sự khác biệt và lẽ

công bằng: “Kẻ giỏi đao cung hay tâm trạng nhiều lại có quyền khinh rẻ người hay

chữ đến thế sao? Phải chăng đó là chuyện thường tình của mọi thời? Vậy thì người

làu làu kinh sử sao lại không được khinh miệt trở lại” [265; 136 . Thêm nữa, ông

còn có những suy nghĩ khác với Nguyễn Trãi và các nhà nho đương thời: “Sách là

của thánh hiền còn nồi cơm là của thiên hạ. Phải làm sao cho thiên hạ ăn no thì họ

sẽ đọc sách để hiểu được cái đạo của thánh hiền” 265; 116 … Có thể nói, bằng

phương thức độc thoại, Nguyễn Quang Thân đã làm cho hình tượng Lê Lợi hiện

lên gần gũi, sống động.

Trong Đức Thánh Trần, Trần Thanh Cảnh đã dành rất nhiều công sức,

tâm huyết miêu tả diễn biến tâm lí người anh hùng Trần Quốc Tuấn. Ông đã đặt

nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, những tình huống khác nhau, có khi

đầy éo le, bi kịch. Bằng cách đó, nhà văn thể hiện sở trường của mình qua việc

miêu tả những suy tư, trăn trở về nhân tình thế thái, về cuộc sống trần ai, về

những dằn vặt, giằng xé nội tâm không thể chia sẻ của nhân vật. Nhà văn có vài

lần đặt Quốc Tuấn trong những mối ưu tư về di ngôn của thân phụ An Sinh

Vương Trần Liễu: “Dân là đây, nước là đây. Cha bảo con lấy lại nước là có ý tứ

gì. Người chẳng có dân, có nước đây rồi sao. Con cũng đang trong lòng dân,

trong nước của mình…” 195; 34 . Rồi những băn khoăn, lo lắng, suy tư về vận

nước trước mỗi cuộc chiến:

thế trận sẵn sàng, kẻ địch sẽ được biết thế nào là hào khí Đông A, là khí phách

của quân dân Đại Việt. Và quan trọng hơn, có sự chuẩn bị từ trước cho chiến cuộc

thì tránh được cho người già, đàn bà, con trẻ của trăm họ sự tàn sát hung bạo của

đạo quân khát máu kia. Ta phải suy xét thật chu đáo và đầy đủ, lường hết mọi tình

thế có thể xảy ra trong chiến trận. Ta phải hạn chế mọi tổn thất về người và của.

Và ta phải chắc thắng” 195; 103].

“Chúng ta chuẩn bị nhân tài vật lực tốt, quân sĩ thao luyện k càng, vũ khí và

Những đoạn độc thoại như thế này thường xuất hiện trước hoặc sau những

trận đánh lớn, thể hiện một Trần Quốc Tuấn vừa tài giỏi, vừa đầy lo lắng trước số

phận quốc gia, dân tộc, đồng thời là người luôn suy tính vì từng tính mạng người

lính. Đánh, nếu thắng thì mới đánh. Còn bằng không, thì phải tìm cách thua để bảo

toàn lực lượng. Ông chưa bao giờ muốn lấy sinh mạng của binh lính để chứng tỏ

chí nam nhi. Đánh thế nào để tổn thất ít nhất, giữ lấy quân để mà còn đánh tiếp.

126

Cho nhân vật độc thoại, Trần Thanh Cảnh đã thành công khi khơi được những

điều sâu kín nhất trong lòng vị tướng uy dũng mà rất mực nhân văn trong bối cảnh

khắc nghiệt của chiến trận.

Theo nhà tâm lí học S. Freurd: “hệ thống vô thức là kho tàng của dục vọng

và bản năng sinh vật. Những bản năng và dục vọng này chất chứa những năng

lượng tâm lí mạnh mẽ phục tùng theo nguyên tắc khoái lạc và sự xâm nhập vào

cõi ý thức để thỏa mãn” 45; 268 . Như vậy, có thể hiểu vô thức là thế giới sâu

kín, nó bao gồm những mong muốn, khát khao bị dồn nén, không được thực hiện,

không được thỏa mãn nên nó thường bộc lộ trong những giấc mơ. Với thủ pháp

độc thoại nội tâm, c i vô thức phức tạp của người anh hùng được thể hiện một

cách da diết. Nhân vật Phan Châu Trinh trong Thế kỉ bị mất của Phạm Ngọc Cảnh

Nam thường rơi vào nỗi ám ảnh cùng những cơn ác mộng kéo dài hàng chục năm

về hình ảnh thủ cấp cha mình bị bêu trên cọc tre. Điều đó càng thôi thúc ông bất

chấp mọi khó khăn theo đuổi đến cùng tư tưởng “bất bạo động” trong cuộc chiến

với người Pháp. Cái chết thảm khốc của cha mình là lí do hối thúc Phan Châu

Trinh bằng mọi cách phải “bẻ ghi cho con tàu lịch sử rẽ vào con đường khác, con

đường khôn ngoan hơn của kẻ yếu, là phải tự cường trước đã” 238; 414]. Với Đất

trời, Nam Dao đã để cho Nguyễn Trãi bộc lộ tâm sự thầm kín của mình bằng

những giấc mơ. Đó là giấc mơ về hình ảnh con rắn trở đi trở lại trong những cơn

mộng mị khiến ông phải thét lên trong sợ hãi: “Không không, loài người chúng ta

không ngu độn đến thế” 200; 80]. Rồi tình yêu của Xuyến, sự lo lắng, thu vén của

nàng đã giúp ông có điểm tựa mà giữ được “thăng bằng”. Vì vậy, bao nhiêu lần

sau những cuộc vui, trong cơn mê mệt, Nguyễn Trãi vẫn ú ớ gọi tên cô: “Tôi mơ,

một giấc mơ ban hạ ở góc chợ nhốn nháo. Mở mắt ra, nhìn đi. Tôi vẫn còn mơ ư?

Nhác thấy hình hài em, ở đó, có thật…” 200; 294]. Hay, nhiều đêm trong những

giấc mơ chập chờn, Nguyễn Trãi nghe thấy lời dặn dò của cha: “Tai Trãi văng

vẳng lời cha “làm trai thì về mà trả ơn nước, thế mới là báo hiếu. Nợ nước trước,

thù nhà sau” 200; 110 . Qua việc miêu tả giấc mơ, nhà văn đã làm phát lộ những

rung động thẳm sâu trong tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật là một hướng khai thác mới cho TTLS

Việt Nam sau 1975. Hướng khai thác này đã đem đến chiều sâu trong việc thể

hiện phẩm chất, tính cách người anh hùng. Đặt điểm nhìn vào thế giới bên trong

127

nhân vật, để cho nhân vật tự nói bằng tiếng nói của mình, tự suy tư, trăn trở, cật

vấn, phán xét và tự bạch lương tâm, một lần nữa, các nhà văn đã làm sống dậy một

cách sinh động chân dung những con người vừa là những vĩ nhân, đồng thời cũng

là những con người bình thường, với nhiều sai lầm, đau khổ, bi kịch.

4.3. Luân chuyển điểm nhìn và tổ chức giọng điệu trong xây dựng nhân

vật anh hùng

4.3.1. Kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn

4.3.1.1. Điểm nhìn khách quan

Trước 1975, điểm nhìn trong TTLS chủ yếu là điểm nhìn bên ngoài, điểm

nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba. Nhiều nhà tiểu thuyết giai đoạn này đã đứng

trên quan điểm của một người kể chuyện “biết tuốt” để phản ánh, nhìn nhận lịch sử.

Bằng cách này, họ nuốn cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khách quan, chân thực

về lịch sử (không khác xa so với chính sử). Trong nhiều TTLS của Phan Trần

Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Huy Tưởng, Hà Ân… nhiều trang của TTLS

khá giống với loại “kể chuyện lịch sử”. Sau 1975, điểm nhìn trong TTLS trở nên

đa dạng và linh hoạt hơn, kết hợp điểm nhìn khách quan và chủ quan, điểm nhìn

bên ngoài và bên trong, điểm nhìn tác giả và điểm nhìn nhân vật.

Với các tiểu TTLS mà điểm nhìn khách quan chiếm ưu thế (Phùng Vương

của Phùng Văn Khai, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Tám triều vua lý,

Bão táp triều trần của Hoàng Quốc Hải, Thông reo ngàn Hống của Nguyễn Thế

Quang…, người kể chuyện có thế mạnh bao quát bức tranh toàn cảnh, các sự kiện,

biến cố lịch sử, có khả năng tạo ra quan điểm chính thống để “dẫn dắt” người đọc.

Nhà văn cũng dễ dàng đẩy nhanh mạch thời gian tự sự.

Trong Bão táp triều trần, với điểm nhìn khách quan là chủ yếu, Hoàng Quốc

Hải đã bám sát các sự kiện lịch sử, với hơn 2000 trang sách, dựng lại đầy sức thuyết

phục cả một thời đại từ khởi nghiệp, hưng thịnh đến suy tàn dài tới 175 năm của

nhà Trần. Trong đó khoảng gần một nửa số trang dùng để thể hiện sinh động ba

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông oanh liệt của người dân Đại Việt.

Gương mặt hàng loạt NVAH hiện ra sáng r như Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo,

Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản…; các bậc liệt nữ như An Tư

công chúa, Huyền Trân công chúa, các vị minh quân, sáng suốt và đầy dũng khí

như Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… Hoàng Quốc Hải qua đó không chỉ

128

dựng lại không khí, sự kiện, chiến công trong quá khứ, mà còn tôn vinh truyền

thống văn hóa, lòng tự tôn dân tộc, ý chí quật cường, tinh thần đoàn kết của cha

ông – những phẩm chất truyền thống thường nhất loạt trỗi lên ở những khi đất

nước lâm nguy. Qua bộ tiểu thuyết đồ sộ, thái độ của nhà văn cũng thể hiện rất rõ

ràng khát vọng, như ông từng tâm sự là: “ mở to đôi mắt nhìn vào quá khứ, thấy

được những điều kỳ diệu, và cả những khổ đau xưa cha ông ta đã tạo dựng và nếm

trải” (Lời tựa tiểu thuyết Bão táp cung đình, Nxb Thanh niên, 2005).

Trong Ngô Vương của Phùng Văn Khai, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn

Mộng Giác, Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trần Quốc Toản của Lưu

Sơn Minh, khi miêu tả các sự kiện lịch sử trọng đại, các trận đánh lớn…, các tác

giả cũng thường dùng điểm nhìn khách quan, kèm theo những đánh giá, ngợi ca

của nhà văn. Đây là một cảnh chiến trận trong tiểu thuyết Trần Quốc Toản của

Lưu Sơn Minh:

vung cây thương và thúc ngựa xuống vào. Và chỉ khi đối trận, gã mới biết rằng

mình đã quá coi thường địch thủ. Cây giáo cán mềm của viên tướng Việt cứ uốn

lượn như một con rồng trắng, xoắn xuýt lấy cây thương của Hắc Đích khiến gã

không sao phô diễn được hai mươi bảy đường thương tuyệt k gia truyền. Mũi

giáo sắc nhọn cứ lướt qua lướt lại trước mặt gã như trêu ngươi rồi chỉ nhè những

chỗ yếu hại mà đâm tới. Đau nhất là viên tướng trẻ con đâm ngang ngọn giáo

vào mặt gã rồi giật tung những sợi râu quai nón xù xì đang xoắn lại vì bụi đường

lẫn mồ hôi”… 237; 161-162].

“Khi thấy viên tướng Việt trẻ măng hoành giáo cản đường gã. Hắc Đích

Với điểm nhìn khách quan là chủ yếu, Trần Thanh Cảnh đã xây dựng một

nhân vật Trần Quốc Tuấn vừa vĩ đại, cao cả, vừa gần gũi, quen thuộc. Từ ngoại

hình, thần thái, dáng vẻ đến lời nói, suy nghĩ, hành động, ngài luôn toát lên ánh

hào quang thần thánh, những phẩm chất hơn người của một “thiên tướng nhà trời”,

một “thánh nhân” mang “thiên mệnh cứu giúp hộ trì cho muôn dân vượt qua cơn

binh lửa tàn khốc”. Với v công cái thế, sức mạnh phi thường, thần thái uy

nghiêm, tài đức trọn vẹn, vị tướng nhà Trần vừa có sức hút kì lạ với những người

xung quanh, vừa mang đến nỗi khiếp sợ kinh hoàng cho kẻ địch. Trong cuộc chiến

một mất một còn với quân Nguyên, Hưng Đạo Đại Vương chính là biểu hiện cho

sức mạnh bất diệt của dân tộc Đại Việt, là linh hồn, điểm tựa tinh thần giúp quân

dân Đại Việt vượt qua những khó khăn, thử thách. Ngài sẵn sàng quên đi “thù

129

riêng”, chủ động hóa giải đối kháng ngầm giữa hai chi trưởng - thứ, bỏ ngoài tai

những lời gièm pha, tập trung mọi sức lực, tâm trí vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì

bình yên, hạnh phúc của bách tính muôn dân.

4.3.1.2. Điểm nhìn chủ quan

Điểm nhìn chủ quan hay điểm nhìn bên trong là điểm nhìn mà ở đó, tác

giả vẫn kể chuyện từ ngôi thứ ba nhưng lại chuyển dịch, nhập thân vào nhân vật,

trần thuật theo quan điểm nhân vật. Cũng có lúc tác giả gần như “bàn giao” lời

kể chuyện cho nhân vật, giống như nhân vật đang tự kể về mình ở ngôi thứ nhất.

Điểm nhìn này thường thể hiện phổ biến qua lời trần thuật nửa trực tiếp và lời

độc thoại nội tâm.

Các TTLS chú trọng hơn đến điểm nhìn chủ quan (Giàn thiêu của Võ Thị

Hảo, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Đất

trời của Nam Giao…), thường có thế mạnh trong việc soi vào thế giới nội tâm

NVAH, miêu tả k những đấu tranh, giằng xé của họ, mạch thời gian tự sự chậm

lại, các sự kiện lịch sự như trôi đi chậm hơn.

Trong Đất trời của Nam Giao, hình tượng Nguyễn Trãi được soi chiếu từ cả

bên ngoài và bên trong. Ở nhiều trang, nhà văn cố gắng thâm nhập vào nội tâm

nhân vật, miêu tả Nguyễn Trãi khác với cách hình dung vốn có của người đọc.

Ông để Nguyễn Trãi trở thành nhân vật đầy cá tính và nhiều mâu thuẫn, là nhân

vật của những bi kịch kép. Trong con người Nguyễn Trãi tồn tại nhiều cực đối

cực: lý tưởng nhập thế và tâm lý thoát ly; ý chí, nghị lực và sự buông xuôi, tiêu

cực; niềm tin và sự thất vọng, tình yêu trong sáng và sự đam mê dục tính… Nhân

vật nhiều khi đau khổ, tự vấn: “Trãi bỗng nhận ra sự yếu đuối của thể xác là một

bất công của đấng cao xanh. Chữ với nghĩa, giờ tích sự gì?” 200; 75 ; “Trong cái

thế người bị trị cổ kê dưới lưỡi đao đầu kiếm, cớ sao ta vẫn cứ một điều nhân

nghĩa, hai điều tâm công?... Cớ sao cứ phải lập lại một Luận ngữ, Trung dung?...

rằng Đạo Thánh là của chung thiên hạ nhưng làm theo đạo thì mỗi nơi một phách,

chẳng qua chẳng đặng đừng?” 200; 92].

Nguyễn Quang Thân với Hội thề có nhiều trang thành công trong việc soi tả

nhân vật Lê Lợi từ bên trong. Bằng cách để cho nhân vật tự bộc bạch những suy

nghĩ thầm kín của mình, tác giả đã khắc họa được một Lê Lợi vừa sáng suốt, sắc

sảo, đồng thời cũng là một con người “nơi sơn dã” nhiều dục vọng, lắm nghi kỵ

130

nhỏ nhen. Lê Lợi hiểu hơn ai hết mình là ai, mình muốn gì; hiểu thấu giá trị to lớn

của trí thức nhưng không sao bỏ được cái “máu ghét học trò”; vừa muốn mình là

thánh lại vừa “không tin mình là vị thánh giáng trần” 265; 124 ; “ông thừa nhận

mình cũng có nhiều dục vọng bản năng của một con người nơi sơn dã và rất sung

sướng khi những dục vọng ấy được thỏa mãn” 265; 125 . Ông cảm thấy “sự khốn

khổ” của kẻ làm vua, “muốn “tự nhiên nhi nhiên”. Ông buộc lòng phải cao cả,

phải anh hùng mà thôi… Tại sao ta không giữ cô thôn nữ với mùi hương làm lòng

ta tan nát ấy lại?” 265; 125 . Những câu hỏi của Lê Lợi vừa tạo tính đối thoại,

vừa tạo sự kịch tính, vừa diễn tả chân thực những giằng xé, dằn vặt không thể thổ

lộ, giãi bày cùng ai. Nguyễn Trãi trong Hội thề cũng được nhà văn trao điểm nhìn

bên trong để có thể tự bộc lộ những suy nghĩ về chủ tướng, về tướng lĩnh Lam

Sơn, về thân phận của bản thân. Trong dòng độc thoại nội tâm của Nguyễn Trãi,

có thể thấy những day dứt, đau đớn của ông trước sự ghẻ lạnh của những người

anh em mà ông từng yêu mến: “Ông có thù oán gì họ không? Không, thật lòng là

không. Ông cảm phục lòng dũng cảm gan góc xả thân của họ, so với họ thì bọn có

học như Lương Nhữ Hốt chỉ là chó lợn mà thôi. Ông thương yêu họ, thành tâm

muốn gần gũi với họ dù cứ bị hắt ra như người ta coi chừng một kẻ lạc loài gian

manh, sớm đầu tối đánh bên cạnh mình” 265; 258 . Nguyễn Trãi còn tự soi chiếu

mình trong việc bộc lộ lòng trung thành với chủ tướng: “Ông chỉ là bầy tôi trung

thành với chủ tướng chứ không thể là bằng hữu, chưa bao giờ là bằng hữu như bọn

Vấn hay Sát” 265; 152 ; “Ông luôn là khách giữa đám quần thần tướng lĩnh của

một triều đại đang bắt đầu sửa soạn ngôi thứ. Họ là người nhà, còn ông là khách,

mãi mãi là khách” 265; 258]. Trong lời tự vấn, nhà văn đã để nhân vật Nguyễn

Trãi hiện ra với những đau buồn, xót xa rất người sau những cố gắng thể hiện lòng

trung thành nhưng vẫn bị Lê Lợi nghi ngại, vừa tôn trọng vừa xa cách.

Trong Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh nhìn nhận nhân vật lịch sử với

những khía cạnh mới, con người với đủ mọi giận hờn, yêu ghét, với những phẩm

chất rất đỗi đời thường, con người của khát vọng và bi kịch. Hồ Quý Ly, ngoài

phẩm chất của một vĩ nhân, còn tồn tại những nét đời thường, thậm chí phàm

tục. Ông là cả một sự phức tạp và mâu thuẫn, có nhìn xa trông rộng và thiển cận,

có nhân ái và tàn bạo, có ảo tưởng và thực tế… Người kể chuyện hóa thân vào

nhân vật, đi sâu vào tâm hồn luôn dậy sóng của nó: “Còn ông, đêm ngày ông

131

phải bận rộn, tâm trạng lúc nào cũng khắc khoải, cuồng nộ. Và những đam mê,

những khát vọng cho đến lúc thành tựu, thực bụng lúc đó ông thấy kiêu hãnh và

thoả mãn... Cái đó có gọi là hạnh phúc không nhỉ? Còn tham vọng thì vẫn như

những đợt sóng; đợt này qua, đợt khác tới. Và ông lại say sưa đi tìm những tham

vọng mới...” 231; 548-549 . Có khi người kể chuyện đi sâu vào tiềm thức nhân

vật, buộc nhân vật phải đối diện với lương tâm mình: “Nghệ Vương Ông hãy

bình tĩnh lại đi Hãy hiểu cho tôi... Hãy hiểu đến lẽ tuần hoàn...”; “Quý Ly đau

một cái đau khủng khiếp, điếng dại cả tâm hồn...” 231; 459 . Những lời nói của

Quý Ly trong giấc mơ chính là sự tự biện hộ cho mình khỏi sự phán xét của toà

án lương tâm. Sau những cải cách được thi hành một cách nóng vội và không

hiệu quả, Quý Ly luôn trằn trọc suy nghĩ: “Thái sư thở dài. Ông hiểu rằng chế độ

mới được thi hành còn nhiều trục trặc. Đúng là ban đầu người dân có thể khổ

hơn. Tuy nhiên thái sư đang nghĩ ra những giải pháp...” 231; 537]. Khám phá

đến tầng sâu kín nhất của tâm hồn, người kể chuyện nhìn thấy một Hồ Quý Ly là

con người cô đơn tột cùng trên đỉnh cao quyền lực. Quý Ly khao khát có được

một người hiểu mình. Khi Công chúa Huy Ninh mất đi, nỗi cô đơn của Quý Ly

càng trở nên lớn lao: “Vì thế, khi bà mất, ông thấy choáng váng cô đơn. Những

người như ông cô đơn là bạn đồng hành. Ông kiêu hãnh vì sự cô đơn ấy. Thậm

chí, ông nghĩ phải có sự cô đơn, ông mới làm nên sự nghiệp lớn...” 231; 549 . Ở

đây, với điểm nhìn từ bên trong, những đau khổ, bi kịch của nhân vật được thể

hiện một cách tự nhiên, chân thực.

4.3.1.3. Kết hợp, luân chuyển điểm nhìn

Trong nhiều TTLS Việt Nam sau 1975, khi miêu tả NVAH, các nhà văn

thường chú ý kết hợp linh hoạt nhiều điểm nhìn. Điểm nhìn trần thuật luôn dịch

chuyển giữa khách quan và chủ quan, giữa người kể chuyện và nhân vật, giữa các

nhân vật với nhau. Các tác phẩm thể hiện rõ sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật

linh hoạt là Đất trời của Nam Dao, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Sông Côn

mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Búp sen xanh của Sơn Tùng…

Chẳng hạn, trong Hội thề, điểm nhìn trần thuật thay đổi và dịch chuyển

liên tục, từ điểm nhìn khách quan sang điểm nhìn chủ quan. Người trần thuật

lúc thì đứng bên ngoài miêu tả chân dung, lời nói, hành động của NVAH; có lúc

lại dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong để khám phá chiều sâu trong tâm hồn,

132

tâm lí, tính cách nhân vật. Khi xây dựng hình tượng người anh hùng Lê Lợi,

Nguyễn Quang Thân đã khéo léo sử dụng thủ pháp dịch chuyển điểm nhìn từ

bên ngoài vào bên trong: “Bình Định vương Lê Lợi ngồi trước án thư. (…) Ông

đọc binh pháp Tôn tử. Thật mệt. (…) Trông ông bất yên, buồn ngủ nhưng

không ngủ được” 265; 9-10]. Từ ngôn ngữ trực tiếp chuyển dần sang ngôn ngữ

nửa trực tiếp bày tỏ sự đồng cảm trước vẻ mệt mỏi, có phần chán nản của Bình

Định vương khi ngồi trước quyển binh pháp ken đầy chữ nghĩa nhưng thường

“nhảy múa” trước mặt ông. Với Nguyễn Trãi cũng vậy. Nhà văn để Nguyễn

Trãi suy nghĩ về mình, về chủ tướng, về thời cuộc. Ngôn ngữ miêu tả nhanh

chóng nhập vào thế giới nội tâm: “Trãi thấy mắt cay xè (…) Ông thấy thương

xót nhà vua. Người có bản năng làm người mạnh mẽ, người cũng đòi hỏi được

yêu, được ân ái, được chiều chuộng, được chăm sóc như ai. Nhưng người phải

làm tướng, phải làm vua Gánh trên vai người quá nặng” 265; 84].

Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác thường sử dụng linh hoạt cả

điểm nhìn bên ngoài và bên trong, lời trực tiếp và nửa trực tiếp để thể hiện những

mâu thuẫn nội tâm của Nguyễn Huệ. Nhà văn đặt nhân vật vào trạng thái cô đơn,

phải đối diện, tự vấn chính mình. Khi nghe tin An lấy chồng, nhiều chữ “nếu” đặt

ra trong đầu Huệ: “Nhiều chữ nếu đặt ra đầu những câu giả thiết, và câu nào cũng

gây cho anh sự tiếc nuối… Tại sao nàng lại có thể yêu thương một người như thế

được? Nàng có lầm lẫn không? Nàng lầm lẫn về hắn ta hay lầm lẫn về nàng? Câu

hỏi oái oăm đó lại quấy rầy Huệ. Anh cảm thấy choáng váng phải đưa tay lên

chống trán” 208; 710 . Huệ đấu tranh với bản thân khi đứng trước cửa nhà ông

giáo vào cái đêm trước ngày An cưới: “Anh mạnh dạn quay lại đường cũ. Nhưng

đến ngã rẽ vào nhà thầy, anh lại nghĩ: “Thầy đi khép cửa sổ, tức là sắp đi ngủ. Vào

quấy rầy Thầy lúc này có tiện không?... Ta đến đây làm gì? Để nói gì với Thầy?

Với nàng? Ta có điên chưa mà toan tính rồ dại vậy?” 208; 699 . Những suy tư

trăn trở của Huệ trong đêm ở Thăng Long, suy nghĩ những giải pháp về vấn đề

Bắc Hà: “Ông phải làm gì đây? Họ Trịnh đã bị lật đổ khỏi phủ chúa… Chế độ vũ

trị không thể kéo dài. Quyền hành sau này sẽ thuộc về ai? Giao vận mệnh xứ sở xa

lạ này (cái xứ sở ông mới quen có hai tháng ngắn ngủi) cho sự đau yếu bạc nhược,

hay cho sự sợ hãi? Vả lại anh ông ở Quy Nhơn đang nghĩ gì khi được tin ông đã

đem đại quân vượt qua Lu Thầy?” 209; 603]; “Ta dừng lại chăng? Ta bằng lòng

133

đứng bên này Lu Thầy nhìn ra phía Bắc như một kẻ ngoài cuộc, để mặc cho

Nguyễn Hữu Chỉnh, họ Lê, họ Trịnh, quận Thạc, quận Liễn cùng lũ quan thị xâu

xé nhau giữa một đất nước tan hoang…” 210; 39 …

Trong Bão táp cung đình, miêu tả Trần Thủ Độ, Hoàng Quốc Hải luôn chú

ý kết hợp điểm nhìn của nhiều nhân vật. Trong con mắt của Hoàng tiên sinh, Trần

Thủ Độ vừa là một anh hùng, vừa là gian hùng: “Thủ Độ là một anh hùng, một tay

gian hùng. Giỏi. Y cực giỏi, đế nghiệp chắc chắn về tay họ Trần” 211; 83]. Với

Trần Thị Dung, Thái Tông, Huệ Tôn, Trần Thủ Độ là một gương sáng: “Ông ấy là

một người trọng nghĩa. Nhưng là một người sống mẫu mực, nghiêm chỉnh” 211;

144 ; “Quốc Công là một bậc kỳ tài có một không hai trong lịch sử nước nhà mà

không tự biết, hoặc không cần biết đến” 211; 416]. Còn phe cánh chống đối như

Nguyễn Nộn, Đào Hữu thì cho rằng Trần Thủ Độ là loại “vũ dũng vô mưu”: “Trần

Thủ Độ tuy là nhà hảo phú, lắm của, nhiều quân, được xem là loại vũ dũng.

Nhưng y xuất thân từ đám dân chài, lại vô học, hắn chí hùng hục như con trâu

mộng húc bừa, không có gì đáng sợ” 211; 104]. Cách thức luôn chuyển điểm

nhìn này giúp nhà văn khắc họa thành công một Trần Thủ Độ mà theo ông “không

thể đồng tình với các sử gia trung đại”, “mong trả lại sự công bằng cho nhân vật

lịch sử”.

Sự luân phiên điểm nhìn trần thuật cũng là một nét đặc sắc trong Gió lửa

của Nam Giao. Người trần thuật luôn linh hoạt trao điểm nhìn cho các nhân vật

để tạo ra sự đối thoại, tranh biện. Dưới con mắt của Ngô Thì Nhậm, Huệ là “một

thiên tài về mặt quân sự” thỏa sức vùng vẫy. Trong mắt của Nhật, Huệ là kẻ

“ngạo ngạn thách thức”. Dưới cái nhìn của người kể, Huệ “từ em một tên ấp

trưởng buôn trầu nguồn, đã trở thành phò mã vua Lê, mặc sức xoay vần cả một

đế chế” 199; 515 . Dưới cái nhìn của Thức: “Huệ đánh được xâm lăng nhà

Thanh, thì Huệ đáng làm vua” [199; 538]. Còn Nguyễn Ánh cho rằng: Huệ là

“con cọp, nó tát nó quào rồi nó bỏ đi. Còn ta trời sinh ra ta làm con sói. Ta

không tát không quào, chỉ biết cắn. Nhưng khác nó, ta cắn vào con mồi rồi thì

nhất định ta không nhả ra, dù trời có sập cũng vậy!” 199; 396 … Ở đây, các

điểm nhìn được đặt cạnh nhau, bổ sung cho nhau, giúp làm r hơn bản lĩnh, tài

năng, tầm vóc của người anh hùng Nguyễn Huệ.

134

Xây dựng NVAH từ nhiều điểm nhìn là một bằng chứng cho thấy những nỗ

lực của các nhà văn trong việc cách tân TTLS Việt Nam sau 1975. Bên cạnh điểm

nhìn bên ngoài, khách quan quen thuộc, nhiều nhà văn đã chú ý dịch chuyển điểm

nhìn vào bên trong, luân chuyển linh hoạt điểm nhìn, giúp soi chiếu sinh động thế

giới tâm hồn phức tạp của NVAH.

4.3.2. Kết hợp linh hoạt nhiều giọng i u

4.3.2.1. Giọng ngợi ca, hào sảng

Khi miêu tả NVAH, người trần thuật không thể không đứng trên quan điểm

dân tộc và cái nhìn của quần chúng nhân dân, trước hết là sự tôn thờ, kính trọng

những vĩ nhân đã thay trời hành đạo, cứu nước, an dân. Giọng điệu ngợi ca trước

hết, thể hiện trong những lời văn miêu tả ngoại hình, chân dung nhân vật.

Nguyễn Huệ trong Tây Sơn bi hùng truyện: "Huệ tuy còn niên thiếu mà lưng hùm

vai gấu, mặt vuông tai lớn, mắt sắc như gươm, ánh nhìn như chớp" 197; 30]. Và

sau này khi đã lập được nhiều chiến thắng, Nguyễn Huệ lại được Lê Đình Danh

phác hoạ: "ngồi trên bành voi, oai phong lẫm liệt, bệ vệ uy nghi" 198; 519]. Hay

một Nguyễn Huệ mang đầy nét đẹp hào hoa, lãng tử trong Hoàng đế Quang

Trung: “Một chàng trai đô khoẻ chưa lộ vẻ phong trần, các đường nét được sắp

xếp hài hoà cân đối trên một khuôn mặt vuông vức, đầy đặn như vừng dương

vươn lên với sắc hồng rạng rỡ, trông trẻ trung phơi phới và rất uy nghi trên lưng

con tuấn mã" 223; 130].

Giọng điệu ngợi ca còn được nhà văn sử dụng trong miêu tả tài năng và

phẩm chất của người anh hùng. Sự ngưỡng mộ được thể hiện trong những đoạn

văn miêu tả người anh hùng tả xung hữu đột nơi sa trường: “Lời còn chưa dứt,

Ngô Quyền đã như bay từ trên bành voi xuống lưng con bạch long câu. Ngô

Quyền nắm chắc trường thương, oai phong tế ngựa tiến thẳng ra phía trước”(…)

"càng đánh càng hăng, đường thương vun vút, khiến Lý Trí Thuận không khỏi

kinh động trong lòng” [227; 32]. Trong trận Bạch Đằng, hình ảnh của Ngô Quyền

“Ngô chủ tướng thân mang giáp trụ, lưng đeo trường kiếm lớn, dầu đội mũ

đâu mâu khảm ngọc, oai phong đĩnh đạc bước lên chính giữa đàn gỗ… Khi

Ngô tướng quân giơ tay về bốn phía, sóng người cuồn cuộn dâng lên, những

tiếng hô hét vang trời cùng chiêng trống thúc lên ầm ầm không dứt…, để ba

quân tỏ r lòng muốn được đánh giặc, Ngô Quyền ra hiệu cho bốn phái cùng

hiện lên oanh phong lẫm liệt:

135

yên lặng mới cất tiếng sang sảng như chuông đồng. Giọng Ngô tướng quân

chưa bao giờ vang ngân và xúc động đến nhường ấy” 227; 349-350].

Trần Quốc Tuấn trước hết là một v tướng “giỏi mọi môn v nghệ. Phi

ngựa bắn cung, đánh gươm, côn quyền cho đến cả môn v vật truyền thống”; “Khi

chàng múa giáo, tiếng gió rít lên như bão, xung quanh người chàng chỉ có những

vòng tròn liên hoàn bất tận đan kín, không thấy người. Gươm giáo tên đạn bắn

văng ra hết” 196; 49 . Không chỉ giỏi v nghệ, Trần Quốc Tuấn còn là người có

tầm nhìn xa, một thiên tài quân sự. Tài năng ấy làm cho bọn giặc khiếp sợ: “Trần

Quốc Tuấn là viên tướng tài số một của Đại Việt” [196; 56]. Trong con mắt của

Trần Thanh Cảnh, Trần Hưng Đạo là “vị tướng nhà trời”.

Giọng ngợi ca, hào sảng chính là sự tiếp nối truyền thống sử thi trong miêu

tả người anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1945 - 1975. Giọng điệu này

đã góp phần tạo dựng nhiều hình tượng NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975

hiện lên như những con người tuyệt đẹp, những biểu tượng về ý chí, tinh thần, trí

tuệ của con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, mà nói như Nguyễn Trãi

“tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ song hòa kiệt thời nào cũng có”.

4.3.2.2. Giọng trữ tình, đằm thắm

Lịch sử dân tộc có những trang dữ dội, oanh liệt, với những chiến công

vang dội chống ngoại xâm, những cuộc nội chiến đẫm máu, nhưng lịch sử cũng có

những trang êm đềm trong hòa bình, những khung cảnh, vùng đất, con người đầy

chất thơ. Các nhà văn thường sử dụng giọng điệu trữ tình trong tiểu thuyết để

miêu tả thiên nhiên, tình yêu hay những xúc động nội tâm khi xây dựng NVAH.

Giọng trữ tình chủ yếu được được nhà văn sử dụng để đi sâu phân tích

những diễn biến tinh tế, thầm kín trong tâm trạng nhân vật. Đây là đoạn văn thể

hiện tình thương của người kĩ nữ với Nguyễn Trãi (Hội thề - Nguyễn Quang

Thân): “Ông ấy yêu nàng, chăm sóc nàng như một chàng công tử tốt bụng lại

hào hoa, phong nhã chẳng chút thô lậu v tướng… Có khi ông ta khóc. Tự dưng

nàng thấy thương ông ta, nàng chưa từng có chồng nhưng nàng nghĩ nếu có

chồng chắc nàng cũng thương chồng mình như thế” 265; 68]. Có khi giọng điệu

trữ tình lại được dùng để thể hiện những hoài niệm, nuối tiếc của Nguyễn Trãi về

quá khứ: “Ôi những ngày tuyệt vời ấy đâu rồi? Thân phụ thân mẫu không còn,

ông đã mất tất cả, mất hết… ông đã mất hẳn cuộc đời thanh xuân cũ, cuộc đời

136

ông quý ông yêu biết bao vì không giấu ai, ông thừa nhận mình cũng có nhiều

dục vọng bản năng của một con người nơi sơn giã và rất sung sướng khi những

dục vọng ấy được thoả mãn”. Khi thể hiện những niềm vui, nỗi buồn của người

anh hùng, tác giả cũng sử dụng giọng trữ tình: “Nguyễn Trãi sung sướng vì hôm

nay nhà vua đã quyết đoán nhanh chóng. Người tự ví mình với con chim ưng

sáng suốt, dũng mãnh, nhưng ông thấy Người còn hơn thế. Cuộc dấy nghĩa đã

đến hồi kết thúc và chính ông cũng thấy ngỡ ngàng vì quá mừng rỡ khi đoạn kết

diễn ra m mãn. Lòng ông nhẹ nhàng, thảnh thơi và phơi phới như vừa trở về

nhà sau một buổi vãn cảnh chùa” [265; 288]. Với Hồ Qúy Ly, Nguyễn Xuân

Khánh sử dụng giọng điệu trữ tình đầy cảm xúc khi miêu tả tâm trạng của Hồ

Quý Ly sau khi đọc xong Minh Đạo Luận của Sử Văn Hoa:“Chao ôi Minh Đạo

một giàn nhạc khổng lồ mà những nhạc công vẫn còn tấu lên những điệu khúc

theo cách của họ” 231; 503].

Giọng trữ tình còn được nhà văn sử dụng để miêu tả những cung bậc cảm

xúc của tình yêu. Trong Đức Thánh Trần, hai giọng điệu chủ đạo mà nhà văn xây

dựng khi miêu tả nhân vật Trần Quốc Tuấn là giọng giọng ngơi ca hào sảng và

giọng trữ tình. Nếu như giọng ngợi ca được sử dụng với mục đích đề cao phẩm

chất, vẻ đẹp của người anh hùng thì giọng trữ tình lại hướng đến thể hiện những

cảm xúc thăng hoa đến tột đỉnh trong tình yêu của Trần Quốc Tuấn. Đây là đoạn

văn đầy cảm xúc miêu tả cảnh ân ái của Trần Quốc Tuấn và Quế Lan tại nương

dâu bên dòng Thiên Đức: “Cả nương dâu xanh ngát bên bờ sông Thiên Đức hân

hoan ca hát. Gió sông ào ạt thổi, nắng xuân nhảy nhót reo vui mừng mối duyên

trời. Lúc họ trao mình vào nhau, một đàn chim hồng hạc thốt nhiên tự trên trời cao

sà xuống mép nước. Những con linh điểu đẹp đẽ vươn mình tắm rửa trên dòng

nước ngọt lành của con sông. Chúng nhảy nhót gù nhau, những đôi cánh rộng lớn

giang ra vẫy gọi trong vũ điệu huyền bí. Những cái cổ kiêu hãnh thon thả vươn lên

mê đắm. Từ những đôi mỏ hồng xinh xắn, những tiếng yêu âu yếm như tiếng thầm

thì của tình yêu thần thánh thăng hoa…” 195; 31]. Trong Sông Côn mùa lũ, tác

giả cũng dùng những đoạn văn giàu chất thơ thể hiện tâm trạng Nguyễn Huệ trước

thiên nhiên hoặc trước tình yêu của An: "Huệ đứng bên cửa sổ nhìn những giọt lá

me vàng rơi đều, rơi đều, lòng bập bềnh bồi hồi. Buổi sáng qua mau trong cảm

giác bảng lảng đó của tâm hồn Huệ" [208; 296]. Mối tình Huệ - An ở Quy Nhơn

137

như những nốt nhạc trữ tình đan xen giữa những không gian chiến trận, thường

hiện lên trong tâm trí của người anh hùng dân tộc.

4.3.2.3. Giọng triết lý - chiêm nghiệm

Trong TTLS giai đoạn 1945 - 1975, giọng điệu chủ yếu là giọng sử thi.

Nguyễn Thị Bình cho rằng: “Nếu nhìn đại thể, văn xuôi nước ta từ 1945 đến

1975 tương đối nhất quán về giọng điệu: giọng khẳng định, ngợi ca của một cái

nhìn tin tưởng lạc quan bao trùm (những biến thái có thể là hào hùng, hào sảng,

đanh thép, vui tươi, trang nghiêm tự hào, đầm ấm tin yêu” 17; 82 . Đến giai

đoạn sau 1975, với xu thế dân chủ, soi xét lại các giá trị và đi tìm kiếm các giá

trị mới, tiểu thuyết lịch sử có sự gia tăng giọng triết lí, chiêm nghiệm. Giọng

điệu này lên ngôi khi nhà văn muốn đối thoại, chất vấn lịch sử, rút ra các bài học

từ lịch sử để định hướng cho hiện tại. Trong bài viết Ký ức nhân loại qua con

mắt của nhà văn, Uông Triều cho rằng: “Tôi thường viết khá nhiều về vua Trần

Nhân Tông… Tôi thường tự hỏi không biết vua Trần Nhân Tông đã nghĩ gì. Đôi

khi có những tình tiết hư cấu tôi lại đắn đo, không biết mình có đoán trúng ý

ngài không” 63; 463].

Giọng triết lý - chiêm nghiệm thể hiện trong những suy tư của tác giả, của

NVAH khi nghĩ về vận mệnh, tương lai của đất nước, về những bài học cần rút ra,

những dự định không thể thực hiện. Đó là lúc Lê Lợi tự vấn về cái giá phải trả và

mặt trái của ngai vàng khi bản thân đang ở tột đỉnh vinh quang: “Ta đang là ông

vua trên chót vót đỉnh cao quyền lực hay chỉ là một kẻ khốn khổ bị tước đoạt mất

cuộc đời thú vị, sung sướng, tự do mà ta nuối tiếc?” 265; 125-126 . Hay sự chiêm

nghiệm về so sánh giá trị của cung kiếm và chữ nghĩa, sách lược: “Kẻ giỏi cung

đao hay công trạng nhiều lại có quyền khinh rẻ người hay chữ đến thế sao? Phải

chăng đó là chuyện thường tình của mọi thời?” [265; 128 . Trong tiểu thuyết của

mình, Nguyễn Quang Thân đã đặt gần như toàn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào

trong những suy tư, chiêm nghiệm của Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Nhiều trang viết

như là những cuộc luận bàn về anh hùng, về nhân tình thế thái dưới hình thức tự

vấn của nhân vật, đồng thời đó cũng là những tự vấn khắc khoải trong tâm tư

người đọc.

Giọng triết lý, chiêm nghiệm đôi khi được nhà văn sử dụng để chất vấn lịch

sử như khi Nguyễn Mộng Giác đánh giá vai trò lịch sử của các cá nhân (Nguyễn

138

Huệ, Nguyễn Nhạc): “Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là những cá nhân ở đúng vào vị

trí vươn lên của một thế hệ mới. Dĩ nhiên (…) có tài trí đủ để nhận lãnh vai trò

lịch sử, nhưng họ không hoàn toàn chủ động. Tình thế đẩy họ tiến lên, đám đông

thúc họ đứng dậy” 208; 375]. Những con người như Nguyễn Huệ có “sự quả

cảm, trầm tĩnh và thông minh thiên phú” nhưng “ Bước đầu họ có lúng túng với

vai trò mới, họ cảm thấy bị đưa đẩy nên phải quyết định vội, nhưng dần dần quen

với vai trò lịch sử, họ tự tin hơn, chính lúc đó khả năng trí tuệ của họ mới biểu lộ

toàn diện để đối phó với các biến cố dồn dập, các thử thách lớn lao mà từ xưa đến

nay họ chưa từng gặp phải” 208; 375 . Nguyễn Mộng Giác không đánh giá thấp

vai trò của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, nhưng ông cũng suy tư nhiều về những

mầm mống của thất bại ngay khi xuất hiện cảnh “nồi da xáo thịt” giữa hai anh em

Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Trong Sông côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác đã trả

lời những câu hỏi ấy bằng việc dẫn ra những nguồn sử liệu, một của ta, một của

người ngoại quốc, ghi lại lập trường của Nguyễn Nhạc về vấn đề Bắc Hà: “Trong

cuộc hội kiến giữa Chapman và Nguyễn Nhạc năm 1778 (…) Nguyễn Nhạc cho

biết ước vọng cao nhất của mình là chiếm cả giang sơn Nam hà, từ Lu Thầy vào

đến Gia Định. Chỉ chừng ấy thôi! Trong cuộc hội kiến với vua Chiêu Thống nhà

Lê tám năm sau (1786) tại kinh đô Thăng Long, Nguyễn Nhạc cũng nhắc lại điều

ấy cho các quan nhà Lê nghe. Nói chuyện với dân Nghệ An, Nguyễn Nhạc cũng

nhún nhường tự coi là “họ ngoại của chúa Nam Hà” 210; 114]. Tác giả đã nhìn

thấu lực cản lịch sử không ở đâu xa mà chính là ở người anh cả của Nguyễn Huệ:

“R ràng, trước sau như một, Nguyễn Nhạc chỉ muốn dừng lại bên này lu

Thầy… Cho nên nếu không có vụ nồi da xáo thịt thì cái cớ thống nhất cũng không

thể thành tựu được” [210; 114]. Giọng điệu từ suy tư chuyển sang phán xét nhân

danh lịch sử: “Cho nên, nếu Nguyễn Huệ xứng đáng nhận lấy vinh quang vì can

đảm hy sinh cái tiểu tiết để phụng sự cái đại cuộc, thì chính Nguyễn Huệ phải một

mình chịu trách nhiệm về sự yếu đuối của mình. Ông dám bất tuân lệnh vua anh

vượt qua Lu Thầy, nhưng không đủ sức mạnh ý chí và sự lạnh lùng để vượt qua

cái lu vô hình là tình máu mủ” 210; 117]. Phải chăng sự yếu đuối đã khiến

Nguyễn Huệ đã bỏ lỡ cơ hội lịch sử, sinh ra ranh giới Bến Ván và “nuôi dưỡng” di

hoạ cho Tây Sơn: “Bến Ván Bến Ván Cái tên ấy sắc như một lưỡi gươm chém

đứt thân thể của xứ sở, chém đứt ước vọng thống nhất của một người anh hùng

139

dám một mình chịu đựng tất cả tai tiếng, dèm pha, đàm tiếu thực hiện cho được

cao vọng của mình. Những dao động thanh toán nội bộ sau biến cố quan trọng

này, tất nhiên không thể tránh khỏi. Kể tỉ mỉ làm gì những điều vụn vặt ấy ”.

Nguyễn Huệ dù bị tác giả phê phán, cũng vẫn được cảm thông: “Làm sao được

Ngoài khối óc, ông còn có trái tim nhạy cảm ” [210; 117].

Giọng triết lý - chiêm nghiệm đôi khi còn được các nhà văn dùng để nói lên

những trăn trở, suy ngẫm của người anh hùng về lẽ nhân sinh. Đó là những suy

ngẫm của Nguyễn Trãi (Đất trời) về sự sống và cái chết: “Liều chết để tìm ra

đường sống? Có thể lắm. Nhưng nếu không chỉ xuất phát từ bản năng mà là một

chọn lựa thì liều chết để tìm ra đường sống lại là một nghịch lý oái oăm và thê

thảm nhất của loài người” 200; 127]; “Điều kỳ diệu của sự sống là trong từng cái

nhỏ nhoi” 200; 155]. Nói về tình yêu với Tổ Quốc, Nguyễn Trãi chiêm nghiệm:

“Yêu một người, khó vô cùng. Yêu non sông xã tắc dễ hơn vì tình yêu đó trừu

tượng. Nó được gạn lọc qua chữ nghĩa thánh hiền, biến thành một thứ thần quyền

dính dấp u mê. Mà đã u mê, còn gì là ý thức. Không ý thức, làm sao có tự do?”

[200; 306 . Để tìm cách đối xử khéo léo với tên hàng xóm luôn đầy ắp dã tâm,

Nguyễn Trãi (Hội thề) nghĩ rằng: “Muốn anh hàng xóm côn đồ không sang đánh

ta, phá nhà ta, giết lợn gà của ta thì có một cách là đi lại với y, coi y như hàng

xóm. Chỉ có nước lã mới rửa được máu, lấy máu rửa máu chỉ làm bẩn mãi thêm”

[265; 274 . Có khi là suy nghĩ của Nguyễn Trãi về chữ nhẫn của kẻ quân tử:

“Nhẫn là quý, là sự nhường nhịn của kẻ có học trước tâm địa vô học xấu xa để

một lòng cho tình thế ổn định. Nhưng nếu sống chỉ có chữ nhẫn thì rất có thể

mang tiếng là kẻ hèn” 265; 82-83].

Như vậy, để khắc họa sinh động hình tượng người anh hùng, các nhà văn

đã sử dụng phối hợp, linh hoạt nhiều sắc giọng: giọng ngợi ca, hào sảng, giọng trữ

tình tha thiết, giọng suy tư chiêm nghiệm. Ngoài các sắc giọng chủ yếu trên, các

nhà văn còn sử dụng một số giọng khác như giọng khách quan trung tính, giọng

hoài niệm, xót xa, giọng hài hước, humor.

4.4. Kết hợp sử dụng nhiều lớp ngôn từ trong xây dựng nhân vật anh hùng

4.4.1. Lớp ngôn từ cổ xưa, đậm chất lịch sử

NVAH trong TTLS Việt Nam sau 1975 phần lớn đều là những nhân vật có

thật, sống cách chúng ta một khoảng thời gian dài. Một lớp bụi thời gian đã phủ

140

lên các sự kiện. Để phục dựng lại chân dung con người của một thời kì đã qua là

điều không hề dễ. Nhà văn ngoài việc nắm vững kiến thức lịch sử còn phải khảo

cứu không gian văn hóa, nghi thức giao tiếp, trang phục, ngôn ngữ… Hoàng Quốc

Hải cho biết khi viết Bão táp triều Trần, ngoài việc đọc k các bộ lịch sử như Đại

Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thời S , Lịch triều hiến

chương của Phan Huy Chú, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô S Liên…, ông còn

đi thực tế, dự các hội thảo, tìm hiểu văn hóa, phong tục thời Trần… Việc nhà văn

phải sử dụng vốn từ cổ xưa để phục dựng lại không khí thời đại, cách nói năng của

các nhân vật là một điều tất yếu. Tất nhiên, nếu lạm dụng quá đà sẽ gây nặng nề,

khó hiểu với người đọc.

Trong Bão táp triều Trần, khi miêu tả nhân vật, Hoàng Quốc Hải sử dụng

phổ biến lớp từ cổ. Đây là đoạn miêu tả uy quyền của Điện tiền chỉ huy sứ Trần

Thủ Độ trong buổi thiết triều công bố chiếu chỉ lập Chiêu Thánh (Lý Chiêu

Hoàng) làm hoàng tử và trao ngôi báu:

NVAH sống trong thời đại của họ, phần lớn xuất thân từ tầng lớp phong

kiến nên cách nói năng của họ mang tính quý tộc, khuôn phép. Trần Quốc Tuấn

(trong Bão táp triều Trần) khi tiếp xúc với vua, với quan lại trong triều luôn sử

dụng cách nói cung kính, thủ lễ, chuẩn mực: “Tâu thượng hoàng, tâu quan gia,

thưa chư vị, kế sách phá giặc, toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, núi non,

sông suối rừng cây, biển đảo tất tận thảy đều đánh giặc và trên từ nhà vua dưới

đến bách tính đều muôn người như một quyết tâm đánh giặc… Tâu, đó là kế sách

lớn giữ nước.” 213; 181 . Đặc biệt khi giao tiếp với nhà vua, Trần Hưng Đạo luôn

xưng “thần” và dùng động từ “tâu” để bắt đầu trình bày công việc. Trong Hội thề,

lớp ngôn ngữ cổ xưa là phương tiện giúp nhà văn tái hiện đời sống, sinh hoạt cung

đình, phủ chúa đời hậu Lê, với lớp từ trang trọng như: Bình Định Vương, đức vua,

chúa công, bình thân, các khanh, miễn lễ, thần, đại nhân, tấu trình… Nguyễn

Quang Thân trong Hội thề, đưa vào rất hợp lý vốn từ cổ, các từ Hán Việt, các điển

tích, điển cố. Đây là đoạn Lê Lợi đánh giá về Bình Ngô sách của Nguyễn Trãi:

“Đọc Bình Ngô sách của khanh, về đạo lớn thu hồi xã tắc ta chỉ thấy mấy chữ: “dĩ

đại nghĩa nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi địch cường bạo”. Về thuật đánh giặc

thì ta tâm đắc: “mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất” 265; 188]. Trong

cuộc nói chuyện với công tử Tư Tề (con trưởng của Bình Định Vương Lê Lợi),

141

Nguyễn Trãi giải thích việc vì sao ông muốn Tư Tề vào thành làm con tin: “Thánh

nhân bất đắc dĩ dụng quyền… Chắc công tử biết r , hàng chục thành quách được

vua ta thu về bằng cách đánh vào lòng quân giặc. Đã từng ai dung lẽ phải trái mà

thu phục Thái Phúc? Nhưng “công tâm bất công thành” cũng chỉ là kế mọn. Ý đồ

chúa công trong trận “công tâm” ở Đông Quan mới là kế lạ muôn đời…” [265;

195 . Việc Nguyễn Quang Thân sử dụng lớp ngôn ngữ cổ trong miêu tả nhân vật

Lê Lợi, Nguyễn Trãi chứng tỏ ông rất am hiểu về văn hoá, con người thời đại nhà

hậu Lê.

Trong Sông Côn mùa lũ, Nguyễn Mộng Giác rất khéo léo kết hợp các lớp

ngôn từ để miêu tả NVAH. Lớp ngôn từ có màu sắc lịch sử chủ yếu xuất hiện

trong một số đoạn tái dựng không khí cung đình, quân doanh. Nhân vật Nguyễn

Huệ có lúc nói năng rất đời thường, bình dân, nhưng những lúc cần giữ lễ thì cách

nói năng lại rất cung kính, giữ lễ, đoạn đối thoại giữa Nguyễn Huệ và vua Lê ở

cung Vạn Thọ là một ví dụ: “Thần vì nghĩa tôn phù mà đến đây, đâu dám kể công

lao. Vả chăng chuyến này thần ra cũng bởi ý Trời. Không phải sức người làm

được. Nếu bảo thần có hậu tình riêng với bệ hạ mà kéo quân ra, thì những quân

lính, thuyền bè thần có thể điều khiển, nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió

nồm mạnh lên, há phải sức thần làm nổi? Đó thực là Trời muốn bệ hạ thống nhất

bờ c i, để lưu lại nền móng cho vạn ức năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ chấn chỉnh

giềng mối… Ấy là thần được bệ hạ ban tặng nhiều lắm vậy ” 209; 576].

4.4.2. Lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ mang màu sắc đương đại

Nếu lớp ngôn từ cổ xưa, mang tính “quy phạm” thường gắn với đời sống,

sinh hoạt, nói năng của các NVAH thuộc giới quý tộc phong kiến thì lớp ngôn từ

đời thường, khẩu ngữ mang màu sắc hiện đại lại gắn liền với đời sống của nhiều

tầng lớp bình dân. Những kiểu xưng hô như: ông, bà, tôi, anh, chị, em, ta, ngươi,

gọi đáp bằng tên riêng, các câu thoại mang màu sắc khẩu ngữ hiện đại có mặt

trong nhiều TTLS. Điều này giúp người đọc không bị chìm đắm trong lịch sử mà

vẫn được sống trong không khí hôm nay, cảm nhận được sự gần gũi, quen thuộc

trong từng lời kể, làm sống dậy “những xác chết biên niên sử”.

Trong Trần Quốc Toản, Lưu Sơn Minh khá linh hoạt trong kết hợp lớp

ngôn từ có màu sắc cổ xưa và lớp ngôn từ đời thường, hiện đại khi miêu tả nhân

vật Trần Quốc Toản. Quốc Toản có suy nghĩ phóng túng, nhiều lúc như một trang

142

thiếu niên của ngày hôm nay: “Chị Thoan pha chè kiểu gì mà uống say thế? Chị

có cho thêm cái gì vào không đấy?”, “Không, không, có gì đâu mà phải giữ lễ.

Anh em ta bây giờ cũng phải xưng hô thế nào cho thân mật chứ. Anh Nguyễn

Khoái, em còn kém tuổi chị Thoan cơ mà.” 237; 55]. Trong đối thoại với Thoan

và Nguyễn Khoái, lời của Trần Quốc Toản không giống một người xuất thân quý

tộc, cao sang mà lại gần gũi, thân thiết như những người bình dân xưng hô với

nhau. Ngôn ngữ hiện đại cũng xuất hiện trong đối thoại giữa Lê Lợi và các tướng

lĩnh trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân. Tác giả rất khéo léo kết hợp một số từ

“Ta nói ngay từ khởi thuỷ, buổi đàn hạc hôm nay không ai có tội. Nguyên

Hãn vốn nói năng thẳng thắn đã bày tỏ được lòng trung của mình. Khá khen! Còn

ông Sát, ta không bắt tội những lời phun ra từ miệng ông nhưng ông phải biết việc

rút gươm ra giữa triều có tội gì. Ta sẽ xét sau! Nào, bây giờ ta muốn nghe quân sư

Nguyễn Trãi” 265; 282].

cổ với cách diễn đạt, nói năng giống với con người hiện đại:

Dưới cái nhìn của Nguyễn Quang Thân, Lê Lợi là ông vua xuất thân tầng

lớp địa chủ, sinh ra từ núi đồi, lớn lên gặp buổi loạn lạc, phải đứng dậy đấu tranh

giành sự sống. Vì vậy, Lê Lợi (nhất là thời kỳ chưa lên ngôi) rất bình dị, đời

thường trong cách nói năng. Ông thường dùng lớp ngôn ngữ bình dân, khẩu ngữ

để đối thoại với mọi người: tôi, tao, mày, con, nhà con, ông anh, bọn, chúng nó,

thằng… Chẳng hạn, khi Lê Lợi nói với Phạm Vấn: Đừng nóng ông anh vợ! Ông

không biết rằng chuyến đi này Trãi có thành công cũng là nhờ sau lưng đã có

chiến công của đại quân và tướng lĩnh các ông sao?” 265; 295]. Hay khi Lê Lợi

nói với người lính cận vệ: “Ngươi ngồi xuống cùng ăn với ta. Ta hay đói, tính ấy

xấu phải không? Nhiều người trách ta cho đàn bà vào quân ngũ, họ thị phi là ta

quá nể ông Trãi. Nhưng họ biết đâu là chỉ vì ta hay đói và háu ăn…” 265; 11].

Nhiều lúc Lê Lợi còn có những phát ngôn trần trụi giống khẩu ngữ của ngày

hôm nay: “Đến thịt chuột chúng mày cũng sẽ không có mà ăn nữa đâu”; “Giết

chúng nó đi”; “Đánh bỏ mẹ chúng nó”… 265; 91 ; “Ngữ các ông không bằng

cục phân”; “Lương Như Hốt chỉ là chó lợn mà thôi”…

Nguyễn Mộng Giác rất hiện đại khi miêu tả chân dung, ngoại hình Nguyễn

Huệ: “Trên má, mấy nốt mụn thâm tím hiện lờ mờ lên làn da nâu. Một mảng tóc

quăn phủ xuống cái trán rộng” 209; 104]; “Nguyễn Huệ ngồi yên lặng như vậy

thật lâu, tay trái mơn man lần tìm những nốt mụn nổi hai bên má và dưới cằm. Hễ

143

mụn nổi nhiều là ông biết tâm hồn mình có nhiều bất định” 210; 140]. Hay miêu

tả tâm trạng Huệ trong lần ghé thăm An, người đọc cũng có cảm giác như đang

chứng kiến tình yêu nồng cháy của đôi nam nữ thời hiện đại: “Lòng Huệ rộn rã

(…) An mỉm cười đôn hậu, mắt lóng lánh dưới ánh đèn. Biết bao lần anh mơ

tưởng đến khuôn mặt này, đến mái tóc phủ lên chiếc cổ trắng, đến chiếc mũi thanh

tú, đến vẻ hờn dỗi hay hân hoan thay đổi tùy theo cách mím môi” [208; 370].

Trong Gió lửa, Nam Dao xây dựng Nguyễn Huệ với tính chất là NVAH

xuất thân từ tầng lớp bình dân, áo vải nên bên cạnh lớp ngôn từ bác học, quy

phạm, Nguyễn Huệ thường tự bộc lộ mình bằng một thứ ngôn ngữ bình dân, ít

khuôn phép. Chẳng hạn, trong lễ triều kiến, vua Hiển Tông phong Nguyễn Huệ

làm Nguyên soái, ông tỏ ra không vui và giận dữ: "Ta đánh một trận, dẹp yên

thiên hạ thì một hòn đất, một tên dân nước này là của ta, ta muốn xưng đế, xưng

vương thì xưng, ai cản được. Cái chức Nguyên soái quốc công với ta là cái gì?

Muốn lấy tiếng hão để lung lạc một kẻ mọi rợ à? Ta nhận, nhưng phải nói ra cho

"đám thây ma" ở triều đình đó biết" [199; 93]. Khi ngồi uống rượu với đám tả

hữu, Huệ nói: "Kẻ mọi rợ này nay bám vào cành vàng lá ngọc, thật là "thiên tải kỳ

duyên". Có khi Nguyễn Huệ tự xưng mình là “kẻ này”: "Kẻ này vâng mệnh Hoàng

huynh mang quân ra làm việc tôn phù đã xong. Ngày mai, làm xong việc tang tế

của con rể muốn tròn đạo với bố vợ, thế là trung hiếu vẹn cả hai bề, kẻ này sẽ rút

quân về nước" [195; 113-114]. Nguyễn Huệ còn dùng từ các từ như “gái tơ”, “con

ranh” để nói về Ngọc Hân: "Ta ra vì loạn, về lại đèo bồng thêm một đứa gái tơ, trẻ

con nó chắc bụm miệng cười!" [199; 95], "Ðêm nay động phòng. Xem con ranh

nó tròn hay méo..." [199; 97]. Có những lúc Huệ gọi anh trai mình là “hắn”, dùng

những từ “hao chó”, “sài lang” để ví von về Nhạc: "Không bảo hắn là heo chó, là

sài lang làm nhơ nhớp triều chính thì bảo hắn là cái giống gì?" [199; 118]. Việc

nhà văn để người anh hùng thốt ra những từ ngữ thông tục rõ ràng là dụng ý nghệ

thuật của nhà văn, phù hợp với cách nhìn “giải thiêng”. Tất nhiên, đi theo hướng

này, nếu quá đà, người viết rất dễ hứng chịu búa rìu dư luận.

Tóm lại, nếu lớp ngôn từ mang màu sắc cổ xưa góp phần tái hiện không

gian văn hóa, môi trường sống, cách nói năng của NVAH, phần lớn trong môi

trường giao tiếp cung đình thì lớp ngôn từ hiện đại, gần gũi với đời sống đã góp

144

phần rút ngắn khoảng cách sử thi trong nhìn nhận NVAH, giúp người đọc khám

phá lịch sử và đến với người anh hùng bằng tâm thế của con người hiện tại.

4.4.3. Lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ)

Ngôn ngữ toàn dân là phương tiện chính của nhà văn trong các TTLS.

Nhưng con người lại thuộc về một miền quê nhất định nên cách nói năng của họ

luôn có tính vùng miền. Ngôn từ địa phương là một thủ pháp quan trọng góp phần

khắc họa tính cách, cá tính nhân vật, giúp khắc họa bối cảnh sống, văn hóa vùng

miền nơi NVAH trưởng thành. Lớp ngôn từ này thể hiện trong cách dùng từ, tên

địa danh, từ xưng hô, cách diễn đạt… Khá nhiều tác phẩm sử dụng phương ngữ

thành công trong miêu tả NVAH như Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Hồ Qúy

Ly của Nguyễn Xuân Khánh, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh, Nguyễn

Du và Khúc hát những dòng sông của Nguyễn Thế Quang, Búp sen xanh và Bông

sen vàng của Sơn Tùng, Từ Dụ thái hậu của Trần Thùy Mai,…

Trong Hội thề, Nguyễn Quang Thân sử dụng khá nhiều các từ mang tính

vùng miền để thể hiện tính cách nhân vật Lê Lợi. Khi thị vệ hỏi chúa công có

dùng trà đêm không, Lê Lợi trả lời: “Trà, suốt ngày trà xót cả ruột Lấy cái chi

cho ta ăn. Bụng sôi ầm ầm đây ” 265; 10]. Trong Tây Sơn bi hùng truyện, ngoài

sử dụng ngôn từ toàn dân thì từ địa phương vùng Bình Định cũng được tác giả sử

dụng để miêu tả nhân vật. Các từ địa phương như: té ra (hóa ra, thì ra…), mau

(nhanh), phỉnh (lừa gạt), vời (mời),… Khi Nguyễn Nhạc và các tướng họp bàn

việc quân ở Tây Sơn Thượng, Biện Nhạc đã phong thầy giáo Hiến làm quân sư.

Văn Hiến thoái thác rằng: “Tôi tài cán gì mà dám nhận chức ấy. Bày kế làm biện

lại Vân Đồn nuôi quân là của Nguyễn Huệ. Giết tên biện lại cũ để chủ tướng thế

chân là Vũ Văn Nhậm. Nay tôi nhận chức ấy té ra là tranh công của Huệ và Nhậm

hay sao?” 197; 64]. Trong Khúc hát những dòng sông, Nguyễn Thế Quang đã sử

dụng rất nhiều lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh, xứ Huế để miêu tả nhân vật. Các

nhân vật trong gia đình bà Hoàng Thị Loan khi giao tiếp với nhau thường sử dụng

phương ngữ. Những từ ngữ như: rứa (vậy), răng (sao), mô (ở đâu), ni (này), can

chi (không sao, không vấn đề gì cả), O (cô) … Ngôn ngữ xứ Nghệ được Nguyễn

Thế Quang sử dụng khá nhuần nhuyễn. Đó là những câu hỏi của cậu bé Cung khi

đến làng Dương Nổ: “Cha ơi Sông ni là sông chi. Răng mà nhỏ rứa? Hắn chảy

đến mô” 242; 195 . Hay khi hai mẹ con đi trên sông Hương, Cung hỏi mẹ: “Nhà

145

ai to rứa? - Tòa Khâm sứ của Tây đó con ạ. - Răng họ lại ở đó? Ở đó làm chi?... -

Mẹ ơi Nhà chi như hai cái hộp dài, dưới to, trên nhỏ các góc uốn cong chồng lên

nhau rứa? À Đó là cổng trường Quốc học, sau cổng đó là cổng trường học lớn

của cả nước” 242; 208 - 209].

Với Búp sen xanh, Sơn Tùng đã vận dụng linh hoạt ngôn từ địa phương vào

tác phẩm. Trước hết, ông sử dụng nhiều từ ngữ và cách nói năng của người dân xứ

Nghệ. Đây là đoạn đối thoại giữa Côn và bà Ngoại: “Côn phụng phịu hỏi bà:

Khách ở mãi trên nớ, chúng cháu ở tận dưới nhà ni, răng lại không được nói to,

không được chạm bát đũa, hở bà?”; “Chị Thanh cạo cháy trong nồi mạnh tay cũng

bị dì An mắng, vì răng rứa bà?” [271; 109]. Ngôn từ địa phương xứ Huế cũng

được Sơn Tùng sử dụng với tần số cao. Đoạn đối thoại giữa Côn và Công tôn nữ

Huệ Minh: “Mệ ơi mệ, con sông ni có tên là Hương, cái lầu kia là Phu Văn Lâu,

cái cửa lớn ở chính giữa là Ngọ Môn… Vậy cái hòn núi tận xa kia là chi, hả mệ?”

[271; 85]. Đây chính là ngôn từ của ruộng đồng, lời ăn tiếng nói của những người

bình dân vùng Nghệ Tĩnh, Thừa thiên Huế. Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất

Thành đã ra đi từ cái nôi văn hóa của một vùng quê, một đất nước, để rồi từ đó,

sau 30 năm bôn tẩu nước ngoài tìm đường cứu nước, con người ấy vẫn giữ lại cốt

cách, tâm hồn của một con người xứ Nghệ, con người Việt Nam.

Như vậy, khi xây dựng hình tượng NVAH, lớp từ địa phương (phương ngữ)

nếu sử dụng thành công sẽ góp phần tạo dựng bối cảnh sống, cách suy nghĩ, nói

năng của NVAH, phù hợp với cái nôi văn hóa mà họ sinh ra. Điều này cũng góp

phần không nhỏ cho việc lý nét riêng trong tính cách, cá tính, sự lựa chọn con

đường đi của nhiều NVAH.

Tiểu kết chƣơng 4

Cùng với sự đa dạng, phong phú trong loại hình NVAH, kết hợp hài hòa

giữa yếu tố chính sử và yếu tố hư cấu trong xây dựng nhân vật, TTLS Việt Nam

sau 1975 cũng có bước tiến lớn trong việc vận dụng, sáng tạo các phương pháp,

thủ pháp xây dựng nhân vật. Nhiều sự kiện lớn được đề cập trong chính sử, gắn

liền với chiến công của các anh hùng, đi vào tiểu thuyết trở thành các tình huống

căng thẳng, gây cấn, hấp dẫn bạn đọc. Đó là tình huống đất nước nguy nan, thù

trong giặc ngoài vây bủa; Đó là tình huống người anh hùng cận kề cái chết; Đó là

tình huống lựa chọn khó khăn giữa lợi ích dòng họ và quyền lợi quốc gia, giữa chữ

146

trung, chữ hiếu, chữ tình… Các nhà văn cũng sáng tạo, kết hợp hài hòa nhiều thủ

pháp để xây dựng nhân vật như xây dựng nhân vật qua chân dung bên ngoài, qua

lời nói, hành động, đặc biệt là chú trọng thể hiện thế giới nội tâm với nhiều phức

tạp, giằng xé, bi kịch. Các nhà văn cũng vận dụng linh hoạt, kết hợp nhiều điểm

nhìn, nhiều sắc thái giọng điệu trong thể hiện NVAH, đặc biệt chú trọng nhiều hơn

điểm nhìn bên trong. Nhờ thế, nhiều NVAH trong tiểu thuyết không còn đơn

phiến một chiều mà trở nên mới mẻ, vừa là những con người phi thường, cao cả,

vừa là những con người gần gũi, bình dị, phù hợp với tâm thế người đọc đương

đại. Ngôn ngữ trong TTLS sau 1975 cũng rất đa dạng, với sự vận dụng, kết hợp

sinh động nhiều lớp ngôn từ như lớp ngôn từ cổ xưa, cung đình tái hiện thời gian

quá khứ; lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ gần gũi với ngôn ngữ con người

đương đại; lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ) tạo sắc thái văn hóa vùng miền.

147

KẾT LUẬN

1. Sau 1975, đặc biệt được tiếp sức bởi xu trào Đổi mới từ 1986, TTLS đã có

bước phát triển vượt bậc, làm phong phú thêm bức tranh văn xuôi Việt Nam

đương đại. Trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận

văn, luận án, một số hội thảo quốc gia đã lấy tiểu thuyết lịch sử làm đối tượng

nghiên cứu. Có nhiều cách phân chia khác nhau, tuy nhiên, từ cái nhìn toàn cảnh

có thể khái quát ba hướng phát triển chính của TTLS sau 1975: 1/ Xu hướng sáng

tạo trên cơ sở tôn trọng hiện thực, trung thành với chính sử, với tâm thức cộng

đồng, có hư cấu nhưng ở một “ngưỡng” cho phép. 2/ Xu hướng sáng tạo trên cơ

sở bổ khuyết, đối thoại với lịch sử. Mức độ bổ khuyết, đối thoại có thể đi từ bổ

sung, làm r các khoảng mờ, nhìn lại, minh oan cho các nhân vật lịch sử đến chỗ

phóng túng, mượn lịch sử làm “cái đinh để treo quan niệm”, biến lịch sử thành “sự

tùy tiện ý thức”. 3/ Xu hướng sáng tạo trên cơ sở dùng lịch sử để quan tâm, đào

sâu vào vấn đề con người cá nhân, đời tư hoặc vấn đề văn hóa, phong tục. Cùng

với sự vận động, phát triển của TTLS Việt Nam sau 1975, các nhận định, đánh giá

về TTLS nói chung, các tiểu thuyết lịch sử cụ thể của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn

Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác… nói riêng

cũng khá sôi động và có nhiều khác biệt. Để triển khai luận án, chúng tôi đã đưa ra

quan niệm của mình về tiểu thuyết lịch sử, về NVAH trong TTLS. Chúng tôi cho

rằng TTLS phải là tiểu thuyết mà ở đó nhà văn có tâm thế viết về quá khứ, về những

thời đã qua, một quá khứ đã có độ lùi nhất định trong tương quan với người viết và

với thời gian hiện tại. Tiểu thuyết lịch sử rất cần hư cấu, sáng tạo, nhưng “ngưỡng”

của hư cấu là không phá vỡ những giá trị chân thực có tính cốt l i của lịch sử, không

được phản lại những gì là thiêng liêng, thành kính của cộng đồng dành cho các anh

hùng dân tộc. Trên nguyên tắc ấy, nhà văn có thể mở rộng quyền sáng tạo, tưởng

tượng, điều đó không chỉ giúp lịch sử và quá khứ hiện lên sống động trên từng trang

viết mà còn giúp cho các thế hệ bạn đọc hiểu sâu sắc về văn hóa, truyền thống tốt đẹp

của cha ông, cả những bài học đau đớn, thất bại mà hậu thế phải suy tư, nghiền ngẫm,

rút ra những bài học cần thiết để làm đầy hành trang tiến về phía trước.

2. TTLS Việt Nam đã phát triển qua nhiều chặng đường. Mỗi một giai đoạn,

chúng ta chứng kiến những bước tiến ấn tượng của thể loại này trên nhiều phương

148

diện. Ở giai đoạn thứ nhất, từ đầu thế kỷ XX đến 1945, TTLS ra đời, tiếp thu những

thành tựu từ các tiểu thuyết chương hồi mang màu sắc lịch sử thời trung đại và

TTLS phương Tây để từng bước hiện đại hóa. Tuy ở giai đoạn này, TTLS chưa có

nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng nội dung khá phong phú, hình thức ngày càng tiếp

cận cách viết hiện đại. TTLS giai đoạn này tập trung phản ánh những sự kiện quan

trọng trong lịch sử dân tộc, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các cuộc chiến

tranh huynh đệ tương tàn giữa các tập đoàn phong kiến. Bên cạnh các trang hào

hùng, TTLS giai đoạn này cũng quan tâm thể hiện những thời kỳ loạn lạc của lịch

sử dân tộc với cái nhìn phê phán hiện thực sâu sắc. Trong giai đoạn từ 1945-1975,

trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, văn học nói chung, TTLS nói riêng vận

động theo xu hướng sử thi hóa, các nhà văn chú trọng thể hiện các chiến công oanh

liệt của cha ông, đề cao phẩm chất anh hùng, gan dạ, bất khuất của các anh hùng

dân tộc. TTLS đã hòa vào bức tranh chung của văn học thời chiến, có tác dụng

động viên tinh thần, ý chí chiến đấu, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.

TTLS giai đoạn này cũng đã khắc họa hình ảnh nhân dân, nâng họ lên thành biểu

tượng cho vẻ đẹp về sức mạnh và niềm tin chiến thắng của con người Việt Nam.

Từ 1975, đặc biệt là từ 1986 đến nay, TTLS phát triển sôi động, có sự đổi mới, cách

tân trong nội dung cũng như nghệ thuật thể hiện. TTLS phân hóa thành nhiều xu

hướng, cái nhìn lịch sử trở nên đa chiều và giàu sức gợi mở, nhiều NVAH được soi

chiếu, xem xét dưới cái nhìn gần gũi, thấm đẫm nhân văn. Nhờ thế, nhiều NVAH

vừa giữ được vẻ đẹp cao cả, phi thường, đáng được tôn vinh, ngưỡng mộ, vừa được

bổ sung nhiều nét đời tư bình dị, khiến họ không phải là những vĩ nhân với “khoảng

cách sử thi” mà còn là những con người với số phận riêng, với những buồn vui, đau

khổ nhân sinh gần gũi với con người hiện đại.

3. Tuy không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung

TTLS Việt Nam sau 1975 đã xây dựng thành công một thế giới NVAH phong

phú, đa dạng, vừa có nhiều mặt đồng hướng với chính sử, với tâm thức cộng đồng,

đồng thời cũng có nhiều sáng tạo, cách tân mới mẻ, góp phần làm phong phú hơn

nhận thức của các thế hệ bạn đọc về người anh hùng. Việc nhận diện loại hình

nhân vật anh hùng là cần thiết, điều này sẽ làm r hơn quan niệm, cảm hứng, bút

pháp thể hiện đa dạng của các nhà văn. Có nhiều cách phân loại thế giới NVAH

trong tiểu thuyết (dựa trên chức năng, vị trí của nhân vật trong cấu trúc văn bản,

149

dựa trên vai trò, sự nghiệp của người anh hùng, dựa trên cấu trúc nhân vật…).

Trong luận án, chúng tôi quan tâm đến lý thuyết diễn ngôn, xem TTLS trước hết

như các diễn ngôn về lịch sử của nhà văn. Vận dụng lý thuyết diễn ngôn, chúng

tôi đi sâu khảo sát 3 kiểu loại nhân vật nổi bật: 1. Kiểu NVAH sáng tạo theo xu

hướng đồng hướng với chính sử; 2. Kiểu NVAH sáng tạo theo xu hướng bổ

khuyết, đối thoại với chính sử; 3. Kiểu NVAH sáng tạo theo xu hướng mượn

lịch sử để khám phá, tô đậm con người cá nhân, đời tư. Tất nhiên, ba xu hướng

này không phải lúc nào cũng có ranh giới r ràng mà có sự kết hợp, đan xen

sinh động trong thế giới NVAH ở các nhà văn. Ba xu hướng sáng tạo này thể

hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới NVAH, đồng thời cũng là biểu hiện của

sự phân hóa sinh động của TTLS Việt Nam sau 1975.

4. Cùng với sự đa dạng, phong phú trong loại hình NVAH, kết hợp hài hòa

giữa yếu tố chính sử và yếu tố hư cấu trong xây dựng nhân vật, TTLS Việt Nam

sau 1975 cũng có bước tiến lớn trong việc vận dụng, sáng tạo các phương pháp,

thủ pháp xây dựng nhân vật. Nhiều sự kiện lớn được đề cập trong chính sử, gắn

liền với chiến công của các anh hùng, đi vào tiểu thuyết trở thành các tình huống

căng thẳng, gây cấn, hấp dẫn bạn đọc. Đó là tình huống đất nước nguy nan, thù

trong giặc ngoài; Đó là tình huống người anh hùng cận kề cái chết; Đó là tình

huống lựa chọn khó khăn giữa lợi ích dòng họ và quyền lợi quốc gia, giữa chữ

trung, chữ hiếu và chữ tình… Các nhà văn cũng sáng tạo, kết hợp hài hòa nhiều

thủ pháp để xây dựng nhân vật như xây dựng nhân vật qua chân dung, ngoại hình;

qua lời nói, hành động; đặc biệt là chú trọng thể hiện thế giới nội tâm với nhiều

phức tạp, giằng xé, bi kịch. Các nhà văn cũng vận dụng linh hoạt, kết hợp, luân

chuyển nhiều điểm nhìn, nhiều sắc thái giọng điệu trong thể hiện NVAH, đặc biệt

chú trọng nhiều hơn điểm nhìn bên trong, quan tâm thể hiện thế giới nội tâm phức

tạp, đầy chất người của các anh hùng. Giọng điệu thể hiện NVAH cũng có sự đan

xen, phối hợp nhiều sắc thái, có giọng ngợi ca, hào sảng, có giọng trữ tình đằm

thắm, có giọng triết lý suy tư. Ngôn ngữ trong TTLS sau 1975 cũng rất đa dạng,

với sự vận dụng, kết hợp sinh động nhiều lớp ngôn từ như lớp ngôn từ cổ xưa, lớp

ngôn từ cung đình tái hiện thời gian quá khứ; lớp ngôn từ đời thường, khẩu ngữ,

gần gũi với con người đương đại; lớp ngôn từ địa phương (phương ngữ) tạo sắc

thái văn hóa vùng miền. Tuy nhiên, trong thế giới NVAH, cũng còn một số nhân

150

vật chưa được bạn đọc ghi nhận, thậm chí còn có phản ứng ở những mức độ nhất

định. Có NVAH còn xơ cứng trong cách nhìn, trong cách tạo dựng, có NVAH

không khác gì những ghi chép trong chính sử. Lẻ tẻ còn có hiện tượng mượn

TTLS, mượn NVAH để bộc lộ những định kiến riêng, trái ngược với tâm thức

cộng đồng, với tâm lý thành kính, tôn vinh những bậc anh hùng dân tộc đã làm vẻ

vang cho non sông, đất nước.

5. Các vĩ nhân, anh hùng dân tộc không chỉ là đối tượng thể hiện của TTLS

mà còn là mảnh đất màu mỡ để các ngành nghệ thuật khác như sân khấu, nhiếp

ảnh, m thuật, điện ảnh... Với vị trí địa lý quan trọng, nằm giữa các con đường

giao thông huyết mạch, để tồn tại, dân tộc Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều

kẻ thù ngoại xâm hùng mạnh. Vì thế, các anh hùng dân tộc trong sự nghiệp giữ

nước và dựng nước luôn luôn được nhân dân tôn vinh, ngưỡng mộ, thờ phụng.

Viết về họ sao cho mới mẻ, hấp dẫn, không hạ bệ, xuyên tạc lịch sử mà ngược lại

góp phần soi sáng lịch sử, làm sống dậy lịch sử trong cái nhìn của ngày hôm nay,

từ lịch sử để rút ra những bài học cần thiết cho hiện tại luôn là thử thách với các

cây bút TTLS. Từ những thành tựu của TTLS Việt Nam sau 1975 nói chung,

thành tựu trong xây dựng NVAH nói riêng, chúng ta hy vọng các nhà văn sẽ tiếp

tục có những thành công mới trên mảnh đất giàu tiềm năng sáng tạo này.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ

1. Trần Thị Nhật (2015), “Bức tranh ngôn ngữ về hình tượng Hồ Chí Minh trong

Búp sen xanh và Bông sen vàng của Sơn Tùng”, Tạp ch Ngôn ngữ, ISSN:

0866-7519, số 12, tr. 54-61.

2. Trần Thị Nhật (2019), “Chiêm bái và giải thiêng qua hình tượng Nguyễn Trãi

trong tiểu thuyết Vạn Xuân”, Tạp ch Khoa học Đại học Sài Gòn, ISSN 1859-

3208, số 63, tr. 19-25.

3. Trần Thị Nhật (2019), “Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật anh hùng trong

tiểu thuyết lịch sử sau 1975”, Tạp ch khoa học Đại học sư phạm Hà Nội 2,

ISN 1859 - 2325, số 61, tr. 62-74.

4. Trần Thị Nhật (2019), “Tiểu thuyết hóa hình tượng Hồ Chí Minh trong Búp

sen xanh của Sơn Tùng”, Tạp ch Khoa học trường Đại học Vinh, ISSN 1859-

2228, số 1B, tr. 37-42.

5. Trần Thị Nhật (2019), “Hiện tượng „phản điển mẫu‟ trong văn xuôi viết về đề

tài lịch sử Việt Nam sau 1975”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, ISSN 0494 -

6928, số 12, tr. 79-88.

6. Trần Thị Nhật (2020), “Nhân vật Trần Quốc Tuấn trong tiểu thuyết Đức

Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh”, Tạp ch Khoa học Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Ch Minh, ISSN 1859-3100, số 17 (1), tr. 62-72.

7. Trần Thị Nhật (tác giả thứ nhất) (2021), “Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật

khi miêu tả nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975”,

Tạp ch Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Ch Minh, ISSN 1859-

3100, tr. 731-744.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Thu An (2012), “Tiểu thuyết lịch sử: thành tựu và triển vọng”, nguồn:

https://phebinhvanhoc.com.vn/tieu-thuyet-lich-su-thanh-tuu-va-trien-vong/,

truy cập ngày 29/03/2013.

2. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Lê Tú Anh (2018), Văn xuôi Việt Nam hiện đại khảo cứu và suy ngẫm,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

4. Phan Tuấn Anh (2013), “Lịch sử như là hư cấu - quan điểm mới về đề tài

lịch sử”, Tạp ch Sông Hương, số 298 (T. 12-13).

5. Thái Phan Vàng Anh (2010), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

7. Lại Nguyên Ân (2005), “Tiểu thuyết lịch sử (Nhân đọc Giàn thiêu của V

Thị Hảo)”, nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn, truy cập ngày 10/05/2012.

8. Lại Nguyên Ân (2009), “Tiểu thuyết và lịch sử”, Mênh mông và chật chội,

Nxb Trí thức, Hà Nội.

9. Lại Nguyên Ân (2010), “Mặt nạ tác giả” - một gợi ý cho việc tiếp cận một

vài hiện tượng văn học sử Việt Nam”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, số

2/2010, tr. 68-80.

10. M. Bakhtin (2004), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),

Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

11. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

12. R. Barthes (2008), Những huyền thoại (Phùng Văn Tửu dịch), Nxb Tri thức,

Hà Nội.

13. Nguyễn Chương M Bình (2009), Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ 1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội, Hà Nội.

153

14. Nguyễn Chương M Bình (2009), Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam từ 1986 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học

Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

15. Nguyễn Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời

điểm đổi mới đến nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học

Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), “Cách tân nghệ thuật trong

tổ chức lời văn của văn xuôi đương đại Việt Nam”, Tạp ch Nghiên cứu văn học,

số 8/2011, tr. 102-112.

17. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội,

Hà Nội.

18. D. Brewster & J. Burrell (1971), Tiểu thuyết hiện đại (Dương Thanh Bình dịch),

Tủ sách Kim văn, Sài Gòn.

19. Minh Châu - DSC (2010), Hồn sử Việt, các truyền thuyết, giai thoại nổi tiếng,

Nxb Lao động, Hà Nội.

20. Phan Huy Chú (2014), Lịch triều hiến chương loại chí, (tập 2), (Nguyễn

Mạnh Duân, Trương Văn Chinh dịch), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

21. Thiều Chửu (2009), Tự điển Hán Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

22. Nguyễn Duy Cường (2011), “Diễn ngôn trần thuật khơi mở lịch sử - lý giải số

phận con người”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/Dien-ngon-tran-thuat-

khoi-mo-lich-su-ly-giai-so-phan-con-nguoi.html, truy cập ngày 24/06/2011.

23. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

24. Nguyễn Việt Cường (2003), “Tiểu thuyết lịch sử - những quan niệm và sự

thách thức với các nhà văn trẻ”, Tạp chí Văn hóa văn nghệ Công an Thành phố

Hồ Ch Minh, số 9/2003, tr. 83 - 85.

25. Nam Dao và Nguyễn Mộng Giác, “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:

https://nguyenmonggiac.com/137-thao-luan-ve-tieu-thuyet-lich-su.html.

26. Nam Dao (2002), “Về tiểu thuyết lịch sử”, http://vanmagazine.saigonline.com,

truy cập ngày 31/03/2002.

27. Lê Dân - Thái Xuân Đệ (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

154

28. Nguyễn Văn Dân (2012), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại -

phác họa một số xu hướng chủ yếu”, Tạp ch Thông tin Khoa học xã hội,

số 12/2012, tr. 32-41.

29. Chu Xuân Diên (2009), “Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi

pháp huyền thoại trong sáng tác văn học”, nguồn: http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn, truy cập ngày 5/2005.

30. Trương Đăng Dung (1998), Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của

G. Lukack, trong sách Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

31. Lê Tiến Dũng (2007), Nhà văn và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố

Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

32. Đinh Trí Dũng - Hoàng Vĩnh Thắng (2011), “Truyện ngắn về đề tài lịch sử trong văn

học Việt Nam từ 1986 đến nay”, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn, truy cập

ngày 16/12/2011.

33. George Dutton (2019), Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (Lê Nguyên dịch và

giới thiệu), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

34. Đoàn Ánh Dương (2010), “Tự sự hậu thực dân: lịch sử và huyền thoại trong

Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học,

số 9/2010, tr. 107-121.

35. Lê Văn Dương (2011), “Vấn đề thể loại và nghệ thuật xây dựng nhân vật qua

một số tiểu thuyết lịch sử sau 1985 về phong trào Tây Sơn”, nguồn:

http://www.vanhoanghean.com.vn, truy cập ngày 17/12/2011.

36. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

37. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

38. Trần Xuân Đề (1964), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc (3 tập), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

39. Phan Cự Đệ (2002), “Tiểu thuyết lịch sử của Hellas Haasse”, Tạp ch Văn học,

số 3, tr. 12-19.

40. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Phan Cự Đệ (2006), Tuyển tập Phan Cự Đệ (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

155

42. Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh,

Nghệ An.

43. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

44. Trọng Đức (1968), “Hình tượng nhân vật anh hùng qua một số tác phẩm

văn học cổ Việt Nam”, Tạp ch Văn học, số 1/1968, tr. 60-70.

45. S. Freud (2004), Nhập môn phân tâm học (Nguyễn Xuân Hiến dịch),

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

46. S. Freud (2014), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (Đỗ Lai Thúy biên soạn),

Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

47. Hoàng Cẩm Giang (2010), “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu

thế kỉ XXI”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, số 4/2010, tr. 90-104.

48. Hoàng Cẩm Giang (2015), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI: Cấu trúc và

khuynh hướng (chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

49. Lại Giang - Hữu Nhuận (1968), “Vai trò sáng tạo của người viết khi thể hiện

các nhân vật anh hùng”, Tạp ch văn học, số 11/1968, tr. 4-12.

50. Lê Thị Diệu Hà (2012), “Phân biệt truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử

- Một góc nhìn”, Tạp ch Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 94-102.

51. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L.Tôn-xtôi, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

52. Vũ Thanh Hà (2012), “Từ điểm nhìn sử gia đến điểm nhìn tác giả tiểu thuyết

chương hồi chữ Hán Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 8/2012,

tr. 88 - 96.

53. Nguyễn Thị Bích Hải (2005), Tiến trình thơ và tiểu thuyết Trung Quốc

(Bài giảng chuyên đề), Đại học Sư phạm Huế, Thành phố Huế.

54. Hoàng Quốc Hải (2004), “Lịch sử phải là những bài học soi sáng cho

đương đại”, Báo Sài Gòn giải phóng, 2/10/2004.

55. Ngô Thanh Hải (2018), Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt

Nam, Luận án Tiến sĩ Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

56. Cao Thị Hảo (2014), “Nhân vật người anh hùng trong một số truyện kí của

Phan Bội Châu”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 4/2014, tr. 64-74.

57. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Hà Nội.

156

58. Hoàng Xuân Hãn (2018), Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo

triều Lý, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

60. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

61. Nguyễn Hòa (2003), Phân t ch diễn ngôn, một số vấn đề lý luận và phương pháp,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

62. Phan Đăng Thanh - Trương Thị Hòa (đồng chủ biên) (1996), Cải cách

Hồ Qúy Ly, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

63. Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương (2013), Sáng

tạo văn học nghệ thuật về đề tài lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64. Tiêu Thị M Hồng (2014), Quan niệm của mỹ học mácxít về cái cao cả và

vấn đề hình tượng người anh hùng trong văn học, nghệ thuật nước ta thời kỳ

đổi mới, Luận án Tiến sĩ M học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Tiêu Thị M Hồng (2015), “Các xu hướng xây dựng hình tượng người anh

hùng trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới”, Tạp ch Khoa học xã hội Việt

Nam, số 94/2015, tr. 114-123.

66. Đoàn Thị Huệ (2016), “Nghệ thuật thể hiện phương diện đời tư thế sự của

nhân vật lịch sử”, Tạp ch Khoa học Đại học Đồng Nai, số 2/2016, tr. 81-90.

67. Đoàn Thị Huệ (2017), Vấn đề hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân

văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

68. Nguyễn Hải Hùng (2010), Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết Bão táp

triều Trần của Hoàng Quốc Hải, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường

Đại học Vinh.

69. Phan Mạnh Hùng (2009), Tiểu thuyết lịch sử - một khuynh hướng nổi bật

trong văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, nguồn: http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn, truy cập ngày 13/02/2009.

70. Lại Việt Hùng (2002), “Vạn xuân” và “Hồ Qúy Ly” trên nền tiểu thuyết lịch

sử trong sách Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc Gia,

Hà Nội.

157

71. Nguyễn Văn Hùng (2013), “Mã lịch sử và mã văn hóa trong tiểu thuyết lịch sử

Việt Nam sau 1986”, Tạp ch Văn nghệ Quân đội, số 4/2013.

72. Nguyễn Văn Hùng (2014), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc

nhìn tự sự học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội.

73. Nguyễn Văn Hùng (2016), “Những hình thái diễn ngôn mới trong tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam sau đổi mới”, Tạp ch Sông Hương, số 326/04.

74. Nguyễn Văn Hùng (2016), “Nhân vật lịch sử và những biên độ sáng tạo sau

đổi mới”, Tạp ch Văn nghệ quân đội, số 848, 7/2016.

75. Nguyễn Văn Hùng (2018), “Phác họa tiến trình phát triển tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam từ giai đoạn trung đại đến nay”, Tạp ch Văn nghệ quân đội,

số 898, tr. 99-105.

76. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam (tái bản lần 3),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77. Trần Thiện Khanh (2010), “Bước đầu nhận diện diễn ngôn, diễn ngôn văn

học, diễn ngôn thơ”, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn846-buoc-dau-nhan-

dien-dien-ngon-dien-ngon-van-hoc-dien-ngon-tho, truy cập ngày 01/08/2010.

78. Nguyễn Xuân Khánh (2012), “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:

http://vanvn.net, truy cập ngày 23/09/2012.

79. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2004), Việt Nam kho tàng dã sử,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

80. Vũ Khiêu (1975), Anh hùng và nghệ sĩ, Nxb Văn học giải phóng, Hà Nội.

81. Khoa Ngữ văn (2020), “Suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:

http://nguvan.hnue.edu.vn/suy-nghi-ve-lich-su-va-tieu-thuyet-lich-su-1015,

truy cập ngày 15/10/2020.

82. Phùng Ngọc Kiếm (2000), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 -

1975, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

83. Trần Trọng Kim (2011), Việt Nam sử lược, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

84. M. Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa

Thông tin, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

85. Cao Kim Lan (2007), “Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và

dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại”, Tạp ch Nghiên cứu văn học,

số 12/2012, tr. 58-77.

158

86. Phạm Ngọc Lan (2015), Văn học siêu hư cấu và cảm quan hậu hiện đại trong

văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học

Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đạị học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

87. Quý Lâm - Kim Phượng (2014), Từ điển tiếng Việt, Nxb Lao động - Xã hội,

Hà Nội.

88. Phan Huy Lê (2011), Tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, Hà Nội.

89. Đoàn Thanh Liêm (2017), “Biểu tượng đấng minh quân qua một số tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam đương đại”, Tạp ch Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,

số 273, Hà Nội.

90. Đ Thanh Liêm (2020), Hệ biểu tượng nghệ thuật cơ bản trong tiểu thuyết

lịch sử Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam, Học viện

Khoa học xã hội, Hà Nội.

91. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

92. Nguyễn Trường Lịch (1996), “Thi pháp tự sự và mối quan hệ giữa lịch sử với

hư cấu trong tiểu thuyết L. Tonxtoi”, Tạp ch Văn học, số 10.

93. Phan Trọng Hoàng Linh (2012), “Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết

Hội thề của Nguyễn Quang Thân”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 4/2012,

tr. 141-150.

94. Bùi Văn Lợi (1998), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

95. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

96. Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

97. C. Mác - F. Angghen - Lê Nin - Stalin (1967), Bàn về chủ nghĩa anh hùng

cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh - Lê Duẩn - Trường Chinh (1966), Bàn về chủ nghĩa anh hùng

cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

99. Lưu Sơn Minh (2016), “Đừng bịa đặt để viết tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:

https://zingnews.vn/luu-son-minh-dung-bia-dat-de-viet-tieu-thuyet-lich-su-

post635115.html, truy cập ngày 20/03/2016.

100. Lưu Sơn Minh (2018), “Viết văn vì nỗi ám ảnh một án oan”, nguồn: https://nld.com.vn/luu-

son-minh-viet-van-vi-noi-am-anh-mot-an-oan-.htm, truy cập ngày 22/05/2018.

159

101. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1945

(chuyên luận), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

102. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử

trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học,

số 4/2009, tr. 56 - 64.

103. Nguyễn Đăng Na (2001), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – Những

vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

104. Hoài Nam (2005), “Giàn thiêu - một nghệ thuật làm tan khối băng lịch sử”,

Báo Người Đại biểu Nhân dân, Hà Nội.

105. Hoài Nam (2008), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: truyện kể hay tiểu

thuyết?”, nguồn: http://vietnamnet.vn, 17/10/2008.

106. Hoài Nam (2008), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Báo Văn nghệ, số 45/2008, tr. 12.

107. Đỗ Hải Ninh (2009), “Quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử của

Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2/2009, tr. 77-85.

108. Đỗ Hải Ninh (2012), “Vấn đề ngôn ngữ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại‟,

http://toquoc.vn/van-de-ngon-ngu-trong-tieu-thuyet-lich-su-viet-nam-duong-dai.htm,

truy cập ngày 03/11/2009.

109. Đỗ Hải Ninh (2012), “Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển

biến của tư tưởng”, nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn/nhung-tranh-luan-ve-van-

xuoi-hu-cau-lich-su-va-su-chuyen-bien-cua-tu-tuong, truy cập ngày 27/02/2014.

110. Lê Thanh Nga (2006), Văn học hiện thực con người (Tiểu luận – phê bình),

Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.

111. Ngô Thị Quỳnh Nga (2007), Những hướng tìm tòi văn xuôi viết về đề tài lịch

sử trong văn học Việt Nam sau 1975, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại

học Vinh, Nghệ An.

112. Ngô Thị Quỳnh Nga (2010), “Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết

lịch sử sau 1975”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn, truy cập ngày

09/02/2010.

113. Đường Thị Ngân (2018), Hình tượng nhân vật anh hùng trong Đại Việt sử ký

toàn thư và Thiên nam ngữ lục từ góc nhìn so sánh, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

160

114. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam”, Tạp ch Hán Nôm, số

3-4/1997, tr. 34.

115. Bình Nguyên (2015), “Vấn đề hư cấu và giải thiêng trong tiểu thuyết lịch sử”,

Tạp ch Văn nghệ Quân đội, 13/10/2015.

116. Lã Nguyên (2012), “Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình”, nguồn:

https://phebinhvanhoc.com.vn/van-hoc-viet-nam-trong-buoc-chuyen-minh/,

truy cập ngày 06/05/2014.

117. Đỗ Thị Nhàn (2020), Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

118. Vương Trí Nhàn (2007), “Đề tài lịch sử, cảm hứng hiện đại”, in trong Lý

Nhuệ, Ngân Thành cố sự, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

119. Trần Thị Mai Nhân (2007), “Nhân vật đa diện trong tiểu thuyết Việt Nam

giai đoạn 1986 - 2000”, Tạp ch Nhà văn, số 2/2007, tr. 63 - 70.

120. Trần Thị Mai Nhân (2009), “Tìm hiểu phương thức “huyền thoại hóa” trong

một số tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, nguồn: http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/tim-hiu-phng-thc-huyu-thuyt-vhtml, truy cập ngày 27/2/2009.

121. Nhiều tác giả (1999), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

122. Nhiều tác giả (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

123. Nhiều tác giả (2006), Bão táp triều Trần – Tác phẩm và dư luận, Nxb Phụ nữ,

Hà Nội.

124. Nhiều tác giả (2012), Lịch sử và văn hóa, cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xuân

Khánh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

125. Nhiều tác giả (2013), Lịch sử, sự thật và sử học, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

126. Nhiều tác giả (2019), Nghiên cứu và giảng dạy về đề tài lịch sử dân tộc

(Kỷ yếu hội thảo Khoa học Quốc gia), Nxb Văn học, Hà Nội.

127. Nhiều tác giả (2021), Lược sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học Sư Phạm,

Hà Nội.

128. Mai Hải Oanh (2005), “Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết

Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp ch Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.

129. Mai Hải Oanh (2007), “Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trong tiểu thuyết Việt Nam

thời kỳ đổi mới”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 10/2007, tr. 112-124.

130. Vũ Ngọc Phan (2004), Nhà văn hiện đại (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.

161

131. Nguyễn Khắc Phê (2018), “Nhân vật trung tâm và quyền sáng tạo của nhà văn

trong tiểu thuyết lịch sử”, nguồn: https://vanhien.vn/nhan-vat-trung-tam-va-quyen-

sang-tao-cua-nha-van-trong-tieu-thuyet-lich-su-64081, truy cập ngày 27/09/2018.

132. G. N. Pôpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

133. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại - Nhìn từ

góc độ diễn ngôn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

134. Nguyễn Thế Quang (2019), “Tôi viết lịch sử với mong muốn bạn đọc hiểu

đúng lịch sử, Tạp chí Sông Lam, số 1 (bộ mới), tr. 132-135.

135. Nguyễn Văn Sang (2015), Hình tượng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

136. Trần Huyền Sâm (2010), Những vấn đề lý luận văn học Phương Tây hiện đại

(Tự sự học kinh điển), Nxb Văn học, Hà Nội.

137. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

138. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học (tập 1), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

139. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học (tập 2), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

140. Trần Đình Sử (2013), “Suy nghĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử”, nguồn:

https://trandinhsu.wordpress.com/suy-nghive-lich-su-va-tieu-thuyet-lich-su/,

truy cập ngày 03/04/2013.

141. Trần Đình Sử (2014), Trên đường biên của lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

142. Trần Đình Sử (2017), “Về tiểu thuyết lịch sử”, nguồn: http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/ly-luan-va-phe-binh-van-hoc, truy cập ngày 04/01/2017.

143. Phạm Xuân Thạch (2004), “Quá trình cá nhân hóa hư cấu (Tự sự đương đại

Việt nam về đề tài lịch sử giữa truyền thống và hiện đại)”, Hội thảo quốc tế

về Việt Nam học lần thứ II, Tp. Hồ Chí Minh.

144. Phạm Xuân Thạch (2012), “Nguyễn Xuân Khánh - Từ cấu trúc nghệ thuật

đến cấu trúc tư tưởng”, nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn/nguyen-xuan-

khanh-tu-cau-truc-nghe-thuat-den-cau-truc-tu-tuong, truy cập ngày 18/12/2012.

145. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

146. Hải Thanh (2012), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Tạp ch Văn nghệ Quân đội,

02/10/2012.

162

147. Nguyễn Thị Phương Thanh (2005), Những cách tân đáng chú ý của tiểu

thuyết lịch sử Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học

sư phạm, Hà Nội.

148. Nguyễn Thành (2012), “Khuynh hướng lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại - Một số bình diện tiêu biểu”, Tạp ch Nghiên cứu Văn học,

số 4/2012, tr. 5-15.

149. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu,

giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

150. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”,

Tạp ch Nghiên cứu Văn học, số 11, tr. 15-28.

151. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

152. Trương Đình Tín (2006), Vua chúa Việt Nam qua các triều đại, NXB Đà Nẵng,

Đà Nẵng.

153. Nguyễn Thị Kim Tiến (2010), “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại với quan niệm

nghệ thuật về con người”, nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/Tieu-thuyet-lich-su-

duong-dai-voi-quan-niem-nghe-thuat-ve-con-nguoi.html, truy cập ngày 01/07/2010.

154. Nguyễn Thị Kim Tiến (2012), Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.

155. Trần Mạnh Tiến (2011), “Tiểu thuyết lịch sử và người đầu tiên mở hướng

cách tân”, nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/2015-tieu-thuyet-lich-

su-va-nguoi-dau-tien-mo-huong-cach-tan, truy cập ngày 24/02/2011.

156. Tz. Todorov (2008), Nguyên l đối thoại (Đào Ngọc Chương dịch), Nxb Đại

học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

157. Trần Hải Toàn (2020), Văn xuôi về đề tài lịch sử viết cho thiếu nhi từ sau Cách

mạng tháng Tám 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học

Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

158. Lê Thị Thu Trang (2017), Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam

thập niên đầu thế kỷ XXI, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học,

Đại học Huế.

159. Lý Hoàn Thục Trâm (2009), “Văn học kịch Việt Nam với đề tài lịch sử”,

nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n, truy cập

ngày 27/02/2009.

163

160. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam,

Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.

161. Bùi Thanh Truyền (2010), “Búp sen xanh và Bông sen vàng từ góc độ tiếp

biến văn hóa”, nguồn: https://bachovoihue.violet.vn/bup-sen-xanh-va-bong-

sen-vang-nhin-tu-goc-do-tiep-bien-van-hoa-van-hoc-dan-gian-4681304.html,

truy cập ngày 25/12/2010.

162. Bùi Thanh Truyền (2011), “Hình tượng Bác Hồ trong một số tiểu thuyết tiêu biểu

viết cho thiếu nhi sau 1975”, Tạp ch Khoa học xã hội, số 5/2011, tr. 106-117.

163. Tạ Chí Đại Trường (2017), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802,

Nxb Trí thức, Hà Nội.

164. Nguyễn Thanh Tú (2020), “Tiểu thuyết lịch sử là sự sinh động hóa lịch sử”, nguồn:

http://baovannghe.com.vn/tieu-thuyet-lich-su-la-su-sinh-dong-hoa-lich-su-20277.html,

truy cập ngày 21/02/2020.

165. Lê Anh Tuấn (2006), Giải th ch từ Hán Việt trong Sách giáo khoa văn học

hệ phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

166. Nguyễn Văn Tùng (2009), Lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

167. Nguyễn Văn Tùng (Tuyển chọn và biên soạn) (2008), Tuyển tập các bài viết

về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

168. Hoàng Minh Tường (2005), Tiểu thuyết lịch sử và thông điệp của nhà văn, nguồn:

http://vanchuongplusvn.blogspot.com/nha-van-hoang-minh-tuong-tieu-thuyet.html/,

truy cập ngày 19/11/2012.

169. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb Trí thức,

Hà Nội.

170. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển,

Hà Nội.

171. Viện Triết học (1967), “Truyền thống anh hùng trong lịch sử dân tộc Việt

Nam”, Thông báo Triết học (Tư liệu về chủ nghĩa anh hùng), số 4/1967,

Tài liệu lưu hành nội bộ.

172. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp ch văn học 1960 - 1999 (tập 2),

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

164

173. V.I. Xêmanốp (1962), “Tiểu thuyết anh hùng Trung Hoa và vai trò của nó

trong việc hình thành nền văn học mới Trung Quốc”, in trong chủ nghĩa hiện

thực và tương quan của nó với các phương pháp sáng tác, Nxb Viện Hàn lâm

Khoa học Liên Xô.

174. Thái Vũ (2001), “Tiểu thuyết lịch sử trong dòng văn hóa dân tộc”, Tạp ch

Sông Hương, số 6/2001, tr. 63-65.

175. Trần Vũ (2003), “Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức”, nguồn:

http://tranvu.free.fr/baiviet/lichsu.html, truy cập ngày 09/06/2003.

176. Nguyễn Ngọc Như Ý (2012), Phương thức thể hiện nhân vật anh hùng

trong Thủy Hử của Thi Nại Am, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

177. Đỗ Ngọc Yên (2010), “Hồ Qúy Ly - cách tân hay bạo chúa?”, nguồn:

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/Ho-Quy-Ly-cach-tan-hay-bao-chua.html,

truy cập ngày 24/05/2010.

178. Đỗ Ngọc Yên (2016), “Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật”, nguồn:

http://vanvn.net/su-that-lich-suva-hu-cau-nghe-thuat/496, truy cập ngày 17/06/2016.

Tiếng Anh

179. Allan Lazar, Dan Karlan, Jeremy Salter, The 101 Most Influential People

Who Never Lived - (How Characters of Fiction, Myth, Legends, Television,

and Movies Have Shaped Our Society, Changed Our Behavior, and Set a

Course of History), Harper Collins E-book.

180. David Lindenfeld (2009), Jungian archetypes & the discourse of history,

Rethingking History, Vol.13, No.2. June 2009.

181. G. Lenobl (1960), Lịch sử văn học, Nxb Nhà văn Xô Viết, Liên Xô.

182. Hayden White (2005), “Introduction: Historical Fiction, Fictional History, and

Historical Reality”, Rethinking History, Vol.9, No.2/3, June/September 2005.

183. Jens Eder, Fotis Jannidis, Ralf Schneider (2010), Characters in Fictional

Worlds: Understanding Imaginary Beings in Literature, Film, and Other

Media, Walter De Gruyter, Printed in Germany.

184. Pierre Louis – Rey (1992), Tiểu thuyết, Hachettt supérieur, Paris.

165

Tiếng Trung

185. 范文明 (2017), 越南改革后与中国新时期以来历史小说之新变比较研究

(Nghiên cứu so sánh những đổi mới trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau

đổi mới và tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc từ thời kỳ mới đến nay): 博士学位

论文, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn học, Thư viện Quốc gia Việt Nam.

186. Nhiều tác giả (1989), Từ Hải từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã,

Trung tập.

187. Lưu Thiệu (1996), Nhân vật ch , Bắc Kinh, Hồng Kỳ xuất bản xã.

DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT

188. Trường An (2017), Thiên hạ chi vương, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

189. Trường An (2017), Hồ Dương (tập 1), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

190. Trường An (2017), Hồ Dương (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

191. Hoài Anh (1999), Ngô Quyền, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

192. Hoài Anh (1999), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

193. Hà Ân (1972), Tổ quốc kêu gọi, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

194. Hà Ân (1975), Trăng nước Chương Dương, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

195. Trần Thanh Cảnh (2017), Đức Thánh Trần, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

196. Trần Thanh Cảnh (2020), Trần Thủ Độ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

197. Lê Đình Danh (2006), Tây Sơn bi hùng truyện (tập 1), Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

198. Lê Đình Danh (2006), Tây Sơn bi hùng truyện (tập 2), Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

199. Nam Dao (1999), Gió lửa, Nxb Thi văn, Canada.

200. Nam Dao (2007), Đất trời, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

201. Hàn Thế Dũng (2002), Lê Lợi, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

202. Hàn Thế Dũng (2004), Bà Triệu, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

203. Hàn Thế Dũng (2004), Đinh Bộ Lĩnh, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

204. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Hào kiệt Lam Sơn, Nxb Văn học, Hà Nội.

205. Vũ Ngọc Đĩnh (2003), Mười hai sứ quân, Nxb Văn học, Hà Nội.

166

(tập 1), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

206. Vũ Ngọc Đỉnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành - Hoàng đế phá Tống

207. Vũ Ngọc Đỉnh (2005), Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành - Hoàng đế phá Tống

(tập 2), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

208. Nguyễn Mộng Giác (2006), Sông Côn mùa lũ (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.

209. Nguyễn Mộng Giác (2006), Sông Côn mùa lũ (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.

210. Nguyễn Mộng Giác (2006), Sông Côn mùa lũ (tập 3), Nxb Văn học, Hà Nội.

211. Hoàng Quốc Hải (2016), Bão táp cung đình, Nxb Văn học, Hà Nội.

212. Hoàng Quốc Hải (2016), Đuổi quân Mông Thát, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

213. Hoàng Quốc Hải (2016), Thăng Long nổi giận, Nxb Văn học, Hà Nội.

214. Hoàng Quốc Hải (2016), Huyết chiến Bạch Đằng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

215. Hoàng Quốc Hải (2016), Huyền Trân công chúa, Nxb Văn học, Hà Nội.

216. Hoàng Quốc Hải (2016), Vương triều sụp đổ, Nxb Văn học, Hà Nội.

217. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 1: Thiền sư dựng nước),

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

218. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 2: Con ngựa nhà Phật),

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

219. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 3: Bình Nam dẹp Bắc),

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

220. Hoàng Quốc Hải (2010), Tám triều vua Lý (tập 4: Con đường định mệnh),

Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

221. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

222. Nguyễn Đức Hiền (1984), Sao khuê lấp lánh, Nxb Kim Đồng.

223. Nguyễn Thu Hiền (2013), Hoàng đế Quang Trung, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Tp. Hồ Chí Minh.

224. Nguyên Hồng (1981), Núi rừng Yên Thế, Nxb Hà Bắc.

225. Phùng Văn Khai (2018), Nam đế vạn xuân, Nxb Văn học, Hà Nội.

226. Phùng Văn Khai (2018), Phùng Vương, Nxb Văn học, Hà Nội.

227. Phùng Văn Khai (2019), Ngô Vương, Nxb Văn học, Hà Nội.

228. Phùng Văn Khai (2020), Triệu Vương phục quốc, Nxb Văn học, Hà Nội.

229. Hoàng Công Khanh (1995), Danh tướng Trần Hưng Đạo, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

167

230. Hoàng Công Khanh (1999), Vằng vặc sao Khuê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

231. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

232. Thái Bá Lợi (2014), Minh Sư, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

233. Hữu Mai (2015), Không phải huyền thoại, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

234. Trần Thùy Mai (2019), Từ Dụ thái hậu (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.

235. Trần Thùy Mai (2019), Từ Dụ thái hậu (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.

236. Lưu Sơn Minh (2016), Trần Khánh Dư, Nxb Văn học, Hà Nội.

237. Lưu Sơn Minh (2017), Trần Quốc Toản, Nxb Văn học, Hà Nội.

238. Phạm Ngọc Cảnh Nam (2011), Thế kỷ bị mất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

239. Nguyễn Hữu Nam (2011), Huyền Trân, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

240. Nhiều tác giả (2016), Truyện ngắn đặc sắc Việt Nam về lịch sử từ 1986 đến

nay, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

241. Nguyễn Thế Quang (2015), Thông reo ngàn Hống, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

242. Nguyễn Thế Quang (2020), Khúc hát những dòng sông (tái bản), Nxb Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

243. Nguyễn Thế Quang (2020), Đường về Thăng Long, Nxb Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.

244. Thiên Sơn (2020), Gió bụi đầy trời, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

245. Nguyễn Tử Siêu (1929), Vua Bố Cái, Nhà in Nguyễn Kinh, Hải Phòng.

246. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Nam quốc sơn hà, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

247. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông,

Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

248. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Anh hùng Tiêu Sơn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

249. Yên Tử cư sĩ Trần Đại S (2004), Anh hùng Bắc Cương, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

250. Bùi Việt S (2014), Chim Ưng và chàng đan sọt, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

251. Bùi Việt S (2015), Chim bằng và Nghé hoa, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

252. Bùi Anh Tấn (2009), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông),

Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

253. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi (quyển 1: Oan khuất), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

254. Bùi Anh Tấn (2010), Nguyễn Trãi (quyển 1: Bức huyết thư), Nxb Thanh niên, Hà Nội.

255. Bùi Anh Tấn (2012), Bí mật hậu cung, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

256. Vũ Ngọc Tiến (2019), Kẻ sĩ thời loạn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

257. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 1: Điệp vụ thám báo), Nxb Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

168

258. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 2: Trước cơn giông tố),

Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

259. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 3: Sơn hà rựa lửa), Nxb Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

260. Hồng Thái (2018), Thiệu Bảo bình Nguyên (quyển 4: Khúc tráng ca mùa hạ),

Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

261. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 1: Áo vải cờ đào), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

262. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 2: Rạch Gầm xoài mút), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

263. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 3: Hào kiệt giai nhân), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

264. Vũ Thanh (2017), Nhất thống sơn hà (quyển 4: Mùa xuân hùng võ), Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

265. Nguyễn Quang Thân (2009), Hội thề, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

266. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

267. Hà Văn Thùy (2005), Nguyễn Thị Lộ, Nxb Văn học, Hà Nội.

268. Nguyễn Vũ Tiềm (2014), Bắc Cung hoàng hậu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

269. Uông Triều (2015), Sương mù tháng giêng, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

270. Sơn Tùng (2000), Bông sen vàng, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

271. Sơn Tùng (2015), Búp sen xanh (tái bản), Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

272. Nguyễn Huy Tưởng (1942), Đêm hội Long Trì, Nxb Tri ân, Hà Nội.

273. Nguyễn Huy Tưởng (2011), Những truyện ngắn viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

274. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (tái bản), Nxb Kim Đồng,

Hà Nội.

275. Vũ Xuân Tửu (2017), Đinh Tiên Hoàng, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

276. Hoàng Quảng Uyên (2010), Mặt trời Pác Bó, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

277. Hoàng Quảng Uyên (2013), Giải phóng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

278. Hoàng Quảng Uyên (2017), Trong vời cố quốc, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

279. Trần Vũ (1992), Mùa mưa gai sắc, http://tranvu.free.fr/baiviet/index.html.

PL i

PHỤ LỤC

Phụ lục số 01

BẢNG THỐNG KÊ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1975

Năm

Nhà

Số

Tác giả

Tên tác phẩm

xuất bản

lƣợng

xuất bản

Vũ tịch

2017 Nxb Phụ nữ

Thiên hạ chi vương

2017 Nxb Phụ nữ

Trường An

4

Hồ Dương (2 tập)

2017 Nxb Phụ nữ

Ngoài bờ Đông

2017 Nxb Phụ nữ

là mặt trời

Đuốc lá dừa

1981 Nxb Trẻ

Ngựa ông đã về

1978 Nxb Kim Đồng

Rồng đá chuyển mình

1987 Nxb Kim Đồng

Chim gọi nắng

1989 Nxb Tiền Giang

Bùi Hữu Nghĩa, mối duyên

1998 Nxb Kim Đồng

vàng đá

Ngô Quyền

1999

Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh

Nxb Văn nghệ

Đinh Bộ Lĩnh

1999

Thành phố Hồ Chí Minh

Lê Quý Đôn

1999 Nxb Trẻ

Hoài Anh

19

Nxb Văn nghệ

2000

Nguyễn Thông – Vọng Mai Đình

Thành phố Hồ Chí Minh

Đất thang Mộc

2006 Nxb Văn học

Mê Linh tụ nghĩa

2006 Nxb Văn học

Tấm lòng bào

2006 Nxb Văn học

Như Nguyệt

2006 Nxb Văn học

2006 Nxb Văn học

Hưng Đạo Vương và những truyện khác

Đất thang mộc (2 tập)

2006 Nxb Văn học

Lời thề lửa

2006 Nxb Văn học

PL ii

Mưu sĩ của Quang Trung:

2006 Nxb Văn học

Trần Văn Kỷ

Vua Minh Mạng

2006 Nxb Văn học

Nguyễn Anh

Ngô Quyền

1999 Nxb Thanh niên

1

Trăng nước Chương Dương 1975 Nxb Kim Đồng

Hà Ân

2

Khúc khải hoàn dang dở

2002 Nxb Hà Nội

Hào khí non Tây

1990 Nxb Bình Định

Trần Bảy

Thần tốc trời Nam

1997 Nxb Lao động

3

Nổi trống Trần triều

1998 Nxb Bình Định

Đức Thánh Trần

2018 Nxb Hội Nhà văn

Trần Thanh Cảnh

2

Trần Thủ Độ

2020 Nxb Hội Nhà văn

Nhiếp ch nh Ỷ Lan

1985 Nxb Phụ nữ

Quỳnh Cư

2

Đô đốc Bùi Thị Xuân

1985 Nxb Thanh niên

Trần Bá Chí

Quân sư Nguyễn Trãi

2001 Nxb Thanh niên

1

Tây Sơn bi hùng truyện

Lê Đình Danh

2006 Nxb Văn hóa - Thông tin

1

(2 tập)

1999 Nxb Thi văn, Canada

Gió lửa

2007 Nxb Đà Nẵng

Nam Dao

Đất trời

3

2014 Nxb Người Việt

Bể dâu

Mạc Đăng Dung

Lưu Văn Khuê

2007 Nxb Hải Phòng

1

Lê Lợi

2002 Nxb Công an Nhân dân

Hào kiệt Lạc Việt

2002 Nxb Công an Nhân dân

Hàn Thế Dũng

Bà Triệu

2004 Nxb Công an Nhân dân

5

Đinh Bộ Lĩnh

2004 Nxb Công an Nhân dân

Lý Nam Đế

2006 Nxb Công An Nhân dân

Trần Tuấn Đạt

Vũ Cố Đại Vương

2004 Nxb Lao động

1

Mười hai sứ quân (2 tập)

1999 Nxb Trẻ

Hào kiệt Lam Sơn (2 tập)

1995 Nxb Trẻ

Vũ Ngọc Đỉnh

4

Bắn rụng mặt trời (8 tập)

2000 Nxb Trẻ

2005 Nxb Văn hoá - Thông tin

Ứng vận thần vũ Lê Đại Hành - Hoàng đế phá Tống

Nguyễn Mộng Giác

Sông Côn mùa lũ (3 tập)

2003 Nxb Văn học

1

Hoàng Lại Giang

Lê Văn Duyệt, từ nấm mồ 1999 Nxb Văn hoá - Thông tin

3

PL iii

oan khuất đến lăng Ông

Trương Vĩnh Ký,

2001 Nxb Văn hoá - Thông tin

bi kịch muôn đời

Trầm uất Hàm Nghi

2002

Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh

Bi kịch Lệ Chi Viên

1989 Nxb Thanh niên

Minh Giang

Bạch Vân cư sĩ

1997 Nxb Thanh niên

3

Cuộc thăng trầm

2005 Nxb Thanh niên

Nxb Văn hóa - Văn nghệ

Trần Thanh Hà

Người cận vệ

2014

1

Thành phố Hồ Chí Minh

Bão táp triều Trần (6 tập) 1991 NXb Phụ nữ

Hoàng Quốc Hải

2

Tám triều vua Lý (4 tập)

2007 NXb Phụ nữ

Bình Hải

Lửa rừng đêm

1979 Nxb Lao động

1

Bóng chiều Thăng Long

1995 Nxb Thanh niên

Siêu Hải

Nắng kinh thành

1997 Nxb Thanh niên

3

Mảnh trăng Tô Lịch

2004 Nxb Thanh niên

Trần Thu Hằng

Đàn đáy

2005 Nxb Hội nhà văn

1

V Thị Hảo

Giàn thiêu

2003 Nxb Phụ nữ

1

Nguyễn Đức Hiền

Sao khuê lấp lánh

1984 Nxb Kim Đồng

1

Nguyễn Ngọc Hiến Màu đen ám ảnh

1998 Nxb Văn học

1

Trần Hiệp

Quân sư Đào Duy Từ

2006 Nxb Phụ nữ

1

Dương Ngọc Hoàn Mắt đêm

2005 Nxb Phụ nữ

1

Nguyên Hồng

Núi rừng Yên Thế (2 tập)

1981 Nxb Hà Bắc

1

Đỗ Đức Hùng

Nhiếp ch nh Ỷ Lan

1985 Nxb Phụ nữ

1

Nguyễn Xuân Hưng An lạc dưới trời

2005 Nxb Văn hóa Sài Gòn

1

Đặng Ngọc Hưng

Hùng binh

2018 Nxb Trẻ

1

Lê Khánh

Ông già lười

1990 Nxb Kim Đồng

1

Phùng Vương

2018 Nxb Văn học

Ngô Vương

2019 Nxb Văn học

Phùng Văn Khai

4

Nam đế vạn xuân

2020 Nxb Văn học

Triệu Vương phục quốc

2020 Nxb Văn học

Danh tướng Trần Hưng Đạo 1995 Nxb Văn học

4

Hoàng Công Khanh

Vằng vặc sao khuê

1998 Nxb Văn học

PL iv

Vua đen Mai Hắc Đế

2000 Nxb Văn hoá - Thông tin

Hoàng hậu hai triều

2001 Nxb Kim Đồng

Dương Vân Nga

Hồ Quý Ly

2000 Nxb Phụ nữ

Nguyễn Xuân Khánh

Mẫu thượng ngàn

2006 Nxb Phụ nữ

3

Đội gạo lên chùa

2011 Nxb Phụ nữ

Lưu Văn Khuê

Mặc Đăng Dung

2007 Nxb Hải Phòng

1

Đinh Ngọc Lân

Ngôi đình bản Chang

1999 Nxb Văn hoá dân tộc

1

Chuyện tình

Viết Linh

2005 Nxb Thanh niên

1

Huyền Trân công chúa

Thanh kiếm Đông A:

Trần Thế Long

2003 Nxb Hội Nhà văn

1

hoàng hôn triều Lý

Đặng Đình Lưu

Đằng Nữ quận chúa

1999 Nxb Văn hoá - Thông tin

1

Không phải huyền thoại

2013 Nxb Trẻ

Hữu Mai

2

Ông cố vấn

2015 Nxb Trẻ

Trần Thùy Mai

Từ Dụ Thái Hậu

2019 Nxb Phụ nữ

1

Trần Quốc Toản

2017 Nxb Kim Đồng

Lưu Sơn Minh

2

Trần Khánh Dư

2016 Nxb Văn học

Phạm Ngọc Cảnh Nam Thế kỷ bị mất

2011 Nxb Hội Nhà văn

1

Huyền Trân

2011 Nxb Hội Nhà văn

Nguyễn Hữu Nam

2

Gốm

2018 Nxb Văn học

Ngô Quang Nam

Ngư Phong tướng công

2008 Nxb Công an Nhân dân

1

Người đi đày trên đại dương 1991 Nxb Văn hoá - Thông tin

Bút Ngữ

Người thời loạn

1996 Nxb Văn hoá - Thông tin

3

Cử nhân Bùi Viện

2004 Nxb Hội Nhà văn

Mọi đầm

2005 Nxb Hội Nhà văn

Duy Phi

2

Vực hiểm chốn thâm cung 2006 Nxb Hội Nhà văn

Vua Lê Đại Hành

1982 Nxb Thanh Hoá

Hoàng Tuấn Phổ

2

Bà chúa Liễu

1990 Nxb Thanh Hoá

Lê Kim Phùng

Anh hùng áo vải Lê Lợi

2005 Nxb Công an Nhân dân

1

1989 Nxb Hà Nội

Ngô Văn Phú

13

Ngôi vua và những chuyện tình Người đẹp ngậm oan

1990 Nxb Hà Nội

PL v

Gươm thần Vạn kiếp

1991 Nxb Hội Nhà văn

Tuyên Phi họ Đặng

1996 Nxb Hội Nhà văn

Ấn kiếm trời ban

1998 Nxb Hội Nhà văn

Câu sấm vĩ về ngàn lau tím

2000 Nxb Hội nhà văn

Ngang trái phủ Tây Hồ

2000 Nxb Hội Nhà văn

Trần Quang Khải

2000 Nxb Hội Nhà văn

tể tướng thời tao loạn

2001 Nxb Văn hoá dân tộc

Đọ súng trong rừng Vụ Quang

Cờ lau dựng nước

2001 Nxb Kim Đồng

Chiếc ngai vàng

2003 Nxb Hội Nhà văn

Uy viễn Tướng công

2004 Nxb Công an Nhân dân

Nguyễn Công Trứ

Lý Công Uẩn

2006 Nxb Công an Nhân dân

Kinh đô Rồng

2004 Nxb Thanh niên

Nguyễn Khắc Phục

Một mất một còn

2004 Nxb Thanh niên

3

Thời vàng son

2004 Nxb Hội Nhà văn

Hồ Phương

Cha và con

2007 Nxb Kim Đồng

1

Nguyễn

Người đi vắng

1999 Nxb Phụ nữ

1

Bình Phương

Nguyễn Du

2010 Nxb Hội Nhà văn

Khúc hát những dòng sông

2012 Nxb Trẻ

Nguyễn Thế Quang

4

Thông reo ngàn Hống

2015 Nxb Trẻ

Nxb Tổng hợp

Đường về Thăng Long

2019

Thành phố Hồ Chí Minh

1996 Nxb Văn học

Tướng quân Hoàng Hoa Thám

1997 Nxb Văn học

4

Lê Minh Quốc

Nguyễn An Ninh - Dấu ấn để lại

Nguyễn Thái Học

2019 Nxb Văn học

Loạn 12 sứ quân

2020 Nxb Văn hóa -Văn nghệ

Mạch nước trong

1986 Nxb Thanh niên

2

Vĩnh Quyền

Vầng trăng ban ngày

2001 Nxb Đà Nẵng

PL vi

Sống dợn Hồ Gươm

2000 Nxb Văn học

Mộng Bình Sơn

2

Gió lộng cờ đào

2001 Nxb Văn học

Gió bụi đầy trời

2020 Nxb Hội Nhà văn

Thiên Sơn

1

Cành ban r máu

1989 Nxb Văn hoá dân tộc

Vũ Hữu Sự

1

Nam quốc sơn hà

2007 Nxb Trẻ

Anh hùng Bắc Cương

2007 Nxb Trẻ

Anh linh thần võ tộc Việt

2007 Nxb Trẻ

Yên Tử cư s

6

Trần Đại S

2007 Nxb Trẻ

Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông

Anh hùng Tiêu Sơn

2007 Nxb Trẻ

Thuận thiên di sử

2007 Nxb Trẻ

2009 Nxb Thanh niên

Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông)

Bùi Anh Tấn

3

Nguyễn Trãi (2 tập)

2010 Nxb Thanh niên

B mật hậu cung

2012 Nxb Thanh niên

Nguyễn Vũ Tiềm

Bắc cung hoàng hậu

2014 Nxb Hội Nhà văn

1

Con ngựa Mãn Châu

2001 Nxb Hội Nhà văn

Nguyễn Quang Thân

2

Hội thề

2009 Nxb Hội Nhà văn

Đất Việt trời Nam

2007 Nxb Lao động

Đan Thành

1

Thiệu Bảo bình Nguyên

2018 Nxb Trẻ

Hồng Thái

1

Hàn Song Thanh

Ánh lửa trong đêm

1986 Nxb Cửu Long

1

Nhất thống sơn hà

2014 Nxb Hội Nhà văn

Vũ Thanh

1

Vương miệng lưu đầy

2004 Nxb Văn hoá - Thông tin

Mai Thục

1

Búp sen xanh

1982 Nxb Kim Đồng

Nxb Văn nghệ

Bông sen vàng

2000

Thành phố Hồ Chí Minh

4

Sơn Tùng

Trái tim quả đất

2000 Nxb Thanh niên

Lõm

2006 Nxb Thanh niên

Kiều Thanh Tùng

Sắc đẹp khuynh thành

2007 Nxb Thanh niên

1

Khói mây Yên Tử

2000 Nxb Kim Đồng

Quân sư Đào Duy Từ

2002 Nxb Kim Đồng

Vũ Ngọc Tiến

6

Giao Châu tụ nghĩa

2002 Nxb Kim Đồng

Qủy vương

2016 Nxb Hội Nhà văn

PL vii

Kẻ sĩ thời loạn

2019 Nxb Phụ nữ

Hoàng Tiến

Hồn thiêng sông núi

2010 Nxb Phụ nữ

1

Vinh Châu Tử

Máu tuôn xóm liễu

1989 Nxb Tiền Giang

1

Vũ Xuân Tửu

Đinh Tiên Hoàng

2017 Nxb Công an Nhân dân

1

Uông Triều

Sương mù tháng giêng

2015 Nxb Trẻ

1

B mật kho vàng Ninh Tốn 1994 Nxb Phụ nữ

Nghiêm Đa Văn

2

Sừng rượu thề

2000 Nxb Kim Đồng

Cờ nghĩa

1976 Nxb Quân đội Nhân dân

Ba Đình

1981 Nxb Quân đội Nhân dân

Biến động

1984 Nxb Thuận Hoá

Cờ nghĩa Ba Đình

1986 Nxb Thanh Hoá

Hịch truyền

2007 Nxb Quân đội Nhân dân

Thành thái - “người điên”

1996 Nxb Văn học

đầu thế kỷ XX

Tuổi xanh

Thái Vũ

11

2000 Nxb Trẻ

Nguyễn Đình Chiểu

Thất thủ

2002 Nxb Thuận Hoá

kinh đô Huế 1858

Hưng Đạo Đại Vương

2003 Nxb Thanh niên

thế trận những dòng sông

Tình sử Mỵ Châu

2003 Nxb Thanh niên

Nguyễn Đình Chiểu

2004 Nxb Thanh niên

thời niên thiếu

183

PL viii

Phụ lục 02

BẢNG THỐNG KÊ CÁC NVAH MÀ LUẬN ÁN CÓ ĐỀ CẬP

VÀ VAI TRÕ CỦA NVAH TRONG TTLS

(Khảo sát qua một số tác phẩm)

Xuất

Đóng vai trò

hiện

TT

Tác phẩm

Tác giả

nhân vật

trong số

Tỉ lệ

trung tâm

trang tác

phẩm

1

Phùng Vương

Phùng Văn Khai

Phùng Hưng

150/237

63 %

1

2 Ngô Quyền

Nguyễn Anh

Ngô Quyền

262/395

66 %

3 Ngô Vương

Phùng Văn Khai

Ngô Quyền

257/450

57 %

4 Mười hai sứ quân Vũ ngọc Đỉnh

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

5 Đinh Tiên Hoàng Vũ Xuân Tửu

Đinh Bộ Lĩnh

384/527

73 %

6 Hội thề

Nguyễn Quang Thân

Nguyễn Trãi

168/330

51 %

7 Vằng vặc sao khuê Hoàng Công Khanh

Nguyễn Trãi

500/772

65%

8 Nguyễn Thị Lộ

Hà Văn Thuỳ

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

9 Lê Lợi

Hàn Thế Dũng

Lê Lợi

374/481

78 %

10 Đất trời

Nam Giao

Nguyễn Trãi

294/447

76 %

11 Hào kiệt Lam Sơn Vũ Ngọc Đỉnh

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

Trăng nước

Hà Ân

Trần Quốc Tuấn

260/360

72%

12

Chương Dương

13 Tám triều vua Lý Hoàng Quốc Hải

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

Chim bằng

Bùi việt S

Lý Thường Kiệt

213/380

56 %

14

và Nghé hoa

15 Huyền Trân

Nguyễn Hữu Nam

Huyền Trân

340/400

85 %

16 Nam Đế vạn xuân Phùng Văn Khai

Lý Nam Đế

207/484

43 %

Triệu Vương

Phùng Văn Khai

Triệu Quang Phục

161/440

37 %

17

phục quốc

PL ix

18 Giàn thiêu

V Thị Hảo

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

19 Bão táp triều Trần Hoàng Quốc Hải

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

Sương mù

20

Uông Triều

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

tháng giêng

21 Trần Quốc Toản

Lưu Sơn Minh

Trần Quôc Toản

131/212

62%

22 Trần Khánh Dư

Lưu Sơn Minh

Trần Khánh Dư

156/266

59 %

23 Đức Thánh Trần

Trần Thanh Cảnh

Trần Quốc Tuấn

168/235

71%

24 Trần Thủ Độ

Trần Thanh Cảnh

Trần Thủ Độ

105/190

55 %

Danh tướng

Hoàng Công Khanh

Trần Hưng Đạo

262/345

76 %

25

Trần Hưng Đạo

Thiệu Bảo

Hồng Thái

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

26

Bình Nguyên

27 Hồ Qúy Ly

Nguyễn Xuân Khánh

Hồ Qúy Ly

395/779

51%

28 Sông côn mùa lũ Nguyễn Mộng Giác

Nguyễn Huệ

835/1940

43 %

Nam Giao

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

29 Gió lửa

Nam Giao

Nguyễn Trãi

406/652

62%

30 Đất trời

Tây sơn

Lê Đình Danh

Nguyễn Huệ

481/924

52 %

31

bi hùng truyện

Hoàng đế

Nguyễn Thu Hiền

Nguyễn Huệ

307/541

57 %

32

Quang Trung

33 Nhất thống sơn hà Vũ Thanh

Nguyễn Huệ

807/1437

56 %

34 Gió bụi đầy trời

Thiên Sơn

Hồ Chí Minh

192/384

40%

35 Từ Dụ thái hậu

Trần Thùy Mai

Không có NVAH là nhân vật trung tâm

36 Búp sen xanh

Sơn Tùng

Nguyễn Tất Thành

278/297

94 %

37 Cha và con

Hồ Phương

Nguyễn Tất Thành

296/367

81 %

38 Bông sen vàng

Sơn Tùng

Nguyễn Tất Thành

256/314

82 %

Đường về

Nguyễn Thế Quang

Võ Nguyên Giáp

405/555

73 %

39

Thăng Long

PL x

Phụ lục số 03

BẢNG THỐNG KÊ TTLS VIỆT NAM SAU 1975

(theo các thời kì lịch sử)

Thời

Pháp

Nhà

Nhà

Bắc

Nhà

Nhà

Nhà

Nhà

Nhà

thuộc,

TT

Tác phẩm

Tiền

Tây

thuộc

Ngô

Đinh

Trần

Hồ

chống

Sơn

Pháp,

M

x

1 Bà Triệu

x

2 Phùng Vương

x

3 Triệu Vương phục quốc

x

4 Nam Đế vạn xuân

x

5 Ngô Vương Quyền

x

6 Ngô Vương

x

7 Cờ lau dựng nước

x

8 Mười hai sứ quân

x

9 Đinh Bộ Lĩnh

x

10 Hội thề

x

11 Nguyễn Thị Lộ

x

12 Lê Lợi

x

13 Đất trời

Nguyễn Trãi

x

14

(Oan khuất)

Nguyễn Trãi

x

15

(Bức huyết thư)

x

16 Hào kiệt Lam Sơn

x

17 Gươm thần vạn kiếp

x

18 Cuộc thăng trầm

PL xi

x

19 Vằng vặc sao khuê

x

20 Sao khuê lấp lánh

x

21 Giàn thiêu

x

22 Tám triều vua Lý

x

23 Anh hùng Tiêu sơn

x

24 Nam quốc sơn hà

x

25 Bão táp triều Trần

x

26 Sương mù tháng giêng

Trăng nước

x

27

Chương Dương

x

28 Trần Thủ Độ

x

29 Trần Quốc Toản

x

30 Trần Khánh Dư

x

31 Đức Thánh Trần

x

32 Thiệu Bảo Bình Nguyên

Danh tướng

x

33

Trần Hưng Đạo

Anh hùng Đông A

x

34

dựng cờ bình Mông

Hưng Đạo Vương,

x

35

thế trận những dòng sông

x

36 Huyền Trân

x

37 Hồ Quý Ly

x

38 Sông côn mùa lũ

x

39 Gió lửa

x

40 Tây sơn bi hùng truyện

x

41 Hoàng đế Quang Trung

x

42 Nhất thống sơn hà

x

43 Bắc cung hoàng hậu

x

44 Kẻ sĩ thời loạn

PL xii

45 Vũ tịch

x

46 Hồ Dương

x

47 Búp sen xanh

x

48 Bông sen vàng

x

Khúc hát

49

x

những dòng sông

50 Bể dâu

x

51 Mặt trời Pác Bó

x

52 Giải phóng

x

53 Không phải huyền thoại

x

54 Cha và con

x

55 Đường về Thăng Long

x

56 Gió bụi đầy trời

x