HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH SYSOMPHONE VONGPHACHANH

PH¸T HUY NH¢N Tè CON NG¦êI TRONG PH¸T TRIÓN KINH TÕ - X· HéI

ë CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH SYSOMPHONE VONGPHACHANH

PH¸T HUY NH¢N Tè CON NG¦êI TRONG PH¸T TRIÓN KINH TÕ - X· HéI

ë CéNG HßA D¢N CHñ NH¢N D¢N LµO HIÖN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS. TS. NGUYỄN THỊ NGA 2. TS. PHAN MẠNH TOÀN

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

SYSOMPHONE VONGPHACHANH

1 5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về nhân tố con

người và phát huy nhân tố con người

5

1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng phát huy nhân tố con

người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

12

1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát huy nhân tố con

người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

21

1.4. Những giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề

luận án cần tiếp tục nghiên cứu

27

31

Chương 2: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Quan niệm về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người trong phát

triển kinh tế - xã hội

31

2.2. Tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế

- xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

43

51

66

2.3. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay Chương 3: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1. Một số thành tựu cơ bản về phát huy nhân tố con người trong phát triển

kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

66

3.2. Một số hạn chế về phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã

hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

87

100

112

3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay Chương 4: GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1. Nhóm giải pháp để tăng cường sử dụng hợp lý, hiệu quả nhân tố con người

trong phát triển kinh tế - xã hội

112

4.2. Nhóm giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng con

người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

119

4.3. Nhóm giải pháp gia tăng động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong

phát triển kinh tế - xã hội

130 144

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

146 147 164

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

CHDCND Lào : Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ĐNDCM Lào

GD-ĐT : Giáo dục - đào tạo

GDP : Thu nhập quốc nội

: Khoa học - công nghệ KH-CN

KT-XH : Kinh tế - xã hội

NCS : Nghiên cứu sinh

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của nhân tố con người trong phát triển

kinh tế - xã hội (KT-XH), trong thời gian qua, nhiều nước trên thế giới rất chú

trọng nghiên cứu vấn đề nhân tố con người, phát huy nhân tố con người. Để

phát triển KT-XH của một đất nước trong thời đại ngày nay, nhất là trong xu

thế toàn cầu hóa và sự phát triển nhảy vọt của khoa học, kỹ thuật và công nghệ,

nhân tố con người được coi là yếu tố quan trọng, quyết định các nguồn lực

khác. Sự thừa nhận vai trò quan trọng và quyết định của nhân tố con người

trong phát triển KT-XH vừa mang ý nghĩa bước ngoặt của tư duy nhân loại,

vừa mở ra một triển vọng mới cho tất cả các nước. Sự thành bại của chiến lược

phát triển KT-XH ở mỗi nước đang tùy thuộc vào những bí quyết về đào tạo,

bồi dưỡng, khai thác, sử dụng và phát huy tối đa nhân tố con người.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND Lào) đang trên con đường

đổi mới, qua đó đòi hỏi phải nắm vững sự vận động của quy luật KT-XH,

phải tập hợp được điều kiện cần thiết nhằm phát huy nhân tố con người, qua

đó cải thiện về căn bản năng suất lao động. Muốn phát triển một xã hội lành

mạnh, bền vững và ổn định thì nhân tố con người phải được quan tâm hàng

đầu bởi đó là chủ thể đảm bảo cho sự phát triển. Đại hội lần thứ X của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào (ĐNDCM Lào) khẳng định rằng: “nâng cao trình

độ lực lượng sản xuất và xây dựng kinh tri thức, trong đó coi con người là đối

tượng và là trung tâm của sự phát triển…” [150, tr.44]. Điều đó cho thấy,

muốn phát triển KT-XH của đất nước cần phải tập trung phát huy tối đa nhân

tố con người để đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước.

Thực tế cho thấy, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là nước có dân số ít

so với diện tích, có tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản khá phong phú đa

dạng, hơn nữa dân số Lào đang là cơ cấu dân số vàng, và nổi bật con người

Lào giàu truyền thống cách mạng, tinh thần hiếu học v.v..; rất thuận lợi cho

2

phát triển KT-XH. Nhưng thực tế Lào vẫn là một nước nghèo, lạc hậu, nền

khoa học, kỹ thuật và công nghệ, giáo dục, kinh tế yếu kém... Có nhiều

nguyên nhân cho thực trạng đó, nhưng không thể chối bỏ thực tế nhiều tiềm

năng con người ở đây chưa được đánh thức, biến thành hiệu quả trong phát

triển KT-XH. Điều đó cho thấy tính cấp bách của việc phát huy nhân tố con

người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào, nghĩa là phát huy tính chủ

động, tích cực, sáng tạo, lòng yêu nước, lao động cần cù của con người Lào

nhằm phát triển KT-XH của đất nước và thoát khỏi sự đói nghèo, lạc hậu.

Do đó, việc nghiên cứu, tìm giải pháp khắc phục có hiệu quả những

khuyết điểm, yếu kém nêu trên nhằm thực hiện sự nghiệp cách mạng mà

Đảng và Nhà nước đặt ra trong những năm tới thực sự là vấn đề rất cần thiết

và cấp bách. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát huy nhân

tố con người hoặc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở

CHDCND Lào còn rất ít. Vì những khoảng trống về mặt lý luận và thực tiễn

đó đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát huy nhân tố con người trong

phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”

làm đề tài nghiên cứu của luận án.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của việc phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào thời gian vừa qua,

luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con

người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong những năm tới.

2.2. Nhiệm vụ

Để đáp ứng được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những

nhiệm vụ sau:

- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận của việc phát huy nhân tố con người ở

CHDCND Lào hiện nay.

3

- Phân tích thực trạng và nguyên nhân của thực trạng phát huy nhân tố

con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong thời gian vừa qua.

- Đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả nhân

tố con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án

- Luận án khảo sát những người trong độ tuổi lao động, tham gia vào quá

trình phát triển KT-XH ở CHDCND Lào hiện nay.

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu vấn đề phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào từ năm 1986 trở lại đây, đặc biệt tác

giả tập trung khảo sát trong vòng từ năm 2007 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận của luận án

- Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh. Tác giả vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử, và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước CHDCND Lào về vấn đề con người.

- Luận án còn được thực hiện trên cơ sở tham khảo, kế thừa các thành

tựu khoa học ở một số công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước có

liên quan đến đề tài.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa

khoa học, logic - lịch sử,... Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp phân

tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu, thống kê... để

triển khai các nội dung của luận án.

4

5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

- Luận án góp phần làm rõ vai trò của việc phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH, và chỉ rõ tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố

con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào.

- Luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con

người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Luận án góp phần luận chứng về mặt lý luận việc phát huy nhân tố con

người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào.

- Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm

những tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập

về phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào, nhất

là hệ thống giáo dục Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào và hệ

thống các trường chính trị - hành chính trong cả nước.

- Những luận điểm cơ bản của luận án góp phần làm rõ những giải pháp

nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào

hiện nay.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công

bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

của luận án gồm 4 chương, 13 tiết.

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI

- Nguyễn Văn Sáu, Phát huy nhân tố con người trong đổi mới quản lý

kinh tế [54]. Cuốn sách đã làm rõ cơ sở lý luận, yêu cầu thực tiễn của việc phát

huy nhân tố con người trong đổi mới quản lý kinh tế. Trong chương I, chỉ ra

vai trò của con người trong quản lý kinh tế, tác giả khẳng định: “con người vừa

là chủ thể, vừa là đối tượng, vừa là tác giả sáng tạo, đổi mới, hoàn thiện hệ

thống quản lý… nó tạo ra động lực thúc đẩy toàn bộ sự vận động, phát triển

của xã hội loại người” [54, tr.17]. Ở Chương II, tác giả đã nêu bật một số đặc

điểm của con người Việt Nam trong việc phát huy nhân tố con người trong quá

trình chuyển sang chính sách và cơ chế quản lý kinh tế mới, đó là: “Một là, tính

cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất; Hai là, sự thích nghi để tồn tại và

phát triển; Ba là, tính hiếu học, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất và

cuộc sống…; Bốn là, giàu tình cảm, giàu lòng yêu nước, lòng nhân ái, tính

cộng đồng cao” [54, tr.52-54]. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu nhân tố con người

hay phát huy nhân tố con người dưới góc độ gắn nó với việc quản lý kinh tế và

đưa ra được một số đặc điểm của nhân tố con người Việt Nam. Và nó giúp

nghiên cứu sinh (NCS) nắm được những cơ sở lý luận về con người, nhân tố

con người và những đặc điểm của con người Việt Nam.

- Nguyễn Thị Phi Yến, Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với việc

phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế [79]. Cuốn sách đã đưa ra

khái niệm về nhân tố con người và cho rằng:

Nhân tố con người là tổng hợp tất cả những phẩm chất, tri thức, khả

năng và năng lực của con người cùng mọi hoạt động sáng tạo của

họ đã, đang và sẽ được xã hội sử dụng vì lợi ích của sự phát triển

con người cũng như hoàn thiện các điều kiện sống, điều kiện lao

động, điều kiện làm việc của con người [79, tr.30].

6

Từ khái niệm nhân tố con người, tác giả cũng nêu khái niệm về phát huy

nhân tố con người: “phát huy nhân tố con người là nói tới việc nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động của con người trong mối tương tác với môi trường

hoạt động của họ” [79, tr.36]. Theo tác giả, muốn phát huy nhân tố con người

như một nguồn lực cần lưu ý thỏa đáng tới các yếu tố như: “trí tuệ (học vấn

và trình độ nghề nghiệp), sức khỏe, tư tưởng chính trị, đào đức, lối sống cùng

toàn bộ năng lực hành động của con người” [79, tr.36].

Cuốn sách còn chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới việc phát huy nhân tố

con người như: Một là, tính chất và trạng thái của thể chế chính trị [79, tr.37];

Hai là, tính chất và trạng thái của nền kinh tế [79, tr.38]; Ba là, trình độ học

vấn, trình độ văn hóa chung trong xã hội [79, tr.39]; Bốn là, trình độ giao lưu,

hội nhập quốc tế [79, tr.41]. Tác giả cũng cho thấy, nội dung của quản lý nhà

nước trong việc phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế:

Một là, phát huy và sử dụng đúng đắn hệ thống động lực nhằm khai thác tính

tích cực của nhân tố con người [79, tr.59]; Hai là, xây dựng và hoàn thiện các

thể chế tổ chức và phương thức quản lý nhà nước để phát huy nhân tố con

người trong phát triển kinh tế [79, tr.68].

Tuy nhiên, nội dung cuốn sách chủ yếu nghiên cứu việc phát huy nhân tố

con người dưới góc độ quản lý nhà nước, mà chưa đề cập đến khái niệm về

nhân tố con người, phát huy nhân tố con người trong quá trình tương tác với

phát triển KT-XH. Mặc dù vậy, cuốn sách có giá trị tham khảo nhất định, nhất

là về các khái niệm nhân tố con người, phát huy nhân tố con người và những

yếu tố tác động đến việc phát huy nhân tố con người.

- Phạm Công Nhất, Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực

lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay [49]. Trong chương I, tác giả phân tích

nhân tố con người và vai trò quan trọng của nhân tố con người trong phát

triển lực lượng sản xuất. Về nhân tố con người, tác giả cho rằng:

7

Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con

người, là sự thống nhất biện chứng giữa các mặt chủ quan và khách

quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí tuệ của con người được

hình thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn sản xuất vật

chất hay quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng,

quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định [49, tr.25].

Cuốn sách cũng chỉ ra những đặc điểm và vai trò của nhân tố con người

trong mối quan hệ với hệ thống sản xuất xã hội. Ngoài ra, tác giả còn phân

tích các yếu tố tác động đến việc phát huy nhân tố con người và sự cần thiết

phải phát huy nhân tố con người trong quá trình đổi mới, phát triển sản xuất;

khái quát kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về

việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế. Nhưng tác giả cũng

chưa đưa ra được quan điểm có liên quan trực tiếp đến việc phát huy nhân tố

con người trong phát triển KT-XH. Tác giả sẽ tham khảo và tiếp thu một số

nội dung liên quan tới khái niệm nhân tố con người, đặc điểm và vai trò của

nhân tố con người đối với hệ thống sản xuất xã hội; tầm quan trọng của việc

phát huy nhân tố con người và các yếu tố tác động đến việc phát huy nhân tố

con người.

- Lê Quang Hoan, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy

nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

[29]. Tác giả xem nhân tố con người như một chỉnh thể thống nhất của hai

quá trình: “một mặt, từ hoạt động con người thông qua các hệ thống giá trị mà

hình thành nên nhân cách với tư cách là thước đo giá trị của chủ thể. Mặt

khác, nhân cách với tư cách là thước đo mức độ phù hợp giữa giá trị của chủ

thể với giá trị xã hội, là cơ sở, điều kiện cho mọi hoạt động của chủ thể tiếp

tục sáng tạo ra các giá trị xã hội” [29, tr.23]. Trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ

Chí Minh, tác giả định nghĩa “nhân tố con người là hệ thống các thuộc tính,

đặc trưng quy định vai trò chủ thể (cá nhân, tập thể, cộng đồng) tích cực, chủ

8

động, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt

hoạt động với tổng hòa đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người mới

xã hội chủ nghĩa trong quá trình cách mạng Việt Nam” [29, tr.26]. Từ quan

điểm về nhân tố con người, tác giả khẳng định “Phát triển người là đặc trưng

bản chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, con người là chủ

thể, là nhân tố năng động nhất, sáng tạo nhất…” [29, tr.123] và cho rằng “vai

trò nhân tố con người được biểu hiện tập trung ở vai trò nguồn nhân lực,

nhưng nó có nghĩa rộng hơn, bao gồm những mục tiêu, động lực, phẩm chất

và năng lực của con người” [29, tr.124]. Bàn đến khái niệm phát huy nhân tố

con người, tác giả cho rằng “phát huy nhân tố con người là một quá trình bao

gồm hai mặt: tích cực hóa nhân tố con người trên cơ sở không ngừng nâng

cao chất lượng nhân tố con người” [29, tr.126]. Nói chung tác giả cũng đưa ra

quan điểm về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người, chỉ ra vai trò

nhân tố con người. Đó là cơ sở lý luận giúp NCS được tiếp cận và có hướng

đi trong nghiên cứu đề tài của mình, nhưng tác giả cũng chưa đưa ra được

hoàn thiện những quan điểm nhân tố con người và phát huy nhân tố con người

trên cơ sở gắn liền với việc phát triển KT-XH, nhất là chưa đề cập đến việc

phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH; nhưng đây sẽ là tài liệu

tham khảo bổ ích đối với nghiên cứu sinh.

- Trần Thị Thủy, Nhân tố con người và những biện pháp nhằm phát huy

nhân tố con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay [64]. Tác giả

phân tích cơ sở lý luận của việc phát huy nhân tố con người, làm sáng tỏ bản

chất, nội dung của khái niệm nhân tố con người; thực chất và nội dung của

vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Về

khái niệm nhân tố con người, tác giả cho rằng nhân tố con người là:

Một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa các mặt hoạt động và

tổng hòa những phẩm chất, năng lực về trí tuệ, thể lực của cá nhân

hay cộng đồng người tham gia vào sự biến đổi, phát triển của một

9

quá trình xã hội nhất định với tư cách là chủ thể sáng tạo lịch sử -

xã hội, sáng tạo mọi giá trị vật chất và giá trị tinh thần, đồng thời tự

hoàn thiện và làm phong phú thêm phẩm giá nhân cách của chính

con người [64, tr.78].

Từ việc cho rằng, phát huy nhân tố con người chính là một quá trình chủ

động, tự giác hình thành, bồi dưỡng, phát triển nhân tố con người và hiện thực

hóa vai trò chủ thể tích cực, sáng tạo của nó, nhằm tạo ra động lực thúc đẩy

sự phát triển của xã hội và sự hoàn thiện về mọi mặt của con người, tác giả

nêu khái niệm: “phát huy nhân tố con người về thực chất là quá trình nâng cao

không ngừng vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, tạo ra

động lực phát triển của xã hội và sự hoàn thiện chính bản thân con người”

[64, tr.147]. Những nội dung khái niệm về nhân tố con người, phát huy nhân

tố con người của tác giả là tài liệu tham khảo để nghiên cứu sinh đưa ra quan

điểm nhân tố con người, phát huy nhân tố con người trong qúa trình thực hiện

đề tài luận án của mình.

- Hoàng Thái Triển, Vấn đề phát huy nhân tố con người trong phát triển

kinh tế [67]. Tác giả khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người đối

với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là đối với sự phát triển kinh tế. Hiện nay,

sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như việc nâng cao năng suất lao

động không chỉ dựng lại ở các tham số về số lượng, mà biểu hiện quan trọng

là ở các tham số về chất lượng, nghĩa là nhân tố con người không phải chỉ là

những tri thức, kiến thức về khoa học và công nghệ hiện đại, mà còn là niềm

tin và ý thức trách nhiệm đối với tương lai. Theo tác giả, phát huy nhân tố con

người trong phát triển kinh tế, con người phải áp dụng được những tiến bộ

khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, tăng cường chuyên môn hóa

lao động, đồng thời phải cải cách giáo dục: “khi nền kinh tế trí thức đã xuất

hiện thì phải chủ động tạo ra một xã hội học tập” [67, tr.60]. Ngoài ra, tác giả

còn khẳng định vai trò của quan hệ sở hữu trong thực tiễn: “khi chúng ta tiến

10

sang nền kinh tế tri thức thì bên cạnh thể chế quyền sở hữu trong các thành

phần kinh tế, cần phải quan tâm kịp thời tới thể chế quyền sở hữu trí tuệ”

[67, tr.60]. Mặt khác, cần phải hoàn thiện không ngừng quan hệ sản xuất cho

phù hợp với lực lượng sản xuất, bởi “sự tác động biện chứng giữa lực lượng

sản xuất với quan hệ sản xuất phải được coi là động lực chính, thường xuyên

của tiến bộ kinh tế” [67, tr.61]. Nội dung trên đã giúp nghiên cứu sinh hiểu

thêm một số vấn đề lý luận về vai trò quan trọng của nhân tố con người đối

với sự phát triển kinh tế, mối quan hệ giữa con người và sự tiến bộ của khoa

học, kỹ thuật - công nghệ, vấn đề phát huy nhân tố con người để phát triển

kinh tế.

- Sổm Chít Suk Sa Vắt, Kinh tế lao động [129]. Tác giả khẳng định,

trong lịch sử xã hội của nhân loại, sự phát triển và tiến bộ xã hội là do “kết

quả lao động của nhân loại dưới sự khéo léo trong lao động và nghề nghiệp

chuyên môn,… Lao động là tài nguyên quan trọng và là tài nguyên mà chúng

ta có thể cải biến theo đặc điểm của yếu tố sản xuất,… lao động là nguồn sinh

nở của mọi thứ” [129, tr.2-3]. Theo tác giả, lực lượng lao động là nguồn tài

nguyên quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là lực lượng

lao động lành nghề. Lao động tạo ra nguồn thu nhập cho xã hội và chính cá

nhân con người: “Lao động là một tài nguyên mà đem lại nguồn thu nhập cho

đất nước” [129, tr.8]. Tác giả rất coi trọng vấn đề liên quan đến lao động cả

về việc phát triển nghề nghiệp, tay nghề và công tác tìm kiếm việc làm cho

người lao động, bởi làm như thế mới có thể phát huy được năng lực, phẩm

chất của nhân tố con người trong phát triển đất nước. Tác giả còn chỉ ra vai

trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh lao động và thị trường lao động: “Nhà

nước đưa ra các quy chế về thị trường lao động dưới hình thức pháp luật, quy

định mức trả tiền công thấp nhất, điều tiết việc cung ứng lao động cho xã hội,

thực hiện chính sách thị trường lao động vi mô, chính sách giáo dục cho thanh

thiếu niên” [129, tr.145-146].

11

Nội dung cuốn sách giúp nghiên cứu sinh có được cách nhìn khái quát

hơn về vai trò của lực lượng lao động trong phát triển KT-XH, tầm quan trọng

của việc giải quyết việc làm cho xã hội, việc đào tạo, huấn luyện lực lượng

lao động đảm bảo chất lượng, vai trò to lớn của chính sách Nhà nước đối với

lao động và thị trường lao động.

- Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông, Vai trò của chính sách xã hội đối với

việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay [78]. Tác giả đã phân tích

khái quát một số khía cạnh lý luận về nhân tố con người và phát huy nhân tố

con người. Theo tác giả, khái niệm nhân tố con người có hai cách tiếp cận:

“Một là, coi nhân tố con người như là một hoạt động của những nghiên cứu

riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng

như tiềm năng trí tuệ và thể lực của mỗi người quyết định. Hai là, coi nhân tố

con người như là một tổng hòa các phẩm chất, thuộc tính, đặc trưng, năng lực

đa dạng của con người” [78, tr.9]. Từ nhận thức về nhân tố con người như

trên, tác giả quan niệm phát huy nhân tố con người phát huy nhân tố con

người là “chăm lo tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng

đồng người thể hiện tối đa năng lực của chính mình trong lao động, trong hoạt

động sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển KT-XH vì hạnh phúc của mỗi con

người” [78, tr.15]. Về bản chất, phát huy nhân tố con người là nâng cao tính

tích cực xã hội của người lao động, và nguyên nhân của sự hoạt động nhận

thức và thực tiễn, tính chủ động, lòng hăng hái nhiệt tình sáng tạo chính là

nhu cầu và lợi ích: “Suy cho cùng cái thôi thúc con người ta hoạt động một

cách tích cực đó là nhu cầu và lợi ích” [78, tr.16]. Ngoài ra, tác giả còn khẳng

định tầm quan trọng của chính sách xã hội trong việc phát huy nhân tố con

người, thể hiện ở chỗ chính sách xã hội:

Góp phần điều tiết các quan hệ xã hội để thực hiện công bằng xã

hội; chính sách xã hội là cầu nối giữa kinh tế và đạo đức; chính sách

xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến việc đào tạo nhân lực và bồi dưỡng

12

nhân tài; chính sách xã hội là nơi hội tụ giữa ý Đảng và lòng dân, là

cầu nối giữa dân với Đảng [78, tr.37-39].

Tuy nhiên, quan niệm của tác giả chủ yếu đi theo khía cạnh gắn quan

niệm nhân tố con người và phát huy nhân tố con người dưới sự tác động của

chính sách xã hội mà chưa đặt nó vào trong quá trình triển KT-XH. Mặc dù

vậy, đây vẫn là tài liệu tham khảo bổ ích, giúp NCS tiếp cận, luận giải những

vấn đề lý luận về nhân tố con người, phát huy nhân tố con người.

- Khăm Pheng Thíp Mun Ta Ly, Phát triển nguồn lực con người: Một số

quan điểm và khái niệm về con người [125]. Tác giả nêu quan niệm: “phát

huy nhân tố con người, coi con người là đối tượng, là động lực của sự phát

triển” [125, tr.84]. Theo tác giả, những nhà chiến lược phải coi trọng nhân tố

con người, xem con người như một động lực thúc đầy sự phát triển của kinh

tế, xã hội và phải có tầm nhìn chiến lược hơn về con người. Do vậy, việc nâng

cao vai trò của con người, coi con người là yếu tố quan trọng và là đối tượng

của sự phát triển là rất hợp lý. Tác giả phê phán quan điểm coi “mục tiêu” của

sự phát triển phụ thuộc vào đối tượng kinh tế, cho rằng giải quyết được các

vấn đề kinh tế là sẽ giải quyết được mọi vấn đề khác mà quên mất vai trò

quan trọng của con người, nhân tố con người trong phát triển kinh tế, xã hội.

Tác giả chỉ ra những nhân tố tác động đến nhân tố con người là lợi ích và nhu

cầu, coi đây là động lực tác động trực tiếp đến con người để phát huy, huy

động, thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của con người trong lao động sản

xuất. Những quan niệm đó được NCS tham khảo trong quá trình nghiên cứu

luận án của mình.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG

PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở

CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

- Đoàn chuyên gia kinh tế Việt Nam và Đoàn chuyên gia kinh tế Lào,

Chuyên đề: Phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006 - 2010 của Cộng hòa

13

Dân chủ Nhân dân Lào [26]. Nội dung bài viết đã đánh giá thực trạng thực

hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực tại Lào, nhất là đánh giá tình hình

thực hiện các mục tiêu trong phát triển nguồn nhân lực và đưa ra một số thành

tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực,

như: Thành tựu trong công tác xóa mù chữ, công tác giáo dục; mà được quan

tâm hàng đầu. Công tác xóa mù chữ được gắn chặt với việc xóa đói giảm

nghèo cho nhân dân, giúp người dân có thể tiếp cận với khoa học để có thể

ứng dụng trong cuộc sống thường ngày của họ: “Khoa học công nghệ trở

thành động lực cơ bản của sự phát triển KT-XH. Giáo dục là nền tảng của sự

phát triển của khoa học, công nghệ” [26, tr.1]. Hiện nay, công tác giáo dục

phát triển cả về số lượng và chất lượng, nội dung chương trình và phương

pháp giảng dạy được điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng hơn: “Nhân dân

từ đồng bằng đến miền núi đã nhận thức được vai trò của phát triển giáo dục,

đào tạo” [26, tr.5]. Đồng thời, Nhà nước đầu tư xây dựng trung tâm đào tạo,

bồi dưỡng nghề nghiệp, chuyên môn, có cả hệ thống sơ cấp, trung cấp, cao

đẳng và đại học, củng cố một số trường kỹ thuật, trường dạy nghề ở một số

tỉnh, thành để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.

Những hạn chế của phát triển nguồn nhân lực là do hệ thống giáo dục

chưa đồng bộ, việc đào tạo bồi dưỡng trong các ngành nghề thiếu sự cân đối,

cơ sở hạ tầng và các phương tiện dạy nghề thiếu, hoặc có nhưng cũ kỹ lạc

hậu, số giáo viên thiếu cả về số lượng và chất lượng, đầu tư cho giáo dục

còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước mà chưa huy động được

các nguồn vốn khác tham gia, tỷ lệ lao động qua đào tạo quá thấp nên năng

suất lao động rất thấp và càng không thể cạnh tranh trên thị trường lao động

quốc tế và khu vực; quan trọng nhất là không thể phát huy, huy động được

hết năng lực vốn có của đội ngũ người lao động, lãng phí nguồn lực trẻ dồi

dào của quốc gia. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó là do

nền kinh tế Lào chậm phát triển, thu nhập thấp, chính sách chế độ đối với

14

giáo viên chưa phù hợp, đầu tư cho giáo dục có hạn, nhân dân đặc biệt là

miền núi, vùng sâu, vùng xa chưa thấy được tầm quan trọng của việc nâng

cao trình độ dân trí.

Tuy tác giả chưa bàn trực diện về thực trạng phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH, nhưng nó cung cấp một số thông tin có giá trị liên

quan đến công trình nghiên cứu của NCS, như: các hệ thống chính sách, hệ

thống giáo dục, hệ thống đào tạo bồi dưỡng tay nghề, chuyên môn... Đó là

những tư liệu tác giả sẽ tham khảo, tiếp thu, khai thác phục vụ cho quá trình

thực hiện đề tài luận án của mình.

- Keo Chăn Tha Vi Xay, Sự di cư tự do của lực lượng lao động, ảnh

hưởng và thử thách khi gia nhập AEC [114]. Tác giả phân tích thực trạng

người lao động, nguồn lao động ở Lào: lao động trẻ chiếm tỷ lệ rất cao, cơ

cấu lao động đã chuyển dần từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công

nghiệp và dịch vụ, sự di cư của lực lượng lao động từ nông thôn chuyển vào

thành phố và chuyển sang nước ngoài để làm việc và thoát nghèo (cả đi hợp

pháp và không hợp pháp), trình độ tay nghề thấp. Trong quá trình chuyển dịch

cơ cấu lao động, lực lượng lao động cũng tiếp thu, học hỏi được kinh nghiệm

lao động, phát triển về tay nghề, chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của thị

trường lao động.

Theo tác giả, sau khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ tác động rất

lớn đến lực lượng lao động nói chung, lực lượng lao động Lào nói riêng, vì

“thị trường lao động có sự thay đổi, nhất là vấn đề di cư của lao động, vấn đề

trả công người lao động, điều kiện thuê lao động và nhu cầu về lao động lành

nghề sẽ tăng lên” [114, tr.105]. Do đó, người lao động phải có khả năng cạnh

tranh cao trong thị trường lao động. Đây vừa là thử thách, vừa là cơ hội của

lực lượng lao động Lào. Đối với lao động thông thạo tay nghề có cơ hội tìm

công việc mình ưa thích và được trả công phù hợp hơn, nhưng đối với người

lao động chưa có nghề hoặc chưa thông thạo về nghề nghiệp chuyên môn phải

15

nỗ lực trong học tập, rèn luyện và phát triển mình cho phù hợp với yêu cầu

của thị trường. Về cơ hội sau khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN:

Thị trường ASEAN có quy mô lớn, tạo cơ hội cho người lao động

có sự lựa chọn trong lao động, có cơ hội trong phát triển tri thức,

năng lực, kinh nghiệm trong lao động… tạo điều kiện cho người lao

động của các nước thành viên phát triển và tự do trong tìm kiếm

việc làm trong các nước thành viên [114, tr.108-109].

Về thách thức là:

Người lao động trình độ tay nghề thấp không thể tham gia trong thị

trường lao động hoặc bị đuổi việc;… dòng chảy của vốn đầu tư,

công nghệ và lao động lành nghề vào nước ta từ các nước thành

viên có thể làm cho một số lao động Lào trở thành người mất cơ hội

trong xã hội, đó là nhóm người có trình độ học vấn thấp, sống ở

nông thôn và sản xuất nông nghiệp tự cấp [114, tr.109].

Hiện nay “vấn đề tay nghề, tính năng động và tính kỷ luật của người lao

động đang là chướng ngại đối với hệ thống sản xuất công nghiệp” [114, tr.110].

Mặc dù tác giả chủ yếu phân tích thực trạng người lao động của Lào

trong môi trường chung của cộng đồng kinh tế ASEAN, chưa đi chính diện về

phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH, nhưng nó là tài liệu tham

khảo quan trọng, cung cấp một số thông tin hữu ích có liên quan đến thực

trạng của lao động, thị trường lao động ở Lào hiện nay.

- Khăm Pheng Thíp Mun Ta Ly, Vai trò sự phát triển nguồn nhân lực

khoa học xã hội đối với sự phát triển ở Lào [126]. Trong chương II của bài

viết, tác giả đã phân tích thực trạng nguồn nhân lực của Lào và nêu những chủ

trương của Đảng trong việc phát triển nguồn nhân lực để phát triển KT-XH.

Tác giả khẳng định: “Về trí lực và thể lực, người Lào có truyền thống cần cù,

thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường

dân tộc, phát triển về thể lực và trí lực, có tính năng động cao, có thể tiếp thu

16

nhanh kiến thức khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại” [126, tr.48]. Đây là

lợi thế lớn của nhân tố con người Lào trong quá trình phát triển KT-XH và

hội nhập quốc tế. Về thể lực, tác giả cho thấy, việc điều trị và chăm sóc sức

khỏe cho nhân dân đang được củng cố, nhất là cơ sở hạ tầng về dịch vụ y tế

phát triển tới vùng nông thôn, đảm bảo về thể lực cho lực lượng lao động

trong phát triển KT-XH trên cả nước. Tác giả chỉ ra những mặt hạn chế của

con người Lào như: người lao động Lào về thể lực chưa đáp ứng được yêu

cầu của nền sản xuất công nghiệp lớn, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe còn ở

mức độ thấp, nhất là về thể chất của người lao động Lào (cân nặng, chiều cao,

hình thể…). Hạn chế về trí lực là trình độ học vấn, trình độ khoa học, kỹ

thuật, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng và kinh nghiệm lao động của người lao

động chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH trong giai đoạn mới. Nguyên

nhân của hạn chế trên là do “từ một nền kinh tế nông nghiệp, phong cách tư

duy của người Lào còn mang nặng tính chất của người sản xuất nhỏ, thủ công,

lạc hậu” [126, tr.49].

Lực lượng lao động Lào sản xuất và quản lý bằng kinh nghiệm, bằng

trực giác, lấy kinh nghiệm công tác, lòng trung thành để đánh giá thành quả

lao động và phân chia thu nhập; lực lượng lao động chưa được đào tạo, bồi

dưỡng trong môi trường sản xuất công nghiệp, nên hiệu suất lao động chưa

cao và chưa đánh giá đúng mức; sự mâu thuẫn giữa trình độ hiện đại của trang

thiết bị kỹ thuật - công nghệ với trình độ lạc hậu của người lao động sử dụng

nó dẫn đến năng suất lao động thấp. Hiện nay, số cán bộ khoa học thuộc các

ngành kỹ thuật là cán bộ cơ chế kinh tế cũ nên kinh nghiệm, năng lực sáng tạo

công nghệ yếu, vừa thiếu, vừa bất hợp lý về cơ chế đào tạo, vừa phân bố

không đồng đều giữa các vùng và thành phần kinh tế. Điều đó ảnh hưởng đến

việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH, nhất là vấn đề trình

độ non kém, lạc hậu về khoa học - công nghệ (KH-CN), tác phong lao động,

kỹ thuật, sự hiểu biết về kinh tế thị trường, trách nhiệm cá nhân kém... và ảnh

17

hưởng trực tiếp đến khả năng lao động sản xuất, nhất là khả năng cạnh tranh

của người lao động trên diễn đàn quốc tế và khu vực. Mặc dù tác giả không đi

sâu nghiên cứu thực trạng về phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-

XH ở Lào, nhưng nó giúp NCS nắm được một số thông tin quý báu liên quan

đến công trình nghiên cứu của mình; nhất là tình trạng về thể lực, trí lực của

người lao động Lào.

- Sổm Chít Suk Sa Vắt, Kinh tế lao động [129]. Tác giả cho thấy thực

trạng và chính sách về lao động Lào: trước giải phóng 90% nhân dân Lào,

nhất là người dân trong độ tuổi lao động là nghề nông (làm ruộng, nuôi,

trồng) theo kiểu làm để đủ ăn, còn 10% lao động làm trong công nghiệp và

dịch vụ, chủ yếu ở các thành phố lớn. Nhưng từ khi giải phóng trở lại đây,

Nhà nước đã tập trung phát triển kinh tế, làm cho cơ cấu lao động trong cơ

cấu kinh tế ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

(CNH, HĐH), cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp giảm, ngành công

nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng. Nhất là từ khi đổi mới (1986) trở lại đây,

Nhà nước tạo nhiều điều kiện cho nhân dân có cơ hội làm việc, Nhà nước có

chính sách “tạo việc làm cho công dân và khuyến khích sản xuất để giải quyết

việc làm,… tập trung tạo việc làm trong các ngành, phát triển các nghề và các

ngành kinh tế mới, nhất là ngành công nghiệp và dịch vụ” [129, tr.147].

Chính sách đã thu hút được nhiều lao động tham gia vào sản xuất và thu hút

đông đào công dân trong độ tuổi lao động tham gia thị trường lao động. Để

phát huy nhân tố con người hiệu quả hơn trong phát triển KT-XH của Lào,

Nhà nước đã quan tâm tập trung phát triển các thành phần kinh tế. Ngoài

nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, Nhà nước còn huy động các nguồn vốn khác

vào phát triển các thành phần kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hóa, giúp người

lao động có việc làm, có thu nhập. Tác giả khẳng định: “tạo việc làm cho

người lao động là để tạo thu nhập cho lực lượng lao động và tạo thu nhập cho

đất nước,… thu nhập của đất nước là do lực lượng lao động làm ra” [129,

18

tr.150]. Theo tác giả, hạn chế của nhân tố con người ở Lào là trình độ học

vấn, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát

triển KT-XH trong thời đại mới. Những nội dung trên giúp NCS nắm được

một số thông tin bổ ích liên quan đến quá trình khảo sát thực trạng trong đề

tài luận án của mình.

- Chương Sổm Bun Khẳn, Những vấn đề kinh tế về sự phát triển ở Cộng

hoà Dân chủ Nhân dân Lào [127]. Tác giả đã phân tích những ưu điểm và hạn

chế người lao động Lào. Theo tác giả, ưu điểm của người lao động Lào là số

lượng lao động trẻ đông, còn hạn chế:

Người lao động có trình độ nghề nghiệp và tay nghề thấp, một số

người lao động không chịu khó phấn đấu trong lao động và học

tập, thiếu kỷ luật,… một số lực lượng lao động có trình độ học

vấn, chuyên môn, nghề nghiệp nhưng không có điều kiện và cơ

hội vào làm việc, vì các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp mà có

thể nhận họ vào làm việc phù hợp với trình độ chuyên môn có ít

mà ngược lại có rất nhiều người muốn vào làm, do đó tạo ra tình

trạng thất nghiệp. Đây đang là vấn đề bức xúc trong xã hội,… về

hình thể và sức khỏe còn yếu, một số người lao động hình thể thấp

(lùn) [127, tr.15, 16, 20].

Tác giả còn nêu nguyên nhân của sự nghèo đói của nhân dân và sự lạc

hậu của đất nước, là do “cách thức làm ăn, sản xuất và lao động kém năng

suất” [127, tr.17]. Sự phân tích của tác giả giúp NCS hiểu thêm những đặc

điểm của nhân tố con người Lào trên một số khía cạnh.

- Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông, Vai trò của chính sách xã hội đối với

việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay [78]. Tác giả phân tích thực

trạng chính sách xã hội nhằm phát huy nhân tố con người ở Lào, như: Một là,

chính sách dân số được coi là một trong những mục tiêu quan trọng trong

chiến lược phát triển KT-XH của đất nước trong trước mắt và lâu dài. Nhà

19

nước đã ban hành chính sách kế hoạch hóa gia đình, vì đây là một chính sách

ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và xã hội.

Tác giả nhận định, “Nếu tốc độ phát triển dân số không phù hợp với sự tăng

trưởng của kinh tế, thì dù kinh tế tăng trưởng nhanh thu nhập bình quân đầu

người tăng nhưng chỉ số bảo đảm y tế, giáo dục, văn hóa cho dân cư chẳng

những không tăng mà còn có nguy cơ bị suy giảm” [78, tr.79-80]. Hai là,

chính sách lao động và giải quyết việc làm: Cần phải có chính sách “tạo môi

trường thuận lợi cho người lao động làm chủ sức lao động của mình, mỗi

người sử dụng tiềm năng lao động đem lại lợi ích cho bản thân và xã hội” [78,

tr.82]; việc làm đang là vấn đề xã hội, vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách, vì

nếu giải quyết được việc cho lao động, cho xã hội sẽ là động lực rất lớn tác

động đến nhân tố con người, giúp con người có cơ hội tham gia sản xuất xã

hội, phát huy năng lực vốn có trong phát triển KT-XH. Ba là, chính sách về

vấn đề bảo vệ sức khỏe: vấn đề thể lực, sức khỏe rất quan trọng trong nhân tố

con người, vì con người có sức khỏe mới làm được việc cho mình và xã hội.

Bốn là, chính sách dân trí: Lào là một nước lạc hậu, trình độ khoa học - công

nghệ thấp, do vậy Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề trí lực của nhân dân và

người lao động. Năm là, chính sách xóa đói giảm nghèo. Sáu là, chính sách

đối với người có công với cách mạng. Nói chung các chính sách tác giả nêu

trên đều tác động đến việc phát huy nhân tố con người ở những phương diện

nhất định.

Tác giả chỉ ra những vấn đề bức xúc đang đặt ra, như: Tình trạng thất

nghiệp của Lào, đặc biệt là tập trung ở lứa tuổi thanh niên và đại bộ phận là

không có nghề; vấn đề tiền lương và thu nhập thực tế của một số bộ phận dân

cư còn thấp và tăng chậm, làm cho đời sống người lao động gặp nhiều khó

khăn; điều kiện lao động và vệ sinh lao động còn hạn chế, đặc biệt là tai nạn

lao động vẫn xảy ra chưa được giải quyết triệt đề; các tệ nạn xã hội chưa được

ngăn chặn kịp thời, nghiêm khắc và gây nhức nhối trong đời sống xã hội; nền

20

kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật kém phát triển; vấn đề giải quyết

hậu quả chiến tranh cũng hết sức nặng nề và phức tạp.

Nguyên nhân của những hạn chế trên, theo tác giả: nguyên nhân khách

quan, do Lào là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nền sản xuất nhỏ,

dựa vào tự nhiên, kém phát triển về mọi mặt. Còn nguyên nhân chủ quan là

do thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong một thời gian dài,

thiếu tính năng động sáng tạo, đồng thời quy trình thực hiện cơ chế chính

sách chưa đồng bộ, chưa cụ thể dẫn đến kết quả không cao. Nhận thức của

Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, địa phương về chính sách xã hội còn

nông cạn, chỉ thấy một số mặt trọng yếu và khoán trắng cho các cơ quan

chuyên môn chức năng, chưa thấy nó là một động lực lớn trong quá trình

phát triển KT-XH của Lào [78, tr.100].

Công trình này tập trung nghiên cứu, phân tích vấn đề thực trạng về chính

sách xã hội của Lào trong việc phát huy nhân tố con người, đề cập một số

chính sách có liên quan đến việc phát huy nhân tố con người, phân tích khá rõ

về những vấn đề bức xúc và nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện

chính sách xã hội ở Lào. Đó là một nguồn thông tin có ích, giúp NCS trong quá

trình khảo sát thực trạng để thực hiện nghiên cứu đề tài luận án của mình.

- Sư Lao Sô Tu Ky, Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở

thủ đô Viêng Chăn [57]. Luận án đã phân tích, đánh giá thực trạng nguồn

nhân lực trong phát triển KT-XH ở Thủ đô Viêng Chăn. Tác giả phân tích

thực trạng về sự phân bố, sử dụng nguồn nhân lực theo ngành nghề và vùng ở

Thủ đô Viêng Chăn; thực trạng về số lượng, chất lượng của nguồn nhân lực,

chỉ ra vấn đề phẩm chất đạo đức và trình độ văn hoá, về phong cách và tác

phong, về giáo dục và đào tạo, hệ thống đào tạo nghề, hệ thống quản lý, cơ

chế chính sách và điều kiện đảm bảo trong đào tạo, hệ thống y tế chăm sóc

sức khỏe… Từ thực trạng trên, tác giả đã phân tích và đánh giá chung về

những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, phân tích

21

những vấn đề đang đặt ra, như: “Một là, về đào tạo nguồn nhân lực; Hai là, về

sử dụng nguồn nhân lực; Ba là, về thu hút nguồn nhân lực” [57, tr.123-125].

Ngoài ra, tác giả còn làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực

trong phát triển KT-XH, đó là trình độ phát triển của KT-XH, giáo dục - đào

tạo, dân số, KH-CN, y tế và chăm sóc sức khỏe, hệ thống các chính sách xã

hội, mức độ hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá. Tác giả khẳng định:

“Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế” [57, tr.50].

Nói chung, công trình chủ yếu nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực ở

Thủ đô Viêng Chăn dưới góc độ kinh tế, song tài liệu đó được NCS tham

khảo và làm sáng tỏ thêm trong quá trình nghiên cứu luận án của mình.

- Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông, Phát huy nhân tố con người trong sự

nghiệp đổi mới ở nước ta là yêu cầu khách quan [137]. Bài viết đã trình bày

thực trạng nhân tố con người trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới,

nhưng tác giả chưa làm rõ thực trạng nhân tố con người với tư cách là động

lực tác động đến sự phát triển KT-XH của Lào. Tác giả chỉ ra, nước Lào là

một nước nghèo, kém phát triển về mọi mặt, nhất là trình độ lực lượng sản

xuất thấp, công cụ lao động còn rất thô sơ, trình độ khoa học, kỹ thuật và

chuyên môn của nhân tố con người thấp kém, đội ngũ khoa học, kỹ thuật và

công nghệ ít, trình độ học vấn, trình độ dân trí vừa thấp vừa không đồng đều...

ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước. Những nội

dung bài viết giúp NCS hiểu rõ hơn về thực trạng nhân tố con người của Lào

trong thời gian qua, giúp tác giả tham khảo để giải quyết những nhiệm vụ

luận án đặt ra.

1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP PHÁT

HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG

HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

- Sommad Phonesena, Chiến lược đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

để đáp ứng cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại Lào [55]. Tác giả

phân tích hai thập kỷ thực hiện chủ trương đổi mối, đất nước Lào bước sang

22

một thời kỳ, trong đó vị thế kinh tế và năng lực không còn đơn thuần phụ

thuộc vào sự sẵn có của các lợi thế cạnh tranh truyền thống, dựa trên tài

nguyên thiên nhiên và chi phí lao động rẻ. Trong đổi mới, yếu tố nguồn nhân

lực chất lượng cao, có đủ tri thức và kỹ năng, sẽ giữ vai trò then chốt đảm bảo

cho khả năng phát triển, hội nhập thành công của nền kinh tế. Để đạt được

những mục tiêu này, đất nước đối mặt với nhiều thách thức: yếu tố địa lý,

trình độ phát triển chênh lệch, và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực còn

yếu kém. Để làm được điều này, Nhà nước và nhân dân Lào phải đồng tâm

hiệp lực với sự giúp đỡ quốc tế, thực hiện tốt các chính sách đã đề ra trong

lĩnh vực giáo dục, y tế và dinh dưỡng. Nghĩa là phải phát huy vốn hỗ trợ giúp

đỡ của quốc tế và vốn nhân lực của chúng ta hiệu quả hơn, nhất là thực hiện

công tác giáo dục cho mọi người, nâng cao mặt bằng dân trí (trình độ văn hóa,

trình độ tay nghề), quan tâm đến việc nâng cao thể lực, sức khỏe, dinh dưỡng

cho người dân, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Những kết quả

nghiên cứu trên mặc dù chưa đưa ra được những giải pháp trực diện về phát

huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở Lào, nhưng nó là tài liệu

tham khảo có giá trị mà có thể kế thừa, nhất là về những tiêu chí đánh giá

nguồn nhân lực, về chỉ số phát triển con người HDI của Lào và những chính

sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực.

- Keo Chăn Tha Vi Xay, Sự di cư tự do của lực lượng lao động, ảnh

hưởng và thử thách khi gia nhập AEC [114]. Tác giả khẳng định, để tạo điều

kiện thuận lợi trong việc huy động, phát huy phẩm chất, thể lực, trí lực của

NTCN trong phát triển KT-XH của đất nước cần chú trọng một số vấn đề sau:

Một là, tăng cường phát triển lực lượng lao động đảm bảo về tri

thức, năng lực, tay nghề và kỷ luật trong lao động; Hai là, tăng

cường tạo việc làm phù hợp với người sử dụng lao động và người

bán sức lao động, khuyến khích tự tạo việc làm; Ba là, tăng cường

sự quản lý, bảo vệ và kiểm tra lao động, xây dựng hệ thống phúc lợi

23

xã hội, an ninh, sức khỏe và môi trường lao động của người lao

động để bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao

động theo pháp luật; Bốn là, tăng cường quan hệ hợp tác với nước

ngoài, tranh thủ vốn đầu tư và kỹ thuật để phát triển tay nghề; Năm

là, tăng cường xây dựng hệ thống thông tin - tư liệu về lao động

[114, tr.110-111].

Đây là tài liệu có giá trị tham khảo nhất định đối với NCS trong việc đề

xuất những giải pháp để phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế -

xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

- Sổm Chít Suk Sa Vắt, Kinh tế lao động [129]. Tác giả nếu một số giải

pháp có liên quan đến việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-

XH ở Lào, như: “Cần phải củng cố hệ thống và cách thức làm việc của thị

trường lao động, nhất là hệ thống tìm kiếm việc làm, hệ thống thông tin liên

quan đến vấn đề cung - cầu lao động để có thể bố trí sử dụng hợp lý giữa

người với việc nhằm bảo đảm sự ổn định trong sản xuất kinh tế” [129, tr.5].

Tác giả cho rằng, cần quan tâm đến việc đầu tư phát triển nguồn lực con

người, vì việc làm và thuê lao động có liên quan trực tiếp đến nghề nghiệp và

tay nghề:

Nhà nước nên nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển

nguồn lực con người,… các đơn vị kinh tế cần phải hướng dẫn,

huấn luyện, bồi dưỡng người lao động những nghề mà họ làm,

ngoài tạo cho họ thành thạo về tay nghề còn giúp họ có kỷ luật

trong lao động, và một yếu tố quan trọng nữa cần phải có hệ thống

phúc lợi xã hội tốt [129, tr.5-6].

Theo tác giả, đó là động lực quan trọng để huy động, thúc đẩy ý thức

sáng tạo con người trong quá trình lao động sản xuất của mình. Do vậy, nội

dung cuốn sách này rất bổ ích, là tài liệu tham khảo giúp NCS trong việc đề

xuất giải pháp cho đề tài luận án của mình.

24

- Chương Sổm Bun Khẳn, Những vấn đề kinh tế về sự phát triển ở Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào [127]. Tác giả trình bày vai trò của con người hay

lực lượng lao động đối với sự phát triển ở Lào. Trong chương II, tác giả đặt

câu hỏi “sẽ phát triển nước Lào như thế nào?” và chỉ dẫn, muốn phát triển

thành công không có gì khác là phải coi con người là trung tâm của sự phát

triển, phải tập trung phát huy năng lực, phẩm chất của con người “vào trong

lao động sản xuất, và tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo cho xã hội,

tạo ra môi trường bình đẳng, công bằng” [127, tr.53].

Trong chương III với tên gọi: “Sự tăng trưởng: ý nghĩa và tầm quan

trọng đối với sự phát triển”, tác giả nhấn mạnh: “Lực lượng lao động là nhân

tố quyết định sự phát triển của kinh tế nước ta” [127, tr.77]. Do đó, muốn phát

triển, ngoài đầu tư cho cơ sở hạ tầng cũng cần phải đầu tư cho phát triển con

người để đảm bảo tăng năng suất lao động. Nghĩa là phải tăng trưởng và phát

triển lực lượng sản xuất có trình độ về KH-CN, có phương thức sản xuất tiên

tiến trong lao động sản xuất và dịch vụ: “cần phải đầu tư cho việc đào tạo -

bồi dưỡng để nâng cao trình độ, khả năng và tay nghề của lực lượng lao

động… để trở thành nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển theo hướng CNH,

HĐH” [127, tr.79]. Kết quả nghiên cứu giúp NCS có thêm căn cứ để đưa ra

một số giải pháp phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở Lào

hiện nay.

- Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông, Vai trò của chính sách xã hội đối với

việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay [78]. Để phát huy nhân tố con

người ở Lào hiệu quả, tác giả đã đề xuất một số giải pháp, như: “Một là, có

chính sách bố trí lại cơ cấu dân cư, phân công lao động, giải quyết việc làm để

khơi dậy và phát huy nhân tố con người” [78, tr.118]. Theo tác giả, giải quyết

tốt vấn đề việc làm sẽ góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát

triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. “Hai là, cải cách chính sách giáo dục, nâng

cao dân trí nhằm khơi dậy phát huy nguồn lực con người” [78, tr.124]. Trong

25

giải pháp này, tác giả nhấn mạnh yếu tố giáo dục, yếu tố dân trí và khẳng

định, trong thời đại ngày nay bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều nhất

thiết phải nâng cao mặt bằng dân trí, bởi chỉ có vậy mới nắm bắt được những

thành tựu của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. “Ba là, giải

quyết quan hệ dân số với phát triển phù hợp với đặc điểm Lào” [78, tr.126].

Để phát huy hiệu quả nhân tố con người cần phải có chính sách dân số phù

hợp với sự tăng trường kinh tế của nước nhà, như thế nó sẽ là động lực của sự

phát triển KT-XH. “Bốn là, chống tệ nạn tham nhũng, tệ nạn xã hội nhằm tạo

quan hệ xã hội lành mạnh để phát huy nhân tố con người” [78, tr.129]. Trong

giải pháp này, tác giả nhấn mạnh việc tăng cường quản lý, kiểm tra, xóa đặc

quyền đặc lợi triệt để. Những giải pháp tác giả đưa ra, NCS sẽ tham khảo, kế

thừa có chọn lọc trong việc đề xuất những giải pháp trong công trình nghiên

cứu của mình.

- Sư Lao Sô Tu Ky, Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ

đô Viêng Chăn [57]. Tác giả luận án đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu

nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển KT-XH ở Thủ đô Viêng Chăn

đến năm 2020. Cụ thể như: Thứ nhất, giải pháp nâng cao nhận thức về nguồn

nhân lực; Thứ hai, giải pháp về đổi mới, phát triển toàn diện giáo dục - đào

tạo (GD-ĐT); Thứ ba, giải pháp về thu hút, khai thác và sử dụng nguồn nhân

lực; Thứ tư, giải pháp nâng cao thể lực, chất lượng dân số, cải thiện môi

trường sống; Thứ năm, giải pháp mở rộng hợp tác quốc tế trong phát triển

nguồn nhân lực; Thứ sáu, giải pháp về chính sách huy động các nguồn lực

cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Những giải pháp tác giả đề xuất chủ yếu

xuất phát từ góc độ kinh tế và trong phạm vi của Thủ đô Viêng Chăn. Tuy

nhiên, nó cũng là tài liệu có giá trị đối với NCS trong quá trình nghiên cứu

của mình.

- Xỉ Tha Lườn Khăm Phu Vông, Phát huy nhân tố con người trong sự

nghiệp đổi mới ở nước ta là yêu cầu khách quan [137]. Trên cơ sở phân tích

26

thực trạng của nhân tố con người của Lào, tác giả khẳng định: “con người

sáng tạo ra lịch sử, làm chủ lịch sử… muốn hoàn thành được mục tiêu đề ra

cần phải phát triển con người về mọi mặt” [137, tr.17]. Theo tác giả, muốn

phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Lào, cần phải quan tâm

thực hiện một số biện pháp, như: Một là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa để khai thác mọi năng lực sản

xuất và tiềm năng xã hội; Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ; Ba là,

xây dựng xã hội lành mạnh để tạo điều kiện cho con người phát triển; Bốn là,

phát triển GD-ĐT, phát huy nguồn lực con người; Năm là, mở rộng giao lưu

quốc tế. Theo nghiên cứu sinh, đây là biện pháp tích cực trong việc phát huy

nhân tố con người; tác giả có cách nhìn khách quan về vai trò của nhân tố con

người. Do vậy, công trình nghiên cứu này rất bổ ích trong quá trình viết luận

án của mình.

- Khăm Phải Sạ Phăng Nửa, Kinh tế tri thức với sự nghiệp Công nghiệp

hóa, hiện đại hóa [124]. Tác giả nêu kinh nghiệm một số nước trên thế giới áp

dụng kinh tế tri thức trong phát triển đất nước. Theo tác giả “muốn phát triển

rút ngắn thời gian trong sự nghiệp CNH, HĐH không có con đường nào khác

ngoài phát triển kinh tế tri thức (phát triển nguồn lực con người), phát triển trí

tuệ của con người trở thành con người thông minh linh hoạt, có đạo đức, năng

lực sáng tạo” [124, tr.58]. Tác giả đề xuất một số biện pháp: Một là, quan tâm

phát triển nhân tố con người, bồi dưỡng và phát huy những người giỏi, có sự

đầu tư trong việc đào tạo con người. Đây là yếu tố quyết định trong sự nghiệp

CNH, HĐH ở Lào, bởi nó sẽ đào tạo ra những con người thông minh linh

hoạt, thích học hỏi và nghiên cứu khoa học; Hai là, có chính sách đào tạo cán

bộ đồng bộ và phát triển nguồn lực con người: “cần phải phát triển nguồn lực

con người đảm bảo về đạo đức, trí thức, năng lực và sức khỏe,… nâng cao

trình độ dân trí” [124, tr.60] và “Phát triển trí thức-năng lực và trí tuệ cho

những người thế hệ sau là yêu cầu khách quan” [124, tr.61]. Các biện pháp

27

nêu trên có ý nghĩa phương pháp luận, giúp NCS đề xuất những giải pháp cần

thiết trong luận án của mình.

- Bun Sạ Thiên King Keo Bun Nong, Phát triển nguồn lực con người

gắn liền với việc phát triển tay nghề [141]. Bài viết phân tích vai trò của lực

lượng lao động trong phát triển KT-XH của Lào, khẳng định phải “tiếp tục

phát triển nguồn lực con người để có thể đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH

của đất nước” [141, tr.22]. Để thực hiện được điều đó, tác giả đã nêu một số

định hướng: “phát triển lực lượng lao động Lào giỏi về tay nghề, có kiến

thức, năng lực, thông thạo tay nghề, kỷ luật; phát triển hệ thống phúc lợi xã

hội, huy động toàn xã hội tham gia giúp đỡ hỗ trợ cho những người không

có điều kiện trong phát triển, những con người gặp rủi ro, tệ nạn xã hội…”

[141, tr.23] và “quan tâm đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở

trong nước và ngoài nước, bảo vệ lợi ích, sức khỏe, quyền bình đằng,… giáo

dục con người trở thành con người có tri thức, đạo đức cách mạng và công

dân tốt của đất nước” [141, tr.24]. Những nội dung trên là tài liệu tham khảo

quý báu để NCS tham khảo, tiếp thu, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp sát thực

hơn đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở Lào

hiện nay.

1.4. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ TỔNG

QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.4.1. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan

Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án nêu trên đã cung

cấp những thông tin dưới nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau, như:

Thứ nhất, nhìn chung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận

án nêu trên đã luận giải các vấn đề lý luận cơ bản về nhân tố con người, phát

huy nhân tố con người để phát triển KT-XH. Các công trình nghiên cứu đó

đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến những vấn đề về nhân tố con

người, phát huy nhân tố con người, đặc điểm, tầm quan trọng của nhân tố con

28

người và việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH; xác định

các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người... Các tác giả đều

thống nhất nhận định, con người, nhân tố con người là nhân tố quyết định sự

phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ hai, một số công trình đã phân tích những ưu điểm, hạn chế và xác

định những vấn đề đang đặt ra trong việc phát huy nhân tố con người ở

những phương diện nhất định. Có những công trình nghiên cứu, khảo sát

thực trạng liên quan đến vấn đề nhân tố con người, phát huy nhân tố con

người trên một số khía cạnh: về trí lực, thể lực, tâm lực, phẩm chất, việc

làm, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động, lợi ích,... Nhìn chung, các tác giả

đều đánh giá nhân tố con người hay nguồn lực con người của Lào vẫn chưa

đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao trong phát triển KT-XH của đất

nước hiện nay.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra những giải pháp chủ

yếu để tiếp tục phát huy nhân tố con người trên những phương diện nhất

định. Trong những công trình đó, nhiều tác giả nhấn mạnh đến các giải pháp,

như: phát triển GD-ĐT, coi trọng lợi ích của người lao động, vấn đề chính

sách xã hội, tạo môi trường lao động v.v.. nhằm phát huy hết trí lực, thể lực,

tâm lực, phẩm chất của nhân tố con người, góp phần phát triển KT-XH của

đất nước.

Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu bàn

đến việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND

Lào, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu

rộng như hiện nay.

1.4.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Trong quá trình đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, ĐNDCM Lào

luôn chú trọng đến nhân tố con người cũng như coi trọng vấn đề phát huy

29

nhân tố con người để đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển KT-XH và thực

hiện sự nghiệp CNH, HĐH ở Lào. Đáp ứng yêu cầu đó, luận án tiếp tục

nghiên cứu những vấn đề sau:

1. Nghiên cứu làm rõ vấn đề cơ sở lý luận về nhân tố con người, phát

huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội để định hướng trong

việc nghiên cứu đề tài luận án này. Thực hiện làm rõ tầm quan trọng và những

yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người trong phát triển

kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

2. Nghiên cứu làm rõ thực trạng phát huy nhân tố con người trong phát

triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong thời gian vừa

qua; và chỉ ra những thành tựu, lý giải những hạn chế và nguyên nhân của

những hạn chế của luận án.

3. Đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi để phát huy hiệu quả

nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân

dân Lào trong những năm tới trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân của

những hạn chế.

Tóm lại, trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước,

luận án tiếp tục nghiên cứu vấn đề phát huy nhân tố con người trong phát triển

KT-XH ở CHDCND Lào trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc

cách mạng KH-CN hiện nay.

30

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề cấp

bách, cần thiết đối với nước Lào hiện nay. Nhưng để phát huy hiệu quả nhân

tố con người cũng cần phải tìm hiểu và nghiên cứu khai thác những công trình

có liên quan đến vấn đề này, cả về vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp, cả

ở trong nước và ngoài nước để làm cơ sở trong việc thực hiện nghiên cứu đề

tài luận án của mình.

Trong quá trình khảo sát, nghiên cứu của tác giả; nhìn chung, đã có

không ít công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề

nhân tố con người, phát huy nhân tố con người trong phát triển KT - XH;

những công trình đó góp phần làm rõ tầm quan trọng của nhân tố con người,

phát huy nhân tố con người và góp phần làm rõ về cơ sở lý luận, thực trạng

và giải pháp trên một số phương diện nhất định. Đó là những công trình

công phu, nghiêm túc, có giá trị và là tài liệu tham khảo bổ ích đối với tác

giả luận án. Với công trình của mình, tác giả luận án mong muốn sẽ góp

phần không chỉ làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con

người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào hiện nay mà còn nghiên cứu

phân tích làm rõ thực trạng trong vấn đề này và cung cấp những giải pháp có

cơ sở khoa học, có tính khả thi để có thể áp dụng trong thực tiễn nhằm phát

huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở CHDCND Lào một cách

hiệu quả trong thời gian tới.

31

Chương 2

PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ

CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

2.1.1. Quan niệm về nhân tố con người

Nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội. Trong lịch sử triết học, nhân tố con người là đề tài được

đề cập rất phổ biến. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Lịch sử chẳng qua chỉ

là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình” [4,

tr.141]. Sự khác nhau căn bản giữa sự phát triển của xã hội và sự tiến hóa của

tự nhiên là: “Trong lịch sử của xã hội, nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là

những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ, hay có nhiệt tình theo

đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại không có ý định

tự giác, không có mục đích mong muốn” [8, tr.435].

Quan điểm mác xít về con người và bản chất con người đã đem lại

phương pháp tiếp cận và nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người.

Quan điểm đó đòi hỏi phải xem xét nhân tố con người trong một chỉnh thể

thống nhất toàn vẹn, bao quát những đặc trưng bản chất nói lên con người vừa

là chủ thể hoạt động, chủ thể mang đặc trưng về phẩm chất, năng lực, đồng

thời là chủ thể tiếp thu sáng tạo giá trị xã hội. Mối quan hệ biện chứng giữa

các mặt hoạt động, các đặc trưng về phẩm chất, năng lực... tạo thành nhân tố

con người như một chỉnh thể thống nhất. Mặt khác, chính sự tác động qua lại

giữa các mặt, các đặc trưng về năng lực, phẩm chất của con người làm cho

nhân tố con người luôn luôn vận động, phát triển không ngừng trong tiến trình

lịch sử, qua đó phản ánh quá trình con người sáng tạo ra thế giới và sáng tạo

ra chính bản thân mình.

32

Nhân tố con người là sự thống nhất hữu cơ của các mối quan hệ giữa mặt

hoạt động với đặc trưng về năng lực, phẩm chất mang tính lịch sử - xã hội của

con người, được biểu hiện và thực hiện trong quá trình hoạt động sáng tạo ra

toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần để đáp ứng yêu cầu của sống.

R.G.Janovski cho rằng, nhân tố con người “như là tổng hòa những khả năng,

thuộc tính, trí thức, kinh nghiệm, năng lực và thói quen đang phát triển của

con người mà chúng biểu lộ trong hoạt động của con người và qua đó ảnh

hưởng đến các quá trình xã hội” [12, tr.70]. G.A.Emel’Janor coi nhân tố con

người “như là hoạt động của những con người riêng biệt, những năng lực và

khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích cũng như tiềm năng trí lực và thể

lực của mỗi con người quyết định” [27, tr.69-70]. Có tác giả lại quan niệm:

Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định

vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm

một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc

trưng về phẩm chất, năng lực của con người trong một quá trình

biến đổi và phát triển xã hội nhất định [59, tr.120].

Kế thừa những quan điểm trên, có thể hiểu nhân tố con người là hệ

thống các thuộc tính, các đặc trưng quy định vai trò chủ thể tích cực, tự giác,

sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt

động với tổng hòa những đặc trưng về trí lực, thể lực, tâm lực của con người

trong quá trình phát triển lịch sử nhất định.

Quan niệm trên khái quát được những phẩm chất xã hội căn bản nhất, đó

là những “tố chất người” hay nhân tố “người” quy định vai trò chủ thể của

con người trong quá trình biến đổi và phát triển của xã hội; đồng thời phản

ánh được tính hệ thống, tính lịch sử - cụ thể và phát triển của nhân tố con

người. Nhân tố con người là cái để phân biệt giữa nhân tố “người” với các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, tài nguyên thiên nhiên, vốn… và khẳng định

vai trò của nhân tố “người” với các nhân tố đó. Nhân tố con người không thể

33

tách khỏi sự hoạt động thực tiễn của con người, còn năng lực, phẩm chất, trí

tuệ, đạo đức, nhân cách, kỹ năng,… được thể hiện thông qua hoạt động và

quy định vai trò chủ thể của con người.

Có thể nói, nhân tố con người chính là sự thống nhất hữu cơ các mối

quan hệ giữa các mặt trong hoạt động với các yếu tố đặc trưng về năng lực,

phẩm chất xã hội của con người đặt trong quá trình hoạt động lao động, sáng

tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần hiện thực. Do đó, khi nghiên cứu

nhân tố con người cũng cần nắm rõ nội dung cấu thành của nó: nhân tố con

người được xem xét trên bình diện thể chất và tinh thần như sức khỏe và trí

tuệ, năng lực và phẩm chất hay nhân tố con người là sự kết hợp giữa trí lực,

thể lực và tâm lực, nhân cách, đạo đức, khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu

quả hoạt động và triển vọng của con người. Tác giả Trần Thanh Đức cho

rằng, nội dung cấu thành nhân tố con người bao gồm:

Những tiêu chí về số lượng và chất lượng của dân số và lao động;

những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của con người,

nói lên khả năng sáng tạo của con người trong hệ thống các quan hệ

xã hội, nói lên giá trị và trình độ phát triển của con người bao gồm

cả năng lực chuyên môn, thái độ lao động, ý thức xã hội chính trị,

những giá trị và chuẩn mực đạo đức [15, tr.20].

Theo tác giả luận án, khi nghiên cứu vấn đề nhân tố con người cần tập

trung vào một số nội dung cấu thành cơ bản sau:

Một là, về trí lực - thể hiện ở năng lực trí tuệ, kiến thức, tri thức, trình độ

học vấn, kỹ năng, kỹ xảo... Đây là cái nói lên tiềm lực văn hóa tinh thần của

con người, nó quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người bởi “tất

cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất yếu phải thông qua đầu óc

của họ” [8, tr.409]. Nhưng để có được những năng lực này, ngoài tư chất ban

đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo, vì nó là phương tiện hữu

34

hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn, nghề nghiệp, là "giá đỡ" cho

tiềm năng sáng tạo của con người.

Hai là, thể lực - biểu hiện ở những yếu tố thuộc về thể chất của con

người như sức khỏe, chiều cao, cân nặng, sức bền, tuổi thọ.. để đảm bảo cho

con người phát triển, trưởng thành một cách bình thường hoặc có thể đáp ứng

được những đòi hỏi về sự hao phí các sức lực thần kinh, bắp thịt trong lao

động. Do vậy, sức khỏe được coi là nguồn gốc của hạnh phúc, tài sản của mỗi

con người, mỗi quốc gia và là động lực để phát triển KT-XH, tạo nên sức

mạnh của đất nước.

Ba là, tâm lực - những yếu tố nói lên sức mạnh của ý chí, của tinh thần,

phẩm chất đạo đức, nhân cách, văn hóa tinh thần, lối sống, lý tưởng, niềm tin,

tính cần cù, chịu thương chịu khó, tính hăng say sáng tạo... của con người. Để

hiểu một cách đúng đắn, toàn diện về nhân tố con người đòi hỏi phải quan

tâm thích đáng đến yếu tố thể lực, trí lực, nhưng cũng cần phải coi trọng mặt

đạo đức, nhân cách, lý tưởng... bởi đó là những yếu tố quan trọng làm nên giá

trị của con người.

Bốn là, khi nói đến nhân tố con người chính là nói đến con người với

tính cách là một thực thể hoạt động, là chủ thể cải tạo thế giới xung quanh và

cải tạo các mối quan hệ xã hội. Nhân tố con người trên phương diện xã hội

với tư cách là nguồn lực phát triển trong quan hệ tác động với các nguồn lực

khác, là sức mạnh cộng đồng của quốc gia, dân tộc; do đó, “nghiên cứu nhân

tố con người không thể dừng lại ở cá nhân, mà phải đặt nó trong mối quan hệ

xã hội, nhất là trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội” [15,

tr.18]. Khi xem xét nhân tố con người cần chú ý đến tính hiện thực cụ thể và

khảo sát tính tập thể cộng đồng của nó, phải gắn nó với sản xuất và phát triển

lực lượng sản xuất.

Năm là, hoạt động của con người xuất phát từ nhu cầu và lợi ích, do đó

việc quan tâm đến nhu cầu, lợi ích chính đáng của con người rất quan trọng.

35

Vì thế, cần có chủ trương, chính sách bảo đảm lợi ích, quyền lợi của con

người cũng như chính sách nhằm tạo động lực cả về vật chất và tinh thần để

thúc đẩy tính chủ động, tích cực sáng tạo của con người. C.Mác từng nhấn

mạnh, tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với

lợi ích của họ. V.I.Lênin cho rằng: “những người mác-xít cần tìm nguồn gốc

của những hiện tưởng xã hội ở trong quan hệ sản xuất, và phải quy những

hiện tượng ấy vào lợi ích của những giai cấp nhất định” [71, tr.670].

Nhu cầu là một động lực quan trọng thúc đẩy sự vận động, phát triển của

con người để con người hăng say trong lao động sản xuất. Nhu cầu con người

rất đa dạng, phức tạp, gồm nhiều loại khác nhau. Dale Carnegie, tác giả cuốn

sách “Đắc nhân tâm”, đã phân nhu cầu thành bẩy loại: Một là, sức khỏe và

sinh mạng; hai là, ăn; ba là, ngủ; bốn là, tiền của; năm là, danh tiếng cho đời

sau; sáu là, tình dục; bảy là, con cái sung sướng. A.H. Maslow đã xây dựng

một học thuyết về động cơ thúc đẩy hành vi của con người và cho rằng nhu

cầu cơ bản của con người “bắt đầu từ nhu cầu sinh lý; nhu cầu an ninh; nhu

cầu tình cảm; kính trọng; hoạt động thực tiễn; tri thức; thẩm mỹ” [54, tr.27-

28]. Các nhu cầu đó là những động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sự vận động và chi

phối các hành vi của con người, kể cả trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội

và với bản thân. V.I.Lênin cho rằng, chính “những lợi ích thúc đẩy đời sống

của các dân tộc [73, tr.98].

Quan hệ lợi ích nảy sinh trước hết trên cơ sở nhu cầu, lợi ích chính là cơ

sở, động lực trực tiếp của tính tích cực xã hội của con người. Việc tạo điều

kiện cho người lao động đem hết trí lực, thể lực, tâm lực tham gia tích cực

vào mọi hoạt động kinh tế - xã hội, trước hết là đảm bảo lợi ích thiết thân,

thỏa mãn nhu cầu của chính bản thân họ. Đó là vấn đề cơ bản và vấn đề mấu

chốt để phát huy nhân tố con người.

Từ sự phân tích trên cho thấy, khái niệm nhân tố con người khá gần gũi

và có mối liên hệ mất thiết với khái niệm con người, khái niệm nguồn nhân

lực nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất với nhau.

36

Khái niệm “con người” rộng hơn, phong phú hơn, bao gồm tổng hòa các

phẩm chất tự nhiên, xã hội và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa

học, cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội và nhân văn. Còn khi nói đến

nhân tố con người là nhấn mạnh cái cốt lõi, đặc trưng xã hội giữ vị trí trung

tâm trong tiềm năng của con người; nhấn mạnh đến mặt chủ thể của hoạt

động, của các mối quan hệ của con người. Nhân tố con người còn nhấn mạnh

đến mặt xã hội, đến tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của con người,

của cộng đồng người hay các thế hệ người trong xã hội. Khi xem xét nhân tố

con người, phải đặt nó trong các mối quan hệ giữa con người với các nhân tố

khác để tạo nên sự phát triển, như: nhân tố tự nhiên, nhân tố kỹ thuật, máy

móc, môi trường, điều kiện lịch sử cụ thể cũng như các hoạt động phát triển

xã hội và phát triển con người.

Khái niệm "nguồn nhân lực" hay "nguồn lực con người" được dùng cùng

nghĩa. Cả hai cụm từ đó đều được dịch từ cụm từ "human resources". Khái

niệm nguồn lực con người hay nguồn nhân lực thường được xem xét dưới hai

góc độ là số lượng và chất lượng của bộ phần dân cư tham gia vào hoạt động

kinh tế, xã hội. Về mặt số lượng của nguồn nhân lực chính là lực lượng lao

động và khả năng cung cấp lao động, hay là các chỉ tiêu về quy mô và đốc độ

gia tăng của nguồn nhân lực; còn về mặt chất lượng là nói đến khả năng hoạt

động, sáng tạo của con người trong phát triển kinh tế, xã hội.

2.1.2. Những nội dung cơ bản về việc phát huy nhân tố con người

trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của mọi hoạt động kinh tế -

xã hội. Nói cách khác, chính con người là chủ thể thúc đẩy phát triển KT-XH

và chính con người là đối tượng hướng tới của mọi hoạt động KT-XH. Do đó,

việc nhận thức rõ về phát huy nhân tố con người, nhất là phát huy nhân tố con

người trong phát triển KT-XH là một vấn đề quan trọng.

37

Trước hết, cần làm rõ vấn đề “phát huy" là gì ?. Theo Từ điển tiếng Việt,

phát huy là làm cho cái tốt nhân thêm, tác dụng thúc đẩy, tiếp tục nảy nở

nhiều hơn: “Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy

nở thêm” [77, tr.768].

Như vậy, phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội là

làm bộc lộ, khai thác, sử dụng và tỏa sáng những phẩm chất, năng lực vốn có

trong mỗi con người và cộng đồng người với tư cách là những chủ thể đặc

biệt để phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu và lợi ích của xã hội trong

lịch sử nhất định.

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội là sự huy

động, phát huy các bộ phận giá trị, phẩm chất, năng lực của nhân lực quốc gia

để nó tỏa ra tác dụng trong quá trình hoạt động lao động sản xuất, bao gồm

các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động. Đó là việc tập trung khai thác, sử

dụng những trí lực, thể lực, tâm lực… của lực lượng lao động tham gia trong

phát triển KT-XH. Tuy nhiên, để phát huy nhân tố con người trong phát triển

KT-XH hiệu quả và bền vững, cũng cần có một cách nhìn khách quan hơn,

ngoài việc chúng ta khai thác, sử dụng, tận dụng, chúng ta cũng cần phải có

sự chuẩn bị tạo ra giá trị, phẩm chất, năng lực của nhân tố con để có thể khai

thác, sử dụng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước trong từng giai

đoạn nhất định.

Với cách nhìn như vậy, nội dung cơ bản về phát huy nhân tố con người

trong phát triển kinh tế - xã hội ở CHDCND bao gồm:

Thứ nhất, khai thác, sử dụng nhân tố con người một cách hợp lý, hiệu

quả theo hướng khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người.

Sức mạnh của nhân tố con người trong phát triển KT-XH phụ thuộc

không chỉ ở số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lao động mà còn ở chỗ

nguồn lao động đó được khai thác, sử dụng hiệu quả, hợp lý như thế nào.

Khai thác, sử dụng nhân tố con người chính là việc biết tận dụng những thế

38

mạnh, tiềm năng của mỗi con người, cộng đồng người - đó là những yếu tố trí

lực, thể lực, tâm lực tự nhiên vốn có hay được tạo lập nên bởi xã hội bằng các

phương tiện như chính sách xã hội, tạo môi trường thuận lợi để có nguồn

nhân lực đủ cả về chất lượng, số lượng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH.

Khi nói đến việc khai thác, sử dụng con người theo hướng khơi dậy tính

tích cực, chủ động, sáng tạo con người, trước hết là nói đến sự tạo công ăn

việc làm cho xã hội nói chung, cho người lao động nói riêng. Vì càng tạo

được nhiều công ăn việc làm cho xã hội càng chứng tỏ việc khai thác, sử dụng

những năng lực vốn có trong con người đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH

của đất nước được bảo đảm. Việc làm là một phương thức hữu hiệu nhất để

có thể khai thác hết mọi tiềm năng ở mỗi cá nhân con người. Thông qua quá

trình lao động, con người sẽ thể hiện những khả năng của mình, tạo ra những

sản phẩm đáp ứng nhu cầu sống và tồn tại của xã hội, vì chỉ thông qua lao

động sản xuất con người mới có thể tồn tại và phát triển. Do đó, cần đảm bảo

cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm, tiến tới việc

làm ổn định và phù hợp với khả năng, năng lực cá nhân. Đồng thời, việc tổ

chức lao động xã hội hợp lý rất cần thiết, vì dù có được đội ngũ lao động có

đủ cả về chất lượng và số lượng nhưng tổ chức, phân công lao động hợp lý,

đúng với nghề nghiệp chuyên môn, phù hợp với trình độ chuyên môn và sở

thích sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy, khơi dậy, tạo sức mạnh cho con

người hăng say, sáng tạo, chủ động trong lao động sản xuất, phát minh ra

những thành tựu mới về khoa học - công nghệ. Vì thế, chính sách tuyển dụng

và sử dụng lao động phải gắn với thực tiễn cơ chế thị trường, thiết thực với

tiềm lực của mỗi người lao động: thu hút lao động đã qua đào tạo và chưa qua

đào tạo để sử dụng nguồn lao động này tham gia trong các ngành kinh tế khác

nhau theo khả năng và năng lực của họ, nhất là lực lượng lao động ở vùng

nông thôn, lao động chưa qua đào tạo tay nghề; tạo việc làm ở các vùng nông

thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa; tạo môi trường hay việc làm phù hợp với

39

khả năng, năng lực, năng khiếu, tay nghề trên cơ sở nhu cầu của thị trường,

của xã hội; trọng dụng nhân tài, tạo những điều kiện, phương tiện thuận lợi để

khai thác tốt nhất lao động trình độ cao; tuyển chọn, đánh giá, sắp xếp và đề

bạt chính xác phù hợp với sở thích, nghề nghiệp chuyên môn hoặc trình độ

của người lao động là động lực rất lớn, có tác động khơi dậy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo của nhân tố con người.

Ngoài ra, việc tận dụng về mặt thể lực, thể chất, sức khỏe của lực lượng

lao động, việc xây dựng môi trường lao động xã hội thuận lợi và phù hợp

với thể lực và lứa tuổi của người lao động, đặc biệt là nắm được yếu tố tâm

lý, thể lực, sức khỏe và lứa tuổi của lực lượng lao động là rất quan trọng, vì

khi nắm được và tạo điều kiện thuận lợi để phát huy nó, sẽ là những động

lực có sức kích thích lớn đối với việc phát huy những yếu tố tích cực, chủ

động, sáng tạo tiềm ẩn trong nhân tố con người. Nếu khai thác, sử dụng nhân

tố con người hiệu quả và hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

KT-XH của đất nước.

Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng nhân tố con người theo hướng đáp ứng yêu

cầu phát triển kinh tế - xã hội của Lào.

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề trọng

tâm nhất là mặt trí lực. Đó là trình độ phát triển dân trí chung của xã hội, bao

gồm trình độ học vấn, trình độ phát triển của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, kỹ

năng… có tác động trực tiếp, quyết định mức độ, hiệu quả của nhân tố con

người trong yêu cầu phát triển KT-XH. Điều đó càng đúng khi “khoa học trở

thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, tỷ trọng trí tuệ trong giá trị sản phẩm

ngày càng chiếm ưu thế. Do vậy, theo xu thế của thời đại, sức mạnh trí tuệ

của người lao động đã và đang trở thành một nhân tố quyết định việc hiện đại

hóa lực lượng sản xuất. Người ta có thể căn cứ vào số lượng lao động có trình

độ để đánh giá mức độ phát triển KT-XH của đất nước. Cho nên, việc đào tạo,

bồi dưỡng con người về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, khoa học - kỹ

40

thuật và công nghệ là yếu tố rất quan trọng trong phát huy nhân tố con người.

Trình độ học vấn thể hiện chất lượng của nhân tố con người, là một trong

những điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người ở

Lào. Cái quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định chất lượng người lao động là

trí tuệ, tri thức, hiểu biết khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, v.v… C.Mác

đã lưu ý: “Sự ngu dốt là sức mạnh ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó sẽ còn là

nguyên nhân của nhiều bi kịch khác nữa” [3, tr.364-365].

Sức mạnh trí tuệ được phản ánh qua sức mạnh của khoa học - kỹ thuật

và công nghệ, và nhờ có sức mạnh của KH-CN, con người ngày càng cải tạo

tự nhiên hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự ra đời của “trí tuệ nhân tạo” không có

nghĩa là vị trí của con người bị đẩy xuống hàng thứ yếu trong lực lượng sản

xuất, càng không thể gạt con người ra khỏi quá trình sản xuất.

Phát triển con người về mặt trí tuệ, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng

nhân tài, khai thác tốt nhất tiềm năng trí tuệ của dân tộc và thời đại là vấn đề

đang được các nước trên thế giới quan tâm. Hồ Chí Minh đã nhận định:

“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải

học văn hóa, chính trị, kỹ thuật, cần phải học lý luận Mác-Lênin” [44, tr.306].

Chất lượng của nhân tố con người là do trình độ học vấn quy định, vì vậy

trình độ học vấn là vấn đề sống còn của các quốc gia, dân tộc, biểu hiện sự

thành công và thất bại trong chiến lược con người.

Đào tạo, bồi dưỡng con người ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng về trình độ

học vấn, trình độ chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và công nghệ, còn phải coi

trọng việc đào tạo, bồi dưỡng về mặt tâm lực. Đó là những phẩm chất, năng

lực, đạo đức, khả năng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người để con

người có thể góp hết tài năng vào phát triển KT-XH. Đào tạo, bồi dưỡng con

người là làm cho họ có những năng lực, phẩm chất xứng đáng, đáp ứng yêu

cầu phát triển. Mọi cương vị của con người trong xã hội, năng lực, phẩm chất

của họ đều in đậm vào sự phát triển KT-XH. Việc xây dựng đội ngũ lao động

41

có ý thức tổ chức, đạo đức, trách nhiệm cao là một tiêu chuẩn cần thiết của

người lao động. Đặc biệt, những người có cương vị xã hội càng cao, năng lực

và phẩm chất của họ càng in đậm và ảnh hưởng đến những người dưới quyền

của họ và quá trình phát triển đất nước. Con người nếu chỉ có tài mà không có

đức thì nguy cơ sử dụng cái tài đó để đạt được mục đích ích kỷ cá nhân, hy

sinh lợi ích của cộng đồng là điều dễ xảy ra. Ngược lại, nếu con người chỉ có

đức mà không có tài sẽ không có khả năng điều khiển sự hoạt động của mình,

của tổ chức trong lao động sản xuất, nhất là trong cơ chế thị trường. Và càng

nguy hiểm, nếu con người thiếu cả tài và đức.

Thứ ba, tạo động lực để con người phát huy năng lực trong phát triển

kinh tế - xã hội.

Trong việc tạo động lực cho con người phát triển hết năng lực của

mình, đòn bẩy chính là lợi ích và môi trường xã hội lành mạnh, chính sách

xã hội hợp lý, đảm bảo công bằng xã hội. Đây sẽ là những đòn bẩy quan

trọng để phát huy hết năng lực con người trong phát triển KT-XH. Do vậy,

việc nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người thông qua sự

tác động của lợi ích là một trong những phương thức cơ bản. Nhu cầu và lợi

ích là động lực bên trong của tính tích cực, của hứng thú, thúc đẩy con người

hoạt động. Trong số những lợi ích mà con người hướng tới thì lợi ích vật

chất giữ vai trò quan trọng. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “xét đến cùng,

đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế” [8, tr.441]. Như vậy, chúng ta

cần phải biết kết hợp hài hòa giữa nhu cầu, lợi ích cá nhân với nhu cầu, lợi

ích xã hội. Lợi ích cá nhân chân chính không đối lập với lợi ích xã hội. Nếu

lợi ích cá nhân chân chính được định hướng đúng đắn sẽ là một bộ phận hợp

thành của lợi ích cộng đồng, dân tộc, xã hội; còn lợi ích cộng đồng, dân tộc,

xã hội được thể hiện và thực hiện qua lợi cá nhân. Lợi ích chân chính của

người lao động chính là động lực mạnh nhất của sự phát triển KT-XH; nếu

hiểu sai mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích cá nhân chính đáng và lợi ích

42

cộng đồng, dân tộc, xã hội sẽ dẫn đến phiến diện, sai lầm trong hoạt động

thực tiễn.

Ngoài ra, cần tạo lập môi trường xã hội thuận lợi cho sự hoạt động cũng

như tạo điều kiện thích hợp để con người có thể phát huy tối đa tính tích cực

của mình. Thực chất của điều này là hệ thống chính sách xã hội phải luôn

được hoàn thiện, chính sách đúng đắn và hợp lý là môi trường, là động lực

kích thích sự phát triển của cá nhân, cộng đồng người theo xu hướng tiến bộ.

Ngược lại, các chính sách không phù hợp, điều kiện môi trường không hợp lý

sẽ là tác nhân kìm hãm tính năng động, sáng tạo, năng lực trong hoạt động

thực tiễn của chủ thể, làm thui chột năng lực và tư duy sáng tạo của con

người. Chính sách xã hội phải coi trọng con người và đáp ứng những nhu cầu,

lợi ích của con người là mục tiêu cao nhất với phương châm: Tất cả cho con

người và vì con người. Tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi, điều quan

trọng nhất là đưa ra được những chính sách KT-XH đúng đắn, vừa phù hợp

với điều kiện và khả năng hiện thực xã hội, vừa kịp thời đáp ứng những nhu

cầu, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, để tạo ra tâm lý an tâm, phấn khởi,

tích cực của người lao động.

Để tạo động lực cho con người phát huy hết tiềm năng trong phát triển

KT-XH, yêu cầu về dân chủ và công bằng xã hội trong khuôn khổ được pháp

luật bảo đảm, được mọi người chấp nhận đang là vấn đề cấp bách. Nó thực sự

là động lực mạnh mẽ kích thích tính tích cực, năng động, sáng tạo của con

người trong phát triển KT-XH. Con người hoàn toàn có thể và cần phải đạt

được sự bình đẳng về xã hội, về địa vị xã hội, nhưng lại không thể bình đẳng

về năng lực, về thể chất và về trí tuệ, nghĩa là không bình đẳng về khả năng

cống hiến. Vì thế, sẽ không công bằng nếu giải quyết vấn đề lợi ích theo kiểu

bình quân chủ nghĩa. Thứ bình quân đó làm cho người lao động kém hăng hái

với công việc, do đó làm suy giảm, thậm chí triệt tiêu động lực của sự phát

triển KT-XH.

43

2.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN

DÂN LÀO

Trong quá trình xây dựng và phát triển CHDCND Lào, cần dựa vào thế

mạnh và năng lực của chính con người Lào, phải phát huy cao độ những giá

trị, phẩm chất, sự năng động sáng tạo của con người. Phát huy nhân tố con

người vừa là vấn đề cấp bách, vừa là vấn đề chiến lược của công cuộc đổi mới

và quá trình phát triển đất nước Lào, mà thể hiện như sau:

Một là, nhân tố con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công

cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới đã đem lại những điều mong muốn cho con

người, đồng thời khơi dậy ở con người niềm tự hào, lòng tin, ý chí và nhiệt

tình cách mạng để con người tự mình làm nên tất cả và tạo điều kiện thuận lợi

để mỗi cá nhân, mỗi thành viên trong xã hội phát triển tài năng sáng tạo của

mình. Phát huy nhân tố con người có ý nghĩa quan trọng vì chính nó sẽ tạo ra

sức mạnh để giúp chúng ta vượt qua những thử thách gay go, phức tạp của

nền kinh tế thị trường và có thể khắc phục những tác hại làm ảnh hưởng đến

quá trình phát triển KT-XH. Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước,

ĐNDCM Lào rất coi trọng nhân tố con người. Nhận thức rõ về vai trò, vị trí

của nhân tố con người trong quá trình phát triển của lịch sử, ĐNDCM Lào

khẳng định: “mục tiêu của chúng ta là tất cả vì sự ấm no hạnh phúc của con

người” [153, tr.34].

Vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển; do đó,

cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng nhân tố con

người, nhất là xây dựng đội ngũ con người phát triển cao về trí tuệ, cường

tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, trở thành

động lực trong phát triển KT-XH của đất nước. Đồng thời, coi trọng việc phát

hiện, bồi dưỡng, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, phát triển con người phải đi

đôi với sử dụng có hiệu quả nguồn lực đó. Đào tạo cần được thực hiện kết

hợp với xây dựng cuộc sống hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ

44

nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: “Muốn làm cách mạng thành công, đảng

của giai cấp công nhân phải tuyệt đối dựa vào nhân dân” [80, tr.49].

Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã lấy đổi mới

kinh tế làm trung tâm, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang

nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và đa dạng hóa hình thức

sở hữu mà đã góp phần khai thác năng lực, phẩm chất và giá trị của nhân tố

con người vào trong việc phát triển đất nước ngày một nhiều. Ngày nay, việc

phát triển sản xuất hàng hóa là yêu cầu tất yếu của phát triển xã hội và đã

được ĐNDCM Lào đặt ra như là một trong những chủ trương lớn để phát

triển kinh tế và được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện. Điều

đó đã tạo điều kiện cho sự phát huy tính chủ động sáng tạo của con người, tạo

ra mối quan hệ sở hữu có chủ thể chịu trách nhiệm, có động lực nội tại cho cá

nhân hoạt động sáng tạo.

Hai là, vấn đề con người, phát huy năng lực sáng tạo của con người đang

là vấn đề trung tâm của thời đại. Hiện nay, dân tộc nào, đất nước nào biết kế

thừa và tiếp thu tri thức của nhân loại thì dân tộc đó thành công. Từ thế kỷ

XX đến nay, nhiều tổ chức, nhiều học giả trên thế giới đã đánh giá thế kỷ này

là thế kỷ cách mạng KH-CN tiến nhanh chưa từng có, giá trị sản xuất vật chất

tăng gấp nhiều lần so với các thế kỷ trước, kinh tế phát triển mạnh mẽ. Trong

bối cảnh đó, trình độ dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ trở thành nhân

tố quyết định sức mạnh và vị thế của mối quốc gia trên thế giới. Sự lạc hậu về

giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong hiện tại và tương lai; kinh tế tri thức ngày

càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển đất nước, nhất là sự phát triển

của lực lượng sản xuất. ĐNDCM Lào nhận thức rõ điều đó và rất coi trọng

vai trò nhân tố con người: “Chúng ta phải xây dựng lên tất cả mọi thứ...

nhưng cái cơ bản nhất trong đó là xây dựng lực lượng sản xuất mới và con

người mới... để có thể đủ khả năng đảm nhiệm trong việc quản lý nhà nước,

quản lý xã hội...” [143, tr.46].

45

Toàn cầu hóa đang là một xu thế khách quan, ngày càng lôi cuốn nhiều

nước tham gia. Trí tuệ con người là tài nguyên quý giá của quốc gia. Vì vậy,

việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài là

vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, là yếu tố quyết định tương lai của mỗi

quốc gia. Phát triển là sự cần thiết và là nghĩa vụ của Đảng và Nhà nước, là sự

đòi hỏi cấp bách của toàn dân. Phát triển phải lấy việc phát triển kinh tế làm

trung tâm, nhưng cái không thể thiếu trong quá trình phát triển KT-XH là phát

triển con người. ĐNDCM Lào khẳng định: “phát triển kinh tế phải đi đôi với

phát triển con người, đào tạo con người về tri thức, đạo đức…” [148, tr.45].

Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng KH-CN hiện đại đưa nền kinh tế

chủ yếu dựa vào tài nguyên, lao động, máy móc chuyển mạnh sang nền kinh

tế dựa vào trí tuệ con người. Tri thức trở thành yếu tố quyết định của lực

lượng sản xuất, trong nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn nhân lực cần phải

được thay đổi. Bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào muốn đi lên phải chú ý đến

vấn đề phát huy tính năng động, sáng tạo của con người.

Ba là, phát huy nhân tố con người nhằm khơi dậy năng lực, tính năng

động sáng tạo của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển

của KH-CN, sự năng động của nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa

đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển của các nước

trở nên hiện thực hơn. KH-CN trở thành động lực cơ bản trong phát triển KT-

XH và có thể khẳng định, trong mọi lĩnh vực, ở mọi thời điểm, con người vẫn

đóng vai trò trọng tâm. KH-CN càng phát triển càng chứng tỏ con người có

sức mạnh phi thường. Do đó, cần thiết và tất yếu phải có những biện pháp tác

động thích hợp để khơi dậy những tiềm năng của con người, làm cho sức

mạnh tiềm ẩn của con người được thể hiện mạnh mẽ và tạo ra nguồn lực nội

sinh nhằm mục đích phục vụ tốt cho đời sống của chính con người. Garry

Becker, người Mỹ được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992, khẳng định

rằng: “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn

nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục” [61, tr.18].

46

Xu hướng phát triển kinh tế hiện nay mang tính chất toàn cầu hóa. Mỗi

nước muốn kinh tế phát triển phải chủ động hội nhập, cạnh tranh thương mại

nên đòi hỏi phải có hàm lượng chất xám cao trong sản phẩm, giá thành thấp.

Và chỉ lao động chất lượng cao mới có thể thu hút được vốn đầu tư nước

ngoài, đẩy nhanh được tăng trưởng kinh tế, tránh tụt hậu. Trên thế giới, khoa

học - kỹ thuật phát triển mạnh, đòi hỏi phải có lực lượng lao động trình độ cao

mới tiếp thu, áp dụng để phát triển kinh tế. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao chất

lượng giáo dục, đào tạo. Mọi động lực thúc đẩy con người hành động đều

phải thông qua năng lực sáng tạo của họ. Sức mạnh sáng tạo từ trí tuệ của con

người được biểu hiện ở trình độ phát triển của KH-CN.

Chất lượng nhân tố con người được nâng lên (học vấn, kỹ năng nghề

nghiệp, sức khỏe, khả năng nhận thức, hoạt động…) là tiền đề thành công của

các nước công nghiệp hóa mới thành công như: Hàn Quốc, Singapore, Hồng

Kông. Nhưng cũng có nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ

ngoại nhập tiên tiến nhưng thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành

nghề, do đó không thể ứng dụng được các công nghệ mới. Do đó, không có sự

lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo phát huy nguồn lực con người quý giá cho

đất nước để phát triển, hoặc là phải chịu sự tụt hậu so với các nước khác.

Thực tế cho thấy, không có một nước giàu có nào đạt được tỷ lệ tăng trưởng

kinh tế cao trước khi đạt được mức phổ cập giáo dục phổ thông. ĐNDCM

Lào nhận định:

Đất nước sẽ trường tồn - thịnh vượng là do con người -nguồn nhân

lực được quan tâm phát triển. Con người là chìa khóa của sự thành

công hoặc thất bại của mọi công việc… mặc dù có các phương tiện,

khí tài hiện đại bao nhiêu thì vẫn còn cần đến con người có tri thức,

có tài năng và có đạo đức - để điều khiển những phương tiện và khí

tài đó [117, tr.1].

47

Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã bước vào nền kinh tế hậu công

nghiệp - kinh tế tri thức, nghiên cứu và sử dụng kinh tế tri thức vào trong quá

trình phát triển đất nước. Tri thức tức là các thành tựu khoa học, trở thành sản

phẩm có giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với các sản phẩm vật chất khác, tạo

ra giá trị mới ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong thu nhập quốc nội

(GDP). Sự đóng góp của tri thức ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP của

các nước, như: Mỹ là 47,4%, Anh là 45,8%, Pháp là 45,1%, Đức là 40,4%.

Trí tuệ trở thành động lực cho toàn bộ tương lai của nhân loại, thúc đẩy sự

tiến bộ vừa sâu vừa rộng của xã hội trên nền tảng KH-CN để tạo ra mức tăng

trưởng kinh tế mới, hiếm thấy so với trước đây. Cho nên, cần phải thấy được

vai trò quyết định của con người trong quá trình phát triển KT-XH: “Vô luận

việc gì đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều như như thế

cả” [78, tr.18].

Bốn là, nhân tố con người là chủ thể phát triển kinh tế - xã hội. Khi nói

đến nhân tố con người chính là nói đến con người, con người không chỉ là chủ

thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu và đóng vai trò quyết định

trong lực lượng sản xuất, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của

chính mình. C.Mác viết:

Con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn

con người sản xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng

buộc...; con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái

sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên, sản phẩm của con vật trực tiếp gắn

với cơ thể thể xác của nó, còn con người thì đối diện một cách tự do

đối với sản phẩm của mình [3, tr.201].

Nhân tố con người tồn tại với tư cách là một chủ thể của lịch sử, có khả

năng sáng tạo trong lao động, đó là khả năng vươn tới cái tốt đẹp, cái hoàn

thiện hơn, là thuộc tính mang bản chất con người; nó chi phối sự tồn tại, phát

triển hay diệt vong của chính con người. Khả năng sáng tạo đã đưa con người

48

phát triển từ thô sơ, mông muội trở thành con người phát triển như hiện nay.

Sức sáng tạo của con người ngày càng làm cho những khả năng vốn có trong

con người thêm kỳ diệu và vĩ đại. Con người có khả năng chế tạo và chinh

phục tự nhiên, có khả năng tạo ra của cải vật chất cho xã hội và cũng chính

con người đã tạo nên những bước ngoặt trong lịch sử loài người. Nghĩa là,

con người là chủ thể của mọi hoạt động.

Thông qua quá trình lao động sáng tạo, khả năng lao động của con người

ngày càng được nâng cao. Sự sáng tạo của con người thể hiện trên ba mặt:

sáng tạo ra đời sống vật chất, sáng tạo ra đời sống tinh thần, sáng tạo ra chính

bản thân con người. Chính sự sáng tạo trong hoạt động lao động của con

người đã làm cho nguồn lực con người trở thành một loại nguồn lực đặc biệt,

nó có thể tạo ra những giá trị gấp nhiều lần so với nó nếu chúng ta biết phát

huy và phát huy đúng lúc những khả năng sáng tạo của nhân tố con người.

Năm là, phát huy nhân tố con người là yêu cầu của sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước. CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các

hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng

lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng

với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự

tiến bộ của KH-CN, tạo ra năng suất lao động cao. Từ đó có thể khẳng định,

nhân tố con người đóng vai trò quan trọng không thể thay thế trong sự nghiệp

CNH, HĐH, đòi hỏi chúng ta nhận thức một cách sâu sắc, toàn diện hơn

những giá trị, vai trò lớn lao và ý nghĩa quyết định của việc phát huy nhân tố

con người trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Con người là chủ thể, là nhân tố năng động nhất, sáng tạo nhất trong mối

quan hệ giữa kinh tế - xã hội - môi trường; sự phát triển kinh tế ở một quốc

gia thì khả năng trí tuệ của người lao động mang tính quyết định. Nói đến

CNH, HĐH là nói đến lực lượng sản xuất hiện đại. Hiện nay ở Lào, khi nói

đến CNH, HĐH còn lấy nhân tố thị trường để điều tiết nền kinh tế, và muốn

49

nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong kinh tế thị trường, yếu tố

quyết định lại là nhân tố con người. CNH, HĐH là vì con người, vì dân tộc,

và bằng sức mạnh của con người, của dân tộc; bằng trí tuệ, bằng nhân cách,

bằng khả năng… của con người.

Trong sự phát triển nhanh và bền vững thì nhân tố con người là yếu tố

cơ bản nhất vì nhân tố con người là điều kiện, là yếu tố đầu vào quyết định.

Nó sẽ tác động, quyết định đúng đắn đến phương hướng, nội dung, bước đi,

biện pháp, cách thức tổ chức, thực hiện CNH, HĐH; nhất là khả năng cạnh

tranh trong bối cảnh nền kinh tế thị trường; đặc biệt là lực lượng lao động

cao sẽ làm chi phí sản xuất giảm, năng suất tăng, chất lượng sản phẩm cùng

quy trình công nghệ nghiêm ngặt được bảo đảm, giảm giá thành sản phẩm.

Sức mạnh của nền kinh tế là do hệ thống doanh nghiệp quyết định và cái

quyết định sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp là đội ngũ lao động.

Điều đo cho thấy, vai trò nhân tố con người được biểu hiện tập trung ở vai

trò nguồn lực con người, nó bao gồm những mục tiêu, động lực, phẩm chất,

năng lực,… Cho nên, khả năng tích cực, chủ động, sáng tạo v.v.. của nhân tố

con người ho phép khai thác tính vô tận của đối tượng sản xuất và quy trình

công nghệ.

Sáu là, nhân tố con người là yếu tố lực lượng sản xuất hàng đầu. Nhân tố

con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh

thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình, đồng thời vừa là chủ

nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy. Nhân tố con người là yếu tố

năng động, sáng tạo nhất của quá trình sản xuất, và nhân tố trung tâm của con

người chính là sức lao động, bao gồm trí lực, thể lực. Không có người lao

động nào trong quá trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao động thể lực,

và cũng trong quá trình hoạt động sản xuất này người lao động cần phải áp

dụng những kiến thức, trí tuệ nhất định vào trong hệ thống sản xuất, người lao

động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất với sức mạnh và kỹ năng lao

50

động, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào

đối tượng lao động.

Do vậy, khi đề cập đến vấn đề lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự

vận động của nền sản xuất, suy cho cùng, người lao động vẫn là yếu tố quan

trọng nhất, quyết định nhất. Trong lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất chỉ trở

thành lực lượng tích cực, cải biến đối tượng khi nó được kết hợp với lao động

sống, tức là người lao động với đẩy đủ các kỹ năng, kỹ xảo của họ. Chính con

người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra công cụ lao động và

sử dụng nó để thực hiện quá trình sản xuất. V.I.Lênin khẳng định rằng:

Việc điện khí hóa không thể do người mù chữ thực hiện được, mà

chỉ biết chữ không thôi thì cũng không đủ... phải hiểu rằng điều đó

chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại, và

nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là

một nguyện vọng mà thôi [76, tr.364-365].

Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay tốt, phụ thuộc trực tiếp

vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối tượng lao động nói

riêng, chỉ là những vật vô tri vô giác mà thôi. Nó chỉ có ý nghĩa khi nó trở

thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy, người lao động

phải tác động vào tư liệu sản xuất để sản xuất ra nó. Trong thời đại mới, con

người có tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định trong lực

lượng sản xuất.

Bẩy là, phát huy nhân tố con người là yếu tố quan trọng trong quá trình

hội nhập quốc tế. Trong thời đại ngày nay, sức mạnh của mỗi quốc gia, dân

tộc không chỉ được đo bằng sức mạnh nội lực mà còn được đo bằng khả năng

và mức hội nhập quốc tế của chính quốc gia đó. Hiện nay, xu hướng giao lưu,

hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

đang cuốn hút các nước ở mức độ khác nhau vào cuộc chạy đua, thực chất là

chạy đua về tri thức, trí tuệ. Chính cuộc cạnh tranh trí tuệ đó đã làm thay đổi

51

rất nhiều trong cách nghĩ, cách làm, trước hết là cách thức trong việc phát huy

nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển KT-XH mỗi quốc gia.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sức mạnh nội lực, đó là các nguồn lực

vốn có của mỗi quốc gia, trong đó có nguồn nhân lực của các quốc gia đang

trên con đường phát triển và càng được phát huy mạnh mẽ hơn khi được kết

hợp đúng đắn với các yếu tố ngoại lực. Do đó, phải phát huy cao độ nội lực,

đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định

đối với sự phát triển, đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực thông

qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát

huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước

nhanh và bền vững trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc.

Tóm lại, phát huy nhân tố con người là chìa khóa quan trọng, quyết định

mọi thắng lợi của sự phát triển, chính con người tổ chức thực hiện và cũng

chính con người nhận được lợi ích từ sự phát huy đó. Phát huy nhân tố con

người trở thành động lực trực tiếp và nguồn lực nội sinh cho sự nghiệp phát

triển KT-XH, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh,

nhân dân hạnh phúc.

2.3. NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC PHÁT HUY NHÂN

TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN

CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

2.3.1. Những yếu tố tự nhiên, kinh tế ảnh hưởng đến việc phát huy

nhân tố con người ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

Một là, những yếu tố tự nhiên.

Lào thuộc bán đảo Đông Dương, nằm sâu trong lục địa, thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa ở Đông Nam Á, có diện tích 236.800 km2. Chiều dài từ Bắc

xuống Nam khoảng hơn 1.700 km, chỗ rộng nhất 500 km, chỗ hẹp nhất 140

km. Đường biên giới dài 4.825 km và giáp với 5 nước: phía Bắc giáp với

52

Trung Quốc, phía Tây Bắc giáp với Myanma, phía Tây giáp với Thái Lan, phía

Đông giáp với Việt Nam, phía Nam giáp với Cămpuchia (Xem phụ lục số 1).

Lào với địa hình đa dạng, có cả đồng bằng, miền núi, cao nguyên và thung

lũng; trong đó riêng núi và cao nguyên chiếm tới hơn 3/4 diện tích. Về mặt tự

nhiên, tài nguyên thiên nhiên có thể chia thành ba vùng lớn như: Vùng Bắc

Lào, Trung Lào và vùng Nam Lào. Mỗi vùng có điều kiện địa lý, đất đai, khí

hậu, thời tiết, v.v… khác nhau. Lào có một thủ đô, 17 tỉnh, gồm 146 huyện.

Dân số Lào là 6.492.000 người, trong đó phụ nữ 3.237.000 người và mật độ dân số 27 người/km2; tỷ lệ tăng trưởng dân số là 1,65% (Xem phụ lục số 2).

Nhờ có khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, đất đai phần lớn là đất đồi núi làm

cho Lào có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Rừng tự nhiên phát triển

mạnh, trong rừng có nhiều loại gỗ và lâm, thổ sản quý hiếm; hệ sinh vật gắn

với rừng cũng rất phong phú. Lào không có biển nhưng có nhiều sông suối,

đặc biệt là sông Mê Kông và có 14 chi lưu, rất thuận lợi cho việc đi lại, vận

chuyển và xây dựng thủy điện để sản xuất điện tiêu dùng trong nước và xuất

khẩu. Những đặc điểm tự nhiên đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân tố con

người phát huy năng lực và thế mạnh vốn có của mình trên cơ sở ưu đãi của

giới tự nhiên. Nhân tố con người được khai thác, sử dụng thông qua lao động

sản xuất dựa vào môi trường tự nhiên sẵn có, làm cho người Lào có thể dựa

vào thiên nhiên mà tạo ra những của cải vật chất phong phú, đa dạng theo

từng vùng miền. Lào là một quốc gia ít dân so với diện tích, nên việc đầu tư

vào khai thác, thực hiện phát huy nhân tố con người sẽ thuận lợi hơn so với

các nước đông dân. Người dân trong mỗi vùng có thể tham gia hoạt động sản

xuất để tạo ra thế mạnh của từng vùng, miền, góp phần phát triển KT-XH.

Tuy nhiên, sự ưu đãi của tự nhiên cũng ảnh hưởng tiêu cực đến nhân tố

con người trong quá trình phát triển KT-XH của Lào. Lào là quốc gia nhỏ,

nhưng vì diện tích bình quân đầu người lại lớn, do dân số ít và hệ thống thiên

nhiên phong phú nên người Lào (nhất là người Lào truyền thống) sống chủ

53

yếu dựa vào thiên nhiên, bằng lòng với cái vốn có, ít có nhu cầu cạnh tranh

phát triển. Lào là quốc gia không có biển, địa hình phần lớn là đồi núi cao, địa

bàn sinh sống của dân cư có những sự khác biệt lớn về địa hình và khí hậu,

giao thông đi lại khó khăn, khả năng giao lưu với thế giới bên ngoài bị hạn

chế. Điều đó ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai thác, phân bố nhân tố con

người giữa các vùng miền cũng gặp nhiều khó khăn. Trình độ phát triển của

các vùng, miền có sự chênh lệch nhau khá lớn, như giữa miền núi và đồng

bằng, thành phố và nông thôn. Sự phát triển tập trung ở thành phố và đồng

bằng, còn ở vùng núi và nông thôn, vùng sâu vùng xa chưa được khai thác

phát huy hết tiềm năng để phát triển.

Hai là, những yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người.

Trình độ phát triển kinh tế phản ánh trực tiếp và gián tiếp đến khả năng

vận dụng, khai thác, phát huy năng lực của con người, nhân tố con người; là

một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Các

nước như: Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Malaixia… cho thấy, nhờ

chăm lo phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao (kể cả trình độ học vấn,

sức khoẻ, tuổi thọ...) nên đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (Xem

phụ lục số 13).

Công cuộc đổi mới, do ĐNDCM Lào khởi xướng, bắt đầu từ Đại hội IV

của Đảng (1986) đã tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý tập trung quan liêu

bao cấp sang cơ chế mới - cơ chế thị trường, vận hành theo quy luật kinh tế,

hạch toán kinh doanh. ĐNDCM Lào khẳng định: “kinh tế Lào là nền kinh tế

nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu và nhiều hình thức tổ chức kinh

tế cùng tồn tại,...” [148, tr.31]. Từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương phát

triển kinh tế thị trường đã tạo môi trường thuận lợi trong việc khai thác, sử

dụng nhân tố con người trong quá trình phát triển KT-XH ngày một năng

động hơn; nền kinh tế thị trường đã tạo nhiều ngành nghề, đa dạng hóa sản

phẩm, người lao động có nhiều sự lựa chọn ngành nghề theo sở thích và năng

54

lực của mình, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động; nền kinh

tế nước nhà phát triển khá hơn so với thời bao cấp, từ đó góp phần nâng cao

mức sống, sức khỏe, tuổi thọ, trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, nghề

nghiệp của nhân dân Lào. Hiện nay, “tỷ lệ nghèo đói đã giảm dần, năm 2004-

2005 tỷ lệ đói nghèo là 28,7%, năm 2007-2008 là 27,6% và năm 2012-2013

còn 23,2%” [100, tr.45]. Nhân tố con người được khai thác, sử dụng và phát

huy cũng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển theo hướng tích cực (Xem

phụ lục số 10). Đại hội lần thứ IX của ĐNDCM Lào nêu rõ: “kiên trì phát

triển kinh tế làm trung tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất

phát triển mạnh mẽ, chuyển nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa,

xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

[149, tr.29]. Điều đó tạo cơ hội cho đội ngũ lao động có thể cống hiến tài

năng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xuất hiện các nhà doanh

nghiệp giỏi trên các lĩnh vực kinh tế. Đây là tiền đề và điều kiện quan trọng

trong việc phát huy nhân tố con người.

Mặc dù trong thời gian qua, nền kinh tế Lào có sự phát triển đáng kể, tạo

điều kiện cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả nhân tố con người trong quá

trình phát triển KT-XH của đất nước; nhưng nhìn chung, nền kinh tế Lào là

nền kinh tế kém phát triển, lạc hậu, và chưa phát triển đồng đều giữa các

ngành nghề, lĩnh vực và vùng miền. Mô hình phát triển kinh tế hàng hóa vẫn

bó hẹp ở một số ngành nghề, vùng miền, nhất là chưa giải quyết triệt để vấn

đề việc làm cho người lao động, tương xứng với thế mạnh vốn có đất nước và

con người. Bên cạnh đó, việc xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua tuy đạt

kết quả tương đối tốt, nhưng so với các nước trong khu vực, tỷ lệ nghèo còn ở

mức báo động. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của nguồn nhân

lực, nhất là việc khai thác, sử dụng nhân tố con người ở vùng nông thôn, vùng

sâu vùng xa - nơi đang có lực lượng lao động dồi dào. Vì vậy, tập trung giải

quyết triệt đề và coi trọng yếu tố kinh tế để có thể phát huy hiệu quả nhân tố

con người trong phát triển KT-XH của Lào là rất quan trọng.

55

2.3.2. Những yếu tố văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến việc phát huy

nhân tố con người ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

Một là, yếu tố truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo ảnh hưởng đến

phát huy nhân tố con người.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là một quốc gia đa tộc người, với 49

bộ tộc, được phân chia theo 4 nhóm tiếng nói, nên về nguồn gốc, chủng tộc,

thể chế xã hội của Lào vốn không đồng nhất; về phong tục, tập quán, lối sống,

tín ngưỡng và lợi ích tộc người đa dạng, phức tạp. Người Lào có nền văn hóa

truyền thống lâu đời, có tính năng động sáng tạo, chịu khó, cần cù, thông

minh… trong lao động sản xuất: “các bộ tộc Lào luôn là con người chịu khó,

cần cù và năng động sáng tạo trong lao động sản xuất… để cải tiến tự nhiên

đáp ứng yêu cầu của mình” [131, tr.47-48]. Ngoài ra, nhân dân còn có truyền

thống sống nương tựa vào nhau trong quá trình lao động, trong quá trình đánh

giặc chống ngoại xâm, phòng chống thiên tai nên các bộ tộc gắn bó chặt chẽ

với nhau, cùng nhau đoàn kết xây dựng quê hương đất nước. Nhân dân các bộ

tộc có tính cộng đồng cao, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Những đặc điểm

truyền thống văn hóa, phong tục tập quán,... của các bộ tộc tạo thành nề nếp,

lối sống ảnh hưởng đến bản chất của con người Lào cũng như việc phát huy

nhân tố con người.

Một đặc điểm nữa là yếu tố tôn giáo cũng ảnh hưởng rất lớn đến tính

cách, nhân cách, đạo đức, ý thức, lý tượng,... của con người Lào. Lào là

một nước đa dân tộc, có nhiều phong tục tập quán và đa tín ngưỡng, nhưng

đa số nhân dân Lào theo đạo Phật, Phật giáo đã trở thành quốc giáo từ thời

Vua Chậu Phạ Ngừm thống nhất quốc gia Nhà nước Lào Lạn Xạng thế kỷ

XIV. Nhân dân dựa trên nền tảng giáo lý đạo Phật để răn dạy con người,

làm cho con người Lào có ý thức từ bi bác ái, ý thức cố kết cộng đồng, đức

tính thật thà, trung thành, vị tha, thẳng thắn, dám nghĩ, dám làm, bứt phá để

vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn trong lịch sử. Những tố chất con người

56

cũng như nền văn hóa nêu trên tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển

KT-XH của đất nước.

Ngoài mặt tích cực của truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo kể

trên, còn có mặt tiêu cực nhất định tác động đến nhân tố con người và việc

phát huy nhân tố con người, nhất là những truyền thống, phong tục, tập quán,

tín ngưỡng, thói quen và lối sống lạc hậu, tâm lý tiểu nông, sản xuất nhỏ, tự

cung tự cấp... Nó ăn sâu vào trong tâm lý xã hội của một số người, làm cho họ

không thích đổi mới, khó hội nhập, hướng nội, thiếu tính sáng tạo trong lao

động, ỷ lại, khép kín, không theo kịp xu thế phát triển của thời đại; đồng thời

tạo ra một tâm lý lười biếng, không chịu khó, không thích phấn đấu để vươn

lên làm giàu và nghiên cứu học tập, vừa lòng với cái mình có theo phương

châm “biết đủ là hạnh phúc”. Do đó, khả năng và năng lực cạnh tranh trên

thương trường hiện đại còn nhiều hạn chế.

Hai là, yếu tố giáo dục, khoa học - công nghệ ảnh hưởng đến phát huy

nhân tố con người.

Dân tộc Lào có truyền thống hiếu học, coi trọng đức tài. Chủ tịch Cay

Xỏn Phôm Vi Hản cho rằng: “Việc lấy công tác giáo dục đi trước một bước,

đó là yêu cầu tất yếu khách quan; thực hiện tốt công tác giáo dục sẽ mở đường

cho kinh tế phát triển” [83, tr.10]. Ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục, sự thấp

kém về năng lực khoa học - kỹ thuật, công nghệ sẽ phải trả giá đắt trong cuộc

chạy đua ở thế kỷ XXI, mà thực chất là chạy đua về trí tuệ. Thực tế cho thấy,

các nước công nghiệp phát triển trên thế giới luôn quan tâm đến công tác giáo

dục, họ chú trọng và đầu tư rất nhiều cho nền giáo dục nước nhà để giải

phóng, nâng cao trình độ dân trí và đội ngũ cán bộ khoa học (Xem phụ lục số

11, 12). Phát triển nhân lực không chỉ đơn thuần là trang bị những tri thức

nghề nghiệp mà phải trang bị đẩy đủ, phát triển toàn diện về trí lực, thể lực,

tâm lực cho con người, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

57

Cuộc cách mạng của khoa học - kỹ thuật tác động rất lớn đến việc phát

huy nhân tố con người trong phát triển KT - XH của Lào, nhất là trong thời kỳ

mở cửa hội nhập quốc tế, vì khoa học - kỹ thuật, công nghệ gắn liền với cuộc

sống, trở thành phương tiện giúp nền kinh tế Lào phát triển khá nhanh trong

những năm qua. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước coi việc phát triển giáo dục, đào

tạo là quốc sách hàng đầu; tạo điều kiện cho mọi người được học tập, nâng

cao trình độ văn hóa, dân trí. Hàng năm, Nhà nước tạo điều kiện cho học sinh,

sinh viên, cán bộ đi học, nghiên cứu và trao đổi ở trong nước và nước ngoài.

Giáo dục, đào tạo ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm chất, năng lực của nhân tố

con người Lào, vì nó cung cấp những kiến thức, thông tin, kỹ năng... cần thiết

cho con người. Do vậy, hiện nay ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục, đào

tạo năm sau cao hơn năm trước: “năm 2010 đầu tư của ngân sách nhà nước

cho giáo dục là 11,8% và năm 2015 đầu tư của ngân sách nhà nước cho giáo

dục tăng tới 17%” [100, tr.30]. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được

quan tâm ngày một tốt hơn, và tạo điều kiện thuận lợi để cả nước trở thành

một xã hội học tập, học tập suốt đời.

Hệ thống giáo dục đã góp phần giúp con người phát huy tinh thần độc

lập suy nghĩ và sáng tạo, đề cao năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự hoàn thiện

về học vấn và tay nghề, làm cho vốn kiến thức về khoa học, kỹ thuật và công

nghệ của con người Lào ngày càng phát triển. Đảng và Nhà nước quan tâm

tạo sự bình đẳng về giáo dục giữa các vùng và giới tính. Nhờ đó, tỷ lệ người

biết chữ ngày càng được cải thiện: “từ 10% trong năm 1986 đến 81,7% trong năm 2010 và 93,6% trong năm 2015” [102, tr.9]. Đây là yếu tố quan trọng tác

động đến việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT - XH ở Lào;

chỉ số phát triển con người (HDI) của Liên Hợp quốc xếp Lào “từ thứ 141

trong 173 nước năm 1993, xếp thứ 131 trong 162 nước năm 2001, xếp thứ

133 trong 177 nước năm 2005, xếp thứ 138 trong 187 nước năm 2011” [98,

tr.4]. Nhìn chung, chỉ số phát triển con người của Lào mặc dù chưa mang tính

đột phá, nhưng rõ ràng là đang theo hướng ngày càng tốt lên.

58

Tuy vậy, cũng thấy rằng, Lào là một nước kém phát triển, hệ thống giáo

dục có nhiều bất cập, kém phát triển so với các nước trong khu vực; đặc biệt

là có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng miền. Công tác giáo dục chưa đồng

đều, thiếu đồng bộ, tạo ra mặt bằng dân trí trong toàn quốc cũng không đồng

đều, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trình độ học vấn, trình độ

dân trí thấp, sự hiểu biết và vận dụng những thành tựu của khoa học - kỹ

thuật, công nghệ của nhân dân trong quá trình sản xuất rất hạn chế, dẫn đến

năng suất lao động thấp, sản phẩm sản xuất ra không đạt tiêu chuẩn nên khó

có thể cạnh tranh trên thị trường. Những vấn đề này là do nền giáo dục yếu

nên việc bổ sung những kiến thức về khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới

cho nhân dân gặp nhiều khó khăn, nhất là việc giáo dục chính trị, giáo dục

đạo đức, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục pháp luật… để tạo điều kiện cho con

người đủ năng lực, tự giác, chủ động sáng tạo khó thực hiện.

Nói chung, việc phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế - xã hội

ở Lào là bước đi cần thiết nhưng nếu nhân tố con người (trí lực, thể lực, tâm

lực) không đảm bảo thì việc huy động, khai thác, vận dụng những nhân tố đó

trong phát triển KT-XH sẽ không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp. Đảng Cộng

sản Việt Nam cho rằng: ““Khoa học - kỹ thuật là một động lực để đưa đất

nước thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu”; KH-CN là “công cụ chủ yếu để nâng

cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội, góp

phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước”” [16, tr.67]. ĐNDCM Lào nhấn mạnh: “Nếu việc giáo

dục và đào tạo con người của chúng ta có chất lượng sẽ làm cho sự phát triển

có bước phát triển với tốc độ nhanh hơn, và nước ta sẽ tiến kịp xu thế phát

triển chung của thế giới...” [132, tr.277]. Giáo dục là một trong những yếu tố

quan trọng nhất ảnh hưởng đến nhân tố con người, vì nó trang bị kiến thức, kỹ

năng, kỹ xảo, đạo đức, nhân cách... cho con người, đảm bảo cho con người đủ

khả năng, năng lực, phẩm chất để tham gia trong quá trình lao động sản xuất.

59

2.3.3. Những yếu tố chính trị và hợp tác quốc tế ảnh hưởng đến việc

phát huy nhân tố con người ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

Một là, thể chế, cơ chế, chính sách ảnh hưởng đến phát huy nhân tố

con người.

Thể chế, cơ chế, chính sách là phạm vi bao quát rộng lớn và liên quan

đến mọi mặt trong quá trình vận động, phát triển xã hội. Thể chế, chính sách,

cơ chế quản lý xã hội tác động trực tiếp đến nhân tố con người, thể hiện ở vai

trò của chính sách giáo dục, đào tạo, chính sách tuyển dụng, sử dụng lao

động, chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm

y tế, chính sách bảo hiểm tai nạn lao động v.v.. Nếu thể chế, cơ chế, chính

sách đúng đắn và thích hợp sẽ là môi trường, là động lực huy động và thúc

đẩy nhân tố con người tích cực trong lao động sản xuất. Ngược lại, nếu các

chính sách không phù hợp sẽ dẫn đến sự kìm hãm, hạn chế năng lực và tư duy

sáng tạo của con người.

Do vậy, trong thời gian qua, chủ thể quản lý các cấp, các ngành đã tạo

điều kiện tối đa cho con người được phát huy những giá trị, phẩm chất, năng

lực... tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. ĐNDCM Lào xác định

rõ vai trò, vị trí của nhân tố con người trong phát triển KT-XH: “Chúng ta cần

tiếp tục phát huy khả năng to lớn của giai cấp, các tầng lớp nhân dân, tạo ra

sức mạnh cộng đồng dân tộc, phấn đấu xây dựng nước CHDCND Lào giàu

mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân” [146, tr.11].

Thể chế, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước CHDCND Lào liên

quan đến toàn bộ đời sống của người lao động, đặc biệt là chính sách tạo việc

làm, hạn chế thất nghiệp; chính sách về dân số; chính sách người có công với

cách mạng; chính sách xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân;

chính sách cứu trợ xã hội, giúp đỡ người tàn tật cô đơn, không nơi nương tựa;

chính sách bảo hiểm xã hội; chính sách người về hưu mất sức, chính sách về

60

phòng chống tệ nạn xã hội; chính sách về y tế, giáo dục, văn hóa, văn nghệ

v.v… Những chính sách đó được quan tâm thực hiện tốt và phổ biến trên đất

nước và trở thành động lực quan trọng trong việc phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH; trong đó nổi lên là vấn đề tạo việc làm cho người lao

động, hạn chế thất nghiệp, nâng cao thu nhập bình quân đầu người. Tổ chức

ILO cảnh báo: “Công ăn việc làm một lần nữa phải quan tâm hàng đầu của

mọi chính sách xã hội”. Công ăn việc làm, an sinh xã hội được quan tâm đầy

đủ và việc thực hiện tốt cơ chế, chính sách có liên quan đến cuộc sống của

người lao động sẽ là một lực hút tốt nhất để phát huy nhân tố con người, khai

thác, khơi dậy hết những phẩm chất, năng lực sáng tạo của con người trong

phát triển KT-XH của đất nước.

Các cơ chế, chính sách góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn

đề nóng bỏng của đời sống trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa của

Lào hiện nay. Hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách ở Lào được xây dựng trên

nền tảng lấy con người làm trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá

nhân và toàn thể cộng đồng dân tộc, phục vụ lợi ích của con người, thực hiện

công bằng xã hội. Con người được xem là lực lượng sáng tạo, đồng thời cũng

chính là đối tượng được hưởng những thành quả do mình sáng tạo ra. Nếu

không có vế thứ hai cũng sẽ triệt tiêu luôn động lực để thực hiện vế thứ nhất.

Sự thống nhất hữu cơ giữa hai phương diện đó là biện chứng của việc phát

huy nhân tố con người trong công cuộc đổi mới. ĐNDCM Lào chỉ rõ: “Chính

sách xã hội bao trùm các mặt đạo đức của con người: Điều kiện sinh hoạt,

giáo dục, văn hóa, các quan hệ giai cấp, dân tộc, gia đình. Coi nhẹ chính sách

xã hội tức là coi nhẹ nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

đất nước” [145, tr.34-35].

Hai là, dân chủ hóa ảnh hưởng đến phát huy nhân tố con người.

Trước ngày giải phóng năm 1975, xã hội Lào là một xã hội thực dân

nửa phong kiến, nhân dân Lào phải sống dưới ách thống trị của bọn phong

61

kiến Xiêm, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; do đó, nhân dân Lào các bộ tộc

mất độc lập và tự do, mất đi quyền làm chủ của đất nước. Mất độc lập và tự

do cũng sẽ làm mất đi quyền cơ bản của con người, ảnh hưởng tiêu cực đến

sự phát triển của giá trị, phẩm chất của con người Lào và nhân dân Lào; tạo

ra tâm lý e ngại, thiếu tính năng động sáng tạo, làm theo mệnh lệnh, ý thức

dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm bị hạn chế. Trong những thế kỷ bị

đô hộ, nhân dân Lào chịu ảnh hưởng sâu đậm của những tư tưởng, tập tục

lạc hậu, xa lạ với thiết chế dân chủ và quyền cơ bản của con người. Nhân

dân phải chịu đựng hàng chục năm chiến tranh tàn phá, để lại những tổn thất

về con người và vật chất nặng nề: hàng vạn gia đình liệt sĩ, hàng vạn thương

binh các loại cùng hàng vạn người già cô đơn và trẻ mồ côi, v.v... Những

đặc điểm trên ảnh hưởng đến việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của

nhân dân, từ đó ảnh hưởng đến việc phát huy nhân tố con người, làm cho

nhân tố con người khó khai thác, vận dụng trong quá trình phát triển KT-XH

của quốc gia dân tộc.

Từ khi đất nước được giải phóng trở lại đây, dưới chế độ mới, sự khao

khát về dân chủ của nhân dân đã được bù đắp. Đảng nhân dân cách mạng Lào

chủ trương xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, chấm dứt chế độ quân chủ lỗi

thời, thiết lập Nhà nước kiểu mới là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân, quyền con người được bảo đảm. Điều đó đã tạo môi trường cho con

người Lào thể hiện tính dân chủ thông qua tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự

cường của nhân dân, nhất là giá trị, phẩm chất con người Lào phát triển. Việc

khai thác, sử dụng nhân tố con người ngày càng hiệu quả hơn. Trí tuệ, sức

mạnh sáng tạo, nhân cách và bản lĩnh của con người Lào được hình thành và

phát triển. Dân chủ đi vào đời sống thực tế của nhân dân đã thực sự thu hút

được đông đảo quần chúng cống hiến mình cho đất nước, nhất là trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội.

62

Ba là, hợp tác quốc tế ảnh hưởng đến phát huy nhân tố con người.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến

mới, phức tạp, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang

diễn ra mạnh mẽ không chỉ tạo ra những bước nhảy vọt của lực lượng sản

xuất mà còn làm biến đổi các mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc. Ngày

nay, không một quốc gia nào có thể phát triển mà không giao lưu, hợp tác, hội

nhập. Hợp tác, hội nhập để phát triển là vấn đề có tính qui luật trong thời đại

ngày nay, là yêu cầu không thể thiếu đối với việc phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH của đất nước.

Hiện nay, Lào có chính sách mở cửa, giao lưu, hợp tác quốc tế để tiếp

thu có chọn lọc những giá trị, tinh hoa, ưu thế của nhân loại. Thực tế cho thấy,

việc tìm phương thức, hình thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội không

chỉ ở nội bộ nước mình mà còn phải biết kế thừa những bài học có giá trị của

các nước xã hội chủ nghĩa anh em, và kể cả kinh nghiệm của các nước tư bản

chủ nghĩa để tránh những sai lầm, đưa đất nước tiến lên phù hợp với con

đường tiến hóa chung của nhân loại.

Trong thời gian qua, vì thực hiện đường lối đối ngoại, hoạt động đối

ngoại và hội nhập quốc tế đúng đắn đã giúp CHDCND Lào đạt được nhiều

kết quả quan trọng: tạo môi trường hòa bình, thuận lợi cho con người phát

triển, đảm bảo độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ

đối ngoại ngày càng được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu. Quan hệ

với các nước láng giềng và các nước ASEAN được củng cố, đồng thời đã

thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với nhiều nước. Hội nhập quốc tế được đẩy

mạnh, góp phần quan trọng trong việc tăng cường nguồn lực cho phát triển,

đặc biệt nguồn lực con người để đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất

nước. Việc Lào chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng

đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của

đất nước là điều cần thiết và cũng là yêu cầu khách quan. Chính sách đối

63

ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai

đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển mới, là động lực phát huy nhân tố con

người, tạo cơ sở cho con người được phát huy những phẩm chất của mình về

trí lực, thể lực, tâm lực tiềm ẩn trong mỗi con người, thúc đẩy sự phát triển

KT-XH của Lào.

Hiện nay, Lào có quan hệ ngoại giao với 138 quốc gia và quan hệ với

gần 130 đảng trên thế giới. Ngoài ra, còn có quan hệ với nhiều tổ chức quốc

tế. Từ sự thực hiện chính sách đối ngoại đúng đắn, phù hợp với quy luật và

nguyên tắc quan hệ hợp tác với nước ngoài đã làm cho Lào tránh được nhiều

vấn đề, như: sự đối đầu, sự bao vây kinh tế, cô lập,… tạo điều kiện cho con

người tiếp tục phát triển. Mở cửa hợp tác đã tạo môi trường thuận lợi cho việc

thu hút đầu tư, sự hỗ trợ, ủng hộ cả về vật chất và tinh thần của các nước và tổ

chức quốc tế đối với Lào. Nhiều nước phát triển đã viện trợ về khoa học - kỹ

thuật, cộng nghệ, giáo dục - đào tạo (tập huấn cán bộ, cho vốn đi học ở trong

nước và ngoài nước trong thời gian ngắn hạn và dài hạn). Hiện nay, vừa đấu

tranh vừa hợp tác là không thể tránh khỏi, nhưng xu thế hòa bình và hợp tác

để phát triển vẫn là xu thế chung của toàn cầu. Trong bối cảnh đó, “Muốn

phát triển đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo và lạc hậu, chúng ta cần

phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, lấy kinh tế nước ta gắn với kinh tế thế

giới để phát triển lực lượng sản xuất... Đào tạo đội ngũ công nhân viên kỹ

thuật” [148, tr.16].

Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã được thúc đẩy

một cách tương đối mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy tính năng động sáng tạo của

con người, tạo cơ hội cho người lao động chủ động trong giao lưu, hợp tác,

hội nhập. Quá trình mở cửa, hội nhập, quốc tế đã giúp người Lào có thêm bài

học kinh nghiệm để tìm ra phương thức, cách thức cải tiến quá trình lao động

sản xuất theo hướng tích cực hơn trên cơ sở nắm bắt quy luật khách quan

trong phát triển kinh tế, xã hội.

64

Tuy nhiên, quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế ngoài mặt tích cực còn

có mặt tiêu cực nhất định, tác động đến nhân tố con người Lào. Những vấn đề

mang tính toàn cầu, như vấn đề xung đột sắc tộc, chiến tranh cục bộ với các

loại vũ khí hiện đại, hoạt động bạo lực đang còn tiềm ẩn khắp nơi; vấn đề gia

tăng dân số kèm theo đói nghèo, bệnh tật; thiên tai và hủy hoại môi trường và

an ninh, quốc phòng của quốc gia; lối sống thực dụng phương Tây... có ảnh

hưởng không nhỏ đến nhân tố con người và việc phát huy nhân tố con người

của Lào. Mở cửa, hợp tác và hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện thuận lợi

cho những thế lực thù địch lợi dụng cơ hội này để vu khống, xuyên tạc các

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho một số người tin vào

sự xuyên tạc đó, chống lại các thể chế, chính sách chính trị, kinh tế, xã hội

của Đảng, Nhà nước. Một số người đánh mất những phẩm chất tốt đẹp của

con người Lào truyền thống, có lối sống thực dụng, tư lợi, ích kỷ, lười biếng,

lãng phí...

Tóm lại, những vấn đề nêu trên có tác động mang tính hai mặt đến việc

phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển KT - XH ở CHDCND

Lào. Những yếu tố đó tác động đến con người, từ đó hình thành một hệ giá trị,

phẩm chất, năng lực của con người. Do đó, muốn phát huy nhân tố con người

trong phát triển KT-XH, chúng ta cần phải nhận thức và tìm hiểu rõ đến sự tác

động của các yếu tố đó mới có thể đưa ra một phương thức đúng đắn trong

việc phát huy nhân tố con người.

65

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, đồng thời

là chủ thể sáng tạo lịch sử, là lực lượng sản xuất hàng đầu. Phát huy nhân tố

con người là nhằm khơi dậy những năng lực, tính tích cực, chủ động, sáng tạo

của con người, nhất là trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH và hội

nhập quốc tế ở Lào hiện nay.

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề

quan trọng, bởi nhân tố con người có vai trò quyết định sự thắng lợi của sự

nghiệp cách mạng của đất nước. Con người Lào chính là chủ thể của quá trình

phát triển đất nước, là lực lượng thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH của đất

nước. Do đó, việc phát huy những yếu tố tích cực, tính chủ động sáng tạo,

phát triển chính bản thân người lao động để trở thành lực lượng lao động có

chất lượng, có trình độ kiến thức về khoa học, kỹ thuật và công nghệ là rất

cần thiết.

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội là việc khai

thác, sử dụng, tận dụng nhân tố con người hợp lý, hiệu quả theo hướng khơi

dậy những giá trị, phẩm chất của nhân tố con người, tạo điều kiện thuận lợi

cho con người được thể hiện hết tài năng, năng lực của mình, góp phần vào sự

phát triển KT-XH. Do vậy, nếu khai thác, phát huy tốt nhân tố con người sẽ

tạo nên động lực mạnh mẽ, to lớn trên con đường phát triển. Nhưng phát huy

nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở Lào cũng chịu sự tác động của

nhiều yếu tố, như: yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội, chính trị, quan hệ

quốc tế... Do đó, cần hiểu rõ vai trò, sự tác động của những yếu tố đó để tạo

điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc phát huy nhân tố con người.

66

Chương 3

PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ

NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

3.1. MỘT SỐ THÀNH TỰU CƠ BẢN VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI

TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN

LÀO HIỆN NAY

3.1.1. Thành tựu về sử dụng nhân tố con người trong phát triển

kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

Trong quá trình đổi mới, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã

hội rất quan tâm đến việc sử dụng và phát huy nhân tố con người trong phát

triển KT-XH của đất nước. ĐNDCM Lào coi trọng nhân tố con người, Đại

hội lần thứ III của ĐNDCM Lào nêu rõ: “chúng ta phải xây dựng lên tất cả

mọi thứ..., nhưng cái cơ bản nhất trong đó là xây dựng lực lượng sản xuất mới

và con người mới... để có thể đủ khả năng đảm nhiệm trọng trách trong việc

quản lý nhà nước, quản lý xã hội...” [143, tr.46]. ĐNDCM Lào cũng khẳng

định rằng: “mục tiêu của chúng ta là tất cả đều vì sự ấm no và hạnh phúc của

con người” [153, tr.34]. Đảng coi nhân tố con người là yếu tố quyết định

trong phát triển. Ngoài ra, Nhà nước cũng quan tâm, tạo điều kiện để phát huy

nhân tố con người, là phát huy những giá trị, phẩm chất, năng lực vốn có

trong con người.

Ngày 25/06/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 010/CP, về lập

kế hoạch xóa đói giảm nghèo, trong đó coi việc phát triển nông thôn toàn diện

là trung tâm của việc xóa đói và chú trọng phát triển 4 ngành chính ở nông

thôn như: xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, phát triển nông - lâm nghiệp,

phát triển giáo dục và phát triển y tế. Để tạo điều kiện cho con người ở vùng

nông thôn, vùng sâu vùng xa và người nghèo được hỗ trợ về giáo dục, về tay

nghề, về y tế,... tạo ra nhân lực chất lượng cao. Ngày 26/04/2016, Chính phủ

67

đã ra Nghị định số 95/CP, về việc phê duyệt và ban hành chiến lược phát triển

nguồn nhân lực đến năm 2025. Nội dung là tập trung phát triển nguồn nhân

lực về giáo dục chính trị - tư tưởng, thực hiện tốt công tác đào tạo và quản lý

cán bộ, phát triển những kiến thức cơ bản và năng khiếu nghề nghiệp, thúc

đẩy công tác y tế và bảo vệ sức khỏe toàn dân, phát triển lực lượng lao động

và tăng năng suất lao động để đáp ứng yêu cầu của thị trường, giữ gìn và phát

huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của quốc gia và dân tộc. Ngày 16/11/2017,

Chính phủ đã ra Nghị định số 348/CP về tiêu chí thoát nghèo và tiêu chí phát

triển, làm cơ sở cho việc xác định và giải quyết tối tượng nghèo, nhằm xây

dựng mô hình gia đình phát triển, bản phát triển, xây dựng bản có quy mô lớn

trở thành thành thị trong vùng nông thôn.

Ngày 27/12/2006 Quốc hội nước CHDCND Lào đã ra Nghị định số

06/QH, về ban hành bộ luật lao động. Bộ luật đã quy định những nguyên tắc,

quy chế về lao động, về đào tạo và phát triển nghề, về vấn đề tạo công ăn việc

làm, sử dụng lao động, điều chỉnh quan hệ lao động, quản lý lao động... để

nâng cao năng suất lao động, góp phần phát triển KT-XH nước nhà và hội

nhập quốc tế. Ngày 04/12/2009, Nghị quyết của Bộ trưởng Bộ Lao động và

Phúc lợi xã hội, số 5523/LĐ-PH, về tổ chức và hoạt động của cán bộ trong

việc kiểm tra lao động. Nghị quyết này đã quy định những nguyên tắc, quy

chế, cơ cấu cán bộ, tiêu chuẩn, điều kiện, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm

của cán bộ kiểm tra đơn vị lao động và trừng phạt đối với đơn vị lao động

không tuân theo nguyên tắc, quy chế và luật lao động đã quy định. Ngày

21/08/2009, Bộ trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã ra Nghị quyết số

3006/LĐ-PH, về an toàn và sức khỏe lao động trong nơi thi công. Nghị quyết

đã đưa ra các quy định về nguyên tắc, quy chế về tiêu chuẩn của sự an toàn và

sức khỏe của lao động, có cách thức phòng chống tai nạn lao động và bệnh

hiểm nghèo để bảo vệ đời sống, của cải vật chất của người lao động và người

sử dụng lao động ở nơi thi công. Thông báo số 2951/LĐ-PH, ngày 23/11/

68

2011 của Bộ trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã quy định mức trả tiền

công thấp nhất cho người lao động trong các đơn vị kinh doanh, quy định thời

gian làm việc của người lao động. Tất cả nhằm tạo môi trường thuận lợi cho

việc phát huy nhân tố con người trong lao động sản xuất, và trở thành động

lực phát triển KT- XH. Từ đó, có thể thấy được một số thành tựu như:

Một là, sử dụng, phát huy phẩm chất, năng lực con người trong phát

triển kinh tế thị trường.

Đảng và Nhà nước có chủ trương, chính sách giúp con người được lập

thân, lập nghiệp; phát triển đa dạng mô hình kinh tế và sản xuất kinh doanh,

thực hiện chính sách đổi mới cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chủ

trương khuyến khích và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng

trong quyền sở hữu để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể lựa

chọn ngành nghề theo khả năng, sở thích..., qua đó góp tích cực vào sự nghiệp

cách mạng của đất nước. Sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà

Trung ương đề ra đã và đang được các cấp, các ngành triển khai thực hiện,

đây là một động lực to lớn trong việc áp dụng con người một cách tích cực

trên cơ sở môi trường của kinh tế thị trường tạo ra. Hiện nay Lào có 733 chợ

và trung tâm buôn bán; ngoài ra, thị trường ngoài nước cũng được mở rộng và

phát triển không ngừng.

Ngành nông - lâm nghiệp là ngành có tỷ lệ lao động tham gia nhiều nhất

so với ngành khác và tạo khá nhiều việc làm lao động, “trong giai đoạn 2006-

2010, tạo việc làm trong ngành là 380.797 người, giai đoạn năm 2011-2015 là

67.677 người; cơ cấu lao động trong năm 2015 chiếm 65,3%, trong năm 2010

chiếm 71,3%” [113, tr.2]. (Xem phụ lục số16, 17). Đảng và Nhà nước có chủ

trương phát triển nông - lâm nghiệp gắn với phát triển công nghiệp và dịch

vụ, nhất là công nghiệp chế biến, tạo ra hàng hóa nông phẩm. Nhà nước có

chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa ở vùng nông thôn, vùng sâu,

vùng xa, nhất là hàng hóa nông phẩm, tạo điều kiện cho người lao động có

69

lương thực thực phẩm đủ ăn để thoát nghèo, sau đó sản xuất thành hàng hóa.

Nhà nước còn tạo điều kiện cho nhân dân được tiếp cận với nguồn vốn, giúp

họ tiếp cận với thị trường trong nước và nước ngoài; đã “khảo sát đất nông -

lâm nghiệp cấp huyện trong 136 huyện và thực hiện giao đất cho 118 huyện

và chuẩn bị giao thêm 19 huyện” [100, tr.16]; để phân đất cho nhân dân nhằm

giúp họ sử dụng thuận lợi và hiệu quả trong lao động sản xuất.

Ngoài ra, còn thúc đẩy việc nghiên cứu, thí nghiệm và áp dụng khoa học

- kỹ thuật trong sản xuất, làm cho chất lượng và số lượng sản phẩm đáp ứng

yêu cầu của thị trường và xã hội; tạo điều kiện cho nhân dân, nhất là nông dân

phát huy năng lực góp phần trong phát triển KT-XH. Hiện nay, có 264 trung

tâm phục vụ về kỹ thuật nông - lâm nghiệp trong toàn quốc; đã cải tiến và

cung cấp vật tư, máy móc cho 13 trung tâm trong 12 tỉnh; tổ chức bồi dưỡng

và đào tạo nghề tại chỗ cho các trung tâm; điều cán bộ chuyên môn xuống các

cụm bản để hỗ trợ kỹ thuật cho nhân dân, nhất là kỹ thuật nuôi-trồng hiện đại,

làm cho năng xuất tăng lên đáng kể so với trước đây, “ngành nông - lâm

nghiệp góp phần trong GDP là 3% (năm 2015), và hiện nay, cả nước có 3.640

cụm, trong đó có 1.864 cụm trồng trọt 1.776 cụm chăn nuôi; có 9 hội nông

dân đã liên kết và hội nhập với thị trường của các nước Đông Nam Á và thị

trường quốc tế” [100, tr.17].

Ngành công nghiệp phát triển khá nhanh, có lao động tham nhiều, khá

thành công trong việc khai thác, sử dụng nhân tố con người trong những năm

gần đây và “góp phần trong GDP là 8,9%. Trong năm 2010 cơ cấu lao động là

8,3%, năm 2015 là 11,4%; và giai đoạn 2006-2010 đã tạo việc làm cho

118.671 người, năm 2011-2015 là 123.051 người” [113, tr.2]. Nói chung,

ngành công nghiệp phát triển khá ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc

khai thác, sử dụng, phát huy năng lực của con người ngày một nhiều.

Ngành dịch vụ cũng phát triển khá nhanh, “năm 2010 cơ cấu lao động

chiếm 20,4%; năm 2015 chiếm 23,3%; và giai đoạn 2001-2005 tạo việc làm

70

cho 73.000 người, giai đoạn 2006-2010 là 57.193 người, giai đoạn 2011-2015

là 86.711 người” [113, tr.2]. Ngành đã tạo công ăn việc làm ngày càng nhiều,

và góp phần trong tăng trường kinh tế, “tỷ lệ tăng trưởng năm 2013 là 9,73%,

chiếm 42,49% của GDP; và năm 2016 tăng trưởng 4,65% chiếm 42,5% của

GDP. Theo số liệu của Bộ thông tin, văn hóa và du lịch: giai đoạn 2011-2015,

mỗi năm khách nước ngoài sang Lào khoảng 3.753.254 lượt người” [101,

tr.12]; số khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, khu vui chơi giải trí phát triển nhanh.

Điều đó chứng tỏ việc khai thác, sử dụng vốn con người trong ngành khá hiệu

quả; vì con người Lào với đức tính thân thiện, mến khách, thật thà, trung

thành, cần cù, sáng tạo,... là môi trường tốt để khai thác, phát huy trong phát

triển KT- XH của đất nước. Đến nay đã có 937 cụm bản trở thành bản sản

xuất đồ thủ công và nông phẩm cung cấp cho các khu du lịch.

Để khai thác, tận dụng tối đa trí lực, thể lực, tâm lực của nhân tố con

người, Nhà nước củng cố, đổi mới thành phần kinh tế quốc doanh; khuyến

khích kinh tế hộ nông dân, kinh tế tư nhân; sử dụng quan hệ hàng hóa -

tiền, quan hệ thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; mở rộng tự do lưu

thông hàng hóa, đúng luật pháp nhằm phát triển thị trường; xóa bỏ cơ chế

quản lý tập trung quan liêu bao cấp, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ vốn

đầu tư, vốn KH-CN và kinh nghiệm của các nước trên thế giới; giao quyền

sử dụng đất đai lâu dài trong nông - lâm nghiệp, nó trở thành động lực thúc

đẩy trong việc khai thác nhân tố con người tham gia sản xuất, phát triển

kinh tế.

Đảng và Nhà nước có chủ trương, chính sách trong mở rộng và tạo điều

kiện cho các đơn vị kinh tế và các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư

phát triển các ngành kinh tế, góp phần khai thác, huy động, phát huy năng lực

của con người. Các đơn vị kinh tế tăng lên, “năm 1996-2000 tăng 10.631 đơn

vị, năm 2001-2005 tăng 20.966 đơn vị, 2006-2010 tăng 44,916 đơn vị, 2011-

2013 tăng 41.489 đơn vị” [98, tr.12] (Xem phụ lục số 6, 7).

71

Hai là, đổi mới chính sách xã hội, nhất là chính sách xóa đói giảm

nghèo, giải quyết việc làm.

Chính quyền các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và tổ chức chính

trị - xã hội đã chung tay thực hiện xóa đói, giảm nghèo; tạo điều kiện cho con

người khẳng định vị trí, vài trò của mình trong phát triển KT-XH. Nhờ đó,

con người được hoàn thiện về trí lực, thể lực, tâm lực, và thuận lợi hơn trong

việc phát huy nó, nhất là con người ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; và

tỷ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh: “trong năm 2011 số hộ nghèo là 198.678 hộ,

chiếm 18,86%, đến năm 2015 giảm xuống còn 76,604 hộ, chiếm 6,59% tổng

số hộ gia đình cả nước” [121, tr.7].

Đầu tư nhiều vào việc xóa đói giảm nghèo, như: Đầu tư phát triển cơ sở

hạ tầng và dịch vụ xã hội, xây đường giao thông, hệ thống thủy lợi, điện lực,

bưu chính viễn thông, y tế và chăm sóc sức khỏe ở các bản, cụm bản, xây

dựng chỗ ăn, nhà ở ổn định, và có chính sách tập hợp lại những bản nhỏ lẻ,

hợp thành bản quy mô lớn để thuận lợi trong quản lý và đầu tư phát triển:

“năm 2005 số bản cả nước có 10.552 bản và năm 2015 số bản giảm xuống

còn 8.507 bản; và trong đó có 1.469 bản, chiếm 17,3% là bản trực thuộc thành

thị, và 7.038 bản ở vùng nông thôn trong đó có 1.318 bản chiếm 15,5% là bản

ở vùng nông thôn không có đường giao thông” [96, tr.13, 26]. Và cơ sở hạ

tầng đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư để tạo điều kiện cho nhân

dân thuận lợi trong lao động “Tỷ lệ dân số trong cả nước đã dùng điện chiếm

84,6%, có nước máy chiếm 24,8%, có đường tới bản chiếm 87,7%, bản có

chợ chiếm 12,4%, bản có trạm y tế chiếm 19,4%, bản có trường tiểu học

chiếm 93,3%” [96, tr.25]. (Xem phụ lục số 18). Xuất phát từ sự đúng đắn của

chủ trương chính sách trên đã tạo điều kiện cho các giá trị, phẩm chất của

nhân tố con người được đảm bảo trong việc bổ sung, khai thác, phát huy hơn.

Việc sử dụng, phát huy năng lực con người gắn với việc làm, rất có ý

nghĩa, vì nó vừa tạo công ăn việc làm trực tiếp cho người lao động, vừa là

72

phát huy những trí lực, thể lực, tâm lực của nhân tố con người trong quá trình

sản xuất; “năm 2010-2011 tạo việc làm cho 56.660 người; năm 2013-2014 là

56.186 người; năm 2014-2015 là 69.828 người” [113, tr.2]. Ngoài ra cũng lập

danh sách số người cần việc làm theo các ngành kinh tế khác nhau để cung

cấp thông tin cho các cơ quan liên quan nắm được số lao động cần việc làm

để có thể đưa ra chính sách đúng đắn và chủ động trong việc giải quyết việc

làm (Xem phụ lục số 9, 17).

Nhà nước cải cách cơ chế, củng cố phương thức để phát huy nhân tố con

người, tạo sức mạnh cho các đơn vị, tổ chức đảm nhiệm về công tác tìm việc

làm, từ trung ương đến địa phương. Hiện nay, cả nước có 14 công ty và 1

trung tâm tư vấn và giới thiệu việc làm (năm 2005 có 3 công ty). Các trung

tâm trở thành sàn giao dịch và cung cấp thông tin về lao động, là nơi gặp gỡ,

trao đổi và tìm hiểu giữa người mua - bán sức lao động. Ngoài ra, còn phối

hợp với các tổ chức liên quan (cả bên phía Nhà nước và tư nhân) để điều

chỉnh cung - cầu lao động cho phù hợp với cơ cấu kinh tế và thị trường lao

động, đảm bảo vận dụng hết những năng lực vốn có của người lao động. Nhà

nước đẩy mạnh việc thực thi các quy chế trong công tác quản lý lao động ở

các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư v.v.. Phổ biến

pháp luật và các quy định về lao động cho các đơn vị sử dụng lao động. Thực

hiện điều tra, khảo sát thực trạng lao động trong cả nước để lập kế hoạch phát

trong sử dụng, phát triển và bảo vệ lợi ích người lao động, tạo môi trường tinh

thần cho họ yên tâm hơn trong lao động sản xuất, kích thích tính năng động,

sáng tạo trong hoạt động sản xuất.

Ba là, văn hóa truyền thống, phong cách sống và lao động.

Tính tích cực chính trị, xã hội, tinh thần tình nguyện vì cuộc sống cộng

đồng được phát huy mạnh mẽ. Đại bộ phận tin tưởng vào sự lãnh đạo của

Đảng, quan tâm hơn đến các giá trị văn hóa truyền thống, có ý chí vươn lên,

không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu; tích cực học tập, lao động, sáng tạo, tiếp

73

thu và ứng dụng KH-CN; gắn bó với quê hương đất nước trong xây dựng và

phát triển đất nước.

Truyền thống văn hóa cách mạng dân tộc của cha anh, luôn khát vọng

đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu. Họ vừa chủ động học hỏi,

trang bị những kiến thức cơ bản cho mình, vừa tìm cách nâng cao giác ngộ

chính trị, rèn luyện nhân cách đạo đức, tham gia tích cực, chủ động trong sự

nghiệp phát triển KT-XH của đất nước. Từ truyền thống văn hóa tốt đẹp đó,

lòng tin đối với Đảng và Nhà nước của người lao động hiện nay được nâng

cao, nhân dân luôn có nguyện vọng được cống hiến tài năng và sức lực của

mình cho xã hội và đất nước, thi đua yêu nước và xây dựng, phát triển bản

làng đang được nhiều người quan tâm.

Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho con người được coi là yếu tố

quan trọng và thường xuyên được tuyên truyền, vận động, bồi dưỡng, đào tạo

làm cho cán bộ đảng viên và nhân dân hiểu biết về đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Qua đó, chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống của nhân dân, cán bộ đảng viên.

Nhân dân có ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm trong đời sống chính trị,

xã hội của mình, nhất là có ý thức, trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần yêu nước, yêu chế độ mới, tính tự chủ được phát

huy; dân chủ, đoàn kết, bình đằng giới, bình đằng dân tộc trong toàn xã hội

từng bước được thực hiện, góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh,

công bằng, văn minh. Do vậy, tính tích cực chính trị, xã hội, tinh thần tình

nguyện vì cuộc sống cộng đồng được phát huy mạnh mẽ, phát huy được sức

mạnh dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội.

Đảng và Nhà nước tạo điều kiện phát triển những giá trị văn hóa truyền

thống tốt đẹp, như: “tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, tính cộng

đồng cao, hữu khách, cần cù, sáng tạo, chịu thương chịu khó, yêu chuộng hòa

bình, độc lập, tự do, tự chủ, anh dũng, trung thành,…” [119, tr.12-14]. Tạo

74

điều kiện cho nhân dân phát huy tinh thần và ý chí vươn lên làm giàu chính

đáng. Nhân dân thể hiện tình yêu quê hương đất nước thông qua lao động sản

xuất, làm cho mình, xã hội, đất nước thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu. Điều đó

thể hiện ở chỗ tăng lên của GDP “năm 2012 là 81.610 tỷ kíp, năm 2013 là

93.868 tỷ kíp, năm 2014 là 106.797 tỷ kíp, năm 2015 là 117.252 tỷ kíp, năm

2016 là 129.279 tỷ kíp” [101, tr.17].

Việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, phát động phong trào xây

dựng gia đình, bản và cụm bản văn hóa đang được phát huy, chính quyền các

cấp đã tổ chức phát triển trở thành phong trào trên toàn quốc: “năm 2011 đến

2015 xây dựng được 527.705 gia đình văn hóa, chiếm 53,33% của tổng số gia

đình cả nước; xây dựng 3,676 bản văn hóa, chiếm 32,14% của tổng số bản cả

nước; xây dựng được 94 cụm bản văn hóa, chiếm 9% cụm bản trên cả nước”

[107, tr.6]. Bên cạnh đó, chính quyền các cấp cũng tăng cường phát triển và

nâng cao chất lượng hệ thống thông tin đại chúng trở thành phương tiện đắc

lực, góp phần nâng cao đời sống văn hóa trong toàn dân. Tuyên truyền những

giá trị văn hóa tốt đẹp thông qua thông tin đại chúng, văn nghệ, ca nhạc, triển

lãm, sân khấu, ấn phẩm,... kiên quyết phê phán, đẩy lùi những văn hóa lai

căng, kém văn minh, tín ngưỡng trái ngược với đời sống văn minh của nhân

loại, giúp con người tránh xa các tệ nạn xã hội, cống hiến sức lực trong phát

triển đất nước. Đây sẽ là sức mạnh tinh thần thúc đẩy tinh thần vươn lên của

người lao động, để vươn tới đời sống văn minh hơn, hoàn thiện hơn.

Bốn là, phân bố, sử dụng, tuyển dụng con người trong phát triển kinh tế

- xã hội.

Công tác bố trí, sắp xếp nhân viên, có sự chuyển biến tích cực và hiệu

quả. Hàng năm, chính quyền các cấp và các tổ chức đã thi hành kiểm tra,

đánh giá năng lực, đạo đức, lối sống của mỗi cá nhân nhân sự, làm cơ sở cho

việc điều chỉnh quy hoạch ở từng nơi. Qua đó, bố trí lại nhân sự cho hợp lý,

bổ sung những nhân sự trẻ đủ tiêu chuẩn vào quy hoạch. Qua thống kê, Lao

động “từ 15 tuổi trở lên có 3.886.618 người, trong đó nhân sự nhà nước chiếm

75

7,42%, nhân sự doanh nghiệp nhà nước chiếm 0,81%, nhân sự doanh nghiệp

tư nhân chiếm 0,28%, nhân sự kinh doanh tư nhân chiếm 7,13%, chủ thuê

chiếm 0,49%, làm kinh tế hộ gia đình chiếm 48,99%, v.v..”[94, tr.89]. Hầu

hết người ở tuổi lao động được bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt trong

diện quy hoạch; quy hoạch gắn với đào tạo; chú trọng về trình độ, tuổi đời,

cán bộ nữ... từ đó đã khai thác, phát huy tốt năng lực của người lao động trong

xã hội (Xem phục lục số 6,7,8).

Tình hình sử dụng lao động trong các đơn vị cơ sở kinh tế, doanh nghiệp

trong số liệu khảo sát kinh tế lần thứ II năm 2015 cho thấy, tỷ lệ người lao

động tham gia trong các đơn vị cơ sở kinh tế ngày một tăng theo xu hướng

phát triển của các ngành kinh tế: “cả nước có 178.557 đơn vị cơ sở kinh tế, và

điều tra trong 134.577 đơn vị, đã sử dụng khoảng 667.568 lao động; các đơn

vị cơ sở kinh tế không vì lợi nhuận sử dụng lao động khoảng 93,547 người”

[98, tr.62]. Các đơn vị kinh tế phần lớn tập trung ở các thành phố nhưng cũng

có một số đơn vị đã mở ra khu vực nông thôn: “các đơn vị kinh tế hoạt động ở

thành phố 65,9%, hoạt động ở vùng nông thôn có đường giao thông 33%,

hoạt động ở vùng nông thôn không có đường giao thông 1,1%” [98, tr.9]. Mặc

dù đơn vị kinh tế hoạt động ở vùng nông thôn còn ít, nhưng đó là cơ sở để

huy động lao động vùng nông thôn góp phần trong phát triển KT-XH, tạo cơ

hội cho người lao động tiếp cận với nghề nghiệp, khoa học - kỹ thuật, công

nghệ mới ngoài ngành nông nghiệp truyền thống (Xem phụ lục số 7).

3.1.2. Thành tựu về đào tạo, bồi dưỡng con người trong phát triển

kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay

Trong cơ cấu dân số Lào, số dân ở độ tuổi trẻ khá cao so với các nước

trong khu vực; nếu xét về mặt thể lực là rất thuận lợi trong lao động sản xuất,

nhưng mặt bằng dân trí, nhất là khả năng và năng lực khoa học - kỹ thuật,

công nghệ, tay nghề, kỹ năng, kỷ luật lao động còn thấp. Về vấn đề này, Đảng

và Nhà nước đã quan tâm, chỉ đạo sát sao về công tác giáo dục, đã tạo cơ sở

76

pháp lý trong các đào tạo, bồi dưỡng con người để tạo ra nhân tố con người có

chất lượng cho xã hội. ĐNDCM Lào khẳng định: “Trong những năm tới

chúng ta vẫn tiếp tục coi công tác giáo dục là nhiệm vụ trung tâm trong cuộc

cách mạng… phải quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa trong sự nghiệp giáo

dục” [144, tr.115]. Trong Đại hội lần thứ X, Đảng vẫn nhấn mạnh vai trò của

nhân tố con người trong phát triển; đặc biệt, coi trọng việc nâng cao dân trí,

coi đó là nhân tố quyết định sự thắng - bại của công cuộc đổi mới: “Đảng ta

coi việc phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cốt yếu nhất để nâng cao trình độ

lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế tri thức trong đó coi con người là

đối tượng và là trung tâm của sự phát triển” [150, tr.44].

Nhà nước ban hành nhiều chính sách có liên quan đến đào tạo, bồi

dưỡng con người. Ngày 29/06/2010, Nhà nước ban hành và thi hành bộ luật

giáo dục; thông qua Nghị định số 136/CP, quy định quy tắc, quy chế về giáo

dục để phát triển nguồn nhân lực, đào tạo con người trở thành công dân tốt, có

tài, có đức, có nghề nghiệp, góp phần bảo vệ và phát triển đất nước. Ngày

21/12/1998, Chính phủ đưa ra Nghị định số 237/CP, về việc thực hiện chế độ

đãi ngộ đối với những giáo viên đi giảng ở vùng sâu, vùng xa và vùng đặc

biệt khó khăn (cụ thể là đã quy định rõ: vùng xa tăng thêm 15% tiền lương cơ

bản, vùng xa cao nguyên tăng thêm 20%, vùng đặc biệt khó khăn tăng thêm

25%); Ngày 06/9/2012, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao đã ra Chỉ thị số

1293/GD-TT, về bãi bỏ việc thu học phí của học sinh mẫu giáo, tiểu học, phổ

thông cơ sở và trung học phổ thông.

Ngày 22/01/2011, Chính phủ đã ra Nghị định số 036/CP, về việc đào

tạo và phát triển tay nghề, trong đó quy định rõ các nguyên tắc, nội dung,

phương pháp... của việc đào tạo và phát triển tay nghề. Ngày 01/12/2015,

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao đã ra Quyết định số 7288/GD-NN, về

chiến lược phát triển nghề nghiệp và tay nghề giai đoạn 2016-2020. Mục

77

tiêu của chiến lược là nhằm cải tiến cơ sở hạ tầng, tạo sức mạnh và phát

huy khả năng của các trung tâm dạy nghề, huy động xã hội và các đơn vị

doanh nghiệp hỗ trợ, giúp các cơ sở dạy nghề, cải cách chương trình, nâng

cao trình độ đội ngũ giáo viên dạy nghề, bảo đảm chất lượng tay nghề...

Ngày 19/05/2003, Chính phủ đã ra Nghị định số 82/CP, về quy chế cán bộ

công chức nhà nước Lào, quy định cấp bậc, chức vụ, nghĩa vụ, nhiệm vụ,

quyền lợi, bố trí… cán bộ. Ngày 28/04/2014 Bộ trưởng Bộ nội vụ đã có

Thông tư số 02/NV, về việc thi tuyển công chức nhà nước CHDCND Lào.

Trong đó quy định rõ việc thi tuyển công chức nhà nước phải thi 2 lần: Lần

một là thi kiến thức cơ bản, tức là kiến thức về chính trị - hành chính, kinh

tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ...; Lần hai là thi kiến thức

chuyên ngành trên cơ sở yêu cầu của mỗi ngành cần tuyển người.

Ngày 10/01/2010, Bộ trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã ra

Nghị quyết số 043/LĐ-PH, về việc xây dựng và quản lý doanh nghiệp dịch

vụ tìm việc làm. Trong đó nêu rõ các nguyên tắc, quy chế, tiêu chuẩn, hoạt

động và quản lý doanh nghiệp dịch vụ tìm việc làm, nhằm tạo việc làm cho

người lao động để có thu nhập và giảm nghèo. Ngày 20/06/2016, Bộ

trưởng Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đã ra Quyết định số 2196/LĐ-PH,

về xây dựng làng phát triển về lao động và phúc lợi xã hội, trong đó quy

định những nguyên tắc, quy chế, tiêu chuẩn, phương pháp... trong việc tiến

hành xây dựng làng phát triển về lao động và phúc lợi xã hội, nhất là làm

cho các thành viên trong hộ gia đình và nhân dân trong làng có ý thức trong

lao động sản xuất và giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau. Những chủ trương, chính

sách luôn nhằm mục đích tác động vào đối tượng và tạo môi trường thuận

lợi nhằm khai thác, phát huy hiệu quả nhân tố con người.

Giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu; công tác xã hội hóa giáo dục

được toàn xã hội quan tâm và đóng góp về vốn. Ngoài vốn của ngân sách nhà

78

nước, Nhà nước còn huy động các nguồn vốn khác, như: vốn của tư nhân,

doanh nghiệp trong và ngoài nước... để đầu tư phát triển hệ thống giáo quốc

dân, xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục tập

trung phát huy những thành tựu của công cuộc cải cách giáo dục cũng như

phát triển nguồn lực con nguồn theo 3 đặc điểm và 5 nguyên lý của giáo dục

quốc dân đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn của khu vực, quốc tế và hiện đại” [139, tr.23]. Trong năm 2015, chính phủ đã đầu tư phát triển giáo dục

quốc dân 17% của tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; cải cách hệ thống

giáo dục quốc dân giai đoạn 2 và có chính sách thu hút người đi học nghề,

giảm số lượng sinh viên đi học đại học; tập trung phát triển năng khiếu của

con người, tạo điều kiện cho dân tộc thiểu số, người nghèo và nữ sinh được đi

học nghề hay các hệ khác.

Lào đã hợp tác với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế trong lĩnh vực giáo

dục, đào tạo và học nghề để giao lưu, trao đổi, tiếp thu thêm những kiến thức

mới của nhân loại cũng như phát huy tiềm năng về thể lực, tâm lực, nhất là trí

lực như: liên kết đào tạo nhân lực với Việt Nam, với Liên bang Nga, Thái

Lan, Nhật bản, Úc… Tính đến nay, Lào có lưu học sinh đang học tập tại hơn

34 nước, trong đó tại Việt Nam là nhiều nhất. Tỷ lệ người lớn biết chữ được

giải quyết, tỷ lệ nhập học của các cấp có xu hướng tăng lên. Qua phong trào

học tập ở các bậc học đã làm cho trình độ hiểu biết, học vấn, trình độ tay

nghề, khoa học - kỹ thuật không ngừng phát triển, số lượng học sinh - sinh

viên ở các trường, đơn vị đào tạo cũng tăng lên, tỷ lệ chênh lệch về giáo dục

của giới - dân tộc cũng được khắc phục. Và để bảo đảm chất lượng giảng -

dạy ở các trường theo chiến lược của Bộ Giáo dục và Thể thao là “đào tạo,

nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên trong các bộ môn theo tỷ lệ 1:6:3”

[88, tr.96]. Hiện nay, hệ thống giáo dục phát triển rất nhanh, đã trang bị cho

con người những kiến thức cần thiết trong lao động sản xuất, nhất là người

đang ở độ tuổi lao động như:

79

Giáo dục trung học phổ thông: Đây là hệ thống giáo dục tiếp nối của

chương trình học - dạy của chương trình trung học cơ sở, thời gian học trong

4 năm, nhằm nâng cao trình độ và phát triển khối kiến thức trong chương

trình trung học cơ sở và đi sâu học kiến thức của một số bộ môn nhằm phát

triển tri thức, khả năng, năng khiếu của học sinh. Ngoài ra, còn cung cấp và

trang bị thêm một số kiến thức cơ bản về tay nghề, nghề nghiệp, kỹ năng lao

động để giúp họ có khả năng tự tạo việc làm cho mình và xã hội. Bộ Giáo dục

và Thể thao đã ra chỉ thị số 1293/GD-TT bãi bỏ thu phí học học sinh, trong đó

có cấp phổ thông trung học để vận động, kích thích, thu hút và tạo điều kiện

thuận lợi cho học sinh đi học cấp phổ thông trung học, “Tỷ lệ đi học năm

2005 chiếm 34,4%, năm 2010 chiếm 33,9%, năm 2015 chiếm 45,8% trong

khi đó kế hoạch đề ra năm 2015 là 43%” [88, tr.5]. Đảng, Nhà nước đầu tư

không ngừng để phát triển hệ thống giáo dục trung học phổ thông, đảm bảo

mỗi tỉnh phải có ít nhất một trường phổ thông có đầy đủ về cơ sở hạ tầng, các

lớp học, thư viện và phòng thí nghiệm.

Giáo dục thường xuyên: giáo dục thường xuyên được Nhà nước quan

tâm để tạo cơ hội cho những nguời không có điều kiện đi học, bỏ học được

học tiếp. Điều đó đã làm cho tỷ lệ người biết chữ từ độ tuổi 15 trở lên tăng

nhiều, giúp thành công trong công tác xóa mù chữ và phổ cập thành công cấp

tiểu học trong năm 2015; và thành công trong việc phổ cập cấp phổ thông

trung học cơ sở ở 36 huyện, 1 tỉnh; củng cố chương trình, sách giáo khoa cho

phù hợp với yêu cầu thực tiễn, cung cấp giáo viên cho nơi thiếu.

Giáo dục nghề nghiệp: Xây dựng và cải thiện cơ sở vật chất, chương

trình dạy - học để phát triển nghề. Phát triển giáo dục nghề theo hướng: Một

là, đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động trở thành công dân tốt, có kiến thức

và lành nghề, năng động, sáng tạo trong xây dựng và phát triển đất nước, có

thể lực và đạo đức. Hai là, phát triển lực lượng lao động theo yêu cầu và thế

80

mạnh của từng vùng, gắn với thực tế cuộc sống của nhân dân, phù hợp với cơ

cấu kinh tế và thế mạnh của đất nước, phù hợp với yêu cầu thực tế của địa

phương và thị trường lao động quốc tế. Ba là, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển

nghề nghiệp phù hợp với thế mạnh của kinh tế, vùng và địa phương; tập trung

phát triển theo ngành nông - lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, điện lực, dịch

vụ biên giới, du lịch và mỏ, nhất là phát triển ngành nông - lâm nghiệp gắn

với công nghiệp và dịch vụ.

Lào có một số ngành kinh tế được ưu tiên phát triển, như: “Ngành nông

nghiệp, du lịch và khách sạn, xây dựng và hạ tầng” [90, tr.12]. Hiện nay, Lào

có nhu cầu lao động lành nghề nhiều như: nông nghiệp, công nghiệp, đồ may

mặc, xây dựng, khách sạn và du lịch, máy móc, sửa chữa máy, nội thất, công

nghệ cao (xây dựng, năng lượng). Do vậy, Nhà nước đã phát triển các trung

tâm đào tạo nghề cả công lập và dân lập, tạo điều kiện thuận lợi và thu hút

người theo học nghề ngày càng nhiều; “trong năm 2010 có 153 trường dạy

nghề, nhưng đến năm 2015 là 165 trường, trong đó có 76 trung tâm của tư

nhân và có 2.290 cán bộ giảng viên” [109, tr.4]. Và “năm 2015 có 26.264

người theo học nghề, trong đó theo học ngành nông nghiệp 3.660 người,

ngành công nghiệp 10.558 người, ngành dịch vụ 11.847 người và học sư

phạm về dạy nghề là 199 người” [90, tr.25]. Trung tâm dạy nghề của tư nhân

cũng có nhiều người theo học như: “có 2.848 cán bộ giảng viên, có 41.342

người theo học, trong đó ngành công nghiệp 1.898 người, ngành dịch vụ

39.444 người” [90, tr.27]. Giáo dục nghề nghiệp phát triển giúp con người

tiếp cận với nhiều kiến thức nghề nghiệp khác nhau, nhất là những người

đang ở độ tuổi lao động được chọn học ngành mà mình yêu thích và phù hợp

với điều kiện và công việc, trình độ tay nghề được nâng cao và phù hợp với

nhu cầu của thị trường lao động.

81

Giáo dục cao cấp: Theo Luật giáo dục của Lào, giáo dục cao cấp là:

“Giáo dục tiếp nối sau tốt nghiệp trung học phổ thông, học nghề nghiệp bằng

trung cấp hoặc cao đẳng trở lên mà có nhiệm vụ đào tạo ra cán bộ chuyên

môn, nhà khoa học, nhà nghiên cứu đảm bảo về kiến thức, năng lực trình độ

cao để phục vụ xã hội và có khả năng hành nghề” [133, tr.7]. Và Sinh viên

cao cấp được tính từ theo học hệ thống cao đẳng đến tiến sĩ.

Nhà nước có chiến lược phát triển giáo dục cao cấp để đảm bảo chất

lượng và đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, tạo ra đội ngũ lao động trí thức

và nhà khoa học, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp trang thiết bị giáo dục;

thực hiện chính sách ưu tiên cho học sinh, sinh viên giỏi, nữ giới, dân tộc

thiểu số và người nghèo đi học bằng vốn nhà nước. Ở các trường có trung tâm

tư vấn hướng nghiệp; tăng tỷ lệ số lượng nhập học và tốt nghiệp ra trường của

một số ngành mà thị trường lao động và địa phương có nhu cầu cao, như:

ngành công nghệ, nông nghiệp, khoa học, kiến trúc,... Các ngành ưu tiên cũng

được cung cấp khá đẩy đủ trang thiết bị, như: Thư viện điện tử, nguồn thông

tin trên mạng, phòng thí nghiệm, phòng thí nghiệm thực tế. Cải tiến tiêu chí

đầu vào của học sinh, sinh viên phù hợp và đảm bảo người học ra trường có

chất lượng. Các trung tâm đào tạo hệ cao cấp đã hợp tác với các đơn vị sử

dụng lao động trong việc cải tiến chương trình và phương tiện dạy - học để

vừa đảm bảo đạt tiêu chuẩn giáo dục quốc gia, vừa đảm bảo cho yêu cầu thị

trường lao động, nhất là đảm bảo về kỹ năng, kiến thức (về tổ chức quản lý,

lãnh đạo, hành nghề và tiếng nước ngoài). Năm học 2014 - 2015, tổng số

trường giảng dạy theo hệ thống cao cấp là 147 trường, trong đó có 5 trường

đại học. Cán bộ, giảng viên đang công tác ở các trường là 17.255 người; trong

đó làm việc ở các trường tư nhân là 1.555 người; riêng giảng viên mời từ bên

ngoài là 1.602 người; số sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh đang học và

nghiên cứu tại các trường có 103.238 người [89, tr.5].

82

3.1.3. Thành tựu về việc tạo động lực để phát huy nhân tố con

người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào hiện nay

Thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến những hệ thống

động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội

của Lào. Có thể dẫn đến một số thành tựu cơ bản như sau:

Một là, hệ thống lợi ích vật chất để phát huy nhân tố con người trong

phát triển kinh tế - xã hội ở CHDCND Lào hiện nay đã được quan tâm.

Lợi ích được coi là động lực thúc đẩy con người hăng hái trong hoạt

động sản xuất. Trong điều 27 của Hiến pháp CHDCND Lào quy định: “Nhà

nước và xã hội phải quan tâm phát triển tay nghề, nâng cao tính kỷ luật lao

động,… bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động” [134, tr.9].

Lợi ích quan trọng của con người đầu tiên phải nói đến cái ăn, chỗ ở, đồ mặc

nhưng để có được thứ đó đều là xuất phát từ lao động mà ra. Do đó, Đảng và

Nhà nước có chủ trương, chính sách phát triển các thành phần kinh tế, làm

cho nền kinh tế phát triển khá nhanh; xây dựng và phát triển đặc khu kinh tế,

nghề thủ công công nghiệp và các đơn vị doanh nghiệp được cải thiện, thúc

đẩy và nâng cao năng suất; khích lệ phát triển sản xuất hàng hóa; tạo điều

kiện cho con người có công ăn việc làm, cuộc sống ấm no, hạnh phúc và thu

nhập ổn định, từ đó sẽ làm cho người lao động hăng say và sáng tạo trong lao

động sản xuất.

Bảo về lợi ích người lao động là vấn đề quan trọng; chính quyền các

cấp đã tổ chức tư vấn pháp luật, các quy chế về thuê lao động, hợp đồng lao

động, thời gian lao động, thời gian nghỉ ngơi, đền bù khi hủy bỏ hợp đồng

lao động và các vấn đề khác liên quan đến người sử dụng lao động và người

lao động tại các đơn vị doanh nghiệp, sản xuất và dịch vụ. Nhà nước đã ký

kết biên bản ghi nhớ về thuê lao động, hợp tác chống buôn người và gửi cán

83

bộ quản lý sang trực tại đại sứ quán Lào ở các nước để tư vấn giúp người lao

động; hợp tác với các tổ chức liên quan ở các nước có người lao động không

hợp pháp để làm thủ tục hợp pháp cho họ, nhất là ở các nước láng giềng.

Ngoài ra, Nhà nước cũng quan tâm đến mức sống của nhân dân, đã cải cách

mức tiền công thấp nhất cho lao động tại các đơn vị kinh doanh, sản xuất và

dịch vụ từ 626.000 kịp/tháng trong năm 2011, lên 900.000 kíp/tháng trong

năm 2015.

Về sức khỏe và an toàn lao động cũng đang được quan tâm, Nhà nước đã

thành lập đơn vị chuyên môn chịu trách nhiệm và thường xuyên bồi dưỡng,

tập huấn cán bộ nhân viên làm công tác kiểm tra an toàn lao động trong các

đơn vị sử dụng lao động của các ngành kinh tế, doanh nghiệp... đề phòng tai

nạn lao động. Ngoài ra, công tác bảo hiểm đã được xã hội quan tâm và phát

triển khá nhanh; nó giúp con người an tâm trong lao động sản xuất; tỷ lệ bao

phủ của bảo hiểm xã hội ngày càng tang, trong “năm 2015 có 2.067.766

người, chiếm 30,36% của dân số cả nước” [112, tr.6].

Mạng lưới y tế quốc gia được quan tâm phát triển, cấp bản có các nhân

viên y tế xuống để tuyên truyền công tác chăm sóc sức khỏe và phòng ngừa

bệnh; chính quyền các cấp chủ động tuyên truyền việc giữ ba sạch như: “ăn

sạch, ở sạch, mặc sạch”; phát động phong trào thể dục thể thao, bảo vệ sức

khỏe. Sức khỏe người dân được đảm bảo hơn, làm cho tỷ lệ sống thọ của

nhân dân có xu hướng tăng cao; tuổi thọ trung bình là 68 tuổi; xây dựng

được 5.492 bản gương mẫu về y tế (chiếm 64,84% số bản cả nước); thúc đẩy

phong trào tiêm vắc xin phỏng chống bệnh ở các bản, trường học... Đảng

nhấn mạnh: “tiếp tục thực hiện chính sách y tế toàn xã hội theo hướng coi

công tác sạch sẽ, phòng chống các căn bệnh và tăng cường việc bảo vệ sức

khỏe là chính... xây dựng hệ thống dịch vụ y tế tốt, lấy con người làm trung

tâm...” [139, tr.23].

84

Hai là, thực hiện dân chủ hóa để phát huy nhân tố con người trong phát

triển kinh tế - xã hội ở CHDCND Lào hiện nay.

Năm 1975, Nhân dân Lào đã giành được thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa cực

kỳ quan trọng, khẳng định chủ quyền dân tộc và vai trò lãnh đạo của ĐNDCM

Lào, là cơ sở quyết định việc thực hiện các quyền cơ bản của con người, của

công dân Lào, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho việc hoàn thiện và mở rộng dân

chủ ở Lào. Trong thời đại mở cửa, hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế thị

trường, dân chủ là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người năng động

trong phát triển đất nước, vì con người hoạt động không chỉ với tư cách là

người công dân, mà còn với tư cách là người chủ tư liệu sản xuất của xã hội.

Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa quyền công dân và

quyền làm chủ xã hội, và hiện nay nhân dân Lào đang thực hiện quyền đó.

Dân là gốc, tất cả là do dân, vì dân, quyền lực của dân là tối cao. Hiến pháp

CHDCND Lào chỉ rõ: “Nhà nước của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là

nhà nước dân chủ nhân dân. Tất cả quyền lực là của nhân dân, do nhân dân và

vì lợi ích của nhân dân các bộ tộc, bao gồm các tầng lớp xã hội do công nhân,

nông dân và đội ngũ trí thức là nòng cốt” [134, tr.2].

Tuy nhiên, mở rộng dân chủ phải đi đôi với xây dựng kỷ cương, pháp

luật. ĐNDCM Lào khẳng định: “Đảng lãnh đạo và cầm quyền theo pháp

luật, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, nhân dân làm chủ, bình đẳng

trước pháp luật” [150, tr.47]. Việc tổ chức giáo dục chính trị - tư tưởng gắn

với việc xây dựng cơ sở chính trị làm gốc đang được chính quyền các cấp

quan tâm, tổ chức quán triệt và phổ biến nghị quyết Đại hội Đảng, đưa

phương châm của Đảng đến với cơ sở, địa phương và nhân dân, để nâng cao

trình độ kiến thức lý luận chính trị và hành chính, nêu cao tinh thần yêu

nước, yêu chế độ mới; phát huy tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, nắm vững

đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là sự đổi mới toàn diện có

nguyên tắc của Đảng theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, chống mọi âm mưu

85

diễn biến hòa bình, tư tưởng đa đảng, đa nguyên; và phát huy vai trò và

quyền làm chủ của nhân dân; dân có dân chủ, có tự do mới có thể yên tâm

trong sản xuất, trong sáng tạo và mới có thể phát huy hết giá trị, phẩm chất

và năng lực của con người.

Trong thời kỳ trước giải phóng, mặc dù Lào là một nước giàu có về tài

nguyên, khoáng sản, nhưng do bị các nước xâm lược thống trị trong nhiều

năm, họ đã cướp đi dân chủ, tự do của nhân dân, kìm hãm sự phát triển và

thịnh vượng của đất nước. Hiện nay, nhân dân đã có quyền tự chủ và dân

chủ, và ngày càng được củng cố, nâng cao. Công dân dưới sự quản lý của

chính quyền đều bình đẳng trước pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ của

pháp luật. Hiện nay, nhân dân không chỉ tự do trong ngôn luận, trong đi lại,

trong học hành và tín ngưỡng mà còn có quyền tự do, dân chủ trong buôn

bán, kinh doanh, làm giàu. Việc bảo vệ pháp luật và quyền lợi của công dân

được giải quyết đúng luật pháp, bảo đảm sự công bằng; giáo dục ý thức tôn

trọng và thi hành pháp luật của nhân dân. Lào tập trung thực hiện dân chủ

theo tinh thần: “Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường bằng cách

tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân có cơ hội phát triển mình, và tham gia

trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội… kiên trì theo đường lối dựa vào

nhân dân, lấy dân làm gốc, phát huy năng lực của nhân dân, tất cả vì lợi ích

của nhân dân” [128, tr.80-81]. Và dân chủ là sức mạnh của con người, sức

mạnh của dân tộc; mất dân chủ là mất đi quyền làm người, mất đi sức mạnh

của dân tộc.

Ba là, thực hiện công bằng xã hội để phát huy nhân tố con người trong

phát triển kinh tế - xã hội ở CHDCND Lào hiện nay.

Công bằng xã hội vừa là động lực, vừa là tiêu chuẩn trong phát triển

KT- XH. Thực hiện công bằng xã hội là một chủ trương lớn, nhất quán của

Đảng và Nhà nước, nhằm tạo điều kiện để mọi người được tiếp cận với các

86

dịch vụ xã hội và có cơ hội phát triển một cách bình đẳng. Đảng và Nhà

nước giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; khắc phục

những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình

hình KT-XH của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn

thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa

dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ các thành viên trong xã hội,

nhất là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, bị thiên tai; triển khai chương

trình xoá đói giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó

khăn; huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo đời sống

vật chất và tinh thần cho những người và gia đình có công với cách mạng,

hoàn cảnh khó khăn.

Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số,

kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em là một chủ

trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước có chính sách củng cố,

phát triển mạng lưới y tế dự phòng, nâng cao năng lực của các bệnh viện

tuyến huyện và tuyến tỉnh, hiện đại hóa một số bệnh viện đầu ngành. Thực

hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, gia

đình ít con và đảm bảo tỉ lệ sống sót của trẻ sơ sinh; bảo đảm quyền cơ bản

của trẻ em, tạo môi trường lành mạnh để con người phát triển toàn diện về thể

lực, trí lực và tâm lực.

Những năm qua, hệ thống chính sách, luật pháp được bổ sung mục đích

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngân sách nhà nước dành cho các

chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gia tăng

hằng năm. Đặc biệt, thực hiện khá tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng

cao đời sống nhân dân; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội

và tai nạn giao thông.

87

3.2. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

HIỆN NAY

3.2.1. Một số hạn chế trong việc sử dụng nhân tố con người trong

phát triển kinh tế - xã hội

Bên cạnh những thành tựu trong việc sử dụng năng lực con người trong

phát triển kinh tế - xã hội ở CHDCND Lào như đã nêu trên, ở khía cạnh này

cũng bộc lộ những điểm chưa hiệu quả, hợp lý. Cụ thể:

Một là, sử dụng năng lực con người trong phát triển kinh tế thị trường

chưa hiệu quả. Từ khi đổi mới trở lại đây, với chủ trương phát triển kinh tế thị

trường của Đảng và Nhà nước đã giúp đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

Nhưng việc sử dụng, khai thác những giá trị, phẩm chất, năng lực của nhân tố

con người cả về trí lực, thể lực, tâm lực của người lao động chưa hợp lý, nhất

là những người trong độ tuổi lao động ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa.

Các đơn vị kinh tế đa số hoạt động ở các thành phố, nơi có đường giao thông

thuận lợi, còn vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa chưa được chú trọng

đúng mức; cho nên, phát huy nhân tố con người cũng bị giới hạn nhất định.

Phát triển kinh tế thị trường, đòi hỏi phải thu hút, phát huy những giá trị,

phẩm chất, năng lực của người lao động góp phần trong các thành phần kinh

tế, tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội và yêu cầu của thị trường, nhưng

thực tế cũng chưa thực hiện tốt. Chẳng hạn, ngành nông - lâm nghiệp là ngành

có người lao động tham gia nhiều nhất “chiếm tới 65,5%, tương đương với

2.466.538 người và là một ngành mà Nhà nước coi là có tiềm năng nhất của

Lào nhưng sự đóng góp trong thu nhập quốc nội khá khiêm tốn, chỉ chiếm

20.622 tỷ kíp và chiếm 17,59% trong cơ cấu kinh tế” [101, tr.17]. Nói chung,

ngành này chưa khai thác tốt những tiềm năng, thế mạnh của đất nước, nhất là

thế mạnh về lao động để tạo ra sản phẩm hàng hóa đáp ứng yêu cầu thị trường

và xã hội.

88

Việc khai thác, vận dụng nhân tố con người, còn gặp nhiều khó khăn,

mặc dù lao động giá rẻ, nhưng chưa tạo điều kiện tốt cho họ được tham gia

nhiều trong phát triển kinh tế của nước nhà; đặc biệt là nhân dân vùng nông

thôn mà còn thiếu kiến thức, trình độ chuyên môn, khoa học, kỹ thuật; tay

nghề thấp hoặc không có tay nghề. Mặt khác, sản phẩm của họ chưa có thị

trường tiêu thụ ổn định, thu nhập thấp không thể thoát nghèo. Điều đó ảnh

hưởng đến tâm lý, chất lượng cuộc sống, sự hăng say sáng tạo trong lao động:

“tiền công trung bình của lao động người Lào ở Lào trong lĩnh vực này là

1.100.000 kíp, còn người lao động nước ngoài đang lao động tại Lào là 2.430

USD” [102, tr.28]. Từ những sự chênh lệch như thế mới làm cho lao động

Lào khó phát huy được tính năng động, sáng tạo của họ.

Trong lĩnh vực công nghiệp, mặc dù cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng

CNH, HĐH; nhưng chưa tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Khả

năng tạo việc làm trong nước vẫn còn thấp so với xuất khẩu lao động. Thực tế

đó cho thấy, cơ cấu ngành chưa thật sự vững mạnh để có thể khai thác, vận

dụng những thế mạnh của nhân tố con người; “năm 2013-2014, tạo việc làm

trong nước cho 16.329 người, xuất khẩu lao động là 4.271 người. Năm 2014-

2015 tạo được việc làm trong nước cho 10.671 người, xuất khẩu lao động là

17.067 người. Năm 2015-2016, tạo được việc làm trong nước là 14.286

người, xuất khẩu lao động là 18.925 người” [113, tr.2] (Xem phụ lục số 9).

Một vấn đề nữa là, các ngành công nghiệp đa số thường tập trung hoạt động ở

các thành phố lớn, còn ở vùng nông thôn rất ít: “tại vùng nông thôn không có

đường giao thông càng ít hơn, tỷ lệ hoạt động của đơn vị kinh tế chỉ chiếm

1,1%; còn nông thôn có đường giao thông chiếm 33%, còn lại hoạt động ở

các thành phố” [98, tr.9]. Điều đó làm cho số người dân ở vùng nông thôn

khó tiếp cận và tham gia, nó là vật cản trong việc phát huy nhân tố con người

ở Lào. Mặt khác, trình độ tay nghề của người lao động không thể đáp ứng

được yêu cầu hệ thống sản xuất mới, vì hệ thống sản xuất mới đòi hỏi những

89

công nhân lành nghề, trình độ tay nghề cao, số lao động thủ công thô sơ

không thể tham gia trong quá trình sản xuất hiện đại.

Trong lĩnh vực dịch vụ phát triển khá nhanh; khai thác, thu hút nhiều

lao động tham gia. Tuy nhiên, so với thế mạnh của đất nước và con người

Lào thì việc khai thác, sử dụng những tiềm năng, năng lực tiềm ẩn vẫn còn

khiêm tốn, nhất là việc khai thác, tận dụng con người. Khả năng tạo việc làm

cho người lao động trong nước có tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ xuất khẩu lao

động trong ngành. Theo số liệu năm 2015, đã tạo việc làm cho người lao

động trong nước “là 3.640 người, xuất khẩu lao động là 27.882 người, lao

động nước ngoài đang làm việc trong ngành là 13.816 người. Tiền công lao

động nước ngoài làm việc tại Lào là 997,5 USD tương đương với 8.263.290

kíp, còn tiền công của người lao động Lào chỉ là 2.500.000 kíp” [102, tr.28].

Con số đó cho thấy, ngành dịch vụ chưa thật sự tạo cơ hội cho người lao

động Lào thể hiện, phát huy hết thể lực, tâm lực, trí lực của mình, nhất là

trong một số ngành như: du lịch, khách sạn, nhà nghỉ, khu vui chơi giải trí…

và số ngành trong lĩnh vực dịch vụ cũng chưa phát triển đồng đều, thầm chí

có sự chênh lệch khá lớn, làm cho không thể phát triển hết những tiềm năng

vốn có và chưa tạo được nhiều cơ hội cho người lao động tham gia (Xem

phụ lục số 9).

Nhìn chung, trong phát triển kinh tế Lào vẫn có nhiều bất cập, đặc biệt là

phát triển kinh tế hàng hóa chưa tương xứng với thế mạnh vốn có của đất

nước, nhất là hàng hóa xuất khẩu. Theo điều tra, “các đơn vị kinh tế sản xuất

để xuất khẩu chỉ chiếm 0,5%, sản xuất để xuất khẩu và tiêu dùng trong nước

chiếm 1,4%, và sản xuất tiêu dùng trong nước chiếm 94%” [98, tr.17], nhất là

ở vùng nông thôn, chưa huy động được đông đào lực lượng lao động tham

gia, vì phần lớn họ thiếu vốn, thiếu kiến thức trong khâu sản xuất sản phẩm

hàng hóa, không có thị trường phân phối ổn định, làm cho việc sử dụng, khai

thác thế mạnh con người hạn chế. Bên cạnh đó, các đơn vị doanh nghiệp sử

90

dụng lao động quy mô lớn cũng chiếm tỷ lệ rất ít. Chẳng hạn, “đơn vị kinh tế

sử dụng lao động từ 100 người trở lên chỉ chiếm 0,2% của tổng số đơn vị kinh

tế” [98, tr.23] (Xem phục lục số 3, 4). Ngoài ra, các đơn vị kinh tế phát triển

thiếu cân đối, do đó việc sử dụng lao động cũng không đồng đều trong các

ngành. Đa số lao động tập trung trong ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô

tô, xe máy, với tổng số lao động tham gia khoảng 247.014 người; công nghiệp

chế biến có khoảng 120.811 người lao động (Xem phụ lục số 7).

Việc khơi dậy, khai thác, sử dụng những giá trị, phẩm chất, năng lực của

con người chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh vốn có, một phần là

do chất lượng của người lao động còn hạn chế. Tuy số lượng lao động đang

độ tuổi trẻ, “tuổi từ 15 - 59 tương đối đông, chiếm tới 63,46%; trong đó số

người từ 0 - 14 tuổi chiếm 32,05%; 60 tuổi trở lên chiếm 6,49% của tổng dân

số cả nước” [102, tr.23]. Và theo điều tra năm 2010, tổng số người trong độ

tuổi lao động là 3.021.212 người, trong đó số lao động không đi học lớp nào

có 654.942 người, chiếm 21,67% của tổng dân số đang trong độ tuổi lao động

(Xem phụ lục số 5, 4). Từ đó thấy rằng, Lao động chất lượng thấp và không

đồng bộ, cả về trình độ học vấn, lẫn thể chất, kỹ năng nghề nghiệp, thói quen

lao động, tính kỷ luật trong lao động,... không đáp ứng được yêu cầu của nền

sản xuất công nghệ cao, nhất là các ngành kinh tế mũi nhọn. Lực lượng lao

động không đáp ứng được 1/2 yêu cầu về học vấn và nghề nghiệp tinh thông.

Do đó, tình trạng thiếu việc làm do trình độ tay nghề không đáp ứng được yêu

cầu của thị trường lao động khá phổ biến, vì thị trường lao động có nhu cầu

sử dụng lao động có tay nghề cao, nên một số doanh nghiệp phải nhập khẩu

lao động từ nước ngoài và buộc người lao động trình độ tay nghề thấp phải đi

kiếm việc với tiền công giá rẻ ở những nơi khác.

Lao động Lào chủ yếu là lao động thủ công, thô sơ chưa qua đào tạo nên

việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế; tác

phong lao động còn tùy tiện, chưa thể đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất

91

hiện đại. Trong khi đó, ở các nước công nghiệp hóa thì tỷ lệ lao động công

nghiệp và dịch vụ phải chiếm đa số tức là lao đông có trình độ tay ngề cao

chiếm đa số. Do đó, những năm gần đây mức trả tiền công thấp nhất cho lao

động “tăng 20% nhưng năng suất lao động lại không tăng; vì cơ cấu lao động

trí óc của Lào còn thấp chỉ chiếm khoảng 7,42%, còn lại là lao động cơ bắp.

Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp chưa cao (chỉ 2% của tổng dân số trong độ tuổi lao

động)” [90, tr.22], nhưng đó là điều rất đáng lo ngại, cần phải được quan tâm,

bởi nếu không có việc làm và thu nhập thỏa đáng thì sẽ đẩy nhiều người đi

vào con đường tệ nạn xã hội và tội phạm, lãng phí lực lượng lao động dồi dào,

quý báu của đất nước, quan trọng hơn là không thể phát huy được những năng

lực vốn có trong nhân tố con người Lào.

Hai là, lập trường tư tưởng chính trị, phong cách sống và lao động, ý

thức tự rèn luyện, tự học tập còn hạn chế. Một bộ phận của người lao động

thiếu ý thức tự rèn luyện, non kém về tư tưởng chính trị, chưa nhận thức rõ

được tình hình, nhiệm vụ chính trị của giai đoạn mới, có xu hướng sống thực

dụng, coi thường các giá trị nhân văn, kỷ cương đạo lý, thiếu ý chí tự lực tự

cường, thiếu hoài bão lập thân lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất

nước; họ ngại tham gia các sinh hoạt đoàn thể xã hội.

Có một số người vi phạm pháp luật, nếp sống không lành mạnh do ảnh

hưởng và chịu tác động của các hiện tượng tiêu cực, như làm ăn phi pháp,

buôn lậu, nghiện hút và các tệ nạn xã hội khác. Hiện tượng tham nhũng, lãng

phí, tư lợi… còn tồn tại và tác động đến việc phát huy nhân tố con người. Qua

điều tra “phát hiện và xử lý 95 người, và đang điều tra 21 tối tượng là cán bộ

của Nhà nước và 12 đối tượng là cán bộ của công ty có liên quan đến hiện

tượng tham nhũng, làm thất thoát tài sản, tiền của của nhà nước là 178.044 tỷ

kíp; 279,53 triệu bạt Thái; 66.882 USD” [122, tr.10]. Một số cán bộ, đảng

viên và nhân dân chưa thấy được sự nguy hại của căn bệnh tham ô, tham

nhũng và các tệ nạn xã hội. Sự nhận thức và hiểu biết về sự nguy hại của bệnh

92

tham nhũng chưa sâu rộng, coi nhẹ hay xử lý không thiết thực, nó tạo ra một

môi trường xấu và ảnh hưởng đến nhân tố con người.

Một số người còn thiếu phong cách lao động của xã hội công nghiệp,

như tính tổ chức, tính kỷ luật, khả năng hợp tác, tinh thần trách nhiệm... Đại

đa số chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Một số người sa

vào các tội phạm và tệ nạn xã hội (đặc biệt là nạn nghiện hút), mê tín dị đoan,

ít hiểu biết về pháp luật, thiếu ý chí khắc phục khó khăn, ỷ lại, bàng quan và

thiếu trách nhiệm với gia đình, với xã hội, sống thực dụng... Họ có lối sống xa

lạ với các chuẩn mực trong định hướng giá trị, coi thường những giá trị truyền

thống và giá trị nhân văn; chưa có quan niệm đúng về những giá trị dân chủ,

nhân đạo và tự do, bất chấp đạo lý làm người, không nghĩ đến tương lai, tiền

đồ sự nghiệp; không chịu khó học tập, rèn luyện trau dồi về trình độ chuyên

môn, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức cách mạng mà vùi vào rượu

chè, cờ bạc… rồi tự đánh mất bản thân mình, trở thành gánh nặng cho gia

đình và xã hội.

Ba là, sự phân bố, sử dụng, tuyển dụng con người chưa hiệu quả, hợp lý.

Cơ cấu lao động thiếu cân đối giữa các ngành nghề, xảy ra tình trạng có một

số ngành nghề thiếu hụt lao động. Số lao động tham gia trong ngành công

nghiệp và dịch vụ ít, phần lớn tập trung ở ngành nông nghiệp: năm 2015 tạo

việc làm cho người lao động được 3.538.792 người, làm trong ngành nông

nghiệp 2.466.538 người, làm trong ngành công nghiệp 431.733 người và làm

trong ngành dịch vụ 640.521 người [113, tr.2]. Số lượng lao động tham gia

trong các lĩnh vực phi nông nghiệp như: tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp,

dịch vụ, nghề thủ công truyền thống, công nghiệp chế biến... còn ít. Trong

lĩnh vực nông nghiệp, lực lượng lao động tham gia cũng có sự chênh lệch

nhau. Phần lớn lao động nông thôn tập trung vào ngành nuôi trồng và sản xuất

nông nghiệp, còn ngành lâm nghiệp với diện tích rừng và đất rừng tương đối

lớn, có rất nhiều tiềm năng nhưng số lao động tham gia trong ngành này lại

chiếm tỷ lệ rất ít.

93

Trong các ngành nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và nông nghiệp còn thiếu

nghiêm trọng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao,

trong khi đó lao động không có trình độ chuyên môn, tay nghề thấp lại quá

đông. Nhu cầu học tập ở bậc đại học của các em học sinh là chính đáng, hợp

lý, nhưng số lượng các em theo học các trường sơ cấp, trung cấp, cao đẳng

không nhiều, nhất là nghề nông - lâm nghiệp; công nhân kỹ thuật ở các trường

và trung tâm dạy nghề rất ít, nên lực lượng lao động về nghề này càng thiếu,

trong khi đó tại các địa phương lại rất cần lực lượng công nhân kỹ thuật có tay

nghề cao.

Cơ chế tuyển dụng, sử dụng nguồn lực con người thời gian qua ở một số

ngành nghề chưa sắp xếp đúng người đúng việc và đúng chuyên môn của họ;

chưa xóa bỏ được cơ chế tuyển dụng theo quyền lực, theo huyết thống gây

ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công việc, lãng phí nhân lực có trí tuệ.

Việc nâng cao tác phong lao động công nghiệp, xóa bỏ tác phong làm việc thụ

động, trung bình chủ nghĩa, ít tính toán đến hiệu quả; tính năng động, sáng

tạo, ý thức kỷ luật cao, chú trọng hiệu quả vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, cần

tạo ra được môi trường lao động thuận lợi, phù hợp với khả năng và nguyện

vọng của mỗi cá nhân để họ có thể phát huy cao độ năng lực, cống hiến cho

xã hội.

3.2.2. Một số hạn chế về đào tạo, bồi dưỡng con người trong phát

triển kinh tế - xã hội

Những năm qua, mặc dù hệ thống giáo dục quốc dân được cải cách,

nhưng về cơ cấu hệ thống giáo dục vẫn còn nhiều bất cập: việc biên soạn giáo

trình các môn khoa học có nhiều hạn chế, chưa đảm bảo nguyên tắc thống

nhất giữa học và hành, giữa lý luận và thực tiễn. Các chương trình GD-ĐT

chưa phản ánh kịp sự biến đổi của thực tiễn, nhất là trong bối cảnh cuộc cách

mạng công nghiệp đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ.

94

Nội dung chương trình thường nặng về trình bày những nguyên lý, phần

lớn nội dung thường nặng về thuyết minh, xem nhẹ sự luận giải khoa học, ít

chú ý tới tính thực tiễn, coi nhẹ việc đi kiến tập, thực tập. Kiến thức đưa vào

các môn trong chương trình quá dài so với thời gian quy định, sự tương quan

giữa khối lượng kiến thức với khối lượng thực hành chuyên môn chưa cân

đối. Việc phân bố thời gian cho các khâu trong quy trình đào tạo còn nặng về

giảng lý thuyết, chưa chú trọng bố trí thời gian tự học, tự đào tạo của học

sinh, sinh viên. Đặc biệt, thời gian dành cho đi thực tế còn quá ít, chưa đáp

ứng được nhu cầu học sinh, sinh viên. Điều này dẫn đến tình trạng giáo viên

giảng lý thuyết suông, học sinh, sinh viên tiếp thu một cách thụ động, máy

móc, học chảy và trông chờ vào giảng viên.

Hệ thống giáo dục - đào tạo chưa được quan tâm đầu tư đồng bộ, nhất là

giữa hệ thống giáo dục nghề và giáo dục cao cấp nhằm tạo ra nguồn lực đã

qua đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH. Việc đào tạo đội ngũ công

nhân kỹ thuật lành nghề chưa được quan tâm mở rộng, việc nâng cấp chất

lượng các cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề còn nhiều bất cập; chưa gắn dạy nghề

với nhu cầu thị trường lao động, nhu cầu lao động của các thành phần kinh tế,

doanh nghiệp. Chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và các đơn vị sử

dụng lao động, lao động đào tạo ra nhưng không đáp ứng được nhu cầu của

thị trường cả về số lượng và chất lượng. Nhất là cơ cấu trình độ chuyên môn

chưa đảm bảo yêu cầu phát triển KT-XH theo hướng hội nhập và hiện đại. Cơ

cấu giữa trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ

thuật, lao động hành nghề còn bất hợp lý. Lao động trí óc còn thấp chỉ chiếm

7,42%, còn lại là lao động cơ bắp (Xem phục lục số 3, 4).

Công tác bồi dưỡng rất quan trọng, đảm bảo cho lực lượng lao động

thành thạo về tay nghề, nghề nghiệp, theo kịp xu hướng phát triển của KH-

CN, nhưng chưa nhận được sự quan tâm từ các đơn vị lao động, các tổ chức,

các cấp, các ngành; chưa có quy hoạch rõ ràng về việc tổ chức bồi dưỡng đội

95

ngũ lao động, chưa có hệ thống đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề cho

người lao động phù hợp với cơ chế thị trường. Cho nên, người lao động

không theo kịp những phát minh mới của thời đại, thiếu thông tin khoa học -

kỹ thuật trong các lĩnh vực. Một số cấp ủy và chính quyền cấp cơ sở không

quan tâm đầy đủ đến đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao tay nghề.

Hiện nay số người đi học nghề còn ít, đa số học sinh mong muốn vào đại

học để có cơ hội kiếm việc làm tốt. Chính tình trạng này dẫn đến số lượng

sinh viên đại học và cao đẳng đông hơn gấp nhiều lần so với số sinh viên học

nghề. Và còn có sự chênh lệch nhau giữa các ngành: đa số là đi học ngành

dịch vụ và công nghiệp, còn ngành nông nghiệp (là ngành thị trường có nhu

cầu cao) thì người học lại ít, nhất là trường dạy nghề tư nhân không có người

học ngành này; làm mất cân đối trong cơ cấu đào tạo và ngành nghề, dẫn đến

tình trạng một số người theo học đại học hoặc học nghề đó nhưng ra trường

về địa phương lại không tìm được việc làm phù hợp mà phải làm việc trái

nghề, trong khi đó ở địa phương lại thiếu những công nhân kỹ thuật, thiếu đội

ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật nông nghiệp có trình độ chuyên môn cao.

Cơ cấu đào tạo ở Lào còn nhiều điểm bất cập, nhất là phát triển giáo dục

và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nếu đánh giá một cách nghiêm

túc, hiện nay đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ cán bộ công nghệ

đầu ngành, như: đội ngũ cán bộ giỏi về khoa học xã hội, ngành KH-CN mũi

nhọn, đội ngũ công nhân, nghệ nhân, nghệ sĩ, vận động viên v.v... còn rất ít.

Hiện tượng thiếu hụt cán bộ (trẻ và giỏi) trong nhiều ngành, nhiều cơ quan

chiến lược sẽ diễn ra trong những năm tới là điều khó tránh. Hiện nay, Lào

đang gặp nhiều khó khăn, lúng túng trên lĩnh vực lý luận, quản lý, khoa học

kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo điều tra của ngân hàng phát triển Châu

Á năm 2010 tại Lào cho thấy, nhu cầu lao động lành nghề trong 819 công ty

là 4736 người, và ở 8 tỉnh có nhu cầu lao động là 17613 người (Xem phụ lục

số 14, 15).

96

Ngoài ra, còn tồn tại tình trạng nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học

không tìm được việc làm do chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu,

nhịp độ cải cách và phát triển kinh tế hiện nay. Thực tế hiện nay cho thấy, khi

sức lao động đã trở thành hàng hóa thì hàng hóa đó phải có sức cạnh tranh

không những ở thị trường trong nước mà còn với thị trường quốc tế, nhất là

khi CHDCND Lào đã trở thành thành viên của WTO và thành viên của

Cộng đồng kinh tế ASEAN. Thế nhưng, chất lượng của lao động chưa tương

xứng với yêu cầu của thị trường lao động, do đó dẫn đến thiếu hụt nghiêm

trọng lao động trẻ có trình độ tay nghề và chuyên môn cao.

Chính sách đào tạo và hướng nghiệp còn nhiều hạn chế; vì cơ chế quản

lý cũ tồn tại trong thời gian dài, nó làm cho một bộ phận người lao động có

thói quen được bao cấp, thiếu năng động, sức ỳ lớn, hầu như chỉ đòi hỏi, trông

chờ vào Nhà nước; còn gia đình, bản thân họ không chủ động tìm việc, hoặc

tự tạo cơ hội và khả năng tìm kiếm việc làm phù hợp. Điều đó đã kìm hãm

tiềm năng sáng tạo, triệt tiêu động lực và chưa ý thức rõ về định hướng tương

lai, nghề nghiệp của bản thân cũng như định hướng phát triển KT-XH của đất

nước. Trong khi đó, việc chuyển sang phát triển kinh tế thị trường đã mở ra

khả năng to lớn trong giải phóng tiềm năng lao động, song Nhà nước lại chưa

có chính sách đồng bộ tạo ra những tiền đề, điều kiện và môi trường đảm bảo

giải phóng triệt để tiềm năng lao động.

Về việc huy động đầu tư phát triển số lượng và chất lượng của nhân tố

con người. Hiện nay, cơ sở hạ tầng, đội ngũ giáo viên, chuyên gia còn thiếu

về số lượng và yếu về chất lượng. Đặc biệt, ở nông thôn vẫn đang còn gặp

nhiều khó khăn trong học tập văn hóa, nghề nghiệp. Chính sách thu học phí ở

cấp trung học, cao đẳng và đại học đã làm cho không ít con em các gia đình

có thu nhập thấp, hộ nông dân nghèo, đồng bào các bộ tộc ở vùng sâu, vùng

xa có đời sống khó khăn không thể theo học, buộc phải thôi học hoặc đi làm

97

thuê. Ngay trong số cán bộ, công nhân trẻ đang công tác tại cơ quan, trường

học, v.v… muốn nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, mở rộng kiến thức cũng

không đủ điều kiện để học tập.

Chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tài năng trẻ, tài

năng KH-CN chưa đồng bộ và thỏa đáng, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu

phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và KH-CN. Chính quyền các cấp, ban

ngành chưa có những chủ trương, chính sách phù hợp để sử dụng lao động

sinh viên tốt nghiệp ra trường. Một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn do

không có điều kiện học tập, không có tay nghề nên buộc họ phải đi bán sức

lao động không hợp pháp, giá rẻ ở nước láng ngoài. Về cơ sở vật chất của các

hệ thống giáo dục chưa đồng bộ, trường học và các trang thiết bị giáo dục

phục vụ quá trình dạy - học còn thiếu, hoặc có nhưng rất cũ, không đáp ứng

được chương trình dạy - học theo hệ thống giáo dục hiện đại và ảnh hưởng

xấu đến năng suất lao động.

3.2.3. Một số hạn chế về việc tạo hệ thống động lực nhằm phát huy

nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội

Trong thời gian qua, việc tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của

con người trong phát triển kinh tế - xã hội được Đảng, Nhà nước quan tâm, và

có một số thành tựu nhất định, nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại một số khiếm

khuyết và hạn chế như sau:

Một là, về việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhằm phát huy

nhân tố con người. Nhìn chung, các chủ trương, chính sách và nghị quyết

liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần của con người vẫn tập trung chủ

yếu vào việc xác định vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của con người hay

người lao động nên trong thực tế đã thiếu những chính sách, biện pháp cụ

thể quan tâm thường xuyên tới những nhu cầu, lợi ích chính đáng và tạo điều

kiện, cơ hội cho họ được phát triển. Các chính sách thường chỉ quan tâm đến

98

việc huy động và sử dụng mà chưa chú ý đáp ứng và giải quyết kịp thời,

thỏa đáng những nhu cầu và lợi ích thiết thực cũng như sự phát triển toàn

diện của con người.

Công tác xóa đói giảm nghèo thời gian qua luôn nhận được sự quan tâm

của Đảng và Nhà nước, nhưng cũng chỉ tập trung ở một số vùng, chưa phổ

biến trong toàn quốc. Giải quyết việc làm cho người lao động ở vùng nông

thôn, vùng sâu vùng xa khá chậm, làm cho họ thiếu thu nhập hoặc thu nhập

không ổn định, một số người còn sống dựa vào tự nhiên; việc xóa đói giảm

nghèo chưa thực sự gắn liền với việc phát triển, phát huy những lao động trẻ

dồi dào ở vùng nông thôn. Giải quyết việc làm cho người lao động chưa gắn

với yêu cầu của người lao động và thị trường lao động, chưa gắn với công tác

đào tạo, bồi dưỡng làm cho một bộ phận học nghề xong nhưng không thích

làm nghề mình học, hoặc một số ngành nghề đào tạo ra không có việc làm. Sự

phối hợp giữa các cơ quan để giải quyết chưa có sự thống nhất.

Về chính sách chăm sóc sức khỏe, mặc dù được Đảng và Nhà nước quan

tâm, nhưng hệ thống y tế và bảo hiểm xã hội cơ bản chưa đáp ứng tốt việc bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và người lao động, chưa bao phủ được

tất cả các vùng trong toàn quốc (chỉ chiếm 30,22% dân số cả nước). Tình

trạng đói nghèo và suy dinh dưỡng cũng tác động rất lớn đến chất lượng nhân

tố con người Lào. Hiện nay, thể lực của người Lào được xếp vào loại trung

bình thấp trên thế giới (ước tính: nam giới cao 1m 60 - 1m 70, nữ giới cao 1m

50 - 1m 65). Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến thể lực của lao động Lào, và

ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu lao động trên thị trường lao động.

Hai là, về vấn đề dân chủ hóa trong phát huy nhân tố con người. Do xuất

phát điểm thấp và do những sai lầm, khuyết điểm của một số chủ thể lãnh đạo

quản lý đã kìm hãm sự phát triển nền dân chủ nước Lào. Đó là tệ độc đoán

chuyên quyền. Đây là căn bệnh tạo thành thói quen bao cấp về suy nghĩ và tư

99

tưởng, khiến cho người dưới quyền lười suy nghĩ, ỷ lại, dựa dẫm, mất đi yếu

tố sáng tạo, rơi vào máy móc giáo điều. Mặt khác, nó khiến cho chủ thể lãnh

đạo trở thành người độc đoán, bảo thủ, dẫn tới vi phạm dân chủ trong đơn vị

cơ quan, vi phạm những nguyên tắc sinh hoạt Đảng và thậm chí vi phạm pháp

luật nhà nước. ĐNDCM Lào chỉ rõ: “thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,

chống tệ độc đoán chuyên quyền, chia cắt trong đảng, làm việc không theo

nguyên tắc, vi phạm dân chủ” [139, tr.23].

Ba là, về vấn đề công bằng xã hội trong phát huy nhân tố con người.

Thực tế những năm qua cho thấy, việc quản lý phát triển xã hội, thực hiện

công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm; sự phát triển các lĩnh vực,

các vùng, miền thiếu đồng bộ; việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu

quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng,

miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo

và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của

phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối

với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm

soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho

con người: “sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp có xu hướng gia

tăng, trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn, nhất là vùng sâu vùng xa

có sự chênh lệch cách xa nhau nhiều” [149, tr.21]. Phát triển bền vững chưa

được nghiên cứu đầy đủ, việc quản lý phát triển xã hội chưa xác định rõ định

hướng và những nhiệm vụ mang tính tổng thể, đồng bộ, liên vùng, liên ngành,

liên lĩnh vực, còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, lĩnh vực quản lý. Hệ

thống chính sách, pháp luật chưa đồng bộ, chưa thể chế hóa và chưa có sự

quản lý thống nhất. Hệ thống văn bản pháp lý về phát triển của từng ngành,

địa phương chưa đồng bộ, thiếu nhất quán; nhiều kế hoạch phát triển của từng

lĩnh vực, địa phương chưa chú ý đúng mức đến phát triển xã hội bền vững của

vùng, liên vùng và quốc gia.

100

3.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC PHÁT HUY

NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở CỘNG HÒA

DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY

Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa

Dân chủ Nhân dân Lào trong thời gian qua có cả thành tựu và hạn chế nhất

định, nhưng muốn phát huy hiệu quả nhân tố con người trong phát triển KT-

XH, chúng ta cần phải tìm ra và nắm rõ nguyên nhân của những hạn chế để có

thể đưa ra giải pháp phù hợp nhằm phát huy đúng với những thế mạnh, năng

lực của con người. Do đó mới tìm ra nguyên nhân của những hạn chế. Cụ thể:

3.3.1. Nguyên nhân của hạn chế trong việc sử dụng nhân tố con

người trong phát triển kinh tế - xã hội

Một là, do hệ thống kinh tế thị trường của Lào chưa phát triển mạnh, đầy

đủ và không đồng bộ. Hệ thống kinh tế kém phát triển, lạc hậu; thị trường

không ổn định để đảm bảo tiêu thụ sản phẩm lao động; trong khảo sát cho

thấy “nhân dân trong toàn quốc 52,1% trả lời phiếu điều tra là không có thị

trường tiêu thu sản phẩm của họ, và 49,5% là thiếu vốn” [103, tr.64]. Thấy

rằng, hệ thống kinh tế thị chưa phát triển vững mạnh, chưa tạo điều kiện thuận

lợi cho con người khai thác, sử dụng hết năng lực của mình; đặc biệt là sử

dụng những trí lực, thể lực, tâm lực con người của nền kinh tế thị trường của

Lào chưa thật sự hiệu quả, trình độ phát triển của nền kinh tế lạc hậu; các đơn

vị kinh tế quy mô nhỏ chiếm tỷ lệ khá lớn trong nền kinh tế. Kinh tế phát triển

không đồng đều giữa các ngành kinh tế, sản xuất hàng hoá công nghiệp - tiểu

thủ công nghiệp, hàng hóa sản phẩm nông - lâm nghiệp chưa phát triển. Cơ

cấu ngành dịch vụ vẫn chưa phát triển theo đúng yêu cầu kinh tế thị trường;

kinh tế nông - lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển mạnh, chưa

phổ biến trên cả nước, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa nên việc

khai thác, sử dụng năng lực của con người chưa thật sự tương xứng với tiềm

năng vốn có.

101

Hệ thống kinh tế chưa tạo thuận lợi cho con người ở các vùng trong cả

nước tham gia, nền kinh tế chưa tạo được nhiều việc làm tương xứng với thế

mạnh của đất nước, nạn nghèo đói vẫn còn tồn tại vẫn là thủ địch bám theo

của nhân dân, kéo theo là các tệ nạn xã hội. “Theo điều tra cho thấy, 50,2%

họ cho rằng, không có thu nhập vì không có việc làm” [103, tr.64]. Nghĩa là,

kinh tế thị trường chưa khai thác được hết thế mạnh, tiềm năng, năng lực vốn

có của nhân tố con người, con người không thể tham gia nhiều trong quá trình

phát triển kinh tế thị trường. Ngoài ra, sự hiểu biết, ý thức và trình độ của

nhân dân về kinh tế thị trường còn hạn chế; việc tạo ra những sản phẩm hàng

hóa đạt tiêu chuẩn của thị trường vẫn là vấn đề mới đối với người lao động.

Các đơn vị kinh tế đa số thường tập trung hoạt động ở các thành phố,

còn ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, nhất là vùng nông thôn, vùng đặc

biệt khó khăn không có đường giao thông ít có các đơn vị kinh tế hoạt động

nhưng dân số sống ở đó rất khó khăn. Ở vùng nông thôn, nhân dân khó tiếp

cận với nguồn vốn và các kiến thức cơ bản trong lao động sản xuất, cách áp

dụng khoa học, kỹ thuật trong hành nghề; các đơn vị kinh tế, tổ chức, chính

quyền có liên quan chưa thực sự quan tâm tạo điều kiện cho nhân dân nhận

thức và hiểu rõ về vai trò của kinh tế thị trường trong việc cải thiện đời sống

vật chất lẫn tinh thần của họ, chưa giúp họ tìm được cách thức, phương thức

làm ăn và sản xuất hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường. Sản phẩm mà

họ tạo ra không đáp ứng yêu cầu của thị trường, khó phân phối tiêu thụ và

không thể tiếp cận, xâm nhập vào các thị trường lớn của quốc tế, mặc dù Lào

đã tham gia và cam kết với nhiều nước, nhiều tổ chức thương mại trên thế

giới, đây là vấn đề nan giải, nó bám theo cuộc sống của nhân dân trong thời

kinh tế thị trường, là hàng rào cản trở trong việc sử dụng, khai thác nhân tố

con người.

Hai là, do cơ chế, chính sách trong phân bố, sử dụng, tuyển dụng chưa

hợp lý. Việc sử dụng, tuyển dụng và thu hút đội ngũ lao động chưa tương

102

xứng với thế mạnh đang có, đặc biệt là việc tuyển dụng và thu hút lao động đã

qua đào tạo, người lao động có tay nghề, có trình độ khoa học - kỹ thuật cao,

tay nghề giỏi trong và ngoài nước chưa tốt; việc tuyển dụng, sử dụng chưa

thực sự công khai, khách quan, minh bạch, bình đẳng, dân chủ. Việc bố trí, trả

công lao động, sự thăng tiến nghề nghiệp, đánh giá, đãi ngộ nhân lực chưa

dựa vào thực tế kết quả của công việc.

Chính sách chậm đổi mới, không phù hợp với yêu cầu của thời đại kinh

tế thị trường và yêu cầu người lao động. Do vậy, việc thu hút nhân lực chất

lượng cao để phục phụ trong phát triển KT-XH của đất nước là công việc rất

quan trọng nhưng chưa thực hiện được tốt; nhất là công tác quảng bá, tuyên

truyền và chính sách thu hút nhân tài để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Việc xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn cán bộ khoa học, công nghệ ở trong

nước và nước ngoài trong các ngành công nghệ mũi nhọn, các nhà khoa học

trình độ cao tham gia phát triển KT-XH rất yếu.

Việc phân bố, sử dụng nhân tố con người chưa hợp lý, nhất là công tác

quy hoạch, sắp xếp, bố trí, huy động, đánh giá nhân sự thiếu khách quan, làm

mất cân đối lao động về cơ cấu trình độ chuyên môn, kỹ thuật, giữa sản xuất

nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Sự phân bố, sử dụng, tuyển dụng con

người bất hợp lý là do việc thực thi các hệ thống chính sách về con người

chưa gắn bó với thực tế của đất nước, của khu vực, quốc tế và thời đại. Chưa

xây dựng được hệ thống chính sách để chú trọng trong việc khai thác, huy

động, phát huy những giá trị, phẩm chất, nặng lực của nhân tố con người phù

hợp với từng vùng miền, từng lĩnh vực chuyên môn, ngành nghề. Chưa nắm

rõ yêu cầu phát triển và nhu cầu về trình độ chuyên môn, tay nghề đáp ứng

phù hợp với từng lĩnh vực kinh tế, xã hội trong toàn quốc.

Sự phân bố, sử dụng, tuyển dụng con người nhiều khi còn mang tính áp

đặt, chủ quan duy ý chí, thiếu tính công khai, minh bạch, bình đẳng, dân chủ

nên chưa thực sự lựa chọn và sử dụng con người đúng người đúng việc, đúng

103

chuyên ngành và phù hợp với sở thích, năng khiếu của từng cá nhân. Một số

cán bộ các cấp làm việc liên quan đến việc phân bố, sử dụng, tuyển dụng con

người chưa thấy được tầm quan trọng của việc này, chưa có kế hoạch rõ ràng,

khoa học và khách quan. Tài nguyên và tiềm năng của Lào rất lớn, nhưng

chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi hợp lý để thu hút, huy động các nguồn lực

bên ngoài vào đầu tư phát triển, chưa thu hút được các nhà kinh doanh nước

ngoài hưởng ứng, và lực lượng người lao động nước ngoài đến công tác và

làm việc, đặc biệt là đội ngũ lao động trình độ cao.

Ba là, do việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân tố con

người. Nhìn chung, việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của người lao động

chưa được khai thác tốt, một phần là do các chuẩn mực đánh giá sự cống hiến

của người lao động chưa phản ánh đúng quy luật của kinh tế thị trường, lao

động chưa được đánh giá đúng năng lực sáng tạo và sự hưởng thụ thành quả

lao động của họ. Các chuẩn mực và thang giá trị đánh giá chưa thực sự gắn

với thực tế của từng đối tượng, từng vùng miền và ngành nghề chuyên môn.

Các hệ thống chính sách và cách thức quản lý của cơ quan liên quan

chưa tạo thành một động lực thúc đẩy và phát huy hiệu quả những giá trị,

năng lực, phẩm chất vốn có trong mỗi con người. Việc thực hiện phát huy

tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân tố con người chưa gắn với thế

mạnh của đất nước, chưa tận dụng hết những thế mạnh của từng vùng miền và

khu vực, của từng ngành nghề, chuyên môn, nhất là việc khai thác thế mạnh

về ngành nghề truyền thống, về nguồn lực lượng lao động dồi dào của từng

vùng miền để tạo thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.

3.3.2. Nguyên nhân của hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng

con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

Một là, do hệ thống GD-ĐT, bồi dưỡng lạc hậu, chưa theo kịp yêu cầu

sản xuất của thời đại, đặc biệt là hệ thống sản xuất công nghiệp hiện đại. Việc

cụ thể hóa kế hoạch trong đào tạo, bồi dưỡng những đội ngũ tri thức, đội ngũ

104

lao động có tay nghề như trong khảo sát cho thấy “nhân dân trong toàn quốc

24,9% trả lời phiếu điều tra rằng, họ không thoát nghèo được là do thiếu kiến

thức” [103, tr.66], đó là kiến thức về nghề nghiệp, chuyên môn trong lao động

sản xuất. Đặc biệt, đội ngũ kỹ thuật, công nghệ, khoa học trong các ngành, và

số chuyên gia công nghệ cao của Lào chưa có. Chưa có hệ thống đối tác và

các mối liên hệ chặt chẽ giữa trường học - học sinh - gia đình - doanh nghiệp -

chính quyền địa phương các cấp - chính phủ. Cho nên sự đóng góp, tương tác

của chuỗi liên hệ này cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng không cao, làm cho

không thể nắm bắt nhu cầu thực sự về số lượng và chất lượng của lao động.

Nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hệ thống giáo dục, đào tạo còn

khá khiêm tốn, việc tạo điều kiện cho những người giỏi, có năng lực, triển

vọng được đi học ở các nước tiên tiến để tạo ra công nhân, nhà khoa học có

chất lượng chưa thực hiện tốt. Công tác giáo dục hướng nghiệp trong các

trường học chưa làm được tốt, hoặc không có, cho nên mới dẫn tới vấn đề là

đa số người không muốn học và không thích học nghề, tạo ra tình trạng mất

cân đối giữa các ngành nghề, chuyên môn. Việc xây dựng và mở rộng hệ

thống đào tạo nghề nghiệp, xây dựng cơ cấu đào tạo chưa hợp lý. Việc tăng

cường phương thức đào tạo, bồi dưỡng thông qua công việc chưa được chú

trọng đúng mức, chưa gắn việc đào tạo, bồi dưỡng lý thuyết tại trường và thực

tập tại cơ sở sản xuất, từ đó làm cho lao động qua đào tạo chất lương không

cao. Hiệu quả quản lý giáo dục, đào tạo của bộ máy quản lý nhà nước về giáo

dục, đào tạo chưa cao; chưa có tâm nhìn khoa học trong việc hoạch định, định

hướng cho công tác giáo dục nước nhà và chưa có chính sách đối với giáo

viên (đặc biệt là giáo viên giỏi) và chính sách giáo dục bắt buộc chưa phù

hợp để trở thành động lực thực sự trong phát huy năng lực, phẩm chất của

con người.

Hai là, do quan hệ hợp tác quốc tế để phát huy nhân tố con người còn

hạn chế. Việc tổ chức thực hiện, sử dụng và tranh thủ vốn từ các tổ chức quốc

105

tế và nước ngoài trong giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng để tạo ra nhân tố con

người đủ phẩm chất, và mở nhiều hình thức liên kết đào tạo với nước ngoài;

tăng cường kinh phí, mở rộng qui mô đưa người đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước

ngoài, đồng thời khuyến khích đi học nước ngoài tự túc, trong thời gian qua

chưa làm được tốt. Việc điều tra, xác định các cơ sở đào tạo có chất lượng

nhất ở nước ngoài cho từng ngành nghề phù hợp với danh mục mà đất nước

có nhu cầu chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức liên quan.

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học chưa tạo điều kiện tốt cho nhà khoa

học của Lào được tiếp cận với đội ngũ nhà khoa học quốc tế, nhất là kết quả

nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới. Việc sử dụng các chuyên gia

nước ngoài bằng chính sách trả lương cao để hợp tác đào tạo người lao động

có chất lượng rất quan trọng nhưng khó thực hiện. Chưa áp dụng hiệu quả các

lợi thế về vị trí, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội để mở rộng giao lưu, trao

đổi và hợp tác với các nước trong khu vực nhằm mở rộng, tăng cường hợp tác

trong công tác đào tạo, tuyển dụng nhân lực. Đổi mới chậm các cơ chế, chính

sách về hợp tác quốc tế trong công tác giáo dục, đào tạo, do đó nó cản trở việc

tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo.

Chưa tạo ra được những cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích,

tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học và các trường đại

học xây dựng chiến lược, kế hoạch hợp tác, khảo sát và lựa chọn đối tượng

hợp tác quốc tế cho phù hợp với từng loại trường, từng chuyên ngành đào tạo.

Đi đôi với việc hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo, nghiên cứu

khoa học, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu lao động phải được quan tâm, ngoài tạo

thu nhập cho người lao động, còn giúp cho họ được tiếp cận với hệ thống sản

xuất ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có hệ thống sản xuất hiện

đại, tạo cơ hội cho họ được mở mang học hỏi trao dồi kinh nghiệm và phương

thức sản xuất mới, tiếp cận với kỹ thuật và cộng nghệ hiện đại nhưng chưa

khai thác và tận dụng hết những tiềm năng nay.

106

Ba là, do việc huy động đầu tư phát triển số lượng và chất lượng lực

lượng lao động còn hạn chế. Hiện nay, các cơ sở đào tạo và dạy nghề chưa

đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng lao động của thị trường và xã hội, vì

trình độ kiến thức, tay nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động cả

về số lượng và chất lượng. Các cơ sở đào tạo thiếu các công cụ và phương

tiện giáo dục hiện đại, thiếu vốn để nâng cấp và cải tiến các hệ thống giáo

dục. Do vậy, đội ngũ lao động được đào tạo theo phông kiến thức cũ, và chưa

được đào tạo lại cho phù hợp với điều kiện thực tế, còn số người được đào tạo

mới lại không mang tính hệ thống; số lao động trẻ đã được đào tạo thì kinh

nghiệm và kiến thức còn hạn chế.

Việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau ngoài vốn ngân sách như:

các doanh nghiệp, từ dân cư, nguồn vốn quốc tế (như nguồn vốn FDI, vốn

ODA,…) nhằm đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đào tạo, dạy nghề để phát triển

lực lượng lao động chưa tương xứng với thế mạnh hiện có. Việc chú trọng

đầu tư ngân sách và có những chính sách, chế độ ưu tiên cho giáo dục để đảm

bảo cho lực lượng lao động ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa có đủ chất

lượng và số lượng đáp ứng nhu cầu sản xuất của xã hội còn gặp nhiều bất cập.

Do đó, hiện nay lực lượng lao động có kiến thức, có tay nghề thiếu hụt cả về

số lượng và chất lượng, đặc biệt là lao động chất lượng cao. Theo điều tra của

ngân hàng phát triển Châu Á trong năm 2010 tại Lào cho thấy, nhu cầu lao

động lành nghề trong 819 công ty là 4.736 người, còn ở 8 tỉnh có nhu cầu lao

động lành nghề là 17.613 người (Xem phụ lục số 14, 15).

Bốn là, do ý thức tự rèn luyện, tự học tập của người dân chưa cao. Việc

nâng cao tinh thần tự rèn luyện, tự học tập chưa được quan tâm đúng mức;

nhất là ý thức tự rèn luyện, tự học tập của một bộ phận người lao động kém.

Họ không thấy được rằng sự phấn đấu của chính bản thân người lao động

đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển đất nước. Trong nền kinh tế

thị trường, con người phải tự vươn lên làm giàu chính đáng bằng chính bản

107

thân mình thông qua việc làm, và thường xuyên rèn luyện, học hỏi, trau dồi

kiến thức hiện đại mới có thể đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.

Việc tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu biết tầm quan trọng của

giáo dục, vai trò của giáo dục và vai trò của nhân tố con người đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước chưa thực hiện tốt, cho nên ý thức tự học

tập, tự rèn luyện của cộng đồng và nhân dân cũng như người lao động chưa

cao, đặc biệt là ở nông thôn còn bị chi phối bởi phong tục tập quán lạc hậu và

ảnh hưởng của nền sản xuất nhỏ, văn hóa tiểu nông. Nền kinh tế nông nghiệp

lạc hậu, tự cung tự cấp có ảnh hưởng rất lớn đến tính tự giác, sáng tạo, về học

vấn, trình độ tay nghề của con người.

3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong tạo hệ thống động lực

nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội

Một là, do hạn chế trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy

nhân tố con người. Để phát huy năng lực, tính tích cực, chủ động sáng tạo và

sự say mê của con người trong phát triển kinh tế - xã hội cần có cơ chế, chính

sách hoàn thiện, đồng bộ. Tuy nhiên, trong thời gian qua, CHDCND Lào vẫn

chưa thực hiện tốt các cơ chế, chính sách để nó trở thành động lực khai thác

và phát huy nhân tố con người. Hệ thống cơ chế chính sách chưa thật sự gắn

với thực tiễn và xuất phát từ nhu cầu của người lao động. Sự lãnh đạo của

Đảng và quản lý của Nhà nước đối với công tác nhân lực chưa gắn với môi

trường lao động thực sự để tạo điều kiện cho người lao động hăng hái sáng

tạo. Sự quan tâm của mộ số cán bộ, đảng viện, đặc biệt là một số cán bộ lãnh

đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác nguồn nhân lực chưa được coi

trọng, chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của nhân tố con người đối với việc

phát triển kinh tế, xã hội. Việc đưa ra các cơ chế, chính sách phát triển nguồn

nhân lực còn thiếu tầm nhìn xa trông rộng.

Các cơ chế, chính sách về con người chậm đổi mới, chưa được nghiên

cứu, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, tính

108

đặc thù của con người Lào. Chưa có sự gắn kết giữa chính sách xã hội với

chính sách kinh tế và các chính sách về GD-ĐT, việc làm, phát triển khoa học

- kỹ thuật và công nghệ... nên hệ thống cơ chế, chính sách thiếu tính đồng bộ,

chặt chẽ. Do đó, cơ chế, chính sách chưa tạo được sự đột phá trong khai thác,

phát huy giá trị, phẩm chất, năng lực của nhân tố con người trong từng vùng

miền và từng đối tượng, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.

Hai là, do hạn chế trong thực hiện dân chủ hóa để phát huy nhân tố con

người. Việc đảm bảo quyền dân chủ thực sự của người lao động chưa cao,

chưa đảm bảo việc thực hiện tốt cho dân được biết, dân được bàn, dân được

làm, dân được kiểm tra, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Quyền làm chủ của

nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm, đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát

huy sức mạnh con người trong phát triển sản xuất, kinh doanh và trong đấu

tranh chống những sai trái, bất công trong xã hội; nó vật cản trong việc phát

huy được tối đa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để vượt qua khó

khăn, bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức dân chủ

trong xã hội còn yếu; hiệu quả thi hành pháp luật, thực hiện dân chủ, nhất là

dân chủ trong kinh tế chưa cao; trình độ hiểu biết và ý thức pháp luật của

cán bộ, đảng viên trong công tác quản lý nhà nước cũng như trong đời sống

xã hội nhìn chung còn thấp, hiểu biết pháp luật qua kinh nghiệm công tác là

chủ yếu (nhất là pháp luật trong quản lý kinh tế); tính dân chủ, công khai,

bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân chưa có những hình thức cụ thể phù

hợp, tạo điều kiện cho người lao động làm chủ; hệ thống pháp luật của Lào

chưa trở thành công cụ quản lý xã hội, quản lý nhà nước đắc lực, việc thi

hành pháp luật chưa nghiêm; trình độ dân trí của nhân dân còn thấp, ý thức

pháp luật kém.

Ba là, thực hiện công bằng xã hội để phát huy nhân tố con người còn hạn

chế. Việc thực hiện công bằng xã hội vẫn có nhiều bất cập. Công bằng xã hội,

109

nhất là công bằng về phân phối, về cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ

hội trong toàn xã hội chưa thực sự phổ biến và bao phủ trên các lĩnh vực,

vùng miền trên toàn quốc. Thu nhập, mức sống, mức độ phát triển giữa các

vùng miền còn có sự khác biệt nhất định, thậm chí quá lớn, làm cho một bộ

phận không theo kịp xu thế phát triển của thời đại và không thể đáp ứng yêu

cầu phát triển KT-XH của đất nước. Nó tạo ra khoảng cách khác biệt khá lớn

giữa các lĩnh vực, ngành nghề về thu nhập và sự hỗ trợ trong xã hội.

Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo còn rất nhiều hạn chế, chưa thực hiện

phổ biến trên các vùng miền, tầng lớp, nhóm người và cộng đồng người trong

cả nước. Việc khắc phục, giảm thiểu sự chênh lệch về thu nhập, về mức sống

giữa các tầng lớp, các nhóm xã hội, tiến tới xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa các

vùng miền, giữa các loại lao động khác nhau trong xã hội đạt hiệu quả kém,

triển khai chậm.

Bốn là, việc cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nhằm

phát huy nhân tố con người còn nhiều hạn chế. Những chính sách về cải

thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân chưa được cụ thể hóa, hiệu

quả thực tế chưa cao. Việc tổ chức thực hiện các chính sách, như xóa đói

giảm nghèo, hệ thống an sinh xã hội, giải quyết việc làm, công tác chăm sóc

sức khỏe nhân dân... chưa gắn với thực tiễn của từng lĩnh vực, vùng miền

của đất nước.

Ngoài ra, việc đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội hiệu quả chưa

cao, việc tăng cường thực hiện pháp chế và nâng cao hiệu lực của cơ quan bảo

vệ pháp luật chưa cao, ánh hưởng xấu đến chất lượng đời sống của nhân dân;

mức sống của người lao động thấp, và một số người không tiếp cận được các

dịch vụ xã hội. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần không thể tách rời

nhau, nhưng trong thời gian qua, phát triển kinh tế chưa đi đôi phát triển văn

hóa tinh thần, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, an

110

sinh xã hội. Điều đó đã ảnh hưởng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động,

sáng tạo của nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội.

Năm là, do việc đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, làm ăn

phi pháp nhằm phát huy nhân tố con người thực hiện chưa tốt. Tham nhũng,

lãng phí, làm ăn phi pháp là quốc nạn, ảnh hưởng đến khả năng khai thác, sử

dụng và phát huy những giá trị, phẩm chất, năng lực, trí tuệ, nhân cách... của

con người. Thời gian qua, việc thực hiện phòng chống những căn bệnh này

chưa thực sự hiệu quả do một số người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và hệ

thống chính trị chưa kiên quyết trong công tác phòng chống tham nhũng, lãng

phí; chưa chủ động phòng ngừa, xử lý nghiêm các hành vi bao che dung túng,

tiếp tay và can thiệp, ngăn cản việc chống và ngăn ngừa các căn bệnh này.

Việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, bảo đảm hiệu lực, hiệu

quả của các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn thực

hiện chậm, nhất là trong lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao. Công tác tuyên

truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cấp,

các ngành và của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về

công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, làm ăn phi pháp chưa thực hiện

tốt và chưa chỉ rõ cho thấy được sự nguy hại từ những căn bệnh này tạo ra, và

chưa có giải pháp hữu hiệu trong việc giải quyết phòng chống tham ô, tham

nhũng, làm ăn phi pháp, lãng phí... nhất là chưa thực tốt công tác quản lý,

kiểm tra, thanh tra, chống đặc quyền, đặc lợi; công tác giáo dục, rèn luyện

phẩm chất đạo đức cách mạng.

111

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Những năm qua, việc phát huy nhân tố con người ở Cộng hòa Dân chủ

Nhân dân Lào có nhiều chuyển biến mới. Lao động Lào có ưu thế là lao động

trẻ chiếm đa số và được bổ sung liên tục hàng năm. Tuy nhiên, chất lượng lao

động nhìn chung chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.

Thực tế cho thấy, lực lượng lao động trẻ có ưu thế về thể lực, trình độ học

vấn, khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức, kỹ năng lao động mới, tính cơ

động cao. Song lao động Lào vẫn còn thiếu những phẩm chất cần thiết cho

nền sản xuất công nghiệp hiện đại, như tính tổ chức, tính kỷ luật, tinh thần

trách nhiệm và hợp tác. Hơn nữa, vấn đề việc làm, thu nhập vẫn đang là nỗi lo

thường xuyên của người lao động và là vấn đề bức xúc của xã hội.

Việc nâng cao chất lượng nhân tố con người phải trở thành yêu cầu hàng

đầu trong những năm tới. Cần có sự thay đổi trong cơ cấu lao động theo

hướng tăng lên về số lượng lao động công nghiệp và dịch vụ, khắc phục tình

trạng lạc hậu trong cơ cấu nghề nghiệp và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tính

kỷ luật,... của người lao động trong xã hội công nghiệp. Việc đào tạo, xây

dựng lực lượng lao động có trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có

sức khỏe, lao động giỏi, kỷ luật lao động tốt v.v.. rất quan trọng, song việc

quản lý và sử dụng, phát huy tối đa trí lực, thể lực, tâm lực của người lao

động trong phát triển KT-XH của Lào cũng quan trọng không kém. Do đó,

việc nghiên cứu thực trạng phát huy nhân tố con người sẽ giúp chúng ta hiểu

hơn và tìm ra những giải pháp đúng đắn để phát huy hiệu quả nhân tố con

người trong quá trình phát triển KT-XH của nước nhà.

112

Chương 4

GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY

NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG SỬ DỤNG HỢP LÝ, HIỆU QUẢ

NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

4.1.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường để phát huy nhân tố

con người

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tất

yếu khách quan để khai thác mọi giá trị, phẩm chất, năng lực của nhân tố con

người. Kinh tế thị trường có khả năng tự điều chỉnh, tạo động lực và hướng

đến việc nâng cao năng lực trong lao động sản xuất và năng suất lao động;

nâng cao chất lượng sản phẩm, mang lại lợi ích thiết thực và ngày càng lớn

cho người lao động. Vì thế, nó càng kích thích con người hăng say và nỗ lực

trong hoạt động sản xuất, tạo động lực huy động một cách tối đa nhân tố con

người phục vụ phát triển KT-XH.

Tập trung và có trọng điểm trong phát triển kinh tế thị trường, đa dạng

hóa thành phần kinh tế, đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa phương hóa các

quan hệ, tạo việc làm cho xã hội và giúp người lao động tự tạo việc làm cho

mình, đây là môi trường thuận lợi, kích thích sự năng động sáng tạo, buộc

mọi người phải suy nghĩ, chủ động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách

nhiệm trước mọi hoạt động của mình; khắc phục tư tưởng ỷ lại, giúp con

người phải phấn đấu vươn lên trong điều kiện, hoàn cảnh mới, tự khẳng định

mình trong xã hội. Nếu không vươn lên để thích ứng sẽ bị đào thải hoặc tự

đào thải chính mình. Phải có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế

phát triển, sản xuất kinh doanh bình đẳng, tự do và hợp pháp; mở rộng quan

hệ và hợp tác, cạnh tranh theo quy định của nhà nước nhằm thúc đẩy sản xuất

phát triển. Bên cạnh đó, cần chú trọng các đơn vị kinh tế chủ nghĩa xã hội với

113

nhiều hình thức, đa dạng, phong phú và đảm bảo dân chủ trên các lĩnh vực

kinh tế đang hiện hành.

Phát triển kinh tế thị trường, phải quan tâm đến lợi ích chính đáng của

người lao động và nhân dân, khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp,

phát triển kinh tế thị trường phải gắn với xóa đói giám nghèo, tạo điều kiện

cho xã hội và nhân dân, đặc biệt là tạo thu nhập ổn định cho nhân dân bằng

các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế phải thực sự trở thành yêu cầu

tất yếu trong phát triển lực lượng sản xuất, vừa tạo ra quan hệ sở hữu có chủ

thể chịu trách nhiệm, và trở thành động lực nội tại cho cá nhân người lao động

hoạt động sáng tạo; khai thác, sử dụng, phát huy những giá trị, phẩm chất,

năng lực nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Phải đa dạng hóa các hình thức sở hữu, và thực tế, đã và đang diễn ra

trong thực tiễn ở Lào. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu phải bảo đảm công

bằng trong phân phối và phân phối lại. Và nó sẽ làm cho người lao động có

trách nhiệm, chủ động hơn trong lao động và tạo điều kiện thúc đẩy cho sản

xuất đạt năng suất, hiệu quả cao, khuyến khích người lao động hăng hái, năng

động trong lao động sản xuất, qua đó mới có thể phát huy hiệu quả nhân tố

con người. Sự tồn tại của nền kinh tế thị trường tuân theo quy luật khách

quan, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Vì vậy, chúng ta

xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải phát triển kinh tế thị trường. Đại hội

lần thứ IV của ĐNDCM Lào đã xác định 5 thành phần kinh tế như: “kinh tế

nhà nước và tập thể; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế

sản xuất hàng hóa nhỏ; kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp” [144, tr.51-52].

Thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế trên các lĩnh vực, phù hợp với

từng địa phương và nhu cầu của thị trường; tạo điều kiện cho hệ thống kinh tế

thị trường được phát triển đến các vùng miền của đất nước, nhất là vùng nông

thôn; và xây dựng cơ sở hạ tầng (đường, điện, thủy lợi,...) cho các khu vực

chưa có để thuận lợi trong quá trình lao động và phân phối trao đổi hàng hoa,

114

và phải có sự hướng dẫn những kiến thức về cách thức, hình thức, phương

thức... trong tổ chức lao động, và khâu lao động sản xuất trên cơ sở yêu cầu

của kinh tế thị trường để họ tạo ra sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu và tiêu chí

của thị trường, nghĩa là phải tạo phông kiến thức nhất định về kinh tế thị

trường cho họ, cũng có thể là mở một lớp tập huấn ngắn ngày. Các đơn vị,

chức năng liên quan phải nghiên cứu, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho

người lao động, đảm bảo có thị trường ổn định trong phân phối sản phẩm.

Ngoài ra, phải khai thác các nguồn vốn cho lực lượng lao động được tiếp cận,

hưởng ứng để tạo điều kiện cho những người thiếu vốn trong đầu tư sản xuất

với nhiều hình thức khác nhau, phù hợp thế mạnh và khả năng của người lao

động. Nếu thực hiện tốt sẽ thuận lợi, và sẽ là động lực kích thích, thúc đẩy

việc phát huy nhân tố con người, tạo điều kiện cho mỗi người, mỗi cá nhân

được thể hiện và phát huy hết những giá trị, phẩm chất, tài năng, năng lực

sáng tạo trong phát triển kinh tế - xã hội.

4.1.2. Phân bố, sử dụng, tuyển dụng hiệu quả, hợp lý nhân tố con

người đã được đào tạo

Qui trình phân bố, sử dụng, tuyển dụng phải khách quan, công khai,

minh bạch, bình đẳng, dân chủ, lựa chọn những người thực sự cho công việc,

vì công việc để lựa chọn, sử dụng người chứ không phải ngược lại, nó sẽ

không chỉ giải quyết tốt vấn đề kinh tế mà còn giải quyết tốt cả vấn đề xã hội.

Chính sách về sử dụng lao động phải phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị

trường, từ khâu tuyển dụng (có tổ chức thi tuyển khách quan và mở rộng các

đối tượng được tuyển dụng theo hình thức ký hợp đồng lao động), bố trí công

việc, trả công, thăng tiến nghề nghiệp. Cải thiện điều kiện, môi trường lao

động để tạo động lực khuyến khích người lao động làm việc sáng tạo và có

hiệu quả cao. Đồng thời, sử dụng, đánh giá, đãi ngộ người lao động cần phải

dựa vào năng lực thực tế và kết quả, hiệu quả công việc; khắc phục tâm lý và

hiện tượng coi trọng và đề cao “bằng cấp” một cách hình thức trong tuyển

115

dụng và đánh giá nhân lực. Phải có chính sách hợp lý trong việc xét tuyển các

ứng viên đã có kinh nghiệm làm việc đáp ứng yêu cầu của các cơ quan, doanh

nghiệp rất quan trọng; và thực hiện tốt công tác tuyển dụng các sinh viên có

kết quả học tập tốt, có năng lực, tốt nghiệp tại các trường đại học trong nước

và quốc tế về làm việc.

Cần phải thu hút nhân lực chất lượng cao; đồng thời, cũng phải phát triển

nhanh nguồn lực con người, nhất là việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng

cao. Để thực hiện chiến lược này, một mặt Nhà nước cần phải cử người đi đào

tạo một số ngành mà hiện nay chúng ta cần nhưng đang thiếu, mặt khác cần

xúc tiến công tác quảng bá, tuyên truyền chính sách thu hút nhân tài để có

được nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn cán bộ khoa học công nghệ ở trong nước và

nước ngoài (chủ yếu là người Lào) trong các ngành công nghệ mũi nhọn, thu

hút các nhà khoa học trình độ cao tham gia công tác giảng dạy, nghiên cứu,

chuyển giao công nghệ tại các cơ sở đào tạo. Cần xây dựng chính sách thu hút

hấp dẫn hơn, như chính sách tiền lương, chế độ kiêm việc, kiêm chức... đối

với các nhà khoa học; Nhà nước cần đầu tư hơn nữa để nâng cao cơ sở vật

chất, kỹ thuật hiện đại cho các viện nghiên cứu.

Trong lĩnh vực kinh tế, cần có chính sách hợp lý, để khai thác nguồn lao

động; phải có chính sách thu hút những nhân tài, lao động có tay nghề để bù

vào lĩnh vực ngành nghề và nơi thiếu; chẳng hạn, ở vùng sau vùng xa, ngành

có thu nhập thấp nhưng thiếu trầm trọng những chuyên gia kỹ thuật giỏi.

Thực hiện tốt công tác quy hoạch, sắp xếp, bố trí, huy động, đánh giá nhân sự.

Để đảm bảo cho việc phân bố, sử dụng, tuyển dụng người lao động đúng với

thực tế và hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số điểm như sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, tập thể lãnh đạo cơ

quan, đơn vị, đảng viên về công tác quy hoạch đội ngũ lao động, tạo cơ sở

thực hiện tốt công tác quy hoạch đội ngũ lao động. Nâng cao nhận thức, đề

116

cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác quy hoạch, sắp

xếp, đưa công tác quy hoạch trở thành việc làm nền nếp, thường xuyên. Các

cấp cần quán triệt sâu sắc các quan điểm và mục tiêu về xây dựng đội ngũ lao

động, đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, cách làm; khắc phục hiệu quả

những hạn chế, xây dựng đội ngũ lao động có phẩm chất và năng lực tốt, cơ

cấu phù hợp.

Hai là, xây dựng kế hoạch, sắp xếp, hướng dẫn thực hiện quy hoạch

nhân lực gắn với xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành và

đoàn thể. Xây dựng quy hoạch các ngành là một bước quan trọng trong việc

chuẩn bị nhân sự cho việc phát triển KT-XH. Quy hoạch phải bảo đảm nâng

cao chất lượng, tầm nhìn xa, có sự kế thừa, phát triển và cơ cấu hợp lý; công

khai các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh nhân sự.

Danh sách nhân sự đã được cấp trên phê duyệt đưa vào quy hoạch phải thông

báo cho cá nhân nhân sự trong diện quy hoạch biết và giao nhiệm vụ cho họ

để họ xác định rõ trách nhiệm, động lực, tích cực học tập, rèn luyện, phấn đấu

vươn lên; và định hướng cơ cấu nam, nữ, dân tộc thiểu số... tương xứng với

cơ cấu của từng địa phương.

Ba là, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với quy hoạch nhân

lực; tiến hành rà soát, thống kê trình độ người lao động ở từng ngành, lĩnh

vực; đánh giá và dự báo nhu cầu đào tạo để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng phù hợp với thực tế. Thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lao

động trong quy hoạch, kể cả đào tạo lại để đáp ứng được các yêu cầu về tiêu

chuẩn công việc, tránh tình trạng bổ nhiệm nhân sự chưa đủ tiêu chuẩn về

trình độ chuyên môn, lý luận chính trị; tăng cường bồi dưỡng kiến thức thực

tiễn theo hướng có trọng tâm, trọng điểm. Tuyển chọn người có triển vọng, đủ

điều kiện, tiêu chuẩn cử đi đào tạo, bồi dưỡng.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh

nghiệm, biểu dương khen thưởng những đơn vị thực hiện tốt công tác quy

117

hoạch nhân lực. Các đơn vị cần đánh giá, rút kinh nghiệm về những ưu điểm

và hạn chế trong quá trình thực hiện quy hoạch, sắp xếp, từ đó đề ra biện pháp

thực hiện. Chú ý phát hiện nhân tố điển hình, có cách làm mới, sáng tạo trong

thực hiện quy hoạch để kịp thời biểu dương, khen thưởng và nhân rộng. Đồng

thời, có biện pháp xử lý, khắc phục ở những địa phương, đơn vị, doanh

nghiệp... thực hiện chưa tốt.

Năm là, bố trí, sắp xếp nhân tùy thuộc vào trình độ, khả năng của từng

người mà sử dụng, bố trí, phân công công việc đúng người, đúng việc; đảm

bảo có sự dẫn dắt, kèm cặp và hỗ trợ, đặc biệt là lúc ban đầu. Cần tạo điều

kiện để họ có thể giao lưu khoa học trong và ngoài nước rộng rãi; tạo cho họ

có mối quan hệ chặt chẽ với đồng nghiệp trong và ngoài nước để nghiên cứu

và sáng tạo. Như vậy, để phân bố, sử dụng nhân tố con người hiệu quả, hợp lý

cũng cần phải thực hiện tốt công tác huy động, đánh giá nhân sự đúng với

thực tế mới có thể phát huy hết những giá trị, phẩm chất, năng lực của con

người trong phát triển KT-XH.

4.1.3. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân tố con

người trong phát triển kinh tế - xã hội

Việc đổi mới nền kinh tế theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay cho phép người lao động phải được

đánh giá đúng năng lực sáng tạo của bản thân và hưởng thụ thành quả lao

động theo phương châm: làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Tất cả mọi

hoạt động của các thành phần kinh tế phải tạo điều kiện cho người lao động

có cơ hội thể hiện khả năng, năng lực của mình trong hoạt động của hệ thống

kinh tế thị trường, có sự cạnh tranh bình đằng, công bằng trước pháp luật; như

vậy, người lao động sẽ tích cực, sáng tạo, tự lực, tự cường và tự vươn lên

bằng chính sức mạnh của mình.

Các chuẩn mực và thang giá trị đánh giá sự cống hiến của người lao

động cho xã hội phải được thay đổi, và sự đãi ngộ phải tương xứng với sự

118

cống hiến của người lao động. Việc quản lý lao động vừa phải tuân theo quy

luật của kinh tế thị trường, vừa phải đảm bảo chính sách xã hội, phải biết kết

hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.

Ngoài ra, cần có sự quản lý một cách khoa học và hiệu quả nguồn lực lao

động; nắm chắc dân số trong độ tuổi lao động, số người có việc làm, đặc điểm

của từng loại đối tượng, từng khu vực vùng miền để đưa ra những chính sách

thích hợp, hiệu quả trong quá trình khai thác, vận dụng những giá trị, phẩm và

năng lực vốn có ở mỗi con người để sử dụng những thế mạnh của người lao

động. Việc quản lý phải được tiến hành trên những phương tiện như:

Một là, thống kê và đánh giá đầy đủ biến động về số lượng, chất lượng

và cơ cấu lao động, nhất là những đối tượng đang độ tuổi lao động. Bảng cân

đối lao động phải đầy đủ, chi tiết, được theo dõi hàng năm, hàng quý, trong

đó cần chú ý tới lao động được bổ sung từ nguồn hợp tác quốc tế, di dân tự do

từ tỉnh ngoài… Việc quản lý chất lượng lao động phải được bám sát, theo dõi

thường xuyên, trong đó phải xác định rõ từng loại chuyên môn nghề nghiệp

đã và đang được đào tạo, xem xét mức độ đáp ứng của lao động trên thị

trường lao động. Đây là việc làm có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển KT-

XH của đất nước. Việc quản lý người lao động trong lao động sản xuất phải

được tiến hành theo từng khu vực, từ thành thị ra nông thôn, cân đối được

nguồn lao động ở cả hai khu vực.

Hai là, kiểm kê, kiểm soát, quản lý lao động phải gắn với địa bàn, cơ sở,

coi đây là việc làm thường xuyên, lâu dài. Nắm chắc được lực lượng lao động

ở từng cơ sở, địa phương sẽ góp phần quản lý chặt chẽ và cân đối vững chắc

lao động xã hội, giúp việc phân bổ lực lượng sản xuất được toàn diện, kịp

thời. Qua đó có nhiều điều kiện để giải quyết ngày càng tốt hơn nhu cầu, lợi

ích chính đáng của người lao động.

Ba là, đổi mới các biện pháp giải quyết việc làm, xây dựng cơ cấu kinh

tế theo hướng CNH, HĐH gắn với sử dụng lao động và giải quyết việc làm

119

một cách có hiệu quả. Phát triển KT-XH của Lào một mặt phải đảm bảo sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mặt khác phải khai thác,

sử dụng được thế mạnh về ngành nghề truyền thống, ngành nghề có tiềm

năng, và về lực lượng lao động. Do đó, vừa phải đầu tư chiều sâu, phát triển

một số ngành mũi nhọn với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, vừa phải

phát triển mạnh sản xuất kinh doanh ở tầng thấp. Phát huy ngành nghề truyền

thống, tận dụng những khả năng về nguyên liệu, vốn… sẵn có để tạo ra việc

làm mới.

Nguồn lao động của Lào có cơ cấu hết sức đa dạng về độ tuổi, về nghề

nghiệp, về lĩnh vực hoạt động. Do đó khi giải quyết vấn đề lợi ích, ngoài

những nguyên tắc chung, cũng cần phải chú ý đến tính đặc thù, đến từng loại

đối tượng, nghề nghiệp trong xã hội. Có như vậy mới khơi dậy được sức

mạnh sáng tạo to lớn của nhân tố con người.

4.2. NHÓM GIẢI PHÁP TIẾP TỤC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐÀO

TẠO, BỒI DƯỠNG CON NGƯỜI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ -

XÃ HỘI

4.2.1. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng con người để phát triển

kinh tế - xã hội

Thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH cần đến lao động thông minh, sáng tạo,

có trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật cao, thích ứng nhanh với công nghệ

hiện đại, đội ngũ trí thức phải có cơ cấu đồng bộ về KH-CN, văn hóa, nghệ

thuật, quản lý kinh doanh, quản lý xã hội… để đáp ứng yêu cầu đổi mới.

Muốn vậy, cần có sự quan tâm, đầu tư đúng mức, đúng hướng. Vì nâng cao

chất lượng con người là yêu cầu vừa mang tính cấp bách, vừa có tính lâu dài,

nên phải xây dựng chiến lược con người theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu

cầu của công cuộc đổi mới. Đảng và Nhà nước Lào khẳng định rằng “đào tạo

cho con người có tri thức, năng lực, có nghề nghiệp chuyên môn, biết ngoại

ngữ và tin học, biết sử dụng công nghệ hiện đại, cần cù, bền chí, thích lao

120

động và có đầu óc sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích học hỏi và tiết kiệm”

[117, tr.20-21]. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng con người cần phải thực

hiện như sau:

Thứ nhất, cần phải tạo ra đội ngũ tri thức, đặc biệt là đội ngũ kỹ thuật,

công nghệ và cán bộ khoa học trong các ngành. Số chuyên gia công nghệ cao

và cử nhân kỹ thuật là hai trong các chỉ số của phát triển kinh tế tri thức. Phải

có kế hoạch mới để đảm bảo cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ này, nhất là phải

cử người ra học tập nước ngoài những chuyên ngành công nghệ mới và công

nghệ chứa hàm lượng chất xám cao. Từ kinh nghiệm của các nước phát triển

cho thấy, phương pháp nhập công nghệ nhờ vào những người nhập cư hay

chuyên gia nước ngoài chưa phải là biện pháp tốt. Việc chuẩn bị vốn nhân lực

được đào tạo chính quy mới ảnh hưởng quan trọng đến hướng và tính chất của

phát triển công nghệ.

Thứ hai, xây dựng hệ thống đối tác và các mối liên hệ giữa trường học -

học sinh - gia đình - doanh nghiệp - chính quyền địa phương các cấp - chính

phủ. Trong chuỗi quan hệ này, sự đóng góp của gia đình và doanh nghiệp cho

việc đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong việc đa dạng hóa nguồn

vốn cho giáo dục và đào tạo, quan trọng hơn là cam kết về đào tạo giữa nhà

trường - học sinh và doanh nghiệp - người sử dụng lao động. Thông qua mối

liên kết này, nhà trường sẽ nắm bắt được nhu cầu sử dụng lao động mà họ sẽ

đào tạo ra, trên cơ sở đó thiết kế kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp về số

lượng và chuyên môn.

Ngoài sự đầu tư của ngân sách nhà nước, cần phải huy động các nguồn

vốn xã hội khác bổ sung thêm để thúc đẩy phát triển giáo dục, đào tạo như:

nguồn vốn tài trợ của nước ngoài, nguồn vốn đóng góp của nhân dân. Để huy

động các nguồn lực cho giáo dục, đào tạo cần có sự phối hợp chặt chẽ và nỗ

lực chung của Nhà nước với các doanh nghiệp và gia đình. Để có người lao

động chất lượng cao trong 5 năm, 10 năm, 20 năm và có đội ngũ cán bộ đầu

121

đàn trong một số các ngành kinh tế mũi nhọn, cần tích cực chọn các sinh viên

giỏi, có năng lực và đạo đức tốt đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến, tạo điều

kiện cho họ được tiếp xúc với khoa học, công nghệ hiện đại để sau nay họ trở

về phục vụ đất nước, quê hương.

Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục hướng nghiệp trong các trường

học một cách tích cực, đặc biệt là cho học sinh phổ thông trung học. Đảm bảo

cho thanh thiếu niên không có điều kiện học tiếp cao hơn bậc phổ thông được

hướng nghiệp tại các lớp tư vấn về nghề nghiệp hoặc các lớp đào tạo nghề,

nhằm cung cấp những kiến thức và kỹ năng cơ bản về nghề nghiệp cho họ.

Một hiện tượng khá phổ biến của học sinh và gia đình hiện nay là đều muốn

con mình được vào học đại học, không thích học nghề, đi học nghề bị coi là

con đường cùng. Bởi vậy, cần đưa chương trình hướng nghiệp vào các trường

phổ thông trung học và định hướng cho họ từ những năm đầu để có sự chuẩn

bị về mặt tư tưởng cũng như lựa chọn nghề nghiệp. Để công tác hướng nghiệp

thiết thực và hiệu quả, Bộ Giáo dục và Thể thao cũng như sở giáo dục nên đề

ra tiêu chuẩn cụ thể để quy định học sinh được phép thi vào đại học, có thể

xây dựng căn cứ vào học lực, năng khiếu, nhu cầu lao động từng ngành, từng

lĩnh vực… để tạo ra cơ cấu lao động hợp lý.

Thứ tư, xây dựng và mở rộng hệ thống đào tạo nghề nghiệp, xây dựng cơ

cấu đào tạo hợp lý về các cấp trình độ, gồm: công nhân kỹ thuật và dạy nghề,

phổ biến kiến thức, chuyển giao công nghệ và khuyến nông, khuyến ngư cho

người lao động ở các bản trong nước, nhất là người lao động ở vùng sâu vùng

xa. Tạo cơ hội để học sinh học nghề ra công tác thực sự có năng lực, có điều

kiện học lên cao và thăng tiến. Đây là một giải pháp để thu hút học sinh tốt

nghiệp phổ thông trung học có sự lựa chọn phong phú, thích hợp với năng

lực, điều kiện và hoàn cảnh kinh tế của mình.

Thứ năm, tăng cường phương thức đào tạo, bồi dưỡng thông qua công

việc. Đây là phương thức dạy cả lý thuyết và kỹ năng cần thiết, gắn đào tạo,

122

bồi dưỡng lý thuyết tại trường và thực tập tại cơ sở sản xuất. Kinh nghiệm cho

thấy, hiện nay công nghệ có xu hướng đổi mới nhanh, trong khi đó ở các

trường dạy nghề việc đổi mới trang thiết bị dạy chưa thay đổi hoặc thay đổi

chậm. Đây là lý do vì sao học sinh khi ra trường không đáp ứng được nhu cầu

của người sử dụng lao động. Do đó, cần tạo cơ hội cho học sinh được sát với

thực tế, sát với những hoạt động mang tính sống còn của xã hội đang phát

triển. Chẳng hạn, tham gia trong khu vực sản xuất của một công ty là cách

thức để cho con người vừa nắm bắt kiến thức và kỹ năng, vừa tự tạo cho họ

động cơ học tập, vừa tiếp cận nhanh với công việc.

Thứ sáu, nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục, đào tạo của bộ máy quản

lý nhà nước về giáo dục, đào tạo. Cần trang bị cho đội ngũ công chức những

kiến thức về pháp luật, phương pháp quản lý nhà nước trong điều kiện nền

kinh tế thị trường, và cập nhật thông tin phục vụ cho công tác lãnh đạo quản

lý. Các già làng, trưởng bản có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển

KT-XH, nên cần chú ý trang bị những kiến thức cần thiết cho đối tượng này.

ĐNDCM Lào cho rằng: “Phải tăng cường sự đầu tư của nhà nước, đồng thời

cũng có chính sách và huy động sự đóng góp của xã hội vào trong sự phát

triển giáo dục ngày càng tăng; khẩn trương thực hiện cải cách hệ thống giáo

dục quốc dân về chất lượng và tiêu chuẩn cao lên” [148, tr.57].

4.2.2. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế nhằm phát huy nhân tố con

người trong phát triển kinh tế - xã hội

Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập, Nhà nước cần phải tiếp cận các

chuẩn mực giáo dục tiên tiến trên thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển đất

nước. Tăng cường, mở rộng sự phối hợp và hợp tác với các nước và các tổ

chức quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng con người. Đảng và Nhà nước

cần có sự nhận thức một cách đẩy đủ, chủ động hơn trong hợp tác quốc tế để

tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực, giao lưu, trao đổi những kiến

thức, kỹ năng lao động sản xuất cũng như tạo ra những giá trị, phẩm chất,

123

năng lực con người theo tiêu chuẩn quốc tế. Muốn vậy, phải tập trung giải

quyết những vấn đề cốt yếu sau:

Một là, phải tổ chức thực hiện tốt và có hiệu quả chủ trương sử dụng

ngân sách và nguồn lực của Nhà nước trong việc đào tạo, bồi dưỡng ở nước

ngoài, nhất là đối với một số ngành mũi nhọn. Tranh thủ các dự án của các tổ

chức quốc tế và nước ngoài có liên quan đến về giáo dục, đào tạo và bồi

dưỡng nhân tố con người, mở nhiều hình thức liên kết đào tạo với nước ngoài;

tăng cường kinh phí, mở rộng qui mô đưa người đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước

ngoài, đồng thời khuyến khích đi học nước ngoài tự túc. Nhà nước cần có cơ

chế khuyến khích đầu tư nước ngoài xây dựng các cơ sở đào tạo và có chính

sách thu hút các chuyên gia giỏi của nước ngoài, người Lào ở nước ngoài về

nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu, phát triển công nghệ, phục vụ đất nước.

Ngoài ra, để có nhanh nhân lực thạo nghề cần hợp tác đào tạo giữa các doanh

nghiệp ở các nước khác nhau đang đầu tư vào Lào, tăng cường gửi đi đào tạo,

hợp tác nghiên cứu, làm việc ở nước ngoài theo con đường các doanh nghiệp,

các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở những lĩnh vực mà Lào đang yếu, các lĩnh

vực công nghệ cao và mới.

Hai là, tăng nhanh hơn nữa đầu tư cho giáo dục - đào tạo, nhằm tạo điều

kiện và cơ sở vật chất đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục: kiên

cố hoá trường học, kiểm tra chặt chẽ, nâng cao hiệu quả, chống lãng phí trong

đầu tư phát triển giáo dục. Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng nghề phải đa

dạng hoá các hình thức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng các chuyên gia nước ngoài

bằng chính sách trả lương cao để hợp tác đào tạo người lao động có chất lượng.

Ba là, hợp tác với các nước trong phát triển lao động trình độ cao đẳng,

đại học và sau đại học. Cần đẩy mạnh hợp tác với các nước, các tổ chức quốc

tế về phát triển người lao động dưới nhiều hình thức khác nhau, thông qua

mối quan hệ giữa Bộ Giáo dục và Thể thao, Bộ Ngoại giao, các Đại sứ quán,

Lãnh sự quán Lào ở nước ngoài và tại Lào điều tra, xác định các cơ sở đào tạo

có chất lượng nhất cho từng ngành nghề phù hợp với danh mục mà đất nước

có nhu cầu.

124

Bốn là, trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học, phải tranh thủ sự giúp đỡ của

các cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước đối với phát

triển lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật. Cụ thể là, đăng cai tổ chức

các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế, qua đó các nhà khoa học nước nhà có

thể nắm được các kết quả nghiên cứu khoa học mới, tiếp xúc, trao đổi kinh

nghiệm để tìm ra các xu thế phát triển, tìm ra các nguồn tài trợ nước ngoài

cho công tác phát triển lực lượng lao động có chất lượng.

Năm là, dựa vào các lợi thế về vị trí, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội

để mở rộng giao lưu, trao đổi và hợp tác với các nước trong khu vực nhằm mở

rộng, tăng cường hợp tác trong công tác đào tạo, tuyển dụng nhân lực. Có sự

chuyển giao hợp tác về nhân lực với các nước để điều tiết nhu cầu lao động

trên cả nước. Nhà nước cần xây dựng kế hoạch cụ thể về tăng cường hợp tác

đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu chuyển giao nhân lực thông qua các cơ quan

ngoại giao của Lào ở nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ, qua các nhà đầu

tư nước ngoài đang hoạt động tại Lào, nhằm nâng cao chất lượng nhân tố con

người cho phát triển KT-XH.

Sáu là, cần đổi mới cơ chế để tạo điều kiện tăng cường hợp tác quốc tế

về giáo dục - đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các trường đại học của

Lào. Đây thực chất là công việc nhằm loại bỏ những “rào cản”, “chướng

ngại” cản trở quá trình thực hiện hợp tác quốc tế về GD-ĐT của các trường

đại học; đồng thời tạo điều kiện về cơ chế, chính sách để kích thích, thúc đẩy

và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn

vị nghiên cứu khoa học và các trường đại học xây dựng chiến lược, kế hoạch

hợp tác, khảo sát và lựa chọn đối tượng hợp tác quốc tế cho phù hợp với từng

loại trường, từng chuyên ngành đào tạo. Bảo đảm các nguồn lực cần thiết, đặc

biệt là cơ sở vật chất và con người, góp phần làm tốt công tác nhân lực trong

hội nhập quốc tế. Kiên quyết khắc phục tình trạng hợp tác với nước ngoài

125

mang nặng tính chất “tham quan”, thực hiện theo kiểu “chính sách đãi ngộ”,

không thiết thực, gây lãng phí tiền của và công sức. Hợp tác để tạo cơ hội cho

người lao động được tiếp cận và nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin

học, bản lĩnh và kỹ năng cần thiết cho lực lượng lao động. Họ phải có “phông

kiến thức” rộng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật pháp; trình độ

công nghệ và thông tin; khả năng phát hiện, đề xuất vấn đề; kỹ năng, nghệ

thuật tranh luận, phản biện, thuyết phục; khả năng tổng hợp, tích lũy và xử lý

thông tin; trình độ, kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm, theo tổ; có thái độ

khiêm tốn, cầu thị, biết lắng nghe; có phẩm chất chính trị vững vàng, lòng tự

hào, tự tôn dân tộc, biết đặt vấn đề lợi ích quốc gia lên trên hết… Đó là những

phẩm chất cần thiết, cần rèn luyện cho lực lượng lao động để có thể hội nhập,

hợp tác về GD-ĐT hiệu quả và an toàn, cũng như để thực hiện tốt việc phát

huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH của đất nước.

Bẩy là, trên cơ sở hợp tác, hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo, nghiên

cứu khoa học cũng cần phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Ngoài việc tạo

điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, điều

quan trọng là tạo điều kiện cho người lao động Lào được tiếp cận với hệ

thống sản xuất ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có hệ thống sản

xuất hiện đại, tạo cơ hội cho họ được mở mang học hỏi những kinh nghiệm và

phương thức sản xuất mới, tiếp cận với kỹ thuật và cộng nghệ hiện đại. Qua

đó, người lao động làm quen với văn hóa công nghiệp và văn minh nhân loại,

học tập và rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo, kỷ luật trong lao động và trên cơ

sở đó người lao động sẽ tự hoàn thiện bản thân.

4.2.3. Huy động đầu tư phát triển số lượng và chất lượng lực lượng

lao động nhằm phát triển kinh tế - xã hội

Tăng mức đầu tư từ các nguồn vốn để đầu tư cho các cơ sở đào tạo và

dạy nghề, trong đó ưu tiên bố trí vốn cho các cơ sở đào tạo, cơ sở dạy nghề

trọng điểm; các cơ sở quy hoạch được nâng cấp từ cao đẳng lên đại học, từ

126

trung cấp lên cao đẳng và từ trung tâm dạy nghề lên trường trung cấp nghề.

Đồng thời, hàng năm dành một phần vốn ngân sách để thực hiện chính sách

khuyến khích, hỗ trợ đầu tư các cơ sở đào tạo, dạy nghề; kiểm tra thường

xuyên chất lượng dạy nghề cả công lập và ngoài công lập.

Cần xây dựng kế hoạch dự toán ngân sách nhà nước theo hướng tập

trung thực hiện các nhiệm vụ đào tạo và dạy nghề theo mục tiêu, ưu tiên và

thực hiện bình đẳng xã hội, đặc biệt chú trọng đến các hoạt động đào tạo, dạy

nghề trên địa bàn, địa phương nông thôn, nhất là đối với người dân tộc thiểu

số, hộ nghèo, hộ gia đình chính sách.

Đảm bảo nhu cầu vốn cho phát triển nhân lực, huy động vốn từ nhiều

nguồn khác nhau. Huy động các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, từ các

doanh nghiệp, từ dân cư, nguồn vốn quốc tế, như nguồn vốn FDI, vốn

ODA,… nhằm đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, đào tạo, dạy nghề để phát triển

và huy động lực lượng lao động. Nhà nước, doanh nghiệp cần đầu tư thích

đáng cho đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động. Nhà nước cần dành phần

ngân sách thoả đáng cho đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn kỹ thuật; quan

tâm đến giáo dục nâng cao trình độ văn hoá để tạo ra cho tương lai nguồn lao

động chất lượng cao. Doanh nghiệp trước và trong quá trình sử dụng lao động

cũng phải quan tâm đầu tư tài chính cho đào tạo, bồi dưỡng lao động, phục vụ

thiết thực cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề, chú ý đến việc đào

tạo lại người lao động đang làm việc, nhằm giúp người lao động thích ứng

được yêu cầu mới và xu hướng phát triển mới trên thị trường lao động. Chú

trọng đầu tư ngân sách và có những chính sách, chế độ ưu tiên hơn nữa cho

các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trên

lĩnh vực GD-ĐT để khắc phục dần tình trạng mất cân đối về cơ cấu, chất

lượng lực lượng lao động và trình độ phát triển KT-XH giữa các khu vực

trong cả nước.

127

Cần có chính sách ưu đãi, miễn phí, giảm thuế cho các trường và cơ sở

dạy nghề; có chính sách khuyến khích giáo viên, các nhà nghiên cứu khoa học

và cần có quỹ tài trợ nghiên cứu khoa học - ứng dụng. Thực hiện tốt chính

sách thu hút, bố trí và sử dụng nhân tài. Phát hiện và đào tạo phải gắn với sử

dụng và trả lương thoả đáng cho đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn, có

tầm nhìn chiến lược, có văn hoá, đạo đức, có năng lực quản lý giỏi, kinh

doanh giỏi, có tay nghề cao để thu hút họ làm việc, cống hiến cho cho Tổ

quốc. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, huy động nguồn vốn đầu tư; tranh

thủ và vận dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của Trung ương và các tổ chức quốc

tế trong việc phát triển lực lượng lao động và cơ sở vật chất, kỹ thuật trường

học… để tạo tiền đề tốt hơn trong việc cải thiện chất lượng lao động.

4.2.4. Nâng cao ý thức tự rèn luyện, tự học tập của người lao động

Sự phấn đấu của bản thân người lao động đóng vai trò cực kỳ quan trọng

trong việc phát triển bản thân con người và xã hội. Để phát triển được bản

thân con người phải có sự phấn đấu vượt bậc cả về nhận thức và hoạt động

thực tiễn. Muốn vậy, bản thân người lao động phải tự phấn đấu, rèn luyện và

học tập không ngừng. Cụ thể là:

Một là, cần phải nhận thức được tình hình và vị thế của đất nước trong

bối cảnh toàn cầu hóa. Nhận thức được điều này, sẽ giúp con người nhận thức

được xu thế phát triển chung của nhân loại. Trên cơ sở đó, người lao động sẽ

nhận thức được vai trò của mình và lĩnh vực hoạt động của mình trong quá

trình phát triển KT-XH của đất nước.

Hai là, cần nhận thức được vai trò quan trọng của tri thức đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó tự phấn đấu nâng cao trình độ học

vấn, chuyên môn, nghiệp vụ v.v.. thông qua các lớp bổ túc hoặc phổ cập kiến

thức. Điều này sẽ giúp nâng cao trình độ của con người nói chung, lực lượng

lao động nói riêng.

128

Ba là, người lao động phải có thái độ lao động đúng đắn, yêu lao động,

không ngừng phấn đấu, trau dồi kỹ năng lao động thông qua việc tiếp nhận các

thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ, về các ngành nghề, chuyên môn.

Bốn là, phát huy tính năng động, sáng tạo, ý chí tự lực tự cường trong

sản xuất; không ngại thất bại và luôn tìm tòi, học hỏi, không ngừng nâng cao

kiến thức về lĩnh vực hoạt động của mình. Nâng cao sự hiểu biết của bản thân

về chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Năm là, cần phải chủ động cập nhật thông tin về tình hình kinh tế, chính

trị, xã hội, nắm bắt kịp thời thông tin về thị trường trong nước và quốc tế.

Muốn vậy phải nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin. Đây cũng là

yếu tố cần thiết giúp cho con người được tiếp nhận thông tin kịp thời và có

điều kiện nâng cao sự hiểu biết của mình.

Sáu là, bản thân người lao động phải có ý thức tự học tập, tự rèn luyện

về phẩm chất đạo đức, năng lực lao động, kỷ luật lao động. Đó là những yếu

tố không tự nhiên xuất hiện trong mỗi con người mà là kết quả của quá trình

học tập, rèn luyện, phấn đấu lâu dài, bền bỉ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:

“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn

luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài

càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [43, tr.293]. Do đó, nâng cao ý thức

tự giác trong rèn luyện, học tập về đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực của

đội ngũ người lao động, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp

bách. Điều đó đòi hỏi bản thân mỗi người cần phải thường xuyên tự rèn

luyện, tự học tập, tự hoàn thiện; học trong trường học, học trong môi trường

xã hội, học ở thực tiễn. Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tiếp xúc, gần

gũi với nhân dân, đi sâu, đi sát với thực tế, lắng nghe ý kiến của nhân dân,

phục vụ nhân dân. Đội ngũ cán bộ phải thực sự có đạo đức, năng lực, có bản

lĩnh chính trị, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và sự nghiệp của Đảng,... tích

cực phấn đấu rèn luyện mình và không ngừng nghiên cứu học hỏi nâng cao

trình độ, có ý thức tổ chức cao và kỷ luật, tôn trọng pháp luật [148, tr.79].

129

Bảy là, cần phải chú trọng tuyên truyền, giáo dục, tác động vào người

dân để họ nắm được tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố con người.

Nhìn chung, mặt bằng dân trí ở Lào còn thấp, có nhiều phong tục tập

quán, thói quen sống lạc hậu, dựa vào tự nhiên, vừa lòng với cái mình có nên

việc tuyên truyền, giáo dục cho họ nắm được vai trò quan trọng của nhân tố

con người và phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH là điều cần

thiết. Cần phải chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức

sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với

hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia

đình và giáo dục xã hội.

Quan trọng phải làm thế nào để con người có ý thức tự rèn luyện, tự học

tập, trở thành người đủ đức đủ tài, chúng ta cũng cần phải tuyên truyền, giáo

dục thường xuyên cho họ hiểu được vai trò quan trọng của nhân tố con người

trong phát triển kinh tế - xã hội. Và tạo môi trường thuận lợi và cơ hội cho

mọi người được học tập và rèn luyện, trên cơ sở đó mới có thể làm cho họ

chăm chỉ trong học tập, rèn luyện bản thân.

Tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ, trí tuệ và năng lực sáng tạo chính là

nguồn tài sản lớn nhất và quan trọng nhất trong phát triển. Cùng với khoa

học - công nghệ, vốn, tài nguyên thiên nhiên, thì chất lượng người lao động

đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nhanh và bền vững. Mặc dù,

nhân tố con người phải dựa vào các điều kiện vật chất mới có thể phát huy

được vai trò quyết định trong phát triển, nhưng trong tương tác giữa các yếu

tố đó, nhân tố con người luôn có vai trò nổi trội hơn so với các yếu tố vật

chất. Cần khẳng định, phát triển con người trong thời đại ngày nay đã trở

thành động lực hàng đầu để phát triển kinh tế. Để có lao động có chất lượng,

GD-ĐT là giải pháp hữu hiệu, là con đường duy nhất trong phát triển thể

lực, trí lực và tâm lực con người. Muốn được như thế một phần là chính bản

thân con người quyết tâm tu luyện mà ra; đó là sự tự học tập, tự rèn luyện.

130

4.3. NHÓM GIẢI PHÁP GIA TĂNG ĐỘNG LỰC NHẰM PHÁT HUY NHÂN

TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

4.3.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người

Một là, hoàn thiện cơ chế nhằm phát huy nhân tố con người.

Phải đổi mới cách thức, phương pháp, phong cách làm việc của hệ thống

chính trị; quản lý có hiệu quả các công việc xã hội; đảm bảo sự tham gia tích

cực của toàn thể nhân dân vào hoạt động của Nhà nước, quản lý xã hội, đảm

bảo quyền tự do, nghĩa vụ và trách nhiệm, cũng như lợi ích căn bản của họ.

Mục tiêu chủ yếu của đổi mới cách thức, phương pháp và phong cách

làm việc của hệ thống chính trị để thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân tố con người trên tất cả các

mặt của đời sống xã hội. Từ đó, tạo ra môi trường xã hội tích cực, đạo đức, xã

hội lành mạnh để định hướng giá trị và điều chỉnh việc lựa chọn giá trị của

con người theo nhu cầu thực tế của đất nước và khả năng của từng người.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với công

tác nguồn nhân lực; Nhà nước cần có hệ thống pháp luật, những hình thức và

các thiết chế thích hợp, cần thiết để tổ chức và đảm bảo nghĩa vụ, quyền lợi

của người lao động, đảm bảo cho họ thực hiện được vai trò người chủ của đất

nước. Tăng cường vai trò làm chủ của người lao động thông qua Nhà nước;

Nhà nước tạo môi trường chính trị ổn định cho con người phát triển tự do và

lành mạnh, cống hiến và hưởng thụ. Đó chính là con đường cơ bản nhất để

huy động được năng lực sáng tạo và phát huy nhân tố con người phục vụ đắc

lực trong phát triển KT-XH.

Nhà nước với tư cách là người đại diện lợi ích chung của toàn xã hội, có

vai trò quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó Nhà nước

phải thể hiện được lợi ích, nhu cầu của các tầng lớp nhân dân thông qua pháp

luật, thông qua các chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước. Chỉ có bằng Nhà

nước, thông qua hoạt động của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, con

131

người mới có điều kiện thực hiện quyền làm chủ toàn diện về kinh tế, chính

trị, văn hóa - xã hội, tính năng động, sáng tạo của con người mới được khơi

dậy và phát huy cao độ. Nhà nước cần thể chế hóa thành những quy định pháp

luật về quyền hạn, lợi ích và nghĩa vụ của người lao động; xây dựng hệ thống

các đạo luật nhằm tạo hành lang pháp lý và môi trường cho con người thực sự

tham gia quản lý Nhà nước, có quyền đóng góp ý kiến của mình đối với

những vấn đề quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thực hiện

được quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Nhà nước cần tăng cường quản lý về nguồn nhân lực, bảo đảm việc phát

triển nguồn nhân lực. Có chính sách và chương trình mang tầm quốc gia về

phát triển nguồn nhân lực hợp lý, trên cơ sở kế hoạch hóa và cân đối nguồn

lực vật chất trong kế hoạch hàng năm và dài hạn; hình thành các quy phạm

thống nhất về nguồn lao động phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế. Trước

mắt, cần có chính sách phát triển và kiểm soát thị trường lao động; tăng

cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý

và phát triển nguồn nhân lực ở trung ương và địa phương; đồng thời hiện đại

hóa trang bị kỹ thuật quản lý nguồn nhân lực. Đưa việc đào tạo, bồi dưỡng và

phát triển nhân lực về mọi mặt vào các chương trình và kế hoạch công tác của

quốc gia và từng ngành, từng địa phương.

Nhiệm vụ trọng yếu của các cơ quan Nhà nước về quản lý nguồn nhân

lực là nghiên cứu và tham mưu cho chính phủ hoạch định những chính sách

về con người. Xây dựng chương trình, dự án và kế hoạch đầu tư phát triển con

người, nhằm giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Giúp người lao động loại trừ

những ảnh hưởng xấu trên con đường lập thân lập nghiệp, trở thành những

công dân yêu nước có trách nhiệm, có khả năng nhận thức và phát huy được

tiềm năng của mình để phát triển KT-XH.

Hai là, hoàn thiện chính sách nhằm phát huy nhân tố con người.

Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục đích nhất

định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra. Chính

132

sách về phát huy nhân tố con người là sự cụ thể hóa các đường lối, chủ trương

của Đảng và Nhà nước về vấn đề phát huy những giá trị, phẩm chất, năng lực

của người lao động, đề cao trách nhiệm và chăm lo đời sống cho người lao

động; quan tâm đầy đủ đến nhu cầu, lợi ích, tạo việc làm, đào tạo, bồi dưỡng

và sử dụng lao động.

Chính sách về phát huy nhân tố con người phải không ngừng được

nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với đặc điểm tâm lý, lứa tuổi

của con người. Nó vừa mang tính đặc thù, đồng thời là một bộ phận không thể

tách rời chính sách xã hội, có quan hệ với chính sách kinh tế, và các chính

sách khác (GD-ĐT, việc làm, phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ

v.v..). Xây dựng và thực hiện tốt chính sách về này là tạo ra tiền đề để con

người có đủ điều kiện và khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình; phát huy

những tiềm năng của con người và trở thành động lực thúc đẩy, lôi cuốn con

người tích cực, hăng hái, chủ động tham gia giải quyết những vấn đề của đất

nước, xã hội và của bản thân họ.

Quá trình thực hiện chính sách đòi hỏi sự phối hợp thường xuyên, chặt

chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội. Mọi chủ

trương, chính sách, đường lối đều không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng

và sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp với tính

quy luật của các nhu cầu tự thân của con người và sự đòi hỏi khách quan của

sự nghiệp phát triển KT-XH ở Lào trong điều kiện mới. Đảng và Nhà nước

cần ban hành những chính sách bảo trợ xã hội, chính sách dành riêng cho

các tầng lớp, các nhóm xã hội trên cơ sở đảm bảo sự công bằng về quyền lợi

và nghĩa vụ của họ, vì mỗi tầng lớp có những đặc điểm riêng, tùy thuộc vào

trình độ nhận thức và điều kiện môi trường sống, nhu cầu, nguyện vọng, sở

thích riêng.

Để phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội, cần có

các chính sách, chế độ và sự quan tâm cần thiết về mọi mặt, trong đó, quan

133

trọng và cơ bản nhất là các chính sách về giáo dục, đào tạo, chính sách bồi

dưỡng, nâng đỡ, bảo trợ và sử dụng người lao động, chính sách bảo vệ sức

khỏe, chăm sóc y tế... Các chính sách đó cần được cụ thể hóa thành các

chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH của đất nước.

Chính sách không thể chỉ dừng lại ở việc bồi dưỡng, giáo dục, hướng

dẫn mà phải tác động trực tiếp tới cơ cấu KT-XH, tới lợi ích của người lao

động, của các tầng lớp xã hội trên cơ sở chiến lược phát triển chung. Trên

lĩnh vực chính trị, những khả năng tác động tới việc phát triển nhân tố con

người thông qua các biện pháp giáo dục nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,

trau dồi đạo đức và rèn luyện tính tích cực chính trị trong hoạt động thực

tiễn cho con người. Mặt khác, cần đổi mới cách thức tổ chức và hoạt động

của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để tập hợp và phát huy cao độ tính

năng động, nhiệt tình, tích cực, sáng tạo của người lao động tham gia vào

hoạt động KT-XH. Nó góp phần to lớn trong việc giáo dục, bồi dưỡng lý

tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực sáng tạo, phát triển và hoàn

thiện nhân cách người lao động. Khơi dậy động lực tinh thần, niềm tin, ý

chí và nghị lực của người lao động qua các phong trào hành động, góp

phần xây dựng một lớp công nhân giác ngộ về giai cấp, vững vàng về tư

tưởng, chính trị, có khả năng lao động giỏi. Do vậy, các chính sách phải

hướng vào trợ giúp và chuẩn bị tốt hành trang cho người lao động để chủ

động lập thân, lập nghiệp vì lợi ích và sự tiến bộ của mình và của xã hội.

Muốn khơi dậy và khai thác tốt nhân tố con người cần phải nắm vững tư

tưởng, nguyện vọng, hiểu rõ thế mạnh và những hạn chế cần khắc phục để

có những chính sách phù hợp.

4.3.2. Đẩy mạnh dân chủ hóa nhằm phát huy nhân tố con người

Phát triển dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật, trật tự an ninh, an toàn

xã hội; phê phán và loại bỏ mọi biểu hiện vi phạm dân chủ của công dân, của

xã hội, khắc phục dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, tự do vô chính phủ.

134

Trong quá trình dân chủ hóa để phát huy nhân tố con người cần giải quyết

những vấn đề sau:

Một là, tạo điều kiện cho con người thực hiện quyền và nghĩa vụ trong

hoạt động sản xuất; thể chế hóa các quyền cơ bản, đảm bảo về mặt pháp lý

cho việc thực hiện những quyền đó trong đời sống hiện thực. Đẩy mạnh và

phát triển kinh tế thị trường theo hướng xã hội chủ nghĩa; vì chính kinh tế thị

trường sẽ là động lực kích thích người lao động sáng tạo và tạo điều kiện khai

thác tốt nhất mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, giải phóng sức sản

xuất xã hội.

Dân chủ hóa phải gắn với chống chủ nghĩa bình quân, chủ nghĩa quan

liêu không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, quản lý kinh tế mà cả trong lĩnh vực

quản lý xã hội. Phải đảm bảo tính công khai: công khai kế hoạch, chi tiêu, lợi

ích và chế độ phân phối lợi ích dưới dạng tiền lương, tiền thưởng, xử phạt,

quy định trách nhiệm... Điều đó phải bắt đầu từ giải quyết vấn đề sở hữu, gắn

các quan hệ sở hữu với quan hệ phân phối và quản lý; gắn quyền sở hữu với

quyền sử dụng tư liệu sản xuất, làm cho người lao động, người sản xuất thực

sự làm chủ quá trình sản xuất, khắc phục tình trạng vô chính phủ.

Hai là, cải tiến nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý

của nhà nước. Từ sự đổi mới về hệ thống chính trị sẽ tạo điều kiện cho người

lao động trực tiếp tham gia vào các hoạt động của nhà nước, các hoạt động

chính trị trong đời sống xã hội và làm cho các công dân nhận thức được trách

nhiệm chính trị của mình. Chính nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng

và quản lý của Nhà nước tạo điều kiện dân chủ hóa.

Đảng cần phải lãnh đạo bằng phương thức dân chủ, khoa học và bằng vai

trò tiên phong gương mẫu của đảng viên. Đảng giữ vững nguyên tắc sinh hoạt

chính trị của Đảng: chế độ lãnh đạo tập thể và nâng cao trách nhiệm của từng

cá nhân; chế độ tập trung dân chủ; phê bình và tự phê bình; nguyên tắc công

khai, đảm bảo dân chủ và bình đẳng của mọi đảng viên trong việc thảo luận,

135

tranh luận. Giữ vững và phát triển mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và quần

chúng. Muốn vậy, phải có cơ chế thu hút được nhiều trí thức vào Đảng; cụ thể

hóa trí tuệ thành tiêu chuẩn kết nạp và đánh giá đảng viên; tạo điều kiện cho

mọi đảng viên tham gia công tác xã hội, để thông qua hoạt động thực tiễn,

hoạt động xã hội, họ ngày càng trưởng thành và phát triển.

Phải bảo đảm cho Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Đây là một

nét nổi bật của dân chủ hóa đời sống chính trị, khắc phục triệt đề những biểu

hiện của dân chủ hình thức trong sinh hoạt chính trị. Trong các cơ quan quyền

lực của Nhà nước và đoàn thể quần chúng, cần phải lựa chọn được những đại

diện tiêu biểu, xứng đáng nhất, đại diện cho quyền lực, lợi ích, ý chí, nguyện

vọng của quần chúng nhân dân.

Ba là, phải xây dựng đời sống tinh thần phong phú và đa dạng, góp phần

thúc đẩy quá trình dân chủ hóa trong phát huy nhân tố con người. Tự do tư

tưởng, giải phóng tinh thần là con đường dẫn tới sự phát triển trí tuệ, đạo đức,

nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hội, là nhu cầu tất yếu khách quan, là dấu

hiệu của sự phát triển và tiến bộ, là điều kiện để thúc đẩy dân chủ. Một xã hội

dân chủ phải đảm bảo cho công dân quyền tự do tư tưởng, quyền suy nghĩ

thật và nói thật, đấu tranh bảo vệ chân lý.

Cần áp dụng nhiều biện pháp, chủ trương, chính sách, những điều kiện

để khai thác tốt nhất năng lực sáng tạo của giới trí thức, của các nhà khoa học,

các cơ quan nghiên cứu giảng dạy, các công cụ thông tin tuyên truyền. Cần

khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo trong công tác nghiên cứu, tính phong phú

và sự đa dạng trong hình thức biểu hiện của đời sống văn hóa tinh thần, tôn

trọng tinh thần độc lập trong suy nghĩ, trong nhận thức; thảo luận, tranh luận

một cách dân chủ, bình đẳng thông qua đối thoại và thuyết phục bởi nhận

thức khoa học chứ không phải bằng sự áp đặt.

Bốn là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Dân chủ bao giờ cũng

gắn với pháp luật, do đó phải xây dựng hệ thống pháp luật, đảm bảo quyền

136

làm chủ của nhân dân. Pháp luật như một nội dung cấu thành của dân chủ, cần

phải làm cho pháp luật trở thành công cụ quản lý xã hội, quản lý nhà nước; có

đủ sức mạnh và hiệu lực chi phối, kiểm soát và điều chỉnh mọi hoạt động của

cơ quan, tổ chức, các lực lượng xã hội, các tập thể và từng cá nhân. Đây là

nhiệm vụ có tầm quan trọng lâu dài nhằm thực hiện tiến bộ xã hội và phát

triển dân chủ. Mọi công dân phải được trang bị những kiến thức cần thiết về

pháp luật, sự am hiểu pháp luật, nắm vững pháp luật trong cuộc sống, góp

phần nâng cao tư cách công dân của họ. Vai trò, chức năng xã hội của pháp

luật là đảm bảo và phát huy quyền dân chủ, quyền con người và quyền công

dân của các thành viên trong xã hội.

Năm là, phát huy nhân tố con người phải gắn liền với việc nâng cao trình

độ dân trí của nhân dân. Dân trí và dân chủ có mối liên hệ với nhau, vì dân trí

càng cao thì ý thức của nhân dân đòi hỏi dân chủ càng lớn. Quốc gia có trình

độ dân trí cao thì dân chủ được bảo đảm hơn. Công dân có hiểu biết, có trình

độ cao mới tự bảo vệ được mình trong khuôn khổ các quyền tự do, dân chủ đã

ban hành. Như vậy, GD-ĐT là điều kiện tiên quyết để tạo ra năng lực trí tuệ,

là yếu tố cơ bản trong sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước; tạo điều kiện

hướng vào việc bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ cho con người.

4.3.3. Tiếp tục thực hiện công bằng xã hội để phát huy nhân tố

con người

Công bằng xã hội là khái niệm mang tính tương đối, phụ thuộc vào quan

niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội và thực

hiện công bằng xã hội là một hoài bão lớn lao, một lý tưởng cao đẹp mà loài

người luôn hướng đến trong tiến trình lịch sử. Hồ Chí Minh coi công bằng xã

hội là một trong những đặc trưng bản nhất của chủ nghĩa xã hội. Người nói:

“chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng

ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ

được Nhà nước giúp đỡ chăm nom” [43, tr.175].

137

Công bằng xã hội thực hiện thông qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết

quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các

nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Nhìn chung,

công bằng xã hội là sự công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển

và điều kiện thực hiện cơ hội. Phải tạo điều kiện cho mọi người, nhất là người

đang độ tuổi lao động có cơ hội nỗ lực phấn đấu để cống hiến sức lực, thông

qua lao động dưới mọi hình thức, như: lao động sản xuất, kinh doanh, nghiên

cứu khoa học, quản lý nhà nước, sáng tạo công nghệ, nghệ thuật, hoạt động

trong các lực lượng vũ trang để bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, trật

tự và an toàn xã hội v.v..

Từng bước khắc phục sự bất bình đẳng về thu nhập, về mức sống giữa

các tầng lớp, các nhóm xã hội; giữa các vùng miền, và giữa các loại lao động

khác nhau trong xã hội. Cần giúp đỡ, chăm sóc, cứu trợ mọi thành viên trong

xã hội đối phó với các rủi ro trong cuộc sống, bảo vệ cho họ không bị rơi vào

tình cảnh quá nghèo khổ, bần cùng hóa, nhờ đó bảo đảm được quyền sống của

con người. Thực hiện công bằng xã hội thông qua pháp luật, các chính sách

và chương trình quốc gia, như: chính sách và chương trình bảo hiểm xã hội;

bảo hiểm y tế; trợ giúp xã hội và xóa đói giảm nghèo; chính sách và chương

trình trợ giúp đặc biệt v.v..

4.3.4. Tăng cường cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm phát

huy nhân tố con người

Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân

vừa là mục tiêu của chế độ, vừa là một nội dung trong việc phát huy nhân tố

con người. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần là hai mặt không thể tách

rời. Như vậy, cần phải bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển

văn hóa, phát triển con người; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm

an sinh xã hội; phải không ngừng phát triển sản xuất, tiếp tục xóa đói, giảm

nghèo, cải thiện điều kiện ăn, ở, chữa bệnh, học hành, đi lại. Trước mắt, cần tổ

138

chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình

quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.

Xây dựng và thực hiện chính sách phù hợp với các tầng lớp xã hội; ngăn

chặn, giải quyết hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có

thể dẫn đến xung đột xã hội. Trong xây dựng và thực hiện các chính sách về

phát triển KT-XH, cần quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế

trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa;

khắc phục hướng gia tăng phân hóa giàu nghèo, bảo đảm cơ cấu giai tầng xã

hội, dân cư, nghề nghiệp hợp lý. Đẩy mạnh các giải pháp phòng chống tội

phạm và tệ nạn xã hội, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm an toàn xã hội,

an ninh con người. Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội,

phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống người lao động, “cần

phải thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự

thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi

nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội” [21, tr.420]. Để cải thiện đời sống vật chất và tinh

thần nhằm PHNTCN trong phát triển KT-XH, cần tập trung thực hiện tốt một

số vấn đề sau:

Thứ nhất, giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho người

lao động; tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập, bảo đảm

tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao

động. Khuyến khích đầu tư xã hội, tạo việc làm; xây dựng và hoàn thiện hệ

thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý.

Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý, hoàn thiện và thực hiện

chính sách bảo vệ lao động. Tập trung triển khai các chương trình giảm

nghèo, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có tỷ

lệ hộ nghèo cao. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức giảm nghèo, gắn

công tác giảm nghèo với phát triển nông nghiệp nông thôn, phát triển giáo

139

dục, dạy nghề, xây dựng xã hội học tập và giải quyết việc làm để đảm bảo

giảm nghèo bền vững. Xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, đặc biệt ưu tiên

cho những huyện và làng nghèo, thực hiện chính sách bảo trợ sản xuất nông

nghiệp trong những trường hợp nông dân gặp rủi ro, thiên tai, giá cả thị

trường biến động lớn; miễn, giảm học phí học nghề cho học sinh nghèo tại

các trung tâm dạy nghề.

Thứ hai, coi trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân

số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho toàn thể xã hội.

Hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai sản, nghỉ

dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đằng giới; thực hiện các chính sách, chiến lược

về dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em; đầu tư nâng cao chất

lượng dân số, chỉ số phát triển con người, giảm tỷ lệ mất cân bằng giới tính.

Phát động toàn dân tham gia hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe,

nâng cao thể trạng và tầm vóc con người; nâng cao chiến lược phòng chống

dịch, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, bảo vệ chăm sóc sức khỏe

bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người bị di chứng chiến tranh; củng cố và nâng

cao mạng lưới y tế cơ sở, có bác sĩ làm việc trong tất cả các trạm y tế trong cả

nước, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Khuyến khích các

thành phần kinh tế tham gia phát triển các cơ sở khám chữa bệnh, chăm sóc

sức khỏe, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội.

Thứ ba, mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã

hội đến mọi người dân. Trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn

thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện

tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao

động,… Chuyển từ chỗ hỗ trợ nhân đạo sang bảo hiểm quyền an sinh xã hội

của công dân. Thực hiện chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu

quả và tiếp cận phương pháp đo lường theo đa chiều, nhằm bảo đảm tiếp cận

các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu; thực hiện tốt chính sách nhà ở cho các đối

140

tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó

khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công

nghiệp, khu chế xuất, sinh viên,… Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện,

đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế, tàn tật.

Thứ tư, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội, vì tệ nạn xã

hội là những loại hình hoạt động trái pháp luật, trái với nhân cách, đạo lý, trái

với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và của nhân loại. Để phòng

chống các tệ nạn xã hội cần phải thực thi các giải pháp sau:

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục lối sống lành mạnh cho quần

chúng nhân dân; cần quan tâm xây dựng các tổ chức đoàn thể trong các tầng

lớp dân cư, nhất là thanh niên, đội ngũ học sinh, sinh viên các trường phổ

thông, các trường dạy nghề và trường đại học.

Hai là, tăng cường thực hiện pháp chế, nâng cao hiệu lực của cơ quan

bảo vệ pháp luật, đổi mới việc quản lý hành chính và trật tự cộng đồng; làm

cho mọi người hiểu rõ các bộ luật hiện hành và phối hợp chặt chẽ các ban,

ngành, đoàn thể phát động phong trào quần chúng trên cả nước, đấu tranh bài

trừ các tệ nạn xã hội và chống tội phạm. Xây dựng Nhà nước pháp quyền của

dân, do dân và vì dân; thực thi dân chủ, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của

nhân dân. Có chính sách, biện pháp phù hợp để mọi người thực hiện quyền lợi

và nghĩa vụ thỏa đáng. Khuyến khích tự do sáng tạo, phát huy tài năng phục

vụ sự nghiệp phát triển KT-XH; xây dựng môi trường lành mạnh, phát huy

truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”,

“nhân hậu, thủy chung”.

Ba là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục; tích cực đấu tranh chống

và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm. Nâng cao chất

lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm giáo dục lao động xã hội.

Quan tâm tạo việc làm cho các đối tượng sau cai nghiện và gái mại dâm đã

được giáo dục. Nhân rộng mô hình làng, huyện, địa bàn dân cư, cơ quan,

141

trường học không có tệ nạn xã hội, đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác phòng,

chống tệ nạn xã hội. Cần “thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế,

hành chính và pháp luật để phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất

là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma túy, mua bán dâm...” [17, tr.118].

4.3.5. Tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lãng

phí nhằm phát huy nhân tố con người

Tham nhũng, lãng phí được coi là quốc nạn, là một căn bệnh nguy hại

nhất của quốc gia dân tộc và nhân loại, nó ảnh hưởng đến khả năng khai thác,

sử dụng và phát huy nhân tố con người, nên cần có sự nhận thức và vận dụng

tổng hợp nhiều biện pháp để chống tham nhũng, chống lãng phí có hiệu quả.

Cần phải xác định đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, làm ăn phi

pháp là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn,

phức tạp, lâu dài.

Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị, xã

hội phải kiên quyết phòng chống tham nhũng, lãng phí với yêu cầu chủ động

phòng ngừa, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che dung

túng, tiếp tay và can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Đẩy mạnh việc

nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong việc phòng chống

tham nhũng, nhất là trong lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý

thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, công chức,

viên chức và nhân dân về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, làm ăn

phi pháp, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Xử lý

nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra tham nhũng, lãng phí

trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình trực tiếp quản lý. Đẩy mạnh

cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc

sống cho cán bộ, đảng viên, công chức để góp phần phòng chống tham nhũng.

142

Kiên quyết, kiên trì xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe, trừng trị để

không dám tham nhũng, lãng phí, làm ăn phi pháp bằng các cách thức sau:

Một là, chống đặc quyền, đặc lợi sẽ là vấn đề đầu tiên để chống tham ô,

tham nhũng. Để chống đặc quyền, đặc lợi phải khẩn trương tập trung xây

dựng và ban hành các văn bản pháp luật, pháp quy rõ ràng và chặt chẽ. Trước

mắt, phải bổ sung và sửa đổi các văn bản, các chế độ, chính sách không còn

phù hợp hoặc thiếu tính nhất quán, có những sơ hở để tạo cơ sở cho những

phần tử thoái hóa, biến chất lợi dụng, làm trái nguyên tắc và pháp luật. Nhà

nước của chúng ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thống nhất về quyền

lực, chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất của Nhà nước.

Hai là, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra, nhằm phát hiện,

xử lý kịp thời và nghiêm minh đối với các hành vi tham ô, tham nhũng, lãng

phí, làm ăn phi pháp, nhất là cán bộ lãnh đạo, những người có chức, có quyền.

Đương nhiên, điều đó không có nghĩa là xử lý người lãnh đạo có chức, có

quyền nặng hơn những người khác, mà mọi người phải bình đẳng trước pháp

luật và được pháp luật bảo hộ; không có tình trạng ngoại lệ dù người đó là cấp

nào, chức vụ nào, kể cả người có công với cách mạng.

Ba là, cùng với việc kiểm tra quản lý, phát hiện và xử lý, cần tiến hành

công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng

viên, đặc biệt là công chức nhà nước. Đây là biện pháp phòng ngừa tích cực

và tốt nhất. Muốn thế, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc,

kiên quyết đấu tranh với những hành vi sai trái.

Bốn là, chống tham ô, tham nhũng ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng

mới thành công. Quần chúng ở đây là toàn thể đảng viên trong các tổ chức

Đảng, các chiến sĩ quân đội và lực lượng vũ trang nhân dân, toàn thể công

chức, viên chức… và toàn thể nhân dân. Phải động viên nhân dân thực hiện,

làm cho quần chúng hiểu rõ sự nguy hại, sự tổn thất của tham ô, tham nhũng,

và quyết tâm tham gia phong trào chống tham nhũng mới có thể thành công.

143

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều

nhân tố nhưng trong những nhân tố và điều kiện đó chủ yếu vẫn là phụ thuộc

vào việc khai thác, sử dụng, phát huy nhân tố con người, vì nhân tố con người

chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển

KT-XH. Đây là mục tiêu của mọi mục tiêu, động lực của mọi động lực trong

quá trình đi lên, nhất là trong điều kiện thế giới đang bước vào kinh tế tri thức

với sự phát triển nhanh của khoa học - kỹ thuật và công nghệ.

Phát triển kinh tế - xã hội là nhằm xây dựng, phát triển đất nước giàu

đẹp, văn minh, hiện đại. Đó là yêu cầu thực tiễn của Đảng và nhân dân Lào,

nhưng muốn điều đó trở thành hiện thực phải dựa vào khả năng khai thác, sử

dụng, huy động, phát huy nhân tố con người. Tuy nhiên, muốn thực hiện được

thì đó là trách nhiệm của cả nước, nhất là của Đảng bộ, chính quyền và đông

đảo các tầng lớp nhân dân. Vì thế, phát huy nhân tố con người là nhiệm vụ

quan trọng và cấp bách của toàn xã hội.

Xuất phát từ thực trạng trong việc phát huy nhân tố con người trong phát

triển KT-XH ở Lào, trước yêu cầu mới về khai thác, sử dụng nhân tố con

người thực hiện sự nghiệp phát triển đất nước, tác giả luận đã đưa ra ba nhóm

giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả nhân tố con người trong phát triển

KT-XH. Các nhóm giải pháp nhằm khai thác, sử dụng, huy động tốt những

giá trị, phẩm chất, năng lực vốn có của con người Lào trong quá trình xây

dựng và phát triển đất nước.

144

KẾT LUẬN

Phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH là việc khai thác, sử

dụng, bồi dưỡng những phẩm chất, năng lực của con người, bao gồm những

nhân tố về trí lực, thể lực, tâm lực, phát huy những năng lực này trong phát

triển KT-XH. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu về phát huy nhân tố con

người trong phát triển KT-XH là xuất phát từ quan điểm có tính chất nền tảng

của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư

tưởng Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn và quan điểm của ĐNDCM Lào về con người,

nhân tố con người, phát huy nhân tố con người.

Trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã từng

bước hiểu con người, nhân tố con người một cách sâu sắc và thực tế hơn. Phát

huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH của Lào là vấn đề cấp bách,

được Đảng, Nhà nước chú trọng. Từ Đại hội lần thứ III của ĐNDCM Lào đến

nay, tư tưởng đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển ngày càng

thể hiện rõ, coi con người là mục tiêu, là động lực, và là nguồn lực cơ bản của

sự phát triển. Từ đây, các thước đo giá trị, thang giá trị mới trong đào tạo, sử

dụng và phát huy nhân tố con người được hình thành và hoàn thiện dần. Khi

đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh phát triển KT-XH, chủ động mở cửa

hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội và thách thức, thế mạnh và hạn chế của Lào

đều liên quan đến nhân tố con người, đều phải tính đến nguyên nhân thuộc về

nhân tố con người. Thực tế đòi hỏi phải đặt nhân tố con người vào vị trí trung

tâm của chiến lược KT-XH, và là vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu

dài; phát triển KT-XH phải luôn gắn liền với việc phát huy nhân tố con người.

Cộng hòa Dan chủ Nhân dân Lào đang có lực lượng lao động hùng hậu,

trẻ, tuy nhiên tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa cao; trình độ học vấn, trình độ

tay nghề, khoa học, kỹ thuật, kỷ luật và thái độ, tác phong lao động còn hạn

chế, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp hiện

đại. Điều đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát huy nhân tố con người ở

145

Lào, kìm hãm quá trình phát triển của đất nước. Trên thực tế, việc phát huy

nhân tố con người ở Lào còn nhiều bất cập, như: Thứ nhất, một số hạn chế

trong việc sử dụng nhân tố con người trong phát triển KT-XH; Thứ hai, một

số hạn chế về đào tạo, bồi dưỡng con người; Thứ ba, một số hạn chế về việc

tạo hệ thống động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-

XH. Ngoài ra, còn nghiên cứu làm rõ về nguyên nhân của những hạn chế

trong việc phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở Lào như:

Thứ nhất, nguyên nhân của những hạn chế trong việc sử dụng nhân tố con

người trong phát triển KT-XH; Thứ hai, nguyên nhân của những hạn chế

trong công tác đào tạo - bồi dưỡng con người đáp ứng yêu cầu phát triển KT-

XH; Thứ ba, nguyên nhân của những hạn chế trong tạo hệ thống động lực

nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH.

Để khắc phục những bất cập trên, tác giả luận án đã đề xuất một số nhóm

giải pháp cơ bản để phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH ở

CHDCND Lào, cụ thể: nhóm giải pháp để tăng cường sử dụng hợp lý, hiệu quả

nhân tố con người; nhóm giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác đào tạo,

bồi dưỡng con người đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH; nhóm giải pháp gia

tăng động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển KT-XH. Các

nhóm giải pháp đó sẽ tác động trực tiếp đến nhân tố con người, đảm bảo lợi ích

về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của con người, tạo tiền đề cần thiết để khai

thác, sử dụng hiệu quả nhân tố con người trong phát triển KT-XH, để xây dựng

một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phát huy nhân tố con người thực chất là phát huy một trong những thế

mạnh nội lực của đất nước, và không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là chìa

khoá dẫn tới thành công trong công cuộc đổi mới của đất nước, có vai trò

quyết định đối với sự phát triển đất nước. Chỉ có phát huy thế mạnh nội lực,

nhất là phát huy nhân tố con người, chúng ta mới có thể thực hiện quá trình

phát triển kinh tế - xã hội thành công.

146

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Sysomphone Vongphachanh (2016), "Phát huy nhân tố con người ở Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào", Tạp chí Tuyên giáo, (7), tr.72-74.

2. Sysomphone Vongphachanh (2017), "Quan điểm của Đảng Nhân dân cách

mạng Lào về phát huy nhân tố con người qua các kỳ Đại hội Đảng",

Tạp chí Giáo dục & Xã hội, (3), tr.20-23.

147

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Khánh Bật, Trần Thị Huyền (2012), Xây dựng đội ngũ trí thức

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Triết học, dùng trong đào tạo

trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học xã hội và nhân văn không

thuộc chuyên ngành Triết học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

3. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1977), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

4. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

5. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

6. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

7. C.Mác, Ph.Ăng ghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

8. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

9. C.Mác, Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

10. Nguyễn Đình Cử (2011), "Những giải pháp đột phá góp phần phát triển tài

nguyên con người nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững ở

nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào", Kỷ yếu hội thảo khoa học:

Việt - Lào, Mã số ĐKXB: 706 - 2001/CXB/ĐHKTQD.

11. Dengyang KONGCHI (2016), Vấn đề phát huy nguồn lực thanh niên trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cộng hào Dân chủ Nhân

dân Lào hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

148

12. Nguyễn Như Diệm (1989) (Tổng thuật) "Nhân tố con người và tính tích

cực hóa nhân tố con người: Khái niệm và vấn đề", Thông tin Khoa

học - xã hội, (1).

13. Lý Quang Diệu (1994), Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy nhân tố con người trong lực lượng sản

xuất ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Trần Thanh Đức (2002), Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với

vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam hiện nay (Từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu Long),

Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 (khóa

VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

149

24. Đệt Tạ Kon Phi La Phăn Đệt (2004), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo

chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong giai đoạn

cách mạng hiện nay, Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

25. Đoàn chuyên gia kinh tế Việt Nam, Đoàn chuyên gia kinh tế Lào (2005),

Báo cáo phương hướng phát triển kinh tế - xã hội các vùng kinh tế giai

đoạn 2006 - 2010 của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

26. Đoàn chuyên gia kinh tế Việt Nam, Đoàn chuyên gia kinh tế Lào (2005),

Chuyên đề Phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006 - 2010 của Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

27. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ

phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn lực đi vào công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát

huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt

Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

30. Nguyễn Hải Hữu (2011), "Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực ở

Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào", Kỷ yếu hội thảo khoa học Việt -

Lào, Mã số ĐKXB: 706 - 2001/CXB/ĐHKTQD.

31. Đỗ Huy (2000), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, phát triển

giáo dục, nâng cao dân trí", Tạp chí Triết học, số 2(114).

32. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Khánh (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt

Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

150

34. Khăm Phả Phim Ma Sỏn (2010), Xây dựng đội ngũ công chức quản lý Nhà

nước về kinh tế ở tỉnh Bo Ly Khăm Xay Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

Lào, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

35. Lương Công Lý (2014), Giáo dục - đào tạo với việc phát triển nguồn nhân

lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

36. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2014), Chính sách an sinh xã hội - Thực trạng và

giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Phạm Văn Mợi (2008), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Hải

Phòng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (10), Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

46. Cung Thị Ngọc (2014), Vấn đề con người trong các học thuyết triết học

Trung Quốc cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Trần Thị Minh Ngọc (2015), "Vấn đề xây dựng con người Việt Nam thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, số 6 (289).

48. Nguyễn Thế Nghĩa (1991), "Vị trí và vai trò của lợi ích trong hoạt động

của con người", Tạp chí Triết học, (3).

49. Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực

lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

151

50. Lê Văn Phục (2010), “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8), Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

51. Nguyễn Hoàng Phương (1995), Tích hợp văn hóa Đông - Tây cho một

chiến lực giáo dục tương lai, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Nguyễn Minh Quang (2003), Nhân tố con người trong phát triển sức sản

xuất của lao động để thúc đẩy kinh tế hàng hóa ở nước ta, Luận án

Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

53. Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong

quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Đề tài KH-CN cấp nhà nước,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Nguyễn Văn Sáu (1993), Phát huy nhân tố con người trong đổi mới quản

lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Sommad Phonesena (2011), "Chiến lược đào tạo và phát triển nguồn

nhân lực để đáp ứng cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại

Lào", Kỷ yếu hội thảo khoa học Việt - Lào, Mã số ĐKXB: 706-

2001/CXB/ĐHKTQD.

56. Hoàng Thanh Sơn (2008), "Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về

phát triển con người trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Triết học, (7).

57. Sư Lao Sô Tu Ky (2014), Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở

thủ đô Viêng Chăn, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

58. Sỷ Xúc Phông Phi Chít (2011), Phát huy nhân tố con người trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Chăm Pa Sắc của Nước Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

59. Nguyễn Văn Tài (1998), Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ

quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận

án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

152

60. Trần Đức Thảo (1989), Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có

con người, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh.

61. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn nhân lực để công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

62. Nguyễn Văn Thiện (2012), Vài trò của cán bộ chủ chốt cấp xã trong việc

phát huy nhân tố con người ở nông thôn Bắc trung bộ Việt Nam hiện

nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

63. Cao Văn Thống, Đỗ Xuân Tuất (2015), Chiến lược phát triển nhân tài của

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Trần Thị Thủy (2000), Nhân tố con người và những biện pháp nhằm

phát huy nhân tố con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam

hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

65. Nguyễn Tiếp (2005), “Phát triển thị trường lao động nước ta các năm

2005-2010”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (7).

66. Torberg Falch (2015), "Hệ thống giáo dục đối với sự tăng trường kinh tế,

phát triển con người và an ninh con người", Tạp chí Nghiên cứu con

người, số 1(76).

67. Hoàng Thái Triển (2001), "Vấn đề phát huy nhân tố con người trong phát

triển kinh tế", Tạp chí Triết học, (2).

68. Nguyễn Thị Tùng (2014), Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay,

Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

69. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài

năng - kinh nghiệm của thế giới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

70. Trần Nguyễn Tuyên (2010), Gắn kết tăng trường kinh tế và tiến bộ, công

bằng xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

153

71. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb tiến bộ, Matxcơva.

72. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb tiến bộ, Matxcơva.

73. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 29, Nxb tiến bộ, Matxcơva.

74. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 30, Nxb tiến bộ, Matxcơva.

75. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb tiến bộ, Matxcơva.

76. V.I.Lênin (2004), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

78. Xi Tha Lườn Khăm Phu Vông (2005), Vai trò chính sách xã hội đối với

việc phát huy nhân tố con người ở Lào hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

79. Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với

việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

* Tài liệu tiếng Lào

80. ໄກສອນ ພົມວິຫານ (1985), ນິພົນເລືອກເຟນ, ເຫຼັ້ມ 1, ສ ໍານັກພິມ ສປປ ລາວ, ວຽງຈັນ.

Cay Xỏn Phôm Vi Hản (1985), Tuyển tập, tập 1, Nxb Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

81. ໄກສອນ ພົມວິຫານ (1987), ນິພົນເລືອກເຟນ, ເຫຼັ້ມ 2, ສ ໍານັກພິມ ສປປ ລາວ, ວຽງຈັນ.

Cay Xỏn Phôm Vi Hản (1987), Tuyển tập, tập 2, Nxb Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

82. ໄກສອນ ພົມວິຫານ (1987), ນິພົນເລືອກເຟນ, ເຫຼັ້ມ 3, ສ ໍານັກພິມ ສປປ ລາວ, ວຽງຈັນ.

Cay Xỏn Phôm Vi Hản (1987), Tuyển tập, tập 3, Nxb Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

83. ໄກສອນ ພົມວິຫານ (2005), ນິພົນເລືອກເຟນ, ເຫຼັ້ມ 4, ສ ໍານັກພິມ ແຫງລັດ, ວຽງຈັນ.

້ງປະຕິບັດແຜນພັດທະນາຂະແໜງສຶກສາປ 2007-2008 ແລະ

ຸບການຈັດຕັ

ແຜນພັດທະນາ 2006-2009, ແຂວງຄ ໍາມວນ. Bộ Giáo dục (2008), Tổng kết thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục 2007 - 2008 và kế hoạch phát triển giáo dục 2008 2009, tỉnh Khăm Muân.

Cay Xỏn Phôm Vi Hản (2005), Tuyển tập, tập 4, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn. 84. ກະຊວງສຶກສາ (2008), ສະຫຼ

154

້ງທີ VII ຂອງອົງຄະນະພັກກະຊວງສຶກສາທິການ,

ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

85. ກະຊວງສຶກສາ ແລະ ກິລາ (2010), ກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

Bộ Giáo dục và Thể thao (2010), Đại hôi lần thứ VII của Đảng bộ Bộ Giáo dục, Viêng Chăn.

ຫຼວງວຽງຈັນ.

86. ກະຊວງສຶກສາ ແລະ ກິລາ (2012), ຍດທະສາດເພື່ອພັດທະນາການສຶກສາຊັ້ນສງຮອດປ 2025, ນະຄອນ

Bộ Giáo dục và Thể thao (2012), Chiến lược phát triển hệ thống giáo dục cao cấp đến năm 2025, Viêng Chăn.

ຫຼວງວຽງຈັນ.

87. ກະຊວງສຶກສາ ແລະ ກິລາ (2012), ແຜນພັດທະນາການສຶກສາຊັ້ນສງ ແຕປ 2012-2020, ນະຄອນ

Bộ Giáo dục và Thể thao (2012), Kế hoạch phát triển hệ thống giáo dục

cao cấp từ năm 2012-2020, Viêng Chăn.

5 ປ ຄັ້ງທີ XIII (2016-2020), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

88. ກະຊວງສຶກສາ ແລະ ກິລາ (2015), ວິໄສທັດຮອດປ 2030 ແລະ ແຜນພັດທະນາຂະແໜງສຶກສາ ແລະ ກິລາ

Bộ Giáo dục và Thể thao (2015), Tầm nhìn đến năm 2030, chiến lược đến năm 2025 và kế hoạch phát triển giáo dục và thể thao 5 năm lần thứ VIII (2016-2020), Viêng Chăn.

ວຽງຈັນ.

89. ກະຊວງສຶກສາແລະກິລາ (2015), ແຜນຍດສາດການພັດທະນາການສຶກສາຮອດປ 2020, ນະຄອນຫຼວງ

Bộ Giáo dục và Thể thao (2015), Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020.

ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

90. ກະຊວງສຶກສາ ແລະ ກິລາ (2016), ແຜນພັດທະນາອາຊີວະສຶກສາ ແລະ ຝກອົບຮົມວິຊາຊີບ 2016-2020,

Bộ Giáo dục và Thể thao (2016), Kế hoạch phát triển nghề nghiệp và tay

nghề 2016-2020, Viêng Chăn.

ຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Y tế (2010), Chiến lược phát triển bán Bộ Y tế đến năm 2020,

91. ກະຊວງສາທາລະນະສກ (2010), ຍດທະສາດພັດທະນາພະນັກງານສາທາລະນະສກຮອດປ 2020, ນະຄອນ

Viêng Chăn.

155

92. ກະຊວງສາທາລະນະສກ (2012), ຍດທະສາດການປະຕິຮບສາທາລະນະສກແຫງຊາດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Y tế (2010), Chiến lược cải cách y tế cấp quốc gia, Viêng Chăn.

2020), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

93. ກະຊວງສາທາລະນະສກ (2014), ທິດທາງໜາທີ່ແຜນພັດທະນາສາທາລະນະສກ 5 ປ ຄັ້ງທີ VIII (2016-

Bộ Y tế (2010), Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển y tế 5 năm

lần thứ VIII (2016-2020), Viêng Chăn.

ແຮງງານເດັກ ປ 2010, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, điều tra lực lượng lao động và sử dụng lao động trẻ em năm 2010, Viêng Chăn.

94. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2012), ສປປລາວ, ການກວດກາກຳລັງແຮງງານ ແລະ ການນຳໃຊ

2015), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôi 5 năm lần thứ VII của Lào giai đoạn 2011-2015, Viêng Chăn.

95. ກະຊວງແຜນການແລະການລົງທຶນ (2013), ແຜນພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງຄົມ 5 ປ ຄັ້ງທີ VII (2011-

ເທດຄັ້ງທີ IV ປ 2015 (ບົດລາຍງານຜົນເບື້ອງຕົ້ນ), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê (2015), Điều tra dân số và Nhà ở

96. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ, ສນສະຖິຕິ (2015), ສາຫຼວດພົນລະເມືອງ ແລະ ທີ່ຢອາໄສທົວປະ

toàn quốc lần thứ IV năm 2015, Viêng Chăn.

97. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ, ສນສະຖິຕິ (2015), ສະຖິຕິປະຈາປ 2014, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê năm 2014, Viêng Chăn.

ເທດຄັ້ງທີ II, ວຽງຈັນ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê (2015), Điều tra kinh tế toàn quốc lần thứ II, Viêng Chăn.

98. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ, ສນສະຖິຕິ (2015), ບົດລາຍງານການສາຫຼວດເສດຖະກິດທົວປະ

ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ kế hoạch và đầu tư (2015), Tổng kết tài liệu về phát triển kinh tế - xã

99. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2015), ພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງຄົມ 40 ປ 1975 - 2015,

hội trong 40 năm của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào 1975 - 2015,

Viêng Chăn.

156

2020), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

100. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2016), ແຜນພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງຄົມ 5 ປ ຄັ້ງທີ VIII (2016-

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôi 5 năm lần thứ VIII của Lào giai đoạn 2016-2020, Viêng Chăn.

2012 - 2016, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

101. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ, ສນສະຖິຕິ (2017), ລວມຍອດຜະລິດຕະພັນພາຍໃນ ຂອງສປປລາວ

ບັດພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງຄົມ 5 ປ ຄັ້ງທີ VII (2011-2015), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê (2017), Tổng thu nhập quốc nội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm 2012-2016, Viêng Chăn. 102. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2016), ການພັດທະນາໄລຍະ 15 ປ ຜານມາ ແລະ ການຈັດຕັ້ງປະຕິ

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Sự phát triển trong giai đoạn 15 năm qua và việc tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ VII (2011-2015), Viêng Chăn.

ຂອງຄົວເຮືອນ ຄັ້ງທີ Vປ 2812-2013 (LECS 5), ວຽງຈັນ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê (2016), Điều tra tiêu thụ và chi tiêu của hộ gia đình lần thứ V, năm 2012 - 2013 (LECS 5), Viêng Chăn. 104. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ, ສນສະຖິຕິ (2017), ສະຖິຕິປະຈຳປ 2016, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

103. ກະຊວງແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ, ສນສະຖິຕິ (2016), ການສາຫຼວດການຊົມໃຊ ແລະ ການໃຊຈາຍ

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê (2017), Niên giám thống kê trong năm 2016, Viêng Chăn.

ນະທຳ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

105. ກະຊວງຖະແຫຼງຂາວ ແລະ ວັດທະນະທຳ (1996), ບັນດາມະຕິຂອງພັກກຽວກັບວຽກງານແນວຄິດວັດທະ

Bộ Văn hóa thông tin (1996), Các nghị quyết của Đảng về tư tưởng văn hóa, Viêng Chăn.

່ໂຮງພິມແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

ເມືອງແນວຄິດ ແລະ ວັດທະນະທຳ, ພິມທີ Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch (2008), Truyển tập những bài viết của

106. ກະຊວງຖະແຫຼງຂາວ ແລະ ວັດທະນະທຳ (2008), ຮີບໂຮມຜົນງານຂຽນ ກ.ອໍ ລະບນກັບວຽກງານການ

C.OLABUN về công tác chính trị - tư tưởng và văn hóa, Nxb Nhà nước,

Viêng Chăn.

157

ຂາ ່ວ, ວັດທະນະທ ໍ ຳ ແລະ ທອງທຽ ່ວ ປ 2011-2015 ແລະ ແຜນພັດທະນາວຽກງານຖະແຫຼງຂາ ່ວ, ວັດທະ

ນະທ ໍ ຳ ແລະ ທອງທຽ ່ວ 5 ປ 2016-2020, ພິມທີ

່ໂຮງພິມແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

107. ກະຊວງຖະແຫຼງຂາວ, ວັດທະນະທ ໍາ ແລະ ທອງທຽ ່ວ (2016), ສະຫຼຸບການຈັດຕັ້ງປະຕິບັດວຽກງານຖະແຫຼງ

Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch (2016), Tổng kết tổ chức thực hiện công

tác văn hoa, thông tin và du lịch năm 2011-2015 và kế hoạch phát triển công

tác thông tin, văn hóa và du lịch 5 năm 2016-2020, Nxb Nhà nước,

Viêng Chăn.

ປງແຕງທົວປະເທດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

108. ກະຊວງອດສາຫະກຳ ແລະ ພະລັງງານ (2013), ບົດລາຍງານຜົນການສຳຫຼວດສະຖິຕິໂຮງງານອດສາຫະກຳ

Bộ Công nghiệp và năng lượng (2013), Tổng cộng nhà máy công nghiệp

chế biến trong cả nước, Viêng Chăn.

ແລະ ແຜນພັດທະນາແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ 5 ປ ຄັ້ງທີ IV (2016-2020), ນະຄອນຫຼວງ

ວຽງຈັນ.

109. ກະຊວງແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ (2015), ວິໄສທັດຮອດປ 2030, ຍດທະສາດຮອດປ 2025

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2015), Tầm nhìn đến năm 2030, chiến

lược đến năm 2025 và kế hoạch phát triển lao động và Phúc lợi xã hội 5

năm lần thứ IV (2016-2020), Viêng Chăn.

ແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມໄລຍະ 10 ປ (2016-2025), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

110. ກະຊວງແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ (2015), ວິໄສທັດຮອດປ 2030, ຍດທະສາດການທະນາ

ງານແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ, ສ ໍານັກພິມ ລັດວິສາຫະກິດໂຮງພິມໜ

ມລາວ, ນະຄອນຫຼວງ

ວຽງຈັນ. Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2015), 40 năm trong quá trình phát triển

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2015), Tầm nhìn đến năm 2030 và chiến lược phát triển lao động và phúc lợi xã hội trong 10 năm (2016-2025). 111. ກະຊວງແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ (2015), 40 ປ ຂະບວນການເຕີບໃຫຍຂະຫຍາຍຕົວວຽກ

của công tác lao động và phúc lợi xã hội, Nxb Doanh nghiệp nhà nước

nhà xuất bản thanh niên, Viêng Chăn.

158

ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ ສົກປ 2015-2016 ແລະ ແຜນການ ປ 2017, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội (2017), Tổng kết việc tổ chức thực hiện công tác lao động và phúc lợi xã hội giai đoạn 2015-2016 và kế hoạch năm 2017, Viêng Chăn.

112. ກະຊວງແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ (2017), ບົດສະຫຼຸບການຈັດຕັ້ງປະຕິບັດວຽກງານແຮງງານ

ແໜງແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội, Cục Thống kê và hợp tác (2016), Tổng số thống kê ngành lao động và phúc lợi xã hội, Viêng Chăn. 114. ແກວ ຈັນທະວິໄລ (2015), ເອກະສານກອງປະຊຸມສາມະນາວິທະຍາສາດພາຍໃຕຫົວຂໍ

: ປະຊາຄົມເສດຖະ

ກິດອາຊຽນ 2015, ຄວາມພອມ ແລະ ສິ

່ງທາທາຍຂອງສປປລາວ, ສະຖາບັນວິທະຍາສາດສັງຄົມແຫງຊາດ,

ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Keo Chăn Tha Vi Xay (2015), Sự di cư tự do của lực lượng lao động, ảnh hưởng và thử thách khi gia nhập AEC, Hội thảo Sêmina khoa học, với chủ đề: Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015, sự sẳn sang và thách thức của CHDCND Lào, Viện Khoa học Xã hội Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

113. ກະຊວງແຮງງານ ແລະ ສະຫວັດດີການສັງຄົມ, ກົມແຜນການ ແລະ ການຮວມມື (2016), ສະຫຼຸບສະຖິຕິຂະ

ພັດທະນາ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

115. ຄະນະກຳມະການແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2006), ນະໂຍບາຍແຫງຊາດດານປະຊາກອນ ແລະ ການ

Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), Quốc sách về dân số và phát triển.

(2006-2010), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Ủy ban Kế hoạch và Đầu tư (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôi 5 năm lần thứ VI của Lào giai đoạn 2006-2010, Viêng Chăn.

116. ຄະນະກຳມະການແຜນການ ແລະ ການລົງທຶນ (2006), ແຜນພັດທະນາເສດຖະກິດ-ສັງຄົມ 5 ປ ຄັ້ງທີ VI

້ງສນກາງພັກ (2002), ຍດທະສາດການພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດຮອດປ 2020, ນະຄອນ

ຫຼວງວຽງຈັນ.

117. ຄະນະຈັດຕັ

Ban Tổ chức Trung ương Đảng(2002), Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, Viêng Chăn.

້ງສນກາງພັກ (2016), ເອກະສານກອງປະຊຸມວຽກງານຈັດຕັ້ງທົວປະເທດຄັ້ງທີ X, ພິມທີ

່ໂຮງ

ພິມແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2016), Tài liệu hội nghị công tác tổ chức toàn quốc lần thứ X, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

118. ຄະນະຈັດຕັ

159

ຮົມກຳມະກອນ, ສານັກພິມສະພານທອງການພິມ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Ban Tuyên huấn Trung ương đảng và Công đoàn Trung ương Lào (2010), Tài liệu tập huấn công nhân, Nxb Sa Phan Thong, Viêng Chăn.

119. ຄະນະໂຄສະນາອົບຮົມສນກາງພັກ ແລະ ສນກາງສະຫະພັນກຳມະບານລາວ (2010), ເອກະສານສຶກສາອົບ

IX ຂອງພັກປະຊາຊົນ ປະຕິວັດລາວ, ສານັກພິມແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Ban Tuyên huấn Trung ương đảng (2011), Giải thích, phổ biến nội dung Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

120. ຄະນະໂຄສະນາອົບຮົມສນກາງພັກ (2011), ອະທິບາຍ ແລະ ເຜີຍແຜເນື້ອໃນມະຕິກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ້ງທີ

້ນສນກາງ (2016), ແຜນພັດທະນາຊົນນະບົດ

ແລະ ລຶບລາງຄວາມທກຍາກ 5 ປ (2016-2020), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

121. ຄະນະພັດທະນາຊົນນະບົດ ແລະ ລຶບລາງຄວາມທກຍາກຂັ

Ban Phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo Trung ương (2016), Kế hoạch phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo 5 năm (2016-2020), Viêng Chăn.

ການເຄື່ອນໄຫວ ປ 2016, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

122. ຄະນະກວດກາສນກາງພັກ (2016), ບົດສະຫຼຸບການປະຕິບັດວຽກງານກວດກາປະຈາປ 2015 ແລະ ແຜນ

Ban Kiểm tra Trung ương Đảng (2016), Tổng kết thực hiện công tác kiểm tra nhiệm kỳ năm 2015 và kế hoạch năm 2016, Viêng Chăn.

ງແນະນຳຂອງກົມການເມືອງສນກາງພັກເລກທີ 09, ລົງວັນທີ 08/06/2004 ກຽວກັບການສາງບານ

ມບານພັດທະນາ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

ແລະ ກ Chỉ thị của Bộ Chính trị, số 09, ngày 08/06/2004, về việc xây dựng bản và cụm bản phát triển, Viêng Chăn.

123. ຄຳສັ

ລະສານອາລນໃໝ ສະບັບທີ 1 (ປະຈາເດືອນ1-2/2005), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

124. ຄາຜາຍ ສະພັງເໜືອ (2005), ເສດຖະກິດພມປນຍາກັບການຫັນເປນອດສາຫະກຳ ແລະ ທັນສະໄໝ, ວາ

ວາລະສານວິທະຍາສາດສັງຄົມ, ສະບັບທີ 4, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Khăm Pheng Thíp Mun Ta Ly (2009), Phát triển nguồn lực con người: Một số quan điểm và khái niệm về con người, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4, 2009; Viêng Chăn.

Khăm Phải Sa Phăng Nửa (2005), Kinh tế tri thức với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Alunmay, số 1 (tháng 1-2/2005). 125. ຄຳແພງ ທິບບນຕາລີ (2009), ພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດ: ບາງທັດສະນະ ແລະ ຄານິຍາມມະນດ,

160

ທະຍາສາດສັງຄົມຢລາວ,ຫວຽດນາມ ແລະ ກາປເຈຍໃນເງື່ອນໄຂເຊື່ອມໂຍງສາກົນ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ

126. ຄຳແພງ ທິບບນຕາລີ (2016), ກອງປະຊຸມວິທະຍາສາດສາກົນຄັ້ງທີ V, ພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດວິ

ແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

Khăm Pheng Thíp Mun Ta Ly (2016), Hội thảo khoa học xã hội quốc tế lần thứ V, chủ đề: Phát triển nguồn nhân lực khoa học xã hội ở Lào, Việt Nam và Campuchia trong điều kiện hội nhập quốc tế, Viêng Chăn. 127. ເຈືອງ ສົມບນຂັນ (2013), ບາງບັນຫາເສດຖະກິດກຽວກັບການພັດທະນາຢ ສປປລາວ, ສານັກພິມໂຮງພິມ

Chương Sổm Bun Khẳn (2013), Những vấn đề kinh tế về sự phát triển ở CHDCND Lào, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

ປະຊາຊົນ, ສານັກພິມ ໂຮງພິມແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

128. ສະຖາບັນວິທະຍາສາດສັງຄົມແຫງຊາດ (2011), ເສີມຂະຫຍາຍປະຊາທິປະໄຕໃນລະບອບປະຊາທິປະໄຕ

Viện Khoa học xã hội Quốc gia (2011), Phát huy dân chủ trong chế độ dân chủ nhân dân, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

129. ສົມຈິດ ສກສະຫວັດ(2005), ເສດຖະກິດແຮງງານ, ມະຫາວິທະຍາໄລແຫງຊາດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ

Sổm Chít Suk Sa Vắt (2005), Kinh tế lao động, Đại học Quốc gia Lào, Viêng Chăn.

ລນໃໝ, ສະບັບທີ 10 ປ 2016 (199), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

130. ສນິສາ (2016), ສາງໂອກາດການສຶກສາໃຫທົວເຖິງທກເປາໝາຍແມນໜາທີ່ຂອງທົວສັງຄົມ, ວາລະສານອາ

Su Ni Sa (2016), Tạo cơ hội giáo dục cho các đối tượng là nhiệm vụ của toàn xã hội, Viêng Chăn.

າ (2013), ເພີ່ມທະວີປກປອງສິດຜົນປະໂຫຍດຂອງປະຊາຊົນບັນດາ

ເຜົາຢ ສປປລາວ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

131. ສນກາງແນວລາວສາງຊາດ, ກົມຊົນເຜົ

Mặt trận xây dựng đất nước Trung ương, Vụ dân tộc (2013), Tăng cường việc bảo vệ lợi ích của các bộ tộc ở Lào, Viêng Chăn.

(ມະຕິກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

້ງທີ VII), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

132. ສະຖາບັນການເມືອງ ແລະ ການປກຄອງແຫງຊາດ (2003), ຜັນຂະຫຍາຍແນວທາງນະໂຍບາຍ ຂອງພັກ

Học viện Chính trị và Hành chính Quốc gia Lào (2003), Phổ biến đường lối chính sách của Đảng (nghị quyết Đại hội VII), Viêng Chăn.

161

133. ສະພາແຫງຊາດ 2007, ກົດໝາຍການສຶກສາ ພາກທີ 5, ມາດຕາ 21, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

Quốc hội Lào (2007), Luật Giáo dục, chương 5, điều 21, Viêng Chăn.

134. ສະພາແຫງຊາດ (2015), ລັດຖະທາມະນນແຫງ ສປປລາວ (ສະບັບປບປງ ປ 2015), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

Quốc hội (2015), Hiến pháp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (bổ sung năm 2015), Viêng Chăn.

ຫຼວງວຽງຈັນ. Viện Khoa học xã hội Quốc gia (2011), Tổng kết 25 năm đổi mới ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Viêng Chăn.

135. ສະຖາບັນວິທະຍາສາດສັງຄົມແຫງຊາດ (2011), ສະຫຼຸບ 25 ປ ການປຽນແປງໃໝ ຢ ສປປລາວ, ນະຄອນ

່ ໂຮງພິມແຫງລັດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

ຕາງໆໃນ ສປປລາວ, ພິມທີ Viện Khoa học xã hội Quốc gia (2013), Sự chuyển hóa từ qua khứ đến tương lai giữa các thế hệ người ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

136. ສະຖາບັນວິທະຍາສາດສັງຄົມແຫງຊາດ (2013), ການຫັນປຽນຈາກອາດີດໄປສອະນາຄົດລະຫວາງຮນຄົນໄວ

່ອນຄ ໍາພວົງ (2001), ເສີມຂະຫຍາຍປດໄຈຄົນໃນພາລະກິດປຽນແປງໃໝໃນປະເທດເຮົາ ແມນ

ຄວາມຈາເປນພາວະວິໄສ, ວາລະສານກໍ

ສາງພັກ ສະບັບປະຈຳເດືອນ 1,2/2001, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

137. ສີທາ ເລື

Sỉ Tha Lươn Khăm Phu Vông (2001), Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Lào là yêu cầu khách quan, Tạp chí Xây dựng Đảng, số tháng 1,2.2001, Viêng Chăn.

138. ຍດທະສາດການພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດແຫງຊາດຮອດ ປ 2025, (2016), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Quốc gia đến năm 2025, (2016), Nxb Công ty Doanh nghiệp Giáo dục, Viêng Chăn.

ກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

້ງທີ X ຂອງ

ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (2016), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại

139. ບົດລາຍງານການເມືອງຂອງຄະນະກຳມະການສນກາງພັກສະໄໝທີ IX ຕໍ

hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐNDCM Lào (2016), Viêng Chăn.

້ອໃນຈິດໃຈຂອງມະຕິການພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດ 1995, ວຽງຈັນ.

140. ບົດປະຖະກາຖາກຽວກັບເນື

Bài phát biểu về nội dung và tinh thần của Nghị quyết phát triển nguồn

nhân lực (1995), Viêng Chăn.

162

່ງແກວບນນອງ (2013), ການພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດຕິດພັນກັບການພັດທະນາສີ

ມືແຮງງານ, ວາລະສານ ນັກບໍລິຫານ, ສະບັບທີ XI (ເດືອນພະຈິກ, 2013), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ.

141. ບນສະຖຽນ ກິ

Bun Sạ Thiên King Keo Bun Nong(2013), Phát triển nguồn lực con

người gắn liền với việc phát triển tay nghề, Tạp chí Nhà quản lý, số XI

(Tháng 11, 2013), Văn phòng chính phủ, Viêng Chăn.

ມຄ

ມືປະຕິບັດງານການປກປອງ ແລະ ຄ

ມຄອງແຮງງານເຄື

່ອນຍາຍສາລັບສາມກະຊວງ (ກະຊວງແຮງງານ ແລະ

ສະຫວັດດີການສັງຄົມ, ກະຊວງປອງກັນຄວາມສະຫງົບ ແລະ ກະຊວງການຕາງປະເທດ), ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Sổ tay trong công tác bảo vệ và quản lý sự di cư lao động của 3 bộ (Bộ

142. ປ

Lao động và Phúc lợi xã hội, bộ an ninh, bộ ngoài giao), Viêng Chăn.

້ງທີ III, ສານັກພິມແຫງລັດ, ວຽງຈັນ.

143. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (1982), ເອກະສານກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1982), Văn kiện Đại hội lần thứ III, Nxb

Nhà nước, Viêng Chăn.

້ງທີ IV, ສານັກພິມແຫງລັດ, ວຽງຈັນ.

144. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (1986), ກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1986), Đại hội lần thứ IV, Nxb Nhà

nước, Viêng Chăn.

ແທນຂອງພັກຄັ

້ງທີ V, ວຽງຈັນ.

145. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (1991), ມະຕິກອງປະຊຸມໃຫຍຜ

Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1991), Nghị quyết Đại hội đại biểu của

Đảng lần thứ V, Viêng Chăn.

ແທນຂອງພັກຄັ

້ງທີ VI, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (1996), Nghị quyết Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ VI, Viêng Chăn.

146. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (1996), ມະຕິກອງປະຊຸມໃຫຍຜ

້ງທີ VII, ສານັກພິມແຫງລັດ, ນະຄອນ

ຫຼວງວຽງຈັນ. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội lần thứ VII, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

147. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (2001), ເອກະສານກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

້ງທີ VIII, ສານັກພິມແຫງລັດ, ນະຄອນ

ຫຼວງວຽງຈັນ. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII,

148. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (2006), ເອກະສານກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

163

້ງທີ IX, ສານັກພິມແຫງລັດ, ນະຄອນ

ຫຼວງວຽງຈັນ. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội lần thứ IX, Nxb

149. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (2011), ເອກະສານກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

Nhà nước, Viêng Chăn.

້ງທີ X, ສານັກພິມແຫງລັດ, ນະຄອນ

ຫຼວງວຽງຈັນ. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội lần thứ X, Nxb Nhà nước, Viêng Chăn.

150. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (2016), ເອກະສານກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

ວພັກ ປ 2017,

ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2017), Tài liệu sinh hoạt chính trị, chỉnh

151. ພັກປະຊາຊົນປະຕິວັດລາວ (2017), ເອກະສານດຳເນີນຊີວິດການເມືອງ, ປບປງປວແປງທົ

đảng trong toàn đảng, Viêng Chăn.

ການແຂງ-ຂັນຍອງຍໍ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Thủ tướng Chính phủ CHDCND Lào (2006), Nghị định số 127/TT-CP,

152. ລັດຖະບານແຫງ ສປປລາວ (2006), ມະຕິຕົກລົງ ເລກທີ 127/ນຍ, ລົງວັນທີ 24/02/2006 ກຽວກັບ

ngày 24 tháng 02 năm 2006 về thi đưa - khen thưởng, Viêng Chăn.

້ງທີ V ຂອງພັກ.

153. ວາລະສານອາລນໃໝ ສະບັບພິເສດ ສະບັບທີ 2, 4-1991, ກອງປະຊຸມໃຫຍຄັ

Tạp chí ALunmay (số đặc biệt) số 2, 4-1991, Đại hội lần thứ V của Đảng.

ສາງພັກ ສະບັບປະຈຳໄຕມາດ IV/1997. Vông Pha Chăn Vi Lay Hỏm (1997), Tư tưởng Cay Sỏn Phôm Vi Hản về

154. ວົງພະຈັນ ວິໄລຫອມ (1997), ແນວຄິດປະທານໄກສອນ ພົມວິຫານ ກຽວກັບການສຶກສາ, ວາລະສານກໍ

giáo dục, Tạp chí Xây dựng Đảng, Số IV/1997.

້ນຳການພັດທະນາຊັບພະຍາກອນມະນດ (2000), ປມຄມື້ຄະນະຊີ້ນຳການພັດທະນາຊັບ

ພະຍາກອນມະນດ, ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Văn phòng Ban Chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực (2000), Sổ tay ban chỉ

155. ຫອງການຄະນະຊີ

đảo phát triển nguồn nhân lực, Viêng Chăn.

ນະຄອນຫຼວງວຽງຈັນ. Văn phòng Chính phủ (2015), Xóa đói giảm nghèo là sự nghiệp lịch sử

156. ຫອງວາການລັດຖະບານ (2015), ການລຶບລາງຄວາມທກຍາກແມນພາລະກຳປະຫວັດສາດຂອງຄົນຮນນີ້,

của người thế hệ này, Viêng Chăn.

164

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

BẢN ĐỒ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

165

Phụ lục 2

DIỆN TÍCH, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN SỐ VÀ SỐ HUYỆN TRỰC THUỘC

CÁC TỈNH, THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN CHDCND LÀO NĂM 2015

Miền

Tên của tỉnh

Số huyện

Diện tích Km2

Dân số tỉnh

Mật độ dân số Ng/Km2

Phông Sả Ly

16.270

178.000

7

11

Bo Kẻo

6.196

179.300

5

29

Hủa Phăn

16.500

289.400

10

18

5

19

Luang Năm Tha

9.325

175.700

8 tỉnh miền Bắc Lào

7

20

U Đôm Xay

15.370

370.600

11

23

Xay Nha Bu Ly

16.389

381.300

7

17

Xiêng Khoảng

14.751

244.700

12

26

Luang Pha Bang

16.875

431.900

11

27

Viêng Chăn

10.727

419.100

Thủ Đô Viêng Chăn

3.920

820.900

209

9

7

18

Bo Ly Khăm Xay

14.863

273.700

6 tỉnh miền Trung Lào

10

24

Kham Muổn

16.315

392.100

15

45

Sả Vẳn Na Khệt

21.774

969.700

5

10

Xay Sổm Bun

6.480

85.200

10

45

Chăm Pa Sắc

15.415

694.000

8

37

Sả La Văn

10.691

397.000

4

15

Sê Kong

7.665

113.200

4 tỉnh miền Nam Lào

5

14

Ắt Tạ Pư

10.320

139.600

Nguồn: [96, tr.19]

Phụ lục 3 SỐ LAO ĐỘNG 15 NĂM TRỞ LÊN, CHIA THEO NGÀNH NGHỀ VÀ VỊ TRÍ LAO ĐỘNG, NĂM 2010

Vị trí của lao động

Cả hai giới

DNNN

KD tư nhân

Chủ thuê

Vân vân

Số lao động tuổi từ 15 năm trở lên

%

%

%

Làm việc cho gia đình không tiền %

Cán bộ nhà nước Số % 25.944 55,17

Số 2.280 4,85

DN tư nhân Số % 667 1,42

Số 2.293 4,88

Số % 2.880 6,12

Kinh tế gia đình Số 8.967 19,07

Số 3.716 7,90

Số % 281 0,60

47.028

115.377 79,47

5.201 3,58 1.566 1,08

19.475 13,41

257 0,18

2.074

1,43

1.231 0,85

0 0,00

145.181

20.089 52,92

1.664 4,38

731 1,93

6.863 18,08

857 2,26

5.247 13,82

2.509 6,61

0 0,00

37,961

276

10.360 50,51 17.835 10,05

3.397 16,56 1.754 0,99

301 1,47 660 0,37

5.343 26,05 27.738 15,63

260 1,27 760 0,43

1,35 95.564 53,85

373 1,82 33.149 18,68

200 0,98 0 0,00

20.511 177.459

1.311 0,06

411 0,02 1.299 0,06

16.528 0,78

1.191 0,06 1.161.468 54,83

936.005 44,19

0 0,00 2.118.213

1.977 2,03

2.927 3,00

576 0,59

44.059 45,15

4.932 5,05

36.516 37,42

6.603 6,77

0 0,00

97.590

2.211 2,78

4.497 5,66 1.157 1,46

29.014 36,54

1.004 1,26

31.777 40,02

9.751 12,28

0 0,00

79.411

56.833 21,43 0 0,00

1.398 0,53 27.568 99,03 110 2,27

2.269 0,86 1.352 0,51 98 0,35 0 0,00

0 0,00 0 0,00 776 16,01 2.602 53,68

137.040 51,68 75 0,27 979 20,20

63.516 23,95 95 0,34 380 7,84

2.765 1,04 0 0,00 0 0,00

0 0,00 0 0,00

Cán bộ cấp cao và người quản lý Cán bộ chuyên nghiệp Thợ công nghệ và nghề liên quan Tiếp thị Dịch vụ và buôn bán, chợ CN, NN và thủy sản có chuyên nghiệp Thợ có tay nghề và nghề liên quan Người điều hành và người lắp máy móc Nghề cơ sở Bảo vệ an ninh Không trả lời

265.173 27.837 4.847 224.181 7,42 24.402 0,81 8.407 0,28 215.304 7,13 14.906 0,49 1.479.983 48,99 1.050.946 34,79 3.083 0,10 3.021.212

Tổng cộng

Nguồn: [94, tr.96]

166

Phụ lục 4 SỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG 15 NĂM TRỞ LÊN CHIA THEO TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN CỦA NGÀNH KINH TẾ QUỐC DÂN

Trình độ học vấn

Cả hai giới

Tiểu học

Không được học

Mẫu giáo

Phổ thông cơ sở

Phổ thông trung học

Bồi dưỡng

Hệ cơ sở

Cao đẳng và đại học

Sau đại học

Trung cấp

Không biết

Nông - lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp mỏ và khai thác mỏ Công nghiệp chế biến Dịch vụ điện, ga… Dịch vụ nước, chăm sóc MT Xây dựng Bán buôn, bán lẻ, chữa ô tô Vận tải và kho hàng hóa Dịch vụ tạm trú và thức ăn Thông tin và truyền thông Dịch vụ tài chính và bảo hiểm Dịch vụ bất động sản Hoạt động chuyên nghiệp và khoa học Hoạt động phục vụ và quản lý Phục vụ quần chúng và quốc phòng, an ninh Giáo dục Hoạt động y tế Văn nghệ, nghệ thuật, nghỉ ngơi Hoạt động dịch vụ khác Chủ thuê, sản xuất hàng hóa và dịch vụ Hoạt động của tổ chức quốc tế Không trả lời

608.590 1.409 13.879 235 85 2.946 19.584 1.152 438 219 96 0 908 365 1.718 383 179 0 236 1.886 0 634

0 560 0 0 208 770 152 88 187 0 0 100 0 249 0 0 96 0 0 0 0

Tổng cộng

947.280 9.027 4.968 0 42.603 1.009 945 258 340 0 16.946 308 78.000 2.129 8.621 399 4.684 99 484 263 397 696 312 0 863 0 1.767 0 11.533 3.705 936 1.005 632 115 1.094 0 4.922 278 4.483 0 198 78 1.148 350 654.942 19.718 1.133.158

397.750 3.914 42.619 912 549 21.918 66.196 9.479 3.158 1.918 281 93 644 2.177 12.327 3.206 1.235 2.034 6.495 1.754 0 580 579.238

118.176 3.409 31.439 1.377 971 16.117 59.616 6.959 4.375 1.642 1.124 0 752 2.238 23.427 5.440 2.299 1.287 6.921 1.127 78 470 289.245

16.945 9.221 10.867 571 204 8.921 2.322 871 382 470 101 4.689 1.097 19.320 6.378 1.822 743 1.503 756 1.706 284 379 192 96 0 668 99 1.126 435 28.099 8.914 27.420 9.258 4.305 2.475 1.112 166 2.158 395 231 93 306 0 0 104 11.630 45.264 122.717

9.517 1.168 6.777 2.473 455 6.175 12.016 1.944 2.203 3.964 3.674 79 1.035 2.232 35.107 21.815 2.036 961 1.138 0 386 194 115.351

709 0 735 72 108 167 1.161 72 199 580 371 0 309 72 6.043 2.361 89 96 94 0 0 277 13.514

Tổng số người lao động 15 năm trở lên 2.155.111 15.826 153.003 7.619 3.188 71.085 267.426 31.595 17.595 11.361 7.210 580 5.377 10.412 132.661 72.219 13.570 6.846 22.826 9.920 1.046 4.313 3.021.212

27.029 184 2.169 95 108 514 2.258 646 91 114 0 0 0 0 1.539 394 203 0 191 345 0 555 36.435

Nguồn: [94, tr.89]

167

168

Phụ lục 5

DÂN SỐ CHIA THEO TUỔI VÀ GIỚI TÍNH,

SỐ LIỆU ĐIỀU TRA TRONG NĂM 2016

Dân số

Tuổi

Nam

Nữ

Tổng số

Ngàn người %

Ngàn người % Ngàn người %

0-4

336

10,38

346

10,63

682

10,51

5-9

334

10,32

345

10,60

679

10,46

10-14

356

11,00

363

11,16

719

11,08

15-19

345

10,66

354

10,88

699

10,77

20-24

328

10,13

326

10,02

654

10,07

25-29

307

9,48

309

9,50

616

9,49

30-34

246

7,60

250

7,68

496

7,64

35-39

206

6,36

212

6,52

420

6,47

40-44

174

5,38

171

5,26

344

5,30

45-49

146

4,51

150

4,61

296

4,56

50-54

140

4,32

127

3,90

267

4,11

55-59

100

3,09

99

3,04

198

3,05

60-64

73

2,26

74

2,27

147

2,26

65-69

51

1,58

48

1,48

99

1,52

70-74

38

1,17

33

1,01

71

1,09

75 +

57

1,76

47

1,44

105

1,62

Tổng

100

100

6.492

100

3.237

3.254

Nguồn: [102, tr.23]

Phụ lục 6 NHÀ MÁY CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN VÀ SỐ LAO ĐỘNG THAM GIA TRONG CẢ NƯỚC NĂM 2013

Vốn đầu tư (kíp)

Số lao động

TT

Tỉnh

Vốn

Vốn bất biến

LĐNN Nữ

Số nhà máy 2.557 89 213 195 218 227 115 316 148 211 2.083 279 1.132 164 134 1.079 30

4.539.351.714.000 3.468.116.051.000 89.263.434.000 102.653.347.000 164.294.706.000 186.284.486.000 120.654.343.000 210.462.789.000 33.289.119.000 66.620.998.000 62.162.794.000 71493307.000 168.702.400.000 196.460.340.000 587.035.317.000 744.658.239.000 109.016.000.000 174.911.000.000 670.924.160.000 883280155.000 668.125.530.000 482.073.250.000 3.405.872.887.000 2.958.834.555.000 272837232,000 248.022.820.000 696.799.132.000 82.749.9649.000 35.731.017.000 71.226.395.100 448.391.855.000 817.427.601.000 11.857.215.000 18.540.215.000

378 33 404 258 225 213 266 294 327 118 348 732 823 446 443 94 4

1 Thủ đô Viêng Chăn 2 Tỉnh Phông Xa Ly 3 Tỉnh Luông Nậm Tha 4 Tỉnh U Đôm Xay 5 Tỉnh Bo Keo 6 Tỉnh Luộng Phạ Bang 7 Tỉnh Hòa Phăn 8 Tỉnh Xay Nha Bu Ly 9 Tỉnh Xiêng Khoảng 10 Tỉnh Viêng Chăn 11 Tỉnh Bo Li Khăm Xay 12 Tỉnh Khăm Moan 13 Tỉnh Xa Văn Nạ Kệt 14 Tỉnh Xạ La Văn 15 Tỉnh Xê Koong 16 Tỉnh Chăm Pa Xắc 17 Tỉnh Át Ta Pơ Tổng cộng

Quy mô nhà máy I lớn II vừa III nhỏ 2.247 172 138 79 4 6 181 20 12 164 28 3 177 32 9 99 65 63 91 21 3 230 40 46 119 14 15 149 32 30 1.998 52 33 135 59 85 1.048 56 28 131 14 19 121 13 1.051 8 20 7 16 7 8.027 646 517

9.190 13.232.891.472.100 10.379.982.580.000 5.406

Tổng số 50.246 302 1.684 1.973 1.852 2.087 2.188 4.476 2.094 4.064 9.230 8.696 5.684 2.606 1.140 1.966 41 100.339

30.632 18 313 909 936 312 878 1.872 2.359 2.388 1.872

Nhà máy quy mô nhỏ (hộ gia đình) 242 88 285 6.676 7.851 5.801 1.726 439 3.476 1.161 279 575 157 22 1.177 727 30.682

Tổng cộng tất cả số nhà máy I + II + III của hộ gia đình = 39.872 nhà máy

Nguồn: [108, tr.2-3]

169

170

Phụ lục 7

SỐ ĐƠN VỊ LAO ĐỘNG CHIA THEO NGÀNH KINH TẾ VÌ LỢI NHUẬN

NĂM 2015

TT Mã

Nội dung mã mục lục phân chia theo ngành kinh tế quốc tế

Đơn vị có số lao động tham gia

01

Không cò câu trả lời

1.069

02 A Nông, lâm và thủy sản

25.176

03 B Công nghiệp địa chất và khai thác

9.244

04 C Công nghiệp chế biến

120.811

05 D Cung ứng điện, gas và điều khí

5.209

06 E Cung ứng nước, thoát nước thải và chất thải

2.878

07

F Xây dựng

15.910

08 G Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô và xe máy

247.014

09 H Vận tải và kho hàng

15.958

10

I Khách sản, nhà nghỉ và nhà hàng

64.378

11

J Thông tin và truyền thông

6.798

12 K Dịch vụ tài chính và bảo hiểm

10.494

13 L Dịch vụ bất động sản

3.112

14 M Hoạt động tay nghề, khoa học và công nghệ

2.811

15 N Hoạt động phục vụ và quản lý

9.179

16 O Hoạt động dịch vụ bảo vệ an ninh quốc phòng

2.494

17

P Giáo dục

8.669

18 Q Hoạt động y tế và công tác xã hội

1.832

19 R Văn nghệ, nghệ thuật và giải trí

6.344

S Hoạt động dịch vụ khác

20

14.095

21

Tổng số đơn vị lao động tham gia trong ngành kinh tế

573.475

Nguồn: [98, tr.62]

Phục lục 8

NHU CẦU THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG, ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

Ở LÀO NĂM 2010-2012 đến 2014-2015

Năm 2010-2011 Năm 2011-2012 Năm 2012-2013 Năm 2013-2014 Năm 2014-2015

TT

Nội dung

Số LĐ LĐ nữ Số LĐ LĐ nữ Số LĐ LĐ nữ Số LĐ LĐ nữ Số LĐ LĐ nữ

1

Tổng số nhu cầu của thị trường lao động

51.608 21.654 47.405 19.576 45.143 22.653

-

-

49.229

-

Nhu cầu thị trường trong nước

-

-

18.354

-

31.040 13.031 29.115 12.525 28.568 12.358

Nhu cầu thị trường ngoài nước

-

-

30.875

-

20.564

8.614 18.290

7.051 16.575 10.295

2

Tổng số lao động được đào tạo nghề

31.330

9.848 50.423 26.947 39.815 19.116 37.054 15.579 41.493 21.111

Trong lĩnh vực nông nghiệp

9.924

1.330 13.342

7.483 10.246

4.335 12.693

4.286 14.195

8.005

Trong lĩnh vực công nghiệp

5.676

1.345 18.774 10.621 14.262

7.679

7.784

3.416

8.011

2.948

Trong lĩnh vực dịch vụ

15.730

7.164 18.307

8.843 15.307

7.102 16.577

7.877 19.287 10.158

Nguồn: [113, tr.1]

171

Phụ lục 9

TỔNG SỐ THỐNG KÊ VỀ TÌM KIẾM VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG, LẬP DANH SÁCH LAO ĐỘNG CẦN VIỆC LÀM VÀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI NĂM 2010 - 2015 2011-2012

2013-2014

2012-2013

2010-2011

Năm

2014-2015

Nội dung 1.Tìm việc làm cho người lao động + Tìm việc làm trong nước - Lĩnh vực nông nghiệp - Lĩnh vực công nghiệp - Lĩnh vực dịch vụ

+ Tìm việc làm ở nước ngoài - Lĩnh vực nông nghiệp - Lĩnh vực công nghiệp - Lĩnh vực dịch vụ

2. Lập danh sách người cần tìm việc làm

- Lĩnh vực nông nghiệp - Lĩnh vực công nghiệp - Lĩnh vực dịch vụ

3. Lao động nước ngoài - Lĩnh vực nông nghiệp - Lĩnh vực công nghiệp - Lĩnh vực dịch vụ

4. Lao động nước ngoài chia theo quốc tịch

- Lao động Trung Quốc - Lao động Thái Lan - Lao động Việt Nam - Lao động các nước khác

Nữ 33.763 30.371 4.801 16.267 9.303 3.392 345 2.102 945 5.454 800 2.894 1.760 16.702 4.550 5.174 6.978 16.702 4.782 3.580 5.465 2.875

Tổng số 34.670 21.133 10.459 6.413 4.261 22.537 1.471 5.326 3.942 19.350 5.225 9.554 4.571 45.706 15.930 12.855 16.921 45.706 15.859 10.836 12.041 6.970

Nữ 19.469 9.428 4.530 2.902 1.996 10.041 558 2.163 1.681 6.886 2.477 2.486 1.903 19.991 5.325 6.979 7.687 19.991 5.236 4.850 6.045 3.860

Tổng số 56.186 47.882 20.449 16.329 11.104 8.304 529 4.271 3.504 15.638 4.216 7.438 3.984 49.915 16.638 13.452 19.825 49.915 16.293 12.465 14.090 7.067

Nữ 29.256 25.189 9.949 9.139 6.101 4.067 210 1.908 1.949 7.040 2.033 3.221 1.786 24.429 7.375 8.264 8.790 24.429 6.750 6.392 7.082 4.205

Tổng số 69.828 19.116 4.805 10.671 3.640 50.712 5.763 17.067 27.882 12.460 3.239 3.428 5.793 33.610 6.103 13.691 13.816 33.610 15.309 4.674 8.107 5.520

Nữ 36.188 9.012 1.882 5.579 1.551 27.176 2.144 8.037 16.995 3.320 1.058 560 1.702 3.552 606 988 1.958 3.552 1.561 642 754 595

Tổng số 56.660 23.072 4.367 13.737 4.968 33.588 9.896 15.260 8.432 7.464 1.017 3.874 2.573 - - - - - - - - -

Nữ 21.456 5.624 915 3.104 1.605 15.832 4.518 6.531 4.720 2.572 254 1.180 1.147 - - - - - - - - -

Tổng số 57.480 50.066 8.322 26.512 15.232 7.414 682 4.114 2.618 15.944 1.762 9.557 4.625 39.127 13.950 11.852 13.325 39.127 13.250 8.836 12.571 4.470

Nguồn: [113, tr.2]

172

Phụ lục 10

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CƠ CẤU KINH TẾ Ở CHDCND LÀO TỪ NĂM 2011-2015

Năm

Năm 2010- 2011

Năm 2011-2012

Năm 2012-2013

Năm 2013-2014

Mục tiêu phấn đấu 2015 (Kế hoạch 5 năm)

Nội dung

GDP (giá hiện tại) tỷ kíp

62.458

70.343

80.199

90.823

102.320

Cơ cấu theo ngành %

100

100

100

100

100

Nông - Lâm nghiệp %

27,9

26,7

25,2

24,8

23,7

Công nghiệp %

26,9

29,6

28,0

27,5

29,1

Dịch vụ %

45,2

43,7

46,8

47,7

47,2

Nguồn: [100, tr.5]

173

Phụ lục 11

SỰ ĐẦU TƯ CHO GIÁO DỤC TỪ GDP VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

GDP/người/năm

Đầu tư cho giáo dục

Tên nước

STT

Từ ngân sách nhà nước (%)

Theo sức mua (PPP $)

Từ GDP (%)

Thực tế ($)

1. Singapore

20.866

-

3,7

24.040

2. Hàn Quốc

10.106

17,4

3,6

16.950

3. Malaixia

3.905

20

7,9

9.120

4. Thái Lan

2.060

31

5,0

7.010

5. Việt Nam

1200

17 (2010)

4,6 (2010)

2.300

6. Indonesia

817

9,8

1,3

3.230

7. Mianma

-

18,1

1,3

1.027

Nguồn: [117, tr.20]

174

Phụ lục 12

CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA CÁC NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN

Tên nước

Tỷ lệ biết chữ (%)

Tỷ lệ ngân sách giáo dục so với GDP (%)

Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học (%)

Số cán bộ khoa học trên 1000 dân (người)

Hoa Kỳ

97

29,6

55

6,7

Nhật Bản

99

23,7

110

5

Đức

99

12,7

86

4,5

Pháp

99

16,3

83

5,7

Anh

99

18,4

90

5,0

Hà Lan

99

8,3

92

6,7

Nguồn: [61, tr.40]

175

Phụ lục 13

MỐI QUAN HỆ GIỮA GDP VỚI HDI

Tuổi thọ

Tỷ lệ đi học

HDI

Tên nước

Tỷ lệ người lớn biết chữ

GDP đầu người (USD)

(Năm)

6 - 23 tuổi

91,8

24.210

24

Singapore

77,3

91,8

65

8.137

61

Malaixia

72,2

86,4

61

5.456

76

Thái Lan

68,9

95

72

3.105

99

Trung Quốc

70,1

82,8

63

1.689

108

Việt Nam

67,8

92,9

57

1.734

140

Lào

53,7

46,1

Nguồn: [89, tr.33]

176

177

Phụ lục 14

SỐ LIỆU ĐIỀU TRA NHU CẦU LAO ĐỘNG LÀNH NGHỀ

TRONG 819 CỘNG TY TẠI LÀO

TT Ngành có nhu cầu lao động Số lao động

Nông nghiệp 113 01

Mỏ 90 02

Sản xuất thực phẩm 59 03

Dệt may 3009 04

Thợ gỗ, nội thất 312 05

Sản xuất sản phẩm khác 59 06

Thông tin đại chúng 219 07

Máy móc, điện tử 457 08

Dịch vụ 86 09

Xây dựng 150 10

Giao thông 34 11

Du lịch, tiếp thị 148 12

Tổng cộng 4736

Nguồn: [90, tr.18]

Phụ lục 15

SỐ LIỆU ĐIỀU TRA NHU CẦU LAO ĐỘNG LÀNH NGHỀ TRONG 8 TỈNH TẠI LÀO

Tên tỉnh có NCLĐ

Tỉnh Ặt Ta Pư

Thủ Đô Viêng Chăn

Tỉnh Luông Năm Tha

Tỉnh Luông Phạ Bang

Tỉnh Viêng Chăn

Tỉnh Khăm Muộn

Tỉnh Sa Văn Na Khệt

Tỉnh Chăm Pa Săc

Tổng số NCLĐ tính theo ngành

Tên ngành có NCLĐ

36 322 202 5020 257 917 224 1844 476 1186 43 94

0 0 0 0 5 1 0 11 13 16 0 24

0 0 0 5 12 4 2 12 0 53 6 16

5325 7 18 154 108 30 2 44 61 12 7 207

155 0 14 0 35 5 0 31 11 21 0 16

0 0 0 0 3 0 0 2 1 10 0 9

1 3 0 0 5 11 4 42 15 18 5 13

251 10 1 50 7 2 15 38 7 1 0 25

5768 342 235 5229 432 970 247 2024 584 1317 61 404

70

10621

117

110

5975

288

25

17613

407

Nông nghiệp Mỏ Sản xuất thực phẩm khác Dệt may Thợ gỗ, nội thất Sản xuất sản phẩm khác Thông tin đại chúng Máy móc, điện tử Dịch vụ Xây dựng Giao thông Du lịch, tiếp thị Tổng số nhu cầu LĐ trong các ngành tính theo tỉnh

Nguồn: [90, tr.19]

178

Phụ lục 16

TỶ LỆ CƠ CẤU LAO ĐỘNG TRONG CÁC NGÀNH KINH TẾ LÀO

Năm

2005

2010

2015

Cơ cấu LĐ

Nông nghiệp

78,5 %

71,3 %

65,3 %

Công nghiệp

4,8 %

8,3 %

11,4 %

Dịch vụ

16,7 %

20,4 %

23,3 %

Nguồn: [110, tr.3]

Phụ lục 17

CUNG ỨNG VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG THEO NGÀNH KINH TẾ

Thời kỳ

Tên ngành kin ttế

2006-2010

2011-2015

2001-2005

380.797

67.677

Nông - lâm nghiệp

312.000

118.671

123.051

Công nghiệp - xây dựng

85.000

57.193

86.711

Dịch vụ

73.000

556.661

277.439

Tổng

470.000

Nguồn: [110, tr.4]

179

Phụ lục 18

DÂN SỐ PHÂN CHIA THEO THÀNH THỊ VÀ NÔNG THÔN NĂM 2005, 2015

Dân số ở thành thị

Dân số ở nông thôn có đường giao thông

Dân số ở nông thôn không có đường giao thông

Năm

Tổng dân số

Số dân

%

Số dân

%

Số dân

%

5.621.982

1.522.137

2005

7,1

2.895.179

51,5

1.198.069

21,3

6.492.400

2.137.800

2015

2,9

3.841.700

59,2

512.800

7,9

Nguồn: [96, tr.26]

180