
1
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Lý
do
c
họn
đ
ề
tà
i
Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (public-private partnership- PPP)
được coi là một công cụ hữu hiệu để thu hút vốn từ khu vực tư nhân bổ sung
vào nguồn vốn đầu tư truyền thống và nâng cao hiệu quả đầu tư ở nhiều quốc
gia Yescombe (2007), Với Việt Nam, đầu tư theo hình thức đối tác công tư
(PPP) trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ ở nước ta chủ yếu qua
hình thức nhượng quyền về xây dựng-vận hành-chuyển giao (Build-Operate-
Transfer - BOT) giữa Chính phủ và đối tác tư nhân. Kết quả thực hiện dự án
xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở Việt Nam cho thấy đã có khá
nhiều dự án được coi là thành công, tuy nhiên vẫn có một số lượng các dự án
dự án chưa nhận được sự đồng thuận cao của xã hội về vị trí đặt trạm thu phí,
cách tính phí. Do đó, việc thực hiện nghiên cứu nhằm chỉ ra các yếu tố thành
công then chốt đối với các dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT
ở Việt Nam là cần thiết.
Chủ đề nghiên cứu về các yếu tố thành công then chốt (CSF) đối với
các dự án PPP/BOT nhận được sự quan tâm không chỉ các nhà hoạch định
chính sách mà ở các nhà nghiên cứu ở các quốc gia trong nhiều năm qua. Kết
quả tổng quan các nghiên cứu liên quan có thể tiếp cận, tác giả nhận thấy, với
cách tiếp cận nghiên cứu, mục tiêu và đối tượng nghiên cứu khác nhau, các
nhà nghiên cứu đã chỉ ra CSF đối với dự án PPP/BOT có những điểm tương
đồng và có sự khác biệt với nghiên cứu trước và ở Việt Nam mặc dù đã có
các nghiên cứu về dự án giao thông đường bộ theo hình thức PPP/BOT được
thực hiện, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về CSF đối với dự án xây dựng
KCHTGTĐB được thực hiện.
Từ các phân tích và nhận định ở trên, tác giả lựa chọn đề tài ‘Nghiên cứu
các yếu tố thành công then chốt đối với dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ theo hình thức BOT ở Việt Nam’ nhằm chỉ ra các yếu tố
thành công then chốt đối với dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT
ở Việt Nam; và đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy sự thành công của
dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở Việt Nam
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nhằm chỉ ra các yếu tố thành công
then chốt đối với dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
− Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố thành công then chốt
đối với dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình thức BOT ở Việt Nam.
− Phạm vi nghiên cứu: luận án thực hiện khảo sát nhận thức (đánh giá
theo cảm nhận/hiểu biết) của người trả lời thuộc khu vực công và khu vực tư
nhân nhằm chỉ ra CSF đối với các dự án xây dựng KCHTGTĐB theo hình
thức BOT ở Việt Nam, thời gian tiến hành khảo sát điều tra từ tháng 8 đến
tháng 12 năm 2018.
4. Những đóng góp mới của luận án
− Về lý luận: Với phương pháp lấy mẫu có chủ đích, luận án đã
thực hiện khảo sát về nhận thức (đánh giá theo cảm nhận, sự hiểu biết) của
các cá nhân hiện đã và đang tham gia thực hiện, liên quan đến dự án xây
dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) theo hình thức BOT ở
Việt Nam thuộc cả khu vực công và khu vực tư nhân về các yếu tố thành
công then chốt đối với dự án xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB theo hình thức
BOT ở Việt Nam; và với phương pháp so sánh với các kết quả nghiên cứu
cùng cùng bảng hỏi do Li (2003) thiết kế do các nhà nghiên cứu thực hiện tại
Anh, Malaysia, Trung Quốc, Hồng Kông, Úc, luận án đã chỉ ra trong 5 yếu tố
thành công then chốt đối với dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ (GTĐB) theo hình thức BOT ở Việt Nam, thì các yếu tố (ii) Tính
minh bạch trong đấu thầu; (iv) Đấu thầu cạnh tranh; (v) Sự đồng thuận của
xã hội lại chỉ được đánh giá cao ở Việt Nam và có nhiều khác biệt so với các
công trình nghiên cứu tại các quốc gia trên thế giới. Kết quả nghiên cứu này
lại là đóng góp mới của luận án về mặt bối cảnh nghiên cứu và phù hợp với
thực tiễn hiện nay ở Việt Nam khi mà đặc thù của Viêt Nam sử dụng rất
nhiều hình thức chỉ thầu, cách tính phí không minh bạch; việc đặt trạm thu
phí tuỳ tiện, phục vụ lợi ích nhóm chứ chưa quan tâm đến lợi ích chính đáng
của đối tượng tham gia giao thông, và thực tiễn cho thấy nếu không giải