VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------
LÊ THỊ NGÂN TRANG
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
SƠN NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------
LÊ THỊ NGÂN TRANG
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
SƠN NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62. 22. 01. 21
Người hướng dẫn khoa học:
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đoàn Trọng Huy và PGS. TS Nguyễn Văn Kha. Các số liệu,
những kết luận, nhận định là trung thực, chính xác và chưa từng được công bố trong
công trình của các tác giả khác
Tác giả luận án
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN .................... 5
1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách nghệ thuật ............................................ 5
1.2. Nghiên cứu nét phong cách qua sáng tác nói chung. ................................. 9
1.3. Nghiên cứu một số phương diện thuộc yếu tố mang phong cách Sơn Nam 17
1.4. Một số vấn đề đặt ra đối với luận án ........................................................ 24
Chương 2. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT SƠN NAM ................................................. 26
2.1. Khái niệm về phong cách nghệ thuật ....................................................... 26
2.1.1. Các quan điểm khác nhau về phong cách nghệ thuật ........................... 26
2.1.2. Bản chất phong cách nghệ thuật nhà văn .............................................. 32
2.2. Cơ sở hình thành phong cách nghệ thuật Sơn Nam ................................ 35
2.2.1. Thời đại và truyền thống văn hóa ......................................................... 36
2.2.2. Hoàn cảnh xuất thân và cá tính nhà văn................................................ 41
2.2.3. Quan niệm sáng tác văn chương của nhà văn Sơn Nam ....................... 45
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 52
Chương 3. CẢM QUAN VỀ THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA
NAM BỘ TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM .................................................. 54
3.1. Cảm quan thiên nhiên Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam ........................ 54
3.1.1. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, bí ẩn và đầy khắc nghiệt ....................... 54
3.1.2. Thiên nhiên trù phú, hiền hòa, thơ mộng gần gũi gắn bó với con người 57
3.2. Cảm quan về con người Nam Bộ trong văn xuôi Sơn Nam .................... 60
3.2.1. Con người hoàn cảnh – con người số phận ........................................... 61
3.2.2 Con người với những tính cách đặc biệt điển hình Nam Bộ ................ 71
MỤC LỤC
3.3. Cảm quan về văn hóa Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam ......................... 85
3.3.1. Văn hóa vật chất .................................................................................... 87
3.3.2. Văn hóa tinh thần .................................................................................. 95
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 106
Chương 4. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT, GIỌNG ĐIỆU, NGÔN NGỮ
TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM ................................................................. 108
4.1. Nghệ thuật trần thuật .............................................................................. 110
4.1.1. Người trần thuật (Ngôi phát ngôn) ...................................................... 111
4.1.2. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................ 116
4.1.3. Trần thuật kết hợp với phương pháp miêu tả chân thực, sinh động .... 118
4.2. Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác Sơn Nam .................................... 121
4.2.1. Giọng điệu dân dã, mộc mạc ............................................................... 122
4.2.2. Giọng điệu trữ tình, sâu lắng ............................................................... 123
4.2.3. Giọng điệu hóm hỉnh, hài hước ........................................................... 125
4.2.4. Giọng điệu triết lý, suy ngẫm sâu xa ................................................... 127
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Sơn Nam ..................................... 129
4.3.1. Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày mộc mạc, dung dị đời thường ........... 130
4.3.2. Phương ngữ Nam Bộ ........................................................................... 132
4.3.3. Nghệ thuật sử dụng lớp từ khẩu ngữ ................................................... 139
4.3.4. Nghệ thuật vận dụng văn học dân gian vào tác phẩm ........................ 142
Tiểu kết chương 4 .......................................................................................... 147
KẾT LUẬN ................................................................................................... 149
DANH MỤC BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ..................... 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 154
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 175
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Sơn Nam sinh ra và lớn lên ở vùng đất phương Nam, có thể nói, đời văn của
Sơn Nam là cuộc hành trình đi tìm, quan sát, lắng nghe, ghi nhận, chắt lọc những chất liệu từ hiện thực cuộc sống của người miền Nam để làm chất liệu sáng tác. Ông từng
tâm sự "Tôi là một con người của đồng quê, dòng máu, tâm hồn nông dân, giọng điệu
nông dân, kiến thức nông dân. Đồng bằng sông Cửu Long là giấc mơ, là chân trời sáng tác suốt đời của tôi".
1.1. Sơn Nam bắt đầu sự nghiệp văn chương từ 1952 với hai truyện ngắn Bên
rừng Cù lao Dung và Tây Đầu Đỏ. Tuy cả hai truyện đều đạt giải Nhất và giải Nhì
trong cuộc thi văn học do Ủy Ban kháng chiến Nam Bộ tổ chức 1952 nhưng độc giả
Sài Gòn cũng chưa biết đến ông. Phải đến năm 1962, khi những truyện ngắn Con Bảy
đưa đò, Tình nghĩa Quốc văn giáo khoa thư, Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Mùa “len”
trâu … của Sơn Nam được in trên các báo và được Nhà xuất bản Phù Sa tập hợp
thành tập truyện Hương rừng Cà Mau thì tên tuổi nhà văn mới được văn đàn Sài Gòn
công nhận và cũng là lúc phong cách Sơn Nam được hình thành. Ông đã khai sinh tên
tuổi "nhà văn miệt vườn" mà trong buổi Tọa đàm “50 năm Hương rừng Cà Mau của
nhà văn Sơn Nam” ngày 27/12/2013, nhà thơ Lê Minh Quốc đúc kết “Ông đã đẻ ra từ
“văn minh miệt vườn” đi vào văn học sử, được cả xã hội công nhận” [263].
Sự xuất hiện của Sơn Nam trên văn đàn miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 cùng
với Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng..., đã tạo niềm tin cho người đọc giai đoạn này. Ông
được mệnh danh là Pho tự điển sống miền Nam. Sự nhận định, đánh giá Sơn Nam qua
sáng tác về đề tài, tư tưởng nhân văn, sắc màu văn hóa Nam Bộ, thi pháp trong truyện
ngắn... từ các nhà nghiên cứu trước đến nay đều nhất quán. Văn phong của ông từ đầu
đến cuối đều có sự ổn định.
1.2. Lâu nay các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã giành nhiều sức lực và tâm huyết cho những sáng tác của Sơn Nam nhưng những công trình coi phong cách nghệ thuật Sơn Nam, một phương diện quan trọng tạo cơ sở xác lập vị trí của ông trong dòng văn học Nam Bộ nói riêng và văn học dân tộc nói chung chưa được chú trọng. Cho đến nay, đây vẫn là một khoảng trống. Chúng tôi nghĩ rằng Sơn Nam là
một nhà văn lớn hiện đại của nước nhà, ông rất xứng đáng dành một đề tài chuyên
biệt nghiên cứu phong cách nghệ thuật tác giả. Trong đội ngũ các nhà văn hiện đại,
1
cũng đang thiếu những công trình có sự so sánh đối chiếu một cách đầy đủ phong
cách nghệ thuật Sơn Nam với các nhà văn Việt Nam cùng thời. Ngoài ra, văn nghiệp của Sơn Nam có "độ mở" nhất định và đang tác động rõ rệt lên sáng tác không ít nhà
văn miền Nam đương đại. Đồng thời, sáng tác của Sơn Nam được tuyển chọn vào
giảng dạy bậc phổ thông đến cao đẳng, đại học... Chúng tôi chọn phong cách nghệ
thuật tác giả làm vấn đề nghiên cứu cho luận án. Một vấn đề vừa hấp dẫn, vừa khó khăn. Những vấn đề về phong cách Sơn Nam trong cảm quan, tư tưởng nhà văn cũng
như nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu, giọng điệu, và phương thức tổ chức lời
văn... cần được khảo sát kỹ càng hơn để tìm ra tiếng nói riêng của nhà văn Sơn Nam. 1.3. Do tiếp cận đề tài từ góc độ phong cách nghệ thuật nhà văn nên luận án
không đi sâu trình bày lịch sử vấn đề lý luận về phong cách học và những mối quan
hệ đa dạng phức tạp của nó với các phạm trù khác của lý luận văn học. Nhiệm vụ chủ
yếu của luận án là trình bày hệ thống những đặc điểm tư tưởng - nghệ thuật tạo nên
sự độc đáo, mới mẻ, nhất quán mang tính giá trị của phong cách nghệ thuật Sơn
Nam, góp phần khẳng định những đóng góp và vị trí nhà văn trong lịch sử văn học
Việt Nam.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề phong cách
nghệ thuật Sơn Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu : Làm rõ đặc trưng phong cách nghệ thuật của Sơn Nam. Để đạt được mục tiêu
này, luận án cần xác định được cấu trúc của phong cách nghệ thuật nhà văn thể hiện
qua cảm quan nghệ thuật của Sơn Nam; những đặc điểm của nghệ thuật trần thuật,
giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận án cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
- Xác lập nội hàm thuật ngữ phong cách nghệ thuật và các thuật ngữ có liên quan đến đề tài, từ đó tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống chỉnh thể trong sáng tác của nhà văn.
- Khảo sát, thống kê, phân tích, khái quát những yếu tố đặc sắc trong thế giới nghệ thuật Sơn Nam, xác định tư tưởng nghệ thuật; cảm quan hiện thực đời thường hoà kết với cảm quan văn hóa là yếu tố chủ đạo là cấu trúc phong cách tác giả.
- Chỉ ra mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa các yếu tố nổi trội, cảm quan hiện
thực, cảm quan văn hóa về cuộc sống, con người, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu và
2
ngôn ngữ nghệ thuật Sơn Nam... Từ đó rút ra phong cách nghệ thuật tác giả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong cách nghệ thuật Sơn Nam, được thể
hiện trên nhiều yếu tố trong một chỉnh thể hữu cơ. Đó là cảm quan nghệ thuật của
Sơn Nam; những đặc điểm trên những phương diện nội dung và nghệ thuật trần thuật; giọng điệu và ngôn ngữ văn chương nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu Nói đến phong cách nghệ thuật nhà văn là nói đến sự độc đáo toàn vẹn có tính hệ thống của sự nghiệp sáng tác của nhà văn ấy. Đã có nhiều người nghiên cứu về Sơn
Nam nhưng chưa có công trình nào đề cập toàn diện đến phong cách nghệ thuật thể
hiện trong sáng tác văn chương của nhà văn. Có những tác phẩm được "đào xới" rất
kỹ như Hương rừng Cà Mau, Hình bóng cũ... Nhưng lại ít ai nêu lên mối quan hệ
thống nhất của chúng như một dấu hiệu phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
Để làm rõ phong cách nghệ thuật Sơn Nam trong dòng văn học trước và sau
1975, chúng tôi tập trung nghiên cứu sâu vào văn xuôi của nhà văn bao gồm tiểu
thuyết, truyện ngắn, ký (hồi ký, bút ký)... để hiểu sâu hơn cái nhìn nghệ thuật của tác
giả. Các yếu tố cuộc đời, quá trình hoạt động cách mạng, quan niệm nghệ thuật của
ông cũng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài vì nó lý giải những nguyên nhân chính
làm nên phong cách nghệ thuật của Sơn Nam. Nội dung đề tài được đặt trong dòng
chảy của dòng văn học miền Nam trước và sau 1975.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở phương pháp luận Để xác định phong cách nghệ thuật Sơn Nam, luận án vận dụng lý thuyết
phong cách học, lý thuyết cấu trúc - hệ thống, thi pháp học làm cơ sở phương pháp
luận để tiến hành khảo sát đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ phong cách nghệ thuật nhà văn, người viết sẽ vận dụng quan điểm và thao tác nghiên cứu của phong cách học nghệ thuật, lý thuyết cấu trúc - hệ thống, thi pháp học, sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu văn học như:
- Phương pháp logic lịch sử được luận án sử dụng như một phương pháp
xuyên suốt của quá trình phân tích, giải quyết những nhiệm vụ mà luận án đặt ra.
3
- Phương pháp thống kê - phân loại và phân tích – tổng hợp. Trên cơ sở của những vấn đề thống kê và phân loại các tác phẩm của Sơn Nam, luận án còn sử dụng
phương pháp phân tích tác phẩm để phân tích và tổng hợp thành hệ thống làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện nhất.
- Phương pháp so sánh và phương pháp liên ngành: Để thấy được sự độc đáo trong nghệ thuật của nhà văn Sơn Nam, cũng như những ảnh hưởng, kế thừa và sự phát
triển truyền thống trong văn xuôi so với các nhà văn cùng thời, các thế hệ đi trước, luận án vận dụng phương pháp so sánh và đối chiếu đồng thời sử dụng phương pháp
tổng hợp liên ngành văn học, văn hóa học, nghệ thuật học, tiểu sử… để hoàn thành
mục đích đề ra.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Sơn Nam là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Luận án của
chúng tôi là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về phong cách nghệ
thuật Sơn Nam.
- Luận án vừa kế thừa những nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu đi
trước, vừa phát hiện và bổ sung những tìm tòi của bản thân, lựa chọn một số phương
diện tiêu biểu, nổi trội, ổn định trong thế giới nghệ thuật nhà văn và đặt chúng trong
sự thống nhất hữu cơ, từ đó xác định phong cách nghệ thuật tác giả. Người viết nhìn
nhận cảm quan văn hóa kết hoà hiện thực đời thường là một hạt nhân phong cách
nghệ thuật Sơn Nam. Đây là yếu tố quan trọng chi phối mọi yếu tố khác tạo ra sự
thống nhất chặt chẽ, làm nên phong cách nghệ thuật nhà văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận - Nhìn nhận vị trí đặc biệt của Sơn Nam trước và sau 1975 trong dòng văn học
miền Nam và văn học dân tộc với tư cách phong cách nghệ thuật của một tác giả .
- Khẳng định những nét đặc sắc riêng của tác phẩm văn chương Sơn Nam
đồng thời khẳng định những đóng góp nhất định về nền văn hóa, văn nghệ miền Tây
Nam Bộ nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung tạo nên phong cách nghệ thuật tác giả.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thực hiện đề tài góp phần tích cực cho các nhà nghiên cứu, các giáo viên, sinh viên khi tìm hiểu về thế giới nghệ thuật của Sơn Nam giúp cho việc nghiên cứu giảng dạy trong các trường Đại học và Cao đẳng, Trung học có thêm tài liệu tham khảo.
7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4
4
chương như nêu ở Mục lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
Sơn Nam được xem là "Pho tự điển sống", "Một linh hồn sống của văn hóa Nam Bộ". Ông sinh ra và lớn lên ở vùng đất trù phú mênh mông sông nước Rạch Giá
(Kiên Giang), vùng đất tận cùng của tổ quốc. Thiên nhiên và con người châu thổ
phương Nam đã thấm vào tâm hồn dạt dào cảm xúc của ông, tạo cho nhà văn một cốt cách Nam Bộ thân tình và gần gũi “cả cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm hiểu,
quan sát, lắng nghe, ghi nhận, chắt lọc những chất liệu từ hiện thực đời sống của
người dân Nam Bộ để làm chất liệu sáng tác" (Nguyễn Thị Tuyết Hoa, 2011). Sơn
Nam đi nhiều, viết nhiều thể loại, thể loại nào cũng có tác phẩm để lại âm vang cho
đời. Có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về con người, cuộc đời và tác phẩm Sơn
Nam.Tìm hiểu những công trình nghiên cứu văn chương của Sơn Nam, các nhà nghiên
cứu tập trung nhận định và đánh giá về hai mặt chủ yếu, đó là cảm quan nghệ thuật và
phương thức nghệ thuật biểu hiện trong sáng tác của nhà văn.
Luận án chỉ điểm lại những ý kiến từ góc nhìn cảm quan nghệ thuật và hình
thức nghệ thuật trong sáng tác ít nhiều liên quan đến phong cách nghệ thuật tác giả.
1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách nghệ thuật Phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác
nhau, nó mang ý nghĩa riêng tùy vào đối tượng khoa học mà nó phục vụ. Xét về
nguồn gốc thì phong cách (style) có gốc gác từ rất xưa. Thời cổ đại, người Hy Lạp
dùng từ “Stylos” đơn thuần chỉ dụng cụ dài như cái que, một đầu nhọn, một đầu tù.
Người La Mã thì gọi là stylus cũng để chỉ cái que đó nhưng đầu nhọn dùng để viết và
đầu tù dùng để xóa trên một bảng nhỏ có xoa sáp. Đến người Pháp thì dùng chữ style,
nhưng lúc đầu chỉ có nghĩa là nét chữ, sau này nó có nghĩa là bút pháp với những đặc điểm về ngôn ngữ và văn thể để viết – có nghĩa là “một que vót nhọn để viết lên tấm bảng có phủ nến” [149; 175]. Phong cách trong suốt một thời kỳ lịch sử dài từ Trung cổ tới Phục hưng đã được coi như một thuật ngữ ngôn ngữ học, trong đó sớm nhất phải kể đến công trình Thi pháp học, Tu từ học của Aristote. Việc hiểu khái niệm phong cách theo nghĩa ngôn ngữ học được tiếp tục ở các nhà hùng biện Nga thế kỷ
XVII, XVIII cho tới thế kỷ XIX.
Cho đến nay, còn nhiều cách hiểu khác nhau về phong cách, người thì đứng ở
5
góc độ tư tưởng để tiếp cận phong cách, người thì đứng góc độ ngôn ngữ, cũng có
người xem phong cách là sự thống nhất hữu cơ của các thành tố tạo nên tác phẩm văn học. Hiện nay việc nghiên cứu phong cách nhà văn là vấn đề lý luận được đề cập và
tranh cãi ở nhiều nước trên thế giới nhất là Liên Xô (cũ). Trong cuốn Những vấn đề lý
luận và phương pháp nghiên cứu văn học, do nhà xuất bản Đại học Quốc gia ấn hành
năm 2002, M. B. Khravchenko có định nghĩa phong cách như là một phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của một tác
phẩm riêng lẻ. Ông đã thống kê tới gần 20 cách hiểu khác nhau về phong cách.
Khravchenko cho rằng: “Phong cách là phương pháp biểu đạt cách chiếm lĩnh đời sống bằng hình tượng, là phương pháp thuyết phục và hấp dẫn người đọc”.
Ngoài tác giả Khravchenko, trong giới nghiên cứu văn học Nga, các tác giả
như V.V.Vinogradov, L.Novichenko, V.Turin… cũng đưa ra những quan niệm khác
nhau về phong cách. Có thể khái quát những quan niệm về phong cách của giới
nghiên cứu Xô Viết theo hai hướng: coi phong cách là tính cá thể hoặc tính độc đáo
hoặc xem xét phong cách theo quan điểm tổng hợp, coi phong cách là một hệ thống
các phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật được xem xét trong tính quy luật và
các nguyên tắc hài hòa.
Bên cạnh những thành tựu nghiên cứu về phong cách của những nhà nghiên
cứu ở Liên Xô, các nhà nghiên cứu văn học Pháp, Mỹ cũng đưa ra nhiều ý kiến, quan
điểm về vấn đề phong cách trên cơ sở luận giải từ hệ hình cấu trúc, ngôn ngữ và thi
học. A. Compagnon, R. Jacobson, R. Barthes… là những tác giả tiêu biểu nhất. Trong
đó, các tác giả thường chú ý đến khía cạnh sáng tạo, những đặc điểm riêng biệt, độc
đáo của người nghệ sĩ được thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà văn,
được toát lên từ nội dung tư tưởng của tác phẩm và các phương thức biểu đạt.
Antoine Compagnon (Pháp) trong Bản mệnh của lý thuyết cho rằng phong cách “là
một quan niệm phức tạp, phong phú, mập mờ, phức hợp” [dẫn theo 122; 23]. Do vậy
không thể xác định một phong cách chung cho mọi loại hình nghệ thuật vì định nghĩa chung về phong cách không thể loại bỏ đặc trưng của những hiện tượng phong cách trong các loại hình nghệ thuật ngược lại sẽ hoàn toàn sai lầm nếu bỏ qua tính đặc thù của sự phát triển lịch sử phong cách trong những lĩnh vực nghệ thuật khác nhau.
Phong cách nghệ thuật được xem là cá tính sáng tạo hay thuộc về phạm trù văn phong, hành văn, bút pháp… Sự không rõ ràng này ở trong các quan niệm từ xưa đến
nay, cả phương Đông và phương Tây. Ở phương Đông, tiêu biểu là Trung Quốc, thuật
ngữ phong cách cũng được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm. Tiêu biểu
6
là các tác giả: Lưu Hiệp trong tác phẩm Văn tâm điêu long; Viên Mai trong Tùy Viên
thi thoại; Lỗ Tấn - nhà văn hiện thực lỗi lạc của Trung Quốc…Trong Văn Tâm Điêu Long, Lưu Hiệp sử dụng thuật ngữ “Phong cốt” chỉ sự thống nhất giữa phong thái (tư
tưởng) và cốt cách (hình thức nghệ thuật ngôn từ). Quan niệm của Lưu Hiệp ở
phương Đông vào thế kỷ V cũng giống như quan niệm của các nhà lý luận phương
Tây được Nguyễn Thái Hòa dẫn ra trong Dẫn luận phong cách học, ông đưa ra nhiều quan niệm về phong cách của các nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ ở châu Âu, châu
Mỹ… từ thời cổ đại đến hiện đại “phong cách chính là bản thân con người”, “chỉ có
tư tưởng tạo ra cái nền phong cách… và phong cách chỉ là trật tự và sự vận động” (Buffon), “Tính cách thế nào thì phong cách thế ấy” (Platon 428 – 348 tr. CN), “Lời
nói là diện mạo của tâm hồn” (Sénèque – thế kỉ I), “viết tốt tức là suy nghĩ tốt”
(Montaigne)…
Ở Việt Nam, từ thời trung đại, ảnh hưởng Trung Quốc nên cách hiểu về phong
cách là “văn như kỳ nhân”. Đến thời kỳ tiền hiện đại, các nhà lý luận văn học Việt
Nam dựa trên định nghĩa về phong cách của Buffon “Phong cách chính là bản thân
con người”, đồng nhất cá tính sáng tạo của nhà văn với phẩm chất con người nhà văn.
Ý thức về phong cách nhà văn là sự thể hiện của con người cá tính, con người cá nhân
nhà văn đã xuất hiện từ văn chương trung đại Việt Nam. Trong chuyên luận Phong
cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, tác giả Biện Minh Điền cũng liệt kê một số quan
niệm về phong cách “Nói chung đức hạnh, học thức là cái gốc của văn chương” (Nhữ
Bá Sĩ), “Làm thơ thì phải gốc ở tính tình” (Cao Bá Quát), “Văn như con người của
nó, văn thâm sâu, con người của nó trầm mà tĩnh, văn cao khiết thì con người của nó
đạm mà giản, văn hùng hồn thì con người của nó cương và nhanh, văn uyên sâu thì
con người của nó thuần túy mà đúng đắn” (Nguyễn Đức Đạt). Đến thời kỳ hiện đại,
thuật ngữ phong cách được các nhà nghiên cứu văn học dùng với ý nghĩa là “lối văn”,
“giọng văn”, “sở trường”, “sở thích” trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Người ta
nghiên cứu phong cách trong mối quan hệ giữa văn bản với cá tính sáng tạo của nhà văn, coi cá tính sáng tạo là một trong những nhân tố quy định phong cách nhà văn. Phê bình phong cách học từ chỗ nghiên cứu phong cách dựa trên con người nhà văn đã chuyển sang nghiên cứu phong cách ngôn ngữ của tác giả.
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1942) – một công trình đầu tiên ở Việt Nam, tiếp cận phong cách theo hướng hiện đại, đã nhận định về phong cách của một
số nhà thơ trong phong trào “Thơ Mới”. Tuy nhiên cách bình thơ của Hoài Thanh
dừng lại ở việc nhận định phong cách theo lối cảm thụ ấn tượng, không phải dựa trên
7
lý thuyết phong cách như sau này. Những quan niệm trên cũng có điểm đúng nhưng
đồng nhất tác giả với tác phẩm thì không hợp lý bởi như thế không thể giải thích được những trường hợp cá tính sáng tạo khác xa với cá tính sinh hoạt, khí chất ngoài đời
của nhà văn.
Tiếp theo Hoài Thanh, vấn đề phong cách đã được nghiên cứu sâu rộng trong
giới nghiên cứu văn học ở nước ta. Các công trình khoa học chuyên sâu phải kể đến Những nguyên lý về lý luận văn học của Lê Đình Kỵ, Dẫn luận phong cách học,
Những vấn đề thi pháp của truyện của Nguyễn Thái Hoà, Dẫn luận thi pháp học của
Trần Đình Sử... Bên cạnh đó còn có các công trình thể hiện cụ thể hơn ở những sách công cụ về lý luận văn học như: Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Từ điển
thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên, 150
thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, Lý luận văn học do Hà Minh Đức
chủ biên, Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ của Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như
Phương, Lý luận văn học của nhóm tác giả Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân
Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình… Các công trình đều cho
rằng, phong cách là một phạm trù thẩm mỹ phản ánh sự thống nhất của hệ thống hình
tượng, biểu hiện cái nhìn độc đáo của nhà văn về cuộc sống và con người.
Bên cạnh những công trình chuyên sâu về lý luận phong cách, các nhà nghiên
cứu ở nước ta cũng đã đi sâu nghiên cứu những biểu hiện về phong cách nghệ thuật
của một số nhà văn tiêu biểu như Tác phẩm và chân dung của Phan Cự Đệ, Nhà văn
tư tưởng và phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh, Văn học Việt Nam trong thời đại
mới của Nguyễn Văn Long, Tìm hiểu phong cáchNguyễn Du trong Truyện Kiều của
Phan Ngọc, Ba đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử của Chu
Văn Sơn, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu của Tôn Phương Lan, Phong
cách nghệ thuật Tô Hoài của Mai Thị Nhung,… Các công trình này hầu hết theo hình
thức dành một dung lượng nhỏ phần đầu bàn về vấn đề phong cách, dung lượng lớn
còn lại cụ thể hóa các biểu hiện của phong cách tác giả qua quan niệm nghệ thuật.
Công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc ấn hành năm 1985 đã thể hiện sự chuyển tiếp giữa hai giai đoạn nghiên cứu phong cách học ở Việt Nam và được Phan Ngọc viết bằng thao tác luận. Phan Ngọc đã bước đầu xác định đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu của phong cách học với tư cách là một ngành khoa học, từ đó đi sâu tìm hiểu và khẳng định phong cách Nguyễn
Du trong Truyện Kiều.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng dành nhiều tâm huyết để tìm hiểu,
8
nghiên cứu về phong cách. Khi thể hiện phong cách của các tác giả thì khái niệm của
Nguyễn Đăng Mạnh là tư tưởng nghệ thuật. Trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1983, Nguyễn Đăng Mạnh đã nhấn
mạnh văn chương là một hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực
cần đến năng khiếu và tài nghệ, cá tính và phong cách.
Khác với các tác giả trên, phong cách của Nguyễn Đăng Điệp là giọng điệu nghệ thuật. Trong công trình Giọng điệu thơ trữ tình, ông đã cho rằng giọng điệu là
một hiện tượng siêu ngôn ngữ, là thứ hình thức mang tính quan niệm, là sản phẩm
sáng tạo đích thực của nhà văn, cho nên, tìm hiểu giọng điệu chính là tìm hiểu ngôn ngữ chủ thể - nhân lõi tạo thành phong cách nghệ thuật nhà văn.
Gần đây nhất, năm 2016, trong công trình Văn học Việt Nam: Dấu ấn – Giao
lưu – Tác động, nhà nghiên cứu Tôn Thảo Miên – người có nhiều bài viết, công trình
về phong cách - đã khái quát lại các trường phái đã nghiên cứu về phong cách trên
phương diện lý luận cũng như trên cơ sở thực tiễn. Từ đó, tác giả đưa ra một số bài
viết để chứng minh cho luận điểm của mình có thể kể đến là: Trương Chính và một
phong cách nghiên cứu – phê bình văn học, Nguyễn Tuân – dấu ấn của cá tính sáng
tạo, Vũ trọng Phụng – Người thư ký của thời đại, Phong cách Thạch Lam…
Các công trình của các tác giả đi trước đã gợi mở cho chúng tôi một số hướng
đi để triển khai trong luận án này.
1.2. Nghiên cứu nét phong cách qua sáng tác nói chung. Sơn Nam thuộc trong số những nhà văn được giới nghiên cứu phê bình và các
đồng nghiệp là các nhà văn, nhà thơ rất quan tâm và chú ý. Từ những tác phẩm đầu
tay cho đến những bài viết cuối cùng trước khi từ giã cuộc đời của nhà văn vùng đất
mới thường được nhiều ý kiến đánh giá, bình luận với tấm lòng trân trọng. Ngay từ
1966, nhàn đàm và phỏng vấn về 12 nhà văn đương đại trên tạp chí Bách Khoa (của
Nguyễn Ngu Í), được tập hợp in thành sách “Sống Và Viết Với…” (Nhất Linh, Lê
Văn Trương, Lê Văn Siêu, Á Nam, Doãn Quốc Sỹ, Đông Hồ, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lê Ngọc Trụ, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường), Phần viết về nhà văn Sơn Nam từ trang 200 – 213, Nguyễn Ngu Í cho biết Sơn Nam rất tâm huyết và nhiệt tình khi viết các truyện về thời khai mở đất phương Nam khi mảnh đất ấy còn “Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua” [86; 45]. Trong tác phẩm Mười gương mặt văn nghệ hôm nay, Tạ Tỵ viết về các nhà văn Lãng Nhân – Nguyễn Tuân - Vũ
Bằng – Vũ Hoàng Chương – Nguyễn Bính – Đinh Hùng – Văn Cao – Mai Thảo –
Nguyên Sa và Sơn Nam thì Sơn Nam được nhắc tới cùng với những tác phẩm tiêu
9
biểu của ông như Tìm hiểu đất Hậu Giang (1959), Hương rừng Cà Mau (1962), Hình
bóng cũ (1963), Vạch một chân trời (1964)… đã làm nên “Hơi thở của miền Nam đất Việt”. Tác giả nhận xét về nét đẹp tinh tế của một tâm hồn Nam Bộ từ ngòi bút Sơn
Nam “Tâm hồn Sơn Nam bình dị, thật bình dị như cỏ cây và thanh thoát như khí trời.
Những lời nói và hành động trong văn chương cũng như giữa cuộc sống đều toát ra sự
hiền hòa, chân thực chẳng riêng với mình, còn với người. Quê hương miền Nam và kích thước của miền Hậu Giang như gói trọn trong cơ thể Sơn Nam, nó là những vi
huyết quản, nó là xương máu, da thịt. Nó là sự bất khả lìa” [196].
Năm 1973, trong cuốn tạp văn Gốc cây, cục đá và ngôi sao của Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, nhà văn chuyên viết về văn hóa miền Nam, đặc biệt là văn hóa
vùng Đông Nam Bộ, rất tâm đắc với các tác phẩm biên khảo và sáng tác về Nam Bộ
của Sơn Nam. Tác giả cho rằng những điều Sơn Nam thể hiện, những đề tài Sơn Nam
phản ánh có một “vẻ đẹp” lấp lánh, ẩn vào chiều sâu của truyền thống dân tộc, có thể
chưa nhiều người cảm nhận và yêu thích văn ông nhưng nó vẫn để lại những dấu ấn
không bao giờ phai mờ. Nhà văn “Con nai hiền của bình nguyên” (Bình Nguyên Lộc)
đã có một nhận định về “nhà văn miệt vườn” rất thú vị “Sơn Nam là một tâm hồn lạc
lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu
tượng và nhạc tuýt. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu (…). Nhưng
phải nhìn nhận rằng, cái đẹp Sơn Nam bất hủ...” [3a; 12].
Như vậy, cả ba nhà văn miền Nam trước 1975 đều khẳng định nét đẹp dung dị
về hương sắc miền quê Nam Bộ trong cảm quan của Sơn Nam. Nhà văn Bình Nguyên
Lộc đã nhìn thấy nét “văn hóa phương đông” riêng biệt độc đáo, không bị lai tạp bởi
những văn hóa phương Tây đang ào ạt thâm nhập vào các đô thị miền Nam bấy giờ
của Sơn Nam. Qua những nhận xét ấy các nhà văn phát hiện thoáng qua nét dung dị
mà uyên thâm có chiều sâu địa – văn hoá và lịch sử như một nét đặc sắc của nghệ
thuật văn phong.
Sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), nhà văn, nhà khảo cứu, nhà Nam Bộ học Sơn Nam được nhắc đến nhiều qua các bài viết, chuyên luận… Hồ Sĩ Hiệp trong Vài nét về văn xuôi kháng chiến Nam Bộ (tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng 8/1986), đánh giá Sơn Nam là “một cây bút viết truyện ngắn đáng chú ý ở Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chín năm”. Năm 1992, trong tập Tác gia văn học Việt Nam (Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An biên soạn, nhà xuất bản Giáo
dục xuất bản), Sơn Nam được xem là “một nhà văn, một nhà khảo cứu, về mảnh đất
cực Nam của tổ quốc” [114].
10
Năm 1997, trong bài viết Chủ nhân của rừng tràm, có một nhận định về sở
trường sáng tác của Sơn Nam "Ông Sơn Nam viết truyện không chỉ bằng tâm hồn của một nhà văn yêu thương xứ sở mà còn là vốn tri thức lịch lãm của một nhà khảo cứu,
nhà địa phương học, hiểu biết sành sõi kỹ lưỡng về tính nết thổ ngơi, sản vật lịch sử
và địa bàn cư trú của nhân dân vùng đất Mũi" [11; 65]. Đó là sự phát hiện chất uyên
bác thể hiện phần nào trên trang viết.
Năm 2000, Nhà xuất bản Văn nghệ tái bản tuyển tập 26 truyện ngắn của Sơn
Nam. Lê Minh Đức đánh giá rất cao ngòi bút của nhà văn miền sông nước trên hai
lĩnh vực khảo cứu và sáng tác văn chương trong bài giới thiệu Những câu chuyện cũ về một vùng đất mới. Theo Lê Minh Đức, tác phẩm của Sơn Nam là “chìa khóa mở
cửa vào tâm hồn người miệt vườn ở Nam Bộ”. Đối với bạn đọc trên mọi miền đất
nước, Lê Minh Đức cho rằng “Đọc sách của Sơn Nam thấy bổ ích, người đọc như
được thưởng thức một bữa cơm bình dân trông đạm bạc mà ngon miệng” [49; 5].
Phải chăng đây cũng là phong vị văn chương dung dị mà dân dã. Thời gian này nhiều
tác phẩm truyện ngắn của Sơn Nam được chuyển thể thành phim và được trình chiếu
như Mùa “ len” trâu, Một cuộc bể dâu…
Các nhà nghiên cứu sau 1975 cũng đã phát hiện ra những sáng tác của Sơn
Nam hướng đến đời sống bình thường của người dân miền Nam, cũng như ông am
hiểu rất sâu sắc văn hóa của người bình dân. Đây chính là lối cảm nhận rất đặc trưng
của Sơn Nam về văn hóa và con người Nam Bộ: cảm nhận văn hoá kết hợp với cảm
nhận hiện thực đời thường, về những con người đời thường.
Theo hướng này, năm 2007, trong công trình Truyện ngắn Việt Nam lịch sử -
thi pháp – thể loại, Phan Cự Đệ đã khảo sát những đặc trưng và thi pháp truyện ngắn
Việt Nam hiện đại trong đó có truyện ngắn của Sơn Nam. Tác giả nhận định, Sơn
Nam “là nhà văn, nhà biên khảo tâm huyết về vùng đất và con người Nam Bộ” [36;
697]. Đồng thời tác giả công trình còn ghi nhận, nhà văn Sơn Nam là một trong số ít
những nhà văn “mà nhắc tới tên của họ, người đọc sẽ nghĩ ngay đến những vùng đất, những con người của một miền tổ quốc” [36; 697]. Cũng trong công trình này, Nguyễn Thị Năm Hoàng sau khi phân tích và bình luận những tác phẩm của Sơn Nam cho rằng tác phẩm nhà văn luôn nghiêng về đề tài quê hương, vùng sông nước rất đặc trưng “Không phải những phố xá đông đúc, ồn ào, xa hoa và tráng lệ, Nam Bộ hiện lên qua truyện ngắn Sơn Nam với những kênh rạch chằng chịt, những rừng tràm
bao la, những cánh đồng mênh mông… của đồng bằng sông Cửu Long” [36; 697].
Ngày 13 tháng 8 năm 2008, Sơn Nam đã mãi mãi ra đi sau một thời gian dài
11
bạo bệnh nhưng người đọc không quên nhà văn cũng như những sáng tác của ông. Có
rất nhiều bài viết đăng trên báo, trên các trang web… tỏ lỏng thương tiếc một người con tài hoa của đất Nam Bộ và đánh giá một cách trân trọng di sản văn học mà ông để
lại. Đặng Tiến trong bài Sơn Nam, Việt Nam viết “Báo chí loan tin thường gọi ông là
nhà văn Nam Bộ”. Cách gọi này dù thân thương nhưng vô tình giới hạn tầm cỡ của
một tác gia lớn. Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn ngậm ngùi gọi tên ông như một lời tiễn biệt Cây đước lớn miền châu thổ Cửu Long, đây cũng là tên bài viết của tác giả. Mỗi
câu văn là sự trân trọng, yêu mến đối với một người con ưu tú của đất Nam Bộ, một
nhà văn miệt mài tận tụy lê đôi chân gầy guộc đi khắp đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, để lại cho đời một gia tài đồ sộ. Tác giả đã có một phát hiện mới về Sơn Nam
“Ông đã tích tụ vào mình cả một nền văn minh mà chính ông đã đặt tên là “văn minh
miệt vườn”, cả một nền văn hoá mà chính ông đã gọi là “văn hoá sông nước” để làm
trữ lượng cho một đời cầm bút” [237]. Trong bài Điếu tang Sơn Nam, nhà văn Lê Văn
Thảo thay mặt các văn nhân thi sĩ và thế hệ trẻ viết lên những lời thương tiếc trang
trọng “ông là cây đước bám vào phù sa đất sình vùng ngập mặn mà vẫn cố vươn với
đời” (Lê Văn Thảo, 2008).
Cũng trong năm 2008, nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng cho ra đời công trình
công phu Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, tập 3. Công trình phác họa diện mạo
văn học ở khu vực phía Nam. Trong đó, Sơn Nam được giới thiệu với danh xưng khá
quen thuộc – nhà văn của miệt vườn Nam Bộ. Nguyễn Q. Thắng nghiên cứu kỹ lưỡng
và có cái nhìn sâu hơn về Sơn Nam, tác giả đã so sánh nhà văn miệt vườn với các nhà
văn cùng thời và nhận định Sơn Nam là một nhà văn có tâm huyết với vùng đồng
bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vùng Tây Nam Bộ “Đa số độc giả đều nghĩ rằng
muốn hiểu sinh hoạt miền Nam trước đây thì đọc Hồ Biểu Chánh và gần hơn là đọc
Bình Nguyên Lộc (Đông Nam Bộ), Sơn Nam (Tây Nam Bộ). Do vậy muốn tham
quan đồng bằng sông Cửu Long thì Sơn Nam là một hướng dẫn viên đáng tin cậy”
[175; 1212].
Năm 2009, công trình do Lê Phú Khải chủ biên, tập hợp nhiều bài viết về cuộc đời và sự nghiệp văn chương Sơn Nam của Lê Văn Thảo, Nguyễn Quang Sáng, Võ Đắc Danh, Lê Phú Khải, Đoàn Minh Tuấn…, tập sách có tên là Đó là Sơn Nam. Đây là những ghi nhận, ý kiến đánh giá về sự nghiệp sáng tác và biên khảo rất đáng trân trọng của nhà văn Sơn Nam. Điển hình như Trần Phỏng Diều với bài viết Con người
trong truyện ngắn Sơn Nam, tác giả đi sâu phân tích tính cách con người Nam Bộ
trong truyện ngắn Sơn Nam và rút ra kết luận“Con người trong truyện ngắn Sơn
12
Nam. Trong bài viết cùng tên Đó là Sơn Nam,Lê Phú Khải có một nhận định thú vị về
truyện ngắn Sơn Nam “Đừng có ai đi tìm thể loại hay bố cục trong một truyện ngắn, hay một cuốn sách của Sơn Nam. Nhưng đã cầm đến nó thì phải đọc đến trang cuối.
Vì càng đọc càng thấy yêu nhân vật của ông. Càng thấy yêu mảnh đất Nam Bộ, miền
cực Nam của đất nước” [91; 71]. Đánh giá cao vị trí của Sơn Nam trong bộ phận văn
học viết về Nam Bộ qua tập truyện Hương rừng Cà Mau, Đoàn Minh Tuấn viết “Sau cụ Vương Hồng Sển thì Sơn Nam là cây viết sắc sảo về đồng bằng Nam Bộ với con
người, thiên nhiên, cỏ cây, sông nước vùng đất phương Nam này” [91; 88]. Những
nhận xét trên thể hiện tầm nhìn sắc sảo nhận biết sâu sắc và hiểu thấu đáo hồn đất, tính người của nhà văn Sơn Nam .
Cuối năm 2012, trong buổi Tọa đàm 50 năm Hương rừng Cà Mau của nhà văn
Sơn Nam, các nhà văn, nhà thơ như Lê Minh Quốc, Vũ Đức Sao Biển, Mạc Can,
Nguyễn Đông Thức, nhà giáo Đinh Công Tâm và Lê Hữu Thành… đều có chung
nhận định “Nhà văn Sơn Nam đã hoàn thành sứ mệnh của mình với văn học miền
Nam”. Đặc biệt, nhà thơ Lê Minh Quốc dành rất nhiều tình cảm cho Sơn Nam trong
tham luận 50 năm Hương rừng Cà Mau “Rõ ràng “văn minh miệt vườn” trong tâm
thức của nhà văn Sơn Nam gắn chặt với cội nguồn của máu thịt nước Việt” [232].
Gần đây nhất (2013), trong chuyên luận khá công phu Văn hóa Nam Bộ qua
cái nhìn của Sơn Nam của Võ Văn Thành, tác giả chuyên luận đã khái quát những
vấn đề văn hóa Nam Bộ qua các sáng tác cũng như biên khảo của Sơn Nam và dựa
trên lý thuyết văn hóa học đánh giá những đóng góp của nhà văn Sơn Nam về sắc thái
văn hóa Nam Bộ đối với nền văn học nước nhà. Tác giả đã chia văn hóa Nam Bộ
được phản ánh trong biên khảo và sáng tác văn học của Sơn Nam thành hai bộ phận:
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Nhà nghiên cứu kết luận rằng, những công
trình biên khảo và sáng tác văn học của Sơn Nam đã có những đóng góp đáng trân
trọng đối với nền văn học, văn hóa Nam Bộ “Ông đã cung cấp cho độc giả những tư
liệu vừa phong phú vừa đa dạng về công cuộc khẩn hoang của Nam Bộ (…), ông còn có những nhận xét về văn hóa Nam Bộ rất đúng đắn và có giá trị….” [173; 177]. Điều đó càng làm nổi bật cảm quan văn hoá nổi bật của Sơn Nam. Cũng năm 2013, nhà ngôn ngữ học Huỳnh Công Tín nhận xét “Nhà văn Sơn Nam là người am hiểu nhiều vấn đề Nam Bộ; biết rõ tâm lí, tính cách con người Nam Bộ. Các sáng tác của ông đã giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu những vấn đề Nam Bộ từ nhiều phương diện:
lịch sử, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán, lễ hội, phương ngữ, ngành nghề...”
[245]. Nhìn chung những nhận định của các nhà phê bình, những nhà nghiên cứu, độc
13
giả, người quan tâm đến Sơn Nam đều có chung nhận định là Sơn Nam có kiến thức
rất phong phú, sự am hiểu rất uyên thâm về mảnh đất và con người miền Nam miệt mài chăm chỉ khó có ai qua được.
Đối với các tác phẩm cụ thể của nhà văn, cũng có những nhận định thống nhất
như những phát hiện về đặc điểm nghệ thuật viết của Sơn Nam. Nhà văn đã để lại
cho đời một di sản giá trị, bao gồm hai mảng: biên khảo và sáng tác văn chương. Trong mảng sáng tác, ông viết nhiều thể loại từ tiểu thuyết, ký, truyện vừa, truyện
ngắn đến tạp văn và đề cập đến nhiều đề tài… ở thể loại nào, đề tài nào, ông cũng để
lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng người đọc. Nhưng thành công nhất có lẽ là tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau. Tác phẩm được xuất bản nhiều lần nhưng vẫn có nhiều
độc giả tìm đọc. Và đây cũng là tác phẩm tốn không biết bao nhiêu giấy mực và tâm
huyết luận bình, đánh giá của các nhà lý luận, phê bình như Viễn Phương, Trần Bạch
Đằng, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Trần Văn Giàu, Trần Hữu Tá…
Năm 1986, khi tập sách Hương rừng Cà Mau được Nhà xuất bản Trẻ tái bản,
Viễn Phương trong Lời giới thiệu đã bộc lộ sự ngưỡng mộ chân thành đối với nhà văn
phương Nam, tác giả nhận định Hương rừng Cà Mau là những trang sử trường tồn
cùng với thời gian, hình ảnh thiên nhiên và con người trong tác phẩm là lời nhắc nhở
cho bao thế hệ sau nhớ đến công lao của cha ông trên con đường khai hoang mở đất
“Đọc Hương rừng Cà Mau, đồng bào hiểu thêm về đời sống, về con người của vùng
đất xa xôi, huyền bí này… dù có ít nhiều hạn chế, tuy nhiên Hương rừng Cà Mau vẫn
là một tác phẩm có giá trị và nó vẫn sống trong lòng người đọc, nó vẫn sống với thời
gian” [146; 6-7].
Đến năm 1998, theo nhu cầu bạn đọc, Nhà xuất bản Trẻ tiếp tục tái bản Hương
rừng Cà Mau. Trong Lời giới thiệu, Hoàng Phủ Ngọc Phan tâm đắc những câu
chuyện dân dã nhưng đậm tình người, tình quê hương, thấm đẫm văn hóa truyền
thống dân tộc như Cây huê xà, Hòn Cổ Tron, Miễu Bà Chúa xứ, Hương rừng… Ông
khẳng định “Hương rừng Cà Mau là một quyển cảo thơm, là một quyển sử không có số chương…”, tác giả không tiếc lời ca ngợi, so sánh với tác phẩm tên tuổi trước đó “Có thể ví Vang bóngmột thời và Hương rừng Cà Mau là hai mảnh dư đồ, đem ghép lại sẽ có một bức tranh tuyệt tác của đất nước vào khoảng nửa đầu thế kỷ” [142; 6].
Năm 2000, Trần Hữu Tá trong Nhìn lại một chặng đường văn học đánh giá cao và khẳng định vị trí của Sơn Nam trên văn đàn công khai 1954 - 1975, tác phẩm của
ông không chỉ giúp người đọc tiếp nhận kiến thức về văn hóa, con người Nam Bộ mà
còn tạo cho con người những cảm xúc thẩm mỹ "Hương rừng Cà Mau đáng quý vì
14
đem lại cho người đọc bình thường những cảm xúc thẩm mỹ bổ ích, những gợi ý tích
cực về đất nước và tình người" [165; 457]. Cũng Nguyễn Q. Thắng trong Văn học Việt Nam - miền đất mới, tập 3 cho rằng Hương rừng Cà Mau là tác phẩm đáng chú ý
và sáng giá nhất của Sơn Nam về sông nước, kinh rạch miền Tây Nam đất mẹ “Tác
phẩm đã vẽ lên và cũng trình bày được thực trạng một địa phương giàu tiềm năng
kinh tế nông nghiệp nhưng bị xã hội cũ làm cho tha hóa. Hơn 40 năm tác phẩm ra đời và được in đi in lại nhiều lần mà vẫn còn lắm độc giả tìm đọc” [175; 1215].
Nguyễn Trường nhận xét về phong cách độc đáo truyện ngắn Hương rừng Cà
Mau trong bài viết Sơn Nam - Nhà văn của miệt vườn Nam Bộ in trong tập Đó là Sơn Nam như sau “Hấp dẫn ở truyện của ông là cái lạ ở vùng đất thuở ‘mồ hôi vã bãi lầy
thành đồng lúa’ (Nguyên Hồng) của người dân Nam Bộ. Một cảnh bắt sấu trong rừng
U Minh, hái thuốc trên núi, hát bội trên rừng... Với những nhân vật lạ lùng khác
người, đầy cá tính: những kẻ giang hồ tứ chiếng, lục lâm thảo khấu, anh hùng hảo
hớn…” [91; 19 - 20]. Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn được nhiều người
ưa thích vì chất hùng tráng và thơ mộng của nó. Trong cảnh dữ dội của sông nước
thời khẩn hoang, hình ảnh nhân vật Năm Hên như một anh hùng chiến đấu với thú
dữ, với thiên nhiên hoang sơ để bảo vệ thành quả của những người dân đi mở cõi,
trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam: Hình tượng người nông dân mở đất,
Trần Phỏng Diều đánh giá “Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một trong những truyện ngắn
đặc sắc của Sơn Nam. Nó cho ta thấy được diện mạo của vùng đất Nam Bộ thời khẩn
hoang, đồng thời thể hiện được nỗ lực của con người trong việc chống chọi lại với
thiên nhiên” [203].
Cuối năm 2012, nhà xuất bản Trẻ kết hợp với Báo Tuổi trẻ tổ chức buổi Tọa
đàm 50 năm Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, trong bản tham luận 50 năm
Hương rừng Cà Mau, nhà thơ Lê Minh Quốc phát biểu rất hùng hồn về sự thành công
của tập truyện Hương rừng Cà Mau. Theo tác giả, “văn minh miệt vườn” trong tâm
thức của nhà văn Sơn Nam gắn chặt với cội nguồn máu thịt nước Việt. Trong khi các nhà văn đương thời đi khai thác cảnh “phồn hoa đô hội” ở đô thị thì tất cả các truyện của Sơn Nam đều quay về với về với sinh hoạt, phong tục, cảnh vật của vùng đất xa xôi như Rạch Giá, Cà Mau, Gò Quao, Hòn Tre… giúp cho bạn đọc một cái nhìn thân ái, gần gũi với những nơi “khỉ ho gà gáy” mà họ chưa từng biết đến trước đó. Điều đó tạo nên sự thành công của tác phẩm. Nhà thơ kết luận thành công lớn của Hương
rừng Cà Mau là “tính cách nhân vật, bối cảnh lịch sử, địa lý (…) chứng minh phép
ứng xử văn hóa, nếp sống, bản lĩnh của người Nam Bộ đã hình thành nên “văn minh
15
miệt vườn”. Và văn minh đó (nếu được gọi như thế) là một bộ phận không thể tách
rời của một nước Việt Nam thống nhất” [232]. Cũng trong buổi Tọa đàm này, Anh Vân cũng bình luận về các truyện ngắn trong Hương rừng Cà Mau, tác giả tỏ ra thích
thú đặc biệt với truyện ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư, sau khi say sưa nói về ý nghĩa
của của những bài học trong sách giáo khoa mà hai nhân vật trong truyện nhắc đến,
tác giả khẳng định “Ai từng đọc Tình nghĩa giáo khoa thư không thể quên được tình người nồng đượm trong từng câu chữ...” [252].
Mùa “len” trâu cũng là một tác phẩm kích thích sự tò mò và gây hứng thú cho
người đọc, ngay với cả những nhà làm phim. Phạm Thị Thu Thủy trong bài viết Dấu ấn Nam Bộ trong truyện ngắn Mùa “len” trâu của nhà văn Sơn Nam, tỏ ra tâm đắc
với tác phẩm nên đã phân tích, bình luận một cách say mê về một hình thái nghề
nghiệp đặc trưng của vùng sông nước “Viết về mùa “len” trâu, nhà văn Sơn Nam đã
chạm vào nỗi lo, sự ám ảnh thường trực của những người nông dân đồng bằng sông
Cửu Long”. Công việc “len” trâu là công việc nặng nhọc và nhiều bất trắc nhưng
cũng đem lại cho con người những trải nghiệm về sự thơ mộng và hùng vĩ, cũng là
“hành trình từ con nít trở thành người lớn, thu nhận vào mình, bụi trần tục, nỗi truân
chuyên” [188]. Ngoài Hương rừng Cà Mau, có những bài viết lẻ tẻ về các tác phẩm
khác của Sơn Nam như Nguyễn Q. Thắng viết về Hình bóng cũ “nội dung mang hồn
tình người Việt muôn nơi và muôn thuở” [175: 1219]. Đối với truyện ngắn Tây Đầu
đỏ, trong bài viết Sơn Nam và truyện ngắn Tây Đầu đỏ (2012), Nguyễn Văn Hà cho
rằng, đây là một trong hai tác phẩm đầu tay được viết vào năm 1952 của Sơn Nam
nhưng sức khái quát của nhà văn thật đáng trân trọng. Truyện ngắn này không chỉ
phản ánh sự khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, sự tàn ác của
giặc Pháp mà còn nêu bật được sức sống tiềm tàng của nhân dân Nam Bộ trong chiến
tranh dù bị bóc lột và chà đạp dưới gót giày của quân xâm lược. Tác giả nhấn mạnh
“So với truyện ngắn Nam Bộ cùng thời, Tây Đầu Đỏ nổi trội ở tầm khái quát hiện
thực và chiều sâu tư tưởng. Tuy là chuyện trong một xóm nhỏ nhưng với lối viết vừa tả thực vừa gợi liên tưởng, Sơn Nam dường như hướng nhận thức người đọc tới những vấn đề rộng lớn hơn: về “lòng dân”, về “con đường sống”…” [207].
Các công trình, các bài viết và những nhận xét trên không ít thì nhiều đã đề cập đến một số phương diện thể hiện những đặc điểm phong cách nghệ thuật tác giả nhưng chủ yếu mới chỉ là những nhận định nằm rải rác trong các công trình nghiên
cứu mang tính khái quát, giới thiệu, chưa thực sự đi sâu nghiên cứu chuyên biệt phong
16
cách nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn Sơn Nam.
1.3. Nghiên cứu một số phương diện thuộc yếu tố mang phong cách Sơn Nam Ngay từ 1970, Tạ Tỵ đã đánh giá Sơn Nam rất cao, ông cho Sơn Nam là một
trong những nhà văn “có giá trị của miền Nam nước Việt”. Năm 1986, đã có những
nhà nghiên cứu chú ý đến truyện ngắn của Sơn Nam. Khi Nhà xuất bản Trẻ cho ra đời
tập sách Hương rừng Cà Mau (tập 1), Viễn Phương, người viết lời tựa cho quyển sách nhận định rằng đây là một cây bút viết truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi Nam
Bộ thế kỷ XX và tin tưởng vào sức sống và giá trị của tập truyện ngắn này. Ba mươi
năm qua, niềm tin của nhà văn Viễn Phương vẫn còn nguyên giá trị. Cùng năm, trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tác giả Hồ Sĩ Hiệp với bài viết Vài nét về văn xuôi kháng
chiến Nam Bộ cũng quan tâm và đánh giá cao những tác phẩm đầu tay của Sơn Nam
như Bên rừng Cù Lao Dung, Tây đầu đỏ, Cây đàn miền Bắc… Nhận xét về nghệ
thuật viết văn xuôi của Sơn Nam có nhiều ý kiến. Các nhà nghiên cứu tập trung chú ý
vào một số phương diện:
Nhiều nhận xét đánh giá về văn phong của Sơn Nam. Các nhà phê bình có
cùng chung một nhận định về văn phong của nhà văn miệt vườn thường mộc mạc,
giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Năm 1970, Tạ Tỵ trong
bài viết Sơn Nam, hơi thở của miền Nam nước Việt có một nhận xét rất hay về nhà
văn Sơn Nam khi cho rằng, ông có thể làm chủ bút pháp của mình trong nhiều tác
phẩm chuyên viết về đồng ruộng, là vì Sơn Nam đã am hiểu đất Hậu Giang thật chu
đáo “Sơn Nam viết văn giản dị như nói chuyện. Câu chuyện tuy quê mùa nhưng
không kém tế nhị sâu sắc” [196].
Trần Hữu Tá trong Nhìn lại một chặng đường văn học (2000) ghi nhận
“Hương rừng Cà Mau đem lại cho người đọc bình thường những cảm xúc thẩm mỹ”
[165; 457]. Trên tờ báo Thanh niên số 60 (2260), tháng 3/2002, Hà Đình Nguyên
trong Nhà văn Sơn Nam - Mời ông! Tiếp tục lên đường... cho rằng văn phong Sơn
Nam được “... dùng ngòi bút như lưỡi cày, bền bỉ cày xới lên ruộng vườn văn hóa bằng một văn phong giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất thâm thúy như chính con người ông”. Trần Mạnh Hảo trong bài viết Sơn Nam, dề lục bình Nam Bộ (2004) có một so sánh thú vị “Văn Sơn Nam không ồn ào như gió chướng, lại không trong veo như nước cất trong phòng thí nghiệm, mà nó là thứ nước chất lỏng hồng hào có tên phù sa, chỉ cần vốc lên đã thấy màu mỡ cả bàn tay...” [209]. Còn Huỳnh Công Tín với bài
Sơn Nam - Nhà Nam Bộ học trong Cảm nhận bản sắc Nam Bộ nhận định, Văn phong
của nhà văn miệt vườn đã kế thừa và phát huy được văn phong những nhà văn Nam
17
Bộ đi trước như Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Quản, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc…
Trong công trình qui mô Văn học Việt Nam - miền đất mới, tập 3, nhà lý luận phê bình Nguyễn Q. Thắng trình bày và đánh giá tác phẩm của nhà văn miệt vườn một
cách chi tiết, ông đã kết luận về lối hành văn của Hình bóng cũ “Nghệ thuật kể
chuyện tự nhiên, đơn giản mà hấp dẫn người đọc bởi cái tinh thần hài hước, nhẹ
nhàng cộng với không khí hoài cổ man mác” [175; 1219]. Lê Phú Khải trong Đó là Sơn Nam (2009) viết “Đọc Sơn Nam người ta kinh ngạc về sự độc đáo của văn
phong. Ông viết như nói... Nhưng sức nặng của thông tin và cảm xúc của người viết
khiến lời văn biến hóa khôn lường” [91; 71]. Đoàn Minh Tuấn nhận xét trong Nhớ mãi nhà văn Hương rừng Cà Mau “Văn ông giản dị, tinh tế, hài hước và rất nhiều tư
liệu quý” [105: 88]. Từ những đánh giá của các nhà bình luận, những nét dung dị
nhưng uyên thâm trong văn phong Sơn Nam đã được phát hiện.
Nhân dịp buổi Tọa đàm 50 năm Hương rừng Cà Mau, cuối năm 2012, nhà
giáo Đinh Công Tâm có kể lại ấn tượng của mình đối với Sơn Nam. Ông đã lưu giữ
tất cả tác phẩm của “Nhà văn Nam Bộ” trong bộ sưu tập của mình và tâm đắc nhất
truyện Tình nghĩa giáo khoa thư trong Hương rừng Cà Mau. Ông cho rằng, văn Sơn
Nam đã giúp cho ông rất nhiều trong cuộc đời viết lách của mình “Lối viết bình dị
dân dã mang lại bài học vô giá, ngòi bút tải đạo đó giúp tôi tự rèn giũa và viết sách về
giáo dục về sau” [240].
Các nhà nghiên cứu trước và sau năm 1975 đều có một nhận định giống nhau
về văn phong Sơn Nam là giản dị nhưng tinh tế.
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng phát hiện một số đặc điểm:
Tạ Tỵ và nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu cũng như độc giả miền Nam trước
1975 đều có cùng một nhận định là Sơn Nam là nhà văn của nông thôn, của vùng sông
nước Cửu Long nên các nhân vật của ông “rất xa lạ đối với dân thành phố nhưng rất
gần gũi với cuộc sống nông thôn” [196]. Năm 2006, Nhà văn Nguyễn Quốc Trung
trong bài viết Dấu ấn Sơn Nam đã có một đánh giá khá sâu sắc về nhân vật trong tác phẩm Sơn Nam “Nhân vật của Sơn Nam nói năng khiêm cung, như tự hạ mình, nhưng thực ra bên trong họ có những trí khôn và sức mạnh tiềm tàng” [248]. Năm 2009, trong luận văn thạc sĩ Nghệ thuật kể chuyện của Sơn Nam qua Hương rừng Cà Mau, Hoàng Thị Ngọc Bích đã khảo sát và phân loại nhân vật trong tập truyện Hương rừng Cà Mau cho biết rằng mỗi truyện ngắn của Sơn Nam dung lượng trên chục trang và có ít nhân
vật. Theo thống kê của tác giả, tập truyện Hương rừng Cà Mau có 185 nhân vật, mỗi
truyện của ông có từ hai đến bốn nhân vật, trong đó có truyện đến hai nhân vật chính.
18
Nhà văn đi vào khám phá đời sống của nhân vật trong phạm vi hẹp “trong làng, ấp nhỏ
lẻ, hoang vắng, trong những mối quan hệ chòm xóm cùng lao động, cùng sinh hoạt văn hóa” [10; 10]. Trong một bài viết Sự hướng thiện của các nhân vật trong tiểu thuyết
Sơn Nam, sau khi phân tích quá trình trăn trở, dằn vặt bản thân để đi đến tự hoàn thiện
mình của các nhân vật trong tiểu thuyết Xóm Bàu Láng, Bà Chúa Hòn, Vạch một chân
trời, Chim quyên xuống đất, tác giả Trần Thị Hạnh khái quát “Thành công của Sơn Nam chính là nhìn được quá trình đấu tranh hướng đến cái thiện và tạo cơ hội cho các
nhân vật tự hoàn thiện mình. Ông đã thể hiện cái chất của con người Nam Bộ một cách
đặc sắc với đầy đủ tính hiện thực” [63].
Trong Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Sơn Nam, sau khi khảo sát
các nhân vật trong truyện ngắn, chủ yếu là Hương rừng Cà Mau, Trần Phỏng Diều
nhận định “Nhân vật trong truyện ngắn Sơn Nam đa dạng và phong phú”. Một bài
viết đã phân tích nhân vật Tây đầu đỏ một cách tỉ mỉ và không kém phần sâu sắc của
Nguyễn Văn Hà trong Sơn Nam và truyện ngắn Tây đầu đỏ đã khái quát về nhân vật
kẻ xâm lược” điển hình, thật sự chứ không phải là “cái bóng” hoặc một hình ảnh mờ
nhạt “Nhân vật Tây Đầu đỏ của Sơn Nam là bước tổng hợp, nâng cao hình ảnh của
giặc Pháp ít nhiều đã được đề cập trong các sáng tác văn xuôi cùng thời” [207].
Như vậy, khi bàn về nhân vật trong truyện của Sơn Nam, Tạ Tỵ, Nguyễn Quốc
Trung, Trần phỏng Diều, Hoàng Ngọc Bích đều có chung nhận xét nhân vật trong
truyện Sơn Nam phong phú và đa dạng. Dù loại nhân vật nào họ cũng là những con
người bình dị của làng quê Nam Bộ.
Về lối kể chuyện, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu… của Sơn Nam cũng
được các nhà phê bình chú ý.
Phần lớn các tác giả đều cho rằng Sơn Nam đã đưa lối nói Nam Bộ hồn nhiên
và dung dị vào văn chương một cách thú vị và độc đáo.
Ngay từ năm 1970, trong bài viết Sơn Nam – Hơi thở của miền Nam nước Việt
trích trong Mười khuôn mặt văn nghệ, nhà văn Tạ Tỵ đã rất tâm đắc với Sơn Nam, với những câu chuyện bất hủ như Bác vật xà bông, Miễu Bà chúa Xứ, Cây huê xà, Cô Út về rừng, Hát bội giữa rừng…đã có nhận xét về cách viết truyện của nhà văn của vùng châu thổ này “Trong tác phẩm “Chim quyên xuống đất”, Sơn Nam áp dụng kỹ thuật viết truyện dài với những gút thắt mở, với tình tiết ly kỳ để “bắt trớn” và đôi khi rời bỏ quê hương – sở trường – để thử sức với đôi cánh. Đường bay tuy không đuối
nhưng nó làm người đọc bơ vơ, nhức mỏi” [196]. Hoàng Phủ Ngọc Phan nhấn mạnh
giá trị của tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau khi nó vừa được tái bản năm 1998
19
“... Cái hay của nó không chỉ ở hình ảnh, câu chữ mà còn ở cái “thần” của bút pháp
được tác giả dành ở mấy câu kết “nhẹ như gió thoảng và êm như mật ngọt” [141; 6]. Năm 2006, người biên soạn Từ điển từ ngữ Nam Bộ Huỳnh Công Tín trong bài viết
Nhà văn Sơn Nam, Nhà Nam Bộ học đã tỏ ra tâm đắc cách dùng ngôn ngữ dẫn chuyện
trong các tác phẩm Bà Chúa Hòn, Xóm Bàu Láng, tập truyện Hương rừng Cà Mau,
Biển cỏ miền Tây, Hồi kí Sơn Nam (4 tập: Từ U Minh đến Cần Thơ - Ở chiến khu 9 – 20 năm giữa lòng đô thị - Bình an) của nhà văn Sơn Nam. Theo tác giả thì lối viết của
nhà Nam Bộ học “có thể xem là tiêu biểu của lối “văn nói Nam Bộ”, lối văn thường
gồm những câu ngắn gọn, có nhiều từ ngữ Nam Bộ trong giao tiếp bằng lời được thể thành văn viết”[245].
Trong bài viết Đặc trưng phương ngữ Nam Bộ qua Hương rừng Cà Mau của
Sơn Nam (2007), Nguyễn Phú Cường viết “Văn của Sơn Nam thường là những câu
ngắn gọn, trong sáng, rõ ý. Đặc biệt là ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Nó
mang những đặc trưng đầy đủ về phương ngữ Nam Bộ ở cả các bình diện: ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt” [17]. Năm 2012, Trong công trình Văn
hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, Võ Văn Thành nhận định “Lối hành văn của
ông mộc mạc, viết như nói” nhưng không phải dạng thu âm “các cuộc nói chuyện
của người Nam Bộ thì chúng trở thành các tác phẩm văn học” [173; 45]. Trong một
bài viết được đăng tải trên trang web http://baomoi.com có tên là Sơn Nam - người
đánh đàn độc huyền kể chuyện Nam Bộ (1997), Hoài Anh - tác giả bài viết nhận định
về ngôn ngữ kể chuyện của Sơn Nam “Ngôn ngữ của anh dung dị, sinh động hấp dẫn,
có màu, có tiếng kết hợp với động tác, không những đã góp phần tô đậm tính cách
nhân vật mà còn vẽ lên bộ mặt tinh thần của từng con người thuần Nam Bộ” (Tạp chí
Văn hóa, số 5/1997). Huỳnh Công Tín trong Sơn Nam – Nhà Nam Bộ học (2006) cho
rằng ngôn ngữ của Sơn Nam trong sáng tác được nhiều nhà lý luận phê bình thừa
nhận rằng người miền Nam cũng như các nhà văn miền Nam “viết như nói”, hàm ý
chê “văn miền Nam dở”, nói sao viết vậy, nhiều từ ngữ đời thường, câu cú không thành, ý tứ không chặt… Ông không đồng ý với quan niệm này, theo ông, văn chương Nam Bộ phải có một cái gì khác, đó là thứ văn chương gần với ngôn ngữ nói, không nặng trau chuốt mượt mà làm mất đi bản sắc đời thường, với những “góc cạnh” của nó. Đối với vấn đề thưởng thức nghệ thuật, người đọc cần đọc thứ văn phong mà ngôn ngữ thuần Nam Bộ hoặc Bắc Bộ, không nên đọc loại văn phong hỗn hợp Bắc
Nam, nó làm mất đi lối diễn đạt mang chất liệu đời sống của vùng miền. Ngôn ngữ
mà Sơn Nam sử dụng là ngôn ngữ Nam Bộ ròng. Tác giả ghi nhận “Ngôn ngữ đối
20
thoại, hay ngôn ngữ nhân vật trong truyện Sơn Nam là ngôn ngữ thường nhật của
người dân Nam Bộ”. Ngoài ra ông còn sử dụng một khối lượng rất lớn từ ngữ Nam Bộ thông thường trong cuộc sống [245].
Nguyễn Phú Cường trong một bài nghiên cứu có tính chất sơ khảo về phương
ngữ trong truyện ngắn của Sơn Nam có tên là Đặc trưng phương ngữ Nam Bộ qua
Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam (2007), cùng với việc giới thiệu nội dung tập truyện Hương rừng Cà Mau, tác giả bài viết đã khái quát những nét chính về đặc
điểm của phương ngữ trong ngôn ngữ của Sơn Nam (mô tả về vùng đất, kinh nghiệm
sống, ngành nghề đặc trưng, phong tục tập quán ở nông thôn Nam Bộ…) [17]. Anh Vân trong Hương rừng Cà Mau, 50 năm thơm mãi tình quê cũng có một nhận định
"Truyện ngắn của Sơn Nam rất cô đọng, súc tích, ngôn ngữ nặng tính địa phương mà
giản dị, dễ gần. Ông viết như đang kể chuyện, thủ thỉ, tâm tình. Ông tả cảnh, tả người
sống động đến từng chi tiết nhỏ" [252]. Trần Phỏng Diều trong Ngôn ngữ nhân vật
trong truyện ngắn của Sơn Nam, đã rút ra một kết luận sau khi phân tích đặc điểm
trong ngôn ngữ của các loại nhân vật trong tác phẩm Sơn Nam "nhân vật trong truyện
ngắn Sơn Nam (…) nhiều giọng điệu riêng và mỗi loại hạng người đều có cách nói
riêng. Tất cả tạo nên sự sinh động, nhiều vẻ của nhân vật trong các truyện của ông"
[22; 25]. Năm 2006, một bài viết của nhà văn Nguyễn Quốc Trung có tên là Dấu ấn
Sơn Nam ghi nhận về giọng điệu của Sơn Nam như sau “Sơn Nam có giọng điệu rất
riêng. Văn của Sơn Nam cũng không trau chuốt với những câu chữ lạ, nhưng chữ
luôn có sức sống, câu văn tãi ra, đó là lối nói của người dân quê mộc mạc” [248].
Năm 2008, Nguyễn Q. Thắng trong Văn học Việt Nam - miền đất mới, tập 3 đã
nhận định giọng kể chuyện của Sơn Nam "... thường khi rất giản dị, không có chút gì
trau chuốt... Đôi khi cuối những truyện vắn tắt ấy tác giả rút ra một bài học gấp quá,
đột ngột quá khiến người đọc rất đỗi bất ngờ. Thế cho nên có người cho rằng truyện
của Sơn Nam có vẻ như hơi vội vàng, cạn cợt. Nhưng chỗ tài tình của Sơn Nam là
sau cái bề ngoài giản dị như vậy, ông vẫn tỏ ra là một người hóm hỉnh, sắc bén, ông diễn tả được những sự thực tâm lý tế nhị..." [175; 1214]. Còn Trần Phỏng Diều trong bài viết Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam (2006) viết "giọng văn của Sơn Nam thường chậm, đều đều, mạch văn thong thả, ít tính hùng hồn vội vã. Ông không "lên gân" (…). Câu văn của ông thường rất mộc mạc, chân tình. Mộc mạc đến mức có khi như là văn nói... Ông viết rất chân phương, ít dùng từ hoa mỹ, những câu văn
không đến nỗi trúc trắc như đánh đố người đọc" [91; 113]. Cùng suy nghĩ đó, Trần
Mạnh Hảo trong bài viết Sơn Nam, dề lục bình Nam Bộ (2007) cho rằng “Những
21
cảnh, những đời, những tâm sự của ông (…) bao giờ cũng pha một giọng kể trầm
trầm, u buồn, xa vắng” [209]. Có thể nói rằng khi đề cập đến lối kể chuyện, cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu của Sơn Nam, các nhà nghiên cứu đều có một nhận định
giống nhau là văn Sơn Nam mộc mạc, viết như nói. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng là
ngôn ngữ thường ngày, từ ngữ địa phương của người dân Nam Bộ. Giọng điệu phong
phú khi kể chuyện.
Ngoài ra, một đặc điểm rất thú vị của văn Sơn Nam cũng được các nhà phê
bình đề cập đến, đó là cách sử dụng hò, vè, thành ngữ, tục ngữ… trong tác phẩm. Đôi
khi ông đưa vào truyện những câu ca dao, những câu hò đối đáp Nam Bộ phản ánh được tính chân xác của thực tại dưới cái nhìn của nhà văn gắn liền với nông thôn
Nam Bộ. Năm 2011, trong hai công trình khảo sát Thành ngữ, tục ngữ cải biên trong
tác phẩm Sơn Nam và Môi trường tự nhiên, văn hóa và con người Nam Bộ trong tác
phẩm Sơn Nam qua thành ngữ, tục ngữ của Nguyễn Văn Nở và Dương Thị Thu
Hằng, hai tác giả đã khảo sát và thống kê là trong tác phẩm Sơn Nam (Hương rừng
Cà Mau, Bà chúa Hòn, Xóm Bàu Láng, Đồng bằng sông Cửu Long, - Nét sinh hoạt
xưa và Văn minh miệt vườn) với kết quả là tổng số thành ngữ, tục ngữ được sử dụng
là 683, và tần số xuất hiện là 1175 lần, trong đó 110 ngữ cảnh có sử dụng thành ngữ,
tục ngữ ở dạng biến thể ngữ âm, 55 ngữ cảnh sử dụng thành ngữ, tục ngữ Hán Việt,
chiếm 50% trong tổng số ngữ cảnh được thống kê. Tác giả cho rằng Sơn Nam đã
thuần thục sử dụng thành ngữ, tục ngữ với hai lý do, một là để Tái hiện thiên nhiên,
đất trời Nam Bộ một thời mở cõi, hai là Phản ánh thực trạng xã hội. Đồng thời nhận
định về cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong các sáng tác của Sơn Nam “Cùng với
việc miêu tả đặc trưng văn hóa, lịch sử qua thành ngữ, tục ngữ (…) phản ánh hiện
thực xã hội, phản ánh cá tính của người dân ở một vùng, miền” [135; 148].
Ngoài ra, chất mộc mạc, dân dã, phóng khoáng, bộc trực thấm sâu trong tác
phẩm của Sơn Nam, cũng được Lê Phú Khải, Anh Vân đề cập đến trong các bài viết,
xem như là một đặc điểm riêng của nhà văn Nam Bộ.
Cũng trong bài viết Đó là Sơn Nam, có một kết luận rất chính xác về Sơn Nam của Lê Phú Khải "Thường thì tác giả và tác phẩm luôn gần gũi với nhau, nhưng với Sơn Nam thì phải nói là con người và tác phẩm hòa nhập làm một. Cái chất thoáng đãng, mộc mạc, khoáng đạt, bộc trực từ anh thấm sâu vào tác phẩm. Đọc tác phẩm là có thể biết được con người anh" [91; 15]. Trong buổi Tọa đàm 50 năm Hương rừng
Cà Mau, cuối năm 2012, nhiều tham luận, bình luận, chuyện kể về “Ông già đi bộ”
cùng tác phẩm Hương rừng Cà Mau, Anh Vân có bài viết Hương rừng Cà Mau – 50
22
năm thơm mãi tình quê nhận định chân xác về chất mộc mạc, dân dã nhưng hóm hỉnh,
hài hước của Sơn Nam “trong tập sách của Sơn Nam dễ làm độc giả khi cay xè nơi sóng mũi vì nét dân dã mộc mạc ấp iu trong từng mảnh đời, thân phận con người tứ
xứ của vùng đất phương Nam. Khi lại khiến ta bật cười với lối viết cà rỡn, hài hước
như kiểu bác Ba Phi” [252].
Tóm lại, nhiều ý kiến đã thoáng phát hiện về văn phong Sơn Nam với nét dung
dị dân dã trong nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
Các nhà phê bình cũng gặp nhau khi nhận xét về những hạn chế của ngòi bút
SơnNam.
Năm 2006, Nguyễn Quốc Trung trong Dấu ấn Sơn Nam sau khi phân tích,
đánh giá nhìn nhận những mặt mạnh trong văn chương Sơn Nam, cuối cùng, nhà văn
đã nhận định về mặt hạn chế của tiểu thuyết Sơn Nam“Vẫn là những câu chuyện theo
mô típ cũ, tuy vậy, khi lạm dụng quá nhiều về một mảng đề tài, dễ nhàm, câu chữ chai
đi, thiếu sự hồn nhiên. Các tiểu thuyết này có giá trị về mặt tư liệu, nhưng chất văn
không cao, bởi vì chuyện không có xung đột, giọng văn đều đều, có phần hơi cũ,
nhân vật có diện mạo nhưng không có tính cách… chất sáng tạo ít” [248]. Năm 2008,
trong công trình Văn học Việt Nam – miền đất mới, tập 3, Nguyễn Q. Thắng cho rằng,
văn phong biên khảo của Sơn Nam dù rất nhẹ nhàng, lôi cuốn, hấp dẫn vì pha lẫn chất
truyện nhưng không đáng tin cậy vì nhiều tư liệu ông viết dựa trên cảm xúc cá nhân
không theo tiêu chí khoa học về tư liệu, phương pháp nghiên cứu… [175]. Ngoài ra,
cũng có những nhận xét “truyện của Sơn Nam có vẻ như hơi vội vàng, cạn cợt” [dẫn
theo 175; 1214].
Năm 2012, trong Sơn Nam với truyện ngắn Tây Đầu Đỏ, Nguyễn Văn Hà đánh
giá một cách trân trọng những thành công về nghệ thuật của truyện ngắn Tây đầu đỏ
rồi chỉ cho người đọc những nét còn hạn chế của tác phẩm. Tác giả bài viết cho rằng
tuy cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn nhưng còn nhiều hạn chế như là truyện vừa thiếu
điểm nhấn vừa thừa nhiều chi tiết, lại bị câu thúc vào thời gian lịch sử nên tạo cảm giác chậm chạp, nặng nề; lối kể chuyện có đầu, có đuôi, kết thúc có hậu, nên mang tính công thức; bố cục truyện thiếu cân xứng về dung lượng, không đồng đều về chất lượng... [207]. Năm 2013, trong Lời giới thiệu của chuyên luận Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, nhà lý luận Lý Tùng Hiếu có nhận định: Sơn Nam là nhà văn, nhà biên khảo, nhà hoạt động văn hóa, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp đồ sộ đặc
sắc về giá trị văn hóa và phong cách nhưng “trong sự nghiệp của ông hàm chứa rất
nhiều tư liệu cá nhân, cảm nhận cá nhân, phỏng đoán cá nhân mà người đọc chỉ có thể
23
tin tưởng vào bản thân ông với tư cách là một người cầm bút “có lương tâm nghề
nghiệp”…” [173; 10].
Cũng có một số nhà lý luận phê bình nhận định Hương rừng Cà Mau còn
nhiều điểm hạn chế nhưng có thể nói rằng những điểm hạn chế ấy quá nhỏ bé so với
những đóng góp của Sơn Nam đối với nền văn hóa, văn học dân tộc. Giá trị đóng góp
ấy và tầm ảnh hưởng về khoa học và văn hóa của nhà văn, nhà Nam Bộ học này thì rõ ràng không ai có thể phủ nhận “Chẳng cứ gì sân chim mà còn nhiều thứ khác cũng
mất dần đi theo thời gian và tiến bộ chung của quốc gia, nhưng chúng ta còn Sơn
Nam, tức là còn tiếng nói cổ sơ của miền Hậu Giang yêu dấu ngàn đời không phai lạt qua Vạch một chân trời, Cô gái Phù Nam và Nhà ông Cả đang sinh động quanh đây”
(Tạ Tỵ, 1970).
Ngoài ra còn có những bài viết có tính chất riêng lẻ đăng trên các sách, tạp chí,
hay những trang web..., những Luận văn cử nhân và thạc sĩ của các trường Đại học,
những công trình nghiên cứu khá sâu về một số nét đặc điểm văn chương nhà văn
Nam Bộ này.
1.4. Một số vấn đề đặt ra đối với luận án Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều đã phát hiện và thống nhất rằng Sơn Nam
là nhà văn có phong cách độc đáo. Ông có khả năng nổi trội về sự phản ánh những
vấn đề về cuộc sống, con người và truyền thống văn hóa quê hương miền Nam. Nhà
văn thể hiện điều đó một cách uyên bác dung dị và chân thật bằng ngòi bút hồn nhiên
đậm chất địa phương Nam Bộ. Cái nhìn tinh tế sâu sắc của nhà văn luôn mang tính ổn
định và in đậm dấu ấn riêng của tác giả, Nguyễn Quốc Trung nhận xét “Với Sơn Nam,
tác phẩm của ông không lẫn với bất cứ ai (…) trước sau ông vẫn bám sát vào mảng đề
tài đất và người miệt vườn mà viết” [248].
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về Sơn Nam, tác giả nhận thấy các tác
giả đã có những phân tích sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp văn chương Sơn Nam bằng
nhiều phương pháp tiếp cận, nhiều lý thuyết phê bình. Tuy được đánh giá cao song vẫn chưa có một công trình dài hơi mang tính hệ thống nào về Sơn Nam để tìm hiểu cũng như đánh giá thỏa đáng về sự nghiệp văn chương của ông. Hầu hết những bài phê bình, nghiên cứu chỉ là những nhận xét lẻ tẻ, chỉ mới bao quát một phương diện nào đó của ngòi bút Sơn Nam, chưa đi vào khảo sát phân loại và tìm hiểu thấu đáo cặn kẽ phong cách nghệ thuật Sơn Nam như một hệ thống hoàn chỉnh thống nhất. Sơn
Nam là nhà văn đa diện, ngòi bút linh hoạt, nhiều sắc thái. Luận án của chúng tôi là
một công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu phong cách nghệ thuật Sơn Nam sử
24
dụng phương pháp phê bình phong cách học và vận dụng lý thuyết về phong cách tác
giả để làm rõ những đặc sắc làm nên gương mặt riêng, đồng thời cũng là những đóng góp của một nhà văn tiêu biểu của Nam Bộ.
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án này, nghiên cứu
sinh sẽ tập trung nghiên cứu để làm sáng rõ các nội dung chính sau:
- Những vấn đề lý luận về phong cách nghệ thuật và các yếu tố tạo thành phong
cách nhà văn.
- Trình bày, phân tích, tổng hợp các khía cạnh của phong cách nghệ thuật Sơn
Nam về mặt nội dung và các yếu tố hình thức nghệ thuật.
- Trên cơ sở đó, đề xuất một số nét đặc sắc nghệ thuật và cảm nhận tổng thể về
25
phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
Chương 2
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT SƠN NAM
2.1. Khái niệm về phong cách nghệ thuật Phong cách là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác
nhau, nó mang ý nghĩa riêng tùy vào đối tượng khoa học mà nó phục vụ. Xét về nguồn
gốc thì phong cách (style) có gốc gác từ rất xưa, từ thời cổ đại Hy lạp, La Mã cho đến trung đại qua cận hiện đại.
Phong cách nghệ thuật là khái niệm không chỉ dành cho Văn học và nghệ thuật
nói chung mà nó còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác như nghệ thuật học, mỹ
học, xã hội học, nhân chủng học, thể thao, thời trang…đôi khi bị quá lạm dụng. Chúng
ta cần nghiên cứu và làm rõ nội hàm của khái niệm phong cách với tư cách là một
phạm trù lý luận văn học.
2.1.1. Các quan điểm khác nhau về phong cách nghệ thuật Hiện nay, tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về phong cách. Ở phương
Đông, các quan điểm về phong cách nghệ thuật tiêu biểu ở Trung Quốc và Ấn Độ. Lưu
Hiệp trong Văn Tâm Điêu long cuối thế kỷ V, đầu thế kỷ VI đã đồng nhất phong cách
với cá tính sáng tạo của nhà văn khi phân tích quan điểm văn là người. Ông đưa ra
quan điểm về “thần tư” và thuật ngữ “phong cốt” để chỉ sự hợp nhất giữa phong thái
và cốt cách tức là sự hợp nhất giữa tư tưởng và hình thức nghệ thuật ngôn từ. Như
vậy, Lưu Hiệp bó hẹp phạm vi của phong cách nghệ thuật vì phong cách nghệ thuật
không chỉ có mỗi tính chủ quan cá tính sáng tạo của nhà văn mà còn có nhiều yếu tố
khách quan khác như vấn đề thời đại, xuất thân nhà văn hay nhu cầu của độc giả. Tức
là muốn người nghệ sĩ cần phải học hỏi trau dồi kinh nghiệm sống, thành công… cần
có năng lực bẩm sinh trong đó năng lực tưởng tượng là quan trọng nhất.
Ở Ấn Độ, ngay từ thế kỷ V – VI, chưa có một thuật ngữ phong cách nhưng các nhà thơ, nhà văn đã có ý thức về điều này. Bramaha trong Kaviyalankara (vẻ đẹp/ các biện pháp nghệ thuật của thơ ca/ văn chương). Khi đề cập về vẻ đẹp và các biện pháp nghệ thuật văn chương đòi hỏi các nghệ sĩ phải tạo ra những viên ngọc đích thực “Tác phẩm dở đem lại tai tiếng cho người ta, cũng như đứa con hư vậy” [68; 44]. Thế
kỷ VI – VII, Dandin và Bhamaha đề cập đến phong cách địa phương nhưng cũng
chưa xác lập thuật ngữ. Đến thế kỷ VIII, với tư cách là người đầu tiên đưa ra thuật
26
ngữ Riti, Varama coi phong cách là một cách tổ chức từ ngữ nhất định, mỗi tổ chức
mang một phẩm chất nhất định, đó là vẻ duyên dáng của thơ ca, trong khi những hình thức tu từ chỉ phụ trợ cho vẻ đẹp [68; 50]. Theo quan điểm của Varama thì phong cách
thuộc về bình diện của ngôn ngữ. Ông đưa ra ba điều kiện để chủ thể sáng tạo nên
một tác phẩm có gíá trị đích thực đó là tài năng thiên bẩm (Pratibha), nền tảng văn
hóa, sự học hỏi (Vyutpatti) và khả năng áp dụng kinh nghiệm vào sáng tác (Abhyasa).
Từ khi Vanama đưa ra thuật ngữ Riti, các nhà lý luận văn học từ Trung đại đến
Cận - hiện đại đều dùng nó để chỉ phong cách nghệ thuật và vai trò của nó thông qua
việc đề xuất ba phạm trù chủ yếu: cảm thức (Rasa), các hình thức tu sức (Alankara), sự khơi gợi (Dhvani). Sang thế kỷ thứ IX, Rudrata thay bằng thuật ngữ sắc thái
(Varna), và cho rằng văn phong tăng thêm hai cấp độ nữa bao gồm năm sắc thái (tao
nhã – bình thường – thô mạnh – trang nghiêm – tuyệt vời). Tiếp nối ý kiến của
Radrata, Kuntala đã dùng thuật ngữ Marga (con đường/ cách thức) để chỉ về phong
cách. Theo ông Marga bao gồm ba khía cạnh (tao nhã – rực rỡ - hòa trộn) ứng với ba
phong cách (tự nhiên – trau chuốt – hòa trộn giữa tự nhiên và trau chuốt). Đến thế kỷ
XIV, Vitnavatha phê phán quan điểm nghệ thuật của Vanama khi coi phong cách là
linh hồn của thơ ca. Ông cho rằng phong cách là các dạng tổ chức ngôn từ. Theo ông,
tình cảm (Rasa) mới là linh hồn của thơ ca giúp cho độc giả đạt được niềm vui tức là
các linh hồn cá thể (Atma), linh hồn vũ trụ (hòa nhập vào Bharman). Tuy nhiên, các
quan điểm về phong cách của các nhà lý luận Ấn Độ còn có những thiếu sót nhất
định, họ đã cho rằng cái tôi cá nhân chỉ là vô nghĩa và giả tạo và văn chương là tặng
phẩm của thần linh ban tặng cho con người, nghệ sĩ chỉ là người thấu hiểu và ghi lại ý
niệm của thần linh trong tác phẩm, nghĩa là cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ không
được coi trọng.
Ở phương Tây, trải qua một thời kỳ lịch sử dài, từ thời cổ đại đến thời phục
hưng, việc nghiên cứu phong cách nhà văn là vấn đề được các nhà lý luận, nghiên cứu
quan tâm và chú ý. Khái niệm phong cách được hình thành sớm nhất ở Hy Lạp, sau đó, lan sang La Mã cổ đại, ở đây, stylus được xem như là phạm trù ngôn ngữ học. Về sau, những cuộc tranh luận sôi nổi về phong cách không ngừng xảy ra ở châu Âu, châu Mỹ, nhất là ở Liên Xô (cũ)… Trong các công trình lý luận bàn về phong cách, khái niệm phong cách vẫn được hiểu theo nghĩa ngôn ngữ học và nó vẫn tiếp tục được hiểu theo nghĩa đó qua các thế kỷ XVII, XVIII kéo dài cho tới thế kỷ XIX.
Sang thời cận đại, phong cách ngoài ý nghĩa là hệ thống thể hiện lời nói còn là
đặc trưng nghệ thuật của nghệ thuật. Vinkenman cho rằng phong cách chính là phương
27
hướng riêng biệt trong nghệ thuật được hình thành ở thời đại nào đó và nó là một hệ
thống xác định của các dấu hiệu nghệ thuật tư tưởng. Lúc này đã có nhiều công trình nghiên cứu theo quan điểm nghiên cứu nghệ thuật mới. Bước sang thời kỳ hiện đại,
theo quan niệm của các nhà nghiên cứu văn học thì phong cách được xem là một
phạm trù thẩm mỹ, một hiện tượng văn học nghệ thuật chứa đựng tất cả sự phức tạp
và đa dạng của nó.
Đến thế kỷ XX, vấn đề phong cách vẫn là đề tài tranh cãi của các nhà lý luận
văn học. Ở Liên Xô (cũ), trong chuyên luận Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát
triển văn học, M.B. Kravchenko đã nêu ra khoảng 20 định nghĩa về phong cách tiêu biểu cho các quan niệm khác nhau như D. Likhachev, A. Grogorian, V. Turbin, V.
Jirmunxki, V. Kovalev, L. Novichenko, V. Dneprov, Ya. Elxberg, R. Yakobxun… M.B.
Kravchenko đã nhận xét sự tồn tại các quan điểm này “… xòe ra như một cái quạt
giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mỹ rộng nhất, bao quát
và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của một tác phẩm riêng lẻ” [99; 258].
Cũng ở Liên Xô (cũ) nơi có nhiều cuộc tranh luận và có nhiều công trình về
vấn đề phong cách. D. Likhachev là người đầu tiên nhận ra phong cách cá nhân trong
văn học Nga cổ và cận đại, phát hiện ra vai trò phong cách nhà văn trong việc phản
ánh hiện thực bằng những phương tiện nghệ thuật. Theo ông, phong cách tồn tại với
hai hình thức: phong cách như là hiện tượng ngôn ngữ văn học và phong cách như là
một hình thức và nội dung nhất định [99]. Gần với cách hiểu như vậy Ar. Grigorian
khẳng định phong cách có mối liên hệ gắn bó với phương pháp, với thế giới quan, với
bút pháp, với cá nhân nhà nghệ sĩ, với cách hiểu của nghệ sĩ về thời đại, với vẻ đặc
thù dân tộc… phong cách là sự thống nhất cao nhất của những phạm trù đó. V. Turbin
là nhà nghiên cứu văn học nhưng lý giải phong cách theo kiểu ngôn ngữ học, xem
phong cách hoàn toàn có tính ngôn ngữ, phong cách – đó là ngôn từ được xét trong
mối quan hệ của nó đối với hình tượng. Khoảng vào giữa thế kỷ XIX, vấn đề phong
cách lại được đặt ra để bàn luận lần nữa. Tham gia vào cuộc tranh luận này có những nhà triết học Herbert, Spencer, nhà lý luận như Saint Beuve… những nhà văn như Balzac, Stendhal… các nhà ngôn ngữ học như Wundt, Steinthal… kết luận sau những cuộc tranh luận là sự đề cao ngôn ngữ, ngôn ngữ phải được xem xét ở phương diện phong cách.
Một khía cạnh khác của chiếc quạt là nhấn mạnh đến yếu tố hình thức của
phong cách. Phong cách được định nghĩa trong 150 thuật ngữ văn học “những đặc
điểm phong cách dường như hiện diện ở bề mặt của tác phẩm, như là một sự thống
28
nhất hiển thị và cảm giác được của tất cả các yếu tố chủ yếu thuộc hình thức nghệ
thuật. Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt kiến trúc tác phẩm, khiến tác phẩm có tính chỉnh thể, có giọng điệu và màu sắc thống nhất rõ rệt” [5; 263
- 264]. Gần với quan niệm phong cách là một hệ thống phức tạp của hình thức, nhà lý
luận A. Xokolov cho rằng “sự khám phá triệt để quy luật nghệ thuật của nó, ở sự xác
định rõ ràng những yếu tố mang phong cách và những nhân tố cấu tạo nó”. Tuy nhiên, ông không thừa nhận phong cách cá nhân của nhà văn là phạm trù văn học sử chủ
yếu. Theo tác giả, bên cạnh phong cách của tác phẩm riêng biệt, phong cách sáng tác
còn có một hiện tượng như là phong cách của khuynh hướng.
Phan Ngọc – nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp về vấn đề phong cách học, có
quan điểm sau “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu
biểu, hình thành một cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta
nhận diện một thời đại, một thể loại hay một tác giả” [dẫn theo 118; 78].
V. Jirmunxky nhấn mạnh rằng phong cách là sự thống nhất của những yếu tố
nội dung và những yếu tố tạo hình thức “phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự
biểu hiện thế giới quan của anh ta, thế giới quan đó được thể hiện trong những hình
tượng bằng các phương tiện ngôn ngữ” [97; 153]. Trong khi đó, L. Novichenko cho
rằng phong cách văn học là vẻ đặc thù trong những tác phẩm của nhà văn (hoặc của
một nhóm nhà văn) “vẻ đặc thù này được qui định bởi những quan điểm chung về
cuộc sống và thể hiện trong những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và
hình thức của những tác phẩm ấy” [dẫn theo 97; 153].
Khác với những quan điểm trên, Ya.Elxberg dựa vào những tư liệu cụ thể phong
cách là hình thức mang tính nội dung, đã đưa ra một định nghĩa về phong cách tương
đối hoàn chỉnh “phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có tính nội dung
được hình thành trong sự phát triển, trong tác động qua lại và trong sự tổng hợp các
yếu tố của hình thức nghệ thuật, dưới ảnh hưởng của đối tượng và nội dung tác
phẩm” [dẫn theo 97; 133-134].
Ở Việt Nam trước đây, phong cách chưa được xem là tiêu chí để đánh giá, nên sự tiếp cận tác giả và tác phẩm trên góc độ phong cách chưa được chú trọng, vì lẽ đó các quan niệm về phong cách, phong cách thể loại, phong cách thời đại, phong cách tác giả, phong cách tác phẩm… chưa được xác định một cách nhất quán. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu tiếp cận tác giả, tác phẩm từ góc độ phong cách. Cũng đã
có nhiều công trình nghiên cứu về phong cách nhà văn như các giáo trình lý luận văn
học của các trường Đại học Tổng hợp và Sư phạm do các tác giả Lê Đình Kỵ, Phương
29
Lựu, Nguyễn Văn Hạnh… biên soạn, một số công trình khác như Một số vấn đề thi
pháp học hiện đại của Trần Đình Sử, Nhà văn – Tư tưởng – Phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều của Phan Ngọc, Nhà
văn hiện đại – Chân dung và phong cách của Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn và phong
cách của Lê Tiến Dũng, Nhà văn Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức,
Văn là người của Phong Lê, Đi tìm chân lý nghệ thuật của Hà Minh Đức, các Tự điển văn học, Từ điển thuật ngữ văn học…; sau này có Phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khuyến của Biện Minh Điền, Phong cách nghệ thuật văn xuôi Thạch Lam của Nguyễn
Thành Thi, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu của Tôn Phương Lan, Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải của Tuyết Nga … cũng đề cập đến phong cách. Khi nói
đến khái niệm này, các tác giả cũng đề xuất cách hiểu khác nhau về phong cách nhưng
tựu trung, các công trình đều thống nhất rằng nghiên cứu phong cách nghệ thuật chính
là nghiên cứu “tìm cho ra những đặc điểm hình thức… mặt khác chỉ cho ra những
nhân tố quy định các đặc điểm hình thức ấy – những nhân tố thuộc về chiều sâu nội
dung của sáng tác như ý thức nghệ thuật hay những nét độc đáo trong cái nhìn của
nhà văn” [181; 17], tức là chỉ ra các đặc điểm hình thức có "tính nội dung”,“tính
quan niệm”. Như vậy, phong cách là sự độc đáo từ nội dung đến hình thức qua hàng
loạt tác phẩm của một tác giả nhất định.
Trong Tự điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu nước ta đã thừa nhận hai
phạm trù phong cách ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật “Phong cách nghệ thuật là
một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng,
của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của
nhà văn”. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh cái riêng tạo nên sự thống nhất ấy biểu hiện
ở cách “cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp” [60; 171]. Phan Ngọc
khẳng định “Phong cách là một cái nhìn… nó không phải đơn thuần là hình thức.
Nhưng phong cách phải dựa trên hình thức thì mới tồn tại được” [164; 482].
Thống nhất quan điểm đó, Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, Thành Thế Thái Bình, trong công trình Lý luận văn học nhận định “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của các nhà văn ưu tú” [130; 171]. Nhìn chung, các nhà lý luận và nghiên cứu văn học đều công nhận rằng phong cách chính là cá tính sáng tạo độc đáo mang tính thẩm mỹ của nhà văn. Cụ thể hóa các yếu tố tạo phong cách nghệ thuật tác
giả, nhà văn muốn có phong cách riêng phải có tư tưởng độc đáo, cảm hứng độc đáo,
cách cảm nhận thế giới độc đáo, có hệ thống phương thức thể hiện riêng độc đáo
30
nhưng là “tính chất độc đáo chân chính” (Heghen).
Như vậy, đến nay các quan niệm về phong cách còn nhiều vấn đề, chưa nhất quán. Qua nghiên cứu chúng tôi đồng ý với nhà nghiên cứu Nguyễn Thành Thi trong
chuyên luận Phong cách nghệ thuật văn xuôi Thạch Lam khi chia phong cách dựa
trên những quan điểm tương đồng thành bốn nhóm:
Nhóm thứ nhất cho rằng, phong cách nghệ thuật là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt biểu hiện ở hình thức của tác phẩm nghĩa là phong cách chỉ biểu hiện
qua hình thức. Tiêu biểu cho quan niệm này là V. Kovalev, Dneprov… Dneprov cho
rằng “Phong cách là mối liên hệ của những hình thức. Mối liên hệ đó bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật” [dẫn theo181; 15].
Nhóm thứ hai lại quan niệm rằng phong cách chủ yếu và trước hết biểu hiện
qua ý thức nghệ thuật, qua cái nhìn, qua cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn.
Tiêu biểu cho cách nhìn này có nhà văn Pháp Marcel Proust, tác giả cho rằng bản chất
của phong cách là cái nhìn “Đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ phong cách
không phải vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn” [164; 151].
Nhóm thứ ba đồng ý với ý kiến phong cách biểu hiện cả ở nội dung và cả ở
hình thức. Tiêu biểu cho nhóm thứ ba là A.X. Likhatsov, ông không đồng ý với ý kiến
“phong cách với tính cách một hiện tượng ngôn ngữ” mà cho là phong cách mang
“tính cách một hệ thống cụ thể về hình thức và nội dung”. Tác giả phân tích “phong
cách không chỉ là hình thức của ngôn ngữ” mà đó còn là “nguyên lý mỹ học của kết
cấu thống nhất tất cả nội dung và tất cả hình thức của tác phẩm”. Cái hệ thống tạo nên
phong cách có thể được bộc lộ trong tất cả các yếu tố của tác phẩm. Cùng với quan
niệm này có Grigorian “Phong cách là sự nhận thức hiện thực. Nhưng phong cách
cũng là hình thức của sự nhận thức đó…” [dẫn theo 181; 14].
Nhóm thứ tư cho rằng, phong cách là những đặc điểm hình thức nhưng những
đặc điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình thức có
tính nội dung. Đại diện cho quan niệm này là M.B.Khravchenko, ông định nghĩa “mỗi một nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và những phương tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình… nếu như dùng một công thức vắn tắt thì phong cách cần phải được định nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả” [dẫn theo 181; 14].
Qua những tư liệu mà chúng tôi tham khảo và tìm hiểu, chúng tôi cũng nghiêng
về ý kiến của nhóm 3 và nhóm 4. Từ đó chúng tôi đưa ra quan niệm riêng của mình về
phong cách nghệ thuật, mô tả cấu trúc một phong cách nghệ thuật và nêu hướng
31
nghiên cứu phong cách nghệ thuật tác giả.
2.1.2. Bản chất phong cách nghệ thuật nhà văn Chúng tôi đồng quan niệm với Phan Ngọc trong công trình Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, khi đề cập đến khái niệm “cấu trúc phong cách”
của mỗi tác giả và mỗi ngôn ngữ, chỉ ra những điểm chưa hợp lý trong các bài viết,
chuyên luận nghiên cứu về phong cách là chỉ tập trung về hình thức của “cấu trúc phong cách” mà quên không nêu bật được tính thống nhất hữu cơ giữa hình thức với
nội dung. Như vậy, phong cách chính là tổng thể các yếu tố về cả nội dung và hình
thức. Nó là cái nhìn, là quan niệm riêng của người nghệ sĩ về thế giới được thể hiện qua các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm như kết cấu, hình tượng, ngôn ngữ… và từ sự
nghiên cứu các yếu tố cụ thể của tác phẩm đến nhận diện cái tổng thể chung làm nên
nét đặc sắc nghệ thuật của hiện tượng văn học. Chúng tôi chú ý đến các phương diện
của phong cách (quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người, phương thức nghệ
thuật đặc trưng…) để tiến hành làm rõ những nguyên tắc nghệ thuật, những kiểu lựa
chọn riêng trong các yếu tố cấu trúc phong cách (kết cấu, cốt truyện, nhân vật, giọng
điệu, ngôn từ…) với mục đích làm nổi bật các phương diện phong cách trong một
chỉnh thể thống nhất đồng thời làm rõ sự gắn bó của các thành tố trong cấu trúc
phong cách.
Phong cách tác giả hay còn gọi là phong cách cá nhân. Hiện nay phong cách
tác giả còn tồn tại nhiều những quan niệm khác nhau nhưng rõ ràng dù nghiên cứu
các lĩnh vực khác của phong cách như phong cách dân tộc, phong cách thời đại,
phong cách trào lưu, phong cách thể loại, phong cách tác phẩm… thì người nghiên
cứu ít nhiều dựa vào sự khái quát từ các phong cách tác giả. Không thể phủ nhận
phong cách tác giả chính là nhân tố cơ bản để nhận diện tài năng người nghệ sĩ đồng
thời cũng để đánh giá những thành tựu của một trào lưu, một trường phái hay một nền
văn học cụ thể nào đó. Hiện nay hướng nghiên cứu phong cách tác giả trong sáng tác
là hướng đi hợp lý và hữu ích trong vấn đề nghiên cứu phong cách tác giả. Nó giúp cho các nhà nghiên cứu nhận diện phong cách một nhà văn, nhà thơ qua những sáng tạo, những cách tân… tạo nên dấu ấn riêng biệt biểu hiện qua quan niệm nghệ thuật về con người, phương thức nghệ thuật đặc trưng, cảm quan thẩm mỹ đặc thù để tìm ra phong cách cá nhân độc đáo của nhà văn.
Phong cách cá nhân được Buffon đề xuất từ đầu thế kỷ XVIII, theo Buffon,
phong cách không chỉ áp dụng cho văn học mà còn được áp dụng trong các lĩnh vực
khoa học khác như triết học, khoa học, lịch sử… Ngay từ thời cổ đại, với những đại
32
biểu xuất sắc như Platon “Tính cách thế nào thì phong cách thế ấy” [dẫn theo 75: 18],
Sénèque “Lời nói là diện mạo của tâm hồn” [75: 18]. Với sự tiến bộ vượt bậc về tư tưởng và khoa học kỹ thuật của thời kỳ Thế kỷ Ánh Sáng, nhà lý luận Buffon cho
rằng “Phong cách chính là bản thân con người”. Cùng với quan điểm đó, D. Alember
(1768 – 1848) và Chateaubriand (1768 – 1848) cũng cho rằng phong cách chính là tài
năng thiên bẩm, là cái không thể bắt chước, không thể học tập. Tuy nhiên, những quan niệm trên, xét cho cùng vẫn còn phiến diện, chưa đảm bảo phản ánh đầy đủ đặc
trưng của phong cách.
Như vậy, nói đến phong cách cá nhân là nói đến dấu ấn, tài năng sáng tạo nghệ thuật của cá nhân người nghệ sĩ thể hiện qua sáng tác. Từ cách tổ chức tác
phẩm, cách xử lý đề tài, cách xây dựng nhân vật, tạo tình huống đến giọng điệu, ngôn
ngữ… mà tư tưởng nghệ thuật như một tiêu chí quan trọng vừa mở đầu, vừa có tính
chất chỉ đạo, nhà văn Nguyễn Tuân cũng từng nói “Mỗi người có một cái vision
(nhỡn quan) riêng, nó đẻ ra phong cách” [115: 174]. Cái riêng độc đáo mang tính
thẩm mỹ - cốt lõi của phong cách, dù ở hoàn cảnh, điều kiện nào cũng thống nhất và
mang tính ổn định “phong cách là nói đến những biểu hiện độc đáo của tài năng sáng
tạo nghệ thuật, có tính thống nhất và tương đối ổn định, được “lặp đi lặp lại” trong
nhiều tác phẩm của nhà văn” [38: 16]. Để xác định một nhà văn có phong cách hay
không, các nhà lý luận, nghiên cứu phải nhìn thấy cái được “lặp đi lặp lại” một cách
có hệ thống và luôn bị chi phối bởi “cái nhìn độc đáo” của nhà văn. Chúng thường
xuyên ở thế vận động, phát triển và chịu ảnh hưởng của thế giới quan, của môi trường
xã hội và xu thế chung của thời đại, nhưng dù ở dạng nào thì yếu tố “lặp đi lặp lại”
vẫn xuất hiện, lộ rõ hay dưới dạng mạch ngầm. Qua nhiều công trình nghiên cứu từ
trước đến nay ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều chú ý đến những nét khu biệt được
lặp đi lặp lại. Sự lặp lại này có tần số xuất hiện cao hơn so với các yếu tố cùng loại
trong tác phẩm của chính nhà văn hay so với tần số xuất hiện của yếu tố đó trong tác
phẩm của các nhà văn khác. Sự lặp đi lặp lại này tạo nên phong cách nghệ thuật hay còn gọi là bản sắc thế giới nghệ thuật của nhà văn. Năm 1970, Hans Robert Jauss công bố công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học. Cùng khoảng thời gian đó, ở Việt Nam, Phan Ngọc đã công bố một công trình gây tiếng vang lớn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc đồng quan niệm với H.R. Jauss là khi nghiên cứu phong cách tác giả cần nghiên cứu trên
hai trục lịch đại và đồng đại.
Phong cách được hình thành ngay từ lúc nhà văn bắt đầu cầm bút và vận động,
33
phát triển, theo sự tác động của bối cảnh thời đại, môi trường sống, các nhà văn họ bị
ảnh hưởng… Phong cách nghệ thuật cá nhân được tạo nên trên nền móng tài năng nhưng nếu nhà văn không ý thức rèn giũa, khổ luyện công phu thì họ chỉ dừng lại ở
mức độ “tiềm năng bẩm sinh”, không thể trở thành nét độc đáo riêng trong sáng tạo
nghệ thuật của cá nhân mình được. Phấn đấu để có một phong cách nghệ thuật cá nhân
là sự đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của cả nền văn học. Một nền nghệ thuật càng có nhiều phong cách cá nhân thì càng có nhiều khả năng trở thành một nền
văn học lớn.
Đúc kết từ các tư liệu về phong cách, chúng tôi có quan niệm về nội hàm
phong cách nghệ thuật tác giả:
Phong cách nghệ thuật nhà văn là cái nhìn nghệ thuật của người nghệ
sĩ qua những tác phẩm, khái quát lên thành quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, con người. Quan niệm này chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như yếu tố chủ quan (cá tính,
thói quen, kinh nghiệm, vốn sống…), yếu tố khách quan (dân tộc, thời đại, văn hóa,
hoàn cảnh gia đình…).
Phong cách nghệ thuật nhà văn bao gồm cảm quan chủ đạo như cái
nhìn nghệ thuật chính yếu, sở trường chọn lựa, cách hành văn, bút pháp của nhà văn
cùng với một số nguyên tắc nghệ thuật, phương pháp sáng tác, biểu hiện qua cả nội
dung và hình thức nghệ thuật trong tác phẩm. Phong cách thể hiện qua những yếu tố phong cách, những phẩm chất nghệ thuật cơ bản của nhà văn.
Như vậy, câu nói nổi tiếng “Văn tức là người” của Buffon cũng là nói
đến “cái nhìn” (Nguyễn Thành Thi), “cái tạng” (Tôn Phương Lan) chính là phong
cách của nhà văn. Phong cách là nói đến dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ để lại
sâu sắc trong sáng tác: từ cách tổ chức tác phẩm, cách xử lý đề tài, cách xây dựng
nhân vật, phương thức trần thuật đến giọng điệu, ngôn ngữ… trong đó tư tưởng nghệ
thuật như một tiêu chí quan trọng có ý nghĩa mở đầu, vừa có tính chỉ đạo.
Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không ngừng qua mỗi giai đoạn sáng tác. Do vậy, nghiên cứu phong cách cần theo chiều lịch đại, các nhà nghiên cứu xem xét sự kế thừa, phát triển và sáng tạo tác phẩm, đánh giá những điều tác giả làm được có ảnh hưởng và tác động đến nền văn học đương thời và ảnh
hưởng đến thế hệ sau đến mức độ nào hay có tạo được bước ngoặt đáng ghi nhớ đối với dòng văn học hay không. Đồng thời, cần dựa theo phương pháp tiểu sử học và xã
34
hội học… để nhận định, lý giải, chứng minh, xem xét sự đóng góp của nhà văn theo chiều đồng đại, họ có tạo nên một phong cách riêng, độc đáo hay không vì không
phải nhà văn nào cũng có phong cách. Nhà văn có phong cách phải là nhà văn để lại dấu ấn không phai mờ trên hai trục lịch đại và đồng đại. Bên cạnh đó, cố gắng làm rõ
mối quan hệ bên trong tạo nên tính chỉnh thể của các phương diện phong cách và
thành tố cấu trúc.
2.2. Cơ sở hình thành phong cách nghệ thuật Sơn Nam Theo các nhà nghiên cứu thì cơ sở hình thành phong cách nghệ thuật tác giả
bao gồm nhiều yếu tố: yếu tố khách quan đó là truyền thống văn hóa của quê hương,
đất nước; những biến động của lịch sử và thời đại; yếu tố chủ quan gồm kinh nghiệm, vốn sống, tư tưởng, tài năng và tính cách bẩm sinh cũng như sự trau giồi, nỗ lực học
hỏi, vận dụng… của tác giả và các yếu tố đó ảnh hưởng có mức độ, phương diện khác
nhau đến các sáng tác của mỗi cá nhân nhà văn. Ngoài ra, sự tiếp nhận của công
chúng đối với những đứa con tinh thần của nhà văn cũng là một yếu tố hình thành
phong cách tác giả.
Trên cơ sở nhận thức về phong cách, chúng tôi cố gắng soi chiếu, vận dụng để
tìm hiểu phong cách nghệ thuật của nhà văn Sơn Nam.
Dù ở thể loại nào truyện dài, tiểu thuyết, ký, truyện ngắn, viết trong giai đoạn
nào thì văn phong của Sơn Nam cũng luôn nhất quán. Sáng tác của ông cũng là
những bức tranh đa diện, nhiều màu sắc của quê hương và con người miền Tây Nam
Bộ nói riêng và của miền Nam nói chung lúc con người ra sức khẩn hoang, khi họ
dưới gót giày ngoại bang hay khi nước nhà đã thống nhất. Có thể khẳng định Sơn
Nam là một tài năng lớn, là nhà văn có phong cách và chính phong cách đó góp phần
làm đa dạng nền văn học hiện đại nước nhà. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật nhà
văn chính là khẳng định một phong cách độc đáo trong những phong cách độc đáo
khác. Nhiệm vụ của luận án là nghiên cứu phong cách nghệ thuật Sơn Nam tức là
khảo sát tất cả các yếu tố hình thức, tìm ra những đặc điểm hình thức và tất cả các yếu
tố nội dung - những nhân tố thuộc về chiều sâu nội dung như ý thức nghệ thuật hay cái nhìn của nhà văn… để chỉ ra đặc điểm có “tính nội dung” trong các tác phẩm văn xuôi của Sơn Nam.
Yếu tố nổi trội vừa mang tính ổn định, độc đáo vừa chi phối các yếu tố khác để làm nên thế giới nghệ thuật riêng ở Sơn Nam là cảm quan văn hóa và cảm quan hiện thực đời thường về đất và người Nam Bộ. Hai cảm quan này đã hòa quyện với nhau
như định hướng cho một cái nhìn nghệ thuật của chủ thể sáng tạo, đồng thời đây cũng
35
chính là hạt nhân của cấu trúc phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
2.2.1. Thời đại và truyền thống văn hóa
Mỗi nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ sĩ tài năng qua tác phẩm tạo nên được ảnh
hưởng lớn đối với đương thời cũng như hậu thế. Thời đại, hiện thực và truyền thống
văn hóa dân tộc đã tác động rất lớn vào hoạt động sáng tạo nghệ thuật của nhà văn, nhà
thơ. Giữa cá nhân nhà nghệ sĩ với thời đại mà họ đang sống có mối liên hệ gắn bó khắn
khít với nhau. Nếu không có những mối liên hệ đó tức là những sáng tạo nghệ thuật của
họ sẽ không có giá trị đích thực. Từ xưa đến nay trong lịch sử văn học thế giới, những
tác phẩm được đánh giá cao vượt ra ngoài biên giới của một đất nước đều là những tác
phẩm phải vừa có tính nhân văn sâu sắc, vừa nêu lên được vấn đề của thời đại. Nếu
không chú ý đến thời đại thì những nhà văn khó hình thành phong cách. Cách nhìn
nhận cuộc sống, tư duy nghệ thuật mỗi nhà văn đã khiến cho họ quan tâm đến những
vấn đề khác nhau của cuộc sống, có khi cùng quan tâm đến một vấn đề nhưng cách
khai thác của mỗi người một khác. Thời đại là cơ sở hình thành những phương diện
khác nhau của phong cách nghệ thuật.
Truyền thống văn hóa của một dân tộc cũng là yếu tố quan trọng trong việc hình
thành phong cách. Mỗi quốc gia, dân tộc đều có một nền văn hóa riêng, không thể lẫn
lộn với nền văn hóa của các quốc gia, dân tộc khác. Nhà văn sinh ra và lớn lên, trưởng
thành trong một môi trường mà truyền thống văn hóa đã tác động rất lớn vào hoạt động
sáng tạo nghệ thuật. Môi trường văn hóa chính là nơi chắp cánh cho tài năng của nhà
nghệ sĩ, một môi trường văn hóa đầy đặn, hoàn chỉnh và sống động cũng sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến người sáng tác cũng như những sáng tạo nghệ thuật của họ. Nếu thiếu đi
nền tảng của môi trường văn hóa của dân tộc thì nhà văn khó có những tác phẩm có giá
trị cũng khó làm cho phong cách nhà văn được hình thành. Nguyễn Trần Bạt trong bài
viết Chúng ta chưa có một con ngựa văn hóa để cưỡi có một nhận định rất thú vị “Nobel không phải là một giải thưởng cho một người tài đơn giản mà là một người tài cưỡi trên một con ngựa văn hóa rực rỡ”
Như vậy, trong việc hình thành phong cách nhà văn không thể thiếu yếu tố thời
đại cũng như truyền thống văn hóa của một dân tộc, một vùng miền .
2.2.1.1. Dấu ấn dân tộc và cảm hứng thời đại
Sơn Nam là một nhà văn của miền đất mới. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cực Nam của tổ quốc, vùng đất hoang vu mênh mông sông nước, nơi con người tứ xứ
36
khắp nơi đổ về để khẩn hoang lập ấp. Dấu ấn thời khẩn hoang, mở đất, chống ngoại
xâm cùng với truyền thống văn hóa dân tộc góp phần tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
Truyền thống văn hóa bốn ngàn năm của dân tộc là nền móng vững chắc cho
sự phát triển của phong cách nghệ thuật Sơn Nam. Ngược dòng lịch sử, dân tộc Việt
Nam có một truyền thống đấu tranh chống thiên nhiên để xây dựng đất nước và chống ngoại xâm bảo vệ lãnh thổ… vô cùng anh dũng. Điều này đã tạo cho con người Việt
có tính cách kiên cường tự chủ và sự chịu đựng bền bỉ.
Văn học Việt Nam phong phú và đa dạng, ngoài văn học dân gian, văn học viết chữ Hán từ thế kỷ X - XIX ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Cùng với những thăng
trầm lịch sử, văn học viết có những vận hội lớn, tạo được vị trí độc lập. Ba dòng tư
tưởng Nho – Phật – Lão trở thành nguồn cảm hứng cho nghệ thuật trung đại. Quan
niệm nghệ thuật sống gần thiên nhiên tạo cho văn chương nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng
cũng sát sao với nhân tình. Về hình thức, thể loại, trong Văn học Việt Nam (1939)
Dương Quảng Hàm đã phân chia văn học thời kỳ này chủ yếu là thơ bao gồm hai loại
cổ thể và cận thể. Có thể chia chúng thành ba loại lớn: Vận văn (loại văn có vần),
Biền văn (loại văn không có vần mà có đối), Tản văn hay văn xuôi (không vần cũng
không đối). Các hình thức văn học hoàn toàn tôn trọng khuôn phép mẫu mực của văn
học Trung Quốc.
Giữa thế kỷ XIX, văn học Việt Nam có một bước tiến theo hướng hiện đại hóa
với tốc độ phát triển nhanh chóng, đạt được những thành tựu chưa từng thấy. Nền văn
học Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hưởng văn học Trung Quốc. Chữ quốc ngữ được
phổ biến ngày càng rộng rãi. Những tác giả Tây học nở rộ, nhiều tác phẩm bằng chữ
quốc ngữ có giá trị xuất hiện. Nhờ tiếp thu văn học Pháp mà văn học Việt Nam có
những cách tân, đổi mới to lớn về thể loại, ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nghệ
thuật, xây dựng nhân vật… Nhiều trào lưu ra đời: phong trào Thơ Mới, Tự lực Văn
đoàn, dòng văn học hiện thực phê phán… Chính luồng gió mới của thời đại đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của văn học Việt Nam, thay đổi cách suy nghĩ, cách viết của thế hệ cầm bút, đồng thời cũng sản sinh một lớp độc giả mới.
Tiếp nối truyền thống dân tộc, Sơn Nam luôn đi tìm cho bản thân con đường về với cội nguồn dân tộc, nhà văn “có năng khiếu và đam mê thơ văn viết lách” [169; 14], tiếp thu truyền thống văn hóa của dân tộc cùng với sự định hướng rõ ràng trên
đường văn nghiệp, Sơn Nam là một trong số ít nhà văn tìm được vị trí trên văn đàn
miền Nam trước 1975, sau ngày nước nhà thống nhất và tiếp tục cống hiến cho đến
37
lúc ra đi vĩnh viễn (2008).
Vào giữa thế kỷ XVIII, thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm lược Việt Nam, sau thất bại ở Đà Nẵng 1858, Pháp tiến vào miền Nam lần đánh chiếm Gia Định (1858),
ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa cùng với đảo Côn Lôn
(1961), và hoàn tất cuộc chiếm đóng ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên (1967). Triều đình Huế bấy giờ đành công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong
kiến về hình thức; Nam Kỳ là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp để tạo thành một lãnh
thổ thực dân Cochinechine (Nam Kỳ). Cùng với Lào và Kampuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Đến năm 1872, quân Pháp đánh ra
Bắc Bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực dân Pháp hiệp ước
“Hiệp định hoà bình” tại Huế. Với hiệp ước này, toàn bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt
dưới ách thống trị của người Pháp. So với miền Bắc và miền Trung thì miền Nam đã
sớm tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa Tây Phương, chủ yếu là văn hóa Pháp sớm hơn gần
hai thập kỷ. Đây là thời kỳ bi thảm trong lịch sử của mảnh đất phương Nam.
Dưới sự cai trị của nhà nước Pháp, miền Nam đã có nhiều đổi thay về mọi mặt,
từ chính trị xã hội, kinh tế, giáo dục… đương nhiên nó kéo theo sự đổi mới về văn
hóa, văn học. Chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp ảnh hưởng rất lớn đối với
xã hội và người dân miền Nam bấy giờ: phụ thuộc về chính trị, bị bóc lột về kinh tế
qua những lần khai thác thuộc địa. Thực dân Pháp bắt đầu chiếm đất xây dựng những
đồn điền, tiểu vương quốc, tuyển nhân công xứ thuộc địa với giá rẻ mạt... Sơn Nam
viết trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam “Thực dân Pháp gây xáo trộn toàn diện cho
việc khẩn hoang ở miền Nam, mạng sống người dân không được bảo đảm, nói chi
đến mùa màng, đất ruộng...” [31b; 152]. Trong không khí chộn rộn của miền Nam
thời kỳ này, các cuộc khởi nghĩa của những người yêu nước nổ ra liên tục từ cuối thế
kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX trên dải đất miền Nam, nhiều “Nho sĩ dùng võ lực kháng
Pháp nổi danh là Thủ Khoa Huân, đáng danh chí sĩ; chiến sĩ văn hóa là ông Đồ Chiểu (…). Trương Định coi việc đồn điền (…). Nguyễn Trung Trực là nông dân” [31b; 152 -153]. Những cuộc bắt bớ, giết chóc, ban bố án tử hình cho những người yêu nước, những người bất hợp tác hay nổi dậy chống thực dân xảy ra liên tục “Vào cuối năm 1868, đô đốc Ohier ban hành quyết định số 273 ra giải thưởng cho những ai bắt nộp những lãnh tụ kháng chiến” [31b; 167]. Treo giá “1.000 quan mỗi người” cho mỗi
“lãnh tụ kháng chiến gồm mười một người” trong đó có cậu Hai Quyền (con Trương
Định), Hàn Lâm Phu , ấp Quyền (đội phó của Trương Định), Tổng binh Thành, Tổng
38
binh Hinh, Tổng binh Cách, nguyên soái Thân, phó nguyên soái Dương, hai cậu Tư
và cậu Năm (con của Phan Thanh Giản)…; và “hai người với giá 500 quan” là Đề đốc Đạo, Đốc binh Sắc [31b; 167]. Tất cả điều này tác động rất lớn vào xã hội miền
Nam thời kỳ này.
Mặt khác, dưới sự “cai trị” của thực dân, người miền Nam đã bắt đầu tiếp nhận
những tư tưởng mới. Nền văn học Nho giáo tuy được phục hồi làm quốc giáo từ thời nhà Nguyễn nhưng đã đến hồi suy tàn, mất đi vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng
đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa trước những ảnh hưởng to lớn và mạnh mẽ của
nền văn hóa phương Tây. Khởi đầu quá trình giao lưu, đối tượng trực tiếp tiếp xúc là tầng lớp sĩ phu - những người nhạy cảm với văn hóa đương thời nên phân hóa thành
ba thái độ ứng xử khác nhau, một số người chống lại văn hóa xa lạ “ngoại lai”, số
người khác chấp nhận sự giao tiếp, hợp tác với Pháp, học chữ Pháp, văn hóa Pháp để
làm việc với chính quyền thuộc địa. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người tích cực giao
lưu với Pháp để có hướng giải phóng dân tộc. Trước những làn sóng văn hóa Âu Tây
“văn học miền Nam… đào sâu vào hình ảnh con người tự do cá nhân… đồng thời đã
tiếp xúc với những trường phái mới mẻ nhất của văn học Tây Âu như trường phái
Tiểu thuyết mới, Phê bình mới, Hiện sinh chủ nghĩa…” [175; 1015]. Năm 1954, khi
đất nước bị chia cắt thành hai miền, Việt Nam lại bị cuốn vào cuốc chiến tranh mới,
mỗi nhà văn đều có lựa chọn riêng của mình. Sơn Nam cũng như các nhà văn khác đã
hòa mình vào dòng chảy của thời đại.
Sơn Nam từng là học sinh trường Pháp và bước chân của ông đi khắp miền
Nam lục tỉnh, có thời gian ông hoạt động cách mạng với tư cách là một cán bộ văn
hóa ở Rạch Giá. Ông đọc nhiều từ văn hóa Đông đến Tây phương… có điều kiện tiếp
xúc với nền văn minh phương Tây trên nguyên bản, chứng kiến từng đổi thay trên
vùng đất Nam Bộ. Đồng thời ông chịu khó lắng nghe, ghi chép, sưu tầm, nghiên
cứu… cuối cùng ông đã chọn cho mình một con đường văn nghệ riêng trong một nền
văn nghệ đa dạng và phức tạp của miền Nam lúc bấy giờ. Đó là con đường về với cội nguồn quê hương Nam Bộ, cả về nội dung phản ánh cũng như cách thức diễn đạt mang phong cách riêng của ông. Qua thời gian, chúng ta biết rằng ông đã chọn đúng. Không chỉ là một nhà văn hóm hỉnh, sắc sảo, mà ông còn là một tác gia biên khảo đáng tin cậy. Với nội dung gần với đời sống người dân lao động chân chất và một văn phong, ngôn ngữ đậm sắc thái Nam Bộ, tác phẩm Sơn Nam đã đi sâu và lòng bạn đọc,
đặc biệt là độc giả miền Nam.
2.2.1.2. Dấu ấn văn hóa vùng miền
39
Nam Bộ với kho tàng văn hóa dân tộc những sản phẩm nghệ thuật vô giá,
mang đậm dấu ấn văn hóa vùng sông nước. Tuy nhiên, ở nơi đây, văn chương chưa được cày xới, đào sâu để tìm thấy giá trị đích thực của nó. Trong những thập niên gần
đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu chuyên môn và nhiều
luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ đã có những đóng góp đáng kể.
Miền Nam - vùng đất mới, với lịch sử hình thành 300 năm. Đất đai được mở rộng theo bước chân đoàn người Nam tiến. Môi trường sống chỉ là sông với nước, nơi
đất thấp trời cao, đất chỉ cao hơn mặt nước biển chừng một mét, tràm nguyên sinh
mọc dầy đan kín, mùa mưa nước ngập, mùa nắng đất lầy, nơi hội tụ những loài động vật nguy hiểm như cọp, beo, cá sấu, heo rừng… Ngoài ra, còn với muỗi mòng, rắn,
rết, vắt, đỉa… thường xuyên đe dọa. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên thời khẩn hoang,
sự đối mặt với những thử thách trên đường đi mở cõi đã tạo nên diện mạo tinh thần
mạnh mẽ, kiên cường của người Nam Bộ mà nhà nghiên cứu Trịnh Hoài Đức mô tả
“sĩ khí hiên ngang” với những con người “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” khi đề cập
đến tính cách của con người đi “khẩn hoang, mở cõi”.
Những nhà văn đặt nền móng cho văn học miền Nam, là những người vừa
bước ra khỏi thể chế văn học Trung đại, tiếp xúc với nền văn học ảnh hưởng Tây
Phương, nền văn học chữ quốc ngữ - một nền văn học đã làm nên một quá trình hiện
đại hóa ngoạn mục ở miền Nam nói riêng, cả nước nói chung cuối thế kỷ XIX – đầu
thế kỷ XX. Nó đóng vai trò tiên phong trong vấn đề tiếp thu văn hóa phương Tây. Do
sống dưới quy chế dân chủ áp dụng ở thuộc địa của thực dân Pháp, văn hóa chân Âu
ngày càng đi sâu và lan rộng vào nếp sống của miền Nam. Bên cạnh đó, những đặc
trưng thổ nhưỡng vùng miền cũng tạo nên nét đặc trưng của người miền Nam, họ dễ
mở lòng để đón nhận cái mới và nhanh chóng ảnh hưởng cách sống, cách cảm nhận,
cách nghĩ của người phương Tây. Nhờ dẫn đầu về tiếp xúc văn hóa, Nam Bộ trở
thành đầu tàu cho cả nước trong đổi mới văn hóa. Cùng với sự phát triển đó, ý thức cá
nhân từ phương Tây cũng du nhập và kích thích sự tìm tòi sáng tạo của người Nam Bộ “Họ là những người tiên phong, nhất là trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, thể hiện ở sự lựa chọn quyết liệt, dẫn đến những quyết định táo bạo mà con người ở những vùng đất khác không dám vượt lên” [90]. Văn học Nam Bộ trước thời của Sơn Nam không nhiều như văn học miền Bắc cùng thời nhưng cũng không thể gọi là ít, đội ngũ nhà văn Nam Bộ đi đầu trong cuộc cải cách, biết vận dụng chữ quốc ngữ tạo
điều kiện cho sự canh tân đất nước trong đó có văn học.
Ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có những tác giả tạo nên tên tuổi
40
cho nền văn học. Những tác giả này thuộc thế hệ nhà văn Tây học cùng với chữ quốc
ngữ, xuất hiện trên văn đàn đem một luồng gió mới đến cho văn học làm thay đổi gần như hoàn toàn diện mạo văn học miền Nam vào đầu thế kỷ XX. Có thể kể đến những
tác giả văn chương như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Hồ
Biểu Chánh... đến Bình Nguyên Lộc, Huỳnh Văn Nghệ, Trang Thế Hy, Lý Văn Sâm...
cũng như những tên tuổi trong lĩnh vực nghệ thuật cải lương của Cao Văn Lầu, Trần Hữu Trang… cùng với những tên tuổi vô danh hoặc hữu danh đóng góp nhiều trên các
lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa của một vùng đất mới qua một thời kỳ lịch sử gian truân
của đất nước. Để lý giải về tinh thần tiếp nhận một nền văn hóa mới dễ dàng và nhanh chóng của người Nam Bộ, nhiều nhà nghiên cứu đều có chung một nhận định: Là một
vùng đất mới, con người Nam Bộ từ những làn sóng di dân tứ xứ đến khai hoang lập
nghiệp, sự hiện đại hoá ở đây đã diễn ra nhẹ nhàng trôi chảy hơn các miền Bắc và miền
Trung là “Do di sản văn hoá quá khứ không nặng nề, tính chất quan phương chính
thống, tính chất “cổ điển”, “bác học” chưa thấm sâu vào văn học viết miền Nam.”. Do
vậy, văn học miền Nam có “một tâm thế luôn sẵn sàng đón nhận yếu tố mới, yếu tố
“hiện đại” - mà chủ yếu có khởi nguồn từ ngoại lai” [182; 292]. Nền văn học ảnh
hưởng phương Tây đã đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa văn học miền Nam và Sơn
Nam đã góp phần không nhỏ đưa văn học đến giới lao động bình dân Nam Bộ.
Như vậy, ảnh hưởng và tác động của văn hóa Nam Bộ đối với Sơn Nam xuất
phát từ hai nguồn chính, một là từ nguồn văn hóa dân gian, hai là nguồn bác học qua
sách vở và báo chí. Trong quá trình phát triển bao giờ cũng có sự bất cập, do những
yếu tố mới được tiếp thu chưa đủ thời gian chuyển hóa vận dụng nên nhiều tác giả
khó đạt đến độ chuẩn mực. “Nhà văn miệt vườn” là một trong số ít đạt được chuẩn
cần thiết không chỉ ở giai đoạn đương đại mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến các nhà
văn sau này.
2.2.2. Hoàn cảnh xuất thân và cá tính nhà văn
2.2.2.1.Hoàn cảnh xuất thân
Nhiều nhà nghiên cứu về phong cách đã tập trung chú ý về phương pháp tiểu
sử học, nghĩa là lấy việc tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân và cơ sở hình thành tư tưởng
nhà văn để tìm hiểu tác phẩm. Phương pháp này do Saint – Beuve khởi xướng. Theo
Saint – Beuve, tác phẩm là “cái tôi nói năng” của nhà văn, còn cá nhân nhà văn là thế
giới tâm hồn người nghệ sĩ. Ông cho rằng sử dụng tác phẩm như nguồn tư liệu để mô
tả thế giới tâm hồn nhà văn chứ không phải tác phẩm văn học xuất phát từ tâm lý nhà
41
văn. Vì vậy, nghiên cứu tiểu sử là mở ra nhiều khả năng lý giải sự hình thành phong
cách. Đây là phương pháp hữu ích trong việc nghiên cứu sáng tác của các nhà văn có
cốt cách hiện thực. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là nó đồng nhất con
người sáng tạo với con người tiểu sử trong khi hai con người này không phải lúc nào
cũng trùng khớp. Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp này theo nguyên lý “từ tiểu sử
đến nhà văn, từ nhà văn đến tác phẩm” không hẳn đúng với nhà văn có tài năng bẩm
sinh do di truyền hay đột biến chưa từng có trong phả hệ. Tuy nhiên, hướng nghiên
cứu phong cách nhà văn bằng phương pháp tiểu sử đối với một số nhà văn là cần thiết
vì nó lý giải được những đặc điểm của phong cách nghệ thuật.
Sơn Nam sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Gia đình của
tổ tiên nhà văn ở Cù lao Ông Chưởng (An Giang). Vì điều kiện sống khó khăn, theo
chủ trương khẩn đất tự do của thực dân Pháp nên ông nội nhà văn đem gia đình qua
Rạch Giá đến Cù Là rồi xuống U Minh. Nhưng vùng đất nơi này là vùng đất úng, khó
có thể canh tác nên khi nhà văn lên 6 tuổi, cha Sơn Nam lại tiếp tục di dân ven vịnh
Thái Lan, cách Rạch Giá khoảng 15km về phía Hà Tiên, nay gọi là vùng Tứ Giác nay
gọi là “Tứ giác Long Xuyên” (gồm Long Xuyên – Rạch Giá – Hà Tiên – Châu Đốc).
Đây là lần di dân khẩn đất lần thứ hai của gia đình Sơn Nam. Vùng đất mới thấp,
quanh năm lũ lụt, tuy “đẹp thơ mộng” nhưng “không khí u buồn”. Sơn Nam trưởng
thành trong môi trường mà những con người mạnh mẽ, gân guốc, kiên cường từng
ngày, từng giờ ra sức khai khẩn đất hoang, bảo vệ từng mảnh đất, từng con sông, từng
cánh rừng… của thế hệ cha ông. Nhờ đó, ngay từ khi còn bé, Sơn Nam đã có lòng
yêu mến trân trọng và tự hào về một lịch sử khẩn hoang hào hùng của dân tộc.
Sau khi rời ghế nhà trường, được mời làm cán bộ tuyên huấn ở chiến khu 9,
chính nơi đây, Sơn Nam có một bước ngoặt về tư tưởng, chàng thanh niên còn đang
bối rối trước cảnh nước mất nhà tan, tương lai mờ mịt của bản thân thì lúc này ông đã
có một định hướng rõ ràng cho bản thân. Sau này trên con đường sự nghiệp viết lách,
ông đã chọn con đường quay về với cội nguồn và lấy đó làm cảm hứng sáng tác trong
suốt cuộc đời của mình, một phần vì tấm lòng yêu mến quê hương, phần khác vì sống
trên mảnh đất miền Nam bộn bề phức tạp mà ông lại là nhà văn kháng chiến cũ muốn
đựợc yên bình để sinh sống và sáng tác buộc phải chọn cho mình một phương pháp
42
sáng tác có thể tránh sự kiểm soát gắt gao của chính quyền đương thời. Sự lựa chọn
đúng đắn này đã tạo nên một phong cách độc đáo của nhà văn Sơn Nam.
2.2.2.1. Cá tính nhà văn
Cá tính là cái làm nên bản sắc của con người cá nhân, nó là cốt lõi của ý thức
cá nhân. Cá tính là một mặt nào đó của tính cách được biểu lộ mạnh mẽ, thường
xuyên, tạo nên nét đặc trưng của mỗi sự vật. Người ta dựa vào đó để đặt biệt danh,
tên hiệu cho sự vật. Những sự vật có khả năng tạo được cảm xúc cao cho người
thưởng thức. Nó được xem là “giầu cá tính”. Có người cho rằng khi mất đi cá tính thì
thế giới của con người sẽ biến thành sa mạc của sự trừu tượng, bởi vì các sự vật trở
nên giản đơn một cách đáng sợ vì bị cướp mất ý nghĩa huyền bí của sự sống. Quan
niệm về cá tính chi phối rất sâu sắc đến nghệ thuật mô tả cũng như nghệ thuật diễn
đạt của nhà văn. Cá tính được hình thành một phần do bản chất con người, phần khác
là do hoàn cảnh sống như gia đình, xã hội... chi phối. M.B. Kravchenko cho rằng “Cá
tính sáng tạo – đó là cá nhân của nhà văn với những đặc điểm vô cùng quan trọng về
mặt xã hội – tâm lý của cá nhân đó, là cách nhìn nhận và cách thể hiện thế giới của cá
nhân đó, đó là cá nhân của nhà văn trong mối quan hệ của nó đối với những nhu cầu
thẩm mỹ của xã hội, trong việc cá nhân đó hướng tới công chúng độc giả, hướng tới
những người mà vì họ văn học được tạo ra...” [97; 116]. Như vậy, để hiểu được tác
phẩm của một nhà văn nào đó, người đọc hay người nghiên cứu cần biết rõ cá tính
sáng tạo của nhà văn cũng như nhu cầu thẩm mỹ của xã hội và của thời đại mà nhà
văn đang sống thì sự tiếp cận với tác phẩm sẽ dễ dàng hơn trong quá trình nghiên cứu.
Sơn Nam là một nhà văn – nhà văn hóa Nam Bộ có cá tính riêng biệt, khác với các
nhà văn khác cùng thời, ông có cái nhìn, có cách suy nghĩ khác biệt. Chính điều này
tạo cho tác phẩm của Sơn Nam được xem là “giàu cá tính”.
Đầu tiên, tính “giàu cá tính” này cũng bộc lộ qua cách sống, cách nghĩ, quan niệm sáng tác của Sơn Nam. Sau đó chi phối qua cách kể chuyện, qua mô tả nhân vật trong từng tác phẩm. Ông được nhiều người yêu mến vì tính cách đặc biệt của mình. Theo một lời kể của một người bạn văn đã từng gặp và trao đổi với Sơn Nam “…Ông mặc bộ quần áo cũ kỹ, chân đi đôi dép cũ, cả khuôn mặt tác phong (…). Sơn Nam
43
được độc giả yêu mến ở cái dung dị, cái chất “cổ” của ông.” [91; 15]. Trong mắt của mọi người, nhất là những người hiểu và yêu quý ông thì Sơn Nam là một con người “có lắm tâm tư, nỗi niềm cá biệt… có những nỗi cô đơn khát khao trĩu nặng trên
khuôn mặt già nua khắc khoải (…) đang mộng du vào thế giới nội tâm tư hữu của đời ta, chỉ có ông mới hiểu” [170; 34]. Con người nhỏ bé, dung dị có bút danh Sơn Nam
còn được gọi với nhiều tên thân thương “Ông già đi bộ không mệt mỏi”, “Nhà Nam
Bộ học”, “Nhà văn miệt vườn”, “Nhà văn vùng đất mới”, “Cây đước của vùng châu
thổ”… được mọi người trân trọng vì đã đưa đến cho bao thế hệ bạn đọc những món ăn tinh thần quí giá. Bước qua thời tuổi trẻ nhiều gian truân, gia đình không thể chu
cấp cho nhà văn tiếp tục con đường học vấn mà ông cho là lý tưởng của cuộc đời
mình. Trong Hồi ký tập Từ U Minh đến Cần Thơ, lời của người cha đau đớn đến xé lòng “Mầy tính chuyện nghỉ học là vừa. Muốn học thêm nữa, ba cũng không có tiền
gởi hàng tháng. Ba thấy đi học không ích lợi gì hết” [13a; 123]. Trở về quê hương với
nỗi buồn sâu thẳm: tuổi còn quá trẻ (15 tuổi), việc học hành không tới đâu, sự nghiệp
dang dở, sức khỏe ốm yếu, luôn mang mối băn khoăn, lo lắng với cuộc đời: cảnh
nước mất nhà tan, cảnh gia đình khó khăn, bản thân chưa biết phải làm gì để giúp
nước, giúp gia đình và chính bản thân mình “Nước non, hai tiếng quen thuộc nhưng ý
nghĩa cụ thể ra sao? Nghĩ tới đó, tôi thấy mình quá bé bỏng, gần như lạc đề. Chữ
nghĩa học được ở Cần Thơ, với 15 tuổi đầu, chưa vào đời quả ít ỏi” [13a; 145]. Trên
con đường tìm kế mưu sinh, ông đã đi khắp miền Nam lục tỉnh từ Rạch Giá đến Cần
Thơ, qua An Giang, Châu Đốc rồi xuống đến Hà Tiên, Cà Mau… đi đến đâu, nhà văn
đều ghi nhận, lưu giữ những điều mắt thấy tai nghe.
Thời gian này, Sơn Nam tham gia hội văn nghệ chiến khu, tiếp xúc với nhiều
người. Càng đi nhiều, càng đọc nhiều càng thấy sự thiếu hụt về kiến thức của mình,
nên bắt đầu tìm và xem kỹ sách báo hồi cuối thế kỷ XIX của Pháp ghi chép về miền
Nam, sưu tầm những câu thành ngữ, ca dao, bài hát dân gian Nam Bộ… Sơn Nam
phát hiện ra là văn chương có sức mạnh và có tầm quan trọng, ngòi bút có thể làm ra
những điều kỳ diệu, nó vừa có thể làm thay đổi con người hoặc phục vụ cuộc đời một
cách tốt nhất trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng của đất nước. Văn chương phù hợp với lý tưởng và thể trạng của chàng học trò vừa rời ghế nhà trường “Đúng ra, như sau này tôi biết là dùng chữ viết giấy để gợi lại ấn tượng hỉ nộ ái ố” [13a: 235]. Tuy nhiên theo văn chương không phải là dễ dàng, điều này càng giúp cho niềm đam mê văn chương sục sôi, thúc đẩy ông tìm tòi học hỏi “việc ham mê văn học vẫn ám ảnh tôi. Với chút tiền dành dụm được, bèn đem mua sắm những bộ sách quý… gần như ít ai
chịu đọc” [13a: 149]. Cũng giai đoạn này, Sơn Nam có nhiều thời gian nên tiếp tục
nghiên cứu văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Phương mà ông đã có dịp tiếp cận khi
44
còn ngồi trên ghế nhà trường “Nhờ đọc sách Pháp văn, tôi (…) hiểu được những loại
sách “đỉnh cao” để noi gương” [13a: 149].
Thời kỳ sống ở chiến khu 9 với tư cách là một cán bộ văn hóa là một giai đoạn
quan trọng trong cuộc đời nhà văn, đánh dấu một bước trưởng thành về tư tưởng,
cũng là cơ sở hình thành cá tính nhà văn với những nét giản dị, thuần phác, gan dạ,
chịu khó, chịu khổ, ưa tìm tòi, thích hoài niệm, độc đáo… Sự nghiệp sáng tác của ông bắt đầu với bút hiệu là Sơn Nam, cái tên ông lấy vì lòng biết ơn đối với người phụ nữ
Khmer đã từng cho ông bú mớm. Lúc đầu ông viết một số bài thơ đăng trên tờ Lúa
reo. Hai sáng tác văn xuôi đầu tay của ông là truyện vừa Bên rừng Cù lao Dung và ký sự Tây Đầu Đỏ (1952) cả hai đã nhận được giải nhất và giải nhì Văn nghệ Cửu Long
do Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ trao tặng. Điều này là một khích lệ lớn
đối với ông. Sau này khi làm việc ở Sài Gòn, có điều kiện tiếp thu nhiều luồng văn
hóa thế giới, Sơn Nam càng kiên định trong tư tưởng và khẳng định cá tính của mình.
Khả năng tưởng tượng, cảm giác sâu sắc về hiện thực và văn hóa đối với quê hương,
sự ham mê học hỏi, ham mê hiểu biết cùng với tính thuần phác, hào phóng, nghĩa
hiệp, chu đáo… của bản thân là những phẩm chất cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Điều này đã giúp Sơn Nam thăng hoa trong nghệ thuật. Bên cạnh đó, bản tính nghệ sĩ
thích đi đây đi đó không thích bị ràng buộc, những điều “trông thấy” đều được ông
ghi chép lại một cách cẩn trọng và tỉ mỉ. Có thể nói từ một số vốn ít ỏi thu nhận từ
ghế nhà trường qua tự học, tự rèn luyện, nhà văn đã nhanh chóng bổ sung cho mình
một kiến thức sâu rộng và uyên bác. Đây cũng là những yếu tố giúp nhà văn rèn giũa
ý chí và bản lĩnh, dần dần hình thành một cá tính độc đáo, một phong cách văn
chương riêng biệt, đặc sắc nổi bật của văn học miền Nam nói riêng, của dân tộc nói
chung. Tất cả đã góp phần làm nên phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
2.2.3. Quan niệm sáng tác văn chương của nhà văn Sơn Nam Sáng tạo nghệ thuật là quá trình người nghệ sĩ nắm bắt hệ thống tín hiệu của
đời sống, từ đó sáng tạo ra hệ thống tín hiệu mới bộc lộ tư tưởng nhà văn. Quan điểm nghệ thuật, quan niệm về hiện thực cuộc sống và con người là sự kết tinh của những cảm thụ của nhà nghệ sĩ về thế giới khách quan, là sự bắt đầu, cũng là sự giới hạn cho những tìm tòi, thể hiện của chính nhà nghệ sĩ.
2.2.3.1. Quan niệm của Sơn Nam về vai trò của văn học và trách nhiệm của
nhà văn
Mỗi nhà văn khi sáng tác tác phẩm của mình bao giờ cũng nhằm đưa ra một
vấn đề tư tưởng nào đó, có những vấn đề lộ ra ngay nhưng có những điều khi đọc
45
xong một tác phẩm ta mới biết điều nhà văn muốn nói gì. Ở dạng thứ nhất, đó là
những tác phẩm mang tính luận đề, những nhân vật, những tình huống đặt ra đều chứa một tư tưởng nào đó mà tác giả muốn gửi gắm như tác phẩm của Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu giai đoạn đầu… Ở dạng thứ hai, tác giả là người nêu lên hiện
tượng và phần kết, đôi lúc rất bất ngờ… để cho người đọc tự rút ra kết luận của riêng
mình. Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam là nhà văn ở dạng thứ hai. Trong mỗi câu chuyện, họ cứ miên man, thủ thỉ kể với giọng điệu rề rà, chậm rãi, đến kết thúc truyện, người
đọc mới biết ý đồ nghệ thuật của họ.
Sơn Nam - một con người nhỏ bé, gầy gò, ốm yếu, lúc nào cũng tất bật nhưng khi cầm bút ông “như một thiền sư thiền định. Cân nhắc thận trọng từng câu từng
chữ, từng dấu chấm phảy…” [169; 55]. Ông có quan niệm rất cụ thể đối với ngòi bút
của mình, ông phát biểu như một lời tuyên ngôn trong sáng tác, rõ ràng, dứt khoát.
Viết để ca ngợi lịch sử oai hùng của đoàn quân Nam tiến, của lòng yêu từng mảnh đất
quê hương, không muốn bị ngoại xâm xâm lược và bóc lột, viết để khơi gợi lòng tự
hào dân tộc… “Viết văn là để viết văn, để yêu nước, chứ không nhằm một mục đích
yêu nước nào khác. Văn nghệ khác với văn hóa thông tin. Muốn viết văn tốt cần phải
khảo cứu. Miền Nam chưa có lịch sử, cho nên tôi phải khảo cứu về con người và
vùng đất Nam Bộ thì mới có thể viết về con người và vùng đất đó” [168; 187]. Một
quan niệm về viết văn rất đơn thuần nhưng vô cùng sâu sắc. Đối với nhà văn, chuyện
viết không phải cái gì to tát mà chỉ là thể hiện lòng mình. Với ý thức như vậy, ông đã
dành trọn cuộc đời cho vùng đất Nam Bộ, đến phút giây cuối cùng vẫn còn đau đáu
những điều chưa làm được. Khi bị tai nạn giao thông, phải nằm một chỗ, ông vẫn
hóm hỉnh “Tôi còn nhiều chuyện hay lắm, nhưng về già mới viết” [202].
Sơn Nam là nhà văn sống bằng ngòi viết, ông viết để mưu sinh, vì mưu sinh
mà viết. Ngay từ lúc đến Sài Gòn (1955), vì là người kháng chiến cũ, tránh sự để ý và
kiểm duyệt của nhà nước đương thời nên ông nghe lời khuyên của nhà văn Bình
Nguyên Lộc sử dụng vốn kiến thức phong phú về đồng bằng sông Cửu Long, quê hương ông để viết lên những truyện ngắn. Không lâu sau đó, những truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài… ngồn ngộn vốn sống về đất rừng U Minh, Đồng Tháp Mười, sông nước… ra đời và được độc giả ưa thích, nhất là độc giả miền Tây Nam Bộ. Tuy có những lúc viết vì được đặt hàng nhưng quan niệm viết của ông rất rõ ràng, viết vì tôn trọng bạn đọc, viết vì lương tâm, viết vì muốn cung cấp cho người đọc những
điều quý báu mà ông tâm niệm và muốn gửi gắm những thông điệp đến mọi người
“Phải viết cho đàng hoàng, phải có lương tâm nghề nghiệp” [19]. Theo Sơn Nam, bất
46
cứ một hiện tượng nào của cuộc sống cũng có thể thành truyện được: một cây kiểng,
một thằng bé trốn học, một cô gái gánh nước phông – ten, một lão già chạy xích lô, một câu chuyện xảy ra ở vùng thôn quê, một câu chuyện ngụ ngôn… đều có thể là đề
tài xây dựng cốt truyện. Tuy nhiên, khi phát hiện ra đề tài không phải là viết được
ngay mà phải cân nhắc, sắp xếp, tìm cho ra “chất muối” nghĩa là phát hiện được cái
“cốt hồn” của câu chuyện “viết văn không khó, nhiều người viết được…” nhưng không phải ai cũng viết hay và có vị trí trong lòng người đọc. Những điều thu thập
được có thể “Mười năm sau hoặc đôi ba ngày nữa… dùng các tài liệu này. Dùng bây
giờ là hấp tấp (…) giống như nồi cơm sống, chưa chín” [7a; 116]. Văn Sơn Nam luôn bám sát dòng chảy cuộc sống của người lao động bình dân, người nông dân chân
chất, người lao động tay chân vất vả ven đô, những người trí thức cùng quẫn đô thị…
Những con người trong tác phẩm Sơn Nam đều toát lên vẻ đẹp dung dị, gần gũi. Họ
làm nên những điều đẹp đẽ trong cuộc sống, những nét văn hóa đặc trưng không lẫn
với vùng miền nào khác.
Quan niệm nghệ thuật của Sơn Nam ngày càng chín, càng nhuần nhị theo bước
tiến của thời gian. Theo ông, một nhà văn có lương tâm là một nhà văn không chỉ đọc
nhiều, biết lắng nghe, biết đảm bảo “thượng phải thông, hạ phải đáo”, thấu hiểu trần
gian sâu sắc, cặn kẽ. Sự nghiệp văn chương, ngoài kiến thức học vấn… còn có “đôi
chân vàng” để đi thực tế tìm chất liệu đưa vào sáng tác. Sơn Nam xác định nhiệm vụ
của nhà văn là phải có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Người cầm bút không thể
muốn viết gì thì viết, không cần xem xét ai đọc, chỉ cần có bài, nhận tiền nhuận bút là
xong. Một tác phẩm có giá trị không chỉ “nóng hổi tính thời sự” mà còn đảm bảo
“chất văn học”. Lấy tiền nhân làm chiếc gương soi chiếu, lấy độc giả làm mục đích
của tư duy sáng tạo “Nhiệm vụ của nhà văn đâu phải cầm bút để ăn thua với ông chủ
báo, ông quản lý. Chân trời của nhà văn cao rộng, phóng khoáng hơn. Còn có độc giả
gần xa, còn có sự phán xét của người đời nay, người đời sau” [7a; 76].
2.2.3.2. Quan niệm của Sơn Nam về vai trò độc giả
Vai trò độc giả cũng được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phong cách
nghệ thuật tác giả. Theo quan niệm các nhà phong cách học thì bất cứ một tác phẩm
nghệ thuật chân chính nào cũng thu hút được sự chú ý của một tầng lớp độc giả nhất
định. Coi trọng sự hướng đến độc giả của nhà văn cũng được xem là cơ sở hình thành
phong cách nghệ thuật tác giả, viện sĩ M.B. Kravchenko từng nhấn mạnh “Phong
cách cần phải được định nghĩa (…) như phương thức thuyết phục và thu hút độc giả”
47
[99: 279]. Golxuory cho rằng sự thành công cao nhất của phong cách là ở sự giao tiếp
với độc giả, là khả năng các nhà văn san bằng những chướng ngại vật giữa nhà văn và
người đọc và sự thành công lớn nhất của phong cách là sự giao tiếp gắn bó với độc
giả. Chính độc giả là cơ sở để nhà văn quyết định chủ đề và các thủ pháp nghệ thuật
khi sáng tác.
Xuất phát từ quan điểm tác phẩm văn học như là quá trình, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung dựa trên những thành tựu của triết học, mỹ học và lý thuyết văn
học hậu hiện đại đã đưa ra những bình diện để tiếp cận các tác phẩm văn học. Trên cơ sở đó, tác phẩm văn học được xem như là những cấu trúc đang chờ giải mã, được nhìn nhận như là một quá trình, một quá trình mang tính tạo nghĩa, mang tính chất
quan hệ của văn bản học. Tác giả cho rằng, “cần phải tiếp cận vấn đề tác phẩm văn
học ở cả hai hướng: Thứ nhất, tiếp cận tác phẩm văn học như là quá trình từ phía
người sáng tác. Vận dụng những thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại, của
kí hiệu học và lí thuyết thông tin, chúng ta nghiên cứu quá trình từ sự sáng tạo ra văn
bản văn học đến sự tiếp nhận nó như là quá trình thông báo kí hiệu ngôn ngữ, hay là
mối quan hệ giao tiếp giữa nhà văn và người đọc. Thứ hai, tiếp cận tác phẩm văn học
như là quá trình từ phía người đọc, thế giới và hiện thực của người đọc. Trên cơ sở
triết học, tâm lý học và thi pháp, chúng ta nghiên cứu quá trình tiếp nhận như là quá
trình ấn tượng hay tác động của văn bản văn học đối với người đọc. Hướng nghiên
cứu này quan tâm đến quá trình thức nhận, đến những sự việc xẩy ra trong ý thức
người tiếp nhận mà qua đó hình thành giá trị thẩm mĩ” [Xem 26: 39].
Như vậy, có thể thấy quá trình tiếp nhận tác phẩm phải bao gồm ba yếu tố: Tác
giả (nhà văn, người sáng tác), tác phẩm (sự sáng tác, văn bản văn học), và người tiếp
nhận (người đọc, người thưởng thức). Tác phẩm văn học chỉ thực sự tồn tại với đầy
đủ ba yếu tố này. Thực chất của quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học gồm hai quá
trình. Trước hết, đó là quá trình chiếm lĩnh nghệ thuật về hiện thực (đồng hóa thẩm mỹ đối với hiện thực) và kết quả là người đọc có văn bản văn học, sau đó là quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm mà kết quả là trong người đọc hình thành nghĩa tổng
thể của tác phẩm văn học. Chủ thể của quá trình đầu là nhà văn, của quá trình sau là người đọc.
Cách thức tác giả giao tiếp với độc giả cũng là điều mà người nghiên cứu
phong cách phải quan tâm. Đây cũng là đặc điểm của phong cách nghệ thuật tác giả.
Ngay từ rất sớm, Sơn Nam cho rằng sứ mệnh của nhà văn là trở thành người
48
bạn thân thiết và đáng tin cậy của độc giả. Với quan niệm này, ông đã đề cao vai trò
người đọc, góp phần làm dân chủ hóa nền văn học, đem lại cho văn học một cái nhìn rộng mở đối với đời sống. Nhà văn không rao giảng, thuyết lý hay phán xét vấn đề
đời sống một cách độc đoán theo quan niệm của riêng mình. Với tư cách là người
phản ánh, nhà văn chỉ bộc lộ một cách nghĩ, một cách nhìn cuộc sống của riêng mình
chứ không áp đặt. Điều này làm cho tác phẩm hòa nhập với số đông, vấn đề đưa ra phù hợp với trình độ, tâm lý bạn đọc “Lẽ dĩ nhiên, người làm bài (người sáng tác) đã
cao niên và người phê phán là tất cả độc giả, thuộc mọi lứa tuổi nên lối hành văn phải
táo bạo hơn” [7a; 143]. Để có vị trí trong lòng độc giả, Sơn Nam đã theo phương châm “Độc vạn thư bất như hành thiên lý lộ” (Đọc một vạn quyển sách không bằng đi
một ngàn dặm đường). Ông không ngừng rèn luyện: đi nhiều, viết nhiều, từ biên khảo
đến văn chương, xứng đáng là người bạn đáng tin cậy của người đọc. Trong bất cứ
tình huống nào, ông cũng đều xem độc giả là mục tiêu phục vụ. Không vì tiền nhuận
bút hay bất cứ điều gì mà làm mất lòng tin của họ. Những gì được viết ra không chỉ
viết cho bản thân mà còn viết vì lòng mong mỏi của bao người tin tưởng vào ông.
Nhờ vậy, giữa người nghệ sĩ miệt vườn Sơn Nam và người công chúng hình thành
nên một mối liên hệ chặt chẽ. Một bên tâm huyết, có lương tâm trong sáng luôn tâm
niệm sáng tạo là để có những tác phẩm đẹp, hữu ích cống hiến cho đời, một bên có
những phản hồi tích cực để tác giả có niềm tin vững bước trên con đường nghệ thuật
đã chọn lựa. Mối liên hệ này bổ sung cho nhau để tạo nên một phong cách nghệ thuật
nhà văn độc đáo, riêng biệt, không lẫn với nhà văn khác.
2.2.3.3. Tiền đề hình thành quan điểm nghệ thuật của nhà văn Sơn Nam
Trong dòng văn học Việt Nam hiện đại, thật sự có những nhà văn tài năng luôn
tự tìm cho mình một cách thức diễn đạt riêng để bộc lộ phong cách nghệ thuật trong
sáng tác như Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Khải… Nhà văn, nhà biên khảo Sơn Nam trong hơn 60 năm sáng tác đã để lại cho đời
một sự nghiệp sáng tác và biên khảo đồ sộ. Ông là một tấm gương sáng về sự cống hiến và sáng tạo. Không chỉ cống hiến trong văn chương, Sơn Nam còn được xem là người có công khảo cứu và sưu tầm văn hóa mảnh đất phương Nam. Ông được gọi nhiều cái tên rất đáng tự hào “Nhà Nam Bộ học”, “Ông già Nam Bộ”, “Ông già Ba Tri”, “Pho tự điển sống về miền Nam”... Mọi người đều xem ông như là một biểu tượng cho tính cách và khí chất của người Nam Bộ. Khi trả lời cho những thắc mắc
tại sao không đi con đường như mọi người mà lại chọn đề tài về nông thôn, đồng
bằng sông Cửu Long, nhà văn đã tự khẳng định bản thân “Một tay viết lì lợm, không
49
giống ai, chịu thiếu thốn vật chất rất giỏi mà vẫn đi theo con đường đã chọn: Quay về
cội nguồn văn hóa dân tộc mà chính xác là đặc trưng của Nam Bộ, bằng lối văn mộc mạc, chữ nghĩa gần gũi đời sống thực tế” [78; 67]. Các tác phẩm của ông là bức tranh
sinh động về quê hương đất nước, cụ thể là miền Nam quê hương ông, về con người
với nét văn hóa đặc chất Nam Bộ... Nhà văn khơi dậy những khát vọng, ước mơ
hướng đến con đường cách mạng, con đường đấu tranh cho cuộc sống tốt đẹp hơn của người dân Nam Bộ. Sơn Nam là một nhà văn hàng đầu trong việc thể hiện đậm nét và
sâu sắc tính cách người Nam Bộ thông qua những tác phẩm văn học.
Cùng những bạn văn như Thẩm Thệ Hà, Dương Tử Giang… nhất là Bình Nguyên Lộc… những người mà ông chịu ảnh hưởng từ lúc chân ướt chân ráo về
thành phố đã giúp ông ngày càng tự tin vào sự lựa chọn của mình. Từ những tác phẩm
đầu tay, nhà văn đã sớm hình thành và bồi đắp tài năng, phong cách từ cốt hồn dân
tộc. Điểm đặc biệt cũng là độc đáo của ông là dù viết về đề tài nào, thể loại nào, hiện
tại hay quá khứ, ông đều đi sâu vào tâm hồn, tính cách con người miền Nam. Sự
nghiệp của ông đã đánh dấu một nét son trong quá trình vận động và phát triển của
văn học hiện đại ở phía Nam. Tuổi 80, ông vẫn còn đau đáu “dân tộc Việt Nam có dân
tộc tính hay không?”, vẫn lang thang trên những con đường Sài Gòn ồn ào, bụi bặm
để lý giải một cách khoa học và có sức thuyết phục cho những vấn đề đặt ra. Những
tác phẩm của ông xoay quanh vùng đô thị Sài Gòn huyên náo, vùng đất Nam Bộ
mênh mông sông nước, đồng bằng sông Cửu Long trù phú đậm tình người. Đề tài nhà
văn thường hướng đến là con người và nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa trên
vùng đất mới. Cả cuộc đời là đi tìm hiểu, chắt lọc, khái quát chúng thành kiến thức,
thành vốn sống để sáng tác văn học, đặc biệt là viết biên khảo. Cả đời, ông đọc các
loại sách về phong tục tập quán và văn học tiếng Pháp, tiếp cận và thâm nhập thực tế
cuộc sống của người dân Nam Bộ. Với vốn kiến thức sâu rộng thu thập từ sách vở, từ
những điều mắt thấy tai nghe ở chiến khu, trên bước đường lang thang khắp các vùng
đồng bằng sông Cửu Long hay những con đường phố thị. Sơn Nam miệt mài trong thư viện quốc gia; học hỏi, sưu tập không mệt mỏi về phong tục, tập quán, cách đối nhân xử thế, về thiên nhiên, con người, về tình hình thế sự, đất nước, thế giới…
Quan niệm về văn học của Sơn Nam có cơ sở sâu xa không chỉ xuất phát từ cuộc sống của bản thân nhà văn mà còn từ quan niệm của thời đại. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, nơi vùng U Minh xa xôi. Vùng đất đang được
khẩn hoang nhưng chưa hoàn toàn hình thành: cái đói, cái nghèo luôn rình rập; những
cuộc đụng đầu giữa nghĩa quân và và thực dân Pháp hàng ngày xảy ra; sự kiểm soát
50
gắt gao về lúa, về muối của chính quyền thực dân… số phận người dân vô cùng bấp
bênh, đau khổ. Điều này được mô tả rất rõ trong tác phẩm của Sơn Nam không chỉ trong tác phẩm văn chương mà cả trong các tập sách biên khảo. Ông ý thức được rằng
muốn làm thay đổi quê hương xứ sở thì cần cho mọi người biết đến quê hương của
mình, ông bắt tay vào sáng tác văn học như muốn giới thiệu với tất cả mọi người về
xứ sở của ông qua những sáng tác nghệ thuật. Suy nghĩ của ông đơn giản và chan chứa tình yêu quê hương - vùng đất còn vương đất phèn chưa hoàn toàn được thuần
hóa “tôi thấy một thôi thúc mãnh liệt là phải viết về những chuyện về vùng đất mà
mình đã sinh ra, lớn lên và trải qua một phần trai trẻ. Viết để người Sài Gòn, người xứ khác hiểu về miền Tây Nam Bộ” (Hồ Sĩ Hiệp, 1986). Có lẽ những lời cha dặn trước
lúc lên đường cũng là một nguồn động lực để ông tiến lên phía trước, dốc hết sức
mình làm vinh dự cho xứ sở “ráng mà học cho vẻ vang dòng họ, mình là dân U Minh,
ai cũng chê dốt nát, quê mùa, áo mốc, chân phèn…” [13a; 65].
Không ngừng lại ở đó, Sơn Nam trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, những
điều ông nhận thấy, tìm hiểu được… có một chiều sâu tâm thức, là cội nguồn dân tộc
cần phải được ghi chép lại lưu tới đời sau… và điều thôi thúc đó ông trở thành nhà
biên khảo tâm huyết. Những tác phẩm biên khảo của ông là tài sản qúi báu của dân
tộc, có giá trị to lớn về tư liệu, có cả những tư liệu kiểm chứng được nhưng cũng có
những tư liệu chỉ có một mình ông trải nghiệm, nó đứng vững là nhờ vào “lương tâm
nghề nghiệp” của người cầm bút (Lý Tùng Hiếu, 2013); đồng thời giúp ích rất nhiều
cho độc giả, những nhà văn, nhất là những nhà nghiên cứu lịch sử vùng Nam Bộ… ở
nhiều thế hệ đang và sẽ nghiên cứu về lịch sử hình thành, lịch sử khẩn hoang, văn
hóa… của miền Nam. Ngoài ra, tư liệu biên khảo của ông cũng giúp cho những nhà
nghiên cứu văn chương có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong tác phẩm của chính tác
giả hay của các sáng tác viết về miền Nam. Về già, không còn đi nhiều như trước,
chính những kiến thức ấy đã giúp nhà văn vẫn có thể sáng tác cho bao thế hệ độc giả
thưởng thức cũng như cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí ở Sài Gòn “… càng già tôi càng hiểu rằng những ấn tượng đầu tiên khi mình còn bé vừa tiếp xúc với cuộc đời cứ theo thời gian mà càng khắc sâu trong tâm thức” [13a; 126].
Sơn Nam đặc biệt quan tâm và có niềm say mê mãnh liệt đối với thiên nhiên và con người của vùng châu thổ sông Cửu Long: nếp sinh hoạt, quan hệ thế sự, phong tục, tập quán… trong cuộc sống của người nông dân và lớp dân nghèo thành thị. Yếu
tố thể hiện tư tưởng nghệ thuật và có tính chất quyết định được coi là hạt nhân phong
cách nghệ thuật Sơn Nam là Cảm quan về thiên nhiên, con người và văn hóa Nam Bộ.
51
Cảm quan ấy được hình thành từ sự tác động trực tiếp của thời đại, xã hội, hoàn cảnh
gia đình, cá tính và quan niệm về văn chương của tác giả. Nhiều nhà nghiên cứu có chung một đánh giá: Sơn Nam không chỉ là một nhà văn có cốt cách lãng tử – nhà
khảo cứu bình dân với một cá tính đặc biệt là thích ngao du, ham tìm tòi học hỏi, và
cũng là nhà xã hội học mẫn cảm.
Để xác lập phong cách nghệ thuật Sơn Nam, người viết chỉ dựa trên những tác phẩm văn học bao gồm: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, ký (hồi ký, bút ký), tạp
bút để khảo sát tìm ra những nét độc đáo trong các sáng tác, và sử dụng những tác
phẩm biên khảo của nhà văn đối chiếu và soi rọi để những luận đề, luận điểm đưa ra có sức thuyết phục. Trong quá trình nghiên cứu, người viết sẽ triển khai theo các
nguyên tắc:
Chỉ ra các phương diện biểu hiện của phong cách, qua các yếu tố của cấu trúc
phong cách trong các sáng tác của nhà văn Sơn Nam
Khẳng định những đóng góp của nhà văn Sơn Nam trong sự phát triển văn
học dựa trên quan điểm đồng đại và lịch đại.
Nhận rõ “cái nhìn” của nhà văn trong quá trình sáng tác nên không thể tách rời
nội dung và hình thức văn bản.
Tìm ra nét độc đáo và tài hoa của Sơn Nam, người viết sẽ vận dụng quan điểm
lịch sử và phương pháp nghiên cứu tiểu sử, xã hội học trong nghiên cứu phong cách
tác giả.
Tiểu kết chương 2
Nhìn chung lại, lý luận phong cách nghệ thuật được hệ thống lại từ quan niệm
của các nhà lý luận cổ điển của phương Đông và phương Tây, xác định hướng nghiên
cứu phong cách tác giả qua hệ thống tác phẩm đồng thời đưa ra quan niệm, cách kiến
giải riêng về những vấn đề là một trong những mục đích chính của luận án.
Phong cách nghệ thuật nhà văn chính là cái nhìn nghệ thuật của nhà văn hiện
lên qua hệ thống tác phẩm, biểu hiện ra thành quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, con người và các phương tiện thể hiện nghệ thuật; cũng là lối viết, cách thức hành văn riêng của tác giả bao gồm một số nguyên tắc nghệ thuật (kết cấu, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn từ…; phương pháp sáng tác; thể hiện ra bằng những kiểu lựa chọn riêng chi phối các phương tiện nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn. Vận dụng lý thuyết để nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể.
Phong cách nghệ thuật Sơn Nam là vấn đề mà người viết sẽ triển khai trong
các chương tiếp theo của luận án. Để phát hiện ra phong cách Sơn Nam một cách
52
chính xác, người viết vận dụng quan điểm lịch sử và phương pháp nghiên cứu tiểu sử,
xã hội học… Nghĩa là dựa trên hoàn cảnh lịch sử 1945 – 1954 và 1954 – 1975 của miền Nam, dấu ấn dân tộc, cảm hứng thời đại, văn hóa vùng miền Nam Bộ thời khẩn
hoang. Đó là những cơ sở khách quan. Hoàn cảnh gia đình cùng với vốn tri thức, kinh
lịch, sự trải nghiệm bản thân, cá tính độc đáo của nhà văn cũng góp phần quan trọng
vào hình phành và phát triển phong cách. “Văn là người” như câu nói lưu truyền từ lâu đời. Sơn Nam là con người mang cốt cách Nam Bộ chính hiệu. Đó là thuần phác
mộc mạc, đôn hậu, tình nghĩa giàu lòng trắc ẩn, hào hiệp, phóng khoáng.
Lấy mình hiểu người, từ mình đến người là cách tìm hiểu thế giới nhân sinh Nam Bộ, Sơn Nam thành công trong việc tạo dựng thế giới nhân vật tiêu biểu nhờ
yếu tố căn bản đó. Tính chịu học, tìm kiếm sẽ tạo nên vốn tri thức uyên bác vượt trội
hơn hẳn thiên hạ cũng làm nên tiềm năng sung mãn của người viết. Bút pháp uyên
bác tài hoa như nét phong cách cũng từ đó mà ra. Văn phong trữ tình sâu lắng có
nguồn gốc sâu xa từ tâm hồn rộng mở, tấm lòng nhân ái giàu cảm thương, dễ động
lòng trắc ẩn của nhà văn.
Có điểm hơi lạ là văn Sơn Nam rất chỉn chu, là sự giản dị qua chắt lọc. Ấy là
vì nhà lãng tử ngao du khắp chốn để dấn thân tìm hiểu cuộc đời lại là người lao động
chữ nghĩa cần mẫn chu đáo trên trang viết. Phóng khoáng khi đi nhưng cẩn thận khi
ngồi là hai nét kết hợp hài hoà trong Sơn Nam. Tìm hiểu quan niệm sáng tác cũng
như quan niệm về chức năng của người cầm bút của Sơn Nam để tìm ra những nét
đặc trưng tiêu biểu của nhà văn Nam Bộ. Đặc biệt là quan niệm về chức năng nhà
văn và hiệu quả văn chương chính xác, tiến bộ sẽ làm nên một nhà văn rất có trách
nhiệm và lương tâm .
Từ tất cả các điều trên người viết luận án rút ra những nguyên tắc chung
trong việc tìm ra phong cách Sơn Nam và khẳng định sự đóng góp một phong cách
53
văn học độc đáo đậm nét Nam Bộ cho dòng văn học dân tộc.
Chương 3
CẢM QUAN VỀ THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI VÀ VĂN HÓA NAM BỘ
TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM
3.1. Cảm quan thiên nhiên Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam Thiên nhiên là một trong những đối tượng thẩm mỹ của nhiều ngành nghệ
thuật. Đối với nhà văn, thiên nhiên vừa là đối tượng miêu tả, vừa là phông nền cho ý
tưởng sáng tác.
Khác với một số tác giả viết nhiều về miền Nam như Đoàn Giỏi, Nguyễn
Quang Sáng, hai nhà văn này có điểm chung là sinh ra và lớn lên ở miền Nam nhưng
cùng đi tập kết ra Bắc khi còn trẻ nên quan điểm viết về đồng bằng sông Cửu Long
không giống với Sơn Nam. Họ đề cập đến Nam Bộ như ghi lại những ký ức đẹp đẽ
của một thời thơ ấu trong Đất rừng phương Nam, Thiên nhiên Nam Bộ… của Đoàn
Giỏi; mô tả cuộc đấu tranh chống Mỹ của người dân Đồng Tháp Mười trong Cánh
đồng hoang, Mùa gió chướng… của Nguyễn Quang Sáng, cuộc chiến đấu của người
dân miền Nam với thực dân như Hòn Đất của Anh Đức, Người mẹ cầm súng của
Nguyễn Thi... Những nhà văn này viết về thiên nhiên Nam Bộ như là một phông nền
cho cuộc kháng chiến khốc liệt với kẻ thù. Đối với Sơn Nam thì khác, thiên nhiên
chính là quê hương, là máu thịt, là linh hồn của một người con gắn bó cả đời với quê
hương Nam Bộ. Ông viết về thiên nhiên quê hương ông như một sự ca ngợi, yêu
thương, mang trách nhiệm đối với nơi “chôn nhau cắt rốn”. Thiên nhiên ấy dưới sự
tác động của thời gian và bàn tay lao động của con người không trong tình trạng bất
biến mà luôn biến đổi ngày một khác hơn lúc ban đầu. Qua sáng tác Sơn Nam, thiên
nhiên Nam Bộ là bức tranh hùng vĩ về một thời khẩn hoang của dân tộc. Hai đặc
điểm lớn của thiên nhiên Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam là thiên nhiên đậm nét
hoang sơ, dữ dội và thiên nhiên hiền hòa, gần gũi, gắn bó với con người.
3.1.1. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, bí ẩn và đầy khắc nghiệt Là người con của vùng đất Nam Bộ, Sơn Nam thổi vào văn chương tất cả hình ảnh thiên nhiên thân thuộc, cũng là không gian sinh hoạt văn hoá của con người phương Nam. Thiên nhiên Nam Bộ đã được Sơn Nam chọn làm bối cảnh chính cho các tác phẩm của mình. Thiên nhiên trong tác phẩm văn chương Sơn Nam không là phông
nền giống của các tác giả khác mà được mô tả như là trung tâm phản ánh của tác phẩm
- một bức tranh thiên nhiên dữ dội, bí ẩn và vô cùng khắc nghiệt của miền đất phương
54
Nam một thời dân ta đi mở rộng bờ cõi. Không ít nhà văn viết về thiên nhiên Nam Bộ,
Hồ Biểu Chánh nhà văn đầu thế kỷ XX có nhiều trang văn viết về thiên nhiên giai đoạn đầu thế kỷ nhưng thiên nhiên ấy là những cánh đồng, dòng sông… khi miền đất
phương Nam đã được thuần hóa. Sau 1975, nhiều nhà văn đã viết về thiên nhiên Nam
Bộ, đặc biệt là Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn trẻ của đồng bằng sông Cửu Long có tập
truyện ngắn Cánh đồng bất tận “tác phẩm gây xôn xao trong đời sống văn học” một thời bởi người ta tìm thấy ‘sự dữ dội, khốc liệt của đời sống thôn dã qua cái nhìn của
một cô gái’. Mỗi truyện ngắn là mỗi tấn bi kịch về nỗi mất mát, sự cô đơn được đẩy lên
đến tận cùng của con người trong bối cảnh thiên nhiên như những cánh đồng chạy dài đến bất tận, những dòng sông vắng lặng cô đơn khiến người đọc “có lúc cảm thấy nhói
tim...” (Nguyễn Ngọc Tư – Cánh đồng bất tận - 2006). Nhìn chung thiên nhiên của
Nguyễn Ngọc Tư là thiên nhiên tâm trạng, cảnh thiên nhiên chỉ là cái nền cho tâm trạng
nhân vật bộc lộ. Khác với họ, Sơn Nam đề cập đến thiên nhiên thời kỳ đầu của cuộc
khẩn hoang kỳ vĩ của dân tộc Việt Nam. Miền Nam là vùng đất mới, cư dân bao gồm
các dân tộc trên đất nước và các nước lân cận. Thiên nhiên nơi đây phong phú và đa
dạng được nhà văn khắc họa bằng tấm chân tình của người con yêu quê hương sâu sắc.
Sơn Nam từng tâm sự trên báo Văn Nghệ “Tôi sinh ra ở vùng đất U Minh (…). Tôi bắt
đầu sự nghiệp viết lách (…) từ ký ức quê nhà mãi mãi không bao giờ phai nhạt” [247].
Những điều ông viết ra rất xa nhưng cũng rất gần trong tâm thức, cái thời người dân tứ
chiếng rời bỏ quê hương đi khẩn hoang, mở cõi để biến một vùng đất dữ dội, hoang vu
“Chèo ghe sợ sấu cắn chưn/ Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma” (Ca dao) trở thành một
vùng đất trù phú như hiện nay. Có thể nói Sơn Nam là người đầu tiên và cho đến nay
cũng là người duy nhất đề cập đến thiên nhiên thời khẩn hoang. Điều này đã tạo cho
Sơn Nam trở thành gương mặt đặc biệt độc đáo của nền văn học nước nhà.
Sơn Nam là người am tường sâu sắc về địa lý, đất đai, thổ nhưỡng… Nam Bộ
nên thiên nhiên trong tác phẩm của ông là thiên nhiên thời khẩn hoang được khắc họa
chân thực với vẻ đẹp vừa khắc nghiệt, vừa nên thơ. Không phải hình ảnh của vùng đất của miền quê hiền hòa êm ả với những “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo... Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Nguyễn Khuyến) như ở đồng bằng Bắc Bộ mà là một thiên nhiên sông nước hoang dã, lắm rạch, nhiều vàm. Vùng đất mà ngược về bốn thế kỷ trước còn hoang vu, rừng rậm, sình lầy chưa ai bước đến “Mùa hạn đồng hoang vắng, cây cỏ héo cằn, sông rạch cạn khô” [16a; 157]. Sông nước, kênh rạch, vàm, xẻo, bãi,
vồ… xuất hiện tràn ngập trong tác phẩm Sơn Nam. Những tên đất, tên sông, tên vùng,
những địa danh đất rừng phương Nam dường như xa lạ nhưng lại gần gũi vừa sinh
55
động vừa bí ẩn “Vùng Xẻo Bần (…) đầy cỏ năn kim, ô rô, cỏ ống” [14a; 73], căn chòi
của lão mù giăng câu ở Rộc Lá, Hòn Cổ Tron nghèo xơ xác của ông Tư Thông, ông Hai Muôn quá giang bạn “từ Xẻo Mát, thuộc tỉnh Cần Thơ đến chót mũi Cà Mau”, ở
núi Cô Tô (Thất Sơn – tỉnh Châu Đốc) có một mỏm đá cao được gọi là khu vực Vồ
Con Sấu…; bãi tràm, bãi sậy mênh mông, chằng chịt “rừng tràm dày bịt, cây chen vạn
gốc…” [12a; 226], hay “lau sậy mọc um tùm”... Đất đai thổ nhưỡng ban đầu không thể canh tác “thứ đất khô, không ra khô, ướt không ra ướt” [14a; 750], phù sa nhiều nhưng
lại là thứ đất chua, đất phèn chưa được thuần hóa. Thêm vào đó thời tiết khắc nghiệt
“nắng đổ mưa dầm”, “nắng đổ sao, mưa thúi đất”, “chướng khí mù sương”…; vùng ven biển “đất phèn, đất mặn”… là sự khắc nghiệt và nỗi đe dọa thường nhật đối với lưu
dân mở cõi.
Bằng sự uyên bác của mình, Sơn Nam kể chuyện sông nước, rừng rậm, đầm
lầy… nơi hội tụ những loài động vật nguy hiểm như cọp, beo, cá sấu, heo rừng… Sấu
và cọp là hai loài thú dữ tượng trưng cho sức mạnh hoang dã luôn là kẻ thù cuộc sống
con người. Những thành ngữ “Hùm tha sấu bắt” hay “Xuống sông hốt trứng sấu, lên
rừng xỉa răng cọp”… thường xuyên lặp đi lặp lại ở cửa miệng của người dân khẩn
hoang Nam Bộ. Ông Hai Râu có con gái bị cọp vồ, gia đình Tư Ngạn bị cọp cõng mất
con heo nái, những người đi ăn ong bị cọp ăn, tha luôn cả xác…, tác giả từng mô tả
những con cá sấu chuyên hại người trong Con sấu cuối cùng “những vật đen chi chít.
Con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì lấy hai chân trước mà vạch sậy, ngóng
mỏ xéo lên” [15a; 86]... Quang cảnh bao giờ cũng buồn bã, thê lương “Sớm thì chim
kêu, vượn hú (…). Giữa đêm khuya nghe tiếng cọp rống” [14a; 235], ở vùng Gò Quao,
cọp lộng hành đến nỗi bỏ rừng sâu bén mảng vào các xóm nhà mé sông để bắt gà, bắt
trâu, thậm chí giết người (Cọp Gò Quao), những con heo rừng hung dữ thường xuyên
về quấy nhiễu dân lành (Con heo khịt) gây cho con người nhiều sợ hãi trong những
ngày đầu bước đến vùng đất xa xôi lạ lẫm. Muỗi mòng, rắn, rết, vắt, đỉa… luôn quấy
rầy, đêm ngủ cũng cảm thấy lo âu “ngủ trần, tay đập muỗi lia lịa, trí óc buồn bã nhớ đến ngày mai” [16a; 185-186].
Giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đặt chân vào miền Nam thì dân cư còn thưa thớt, trong Hết thời oanh liệt “Hồi Tây đánh nước mình, miệt Rạch Giá – Cà Mau còn hoang vu. (…) kỳ dư có vài sóc Miên ở giữa đồng, thưa thớt lắm, có khi chèo ghe cả ngày mà không gặp người nào” [15a; 217]. Hệ thống sông rạch chằng chịt là môi
trường thiên nhiên thuận lợi cho đời sống nhưng cũng là tác nhân gây trở ngại, khó
khăn cho người đi khai hoang, nhất là lúc nước lên, ngập lụt cánh đồng, nước mênh
56
mông, trong Một cuộc bể dâu, nhà văn mô tả vùng đất sạ Long Xuyên “nước tuy cạn
nhưng có thể giết người (…) vượt năm bảy ngàn thước cũng không tìm được một căn nhà, một ngọn tre mà nương tựa” [16a; 13]. Trong Âm dương cách trở, bức tranh thiên
nhiên của vùng ngoại vi Hòn Chông còn hoang hóa, mùa hạn vô cùng tàn khốc “Ở
ngoại vi Hòn Chông, nhiều đồi đá vôi. (…). Mùa nắng không một giọt nước (…) số
phận chỉ mành treo chuông” [7a; 303]. Ngoài ra, sông nước còn có những nguy cơ đưa đến nhiều hiểm họa, đồng bằng sông Cửu Long là vùng thấp, vùng đất cuối cùng của
miền Nam nhận nước từ sông MeKong trước khi chảy ra biển Đông nên thường xuyên
gây ra ngập úng, lũ lụt khi mùa mưa đến hoặc mùa nước lên. Cũng có lúc nước lên quá cao, con người chết không có chỗ chôn, phải neo xác dưới đáy sông hay treo lên ngọn
cây, đợi đến khi nước rút mới có thể đem đi chôn (Một cuộc bể dâu). Những mùa nước
nổi, cây cỏ đều không thể mọc, những gia đình có trâu – đầu cơ nghiệp của họ - phải
đưa trâu đến vùng khác tránh nước và tìm cỏ cho chúng ăn. Trong Mùa “len” trâu, một
cảnh vừa hùng vĩ vừa độc đáo hiện lên dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn. Sơn Nam vô
cùng hào hứng và tự hào khi kể về cảnh “len” trâu từ núi Ba Thê cả bầy trâu “len” qua
miệt Bảy Núi - một cảnh không nơi nào có, nó làm cho thiên nhiên hoang dã trở nên
sôi động và có một vẻ đẹp lạ lùng và kỳ thú mà không dễ ai cũng có thể chứng kiến
“Oai vệ lắm kìa! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều...
Đằng này trâu lội nước năm ba trăm con đen đầu, đặc nước …” [16a: 42]. Ngòi bút
Sơn Nam vùng vẫy vẽ lên một vẻ đẹp hoành tráng và hùng vĩ nhưng cũng thể hiện sự
dữ dội và khó khăn mà người nông dân phải đối mặt trong quá trình khai hoang mở đất.
Sự dữ dội, bí ẩn và đầy khắc nghiệt của thiên nhiên miền Nam thời kỳ đầu mở
nước trở đi trở lại thường xuyên trong mỗi câu chuyện kể của Sơn Nam với vẻ đẹp
hoang sơ, kỳ bí nhưng cũng rất nên thơ của miền sông nước, vùng đất phương Nam.
Điều này đã tạo nên nét đặc sắc trong văn chương của nhà văn vùng đất mới.
1 Về mặt tự nhiên, Nam Bộ là vùng đất của sông ngòi mênh mông, kênh rạch chi chít… là nơi tiếp nhận nước của dòng sông Mekong xuất phát từ Trung Quốc, chảy qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt Nam. Bắt đầu từ Phnom Penh, nó chia thành 2 nhánh: bên phải là sông Bassac (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam trước khi đổ ra biển Đông. Lưu lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000 m³/s về mùa khô, lên đến 120.000 m³/s vào mùa mưa… Nó vừa chuyên chở nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng Nam Bộ nhưng đồng thời cũng gây rất nhiều tai họa cho người dân Nam Bộ. (Theo Wiki)
57
3.1.2. Thiên nhiên trù phú, hiền hòa, thơ mộng gần gũi gắn bó với con người Thiên nhiên, địa lý vùng đồng bằng sông Cửu Long gắn liền với sông nước1. Chính vì điều đó mà nơi đây được mệnh danh là “xứ sở kênh rạch”. Yếu tố sông nước
chi phối toàn bộ cuộc sống từ cách ăn ở, đi lại, buôn bán, kiếm sống cho đến phong tục tập quán và ngôn ngữ… Không ít nhà văn miêu tả sự hiền hòa trù phú của đất trời
Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng… nhưng không ai có
cái nhìn chi tiết và mang chiều sâu văn hóa về sự phong phú của miền đất này như
Sơn Nam. Nhà văn không những miêu tả sự dữ dội, hoang sơ của thiên nhiên sông nước, mà còn kỳ công dựng lên một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp trù phú, hiền
hòa, gần gũi và gắn bó với con người thời kỳ lưu dân trên cả nước đi khẩn hoang, vỡ
đất. Ngoài cái đầu luôn tìm tòi, học hỏi, phân tích, biện giải, ông còn có “đôi chân vàng” không ngại đi khắp vùng sông nước, núi non, đầm lầy, đồng ruộng, sân chim…
miền Nam sưu tầm, ghi chép những “điều mắt thấy tai nghe” tạo thành chất liệu cuộc
sống đưa vào mỗi câu chuyện. Không ít những trang văn mô tả cảnh thiên nhiên Nam
Bộ với vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng. Đây chính là chất thơ trong tâm hồn được tuôn
trào qua ngòi bút của người nghệ sĩ. Trong ấn tượng của Sơn Nam, quê hương ông là
một xứ sở với những loại cây cỏ đặc trưng của vùng sông nước, chúng bước vào tác
phẩm với vẻ đẹp gần gũi, dân dã vốn có của tự nhiên. Nhà văn ghi dấu ấn thẩm mỹ
đẹp đẽ đưa đến người đọc “bông vừng buông thõng từng xâu chuỗi hường, chen lấn,
nối tiếp nhau như bức mành mành (…) đôi đọt non nhú lên, mỏng mịn (…). Ở xa,
trông như những cánh bướm… phập phồng.” [15a; 272]. Khi mô tả cảnh rừng tràm
trổ bông, trí tưởng tượng của nhà văn tài hoa được dịp bung ra vẽ lên một bức tranh
tuyệt tác bằng ngôn ngữ “Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả (…). Bông kết oằn
sai, mịn màng trắng tuyết” [15a; 274-275]. Trước cảnh thiên nhiên thơ mộng, lãng
mạn đến vậy của rừng U Minh, nhà văn phải thốt lên “rừng sáng lạn, ai dám nói là
rừng âm u” [15a; 274-275]. Quang cảnh xứ Cà Bây Ngọp “xa vời” vô cùng tuyệt mỹ
và sinh động “Nắng chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt, vài nhánh
bình bát gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều cò trắng điểm lấm tấm trên dãy rừng
tràm đằng xa” [16a; 260].
Thiên nhiên trong tác phẩm Sơn Nam không chỉ thơ mộng, quyến rũ mà còn là tiềm tàng sự trù phú, mỡ màng do phù sa mang lại. Sự giàu có chính là do lớp lớp con người đi khai phá vùng đất hoang vu, u tịch kéo dài đến Mũi Cà Mau đã đổ mồ hôi, sôi nước mắt, cuối cùng đã chinh phục được thiên nhiên dữ dội để xây dựng một miền Nam trù phú. Từ những dòng sông mênh mông, hệ thống kênh rạch đan chéo
nhau chằng chịt, nguồn cá tôm dồi dào, sân chim bát ngát, loài thú hoang dã, những
vườn cây trĩu quả, nguồn gỗ quý trên rừng, những lung sen thơm ngát… con người đã
58
biết tận dụng biến thành tài sản vô giá. Một điều chắc chắn là nguồn kinh tế của
người dân Nam Bộ thời ấy dựa vào nguồn cung cấp tự nhiên, đó là cá đồng, cá biển, tôm, lươn, mật, sáp ong, chim chóc, củi tràm, mật gấu, cao khỉ… Sơn Nam cho người
đọc cảm nhận được miền Nam là vùng “đất lành chim đậu” cho bao kẻ tha phương
cầu thực, những tay giang hồ tứ chiếng, người vô gia cư… đang cần một mảnh đất để
dung thân, định cư và lập nghiệp “Sống được, không chết đói vì lúa dễ kiếm, với cá ngoài ruộng, dưới rạch” [37b; 44]. Trong Người mù giăng câu, ngòi bút nhà văn phấn
khởi khi viết về nguồn cá, tôm vô tận của sông rạch “Ở Rộc Lá này, cá tôm quá nhiều
(…) cá lội từng bầy trở về sông Cái (…) cá đi đớp bọt trắng bờ rạch” [16a; 176]; “Mùa khô, đìa cạn nước, cá gom lại nổi đầu khít rịt như trái mù u rụng” [12a; 97]; hoặc sản vật khác như con ba khía2 “Rừng cây mắm đen ngòm trước mặt như bức tường thành (…) hàng trăm con ba khía bao quanh gốc cây, lúc nhúc” [12a; 164].
Sơn Nam được mệnh danh là “nhà Nam Bộ học” vì sự uyên bác với kiến thức
sâu rộng về thiên nhiên Nam Bộ. Ông dẫn dắt người đọc đi sâu vùng đất U Minh,
Rạch Giá, Cà Mau… chúng không chỉ giàu có về sản vật như chim, rắn, cá, tôm,
lươn, rùa… còn có nguồn lợi thiên nhiên khác là mật ong. Những khu rừng tràm
mênh mông, ngút ngàn hương hoa để nuôi ong lấy mật và sáp. Đến mùa, hương tràm
tỏa một mùi hương ngào ngạt bay xa hàng bao nhiêu cây số để gọi ong về “đài cánh
đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt”, mùi hương rừng như chính là “muôn
ngàn hủ mật ong của trời ban xuống” [15a; 275]. Bên cạnh đó, hàng vạn sân chim lớn
nhỏ, tập trung nhiều nhất ở vùng cực Nam như Bạc Liêu, là vùng có hệ sinh thái
rừng - đầm lầy U Minh. Khi mùa chim về đủ loại bồ nông, chàng bè, già sói… bay từ
Biển Hồ về các sân chim ở Nam Bộ sinh sôi, nảy nở. Để lấy thịt chim và lông chim,
người săn bắt chim có thể tàn sát hàng loạt, nhổ lấy lông bán cho thương lái các ghe
tàu buôn Hải Nam. Sân chim là nơi hội tụ định kỳ hoặc quanh năm của nhiều loại
chim, đây là hiện tượng thiên nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra,
rừng – nguồn lợi không nhỏ cũng được Sơn Nam đề cập đến trong sáng tác: cây cột, cây kèo để làm nhà “Cứ đốn sẵn, nhận lấp dưới sình” [16a; 134], củi đem ra chợ bán “một số người lén lút vào đây cất nhà, phá rừng để bán củi lậu thuế…” [14a; 226]. Không phải chỉ cá, tôm… nguồn lợi từ sông, biển; ong, chim… nguồn lợi từ rừng; ngoài ra còn những đồng ruộng bao la, những vườn cây ăn trái bạt ngàn… cũng vô cùng phong phú. Trong Đất Gia Định & Bến Nghé xưa, nhà văn ca ngợi miệt vườn
59
“phong cảnh xinh đẹp, đất tốt, vườn cây ăn trái và đồng ruộng phì nhiêu (…) vùng 2Ba khía:Một họ cua có càng to, đặc trưng ở vùng Nam Bộ, sống tập trung ở vùng nước lợ, mặn ven biển đồng bằng sông Cửu Long
làm ruộng từ xưa đã đạt năng suất cao…” [44b; 77]. Đây chính là nơi sản sinh ra “văn minh miệt vườn” - nền văn hóa cao nhất của Nam Bộ.
Bằng ngòi bút tài hoa, tri thức phong phú và tấm lòng yêu quí quê hương nồng
nàn, Sơn Nam đã dẫn dắt người đọc đi từ cảnh thiên nhiên này sang cảnh thiên nhiên
khác, nhà văn đã tạo lên một bức tranh thiên nhiên chân thực, sống động của miền Nam những năm đầu di dân lập ấp. Nơi nào, dù dữ dội, khắc nghiệt hay thơ mộng,
hiền hòa, gắn bó với con người… nhà văn đều để hết tấm lòng của mình vào từng chi
tiết khi mô tả. Thiên nhiên trong cái nhìn Sơn Nam không chỉ là bí ẩn khắc nghiệt, đẹp đẽ thơ mộng, giàu có, hiền hòa mà còn là tâm thức để lại dấu ấn rất sâu đậm
trong tác phẩm. Mỗi trang văn đều thấm đượm niềm tự hào của tác giả đối với mảnh
đất đầy tình người này – nơi ông đã sinh ra và lớn lên – tâm hồn nhà văn đã gắn bó
máu thịt đến những thứ tưởng chừng như nhỏ nhặt, đơn giản như cánh đồng, dòng
sông, đầm lầy, ngọn núi… đến những vấn đề lớn lao như cuộc vật lộn mưu sinh để
tồn tại của người đi khai hoang mở đất; chuyện đánh Tây, chuyện diệt thù để bảo vệ
mảnh đất quê hương… tình yêu mãnh liệt của nhà văn đối với con người trên cái nền
thiên nhiên bao la được gửi gắm vào từng câu chữ trong các tác phẩm. Dù có nhiều
nhà văn viết về thiên nhiên Nam Bộ nhưng có lẽ Sơn Nam là người duy nhất có cái
nhìn có tính trữ tình, uyên bác có chiều sâu văn hóa một cách độc đáo về vùng đất
còn hoang sơ, dữ dội thời kỳ đầu mở nước.
Sơn Nam có niềm tin mãnh liệt, khi vẽ lên một công trình vĩ đại của con
người, đó là quá trình lao động mở nước, ứng phó với mọi điều kiện để chinh phục và
cải tạo thiên nhiên, con người Nam Bộ mạnh mẽ và bền bỉ học hỏi, tích lũy tri thức,
kinh nghiệm về thổ nhưỡng, thời tiết, thủy triều, các loại cây trồng, các loài động vật
hoang dã, các mùa vụ… để chung sống hài hòa với tự nhiên để tạo một miền Nam trù
phú như ngày nay.
3.2. Cảm quan về con người Nam Bộ trong văn xuôi Sơn Nam Trong văn học nghệ thuật, con người vừa là chủ thể thẩm mỹ, vừa là đối tượng trung tâm của sự phản ánh và khám phá “Đời sống con người muôn màu muôn vẻ, cái mà nhà văn hướng vào trước hết chính là con người, là tính cách, là tâm hồn của con người, là những cái gì quy tụ vào con người và làm nên số phận, làm nên ý nghĩa cuộc sống của con người” [32; 30]. Con người trong văn học được mô tả vừa có tính
chất cá nhân, vừa có tính khái quát. Đối tượng nhận thức và miêu tả cốt yếu trong văn
học là con người. Do vậy, văn học chú ý đến cái riêng và số phận của từng cá nhân.
60
Hướng vào số phận con người, chính là cảm hứng nhân văn, dẫn dắt tư tưởng nhà
văn, giúp nhà văn xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, nhận thức và lý giải được thế giới muôn màu, muôn vẻ trong đời sống. Văn học giúp con người
nắm bắt cuộc sống, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lẽ sống, cũng như năng lực sống…
Khi đọc tác phẩm văn chương Sơn Nam, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học
và độc giả yêu mến nhà văn miền đất mới đều nhận thấy tác phẩm Sơn Nam là một bức tranh toàn cảnh về đất và người Nam Bộ thời gian mở đất. Con người phương
Nam hiện lên cụ thể và sinh động trước mắt người đọc qua từng câu chuyện, từng
mảnh đời,… đặc biệt là trong những tác phẩm viết về miền Tây Nam Bộ.
3.2.1. Con người hoàn cảnh – con người số phận Quan niệm nghệ thuật phần lớn của những nhà văn lớn thường là “văn học là
nhân học” (M. Gorki), họ lấy số phận cá nhân làm gương soi lịch sử, lấy nội tâm con
người để phản ánh hiện thực cuộc sống. Sơn Nam luôn tìm tòi và thể nghiệm theo
hướng lấy con người làm chuẩn mực thẩm định và đánh giá thế giới. Điểm nhìn nghệ
thuật về con người của Sơn Nam đã tạo ra nhiều hướng khác nhau để tiếp cận hiện
thực. Nhà văn phân tích các quan hệ giữa những hiện tượng và tình huống cá biệt để
làm nổi bật sự phong phú và sống động của nó. Từ đó con người được soi chiếu trong
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Nhân vật trong
tác phẩm văn chương Sơn Nam khá phong phú, nhà văn kỳ công xây dựng thế giới
nhân vật đông đảo, đại diện cho các tầng lớp xã hội. Con người trong sáng tác Sơn
Nam phần lớn là con người hoàn cảnh. Mỗi câu chuyện thường không nhiều nhân vật,
nhưng mỗi số phận, mỗi hoàn cảnh của họ đều được nhà văn chăm chút, thương yêu,
gửi gắm ý đồ nghệ thuật riêng.
3.2.1.1. Người nông dân gian khổ, vất vả trong cuộc khẩn hoang kỳ vĩ
Người nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong tác phẩm Sơn Nam. Nhân
vật nông dân trong sáng tác của Sơn Nam đa dạng về thành phần, trong đó bần nông
và cố nông là kiểu nhân vật chiếm đa số. Số phận người nông dân của họ cũng là đối tượng mà ông quan tâm phản ánh. Đó là những con người lam lũ, nghèo khổ “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, thiếu đất hoặc không có đất, có ruộng để canh tác. Họ lang bạt khắp vùng lục tỉnh để làm thuê, làm mướn, phá rừng làm rẫy. Trước Sơn Nam, nhà văn Hồ Biểu Chánh viết rất nhiều về số phận người nông dân Nam Bộ nhưng trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, nhà văn thường đề cập số phận bi đát của
người nông dân bị bóc lột, bị đè nén dưới ách thống trị tàn ác của những tay địa chủ,
cường hào, ác bá… họ là những kẻ “thấp cổ bé miệng”, không có đất đai, dù có cũng
61
bị tước đoạt như Lê Văn Đó (Ngọn cỏ gió đùa), Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng),
cai tuần Bưởi (Con nhà nghèo)… Bình-nguyên Lộc hay viết về người nông dân nghèo gắn bó mật thiết với mảnh đất, căn nhà lâu đời của mình (Đất không chết,
Thèm mùi đất, Phân nửa con người)... Nhà văn ít xây dựng những nhân vật với tư
cách là con người cá nhân có khả năng khái quát cho tính cách hay số phận. Nhiều
nhân vật trong truyện Bình Nguyên Lộc thể hiện quan niệm đạo đức xã hội: đánh giá cao phẩm chất con người (Tiếng vang trễ muộn), coi trọng tính cách hơn vẻ đẹp bên
ngoài (Cái nết đánh chết cái đẹp, Thám hiểm lòng người ). Hoàn cảnh có thể xô đẩy
con người vào con đường tội lỗi nhưng không bị tha hoá (Ba con cáo)... Vùng đất mới ít định kiến, lại pha trộn nhiều loại người với nhiều nguồn văn hoá khác nhau,
nên bản tính con người cũng dễ dãi hơn… Sơn Nam không đi sâu phản ánh cuộc sống
đau khổ, nghèo đói của nông dân do sự tác động của xã hội hay mô tả tinh cách con
người Nam Bộ mà chỉ tập trung phản ánh đời sống cơ cực do tác động của thiên
nhiên, trong quá trình khai hoang mở đất hoặc chiến đấu với kẻ thù thực dân.
Trong hành trình đầy gian khổ của những con người đi mở cõi, Sơn Nam luôn
đặt nhân vật của mình trong hoàn cảnh khó khăn, những thử thách đôi lúc nghiệt ngã,
cho họ vượt qua những trở ngại của thiên nhiên và khắc nghiệt của cuộc sống để mà
vươn lên khỏi “tứ bề gian khổ như cái vốn dĩ hiện có của cuộc sống”. Họ là những
con người từ những nơi xa xôi đi tìm “đất sống trong cái chết”: trốn chạy thuế thân
của nhà nước thực dân, những tay mã thượng lục lâm thảo khấu bị truy nã, những kẻ
tha phương cầu thực trên bước đường mưu sinh… Thông qua những câu chuyện bình
thường, giản dị, những mảnh đời vất vả, cơ cực của người dân Nam Bộ trong thời kỳ
đầu mở cõi được khắc họa rõ nét, người đọc có thể hình dung, đồng cảm với nhân vật
trên từng trang sách.
Những con người khẩn hoang đã dùng đôi bàn tay và khối óc để Nam tiến về
những vùng đất “sơn cùng thủy tận”. Cuộc sống lam lũ, lênh đênh trên sông nước như
những cánh bèo bấp bênh vô định. Sống ở những vùng “ngọn Xẻo Bần xơ rơ” [14a; 47]; trong những căn nhà tạm bợ “xập xệ, nát vách lủng nóc” [12a; 177], hoặc những căn chòi giữa đồng “vách lá te tua, trống trải” [34b; 20]; tối đến trong chòi rách nát, xiêu vẹo lóe lên chút ánh sáng từ “đôi ba ngọn đèn cầy cháy leo heo” [12a; 20], để có một ngọn đèn dầu không dễ dàng, những chiếc đèn cũ kỹ lâu ngày đến nỗi “... Tuy vặn tim lên cao nhưng vẫn mãi lu câm vì ống khói không chùi sạch...” [16a; 156]; xứ
sở của muỗi mòng, người đi khai hoang bao giờ cũng trang bị một chiếc nóp, nhưng
đôi khi “ngủ trần”, “đập muỗi” vì nóp cũng không còn, cuộc sống lúc nào cũng phải
62
lo lắng “nhớ đến ngày mai thiếu gạo nấu" [16a; 185-186]. Tác giả khéo léo sử dụng
ngôn ngữ tạo hình trong sáng tác càng làm tăng sự khốn cùng của người dân đi mở đất. Trong Chuyện rừng tràm, nhà văn mô tả nỗi khó nhọc của những người làm nghề
đốn củi lậu thuế. Công việc vô cùng khó nhọc, nửa đêm, họ đã vào rừng sâu đốn củi
để tránh kiểm lâm, cặp rằng của thực dân, nhìn sao trời để định hướng dùng thuyền
chở củi ra vựa “đường đi thật gay go. Lắm khi phải chịu trần truồng nhảy xuống bùn, đẩy thuyền xuyên qua rừng tràm năm, ba cây số” [14a; 227]. Trong Người mù giăng
câu, cuộc đời của ông già mù thật đáng thương, có đứa con trai duy nhất thì bị quân A – La – Măng3 giết chết “còn lại một mình ông cất căn chòi ở Rộc Lá…” [16a; 99], ông già không còn ai để nương tựa, tự nuôi sống bản thân bằng cái nghề giăng câu bắt
cá, đêm về không nhìn thấy gì ngoài tự đối diện với cuộc đời tối tăm của bản thân.
Hình ảnh lão Bích trong Một cuộc biển dâu là hình ảnh bi thảm của những con người
tiên phong đi mở cõi. Lão chết khi cùng con trai trên con thuyền giữa miền mênh
mông nước, không bờ, không bến ở ruộng sạ Long Xuyên vào mùa nước nổi... Không
chỗ chôn, có một cái áo độc nhất lão để lại cho con trong giờ phút cuối cùng của cuộc
đời lận đận rồi đi vào lòng đất với tấm thân trần “lạnh ngắt”, “xám đen”, “hai cái nóp
gói kín xác kẻ bạc mạng” ... Dù bất nhẫn nhưng đành “bỏ xác lại rồi dằn đá mà neo
dưới đáy ruộng” chờ nước rút mới lấy được nắm xương tàn mà chôn cất [16a; 18].
Sống ở nơi “khỉ ho cò gáy” mà “khi đau ốm nặng thì chẳng biết đi đâu, nhất là đàn bà
mang thai giữa rừng” [13a; 133]. Cái chết của người vợ đang mang thai của anh
chàng làm nghề đốn củi lậu thuế vô cùng kinh hoàng. Hai vợ chồng trẻ dắt díu nhau
đến vùng rừng tràm xa xôi lập nghiệp. Chồng để vợ ở nhà, đi làm ăn xa. Khi trở về,
vợ anh sinh sớm hơn dự định, không người giúp đỡ nên cô và đứa con vừa sinh ra đã
chết tự bao giờ “vợ anh nằm nghiêng, thi thể sình lên, lở lói” [13a; 135 – 136].
Họ không chỉ sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, hàng ngày hàng giờ đối với
thiên nhiên khắc nghiệt lại còn phải luôn đối phó với những cuộc xâm lấn, càn quét
của giặc ngoại xâm, trong Hòn Cổ Tron nhân vật Tư Thông nghiệm ra rằng “Coi bộ bà con mình nghèo hơn ở hòn Cổ Tron của tôi. Áo quần không có. Mình mẩy bị ghẻ khuyết ăn lở lói. Nhà thì xiêu vẹo, nay mai dời… chắc là tại giặc Xiêm” [15a; 234]. Hoặc luôn ở tư thế chạy trốn những sự truy đuổi của thực dân Pháp xâm lược, trong Chuyện năm xưa, những nhân vật như “Tôi”, bác Hương cả, con Út và những người dân trốn sâu trong rừng U Minh xa xôi, tưởng kẻ thù không thể động đến, nhưng thật
3 Quân Đức
63
ra dù ở tận sâu thẳm rừng tràm U Minh vẫn bị bọn Tây đuổi theo sát sườn, họ vẫn
phải “chạy lúp xúp, chạy mãi…” [14a; 220].
Trong hoàn cảnh khó khăn, thường xuyên phải đối mặt với thiên nhiên khắc
nghiệt; với cái đói cái nghèo; cuộc sống lênh đênh, không nhà cửa; kẻ thù thực dân
tàn ác luôn rình rập… nhưng chính tất cả những điều ấy đã tạo nên những người nông
dân Nam Bộ trên những trang sách Sơn Nam luôn mạnh mẽ, gan góc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, miệt mài vỡ đất khai hoang, mở rộng đất nước như những anh
hùng mở nước, kéo dài nước Việt đến Mũi Cà Mau.
3.2.1.2. Người phụ nữ với những bi kịch cá nhân Người phụ nữ cũng có vị trí đặc biệt trong sáng tác Sơn Nam. Với tấm lòng
cảm thông đối với số phận người phụ nữ, Sơn Nam có công khám phá những điểm
đặc sắc của người phụ nữ Nam Bộ thời khẩn hoang qua văn chương. Nông thôn Nam Bộ
không chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo một cách nặng nề như nông thôn Bắc
Bộ hay Trung Bộ. Nơi đây ít có những hủ tục lâu đời, do đó, người đọc không hề bắt
gặp cảnh phạt vạ được nói tới trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng hay đám kiện cáo, ẩu đả
vì tranh giành ngôi thứ giữa đình làng như trong Việc làng của Ngô Tất Tố. Nam Bộ
không phải là thánh địa của Nho giáo, cho nên cuộc đời của người phụ nữ ít bị ràng
buộc một cách phi lí vào những lễ nghi phép tắc. Tuy nhiên, chế độ đa thê và hôn
nhân áp đặt được phổ biến ở nông thôn thời bấy giờ cũng đem đến không ít bi kịch
cho người phụ nữ như trong Cay đắng mùi đời, Nợ đời, Thầy Thông ngôn... hoặc vì
nghèo đói mà phải rơi vào bế tắc như Lý Ánh Nguyệt trong “Ngọn cỏ gió đùa”, Hảo
trong Cười gượng,Thị Xuân trong Chúa tàu Kim Quy, Tư Lựu trong Con nhà
nghèo… bất lực, vô vọng trước cuộc sống của Hồ Biểu Chánh. Nhiều người cho rằng
người phụ nữ trong sáng tác Hồ Biểu Chánh là “Thân em như cá rô mề”. Tác phẩm
Sơn Nam không đề cập đến chế độ đa thê dẫn đến quan hệ vợ cả, vợ lẽ trong đại gia
đình mà hệ quả tất yếu của nó là sự nảy sinh tính ích kỉ, đố kị và sinh ra lắm thủ đoạn
như chiếm gia tài thậm chí tráo đổi con cái để giữ được địa vị hay vì tha hóa mà sinh bất hạnh trong tiểu thuyết của Hổ Biểu Chánh. Trong lúc các nhà văn cùng thời ở miền Nam đưa người đọc vào thế giới của những người phụ nữ trí thức thành thị đau khổ vì chuyện tình duyên trắc trở, những cô gái ăn sương vì cuộc sống phải bán thân hoặc những người phụ nữ thành thị nghèo lăn lộn để mưu sinh, hay các cô gái lao vào cuộc sống thác loạn, bất chấp ngày mai theo chủ nghĩa hiện sinh… thì Sơn Nam đồng
cảm với những người phụ nữ nông thôn, tỉnh lẻ Nam Bộ. Số lượng nhân vật phụ nữ
trong tác phẩm Sơn Nam không nhiều nhưng luôn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng
64
độc giả. Ông không đi sâu vào miếng ăn cái mặc của họ mà ông xoáy sâu vào bi kịch
tâm tư, tình cảm của những người phụ nữ thời khai hoang.
Trong khung cảnh hoang sơ, sông nước bao la, rừng rậm bạt ngàn, đất rộng
người thưa, Sơn Nam bằng cái nhìn nhân ái đã dẫn dắt người đọc đi sâu vào cuộc đời
của những người phụ nữ không được may mắn. Họ là những người phụ nữ luôn có
một khát vọng vươn lên, đấu tranh cho tình yêu, cho cuộc sống của mình, nhưng cuộc đời luôn gặp trắc trở. Trong Chuyện rừng tràm, cô Một là cô gái “thùy mị” con lão
Bích đã yêu Tư Hưng - chàng trai làm nghề phá củi lậu thuế thời Pháp thuộc. Anh có
ý định ở lại xóm mà nhiều người phá củi lậu sống tập trung để làm ăn, định cư và lấy vợ nhưng công việc làm ăn thất bại, cô Một đành để anh đi tìm cơ hội mới. Nhưng
ngày trở về thì cô gái xinh đẹp, hiền lành trước đây không còn nữa, Tư Hưng đã vô
cùng đau khổ khi nghe cha vợ cho biết vì sao cô Một trở nên điên loạn “Mày đi vài
tháng nó mang thai. /(…)/ Nó điên vì tình, vì đời…” [14a; 232]. Trong Cây huê xà,
Sơn Nam mô tả mối tình đau khổ của thằng Lợi và con Lài. Hai đứa yêu nhau, cha
của hai đứa đều là thầy Rắn. Chỉ vì lòng tham lam, ích kỷ và sự ganh ghét tài năng
mà lão Năm Điền buộc con gái dùng “mỹ nhân kế” lợi dụng thằng Lợi – con thầy Hai
rắn để lấy được phương thuốc “trị rắn” của thầy. Lão cho rắn cắn con gái trước để thử
thuốc. Vì thiếu “cây huê xà”, con Lài chết, lão vừa thương con vừa xấu hổ và hối hận
nên cũng tự tử chết theo. Cái chết tức tửi và bi thảm của hai cha con lão Năm Điền
làm thằng Lợi đau khổ vì không biết “cây huê xà” là gì mà chúng nó phải sinh ly tử
biệt “nó thơ thẩn như mất hồn, khóc không ra nước mắt” [14a; 198]. Số phận Huệ
trong Hồn người trong ly rượu vô cùng bi thương, cô xinh đẹp tuổi vừa tròn mười
bảy, vì cha mẹ tham giàu gả cho một lão già giàu có đã trên 50. Cô yêu và muốn sống
với Hùng - người yêu của mình nhưng lão chồng ghen tuông, tàn độc, giết chết người
nàng yêu, pha máu của Hùng vào rượu cho Huệ uống. Nhìn thấy hình ảnh người yêu
nằm sóng sượt tắt thở trên vũng máu, Huệ căm phẫn và có một hành động không ai
có thể ngờ “Huệ chạy trở vào nhà, rút thanh đoản đao (…). Nàng đâm ngay bụng Xã Tư rồi đâm vào ngực mình ngã gục” [15a; 261]. Kết thúc truyện là cái chết thê thảm của Xã Tư và Huệ, người đọc liên tưởng đến nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao trước 1945. Nếu ngày trước Nam Cao khiến người ta xót xa bi phẫn cho nhân vật Chí Phèo vì một kết cục tất yếu thì sau này Sơn Nam cũng làm người đọc rùng mình nhưng cũng xót thương và cảm thông cho người con gái bạc
mệnh. Hương rừng là một cuộc đời chua xót khác, nhân vật Hoàng Mai – một cái tên
vừa đẹp vừa cao quý, con cháu của một vị ngự y triều Nguyễn “Gia phổ ghi chép rành
65
rành, nội xứ này, chỉ dòng họ ta là có gia phổ”, nàng có dáng dấp đài các và kiêu sa
của con nhà dòng dõi quí tộc “bẩm sinh nàng thuộc về một phẩm chất thanh cao hơn” [15a; 265], vì thời thế mà gia đình phải lưu lạc đến sống trong rừng U Minh Hạ. Nàng
đã yêu và tình yêu của nàng thật đẹp nhưng nàng mắc một căn bệnh phong quái ác,
chỉ chờ cái chết đến bất cứ lúc nào. Nỗi đau ngày càng thẩm thấu cũng như sức khỏe
ngày càng yếu, nàng không còn đủ sức “ra thăm cội hoàng mai trước ngõ” như mọi ngày nữa. Trong sâu thẳm vẫn chờ đợi và hy vọng Tư Lập trở về thăm nàng dù biết
đó là sự chờ đợi vô vọng, ngày ngày người ta chỉ còn thấy “Hình dáng của Hoàng
Mai (…) từ từ nâng lên như đưa tiễn đưa một hình bóng” [15a; 283].
Truyện Con Bảy đưa đò lại là một số phận đau khổ kiểu khác, nhân vật con
Bảy được Sơn Nam khắc họa thật thú vị nhưng cũng thật xót xa. Lý lịch con Bảy rất
mơ hồ “năm đó, đâu từ miệt Cần Thơ, con Bảy xuống đây gặt mướn (…) mà ở luôn
chứ không về xứ” [14a; 236]. Khi mẹ chết, nó bán bánh bò cho khách ghe xuồng qua
lại rồi sau chuyển sang đưa đò cho khách qua sông, nhiều chàng trai gấm ghé nhưng
nó không ưng ai. Nó có tài lại thông minh, biết hát đối đáp và được trời phú cho một
giọng hò “xa lạ nhưng quen thân, ấm áp”. Cuộc đời con Bảy cũng vì giọng hò mà khổ
lụy. Nó gặp một khách sang sông tài hoa, cùng đối đáp rồi phục tài, kính mến đến yêu
thương con người có “một tấm lòng” ấy. Và đã dành cả một đời xuân sắc chờ đợi
người lữ khách không bao giờ quay trở lại dòng sông xưa. Thủ pháp miêu tả tâm lý
nhân vật ở cuối truyện được Sơn Nam thể hiện theo sự tuôn chảy của dòng ý thức đã
tạo cho kết thúc truyện một chút ngậm ngùi, buồn thương. Chim quyên xuống đất
cũng mạch truyện giống vậy, Dì Chín tủi hổ, đau đớn khi mắng con gái “Đừng chửi
tao… Con không hơn mẹ đâu. (…). Bữa nay mày chửi tao… Xe trước gãy, xe sau
cũng không tránh” [4a; 435]. Chồng bị bắn chết vì theo Nghĩa đoàn chống Tây, dì
Chín thân gái dặm trường cùng hai con nhỏ và mẹ chồng dắt díu nhau đến thành phố
Sài Gòn hoa lệ. Vì cuộc sống khó khăn, dì sa ngã và có thai với một người đàn ông
giàu có, lão vì lòng ích kỷ, xem nặng danh dự từ chối không nhận. Bản thân dì chưa giải quyết được những khó khăn của bản thân thì con gái – cô Huệ - tuổi vừa lớn, xinh đẹp – cũng bước theo chân mẹ, sinh con không cha với người đàn ông đã có vợ con. Số phận hai mẹ con chênh vênh, bấp bênh như chiếc bách giữa cuộc đời sóng gió của xã hội miền Nam bấy giờ.
Trong truyện Sơn Nam, còn nhiều nhân vật phụ nữ có số phận bi thảm nhưng
trong họ luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Dù thất bại hay thành công, họ vẫn
bộc lộ được tính kiên cường trong cuộc đấu tranh chống luật lệ khắt khe phong kiến;
66
chống lại địa chủ, cường quyền; chống giặc ngoại xâm… để tồn tại, đồng thời thể
hiện mạnh mẽ khát vọng sống như những cô gái tên Lài (Ngôi mộ chôn đứng), cô Ngó (Chuyện tình người thường dân), Nhung (Vạch một chân trời), Xí Vĩnh (Bà
Chúa Hòn), Huệ (Yêu cho được), Hồng (Con cá chết dại)…
Đề cập đến những nhân vật phụ nữ, ngòi bút nhà văn luôn thể hiện tấm lòng
trân trọng, đồng cảm với từng số phận của mỗi nhân vật của mình. Số phận bi thảm của người phụ nữ trong sáng tác Sơn Nam phần lớn đều bị chi phối bởi đời sống tình
cảm. Họ là những con người vừa mang những đức tính quý báu của người phụ nữ
miền Nam hiền hòa, tốt bụng nhưng cũng vô cùng kiên cường, gan góc trước những thử thách cuộc đời cũng như trước kẻ thù hung tợn, hay bọn thực dân xấu xa, tàn
độc… Với tài năng của mình, Sơn Nam đã có công tái hiện lại số phận bi thương của
người phụ nữ miền Nam thời khẩn hoang.
3.2.1.3. Người trí thức với sự cùng quẫn bế tắc
Số phận người trí thức miền Nam đương thời cũng được Sơn Nam lưu ý. Nhân
vật trí thức là đề tài quen thuộc trong văn học Việt Nam. Người trí thức là người có
kiến thức, tài năng, nhân cách và cá tính sáng tạo. Ở bất cứ thời đại nào, người trí
thức cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Họ để lại
dấu ấn cá nhân của mình ở những biến chuyển lớn lao của đất nước. Từ xưa đến nay
trong văn học, hình tượng người trí thức thường xuyên được các nhà văn tập trung
phản ánh. Tuy nhiên mỗi thời đại có mẫu nhân vật trí thức khác nhau. Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu có mẫu người lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo chính
thống kết hợp với quan niệm của người dân Nam Bộ thế kỷ XIX. Trong văn học lãng
mạn xuất hiện hàng loạt nhân vật trí thức Tây học, họ đã đấu tranh chống lễ giáo
phong kiến để giải phóng cá nhân và tự do hôn nhân nhưng rồi họ thỏa hiệp hoặc tiến
đến những mối tình lãng mạn nhưng bế tắc như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt… của
Tự lực văn đoàn. Đến giai đoạn văn học hiện thực phê phán thì nhân vật trí thức mới
được phản ánh chân thực hơn. Ngô Tất Tố có Lều chõng viết về số phận người trí thức trong khoa cử của chế độ phong kiến, Nam Cao có hàng loạt tác phẩm đề cập đến người trí thức Tây học như Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn… Những tác phẩm đề cập đến bi kịch tinh thần của những trí thức sống trong cảnh tù túng bần cùng. Cùng thời với Sơn Nam, ở miền Nam cũng nhiều tác giả đề cập đến nhân vật trí thức nhưng theo cách khác nhau. Trang Thế Hy là nhà văn có số lượng phản ánh nhân vật
trí thức khá nhiều, nhưng khác với Sơn Nam, nhân vật trí thức của Trang Thế Hy
phần lớn là người sống ở thành thị ồn ào náo nhiệt. Bình Nguyên Lộc xây dựng nhân
67
vật trí thức thành thị hồn nhiên, đáng yêu, có pha chút trầm tư, Lý Văn Sâm thường
viết về những chuyện thường nhật, những nỗi cơ cực của những nhân vật trí thức thành thị… Sơn Nam không mô tả những người trí thức cộng tác với Pháp như thầy
phán, thầy thông, thầy ký mà thường là những con người bình dân, sinh ra và lớn lên
từ đồng ruộng hoặc dân nghèo thành phố. Số lượng trí thức không nhiều so với số
lượng người nông dân nhưng trong mỗi số phận những người trí thức đều có bóng dáng của chính bản thân và của cả một thế hệ nhà văn miền Nam. Những người trí
thức của nhà văn khá đa dạng, họ là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, thư ký công
ty dệt may… dưới thời thực dân Pháp và chế độ cũ miền Nam trước 1975. Các sáng tác viết về người trí thức tiêu biểu: Hình bóng cũ, Chim quyên xuống đất, Chuyện tình
một người thường dân, Truyện ngắn của truyện ngắn…
Hình ảnh người trí thức trong tác phẩm Sơn Nam được tác giả mô tả với sự
đồng cảm. Họ là những nhà văn có lý tưởng, có ước mơ đối với nghề nghiệp “Người
viết văn bị bắt buộc soi gương đối bóng với hồn ma cũ, hồn ma của ông Hàn Thuyên,
ông Nguyễn Du, ông Phan Bội Châu” [7a; 76]. Có khát vọng viết được những tác
phẩm để đời, được mọi người biết đến, vượt qua hàng rào của không gian và thời
gian, giúp cho người đời sau “Văn học ít ra phải được cả một vùng, một nước chú ý
(….). Nghĩa là phải được đánh giá cao ở thôn quê lẫn thành thị (…). Lắm khi vượt
thời gian” [13a; 274]. Theo họ, những gì viết ra phải đánh động đến tâm hồn người
đọc, giúp con người tốt lên “Thơ nói riêng và văn học nói chung chỉ dùng chữ a, chữ
b ráp lại (…) thế mà đánh động đến tiềm thức” [13a; 275]. Do vậy, điều viết ra phải
được cân nhắc một cách cẩn trọng, không vì miếng cơm manh áo mà vội vàng viết
những gì không giá trị “viết gấp rút thì lại không tròn” [7a; 117]. Còn người giáo viên
phải là người có lương tâm, trách nhiệm, sẵn sàng “khai sáng” cho đồng bào dù ở tận
cùng tổ quốc mà không nề hà hay tính toán thiệt hơn. Trong Chim quyên xuống đất,
Sỹ và đồng nghiệp như giáo Kiến, Liễu Hương bỏ nhiều công sức làm công tác truyền
bá chữ quốc ngữ ở những vùng sâu, vùng xa. Họ đã hy sinh rất nhiều công sức, tiền bạc để làm công việc có ý nghĩa. Họ đi đến những vùng đất cực Nam tổ quốc xa xôi để khai sáng cho người dân mù chữ “vùng Hương Mai và suốt tận mũi Cà Mau (…). Với số tiền sẵn có, tôi giúp đồng bào xây cất những lớp học đầu tiên” [4a; 272].
Nhưng cuộc sống của họ thật vô cùng khốn khó: nghèo đói, bệnh tật. Sỹ mang căn bệnh lao phổi trầm kha không cách nào chữa được của những trí thức nghèo giai
đoạn đó “mình mẩy rêm nhức, mệt mỏi… Cơn thổ huyết từ chiều hôm qua (…) mớ
huyết đỏ phun ra như cắt cổ gà nhuộm màu nâu sậm dưới đất” [4a; 275]. Những lo
68
toan hàng ngày: lương không đủ sống, tiền ăn, tiền thuốc, tiền sinh hoạt… vấn đề
“cơm áo gạo tiền” như “ghì sát đất” những thân phận bọt bèo của trí thức nghèo. Thầy giáo Sỹ đã cáu giận với Liễu Hương khi cô tỏ vẻ quan tâm về bệnh tình của anh
“Thuốc đâu mà uống. Tiền bạc không có. Đừng bày đặt xã giao với tôi” [4a; 281].
Những người thầy giáo nghèo, ngoài đi dạy còn có thể làm những việc khác để nuôi
bản thân và gia đình “Tội nghiệp thầy này, nghèo quá mức, hàng ngày đôi khi học trò thấy thầy làm phu xe kéo, đội nón lá” [13a; 40]. Nhà văn Tấn trong Truyện ngắn của
truyện ngắn luôn phải lo lắng vì sinh kế, đã luôn luôn tự răn mình khi kiếm miếng ăn
trong thời buổi khó khăn, loạn lạc “Rủi mà tờ nhật báo mình đang cộng tác (…) đóng cửa (…). Nên bám lấy miếng ăn.” [7a; 94]. Nhà văn Dương Tử Giang muốn xuất bản
tờ báo của riêng mình nên không ngại làm đủ mọi việc để báo được in ấn, được mọi
người đánh giá là giỏi “làm báo chạy”: chạy tìm người viết, chạy đọc bản thảo, chạy
nghe và trả lời điện thoại, chạy tìm nhà in, chạy tìm người bán giấy, chạy tìm “cặp
rằng”, chạy tìm nơi ăn, chốn ở… nhưng khi “cởi áo vét ra, rõ là thảm hại, để lộ cái áo
sơ mi trắng đã rách phía sau lưng một lằn dài” [13a; 311].
Không chỉ vì miếng ăn, họ còn mang tâm trạng thất vọng vì thời cuộc, vì cuộc
sống không có ý nghĩa, Hảo – một người bạn chí cốt, tốt bụng và cũng là người thành
công trên đường học vấn hơn Sỹ nhưng cuộc đời cũng mòn mỏi, tù túng, buồn chán
với công việc thư ký hãng may của mình vì đồng lương ít ỏi, vì công việc nhàm chán
“Nhiều lần túi trống rỗng, anh cũng thích đi, đi mãi (…) tìm trong cuộc đời đáng chán
này những phút không đáng chán” [4a; 406]. Hoặc họ trốn tránh thực tại để chìm đắm
trong văn chương, trong những cơn mộng tưởng của riêng mình, nhân vật Sỹ bị ám
ảnh bởi một đoạn tản văn của nhà văn Pháp vì nó phù hợp với tâm trạng lãng mạn và
mơ mộng của anh, lấy nó làm điểm tựa tinh thần cho bản thân khi anh sống trong tình
hình đất nước rối ren, nhiễu loạn “Đoạn văn ấy là cái vốn – là chỗ nương tựa của tôi
vì tôi không ưa chính trị” [4a; 495]. Hoặc họ ý thức được nguyên nhân của sự đói
nghèo, khổ sở, thất học của người dân là do những kẻ xâm lăng “bị Pháp đô hộ, giam cầm. Học trò nhỏ ở nước mình thiếu quần áo. Nơi thôn quê, thiếu trường học, dốt hơn 90%” [4a; 495] nhưng họ bất lực trước tình thế bất ổn của đất nước, sự rối ren của xã hội, sự bế tắc của người dân trước chính sách “ngu dân” của kẻ thù.
Sơn Nam đã phát huy tối đa vai trò người kể chuyện để người đọc khó mà quên nhân vật Ngọc - một thân phận buồn thảm khác, anh là một thầy giáo truyền bá
chữ quốc ngữ như Sĩ, như Giáo Kiến, giáo Tư… nhưng vì lòng tham, sự ích kỷ mà
bắt tay với thực dân Pháp ghi tên đồng nghiệp vào sổ đen để Pháp theo dõi và bắt bớ.
69
Cuối cùng những đồng nghiệp của anh ta người thì phải bỏ xứ tha phương và chết
trên đất khách quê người như giáo Kiến, người thì vẫn trượt dài trên đường trốn tránh và cay đắng vì sinh kế như Sỹ. Cuối cùng chính anh bị gia đình ruồng bỏ, bạn bè,
đồng nghiệp xa lánh, hàng xóm rẻ khinh bởi cái tiếng “việt gian”, “phản quốc”... Chút
tri thức còn lại khi anh cứu bạn khỏi nhà giam của và thốt ra những lời hối hận nghe
sao bùi ngùi chua xót “Tao ước được vô đội Thần Phong. Nhưng nếu cắt tóc, cắt móng tay thì tao gởi về đâu? Ai lãnh? Cha mẹ tao từ bỏ tao lâu rồi” [4a; 507]. Cùng
với thủ pháp trên, nhân vật “tôi” trong Hình bóng cũ cũng gây ấn tượng đặc biệt.
“Hình bóng cũ” là tác phẩm được các nhà lý luận phê bình đánh giá là tác phẩm “văn học hiện thực phê phán” thời bấy giờ vì đậm chất hiện thực của nó. Thi sĩ Hoài
Hương chuyên làm những bài thơ “đồng ruộng” để gửi các báo Sài Gòn rồi chờ đợi
tiền nhuận bút không bao giờ đến. Cuối cùng vì những tờ giấy bạc “một trăm” mà
cam tâm làm “bồi bút” cho vợ chồng Hai Nhan – một tên cường hào ác bá, dựa vào
thế lực của ngoại bang giết người cướp đất của nông dân. Hắn lợi dụng sự thất nghiệp
và đói nghèo của Hoài Hương buộc nhà thơ dùng ngòi bút để “anh hùng hóa” một kẻ
xấu xa độc ác như hắn trở thành một nhân sĩ có lòng yêu nước; xuyên tạc sự thật, đem
tội ác đổ hết tội lên đầu thần thánh. Nhân vật Hoài Hương không hiếm đối với xã hội
bấy giờ, vì đồng tiền, vì sinh kế mà “bán lương tâm, bán linh hồn” cho quỷ dữ với
suy nghĩ thực dụng “Họ có thiện chí giúp tôi về sinh kế, tại sao tôi chưa chịu cảm
thông?” [12a; 379]. Sơn Nam cứ nhẩn nha kể chuyện, nhẩn nha nêu lêu lên các tình
huống truyện, dần dần bộc lộ những tâm tư tình cảm của con người cũng như tính
cách nhân vật. Đặc điểm này còn được thể hiện qua các tác phẩm khác: để tránh sự
truy đuổi của thực dân Pháp, những người trí thức yêu nước “bất hợp tác với kẻ thù”
phải trốn chui, trốn nhủi vào đồng không mông quạnh như giáo Kiến, lên Sài Gòn tìm
đường sống như Sỹ (Chim quyên xuống đất), chạy đến Sở Thượng để tránh đội truy
lùng của Tây của “Tôi” (Ngó lên Sở Thượng), phải thường xuyên di chuyển, lẩn trốn
vào rừng U Minh dày đặc và tối tăm (Chuyện năm xưa). Con người trí thức trong các sáng tác của Sơn Nam đều có những số phận không may mắn, cuộc đời tẻ nhạt, bế tắc: cuộc sống vật chất thiếu thốn, thế giới tinh thần bị tù túng. Đó là những tấn bi kịch của người trí thức dưới chế độ chính sách cai trị của thực dân Pháp. Các sáng tác của Sơn Nam viết về người trí thức qua các chặng đường phát triển từ Hình bóng cũ (1963), Chim quyên xuống đất (1963) đến Người bạn triệu phú (1971), Chuyện tình
một người thường dân (1990), Truyện ngắn của truyện ngắn (1996) hay một số
truyện ngắn như Chuyện năm xưa, Ngó lên Sở Thượng… tư tưởng nghệ thuật đều
70
nhất quán, thể hiện lý tưởng của một cây bút luôn có trách nhiệm với xã hội, với con
người… Nhân vật trí thức trong sáng tác Sơn Nam đều thấp thoáng bóng dáng của nhà văn cũng như một lớp người trí thức Nam Bộ trong một giai đoạn khó khăn của
đất nước. Có thể nói đây không phải là sáng tạo riêng của Sơn Nam nhưng rõ ràng
với vai trò người kể chuyện của mình, nhà văn đã xây dựng nên nhiều nhân vật có sức
thu hút đặc biệt.
Qua quan sát cách nhìn vấn đề, cách nghĩ, quan niệm về sự việc của Sơn Nam
trong các sáng tác, chúng tôi cho rằng ông đã thành công trong cách tìm tòi thể hiện
cuộc đời, con người với những hoàn cảnh, số phận riêng. Sơn Nam đã phát huy tối đa khả năng của ngòi bút trữ tình, mẫn cảm để đi sâu vào từng mảnh đời đau thương và
bất hạnh của từng nhân vật. Sử dụng thủ pháp này nhà văn có điều kiện lách sâu vào
ngõ ngách tâm hồn của mỗi cá nhân con người mở ra khả năng chiếm lĩnh hiện thực
đời sống. Đây cũng là thể hiện nét tài hoa riêng biệt của nhà văn. Nó giúp người đọc
yêu mến trân trọng những con người đã hy sinh rất nhiều trong công cuộc mở nước
đồng thời còn thể hiện nét độc đáo riêng biệt của cá nhân nhà văn Sơn Nam
3.2.2 Con người với những tính cách đặc biệt điển hình Nam Bộ 3.2.2.1. Con người dũng cảm, gan góc và mưu trí trong quá trình Nam tiến và
chống ngoại xâm
Đồng bằng sông Cửu Long được chia làm hai vùng với những đặc điểm khác
nhau: Một là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, nhiều kênh rạch, đất đai màu mỡ; hai
là vùng đất úng lụt, ngập phèn và chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nước biển tràn vào.
Sơn Nam đã thể hiện rất chân thực và sinh động với hai đặc điểm đó trên những trang
văn về miền Tây đất mẹ. Trong tác phẩm của ông, người đọc dễ dàng nhận thấy sự
xuất hiện của những vùng đất như Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, miệt Bảy Núi, Ba
Thê, và đặc biệt là khu vực U Minh Thượng và U Minh Hạ nơi giáp hai tỉnh Cà Mau
và Kiên Giang. Trong quá trình khai phá và xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới,
con người buộc phải tìm phương cách để tồn tại trên mảnh đất còn hoang sơ, tất yếu đã tạo ra những con người thích ứng với hoàn cảnh. Từ đó bộc lộ được tính thông minh, khôn khéo, gan dạ và dũng cảm của con người miền Nam trên vùng đất còn hoang hóa. Nhưng trong gian khó con người càng được tôn vinh, trân trọng như những người anh hùng trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và xây dựng mảnh đất mà họ khai phá.
Sơn Nam mang những kiến thức phong phú mà ông gom góp, chắt chiu trong
cuộc đời rong ruổi. Ông đã mô tả cuộc sống và những trải nghiệm của những con người
71
tham gia công cuộc khẩn hoang bền bỉ và gian khổ của người nông dân. Ở mặt này Sơn
Nam rất gần với Bình Nguyên Lộc, nhà văn “Con nai hiền Bình nguyên” cũng từng miêu tả lại cuộc chiến đấu với thiên nhiên, lấn biển để giành đất sống của những con
người ở vùng đất mới (Rừng mắm). Tuy nhiên, số lượng tác phẩm viết về đề tài khẩn
hoang của ông không nhiều so với nhà văn “miệt vườn”. Ngòi bút Sơn Nam say mê mô
tả việc khai phá đất hoang, công việc đôi khi chỉ là một người đảm nhận như nhân vật Ba Hò trong Ngày xưa tháng chạp đến vùng đất mới không một bóng người phá rừng,
đốn củi. Một tay ông khai phá và tạo lập cả cánh đồng mênh mông, rộng lớn rồi sau
những giờ lao động mệt nhọc, ông đã “ngồi một mình hát với bụi, với rừng”. Chim chóc, cây cỏ, ruộng đồng như nghe được tiếng hát như đồng tình với con người. Ba Hò
cũng như những cư dân đầu tiên của vùng đất Nam Bộ này đã mạnh mẽ vượt qua
những khó khăn, khắc nghiệt của đất đai thổ nhưỡng, của muỗi mòng, vắt đỉa, sấu,
cọp… để thích ứng với môi trường tự nhiên, họ biết chọn lựa những không gian phù
hợp để ổn định và phát triển cuộc sống. Đôi khi con người cũng phải xuôi theo tự nhiên
để tồn tại. Trong Ông Bang cà ròn, Tư Én làm nghề nhổ bàng ở Xóm Sóc Xoài, Hòn
Đất đã sử dụng kinh nghiệm rút ra từ thực tế của mình để đối phó với loài vật hung dữ
và dòng nước chưa được thuần phục. Lão Ngượt hướng dẫn cho Hai Cần, chàng trai
mà ông cưu mang vượt qua nhưng khúc sông với những cuốn nước xoáy, nước chảy
ngược hay chỗ giáp nước để đi hỏi vợ cho anh (Vẹt lục bình). Kinh nghiệm đi lại trên
sông bao nhiêu năm được truyền lại đã giúp con người nơi đây tồn tại và tiếp tục khai
phá thêm nhiều vùng đất mới. Họ đối mặt với thiên nhiên không chỉ bằng kinh nghiệm
mà còn có lòng dũng cảm, trí thông minh và ý chí kiên cường.
Nhân vật Năm Hơn trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ đã một mình bắt con cá sấu
hung dữ mà chính quyền và súng đạn của Tây đều bất lực, Năm Hơn giản dị tuyên bố
“Tôi đây không có tài gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít” [14a; 88]; Hành
động của ông Năm Tự trong tư thế chênh vênh, hiểm nguy, có lúc tưởng như kề cận
với cái chết khi tấn công con heo dữ trong Con heo khịt là một tư thế của người anh hùng chống lại sự dữ dội của tự nhiên “Ông Năm Tự quỳ xuống, hay tay nắm chặt cây mác” [14a; 260]; Chú Tư Đức trong Sông Gành Hào “một mình đối phó với hai con cá sấu. Tình thế của chú Tư Đức càng nguy nan!” [16a; 198] nhưng chú vẫn không tỏ vẻ nao núng, chú muốn tỏ rõ cho xếp Tây là kiểm lâm Rốp phải xem trọng mình, thán phục tài năng của người Việt. Khi được đề nghị ban thưởng, chú cười, trả
lời đơn giản “Vì đất nước chớ đâu vì danh lợi. (…) công việc của tôi đã làm tròn”
[16a; 201].
72
Trong cuộc chiến đấu với cường quyền thời khẩn hoang. Có những kẻ dựa vào
thực dân Pháp, lợi dụng, bóc lột người nông dân “thấp cổ bé họng”. Thừa – cô gái trẻ trong Hình bóng cũ, đã dũng cảm chỉ mặt lên án kẻ cướp đất, cướp ruộng của nông
dân. Hành động tự phát của cô vừa để bảo vệ mảnh đất của mình vừa tuyên chiến với
thế lực đồng tiền, quyền lực dựa vào thực dân cũng như thần quyền bấy giờ. Hành
động kiên quyết và anh dũng ấy đã tạo động lực cho biết bao lưu dân sẵn sàng hy sinh thân mình giữ đất đai mà họ đã bỏ công khai phá. Trong Bác Vật xà bông, ở vùng xẻo
Bần, ông bác vật X, thường gọi là dượng Hai, đến xây nền đúc, cất nhà, dùng kiến thức
khoa học để làm xà bông, có thể so với hàng Tây. Dân Xẻo Bần rình và trộm công thức của ông để tự chế tạo cho riêng mình, chỉ một thời gian sau “Xà bông ở ngọn Xẻo
Bần được tung ra khắp thị trường Hậu Giang” [14a; 81], có thể cạnh tranh với loại xà
bông ở các vùng khác, đơn giản với ý nghĩ “làm cho dân giàu, phát triển nội hóa”
[14a; 81]…
Trong bối cảnh thời khẩn hoang, người phụ nữ cũng được nhà văn nhắc tới với
tấm lòng yêu mến và trân trọng. Cô Tư Hạnh trong Ăn to xài lớn là một phụ nữ, trẻ,
mạnh mẽ sống tự do, phóng khoáng như đàn ông, con trai. Biết tự nuôi sống và bảo
vệ chính mình, cô “biết cầm roi, đánh quờn. Hằng ngày, cô chăm sóc rẫy, khóm, hễ
gặp rắn hổ là túm ngay cổ hoặc nắm đuôi rắn, cầm quay tròn” [14a; 27]. Có lẽ vậy mà
không ai dám tới chọc ghẹo hay buông lời ong bướm dù cô sống một mình tại một
căn chòi không vách che cả bốn bên, sát mí rừng tràm hoang vu và bí hiểm. Cô Huôi
trong tiểu thuyết Bà Chúa Hòn là một người con gái nông thôn nhưng thông minh, tài
năng, xinh đẹp. Cô đã lọt vào mắt Ông Chúa Hòn, ông lấy cô làm vợ, khi Chúa Hòn
chết, cô nghiễm nhiên trở thành Bà Chúa của xứ Hòn Chông oai phong, kiên định và
tài giỏi. Nhưng cô vẫn giữ được tấm lòng nhân hậu, bản tính thương người của người
lao động, thường xuyên giúp đỡ người dân trên Hòn … được người dân yêu mến kính
trọng “Vùng Núi Đất nghèo nàn nhưng là nơi phát tích của một bà Chúa Hòn hiền
lành, uy nghi, có khả năng cảm hóa kẻ hung ác” [8a; 421]. Dù cô Tư Hạnh có nhièu tính xấu nhưng Cô Tư Hạnh và bà Chúa Hòn có lẽ là nhân vật tiêu biểu cho những loại phụ nữ khác nhau một thời “khẩn hoang” của dân Nam Việt mà nhà văn đã cố công xây dựng.
“Thời thế tạo anh hùng”, qua thực tế khốc liệt của thời khai hoang lập ấp, những nhân vật như ông Thầy võ ở Quảng Nam, thầy Râu đuổi cọp không cần tượng
đồng, bia đá đề tên trong Hết thời oanh liệt. Anh Tư Bình Thủy, Tư Châu Xương
(Nhứt phá sơn lâm), Chú Tư Đức (Sông Gành Hào), Năm Hên (Bắt sấu rừng U Minh
73
Hạ), Năm Tự (Con heo khịt)… đều là những người dân cơ cực, nghèo khổ nhưng
cũng là những con người mang khí chất của con người Nam Bộ gan góc, dũng cảm. Những nhân vật anh hùng vô danh xuất hiện liên tục trên các trang văn của nhà văn,
Sơn Nam đã thành công trong việc tái tạo con người kiên cường đi mở cõi trong văn
xuôi. Người đọc của bao thế hệ tiếp nối nhau sẽ biết ơn và tự hào về thế hệ cha ông
đã bỏ mồ hôi, xương máu trong cuộc khai hoang mở cõi vĩ đại của dân tộc ta.
Nghệ thuật kể chuyện của Sơn Nam trong tác phẩm văn xuôi cũng được phát
huy cao độ. Chúng là những nét phác thảo vẽ lên ý chí quật cường, đấu tranh với thực
dân xâm lược bảo vệ quê hương của người dân Nam Bộ, trong hoàn cảnh bình thường, tinh thần ấy được thể hiện qua những hành động giản dị. Tinh thần tự hào về
đất đai, xứ sở đã ăn sâu và tiềm thức người dân Việt cũng chính là tình yêu đất, yêu
nước. Trong Mùa len trâu, khi thím Tư Đinh tỏ ra bực tức với ông bà tổ tiên, chửi rủa
đất nước mình vì cuộc sống cơ cực “Đất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này…”, thì chú
Tư Đinh đã nghiêm khắc nhắc nhở vợ “Nói bậy nữa đi. Đất của mình, nước của mình
mà bà dám nguyền rủa hả?” [16a; 45]. Lòng yêu quê hương còn ẩn chứa trong những
lời nói của người cha lo lắng khi gả con gái về xứ Cạnh Đền. Thương con nhưng vì
hạnh phúc của con đành phải chấp nhận cho con đi xa “Từ bao nhiêu thế kỷ rồi trên
đất mình có lắm người luống tuổi chịu cảnh sanh ly như ông Cả, cô Út. Để cho nước
mạnh, dân còn” [15a; 47]. Đây không chỉ là lời nói của một người cha mà cũng là lời
tâm huyết của tác giả đến với bao người dân Việt.
Khi thực dân pháp chiếm xứ Nam Kỳ làm thuộc địa, tinh thần quật khởi của
người dân Nam Bộ được phát huy cao độ qua những biểu hiện trong cuộc sống hàng
ngày. Mỗi nhà văn có cách thể hiện khác nhau: Vũ Hạnh sử dụng hình thức giả lịch
sử để diễn tả lòng yêu nuớc, yêu quê hương; Dương Tử Giang và Lý văn Sâm viết về
cuộc sống đô thị hay viết về kháng chiến bằng cách viết lách, viết ẩn để thể hiện lòng
yêu nước… Một số nhà văn khác ở miền Nam cũng mượn hình thức như vậy. Khác
với những nhà văn này, Sơn Nam đã mô tả những con người chung lưng đấu cật chiến đấu với kẻ thù để gìn giữ và bảo vệ quê hương. Tình nghĩa sâu nặng đối với mảnh đất miền Nam thấm đẫm xương máu, mồ hôi mà cha ông đã tạo dựng. Tình nghĩa đối với đất nước cũng chính là tình nghĩa đối với con người. Đây chính là nguồn lực lớn lao tạo nên sức mạnh chống ngoại xâm. Lớp cha ông ngã xuống, lớp con cháu đứng lên thay thế. Người sống không bao giờ quên người đã chết. Nghĩa tình gắn kết họ thành
một làn sóng mạnh mẽ đứng trên cùng một chiến tuyến chống lại kẻ thù xâm lược.
Tình yêu đất nước và tinh thần quật khởi được tác giả khắc họa rất rõ nét trong
74
Con ngựa đất và Miễu Bà Chúa Xứ. Những tác phẩm điển hình cho lòng yêu nước
sâu nặng và ý chí kiên cường nhất của người dân Nam Bộ, ông Hương cả Binh và một số dân nghèo vẫn bám trên rạch Cái Cau “Thà chịu chết chứ không rời khỏi cái
nhà này, con rạch này. Sáng mai tụi Tây giỏi thì tới…” [14a; 81]. Lý do thật đơn giản
“Con người từ sanh hữu mạng. Họ biểu bác rời khỏi nhà (…). Bác đâu phải Việt gian
mà xấu hổ” [14a; 268]. Hình ảnh con người sống không rời quê hương, chết cũng trên mảnh đất quê nhà, cái “chết vinh hơn sống nhục” không xa lạ với với những người
dân miền Nam, họ chọn cách sống theo tinh thần của những nghĩa sĩ chống Pháp của
những ngày đầu chống Pháp “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn
Đình Chiểu). Trong Miễu Bà Chúa Xứ, một buổi trưa mùng bảy tháng chạp 80 năm
về trước, Tây cho rằng xóm Gò Mả Lạn đều là nghĩa binh của Nguyễn Trung Trực
nên bao vây và giết sạch cả xóm, nhân vật Tư Đạt bấy giờ là một đứa trẻ chăn trâu,
người duy nhất may mắn thoát chết. Ông nhớ lại “Người chết quá nhiều. (…). Ban
đầu còn bó thây bằng chiếu, mỗi hầm chôn một người. Sau cùng, cứ chôn chung một
hầm, dù già trẻ, bé lớn” [15a; 309]. Từ đó, trong vòng mấy chục năm trời, đêm nào
ông cũng thức để gặp gỡ, đối thoại với những oan hồn đã khuất. Lời kể nghẹn ngào
như một lời lên án đanh thép với bọn thực dân cướp nước, cũng là tình yêu đối với
quê hương xứ sở. Trong Chuyện năm xưa, nhân vật “Tôi” khi bị bắt cóc để làm người
đại diện cho dân đã khẳng khái hỏi “Vậy thì để giúp nước tôi phải theo bọn Sài lang
sao?” [14a; 213]; Cụ Tăng Liên “xót xa đến lặng người” vì “tủi nhục” và “đau đớn”
khi trông thấy phần thưởng cho giải nhất đua ghe ngo của chùa cụ là một lá cờ tam
sắc (Chiếc ghe ngo). Không những thế, trong sáng tác Sơn Nam, tác giả tập trung mô
tả những con người chiến đấu chống ngoại xâm với “hào khí Nam Bộ” của cha ông
như Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Trương Định… Trong Hai mươi năm giữa
lòng đô thị (Hồi ký tập 3), các cô gái trong tù mặc dầu bị tra tấn về thể chất, khủng bố
về tinh thần nhưng thái độ ung dung, thoải mái cứ như ở nhà của mình. Thường xuyên bị bắt, đánh đập, điều tra… nhưng lúc nào cũng tỏ ra lạc quan, hồn nhiên “Phụ nữ chịu đựng gian khổ, lì lợm hơn đàn ông” [13a; 373]. Nhưng đáng nể nhất, đáng khâm phục nhất có lẽ là má Sáu ở Cà Mau. Bà bị bắt trong lúc đang hoạt động nhưng không hề biết sợ, lúc nào cũng ngang tàng, thách thức “… Không ăn, không uống cứ lo… đa tình!/ Tình là yêu nước non mình…” [13a; 374]. Thái độ của các cô, các chị,
các mẹ miền Nam trong chiến đấu vô cùng dũng cảm. Đây phải chăng là tấm lòng
yêu nước mạnh mẽ và tư thế tự tin, chủ động đứng trên đầu thù?
75
Sự kiên cường không phải chỉ người đứng trên đầu chiến tuyến, mà còn là
những nông dân nghèo làm ruộng rẫy, chân lấm tay bùn nhưng vô cùng gan góc. Trong Ở Chiến khu 9 (Hồi ký tập 2), nhân vật Xúc hiền lành, đằm thắm hàng ngày “không
được học chữ cũng như học chánh trị’ nhưng “không ngờ nó gan lì tới cỡ đó” [13a;
254]. Tư thế không sợ kẻ thù, hành động quyết liệt trên đầu chiến tuyến chống quân
xâm lược của những người phụ nữ Nam Bộ, không phải chỉ là hành động bộc phát mà là sự nung nấu của lòng căm thù, lòng yêu từng mảnh đất quê hương, đất nước…
chúng luôn hiện diện trong tâm tưởng của những người dân Nam Việt. Sơn Nam đã
khẳng định tình yêu sâu nặng và tinh thần bất khuất của con người Nam Bộ là tình yêu đất – nước, tiêu biểu là Miễu Bà Chúa Xứ, Con ngựa đất, Hòn Cổ Tron, Hồi ký...
Tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc là vẻ đẹp tồn tại mãi với
thời gian. Đối với con người Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam, họ thể hiện lòng yêu
nước, yêu quê hương khác nhau, yêu nước chính là yêu mảnh đất mà cha ông tạo
dựng và nhiệm vụ của thế hệ nối tiếp sau phải gìn giữ và bảo vệ. Đối với kẻ thù xâm
lược, người thì chọn cách đứng lên chiến đấu như Nguyễn Trung Trực, Trương Công
Định…, nhưng người lại chọn cách bất hợp tác với giặc như cụ Nguyễn Đình Chiểu,
một số người khác thể hiện lòng yêu nước bằng hành động giản dị nhưng kiên định…
Sơn Nam đã “phát hiện” ra người Nam Bộ ngoài tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm
giành độc lập tự do cho quê hương xứ sở còn mang một ý thức bảo vệ quyền sở hữu
mảnh đất mà chính tay mình bỏ công khai phá, chính tay mình tạo dựng rất cao. Họ
hiểu rõ công khó nhọc như thế nào để khai phá một vùng đất hoang nên có tính sở hữu
chúng một cách mạnh mẽ là tất yếu. Điều đó giúp các thế hệ sau tiếp nối các thế hệ
trước quyết tâm bảo vệ mảnh đất phương Nam không để kẻ thù xâm phạm. Những tác
phẩm Sơn Nam đều nhất quán trong việc đem đến cho người đọc những cảm nhận về
nét đẹp tuyệt vời của con người Nam Bộ trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, bảo vệ xứ sở
của người dân Nam Bộ trong công cuộc chinh phục thiện nhiên và mở rộng bờ cõi.
3.2.2.2. Con người với tính nghĩa khí, hào hiệp, giàu tính thương người Trong mối quan hệ giữa con người với con người trong tác phẩm Sơn Nam, người đọc dễ dàng nhận ra trong điều kiện tự nhiên: vùng đất mới khai phá, kênh rạch chằng chịt, biển cả trùng trùng, núi non điệp điệp… đời sống khá dễ dàng ở vùng sông nước đã tạo nên nếp sống phóng khoáng, không bị câu thúc bởi những thiên kiến nặng nề, cổ hủ của hệ tư tưởng phong kiến. Cư dân Nam Bộ sống trên vùng đất
lạ, không bà con, thân thích, tính trọng nghĩa khinh tài của con người đã sớm nảy nở
trên vùng đất này. Người Nam Bộ rất trọng nghĩa khí, xem tiền tài là vật ngoài thân.
76
Người đi trước sẵn sàng giúp đỡ người đi sau, người có giúp người chưa có, người
định cư giúp người còn lang bạt, người mạnh nâng đỡ, che chở cho kẻ yếu. Ngay đối với người lầm lỗi, họ sẵn sàng tha thứ, chọn cách bỏ qua để cuộc sống bản thân và
những người chung quanh được vui vẻ. Trong Bút ký về đồng bằng sông Cửu Long,
Phan Quang nhận định rất chính xác về tính cách của con người miền Nam “hiếu
khách trọng nghĩa khinh tài, tiêu xài rộng rãi là một đặc điểm “khác thường” được nhắc tới khi nói về tính cách con người Nam Bộ” [150; 441].
Trọng nghĩa khinh tài là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người dân
miền Nam. Để tồn tại, người dân Nam Bộ ngoài tinh thần gan dạ, dũng cảm… thì tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau đã bao trùm lên mối quan hệ trong cộng
đồng mà họ cho đó là cái Nghĩa. Nghĩa chính là nghĩa khí, tình nghĩa, đạo nghĩa, giữa
con người với con người, là cách ứng xử giữa con người với nhau cũng như giữa con
người với thế giới chung quanh. Họ sẵn sàng giúp đỡ, cưu mang những người khó
khăn hơn mình. Không cùng xứ sở, quê hương, xóm làng, không cùng bà con họ
hàng… nhưng luôn với tư thế “thi ân bất cầu báo” với những những người được gọi
là “tứ hải giai huynh đệ”. Đối với họ, tình luôn đi đôi với nghĩa. Khí là chỉ tâm thế
sống của con người vì cái nghĩa mà có dũng khí, khí phách. Nguồn gốc cao đẹp của
khí chính là xuất phát từ cái nghĩa, vì nghĩa mà hành động “Dấn mình vô chốn chông
gai,/ Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân… Lao xao sóng bủa dưới lùm,/ Thò tay vớt
bạn chết chìm cũng ưng” (Ca dao). Họ thường lấy Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu là chuẩn mực đạo đức để noi theo: Sẵn sàng xả thân giúp đỡ người khác như
Lục Vân Tiên, Hớn Minh; coi trọng tình nghĩa, thủy chung trước sao sau vậy như
Nguyệt Nga, Tử Trực…
Tính nghĩa khí, hào hiệp thể hiện trước hết đối với những con người gần gũi
xung quanh làng mạc, xóm giềng. Trong những sáng tác viết về những con người trên
đường lập nghiệp gặp khó khăn phải nhờ sự giúp đỡ và cưu mang của người khác,
cách xử sự đượm tính chân tình. Đối với xóm giềng, họ gắn bó, quí mến, giúp đỡ lẫn nhau “chín bỏ làm mười”, bỏ qua những hiềm khích. Thầy Hai rắn với thầy Năm Điền từng cạnh tranh gay gắt trong nghề nghiệp, nhưng khi nhìn thấy thầy Năm Điền với con Lài chết vì toa thuốc rắn, thầy Hai đau xót “Chờ cho thưa khách, thầy tới cầm tay nạn nhân mà ngửi rồi nước mắt thầy bỗng tuôn xuống” [14a; 197]. Những giọt nước mắt của nghĩa tình, của nhân tâm, của bao nhiêu điều ông chưa thể nói với
người bạn đồng nghiệp khi còn sống không có dịp để nói. Và ông cũng từ bỏ nghề
thầy rắn đã từng là niềm kiêu hãnh và cả đời gắn bó. Tấm lòng của thầy Hai Rắn
77
chính là sự bao dung đối với những toan tính, đố kị, mánh khóe của Năm Điền nói
riêng và của con người nói chung. Truyện ngắn Một cuộc bể dâu là một thông điệp mà Sơn Nam muốn ca ngợi lòng hào hiệp và tính thương người của người dân miền
Nam. Giữa mùa nước lũ, trâu bò không có cỏ ăn, người chết không có đất chôn, cha
thằng Kìm chết giữa biển nước mênh mông của vùng ruộng sạ tỉnh Long Xuyên, chú
Tư Lập và ông bà Hai Bích đã sẵn sàng “chôn cất” chu đáo cho người chết và còn lập đàn cầu siêu cho “vong hồn bạc mạng”. Đối với họ trước lạ sau quen, khi được con
gái hỏi về Hai Tam “Bà con làm sao?”, lão Sáu Hiền “gật gù” tâm đắc trả lời không
do dự “Trời mà biết. Bà con một xứ, biết chưa?” [4a; 69]. Trong Tình nghĩa giáo khoa thư, với tình tiết đơn giản nhưng thấm đẫm nghĩa tình, câu chuyện kể về người
phái viên báo Chim Trời ở thành phố từ một người đi thu nợ báo thiếu của anh nông
dân Trần Văn Có lại trở thành Mạnh Thường Quân tặng cho anh Có mỗi kỳ một tờ
báo làm kỷ niệm sau đêm trò chuyện về sách Giáo khoa thư. Sự giúp đỡ không tính
toán của ông già Hy đối với Năm Hinh (Ngày hội ba khía), Ba Hò đối với thằng Tịnh
(Ngày xưa tháng chạp), lão Ngượt đối với Hai Cần (Vẹt lục bình), ông Năm Lượng
đối với Điệu (Vọc nước giỡn trăng), Sáu Hiền đối với Hai Tam (Vạch một chân
trời)…cũng trên tinh thần hiệp nghĩa ấy. Họ là những người thuộc nhiều tầng lớp
khác nhau với những hoàn cảnh, số phận khác nhau nhưng giống nhau ở tính cách
“mộc mạc, bộc trực, chân thành, hòa hiệp, trọng nghĩa khinh tài…”. Ngòi bút Sơn
Nam cũng thể hiện tấm lòng cảm phục người phụ nữ, trong Người tình của cô đào
hát, bà bầu gánh hát Hoa Hồng không những nhân hậu còn trọng nghĩa tình, bị người
yêu cũ – cũng là ông bầu nâng đỡ bà ngày xưa bôi nhọ, nhưng vẫn không lấy đó là
phiền hay căm ghét mà luôn nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, thỉnh thoảng cho ông ta tiền
và chào hỏi mỗi khi gặp mặt “Tôi giữ thể diện cho ông mà. Tôi biết nhờ cái chào của
tôi mà ông có thể vay mượn thêm tiền bạc ở hàng xóm” [16a; 121]. Cô Huôi khi trở
thành Bà Chúa Hòn oai phong nhưng luôn nghĩ đến cuộc sống của người dân trên
Hòn, lấy tâm để đối đãi với dân chúng, lấy đức để cảm hóa tên ác quỷ đang tâm giết cả người “đầu gối tay ấp” của mình (Bà Chúa Hòn). Họ sẵn sàng cưu mang người thân cũng như người lạ. Khi cần, họ nhiệt tình giúp đỡ không tính toán. Điều này chính là một nét đẹp trong tính cách của người Nam Bộ.
Sơn Nam cũng trân trọng tính hào hiệp, nghĩa khí của phường “lục lâm thảo khấu”, Tư Hiền – thủ lĩnh Đảng Cánh buồm đen tung hoành từ Cà Mau đến Hà Tiên,
gây rối cho tàu Tây và tàu buôn Hải Nam nhưng dứt khoát không phạm vào tài sản
của dân chài vùng ven biển, đến khi ngọn roi của mình giết lầm người vô tội anh đã
78
tuyên bố giải nghệ “Đây là lần đầu tiên trong đời anh đau đớn nhất, anh đã giết oan
người ta…” [15a; 70]. Quan niệm “Ăn cướp của Tây tà đem phân phát cho kẻ bần cùng” [15a; 119] là mục đích của nhiều đảng cướp; lão cướp biển Khăn Đen, vô tình
giết cha thằng Mến nên cảm thấy ân hận, luôn quan tâm, giúp đỡ nó. Khi biết được
cuộc đời nó sa đọa và không hạnh phúc, lão ngậm ngùi thương xót “lão Khăn Đen ứa
lệ:/- Mình về đi núi Tà Lơn chơi. Tội nghiệp nó!” [10a; 395].
Tác phẩm Sơn Nam ngập tràn những cách ứng xử đậm đà tình nghĩa. Khác với
rất nhiều nhà văn đã mô tả tính cách con người Nam Bộ nghĩa khí, trọng nghĩa tình,
Sơn Nam đã nhìn thấy chiều sâu bên trong tính nghĩa khí của con người Nam Bộ một thời “khai sơn phá thạch” khi con người phải nắm tay đoàn kết để cùng tồn tại. Có
người cho rằng “rừng của Sơn Nam có hương thơm”, thứ hương thơm quý giá của
tình người đồng bằng sông Cửu Long. Tình nghĩa vốn là thứ giá trị quý báu của dân
tộc ta từ bao đời, nó đi theo người khai hoang và ươm mầm nẩy nở trên vùng đất mới.
Đánh giá về ý thức cộng đồng của người Nam Bộ, Trần Ngọc Thêm viết “Dù kinh tế
hàng hóa có phát triển, người Nam Bộ, người Việt Nam vẫn coi trọng tính cộng đồng,
yếu tố làng xóm vẫn được xếp vào yếu tố thứ hai trong thang bậc ưu tiên khi chọn nơi
cư trú. Người Nam Bộ quan niệm: Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ,
ngũ cận điền” [178;1996]. Do những đặc điểm này tạo cho người Nam Bộ khá năng
động, sáng tạo nhờ đó tạo ra nền kinh tế năng động miền Nam ngày nay.
3.2.2.3. Con người với tinh thần phóng khoáng, lạc quan
Trong sáng tác Sơn Nam, người nông dân Nam Bộ thời kỳ mở đất khai hoang,
hay người trí thức Tây học sống trong điều kiện vô cùng khó khăn nhưng họ có một
tinh thần lạc quan vô bờ bến và một niềm tin vào tương lai đáng ngạc nhiên. Họ sống
đơn giản, vui vẻ, thoải mái, luôn tạo ra những niềm vui bình dị cho bản thân và cho
người lân cận. Từ truyện ngắn, truyện dài đến hồi ký, bút ký… đều bộc lộ những
cung bậc cảm xúc: vui, buồn, sầu bi, đau đớn nhưng luôn lạc quan, tin tưởng, tự tạo
niềm vui trong cuộc sống… Họ là những người nghèo vật chất nhưng luôn ấm áp tình người, thủy chung son sắt trong tình yêu, chân tình, vui vẻ giúp đỡ lẫn nhau không phân biệt thân sơ… Cho dù cuộc sống có nhiều thay đổi, có những nỗi đau xen lẫn với những nỗi thất vọng… họ ít khi tỏ ra bi quan, chán nản. Trong Chuyện tình một người thường dân, dù trong hoàn cảnh ngặt nghèo, giặc Pháp đang truy đuổi, cuộc sống “ngàn cân treo sợi tóc”, người tình còn bị ràng buộc bởi tang chồng, hoàn cảnh
bản thân vô cùng bi đát, nhân vật Phước vẫn có một niềm tin vào ngày mai “dành
dụm, mượn tiền, cất căn nhà nhỏ vùng ngoại ô, cô Ngó lo buôn bán, mình ghi sổ sách
79
cho nhà vựa (…). Ngày mai, mình bàn” [7a; 49 – 50]. Trong cuộc chiến đấu với kẻ
thù, đồng bào lấy được súng “đại bác thần công” gom về rừng U Minh, mọi người đều hồ hởi, lạc quan “Nó hư ta đem sửa lại, nay mai, sẽ dùng đó mà đánh (…). Một
sự ngây thơ có chiều sâu, lạc quan” [13a; 176 – 177]. Thật vậy, chính sự ngây thơ nầy
rất cần thiết vì nó là niềm tin của thế lực cách mạng đang lên.
Hiếm có tác phẩm nào miêu tả con người bị gục ngã hay tuyệt vọng trước những khó khăn của cuộc sống. Trái lại, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã bao giờ họ
cũng có một niềm tin vực họ dậy. Trong Cô út về rừng, vợ chồng ông Cả gả đứa con
gái duy nhất về xứ Cạnh Đền xa xôi cách trở, đã mấy năm rồi không về thăm nhà để lại cho ông bà nỗi lo âu những ngày xế bóng khi nghĩ đến ngày “gần đất xa trời”
không có người “phò giá triệu”, không có ai “rinh quan tài”, nhưng với tinh thần lạc
quan, ông bà cũng thấy ánh sáng trong cái tương lai mờ mịt “Ông hiểu đời ông chưa
đến mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên, vô tận” [15a; 46 –
47]. Trong Mùa “len” trâu, hai vợ chồng chú Tư Đinh cho con trai là thằng Nhi đi
“len” trâu, khi trở về từ một đứa trẻ ngoan nó trở thành đứa bé biết chửi thề, hút
thuốc, xăm mình như những tay anh chị “giang hồ”. Trước tình hình đó, chú Tư Đinh
không lấy làm buồn mà chỉ cho rằng đó là quy luật tất yếu, nó nhiễm tật xấu nhưng
nó khôn lớn và trưởng thành hơn “niềm tin vào cuộc sống và tinh thần lạc quan của
chú Tư Đinh cũng như của bao nhiêu người Nam Bộ khác” [16a; 46]. Nhân vật Tân
(Những viên thuốc bổ) vì mua nhầm thuốc giả nhưng vì tiếc tiền nên đã nghĩ ra một
biện pháp để tạm thanh toán “cái hiện tại ê chề” mà anh đang đối mặt “Đêm nay mình
nấu nước trà, ăn thử một hoàn thuốc, ăn chơi như trẻ con ăn kẹo” [14a; 328]. Vương
Chất (Ông thổ chủ) – người đàn ông ốm yếu bệnh tật lúc nào cũng canh cánh bên
lòng vì sự lụn bại của gia tộc, vì sự càn quấy, phá gia chi tử của đứa cháu trai “Dạ của
lão không khỏi xốn xang khi nghe tiếng đàn, tiếng hát của ca nhi từ trong nhà đứa
cháu nọ vang ra” [5a; 354]. Ông hàng ngày cặm cụi “nhổ từng cọng cỏ”, “cuốc từng
giồng đất” để dành cho đứa cháu phá sản đã biết hối hận “Quang cảnh đã đổi thay. Khoai đậu bắp vươn lên thay cho sỏi, gai, cỏ dại ngày xưa” [4a; 355]. Một niềm tin và một mảnh vườn tươi đẹp đã làm thay đổi đứa cháu hư hỏng và khả năng phục hồi lại danh dự của dòng họ là chắc chắn. Tiếng cười lạc quan luôn vang lên dù hoàn cảnh thế nào, kết thúc truyện Con rắn là một tiếng cười sảng khoái của tác giả cũng như nhân vật “Vài tháng sau, bà cai tổng bỗng lớn bụng. Rồi sau tháng Giêng, bà xổ
ra một đứa “thầy rắn con”, giống hệt gương mặt láu cá của thầy Ngọc” [14a; 288].
Trong những hoàn cảnh buồn bã, đau khổ bao giờ họ cũng có những suy nghĩ
80
và hành động tích cực hay cùng nhau tạo ra những nụ cười để tạm quên đi những khó
khăn của hiện tại. Đây cũng là một đức tính rốt đẹp của người Nam Bộ khi đối mặt với khó khăn. Sơn Nam là người có công trong việc thể hiện con người với tinh thần
lạc quan vô bờ bến của con người miền Nam trước những gian nan khó nhọc thậm chí
trước những cái chết đang rình rập hàng ngày hàng giờ nơi miền đất xa xôi, nguy
hiểm. Đã nhiều tác giả đề cập đến tính lạc quan của dân miền Nam nhưng với biệt tài của mình Sơn Nam đã tạo cho những nhân vật của mình sinh động và thú vị rất riêng.
3.2.2.3. Con người với tính thích phiêu lưu, rày đây mai đó
Phiêu lưu phải là một hành động dấn thân vào cái xa lạ chưa được khai phá. Cuộc sống phiêu lưu là thích đi đây đi đó thám hiểm, tìm ra cái hay, cái lạ. Thích
được thử thách, liều lĩnh, không tính toán kĩ trước khi làm, không lường đến những
hậu quả trước sau hoặc phiêu bạt nơi đất khách quê người.
Văn học phong kiến cũng có nhiều tác phẩm viết về con người thích phiêu lưu.
Theo quan niệm của người Việt xưa, người con trai không chỉ là trụ cột trong gia đình
mà còn phải biết “tung hoành ngang dọc” thể hiện cái chí làm trai “Đi cho biết đó biết
đây? Ở nhà với mẹ biết ngàys nào khôn” (Ca dao). Nguyễn Công Trứ thế kỷ XIX có
những bài thơ thể hiện chí nam nhi rất hào hùng “Vòm trời đất dọc ngang ngang dọc/
Nợ tang bồng vay trả trả vay/ Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng
trong bốn bể” (Chí nam nhi). Những con người thích đi dây, đi đó để thỏa chí tang
bồng, để học hỏi, mở rộng kiến thức “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Họ xem
những cuộc phiêu lưu mạo hiểm cũng là phương thức để thỏa ước mơ, rèn luyện ý
chí, để con người trở nên tốt hơn, nhân ái hơn, hoặc cao thượng hơn. Trước 1945,
trong dòng văn học Việt Nam cũng có nhiều tác giả viết về hình thức phiêu lưu như
Tô Hoài với Dế mèn phiêu lưu ký; Khái Hưng với Dọc đường gió bụi, Tiêu Sơn tráng
sĩ, Lan Khai với những chuyện Đường rừng… Cùng thời với Sơn Nam không nhiều
nhà văn đề cập đến nhân vật phiêu lưu, Lý Văn Sâm có một số chuyện “đường rừng”
nổi tiếng viết về những nhân vật thích phiêu lưu, có khát vọng tự do và công bằng xã hội như Kòn Trô, Rồng bay trên núi Gia Nhang… nhưng hình tượng nhân vật của Lý Văn Sâm chỉ gói gọn ở những khu rừng miền Đông Nam Bộ, không trải rộng trên khắp miền Nam như của nhà văn vùng đất mới. Do đặc điểm vùng miền, trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, ngay cả Nguyễn Ngọc Tư sau này cũng có nhiều nhân vật mang trong mình tâm thức lưu lạc (xem 241). Tuy nhiên Sơn
Nam là người có cái nhìn sắc bén và sự ham thích đặc biệt khi tập trung mô tả con
người phiêu lưu như là nhân vật mà nhà văn quan tâm sâu sắc.
81
Sơn Nam đặc biệt yêu thích con người phiêu lưu. Trong nhiều tác phẩm, ông
miêu tả kiểu nhân vật này với sự say mê khám phá, say mê thể hiện. Có thể một phần do tính cách phóng khoáng, thích phiêu lưu, thích học hỏi… của cá nhân nhà văn Sơn
Nam, phần khác do tính khu biệt của vùng đất mới Nam Bộ. Miền Nam được khai
phá bởi những bàn tay của của các lưu dân từ các vùng miền trên đất nước và cả
những đất nước lân cận “Người Hoa kiều trăm năm trước đã lưu lạc tới đất này vì nặng máu giang hồ” [7a; 30]. Họ rời quê hương xứ sở đi tìm đất sống, bản chất của
họ là thích phiêu lưu, thích mạo hiểm; không thích bị ràng buộc bởi bất cứ thứ gì.
Đến nơi này, thấy khó sống, họ lại tiếp tục đi tìm những vùng đất khác - những nơi lý thú, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của họ. Điều này trở thành một tính cách đặc
biệt của những người đi khai hoang, di dân, lập ấp thời gian đầu tạo dựng một miền
Nam trù phú sau này.
Họ phiêu lưu vì sở thích, vì muốn được vẫy vùng ngang dọc, vì muốn được
rong chơi đây đó, có ước mơ thực hiện cái chí làm trai trong xã hội “Ai nỡ câu thúc
chí trai của mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn” [15a; 282]. Cũng có thể họ là
những chàng trai có chí khí, lấy chuyện ngang dọc đất trời là nghĩa vụ và bổn phận
của người trai thời loạn với đối với đất nước. Hình ảnh vị khách trong Con Bảy đưa
đò là một điển hình. Qua sông nghe tiếng hò của con Bảy, đã hò đáp trả. Vì mến tài,
phục chí mà trở thành tri âm, đối đáp với nhau bằng những câu hò thông minh và dí
dỏm nhưng chàng không vì tình mà ở lại. Nghe con Bảy nói sẽ chờ đợi thì vị khách
đã khẳng khái trả lời “Chí trai bốn biển là nhà. Không có sức như chim bằng, như cá
kình, chớ phận con se sẻ, con tép, con tôm này cũng đòi học ngao du trong vòng đất
nước nhỏ hẹp” [14a; 242]. Có những nông dân không thành công trên vùng đất mà họ
đến khai phá nên tiếp tục đi tìm mảnh đất tốt và phù hợp hơn. Hoặc là những người
dân hiền lành không thể sống dưới sự cai trị hà khắc, chuyên áp bức dân lành của
quan lại địa phương nên tập họp những nhóm người đi tìm đất sống. Họ hướng về
“phía Tây Nam nơi rừng rậm phì nhiêu, chưa ai khai thác, chưa ai cai trị” [4a; 12]. Khi đến vùng đất mới, họ phá rừng, làm ruộng, chinh phục thiên nhiên, sinh cơ lập nghiệp. Tuy nhiên, đối với một số người thì phá rừng, đốn củi, bắt rùa… mang những huê lợi tầm thường không xứng đáng với công khó nhọc…
Còn có những người có dòng máu phiêu lưu chảy trong thân thể, đi khắp miền lục tỉnh để tìm việc làm kiếm sống. Trên bước đường lang thang, vui đâu chầu đó, hết
vui lại tiếp tục con đường cái quan, không sợ đói rét, vì đi tới đâu cũng có thể nương
nhờ người đi trước. Nếu may mắn, tìm được chỗ tốt, có thể lấy vợ sinh con, trụ lại trở
82
thành dân ngụ cư như nhân vật Tư Bình Thủy trong Nhứt phá sơn lâm. Anh là một
trong những nhân công được tuyển từ các vùng Cần Thơ, Long Xuyên, Hà Tiên… Anh Tư được mọi người yêu mến vì biết hát Vân Tiên, nhất là được Tư Châu Xương
“chấm” làm rể quí. Vì vậy, anh có ý định ở lại “Mai kia mốt lại, cuộc phá sơn lâm này
mãn, chắc chắn thế nào mình cũng được một cái sườn nhà” [16a; 134] để an cư lạc
nghiệp. Ngược lại sẽ như nhân vật Tư Hưng trong Chuyện rừng tràm, anh cũng là một lưu dân tìm đến rừng tràm gia nhập đội ngũ khai phá và bán củi lậu để mưu sinh,
tưởng có thể sinh cơ lập nghiệp xứ này nhưng chính quyền bấy giờ không cho phép,
cuối cùng anh phải bán xứ lưu lạc đến Sài Gòn để làm nghề khác. Cũng có người không thích làm ruộng hoặc ở một chỗ mà chỉ muốn với chiếc xuồng vẫy vùng trên
sông nước nên họ chọn cho mình cái nghề buôn bán hay trao đổi hàng hóa với người
nông dân như Năm Hinh trong truyện ngắn Ngày hội ba khía. Thua cờ bạc, lại muốn
thỏa chí tang bồng nên anh bảo vợ đưa tiền làm vốn đi làm ăn xa, nhưng đôi lúc “con
tim lữ thứ của Năm Hinh là ít nhiều khô héo” [12a; 160]. Bảy Kiệm trong Tâm sự chú
lái nồi thích được dạo chơi đây đó nên nghe lời khuyên của chú lái nồi “Giăng câu
bắt cá như cậu thiệt là oan uổng tài trai, suốt đời không rời khỏi xó rừng” [5a; 378],
Bảy Kiệm trở thành người lái buôn nồi xuôi dòng trên sông qua các vùng Miệt Thứ,
Kinh dài, chợ Rạch Giá, vàm Rạch Giồng… đến Hòn Đất, Hòn Sóc, Hòn Ma… Sơn
Nam có một kết luận rất hóm hỉnh nhưng chí lý về cư dân Nam Bộ “Người Miên nắn
nồi vì họ thích ở một chỗ, người Việt ưa mua nồi vì thích phiêu lưu, người Hoa kiều
thích ở chợ, lập cái vựa nồi để dễ thâu lợi…” [5a; 386].
Miền Nam cũng là vùng văn hóa Óc Eo4, đồng thời với những giai thoại về vua “Gia Long tẩu quốc” nên vùng đất này đã sản sinh ra nhiều truyền thuyết về
những kho tàng hoặc những mỏ vàng được chôn dấu trong lòng đất. Nhiều người có
đầu óc phiêu lưu kết bè với nhau để đi tìm vàng hay tìm kho báu. Bất chấp những khó
khăn, những gian khó, nguy hiểm đến tính mạng trên đường, họ cố tìm đến những nơi
4Văn hóa Óc Eo là tên gọi do nhà khảo cổ học người Pháp là Louis Malleret đề nghị đặt cho di chỉ ở núi Ba Thê, hiện nay thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nơi này có thể đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ 1 – thế kỷ 7.
Óc Eo đã từng được nối bằng một kênh đào dài 90 km về phía bắc với Angkor Borei, nơi có lẽ từng là kinh đô của vương quốc Phù Nam. Lý do quan trọng nhất cho sự thịnh vượng của Óc Eo là do vị trí của nó trên trục đường thương mại trên biển giữa một bên là bán đảo Mã Lai và Ấn Độ và bên kia là sông Mekong cùng với Trung Quốc. Vào thời kỳ phồn thịnh của Óc Eo và Phù Nam, tàu thuyền trong khu vực có thể thực hiện những hải trình rất dài mà không phải đi dọc theo bờ biển. Do vậy mà về mặt chiến lược, Óc Eo là một địa điểm trung chuyển rất thuận lợi. (Theo Wiki)
83
mà được lưu truyền có những kho vàng hay kho tàng châu báu. Trong tác phẩm Sơn Nam nhiều truyện đề cập đến loại nhân vật này như Tư Bá, Hai Tam, Lục cụ, Thầy
Rắn… trong Vạch một chân trời. Họ có những ước mơ đổi đời “U Minh! Xứ có nhiều vàng… chú tới đó làm giàu dễ dàng, xưng hùng xưng bá một cõi” [4a; 16]. Họ đã ra
công tìm kiếm những kho tàng, không ngại vượt qua bao gian truân của thiên nhiên
khắc nghiệt, của lòng người hiểm ác, kể cả chuyện chuyên giết người như của thầy
trò Lục cụ và lão Thầy Rắn; hay của những nhân vật như Năm Tự, Tư Hí, Lục Che… cố tìm được vàng để có thể trở thành “bá hộ” làm mưa làm gió với đời trong Kho
vàng. Ông Phán trong Chim quyên xuống đất mê những cổ vật được lấy trong lòng
đất để đem về trưng bày trong nhà cho xứng tầm của người chơi cổ vật nên mê luôn những chuyện phiêu lưu do Sỹ kể lại; lão Khăn Đen trong Xóm Bàu Láng luôn luôn
truy tìm những kho vàng được chôn dấu trong những ngôi cổ mộ… chỉ mong được
một số tài sản rồi “rửa tay gác kiếm” không phải làm cướp biển nữa mà sống cuộc đời
đơn giản, bình thường như những người khác.
Trong tác phẩm Sơn Nam, còn có những tay cướp biển. Nhân vật cướp biển
được nhà văn mô tả không hoàn toàn là những kẻ ác độc, xấu xa mà họ còn là những
con người ngoài chí phiêu lưu còn có những hoàn cảnh khác nhau, họ không chịu
được sự tù túng, nghèo khổ, căm ghét những thế lực bạo tàn, sự bất công của xã hội
đương thời nên tham gia vào đội ngũ cướp biển đi cướp bóc; hoặc là những kẻ bị đẩy
vào bước đường cùng, bị truy nã bởi chính quyền đương thời, cũng có những kẻ có
chí lớn nhưng bất hợp tác với thực dân cướp nước, muốn làm những việc kỳ vĩ, họ
sẵn sàng đi đây đi đó tập hợp những người cùng chí hướng để thành lập băng cướp
biển cho thỏa chí tang bồng và gây khó dễ cho kẻ thù. Trong Đơn Hùng Tín chào đời,
nhân vật Đơn Hùng Tín từ một kẻ vô danh, nuôi chí lớn và chờ thời, hắn phiêu bạt
các vùng hang đá, biển khơi để chiêu mộ những kẻ cùng chí hướng “Muốn lập đảng
cướp, mình nên qui tụ bọn người đốn củi dưới chân núi” [15a; 120]. Nếu Đơn Hùng
Tín chỉ là một kẻ vô công rỗi nghề muốn trở thành nhân vật “tiếng tăm” là mối sợ hãi
của mọi người thì nhân vật Tư Hiền trong Đảng cánh buồm đen lại khác, Tư Hiền là người có chí lớn, anh lang thang khắp vùng núi cao tầm sư học đạo, nhưng không có đạo nào quyến rũ anh được lâu dài. Nhờ cơ may, anh gặp được đạo sĩ giúp anh tu luyện để có thể giữ một chức vị cao trong tổ chức và muốn “chức vị nào mà người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây” [15a; 65]. Sau năm năm rèn luyện, anh xuống núi hành hiệp trượng nghĩa cứu người, được nhường chức đảng trưởng của “Đảng Cánh
buồm đen”. Từ khi nhậm chức, Tư Hiền đã chấn chỉnh đảng từ một đảng cướp biển
chuyên gây sóng gió cho người dân trở thành một đảng có nề nếp, quy củ rõ ràng, tập
84
luyện võ nghệ, tuyệt đối không xâm phạm tài sản của dân “Hai kẻ thù chánh cần đánh
đổ không nương tay là tàu “đoan” của Tây và ghe buôn lậu Hải Nam” [15a; 68]. Lão Khăn Đen trong Xóm Bàu Láng cũng là một tên cướp biển tung hoành ngang dọc
khắp các vùng duyên hải, rất ngang tàng và hung dữ với những kẻ giàu có chuyên ức
hiếp dân lành nhưng lại sống có tình có nghĩa với thằng Mến cũng như người dân
nghèo khổ thấp cổ bé miệng của xóm Bàu Láng xa xôi.
Ngòi bút Sơn Nam tỏ ra yêu mến, cảm thông hoặc đôi chút hóm hỉnh khi viết
về những tên cướp biển, những con người vì hoàn cảnh, vì có máu giang hồ, có kẻ
thích phiêu lưu đã trở thành những tay cướp biển khét tiếng. Ông không lên án, chỉ trích hoặc ghét bỏ những tên cướp biển mà đứng ở góc độ khách quan để mô tả những
nhân vật này. Không thể nói Sơn Nam là người sáng tạo ra nhân vật phiêu lưu nhưng
có thể nói chính Sơn Nam đã thổi một hơi thở mới nồng nàn vào những con người
yêu thích phiêu lưu của miền Nam thời mở cõi. Đây cũng chính là nét độc đáo riêng
biệt của nhà văn Nam Bộ trong việc thể hiện nhân vật của mình.
Khảo sát toàn bộ sự nghiệp văn học của Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy rằng
con đường nghệ thuật đã được ông định hình ngay từ lúc ban đầu. Đó là hướng đến
giá trị chân – thiện – mỹ của cuộc sống. Mỗi tác phẩm, Sơn Nam tập trung mô tả
những kiểu người với tấm lòng trân trọng, yêu mến, cảm thương. Dù người nông dân
chân đất nghèo khổ hay người trí thức cùng quẫn, ông cũng muốn xây dựng một hình
mẫu riêng biệt trên những trang văn ngồn ngộn sức sống khẳng định họ chính là
những anh hùng vô danh đã góp công, góp sức của mình trong quá trình Nam tiến,
khai khẩn đất hoang, mở rộng chiều dài đất nước.
3.3. Cảm quan về văn hóa Nam Bộ trong sáng tác Sơn Nam Văn hóa vốn là một khái niệm rộng lớn và có nhiều định nghĩa khác nhau, nhà
xã hội học người Pháp Mercier đã ví thuật ngữ văn hóa như một tòa lâu đài đa diện
mà mỗi nhà nghiên cứu chỉ tiếp nhận một mặt. Hiện nay, chưa có một định nghĩa nào
bao quát đầy đủ nội hàm của nó. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện nay có khoảng 500 định nghĩa về khái niệm văn hóa. Do vậy, để có một định nghĩa thống nhất là không tưởng. Người ta chỉ có thể dựa vào mục đích nghiên cứu để tìm ra những hạt nhân hợp lý phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình đi tìm định nghĩa và nội hàm của văn hóa, đã có nhiều công trình giá trị. Hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa vào năm 1982 đã đưa ra một khái niệm văn hóa được nhiều người
đồng tình “Theo nghĩa rộng, ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính
đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một
85
nhóm xã hội. Nó không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các
quyền cơ bản của nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [34; 264]. Như vậy, văn hóa là toàn bộ hoạt động tinh thần – vật chất, tác động vào tự
nhiên, xã hội, con người nhằm tạo ra các giá trị tinh thần và vật chất góp phần thúc
đẩy sự tiến bộ xã hội vươn tới khát vọng chân - thiện - mỹ.
Trong đời sống, văn học có một vị trí quan trọng, nhưng trong quá trình phát triển của một nền văn học, tác động của văn hóa vào văn học là tất yếu. Mối quan hệ
giữa văn học và văn hóa là vấn đề thể hiện những đặc trưng, giá trị của văn học trong
sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, còn sự sáng tạo nghệ thuật, bộ phận nòng cốt của văn hóa. Nó truyền cảm mạnh
mẽ và có sức sống lâu bền khi đi sâu vào tư tưởng, đạo đức, đời sống của con người.
Bàn về vấn đề văn hóa là nguồn mạch sáng tạo, khám phá văn chương, Đỗ Thị Minh
Thúy nhận định “nhấn mạnh sự tác động tổng thể của văn hóa tới văn học, như các
nhân tố xã hội, kinh tế, chính trị... thông qua văn hóa mới tác động đến văn học… văn
học trở thành một trong những tiêu điểm của văn hóa, đóng vai trò nhân tố đại diện
cho văn hóa..." [186; 239].
Như vậy, văn hóa và văn học có mối liên hệ mật thiết, văn học phản ánh đời
sống, thật ra là phán đoán về văn hóa. Văn hóa là một phương diện còn lại lâu dài của
tác phẩm văn học. Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta cũng thấy những biểu hiện văn
hóa. Thông qua hình tượng nghệ thuật, mỗi nhà văn đều có một cách thể hiện độc đáo
riêng về mối quan hệ giữa văn hóa và tác phẩm văn chương.
Không hiếm những nhà văn đề cập đến văn hóa Nam Bộ trong tác phẩm, Hồ
Biểu Chánh – nhà văn để lại cho đời một số lượng tác phẩm văn xuôi khá đồ sộ. Ông
đề cập đến văn hóa vật thể hay văn hóa tinh thần Nam Bộ giai đoạn đầu thế kỷ XX rải
rác qua các tác phẩm. Tuy nhiên văn hóa được ghi nhận trong sáng tác Hồ Biểu
Chánh còn rất sơ sài và mờ nhạt. Về sau, những nhà văn cùng thời với Sơn Nam như
Bình Nguyên Lộc chuyên viết về văn hóa vùng Đông Nam Bộ. Trang Thế Hy, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng…, nhiều nhà văn trẻ đồng bằng sông Cửu Long sau này như Nguyễn Mạnh Hà, Lê Quang Trọng, Tiểu Quyên, Nguyễn Ngọc Tư… cũng có nói đến văn hóa trong những sáng tác của mình nhưng có lẽ không ai có sự quan tâm sâu sắc về văn hóa của Nam Bộ thời khẩn hoang như Sơn Nam – người được mệnh danh là “nhà văn hóa học” cũng như “nhà Nam Bộ học”. Ông viết nhiều đề tài với
nhiều thể loại, những điều ông viết tập trung vẽ lên một diện mạo văn hóa Nam Bộ
theo cách riêng của mình. Trong mỗi tác phẩm truyện ngắn, truyện dài hay ký của
86
Sơn Nam đều bộc lộ rất rõ một cảm quan nhận thức mạnh mẽ và sâu sắc về bản sắc
văn hóa vùng đất Nam Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng. Nhà văn có một quan niệm rất riêng và độc đáo về văn hóa “Văn hóa đứng im một chỗ là văn hóa chết.
Sống động, thích ứng với hoàn cảnh, đó mới là văn hóa, đúng theo nghĩa của nó”
[41b; 56]. Nghiên cứu về văn xuôi Sơn Nam, người đọc dễ dàng nhận thấy nhà văn
phản ánh văn hóa Nam Bộ theo hai góc độ: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
3.3.1. Văn hóa vật chất Văn hóa vật chất hay còn gọi là văn hóa vật thể, là nền văn hóa còn bao gồm
tất cả những sáng tạo hữu hình của con người. Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện giao thông, máy móc thiết bị... đều là văn hóa vật chất. Khác với Hồ
Biểu Chánh chỉ lướt qua văn hóa Nam Bộ trong những tình huống truyện thì nhà
“Nam Bộ học” Sơn Nam đã đi sâu phân tích, giải trình các khía cạnh văn hóa. Văn
hóa vật chất của vùng đất Nam Bộ có thể được kể đến trong tác phẩm Sơn Nam là
văn hóa mưu sinh, văn hóa cư trú, văn hóa giao thông, văn hóa ẩm thực…
3.3.1.1. Văn hóa mưu sinh:
Qua sáng tác văn học, Sơn Nam đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết về
cuộc sống của người dân Nam Bộ thời khẩn hoang, mở rộng bờ cõi. Đối tượng đi
khai hoang là những người nông dân nghèo Bắc Bộ, Trung Bộ đi tìm kế sinh nhai,
những người chống Pháp thất bại tránh sự truy nã của kẻ thù phải thay tên đổi họ,
chạy xuống vùng Cà Mau, Rạch Giá ẩn náu và ở lại thành cư dân Nam Bộ. Ngoài ra
người Hoa, Khmer, Chăm vì một lý do nào đó cũng đến mảnh đất miền Nam này để
lập nghiệp...
Nghề đầu tiên mà theo số đông người Việt cho là nghề ổn định nhất, đó là làm
ruộng. Ước mơ lớn nhất của những người nông dân là trở thành tiểu điền chủ với vài
chục mẫu đất ruộng và một số tá điền riêng “Trăm nghề, không gì bằng nghề nông”
[12a; 21]. Đây là tâm thức nông nghiệp của người Việt nói chung và của người Nam
Bộ nói riêng. Trong Một vũng máu tầm thường, Tư Tôm – tay đạo chích khét tiếng nhưng cuối cùng vẫn chọn nghề nông, vì theo hắn, nghề nông là một nghề căn bản “tôi muốn làm ruộng, để lần hồi dành dụm chút ít tiền bạc cưới vợ” [5a; 62]. Thời gian đầu trên bước đường khai hoang, họ học hỏi được nhiều phương cách làm ruộng để nhanh chóng thích ứng với môi trường tự nhiên của vùng đất mới. Nhân vật Tư Cồ trong Ruộng lò bom đã học được cách trồng lúa của người Khmer, tận dụng qui luật
tự nhiên để trồng lúa “lò bom”, nơi mà người Pháp cũng phải chịu thua vì sự khắc
nghiệt của môi trường. Sau nghề làm ruộng là nghề làm vườn, khi có một số vốn khá
87
khá người dân Nam Bộ tìm đến nghề làm vườn vì làm vườn nhàn và có nhiều huê lợi
hơn. Tuy nhiên, muốn làm vườn người nông dân phải khá giả vì lập vườn đòi hỏi nhiều công sức, nhiều tiền của… Trong Bức tranh con heo, ông hương trưởng làm
nghề đốn củi nhưng khi “gia đình trở nên khá giả” thì ông “mua đất, lập vườn” [14a;
112]. Lập vườn là công việc lao động đầy sáng tạo của những người di dân mở đất,
họ chọn những vùng đất cao ráo “đào mương lên liếp” với kỹ thuật cao để lập vườn [21b]. Khác với vườn ở đồng bằng sông Hồng, vườn ở đồng bằng Cửu Long, thường
tập trung lại với nhau thành những không gian rộng lớn, trồng các loại quả như cam,
quít, ổi… mang lại hiệu quả kinh tế cao. Miệt vườn là những vùng đất xưa được lưu dân Việt vào khai phá sớm nhất. Nó đáp ứng đầy đủ những yêu cầu như phải có nước
ngọt, cao ráo, tránh được muỗi mòng, rắn rết, có khả năng trồng hoa màu ngắn
ngày… được xây dựng trên những đất giồng, đất gò mà những người đi mở đất đã
chọn “làm đất đứng chân” ở ven sông Tiền, sông Hậu [xem 21b]. Giới điền chủ Nam
Bộ luôn có tư tưởng “Dư tiền thì mua thêm đất ruộng, thâu thêm địa tô, đất không bị
mất mát” [21b; 98]. Những tỉnh được xem là “miệt vườn” ở Nam Bộ như là Sa Đéc,
Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang…
“Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, nghề rừng và nghề sông nước là hai
nghề chính của thời kỳ đầu khẩn hoang. Khi “chân ướt chân ráo” đến một vùng đất xa
xôi, lạ lẫm thì nghề rừng và nghề sông nước được chuộng hơn cả vì tất cả có sẵn
trong thiên nhiên, cứ việc lấy đi để sử dụng. Họ khai phá rừng để lấy đất làm nhà, làm
rẫy… hay lấy củi bán lấy tiền sinh sống. Khi thực dân Pháp quản lý các cánh rừng thì
họ sống bằng nghề bán củi lậu như cha con chú Tư Đức. Rất nhiều người như họ theo
nghề “nhất phá sơn lâm” để mưu sinh. Sau này, theo chính sách của nhà nước đương
thời, những người thợ rừng như Ông Tư Châu Xương, anh Năm Bình Thủy… trong
Nhứt phá sơn lâm khai phá rừng để làm “đường củi” cho chế độ thực dân.
“Nhì đâm hà bá”, người dân Nam Bộ khi mới đặt chân đến vùng đất mới thì
cá, tôm, cua… dưới nước; rùa, lươn, ốc… trên đồng, ven bờ sông… sẵn sàng để đánh bắt, giăng câu. Lâu dần họ làm nghề cá, họ có thể theo chủ ghe ra biển, ra sông hay có thể làm đăng, đóng đãy, xây nò, xây rọ, giăng lưới… Qua quá trình quan sát, tìm hiểu, họ đã nhanh chóng phát hiện ra quy luật của tự nhiên nên thu gom cá mà không mất nhiều công sức. Trong Con cá chết dại, Hai Tỵ có vô số kinh nghiệm trong vấn đề bắt cá ở vùng nước lợ “Ở xứ này, mỗi năm lại có một lần “cá dại”. Nước mặn cuối năm
tràn vô rạch. Bao nhiêu cá lóc quen nước ngọt bị say nước mặn, chết trôi lờ đờ” [12a;
48-49]. Nhiều sáng tác viết về nghề cá như Người mù giăng câu, Con Bà Tám, Xuất
88
quỷ nhập thần, Đảng xăm mình…
Ngoài ra, người dân Nam Bộ còn nhiều nghề khác để sinh sống như nghề ăn ong tức nghề thu hoạch mật ong rừng được nói đến trong các truyện như Bà Chúa
Hòn, Chuyện tình một người thường dân, Vạch một chân trời, Cái tổ ong…; nghề bắt
chim cũng rất phổ biến của người Nam Bộ được tác giả mô tả trong các truyện Con trích ré, Tháng chạp chim về…; nghề len trâu5, một nghề rất đặc thù ở Nam Bộ được Sơn Nam đề cập đến trong các truyện Một cuộc bể dâu, Mùa “ len” trâu, Một vũng
máu bình thường…; nghề bắt sấu cũng được mô tả rất kỹ trong các truyện Bắt sấu
rừng U Minh hạ, Con sấu cuối cùng, Sông Gành Hào…; nghề chế biến thủy hải sản trong Ngày hội Ba Khía, Con cá chết dại…; hay kinh doanh lúa gạo, nghề này thường
rơi vào những doanh thương người Hoa vì người Việt, người Chăm và người Khmer
không quan tâm hoặc không có khả năng buôn bán. Kinh doanh buôn bán được đề
cập đến trong Hội ngộ bến Tầm Dương, Đồng thanh tương ứng…
3.3.1.2. Văn hóa cư trú:
Người Nam Bộ sinh sống trong môi trường sông nước. Hệ thống sông ngòi
dày đặc là yếu tố quy định cách cư trú của người dân ở đây. Sông rạch bao quanh,
trước mặt, sau lưng, bên cạnh… nên chi phối rất nhiều đến cuộc sống của người dân
Nam Bộ. Trong tác phẩm của Sơn Nam, người đọc dễ dàng thấy những hình ảnh của
sông, rạch, kênh, xáng, múc… khiến cho các lưu dân Việt Nam đi khai hoang, tìm đất
sống, đến nơi này cư trú buộc phải chọn giải pháp là cất nhà sàn hoặc nhà cao cẳng để
trú chân. Họ tận dụng những vật liệu tự nhiên như lá dừa nước, cây tràm, cây đưng…
để làm nhà ngay trên những bãi đất bồi hay trên các cù lao ở giữa sông để tránh lụt lội
“khu vực ngập lụt của đồng bằng sông Cửu Long nên đa số nhà cửa đều xây cất theo
kiểu nhà sàn” [12a: 60]. Để thuận tiện cho ghe xuồng đi lại, người Nam Bộ thường
làm nhà dọc theo các bờ kênh, bờ sông cái… vì phương tiện chủ yếu của cư dân Nam
Bộ là ghe xuồng. Trong tác phẩm Sơn Nam, có rất nhiều hình ảnh những ngôi nhà sàn
5 “Len” trong tiếng Khmer có nghĩa là tự do. Len trâu có nghĩa là cho trâu đi tự do. Ở miền Nam có nơi nước lụt sâu đến 4 thước nước. Người và trâu đều không có chỗ ở. Người nuôi trâu phải đưa trâu đến vùng đất cao để trâu có thể sống và có cỏ ăn. Mỗi đàn lùa đi từ vài chục đến vài trăm con. Đi hết đồng này, ngập nước hết cỏ lại kéo sang đồng khác. Thời gian có thể kéo dài đến 3 hoặc 4 tháng. Chủ nhân thường gửi trâu cho một số người dẫn trâu đi trông coi, chăm sóc. Dần dần thành một nghề đặc thù của miền Nam: Nghề len trâu. (Theo Wiki)
89
“cao cẳng”, nhỏ bé như những “chấm nhỏ” giữa vùng nước lụt mênh mông (Bà vợ thứ mười, Một cuộc bể dâu); Ở vùng nước lụt, người ta cất nhà cao cẳng (Xuất quỷ nhập thần, Hồi ký Sơn Nam…). Có thể nói rằng nhà sàn và nhà cao cẳng, là giải pháp tối ưu cho người dân ở Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, rừng U Minh… vì
chúng có thể giúp những người dân đi khai hoang có thể vừa tránh lụt lội, vừa ngăn ngừa bệnh tật do sự ẩm thấp của vùng sông nước gây ra.
Một thành quả lớn của người dân Nam Bộ là sau khi có tiền của, họ đã lập nên
những vùng đất mà Sơn Nam gọi là “miệt vườn”, tức là những nơi đã được khai phá
lâu đời, khi cuộc sống ổn định, người Nam Bộ thích làm nhà ngay trên nền đất được đắp cao với những vật dụng kiên cố hơn như mái bằng gạch ngói, vách ván… ngôi
nhà thường thấp, ba căn, mô phỏng theo kiểu nhà ở Quảng Nam, Quảng Ngãi của
miền Trung. Trong nhà vật dụng đầy đủ, thể hiện đời sống cao và văn minh như bộ ván ngựa, giường thờ, tủ thờ… [19b].
Dạng cư trú thứ hai là chòi, chòi là những căn nhà được lợp tạm bợ, hình thức
làm nhà của đại đa số người dân Việt khi đến vùng đất mới để kiếm sống, phù hợp
với cuộc sống rày đây mai đó của lưu dân. Những căn chòi lợp lá dừa nhỏ bé, không
cửa, không vách, giữa chòi, chỉ có một bộ vạt bằng tre giữa hai bờ lau sậy, ô rô, bình
bát, cóc kèn (Theo chân người tình – Một mảnh tình riêng); Hai Tỵ mời mẹ con Hồng
lên chòi của anh ta để nghỉ ngơi chờ khi nước xuống (Con cá chết dại); một căn chòi
trống hoang trống hoác giữa đồng không mông quạnh như bao căn chòi khác ở xóm
Bàu Láng - căn chòi của lão nông dân Hai Lành, nơi quàn chiếc quan tài của con gái
tự vẫn chết vì cậu Hai - con trai cai tổng Biện phụ rẫy, lấy vợ khác (Xóm Bàu Láng);
những căn chòi đơn sơ, nhỏ bé và những cái nhà cao cẳng được dựng lên tại cửa
sông, vàm, rạch gần duyên hải vịnh Xiêm la (Biển cỏ miền Tây – Hình bóng cũ…).
Khi khá giả hơn, họ mạnh dạn bỏ tiền ra xây cất nhà cửa kiên cố để ổn định lâu dài,
bằng ngược lại, họ lại tiếp tục con đường đi tìm vùng đất khác dễ dàng kiếm sống hơn.
Một hình thức cư trú khác, đó là người dân Nam Bộ sống và làm việc trên ghe
xuồng và nghiễm nhiên, họ xem ghe, xuồng như ngôi nhà của mình. Trong Sông
Gành Hào, cha con chú Tư Đức lang thang rày đây mai đó, trốn thuế thân và làm
nghề đốn củi lậu thuế, không có nhà cửa. Khi bị bắt, chú Tư Đức nói với kiểm lâm Rốp “Dạ ăn tại xuồng này, ngủ tại xuồng này. Nó là cái nhà của tôi” [14a: 186]. Ở miền Nam, không chỉ có cha con chú Đức mà biết bao nhiêu người dân Nam Bộ lấy xuồng ghe làm nhà, rong ruổi khắp nơi để làm ăn sinh sống. Họ sống, sinh hoạt, nấu nướng, giặt giũ… đều trên ghe xuồng. Thậm chí, có những người sống luôn trên những chiếc ghe có mui, khi cần lên bờ họ mang cái mui lên bờ kênh, bờ ruộng để ở
tạm “Tôi tên Chòi Mui… Chòi Mui nghĩa là cái chòi làm bằng mui ghe. Lối xóm kêu
như vậy riết rồi thành quen” [13a: 57]. Trong tác phẩm Sơn Nam, hình ảnh những
90
chiếc ghe, chiếc xuồng xuất hiện rất nhiều trong các truyện như Xóm Bàu láng, Con
cá chết dại, Hết thời oanh liệt, Vạch một chân trời…
Nóp cũng là một hình thức cư trú của phần lớn người dân mở cõi. Trên đường đi
lúc nào họ cũng trang bị xuồng để đi lại, cái phảng để phá rừng, cái cà ràng để nấu ăn
và un muỗi, một cái nóp để tối đến chui vào đó ngủ để tránh muỗi, rắn rết, thú dữ và
không phải lo âu vì không có chỗ trú tạm khi đêm đến, cô Tư Hạnh dù là phụ nữ, về đêm cô vẫn ngủ một mình trong nóp giữa rừng sâu mà không hãi sợ (Ăn to xài lớn).
Nam Bộ có nhiều hình thức cư trú, là vùng thường xuyên xảy ra úng lụt nên
nhà sàn, nhà cao cẳng thường là lựa chọn tối ưu. Ngoài ra còn những hình thức cư trú khác như chòi, ghe xuồng. Khi khá giả họ có thể làm nhà kiên cố hơn. Hầu như các
lưu dân đều trang bị chiếc nóp bên mình để có thể dùng bất cứ lúc nào trên đường
rong ruổi.
3.3.1.3. Văn hóa giao thông:
Là vùng có hệ thống sông rạch chằng chịt, vấn đề giao thông của miền Nam
không giống ở các vùng đồng bằng khác. Ghe, xuồng, tàu, bè, tam bản… là những
phương tiện thiết yếu sử dụng để đi lại trên sông nước của người dân Nam Bộ. Tuy
nhiên trong tác phẩm Sơn Nam, xuồng máy, tàu đò rất hiếm khi xuất hiện vì những
phương tiện này chỉ dành cho những người lắm tiền, nhiều của như các điền chủ giàu
có hoặc các quan Tây. Còn người lao động bình dân thường chỉ dùng xuồng, ghe, bè,
tam bản… để di chuyển đến nơi họ muốn. Trong tập sách biên khảo Đồng bằng sông
Cửu Long khi đề cập đến phương tiện lưu thông của người Nam Bộ, Sơn Nam viết
“Đi xóm thăm bạn bè, mua trà mua bánh (…) vẫn dùng ghe xuồng. Thậm chí kẻ trộm,
kẻ cướp cũng dùng đường sông rạch để đến đột ngột rồi bôn tẩu cho nhanh. (…). Về
quân sự, những cuộc hành quân lớn của ta, của địch đều dùng đường thủy” [21b; 32].
Trong sáng tác của Sơn Nam hiếm có những tác phẩm mà không có sự xuất hiện của
ghe, xuồng… Sống ở môi trường sông nước, những hoạt động hàng ngày của người
dân Nam Bộ thường gắn với ghe, xuồng.
Ghe xuồng là phương tiện di chuyển đi lại (Bức tranh con heo, Xóm Bàu Láng, Ngôi nhà mặt tiền…); dùng để mưu sinh như đưa đò cho khách sang sông (Con Bảy đưa đò), dùng xuồng để chuyên chở củi sinh sống (Sông Gành hào, Nhứt phá sơn lâm…), dùng xuồng tìm bắt hổ (Hết thời oanh liệt), giết sấu đem sự yên lành cho dân (Con Sấu cuối cùng, Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Sông Gành Hào…), giăng câu, bắt cá
kiếm sống (Người mù giăng câu, Con bà Tám, Con cá chết dại…), dùng xuồng để hái
bàng đan cà ròn kiếm sống (Ông Bang cà ròn), sử dụng ghe xuồng buôn bán từ xứ
91
này sang xứ khác (Ngày hội ba khía, Tâm sự chú lái nồi…), lênh đênh đi đây đó thỏa
chí giang hồ như nhân vật Tư Bá, Hai Tam (Xóm Bàu Láng), sử dụng tam bản tạo thành “ghe trà vải” như một tiệm tạp hóa lưu động của nhân vật Hai Kim (Thằng
điếm vô danh). Ghe xuồng còn dùng để chuyên chở sản phẩm làm ra như lúa, đậu,
dừa, dưa hấu… của nông dân trong quá trình sản xuất.
Trâu cũng là một phương tiện di chuyển của người Nam Bộ ở những vùng đầm lầy. Trong công trình biên khảo Lịch sử khẩn hoang, Sơn Nam ghi lại rằng người ta
dùng xuồng nhỏ để đi lại trên những con sông nhỏ, con rạch vào mùa nước lũ, nhưng
vào mùa khô hết nước, nhưng vẫn lầy lội, đi bộ không được, đi thuyền thì không có khả năng nên phải dùng cộ có trâu để kéo. Trong Tình nghĩa giáo khoa thư, người có
nhiệm vụ đưa thầy phái viên đến nhà Tư Có ở ấp Cà Bây Ngọp đã giải thích “Mọi lần
mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc
tam bản đi như cộ kéo lúa” [16a; 260]. Trong Bà Chúa Hòn, lão Bá Vạn muốn thằng
Thiếu thực hiện công việc do lão giao phó nhanh chóng “tao thấy chống xuồng mệt
hơn là cỡi trâu. Lát nữa tao mượn con trâu cộ cho mày cưỡi” [8a; 105]. Ngoài ra họ
còn dùng xe ngựa để di chuyển ở những vùng có đường xá tốt như cai tổng Hiền
(Xóm Bàu Láng).
Ghe xuồng còn là cảm hứng, mạch nguồn cảm xúc có mặt trong đời sống văn
hóa của người dân Nam Bộ. Nó là phương tiện truyền tải văn hóa dân gian đi khắp
miền Nam lục tỉnh. Ghe, xuồng gắn liền với tình yêu đôi lứa: để tìm hạnh phúc cho
thằng Mến nhân vật Lão Khăn Đen và thằng Mến lưu lạc từ Hà Tiên đến xóm Bàu
Láng (Xóm Bàu Láng), Hai Tam và Nhung trốn gia đình, lênh đênh trên xuồng đi tìm
cuộc sống mới (Vạch một chân trời), đến mối tình đau đớn của thằng Lợi và con Lài
cũng diễn ra trên xuồng (Cây huê xà). Ghe xuồng liên quan đến những cuộc thanh
toán đẫm máu giữa những người mang mối hận thù trong cuộc sống (Bà chúa Hòn,
Vạch một chân trời, Một kiểu anh hùng, Hồn người trong ly rượu…). Tàu là thuyền
lớn, hình thức phương tiện tàu xuất hiện trong tác phẩm Sơn Nam thường liên quan đến giặc ngoại xâm như bọn Tàu ô (Vạch một chân trời…), với thực dân Pháp (Đồng thanh tương ứng). Ghe còn gắn với tâm linh của người Nam Bộ (Chiếc ghe ngo), với các hình thức văn hóa sông nước (Con Bảy đưa đò, Vọc nước giỡn trăng, Thơ núi Tà Lơn, Hát bội giữa rừng…)
Vì môi trường sông ngòi đan chéo nhau chằng chịt nên văn hóa giao thông Nam
Bộ, đặc biệt là vùng Tây Nam Bộ chủ yếu là ghe xuồng. Tần số xuất hiện phương tiện
đi lại trong sáng tác Sơn Nam rất cao. Trong Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn
92
Nam, tác giả Võ Văn Thành đã thống kê được tần số xuất hiện của ghe xuồng, tàu, bè,
tam bản trong 65 truyện ngắn Hương rừng Cà Mau như sau: xuồng (160/65); ghe (138/65); tàu 98/65; tam bản (31/65); bè (16/65). Như vậy, có thể thấy rằng bình quân
mỗi truyện Sơn Nam con người sử dụng phương tiện giao thông ở Nam Bộ:
PHƯƠNG TIỆN
XUỒNG GHE TÀU TAM BẢN BÈ
TẦN SỐ XUÂT HIỆN
160/65 138/65 98/65 31/65 16/65
BÌNH QUÂN
2,46/1tr 2,12/1tr 1,50/1tr 0,48/1tr 0,25/1tr
Ngoài ra, những vùng đồng cỏ hay đầm lầy, người dân Nam Bộ có thể sử dụng
trâu kéo cộ, kéo ghe xuồng để đỡ mất sức. Sự trở đi trở lại các phương tiện giao thông
trong tác phẩm thể hiện nét độc đáo của nhà văn vùng sông nước Nam Bộ.
3.3.1.4. Văn hóa ẩm thực:
Không gian sông nước nên ẩm thực của người dân Nam Bộ cũng bị ảnh hưởng
theo môi trường tự nhiên, nó mang đậm dấu ấn thời khẩn hoang. Trong sáng tác văn
chương của Sơn Nam, vấn đề ẩm thực có vai trò quan trọng. Nhà văn quan tâm đến
việc ăn uống của lớp người trên bước đường khai hoang, lập ấp… nên những trang văn
viết về ẩm thực bao giờ cũng được nhà văn miêu tả tỉ mỉ và công phu chứng tỏ sự hiểu
biết về ẩm thực của vùng đất Nam Bộ của nhà văn vô cùng sâu sắc. Ông nhận thấy sự
giao thoa rất rõ rệt trong vấn đề ẩm thực của người Việt, người Hoa và người Khmer ở
Nam Bộ. Trong công trình biên khảo Đất Gia Định, Bến Nghé xưa, Sơn Nam giới thiệu
“Mắm cá lóc đem chưng cách thủy, thêm chút mỡ, chút thịt bằm, kiểm “hầm dủy” của
người Hoa, nhưng mùi vị ngon hơn” [44b; 110]. Ngoài ra, người Việt cũng tiếp nhận những món ăn như món canh chua, Xiêm – lo… của người Khmer.
Ở miền Nam, nơi mà được thiên nhiên đãi ngộ, dưới sông, dưới rạch có đầy
lươn, cua, tôm, cá, ếch, rắn, chuột đồng…; rau dại, măng tre, bí rợ, mướp đắng, bông
điên điển mọc khắp đồng, trên rừng, dưới sông … Bất cứ con gì, rau gì ăn được họ
cũng ăn, trong báo Sài Gòn tiếp thị, có một nhận xét rất thú vị, hài hước về sự ăn
uống của đoàn người Nam tiến “Mười hai con giáp, con gì cũng ăn, chỉ trừ con rồng vì không tìm thấy, nếu thấy cũng ăn tuốt” (Sơn Nam, 1996). Ngoài ra, còn các loại lá,
đọt non nào ăn không chết họ đều có thể ăn “cứ thò tay lên bờ sông, bẻ những đọt non dưới bãi làm rau, thí dụ như đọt vừng, đọt chiếc, thậm chí lục bình trôi, trái bần non” [2a; 276]. Như vậy, chúng ta có thể mường tượng các thế hệ đi trước đã phải trả giá đắt như thế nào cho việc nhận biết loại thảo mộc nào độc hoặc không để ngày nay
chúng ta có một danh sách các loại rau vùng sông nước đa dạng và phong phú “gọi
93
nôm na là rau rừng: nghễ, bông súng, rau dừa chỉ, cỏ hẹ, đọt xoài, đọt xộp, đọt vừng,
đọt chiếc, dây rau cau…” [19b; 66].
Trong một bữa ăn của người dân Nam Bộ thường đầy đủ cơm – canh – rau –
món ăn mặn. Cơm là thành phần chủ yếu nhất trong mỗi bữa ăn. Theo quan niệm của
đại đa số người miền Nam “Ăn cơm thì chắc bụng” [2a; 20], mỗi ngày ăn ba bữa cơm
thì có đủ năng lượng làm việc suốt cả ngày. Món thứ hai là canh, không ít những tác phẩm của Sơn Nam trong cả hai mảng sáng tác và biên khảo đề cập đến món canh.
Canh rất cần thiết trong một bữa ăn, sống ở vùng khí hậu quanh năm nóng và ẩm,
canh chua là món ăn hữu ích và ưa thích nhất của cư dân Nam Bộ “Mùa nắng, ăn canh chua vừa khỏe, vừa đỡ khát” [41b; 85]. Canh chua tùy theo mùa mà chế biến
theo cho phù hợp, có thể nấu canh chua với trái bần chín; “bông điên điển nấu canh
chua” [2a; 42], hay “cá linh còn tươi, nấu canh chua ăn ngon ngọt” [3a; 157]…; Về
thức ăn mặn, có thể là cá, tôm, tép, cua, lươn hay một loại thủy sản khác hoặc thịt heo
hay thịt bò… thay đổi trong mỗi bữa ăn, nhưng thường là thủy sản. Theo họ thì dân ở
vùng nước mặn đồng chua có bốn thức ăn sang trọng: đó là lươn, ếch, rùa, rắn còn cá,
tôm, thịt bò, thịt heo là những món ăn mà họ cho là hơi “nhàm”. Người miền Nam có
thói quen ăn cơm với cá kho thật mặn, vì cá kho mặn dù ở xứ có thời tiết nóng, ẩm
vẫn có thể để được lâu, không dễ bị hỏng trên đường đi đây đó. Đây là dấu ấn thời
khẩn hoang xưa, người khai hoang trên bước đường Nam tiến có thể vừa đi vừa ăn,
không mất thời gian ngừng xuồng, lên bờ nấu ăn (xem 64c).
Những món ăn mà người miền Nam ưa chuộng khá đa dạng, món cá lóc nướng
trui “đậm đà phong vị thời khẩn hoang” xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm của
Sơn Nam “cá lóc được xỏ lụi, để trên mớ than hồng. Mùi cá vừa thơm vừa ngon bốc
lên” [9a; 189]. Họ đãi những người bạn, người quen biết hoặc những người khách lạ
món cá lóc nướng ăn cùng với muối ớt đơn giản và có sẵn. Trong Đại chiến với thầy
Chà, lão Chòi Mui “bắt hai con cá lóc đốt lửa nướng trui…” [15a; 53 – 54] để tiếp
đón một vị khách không quen biết. Không chỉ cá lóc mà cá trê nướng cũng là món ăn khoái khẩu, trong Đảng xăm mình, tác giả kể những kẻ ăn trộm “đang chuẩn bị cặp vào gắp tre chừng mười con cá trê mà nướng tiếp theo” [15a; 85]. Khô, mắm cũng là những món ăn đặc trưng của miền Nam, được người dân tự hào là món ăn mang phong vị quê hương. Đây là những sản phẩm được chế biến từ thủy sản; khô là cá, mực… sau khi đánh bắt, ướp muối rồi phơi khô. Nam Bộ đất đai phì nhiêu, tôm cá
cũng dồi dào, ăn không hết mà không thể bán nên người dân nghĩ cách làm mắm để
ăn dần, hầu như nhà nào cũng có mắm dự trữ quanh năm. Từ đó có thói quen
94
“ăn mặn uống đậm” và người Nam Bộ còn đúc kết thành một kinh nghiệm “Ăn cơm
mắm, thấm về lâu”. Viết về cuộc sống ở vùng đất phương Nam mà không đề cập đến vấn đề này là bỏ qua một nét văn hoá “ẩm thực” đặc sắc mang sắc thái “miệt vườn”.
Có nhiều loại mắm: nước mắm, mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá gộc, mắm bò hóc,
mắm thái Châu Đốc (cũng làm từ cá lóc, cá linh nhưng được chế biến công phu hơn)…
Trong công trình biên khảo Đất Gia Định, Bến Nghé xưa & Người Sài Gòn, Sơn Nam giới thiệu “Mắm thái Châu Đốc, gốc xa xưa là mắm ruột cá lóc, pha chế với mắm cá
lóc, xắt nhỏ, kèm thịt ba chỉ luộc, chuối chát, khế, vài cọng rau thơm” [44b; 493].
Ngoài ra, người miền Nam còn chế biến các món ăn từ chim, lươn, ếch, nhái, rắn, rùa, chuột đồng, đuông, dơi… Trong Hội ngộ bến Tầm Dương, người chủ quán quảng cáo
“Quán này bán đồ ngon,/ bán thịt sấu, thịt trăn, thịt mèo./ Gà quay, phá lấu, bồ câu/
Lại thêm đủ thứ thịt hươu, thịt rừng./ Thịt chồn xào lộn với củ hành./ Còn đầu ông
Địa tôi nấu canh chua/ Lại thêm cỏ nhác, rượu Tây, rượu Tàu./ Còn rượu đế tôi ngâm
với rắn mối,/ Gà xào, chuột lột, tôi nấu cà ri./ Rắn hổ hành, làm sạch tôi nấu rô ti,/
Xin mời quí khách! Muốn xơi thứ nào?/ Thịt bò chiên làm chả giò,/ còn thịt heo sống,
tôi bóp tái thật chua,/ Nem tôm, nem thịt lại thêm mắm lòng./ Hầu hết quí khách ăn
chơi cho phỉ!/ Còn thịt xá xíu tôi chặt lộn với thịt phay,/ Thịt phá lấu ăn với cải xanh./
Còn thứ ngon nhứt: Cải bắp nấu canh thịt chuột cống xù…” [15a; 243-244]. Cách
quảng bá này hơi khoa trương và khá hài hước, nhưng rõ ràng người chủ tiệm ăn đã
giới thiệu được khá đầy đủ các món ăn đặc sản của miền Nam.
Đọc tác phẩm Sơn Nam, người đọc luôn cảm thấy thú vị vì nhà văn đã cung
cấp cho họ những hiểu biết về văn hóa vật thể của người dân Nam Bộ cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX như văn hóa mưu sinh, văn hóa cư trú, văn hóa ẩm thực, văn
hóa giao thông… Nhiều nhà văn cũng đề cập đến văn hóa vật thể Nam Bộ trong tác
phẩm của mình nhưng rõ ràng không ai có cái nhìn thấu đáo và sâu sắc như Sơn Nam,
không chỉ thế ông còn có những tập sách biên khảo và những bài viết để chứng minh
cho những vấn đề ông đề cập đến trong các sáng tác văn chương của mình. Những thế hệ sau này sẽ cảm thấy trân trọng và tự hào với những công lao to lớn của tiền nhân trong việc mở rộng bờ cõi và tạo lập một miền Nam với nét văn hóa vật thể đặc trưng độc đáo đã được nhà văn vùng sông nước mô tả đầy đủ và chi tiết.
3.3.2. Văn hóa tinh thần Văn hóa tinh thần hay văn hóa phi vật thể, theo nghĩa rộng, đó là toàn bộ kinh
nghiệm tinh thần của nhân loại, của các hoạt động trí tuệ cùng những kết quả của
chúng như những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, chuẩn mực, hành vi đối
95
xử, văn học nghệ thuật ... đã được hình thành trong những điều kiện xã hội mang tính
lịch sử cụ thể. Còn theo nghĩa hẹp, văn hóa tinh thần là một phần của nền văn hóa gắn với cuộc sống tâm linh, thể hiện những giá trị, lí tưởng, kiến thức… của con người.
Sơn Nam được mệnh danh là cuốn “Tự điển Nam Bộ”, ông sở hữu một kho tàng
tri thức về đất và người miền Nam khó ai bì kịp. Những điều ông viết ra đều mang
chiều sâu văn hóa của một vùng miền. Tiếp cận với tác phẩm Sơn Nam là tiếp cận với nền văn hóa tinh thần phong phú của con người Nam Bộ. Trong khuôn khổ luận án,
chúng tôi đề cập đến văn hóa ứng xử, văn hóa tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật.
3.3.2.1. Văn hóa ứng xử: Một trong những biểu hiện của văn hóa tinh thần là cung cách ứng xử của con
người với môi trường sống. Đó là cách cư xử giữa con người với thiên nhiên, con
người với con người. Văn hóa ứng xử thể hiện trong ngôn ngữ, giọng điệu, nét mặt,
cử chỉ, hành động… Tác phẩm Sơn Nam đã giúp người đọc có những kiến thức về
văn hóa ứng xử của người bình dân Nam Bộ thuở trước.
Văn hóa ứng xử của con người với thiên nhiên: Sống trong môi trường khắc
nghiệt “Muỗi vắt nhiều hơn cỏ/ Chướng khí mù như sương” [14a; 7], hay “Chèo ghe
sợ sấu cắn chưn/ Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma” (Ca dao)… Họ đã hình thành
một lối ứng xử rất đặc trưng, đó là ứng xử với thiên nhiên. Thiên nhiên Nam Bộ, thuở
ban sơ tiềm tàng những hiểm nguy khó đoán, những người khẩn hoang phải tìm những
phương cách để thích ứng môi trường thiên nhiên khắc nghiệt. Trong Vạch một chân
trời, nhân vật Hai Tam suýt bị “chết ngộp” vì đi vào vùng “trấp”. Đây là nơi mà biết
bao nhiêu người “bỏ mạng tại rừng U Minh”. Nó là “những con kinh ăn luồn dưới
mặt đất” [4a; 47] không thể nhìn thấy. Chỉ có những người giàu kinh nghiệm sông
nước mới có thể xử lý khi ghe xuồng của họ đi vào vùng nước có “trấp”. Trong Vẹt
lục bình, lão Ngượt đã khôn ngoan dạy Hai Cần “khi đi xuồng trên rạch nước chảy
xuôi mà gió ngược “cháu lấy sợi dây ở mũi xuồng buộc vô gốc cây bần này cho thật
chắc. Nó trôi theo dòng nước, nó kéo xuồng mình đi tới càng nhanh, bất chấp gió thổi nguợc ra sao” [12a; 259], đến khi nước chảy ngược mà gió xuôi thì lão lại sáng tạo ra kiểu chạy buồm mới “một nắm gió bằng ba bó chèo”, lão bày chặt một tàu dừa nước để làm buồm và để “Hai Cần ngồi trước mũi, dựng tàu lá này lên cao, cho nó bọc gió” [12a; 260]. Sông nước gắn liền với cuộc sống của người dân Nam Bộ, Sơn Nam sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước. Cái chất sông nước ngấm sâu vào máu thịt, là cốt hồn
của nhà văn. Hầu như trong những truyện về làng quê Nam Bộ, Sơn Nam đều có đề
cập đến sông. Sông nước bao quanh, con người sống trên ghe, kiếm sống trên xuồng,
96
đi đây đi đó bằng ghe, phiêu lưu rong ruổi trên xuồng…, họ đã biết tận dụng cảnh
sông nước để tổ chức các hoạt động phục vụ cho đời sống, đó chính là cách ứng xử với thiên nhiên để tồn tại của những lưu dân mở cõi. Sông nước gắn liền với công ăn
việc làm của con người. Hai Tỵ biết rõ thời gian khi nào nước biển tràn vào vùng
nước ngọt để cá phải “chết dại” mà chỉ cho mẹ con Hồng đến vớt cá (Con cá chết
dại). Tư Cồ nghĩ ra cách trồng lúa Xom Mà Ca trên vùng sông nước mênh mông mà ngay cả Tây cũng phải chịu thua vì cho vùng này ngập lụt, khó khăn, muỗi mòng...
Trồng lúa theo kiểu này đỡ phải tốn thời gian. Từ ngày gieo mạ đến lúc thu hoạch chỉ
tốn có một ngày rưỡi: phát cỏ một buổi, gieo giống một buổi rồi bỏ đó, bốn tháng sau đến thu hoạch, tốn thêm một buổi nữa, thế là có lúa ăn “Tư Cồ cầm dao, chém cỏ,
chém gốc dưới nước (…). Hai tháng nữa, nước giựt xuống. Cỏ đã thúi, trở thành loại
phân tốt” (Ruộng Lò Bom) [14a: 177]. Ở Người mù giăng câu, một ông già tuy hai
mắt bị mù nhưng rất thành công trong việc giăng câu bắt cá, được người trong xóm
tôn là “Sư tổ giăng câu” vì ông rất khôn ngoan và có nhiều kinh nghiệm. Ông nắm
được đặc tính của dòng sông, đặc điểm của các loài cá “Rạch nào lắm ghe xuồng qua
lại, cá ăn ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi giăng cá trê,
phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần” [14a: 98 – 99].
Ngoài ra, còn kể đến thái độ của con người đối với loài vật: những thú dữ như
cọp, sấu… mà họ phải chống chọi trên đường phá rừng, tạo ruộng, hoặc rày đây mai
đó để kiếm sống… như thầy võ Quảng Nam, thầy Râu đuổi cọp để yên dân (Hết thời
oanh liệt); ông Năm Hên quyết tâm giết con sấu làm hại dân lành để giảm bớt tai họa
cho dân làng (Bắt sấu rừng U Minh Hạ); ông Năm Cháy, ông Năm Tự gan dạ dũng
cảm chiến đấu với con heo dữ phá hoại mùa màng nhà cửa của dân (Con heo khịt);
cha con chú Tư Đức giết con sấu – nỗi kinh hoàng của con người trước sự kinh ngạc
và ngưỡng mộ của ông Tây kiểm lâm Rốp (Sông Gành Hào)...Với loài chim thì họ có
cách ứng xử khác, trong Tháng chạp chim về, ông Tư ngậm ngùi ngắm con chim già
nua khi nó trở về sân chim cũ “Giữa ông và con chim nọ… là Bá Nha với Tử Kỳ cảm thông nhau" [16a; 203]. Người dân Nam Bộ sống nhờ vào thiên nhiên nên có mối quan hệ mật thiết với chim muông, cây cỏ, sông nước...
Văn hóa ứng xử giữa con người với con người: Trong văn hóa ứng xử giữa người với người, cung cách của người Nam Bộ có sự thống nhất trong đa đạng. Nét chung của họ là bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, kiệm lời, không quá quỵ lụy,
không hoa hòe, giả tạo… Thuở mới mở đất, cuộc sống con người vô cùng khó khăn
vì chướng khí, muỗi mòng, rắn rết, thú dữ…, vì lạ lẫm, cô đơn nên họ luôn “thèm
97
người”, nhiệt tình đón nhận những người lang thang, cơ nhỡ, chưa rõ gốc gác… dù là
ai, có thể họ là những người đi khai hoang, người “tha phương cầu thực” hay người trốn thuế thân, người trốn tù đày, là tay giang hồ hảo hán, hoặc những tên cướp… đều
được họ tiếp đãi niềm nở “Mới đây, trong xóm lại xuất hiện một tay “anh hùng mới”
gọi nôm na là Tư Cồ” [14a; 167-168], Tư Tôm trong Một vũng máu tầm thường chỉ
cần một hành động “độn thổ” thông minh và ngoạn mục, ngay tức khắc được mọi người chấp nhận vào cộng đồng sau những tràng cười sảng khoái… Khái niệm “dân
ngụ cư” như ở Bắc Bộ không tồn tại ở vùng đất này.
Trong văn xuôi của Sơn Nam, ta gặp nhiều kiểu cách ăn nói như lối ăn nói xấc xược, ngạo mạn của Bảy Tiểu (Cậu Bảy Tiểu), cai Tổng Biện (Xóm Bàu Láng), Xã Tư
(Hồn người trong ly rượu), Hai Điền (Bà Chúa Hòn), lão Henri Nhan (Hình bóng
cũ)… có lúc ta bắt gặp giọng điệu ngang tàng, nghĩa hiệp của Tư Hiền - thủ lĩnh Đảng
cướp (Đảng Cánh buồm đen), lão Khăn Đen (Xóm Bàu Láng), có khi là giọng điệu
cao đạo như ông Tây kiểm lâm Rốp (Sông Gành Hào), thâm trầm sâu sắc thích triết
lý như Lục cụ Tăng Liên (Chiếc ghe Ngo)… Ngoài ra còn gặp cung cách giao tiếp của
người Miên, người Hoa, người Pháp, sau này có thêm người Mỹ… và đủ mọi thành
phần khác nhau trong xã hội Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Điều đó cho thấy có sự lai
tạp văn hóa rất lớn diễn ra trên vùng đất năng động này.
Trải qua một quá trình đấu tranh sinh tồn rất gian nan, bền bỉ, người dân Nam
Bộ đã hình thành nên một mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa con người với con
người và con người với thiên nhiên. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và thuận theo lẽ
tự nhiên để mong có cuộc sống bình yên, có tình cảm chan hòa với nhau giữa chốn
cùng trời cuối đất này. Họ sống “điệu nghệ” với cả thiên nhiên và con người. Điều
này có lẽ từ quan niệm “điệu nghệ” của dân miền Nam mà ra. Sơn Nam có một quan
niệm rất riêng, rất độc đáo về sự “điệu nghệ” của người Nam Bộ, theo ông thì “điệu
nghệ” có nghĩa là “đại nghĩa”, trong công trình biên khảo Đồng bằng sông Cửu Long,
Nét sinh hoạt xưa & văn minh miệt vườn, Sơn Nam lý giải “Điệu là đạo nói trại ra. Nghệ là nghĩa nói trại ra”, như vậy, theo họ “Điệu nghệ” đơn giản là “đạo nghĩa”, sống phải biết đến tình nghĩa anh em, vợ chồng, biết thói ăn chơi, thú tiêu dao; sống không lợi dụng quyền thế để lấn hiếp kẻ yếu, không đánh kẻ té ngựa, ăn ở thủy chung, dám liều thân vì nghĩa lớn, biết yêu thương, nhân ái với loài vật...
Quan niệm của Sơn Nam rất gần với quan niệm “vạn vật nhất thể” của người
xưa: Thiên chính là trời gồm Trời Phật, thần linh, thánh thần; Địa là đất những gì
thuộc về đất như rừng núi, cây cỏ, chim muông, đất đai, sông suối…; Nhân là người,
98
tức thuộc những gì của con người. Tất cả chi phối ảnh hưởng lẫn nhau nên từ đó sinh
ra cách cư xử hài hòa giữa ba yếu tố Thiên – Địa – Nhân.
3.3.2.2. Văn hóa tín ngưỡng:
Sơn Nam nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu sắc về văn hóa tín ngưỡng của người
miền Nam, ông “phát hiện” rằng miền Nam là vùng “đa tôn giáo”. Trong các tác
phẩm của của ông Đạo Phật là đạo chính trên vùng đất mới “người “An Nam” mộ đạo Phật” [16a; 187]. Tuy nhiên, trong quá trình mở cõi, lưu dân khắp nơi đến miền
Nam đều mang theo mình một tôn giáo, lâu dần những tôn giáo ấy được dung hòa
trên vùng đất mới. Họ là những người ít học, đa số không thấm nhuần các triết lý tôn giáo, họ tin tất cả thần thánh, dung nạp rất nhiều văn hóa tín ngưỡng của Người Việt,
người Hoa, người Khmer… Niềm tin của họ vào tôn giáo chất phác và hồn nhiên,
trong Sông Gành Hào Tư Đức nói “Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng là gì. Tôi tin
Trời, tin Phật, thờ cha kính mẹ, quý mến ông già bà cả” [16a; 187]. Bên cạnh đó, luật
nhân quả của thuyết lý Phật giáo cũng được Sơn Nam thể hiện một cách sinh động,
trong tiểu thuyết Bà Chúa Hòn, Bá Vạn giết chết hai cha con Chúa Hòn, cuối cùng
lão cũng bị hại bởi Mười Hấu và thằng Cẩu. Trước khi Bá Vạn nhắm mắt xuôi tay,
ông ta đã nhìn thấy hồn nạn nhân trở về đòi công lý, cuối cùng ông nhận ra "Cuộc đời
tội lỗi của tôi… Mọi người đều trở về với đất" [7a; 312]. Để tránh được các nghiệp
chướng ở đời, cô Huôi dù rất oai phong, được mọi người kính nể, cô vẫn chọn con
đường đi tu cho nửa đời sau của mình. Các truyện Chim quyên xuống đất, Hình bóng
cũ, Mây trời và rong biển… cũng phản ánh sinh động quy luật ở hiền gặp lành, ở ác
gặp dữ. Nhiều tác phẩm của Sơn Nam mang triết lý dân gian và có kết cục giống như
truyện cổ tích “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”.
Tín ngưỡng thờ linh vật giáo được mang từ miền Bắc, miền Trung vào miền
Nam. Người Nam Bộ tin vào sự thiêng liêng và sẵn sàng thờ những vật dụng từng
gắn bó thân thiết với con người. “Chiếc ghe ngo” theo họ là là hiện thân của rắn thần
ác Naga được Phật Thích Ca cảm hóa trở nên linh hiển do vậy người Miên khoét thân của cây sao theo hình con rắn và hằng năm tham gia bơi đua trên sông để mừng “mùa nước nổi”. Theo tục lệ, người ta đào chiếc ghe ngo bị trầm tích “đem xác nó về gần chùa mà thờ" [14a; 201-202]. Trong quan niệm đơn giản về tín ngưỡng của người nông dân Nam Bộ, họ thờ cả những con vật dữ như sấu, cọp… Đối với họ, giết cọp, giết sấu là do nhu cầu thiết yếu của sự sinh tồn nhưng giết những con vật này cũng là
"sát sanh" nên giết xong thì phải thờ "Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì
mình giết nhưng giết được rồi thì mình nên thờ” [14a; 201]. Ngoài ra, họ còn thờ
99
những vật dụng hàng ngày như những viên đá mà họ nhặt được khi cày ruộng (Hình
bóng cũ). Họ quan niệm rất hồn nhiên và giản dị, ở những nơi còn lạ lẫm đối với người tha phương thì cái gì cũng thiêng liêng như là “hồn thiêng sông núi”.
Một tập tục nữa của người dân Nam Bộ, đó là “lên xác”. Lên xác là hình thức
thần thánh mượn xác phàm để nhập vào, con người cần biết điều gì thuộc về siêu
nhiên, khó lý giải hoặc cầu xin phù hộ cho công việc làm ăn, gia đạo yên lành… thì họ tổ chức “lên xác”. Hình thức “lên xác” có thể diễn ra ở bất cứ nơi đâu mà họ cho
là có thần thánh. Hình thức này cũng giống như “Hầu đồng” ở miền Bắc và miền
Trung nhưng hầu đồng cần sự chuẩn bị trước, mang tính qui mô, nơi diễn ra thường là đền, miếu, đình làng… Còn “lên xác” có thể bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào cần.
Trong Hình bóng cũ, lão Henry Nhan đã lợi dụng hình thức “lên xác” để mưu cầu lợi
lộc, chiếm đất của người nông dân đã ra công khai phá “Xác lại ra lệnh cho tôi (…)
mướn lại đất của Chúa Ngưng, Ma Nương trong vòng một năm” [12a; 328]. Chúa
Ngưng, Ma Nương theo niềm tin của người dân Nam Bộ chính là hai vị thần cai quản
đất đai. Ngoài ra, còn có hình thức lên xác hổ, lão Khăn Đen trong Xóm Bàu Láng
“lên xác Bạch hổ, Hắc Hổ để đuổi tà ma” trị cái bệnh “dở người” của con Lài. Từ khi
cậu Hai – chồng nó uống thuốc độc thay, con Lài lúc nào cũng bị ám ảnh vì cái chết
của chồng nên cứ đêm đến nó “lang thang ngoài vườn, kêu khóc, chẳng dám ngủ
trong phòng” [10a; 392]. “Lên xác” được Sơn Nam đề cập nhiều trong Hình bóng cũ,
Bà Chúa Hòn, Vạch một chân trời…
Bà Chúa Xứ6 cũng được người miền Nam tin tưởng và thờ cúng tín ngưỡng này còn tồn tại cho đến ngày nay. Bà Chúa Xứ là hiện thân của Bà Chúa của vùng đất
mới, lưu dân Nam Bộ có niềm tin thờ Bà sẽ được Bà ban cho nghị lực và sự thuận lợi
trên bước đường “khai sơn phá thạch”, có thể “được mạnh khỏe, không bị sốt rét,
tránh rủi ro nghề nghiệp” [21b; 173]. Trong Vạch một chân trời, lũ Tàu ô khấn vái xin
Bà Chúa xứ phù hộ, ông Chúa Hòn người Hoa, giàu có, uy phong lẫm liệt cũng đến
miễu Bà Chúa xứ thờ cúng, lễ bái (Bà Chúa Hòn)… Những truyện Sơn Nam đề cập đến Bà Chúa xứ như Bà Chúa Hòn, Vạch một chân trời, Miễu Bà Chúa Xứ…
6 Nguồn gốc của tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là dựa theo truyền thuyết cách đây khoảng 200 năm ở vùng Châu Đốc (An Giang), tượng Bà được dân địa phương phát hiện trên đỉnh núi Sam và được 9 cô gái đồng trinh khiêng xuống theo như lời dạy của Bà qua miệng "cô đồng", nên người dân đã lập miếu để tôn thờ.
100
Sơn Nam còn đề cập đến tục cúng đất, cúng thần, cúng tổ, ma chay... Bất cứ ngành nghề gì cũng có ngày cúng tổ. Ngư dân muốn bắt được nhiều tôm cá thì phải chọn ngày tốt gọi là ngày “Bổ tróc” (ngày săn bắt) để lập đàn cúng "Xây nò thì phải hạ thủy đúng ngày bổ tróc, như người cất nhà xem ngày để gác đòn dông" [12a; 30].
Lưu dân rất tin vào sự tồn tại của thế giới bên kia. Họ cho rằng những hồn ma không siêu thoát sẽ luôn lẩn quất bên cạnh những người thân hoặc những kẻ gây ra cái chết
cho mình. Trong Hình bóng cũ, tác giả viết “Họ có thể gặp tôi bất cứ giờ phút nào,
bất chấp cả những bức tường ngăn cách" [12a; 348-349]. Họ không quên những cô
hồn dã quỉ không nơi nương tựa như là một sự tri ân đối với lớp người đi trước phải bỏ mạng trên bước đường khai hoang. Đây là một nét đẹp trong tính cách của người
Nam Bộ, lão Năm Hên, người bắt sấu tài ba trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ, sau khi
giết những con sấu dữ xong bao giờ cũng cầm bó nhang cháy đỏ rực quơ đi quơ lại và khấn vái bằng lời hát bi ai để giải oan cho những kẻ chết oan do hùm, sấu bắt “Hồn ở
đâu đây?/ Hồn ơi! Hồn hỡi!/ (…)/ Ta thương ta tiếc/ Lập đàn giải oan!” [14a; 87].
Sơn Nam đã rất công phu trong công việc nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng ở
Nam Bộ, ông cho rằng ngoài đạo Phật là tôn giáo truyền thống thì còn có những tôn
giáo khác được hình thành từ những mục đích khác nhau của người sáng lập như đạo
Hòa Hảo, đạo Cao Đài, đạo Dừa, đạo Đất… Bên cạnh đó, còn có những tôn giáo lưu
nhập của các dân tộc khác như Hoa, Chăm, Khmer và theo thời gian hòa nhập trên đất
Việt. Ngoài ra còn đạo Thiên Chúa khi Pháp vào miền Nam. Đây chính là sự giao lưu,
tiếp biến của tín ngưỡng các dân tộc và cũng là nét đặc trưng của văn hóa tín ngưỡng
Nam Bộ. Điều này đã tạo nên sự phong phú của tôn giáo Nam Bộ như ngày nay.
3.3.2.3. Văn hóa nghệ thuật
Sơn Nam có một bộ sưu tập về văn hóa nghệ thuật của Nam Bộ mà có lẽ
không có ai sánh bằng. Nhà văn đã có công tìm tòi lý giải các dạng hình thái nghệ
thuật vùng sông nước, chúng xuất hiện dày đặc trong các tác phẩm của nhà văn. Một
thời gian dài, ông đi khắp vùng lục tỉnh để sưu tập những bài ca, tiếng hát của người
dân địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Sống trên một vùng đất được
thiên nhiên ưu đãi, con người không phải lo lắng nhiều về vấn đề cơm áo. Cái nghèo
của họ là cái nghèo phong lưu, thời gian nhàn rỗi ăn chơi thỏa sức. Một số vùng đất đai phì nhiêu, khi được mùa họ tha hồ ăn xài suốt tháng giêng cờ bạc hay tập trung đàn ca vọng cổ… Hát hò trở thành một hình thức vui chơi giải trí “cốt để khuây khỏa nỗi nhớ nhà” cho những người tha phương cầu thực, bỏ xứ đi làm ăn xa. Có nhiều hình thức sinh hoạt nhưng phổ biến nhất là ca vọng cổ, hát huê tình, hát nói Vân Tiên, hát bội, cải lương…
Hát bội là loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Nam Bộ có nguồn gốc lâu
đời từ miền Trung (Quảng Nam, Bình Định), được các lưu dân Việt trên đường Nam
101
tiến đã mang theo để tưởng nhớ cội nguồn, ông bà tổ tiên. Hát bội được giới bình dân
tán thưởng vì nội dung hát bội gợi lên những tình cảm nhân bản “dân mình thì nghèo lắm (…) chỉ có hát bội là cách giải trí độc nhất của người đi khai phá đất mới” [15a;
205]. Trong Hát bội giữa rừng, mô tả lòng ham mê hát bội của dân Nam Bộ, tác giả
đã tạo ra một bối cảnh rất rùng rợn: dưới sông cá sấu ghếch mỏ nhìn, trên bờ cọp
trông xuống, người xem hát ngồi trên xuồng trong một hàng rào bằng cây tràm giữa sông. Người Việt mời người Miên chung tay góp gạo nuôi gánh hát. Ban ngày, mọi
người đi làm, ban đêm đi ghe xem hát bội. Đối với họ, đó là ngày hội lớn "Xóm
Khoen Tà Rưng rộn rịp còn hơn Tết. (…). Đêm hát ra mắt vui quá là vui..." [15a; 20]. Hát bội không chỉ là thú vui giải trí mà còn là biểu hiện danh dự của những gia đình
giàu có, khá giả ở phố chợ hay ở thôn quê, họ có thể “rước gánh hát bội về trình diễn
trước nhà để mời bạn bè thân thuộc đến xem kèm theo ăn uống” [33b; 278]. Họ
không tiếc tiền của mà còn lấy làm hãnh diện và vinh dự vì điều đó. Trong Một kiểu
anh hùng, hai nhân vật uy quyền và giàu có của làng là Hội đồng Hai và Cai tổng Ba
tranh nhau một miếng đất nhỏ rìa làng, miếng đất không đáng giá nhưng vì sĩ diện cả
hai quyết tâm giành cho bằng được mà không ngại thưa kiện. Cai tổng Ba thắng, mời
gánh hát bội về nhà trình diễn vừa để ăn mừng vừa chọc tức kẻ thù. Hội đồng Hai
căm tức đến độ có ý định giết người “việc kêu gánh hát về làng, rõ ràng là điều sỉ
nhục” [16a; 639]. Ngoài ra, hát bội được xem là món ăn tinh thần linh thiêng, dùng để
cúng tế Thành hoàng ở đình làng “dâng cúng thần và cho dân làng xem” [173; 151].
Rất nhiều tác phẩm của Sơn Nam đề cập đến hát bội như là Bà Chúa Hòn, Hát bội
giữa rừng, Hết thời oanh liệt, Tình nghĩa giáo khoa thư, Hồi ký…
Hò vè là hình thức văn nghệ đặc biệt của miền Nam, đây là lối giải trí phổ biến
của nam, nữ vùng sông nước, do môi trường sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, đồng
ruộng bao la, con người đang chèo ghe trên sông hoặc cấy lúa trên ruộng có thể hò
lên vài ba câu để tự giải trí cho mình, nếu có người nghe đối đáp lại thì có thể là bạn
hữu hay có duyên nợ thì thành vợ chồng hoặc đơn giản chỉ tạo giây phút thoải mái trong lúc cô đơn hay mệt nhọc. Người dân “miệt vườn” miền Nam sáng tác ra nhiều điệu hò như hò Mỹ Tho, hò Cần Thơ, hò Ngã Bảy, hò Cái Bè… Trong Hồi ký, Sơn Nam ghi “Lối rao hàng: (…) Bánh bò hông, bánh bò hơ… ơ…, mở đầu cho điệu hò đặc biệt ở Cần Thơ, điệu hò Bánh bò, ngoài điệu hò Thới Lai sẵn có” [13a; 119]. Hò Bánh bò khó hơn hò Cấy lúa vì hò Cấy lúa được hò lên khi mọi người cùng đứng gần
nhau trên một cánh đồng, còn hò Bánh bò là loại hò khi chỉ một mình trên sông, phải
hò to, rõ, trong trẻo, hơi dài thì người mua mới nghe được. Tác giả viết cả một truyện
102
ngắn Con Bảy đưa đò để mô tả điệu hò này. Chàng trai giang hồ xứ Bình Thủy đã bộc
lộ chí lớn của mình trong lời đối đáp “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giã/ lâm nguy bất cứu mạc anh hùng/ Nàng còn nghĩ phận chữ tòng/ thì trao dây xích buộc vòng sao
đây” [14a; 240]. Chỉ qua một đêm hát đối đáp, cô Bảy thề giữ trọn “một tấm lòng”
và ở vậy tới già để chờ người con trai lạ. Khác nào Kiều Nguyệt Nga giữ vẹn lòng
chung thủy với Lục Vân Tiên chỉ sau một lần gặp mặt. Đây chính là tính cách trọng tình nghĩa, thủy chung người dân miền Nam mà Sơn Nam muốn thể hiện trong các
tác phẩm của mình. Nhiều triết lý của người Nam Bộ được thể hiện qua các câu hò.
Hát huê tình (hò đối đáp) là một nét đặc sắc trong văn hóa sông nước Nam Bộ. Hình thức sinh hoạt bình dân và phổ biến thời khẩn hoang vùng sông nước. Hát huê
tình là những câu hát cửa miệng, không có sách, không có bổn tuồng, người hát tùy
vào hoàn cảnh và kiến thức có được mà linh hoạt trong đối đáp. Không gian thích hợp
nhất là trên sông, đồng ruộng, chỗ lao động có đông người tham dự. Mục đích để giao lưu và giải trí sau những giờ lao động mệt nhọc và bày tỏ tình cảm, tâm sự với nhau7. Trong Ngày xưa tháng chạp, ông Ba giảng giải "Hồi đó, hò có lớp lang đầu đuôi...
Chúc mừng lẫn nhau, chúc mừng chủ ruộng, tạ ơn Thần Nông" [12a; 172-173]. Hết
đời này sang đời khác, hình thức hát huê tình vẫn được duy trì. Người lớn tuổi truyền
đạt lại cho người trẻ tuổi, trong Vọc nước giỡn trăng, ông Năm Lượng dạy cho Điệu
cách hát huê tình “Người ta xúm nhau thách đố, cười thật lớn, châm chọc thật đau, cho
qua quên mệt nhọc, để rồi quên tất cả" [12a; 280]. Những truyện nói đến hát huê tình là
Ngày xưa tháng chạp, Chuyện rừng tràm, Vọc nước giỡn trăng, Cô Út về rừng…
Hát vọng cổ là hình thức nghệ thuật ra đời muộn hơn hò, vè nhưng dần dần
thay thế hò vè vì vọng cổ cần kỹ thuật cao hơn hò vè đồng thời thường có âm điệu
buồn, thích hợp để bộc lộ nỗi nhớ nhà của những người tha hương. Đó cũng cách
thức để họ bộc lộ những nỗi lòng thầm kín trong tình yêu, chuyện riêng tư gia đình
đến chuyện nhân tình thế thái ngoài xã hội. Trong Dạo chơi, Tuổi già, Sơn Nam ghi
nhận sau khi vọng cổ ra đời thì lý, hò, vè dần dần mất chỗ đứng. Người chèo ghe, gặt lúa ca vài câu vọng cổ là thỏa mãn tình cảm. Người dân thường hát vọng cổ trong các buổi nhậu nhẹt tiệc tùng "ban đêm họ đốt đuốc… để ăn uống, ca hát". Rượu vào, lời ra, khí thế hát hò tưng bừng. Đi kèm với lời ca vọng cổ là phần đệm nhạc, có gì đệm nấy, có khi gõ đũa vào thùng thiếc, vào mâm chén cũng thành ra nhạc hẳn hoi. Sang trọng hơn, nhạc cụ là đàn kìm, đàn ghi ta. Truyện ngắn Ông già xay lúa miêu tả một
103
khung cảnh khá điển hình cho hình thức sinh hoạt văn nghệ của người dân Nam Bộ. 7 Hát vọng cổ: Có ba lối hát huê tình: hát truyện là lối hát dùng tích trong truyện xưa, truyện tàu; hát văn là dùng cách ngôn thánh hiền; hát mép là lối hát thông thường và khó hơn hết, dùng dẫn liệu từ đời sống.
Ông Năm đang xay lúa, bên cạnh ông là tiệc rượu “Ai làm cứ làm, ai hát cứ hát, ai đàn cứ đàn” [16a; 157]. Một số vùng đất đai phì nhiêu, đất không cần bón phân, mãn
mùa lúa, đến mùa dưa hấu trồng ngay trên ruộng, một vốn bốn lời nên "họ tha hồ ăn
xài suốt tháng giêng cờ bạc, đờn vọng cổ lai rai đến lúc tháng ba sa mưa" [15a; 11].
Hầu như ai cũng đam mê thú vui giải trí "cờ bạc đờn ca vọng cổ mùi mẫn" [14a; 298]. Giới điền chủ sử dụng tiền bạc của mình để giải trí bằng nhiều kiểu nhưng “Hết tiền
thì ngồi nhà đờn ca vọng cổ hoặc nói chuyện tiếu lâm" [16a; 155]. Còn những người
tá điền nghèo khổ, quanh năm vất vả thì ca vọng cổ, ăn uống nhậu nhẹt, ăn chơi liều mạng… cũng là niềm vui quên đi muộn phiền vì họ cho rằng không thể nào nghèo
hơn được nữa. Vọng cổ được đề cập rất nhiều trong Người tình của cô đào hát, Hồi
ký, Hội ngộ bến Tầm Dương…
Thai đố8 là hình thức giải trí của người bình dân xưa ở Nam Bộ. Nhân dịp lễ lạc nào đó, các vị kỳ lão trong làng ra thai đố cho trẻ con, nam nữ trẻ tuổi nêu suy
nghĩ, đối đáp, ứng xử nhanh nhạy. Thai đố là hình thức “đố vui để học”. Người giải
đáp phải có câu trả lời tương ứng với câu chữ trên từng dòng thơ, ca dao, những lời
ngắn gọn… Không gian phù hợp là những nơi dân chúng tập trung như đình miếu,
hội hè, cúng lễ có đông người đến dự. Sơn Nam giải thích thai đố là một hình thức
giải trí khá thú vị của người Nam Bộ trong các dịp cúng đình “nó là hình thức đố vui
dễ học đã có từ đời xưa, tập cho ai nấy suy nghĩ nhanh chóng biết nhìn tổng quát sự
vật” [5a; 76]. Ai có “liên tưởng” tốt thì dễ trả lời đúng. Phần thưởng vật chất cho
người thắng cuộc đơn giản chỉ là chai xá xị hoặc vài cái bánh… quan trọng là giá trị
tinh thần, trả lời đúng trước bao nhiêu người ở đình làng là một vinh dự to lớn. Sơn
Nam rất hóm hỉnh khi đi tìm câu trả lời cho câu thai đố lớn nhất đời “họ có cưới nhau
được không?” của các đôi thanh niên nam nữ. Nhà văn đề cập đến hình thức thai đố
trong nhiều truyện như Tình bậu muốn thôi, Ngôi mộ chôn đứng, Câu thai đố…
8Có những câu thai đố dễ dành cho trẻ con như “Ví dầu cầu ván đóng đinh”, trẻ con có thể biết ngay đó là “cái bánh bò” vì cầu tre khó đi, nhiều người phải bò để giữ thăng bằng. Những câu khó hơn để cho người lớn như “Năm thằng vác hai cây sào/ Đuổi đàn trâu trắng chạy vào trong hang” (Xuất vật dụng: “đôi đũa”): Năm thằng là năm ngón tay, hai cây sào là đôi đũa, đàn trâu trắng vào trong hang là hình ảnh đưa cơm vào miệng. Một loại hình nghệ thuật rất được giới trẻ miền Nam yêu mến, ưa chuộng.
104
Cải lương là loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp cao, có hát, nói, diễn xuất, hành động bao gồm: phần hát có ca cổ, các làn điệu lý; phần nói có nói theo lối kịch, nói theo lối hát; phần diễn xuất bao gồm diễn xuất tâm lý, diễn xuất cách điệu, diễn xuất hài; phần hành động có các hành động thực tế. Ra đời muộn hơn các loại hình nghệ thuật khác. Đây là một đóng góp lớn vào văn hóa của Nam Bộ, hình thành trên
cơ sở dân ca Đồng Bằng Sông Cửu Long và nhạc tế lễ9 “sáng tạo ra một loại hình nghệ thuật mới là điều tất yếu vì đó là một nhu cầu của thời đại” [173; 164]. Sơn Nam
viết trong Đất Gia Định – Bến Nghé xưa – Người Sài Gòn “Xem hát cải lương là một
nhu cầu lớn; thích điện ảnh, nhưng đồng thời, mê cải lương”, ông giải thích cải lương
là thành tựu của người Sài Gòn và người đồng bằng Nam Bộ vì “Cải lương không quá “trí tuệ” như kịch nói, không câu nệ ước lệ như hát bội” [44b; 481] nên người dân
lao động dễ dàng tiếp nhận. Những truyện đề cập đến cải lương như Người tình của
cô đào hát, Hội ngộ bến Tầm Dương, Ngày mưa đầu mùa, Anh hùng rơm, Con trích ré, Cậu Bảy Tiểu, Ông già xay lúa…
Nói thơ Vân Tiên10 tức là cách diễn xuất với giọng nói, nhịp điệu, sắc mặt có khác với thể thơ dùng để ngâm nga. Nói thơ Vân Tiên được xem là một dạng hát bội
dân gian, không cần đào kép chuyên nghiệp. Là một loại hát kể mang tính chất ngâm
ngợi, phù hợp với giọng thô của nam giới. Nội dung là truyện thơ Nôm nổi tiếng Lục
Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, người miền Nam rất coi trọng Lục vân Tiên, xem
nó là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn về “đạo làm người” với quan niệm văn
dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường
- đạo nghĩa. Phổ biến ở Bến Tre, phù hợp với đời sống nông nghiệp thời xưa của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nói hình thức “nói thơ Vân Tiên” là một sản phẩm
văn nghệ dân gian độc đáo của đồng bằng sông Cửu Long, “bảo vật” phi vật thể đậm
đà bản sắc văn hóa Nam Bộ. Cho đến nay, cả tiết điệu, âm vận, đến cung đoạn và
cách thức ngâm nga, nghỉ ngừng,… vẫn được giữ gìn. Trong các truyện Miễu Bà
Chúa Xứ, Nhứt phá sơn lâm, Người mù giăng câu... cũng đề cập Nói thơ Vân Tiên.
Sơn Nam dẫn dắt nhân vật của mình trải qua cuộc sống gian khó nơi rừng sâu
nước độc, sương giăng, chướng khí, làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm...
nhưng họ lúc nào cũng vui tươi, yêu đời... Những đêm trăng sáng, họ thường tụ tập,
9Theo Trần Văn Khê, “cải lương” nghĩa là sửa đổi cho tốt đẹp hơn. Cải lương được thể hiện qua sân khấu, đề tài, kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc có bài bản do tiếp thu từ sân khấu nghệ thuật phương Tây. Theo Vương Hồng Sển, cải lương ra đời vào khoảng 1916-1918 (16/11/1918 tuồng Gia Long tẩu quốc công diễn tại nhà hát Sài Gòn – đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải lương). Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên là những mảnh đất ươm mầm cho sân khấu cải lương. Tên gọi “cải lương” xuất hiện lần đầu tiên trên hiệu gánh hát Tân Thịnh vào năm 1920 và nhanh chóng được yêu thích ở Nam Bộ 10Nói thơ Vân Tiên được diễn đạt theo nhịp điệu không buông rơi đều đặc như hát bài chòi, hoặc hát sắc bùa mà luôn thay đổi từ khoan thai đến dồn dập. Hình thức này không đòi hỏi người nói phải biết rành câu chữ, sắp xếp theo lớp lang tuần tự mà chủ yếu là thuộc lòng và truyền miệng qua nhiều thế hệ. Giai điệu thường bắt đầu ở âm khu cao ở đầu điệp khúc rồi lên xuống giữa âm khu trung và âm khu trầm và chậm dần để kết thúc mỗi điệp khúc. Không sử dụng tiếng đệm, thỉnh thoảng mới thấy tiếng “mà” giặm vào, cũng rất hiếm tiếng “ầu ơ” chen ngang.
105
xúm xít đờn ca, hát vọng cổ, nói chuyện tiếu lâm... để quên đi những nỗi mệt nhọc.
Ngoài các hình thức hát hò nêu trên, ta còn thấy có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa khác trong truyện Sơn Nam như là lối kể chuyện hài kiểu bác Ba Phi, hát tài tử, đua
thuyền… Một số truyện viết về đô thị Sài Gòn có hình thức sinh hoạt văn hóa đa dạng
hơn nhưng đã bị lai tạp nền văn minh phương Tây khá nhiều. Các hình thức sinh hoạt
nghệ thuật cứ trở đi trở lại trong tác phẩm tạo nên nét đặc sắc riêng của Sơn Nam.
Văn hóa phi vật thể của vùng đất Nam Bộ là những phương diện văn hóa như
văn hóa tín ngưỡng, văn hóa ứng xử, văn hóa nghệ thuật… Sơn Nam cung cấp cho
người đọc một bức tranh sinh hoạt văn hóa của Nam Bộ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Những phong tục cũ và mới được dung hòa trên vùng đất mới giúp cho đời
sống tinh thần của cư dân Nam Bộ ngày càng thêm phong phú và đa dạng.
Người đọc dễ dàng nhận thấy văn hóa Nam Bộ vừa mang sắc thái cội nguồn
của văn hóa Trung Bộ, vừa có những nét riêng biệt do sự giao lưu tiếp biến với các
nền văn hóa khác nhau trên vùng đất mới. Đây chính là nền văn hóa sông nước – văn
minh miệt vườn - văn minh lúa nước - được xem là trung tâm điểm của nền văn minh
Nam Bộ. So với các tác giả thường xuyên viết về Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, Đoàn
Giỏi, Nguyễn Quang Sáng (Tây Nam Bộ), Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Hoàng
Văn Bổn... (Đông Nam Bộ) thì tần suất xuất hiện viết về văn hóa Nam Bộ ở Sơn Nam
là cao hơn cả. Hầu như không có tác phẩm nào của ông trong cả hai mảng văn chương
và biên khảo không đầy ắp những chi tiết đề cập đến văn hóa Nam Bộ. Ông xứng
đáng với danh xưng mà nhiều người đặt cho “Nhà văn miệt vườn” với nền “văn hóa
sông nước”. Có thể thấy Sơn Nam rất gần với Nguyễn Tuân – nhà văn chuyên viết về
văn hóa Bắc Bộ ở miền Bắc. Cả hai đã tạo thành một bức tranh văn hóa hoàn chỉnh
của đất nước một thời.
Tiểu kết chương 3
Sơn Nam là nhà văn chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, ông đã dành cả cuộc
đời viết về lịch sử Nam Bộ bằng văn chương, đặc biệt thời khẩn hoang vùng đất mới giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Những sáng tác của ông là những đóng góp đáng trân trọng đối với lịch sử trong đó nổi bật văn hóa, văn học Nam Bộ. Sự giàu có phong phú về vốn tri thức, trải nghiệm đời sống trong quan sát, khảo cứu được thể hiện qua nét phong cách uyên bác tài hoa trong miêu tả và tượng hình đất và người, là điểm đặc sắc nổi bật của ngòi bút Sơn Nam: Phong cảnh thiên nhiên các vùng
miền Tây Nam Bộ bao gồm những con sông, rừng tràm, sân chim, cánh đồng lúa hay
đầm lầy… bí ẩn và đầy khắc nghiệt. Với bàn tay con người, bộ mặt thiên nhiên vùng
106
đất đã dần dần thay đổi hình dạng: Thiên nhiên trù phú, hiền hoà, thơ mộng dần nổi lên
như một khách thể trữ tình, gắn bó thân thiện với con người. Sơn Nam biến hoá thành chất thơ trong văn tự sự và bức tranh nhân sinh được phác hoạ.
Sơn Nam đi nhiều, sống nhiều tiếp cận đủ loại người, hiểu biết thân phận con
người, từ đó bức tranh nhân sinh được phác hoạ. Thế giới nhân vật đông đảo được tạo
dựng trên trang viết cũng là kết quả của một đầu óc thông tuệ qua bút pháp thể hiện mang nét uyên bác tài hoa. Đặc biệt là khả năng phân tích thông minh sắc sảo: những
thân phận nạn nhân khốn khổ của hoàn cảnh; người phụ nữ lỡ bước bó buộc phải bán
mình, anh văn sĩ tự trọng và người viết sa sẩy bán lương tâm, đánh mất bản thân... Những con người mang tâm thức lưu lạc (như trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh,
Bình Nguyên Lộc và cả Nguyễn Ngọc Tư sau này), họ thích tự do tung hoành, phiêu
lưu. Qua bút pháp hiện thực trữ tình độc đáo, tình cảm yêu thương, tự hào về con
người được bộc lộ rõ rệt.Thế giới nhân vật trên những trang viết Sơn Nam tạo ra là
hình tượng chung về con người Nam Bộ với những nét tính cách tiêu biểu nhất: thuần
phác, giản dị trung hậu, quả cảm, phóng khoáng, dũng cảm chiến đấu với sự khắc
nghiệt của thiên nhiên, đấu tranh quyết liệt với giặc ngoại xâm; khẳng khái, nghĩa khí,
có suy nghĩ và lối sống lạc quan sẵn sàng giúp đỡ, cưu mang những người khó khăn
hơn mình… Họ vừa mang nét truyền thống vừa có những nét mới được hình thành
qua quá trình khai mở và kiến tạo miền Đất Mới. Chính họ là những người có công
lớn trong việc mở rộng đất nước, xây dựng và gìn giữ phát triển một miền Nam như
ngày nay. Đó là công lao của nhà văn không chỉ với lịch sử mà còn đối với khoa
Nhân học, Dân tộc học…
Sơn Nam còn cho ta biết lịch sử văn hoá địa phương, đặc biệt mang bản sắc
Nam Bộ. Nhà văn cung cấp cho người đọc những hiểu biết về văn hóa vật chất như
văn hóa mưu sinh, văn hóa giao thông, văn hóa ẩm thực, văn hóa cư trú… cũng như
văn hóa tinh thần như văn hóa ứng xử, văn hóa tín ngưỡng, văn hóa nghệ thuật…
Những nhận xét, đánh giá của ông về văn hóa Nam Bộ đúng đắn và giá trị đã góp phần làm nổi bật sắc thái văn hóa của nền văn hóa truyền thống dân tộc nói chung cũng như văn hóa Nam Bộ nói riêng. Cảm quan văn hoá mạnh mẽ chính là cảm hứng chủ đạo, là cách nhìn chính yếu để khám phá thế giới và con người bằng nghệ thuật và cũng là nét độc đáo mà không lẫn với bất cứ nhà văn nào khác theo chiều lịch đại cũng như đồng đại. Có thể coi tác phẩm Sơn Nam kể cả sáng tác văn chương cũng
107
như biên khảo là bản anh hùng ca thời mở cõi.
Chương 4
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT, GIỌNG ĐIỆU, NGÔN NGỮ
TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM
Phong cách là một phạm trù được nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học
quan tâm. Thời gian gần đây, đã có nhiều chuyên luận, luận án cũng nhiều bài viết đề
cập về phong cách nghệ thuật tác giả, mỗi công trình đều tìm được những điểm đặc
sắc hay nét độc đáo của một nhà văn hay nhà thơ nhất định. Có thể kể đến: Tôn
Phương Lan với Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu (2002), nhà nghiên cứu đã khảo sát các tác phẩm và khái quát được nét độc đáo của nhà văn Nguyễn Minh
Châu. Tác giả đã nhận ra Nguyễn Minh Châu đã dùng tài năng của mình thổi hồn vào
những con chữ và biến ảo chúng, tạo cho những trang văn viết về thiên nhiên và con
người thời đại có sức gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc, ông được xem “là
một trong số người hiếm hoi chạm được vào vỉa quặng lớn của đời sống” [dẫn theo
104; 192]. Tác giả chuyên luận dẫn dắt người đọc qua nhưng biểu hiện nghệ thuật đặc
sắc như cách sử dụng giọng điệu, ngôn ngữ, cách xây dựng tình huống để khẳng định
phong cách nghệ thuật nhà văn Nguyễn Minh Châu - là thành quả của văn học nước
nhà trong thời kỳ đổi mới, cũng là khẳng định một gương mặt độc đáo trong dòng văn
học hiện đại Việt Nam. Tuyết Nga trong công trình Phong cách văn xuôi Nguyễn
Khải (2004) đã lược qua quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Khải. Dù
trải qua nhiều thời kỳ và cũng trải qua một quá trình tự biến đổi nhưng về cơ bản tư tưởng và quan điểm nghệ thuật nhà văn vẫn nhất quán. Ông đã tìm kiếm một lối tiếp
cận, khám phá và phản ánh hiện thực mới, tạo ra được giọng điệu văn xuôi vừa mang
tính truyền thống và hiện đại, phối hợp độc đáo nhiều loại giọng điệu và nhiều chất
giọng để tái hiện mọi góc độ của cuộc sống. Nhà văn bám sát dòng chảy thời cuộc và
đi vào chiều sâu của hiện thực. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ đều để lại dấu ấn sâu sắc trong sáng tác của mình. Dấu ấn đó chính là tính luận đề trong mỗi tác phẩm của nhà văn. Năm 2005, Mai Thị Nhung với luận án Phong cách nghệ thuật Tô Hoài đã phân tích khá sắc sảo làm nổi bật những nét độc đáo của Tô Hoài qua khối di sản văn chương đồ sộ của nhà văn. Mai Thị Nhung chỉ ra nhà văn Tô Hoài đã sử dụng giọng điệu rất riêng: dí dỏm kết hợp với suồng sã và trữ tình đồng thời với cách sử dụng
ngôn ngữ trong sáng tác gắn liền với ngôn ngữ đời thường mộc mạc để bày tỏ lòng mình trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Tác giả chuyên luận phát hiện được bút
108
pháp độc đáo thể hiện cá tính của một nhà văn hết lòng vì những con người lao động
trong cuộc sống hàng ngày, làm nổi bật được phong cách nghệ thuật của Tô Hoài – đó là phong cách nghệ thuật của nhà văn thông minh tinh tế, sắc sảo; nhà văn của cuộc
sống sinh hoạt đời thường bình dị, luôn tin vào “thiện căn” bền vững tiềm tàng trong
mỗi con người. Trong chuyên luận Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam năm
2006, Nguyễn Thành Thi đã tập trung làm rõ chất trữ tình và sâu lắng đọng nhiều suy nghiệm, triết lý mang đậm tính luận đề của Thạch Lam trong truyện ngắn, tiểu thuyết.
Tác giả đã dày công nghiên cứu, khảo sát, phân tích sự phô diễn cảm giác của các
nhân vật qua kỹ thuật dựng truyện trong từng truyện ngắn cũng như tiểu thuyết của nhà văn. Mỗi tác phẩm dù thể loại nào cũng đều thể hiện tài năng tuyệt vời của người
nghệ sĩ Thạch Lam. Từ đó tác giả chuyên luận khẳng định phong cách nghệ thuật độc
đáo và giàu cá tính của Thạch Lam trong dòng văn học hiện đại nước nhà…
Ngoài ra có một số bài viết được đăng rải rác trong các báo và tạp chí hay trên
các trang web cũng đề cập đến phong cách như Bùi Công Thuấn với Phong cách
truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng (1997), Tôn Phương Lan với Nguyễn Thi và
phong cách nghệ thuật của ông qua tiểu thuyết “Ở xã Trung Nghĩa” (1998), Tôn
Thảo Miên với Nguyễn Tuân – dấu ấn của cá tính sáng tạo (2016), Quỳnh Linh với
Phong cách Nguyễn Tuân qua “Chữ người tử tù” (2017)… Mỗi bài viết là sự nhận
định những nét độc đáo của cá tính sáng tạo mà không lẫn với ai của người nghệ sĩ.
Qua khảo sát và nghiên cứu, so sánh, đối chiếu nhiều luận án, bài viết về
phong cách một tác giả, chúng tôi nhận thấy rằng các chuyên đề đều khắc họa được
những nét đặc sắc, riêng biệt của nhà văn, nhà thơ. Từ đó chúng tôi soi chiếu vào
Sơn Nam để tìm ra nét riêng, nét độc đáo của “nhà văn miệt vườn”. Nếu Thạch Lam
là nhà văn có kỹ năng phô diễn cảm giác của các nhân vật qua kỹ thuật dựng truyện
trong tác phẩm; Tô Hoài là nhà văn của có những nguời bình dân lao động với cách
kể chuyện dân dã; Nguyễn Minh Châu là một nghệ sĩ cách mạng đại biểu của văn học
thời kỳ đổi mới; Nguyễn Khải với quan niệm duy lý hướng cái nhìn khám phá vào thế giới hiện thực ngày hôm nay và một hiện thực một miền tư tưởng góp phần dân chủ hóa nền văn học nước nhà… thì Sơn Nam là nhà văn thể hiện một phong cách đặc biệt của nhà văn miệt vườn - nhà văn vùng sông nước - nhà văn của vùng đất mới. Qua khảo sát toàn bộ tác phẩm của nhà văn, chúng tôi nhận thấy Sơn Nam luôn có sự tìm tòi, đổi mới trong cách thể hiện nghệ thuật để tạo phong cách riêng qua các mặt:
Nghệ thuật trần thuật giản dị hồn nhiên như văn nói, giọng điệu đa sắc thái nhưng
được thể hiện một cách dân dã, mộc mạc nhưng đậm chất trữ tình, sâu lắng, ngôn ngữ
109
“rặc Nam Bộ”. Quách Thu Nguyệt – nguyên Giám đốc nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ
Chí Minh từng có một nhận xét chính xác: Sơn Nam có ảnh hưởng lớn đối với các thế hệ sau. Sau nửa thế kỷ, nhiều nhà văn đã kế thừa, tiếp bước theo Sơn Nam là chọn
miền Tây Nam Bộ để lấy cảm hứng sáng tác cũng như học tập hình thức mà nhà văn
vùng sông nước thể hiện, có thể kể đến Nguyễn Trọng Tín, Ngyễn Thị Diệp Mai, Võ
Đắc Danh, Nguyễn Ngọc Tư...
4.1. Nghệ thuật trần thuật
Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong sáng tác là một công việc cần thiết trong
quá trình tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn. Các nhà văn bao giờ cũng quan tâm đến phương thức tự sự mà họ sử dụng trong mỗi tác phẩm vì điều này giúp họ thể
hiện bản lĩnh của người kể chuyện cũng như thể hiện sự độc đáo của cá nhân người
nghệ sĩ. Sơn Nam cũng là trong trường hợp đó.
Theo Tự điển Thuật ngữ văn học “Trần thuật là bình diện cơ bản của phương
thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh
theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định” [60; 307]. Từ thế kỷ XVIII trở về
trước, trong văn học hình thành một một kiểu trần thuật khách quan tức người kể
“biết tuốt” các sự việc, hiện tượng… Mọi việc được kể ở ngôi thứ ba, tác giả đóng vai
trò người kể lại các sự kiện, những hành động, ngôn ngữ của nhân vật. Sang thế kỷ
XIX, ngoài cách trần thuật truyền thống, các nhà văn còn sáng tạo ra kiểu trần thuật ở
ngôi thứ nhất do một nhân vật trong truyện chịu trách nhiệm kể lại. Trong bài viết
Bàn về một thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện, Đặng Anh Đào có nhận định “nếu
trước đây lý luận về trần thuật chủ yếu tập trung vào mối liên hệ Người kể chuyện –
Nhân vật thì giờ đây nó được mở rộng tới mối liên hệ hoàn chỉnh hơn: Người kể -
Nhân vật – Người nghe. Liên quan tới mối liên hệ trên, có ba vấn đề (điểm nhìn,
giọng điệu, ngôi phát ngôn)” [163; 169].
Sơn Nam là một nhà văn cũng như nhiều nhà văn khác, ngoài tài năng thiên
phú còn có tính nghiêm túc, cẩn thận và lao động không mệt mỏi trong sáng tạo nghệ thuật. ông có biệt tài kể chuyện. Qua nghiên cứu các tác phẩm Sơn Nam bao gồm tiểu thuyết, ký, truyện ngắn, chúng tôi thấy nhà văn Sơn Nam đã sử dụng các hình thức nghệ thuật thể hiện cho người đọc những điều họ muốn biết sau khi tác giả nêu lên quan điểm riêng của mình. Mặc dù viết nhiều thể loại, mỗi thể loại đều có những thành công nhất định: Sơn Nam chỉ có hai truyện dài là Bà Chúa Hòn và Xóm Bàu
Láng. Qua nghiên cứu chúng tôi đồng ý với sự đánh giá của các nhà phê bình văn học
đối với hai cuốn tiểu thuyết này: Tuy chuyện kể vẫn hấp dẫn, được nhiều người ưa
110
thích nhưng xét về hình thức nghệ thuật thì chúng không có gì nổi trội so với các tác
phẩm khác của ông. Bên cạnh đó, Sơn Nam có có các tập ký, bút ký, hồi ký như Theo chân người tình & Một mảnh tình riêng, Sài Gòn xưa - Ấn tượng 300 năm - Tiếp cận
với Đồng bằng sông Cửu Long, Dạo chơi, Tuổi già, Hồi ký Sơn Nam… Truyện ký của
Sơn Nam cũng là sự ghi chép khá hoàn chỉnh, nó cũng là tác phẩm nghệ thuật, cũng
có yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận. Có thể nói ký của Sơn Nam là một bức tranh toàn cảnh miền Nam trong đó có sự việc và con người đan chéo nhau nhưng ký chưa
phải là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, cũng là sự việc nhưng sự việc được ghi
chép lại của người trong cuộc cũng là chính là tác giả, cũng là nhân vật nhưng nhân vật là những gương mặt mờ nhạt không rõ nét, không có cá tính… Khảo sát toàn bộ
tác phẩm của Sơn Nam gồm 114 truyện ngắn và 7 truyện vừa, 8 truyện ký và 2 truyện
dài, chúng tôi đồng ý với ý kiến của những nhà lý luận cho rằng trong sự nghiệp của
nhà văn miệt vườn thì truyện ngắn và truyện vừa là độc đáo hơn cả. Tuy nhiên, để
làm rõ nghệ thuật kể chuyện độc đáo của nhà văn, chúng tôi thực hiện trên toàn bộ
sáng tác văn học của ông. Truyện Sơn Nam không có những xung đột hoặc mâu thuẫn
gay gắt như trong truyện của Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Ngọc Tư...; cũng không
xây dựng nhiều tình huống truyện phức tạp như tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, Lý
văn Sâm.. mà thường là những câu chuyện ngắn gọn, đời thuờng. Nhà văn sử dụng
nhiều câu ngắn, tình huống đơn giản thể hiện lối trần thuật riêng biệt và độc đáo của
mình. Qua khảo sát toàn bộ tác phẩm Sơn Nam, có thể thấy nghệ thuật trần thuật của
Sơn Nam được kể theo hai cách: Trần thuật chủ quan (trần thuật chủ thể) và trần thuật
khách quan (trần thuật khách thể).
4.1.1. Người trần thuật (Ngôi phát ngôn) 4.1.1.1. Trần thuật chủ thể hay còn gọi là trần thuật chủ quan
Ở kiểu trần thuật này, cũng giống như các nhà văn khác, chủ thể trần thuật
được “nhân vật hóa”, lời người trần thuật xưng “tôi” kể chuyện về mình, kể những gì
mình đã trải qua, đã chứng kiến. Người kể chuyện đứng ở ngôi thứ nhất, họ không đứng ngoài cuộc mà trực tiếp tham gia vào các sự kiện, thậm chí còn giữ vai trò nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Người kể chuyện kiểu này mang đến cho câu chuyện dáng vẻ hiện đại và có sự hấp dẫn đặc biệt. Có những tác phẩm, nếu “tôi” không trải qua, “tôi” không kể lại thì không ai biết, không ai hiểu một cách tường tận. Chính nhờ vì điều đó, nhiều sự thật chìm sâu trong quá khứ được giải mã lại, được nhìn nhận
bằng một nhân sinh quan mới. Những cuộc đàm thoại trực tiếp với độc giả, giúp
chúng ta tiếp cận nhanh nhất, trực tiếp nhất với những nguyên lý chủ đạo quyết định
111
phong cách tác giả, tác phẩm. Những tác phẩm sử dụng người kể ở ngôi thứ nhất, có
tính tự thuật như tự trào, nhật ký, hồi ký… Sơn Nam có khá nhiều sáng tác thuộc dạng này, ngoài 8 tập bút ký và hồi ký, ông có 25/121 tác phẩm (chiếm 20,66%) vừa
là truyện vừa và truyện ngắn được khảo sát viết theo hình thức người kể chuyện ở
ngôi thứ nhất. Trong các sáng tác của Sơn Nam ở dạng này, độc giả xuất hiện trực tiếp
như một nhân vật trong tác phẩm nhưng không có quyền phát ngôn. Người kể luôn trông đợi sự phán xét của người đọc, tưởng tượng thái độ của họ đối với tác phẩm của
mình. Trong mỗi truyện ngắn, cái “tôi” ở tư cách là nhân vật chính đang tự kể chuyện
về mình hoặc ở tư cách nhân chứng. Để tận dụng thế mạnh của phương thức trần thuật này, Sơn Nam thường để nhân vật là nhà văn, nhà giáo hay người có học, người
có khả năng quan sát, đánh giá sự việc một cách chính xác và hợp lý qua nhận diện
qua hình thể để đi sâu vào tâm lý nhân vật. Năng lực khám phá của nhân vật mở dần
theo truyện. Từ cảm tính đến lý tính và lý tính khẳng định nhận thức từ cảm tính lúc
ban đầu. Hình bóng cũ có thể được xem là cách thức trần thuật theo nhân chứng.
Cuộc gặp gỡ giữa hai vợ chồng Henry Nhan với “tôi”, chồng tung vợ hứng, được kể
lại qua lời cảm nhận về vẻ bề ngoài của nhân vật, những chi tiết quan trọng được
quan sát bởi một nhà nghệ sĩ. Bắt đầu từ sự quan sát đó, dần dần mạch chuyện được
mở ra cuộc đời của nhân vật Tư Hiếm từ lúc hắn vì nợ nần mà lên xác giúp Henry
Nhan âm mưu cướp đất của nông dân cho đến khi hắn phải chết tức tửi trong nỗi ân
hận dày vò bởi sự ác độc của kẻ phi nhân tính. Cái nhìn của người chứng kiến càng
được khẳng định qua cặp mắt và khả năng thể hiện của nhà văn. Trong Cậu Bảy Tiểu,
nhân vật “tôi” nghe tin cậu Bảy Tiểu giết một võ sĩ lừng danh, thầy dạy võ của hắn
“Tôi vẫn chưa tin. Nhưng rõ ràng cái thây của Lê Hữu Vĩnh nằm úp mặt dưới xuồng
bên cạnh cậu Bảy Tiểu” [14a; 184]. Tác giả chỉ kể, không bình luận nhưng sau lời kể,
ta biết nhà văn trông đợi sự phán xét của độc giả về sự tàn ác, lừa thầy phản bạn của
kẻ tiểu nhân. Tuy tính chất “đàm thoại trực tiếp” với độc giả khá rõ nhưng khả năng
phát ngôn trực tiếp những nguyên tắc của phong cách giảm đi nhiều nhưng nếu xem xét ở góc độ phong cách chúng ta vẫn nhận ra chìa khóa giải mã các hiện tượng của phong cách. Chủ thể xuất hiện ngôi thứ nhất trong tác phẩm Sơn Nam gắn liền với lời người kể chuyện “lưỡng phân” – người kể chuyện vừa xuất hiện đơn lập vừa xuất hiện song hành với các nhân vật khác “Lão Tư Thông khuất dạng phía ngoài cửa hang. Trong này tôi và thằng Tặc nhìn nhau, chẳng biết nói chuyện gì cho bớt cô đơn
lạnh lẽo. Tôi lắng tai, chờ đợi tiếng chim ụt hoặc một bóng ma (…) bỗng nhiên, sau
lưng tôi có tiếng giẫy đành đạch” [15a; 148]. Lời trần thuật chủ thể không cho người
112
đọc thấy được lời người kể chuyện hay tác giả bởi người kể chuyện – tác giả được
lồng vào lời nói của nhân vật “Tôi”. Lời trần thuật xưng “tôi” khiến cho khoảng cách người kể chuyện cũng như nhân vật trong truyện được rút ngắn lại như nhà nghiên
cứu Trần Đình Sử trong giáo trình Dẫn luận thi pháp học có nhận định “Bằng phương
pháp này, người trần thuật có điều kiện phô bày, diễn tả tất cả những gì bên trong sâu
thẳm nhất của tâm hồn” [162; 457]. Sơn Nam trong Hồi ký đứng vị trí ngôi thứ nhất kể lại một câu chuyện về người bạn văn của mình một cách chân thực và khiến người
đọc yêu mến và cảm thông với người đồng nghiệp của ông “nhắc đến Dương Tử
Giang, tôi không thể quên tấm lòng tốt vô hạn của anh. Lúc cuối năm 1954, chân ướt chân ráo lên Sài Gòn để tập tành về báo chí văn nghệ, (…) Dương Tử Giang quá
nghèo, luôn luôn mặc áo “vét” để… che giấu cái áo sơ mi rách bên trong…” [13a;
233]. Chính những lời tâm sự của Sơn Nam đứng ở vị trí ngôi thứ nhất khiến cho
người đọc dễ dàng đồng cảm, gần gũi hơn khi nhà văn kể lại một đoạn đời lập nghiệp
gian khổ của mình đồng thời cũng hiểu rõ tình cảm của Sơn Nam đối với người bạn
văn thân thiết. Nhân vật đóng vai trò người trần thuật xưng “tôi”, một hình thức hóa
thân của tác giả. Sử dụng lối trần thuật này, tác giả được tự do quan sát, đánh giá theo
quan niệm của mình. Nhà văn đi vào “con người trong con người” của nhân vật để
tìm hiểu, giải trình theo logic tính cách hoàn chỉnh. Đại văn hào Xô Viết Marxim
Gorki từng nói “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả thể hiện
đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở bên cạnh họ, mách cho
người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc những ý nghĩ
thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau hành động của nhân vật được mô tả, tô đậm
thêm cho tâm trạng của họ… luôn luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của
mình, điều khiển một cách tự do và rất khéo léo mặc dù người đọc không nhận thấy
những lời lẽ, những việc làm, những mối tương quan của họ” [dẫn theo 104; 150]. Rõ
ràng Sơn Nam khi đi sâu miêu tả nội tâm nhân vật nhằm phân tích và phát hiện vấn
đề. Cái “tôi” cá nhân lúc này mang màu sắc số phận, nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ kể cả thế gới tâm linh của nhân vật.
Nền văn học thế kỷ XX, XXI không thể thiếu kiểu trần thuật chủ thể, tuy nhiên có sự cách tân qua mỗi thời đại, mỗi tác giả có sự cách tân tùy theo sự hiểu biết và quan điểm của mình. Do vậy, lời trần thuật trở nên phong phú, đa dạng có sức hấp dẫn đặc biệt. Với phương thức trần thuật chủ thể, mối liên hệ giữa Người kể chuyện –
Nhân vật – Người nghe gần gũi và gắn bó hơn rất nhiều. Người đọc dễ dàng hiểu
được những thông điệp mà nhà văn muốn nhắn gửi qua mỗi câu chuyện kể. Có thể
113
nói Sơn Nam đã thực hiện được những cách thức khác nhau để tiếp cận hiện thực
khác với những nhà văn khác cùng thời. Trần thuật dạng nhân vật là nhân chứng của tác giả còn được sử dụng trong nhiều truyện khác như Hai con cá, Mây trời và rong
biển, Ngó lên Sở Thượng, Thơ núi Tà Lơn, Ngày mưa đầu mùa… Người trần thuật
vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của truyện. Nhân vật chính là chủ thể còn
nhân chứng chỉ để hỗ trợ cho nhân vật chính. Ở dạng truyện khác, người kể chuyện cũng là chủ thể trần thuật, hoàn toàn nhập vào nhân vật, tác giả có lợi thế trong việc
quan sát, phản ánh, thậm chí đi sâu vào thế giới tâm linh nhân vật để giải trình như
Âm dương cách trở, Hình bóng cũ, nhất là trong Hồi ký Sơn Nam gồm 4 phần: Từ U Minh đến Cần Thơ - Ở chiến khu 9 – 20 năm giữa lòng đô thị - Bình an. Hóa thân vào
nhân vật, Sơn Nam có điểm nhìn riêng cho mỗi tác phẩm, nhà văn đã tạo nên giọng
văn khác với những sáng tác của chính bản thân mình.
4.1.1.2. Trần thuật khách thể hay còn gọi trần thuật khách quan
Phương thức trần thuật khách thể do một người “biết tuốt” kể chuyện. Mọi
chuyện được kể lại ở ngôi thứ ba, người trần thuật vô hình, đứng sau lưng nhân vật,
không xuất hiện, không tham gia vào diễn biến của câu chuyện. Câu chuyện như tự
nhiên hiện ra như nó vốn có. Phần lớn tác phẩm của Sơn Nam từ truyện ngắn đến tiểu
thuyết được kể theo phương thức này. Tuy nhiên, nó không hoàn toàn diễn biến theo
truyền thống mà nó được “xen canh” đan lồng vào nhau. Người trần thuật không lộ ra
mà ẩn tàng, giấu mặt để theo dõi câu chuyện và kể lại cho người khác nghe. Kiểu trần
thuật này làm cho người đọc nghĩ rằng người kể chuyện là một “khách thể”, là “ngôi
thứ ba” đứng từ điểm nhìn bên ngoài, hoàn toàn khách quan khi kể chuyện. Đây là
phương thức trần thuật nhà văn đã tiếp thu, kế thừa từ đặc trưng của văn phong truyền
thống. Tuy nhiên, ông còn phát huy những đặc điểm của hình thức này trong văn học
hiện đại bằng cách đưa vào những đánh giá và nhận định của bản thân vào tác phẩm.
Chính vì điều này mà tác phẩm Sơn Nam đảm bảo tính chân thực và tính khách quan.
Trong Bức tranh con heo, ông hương trưởng nói với vợ “Mình làm giàu, cái tờ cử hương trưởng của tôi đem danh, cái hình này đem lợi… Đủ danh, đủ lợi. rồi” [14a; 123]. Cái kết câu chuyện chính là hình thức tác giả đưa ra ý kiến đánh giá, bình luận vào tác phẩm một cách hóm hỉnh vả hài hước.
Đề tài mà Sơn Nam tâm đắc được đề cập phần lớn trong tác phẩm chính là đề tài của cuộc khẩn hoang Nam Bộ và cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Trong toàn bộ
sáng tác Sơn Nam, nhà văn sử dụng chủ yếu hình thức kể chuyện trên cương vị
“khách thể” ở ngôi thứ ba. Thống kê trong Hương rừng Cà Mau là 52/66 truyện
114
(chiếm 78,8%), truyện vừa 5/7 truyện (71,4%), những truyện dài như Xóm Bàu Láng,
Bà Chúa Hòn thì hoàn toàn viết ở ngôi thứ ba (100%).
Không chỉ trong truyện ngắn, hai tác phẩm dài của Sơn Nam cũng được trần
thuật theo dạng này. Trong Bà Chúa Hòn, đứng ở vị trí khách quan để quan sát nhân
vật cô Huôi trong quá trình từ một cô bé xinh đẹp, tài năng trở thành bà Chúa hòn uy
nghi đáng nể trọng, Sơn Nam nắm bắt, nhìn nhận những hành vi, cách cư xử của nhân vật bà chúa thời khẩn hoang giúp người đọc suy nghĩ về những phẩm chất tốt đẹp của
một cô gái nông thôn khác thường, chín chắn, già trước tuổi, khác với những phụ nữ
khác trong cách sống, cách ứng xử với các sự việc và mọi người chung quanh. Không gian còn hoang vu bạt ngàn rừng rậm, con người còn đối xử với nhau bằng những
“luật rừng”, có thể giải quyết mọi chuyện bằng cách giết người không chớp mắt. Hình
ảnh người con gái uy nghi, mạnh mẽ xuất hiện như một vầng sáng của một thời mở
đất trong tác phẩm. Cô gái kiên nghị đối với kẻ chống đối, cô không ngần ngại trừ
khử những kẻ tham lam, có cách trị những kẻ tàn độc như Mười Hấu, dùng tâm chân
thành để cảm hóa kẻ điên khùng như thằng Cẩu. Nhưng đối với người dân sống trên
Hòn thì cô lại ân cần quan tâm, chăm sóc nên cô được mọi người yêu mến và kính nể.
Nhưng cuối cùng cô chán ghét sự đấu đá; mỏi mệt vì lúc nào cũng phải suy nghĩ để
giải quyết bao nhiêu vấn đề “không như ý” trên cương vị của chúa Hòn, Sơn Nam đã
để cho nhân vật của mình phủi bỏ những bụi trần, tìm sự thanh tịnh nơi cửa Phật. Với
lối trần thuật này, tính khách quan của hiện thực càng gia tăng thì vai trò của chủ thể
sáng tạo càng ẩn kín. Kết thúc truyện gây bất ngờ và bài học triết lý bộc lộ ra cho
người đọc chiêm nghiệm.
Đôi khi Sơn Nam còn sử dụng lối trần thuật không hoàn toàn khách thể - lối
trần thuật được chủ quan hóa – một phương thức thu hẹp khoảng cách tối đa giữa tác
giả và nhân vật, có thể gọi là “song trùng”. Lúc này yêu cầu nhà văn phải nắm bắt sâu
sắc về nội tâm nhân vật, cách thức này vừa miêu tả sự kiện khách quan vừa đi sâu vào
thế giới tâm hồn, suy nghĩ của nhân vật. Mỗi câu chuyện dù viết về đề tài nào, bằng cách sử dụng hình thức này, nhà văn để cho độc giả như chứng kiến hiện tượng sự vật một cách chân thực và đầy đủ. Một tình huống trong Căn nhà mặt tiền, mô tả một cách sống của những người dân trong giai đoạn giao thời của đất nước. Khi ông Phán hỏi con trai cả về quê vợ sống như thế nào, được cách mạng đối xử ra sao, tác giả để Thiện trả lời một cách thoải mái, dễ dãi, hài hước như bản tính xuề xòa của anh “Dễ
quá… con cứ sống như đóng kịch từ hồi thời quốc gia. (…). Mình đứng ngoài vòng,
làm sao họ rầy ra được. Trái lại, nếu họ sai khiến, mình làm không đúng, mình bị
115
kiểm điểm. Tóm lại, suốt ngày nói chuyện nửa thiệt nửa láo, vậy mà có cơm ngày ba
bữa, uống rượu… không trả tiền” [7a; 229]. Trong tác phẩm Sơn Nam, đôi khi tiếng nói của nhân vật gần như hòa đồng với tiếng nói của tác giả, lời kể theo ngôi thứ ba
dù là kể lại những sự kiện diễn ra như nó vốn có nhưng thật ra sau lưng nhân vật luôn
có hình ảnh vô hình của tác giả, có thể nói đây là sự phân thân một cách sáng tạo
nhưng thú vị của nhà văn. Có lúc nhân vật và tác giả là hai nhưng cũng có khi nhập lại thành một. Nhà văn mượn nhân vật để nói lên chính kiến, quan điểm của mình.
Trong Tháng chạp chim về, suy nghĩ của nhân vật Tư như đang nói hộ lòng tác giả
“Hiên ngang thay ! Đẹp đẽ thay! Hỡi người Việt đầu tiên đến vùng Kiên Giang hưởng ơn Trời lộc Nước mà khai phá miền Nam” [16a; 215]. Trong Nghe chim hót, nhà văn
như hòa vào nỗi niềm của nhân vật Tân khi nhận thức sâu sắc hoàn cảnh của bản thân
mình “Dùng nó để làm gì đây? Tân buồn bã hơn bao giờ hết. Không xài phí mà vẫn
tốn kém, không mở miệng mà vẫn bị mắng ngược, không lường gạt ai mà sao lại chua
chát đắng cay…” [5a; 328].
Nhà văn như một khách qua đường bằng sự quan sát tinh tế để phát hiện ra cái
không bình thường trong cái bình thường của dòng chảy cuộc sống. Người trần thuật
đứng ở vị trí khách quan quan sát, đôi khi nhập vào nhân vật cùng sống, cùng buồn
vui, cùng suy nghĩ… với họ. Tác giả dẫn dắt người đọc thâm nhập vào nhân vật, từ đó
người đọc tự rút ra bài học sau mỗi câu chuyện. Sử dụng phương thức trần thuật này,
Sơn Nam đã thu hẹp khoảng cách giữa nhà văn và độc giả. Nhà văn đứng vị trí khách
quan, dễ dàng thuyết phục người đọc qua lời người kể chuyện. Kết hợp với những thủ
pháp khác như tâm linh, hồi ức, giấc mơ… đồng thời với cách kể chuyện giản dị, súc
tích, tác giả dùng nhiều câu ngắn để dẫn dắt mạch truyện, giọng điệu thay đổi linh
hoạt… Sơn Nam cũng như một số nhà văn tài năng khác biết cách phát huy và cách
tân phương thức truyền thống của văn học dân tộc theo ý đồ riêng của mình để tạo
nên hiệu quả đặc sắc cho lối trần thuật cổ điển và thông dụng này.
4.1.2. Điểm nhìn trần thuật Một số nhà nghiên cứu đồng hóa giữa người kể chuyện (ngôi phát ngôn) và điểm nhìn nhưng cũng có số khác không đồng ý với quan niệm là dùng ngôi phát ngôn thay thế cho thuật ngữ điểm nhìn trong đó có Stanzel, Genette, Todorov… Trong Từ điển bách khoa về các khoa học ngôn ngữ, Todorov nhấn mạnh “Không thể nào đồng nhất nhãn quan (vision) với những phương tiện lời nói vốn dĩ chứa đựng
một sự đa dạng trong chức năng biểu thị rất khác nhau…” [dẫn theo 163; 173]. Chúng
tôi đồng quan điểm với quan niệm là điểm nhìn và ngôi kể chuyện chỉ có mối liên
116
quan chặt chẽ đến nhau nhưng là hai phạm trù hoàn toàn khác nhau.
Trần thuật bắt đầu từ điểm nhìn nên xem xét nghệ thuật trần thuật trong một tác phẩm cũng phải bắt đầu từ điểm nhìn trần thuật và vai trò người kể chuyện. Điểm
nhìn trần thuật là một yếu tố trong tác phẩm văn học. Hệ thống điểm nhìn là yếu tố
quan trọng khi hình thành tác phẩm. Điểm nhìn là vị trí đứng của người trần thuật khi
quan sát, nhìn nhận, đánh giá… bao gồm các khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện tâm lý, vật lý, văn hóa… Nó thể hiện tư tưởng, dụng ý nghệ thuật của
nhà văn. Theo Tự điển Wikipedia “Một câu chuyện hay phải có một người kể chuyện
xác định rõ và kiên định (…). Người kể chuyện là một thực thể đơn nhất (single entity) và giới hạn. Người kể chuyện không thể truyền đạt bất cứ điều gì mà anh ta
không đối mặt với nó. Nói cách khác, người kể chuyện nhìn câu chuyện từ điểm nhìn.
Điều này được gọi là điểm nhìn” [dẫn theo 163; 171]. Như vậy, nếu từ điểm nhìn bên
ngoài sẽ tạo được sự khách quan, tuy nhiên, chỉ nhìn thấy vẻ bề ngoài, không đi sâu
vào thế giới nội tâm nhân vật. Còn điểm nhìn bên trong thì nhà văn là người “toàn tri”
của toàn bộ câu chuyện. Nhà văn khi đưa nhân vật vào thế giới văn học, ít hay nhiều
thì nhân vật đã có một đời sống riêng. Nhân vật nói năng, hành động không hoàn toàn
lệ thuộc hay bị chi phối cách nhìn, quan điểm của tác giả, nhưng không có nghĩa điểm
nhìn nhân vật hoàn toàn tách biệt khỏi vị trí quan sát mà phần lớn các nhân vật đều nằm
dưới con mắt theo dõi của tác giả và thông qua tác giả, nhân vật nhận diện cuộc sống.
Trong truyện Sơn Nam, điểm nhìn của nhân vật gần như trùng khít với điểm
nhìn của tác giả, ông để nhân vật nói năng, suy nghĩ, hành động theo ý mình, nhân vật
phát ngôn thay ông. Xét cho cùng, hầu hết các nhân vật đều là hóa thân của nhà văn.
Qua tác phẩm, Sơn Nam đã lựa chọn điểm nhìn từ nhiều vị trí, khi thì từ bên ngoài
của người kể chuyện ở ngôi thứ ba, khi điểm nhìn bên trong từ nhân vật trong truyện
nhưng cũng có lúc người đọc nhận thấy có sự di chuyển điểm nhìn, cũng như sự kết
hợp linh hoạt điểm nhìn bên trong và bên ngoài. Trong Vạch một chân trời, nhà văn
chọn điểm nhìn từ bên ngoài của người kể chuyện. Mọi sự việc, tình huống, hoạt động, trạng thái, tình cảm của nhân vật, diễn biến câu chuyện được đặt dưới điểm nhìn cùa người kể chuyện ngôi thứ ba. Từ điểm nhìn đó, người kể chuyện kể lại câu chuyện phiêu lưu tìm vàng của hai nhân vật Hai Tam và Tư Bá. Lênh đênh trên con xuồng nhỏ, Hai Tam rơi vào bẫy tình của Nhung - một cô gái xinh đẹp vùng sông nước. Nghe theo tiếng gọi của tình yêu, Nhung bỏ nhà đi tìm hạnh phúc với Hai Tam.
Đôi trai gái tham gia vào đội tìm vàng trên vùng đất mới. Trải qua bao nhiêu sóng
gió, sự đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, với kẻ thù vì lòng vị kỷ, ghen tuông…
117
rắp tâm làm hại họ như lão thầy Rắn, Lục Cụ…; với bọn giặc Tàu ô luôn rình rập giết
người, chiếm đất… Những khó khăn, vất vả, gian truân… được kể lại một cách hiển nhiên, chân thực, khách quan như người kể chuyện đang cùng sống, cùng chứng kiến
tất cả. Sơn Nam đã thành công khi miêu tả đầy đủ hành trình gian nan của đoàn
người, một tình yêu đẹp, lãng mạn nhưng bi thảm của đôi nam nữ Hai Tam – Nhung;
cuộc đấu tranh không khoan nhượng đối với giặc Tàu ô dành lại đất đai tổ quốc của Tư Bá; lòng yêu nước, yêu quê hương của người dân Nam Bộ trong cuộc đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược.
Tuy nhiên, tác giả không chỉ sử dụng một điểm nhìn, mà còn kết hợp điểm nhìn bên ngoài và bên trong ngay trong một đoạn văn. Trong Chim quyên xuống đất,
Sơn Nam đứng ở vị trí trần thuật ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài kể lại hành
trình truân chuyên của một trí thức làm công tác bình dân học vụ dưới thời Pháp
thuộc và sử dụng điểm nhìn bên trong kể lại những nỗi niềm của nhân vật Sỹ trước
cảnh nước mất nhà tan “tiếng gọi của sông núi ở gần ở xa. Đã đến lúc Sỹ đáp lời, dẫu
là tiếng đáp bé bỏng. (…) và tâm khảm của Sỹ tuy nát như tương nhưng thấm vào đâu
trước bao cảnh tan nát” [4a; 516]. Sự di chuyển điểm nhìn từ bên ngoài của người kể
chuyện sang điểm nhìn bên trong của nhân vật làm rõ nỗi niềm day dứt, buồn phiền
và tâm trạng bất lực của Sĩ trước thực trạng xã hội, trước tình cảnh bi đát của chính
bản thân mình. Cũng như cách di chuyển điểm nhìn của người kể chuyện từ bên
ngoài sang điểm nhìn bên trong trong Tháng chạp chim về, người kể chuyện đang ở
vị trí ngôi thứ nhất bình thản kể chuyện về những sân chim lớn nhỏ ở miền Nam, sự
sinh sản và cư trú của các loài chim chuyển sang tâm trạng bâng khuâng buồn bã của
nhân vật ông Tư khi nhìn con chim già sói “có lẽ ông nghĩ đến phận mình mà sinh ra
bao mối cảm hoài” [16a; 214 – 215]. Như vậy, trong điểm nhìn của người kể chuyện
dù ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba đều có cái nhìn từ bên trong lẫn điểm nhìn bên
ngoài. Việc sử dụng kết hợp đó góp phần giúp người đọc cảm nhận bức tranh sinh
hoạt của người dân Nam Bộ. Điều này còn tạo ra giọng điệu đa thanh cho tác phẩm.
Không có một điểm nhìn nào chuẩn mực cho mọi truyện, do vậy, việc kết hợp điểm nhìn và di chuyển điểm nhìn là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ thuật kể chuyện. Sơn Nam đã biết cách tạo nên sức hấp dẫn trong từng câu chuyện kể. Nhà văn đã tạo cho mình những cách thức khác nhau để tiếp cận hiện thực. Sự tìm tòi của Sơn Nam trong lĩnh vực này đáng được ghi nhận.
4.1.3. Trần thuật kết hợp với phương pháp miêu tả chân thực, sinh động Trần thuật là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật,
118
sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định. Thành
phần của trần thuật không chỉ là kể việc mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, đưa ra lời bình luận, lời trữ tình ngoại
đề, lời ghi chú tác giả… do vậy trần thuật có mối liên kết rất chặt chẽ với phương
pháp miêu tả.
Trong nền văn xuôi hiện đại, có nhiều nhà văn có tài miêu tả như Thiên nhiên Nam Bộ của Đoàn Giỏi, Làng quê Bắc Bộ của Kim Lân, Gió của Nguyễn Tuân, Nắng
của Nguyên Hồng… Sơn Nam cũng có khả năng sử dụng điêu luyện nghệ thuật trần
thuật kết hợp với miêu tả. Tuy nhiên, trong cách kể chuyện, Sơn Nam không sử dụng nhiều các biện pháp nghệ thuật trong khi kể chuyện, không miêu tả bằng những công
thức sáo mòn, ước lệ. Cách miêu tả của nhà văn là đi sát với thực tế cuộc sống sinh
động, vẽ lên những sự vật, sự việc trong tự nhiên một cách chân thực và cụ thể. Đặc
biệt là nhà văn phát huy cao độ biện pháp so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ mang tính tạo
hình. Chính điều này làm văn chương của nhà văn miệt vườn trở nên mượt mà và
mang đẫm chất thơ. Trong Hòn Cổ Tron, tác giả dùng phép so sánh để mô tả một cảnh
biển lúc hoàng hôn ngoài hòn Cổ Tron “Hoàng hôn tràn tới chính là lúc cảnh vật dưới biển ngời lên, bóng mây phản chiếu lấp lánh như gấm11. Đêm về, trăng mọc. Nơi thủy cung rộn rịp nào kém chốn trần gian!” [15a; 228]. Một đoạn văn miêu tả đặc
sắc, vừa sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, liên tưởng…
để tạo nên một bức tranh hoàng hôn trên biển lộng lẫy và thơ mộng. Ở Hương rừng
tác giả so sánh “Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua
những lung, tròn méo như mấy cái bao tử, gan, lá lách…”. Cách so sánh gần gũi,
đời thường, tạo sự thú vị cho cách hành văn của nhà văn. Ấn tượng hơn nữa khi tác
giả so sánh hình ảnh “mấy cây khô trốc gốc nổi lềnh bềnh quay qua quay lại như
xác người rủ tóc” hoặc trong Sông Gành Hào, hình ảnh những con cá sấu “Dường
như vật nọ (…). Khúc cây chăng? Thây ma chăng? Vô lý! Nếu vậy thì nó theo nước
xuôi mất dạng này. Đằng này, nó từ từ trôi ngược… chấp chóa như muôn ngàn con đom đóm đậu khít nhau” [16a; 190]. Trong Cây huê xà, tác giả ví von “Đất nhúc nhích từng cục, một con rắn ốm nhom vùng ngóc chồm tới, ngóc đầu lên cao, phùng mang giống hình cái bàn nạo…” [14a; 190 -191]. Trong Ngày hội ba khía, tác giả miêu tả cảnh đêm vùng sông nước “Đêm ba mươi trời tối như mực. Nước ruộng chảy tràn qua vùng ven biển. Rừng cây mắm đen ngòm trước mặt như bức tường
11 Người viết in đậm các từ/ nhóm từ để làm nổi bật những dẫn chứng có tác dụng minh họa
119
thành” [12a, 164]… Lối so sánh là kết quả của sự liên tưởng linh hoạt, vốn sống, vốn
hiểu biết phong phú của Sơn Nam về vùng đất Nam Bộ “Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh, nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về
đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên” (Mùa “len” trâu) [16a; 43].
Có những đoạn văn kết hợp phương pháp miêu tả và kể chuyện thật thú vị và
sinh động, ở Mùa “len” trâu, tác giả viết “Tháng mười nước giựt xuống. Đến cuối tháng mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi
non trở nên hùng vĩ. Suốt mùa lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước;
bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường” [16a; 44]. Một đoạn văn khác trong
Ngày mưa đầu mùa chứng tỏ khả năng vừa kể vừa tả của nhà văn vô cùng tài hoa và
hóm hỉnh “Khung cảnh buồn bã làm sao! Dường như chỉ có mình tôi đứng đội trời,
đạp đất. Hồi lâu, máy bay rền lên phía đồn Thứ Ba. Sau rặng tre, chỉ thị của xóm nhà
sát đồn, mây đen giăng ngùn ngụt, thiếu lửa, thiếu khói vì mưa rơi lác đác. Vì ngán
nỗi cô đơn tôi cắm đầu chạy nhanh về phía ven biển./ Việc tản cư trở thành bài thơ
êm ái, nhẹ nhàng như ca dao” [16a; 53]. Rất nhiều tác phẩm của Sơn Nam kết hợp
giữa trần thuật và miêu tả như vậy. Đôi lúc sự miêu tả và so sánh vượt ra ngoài câu
chữ vì sức gợi mở và khả năng khơi sâu của nó. Cách biểu hiện này được lặp đi lặp
lại trong các tác phẩm chứng tỏ cảm hứng mạnh mẽ và sâu sắc của nhà văn vùng đất
mới đối với quê hương.
Sự kết hợp kể và tả trong tác phẩm Sơn Nam là một trong những yếu tố quan
trọng thể hiện phong cách nghệ thuật nhà văn. Lối kể và tả của ông luôn tạo sự uyển
chuyển và linh hoạt cho mỗi câu chuyện của mình. Tuy nhiên, qua khảo sát các tác
phẩm văn chương của ông, chúng tôi nhận thấy khác với một số nhà văn khác, Sơn
Nam chú ý đến phương tiện kể nhiều hơn tả. Ông luôn luôn tìm tòi, khai thác mạch
truyện nhiều hơn là chú ý đến cách thức miêu tả. Miêu tả chỉ là điểm xuyết cho những
tình huống truyện mà ông đặt ra để câu chuyện sinh động và hấp dẫn hơn. Có lẽ, theo ông đây là cách để ông bộc lộ trực tiếp cái nhìn đối với cuộc sống, gửi gắm tâm tư tình cảm của mình đến với người đọc mà không cần thông qua bất cứ khâu trung gian nào. Đọc văn Sơn Nam khó tìm được những kết cấu rắc rối, phức tạp, những tình huống éo le, uẩn khúc. Kết cấu truyện giản dị như câu chuyện muôn mặt đời thường. Không có những xung đột gay cấn hoặc mâu thuẫn gay gắt, hoặc những tình huống
chồng chéo vì những hiện thực khác biệt trong lịch sử mà chỉ là cuộc sống như nó
vốn có. Điều này cũng chính là điểm riêng biệt của Sơn Nam cũng là điểm tạo nên
120
phong cách của nhà văn đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Với các điểm nhìn trần
thuật cùng với sự kết hợp linh hoạt đó đã tạo chiều sâu cho bối cảnh, cho nhân vật vừa góp phần hình thành giọng điệu nghệ thuật của Sơn Nam.
4.2. Giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác Sơn Nam Trong sáng tạo nghệ thuật, giọng điệu có một tầm quan trọng đối với người
nghệ sĩ. Khái niệm giọng điệu được nhắc đến trong mỹ học phương Đông qua các khái niệm gần gũi như “hơi văn”, “khí văn”… Giọng điệu là một trong những yếu tố
nghệ thuật có ý nghĩa nhất trong thi pháp cũng như trong phong cách nhà văn. Hiện
nay các nhà nghiên cứu lý luận đề cập đến giọng điệu như là một yếu tố quyết định để người nghệ sĩ sáng tạo ra đứa con tinh thần của mình. Nó thể hiện cái nhìn, bày tỏ các
sắc thái tình cảm, lập trường, thái độ của người nghệ sĩ đối với cuộc sống. Nó không
chỉ là vấn đề thuộc phong cách nghệ thuật mà là còn là yếu tố quan trọng tạo thành tư
tưởng nội dung tác phẩm. Giọng điệu là cái “hồn” chi phối toàn bộ tác phẩm và đây
cũng chính là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt nét bút của nhà văn này so với nhà
văn khác, để tạo nên phong cách nhà văn. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử quan niệm:
Giọng điệu là biểu hiện của thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống, còn giọng
điệu tác phẩm phụ thuộc vào cảm hứng chủ đạo của kể chuyện. Lê Bá Hán định nghĩa
“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với
hiện tượng… Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu
thẫm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn … Thiếu
một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm” [60; 134-135].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cũng nói về giọng điệu văn chương là “Giọng
điệu trong văn xuôi thường mang tính khách quan lạnh lùng, còn giọng điệu thơ ca
thấm đẫm tính chủ quan” [42; 41]. Như vậy, giọng điệu là một trong những yếu tố
nghệ thuật rất quan trọng đối với phong cách nghệ thuật nhà văn. Giọng điệu văn
chương vừa cho phép người đọc nhận ra vẻ riêng của người nghệ sĩ, vừa có ý nghĩa
như một tiêu chí xác định tài năng. Người nghệ sĩ có tài năng phải tạo ra được một giọng điệu đặc trưng trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật nhà văn không thể không nghiên cứu và nhận diện giọng điệu nghệ thuật của nhà văn ấy. Khi nhận ra chính xác giọng điệu chủ đạo của nhà văn mới góp phần nhận diện phong cách nghệ thuật của họ.
Mỗi nhà văn có một giọng điệu chủ đạo làm nên bản sắc riêng. Trong nền văn
học Việt Nam, có giọng điệu cay đắng trước những nỗi thống khổ con người của Nam
Cao, có giọng điệu trào lộng, đả kích cay độc trước hiện thực xã hội của Vũ Trọng
121
Phụng, có giọng điệu thanh nhã, tinh tế của Nguyễn Tuân... thì ở Sơn Nam, giọng
điệu làm nên bản sắc riêng của “nhà văn miệt vườn Nam Bộ” mà có nhà nghiên cứu cho là giọng điệu “rề rà, chậm rãi cùng với các giọng khác trong truyện ngắn Sơn
Nam hòa quyện vào nhau, thống nhất với nhau, định hình nên phong cách của ông”
[21; 94 - 95]. Đọc Sơn Nam dù là truyện ngắn, tiểu thuyết hay ký, chúng ta đều nhận
thấy tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, mỗi giọng điệu phù hợp với một câu chuyện, lúc thì trang nghiêm, lúc thì chua xót, khi thì giận dữ, khi thì căm giận, nhưng cũng
có lúc thể hiện sự hài hước, bộc lộ sự thông minh, hóm hỉnh… Dù ở giọng điệu nào,
Sơn Nam cũng thể hiện sự mộc mạc, dân dã, thân tình, đằm thắm và gần gũi ẩn chứa những triết lý, những bài học nhân sinh của cuộc đời nhưng thấm đẫm chất hài hước
dí dỏm bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm của nhà văn trước hiện tượng cuộc sống.
Tuy nhiên qua nghiên cứu các sáng tác của Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy giọng điệu
chủ âm của nhà văn là Giọng điệu dân dã, mộc mạc và giọng điệu trữ tình, sâu lắng
bên cạnh đó còn bổ sung những giọng điệu hài hước, chiêm nghiệm triết lý tạo nên
sự đa thanh trong giọng điệu văn chương của Sơn Nam.
4.2.1. Giọng điệu dân dã, mộc mạc Vào những thập niên 50 – 60 - 70, ở văn đàn miền Nam rộ lên những cây bút
với giọng văn mượt mà, tinh tế như Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Chu Tử, Hồ Hữu Tường, Phan Nhật Nam, Thế Uyên, đặc biệt là các nhà văn nữ Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhã Ca…, khác với họ, Sơn
Nam chọn cho mình một lối viết rất đặc trưng Nam Bộ, nhà văn đã đã đi sâu vào thực
tế, cuộc sống đời tư, số phận con người lao động miền sông nước. Những điều ông
viết trong tác phẩm giản dị, hiện thực và đẫm chất đời thường. Người đọc Sài Gòn
bấy giờ yêu mến vì cái lạ, cái hồn hậu một vùng quê mà họ chỉ mới hình dung trong
tưởng tượng, còn người dân miền Tây Nam Bộ yêu mến vì những câu chuyện của ông
thật gần gũi như chính cuộc đời họ. Miêu tả và phản ánh thiên nhiên và sinh hoạt con
người Nam Bộ bằng những lời kể bình dị, tự nhiên... vì vậy mà giọng điệu văn chương giản dị, mộc mạc của Sơn Nam được độc giả tiếp nhận thật nhiệt tình.
Sơn Nam thường sử dụng giọng điệu mộc mạc và trữ tình để kể chuyện. Trong truyện ngắn Đồng thanh tương ứng, Sơn Nam mô tả những người dân Tà Lốc bị lừa phải đi kéo chiếc thuyền bị hỏng của quan Tây về chợ Cần Thơ, họ vừa giận dữ vừa bực bội “Nhứt là chuyến đi bộ trở về. Họ ca hát lai rai. Ai đủ sức thì cứ đi cho nhanh,
về nhà cho vợ con mừng. Ai yếu đuối thì ngủ bờ ngủ bụi” [15a; 111]. Bằng giọng
chân tình, người đọc nhận ra cuộc sống của những người đi mở đất vô cùng vất vả.
122
Giọng văn của tác giả như dàn trải ra những gì vốn có cuộc sống, nó vừa gần gũi, vừa
thân thương. Trong truyện Người mù giăng câu, lời kể hết sức chân phương “Cá ăn câu về đêm. Muốn giăng câu phải thức trót canh gà, thức bốn năm tháng ròng rã, hao
phí bao nhiêu sức lực! Ngày thì đi gặt lúa mướn, thời giờ đâu để ngủ bồi dưỡng lại”
[16a; 98].
Ở ngôn ngữ nhân vật, giọng văn Sơn Nam hoàn toàn phù hợp với logic nội tại, nhân vật của ông là những người chân quê, lớn lên ở vùng sông nước, nên ngôn ngữ
cũng sử dụng chất liệu từ cuộc sống. Nhiều truyện, tác giả đưa lời nói thường ngày
vào tác phẩm làm cho quá trình tiếp nhận tác phẩm như được rút ngắn lại, ngôn ngữ địa phương được đưa vào truyện như văn nói đời thường trong cuộc sống “ông Bang
cứ nhắm mắt, nghĩ mình chun vào cái bụng vô tận, đen ngòm. Bàng ngã xuống,
thuyền lấn tới. Ông Bang la hoảng: - Bàng ở đâu ?/ Tư Én thích chí:/ - Ở đây chứ ở
đâu! (...). Đột nhiên ông Bang Lình kêu rú:/ - Muỗi cắn ! Trời ơi, muỗi ở đâu nhiều
vậy?” [16a; 148]. Mỗi tác phẩm của Sơn Nam, dù ngắn hay dài, đều được tác giả kể
với độc giả bằng một giọng điệu dân dã, mộc mạc đến mức như là tác giả bê nguyên
si những lời nói chuyện của con người ngoài đời thật vào tác phẩm, nó như “Cái điệu,
cái giọng của người trong dân dã đang kể cho nhau những chuyện đường đời” (Lại
Nguyên Ân). Có lẽ vì thế mà mỗi câu chuyện của Sơn Nam là những bức tranh sống
động về cuộc sống. Trong Ngôi nhà mặt tiền, nhân vật được đặt trong tình huống giao
thời, mâu thuẫn giữa những quan niệm sống khác nhau, sự đan xen lời ăn tiếng nói
của thành phố và nông thôn. Hoàn cảnh sống làm thay đổi tính cách nhân vật nhưng
giọng điệu truyện cũng không thay đổi “... Vợ Thiện rầy rà từng chập:/ - Chưa chịu
vô hay sao, cái thằng Bé. Tắm không biết bao lâu rồi, đau ốm cỡ này khó lắm, ai hơn
sức đâu mà lo thuốc men/ (...). Để vợ được vui, anh nói / Thì bắt nó vô, lau mình cho
nó, còn như nó ham thích, để nó tự do thêm giây lát” [7a; 174].
Giọng điệu dân dã, mộc mạc của Sơn Nam đã đưa đến những phản hồi trái
ngược ở người đọc, người quan niệm văn chương phải tinh tế, trang trọng thì khó tiếp nhận, nhưng độc giả địa phương hay người đọc yêu thích sắc thái Nam Bộ sẽ cảm thấy yêu mến và gần gũi cuộc sống, nhân vật mà tác giả tạo nên, sẽ cảm thấy văn chương với cuộc sống gắn liền với nhau hơn. Do đó, nhà văn miệt vườn được yêu mến vì cái hay và cái lạ trên phương diện giọng điệu rất riêng của ông.
4.2.2. Giọng điệu trữ tình, sâu lắng Một đặc điểm khác của giọng điệu Sơn Nam, đó là giọng trữ tình, sâu lắng.
Đây cũng là một giọng điệu chủ đạo trong sáng tác Sơn Nam, nó hòa quyện với giọng
123
điệu mộc mạc dân dã tạo nên sự đặc biệt trong biểu cảm văn chương của nhà văn.
Mỗi tác phẩm đều gói ghém rất nhiều tâm tư, tình cảm của tác giả. Mỗi bức tranh thiên nhiên, mỗi mảnh đời con người đều được tác giả nâng niu... ông khóc cười cùng
nhân vật trên mỗi trang văn. Mỗi sự đổi thay theo mặt tốt lên hay xấu đi của vùng đất
Nam Bộ đều được Sơn Nam dõi theo với tâm hồn nhạy cảm, trái tim giàu yêu thương.
Giọng điệu trong tác phẩm của ông lúc trầm, buồn, day dứt; lúc ưu ái, cảm thông… nhưng dù ở tâm trạng nào tình cảm cũng chân thành và sâu lắng. Nỗi niềm lớn nhất
của nhà văn chính là sự đau lòng vì đất nước, vì không làm gì được cho quê hương
nên thường mang tâm trạng chua xót với cảm giác bất lực. Nhân vật Tư Thông trong Hòn Cổ Tron lúc nào cũng cảm thấy u hoài, day dứt “Một mối buồn len vào tâm não
ông Từ Thông (...). Lương tri như rực sáng nhắc nhở ông món nợ gì đối với đồng bào,
giang sơn” [15a; 231 – 232]. Giọng buồn rầu, căm phẫn của Tư Lịch khi kể lại chuyện
người đồng chí của mình bị chính đồng bào mình đánh đập, bị Tây “đóng trăn” vì tội
“yêu nước”. Giọng kể như trầm lại, chua xót “dân chúng trong điền Tây xúm lại dùng
gậy, dùng hèo mà đánh đập anh Trần Ngọc Kỳ (...). Kẻ yêu nước mà bị đồng bào cáo
oan, đánh đập... mới đau thương cho chớ” [16a; 58]. Lúc bày tỏ nỗi xót xa, cay đắng
của Lục Cụ Tăng Liên khi nhận ra phần thưởng giải nhất “cuộc đua ghe ngo” là lá cờ
Tam Sắc “Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục,
xót xa” [14a; 209]. Khi biểu lộ thái độ tức giận của chú Tư Đức khi kiểm lâm Rốp tỏ
vẻ xem thường, khinh miệt người dân Việt trong Sông Gành Hào…
Giọng điệu thay đổi tùy từng câu chuyện, từng đề tài mà tác giả thể hiện. Sơn
Nam đưa người đọc vào thế giới tình cảm, thế giới tâm linh của từng nhân vật một
cách tự nhiên. Câu trả lời của ông già với Giáo Chích khi phải hái mận biếu quan hai
Phẹt-Năng ẩn chứa bao cay đắng vì thân phận của người dân bị lệ thuộc “Để mà làm
gì, nó rụng xuống mương cũng uổng (...). Trái cây mà ! Hiếm hiệm. Miễn gốc còn thì
trái còn” [15a; 178]. Có lúc giọng văn trở nên đau đớn, tủi nhục khi chứng kiến hành
động của kẻ xâm lược đối với những tên tay sai “Quan Hai Phẹt-Năng gật đầu rồi đưa tay vỗ nhẹ lên đầu giáo Chích như người cha khen đứa con có hiếu” [15a; 185]. Bên cạnh truyện ngắn, tiểu thuyết của Sơn Nam chiếm số lượng khiêm tốn, nội dung được đánh giá là không sắc sảo và tinh tế như truyện ngắn. Tuy nhiên, giọng điệu văn chương vẫn không thay đổi. Nhân vật Lão Khăn Đen trong Xóm Bàu Láng khi gặp thằng Mến – thằng bé mà lão cưu mang và giúp đỡ trở nên bê tha, sống một cuộc sống
tăm tối ở Xóm Bàu Láng, giọng lão trở nên thất vọng ẩn chứa sự ân hận không nguôi
“Cũng tại cái trấp có câu tử vi “Rồng nằm trước cửa”. Ông nội nó, cha nó rồi tới phiên
124
nó bị hại… vì câu đó” [10a; 395]. Không chỉ thế, Sơn Nam còn đưa người đọc vào
thế giới của loài vật. Miền Nam có nhiều cá, tôm, ong, chim... Trong Tháng Chạp chim về, giọng văn của Sơn Nam cũng không chỉ ngậm ngùi, thương cảm mà còn cảm
kích đối với tình cảm của ông Tư và con chim già sói. Giọng văn trở nên thống thiết,
oán giận “Riêng về bầy chim mất con thì cứ bay tới bay lui trên sân, kêu la ba bốn
ngày liên tiếp rồi trở về Biển Hồ với niềm oán hận” [16a; 203]. Năm nào cũng như năm nào con chim sói già cũng bay về vùng Rạch Giá – Hà Tiên mà trông ngóng
đồng loại bị chết một cách bi thảm ở sân chim này. Ông Tư mang mối cảm hoài khi
nhìn thấy nó “Trong con tim già, qua thời gian, giờ đây chắc chắn đã lắng” [13a; 203]. Thời gian trôi qua, ông và con chim kia dường như có một sợi dây tình cảm vô
hình trói buộc. Tình cảm của ông đối với con chim kia như là mối tình tri âm giữa
người – chim, giọng văn trở nên ngậm ngùi, tiếc nuối.
Giọng điệu dân dã mộc mạc và trữ tình sâu lắng cảm hoài trong sáng tác Sơn
Nam cùng với lối kể chuyện, cách dùng từ, cách biểu hiện sắc thái tình cảm… xuất
hiện nhiều trong những truyện ngắn Mây trời và rong biển, Ngó lên Sở Thượng,
Chuyện rừng tràm… những truyện vừa Vạch một chân trời, Chim quyên xuống đất…
những truyện ký Theo chân người tình, Một mảnh tình riêng… đã trở thành chính âm
của giọng điệu tạo cho văn chương Sơn Nam vừa nôm na, chân thực vừa tình cảm
trong diễn đạt nên giọng điệu có nhiều nét khác với những tác giả cùng thời.
4.2.3. Giọng điệu hóm hỉnh, hài hước Văn học thường gắn bó với đời sống hàng ngày, đời sống hiện thực luôn ẩn
chứa tầng tầng lớp lớp những dòng chảy phức tạp, những quan hệ đa chiều mà nhà
văn Nguyễn Khải từng nói “đầy rẫy những biến động, những bất ngờ”. Với cái nhìn
năng động của nhà văn, hiện thực hiện lên không phải là cái biết trước mà còn là cái
chưa biết, cái khó biết, khó đoán biết, một hiện thực “chưa hoàn thành”. Đọc Sơn
Nam, người đọc nhận thấy bên cạnh giọng điệu mộc mạc trữ tình kèm những chi tiết
12 Bác Ba Phi là một nhân vật trong văn học dân gian. Ông là nhân vật chính trong những câu chuyện kể về
125
hài hước. Chất hóm hỉnh trong tác phẩm văn xuôi của ông rất đa dạng. Người dân Nam Bộ sống tình cảm, cởi mở, phóng khoáng nên cách nói của họ giàu sắc thái biểu cảm và đậm chất hài hước. Nếu so sánh lối hài hước của Bắc Bộ thâm thuý sâu cay thì giọng điệu hóm hỉnh miền Nam nhẹ nhàng hơn, không phải mỉa mai, châm biếm mà là có chút tinh nghịch, dí dỏm. Văn Sơn Nam cũng vậy, chất hài hước trong tác phẩm của ông vừa dí dỏm thông minh vừa thể hiện được chất phóng khoáng của người Nam Bộ luôn vui vẻ, lạc quan hóm hỉnh mang đậm chất hài hước của Bác Ba Phi12.
Tuy nhiên, sau cái cười hài hước là những vấn đề nghiêm túc trong cuộc sống. Nhà văn mượn chất hài để chế diễu bản thân mình và chế diễu thói xấu của người
khác hoặc để nói đến những vấn đề, tình huống nực cười của cuộc sống với cái nhìn
thâm thúy và tinh tế. Trong truyện Bà vợ thứ mười, ông Hai Tước vì muốn giúp thằng
Nậu lấy lại giấy nợ mà bà cai Tổng đã lừa nó để lấy mảnh đất hương hỏa nhà nó, ông đã giả vờ tàng hình rồi hiện hình, rồi chân thành và… hóm hỉnh ông nói “Bà cai tổng
là con vợ bé… thứ mười của tao. (…). Mày cũng đừng dạy phép tàng hình cho bất cứ
người nào khác. Để tao làm ăn… lúc về già” [14a; 69]. Có nhiều truyện nhà văn lấy những tình huống buồn cười trong cuộc sống để làm chất liệu cho tác phẩm như Cao
khỉ U Minh, Hai Khị tự nhận mình là thợ săn khỉ và quảng cáo bán cao khỉ nhưng
“Tới đời Hai Khị thì khỉ đã hết, thợ săn khỉ trở thành thợ... nói chuyện đời xưa giữa
ban ngày” [14a; 169]. Những từ hoặc nhóm từ đặt ngay sau những dấu chấm lửng
được tác giả sử dụng có dụng ý rõ rệt tạo nên tính hài hước. Giọng điệu này giúp cho
người đọc nhận thấy được sự thú vị trong văn xuôi nhà văn vùng đất mới. Đặc biệt
thấy rõ trong Hồi ký của nhà văn, trong một đoạn văn trong Ở Chiến khu 9, tác giả kể
lại câu chuyện về những người bạn đồng chí hướng với mình với giọng điệu thật hóm
hỉnh “Dương Tử Giang (...) Bị bắt giam ở Biên Hòa chung với Lý Văn Sâm, cả hai
vượt ngục, anh bị giết, Lý Văn Sâm thoát được nhờ… Trời cứu” [13a; 233 – 234].
Những vấn đề “trái tai gai mắt” trong cuộc sống được tác giả dùng giọng điệu
hài hước để phê phán một cách nhẹ nhàng nhưng thâm thúy. Trong Hình bóng cũ –
một tác phẩm được nhiều nhà nghiên cứu cho là một tác phẩm hiện thực phê phán của
xã hội bấy giờ. Tác giả kể lại chuyện vợ chồng Henri Nhan là kẻ cơ hội, đã dùng một
tay bồi bút – thi sĩ Hoài Hương phục vụ cho mình trước và sau khi chế độ điền địa
thay đổi. Trước thì viết sai sự thật về tiểu sử lão Henri Nhan, sau thì dùng ngòi bút
cuộc sống sinh hoạt thường ngày nhưng được cường điệu quá đáng (như rắn tát cá, chọi đá làm máy bay rơi, leo cây ớt té gãy chân...) và được trình bày một cách tự nhiên khiến người nghe hoàn toàn bất ngờ và bật cười. Ông là nhân vật cận đại nhất trong lịch sử kho tàng truyện trạng (nói dóc) của văn học Việt Nam. Nhân vật nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn có khiếu kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích. Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp, là con trai trưởng trong gia đình có năm anh em nên nếu gọi đúng phải là Hai Phi. Vì loạn lạc nên cả gia đình phải bỏ xứ đi và cuối cùng dừng chân, lập nghiệp ở tận vùng đất giáp biển Cà Mau. Năm đó Hai Phi chỉ mới được 10 tuổi. Vì gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành một lao động chính trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca, và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể truyện lôi cuốn người nghe của ông.
126
viết ca ngợi đoàn Thi Ca Vũ Kịch “Hương sắc 65” dù thực tế không phải vậy. Trong
đoạn cuối truyện, nhân vật “Tôi” đã bình luận một cách chua chát nhưng khôi hài “Chắc chắn bà Henri đang nở nụ cười hồn nhiên đầy vẻ yêu đời với đôi má lúm đồng
tiền (...). Họ đã thiện chí giúp tôi về sinh kế, tại sao tôi chưa chịu cảm thông!” [12a ;
379]. Chất hài hước, hóm hỉnh trong tác phẩm nhờ sự thông minh và kiến thức phong
phú của nhà văn. Khi tác giả kể chuyện với giọng văn thong thả, thỉnh thoảng nhà văn có những câu nhận xét châm biếm nhẹ nhàng chêm vào làm người đọc bật cười “nhưng
là bổn phận, ngày vui của đông đảo đồng bào, chắc hẳn linh hồn ông Nguyễn Trung
Trực cũng hả hê” [13a; 174].
Trong Ăn to xài lớn, Bà đầm Phô – Xi – Đông, Ngôi nhà mặt tiền, truyện ngắn
của truyện ngắn, Xóm Bàu Láng, Bà Chúa Hòn... đều có những chi tiết hóm hỉnh
bằng một giọng kể chân tình dân dã. Khi chìm đắm trong thế giới khô khan của tác
giả, một trong những điều làm cho độc giả mỉm cười thư giãn chính là sự dẫn dắt của
một giọng điệu kể chuyện vừa nôm na, dân dã vừa hài hước, hóm hỉnh sinh động.
Nếu sự trào lộng, giễu đời giễu người tạo nên cái duyên thầm quyến rũ thì nét đằm
thắm mộc mạc và thế giới nghệ thuật của nhà văn trở nên gần gũi với người đọc. Sơn
Nam đã tạo nên một nét độc đáo của riêng ông.
4.2.4. Giọng điệu triết lý, suy ngẫm sâu xa Giọng điệu triết lý suy ngẫm xuất phát từ quan niệm về sự phức tạp, bộn bề
của cuộc sống. Để nhận chân được những giá trị đời sống buộc mỗi cá nhân nhà văn
phải tìm tòi, suy nghĩ thông qua sự quan sát và chiêm nghiệm. Giọng điệu suy tư,
chiêm nghiệm thường đặt nhân vật trong những tình huống tâm lý để con người tự ý
thức qua những trải nghiệm mà tự rút ra bài học, nhận ra chân giá trị của cuộc đời.
Nhà lý luận văn học Nguyễn Q. Thắng có một nhận xét sâu sắc về Sơn Nam
“có người cho rằng Sơn Nam có một cái gì hời hợt về triết học và triết lý. (...). Những
khi Sơn Nam bàn về nhân sinh, nói về hư vô, người ta chỉ có cảm tưởng gặp một nhà
thơ quá chén, chếnh choáng” [17; 1217]. Tuy nhiên, giọng điệu suy nghiệm, triết lý thông qua mỗi câu chuyện thì “tỏ ra là một người hóm hỉnh sắc bén” [17; 1217]. “Nhà văn miệt vườn” nhìn nhận, đánh giá về số phận con người và cuộc sống cũng như sự xung đột nội tâm, những bi kịch nhân sinh của nhân vật mà nhà văn muốn biểu hiện thì thấm đẫm tính triết lý. Trong sáng tác Sơn Nam, mỗi khi sử dụng giọng điệu triết lý ông cũng dùng giọng điệu dân dã mộc mạc, chân tình sâu lắng để diễn
đạt, do vậy, những ý tưởng sâu xa, cao đạo cũng trở nên gần gũi với người đọc bình
dân. Những biểu hiện dằn vặt, xung đột tâm lý nhân vật không nhiều, nhưng những
127
suy nghiệm triết lý có điều kiện thể hiện trong tác phẩm không những không hời hợt,
cạn cợt mà rất sâu sắc và tinh tế. Trong Hình bóng cũ, nhân vật Tư Hiếm vì thua cờ bạc, túng tiền bị mua chuộc phải làm người “lên xác” phục vụ cho ý đồ đen tối của
Henri Nhan, nên cả đời bị dằn vặt, đau khổ, lúc nào cũng chờ bị trả giá, giọng văn trở
nên day dứt trầm tư “Nếu gặp mặt anh xác nọ, thầy xử trí ra sao?/- Dạ, làm sao gặp
được! với lại tôi đâu phải là người tá điền bị chủ Nhan giựt đất./- Xin lỗi thầy, tôi thí dụ như vậy kìa” [12a; 333]. Nhân vật Hai Tích (Một cuộc bể dâu) khi giúp đỡ thằng
Kìm chôn cất người cha – người đàn ông bị chết trên đường khi hai cha con trên chiếc
thuyền bập bềnh sông nước. Trước sự đau đớn, lo âu của thằng Kìm, ông đã dùng những từ ngữ, lời lẽ đẫm triết lý duyên phận của nhà Phật để an ủi “- Cháu đừng
khóc. Trời định vậy. Ở đây ai cũng vậy; người có của, ai tới xứ này? Trách cha, trách
mẹ, trách trời là thêm tội” [16a ; 17]. Giọng điệu triết lý, suy ngẫm có khi là sự trải
nghiệm của con người về kinh nghiệm sống, nhân vật cô Hai trong Qua hiệu sách
không hài lòng về vị khách chuyên “coi cọp”, cuối cùng cũng nhận thức được rằng
mỗi sự việc xảy ra trong cuộc đời không chỉ như nó hiện hữu mà nó còn mang một ý
nghĩa triết lý nào đó “Hiệu bán sách có thể là nơi ẩn náu cuối cùng cùng của nhân
nghĩa, của tình người” [12a; 224].
Giọng điệu triết lý, tâm tình hoài niệm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc là giọng điệu
quen thuộc trong sáng tác Sơn Nam. Chất triết lý có khi được đúc kết lại một cách cô
đọng ở phần kết truyện, có khi được thể hiện trong lời nói nhân vật hay ngôn ngữ kể
chuyện như trong Bốn cái ngu, Cây huê xà, Ngôi nhà mặt tiền, Bà chúa Hòn... Mỗi
câu chuyện đều mang một ý nghĩa nhân sinh, bài học triết lý nào đó mà nhà văn muốn
gửi gắm. Giọng điệu đa dạng của nhà văn chứng tỏ rằng Sơn Nam có một vốn sống
và kiến thức phong phú, có khả năng di chuyển điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Sơn
Nam có thể sử dụng nhiều giọng điệu trong một tác phẩm theo ý đồ nghệ thuật nhưng
giọng điệu chủ yếu trong toàn bộ hệ thống tác phẩm của Sơn Nam chính là giọng điệu
dân dã và trữ tình sâu lắng.
Mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng, từ đó hình thành phong cách trần thuật độc đáo của mình. Ngay từ Hương rừng Cà Mau cho đến những tác phẩm sau ngày đất nước thống nhất, nhà văn đều sử dụng giọng điệu một cách nhất quán. Từ giọng điệu đơn thanh sang giọng điệu đa thanh, văn xuôi Sơn Nam đã phản ánh cuộc sống phù hợp với qui luật của thời đại và có thể đi sâu vào những ngóc ngách tâm tư của
cuộc sống và con người ở Nam Bộ, nhìn nhận vấn đề một cách tổng hòa ở nhiều bình
diện của cuộc sống phức tạp, muôn màu muôn vẻ, những bi – hài, thiện – ác… đang
128
diễn ra hàng ngày. Giọng điệu đan xen nhau đã tạo nên sự đa dạng và phong phú
trong sáng tác văn học nhà văn. Như vậy, giọng chủ âm của Sơn Nam là giọng điệu dân dã mộc mạc và trữ tình đằm thắm kết hợp với giọng điệu hài hước với triết lý suy
tưởng tạo cho chất văn của Sơn Nam đặc sắc và có nhiều hương vị. Giọng điệu cũng
là một yếu tố hình thành phong cách của Sơn Nam.
4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Sơn Nam Tìm hiểu ngôn ngữ trong một tác phẩm văn học của là công việc không dễ
dàng. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn, mỗi vùng miền có vị trí địa lý đặc trưng không
thể không đề cập đến ngôn ngữ. Tài năng văn học thể hiện rõ ở cách viết, ở khả năng khám phá, khai thác những khía cạnh tiềm ẩn, tinh tế của ngôn ngữ. Tiếp cận với tác
phẩm văn học của Sơn Nam, tức là người đọc tiếp xúc với ngôn ngữ, qua ngôn ngữ
tiếp cận với tư tưởng, tình cảm của tác giả trong bức tranh cuộc sống con người Nam
Bộ trong tác phẩm.
Mỗi loại hình nghệ thuật có một phương tiện diễn đạt riêng biệt như màu sắc,
đường nét là phương tiện biểu đạt của hội họa; hình, khối… là của điêu khắc; âm
thanh, tiết tấu… của âm nhạc. Còn phương tiện diễn đạt của văn học chính là ngôn
ngữ. Do vậy, văn học còn được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Trong giáo trình
ngôn ngữ học đại cương, Ferdinand de Saussure định nghĩa “Ngôn ngữ là một hệ
thống ký hiệu tạo thành một kho tàng lưu trữ trong tư duy của một cộng đồng người”
[dẫn theo 61; 170]. Cùng với quan niệm đó, Từ điển thuật ngữ văn học giải thích khái
niệm ngôn ngữ theo hai cấp độ. Ở nghĩa chung, khái quát thì ngôn ngữ là “hệ thống
ký hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt thông báo”. Còn ở nghĩa riêng, cụ thể thì
ngôn ngữ là “hệ thống ngữ âm, những từ, những quy tắc kết hợp chung mà những
người cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau” [61; 666].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu khá thống nhất về các khái niệm ngôn ngữ. Trong
loại hình văn học, ngôn ngữ là phương tiện làm nên tác phẩm văn học. Trong một tác
phẩm văn học, ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên cũng là yếu tố cuối cùng thể hiện cá tính sáng tạo, tài năng cũng như phong cách nhà văn. Tìm hiểu phong cách tác giả, cần nghiên cứu ngôn từ của nhà văn đó sử dụng, theo M.B. Krapchenko thì ngôn từ “không phải chỉ như là những cơ sở đầu tiên của tác phẩm văn học mà là những hiện tượng phong cách” [97; 191]. Với tư cách là một hiện tượng của phong cách, ngôn ngữ thực hiện một chức năng phức tạp là tạo ra hệ thống giọng điệu của tác phẩm văn
học. Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò rất lớn trong cá tính sáng tạo. Khi nghiên
cứu phong cách nghệ thuật tác giả không thể không nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật,
129
điều này góp phần khẳng định tính cách độc đáo, riêng biệt của nhà văn đó.
Hiện nay, xung quanh vấn đề từ tiếng Việt tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, như đã xác định, ở luận án này chúng tôi không đi vào những vấn đề có
tính lý luận về ngôn ngữ mà chỉ muốn qua tác phẩm của ông làm rõ một số vấn đề từ
ngữ và âm điệu ngôn ngữ người bình dân Nam Bộ. Sơn Nam đến với nghề văn bằng
tài năng bẩm sinh, lòng yêu thích văn chương cùng với tinh thần tìm tòi, khổ luyện. Ông đi nhiều, đọc nhiều. Tất cả vốn sống được ông diễn tả bằng giọng điệu, ngôn ngữ
mang đậm màu sắc Nam Bộ. Khác với ngôn ngữ mộc mạc, chân chất nhưng cũ kỹ
của Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh; ngôn ngữ tinh tế mượt mà và mang tính toàn dân của các nhà văn cùng thời như Mai Thảo, Lê Xuyên, Tạ Tỵ, Trùng Dương, Duyên
Anh, Chu Tử…, ngôn ngữ trong văn xuôi Sơn Nam là ngôn ngữ của một vùng miền,
thiên về ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ gắn với khẩu ngữ cũng là nét
gần gũi với cách hành văn của Bình Nguyên Lộc khi sáng tác hướng đến đại chúng.
Nó chân chất, trong sáng, ngọt ngào nhưng vô cùng giản dị đồng thời diễn tả được sự
phóng khoáng, ngang tàng của người Nam Bộ. Không nặng sự trau chuốt, mượt mà
nhưng có chọn lựa, tinh lọc. Cái khác biệt của Sơn Nam là ở số lượng, ở độ phổ biến,
sự đi lặp lại với tần suất cao của chúng. Chúng không chỉ xuất hiện trong hoạt động
nói năng nhân vật mà còn với cả trong ngôn ngữ tường thuật, ngôn ngữ người kể
chuyện. Vì thế, bao trùm trong tác phẩm là ngôn ngữ và giọng điệu Nam Bộ.
Sự xuất hiện dày đặc các từ ngữ địa phương trong tác phẩm khiến nhiều ý kiến
cho rằng chúng xa lạ, khó thích ứng với một số độc giả vốn quen với khẩu vị văn
chương của các vùng miền khác trên đất nước. Tuy nhiên, đây chính là dụng ý có
định hướng của Sơn Nam, nhà văn quan niệm để có được những tác phẩm sinh động
về một vùng đất, không gì bằng là dùng ngay chất liệu ngôn từ của chính địa phương
đó phản ánh. Chính vì điều này, giọng điệu Sơn Nam đã là một hiện tượng độc nhất
trong trong dòng văn học miền Nam bấy giờ và nó có ảnh hưởng đến các nhà văn sau
này ở Nam Bộ, đặc biệt gần đây nhất là giọng văn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Có thể nói rằng định hướng này Sơn Nam đã tạo nên cho bản thân một phong cách nghệ thuật độc đáo riêng biệt trong dòng văn học miền Nam cũng như nền văn học nước nhà.
4.3.1. Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày mộc mạc, dung dị đời thường Ngôn ngữ của đời sống sinh hoạt hàng ngày trong sáng tác Sơn Nam vô cùng
phong phú, đa dạng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Khi trở thành nhà biên khảo, nhà
văn, ông sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày đưa vào tác phẩm mà có lẽ không có
130
ngôn ngữ văn chương bác học nào có thể thay thế được. Nó ít có sự trau chuốt về câu
chữ, lời văn thường “trơn tuột” như lời nói hàng ngày. Nhưng chính sự “trơn tuột” đó tạo nên vẻ đẹp độc đáo của văn chương Sơn Nam. Người ta thấy được những bức
tranh thiên nhiên hay sinh hoạt của quê hương và con người Nam Bộ bằng những
ngôn từ rất sống, rất thực… Ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày theo ngòi bút Sơn
Nam đi vào từng tác phẩm. Sơn Nam viết văn giản dị như nói chuyện “Lời nói trong văn chương cũng như giữa cuộc đời đều toát lên sự hiền hòa chân thật” [91; 32]
Đầu tiên là từ ngữ xưng hô, gọi tên nhân vật mang đậm phong cách Nam Bộ.
Người dân Nam Bộ thường xưng hô theo thứ tự trong gia đình. Cũng như các nhà văn Nam Bộ khác, Sơn Nam luôn đặt tên nhân vật của mình bằng những tên thân thuộc,
gần gũi như lão Tư Hiếm, ông Hai Muôn, ông Mười Hấu, cô Hai Thêm, anh Hai
Nhiệm, cậu Hai Điền… nhưng cái tên đi kèm với biệt danh, bí danh gắn với quê
hương xứ sở dễ nhớ, dễ phân biệt như Ba Hò, Tư Cờ Đỏ, Tư Bình Thủy, Tư Châu
Xương… Ngoài ra, Sơn Nam gọi những tên thân mật hàng ngày như thằng Lợi, con
Bảy, thằng Nhi, thằng Kìm… Đôi khi người đọc còn nhận ra thái độ của tác giả đối
với nhân vật khi gọi họ là mụ, con mẻ…
Trong nhiều tác phẩm, người ta dễ dàng nhận ra nhưng câu chuyện, cảnh sinh
hoạt xảy ra hàng ngày như đoạn văn trong Mùa “len” trâu , “Thím Tư như phản đối
chồng:/ - Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hủ trôi
lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết./ (…). Trâu đói nữa,
con mắt đổ ghèn hoài (…)/ - Mà hết cỏ rồi …” [16a; 38 - 39]. Thông qua những cuộc
đối thoại trong từng câu chuyện, người đọc có thể nhận thấy tính cách nhân vật trong
mỗi tình huống. Họ chính là những người miền Nam trung hậu thật thà hay những
con người có tính độc ác, xấu xa… Có thể nhìn thấy được những niềm vui, nỗi buồn
của họ trong cuộc sống của họ. Trong Bốn cái ngu “Mấy người hàng xóm la hoảng
lên:/ -… Nuôi heo bầy mà nó chạy cùng đường cùng sá. Sao không nhốt lại. Thiệt hết
nói. Tanh rình tanh ói, (…)./ - Chắc tại vợ tôi quên… Vợ tôi nó dại dột thì tôi chịu tội…” [14a; 157]. Chúng ta nhận thấy tính tình hồn nhiên, nghĩ sao nói vậy, không cầu kỳ, hoa mỹ, lời ăn tiếng nói bộc trực, thẳng thắn, không vòng vo… của nhân vật Tư Hưng và từ đó có thể nhận ra hoàn cảnh sống, sinh hoạt của người miền Nam trong lao động hàng ngày.
Trong hệ thống từ ngữ của Sơn Nam, đôi lúc tác giả có sử dụng những từ ngữ
lạ nhưng không gây trở ngại với người đọc vì Sơn Nam luôn đặt nó trong bối cảnh mà
người đọc có thể liên tưởng, suy luận nội dung của vấn đề. Do đó người đọc khắp
131
vùng miền cả nước đều có cảm nhận được cái hay và hấp dẫn trong từng tác phẩm
của ông. Cũng từ đó phát hiện được tính giản dị, chân chất và trong sáng của ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày của người dân Nam Bộ
4.3.2. Phương ngữ Nam Bộ Phương ngữ hay cách gọi khác là tiếng địa phương. Phương ngữ là một chuỗi
các nét biến dạng từ một ngôn ngữ toàn dân được hình thành do những tác động địa lý, xã hội. Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của người Nam Bộ, là biến thể địa lý của
ngôn ngữ toàn dân. Lịch sử phát triển vùng đất phương Nam gắn liền với các cuộc
chiến tranh liên tục, quyết liệt và dai dẳng dẫn đến sự chia cắt địa lý giữa các vùng miền. Điều này dẫn đến tâm lý vốn có của người Việt trước đây là ngại tiếp xúc và giao
tiếp với những vùng miền khác. Đây cũng là nguyên nhân đưa tới sự hình thành
phương ngữ Nam Bộ, đồng thời làm cho tiếng Việt phải phát triển theo những mô hình
xã hội ở những vùng, miền này.
Mỗi nhà văn tùy theo sở thích và khả năng của mình để chọn hệ thống ngôn ngữ
cho phù hợp. Nếu các nhà văn cùng thời chọn cho mình hệ thống ngôn ngữ mượt mà,
tinh tế thì cùng với Bình Nguyên Lộc, nhà văn Sơn Nam xuất phát từ cảm hứng nhân
văn đời thường, luôn có ý thức học tập lời ăn, tiếng nói của người lao động, vận dụng
sáng tạo, ghi dấu ấn riêng biệt, đặc sắc trong quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật.
Viết về đề tài Nam Bộ, hiển nhiên Sơn Nam huy động vốn sống, vốn hiểu biết về tiếng
nói địa phương từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp để xây dựng tác phẩm. Đây là nhân tố
quy định ngoài tính khách quan và cũng là con đường mà tác giả đã chọn. Để làm rõ
ngôn ngữ nhà văn Sơn Nam sử dụng, qua hệ thống tác phẩm của ông chúng tôi nhận
thấy từ ngữ Sơn Nam có những đặc điểm cần chú ý:
4.3.2.1. Đặc điểm ngữ âm
Trong tác phẩm Sơn Nam, hiện tượng biến thể ngữ âm xuất hiện dày đặc. Biến
thể ngữ âm thể hiện rõ nhất nét ngôn ngữ đặc trưng của người Nam Bộ. Đó là lớp từ có
cách phát âm lệch chuẩn với ngôn ngữ toàn dân nhưng nó không ảnh hưởng đến ngữ nghĩa cần truyền đạt. Những biến thể phát âm này tạo nên lối phát âm riêng biệt của các phương ngữ, nhà văn khai thác các biến thể bằng cách ghi lại đúng cách phát âm. Xét về bình diện ngữ âm, có biến âm trong một từ như phụ âm đầu, phần vần và thanh điệu. Hiện tượng biến âm trong tác phẩm Sơn Nam sinh động, phong phú cùng với một văn phong giản dị, mộc mạc nhưng độc đáo nên gần gũi với con người Nam Bộ.
+ Hiện tượng biến đổi phụ âm đầu
Biến đổi phụ âm đầu được hình thành bằng cách biến đổi phụ âm đầu của từ
132
toàn dân thành phụ âm khác. Do thói quen phát âm đặc trưng của vùng, miền hoặc do ý
đồ nghệ thuật của nhà văn trong quá trình miêu tả hoặc khắc họa nhân vật mà hình thành sự biến âm của ngôn ngữ. Qua khảo sát các sáng tác của Sơn Nam, chúng ta nhận
thấy có nhiều dạng biến âm từ âm này sang âm khác như: tr -> ch (chỉ trỏ -> chỉ chỏ, s
-> th (sẹo -> thẹo), nh -> l (nhanh nhẹn -> lanh lẹn), k -> kh (đỏ ké -> đỏ khé), tr -> l
(trốn tránh -> trốn lánh), đ -> t (đằng hắng -> tằng hắng), gi -> l (xiêu giạt -> xiêu lạc), gi -> r (xóm giềng -> xóm riềng), qu -> d (quay -> day), qu -> kh (quát nạt -> khoát
nạt), th -> x (thuổng -> xuổng), th -> l (thủng -> lủng), b -> ng (giả bộ -> giả ngộ)…
Thí dụ: “- Quang cảnh hai bên rộn rịp khác thường, trẻ con đứng lố nhố, chỉ chỏ…” [16a; 210]; “- Nếu trễ nải, tao chết trên giường nầy (…) uổng công trình trốn lánh của
tao, từ chục năm nay” [16a; 76]; “- Cọp bước cà nhắc (…) như ông tướng trong tuồng
hát bội mắc áo giáp lủng lỗ” [12a; 75]; “- Nó bưng hai dĩa cơm nghi ngút. Đi tới lui”
[14a; 118)…
Theo các nhà ngôn ngữ học thì vị trí cấu âm của các biến thể đa số đều tiệm tiến
về đầu lưỡi, do vậy việc phát âm bao giờ cũng dễ dàng hơn phù hợp với cách phát âm
không gắt cũng như tính cách tự do, phóng khoáng của người Nam Bộ. Sự có mặt của
hệ thống biến thể âm đầu nhằm mục đích xây dụng không gian ngữ âm Nam Bộ cũng
như khẳng định tính thống nhất của hệ thống các biến thể phương ngữ. Điều này cũng
thể hiện sự nhất quán trong ý thức sử dụng biến thể phụ âm đầu của nhà văn Sơn Nam
trong tác phẩm.
+ Hiện tượng biến thể phần vần
Những biến thể phần vần trong sáng tác Sơn Nam chiếm số lượng khá lớn bao
gồm biến thể của âm đệm, âm chính và âm cuối. Biến thể âm chính là nhiều nhất:
* Hiện tượng biến thể âm đệm
Hiện tượng biến thể âm đệm không đáng kể so với biến thể âm chính. Trong
sáng tác của Sơn Nam hiếm khi nhận thấy các từ biến đổi âm đệm, nhưng chúng có thế
thấy một số âm: Thí dụ: các âm như: + o -> 0 (nhoáng -> nháng): “Lửa nháng ra, đổ sao, nhưng vẫn không cháy” [16a; 89]; + u -> 0 (huyên thuyên -> huyên thiên): “Lục Che nói huyên thiên…” [15a; 296]… * Hìện tượng biến thể âm chính Biến thể âm chính là hình thức biến đổi nguyên âm đơn hoặc đôi trong phần vần của từ ngữ toàn dân sang biến âm khác. Biến âm vần trong sáng tác Sơn Nam đa dạng:
+ Các nguyên âm đơn như: a -> iê, ơ, ô, e… (bảo - > biểu, đàn -> đờn, bản ->
bổn, hà -> hè…); â -> iê, ư, ơ… (thật -> thiệt, bàn chân -> bàn chưn, bất nhân -> bất
133
nhơn…); ư -> ơ… (chần chừ -> chần chờ); ê -> i (bệnh -> bịnh); i -> a, ơi… (bất chính
-> bất chánh, phú quý -> phú quới…); u -> o, âu, ươ… (vũ -> võ, chu đáo -> châu đáo…)… Thí dụ: - a -> iê: “Tao biểu điều gì mà đừng cãi” [15a; 256]; - a -> ơ: “Day
qua mấy cây đờn… cậu như hối hận” [16a; 159]; - â -> ơ: “ma (…) lòng thòng từ cánh
tay, từ bàn chưn, cái đầu rồi ráp lại” [15a; 306]; - i -> ơi: “tôi không màng thứ phú
quới đó” [14a; 88]; - u -> o: “Ông Cai… cổ võ cho ai nấy đừng sợ” [12a; 76]
+ Các nguyên âm đôi: oa -> ươ, uê, ô… (hoàn -> hườn, hòa -> huề, thoái ->
thối…); ươ -> u, a… (đường -> đàng, phượng -> phụng…); iê -> a, ơ… (duyên ->
doan, quyền -> quờn…); ia -> a… (kìa -> cà…); uô -> ươ (ghen tuông -> ghen tương…)… Thí dụ: - oa -> uê: “Người Huê Kiều nói tiếng Việt khá rành” [14a; 292]; -
ươ -> a: “Lắm khi đi lạc đàng trở về xóm cũ, họ chờ ngày khác” [14a; 227]; - iê -> ơ:
“Cô Tư Hạnh biết cầm roi đáng quờn” [14a; 27]; - ia -> a : “Sao vậy cà? Sao vậy cà?
(…) sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy?” [15a; 46]; - uô -> ươ : “Hắn ghen tương, trả
thù” [15a; 257]…
* Hiện tượng biến thể phụ âm cuối
So với hiện tượng biến âm ở âm chính thì biến âm ở phụ âm cuối không nhiều,
có những dạng như âm: nh -> n (kí ninh -> kí nin), ng -> n (bò càng -> bò càn), t -> c
(ngoắt -> ngoắc), m -> n ( rầm rộ - rần rộ), m -> p (tầm nã -> tập nã)…Thí dụ: - ng ->
n: “sau khi… trăn trối với vợ con” [15a; 112]; - t -> c: “Nghe em hỏi tức, anh trả lời
phức cho rồi” [14a; 228]; - m -> p : “Không ai tập nã mầy đâu.” [14a; 69]…
Sơn Nam sử dụng có định hướng cụ thể, sự xuất hiện dày đặc với số lượng lớn
hiện tượng biến âm trong quá trình sáng tác, tạo nên nét khu biệt, giọng điệu riêng, một
giọng “rặc” chất Nam Bộ, có giá trị biểu cảm so với ngôn ngữ toàn dân.
4.3.2.2. Đặc điểm từ vựng
Từ vựng trong phương ngữ Nam Bộ được sử dụng trong tác phẩm văn chương
Sơn Nam rất đa dạng. Trong khuôn khổ luận án, người viết chỉ đề cập đến một số lớp
từ như: Lớp từ định danh, lớp từ chỉ đặc điểm vùng đất, cuộc sống sinh hoạt…
a. Lớp từ định danh chỉ một số động thực vật ở Nam Bộ Trong tác phẩm Sơn Nam, lớp từ địa phương chỉ động thực vật xuất hiện khá phong phú. Nhà văn tái hiện thật sinh động không gian đất rừng phương Nam trong thời kỳ đầu, con người đi khai khẩn và xây dựng cuộc sống mới. Hàng loạt từ ngữ chỉ động vật được miêu tả trong tác phẩm Sơn Nam, giới thiệu cho người đọc có thể thấy
không gian hệ sinh thái phong phú của miền Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói
riêng: cá (cá sấu, cá linh, cá lóc, cá sặc, cá thia thia, cá hường, cá nược…); ba khía; cua
134
đinh; chim (chim chàng bè, chim già sói, chim cúm núm, chim cu cườm, chim cồng
cộc, chim chó đồng…), cọp; khỉ; xà niên (loại khỉ to lông dài), rắn (rắn mai gầm, rắn nẹp nia, rắn ri voi, rắn trun, rắn mai gầm, rắn hổ đất…), rùa….
Trong nhóm từ chỉ động vật trong tác phẩm Sơn Nam thì từ chỉ loài cá, chim,
rắn xuất hiện nhiều và đa chủng loại. Chúng là những động vật gần gũi với cuộc sống
lao động của người bình dân. Sơn Nam đã chủ ý giới thiệu sự phong phú của các loài cá. Cá sống và sinh sản các sông, ao đìa nhiều vô kể “Trong cái đìa sau trại, cá quậy
nước nghe ầm ầm. Hàng ngàn con cá to đã gom vào đó”, vào mùa khô, đìa nước cạn
“cá gom lại nổi đầu khít rịt như trái mù u” [12a; 176], cá biển, cá nước lợ theo dòng chảy của thủy triều vào sâu vào những con sông. Nhưng đến mùa nước lụt, cá lại trôi
theo nước ra xa vàm biển. Bên cạnh sự phong phú của loài cá, hàng ngàn sân chim lớn
nhỏ ở rừng U Minh được Sơn Nam mô tả vào trong tác phẩm thật sinh động “Nào là
sân Cái Nước, sân Thầy Quơn, sân Thứ Nhất (…) hàng vạn con chim bay về đây làm tổ
tạo thành một thế giới náo nhiệt” [16a; 71]. Rừng U Minh là nơi quy tụ vô vàn sân
chim, chúng sinh sôi rất nhanh trên cây, dưới đất “làm ổ trên cây thì có chim chàng bè,
chim giả sói, chim chó đồng. Làm ổ dưới đất có chim bồ nông là đáng kể” [16a; 209].
Trong Tiếp cận với đồng bằng sông Cửu Long, Sơn Nam giới thiệu một cách tự hào “từ
khi ta mở nước, chim (già sói, còn gọi là lão nông) qui tụ về ven rừng U Minh, thêm
chim thằng bè, bồ nông (…) từ phía Biển Hồ (Kampuchia) kéo về sinh sôi nảy nở”
[37b; 114 – 115]. Sự phong phú của những sân chim tạo nên vẻ đẹp tự nhiên, hoang sơ
của vùng đất Nam Bộ thời sơ khai. Đây cũng là một trong những nét đặc thù của sinh
thái của vùng cực Nam tổ quốc.
Miền Nam không chỉ có cá, có chim… những sản vật thiên nhiên hữu ích mà
còn có những động vật gây nguy hiểm, đe dọa cho cuộc sống và con người thời khẩn
hoang. Chúng là rắn, hổ, sấu.. là những loài động vật nguy hiểm, là nỗi ám ảnh thường
trực đối với người khai hoang được nhà văn miệt vườn miêu tả tỉ mỉ, xuất hiện xuyên
suốt trong các tác phẩm tạo nên một thế giới hoang sơ, trù phú của vùng đất mới. Ngoài ra còn có rắn. Rắn không phải là các loại động vật chỉ xuất hiện ở miền Nam nhưng nó xuất hiện dày đặc trong tác phẩm Sơn Nam như là một minh chứng cho một vùng đất nhiều rắn, các loại rắn được kể tên như rắn nẹp nia, rắn bông súng, rắn ri voi, rắn trun…, có loại rắn cực độc, chỉ cần cắn một cái là chết ngay như rắn mai gầm, rắn hổ đất… có loại rắn không độc mà còn có ích với con người “Loại rắn ri voi hàng hà sa
số” [14a; 295] .
Bên cạnh đó, những sinh vật gắn bó với con người đi vỡ đất trong buổi đầu khai
135
hoang là những con thú dữ như sấu và cọp. Cọp sống khắp rừng U Minh, Sấu nhung
nhúc dưới các kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long. Đây là mối đe dọa khủng khiếp của người thời khẩn hoang. Hình ảnh sinh động được nhà văn ghi lại trong Hết thời
oanh liệt “Kỳ dư, ven sông Cái Lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có
sấu” [15a; 217]. Hình ảnh “ông cọp”, “ông sấu” luôn gắn liền với đời sống cũng như
trong mọi sinh hoạt của người dân. Trong Hát bội giữa rừng, một hình ảnh rùng rợn “Cọp đang bơ vơ ngồi trên rạch, sấu thì đành ngóng mỏ, ngoài vòng” [15a; 207 – 208].
Thông qua lớp từ chỉ động vật, Sơn Nam đã giới thiệu được sự phong phú của hệ động
vật của miền Nam.
Ngoài những từ chỉ động vật là lớp từ chỉ thực vật. Miền Nam là vùng đất mới,
hệ thực vật ở đây còn hoang sơ, những loại thực vật xuất hiện trong tác phẩm Sơn Nam
thường xuyên trở đi trở lại như sen, bồn bồn, cóc kèn, ơ rô, dây choại, gừa, bình bát,
mốp, mù u, lác, bàng, lứt, năn…; các loại thực vật vùng nước ngập mặn như dừa nước,
mắm, bần, vẹt, đước, tràm… Ba loại cây mắm, đước, tràm có vai trò lấn biển, giữ và
bồi đắp cho đất rừng, có khả năng chịu được sóng gió. Chúng có giá trị kinh tế đồng
thời biểu trưng cho tính cách kiên cường của con người tiên phong “xâm rừng lấn
biển”. Nếu đước và mắm là linh hồn của rừng Sác Cà Mau thì tràm là biểu tượng cho
vẻ đẹp hoang sơ và bền bỉ của đất rừng phương Nam. Tràm là loài cây bám rễ với vùng
đất nhiễm phèn nặng. Rừng tràm thay lá, lá tràm rụng trên mặt đất, gặp mưa, lá liền
phân hủy, ngấm qua than bùn, chảy xuống kênh, rạch tạo thành một màu đỏ sậm
“không có nước đỏ, không phải là U Minh”, loại nước nhiều chất đạm, dưỡng chất,
ngọt và mát giúp cho các loài động, thực vật phát triển như loại cá đồng. Hoa tràm là
điều kiện thuận lợi để cho ong sinh sôi, đem lại nguồn lợi lớn về mật và sáp ong. Đây
là một sắc màu đặc trưng độc đáo của rừng U Minh.
Trong tác phẩm Sơn Nam, người ta còn thấy cả một danh sách từ ngữ định danh
chỉ những thực vật phong phú và đa dạng mang tính đặc trưng của miền Nam như đào
lộn hột, bưởi thanh trà, khóm, khoai môn, khoai mì, chôm chôm, mận sọc xanh, mật sọc đỏ, chuối cau, chuối hột… Qua đó, người ta nhận thấy sự ưu đãi của thiên nhiên đối với cuộc sống của con người miền Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng. Sự xuất hiện dày đặc của từ ngữ định danh trong sáng tác thể hiện sự uyên bác của nhà “Nam Bộ học” cũng là nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
b. Lớp từ chỉ đặc điểm, địa hình tự nhiên ở Nam Bộ
Địa hình miền Nam là môi trường sông nước, hệ thống kênh rạch chằng chịt quy
định nhịp sống của con người Nam Bộ từ công việc lao động hàng ngày đến sinh hoạt,
136
vui chơi qua từng con nước, mùa nước nổi, mùa mưa, mùa khô, nước lên, nước xuống.
Người lao động biết tính giờ khi nhìn con nước lên xuống, đoán biết thời tiết lúc nghe ngọn gió, nhìn kênh rạch để đoán biết thời vụ cá tôm, thóc lúa, hoa màu… Dấu ấn sông
nước nổi bật hệ thống từ chỉ đặc điểm địa hình, hiện tượng tự nhiên ở Nam Bộ trong
tác phẩm Sơn Nam được thể hiện rất rõ.
Nhóm từ phản ánh đặc điểm địa hình, sông nước ở Nam Bộ như sông, nước, kênh rạch bàu, mương, ngọn cùng, ngọn kinh, ngọn rạch, xẻo, vàm, lạch, rộc…, những
tên gọi phản ánh hiện tượng tự nhiên liên quan đến sự vận động của các kiểu gió: gió
trở ngọn, gió chướng, gió nồm… hay sự vận động của dòng nước: nước lụt, nước ngập, nước lên, nước lớn, nước ròng, nước giựt, nước nổi, nước đứng, nước dậy…; lớp từ
phản ánh địa hình như: giáp nước (chỗ gặp nhau giữa hai dòng nước), lạch (dòng nước
chảy tự nhiên), xẻo (lạch nhỏ), trấp (vùng nước có nhiều loại dây hoang, cỏ dại, bám
thành giề nổi trên mặt nước)…; lớp từ chỉ địa thế trồng trọt như: ruộng, vườn… Địa thế
sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt tạo nên những phong tục tập quán, lối
sống, tính cách… của người dân Nam Bộ, hình thành lên một nền văn hóa gọi là “văn
hóa sông nước” và một nền văn minh gọi là “văn minh miệt vườn”. Địa hình như vậy
tạo nên một nền kinh tế cũng đa dạng: trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt, thủ công nghiệp,
chủ yếu là trồng lúa nước. Đặc điểm địa hình cũng chi phối vấn đề định cư của người
dân Nam Bộ. Họ cư trú chủ yếu ở ven sông, ven rạch để thuận lợi trong việc di chuyển
bằng đường thủy: đánh bắt hải thủy sản, trao đổi hàng hóa, trồng trọt, tưới tiêu…
Không gian sông nước còn là nơi sản sinh ra những nền văn hóa Nam Bộ như
giọng hò bánh bò của con Bảy đưa đò ở rạch Cái Mau mà ai nghe cũng muốn gặp mặt
(Con Bảy đưa đò); tinh thần yêu mến hình thức nghệ thuật hát bội (Bà Chúa Hòn, Hát
bội giữa rừng…); hát huê tình – lối hát đối đáp giao duyên giữa trai với gái (Vọc nước
giỡn trăng, Ngày xưa tháng chạp…); yêu mến thơ ca dân gian (Thơ núi Tà Lơn, Tình
bậu muốn thôi…); hình thức thai đố (Câu thai đố, Ngôi mộ chôn đứng…). Ngoài ra, nó
còn được khắc họa với những phong tục, tập quán, nếp sống, ý nghĩ… nhà văn cũng đề cập đến những biến cố lịch sử quan trọng ở vùng đất mới Nam Bộ: Các cuộc khẩn hoang, mở cõi của những người di dân (Xóm Bàu Láng, Ruộng Lò Bom, Con cá chết dại…); Sự có mặt của thực dân Pháp trong đời sống người dân Nam Bộ (Con trích ré, Đồng thanh tương ứng, Chim quyên xuống đất…); những cuộc ruồng bố của thực dân Pháp trên mảnh đất miền Nam (Chuyện năm xưa, Con ngựa đất…); những con đường
củi do Pháp mở được hình thành (Sông Gành Hào, Nhứt phá sơn lâm…); những cuộc
chiến đấu với thực dân của người dân Nam Bộ (Chiến khu 9, Đảng“Cánh buồm đen”,
137
Chuyện tình của một người thường dân…), Nhật đảo chánh Pháp ở vùng U Minh
Thượng (Ăn to xài lớn)… Những biến cố lịch sử này xảy ra trên cái nền không gian sông nước được cảm nhận qua tâm hồn con người. Từ những mốc lịch sử, tác giả muốn
phản ánh chân thực bức tranh thời đại với những mảng màu sáng tối đan xen để từ đó
nêu lên được những vấn đề sâu sắc về con người và cuộc đời. Có thể nói, dòng sông,
thiên nhiên chính là chiều rộng và chiều sâu mang đặc trưng riêng của không gian miền sông nước. Qua đó, nhà văn thể hiện được cái tình, tính cách, tư tưởng, tình cảm cũng
như sức sống mãnh liệt của con người nơi đây. Rõ ràng chỉ những ai sống ở đây mới
cảm nhận được đầy đủ những nét đặc trưng của không gian sông nước.
Nhìn chung, lớp từ chỉ đặc điểm địa hình, hiện tượng tự nhiên trong ngôn ngữ
Nam Bộ nói chung, trong tác phẩm Sơn Nam nói riêng phong phú và đa dạng. Lớp từ
này chủ yếu được hình thành dựa trên cảm tính, nhờ vào sự quan sát đặc điểm thực tế
của sự vật, hiện tượng để gọi tên phản ánh sinh động cuộc sống của người dân Nam Bộ
trên “xứ sở của những dòng sông”. Điều này chứng tỏ Sơn Nam có một hiểu biết sâu
rộng và một kiến thức uyên bác về địa hình, thổ nhưỡng, sinh vật… trên mảnh đất
phương Nam khó ai có thể vượt qua, xứng đáng với cái tên mà mọi người đặt cho ông:
Nhà Nam Bộ học.
c. Lớp từ chỉ phương tiện di chuyển
Lớp từ này bao gồm các phương tiện di chuyển trên sông nước cũng như trên
đất liền ở Nam Bộ. Tuy nhiên, số lượng từ chỉ phương tiện trên sông nước chiếm đa số.
Nhóm từ ngữ thứ nhất chỉ phương tiện di chuyển trên đất liền bao gồm các loại xe có
máy sử dụng xăng dầu thay cho sức vận động của con người như xe lôi, xe máy, xe hơi,
xe đò…; các loại cầu như: cầu khỉ, cầu ván… Với địa hình của miền Nam chủ yếu là
sông nước, đường bộ không nhiều, người ta thường sử dụng xe để di chuyển trên đất
liền. Xe lôi là loại xe có thùng chở khách gắn sau xe đạp hay xe gắn máy. Xe hơi là xe
bốn bánh trở lên; xe đò hay còn gọi là xe khách là loại xe lớn dùng để chở khách các
tuyến liên huyện hay liên tỉnh. Địa hình sông rạch chằng chịt, cầu khỉ, cầu ván là phương tiện di chuyển bắc qua kênh, qua rạch. Hiện nay, dù khoa học kỹ thuật đã tiến những bước khổng lồ, nhưng khi về miền Tây Nam Bộ, người ta vẫn thấy những chiếc cầu khỉ, cầu ván ở những thôn, xóm nhỏ. Và ấn tượng về những “chiếc cầu tre lắt lẻo”, “những chiếc cầu ván đóng đinh” sẽ còn đọng lại mãi trong tiềm thức của mọi người qua ca dao, lời ca tiếng hát.
Nhóm thứ hai là những từ chỉ phương tiện hoạt động trên sông nước như xuồng
(xuồng lường, xuồng ba lá…), ghe (ghe lườn, ghe thương hồ, ghe ngo, ghe bầu…), tam
138
bản… Tùy theo đặc điểm, hình dáng, chức năng của mỗi loại phương tiện mà được
định danh một cách khác nhau: Ghe lườn là loại ghe có thân nhỏ, dài, dùng để chở khách. Ghe thương hồ là loại ghe lớn chở hàng của giới kinh doanh, buôn bán… Còn
ghe bầu là loại ghe lớn, có bụng phình ra khá lớn, dùng để đi lại trên sông hoặc kênh
rạch lớn… Ghe thương hồ là một gian hàng hay một cửa hiệu nhỏ. Chủ ghe thường là
những người rời bỏ quê hương, tha phương kiếm sống cùng với chiếc ghe chứa đầy hàng hóa lênh đênh trên sông, kinh rạch bán cho ngưới dân trên bờ hay những gia đình
sống trên ghe thuyền… Ngoài ra, ghe còn được sử dụng trong các công việc đánh bắt
thủy sản: câu tôm, câu cá, giăng lưới, cất vó, thả câu, xây nò, đóng đáy cọc… Từ ngữ chỉ phương tiện di chuyển, nhất là di chuyển trên sông xuất hiện dày đặc trong các sáng
tác Sơn Nam, hầu như các sáng tác về Nam Bộ đều đề cập đến ghe xuồng. Điều này
chứng minh sự phong phú về lớp từ chỉ phương tiện di chuyển ở Nam Bộ đồng thời
cũng chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc về nếp sinh hoạt của người phương Nam của nhà
Nam Bộ học Sơn Nam.
4.3.3. Nghệ thuật sử dụng lớp từ khẩu ngữ Khẩu ngữ bao giờ cũng mang sắc thái biểu cảm cao. Sử dụng khẩu ngữ trong
sáng tác văn chương vừa thân thuộc, vừa bộc lộ tình cảm của người nói. Cách nói năng,
xưng hô của người Nam Bộ như: ổng, bả, tui, tụi bây, thằng chả, mầy, bay, chế, các
chả… thể hiện tính thoải mái trong giao tiếp hàng ngày giữa con người với con người ở
một vùng miền. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn chương đã cho rằng đặc điểm văn
phong Nam Bộ là “Người miền Nam nói chung cả nhà văn nữa, viết như nói”, với hàm
ý là chê văn miền Nam nghĩ sao viết vậy, thiếu trau chuốt, gọt giũa, ý tứ không chặt
chẽ, câu cú không thành, dùng nhiều từ ngữ đời thường… Nhưng đến với những tác
phẩm giai đoạn sau này của các nhà văn như Trang Thế Hy, Bình Nguyên Lộc, Sơn
Nam… văn chương Nam Bộ có sự phát triển vượt bực và đã trở thành đặc sản tinh thần
của vùng sông nước, đồng thời cũng làm phong phú nền văn học Việt Nam hiện đại.
Sơn Nam luôn có ý thức sử dụng khẩu ngữ trong văn chương, văn “Viết như nói” đời thường Nam Bộ được ông đưa vào lời kể chuyện hay lời nói nhân vật một cách nhuần nhuyễn trong sáng tác như một biện pháp nghệ thuật của riêng ông: cực chẳng đã, dị hợm, hàng hà sa số, rủi bề gì, cái giống gì, thiệt là dị hợm, coi mà phát ớn, bỏ lại coi chơi… nhưng chúng không làm văn Sơn Nam thô thiển hay thiếu mượt mà. Có thể nói văn Sơn Nam là lời ăn tiếng nói nôm na “ngôn ngữ thường nhật của người Nam Bộ”
gần gũi, làm tăng sắc thái biểu cảm vừa “dân dã” vừa “góc cạnh” như tính cách người
miền Nam. Một đoạn văn mô tả người dân xứ Tà Lốc nô nức ra sông xem đoàn tàu của
139
quan Toàn quyền Pháp “Một ông lão khôi hài:/ Thiệt là dị hợm, kinh xáng đào rồi
thì…. Còn bày đặt ăn khánh thành giống như nhà vua làm lễ hạ điền./ (…). Có người hô to:/ - Phía chợ vui quá hé! (…). Đừng hí hởn mà buông tay, té gãy giò nghe các
cha” [15a; 108]. Một đoạn văn khác trong Truyện ngắn của truyện ngắn “- Phải thầy
làm soạn giả cải lương thì sướng thân hơn, đằng kia ông đó cũng làm ký giả, ổng đâu
cực như thầy, thầy ráng lên thử coi” [7a; 90].
+ Nhóm từ tình thái: Trong tác phẩm Sơn Nam, người ta tìm thấy rất nhiều từ
tình thái, đặc trưng khẩu ngữ vùng sông nước: hè, hé, hén, hí, nghen, úy, úy da, à há,
chà, cha chả, chết cha, dữ ác hông, trời đất, trời thần, quá xá, hết nói, riết, lận… Mỗi từ đều mang một ý nghĩa khác nhau, thí dụ như: Diễn đạt hình thức dặn dò, nhắc nhở “-
Đủ rồi nghen ! Đừng nói dai” [12a; 41]; Biểu thị sự ngạc nhiên, sửng sốt “- Trời đất
ơi! Nó giết anh Lê Hữu Vĩnh rồi” [14a; 184]; Trạng thái nghi vấn “Thằng đó… ăn
không hè!” [12a; 154]; Trạng thái lo lắng “- Ai lẻn vào đây ăn trộm vậy kìa! Chết cha!
Phen này… tội nặng lắm” [14a; 105]; Biểu thị sự đồng tình “À há! Anh này hiền quá!”
[14a; 46]; Sự giật mình hoảng hốt “Để con đem cây đèn chong lại coi cho kỹ… Úy trời
đất ơi!” [14a; 287]; Từ diễn tả sự ngạc nhiên “Ủa! sao mày chưa về ngủ cho khỏe?”
[14a; 62].
+ Nhóm phụ từ: Ngoài nhóm từ tình thái, còn có một nhóm phụ từ. Đây là
những từ đệm để biểu thị tình cảm của người nói, có các dạng sau: Biểu thị trạng thái:
lần lần, lần mòn, hoài, riết, xá, đa…“Họ rủ nhau đi rình (…) Riết rồi sanh chán” [15a;
94]; Biểu thị sự đột ngột “Thinh không, ổng hét lên” [15a; 219]; Sự đánh giá “Tây
đầm ngán cậu ta quá xá” [12a; 60]; Sự đánh giá lại về một nhận định ở mức độ cao
hơn “xe hơi đụng nó rồi, nó chạy qua hai con đường lận” [12a; 155]; Nhấn mạnh điều
vừa khẳng định, có ý thân mật, thường được dùng ở cuối câu “Đó đa! Đó đa! Anh Tư
nhớ kỹ quá!” [16a; 263].
Việc sử dụng từ ngữ tình thái và phụ từ trong sáng tác của Sơn Nam rất đa dạng
thể hiện đặc trưng cách phát âm của người Nam Bộ, tạo nên sự uyển chuyển trong câu văn, truyền cảm, tự nhiên ở giọng điệu… Nhà văn sử dụng có định hướng các từ ngữ tình thái và phụ từ trong sáng tác ngoài việc góp phần tạo nên tính hấp dẫn của văn chương còn tạo cho nên một dòng văn học “rặc Nam Bộ” độc đáo.
Ngôn ngữ kể chuyện của Sơn Nam như nhiều nhà nghiên cứu cho là “Văn nói Nam Bộ”. Nhà văn sử dụng nhiều câu văn ngắn, những từ ngữ địa phương Nam Bộ để
kể chuyện. Những câu ngắn thường được sử dụng trong các cuộc đối thoại giữa các
nhân vật bộc lộ tính cách thoải mái, thẳng thắn, bộc trực của người lao động miền
140
Nam. Trong Ruộng lò bom, có những mẩu đối thoại rất thú vị, rành mạch, dứt khoát,
nhưng có lúc thì ngang tàng, thách thức, lúc thì trêu đùa thân mật, lúc thì hóm hỉnh, nghịch ngợm của đôi vợ chồng Lệ và Tư Cồ “Lệ nói gắt:/ (…). Giỏi thì anh ở xứ này
một mình…/(…)/. Ruộng “Lò Bom”/ - Lò Bom là ruộng gì?/ Là ruộng Lò Bom, ông bà
nói vậy tôi hay vậy…. Tiếng Việt Nam./ - Lò Bom là gì?/ - Ủa! Em nói cù cưa cù
nhằng hoài vậy. Tôi cắt nghĩa rồi” [16a; 176]. Phát huy tính tích cực của yếu tố khẩu ngữ, nhà văn đã không ngại đưa vào tác phẩm những từ ngữ thiếu thanh nhã, những lời
thô tục, tiếng chửi thề “rôm rốp”. Trong một số đoạn văn, người đọc thấy dụng ý rất rõ
ràng của nhà văn, một là, để nhấn mạnh đặc điểm, tính cách của nhân vật mà tác giả sáng tạo nên; hai là tạo cái duyên riêng, sự chân thực, sống động trong mỗi câu chuyện.
Sơn Nam có một quan niệm rất thú vị về tiếng chửi thề “Đó là một tiếng kém văn nghệ,
biểu lộ nỗi vui mừng, lo sợ, niềm hi vọng cũng như thất vọng (…) đó là hình thức đối
kháng, phá bỏ những cấm kỵ, công thức luận lý” [14a; 25]. Theo ông, đây là một
“bước ngoặt” cho cách “khai khẩu” của con người trong “thời đại nguyên tử”. Giáo
Trích và và cô Tư Hạnh trao đổi với nhau trong Ăn to xài lớn “Đừng chạy Đ.m/ (…)./-
Đ.m. Thằng Tám Theo (…) bị bắt ở chợ Rạch Giá hết rồi. (…)./- Đ.m. Thiệt chơi!/
(…) /. Kẻ nào làm giả bị phạt tù khổ sai chung thân. Đ.m. nó!” [14a; 37]. Tác giả để
cho những lời lẽ không đẹp được thốt ra từ đôi môi của một cô gái khiến người đọc có
cảm giác ngỡ ngàng, tuy nhiên nó làm giọng văn Sơn Nam tự nhiên, sống động hơn.
Tác giả muốn nhấn mạnh tính cách ngang tàng, mạnh mẽ như đàn ông con trai của
người phụ nữ thời khẩn hoang nhưng bắt đầu bị nhuốm những thói hư tật xấu của lối
sống thực dụng. Thằng Nhi con chú thím Tư Đinh trong Mùa “len” trâu là một trường
hợp khác, nó chửi thề không phải vì nó xấu, không đàng hoàng mà là quá trình để nó
trưởng thành. Một đứa trẻ ngoan, chỉ sau một chuyến đi “len” trâu đã thay hình đổi
dạng, trong những câu nói có pha lẫn tiếng chửi thề rất “sành điệu”, ảnh hưởng chất
giang hồ của các tay anh hùng tứ chiếng “- Ba ơi ba! Má ơi má! Trâu mình nè (…) -
Đ.m chết hết một con. (…). Nặng gần chết, Đ.m không lẽ bỏ luôn.” [16a; 44].
Sơn Nam viết văn như nói nhưng không vì thế mà văn ông không hay. Tuy vận dụng nhiều phương ngữ trong sáng tác, nhưng nhà văn không quá lạm dụng từ ngữ địa phương hoặc những từ cổ khó hiểu. Trong trường hợp buộc phải sử dụng trong một tình huống nào đấy, nhà văn bao giờ cũng có những giải thích đi kèm theo nó. Trong Con bà Tám, khi đề cập đến từ “bổ tróc”, ông đã có lời lý giải kèm theo “Chú em hiểu
bổ tróc là gì không? Bổ tức là bộ, là bủa, bủa lưới. Tróc là bắt, nã tróc…” [12a; 30];
hoặc trong Tình nghĩa Giáo khoa thư có một địa danh lạ, tác giả cũng kèm theo lời giải
141
thích bởi một từ địa phương khó hiểu “Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khmer nghĩa là trâu
chết” [16a; 261].
Sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ dung dị, tự nhiên như hơi thở cuộc sống nhưng mà
vẫn khéo léo, điêu luyện, mượt mà, gợi cảm, đảm bảo tính thẩm mỹ của văn học chính
là điểm thành công của nhà văn vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên,
một điểm còn hạn chế mà Sơn Nam cũng như các nhà văn Nam Bộ còn mắc phải là đôi khi quá chú trọng vận dụng phương ngữ, dễ rơi vào tình trạng đơn điệu, thiếu độ sâu,
nhất là thiếu độ tinh tế khi phân tích nội tâm của nhân vật. Tất cả những điều này góp
phần tạo nên phong cách nghệ thuật đặc sắc của Sơn Nam.
4.3.4. Nghệ thuật vận dụng văn học dân gian vào tác phẩm Trong sáng tác văn học, việc vận dụng văn học dân gian vào tác phẩm bao giờ
cũng có dụng ý của nhà nghệ sĩ. Điều này cũng khẳng định giá trị nghệ thuật của tác
phẩm. Sơn Nam là nhà văn có khả năng vận dụng văn học dân gian vào sáng tác một
cách nhuần nhuyễn và điêu luyện. Số lượng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong tác phẩm
Sơn Nam dày đặc và có hiệu quả nghệ thuật cao. Nhà văn không chỉ sử dụng thành
ngữ, tục ngữ, ca dao chính thống mà tùy theo tình huống, ngữ cảnh áp dụng phù hợp
theo tiếng nói chung của người dân Nam Bộ.
+ Thành ngữ là một tổ hợp có tính cố định về hình thức và là kho tàng kinh
nghiệm triết lý đạo đức của một dân tộc. Ngoài đặc điểm về phong cách, có tính biểu
cảm, thành ngữ còn có tính trừu tượng và tính khái quát cao. Nó phản ánh bản chất của
sự vật hiện tượng thay cho lời nhận định đánh giá của người phát ngôn. Qua khảo sát
các sáng tác Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy thành ngữ nhà văn sử dụng bao gồm hai
dạng: thành ngữ nguyên mẫu và thành ngữ cải biên. Dù ở dạng nào, chúng cũng phát
huy tác dụng tạo nên phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà văn, ông thường chọn
thành ngữ có tính khẩu ngữ cao thể hiện tính đa phong cách mà ít khi sử dụng thành
ngữ trang trọng, gọt giũa.
* Thành ngữ chính thống + Những thành ngữ miêu tả quê hương Nam Bộ thời khẩn hoang: “Nhìn chung quanh, quả là “tứ bề hùng vĩ”…” [13a; 132]; “Hằng hà sa số cá lóc, cá trê, cố vùng vẫy” [15a; 379]; “xưa kia ít vườn tược, nước mặn đồng chua, con người chân cẳng đóng phèn” [21b; 13] => Những thành ngữ tứ bề hùng vĩ, hằng hà sa số, nước mặn đồng chua đã tái hiện thiên nhiên thời gian đầu khai hoang mở đất hoang vu, dữ dội
nhưng cũng vô cùng phong phú những sản vật mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất
phương Nam.
142
+ Những thành ngữ diễn tả về hiện thực cuộc sống: “Tụi Tây coi bộ không còn
lâu! “Thần suy quỷ lộng”, Hương quản là người giữ trật tự …” [13a; 123]; “ai nấy được bọn Pháp dung dưỡng, sống trốn xâu lậu thuế” [7a; 40]; “cưới người vợ quê
mùa, không “môn đăng hộ đối” là sự may mắn” [7a; 174] => Thành ngữ thần suy quỷ
lộng, trốn xâu lậu thuế miêu tả cuộc sống vô cùng khốn khó của người Nam Bộ dưới
sự “bảo hộ” của thực dân Pháp. Thành ngữ môn đăng hộ đối được tác giả sử dụng trong trường hợp nhân vật Dũng trong Ngôi nhà mặt tiền lấy được người vợ tương xứng hơn
so với người anh là Thiện, nhưng chính sự “môn đặng hộ đối” đó mà Dũng trở nên
khốn khổ.
+ Những thành ngữ diễn tả cá tính con người: “Việc may rủi, không biết trả thù
ai, kiểu giận cá chém thớt” [7a; 164]; “Luận điểm dối trá, giả nhân giả nghĩa (…)
được chàng thanh niên tán đồng” [15a; 119]; “hay là cậu muốn hại ông theo kiểu được
chim bẻ ná?” [8a; 283] => Thành ngữ “giận cá chém thớt”, ông Phán nghĩ Ký Thạnh
do làm ăn thua lỗ trở nên gian xảo, lừa lọc muốn gây sự với tất cả mọi người. Thành
ngữ “giả nhân giả nghĩa” tác giả muốn nói đến nhân vật Đơn Hùng Tín là người giả
dối không thật lòng. Bá Vạn cho là cậu Cẩu “được chim bẻ ná”, tức là kẻ vô tình, bội
phản, qua cầu rút ván.
Còn rất nhiều thành ngữ được sử dụng trong sáng tác của Sơn Nam như: Cây nhà
lá vườn, Chim trời cá nước, Khỉ ho cò gáy, Nước mặn đồng chua, Khôn nhà dại chợ…
* Thành ngữ cải biên
Sơn Nam còn sử dụng những thành ngữ cải biên, thậm chí còn dùng chúng
nhiều hơn là thành ngữ nguyên dạng trong sáng tác. Đây là nét đặc sắc và tài hoa của
nhà văn miệt vườn. Ông đã biến những thành ngữ chính thống thành những thành ngữ
của riêng ông nhưng vẫn không thay đổi ý nghĩa. Điều này làm cho văn Sơn Nam vừa
có nét dân dã vừa có tính linh hoạt. Thành ngữ cải biên gồm hai dạng: thành ngữ cải
biên về ngữ âm, cải biên về mặt từ ngữ.
Cải biên về âm: dạng sử dụng thành ngữ dưới hình thức biến thể ngữ âm: Thí dụ: Nay đây mai đó -> rày đây mai đó “… ví nàng là cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng cho lắm” [14a; 265]; Cò bay thẳng cánh -> cò bay thẳng kiếng “Các ông đại điền chủ (…) bảo vệ của cải tài sản cò bay thằng kiếng của họ” [12a; 309]; Trong sáng tác Sơn Nam còn nhiều những thành ngữ biến âm khác như tam cang ngũ thường (tam cương ngũ thường), tâm đầu ý hiệp (tâm đầu ý hợp), đầu gành cuối bãi
(đầu ghềnh cuối bãi), tấn thoái lưỡng nan (tiến thoái lưỡng nan)…
Cải biên về từ: Dạng sử dụng thành ngữ dưới hình thức biến thể về từ:
143
+ Tách hai vế của thành ngữ, lấy một vế cần diễn đạt như: Đại phú do thiên, tiểu
phú do cần -> tiểu phú do cần “câu châm ngôn tiểu phú do cần là láo khoét…”.
+ Hoặc tác giả ghép vế của hai thành ngữ để tạo thành một thành ngữ khác cùng
nghĩa: “cùng đinh hạ bộ” và “khố rách áo ôm” -> cùng đinh khố rách “mày là thằng
cùng đinh khố rách. Nhưng mai kia mốt nọ mày trở thành ông vua xóm Bàu Láng”
[10a; 100].
+ Hoán đổi vị trí các thành tố trong một thành ngữ như: Cao chạy xa bay -> Cao
bay xa chạy “bọn đàn ông đã cao bay xa chạy vì trốn xâu lậu thuế…” [24b; 374].
Còn nhiều những thành ngữ cải biên về từ khác như: hoa thơm cỏ lạ -> cỏ lạ hoa thơm; chân lấm tay bùn -> tay lấm chân bùn; giá sạch tiết trong -> giá trong tiết sạch;
đều ghềnh cuối bãi -> đầu bãi cuối gành…
Ngoài ra, có lúc tác giả sử dụng hàng loạt thành ngữ cùng lúc như trong Con Bảy
đưa đò những lời mỉa mai, chỉ trích, gièm pha đối với con Bảy khi nó từ chối tình cảm
của cậu trai con ông hương ấp, người hơn nó nhiều mặt “Ừ trời cao có mắt, cao nhơn
tắc hữa cao nhơn trị. Trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót” [14a; 238]. Bốn thành ngữ đi
liên tiếp nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau để nhấn mạnh ý nghĩa và tăng sắc thái biểu cảm
đồng thời giúp độc giả thấy được sự đa dạng trong cách vận dụng thành ngữ của nhà văn.
Sự sử dụng thành ngữ dày đặc và có dụng ý là một nét đặc sắc tạo nên phong cách Sơn
Nam khó lẫn với bất cứ nhà văn nào trong nền văn học Việt Nam xưa và nay.
Bảng 1: Bảng Khảo sát hệ thống thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam
so với nhà văn Tô Hoài
TỔNG SỐ SỐ LƯỢNG TỶ LỆ/ TÁC PHẨM TÁC GIẢ TRANG THÀNH NGỮ TRANG
Sơn Nam 127 0,51 249
HRCM13 – Tập 1 HRCM – Tập 2 Sơn Nam 114 0,45 253
HRCM – Tập 3 Sơn Nam 114 0,47 241
BCMT & HBC Sơn Nam 151 0,48 318
Tổng cộng 506 0.48 1061
Tô Hoài 130 0,44 293
Quê người14 Mười năm Tô Hoài 148 0,39 379
Quê nhà Tô Hoài 111 0,38 290
13 HRCM: Hương rừng Cà Mau; BCMT & HBC: Biển cỏ miền Tây & Hình bóng cũ 14 Theo thống kê của Mai Thị Nhung (2006) [xem 133]
144
Tổng cộng 389 0,40 962
Nhìn vào bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy tần số xuất hiện hệ thống thành ngữ của Sơn Nam trội hơn nhà văn Tô Hoài – tác giả cùng thời được xem là có tần số
sử dụng thành ngữ cao, linh hoạt và phong phú. Trong khi Tô Hoài cứ 2,5 trang văn
bản xuất hiện một thành ngữ, thì cứ khoảng hai trang văn bản của Sơn Nam là xuất
hiện một thành ngữ. Tuy nhiên tần số xuất hiện không phải là vấn đề mà ý nghĩa của thành ngữ với phong cách nhà văn mới là sự ổn định, giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng
phù hợp với cảm hứng sáng tác và cảm quan hiện thực của nhà văn mà chúng tôi muốn
khảo sát. Sự ổn định tần số xuất hiện của thành ngữ qua các giai đoạn sáng tác của Sơn Nam tương đối ổn định. Từ tập Hương rừng Cà Mau – 1962 chỉ có một số truyện ngắn
về sau nhà xuất bản Trẻ sưu tập thêm một số truyện ngắn khác của Sơn Nam được sáng
tác rải rác qua các giai đoạn cuộc đời in thành 3 tập cũng lấy tên Hương rừng Cà Mau
gồm 64 truyện ngắn. Chúng tôi thấy tần số xuất hiện của thành ngữ ở Sơn Nam khá ổn
định: Tỉ lệ trên trang viết của Hương rừng Cà Mau tập 1 là 0,51%, tập 2 là 0,45%, tập 3
là 0,47%. Sự ổn định này không phải là tùy tiện, cảm hứng nhất thời mà là một tín hiệu
ổn định trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Giống như Tô Hoài, Sơn Nam
sử dụng thành ngữ như là phương tiện thể hiện bức tranh muôn vẻ, muôn màu của cuộc
sống nhưng khác với nhà văn này là cách tạo ngữ cảnh cho chuyện kể cũng như tham
gia vào việc khắc họa tính cách nhân vật. Sơn Nam sử dụng thành ngữ chính thống
cũng như cải biên như không cần suy nghĩ để vận dụng mà dường như có sẵn trong đầu
thành ngữ phù hợp cho mỗi tình huống.
Sử dụng thành ngữ, Sơn Nam vận dụng linh hoạt và khéo léo. Từ những thành
ngữ chính thống đến những thành ngữ cải biên của vùng đất Nam Bộ súc tích, dễ hiểu
tạo nên sự gần gũi với người lao động bình dân. Chính hệ thống thành ngữ này góp
phần chủ yếu làm nên phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
+ Ca dao, dân ca: Đồng bằng sông Cửu Long là là cái nôi của ca dao, câu hát
hoặc những câu hò đối đáp. Sơn Nam vừa là một nhà văn, nhà văn hóa vừa là nhà biên khảo của vùng đất Nam Bộ, ông đã sưu tập được rất nhiều tác phẩm văn học dân gian và nhà văn đã vận dụng rất thành công trong các sáng tác từ truyện ngắn, truyện dài đến truyện ký. Sơn Nam đưa những câu chuyện xưa tích cũ, ca dao, câu hò, lời hát… vào tác phẩm. Điều này tạo nên một nét độc đáo trong văn chương của tác giả cũng như trong dòng chảy văn học Nam Bộ. Chúng có nội dung phù hợp với ý đồ nghệ thuật của
tác phẩm. Một số truyện Sơn Nam đã dùng những câu hát dân gian làm đề từ hoặc
chúng được lồng vào những câu chuyện kể khiến cho văn chương Sơn Nam sinh động
145
và độc đáo.
Sơn Nam đã dùng “đôi chân vàng” của mình đi khắp vùng châu thổ, nơi nào ông đến đều để lại những ký ức khó phai mờ, những kỷ niệm không thể nào quên, nhà văn
quan niệm “Đi cũng là một cách đọc sách trực tiếp từ cuộc đời”. Những trang văn của
Sơn Nam để lại giúp người đọc khám phá một quá khứ hào hùng của lịch sử thời khẩn
hoang “khẩn chưa xong là phần đất ấy thuộc về chủ quyền của người khác” nhưng “Ra đi gặp vịt cũng lùa,/ Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu” [13a; 67]. Hoặc hình ảnh
của những người đi khai hoang đang kêu gọi hồn của những lớp người đi trước về đền
ơn đáp nghĩa hoặc để giải oan cho hồn bằng những lời ảo não thê lương “Hồn ở đâu đây (…)/ Xa cây, xa cội/ Xa cội, xa thành/ Hùm tha sấu bắt/ Bởi vì thắt ngặt/ Manh áo
chén cơm…” [14a; 91]; Có khi nhà văn mô tả nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển
ở Nam Bộ “Xứ đâu thị tứ bằng xứ Kinh Cùng/ Tràm xanh củi lụt, anh hùng thiếu chi?”
[13a; 67]; trong Cô Út về rừng, tác giả đề từ bằng một câu ca dao quen thuộc nói lên
tấm lòng người cha mẹ bấm bụng gả con đi xa: “Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu vượn
hú biết nhà má đâu” [15a; 39]; hoặc “Mẹ mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí rợ, dưa
hường nấu canh” [15a; 42]. Đó cũng là ước mơ của cha mẹ mong gả con gái về đất
vườn trù phú, giàu có để có thể sướng tấm thân, không ai muốn con về nơi phải chịu
khổ sở, vất vả...
Nam Bộ là quê hương của sông rạch, trên những con sông mênh mông hay
nhưng kênh rạch len lỏi qua những xóm nhà, đồng ruộng… thường có những tiếng hò
cất lên vang vọng. Nhà văn Sơn Nam đã sưu tập được cả một kho tàng về những câu
hò, câu hát đặc thù của miền Nam mà khó có ai qua được. Trong Xóm Bàu Láng, khi
lênh đênh trên con xuồng cùng với thằng Mến, lão Khăn Đen cất tiếng hò giả là kẻ
giăng câu đêm khuya để tránh tai mắt rình rập của lính mã tà “Đèn tọa đăng để trước
bàn thờ/ Vặn lên nó tỏ,/ Vặn xuống nó lờ/ Xuống sông hỏi cá/ Lên bờ hỏi chim…”
[10a; 319]. Người Nam Bộ từ lớn đến bé hầu như ai cũng biết dăm ba câu hò để đối
đáp với nhau trong lúc một mình trên sông hay làm việc trên cánh đồng nên khi được động viên, khuyến khích, thằng Mến cũng cất lên hò đáp lại “Xuống sông hỏi cá/ Lên bờ hỏi chim/ Trách ai làm cho thố nọ xa tiềm/ Em xa người nghĩa mà làm điềm chiêm bao” [4a; 319]. Những câu hát dân gian thể hiện rõ nhất trong những câu hò đối đáp trên sông giữa các chàng trai – cô gái. Trong Vọc nước giỡn trăng những câu đối đáp huê tình xuất phát từ câu hát bay bổng ngoài đồng ruộng, sau này được đưa vào nhà để
ru em… tác giả đã sưu tập thành bài học cho người mới học hát huê tình: Khi một bên
than thở vì thất tình “Chờ em cho mãn kiếp chờ/ Chờ cho rau muống vượt lên bờ trổ
146
bông” thì sẽ có người trả lời “Rau muống trổ bông, lên bờ nó trổ./ Ai biểu anh chờ, anh
kể công ơn” [12a; 294]. Lời hát được lấy từ dân gian, những tích chuyện xưa ứng khẩu trong những hoàn cảnh khác nhau thể hiện tâm tư, tình cảm của họ. Trong Con Bảy đưa
đò, người lữ khách thanh niên rong ruổi trên sông nước cùng với cô lái đò xướng họa.
Thật thú vị khi nghe những lời hò đối đáp của đôi trai tài gái sắc. Khi chàng trai cất
tiếng “Đêm khuya anh thức dậy xem trời/ Anh thấy sao nguyệt bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch/ (…)/ Anh than với em rằng số phận anh nghèo,/ Đũa tre
đâu dám đánh đèo với đũa mun” thì lời con Bảy cũng lảnh lót đuổi theo “Canh khuya
em thức dậy, em lau nĩa, rửa dĩa, dọn bàn,/ Tay em sang rượu chát, miệng em hát một đôi câu/ (…) / Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành? Giá như con cá
kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua” [14a; 240 – 241]. Những bài hát, câu hò dân gian được
Sơn Nam ghi lại đầy đủ và chi tiết theo “bước chân vàng”, nhất là trong 4 tập Hồi ký.
Bảng 2 : Bảng khảo sát thành ngữ & ca dao dân ca trong Hương rừng Cà Mau và Biển cỏ miền Tây & Hình bóng cũ15
THỂ LỌAI HƯƠNG RỪNG BIỂN CỎ MIỀN TÂY
NGHỆ THUẬT CÀ MAU & HÌNH BÓNG CŨ
THÀNH NGỮ 355 tn/65 tp 151 câu/19 tp
BÌNH QUÂN 5,4 tn/1 tp 7,9 tn/ 1 tp
CA DAO – DÂN CA 45 câu/ 84 tp 32 câu/19 tp
BÌNH QUÂN 0,6 câu/ 1tp 1,7 câu/ 1tp
Đặc trưng của thành ngữ là có tính hình tượng và tính khái quát cao trong miêu
tả hiện thực cuộc sống của con người Nam Bộ. Còn ca dao dân ca chính là cái hồn
của người dân miền Nam. Tâm tư tình cảm của họ được lồng vào câu hò tiếng hát.
Sơn Nam đặc biệt thành công trong việc vận dụng thành ngữ và ca dao dân ca vào tác
phẩm, điều này giúp sáng tác của Sơn Nam hấp dẫn, sinh động và gần gũi với người
đọc. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân ca là yếu tố thể hiện tính khẩu ngữ
trong tác phẩm văn học cũng là yếu tố độc đáo góp phần hình thành lên phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
Tiểu kết chương 4
Văn chương Sơn Nam là kết quả của những chuyến “đi và ghi nhớ”, là những hiểu biết và cảm nhận về thế giới nhân sinh muôn hình muôn vẻ. Nghiên cứu toàn bộ sáng tác của nhà văn, chúng tôi nhận thấy Sơn Nam đã sử dụng một số phương diện nghệ
147
thuật làm nên phong cách nghệ thuật tác giả. Ngoài phần phong cách thể hiện ở cảm 15 Ghi chú: - tn -> viết tắt của thành ngữ ; câu => câu ca dao/ dân ca ; tp => tác phẩm
quan về thiên nhiên con người và văn hoá, chương này tập trung khảo sát phong cách thiên về hình thức biểu hiện trên các phương tiện nghệ thuật chủ yếu.
Nghệ thuật trần thuật của tác giả thể hiện rõ nét phong cách tài hoa uyên bác từ
cơ sở thực tiễn nêu trên. Đó là nét phong phú, linh hoạt sinh động trong kể và tả. Trần
thuật tập trung vào hai yếu tố: ngôi kể chuyện - điểm nhìn. Nhà văn sử dụng nhiều ngôi kể, ngôi thứ ba nhiều hơn ngôi thứ nhất nhưng khi cần, ngôi thứ nhất xuất hiện. Đứng từ
nhiều phía quan sát, từ nhiều vị thế cảm nhận, thường xuyên thay đổi điểm nhìn. Với lối
viết hiện đại là kể xen với tả, mạch văn trần thuật linh hoạt bám sát được diễn biến của tình cảnh, trạng thái. Bên cạnh đó, giọng điệu văn chương phong phú và đa dạng cũng
tạo cho văn trần thuật của Sơn Nam có nét độc đáo riêng. Mỗi tình cảnh, mỗi trạng
huống, mỗi nhân vật trong văn cảnh cụ thể lại được thể hiện một giọng điệu riêng: khi
hân hoan, lúc phẫn nộ, khi nghiêm trang, lúc khôi hài… biến báo linh hoạt. Văn Sơn
Nam có nhiều giọng điệu nhưng tập trung nổi bật đặc điểm phong cách là giọng điệu trữ
tình sâu lắng và giọng điệu dung dị dân dã. Từ cảm hứng chủ đạo hiện thực đời thường
có nét giống như Tô Hoài nhưng ông thể hiện rất rõ văn phong của vùng sông nước. Hơn
nữa cũng hợp với “cái tạng” con người Sơn Nam: giản dị, tâm hồn giàu thương cảm và
trầm tư sâu lắng.
Tuy nhiên văn học Nam Bộ không chỉ thế mà còn một thứ khác để hấp dẫn bạn
đọc, đó là ngôn ngữ vùng miền. Là người đi nhiều, giao tiếp nhiều Sơn Nam thông thạo
ngôn ngữ nhiều địa phương.Vốn ngôn ngữ nằm trong sự hiểu biết phong phú, uyên bác
về đời sống văn hoá Nam Bộ. Văn phong Sơn Nam thiên về ngôn ngữ đời thường, ngôn
ngữ nói. Ngôn ngữ gắn khẩu ngữ cũng là nét gần gũi với hành văn của Bình Nguyên Lộc
khi sáng tác hướng đến đại chúng. Không nặng sự trau chuốt, mượt mà nhưng có chọn
lựa, tinh lọc. Nhà văn Sơn Nam quan niệm “Không phải cứ ghi âm lại cuộc nói chuyện
của người dân Nam Bộ là thành văn chương được”. Ngôn ngữ và lời văn Nam Bộ cũng
khẳng định phong cách độc đáo của nhà văn vùng sông nước. Phong cách nghệ thuật còn thể hiện trong cách nhà văn vận dụng văn học dân gian thành ngữ, ca dao, dân ca vào sáng tác đã tạo cho ngôn ngữ nổi bật nét phong cách dung dị, dân dã. Nhìn chung lại, về phương tiện biểu hiện hình thức nghệ thuật Sơn Nam cũng thể hiện rõ nét phong cách nổi bật trữ tình sâu lắng, dung dị dân dã cùng nét uyên bác tài hoa. Phong cách là tổng thể những yếu tố về cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Phần
khảo sát những nét phong cách trên đây sẽ góp phần xác lập một đặc trưng phong cách
148
nghệ thuật văn chương nhất quán trong sáng tác của Sơn Nam.
KẾT LUẬN
Trên 60 năm lao động sáng tạo không ngừng, Sơn Nam đã có thể “vượt qua
thế giới lớn lao của loài người không phải bằng cách tự xóa mình đi, mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính mình” (Rabindranath Tagore). Nhà văn luôn suy nghĩ, tìm
tòi, thể nghiệm để hình thành cho mình một “bản sắc” riêng biệt và độc đáo. Ông
được xem là người đầu tiên có công khai hóa, khảo cứu về văn hóa mảnh đất phương
Nam. Ông trở thành khuôn mặt tiêu biểu cho nền văn xuôi đương đại: Một phong
cách nghệ thuật Sơn Nam.
1. Phong cách tác giả là một phạm trù cơ bản của một nền văn học, nó được
nhìn nhận ở nhiều cấp độ: thế giới hình tượng – ngôn ngữ - tư tưởng. Trên cơ sở tài
liệu đã tìm được, chúng tôi đưa ra định nghĩa, những đặc trưng của phong cách, các
yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách tác giả như thời đại, dân tộc và cá
tính nhà văn... Từ đó, xác định các thao tác chung để nghiên cứu về phong cách một
tác giả cụ thể. Phong cách nghệ thuật Sơn Nam được hình thành và phát triển trong
bối cảnh đặc biệt: lịch sử khẩn hoang có tính anh hùng ca của dân tộc, cuộc chiến đấu
chống ngoại xâm, sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây, hoàn cảnh sống cũng như cá
tính nhà văn... Qua khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp một số phương diện đặc sắc của Sơn Nam trong sáng tác văn học có thể khẳng định ông là nhà văn có phong
cách riêng độc đáo.
Phong cách nghệ thuật Sơn Nam thể hiện trên một hệ thống gồm nhiều yếu tố
thống nhất nằm trong một chỉnh thể hữu cơ. Yếu tố cơ bản chi phối cả hệ thống trở
thành hạt nhân phong cách nghệ thuật Sơn Nam là cảm quan văn hoá và cảm quan
hiện thực đời thường kết hoà với nhau. Cảm quan hiện thực đời thường Sơn Nam rất
gần gũi với Tô Hoài. Sơn Nam được mệnh danh là “Ông Gìà Nam Bộ”, “Pho Từ điển
sống Nam Bộ” tức một kho tàng tri thức phong phú Nam Bộ. Sơn Nam là nhà văn hiện thực nhưng là hiện thực trữ tình. Con người giàu lòng nhân ái viết văn thiên về tình cảm và suy tư sâu lắng. Một đời dấn thân gắn bó vối nhân dân quần chúng, sống giản dị, viết dung dị. Đó là đôi nét phác thảo chân dung cũng như chân dung nghệ thuật Sơn Nam. Các chương của luận án đã có tiểu kết chương nêu lên một số nét phong cách văn chương nổi bật về phương diện nội dung cũng như hình thức nghệ
thuật. Đó là những nét phẩm chất uyên bác tài hoa – trữ tình sâu lắng – dung dị dân dã. Trên cơ sở đó tác giả luận án sẽ tổng hợp, phân tích và nhấn mạnh để tạo một ấn
149
tượng tổng thể về phong cách nghệ thuật Sơn Nam.
2. Uyên bác tài hoa trước hết trong cảm quan về thiên nhiên đất nước. Trong Hương rừng Cà Mau do Nxb Trẻ xuất bản 1998, Hoàng Phủ Ngọc Phan có một so
sánh thú vị “Có thể ví Vang bóng một thời và Hương rừng Cà Mau là mảnh dư đồ,
đem ghép lại sẽ được bức tranh tuyệt tác của đất nước vào khoảng nửa đầu thế kỷ”.
Quả là nét phong cách Sơn Nam rất gần gũi với Nguyễn Tuân. Tuy nhiên nhà văn Nam Bộ đi vào khảo cứu sâu rộng hơn. Nguyễn Tuân tài hoa điệu nghệ còn Sơn Nam
bình dị, dân dã: Cảm quan về thiên nhiên của Sơn Nam mở rộng theo chiều rộng và
chiều dài của tâm thức. Những sáng tác viết về thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long thời mở cõi vừa hoang sơ dữ dội, vừa hiền hòa trù phú. Mỗi vùng miền chứa đựng
bao sự tích về địa lý, lịch sử, văn hoá... Có những cảnh tượng, sự việc còn gợi cả một
trầm tích văn hoá.
Uyên bác tài hoa trên phương diện hiểu biết thế giới nhân sinh, về những phận
người lưu dân tứ xứ tạo dựng một gương mặt chung với đầy đủ hồn cốt con người
Nam Bộ. Sơn Nam cảm nhận con người trong dạng thức nhân bản đời thường. Nhà
văn không lý tưởng hóa nhân vật, ông nhìn nhận con người như nó vốn có. Họ bao
gồm các kiểu người trong xã hội: những người nông dân chân chất, những trí thức
cùng quẫn, những người phụ nữ sống với những bi kịch của chính mình... Dù họ
thuộc kiểu người nào họ cũng mang những phẩm chất tốt đẹp của người Nam Bộ hiền
lành, chân chất, kiên cường, có lòng yêu đất nước, quê hương, yêu lẽ phải, trọng
nghĩa tình, chung thủy, lạc quan, thích phiêu lưu và có một sức sống tiềm tàng vượt
qua những gian khó trong để vươn lên bảo vệ quê hương và tạo dựng một miền Nam
trù phú. Nhất quán trong trường nhìn cuộc sống, bức tranh sinh hoạt xã hội trong cảm
quan văn hóa của Sơn Nam còn đề cập đến những nét đẹp văn hóa phong phú nhiều
sắc thái đặc trưng của con người Nam Bộ. Những biểu hiện của văn hóa Nam Bộ
được tác giả khái quát thành đặc trưng – sắc thái văn hóa phương Nam trong chỉnh
thể văn hóa Việt. Người miền Nam là những lưu dân người Việt, người Hoa, người Khmer... nên văn hóa tín ngưỡng đa dạng, ngoài đạo Phật truyền thống, còn thờ Linh vật, Bà Chúa Xứ... Sơn Nam còn đề cập đời sống tâm linh của người dân cũng là cơ sở hình thành hệ thống tôn giáo ở Nam Bộ. Một khía cạnh tinh thần khác của Nam Bộ được nhà văn chú trọng đó là văn hóa nghệ thuật ... Có thể nói tác phẩm Sơn Nam là bức tranh đầy màu sắc về thiên nhiên và con người phương Nam, là bản hùng ca mở
nước và giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt.
150
3. Trên các phương tiện thể hiện nghệ thuật nét uyên bác tài hoa cũng thể hiện qua tài năng trần thuật kể và tả phong phú, linh hoạt, giọng điệu đa dạng nhiều sắc
thái, ngôn ngữ giàu có, sinh động. Sơn Nam thể hiện cuộc sống muôn màu muôn vẻ Nam Bộ bằng phương tiện thẩm mỹ đặc thù là lối trần thuật khá đa dạng, nhà văn
không sử dụng một điểm nhìn mà di chuyển điểm nhìn theo mục đích từng tác phẩm.
Phần lớn Sơn Nam kể chuyện theo phương thức trần thuật “khách thể” như một người
“biết tuốt” đứng ở ngoài quan sát nhưng có lúc nhà văn đứng ở vị trí “chủ thể”, đứng ở vị trí này, tác giả hoàn toàn tự do trong quan sát, tự do trong đánh giá và bình luận
theo suy nghĩ và quan điểm của bản thân. Chính sự kết hợp các phương thức trần
thuật tạo cho văn xuôi Sơn Nam sinh động và hấp dẫn. Trong văn xuôi Sơn Nam, giọng điệu chủ đạo là giọng điệu dân dã, mộc mạc nhưng trữ tình sâu lắng và khéo
léo phối hợp nhiều giọng điệu khác như giọng điệu hóm hỉnh, hài hước hoặc giọng
điệu suy nghiệm, triết lý. Sự uyên bác tài hoa của Sơn Nam gần gũi Nguyễn Tuân
nhưng không sành điệu bằng. Sơn Nam là một nghệ sĩ bình dân và đi sâu khảo cứu.
Giống và khác Nguyễn Huy Tưởng là uyên bác thiên về lịch sử. Uyên bác văn hoá
như nhau nhưng Nguyễn Đình Thi tài hoa hơn về nghệ thuật. Trữ tình sâu lắng đồng
thời là nét phong cách nổi bật của nhà văn Sơn Nam. Cũng có nét gần gũi với sắc thái
trữ tình Nguyễn Đình Thi trong văn xuôi.Trữ tình sâu lắng Sơn Nam như biểu hiện
uyên thâm về thế giới tâm hồn con người. Nhà văn thông cảm sâu sắc với những phận
người nạn nhân xã hội sống trong cảnh bị áp bức, bóc lột cùng khổ, sẵn sàng chia sẻ
mọi lo toan, trăn trở, bức xúc của nỗi niềm nhân thế một cách rộng rãi: nhất là những
ẩn ức phẫn nộ hay những khát vọng trong đấu tranh, vươn lên; Có sự cảm thông và
xót xa đặc biệt với những nạn nhân của sự tha hoá nhân cách. Trái tim nhân văn Sơn
Nam vừa thấm nhuần đạo lý truyền thống vừa giàu có tình cảm với nét hiện đại.Tha
thiết như Thạch Lam và thống thiết như Nam Cao, Nguyên Hồng.
Một biểu hiện trữ tình rõ nét là văn xuôi Sơn Nam thấm đượm chất thơ. Có gì
đó rất gần gũi với Nguyễn Tuân, Tô Hoài về văn phong qua Sông Đà, Truyện Tây
Bắc... Còn Sơn Nam với Hương quê, Hương rừng lan tỏa khắp chốn miền Nam. Hương rừng Cà Mau như một bài thơ lớn, cuộc sống vất vả cực nhọc vẫn bay bổng ước mơ. Đây cũng là chất thơ của nhiều trang văn xuôi viết về quê hương Nam Bộ dù Miền Đông hay Miền Tây của Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng. Trữ tình vẫn gắn kết lãng mạn với hiện thực, mượt mà, bay bổng và thâm trầm sâu lắng là sự hoà hợp tự nhiên trong khí chất văn phong Sơn Nam. Dung
dị dân dã là phong thái đặc sắc sống và viết của Sơn Nam. Cảm nhận nhân văn đời
thường là nhỡn quan đặc biệt của Sơn Nam.Văn Sơn Nam hồn nhiên như hấp thụ cái
151
tự nhiên cuộc đời.
Cách kể, giọng điệu Sơn Nam có nhiều đặc sắc. Chuyện đời thường được kể bằng ngôn ngữ mang phong vị đậm đà dân dã. Triết lý đưa ra cũng hồn nhiên giản dị;
thâm thuý nhưng không xa xôi, ẩn khuất như kiểu Nguyễn Khải (trong Thời gian của
người chẳng hạn). Chính điều này góp phần quan trọng trong việc “nhận diện” gương
mặt Sơn Nam. Ngôn ngữ văn chương Sơn Nam dung dị, đậm chất khẩu ngữ “văn nói Nam Bộ” rất gần gũi với Bình Nguyên Lộc. Nhà văn sử dụng nhiều câu ngắn, từ ngữ
là lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Nam Bộ. Đặc biệt sử dụng nhiều phương
ngữ trong sáng tác nên văn chương của ông giản dị, mộc mạc nhưng không kém phần mượt mà và không mất đi tính thẩm mỹ của văn học. Tuy nhiên, vì chú trọng sử dụng
nhiều phương ngữ nên đôi lúc văn Sơn Nam thiếu sự trau chuốt về ngôn từ, độ sâu
khi miêu tả nội tâm nhân vật... Vận dụng thành ngữ, ca dao dân ca vào tác phẩm là
nét độc đáo riêng biệt của nhà văn vùng Đất Mới. Không thiếu những nhà văn vận
dụng văn học dân gian vào sáng tác nhưng dày đặc và có dụng ý và mang hiệu quả
cao như Sơn Nam thì không phải tác giả nào cũng làm được.
4. Văn phong Sơn Nam chân tình, dung dị, phóng khoáng, tài hoa. Đọc văn
xuôi Sơn Nam, người đọc có cảm nhận về vẻ đẹp dân dã, mộc mạc của văn chương
miền sông nước. Mỗi trang viết của ông đều tràn ngập tình yêu thương, tự hào về quê
hương - vùng đất mới. Qua khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp các phương diện
đặc sắc trong văn chương, dễ thấy Sơn Nam luôn khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo
mang tính thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật. Cá tính sáng tạo ổn định qua nhiều giai
đoạn sáng tác, qua nhiều thể loại và bộc lộ qua hai khía cạnh phản ánh: cảm quan về
thiên nhiên, con người và văn hóa văn hóa Nam Bộ; các phương tiện thể hiện nghệ
thuật đặc sắc. Thật khó có thể tổng luận súc tích và định danh phong cách nghệ thuật
tổng hợp. Tác giả luận án đã tham khảo nhiều bản luận án tương tự về phong cách
nghệ thuật tác giả và lựa chọn một cách xác định minh bạch, súc tích nhất phẩm chất
phong cách nghệ thuật. Vì vậy với tinh thần học hỏi, mạnh dạn khoa học, chúng tôi có thể nêu phẩm chất đặc trưng phong cách nghệ thuật Sơn Nam là Uyên bác tài hoa – Trữ tình sâu lắng – Dung dị dân dã... Đó chính là diện mạo phong cách nghệ thuật nhà văn. Có thể khẳng định phong cách nghệ thuật Sơn Nam đã làm nên nét đặc sắc riêng trong nền văn học hiện đại Nam Bộ nói riêng và văn học nước nhà nói chung. Sơn Nam có cuốn sách mang tựa đề Cá tính miền Nam. Đó là một kỳ vọng
lớn cho hồn đất, tính người cả vùng miền. Tuy nhiên ông đã tự tạo một giá trị của
152
gương mặt văn nhân đích thực Đó là Sơn Nam.
DANH MỤC BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. (2013), Văn hóa tinh thần Nam Bộ trong văn xuôi Sơn Nam, Tạp chí Đại
học Sài Gòn, số 18 – tháng 12/2013
2. (2014), Sơn Nam với Hương rừng Cà Mau, Tạp chí Dân tộc Thời đại số 163
– 164, tháng 02 – 03/2014.
3. (2014), Giọng điệu trong văn xuôi Sơn Nam, Tạp chí Dân tộc & Thời đại, số
166 – 167, tháng 5 – 6/ 2014.
4. (2014), Không gian và thời gian nghệ thuật trong văn xuôi Sơn Nam, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, số 371. tháng 5/ 2015, tr. 89 – 95.
5. (2014), Cảm quan văn hóa Nam Bộ trong sáng tác của Sơn Nam, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, số 11 (525), tháng 11/ 2015, tr. 75 – 83.
6. (2016), Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật trong văn xuôi Sơn Nam,
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 4 (29), tháng 5 – 2016, tr. 78 – 87.
7. (2016), Đời sống tâm linh trong sáng tác văn chương Sơn Nam – Một sắc
thái hình thành sự phong phú của tôn giáo Nam Bộ, Hội thảo Khoa học quốc tế “Tôn
giáo và đạo đức trong xã hội hiện đại”, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân Văn
Hà Nội, tháng 12/ 2016.
8. (2017), Sắc thái tâm linh trong sáng tác văn chương Sơn Nam, Tạp chí Dân
tộc & Thời đại, số 192, tháng 1 – 2/ 2017.
9. (2017), Người phụ nữ Nam Bộ trong sáng tác của Sơn Nam, Tạp chí Nhân
Lực Khoa Học Xã Hội, Số 04/2017 (47) tr. 95 – 104.
10. (2017), Biểu hiện của văn hóa vật thể Nam Bộ qua nghiên cứu văn chương
Sơn Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần III, Trường Đại học Khoa học
153
Xã hội Nhân Văn Tp. HCM, tháng 7/2017, tr. 1092 – 1098.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT 1. Trần Hoài Anh (2008), Người chở đò thời đại, in trong Chân dung văn
nghệ sĩ Việt Nam thế kỷ XX, tập 1, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội.
2. Trần Hoài Anh (2009), Lý luận - Phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954
- 1975, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội 5. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
6. M. Bakhin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội.
7. Báo ảnh Việt Nam (2007), Ông già Nam Bộ, tháng 10/2007, số 586, tr. 20. 8. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí
Văn học, số 9, tr. 66/ 1998.
9. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn, nguồn gốc và khái niệm, Tạp chí Văn học,
số 5/2004.
10. Hoàng Thị Ngọc Bích (2009), Nghệ thuật kể chuyện của Sơn Nam qua
Hương rừng Cà Mau, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội.
11. Trần Hòa Bình, Lê Duy, Văn Giá (1997), Chủ nhân của rừng tràm in trong
tập Bình văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm & Mạc Đường (1990) (Chủ biên), Văn
hóa & cư dân đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học Xã hội,
13. Ngô Vĩnh Bình (1999), Nhà văn Nguyễn Minh Châu bàn về truyện ngắn,
Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/ 1999.
14. Nguyễn Minh Châu (1983), Vài suy nghĩ về tiểu thuyết,Văn nghệ số
39/1983.
15. Văn Chinh (2000), Người nông dân trong truyện ngắn miền Nam, Tạp chí
văn học, số 6/2000.
16. Trần Cư (1966), Ký có cần hư cấu như truyện không?, Tạp chí văn học, số
08/1966.
154
17. Nguyễn Phú Cường (2007), Đặc trưng phương ngữ Nam Bộ qua Hương
rừng Cà Mau của Sơn Nam, Ngữ học Trẻ, 2007.
18. Võ Đắc Danh (2007), Một đời nặng nợ áo cơm: Nhà văn Sơn Nam, Sân
khấu, tháng 06/2007, tr. 43 – 45.
19. Võ Đắc Danh (2008), Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê, Báo Tuổi trẻ, số
221 (5544), 14/8/2008.
20. Phan Thị Diễm (2011), Thế giới nghệ thuật của Sơn Nam qua Hương rừng
Cà Mau, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội, 2011.
21. Trần Phỏng Diều (2004), Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam,
Văn nghệ quân đội, số 642, tr.94-95/2004.
22. Trần Phỏng Diều (2004), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của Sơn
Nam, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10/2004, tr. 24 – 26.
23. Trần Phỏng Diều (2004), Con người Nam Bộ qua truyện ngắn Sơn Nam,
Văn nghệ, Hồ Chí Minh, ngày 01/4/2004.
24. Trần Phỏng Diều (2006), Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam: Hình tượng người nông dân mở đất, Tạp chí Văn Nghệ Trẻ, số 18 – 19, ngày 30/4/2006 và
07/5/2006.
25. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
26. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là một quá trình, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Võ Thị Ngọc Dung (2004), Thiên nhiên và con người trong truyện ngắn
của Sơn Nam, Đại học Cần Thơ.
28. Lê Tiến Dũng (1994), Giáo trình lý luận văn học (Phần tác phẩm văn học),
Đại học Sư Phạm, Huế.
29. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học, văn hóa, tiếp nhận và suy nghĩ, NXB
Tự điển Bách khoa, Hà Nội.
30. Trần Trọng Đăng Đàn (2000), Văn hóa văn nghệ Nam Việt Nam 1954 -
1975, NXB Văn hóa - Thông tin Hà Nội.
31. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
32. Hữu Đạt (1990), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
155
33. Hữu Đạt (1999), Nhà văn, sự sáng tạo nghệ thuật, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 34. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), tập 1,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1979.
35. Phan Cự Đệ (1982), Tác phẩm và chân dung, NXB Văn học, Hà Nội. 36. Phan Cự Đệ (1998) (chủ biên), Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử, Thi pháp,
Chân dung, NXB Giáo dục.
37. Trần Thanh Địch (1980), Tìm hiểu truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội. 38. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
39. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Tp. Hồ Chí Minh.
40. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Phê bình văn học Việt Nam hiện đại, NXB Văn học,
Hà Nội.
41. Nguyễn Đăng Điệp (2001), Giọng điệu thơ Xuân Diệu trước 1945, Tạp chí
Văn học, số 2, tr. 177.
42. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học Hà Nội. 43. Nguyễn Văn Đông (2013), Truyện ngắn Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc từ góc nhìn văn hóa học, Luận án trường Đại học xã hội Nhân văn, Tp. HCM, LA
20968.
44. Nguyễn Anh Đức (2007), Sơn Nam - Người của nhiều thời, Tiền Phong
online, 18/11/2007.
45. Hà Minh Đức (1995) (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 46. Hà Minh Đức (1998) (chủ biên), Văn học Việt Nam hiện đại - Bình giảng
và phân tích NXB Thanh niên, Hà Nội.
47. Hà Minh Đức (2003), Văn chương tài năng và phong cách, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
48. Hà Minh Đức (2003), Phong cách và bút pháp văn chương Đặng Thai
Mai, Tạp chí văn học, số 01/ 2003.
49. Lê Minh Đức (2000), Những câu chuyện cũ về một vùng đất mới – Giới
thiệu 26 truyện ngắn Sơn Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh.
50. Hà Văn Đức (1992), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án tiến sĩ,
Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (2004), Tự điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội. 52. Nhiều tác giả (1982), 17 truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tác
phẩm mới, Tp. HCM.
156
53. Trần Văn Giàu (1988) (chủ biên), Địa chí văn hóa thành phồ Hồ Chí Minh,
NXB Tp. Hồ Chí Minh.
54. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. 55. Đoàn Giỏi (1972), Rừng U Minh, In trong Mười năm văn học chống Mỹ,
NXB Giải phóng.
56. Kiên Giang Hà Huy Hà (2008), Tình nghĩa giáo khoa thư trong tâm hồn
nhà văn Sơn Nam, Tạp chí Xưa & Nay, số 314, tháng 8/2008.
57. Ngân Hà (1992), Bắt sấu rừng U Minh Hạ, in trong Giới thiệu và bình luận của Anh Đức, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam, NXB Tổng Hợp, Khánh Hòa.
58. Hồ Thế Hà (2009), Nghĩ tiếp về vai trò của chủ nghĩa sáng tạo và chủ thể
tiếp nhận văn học, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 21/2009.
59. Lê Bá Hán, Phương Lựu, Bùi Ngọc Trác, Nguyễn Lương Ngọc (1980), Cơ
sở lý luận văn học, NXB Đại học và THCN Hà Nội.
60. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999) (chủ biên), Tự điển
thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học – Vấn đề
và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Hạnh (2007), Văn hóa như nguồn mạch sáng tạo và khám
phá văn chương, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 01/2007.
63. Trần Thị Hạnh (2010), Sự hướng thiện của các nhân vật trong tiểu thuyết
Sơn Nam, Tạp chí Khoa học Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 6 (41)/ 2010.
64. Nguyễn Hạnh (2008), Sơn Nam, một người tận tâm vì lịch sử, Tạp chí Xưa
& Nay, số 314/ 2008.
65. Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Phan (2008), Văn học thời kỳ 1945 - 1975 ở thành
phố HCM, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
66. Trần Thị Hồng Hạnh (2008), Vĩnh biệt cây tràm cổ thụ, Báo Tuổi trẻ, số
221/2008 (5544), 14/8/2008.
67. Nguyễn Đình Hảo (1983), Văn học đô thị miền Nam 1954 - 1975, Giáo
trình (Học phần), Đại học Đà Lạt, 1983.
68. Phan Thu Hiền (1998), Thi pháp học cổ điển Ấn Độ, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
69. Hồ Sĩ Hiệp (1986), Vài nét về văn xuôi kháng chiến Nam Bộ, Tạp chí Văn
nghệ quân đội.
157
70. Lý Tùng Hiếu (2007), Ngôn ngữ - văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ,
Tiền phong online, 18.11.2007.
71. Lý Tùng Hiếu (2013), Lời giới thiệu chuyên luận Văn hóa Nam Bộ qua
cái nhìn của Sơn Nam, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
72. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại (hai tập), NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 73. Đỗ Đức Hiểu (1983, 1984) (chủ biên), Từ điển văn học, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
74. Đỗ Đức Hiểu (1985), Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử Văn
học Việt Nam, Tạp chí Văn học/ 1985.
75. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận Phong cách học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 76. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
77. Tô Hoài (1966), Bước phát triển mới của các thể ký, Tạp chí văn học, số
08/ 1966.
78. Phan Hoàng (1998), Sơn Nam - Nhà văn - Nhà Nam Bộ học, Phỏng vấn
người Sài Gòn, NXB Trẻ, tr. 67/ 1998.
79. Phan Hoàng (1999), Nhà văn Sơn Nam và vùng đất Nam Bộ, Đại đoàn kết,
tháng 7/1999, tr. 12 – 13.
80. Nguyễn Công Hoan (1977), "Trau giồi Tiếng Việt", Hỏi chuyện các nhà
văn, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
81. Bạch Văn Hợp (2002), Đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng,
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, trường Đại học Sư Phạm, Tp. Hồ Chí Minh.
82. Phạm Thanh Hùng (2012), Truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước đô
thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1965, NXB Giáo dục.
83. Đoàn Trọng Huy (2002), Về phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Báo Khoa
học Đại học Sư Phạm, Hà Nội, Số 5/ 2002.
84. Đoàn Trọng Huy (2002), Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khải - in trong Nguyễn Khải - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
85. Lê Thanh Huyền (2011), Phong cách nghệ thuật R.Tagore trong truyện
ngắn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
86. Ngiễn Ngu Í (1965), Sống và viết với…, Sơn Nam, Bách khoa số 2+3, tr. 69
- 76/ 1965.
87. Nguyễn Văn Kha (2002), Văn học, cảm nhận và suy nghĩ, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
158
88. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện
Việt Nam hiện đại 1975 - 2000, NXB Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
89. Nguyễn Văn Kha (2012), Cách tân văn học quốc ngữ Nam Bộ, Tạp chí
Khoa học, Đại học Sư Phạm, Tp Hồ Chí Minh.
90. Nguyễn Văn Kha (2013), Tính cách của người Nam Bộ, Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 04/2013.
91. Lê Phú Khải (2009) (chủ biên), Đó là Sơn Nam, NXB Thanh niên, Tp. Hồ
Chí Minh.
92. Cao Huy Khanh (1970), Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955 -
1969); Tuần báo Khởi hành, số 74/ 1970.
93. Đỗ Văn Khang (2013), Cơ sở lý luận văn học, NXB Thông Tin và Truyền
thông, Hà Nội.
94. Ma Văn Kháng (1999), Về truyện ngắn, Văn nghệ quân đội, số 04/ 1999. 95. Bách Khoa, Đàm thoại với Sơn Nam, tác giả Thiên Địa hội và cuộc Minh tân 96. Thụy Khuê (2009), Văn học miền Nam 1954 -1975 theo cách nhìn của
Vương Trí Nhàn hôm nay, Tạp chí Hợp lưu, số 103, 18/2/2009.
97. M.B.Khravchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, Lê Son và Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
98. M.B.Khravchenko (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực và con người, tập
1, 2, do Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
99. M.B.Khravchenko (2002, Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu), Những vấn
đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
100. Khuyết danh, Vĩnh biệt “Ông già Nam Bộ” Sơn Nam, Báo Tuổi trẻ,
13/8/2008.
101. Milan Kudera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, NXB
Đà Nẵng.
102. Đinh Trọng Lạc (1993) (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học
tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
103. Tôn Phương Lan (1998), Nguyễn Thi và phong cách nghệ thuật của ông
qua tiểu thuyết “Ở xã Trung Nghĩa”, Tạp chí Văn học, số 9/ 1998.
104. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu,
NXB Khoa học Xã hội.
105. Hoàng Lâm (1991), Trò chuyện với nhà văn Sơn Nam, Văn nghệ 16/02,
Hà Nội, tr. 12/ 1991.
159
106. Phong Lê (1985), Trên hành trình 40 năm văn xuôi: ngôn ngữ và giọng
điệu, NXB Văn học Hà Nội.
107. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện
đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
108. Nguyễn Văn Long (1997), Nhìn lại một chặng đường tiểu thuyết, Tạp chí
Văn nghệ quân đội, số 6, tr. 112/ 1977.
109. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
110. Huỳnh Lứa (1987) (chủ biên), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB
Tp. Hồ Chí Minh.
111. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc
Hòa, Thành Thế, Thái Bình (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
112. Hoàng Như Mai (1961), Về tác giả Sơn Nam in trong Văn học Việt Nam
1945 – 1960, NXB Giáo dục.
113. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Văn
học, Hà Nội.
114. Nguyễn Đăng Mạnh (1992), Tác giả văn học Việt Nam, tập 2, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
115. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật nhà
văn, NXB Giáo dục , Hà Nội.
116. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Chân dung và
phong cách, NXB Văn học, Hà Nội.
117. Nguyễn Hoàng Mi (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn
1954 - 1975, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
118. Tôn Thảo Miên (1997), Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn,
Tạp chí văn học, số 01/ 1997.
119. Tôn Thảo Miên (2005), Vấn đề tiếp nhận và thực tiễn nghiên cứu phong
cách nhà văn, Kỷ yếu hội thảo khoa học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
120. Tôn Thảo Miên (2005), Nguyễn Tuân – Dấu ấn của cá tính sáng tạo, Tạp
chí Nghiên Cứu văn học, số 02/ 2005.
121. Tôn Thảo Miên (2006), Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách,
Tạp chí văn học, số 05/ 2006.
122. Tôn Thảo Miên (2016), Văn học Việt Nam: Dấu ấn – Giao lưu – Tác
động, NXB Văn học, Hà Nội.
160
123. Mikhail Arnaudov (1978), Tâm lý sáng tạo văn học, Hoài Lam, Hoài Ly
dịch, NXB Văn học, Hà Nội.
124. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội.
125. Nguyễn Việt Nga (2012), Luận án tiến sĩ, Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô thị miền Nam 1954 - 1975, Học viện Khoa học Xã hội, ngày 5/2012, LA.62.22.32.04.
126. Lê Thị Nghĩa (2009), Sơn Nam và Hương rừng Cà Mau, Luận văn thạc
sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội.
127. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
128. Nguyễn Thanh Nhã (sưu tầm và biên soạn) (2001), Cuộc đời và sự nghiệp
nghệ sĩ nhân dân Phùng Há, nhà Nam Bộ học Sơn Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
129. Phùng Quý Nhâm, Lê Ngọc Trà, Hoàng Văn Cẩn (1997), Lý luận văn
học, Đại học Sư phạm Tp. HCM xuất bản.
130. Phạm Nhân (1966), Suy nghĩ về khả năng của thể ký: Qua một số bút ký,
ghi chép, hồi ký của miền Nam, Tạp chí văn học, số 07/ 1966.
131. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 132. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 133. Mai Thị Nhung (2006), Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, Luận án tiến sĩ,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, NXB Giáo dục, Hà Nội.
134. Nguyễn Văn Nở, Dương Thị Thúy Hằng (2010), Thành ngữ, tục ngữ cải
biên trong tác phẩm Sơn Nam, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 11 (181)/ 2010.
135. Nguyễn Văn Nở, Dương Thị Thúy Hằng (2011), Môi trường tự nhiên, văn hóa và con người Nam Bộ trong tác phẩm Sơn Nam qua thành ngữ, tục ngữ, Tạp
chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 1 + 2 (183 + 194) / 2011.
136. Nhiều tác giả (1979), Văn học yêu nước, tiến bộ trong lòng các thành thị miền Nam, in trong Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội.
137. Nhiều tác giả (1997), Văn học yêu nước tiến bộ cách mạng trên văn đàn
công khai Sài Gòn 1954 - 1975, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
138. Nhiều tác giả (1997), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ
điển học Hà Nội, Đà Nẵng.
139. Nhiều tác giả (1977), Văn hóa, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy
161
(Tập I, II), NXB Văn hóa, Hà Nội.
140. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, tập 1, 2, NXB Văn học, Hà Nội. 141. Hoàng Phủ Ngọc Phan (1993), Hương rừng Cà Mau - Một loại cảo thơm
quý giá, Tuổi trẻ, ngày 13/02/1993.
142. Hoàng Phủ Ngọc Phan (1998), Hương rừng Cà Mau, Giới thiệu và bình
luận, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
143. Thịnh Phát (2007), Ông già Nam Bộ, Văn hiến Việt Nam, số 11/2007, tr.
30 – 31.
144. Võ Phiến (1999 - 2000), Hai mươi năm văn học miền Nam, NXB Văn
nghệ, California, USA.
145. Thế Phong (1960), Lược sử văn nghệ Việt Nam (1900 - 1956), Tủ sách
Đại Nam Văn Hiến xuất bản, Saigon.
146. Nguyễn Nghiêm Phương (2009), Màu sắc Nam Bộ trong ngôn ngữ truyện
ký Sơn Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
147. Huỳnh Như Phương (2011), Văn xuôi hư cấu: ranh giới và giao thoa thể loại (trên cứ liệu văn học miền Nam 1954 - 1975), Kỷ yếu hội thảo Quốc tế Những
lằn ranh văn học, Đại học Sư phạm, Tp. Hồ Chí Minh ngày 23/12/2011.
148. Viễn Phương (1986), Hương rừng Cà Mau – Giới thiệu và bình luận,
NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
149. G. N. Poxpelov (1985) (Chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1,
2, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội.
150. Phan Quang (2001), Bút ký đồng bằng sông Cửu Long, NXB Trẻ, Tp. HCM. 151. Vũ Tiến Quỳnh (1994), Phê bình bình luận văn học Anh Đức – Nguyễn
Quang Sáng – Sơn Nam, NXB Văn nghệ, Tp. HCM.
152. Nguyễn Văn Sâm (1969), Văn học miền Nam, Kỷ Nguyên xuất bản,
Saigon.
153. Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng chiến
chống Pháp 1945 - 1950, Lửa Thiêng xuất bản, Saigon.
154. Trần Quang Sen, Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở (2006), Hồ Biểu Chánh
người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Văn Nghệ, Tp. HCM.
155. Nguyễn Khắc Sính (2001), Mấy vấn đề về khái niệm phong cách thời đại,
phong cách trào lưu của văn học, Tạp chí Văn học, số 8, tr. 64/ 2001.
156. I. P. Slin (2001), Trần thuật học, Tạp chí Văn học, số 10, tr. 76/ 2001. 157. Thiếu Sơn (1962), Hương rừng Cà Mau – Phê bình sách mới, Phổ thông,
162
ngày 15/6 tr. 156 – 161
158. Nguyễn Vinh Sơn (2008), Cho tôi được gọi ông bằng thầy! Thương tiếc
nhà văn Sơn Nam, Người lao động, ngày 15/8/2008, tr. 08.
159. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng
tạo, NXB Văn học, Hà Nội.
160. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục
& Đào tạo, Vụ Giáo viên xuất bản.
161. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, Hà Nội. 162. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 163. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2008), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và
lịch sử, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
164. Trần Đình Sử (2008), Lý luận văn học, NXB Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 165. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học đã qua, NXB
Trẻ, Tp. HCM.
166. Trần Hữu Tá (2000), Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh
của văn học Việt Nam hiện đại, Nghiên cứu văn học, tr. 29 – 30, số 5/ 2005.
167. Trần Hữu Tá, (1998) Sức hấp dẫn của những trang văn ấy, In trong Bình
luận văn học, niên giám 1997, NXB Khoa học xã hội, tr. 41/1998.
168. Tạp chí Xưa và Nay (2001), Nam Bộ xưa và nay, NXB Trẻ, Tp. HCM. 169. Đào Tăng (2011), Mười năm đi & Sống với Sơn Nam, NXB Trẻ, Tp. HCM. 170. Đào Tăng (2012), Nhà văn Sơn Nam – Đất và người Nam Bộ, NXB Đồng Nai 171. Nguyễn Thanh (2004), Văn học nghệ thuật vùng đất cực Nam tổ quốc
phát triển, NXB Mũi Cà Mau.
172. Võ Văn Thành (2009), Sơn Nam – cây đại thụ của văn học, văn hóa
Nam Bộ, Tạp chí Xưa & Nay, số 337, tháng 8/ 2009.
173. Võ Văn Thành (2013), Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, NXB
Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
174. Nguyễn Q. Thắng (1999), Tự điển tác gia Việt Nam, NXB Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
175. Nguyễn Q. Thắng (2008), Văn học Việt Nam - nơi miền đất mới, NXB
Văn học, Hà Nội (4 tập).
176. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội. 177. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
163
thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
178. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB. Tp. HCM. 179. Nguyễn Thi (1984), Truyện và ký, NXB Văn học, Hà Nội. 180. Đỗ Thị Lê Thi (2011), Thiên nhiên trong truyện ngắn Sơn Nam, Luận văn
thạc sĩ, Đại học Sư Phạm, Hà Nội.
181. Nguyễn Thành Thi (2005), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam,
NXB Khoa học Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.
182. Trần Nho Thìn (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
183. Bùi Công Thuấn (1997), Phong cách truyện ngắn Nam Cao trước Cách
mạng, Tạp chí văn học, số 02/ 1997.
184. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
185. Đỗ Lai Thúy (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
186. Đỗ Thị Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
187. Đinh Thị Thanh Thủy (2008), Sơn Nam cuộc đời và sự nghiệp, Tạp chí
Xưa & Nay, số 314, tháng 8/2008.
188. Phạm Thị Thu Thủy (2012), Dấu ấn Nam Bộ trong tập truyện ngắn Mùa
"len" trâu của nhà văn Sơn Nam, Tạp chí Nhà văn, tháng 3/2012.
189. Phan Trọng Thưởng (1991), Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học
trong điều kiện chiến tranh 1945 - 1975, Tạp chí văn học, số 1/ 1991.
190. Huỳnh Công Tín (2007), Tự điển Từ ngữ Nam Bộ, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
191. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXN Trẻ, Tp. HCM. 192. Nguyễn Thị Thu Trang (2007), Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai
đoạn 1954 - 1975, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5/2007.
193. Lê Thị Thùy Trang (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam, giai đoạn
1954 – 1975, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư Phạm, Tp. Hồ Chí Minh.
194. Nguyển Quốc Trung, Sơn Nam – Những trang tự bạch, Sài Gòn Giải
phóng thứ bảy, ngày 09/02, tr. 16.
195. Phạm Văn Tường (2004), Phong cách nghệ thuật Nam Cao, Luận án tiến
sĩ, Trường Đại học Sư phạm, Tp. Hồ Chí Minh.
164
196. Tạ Tỵ (1971), Mười khuôn mặt văn nghệ, tập 1, Kim Lai xuất bản, Saigon,
1970; Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, tập 2, Lá Bối xuất bản, Saigon, 1971.
197. Nguyễn Thị Thanh Xuân, (1998) Nhìn lại văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1945-1954), In trong Bình luận văn học, niên giám 1997, NXB
Khoa học Xã hội, tr. 20/ 1998.
TƯ LIỆU TRÊN CÁC TRANG WEB (INTERNET)
198. Trần Hoài Anh (2009), Quan hệ giữa sáng tác với lý luận phê bình văn
học ở đô thị miền Nam 1954-1975, (http://www.nhavantphcm.com.vn.)
199. Trần Hoài Anh (2011), Truyện ngắn trong quan niệm của lý luận phê
bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975, (http://www.nhavantphcm.com.vn
200. Hòa Bình (2012), Nhớ Sơn Nam với “Văn minh miệt vườn”, 28/12/2012,
http://www.phapluattp.vn.
201. Bách khoa toàn thư – Wikipedia (2014), Sơn Nam, ngày 29/6/2014
http//www.vi.wikipedia.org/wiki/sonnam. ngày 29/6/2014
202. Võ Đắc Danh (2008), Nhà văn Sơn Nam với công trình khảo cứu về con
người Nam Bộ, http://www.mail.google.com, ngày 03/19/2008.
203. Trần Phỏng Diều (2007), Hình tượng sông rạch trong truyện ngắn Sơn
Nam, http://www.vnweblogs.com, ngày 6/8/2007.
204. Đoàn Ánh Dương (2006), Cánh đồng bất tận nhìn từ mô hình tự sự và
ngôn ngữ trần thuật, http://www.tieuluan.hopto.org , 8/2006.
205. Lam Điền (2012), Hương rừng không chỉ ở Cà Mau, http://www.
phamngochien.com,
206. Lam Điền (2013), Từ Sơn Nam hiểu thêm về văn hóa Nam Bộ, http://
www.tuoitre.vn.
207. Nguyễn Văn Hà (2012), Sơn Nam và truyện ngắn Tây Đầu Đỏ, Tạp chí
Đại học Sài Gòn, số 1/2012, http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, 2012.
208. Đoàn Thạch Hãn (2007), Nhà văn Sơn Nam sống bằng hơi thở đất rừng
U Minh, http://www.thanhnhien.com.vn, 22/12/2007.
209. Trần Mạnh Hảo (2004), Sơn Nam - Dề lục bình Nam bộ, http://www.
vanchuongviet.org, 2004.
210. Lý Tùng Hiếu (2007), Vùng văn học Nam bộ: định vị và đặc trưng văn
hóa, http://www. vanhoahoc.com.vn, 22/12/2007.
165
211. Phạm Thanh Hùng (2011), Nghĩ suy về những nhà văn dòng văn học yêu nước
đô thị miền Nam lần lượt đi xa..., http://thanhhungagu.blogspot.com, tháng 01/ 2011.
212. Phan Mạnh Hùng, Tiểu thuyết đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954,
http://www.hcmup.edu.vn.
213. Đoàn Trọng Huy (2016), Về thi pháp nghệ thuật Sơn Nam, http:// www.
nguvan.hnue.edu.vn
214. Đoàn Trọng Huy (2017), Sơn Nam – người và văn, tháng 2/2017,
http://www. clbnguoiyeusach.com
215. Nguyển Vy Khanh (1998), Một số ghi nhận về văn học miền Nam lục tỉnh
1954 - 1975, http://www.dunglac.org, tháng 5/1998.
216. Thụy Khuê (2008), Văn học miền Nam, www.hopluu.org, 21.11.2008. 217. Lý Lan (2012), Đọc lại Tình nghĩa giáo khoa thư, http://www.tuoitre.vn,
28/12/2012.
218. Tống Cảnh Liêm (2009), Thượng chi văn tập, phần “Văn thuyết”,
http://www.chungta.com
219. Trần Hữu Lục (2011), Văn học dấn thân yêu nước giữa lòng đô thị Việt
Nam, http://www.nhavanhcm.com.
220. Trần Hữu Lục (2011), Thanh xuân , có một thời như thế...,. http://www,
nhavantphcm.com.vn.
221. Nguyễn Hữu Hồng Minh (2008), Sơn Nam, Người đi bộ vào bất tử,
http://www.vn.net, 14/8/2008.
222. Trần Văn Nam (2011), Các thời kỳ văn học miền Nam 1963 - 1975,
http://www.diendantheky.net, ngày 04/01/2011
223. Minh Nguyệt (2007), Vùng đất Nam Bộ trong văn chương Sơn Nam,
http://namkyluctinh.org/a-vhbkhao, ngày 20.7.2007.
224. Nhà xuất bản Trẻ (2009), Sơn Nam – Sơn Nam – Ông già đi bộ,
20/8/2009. http://www.nxbtre.com.vn.
225. Hoàng Nhân (2008), Hào khí Nam Bộ trong Hương rừng Cà Mau,
28.12.2012, http://leminhquoc.vn.
226. Võ Phiến (1998), Một nhân sĩ trong làng văn (Bình Nguyên Lộc), http://
www.binhnguyenloc.com., tháng 5/1998.
227. Phạm Phú Phong (2007), Văn chương Bình Nguyên Lộc - Từ góc nhìn
văn hóa, www.binhnguyenloc.com., tháng 9/2007.
228. Phạm Phú Phong (2007), Thấy gì trong di sản văn chương Bình Nguyên
166
Lộc, Chuyên mục Tư liệu văn nghệ sĩ. www.binhnguyenloc.com., tháng 9/2007.
229. Thanh Phúc (2009), Hiểu Sài Gòn xưa và nay qua Bút ký Sơn Nam,
http://www.baomoi.com, 20/01/2009.
230. Thanh Phúc (2009), Nhà văn Sơn Nam, cây bút vàng của Nam Bộ,
http://namkyluctinh.org, 20/01/2009.
231. Lê Minh Quốc (2012), Sơn Nam - Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê,
http://leminhquoc.vn., 2012.
232. Lê Minh Quốc (2012), 50 năm Hương rừng Cà Mau, http://www.
leminhquoc.vn., 2012.
233. Trần Trung Sáng (2014), Nhớ người từ độ phong sương,
http://www.cadn.com.vn., ngày 16/7/2014.
234. Phạm Sỹ Sáu (2013), Cố nhà văn Sơn Nam: Càng gần càng thấy lạ,
http://www.plo.vn., ngày 05/9/2013.
235. Chu Văn Sơn (2011), Chuyên đề Truyện ngắn (phần lý thuyết), ngày
14.3.2011, http://www,phanthanhoan.vnweblogs.com.
236. Chu Văn Sơn (2007), Tác phẩm lớn, tại sao chưa? http://www.
chungta.com.
237. Chu Văn Sơn (2008), Nhà văn Sơn Nam sẽ trồng lại cây đước tiền kiếp
trên châu thổ, http://www.vn.net, 2008.
238. Bùi Bình Thi (2013), Chuyện về nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Nguyễn Bính,
http://www.antgct.cand.com.vn., Ngày 23/9/2013.
239. Minh Thi (2012), Khoảng trống sau Sơn Nam không ai thay thế được, http://laodong.com.vn., 2012. 50 năm Hương rừng Cà Mau của cố nhà văn Sơn
Nam, http://cadn.com.vn., 2012.
240. Phạm Thị Thu Thuỷ (2017), Con người Nam Bộ mang nặng cảm thức lưu lạc trong sáng tác của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và
Nguyễn Ngọc Tư, http://www.nguvan.hnue.edu.vn
241. Đặng Tiến (2012), Sơn Nam, Việt Nam, http://www.xuquang.org. ngày
19/10/2012.
242. Võ Tiến (2012), Chuyện chưa nói hết về Sơn Nam, http:// www.
phunuonline.com.vn.
243. Tưởng Năng Tiến (2006), Sơn Nam và rừng U Minh, http://www.
luanhoan.net.
167
244. Huỳnh Công Tín (2006), Nhà văn Sơn Nam - Nhà Nam Bộ học, in trong
Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, (http://www.namkyluctinh.org.), NXB Văn Hóa Thông tin. 245. Nguyễn Thị Thu Trang (2008), Con người và văn hóa Nam Bộ trong
truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, www.khoavanhoc-ngonngu.com.
246. Nguyễn Mạnh Trinh (2008), Sơn Nam – Ông già Ba Tri của đồng bằng
Nam Bộ, http://www.vietnamreview.com, 03/10/2008.
247. Nguyễn Quốc Trung (2006), Dấu ấn Sơn Nam, http://www.vietvan.vn. 248. Triệu Từ Truyền (2008), Sơn Nam - Phù sa giữ vườn, 14/8/2008.
http://www.nguoivienxu.com.
249. Anh Vân (2007), Hương quê - Tây Đầu Đỏ, sức hấp dẫn của truyện
ngắn Sơn Nam, http://www.evan.vnexpress.net..
250. Anh Vân (2008), Sơn Nam ra đi, khoảng hẫng còn ở lại, 14/8/2008,
http://evan.vnexpress.net, .
251. Anh Vân (2012), Hương rừng Cà Mau 50 năm thơm mãi tình quê,
http://giaitri.vnexpress.
B. TIẾNG NƯỚC NGOÀI 252. Culler, Jonathan (2007), The novel and the nation, The literary in theory,
Stanford University Press, Stanford.
253. Hans Bertens (2001) Literary Theory: the Basics, Routledge Press,
London and New York.
Book, Routledge Press, London.
254. Keith Green, Jill Lebihan (1996), Critical Theory and Practice: A Course
255. Robert. C Bost (1981), A theory of genre Romance, Realitisme and moral
reality, Yale - law school Press , Washington DC, USA.
256. Daniel Torck W. Leo Wetzels (2006), Romance languages and linguistic
theory, John Benjamins Tubrishing company Press.
257. Wellek và Warren (1962) Theory of Literature, 3th Harcourt Press New
York.
258. Wikipedia, the free encyclopedia (2012), The theory of the literature
stylelistics http://www.ask.com/wiki/Stylistics_(literature).
168
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 (Tác phẩm Sơn Nam)
TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG
STT NĂM XB TÊN TÁC PHẨM NXB GHI CHÚ
Tổng hợp Tập 1988 Tục lệ ăn trộm 01a Kiên Giang truyện ngắn
2004 Theo chân người tình & Một mảnh Trẻ Bút ký 02a
tình riêng
03a 2006 Gốc cây, cục đá & ngôi sao – Danh Trẻ Tạp bút
thắng miền Nam
04a 2006 Vạch một chân trời - Chim quyên Trẻ Truyện vừa
xuống đất,
05a 2006 Hương quê, Tây đầu đỏ & Một số Trẻ Tập
truyện ngắn khác truyện ngắn
Dạo chơi – Tuổi già 2006 Trẻ Ghi chép 06a
4 truyện vừa 2006 Trẻ Truyện vừa 07a
Bà Chúa Hòn 2007 Tiểu thuyết 08a
Sài Gòn xưa - Ấn tượng 300 năm - Tiếp Trẻ
cận với Đồng bằng sông Cửu Long 2007 Bút ký 09a
Xóm Bàu Lámg Trẻ Tiểu thuyết 2008 10a
Văn hóa 11a 2008 Sơn Nam: Đi và ghi nhớ Bút ký Sài Gòn
2009 Trẻ Truyện ngắn Biển cỏ miền Tây và Hình bóng cũ 12a
2009 Trẻ Hồi ký Hồi ký Sơn Nam 13a
Tập Trẻ 2011 Hương rừng Cà Mau, tập 1 14a truyện ngắn
Trẻ 15a 2012 Hương rừng Cà Mau, tập 2 Tập truyện ngắn
Trẻ 16a 2012 Hương rừng Cà Mau, tập 3 Tập truyện ngắn
16 Tổng cộng
169
TÁC PHẨM BIÊN KHẢO
STT NĂM XB TÊN TÁC PHẨM NXB GHI CHÚ
Phù Sa, 17b 1959 Tìm hiểu đất Hậu Giang Sài Gòn
18b 1969 Người Việt có dân tộc tính không? An Tiêm
19b 1971 Thiên Địa hội và cuộc Minh Tân Sài Gòn
20b 1975 Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Đông Phú
Nam
21b 1985 Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh Tp. HCM
hoạt xưa
Đồng tháp Danh thắng miền Nam 1985 22b
An Giang Lịch sử An Giang 1989 23b
Văn hóa Văn minh miệt vườn 1992 24b
Lăng Ông Bà Chiểu và lễ hội văn hóa Long An 1994 25b
dân gian
Đình miễu & Lễ hội dân gian Đồng Tháp 1994 26b
Giới thiệu Sài Gòn xưa Kim Đồng 1995 27b
Một thoáng Việt Nam (cùng với Phạm Trẻ 1996 28b
Xuân Thảo)
Bến Nghé xưa Trẻ 1997 29b
Người Sài Gòn Trẻ 1997 30b
Lịch sử khẩn hoang miền Nam Trẻ 1997 31b
Nghi thức lễ bái của người Việt Nam Trẻ 1997 32b
Đất Gia Định xưa Trẻ 1997 33b
Ấn tượng 300 năm Trẻ 1998 34b
Tp. HCM 1998 35b
Sài Gòn lục tỉnh xưa (Biên soạn lại theo tài liệu)
Trẻ 36b 1999
Gò Công: Cảnh cũ người xưa (Cùng Việt Cúc) Sưu tầm và bổ sung
Tiếp cận đồng bằng sông Cửu Long Trẻ 37b 2000
Cá tính miền Nam Trẻ 38b 2000
39b 2002 65 món ăn đặc sắc tham dự hội thi Phụ nữ Sưu tầm và
170
nấu ăn – Hương vị Sài Gòn (cùng bổ sung
Đào Tăng)
40b 2002 Chuyện xưa tích cũ (Viết chung với Tô Phụ nữ
Nguyệt Đình)
41b 2005
Nói về miền Nam - Cá tính miền Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam Trẻ
42b 2008 Những câu chuyện Phật Giáo Hà Nội Tôn giáo
Lịch sử đất Hậu Giang & Lịch sử đất 43b 2009 Trẻ An Giang
Đất Gia Định – Bến Nghé xưa – 44b 2014 Trẻ Người Sài Gòn
Tổng cộng 28
MỘT SỐ BÀI VIẾT LẺ
STT NĂM XB TÊN TÁC PHẨM NXB GHI CHÚ
1965 Bách khoa Tâm sự một nhà ký giả Tr. 39 – 43 45c (15/01) (Số 193-194)
1966 Bàn về hiện tượng sách báo Đồng Nai Tr. 226 – 46c
(Tháng 8) Văn tập 231
47c 1968 Đi dạo với giáo sư Nguyễn Thiệu Đồng Nai (Quyển 15)
(Số xuân) Lâu Văn tập Tr. 09 – 17
1968 Bách Khoa Xóm Rạch Ông Tế Bần Tr. 25 - 30 48c (15/6) (Số 275)
1969 Thời Nay Ngôi chùa mang tên núi Phụng Tr. 35 – 42 49c (16/6) (số 231)
Một chút lịch sử về Sài Gòn Tr. 30 – 31 50c 1970 (Tháng 1-2) Vấn đề (Số 30–31)
Tr. 89 – 90 51c
1980 (25/4) Vài hình ảnh Sài Gòn thời Pháp thuộc VN Tp.HCM (Số 118)
1991 Cần chú ý những chi tiết mang Phụ nữ 52c
(01/5) Thứ tư Tr. 06
tính lịch sử: Trao đổi, đi tìm biểu tượng Sài Gòn
171
53c 1991 Địa chỉ: Cầu Muối, Ông Lãnh Phụ nữ Tr.06
(01/5) Thứ bảy
1991 54c Nhân nghĩa, cốt lõi của văn hóa Sài Gòn Tr. 04
(14/9) Việt Nam Giải phóng
55c Tr. 06
1992 (20/6) Tản mạn về một thời làm báo ở Sài Gòn Phụ nữ Thứ tư
1992 Phụ nữ 56c Địa chỉ: Chợ Xã Tây, Chợ Lớn Tr. 05 (02/9) Tp. HCM
57c Lao Động
1992 (Số xuân) Người Nhật từng cư ngụ ở cửa sông Cửu Long cách đây hơn 300 Tr. 19 – 23
năm
Trương Văn Bền, người đã làm Khoa học Kỹ 1993 58c rạng rỡ hàng nội địa: Gương thuật Kinh tế (15/3) Tr. 18 doanh nhân Việt Nam, Tp. HCM
1993 Tuổi trẻ CN 59c “Đám lá tối trời” Nhựt Minh Tr. 61 – 62 (19/9) (Số 37)
1993 Tuổi trẻ CN 60c 1983, Sài Gòn – 100 năm trước Tr. 58 (31/01) (Số 04)
1994 61c Trương Vĩnh Ký làm báo như thế Phụ nữ Tr. 05
(22/6) nào? Thứ bảy
62c Cây xanh với người Sài Gòn Tr. 04 1995 (04/01) Phụ nữ Thứ bảy
1996 Sài Gòn 63c Món ăn độc đáo ở miệt vườn Số xuân tiếp thị
64c 1996 Phong vị thời khẩn hoang trong Sài Gòn
món ăn miền Nam tiếp thị
65c Khi Việt kiều nhớ nhà Quê hương Tr. 09 – 10 1996 (Tháng 1)
66c Tr. 41 1996 (26/4) Đôi điều suy nghĩ về việc đặt tên đường Công An Tp. HCM
67c Tr. 03
1996 (10/4) Không nên trông cậy người ngoài yêu nước thay cho ta Công An Tp. HCM
68c Món ngon: Dã hạc Giang Nam Mây hồng Tr. 08 – 11
172
69c 1997 Mâm cơm Tết Nam Bộ Phụ Nữ
Số xuân
70c 1997
(Xuân Đinh Lai rai 3 món bình dân ở Sài Gòn Sài Gòn Tr. 34
tiếp thị Sửu)
71c 1997 Cải lương thuở ban đầu – Tìm về PN Thứ bảy Tr. 20 - 21
(Số 69) (06/9) Sài Gòn xưa
PN Thứ bảy 1997 72c Bóng đá Sài Gòn xưa Tr. 16 - 17 (Số 61) (09/8)
73c 1997 Nguyễn Hữu Cảnh và thuở mang PN Thứ bảy Tr. 14 - 15
(Số 55) (19/7) gươm đi mở nước
74c 1997 Lũy Hoa Phong ở đâu tại Sài Gòn Tuổi trẻ CN Tr. 208-210
(Số 28)
75c 1998 Sài Gòn đầu tư Tr. 30 – 31
(Th. 11-12) 18 thôn vườn trầu & Xây dựng
76c 1998 Tiền tệ trong dân gian ở đật Gia Thông tin Tr. 24 – 25
ngân hàng (Tháng 9) Định xưa
77c Người mở nước về phía Nam Tr. 40
Phụ nữ Tp. HCM 1998 (Số xuân)
78c 1998 Người Sài Gòn thuở ấy... Trích 300 năm Tr. 16 – 19
(Trích) SG - TP. HCM
79c 1998 Đu tiên, đu bầu ngày tết ở Sài
(Số Xuân) Gòn xưa Văn hóa Tr. 22
80c 1998 Giỗ chạp, thờ tự cuối năm Tuổi trẻ CN Tr. 227
(25/01)
81c Nét đẹp phụ nữ Sài Gòn Tr. 08
1999 (Số xuân) Phụ nữ Tp. HCM
82c
1999 (Tháng 11) Kể chuyện Vương Hồng Sển Tr. 15 - 16
Xưa & Nay (số 69B)
83c 2000 Tr. 19
Ngày xưa dân Nam Bộ ăn như thế nào? Đại Đoàn Kêt (số 16)
84c 2001 Nét đẹp phong cách người Sài Đại Đoàn Kêt Tr. 19
173
Gòn (số 124)
85c Nét đẹp người Sài Gòn Tr. 8
2004 (Tháng 10) Du lịch (số 103)
86c 2005 “Cầu xin hai chữ bình an” Xưa & Nay Tr. 50 – 52
(Tháng 1-2) (số 229-230)
87c Sài Gòn 105 Sự vắng bóng các ngôi chùa tại Bộ sưu tập Bùi Tr. 212-215
Sài Gòn Văn Quế
88c Sài Gòn 105 Thương cảng Sài Gòn thành hình Bộ sưu tập Bùi Tr. 87 - 88
và phát triển Văn Quế
89c Sài Gòn 105 Nhớ về Sài Gòn - Gia Định từ Bộ sưu tập Bùi Tr. 59 - 60
buổi sơ khai Văn Quế
90c Sài Gòn 106 “Hát bóng Sài Gòn xưa”: Ngày Bộ sưu tập Bùi Tr. 230-233
tết kể chuyện Văn Quế
91c Sài Gòn 106 Đất Khánh Hội Bộ sưu tập Bùi Tr. 50 - 51
Văn Quế
92c Sài Gòn 112 Kiến trúc xưa ở Sài Gòn Bộ sưu tập Bùi Tr. 43
Văn Quế
174
Tổng cộng 48
PHỤ LỤC
175
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH TRUYỆN VỪA VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA SƠN NAM
TRUYỆN NGẮN
STT TÊN TẬP TRUYỆN TÊN TÁC PHẨM
01 Hương quê - Tây Đầu Đỏ
& Một số truyện ngắn
khác (30 truyện)
NXB Trẻ, 2006
176
1. Ba kiểu chạy buồm 2. Một buổi tiệc khó hiểu 3. Bữa tiệc cờ Tây 4. Cá nước, chim trời 5. Câu thai đố 6. Cây trứng cá 7. Chuyện con mèo 8. Chuyến đi xích lô 9. Con cháu Thần nông 10. Dãy Cô tô 11. Đánh cọp Gò Quao 12. Hào hoa phong nhã 13. Hồn con mèo 14. Lá xăm số 58 15. Mỏ vàng ở Hòn Tre 16. Một bức chân dung 17. Một kiểu làm ăn 18. Một vũng máu tầm thường 19. Nàng thơ lạc lối 20. Ngày bổ tróc 21. Nghe chim hót 22. Những viên thuốc bổ 23. Ông thầy rắn 24. Ông thổ chủ 25. Súng bắn không chết 26. Tâm sự chú lái nồi
27. Tấm lòng vàng 28. Tây Đầu Đỏ 29. Vùng Láng Linh 30. Xác con chó
02
Biển cỏ miền Tây (19 truyện)
NXB Trẻ, 2009
31. Cấm bắt rùa 32. Con bà Tám 33. Con cá chết dại 34. Đường về quê 35. Hai cõi U Minh 36. Kéo Trúm 37. Lũ trẻ chăn trâu 38. Mây trời và rong biển 39. Một chuyện khó tin 40. Một người hàng xóm 41. Ngày hội ba khía 42. Ngày xưa tháng chạp 43. Ngó lên sở thượng 44. Người đi đêm 45. Qua hiệu sách 46. Trong lòng bàn tay 47. Tục lệ ăn trộm 48. Vẹt Lục Bình 49. Vọc nước giỡn trăng
03 Hương rừng Cà Mau, Tập
1 (21 truyện) NXB Trẻ, 2011
177
50. Anh hùng rơm 51. Ăn to xài lớn 52. Bà đầm Phô – Xi - Đông 53. Bà vợ thứ mười 54. Bác vật xà bông 55. Bắt sấu rừng U Minh Hạ 56. Bốn cái ngu 57. Bức tranh con heo 58. Cái tổ ong 59. Cái va li bí mật
60. Cao khỉ U Minh 61. Cậu Bảy Tiểu 62. Cây huê xà 63. Chiếc ghe ngo 64. Chuyện năm xưa 65. Chuyện rừng tràm 66. Con Bảy đưa đò 67. Con heo khịt 68. Con ngựa đất 69. Con rắn 70. Con rắn ri voi
Hương rừng Cà Mau, Tập
2 (23 truyện) NXB Trẻ, 2012
04
178
71. Con sấu cuối cùng 72. Con trích ré 73. Cô Út về rừng 74. Đại chiến với thầy Chà 75. Đảng "Cánh buồm đen" 76. Đảng xăm mình 77. Đóng gông ông thầy Quýt 78. Đồng thanh tương ứng 79. Đơn Hùng Tín chào đời 80. Giấc mơ ngoài bãi tha ma 81. Hai con cá 82. Hai mẹ con 83. Hai ông già 84. Hai viên ngọc 85. Hát bội giữa rừng 86. Hết thời oanh liệt 87. Hòn Cổ Tron 88. Hội ngộ bến Tầm Dương 89. Hồn người trong ly rượu 90. Hương rừng 91. Kho vàng 92. Miễu Bà Chúa Xứ
93. Mối tình ... Đầm lai
Hương rừng Cà Mau, Tập 3 (21 truyện)
NXB Trẻ, 2011
05
94. Một cuộc biển dâu 95. Một kiểu anh hùng 96. Mùa "len" trâu 97. Ngày mưa đầu mùa 98. Ngôi mộ chôn đứng 99. Người bạn triệu phú 100. Người mù giăng câu 101. Người tình của cô đào hát 102. Nhứt phá sơn lâm 103. Ông Bang Cà Ròn 104. Ông già xay lúa 105. Ruộng lò Bom 106. Sông Gành Hào 107. Tháng chạp chim về 108. Thằng điếm vô danh 109. Thơ núi Tà Lơn 110. Tình bậu muốn thôi 111. Tình nghĩa giáo khoa thư 112. Xóm Cù Là 113. Xuất quỉ nhập thần 114. Yêu cho được
TC 114 truyện
TRUYỆN VỪA
Vạch một chân trời
1. Vạch một chân trời 2. Chim quyên xuống đất 06 Chim quyên xuống đất (02 truyện) NXB Trẻ, 2003
3. Hình bóng cũ
Biển cỏ miền Tây & Hình bóng cũ (01 Truyện) 07
NXB Trẻ, 2009
179
4. Chuyện tình một người thường dân 4 truyện vừa
(04 truyện) NXB Trẻ, 2006 Truyện ngắn của truyện ngắn Ngôi nhà mặt tiền 08
5. 6. 7. Âm dương cách trở
TC 07 truyện
KÝ
Dạo chơi & Tuổi già (02 truyện) 09
NXB Trẻ, 2006 1. Dạo chơi 2. Tuổi già
Hồi ký Sơn Nam (04 truyện) 10
NXB Trẻ, 2009 3. Từ U Minh đến Cần Thơ 4. Ở Chiến khu 9 5. 20 năm giữa lòng đô thị 6. Bình an
Theo chân người tình
&
7. Theo chân người tình 8. Một mảnh tình riêng 11
Một mảnh tình riêng (7 truyện)
NXB Trẻ, 2003
180
TC 08 truyện
PHỤ LỤC 2
TIỂU SỬ SƠN NAM
1. Tiểu sử
Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài (hoặc Tày), sinh ngày 11/12/1926 tại làng
Đô Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc tỉnh Kiên Giang). Do sự nhầm lẫn
của nhân viên hộ tịch, tên khai sinh của ông bị viết sai thành Phạm Minh Tày. Sơn
Nam sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, tổ tiên của nhà văn cũng
từng là những lưu dân đi khẩn đất hoang. Gia đình của tổ tiên nhà văn đã đến lập
nghiệp ở Cù lao Ông Chưởng (An Giang). Khoảng năm 1840, ông nội Sơn Nam chạy
giặc Pháp, qua Rạch Giá, đến xóm Cù Là rồi xuống U Minh. Vùng đấy này, người
Pháp đang cho trưng khẩn đất tự do, nhưng khó có thể sống được vì “đất quá úng”,
chưa “có dân lưu tán đến” khai phá, chưa có “kinh đào thủy lợi” nên những người
nhận đất rồi trả đất lại cho nhà nước để “khỏi đóng thuế”. Khi tác giả lên 6 tuổi, cha
nhà văn là con út của gia đình rời quê hương đi lên phía Bắc, ven vịnh Thái Lan, cách
thị xã Rạch Giá khoảng 15km nay được gọi là vùng ven khu Tứ giác Long Xuyên
(Rạch Giá – Hà Tiên – Long Xuyên – Châu Đốc) khẩn đất lần nữa. Nơi này vẫn dân
cư thưa thớt, nước phèn mặn, ven giồng đất thấp úng lụt… chỉ có một vài gia đình
Khmer sống co cụm dọc theo mé biển trên những giồng cát cao ráo. Lúc này kênh
Rạch Giá – Hà Tiên vừa được đào xong nhưng chưa được sử dụng. Ngay từ khi còn
nhỏ được sống bên cạnh những người di dân và công cuộc khẩn hoang kỳ vĩ của họ.
Nên ông đã có sự quan tâm đặc biệt đối với lịch sử khẩn hoang của miền Nam. Dù gia
đình nghèo nhưng Sơn Nam là người may mắn, được học hành tử tế. Lại thêm tư chất
thông minh, làm việc tận tâm nên ông làm rạng danh cho dòng tộc và quê hương
mình.
Khi còn nhỏ, ông học tiểu học ở Rạch Giá. Tuổi thơ của Sơn Nam gắn bó với
vùng đất hoang sơ này nên tác phẩm của nhà văn lấp lánh vẻ đẹp tự nhiên, chất đôn
hậu, quê mùa của con người ở nơi tận cùng tổ quốc. Sau đó, ông lên học trường
Trung học Phan Thanh Giản ở Cần Thơ. Đây là bước ngoặt dẫn đến sự thay đổi của
cuộc đời ông sau này. Trong những năm tháng đi học, Sơn Nam đã chứng kiến nhiều
sự kiện quan trọng của vùng đất Tây Đô như thực dân Pháp hành quyết thầy giáo yêu
181
nước Phan Ngọc Hiển giữa lòng thành phố; nhiều vụ bắt bớ, lục soát, tìm bắt những
người yêu nước của chính quyền thực dân; cuộc sống bế tắc của người dân Nam Bộ,
Nhật sửa soạn đảo chính Pháp… những điều ấy khiến ông phải suy nghĩ về thời cuộc.
Vùng tứ giác Long Xuyên
Năm 1945, sau khi tốt nghiệp bậc Thành Chung, gia đình không đủ điều kiện
chu cấp cho ông tiếp tục học. Ông dự định về lại Rạch Giá thì Cách Mạng Tháng Tám
bùng nổ, ông tham gia thanh niên tiền phong giành chính quyền ở địa phương và
công tác ở hội Văn hóa Cứu quốc tỉnh, phòng Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ
Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Ông trở thành nhà văn cách mạng tiên phong. Cuộc
sống gian khổ và chiến đấu ác liệt ở rừng U Minh và vùng tứ giác Long Xuyên đã
cung cấp cho nhà văn một vốn tư liệu ngồn ngộn chất sống. Thời gian này, sự nghiệp
sáng tác của Sơn Nam bắt đầu. Bút danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để
tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu (Sơn là một họ lớn
182
của người Khmer, Nam là để nhắc nhở mình là người phương Nam). Giai đoạn này,
Sơn Nam học tập và rèn luyện rất nhiều để hình thành một nhà văn và nhà biên khảo
chuyên viết về lịch sử khẩn hoang và văn hóa Nam Bộ sau này. Năm 1952, ông đoạt
luôn hai giải thưởng giải nhất và giải hai cho hai tác phẩm đầu tay là Bên rừng Cù lao
Dung và Tây Đầu Đỏ do Ủy ban kháng chiến Nam Bộ tổ chức. Điều này càng tạo cho
nhà văn niềm hứng khởi trong sự nghiệp văn chương
Sau hiệp định Genève 1954, ông được phân công trở lại Rạch Giá tiếp tục
hoạt động văn nghệ và báo chí công khai ở miền Nam. Năm 1955, ông lên Sài Gòn
làm việc và hoạt động cách mạng cùng với Viễn Phương, Ngọc Linh, Trang Thế Hy,
Lê Vĩnh Hòa… Ông hòa nhập với giới ký giả Sài Gòn, tiếp tục viết, thứ nhất là để
kiếm sống và tồn tại ở thành phố, hai là để thỏa mãn đam mê văn chương của mình.
Ông cộng tác với nhiều tờ báo ở Sài Gòn như Nhân Loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng
chuông, Lẽ sống….
Năm 1960 – 1961, Sơn Nam lại bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở
nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình Dương) về tội “Cộng sản nằm vùng” cùng với
những người tham gia kháng chiến cũ. Khi được thả ra, ông tiếp tục làm báo, viết
văn, khảo cứu Nam Bộ trên tinh thần yêu nước.
Năm 1974, Sơn Nam một lần nữa bị bắt giam và tra tấn khi tham gia sự kiện
“Ký giả đi ăn mày” ở Sài Gòn để phản đối chiến tranh và việc đóng cửa các tòa soạn
một cách vô lý. Ông bị nhốt vài tháng, sau đó cùng với các bạn tù phá ngục, tự giải
phóng ra ngoài chào đón ngày đất nước thống nhất.
Sau 1975, Sơn Nam là một trong số rất ít nhà văn miền Nam tiếp tục hoạt
động trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ tại hội Nhà Văn Thành Phố Hồ Chí Minh.
Thập niên cuối thế kỷ XX, Sơn Nam tiếp tục cầm bút vì sinh kế. Ông tham gia vào
các hoạt động văn hóa, văn nghệ để kỷ niệm vùng đất Nam Bộ được thành lập 300
năm. Ông theo đoàn làm phim tới Quảng Bình, đến đường mòn Hồ Chí Minh. Năm
1999, ông làm cố vấn về văn hóa phương Nam cho hãng phim truyền hình. Ở cái tuổi
“Thất thập cổ lai hy”, Sơn Nam là thành viên của hội đồng biên tập phía Nam Tạp
chí Xưa và Nay, ông vẫn viết thường xuyên cho chuyên mục Nhà văn Sơn Nam kể
chuyện trên đặc san thứ bảy hàng tuần của báo Công an Thành Phố Hồ Chí Minh,
thỉnh thoảng cộng tác với báo Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi trẻ, Thanh niên… Càng về
183
cuối đời cuộc sống của Sơn Nam càng khó khăn, chật vật mặc dù toàn bộ các sáng tác
của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản quyền. Ông mất
ngày 13 tháng 8 năm 2008, tại Thành Phố Hồ Chí Minh trong niềm thương tiếc vô
hạn của người thân, đồng nghiệp và độc giả.
Những năm tháng được sống tại quê nhà chứng kiến cảnh thiên nhiên hoang
sơ, dữ dội nhưng đẹp đẽ của nên thơ và trù phú của mảnh đất miền Nam; thấu hiểu
nỗi vất vả, cực nhọc của lớp người đi khẩn hoang. khi đến Cần Thơ được học và tiếp
xúc với những tư tưởng tiến bộ của thế giới…, sau này lên Sài Gòn sống được dịp
tiếp cận với nhiều nguồn văn hóa khác nhau của các nước trên thế giới. Tất cả những
điều đó đã tạo nên một nhà văn tài năng và có phong cách độc đáo sau này.
Có thể nói rằng, quê hương và gia đình là mảnh đất màu mỡ đã ươm mầm
nhân cách, bồi dưỡng tình cảm quê hương đất nước, nảy nở những tư tưởng tiến bộ…
của nhà văn Sơn Nam.
2. Sự nghiệp văn chương
Quá trình sáng tác của Sơn Nam có thể được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1945 – 1954, Sơn Nam vừa tham gia kháng chiến, vừa hoạt động
văn hóa, văn nghệ, đây là giai đoạn thử nghiệm, tìm tòi chất liệu, hình thức thể hiện
cùng với nội dung đề tài, định hướng con đường đi trong sự nghiệp. Giai đoạn này,
Sơn Nam sáng tác không nhiều nhưng ông cũng để lại dấu ấn riêng trên văn đàn Nam
Bộ với tập thơ đầu tiên Lúa reo (Hội Văn Hóa kháng chiến Kiên Giang xuất bản năm
1948 ở chiến khu) với những bài thơ đậm chất quê - đồng bằng trù phú Nam Bộ. Tác
phẩm thứ hai cũng là một tập thơ “địch vận” với tên Cho lòng em vui. Năm 1951 –
1952, ông đạt giải nhất với truyện ngắn Bên rừng Cù lao Dung, và giải nhì với tác
phẩm Tây đầu đỏ trong cuộc thi do Ủy ban Kháng chiến – hành chính Nam Bộ tổ
chức. Đây là thời gian mà nhà văn vừa sáng tác, hoạt động cách mạng, vừa chuẩn bị
vốn sống và kiến thức cho sự nghiệp văn chương của mình.
Giai đoạn 1955 – 2008 là giai đoạn phát triển rực rỡ trong sự nghiệp cầm bút và
cũng là giai đoạn đánh dấu sự trưởng thành và khẳng định tài năng và phong cách
nghệ thuật của nhà văn. Sơn Nam viết nhiều thể loại: Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện
ngắn, bút ký, hồi ký, biên khảo. Ông tập trung viết về phong tục, về lịch sử khẩn
hoang, về tầng lớp nhân nông dân, dân nghèo thành thị… Về thể loại tiểu thuyết và
184
truyện vừa, các tập truyện tiêu biểu: Hình bóng cũ (Truyện vừa, 1963), Chim quyên
xuống đất (Tiểu thuyết - 1963), Xóm Bàu Láng (Tiểu thuyết - 1968), Vạch một chân
trời (Tiểu thuyết - 1969), Bà Chúa Hòn - (Tiểu thuyết - 1969), Trời nước bao la
(Truyện vừa - 1970), Chuyện tình một người thường dân (Tiểu thuyết - 1990), Ngôi
nhà mặt tiền (Tiểu thuyết - 1993), Truyện ngắn của truyện ngắn (Truyện vừa -
1996)…
Về thể Ký, một số tác phẩm tiêu biểu như: Gốc cây, cục đá và ngôi sao (Bút ký -
1973), Theo chân người tình (Bút ký - 1991), Một mảnh tình riêng (Bút ký - 1993),
Tuổi già (Hồi ký - 1997), Ở chiến khu 9 (Hồi ký - tập 2, 2001), Từ U Minh đến Cần
Thơ ( Hồi ký - tập 1)…
Về thể loại truyện ngắn, Sơn Nam có hơn 300 tác phẩm nhưng chưa được
xuất bản toàn bộ, trong đó có hàng trăm truyện ngắn rất thu hút người đọc được in
chung trong tuyển tập truyện ngắn như: Hương rừng Cà Mau (Tập truyện ngắn -
1962), Vọc nước giỡn trăng và hai cõi U Minh (Tập truyện ngắn - 1965), Người bạn
triệu phú (Tập truyện ngắn - 1971), Tục lệ ăn trộm (Tập truyện ngắn - 1988), Biển cỏ
miền Tây (Tập truyện ngắn - 2000)…
Trong lĩnh vực biên khảo, Sơn Nam có nhiều công trình biên khảo công phu,
khoa học, mà bối cảnh là thiên nhiên và con người đồng bằng sông Cửu Long. Ông
dựng lại cảnh tượng bi hùng trong công cuộc khai phá, đấu tranh với thiên nhiên để
sinh tồn. Không chỉ chăm chú trên những trang sách úa màu thời gian mà ông già đi
bộ rong ruổi trên khắp nẻo đường Nam Bộ để góp nhặt kiến thức từ cuộc sống sinh
động. Nhiều tác phẩm biên khảo có giá trị cho việc tìm hiểu về lịch sử vùng đất Nam
Bộ, tiêu biểu như: Tìm hiểu đất hậu Giang (1959), Về quê tìm cổ tích (1968), Nguời
Việt có dân tộc tính không? (1969), Văn minh miệt vườn (1970), Miền Nam đầu thế kỷ
XX – Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân (1971), Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1973),
Cá tính miền Nam (1974), Đồng bằng sông Cửu Long – Nét sinh hoạt xưa (1985),
Bến Nghé xưa (1992), Sài Gòn lục tỉnh xưa (1998), Ấn tượng 300 năm (1998)…
Có thể nói rằng: Toàn bộ tác phẩm của ông làm thành một cuốn “Địa phương
185
chí” đồ sộ, phong phú, đa dạng thấm đẫm hương vị quê hương và tình người Nam Bộ
PHỤ LỤC 3
BÀI THƠ HƯƠNG RỪNG CÀ MAU (Bài thơ duy nhất còn lại của Sơn Nam) ____ Sơn Nam ___
Trong khói sóng mênh mông Hoa lá rụng buồn buồn
Có bóng người vô danh Tiễn đưa về cửa biển
Từ bên này sông Tiền Những giọt nước lìa nguồn
Qua bên kia sông Hậu Đôi tâm hồn cô tịch
Mang theo chiếc độc huyền Nghe lắng sầu cô thôn
Điệu thơ Lục Vân Tiên Dưới trời mây heo hút
Với câu chữ: Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả Điệu hò… ơ theo nước chảy chan hòa
Tới Cà Mau - Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng Năm tháng đã trôi qua
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ Ray rứt mãi đời ta
Chướng khí mù như sương Nắng mưa miền cố thổ
Thân không là lính thú Phong sương mấy độ qua đường phố
Sao chưa về cố hương? Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê…
* Sơn Nam* Chiều chiều nghe
186
vượn hú
PHỤ LỤC 4:
THÀNH NGỮ SỬ DỤNG
KHẢO SÁT TRONG HƯƠNG RỪNG CÀ MAU TẬP 1, 2, 3
&
BIỂN CỎ MIỀN TÂY & HÌNH BÓNG CŨ
ST
TÊN TÁC
TRAN
STT
THÀNH NGỮ
VĂN BẢN CỤ THỂ
G
T
PHẨM
HƯƠNG RÙNG CÀ MAU TẬP 1
. Một vốn bốn lời . Nếu trúng mùa dưa thì rõ ràng là vốn một lời mười 01 11
. Chân lấm tay bùn . Hầu hết những kẻ tay lấm chân bùn trong làng đều bị lên 02 11
án là… kẻ ăm trộm trâu
01 03 . Thắt lưng buộc bụng … thím phó hương quản thắt lưng buộc bụng… sẵn sàng đi 14 Anh hùng
tiệm mua nào cà ri, củ hành, tiêu, tỏi… rơm
05 . Đất bằng dậy sóng . Thật là đất bằng sóng dậy. Thầy phó hương quản cố gợi 15
187
lại trí nhớ
06 . Vàng thật không sợ lửa . Vàng thiệt không sợ lửa, - họ tự an ủi 17
. Lấy độc trị độc,
… Ta hãy tìm cách gỡ rối, lấy độc trừ độc… Bà con giúp tôi 19 07
Tán gia bại sản vài cơ mưu…
. Thầy sung sướng trong lúc bà con chòm xóm đang tán gia 20 08
Sao y bản chính bại sản
.- Vợ tôi thấy rõ tàng hắn đang “sao y bổn chánh”, lúc tôi 20 09
. Chém ruồi ai dùng vắng mặt. Hắn tưởng vợ tôi dốt.
10 gươm vàng .- Chém ruồi ai dùng gươm vàng làm chi. 22
10 . Cười ra nước mắt … ngụ ý khôi hài cho hoàn cảnh “Khóc hổ ngươi cười ra 26
nước mắt”, vào đầu năm 1945.
11 . Sinh bất phùng thời … giáo Trích tỏ vẻ ta đây là kẻ “Sinh bất phùng thời” 27
nhưng dân chúng chẳng hề để ý tới thái độ ngạo mạn ấy.
12 . Khỉ ho cò gáy .-… chúng tôi đâu hân hạnh gặp mặt thầy giáo tại đất khỉ
02 ho cò gáy này Ăn to xài
13 . Thao thao bất tuyệt . Bây giờ, giáo Trích kể thao thao bất tuyệt những giai thoại 28 lớn
ở chợ Rạch Giá
. Long bản hổ cứ . Có lý. U Minh là vùng “long bản hổ cứ” 14 28
188
. Đồng tâm nhất trí . Dịp may đã tới. Chúng ta nên đồng tâm nhất trí đánh 15 28
Pháp, đánh luôn Nhựt Bổn
16 . Mặt mốc chân phèn … thấy ta là người “đi xa mới về” chớ đâu phải hạng mặt 28
mốc chân phèn, tối ngày ở xó rừng.
17 . Thi hành thủ đoạn . Giáo Trích cương quyết thi hành thủ đoạn: yêu cô Tư 29
. Tai nghe mắt thấy Hạnh 30
18 … thuật lại chuyện tai nghe mắt thấy cho “người chồng một 33
. Trói gà không chặt đêm” nghe. 35
19 . Râu ria xồm xàm . Chàng ta thuộc vào hạng trói gà không chặt 38
20 . Vô ơn bạc nghĩa . Tụi nó nắng ăn cháy da phỏng trán, râu ria xồm xàm.
. Đồ vô ơn bạc nghĩa. Nó ham tiền. Đi đâu thì đi
21 . Khỉ ho cò gáy, . Ổng thương tình, lưu đày tôi xuống chốn khỉ ho cò gáy 42
22 . Tai vách mạch rừng này. 43
23 . Lời qua tiếng lại . Trong bọn tá điền, nhiều đứa bất hảo lắm, tai vách mạch
24 03 . Thanh thiên bạch nhật rừng, lời qua tiếng lại… sẽ tới tai Tây Đầu Đỏ 43 Bà đầm
. Ăn ngay ở thẳng . Mình tới thăm cô Ba giữa thanh thiên bạch nhựt Phô-xi-
25 . Nhập gia tùy tục 43 dong
26 . Mình là người ăn ngay ở phải, ai dám ganh tị 43
. Anh đừng lo. Nhập gia tùy tục. Nếu cô Ba đuổi khách mình
189
sẽ xoay xở.
27 . Sinh nghề tử nghiệp .-… Thế gian thường nói: Sanh nghề tử nghiệp. Tôi đang 57
hưởng thọ, vợ con đầy nhà.
28 . Hợp thời hợp cảnh … vì chưa tìm ra được hình thức giải trí nào hợp thời hợp 57
cảnh.
29 . Tam cung lục viện . Ông Hai Tước chọn số 9 để gợi lại hình ảnh “tam cung lục 58
viện” của vua chúa ngày xưa.
30 . Xuất quỉ nhập thần . Nghe nói ông biết phép tàng hình, xuất quỉ nhập thần, vô 58
nhà mà không cần cạy cửa, khoét vách…
31 . Đồi phong bại tục . Nó toan tính chuyện đồi phong bại tục. Ngày xưa ông… ra 59
04 nghề mà cả xóm được nhờ cậy. Bà vợ thứ
32 . Đâm heo thuốc chó . Tụ tập quá đông đảo, nói toàn chuyện “đâm heo thuốc 61 10
chó”, sao lương tâm cắn rứt quá.
. Tu thân tích đức Tôi già rồi, tôi muốn tu thân tích đức trước khi nhắm mắt 62 33
. Anh hùng nghĩa hiệp Dòng máu “nghĩa hiệp anh hùng” dường như bắt đầu hâm 63 34
. Vừa đánh trống vừa ăn nóng trong huyết quản ông Hai Tước.
35 cướp Mưu kế là như vầy như vầy… kêu là “vừa đánh trống vừa 63
. Thừa nước đục thả câu ăn cướp, thừa cơ nước đục thả câu”
36
. Tay làm hàm nhai . Người đi bạn thường lãnh tiền buổi, tùy theo lưới trúng 73 37
190
hoặc thất – tay làm hàm nhai
. Phù sa nê địa . Dân làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa 38 73 05 Bác vật xà
. Thực lộc chi thê . Kỳ tài gì? Thực lộc chi thê. Chắc ổng có bằng cấp bên 39 75 bông
Tây. Nhờ vậy…
40 . Sanh sôi nảy nở . Rừng U Minh hạ thuộc về loại tràm thủy, cá sanh sôi nảy 88
nở rất nhhanh chóng 06 Bắt sấu
41 . Nửa tin nửa ngờ . Ai nấy nửa tin nửa ngờ. Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của 88 rừng U
mấy người thợ hồi nào tới giờ. Minh Hạ
42 . Thế gian hi hữu . Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi 89
43 . Phá rừng lập rẫy hữu. 89
. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười
44 . Đất đai vương trạch năm về trước 91
.- Phần ổng ở lại cúng “đất đai vương trạch” rồi đi bộ về
sau.
45 . Cơm không lành canh .- Chuyện gì đó Hưng? Vợ chồng nếu mới cưới, nếu cơm 96
không ngọt, không lành canh chẳng ngọt thì đóng cửa dạy nhau…
46 . Liên tu bất tận . Bốn tháng qua, vợ chồng anh ta gây lộn liên tu bất tận, 96
tính đổ đồng hai ngày là xảy ra một cuộc cãi vã
47 . Ngồi lê đôi mách, .- Nó lo cắt lá chuối khô chớ đâu phải dạo xóm ngồi lê đôi 97
191
mách hoặc đánh bài tứ sắc
48 . Gà ghét nhau tiếng gáy . Lời tục thường nói: Biết chết nhưng cũng nhào vô. Con 103
07 . Bất phân thắng bại chim ghét nhau vì tiếng gáy. Bốn cái
.Cu rừng và cu mồi đều cú rũ, bất phân thắng bại vinh 106 49 ngu
. Xướng ca vô loài nhục, lông cánh lù xù vì dầm mưa quá lâu.
.-… Hễ mình ít “chầu”, bọn đào kép cho rằng mình là thắng 107 50
. Tiếng chì tiếng bấc già cầm chầu khó khăn, phách lối, khi khi kẻ xướng ca vô
51 107 loại
.- Bác dám lãnh đủ bốn cái ngu trên đời… không màng tiếng
bấc, tiếng chì…
52 . Đại phú do thiên, tiểu . Phương châm cùa hai vợ chồng trẻ thuở ấy là: “đại phú do 111 08 Bức tranh
phú do cần con heo thiên, tiểu phú do cần”
53 . Cây nhà lá vườn .- … mấy chục năm qua mình sống bằng nghê nuôi gà vịt, 116
bữa nay ăn một bữa thỏa thuê. Tốn kém gì? Cây nhà lá
vườn mà…
. Mình đồng da sắt .-… Hèn gì họ… mình đồng da sắt, không sợ ong đánh. 128 54
. Non ngày non tháng … Mấy con ong non ngày non tháng như luyến tiếc ổ cũ, bò 128 55
ra chung quanh miệng thùng , quạt cánh nhưng chẳng tài
192
nào bay được
56 . Có tiếng mà không có . Gia đình cậu Minh thuộc vào hạng “có tiếng mà không có 129
miếng miếng” vì đã phá sản.
57 . Mua khế bán chanh . Dường như câu Minh ưa rủ thằng Thích đi chơi để “giả đò 130
mua khế bán chanh”, viện cớ hợp lý để tới lui thăm người
09 đẹp. Cái tổ ong
58 . Vô ý vô tứ .- Ối! đau đớn gì. Vô ý vô tứ thì ong vò vẽ nó đánh, nóng 130
lạnh một buổi là hết.
59 . Thói ăn nết ở .Thằng Thích mừng quýnh. Nó muốn trổ tài, giúp cậu Minh 130
thấy tận mắt thói ăn nết ở của bầy ong
60 . Tự cổ chí kim .- Thưa bác, sách Tây nói rằng ong mật là loại côn trùng có 131
cánh, rất hữu ích cho loài người tự cổ chí kim.
. Bàn cổ sơ khai, .- Dạ thưa hồi thời Bàn Cổ sơ khai, càn khôn hỗn độn, 131 61
. Càn khôn hỗn độn trước khi tìm ra lửa để nướng thịt thú rừng, con người đã 62
nhờ mật ong mà tẩm bổ qua ngày qua tháng…
. Ông Tơ bà Nguyệt … Con ong lại là ông Tơ bà Nguyệt, lá thắm chỉ hồng, đem 134 63
. Lá thắm chỉ hồng nhụy bông đực rắc vô lòng bông cái. 64
65 . Điệu hổ ly sơn . Trước khi đánh cọp, mình nên biết cọp làm ổ ở chỗ nào rồi 143
mới điệu hổ ly sơn.
193
66 . Đờn khảy tai trâu . Nhưng gây gổ, giảng luân lý với kẻ giết đàn bà, giết con nít 145
67 . Nước đổ lá môn là điều ngu xuẩn, hơi đâu khảy đờn vào tai trâu, múc nước
68 . Tương kế tựu kế đổ lá môn. Phải tương kế tựu kế, áp dụng triệt để câu quân
69 . Quận tử tham tài tiểu tử tham tài, tiểu nhân tham thực
10 nhân tham thực Cái va li bí
70 . Tư bề vắng vẻ .-… Ở xóm rạch Giồng, tiệm bán tới khuya , tư bề vắng vẻ 147 mật
71 . Cao chạy xa bay .-… Nó hèn nhưng nó có tài cao bay xa chạy nên nó cứ sống 148
nhăn hoài
72 . Đoái công chuộc tội .- Mình làm một việc… nhơn đạo, đoái công chuộc tội. 148
73 . Uống máu ăn thề . . . . .- Chú em kết bạn, uống máu, ăn thề với nó hồi nào mà sợ 148
74 Lương tâm cắn rứt thần thánh… hoặc lương tâm cắn rứt 148
75 . Cơ mưu bại lộ . Tại sao tên Hi chưa xuống đây? Hay là cơ mưu bị tiết lộ... 150
76 . Phù sa nê địa … ở xứ sình lầy, phù sa nê địa, người Bàn Cổ bắt cá thay 160
thịt nai, thịt chồn và hái rau rừng ăn thay cho trái cây
77 11 . Chuyện xưa tích cũ .-… dễ lắm. Ở xóm này có Hai Khị là người già nua, hiểu 160 Cao khỉ U
78 . Có đầu có đuôi rành chuyện xưa tích cũ, ăn nói có đầu có đuôi. Minh
79 . Vong gia thất thế .-… Tôi là kẻ vong gia thất thế, từ Tân An xuống đây làm 161
80 . Bịnh ở đâu thuốc ở đó ăn… 164
. Thiên địa tuần hoàn .-… “Bịnh ở đâu thì thuốc ở đó”. Ông bà mình nói nghe
194
81 thậm phải. 165
. Sinh con đẻ cháu .-… Đúng vậy. Đúng vậy. Xưa kia thiên địa tuần hoàn theo
luật riêng. 167 82
.-… nếu thầy Hai muốn sống dai, ngừa bịnh rét rừng, sanh
con đẻ cháu nhiều hơn thiên hạ…
83 . Tiêu diêu miền cực lạc .-… chắc là ông hương trưởng tiêu diêu cõi thọ rồi! 174
. Sống gửi thác về
.-… Thôi sống gởi thác về. Bà hương đừng quá đau lòng mà 175 84
. Tiền trảm hậu tấu hao mòn thân thể.
. Cậu Bảy Tiểu được quyền tiền trảm hậu tấu, hoặc trảm mà 177 85
12 . Bất nhân thất đức chẳng cần “tấu”. Cậu Bảy
.-… Phe đảng cậu Bảy không có mặt trong tiệm này. Nó bất 180 86 Tiểu
- Cẩn ngôn cẩn ý nhơn thất đức lắm… cậu Ba không hiểu câu Bảy sao?
.- Cậu nên cẩn ngôn cẩn ý. Bộ có chuyện gì gấp lắm sao? 181 87
. Tru di tam tộc hay là cậu muốn theo Tây?
.-… Lát nữa tôi sẽ giải quyết sau. Nếu cậu Ba này chạy trốn 183 88
thì tôi tru di tam tộc…
89 . Chân ướt chân ráo .- Nói dóc! Chân ướt chân ráo mới tới xứ này mà không để 190
195
cho người ta thương!
90 . Chém ruồi ai dùng .- Chém ruồi ai dùng gươm vàng làm chi! Nói thiệt cho bà 191 –
gươm vàng con thương, tôi đây cực chẳng đã mới ra nghề. 192
91 . Khóc không ra nước . Nó thơ thẩn như người mất hồn khóc không ra nước mắt 198
13 mắt mỗi khi ra thăm nấm mộ của người tình xưa Cây huê xà
92 . Trẻ mãi không . Giữa lòng từng chiếc lá, hiển hiện kìa trăm ngàn gương 198
già mặt con Lài tươi tắn cười riêng với nó, trẻ mãi không già
93 . Vạn vật biến đổi . Vạn vật đều biến đổi. Duy chỉ có nụ cười của đức Quan 208
94 14 . Cứu khổ chúng sinh Âm bốn mặt… Bốn mât của ngài nhìn bốn phía để cứu khổ Chiếc ghe
chúng sinh, khuyên ai nấy trầm tĩnh vì sự đời mãi đổi thay, “Ngo”
thay đổi.
95 . Đẫm mùi máu lửa . Đây là một giai thoại từ hôm xưa, khoảng 1946, xa lơ, xa 211
15 lắc, đẫm mùi máu lửa. Chuyện
96 . Tham sanh úy tử . Với bản chất “tham sanh úy tử” tôi lồm cồm ngồi dậy. 213 năm xưa
97 . Họa vô đơn chí . Nhưng họa vô đơn chí, vì chở quá cao nên khi ghe đến 229 16 Chuyện
Cần Thơ thì bị sóng đáng chìm rừng tràm
196
98 . Gá chữ lương duyên . Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm năm tình 237
99 . Tình chồng nghĩa vợ chồng nghĩa vợ.
17 100 . Cao nhơn tắc hữu cao .- Ừ, trời cao có mắt. “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”, 238 Con Bảy
nhơn trị. đưa đò “Ngó cao đau ót, trèo cao té nặng”
101 . Ngó cao đau ót
102 . Trèo cao té đau
103 . Bốn biển là nhà .- Đâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứacủa tôi. 242
Chí trai bốn biển là nhà.
104 . Nẩy lộc đâm chồi . Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đấtđể làm 245
phân cho những cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa
105 . Chó ba khoanh mới .- “Chó ba khoanh mới nằm”. Ông Nam Tự lẩm bẩm như 254
18 nằm (… người ba năm vậy, tự hào cho rằng chó săn của mình là giống tốt nhứt. Con heo
mới nói) khịt
106 . Binh ròng tướng mạnh . Vào cuối 1945, thức dân Pháp đem binh ròng tướng mạnh 263
. Tham sinh úy tử qua xứ “Nam kỳ thuộc địa” để tái lập trận tự an ninh.
107 . Ngoài vòng pháp luật . Với thân hình ốm yếu, bệnh tật, với tâm trạng tham sanh 263
108 . Chết vinh hơn sống úy tử , tôi cố gắng sống ngoài vòng pháp luật.
19 109 nhục . Thanh nhiên gì mà bạc nhược quá! Thà chết vinh hơn 268 Con ngựa
. Cầu trời khẩn Phật sống nhục. đất
197
110 . Tử sanh hữu mạng . Biết thế nào cũng xảy ra… Đêm nay, bác cầu Trời khẩn 268
111 Phật
. Còn vài giờ nữa thôi. Con người, tử sanh hữu mạng. Họ 268
biểu bác rời khỏi nhà. Được rồi. Nhưng bác đâu còn sức bay
nhảy.
112 . Cò bay thẳng cánh, . Đứng về mặt pháp lý mà xét, bà là người chánh thức được 278
quyền thừa hưởng tài sản cò bay thẳng cánh.
113 . Tu nhân tích đức . Thưa bà, trước sau gì bịnh cũng hết. Bà ăn ở hiền lành, tu 278
nhân tích đức. Kẻ gian manh không ám hại bà được đâu.
. Mấy lần rồi, mụ đến gặp thầy Ngọc để vấn kế. Thầy Ngọc 279
114 . Dục tốc bất đạt một mực từ chối: “Dục tốc bất đạt. bà cai tổng ưa nghi
ngờ”. 280
. Thầy đàng hoàng lắm, muốn làm việc nghiĩa, cứu dân độ
20 115 . Cứu dân độ thế thế chớ không cầu danh, cầu lợi 281 Con rắn
. Bà cai tổng sực nhớ tới bao nhiêu “điều tai nghe mắt
116 . Tai nghe mắt thấy thấy” liên quan tới thịt trâu. 287
. Thầy giáo Ngọc… rót nước cho bà uống rồi đưa ra các lý
117 . Tràng giang đại hải luận tràng giang đại hải về rắn trun, rắn nạp dưa, rắn xiêm,
118 . Thuần phong mỹ tục rắn Ấn Độ, rắn Tà Lơn. 288
198
. Thầy Ngọc… tỏ rằng ta đấy là người đứng đắn, tôn trọng
thuần phong mỹ tục…
119 . Dải nắng dầm sương - Nhưng thầy được ngồi mát, khỏi dầm sương dãi nắng. hễ 291 –
cúng đình thì thầy ngồi 292
120 . Hồn phi phách tán . Thật là hồn phi phách tán. Chú biện Tống riu ríu bước 293
theo ông Cò
121 . Cơm gạo qua ngày, . . . Xóm này, ai nấy kiếm đủ cơm gạo qua ngày, tư bề là vườn 294
21 122 Nước mặn đồng chua rậm, nước mặn đồng chua Con rắn ri
123 . Hàng hà sa số - Loại rắn ri voi, hàng hà sa số. Nó lội dưới sông rạch, 295 voi
trong rừng vào tháng ngập nước như vầy.
124 . Cao bay xa chạy - Tay tổ lưu manh và số tay em nọ đã cao bay xa chạy… một 296
cách hợp pháp
125 . Thế gian hi hữu Thiệt là thế gian hi hữu. Rắn ri voi, gọi ri voi vì nó to lớn 297
(như con voi!)
126 . Chim trời cá nước . Đàng này rắn ri voi thuộc vào loại chim trời cá nước, ai 298
bắt được nấy hưởng, khỏi đóng thuế cho sở kiểm lâm.
127 . Hang cùng ngõ hẻm . Ban đêm hàng trăm chiếc xuồng tời lui khắp hang cùng 299
ngõ hẻm.
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU TẬP 2
199
128 . Hùm tha sấu bắt . Khổ lắm. Họ biết rằng kẻ bị “hùm tha sấu bắt” chẳng bao 12
giờ trờ về nhà hưởng nhang khói nếu con sấu, con cọp sát
nhân kia còn sống.
22 129 . Sinh nghề tử nghiệp .-… Bữa nay hoặc sáng mai, bác giết con sấu cuối cùng. 18 Con sấu
130 . Luật quả báo Sanh nghề tử nghiệp, bác đều sợ, ví thử “tử vì nghiệp” thì cuối cùng
đó là luật quả báo. Bác sợ những người tò mò, mới xem nửa
chừng rồi bỏ cuộc…
131 . Ngậm cười chín suối .- Nhắn với cai tổng: Cứ cúng cơm trên bàn thờ, vì người 22
chết đã ngậm cười.
132 . Đồng hoang cỏ dại . Nói đúng hơn, nó là loại chim sống ở nơi đồng cỏ hoang 29 23 Con trích
dại ré
133 . Rối rắm tơ vò . Ông Cả nheo mắt… định thần hòng gỡ tơ vò rối rắm của 39
gia đình
134 . Môn đăng hộ đối . Gả con Út cho cậu Quỳnh, ông bà rất đỗi vui mừng vì gặp 40
nơi môn đăng hộ đối. Nhưng về mặt tình cảm thì thiệt thòi
135 . Treo bông kết nuột quá. 45
136 . Đứa ăn thôi nôi đứa lôi . Thế là tháng Chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết nuột
ngày tháng để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ của rạch
24 137 . Mẹ tròn con vuông Bình Thủy 46 Cô Út về
200
138 . Tay làm hàm nhai - Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi đứa lôi ngày tháng. Mẹ rừng
139 . Mùa màng thất bát tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, Cô Út gần nằm một chỗ một
140 . Sóng gió bất thường lần nữa 46
141 . Gần đất xa trời -… Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm
nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng
142 . Vô biên vô tận 47 gió bất thường.
. Ông Cả im lặng , nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của
143 . Nước mạnh dân còn mình. Nó không còn bao xa nữa. 47
. Ông hiểu đời ông chưa đến mức đen tối, còn chút ánh sáng
lập lòe trong tương lai vô biên vô tận.
144 . Bại hoại luân thường .- Ông thấy chưa? Rõ ràng nó làm bại hoại luân thường, 53
. Lừng danh một cõi muốn đục khoét xóm này. Làm sao trị được nó?
.- “Tôi là thầy Chà lừng danh một cõi, người như tôi là 54 145
. Vật bất ly thân giống người thông minh…”
. Gây sự với hắn thì khó quá. Vật bất ly thân, đi ăn nhậu 55 146
như vậy mà hắn không quên đem theo gói vải và cây thước
25 . Tứ hải giai huynh đệ tây để đo Đại chiến
147 . Nối giáo cho giặc . Đó là câu cách ngôn “Tứ hải giai huynh đệ”. Người bốn 55 với thầy
biển đều là anh em. Chà
201
148 . Mạnh dùng sức, yếu . Dân xóm mình sao kỳ cục quá, như vậy là nối giáo cho 57
dùng chước giặc. Nó khinh khi dân mình. Tao có cách này để trị nó…
149 . Tụm năm tụm ba .-… Vậy chớ ai bày ra mưu đó? Hay thiệt! Mạnh dùng sức, 59
yếu dùng chước.
150 . Từ đấy, những đêm khuya, bà con thỉnh thoảng tụm năm 59
tụm ba. Họ suy luận, đặt bao nhiêu giả thuyết để thử tìm
danh tánhcủa người mà họ coi là ân nhân.
151 . Rối loạn nhân tâm . Tại vì nhân tâm rối loạn ư? Cũng phải. Tại vì Phú Lang 64
Sa ư? Thậm phải…
152 . Dày công tu luyện -… Muốn thành tiên thì phải dày công tu luyện để ngày kia 65
26 giữ được chức vị cao. Đảng cánh
153 . Non cao biển rộng . Hỡi ơi! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi 65 buồm đen
rền vang trong lòng người, khắp non cao biển rộng… Chặt
đầu Tây! Chặt đầu Tây!
154 . Tán gia bại sản . Bộ thằng tây đó muốn tán gia bại sản sao chớ? 75
155 . Mùa màng thạnh mậu . Vài chục năm nữa, đất hết phèn, mùa màng thạnh mậu 75
. Khăn đóng áo dài nhờ ổng mướn người xẻ kinh, đào mương cho rút bớt chất
156 phèn. 76
27 . Khai thiên lập địa … hôm sau cả ban hội tề Đông Hưng mặc chỉnh tề, khăn Đảng xăm
202
157 . Trông xa hiểu rộng đóng áo dài den chầu chực đón rước vị điền chủ mới. 77 mình
158 . Thà chết hơn chịu nhục -… Từ hồi… tạo thiên lập địa, cá kiếm ăn một mình. 78
159 - Như vậy nghĩa là quan lớn thấy xa hiểu rộng hơn tôi nhiều
- Nè, thầy hương quản. Họ xăm mấy chữ Pháp: “Plutôt la 81
mort que la honte” (Thà chết hơn chịu nhục). Họ lại ở trần
cho tôi đọc.
160 . Đồng thanh tương ứng . Đồng thanh tương ứng (Tựa đề truyện ngắn) 101
28 . Chân lấm tay bùn Đồng thanh
161 . Tụi tôi quần áo lem luốc, tay lấm chơn bùn 103 tương ứng
162 . Ốm o gầy mòn . Anh ta thường dạo khắp mấy hang đá cheo leo, hôm ấy gặp 116
một thanh niên ốm o gầy mòn.
163 . Tài hèn đức kém . Để che dấu cái tài hèn đức kém của mình, Đơn Hùng Tín 116
lại dùng thủ đoạn cũ
164 . Tài ba lỗi lạc .- Ở đàng kia, con một ông lão tài ba lỗi lạc 118
165 . Bất nhân thất đức .- Nhưng ăn cướp đâu có nghĩa là làm chuyện bất nhơn thất 119
đức… Mình ăn cướp tiền bạc của Tây tà , đem phân phát
cho kẻ bần hàn.
166 . Giả nhân giả nghĩa . Luận điểm dối trá giả nhân giả nghĩa ấy bỗng nhiên được 119
chàng thanh niên tán đồng.
203
. Như cá gặp nước, như .- Gặp được chú Giáo, tôi mừng như cá gặp nước, như 119
167 rồng gặp mây rồng gặp mây
168 . Nhường cơm xẻ áo .- … Mai chiều mình làm giàu, cùng nhau chia cơm xẻ áo 119
169 . Phất cờ gióng trống, . … chờ khi phất cờ gióng trống, chiêu quân mãi mã. 120
29 170 Chiêu binh mãi mã Đơn Hùng
171 . Khôn nhà dại chợ .- Ở xứ núi non, tụi tôi nghe nhiều cái danh hiệu điếc con 122 Tín chào
ráy, rốt cuộc gặp toàn những “đại ca” thuộc vào hàng đời
“khôn nhà dại chợ”.
172 . Hô phong hoán vũ . Giáo Phép ngồi xuống, nghe đám anh hùng tứ chiếng thuật 122
173 . Lỡ khóc lỡ cười lại những trận “hô phong hoán võ” thất bại, lỡ cười lỡ
174 . Thăng thiên độn thổ 122 khóc
. Lại còn chuyện Tiết Nhơn Quí tự xưng biết “thăng thiên
175 . Ngày lành tháng tốt độn thổ” nhưng khi biểu diễn thì “thăng” lập tức. 123
.-… vào dịp khác thuộc ngày lành hơn, tháng tốt hơn… 123
176 . Anh hùng tứ chiếng . Nguồn tin Đơn Hùng Tín sắp hạ san khiến bọn anh hùng
177 . Lưu lạc giang hồ tứ chiếng xôn xao 123
178 . Ngoài vòng pháp luật . Đã từng lưu lạc giang hồ, sống ngoài vòng pháp luật, họ
. Súng bắn không chết dư hiểu.
179 125
. Sinh sau đẻ muộn Bọn đệ tử vững bụng rằng “đại ca” của mình thuộc vào
204
hàng “súng bắn không chết” 125 -
180 Là kẻ sinh sau đẻ muộn, người viết bài này chỉ nghe thuật 126
lại giai thoại kể trên
181 . Lang bạt kỳ hồ . Từ ba năm nay, vợ chết vì bạo bệnh, anh bán tất cả nhà 129
cửa, ghe xuồng sống cuộc đời lang bạt kỳ hồ
182 . Sa cơ thất thế . Ta đây là kẻ sa cơ thất thế. Ta nào sợ ai 130
30 183 . Bông hoa lài cắm bãi … thật gi lời ví “như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu” 131 Giấc mơ
cứt trâu ngoài bãi
184 . Ngồi mát ăn bát vàng .- … Lời tục thường chê bai kẻ “ngồi mát ăn bát vàng”, mi 136 tha ma
. Lưới trời lồng lộng muốn bị chê bai như ta hả? Được lắm.
185 .-… Cơ khổ. Làm sao trả lời với phép nước? Lưới trời lồng 137
lộng, cậu ơi!
189 . Chim trời cá nước .- … Chim trời cá nước… Tao vái hồi nãy rồi. Tao chịu 144
trách nhiệm mà.
190 . Râu hùm hàm én … một kép hát bội đang nhô đầu khỏi mặt biển, đầu đội mão 144 –
dắt lông trĩ, râu hùm mày én, tay hươi gươm. 145
191 . Nửa tỉnh nửa mê Thật ra, lần ấy dở tỉnh dở mê. 145
192 . Tiên vi chủ hậu - … Bậy nè! Tiên vi chủ, hậu vi khách. Uống cho mau, ở 150
vi khách đây lâu lắc, mấy ổng chết hết.
205
31 193 . Ẩn sĩ quy điền . Xưa nay, câu cá là điều thú vị của kẻ tu tiên, ẩn sĩ quy điền, 151 Hai con cá
ngư tiều canh độc.
194 . Gừng càng già càng . Cũng gọi là đủ bản lĩnh, như quê với gừng, càng già càng 151
cay cay. Lát nữa sẽ hay. Bây giờ tới thằng này.
195 . Đầu ghềnh cuối bãi . Lão chủ hang có thể là ma quái và cũng có thể là người 151
phàm tục, gàn bướng nào đó, sống ở đầu gành cuối bãi.
196 . Nhập gia tùy tục, nhập - … Sao không chơi giỡn ở chợ búa mà ra ngoài này? Nhập 153
giang tuy khúc gia tùy tục, nhập giang tùy khúc… biết câu đó không?
197 . Thuốc dạy thầy, cây . “Thuốc dạy thầy, cây dạy thợ”, lời tục thường so sánh rất 160
dạy thợ đúng.
198 . Tùy cơ ứng biến .- … Lần hồi, Hai Tân học võ nghệ, đánh quyền, đánh đoản 160
32 đao, rồi sắm thêm một khẩu súng để tùy cơ ứng biến Hai mẹ con
199 . Vàng thật không sợ lửa . Vàng thiệt đâu sợ lửa. Bà sợ thứ khác. 161
. Yên như bàn thạch
200 . Dụng kế hoãn binh .- Bà chị cứ tin nới tôi đi. Mọi việc xảy ra yên như bàn 165
201 thạch. 165
. Còn anh thì lo đón rước mấy ông Tây, dùng kế hưỡn binh.
Khổ biết bao nhiêu.
206
202 . Đánh trúng tim đen . Vô tình ông hương cả đánh trúng tim đen thầy giáo Chích. 174
203 . Không kèn không … vậy mà… họ rút lui không kèn không trống 174
trống
204 . Tương thân tương ái . Hương cả An và thầy giáo Chích trở thành hai người bạn 174
tương thân tương đắc giống hệt nhau từ nhân sinh quan
đến vũ trụ quan
205 . Vàng thau lẫn lộn - … Tốt hơn, mình nên lo phận mình qua cho ngày qua 175
tháng , chờ khi nào sáng tỏ hơn. Bây giờ vàng thau lẫn lộn.
Thầy muốn ghi lại những kinh nghiệm từ ngàn xưa để hy 176
206 . Lưu truyền hậu thế vọng lưu truyền cho hậu thế
33 . Nhứt là khi thấy vài cụ già ngồi làm cỏ vườn cây ăn trái, 177 Hai ông già
207 . Trai tơ gái lứa hai bên đường. Trai tơ gái lứa đều vắng. Các cụ hiên ngang 177
208 . Giả ngây giả dại ở lại, giả dại, giả ngây
- … Thì ông bà mình có câu “cá nước chim trời”. cái gì lạ 184
209 . Chim trời cá nước thì do cá nước chim trời… đem tới.
210 . Tai vách mạch rừng . Cửa phòng khóa chặt trở lại như trước. Ông hội đồng đề 191
phòng “tai vách, mạch rừng”
211 . Thung dung trực nghĩa . Gặp trường hợp khẩn cấp, các ngài đem viên ấy ra, mở nút 192
mà uống để quyên sinh thung dung trực nghĩa.
207
34 . Điệu hổ ly sơn . Hay là ông chủ Hai đã dùng quỉ kế , bày chuyện cho ông đi 200 Hai viên
212 xa nhà – điệu hổ ly sơn – để thừa cơ hội ấy bố trí tên lão ngọc
. Mò kim đáy biển bộc làm nội ứng.
.-… Tốn kém lắm. Vô ích. Như mò kim đáy biển. 213 200
214 . Vạn sự bằng an . Dưới đây, xóm riềng đều được vạn sự bằng an 205 35 Hát bội
215 . Nhất cử lưỡng tiện . Như vậy, nhứt cử lưỡng tiện chớ chòi trong xóm nhỏ quá, 207 giữa rừng
đâu đủ chỗ cho họ ở đậu
216 . Thời thế tạo anh hùng . Thời thế tạo anh hùng. Bận đó. Ông thầy Râu (thầy thuốc 200
Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy râu) có đứa con gái bị
36 . Tượng đồng bia đá cọp vồ Hết thời
217 . Người đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ 224 oanh liệt
không cần bia đồng tượng đá.
218 . Hải giác thiên nhai . Điều ấy, chúng ta không nên trách ai cả. Chẳng qua là… 228
(Chân trời góc biển) hải giác thiên nhai.
219 . Dời non lấp biển . Ông trố mắt, liên tưởng đến phép dời non lấp biển rất 229
nhiệm màu của tay Thợ Trời khéo léo.
220 . Trước lạ sau quen . Trước lạ sau quen, ông Từ Thông hỏi dọ sơ qua tình hình 231
208
37 trong bờ Hòn Cổ
221 . Cây có cội, sông có . Không giúp nước được thì ít ra ông cũng cần biết những gì 231 – Tron
nguồn. xảy ra đau buồn trong nước. Cây có cội. Nước có nguồn. 232
222 Chim có tổ, người có Chim có tổ. Cá có hang.
tông.
223 . Tứ bề sóng gió - Thì ở ngoài hòn Cổ Tron của tôi, tứ bề sóng gió nhưng mà 234 -
cũng yên tịnh. 235
224 . Đa mưu túc trí - Ông Xã Tư đa mưu túc trí, dám giết tôi để trả thù, giết 255 38 Hồn người
cách này hoặc cách khác trong ly
225 . Tai qua nạn khỏi . Hùng mừng thầm tai qua nạn khỏi vì chàng đánh lạc 256 rượu
hướng xã Tư một cách khéo léo
226 . Chết lần giết mòn . Hắn ghen tương, trả thù, bày kế ly gián để giết lần giết
mòn cuộc đời Hùng và Huệ
227 . Nay đây mai đó . Ví nàng như cánh bèo rày đây mai đó thì không đúng lắm: 265
Có lẽ nàng là đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
228 . Lỗi đạo quân thần bùn 265 –
229 . Thanh lâm u cốc - … Tằng tổ nhà ta tuổi già, nhuốm bệnh không vượt biển hộ 266
39 giá được, đành cam lỗi đạo quân thần, giả dạng lê dân, Hương
209
230 . Bặt tâm nhàn cá nương náu nơi thanh lâm u cốc. 266 rừng
- … Giọt máu hùng anh của tiên vương này đã lưu đày nơi
231 . Người thắng kẻ bại hải đảo Bòn Bon, bặt tâm nhàn cá. 268
. Và tự ngày xưa, ai dám chối cãi chối cãi rằng khu rừng
này không là bãi sa trường mà người thắng kẻ bại đều llẫn
trong đống xương vô định đã hóa ra cát bụi.
232 . Đồng không mông . Ngọn núi này không cao cho lắm, nằm trên đồng không 289
quạnh mông quạnh khoảng giữa chợ Rạch Giá và chợ Long Xuyên 290
233 . Rung cây dọa khỉ . Nhè tụi tôi mà họ rung cây nhát khỉ chớ!
40 234 . Mê tín dị đoan - … Người núi Ba Thê qua mê tín dị đoan, họ không dám lục 294 Kho vàng
lạo vì sợ kiếp sau đâu thai không được.
235 . Sanh tử vong tồn - … Thường bữa họ tới lui, muốn làm quen với mình nữa. 307
“Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn” mà…
236 . Nửa mừng nửa lo . Binh sĩ của ông Nguyễn Trung Trực lén kéo về Châu Thành 307
để công kích. Dân chúng nghe tiếng súng, nửa mừng nửa
sợ…
237 . Thương người như thể Lời căn dặn của bà chủ quan gẫm ra cũng tàn nhẫn vô nhân 316
thương thân đạo. “Thương người như thể thương thân”, nghĩ vậy, tôi
ngước mặt, mỉm cười với người “thiếu chân đứng” ấy.
… tuy thi rớt bằng Sơ học nhưng hắn vẫn bình tĩnh. Ở chốn 317
210
41 238 . Khỉ ho cò gáy khỉ ho cò gáy, kẻ thi rớt sơ học nghiễm nhiên là nhà thông Mối tình
239 . Thằng chột làm vua thái. Cũng như giữa đám người đui, thằng chột làm vua đầm lai
(nguyên văn lời hắn).
240 . Môn đăng hộ đối . Vì cô Rít khó tánh, kén nơi môn đăng hộ đối. 318
241 . Cám treo heo nhịn đói -… Tôi muốn đến giai đoạn rất cụ thể. Chẳng lẽ… cám treo 321
để heo nhịn đói.
HƯƠNG RÙNG CÀ MAU TẬP 3
242 . Được kiện như sọ trâu . Cái câu “Được kiện như sọ trâu khô, thất kiện như mồ 23
khô, Thất kiện như mồ ma chết” dường như không đúng với trường hợp tranh chấp
ma chết giữa hai ông điền chủ ở làng Vĩnh Hòa thơi Pháp thuộc.
42 243 . Cò bay thẳng cánh . Về điền sản , hai ông đều làm chủ những khoảnh đất cò 23 Một kiểu
bay thẳng cánh, rông đôi ba ngàn mẫu tây. anh hùng
244 . Thua me gỡ bài cào -… Thằng cha Hội đồng Hai thua me gỡ bài cào. Nó thất 27
kiện nên tìm cách trả thù.
245 . Điệu hổ ly sơn -… Mày không cần dùng kế “điệu hổ ly sơn” mà nó đã mắc 32
kế rồi.
246 . Xứ lạ quê người . Đường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh 39
211
247 . Tiến thoái lưỡng nan hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người . Thật là
. Điều binh khiển tướng tấn thối lưỡng nan!
248 . Tứ hải giai huynh đệ - Má nó giỡn chơi sao! Chăn trâu còn khó hơn điều binh 41
43 Mùa “len” khiển tướng.
249 . Tay và bụng của nó xâm đấy những chữ nho, chữ quốc ngữ. 46 trâu
Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là “ngũ hồ tứ hải giai
huynh đệ” hoặc “ái tình vạn tuế” mà một tay hảo hớn nào
đó đã xâm cho nó.
250 . Tham sanh úy tử . Nhưng hỡi ơi, lương tri, tinh thần ấy nếu ví như mặt trời 50
luôn luôn ngự trị thì dục vọng “tham sanh úy tử” của con
người lại là đám mây mù khi trời chuyển mưa.
251 . Nghìn năm một thuở - Ngàn năm một thủa, anh kiếm giùm tôi con cua, thứ thiệt 54
44 252 . Khôn sống mống chết lớn cho ổngtạm buổi trưa nay rồi ổng về nhà Ngày mưa
-… Họ thiếu tình thươngmáu mủ. Họ nói: “Mạng ai nấy lo, 55 đầu mùa
hồn ai nấy giữ. Thời loạn lạc khôn sống mống chết”. Ích kỷ
. Lá lành đùm lá rách quá!
253 . Lá lành đùm lá rách mới là thương nhau 56
254 . Sinh bất phùng thời - Vụ kiện nầy, phần thắng về tay cha. Nhưng rủi thay, sanh 70
212
bất phùng thời, cha gặp nạn…
255 . Tiền mất tật mang . Bao nhiêu tiền bạc đổ ra nhhưng kết quả là “tiền mất tật 71 45 Ngôi mộ
chôn đứng còn”
256 . Không có lửa sao có . Bao nhiêu giả thuyết lần lượt nêu ra. Không có lửa làm 86
khói sao có khói?
257 . Hiền như cục đất . Chẳng lẽ anh bạn Mộc lương thiện, hiền lành như cục đất 86
lại loan tin ẩu với dụng ý là “áp phe”? Vô lý quá.
46 258 . Đền ơn đáp nghĩa . Rồi đây hàng trăm người bà con xa, bà con gần tới thăm 93 Người bạn
viếng, mình nhức đầu chưa biết đền ơn trả nghĩa mỗi người triệu phú
chừng mấy trăm hay mấy “ghim” cho trọn tình nghĩa…
… không khéo chừng một năm sau tiền bạc tiêu tan ráo trọi, 93
259 . Khỉ lại hoàn khỉ thiên hạ cười cho rằng “cốt khỉ hườn trở lại cốt khỉ”
260 . Vô tri vô giác - Mù lòa là mắt không thấy, chớ nào phải vô tri vô giác? 99
Con người có thể thấy bằng lỗ tai, bằng hai bàn tay, bằng 47 Người mù
99 mũi… giăng câu
261 . Nghèo rã bành tô . Gặp người bạn, rờ lên vai áo thấy rách, chắc là người ấy
đang suy sụp… nghèo rã bành tô.
213
262 . Thêm mắm thêm muối - Cái anh này ưa thêm mắm thêm muối! Hồi nãy tôi nghe rõ 108
. Thùng rỗng kêu to ràng…
263 -.. Bà con chưa nghe tục ngữ tây phương à? Cái thùng rỗng 108
. Mở đường khai lối kêu to chớ cá thùng “đặc ruột” của thầy luôn luôn im lặng.
264 . Đơn thương độc mã . Những nhà làm cách mạng thường áp dụng chữ “tiền 110
265 phong” cho các chiến sĩ mở đường khai lối, đơn phương
. Sanh sau đẻ muộn độc mã tranh đấu cho một phong trào mới.
266 . Thao thao bất tuyệt - … vì sanh sau đẻ muộn, tôi chưa từng am hiểu 110
267 . Ông bạn Chín Tiễn kể tiểu sử của mình, giọng thao thao 110
. Chân ướt chân ráo bất tuyệt
268 -… Chao ôi! Hồi đó, Hoa Cúc vừa độ trăng tròn, chân ướt 111
chân ráo tập tễnh trên con đường phụng sự nghệ thuật ngàn
48 . Tai vách mạch rừng dặm. Người tình
269 - Thôi, ở đây nói nhiều bất lợi. Tai vách mạch rừng. Xin 111 của cô đào
. Than thân trách phận mời ông ký giả đi dạo với tôi ra tận bờ sông. hát
270 - … Bị mấy cô đào chánh ém tài, Hoa Cúc than thân trách 112
. Được voi đòi tiên phận.
- … Thói thường, lời tục thường ví: “Được voi đòi tiên”. 113
271 . Mến tay mến chân Đúng quá! Hoa Cúc bỗng nhiên thay đổi tính tình
. Trai tài gái sắc . Dường như xuyên qua sự tiếp xúc hàng đêm trên sân khấu, 113
214
272 mến tay mến chân nhau… Trai tài gái sắc phải không ông?
273 . Tình xưa nghĩa cũ … ít ra Hoa Cúc phải đền bù như thế nào cho xứng đángvới
tình xưa nghĩa cũ. Đàng này, mức sống, địa vị của hai 118
274 người quá chênh lệch…
275 . Nói có sách, mách có - … Túng tiền vào đây, tôi cho mượn đỡ vài cắc, chớ đừng 127
chứng, nói dóc. Nói phải có sách, mách phải có chứng
276 . Nhứt phá sơn lâm nhì - … Rồi ổng day qua nói với đình thần tả hữu: “Sơn bất cao 127 –
đâm hà bá, thủy bất thâm… Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá, cao 128
277 . Cao chạy xa bay (Cao phi viễn tẩu giả nan tàng…”
phi viễn tẩu)
49 278 . Lưới trời lồng lộng .- Nhưng có hai nghề phá sơn lâm đâm Hà Bá là dễ làm ăn. 128 Nhứt phá
Nhưng lưới trời lồng lộng không ai chạy khỏi: Phá rừng, sơn lâm
chài cá khiến con người phải nghèo mạt…
279 . Áo bông quần lãnh .- … Tao cho mày hay: Cô Mịn muốn có hạnh phúc thì hãy 132
tìm một người giống như tao. Cô sẽ có áo bông quần lãnh.
. Hôm nào thuận lợi, mình sẽ lưu đi. Mai kia mốt lại, cuộc
280 . Mai kia mốt nọ phá sơn lâm này mãn, chắc chắn thế nào mình cũng lời một 134
cái sườn nhà
281 . Nay đổi mai dời .- Đường bang là con đường nước nay đổi mai dời 146
215
50 Ông Bang
282 . Đồng không mông .- Giữa đồng không mông quạnh, xóm nhà hiện ra, như hội 146 Cà Ròn
quạnh chợ nho nhỏ với hàng chục ánh đèn.
283 . Vai u thịt bắp .- … gọi nôm na là Tư Cồ, vì hắn to xác, vai u thịt bắp 167
284 . Dọc ngang ngang dọc .- Riêng nó mới xứng đáng làm người, dọc ngang ngang 168
. Giang hồ tứ chiếng dọc.
. Và theo kinh nghiệm cho biết, kẻ giang hồ tứ chiếng ít kén 168 285
. Tình ngay lý gian chọn khắt khe trong tình chồng vợ. Họ dễ dãi đối với sự
trinh tiết. 286 169
. Mèo mả gà đồng, . Đôi trai gái hò hẹn nhau giữa rừng, kín đáo, thiệt là tình
ngay mà lý gian. 287 170
. Thuần phong mỹ tục . Mày không thấy cha mày đây hả? Rõ ràng phường mèo mả
288 171 gà đồng…
. Trời nước bao la . Câu chuyện giữa lệ và Tư Cồ chẳng có gì xúc phạm thuần
51 289 phong mỹ tục cho lắm. 174 Ruộng lò
. Tang bồng hồ thỉ .- … Giữa cảnh trời nước bao la, không một bóng người, cỏ bom
290 . Rày đây mai đó hoang mọc đầy. 174
291 . Tư bề sóng dậy .- … Chí trai, tang bồng hồ thỉ, rày đây mai đó. Nếu sống
292 hoài một chỗ, mình… giống như loài cỏ cây sao. 175
216
. Cù cưa cù nhằng . Đôi vợ chồng trẻ, buổi xế trưa, trong căn chòi nhỏ, tư bề
sóng dậy lăn tăn và gió thổi hiu hiu… 293 176
. Tạo thiên lập địa .-… Ủa! Em hỏi cù cưa cù nhằng hoài vậy. Tôi cắt nghĩa
rồi. 294 176
. Tư Cồ giài thích:
- Đất này hoang vu từ thời tạo thiên lập địa…
295 . Ẩn sĩ quy điền . Ông Rốp là người nhơn đức, ít làm khó dễ dân chúng, lãnh 185
nhiệm vụ cầm chừng, tuy đang hành sự cũng như đã hưu trí,
ẩn sĩ qui điền.
. Động lòng trắc ẩn . Như động lòng trắc ẩn, ông Rốp suy nghĩ rồi nói: 186
.- Xứ này thiếu gì cây để cất nhà, thiếu gì lá để lợp nhà. 296
Chú làm biếng không chịu tạo lập.
297 . Đất có thổ công sông . Lại còn cúng vái mất ông cọp, ông sấu. Đất có tổ công, 187
có Hà Bá sông có Hà Bá.
298 . Ma đưa lối quỷ dẫn . Rồi ma đưa lối quỉ dẫn đường, ông nhè gặp xuồng củi lậu 189
đường của mình.
299 . Cô hồn các đảng .- Này cô hồn các đảng. Sống thì khôn, thác thì thiêng. 191
52 300 . Sống khôn thác thiêng Những ai xa cây, xa cội xa cành, đầu bãi cuối gành, hùm Sông Gành
. Xa cội xa cành tha sấu bắt… Hào
217
301 . Đầu ghềnh cuối bãi
302 . Nuôi quân ba tháng . Đứng trước tình trạng khó xử đó, ông chợt nghĩ đến Tư 193
303 dụng quân một ngày Đức, hy vọng rằng “Nuôi quân ba tháng, dụng quân một
ngày”
. Tu tâm dưỡng tánh. .- Để tỏ rằng mình sợ nó nhưng cũng… không sợ nó. Phải để 201 -
chi nó tu tâm dưỡng tánh trong kiếp sau. Tôi không ưa sát 202 304
sanh. Tôi muốn làm nghề khác.
305 . Sinh sôi nảy nở . Chúng nó sanh sôi nảy nở, tạo lập một thế giới riêng biệt, 209
náo nhiệt, ở khắp nhành cây và mặt đất.
53 306 . Tả xung hữu đột . Hai chục người phải đối phó với chin mười ngàn chim bồ Tháng
nông! Họ lanh lẹ lắm, tả xung hữu đột như Triệu Tử Long, 212 chạp chim
Đương Dương Trường Bản… về
307 . Sinh sau đẻ muộn . Là kẻ sanh sau đẻ muộn tôi nào gặp con chim này hồi mấy 214
mươi năm về trước để so sánh cho biết nó già nhiều hay già
ít?
308 . Bủa giăng mạng nhện .-… địa danh Ngã Năm, Ngã Bảy gợi những hình ảnh khác. 219
. Cắm sào đợi nước Đó là vùng kinh rạch bủa giăng như mạng nhện.
309 . Đám người nông phu ra chợ Ngã Năm mua bán ít ai chú ý 220
54 . Đồng chua nước mặn đến chiếc tam bản “cắm sào đợi nước” ấy. Thằng
218
310 . Mình sẽ trở thành người trí thức, một kỹ sư giỏi ở đồng 221 điếm vô
. Mâm vàng đĩa ngọc chua nước mặn. danh
.- … Nghe đồn rằng ở Sở Thú còn một căn nhà chứa đựng 225
311 đồ xưa, nào mâm vàng đĩa ngọc, phải không?
312 . Lang bạt kỳ hồ .- … Anh tôi là người lang bạt kỳ hồ. Năm ấy anh bỏ nhà 237
55 trốn nợ tận núi Tà Lơn bên Cao Miên. Thơ núi Tà
313 . Tiêu diêu thoát tục . Gió trên cầu giống như gió núi Tà Lơn đem lại cho người 241 Lơn
đời đôi phút tiêu diêu thoát tục?
314 . Tam sao thất bổn .- Sự tích ông bà để lại hay lắm . nói cho tụi tui nhớ với, kẻo 245
sau này tam sao thất bổn.
315 . Đổ mồ hôi sôi con mắt .- Nhà này của tôi, tôi làm đổ mồ hôi xót con mắt mới tạo 248
56 . Chồng chúa vợ tôi lập được. Tình bậu
316 . Anh chồng vỗ bàn nghe rầm rầm: muốn thôi
.- Chồng chúa vợ tôi! Vợ không được cãi chồng. Sửa lại 248
. Tình chồng nghĩa vợ cho mau.
317 . Tứ cố vô thân .- Tình chồng nghĩa vợ, tôi không lấn hiếp, phụ bạc ai. 249
318 . Ông câu mỉm cười:
.- Tứ cố vô thân, lớn tuổi già rồi mà không vợ con nên 250
219
. Sôi kinh nấu sử thân hình xác xơ như vậy.
319 .- Nàng chờ đợi được không? Từ rày về sau, ta để dành thời 251
. Ngựa anh đi trước, giờ sôi kinh nấu sử.
320 võng nàng theo sau . Lễ vinh quy được cử hành long trọng, võng anh đi trước, 252
. Công thành danh toại võng nàng theo sau.
321 . Muốn được “Công thành danh toại”, ta nên cố gắng cho 253
tận nhân lực
322 . Có dây có nhợ .- Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích học trò 259
nghèo tên là Thừa Cung gì đó… chăn heo.
323 . Du sơn ngoạn thủy .- … láng giềng đến chơi đông lắm. một người bạn hỏi: Ông 263
đi du sơn ngoạn thủy…
57 324 . Chọn bạn mà chơi .- Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài chọn 264 Tình nghĩa
325 . Gần mực thì đen bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón giáo khoa
326 . Ở bầu thì tròn, ở ống tay, con đứng khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có thư
thì dài hàng chữ: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
327 . Nước chảy đá mòn .- … Văn chương nghe như đờn Nam Xuân: Nước mềm, đá 264
rắn, thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ,
cây gỗ lớn, vậy mà dây cưa mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái
328 . Kiến tha lâu đầy tổ tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy…
220
329 . Vang bóng một thời . … các bạn dưới hai mươi tuổi cứ tra các quyển tự điển là 272
gặp kiểu xe cổ lỗ “vang bóng một thời” ấy.
330 . Thân bằng quyến hữu . … vì phương tiện báo tin khó khăn, cậu Hai tin chắc: “nếu 278
58 quàn suốt nửa tháng thì vẫn còn vô số thân bằng quyến hữu Xóm Cù Là
. Sóng gió bất thường đến điếu…”
331 .- … Nhứt là mấy người bà con ở ngoài Hòn Tre, sóng gió 281
bất thường, làm sao họ vô trong đất liền được?
332 . Nhất bến đò nhì lò rèn . “Nhứt bến đò, nhì lò rèn”. Hơn mười năm trong nghề, 287
. Xuất quỷ nhập thần thầy hương quản đã suy ngẫm câu nói chí lí ấy.
333 .- … Năm Tiết có tài nham độn xuất quỉ nhập thần, gọi nôm 289
. Mẹ góa con côi na là phép tàng hình.
334 . Già kén kẹn hon .- Điều này, ban đêm nó “tang hình” chun lén vô phòng ngủ 289
59 335 của mấy nàng “mẹ góa con côi” hoặc các cô gái “già kén Xuất quỷ
. Sợ bóng sợ gió kẹn hom”. Phải trị nó mới được… nhập thần
.- … Đối với kẻ gian manh, mình không nên sợ bóng sợ gió. 289 336
. Mắc tiếng thị phi Nó đang ở tại đâu? Nhà ai chứa chấp nó?
. Tôi hiểu rằng mình đang mắc tiếng thị phi của bà con ruột 291 337
. Thả hổ về rừng thịt.
. Làm sao hắn nghe lén, ngứa ngáy lỗ tai được? bắt nó lập 291 338
221
. Lù đù vác cái lu mà tức. Đừng để cho cọp chạy về rừng.
339 chạy . Hắn dùng chiến thuật mềm dẻo, giả như kẻ “làm nhu” để 293
. Không có lửa sao có chờ dịp “vác cái lu mà chạy”.
340 khói .- Thiệt hay chơi? Nếu giải nghệ, tại sao thiên hạ còn bêu 294
. Quân tử nhất ngôn xấu chú em? Không có lửa làm sao có khói?
341 .- Thật chớ. Quân tử nhất ngôn. Tối nay đúng canh ba, khi 294
cái đồng hồ của tiên ông gõ 12 tiếng, tôn ông hãy dung chĩa
. Dòi trong xương dòi ra sửa soạn đâm tôi.
342 . – Chẳng lẽ tôi ngủ nhà tôn ông rồi tôi đành phản bội, ăn 294
. Nhanh như chớp cắp tiền bạc của tôn ông. Như vậy là “dòi trong xương dòi
ra” làm sao gọi là tành hình?
343 . Chết bờ chết bụi Nhanh như chớp, thầy hương quản đưa tay lên cao để lấy 295
trớn, ghìm mũi chĩa ngy kẽ ván của sàn nhà.
344 . Bá phát bá trúng. .-… Thừa cơ hội đó, nó tẩu thoát, Chắc nó bị thương, chết 297
bờ chết bụi, nằm đâu đây chớ chẳng xa.
345 .- Để cho thiên hạ phục tài đâm bá phát bá trúng của tôn 298
ông.
346 . Tâm đầu ý hợp . Thằng Cưng đã nhiều lần đến tò vè cô Huệ. Đôi bên dường 301
như tâm đầu ý hiệp lắm.
347 . Ăn ngay nói thẳng .- Cái gì mà phải, cái gì mà đúng. Tôi không ưa kẻ nịnh hót, 302
222
tôi muốn làm bạn với người ăn ngay nói thẳng.
348 . Nói bóng nói gió . Bất quá ông ta nói bóng nói gió, mắng chó mắng mèo. 302
349 . Mắng chó chửi mèo Nếu muốn hành hung hoặc bắt bớ, ông ta đã hảnh động kiểu
khác.
350 . Nằm gai nếm mật . Về nhà, cặp rằng Hực thức lien tiếp năm sáu đêm, hình vóc 303
ốm o, cặp mắt sâu hoắm theo kiểu Câu Tiễn nằm gai nếm
351 . Ngày lành tháng tốt mật để tìm cách… trả mối thù… tình.
352 . Hậu sanh khả úy .-… Tôi bố trí rồi… Mày ráng chờ ngày làng tháng tốt rồi 304
làm như vầy, như vầy… cho thằng cha cặp rằng đó hiểu
60 rằng: hậu sanh khả úy, đám con nít đời nay o mèo giỏi hơn Yêu cho
353 . Thề non hẹn biển thằng chả gấp bội. được
. Đêm về khuya, đôi uyên ương vẫn thề non hẹn biển ở 308
354 . Liên tu bất tận ngoài vườn.
.- Xưa nay, hễ mang bệnh toi bệnh dịch thì trâu bò chết liên 309
355 . Tương kế tựu kế. tu bất tận suốt tuần lễ.
.- Tương kế tựu kế. Nó tưởng mình vắng nhà suốt đêm. 311
Mình về bất thình lình cho nó biết mặt.
BIỂN CỎ MIỀN TÂY & HÌNH BÓNG CŨ
223
356 . Liên tu bất tận . Thầy đội Bình nói gắt: - Tôi làm kiểm lâm, bộ tôi dốt 12
chuyện đó sao? Nhưng mà tại sao nói liên tu bất tận, lạ quá.
. Tay bắt mặt mừng , chú Bảy Đặng gất đầu hoan hỉ khi
61 357 . Tay bắt mặt mừng nghe thầy đội khen… 15 Cấm bắt
.-… Đó là hồi xưa, hồi đàng cựu. Bây giờ lội đỏ con mắt rùa
358 . Lội đỏ con mắt cũng không kiếm ra một con cần đước nhỏ xíu. 16
.-… Nói mà nghe, chớ năm khi mười họa nó mới cắn một
359 . Năm thì mười họa lần. Nó thuộc vào hang tứ linh: long, li, qui, phụng có căn tu 17
lâu đời…
.-… con rùa là thần Kim Qui… Rùa là ông thần xây thành
360 . Xây thành đắp lũy đắp lũy. Móng rùa là cái… máy, để nó vô cái ná lẫy, kêu là 19
361 . Bá phát bá trúng nỏ thần thì… bá phát bá trúng. Lại còn bên Tàu, xưa kia
362 . Càn khôn vũ trụ rùa nổi trên sông Hoàng Hà, trên lưng vẽ hình bát quái, tức
là bản đồ của càn khôn vũ trụ, vạn vật.
. Đúng là vậy, bảy Đặng là tay bợm nhậu, chuyên nghề đốt
363 . Ném đá dấu tay rừng để bắt rùa, ném đá dấu tay. 19
. Trời sa mưa. Muỗi mòng sinh sôi nẩy nở gấp mười lần
364 . Sinh sôi nẩy nở nào, so với mùa hạn. 19
. Thầy đội sửng sốt. Phải chăng Bảy Đặng là tay đầu trộm
224
20 365 . Đầu trộm đuôi cướ đuôi cướp…
366 . Đất có thổ công sông .- Chú em đừng nói vậy, rủi xảy ra điều bất lành, ăn năn 27
có Hà Bá không kịp. Đất có thổ công, sông có Hà Bá.
367 . Chết đuối bám được … Ngoài biển sông ngòi, loại cá to phải lựa một gốc cây nào 28
62 phao đó mà nương tựa cho ấm cúng. Gặp gốc cây, cá mừng quýnh Con bà tám
như kẻ sắp chết đuối bám được cái phao…
368 . Vong ân bội nghĩa . Để tỏ rằng mình chưa đến nỗi vong ân bạc nghĩa đối với 29
tiên sư Dì Xiêm, Hai Nhiệm toan kết thúc câu chuyện để
đuổi khéo ông thầy nò Tư Nhu.
369 . Đối nhân xử thế . Trẻ tuổi háo thắng, nhưng Hai Nhiệm vẫn hiểu cái thủ 30
đoạn đối nhân xử thế. “Quỉ thần kính nhi viễn chi”. Nên
370 . Kính nhi viễn chi kính trọng ma quỉ, thần thánh nhưng chớ khá lân la với họ -
nghĩa là nên lánh xa chừng nào hay chừng nấy.
371 . Nhất phá sơn lâm, nhì .-… Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá. Chú em nhỏ tuổi, 31
đâm Hà bá. nghĩa là còn nhiều dịp để thành công nhưng cũng còn nhiều
dịp để thất bại. Nhớ lấy đó! Răn lấy đó!
372 . Bách văn bất như nhứt .-… Ra coi thử mới được. “Bách văn bất như nhứt kiến”. 33
kiến Nghề là nò quí ở chỗ chủ nó đích thân coi sóc từng giờ từng
phút…
225
373 . Liên tu bất tận … Thầy Tư Nhu đưa chai rượu lên môi mà ực liên tu bất 34
tận, tưởng chừng như nếu ai gỡ chai rượu ấy ra , thầy mất
phần hồn lăn ra chết xỉu.
374 . Phong ba bão táp . Hàng rào xuất hiện. Mớ cây đước cắm giăng hang ngang 34
để chận cá vẫn đứng vững trước bão táp phong ba.
375 . Trên bờ có lúa dưới . Hắn không làm nghề gì rõ rệt, vẫn sống thênh thang ở cái 39 –
sông có cá xứ “trên bờ có lúa, dưới sông có cá”. 40
63 376 . Mẹ góa con côi . Hồng không nghĩ rằng mình là kẻ đang yếu thế. Tuy “mẹ 41 Con cá chết
góa con côi”, nàng đã nuôi con đến khôn lớn. dại
377 . Giàu lòng nghĩa hiệp .- Ủa! Bơi đi đâu lạ vậy? Tôi đâu phải ăn cướp. Tôi là đứa 41
biết điều, giàu lòng nghĩa hiệp. Đời tôi cô độc lắm. Tôi
nhảy xuống rạch bây giờ.
. Thất bại là mẹ thành . Bỗng dưng Hai Tỵ cảm thấy hãnh diện “thất bại là mẹ 41
378 công thành công”. Vả lại hắn chưa thất bại.
. Xứ lạ quê người . Chỉ tội nghiệp cho Huệ. Nàng ngỡ mình sắp bị bao vây nơi 42
379 xứ lạ quê người.
380 . Gối mỏi da dùn . Đây này, chiếc xe ngoại hạng, mang biển số xa xưa từ đời 56
CU… vì “tuổi hạc quá cao” nên “gối mỏi da dùn” gặp
khoảng đường xấu thì nhíp rít lên ken két…
226
381 . Áo mặc không qua … cậu lơ cau mày và bỏ qua, như ngày xưa người ta áp 56
khỏi đầu dụng kỷ luật “phu xử tử vong”, “áo mặc không qua khỏi
đầu”.
382 . Bồng lai tiên cảnh … nhìn những gốc rạ vàng cháy bên đường, khách hồi 58
hương vẫn nghe hơi hướm của bồng lai tiên cảnh đang len
64 lỏi vào tâm hồn. Đường về
383 . Trên ô tô dưới thời ca . Trước năm kinh tế khủng hoảng 1930, giới điền chủ thiệt là 59 quê
nô no đủ, “trên ô tô, dưới thời ca nô”.
384 . Cò bay thẳng cánh . Là hai tay gộc, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Tay thứ nhất 60
mang tật
385 . Ngựa quen đường cũ .- Lời tục ví “ngựa quen đường cũ” là như vậy đó. Chiếc xe 62
. Ăn gởi nằm nhờ hơi này không khác gì con ngựa “xích thố” chở ông Quan
386 Công theo đường cũ…
… Rồi họ lê gót khắp đô thành từ bàn Cờ, Phú nhuận, Hòa 63
Hưng, tân Sơn Nhất, ăn gởi nằm nhờ, nhìn lá me rụng bên
vệ đường, nhìn bóng mát cây trứng cá nhà ai rồi hững hờ
dang tay hái trộm thử một trái để tự an ủi.
387 . Ngọc ngà châu báu .- Đừng xúc phạm. Nó quí hơn ngọc ngà chân báu, nó linh 67
thiêng hơn cái sắc thần ở đình làng
388 . Ẩn sĩ quy điền .- Tôi không còn cơ hội đánh giặc nữa. Tôi muốn ẩn sĩ qui 68
227
điền.
389 . Chí thú làm ăn .- Mình nên chí thú làm ăn, đừng gây gổ với Tổng Bá. Ổng 68 65 Hai cõi U
giết người như giỡn, nghe đâu ông ra chợ Rạch Giá để nhận Minh
chức Cai Tổng với người Lang Sa
390 . Quân tử nhất ngôn . Bà vợ cau mày, hiểu chồng mình là kẻ quân tử nhứt ngôn, 69
chẳng bao giò ói láo với vợ dầu là trong phòng riêng, lúc
ban đêm chả có ai làm chứng.
391 . Vai u thịt bắp .- Người anh hùng vai u thịt bắp như tôi mà trốn à! Nếu 70
vắng mặt tôi thì mấy người khác lại phải mệt sức
392 . Khỉ ho cò gáy . Năm ấy tôi là một công tử vườn ở làng Đông Bình, vùng 83
khỉ ho cò gáy, chưa khai hoang.
393 . Quê cha đất tổ . Đáng lý ra, với chút ít chữ nghĩa, tôi đã rời xóm làng, ra 83
66 chợ Rạch Giá tìm sở làm cho ra vẻ thầy thông thầy ký. Kéo trúm
Nhưng tôi vẫn cương quyết bám lấy quê cha đất tổ! Thái độ
hiên ngang ấy không phải là lòng yêu nước. Chẳng qua là
tánh ham chơi, muốn làm ít, hoặc không cần làm mà vẫn có
394 . Nước mặn đồng chua ăn, ăn ngon.
.-… Dân ở vùng nước mặn đồng chua có bốn thức ăn sang 85
trọng. Đó là lươn, ếch, rùa, rắn! Cá, tôm, thịt bò, thịt heo là
. Đồng không mông món ăn hơi nhàm.
228
395 quạnh . Anh ta giữa đồng không mông quạnh, bạn bè ít tới lui vì 86
. Bá phát bá trúng đường sá khó khăn.
396 .-… Nghe đâu anh kéo trúm bá phát bá trúng, mỗi ống đều 77
có một hoặc hai con lươn chun vô nạp mạng…
397 . Ăn no ngủ kỹ .-… Mầy đừng hỏ ông Thổ địa chi, tao có cách này: mày rửa 101
398 . Tai qua nạn khỏi mặt, ăn no ngủ kỹ, rồi thì tai qua nạn khỏi.
399 . Lạc đường dắt đuôi . Xưa nay lời tục nói: “lạc đường dắt đuôi chó, lạc ngõ dắt 101
chó, lạc ngõ dắt đuôi đuôi trâu”. Nếu vì ham ăn cỏ non mà đi lạc, lẽ dĩ nhiên trâu
trâu nhớ chuồng cũ mà trở về.
67 400 . Khôn nhà dại chợ .- Hừ! Hương cả Bạch là hạng người khôn nhà dại chợ. Oai 101 – Lũ trẻ chăn
quyền của ổng không bằng một sợi lông chân của tổng Bồi! 102 trâu
Đừng lo.
401 . Dòi trong xương dòi ra .- Không đâu. Dòi trong xương dòi ra. 107
. Con cháu Thần Nông .-… Ông thần đau xót vì con cháu ông Thần Nông gặp nạn.
402 Ổng nghĩ rằng ổng không còn linh thiêng hay là ổng giận 108
nên ổng từ giã làng này.
403 . Tranh thương bất chính . Tôi chợt hồ nghi đó là thủ đoạn tranh thương bất chánh 112
. Lòng dạ thẳng ngay để giành giựt mối hàng
229
404 . Như để thanh minh cho lòng dạ ngay thẳng của mình, snh 112
. Thanh lâu u cốc bán dưa trỏ ta về phía mé biển
. Tôi bực mình: tại sao ở chốn thanh lâu u cốc mà lại xảy ra 112
. Đại phú do thiên, tiểu cuộc tranh chấp nhỏ nhen như vậy?
68 405 phú do cần .- Thì tiểu phú do cần, đại phú do thiên, ổng hà tiện là phải. 113 Mây trời và
. Kiến tha lâu đầy tổ Kiến tha lâu đầy tổ. Như vậy đâu phải là thiếu âm đức? rong biển
406 . Ngọc lành đợi giá cao . Vì muốn gom góp tiền bạc để làm vua một cõi, nên ông ta
407 giữ gìn con gái thật kỹ lưỡng, chẳng thèm gả cho bất cứ 114
chàng trai nào trong vùng. “Ngọc lành còn đợi giá cao”.
. Lâu ngày chầy tháng . Lâu ngày chầy tháng, cô con gái ông trở nên “lỡ thời”. 114
Cô ta tên Ngọc.
408 . Xứng mặt anh hùng .- Anh nói kỳ quá hè! Tự tử làm gì , ích lợi cho ai đâu? Anh
không còn cách xử trí nào khác cho xứng mặt anh hùng! 115
409 .- Tội nghiệp! Hồi nào tới giờ thằng Tú ngao du khắp ngũ
. Ngũ hồ tứ hải hồ tứ hải, đi dọc về ngang. Trời mưa sóng biển ầm ấm như
. Đi dọc về ngang vậy, chắc nó buồn lắm. 116
410 . “Anh Tú, em thương anh lắm. Anh đừng hiều lầm gì hết.
411 . Đồng tịch đồng sàng Anh dám thề với em không? Tụi mình sống thì đồng tịch
. Đồng quan đồng quách đồng sàng, chết thì đồng quan đồng quách. 118
412 . Trường tình bể ái . Người ta thường nói “trường tình biển ái”. Tại sao lúc
230
413 trước nó dám vẫy vùng trên mặt biển đầy sóng gió mà giờ
phút này nó rụt rè khi sóng gió của biển ái tình vừa dậy lên. 118
. Thằng Tú nói: - Giết tại đây à? Ông vô ơn bạc nghĩa quá. 414
. Vô ơn bạc nghĩa Ông không cần dung đến tôi thì trả tôi ra biển. Tôi muốn đi
xa
120
415
416 . Khỉ ho cò gáy … Đồng bào ta xác nhân rằng bên cạnh Hòn Ngọc ấy còn 125
417 . Chó ăn đá gà ăn muối nhiều vùng quá chậm tiến gọi là Hóc Bà Tó, Voi Bà Khẹt, Cù
lao Heo, Rạch Ba Rộng Ba Hẹp, Đồng CHó Ngáp, chốn
“khỉ ho cò gáy”, “chó ăn đá gà ăn muối” và theo lời truyền
khẩu, ở các vùng nói trên, đồng bào ta sống trong địa đàng
69 . Rõ ràng là nếp sống của Trúc lâm thất hiền theo nền “văn Một
. Văn minh thảo mộc minh thảo mộc”, nhà cửa, giường chiếu, bàn ghế, ghe 125 chuyện khó
418 thuyền đều bằng nguyên liệu cây cỏ, chế biến ra. tin
.- Chưa biết tội mà chịu tội thiệt lạ lùng như người không
. Có vay có trả 129 vay mà đòi trả nợ.
. Nguyễn Văn Quỵt mà khai là lê Văn Mẹt! Bữa nào tôi dẫn 419
. Biết đá biết vàng chú ra chợ, cho Tây nhìn mặt, biết đá vàng với thiên hạ với 132
thiên hạ! “On”! “Đơ”! 420
231
. Thời Nhựt Bổn đánh trung Hoa tôi nghe nhiều tay nằm hút
. Thao thao bất tuyệt á phiện suốt ngày, đọc có một thứ nhựt báo mà dám bàn tán 135
421 . Tôn Tử tái sinh thao thao bất tuyệt về tình hình quốc tế, về chiến lược quân
422 . Chết vinh hơn sống sự như là ông Tôn Tử tái sanh.
423 nhục .-… tôi nào phải là thánh nhân hay anh hùng. Họ dám lãnh
bưng chén thuốc độc lên môi để chết vinh. Đằng này, bưng 139
. Im lặng là vàng chén cứt khỉ uống để mà sống nhục, khác nhau xa quá.
424 . Ai nói câu gì tôi đều ním lặng. Sự nín lặng không là vàng, 140
. Đại phú do thiên tiểu là bạc là chì nhưng là thứ xấu xa nhất.
425 phú do cần … Lửa cháy rừng để lộ một giồng cao ráo, đào xuống là gặp 140
mạch nước ngọt. Thế là đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Tôi làm giàu, trở thành điền chủ là nhờ tai nạn ấy và nhờ
thời vận.
426 . Chí thú làm ăn … Người hàng xóm khen ngợi: Chú đàng hoàng, chưa gây 146
gổ với ai. Tôi nhận xét: Chú là hạng người chí thú làm ăn,
“chơi bời kỹ”. Một người
70 427 . Tai họa khôn lường . Người tong xóm lo ngại, nhà chú Hai chứa toàn chất “bắt 147 hàng xóm
lửa”, rủi bề gì gây tai họa khôn đo lường được.
428 . Nhứt bổ vạn lợi . Tôi bán kẹo, bán chịu, họ cứ ăn, khi nào đánh lưới được cá 159 71 Ngày hội
232
(một vốn bốn lời) gộc thì thật là nhứt bổn vạn lợi. ba khía
429 . Tửu binh phá thành . Ông chỉ nhớ rượu. Mỗ cữ ít nhất cũng phải hai xị, nghĩa là 169
sầu nửa lít. Hỏi uống để chi, ông đáp: “Dụng tửu binh đả phá
thành sầu”
430 . Ngăn mây đón gió . Người đi lại xem tường văn võ 171
Trách lòng ai chặn ngõ lấp truông,
Ngăn mây đón gió để con bạn nó thua
Buồn vì tiếng thị phi…
… Còn anh, anh sắm cho anh chỉ có một cái nón đáng giá
hai đồng xu. Ăn cơm rồi hút thuốc rê vấn lá chưng bầu.
72 431 . Tình chồng nghĩa vợ Miễn cho anh đặng tình chồng nghĩa vợ, cực khổ gì anh 171 – Ngày xưa
chẳng có than. 172 tháng chạp
.- Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng của em, mấy ông tre ngã
xiêu ngã tó.
Mấy tấm vạt cau rớt lên rớt xuống, ai ngó vào cũng chắt
432 . Ngã xiêu ngã tó lưỡi, lắc đầu, hỡi ơi cho phận thiếp. Anh kết nghĩa lương 174
duyên với em tình chồng nghĩa vợ. Anh em bạn của em
433 . Tình chồng nghĩa vợ đứng ngoài xa, miệng kêu, tay ngoắt. Bớ Tư ơi! Người sao
không khác chi chị Thoại Khanh thuở trước khảy đờn tìm
434 . Kết nghĩa ái ân bạn mà kết nghĩa ái ân làm gì?
233
435 . Ba chìm bảy nổi . Mấy câu hò này mắc mỏ quá . Phải là người có gia thất, 175
từng chịu bảy nổi ba chìm mới trả lời xong
436 . Binh rồng tướng mạnh .-… Nhà nước Lang Sa có binh rồng tướng mạnh. Cháu 175
. Chết bờ chết bụi hiểu chưa? Đánh giặc kỳ rồi, A-Lơ-Man còn thua Lang Sa
nữa kìa. 437
. Biếng nói biếng cười . Ba năm sau này, có kẻ bảo rằng ông ấy chết bờ chết bụi vì 178
say rượu 438
. Sự thật ra sao? Đến thằng Tịnh cũng không hiểu. Nó đâm 178
ra biếng nói biếng cười. Mãi đến một năm sau đó cũng vào
tháng chạp, nợ nần nhiều quá, nó trốn đi ra chợ Rạch Giá
để làm cu li….
439 . Lêu têu kháng chiến . Tiêu dao là thánh hiền ngày xưa cùng đồng nghĩa với “đi 181
440 . Cà nhổng chống xâm bát phố”, “đi phất phơ”, “thả tà tà” hoặc lêu têu kháng
lăng chiến, “cà nhổng chống xâm lăng”.
441 . Lục phủ ngũ tạng . Con người tôi bẩm sinh yếu ớt, luôn luôn có bịnh trong lục 181
phủ ngũ tạng, hễ đến bác sĩ hoặc y tá là luôn luôn được
73 hứng nhận… sắp ho lao đến nơi. Ngó lên Sở
442 . Hào hoa phong nhã . Hồi học trường Phan Than Giản (Cần Thơ) thằng Đinh nổi 182 Thượng
443 . Ăn xài như nước danh hào hoa phong nhã, ăn xài như nước và đánh lộn rất
234
giỏi.
444 . Thời thế tạo anh hùng . Bậy nè! Thời thế tạo anh hùng. Giáp ranh với làng này, 185
còn hai làng đặc biệt lắm, toàn là người Miên, làng tài Văn,
làng Liêu Tú…
. Bá phát bá trúng .-… Nó có cây súng lạ lùng, gắn ông dòm. Hễ cái bóng của 186
445 mình lọt vô ống dòm là nó bóp cò, bá phát bá trúng.
. Ốm nhom ốm nhách .-… Chẳng lẽ tụi nó kéo đại đội hùng binh ra ruộng để bắt 187
446 hai đứa tay không, ốm nhom ốm nhách như tụi mình?
. Dụm năm dụm bảy .- Đừng tập trung, dụm năm dụm bảy. Tụi nó them nghi 188
447 . Hư giò hư cẳng ngờ. Nhứt là con trâu này. Tụi nó ngứa tay, bắn con trâu rồi
448 . Múa gậy vườn hoang lạc đạn làm hư giò hư cẳng bọn ta.
449 . Đồng không mông .- Múa gậy vườn hoang mà. Có người điểm chỉ, cho tụi nó 190
quạnh biết rõ xóm này ai hiền ai dữ, ai theo kháng chiến…
450 . Nếu rủ thằng Đinh ở lại thì tôi là đứa quá hèn hạ. Trời 191
. Ai lo phận nói chuyển mưa. Giữa đồng không mông quạnh, còn một mình
tôi.
451 . Cứu khổ cứu nạn . Hai ngàn thước. Gần mà. Nhưng lính Tây vô đây làm gì. 193
Xóm nầy ai lo phận nấy. Tại sao chú dám vô nhà tôi.
452 . Từ đó tôi yêu kính ca dao. Ngoài giá trụ văn chương, địa 194
lý, phong tục… nó còn là lá bùa cứu khổ cứu nạn thời
235
kháng chiến.
453 . Im hơi lặng tiếng .-… Trời lạnh lắm. Em có đắp mền cho kín không? Coi 199
chừng ho đó em. Em đành lòng nào im hơi lặng tiếng? Anh
thề ở đây hoài, chờ em cho đến xế chiều.
454 . Xông pha mưa gió . Đúng như lời, hắn chép miệng, đôi mắt mơ màng, rồi trong 201
74 một thoáng liếc vào phía cửa buồng: - Ngọc ơi! Vì em mà Người đi
anh xông pha nơi mưa gió đêm
455 . Tan xương nát thịt … Đến gần đầu tường, hắn dừng lại đưa một chân ra ngoài 203
khoảng không tưởng chừng như hăn sắp té tan xương máu
thịt
456 . Trao thân gửi phận . Huệ cau mày, đôi má đỏ ửng vì giận dỗi, vì tức cười. Trao 220
thân gởi phận cho con người đáng chú bác kia, thà tự tử còn
hơn.
457 . Nam thanh nữ tú .-… Coi sách ở tiệm mặc dầu đứng mỏi chân nhưng mình 222
75 thấy ấm áp, gần hơi thở của cuộc đời, của nam thanh nữ tú. Qua hiệu
458 . Bứt mây động rừng .- Bán sách có chức vụ cao quí. Lúc rảnh rang cô hãy đọc sách
sách, ít nhứt là đọc qua tựa sách. Xin lỗi, bứt mây động 222
236
rừng…
459 . Mệnh phụ phu nhân . Nhiều cô bạn xấu xí, học dở nhưng gặp ông chồng giàu 235
sang, sống trong nhung lụa, trở thành “mệnh phụ phu
76 nhân”. Nhiều bà vợ bác sĩ, vợ quan chủ quận kém nhan sắc Trong lòng
460 . Khôn nhà dại chợ hơn nàng… bàn tay
. Nhưng Bạch đâu rồi? Bà chủ hơi giận: rõ chàng thư ký si 235
tình này là khôn nhà dại chợ.
461 . Anh hùng mạt lộ . Có tiếng kêu réo: - Anh hùng mạt lộ đang tính chuyện lấp 243
462 . Lấp biển vá trời biển vá trời
.- Em cháu bữa nay nói chuyện hơi khó nghe. Bộ thua me 463 . Thua me gỡ bài cào 244
rồi gỡ bài cào hả? Bác đây mà Thiệp. 77 Tục lệ ăn
.- Rứt một cục, vấn vài điếu thuốc để dành. Đừng buồn. 464 . Thế gian sự thường 244 trộm
Thua cờ bạc, thế gian sự thường, chẳng có gì xấu hổ hết,
nhứt là trường hợp của cháu.
. Vậy mà hai ngày rày họ cười chê, gặp mặt cháu, họ nói 465 . Hoạnh tài bất phú 244
“hoạnh tài bất phú”. Độc hại hơn, họ xầm xì: Thiệp là
thằng ăn trộm gặp ăn trộm. Thú thiệt với bác, cháu buồn,
chảy nước mắt thầm.
. Ông moi trí óc, đưa ra vài ý kiến, chứng tỏ “ta đây nào 466 . Nước đục thả câu 248
237
kém tri thức”: - Nước đục thả câu. Ngày đầu năm, người
trong xóm tránh gây gổ, kiện tụng.
467 . Vạn bất đắc dĩ . Ăn trộm trong dịp quan trên treo ấn là điều vạn bất đắc dĩ. 249
Mình nên thương họ. Họ là người Việt Nam như mình
468 . Cúc dục sinh thành .-… Bây giờ giàu rồi, nhưng hàng năm tôi muốn ghi ơn cúc 249
dục sanh thành của tổ tiên bằng cách đi ăn trộm, theo lệ
469 . Đi một ngày đàng học . Ông hương thân nói: - Thiệp à, cháu thấy chưa, đi quãng
một sàng khôn đàng, học sàng khôn, tội tình gì mà nằn chèo queo ngoài 250
chòi giữ dưa.
470 . Ba sớn ba sác . Kỳ quá hè. Thiệt là “ba sớn ba sác”. Ổng xuống bây giờ.
Cỡ này, ổng hay quạu bất tử lắm. 250
471 . Thiên địa sơ khai . Thói ăn trộm bẻ hoa đã có từ thời thiên địa sơ khai. Mai
472 . Xuôi chèo mát mái chiều đây, nếu xuôi chèo mát mái, thằng Thiệp báo hiếu cho 253
cha nó một đứa cháu nội, con Huệ thì báo hiếu cho cha nó
một đứa cháu ngoại.
473 . Gà què ăn quẩn cối . Ông hương hào chưa chịu buông tha: - Thằng Thiệp giỏi, 253
xay dám làm ăn, không như gà què ăn quẩn cối xay. Nhỏ mà khí
phách như người lớn.
474 . Xứ lạ quê người . Hai Cần đáp: - Cháu chán cái cảnh sống một mình, một 255
238
475 . Tứ cố vô thân nhà như vầy. Ngặt vì xứ lạ quê người, tứ cố vô thân, thiên
hạ chê cháu nghèo, chẳng ai thèm gả con.
476 . Gạo trắng nước trong . Hai Cần thương mến cô gái miền “gạo trắng nước trong”, 255
khen ngợi nết na của cô Hiếm với lão Ngượt…
. Một nắm gió bằng ba . Lão nói: - Để coi. Bày cách khác, miễn là con rạch đừng 260
78 477 bó chèo quá hẹp. Lời tục thường ví “Một nắm gió bằng ba bó chèo”. Vẹt lục
. Nhập giang tùy khúc Bắt đầu từ đàng kia, cháu lãnh công việc nặng nhọc một bình
478 chút
. Lên rừng xỉa răng cọp, .- Sách có chữ “Nhập giang tùy khúc” tùy doi vịnh, gió 262
479 xuống biển hốt trứng nước.
sấu . Hai Cần mừng thầm. Là Người mang dóng máu “Lên rừng 264
. Thuận vợ thuận chồng xỉa răng cọp, xuống biển hốt trứng sấu”, anh nhứt quyết
480 tát biển đông cũng cạn trổ tài cho nhà gái biết mặt.
. Lão Khâm nói khẽ: - Mai mốt, nên nhà nên cửa, còn khó 268
bằng mười lần cái vụ qua chỗ giáp nước này. Rốt cuộc qua
được… nhưng nhập giang tùy khúc, chuyện vợ chồng tát
biển Đông cũng cạn là vậy đó cháu.
481 . Nhàn cư vi bất thiện . Ông Năm Lượng thấy cậu trai nọ là người tốt. “Ở không 272
hoài sanh buồn bực. – Phải có công chuyện làm ăn như 79 Vọc nước
239
thiên hạ thì mới vui”. Thánh hiền ngày xưa dạy “nhàn cư vi giỡn trăng
bất thiện”, gẫm lại cũng chẳng hay ho gì hay hơn câu nói
482 . Học ăn, học nói, học nôm na ấy. 273
gói, học mở .- Gì mà lạ. . Học ăn, học nói, học gói, học mở. Ăn nói là
điều trời phú cho, ai cũng nói ra tiếng, vậy mà còn phải học,
hà huống chuyện hát huê tình đối đáp
483 . Hết cơn bĩ cực tới hồi . Thế rồi “hết cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, đến bài thơ thứ 285
thái lai mười lăm, tôi hân hạnh được giới thiệu trong mục Vườn
484 . Bùn lầy nê địa hoa.
. Tôi thấy trên bản đồ. Hồi xưa đi dạo Hà Tiên, tôi có qua 288
485 . Vá trời lấp biển ngang đó. Xứ coi bộ buồn quá. Bùn lầy nê địa…
. Tôi nhìn dáo ác, e rằng lão muốn ám chỉ chuyện “quốc 290
80 486 . Tình ngay lý gian sự”, “vá trời lấp biển” kháng Pháp… Hình bóng
. Tôi sượng sung oan thanh minh trường hợp “tình ngay lý 295 cũ
487 . Khuấy nước giỡn trăng gian”ấy. Nhưng bà Henr lại khéo biện hộ giùm tôi
. Một hai ổng muốn trở về điền đất cũ ở Mỹ Lâm. Thật là 298
. Cò bay thẳng cánh khuấy nước giỡn trăng! Tôi khuyên ổng nên bỏ hết, vợ
488 chồng đi lên Sài Gòn tìm huê lợi khác. Rầu quá.
. Có đất cắm dùi . các ông đại điền chủ thường núp oai nhà binh Pháp để bảo 309
489 . Khỉ ho cò gáy vệ cái tài sản “Cò bay thẳng kiếng” chủa họ.
240
490 . Tuy không sống bằng nghề nông, tôi vẫn cảm thông mơ 309
màng với nguyện vọng “có đất cắm dùi” chánh đáng của
nông dân.
. Ngao du sơn thủy . Bà cười gòn: - “Khỉ ho cò gáy” chớ sung túc! Còn một cái 310
491 . Lê gót lãng du miễu thờ một pho tượng đá, ông chúa, bà chúa gì đó. Ruộng
492 bỏ hoang đâu hồi năm ngói năm kia.
. Hồi chuông cảnh tỉnh .”… Sở mật thám gây áp lực, khiến quan giám đốc ra lệnh 310 –
493 . Vọc nước giỡn trăng đuổi ông Nguyễn Văn Nhan khỏi trường. Chán nản ông đi 311
ngao du sơn thủy, lê gót lãng du khắp Hà tiên, bạch Mã,
494 . Vạn lý trường chinh đảo Phú Quốc… tìm cơ hội khác hầu going hồi chuông
cảnh tỉnh bé nhỏ, khiêm tốn nhưng hữu hiệu cho quốc
495 . Thối chí anh hung dân…”
. Tôi nói, ông chờ xem… Chuyện “vọc nước giỡn trăng” tôi 325
496 . Hoạnh tài bất phú biết trước rồi. Tụi tây đâu dễ gạt như tôi tưởng…
. Mùa nước nổi từng đàn chuột cắn đuôi nhau mở cuộc “vạn 325
lý trường chinh” từ chân trời vô tận đến chân trời vô tận…
497 . Tai vách mạch rừng . Tôi muốn ông vào đây để tránh những câu nói đâm họng,
làm “thối chí anh hùng” của nhà tôi. 326
498 .- Nhưng anh xác thua cờ bạc, túng tiền. lãnh của chủ Nhan
499 . Khôn chết, dại chết, năm ươi đồng tiền thưởng, để rồi sau ngày hôm sau thua lại 333
241
biết sống” ráo trọi… Của hoạnh tài bất phú.
. Nói thật về cuộc hành quân của Pháp chăng? Rủi bề gì tai
. Bao la bát ngát vách mạch rừng. Nhưng quân đội Pháp sẽ lên đường vào 340
giờ nào? Đêm nay hay sang mai. 500
. Tình thế loạn lạc, “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết là
. Lửa đỏ tư bề sống”, “Mình đừng khiêu khích ai, cũng đừng để ai khiêu 342
501 . Cò bay thẳng cánh khích mình”.
.- Ông xen bản đồ… Điền đất của tôi, rõ ràng bao la bát 502
ngát nào kém Domaine Agricole của tây. Thật hãnh diện cho 342 503
. Anh hùng hảo hán người Việt Nam
. Tôi thừ người, như đứng giữa tư bề lửa đỏ.
. Bây giờ đây, chế độ điền địa đã thay đổi hẳn, những đồn 504 348
. Cỡi mây đạp gió điền “cò bay thẳng kiếng” đều bị truất hữu, nông dân lần 351
lần trở thành tiểu điền chủ.
. Thật ra, giới đại điền chủ ở hậu Giang rất hiền hậu, so với 505
. Nồi nào vung nấy các “anh hùng hảo hán” đi chinh phục… đất hoang ở Mỹ 355
hoặc Nam Mỹ Châu hồi thế kỷ thứ mười tám.
506 . Đêm ấy, lão Tư Hiếm và cô gái nọ cỡi mây cỡi gió đến rạp
khi hay tin trên trần gian có người muốn nhắc nhở tới sự 377
tích của họ.
242
. Giữa ông và bà Henri tánh tình tuy hơi xung khắc, nhưng
bao nhiêu thói xấu, nết tốt của họ đã bồi bổ qua lại từ lâu, 379
tạo thành một kiểu hạnh phúc lứa đôi khá bền vững, “nồi
243
nào vung nấy”.
CA DAO, DÂN CA TRONG SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG SƠN NAM
STT TÁC PHẨM STT VĂN BẢN CỤ THỂ TRANG
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU (tập 1)
01 - Ở đời có bốn cái ngu 99
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu
01 02 - Cu kêu ba tiếng cu kêu 100 Bốn cái ngu
Cho mau tới tết dựng nêu ăn chè
03 + Hỏi: - Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời 228
Thuở tạo thiên lập địa , ông gtrời do ai sanh
02 04 + Đáp: - Nghe anh hỏi tức, anh trả lời phức cho rồi 228 Chuyện rừng tràm
244
Thuở tạo thiên lập địa, hai đứa mình chưa sanh
05 * + Nam: - Hò… ơ… Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm 237
năm tình chồng nghĩa vợ
06 + Nữ: - Hò… ơ…Em gá nghĩa trăm năm tình chồng nghĩa vợ. mai 237
sau anh có xấu phầntừ trần xhết trước, em rước thợ bắc về cẩn đá
lục lăng để chôn chàng
07 - Hò… ơ… gái tôi không hò tới chuyện Tây Du thì thôi, chớ hò 237 –
03 đến chuyện Tây Du thì nhắc từ thuở xa xưa kia Tề Thiên đại thánh 238 Con Bảy đưa đò
loạn thiên cung đánh trời, đánh đất làm cho Ngọc Hoàng xang bang,
xấc bấc, đến chừng thác xuống đất bị Ngũ Hành Sơn chụp đè. Phật
Bà có dặn: Này Tôn hành Giả ơi! Nằm xuống đây chờ chừng nào tam
tạng đi thỉnh kinh hãy đi theo làm đệ tử , Tam Tạng đi đến chợt thấy
Tề Thiên thì mau mau chạy đến gỡ hai lá bùa… Tề Thiên vùng đứng
dậy được, nhưng mình mẩy thì ôi thôi… rong rêu đóng giáp, lỗ mũi
thì cỏ mọc xanh lè… Bớ trai chàng có thấy không?
245
+ Nam: ?
08 + Nam: Hò… ơ…Hột châu nhỏ xuống khoang hầm 238
Em ơi! Phận em là gái phải có chồng nay mai.
09 + Nữ: Hộ hôn, điền thổ, đổ lửa mái nhà, 238
Đứa nào muốn bậu, ông bà cháy tiêu
10 * - Đèn treo trường án, tỏ rạng bờ kinh 238
Bình thủy Lưu Linh, đáo lại Long Tuyền.
Trà Niền, Kinh Xáng, Ba láng, Cái Răng
Hơn không hơn cũng kiếm cho bằng.
Có đâu thua bạn, bạn hòng cười chê
11 * + Nam: - Hò… ơ… Thân anh như con phụng lạc bầy 239
Thấy anh lẻ bạn, em muốn vầy duyên loan
239
12 + Nữ: - Gặp mặt anh đây em muốn vầy hai họ,
Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia
246
239
13 + Nam: - Anh nói với em, anh đã có vợ nhà,
Vợ thì mặc vợ, anh xử hòa thì thôi!
- Anh thương em, thương quấn, thương quít,
Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh.
Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui.
Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi.
Đặt em nằm xuống đây…
Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng cơm hôi.
Tiếc công anh đỡ đứng bồng ngồi.
Bây giờ em vinh hiển… em bắt anh đi bán nồi làm chi?
14 + Nữ: - Bánh bò một vốn ba đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn
chơi. Để em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau
lại nuôi mình…
Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa, em phải
247
ở một mình bơ vơ. 239
15 + Nam: - Ớ nàng ơi!
Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh
hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc 240
vòng sau đây.
- Đêm khuya em thức dậy xem trời;
Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con
cá chạch nó lội đỏ đuôi.
Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược.
Nó chảy ngược, con cá nược nó lội theo. 240 –
Anh than với em rằng số phận anh nghèo, 241
Đũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun
16 + Nữ” – Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa, rữa dĩa, dọn bàn
Tay em sang rươu chát, miệng em hát một đôi câu.
Trên lầu kia có tiếng chuông đánh rộ,
Dưới nhà việc trống để tàn canh 243
248
Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành?
Giá như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua
17 * - Cầu cao ba mươi sáu nhịp,
Em qua cầu không kịp, nhắn lại cùng chàng:
Cái nghĩa tào khang sao chàng vội dứt?
Đêm nằm thao thức, tưởng đó với đây.
Biết nơi nao cho phụng gặp bầy,
Cho le gặp bạn.
Ruột đau từng đoạn,
Gan thắt chín từng,
Đôi ta như quế với gừng,
Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi.
(Hò Bánh bò)
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU (tập 2)
249
18 - Má ơi đừng gả con xa 39
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?
04 19 - Xứ đâu như xứ Cạnh Đền 42 Cô Út về rừng
Muỗi kia như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh
20 - Mẹ mong gả thiếp về vườn 43
Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh
21 - Thương chồng phải lụy nhà chồng 44
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải theo
22 - Một mai ai đứng bên kinh 44
Ai phò giá triệu ai rinh quan tài
Bên kinh đã có con trai,
Gái triệu con gái, quan tài nàng dâu.
Hỏi nào chàng rể ở đâu?
250
Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm
(Ca dao)
23 - Chiều chiều bắt nhái giăng câu, 52
05 Nhái kêu éo ẹo, cái phận tui nghèo Đại chiến với thầy Chà
Chọc ghẹo tui chi?
24 - Chim bay về núi tối rồi 63 06 Đảng cánh buồm đen
Sao không lo liệu còn ngồi chi đây?
208 25 . Dị Nhơn:
- Sông hà lạc, qui trình tám quẻ,
Cửa Võ Môn, cá nhảy ba từng
Trẻ ngâm cơm ngả ngớn đền xuân,
Già vỗ bụng chình chòng cõi thọ
Miêng Trì là quê ngụ, Dị Nhơn thiệt tên già!
07 Hát bội giữa rừng
26 . Mã Cơ xấn xổ vắng Tử Nha:
- Bớ ông Tử Nha này:
Tôi, cầm khí không tường khí múa,
251
Còn chăn voi chẳng biết voi lung.
Hay mần răng! Này tôi nói cho:
Bảo đừng về tiên ngộ tiên khùng,
Khá kiếm chỗ ở thuê ở mướn.
Để trả tiền đường, tiền đậu đây… à!
27 . Trùm xóm cho vây bắt Tử Nha:
- Tốc bôn trì, tốc bôn trì!
Lai ứng tiếp, lai ứng tiếp!
Bắt gái trẻ hoang dâm, hoang dâm!
Quyết sanh cầm, quyết sanh cầm!
Nan dung thứ, nan dung thứ
(Tuồng Phong Thần)
25 - Muôn tâu bệ hạ! Muốn yên nhà lợi nước, nên trồng đước với
dà. Mai sau có hư cửa hại nhà, đốn nó làm kèo làm cột…
- Muôn tâu bệ hạ! Muốn yên nhà lợi nước, nên trồng đước với
252
su, bắt khỉ đột cầm tù, ắt yên nhà, lợi nước
- Cả tiếng kêu…! Ớ này em Hai ơi! Sách có chữ thiện ác đáo
đầu…
(Lời tuồng hát bội)
28 - Một năm mưa gió hai mùa 241
No cơm ấm áo cũng nhờ anh em…
29 - Nghe vẻ nghe ve, nghe vè hạ thú thượng cầm, 242 –
Tôi lại khen thầm, chủ bút đặt có duyên. 243
Hay la lớn tiến, con tu hú, con ác là.
Nhảy nhót lang ba, chích chòe, bìm bịp.
Chúng hay ăn hiếp, con chim ụt, chim mèo,
Lót ổ lá reo, con dòng dọc, áo dà
Ẩn núp trong nhà, con se sẻ, con bồ câu!
Thứ đậu lưng trâu, con sáo sành, sáo nghệ.
Lặn không xiết kể, con cồng cộc, chàng bè.
08 Tháy máy hay dè, con cúm núm, trích cồ, Hội ngộ Bến Tầm Dương
253
Ăn uống hồ đồ già đãy, kên kên,
Đáp xuống bay lên, chim nhàn, thấy bói,
Cái mồng đỏ chói, con cao các, hồng hoàng,
Thức trót canh tàn , con chim cú, chim heo,
Hay ăn lắc lẻo, con sa sả, thằng – chài,
Cần cổ quá tay, con còm con diệc,
Bay cao kịch liệt, con én, con diều,
Giò cẳng thêu lêu, con so đũa, học trò.
Xuống nước ưa mò, con vịt nước, le le.
Hay hát tích te, con gà rừng, cu gạch.
Trong rừng rục rịch, con tằng hắng, chằng nghịch,
Cái đuôi nhúc nhích, là con nắc nước, con loi choi,
Cái con cao lớn quá, hẳn hòi là con khoang cố với con nha sen,
Con thứ ở trong ô rô, cóc kèn là con chim chóc, bảy, tám, chín,
mười cái ổ con chim sâu…
(Thượng điếu, hạ cầm )
243 - 30 - Quán này bán đồ ngon,
254
244 Bán thịt sấu, thịt trăn, thịt mèo.
Gà quay, phá lấu bồ câu
Lại thêm đủ thứ thịt hươu, thịt rừng.
Thịt chồn xào lộn với củ hành
Còn đầu ông Địa tôi nấu canh chua.
Lại thêm cỏ nhác, rượu Tây, rượu Tàu.
Còn rượu để tôi ngâm với rắn mối,
Gà xào, chuột lột, tôi nấu ca ri.
Rắn hổ hành, làm sạch tôi nấu rô ti,
Xin mời quý khách! Muốn xơi thử nào?
Thịt bò chiên làm chả giò,
Còn thịt heo sống, tôi bóp tái thật chua,
Nem tôm, nem thịt lại thêm mắm lòng.
Hầu hết quý khách ăn chơi cho phỉ!
Còn thịt xá xíu tôi chặt lộn với thịt phay,
Thịt phá lấu ăn với cải xanh.
Còn thứ ngon nhứt: cải bắp nấu canh thịt chuột cống xù…
255
(Ngũ điểm Bài tạ)
31 - Một mai thiếp có xa chàng 306
09 Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin Miễu Bà Chúa Xứ
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU (tập 3)
* Thai đố
32 - Cây khô mọc rễ trên đầu 66
Sông sâu không sợ, sợ cầu bắc ngang
+ Xuất vật dụng : Cột buồm
10 33 - Mẹ thằng cùi 68 Ngôi Mộ chôn đứng
+ Xuất mộc: Bông mẫu đơn
34 - Bần cư náo thị cô nhơn vấn 86
11 Phú tại lâm sơn hữu khách tầm Người bạn triệu phú
35 - Con cá trương vi quạt đuôi ra biển Bắc còn mong gì con cá ấy 98
trở lại chốn cũ ao nhà
256
(vọng cổ)
36 - Lềnh khênh rong đuôi chồn, 101 12 Người mù giăng câu
Đặc nước, bông súng bông.
Ô rô và ráng, sập,
Mọc đầy theo mé lung.
Mắm đen, chen dà diệp
Che khuất mấy cánh đồng.
Nơi đây, nơi giáp giới,
Ba ngả một đường lung
(Ca dao)
37 - Tiều rằng vốn lão tinh thong, 131 -
132 Một mình thơ thẩn non lòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai
Lánh nơi danh lợi, chông gai mặc long
Kìa non nọ nước thong dong
13 Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai. Nhứt phá sơn lâm
Công hầu phú quí mặc ai,
257
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày
(Lục Vân Tiên)
38 - Minh rằng: đây đó hỏi han
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau
Tiều rằng: chẳng dám nói lâu
Vào rừng đốn củi bán hầu chợ phiên
(Lục vân Tiên)
39 - Ác ngậm non Đoài! Ngọn gió Đông Nam nó thổi đưa mặt nhựt 159
14 hồi về nơi Tây Bắc Ông già xay lúa
(Vọng cổ)
40 - Kiến nghĩa bất vi vô dũng giả, 201
15 Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng Sông Gành Hào
(Luận ngữ - Trung Quốc)
41 - Trong lúc non song mờ cát bụi 226
Phải đâu là hội kết uyên ương
16 (Ca dao) Thằng điếm vô danh
42 - Đẹp gì chăn gối trong khi cả… 227
258
Dân tộc sôi lên chí quật cường
(Ca dao)
43 VÈ TÀ LƠN
Tà Lơn xứ rày con tạm ở
17 Làm lưới chài ngày tháng náu nương. Thơ núi Tà Lơn
Gởi thơ về cho cha mẹ tỏ tường,
Cùng huynh đệ đặng cho hãn ý.
Kể từ thuở bon trình vạn lý.
Đến bây giờ hơn bảy tháng dư.
Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ,
Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.
Nhớ huynh đệ lụy tuôn nước mắt,
Cam phận em ruột thắt từng hồi .
Vận bất tề nên phải nổi trôi.
Thời bất đạt nên con xa xứ.
Xứ lạ lùng con có một mình
259
Cơn nguy hiểm lấy ai phò trợ.
Bởi thiếu thốn bao nhiều đồng nợ,
Nay thân con phải chịu hoành hành…
… Việc ăn ở nhiều nỗi đắng cay,
Vái Trời Phật xin về quê cũ.
Xứ hiểm địa chim kêu vượn hú,
Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan.
Ngó dưới song con cá mập lội dư ngàn,
Nhìn trên suối sấu nằm như trăm khúc.
Nay co tới nguồn cay nước đục,
Loại thú cầm trông thấy chỉnh ghê.
Giống chằng tinh lai vãng dựa xó hè.
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách.
Bầy chồn cáo đua nhau lúc nhúc,
Lũ heo rừng chạy giỡn bát loạn thiên.
Trên chót núi, nai đi nối gót,
260
Cặp giả nhân kêu tiếng rảnh vang.
Ngó sau lưng, con kỳ lân mặt đò như vàng,
Nhìn phía trước, ông voi đen huyền như hổ.
Hướng đông bắc, con công như tố hộ,
Cõi tây nam, gà rừng gáy ó o…
Cẩn ký nay thì
(Vè)
44 - Mèo lành ai nỡ cắt tai 246
Gái hư chồng bỏ khoe tài với ai
45 - Lời lành ai nỡ lấp tai
Gái hư chồng bỏ khoe tài với ai
18 46 - Ghe lành ai nỡ trét chai Tình bậu muốn thôi
Gái hư chồng bỏ khoe tài với ai
(Ca dao)
261
47 - Ví dầu tình bậu muốn thôi 250
Bậu gieo tính dữ cho rồi bậu ra
Bậu ra, bậu lấy ăn mày,
Nước sông gạo chợ, ngày rày khỏi lo
251 - 48 - Ví dầu tình bậu muốn thôi
252 Bậu gieo tính dữ cho rồi bậu ra
Bậu ra bậu lấy ông câu,
Bậu câu cá bống ngắt đầu kho tiêu.
Kho tiêu, kho mỡ, kho hành
Thêm ba lượng thịt để dành anh ăn,
Anh ăn không hết để dành.
Để trong quyển sách , để ngoài án thơ
Vài năm sau, vua mở hội thi
(Ca dao)
BIỂN CỎ MIỀN TÂY & HÌNH BÓNG CŨ
262
49 - Giấc nam kha khéo bất bình 57
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không
19 (Nguyễn Gia Thiều) Đường về quê
50 - Tân Huề, Tân Quới, Tân Long 58 - 59
Ba Tân nhập lại không xong Tân nào
(Cù lao Tân – Ca dao)
51 - Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi 108
20 Nằm trâu thổi sáo mơ đời Thuấn Nghiêu Cấm bắt rùa
(Ca dao)
52 - Tay cầm cục mực, cây viết vàng 170 –
Vẽ phụng vẽ loan 171
Vẽ Tiết Đinh San
Vẽ chàng Lâm Sĩ
Vẽ bông hoa thị
Vẽ chữ Đại Tường
263
Đem về căm trước đầu tường
Kẻ đi qua thấy một chữ kim tương. 21 Ngày xưa tháng chạp
Người đi lại xem tường văn võ
Trách lòng ai chặn ngõ lấp truông,
Ngăn mây đón gió để con bạn nó thua
Buồn vì tiếng thị phi…
(Câu hát đưa em)
53 - Anh thương em, anh sắm cho em một bộ áo dài màu cà, màu
huyết.
Anh đây nói thiệt chẳng phải nói càn.
Anh đây sắm cho em một cây kiềng vàng chạm chữ tong, chữ
bá, một bộ cà rá chạm đủ cửu long hườn
Anh sắm cho em áo lụa đủ màu, lụa Hà Đông, lục soạn
Còn anh, anh sắm cho anh chỉ có một cái nón đáng giá hai
đồng xu. Ăn cơm rồi hút thuốc rê vấn lá chưng bầu.
Miễn cho anh đặng tình chồng nghĩa vợ, cực khổ gì anh chẳng
có than.
264
(Hò huê tình)
54 - Chàng xa thiếp như cột xa kèo. 174
Cơm đói nghèo chẳng thấy vãng lai
Lúc túng hụt không tiền không gạo
Nàng thất vận, ôi thôi ải não
Dạ âu sầu, ai bảo chi lo
Chàng nói gạt em rằng dưỡng nuôi săn sóc,
Mấy thu chày, em bù lăn bù lóc
Nay vợ gặp chồng, ôi lỡ khóc lỡ cười
Làm gái như ai, chớ làm gái như em, dầu một hột tấm mẳn
không có sai, dầu một sợi tóc mai không cho dời đổi
55 - Em sợ trai như chàng ra chơi cùng an hem bạn, thấy người ta
quần lãnh áo hang, khăn bàn dọn bánh. Anh trở lộn về nhà
thấy gái như em đây một người nghèo nàn cực khổ, mặc cái
áo rách, đội cái nón rơm… anh không thương.
53 - Gẫm phận thiếp như thuyền kia không bánh
265
Thân vì muốn lập thân mà ngại nặng gánh gia đình.
Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng em có một ông cha già đành cỡi
hạc chầu tiên.
Còn bà mẹ hiền như chin cây trên nhành chờ khi ướm rụng:
Chàng ơi! Em ra đây, gặp chàng em hỏi thiệt:
Trai chàng tính cho em ở vậy hay là em cất bước thượng trình
tòng phu.
Chàng ơi! Tại cảnh gia đàng của em, mấy ông tre ngã xiêu
ngã tó.
Mấy tấm vạt cau rớt lên rớt xuống, ai ngó vào cũng chắt lưỡi,
lắc đầu, hỡi ơi cho phận thiếp. Anh kết nghĩa lương duyên với
em tình chồng nghĩa vợ. Anh em bạn của em đứng ngoài xa,
miệng kêu, tay ngoắt. Bớ Tư ơi! Người sao không khác chi chị
Thoại Khanh thuở trước khảy đờn tìm bạn mà kết nghĩa ái ân
làm gì?
(Hò nghèo)
266
56 - Ngó lên Sở Thượng thêm buồn 192
Muốn chăm cội rễ, ngặt đường xa xôi 22 Ngó lên Sở Thượng
(Ca dao)
57 - Với bàn tay ấy trong tay 233
Anh muốn quên đi hận tháng ngày
23 (Ca dao) Trong lòng bàn tay
58 - Anh đây đã có vợ nhà
Vợ thì mặc vợ anh xử hòa thì thôi
(Ca dao)
59 - Thương thì hót cổ, choàng lưng 251
24 Việc ấy xin đừng, phải có mẹ cha Tục lệ ăn trộm
(Ca dao)
60 - Gió đẩy đưa lược thưa uốn éo 261
25 Đem em về sửa khéo dạy khôn Vẹt lục bình
(Ca dao)
Hát huê tình 274
61 + Nam: - Chờ em cho mãn kiếp chờ.
267
Chờ cho rau muống vượt bờ trổ bông
62 + Nữ: - Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ
26 Ai biểu anh chờ anh kể công ơn! Vọc nước giỡn trăng
63 + Nam: - Nè ! Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi. 274
Kẻo giong gió đến, rồi bờ bụi tối tăm…
64 + Nữ: - Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể.
Cưới vợ có chửa về, thổi lửa queo râu
274
- Nhà lạc nghiệp, tha hồ bỏ ngỏ
65 Trăng gió ra vào không có trăng gió nào của riêng ai
(Hát ru em) 275
66 +Nam: - Văng vẳng bên tai, tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?
Anh là chàng Lữ Bố kế nguyền thưở xưa 275
+ Nữ: - Thiện xứ ngã chẳng qua duyên gió. Lòng tương tư nhớ đến
67 bạn vàng. Thôi thôi, anh đừng có nói lôi thôi. Từ đây, tôi với đó kẻ
268
275 một nơi, người một ngả…
68 + Nam: - Phòng loan trải chiếu rộng thênh
Anh lăn đụng gối, tưởng bạn mình anh hun
69 + Nữ trả lời: - Phải chi em được ở chung 276
Thì đâu có ra nông nỗi anh phải hun gối gòn
+ Nam: - Tin ve chai năm nay sụt giá. Tôi bán không khá. Tôi trở về
Rạch Giá chở một chuyến khoai lang. Tôi xuống chợ Trà Bang… để
70 tìm con bạn Ngọc, tôi thở than đôi lời. Phải chi tôi đặng lên trời. Hỏi
thăm duyên nợ đời, đời về đâu?
71 + Nữ: - Chim kêu nhiều tiếng lạ lung. Kêu cho quân tử nghe cùng, 277
phải duyên thì đẹp, phải long thì ưng
72 - Con chim (nho nhỏ, mỏ đỏ xanh long, đỏ mồng xanh kiếng,
nó) kêu (xao xuyến) nhiều tiếng lạ lùng. Kêu (Sao? Kêu lại)
cho quân tử nghe cùng. Phải duyên quân tử thì kết: Phải long
quân tử thì ưng… 278
(Hát huê tình – “Môi”)
269
73 + Sài Gòn: - Xứ đâu thị tứ bằng xứ Sài Gòn 278
Dưới sông tàu chạy, trên đường ngựa đua
74 + U Minh: - U Minh, Rạch Giá thị quá Sơn trường
Dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua
(Hát huê tình – “Bẻ”)
75 + Nữ: - Em thấy anh tương tư bịnh chắc, em rước ông thầy thuốc 279
bắc, em sắc hai chục chén còn lại một phần. Bỏ them mọt lát gừng
sống, một đống gừng lùi, một nùi chuối hột, một hộp đơn qui, một ky
trái đào, năm sáu chục trái cà nà, thần sa một lượng, khoai sượng
một chục, măng cụt một trăm, rau răm một đám, cám một bao, con
gái mười hai đứa, sứa lửa vài trăm…
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm…
Uống ba thang mà anh không mạnh thì em đào hầm chôn
luôn.
270
76 + Nữ: - Lỡ chân em té xuống bùn
Áo quần lem lấm , anh hun chỗ nào
77 + Nam: - Cô ơi đứng nói thấp cao
Thân tôi lem lấm chỗ nào tôi cũng hun
78 - Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng…
Nước xao trăng dợn biết rằng về đâu
(Ca dao)
79 - Sự đời muôn sự của chung 307 27 Hình bóng cũ
271
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
PHỤ LỤC 6.1: MỘT SỐ HÌNH ẢNH (*) NHÀ VĂN SƠN NAM
272
273
274
275
276
PHỤ LỤC 6.2: MỘT SỐ HÌNH ẢNH NAM BỘ XUẤT HIỆN
TRONG SÁNG TÁC SƠN NAM
277
278
279
280
281
i
(*i) Tất cả hình ảnh minh họa trong luận án được lấy từ nguồn Internet
282