BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH HUỲNH AN

NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH HUỲNH AN

NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Nho Thìn

TS. Lê Thanh Nga

NGHỆ AN - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của GS. TS Trần Nho Thìn và TS. Lê Thanh Nga. Những số liệu sử dụng

trong luận án là trung thực. Các kết quả rút ra từ công trình nghiên cứu chưa từng được

công bố. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu này.

Nghệ An, ngày 25 tháng 5 năm 2021

Tác giả

Trịnh Huỳnh An

LỜI CẢM ƠN

Được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các nhà khoa học, tôi đã hoàn thành

luận án. Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đến GS.TS Trần Nho Thìn - giảng

viên Trường Đại học KHXH & NV ĐHQG Hà Nội và TS. Lê Thanh Nga - giảng viên

trường Đại học Vinh.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các nhà khoa học thuộc bộ môn Văn

học Việt Nam, Viện Sư phạm xã hội, Phòng Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Vinh,

Trường Đại học Bình Dương cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tôi trong

quá trình hoàn thành luận án.

Xin trân trọng cảm ơn!

Nghệ An, ngày 25 tháng 5 năm 2021

Tác giả luận án

Trịnh Huỳnh An

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................. 1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 3

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3

5. Đóng góp của luận án .................................................................................................... 5

6. Cấu trúc của luận án ..................................................................................................... 5

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

CỦA ĐỀ TÀI .............................................................................................................................................. 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................................6 1.1.1. Nghiên cứu chung về nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV..........6 1.1.2. Nghiên cứu về một số nhân vật hoàng đế tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ X

đến thế kỉ XV ........................................................................................................................9 1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài ......................................................................................... 16

1.2.1. Lý thuyết loại hình............................................................................................................ 16 1.2.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hoá – tư tưởng và văn học ................................. 18

1.2.3. Lý thuyết liên văn bản...................................................................................................... 19 1.2.4. Lý thuyết diễn ngôn .......................................................................................................... 21 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................................................... 23

Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV ............................................ 24

2.1. Giới thuyết về nhân vật hoàng đế .......................................................................... 24

2.1.1. Khái niệm nhân vật hoàng đế......................................................................................... 24

2.1.2. Sự khác nhau giữa “Đế” và “Vương” ......................................................................... 26 2.1.3. Mô hình hoàng đế lý tưởng trong tư duy chính trị Việt Nam trung đại ................... 28 2.2. Những tiền đề của sự xuất hiện nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam

từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ................................................................................................ 32

2.2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội ...................................................................................................... 32 2.2.2. Tiền đề văn hoá, chính trị ............................................................................................... 35

2.2.3. Tiền đề văn học................................................................................................................. 38 2.3. Vị thế của nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam................... 43

2.3.1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ............................................................................... 43 2.3.2. Giai đoạn từ sau thế kỉ XV đến thế kỉ XIX .................................................................... 44 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................................................... 46

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV............................................................................... 47

3.1. Nhân vật hoàng đế với tư cách là cái tôi tự biểu hiện ........................................ 47

3.1.1. Nhân vật hoàng đế - thiên tử trong ý thức chính trị .................................................... 47 3.1.2. Nhân vật hoàng đế - thiền nhân trong những suy tư mang màu sắc tôn giáo ........ 63 3.1.3. Nhân vật hoàng đế - thi sĩ trong cảm quan thẩm mĩ ................................................... 70 3.2. Nhân vật hoàng đế với tư cách khách thể phản ánh .......................................... 79

3.2.1. Nhân vật hoàng đế “thập toàn” của đấng “chăn dân” trong cảm hứng ngợi ca ....... 79

3.2.2. Nhân vật hoàng đế “bất toàn” trong cảm hứng phê phán, phúng gián .................. 92 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................................................... 107

Chương 4. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV .................................................... 108

4.1. Sự thể hiện nhân vật hoàng đế nhìn từ việc lựa chọn thể loại .......................108

4.1.1. Thơ ................................................................................................................................... 108 4.1.2. Phú ................................................................................................................................... 114

4.1.3. Văn chính luận ................................................................................................................ 121 4.2. Sự thể hiện nhân vật hoàng đế và những lựa chọn ngôn từ ...........................127

4.2.1. Hệ thống ngôn từ bộc lộ khẩu khí của đế vương ....................................................... 127 4.2.2. Hệ thống ngôn từ thể hiện nhãn quan chính trị ......................................................... 129 4.2.3. Hệ thống ngôn từ thể hiện quan niệm thẩm mĩ .......................................................... 131 4.3. Sự vận dụng bút pháp ............................................................................................135

4.3.1. Bút pháp sử ký ................................................................................................................ 135

4.3.2. Bút pháp trữ tình ............................................................................................................ 142 4.3.3. Bút pháp khoa trương .................................................................................................... 144 Tiểu kết chương 4 ................................................................................................................................... 146

KẾT LUẬN .............................................................................................................................................. 147

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............... 151

PHỤ LỤC 1 .............................................................................................................................................. 165

PHỤ LỤC 2 .............................................................................................................................................. 170

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân

Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã mở ra kỉ nguyên tự chủ cho dân tộc. Đất nước

bước vào thời kì xây dựng nền quân chủ chuyên chế tồn tại mười thế kỉ. Trên bình

diện chính trị - văn hóa - xã hội, Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ở vào giai

đoạn đầu của chế độ quân chủ chuyên chế - mô hình nhà nước mà ở đó hoàng đế

(vua) đứng đầu triều đình, nắm quyền lực điều hành mọi phương diện của đất

nước, chi phối sâu sắc đến sự an nguy, thịnh suy, tồn vong của cả một chế độ, một

triều đại. Hoàng đế, theo đó cũng trở thành đối tượng phản ánh, thể hiện của văn

học. Nghiên cứu văn học giai đoạn đầu thời trung đại từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, vì

thế không thể bỏ qua việc nghiên cứu về nhân vật hoàng đế.

1.2. Là một kiểu nhân vật văn học - văn hóa đặc biệt, nhân vật hoàng đế hàm

chứa trong nó nhiều nội dung chính trị, xã hội, văn hóa, văn học rất cần được

nghiên cứu. Về đường lối chính trị, hoàng đế tồn tại và hoạt động trong xã hội

quân chủ chuyên chế chủ yếu theo đức trị. Vậy kiểu hoàng đế như thế đã có vai trò

lịch sử tích cực nào và có những hạn chế nào? Về mặt văn học, điều ngày nay cần

quan tâm là các lý tưởng của người xưa, trước hết của trí thức nho sĩ, về một bậc

quân vương đã được thể hiện như thế nào, bằng những phương tiện nghệ thuật gì,

với những thể loại văn học nào để vừa chuyển tải được những vấn đề đạo đức

chính trị của hoàng đế mà lại vừa an toàn thân mệnh trong một kiểu xã hội mà một

chữ viết nhầm trong bài thi cũng có thể dẫn đến án tử? Thêm nữa, các hoàng đế

thời trung đại trực tiếp sáng tác văn chương không chỉ để khoe tài mà chủ yếu

hướng đến mục đích phục vụ chính trị. Họ dùng văn chương để khẳng định, bảo vệ

tính chính danh của triều đại, của bản thân ngôi vị hoàng đế. Đây là một loại diễn

ngôn quyền lực độc đáo trong văn hóa chính trị thời trung đại. Câu hỏi đặt ra là

mục đích sáng tác văn chương đó đã được thực hiện bằng các phương tiện nghệ

thuật nào, cũng như các vấn đề của hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng, tư tưởng, môi

trường xướng họa…

1.3. Thế giới nhân vật trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú, đa dạng.

Nổi bật trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là các loại hình nhân vật: thiền sư,

nho sĩ, hoàng đế, liệt nữ. Tuy nhiên, khi tiến hành nghiên cứu nhân vật trong văn

học trung đại giai đoạn này, cho đến nay, phần lớn các công trình đều tìm hiểu các

2

nhân vật là nhà nho, thiền sư, liệt nữ. Chưa có công trình nghiên cứu nào có cái

nhìn bao quát và mang tính hệ thống về nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại

Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Vì thế vấn đề này vẫn còn nhiều khía cạnh

mới, cần được quan tâm nghiên cứu.

1.4. Việc tìm hiểu ngọn nguồn, những đặc điểm của nhân vật hoàng đế, mối

quan hệ giữa nhân vật văn học này với bối cảnh lịch sử - xã hội đương thời… sẽ

góp phần mang đến những bài học kinh nghiệm trị quốc an dân đối với hệ thống

chính trị đương đại.

Những vấn đề nêu trên lý giải tính chất cấp thiết của đề tài luận án. Bên cạnh

việc nghiên cứu về hoàng đế ở các góc độ: chính trị, quân sự, ngoại giao… thì việc

nghiên cứu hoàng đế dưới góc độ văn học là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa khoa

học vừa mang giá trị thực tiễn. Vì thế chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Nhân vật

hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật

hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung ở các sáng tác văn học giai đoạn từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV có xuất hiện nhân vật hoàng đế. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng

nhận thức được rằng, luận án chưa hẳn đã tái hiện nhân vật này đến mức chân xác,

chi tiết tuyệt đối như đã được thể hiện trong các sáng tác văn học quá khứ, bởi văn

học giai đoạn này mặc dù đông đảo về lực lượng sáng tác, đồ sộ về số lượng tác

phẩm nhưng vì nhiều lí do mà không còn được lưu trữ đầy đủ.

Tuy nhiên, những công trình biên tuyển văn học trung đại cũng có thể cung cấp

đủ tư liệu để thực hiện đề tài: Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tổng tập văn

học Việt Nam (tập I – V), Nguyễn Trãi toàn tập, Tổng tập văn học Hán – Nôm, Thơ

văn Lí – Trần, và các tuyển tập: Tuyển thơ các vua Trần, Thơ văn Lê Thánh Tông,

Cổ tâm bách vịnh…

Khác với văn chương hiện đại, văn chương trung đại mang nặng tư duy nguyên

hợp với tinh thần văn – sử – triết bất phân. Một tác phẩm chức năng hành chính quan

phương có thể được viết bằng một một hình thức nghệ thuật đậm chất văn học như Dụ

chư tỳ tướng hịch văn, Bình Ngô đại cáo; trong một bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư

3

cũng có thể tìm thấy những trang ghi chép có tính chất văn học; một ghi chép có tính

chất sử học như Lam Sơn thực lục cũng có những đoạn đậm chất văn chương. Tam tổ

thực lục tuy có tên gọi thể loại “thực lục” song không hề tương đồng với kiểu “thực lục”

của sử học mà có tính cách như một tập chân dung bằng văn học. Luận án, vì thế, không

chỉ nghiên cứu các thể loại thuần túy văn học mà còn quan sát, phân tích các tài liệu có

tính nguyên hợp: Đại Việt sử kí toàn thư, Tam tổ thực lục, Lam Sơn thực lục.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích chính của luận án là nghiên cứu, rút ra những khái quát về đặc

điểm nội dung và hình thức biểu hiện nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại

Việt Nam giai đoạn này thế kỷ X đến thế kỷ XV. Qua đó, luận án cũng chỉ ra mối

quan hệ giữa văn học và chính trị thời trung đại - thời kì mà các nhà văn đồng thời

là những trí thức nhập thế, hành đạo (nhà nho) hoặc được triều đình coi là quốc sư

(nhiều vị thiền sư). Đồng thời, luận án phác họa một bức tranh các loại hình nhân

vật bên cạnh nhân vật hoàng đế.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Căn cứ mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận án giải quyết những nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

- Trình bày một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết

của đề tài.

- Khảo sát và chỉ ra các cơ sở hình thành nhân vật hoàng đế trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

- Khảo sát và phân tích những đặc điểm nhân vật hoàng đế trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

- Khảo sát, phân tích và chỉ ra các phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế

trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

Cuối cùng rút ra kết luận về nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt

Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV và đề xuất một số vấn đề nghiên cứu có liên quan.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được nhiệm vụ đã đề ra của đề tài Nhân vật hoàng đế trong văn

học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, tác giả luận án vận dụng nhiều

phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:

4

4.1. Phương pháp liên ngành: Để có thể lí giải được các vấn đề liên quan đến

nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, luận án đã vận dụng tri

thức của các lĩnh vực khác như: văn hóa học, triết học, luật học, tâm lý học, ngôn

ngữ học... nhằm tham chiếu, soi rõ các nội dung được đề cập trong luận án.

4.2. Phương pháp lịch sử - xã hội: Đây là phương pháp nghiên cứu văn học

quá khứ, gồm quy luật hình thành, phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học

diễn ra trong những điều kiện lịch sử – xã hội nhất định như tác phẩm, tác giả, thể

loại, trào lưu, các giai đoạn đã qua của nền văn học dân tộc. Phương pháp này giúp

cho việc tái hiện những nét chính về bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội có ảnh

hưởng đến việc hình thành nhân vật hoàng đế. Đồng thời phương pháp này cũng

giúp đưa ra những kết luận về sự vận động và phát triển của nhân vật hoàng đế.

4.3. Phương pháp phân loại – thống kê: Phương pháp này vận dụng các thao

tác phân loại – thống kê, xác lập dữ liệu khoa học làm cơ sở để góp phần bổ sung

tính chặt chẽ của các luận điểm. Từ việc vận dụng phương pháp này, luận án đi đến

xác định những đặc điểm cơ bản của các kiểu tác gia tác phẩm, thể loại văn học thể

hiện nhân vật hoàng đế qua góc nhìn tự biểu hiện và là đối tượng được phản ánh.

4.4. Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để

phân tích các tác phẩm, các vấn đề, trên cơ sở đó, tổng hợp theo định hướng

nghiên cứu của luận án. Từ những tư liệu tổng hợp được, luận án tiến hành phân

tích các tác phẩm theo khung thể loại, theo nhóm tác giả, theo giai đoạn lịch sử…

để làm tiền đề so sánh, đối chiếu về sự vận động và phát triển hệ thống tư tưởng

Nho – Phật – Đạo gắn với sự biến đổi, vận động của mẫu hình nhân vật hoàng đế.

Luận án phân tích khả năng giao thoa, chuyển hóa, tiếp nối và hỗn dung giữa các

tư tưởng trong cùng một loại hình tác gia hoàng đế.

4.5. Phương pháp so sánh – loại hình: Phương pháp loại hình là phương

pháp nghiên cứu những sự việc, hiện tượng có chung những đặc trưng nào đó để có

thể khái quát và phân loại tìm ra quy luật của sự tương đồng. Trong nghiên cứu

văn học, để làm nổi bật bản chất của hiện tượng được đem ra so sánh, có thể so

sánh hiện tượng văn học đó với các hiện tượng cùng loại hoặc có thể so sánh với cả

các hiện tượng đối lập. Phương pháp này được dùng để đối chiếu, so sánh mẫu

hình hoàng đế trong giai đoạn văn học này qua các loại hình tác giả tham gia viết

về hoàng đế. Đồng thời, luận án bước đầu so sánh mẫu hình hoàng đế của giai

đoạn này với các giai đoạn sau trong văn học trung đại Việt Nam; so sánh mẫu

5

hình hoàng đế Việt Nam và các nước Đông Á nói chung, Trung Quốc nói riêng để

thấy được sự tương đồng và khác biệt.

4.6. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này được dùng để liên

kết, xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề nghiên cứu trong tính thống nhất chỉnh thể. Nó

giúp luận án đưa ra những góc nhìn đa diện về nhân vật hoàng đế một cách thống

nhất theo hệ thống.

5. Đóng góp của luận án

Luận án là một nỗ lực lần đầu tiên nghiên cứu không phải một nhân vật hoàng

đế của một triều đại xác định mà là kiểu loại hình nhân vật hoàng đế trong văn học

một giai đoạn cụ thể.

Nỗ lực nghiên cứu đó được thực hiện qua thao tác hệ thống hóa tư liệu nghiên

cứu. Luận án đã rà lại hệ thống các sáng tác văn học thể hiện cái nhìn chủ quan, tự

thuật (cái nhìn từ bên trong) của các bậc hoàng đế và cái nhìn khách quan (cái nhìn

từ bên ngoài) của giới trí thức thiền sư và nho gia về một bậc hoàng đế lý tưởng.

Từ hai điểm nhìn với hai bộ phận sáng tác này, luận án góp phần phác họa hình

tượng nhân vật hoàng đế, một loại nhân vật quan trọng bậc nhất của hệ thống chính

trị xã hội Việt Nam trung đại giai đoạn văn học thế kỷ X đến thế kỷ XV.

Luận án trình bày hệ thống các yếu tố, phương diện nghệ thuật liên quan đến

nhân vật hoàng đế, một hệ thống cho đến nay chưa được chú ý đúng mức.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được

triển khai trong 4 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài

Chương 2. Cơ sở hình thành nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt

Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

Chương 3. Đặc điểm nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV

Chương 4. Phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại

Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu chung về nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

Mặc dù đã có một số bài viết, luận án, luận văn nghiên cứu về nhân vật

hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam nhưng nhìn chung các công trình này

mới chỉ dừng lại ở mức đề cập sơ lược về mẫu hình hoàng đế hoặc khảo sát một

nhân vật hoàng đế trong một tác phẩm cụ thể. Các công trình nghiên cứu về nhân

vật hoàng đế được tập trung vào các vấn đề sau:

Trong công trình Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (in lần

đầu 1997), Trần Ngọc Vương đã có bài viết về “Mẫu hình hoàng đế và con đường

tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong triết học và văn học khu vực Đông Á”. Ở bài

viết này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu loại hình nhân vật hoàng đế trong triết học và

văn học khu vực Đông Á. Theo tác giả: “Ý niệm đế – như là vị quân chủ độc

nhất, duy nhất và toàn quyền – đã xuất hiện từ rất sớm và có một quá trình hoàn

thiện lâu dài cả về lý thuyết lẫn thực tiễn” [215; 49]. Tác giả đã khái quát về nhân

vật hoàng đế từ mẫu hình hoàng đế Trung Hoa với mô hình “tam vị nhất thể”:

thiên mệnh – thiên hạ – thiên tử. Với vị trí bất khả xâm phạm, hoàng đế đã tồn tại

nhiều thế kỉ, ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam: “Loại hình nhân cách hoàng

đế là một loại hình nhân cách đặc biệt, có tác động vô cùng to lớn chi phối lịch sử

hình thành và phát triển các loại hình nhân cách khác trong xã hội phương Đông”

[215; 53]. Hoàng đế là thiên tử: “Đã là thiên tử – hoàng đế, kẻ duy nhất có mệnh

(chân mệnh đế vương), tức là kẻ duy nhất đươc Thiên phụ giao cho thay mặt

mình cai trị thiên hạ, thì có thể và phải thâu tóm mọi quyền lực vào tay” [215;

52]. Hoàng đế được trời trao cho thiên mệnh nhưng đòi hỏi người nhận được

mệnh trời phải là người có đức: “Trời giao nước, về nguyên tắc cho người có

đức, có đại đức, mà đại đức là hiếu sinh, là biết thương xót chăm sóc nuôi dưỡng

cho các sinh mệnh khác. Bám vào nguyên lý đó, mà trong suốt lịch sử tồn tại của

mình, Nho giáo luôn nhắc nhở đề cao, nhấn mạnh hay quyết liệt đòi hỏi người

làm vua phải luôn tự thể hiện là người chí đức” [215; 53].

7

Trong bài viết này Trần Ngọc Vương còn đi đến phác họa lại cấu trúc lý

thuyết của mô hình nhân cách hoàng đế. Ông cho rằng “Với một nhân cách nửa

trần gian, nửa thượng giới, hoàng đế – thiên tử khống chế và khống chế có hiệu

quả sự xuất hiện của bất kì một loại nhân cách độc lập nào” [215; 61]. Theo đó,

hoàng đế là con trời và được sở hữu quyền lực tuyệt đối trong trị vì thiên hạ. Mỗi

hoàng đế cần phải có các yếu tố: Chí hiếu, chí nhân, chí minh, chí thành chí kính.

Tuy chưa đề cập đến thi pháp khắc họa nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại

Việt Nam nhưng bài viết này là một phần cơ sở lí luận để chúng tôi tham khảo

trong suốt quá trình thực hiện đề tài luận án.

Trong công trình Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – Những vấn đề lí luận

và lịch sử do Trần Ngọc Vương chủ biên (2006), Đỗ Lai Thuý với bài viết “Loại

hình các nhân vật trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XIX” đã

phân ra ba loại hình nhân vật: Loại hình nhân vật mang tính vô ngã, loại hình

nhân vật quân tử và loại hình nhân vật tài tử. Theo đó, tác giả nhận định hoàng đế

thuộc về loại hình nhân vật quân tử: “Trong xã hội quân chủ Nho giáo, chí ít là ở

Việt Nam, nhà vua vẫn thuộc loại hình nhà nho, những dị biệt chỉ ở sắc thái nên

không đáng kể. Bởi lẽ, trước khi anh ta lên ngôi vua, trở thành hoàng đế trị vì thì

anh ta đã là nhà nho rồi” [216; 474].

Lịch sử nghiên cứu về nhân vật hoàng đế còn ghi nhận những đánh giá,

nhận xét mang tính khái quát chung về một vương triều hay giai đoạn nhất định.

Ở Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, Đoàn Thị Thu Vân

(2007) đã nhận định: “Những đặc điểm nổi bật của giai đoạn sơ kì trung đại

không chỉ ở đường lối chính trị thân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân và những

thành tựu rực rỡ có từ đó, mà còn ở tinh thần rộng mở đặc biệt khó lặp lại ở đời

sau. Chưa có một sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt giữa vua quan, quý tộc và

“trăm họ”. Trong những lễ hội truyền thống, vua quan và thứ dân cùng tham gia

vui chơi” [197; 12 - 13]. Qua nhận định của tác giả có thể thấy được tinh thần

thân dân, trọng dân của các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mà “khó

lặp lại ở đời sau”.

Công trình nghiên cứu của Đoàn Thị Thu Vân không đi tìm kiếm mẫu hình

nhân vật hoàng đế hoặc đưa ra những nhận định về đặc điểm của nhân vật này.

8

Tác giả chỉ hướng đến đối tượng là con người nhân văn trong văn học trung đại

Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Tuy nhiên, những con người nhân văn mà

tác giả khảo sát chính là các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Khi

nhận xét về vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ của các nhà cầm quyền trị nước

thời Lý, tác giả cho rằng: “Vô vi như một triết lí chính trị đơn giản mà ảo diệu,

bài học không chỉ cho một đời mà nhiều thế hệ. Đó là vẻ đẹp của con người trong

hành xử chính trị ở vị trí nắm giữ trọng trách quốc gia” [197; 20]. Về các hoàng

đế triều Trần, tác giả đánh giá: “Chinh chiến là việc không thể không làm, khi

cần thiết bảo vệ cõi bờ, lãnh thổ, dù người cầm vũ khí tha thiết yêu hoà bình. Vua

quan, tướng lĩnh và quân dân thời Trần đã làm như thế, dũng cảm, hết mình,

không tiếc máu xương” [197; 33]. Tác giả đánh giá cao tinh thần phản tỉnh của

các hoàng đế triều Trần: “Dưới thời phong kiến, những lỗi lầm của một vị hoàng

đế trong quá trình cầm quyền không phải là ít nhưng sự nhận ra và quan trọng

hơn, dũng cảm thừa nhận, ăn năn về những lỗi lầm đó lại không phải là nhiều,

nếu muốn nói là rất hiếm” [197; 36]. Thế mà các hoàng đế triều Trần đã làm

được điều đó: “đặt lương tâm con người lên trên lòng tự tôn và quyền lực của một

vị quân vương để tự trói mình trong nỗi đau suốt đời” [197; 36].

Trịnh Văn Định trong Tự do và quyền lực (2018) đã nhận xét: “thiết chế

chuyên chế mà đại diện hoàng đế là nhân vật có quyền uy tối thượng, chi phối

toàn xã hội ở dưới gầm trời, cả thế quyền và thần quyền” [43; 11].

Luận án tiến sĩ Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn

học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XV (2014) của

Nguyễn Thị Giang cũng đã khái quát hệ thống nhân vật trong văn học trung đại

Việt Nam dưới góc nhìn thi pháp. Luận án đã hệ thống hoá ba loại nhân vật:

Thiền sư, liệt nữ và hoàng đế. Trong đó, nhân vật hoàng đế cũng đã được tác giả

khai thác và đưa ra những đặc điểm khái quát. Tuy nhiên về cơ bản, luận án chỉ

khái quát đặc điểm nhân vật hoàng đế qua những sáng tác của Lê Thánh Tông.

Có thể nói việc nghiên cứu mẫu hình nhân vật hoàng đế còn nhiều mới mẻ.

Bởi phần lớn các hoàng đế đều được nghiên cứu dưới góc độ khảo cổ học, chính

trị học, văn hoá học… mà chưa có công trình nghiên cứu nào có cái nhìn tổng thể

về nhân vật hoàng đế dưới góc nhìn là một nhân vật văn học – nhân vật trữ tình.

9

1.1.2. Nghiên cứu về một số nhân vật hoàng đế tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ X

đến thế kỉ XV

Cho đến nay vẫn thiếu những công trình nghiên cứu tổng thể và hệ thống về

nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.

Các công trình chỉ đi vào nghiên cứu văn học Lý – Trần, Lê sơ hoặc phân tích

riêng rẽ một số hoàng đế tiêu biểu. Có thể nói Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,

Lê Thánh Tông là những trường hợp tiêu biểu cho mẫu hình hoàng đế trong giai

đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Cuộc đời, sự nghiệp chính trị và sự nghiệp văn học

của các hoàng đế này đủ để tạo nên một mẫu hình nhân vật văn hoá chính trị và

văn học. Ngoài sự nghiệp chính trị vẻ vang, những hoàng đế này còn là tác giả của

nhiều áng văn chương đặc sắc. Văn chương của họ không chỉ có tính chức năng

mà còn giàu chất nghệ thuật. Người viết sẽ điểm qua sơ lược những công trình về

ba hoàng đế tiêu biểu này.

Hoàng đế Trần Thái Tông: Đây là hoàng đế đầu tiên của triều Trần. Có

nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vị hoàng đế này nhưng phần lớn đều

gắn liền với cả giai đoạn văn học Lý – Trần. Quốc Chấn trong công trình Những

vua chúa Việt Nam hay chữ (2009) nhận xét: “Thái Tông đã không đi tu ở chùa,

mà làm vua cai trị cả một quốc gia để vừa học hành, nghiền ngẫm triết lí của đạo

Phật, vừa ứng dụng vào cuộc sống của bản thân và cuộc sống xã hội” [11; 16].

Các tác giả Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển (tâp II) (2014) đánh giá về

Trần Thái Tông: “Ông đưa ra nhiều quan điểm mới về vai trò của Phật giáo, chức

năng của Nho giáo, tam giáo đồng nguyên. Đó là quan điểm thân dân, trách nhiệm

của bậc nhân quân, quan niệm về nghĩa và lý theo Nho giáo” [208; 10].

Bài viết “Kiểu tác gia Hoàng đế – Thiền sư – Thi sĩ Trần Thái Tông” (2015)

của Nguyễn Hữu Sơn có nhiều góc độ liên quan đến đề tài luận án. Nguyễn Hữu

Sơn nhận định: “Hoàng đế Trần Thái Tông nằm trong mẫu hình tác gia hoàng đế

phương Đông, đặc biệt tương đồng với mẫu hình hoàng đế vùng Đông Á. Các bậc

hoàng đế này có uy quyền tuyệt đối và thường sử dụng thi ca để nói chí và tuyên

truyền cho vương triều và vị thế của mình” [151]. Trên cơ sở khảo sát các tác

phẩm của Trần Thái Tông, Nguyễn Hữu Sơn coi Trần Thái Tông là người mở đầu

cho loại hình tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ của triều Trần: “Mặc dù với số

10

lượng thơ viết về vị thế hoàng đế cũng như thơ thế sự thông qua cách nhìn của bậc

hoàng đế không nhiều song những dấu hiệu tư duy nghệ thuật đã nêu cũng đủ xác

định vị thế mẫu hình tác gia hoàng Trần Thái Tông – người mở đầu cho loại hình

tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ triều Trần” [151]. Đưa ra những lập luận thuyết

phục trên cơ sở khảo sát các tác phẩm của Trần Thái Tông, tác giả đã chỉ ra được

sự dung hoà giữa vương quyền và thần quyền của hoàng đế này: “Từ vị thế hoàng

đế, Trần Thái Tông đã mở rộng đường biên tư tưởng và đạt tới sự hòa hợp Nho –

Phật, dung hòa giữa đời sống thế tục vương quyền và tâm linh thần quyền” [151].

Tác giả đánh giá cao những sáng tác của Trần Thái Tông, cho rằng chúng không

phải là những tác phẩm chỉ dừng lại ở văn học chức năng: “Trần Thái Tông không

chỉ là một nhà tư tưởng nhân văn mà còn tiếp tục mở rộng cảm quan thẩm mỹ bằng

những sáng tạo thi ca và ngay cả phương tiện ngôn ngữ truyền giáo cũng đậm chất

thi ca. Mặc dù các tác phẩm của ông còn in đậm dấu ấn chức năng, chưa nhiều

những sáng tác hướng về cuộc sống đời thường nhưng cũng đủ cho thấy những

khía cạnh chính yếu để hoàn chỉnh một kiểu tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ”

[151]. Mặc dù Nguyễn Hữu Sơn chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu về hoàng đế Trần

Thái Tông nhưng bài viết này có gợi ý quan trọng để người viết tiếp tục nghiên

cứu về mẫu hình hoàng đế – thiền sư – thi sĩ.

Từ những đánh giá mang giá trị khoa học của Nguyễn Hữu Sơn và các tác

giả khác có thể kết luận văn chương Trần Thái Tông nghiêng hẳn về Phật giáo

nhưng vẫn rất giàu tính văn chương. Những tác phẩm của Trần Thái Tông đã

truyền tải được những suy tư về thế sự về xây dựng, bảo vệ vương triều và hoằng

dương Phật giáo.

Hoàng đế Trần Nhân Tông: Ông là một triết gia lớn của Phật học Việt

Nam và là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tông vừa là một

triết gia, một hoàng đế anh minh vừa là một nhà thơ, nhà văn hoá lớn. Trần Nhân

Tông được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu ở nhiều góc độ. Riêng góc độ văn

chương, thơ Thiền của ông được nghiên cứu nhiều hơn. Tuy nhiên phần nhiều các

nghiên cứu này đều nằm rải rác trong các công trình chung về giai đoạn văn học

Lý – Trần.

11

Trong Trần Nhân Tông nhân cách văn hoá lỗi lạc (2003), Đỗ Thanh Dương

khảo sát về hoàng đế Trần Nhân Tông qua ba phương diện: chính khách kiệt xuất –

thi sĩ trác việt – vua phật. Tác giả nhận xét: “Thơ Trần Nhân Tông cao khúc khải

hoàn ca chiến thắng ngoại xâm, nhưng cũng dìu dặt khúc ca nhân nghĩa yêu hoà

bình” [33; 56]. Những dẫn chứng tác giả đưa ra trong công trình nghiên cứu đã

thêm cơ sở thuyết phục cho mẫu hình hoàng đế – thiền sư – thi sĩ trong sáng tác

của Trần Nhân Tông: “Cảm hứng yêu nước anh hùng, cảm hứng nhân sinh thế sự,

cảm hứng thiên nhiên và cảm quan Phật là những chủ đề lớn trong thơ Trần Nhân

Tông. Các cảm hứng ấy có sự hoà quyện đan xen, đều toát lên tâm hồn tư tưởng

của một nhân cách lớn Minh quân – Phật tử – Triết gia” [33; 74 - 75].

Các tác giả của Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển (tập II), (2004) đánh

giá về Trần Nhân Tông: “Các tư tưởng cơ bản của Trần Nhân Tông là tư tưởng tự

hào dân tộc, quan niệm về hữu – vô; an nhiên tự tại, xa lánh bụi trần; đề cao giá trị

đạo đức Phật giáo; Phật tại gia, tại tâm” [208; 96 - 97].

Trong bài viết “Căn rễ văn hoá của nền văn học thời Lí - Trần”, (quyển

Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử do Trần

Ngọc Vương chủ biên năm 2006), Nguyễn Hữu Sơn nhận định: “Trần Nhân

Tông là người kết tinh truyền thống văn hoá Phật giáo thời Trần, đóng vai trò

quyết định trong việc xác lập diện mạo và truyền thống Phật giáo Đại Việt…

người có tư tưởng thân dân, chủ trương nới sức dân… bản thân ông có được sự

kết hợp nhuần nhị giữa tư cách một hoàng đế anh minh, một thiền sư – thi sĩ

mẫu mực” [216; 94].

Đoàn Thị Thu Vân, trong Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì

trung đại (2007), dành riêng một phần để viết về Trần Nhân Tông. Bài viết đánh

giá cao những rung cảm tế vi và nhạy bén tâm hồn của hoàng đế này. Tác giả nhận

xét: “Các nhà thơ đời Trần đã có những vần thơ viết về thiên nhiên mới lạ và tươi

đẹp với thần thái rất riêng, để lại một ấn tượng khó nhầm lẫn với đời sau. Trong

đó, những bài thơ thiên nhiên của Trần Nhân Tông, ông vua – thiền gia – thi sĩ có

thể xem là đặc sắc vào loại bậc nhất” [197; 50].

Quốc Chấn đánh giá về Trần Nhân Tông trong Những vua chúa Việt Nam

hay chữ (2009): “Lên làm vua, Nhân Tông vẫn suy ngẫm về giáo lí đạo Phật bởi

12

thấy có những điều giúp cho con người biết tu thân, xử thế, yêu nước, thương dân.

Trong thời gian trị vì, cũng như suốt cuộc đời, nhà vua đã chủ trương đức trị thần

dân, xem nhẹ địa vị, vinh hoa, coi trọng thiện tâm nhân ái và lấy đó làm phương

châm xử thế” [11; 30].

Nhận xét về tính nhân văn trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông,

Bùi Huy Du cho rằng: “Tinh thần nhân văn ấy chính là quan điểm khẳng định và

tin tưởng vào bản tính tốt đẹp vốn có trong tâm can mỗi con người; là quan điểm

đề cao vai trò, trách nhiệm của con người đối với non sông đất nước; là quan

điểm quan tâm đến đời sống của dân, dưỡng dân giáo dân; cao hơn nữa, đó là tinh

thần đánh giặc cứu nước, cứu dân, xây dựng một xã hội lý tưởng, thanh bình

thịnh trị [29].

Nhìn chung những công trình nghiên cứu chưa quan tâm hoàng đế Trần Nhân

Tông như là một nhân vật văn học. Những công trình phần lớn tập trung góc độ

chính trị, triết học hoặc thơ Thiền của Trần Nhân Tông trong văn học Lý – Trần.

Hoàng đế Lê Thánh Tông: Trải qua quá trình tìm kiếm nhiều thế kỷ, có thể

nói đến thế kỉ XV dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông, Việt Nam đã tìm được mẫu

hình hoàng đế lí tưởng. Nhà nước phong kiến Đại Việt đạt đến đỉnh cao dưới thời

trị vì của Lê Thánh Tông. Từ tầm vóc chính trị đến nền văn chương khá đồ sộ,

hoàng đế Lê Thánh Tông được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.

Có nhiều công trình, luận án, luận văn nghiên cứu về nhân vật hoàng đế Lê

Thánh Tông. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến công trình Hoàng đế Lê Thánh Tông

nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn (1998). Công trình này tập

hợp nhiều bài viết có cái nhìn tổng thể về hoàng đế Lê Thánh Tông trên cả ba

phương diện: chính trị, văn hóa và văn học.

Về góc độ chính trị, Lê Thánh Tông được xem là vị hoàng đế có công lớn

trong sự nghiệp mở mang bờ cõi. Trong bài viết “Sự nghiệp mở mang bờ cõi

xuống phương Nam của Lê Thánh Tông”, tác giả Đặng Việt Bích nhận xét: “Giữ

vững biên cương phía Bắc, mở rộng lãnh vực xuống phía Nam, đó là công việc mà

Lê Thánh Tông đã làm được trong suốt thời gian trị vì” [15; 176]. Hoàng đế Lê

Thánh Tông đã thống lĩnh quân đội chinh phạt Chămpa, vượt Trường Sơn đánh

chiếm Bồn Man và Lão Qua để mở mang bản đồ Đại Việt. Không chỉ giỏi trong

13

việc dựng nước, việc giữ nước cũng được Lê Thánh Tông thực hiện hoàn thành tốt

sứ mệnh “thiên tử”. Trong bài viết “Lê Thánh Tông trong chính sách đối ngoại và

bảo vệ lãnh thổ Đại Việt”, Tạ Ngọc Liễn nhận xét: “Lê Thánh Tông đã thực hiện

một chính sách đối ngoại tích cực, khôn khéo, biểu lộ qua những biện pháp đối

phó, cách giải quyết những vấn đề gay cấn, phức tạp nẩy sinh trong quan hệ giữa

nước ta với nước láng giềng phương Bắc, phương Nam mà quan trọng nhất là vấn

đề biên giới, vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của nước Đại Việt” [15; 152].

Lê Thánh Tông đã kiến tạo một nhà nước được quản lí bởi pháp luật. Trần

Trọng Hựu trong bài viết “Lê Thánh Tông với việc hình thành một nhà nước pháp

luật” đã có nhận xét: “Quốc triều hình luật là sự pháp điển hóa hoàn chỉnh nhất và

ở trình độ cao nhất pháp luật của Nhà nước phong kiến Việt Nam” [15; 189 - 190].

Vũ Ngọc Lý trong bài viết “Lê Thánh Tông và bộ Quốc triều hình luật” đã đưa ra

kết luận: “Lê Thánh Tông tỏ rõ là một ông vua có vai trò tích cực trong việc củng

cố Nhà nước phong kiến quan liêu, đồng thời cũng có tác dụng tích cực trong sự

nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước vào nửa sau thế kỉ XV” [15; 230].

Về góc độ văn hóa, giáo dục, Lê Thánh Tông được xem là hoàng đế có

nhiều đổi mới trong quan điểm giáo dục, khoa cử. Đặc biệt, dưới triều đại của ông,

Nho học đã bước sang giai đoạn thịnh trị. Trong bài viết “Lê Thánh Tông và thời

thịnh trị của Nho học”, Trần Đình Hượu đã nhận xét: “Nho học Việt Nam đến thời

Lê Thánh Tông đã đạt đến điểm cực thịnh” [15; 276]. Lê Thánh Tông dùng đạo

Nho để trị nước. Ông quan tâm đến việc tìm kiếm nhân tài, mở các khoa thi để

chọn người tài phụng sự cho đất nước. Dưới thời Lê Thánh Tông giáo dục phát

triển mạnh bởi những chính sách tiến bộ của nhà vua. Vũ Ngọc Khánh trong bài

viết “Thử tìm hiểu quan niệm và đường lối giáo dục của Lê Thánh Tông” có nhận

xét: “Nhà vua có ý thức giáo dục khá toàn diện, bao hàm cả phần chất, phần văn cả

phương hướng mục tiêu và cả biện pháp điều hành” [15; 302].

Hoàng đế Lê Thánh Tông có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc.

Ngoài việc sáng tác khối lượng lớn tác phẩm có giá trị, ông còn sáng lập ra Hội

Tao đàn – hội thơ xướng họa ở cung đình. Bùi Duy Tân trong bài viết “Hội Tao

đàn – Quỳnh uyển cửu ca và vai trò Lê Thánh Tông” có nhận xét: “Từ Lê Thánh

Tông đến Quỳnh uyển cửu ca, đến Hội Tao đàn, khẳng định những thành tựu mà

14

thi xã, thi phẩm, thi gia đã cống hiến cho sự phát triển của văn học dân tộc” [15;

380]. Sự nghiệp sáng tác của Lê Thánh Tông rất phong phú. Ông có nhiều tác

phẩm được viết bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm, phong phú thể loại từ thơ ca đến

truyện kí văn học. Trong bài viết “Thánh Tông di thảo – Bước đột khởi trong tiến

trình phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam trung cổ” tác giả Vũ Thanh nhận

định những bước đột phá của Thánh Tông di thảo khi tác phẩm thoát khỏi ảnh

hưởng quá lớn từ văn học dân gian: “Thánh Tông di thảo chính là bước đột phá

đầu tiên nhằm dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động và lệ thuộc ấy. Các chất

liệu huyền thoại, thần kỳ mờ nhạt dần và hạt nhân hiện thực, vốn đã chứa đựng ít

nhiều trong các tập truyện trước đó, ngày càng có vai trò to lớn trong các tác

phẩm” [15; 423]. Lê Thánh Tông là một trong những vị hoàng đế tiên phong trong

việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc vào sáng tác văn chương. Vũ Đức Phúc trong bài

viết “Về một số bài thơ Nôm của Lê Thánh Tông” kết luận: “Ông đã sử dụng thơ

văn Nôm trong công việc triều đình và cả thờ cúng trang nghiêm, dụng thành bia

đá, biển thờ. Bản thân ông là một nhà thơ tiếng Việt lớn có phong cách riêng biệt

vừa giản dị vừa cao cả, giàu cảm xúc và lòng yêu dân, xứng đáng với thơ của một

đế vương hay chữ và sáng suốt” [15; 482].

Cho đến nay, quyển Lê Thánh Tông - Về tác gia và tác phẩm (2001) do Bùi

Duy Tân biên soạn, tập hợp vẫn được xem là “cẩm nang” dành cho những ai quan

tâm, tìm hiểu vị minh quân thánh đế này. Trong bài viết “Lê Thánh Tông - Vị

hoàng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc”, Bùi Duy Tân đã

cung cấp cho độc giả một cái nhìn khá toàn diện về Lê Thánh Tông. Xét về góc độ

văn học, Bùi Duy Tân đánh giá Lê Thánh Tông là một văn hào dân tộc: “Là một

văn hào dân tộc, đồng nghĩa một nhà thơ lớn, nhà văn lớn, Lê Thánh Tông có một

sự nghiệp văn chương linh ứng với ngôi vị một hoàng đế anh minh và thấm đậm

thân mệnh một nhà văn hoá lỗi lạc” [160; 35]. Về thiên nhiên trong thơ Lê Thánh

Tông, Bùi Duy Tân nhận định: “Vị thi sĩ - hoàng đế này thả tâm hồn theo vẻ đẹp

của thiên nhiên đất nước, song dòng suy nghĩ lại luôn gắn chặt với cảnh tượng thái

bình, thịnh trị của xã hội và đường lối nhân chính ái dân của nhà vua” [160; 62].

Qua những nhận định của Bùi Duy Tân có thể thấy sự dung hoà giữa thi sĩ và

hoàng đế trong Lê Thánh Tông. Ông không chỉ là một hoàng đế tài ba mà còn là

15

một thi sĩ có nhiều đóng góp ở cả hai mảng sáng tác: chữ Hán và chữ Nôm. Cũng

trong công trình này, trong bài viết “Lê Thánh Tông và bước phát triển mới của

văn học trung đại Việt Nam”, Bùi Duy Tân đã có sự đề cao vai trò của Lê Thánh

Tông trong nền văn học trung đại dân tộc. Ông so sánh vai trò thi sĩ của các hoàng

đế và rút ra kết luận: “Riêng Lê Thánh Tông, có phần nổi trội hơn cả, ở chỗ sáng

tác văn học của ông như cột mốc, đánh dấu bước phát triển của văn học trung đại”

[160; 349].

Nguyễn Huệ Chi đánh giá về văn chương Lê Thánh Tông (trong bài viết

“Những vấn đề đặt ra trong hội thảo khoa học về Lê Thánh Tông”): “Ông xứng

đáng với danh hiệu Tao đàn nguyên suý không chỉ vì ông là vị hoàng đế đương

triều mà chính vì những tìm tòi nghệ thuật có giá trị hàng đầu trong sáng tác”

[160; 156].

Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết “Lê Thánh Tông – Đời thơ và những dấu hiệu

trữ tình” đã nhận định: “ông vừa hướng thượng đóng vai một vị hoàng đế để có

những bài thơ thắng thưởng vịnh đề mang đầy tính khoa trương... vừa phần nào

bộc lộ tâm sự riêng qua loạt bài tự thuật, ngẫu thành, cảm hoài... Lê Thánh Tông

bộc lộ mình với tất cả sự siêng năng, bổn phận và trách nhiệm” [160; 414].

Đặng Thanh Lê nhận xét về Lê Thánh Tông trên cả tư cách chính trị và tư

cách văn chương: “Danh hiệu nhà vua - nhà thơ là chưa thích đáng đối với nhân

vật lịch sử có gương mặt đẹp đẽ hào hùng như Lê Thánh Tông. Vinh hiệu Thánh

chúa – Thi nhân có thể sẽ biểu đạt được tầm vóc lịch sử của con người mà hôm

nay chúng ta trân trọng...” [160; 603].

Sự nghiệp chính trị và văn học của Lê Thánh Tông là đề tài được giới

nghiên cứu dày công khảo sát. Tuy nhiên, những công trình có giá trị khoa học ấy

vẫn chưa đưa đến được một kết luận chung về mẫu hình nhân vật hoàng đế trong

văn chương.

Qua việc điểm lại các công trình nghiên cứu có thể kết luận: tuy đã có không

ít các nghiên cứu lớn nhỏ về các vị hoàng đế cụ thể nhưng các công trình trên mới

chỉ đề cập đến các phương diện tiểu sử, sự nghiệp sáng tác. Chưa có công trình nào

nghiên cứu về các vị hoàng đế này trên phương diện hình tượng tác giả văn học.

16

1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài

1.2.1. Lý thuyết loại hình

Loại hình học là khoa học nghiên cứu về các loại hình để tìm ra quy luật

về sự tương đồng. Phương pháp loại hình được áp dụng từ những năm 20 của thế

kỉ XX. Đến những năm 70 của thế kỉ XX, phương pháp này mới được nhiều học

giả chú ý vận dụng. Có thể liệt kê những công trình tiêu biểu: N.I. Konrad với

Phương Đông và phương Tây, D. X. Likhachop với Bảy thế kỉ trong văn học

Nga, B.L. Riptin với Loại hình học và các mối quan hệ qua lại của các nền văn

học trung đại.

Theo M.B. Khrapchenko, nghiên cứu văn học bằng phương pháp loại hình

là “tìm hiểu những nguyên tắc và những cơ sở cho phép nói tới tính cộng đồng

nhất định về mặt văn học – thẩm mĩ, tới việc một hiện tượng nhất định thuộc về

một kiểu, một loại hình nhất định” [42; 43].

Nguyễn Văn Dân nhận định: “Phương pháp loại hình có hai phương pháp

áp dụng: Dùng phương pháp loại hình để phân loại các hiện tượng văn học trên

cơ sở của việc chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau theo một tiêu chuẩn

nào đó; từ những đặc điểm chung của một loại hiện tượng văn học, ta có thể

chứng minh cho sự tồn tại của một loại hình văn học nào đó, biện hộ cho quyền

tồn tại và hiệu quả thẩm mỹ của nó” [27; 294].

Về khái niệm loại hình, Biện Minh Điền viết: “Khái niệm chỉ tập hợp

những sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó. Chỉ có

thể nói đến loại hình (type) khi các hiện tượng cùng có một quan hệ cộng đồng

giá trị” [42; 42-43]. Ở góc độ nghiên cứu văn chương bằng phương pháp loại

hình “không đơn giản liệt kê, miêu tả sự tương đồng, giống nhau bề ngoài của

các hiện tượng văn học. Điều quan trọng hơn nhiều, là phải tìm cho ra được tính

quy luật của sự tương đồng, giống nhau ấy…” [42; 44].

Như vậy, lý thuyết loại hình là nghiên cứu và tìm ra “mẫu số chung” của các

hiện tượng văn học. Nghiên cứu văn học bằng phương pháp loại hình sẽ đưa ra

được những kết quả mang tính đặc thù của một đối tượng văn học cụ thể. Từ yêu

cầu của đề tài nghiên cứu, luận án sẽ vận dụng lý thuyết loại hình học để làm sáng

tỏ một số góc độ sau:

17

Với mục tiêu nghiên cứu của luận án, lý thuyết về loại hình tác giả sẽ

được vận dụng nhìn từ góc độ ý thức hệ tư tưởng văn hoá. Ở góc nhìn này, loại

hình tác giả trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV sẽ bao

gồm hai kiểu tác giả: Thiền gia và Nho gia. Ở thời Lý, kiểu tác giả cơ bản là các

thiền sư. Đến thời Trần, kiểu tác giả tiêu biểu là hoàng đế – thiền sư – thi sĩ, bắt

đầu xuất hiện kiểu tác giả nhà nho. Đến thế kỉ XV, khi Nho giáo có địa vị như là

quốc giáo, văn chương đã định hình được kiểu tác giả Nho gia. Mỗi kiểu tác giả

sẽ đưa vào văn chương những quan niệm liên quan đến tư tưởng chính thống

như: kiểu tác giả thiền sư sẽ gắn liền với quan niệm “sắc, không”, “sinh, lão,

bênh, tử”, “sống gửi thác về”... kiểu tác giả hoàng đế – thiền sư – thi sĩ đưa vào

văn chương quan niệm về mối quan hệ giữa đạo và đời, về nhân nghĩa, đạo hiếu

trung… không chỉ tu thiền mà còn tích cực tham gia mọi mặt của đời sống. Kiểu

tác giả nhà nho hành đạo gắn liên với tư tưởng quân – thần, tam cương, ngũ

thường, thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo... còn đối với kiểu tác giả nhà nho ẩn dật

sẽ gắn với quan niệm về ẩn dật, nhàn, “đắc thú lâm tuyền”... Mỗi kiểu tác giả

đóng góp những quan niệm văn chương để đúc kết nên những đặc điểm về nhân

vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này.

Phần lớn các tác phẩm văn học giai đoạn này hướng đến mục đích phục

vụ chính trị. Vì thế, nhân vật trong văn học giai đoạn này được phân loại dựa

trên góc độ xã hội. Có hai loại hình nhân vật phổ biến trong văn học trung đại

Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV: loại hình nhân vật thiền sư, loại hình nhân

vật hoàng đế. Việc vận dụng lý thuyết loại hình sẽ tìm ra quy luật tương đồng

của từng loại hình nhân vật từ đó giải quyết được vấn đề đặt ra ở mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu.

Việc vận dụng lý thuyết loại hình trong nghiên cứu nhân vật hoàng đế là

cần thiết, bởi nhân vật hoàng đế vừa hội tụ những tiêu chí về những đặc điểm

chung vừa có những đặc điểm đặc thù khác biệt so với các kiểu nhân vật khác.

Lý thuyết về loại hình thực sự đã trở thành mã khoá quan trọng để người viết đi

sâu vào tìm ra những đặc điểm của nhân vật hoàng đế.

18

1.2.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hoá – tư tưởng và văn học

Từ buổi bình minh của nền văn học viết, văn học trung đại Việt Nam đã

chịu sự ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ từ nền văn học Trung Hoa – nền văn học

ngay từ thời cổ đại đã gắn liền những vấn đề văn hóa – tư tưởng: triết học, tôn

giáo, đạo đức, chính trị... Thực tế này đã thể hiện rất rõ trong văn học Việt Nam sơ

kì trung đại.

Khổng Tử - ông tổ của đạo Nho chủ trương quan niệm văn chương gắn liền

với xã hội, chính trị. Theo đó, thơ ca không phải là phương tiện để bày tỏ tình cảm

cá nhân mà là dùng để bày tỏ chí. Nó phải gắn liền với những vấn đề chính trị, gắn

với quốc kế dân sinh. Trong Kinh Thi, Khổng Tử cho rằng: “Từ nước Bội trở

xuống, có nước bình trị, có nước loạn lạc không đồng nhau, có người hiền, có

người chẳng hiền khác nhau. Niềm rung cảm mà phát ra lời thơ có tà có chính, có

phải có trái không đều nhau” [192; 34]. Thi đại tự – bài tựa của Kinh Thi cũng

khẳng định thơ là tiếng vọng của thời đại “âm thanh thịnh thì yên vui, vì chính sự

thời ấy ôn hoà. Âm thanh thời loạn thì oán mà giận vì chính sự thời ấy sai trái”.

Nhà nho đã rất xem trọng yếu tố văn hoá, chính trị trong văn chương.

Ở thiên Thời Tự trong Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã bàn đến sự chuyển

biến của văn chương qua các triều đại “cố tri biến nhiễm hồ thế tình, hưng phế hồ

thời tự”. Văn chương hưng thịnh, mạnh hay suy đều gắn liền với yếu tố chính trị.

Lưu Hiệp đã đưa ra những minh chứng cụ thể về mối quan hệ này. Thời Đường

Nghiêu: “Văn chương thời ấy đẹp quá! Bởi vì tâm tình vui vẻ thì âm thanh thư

thái”. Từ thời Hiến Đế dời đô: “Đó là thời thế loạn ly, phong tục suy vi, nhân tâm

sầu oán. Người làm văn suy nghĩ sâu xa, bút mực tung hoành, văn chương khảng

khái mà nhiều khí lực” [64; 495].

Ở Trung Hoa từ Tiên Tần đến Lưỡng Hán đã đặt văn chương trong mối

quan hệ mật thiết với văn hoá chính trị. Tiếp thu sự ảnh hưởng từ nền văn học

Trung Hoa, văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV cũng đã đề cập rất nhiều

đến văn hoá chính trị. Theo Trần Nho Thìn, “sáng tác văn học trước hết là một

hành động văn hoá. Tác phẩm văn học, sự kiện văn học là một loại chứng tích văn

hoá” [177; 5]. Có thể nói văn học và văn hoá có mối quan hệ khăng khít và không

thể tách rời. Văn học thể hiện văn hoá và chịu sự quy định của văn hoá. Để giải

19

mã chính xác một tác phẩm văn học cần có nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên

không thể bỏ qua góc nhìn từ không gian văn hoá mà tác phẩm đó ra đời. Văn hoá

có sức sống lâu bền hơn chính trị. Thể chế chính trị có thể thay đổi nhưng nền văn

hoá của thể chế cũ không thể thay thế ngay lập tức mà kéo dài cả một quá trình.

Kiểu xã hội chuyên chế đã chi phối mạnh mẽ đến hành vi ứng xử và sáng tác của

các tác giả văn học văn học giai đoạn này. Xã hội chuyên chế không đặt vấn đề

pháp trị mà tập trung đề cao vai trò của đức trị. Bởi vì pháp trị đòi hỏi sự bình

đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật, điều không thể có được trong xã hội

chuyên chế.

Ở thời Thịnh Đường, tư tưởng văn chương gắn với chính trị xã hội cũng

được bắt gặp trong tứ thơ Bạch Cư Dị. Trong Thư gửi Nguyên Chẩn, tác giả cho

rằng giá trị của văn thơ nằm ở chỗ phúng thích chính trị “vì vua vì tôi vì vật mà

viết chứ không vì văn mà viết vậy”.

Giải mã một tác phẩm văn chương phải quan tâm đến không gian xã hội mà

tác phẩm thể hiện. Trong văn học trung đại, không gian xã hội phổ biến chính là

không gian mang màu sắc chính trị. Nhất là ở giai đoạn đầu của nền văn học viết,

không gian sáng tác chủ yếu tập trung ở cung đình và lực lượng sáng tác cũng

chính là các nhân vật chính trị. Từ đó, không gian chính trị đã chi phối phần lớn

những sáng tác văn học. Xã hội Đại Việt xem trọng văn chương và dùng văn

chương làm thước đo đánh giá tài năng. Các hoàng đế đã sớm ý thức được con

đường trị nước bằng văn trị, đức trị. Văn chương trở thành hình thức để tuyển

chọn nhân tài, là phương tiện để quan lại, vua chúa bộc lộ tài năng. Từ đó, văn

chương từng bước trở thành phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ của văn hoá.

Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá chính trị phù hợp với văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Văn học giai đoạn này hướng đến

một xã hội đức trị lấy nhân vật trung tâm là những con người gắn liền với đời sống

chính trị. Đây còn là giai đoạn mà quan niệm văn chương hướng hoàng đế đến mô

hình thánh nhân quân tử với lí tưởng thân dân.

1.2.3. Lý thuyết liên văn bản

Liên văn bản là khái niệm xuất hiện từ những năm 60 của thế kỉ XX. Liên

văn bản được xem là một thủ pháp, một phương thức tồn tại của tác phẩm văn

20

học. Nguyễn Văn Thuấn nhận định: “Tính liên văn bản vì vậy có thể được hiểu

là mối quan hệ tương hỗ, tương giao, đan cài vào nhau giữa hai hay nhiều văn

bản” [182; 7]. Ông cho rằng: “Tính liên văn bản là quan hệ tương giao, cộng

sinh giữa các văn bản, được thực hiện trong sự sản xuất văn bản của tác giả và

tiêu thụ văn bản của người đọc. Nó chống lại mọi định kiến về cội nguồn, sự độc

sáng, tính tự trị, tính biệt lập của các tác giả, văn bản, độc giả” [182; 8].

Lý thuyết liên văn bản góp phần đổi mới cách tiếp cận văn học. Sự ra đời

của mỗi tác phẩm văn học là một quá trình kết nối, đối thoại với các văn bản

khác. R. Barthes cho rằng: “Bất kì văn bản nào cũng là liên văn bản”. Bất kì tác

phẩm văn học nào đều có thể trở thành chất liệu để sản sinh ra một tác phẩm văn

học khác ra đời sau nó. Không có tác phẩm nào đứng riêng lẻ mà nó luôn có sự

tương đồng với một số tác phẩm khác. Vì thế, để có một góc nhìn đầy đủ về một

văn bản văn học cần đặt nó trong cùng mạng lưới với các văn bản liên quan để

tìm ra những kết nối về ngôn từ, hình tượng, các thủ pháp...

Lý thuyết liên văn bản đưa văn bản vào mạng lưới thể loại của nó để

khám phá ra những tương đồng, những đặc điểm ngôn ngữ, các yếu tố hình thức

và các biện pháp nghệ thuật gắn với từng thể loại văn học cụ thể. Ngoài ra, lý

thuyết liên văn bản còn hướng đến việc đặt văn bản văn học vào bối cảnh lịch

sử, xã hội. Thao tác này giúp người nghiên cứu tìm hiểu được các xu hướng

chính trị, tư tưởng triết học, tôn giáo chi phối đến tác giả trong quá trình sáng

tạo ra tác phẩm.

Từ những cơ sở trên có thể thấy lý thuyết liên văn bản góp phần quan

trọng trong việc giải quyết các nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu của luận án.

Các tác phẩm trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV phần

lớn gắn liền với đời sống chính trị và văn hoá. Do đó, việc tìm hiểu các văn bản

văn học không thể tách rời với các văn bản có liên quan, nhất là những ghi chép

sử học. Việc nghiên cứu liên văn bản sẽ góp phần tìm hiểu sâu hơn từng tác

phẩm trong mối quan hệ liên văn bản với văn hoá, chính trị, lịch sử và trong

cùng một hệ thống thể loại để tạo nên sự phong phú, đa diện, đa chiều về đặc

điểm nhân vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này từ nội dung và hình thức

thể hiện.

21

1.2.4. Lý thuyết diễn ngôn

Lý thuyết diễn ngôn có nguồn gốc từ Châu Âu, ra đời từ những năm 60 của

thế kỉ XX. Ở Việt Nam, lý thuyết diễn ngôn trở thành trào lưu nghiên cứu từ những

năm 80 của thế kỉ XX. Trong nghiên cứu văn học, lý thuyết diễn ngôn được tiếp

cận ở các góc độ: ngữ học, lí luận văn học và xã hội học lịch sử tư tưởng. Lý thuyết

diễn ngôn đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đưa ra những nhận định:

Widdowson định nghĩa: “Diễn ngôn là một quá trình giao tiếp. Kết quả về mặt

tình huống của quá trình này là sự thay đổi trong sự thể: thông tin được truyền tải, các ý

định được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là văn bản” [231; 100].

Trần Đình Sử trong bài viết Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học

hôm nay đã đưa ra ba khuynh hướng nghiên cứu về diễn ngôn: “Một là ngữ học do

các nhà ngữ học đề xuất. Hai là lí luận văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là xã

hội học lịch sử tư tưởng mà tiêu biểu là Foucault” [157]. Sau khi xét trên nhiều góc

độ, tác giả đưa ra khái niệm về diễn ngôn trong nghiên cứu văn học: “Trong nghiên

cứu văn học, diễn ngôn là chỉ chiến lược phát ngôn nghệ thuật, thể hiện trong các

nguyên tắc cấu tứ, xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ để vượt thoát khỏi các hạn

chế nhằm phát ra được tiếng nói mới, thể hiện tư tưởng mới trong chỉnh thể sáng

tác” [157].

Trần Văn Toàn trong bài viết Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của M. Foucault

và nghiên cứu văn học đã nhận định: “Phân tích diễn ngôn trên thực tế là phân tích

những tương quan quyền lực/ tri thức trong hoạt động kiến tạo và truyền bá diễn

ngôn” [188].

Trong luận án Tiểu thuyết Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ diễn ngôn,

Nguyễn Thị Hải Phương cho rằng: “Diễn ngôn văn học là hình thức sử dụng ngôn từ

để khách quan hoá, tri thức hoá tư tưởng của thời đại. Diễn ngôn văn học gắn chặt

với lịch sử tư tưởng, là một bộ phận của hệ hình tư tưởng. Tư tưởng của mỗi thời sẽ

chi phối cách thức xây dựng diễn ngôn từ cách lựa chọn đề tài, cách xây dựng nhân

vật đến cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, các phương thức tu từ…” [141].

Vận dụng lý thuyết diễn ngôn vào tìm hiểu đặc điểm nhân vật hoàng đế là

việc làm rất cần thiết. Khi nói đến quản lí và điều hành xã hội thì không thể bỏ qua

22

việc đề cập đến vấn đề quyền lực. Diễn ngôn về chính trị là một trong những công

cụ để các hoàng đế sử dụng nhằm nắm giữ và thực thi quyền lực. Vì thế, nghiên

cứu về nhân vật đứng đầu thể chế quân chủ không thể bỏ qua việc tìm hiểu các diễn

ngôn về chính trị.

Qua lời nói, các hoàng đế không chỉ cung cấp những thông tin mà còn thể

hiện hình ảnh của một nhà chính trị. Mục đích phát ngôn của hoàng đế là làm cho

đối tượng tiếp ngôn hiểu, có niềm tin và thực thi những ý đồ theo định hướng của

người cầm quyền. Để đạt được mục đích đó, hoàng đế phải tạo dựng được hình ảnh

về một đấng minh quân có đầy đủ những phẩm chất về đạo đức, tài năng và trí tuệ

để đáp ứng được sự kì vọng của quần chúng. Việc xây dựng hình ảnh mẫu mực đòi

hỏi hoàng đế phải có những chiến lược giao tiếp để đạt được hiệu quả diễn ngôn.

Bên cạnh những sức mạnh nội tại, hoàng đế phải tận dụng sức mạnh thần quyền để

diễn ngôn về vai trò của thiên tử - con trời, được trời lựa chọn ngồi vào ngôi báu.

Từ thời cổ đại, người ta đã nhận ra sức mạnh của nghệ thuật ngôn từ trong

việc chuyển tải tư tưởng và tác động đến người đọc. Trong bối cảnh văn – sử – triết

bất phân, dường như mọi giao tiếp của hoàng đế đều qua các sáng tác được xem là

văn chương. Thông qua ngôn ngữ, giọng điệu, các motip, các biểu tượng… của tác

phẩm, quyền lực thống trị thiên hạ, vị thế thiên tử – con trời, đức độ của bậc đế

vương được xác lập. Thông qua các diễn ngôn về văn hoá chính trị, sự chuyển giao

về hệ tư tưởng từ Phật giáo sang Nho giáo có thể bộc lộ được những đặc điểm của

nhân vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này. Đặc biệt, thông qua hoạt động

xướng hoạ giữa hoàng đế và các quần thần, các thiên tử đã bộc lộ được tri thức và

quyền lực. Từ góc nhìn về diễn ngôn của các nhà nho, ta lại thấy ý thức sử dụng

phương tiện văn chương để gián tiếp kín đáo yêu cầu chủ nghĩa thân dân nơi quân

vương, cảnh báo cho họ về sức mạnh “chở thuyền” và “lật thuyền” của dân, ca ngợi

những bậc quân vương có nhân nghĩa, đức hiếu sinh. Tiếp cận nhân vật hoàng đế từ

lý thuyết diễn ngôn sẽ làm rõ hơn mối liên hệ giữa văn chương và bối cảnh chính

trị, xã hội, văn hoá đương thời.

23

Tiểu kết chương 1

Từ kết quả khảo sát các tài liệu có liên quan đến đề tài, chúng tôi nhận thấy

việc nghiên cứu văn chương các hoàng đế từ thế kỉ X đến thế kỉ XV đã được quan

tâm, khai thác ở nhiều phương diện. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ dừng lại ở

việc tìm hiểu về một hoàng đế cụ thể hoặc một triều đại, một giai đoạn nhất định.

Trên cơ sở vận dụng những cơ sở lí thuyết phù hợp, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát

những đặc điểm của nhân vật hoàng đế trong giai đoạn này qua các góc độ: cơ sở

hình thành nên nhân vật hoàng đế trong văn học; đặc điểm nhân vật hoàng đế qua

góc nhìn đối chiếu giữa văn học và văn hoá. Đồng thời, luận án sẽ đưa đến phác

thảo đặc điểm nhân vật hoàng đế giai đoạn này dưới góc nhìn tự biểu hiện và với tư

cách là khách thể được phản ánh.

24

Chương 2

CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV

2.1. Giới thuyết về nhân vật hoàng đế

2.1.1. Khái niệm nhân vật hoàng đế

Hoàng đế là người đứng đầu nhà nước theo thể chế quân chủ chuyên chế.

Theo thể chế này, hoàng đế có vai trò trung tâm và nắm trong tay mọi quyền lực

vận hành xã hội. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long có viết: “Hoàng đế ngự vũ, kỳ

ngôn dã thần” (Hoàng đế cai trị thiên hạ, lời nói ra rất thiêng) [64; 247]. Chịu ảnh

hưởng từ tư tưởng Khổng giáo Trung Quốc, nền văn hoá chính trị Việt Nam trung

đại quan niệm giai cấp thống trị tồn tại là để phục vụ dân. Hoàng đế do trời sinh ra

không phải trị dân mà là để chăn dân, dưỡng dân.

Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, hoàng đế được xem là một “nhân vật” đặc biệt

trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt là bởi hoàng đế có vai trò quan trọng và được xem

là trung tâm của xã hội quân chủ chuyên chế kéo dài nhiều thế kỉ. Dưới sự biến

động của lịch sử, bằng những cuộc lật đổ, thanh trừng, nổi dậy..., các triều đại lần

lượt thay thế nhau. Tuy nhiên vị trí của hoàng đế vẫn bất biến và là “biểu tượng”

của một hình thái kinh tế - xã hội quân chủ chuyên chế. Kể từ lúc Ngô Quyền

chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938) cho đến tới thời khắc

Bảo Đại - vị vua cuối cùng của các triều đại quân chủ Việt Nam thoái vị, lịch sử

ghi nhận nhiều vị hoàng đế lần lượt thay thế nhau điều hành đất nước. Hoàng đế có

vai trò rất quan trọng. Mọi suy nghĩ, hành động của hoàng đế có vai trò quyết định

đến thực tế vận hành xã hội.

Theo Hán - Việt từ điển, hoàng đế là “Ông vua một đế quốc. Ở Trung Hoa

từ đời Tần trở về sau, dùng tiếng ấy để gọi vua” [1; 259].

Đỗ Văn Ninh trong Từ điển chức quan Việt Nam cho rằng “Hoàng đế trở

thành chức vị cao nhất của quốc gia” [137; 321]. Tần Thuỷ Hoàng sau khi thống

nhất sáu nước đã tự cho mình là “Đức Kiêm Tam Hoàng, công bao Ngũ Đế”. Và

kể từ đó, danh hiệu hoàng đế đều được dùng để gọi cho những người đứng đầu nhà

nước theo thể chế quân chủ.

25

Theo Hán ngữ đại từ điển (quyển 3): 帝 Đế (có các nghĩa sau): 1) Thượng

đế - thiên thần tối cao, vị chúa tể của vũ trụ vạn vật do người xưa tưởng tượng ra;

2) Chỉ vị thiên thần làm chủ một phương; 3) Thời tam đại gọi bậc quân chủ đã

chết; 4) quân chủ, hoàng đế: thời viễn cổ chỉ lãnh tụ của liên minh bộ tộc; 5) Thiên

tử (con trời): kẻ thống trị tối cao thời cổ đại.

Theo Tìm về cội nguồn chữ Hán: Hoàng: 皇 Phần dưới chữ vốn là chân đèn;

ba nét sổ phía trên là ánh đèn sáng. Đến Tiểu triện thì phần trên viết nhầm thành

“tự”, đến Lệ thư lại biến thành “bạch”, vậy là không sao giải thích nữa. Kinh Thi:

Đồ tế màu hồng thì “hoàng” (tỏa sáng). Mao truyện: “Hoàng” còn có nghĩa là huy

hoàng. Nghĩa mở rộng thành “đại” (to lớn), “đế vương” [120; 280].

Đế: 帝 Là nghi thức cúng tế tổ tông hoặc trời đất một cách long trọng của

người thượng cổ (…). Hình dạng chữ giống như là xếp mấy cây gỗ làm thành bàn

thờ. Sau đó, dùng để chỉ chữ Đế trong “Đế vương” [120; 189].

Trần Ngọc Vương cho rằng: “Khái niệm hoàng đế qua một thời gian lịch sử

dài biến động, nội hàm đã dần ổn định: là danh hiệu chỉ địa vị cực tôn quý của

người có được quyền làm chủ” [214; 49].

Kinh Dịch có viết “Thể thiên địa chi đức viết đế” (đế là người thể hiện đức

của trời đất); và “thiên địa chi đại đức viết sinh” (đức lớn của trời đất là sinh). Hai

câu này hàm ý hoàng đế phải có đức hiếu sinh, tức yêu thương sự sống của muôn

vật trong đó có con người. Một quan niệm như thế gián tiếp hạn chế bớt sự chuyên

chế, tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị. Trần Nho Thìn khái quát trên cơ sở

nghiên cứu quan niệm chính trị cổ đại: “Hoàng đế, thiên tử là người có đầy đủ

những phẩm chất cần thiết nên được trời ủy quyền trị vì thiên hạ” [180; 36]. Tác

giả đã đặt ra câu hỏi đế là ai? Và đưa ra các biện luận “Đế là người có khả năng

liên thông với trời đất, thần minh vì có đức tương đồng với trời đất” [180; 42]. Đức

của trời đất là hiếu sinh, chăm lo cho muôn dân, vạn vật.

Khái niệm “nhân vật” dùng trong luận án có một nét nghĩa tương đối rộng.

Nó được tác giả luận án khái quát từ nhiều nguồn tác phẩm khác nhau mà không

phải là một nhân vật có sẵn trong một tác phẩm văn học xác định. Theo nghĩa

thông thường, trong một tác phẩm văn học, nhân vật hư cấu hay nhân vật ký sự ghi

26

chép sự thực, tự nó có chân dung ngoại hình, có ngôn ngữ, có hành động, có tâm

lý. Còn ở luận án này, người viết phải thông qua nhiều tác phẩm khác nhau dựng

lại, phác họa nhân vật, mỗi tác phẩm cung cấp chất liệu về một phương diện nào

đó. Như theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, Lê Thánh Tông có “tư trời rạng

rỡ, thần sắc anh dị, tuấn tú, sáng suốt, chững chạc, thực là bậc thông minh đáng

làm vua, bậc trí dũng đủ giữ nước” [97; 610]. Đây là cách miêu tả theo thi pháp “tả

thần” chứ không “tả hình” (trọng thần khinh hình) nên ngày nay ta cũng chỉ có thể

biết ngoại hình ngài “tuyệt đẹp”, có “thần sắc khác thường”, vẻ người tuấn tú, nhân

hậu, rạng rỡ, nghiêm trang... Bản thân nhà vua có thơ tự thuật: “Trống dời canh

còn đọc sách/ Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”. Đây là lời nói gián tiếp của nhà vua

về “tác phong” làm việc cần cù, chăm chỉ hay là một tự sự về công việc thường

ngày của một hoàng đế không quan liêu mà cần mẫn với công việc trị nước?

Nhưng với hai ví dụ trên, ta có thể thấy, nhân vật hoàng đế như một đối tượng

nghiên cứu sẽ hiện lên qua các ghi chép, sáng tác của người bên ngoài quan sát và

những sáng tác có tính chất tự thuật, tự họa của chính hoàng đế đó.

Có thể đưa ra khái niệm hoàng đế là người đứng đầu của nhà nước theo thể

chế quân chủ chuyên chế. Mỗi khu vực, quốc gia hoàng đế có vị thế khác nhau

trong đời sống xã hội. Trong xã hội phương Đông, hoàng đế là người nắm trong

tay mọi quyền lực, sở hữu đất đai và thần dân trong phạm vi “bốn bể”. Suy nghĩ và

hành động của hoàng đế có sức ảnh hưởng lớn và quyết định sự vận hành của xã

hội. Xã hội phương Đông quan niệm hoàng đế là thiên tử – con trời, mang trong

mình thiên mệnh để thay trời trị vì thiên hạ. Chính vì có một vị thế đặc biệt trong

xã hội quân chủ nên hoàng đế cũng đã trở thành một nhân vật đặc biệt trong sáng

tác văn học. Nhân vật hoàng đế xuất hiện trong văn chương không đơn thuần là

một kiểu nhân vật văn học mà nó còn gắn với nhiều yếu tố văn hoá chính trị, tư

tưởng triết học. Trong suốt hành trình lịch sử văn học, không chỉ xuất hiện trong

các tác phẩm thời trung đại mà đến văn học hậu hiện đại nhân vật hoàng đế này

vẫn còn là đề tài thú vị cho sự tìm tòi, sáng tạo.

2.1.2. Sự khác nhau giữa “Đế” và “Vương”

Kinh Thi có câu: “Phổ thiên chi hạ/ Mạc phi vương thổ/ Suất thổ chi tân/

Mạc phi vương thần” (Khắp cõi dưới trời/ Chẳng có chỗ nào là không phải lãnh

27

thổ của vua/ Noi theo những vùng đất ven bờ/ Dân chúng khắp nơi, chẳng ai là

không phải bề tôi vua) [193; 404]. “Đế” hay “Vương” đều là khái niệm chỉ người

đứng đầu nhà nước quân chủ, là người nắm quyền cai quản thiên hạ. Tuy nhiên

Đế và Vương lại không hề đồng nhất về nội hàm khái niệm. Trần Ngọc Vương

cho rằng: “Trong thực tế thì từ đế tới vương là một quá trình phát triển về danh

hiệu, về quy mô lãnh cách hình dung thiết chế… về sau, trong tâm lý nhận thức

và rồi đến thực tiễn chính trị, đế được coi là cao hơn, quan trọng hơn, toàn năng

hơn” [214; 49].

Theo Từ điển Hán Việt, chữ “vương” có nghĩa là vua, “được thiên hạ quy

phục” [1; 782]. Trong tiếng Anh, danh từ King chỉ “vua” hay “quốc vương”; với

“hoàng đế”, người Anh dùng chữ Emperor. Tương tự, theo tiếng Pháp: Le Roy

dành cho vua; hoàng đế là L’ Empereur… Quốc vương chính là ông vua đứng đầu

một vương quốc hay thuộc quốc (quốc gia phụ thuộc), còn hoàng đế mang “tầm

cỡ” ông vua của một quốc gia hùng mạnh (đế quốc/ đế chế). Như vậy, mặc dù

cùng đứng đầu một thể chế, nhưng “vương” không thể có một “tư thế” ngang hàng

với “đế” khi xét về nấc thang quyền lực.

Từ điển chức quan Việt Nam đã có sự phân biệt rất cụ thể giữa “Đế” và

“Vương”. Đế là khái niệm chỉ người lãnh đạo quốc gia. Nó có nguồn gốc rất lâu

đời từ xưng hiệu của các thủ lĩnh liên minh hoặc các tù trưởng bộ lạc trong truyền

thuyết cổ Trung Quốc: Ngũ Đế, Thần Nông, Nghiêu, Thuấn… “Vua, sách Tả

truyện, Hi Công nhị niên có câu: Kim chi vương, cổ chi đế dã. Vua ngày nay là đế

ngày xưa vậy. Những người xưng bá chủ thời Chiến quốc gọi là đế” [137; 196].

Khởi đầu xưng hiệu dành cho các nhà lãnh đạo phương Nam không phải là đế mà

là vương. Từ thời Văn Lang cho đến Âu lạc các nhà lãnh đạo quốc gia đều xưng

vương: Hùng Vương, An Dương Vương. Đỗ Văn Ninh đã chỉ ra rõ sự khác biệt

giữa đế và vương ở nấc thang quyền lực: “Khi người cai trị cao nhất quốc gia xưng

đế thì Vương là một tước phong cho con” [137; 829]. Các hoàng đế không chỉ

phong vương cho con mà cũng tước phong cho những người trong tôn thất có công

lao lớn. Chung quy, Đỗ Văn Ninh cho rằng quốc gia có thể tồn tại nhiều vương,

nhưng đế là duy nhất.

28

Từ thời nhà Tần, theo quan niệm của các hoàng đế Trung Hoa, chỉ có đất

nước Trung Hoa là mẫu quốc còn lại là mọi rợ. Chính vì quan niệm ấy, các hoàng

đế Trung Hoa tự đặt mình ở vị trí là “thiên tử” mẫu quốc và xem người đứng đầu

các nước khác là phiên vương. Họ sẵn sàng đem quân chinh phạt nếu các thuộc

quốc không tuân phục thiên tử mẫu quốc. Bằng đường lối ngoại giao mềm dẻo, các

hoàng đế Việt Nam xưng vương trước vương triều phương Bắc và thực hiện các

chính sách sắc phong triều cống. Tuy nhiên ý thức dân tộc, tinh thần tự cường đã

xuất hiện từ rất sớm ở nước ta. Thế kỉ thứ VI, Lý Bôn đã lập nhà nước Vạn Xuân

và xưng Nam đế. Tổng tập văn học Việt Nam tập I có viết: “Từ Đinh Bộ Lĩnh trở

đi, nhà vua xưng là hoàng đế, với hàm ý là sánh ngang hoàng đế Trung Quốc. Bắc

đế và Nam đế, mỗi đằng làm đế một phương, chẳng có thiên triều, chẳng có thuộc

quốc” [164; 18]. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã một lần nữa khẳng định

độc lập dân tộc và niềm tự hào các hoàng đế Đại Việt sánh ngang cùng các hoàng

đế Trung Hoa: “Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc/ Dữ Hán, Đường,

Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương” (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần xây, dựng, kiến

thiết nước ta / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên (mỗi bên) xưng đế một phương).

Mặc dù Trung Hoa chỉ xem người đứng đầu Đại Việt là phiên vương nhưng

trong tâm thức người Việt luôn có tinh thần yêu nước, lòng tự hào và tự tôn. Dân

tộc ta luôn có ý thức khẳng định vị thế của mình sánh ngang cùng Trung Hoa hùng

mạnh. Có thể thấy đế và vương mặc dù đều là khái niệm để gọi tên người đứng đầu

nhà nước theo chế độ quân chủ. Tuy nhiên, nội hàm của hai khái niệm đã cho thấy

thang độ quyền lực khác nhau của hai tên gọi.

2.1.3. Mô hình hoàng đế lý tưởng trong tư duy chính trị Việt Nam trung đại

Có ba con đường đi đến ngôi vị hoàng đế. Thứ nhất, Nho giáo quan niệm

không phải con vua thì lại làm vua mà phải truyền người hiền. Tiêu biểu cho

trường hợp này là vua Nghiêu và vua Thuấn trong lịch sử Trung Hoa. Thứ hai,

hoàng đế lên ngôi bằng hình thức cha truyền con nối. Hình thức này được xem là

phổ biến. Mặc dù hình thức nối ngôi đi ngược với quan điểm nhân trị của Nho giáo

nhưng trong văn hoá diễn ngôn của các triều đại người nối ngôi đã thuận lòng trời,

hợp ý dân. Thứ ba, hoàng đế lên ngôi bằng con đường bạo lực lật đổ chính quyền

cũ đã hết “mệnh trời” để xác lập nền cai trị mới. Trong trường hợp này, những

29

hoàng đế giành chính quyền bằng bạo lực lí giải hành động của mình là nhân danh

mệnh trời để trừng phạt kẻ đã bị trời rút sự ủy nhiệm.

Hoàng đế được gắn liền với các khái niệm tam vị nhất thể: thiên mệnh –

thiên hạ – thiên tử. Ba khái niệm này chi phối mạnh mẽ đến mô hình nhân cách

hoàng đế. Theo diễn ngôn của chế độ quân chủ, hoàng đế là thiên tử (con trời),

được trời trao cho thiên mệnh để cai quản thiên hạ.

Hoàng đế là con trời - thiên tử được trời uỷ nhiệm để cai quản hạ giới. Đây

được xem là một phương thức diễn ngôn của chế độ quân chủ nhằm khẳng định

quyền lực thống trị. Để củng cố địa vị, chế độ quân chủ đã nhờ sự hỗ trợ của thần

quyền để củng cố đế quyền, hoàng quyền. Sống trong một nền văn minh nông

nghiệp có đời sống tâm linh phong phú thì diễn ngôn về việc tôn xưng thiên tử có

sức thuyết phục và tác động lớn trong xã hội. Niềm tin của con người vào thế giới

tâm linh đã trở thành phương tiện củng cố hữu hiệu cho vương quyền. Chính vì

diễn ngôn này mà từ sự ra đời cho đến con đường lên ngôi của các hoàng đế đều

được thần thánh hoá qua những câu chuyện dân gian, ghi chép trong các bộ sử và

các dữ liệu văn học đậm màu sắc thần kì: xuất thân thần kì, dung mạo và tư chất

khác thường, thường gắn với biểu tượng con rồng – linh vật biểu tượng cho mệnh

đế vương, được các lực lượng thần thiêng hỗ trợ.

Hoàng đế là con trời nên mặc nhiên có quyền lực đối với tất cả thần dân, đất

đai sông núi dưới gầm trời. Mọi hình thức tồn tại dưới trời đều thuộc sở hữu của

hoàng đế trong đó có cả những lực lượng siêu nhiên như thần thánh: “Thần thánh

được thờ trong lãnh thổ được định biên chế rất ngặt nghèo, phân cấp quản lý chặt chẽ”

[215; 54]. Hoàng đế có quyền giám quản bách thần. Từ đời Trần, nhà nước đã tiến

hành sắc phong các thần trên lãnh thổ Đại Việt - điều đã được Lĩnh Nam chích quái và

Việt điện u linh phản ánh. Việc sắc phong thần đã cho thấy hoàng đế muốn tạo lập

một lực lượng siêu nhiên mang tính thần quyền để hỗ trợ cho việc trị vì.

Điều quan trọng nhất của một hoàng đế đó là có được thiên mệnh. Hoàng đế

là người duy nhất được trời ban chân mệnh đế vương. Triết học phương Đông cổ đại

đề cao tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Hoàng đế là người thay trời trị vì thiên hạ, là

người có khả năng liên thông với thiên địa. Nho giáo với thuyết Chính danh đã đem

đến cho hoàng đế một “siêu quyền lực”: thế thiên hành đạo. Hoàng đế giữ vai trò là

30

gạch nối giữa thượng giới và hạ giới, giữa cõi trời và cõi người. Đây là sự uỷ thác

của trời về quyền lực duy nhất dành cho một người để cai quản thiên hạ. Quan niệm

thần quyền về hoàng đế bắt nguồn từ học thuyết “tôn quân quyền” của Nho giáo:

“Theo tư tưởng Nho giáo thì quân quyền phải để một người giữ cho rõ cái mối thống

nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương, ta thường gọi là vua” [88; 155].

Cốt lõi của lý thuyết tôn quân quyền đó chính là thiên mệnh của hoàng đế. Khi con

người tập hợp với nhau thành xã hội thì người lãnh đạo là hoàng đế phải có quyền

lực tối cao để giữ vững kỷ cương. Hoàng đế được thần quyền bằng tư tưởng thiên

mệnh mà theo Nho giáo thiên mệnh tức là nói đến cái chí của trời.

Hoàng đế chịu “thiên mệnh” trước hết phải là người có đức. Theo quan

điểm Nho giáo, hoàng đế không đơn thuần là người đứng đầu nhà nước quân chủ,

nắm trong tay mọi đất đai và thần dân phải chăm lo lợi ích… mà hoàng đế phải

thực hiện nghĩa vụ bảo vệ dân, giáo hoá dân, chịu trách nhiệm về cuộc sống của

dân. Theo Kinh Dịch: “Đức tượng thiên địa viết đế” (Người có đức giống đức của

trời đất là đế). Trời chỉ chọn lựa người có đức để uỷ nhiệm cai trị thiên hạ. Hoàng

đế là con trời và được trời giao thiên mệnh trị vì trăm họ, mọi ý đồ hay hành động

nhằm tranh giành ngôi báu, quyền lực của hoàng đế đều được xếp vào trọng tội

loạn thần tặc tử và làm trái mệnh trời. Trang Tử – Thiên địa cho rằng: “Đế vương

chi đức phối thiên địa” (Đức của bậc đế vương sánh với đức của trời đất). Hoàng

đế nhận được thiên mệnh để cai quản thiên hạ. Nhưng hoàng đế phải đáp ứng được

những chuẩn mực đạo đức sánh với trời đất mới giữ được ngai vàng. Trong các

chuẩn mực về đạo đức thì đức sinh là quan trọng nhất. Chu Dịch – Hệ Từ có viết:

“Thiên địa chi đại đức viết sinh” (Đức lớn của trời đất là sinh). Trang Tử – Thiên

địa: “Vật đắc dĩ sinh vị chi đức” (Cho vật được sự sống gọi là đức). Đức lớn của

trời đất là sinh ra vạn vật, hoàng đế là con trời, có đức sánh ngang trời thì phải biết

yêu quý sự sống.

Nền văn hoá chính trị Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đều có quan

niệm chung về mẫu hình hoàng đế có trách nhiệm đối với trời, không được quyền

hành động theo ý mình mà phải thi hành những điều thuận lòng trời, hợp ý dân.

Vấn đề đức trị, thân dân là những nội dung chính trong tư tưởng, đường lối trị

nước của Nho giáo. Hoàng đế phải nhận thức được vai trò quan trọng của dân

31

trong con đường đế nghiệp. Kinh Thư có viết dân là gốc (dân vi bản), dân là gốc

của nước (dân vi bang bản). Thực tế cho thấy dân có vai trò quan trọng trong đời

sống xã hội “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Mạnh Tử).

Trời trao thiên mệnh cho hoàng đế dựa trên nguyên tắc chọn người có đức.

Theo quan điểm Nho giáo, thiên mệnh không tồn tại vĩnh hằng. Nó chỉ được duy

trì khi hoàng đế biết thi hành đức trị: “Duy mệnh bất vu thường, đạo thiện tắc đắc

chi, bất thiện tắc thất chi” (mệnh trời không nhất định, thiện thì được, bất thiện thì

mất) [88; 156]. Điều này nhắc nhở các hoàng đế phải thi hành điều thiện, nhân

đức, không lạm dụng uy quyền mà làm điều tàn bạo.

Đức của nhà lãnh đạo được thể hiện trên nhiều phương diện nhưng phẩm

chất quan trọng nhất là đức hiếu sinh. Đức hiếu sinh được thể hiện trước tiên là

chọn đức trị hạn chế hình pháp. Khổng Tử cho rằng: “Thánh nhân chi trị, hoá dã, tất

hình chính tương tham yên. Thái thượng dĩ đức giáo dân, nhi dĩ lễ tề chi. Kỳ thứ, dĩ

chính sự đạo dân, dĩ hình cấm chi, hình bất hình dã” [88; 161]. Theo quan niệm của

Khổng Tử thì hoàng đế phải cai trị bằng con đường đạo đức, nhân nghĩa, hình chính

chỉ là điều bất đắc dĩ. Khổng – Mạnh chủ trương hoàng đế theo đường lối đức trị,

thân dân, xem hình phạt chỉ là thứ yếu, là giải pháp tình thế trong việc giáo hoá dân.

Tuy nhiên, theo thực tế vận hành xã hội, các hoàng đế phải có sự kết hợp pháp trị để

mang tính ràng buộc nhằm duy trì trật tự, kỷ cương cũng như bảo vệ quyền lợi cho

giai cấp thống trị.

Sự tồn vong của một quốc gia, thịnh hay suy của một triều đại phụ thuộc vào

ý dân, lòng dân. Vì thế, để duy trì ngai vàng, hoàng đế phải thực hiện chính sách

thân dân. Để thực hiện được điều đó, hoàng đế phải thực hiện được chính sách

“dưỡng dân”. Nghĩa là nhiệm vụ của hoàng đế là phải chăm sóc, nuôi dưỡng và

bảo vệ dân. Khổng Tử quan niệm “Tiết dụng ái nhi nhân” nghĩa là vương triều phải

biết tiết kiệm, tránh hoang phí là thương dân, làm sao để dân no đủ, đánh thuế nhẹ

cho dân: “Bất kỳ chính thể nào, nhà cầm quyền nào cũng cho việc nuôi dưỡng dân

là nhiệm vụ quan trọng nhất: nếu khéo nuôi dân thì nước trị mà nhà cầm quyền

được dân quý, ngược lại thì nước loạn” [24; 176]. Mạnh Tử quan niệm: “Lạc dân

chi lạc giả, dân diệc lạc kỳ lạc; ưu dân chi ưu giả, dân diệc ưu kỳ ưu. Lạc dĩ thiên

hạ, nhiên nhi bất vương giả, vị chi hữu dã” [88; 233]. Theo quan niệm này thì

32

hoàng đế phải là người vui cùng cái vui của dân, lo cùng nỗi lo của dân. Bên cạnh

dưỡng dân, các hoàng đế phải có nhiệm vụ giáo hoá dân. Theo Khổng – Mạnh,

hoàng đế phải có trách nhiệm làm cho dân hiểu được đạo làm người với các chuẩn

mực: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu, trung. Điều này nhằm hướng đến bảo vệ vương

quyền bằng việc hướng nhân dân đến các thứ tự, tôn ti và không xâm hại đến các

lợi ích của giai cấp thống trị.

Nho giáo hướng đến hình mẫu hoàng đế là một thánh nhân vừa mang một

nhân cách của con người phàm trần vừa có những đặc điểm của thượng giới. Giữa

mô hình nhân cách hoàng đế trong lý thuyết và thực tế, qua lịch sử có thể thấy sự

vênh lệch khá lớn. Rất hiếm vị hoàng đề có thể đáp ứng được đầy đủ các chuẩn

mực nhân cách thánh nhân mang những đặc điểm huyền thoại.

2.2. Những tiền đề của sự xuất hiện nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam

từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

2.2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội

Trong giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, Việt Nam đang từng bước thiết

lập và ổn định xã hội theo chế độ quân chủ chuyên chế. Dựa vào bối cảnh lịch sử,

văn hóa xã hội Việt Nam có thể chia giai đoạn này thành ba cột mốc quan trọng:

Đất nước mới giành được độc lập, xây dựng quốc gia quân chủ và phục hưng nền

văn hóa dưới hai triều đại Lý – Trần, đấu tranh chống quân Minh xâm lược và xây

dựng Nhà nước quân chủ đạt cực thịnh ở triều đại Lê sơ. Thực tiễn xây dựng chế độ

đòi hỏi phải cấp thiết xác lập nền văn hóa chính trị tương ứng. Theo đó, lựa chọn

mẫu hình hoàng đế được xem là nhiệm vụ hàng đầu. Bởi trong xã hội chuyên chế,

hoàng đế là người đứng đầu triều đại, mọi suy nghĩ, hành động của hoàng đế có vai

trò quyết định đến thực tế vận hành xã hội.

Ở giai đoạn đầu mới giành được độc lập: Từ thế kỉ X, người Việt giành

được độc lập sau một ngàn năm Bắc thuộc. Đất nước độc lập đã mở ra trang sử

mới cho dân tộc. Vấn đề đặt ra lúc này là phải cấp thiết xây dựng chính quyền tự

trị của người Việt Nam. Mô hình chế độ quân chủ chuyên chế được xem là lựa

chọn tất yếu trong bối cảnh lịch sử xã hội Đại Việt đương thời. Tuy nhiên trong

giai đoạn đầu sau khi độc lập, bộ máy chính quyền nước ta chỉ mới được hình

thành và dần từng bước đi vào ổn định qua các triều Ngô, Đinh và Tiền Lê. Sau

33

chiến thắng của Ngô Quyền, chế độ quân chủ Việt Nam từng bước đẩy lùi thù

trong, giặc ngoài. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất

nước. Năm 981 Lê Hoàn lãnh đạo quân dân đánh tan quân Tống xâm lược. Từ đó

đất nước bước vào công cuộc ổn định và ngày càng lớn mạnh dưới các triều đại Lý

– Trần. Từ một nhà nước cơ bản dựa vào bộ máy quân sự nước ta đã chuyển dần

sang bộ máy nửa quân sự – nửa quan lại. Trong bối cảnh văn hoá chính trị mới

được hình thành thì mẫu hình hoàng đế giai đoạn này chưa đưa đến những nét đặc

trưng riêng. Phải đến thời Lý – Trần, mẫu hình nhân vật hoàng đế mới mang những

đặc điểm riêng tương ứng với sự phát triển của nền văn hoá chính trị Đại Việt.

Giai đoạn xây dựng quốc gia quân chủ và phục hưng nền văn hóa dưới hai

triều đại Lý – Trần: Từ thời Lý, công cuộc xây dựng nền văn hoá chính trị được

chú trọng hơn. Đất nước về cơ bản không còn nặng nề tính quân sự mà hình thành

một chế độ quân chủ đứng đầu là hoàng đế. Năm 1010 Lý Công Uẩn quyết định

dời kinh đô Hoa Lư ra thành Đại La. Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước

thành Đại Việt. Hai sự kiện này có ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử dân tộc. Nó

khẳng định những bước tiến vượt bậc của Đại Việt trong công cuộc xây dựng nền

văn hóa chính trị, ý thức tự chủ và niềm tin vào tương lai đất nước.

Dưới các triều đại Lý – Trần, lịch sử dân tộc chứng kiến một giai đoạn huy

hoàng sau Bắc thuộc. Đất nước bước vào công cuộc phục hưng nền văn hóa. Nho –

Phật – Đạo cùng tồn tại trong đời sống xã hội. Tính đến thời Lý, Phật giáo chiếm

vị thế chủ đạo và chi phối mạnh mẽ nền văn hóa, chính trị Đại Việt. Tăng lữ và

hoàng tộc có mối quan hệ chặt chẽ, cùng với đó là mối quan hệ mật thiết giữa thần

quyền và vương quyền. Tuy nhiên, Nho giáo ngày càng bộc lộ được khả năng là

công cụ vững chắc để chế độ quân chủ bảo vệ vương quyền. Vì thế, từ cuối triều

Lý nước ta đã quan tâm đến việc phát triển giáo dục và khoa cử tuyển chọn nhân

tài phục vụ cho triều đình theo mô hình nhà nước Nho giáo. Năm 1070, Lý Thánh

Tông lập Văn Miếu. Năm 1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên. Đến

thời Trần, Nho học tiếp tục phát triển và tạo ra lực lượng trí thức đông đảo, từng

bước đẩy lùi sự chi phối vốn rất mạnh mẽ của Phật giáo. Từ cuối đời Trần, Nho

giáo với tư tưởng đức trị đã đạt được một nền tảng vững chắc để có địa vị như

quốc giáo.

34

Kinh tế và văn hóa có sự phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Việc lần lượt đánh

tan các thế lực xâm lược hùng mạnh đã cổ vũ và phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân

tộc, tạo nên khí thế hào hùng của một dân tộc đang vươn lên một cách mạnh mẽ, mà

trung tâm là “hào khí Đông A”. Trong bối cảnh xã hội chịu nhiều ảnh hưởng của Phật

giáo, các hoàng đế Lý – Trần đã tích cực hoằng dương Phật pháp để giáo huấn và điều

hành xã hội. Tuy nhiên, với vai trò là người đứng đầu quốc gia, chịu trách nhiệm chăn

dân, giáo dân, nên tất yếu các hoàng đế không hoàn toàn xuất thế mà tích cực nhập

thế. Nho giáo đã ngày càng thể hiện được là nền tảng tư tưởng trong đường lối trị

nước của các hoàng đế. Trên cơ sở trọng dân của Nho giáo, các hoàng đế Lý – Trần

đã nhận thức được tầm quan trọng của dân và thực hiện nhiều chính sách thương dân

như con và khoan thư sức dân.

Giai đoạn đấu tranh chống quân Minh xâm lược và xây dựng Nhà nước quân

chủ đạt cực thịnh dưới vương triều Lê sơ: Sau hơn bốn thế kỉ sống trong nền chính trị

tự chủ, nước ta một lần nữa rơi vào tay quân xâm lược ở đầu thế kỉ XV. Cuộc xâm

lược và cai trị tàn bạo của nhà Minh gây biết bao cảnh tang thương cho Đại Việt. Để

thực hiện chính sách đồng hóa, ngu dân, giặc Minh thi hành chính sách đốt sạch, phá

sạch nhằm tận diệt nền văn hóa Đại Việt. Hai mươi năm ấy đã chứng kiến một dân tộc

Đại Việt ngoan cường không ngừng đấu tranh để giữ gìn nền độc lập dân tộc.

Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn và giành thắng lợi, khôi phục đất

nước vào năm 1428. Trang sử mới được lập, đất nước được hồi sinh. Sau khi lên

ngôi Lê Lợi tiếp tục xây dựng bộ máy Nhà nước theo mô hình có từ thời Trần. Nho

giáo tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc củng cố quyền lực thống trị. Cơ cấu xã

hội có nhiều thay đổi, tầng lớp quý tộc không còn giữ địa vị như trước. Thành phần

xã hội thời Lê sơ gồm quan và tứ dân: sĩ, nông, công, binh. Các vua Lê trong quá

trình điều hành Nhà nước luôn thực hiện chính sách quốc dĩ dân vi bản, quan tâm

chăm lo đến đời sống nhân dân. Nhờ đó, triều đình luôn nhận được sự ủng hộ của

nhân dân, đất nước không phải đối mặt với các cuộc nội chiến, bạo loạn.

Nhà nước Đại Việt đạt được đến đỉnh cao của sự phát triển trong giai đoạn

trị vì của Lê Thánh Tông. Nếu thời Lý – Trần quyền lực được phân tán cho các

vương hầu thì đến các hoàng đế thời Lê sơ quyền lực đã được tập trung vào tay

người đứng đầu nhà nước. Các triều đại thời Lê sơ đã từng bước tiến tới hoàn

35

chỉnh chế độ quân chủ tập quyền về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội...

Đến thời Lê Thánh Tông, nước ta đang dần tiến đến hoàn thiện cơ chế quản lí Nhà

nước qua các quy chế và luật pháp. Đời sống xã hội được nâng lên rõ rệt, cảm thụ

và sáng tác văn học, nghệ thuật được quan tâm sâu sát với sự thành lập các ban

Đồng văn, Nhã nhạc.

2.2.2. Tiền đề văn hoá, chính trị

Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, các triều đại quân chủ nước ta đã từng bước đi

vào ổn định. Lịch sử giai đoạn này chứng kiến những cuộc đổi họ lớn. Để bảo vệ

ngai vàng, các hoàng đế đã thẳng tay thanh trừng các thế lực có khả năng đe doạ

ngôi vị thiên tử. Sau khi lật đổ nhà Lý, để củng cố ngai vàng cho nhà Trần, Trần

Thủ Độ đã tìm mọi cách để tiêu diệt con cháu nhà Lý và buộc phải đổi thành họ

Nguyễn. Lê Thánh Tông sau khi lên ngôi cũng đã ra lệnh cho dân chúng khắp cả

nước đổi họ Trần thành họ Trình. Có thể thấy đây là đặc trưng của nền quân chủ

chuyên chế do hoàng đế là người đứng đầu đại diện bảo vệ cho lợi ích cho dòng họ.

Xã hội Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV tìm thấy sự tương đồng giữa

truyền thống, phong tục, tư tưởng tình cảm của con người Việt Nam với tư tưởng

thân dân trong Nho giáo. Mặc dù đều có tinh thần dân tộc cao, kiên quyết chống lại

sự bành trướng của chính quyền phương Bắc, nhưng các triều đại nước ta vẫn tìm

thấy được trong văn hoá chính trị Trung Hoa nhưng diễn ngôn phù hợp để bảo vệ

vương triều. Tiếp thu nền văn hoá chính trị phương Bắc, các Hoàng đế Đại Việt

không ngừng diễn ngôn về thiên tử – thiên hạ – thiên mệnh.

Phật giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hoá chính trị - xã hội

Đại Việt, nhất là ở thời Lý. Mặc dù trước đó, nhân dân Đại Việt đã tôn sùng đạo

Phật nhưng từ thời Lý địa vị của Phật giáo đã được đề cao bởi hoàng đế, quý tộc,

tăng lữ đều hướng về con đường Phật giáo. Niềm tin vào Phật giáo đã thấm sâu vào

nhận thức của triều đình nên các hoàng đế thời Lý có tình thần bao dung, độ lượng

và quan tâm đến đời sống nhân dân lao động. Các hoàng đế là thiền sư, thi sĩ hướng

thơ ca đến những nội dung của Phật giáo, niềm vui của người dân lao động trong

cuộc sống làng quê… Ở thời Lý hiếm khi gặp những vần thơ bày tỏ niềm thương

cảm với nỗi đau khổ của người dân. Điều này một phần có thể do phần lớn lực

lượng sáng tác đều tham chính, nên khi tham gia sáng tác cần có sự cân nhắc tế nhị

36

để bảo toàn sinh mệnh với minh triết bảo thân. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng

thời Lý, dưới nền chính trị Phật giáo, xã hội Đại Việt được cai trị bởi những hoàng

đế nhân đức, thiện lành, thương dân. Đến thời Trần, Phật giáo tiếp tục được tôn

sùng và được dân tộc hoá bằng sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Phật

giáo là tư tưởng chủ đạo của giai đoạn Lý – Trần bởi tinh thần nhập thế tuỳ duyên.

Phật giáo Đại Việt có sự dung hoà giữa Nho – Phật – Đạo và tín ngưỡng truyền

thống của dân tộc. Nó không mang tinh thần yểm thế, xuất thế như Phật giáo Ấn Độ

hoặc tinh thần bay bổng của Phật giáo Trung Quốc mà mang tinh thần nhập thế của

thời đại. Tuy nhiên, Phật giáo không thể áp dụng trong việc điều hành chính trị mà

chỉ hướng đến giải quyết các vấn đề xã hội bằng con đường giác ngộ lối sống tích

cực, từ bi, hỉ xả.

Nho giáo đã du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc nhưng gặp sự phản

kháng quyết liệt của người Việt. Tuy nhiên, từ thế kỉ X, khi đất nước bước vào công

cuộc kiến thiết, bộ máy cai trị được hình thành thì Nho giáo đã từng bước xâm nhập

và chi phối đời sống chính trị Đại Việt. Dưới các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Nho

giáo chưa thực sự ảnh hưởng nhiều đến nước ta. Đến thời Lý – Trần, Nho – Phật –

Đạo đã cùng tồn tại và thể hiện được vai trò riêng của mình trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo không thể đảm đương vai trò tổ chức và duy trì

bộ máy nhà nước theo thể chế quân chủ chuyên chế. Thêm nữa, cuối đời Trần, khi

Phật giáo được đề cao quá mức, nhà chùa giữ nhiều ruộng đất đã khiến một bộ phận

nhân dân hướng về Phật giáo, nhân danh nhà sư để hưởng thụ. Từ đó Phật giáo dần

bị “ruồng rẫy”, mất dần vị thế trong đời sống xã hội và nhường chỗ cho Nho giáo.

Nho giáo với tư tưởng thiên mệnh, thuyết tam cương – ngũ thường, đường lối đức

trị… đã đáp ứng được thực tiễn yêu cầu quản lí xã hội của nhà nước quân chủ.

Chính vì thế, từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, Nho giáo đã từng bước lớn mạnh và có địa

vị như quốc giáo của Đại Việt.

Sự chuyển biến của hệ tư tưởng kéo theo nhiều thay đổi trong đời sống chính

trị, xã hội Đại Việt. Trong bối cảnh xã hội Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chủ

đạo, người đứng đầu chế độ quân chủ là hoàng đế cũng phải có nhiều thay đổi phù

hợp với thời đại. Theo quan điểm Nho giáo, hoàng đế phải có nhân cách lí tưởng

“nội thánh, ngoại vương”, tức là phải đạt đến phẩm chất của một thánh nhân. Tư

37

tưởng Nho giáo yêu cầu phẩm chất của một thánh nhân là phải “minh minh đức –

tân dân – chỉ ư chí thiện” (làm sáng tỏ đức sáng – làm đời sống dân chúng không

ngừng đổi mới – khiến cho người ta ở vào chí thiện). Trên cơ sở kế tục tinh thần

xuất thế, nhập thế của hoàng đế triều Lý – Trần, các hoàng đế Nho giáo thời Lê sơ

phấn đấu đạt đến cảnh giới của một thánh nhân dung hoà giữa xuất thế và nhập thế.

“Nội thánh, ngoại vương” – tu kỷ, trị nhân tức bên trong là một thánh nhân, bên

ngoài là một hoàng đế. Nội thánh là ám chỉ sự tu dưỡng đạo đức và nhân cách bên

trong. Ngoại vương ám chỉ cho vai trò chính trị, điều hành xã hội. “Nội thánh” với

“cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân” được xem là gốc, là tiền đề tiên quyết

cho “ngoại vương”. Đây là những quy chuẩn cụ thể cho khái niệm “vô vi nhi thiên

hạ trị” của Nho giáo.

Dưới sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, mẫu hình hoàng đế đã đặt ra chuẩn mực

“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” trong bát mục “cách vật, trí tri, thành ý, chính

tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đây là những nội dung trong sách Đại học

nguyên là một chương trong Lễ ký được thành sách ước trong thời Chiến Quốc đến thời

Tần Hán. Nó được xem là một trong những kinh sách cốt lõi của Nho gia.

Cách vật là luôn tìm hiểu, xem xét thấu đáo để đi đến nhận thức đúng đắn, thực

chất sự việc. Cách vật hướng con người đặt mục đích cần đạt tới chính là tâm. Khi phát

huy được cùng cực của tâm sẽ hoà hợp được với trời. Trí tri là luôn ngẫm nghĩ và thấu

hiểu được những gì mình đã nhận thức. Thành ý hướng con người đến những suy nghĩ

và hành động một cách chân thật, không lừa dối. Chính tâm là luôn suy nghĩ và hành

động ngay thẳng, chính trực và làm chủ được chính bản thân mình.

Tu thân là không ngừng tôi luyện để hoàn thiện bản thân, đặt ra những lí

tưởng sống cao đẹp hướng đến các chuẩn mực Nho giáo, biết sửa chữa những thiếu

sót, sai lầm. Tề gia là xây dựng được gia đình có lối sống tốt đẹp, chỉnh tề, có nề

nếp gia phong như những chuẩn mực của Nho giáo về đạo cha con, vợ chồng… Trị

quốc là lo toan được việc nước, điều hành xã hội theo một trật tự kỷ cương. Bình

thiên hạ là khả năng quy phục được lòng người, xây dựng cho thiên hạ nền thái bình

thịnh trị.

Theo đó, muốn đảm đương nghiệp lớn thì đòi hỏi trước tiên phải là người quân

tử đáp ứng được các chuẩn mực của Nho gia. Muốn bình được thiên hạ phải có tài trị

38

nước. Muốn trị nước cho tốt thì trước hết phải thực hiện được việc tề gia. Và giá trị

cốt lõi vẫn là tự mình tu thân, trau đức, tâm tư ngay thẳng, nhận thức đúng đắn những

vấn đề trong thực tiễn đời sống. Muốn người khác quân tử trước tiên mình phải sống

ngay thẳng. Muốn người khác không làm điều ác thì mình phải thi hành điều thiện.

Chính vì lẽ đó mà mẫu hình hoàng đế theo quan điểm Nho giáo luôn đặt vấn đề đức

trị lên hàng đầu. Người cầm quyền có gương mẫu, có đạo đức mới thu phục được

lòng người, được lòng người mới cai quản tốt non sông và thi hành chính sách nhân

nghĩa an dân, lợi nước. Đó chính là lí do mà các hoàng đế Đại Việt thời Lê sơ luôn

quan tâm và đề cập đến những tư tưởng đức trị trong các sáng tác của mình. Tiêu

biểu qua các sáng tác của Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông.

Trên cơ sở kết hợp những giá trị nhân đạo trong truyền thống của dân tộc

cùng với tinh thần bác ái, vị tha của đạo Phật và tư tưởng thân dân trong học thuyết

Nho giáo, các hoàng đế Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV đã phát triển tư tưởng

thân dân từ “ngụ binh ư nông” của triều Lý đến “khoan thư sức dân” dưới triều Trần

và đạt đến quan niệm “dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền” dưới triều Lê

sơ. Mỗi giai đoạn lịch sử, đất nước đều có mô hình văn hoá chính trị tương ứng.

Theo đó, mẫu hình hoàng đế luôn không ngừng vận động để đáp ứng những yêu cầu

của lịch sử xã hội.

2.2.3. Tiền đề văn học

Tiếp thu sự ảnh hưởng từ nền văn học Trung Hoa, văn học Việt Nam từ thế kỉ

X đến thế kỉ XV đề cập rất nhiều đến văn hoá chính trị. Văn chương không phải là

phương tiện để bày tỏ tình cảm cá nhân mà là dùng để bày tỏ chí. Các hoàng đế

trước hết là các nhà chính trị. Xác định được sức mạnh của thơ văn nên các hoàng

đế tận dụng nó để phục vụ chính trị. Theo ghi chép của Đại Việt sử kí toàn thư thì

năm 1035 hoàng đế Lý Thái Tông đã sai các quan làm thơ. Năm 1087 hoàng đế Lý

Nhân Tông đến chùa Lãm Sơn và đích thân làm thơ. Năm 1495 nhân hai năm được

mùa liên tiếp, Lê Thánh Tông cùng các quần thần xướng hoạ để ghi nhận điềm

lành… Thơ văn trở thành phương tiện quan trọng để các hoàng đế điều hành chính

sự. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cho rằng: “Cố tri đạo duyên thánh dĩ thuỳ

văn, thánh nhân văn nhi minh đạo” (Đạo nhờ thánh nhân mà truyền văn, thánh nhân

39

nhờ văn mà minh đạo) (Nguyên Đạo) [64; 50]. Đó chính là cơ sở để các hoàng đế

dùng văn chương để khẳng định vị thế thiên tử và sức mạnh của triều đại.

Nhìn vào lịch sử văn học có thể thấy rất nhiều hoàng đế, lãnh tụ tham gia

sáng tác văn học. Từ các hoàng đế thời Lý – Trần, Lê sơ, chúa Trịnh đến các

hoàng đế triều Nguyễn và sau này là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đều tham

gia sáng tác văn học. Từ triều Lý, các hoàng đế đã tham vấn cùng các thiền sư về

đạo Phật. Đây là một trong những hoạt động xướng hoạ vua tôi về giảng cứu và

viết thi kệ. Thông qua hoạt động này, văn chương đã bổ sung nhiều tác phẩm có

giá trị về triết lý Phật giáo. Đồng thời, mẫu hình hoàng đế – thiền sư đã dần định

hình trong đời sống văn học. Đến thời Trần, khi Nho giáo đã từng bước khẳng

định được vị thế trong nhiệm vụ trị quốc thì các hoàng đế càng xem trọng vai trò

của văn chương và tích cực tham gia sáng tác các thể loại thuần tuý văn học. Họ

xem văn chương là công cụ trị quốc và thể hiện những lý tưởng chính trị. Thơ văn

của các hoàng đế thường xuất hiện nhiều mệnh đề: đức, tài, trung, hiếu, khí tiết,

cương thường… Điều này cho thấy các hoàng đế rất ý thức trong việc dùng văn

chương làm phương tiện để giáo huấn, truyền tải đạo đức, trị nước, an dân và là

công cụ để bảo vệ đế quyền. Chính vì thế mà các sáng tác thơ văn của hoàng đế

thường chú trọng thể hiện nội dung hơn là trau chuốt nghệ thuật. Thơ của các

hoàng đế hướng đến thi ngôn chí, tải đạo. Thơ vịnh cảnh, vịnh vật cũng không

nằm ngoài nhiệm vụ truyền tải những thông điệp chính trị Nho giáo. Thông qua

hoạt động sáng tác, các hoàng đế tự mình phác hoạ những bức chân dung chính

mình bằng văn học.

Đặc biệt, các hoàng đế thích làm thơ văn để tự ca ngợi bản thân qua hình

thức xướng hoạ ca. Việc làm thơ, xướng hoạ thơ với các quần thần là cách để

hoàng đế thể hiện thiên tài. Trên tư tưởng triết học “đế đức cách thiên”, văn học

cung đình xướng hoạ, đề vịnh nhằm mục đích diễn ngôn về tài năng, đức độ của

hoàng đế. Đây là hình thức diễn ngôn kết hợp giữa vương quyền và thần quyền để

khẳng định quyền lực tuyệt đối của hoàng đế. Các hoàng đế hay đề cập đến chữ

đức trong sáng tác văn học bởi họ muốn chứng minh được mình xứng đáng ở vị

trí thiên tử. Ảnh hưởng tư tưởng thiên – địa – nhân từ nền văn hoá Trung Hoa, các

hoàng đế Đại Việt tin vào thuyết thiên nhân tương cảm, thiên nhân tương dữ. Tức

40

là những hành động của hoàng đế có đạo đức, nhân nghĩa sẽ động được lòng trời

và duy trì đế vị. Nhờ công đức của hoàng đế mà “dĩ đức động thiên” – trời thấu

hiểu, cảm động và giáng phúc lành. Ngược lại, hoàng đế thất đức sẽ bị trời trách

phạt bằng dự báo những tai ương, dị thường: động đất, sao chổi, lũ lụt, hạn hán…

nếu hoàng đế không tu thân, hành thiện thì sau đó sẽ diễn ra cuộc thay triều đổi

vị. Từ văn chương thời Lê sơ đến sau này là các chúa Trịnh đều duy trì hình thức

xướng hoạ để ca ngợi hoàng đế, ca ngợi chế độ.

Phần lớn các sáng tác của hoàng đế đều là hình thức ghi chép lại các sự kiện

quan trọng của đất nước. Thông qua các chiếu, chế phục vụ công tác hành chính,

các hoàng đế đã có dịp được thể hiện mình trong những áng văn chương thấm

đẫm khẩu khí đế vương, tinh thần trách nhiệm của một người đứng đầu đối với

quốc gia, dân tộc. Trong công tác ngoại giao, các hoàng đế thường dùng thơ văn

để giao tiếp cùng với các sứ thần. Đó chính là điều kiện để thể hiện được những

phẩm chất, khí phách và tài năng của họ với triều đình phương Bắc. Các hoàng đế

mượn thơ văn để thể hiện tài năng, trí tuệ của đế vương để khẳng định vị thế quốc

gia, củng cố nền độc lập của dân tộc. Khi cần, trong đấu tranh bang giao, các

hoàng đế sẵn sàng dùng thơ văn để chống lại tư tưởng Hoa – Di.

Bên cạnh một nhân vật chính trị, hoàng đế còn là một nhân vật văn học,

nhân vật trữ tình. Các hoàng đế giai đoạn này dùng văn chương để khẳng định vị

thế thiên tử, củng cố vương quyền. Tham gia sáng tác văn chương, các hoàng đế

muốn thể hiện phẩm chất về tài năng, đức độ đủ tiêu chuẩn để được trời uỷ thác

trọng nhiệm cai quản thiên hạ. Thông qua các tác phẩm họ đã diễn tả, giãi bày tư

tưởng, tình cảm riêng tư, quan niệm về cuộc sống… từ đó đã hình thành nhân vật

hoàng đế qua góc nhìn tự biểu hiện.

Văn chương là phương tiện thể hiện tài năng của thiền sư, nho sĩ. Lưu Hiệp

trong Văn tâm điêu long quan niệm văn là phương tiện để thể hiện thiên tài, như

con rồng, phượng có vẩy, lông sặc sở, như con hổ, con báo có vằn, có đốm.

IX. Lixevich trong Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc nhận định: “Văn là

hình vẽ, là sự bôi mầu, là hình trang trí, nhưng vận dụng vào con người, vào quân

tử thì văn là cái mầu sắc mà người ấy dùng để tô điểm bản thân mình và là cái

mầu sắc mà người khác nhìn vào đó để đánh giá bản chất người ấy” [99; 39]. Các

41

triều đại đã sớm xác định rõ vai trò của văn chương trong đời sống xã hội bằng

việc xem nó là cơ sở lựa chọn hiền tài: “Muốn có người giỏi, trước hết là chọn

người văn học. Chọn người văn học lấy khoa mục làm đầu” [97; 547].

Văn học cung đình là bộ phận quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam

từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Các trí thức – tác giả văn học trung đại Việt Nam từ thế

kỉ X đến thế kỉ XV hầu hết tham gia hoạt động chính trị. Họ đóng vai trò rất quan

trọng trong việc xây dựng thể chế xã hội. Các thiền sư tham chính, các nhà nho đi

học để tham gia chốn quan trường nên cuộc sống của họ gắn với sự tồn vong của

chế độ quân chủ. Vì thế việc xây dựng và bảo vệ chế độ quân chủ cũng chính là

cách họ bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thông qua văn chương, họ đã chuyển

tải những khát vọng về mẫu hình xã hội và hoàng đế lý tưởng. Là bộ phận đứng

giữa hoàng đế và dân, các trí thức luôn đưa ra các diễn ngôn về mô hình xã hội lý

tưởng với hình mẫu hoàng đế theo Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang và thần dân hoà

thuận. Trong các sáng tác của mình, các thiền sư, nho sĩ đều hướng đến xã hội đức

trị, văn trị và nhân vật trung tâm chính là hoàng đế.

Tư tưởng quân – thần, trung quân ái quốc là một trong những tư tưởng chủ

đạo của các tác giả văn học giai đoạn này. Những ngôn từ quân thân, trung hiếu…

xuất hiện khá dày đặc, nhất là trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Người xưa

quan niệm văn chương là phương tiện thể hiện tài năng. Nếu như hoàng đế mượn

hoạt động xướng hoạ thơ ca làm công cụ để khẳng định đức độ, ca ngợi chế độ tốt

đẹp thì các trí thức xem đây là cơ hội thể hiện mình đối với nhà cầm quyền.

Những sáng tác của các thiền sư, nho sĩ tập trung vào hoàng đế - nhân vật đặc biệt

trong giai đoạn này. Thiền sư, nho sĩ phải gạt bỏ những cái cá nhân, riêng tư mà

chỉ giữ lại lòng mình đạo quân – thần, trung quân ái quốc, gạt bỏ những cảm xúc

thông tục thường tình mà đem vào văn chương những vấn đề về quốc kế sinh dân:

“Nhân gian mọi sự đều nguôi hết/ Một sự quân thân chẳng khứng nguôi” (Tự thán

– bài 36 – Nguyễn Trãi).

Chính tình yêu nước và tư tưởng trung quân đã thôi thúc các tác giả dùng văn

chương để phò tá hoàng đế xây dựng nhà nước quân chủ. Các trí thức mượn văn

chương để định hướng tư tưởng cho mọi đối tượng trong xã hội: là dân thì phải biết

thờ trời, kính hoàng đế: “Bốn dân nghiệp cao cùng thấp/ Đều hết làm tôi thánh

42

thượng hoàng” (Tức sự - bài 4 - Nguyễn Trãi). Văn chương hướng đến xây dựng

nhân vật hoàng đế qua tư tưởng thiên mệnh. Hoàng đế là thiên tử, là người đáp ứng

được những yêu cầu cao về tài năng, đức độ nên được trời giao phó nhiệm vụ cai

quản bách tính, non sông. Tư tưởng này hướng người dân đến những chuẩn mực

đạo đức, ứng xử mà hoàng đế là “bất khả xâm phạm”. Tư tưởng thiên mệnh hướng

con người đến sự bằng lòng với số mệnh vì trời đã chi phối được tất cả số mệnh của

mọi kiếp người trong thiên hạ: “Vắn dài được mất đều thiên mệnh/ Chạy quấy làm

chi cho nhọc nhằn” (Tự giới – bài 42 – Nguyễn Trãi) hay: “Mới biết danh hư đà có

số/ Ai từng cãi được lòng trời” (Tự thán – bài 15 – Nguyễn Trãi).

Thông qua văn chương, diễn ngôn về thiên mệnh đã hướng mọi đối tượng

trong xã hội biết quy phục mệnh trời và tuân theo mệnh lệnh của hoàng đế, từ đó

củng cố vững chắc địa vị của hoàng đế. Sau khi khẳng định được nguồn gốc thiên

mệnh, vị trí bất khả xâm phạm của đế vương, văn chương tiếp tục nhiệm vụ giữ

vững vị thế đó bằng việc tập trung ca ngợi hoàng đế. Hoàng đế và các triều thần

đã dùng văn chương để xây dựng hình ảnh thiên tử có sức mạnh uy quyền, là

người trực tiếp ban ơn đến muôn dân: “Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc/ Gian lều cỏ

đội đất Đường Ngu” (Ngôn chí – bài 15 – Nguyễn Trãi). Tư tưởng quân – thần,

trung quân ái quốc đã trở thành nền tảng vững chắc để các trí thức cùng bày chí,

tỏ lòng và sáng tạo nhiều tác phẩm ca ngợi vương triều. Từ đó nhân vật hoàng đế

có điều kiện để hình thành trong đời sống văn học.

Các nhà nho, thiền sư nhận thức được, hưởng bổng lộc triều đình đồng

nghĩa với việc phải có trách nhiệm cùng nhau bảo vệ vương triều. Sáng tác của họ

đều gửi gắm khát vọng về một xã hội lý tưởng với vua sáng tôi hiền, khéo léo gửi

gắm những thông điệp phúng gián. Trong Thi đại tự có viết: “Thượng dĩ phong

hoá, hạ dĩ phong thích thượng, chủ văn nhi quyệt gián, ngôn chi giả vô tội, văn chi

giả túc dĩ giới” (Kẻ thống trị lấy phong để giáo hoá kẻ bị trị; kẻ bị trị dùng phong

để phê phán kẻ thống trị phải chú trọng ở văn mà phúng gián tinh vi, nên người

nói không bị tội, người nghe cũng lấy đó làm răn) [181; 72]. Các sáng tác thơ văn

dưới hình thức phúng gián đã đóng góp thêm một cái nhìn đa chiều, đa diện về

nhân vật hoàng đế.

43

Văn học giai đoạn này đảm nhiệm một trách nhiệm quan trọng trong sự

nghiệp chính trị của các triều đại. Các hoàng đế dùng văn chương để trị quốc. Các

triều thần dùng văn chương để thể hiện những khát vọng, hoài bão về một đấng

minh quân, một xã hội thịnh trị với vua sáng tôi hiền. Chính vì những lí do đó,

hoàng đế đã đi vào văn chương và trở thành một nhân vật có sức ảnh hưởng lớn

trong đời sống văn học, văn hoá chính trị của Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

2.3. Vị thế của nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam

2.3.1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

Văn chương thời trung đại xét về đề tài, nội dung phần lớn đều phản ánh các

vấn đề văn hoá chính trị. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, có đến 680 trong

tổng số 1800 tác phẩm trong văn học giai đoạn này trực tiếp thể hiện về nhân vật

hoàng đế (chiếm 37.8%). Kết quả khảo sát này chưa bao gồm các tác phẩm gián

tiếp thể hiện nhân vật hoàng đế. Từ đó có thể khẳng định hoàng đế chính là nhân vật

trung tâm trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Tuỳ thời

điểm lịch sử, tuỳ theo từng tác giả mà diễn ngôn về mẫu hình hoàng đế mang những

đặc điểm khác nhau. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, nền chính trị Đại Việt tốt

đẹp, các triều đại lần lượt đánh tan các thế lực xâm lược. Trong những cuộc chiến

không cân sức ấy, các vương triều đều nhận được sự đồng thuận từ nhân dân. Nhận

thức được vai trò to lớn của dân nên các triều đại thi hành chính sách cai trị nhân

nghĩa, đức trị. Chính bối cảnh đó đã làm động lực để các tác giả văn học dùng thơ

văn để xây dựng một xã hội lý tưởng theo mẫu hình Nghiêu Thuấn.

Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mang một tâm thế tự hào sau ngàn năm

Bắc thuộc. Một đất nước nô lệ giờ đây đã phá tan xiềng xích để có được độc lập.

Những chiến thắng liên tiếp trước những kẻ thù hùng mạnh là cơ sở cho sự hình

thành kiểu giọng điệu ngợi ca trong văn học giai đoạn này. Trong tâm thế đầy hào

khí ấy, các tác giả đã không ngừng khẳng định vị thế quốc gia qua tư thế sánh

ngang với các quốc gia tự chủ hùng mạnh: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Từ

đây, Đại Việt đã có hoàng đế và dõng dạc, đường hoàng sánh ngang với Trung

Hoa. Bên cạnh việc tự hào về một quốc gia độc lập có hoàng đế tự trị, nhiệm vụ

chính trị của văn chương còn là xây dựng và bảo vệ vương triều. Các thiền sư,

44

nho sĩ tập trung vào xây dựng mẫu hình hoàng đế lí tưởng. Từ đó, nhân vật hoàng

đế đã từng bước được hình thành nhân vật trung tâm trong văn học giai đoạn này.

Trên cơ sở bối cảnh lịch sử và những yêu cầu của thời đại, văn chương giai

đoạn này hướng đến xây dựng nhân vật hoàng đế theo đường lối đức trị, thân dân

và hoàng đế trị quốc trên nền tảng kết hợp giữa đức trị và pháp trị. Cơ sở tâm lí xã

hội trên đã thôi thúc kẻ sĩ mang phấn khởi, tin tưởng vương triều, nên đem tất cả

tài năng, trí tuệ để phụng sự hoàng đế. Xuyên suốt mạch chảy của văn chương

giai đoạn này là cảm hứng ca ngợi tư tưởng đức trị, thân dân và lòng nhân nghĩa

của các hoàng đế. Hơn ai hết, các trí thức nhận ra bản chất của quân chủ là

chuyên quyền, độc đoán, vậy nên trong sáng tác của họ, những hình mẫu hình

hoàng đế trong lịch sử Trung Hoa như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang được văn

chương nhắc đến nhiều nhằm mục đích hạn chế sự độc đoán, chuyên quyền của

các bậc quân vương, tăng cường nền đức trị và tư tưởng thân dân. Tuy nhiên, việc

can gián chính trị là một việc làm không dễ dàng gì, các nhà nho, thiền sư sử dụng

văn chương như là phương tiện để truyền tải những thông điệp ấy.

Có phê phán xa gần, có khéo léo phúng gián nhưng nhìn chung, nhân vật

trung tâm của văn học giai đoạn này – hoàng đế được văn chương tập trung ca

ngợi về đức trị, thân dân. Các trí thức giai đoạn này có một niềm tin mãnh liệt vào

việc xây dựng nên một xã hội lý tưởng (và có khi là không tưởng) với mẫu hình

hoàng đế nhân nghĩa, thần dân giữ đạo trung hiếu, kẻ sĩ tu thân. Tuy chưa giống

hoàn toàn với những khát vọng lí tưởng của các kẻ sĩ nhưng nhìn chung qua thơ

văn, các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV đã trở thành một nhân vật

trung tâm chi phối đến các nhân vật khác trong đời sống văn học.

2.3.2. Giai đoạn từ sau thế kỉ XV đến thế kỉ XIX

Nếu như thế kỉ thứ X đến thế kỉ XV, qua thơ văn, kẻ sĩ bộc lộ một niềm tin

dường như tuyệt đối vào chế độ quân chủ thì giai đoạn sau thế kỉ XV, niềm tin ấy

từng bước suy giảm, ngược lại gia tăng sự hoài nghi về nền cai trị đức trị. Họ

Trịnh phò tá nhà Lê đánh bại nhà Mạc. Đất nước tồn tại song song vua và chúa.

Đạo trung quân đã mai một, những vấn đề thiết yếu của đạo nho như tu, tề, trị,

bình đã không còn giữ được những giá trị như lúc ban đầu. Việc tuyển chọn quan

lại cũng không còn chỉ được thực hiện bởi khoa cử, mà còn bởi nhiều phương

45

cách khác. Quan tước có thể đạt được bằng quan hệ thân thích, tiền bạc… Hiện

tượng này đã làm hoen ố những hình mẫu cao đẹp về thánh nhân, quân tử.

Ở giai đoạn trước, các trí thức chỉ thể hiện thái độ bất mãn trước thời cuộc

bằng thấp thoáng sự chán nản, lo âu: “Bạch nhật thăng thiên dị/ Trí quân Nghiêu

Thuấn nan” (Ban ngày bay lên trời còn dễ/ Giúp vua trở thành Nghiêu Thuấn mới

khó) (Đề Huyền Thiên quán – Trần Nguyên Đán). Từ sau thế kỉ XV, bên cạnh

những mỹ từ ca ngợi hoàng đế thì văn chương đã bắt đầu phô bày “những điều

trông thấy mà đau đớn lòng”. Các trí thức không còn bàn luận về những hoàng đế

nhân nghĩa, thân dân mà thay vào đó là những nỗi thất vọng, chán chường về mô

hình đức trị. Hoàng đế giai đoạn này vẫn là nhân vật trung tâm của nền chính trị

dù không được trực tiếp đề cập đến văn học thường xuyên như trước. Hình ảnh

người đứng đầu thể chế quân chủ được khắc họa gián tiếp qua việc miêu tả, phản

ánh về sự suy đồi của xã hội trên nhiều bình diện. Niềm tin vào xã hội không

tưởng đã rạn nứt, mô hình xã hội hoàng đế theo mẫu hình Nghiêu Thuấn đã bị

hoài nghi. Những sáng tác phơi bày thực trạng đen tối, rối loạn của xã hội ngày

càng gia tăng về số lượng và biến đổi trong chừng mực nhất định về hình thức thể

hiện. Hoàng Lê nhất thống chí, Thượng kinh kí sự đã tố cáo sự thối nát của chế độ

quân chủ. Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc đã phơi bày thực trạng xã hội

đương thời và bày tỏ những khát vọng giải phóng tình cảm cá nhân...

Khi kẻ sĩ chán ghét thực trạng, không tìm được hướng đi, họ chọn cuộc sống

ẩn dật để lánh đời. Những ẩn sĩ này không còn niềm tin vào ngòi bút của họ có

thể giúp đời tạo dựng được những vị hoàng đế chân chính như tư tưởng Nho giáo

đã dày công tô vẽ. Từ đó họ tìm đến một xã hội không tưởng khác đời thực. Đó là

một xã hội của trí tưởng tượng với những giá trị tốt đẹp hơn cõi nhân gian.

Nhân vật trung tâm của giai đoạn này không phải là những nhà chính trị hay

những bậc nho sĩ xem thơ ca là phương tiện để di dưỡng tính tình mà là những

con người có số phận bình thường trong xã hội. Tuy nhiên, qua những tác phẩm tố

cáo xã hội, vạch trần tệ nạn vơ vét, bóc lột của triều đình… các tác giả đã gián

tiếp bàn về nhân vật hoàng đế.

46

Tiểu kết chương 2

Hoàng đế được xem là một nhân vật đặc biệt trong đời sống văn học trung

đại Việt Nam. Nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X

đến thế kỉ XV được hình thành trên nhiều cơ sở. Nó xuất phát từ bối cảnh lịch sử

xã hội và yêu cầu thời đại của một đất nước tự chủ sau ngàn năm Bắc thuộc. Đất

nước bước sang trang sử mới, trước yêu cầu của thời đại tự chủ và của một dân tộc

đang dâng cao lòng tự hào, việc tập trung hướng đến vương triều, hoàng đế là một

thực tế tự nhiên. Văn chương đảm nhiệm vai trò chính trị, nhất là tập trung thể

hiện đường lối trị nước của hoàng đế. Các thiền sư, nho sĩ dùng văn chương để lập

thân, kiến quốc. Họ có niềm tin văn chương sẽ xây dựng được thế giới của các học

thuyết chính trị đạo đức. Các sáng tác của họ chứa đựng những cái đẹp về lý tưởng

đạo đức với mô hình đức trị của hoàng đế. Tư tưởng đức trị đã từng bước phát

triển và đạt đến đỉnh cao với tư tưởng nhân nghĩa dưới vương triều Lê sơ. Sau

vương triều Lê sơ, Đại Việt bước vào thời kì khủng hoảng và suy vong kéo dài

nhiều thế kỉ. Chế độ quân chủ đã không còn duy trì đường lối đức trị, thân dân mà

ngày càng bộc lộ rõ tính chuyên chế, tha hóa. Đất nước chia cắt, nội chiến liên tiếp

giữa Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn, khởi nghĩa nông dân diễn ra liên tục đã phản ánh

sự suy tàn của nền đức trị không lấy dân làm gốc… Chính vì thế giai đoạn từ thế

kỉ X đến thế kỉ XV được xem là giai đoạn tiêu biểu cho chế đô quân chủ và mẫu

hình nhân vật hoàng đế lí tưởng.

47

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV

3.1. Nhân vật hoàng đế với tư cách là cái tôi tự biểu hiện

3.1.1. Nhân vật hoàng đế - thiên tử trong ý thức chính trị

3.1.1.1. Ý thức tu dưỡng đạo đức Nho giáo

Theo thế giới quan của Nho giáo, đạo làm người bộc lộ rõ nét nhất trong lĩnh

vực đạo đức. Theo đó, đạo đức Nho giáo hướng đến giá trị thực tiễn, giúp con

người có thể đạt đến mức hoàn thiện, hữu dụng trong đời sống xã hội. Người quân

tử phải đạt đến phẩm chất kẻ sĩ với các phạm trù: nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, trung,

chính, trực, cung, khoan… Nếu như Phật tính là cảnh giới cao nhất mà người tu

hành muốn đạt đến thì thánh nhân, quân tử là mục tiêu cao nhất của người “tu tập”

theo quan điểm Nho gia. Nho gia hướng đến hình tượng hoàng đế là thánh nhân

nhập thế, hành đạo, lo cho đời, cho dân, tham gia vào công cuộc kiến thiết xã hội

theo mô hình Nghiêu, Thuấn. Các hoàng đế thường nhắc đến Nghiêu, Thuấn, Vũ,

Thang để bày tỏ lí tưởng chính trị. Bởi vì đây là những đế vương mẫu mực về tài

năng, đức độ: “Đạo đức vua Thang lớn lao chừ,/ Văn hiến vua Nghiêu tỏ rạng!”

(Lam Sơn Lương thuỷ phú – Lê Thánh Tông) [127; 168].

Trần Ngọc Vương nhận định: “Mỗi triều đại lên ngôi về sau đều nhất thiết

phải công bố “đại nghĩa, đại công, đại đức” của triều đại mình” [215; 53]. Các đế

vương không ngừng đề cao chữ đức trong sáng tác một mặt tự nhắc nhở việc rèn

luyện, đồng thời khẳng định đức của bản thân; mặt khác, các hoàng đế còn xem đây

là công cụ giám quản bách thần, đề cao đạo đức để giáo hoá sự phục tùng của mọi

đối tượng trong xã hội. Đế vương thực hành chính trị bằng đạo đức, đức của bản

thân và đức của dân chúng. Luật pháp được sử dụng chủ yếu nhằm duy trì trật tự

đạo đức xã hội. Trong đó, tư tưởng đức trị có mối quan hệ chặt chẽ với tư tưởng dân

bản – lấy dân làm gốc. Tư tưởng đức trị tiếp tục được các hoàng đế Nho giáo thời

Lê sơ vận dụng. Nó kế thừa tư tưởng đạo đức trong lịch sử dân tộc và đạo đức Phật

giáo thời Lý – Trần. Nội dung của tư tưởng đức trị tiếp tục được các hoàng đế Lê sơ

thi hành: tu thân, sửa đức, làm gương giáo hoá và quan tâm đến đời sống nhân dân.

Tuy nhiên nó có sự phát triển hơn so với thời Lý – Trần ở chỗ vị trí của nhân dân đã

48

được nâng lên tầm cao mới. Đó là sự phát triển từ tư tưởng thân dân đến tư tưởng

trọng dân.

Xét về góc độ nội thánh, Nho giáo đặt ra chuẩn mực của hoàng đế phải là

người mẫu mực về đạo đức. Đặc biệt dưới triều Lê sơ, khi Nho giáo có địa vị như

quốc giáo thì chữ đức càng được xem trọng. Các hoàng đế triều Lê sơ thường

xuyên tự nhắc nhở mình rèn đức. Hoàng đế Lê Thái Tông tự trách mình trước đại

hạn, mất mùa: “Từ mấy năm nay, đại hạn và sâu lúa tiếp nhau, tai dị xảy luôn,

khoảng tháng 4, 5 năm nay mấy lần sét đánh vào vườn cây trước cửa Thái Miếu ở

Lam Kinh. Xét ra làm nên tai biến, tất có duyên do. Hoặc là trẫm không sửa đức

mà mọi việc trễ biếng chăng?... Hoặc là thuế khoá nặng nề mà dân chúng túng thiếu

chăng?” [97; 574]. Tháng 8 năm 1491 mưa không ngớt, tường điện Kính Thiên bị

đổ, hoàng đế Lê Thánh Tông đã hối lỗi: “Vì chính trị thiếu sót, nên trời làm tai

biến, đó là lỗi của trẫm mà thành ra thế, chứ nhân dân có tội gì đâu? Có phải vì

trẫm đức tín chưa khắp đến dân, lòng thành chưa thấu đến trời mà đến thế chăng?”

[97; 716]. Sau những phát ngôn hối lỗi, các hoàng đế sẽ tiến hành đại xá, giảm thu

thuế, thải bớt cung nữ để sửa đức mà cảm động được lòng trời.

Theo quan điểm Nho giáo, tai ương, dị thường là sự cảnh báo, khiển trách của

trời trước lỗi lầm của người cai trị. Trong Xuân thu phồn lộ, Đổng Trọng Thư bàn

về tai hoạ: “Thiên tử bất năng phụng thiên chi mệnh, tắc phế nhi xưng công”

(Thiên tử không thể phụng mệnh trời thì trời tất phế bỏ mà để cho mọi người chọn

lựa). Nhận thức rõ được quan điểm trên, các hoàng đế luôn ứng xử khéo léo, thi

hành nhân đức để xoa dịu lòng trời. Như vậy, việc thi hành những chính sách có lợi

cho dân một mặt xuất phát từ tư tưởng đức trị của các hoàng đế, mặt khác nó không

nằm ngoài việc xuất phát từ lợi ích bản thân các hoàng đế muốn củng cố địa vị của

mình. Khi liên tiếp gặp tai ương bất thường, hoàng đế phải gõ cửa Thượng đế để

mong xá tội: “Thần dám gõ cửa Thượng đế để giãi bày lòng thương dân, để tâu lên

tình kính sợ. Cúi xin Thượng đế xá lỗi tha tội, đổi tai biến làm điềm lành, ban cho

mưa to nước ngọt, thấu khắp mọi nơi” [97; 677]. Và sử gia cũng không quên ghi

chép lại các motip ly kì khi hoàng đế lập đàn cầu mưa thì “tờ chiếu ban xuống đêm

hôm ấy có mưa” [97; 595].

49

Tu thân, sửa đức là một trong những phẩm chất, nhiệm vụ quan trọng của một

hoàng đế: “Trước hết phải làm sáng đức của mình, rồi sau mới thân yêu với người

thân thích, sau nữa mới đến việc trị nước và làm cho thiên hạ bình yên” [45; 72].

Mặc dù quyền lực vô hạn nhưng Lê Thánh Tông vẫn muốn lắng nghe những góp ý

thẳng thắn từ quan lại để sửa mình: “Hạ lệnh cho hữu ty cùng bọn quân nhân đều

phải hết lòng bày tỏ những điều có thể hồi được lòng trời, hết được tai biến, cứ việc

nói thẳng chớ nên ẩn giấu, để giúp chỗ thiếu sót của trẫm” [97; 580]. Đoàn Thị Thu

Vân đã nhận xét về con người nhân văn trong văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế

kỉ XV: “Những đặc điểm nổi bật của giai đoạn sơ kì trung đại không chỉ ở đường

lối chính trị thân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân và những thành tựu rực rỡ có

được từ đó, mà còn ở tinh thần rộng mở đặt biệt khó gặp lại ở đời sau. Chưa có một

sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt giữa vua quan, quý tộc và trăm họ” [197; 12-

13]. Tinh thần đức trị, thân dân của các hoàng đế thể hiện bằng rất nhiều phát ngôn

và hành động. Khi thời tiết vào đông, vua Lý Thánh Tông xót thương cho người tù

tội: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu còn rét như thế này, nghĩ

đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn

không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân… vậy hạ lệnh cho hữu ty phát

chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm” [97; 194]. Lý Thái Tông có tinh thần

nhân đạo và tình yêu thương sâu sắc dành cho con dân: “Ta yêu con ta, cùng như

lòng ta làm cha mẹ dân, nhân dân không biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm

thương. Từ năm về sau, không cứ tội gì nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm”

[97; 1196]. Khi lên ngôi, các hoàng đế hường tiến hành đại xá thiên hạ nhằm thể

hiện đức, thuật trong việc trị quốc, phục nhân.

Chỉ trong bài thơ Quân đạo thi, Lê Thánh Tông đã khái quát được những đạo

lí mà một hoàng đế theo quan điểm Nho gia phải thực hiện: “Đế vương đại đạo cực

tinh nghiên,/ Hạ dục nguyên nguyên thượng kính thiên/ Chế trị, bảo bang, tư kế

thuật,/ Thanh tâm, quả dục, tuyệt du điền./ Bằng cầu tuấn nghĩa phu văn đức,/ Khắc

cật binh nhung trọng tướng quyền./ Ngọc chúc động tri hàn noãn tự./ Hoa, di, diệc

lạc thái bình niên.” (Cố gắng nghiên cứu kỹ đạo lớn bậc đế vương,/ Dưới thì chăm

lo cho muôn dân, trên thì kính trời./ Phép dựng nước và giữ nước phải theo chí

người xưa./ Lòng thì trong sạch, dục thì phải giảm bớt, bỏ hẳn thú săn bắn/ Rộng

50

tìm kẻ hiền tài để truyền bá văn minh, đạo đức./ Lo việc võ bị, biết trọng quyền

người làm tướng./ Đuốc ngọc phải soi sáng khắp nơi, thấu rõ nỗi ấm lạnh dân tình./

Khiến cho miền xuôi, miền ngược cả nước cùng chung hưởng thái bình.) (Quân đạo

thi – Lê Thánh Tông) [127; 515].

Đạo người làm vua theo Lê Thánh Tông là phải có đức để giáo dân và có tài

để trị quốc. Theo ông, phận sự của bậc thiên tử là phải thấm nhuần đại đạo của bậc đế

vương. Trọng nhiệm đầu tiên của mỗi hoàng đế là phải thực thi nền đức trị “kính

thiên, ái dân”. Hoàng đế chịu mệnh trời thống quản thiên hạ, phải biết trên vâng

mệnh trời, dưới thuận ý dân để “dĩ đức động thiên” được trời giáng phúc. Một hoàng

đế mẫu mực trong con đường “kinh bang tế thế” phải bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biết

tuyển chọn người tài giúp nước, thấu hiểu được dân chúng. Muốn đất nước từ miền

ngược đến miền xuôi chung hưởng thái bình thì hoàng đế phải giữ lòng thanh tịnh,

hạn chế dục vọng, thi hành nhân nghĩa. Lê Thánh Tông hiểu rõ lẽ chí tâm chí thành là

đạo nhân mà người đứng đầu triều đình phải không ngừng tu dưỡng: “Lòng vì thiên

hạ những sơ âu,/ Thay việc trời, dám trễ đâu./ Trống dời canh còn đọc sách,/ Chiêng

xế bóng, chửa thôi chầu./ Nhân khi cơ biến xem người biết,/ Chứ thuở kinh quyền xét

lẽ mầu./ Mựa giễu áo vàng chăng có việc./ Đã muôn sự nhiệm trước vào tâu.” (Tự

thuật – Lê Thánh Tông) [127; 59].

Là bậc thiên tử nắm quyền lực tối thượng nhưng qua bức chân dung tự hoạ

bằng thơ, Lê Thánh Tông đã cho thấy những nhọc nhằn nơi điện các. Để giáo hoá

dân, hoàng đế trước hết phải là tấm gương sáng về rèn đức, trau mình. Lê Thánh

Tông ý thức được mình đang “thay trời” chăm dân nên phải “tiên ưu hậu lạc” – lo

trước cái lo, vui sau niềm vui của thiên hạ. Qua các bài thơ Vịnh trống năm canh, có

thể thấy vị hoàng đế thứ tư của triều Lê đã bộc lộ niềm vui, sự tự hào khi nhận thấy

cuộc sống thanh bình, no ấm của nhân dân dưới sự trị vì của ông. Từ không gian

canh một với những âm thanh của cuộc sống bình dị qua “khua mõ cá”, “nện chày

kình” qua canh hai khi “người êm giấc”, “cửa chặt cài” đến canh năm khi “trời đã

sáng” với những âm thanh cuộc sống qua “tiếng hàn châm” đã cho thấy Lê Thánh

Tông đã thao thức năm canh bởi những việc “sự nhiệm” của triều đình. Trong

không gian vắng lặng, mênh mông, ông lắng nghe những nhịp đập và âm thanh của

51

cuộc sống bình dị. Qua các sáng tác của mình, Lê Thánh Tông thể hiện tấm gương

đạo đức sáng ngời của một vị minh quân.

Theo quan điểm Nho giáo, người quân tử làm tốt việc tề gia: có hiếu với cha

mẹ, trọn nghĩa phu thê, hoà thuận anh em cũng được xem là làm việc chính trị. Vua

Thuấn được xem là tấm gương sáng bởi “khi còn hàn vi đã có đức độ của bậc đại

thánh, một là ăn ở hiếu thảo, làm cho cha mẹ anh em trên dưới thuận hoà; hai là vui

vẻ tiếp thu ý kiến hay của người khác để làm việc thiện; ba là làm sáng tỏ lễ vật, xét

rõ đạo làm người, thực hành điều nhân nghĩa” [45; 75]. Theo gương vua Thuấn, Lê

Thánh Tông rất coi trọng lễ nghĩa. Bên cạnh việc dùng đạo luật để giáo dục, uốn

nắn nề nếp xã hội, thơ văn ông còn cho thấy hình ảnh một vị hoàng đế hiếu đạo, giữ

vững nếp nhà. Đối với quốc gia ông là bậc hoàng đế chí tôn, đối với gia đình ông

luôn đặt mình ở vị trí một người con trọn đạo: “Hải khô, cốc biến, hưng vong

ngoại,/ Tử hiếu, thần trung mộng mị gian.” (Biển có thể cạn, hang có thể dời, lẽ

biến dịch thôi chưa cần bàn,/ Hãy nghĩ tới lẽ làm con thì phải hiếu, làm tôi thì phải

trung.) (Quá Vạn kiếp – Lê Thánh Tông) [127; 100]. Vạn vật trong tự nhiên sẽ thay

đổi theo quy luật của cuộc sống được – mất, hưng – vong, nhưng làm con phải giữ

chữ hiếu là lẽ đời bất di bất dịch. Lê Thánh Tông đã cho xây dựng ngôi chùa trong

cung và đón mẹ đến để tiện việc săn sóc. Không chỉ dành tình cảm cho mẹ ruột,

hoàng đế thứ tư của nhà Lê sơ còn đối đãi hiếu thuận với nhạc mẫu. Ông mời nhạc

mẫu vào cùng ở cùng mẹ ruột để phụng dưỡng.

“Mục đoạn từ vi vạn lý trình,/ Toạ thinh húng húng dạ đào thanh.” (Nhớ mẹ,

nên mắt cứ mòn mỏi nơi xa xôi muôn dặm,/ Chính là lúc ngồi trên thuyền lầu nghe

sóng vỗ ầm ầm.) (Trú Đan Du hải khẩu – Lê Thánh Tông) [127; 111]. Trên đường

chinh phạt Chiêm Thành, Lê Thánh Tông trú lại cửa biển Đan Du. Lắng nghe tiếng

sóng vỗ mạn thuyền, ông đồng cảm với tiếng lòng mình đang trào dâng niềm nhớ

thương từ mẫu. Là bậc đế vương nhưng vì nghĩa lớn cứu dân đang bị giặc hoành

hành, Lê Thánh Tông thân chinh lên đường dẹp loạn. Đường xa xôi cách trở, ngày

tháng dài lênh đênh trên sóng nước, trước khung cảnh thiên nhiên hoàng đế đã

mượn lời thơ bày tỏ nỗi lòng.

Để có được cơ nghiệp huy hoàng, Lê Thánh Tông ghi nhớ công ơn của tổ phụ

đã dày công sáng lập nên vương triều Lê sơ. Khi nhắc đến Lê Thái Tổ, hoàng đế thứ

52

tư triều Lê sơ đã thuật lại bằng văn chương với giọng điệu ngợi ca, hào sảng: “Hỏi:

Nghiệp vua ai sáng lập?/ Rằng: Thánh Tổ từng kinh doanh./ Mệnh trời định sẵn chừ,

thế đất hữu tình,/ Đã có nhân có đức chừ, ắt có trị có bình./ Cao cả thay! Đức Thái Tổ

chừ, từng dấy nghĩa binh,/ Diệt từ bạo ngược chừ, cứu vớt dân lành./ Công đức nhà

vua, đất dầy trời thẳm,/ Khôi phục kỷ cương, mở mang đô thành./ Trông cung điện

nguy nga, nhớ công lao sáng nghiệp,/ Nhìn đồng nội tít tắp trải dài, nhớ vườn cũ tiên

vương vun đắp.” (Lam Sơn Lương thuỷ phú – Lê Thánh Tông) [127; 166].

Mặc dù nắm trong tay thiên mệnh nhưng chính đức trị, nhân nghĩa mới là

nhân tố quan trọng làm nên tên tuổi của hoàng đế – anh hùng Lê Thái Tổ. Yếu tố

địa linh gắn liền với nhân kiệt, đức trị gắn với nhân nghĩa sẽ đạt đến “có trị có

bình”. Ngắm nhìn đất nước thái bình, thịnh trị Lê Thánh Tông ghi nhớ công nghiệp

huy hoàng của tổ phụ. Ông nhắc lại lời nói của Thái Tổ: “Ngài thường nói rằng:/

Muốn diệt cường bạo, phải có lòng nhân,/ Muốn trừ hung tàn, phải làm việc nghĩa./

Muốn yên xã tắc, phải sạch quân thù,/ Muốn đẹp đất trời, phải vá sứt mẻ./ Để giúp

trăm họ khỏi đảo điên,/ Để đưa bốn phương đến bình trị./ Theo binh thư khi ngủ khi

thức,/ Học sử sách khi làm khi nghỉ.” (Lam Sơn Lương thuỷ phú – Lê Thánh Tông)

[127; 176].

Sự nghiệp nhà Lê sơ được khởi nghiệp từ Thái Tổ và Thái Tông tiếp tục phát

triển huy hoàng. Là một hoàng đế nối nghiệp được thừa hưởng những thành quả từ

tổ phụ, Lê Thánh Tông ghi nhớ công ơn và bày tỏ sự ngưỡng vọng: “Cao đế anh

hùng cái thế danh,/ Văn hoàng trí dũng phủ doanh thành.” (Đức Cao Đế anh hùng,

tiếng tăm vang dậy,/ Đức Văn Hoàng trí dũng, vẫn giữ yên cơ nghiệp.) (Quân minh

thần lương thi – Lê Thánh Tông) [127; 523].

Bên cạnh lòng hiếu kính tổ tông, tình thương bao la dành cho từ mẫu, Lê

Thánh Tông còn có những vần thơ thể hiện nghĩa phu thê: “Chiêm Thành đại hải đầu

tiên đoạn,/ Trường Lạc thâm cung viễn mộng quy./ Si xuẩn khiết du hồng ngược

diễm,/ Quân vương vạn lý nhất nhung y.” (Nơi bể lớn Chiêm Thành, roi chỉ huy quất

lên là giặc bại,/ Nơi thâm cung Trường Lạc mộng vợ chồng vẫn phảng phất bay về./

Bọn ngu xuẩn như con thú dữ, gây nên cảnh binh hoả bạo tàn,/ Cho nên nhà vua phải

mặc áo giáp ruổi rong muôn dặm, nhất định thành công.) (Khai thuyền phát tự Lam

Kinh, vãn chí cổ phạn doanh, toạ trung tuỳ bút – Lê Thánh Tông) [127; 108]. Trên

53

đường Tây chinh, Lê Thánh Tông bày tỏ niềm nhớ nhung hoàng hậu Trường Lạc. Vì

giặc ngoại xâm đang hoành hành, hoàng đế phải gác lại yêu thương để theo việc đao

cung. Ngày dài tháng rộng đã làm da diết thêm nỗi nhớ thương thê tử. Sự bạo tàn của

quân Chiêm Thành đã thôi thúc Lê Thánh Tông mặc áo giáp xông pha trận mạc với

một ý chí quyết tâm thắng lợi sớm ngày trùng phùng hoàng hậu.

Qua thơ, văn, các hoàng đế đã thể hiện những tiêu chuẩn của một “nội thánh”

theo quan điểm Nho gia. Đó là việc tu thân, trau dồi những phẩm chất về đạo đức

để đủ khả năng hoàn thành vai trò thiên mệnh.

3.1.1.2. Ý thức khẳng định tài năng của thiên tử

Bên cạnh “nội thánh” thì “ngoại vương” được thể hiện qua khả năng điều

hành chính trị. Điều đó được đánh giá qua tài năng dựng nước và giữ nước của các

hoàng đế. Giai đoạn này xuất hiện hai mẫu hình hoàng đế tiêu biểu, là mẫu hình

hoàng đế anh hùng sáng nghiệp và mẫu hình hoàng đế kế nghiệp. Trước khi đường

hoàng bước lên ngai vàng, các hoàng đế hầu hết phải trải qua một quá trình tranh

giành, đấu tranh khốc liệt. Mặc dù có những cuộc chuyển giao quyền lực diễn ra

trong êm đẹp nhưng khó thể tránh khỏi cảnh máu chảy đầu rơi. Qua thơ văn, các

hoàng đế đã tự biểu hiện tài năng trong việc dựng nên vương triều và sự nghiệp cai

trị huy hoàng. Trong đó có một số hoàng đế xuất thân là anh hùng thống lĩnh nghĩa

binh đứng lên dẹp tan ngoại xâm sáng lập nên triều đại mới.

Dũng là phẩm chất một đế vương cần phải có. Đó là bản lĩnh của một bậc trị

quốc thể hiện được uy vũ, đạp bằng moi gian nan, không nao núng dù bất cứ hoàn

cảnh nào. Các hoàng đế Đại Việt đã nhiều lần thân chinh đánh dẹp phản loạn, trấn áp

ngoại bang, mở mang bờ cõi. Trong sáng tác của mình, hoàng đế dụng binh là để cứu

dân: “Bất từ vạn lý chỉnh sư đồ./ Duy dục biên cương xích tử tô./ Thiên địa bất dung

gian đảng tại./ Cổ câm thuỳ xả phản thần tru?/ Trung lương tự hữu ưng đa phúc,/

Bạo bột trung nan bảo nhất khu./ Đái lệ bất vong thần tử chức/ Danh thuỳ vạn cổ dự

sơn câu” (Thân đi đánh dẹp không e ngại đường xa muôn dặm./ Chỉ mong cứu vớt

dân chúng chốn biên cương./ Trời đất không bao dung bọn phản loạn gây rối./ Xưa

nay ai lại tha chết cho kẻ bầy tôi gian giảo?/ Hiền lành, ngay thẳng ắt được ban nhiều

phúc đức./ Bạo ngược, tham tàn cuối cùng cũng không giữ trọn thân mình./ Dù cho

54

sông cạn, núi mòn, kẻ làm tôi, làm con không thể quên phận sự./ Tiếng thơm muôn

thuở lưu lại với non sông.) (Thân chinh Thái Nguyên châu – Lê Thái Tổ) [126; 78].

Bạch Đằng, Chí Linh được xem là những địa danh quan trọng đã giúp nhân

dân ta đánh đuổi quân Minh. Chính chúng đã khơi nguồn cảm hứng cho sáng tác của

nhiều tác giả. Lê Thánh Tông trong một tâm thế tự hào, một khẩu khí oai hùng của đế

vương đã đặt Chí Linh trong cái nhìn so sánh với các địa danh Trung Quốc: “Đây là

nơi xây nền tảng triều đình,/ Cũng là nơi cứu nhân dân đồ thán./ Núi Mang Đãng vua

Hán so không thể xứng,/ Núi Kỳ Sơn nhà Chu may ra mới đáng.” (Chí Linh sơn phú

– Lê Thánh Tông) [127; 169]. Chiến thắng giòn giã trước quân Minh hùng mạnh cho

phép Đại Việt có quyền tự hào và ngẩng cao đầu, cất cao tiếng nói ngợi ca chiến

thắng. Trong cái nhìn so sánh, các địa danh Trung Quốc chỉ là nền tảng để làm bật

lên sự oai hùng của Chí Linh: “không thể xứng”, “may ra mới đáng”. Có thể thấy

khẩu khí oai hùng của Lê Thánh Tông không cúi đầu trước phương Bắc. Đó là phẩm

chất quan trọng, là yếu tố đem đến khả năng bình thiên hạ của hoàng đế.

Chí khí anh hùng, đường lối nhân nghĩa, mưu lược tài ba đã giúp Lê Lợi tạo nên

một mẫu hình hoàng đế khởi nghiệp tiêu biểu. Sau khi dẹp xong quân Minh, Lê Thái

Tổ lên ngôi và chủ trương trị vì đất nước bằng hệ tư tưởng Nho giáo. Từ đó các hoàng

đế nối nghiệp nhà Lê sơ cùng chung chí hướng để xây dựng một vương triều hưng

thịnh. Các hoàng đế thời Lê sơ qua thơ văn muốn hướng đến xây dựng hình ảnh một

thiên tử bản lĩnh, tài năng, có khả năng trị quốc trong mọi hoàn cảnh. Trong thời loạn,

hoàng đế phải dùng võ để oai trấn tứ di, đánh dẹp nội loạn, ngoại xâm để hướng đến

bình thiên hạ. Trong thời bình, hoàng đế phải biết dùng văn để giáo hoá thiên hạ, dùng

đức để cải hoá nhân tâm, dùng pháp để quản lí xã hội.

Việc kết hợp hài hoà giữa văn chương và võ bị là cái dũng của kẻ trí: “Tỳ

hưu lệnh túc dạ tam canh/ Vị dân bản dục trừ tàn bạo/ Yển vũ chung đương tẩy giáp

binh/ Biên tái dĩ thanh, trần dĩ tĩnh/ Tòng kim cửu vũ thuộc thăng bình” (Vì nhân

dân phải diệt trừ bọn bạo tàn/ Rồi xếp việc võ, mà rửa sạch giáp binh/ Bờ cõi đã

yên, bụi dơ đã sạch/ Từ nay chín cõi được thanh bình) (Thân chinh Vũ Vĩnh Hương

– Lê Thái Tông) [126; 82]. Giữa thời bình, văn chương là phương tiện giúp các

hoàng đế giáo hoá bách tính, hướng họ đến những chuẩn mực đạo đức lí tưởng. Hạn

chế binh đao, hạn chế lạm sát, giữ yên lòng dân để vững nền đức trị. Đó là những

55

điều mà đạo làm vua phải thực hiện: “Nam thiên vạn cổ sơn hà tại,/ Chính thị văn

tu, vũ yển miên.” (Muôn thuở trời Nam, núi sông vẫn như cũ,/ Chính lúc này là lúc

cần lấy văn chương để trị nước, và hãy tạm xếp việc võ.) (Truyền Đăng sơn hạ - Lê

Thánh Tông) [127; 102].

Bình thiên hạ là năng lực tối cao của thiên tử. Nó được hiểu là khả năng quy

phục được lòng người, xây dựng cho thiên hạ nền thái bình thịnh trị. Theo quan

niệm của xã hội quân chủ phương Đông, được mùa là do hoàng đế đã thực hiện trọn

vẹn nhiệm vụ được trời giao phó nên ban phúc lành. Trong những năm 1493 – 1494

đất nước được mùa liên tiếp, theo tư tưởng “thiên mệnh” thì hoàng đế đã hợp lòng

trời, được trời giáng phúc. Lê Thánh Tông đã tổ chức cuộc xướng hoạ mừng được

mùa. Hoàng đế xướng thơ và được các quần thần hoạ lại với những nội dung tán

thưởng, đồng tình. Vì thế đây được xem là hình thức tối ưu để hoàng đế tự khẳng

định đế quyền, đế vị, ca ngợi triều đình, chế độ và tự ca ngợi công lao, đức độ của

mình đã cảm hoá được lòng trời. Đây là công cụ để các hoàng đế thể hiện uy đức.

Việc xướng hoạ đã tiếp tục củng cố vai trò của thiên mệnh là một khía cạnh của

nghệ thuật trị quốc. Đạo đức – chính trị đã hoà vào thơ ca tạo nên một cảm hứng

nghệ thuật xen lẫn bài học đạo đức, ý thức trách nhiệm chính trị.

Cuộc xướng hoạ được hoàng đế Lê Thánh Tông mở đầu bằng những lời lẽ

khiêm tốn: “Bố đức thi nhân tín vị năng,/ Hoàng tiên tích phúc lũ phong đăng.”

(Có thể, ban bố điều nhân đức ta làm chưa thật hay,/ Nhưng cũng may được trời

giáng phúc, nên mấy năm được mùa liền.) (Bách cốc phong đăng, hiệp vu ca vịnh –

Lê Thánh Tông) [127; 509]. Lời thơ bộc lộ sự khiêm tốn của hoàng đế để thăm dò

suy nghĩ của triều thần. Lê Thánh Tông tự nhận mình chưa làm điều nhân đức thật

hay nhưng lại đối lập với hiện tượng được trời giáng phúc. Trên thực tế là Lê

Thánh Tông rất chăm lo nông nghiệp. Về điểm này Lê Kim Ngân nhận định: “Vua

Thánh Tông hết sức chú trọng đến canh nông. Thường ngày hay sắc cho phủ,

huyện phải tích cực khuyên bảo dân làm việc, cày ruộng, trồng dâu. Ngài đặt ra

chức quan Hà đê và quan Khuyến nông để trông coi, bảo vệ đê điều và khuyến

khích việc cày cấy trong nước” [119; 26]. Tuy nhiên lời thơ của hoàng đế lại bộc lộ

sự khéo léo, tế nhị rằng được mùa là do trời ban phúc. Từ đó, hoàng đế gián tiếp ca

ngợi đức của mình đã cảm hoá được lòng trời.

56

Đáp lại, Thân Nhân Trung hoạ: “Cách thiên đế đức diệu toàn năng,/ Hiệp

ứng hưu trưng bách cốc đăng.” (Đạo đức nhà vua hoà hợp với trời, nên tài đức

được phú cho trọn vẹn,/ Điều lành đã hiện ra mùa màng tươi tốt.) [127; 511]. Bằng

sự khéo léo trong việc sử dụng ngôn từ, Lê Thánh Tông đã đưa đến một kết quả như

dự tính về việc triều thần đối đáp ca tụng. Đây là công cụ để hoàng đế gián tiếp ca

ngợi triều đại lý tưởng với vua sáng, tôi hiền bằng một góc nhìn khách quan. Hình

thức xướng hoạ ca ngợi công đức hoàng đế từ đó đã được các đời sau mô phỏng

như các sáng tác chúa Trịnh và các hoàng đế triều Nguyễn.

Bên cạnh việc xướng hoạ ca ngợi công đức của chính mình, các hoàng đế

còn có những sáng tác ca ngợi quần thần đã tận tâm tận lực, cúc cung tận tuỵ. Vua

sáng thì tôi phải hiền, chính vì thế các hoàng đế sùng Nho của triều Lê sơ rất chú

trọng công tác đào tạo nhân tài và xây dựng đội ngũ quan lại. Lê Thánh Tông rất

quan tâm đến đạo đức của quan lại nên dùng thơ để răn dạy kẻ làm quan là phải biết

chăm lo nhân dân: “Đan trung cảnh cảnh nhật tinh lâm,/ Trí chủ, an dân nghĩa khái

thâm./ Y, Phó trung cần đôn nhất đức,/ Trương, Hàn thanh giá trọng thiên câm./

Nội ninh, ngoại phủ hồi thiên lực,/ Hậu lạc tiên ưu tế thế tâm./ Chí toại, danh thành

tôn tử mậu,/ Nham lang tùng bách tước sâm sâm.” (Tấm lưng đỏ rực như ánh mặt

trời chiếu vào,/ Nghĩa khí sâu sắc, tận tình vì vua và lo cho dân./ Trung thành như

Y, Phó, lấy đạo đức làm đầu,/ Tiếng tăm như Trương, Hàn thật đáng giá nghìn

vàng./ Có lòng giúp đời, lấy việc vui thì sau, và lo thì trước mọi người làm tiêu

chuẩn,/ Vậy nên, chí thì thoả, danh thì rạng, con cháu thì thịnh vượng./ Quả là cây

tùng, cây bách cao vút, xanh tươi nơi triều đình.) (Thần tiết thi – Lê Thánh Tông)

[127; 519].

Trải qua những năm tháng hào hùng chống giặc Minh, các hoàng đế thời Lê

sơ sáng nghiệp, kế nghiệp đều nhận thức được vai trò của dân trong công cuộc trị

vì. Từ đó họ đã có cái nhìn trân trọng và đưa nhân dân đến một vị thế cao hơn so

với giai đoạn Lý – Trần. Ở các giai đoạn trước, nhân dân được các hoàng đế coi

trọng và thực hiện nhiều chính sách dân vi bản. Tuy nhiên đến thời Lê sơ, các hoàng

đế đã nhận thấy được sức mạnh to lớn của dân, dân là nước, vua là thuyền: “Chất

của nước dẻo dai đặc biệt,/ Sức của nước to lớn tuyệt vời!/ Nước vốn tự nhiên,

không chung riêng gì hết,/ Dân là nước, vua chỉ là thuyền mà thôi./ Vậy phải lo

57

nguy, nếu không thì khốn./ Thuyền khi nổi khi chìm, bập bềnh chơi vơi.” (Lam Sơn

Lương thuỷ phú – Lê Thánh Tông) [127; 173 – 174]. “Vua chỉ là thuyền mà thôi”

đã cho thấy Lê Thánh Tông đã tự đặt mình dưới dân. Bởi dân có “chất dẻo dai đặc

biệt” và có sức “to lớn tuyệt vời”. Chính sự nghiệp huy hoàng của tổ phụ dựa trên

thế nước, lòng dân đã cho Lê Thánh Tông đúc kết thành bài học tư tưởng trong

đường lối trị nước. Thương nỗi nhọc nhằn của nhân dân, Lê Thánh Tông thi hành

nhiều chính sách nhân ái, khoan, giản tô thuế: “Chợ họp bên sông gẫm có chiều,/

Thuyền bày trên đất xem nhiều thể./ Cảnh vật hằng đây hoạ có hai,/ Vì dân khoan

giản bên tô thuế.” (Vịnh làng chế - Lê Thánh Tông) [127; 56].

Thời Lê sơ chứng kiến một Đại Việt hưng thịnh. Thơ ca vì thế cũng mang

âm hưởng rộn ràng. Đứng trước cảnh đất nước hoà bình, đời sống nhân dân được

ấm no, là một người chịu trách nhiệm cai quản đất nước thì các hoàng đế không

tránh khỏi những phút ngẫu hứng viết lên những lời thơ bày tỏ tự hào. Qua thơ ca,

Lê Thánh Tông đã cho thấy tài năng bình thiên hạ của một thiên tử. Ông ca ngợi

cuộc sống hòa bình, phồn thịnh của nhân dân như là kết quả trị vì của mình: “Tang

chá liên vân thổ vũ khoan,/ Biều luân chưng phủ trọng kim hoàn./ Nhân gia đa

thiểu lục âm hạ,/ Chuyết thốc tàm trung địch bạc can.” (Bãi dâu xanh tốt, tít tắp tận

chân mây,/ Bầu thì làm guồng, nồi thì nấu kén, quý như vàng như lụa./ Nhà dân ở

dưới bóng cây xanh mát,/ Nong tằm, vựa kén chằng chịt thân cây lau sậy.) (Tang

châu – Lê Thánh Tông) [127; 91]. Đất nước phồn thịnh, lời thơ Lê Thánh Tông rộn

ràng niềm tự hào trước khung cảnh tươi đẹp của đất trời. Nhiều chính sách tiến bộ

mà ông chủ trương thực hiện đã đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Những bãi

dâu xanh tốt, nhân dân biết quan tâm nông nghiệp, nuôi tằm dệt vải… đã cho thấy

một không khí lao động hăng say, nhân dân đang thừa hưởng những thành quả tốt

đẹp do chính bàn tay mình tạo dựng.

“Cảng khẩu thê mê, nhật chính huân,/ Khinh chu tình phiếm vạn sưu vân./ Hải

biên sĩ nữ dao ngôn tiếu,/ Phong đả thuyền đầu thính bất văn.” (Bến cảng lành

lạnh, ánh nắng toả ấm,/ Thuyền nhẹ lướt nắng, lẩn vào đám mây giữa muôn đảo./

Trai gái ngoài xa cửa bể, cười nói xôn xao,/ Vì gió thổi rào rào đầu thuyền nên

không nghe rõ.) (Vân Đồn cảng khẩu – Lê Thánh Tông) [127; 91]. Không chỉ nhân

dân được yên ấm bằng các nghề trồng lúa, nuôi tằm, dệt vải, qua thơ Lê Thánh

58

Tông còn cho thấy đời sống vật chất, tinh thần của những người con Đại Việt gắn

liền với sông nước cũng rất phong phú. Thi đại tự (đề tựa cho Kinh Thi ở thời Hán)

từng đề cập “âm thanh thịnh thì yên vui, vì chính sự thời ấy ôn hoà”, từ thơ Lê

Thánh Tông đã tự hoạ nên bức tranh sống động về đời sống tinh thần dưới thời trị vì

của ông. Tiếng cười nói xôn xao gắn liền với nhịp sống lao động của nhân dân vùng

biển đã cho thấy được một đời sống tinh thần lạc quan, tích cực. Để có được đời

sống lạc quan ấy đòi hỏi họ phải có được một nền chính trị ổn định, một nền kinh tế

phồn thịnh, một xã hội có những giá trị văn hoá tốt đẹp. Qua lời thơ, Lê Thánh

Tông đã khéo léo và gián tiếp ca ngợi sự phồn thịnh của đất nước. Ông tự hoạ về

một hình ảnh hoàng đế có tài năng bình thiên hạ: “Hải thượng vạn phong quần

ngọc lập,/ Tinh la kỳ bố thuý tranh vanh./ Ngư diêm như thổ dân xu lợi,/ Hoà đạo

vô điền phú bạc chinh/ Ba hướng sơn hình đê xử dũng,/ Chu xuyên thạch bích khích

trung hành./ Biên manh cửu lạc thừa bình hoá,/ Tứ thập dư niên bất thức binh.”

(Muôn hòn đảo nhô trên mặt biển trông xa như ngọc dựng,/ Giữa màu xanh biếc,

giống như sao sa, như quân cờ xếp./ Cá muối nhiều như bùn đất, dân chúng làm ăn

rất lợi,/ Lúa và màu kín, không còn ruộng thừa, thuế nạp nhẹ nhàng./ Sóng vỗ vào

chỗ thấp của sườn non dựng đứng./ Thuyền bè lách qua khe hở của vách đá./ Dân

lưu vong đến sống yên ổn nơi đây đã lâu,/ Hơn bốn mươi năm không biết đến chiến

tranh.” (An Bang phong thổ - Lê Thánh Tông) [127; 96].

An Bang phong thổ đã tổng hoà được bức tranh xã hội Đại Việt dưới thời Lê

Thánh Tông. Đó là cảnh một nước non hùng vĩ với phong cảnh như tranh thuỷ mặc,

thiên nhiên ưu đãi nhiều sản vật giúp nhân dân có được cuộc sống ấm no, chính sách

cai trị của hoàng đế nhân nghĩa nhẹ nhàng thuế nạp… những yếu tố thiên thời, địa

lợi, nhân hoà đã tạo nên cuộc sống ấm no vật chất, phong phú về tinh thần cho nhân

dân. Tiền nhân có công mở cõi, hậu thế ra sức dựng xây, Lê Thánh Tông nhìn lại

những gì đã qua và bày tỏ niềm tự hào với thành quả hôm nay: “Giờ đây:/ Ghe tàu

như mây kéo nghịt./ Thuyền bè như kiến đua bơi./ Vùn vụt như hươu nai bị rượt,/ Lả

lướt như vịt trời chơi vơi./ Rộn rịp tưng bừng mọi sự,/ Xôn xao tiếng gọi, tiếng ơi./

Giáp binh ba mặt,/ Quân lính muôn người./ Cờ quạt phấp phới./ Giáo gươm sáng

ngời.” (Lam Sơn Lương thuỷ phú – Lê Thánh Tông) [127; 174].

59

Qua thơ văn, các hoàng đế Lê sơ đã tự hoạ nên bức chân dung về hoàng đế có

tài năng dựng nước và giữ nước. Lê Thánh Tông đã đưa Đại Việt trở thành thời kì

đỉnh cao của chế độ quân chủ. Ông đã viết tiếp câu chuyện lịch sử thịnh trị của Lê

Thái Tổ, Lê Thái Tông: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Lúa chín đầy đồng trâu chẳng

thèm ăn” (Ca dao).

3.1.1.3. Ý thức khẳng định vị thế thiên tử

Các hoàng đế trước hết là các nhà chính trị. Vì thế, mục đích và chí hướng

sáng tác của họ đều hướng đến các lí tưởng chính trị, mang đậm tính chất cung

đình, quan phương. Thông qua quá trình sáng tác, nhân cách của bậc đế vương được

bộc lộ bằng việc ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với chính

mình. Cũng giống như các hoàng đế phương Bắc, các hoàng đế Đại Việt rất đề cao

thiên mệnh. Mặc dù có những điểm khác biệt trong việc khẳng định vị thế, nhưng

điểm chung là các hoàng đế trong vùng văn hóa Đông Á ý thức được vai trò, trách

nhiệm thiên tử của mình trong việc thay trời cai quản non sông.

Nhìn lại những chiến tích huy hoàng, Trần Nhân Tông với khẩu khí của

hoàng đế – thi sĩ, dùng thơ để bày tỏ niềm tự hào, niềm tin tưởng vào vận mệnh đất

nước: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,/ Sơn hà thiên cổ điện kim âu.” (Xã tắc hai

phen chồn ngựa đá,/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng.) (Tức sự) [211; 483].

Phục vụ sự nghiệp trị quốc của hoàng đế giai đoạn này không thể không kể

đến những tác phẩm văn chương bang giao. Đó là những sáng tác ra đời nhằm phục

vụ cho việc ngoại giao thông qua hình thức đối đáp, tiễn tặng, xướng hoạ của

những nhà ngoại giao với các sứ thần Trung Hoa. Thông qua những lá thư, những

vần thơ ngoại giao, các hoàng đế đã thể hiện được trí tuệ, bản lĩnh và tài năng của

mình dưới tâm hồn thi sĩ. Văn chương bang giao mang tính chất thù ứng, khoe tài,

đấu trí dưới hình thức đối thoại trực tiếp. Đây được xem là phương tiện để các quốc

gia giao tiếp và thể hiện thái độ chính trị.

Xuất phát từ tư tưởng “dĩ Hoa vi trung” các hoàng đế Trung Hoa tự coi mình

là thiên tử, coi triều đại mình là thiên triều và các nước lân bang là chư hầu, thuộc

quốc. Để khẳng định vị thế thiên triều, các hoàng đế Trung Hoa không ngừng mở

những cuộc viễn chinh để thể hiện sức mạnh quân sự và thiết lập chế độ sắc phong,

triều cống. Ý thức được vị thế dân tộc trong cái nhìn đối sánh với Trung Hoa, các

60

hoàng đế Đại Việt luôn có những sách lược ngoại giao khôn khéo với chính quyền

phương Bắc. Bên cạnh việc thực hiện các thể chế sắc phong, triều cống, các hoàng

đế Đại Việt thường xuyên tiếp đón các sứ giả phương Bắc sang tuyên phong. Qua

những lần tiếp đón sứ giả, các hoàng đế Đại Việt đã dùng văn chương, thơ ca để

giao kết, đối đáp, tiễn tặng.

Thơ bang giao xuất hiện phổ biến ở thời Trần. Năm 1265, Trương Hiển

Khanh theo lệnh hoàng đế nhà Nguyên sang nước ta để tuyên dụ. Hoàng đế Trần

Thái Tông đã làm bài thơ Đường luật để trực tiếp thể hiện tiếng nói của hoàng đế

phương Nam với sứ thần phương Bắc: “Cố vô quỳnh báo tự hoài tàm,/ Cực mục

giang cao ý bất kham./ Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp,/ Ốc lương lạc nguyệt

chiếu thư am./ Mạc không nan trụ yến quy Bắc./ Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam./

Thử khứ vị tri khuynh cái nhật,/ Thi thiên liêu vị đáng thanh đàm.” (Nghĩ không có

ngọc quỳnh đáp lại, lòng tự thẹn,/ Trên bờ sông nhìn xa mãi xiết bao bùi ngùi./ Gió

thu trước đầu ngựa thổi vào thanh gươm,/ Ánh trăng lọt qua rường nhà dọi vào

phòng sách./ Màn trống khó ngăn chim én về phương Bắc./ Đất ấm buồn nghe cánh

nhạn biệt phương Nam./ Lần đi này chưa biết ngày nào mới có dịp nghiêng lọng,/

Xin vì cuộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ.) (Tống Bắc sứ Trương Hiển

Khanh – Trần Thái Tông) [211; 21]. Qua lời thơ có thể thấy được sự tinh tế và khéo

léo trong ngoại giao của hoàng đế Trần Thái Tông. Tác giả dùng “thư” thay chữ

“kiếm” để nhắc nhở nền giao hảo trên tinh thần hoà giải, không dùng vũ lực. Ngôn

từ bài thơ một mặt thể hiện thái độ trân trọng đối với sứ giả nhưng mặt khác vẫn

giữ được khẩu khí của bậc đế vương. Hình ảnh chim én phương Bắc và cánh nhạn

phương Nam như nhấn mạnh vị thế và nền độc lập tự chủ của Đại Việt.

Năm 1291, một lần nữa Trương Hiển Khanh được lệnh hoàng đế phương

Bắc đi sứ sang Đại Việt để buộc Trần Nhân Tông sang chầu. Trong tâm thế ba lần

giành chiến thắng trước quân Nguyên Mông, Trần Nhân Tông làm thơ tặng Trương

Hiển Khanh để thể hiện được lòng tự hào dân tộc: “Giá chi vũ bãi thì xuân sam,/

Huống trị kim triêu tam nguyệt tam./ Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,/ Tòng lai

phong tục cựu An Nam.” (Múa giá chi xong, thử áo xuân,/ Hơn nữa hôm nay là

ngày mồng Ba tháng Ba./ Bánh rau xuân chất đầy mâm như hồng ngọc,/ Đó là

phong tục xưa nay của nước An Nam.) (Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính – Trần

61

Nhân Tông) [143; 339]. Hoàng đế Trần Nhân Tông nói về nền văn hoá dân tộc

trong một tâm thế tự hào. Ông giới thiệu đến sứ giả về lời ca, điệu hát, văn hoá

mặc, ẩm thực trong ngày Tết thanh minh. Đây là phong tục đã hằn sâu trong nếp

sống của người dân. Câu thơ “Tòng lai phong tục cựu An Nam” là lời nhắn nhủ của

hoàng đế Trần Nhân Tông đến vương triều phương Bắc rằng An Nam có phong

tục, tập quán lâu đời và sẽ quyết tâm gìn giữ.

Sau khi giành thắng lợi trước các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, Trần Nhân

Tông chủ trương theo con đường hoà hiếu. Nội dung thơ văn bang giao cho thấy

ông là một hoàng đế mưu lược, tài trí, dùng văn chương để tạo nên sức mạnh chống

lại kẻ thù. Những bài thơ tiếp sứ giả của Trần Nhân Tông đều thể hiện được khát

vọng hoà bình: “Phiêu phiêu hành lý lĩnh vân nam,/ Xuân nhập mai hoa chỉ lưỡng

tam./ Nhất thị đồng nhân thiên tử đức,/ Sinh vô bổ thế trượng phu tàm.” (Đường đi

nhẹ nhàng như mây ngàn về phương Nam,/ Vào xuân, hoa mai chỉ mới vài ba

bông./ Coi nhau như cùng thương yêu là đức của Thiên tử,/ Sống không bổ ích cho

đời là điều thẹn của trượng phu.) (Hoạ Kiều Nguyên Lãng vận – Trần Nhân Tông)

[143; 362]. Hoàng đế Trần Nhân Tông gửi lời nhắn nhủ đến “thiên triều”: “Nhất thị

đồng nhân thiên tử đức” là bày tỏ khát vọng hoà bình cho đất nước. Ông nhấn

mạnh “đồng nhân” nghĩa là hoàng đế phương Bắc hãy thi hành những điều nhân

đức và lòng yêu thương không chỉ dành riêng cho dân mình mà còn dành cho dân

lân bang. Là trượng phu phải sống tốt đời, đẹp đạo. Lòng nhân của thiên tử là thi

hành những chính sách đức trị, thân dân mà trước hết là để nhân dân sống trong

cảnh hoà bình.

Bên cạnh thái độ khiêm nhường, hoà hiếu, Trần Nhân Tông còn thể hiện vị

thế của đất và người phương Nam với ý chí kiên cường đã làm nên chiến thắng lịch

sử. Ông tái hiện lại chiến thắng quân Nguyên Mông bằng giọng điệu ngợi ca, hào

sảng, mang đậm hào khí Đông A: “Vũ lộ uông dương phổ Hán ân,/ hàm đan chiếu

xuất hồng vân./ Thác khai địa giác giai hoà khí,/ Tịnh hiệp Thiên hà tẩy chiến

trần./ Tận đạo tỉ thư thập hàng hạ,/ Thắng như cầm điện ngũ huyền huân./ Càn

khôn kiếm ái vô Nam Bắc,/ Hà hoạn vân lôi phục hữu truân.” (Ơn nhà Hán như

mưa móc tràn trề khắp nơi,/ Chim phượng ngậm tờ chiếu đỏ xuất hiện nơi đám mây

hồng./ Mảnh đất mới mở rộng cũng có hoà khí,/ Kéo sông Thiên hà rửa sạch bụi

62

chiến tranh./ Mọi người đều bảo tờ chiếu ban xuống chỉ có mươi hàng,/ Nhưng hơn

hẳn tiếng hoà âm của chiếc đàn cầm năm dây./ Trời đất vốn một lòng yêu thương

không phân biệt Nam Bắc,/ Còn lo gì gặp bước gian truân gió mưa sấm sét.) (Tặng

Bắc sứ Lý Tư Diễn – Trần Nhân Tông) [211; 474].

Mở đầu bài thơ, Trần Nhân Tông khéo léo trong việc đề cao vương triều nhà

Hán. Nhưng sau đó nhà vua bày tỏ lòng tự hào về tinh thần quật cường của dân tộc

“Tịnh hiệp Thiên Hà tẩy chiến trần”. Nhân dân Đại Việt sống đời bình dị, chân

chất, yêu cuộc sống hoà bình và đề cao tinh thần hoà hiếu. Nhưng khi đối mặt với

quân ngoại xâm, nhân dân đã đoàn kết một lòng tạo nên sức mạnh phi thường “kéo

sông Thiên Hà rửa sạch bụi chiến tranh”. Có thể thấy vị hoàng đế này rất khéo léo

trong bang giao văn chương. Đấy là một hoàng đế – thi sĩ vừa kiên cường bất khuất

vừa mềm dẻo thâm trầm.

Ngoài thơ, còn có những lá thư ngoại giao của các hoàng đế, tiêu biểu là của

Trần Nhân Tông. Những lá thư bang giao của nhà vua đã thể hiện được sách lược

ngoại giao khéo léo, linh hoạt để hạn chế được những mối nguy cho đất nước. Nhà

Nguyên nhiều lần sai sứ thần sang vời hoàng đế Đại Việt sang triều kiến nhưng

Trần Nhân Tông đều khéo léo từ chối. Bởi Trần Nhân Tông ý thức được rằng sang

chầu là đem chủ quyền quốc gia trao cho tay giặc. Trong Từ nhập cận giải, hoàng

đế viết: “Lũ thường bị chiếu, dĩ tật bất năng nhập triều” (Nhiều lần tiếp được

chiếu vời, chỉ vì đau yếu không thể vào chầu) [211; 550] và “Phổ chi thiên hạ, mạc

phi vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi vương thần” (Khắp cả gầm trời, chẳng đâu

không phải đất nhà vua; khắp các bến bờ trên cõi đất, chẳng ai không phải bề tôi

nhà vua) [211; 550]. Trần Nhân Tông đã khéo trong việc sử dụng ngôn từ viện cớ

đau yếu không sang chầu.

Thơ văn đã được các hoàng đế Đại Việt sử dụng có hiệu quả trong công việc

đối ngoại. Qua thơ văn bang giao, các hoàng đế Đại Việt đã thể hiện được vai trò là

một thiên tử của Đại Việt, một chính khách ngoại giao tài ba, góp phần hạn chế

giao tranh bảo vệ nền hoà bình cho dân tộc. Lời thơ được các hoàng đế bày tỏ thái

độ nhún nhường, đề cao vương triều phương Bắc nhằm thể hiện khát vọng hoà

bình, mong muốn tránh cảnh máu chảy đầu rơi. Tuy nhiên ý thơ lại không thể hiện

một tinh thần nhu nhược, đầu hàng mà khéo léo thể hiện một thái độ tự tôn, ý thức

63

chủ quyền, niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc và nhu cầu được đối phương tôn

trọng các giá trị ấy.

3.1.2. Nhân vật hoàng đế - thiền nhân trong những suy tư mang màu sắc tôn giáo

Phật giáo với tư tưởng vô ngã, vô thường, nhân quả nghiệp báo và triết lí

nhân sinh từ, bi, hỉ, xả… gần gũi với đời sống tình cảm người Việt, đã được đông

đảo các tầng lớp nhân dân đón nhận. Phật giáo không chỉ khẳng định được tầm

quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân mà còn có sức ảnh hưởng mạnh

mẽ đến đời sống văn hoá chính trị và xã hội Đại Việt. Phật giáo đạt cực thịnh ở

nước ta dưới triều đại Lý – Trần với các thiền phái: Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn

Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo giai đoạn này được các hoàng

đế Đại Việt tôn sùng, có địa vị như là quốc giáo. Bên cạnh vận dụng đường lối

đức trị, thân dân, các hoàng đế Đại Việt xem lễ nhạc, văn chương là phương tiện

trị quốc. Đó là những căn rễ hình thành nên loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư

– thi sĩ. Sáng tác của các hoàng đế trong giai đoạn này mang đậm màu sắc diễn

ngôn đế vương, đồng thời chứa chan những chiêm nghiệm cuộc đời và hướng

thiền một cách sâu sắc.

Loại hình hoàng đế – thiền sư – thi sĩ phổ biến trong văn học Việt Nam thời

Lý – Trần, tiêu biểu trong các sáng tác của Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân

Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… Trước thời Lý, các

hoàng đế hầu như chưa tham gia sáng tác thơ văn, hoặc có sáng tác nhưng đã thất

truyền theo thời gian. Đầu thời Lý, Lý Thái Tổ có Thiên đô chiếu nhưng phải đến

Lý Thái Tông mới định hình tương đối rõ nét kiểu tác gia hoàng đế – thiền sư – thi

sĩ. Hoàng đế – thiền sư – thi sĩ là ba loại hình nhân vật khác nhau. Tuy nhiên trong

giai đoạn Lý – Trần, các loại hình nhân vật này có sự giao thoa, quan hệ biện chứng

với nhau trong chủ thể hoàng đế.

Trong xã hội chịu ảnh hưởng của Phật giáo, các hoàng đế Lý triều chủ yếu

dùng văn chương để truyền đạo, chú trọng tôn giáo, đề cao thần quyền – như một

cách phục vụ vương quyền. Lý Thái Tông có thể coi là người đặt nền móng cho loại

hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. Ngoài việc thực hiện các hành động

hướng Phật, qua những sáng tác văn chương Lý Thái Tông còn cho thấy hình ảnh

về một vị hoàng đế gắn bó với đời sống, có trách nhiệm với đất nước, dân tộc, một

64

con người hành động và có tinh thần nhập thế. Ông có những bài chiếu, lời bàn

luận, kệ, truy tán in đậm dấu ấn của văn học chức năng và chứa đựng những nội

dung của Phật giáo. Trong các sáng tác của mình, ông thường đề cập đến “bát nhã”:

“Bát nhã chân vô tông,/ Nhân không ngã diệc không./ Quá, hiện, vị lai Phật,/ Pháp

tính bản tương đồng.” (Ánh sáng của trí tuệ thật không có nguồn gốc nào cả,/

Người là không mà ta cũng là không./ Các vị Phật quá khứ, hiện tại và tương lai,/

Tính Phật vốn giống nhau.) (Thị chư thiền lão tham vấn thiền chỉ - Lý Thái Tông)

[209; 242]. Bát nhã nghĩa là trí tuệ siêu việt. Hoàng đế Lý Thái Tông xác định “bát

nhã chân vô tông”. Trí tuệ siêu việt vì không thể giải thích bằng khái niệm như cách

nhận thức thông thường mà phải qua các ngôn ngữ tỷ dụ, hình ảnh. “Không” ở đây

được hiểu mọi thứ đều là hư ảo, mọi sự vật hiện tượng đều có tính phật và bình

đẳng như nhau.

Còn có thể gặp tinh thần Bát nhã trong sáng tác khác của hoàng đế Lý Thái

Tông:“Hạo hạo lăng già nguyệt,/ Phân phân Bát nhã liên./ Hà thời lâm diện kiến,/

Tương dữ thoại trùng huyền.” (Trăng Lăng già sáng vằng vặc,/ Sen Bát nhã ngát

hương thơm./ Bao giờ được gặp mặt nhau,/ Để cùng đàm luận về lý lẽ vô cùng huyền

diệu.) (Truy tán Tỳ Ni Đa Lưu Chi thiền sư – Lý Thái Tông) [209; 243]. Hoàng đế Lý

Thái Tông hứng khởi với tinh thần Bát nhã. Ông ca ngợi đức hạnh của sư tổ Thiền

phái đầu tiên của nước ta và bày tỏ được gặp mặt đàm luận. Từ đó có thể thấy được

yếu tố Phật giáo trong tư tưởng của Phật Mã.

Đến thời Trần, Nho giáo đã bắt đầu có vị thế trong xã hội. Chế độ khoa cử

sản sinh ra ngày càng đông đảo tầng lớp nho sĩ và tầng lớp này có sức ảnh hưởng

đến cả hệ thống chính trị. Mặc dù vận dụng Nho giáo vào việc trị nước nhưng nhiều

hoàng đế triều Trần đã cũng quan tâm nghiên cứu Phật giáo. Các đế vương đã nới

rộng đường biên tư tưởng thẩm mĩ bằng việc dùng văn chương để xây dựng chế độ

quân chủ và con đường truyền bá Phật pháp. Điểm đặc biệt của triều Trần là xuất

hiện nhiều hoàng đế nhường ngôi cho con lui về làm Thái thượng hoàng: “Gia pháp

của nhà Trần lại khác thế, con đã lớn thì cho nối ngôi chính, cha lui ở cung Thánh

từ, xưng là thượng hoàng, cùng trông coi chính sự. Thực ra chỉ truyền ngôi để yên

việc sau, phòng khi thảng thốt mà thôi, chứ mọi việc đều do ở thượng hoàng quyết

định cả. Vua nối không khác gì hoàng thái tử cả” [97; 286]. Việc nhường ngôi đã

65

giúp các hoàng đế triều Trần tránh chuyện tranh giành ngôi báu trong hoàng tộc,

đồng thời tạo cơ hội cho vị tân vương trẻ tuổi tập làm quen việc trị nước. Thái thượng

hoàng trên danh nghĩa giữ vai trò cố vấn, song thực tế vẫn là người quyết định công

việc quốc gia, có quyền thay đổi người kế vị. Các hoàng đế triều Trần nhường ngôi

và tiếp tục con đường tu hành đạo Phật. Tiêu biểu là hoàng đế Trần Nhân Tông, trên

cơ sở kế thừa những nền tư tưởng trước đó ông đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm

Yên Tử mang đậm dấu ấn và bản sắc Việt Nam.

Tiếp nối hoàng đế triều Lý, các hoàng đế triều Trần đã thể hiện được phẩm

chất thiền sư qua những sáng tác văn học chức năng: các bài kệ, bài giảng, hành

trạng; văn hoc hành chính: văn, thơ bang giao; văn học nghệ thuật: thơ, phú... Các

tác phẩm văn học của các hoàng đế triều Trần đã chứa đựng những nét từ cơ bản

đến sâu sắc thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo với các khái niệm tâm, hữu –

vô, sinh – diệt, pháp, thân… Điểm đặc biệt, các hoàng đế triều Trần mang tư tưởng

“hòa quang đồng trần”, đem Phật giáo gắn với đời sống xã hội, kêu gọi tích cực

nhập thế. Tư tưởng “hòa quang đồng trần” của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử hướng

con người hòa nhập với cuộc sống trần tục. Đặt trong tương quan giữa đời và đạo,

mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền, các hoàng đề triều Trần luôn có cách

thức ứng xử linh hoạt trước cuộc đời, xác định khi nào cần "hòa quang đồng trần"

gắn bó với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, khi nào có thể chuyên tâm với kinh

sách và hoằng dương Phật pháp. Mặc dù Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã đi

theo con đường tu hành nhưng khi đất nước lâm nguy họ sẵn sàng trút áo cà sa để

mặc áo bào xung trận. Khi đất nước giành thắng lợi, họ lại quay về với cánh cửa

thiền môn. Tư tưởng này đã đưa Phật giáo thoát khỏi những yếu tố tư tưởng ngoại

lai như dưới triều Lý. Hoàng đế triều Trần vẫn tiếp tục phát triển về mẫu hình hoàng

đế – thiền sư – thi sĩ, tiêu biểu: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông.

Đặc biệt, tư tưởng "hòa quang đồng trần" xuất hiện trong nhiều sáng tác của Trần

Nhân Tông. Những sáng tác của ông không chỉ in đậm dấu ấn Thiền học mà còn

xuất lộ các hình ảnh, điển tích Nho giáo. Trong Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân

Tông vẫn nhắc đến "Ơn Nghiêu khoáng cả", "Ngay thờ chúa, thảo thờ cha", "Gác

ngọc lầu vàng"...; trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ông vẫn đề cập đến "Công

danh chăng trọng - Phú quý chăng màng", "Tần Hán xưa kia", "An thân lập

66

mệnh"... nhìn chung, ở Trần Nhân Tông luôn có sự hiện diện hình ảnh một hoàng

đê – thiền sư – thi sĩ.

Về văn học, thời Trần nở rộ các sáng tác mang đậm các nội dung Phật giáo.

Tiêu biểu trong giai đoạn này là các tác phẩm: Thiền tông chỉ nam tự, Kim cương

Tam muội kinh tự – Trần Thái Tông, Cư Trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền

thành đạo ca, Thượng sĩ hành trạng – Trần Nhân Tông… Trần Thái Tông là vị

hoàng đế mở đầu cho loại hình tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ triều Trần. Ông

lên ngôi trong giai đoạn diễn ra nhiều biến động của lịch sử: Lý Chiêu Hoàng

nhường ngôi; ông lấy chị dâu là Thuận Thiên vợ của Trần Liễu làm hoàng hậu.

Mặc dù đó là những lỗi lầm không tự gây ra nhưng đã khiến ông luôn sống trong

ray rứt. Có lẽ vì thế mà ông từ bỏ ngai vàng tìm đến Yên Tử để hướng về Phật

pháp. Chưa có nhân duyên với nhà Phật, ông đã trở lại ngai vàng nhưng lòng vẫn

hướng về Phật. Bài Tựa Thiền Tông chỉ nam tự đã thể hiện những mối chiêm

nghiệm sâu sắc của Trần Thái Tông về quan hệ giữa đạo và đời, hữu và vô, sinh

và tử: “Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính

người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám

người mê muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt

mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên

thánh” [143; 38]. Trần Thái Tông nhấn mạnh mối quan hệ giữa vương quyền và

thần quyền, giữa nhập thế và xuất gia. Tiên thánh - chỉ Thánh của nhà nho tức

Khổng - Mạnh, đức Phật thuộc Phật giáo. Trong tư tưởng của Trần Thái Tông có

sự dung hoà giữa hai học thuyết Nho – Phật. Trước những ưu tư cuộc đời, ông

muốn tìm cõi Phật để tu hành: “Trẫm tự bảo mình: trên đã không có cha mẹ để

nương tựa, dưới lại e chẳng xứng với lòng dân trông đợi, biết làm thế nào? Suy đi

nghĩ lại không gì hơn lui về chốn núi rừng tìm học đạo Phật” [143; 39]. Ông tìm

gặp nhà sư và ngộ ra chân lí: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong

lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là thần Phật” [143; 40].

Phật giáo chủ trương con người tự lực, bằng nội lực mà tu hành đạt đến giác

ngộ, không có ngoại lực (tha lực) nào giúp được. Chẳng cần phải đi tìm Phật ở đâu

xa mà hãy tìm Phật ở tại chính tâm mình. Đây chính là tiền đề tư tưởng để Tuệ

Trung thượng sĩ và sau đó là Trần Nhân Tông tiếp tục phát triển quan niệm Phật

67

chính tâm: “Vậy mới hay!/ Bụt ở trong nhà;/ Chẳng phải tìm xa/ Nhân khuây bản

nên ta tìm Bụt;/ Đến cốc hay chỉn Bụt là ta” (Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân

Tông) [211; 506]. Phật hoàng Trần Nhân Tông trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Tuệ

Trung thượng sĩ và hoàng đế Trần Thái Tông đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm

Yên Tử. Ông cho rằng Bụt ở trong bản thân mình chẳng phải tìm xa. Tâm thanh

tịnh hay Phật tính là biểu hiện của cảnh giới giác ngộ, giải thoát. Xuất thân trong

hoàng tộc vốn tôn sùng đạo Phật, bản thân là người khai sáng Thiền phái Trúc Lâm,

song Trần Nhân Tông vẫn chủ trương tam giáo đồng nguyên. Trần Nhân Tông cai trị

trong giai đoạn hưng thịnh của Đại Việt. Tuy nhiên ông không tham quyền cố vị mà

hướng đến cửa Phật.

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,/ Cơ tắc xa hề khốn tắc miên./ Gia trung hữu

bảo hưu tầm mịch,/ Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” (Cõi trần vui đạo hãy tuỳ

duyên,/ Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên./ Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm,/ Vô tâm

trước cảnh, hỏi gì Thiền.) (Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân Tông) [211; 510]. Nội

dung bài phú được gói gọn trong những câu cuối: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”

- Thiền là đối cảnh vô tâm, không cần hỏi thiền là gì nữa. Vô tâm là trạng thái tâm

tịch mịch, trống rỗng, đã diệt trừ tất cả hỷ - nộ - ai - cụ - ái - ố - dục. Đây là cảnh

giới tâm lý cao nhất, nhà tu hành đạt đạo, giác ngộ. Thế nào là “đối cảnh vô tâm”?

Cảnh là toàn bộ ngoại giới. Nhà tu hành đạt đạo khi đứng trước sự cám dỗ của tiền

tài, danh lợi, sự mua chuộc hay đe dọa, trước cái chết… đều bình thản, không mảy

may xúc động, sợ hãi, ham muốn, thế là “vô tâm”. Phật giáo quan niệm người như

vậy mới có dũng khí, có trí tuệ, có sức mạnh tinh thần để đảm đương đại nghiệp.

Hơn ai hết, hoàng đế phải đạt đến cảnh giới “đối cảnh vô tâm”.

“Thuỳ phọc cánh tương cầu giải thoát,/ Bất phàm, hà tất mịch thần tiên./ Viên

nhàn, mã quyện nhân ưng lão,/ Y cựu vân trang nhật tháp thiền.” (Ai trói buộc mà

tìm phương giải thoát,/ Chẳng phàm tục cần gì tìm thần tiên./ Vượn nhàn, ngựa mỏi,

người cũng đã già,/ Vẫn một chiếc giường thiền ở am mây cũ.) (Sơn phòng mạn hứng

I – Trần Nhân Tông) [211; 469]. Hoàng đế hiện lên trong bài thơ với tâm thế ung

dung, tự tại không ràng buộc, để đi tìm giải thoát; bởi vạn vật vô thường, hữu hạn, lợi

danh rồi cũng tựa phù vân. Cuộc đời cùng những thị phi, toan tính, lợi danh rồi cũng

sẽ hữu hạn như cảnh xuân tàn: “Thị thi niệm trục trêu hoa lạc,/ Danh lợi tâm tuỳ dạ

68

vũ hàn./ Hoa tận vũ tinh sơn tịch tịch,/ Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.” (Niềm thị

phi rụng theo hoa buổi sớm,/ Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm./ Hoa rụng hết,

mưa đã tạnh, núi non tịch mịch,/ Một tiếng chim kêu lại cảnh xuân tàn.) (Sơn phòng

mạn hứng II – Trần Nhân Tông) [211; 469]. Vạn vật trong thế giới tự nhiên luôn

không ngừng biến đổi theo thời gian. Tác giả dùng những biểu tượng thiên nhiên để

biện luận cho hiện tượng hư ảo, vô thường.

Tinh thần vô uý của triết lý nhà Phật đưa Trần Thái Tông đến nhận thức

chung về sự hiện hữu – sinh diệt của đời người. Theo quan điểm nhà Phật, chết

chưa phải là hết mà chỉ là một sự chuyển tiếp trong vòng luân hồi. Nếu chưa đạt đến

giới hạn của sự giác ngộ thì vẫn không giải thoát được ngả luân hồi và rơi vào cảnh

địa ngục: “Phi mao đới giác, hàm thiết phụ yên; dĩ nhục cung nhân, dụng mệnh

toàn trái” (Khoác lông đeo sừng; mang yên ngậm sắt. Đem thịt dâng người; lấy

thân trả nợ) (Phổ khuyết phát Bồ Đề tâm – Trần Thái Tông) [211; 64]. Các hoàng

đế theo đạo Phật có điểm chung là dự đoán được cái chết của mình. Đại Việt sử kí

toàn thư ghi chép Lý Thánh Tông: “Năm trước có một hôm thượng hoàng chợt bảo

các người hầu cận rằng: Đến tháng tư sang năm ta tất chết. Đến đây quả nhiên như

thế” [97; 296]. Thực chất của việc tu hành là trải qua khổ hạnh, tẩy rửa dục vọng để

đạt đến thể tâm thanh tịnh. Cũng giống như các thiền sư Khuông Việt, Ngộ Ấn,

Trần Nhân Tông đọc bài kệ rồi nhập cõi tịch diệt. Được tin công chúa Thiên Thuỵ

bệnh nặng muốn gặp mặt, Phật hoàng chống gậy xuống núi, chỉ đem một thị giả

theo hầu. Thăm chị xong, ông lên đường về núi và được Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu

thỉnh về am Bình Dương. Trúc Lâm vui vẻ nói: “Có lẽ đây là buổi cúng dường cuối

cùng”. Ông về núi và gọi Bảo Sát đến gặp nói lời từ biệt, đọc bài kệ rồi viên tịch.

Đứng trước cái chết cận kề, Phật hoàng vẫn ung dung, tự tại truyền giao lại những

giác ngộ chân lí cho đệ tử. Đó là trạng thái thiền định, an nhiên tự tại, trái với trạng

thái âu lo, sợ hãi của người bình thường trước cái chết. Đó là cách mà cách mà

hoàng đế - thiền sư đắc đạo ứng xử với thân thể theo quan điểm đạo Phật.

Các vị hoàng đế triều Trần quan tâm đến việc giáo dục con người, hướng con

người đạt tới giác ngộ và giải thoát. Những sáng tác của Trần Thái Tông luôn

hướng tới giác ngộ, tỏ rõ ý chí không đánh mất mình trước những cám dỗ của đời

sống: “Ngã kim tuỳ phật sinh hoan hỉ,/ Hôn kiểu kiền thành lễ sám nhân./ Thập địa

69

giai thê nguyện tảo đăng,/ Bồ đề chân tâm vô thoái chuyển.” (Tôi nay theo phật

sinh lòng vui mừng,/ Sớm hôm thành kính sám hối nguyên nhân của lỗi lầm./ Mong

sớm được lên thang thập địa,/ Không xa rời chân tâm bồ đề.) (Chí tâm tuỳ hỉ - Trần

Thái Tông) [143; 144]. Hoàng đế Trần Thái Tông đã diễn tả sâu sắc cả hai mặt đạo

và đời. Ông đem những kiến thức thu nhận được vào công cuộc trị nước, an dân

bằng từ bi, khoan dung trên nền đức trị. Về đạo, ông có công trong việc hoằng

dương Phật pháp để giáo dân. Về đời, ông xả thân vì đất nước, bảo vệ nền độc lập

dân tộc trước kẻ thù hùng mạnh. Đó là tinh thần nhập thế, không xa rời thực tại, hoà

quyện giữa nhân cách hoàng đế và bậc thiền sư.

Trần Nhân Tông cũng là vị hoàng đế tích cực ra sức rèn đức cho dân: “Dứt

trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương/ Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu

viên giác./ Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;/ Di Đà là

tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc./ Xét thân tâm rèn tính thức, há rằng

mong quả báo phô khoe;/ Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán

chác.” (Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân Tông) [211; 505]. Hoàng đế cho rằng tu

đạo phải gắn liền với rèn tính sáng, dứt trừ nhân ngã, dứt hết tham sân mới trở thành

người đắc đạo. Điểm chung của Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông là đều xuất gia,

đều lui về làm thái thượng hoàng và nghiễn ngẫm Phật pháp. Trải qua bao chiêm

nghiệm cuộc đời, khi về làm thái thượng hoàng, Trần Thái Tông và Trần Nhân tông

đã viết ra những tác phẩm lớn có giá trị cao về tư tưởng Phật giáo: Khoá hư lục, Cư

trần lạc đạo… Các sáng tác của hai vị hoàng đế triều Trần gắn liền với những nội

dung từ căn bản đến sâu sắc nhất trong giáo lý của nhà Phật, sự am hiểu về giới luật

và các nghi thức của Phật giáo. Từ những nhận thức về Phật pháp, các hoàng đế

triều Trần đã hoằng dương Phật pháp đến chúng dân. Hoàng đế Trần Thái Tông viết

Khoá hư lục nhằm giáo chúng những bài học về sắc thân, sát sinh, răn về sắc, niệm

phật, ngồi thiền… Trần Nhân Tông đi khắp nơi truyền bá Phật pháp giáo hóa chúng

dân, thể hiện được trách nhiệm của hoàng đế đối với xã hội. Từ đó có thể thấy được

sự hoà hợp giữa Nho giáo và Phật giáo, giữa thần quyền và vương quyền.

Mô hình hoàng đế – thiền sư – thi sĩ triều Trần còn được thể hiện qua các sáng

tác của hoàng đế Trần Anh Tông. Bên cạnh việc làm thơ đề vịnh cảnh chùa, đề tặng

nhà sư, ông còn thể hiện tư tưởng Phật giáo về lẽ thuận theo tự nhiên: “Chủng chưng

70

hư nguy,/ Vô pháp khả đắc,/ Bệnh nhãn không hoa./ Vong phân năm bắc./ Dã bất tạo

ác,/ Dã bất tu thiện./ Thuỵ lai đả miên,/ Cơ lai khiết phạn./ Tòng tha nhiễu nhiễu,/

Nhậm nhĩ phân phân./ Nguyên lai y cựu,/ Thái vũ chủ nhân.” (Mọi vật đều hư ảo,/

Không có cách nào nắm được./ Như con mắt đau ốm nảy hoa,/ Phân biệt bừa thành

Nam và Bắc./ Cũng chẳng gây điều ác,/ Cũng không làm điều thiện./ Buồn ngủ thì đi

ngủ,/ Đói bụng thì ăn cơm./ Mặc nó cứ rối loạn,/ Mặc nó cứ bộn bề./ Vốn xưa vẫn

thế,/ Là chủ của vũ trụ bao la.) (Ký Phổ Tuệ tôn giả I - Trần Anh Tông) [211; 581].

Trong tư tưởng, hoàng đế Trần Anh Tông còn chịu ảnh hưởng từ vua cha

Trần Nhân Tông “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên”. Mặc dù tư tưởng Phật giáo không

thật sự rõ nét trong sáng tác của Trần Anh Tông nhưng ông cũng đã góp phần duy

trì thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và mẫu hình hoàng đế – thiền sư. Các hoàng đế Lý

– Trần tôn sùng đạo Phật không vì sở thích cá nhân mà vì họ chọn Phật giáo làm

quốc giáo. Phật giáo được các hoàng đế Lý – Trần nhìn nhận dưới góc độ không chỉ

là tôn giáo mà còn là hệ tư tưởng triết học để góp phần xây dựng con người thời đại

nhân ái, bao dung, cởi mở và tự tin.

3.1.3. Nhân vật hoàng đế - thi sĩ trong cảm quan thẩm mĩ

3.1.3.1. Tình yêu thiên nhiên

Các hoàng đế giai đoạn này có sự phân thân một bên là con người chức năng,

một bên là dấu hiệu của cái tôi cá thể. Với tư cách con người chức năng, hoàng đế

dùng văn chương vào công cuộc trị quốc và hoằng dương Phật pháp. Các thể loại

hành chính, công vụ đều được đưa vào văn chương để phục vụ công việc triều đình:

kệ, bài giảng, hành trạng, cáo, chiếu, biểu, tấu… Cái tôi cá thể của hoàng đế trong

văn học giai đoạn này chưa được thể hiện nhiều. Tuy nhiên, những cảm xúc trước

thiên nhiên, những tác động của cuộc sống đời thường đã giúp con người cá nhân

trong hoàng đế có dịp được thể hiện.

Cảm hứng chính trong văn học giai đoạn này chính là cảm hứng yêu nước. Con

người xuất hiện trong văn chương phần lớn mang tính cộng đồng. Đó là những con

người hướng tâm, sống theo những chuẩn mực đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, qua

những sáng tác của các hoàng đế, trong văn học giai đoạn này có thể nhận thấy sự

tăng dần của yếu tố tự sự, trữ tình. Các hoàng đế thời Lý dùng văn chương phần lớn

để phục vụ tôn giáo và hành chính nên đậm nét mẫu hình hoàng đế - thiền sư. Từ

71

thời Trần, những sáng tác của các hoàng đế đã mở rộng đối tượng phản ánh và

hướng đến yếu tố trữ tình. Văn chương của các hoàng đế bắt đầu gắn liền với đời

sống và gia tăng tính nghệ thuật. Di sản quan trọng của văn học Lý – Trần là thơ

thiền. Nhìn từ chức năng, thơ thiền có hai loại: loại thứ nhất vốn là những bài kệ,

tụng để nêu lên những quan niệm về thiền và truyền đạo. Loại thứ hai nằm giữa kệ

và thơ, vừa mang những triết lý thiền vừa chứa đựng những cảm xúc trước thiên

nhiên, con người, cuộc sống trần thế.

Nguyễn Công Lý đánh giá về thơ các hoàng đế triều Trần: “Các vua chúa đời

Trần khi về già hoặc bất mãn việc gì hay tìm đến thiên nhiên… đi tu đối với các vị

là một cái thú được xa lánh phồn hoa đô hội để gần gũi với thiên nhiên và để sáng

tác thơ ca. Vì vậy, họ thường là thi nhân hơn là thiền sư” [105; 110]. So với các

hoàng đế triều Lý thì các hoàng đế triều Trần đã bộc lộ ngày càng rõ nét cái tôi trữ

tình, những cảm xúc, suy tư trước cuộc đời qua thơ văn. Qua ngòi bút của thi sĩ, cái

tôi trữ tình đã thể hiện được những nhân cách lí tưởng của hoàng đế – thiền sư.

Thiên nhiên trong thơ thiền có hai dạng. Một là hình ảnh thiên nhiên mang tính

chất biểu tượng, bày tỏ trực tiếp, hoặc gián tiếp tư tưởng triết lý Phật giáo. Hai là hình

ảnh thiên nhiên hiện thực đẹp đẽ, sinh động khiến tác giả rung cảm và đưa vào thơ ca

thông qua cảm quan thiền học. Nếu như thiên nhiên mang tính biểu tượng được thể

hiện dưới góc độ hoàng đế – thiền sư thì thiên nhiên hiện thực tạo nên hình ảnh hoàng

đế – thi sĩ. Thơ viết về thiên nhiên hiện thực của hoàng đế Trần Nhân Tông hướng đến

thuỷ nguyệt điền viên, giang sơn, lâm tuyền… Với cảm hứng thuỷ nguyệt điền viên,

trong thơ Trần Nhân Tông hiện lên ánh trăng lung linh và dòng nước trong yên ả.

Ánh trăng trong thơ Phật hoàng hiện lên trong trẻo và hoà nhập với cảnh sắc thiên

nhiên: “Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,/ Lộ trích thu đình dạ khí hư./ Thụy khởi

châm thanh vô mịch xứ,/ Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.” (Bóng đèn soi nửa cửa

sổ, sách đầy giường,/ Sương thu rơi ngoài sân, hơi đêm nhẹ./ Thức giấc nghe tiếng

chầy đập vải đâu đó./ Trăng vừa mọc đến ngọn hoa quế.) (Nguyệt – Trần Nhân

Tông) [143; 347].

Màn đêm vắng vẻ, tĩnh lặng đến mức thi nhân có thể lắng nghe được cả tiếng

sương thu rơi trên sân. Tiếng động từ sương rơi dù rất nhẹ nhàng nhưng đã phá vỡ

cái yên ắng của của màn đêm và khoảng không bao la của vũ trụ. Sự đối lập động -

72

tĩnh cho thấy tâm hồn thi sĩ rất nhạy bén, rung cảm và giao hoà với thiên nhiên, tạo

vật. Ở hai câu thơ cuối, cảnh bắt đầu chuyển động. Tiếng chày đập vải là âm thanh

của cuộc sống trần thế. Dù khi thức dậy đã không còn nghe tiếng chày, nhưng ở

đâu đó trong tiềm thức, dường như còn âm vang trong tâm tưởng thi sĩ. Phải có một

tình yêu thiên nhiên, một sự tĩnh lặng cao độ, một tâm hồn cởi mở sẵn lòng giao

hoà với vạn vật mới cảm nhận được hết những chuyển biến tinh tế của thiên nhiên

trong khung cảnh bao la, huyền diệu.

Văn học thời Lê sơ vẫn không nằm ngoài nhiệm vụ truyền tải các yếu tố văn

hoá chính trị. Tuy nhiên tính chất nghệ thuật đã dần gia tăng nếu đặt trong cái nhìn

đối sánh với văn học chức năng. Thơ ca của hoàng đế cũng đã tăng dần yếu tố tự

sự, trữ tình, tỏ bày xúc cảm phong phú trước tạo vật… Giai đoạn này văn học dân

tộc ghi nhận một vị hoàng đế không chỉ tài năng trị quốc mà còn giỏi thơ văn. Đó là

vị hoàng đế thứ tư triều Lê sơ - Lê Thánh Tông - một thi sĩ với khối lượng sáng tác

đồ sộ chữ Hán lẫn chữ Nôm. Đặc biệt, Lê Thánh Tông là chủ soái Tao đàn nhị thấp

bát tú. Việc lập Tao đàn nhị thập bát tú thể hiện mong muốn tạo một không gian

sinh hoạt văn hóa cung đình nơi vua tôi xướng họa - điều được nhà vua đề cập

trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca: “Ta nhân rảnh việc, nhàn khoảng nửa ngày, mắt

xem rừng sách, lòng dạo vườn văn. Im lặng chung quanh, thơm phức một vùng.

Lòng dục lắng xuống, tinh thần lên cao. Trong cảnh tĩnh mịch, nhân đà hứng thú.

Ta chợt nghĩ đến phép nước lớn lao của các bậc vua sáng, cũng như ý thức cẩn

trọng của bao kẻ tôi hiền, bèn cho gọi chàng Giấy họ Bút, vị khách quý Mực đen,

người trọng thần Nghiên đá…” [127; 507]. Mặc dù như đã nói, việc xướng hoạ

nhằm mục đích ca ngợi hoàng đế, răn dạy quần thần nhưng không thể phủ nhận

rằng, nó xuất phát từ tâm hồn thi sĩ của hoàng đế.

Tập thơ Chinh Tây kỷ hành đã cho thấy nỗi nhớ nhà, nhớ người thân da diết

của hoàng đế Lê Thánh Tông. Cởi bỏ áo bào trở về với con người thế sự, ông cũng

trăn trở với những niềm riêng, những tình cảm cá nhân của một con người bình

thường trong thế tục. Tuy nhiên trước cảnh nhân dân lầm than, ông đã dẹp bỏ tình

riêng tiếp tục lên đường cứu dân: “Trừng trừng bích hán thái vân thu,/ Thiên tế vô

hà nguyệt sắc phù./ Bách niệm công nhân can phế nhiệt,/ Bất năng thành mộng đáo

thần chu.” (Ngân Hà trong lặng, vẻ mộng thu lại,/ Trời trong không gợn, ánh trăng

73

hằn rõ./ Nghĩ đến dân trăm mối, gan ruột như bốc sôi,/ Còn có lòng nào mộng mị

hướng về Kinh kỳ nữa.) (Cảm nguyệt – Lê Thánh Tông) [127; 118].

Qua thơ văn, độc giả còn gặp gỡ một hoàng đế Lê Thánh Tông có tâm hồn

yêu thiên nhiên tha thiết. Ông ca ngợi giang sơn gấm vóc qua vịnh cảnh sông núi,

đền miếu, trăng gió, lá hoa… Cảnh vật trong thơ Lê Thánh Tông không chỉ được

cảm nhận bằng con mắt của một nhà thơ mà còn được chiêm ngưỡng qua cái tâm

của một vị hoàng đế. Thơ Lê Thánh Tông có sự luân phiên hoá thân nhân vật trần

thuật. Khởi đầu từ một điểm nhìn của một nhà thơ để ca ngợi thiên nhiên sau đó

chuyển đến điểm nhìn của một hoàng đế ca ngợi sự giàu đẹp của đất nước. Ngoài

ra, độc giả còn bắt gặp bức tranh tự họa bằng thơ của Lê Thánh Tông mang đậm

màu sắc thi sĩ. Đó là những bài thơ có chủ đề trữ tình hướng nội. Ông mượn lời thơ

để thể hiện những khát vọng cá nhân, những nỗi niềm sầu kín rất đời thường:

“Giang hàm lạc nhật dao cô ảnh,/ Tâm trục phi vân tức vạn duyên.” (Mặt trời chiếu

đáy sông, rung rinh chiếc bóng,/ Lòng ruổi theo mây, lặng lẽ nỗi niềm.) (Đông tuần

quá An Lão – Lê Thánh Tông) [127; 141]. Có thể thấy ở đây một thi sĩ Lê Thánh

Tông mượn thiên nhiên bày tỏ khoảng lặng trong tâm hồn. Phía trong hình tượng

mặt trời đơn lẽ in bóng dưới dòng sông, thả lòng theo dòng nước là bao niềm ưu tư,

thầm kín của thi sĩ.

Qua văn chương tự hoạ, các hoàng đế giai đoạn này có khi đóng vai trò là

một thiền sư đắc đạo, có khi là một nhà chính trị kiệt xuất và cũng không ít lần

nhập vai thi sĩ để bày tỏ những tâm tư đậm chất trữ tình. Điểm chung của họ đều

yêu thiên nhiên, mượn thiên nhiên để bày tỏ những nỗi lòng thi sĩ.

3.1.3.2. Tình yêu thương dành cho con người

Yêu thiên nhiên, giao hoà với thiên nhiên nhưng hoàng đế – thi sĩ không

quên gửi vào thơ ca tình yêu thương dành cho con người. Các hoàng đế từ thế kỉ X

đến thế kỉ XV lựa chọn nền đức trị, thân dân nên những suy nghĩ của họ đều gần

gũi và hướng về số phận những con người trong xã hội.

“Thuỵ khởi câu liêm khán truy hồng,/ Hoàng li bất ngữ oán đông phong./ Vô

đoan lạc nhật Tây lâu ngoại,/ Hoa ảnh chi đầu tận hướng Đông.” (Ngủ dậy cuốn

rèm thấy hoa hồng rụng,/ Chim hoàng anh chẳng hót giận gió xuân./ Bỗng dưng

mặt trời lặn ngoài lầu Tây,/ Bóng hoa đầu cành đều hướng về phía Đông.) (Khuê

74

oán – Trần Nhân Tông) [143; 342]. Với chủ thể sáng tạo phần lớn là các nhân vật

chính trị, văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mang “hơi thở

chính trị” từ không gian đến nội dung thể hiện. Phần lớn những tác phẩm văn học

của giai đoạn này ra đời nhằm mục đích duy trì và bảo vệ chế độ chuyên chế. Vì

thế vấn đề nữ quyền trong văn học giai đoạn này rất hiếm hoi bởi văn học bị “trói

buộc” theo quan niệm Nho giáo. Người phụ nữ hầu như không có tiếng nói cá

nhân. Họ bị giam lỏng trong những quy chế: tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tuỳ…

Ở vị thế một hoàng đế, nhưng Trần Nhân Tông đã mở lòng mình để bày tỏ niềm

thương cảm cho người chinh phụ.

Bài thơ Khuê oán mượn cảnh buổi sớm mai để diễn tả tâm trạng người khuê

nữ. Sau giấc ngủ êm đềm nơi màn che, trướng gấm, người phụ nữ cuốn bức rèm để

ngắm thiên nhiên ngoài khung cửa. Hình ảnh hoa rụng tượng trưng cho tuổi xuân

sắc đang dần trôi. Chim hoàng anh chẳng hót phải chăng vì đang oán giận gió xuân

đang cướp đi những cánh hoa của tuổi xuân thì. Người khuê phụ trong bài thơ đã

nhận thức được quy luật tuần hoàn của bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông. Đời người

cũng vận hành qua bốn giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử. Khuê phụ bày tỏ tâm trạng

buồn đau, oán hận vì phải sống đơn độc, mỏi mòn trong lầu son, gác tía. Hình ảnh

bóng hoa đang hướng về phía Đông tượng trưng cho tuổi trẻ còn căng tràn nhựa

sống. Dẫu biết mặt trời lặn về phía Tây là quy luật của tự nhiên nhưng nó vô tình,

hờ hững trước những chồi non mơn mởn. Mặt trời ở đây là biểu trưng cho đấng

quân vương với vẻ đẹp rực rỡ, ấm áp. Bóng hoa là biểu trưng cho số phận những

người cung nữ chốn lầu son. Hoàng đế Trần Nhân Tông dùng hai hình ảnh biểu

trưng để nói lên nỗi buồn thương của những người cung nữ chốn hậu cung đang

khao khát, chờ đợi ân tình của đấng quân vương.

Bình thiên hạ là mục tiêu cao quý nhất của người quân tử; và trong con

đường hướng đến giá trị lí tưởng đó, Nho giáo xem nữ giới, tình yêu đôi lứa là vật

cản đối với con đường tu thân của người quân tử. Trong những sáng tác của mình,

hoàng đế Lê Thánh Tông luôn thể hiện sự trân trọng, bao dung đối với nữ giới:

Trưng Vương, Vũ Nương... Có thể nói Lê Thánh Tông là hoàng đế đầu tiên dành

nhiều niềm thương cảm cho nữ giới qua văn chương. Ông ca ngợi những tấm gương

liệt, trinh, thục nữ: “Sở quốc Phàn Cơ quang phụ đức,/ Trưởng tôn Hoàng hậu hữu

75

gia mô.” (Phàn Cơ nước Sở đã nêu gương tốt về đạo đức phụ nữ,/ Hà hoàng họ

Trưởng Tôn đã noi theo một khuôn phép đẹp.) (Khiến thái tử nhập học – Lê Thánh

Tông) [127; 144].

Lê Thánh Tông bày tỏ niềm thương cảm và giải oan cho Vũ nương. Ông

viết về nỗi oan khuất của người phụ nữ chịu thác oan bởi cảnh xa chồng vì binh

loạn. Vũ nương đã trở thành tấm gương giữ đạo vợ chồng chung thuỷ, trinh tiết:

“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,/ Miếu ai như miếu vợ chàng Trương?/

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,/ Cung nước chi cho luỵ tới nàng./ Chứng quả

đã đôi vầng nhật nguyệt,/ Giải oan chi lọ mấy đàn tràng./ Qua đây mới biết nguồn

cơn ấy,/ Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.” (Điếu Vũ nương – Lê Thánh

Tông) [127; 59].

Lòng yêu thương của hoàng đế dành cho con người còn thể hiện bằng sự trân

trọng dành cho người lính già: “Bạch đầu quân sĩ tại,/ Vãng vãng thuyết Nguyên

Phong.” (Quân sĩ có người đầu bạc vẫn còn,/ Thường thường kể chuyện thời

Nguyên Phong.) (Xuân nhật yết Chiêu Lăng – Trần Nhân Tông) [143; 335]. Trong

gió xuân phơi phới, trước Chiêu Lăng sừng sững, oai nghiêm, người lính già vẫn

một lòng trung thành ngày đêm canh gác giữ gìn lăng tẩm. Dù năm tháng đã trôi xa

nhưng người lính già ấy vẫn say sưa kể lại những chiến công oai hùng của hoàng

đế Trần Thái Tông. Ký ức và thực tại đan xen làm tái hiện lại một giai đoạn hào

hùng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Bên cạnh

lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn tổ phụ, hoàng đế Trần Nhân Tông còn thể hiện

tình thương, lòng nhân ái, trân trọng những con người nhỏ bé.

Với trái tim nhân hậu của thi nhân, Lê Thánh Tông đã vượt ra ngoài những

giới hạn, những ràng buộc của Nho giáo để nâng niu những số phận bé nhỏ, bình

dân. Lê Thánh Tông còn thể hiện lòng thương cảm sâu sắc dành cho binh sĩ. Họ là

những người đã vào sinh ra tử, sát cánh bên ông trên chiến địa để bảo vệ nền hoà

bình cho Đại Việt: “Lạnh lẽo vui chi áng cõi bờ/ Miễn vì vực nước, cứu dân xưa/

Năm canh gió thổi lay con mác/ Nghìn dặm mưa rây đượm lá cờ/ Sương đượm lá

quyên nguyên nhuỵ ngọc/ Tuyết in cành trúc nảy hoa mơ/ Dãi dầu lại trải mười thu

vẹn/ Một tấm niềm đan phẳng nữa tờ.” (Đóng quân phương xa – Lê Thánh Tông)

[127; 63- 64]. Qua những câu từ trong bài thơ có thể thấy được nỗi nhọc nhằn của

76

những người lính xa nhà. Vì bảo vệ non sông, những người lính đã vượt nghìn dặm

xa xôi. Cuộc hành quân ấy bất kể ngày đêm trong thời tiết khắc nghiệt gió, mưa,

sương, tuyết. Tuổi trẻ những người lính gắn liền với trận địa, mười năm trường dầu

dãi nắng mưa nhưng vẫn vững chí, bền gan: “Diểu diểu ba đào cùng vọng nhật,/

Thông thông thời tự tích lưu niên./ Khước lân nê lộ cù lao sĩ,/ Phú thủ mang vô mộc

quách tiền.” (Sóng nước mênh mang, mắt nhìn mất hút/ Thời gian vùn vụt, tiếc thay

năm tháng/ Thương thay binh sĩ dãi dầu gian khổ/ Khi chết bịt đầu, không có tiền

sắm đồ khâm liệm.) (Trú Hà Hoa hải khẩu, dạ toạ thính vũ, bi cảm câu sinh – Lê

Thánh Tông) [127; 114]. Chiến tranh không thể tránh khỏi cảnh máu chảy đầu rơi.

Những người lính đã trải qua những năm tháng gian khổ, và lúc trận vong, họ nằm

lạnh lẽo giữa chiến trường. Lê Thánh Tông bày tỏ sự xót xa trước cảnh thiếu thốn

không được an táng đủ đầy cho những người lính quả cảm.

Đọc thơ Lê Thái Tông có thể thấy được tình thương bao la của ông dành cho

trăm họ. Mặc dù sống trong cung điện nguy nga nhưng ông luôn trằn trọc, âu lo cho

những người dân nơi biên ải. Xót xa trước cảnh nhân dân bị quấy nhiễu, bề tôi phản

loạn hoành hành, chữ “dũng” của đế vương đã thôi thúc ông “cách trừ ô nhiễm an

lương thiện”: “Bích chẩm tiêu tâm niệm viễn nhân/ Man tù hà sự tốc vong thân!/

Thế gian nhược hữu anh hùng chủ,/ Thiên hạ thuỳ dung bạn nghịch thần./ Điểu đạo

duyên vân không bị hiểm./ Âm nhai sướng noãn dĩ hồi xuân./ Cách trừ ô nhiễm an

lương thiện./ Nhẫn sử hà manh ngoại trí nhân.” (Trằn trọc thâu đêm nghĩ đến phần

đất xa xôi mà đau lòng/ Cớ gì kẻ tù trưởng kia đã vội hoại thân của mình?/ Ở thế

gian này đã có anh hùng làm chủ./ Vậy dưới vòm trời ai dung thứ cho kẻ bầy tôi

phản loạn./ Đường vào khó khăn mù mịt nay không còn cậy là hiểm trở nữa./ Chốn

hang sâu đã trở nên ấm áp, đầy khí xuân về./ Cần phải tẩy sạch những dơ bẩn để đời

sống dân lành yên sống./ Nỡ nào để dân biên cương mất quyền hưởng đức nhân cao

cả của ta.) (Thân chinh Thuận Muỗi châu – Lê Thái Tông) [126; 81].

Qua thơ ca có thể thấy được tư tưởng thân dân, trọng dân của các hoàng đế

giai đoạn này. Các hoàng đế sống chan hoà, yêu thiên nhiên, hiểu được nếp sống

của người dân lao động. Tình yêu của thiên tử dành cho thứ dân bao la, rộng mở.

Họ trân trọng nhiều kiếp người trong xã hội và bày tỏ sự cảm thông, nâng niu, chia

sẻ. Đinh Gia Khánh cho rằng: “Triều đình ngày xưa muốn có thể giữ nước và dựng

77

nước thì phải có chính sách thân dân, huệ dân. Và những tri thức yêu nước thì lại

càng thấy rõ vai trò của nhân dân. Đó là lý do khiến cho trong văn học, chủ nghĩa

yêu nước thường gắn với lòng yêu thương và quý trọng nhân dân” [164; 76]. Chính

vì thế mà Trần Minh Tông đặt mình ngang với dân, xem dân là anh em, đồng bào:

“Sinh dân nhất thị ngã bào đồng/ Tứ hải hà tâm sử khốn cùng.” (Hết thảy dân sinh

đều là người ruột thịt của ta/ Nỡ lòng nào để cho bốn bể khốn cùng.) (Nghệ An

hành điện – Trần Minh Tông) [143; 518].

Lê Thánh Tông luôn dành nhiều niềm ưu tư, lo lắng cho mọi tầng lớp lê dân

trong xã hội: “Nam Huân liêu cát nhật trường thì,/ Hoàn phiến huy phong ngọ

mộng nghi./ Phất phất lương phong nghi ngọ mộng,/ Hạ huề lao khổ vị tằng tri.”

(Gió nam nồng ấm thổi lộng gác thượng giữa ngày hè dằng dặc,/ Phây phẩy quạt lụa

khiến ai đó say giấc nồng ban trưa./ Hiu hiu gió mát khiến ai đó còn nằm mộng trưa

hè,/ Chính lúc đó, kẻ đi cày hì hục dưới ruộng rất khổ, có thấu cho chăng?) (Đề

phiến II – Lê Thánh Tông) [127; 89]. Ông bày tỏ niềm thương cảm cho người nông

dân dãi nắng dầm sương vất vả lo việc nông tang.

3.1.3.3. Con người phản tỉnh, trữ tình hướng nội

Với vai trò là một thi sĩ, các hoàng đế mượn lời thơ để bày tỏ tâm hồn hướng

nội, phản tỉnh để soi xét lại bản thân, đánh giá lại những gì đã qua trong cuộc đời

mình. Với tư cách một con người cộng đồng, các hoàng đế Lý – Trần tích cực nhập

thế, nhất là dưới triều Trần. Nhưng với con người cá nhân, qua lời thơ các hoàng đế

đã bộc lộ sự chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở. Đó là những niềm suy tư về cõi nhân

sinh mang đậm tính triết học: “Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,/ Nhất xuân tâm

tại bách hoa trung./ Như kim khám phá Đông hoàng diện,/ Thiền bản bồ đoàn khán

truỵ hồng.” (Thời trẻ đâu biết được sắc, không,/ Xuân đến lòng để trong trăm hoa./

Đến nay khám phá diện mạo chúa xuân,/ Ngồi trên tấm bồ đoàn giữa thiền bản

ngắm cánh hồng rụng.) (Xuân vãn – Trần Nhân Tông) [143; 344]. Tuổi trẻ chưa

nhận thức được sự hạn hữu của đời người nên lòng rộn rã, hân hoan giao hoà cùng

chúa xuân. Giờ đây khi đã hiểu rõ về lẽ sắc không nên điềm nhiên đón nhận khoảnh

khắc giao mùa. Đây không phải là một trạng thái bi luỵ, nuối tiếc mà là giác ngộ sự

hữu hạn của đời người.

78

Trong sự nghiệp đế vương, mỗi hoàng đế không tránh khỏi phạm phải những

sai lầm. Để rồi khi phản tỉnh ra thực tế, hoàng đế đối diện với những giày vò, xót

xa: “Thu khí hoà đăng thất thự minh,/ Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh./ Tự tri tam

thập niên tiền thác,/ Khẳng bá nhàn sầu đối vũ thanh.” (Hơi thu lồng bóng đèn mờ

đi trước ánh ban mai,/ Tàu chuối xanh ngoài cửa sổ điểm canh tàn./ Tự biết sai lầm

ba mươi năm trước,/ Đành ôm sầu mà nghe tiếng mưa rơi.) (Dạ vũ – Trần Minh

Tông) [143; 519]. Là một quân vương nắm trong tay quyền sinh sát nhưng Trần

Minh Tông qua thơ vẫn bày tỏ sự phản tỉnh, ray rứt về việc giết oan người vô tội

xảy ra ba mươi năm trước. Từng giọt mưa trút xuống tàu chuối tiễn tàn canh cứ đều

đặn trôi ví như thời gian đã đi qua không thể nào quay trở lại. Dường như thi nhân

đã trăn trở suốt đêm để đối diện với lương tâm. Tạm gác lại con người cộng đồng –

hoàng đế, con người cá nhân – thi sĩ đã dũng cảm nhận lỗi lầm và tự trừng phạt

lương tâm. Trần Minh Tông đã đặt lương tâm của một con người lên trên uy quyền

của hoàng đế.

Khi tuổi cao, sức yếu, Lê Thánh Tông làm thơ để bày tỏ những suy tư, chiêm

nghiệm về cuộc đời: “Dược năng hữu hý linh cường tráng./ Chí kiến phương niên

bất tái hoàn.” (Vui vì có thuốc hay giúp cho mạnh khoẻ./ Chỉ thấy tuổi xuân trôi đi

không bao giờ trở lại.) (Bệnh khởi cảm hoài – Lê Thánh Tông) [54; 459]. Sinh tử,

thịnh suy là chuyện thường tình trong cõi nhân sinh. Ý thức được quy luật đó nên

ông hoài niệm tiếc nuối về tuổi trẻ đã qua đi. Đối diện với chính mình trong giây

phút lâm chung, Lê Thánh Tông không dùng con người chức năng mà tự hoạ về

mình qua văn chương: “Bích hán vọng cùng vân diểu diểu,/ Hoàng lương mộng tỉnh

dạ du du./ Bồng lai sơn thượng âm dung đoạn,/ Băng ngọc u hồn nhập mộng vô.”

(Tầng biếc vô cùng mây thăm thẳm,/ Kê vàng tỉnh giấc đêm mông lung./ Bồng lai

tiên cảnh ở đâu, âm dương rồi cách biệt,/ Thân ngọc, hồn mê cũng chỉ là giấc mộng

trần gian.) (Tự thuật thi – Lê Thánh Tông) [127; 145]. Qua một đời đế vương với sự

nghiệp huy hoàng, trút bỏ hết quyền lực để trở về với con người thế sự, Lê Thánh

Tông nhận ra cuộc đời như một giấc mộng. Bao vinh hoa, quyền lực theo thời gian

rồi cũng sẽ trở về với hư vô. Qua thơ văn Lê Thánh Tông có thể thấy được sự dung

hoà giữa chính trị và văn chương, giữa phẩm chất cao quý của một hoàng đế và tài

năng thi sĩ.

79

3.2. Nhân vật hoàng đế với tư cách khách thể phản ánh

3.2.1. Nhân vật hoàng đế “thập toàn” của đấng “chăn dân” trong cảm hứng ngợi ca

3.2.1.1. Tư tưởng đức trị, thân dân của các hoàng đế

Văn chương là điều kiện tiên quyết cho con đường khoa cử nên đã sản sinh ra

lực lượng sáng tác hùng hậu. Các nhà nho, thiền sư đã tập trung ca ngợi, tán dương

mẫu hình hoàng đế lí tưởng. Đức là phạm trù quan trọng hàng đầu đối với một bậc

thánh nhân. Dù đất nước được vận hành bằng nền tư tưởng Phật giáo hay Nho giáo

đều đòi hỏi hoàng đế trước tiên phải là người có đức. Các tác giả giai đoạn này

hướng về ngợi ca đất nước tự chủ, vương triều hùng mạnh, trong đó, đức của hoàng

đế trở thành cảm hứng mạnh mẽ trong văn học. Họ tập trung thể hiện tinh thần đức

trị của các hoàng đế. Đức trị là dùng đức để cai trị. Nho gia vốn xem đạo đức là

một hình thái ý thức có thể điều chỉnh hành vi con người trong xã hội. Bên cạnh đó,

trên cơ sở kết hợp những giá trị nhân đạo truyền thống của dân tộc cùng với tinh thần

bác ái, vị tha của đạo Phật và tư tưởng thân dân trong học thuyết Nho giáo, các triều

đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV đã phát triển tư tưởng thân dân từ “thương

dân như con” của triều Lý đến “khoan thư sức dân” dưới triều Trần và đạt đến quan

niệm nhân nghĩa, “dân như nước, vua là thuyền, nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền”

dưới triều Lê sơ.

Hoàng đế trước hết phải là người có đức. Các hoàng đế Lý – Trần tôn sùng

đạo Phật, quan tâm đến xây chùa, tạc tượng, đúc chuông… Họ đã thi hành nhiều

chính sách đức trị, thân dân. Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã thi hành nhiều chính sách

có lợi cho dân: “Đại xá thuế khoá cho thiên hạ ba năm, những người mồ côi, goá

chồng, già yếu, thiếu thuế đã lâu đều tha cho cả” [97; 161]. Lý Thánh Tông trước

cảnh đại hạn, thương dân lầm than đã phát thóc và tiền lụa trong kho cho dân

nghèo. Lý Thái Tổ hạ lệnh ai cướp bóc tiền của dân thì chém. Các hoàng đế Lý –

Trần chủ trương trọng dân và lắng nghe dân: Lý Thái Tông cho đúc chuông lớn đặt

ở Long Trì để “nhân dân ai có kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên” [97; 175].

Lý Anh Tông “cho đặt cái hòm đồng ở giữa sân, để ai có nói việc gì thì bỏ thư vào

trong ấy” [97; 243]. Ghi chép của Đại Việt sử kí toàn thư cho thấy các hoàng đế

trong giai đoạn Lý – Trần đã chủ trương thực hiện tư tưởng đức trị, thân dân. Mặc

dù còn mang đậm ý thức hệ phong kiến và xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị

80

nhưng qua nhiều hành động có thể thấy được tư tưởng tiến bộ và đậm tính nhân

đạo, nhân văn của các vị hoàng đế.

Các hoàng đế rất quan tâm chăm lo đời sống nhân dân. Lý Thái Tông dạy

cung nữ dệt gấm vóc, cho công chúa cùng cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa:

“dạy cung nữ dệt được gấm vóc, tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc của nhà

Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào

bằng gấm, từ tứ phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc

của nhà Tống nữa” [97; 183]. Lý Anh Tông ra đồng để cày tịch điền cùng nhân

dân. Trần Thái Tông chỉ đạo các Hà đê sứ: “rỗi việc làm ruộng thì đốc thúc quân

lính đắp bờ đê đào mương lạch để phòng lụt hạn” [97; 282]. Chính sách “ngụ binh

ư nông” vừa đảm bảo được lực lượng quân đội vừa thúc đẩy việc tăng gia sản xuất

và còn là sợi dây gắn kết giữa chính quyền với nông dân, làng xã.

“Quốc vương đức trạch khoan như hải,/ Tuỳ phận ta ta thuỷ thảo xuân.” (Ơn

đức quốc vương rộng như bể,/ Nhưng xin cứ tuỳ phận với chút ít cỏ nước mùa xuân.)

(Phóng ngưu – Trần Tung) [143; 203]. Trần Tung ca ngợi ơn đức hoàng đế rộng khắp

đến mọi người dân trong xã hội. Lê Quát ca ngợi hoàng đế đã dùng tình thương bao la

của mình để đối đãi với lão thần: “Quân ân ưu lão lễ vưu thù./ Khắc trượng vi cưu đại

lực phù,” (Ơn vua ưu đãi người già, ban cho đồ vật rất đặc biệt./ Gậy khắc hình chim

cưu,) (Cưu trượng – Lê Quát) [144; 309].

Một hoàng đế được xem là trị vì thành công khi dùng đức cảm hoá được mọi

đối tượng trong xã hội, nhất là ở việc dùng đức để cai trị, cảm hoá quần thần góp

sức bảo vệ ngai vàng. Phạm Nhân Khanh trong thời gian đi sứ vẫn luôn da diết nhớ

về những công ơn của hoàng đế Trần Duệ Tông: “Long Khánh niên gian bị tuyển

luân,/ Chiếu tòng nhật sứ xuyết bồi thần./ Quế cung nghiêm thúy chiêm y cận,/ Mai

thiết thung dung cố vấn tần./ Tây thú mang mang mê đại giá,/ Bắc hành nhiễm

nhiễm ngộ ai thần./ Lễ văn hữu tận tình vô tận,/ Trướng vọng Thương Ngô lệ mãn

cân.” (Vào năm Long Khánh được chọn làm sứ giả,/ Chiếu vua do mã phu đưa đến

bổ khuyết làm bồi thần./ Trong cung quế thâm nghiêm được gần gũi nương tựa,/

Dưới thềm mai nhàn hạ luôn luôn hỏi han./ Đi tuần thú miền Tây mênh mông, xe

vua mờ mịt,/ Đi lên phương Bắc xa xăm, gặp lúc đau thương./ Lễ văn có khi hết

tình cảm không thể hết,/ Buồn trông núi Thương Ngô, nước mắt đầm khăn.) (Phụng

81

Bắc sứ cung ngộ Hy Lăng đại tường nhật hữu cảm - Phạm Nhân Khanh) [144; 408].

Tác giả mượn điển tích “Thương Ngô” để bày tỏ nỗi thương cảm đối với cái chết

của hoàng đế Duệ Tông trong trận đánh quân Chiêm Thành.

“Thanh hạ mỗi tồn tông xã niệm,/ Liệu tri mộng mị đáo Thăng Long.”

(Trong nhàn nhã, Thượng hoàng vẫn nghĩ đến việc nước,/ Chắc trong giấc ngủ, vẫn

mộng thấy mình đến Thăng long.) (Phụng canh Thái Thượng hoàng ngự chế đề

Thiên Trường phú Trùng Quang Cung – Trần Nguyên Đán) [144; 138]. Hình ảnh

hoàng đế trong lời thơ Trần Nguyên Đán là hình ảnh một thiên tử rất mẫu mực.

Nắm trong tay mọi quyền lực, hoàng đế ngự trên bệ rồng có quyền hưởng thụ cuộc

sống xa hoa, sung túc. Tuy nhiên thơ Trần Nguyên Đán đã cho thấy hình ảnh một

hoàng đế ngày đêm lo lắng chuyện triều chính. Ngay cả trong lúc nhàn nhã hay

trong giấc ngủ, hoàng đế vẫn suy tư, trằn trọc việc nước. Mặc dù thời vãn Trần xã

hội tồn tại nhiều thực trạng xót xa nhưng qua văn chương, các tác giả vẫn thể hiện

tinh thần hết mực tôn sùng hoàng đế.

Đến thời Lê sơ, khi Nho giáo đã thắng thế thì cảm hứng ngợi ca hoàng đế ở

phương diện đức trị, thân dân càng trở nên mạnh mẽ. Các tác giả giai đoạn này là

những nhà nho hành đạo, chịu sự chi phối mạnh mẽ của thuyết tam cương, ngũ

thường. Văn chương của họ thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối dành cho hoàng đế. Họ

hướng đến một xã hội Nghiêu Thuấn với vua sáng tôi hiền, ngợi ca đạo đức của

hoàng đế. Qua đó, họ tự ý thức được trách nhiệm của kẻ sĩ trong việc tận tuỵ phò tá

hoàng đế. Kinh thi khẳng định thơ là để phản ánh âm thanh của thời đại “âm thanh

thịnh thì yên vui, vì chính sự thời ấy ôn hoà”. Văn học thời Lê sơ rộn rã âm thanh

của sự hân hoan mừng chiến thắng quân Minh, giọng điệu hào hùng của những con

người vượt qua muôn vàn khó khăn để giành lại được nền độc lập. Các nhà nho ý

thức được rằng để có thành quả ấy ngoài sức dân còn nhờ vào sự dẫn dắt sáng suốt

và đức lớn của hoàng đế.

Sau chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để tái hiện

những ngày tháng hào hùng của lịch sử. Chiến thắng quân Minh là nhờ vào tài năng

và công đức của Lê Lợi: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,/ Lấy chí nhân để thay

cường bạo.” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) [126; 69]. Đức lớn nhất của bậc đế

vương là đức hiếu sinh. Nó được biểu hiện cụ thể qua tinh thần nhân nghĩa. Nhân

82

nghĩa thường được Nguyễn Trãi đề cập trong các sáng tác chính là phẩm chất đạo

đức của người cầm quyền, là đường lối cai trị của hoàng đế đối với nhân dân. Vì

sao giặc Minh thất bại? Đó chính là không có đạo chí thành và đức hiếu sinh:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ,/ Dối

trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế,/ Gây binh kết oán, trải hai mươi năm…” [126; 66].

Giặc Minh đã tàn độc gây bao cảnh tang thương thì “Lẽ nào trời đất dung tha,/ Ai

bảo thần dân chịu được,” [126; 66]. Lê Lợi là người hội tụ đủ yếu tố đức qua lòng

nhân nghĩa, đức hiếu sinh nên được trời giao cho mệnh thiên tử: “Trời thử lòng trao

cho mệnh lớn./ Ta gắng chí khắc phục gian nan,” [126; 68]. Lê Lợi nhận thức được

trời đã ban cho mệnh đế vương và thử thách, muốn bước đến ngôi cao phải vượt

qua cơn biến loạn. Thời thế thử anh hùng, nó đã trở thành động lực to lớn thôi thúc

ông “dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”.

Tư tưởng chính trị thiên – nhân hợp nhất chi phối mạnh mẽ Bình Ngô đại cáo

của Nguyễn Trãi. Khi hoàng đế là người đủ đức được trời lựa chọn, thì không khó

khăn nào, cường địch nào ngăn được. Lê Lợi hiện lên với tư cách là một thánh chúa

chinh phục bằng nghĩa, dẹp loạn bằng nhân. Cho dù hùng mạnh nhưng quân địch

cuối cùng đã tan tác bởi tài năng quân sự của một hoàng đế khởi nghiệp oai phong

lừng lẫy: “Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,/ Dùng quân mai phục, lấy ít địch

nhiều.” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) [126; 68]. Bản chất thật sự của chiến

thắng đó là sức mạnh quân sự, binh pháp phù hợp trong từng trận đánh, tinh thần

đoàn kết trên dưới một lòng của quân dân… Tuy nhiên, Nguyễn Trãi không đề cao

quyền mưu mà đánh giá thắng lợi nằm ở tinh thần nhân nghĩa của Lê Lợi: “Đem đại

nghĩa để thắng hung tàn,/ Lấy chí nhân để thay cường bạo.” [126; 69]. Phạm trù đức

trị của hoàng đế còn được thể hiện qua việc trị nước bằng nhân nghĩa. Xuyên suốt

các tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi đều đề cập đến vấn đề này. Nhân nghĩa ở đây

được xem là phẩm chất đạo đức của người đứng đầu đất nước. Cảm hứng yêu nước

và tinh thần dân tộc luôn thường trực trong thơ Nguyễn Trãi. Thông qua việc ngợi

ca nền thái bình, thịnh trị của đất nước, ông đã khéo léo đề cao vương triều và tinh

thần anh minh, thần võ của hoàng đế. Trong Lam Sơn thực lục Nguyễn Trãi cũng đã

lí giải, chiến thắng của Lê Lợi là bởi lòng nhân: “Người Ngô hình nặng chính ác,

mất hết lòng người. Vua thì làm trái hẳn lại, lấy nhân thay bạo, lấy trị thay loạn, bởi

83

vậy nên thành công mau chóng” [205; 71]. Đánh thắng ngoại xâm, nghiễm nhiên Lê

Lợi đường hoàng bước lên ngôi hoàng đế. Thế nhưng, Nguyễn Trãi vẫn viết Bình

Ngô đại cáo một mặt tổng kết lại cuộc chiến tranh gian khổ của nhân dân ta mặt

khác biện luận về tính chính danh cho ngôi vị đế vương của Lê Lợi.

Xưa nay địa linh luôn gắn liền với nhân kiệt. Không thể phủ nhận rằng Đại

Việt với địa hình hiểm trở đã góp phần cho việc chiến thắng nhiều thế lực quân sự

xâm lược hùng mạnh. Tuy nhiên, văn học giai đoạn này đề cao yếu tố nhân kiệt hơn

yếu tố địa linh. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, những địa danh: Chí Linh, Xương

Giang, Lam Sơn đã ghi dấu thắng lợi hào hùng của dân tộc. Thông qua những chiến

thắng giòn giã, hình ảnh của Lê Lợi – Lê Thái Tổ được hiện lên với một vị tướng

lĩnh, hoàng đế anh minh thần võ: “Không cứ ở đất hiểm,/ Mà cốt ở đức lành.” (Phú

núi Chí Linh – Lý Tử Tấn) [126; 281]; “Đức có cao, công mới lớn./ Người có hùng,

đất mới linh./ Giữ nước không cốt ở thể hiểm,/ Giữ dân không cốt ở hùng binh…

Đức nhà vua thịnh, non sông linh./ Áo nhung một mảnh, võ công thành,” (Phú trận

Xương Giang – Lý Tử Tấn) [126; 286].

Lê Thái Tổ là thiên tử được trời thác mệnh cứu dân qua cơn biến loạn. Các

bài phú nhắc đến vị hoàng đế này vừa vừa ca tụng võ công vừa đề cao tinh thần

nhân nghĩa,: “Trời sinh bậc thánh,/ Đất dấy nghiệp vương.” (Phú núi Chí Linh –

Nguyễn Trãi) [126; 216]; “Thánh tổ chịu mệnh ngôi trời,/ Đổi khoan lấy ác, khắp

nơi thuận hòa,” (Phú cõi thọ - Lý Tử Tấn) [126; 289]. Hoàng đế được giải thích về

nguồn gốc “thiên mệnh” và vai trò “thiên tử” thay trời trị vì thiên hạ. Để cảm hóa và

phục chúng, hoàng đế cần phải khẳng định tài năng và đức độ. Trước hết là tài năng

quân sự thể hiện ở chiến công dẹp nội thù, phá ngoại xâm.

Phạm trù đức được nhắc đến rất nhiều lần trong các bài phú giai đoạn này.

Theo quan điểm Nho giáo, hoàng đế phải có nhân cách lí tưởng “nội thánh, ngoại

vương”, tức là phải đạt đến phẩm chất của một thánh nhân. Phẩm chất ấy được thể

hiện bằng đường lối chính trị nhân nghĩa. Nhân nghĩa của hoàng đế được thể hiện

trước hết là tấm lòng yêu thương dân. Mạnh Tử nói: “Dân vi quí, xã tắc thứ chi,

quân vi khinh”. Xét cho cùng, hoàng đế được phó thác trị nước là để lo cho dân:

“Đức Thái Tổ/ Quân có một toán/ Đất có một thành./ Thấy dân cực khổ./ Động mối

84

thương tình/ Bèn theo lòng trời,/ Bèn họp nghĩa binh” (Phú trận Xương Giang – Lý

Tử Tấn) [126; 284].

Mạnh Tử nói: “Vua có nhân đạo thì không ai dám không theo đạo nhân, vua

có nghĩa thì không ai dám bất nghĩa; vua ngay thẳng (chính) thì không ai dám không

ngay thẳng” [175; 46]. Hoàng đế triều Lê sơ đã xây dựng được xã hội thái bình và là

tấm gương sáng cho thiên hạ: “Thánh thượng ta nay:/ Lấy nhân dựng nước,/ Lấy

nhân trị dân/ Coi muôn người như một, nên muôn vật có nơi có chốn;/ Tự mình làm

gương tốt, thì thiên hạ có nghĩa có nhân.” (Phú ở nơi thoáng rộng – Lý Tử Tấn) [126;

293]. Đức được xem là tấm vé thông hành cho sự thành công: “Thành công đó, vốn

nhờ trời cho đức lớn/ Thần kì thay, tự cổ chưa thấy đâu hơn!” (Phú Lam Sơn –

Nguyễn Trãi) [126; 247]. Duy đức phối thiên, dạy nhân nghĩa, trọng lễ nghi, lấy nhu

hóa cương là những việc mà mỗi hoàng đế phải có trách nhiệm làm gương giáo huấn

thiên hạ: “Lấy điều cốt yếu chống điều hỗn tạp,/ Lấy tính ôn nhu ngăn tính bạo

cường.” (Phú Lam Sơn – Nguyễn Trãi) [126; 248]. Đức hiếu sinh của hoàng đế

không chỉ dành cho nhân dân mà còn đối với kẻ thù: “Đức lớn hiếu sinh./ Nghĩ vì kế

lâu dài của nhà nước,/ Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh./ Sửa hoà hiếu cho hai nước,/

Tắt muôn đời chiến tranh.” (Phú núi Chí Linh – Nguyễn Trãi) [205; 87].

Đức trị của hoàng đế còn được thể hiện qua việc chú trọng giáo hóa đạo đức

cho bách tính và biết trọng dụng hiền tài: “Dùng hiền tài để làm giạu chặn, phên

cài./ Lo trị nước từ khi chưa loạn,/ Lo giữ nhà từ lúc chưa nguy./ Sáng tối kiên trì,

sửa mình luyện chí;/ Cảnh giác sơ hở, đề phòng đơn sai./ Để cho cuộc nền thái

bình muôn đời vững chắc,/ Để cho cuộc tịnh trị muôn thuở lâu dài.” (Phú cõi thọ -

Lý Tử Tấn) [126; 289]. Trong sự nghiệp trị quốc, các hoàng đế quan tâm đến giáo

dục, khoa cử, tuyển chọn người tài. Các hoàng đế Lý – Trần rất quan tâm đến giáo

dục và mở các khoa thi để tìm kiếm nhân tài phục vụ đất nước. Năm 1070 Lý

Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu. Năm 1076 Lý Nhân Tông lập ra Quốc Tử

Giám. Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần tổ chức 14 khoa thi để chọn ra nhân tài

phục vụ đất nước.

Bằng nhiều phương thức khác nhau nhưng điểm chung là các tác giả giai

đoạn này đều dùng văn chương để tái hiện hình ảnh về các vị hoàng đế đức độ. Đây

85

là điểm mấu chốt và được xem là nội dung chủ đạo trong các sáng tác hướng về đối

tượng hoàng đế.

Theo quan điểm đức trị, hoàng đế trị nước dùng hình pháp chỉ là điều bất đắc

dĩ. Kinh Lễ cho rằng: “Người quân tử lấy hình phạt đề phòng dân loạn, lấy lễ giáo

đề phòng tư dục. Vì thế thánh nhân dùng cả giáo hoá lẫn hình phạt mà không bỏ

mặt nào” [45; 90]. Trên cơ sở trị nước theo đường lối đức trị của Nho giáo, các

hoàng đế Việt Nam từ thế kỉ X đến XV đã từng bước bổ sung những yếu tố có tính

chất pháp trị vào việc trị nước. Tư tưởng trị nước bằng pháp luật được khởi nguyên

ở nước ta từ thời Lý. Năm 1042 hoàng đế Lý Thái Tông ban hành bộ Hình thư.

Năm 1230 nhà Trần tiến hành khảo định các lệ đời trước để soạn Quốc triều hình

luật. Năm 1341, Trần Dụ Tông cho biên soạn Hoàng triều đại điển. Đến thời Lê sơ,

Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông dành nhiều công sức xây dựng hệ thống pháp luật

cho nước ta. Lê Thánh Tông cho rằng: “Nước mà không có thưởng phạt thì dù là

Đường Ngu cũng không thể trị được thiên hạ” [97; 646]. Từ đó ông chủ trương xây

dựng hoàn thiên hệ thống pháp luật và tuyên bố: “Pháp luật là phép công của nhà

nước. Ta cùng các ngươi đều phải theo” [97; 622]. Năm 1483 Lê Thánh Tông hoàn

thiện bộ luật Hồng Đức. Đây được xem là bộ luật hoàn thiện nhất của Đại Việt từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV. Trong giai đoạn trị vì của Lê Thánh Tông, mặc dù bổ sung

nhiều điều luật phục vụ công cuộc trị quốc nhưng tinh thần đức trị, thân dân không

hề mai một. Pháp trị và đức trị hoà quyện vào nhau đã tạo nên một giai đoạn hưng

thịnh đỉnh cao cho Đại Việt.

Trong chế độ quân chủ, quyền lực tập trung vào tay hoàng đế thì luật là do

hoàng đế ban định và dân có bổn phận thi hành pháp lệnh của hoàng đế. Pháp luật

đại diện cho giai cấp cầm quyền. Hoàng đế đặt lợi ích của mình và dòng họ lên trên

hết. Tính công bằng của pháp luật, sự bình đẳng của mọi đối tượng trước pháp luật

là một điều phi thực tế. Vẫn có thể thấy mức độ hưởng lợi từ pháp luật là khác nhau

giữa các đối tượng là hoàng đế, quan lại và người trong hoàng tộc. Trong luật Hồng

Đức chương Danh lệ có quy định Bát nghị (Tám đối tượng được nghị xét giảm tội).

Nội dung của nó hướng về xoá tội, giảm tội và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống

trị: những người thuộc tôn thất khi phạm tội thì đều được miễn những tội đánh roi,

đánh trượng, thích mặt; họ hoàng hậu thì được chuộc bằng tiền. Thực tế cho thấy sự

86

bình đẳng giai cấp trong xã hội quân chủ là điều không thực tế. Mặc dù chủ trương

đức trị, thân dân, trọng dân nhưng đứng trên lập trường giai cấp, hoàng đế vẫn thực

hiện “dương Nho âm Pháp”, che đậy bản chất bóc lột của giai cấp thống trị.

Các sáng tác văn học, các ghi chép lịch sử đã tái hiện được nhân vật hoàng đế

từ thế kỉ X đến thế kỉ XV qua sự nghiệp trị quốc. Đó là hình ảnh các hoàng đế trị

nước bằng nền đức trị, thân dân. Thời bình, hoàng đế tu hành Phật giáo, trau dồi đạo

nho, thời chiến họ hoá thân thành thống soái dũng mãnh cầm quân giết giặc. Các

hoàng đế đã từng bước trị nước bằng sự dung hoà giữa đức trị và pháp trị, từng

bước hoàn thiện thể chế nhà nước Đại Việt.

3.2.1.2. Tài năng của hoàng đế

Bên cạnh việc đề cao đức độ, nhân vật hoàng đế còn được văn chương ca ngợi

về tài năng. Tài năng của hoàng đế được ca ngợi thông qua công cuộc trị quốc và

dẹp tan các thế lực xâm lược. Nền văn minh nông nghiệp đã kéo theo những phong

tục, tập quán đậm chất làng xã. Phép vua thua lệ làng, vậy các hoàng đế sẽ cai quản

như thế nào đối với một đất nước mang đậm văn hoá làng xã? Các hoàng đế Đại

Việt sắc phong các vị thần nhằm khẳng định mình không chỉ quản nhân dân mà còn

quản lý cả bách thần. Lý Thái Tổ nằm mơ thấy thần làng rồi nói lại với ngự sử:

“Vua sai bói âm dương, quả nhiên đúng như thế. Bèn sai người trong châu lập đền

đắp tượng đúng như hình dáng người trong chiêm bao, tuế trời, cúng tế” [97; 165].

Ông chiêm bao thấy thần núi Đồng Cổ báo tin ba vương làm loạn nên đã sai quân

phòng bị quả nhiên ứng nghiệm nên: “Phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ,

dựng miếu để tuế thời cúng tế và làm lễ thề” [97; 171]. Theo Việt điện u linh, Lý

Thái Tông vì muốn lập đền thờ một vị thần có tiếng anh linh để cai quan thiên hạ

nên đã: “phong là Hoằng chính đại Vương, sau đổi phong là Hồng thánh… liền sai

văn thần soạn văn khắc bia đá để ghi sự nghiệp của Vương” [144; 897]. Việc các

sắc phong thần làng xã cho thấy một hành động có ý nghĩa tượng trưng xác lập

quyền thống trị, giám quản bách thần, các lực lượng siêu hình… hoàng đế muốn

chi phối quyền lực đến từng làng. Việc đẩy mạnh phong thần chính là muốn dựa

vào uy danh của thế lực thiêng để bảo vệ vương quyền. Trần Ngọc Vương cho

rằng: “Tuy một bộ phận thần linh được thừa nhận là thượng đẳng, chủ yếu là chịu

sự quản lý của triều đình trên thượng giới, nhưng vì thiên tử được chính thiên phụ

87

uỷ thác mà các thần linh dù siêu việc tới đâu cũng phải chịu nhận những lời thỉnh

nguyện, những của lễ tế và vì thế, những bổn phận “tả phù hữu bật” cho hoàng đế”

[215; 54]. Có thể thấy các hoàng đế triều Lý đã khéo léo vận dụng tín ngưỡng Phật

giáo vào công cuộc trị quốc.

Thời vãn Trần, nền chính trị Đại Việt đã bộc lộ nhiều yếu kém, nhưng trong

văn chương cảm hứng ngợi ca vẫn được duy trì. Các trí thức Đại Việt đặt một niềm

tin mãnh liệt rằng vương triều rồi sẽ vượt qua biến loạn để trở về với khí thế hào

hùng của hào khí Đông A. Tuy đã không còn uy dũng ngất trời của thời khắc dẹp

tan quân Nguyên Mông nhưng Trần Nguyên Đán vẫn tin tưởng vào đế vương đủ

sức đánh bại mọi kẻ thù: “Tần binh đảm táng thu phong hạc,/ Thái tướng thần kinh

tuyết dạ nga./ Đãi báo Đồ Bàn di nghĩ điệt,/ Thử như duyệt bút tác nao ca.” (Quân

Tần vỡ mật trong tiếng hạc mùa thu,/ Tướng Thái kinh hồn vì tiếng ngỗng đêm

tuyết./ Chờ đợi tin san phẳng tổ kiến Đồ Bàn,/ Chấm ướt ngòi bút làm bài ca cho

quân đội.) (Phụng tiễn xu phủ tây chinh hành quân đô tổng quản Lê Công – Trần

Nguyên Đán) [144; 212].

“Trung hưng văn vận mại Hiên, Hy,/ Triệu tính âu ca lạc thịnh thì./ Đấu

tướng tùng thần giai thức tự,/ Lại viên tượng thị diệc năng thi./ Kinh thiên vĩ địa

tâm tiên giác,/ Bình Bắc chinh Nam sự khả tri./ Khảo bãi văn tràng quan vô cử,/

Lão thần hà nhật vọng quy kỳ.” (Vận hội văn chương đời Trung hưng hơn cả đời

Hiên, Hy,/ Muôn dân ca hát vui đời thịnh trị./ Tướng võ, quan hầu đều biết chữ,/

Thư lại, thợ thuyền cũng làm thơ./ Ngang trời dọc đất, lòng cầm chắc trước,/ Dẹp

Bắc đánh Nam, việc đã hay./ Khảo xong trường văn lại xem thi võ,/ Kẻ lão thần

ngày nào mới mong được kỳ về.) (Đề quan Lỗ Bạ thi tập hậu – Trần Nguyên Đán)

[144; 207]. Dưới sự trị vì của Trần Minh Tông nền khoa cử Nho học đã có những

bước phát triển mạnh mẽ. Trần Nguyên Đán tự hào về hoàng đế Trần Minh Tông

qua cái nhìn so sánh với đời Hiên, Hy Trung Quốc. Đó là một cảm hứng tự hào về

đất nước mà trước nhất là ca ngợi hoàng đế anh minh Trần Minh Tông. Tiếp nối

Trần Nguyên Đán, thơ Phạm Sư Mạnh cũng cất cao tiếng nói tự hào về hoàng đế

triều Trần: “Thần tâm Nhị đế Tam vương cổ,/ Văn thể Tiên Tần, Lưỡng Hán kỳ./

Trắc thính thị thần truyền nội chỉ,/ Kỳ hoà đại xã định tân nghi.” (Tấm lòng của

vua như Nhị đế Tam vương khi xưa,/ Văn thể của Người kỳ diệu như Tiên Tần,

88

Lưỡng Hán./ Lắng nghe thị thần truyền chiếu chỉ của nội điện,/ Định nghi thức mới

cho lễ đại xá cầu được mùa.) (Xuân nhật ứng chế - Phạm Sư Mạnh) [144; 249].

Cảm hứng ngợi ca qua cái nhìn so sánh với phương Bắc tiếp tục được duy trì

trong mạch văn chương thời Trần. Âm vang của hào khí Đông A tiếp tục được sục

sôi với giọng điệu hào sảng. Sự anh minh của hoàng đế triều Trần đã khiến các quan

lại tích cực cống hiến sức lực giúp vua trị nước: “Đông triều đa hữu hảo giang

san,/ Khổ luyến minh thời cảm khất nhàn.” (Đông triều có nhiều núi sông đẹp,/

Luyến tiếc triều vua sáng suốt chẳng dám xin về sống nhàn.) (Đăng Thiên Kỳ sơn

lưu đề - Kỳ nhất – Phạm Sư Mạnh) [144; 264].

Địa linh - nhân kiệt là hai yếu tố có mối quan hệ tương quan trong các cuộc

chiến: “Thuỳ tri vạn cổ trùng hưng nghiệp./ Bán tại quan hà bán tại nhân.” (Ai biết sự

nghiệp trùng hưng muôn đời nay./ Một nửa nhờ non nước một nửa nhờ người.) (Bạch

Đằng giang – Nguyễn Sưởng) [144; 73]. Để lập nên chiến công, hoàng đế không thể

ủy thác cho địa linh mà phải có kế sách chiến lược đúng đắn, tầm nhìn xa trông

rộng. Nguyễn Trãi đã ca ngợi tài năng quân sự của hoàng đế: “Thu thập tàn quân./

Nuôi dưỡng ân cần./ Trong sửa chiến cụ,/ Ngoài vờ hòa thân./ Tung vàng mộ lính,/

Giết voi khao quân./ Mọi người đều thân mến người trên mà liều chết,/ Lo đem sức

lực để đáp ân.” (Phú núi Chí Linh – Nguyễn Trãi) [126; 213].

Sau khi đất nước dẹp tan quân Minh xâm lược, thơ Nguyễn Trãi rộn ràng

khúc reo vui mừng chiến thắng. Tác giả thể hiện niềm vui sướng, hân hoan trước

cảnh mùa xuân trong hoà bình: “Chim kêu hoa nở ngày xuân tĩnh;/ Hương lọn cờ

tan tiệc khách thôi.” (Ngôn chí – bài 1 – Nguyễn Trãi) [205; 396]. Tài năng của một

hoàng đế trong thời bình là xây dựng được quốc gia giàu mạnh, đời sống nhân dân

được ấm no, phồn thịnh. Đại Việt thời Lê sơ qua trang thơ Nguyễn Trãi hiện lên yên

bình, trù phú: “Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi;/ Hầu chất so le khóm cuối làng./

Ngâm sách thằng chài trong thuở ấy,/ Tiếng trào dậy khắp Thương lang.” (Ngôn chí

– bài 8 – Nguyễn Trãi) [205; 398].

Một bức tranh thiên nhiên khác hiện lên với cảnh tượng ấm no, đủ đầy của

nhân dân trong thơ Nguyễn Trãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường./ Hoè lục đùn

đùn tán rợp truơng./ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ;/ Hồng liên trì đã tịn mùi

hương./ Lao xao chợ cá làng ngư phủ;/ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương./ Lẽ có Ngu

89

cầm đàn một tiếng,/ Dân giàu đủ khắp đòi phương.” (Bảo kính cảnh giới – bài 43 –

Nguyễn Trãi) [205; 453]. Trong khung cảnh ngày hè, những hình ảnh bình dị cùng

những âm thanh hối hả của phiên chợ chiều đã tạo nên một bức tranh sinh động về

đời sống nhân dân lao động. Không khí vui tươi, sôi nổi của phiên chợ làng chài đã

cho thấy cuộc sống ấm no, sung túc của người dân. Điều đó đã gián tiếp ca ngợi tài

năng trị quốc và bình thiên hạ của hoàng đế. Được sống trong cảnh thái bình là

niềm hạnh phúc lớn nhất nên mạch thơ ngợi ca của Nguyễn Trãi dường như dài bất

tận: “Đất thiên tử dưỡng tôi thiên tử;/ Đời thái bình ca khúc thái bình… Rầy mừng

thiên hạ hai của:/ Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh.” (Thuật hứng – bài 20 –

Nguyễn Trãi) [205; 417].

Văn chương thời Lê sơ, ngoài Nguyễn Trãi, còn phải kể đến các tác giả tiêu

biểu: Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn... Nhìn chung cảm hứng ngợi ca vương triều,

hoàng đế vẫn chiếm thế chủ đạo. Nguyễn Mộng Tuân ca ngợi hoàng đế Lê Thái

Tông đã quan tâm đến đời sống của nhân dân, đem đến cho nhân dân niềm vui

sướng mừng thuở thanh bình: “Nhất du tự thị vi hầu độ/ Vạn vật tòng tri hạ thánh

tình./ Nguyện thế dữ dân đồng lạc ý,/ Cù ca nhưỡng kích khánh thăng bình.” (Mỗi

lần vua đi thăm các nơi đều có ý nghĩa làm khuôn phép cho các địa phương./ Muôn

vật nhờ đó được bề trên ban cho ân tình,/ Xin thề theo ý đó, cùng dân chúng hoà

vui./ Nhân dân đánh khăng, hát hò ngoài đường mừng thuở thanh bình…) (Hồ giá

du Thanh Hư động – Nguyễn Mộng Tuân) [126; 233].

Lý Tử Tấn cũng không ngừng thể hiện cảm hứng ngợi ca trong các sáng tác

của mình. Ông ca ngợi hoàng đế Lê Thái Tổ dẹp tan quân phản loạn phương Bắc

đem lại cảnh thịnh vượng nghìn năm mới gặp một lần: “Mao nghê cổ vũ qui vương

hoá,/ Hà nhĩ âu ca yểu đức phong./ Thịnh sự thiên nhiên kim hạnh hội./ Nguyện

canh kỉ khởi bá vô cùng.” (Già trẻ nhảy múa theo sự giáo hoá của nhà vua./ Cũng

như các nơi xa gần vui hát thuận với đạo lí./ Cảnh thịnh vượng nghìn năm may lại

được thấy./ Xin hát vang bài ca đời thịnh trị để truyền tụng mãi mãi.) (Tứ hải nhất

gia – Lý Tử Tấn) [126; 266].

Sau công cuộc giữ nước là quá trình xây dựng và trị vì đất nước. Theo quan

điểm Nho giáo, một đất nước được thái bình, thịnh trị khi có vua sáng, tôi hiền, mô

hình xã hội văn hóa chính trị dựa trên lễ nhạc, trên nền đức trị và văn trị. Đó là

90

những tiêu chuẩn, cơ sở để đánh giá mức độ “hoàn thành nhiệm vụ” thay trời của

hoàng đế. Thời Lê sơ đất nước sống trong cảnh thái bình, kẻ sĩ gặp được thiên thời

như đất hạn gặp mưa nhuần. Chính bối cảnh ấy đã khơi gợi cảm hứng ngợi ca mạnh

mẽ để các nho sĩ viết những bài phú bày tỏ niềm tự hào và ca ngợi các hoàng đế

trong tài năng trị quốc: “Phong tục chất phác,/ Cuộc sống đậm đà./ Người già tóc

bạc, vui vầy phúc đức,/ Trẻ thơ để chỏm khắp nẻo vui ca.” (Phú cõi thọ - Lý Tử

Tấn) [126; 287].

“Dân ở trong đó,/ Thịnh vượng yên vui./ Vật sinh nơi đó,/ Đông đúc rong

chơi./ Ăn no mặc ấm,/ Ruộng cày giếng khơi.” (Phú Đài Xuân – Nguyễn Trực)

[127; 238]. Văn học không phải là tấm gương để phản chiếu thực tế xã hội nguyên

bản một cách thụ động. Cảm hứng thế sự của văn chương còn là những cảm xúc

chủ quan của các tác giả. Có thể nói trước thời Lê sơ, văn học Việt Nam chưa bao

giờ có cảm hứng ngợi ca, lòng yêu nước lại trở nên mạnh mẽ đến thế. Nhất là trong

thể loại phú, từ Nguyễn Trãi đến các sáng tác của Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn,

Nguyễn Thiên Túng… hoàng đế đã trở thành một hình mẫu lí tưởng trong xã hội

quân chủ chuyên chế.

Cảm hứng ngợi ca, đề cao hoàng đế thời Lê sơ xuất hiện không chỉ ở phú mà

còn cả trong thơ ca. Đó là sự ngợi ca tài năng kinh bang tế thế, tu – tề – trị – bình.

Thậm chí trong cảm hứng tự hào cao độ, các tác gia còn đề cao các hoàng đế Đại

Việt, để họ thắng thế so với các hoàng đế của Bắc sử. Trong nghệ thuật trị quốc, các

hoàng đế chủ trương thực hiện đề tài xướng hoạ mừng được mùa ngầm ám chỉ “đế

đức cách thiên” – đức của hoàng đế làm cảm động đất trời và được giáng phúc được

mùa. Nhân dịp này các nhà nho tiến hành xướng hoạ để ca ngợi, tán tụng hoàng đế.

Tiêu biểu là sự kiện hai năm được mùa liên tiếp, Lê Thánh Tông đã chủ trương

xướng hoạ Quỳnh uyển cửu ca mừng được mùa. Lê Thánh Tông khiêm nhường, tự

cho mình chưa thực hiện chu toàn điều nhân đức. Tuy nhiên, Thân Nhân Trung cho

rằng được mùa là điềm tốt ứng hiện. Đó là kết quả của việc hoàng đế thi hành nhiều

chính sách nhân đức tốt đẹp làm cảm động trời đất: “Cách thiên đế đức diệu toàn

năng,/ Hiệp ứng hưu trưng bách cốc đăng./ Động chiếu nghiên si kim tác giám,/ Lạc

văn dược, thạch mộc tòng./ Cửu trù khắc tự du luân đốc,/ Thứ tích hàm hi sự nghiệp

hoằng./ Trị liệu dũ long, tâm dũ thận,/ Ưu dân cần chính nhật căng căng.” (Đạo đức

91

nhà vua hoà hợp với trời nên tài đức phú cho trọn vẹn,/ Điều lành hiện ra, mùa màng

tươi tốt./ Xem xét mọi mặt xấu ở đời, trong suốt như ánh từ mặt gương bằng vàng,/

Thích nghe lời khuyên can, như dùng thuốc trị bệnh, thẳng thắn như dùng mực thước

thợ mộc./ Phép nước chỉnh tề, cho nên đạo người tốt đẹp,/ Cuộc đời vui vẻ cho nên

sự nghiệp huy hoàng./ Việc trị nước càng hiệu nghiệm bao nhiêu, thì lòng vua càng

quan tâm bấy nhiêu,/ Việc lo cho dân, cho nước ngày cứ canh cánh bên lòng.) (Thân

Nhân Trung phụng hoạ) [127; 510 – 511].

Thân Nhân Trung đã dành nhiều ngôn từ đẹp đẽ để ca tụng Lê Thánh Tông.

Ông đã dùng những quy chuẩn nho giáo về hoàng đế để ca ngợi thiên tử thứ tư của

triều Lê sơ. Đó là một hoàng đế trên theo ý trời, dưới thuận lòng dân, thực hiện tốt

các nhiệm vụ của một bậc nội thánh ngoại vương. Ngô Luân ca ngợi đất nước vẻ

vang, thịnh trị là bởi đấng đế vương biết dùng người tài: “Thánh hoàng cơ yếu

nhậm hiển năng,/ Hoà khí luân chưng tuế lũ đăng./ Điền dã thu làng đa đỗ thử,/

Nhân dân bão noãn đạo câu thàng.” (Tài đức dùng người thật vẹn tròn,/ Quả như

khí thuận, được mùa luôn./ Thóc ngô làng xóm chứa đầy lẫm,/ No ấm nhân dân

sống thuận vòng.) (Ngô Luân phụng hoạ) [127; 514].

Ngoài tài năng trị nước, Lê Thánh Tông còn được triều thần ca tụng về tài

năng văn chương. Lê Thánh Tông đã đi đầu, nêu gương bằng việc trau dồi, tôi luyện

sử sách từ đó đã nhân rộng ra phong trào học tập, sáng tác văn chương rộng khắp:

“Bàng sưu viễn thiệu nhật tinh cần,/ Kỳ cổ tao đàn hiệu lệnh tân./ Phú tựu lăng vân

kim mã khách./ Thi thành đoạt cẩm ngọc đường nhân./ Ác châu phấn tổ văn từ lệ,/

Trích diễm huân hương ý tứ thần./ Nùng úc hàn anh ngâm hiệu phú,/ Trì đường hà

tất mộng trung xuân.” (Hàng ngày chăm chỉ nghiên cứu sự tích cũ để nối nghiệp thánh

hiền xưa./ Phất cờ, khoa trống nơi Tao đàn, đưa ra chủ trương mới./ Kẻ sĩ nơi cung

đình làm xong thơ phú, khí xông đến tận mây/ Nhà thơ quý tộc, văn hay giành nhau

áo gấm/ Văn chương đẹp, như gấm vóc./ Ý tứ ngát như hương xông./ Chất liệu thơ

văn ánh lên dồi dào./ Cần gì phải tìm tứ thơ trì đường trong giấc mộng xuân.)

(Nguyễn Quang Bật phụng hoạ) [127; 544 – 545].

Tài năng dựng nước và giữ nước của các hoàng đế triều Lê sơ được các văn

nhân đương thời ca tụng không phải là những lời ngợi ca mang tính chất xu nịnh.

Không chỉ văn chương thời Lê sơ mà văn chương các đời sau vẫn ca ngợi họ. Sau

92

chiến thắng quân Minh, Lê Thái Tổ bắt tay vào công cuộc kiến thiết đất nước.

Nhiều chính sách cai trị tiến bộ ông đặt ra để làm nền tảng vững chắc xây dựng nhà

nước Lê sơ đã được Đại Nam quốc sử diễn ca ghi chép: “Dựng nhà học, mở khoa

thi./ Triều nghi quốc luật một kì giảng tu./ Mười năm khai sáng cơ đồ./ Sáu năm

bình trị qui mô cũng tường.”(Đại Nam quốc sử diễn ca) [7; 241 – 242]. Tự Đức

trong Ngự chế Việt sử tống vịnh cũng dành nhiều tình cảm ngợi ca về khả năng nắm

được thời vận và xây dựng đất nước thái bình của hoàng đế Lê Thánh Tông: “Thiên

tộ Lê gia khải trị triều./ Tao đàn xướng họa tiệm tâm kiêu./ Cung từ tự tục trường

môn oán./ Sử bút thuỳ san xích bố diêu?” (Trị bình, trời giúp mở Lê trào./ Xướng

họa Tao đàn dạ tự cao./ Bài hát trong cung dài khúc oán./ An san bút sử hoá ca

dao?) (Vịnh Lê Thánh Tông) [37; 152].

Nhìn chung với cảm hứng ngợi ca, tán tụng, hoàng đế là đối tượng quan

trọng của văn học thế kỉ X đến thế kỉ XV. Các thiền sư, nho sĩ đã nêu cao lí tưởng

trung hiếu trong mối quan hệ vua - tôi. Cảm hứng ngợi ca tùy lúc đậm nhạt khác

nhau nhưng luôn được duy trì. Nó là biểu hiện cao đẹp của lòng trung quân ái quốc

trong xã hội quân chủ Đại Việt. Bên cạnh những thực tế tốt đẹp, có thể thấy các tác

giả đã ít nhiều tô hồng hiện thực, phần nào có thái độ khen nịnh bằng cách xướng

hoạ để đề cao giá trị của hoàng đế. Tuy nhiên, cùng với những lời ca ngợi đó, không

phải không có trường hợp các tác giả ngấm ngầm gửi gắm những thông điệp nhắc

nhở các bậc đế vương về đức trị quốc.

3.2.2. Nhân vật hoàng đế “bất toàn” trong cảm hứng phê phán, phúng gián

3.2.2.1. Phê phán hoàng đế vi phạm các chuẩn mực về đức của Nho giáo

Hoàng đế đương triều không được xem việc ghi chép sử của các sử thần đã

tạo cho các tác phẩm sử kí tính trung thực, khách quan đáng tin cậy. Vì thế những

mặt trái của xã hội, những sai trái của đế vương cũng được các sử gia ghi chép. Phê

phán thẳng thắn, khách quan là một việc không dễ dàng. Nó đòi hỏi người chép sử

phải trung thực, can trường. Trong Đổng Hồ bút phú, tác giả khuyết danh đã ca

ngợi người chép sử cương trực dám nói lên sự thật để bảo vệ lẽ phải: “Cầm bút

chép một cách thẳng thắn, dù mảy may chẳng dám đơn sai. Làm sáng tỏ đúng sai

muôn thuở, vạch rõ ra sự được mất đương thời. Khen chê thì nghiêm khắc ở điều

thưởng phạt, nghị luận thì dứt khoát như lưỡi búa rìu” [144; 1035].

93

Có thể nói Đại Việt sử kí toàn thư là một bộ sử có giá trị cao bởi sự trung

thực và nghiêm khắc. Các sử gia thể hiện sự nghiêm cẩn trong từng trang sử để

cung cấp cho hậu thế một góc nhìn đầy đủ hơn về các hoàng đế Đại Việt. Không ít

hoàng đế muốn can gián các sử thần trong quá trình chép sử. Năm 1342 Trần Minh

Tông bãi chức sử quan chỉ vì không cho mình vào Ngự sử đài, Lê Thánh Tông đòi

đọc những ghi chép về chính nhà vua… Có thể không tránh khỏi việc ít nhiều các

sử gia bị tác động trong quá trình chép sử. Tuy nhiên, truyền thống triều sau viết về

sử triều trước đã phần nào giúp các sử gia tránh được những tai vạ và mạnh dạn

bày tỏ những quan điểm đánh giá, bàn luận.

Cần phải nói thêm về tính nguyên hợp của văn học Việt Nam sơ kì trung đại.

Thật khó để đưa ra ranh giới để phân loại văn – sử – triết trong văn học giai đoạn

này. Quan niệm và định hướng hỗn dung tư duy nguyên hợp tồn tại trong rất nhiều

tác phẩm. Một số tác phẩm vừa ghi chép lịch sử vừa có phẩm bình, tích hợp thơ ca.

Nguyễn Huệ Chi trong phần khảo luận văn bản của Thơ văn Lý – Trần đã nhận

định: “Từ một bộ Việt sử lược, một bộ Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, những lời

bình luận, những tiểu truyện pha màu sắc truyền kỳ về các nhân vật lịch sử, những

giai thoại, truyền thuyết quý giá về lối sống, cách cư xử, tình thương yêu… Tất cả,

rõ ràng đều phải đặt vào hàng những tác phẩm văn học của thời Lý – Trần” [209;

187]. Nhận định này được xem là cơ sở để luận án tiến hành khảo sát các văn bản

văn học lẫn các văn bản không thuần túy là văn học.

Theo quan điểm Nho giáo, hoàng đế phải đạt đến phẩm chất “nội thánh,

ngoại vương” – tu kỷ, trị nhân tức bên trong là một thánh nhân, bên ngoài là một

hoàng đế. Và chuẩn mực về đức được xem là quan trọng nhất đối với thiên tử.

Tuy nhiên, bên cạnh những hoàng đế anh minh được ca ngợi thì những hoàng đế

thiếu đức vẫn được sử sách ghi chép tường tận. Đại Việt sử kí toàn thư đã ghi

chép lại các hoàng đế vi phạm các chuẩn mực tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên

hạ. Các sử gia đã dùng điểm nhìn Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá về hoàng đế.

Họ ít quan tâm đến tài trị quốc mà quan tâm nhiều đến đạo đức, luân thường của

các bậc hoàng đế, chính vì thế mà họ chép nhiều sự kiện, hành vi liên quan đạo

đức, lễ giáo.

94

Các hoàng đế ở thời kỳ đầu mới giành được độc lập chưa chịu ảnh hưởng

mạnh mẽ của Nho giáo. Họ hành động theo sở thích cá nhân mà không theo các

chuẩn mực đạo đức: Đinh Tiên Hoàng lấy năm vợ, Lê Đại Hành thông dâm với

Dương Vân Nga… chính vì thế các sử gia đã mạnh mẽ phê phán hành động hoang

dâm, loạn luân. Lê Văn Hưu phê phán Đinh Tiên Hoàng đã đặt ra một tiền lệ xấu

cho các hoàng đế đời sau vì không chu toàn việc tề gia: “Tiên Hoàng không có học

vấn kê cứu đời xưa, mà các bề tôi lúc bấy giờ lại không có người nào biết giúp sửa

cho đúng, để đến nỗi lòng riêng đắm đuối mà lập năm Hoàng hậu ngang nhau. Sau

đến, hai triều Lê, Lý cũng nhiều khi bắt chước làm thế, chính là do Tiên Hoàng

khơi đầu mối loạn vậy” [97; 129]; Hay Lê Đại Hành lập vợ của Đinh Tiên Hoàng

làm vợ mình: “Đại Hành thông dâm với vợ vua, rồi nghiễm nhiên lập hoàng hậu,

thì không còn có lòng hổ thẹn gì nữa. Lấy lối ấy truyền lại đời sau chính con mình

lại bắt chước mà gian dâm quá độ đến nỗi mất nước, há chẳng phải do Đại Hành

gây mối loạn ư?” [97; 140]. Về sau Đại Nam quốc sử diễn ca cũng đã phê phán Lê

Đại Hành đã làm trái luân thường đạo lý khi phong Dương Vân Nga (vợ của Đinh

Tiên Hoàng) làm hoàng hậu: “Vạc Đinh đã trở sang Lê./ Nàng Dương chăn gối

cũng về hậu cung./ Nguy nga ngói bạc cột đồng./ Cung đài trang sức buông lòng xa

hoang.” (Đại Nam quốc sử diễn ca) [7; 159].

Đọc Đại Việt sử kí toàn thư sẽ bắt gặp không ít những hoàng đế vì thoả mãn

lợi ích cá nhân mà bỏ qua những chuẩn mực về luân thường, đạo lí. Phan Phu Tiên

nhận xét về Trần Thái Tông: “Tam cương ngũ thường là luân lý lớn của loài người.

Thái Tôn là vua mở nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép để dạy đời sau, lại nghe mưu

gian của Thủ Độ, cướp vợ của anh làm hoàng hậu, chẳng hoá ra bỏ hết luân

thường” [97; 273]. Hoàng đế Trần Dụ Tông nghe lời của Trâu Canh thông dâm với

chị ruột là công chúa Thiên Ninh để trị bệnh liệt dương. Ngô Sĩ Liên còn thẳng

thắn bày tỏ sự rối loạn luân lý của hoàng đế Trần Duệ Tôn: “Vua tôi, cha con, vợ

chồng là ba cương lớn, đạo luân lý của loài người không gì to bằng. Đã gọi là

cương thì sao được làm rối loạn?... làm vua cha mà đi đón vợ của con là hiềm nghi

lớn lắm, việc ấy mà không cẩn thận thì các việc khác cũng đủ để biết cả” [97; 401].

Ngô Sĩ Liên mạnh mẽ phê phán hôn nhân cùng huyết thống của nhà Trần: “Vì rằng

vua trong đạo vợ chồng đã là bất chính, cho nên người làm tôi con cũng bắt chước.

95

Vả lại lấy nhau không lấy người họ khác, mà lấy người cùng một họ, chỉ có nhà

Trần là thế, trong việc trái lễ lại trái lễ nữa” [97; 280].

Việc đam mê nữ sắc, thoả mãn dục vọng cá nhân mà làm ra những việc tàn

bạo của các đế vương cũng được các tác phẩm ghi chép tường tận. Việt điện u linh

và Đại việt sử kí toàn thư đã mô tả hoàng đế Lý Thái Tôn sau khi đem quân đánh

vào thành Chiêm Thành đã bắt các cung tần, mỹ nữ của Sạ Đẩu về phục vụ hát múa

khúc điệu Tây Thiên. Chính vì lòng hoang dâm vô độ này mà dẫn đến cái chết của

Mị Ê – cái chết đi vào sử sách vì lòng trung trinh, tiết liệt. Lê Văn Hưu còn phê

phán hoàng đế Lý Thần Tông lạm quyền để thoả mãn nhu cầu ái dục, lối sống vị kỉ

không phụng sự cho nhân dân: “Thần Tôn xuống chiếu cho con gái các quan phải

đợi khi tuyển vào cung không trúng rồi mới được lấy chồng thì là tự phung cho

mình, có phải là lòng làm cha mẹ dân đâu?” [97; 224].

Thường các hoàng đế cuối cùng của một triều đại đều vướng vào việc đam

mê tửu sắc, làm những việc bất nhân và bị trời trách phạt. Thiền uyển tập anh đã

ghi lại những điềm lạ dưới thời cai trị tàn bạo của Lê Ngọa Triều: “Bấy giờ điềm lạ

xuất hiện nhiều nơi, như xoáy lông trên lưng con chó trắng ở viện Hàm Toại chùa

Ứng Thái Tâm châu Cổ Pháp có hình chữ thiên tử; cây gạo bị sét đánh để lại vết

tích chữ viết, xung quanh mộ Hiển Khánh đại vương ban đêm nghe tiếng tụng kinh

râm ran…” [143; 735]. Những hoàng đế tàn bạo sẽ bị trời cảnh báo bằng các tai

ương, dị thường như dấu hiệu cho một cuộc thay triều đổi vị. Ngô Sĩ Liên ghi chép

về việc Lý Cao Tôn trị vì khi nhà Lý đã rơi vào suy thoái: “Vua đắm đuối chơi bời,

say mê thanh sắc, ham của cải, thích xây dựng, dạy các quân lười biếng ham mê, để

trăm họ phải ta oán, làm cho phúc nhà Lý ngày một hao mòn, đến nỗi mất nước”

[97; 256].

Sự nghiệp của một hoàng đế không chỉ được đánh giá qua việc bình thiên hạ.

Việc tề gia, giữ chuẩn mực đạo đức của hoàng đế cũng rất được xem trọng. Bên

cạnh các trang sử ca ngợi trung hiếu vẹn toàn của các hoàng đế thì cũng không ít

hoàng đế để lại tiếng xấu trong sử sách. Chưa bao giờ văn chương có giọng điệu đả

kích mạnh mẽ với các ngôn từ sắc bén, sâu cay dành cho hoàng đế. Nhưng các tác

phẩm sử đã mạnh dạn phê phán những hành động trái đạo đời, thiếu chuẩn mực đạo

đức của hoàng đế. Ngô Sĩ Liên đã phê phán Lý Thái Tổ “Vua đương để tang mà

96

chơi vui hết mức, không nghĩ đến việc tiên đế chưa chôn sao? Cái lòng đau đớn

thương xót không còn gì cả” [97; 173].

Sử sách còn ghi nhận, các hoàng đế, để phục vụ nhu cầu ăn chơi sa đọa, đã

vơ vét sức người, sức của. Lê Đại Hành khi lên ngôi đã: “Dựng nhiều cung điện;

làm điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát vàng bạc, làm nơi coi

chầu; bên Đông là điện Phong Lưu, bên Tây là điện Tử hoa… rồi lại dựng điện

Trường Xuân làm nơi vua ngủ” [97; 141]. Theo Tạ Chí Đại Trường trong Sử Việt

đọc vài quyển thì tuy việc sinh hoạt riêng tư ở cung đình tuy không được bày tỏ

nhưng được biểu lộ tính dục trong các tên cung điện. Các tên gọi Phong Lưu, Tử

Hoa, Bồng Lai, Trường Xuân vốn dĩ là các danh xưng cùng ý nghĩa hưởng thụ

xác thịt.

Đại Việt sử kí toàn thư cung cấp cho độc giả một góc nhìn khác về các

hoàng đế triều Lý. Lê Văn Hưu phê phán hoàng đế Lý Thái Tổ đã lạm dụng, vơ

vét sức dân để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng: “Thế thì tiêu phí sức lực của cải về

việc thổ mộc biết chừng nào mà kể. Của chẳng phải là trời mưa xuống, sức không

phải là thần làm hộ, há chẳng phải là vét màu mỡ của dân ư? Vét màu mỡ của dân,

có thể gọi là làm việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm còn lo

cho con cháu ngày sau xa xỉ, mà Thái Tổ để phép cho con cháu như thế, chi nên

đời sau mới xây tường cao ngất trời, tạc cột chùa bằng đá; làm chùa Phật lộng lẫy

hơn cả cung điện của vua” [97; 161]. Mặt trái này tiếp tục được hậu thế nhắc lại

qua Đại Nam quốc sử diễn ca: “Hồ Tây vui thú Dâm đàm./ Nỡ đem của nước xây

làm cung tiên./ Chuông Sùng Khánh, tháp Báo Thiên,/ Phật vàng đúc tượng say

thiền lạ sao?” (Đại Nam quốc sử diễn ca) [7; 169]. Thêm một dữ liệu nữa chứng

minh tính chân thực ở các lời bàn của các nhà chép sử trong Đại Việt sử kí toàn

thư, trước đó văn chương hầu hết đều ca ngợi hoàng đế Lý Nhân Tôn thì Tự Đức

bên cạnh việc đề cao Nhân Tôn giúp nhà Lý giữ vững yên ổn, huy hoàng ông còn

nhắc lại sai lầm nghiêm trọng của hoàng đế triều Lý: “Dục linh thứ tích vô di

hám./ Tất vãn Thao Giang tẩy Thượng Dương.” (Muốn cho mọi việc khôn di hận./

Lấy nước sông Thao rửa Thượng Dương.) (Vịnh Lý Nhân Tông) [37; 93]. Khi mới

lên ngôi, Lý Nhân Tôn nghe lời Nguyên phi Ỷ Lan đưa đến cái chết oan ức cho

Dương Thái hậu. Thượng Dương cung là nơi ông giam cầm Dương Thái hậu đến

97

chết. Tự Đức ngầm ám chỉ Nhân Tôn phải dùng nước sông Thao mới rửa sạch

được vết nhơ trong quá khứ.

Đại Việt sử kí toàn thư còn phê phán các hoàng đế thích khoe khoang, tự

phong tặng nhưng danh xưng, tên gọi: “Thái Tôn bảo các quan gọi mình là triều

đình, đến sau Thánh Tôn tự xưng “Vạn thặng”, Cao Tôn bảo người gọi mình là

Phật, đều không theo phép ở đâu mà thích tự khoe khoang, tức Khổng Tử nói “danh

không chính thì nói không thuận” là thế” [97; 177].

Ở triều Trần, Tam Tổ thực lục đã ghi lại sai lầm của hoàng đế Trần Anh Tông

vì nghe lời tâu của triều thần mà “giăng lưới bắt chim”. Trần Anh Tông đã sai cung

nhân là Điểm Bích dùng cách để quyến luyến, khơi gợi lòng dục của Huyền Quang.

Khi nhận ra giới hạnh của Huyền Quang, Trần Anh Tông đã: “liền dời chiếu lễ

xuống vái sư tạ lỗi”.

Con đường khởi nghiệp hay nối nghiệp của các hoàng đế thường gắn liền với

bạo lực. Vì thế chém giết, thanh trừng các thế lực có sức ảnh hưởng nguy hại,

chống đối là việc không thể tránh khỏi. Qua những ghi chép sử sách, độc giả mới

nhận thấy được mặt trái của chế độ quân chủ: “Ngoạ triều giết anh, tự lập làm vua,

bạo ngược với dân chúng để thoả lòng hung ác, đến nỗi mất ngôi, mất nước” [97;

150]. Đại Việt sử lược mặc dù không có lời bàn, chỉ nêu và liệt kê các sự kiện

nhưng vẫn thể hiện được quan điểm của người viết sử. Khi viết về Lê Ngọa Triều,

Đại Việt sử lược đã lột tả được bản chất tàn bạo của hoàng đế này: “Phàm những kẻ

bắt được trong các cuộc chinh phạt, thì bắt tới bờ sông, khi nước rút sai người làm

cũi dưới nước, dồn họ vào trong, lúc nước lên thì họ bị sặc thở mà chết; lại còn bắt

người ta trèo lên cây cao, đứng dưới chặt gốc” [144; 761].

Phàm là hoàng đế phải là người có đức mà đức cao nhất là hiếu sinh. Thế

nhưng, Đại Việt sử kí toàn thư đã ghi chép về một hoàng đế Lê Đại Hành thiếu đức,

nhân, xem sinh mệnh con người là trò mua vui giải trí. Nhà Trần sau khi cướp ngôi

nhà Lý đã thi hành nhiều chính sách thanh trừng tận gốc chính quyền cũ. Ngô Sĩ

Liên phải đưa ra nhận định sâu cay về Trần Thái Tôn: “Đã lấy nước của người ta,

lại giết vua của người ta, thì bất nhân quá lắm” [97; 266]. Đã vậy, Trần Thái Tôn

còn “đem các cung nhân của Lý Huệ Tôn và các con gái thân thích họ Lý gả cho

các tù trưởng người Man” [97; 266]. Có thể thấy, nếu chỉ dừng lại ở việc khảo sát

98

các tác phẩm thuần văn học mà không đọc nếu không tìm hiểu Đại Việt sử kí toàn

thư sẽ chẳng phát hiện ra đầy đủ về nhân vật hoàng đế.

Hoàng đế Lê Thái Tổ có công lớn khi đánh bại quân Minh lập lại hoà bình

cho Đại Việt. Tuy nhiên, con đường đi đến ngôi vị của ông, theo sử sách ghi chép,

lại không ít những hành động tàn bạo. Vì thấy lòng dân còn nhớ đến triều Trần

đồng thời muốn tránh tiếng với nhà Minh, Lê Lợi đã cho lập Trần Cảo làm hoàng

đế đặt niên hiệu là Thiên Khánh. Khi thắng thế, nhận thấy vai trò của Trần Cảo

không còn cần thiết, Lê Thái Tổ đã cho thủ tiêu Trần Cảo bằng những hành động

rất tàn bạo. Khi nhận thấy “trời không thể có hai mặt trời”, Trần Cảo đã tìm chốn

ẩn náu. Tuy nhiên: “Thái Tổ sai người đuổi theo giết chết, ném xác vào trong bụi

gai” [97; 522].

Trong quá trình trị vì, các hoàng đế luôn đối mặt với các cuộc nội loạn,

ngoại xâm hoặc đem quân đi chinh phạt các nước yếu thế. Đặc biệt, trước khi đem

quân đi chinh phạt, các hoàng đế thường xuống chiếu, hịch để tuyên bố hào hùng,

đanh thép khẳng định vai trò của đế vương là “thi hành mệnh trời trách phạt”. Năm

1039, sau khi cầm quân đánh dẹp Nùng Tôn Phúc, hoàng đế Lý Thái Tông đã viết

Bình Nùng chiếu: “Trẫm từ làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ, không

người nào dám bỏ tiết lớn; phương xa cõi lạ, không nơi nào không thần phục…

Nay, Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị hiệu, ban hành chính lệnh, tụ tập

quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế, trẫm cung kính thi hành mệnh trời

trách phạt” [209; 245].

Rõ ràng qua những lời tuyên bố trước khi xuất quân chinh phạt có thể thấy

diễn ngôn của hoàng đế đem quân đánh các thế lực yếu thế là do theo mệnh trời.

Tuy nhiên, không ít trường hợp các sử gia xem đó là một hành động thiếu nhân

đức. Ngô Sĩ Liên bàn luận: “Nếu bảo là người xa không phục cứ lấy đức hoá mà

cảm cho họ theo về, cần gì phải đem quân đi xa?” [97; 187].

Hoàng đế là thiên tử thay trời trị dân. Hoàng đế có được năng lực thiên nhân

tương cảm. Nếu hoàng đế có đức sẽ được trời ban bố phúc lộc, được mùa, thiên hạ

thái bình thịnh trị. Ngược lại hoàng đế không theo đạo nhân sẽ bị trời trách phạt và

được cảnh báo bằng các tai ương, dị thường. Ngô Sĩ Liên ghi chép “Người làm vua

lòng trung hoà thì trời đất định vị muôn vật sinh dục mà khí tiết điều hoà. Nếu khí

99

âm thịnh mà phạm bậy đến khí dương thì trời đất tất vì người làm vua mà báo trước

việc biến” [97; 299].

Có thể thấy các sử gia đã đứng trên quan điểm Nho giáo để quan sát, ghi

chép và đưa ra những lời bàn về các vị hoàng đế Đại Việt. Họ dựa vào những

chuẩn mực đạo đức Nho giáo để đánh giá về đạo đức làm người, đạo trị nước của

các hoàng đế. Các sử gia đã đưa các chuẩn mực của kinh Xuân thu, các truyện sử

Trung Hoa thời Tam Hoàng Ngũ đế, Xuân Thu chiến quốc để nhận xét, bàn luận về

các hoàng đế Đại Việt. Tiêu biểu là Ngô Sĩ Liên trích dẫn Kinh Dịch, Kinh Thư,

Trung Dung, Mạnh Tử để bàn luận: Danh không chính, không hợp đạo Trung

Dung… Việc đánh giá, bàn luận của các sử thần thông qua các chứng cứ lịch sử đã

cung cấp cho hậu thế một cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về nhân vật hoàng đế

Đại Việt trong giai đoạn này.

3.2.2.2. Phúng gián hoàng đế

Sống trong xã hội quân chủ, quyền lực nằm trong tay hoàng đế thì việc

thẳng thắn trình bày những mặt trái của nền chính trị là việc rất khó. Khi phát biểu

về quan điểm đạo đức, chính trị, các tác giả phải hết sức tế nhị để bảo toàn sinh

mệnh, minh triết bảo thân. Tuy nhiên, không vì thế mà hình ảnh về hoàng đế luôn

xuất hiện đẹp đẽ trong đời sống văn học. Các tác giả vẫn không ngừng bàn về

chính trị. Một mặt họ ra sức bảo vệ vương quyền, thần quyền mặt khác ngấm

ngầm gửi những thông điệp tư tưởng thân dân nhằm hạn chế tính chuyên quyền

của các hoàng đế.

Bên cạnh những minh chứng lịch sử, văn học thế kỉ X đến thế kỉ XV còn ghi

nhận không ít những tác phẩm phơi bày thực trạng xã hội và phúng gián hoàng đế. Bài

thơ Quốc tộ của thiền sư Đỗ Pháp Thuận được xem là một trong những tác phẩm mở

đầu của nền văn học viết Việt Nam. Đây cũng được xem là tác phẩm đặt nền tảng cho

tư tưởng văn hoá chính trị trong văn học Việt Nam sơ kì trung đại. Vận nước muốn bền

chặt như dây leo phải có sự đoàn kết và xây dựng được sức mạnh toàn dân: “Quốc tộ

như đằng lạc,/ Nam thiên lý thái bình./ Vô vi cư điện các,/ Xứ xứ tức đao binh.” (Vận

nước như dây mây quấn,/ Ở cõi trời Nam bồi đắp nền thái bình./ Vô vi ngự trên cung

điện,/ Khắp nơi đều chấm dứt đao binh.) [164; 220]. Đỗ Pháp Thuận dùng các hình ảnh

ẩn dụ để nhắc nhở Lê Đại Hành chủ trương nên đức trị, tránh lạm sát.

100

Khái niệm “vô vi” được sử dụng trong nhiều trường phái tôn giáo, triết học.

Theo Đạo đức kinh của Lão Tử “vô vi” là khái niệm để chỉ thái độ sống thuận theo tự

nhiên. Còn Khổng Tử quan niệm: “Vô vi nhi trị kỳ Thuấn dã dư?” (Vô vi mà thịnh trị

đó là đường lối của vua Thuấn đó sao?). Theo Phật giáo, “vô vi” là lối sống từ bi, bác

ái, không màng đến lợi ích cá nhân. Theo Nho giáo, “vô vi” là khái niệm để nói về

bậc thánh nhân dùng đức để cai trị và cảm hoá được lòng dân. Trong bài thơ này, Đỗ

Pháp Thuận dùng hai chữ “vô vi” đứng trên quan điểm Nho giáo để gửi thông điệp trị

quốc đến Lê Đại Hành. Vận nước được ví với biểu tượng dây mây leo quấn quýt,

muốn bền chặt thì trước hết hoàng đế phải có đạo đức, không ngừng tu thân, sửa đức

để phục chúng. Hoàng đế phải dùng đức để trị, coi dân là gốc, hạn chế lạm sát và

không đặt nặng hình chính. Đối chiếu với lịch sử sẽ tìm ra được lời giải đáp cho ẩn ý

sau lời thơ của Đỗ Pháp Thuận. Đành rằng có nhiều võ công, nhưng Lê Đại Hành lại

thi hành nhiều đường lối trị quốc thiếu nhân đức khi xây dựng cung điện xa hoa, lãng

phí sức người, sức của, lập cùng lúc năm hoàng hậu… Nghệ thuật của bài thơ được

thể hiện ở điểm Đỗ Pháp Thuận đã ngấm ngầm gửi những thông điệp phúng gián

hoàng đế Lê Đại Hành. Không cần những lời lẽ trực tiếp can gián, tác giả vẫn khiến

hoàng đế phải suy ngẫm muốn vận nước được kéo dài phải chấm dứt nạn đao binh và

phát huy con đường đức trị.

Tinh thần phê phán, phúng gián hoàng đế tập trung nhiều ở thời vãn Trần và

thời Hồ. Xã hội khủng hoảng, hoàng đế hèn yếu, các nhà nho thể hiện sự bất lực

trước cuộc đời giữa thoái lui ở ẩn hay hành đạo giúp đời: “Hành chỉ hà tâm, nhân

khám lưu,/ Phiêu dao bất định thử sinh phù.” (Chuyện giúp đời hay đi ở ẩn, mặc

dòng nước trôi, còn lòng nào nghĩ đến,/ Cuộc đời trôi nổi này lênh đênh bất định.)

(Nam Hải huyện tư giang dịch dạ bạc – Lê Cảnh Tuân) [144; 523]. Các nhà nho

hành đạo đã ít nhiều thể hiện tư tưởng nhà nho ẩn dật trong sáng tác. Qua thơ văn,

họ bày tỏ nỗi thất vọng trước cảnh đất nước suy thoái và muốn về quê để sống cảnh

thanh bần. Rất nhiều những tâm tư của kẻ sĩ thất thời được thể hiện qua trang thơ

Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Hồ Tông Thốc, Nguyễn Phi Khanh… Những âm

thanh ai oán, sầu não xuất hiện nhiều trong văn chương vãn Trần. Mỗi kẻ sĩ có một

thái độ ứng xử riêng trước thời loạn nhưng điểm chung là tâm trạng chán chường

101

không tìm ra lối thoát nào tốt hơn bằng việc rời chốn quan trường. Vì minh triết,

bảo thân, nên họ rất khéo léo trong việc phê phán, phúng gián.

Các nhà nho nhập thế nhận thức được trách nhiệm của mình trước tình hình

xã hội suy tàn, từ đó lên tiếng bày tỏ thái độ và thể hiện quan điểm. Tuy nhiên họ

bất lực trước thời cuộc và đem vào văn chương âm điệu u buồn, thất vọng. Chu Văn

An bày tỏ sự bất lực trước thời đại: “Ngư phủ cổ chiểu long hà tại? Vân mãn không

sơn hạc bất quy!” (Cá bơi ao cổ rồng ở chốn nào?/ Mây đầy núi vắng, hạc chẳng

thấy về!) (Miết Trì – Chu Văn An) [144; 129]. Rồng là biểu tượng cho sự uy

nghiêm của hoàng đế nhưng nay “long hà tại?” – rồng đang ở nơi đâu? Đó là một

câu hỏi không lời đáp. Không gian hiện lên tiêu điều, hoang vắng, vầng mây phủ

núi, hạc chẳng bay về. Đó là tiếng lòng đau đớn của một kẻ sĩ trước cảnh đất nước

suy vi. Dù cho thực tế có nhiều chua xót nhưng Chu Văn An vẫn một lòng thờ chúa

và hối tiếc về sự nghiệp huy hoàng của tiên đế: “Thốn tâm thù vị như hôi thổ,/ Văn

thuyết Tiên Hoàng lệ ám huy.” (Tấc lòng này hẳn chưa nguội lạnh như tro đất,/

Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ.) (Miết trì – Chu Văn An) [144;

129]. Khi tấm lòng đã nguội lạnh, Chu Văn An hướng đến đời sống ẩn dật, tự do vui

thú tiêu dao: “Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,/ Hồ hải liêu vi hãn mạn du./ Tự

khứ tự lai hồn bất quản,/ Thương ba vạn khoảnh tiễn phi âu.” (Công danh đã rơi vào

giấc mộng hoang đường,/ Tạm dạo chơi lang thang miền hồ hải./ Đi lại tự mình,

chẳng gì trói buộc,/ Thèm cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảng sóng xanh.)

(Giang Đình tác – Chu Văn An) [144; 131].

Trần Nguyên Đán là một trọng thần của triều đình. Chứng kiến sự suy thoái

của triều Trần, ông mượn lời thơ để bày tỏ những nỗi suy tư, trăn trở: “Thoái nhàn

Lục Dã tri hà cập?/ Tán cấp Thanh miêu tạ bất năng.” (Lui về sống an nhàn ở Lục

Dã biết còn kịp chăng?/ Chia tiền theo phép Thanh miêu, xin từ không dám.) (Sơn

trung cảm hứng – Trần Nguyên Đán) [144; 185]. Ông trăn trở giữa việc về hay ở và

tự trách mình là một lão quan bất tài, không thể thay đổi được vận mệnh quốc gia:

“Tự tiếu phù trầm vô kế thuật,/ Hà tằng thổ nhự thống khâm hầu./ Y a thiệp thế đồ

vi nhĩ,/ Bạch thủ tông thần bất dữ mưu.” (Tự cười mình chìm nổi, chẳng có kế thuật

gì,/ Chưa từng nhả nuốt bao giờ mà đau cuống họng?/ Dựa dẫm theo đời, qua

102

chuyện mà thôi,/ Bậc tông thần bạc đầu không được dự mưu.) (Đáp Lương Giang

nạp ngôn bệnh trung – Trần Nguyên Đán) [144; 197].

Trách nhiệm của bậc đế vương và quan lại là phải quan tâm đến dân sinh.

Trần Nguyên Đán đã nâng cao tư tưởng thân dân của thời Trần đến gần hơn với tư

tưởng thân dân – tư tưởng mà ta sẽ gặp sau này ở thời Lê sơ. Lời thơ của ông thể

hiện lòng kính trọng nhân dân và day dứt trước cảnh khốn khổ của họ: “Niên lai hạ

hạn hựu thu lâm,/ Hoà cảo miêu thương hại chuyền thâm./ Tam vạn quyển thư vô

dụng xứ,/ Bạch đầu không phụ ái dân tâm.” (Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại

bị lụt,/ Lúa khô mạ thối, tai hại càng nhiều./ Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô

dụng,/ Bạc đầu luống phụ lòng thương dân.) (Nhâm Dần niên lục nguyệt tác – Trần

Nguyên Đán) [144; 225]. Trần Nguyên Đán hay nhắc đến cụm từ "bạch đầu" trong

sáng tác: “Tam phân đầu bạch thốn tâm đan,/ Thế thượng phân phân vạn sự nan./

Tự tiếu bất như Tiền Nhược thuỷ,/ Niên tài tứ thập tiện hưu quan.” (Ba phần tóc

trên đầu đã bạc, vẫn tất lòng son,/ Sự đời bối rối, muôn việc khó khăn./ Tự cười

mình không bằng ông Tiền Nhược Thuỷ,/ Tuổi mới bốn mươi đã cáo quan về hưu.)

(Mậu thân chính nguyệt tác ) [144; 226]. Đó không chỉ là biểu thị của tuổi sao sức

yếu, mà ẩn sau nó là là một tâm trạng bất mãn và bất lực của nhà thơ trước thời

cuộc. Sau những khéo léo phúng gián, Trần Nguyên Đán dường như không tìm

được lối thoát cho những trăn trở của mình. Ông đã chua chát cất lên tiếng nói phê

phán hoàng đế đương triều: “Bạch nhật thăng thiên dị,/ Trí quân Nghiêu Thuấn

nan./ Trần ai lục thập tại,/ Hồi thủ quý hoàng quan.” (Ban ngày bay lên trời còn

dễ,/ Giúp vua để vua được như Nghiêu Thuấn mới khó./ Sáu mươi năm sống trong

cõi trần,/ Ngoảnh lại luống thẹn với người đội mũ vàng.) (Đề huyền thiên quán –

Trần nguyên Đán) [144; 222]. Với tâm trạng bất lực trước thời cuộc, Trần Nguyên

Đán nhìn lại chặng đường làm quan mà thẹn với địa vị của mình. Đó là sự đổ vỡ

của giấc mộng giúp hoàng đế trở thành Nghiêu Thuấn. Từ những thất vọng về hoài

bão phò hoàng đế trở thành bậc minh quân, Trần Nguyên Đán phê phán hoàng đế

Trần Nghệ Tông thiếu chữ tín vi phạm chuẩn mực Nho giáo: “Nhậm giao xuân

diệm phụ tiền minh./ Gia bần bất tác vô tiền thán,/ Đồng xú kim do hãn sử bình.”

(Bảo vệ, vẻ xuân nồng đượm chớ có phụ lời thề xưa./ Nhà nghèo nhưng chẳng vì

103

không tiền mà than thở,/ Hơi đồng hôi tanh sử xanh đã bình nay vẫn còn.) (Cửu

nguyệt đối cúc canh ngự chế thi vận – Trần Nguyên Đán) [144; 140].

Chữ “tín” là một trong ngũ thường của Nho giáo. Hơn bất kì ai trong xã hội,

hoàng đế phải biết xem trọng chữ tín. Vua Thuấn cho rằng: “giữ điều nhất quán,

trước sau không đổi, dù làm việc nhỏ không sinh lòng lười biếng, giữ lòng trung tín

không mệt mỏi thì thiên hạ tự khắc nghe theo” [45; 78]. Trần Nguyên Đán nhắc lại

lời thề ngày trước nhằm cảnh tỉnh Trần Nghệ Tông trọng chữ tín. Ông nhắc lại câu

chuyện Thôi Liệt dùng tiền để mua chức Tư đồ để cảnh tỉnh hoàng đế. Đại Việt sử

kí toàn thư chép: “Mùa thu tháng 8 định việc bổ sung quân ngũ, đóng sửa thuyền

chiến để chuẩn bị việc đánh Chiêm Thành. Hạ lệnh cho quân và dân quyên thóc cho

nhà nước, thưởng cho tước phẩm theo thứ bậc khác nhau” [97; 399]. Trần Nguyên

Đán mượn sử để nhắc nhở triều đình không vì tiền mà tuỳ tiện ban chức tước cho

người không có học vấn gây rối loạn xã hội.

Nguyễn Phi Khanh đỗ Tiến sĩ năm 1374 nhưng lại không được nhà Trần

trọng dụng. Chính vì thế thơ của ông mang tâm trạng u uất của kẻ sĩ có tài nhưng

không được phụng sự: “Kinh quốc huề thư nhị thập niên,/ Đăng long mỗi hận

khiếm tiền duyên.” (Du học ở kinh kỳ, hai chục năm nay,/ Trường ân hận thiếu cái

duyên may được bước lên cửa rồng.) (Thướng Hồ thừa chỉ Tông Thốc – Nguyễn

Phi khanh) [144; 618]. Xót xa trước cảnh đời sống nhân dân lầm than, cơ cực,

Nguyễn Phi Khanh mượn lời thơ để tố cáo hệ thống chính trị đương thời: “Đạo

huề thiên lí xích như thiêu,/ Điền dã hưu ta ý bất liêu?/ Hậu thổ sơn hà phương

địch địch,/ Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều!/ Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,/ Dân

mệnh cao chi bán dĩ tiêu…” (Ruộng nương nghìn dặm đỏ như cháy,/ Đồng quê

than van, không biết trông cậy vào đâu?/ Non sông hậu thổ đang nứt nẻ,/ Mưa móc

của Hoàng thiên hãy còn xa vời!/ Lưới tham quan lại vơ vét hết kiệt,/ Mỡ màng

của dân đã cạn mất nửa.) (Thôn cư cảm sự kí trình Băng Hồ tướng công - Nguyễn

Phi Khanh) [144; 668]. Theo quan điểm Nho giáo, hoàng đế ít đức sẽ bị trời trừng

phạt và dự báo bằng những tai ương. Nguyễn Phi Khanh đã lột trần thực trạng

khốn cùng của nhân dân trong cảnh đồng khô cỏ cháy. Đức của hoàng đế triều

Trần không cảm động được hoàng thiên nên không ban mưa móc cứu dân lành.

104

Hoàng đế đã không thực hiện tốt nhiệm vụ trị quốc để quan lại bóc lột nhân dân

gây nên cảnh bi ai, sầu oán.

Chu Đường Anh mượn câu chuyện từ lịch sử Trung Hoa để phê phán hoàng

đế không quan tâm đến đời sống nhân dân. Số phận nhân dân thấp cổ bé họng được

so sánh thấp kém hơn cả một vật nuôi của hoàng đế. Một sự so sánh khập khiễng

nhưng khiến người đọc chua xót: “Nhược ái sử nhân như ái mã,/ Thương sinh an

đắc hữu sang di?” (Nếu vua yêu người cũng như yêu ngựa,/ Thì dân đen đâu đến

nỗi cơ cực?) (Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ - Chu Đường Anh) [144; 474].

Bao nhiêu trăn trở ấy cho thấy các nhà nho không thoát li cuộc sống mà vẫn

luôn âu lo và khao khát hồi sinh vận mệnh đất nước. Tuy nhiên, những niềm hy

vọng đó ngày càng trở nên mong manh. Không thực hiện được lí tưởng cao đẹp, họ

đã tìm đến núi rừng, làng quê để sống đời ẩn dật. Họ tìm đến sự giao hòa với tư

tưởng tu hành của Phật giáo hay vùng tiên cảnh của tư tưởng Lão – Trang: “Nhất

điểm đan thành sinh nhược tử,/ Kỳ hồi hạc hoá bạch vi huyền./ Doanh Châu Bồng

Đảo tri hà tại,/ Vô dục vô tham ngã thị tiên.” (Một tấm lòng son sống cũng như

chết,/ Mấy lần chim hạc hoá trắng lại thành đen./ Doanh Châu, Bồng Đảo biết là ở

đâu,/ Không ham muốn, không tham lam, ta là tiên.) (Đề Nguyệt Giản đạo lục thái

cực chi quan diệu đường – Trần Nguyên Đán) [144; 169].

Trong tư tưởng của các nhà thơ, khi con người không ham muốn, không tham

lam, đạt đến cảnh giới đắc đạo sẽ tự khắc “ngã thị tiên” mà không cần tìm đến chốn

Doanh, Bồng. Trần Nguyên Đán không chủ trương hướng đến cõi tiên hay tìm cửa

Phật mà chỉ muốn lánh đời. Đó cũng là tâm trạng của Nguyễn Phi Khanh: “Bách niên

phù thế nhân giai mộng,/ Bán nhật thâu nhàn ngã diệc tiên./ Hứng khứ dục lai tăng

viện túc,/ Hôn chung thôi nguyệt quải phong tiền.” (Cuộc phù thế trăm năm, người

người đều như mộng,/ Trộm cái nhàn nửa ngày, ta cũng là tiên./ Hứng đã hết, muốn

đến chùa nghỉ,/ Chuông chiều giục trăng treo trước núi.) (Du Côn Sơn – Nguyễn Phi

Khanh) [144; 628].

Nguyễn Phi Khanh muốn tìm đến cõi tiên, cửa Phật để giải toả những nỗi chán

chường, u uất. Thi nhân hoà mình vào thiên nhiên, vũ trụ để trút đi nỗi sầu trần thế,

xem lợi danh nhẹ tựa phù vân. Cũng giống như Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh

không muốn trút bỏ mọi thứ sau lưng để đi tìm cõi thanh nhàn mà muốn xa rời những

105

lợi danh tầm thường để hun đúc ước mong đạt đến những giá trị cao đẹp. Đó chính là lí

do khi được nhà Hồ trọng dụng, Nguyễn Phi Khanh đem đến cho lời thơ một tâm trạng

hân hoan như nắng hạn gặp mưa nhuần.

Hoàng đế hèn yếu, chính sự rối loạn thì việc hoài nhớ quá khứ hào hùng, về thời

huy hoàng của hào khí Đông A là giải pháp để các nhà nho tự an ủi mình trong cơn

biến loạn. Chiến công trên sông Bạch Đằng mãi là dấu son lịch sử chói lọi của người

dân Đại Việt. Dù năm tháng đi xa nhưng các thi sĩ đương thời khi đứng trước dòng

sông này đều bày tỏ niềm tự hào về các bậc tiền nhân: “Anh minh hai vị Thánh quân,/

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh./ Giặc tan muôn thuở thanh bình,/ Tại đâu đất

hiểm, cốt mình đức cao.” (Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu) [211; 743]. Đứng

trước sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu hoài niệm về quá khứ oai hùng của dân tộc.

Ông đưa ra kết luận để có được chiến thắng lịch sử ấy là nhờ vào đức của hai vị thánh

quân Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Bạch Đằng giang phú được viết vào đời

Trần Dụ Tông – thời điểm nhà Trần đã bắt đầu đi vào suy thoái. Đọc bài thơ, độc giả sẽ

cho rằng Trương Hán Siêu đang ca ngợi hoàng đế đương triều, nhưng khi đối chiếu với

lịch sử sẽ nhận ra ông mượn sông Bạch Đằng nhắc lại quá khứ, ca ngợi tiền nhân để

cảnh tỉnh, nhắc nhở hoàng đế đương triều nhìn lại bài học lịch sử đã qua để tu dưỡng

đạo đức, thi hành nhân nghĩa. Theo Đại việt sử kí toàn thư, hoàng đế Trần Dụ Tông

chữa bệnh liệt dương bằng việc “giết con trai trẻ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi

thạch mà uống và thông dâm với con gái là chị em ruột” [97; 378]. Đối chiếu với quan

điểm đức trị của Nho giáo thì rõ ràng đây không phải là mẫu hình hoàng đế có đức.

Chính vì thế Trương Hán Siêu đã mượn lịch sử để nhắc nhở hoàng đế đương triều.

Đến thời Lê sơ, âm thanh bao trùm cả giai đoạn là tiếng reo vui rộn ràng mừng

chiến thắng, ca ngợi những bậc đế vương anh minh, thần võ. Văn chương Lê sơ chỉ

xuất hiện những lời phúng gián nhẹ nhàng từ các nho sĩ qua các vần thơ vịnh sử. Sau

không khí hân hoan mừng chiến thắng quân Minh, triều Lê bắt tay vào công cuộc kiến

thiết và xây dựng đất nước. Nguyễn Trãi không quên nhắc nhở các hoàng đế trị quốc

bằng con đường nhân nghĩa: “Quyền mưu bản thị dụng trừ gian,/ Nhân nghĩa duy trì

quốc thế an.” (Quyền mưu chỉ dùng để trừ bọn gian tà,/ Còn nhân nghĩa mới duy trì

được sự vững vàng của nước nhà.) (Hạ quy Lam Sơn – Bài 1) [126; 191]. Ông không

ngừng nhắc nhở về một mô hình xã hội lý tưởng với vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu

106

Thuấn: “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn,/ Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền.” (Tự

Thán – bài 4) [126; 118]. Nguyễn Trãi đã mượn những câu chuyện lịch sử Trung Hoa

để phúng gián hoàng đế về bài học mất nước bởi đam mê sắc dục: “Trụ mất quốc gia vì

Đát Kỷ,/ Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi./ Bại tan gia thất đời từng thấy,/ Tổn hại tinh

thần sự ích chi!” (Giới sắc – Nguyễn Trãi) [126; 153]. Bởi lẽ, giai đoạn này các trí thức

nho sĩ, quan lại vẫn còn một niềm tin mạnh mẽ, nói cách khác họ còn ảo tưởng, vào

một xã hội có hoàng đế theo mô hình Nghiêu Thuấn. Phải đến vài trăm năm sau đến

thời Nguyễn Du, các trí thức mới thốt lên được “Những điều trông thấy mà đau đớn

lòng”. Đọc những bài thơ của Nguyễn Trãi sau khi chiến thắng quân Minh có thể thấy

được bi kịch tinh thần của ông. Đó là nỗi chán chường về con đường hành đạo của nhà

nho. Trái với tâm trạng hăng hái của một nhà nho nhập thế, thơ văn Nguyễn Trãi hiện

lên với những hình ảnh của tuổi già, tóc bạc, hình ảnh người khách tha hương: “Nhất

tòng luân lạc tha hương khứ,/ Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua./ Thiên lý phần uynh vi

bái tảo;/ Thập niên thân cựu tận tiêu ma." (Kể từ khi lưu lạc ra làng khác./ Đếm đốt

ngón tay, thanh minh đã qua mấy lần./ Xa ngàn dặm mồ mả không được lạy quét;/ Trải

mười năm thân cựu đã thảy hao mòn.) (Thanh minh - Nguyễn Trãi) [205; 272]. Có thể

thấy một tâm trạng chán chường trong thơ Nguyễn Trãi. Nó bắt nguồn từ việc hoàng

đế triều Lê không còn trọng dụng ông. Sau khi lên ngôi, Lê Lợi tiến hành miễn thuế

cho nhân dân trong hai năm. Tuy nhiên sau đó, hoàng đế này cũng lại cuốn theo vòng

xoáy quyền lực và bản chất của chế độ cai trị. Nó đã đi xa với tư tưởng của một nhà

nho sôi nổi hành đạo thường quan niệm “ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Tuy Nguyễn Trãi

không trực tiếp bày tỏ những ngôn từ phê phán hoàng đế nhưng thông qua tâm trạng

của ông có thể ngầm hiểu sự thất vọng và kín đáo phê phán sự suy đồi của hoàng đế.

Mặc dù xã hội Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV vẫn tồn tại những rối ren, nền

chính trị có những lúc thăng trầm nhưng có thể thấy xuất hiện nhiều hoàng đế anh minh,

thần võ hơn so các giai đoạn còn lại trong nền quân chủ dân tộc. Đỉnh cao của sự suy

thoái chính trị trong giai đoạn này được văn chương phản ánh vào thời vãn Trần. Các tác

giả rất tinh tế khi dùng thơ để phác hoạ những mặt chưa được của hoàng đế, đem đến

cho độc giả một góc nhìn đa diện, đa chiều về nhân vật này. Nhưng sự phê phán các

hoàng đế chỉ dừng lại ở mức độ khuyên răn, phúng gián khéo léo, nhẹ nhàng mà thiếu sự

mạnh mẽ, quyết liệt hơn so với các giai đoạn sau thế kỉ XV.

107

Tiểu kết chương 3

Nhân vật hoàng đế thể hiện trong văn học trung đại Việt Nam thế kỉ X đến thế

kỉ XV đã được thể hiện trên hai hình thức: chủ thể biểu hiện và khách thể được

phản ánh. Mẫu hình hoàng đế giai đoạn này có sự thay đổi theo thời gian, song hành

cùng sự biến đổi của tư tưởng, tôn giáo. Theo đó, mẫu hình hoàng đế từ mang đậm

chất thiền sư sang con người thế sự đậm chất thi sĩ, hoàng đế mang nặng thần quyền

sang khẳng định vị thế vương quyền và hướng về đời sống xã hội, từ hoàng đế

mang đậm tính Phật giáo sang hoàng đế của Nho giáo. Các hoàng đế vừa trị nước,

vừa chống ngoại xâm và tu thiền, chủ trương tam giáo đồng nguyên để vận dụng

những tinh hoa của mỗi hệ tư tưởng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất

nước. Các hoàng đế có xu hướng dùng những sáng tác văn chương để khẳng định

đế quyền, đế vị, biện luận cho việc mình xứng đáng ở ngôi vị hoàng đế. Chính trị

được hoàng đế hoà vào thơ ca để truyền tải những thông điệp trị quốc. Văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV còn cung cấp một cái nhìn tổng thể

hơn về nhân vật hoàng đế với tư cách là khách thể được miêu tả. Tuỳ vào giai đoạn

lịch sử, cảm hứng ngợi ca hay phê phán luôn gắn liền với thế thịnh suy của vương

triều. Các sáng tác giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV thiên về cảm hứng ngợi ca,

tán tụng hoàng đế. Một mặt bởi tinh thần trung quân, ái quốc nên các thiền sư, nhà

nho đã cùng góp sức mạnh để xây dựng vương triều. Họ đặt niềm tin cao độ vào

hoàng đế dù bối cảnh xã hội còn tồn tại nhiều bất cập. Mặt khác họ cũng bày tỏ

những trăn trở, suy tư nhưng rất thầm kín, khéo léo. Họ mượn chuyện xưa để nói

nay, gửi lòng mình vào cõi tiên hay cửa Phật để trốn tránh mọi trái ngang nơi trần

thế. Thông qua các bình luận, lời bàn của các sử gia trong Đại Việt sử kí toàn thư

hay các nhận định từ văn chương đời sau đã giúp chúng ta có cái nhìn chân thực

hơn về chân dung thật của hoàng đế không qua tô vẽ.

108

Chương 4

PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV

4.1. Sự thể hiện nhân vật hoàng đế nhìn từ việc lựa chọn thể loại

4.1.1. Thơ

Thơ là thể loại chiếm vị thế chủ đạo trong nền văn học trung đại Việt Nam từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV. Theo kết quả khảo sát, có đến 1620 bài thơ trên tổng số

1800 tác phẩm (chiếm 90%), trong đó phần lớn các sáng tác thơ đều thuộc thể

Đường luật. Có 1559 bài thơ được viết theo thể Đường luật (chiếm 96%). Thơ

Đường luật viết bằng chữ Hán giữ vị thế chủ đạo với 1281 tác phẩm. Các sáng tác

thơ giai đoạn này chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi những đặc trưng về thi pháp: ý tại

ngôn ngoại, điển cố, điển tích… Tuy không trực tiếp bày tỏ thái độ khen chê, ngợi

ca hay phê phán nhưng phía sau lời thơ có thể thấy các tác giả đã bày tỏ những

thông điệp về chính sự.

Thơ thời Lý chủ yếu được làm theo thể Đường luật tứ tuyệt. Từ thời Trần, thơ

bát cú chiếm ưu thế. Thể thơ bát cú với dung lượng lớn hơn phù hợp để các trí thức

xướng hoạ, ngâm vịnh, đối đáp… bày tỏ những quan điểm chính trị. Trong những

bài thơ Đường luật giai đoạn này thì thơ vịnh sử, vịnh vật thường gắn liền với việc

thể hiện nhân vật hoàng đế.

Bùi Duy Tân khái quát về thơ vịnh sử: “Thơ vịnh sử là thơ vịnh nhân vật, sự

kiện, di tích lịch sử để ngôn chí, khiển hoài với ngụ ý chặt chẽ, nhằm nêu gương

lịch sử để giáo hóa người đời” [215; 507]. Về góc độ thi pháp, thơ vịnh sử là thể

loại thơ ngôn chí, tải đạo, thể hiện chức năng giáo huấn, hàm ý điếu cổ thương kim,

dùng xưa để nói nay. Trong thơ vịnh sử có sự thống nhất giữa tính chân thực lịch

sử và hiện thực cuộc sống. Thể tài này có sự dung hoà trong thơ có sử, trong sử có

thơ. Việc nêu gương xưa ngoài mục đích giáo huấn còn nhằm tạo cầu nối giữa quá

khứ và hiện tại. Tính chất này là một hiện thực thẩm mỹ tạo nên sự thống nhất giữa

chân thực lịch sử với đời sống hiện thực. Các hoàng đế muốn đất nước thái bình,

thịnh trị phải tự mình làm gương trước dân, không ngừng trau dồi phẩm chất về

đức. Xác định được vai trò của đức trị và văn trị, chế độ quân chủ mà cụ thể là các

hoàng đế rất quan tâm đến chức năng giáo huấn trong sáng tác để tự nhắc nhở,

109

động viên bản thân không ngừng tui rèn nhân cách. Và thơ vịnh sử đã trở thành thể

tài để hoàng đế thể hiện những khát vọng trên con đường trị vì.

Thơ vịnh sử Việt Nam manh nha xuất hiện vào đời Trần. Hoàng đế Trần

Anh Tông được xem là tác giả khởi đầu về thể tài này. Số lượng tác phẩm thơ vịnh

sử thời này còn hạn chế, riêng hoàng đế Trần Anh Tông có sáu bài: Hán Cao Tổ,

Hán Văn Đế, Hán Vũ Đế, Hán Quang Vũ, Đường Túc Tông, Tống Độ Tông. Ngay

từ tiêu đề mỗi tác phẩm, thơ vịnh sử thời Trần đã cho độc giả nhận thấy được đối

tượng đề vịnh. Đối tượng chính là các hoàng đế trong sử liệu Trung Hoa thời Hán,

Đường, Tống. Thông qua việc vịnh Bắc sử, Trần Anh Tông bày tỏ quan điểm cá

nhân, nêu quan điểm trị nước và triết lí nhân sinh.

Thế kỉ XV, thơ vịnh sử Việt Nam phát triển sang một bước ngoặt mới, đánh

dấu bằng sự ra đời của thơ chữ Hán vịnh Nam sử. Cở sở để đi đến khẳng định này

là sự phong phú, đa dạng về chủ đề, ngôn ngữ so với trước đó. Nhân vật được vịnh

không chỉ được lấy trong chính sử mà còn từ trong truyền thuyết. Thơ vịnh sử thời

Lê sơ phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như đối tượng đề vịnh. Riêng Cổ tâm

bách vịnh của Lê Thánh Tông đã có dung lượng đến 100 bài. Bên cạnh các đối

tượng đã được vịnh từ triều Trần, thơ vịnh sử thời Lê sơ còn hướng đến các đối

tượng chưa được văn học đề cập nhiều trước đây như: Hoàng hậu, phi tần, tài tử,

giai nhân... Không nằm ngoài nhiệm vụ của văn học thời kì này, thơ vịnh sử cũng

thực hiện chức năng chính trị. Các hoàng đế mượn thơ để bày tỏ quan điểm trị

nước. Bàn về việc triều đình không nên quá xa xỉ, phung phí tiền tài khi ngoài biên

cương giặc đang lăm le bờ cõi, Lê Thánh Tông đã bộc lộ giọng điệu mạnh mẽ, dứt

khoát: “Linh trạch thần cung trượng,/ Ninh dung mị táo nhân.” (Nhà cửa phủ đệ to

tát cao ngất,/ Lẽ nào để chứa những kẻ cầu cạnh nịnh bợ.) (Lang Cư Tư – Lê Thánh

Tông) [55; 55]. Từ việc vay mượn thể tài đến ngôn ngữ Trung Hoa, thơ vịnh sử đã

được Việt hóa bằng sáng tác chữ Nôm và đề tài Nam sử. Điều này cho thấy sự

trưởng thành của ý thức dân tộc. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập xuất hiện một số

bài thơ vịnh Nam sử bằng chữ Nôm: Xung Thiên thần vương, Chử Đồng Tử, Lý

Ông Trọng, Trưng Vương…

Xét về góc độ “nội thánh – ngoại vương”, các hoàng đế từ thế kỉ X đến thế

kỉ XV dùng thơ vịnh sử để tự trui rèn nhân cách. Hoàng đế muốn trị dân thì trước

110

hết phải sửa mình và không ngừng học tập. Kinh Thi viết: “Hiếu thuận a, hiếu thuận

với cha mẹ; thân ái a, thân ái với anh em”. Trước tiên, hoàng đế phải có đức hiếu

sinh và lòng hiếu thảo: “Sơn hạ canh sừ khổ,/ Thương tâm vọng bích vân./ Quyền

quyền nhân tử hiếu,/ Huyền đức viễn thăng văn.” (Cầy bừa dưới chân núi thực là

cực nhọc,/ Lòng buồn ngước nhìn làn mây xanh./ Vẫn đau đáu tấm lòng của người

con hiếu thảo,/ Đạo đức sáng ngời ấy vẫn còn vang mãi.) (Lịch sơn – Lê Thánh

Tông) [55; 22].

Lê Thánh Tông nhắc lại câu chuyện của vua Thuấn để ca ngợi đạo đức của

vị hoàng đế này. Câu “Huyền đức viễn thăng văn” là vịnh sử về truyền thuyết vua

Thuấn mặc dù sống trong cảnh ở cùng mẹ ghẻ độc ác nhưng ông vẫn giữ trọn lễ

nghi và lòng hiếu thảo. Hiếu đạo được xem là một trong những tiêu chuẩn để

hướng đến nhân cách quân tử của Nho gia. Hơn ai hết, bậc minh quân phải là tấm

gương cho xã hội. Lão Tử trong Đạo đức kinh hay nhắc nhiều đến “Huyền đức”.

Huyền đức được xem là đức trời, nếu hoàng đế đạt điều này thì mới có thể thu phục

được lòng dân.

Bên cạnh việc tu thân, hoàng đế còn phải chú trọng giáo hóa đạo đức cho

dân. Để xây dựng một đất nước thái bình thịnh trị, hoàng đế phải có nhiệm vụ

dạy dân hướng thiện. Trước hết, hoàng đế phải làm gương về tấm lòng nhân hậu,

yêu thương dân. Vua Trần Anh Tông ca ngợi Văn Đế nhà Hán khoan thư sức

dân tạo nên bền vững 400 năm của triều đại: “Hình thố, tô khoan diệc chí nhân,/

Dưỡng thành tứ bách Hán gia xuân.” (Bớt hình phạt, giảm tô thuế, cũng là bậc

chí nhân,/ Nuôi nên bốn trăm năm nhà Hán.) (Hán Văn Đế - Trần Anh Tông)

[143; 422].

Bên cạnh vịnh những tấm gương hoàng đế mẫu mực, thơ vịnh sử thế kỉ X đến

thế kỉ XV còn đưa ra những lời khuyên nhủ khéo léo, răn đe đến người đảm đương

việc thống trị bằng cách vịnh các nhân vật hoàng đế vô đức, hiếu chiến, bạo ngược.

Ngoài tu thân, nếu không làm tốt việc tề gia thì không thể trị quốc. Lê Thánh Tông

nhắc đến câu chuyện Tuyên Công hỏi cưới con gái nước Tề cho con trai nhưng vì

đam mê nhan sắc đã nạp cô gái ấy làm thê tử, về sau, vì người đời chê cười nên vua

Tuyên Công đã giết con: “Nhị tử thừa chu khứ/ Hà lưu thúy tự lam./ Tuyên Công

hôn dục tế,/ Cự khởi Lũng Tây tàm.” (Hai người con ngồi thuyền ra đi,/ Nước dòng

111

sông xanh biếc tựa chàm./ Vua Vệ Tuyên Công bị lòng dục hôn ám che lấp,/ Nên

mới dẫn tới nỗi xấu hổ ở Lũng Tây.) (Hà thượng – Lê Thánh Tông) [55; 24].

Lê Thánh Tông mong muốn cho quần thần giữ đạo làm tôi theo chuẩn mực

Nho gia. Ông vịnh những tấm gương trong sử sách Trung Hoa: Y Doãn, Phó Duyệt

đã phò tá hoàng đế Hán Cao Tổ dựng nên cảnh thái bình thịnh trị. Lê Thánh Tông

khuyên quần thần nên giúp vua xây đời thịnh, khí tiết để an dân. Tập Cổ tâm bách

vịnh của nhà vua có nhiều bài vịnh các tấm gương, địa danh từ sử liệu Trung Hoa

để làm gương răn dạy bề tôi: “Bột Hải Cung hiền thú,/ Dân an, đạo tặc thanh./ Mai

đao linh mãi độc,/ Tâm giám quỷ thần minh.” (Quan Thái Thú Bột Hải họ Cung là

người hiền đức,/ Trong vùng ông cai trị nhân dân yên vui, trộm cướp dẹp sạch./

Ông lệnh cho mọi người bán đao đi để mua nghé,/ Tấm lòng ông sáng như gương,

có quỷ thần chứng giám.) (Bột Hải – Lê Thánh Tông) [55; 57].

Bột Hải là một địa danh ở Sơn Đông – Trung Quốc. Đây là nơi nổi lên với

nhiều trộm cướp nhưng thái thú Cung Toại – một vị năng thần đã thu phục và giáo

hoá bách tính, xây dựng cuộc sống ấm no, phồn thịnh. Vịnh sử để giáo dục không

phải là sự sáng tạo mới mẻ của Lê Thánh Tông, nó đã được vua Trần Anh Tông

chủ trương thực hiện. Tuy nhiên nếu Trần Anh Tông dừng lại ở việc vịnh các

hoàng đế thì Lê Thánh Tông còn vịnh các triều thần, địa danh. Vì thế có thể khẳng

định thơ vịnh sử đến thời Lê sơ đã có sự phát triển mới về nội dung đề vịnh. Nó đã

mở rộng được phạm vi để hoàng đế thực hiện việc giáo hóa trăm dân, răn dạy thần

tử. Có thể thấy một không khí học tập, trao đổi dân chủ, gắn kết vua – tôi: “Hiền

nhân trần đại đạo,/ Ngôn luận trí tinh tường./ Thượng, hạ đồng “ưu lạc”,/ Ân ba

cập vạn phương.” (Người hiền bày tỏ đạo trị nước lớn,/ Vua tôi tranh luận khá tinh

tường./ Trên dưới đồng lòng, lo lắng và vui sướng đều có nhau,/ Ơn huệ ban xuống

thì phải khắp cả mọi nơi.) (Tuyết cung – Lê Thánh Tông) [127; 150].

Bên cạnh vịnh sử, Lê Thánh Tông còn làm thơ vịnh vật để thể hiện tâm tư,

tình cảm. Những vật dù rất nhỏ bé nhưng qua ngòi bút hoàng đế hiện lên có ý nghĩa

to lớn. Ông vịnh con rận, con cóc, con kiến, cối xay… để bày tỏ khẩu khí đế vương

và răn dạy quần thần: “Hết lòng uống máu vì nhà chúa,/ Khăn khắn trong niềm một

điểm đan.” (Con rận – Lê Thánh Tông) [127; 613].

112

Hình ảnh con rận hết lòng, tận tuỵ vì chúa được ví như lòng trung của các hiền

thần đối với hoàng đế. Dù chỉ là một hình ảnh rất bình dị nhưng là cơ sở để thấy

được sự khéo léo của một hoàng đế - thi sĩ trong việc dùng văn chương trị quốc.

Những lớp người trong xã hội dù quyền quý, cao sang hay thấp hèn đều một lòng

trung trinh với Lê triều: “Góp giang sơn xách một quai,/ Lượng bằng sông biển

chẳng từ ai./ Vườn đào, ngõ mận từng len lỏi,/ Gác tía lầu son mặc nghỉ ngơi.”

(Người ăn mày – Lê Thánh Tông) [127; 607].

Tuy chỉ vịnh một người ăn mày nhưng bài thơ cho thấy hình ảnh một đế

vương khoan thai, đỉnh đạc, khẩu khí ngất trời. Dưới cái nhìn của Lê Thánh Tông,

những vật tầm thường như cái quạt, cái ấm… cũng mang phẩm chất đế vương qua

lối ẩn dụ hài hước, thông minh, ý vị. Thơ Lê Thánh Tông hướng đến sự gần dân.

Đó là cơ sở để ông thực hiện thành công con đường giáo hoá khắp Đại Việt. Chính

vì thế có thể nói Lê Thánh Tông nói riêng và các hoàng đế triều Lê sơ nói chung

với tinh thần sùng Nho đã thực hiện thành công việc trị quốc, đưa Đại Việt phát

triển cực thịnh nhất của chế độ quân chủ.

Nhằm hỗ trợ đắc lực cho Nho giáo, thơ vịnh sử đã phát huy vai trò của mình

trong việc vịnh các nhân vật hoàng đế. Nhân vật hoàng đế xuất hiện trong thơ vịnh

sử trước hai thái độ đối lập là tán dương và phê phán. Mặc dù thơ vịnh sử từ thế kỉ X

đến thế kỉ XV phần lớn vịnh Bắc sử và bàn về các nhân vật hoàng đế Trung Hoa,

nhưng đó như là những gợi ý để các hoàng đế Đại Việt tham chiếu, tự nhắc nhở

chính mình. Trong đó, Nghiêu Thuấn là hình mẫu chuẩn mực về nhân vật hoàng đế

theo quan điểm Nho giáo mà các hoàng đế phương Nam luôn hướng đến.

Nằm trong quy luật vận động của văn học giai đoạn này, thơ vịnh sử không

chỉ nhằm mục đích phục vụ văn hoá chính trị mà ngày càng bổ sung thêm những

giá trị nghệ thuật. Sự vận động của thơ vịnh sử gắn liền với sự vận động tư tưởng

của các hoàng đế. Việc mở rộng đối tượng đề vịnh cho thấy các hoàng đế đã quan

tâm đến nhiều đối tượng của đời sống. Họ muốn dùng những tấm gương về các

tướng lĩnh, hoàng hậu, giai nhân… để giáo hoá mọi thành phần trong xã hội. Mục

đích cốt lõi của việc giáo huấn là để các hoàng đế dễ bề cai trị. Suy cho cùng, mục

đích chính trị vẫn là yếu tố được đề cao hàng đầu. Việc các hoàng đế dùng chữ

113

Nôm vào sáng tác thơ vịnh sử hay đưa Nam sử vào đề vịnh đã cho thấy được ý thức

và tinh thần dân tộc của các hoàng đế.

Một hình thức khác cũng thể hiện được hình ảnh hoàng đế qua thơ chính là

hình thức xướng hoạ. Nếu như xướng hoạ trong thơ bang giao đã trực tiếp thể hiện

tài năng và khẩu khí của hoàng đế thì việc mượn được mùa để xướng hoạ thơ ca

cũng là cách để các thiên tử gián tiếp thể hiện đức độ của nhà cầm quyền. Đặc biệt

tập thơ Quỳnh uyển cửu ca bằng hình thức vua tôi xướng hoạ đã phác hoạ nên chân

dung lí tưởng về hoàng đế. Thơ xướng hoạ được xem là nghệ thuật trị quốc của

hoàng đế. Bởi vì thông qua hình thức này hoàng đế đã gián tiếp ca ngợi tài và đức

của mình đã chạm được lòng trời.

Thơ xướng hoạ vua tôi chủ yếu theo hình thức hoạ nguyên vận. Các chữ cuối

dòng 1, 2, 4, 6, 8 được lặp lại. Lê Thánh Tông làm bài xướng Bách cốc phong đăng

hiệp vu ca vịnh:

“Bố đức thi nhân tín vị năng,

Hoàng tiên tích phúc lũ phong đăng.

Đường đường đoan sĩ trâm anh quí,

Toả toả ngoan phu pháp lệnh thằng.

Hạ huấn Thương hình thời giám giới,

Văn mô Vũ liệt nhật khôi hoằng.

Kiền nguyên bão noãn hưu trưng ứng,

Túc dạ cầm lưu niệm chiến căng.” [127; 509]

Đáp lại lời hoàng đế, Thân Nhân Trung hoạ nguyên vận:

“Cách thiên đế đức diệu toàn năng,

Hiệp ứng hưu trưng bách cốc đăng.

Động chiếu nghiên si kim tác giám,

Lạc văn dược, thạch mộc tòng thằng.

Cửu trù khắc tự di luân đốc,

Thử tích hàm hi sự nghiệp hoằng.

Trị liệu dũ long, tâm dũ thận,

Ưu dân cần chính nhật căng căng.” [127; 511]

114

Tất cả các bài xướng hoạ vua tôi trong Quỳnh uyển cửu ca đều theo hình

thức hoạ nguyên vận. Xướng hoạ được xem là phương tiện để các nho sĩ thể hiện

tài năng trước hoàng đế. Việc xướng hoạ chủ yếu nhằm hướng đến nhiệm vụ ca

ngợi triều đại, đức lớn của hoàng đế.

4.1.2. Phú

Sưu tập đầu tiên về phú của văn học trung đại Việt Nam là Quần hiền phú tập.

Đây là công trình tập hợp số lượng lớn các bài phú chữ Hán từ đời Trần – Hồ đến

Lê sơ “tổng số 108 bài của 29 tác giả (2 bài khuyết danh), trong đó đời Trần – Hồ

còn 13 bài, đời Lê sơ còn 95 bài” [213; 618]. Các tác giả tiêu biểu viết về thể loại

phú trong giai đoạn này gồm Nguyễn Phi Khanh, Đoàn Xuân Lôi, Nguyễn Mộng

Tuân, Lý Tử Tấn, Lê Thánh Tông…

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 1800 tác phẩm của 208 tác giả văn học trung

đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV qua các công trình: Tổng tập văn học Việt

Nam, Thơ văn Lí – Trần, Hợp tuyển văn học Việt Nam trung đại, Nguyễn Trãi

toàn tập… và kết quả đạt được về thể loại phú như sau: Có 28/208 tác giả tham

gia sáng tác thể loại phú chiếm 13.5%, có 38 bài phú/1800 tác phẩm chiếm 2.1%

(xếp thứ 02 sau thơ 90%); phú chữ Hán 33/38 bài chiếm 87%, phú chữ Nôm 5/38

chiếm 13%.

Mặc dù số lượng chưa đồ sộ nhưng vẫn có thể thấy vị trí nhất định của thể loại

phú trong giai đoạn văn học mà thơ ca chiếm vị trí chủ đạo. Là thể loại ngoại nhập

nhưng phú trong văn học trung đại Việt Nam gắn liền với tư duy và nhu cầu thẩm

mỹ của người Việt. Cụ thể, nó được sáng tác bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm. Không

phải chờ đến quá trình sau này phú mới được dân tộc hóa mà từ những tác phẩm

đầu tiên phú đã được sáng tác bằng chữ Nôm: Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân

Tông, Vịnh Hoa Yên tự phú – Huyền Quang. Đề tài của phú trong giai đoạn này

cũng từng bước gia tăng những nội dung mang tính dân tộc, gần gũi với đời sống

người dân Đại Việt.

Dựa trên hệ thống các tác phẩm còn lưu lại thì phú Việt Nam được sáng tác

phổ biến dưới thời Trần – Hồ. Thời Lê sơ là giai đoạn thể phú hưng thịnh nhất về

lực lượng sáng tác cũng như số lượng tác phẩm. Mặc dù phú chữ Nôm đã xuất hiện

từ thời Lý – Trần, song dưới thời Lê sơ phú vẫn chủ yếu được viết bằng chữ Hán

115

(trong khi cũng ở thời Lê sơ hàng loạt tập thơ Nôm đồ sộ đã ra đời: Quốc âm thi

tập, Hồng Đức quốc âm thi tập thì phú Nôm chỉ có duy nhất Lượng như long phú

của Nguyễn Tắc Dĩnh).

Đặc trưng thi pháp của phú là phô bày sự vật, sự việc, triết lí và nghị luận.

Chức năng nội dung thể tài của phú là tụng ca, phúng gián, vịnh vật để bày tỏ

quan điểm. Giai đoạn từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XV khi văn xuôi chưa vượt ra

khỏi chức năng hành chính, thơ ca thì chịu sự chi phối chặt chẽ bởi tính quy phạm

thì thể phú được lựa chọn để thực hiện hiệu quả chức năng ngợi ca và phúng gián.

Với cảm xúc dạt dào, có sự kết hợp tự sự với trữ tình, dung lượng lớn, phú được

lựa chọn để chuyển tải những tư tưởng văn hóa chính trị, nhất là trong việc xây

dựng hình tượng nhân vật hoàng đế: “một chức năng quan trọng của thể loại mà

người viết phú, xã hội, các đấng quân vương đều mặc nhiên thừa nhận và đề cao”

[216; 31].

Với chức năng tụng ca, phú đã thực hiện tốt vai trò của nó trong văn học giai

đoạn này. Phú thích hợp với việc truyền tải những thông điệp ngợi ca vương triều,

hoàng đế, ca ngợi địa linh nhân kiệt trong công cuộc chiến chống ngoại xâm và

kiến thiết đất nước. Ở thể loại phú, nhân vật hoàng đế cũng được thể hiện dưới hai

hình thức: cái tôi tự biểu hiện và khách thể phản ánh. Với cái tôi tự biểu hiện,

hoàng đế mượn phú để truyền tải những quan điểm tôn giáo, chính trị, thể hiện

niềm tự hào quốc gia, dân tộc: Cư trần lạc đạo phú – Trần Nhân Tông, Lam Sơn

Lương thủy phú – Lê Thánh Tông. Khi là khách thể phản ánh, hoàng đế cũng được

các tác giả tập trung ngợi ca, tán tụng. Tuy nhiên, đó không phải là cảm hứng duy

nhất, các tác giả còn khéo léo phúng gián, phê phán, cảnh tỉnh hoàng đế giữ vững

chữ đức trong sự nghiệp trị vì.

Phật giáo từ bản chất có thể khẳng định không thể là một hệ tư tưởng có thể

hỗ trợ hoàng đế trong công cuộc trị vì. Phật phục vụ cho việc trị tâm, Nho phục vụ

cho việc trị quốc, Đạo phục vụ việc trị thân. Mặc dù vận hành quốc gia trên nền

tảng Phật giáo, nhưng trong việc trị nước, hoàng đế ít nhiều phải vận dụng hệ tư

tưởng Nho giáo. Vì thế, khi viết bài phú Nôm Vịnh Hoa Yên tự phú, Huyền Quang

Thiền sư đề cập đến những nội dung trị nước của hoàng đế trên cơ sở hài hòa giữa

Phật giáo và Nho giáo. Vịnh Hoa Yên tự phú được xem là bài phú đầu tiên có

116

những nội dung liên quan đến nhân vật hoàng đế. Qua Vịnh Hoa Yên tự phú, tác giả

tái hiện hình ảnh một vị vua Bụt tu hành - Trần Nhân Tông. Khi nhìn thấy đền thờ

hoàng đế Trần Nhân Tông, Huyền Quang thiền sư đã gián tiếp ca ngợi hoàng đế

qua việc nhắc đến vua Nghiêu, Thuấn: “Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;/ Núi

nghìn tầng quanh co đường Thục.” [143; 476]. Con đường đi đến đỉnh Hoa Yên

cheo leo, hiểm trở nhưng cảnh tượng hiện ra trong thơ thiền sư như bức tranh tạo

hình sống động. Trời thiêng khéo bày ra cảnh đẹp này và Huyền Quang thiền sư có

câu trả lời vì sao Phật hoàng chọn nơi đây để tu hành: “Chỉn ấy trời thiêng mở

khéo;/ Nhàn chi vua bụt tu hành.” [143; 477]. Huyền Quang thiền sư khéo léo ngợi

ca hoàng đế triều Trần đã dung hoà được vai trò của thiền sư và hoàng đế. Thiên

nhiên được ví von như những trung thần triều đình về đây chầu bên cạnh hoàng đế

với ngự sử là cây mai, trượng phu là cây tùng. Chỉ có những đấng minh quân với

nhân cách phi thường mới khiến được thiên nhiên tìm đến núi thiêng và xem Hoa

Yên như chốn cung đình. Còn với vai trò một thiền sư, hoàng đế Trần Nhân Tông

được miêu tả cảm hoá được cả các loài vật xung quanh khi: “Chim óc bạn căn hoa

nâng cúng;/ Vượn bồng con cời cửa nghe kinh.” [143; 477]. Là một hoàng đế nắm

trong tay cả giang sơn nhưng Phật hoàng Trần Nhân Tông sẵn sàng bỏ qua những

phù du, danh lợi, dứt trừ nhân ngã để tìm đến cõi thiền: “Phân ân ái, am Não am

Long;/ Dứt nhân duyên, làn Nương làng Mụ./ Mặc cà sa nằm trướng giấy, màng chi

châu đầy lẫm, ngọc đầy rương;/ Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một

vò, tương một hũ.” [143; 477]. Huyền Quang thiền sư ca ngợi hoàng đế Trần Nhân

Tông đã đắc đạo thành Phật: “Thầy tu trước đã nên Phật quả;/ Tiểu tu sau còn vị Tỳ

Khưu.” [143; 478]. Qua bài phú, Huyền Quang thiền sư đã dành không ít những mỹ

từ để ca ngợi hoàng đế Bụt – Trần Nhân Tông. Hoàng đế Trần Nhân Tông dung

hoà giữa Nho và Phật để xây dựng một triều đại thịnh Trần hào hùng, vẻ vang.

Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, trong văn học Việt Nam xuất hiện nhiều bài phú

đề cập đến văn hóa chính trị. Các tác giả đang sống trong giai đoạn này vẫn còn

niềm tin mãnh liệt vào khả năng xây dựng thế giới của Phật giáo, sau này là của

Nho giáo. Hoàng đế trị nước bằng nhân nghĩa, thần dân lấy trung hiếu làm đầu.

Đó là giải pháp để ổn định trật tự xã hội, xây dựng nền thái bình thịnh trị. Nếu

như phú chữ Nôm hướng nhiều đến giá trị Phật giáo của các hoàng đế thì phú chữ

117

Hán Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV hướng nhiều hơn về góc độ trị nước của

hoàng đế theo quan điểm Nho giáo. I.S. Lisevich nhận định: “Thoạt đầu hình thức

phú khá rời rạc lỏng lẻo. Thực ra cái quyết định không phải là hình thức mà là

chức năng của thể tài ngợi ca tài đức của vua, sự hùng hậu của đất nước” [99;

147]. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, phạm trù đức luôn được các tri thức Đại Việt

quan tâm và đề cập trong các sáng tác văn chương. Đức thường được bàn đến là

phẩm chất của đế vương.

Đến thời Lê sơ, trong lòng xã hội Đại Việt diễn ra những chuyển biến quan

trọng và có ý nghĩa lâu dài đối với vận mệnh dân tộc. Những chiến thắng vang dội

trước thế lực ngoại xâm hùng mạnh, đất nước thái bình, thịnh trị đã khơi nguồn

cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc trong văn học. Hình ảnh một hoàng đế Lê Thái

Tổ tài ba, dung hoà võ công văn trị xuất hiện liên tục trong các bài phú. Tận dụng

dung lượng lớn của thể loại phú, các tác giả kết hợp giữa ngôn ngữ trữ tình xen lẫn

bình luận, kết hợp ngôn ngữ kể và miêu tả trong việc so sánh Bắc – Nam. Trước hết

là thể hiện được niềm tự hào sâu sắc của các tác giả qua việc mô tả hình tượng các

hoàng đế Đại Việt cao đẹp hơn hẳn những minh quân phương Bắc. Nguyễn Trãi so

sánh vua Lê Thái Tổ với Nghiêu Thuấn và các vị vua đời Hạ, Thương, Chu: “Vậy

thì đức thịnh vua ta, Hán Cao Tổ làm sao sánh kịp?/ Sẽ cùng hai đế, ba vương mà

lừng danh” (Phú núi Chí Linh – Nguyễn Trãi) [126; 215]. Nguyễn Mộng Tuân ca

ngợi tài năng và công đức của hoàng đế Lê Thái Tổ hơn cả Vũ Vương nhà Chu:

“Riêng công ơn trời biển vua ta,/ Vũ Vương đâu một mình đẹp nhất?” (Phú mưa

rửa giáp binh – Nguyễn Mộng Tuân) [126; 260].

Với hệ thống ngôn từ lộng lẫy, khoa trương, phú phù hợp để tụng ca vương

triều, hoàng đế. Nhìn chung cả giai đoạn này, phú hướng đến tụng ca cuộc chiến

tranh vệ quốc, ca ngợi vẻ đẹp của giang sơn cẩm tú. Đặc biệt, trong việc ca ngợi

các hoàng đế, các tác giả luôn miêu tả hình tượng hoàng đế gắn liền võ công và

nhân nghĩa. Các tác giả luôn đặt ra cái nhìn so sánh Bắc – Nam để thể hiện niềm tự

hào về các hoàng đế phương Nam tài trí, mưu lược, nhân nghĩa.

Một chức năng thể tài quan trọng khác của phú đó chính là phúng gián. Xác

định được vai trò của đức trị và văn trị, các Nho sĩ liên tục khéo léo gửi gắm vào

118

văn chương những lời khuyên nhủ, những thông điệp đến người cầm quyền về tư

tưởng dân bản, hạn chế chuyên quyền, bạo lực.

Cảm hứng thiền chiếm vị trí chủ đạo trong văn học thịnh Trần, sang thời vãn

Trần văn chương mang nặng cảm hứng xã tắc và bày tỏ các vấn đề đạo lý. Đó là

những trăn trở của con người thời đại trước cảnh suy vi của đất nước, sự yếu hèn

của các hoàng đế triều Trần. Việc phúng gián hoàng đế không phải dễ dàng đối với

các triều thần. Tuy nhiên với tinh thần vì dân, vì nước, các nhà Nho đã dùng ngòi

bút để xem xét những sai lầm của hoàng đế. Đức là phạm trù quan trọng nhất mà

mỗi hoàng đế phải không ngừng trau dồi. Phạm Mại đã viết Thiên thu giám phú để

bày tỏ những khát vọng xây dựng mô hình vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn.

Ông mượn tích xưa về tể tướng Cửu Linh đời Đường Huyền Tông để nhắc nhở

hoàng đế đương triều: “Đạo đức quảng hồ quy mô; lễ nghĩa kiên hồ kim thiết./ Lẫm

kỳ khí hề băng sương; bính kỳ văn hề nhật nguyệt/ Chiếu chi hôn giả khả sử minh;

ma chi ngu giả khả sử triết/ Nhân tái dĩ tái trình; dụng viên minh nhi viên khiết.”

(Đạo đức nó làm khuôn vòng; lễ nghĩa bền như vàng thép./ Lẫm liệt khí ngang

băng sương; huy hoàng văn ngang nhật nguyệt./ Chiếu vào tối tăm, tối sáng lên;

mài vào ngu dại dại hoá biết./ Nhân chép rõ để kính trình; dụng điều hay và tinh

khiết.) [143; 540]. Xuất phát từ khát vọng xây dựng một đất nước dựa trên đức trị,

Phạm Mại đã khéo léo nhắc nhở hoàng đế phải xác định được vai trò của đạo đức,

lễ nghĩa là khuôn mẫu để trị quốc.

Ngoài đức trị, lễ nhạc còn được xem là tiêu chí đánh giá sự thành công của

một triều đại, đánh giá tài năng của người lãnh đạo nơi điện các. Nguyễn Nhữ Bật

viết Quan Chu nhạc phú để nhắc nhở đế vương sự tương đồng giữa âm nhạc và

chính sự: “Đó là xét âm nhạc mà biết chính sự, cảm đạo đức ở thuở hồng mông…

lấy đức xem nhạc, hiền giả ra công… chế độ hưng thịnh, ổn định thành công. Bỏ

nhạc dâm để dùng nhã nhạc hòa trăm họ để cảm thần thông.” (Quan Chu nhạc phú

– Nguyễn Nhữ Bật) [144; 374 – 375].

Đặc biệt, dưới thời Trần – Hồ, có nhiều bài phú truyền tải những thông điệp

phúng gián đến hoàng đế. Nguyễn Pháp trong Cần chính lâu phú đã khéo léo nhắc

nhở người cai trị phải biết chăm lo chính sự: “Ta phù: hậu thế nhân quân, ân giám

bất viễn. Trị loạn chi cơ, quân tâm di chuyển; Cần chính chi cơ, thực địa tu tiễn; vụ

119

bản chi ý, hành chi mãnh miễn. Thứ hữu thuỷ nhi hữu chung, hạnh tư lâu chi bất

thiến” (Than ôi! Các vua đời sau, gương lớn chẳng xa. Trị loạn cơ trời, lòng vua

dời chuyển; Cần chính nền kia, phải lo chiêm nghiệm; chăm gốc ý kia, phải lo thực

hiện. Mọi việc có trước lại có sau, may tiếng lầu kia khỏi thẹn.) [144; 386]. Nguyễn

Pháp đã mạnh dạn sử dụng những ngôn từ phúng gián để chỉ rõ thực trạng sa đoạ

của vua quan nhà Trần bằng việc mượn sử đời Đường Lý của Trung Hoa. Nghệ

thuật đặc sắc của phú nằm ở chỗ mượn ca tụng để phê phán. Các tác giả bị trói

buộc bởi một bên là bổn phận với vua một bên là trách nhiệm trước dân, nước.

Không thể mất lòng vua, cũng không thể làm ngơ trước dân, nước, họ đành lựa

chọn cách thức khéo léo sử dụng những dòng nghị luận trang nhã mà rắn rỏi của

phú để gửi đi những thông điệp phúng gián. Ẩn sâu sau những ngôn từ ca tụng là

ước mơ, khát vọng của các trí thức nho sĩ về hoàng đế anh minh. Để xây dựng mẫu

hình hoàng đế lí tưởng, bước đầu văn chương Đại Việt đã lựa chọn những mẫu hình

từ Bắc sử. Các tác giả nho sĩ đã khéo léo gửi thông điệp đến các bậc đế vương rằng,

sự thành công chỉ có thể có trên con đường cai trị bằng đạo đức, nhân nghĩa. Thất

bại là không thể tránh khỏi đối với những thế lực bất nhân, phi nghĩa. Các vị hoàng

đế trong Bắc sử đã trở thành đối tượng phản ánh chiếm số lượng đáng kể trong phú

giai đoạn này. Đào Sư Tích mượn sử Trung Hoa để cảnh báo sự nghiệp trị vì của

các hoàng đế Đại Việt: “Đời vua Đường Nghiêu, thiên hạ sáng ngời, bầu trời chói

lọi, rực rỡ khắp nơi/ Sao đến cuối đời Hán Đường, luôn tối tăm mờ mịt đất trời!”

(Phú sao cảnh tinh - Đào Sư Tích) [144; 353]. Những gương xấu từ sử sách

phương Bắc được Nguyễn Bá Thông nhắc lại để cảnh tỉnh các hoàng đế triều Trần

giảm bớt sự tận hưởng ở ngôi vị mà chăm lo chính sự: “Hoang dâm vô độ, Xương

Vương làm suy nghiệp Hán gia; yêu quý rông càn, Võ Hậu cướp ngôi Đường thị.

Lờ mờ nhật nguyệt tối tăm, rùng rợn đất trời muốn hủy” (Phú Trấn Thiên Hưng -

Nguyễn Bá Thông) [144; 367].

Một đặc trưng nghệ thuật phúng gián của phú là mượn sử xưa để nói nay.

Trương Hán Siêu khi viết Bạch Đằng giang phú đã mượn những chiến công lừng

lẫy của cha ông để phúng gián, cảnh tỉnh hoàng đế đương triều phải chăm lo chính

sự và thi hành đức trị. Nguyễn Mộng Tuân và Nguyễn Trãi viết Chí Linh sơn phú

để nhắc lại lịch sử gian nan trong cuộc chiến trong giặc ngoại xâm nhằm khuyên

120

răn hoàng đế không nên sống trong cảnh thanh bình mà quên quá khứ hào hùng,

gian khổ. Đặc điểm phúng gián của thể phú giai đoạn này khác với các thể loại

khác là dùng gương tốt để phúng gián chứ không phô bày ra những bức tranh phản

diện. Viêc mượn quá khứ để phúng gián vừa có cơ sở vững chắc vừa bảo toàn sinh

mệnh trước đấng quân vương.

Một chức năng thể tài khác của phú là vịnh vật cũng được các tác giả giai

đoạn này vận dụng để khắc hoạ hoàng đế. Tác giả khuyết danh viết Thang bàn phú

mượn hình ảnh cái chậu của vua Thang để bày tỏ những khát vọng về một hoàng đế

biết tu dưỡng theo nền đức trị. Hay Đào Sư Tích viết Cảnh tinh phú để bày tỏ khát

vọng về điềm báo cho một nền thái bình thịnh trị với đức cao ngất của thánh hoàng.

Triết lý, nghị luận là một trong những đặc điểm thi pháp quan trọng của phú..

Để góp phần cho phú được gia tăng tính triết lý, nghị luận, các tác giả sử dụng biện

pháp xây dựng hình tượng chủ - khách vấn đáp. Đây là hình thức mà tác giả sử

dụng nhằm tăng tính xác thực, khách quan từ đó tạo được độ tin cậy cho câu

chuyện lịch sử. Việc tăng thêm điểm nhìn và nội dung trần thuật làm cho bài phú

thêm gia tăng cảm xúc và phong phú thêm giọng điệu. Trong Bạch Đằng giang

phú, Trương Hán Siêu đã sử dụng hình thức này. Nhân vật khách lắng nghe các bô

lão kể lại những chiến tích oai hùng của quân ta trên sông Bạch Đằng. Lời phú như

những thước phim lịch sử được tái hiện từng chi tiết thắng lợi vẻ vang bằng những

lời kể mang những hình tượng đầy tính sử thi của các bô lão. Những nhân chứng

lịch sử đã chứng kiến chiến thắng vang dội này và đi đến kết luận thắng lợi của Đại

Việt là do lòng trời, địa linh và nhân kiệt. Người cai trị có đức sẽ được lòng dân,

thuận ý trời sẽ tất yếu giành thắng lợi.

Có thể nói với đặc điểm thể loại vừa mang yếu tố tự sự vừa đáp ứng được yếu

tố trữ tình, phú đã có sự vận động và phát triển mạnh mẽ trong đời sống văn học

Việt Nam. Qua từng giai đoạn, phú được Việt hóa để phù hợp với cảm thức, nhu

cầu và thị hiếu thẩm mĩ của người Việt. Trong giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,

phú đã được đưa vào nội dung khoa cử và nổi bật lên với một thể loại ngợi ca, tán

tụng hoàng đế. Qua thể loại phú, nhân vật hoàng đế đã được vận động từ mẫu hình

Phật giáo sang Nho giáo để phù hợp với thực tiễn của bối cảnh xã hội. Đặc biệt,

phú thời Lê sơ đã đem đến cho độc giả hình ảnh về hoàng đế quân chủ chuyên chế

121

dưới xã hội Nho giáo. Theo đó, hoàng đế được xem là hình mẫu lí tưởng không

ngừng tui rèn đạo đức để cai quản đất nước. Đại Việt qua thể loại phú hiện lên với

một xã hội vua sáng, tôi hiền, thái bình thịnh trị, xóa bỏ được tính chuyên quyền

vốn dĩ là bản chất của chế độ quân chủ. Các tác giả không đơn thuần chỉ ca tụng

hoàng đế mà trong việc ca ngợi đã ngấm ngầm gửi đi những thông điệp để phúng

gián, giúp các hoàng đế soi xét lại mà trau dồi đức trị.

4.1.3. Văn chính luận

Trong thời kì đầu của nền văn học viết, các sáng tác văn – sử – triết chưa có

sư phân biệt rạch ròi. Chúng có nhiệm vụ chung là chống giặc ngoại xâm và xây

dựng nhà nước quân chủ vững mạnh. Trần Đình Sử dùng khái niệm văn một cách

ước định: “chỉ tất cả các thể văn không phải thơ, phú, truyện với hai đặc điểm

chính: thực hiện chức năng ngoài văn học và nội dung không chứa đựng yếu tố hư

cấu” [156; 237].

Trong các thể loại của văn thì văn chính luận có khả năng thể hiện nhiều nhất

nhân vật hoàng đế. Trong suốt hành trình của nền văn học dân tộc, văn chính luận

luôn hiện diện và thể hiện được vai trò, sức sống mãnh liệt. Từ khởi nguyên của

nền văn học viết dân tộc, văn chính luận đã được tiếp thu từ Trung Quốc và từng

bước tiếp biến, phát triển để khẳng định được vị thế của mình. Lịch sử dân tộc đã

cho thấy nước ta luôn phải đối đầu với những thế lực ngoại xâm hùng mạnh. Văn

chính luận với chức năng tranh đấu đã trở thành công cụ hữu hiệu để tập hợp các

tầng lớp đoàn kết đánh giặc. Đất nước lần lượt đánh tan các thế lực xâm lược hùng

mạnh, nhiều anh hùng trở thành biểu tượng bất khuất trong lòng người, đất nước

chuyển mình trong công cuộc kiến thiết... trở thành những đề tài phong phú cho

văn chương nói chung và văn chính luận nói riêng. Văn học trung đại đã ghi nhận

những áng văn chính luận bất hủ với thời gian: Chiếu dời đô - Lý Thái Tổ, các bài

chiếu Nguyễn Trãi viết thay Lê Lợi…

Văn chính luận Việt Nam xuất hiện dưới nhiều thể loại. Trong văn học trung

đại là các thể loại: Hịch, cáo, chiếu, biểu, tấu, bi, thư tịch... Trong văn học hiện đại

là các loại hình: lời kêu gọi, các báo cáo chính trị, xã luận, bình luận báo chí, phát

thanh, truyền hình, diễn thuyết... Thế kỉ X đến thế kỉ XV được xem là giai đoạn

hoàng kim của văn chính luận trung đại bởi cảm hứng thế sự, bối cảnh xã hội chính

122

là nguồn đề tài phong phú cho thể loại này. Các chiến công vang dội trước quân

xâm lược hùng mạnh là cơ sở quý giá để các tác phẩm văn chính luận được khai

sinh, tồn tại, phát triển. Thời kì này ghi nhận số lượng lớn các tác giả, tác phẩm văn

chính luận tiêu biểu được đánh giá cao. Các bài văn chính luận đã thể hiện được tư

tưởng của các hoàng đế trong công cuộc trị quốc.

Giai đoạn Lý – Trần (1010 - 1400): Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ được xem

là áng văn chính luận đầu tiên của Việt Nam, tiếp đó là Phạt Tống lộ bố văn, Phạt

Tống của Lý Thường Kiệt, Dụ chư tỳ tướng hịch văn của Trần Quốc Tuấn,... Thế kỉ

XV có nhiều sự kiện, tiêu biểu là khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Những tác phẩm

tiêu biểu của thời kì này ít nhiều thường xoay quanh khởi nghĩa Lam Sơn và Lê

Thái Tổ. Trước hết phải kể đến Quân trung từ mệnh (gồm 68 văn kiện chính luận).

Đây là những thư từ Nguyễn Trãi viết gửi các tướng lĩnh nhà Minh với nội dung

luận chiến hùng hồn, đanh thép, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng ít đổ

xương máu.

So với nhiều thể loại khác, văn chính luận là thể loại có sự gắn bó chặt chẽ với

vương triều nói chung và hoàng đế nói riêng. Các tác phẩm thuộc thể loại này

thường được viết bởi các nhân vật có tầm vóc chính trị. Nhân vật hoàng đế trong

văn học giai đoạn này được xây dựng dưới nhiều góc nhìn khác nhau tùy theo từng

thời điểm, từng thể loại. Dưới thời Lê sơ văn chính luận tiếp tục cho thấy tinh thần

dĩ dân vi bản của hoàng đế mặc dù có một sự thay đổi lớn về phương thức sáng tác.

Dưới thời Lý - Trần, văn chính luận được sáng tác bởi các hoàng đế, đại thần. Đến

thời Lê sơ, văn chính luận xuất hiện hiện tượng chấp bút. Đặc biệt dưới triều đại Lê

Thái Tổ, những áng văn chính luận phần lớn do Nguyễn Trãi viết thay hoàng đế.

Tiêu biểu là Quân trung từ mệnh tập.

Thời nhà Lý các hoàng đế để lại khá nhiều bài văn chiếu: Thiên đô chiếu (Lý

Thái Tổ), Lâm chung di chiếu (Lý Nhân Tông), Lâm chung chúc thái tử (Lý Anh

Tông), Truy hối tiền quá chiếu (Lý Cao Tông)… Bên cạnh chức năng truyền đạt

các ý tưởng chính trị, các bài chiếu đã thể hiện được những quan điểm, tâm trạng cá

nhân của hoàng đế thấm nhuần các triết lí nhà Phật. Nếu như các hoàng đế sau thế

kỉ XV, nhất là các hoàng đế triều Nguyễn thường quan tâm chú trọng xây lăng tẩm

thì các hoàng đế triều Lý rất dung dị, tiết chế lễ nghi: “Việc tang thì sau ba ngày

123

nên bỏ áo trở, thôi khóc than. Chôn cất thì nên theo cách kiệm ước của Hán Văn

Đế, không cần xây lăng tẩm riêng, hãy để trẫm được bên cạnh tiên đế” (Lâm chung

di chiếu – Lý Nhân Tông) [209; 441]. Phần lớn các bài chiếu thời Lý đều thể hiện

tinh thần cởi mở, trọng dân và luôn hướng về dân của các hoàng đế.

Lê Lợi qua văn hội thề đã thể hiện được khí phách của bậc anh hùng mang

trong mình sứ mệnh hoàng đế. Theo Di cảo Đinh Liệt, tại hội thề Lũng Nhai năm

1416, Lê Lợi cùng Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Thận, Trương Chiến đã cùng nhau

tuyên thề: “Chúng tôi nguyện cùng nhau suốt đời kết thành một khối như chim liền

cánh, như cây liền cành, chúng tôi nguyện cùng nhau kết nghĩa, cùng chia bùi sẻ

ngọt, cùng hoạn nạn không lìa, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, thề không đội

trời chung với giặc nước, quyết dựng nghiệp lớn cho đến thắng lợi cuối cùng” (Văn

hội thề Lũng Nhai năm Bính Thân 1416 – Đinh Liệt) [126; 42]. Lê Lợi còn có tài

thu phục lòng người: “Trẫm mà được thiên hạ, chưng sau thiên hạ thái bình, thì

trẫm nhớ đến công thần chư tướng ấy hết lòng sức, danh truyền đủ muôn đời, vĩnh

thuỷ trúc bạch, cho chưng sau, con cháu trẫm cùng con cháu chư tướng hiển vinh,

hưởng chung phúc lộc. Dù bể kia hay cạn, núi nọ hay bằng, thì công ấy trẫm chẳng

khá quên chư tướng” (Lời thề của Thái Tổ cao hoàng đế Lê Lợi và lời dặn của vua

– gia phả họ Lê Văn Linh) [126; 49].

Bên cạnh những chính sách đối nội thân dân, đẩy mạnh bang giao là một

nhiệm vụ quan trọng của hoàng đế. Lịch sử chứng minh văn chương bang giao đã

góp phần quan trọng vào những thắng lợi quân sự hiển hách, bảo vệ sự an nguy,

tồn vong của dân tộc. Trong hầu hết các thư gửi Phương Chính, Nguyễn Trãi luôn

đề cao, nhấn mạnh nhân nghĩa. Tác giả đối lập chính nghĩa với gian tà để khẳng

định, nhân nghĩa là yếu tố cốt lõi tạo nên một triều đại đức trị được trăm họ nghe

theo: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to lớn phải lấy

nhân nghĩa làm đầu. Duy nhân nghĩa có làm đủ thì công việc mới thành được”

[126; 53].

Năm 60 tuổi Nguyễn Trãi được hoàng đế Lê Thái Tông mời ra trao cho chức

vụ. Ông làm Biểu tạ của gián nghị đại phu kiêm tri tam quán sự để tôn vinh hoàng

đế: “Đế Nghiêu là thánh thần, biết người rất rõ; Đại Thuấn thích nghe thích xét, đãi

chúng lấy khoan. Chọn người hiền không có loại nào; dùng người tài xem như

124

mình vậy. Kén người thì rau phỉ rau phong đều hái; đức tài thì đồ thô đồ méo

không quên” [205; 205]. Nguyễn Trãi nhắc đến Nghiêu Thuấn để tôn vinh hoàng

đế nhưng không quên gửi những thông điệp về yêu cầu phẩm chất về đạo đức của

bậc đế vương.

Dưới thời Lê sơ, sự phát triển mạnh mẽ của chế độ khoa cử đã sản sinh ra

nhiều trụ cột hỗ trợ hoàng đế trong công cuộc trị vì. Việc các trọng thần viết

những áng văn chính luận thay vua là một bước tiến của thể loại này. Bởi lẽ, tính

khách quan sẽ được phát huy cao độ hơn. Dưới thời vua Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi

đã thay hoàng đế viết ra những áng văn chính luận thể hiện tinh thần thân dân của

vương triều Lê sơ. Trong Chiếu dụ hào kiệt, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi “nhún

mình” chiêu dụ nhân tài cứu lấy dân: “Vì thế ta nhún mình tỏ lòng thành thực,

khuyên các bậc hào kiệt đều nên cùng nhau gắng sức, cứu đỡ muôn dân” [126;

73]. Tài năng, đức độ của một hoàng đế được thể hiện qua khả năng dùng người,

trọng dụng nhân tài để hỗ trợ đắc lực trong công cuộc trị vì. Nguyễn Trãi thay Lê

Lợi viết Chiếu cầu hiền tài để bày tỏ nguyện vọng mong muốn kêu gọi người tài

tham gia công cuộc kiến thiết và bảo vệ quốc gia: “Được thịnh trị tất ở việc cử

hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử. Bởi thế người làm vua thiên hạ phải lấy đó

làm việc trước tiên” [205; 194].

Sau chiến thắng Lam Sơn lừng lẫy, trong công cuộc trị vì đất nước, Lê Thái

Tổ đã răn dạy triều thần: “Ngày nay từ các đại thần tổng quản, cho đến đội trưởng

cùng các quan ở viện, sảnh, cục, phàm người có chức vụ coi quân trị dân đều phải

theo phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua thì hết trung, đối dân thì hết hòa”

(Chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện sảnh cục tham lam lười

biếng - Nguyễn Trãi) [205; 198 – 199]. Trong Chiếu về việc làm bài “Hậu tự

huấn” để răn bảo thái tử, Nguyễn Trãi đã thay Lê Thái Tổ nhắc nhở thái tử về vai

trò của dân: “Vả lại mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là

dân... Tuy Thuấn Võ Thang Văn là bậc thánh, mà còn nau náu nơm nớp, tiết kiệm

siêng năng, run sợ lo âu, giữ gìn cung cẩn, những việc kính trời chăm dân, không

dám khinh suất chút nào” [205; 203].

Khi giành được ngôi báu từ triều Trần, Hồ Quý Ly đã áp dụng tư tưởng pháp trị.

Tuy có những chính sách đổi mới tiến bộ nhưng ông bất chấp mọi thủ đoạn tàn bạo để

125

loại trừ những thế lực có hành vi nghịch ý. Dưới triều đại nhà Hồ, những chính sách

tàn bạo đã làm đời sống xã hội rối ren. Chính vì không thuận lòng dân, triều đại nhà

Hồ đã nhanh chóng sụp đổ. Điều đó được Nguyễn Trãi đúc kết trong Bình Ngô đại

cáo: “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ Để trong nước lòng dân oán hận/ Quân cuồng

Minh đã thừa cơ gây họa/ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” [205; 66].

Có thể thấy Nguyễn Trãi đã chỉ ra rõ sự thất bại của nhà Hồ chính do không

thuận lòng dân. Đến thời Lê sơ, các hoàng đế rất quan tâm đến nền đức trị. Nhất là

việc làm sao để thuận được lòng dân. Trong Chiếu bàn về phép tiền tệ Nguyễn Trãi

viết: “Vậy trẫm ra lệnh cho các đại thần trăm quan và các sĩ phu trong ngoài, ai

hiểu rõ thời vụ đều bàn bạc về thể lệ dùng tiền, thế nào cho thuận lòng dân” [205;

195]. Hầu hết trong các việc trọng đại, hoàng đế đều thể hiện sự tôn trọng ý kiến

của bề tôi. Bởi mục đích là cùng đem lại một đất nước trên thuận dưới hòa.

Nho gia đòi hỏi người cai trị đất nước phải có nhân cách lí tưởng. Cụm từ “tu

thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đã chỉ rõ: muốn bình thiên hạ thì thiên tử phải

thực hiện việc tu thân. Hoàng đế phải tu thân để làm gương sáng giáo hóa bách

tính, trở thành người truyền cảm hứng cho trăm họ noi theo. Trong Chiếu về việc

làm bài Hậu tự huấn để răn bảo thái tử, Lê Thái Tổ đã căn dặn: “Nay con nhớ

công lao của ta, nối cơ nghiệp của ta, phàm những phép giữ nước cầm quân, những

phương giữ mình trị nước, thi hành nên cố sức, chăm chỉ chớ ham vui. Hòa thuận

tôn thân, nhớ giữ một lòng hữu ái; thương yêu dân chúng, nghĩ làm những việc

khoan nhân” [205; 202]. Đức trị yêu cầu hoàng đế phải “chính”. Bởi khi hoàng đế

đã trở thành gương sáng thì trăm họ sẽ phục tùng mệnh lệnh mà không cần dùng

đến quyền lực.

Hạn chế thực tế không thể chối cãi của chế độ quân chủ là việc bảo vệ tuyệt đối

quyền lợi của dòng tộc. Nhất là hoàng đế truyền ngôi theo phương thức truyền tự

không truyền hiền. Tuy nhiên để giảm bớt được tính chuyên quyền, độc đoán, các

hoàng đế khi truyền ngôi vẫn ca tụng đức độ của người kế vị. Trong Chiếu giáng tư tề

làm quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp, Lê Thánh Tông viết:

“Hoàng thái tử tuy tuổi còn non mà có tiếng nhân hiếu, mọi người trông cậy, thần khí

đáng giao, có thể trao cho ấn kiếm, để tạm coi việc nước nhà” [205; 200].

126

Văn chính luận trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV đã phản ánh

được hiện thực xã hội mà ở đó mô hình đức trị chiếm vị thế chủ đạo so với pháp trị.

Hoàng đế muốn vững vàng trên ngôi vị phải quy phục được lòng dân. Con đường

quy phục lòng dân không phải theo hình thức đàn áp, bạo lực mà là thực hiện

những chính sách dân vi bản. Xét trên phương diện nghệ thuật, văn chính luận giai

đoạn này thường sử dụng điển cố. Nếu như văn chính luận Lý – Trần thường trực

tiếp nêu sự việc, bày tỏ tình cảm rõ ràng thì văn chính luận thời Lê sơ đã gia tăng

nghệ thuật dùng điển cố. Việc mượn cổ nói kim giúp các hoàng đế lấy đó làm cơ sở

để khẳng định cho vấn đề cần nêu ra. Khi viết văn chính luận phục vụ nội trị, các

hoàng đế sử dụng giọng điệu gần gũi, tâm tình thể hiện được phẩm chất của một

đấng minh quân thân dân, trọng dân. Khi dùng văn chính luận để phục vụ ngoại

giao, đấu tranh bằng ngòi bút thì hoàng đế hiện lên rất khéo léo, mềm dẻo nhưng

vẫn giữ được uy nghiêm, thần võ và chí khí của thiên tử.

Văn thư bang giao cũng là phương tiện thể hiện được chân dung nhân vật

hoàng đế trong văn học. Trong các cuộc đấu tranh ngoại giao đầy cam go thử thách,

các hoàng đế dùng văn thư bang giao để phục vụ sự nghiệp đấu tranh chính trị và

quân sự. Đặc sắc nghệ thuật của thơ văn bang giao là lời văn vừa tao nhã vừa mềm

dẻo nhưng không kém những lập luận chặt chẽ, đanh thép và sắc bén. Từ những lá

thư hoàng đế Trần Nhân Tông viết cho nhà Nguyên đến những bức thư nhà Lê sơ

gửi quân Minh đã thể hiện sự khéo léo, tài ba của các hoàng đế trong công cuộc đấu

tranh bằng ngòi bút.

Nhìn từ diễn trình lịch sử, giai đoạn thế kỉ X đến thế kỉ XV là thời đại hào

hùng và oanh liệt nhất trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam. Bối cảnh lịch sử

hào hùng là điều kiện sản sinh ra những áng văn chính luận bất hủ. Với đặc trưng

thể loại là phản ánh những vấn đề nóng bỏng mang tính thời sự của quốc gia, dân

tộc, văn chính luận đã thể hiện được những hình ảnh của hoàng đế Đại Việt. Cũng

giống như thơ, phú, văn chính luận giai đoạn này cũng đã khắc họa được những đặc

điểm về các hoàng đế Đại Việt có tư tưởng thân dân, cai trị đất nước bằng nhân

nghĩa và phục chúng bằng nền đức trị. Tuy nhiên, điểm làm nên sự khác biệt của

văn chính luận so với các thể loại khác là, thể hiện được khẩu khí của bậc đế

127

vương. Thông qua văn chính luận, các hoàng đế phương Nam đã khẳng định được

vị thế quốc gia, dân tộc trong sự đối trọng với các vương triều phương Bắc.

4.2. Sự thể hiện nhân vật hoàng đế và những lựa chọn ngôn từ

4.2.1. Hệ thống ngôn từ bộc lộ khẩu khí của đế vương

Các hoàng đế Trung Hoa xem mình là thiên tử - con trời. Họ cho rằng chỉ

duy nhất ở Trung Hoa là có thiên tử. Trong quan niệm của các hoàng đế Trung

Hoa, Đại Việt chỉ là một thuộc quốc, và họ sẵn sàng đem quân đi chinh phạt. Vì

thế, ngay từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã ý thức khẳng

định vị thế quốc gia, dân tộc. Bài thơ Nam quốc sơn hà - (trước đây) được coi là

của Lý Thường Kiệt - khẳng định mạnh mẽ, đanh thép vấn đề quan trọng, thiêng

liêng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Có thể thấy từ những buổi đầu, anh hùng

hào kiệt nước ta đã luôn khẳng định vị thế dân tộc sánh ngang với phương Bắc.

Tiếp nối giọng điệu hào hùng đó, các hoàng đế Lý - Trần qua thơ văn cũng đã thể

hiện mạnh mẽ khẩu khí của bậc đế vương phương Nam.

Để tranh đoạt và bảo vệ quyền lực, các vương triều sẵn sàng thanh trừng hay

trấn áp thẳng tay, thậm chí tàn bạo với các thế lực chống đối. Năm 1039, sau khi

cầm quân đánh dẹp Nùng Tôn Phúc, hoàng đế Lý Thái Tông đã viết chiếu với

những lời lẽ mang đầy khí phách bậc đế vương: “Trẫm từ khi làm vua đến giờ,

tướng văn tướng võ cùng các bề tôi, không có người nào dám thiếu đại tiết; phương

xa cõi lánh, không đâu không thần phục, mà bọn họ Nùng cũng đời đời giữ yên bờ

cõi thường nộp thổ cống. Nay Tồn Phúc tự tôn càn rỡ, tiếm vị hiệu, ra mệnh lệnh,

tụ họp quân ong bọ, làm hại nhân dân biên thuỳ. Trẫm phụng mệnh trời đi đánh”

[97; 182]. Có thể thấy hoàng đế Lý Thái Tông đã có những lời tuyên bố hào hùng,

đanh thép khẳng định vai trò của đế vương là “thi hành mệnh trời trách phạt”.

Tuy nhiên có thể thấy qua Bình Nùng Chiếu của Lý Thái Tông phần nào đó

còn hạn chế về tư tưởng. Bởi lẽ qua lời văn, hoàng đế này đã có phần nào giống

khẩu khí của các bậc đế vương phương Bắc khi đã quá đề cao vai trò của mình mà

xem các dân tộc khác là man di, mọi rợ. Yếu tố thiên mệnh qua phát ngôn của

hoàng đế đã đưa quốc gia Đại Việt trở nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Mặt

khác, tình yêu tổ quốc, ý thức độc lập tự chủ của các hoàng đế Đại Việt đã thể hiện

rõ nét qua các bài chiếu. Những ngôn từ rắn rỏi của bậc đế vương đã thể hiện trí

128

tuệ, khí phách, đúc kết thành triết lí sống và hành động.

Năm 1119, hoàng đế Lý Nhân Tông đem quân đi đánh động Ma - Sa. Trước khi

ra trận, ông đã xuống chiếu: “Trẫm nối nghiệp một Tổ hai Tông thống trị nhân dân;

coi dân chúng trong bốn biển đều như con cả, cho nên cõi xa cúng mến lòng nhân mà

quy phụ, phương khác cũng mộ đức nghĩa mà lại chầu… nay kẻ tù trưởng ngu hèn

ấy lại phụ ước của ông cha, quên việc cống hiến hàng năm, thiếu lệ thường của điển

cũ. Trẫm vẫn nghĩ mãi, việc không dừng được, nay trẫm định tự làm tướng đi đánh”

[97; 212]. Ngôn từ lời chiếu đã bộc lộ khẩu khí của bậc đế vương trong việc khẳng

định vị thế của quốc gia trung tâm.

Khẩu khí của đế vương không chỉ là những tuyên bố hào hùng, đanh thép

khẳng định vị thế mà còn là tinh thần trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Năm 1207,

vua Lý Cao Tông ban Chiếu Hối lỗi sau khi thấy đất nước rơi vào cảnh loạn lạc:

“Nay trẫm sẽ sửa đổi lỗi lầm, cùng trăm họ bắt đầu canh tân. Ai có ruộng đất, sản

nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại” [209; 538]. Sự kiện này không được Đại

Việt sử kí toàn thư chép lại song đã được các nhà nghiên cứu sưu tầm và bổ sung

vào kho tàng văn học dân tộc.

Đinh Gia Khánh nhận xét: “Ở Trung Quốc, nơi nhà vua tự coi là “con trời”.

Đã là “con trời” thì làm sao lại có thể là anh em của nhân dân. Ở nước ta các triều

đại cũng mô phỏng thiết chế của Nhà nước phong kiến Trung Hoa nhưng quan

niệm về “con trời” không thể thống trị một cách tuyệt đối trong xã hội nước ta

được” [209; 68]. Ở nước ta, chế độ quân chủ từ thời Trần đã chịu ảnh hưởng của tư

tưởng Nho giáo trong việc trị nước. Cụ thể là quan điểm trị nước “dân vi bản”.

Mạnh Tử từng nói: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Câu nói này đã

khẳng định vị trí của dân trong sự vận hành xã hội của hoàng đế. Trên thực tế từ

thời nhà Lý, mặc dù Lý Công Uẩn chịu sự chi phối của Phật giáo nhưng cũng đã đề

cao tinh thần thân dân qua Chiếu dời đô. Ông đưa ra những dẫn chứng lịch sử các

hoàng đế từ nhà Thương đến nhà Chu của Trung Hoa dời đô “há phải là các vua đời

tam đại ấy theo ý riêng mà tự dời đô bậy đâu, là vì mưu chọn chỗ ở chính giữa làm

kế cho con cháu ức muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo lòng dân, nếu có chỗ

tiện thì dời đổi” [97; 160]. Kết thúc bài chiếu Lý Công Uẩn viết: “Trẫm muốn nhân

địa lợi ấy mà đóng đô, các khanh nghĩ thế nào?” [97; 160]. Lý Công Uẩn đã không

129

dùng sức mạnh của thiên tử để tự quyết mọi việc mà có sự cân nhắc để “trên theo

mệnh trời, dưới theo ý dân”. Đây là ngôn ngữ mang tính đối thoại, các hoàng đế

muốn được trao đổi, lắng nghe ý kiến nhân dân. Đó không phải là mệnh lệnh một

chiều mà thể hiện tinh thần thân dân sâu sắc.

Qua các bài chiếu, chế, biểu… các hoàng đế tự biểu hiện mình bằng một giọng

điệu khí phách của đế vương. Tuy nhiên, hình ảnh các hoàng đế hiện lên không nặng

tính chuyên chế mà rất thân dân, trọng dân gần gũi với nhân dân. Các hoàng đế qua

các phát ngôn đã thể hiện khí phách của một thiên tử nhưng mục đích chính nhằm

phục vụ công cuộc đối nội, khẳng định quyền lực thống trị của hoàng đế.

Lê Lợi có nguồn gốc xuất thân bình thường và sống nơi “hoang dã”. Nhưng

trước tình thế đất nước nguy nan, người anh hùng ấy đã nung nấu ý chí căm hờn,

tập hợp nghĩa binh đánh đuổi quân Minh: “Ta đây:/ Núi Lam Sơn dấy nghĩa,/ Chốn

hoang dã nương mình,/ Ngẫm thù lớn há đội trời chung,/ Căm giặc nước thề không

cùng sống.” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) [126; 67]. Cách xưng hô “ta đây” đã

cho thấy khẩu khí anh hùng, oai phong không tỏ ra một chút mảy may khiếp sợ. Lê

Lợi có nguồn gốc xuất thân núi Lam Sơn “nơi hoang dã” - một đặc điểm chung của

những anh hùng đế vương khởi nghiệp mà sau này văn chương tìm thấy ở hoàng đế

Quang Trung – Nguyễn Huệ: “Mà nay áo vải, cờ đào/ Giúp dân dựng nước biết bao

công trình” (Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân).

4.2.2. Hệ thống ngôn từ thể hiện nhãn quan chính trị

Văn học giai đoạn này tập trung miêu tả về nhân vật hoàng đế nên hệ thống

ngôn ngữ thể hiện diễn ngôn về hoàng đế xuất hiện rất phổ biến. Do là nhân vật

chính trị nên khi miêu tả hoàng đế, các tác giả thường vận dụng hệ thống ngôn ngữ

gắn liền với các quan điểm về chính trị. Hệ thống ngôn từ thể hiện nhãn quan về

chính trị của hoàng đế cũng được thể hiện qua hai hình thức: cái tôi tự biểu hiện và

khách thể phản ánh.

Ở hình thức cái tôi tự biểu hiện, các hoàng đế để khẳng định vị thế, bảo vệ

ngai vàng đã không ngừng diễn ngôn về mình qua các khái niệm: thiên tử, mệnh

trời, thiên mệnh… Các khái niệm này xuất hiện xuyên suốt trong văn học giai đoạn

này hầu hết trong các thể loại: “Lòng vì thiên hạ những sơ âu,/ Thay việc trời, dám

trễ đâu.” (Tự thuật – Lê Thánh Tông) [127; 59]. Các hoàng đế mượn đức tin của

130

dân vào các lực lương thần, thiêng để diễn ngôn về chính trị. Diễn ngôn của họ

khẳng định bản thân chính là đại diện tiêu biểu nhất được trời lựa chọn và xứng

đáng với vị thế đứng đầu quốc gia. Bên cạnh diễn ngôn chính trị về nguồn gốc

“thiên”, các hoàng đế phải tạo dựng hình ảnh đế vương đầy uy lực và có khả năng

thuyết phục được thiên hạ. Đó là việc vận dụng nghệ thuật ngôn từ để xây dựng

niềm tin, sự tôn sùng, ngưỡng vọng từ thần dân trăm họ. Để thu phục được lòng

dân, các hoàng đế không ngừng diễn ngôn về tinh thần thương dân, trọng dân. Điều

đó thể hiện qua các ngôn từ trong thơ văn. Hình ảnh nông dân hiện lên là: dân lành,

thương sinh và trách nhiệm của hoàng đế là nuôi dân, điếu dân “Miếu đường có

thuở vang lừng tiếng/ Giúp được dân làng kẻo nắng nôi.” (Con cóc – Lê Thánh

Tông) [127; 612].

Ở hình thức khách thể được phản ánh, các nhà nho, thiền sư ra sức diễn ngôn

về hoàng đế qua các khái niệm: minh quân, thánh quân, ơn chúa, thánh chúa…

“Thuỷ chung mỗ vật đều nhờ chúa,/ Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy.” (Mạn thuật

– Bài 3 – Nguyễn Trãi) [126; 101]. Bảo vệ vương quyền cũng chính là bảo vệ lợi

ích của cá nhân, giai cấp cộng với tư tưởng trung quân, ái quốc, các tác giả không

ngừng nhấn mạnh về con đường đức trị của hoàng đế. Thơ văn xuất hiện rất nhiều

những ngôn từ biểu đạt quan niệm về đức của hoàng đế: bố đức, hợp đức, sửa đức,

nhân nghĩa… “Nhân phong ô biến quần phương tục,/ Hiếu trị quang thuỳ vạn cổ

danh.” (Lấy đức nhân biến hoá phong tục khắp nơi cho thuần phục,/ Có lòng hiếu

cao quý để tiếng ở muôn đời.) (Thân Nhân Trung vâng hoạ) [127; 489]. Đặc biệt,

nhân nghĩa được xem là từ khoá xuất hiện xuyên suốt trong các tác phẩm. Nhất là

các sáng tác trong văn học thời Lê sơ. Nhận thức được chiến thắng trước quân

Minh là nhờ vào nhân nghĩa của bậc thánh chúa, các tác giả không ngừng nhắc đến

nhân nghĩa trong các sáng tác.

Từ thời Lê sơ, khái niệm dân như nước, vua như thuyền được thường xuyên

nhắc lại để nhắc nhở hoàng đế tinh thần trọng dân: “Phúc chu thuỷ tín dân do

thuỷ;/ Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.” (Lật thuyền mới rõ dân như nước;/ Cậy

hiểm khôn xoay ở mệnh trời.) (Quan hải – Nguyễn Trãi) [205; 280].

131

Ngôn từ đã được các tác giả vận dụng khéo léo để tạo nên tính hệ thống

trong việc thực hiện những diễn ngôn về các quan điểm trị nước của hoàng đế. Từ

đó góp phần thể hiện những đặc điểm của hoàng đế trong văn học giai đoạn này.

4.2.3. Hệ thống ngôn từ thể hiện quan niệm thẩm mĩ

Dùng điển là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của văn học

trung đại. Nhất là đối với thơ ca, thể loại coi trọng tính hàm súc, ý tại ngôn ngoại,

dung lượng vừa phải, việc dụng điển càng trở nên quan trọng bởi khả năng kiêm

nhiệm cả hai việc biểu ý và biểu cảm của chúng. Trong việc hướng đến xây dựng

nhân vật hoàng đế, các đối tượng sáng tác có những phương thức dùng điển khác

nhau để thể truyền tải những quan niệm thẩm mĩ.

Chịu sự chi phối của tư tưởng Phật giáo, trong sáng tác của các hoàng đế Lý –

Trần xuất hiện nhiều điển cố trong kinh, luật nhà Phật. Điển tích Phật giáo là những

từ ngữ được trình bày ngắn gọn, hàm súc trích dẫn về nhân vật lịch sử, địa danh,

quan điểm thuộc phạm trù Phật giáo. Các điển cố Phật giáo đã phản ánh được tình

thần giáo lý, bằng cảm quan Phật giáo sâu sắc của các hoàng đế. Các hoàng đế khi

sáng tác các tác phẩm mang cảm quan Phật giáo thường nhắc đến điển tích về các

danh hiệu của các tổ sư đắc đạo: “Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng

Thích Ca;/ Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.” (Cư trần lạc

đạo phú – Trần Nhân Tông) [143; 376]. Các hoàng đế mượn điển tích về các tổ sư để

nhắc nhở tấm gương sáng cho hậu thế dày công tu hành đắc đạo.

Khi nói nhấn mạnh quan niệm về sự vô thường của kiếp người, các hoàng đế

đã sử dụng các điển cố về tứ sơn. Thân do tứ đại mà thành, không có gì là tồn tại

vĩnh viễn: “Tứ sơn giả, sinh lão bệnh tử dã. Kim tự tứ sơn chi tự, dĩ di quyết hậu.”

(Bốn núi là đó là sinh, già, bệnh chết. Nay xin trình bày tư tự bốn núi để lưu lại cho

đời sau.” (Phổ thuyết tứ sơn – Trần Thái Tông) [211; 42]. Trong quá trình sáng tác

để truyền tải các triết lí nhà Phật, các hoàng đế luôn sử dụng các điển cố về những

tấm gương những tổ sư đắc đạo: Phật tổ Như Lai, Di Lặc…, các địa danh gắn liền

với thánh tích nhà Phật: Hoàng Mai, Tào Khê, Thiếu Thất… Việc sử dụng nhuần

nhuyễn các điển tích liên quan đến nhà Phật giúp các hoàng đế dễ dàng truyền tải

những thông điệp giáo huấn. Từ đó những tác phẩm này không chỉ có những giá trị

về mặt nội dung mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật.

132

Khi Nho giáo phát triển, các hoàng đế tích cực dùng điển cố từ Trung Hoa để

gửi gắm vào thơ văn những ngụ ý, khát vọng về đế vương: “Nhân gian kiệm tố

Hán Văn Đế,/ Thiên hạ anh hùng Đường Thái Tông.” (Trong dân cần kiệm chất

phát như Hán Văn Đế,/ Với thiên hạ là bậc anh hùng như Đường Thái Tông.) (Mai

– Trần Nhân Tông) [143; 344]. Hoàng đế triều Trần mượn hình ảnh các hoàng đế

Trung Hoa để làm tấm gương trong sự nghiệp trị vì.

Điển được các hoàng đế vận dụng khéo léo trong nhiều tình huống để mang

lại hiệu quả, đáp ứng tối ưu mục đích thẩm mỹ. Trong lịch sử, triều Trần không chỉ

chống quân Nguyên Mông xâm lược mà còn không ngừng đối phó với các thế lực

Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp luôn gây rối loạn nơi biên ải. Ý thức về trách

nhiệm trước sự tồn vong của đất nước, các hoàng đế triều Trần tích cực nhập thế để

bảo vệ giang sơn xã tắc. Đặc biệt tinh thần nhập thế được thể hiện rõ nét trong thơ

văn Trần Nhân Tông. Một số bài thơ của ông mang tính chiến đấu ngập tràn lòng

yêu nước, lồng lộng hào khí Đông A. Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông tiến hành

cuộc xâm lăng Đại Việt lần thứ hai. Giặc đến như lũ tràn bờ, thế nước mong manh

nghìn cân treo sợi tóc. Để kịp thời trấn an lòng quân, Trần Nhân Tông dùng tài năng

thi sĩ viết lên thuyền hai câu thơ bất hủ: “Cối Kê cựu sự quân tu ký,/ Hoan, Ái do tồn

thập vạn binh.” (Việc cũ ở Cối Kê ngươi nên nhớ,/ Châu Hoan, Châu Ái đang còn

hàng chục vạn quân.) (Quân tu kí – Trần Nhân Tông) [211; 482]. Trần Nhân Tông

nhắc lại điển tích từ sử liệu Trung Hoa về quân của Việt Vương Câu Tiễn ngỡ đã bị

tiêu diệt trước sức mạnh của quân Ngô nhưng cuối cùng đã hợp sức giành thắng lợi.

Trong lúc lòng quân dao động, Trần Nhân Tông nhắc lại tích thời Chiến Quốc để

cổ vũ tinh thần, ổn định lòng quân, nung nấu ý chí cùng chung tay giết giặc. Hào

khí Đông A đã tạo nên sức mạnh dẹp tan những kẻ thù hung bạo. Để có được

những chiến thắng vẻ vang đó, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng và sẵn sàng đánh

đổi biết bao xương máu trên trận địa. Bên cạnh đó còn phải kể đến sự lãnh đạo tài

tình của các hoàng đế Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông. Họ đã viết nên những

trang sử chói lọi, hào hùng cho dân tộc.

Ngoài ra, điển còn là phương tiện để các hoàng đế thể hiện tài năng trong đối

đáp, tiễn tặng các sứ thần. Hoàng đế Trần Minh Tông tinh tế khi sử dụng các điển

cố từ sử liệu Trung Hoa để làm thơ tặng cho sứ thần phương Bắc: “Cửu đỉnh điện

133

an nhược Thái san./ Thời dương thời vũ chướng yên hàn./ Phổ thiên ngọc bạch quy

Nghiêu Thuấn,/ Tị ốc huyền ca học Khổng Nhan./ Đồng trụ bất tu lao Mã Viện,/ Bồ

tiên nan phục tiễn Lưu Khoan./ Thánh ân hạo đãng từ vân khoát./ Hóa tác cam làm

mãn thế gian.” (Chín cái vạc đặt vững như núi Thái sơn,/ Nắng mưa phải thì, lam

chướng tan./ Cả thiên hạ mang ngọc lụa về chầu Nghiêu, Thuấn,/ Khắp mọi nhà

đàn hát, học theo Khổng Tử, Nhan Hồi./ Không cần Mã Viện phải mất công dựng

cột đồng,/ Khó mà còn khen ngợi Lưu Khoan có roi cỏi./ Ơn thánh thượng mênh

mông, mây lành rộng rãi,/ Hóa làm mưa ngọt đầy khắp thế gian.) [211; 806]. Việc

sử dụng khéo léo hàng loạt các điển cố một mặt thể hiện sự uyên thâm, am tường

văn hoá của hoàng đế Trần Minh Tông mặt khác chứa đựng dụng ý nghệ thuật rất

độc đáo, thâm thuý. Tác giả mượn điển cố để nhắn gửi sứ giả nếu hoàng đế phương

Bắc cai trị bằng nhân đức thì trăm họ quy phục, hạn chế lạm sát, hình phạt để thiên

triều được vững chắc như “cửu đỉnh”, “Thái san”. Lời thơ còn cho thấy một khát

vọng hoà bình mãnh liệt của hoàng đế nhà Trần.

Với nhân vật hoàng đế trong tư cách khách thể phản ánh, các tác giả giai

đoạn này vận dụng khéo léo điển để thể hiện sự tự hào, những ước mơ, khát vọng

về hoàng đế. Họ mượn điển để ca ngợi hoàng đế Đại Việt: “Thần tâm Nhị đế Tam

vương cổ,/ Văn thể Tiên Tần Lưỡng Hán kì.” (Tấm lòng của vua như Nhị đế Tam

vương khi xưa,/ Văn thể của Người kỳ diệu như Tiên Tần Lưỡng Hán.) (Xuân

nhật ứng chế - Phạm Sư Mạnh) [144; 250]. Phạm Sư Mạnh nhắc đến Nhị đế, Tam

vương để so sánh với hoàng đế Trần Minh Tông. Văn chương giai đoạn này tập

trung hướng đến xây dựng mẫu hình hoàng đế lí tưởng Nghiêu Thuấn. Vì thế,

trong quá trình sáng tác các tác giả thường đề cập đến các hoàng đế này: “Vua

Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu thuấn./ Dường ấy ta đà phỉ thửa nguyền.” (Tự thán –

Bài 4 – Nguyễn Trãi) [205; 420]. Các tác giả dùng điển về Nghiêu, Thuấn để

ngầm so sánh và ca ngợi các hoàng đế trời Nam sánh ngang với các minh quân

phương Bắc. Đồng thời, việc dùng điển còn là biện pháp để các tác giả không

ngừng nhắc nhở các đế vương phải biết tu dưỡng đạo đức để xứng đáng ngôi vị

thiên tử. Các điển cố về Nghiêu Thuấn được sử dụng rất đa dạng: trời Nghiêu,

ngày Thuấn, thuở Thuấn Nghiêu… Ngoài ra, các tác giả còn dùng điển cố về

những con người trung quân ái quốc: Tô Vũ, Lý Tố, Y Doãn, Bá Di… để nhắn

134

nhủ đến các trung thần một lòng phụng sự cho vương triều, hoàng đế: “Đời

Thương thánh biết cầu Y Doãn,/ Nhà Hán ai ngờ được Tử Khanh.” (Bảo kính

cảnh giới – bài 4 – Nguyễn Trãi) [126; 128].

Bên cạnh những yếu tố ngôn ngữ Hán học thì ngôn ngữ dân tộc – chữ Nôm

cũng góp phần xây dựng nhân vật hoàng đế. Ngay từ thời Trần, hoàng đế Trần

Nhân Tông đã sáng tác ra bài phú Nôm Cư trần lạc đạo phú. Việc sáng tác một thể

loại ngoại nhập bằng ngôn ngữ dân tộc đã cho thấy ý thức sáng tạo của hoàng đế và

tinh thần dân tộc cao độ. Ngoài một hoàng đế tài năng, Lê Thánh Tông còn thể hiện

là một văn nhân xuất chúng bằng sự tiên phong, sáng tạo trong sáng tác văn

chương. Tinh thần dân tộc thể hiện rất rõ nét trong thơ Lê Thánh Tông. Ông đã đặt

nền móng cho truyện thơ Nôm Đường luật – một thể loại phổ biến từ thế kỉ XVIII.

Điều đó đã thể hiện được phẩm chất cao quý và tài năng của thiên tử trong việc

sáng tạo ra những con đường đi mới cho văn chương Đại Việt.

Theo kết quả khảo sát của người viết, có 438 tác phẩm trong văn học giai

đoạn này được viết bằng chữ Nôm chiếm tỉ lệ 24.3%. Văn học chữ Nôm trở nên

phát triển mạnh mẽ qua các tập thơ Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập.

Hoàng đế Lê Thánh Tông đã sáng tác số lượng lớn các tác phẩm chữ Nôm bằng thơ

Đường luật. Ngoài ý thức dân tộc trong việc sử dụng chữ Nôm thì các phương tiện

nghệ thuật được các hoàng đế vận dụng cũng rất độc đáo qua hệ thống từ láy và vận

dụng thành ngữ, tục ngữ.

Từ láy xuất hiện rất phổ biến trong thơ quốc âm. Nó đã chứng tỏ sự sáng tạo

và sử dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển ngôn ngữ dân tộc của các hoàng đế. Với

tính điệp đối và hài hoà âm thanh, ngữ nghĩa, từ láy đã mang lại giá trị thẩm mĩ cho

các tác phẩm nghệ thuật: “Lạnh lẽo vui chi áng cõi bờ,/ Miễn vì vực nước cứu dân

xưa./… Dãi dầu lại trải mười thu vẹn,/ Một tấm niềm đan phẳng nữa tờ.” (Đóng

quân phương xa – Lê Thánh Tông) [127; 64]. Từ láy đã góp phần khắc hoạ những

phẩm chất cao đẹp của hoàng đế Lê Thánh Tông. Ông vì dân vì nước mà vượt

muôn vàn hiểm nguy, gian khổ, thiên nhiên khắc nghiệt “lạnh lẽo” chỉ vì nhiệm vụ

cứu dân. Đường hành quân gian nan “dãi dầu” mưa nắng nhưng lòng quyết tâm cứu

dân của hoàng đế vẫn không nao núng.

135

Một số bài thơ Nôm giai đoạn này đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ

dân tộc khi vận dụng hàng loạt từ láy vào tác phẩm: “Đến ba canh ban trống ba,/

Trên không lác đác tuyết bay hoa./ Cửa doanh hiệu kín khăng khăng đóng,/

Thuyền bãi lau kề dặng dặng ca.” (Canh ba) [127; 568].

Các hoàng đế từ sớm đã có tinh thần dân tộc mạnh mẽ. Trên cơ sở tiếp thu

thành tựu văn học Trung Hoa, các hoàng đế đã sáng tạo và đưa chữ Nôm vào sáng

tác. Ngôn ngữ Nôm từng bước được trau chuốt, sáng tạo và góp phần làm cho ngôn

ngữ dân tộc ngày càng trở nên uyển chuyển, sinh động.

4.3. Sự vận dụng bút pháp

4.3.1. Bút pháp sử ký

Một trong những tác phẩm thể hiện nhiều nhất về nhận vật hoàng đế trong văn

học giai đoạn này chính là Đại Việt sử kí toàn thư. Tác phẩm này chịu sự ảnh hưởng

rất lớn bởi lối viết sử theo biên niên của người Trung Quốc và lối viết kỷ truyện theo

Sử ký của Tư Mã Thiên. Nét nổi bật của bút pháp sử ký trong Đại Việt sử kí toàn thư

khi khắc hoạ chân dung hoàng đế là lối viết tự sự. Tác phẩm không dừng lại ở việc

liệt kê các sự kiện lịch sử mà khắc hoạ nhân vật qua những chi tiết về ngoại hình,

nguồn gốc xuất thân, miêu tả hành động, ngôn ngữ...

Tính ước lệ tượng trưng của văn học trung đại chịu sự chi phối rất lớn từ quan

niệm của Nho giáo và nền tảng văn học dân gian. Khi miêu tả nhân vật, các tác giả

trung đại thường sử dụng những công thức có sẵn. Hoàng đế là nhân vật có cốt

cách cao quý, tài năng xuất chúng nên bao giờ cũng được miêu tả bằng bút pháp

ước lệ, tượng trưng với công thức: thụ thai và sinh nở thần kì, diện mạo khác

thường, trí tuệ vượt trội...

Trong xã hội quân chủ chuyên chế, hoàng đế được xem là nhân vật trung tâm.

Theo quan điểm của các nước phương Đông trong đó có Việt Nam, hoàng đế là

thiên tử (con trời) và nhận thiên mệnh thay trời cai quản việc hạ giới. Để bảo vệ

ngôi vị đế vương, ngoài hoàng đế thì các cận thần cũng không ngừng diễn ngôn về

tính thiêng của thiên tử. Mọi góc độ về hoàng đế qua văn chương từ nguồn gốc xuất

thân, hành xử, ứng xử đều được các tác giả diễn ngôn về thiên mệnh. A.JA

Gurevich cho rằng: “Lòng tin ở những điều nhảm nhí, nào súc vật biết nói, nào ma

quỷ vào nhà, nào phép chữa bệnh kì diệu, việc tôn thờ thánh cốt và các vật thiêng

136

khác, việc giải thích các hiện tượng xã hội bằng vị trí của những thiên thể và điềm

siêu nhiên khác… tất cả những điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nếu chúng ra

nhớ rằng thời kì này ý thức hệ tôn giáo thống trị” [51; 188]. Chính quyền chuyên

chế từ sớm đã nhận thức được sức mạnh của vương quyền không chỉ dựa vào quân

sự, pháp luật mà cần sự hỗ trợ của thần quyền. Chính vì thế chế độ quân chủ đã

không ngừng gia tăng sức mạnh của thần quyền bằng việc sử bổ sung các yếu tố hư

cấu, kì ảo để viết nên những truyền thuyết, giai thoại về nguồn gốc xuất thân, được

các lực lượng siêu nhiên phò trợ đánh giặc và sự lên ngôi đã có điềm báo trước của

hoàng đế.

Bút pháp sử ký mà cụ thể là các công thức xây dựng nhân vật đế vương đã tạo

ra những đặc điểm chung về nhân vật này mà người đọc không thể nhận ra diện

mạo của từng nhân vật cụ thể. Căn cứ vào các bộ sử liệu thì phần lớn các hoàng đế

từ khi mang thai cho đến lúc sinh ra và con đường hành trạng đều khác lạ so với

người bình thường. Sự ra đời của các hoàng đế trong các bộ sử đều được bao phủ

bởi màu sắc của các yếu tố thần kỳ. Trong đó, motip sinh nở thần kỳ của hoàng đế

rất đa dạng. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi chép lại hình thức sinh nở thần kỳ của

các hoàng đế: Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Trần Thánh Tông…

Những nhân vật bình thường hầu hết có motip xuất thân thần kỳ qua các hình

thức: tiếp xúc, ăn uống phải dị vật… Hoàng đế là người có thân phận cao quý nên

thường có hình thức xuất thân: sùng bái rồng, mộng triệu và hình thức cảm ứng

thiên tượng dị thường… Motip mang thai, sinh nở thần kỳ có thể được kể qua sự

kiện cha mẹ hoàng đế nhận được trong giấc mộng. Đây là hình thức mà các người

mẹ nằm mộng thấy những sự vật, sự việc lạ trước khi sinh ra thiên tử. Đặng thị khi

mới có thai đã chiêm bao thấy bụng nở ra hoa sen và sau đó sinh ra hoàng đế Lê

Đại Hành. Hoàng đế Trần Thánh Tông ra đời khi vua cha nằm mộng thấy trời trao

cho gươm báu: “Nhân Thái Tôn chiêm bao thấy trời trao cho thanh gươm báu, rồi

hậu có mang, năm Canh Tí Thiên Ứng Chính Bình thứ 9, tháng 9, ngày 25, giờ ngọ

sinh ra rồi lập làm hoàng thái tử” [97; 286 – 287]. Riêng câu chuyện về hoàn cảnh

sinh ra Lê Thánh Tông mang nhiều yếu tố thần thoại: “Tục truyền rằng khi thái hậu

sắp đi cữ, vì mỏi mệt thiếp đi, chiêm bao thấy đến chỗ Thượng đế, Thượng đế sai

một tiên đồng xuống làm con thái hậu, tiên đồng ngần ngừ không chịu đi, Thượng

137

đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra. Sau tỉnh dậy thì sinh ra vua, ở

trán có hình như có vết như thấy khi chiêm bao, mãi đến khi chết vết ấy vẫn còn”

[97; 610]. Hoàng đế Lê Hiến Tông ra đời do Quang Thục hoàng thái hậu cầu đảo

và được thượng đế ban cho thiên tử: “chiêm bao thấy đến trước mặt thượng đế cầu

hoàng tử, thượng đế nói: Cho sao Thiên Lộc làm con của Nguyễn Thị. Bèn ẵm đến

ngồi ở trước. Bây giờ Trường Lạc hoàng hậu ở cung Vĩnh Ninh, tức thì có mang”

[97; 732].

Motip sinh nở thần kỳ có khi lại được kể thông qua chuyện người mẹ mang

thai với người thần. Hoàng đế Lý Thái Tổ ra đời là do mẹ giao cấu cùng với người

thần: “Vua họ Lý, huý là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, Bắc Giang, mẹ là họ

Phạm, đi chơi ở chùa Tiên Sơn cùng với người thần giao cấu rồi có chửa, sinh ra

vua vào ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất” [97; 159]. Tâm lí và ý thức dân gian luôn

tôn sùng các hiện tượng siêu nhiên vì thế các motip thần kỳ đã chứng minh được

thiên số của hoàng đế. Điều này đã giúp các hoàng đế khẳng định được vương

quyền. Motip này về sau tiếp tục được các sử gia ghi chép về nguồn gốc xuất thân

của các hoàng đế triều Nguyễn: Minh Mạng, Tự Đức…

Motip sinh nở thần kỳ của các hoàng đế rất giống với các câu chuyện dân gian

như truyền thuyết Thánh Gióng được sinh ra nhờ mẹ dẫm chân vào dấu chân khổng

lồ. Đây được xem là motip chung để huyền thoại hoá nguồn gốc xuất thân của các

nhân vật chính diện. Không riêng gì Việt Nam mà các tác phẩm văn học, sử học

phương Đông cũng đã thần thánh hoá nguồn gốc xuất thân của các hoàng đế. Sử ký

đã ghi chép lại nguồn gốc xuất thân mang yếu tố thần kỳ của các hoàng đế Trung

Quốc. Hán Cao Tổ được mẹ sinh ra do mẹ cảm ứng với giao long “Có một lần bà

Lưu nghỉ trên bờ một cái đầm lớn, mộng thấy nằm với một vị thần, lúc bấy giờ sấm

chớp nổi lên, trời tối mịt, Thái Công đến xem thì thấy trên người bà có một con

giao long. Sau đó và có mang và sinh ra Cao Tổ” [122; 91].

Motip về nguồn gốc xuất thân thần kỳ còn được tiếp tục qua hình thức miêu tả

sự biến động của trời đất, vũ trụ trong ngày hoàng đế ra đời. Ngô Quyền khi mới

sinh ra “có điềm sáng ánh sáng khắp nhà” [97; 120]. Hoàng đế Lý Thái Tông khi

mới ra đời “có con trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác” [97; 174]. Ngoài ra,

đặc điểm ngoại hình của các hoàng đế có những yếu tố dị thường cũng là biểu hiện

138

dự báo cho con đường đế nghiệp. Ngô Quyền khi vừa sinh ra đã có những dấu hiệu

đặc biệt: “hình dạng khác thường, ở lưng có ba cái nốt ruồi, người xem tướng cho

là lạ, bảo rằng có thể làm nên chúa môt phương” [97; 120]. Hoàng đế Lý Thái Tông

khi ra đời đã có những đặc điểm khác biệt: “Vua có bảy cái nốt ruồi sau gáy, hình

như thất tinh” [97; 174]. Đây là biểu tượng của sao Bắc Đẩu tượng trưng cho ngôi

vua. Hoàng đế Trần Nhân Tông: “đạo mạo thuần tuý, nhan sắc như vàng, thể chất

hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim tiên đồng tử; ở bên

tả có hai nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đán được việc lớn” [97; 298]. Hầu hết

các hoàng đế đều được miêu tả với tướng mạo phi thường, khác lạ. Khi sử dụng các

motip này, các nhà viết sử chia sẻ quan niệm hoàng đế là người được trời lựa chọn.

Các tác giả thường gắn diện mạo, xuất thân của hoàng đế với các hình ảnh

kỳ vĩ rồng, phượng, hổ... để tạo nên nguồn gốc cao quý. Đại Việt sử ký toàn thư

viết về hoàng đế Lê Đại Hành: “Vua nằm phụp úp cối để ngủ, đêm ấy có ánh sáng

lạ đầy nhà, viên quan sát lẳng lặng đến xem, thì thấy con rồng vàng ấp lên trên”

[97; 138]. Chi tiết này đưa người đọc đến nhận thức rằng Lê Đại Hành mang

trong mình mạng đế vương và được rồng vàng che chở. Bên cạnh đó, việc miêu tả

nhân vật hoàng đế qua ngoại hình cũng luôn được các tác giả gắn liền với diện

mạo con rồng: Hoàng đế Lý Nhân Tông: “Vua trán cao mặt rồng, tay dài quá gối,

sáng suất thần võ, trí tuệ hiếu nhân” [97; 199]; hoàng đế Trần Thái Tông: “Vua

mũi cao mặt rồng giống như Hán Cao Tổ” [97; 264] hay hoàng đế Lê Thái Tổ:

“Vua sinh ra, thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc đẹp mạnh, mắt sáng, mồm

rộng, mũi cao, vai có nốt ruồi, tiếng to như tiếng chuông, đi như rồng, bước như

hổ, kẻ thức giả biết là người phi thường” [97; 475]… tất cả các hoàng đế phần lớn

được miêu tả bằng những chi tiết gắn liền với con rồng – linh vật được người

phương Đông sùng bái.

Về chân mệnh thiên tử, có một motip khác liên quan đến thuật phong thủy.

Theo thuật phong thuỷ nếu nhà ở hay mồ mả tổ tiên được đặt đúng vào vị trí đắc

địa sẽ đem đến những thay đổi lớn trong số phận. Lam Sơn thực lục kể Lê Lợi khi

chưa phát tích đế vương, còn cày ruộng ở Lam Sơn, được một nhà sư Ai Lao đi qua

chỉ cho một huyệt đắc địa: “Ngôi vua có khi trung hưng. Mệnh trời có thể được.

Nếu có thầy giỏi cải táng được thì có thể lại trung hưng năm trăm năm nữa” [205;

139

46]. Lê Lợi làm theo lời nhà sư táng hài cốt cha vào huyệt đó: “Vua đem hài cốt

thân phụ táng ở xứ ấy. Đến giờ dần về đến thôn Giao xá hạ nhà sư biến lên trời”

[205; 46]. Giặc Minh nắm được yếu tố phong thuỷ này nên đã tìm cách đào lấy hài

cốt thân phụ hoàng đế. Lê Lợi đã sai Trịnh Khả và Lê Bị lấy trộm lại hài cốt và

đem về chôn cất lại như cũ.

Không phải tất cả mà chủ yếu chỉ các ông vua sáng nghiệp, đặt nền móng cho

một triều đại được Đại Việt sử ký toàn thư khoác cho một màu sắc phi thường. Điều

này có thể hiểu được vì tác giả Đại Việt sử ký toàn thư là Ngô Sĩ Liên - một sử gia

Nho giáo, mang cái nhìn Nho giáo về hoàng đế, về thiên tử, tức là người được trời

lựa chọn. Bên cạnh nguồn gốc xuất thân thì con đường lên ngôi của các hoàng đế

đậm màu sắc huyền thoại. Việc thay triều, đổi vị không hiếm gặp trong lịch sử bởi

những cuộc tranh giành quyền lực luôn diễn ra để bước lên ngôi hoàng đế. Bên

cạnh việc được thần thánh hoá về nguồn gốc xuất thân, tư chất thông minh, tài

năng… thì con đường lên ngôi của các hoàng đế cũng được các bộ sử ghi chép

bằng nhiều yếu tố huyền thoại. Hoàng đế Lý Thái Tổ là người sáng nghiệp nên

triều đại nhà Lý. Từ thuở nhỏ hoàng đế này đã được sư Vạn Hạnh nhìn nhận: “Đứa

trẻ này không phải là người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi

việc khó khăn, làm vua giỏi trong thiên hạ” [97; 159]. Khi hoàng đế Lý Thái Tổ

băng hà, các triều thần đều mong muốn thái tử lên ngôi. Tuy nhiên ba vương là

Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức đem quân vào cấm thành nhằm tranh đoạt ngôi

báu. Nhờ có người trung dũng như Phụng Hiểu mà Lý Thái Tông dẹp được cảnh

“xương thịt giết nhau”. Tuy nhiên, câu chuyện lên ngôi của Lý Thái Tông đã được

thần thoại hoá thêm tính ly kỳ: “Trước đây, trước khi ba vương làm phản một ngày,

vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với vua về việc ba

vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm loạn, nên bảo đem quân đi đánh ngay

đi. Đến khi tỉnh dậy, sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm” [97; 171]. Chế độ quân

chủ đã sử dụng thần quyền để giải thích về thiên mệnh của hoàng đế: “Đêm ấy có

ánh sáng khắp trong quán, Tuệ Long kinh ngạc, dậy xem, thì thấy rồng vàng hiện ở

mắc áo. Các việc ấy đều là mệnh trời” [97; 175]. Rõ ràng có thể nhận thấy trong xã

hội có niềm tin tuyệt đối vào “trời” thì việc lí giải nguồn gốc ra đời và lên ngôi của

hoàng đế là cơ sở biện luận cho lẽ tự nhiên và bất khả xâm phạm. Lý Cao Tông

140

hoàng đế huý là Long Trát lên ngôi cũng được thần thoại hoá qua câu chuyện:

“thấy vua đội mũ, khóc đòi đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc thét

lên. Vua bèn tháo mũ đội cho thì Long Trát cả cười. Vua càng thấy làm kỳ, ý lập

Long Trát làm thái tử” [97; 246]. Xã hội phương Đông trong đó có Việt Nam luôn

tin tưởng tuyệt đối vào thiên mệnh. Theo đó, người cầm quyền là thiên tử được trao

trọng trách thay trời trị vì thiên hạ. Nhưng nếu thiên tử làm trái thiên ý thì sẽ có

người thay thế vai trò điều hành xã hội. Hoàng đế mới sẽ đứng lên lật đổ triều đại

cũ và xây dựng nên vương triều mới.

Hành trạng của các hoàng đế cũng mang nhiều yếu tố thần kỳ. Các thiên tử

trong lúc gặp nguy khốn luôn có thế lực thần thiêng phù hộ thoát khỏi tình thế nguy

cấp. Đinh Bộ Lĩnh mồ côi cha từ nhỏ. Từ thuở bé ông đã được lũ trẻ chăn trâu suy

tôn làm “chủ soái”. Sử chép khi giao chiến gặp nguy hiểm ông được hai con rồng

vàng hộ vệ nên quân địch thoái lui. Lam Sơn thực lục chép Lê Lợi trong lúc bị giặc

Minh truy đuổi đã ngửa mặt lên trời mà khấn: “Ta bị giặc Minh đuổi, xin giúp ta

thoát nạn, sau nếu ta được thiên hạ sẽ lập miếu thờ” [205; 48]. Quả thật Lê Lợi

được thế lực thần thiêng phù hộ: “Bổng có một con chồn trắng từ gốc cây chạy ra,

chó ngao đuổi theo chồn. Giặc không nghi ngờ trong hốc cây có người nữa, liền bỏ

đi. Vua nhờ vậy được thoát” [205; 48]. Là chân mệnh thiên tử nên các hoàng đế

luôn có các thế lực thần thiêng phò trợ để vượt qua mọi khó khăn trong con đường

đi đến ngai vàng. Yếu tố thần kỳ này tồn tại mãi đến thế kỉ XIX khi các giai thoại

về vua Gia Long vẫn còn được sử dụng khi miêu tả vua được cá sấu cứu trên biển.

Không chỉ nhân vật hoàng đế mà các nhân vật chính diện của truyện nôm như Lục

Vân Tiên cũng có các lực lượng thần kỳ phù trợ. Những yếu tố thần kỳ này đã góp

phần thần thánh hoá thiên tử thần thánh hóa những nhân vật chính diện, đại diện

cho cái thiện.

Việc hoàng đế được các thế lực siêu nhiên hỗ trợ trong con đường đế nghiệp

vốn nhằm chứng minh tính đúng đắn của quan niệm hoàng đế là người được trời

chọn, có tính thiêng và mang nhiều yếu tố phi thường. Lê Văn Hưu bàn: “Tiên

Hoàng tài năng sáng suốt hơn người, dũng lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta

không chủ… chắc là ý trời vì nước Việt ta lại sinh ra bực thánh triết” [97; 127].

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà” đã không thuận ý trời, không hợp lòng dân nên Lê

141

Thái Tổ đã đứng lên khởi nghiệp tạo nên nhà hậu Lê. Trong bối cảnh đất nước nhiều

biến loạn, trời đã sinh ra thánh chúa gánh vác trọng trách trị quốc: “may lòng trời

nghĩ đến, sinh ra thánh chúa, lấy nghĩa mà đánh, lấy nhân mà dẹp, non sông mới

được đổi mới” [97; 521].

Nguồn gốc vũ trụ của các hoàng đế gắn với thuật phong thuỷ huyền bí. Họ

được tích tụ năng lượng của vũ trụ, trời đất nên có khả năng tập hợp và lãnh đạo

nhân dân. Xuất phát từ mục đích khẳng định vương quyền, các hoàng đế đã dựa

vào tín ngưỡng để ly kỳ hoá nguồn gốc xuất thân. Những câu chuyện về con đường

lên ngôi của các bậc đế vương đều mang tính huyền thoại nhưng chứa đựng những

yếu tố chính trị. Các nhà viết sử đã tạo nên những thần thoại ly kỳ để thuyết phục

được lòng người rằng việc hoàng đế lên ngôi là tất yếu bởi thiên mệnh mà không

phải do con người quyết định. Hầu hết các nhân vật hoàng đế đều được các tác giả

dùng bút pháp sử kí để tô đậm màu sắc thần kỳ, phi thường về ngoại hình, nguồn

gốc xuất thân và những năng lực siêu nhiên khác biệt người bình thường. Với việc

vận dụng bút pháp này, các tác giả đã kết hợp giữa thần quyền và vương quyền hỗ

trợ hoàng đế thu phục lòng người. Nó được xem là một trong những đỉnh cao của

nghệ thuật trị quốc.

Có thể thấy Đại Việt sử kí toàn thư ngoài việc chịu ảnh hưởng lối viết kỷ

truyện theo Sử ký của Tư Mã Thiên mà còn thể hiện rõ lỗi viết sử biên niên của

người Trung Quốc. Các sự kiện lịch sử được ghi chép theo từng năm, mùa, tháng.

Các sử gia đứng trên quan điểm nhà Nho để đưa ra những đánh giá về nhân vật lịch

sử. Họ đã chia ra hai tuyến nhân vật hoàng đế: hoàng đế tài năng, nhân đức, “thập

toàn” trong việc “chăn dân” và hoàng đế “bất toàn” được thể hiện qua việc hoang

dâm, tàn bạo.

Các sử gia thường dùng các phép tắc trong kinh Xuân Thu để đưa ra những lời

bình. Ngô Sĩ Liên đã phê phán: “Đại Hành trong lúc nhiếp chính, Vệ Vương tuy

còn bé nhưng là vua, thế mà đã tự xưng là phó vương, rắp tâm làm điều bất lợi. Đạo

làm tôi không được rắp tâm, rắp tâm tất phải giết là phép của sách Xuân Thu” [97;

139]. Họ đứng trên quan điểm Nho giáo để đưa ra những lời bàn luận về các sự

kiện lịch sử. Sự kiện hoàng đế Lý Thái Tôn đổi niên hiệu là Càn Phù Hữu Đạo và

tôn hiệu “Kim dũng ngân sinh Nùng bình Phiên phục” đã được Lê Văn Hưu mạnh

142

dạn bày tỏ phê phán: “Đế Nghiêu, đế Thuấn, Văn vương, Vũ vương đều lấy có một

chữ làm hiệu, chưa từng thấy có thêm tôn hiệu bao giờ. Đế vương đời sau thích

khoe khoang, mới có tôn hiệu đến hơn chục chữ. Nhưng chỉ lấy công đức mà xưng,

chưa bao giờ có lấy sự vật và man di mà chắp vào tôn hiệu cả. Thái Tôn lại nhận lời

bầy tôi dâng tám chữ “Kim dũng ngân sinh Nùng bình Phiên phục” làm tôn hiệu,

thì trong việc khoe khoang lại thô bỉ nữa” [97; 183]. Các sử gia xem Nho giáo là tư

tưởng chính thống chi phối đời sống xã hội nên ra sức bài trừ các tư tưởng Phật

giáo: “Là bởi Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật, mà quên

mất cái nghĩa lớn của người làm vua” [97; 187].

Như vậy có thể thấy bút pháp sử ký trong Đại Việt sử kí toàn thư đã dung hoà

được lối viết sử biên niên truyền thống và lối viết kỷ truyện. Sự kết hợp này đã tạo

nên sự đa dạng trong văn có sử, trong sử lại mang yếu tố văn học. Nó đã góp phần

không nhỏ trong viêc khắc hoạ nhân vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này.

4.3.2. Bút pháp trữ tình

Đặc sắc nghệ thuật thể hiện nhân vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này

không thể thiếu bút pháp trữ tình. Các tác giả mượn bút pháp trữ tình để miêu tả

thiên nhiên đồng thời gửi gắm những ước mơ, khát vọng.

Các tác giả mượn bút pháp trữ tình để thể hiện tư tưởng trung quân, ái quốc.

Họ ngợi ca cảnh đẹp của giang sơn, gấm vóc để bày tỏ sự ngưỡng vọng về tài năng

của vương triều, hoàng đế. Lòng yêu thiên nhiên đan xen vào lòng ngợi ca về

hoàng đế được thể hiện khéo léo qua bút pháp trữ tình: “Chim kêu hoa nở ngày

xuân tĩnh;/ Hương lọn cờ tan tiệc khách thôi.” (Ngôn chí – bài 1 – Nguyễn Trãi)

[205; 396].

Người ta thường xem thơ là phương tiện để bày tỏ tâm tư, là công cụ để bộc

lộ những nỗi niềm thầm kín. Trong thời đại mà phản ánh hiện thực chưa phải là

một ý thức tự giác của văn học, nhất là với thơ, người ta tìm đến các phương tiện

trữ tình để gửi gắm những tâm tư, tình cảm. Thơ vút lên khi bắt gặp mối tương giao

giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. Khi xã hội triều Trần bước vào giai đoạn suy vi,

Nguyễn Phi Khanh bày tỏ niềm hoài nhớ về quá khứ hào hùng:“Trường giang cổn

cổn phiến phàm đông,/ Hải khoát thiên cao vọng mạc cùng!/ Giáp ngạn thuyền

song thanh thảo vũ,/ Tiền sa trạo ảnh bạch tần phong,/ Bách niên hào kiệt chiến

143

tranh địa,/ Vạn cổ sơn hà đới lệ công,/ Bằng trượng tân thi tác đồ chí./ Hành quan

tứ hải quỹ văn đồng.” (Dòng sông cuồn cuộn, cánh buồm về Đông,/ Biển rộng trời

cao, trong không biết đâu là cùng!/ Cửa sổ giáp bờ, làn mưa trên cỏ xanh,/ Bóng

mái chèo trước bãi cát, luồng gió trên rau tần trắng./ Đây là nơi chiến trận của các

hào kiệt từ hàng trăm năm trước,/ Công lao ấy làm cho non sông bền vững lâu dài

muôn thuở./ Xin nhờ bài thơ mới này làm bức hoạ đồ ghi lại,/ Rồi sẽ thấy bốn biển

chung một kiểu xe, cùng một thứ chữ.) (Giang hành thứ Hồng Châu kiểm chính

vận – Nguyễn Phi Khanh) [144; 643]. Bằng giọng điệu trữ tình, Nguyễn Phi Khanh

đã thể hiện niềm nhớ tiếc xen lẫn tự hào về quá khứ, đồng thời biểu tỏ niềm khát

khao, hy vọng mãnh liệt về sự hưng thịnh trở lại của vương triều.

Hoàng đế vừa là nhân vật chính trị vừa là nhân vật trữ tình. Trong văn chương

giai đoạn này, hoàng đế hiện lên bằng bút pháp trữ tình thể hiện những trăn trở, suy

tư của con người trần thế: “Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,/ Nhất xuân tâm tại

bách hoa trung./ Như kim khám phá Đông hoàng diện,/ Thiên bản bồ đoàn khán truỵ

hồng.” (Thời trẻ đâu biết được sắc, không,/ Mỗi lần xuân đến lòng vẫn gởi nơi trăm

hoa./ Ngày nay khám phá ra bộ mặt thật của chúa xuân,/ Ngồi trên đệm cỏ giữa tấm

phản nhà chùa mà ngắm cảnh hồng rơi.) (Xuân vãn – Trần Nhân Tông) [143; 345].

Mọi vật tồn tại trên cõi đời đều có thịnh suy, sinh diệt. Tu Thiền hướng con người

đến chỗ không quá vui buồn vào sắc – không mà phải giữ được tâm bình thản trước

cuộc đời. Bút pháp trữ tình còn thể hiện được nhân vật hoàng đế giữ tâm an lạc trước

cuộc đời: “Vạn sự thuỷ lưu thuỷ,/ Bách niên tâm ngữ tâm.” (Muôn việc như nước

chảy theo nước,/ Trăm năm riêng lòng nói với lòng.) (Đăng Bảo Đài sơn – Trần

Nhân Tông) [143; 353]. Thi nhân hiện lên lời thơ với nỗi cô đơn, trống trải nhưng

không mảy may chán chường, thất vọng mà thay vào đó là tâm thế vô sự trước cuộc

đời trần thế.

“Thụy khởi khải song phi,/ Bất tri xuân dĩ quy./ Nhất song bạch hồ điệp,/

Phách phách sấn hoa phi.” (Ngủ dậy mở cửa sổ,/ A, xuân về rồi đây./ Kia một đôi

bướm trắng,/ Nhằm hoa, phơi phới bay.) (Xuân hiểu – Trần Nhân Tông) [211; 454].

Sau một đêm say giấc, thi nhân mở cửa sổ đón cảnh sắc mùa xuân bổng thấy bướm

và hoa. Hoàng đế Trần Nhân Tông mượn biểu tượng bướm và hoa để bày tỏ cảm

ứng tâm – vật. Bướm và hoa là biểu tượng của tình yêu. Giữa khí trời xuân đầy nhựa

144

sống, hình ảnh bướm và hoa vồ vập với tình yêu đôi lứa thì lòng thi nhân cũng rộn

ràng niềm rung cảm.

“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,/ Bán vô bán hữu tịch dương biê,./ Mục đồng

địch lý quy ngưu tận,/ Bạch lộ song song phi hạ điền.” (Sau thôn trước thôn lờ mờ

dường khói phủ,/ Nửa không nửa có bên bóng chiều,/ Mục đồng đều đã dẫn trâu về

trong tiếng sáo,/ Từng đôi cò trắng cất cánh dưới đồng.) (Thiên Trường vãn vọng –

Trần Nhân Tông) [143; 346]. Trước khung cảnh thiên nhiên của đất nước thái bình,

thịnh trị, Phật hoàng đứng ở phủ Thiên Trường khoan khoái nhìn ra ruộng đồng

mênh mông, xóm thôn trù phú. Trong bóng chiều, cảnh vật như được phủ một lớp

khói sương mờ ảo, lúc ẩn lúc hiện, dường có, dường không. Âm thanh cuộc sống

làng quê với tiếng sáo mục đồng dìu dặt vang lên. Song song đó là hình ảnh thôn dã

với đàn trâu nương theo tiếng sáo kéo nhau về. Cánh cò rợp trắng trên bầu trời,

từng đôi liệng xuống cánh đồng. Không gian làng quê như bức thanh tuyệt mĩ hoà

cùng âm thanh tiếng sáo của mục đồng hiện lên trong cảnh chiều của làn khói phủ.

Khung cảnh như mờ ảo trong cõi hư không, cảnh thực được lồng ghép trong cảm

quan tôn giáo. Không phong, hoa, tuyết, nguyệt, không gác tía cung son, Trần

Nhân Tông, với tấm lòng thân dân, lắng nghe âm thanh của cuộc sống nơi thôn dã.

Ở nơi đó thiên nhiên chan hoà có những người nông dân chân lấm tay bùn bao đời

gắn liền với cánh cò, con trâu và tiếng sáo của nền văn minh lúa nước. Bài thơ đã

cho thấy sự giao hoà giữa cảm – tâm – tài trong một hoàng đế – thiền sư – thi sĩ.

Đường xa xôi vạn dặm, vượt muôn trùng nguy hiểm của thiên nhiên, thi sĩ

dùng ánh lấy trăng soi lòng người dũng làm động lực để bước tiếp con đường chinh

Tây: “Tam canh phong lộ hải thiên liêu,/ Nhất phiến hàn quang thượng bích tiêu./

Bất chiếu anh hùng tâm khúc sự,/ Thừa vân Tây khứ dạ thiều thiều.” (Canh ba

sương gió toả, trời bể vắng lặng,/ Một tấm lòng sáng lạnh lẽo giữa mây xanh./

Chẳng soi thấu được tâm sự kẻ anh hùng,/ Vẫn cứ cưỡi mây Tây tiến giữa khoảng

đêm vời vợi.) (Tam canh nguyệt – Lê Thánh Tông) [127; 120].

4.3.3. Bút pháp khoa trương

Nói đến phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế tất nhiên không thể không

nhắc bút pháp khoa trương. Việc các triều thần cường điệu các sự vật, sự việc để đề

cao, ca tụng hoàng đế xuất hiện rất phổ biến trong văn học giai đoạn này. Nhất là

145

trong những giai đoạn thịnh trị của đất nước, bút pháp khoa trương được sử dụng

dày đặc để ca ngợi những hoàng đế anh minh, thần võ. Mặc dù bút pháp khoa

trương cường điệu hoặc phóng đại về những giá trị tích cực của nhân vật hoàng đế

nhưng vẫn phản ánh đúng bản chất của lịch sử.

Bút pháp khoa trương được thể hiện nhiều nhất trong thể loại phú. Nhất là

các bài phú ca ngợi Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn. Trong tâm thế tự hào chiến

thắng chính quyền phương Bắc, các tác giả đã không ngừng sử dụng các biện pháp

tu từ để đề cao, ca ngợi Lê Lợi: “Vua ta khởi nghiệp núi Lam. Thế mạnh bừng

bừng như lửa./ Hào kiệt theo tựa mây ùn. Hiệu lệnh tan như sấm vỡ.” (Phú Chí

Linh - Nguyễn Mộng Tuân) [126; 253].

Để giành được những thắng lợi quan trọng trong khởi nghĩa Lam Sơn, không

thể bỏ qua vai trò của của hình thế núi sông, của “đất hiểm”. Lý Tử Tấn miêu tả

chiến địa Chí Linh: “Thế núi lẫm liệt ngạo mây cao./ Vách núi dăng dăng như bình

phong san sát./ Chỏm núi lởm chởm như tháp ngọc cheo leo./ Mây núi ùn ùn theo

tiếng trống giống mõ vang, như muôn vàn lính kỵ.” (Phú núi Chí Linh) [126; 279].

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất để giành nên chiến tích chính là yếu tố con người

và không ai khác đó chính là hoàng đế. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi dùng

bút pháp khoa trương làm tăng tính biểu cảm cho những chiến thắng giòn giã của

quân ta: “Đánh một trận sạch không kình ngạc./ Đánh hai trận tan tác chim

muông.” [126; 71].

Bút pháp khoa trương không chỉ được dùng để ngợi ca, đề cao địa linh nhân

kiệt của Đại Việt mà còn châm biếm quân xâm lược phương Bắc: “Thằng nhãi con

Tuyên Đức, động binh không ngừng./ Đồ nhút nhát Thạch, thăng đem dầu chữa

cháy.” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi) [126; 70]. Qua việc châm biếm, tác giả đã

tạo nên tính tương phản và từ đó đề cao khí thế oai hùng của hoàng đế phương

Nam. Trong giai đoạn lịch sử này, Trung Hoa hùng mạnh luôn xem Đại Việt là

man di, mọi rợ và hoàng đế Đại Việt chỉ là những phiên vương. Tuy nhiên, các tác

giả không ngừng đề cao, so sánh hoàng đế trời Nam hơn hẳn hoàng đế phương Bắc:

“Huống có lòng Thuấn, Nghiêu đâu dễ Hán Đường sánh kịp?/ Riêng công ơn trời

biển vua ta,/ Vũ Vương đâu một mình đẹp nhất?” (Phú mưa rửa giáp binh -

Nguyễn Mộng Tuân) [126; 260].

146

Bút pháp khoa trương cùng với các biện pháp tu từ đã cường điệu hoá nhân

vật hoàng đế. Bút pháp này phóng đại nhân vật hoàng đế qua những mỹ từ nhưng

vẫn giữ được tính chân thực của lịch sử.

Tiểu kết chương 4

Văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV vận dụng nhiều thể

loại, nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc để thể hiện nhân vật hoàng đế. Các tác giả

thông qua sáng tác các thể loại thơ, phú, văn đã phản ánh bối cảnh chính trị và đời

sống xã hội đương thời. Tận dụng đặc trưng thi pháp của từng thể loại, các tác giả thể

hiện tư tưởng, tình cảm, những khát vọng, trăn trở về đất nước. Qua đó, họ đã gián

tiếp khắc hoạ nhân vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này. Văn học giai đoạn này

chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi tính quy phạm. Tính quy phạm xuất phát từ quan điểm

nghệ thuật coi trọng tính giáo huấn của văn học, thể hiện ở tính vững chắc trong cấu

trúc văn bản, niêm luật, sử dụng các điển cố, thi liệu… Điều này đã khiến cho nghệ

thuật có được vị trí quan trọng trong tác phẩm văn học bởi nó góp phần chuyển tải nội

dung. Các tác giả sử dụng linh hoạt nhiều bút pháp kết hợp với sự đa dạng trong nghệ

thuật ngôn từ đã phác hoạ chân thực, sinh động về chân dung của nhân vật hoàng đế.

147

KẾT LUẬN

1. Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV có nhiều dấu mốc quan trọng.

Cụ thể, đây là giai đoạn Đại Việt giành được độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc và

bắt tay vào công cuộc xây dựng chính quyền tự chủ. Đây còn là giai đoạn chuyển

giao giữa các thể chế chính trị và hệ tư tưởng xã hội từ Phật giáo sang Nho giáo.

Ảnh hưởng mạnh mẽ từ nền văn học Trung Hoa, văn học Việt Nam giai đoạn này

đề cập rất nhiều đến văn hoá chính trị. Trong xã hội quân chủ, hoàng đế được xem

là nhân vật trung tâm vì có quyền lực vô hạn và chi phối mọi hoạt động trong xã

hội. Vì thế, nhân vật hoàng đế đã hiển nhiên trở thành nhân vật đặc biệt trong đời

sống văn học giai đoạn này.

Nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ

XV được hình thành từ nhiều cơ sở khác nhau. Trước hết, văn học giai đoạn này

vừa mang tính chức năng vừa mang tính nghệ thuật, trong đó văn chương phải đảm

nhận việc thực hiện nhiệm vụ phục vụ chính trị. Các hoàng đế dùng văn chương

làm phương tiện trị quốc. Các triều thần dùng văn chương để thể hiện các lí tưởng

chính trị, khát vọng về một đấng minh quân, một xã hội thịnh trị với vua sáng tôi

hiền… Chính vì thế, nhân vật hoàng đế đã dần hình thành trong văn chương từ góc

nhìn tự biểu hiện và là đối tượng thẩm mĩ. Thuyết thiên mệnh chi phối mạnh mẽ

đến người cai quản thiên hạ. Theo đó hoàng đế là con trời, thay trời cai quản thiên

hạ. Để “hợp thức hoá” ngôi vị đế vương, các hoàng đế và triều thần dùng văn

chương để khẳng định tài năng, đức độ và lí giải vì sao hoàng đế được tại vị. Sau

khi khẳng định được nguồn gốc thiên mệnh của đế vương, vị trí của đế vương là bất khả

xâm phạm thì văn chương tiếp tục nhiệm vụ giữ vững vị thế đó bằng việc tập trung ca

ngợi hoàng đế. Văn học cả giai đoạn đều tập trung ca ngợi tinh thần đức trị, thân dân của

hoàng đế dù hoàng đế trị nước theo quan điểm Phật giáo hay Nho giáo. Hoàng đế là

nhân vật chính trị. Nghiên cứu nhân vật hoàng đế trong văn chương, vì thế, cần phải đặt

dưới góc nhìn văn hoá chính trị. Phương pháp nghiên cứu liên ngành giúp người viết có

cái nhìn đầy đủ hơn về đặc điểm nhân vật hoàng đế.

2. Dựa vào hệ tư tưởng có thể phân chia nhân vật hoàng đế trong giai đoạn này

thành hai kiểu loại hình: hoàng đế – thiền sư – thi sĩ và hoàng đế – nhà nho – thi sĩ

trong sự quyện hòa mạnh mẽ các yếu tố chính trị, tôn giáo và văn chương. Trong

148

giai đoạn Lý – Trần, sáng tác của các hoàng đế đã phác họa chân dung của những

bậc trị quốc mang đậm dấu ấn thiền sư trong tâm hồn thi sĩ. Các hoàng đế giai đoạn

này tích cực hoằng dương phật pháp nhưng không xuất thế mà tích cực nhập thế để

thực hiện trọn vẹn bổn phận cả đạo và đời. Sang thời Lê sơ, sự thắng thế của Nho

giáo đã sản sinh loại hình nhân vật hoàng đế mang đậm màu sắc Nho giáo. Trong

văn chương, các hoàng đế hiện lên là những con người mang phẩm chất thánh

nhân. Dù theo quan điểm nào thì điểm chung của các hoàng đế đều dùng văn

chương để phục vụ sự nghiệp chính trị. Trong sáng tác của mình, các hoàng đế bàn

nhiều đến chữ đức để biện luận về tính chính danh của vị trí thiên tử thừa mệnh trời

cai quản thiên hạ. Hoàng đế không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà đó phải là

người đủ đức, đủ tài được trời ủy mệnh. Chính vì thế các hoàng đế đều có xu hướng

dùng những sáng tác văn chương để khẳng định đế quyền, đế vị, biện luận sự xứng

đáng với ngôi vị hoàng đế của mình. Các hoàng đế không trực tiếp ca ngợi hay tán

tụng công đức mà thông qua sự khéo léo của ngôn từ để gián tiếp tự ngợi ca công

lao trong sự nghiệp trị quốc.

Loại hình nhân vật hoàng đế trong giai đoạn này qua góc nhìn tự biểu hiện có

sự vận động từ hoàng đế mang đậm tính Phật giáo sang Nho giáo; sự vận động

trong tư tưởng đức trị thân dân từ “thương dân như con” của triều Lý đến “khoan

thư sức dân” của triều Trần và đạt đến quan niệm nhân nghĩa “dân như nước vua là

thuyền” dưới triều Lê sơ; Dấu ấn thi sĩ trong hoàng đế ngày càng được gia tăng, từ

những sáng tác mang tính chức năng sang những sáng tác bộc lộ những suy tư của

con người thế sự; sự vận động trong tư tưởng từ hoàng đế mang nặng thần quyền

sang khẳng định vị thế vương quyền và hướng về đời sống xã hội.

Bên cạnh nhân vật hoàng đế qua góc nhìn tự biểu hiện, khảo sát nhân vật hoàng

đế với tư cách là khách thể phản ánh sẽ có một cái nhìn tổng thể về nhân vật hoàng

đế. Cảm hứng tôn sùng, ngợi ca hoàng đế được xem là cảm hứng chủ đạo trong văn

học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Cảm hứng này hình thành dựa

trên nhiều yếu tố. Trước hết, thể chế chính trị quy định chặt chẽ hành vi ứng xử và

sáng tác của các tác giả. Phần lớn là các thiền sư, nhà nho tham gia chính sự nên việc

ứng xử, bày tỏ những suy tư, chiêm nghiệm bằng thơ văn của họ cũng phải hết sức

thận trọng. Cùng là tầng lớp thống trị trong xã hội quân chủ nên các thiền sư, nho sĩ

149

nhận thức được việc bảo vệ hoàng đế, xây dựng vương triều là góp phần giữ vững

những quyền lợi của chính mình. Thứ đến, Đại Việt giành được độc lập sau ngàn

năm Bắc thuộc, trong tâm thế tự hào, các tác giả cùng hân hoan góp sức xây dựng

chính quyền. Họ tự hào Đại Việt giờ đây cũng có hoàng đế, đường hoàng sánh ngang

với các quốc gia hùng mạnh. Tiếp đó, những chiến thắng vang dội trước các đội quân

xâm lược hùng mạnh đã duy trì mạch cảm hứng ngợi ca vương triều, hoàng đế. Nội

dung ca ngợi hoàng đế xoay quanh những vấn đề: đức độ, tài năng và một lòng vì

dân vì nước. Các tác giả tập trung thần thánh hoá nhân vật hoàng đế. Từ nguồn gốc

xuất thân mang nhiều yếu tố huyền thoại cho đến con đường lên ngôi hay những

hành động trong quá trình trị quốc đều được hợp thức hoá theo quan điểm thiên – địa

– nhân hợp nhất.

Tuy nhiên cảm hứng phúng gián, phê phán hoàng đế vẫn xuất hiện trong văn

học giai đoạn này. Nhất là thời vãn Trần, khi triều đình đã vào suy thoái, hoàng đế

yếu hèn, trong thơ văn xuất hiện giọng điệu phê phán, phúng gián. Qua thơ văn, các

tác giả bày tỏ nỗi thất vọng trước cảnh đất nước suy thoái, ước muốn về quê để sống

đời ẩn dật. Thơ Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Hồ Tông Thốc, Nguyễn Phi

Khanh… ẩn chứa nhiều những tâm tư của kẻ sĩ thất thời muốn lui về quê sống cảnh

thanh bần. Các tác giả không trực tiếp bày tỏ quan điểm phê phán, phúng gián mà chỉ

khéo léo gửi vào thơ văn những thông điệp. Họ tập trung ca ngợi những tấm gương

từ hoàng đế Trung Hoa, ca ngợi những sự nghiệp trị quốc lẫy lừng của các bậc hoàng

đế anh minh trong sử sách để cảnh tỉnh các hoàng đế muốn giữ ngai vàng phải phát

huy chữ đức. Các tác giả mượn điển tích xưa để nói nay, ca ngợi quá khứ hào hùng

để nhắc nhở hoàng đế thi hành nhân nghĩa. Khi lâm vào cảnh bế tắc trước thời cuộc,

các tác giả cất lên những tiếng kêu não nuột. Họ muốn tìm đến đời sống ẩn dật để

sống cảnh tiêu dao.

Để có một cái nhìn chân thực hơn sau những mỹ từ ngợi ca, tôn sùng hoàng

đế, người viết tiến hành khảo sát các bộ sử như Đại Việt sử kí toàn thư và văn

chương trung đại sau thế kỉ XV để có thêm những góc nhìn nhận về hoàng đế.

3. Mỗi thể loại văn chương có những đặc trưng riêng về nghệ thuật để từ đó thể

hiện thật sinh động nhiều phương diện khác nhau về nhân vật hoàng đế. Thơ là thể

loại chủ đạo trong văn học giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Đặc biệt, thơ vịnh

150

sử và thơ bang giao được các hoàng đế sáng tác đã thể hiện được bức chân dung tự

hoạ bằng thơ. Họ vịnh sử để giáo hoá những chuẩn mực đạo đức cho trăm họ. Đây

cũng là một trong những nghệ thuật trị quốc của hoàng đế. Hoàng đế làm thơ bang

giao để thấy được sự khéo léo, tinh tế của đấng quân vương trong ứng xử với

vương triều phương Bắc. Thể loại phú vừa mang tính tự sự vừa đáp ứng được yếu

tố trữ tình. Chính đặc trưng của thể loại với dung lượng lớn đã truyền tải được

nhiều thông điệp nhất là ca ngợi hoàng đế. Thể loại gắn liền với những sáng tác của

các hoàng đế là văn chính luận. Thông qua các hịch, cáo, chiếu, biểu… các hoàng

đế đã thể hiện được nhân cách, khẩu khí của một đế vương trong việc khẳng định vị

thế quốc gia, dân tộc. Thông qua những đặc sắc từ nội dung đến nghệ thuật thể hiện

của từng thể loại, nhân vật hoàng đế đã được thể hiện khá đầy đủ và sinh động

những đặc điểm cốt lõi.

4. Trên cơ sở tìm hiểu những đặc điểm nhân vật hoàng đế trong văn học trung

đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV người viết nhận thấy còn nhiều vấn đề cần

tiếp tục được đầu tư nghiên cứu. Thứ nhất, cần so sánh mẫu hình hoàng đế trong

văn học trung đại Việt Nam trong cái nhìn đối sánh với một số nước như: Trung

Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên… hoặc so sánh cùng hình mẫu hoàng đế quân chủ

phương Tây qua văn học để tìm ra những sự tương đồng, khác biệt. Thứ hai, nên

nghiên cứu đặc điểm nhân vật hoàng đế trong cả tiến trình văn học Việt Nam trung

đại từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX để cho thấy được sự vận động, những sự tương đồng,

khác biệt của mẫu hình hoàng đế trong từng giai đoạn văn học.

151

CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Trịnh Huỳnh An (2019), “Mẫu hình nhân vật hoàng đế trong thể loại phú Việt

Nam từ thế kỉ X – XV”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 03 (565), tr.42 -52.

2. Trịnh Huỳnh An (2019), “Huyền thoại và giải huyền thoại nhân vật hoàng đế

Quang Trung trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, số 01

(61), tr.103 -111.

3. Trịnh Huỳnh An (2019), “Sự “hạn chế” của vấn đề nữ quyền trong văn học trung

đại Việt Nam từ thế kỉ X – XVII qua sáng tác của một số hoàng đế – nhà nho – thiền

sư”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ trường Đại học Bình Dương, số 02, tr.78 – 82.

4. Trịnh Huỳnh An (2019), “Sự vận động của tư tưởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam từ Lý – Trần đến Lê Sơ”, Tạp chí khoa học trường Đại học Sự

phạm Hà Nội 2, số 61, tr.36 – 52.

5. Trịnh Huỳnh An (2019), “Loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ trong

văn học Lý – Trần”, Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, số 66, tr.46 - 54.

6. Trịnh Huỳnh An (2020), “Nhân vật hoàng đế trong văn chính luận trung đại

Việt Nam từ thế kỉ X – XV”, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh, số 17 (1), tr.176 – 185.

7. Trịnh Huỳnh An (2020), “Loại hình nhân vật hoàng đế – nhà nho – thi sĩ trong

văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XV”, Tạp chí khoa học Hội đồng Lý luận, Phê bình

văn học nghệ thuật Trung ương, số 2/2020, tr.97 – 104.

8. Trịnh Huỳnh An (2020), “Hình tượng nhân vật hoàng đế trong thơ vịnh sử Việt

Nam sơ kì trung đại”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Vinh, số 2B/2020, tr.5 - 12.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (2009), Hán Việt từ điển (Giản yếu) (tái bản), Hãn Mạn Tử hiệu đính,

Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.

4. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp của Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại

Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Lê Huy Bắc (1998), Kiểu nhân vật trung tâm trong tác phẩm của Hemingway, Luận

án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,

6. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

7. Lê Ngô Cát, Đặng Huy Trứ (2011), Đại Nam quốc sử diễn ca, Nxb Văn học, Tp. Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Duy Cần (2016), Lão Tử đạo đức kinh, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Sỹ Cẩn, (1984), Mấy vấn đề giảng dạy thơ văn cổ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng Hán văn Lý – Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ

Nguyễn Trung Ngạn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Quốc Chấn (2009), Những vua chúa Việt Nam hay chữ, Nxb Giáo dục Việt Nam, TP.

Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Kim Châu (2013), Giảng dạy tác phẩm văn học trung đại Việt Nam ở trường

trung học phổ thông, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

13. Anh Chi (giới thiệu) (2000), “Lê Thánh Tông, hoàng đế, nhà văn”, Tạp chí Nhà văn

(6), tr.127 – 128.

14. Nguyễn Đổng Chi (chủ biên) (1983), Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

15. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1998), Hoàng đế Lê Thánh Tông Nhà chính trị tài năng

nhà văn hóa lỗi lạc nhà thơ lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Chiến (2003), Mấy suy nghĩ về văn hóa từ truyền thống đến đương đại,

Nxb Lao động, Hà Nội.

17. Doãn Chính (chủ biên) (2011), Tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, Nxb

Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

18. Nguyễn Đình Chú (1990), Tác giả văn học Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

153

19. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I (bản dịch), Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

20. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập II (bản dịch), Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

21. Thiều Chửu (2009), Hán Việt từ điển (tái bản), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

22. Đoàn Trung Còn (dịch) (1996), Mạnh Tử quyển Thượng (tái bản), Nxb Thuận Hóa, Huế.

23. Đoàn Trung Còn (dịch) (1996), Mạnh Tử quyển Hạ (tái bản), Nxb Thuận Hóa, Huế.

24. Đoàn Trung Còn (dịch) (1996), Luận ngữ (tái bản), Nxb Thuận Hóa, Huế.

25. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (1998), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – lý luận và ứng dụng, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

28. Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

29. Bùi Huy Du (2015), “Tính nhân văn trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông”,

Tạp chí Triết học, số 10 - 2015, tr.53 – 58.

30. Phan Huy Dũng (2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ thông - Một góc

nhìn, một cách đọc, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

31. Trần Văn Dũng (2006), Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến trình thơ Nôm

Đường luật thời trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học sư

phạm Hà Nội, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

33. Đỗ Thanh Dương (2003), Trần Nhân Tông nhân cách văn hóa lỗi lạc, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt thời Đường, Nxb

Văn học, Hà Nội.

35. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn học, Hà Nội.

36. Võ Xuân Đàn (1996), Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

37. Phan Đăng (1996), Thơ văn Tự Đức, tập I (hiệu đính), Nxb Thuận Hoá, Huế.

154

38. Biện Minh Điền (2002), Vấn đề tác giả và phong cách cá nhân nhà văn trong văn học

Việt Nam trung đại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Mã số: B2002 – 42 – 33,

Trường Đại học Vinh.

39. Biện Minh Điền (2005), “Loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam”, Nghiên cứu

văn học (4), tr.81 – 90.

40. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

41. Biện Minh Điền (2009), “Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật

Nguyễn Công Trứ”, Nghiên cứu văn học (3), tr.28 - 41.

42. Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Vinh,

Nghệ An.

43. Trịnh Văn Định (2018), Tự do và quyền lực, Nxb Tri thức, TP. Hồ Chí Minh.

44. Lê Quí Đôn (1961), Vân đài loại ngữ (bản dịch), Nxb Văn hoá – Thông tin,

TP. Hồ Chí Minh.

45. Lê Quí Đôn (1993), Kinh thư diễn nghĩa (bản dịch), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

TP. Hồ Chí Minh.

46. Thạch Trung Giả (1999), Văn học phân tích toàn thư (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

47. Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ văn,

Trường Đại học KHXH & NV, Đai học Quốc gia Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

48. Nguyễn Thị Giang (2014), Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn

học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, Luận án tiến sĩ Văn học,

Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

49. Lê Giảng, Ngô Viết Dinh (2001), Đến với tinh hoa thơ Đường, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

50. Lê Giảng (2013), Các triều đại Trung Hoa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

51. A. Ja Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ (Hoàng Ngọc Hiến dịch), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

52. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hoá, Huế.

53. Lý Tường Hải (2002), Khổng Tử, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

54. Mai Xuân Hải (tuyển chọn, biên soạn) (1998), Lê Thánh Tông thơ văn và cuộc đời,

Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

55. Mai Xuân Hải (1999), Cổ tâm bách vịnh, Nxb Văn học, Hà Nội.

155

56. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, in lần thứ 10, Nxb Trung tâm

học liệu - Bộ Giáo dục, Sài Gòn.

57. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam thi văn hợp tuyển (tái bản), Nxb Tổng hợp Đồng Tháp,

Đồng Tháp.

58. Dương Quảng Hàm (2000), Việt Nam sử lược, Tập II, Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ

Chí Minh.

59. Hoàng Xuân Hãn (2010), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và Tông giáo triều Lý (tái bản),

Nxb Hà Nội, Hà Nội.

60. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2011), Từ điển thuật

ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

61. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (2002), Lý luận văn học - Vấn đề suy nghĩ,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

63. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Thuận Hóa, Huế.

64. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long (Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo dịch), Nxb

Văn học, TP. Hồ Chí Minh.

65. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên)

(2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

66. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

67. Trần Thị Giáng Hoa (2013), Nghiên cứu thơ Nôm Lê Thánh Tông trong Hồng Đức quốc

âm thi tập, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

68. Nguyễn Hoà (2003), Phân tích diễn ngôn: một số vấn đề lí luận và phuơng pháp, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

69. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

70. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện Nôm nguồn gốc, bản chất và thể loại, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

71. Nguyễn Mạnh Hoàng (2015), Thơ Nôm các chúa Trịnh, Luận án tiến sĩ, Viện Hàn lâm

khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

72. Phạm Đình Hổ (1972), Vũ trung tùy bút (Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch), (tái bản),

Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

73.

Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2012), Tang thương ngẫu lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện

dịch, Trương Chính giới thiệu và chú thích), (tái bản), Nxb Hồng Bàng, Hà Nội.

156

74. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lý – Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ thiền Việt Nam – những vấn đề lịch sử và tư tưởng

nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

76. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

77. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Các khuynh hướng văn học thời Lý – Trần, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

78. Phạm Văn Hưng (2016), Tự sự của trinh tiết, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

79. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

80. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

81. Đinh Thị Khang (2010), Văn học trung đại Việt Nam thể loại, con người, ngôn ngữ,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

82. Nguyễn Thị Dư Khánh (2005), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

83. Đinh Gia Khánh (1976), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ X – thế kỷ XVII, Nxb Văn

học, Hà Nội.

84. Đinh Gia Khánh – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chương (1979), Văn học Việt Nam thế kỷ

X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập II, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

85. Đinh Gia Khánh (2000), Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, (tái bản),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

86. Đinh Gia Khánh (2001), Điển cố văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.

87. Vũ Khiêu (1995), Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

88. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb TP. Hồ Chí Minh (tái bản), TP Hồ Chí Minh.

89. Trần Trọng Kim (2000), Việt Nam sử lược, tập II (tái bản), Nxb TP. Hồ Chí Minh,

TP Hồ Chí Minh.

90. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

91. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

92. Ngô Cao Lãng (1995), Lịch triều tạp kỷ (bản dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

93. Nguyễn Lân (2007), Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

94. Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, (tái bản), Nxb Văn hóa, TP. Hồ Chí Minh.

157

95. Nguyễn Hiến Lê (2003), Khổng Tử và Luận ngữ, (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

96. Phan Huy Lê (1959), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

97. Ngô Sĩ Liên (2013), Đại Việt sử ký toàn thư (Cao Huy Giu dịch), (tái bản), Nxb Thời Đại,

Hà Nội.

98. D.X. Likhachev (2010), Thi pháp văn học Nga cổ (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

99.

I.S. Lisevich (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

100. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

101. Ngô Thế Long – Trần Văn Quyền (dịch) (1993), Kinh thư diễn nghĩa, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

102. Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

103. Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

104. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

105. Nguyễn Công Lý (1997), Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý - Trần,

Nxb Văn hóa thông tin, TP. Hồ Chí Minh.

106. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần: diện mạo và đặc điểm,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

107. Huỳnh Lý (1984), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

108. Viên Mai (1999), Tuỳ Viên thi thoại (Nguyễn Đức Vân dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

109. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội.

110. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

111. Nguyễn Đăng Na (Soạn, dịch, sưu tầm) (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung

đại, tập I – Truyện ngắn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

112. Nguyễn Đăng Na (Soạn, dịch, sưu tầm) (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung

đại, tập III – Tiểu thuyết chương hồi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

113. Nguyễn Đăng Na (Soạn, dịch, sưu tầm) (2001), Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam

- Những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

114. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II (tái bản), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

158

115. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

116. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2014), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

117. Lạc Nam (1993), Tìm hiểu các thể thơ (từ Cổ phong đến thơ luật), Nxb Văn học, Hà Nội.

118. Đặng Hồng Nam (1995), Tuyển thơ các vua Trần, Hội Văn học nghệ thuật Nam Hà,

Nam Định.

119. Lê Kim Ngân (1963), Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tông, Bộ

Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn.

120. Lý Lạc Nghị (1997), Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế giới, Hà Nội.

121. Phan Ngọc (dịch) (1992), Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hà Nội.

122. Phan Ngọc (2015), Sử kí Tư Mã Thiên (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

123. Ngô gia văn phái (2014), Hoàng Lê nhất thống chí (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

124. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập I, Nxb Đồng Tháp,

Đồng Tháp.

125. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, (tái bản), Nxb

Đồng Tháp, Đồng Tháp.

126. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam, tập IV, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

127. Bùi Văn Nguyên (chủ biên) (1995), Tổng tập văn học Việt Nam, tập V, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

128. Bùi Văn Nguyên (2000), Văn chương Nguyễn Trãi rực ánh sao Khuê, Nxb Văn học, Hà Nội.

129. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại, (tái

bản), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

130. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

131. Nguyễn Tá Nhí (chủ biên) (2008), Tổng tập văn học Nôm, tập I, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

132. Nguyễn Tá Nhí (chủ biên) (2008), Tổng tập văn học Nôm, tập II, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

133. Nhiều tác giả (1998), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

134. Nhiều tác giả (2000), Tổng tập văn học Việt Nam thời cổ - cận đại, bộ I, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

159

135. Nhiều tác giả (2010), Các thể văn chữ Hán Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

136. Nhiều tác giả (2011), Tài liệu tập huấn phát triển chuyên môn giáo viên trường THPT

chuyên môn Ngữ văn, Vụ giáo viên Trung học, Hà Nội.

137. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

138. Võ Hồng Phi (chủ biên), (2007), Những bút tích Hán Nôm hiện còn ở các hang động,

vách núi xứ Thanh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

139. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

140. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2014), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

141. Nguyễn Thị Hải Phương (2012), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại – nhìn từ góc độ

diễn ngôn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

142. G. N. Pospelov (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử - Lại

Nguyên Ân - Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

143. Trần Lê Sáng (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

144. Trần Lê Sáng (chủ biên) (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, tập III, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

145. Lê Văn Siêu (2004), Văn minh đời Hồng Đức đến đời Nguyễn, (tái bản), Nxb

Thanh Niên, Hà Nội.

146. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, (tái bản), Nxb Văn học, Hà Nội.

147. Nguyễn Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Giang – Trần Ngọc Vương – Trần Nho

Thìn – Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

148. Nguyễn Hữu Sơn (1998), Khảo sát loại hình tiểu truyện thiền sư trong Thiền uyển tập

anh, Luận án Tiến sĩ Văn học, Viện văn học, Hà Nội.

149. Nguyễn Hữu Sơn (2002), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh (Chuyên luận), Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

150. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến

trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

151. Nguyễn Hữu Sơn (2015), “Kiểu tác gia Hoàng đế - Thiền sư - Thi sĩ Trần Thái Tông

(1218-1277)”, tạp chí Khoa học Đại học Văn hiến, số 2-2015, TP Hồ Chí Minh, tr.61-70.

152. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

160

153. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

154. Trần Đình Sử (1997), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ

Giáo dục, Hà Nội.

155. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

156. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

157. Trần Đình Sử (2013), “Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay”,

(https://phebinhvanhoc.com.vn/khai-niem-dien-ngon-trong-nghien-cuu-van-hoc-hom-

nay/). (Truy cập ngày 19/7/2020).

158. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt

Nam, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

159. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt

Nam, tập II, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

160. Bùi Duy Tân - Lại Văn Hùng (2001), Lê Thánh Tông - về tác gia và tác phẩm, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

161. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X –

XIX, tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

162. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X – XIX,

tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

163. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2009), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X – XIX,

tập III, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

164. Văn Tân (Chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

165. Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

166. Lê Văn Tấn (2012), Nhận diện loại hình tác giả nhà nho ẩn dật và vai trò của họ trong

văn học trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội,

Hà Nội.

167. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

168. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, (Mai Xuân

Hải dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

161

169. Lê Mạnh Thát (1999), Trần Nhân Tông con người và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

170. Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP

Hồ Chí Minh.

171. Lê Mạnh Thát (2005), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb Phương Đông, Hà Nội.

172. Nguyễn Quyết Thắng, Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Bộ

mới) (tái bản), Nxb Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh.

173. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

174. Lã Nhâm Thìn (2002), Bài giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

175. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn -

thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

176. Trần Nho Thìn (2001), “Bi kịch tinh thần của nhà Nho Việt Nam với tính cách một nhân

vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi)”, Tạp chí văn học (7), tr.49 – 59.

177. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

178. Trần Nho Thìn (2010), “Một vài vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu so sánh văn học Việt

Nam và văn học Trung Quốc”, Nghiên cứu văn học (1), tr.3 - 27.

179. Trần Nho Thìn (2010), “Văn học cung đình và văn học thành thị ở Thăng long”,

Nghiên cứu văn học (10), tr.55 - 71.

180. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo

dục Việt Nam, Đà Nẵng.

181. Trần Nho Thìn (2018), Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy

văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

182. Nguyễn Văn Thuấn (2018), Giáo trình Lý thuyết liên văn bản, Nxb Đại học Huế, Huế.

183. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn hóa

thông tin, tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

184. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam một số vấn đề lí luận và thực

tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

185. Lê Thước, Trương Chính (2012), Thơ chữ Hán Nguyễn Du (in lại theo bản 1965), Nxb

Văn học, Hà Nội.

186. Lê Huy Tiêu (chủ biên) (2007), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

162

187. Thích Giác Toàn, Trần Hữu Tá (chủ biên) (2010), Văn học, Phật giáo với 1000 năm

Thăng Long – Hà Nội, Nxb Văn hóa – Thông tin, TP. Hồ Chí Minh.

188. Trần Văn Toàn (2015), “Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của M. Foucault và nghiên cứu văn

học”,(http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamhiendai/tabid/103/newstab/4

75/Default.aspx). (Truy cập 18/7/2020).

189. Nghiêm Toản (1949), Việt Nam văn học sử, tập I, Nhà in Vĩnh Bảo, Sài Gòn.

190. Lê Thánh Tông (1963), Thánh Tông di thảo (bản dịch), Nxb Văn hóa, Viện văn học,

Hà Nội.

191. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

192. Khổng Tử (2003), Kinh Thi, tập I (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

193. Khổng Tử (2003), Kinh Thi, tập II (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

194. Khổng Tử (2003), Kinh Thi, tập III (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

195. Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh

Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

196. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam từ

thế kỷ X đến thế kỷ thứ XIV, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học, Hà Nội.

197. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

198. Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (2008), Văn học trung đại Việt Nam thế kỷ X – cuối thế kỷ

XIX, Nxb Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.

199. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

200. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, TP.

Hồ Chí Minh.

201. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.

202. Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (1998), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập I, (Lê

Huy Tiêu hiệu đính), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

203. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1986), Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

204. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.

205. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

206. Viện Sử học Việt Nam (2017), Quốc triều hình luật, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

163

207. Viện Triết học (2002), Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam tập I từ khởi nguyên

đến thế kỉ XIV, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

208. Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển, tập II, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

209. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

210. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập III, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

211. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập II (Quyển thượng), Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

212. Phạm Tuấn Vũ (2011), Về một số vấn đề tác giả, tác phẩm văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.

213. Phạm Tuấn Vũ (2015), Góp phần nghiên cứu văn chương Việt Nam trung đại, Nxb

Đại học Vinh, TP. Vinh.

214. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học – Nhà nho tài tử và văn học

Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

215. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

216. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX - Những vấn đề

lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

217. Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Xuân Thành (1997), Từ điển giải thích thành

ngữ gốc Hán, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

218. Hoàng Hữu Yên - Nguyễn Minh Hùng (1980), Văn tuyển văn học Việt Nam (Thế kỉ XI

- Nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

219. Lê Thu Yến (chủ biên) (2003), Văn học Việt Nam – Văn học trung đại những công

trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Tiếng Anh

220. Aie Wang (2006), Vũ trụ luận và văn hóa chính trị ở Trung Quốc cổ đại, Cosmology

and Political Culture in Early China, Cambridge University Press.

221. Chad Hansen (1992), Lý thuyết Đạo gia trong tư tưởng Trung Quốc - Giải thích về

triết học, A Daoist Theory of Chinese Thought - A Philosophical Interpretation,

Oxford University Press.

222. Crystal. D, (1992), Introducing of language and Power, Oxford: Blackwell.

164

223. Jean Blondel, Takashi Inoguchi (2006), Văn hóa chính trị ở châu Á và châu Âu: Công

dân, nhà nước và giá trị xã hội, Political Cultures in Asia and Europe: Citizens, States

and Societal Values, Routledge

224. James F. McGlew (1993), Nền chuyên chế và văn hóa chính trị ở Hy Lạp cổ đại,

Tyranny and Political Culture in Ancient Greece, Cornell University Press.

225. Jan Eric- Lane, Svante Erson (2005), Văn hóa và chính trị, Culture and Politics,

Ashgate Publishing Company.

226. Martin Cohen (2001), Triết học chính trị từ Plato đến Mao Trạch Đông, Political

Philosophy from Plato to Mao, Pluto Press.

227. Oliver H. Woshinsky (2008), Giải thích chính trị -văn hóa, các thiết chế và hành vi

chính trị, Explaining Politics - Culture, Institutions and Political Behavior, Routledge.

228. Richard Ellis (1993), Văn hóa chính trị Mỹ, American Political Culture, Oxford

University Press.

229. Roges T. Armes (1994), Nghệ thuật cai trị - nghiên cứu tư tưởng chính trị Trung Quốc

cổ đại, The Art of Rulership: A Study of Ancient Chinese Political Thought, State

University Press of New York.

230. Vilho Harle (1998), Các tư tưởng về trật tự xã hội trong thế giới cổ đại, Ideas of Social

Order in the Ancient World, Greenwood Press.

231. Widdowson, H. G (1984), Exlorations in applied linguistics 2, Oxford: OUP.

Tiếng Trung

232. Độ Biên Tín Nhất Lang (2008), Vương quyền ở Trung Quốc cổ đại và trật tự thiên hạ

(từ góc nhìn so sánh Trung - Nhật), Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh.

233. Lưu Trạch Hoa, Uông Mậu Hòa, Vương Lan Trọng (1988), Quyền lực chuyên chế và

xã hội Trung Quốc, 专制权力与中国社会, Cát lâm văn sử xuất bản xã.

234. Nhiều tác giả (1974), Nho Pháp đấu tranh trong lịch sử, 历史上的儒法斗争, Vân

Nam nhân dân xuất bản xã.

235. Tào Đức Bản chủ biên (1999), Trung Quốc chính trị tư tưởng sử, 中国政治思想史,

Cao đẳng giáo dục xuất bản xã, Bắc Kinh.

236. Tát Mạnh Vũ (2008), Trung Quốc chính trị tư tưởng sử, 中国政治思想史, Đông

phương xuất bản xã, Bắc Kinh.

165

237. Lưu Nguyên Ngạn (1992), Tạp gia đế vương học - Lã Thị Xuân Thu, 杂家帝王学,

Tam liên thư điếm xuất bản.

238. Tiền Tông Phạm (2004) Lưu dân hoàng đế - từ Lưu Bang đến Chu Nguyên Chương,

流 民皇帝从刘邦到朱元璋, Tế Nam xuất bản xã.

PHỤ LỤC 1 THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VIẾT VỀ NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ VÀ PHÂN CHIA THỂ LOẠI

Thơ

TT

Tác giả

Phú

Cổ phong

TL khác

Số lượng tác phẩm

Hán Đường luật

Nôm Đường luật

1 Lý Thái Tổ 2 Lý Thái Tông 3 Lý Thánh Tông 4 Lý Nhân Tông 5 Lý Thiên Tộ 6 Lý Cao Tông 7 Lý Huệ Tông 8 Trần Thái Tông 9 Trần Thánh Tông 10 Trần Nhân Tông 11 Trần Anh Tông 12 Trần Minh Tông 13 Trần Nghệ Tông 14 Trần Dụ Tông 15 Trần Duệ Tông 16 Hồ Qúy Ly 17 Trần Qúy Khoáng 18 Lê Thái Tổ 19 Lê Thái Tông 20 Lê Thánh Tông 21 Lê Hiến Tông 22 Lý Thường Kiệt 23 Đỗ Pháp Thuận 24 Ngô Chân Lưu 25 Vạn Hạnh 26 Lã Định Hương 27 Thiền Lão 28 Đàm Cứu Chi 29 Lâm Khu 30 Đàm Khí

3 6 2 6 1 1 2 6 15 34 14 29 6 1 2 5 2 2 1 319 4 2 1 3 6 1 1 2 3 2

2 3 2 10 26 12 25 5 1 1 5 2 2 1 282 4 1 1 2 4 1 1 1 3 2

20

4 6 2 2 1 1 1

1 1

Văn Hịch, Cáo, Chiếu, Biểu 1 2 3 1 1

2 2 2 1 1 4 1 1 2 1 16 1 1 1

166

3 1 1 2 1 2 1 3 1 3 4 1 1 2 2 1 2 1 1 1

31 Mai Trực 32 Lê Văn Thịnh 33 Lý Trường 34 Vương Hải Thiềm 35 Chu Văn Thường 36 Đào Thuần Chân 37 Lý Thừa Ân 38 Đoàn Văn Khâm 39 Lý Ngọc Kiều 40 Kiều Trí Huyền 41 Từ Lộ 42 Vạn Trì Bát 43 Lê Thị Ỷ Lan 44 Pháp Bảo 45 Dương Không Lộ 46 Nguyễn Công Bật 47 Nguyễn Giác Hải 48 Nguyễn Tuân 49 Hoàng Viên Ngọc 50 Dĩnh Đạt 51 Nguyễn Khánh

2 1 2 3 3 4 1 2 2 1 1 1

1 1 1 1

1 1 1 1 2 1 1

1

Hỷ

52 Nguyễn Nguyên

1

1

Ức

53 Phan

Trường

1

1

2

Nguyên

1 1 1 1

54 Ngô Tịnh Không 55 Kiều Phù 56 Bảo Giác 57 Âu Đạo Huệ 58 Nguyễn Nguyên

1 1 2

1 1

2

Học

4 3 2 3

59 Kiều Bản Tịnh 60 Lê Thước 61 Hứa Đại Xả 62 Nguyễn Trí Bảo 63 Nguyễn Quãng

2 2 2 1 2

2 1 1

1

2

2 1 1

Thường

2 2

1 1

2

Nghiêm 64 Tô Minh Trí 65 Đàm Dĩ Mông 66 Nguyễn Thường 67 Phạm Chiếu

68 Vũ Cao 69 Chu Khải Ngung 70 Ngụy Tư Hiền

1 1 1

1 1

1

167

3 2 1 49

71 Nguyễn Y Sơn 72 Lê Thuần 73 Trần Tự Khánh 74 Trần Tung 75 Thượng Sĩ Ngữ

2 2 40

1

1 8

1 2

2

Lục

1 1 3 8 1 1 1 1 2

Thụ

8 1 1 1 2 1

3

1

1 1

1

76 Lê Văn Hưu 77 Trần Quốc Tuấn 78 Trần Quốc Toại 79 Trần Quang Khải 80 Đinh Củng Viên 81 Lê Củng Viên 82 Trần Thì Kiến 83 Trần Đạo Tái 84 Nguyễn Sĩ Cố 85 Vương Thành

2 4

86 Phạm Ngũ Lão 87 Bùi Tông Quán 88 Nguyễn

Chế

2 4 1

1

Nghĩa

1 1 4 21

89 Trần Khắc Chung 90 Hứa Tông Đạo 91 Đồng Kiên Cương 92 Lý Đạo Tái 93 Nguyễn Thị Điểm

1 3 20 1

1

1 1

1

1 1 7 1 6 6 6

Bích 94 Mạc Ký 95 Đoàn Nhữ Hài 96 Trương Hán Siêu 97 Trần Hiệu Khả 98 Phạm Mại 99 Phạm Ngộ 100 Mạc Đỉnh Chi 101 Nguyễn

Trung

1 4 1 5 5 4 21

1

1

1 1 2

2

21

Ngạn

102 Trần Quang Triều 103 Nguyễn Sưởng 104 Nguyễn Ức 105 Chu Văn An 106 Trần Nguyên Đán 107 Phạm Sư Mạnh 108 Lê Quát 109 Đỗ Tử Vi 110 Hồ Tông Thốc 111 Đào Sư Tích

11 15 19 11 51 28 6 2 2

1 1 2

1

1 1 1

11 15 20 12 51 31 7 2 3 1

168

1 1 1 1 11

11 12

1 1 1 1

12

1 1 1 2 2 2 1 1

112 Sử Hy Nhan 113 Nguyễn Bá Thông 114 Nguyễn Nhữ Bật 115 Nguyễn Pháp 116 Nguyễn Tử Thành 117 Phạm Nhân Khanh 118 Doãn Án Phủ 119 Nguyễn Cố Phu 120 Trần Thiên Trạch 121 Trần Đình Thâm 122 Trần Công Cẩn 123 Nguyễn Quy Ưng 124 Vũ Thế Trung 125 Trần Quan 126 Chu

Khắc

1 1 2 1 2 1 1 1

1

1

1

1 2 1 1 1 1 1 2

Nhượng 127 Tạ Thúc Ngao 128 Chu Đường Anh 129 Lưu Thường 130 Trần Ngạc 131 Lê Liêm 132 Trần Lôi 133 Đoàn Xuân Lôi 134 Đoàn Thuấn Du 135 Nguyễn Mộng

1 1 1 1 2 1

1

1 1

1

1

Trang

12 31

136 Lê Cảnh Tuân 137 Phạm Nhữ Dực 138 Nguyễn

Phi

12 31 56

1

1

58

1 2

Ngạn

1 2 1

1

Khanh 139 Đặng Dung 140 Nguyễn Biểu 141 Đồng Hoằng

3

142 Tạ Thiên Huân 143 Nguyễn

Bích

3

1

1

Châu

144 Nguyễn Bá Tĩnh 145 Bùi Bá Kỳ 146 Nguyễn Cần 147 Lý Tế Xuyên 148 Hồ Nguyên Trừng 149 Trần Thế Pháp 150 Nguyễn Trãi 151 Nguyễn Mông

2 2 1 1 1 1 392 16

1 1 1 91 12

258

2

1 1 4

1 15

1 1 1 25

169

14 8 5 2 2 8 2 5

7 8 5 1 2 7 1 2 3

Tuân 152 Lý Tử Tấn 153 Lê Thiếu Dĩnh 154 Vũ Mộng Nguyên 155 Trần Thuấn Du 156 Đào Công Soạn 157 Nguyễn Húc 158 Lý Tử Cấu 159 Nguyễn Phu Tiên Thiên 160 Nguyễn

2 1 2

4 1 1 1 1

1

4

Túng

4

Thiên

4

161 Nguyễn Tích

2 3 1

2 3 1 2

162 Phan Phu Tiên 163 Trình Thanh 164 Lê Thúc Hiển 165 Nguyễn

Thì

2

4 3 1

4 3 1 1

Trung 166 Doãn Hành 167 Trần Khản 168 Trần Sư Mạnh 169 Nguyễn

Khắc

1

Hiếu

1 1 2 1 1 4 4 3 2 2 2 2 6 8 5 17 31 11

1 2 1 1 3 3 3 2 1 2 2 8 5 15 31 3 5

Đức

1 4 2

1 1 2 1

8

5

2 4 6

170 Chu Tam Tỉnh 171 Vũ Vĩnh Trinh 172 Nguyễn Đình Mỹ 173 Nguyễn Bành 174 Chu xa 175 Nguyễn Trực 176 Lương Như Hộc 177 Nguyễn Như Đố 178 Vũ Lãm 179 Đặng Tuyên 180 Nguyễn Bá Kỷ 181 Phù Thúc Hoành 182 Ngô Chi Lan 183 Đàm Văn Lễ 184 Vương Sư Bá 185 Nguyễn Bảo 186 Thái Thuận 187 Vũ Quỳnh 188 Hoàng Lương 189 Đỗ Cận 190 Đặng Minh Bích 191 Trần Cảnh

2 4 6

170

1 1 3 1 3 1 11 7 1 1 1 1 1 1

192 Lê Tô 193 Nguyễn Tắc Dĩnh 194 Lê Hoằng Dục 195 Lê Đức Tông 196 Lê Tranh 197 Lê Kinh 198 Thân Nhân Trung 199 Đỗ Nhuận 200 Lương Thế Vinh 201 Ngô Hoán 202 Trình Chí Sum 203 Ngô Luân 204 Nguyễn Ích Tốn 205 Ngô Thẩm 206 Nguyễn Quang

1 3 1 3 1 11 7 1 1 1 1 1 1 1

1

1

Bật

207 Nguyễn Tôn Mậu 208 Chu Huyến 209 Khuyết danh

1 1 117

2

12

3

1 1 134

Thơ

Số tác giả được khảo sát

Số tác phẩm khảo sát

Phú

Cổ phong

Hán Đường luật

Nôm Đường luật

Thể loại khác

1281

278

61

38

Văn Hịch, Cáo, Chiếu, Biểu 28

114

209

1800

PHỤ LỤC 2 THỐNG KÊ CÁC BÀI PHÚ

TT

Tác giả

Tác phẩm

Chữ Nôm

Chữ Hán

Ghi chú

1 Trần Nhân Tông

Cư trần lạc đạo phú

X

2 Lê Thánh Tông

Lam Sơn Lương thuỷ phú

X

3 Lý Đạo Tái

Vinh Hoa Yên tự phú

X

4 Trương Hán Siêu

Bạch Đằng Giang phú

X

171

5 Phạm Mại

Thiên thu giám phú

X

6 Mạc Đỉnh chi

Giáo tử phú

X

Ngọc tỉnh liên phú

X

7 Đào Sư Tích

Cảnh tinh phú

X

8 Sử Hy Nhan

Trảm xà kiếm phú

X

9 Nguyễn Bá Thông

Thiên Hưng trấn phú

X

10 Nguyễn Nhữ Bật

Quan Chu nhạc phú

X

11 Nguyễn Pháp

Cần chính lâu phú

X

12 Trần Công Cẩn

Bàn Khê điếu huỳnh phú

X

13 Đoàn Xuân Lôi

Diệp mã nhi phú

X

14 Nguyễn Phi Khanh

Diệp mã nhi phú

X

15 Nguyễn Bá Tĩnh

Nam dược quốc ngữ phú

X

16 Nguyễn Trãi

Chí Linh sơn phú

X

17 Nguyễn Mộng Tuân Lam Sơn phú

X

Nghĩa kỳ phú

X

Chí Linh sơn phú

X

Tổng giáp binh phú

X

18 Lý Tử Tấn

Chí Linh sơn phú

X

Xương Giang phú

X

Thọ vực phú

X

Quảng cư phú

X

19 Trần Thuấn Du

Chí Linh sơn phú

X

20 Lý Tử Cấu

Tam ích hiện phú

X

21 Nguyễn Phu Tiên

Mỹ ngọc đãi giá phú

X

22 Nguyễn Thiên Túng Kê minh phú

X

23 Nguyễn Trực

Xuân đài phú

X

24 Lương Như Hộc

Bác lãng chuỳ phú

X

25 Đặng Tuyên

Gương phương chư

X

Tùng bách hậu điêu phú

X

26 Nguyễn Bá Kỷ

Tứ truyện đồ phú

X

27 Nguyễn Tắc Dĩnh

Lượng như long phú

X

28 Khuyết danh

Thang bàn phú

X

Đổng hồ bút phú

X

X

Hoàng Chung vi vạn sự căn bản phú

172

Số bài phú chữ Nôm

Số bài phú chữ Hán

Số tác giả sáng tác phú

Số tác phẩm khảo sát

28

38

5

33

* Các phụ lục này dựa trên thống kê các công trình: Thơ văn Lý – Trần, Tổng tập văn học Việt Nam, Nguyễn Trãi toàn tập, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Cổ tâm bách vịnh, Tuyển thơ các vua Trần.