BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN MINH LỢI
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Hà Nội – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN MINH LỢI
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 62 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. Đinh Văn Mậu
2. GS.TS. Nguyễn Viết Tiến
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tư liệu, số liệu được sử dụng và trích dẫn trong luận án này là trung thực và có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, chính xác. Kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Minh Lợi
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp bản Luận án được hoàn thành, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc và lời cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám đốc, các thầy giáo, cô giáo và cán bộ Học viện Hành chính Quốc
gia, Khoa Sau đại học và Khoa Quản lý nhà nước về Xã hội của Học viện đã tạo
điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại Học viện.
GS.TS. Đinh Văn Mậu và GS.TS. Nguyễn Viết Tiến đã tận tình hướng dẫn
tôi trong quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận án này.
Ban Lãnh đạo và tập thể cán bộ, công chức Cục Khoa học công nghệ và
Đào tạo - Bộ Y tế qua các thời kỳ; đồng nghiệp, các vị chuyên gia trong và ngoài
nước, bạn bè và Gia đình đã tạo mọi điều kiện, động viên tôi trong quá trình
nghiên cứu, học tập thực hiện Luận án.
Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Minh Lợi
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ ......................................................................... vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ........................................................................................................................ 9
1.1. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án .......... 9
1.2. Kết quả nghiên cứu tổng quan và những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu30
Chương 2 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG ......................................................................................... 35
2.1. Điều dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ............................................... 35
2.2. Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ...................................... 39
2.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ........................................................................................................................................ 62 2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng của một số
nước và giá trị tham khảo đối với Việt Nam .................................................................. 70
Chương 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN
LỰC ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM ............................................................................. 80
3.1. Khái quát quá trình phát triển ngành điều dưỡng ở Việt Nam ................................ 80
3.2. Khái quát thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở
Việt Nam ......................................................................................................................... 82
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
ở Việt Nam .................................................................................................................. 108
Chương 4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM ............................................... 120
4.1. Dự báo nhu cầu và xu hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng của Việt Nam 120
4.2. Định hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam .............................. 126
4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở
Việt Nam ....................................................................................................................... 129
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................................. 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 151
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 160
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSĐT: Cơ sở đào tạo
CTĐT: Chương trình đào tạo
CSSK: Chăm sóc sức khỏe
ĐDV: Điều dưỡng viên
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
KB, CB: Khám bệnh, chữa bệnh
NLYT Nhân lực y tế
NNL: Nguồn nhân lực
NNLĐD: Nguồn nhân lực điều dưỡng
NNLYT Nguồn nhân lực y tế
QLNN: Quản lý nhà nước
WHO: Tổ chức Y tế thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
Danh mục các bảng
Bảng 3.1. Tổng số CSĐT điều dưỡng theo vùng miền qua các năm (2005-2015) ........ 86
Bảng 3.2. Tổng chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo điều dưỡng các trình độ 2010-2015 .......... 87
Bảng 3.3. Tỷ lệ điều dưỡng/ đầu dân theo vùng kinh tế ................................................ 88
Bảng 3.4. Tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ theo vùng kinh tế ..................................................... 89
Bảng 3.5. Tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ tuyến TW theo vùng kinh tế .................................... 90
Bảng 3.6. Phân loại điều dưỡng viên theo trình độ ........................................................ 90
Bảng 3.7. Cơ cấu giảng viên điều dưỡng trong các CSĐT theo ngành........................ 102
Bảng 3.8. Cơ cấu giảng viên điều dưỡng trong các CSĐT theo độ tuổi ...................... 103
Bảng 4.1. Dự báo nhu cầu nhân lực điều dưỡng tới năm 2020 .................................... 120
Bảng 4.2. So sánh nhu cầu điều dưỡng Việt Nam đến năm 2020 ................................ 121
Danh mục các sơ đồ
Sơ đồ 2.1. Quản lý đào tạo và hành nghề điều dưỡng Nhật Bản .................................... 71
Sơ đồ 2.2. Quản lý đào tạo và hành nghề điều dưỡng Hàn Quốc ................................... 73
Sơ đồ 2.3. Quản lý đào tạo và hành nghề điều dưỡng Thái Lan ..................................... 77
Sơ đồ 3.1. Mô hình đào tạo và hành nghề điều dưỡng Việt Nam ................................... 85
Sơ đồ 4.1. Đề xuất mô hình đào tạo điều dưỡng Việt Nam .......................................... 130
Sơ đồ 4.2. Đề xuất mô hình quản lý đào tạo và hành nghề điều dưỡng Việt Nam ....... 140
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ cấu nhân lực y tế (NLYT), vị trí, vai trò của điều dưỡng viên
(ĐDV) đã được khẳng định. Cùng với đội ngũ các y, bác sỹ, ĐDV đã trở
thành một bộ phận độc lập và không thể tách rời trong ngành Y tế, vừa chiếm
đa số về số lượng, vừa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân. Chăm sóc điều dưỡng là một hoạt động nghề
nghiệp chuyên môn, đòi hỏi có tri thức và kỹ thuật thành thạo, ĐDV cần phải
làm việc chủ động, sáng tạo, phải có kiến thức lẫn kỹ năng, là người cộng sự
không thể thiếu được của bác sỹ và cũng là người thực hiện các hoạt động
chuyên môn trên cơ sở chẩn đoán của bác sỹ. Như vậy, ĐDV phải có những
năng lực thông qua những kiến thức, thái độ, kỹ năng cần thiết để đảm bảo
thực hiện tốt 3 vai trò là: độc lập, phối hợp và phụ thuộc. Thực hiện đường lối
đổi mới của đất nước, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hội
nhập quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng (NNLĐD) đã có những
bước phát triển nhất định cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là sự phát
triển mạnh mẽ của hệ thống đào tạo, về các loại hình, quy mô và trình độ đào
tạo, góp phần quan trọng tăng cường chất lượng bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác đào tạo cũng
như quản lý nhà nước (QLNN) về đào tạo NNLĐD vẫn còn nhiều bất cập và
có những khó khăn, thách thức.
Thứ nhất về lý luận, đường lối chiến lược để đưa đất nước ta thoát khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, văn hóa, tinh
thần là cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nền tảng để đến năm
2020, nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
2
trong đó nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ
tầng, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường vững chắc. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa không đơn giản chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế, mà chính
là quá trình biến đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội làm
cho xã hội đổi mới về chất, trong đó động lực cho sự phát triển đó là con
người. Phát triển giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là những điều
kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa chỉ có thể thành công khi chúng ta có được một nguồn nhân lực
(NNL) có chất lượng. Do vậy, đầu tư cho việc phát triển NNL có chất lượng
được coi là khâu quan trọng nhất so với các loại đầu tư khác cho việc đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư cho việc phát triển NNL bao gồm:
chăm sóc sức khỏe (CSSK), nâng cao chất lượng sống cho con người và phát
triển GD&ĐT. Như vậy, có thể nói đào tạo NNLĐD có vai trò rất quan trọng,
vừa góp phần tác động đến chất lượng CSSK, nâng cao chất lượng sống cho
con người vừa góp phần phát triển và nâng cao chất lượng NNL. Vấn đề đào
tạo NNLĐD đã được nhiều tác giả nghiên cứu nhưng chưa có một nghiên cứu
nào được tiếp cận dưới góc độ khoa học về QLNN, đặc biệt là cấp độ tiến sĩ.
Thứ hai về thực tiễn, sự phát triển kinh tế - xã hội dẫn đến có những
thay đổi rất lớn về yêu cầu cũng như nhu cầu đối với công tác y tế, đòi hỏi cần
có những thay đổi về cách tiếp cận và xác định cơ cấu nhân lực phù hợp, đáp
ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ với những thách thức trong quá trình nâng cao
chất lượng bảo vệ, CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế. Công tác điều dưỡng
có vai trò quan trọng trong hoạt động CSSK nhân dân, đội ngũ ĐDV chiếm tỷ
lệ đa số trong cơ cấu NLYT. Hoạt động đào tạo NNLĐD của nước ta đã đạt
được một số thành tựu nhưng cũng bộc lộ những vấn đề bất cập như chưa xác
định rõ cơ cấu nhân lực cần thiết trong hệ thống y tế, số lượng các cơ sở đào
3
tạo (CSĐT) và quy mô đào tạo tăng nhanh chưa gắn với yêu cầu hoạt động
chuyên môn nghề nghiệp và nhu cầu nhân lực của ngành y tế. Hoạt động
QLNN về đào tạo NNLĐD cũng bộc lộ những vấn đề cần phải giải quyết như
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ, bộ máy quản lý còn
chồng chéo chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan QLNN về GD&ĐT
với cơ quan quản lý ngành. Về hội nhập quốc tế, ngày 31/12/2015, Cộng đồng
Kinh tế các nước khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã chính thức thành lập,
hình thành thị trường lao động tự do lưu chuyển đối với những người đã qua
đào tạo, trong đó có nhân lực điều dưỡng.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc thực hiện đề tài “Quản lý nhà
nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay” để nghiên
cứu, rà soát, đánh giá thực trạng và đưa ra những giải pháp phù hợp trong
hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD ở nước ta là một nhiệm vụ rất cần thiết
và cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, là yêu cầu khách quan của công tác
chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận án là góp phần hoàn thiện QLNN
về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đã đặt ra, đề tài luận án tập trung giải
quyết các nhiệm vụ chủ yếu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án để làm rõ
những nội dung luận án có thể kế thừa, những vấn đề luận án cần tiếp tục
nghiên cứu.
4
- Nghiên cứu, tổng hợp và bổ sung làm rõ cơ sở khoa học QLNN về
đào tạo NNLĐD.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD
ở nước ta hiện nay, phân tích những kết quả đã đạt được, hạn chế và xác định
các nguyên nhân chủ yếu.
- Tổng hợp các quan điểm, định hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện
QLNN về đào tạo NNLĐD của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận án tập trung nghiên cứu QLNN về đào tạo NNLĐD
để được cấp văn bằng theo các trình độ đào tạo, luận án không nghiên cứu
QLNN về đào tạo điều dưỡng theo các chương trình ngắn hạn và đào tạo liên
tục để cấp chứng chỉ. Giới hạn nghiên cứu của luận án là QLNN về đào tạo
NNLĐD ở cơ quan quản lý cấp Trung ương.
- Về thời gian: luận án tập trung nghiên cứu QLNN về đào tạo NNLĐD
trong giai đoạn từ khi có Luật Giáo dục sửa đổi (năm 2009) và Luật Khám
bệnh, chữa bệnh (2009) đến nay, trong quá trình phân tích, đánh giá, luận án
có sử dụng dữ liệu có trước năm 2009.
- Về không gian: nghiên cứu QLNN về đào tạo NNLĐD trong cả nước.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin về phép biện chứng duy vật và lịch sử; tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GD&ĐT và về y
5
tế để phân tích và luận giải QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam trong mối
quan hệ với bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, trong sự vận
động và phát triển của xã hội Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp (desk-study).
Phương pháp này chủ yếu tập trung nghiên cứu, tham khảo, phân tích các văn
bản, tài liệu, công trình khoa học, các số liệu khoa học đã được công bố ở
trong và ngoài nước có liên quan đến luận án để hình thành cơ sở lý luận,
đánh giá thực trạng cũng như xu hướng đổi mới đào tạo và QLNN về đào tạo
NNLĐD trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Để đảm bảo tính khoa học, khách quan, trung thực trong đánh giá thực
trạng QLNN về đào tạo NNLĐD và tính khả thi của các giải pháp, nghiên cứu
sinh đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học sau đây:
+ Điều tra, khảo sát: thiết kế để xác định thực trạng đào tạo, nhu cầu
và sử dụng nhân lực điều dưỡng, gửi phiếu điều tra đến các sở y tế trên toàn
quốc và một số đơn vị y tế ngành, các bệnh viện tuyến Trung ương và bệnh
viện ngành, các trường đại học, cao đẳng và trung cấp có đào tạo điều dưỡng;
điều tra chi tiết nhân lực điều dưỡng tại 7 tỉnh tính đến 31/12/2014 đã hoàn
thành việc cấp chứng chỉ hành nghề cho ĐDV là Điện Biên, Vĩnh Phúc, Ninh
Bình, Hà Tĩnh, Bình Định, Khánh Hòa, Tây Ninh; phát vấn ĐDV tại 7 tỉnh về
nhận thức nghề nghiệp.
+ Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm: thực hiện tại 7 địa phương nói
trên. Thực hiện phỏng vấn sâu các đối tượng lãnh đạo và trưởng phòng tổ
chức cán bộ của sở y tế, bệnh viện đa khoa tỉnh và bệnh viện đa khoa/trung
tâm y tế huyện tại 7 tỉnh nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng và nhu cầu
nhân lực điều dưỡng dưới góc nhìn của nhà quản lý; thực hiện các cuộc thảo
6
luận nhóm với ĐDV tại 7 tỉnh nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng và nhu
cầu NLĐD dưới góc nhìn của bản thân ĐDV.
+ Thống kê, tổng hợp: tổng hợp số liệu theo phiếu điều tra; thống kê,
xác định số lượng cơ sở đào tạo và quy mô đào tạo NLĐD thông qua thống kê
số liệu từ cuốn Những điều cần biết về tuyển sinh đại học, cao đẳng, trung cấp
do Bộ GD&ĐT ban hành từ năm 2010 - 2015.
Thời gian thực hiện từ tháng 01 đến tháng 12/2015. Các số liệu được xử
lý theo phần mềm thống kê EpiData 3.1, SPSS 16.0 và Microsoft Excel 2010.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong quá trình nghiên cứu kinh
nghiệm QLNN về đào tạo NNLĐD trên thế giới, qua đó lựa chọn, xác định
những nội dung, vấn đề có thể áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án giải quyết một số câu hỏi nghiên cứu chính như sau:
- Đào tạo NNLĐD và QLNN về đào tạo NNLĐD là gì? Có đặc điểm,
nội dung như thế nào?
- Những yếu tố nào có ảnh hưởng đến QLNN về đào tạo NNLĐD?
- Thực trạng đào tạo, sử dụng và nhu cầu NNLĐD hiện nay ở Việt Nam
như thế nào?
- Thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam như thế nào? Kết
quả, hạn chế và nguyên nhân? Cần được hoàn thiện theo hướng nào?
5.2. Giả thuyết khoa học
- Hoạt động điều dưỡng và ĐDV có vai trò không thể thiếu trong hệ
thống y tế, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng KB, CB, bảo
vệ và CSSK nhân dân. Để hoạt động chuyên môn của ĐDV đáp ứng được yêu
cầu, đào tạo NNLĐD có vai trò đặc biệt quan trọng và ý nghĩa quyết định.
7
- QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam còn những bất cập và chưa
đồng bộ, chưa phù hợp với quan điểm của Đảng và nhà nước, chưa đáp ứng
được yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế.
- Cần phải tăng cường và hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD để đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án “Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở
Việt Nam hiện nay” là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên
thuộc chuyên ngành Quản lý công đề cập về chủ đề này, luận án đã có một số
đóng góp khoa học mới như sau:
- Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, rút
ra được các nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết.
- Phân tích nội hàm, làm rõ các khái niệm liên quan và đề xuất khái
niệm QLNN về đào tạo NNLĐD. Xác định được các nội dung QLNN và phân
tích các yếu tố tác động đến hoạt động QLNN trong lĩnh vực này.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng, xác định được nguyên nhân kết quả
đạt được và nguyên nhân hạn chế của thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD tại
Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD tại Việt
Nam, phù hợp với các định hướng của Đảng, Nhà nước, ngành GD&ĐT,
ngành Y tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Về lý luận
Luận án góp phần bổ sung và làm phong phú thêm lý luận về QLNN,
góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của QLNN về đào tạo NNLĐD, chỉ
rõ thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN về đào tạo
NNLĐD ở Việt Nam.
8
7.2. Về thực tiễn
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nghiên
cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo khoa học hành chính. Đồng thời
cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu đối với các cơ quan chức năng
trong lĩnh vực GD&ĐT, lĩnh vực y tế để vận dụng thực hiện trong thực tế
QLNN về đào tạo NNLĐD nói riêng và đào tạo NNLYT nói chung.
8. Cấu trúc của luận án
Cấu trúc của luận án gồm:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung:
+ Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án
+ Chương 2. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng
+ Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng ở Việt Nam
+ Chương 4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
- Kết luận
- Các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài
luận án
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến
đề tài luận án
1.1.1. Nghiên cứu về nguồn nhân lực điều dưỡng
Các tác giả Lyn N. Henderson và Jim Tulloch, Australia (2008) trong
báo cáo Incentives for retaining and motivating health workers in Pacific and
Asian countries (Khuyến khích duy trì và thúc đẩy cán bộ y tế tại khu vực
châu Á và Thái Bình dương) [73, tr.18] đã xác định, để cho chương trình ưu
đãi nhân viên y tế được thành công thì cần phải có sự cam kết chính trị lâu dài
và phải được duy trì ở tất cả các cấp, cần phải có sự hiểu biết sâu sắc và toàn
diện về văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế, sự tham gia của các bên liên
quan. Đồng thời, để khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ cán
bộ y tế, giáo dục, đào tạo và phát triển nghề nghiệp phải gắn với các chính
sách thu hút, sử dụng nhân lực, cải thiện chế độ lương bổng, chế độ ưu đãi,
cải thiện điều kiện làm việc và hoàn thiện hệ thống quản lý.
Nghiên cứu của Churnrurtai Kanchanachitra (2011) với chủ đề Human
resources for health in Southeast Asia: shortages, distributional challenges,
and international trade in health services (Nguồn nhân lực y tế ở Đông Nam
Á: sự thiếu hụt, những thách thức về phân phối và thương mại quốc tế trong
dịch vụ y tế) [67, tr. 769-780] đã đưa ra bức tranh chung về NNLYT khu vực
Đông Nam Á. Trong đó, tác giả đã có những đánh giá về NNLĐD Việt Nam
như: đã có nhiều ĐDV có trình độ thạc sỹ và bắt đầu có tiến sỹ điều dưỡng
được đào tạo, làm việc ở nước ngoài. Số lượng điều dưỡng trên 10.000 người
cũng tăng lên (8,82 năm 2009 so với 9,35 năm 2010), trong đó điều dưỡng
10
trong khu vực tư nhân chiếm khoảng 5,7%. Để đáp ứng các khuyến nghị của
Tổ chức Y tế Thế giới - World Health Organization (WHO) về chỉ số
NLYT/10.000 dân, Việt Nam sẽ cần đào tạo 78.747 nhân viên y tế ở các lĩnh
vực trong thời gian tới.
WHO với các tài liệu Nursing Midwifery services-Strategic Directions
2011-2015 (Định hướng chiến lược dịch vụ điều dưỡng - hộ sinh giai đoạn
2011-2015) (2011) [91], Strengthening nursing and midwifery, the sixty-
fourth World Health Assembly (Nghị quyết số 64 của Hội đồng Y tế Thế giới
về tăng cường điều dưỡng và hộ sinh) (2011) [92] đã xác định vai trò của
ĐDV trong cơ cấu NLYT và trong hệ thống y tế, giúp cho người dân được
tiếp cận với các dịch vụ y tế, đảm bảo tính phổ cập, công bằng và hiệu quả.
Trên cơ sở tham khảo Chuẩn năng lực chung của cử nhân điều dưỡng
do WHO khu vực Tây Thái Bình Dương, Chuẩn “Năng lực điều dưỡng
chuyên nghiệp-Professional Nurse” của Hội đồng Điều dưỡng thế giới
(International Council of Nurses: ICN, 2003), Chuẩn năng lực cho điều dưỡng
của Australia và Philippines, Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt
Nam [20] được xây dựng từ năm 2008 và được phê duyệt vào ngày 24/4/2012
theo Quyết định số 1352/QĐ-BYT của Bộ Y tế gồm 3 lĩnh vực năng lực và 25
tiêu chuẩn, 110 tiêu chí cần đạt được của ĐDV để đủ năng lực hành nghề, là
cơ sở quan trọng để xây dựng và ban hành chuẩn đầu ra trong đào tạo điều
dưỡng. Ba lĩnh vực năng lực là: năng lực thực hành chăm sóc; năng lực quản
lý và phát triển nghề nghiệp; năng lực hành nghề theo pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.
Bộ Y tế trong báo cáo tại Hội nghị đào tạo nhân lực Điều dưỡng Việt
Nam [17], Chương trình hành động quốc gia về tăng cường công tác điều
dưỡng - hộ sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020 [18], Niên giám thống kê y tế
2013 [21, tr.54-55], Joint Annual Health Review 2015 (Báo cáo tổng quan
ngành y tế 2015) [75, tr. 38-49], Báo cáo tổng hợp số liệu nguồn nhân lực lĩnh
11
vực khám bệnh, chữa bệnh năm 2015 [27, tr.7], đã có những đánh giá về thực
trạng NNLĐD, quản lý và sử dụng NNLĐD. Theo các tài liệu này, NNLĐD
của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể cả về số lượng và chất lượng trong
những năm gần đây thông qua nhiều hình thức như đào tạo ở nước ngoài, đào
tạo liên kết, liên thông, theo địa chỉ sử dụng, cử tuyển và đào tạo liên tục. Các
báo cáo của Bộ Y tế đã chỉ ra rằng, số lượng ĐDV được đào tạo tăng nhanh
qua các năm nhưng có sự mất cân đối về trình độ đào tạo dẫn đến sự dư thừa
ở trình độ trung cấp; mất cân đối nhân lực điều dưỡng giữa các vùng miền,
lĩnh vực chuyên môn, chưa rõ ràng về phạm vi hoạt động chuyên môn theo
từng lĩnh vực chuyên ngành của chăm sóc điều dưỡng.
Tác giả Đỗ Đình Xuân trong báo cáo tại Hội nghị đào tạo Điều dưỡng
Việt Nam 2005 [13], Chương trình hành động quốc gia về tăng cường công
tác Điều dưỡng - Hộ sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020 của Bộ Y tế [18],
tác giả Lê Vũ Anh và cộng sự (2013) trong đề tài Đánh giá hiện trạng đào tạo
nhân lực y tế [1, tr.36], tỷ lệ điều dưỡng của Việt Nam còn thấp và mất cân
đối về trình độ, thiếu nhân lực ở vùng nông thôn, vùng khó khăn. Cục Quản lý
KB, CB, Bộ Y tế trong Báo cáo tổng hợp số liệu nguồn nhân lực lĩnh vực khám
bệnh, chữa bệnh năm 2015 [27, tr. 7], đến năm 2015, tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ
của Việt Nam mới đạt 1,9 là chưa đáp ứng với tỷ lệ trung bình ở các nước
trong khu vực Đông Nam Á và các khuyến cáo của WHO.
Đề tài cấp Bộ của tác giả Lê Quang Cường và cộng sự "Nghiên cứu
thực trạng sử dụng bác sĩ, cử nhân điều dưỡng sau tốt nghiệp"(2011) [28, tr.
130] đã điều tra, đánh giá việc sử dụng sinh viên sau tốt nghiệp của các ngành
Y đa khoa và Điều dưỡng trình độ đại học. Đối với sử dụng cử nhân điều
dưỡng, mặc dù hiện nay cả nước đang rất thiếu nhưng mới đạt 87,5% điều
dưỡng trình độ đại học có việc làm sau tốt nghiệp, tập trung đa số ở khu vực y
tế nhà nước (93,3%).
12
1.1.2. Nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Tác giả Ronald M. Harden (2006) đã nghiên cứu về đề tài “Trends and
the future of postgraduate medicine education” (Xu hướng và tương lai của
giáo dục y khoa sau đại học) [69]. Trong đề tài này, tác giả đã cho rằng, vai
trò thuộc về Bộ Y tế và các hiệp hội nghề y trong việc đào tạo khoa chuyên,
chuyên ngành sâu. Nghiên cứu chỉ ra rằng, xu hướng đào tạo chuyên khoa
phải tập trung vào kết quả đầu ra. Kết quả đầu ra của quá trình đào tạo là yếu
tố quan trọng nhất và được quyết định bởi các quyết định liên quan đến
chương trình đào tạo (CTĐT), kế hoạch đào tạo, đội ngũ cán bộ giảng dạy và
cơ sở thực hành tiền lâm sàng và lâm sàng.
Báo cáo của Barzansky, B. và Abraham Flexner (2010) The Era of
Medical Education Reform (Kỷ nguyên của cải cách giáo dục y tế)[65] và báo
cáo của Barbara R. Heller, Marla T. Oros, and Jane Durney-Crowley (2011)
The Future of Nursing Education: Ten Trends to Watch (Tương lai của giáo
dục điều dưỡng: Mười xu hướng để hướng tới) [64] đã đề cập tới những yếu
tố cần phải đổi mới trong đào tạo ĐDV. Trong báo cáo, tác giả nhấn mạnh
đến việc đào tạo điều dưỡng phải gắn liền với sự phát triển của hệ thống y tế.
Tác giả đã đề cập tới việc hầu hết các ĐDV đã không được cập nhật với
những thay đổi về công nghệ và những phát hiện mới của y học do các
chương trình đào tạo (CTĐT) của các trường chưa kịp thay đổi. Các nội dung
thiếu hụt được đề cập tới bao gồm: thiếu hụt các kiến thức cơ bản để đảm bảo
cho người học có thể nắm bắt và cập nhật các nguyên lý khoa học, phương
pháp giảng dạy thuyết trình quá nhiều; quá ít thực tập lâm sàng; các kiến thức
được học không được kiểm chứng trong điều kiện thực tiễn nghề nghiệp và
một số nội dung khác.
Theo tài liệu Nursing Midwifery services-Strategic Directions 2011-
2015 (Định hướng chiến lược dịch vụ điều dưỡng-hộ sinh giai đoạn 2011-
2015) của WHO (2011) [91], mục tiêu đào tạo điều dưỡng ở khu vực Đông
13
Nam Á và thế giới là đào tạo ra những điều dưỡng chuyên nghiệp có khả năng
thực hành nghề nghiệp dựa trên bằng chứng, có khả năng áp dụng chăm sóc
điều dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu sức khỏe của người dân, có khả năng làm
việc trong đội đa ngành và có khả năng học tập suốt đời.
Các tác giả Julio Frenk, Lincoln Chen và cộng sự (2011) trong nghiên
cứu Health professionals for a new century: transforming education to
strengthen health systems in an interdependent world (Cải cách chuyên môn y
tế của thế kỷ mới: Cải cách giáo dục nhằm tăng cường hệ thống y tế trong
một thế giới tương tác hỗ trợ) [71, tr.1926-1927], ngoài việc đánh giá về thực
trạng và nhu cầu về số lượng NNLĐD Việt Nam, tác giả đã nhấn mạnh đến
việc xu hướng đổi mới giáo dục NLYT nói chung và NNLĐD nói riêng cần
được tiếp cận dựa trên nguyên tắc hệ thống, đào tạo dựa trên năng lực, đáp
ứng yêu cầu của hệ thống y tế, đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực của xã hội.
Các báo cáo Nursing in Thailand (Điều dưỡng của Thái Lan) của các
tác giả Nujjaree Chaimongkol [77] và Robert L. Anders, Wipada Kunaviktikul
[83] đã tập trung giới thiệu về quá trình và mô hình đào tạo điều dưỡng tại
Thái Lan với các loại hình: chức danh Trợ lý Điều dưỡng (Technicial Nurse)
thời gian đào tạo 2 năm; chức danh Điều dưỡng với trình độ thấp nhất là cử
nhân thời gian đào tạo 4 năm (sau tốt nghiệp được cấp bằng với chức danh Cử
nhân Khoa học Điều dưỡng-Bacherlor of Nursing Science). Các tác giả cũng
đã giới thiệu về mô hình đào tạo đại học, sau đại học và điều kiện hành nghề
điều dưỡng của Thái Lan.
Tác giả Yu Xu và cộng sự (2000) trong các nghiên cứu Assessment of
AACN Baccalaureate Nursing Education Curriculum: Model in the People's
of China (Đánh giá chương trình giáo dục cử nhân điều dưỡng: mô hình của
Trung Quốc) [94, tr. 147-156] và nghiên cứu The nursing education system in
the People's Republic of China: evolution, structure and reform (Hệ thống
giáo dục điều dưỡng Trung Quốc: quá trình hình thành, cấu trúc và cải cách)
14
[95, tr. 207-217], Trường Đại học Trinh Châu, Trung Quốc đã nghiên cứu, so
sánh và đánh giá CTĐT cử nhân điều dưỡng của 22 CSĐT cử nhân điều
dưỡng của nước này (50%), khảo sát 21 lĩnh vực được rút ra từ chương trình
cử nhân điều dưỡng hiện tại của nhà trường so sánh với CTĐT cử nhân điều
dưỡng của Hoa Kỳ (được coi là chương trình lý tưởng) tìm hiểu trên ba khía
cạnh: tầm quan trọng, sự phù hợp văn hóa, mức độ thực hiện. Kết quả cho
thấy đa số không hài lòng với CTĐT cử nhân điều dưỡng hiện tại. Các lĩnh
vực được cho là quan trọng nhất, phù hợp văn hóa nhất, mức độ thực hiện
thường xuyên nhất là: Nhóm các kỹ năng về kỹ thuật điều dưỡng, nhóm kỹ
năng về giao tiếp, nhóm kỹ năng về bệnh và quản lý bệnh. Ngoài ra những
người trả lời cũng có nhu cầu cần bổ sung vào CTĐT của các CSĐT thêm kỹ
năng sư phạm, kỹ năng quản lý, kỹ năng nghiên cứu điều dưỡng và kỹ năng ra
quyết định.
Bài báo Đào tạo điều dưỡng ở các nước Đông Nam Á (2006) [44, tr.50-
56] của tác giả Nguyễn Văn Thanh, báo cáo Đào tạo điều dưỡng ở một số
nước trên thế giới (2008)[61] của tác giả Đỗ Đình Xuân tại Hội nghị đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng Việt Nam và tài liệu Các vấn đề nhân lực y tế
hiện nay: Thực trạng và những bất cập (2008) [59] của Vụ Khoa học và Đào
tạo, Bộ Y tế cho thấy, mạng lưới CSĐT ở các nước trên thế giới đều gắn với
quy mô dân số và năng lực đào tạo của từng trường. Theo các báo cáo trên,
năm 2005 Philippines có 192 trường điều dưỡng, Thái Lan có 63 trường điều
dưỡng trong đó có 7 khoa điều dưỡng thuộc đại học tổng hợp và hầu hết là
đào tạo trình độ đại học.
Theo tài liệu của các tác giả Sugita Shio (2016) và Iwasawa Kazuko
(2017) về Cơ chế kỳ thi quốc gia về điều dưỡng và cấp bằng tại Nhật Bản
[32], [84], đến năm 2016 Nhật Bản đã có 256 trường điều dưỡng đào tạo trình
độ đại học và 571 trường đào tạo trình độ cao đẳng được phân bố tương đối
đồng đều ở các khu vực với quy mô đào tạo hàng năm tương đối ổn định chỉ
15
từ 50-100 sinh viên. Để được cấp bằng điều dưỡng, sau khi tốt nghiệp trung
học phổ thông phải trải qua thời gian đào tạo tối thiểu 3 năm, hành nghề điều
dưỡng cộng đồng hoặc hộ sinh được coi là một chuyên ngành của điều dưỡng.
Cơ cấu nhân lực điều dưỡng của Nhật Bản còn có cả chức danh nhân viên
chăm sóc với chương trình và thời gian đào tạo riêng.
Các tác giả Sung Rae Shin, Kyung Rim Shin, Chun Yu Li (2002) trong
báo cáo Hệ thống giáo dục điều dưỡng tại Hàn Quốc, Trung Quốc và Hoa Kỳ,
định hướng tương lai (Nursing Education Systems in Korea, China and the
United States of America and its Future Directions) [86, tr.949-959], đào tạo
điều dưỡng Hàn Quốc có từ năm 1903, được nâng cấp lên bậc trung cấp năm
1947 với thời gian đào tạo 3 năm và đổi tên thành đào tạo kỹ thuật điều dưỡng
vào những năm 1950. CTĐT đại học được áp dụng từ năm 1955 và sau đại
học từ 1960, chương trình tiến sỹ từ 1979. Hàn Quốc tồn tại hai loại CTĐT
điều dưỡng bao gồm chương trình cao đẳng 3 năm (Associate Degree
Program – ADN) và chương trình đại học 4 năm (Baccalaureate Degree
Program - BSN) đều có thể đăng ký để lấy giấy phép hành nghề (Registered
Nurse-RN). Tính đến năm 2001, Hàn Quốc có 51 CSĐT cử nhân điều dưỡng,
61 CSĐT cao đẳng với quy mô rất thấp chỉ khoảng 50-120 sinh viên/CSĐT.
Tác giả Nguyễn Trường Sơn (2011) và cộng sự trong bài báo Đánh giá
kỹ năng thực hành nghề của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy khóa II,
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đăng trên Tạp chí Y học thực hành
[42, tr.4–10] đã nêu kết quả về đánh giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên
chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trên 3 nhóm kỹ năng: kỹ
năng thực hành nghề, kỹ năng giao tiếp và giáo dục sức khỏe và kỹ năng tư
duy, ra quyết định. Kết quả cho thấy kỹ năng giao tiếp-giáo dục sức khỏe có
kết quả thấp nhất trong các kỹ năng khảo sát (28,2% không đạt yêu cầu).
Các tác giả Phí Thị Nguyệt Thanh, Joy Notter và Đỗ Đình Xuân (2009)
trong nghiên cứu Vấn đề đào tạo điều dưỡng tại 7 tỉnh - Làm thế nào để nâng
16
cao chất lượng [47, tr.99-102], kết quả cho thấy nhận định của lãnh đạo các
bệnh viện thực hành về kiến thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp của
ĐDV đạt mức độ tốt chiếm tỷ lệ không cao, lần lượt là 34%, 57% và 48%. Về
nhận xét của giáo viên đối với CTĐT cử nhân điều dưỡng của nhà trường: nội
dung lý thuyết có 68,3% cho là phù hợp, 30,2% cho là không phù hợp. Nội
dung đào tạo thực hành tại phòng thực tập của trường thì 78,3% cho là phù
hợp, 19,6% đánh giá là không phù hợp. Nội dung thực hành tại bệnh viện thì
có 59,3% cho là phù hợp, 40% là không phù hợp. Đối với thời gian học lý
thuyết thì có 59,9% giảng viên cho rằng giữ nguyên, 31,4% cho là cần phải
giảm, đối với thời gian học thực hành thì 61% giảng viên cho rằng cần phải
tăng thực hành tại bệnh viện và 63,5% cho rằng cần phải tăng thực hành tại
phòng thực tập của nhà trường. Về vấn đề giảng dạy, kỹ năng giao tiếp cũng
được đề cập tới và kết quả cho thấy 74,3% giảng viên cho là cần tăng thời
lượng học tập cho môn học này.
Luận án tiến sỹ Nghiên cứu về thái độ đối với nghề nghiệp của học
sinh, sinh viên điều dưỡng, đề xuất các giải pháp can thiệp, tác giả Phí Thị
Nguyệt Thanh (2010) [46, tr.141] đã đưa ra kết quả chỉ có 50,7% sinh viên
đại học và 77,4% học sinh trung cấp có thái độ thỏa mãn với nghề nghiệp và
sự thỏa mãn với nghề nghiệp ở học sinh, sinh viên những năm sau thấp hơn
những năm đầu. Tác giả cũng đã đưa ra nguyên nhân ảnh hưởng và một số
giải pháp đó là cần thay đổi về CTĐT, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và đặc biệt là cần tăng cường vị thế của
ĐDV trong hệ thống y tế.
Tài liệu Hội nghị tăng cường chất lượng đào tạo nhân lực y tế, Bộ Y tế
(2008) [14] và Tài liệu Hội nghị đào tạo nhân lực Điều dưỡng Việt Nam, Bộ Y
tế (2012) [17] đã có những đánh giá kết quả đào tạo NLYT và NLĐD, đánh
17
giá về CTĐT của các ngành đào tạo thuộc khối ngành khoa học sức khỏe
trong đó có ngành điều dưỡng đã có những thay đổi và tiếp cận theo xu hướng
quốc tế, một số trường bắt đầu tiếp cận với CTĐT dựa vào năng lực. Tuy
nhiên, đa số các CSĐT vẫn thực hiện CTĐT theo niên chế, còn nặng về lý
thuyết, chưa hướng tới kỹ năng thực hành tay nghề theo nhu cầu sử dụng.
Bộ Y tế (2014) trong Báo cáo phát triển nhân lực y tế: thành tựu, khó
khăn và giải pháp [23] đã cho thấy thông qua một số chương trình hợp tác
quốc tế và các dự án, nhiều CSĐT đang tích cực thực hiện đổi mới CTĐT
điều dưỡng, xây dựng CTĐT dựa trên năng lực, tổ chức đào tạo theo tín chỉ.
Nội dung chương trình chú trọng hơn về tăng cường kỹ năng thực hành nghề
nghiệp, bám sát với các nội dung năng lực điều dưỡng của khu vực ASEAN
và thế giới.
Báo cáo Hội nghị Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng năm 2014
của Bộ GD&ĐT [9] đã có những đánh giá thực trạng và những kết quả đã đạt
được về đào tạo trình độ đại học, cao đẳng trong cả nước. Về những điểm còn
tồn tại, báo cáo đã nhấn mạnh CTĐT của các trường đại học, cao đẳng là:
“Hầu hết các trường hiện nay thiết kế chương trình khá tỉ mỉ về những vấn đề
cụ thể nhưng thiếu trang bị những kiến thức tổng quát mang tính quy luật tạo
nền tảng phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên”.
Luận văn thạc sỹ Thực trạng đào tạo thực hành cử nhân điều dưỡng
đại học tại 5 cơ sở đào tạo năm 2014 [45, tr.102], tác giả Phạm Thị Kim
Thanh (2014) đưa ra kết quả: mặc dù thời điểm nghiên cứu là vào học kỳ cuối
cùng của chương trình điều dưỡng đại học, vẫn còn một tỷ lệ đáng kể sinh
viên không được thực hành ở bệnh viện một số kỹ năng nghề nghiệp của
ĐDV. Nhiều sinh viên điều dưỡng năm cuối tự nhận định về khả năng thực
hành các kỹ năng điều dưỡng của mình, trong đó có nhiều kỹ năng cơ bản, là
chưa làm được hoặc làm kém. Có 58/60 kỹ năng tồn tại một tỷ lệ nhất định
sinh viên không được thực hành lần nào tại bệnh viện.
18
1.1.3. Nghiên cứu quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều
dưỡng
Giáo trình Quản lý nhà nước về xã hội, Học viện Hành chính Quốc gia
(2012) [33, tr. 59-62] đã giới thiệu hệ thống lý thuyết về quản lý công của
nhiều học viện hành chính trên thế giới mà tiêu biểu là hệ thống lý thuyết của
Max Weber (1864 - 1920) - nhà xã hội học người Đức, cha đẻ của mô hình
hành chính thư lại đã đưa ra ba loại hình thẩm quyền: thẩm quyền truyền
thống, thẩm quyền uy tín và thẩm quyền pháp lý - duy lý. Trong đó, thẩm
quyền pháp lý - duy lý là dựa trên trật tự pháp lý không bị quan hệ tình cảm
chi phối, dựa trên các quy định do quần chúng nhân dân xây dựng nên một
cách lý tính.
Tác giả R. Wayne Mondy trong cuốn sách Human Resource
Management (Quản lý nguồn nhân lực) được tái bản lần thứ 12 đề cập đến
việc quản lý NNL như thế nào để đạt được mục tiêu của một tổ chức. Tác giả
đã tiếp cận ở góc độ nhà quản lý ở mọi cấp độ cần biết cách quản lý nhân lực
của tổ chức, cụ thể là lập kế hoạch nhân lực, tuyển dụng, đào tạo và phát triển
nhân viên, quản lý theo kết quả thực thi, có chế độ đãi ngộ thoả đáng và xây
dựng các mối quan hệ trong tổ chức.
Fleming Fllon Jr, Charles R. Mc Connell trong cuốn sách Human
Resource Management in Health Care: Principles and Practices (Quản lý
nguồn nhân lực trong ngành y tế: nguyên tắc và thực hành) [68, tr. 113-122,
187-200] đã giới thiệu cách thức quản lý NNL cho những người đang chuẩn
bị để làm việc lĩnh vực CSSK và dịch vụ y tế. Cuốn sách bao gồm các chủ đề
quan trọng như tuyển dụng, đào tạo, chấm dứt hợp đồng, vấn đề pháp lý. Mỗi
chương của cuốn sách đã giới thiệu một nghiên cứu trường hợp điển hình
trong quản lý NNLYT, trong đó xác định vai trò của việc phân tích vị trí việc
làm, các yếu tố để xác định (Chương 6), đào tạo nguồn nhân lực (Chương 10).
19
Hệ thống các giáo trình, hệ thống sách giáo khoa và tài liệu tham khảo,
chuyên khảo của Học viện Hành chính Quốc gia đã giới thiệu các nguyên lý
cơ bản về QLNN nói chung và QLNN về đào tạo NNL nói riêng. Hệ thống
các tài liệu đó đã đưa ra những thành tố, nội dung, công cụ, hình thức QLNN
như hệ thống thể chế, hệ thống tổ chức bộ máy, đội ngũ NNL, hệ thống tài
chính công và những công cụ, phương thức kiểm tra, giám sát. Giáo trình
Quản lý nhà nước về xã hội, Học viện Hành chính Quốc gia (2012) [33, tr.18-
29] đã giới thiệu về hệ thống lý thuyết, cơ sở lý luận và các quan điểm QLNN
về xã hội, trong đó nêu rõ: Quản lý nhà nước về xã hội là sự tác động liên tục,
có tổ chức của chủ thể quản lý xã hội đó chính là Nhà nước lên xã hội và các
khách thể có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng
và các mục tiêu mà nhà nước - chủ thể quản lý đặt ra, phù hợp với xu thế phát
triển khách quan của lịch sử. Đồng thời, giáo trình cũng nêu ra những nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm
vụ của mình; giáo trình cũng giới thiệu về các nội dung và phương thức
QLNN về xã hội.
Giáo trình Quản lý nhà nước về xã hội, Học viện Hành chính quốc gia
(2012) [33, tr.114-153] và cuốn tài liệu Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh
vực, Học viện Hành chính quốc gia (2013) [31, tr.114-146] dùng cho bồi
dưỡng chuyên viên cao cấp đã đưa ra khung lý thuyết và các nguyên lý
QLNN về xã hội và QLNN về ngành và lĩnh vực. Các tài liệu này đã giúp cho
các cán bộ làm công tác vĩ mô được tiếp cận sâu hơn về QLNN về xã hội và
QLNN về ngành và lĩnh vực với những phân tích cụ thể, logic, xác định các
nội dung và phương thức QLNN về các lĩnh vực xã hội và phát triển NNL,
trong đó có lĩnh vực GD&ĐT, y tế.
Cuốn sách Chính sách Kinh tế - Xã hội, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân (1999) [34, tr.18-45, 276-293] đã nêu một trong những công cụ quan
trọng nhất của Nhà nước để quản lý, điều hành các hoạt động xã hội theo mục
20
tiêu xác định là xây dựng chính sách về kinh tế - xã hội, trong đó có chính
sách về đào tạo NNL, chính sách giải quyết việc làm, chính sách về khoa học
công nghệ.
Theo tác giả Lê Thanh Bình (2009) trong cuốn Một số vấn đề quản lý
nhà nước về kinh tế, văn hoá, giáo dục trên thế giới và Việt Nam [2, tr. 360]
đã đưa ra những luận điểm và xu hướng về QLNN hiện nay ở các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, giáo dục trên thế giới và Việt Nam. Cuốn sách đã đưa ra mối
quan hệ và vai trò của chất lượng giáo dục trong phát triển kinh tế - xã hội, tác
giả nêu rõ: Chất lượng một quốc gia sẽ được đánh giá theo các tiêu chí: dân
cư được giáo dục tốt, NNL dựa vào trí tuệ dồi dào của trí thức, sự linh hoạt,
hiệu quả của cơ cấu tài chính, đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi, mà giáo
dục, đào tạo lại có ảnh hưởng then chốt đến vấn đề trên, tức là có vai trò làm
đòn bẩy của sự phát kinh tế - xã hội.
Trong nghiên cứu Việt Nam: Giáo dục đại học và kỹ năng cho tăng
trưởng của Ngân hàng Thế giới (2008) [36] đã khẳng định giáo dục đại học
Việt Nam đang đối mặt với những thách thức của thế kỷ mới về việc xây
dựng kỹ năng cho người học. Chất lượng giáo dục đại học cần nhấn mạnh ở
khía cạnh việc tạo lập kỹ năng làm việc cho học viên sau khi tốt nghiệp.
Nghiên cứu đã chỉ ra trách nhiệm của Nhà nước đối với chất lượng giáo dục
đại học, phải nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục của các cơ quan nhà nước.
Nhà nước cần phải tạo lập môi trường chính sách, môi trường pháp lý bảo
đảm các CSĐT vận động hướng tới các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục.
Trong nghiên cứu On the philosophy of higher education (Về triết lý
của giáo dục đại học) [66], tác giả Brubacher. J.S. đã đưa ra những quan điểm
chung về giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, liên quan đến
triết lý để đảm bảo chất lượng giáo dục phải gắn với nhu cầu của xã hội và
trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục, tác giả đã nhấn mạnh chất lượng giáo
dục đại học được thể hiện ở việc đạt được những trách nhiệm xã hội mà giáo
21
dục đại học phải gánh vác. Không thể có một nền giáo dục có chất lượng nếu
chất lượng của đa số trường đại học ở mức thấp kém, không hoàn thành được
sứ mệnh mà xã hội giao phó cho nó.
Lê Thị Kim Dung (2012) trong luận án tiến sỹ Luật học Hoàn thiện
pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay [29, tr.140-141], tác giả đã
nêu lên quan điểm về đánh giá chất lượng giáo dục qua kết quả thực hiện mục
tiêu giáo dục. Tác giả cho rằng: chất lượng nên được xem là sự phù hợp với
mục tiêu. Sinh viên tốt nghiệp một trường đại học là có chất lượng nếu những
mục tiêu mà nhà trường đặt ra đối với sinh viên đạt được.
Tác giả Sun-Joo Kang và In-Sook Kim trong bài báo Development of
the Korean Nursing Profession with Changes in its Legal Basis (Sự phát triển
điều dưỡng chuyên nghiệp ở Hàn Quốc với thay đổi về chính sách pháp luật)
[85] đã giới thiệu về sử dụng và đào tạo NNLĐD của Hàn Quốc dưới góc độ
tiếp cận về thể chế. Bài báo đã nêu những vấn đề cần phải điều chỉnh trong
việc phát triển nghề nghiệp khi có sự thay đổi về Luật Dịch vụ y tế của Hàn
Quốc năm 2015 và nhấn mạnh vai trò của hệ thống thể chế trong đào tạo và
phát triển nghề nghiệp.
Trong báo cáo Nursing in Thailand (Điều dưỡng của Thái Lan)
[77],[83] bên cạnh việc giới thiệu về mô hình đào tạo của Thái Lan, các tác
giả Nujjaree Chaimongkol, Robert L. Anders, Wipada Kunaviktikul đã giới
thiệu về hệ thống thể chế của Thái Lan với việc xây dựng và ban hành Luật
Hành nghề điều dưỡng, quy định về thi và cấp giấy phép hành nghề và vai trò
của Hội đồng Điều dưỡng Thái Lan trong kiểm định chất lượng, thi và cấp
giấy phép hành nghề.
Trong các tài liệu Cơ chế kỳ thi quốc gia về điều dưỡng và cấp bằng tại
Nhật Bản [32], [84] các tác giả Sugita Shio (2016) và Iwasawa Kazuko
(2017), đã tập trung giới thiệu về quá trình phát triển ngành điều dưỡng của
Nhật Bản. Các tài liệu này đã nhấn mạnh vai trò của nhà nước thông qua việc
22
thể chế hóa khi ngay từ năm 1948 Nhật Bản đã có Luật về điều dưỡng, điều
dưỡng cộng đồng và điều dưỡng sản phụ khoa (hộ sinh). Luật đã quy định về
việc tổ chức kỳ thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề.
Tổ chức Y tế thế giới WHO khu vực Tây Thái Bình Dương năm 2009
đã ban hành tài liệu Tiêu chuẩn toàn cầu cho giáo dục điều dưỡng và hộ sinh
chuyên nghiệp (Global standards for the initial education of professional
nurses and midwives) [88] và năm 2011 đã ban hành Nghị quyết số 64 về tăng
cường điều dưỡng và hộ sinh (Strengthening nursing and midwifery, the sixty-
fourth World Health Assembly) [92]. Các tài liệu này đã đưa ra các khuyến
cáo và yêu cầu về đào tạo và hoạt động nghề nghiệp của điều dưỡng và hộ
sinh làm cơ sở để các quốc gia áp dụng. Nhiều nước đã chấp thuận và thông
qua hội đồng điều dưỡng quốc gia để ban hành các quy định và điều hành các
hoạt động về hành nghề và đào tạo điều dưỡng theo điều kiện cụ thể của từng
quốc gia.
Báo cáo National nursing and midwifery legislation in countries of
South-East Asia with high HIV burdens (Luật về điều dưỡng và hộ sinh ở các
nước Đông Nam Á nhiễm HIV cao), các tác giả Nila K Elison, Andre R
Verani, Carey McCarthy (2015) [80, tr. 12-19] đã nêu bật tầm quan trọng vai
trò của quản lý nhà nước đối với CSSK thông qua hệ thống pháp luật chuyên
ngành tại các nước nghiên cứu là Ấn Độ, Nepal, Myanmar, Thái Lan. Các văn
bản luật đều quy định về các điều kiện liên quan đến đào tạo, hành nghề điều
dưỡng.
Năm 2013, cơ sở dữ liệu về điều dưỡng và hộ sinh của các nước khu
vực Tây Thái Bình Dương đã được WHO giới thiệu (Western Pacific Region
Nursing/Midwifery Databank) [93]. Thông qua cơ sở dữ liệu này có thể tiếp
cận với sự phát triển về điều dưỡng và đào tạo NNLĐD, hệ thống thể chế, đào
tạo và sử dụng nhân lực điều dưỡng ở các nước khu vực Tây Thái Bình
Dương. Cơ sở dữ liệu này cũng đưa ra một số thông tin về việc đăng ký và
23
cấp giấy phép hành nghề điều dưỡng, vai trò của các cơ quan QLNN, các tổ
chức trong quản lý và cấp giấy phép hành nghề điều dưỡng, trong đó đa số
các nước đã thành lập và xác định vai trò của Hội đồng Điều dưỡng.
Tại Hoa Kỳ, Hội đồng Tư vấn quốc gia về giáo dục và hành nghề điều
dưỡng (National Advisory Council on Nurse Education and Practice -
NACNEP) năm 2010 đã có bài giới thiệu Addressing New Challenges Facing
Nursing Education: Solutions for a Transforming Healthcare Environment
(Giải quyết thách thức mới đối với giáo dục điều dưỡng: Giải pháp cho việc
chuyển đổi môi trường chăm sóc sức khoẻ) [78] và năm 2011 với tài liệu The
National Advisory Council on Nurse Education and Practice (Hội đồng tư
vấn quốc gia về giáo dục và hành nghề điều dưỡng) [79] đã xác định những
xu hướng mới trong đào tạo điều dưỡng của Hoa Kỳ, vai trò của NACNEP
trong đào tạo và hành nghề điều dưỡng tại Hoa Kỳ bao gồm các quy định về
định hướng nghề nghiệp, kiểm định chất lượng giáo dục, điều kiện thi và cấp
giấy phép hành nghề.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế [5] đã xác định những ưu
điểm, tồn tại và nguyên nhân những tồn tại của giáo dục và đào tạo Việt Nam
trong thời gian vừa qua. Nghị quyết cũng đã đánh giá thực trạng về hệ thống
thể chế trong GD&ĐT trong đó xác định trong quá trình xây dựng hệ thống
thể chế về GD&ĐT còn bộc lộ nhiều vấn đề khó khăn, bất cập về sự phối hợp
giữa các cơ quan quản lý. Nghị quyết đã nêu rõ: Quản lý giáo dục và đào tạo
còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về
chất lượng, số lượng và cơ cấu; việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm
"giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn chậm và lúng túng; việc phân đi ̣nh
24
giữa quản lý nhà nướ c với hoạt động quản trị trong cá c cơ sở giá o dục, đà o
tạo chưa rõ.
Bộ GD&ĐT (2013) trong Báo cáo tổng kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số
296/CT-TTg ngày 27/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý
giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 [7, tr. 7-19] đã nêu lên những thành
tựu đã đạt được về đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 như hệ
thống thể chế ngày càng hoàn thiện khi đã trình Quốc hội thông qua Luật
Giáo dục đại học, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và bộ máy quản lý từ
trung ương đến địa phương, sự phát triển của hệ thống mạng lưới các cơ sở
đào tạo, đội ngũ giảng viên và các điều kiện đảm bảo chất lượng ngày càng
được quan tâm và củng cố. Bên cạnh đó, báo cáo cũng đã nêu lên những khó
khăn, thách thức, tồn tại của giáo dục đại học trong 3 năm thực hiện Chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ. Báo cáo đã khẳng định: các công cụ pháp lý giúp
cho công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục đại học chưa được
hoàn thiện; thiếu các giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo, sự
phối hợp giữa các đơn vị trong toàn hệ thống còn thiếu chặt chẽ và chưa hiệu
quả.
Tài liệu Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI [8] của Bộ GD&ĐT (2013),
Báo cáo Vai trò điều tiết của Nhà nước trong việc đảm bảo chất lượng và
công bằng giáo dục [11] của Bộ GD&ĐT tại Hội thảo quốc gia do Bộ
GD&ĐT phối hợp với Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (OIF) tổ chức ngày
19/12/2012 đã đánh giá thực trạng công tác điều tiết của Nhà nước trong lĩnh
vực giáo dục đại học với nhận định có những lĩnh vực nhà nước đã không
thực hiện hiệu quả vai trò điều tiết, chưa bảo đảm quyền tự chủ đủ mức cho
các trường đại học vận động vươn tới chất lượng cao hơn.
Bộ GD&ĐT (2016) trong Báo cáo tổng kết năm học 2015 - 2016 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2016 - 2017 [10, tr. 110-141] đã chỉ ra những
điểm mạnh trong đào tạo điều dưỡng như đổi mới chương trình, đào tạo theo
25
năng lực và một số CSĐT tiếp cận mô mình đào tạo quốc tế. Tuy nhiên, báo
cáo đã xác định một trong những hạn chế, yếu kém đó là công tác QLNN về
giáo dục chuyên nghiệp trong đó có đào tạo điều dưỡng còn nhiều bất cập,
chưa thực hiện tốt chức năng QLNN về xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, chiến lược, tiêu chuẩn và kiểm soát chất lượng đào tạo. Quy mô đào tạo
nhóm ngành sức khỏe (trong đó có điều dưỡng) vẫn cao, chiếm tới 35,8%.
Đối với giáo dục đại học, báo cáo của Bộ GD&ĐT cũng đã chỉ ra thực trạng
quy hoạch, phát triển hệ thống CSĐT chưa sát với thực tiễn yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội, mô hình mới chú trọng đến số lượng mà chưa chú ý đúng
mức đến các điều kiện đảm bảo chất lượng và nhu cầu xã hội.
Luận án tiến sỹ Luật học Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở
Việt Nam hiện nay (2012) [29, tr. 54-55, 84-90], tác giả Lê Thị Kim Dung đã
nhấn mạnh sự cần thiết phải đảm bảo tính đồng bộ, tính phù hợp trong xây
dựng hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo với các văn bản pháp luật hiên
quan khác. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra rằng thể chế quản lý giáo dục đại học
đang có quá nhiều bất cập, chưa định hình rõ vai trò của nhà nước, xã hội, nhà
trường và các chủ thể khác đối với giáo dục đại học. Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành còn chậm, thiếu đồng bộ, cụ thể, khả thi và
chưa hoàn chỉnh. Việc thành lập, nâng cấp các trường đại học, cao đẳng và
mở ngành đào tạo còn nhiều bất cập. Nhiều trường đại học, cao đẳng được
nâng cấp hoặc chuyển từ đào tạo chuyên ngành sang đào tạo đa ngành không
đáp ứng được các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo. Việc mở trường và
mở ngành tràn lan dẫn tới tình trạng mất cân đối về hình thức, trình độ đào
tạo, cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu vùng, miền. Hiệu quả sử dụng nguồn lực
đầu tư cho giáo dục đại học còn hạn chế.
Xác định tầm quan trọng của công tác y tế trong đó có đào tạo và phát
triển NNLYT, Bộ Chính trị (2005) đã ban hành Nghị quyết số 46-NQ/TW
ngày 23/02/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
26
dân trong tình hình mới [6], trong đó đã khẳng định quan điểm Nghề y là
nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt.
Theo các báo cáo của Bộ Y tế: Báo cáo kết quả 3 năm thực hiện Nghị
định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ quy định trách
nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo (2014) [22] và Báo cáo phát
triển nhân lực y tế: thành tựu, khó khăn và giải pháp (2014) [23], Báo cáo
chung tổng quan Ngành Y tế năm 2011: nâng cao năng lực quản lý, đổi mới
tài chính y tế để thực hiện kế hoạch 5 năm ngành y tế 2011 - 2015 (2011) [24]
cũng đã đưa ra những kết quả đã đạt được trong đào tạo và phát triển NNLYT
góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân. Đồng thời, các báo cáo cũng đã nêu ra những khó khăn, thách thức
trong đó hệ thống thể chế hiện nay chưa thực sự đồng bộ nên chưa có những
quy định riêng đối với đào tạo NNLYT như thông lệ quốc tế, không thể hiện
được sự phối hợp liên hành giữa cơ quan QLNN về đào tạo với cơ quan
QLNN về sử dụng nhân lực trong lĩnh vực y tế. Nghị định 115/2010/NĐ-CP
ngày 24/10/2010 của Chính phủ quy định về vai trò, trách nhiệm của các Bộ,
ngành chưa thực sự phù hợp, đặc biệt là đối với lĩnh vực chuyên sâu có tính
đặc thù cao như lĩnh vực y tế khi xác định vai trò quản lý của các bộ, ngành
chỉ là phối hợp với Bộ GD&ĐT để QLNN đối với các CSĐT trực thuộc bộ,
ngành đó.
Bộ Y tế (2014) trong Báo cáo phát triển nhân lực y tế: thành tựu, khó
khăn và giải pháp [23] cũng đã xác định về chính sách sử dụng NNLYT đã có
những cải tiến để phù hợp với đặc thù ở từng lĩnh vực chuyên môn như Nghị
định số 64/2009/NĐ-CP ngày 30/7/2009 của Chính phủ về chính sách đối với
cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chế độ
phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở
y tế công lập và các văn bản hướng dẫn, Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg
27
ngày 20/02/2013 Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có
thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở KB, CB - Bộ Y tế đã có hướng dẫn
để thực hiện quyết định này.
Trong báo cáo Một số nội dung quản lý nhà nước trong đào tạo nhân
lực y tế (2015) [25], Bộ Y tế đã đánh giá những thành tựu của công tác đào
tạo nhân lực y tế như phát triển mạng lưới CSĐT, phát triển chương trình,
nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, đầu tư một số chương trình, dự án cho
đào tạo NNLYT. Tuy nhiên, báo cáo của Bộ Y tế đã nêu những tồn tại, khó
khăn trong đó việc thể chế hóa quan điểm của Nghị quyết số 46 vẫn còn nhiều
bất cập, đặc biệt là thể chế hóa về công tác đào tạo NNLYT.
Tác giả Phạm Văn Tác (2014) trong Luận án tiến sỹ quản lý Hành
chính công Quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học trong
lĩnh vực y tế [43, tr. 157-165] đã nghiên cứu về vấn đề lý luận, thực tiễn và
những giải pháp hoàn thiện QLNN đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học
trong lĩnh vực y tế. Một trong những giải pháp cần thiết là cần có chính sách
về kỳ thi quốc gia để cấp CCHN, chính sách về lương/phụ cấp và đãi ngộ phù
hợp đối với người làm chuyên môn y tế.
Trong lĩnh vực y tế, đầu tư tài chính cho NNLYT bao gồm các chi phí
cho đào tạo và thù lao cho người lao động. Nhà nước đã và đang huy động
một nguồn kinh phí tương đối lớn cho đào tạo cán bộ y tế, gồm cả đầu tư về
cơ sở hạ tầng cho các cơ sở y tế và cả các chi phí thường xuyên. Theo Niên
giám thống kê y tế năm 2013 [21, tr. 41-44] của Bộ Y tế về đầu tư cho các
CSĐT trực thuộc Bộ, tổng số tiền đầu tư cho đào tạo NNLYT tăng theo thời
gian nhưng nếu tính trên tổng quỹ cho y tế, đầu tư cho đào tạo lại giảm theo
thời gian (năm 2000: 1,73%, năm 2010 chỉ là: 0,56%). Chính phủ trợ cấp cho
tất cả các hoạt động đào tạo của các trường đại học công lập (khoảng 6 triệu
đồng cho sinh viên đại học). Tuy nhiên, việc trợ cấp hiện tại vẫn chưa đáp
28
ứng được chi phí do chi phí cho đào tạo gia tăng ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng đào tạo.
Gần đây, Chính phủ đã phê duyệt một số dự án nhằm cải thiện
NNLYT. Chương trình nâng cao năng lực NNLYT giai đoạn 2006 - 2010 do
chính phủ Hà Lan viện trợ không hoàn lại với tổng số tiền là 14 triệu Euro;
mục tiêu là nâng cao năng lực giảng dạy cho các CSĐT, cải thiện CTĐT theo
hướng phát triển kỹ năng thực hành và năng lực sau tốt nghiệp. Chương trình
phát triển NNLYT do ADB và AusAID tài trợ, thực hiện trong giai đoạn từ
2010 - 2015 với tổng kinh phí khoảng 76 triệu USD; mục tiêu chính của
chương trình là để nâng cấp CSĐT cán bộ y học, lập kế hoạch hỗ trợ và quản
lý đào tạo, tăng cường việc quản lý NNL và cải thiện cơ chế tài chính và chi
trả cho người cung cấp các dịch vụ y tế. Dự án GD&ĐT NNLYT phục vụ cải
cách hệ thống y tế do WB tài trợ với tổng kinh phí là 121 triệu USD đang
triển khai giai đoạn 2016 - 2020; mục tiêu của Dự án là tăng cường về kiểm
định chất lượng đào tạo NNLYT, củng cố mạng lưới y tế cơ sở và nâng cao
năng lực một số CSĐT. Ngoài ra còn một số chương trình, dự án có hỗ trợ
cho đào tạo NNLYT theo từng lĩnh vực, khu vực, nhóm đối tượng cụ thể do
World Bank, ADB, Pathfinder International, Sida Thụy Điển, Atlantic
Philanthropies, UNFPA, WHO tài trợ. Các hoạt động hỗ trợ cụ thể như: cải
thiện CTĐT chi tiết cho một số môn học; phát triển tài liệu đào tạo; tăng
cường năng lực nghiên cứu; các phương pháp giảng dạy tích cực.
Về đảm bảo chất lượng đào tạo, trong nghiên cứu của tác giả Lê Vũ
Anh và cộng sự (2013) Đánh giá hiện trạng đào tạo nhân lực y tế Việt Nam [1
tr.42], đánh giá về việc kiểm định chất lượng đào tạo NNLYT nói chung và
điều dưỡng nói riêng, đã nêu: các quy định hiện nay thiếu các nhóm năng lực
chính và tiêu chí cụ thể cho từng ngành đào tạo, không có các tiêu chí đặc
trưng cho lĩnh vực y tế, thiếu chuyên gia về kiểm định chất lượng. Các trường
đều gặp khó khăn với nhân sự tiến hành kiểm định chất lượng vì họ chưa có
29
cán bộ được đào tạo chính quy, các rào cản về văn hóa. Kiểm định chất lượng
là vấn đề mới, chưa nhận được sự quan tâm của lãnh đạo cũng như các giảng
viên trong trường, đặc biệt việc triển khai lấy ý kiến phản hồi từ người học về
hoạt động giảng dạy của giảng viên vẫn chưa được triển khai triệt để; thiếu
kinh phí để tiến hành hoạt động kiểm định chất lượng, vì vậy, rất khó triển
khai đánh giá chất lượng đào tạo.
Theo báo cáo thường niên của Bộ Y tế và nhóm các nhà tài trợ về y tế
(2016) Joint annual health review 2015 strengthening primary health care at
the grassroots towards universal health coverage (Báo cáo chung tổng quan
ngành y tế 2015: Tăng cường y tế cơ sở hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe
toàn dân) [75, tr. 181-183], hạn chế trong việc đảm bảo chất lượng được xác
định là vấn đề chính trong hệ thống đào tạo NNLYT. Các hạn chế này được
thể hiện trong những vấn đề sau: công tác đảm bảo chất lượng đào tạo chưa
được coi trọng trong nhiều CSĐT NNLYT; thiếu tiêu chuẩn năng lực thống
nhất cho sinh viên tốt nghiệp các trường y tế để làm cơ sở cho việc xây dựng
các CTĐT hay các mục tiêu đào tạo; chương trình đào tạo chưa dựa trên
chuẩn năng lực; trình độ giảng viên, kỹ năng, thời gian, các phương pháp và
điều kiện giảng dạy còn yếu kém và không tương xứng; các phương pháp
đánh giá kết quả đào tạo chưa mang tính hệ thống.
Năm 2006, Việt Nam đã ký thoả thuận công nhận lẫn nhau trong các
nước ASEAN về dịch vụ điều dưỡng (ASEAN Mutual Recognition
Arrangement on Nursing Services) [63, tr.4-6]. Để thực hiện được thoả thuận
của khu vực, ĐDV phải có đủ các yêu cầu tối thiểu cần thiết theo các nội
dung của thoả thuận. Phát triển điều dưỡng cũng phải theo hướng tiêu chuẩn
và năng lực theo chuẩn mực quốc tế, đây cũng là tiền đề để đảm bảo hội nhập
khi cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập, thị trường lao động tự do đối
với lao động đã qua đào tạo được hình thành trong đó có lĩnh vực điều dưỡng.
30
Về quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, các báo cáo của Bộ Y tế:
Báo cáo đề dẫn Hội nghị đào tạo nhân lực Điều dưỡng (2005, 2012) [13],[17]
và Báo cáo phát triển nhân lực y tế: thành tựu, khó khăn và giải pháp (2014)
[23] cho thấy mạng lưới các CSĐT NNLĐD đã có sự phát triển mạnh mẽ
trong 10 năm trở lại đây. Nếu năm 2005, cả nước có 10 trường đại học, 03
trường cao đẳng và 56 trường trung cấp tham gia đào tạo NNLĐD, thì đến
năm 2014, cả nước đã có 23 trường đại học, 50 trường cao đẳng và 110
trường trung cấp tham gia đào tạo NNLĐD; nếu năm 2005 chỉ có 1 trường
ngoài công lập thì năm 2014 có 8 trường đại học, 10 trường cao đẳng và hơn
30 trường trung cấp ngoài công lập. Các CSĐT tập trung chủ yếu ở các khu
vực kinh tế - xã hội phát triển, đô thị lớn là các thành phố trực thuộc trung
ương, không tương ứng với quy mô dân số của khu vực, không phù hợp với
quy hoạch phát triển NNLYT.
Tác giả Lê Vũ Anh trong nghiên cứu Đánh giá hiện trạng đào tạo nhân
lực y tế (2013) [1, tr.36] và các báo cáo của Bộ Y tế tại Hội nghị đào tạo nhân
lực Điều dưỡng (2005, 2012) [13],[17] cho thấy, có sự mất cân đối về phân bố
các CSĐT NLYT khi trên một nửa số CSĐT tập trung ở khu vực Đồng bằng
sông Hồng (dân số chiếm 22,8%), chỉ có một số ít trường ở khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long, Miền núi phía Bắc và Bắc Trung bộ (dân số ở từng khu
vực lần lượt là 20, 12,9 và 21,9%).
1.2. Kết quả nghiên cứu tổng quan và những nội dung luận án cần
tiếp tục nghiên cứu
1.2.1. Kết quả nghiên cứu tổng quan từ các công trình liên quan
Các công trình, tài liệu trên đã đưa ra tương đối hoàn chỉnh những
thành tố, nội dung, công cụ, hình thức QLNN như hệ thống thể chế, hệ thống
tổ chức bộ máy, đội ngũ NNL và hệ thống tài chính công. Trong các tài liệu
đã nêu, có những tài liệu đã đề cập đến QLNN về GD&ĐT hoặc về y tế
nhưng mới chỉ dừng ở quản lý về thể chế chung, chưa có tài liệu nào nghiên
31
cứu về QLNN theo từng lĩnh vực cụ thể theo đặc thù nghề nghiệp trong đó có
đội ngũ ĐDV. Điều đó đã đặt ra nội dung lý luận mà nghiên cứu sinh cần
nghiên cứu để giải đáp trong luận án này.
Qua tham khảo và phân tích một số công trình nghiên cứu nêu trên, có
thể thấy, một số nghiên cứu cũng đã đề cập đến những khía cạnh trong QLNN
về đào tạo NNLĐD như vấn đề thể chế, vấn đề đảm bảo chất lượng và kiểm
định chất lượng, vấn đề quy hoạch mạng lưới, vấn đề đầu tư công. Các công
trình này đã có những giá trị hỗ trợ cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và
hoàn thiện luận án. Tuy nhiên, vẫn còn một số nội dung mà các công trình
chưa đề cập đến một cách toàn diện, cụ thể như sau:
Một là, phần lớn các công trình nghiên cứu tại Việt Nam chủ yếu tập
trung nghiên cứu NNLYT nói chung mà chưa tập trung nghiên cứu vào đội
ngũ nhân lực điều dưỡng hoặc nếu nghiên cứu về điều dưỡng mới chỉ tiếp cận
ở một số nội dung liên quan đến đào tạo mà chưa tiếp cận ở góc độ QLNN.
Đây cũng là một khoảng trống lớn mà luận án này cần tập trung nghiên cứu
đối với QLNN về đào tạo NNLĐD là đội ngũ chiếm đa số trong cơ cấu
NNLYT.
Hai là, các tài liệu, các công trình nghiên cứu ngoài nước mới chủ yếu
đề cập đến việc đào tạo NNLYT hoặc là nhân lực điều dưỡng. Trong đó đa số
đề cập đến vấn đề đổi mới, phát triển chương trình, kiểm định chất lượng,
hành nghề, mà chưa có lý luận cụ thể và toàn diện về vai trò QLNN đối với
đào tạo NNLĐD. Đây là vấn đề mà trong quá trình nghiên cứu, tác giả mong
muốn nhìn nhận ở góc độ quản lý công để đưa ra các khuyến cáo, góp phần
hoàn thiện về công tác QLNN về đào tạo NNLĐD.
Một số nghiên cứu đã tiếp cận đến vai trò của QLNN trong đào tạo và
phát triển NNLĐD nhưng mới ở mức độ khái quát về thể chế mà chưa có
những nghiên cứu sâu về các nội dung và vai trò của QLNN đối với đào tạo
NNLĐD. Các nghiên cứu cũng mới tiếp cận từ góc độ hoạt động chuyên môn
32
nghề nghiệp và sử dụng NNLĐD mà chưa phân tích rõ vai trò của Chính phủ,
các Bộ, Ngành liên quan; chưa phân tích được sự ràng buộc và sự phối hợp
cần thiết giữa các Bộ, Ngành liên quan trong xây dựng chính sách, chỉ đạo,
điều hành để đạt mục tiêu cuối cùng là đào tạo NNLĐD phải đáp ứng được
yêu cầu của hệ thống y tế, yêu cầu CSSK nhân dân, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước.
Ba là, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước hoặc mỗi khu vực, vùng,
miền của từng nước có những đặc điểm khác nhau, do đó công tác đào tạo và
phát triển NNL nói chung hay NNLĐD nói riêng cũng có sự khác nhau. Hiện
nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào về QLNN đối với đào tạo NNLĐD ở
Việt Nam.
1.2.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Từ những vấn đề nêu trên, luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ
một số vấn đề sau:
Một là, cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn về QLNN đào tạo
NNLĐD, trên cơ sở đó vận dụng vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện
nay. Cần nghiên cứu nhằm làm rõ các khái niệm có liên quan, nội dung của
QLNN đối với đào tạo NNLĐD Việt Nam và các yếu tố tác động đến các hoạt
động quản lý này.
Hai là, nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động QLNN về đào tạo
NNLĐD ở Việt Nam và sự khác biệt với đào tạo NNLĐD của các nước trên
thế giới để phân tích, so sánh tìm ra các hạn chế cần khắc phục để hội nhập
quốc tế.
Ba là, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp đối với QLNN về đào
tạo NNLĐD ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong đó tập trung vào những nội dung
chủ yếu:
- Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD;
33
- Đề xuất các giải pháp trước mắt và lâu dài để đảm bảo chất lượng đào
tạo NNLĐD, góp phần nâng cao chất lượng CSSK nhân dân, bao gồm quy
hoạch hệ thống đào tạo, quy mô đào tạo và cơ cấu chuyên ngành, trình độ đào
tạo NNLĐD;
- Đề xuất các giải pháp về chính sách sử dụng NNLĐD nhằm đáp ứng
các nhu cầu của xã hội hiện nay.
Do vậy, để giải quyết một cách toàn diện và đảm bảo tính khoa học
trong QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam hiện nay, luận án này phải có sự
tham khảo, kết hợp với các nghiên cứu, đánh giá các đề tài của các tác giả
trong và ngoài nước, tham khảo các chuyên gia, các giáo trình khoa học quản
lý, các tư liệu và số liệu thực tiễn để đưa ra những quan điểm của mình từ góc
độ quản lý công một cách độc lập thông qua các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở khoa học của QLNN về đào tạo NNLĐD;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD ở
Việt Nam hiện nay;
Thứ ba, đưa ra các định hướng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam.
Đây là những vấn đề cấp thiết, cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt
là trong giai đoạn cả nước đang thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 Hội nghị lần thứ Tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Cộng đồng Kinh tế
ASEAN đã chính thức được thành lập từ 31/12/2015, thị trường lao động tự
do của khu vực đối với lao động đã qua đào tạo được hình thành trong đó có
lĩnh vực điều dưỡng.
34
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua tìm hiểu và phân tích tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài
nước cho thấy, đề tài về đào tạo và phát triển NNLĐD, đặc biệt là QLNN về
đào tạo NNLĐD đã được xem xét, nghiên cứu ở các góc độ, khía cạnh và
phạm vi khác nhau. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ngoài nước và ở Việt
Nam liên quan đến đề tài, trong đó có công trình đã làm rõ phần nào về cơ sở
lý luận, thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD; một số đề tài đã tiếp cận và
xác định những yếu tố bất cập và đã có những giải pháp ở một mức độ và
phạm vi nhất định nhằm tăng cường QLNN về đào tạo NNLĐD nhằm đảm
bảo chất lượng NNLĐD.
Tuy nhiên, còn những vấn đề liên quan đến đề tài mà các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước chưa đề cập một cách cụ thể, chuyên sâu,
toàn diện như: khái niệm NNLĐD, khái niệm QLNN về đào tạo NNLĐD, nội
dung QLNN về đào tạo NNLĐD, các yếu tố tác động đến QLNN về đào tạo
NNLĐD. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ở Việt Nam mới tiếp
cận đến vấn đề NNLĐD, đào tạo NNLĐD mà chưa có nghiên cứu nào tiếp
cận ở góc độ QLNN về đào tạo NNLĐD. Mặt khác, nhiều công trình đã nêu
được thực trạng đào tạo và sử dụng NNLĐD ở Việt Nam, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng NNLĐD nhưng chưa nêu ra được các khuyến
nghị về mô hình đào tạo, chính sách sử dụng và đặc biệt là mô hình QLNN về
đào tạo NNLĐD theo các nội dung quy định của Luật Giáo dục và mô hình
của các nước để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Đây cũng chính là những
nội dung cơ bản mà luận án cần tập trung xem xét, giải quyết về lý luận, thực
tiễn QLNN về đào tạo NNLĐD trước những yêu cầu về cải cách hành chính,
xây dựng nhà nước pháp quyền cũng như yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK
nhân dân và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
35
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
2.1. Điều dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm nguồn nhân lực điều dưỡng
2.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực điều dưỡng
Khái niệm về điều dưỡng đã được nhiều tác giả đưa ra ở từng giai đoạn
khác nhau trong quá trình phát triển ngành điều dưỡng.
Theo Nightingale (1860): điều dưỡng là một nghệ thuật sử dụng môi
trường xung quanh của người bệnh để hỗ trợ sự phục hồi của họ. Điều dưỡng
là chăm sóc, hỗ trợ các hoạt động nâng cao hoặc phục hồi sức khoẻ của người
bệnh hoặc người khoẻ.
Năm 1973, Hội đồng Điều dưỡng Thế giới đã chấp nhận định nghĩa của
Virginia Handerson: chức năng duy nhất của ĐDV là hỗ trợ các hoạt động
nâng cao hoặc phục hồi sức khỏe người bệnh hoặc người khỏe, hoặc cho cái
chết được thanh thản mà mỗi cá thể có thể tự thực hiện nếu họ có sức khỏe, ý
chí và kiến thức. Giúp đỡ các cá thể sao cho họ đạt được sự độc lập càng sớm
càng tốt [12].
Đến năm 2007, Hội đồng Điều dưỡng Thế giới xác định: điều dưỡng
bao gồm chăm sóc một cách tự chủ và phối hợp chăm sóc giữa các cá nhân
thuộc mọi lứa tuổi, gia đình, nhóm và cộng đồng, bệnh tật hay khỏe mạnh và
trong tất cả mọi môi trường. Điều dưỡng bao gồm nâng cao sức khỏe, phòng
tránh bệnh tật và chăm sóc người bệnh, người khuyết tật và người hấp hối
[70].
Tại Việt Nam, trong quá trình phát triển của ngành điều dưỡng, khái
niệm "điều dưỡng" đã trải qua các tên gọi khác nhau do những quan niệm
khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử: y tá, "y tá - điều dưỡng" và hiện nay là
36
"điều dưỡng". Tên gọi "điều dưỡng" đã phản ánh đúng hơn tính chuyên
nghiệp và thiên chức nghề nghiệp của những người làm công tác chăm sóc và
tiếp cận chung với quan niệm của thế giới. ĐDV nay đã được đào tạo ở trình
độ cao đẳng, đại học và sau đại học. Đó là cơ sở để mở rộng chức năng nghề
nghiệp, để cải thiện mối quan hệ giữa ĐDV với người bác sỹ, từ người phụ
thuộc trở thành người phối hợp, cộng tác, chủ động và độc lập trong hoạt
động chăm sóc.
Với những cách tiếp cận như trên, có thể xác định: điều dưỡng là sự
chủ động và hợp tác trong hoạt động chăm sóc, tăng cường sức khỏe, phục
hồi chức năng, quản lý, tư vấn sức khỏe cho người khỏe, người ốm và người
hấp hối ở cơ sở y tế, gia đình và cộng đồng.
Có nhiều quan niệm về NNL, theo nghĩa rộng: NNL (Human
Rersources) là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc
gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó,
có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
(hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Với cách tiếp cận này, NNL như
một bộ phận cấu thành các nguồn lực của quốc gia. NNL được nghiên cứu ở
cả góc độ về số lượng và chất lượng. Số lượng NNL được biểu hiện thông qua
các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng NNL. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết
với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Chất lượng NNL được nghiên cứu
trên các khía cạnh về sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, năng lực phẩm chất. Theo nghĩa tương đối hẹp: NNL được hiểu là nguồn
lao động (NNL xã hội), NNL xã hội là dân số trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động.
Qua các tiếp cận về NNL như trên, có thể xác định: nguồn nhân lực
điều dưỡng là lực lượng lao động xã hội có đủ năng lực chuyên môn nghề
nghiệp điều dưỡng, chủ động thực hiện được đầy đủ chức năng, vai trò và
nhiệm vụ của ĐDV trong hoạt động chuyên môn y tế.
37
2.1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực điều dưỡng
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị đã khẳng
định: "Nghề y là một nghề đặc biệt, cần được đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và
đãi ngộ đặc biệt" [6]. Như vậy, NNLĐD có những đặc điểm riêng:
Trước hết, ĐDV phải giỏi chuyên môn và luôn đề cao đạo đức nghề
nghiệp vì quá trình hành nghề liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con
người. Ở các nước trên thế giới, đào tạo ngành điều dưỡng luôn được quan
tâm, chú trọng, có tính hệ thống cao, phải đáp ứng và chịu sự kiểm soát chất
lượng theo những yêu cầu nghiêm ngặt và đào tạo suốt đời.
Hai là, hoạt động chăm sóc y tế đòi hỏi nhiều lao động, làm việc theo
nhóm, đồng bộ và cần kiến thức, kỹ năng cao, thái độ phù hợp. Trong cơ cấu
NNLYT, NNLĐD có quy mô lớn, chiếm tỷ lệ cao nhất, tạo thành một mạng
lưới và có tính hệ thống từ trung ương đến cơ sở và thôn bản, từ đồng bằng
lên miền núi, từ thành thị đến nông thôn, từ biên giới đến hải đảo với yêu cầu
duy trì làm việc chuyên môn liên tục 24 giờ/ngày.
Ba là, cũng như các ngành chuyên môn y tế khác, NNLĐD đòi hỏi tính
ổn định về cơ cấu với nhiều trình độ đào tạo khác nhau, với những vị trí việc
làm, điều kiện và môi trường làm việc khác nhau và có tính tổ chức cao, đào
tạo NNLĐD cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, bệnh viện và
các cơ sở y tế. NNLĐD sau khi được đào tạo tham gia vào hệ thống y tế,
trong suốt quá trình hành nghề đều do ngành Y tế quản lý nên cần được đào
tạo đặc biệt.
Đặc điểm phức tạp của NNLĐD trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường đi đôi với bảo đảm công bằng và an sinh xã hội nên luôn cần có sự can
thiệp của nhà nước. Nhà nước cần có các chính sách và đầu tư phù hợp cho
đào tạo NNLĐD để duy trì, nâng cao kiến thức và kỹ năng đáp ứng được nhu
cầu bảo vệ, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ngày càng cao của nhân dân.
38
2.1.2. Khái niệm đào tạo và đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng và Trung
tâm Từ điển học (2002): đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo
những tiêu chuẩn nhất định [58, tr. 289].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Đào tạo là quá trình tác động đến
con người, nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo… một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc
sống và khả năng nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình
vào việc phát triển xã hội, duy trì và khai hóa nền văn minh loài người [56;
tr.755].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên: đào tạo được
hiểu là dạy dỗ, rèn luyện để trở thành người có hiểu biết, có nghề nghiệp [62;
tr.593].
Như vậy có thể hiểu khái quát, đào tạo là quá trình trang bị một cách có
hệ thống những kiến thức, kỹ năng, thái độ theo một chương trình có mục tiêu
nhất định để cho mỗi cá nhân sau khi được đào tạo hình thành và phát triển
theo những tiêu chuẩn năng lực chuyên môn nghề nghiệp nhất định, có thể
chủ động tham gia thị trường lao động.
Quá trình đào tạo được tiến hành ở các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp hoặc các cơ sở đào tạo tuỳ theo từng cấp học, thời gian
học tập và nội dung đào tạo của mỗi khóa học, kết thúc khoá học, khi người
học đạt được yêu cầu đã được định trước họ sẽ được cấp một văn bằng tốt
nghiệp hoặc một chứng chỉ tốt nghiệp.
Với những khái niệm và tiếp cận về điều dưỡng, NNLĐD và tiếp cận
về đào tạo như trên, có thể hiểu: đào tạo NNLĐD là quá trình trang bị một
cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng, thái độ theo một chương trình có
mục tiêu nhất định để mỗi cá nhân sau khi được đào tạo hình thành và phát
triển năng lực theo những chuẩn năng lực chuyên môn nghề nghiệp điều
dưỡng, có thể chủ động thực hiện được đầy đủ chức năng, vai trò và nhiệm vụ
của ĐDV trong hoạt động chuyên môn y tế.
39
2.2. Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
2.2.1. Khái niệm, tính chất, đặc điểm quản lý nhà nước về đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
2.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Quản lý là một khái niệm được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo
cách tiếp cận của người nghiên cứu hay góc độ khoa học khác nhau. Ở mức
độ khái quát nhất, thuật ngữ quản lý được định nghĩa là: trông coi và giữ gìn
theo những yêu cầu nhất định hoặc tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định [58, tr.800]. "Quản lý là sự tác động có kế hoạch,
sắp xếp tổ chức, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn, kiểm tra của các chủ thể
quản lý (cá nhân hay tổ chức) đối với các quá trình xã hội và hoạt động của
con người, để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra
của tổ chức và đúng ý chí của nhà quản lý, với chi phí thấp nhất" [57, tr.140].
Với những cách tiếp cận khác nhau trong khoa học và thực tiễn, các
hoạt động quản lý có thể phân chia thành ba nhóm chủ yếu: quản lý giới vô
sinh, quản lý giới sinh vật và quản lý xã hội.
Quản lý xã hội đã được xác định vừa là khoa học vừa là nghệ thuật vì
liên quan trực tiếp đến hoạt động của con người. Quản lý xã hội là sự tác động
liên tục, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể quản lý xã hội lên xã hội và các
khách thể có liên quan nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và
các mục tiêu của chủ thể quản lý đặt ra phù hợp với xu thế phát triển khách
quan của lịch sử. Quản lý xã hội bao gồm QLNN và quản lý của các thiết chế
xã hội khác.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn
tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó chính là hoạt động quản
lý gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước - bộ phận
quan trọng của quyền lực chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn
phương đối với xã hội. QLNN được hiểu trước hết là hoạt động của các cơ
40
quan nhà nước thực thi quyền lực nhà nước. QLNN là sự tác động tổ chức
mang tính quyền lực - pháp lý của các cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền, hoặc các tổ chức khi được nhà nước trao quyền tới ý thức, hành vi, xử
sự của cá nhân, tổ chức, cơ quan, tới các quá trình xã hội hướng chúng vận
động, phát triển nhằm đạt được mục tiêu nhất định của QLNN và xã hội. Mục
tiêu của QLNN phải phù hợp với mục tiêu phát triển của xã hội.
Điều 8 Hiến pháp của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khẳng định "Nhà nước quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật". Như vậy,
theo nghĩa rộng, QLNN là hoạt động tổ chức, điều hành của toàn bộ máy nhà
nước bao gồm các cơ quan QLNN ở cả ba phương diện là lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, QLNN chủ yếu là quá trình tổ chức, điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục
tiêu, yêu cầu nhiệm vụ QLNN. "Quản lý Nhà nước là sự tác động của các chủ
thể mang tính quyền lực Nhà nước, bằng nhiều biện pháp, tới các đối tượng
quản lý nhằm thực hiện những chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước
trên cơ sở pháp luật" [57, tr. 153].
QLNN về GD&ĐT là sự quản lý của các cơ quan quyền lực nhà nước,
của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở đối với hệ thống giáo
dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách
cho công dân [60, tr. 64]. Mỗi cách tác động của nhà nước và phân cấp quản
lý giáo dục cuối cùng cũng chỉ để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đảm
bảo để giáo dục đến với tất cả mọi người [35, tr. 4-6].
Như vậy, QLNN về GD&ĐT là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật đối với các hoạt động giáo dục
- đào tạo, do các cơ quan QLNN từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực
41
hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước uỷ quyền nhằm phát triển sự nghiệp
GD&ĐT, duy trì trật tự, kỷ cương, thoả mãn nhu cầu GD&ĐT của xã hội và
nhân dân, thực hiện mục tiêu GD&ĐT của nhà nước đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước.
Từ những tiếp cận liên quan nêu trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước về
đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng là việc Nhà nước thông qua hệ thống
chính sách, pháp luật và bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý của mình để tác
động vào hệ thống đào tạo NNLĐD và các chủ thể liên quan nhằm thực hiện
mục tiêu đào tạo là cung cấp đội ngũ ĐDV có đủ năng lực chuyên môn đáp
ứng nhu cầu của hệ thống y tế và yêu cầu CSSK người dân.
Trong khái niệm QLNN về đào tạo NNLĐD nổi lên 3 bộ phận chính,
đó là: chủ thể của QLNN về đào tạo NNLĐD; khách thể của QLNN về đào
tạo NNLĐD; mục tiêu đào tạo NNLĐD.
Chủ thể QLNN về đào tạo NNLĐD là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được quy định ở các luật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Trong khái niệm QLNN về đào tạo NNLĐD có hai yếu tố quan trọng trong
việc chủ thể QLNN điều hành, điều chỉnh các hoạt động đào tạo, đó là công
cụ và phương pháp trong QLNN về đào tạo NNLĐD: công cụ chủ yếu trong
quản lý là hệ thống thể chế với các văn bản quy phạm pháp luật. Phương pháp
QLNN chủ yếu là phương pháp hành chính, tổ chức thông qua hệ thống các
cơ quan QLNN.
Khách thể của QLNN về đào tạo NNLĐD là hệ thống các cơ sở đào tạo
NNLĐD và các hoạt động liên quan đến đào tạo NNLĐD trong phạm vi toàn
xã hội.
Mục tiêu đào tạo NNLĐD: về tổng thể đó là đào tạo ra đội ngũ ĐDV có
đủ năng lực chuyên môn để đáp ứng nhu cầu của hệ thống y tế và yêu cầu
CSSK người dân. Về cụ thể là phải đảm bảo trật tự, kỷ cương trong các hoạt
42
động đào tạo để thực hiện được mục tiêu đủ về quy mô, phù hợp về cơ cấu,
đảm bảo yêu cầu về chất lượng của NNLĐD. Để xác định được mục tiêu đào
tạo, trước hết cần phải hiểu rõ và xác định được nhu cầu của hệ thống y tế và
yêu cầu CSSK người dân cần có ĐDV như thế nào thông qua yêu cầu năng
lực về hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và chính sách sử dụng, xác định vị trí
việc làm của ĐDV trong hệ thống y tế.
Với cách tiếp cận như trên, các hoạt động QLNN không chỉ thuần túy
trực tiếp về hoạt động đào tạo mà còn là các nội dung gián tiếp đến hoạt động
đào tạo, làm cơ sở cho mục tiêu đào tạo chính là hoạt động nghề nghiệp để
đảm bảo mục tiêu đội ngũ ĐDV sau khi được đào tạo có đủ năng lực chuyên
môn đáp ứng nhu cầu của hệ thống y tế và yêu cầu CSSK người dân. Chính vì
vậy, khi nghiên cứu QLNN về đào tạo NNLĐD cần phải được nhìn nhận,
đánh giá và phân tích ở cả ba góc độ tác động đến đào tạo NNLĐD đó là hoạt
động đào tạo, hoạt động nghề nghiệp và chính sách sử dụng NNLĐD.
2.2.1.2. Tính chất của quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng
QLNN về đào tạo NNLĐD là QLNN về một lĩnh vực chuyên ngành cụ
thể nên cùng với những tính chất của QLNN nói chung còn có những tính
chất riêng để phù hợp với đặc điểm của ngành điều dưỡng. Có thể xác định
một số tính chất chủ yếu cần lưu ý, đó là:
Một là, tính lệ thuộc vào chính trị: QLNN về đào tạo NNLĐD phục
tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng
và Nhà nước nói chung, về GD&ĐT và về y tế nói riêng.
Hai là, tính xã hội: đào tạo NNLĐD nằm trong sự nghiệp chung về
GD&ĐT và sự nghiệp y tế của Nhà nước và của toàn xã hội. Trong hoạt động
QLNN về đào tạo NNLĐD cần phải coi trọng tính xã hội. Đào tạo NNLĐD
43
luôn gắn liền và phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của kinh tế - xã
hội vì vậy QLNN về đào tạo NNLĐD cần lưu ý tính chất này để có những
điều chỉnh phù hợp.
Ba là, tính pháp quyền: QLNN là quản lý bằng pháp luật; QLNN về
đào tạo NNLĐD cũng phải tuân thủ hành lang pháp lý mà Nhà nước đã quy
định cho mọi hoạt động quản lý về các hoạt động đào tạo NNLĐD.
Bốn là, tính chuyên môn nghiệp vụ: Nhà nước quy định về tiêu chuẩn
chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức hoạt động trong lĩnh vực QLNN về
đào tạo NNLĐD và giảng viên trong hệ thống đào tạo NNLĐD là rất cần
thiết. Họ cần phải được đào tạo với các trình độ tương ứng với các ngạch, bậc
đã được quy định. Việc tuyển chọn công chức cần đáp ứng các chuẩn mà nhà
nước đã ban hành. Đồng thời, Nhà nước cũng phải ban hành các tiêu chuẩn
chuyên môn nghiệp vụ đối với ĐDV để làm cơ sở cho hoạt động đào tạo, hệ
thống đào tạo NNLĐD cũng phải quan tâm để sản phẩm đào tạo theo từng
chuyên ngành và trình độ đáp ứng được các tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ
đã được quy định.
Năm là, tính hiệu lực, hiệu quả: lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ để đánh giá cán bộ công chức, viên chức liên quan đến QLNN và
hoạt động đào tạo NNLĐD; chất lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự kỷ
cương trong đào tạo NNLĐD là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ
sở đào tạo NNLĐD và của các cơ quan QLNN về đào tạo NNLĐD.
2.2.1.3. Đặc điểm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Trên cơ sở phân tích những tính chất chủ yếu của QLNN về đào tạo
NNLĐD và đặc điểm của ngành điều dưỡng, QLNN về đào tạo NNLĐD là
một bộ phận cấu thành trong QLNN nói chung nên cũng có đầy đủ những đặc
điểm sau:
Một là, QLNN về đào tạo NNLĐD là một hoạt động của QLNN, vì thế
44
nó cũng mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức rất cao và tính mệnh lệnh
đơn phương của cơ quan có thẩm quyền QLNN, bắt buộc thi hành đối với đào
tạo NNLĐD. QLNN về đào tạo NNLĐD phải tuôn thủ thứ bậc chặt chẽ, cấp
dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương. QLNN về đào tạo
NNLĐD có mục tiêu và chiến lược, chương trình kế hoạch để thực hiện mục
tiêu. Chương trình, kế hoạch được xác định theo từng giai đoạn dài hạn, trung
hạn, ngắn hạn để phù hợp với điều kiện và mục tiêu cụ thể của từng giai đoạn.
Hai là, QLNN về đào tạo NNLĐD là một lĩnh vực có tính đặc thù rất
cao của ngành Y tế nói chung và ngành điều dưỡng nói riêng, hướng tới mục
tiêu ngày càng nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế. Chính vì vậy, khác với QLNN về GD&ĐT thông thường là vừa
QLNN về hành chính, chuyên môn nghiệp vụ đào tạo của cơ quan QLNN về
GD&ĐT ở trung ương vừa quản lý hành chính ở địa phương, QLNN về đào
tạo NNLĐD cần phải có sự phối hợp và thống nhất liên ngành trong đó phải
xác định rõ vai trò đưa ra các tiêu chuẩn, tiêu chí, yêu cầu và định hướng
chuyên môn nghề nghiệp của phía sử dụng là Bộ Y tế. Đồng thời, QLNN về
đào tạo NNLĐD phải mang tính chủ động, năng động, sáng tạo, thường
xuyên cập nhật và chuyên môn hóa nghề nghiệp cao trong việc điều hành, kế
thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc và áp
dụng những mô hình phù hợp trong hoạt động quản lý để đạt được mục tiêu
của QLNN.
Ba là, QLNN về đào tạo NNLĐD mang tính xã hội, bản chất của ngành
Y tế là nhân đạo, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên QLNN về
đào tạo NNLĐD là nhân đạo và không vì lợi nhuận, không có sự cách biệt
giữa người quản lý và người bị quản lý. Đồng thời, tính xã hội còn là thực
hiện tốt việc kết hợp giữa Nhà nước và xã hội trong QLNN về đào tạo
NNLĐD thông qua việc huy động sự tham gia của xã hội, QLNN về đào tạo
45
NNLĐD là một bộ phận của GD&ĐT nên cần thực hiện đúng quan điểm, tư
tưởng GD&ĐT là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Bốn là, QLNN về đào tạo NNLĐD cần hướng tới tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và giải trình xã hội của các cơ sở đào tạo và sử dụng NNLĐD.
Chính vì vậy, QLNN về đào tạo NNLĐD cần phải quan tâm đến việc đề ra
các tiêu chuẩn, tiêu chí để đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực thông qua đào
tạo và sử dụng NNLĐD, kiểm soát chất lượng thông qua hoạt động kiểm tra,
giám sát cả về đào tạo và sử dụng NNLĐD.
Năm là, QLNN về đào tạo NNLĐD phải đảm bảo có sự thống nhất, phù
hợp với nhu cầu và yêu cầu của hệ thống y tế. Sự thống nhất phải được thể
hiện thông qua nhất quán về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo từ trung ương đến
địa phương, từ Chính phủ đến các Bộ, Ngành. Sự phù hợp phải được thể hiện
việc đào tạo phải gắn với nhu cầu sử dụng cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng
NNLĐD. Thực hiện tốt tính thống nhất và phù hợp sẽ hạn chế việc mở ngành,
mở trường tràn lan, quy mô đào tạo vượt quá nhu cầu, chuẩn đầu ra của
CTĐT phải đáp ứng được tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp, sản phẩm đào tạo
phải tham gia được thị trường lao động, tránh gây lãng phí xã hội.
2.2.2. Sự cần thiết và vai trò quản lý nhà nước về đào tạo nguồn
nhân lực điều dưỡng
2.2.2.1. Định hướng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng đáp
ứng yêu cầu của hệ thống y tế và nhu cầu xã hội
Với vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật trong công tác bảo vệ,
CSSK nhân dân, ngành Y tế cần phải xác định được nhu cầu về quy mô, cơ
cấu và các yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật của các cơ sở y tế, các quy trình
chăm sóc và điều trị và đặc biệt là cần phải xác định các yêu cầu về tiêu chuẩn
năng lực chuyên môn nghề nghiệp của NNLYT theo từng ngành, lĩnh vực và
trình độ trong đó có NNLĐD. Các tiêu chuẩn năng lực chuyên môn nghề
46
nghiệp đối với NNLYT của từng ngành, lĩnh vực lại là cơ sở để xác định
chuẩn đầu ra của từng trình độ đào tạo của từng ngành, lĩnh vực đó, điều này
cũng đã được khẳng định trong Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam: các
bộ, ngành cung cấp thông tin về ngành, nghề, yêu cầu về trình độ tương ứng
vị trí việc làm; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp làm cơ
sở xây dựng và phát triển chuẩn đầu ra của các trình độ [54].
Như vậy, bên cạnh ban hành tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp, còn có
những nội dung quan trọng để định hướng mục tiêu đào tạo đó là thông tin về
ngành, nghề, yêu cầu về số lượng, trình độ tương ứng với vị trí việc làm. Bộ
Y tế cần phải phối hợp với cơ quan QLNN về GD&ĐT ở trung ương triển
khai khung cơ cấu giáo dục của ngành điều dưỡng theo như nội dung của
Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng phê duyệt
Khung cơ cấu giáo dục quốc dân Việt Nam: Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ
GD&ĐT, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội triển khai Khung cơ cấu hệ
thống giáo dục quốc dân trong đào tạo nhân lực y tế theo thẩm quyền [53].
Đồng thời, Bộ Y tế cũng phải quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của ĐDV
trong cơ cấu NNLYT. Để làm được điều đó cần xác định được các hoạt động
chuyên môn y tế trong đó có sự tham gia của ĐDV ở công việc nào. Các công
việc đó đòi hỏi ĐDV cần có các năng lực gì để đáp ứng yêu cầu của từng vị
trí việc làm trong lĩnh vực điều dưỡng. Yêu cầu và nhu cầu về quy mô, cơ cấu
và chất lượng của NNLĐD như thế nào để phù hợp với vị trí việc làm đó. Trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau, ĐDV đã ngày càng được khẳng định với ba
chức năng chính là: chức năng phụ thuộc - là các hoạt động chuyên môn thực
hiện theo chẩn đoán và y lệnh của bác sỹ; chức năng phối hợp - là các hoạt
động chuyên môn phối hợp với các thành viên trong nhóm chăm sóc, nhân
viên y tế chuyên ngành khác, phối hợp với người bệnh để hoàn thành kế
hoạch chăm sóc người bệnh đạt hiệu quả cao và chức năng chủ động và độc
47
lập - là các hoạt động chuyên môn trong phạm vi thực hành, chẩn đoán điều
dưỡng và xử trí thuộc thẩm quyền của ĐDV thực hiện mà không cần, không
chờ và không phụ thuộc vào y lệnh của bác sỹ [3]. Thông tư số 07/2011/TT-
BYT ngày 26/01/2011 đã quy định 12 nhiệm vụ của ĐDV trong công tác
chăm sóc người bệnh tại bệnh viện[15], bao gồm: tư vấn, hướng dẫn giáo dục
sức khỏe; chăm sóc về tinh thần; chăm sóc về dinh dưỡng; chăm sóc vệ sinh
cá nhân; chăm sóc phục hồi chức năng; chăm sóc người bệnh có chỉ định
phẫu thuật, thủ thuật; dùng thuốc và theo dõi dùng thuốc cho người bệnh;
chăm sóc người bệnh giai đoạn hấp hối và người bệnh tử vong; thực hiện các
kỹ thuật điều dưỡng; theo dõi, đánh giá người bệnh; bảo đảm an toàn và
phòng ngừa sai sót chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc người bệnh; ghi chép
hồ sơ bệnh án.
Việc cơ quan QLNN ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí đối với NNLĐD
là những nội dung để đảm bảo tính minh bạch và công khai trong quá trình sử
dụng NNLĐD, công bố cho toàn thể xã hội biết về yêu cầu sử dụng nhân lực,
thông qua đó xã hội cũng xác định được nhu cầu cung cấp và sử dụng
NNLĐD. Hoạt động đó vừa có ý nghĩa định hướng để xác định mục tiêu đào
tạo NNLĐD cho các cơ sở đào tạo và sử dụng NNLĐD thực hiện, vừa là cơ
sở để kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo và sử dụng NNLĐD.
2.2.2.2. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng
Như trên đã đề cập, đào tạo NNLĐD có tính đặc thù rất cao, quá trình
đào tạo phải luôn có sự gắn liền chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, hoạt
động đào tạo luôn tiếp xúc trực tiếp với người bệnh. Chính vì vậy trong quá
trình đào tạo cần phải có sự tham gia của các cơ sở y tế. Bên cạnh đó, để triển
khai đào tạo NNLĐD cần phải có các điều kiện trang thiết bị chuyên ngành để
48
tổ chức đào tạo thực tại như các phòng thí nghiệm, trung tâm thực hành mô
phỏng, thực hành kỹ năng tiền lâm sàng (simulation skills-lab).
QLNN về đào tạo NNLĐD có tính xã hội, chính vì vậy ngoài việc đưa
ra các công cụ quản lý, các quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí của cơ sở đào tạo,
cơ sở thực hành, Nhà nước cần có các chủ trương, chính sách để hỗ trợ và tạo
điều kiện cho hoạt động đào tạo NNLĐD như cơ chế phối hợp giữa CSĐT với
cơ sở thực hành, hỗ trợ nguồn lực đầu tư, chính sách xã hội hóa để tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân có điều kiện đầu tư cho đào tạo NNLĐD.
2.2.2.3. Nâng cao chất lượng và phát huy vai trò của nguồn nhân lực
điều dưỡng
Ngành Y tế với vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật trong công
tác bảo vệ, CSSK nhân dân đã được khẳng định trong nhiều văn kiện, tài liệu
của Đảng và Nhà nước ta. Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ Nghị quyết
của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tư khóa VII[4], Nghị quyết
số 46-NQ/TƯ ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị[6] và mới đây nhất là Chiến
lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn
2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được phê duyệt theo Quyết định số
122/QĐ-TTg ngày 12/01/2013[51] đều đã khẳng định: bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và
cộng đồng; là trách nhiệm của các bộ, ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội nghề nghiệp,
trong đó ngành Y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật. Chiến
lược đã đặt ra mục tiêu: (i) Bảo đảm mọi người dân được hưởng các dịch vụ
CSSK ban đầu, mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng;
(ii) Người dân được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất
và tinh thần; (iii) Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ,
nâng cao chất lượng dân số.
Để đạt được mục tiêu đó, cùng với sự tham gia của toàn xã hội, sự tham
gia của hệ thống y tế còn có vai trò rất quan trọng của NNLYT trong đó có
49
vai trò của ĐDV. NNLĐD là một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu
NLYT. Trong chiến lược phát triển công tác điều dưỡng, hộ sinh giai đoạn
2002 - 2008 của WHO[87] đã khẳng định: dịch vụ điều dưỡng là một trong
những trụ cột của hệ thống chăm sóc y tế. Nghị quyết CSSK ban đầu trong sự
tăng cường hệ thống y tế của WHO (WHA62.12) cũng đã ghi nhận ĐDV có
mặt ở mọi tuyến của hệ thống y tế và có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện các mục tiêu của hệ thống y tế như tăng cường sự tiếp cận các dịch vụ y
tế cơ bản, bảo đảm tính phổ cập, công bằng, hiệu quả trong các dịch vụ CSSK
[89],[90]. ĐDV phải tự tin, có kỹ năng ra quyết định, tổng hợp rút kinh
nghiệm và đưa ra những thay đổi tốt trong chăm sóc. Đồng thời phát huy vai
trò nghiên cứu của điều dưỡng để cải tiến các kỹ thuật thích hợp và cải tiến
cách chăm sóc người bệnh đạt hiệu quả cao [3].
Chương trình hành động quốc gia về tăng cường công tác điều dưỡng -
hộ sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020 được phê duyệt theo Quyết định số
1215/QĐ-BYT ngày 12/5/2013 của Bộ Y tế đã xác định: ĐDV là lực lượng
trực tiếp CSSK cho người dân ở cộng đồng và trong các cơ sở y tế với chi phí
hợp lý và hiệu quả; đóng góp tích cực vào việc phòng và kiểm soát bệnh tật
thông qua truyền thông, giáo dục nâng cao sức khỏe, khuyến khích lối sống
lành mạnh cho người dân trong cộng đồng; duy trì và tăng cường sức khỏe,
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, đồng thời đóng góp vai trò to lớn
trong vai trò của người đỡ đẻ có kỹ năng và người cung cấp các dịch vụ an
toàn cho bà mẹ và trẻ sơ sinh [18].
ĐDV cung cấp các dịch vụ y tế trong môi trường làm việc rất rộng bao
gồm các bệnh viện, các cơ sở CSSK ban đầu ở tuyến cơ sở và cộng đồng, xử
trí từ các cấp cứu, tai nạn cho đến các chăm sóc giảm nhẹ lúc cuối đời. ĐDV
không những cung cấp dịch vụ chủ yếu trong các thảm họa và sau thảm họa
mà còn đóng góp tích cực vào truyền thông cho cộng đồng về nguy cơ thảm
50
họa, chịu trách nhiệm lập kế hoạch và tham gia liên ngành trong chuẩn bị ứng
phó với thảm họa dịch bệnh [16].
Thông qua hoạt động QLNN, Nhà nước cần có những chính sách cần
thiết để việc đào tạo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của hệ thống y tế và tạo
cơ hội cho ĐDV sau khi được đào tạo được thể hiện đầy đủ năng lực và vai
trò của mình trong hoạt động CSSK nhân dân.
2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
2.2.3.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Việc xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo
NNLĐD là một nội dung quan trọng trong QLNN về đào tạo NNLĐD để đảm
bảo thực hiện được đúng định hướng chung của Đảng và Nhà nước trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, tránh việc đào tạo làm mất cân đối về cơ cấu
nhân lực do không cung cấp đủ hoặc vượt quá nhu cầu về số lượng ở từng
chuyên ngành, trình độ đào tạo, làm ảnh hưởng đến chất lượng CSSK khi
không cung cấp đủ nhân lực hoặc gây lãng phí xã hội khi quy mô đào tạo
vượt quá nhu cầu cần thiết của ngành Y tế và xã hội. Việc thực hiện và đánh
giá kết quả triển khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo và phát
triển NNLĐD lại là tiền đề làm cơ sở để điều chỉnh và xây dựng thể chế và
chính sách về đào tạo NNLĐD.
Chiến lược là một chương trình hành động tổng quát, triển khai các giải
pháp để đạt được các mục tiêu toàn diện về phát triển trong một khoảng thời
gian tương đối dài, thường từ 10 - 20 năm.
Quy hoạch là việc xác định cơ cấu, bố trí nguồn lực để đảm bảo tính
cân đối của hệ thống đào tạo và cơ cấu nhân lực của NNLĐD phù hợp với đặc
điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng miền, khu vực và của cả quốc
gia. Quy hoạch cũng phải đảm bảo xác định trong một giai đoạn nhất định với
khoảng thời gian tương đối dài (5 năm, 10 năm hoặc 20 năm) và phải phù hợp
51
với chiến lược đã đề ra. Quy hoạch có thể được ban hành độc lập hoặc nằm
trong tổng thể chung trong quy hoạch phát triển ngành, địa phương trên
nguyên tắc quy hoạch phát triển và đào tạo NNLĐD phải phù hợp với quy
hoạch của địa phương và ngành y tế, quy hoạch của ngành y tế phải phù hợp
với quy hoạch của quốc gia. Xây dựng quy hoạch đào tạo và phát triển
NNLĐD làm cơ sở để xác định số lượng CSĐT, quy mô đào tạo phù hợp với
nhu cầu cung cấp NNLĐD của từng trình độ, chuyên ngành đào tạo.
Kế hoạch là một chương trình hành động cụ thể để đạt đến các mục tiêu
định trước trong những khoảng thời gian nhất định (5 năm, hàng năm). Kế
hoạch bao gồm những mục tiêu cụ thể và những giải pháp hành động cụ thể
được lựa chọn để đạt được những mục tiêu này.
Việc xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo và
phát triển NNLĐD cần đảm bảo một số nội dung:
Một là, xây dựng khung cơ cấu NNLĐD trong cơ cấu nhân lực của hệ
thống y tế. Nội dung này là xác định trong cơ cấu nhân lực hệ thống y tế cần
có những ngành, chuyên ngành, lĩnh vực nào. Đối với lĩnh vực điều dưỡng,
để đáp ứng yêu cầu CSSK, nội dung QLNN là xác định những đối tượng điều
dưỡng cần có cho hệ thống theo từng trình độ, chuyên ngành đào tạo cần thiết
cho hoạt động CSSK phù hợp với chức năng, vai trò và nhiệm vụ của ĐDV ở
từng tuyến y tế.
Hai là, xác định, đánh giá đúng thực trạng đào tạo và phát triển
NNLĐD trong giai đoạn hiện tại. Trên cơ sở đó làm rõ những tồn tại, thách
thức và nguyên nhân của những vấn đề tồn tại đó trong việc đào tạo và phát
triển NNLĐD.
Ba là, xác định các mục tiêu và xu hướng đào tạo và phát triển NNLĐD
trước những yêu cầu nâng cao chất lượng NNL và xu hướng toàn cầu hóa, hội
52
nhập quốc tế, đặc biệt là việc hình thành thị trường lao động tự do của khu
vực ASEAN trong đó NNLĐD là một trong những đối tượng bị tác động.
Bốn là, xác định các giải pháp chủ yếu để đào tạo và phát triển
NNLĐD hợp lý cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng phù hợp với yêu cầu
ngày càng cao về CSSK nhân dân.
2.2.3.2. Xây dựng, ban hành và triển khai thể chế, chính sách đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
Hệ thống thể chế và chính sách đào tạo NNLĐD là công cụ quan trọng
nhất của hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
để xây dựng, ban hành thể chế và chính sách đào tạo NNLĐD là rất cần thiết
để xác định các nội dung cụ thể thông qua hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật để điều chỉnh các hành vi của cả chủ thể và khách thể của QLNN
trong đào tạo NNLĐD. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đó là cơ sở
pháp lý để triển khai đào tạo NNLĐD, góp phần phát triển NNLYT để hướng
tới mục tiêu phát triển của ngành Y tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
bảo vệ, CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế. Hệ thống thể chế và chính sách
liên quan đến điều dưỡng và đào tạo NNLĐD phải mang tính tổng thể và đặc
thù nghề nghiệp.
Một là, thể chế và chính sách về quản lý và hoạt động chuyên môn đối
với NNLĐD. Nội dung này quy định những tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp
của ĐDV, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, các tiêu chuẩn, điều kiện để
được hành nghề điều dưỡng, cơ cấu chuyên ngành và trình độ của NNLĐD.
Đây là một trong những căn cứ cơ bản để xác định mô hình và phân luồng
đào tạo, xây dựng mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo NNLĐD, đồng
thời là căn cứ để xác định tiêu chuẩn cũng như là cơ sở để người giảng viên
chuyên ngành có cơ hội tham gia hoạt động chuyên môn nghề nghiệp điều
dưỡng.
53
Hai là, thể chế và chính sách về hoạt động đào tạo NNLĐD. Nội dung
này quy định về các điều kiện và hoạt động của cơ sở đào tạo NNLĐD; các
quy định về mô hình đào tạo, mục tiêu, nội dung chương trình, hình thức, thời
gian đào tạo NNLĐD để đáp ứng với theo tiêu chuẩn năng lực và tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp của ĐDV; các quy định về tiêu chuẩn và chế độ đối
với đội ngũ giảng viên và người học; các quy định về học bổng, học phí; các
tiêu chuẩn, tiêu chí để đảm bảo chất lượng và hoạt động kiểm định đào tạo
NNLĐD, trong đó xác định rõ trách nhiệm giải trình đối với xã hội của CSĐT.
Ba là, thể chế và chính sách đãi ngộ và sử dụng NNLĐD. Nội dung này
quy định các tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức tuyển dụng, xếp hạng,
thăng hạng chức danh nghề nghiệp của ĐDV; quy định về xây dựng cơ cấu và
tiêu chuẩn vị trí việc làm của ĐDV trong cơ cấu nhân lực chung của ngành,
của địa phương, của cơ sở y tế; quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp nghề
nghiệp đối với ngành điều dưỡng theo từng lĩnh vực chuyên ngành trong hoạt
động nghề nghiệp điều dưỡng; chế độ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ,
phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nghiên cứu khoa học về điều dưỡng; chế độ
khen thưởng, kỷ luật. Đây cũng là cơ sở để giải quyết chế độ, chính sách cho
người giảng viên chuyên ngành của cơ sở đào tạo khi tham gia hoạt động
chuyên môn tại cơ sở thực hành.
Để đảm bảo việc xây dựng và ban hành các thể chế và chính sách về
đào tạo NNLĐD có tính khả thi cần được thực hiện trên các nguyên tắc cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, xác định đúng các vấn đề cấp thiết cần phải đặt ra trong đào
tạo NNLĐD. Việc xác định vấn đề cần dựa trên những phân tích sâu về thực
trạng cũng như nhu cầu CSSK; phân tích cụ thể về mối quan hệ cung - cầu
giữa bên đào tạo với bên sử dụng NNL trong đào tạo NNLĐD. Trong quá
trình phân tích có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để tìm kiếm, xác
định vấn đề, trong đó phương pháp phân tích SWOT (phân tích điểm mạnh,
54
điểm yếu, cơ hội, thách thức) để tìm ra các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức thường được áp dụng.
Thứ hai, mục tiêu của hệ thống thể chế và chính sách phải rõ ràng, cụ
thể, có tính khả thi và cần tính đến các yếu tố liên quan trong hoạt động nghề
nghiệp của ĐDV như: sự phát triển kinh tế - xã hội và của khoa học kỹ thuật
trong y học, xu hướng phát triển dân số và biến động của mô hình bệnh tật,
trình độ và xu hướng phát triển ngành điều dưỡng, phát triển NNLĐD ở khu
vực và thế giới.
Thứ ba, xây dựng và ban hành thể chế và chính sách về đào tạo
NNLĐD phải đảm bảo độ tin cậy, tính khách quan, bình đẳng và công bằng
đối với các chủ thể liên quan đến hoạt động đào tạo NNLĐD.
Thứ tư, trong quá trình xây dựng và ban hành thể chế và chính sách về
đào tạo NNLĐD cần phải nghiên cứu kỹ để đề xuất các giải pháp phù hợp,
giải quyết đúng bản chất và nguyên nhân của vấn đề đặt ra, trong đó phải dự
tính đầy đủ các điều kiện để thực hiện các giải pháp đề ra một cách có hiệu
quả với phương án tối ưu nhất.
Thứ năm, hệ thống thể chế và chính sách đào tạo NNLĐD có kế hoạch
triển khai cụ thể, phải được tiến hành kịp thời, đồng bộ, đảm bảo tính thống
nhất trong toàn hệ thống để đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi của các bên liên
quan, thể hiện sự công bằng trong thực thi pháp luật. Trong quá trình triển
khai thực hiện thể chế và chính sách cần phải có các nguồn lực hỗ trợ cần
thiết để đảm bảo tính khả thi của pháp luật.
2.2.3.3. Tổ chức bộ máy, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ
giảng viên đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Thứ nhất, trong hoạt động QLNN, tổ chức bộ máy là một bộ phận giúp
cho hệ thống quản lý được hoàn thiện. Tổ chức bộ máy gồm nhiều cấp độ,
thành phần, bộ phận có nhiệm vụ khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau,
phối hợp hoạt động, hợp tác, tác động và tạo thành một hệ thống thống nhất
55
hướng tới mục tiêu chung của QLNN. Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo
NNLĐD được thiết kế từ trung ương đến địa phương, bao gồm hai nhóm cơ
quan quản lý: nhóm cơ quan quản lý là các cơ quan QLNN từ trung ương đến
tuyến tỉnh và nhóm cơ quan quản lý là hệ thống các CSĐT nhân lực để triển
khai các nội dung của QLNN trong hoạt động đào tạo của CSĐT.
Để việc quản lý đào tạo NNLĐD đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, tổ
chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD cần bảo đảm các nguyên tắc sau:
(i) Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD phải được thiết kế với một
cơ cấu tổ chức hợp lý trong một tổng thể thống nhất. Các bộ phận cấu thành
của tổ chức bộ máy quản lý ở bất kỳ cấp nào, cơ quan nào đều phải được thiết
kế, sắp xếp hợp lý, có mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau, nhằm tạo ra một
thể thống nhất. Hệ thống quản lý đào tạo NNLĐD cần thiết kế từ trung ương
đến tuyến tỉnh. Việc thiết kế tổ chức bộ máy quản lý mới có thể tạo thành tổng
lực hướng tới mục tiêu chung, làm tăng tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý.
(ii) Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD phải có sự phân công,
phân nhiệm rõ ràng tránh chồng chéo, một nội dung do một cơ quan chịu
trách nhiệm chính để phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống. Việc phân định rõ và hợp lý quyền hạn và trách nhiệm của các
tổ chức trong hệ thống sẽ giúp cho toàn hệ thống vận hành một cách hiệu quả,
đồng thời phát huy vai trò của từng tổ chức, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của tổ chức trong việc thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm được giao, bảo
đảm sự vận hành thông suốt của hệ thống. Mỗi tổ chức thực thi các quyền hạn
được giao, phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình trước pháp luật
và cơ quan quản lý cấp trên, chịu trách nhiệm trước xã hội và người dân về
hoạt động đào tạo NNLĐD mà tổ chức đó chịu trách nhiệm quản lý. Việc gắn
quyền hạn với trách nhiệm là yêu cầu tất yếu để Nhà nước và mọi người dân
có thể giám sát hoạt động của các tổ chức này nhằm mục tiêu quản lý tốt hoạt
động đào tạo NNLĐD theo các yêu cầu đặt ra.
56
(iii) Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD phải được thiết kế đảm
bảo kết hợp quản lý theo ngành, lĩnh vực và theo lãnh thổ nhằm bảo đảm sự
kết hợp hài hòa giữa các bộ, ngành ở trung ương với chính quyền địa phương
trong quản lý đào tạo NNLĐD, tạo ra sự đồng thuận, hỗ trợ lẫn nhau, bổ sung
cho nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo NNLĐD có chất lượng, đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân ở từng địa phương nói riêng và
trên phạm vi cả nước nói chung.
Thứ hai, song song với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, việc phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo NNLĐD là một nội dung của hoạt động
QLNN về đào tạo NNLĐD, nội dung này có quan hệ một cách hữu cơ và ràng
buộc với hoạt động thiết kế tổ chức bộ máy. Thiết kế tổ chức bộ máy hợp lý
nhưng đội ngũ cán bộ không đủ năng lực thì hoạt động quản lý đào tạo
NNLĐD cũng sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn. Trên cơ sở tổ chức bộ
máy, đề án vị trí việc làm tổng thể của đơn vị, đội ngũ cán bộ được xác định
dựa trên cơ cấu tổ chức bộ máy, phù hợp với yêu cầu của từng tổ chức theo
từng chức năng nhiệm vụ cụ thể của tổ chức và theo từng chức năng, nhiệm
vụ của vị trí việc làm trong tổ chức. Xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí đối với
mỗi vị trí hoặc nhóm vị trí việc làm và cơ cấu đội ngũ cán bộ hợp lý sẽ giúp
cho bộ máy tổ chức hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu và
mục tiêu của hoạt động quản lý đào tạo NNLĐD.
Để việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng được
yêu cầu và mục tiêu cần đảm bảo các yếu tố sau:
(i) Xác định rõ cơ cấu vị trí việc làm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của tổ chức trong hoạt động quản lý đào tạo NNLĐD. Vị trí việc làm phải
đảm bảo dựa trên nhu cầu của tổ chức, được xác định trên cơ sở người theo
việc chứ không phải việc theo người.
(ii) Xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí đối với từng vị trí hoặc nhóm vị trí
việc làm để làm cơ sở tuyển chọn cán bộ đáp ứng được yêu cầu. Các tiêu
57
chuẩn, tiêu chí phải rõ ràng về các năng lực cần thiết của người cán bộ quản
lý bao gồm trình độ và lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm làm
việc, các năng lực bổ trợ cần thiết khác (hiểu biết về QLNN, ngoại ngữ, tin học).
(iii) Việc tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ quản lý phải đảm bảo
nguyên tắc khách quan, công khai, công bằng. Đồng thời phải có chính sách
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý để họ có cơ hội cập nhật kiến thức,
nâng cao năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, phải có cơ chế,
chính sách đãi ngộ, phụ cấp công vụ phù hợp cho đội ngũ cán bộ quản lý để
họ có thể toàn tâm, toàn ý cho công việc, nhiệm vụ được giao. Song song với
các chế độ chính sách trên cần phải có cơ chế kiểm tra, giám sát và các biện
pháp phù hợp để hạn chế việc cán bộ tiếp xúc hạch sách, nhũng nhiễu những
đơn vị, cá nhân trong phạm vi quản lý.
(iv) Có các tiêu chí đánh giá và xếp loại cán bộ quản lý trong quá trình
làm việc. Việc đánh giá và xếp loại cán bộ phải đồng bộ với cơ chế xử phạt,
kỷ luật, miễn nhiệm, bãi nhiệm, buộc thôi việc với những cán bộ làm việc
không hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu làm ảnh hưởng đến bộ máy
quản lý và ảnh hưởng đến cả hệ thống quản lý.
Thứ ba, cùng với việc kiện toàn đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý,
việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo NNLĐD
cũng là một nội dung quan trọng của QLNN về đào tạo NNLĐD. Đào tạo
NNLĐD là một quá trình có tính đặc thù rất cao, nhằm hình thành những
năng lực cơ bản của ĐDV trên cơ sở trang bị các kiến thức, kỹ năng chuyên
môn nghiệp vụ thành thạo và thái độ, hành vi nghề nghiệp thích ứng để đáp
ứng yêu cầu CSSK với mức độ đa dạng, phức tạp và khó khăn trong hoạt
động nghề nghiệp của ĐDV, quá trình đào tạo phải gắn liền giữa lý thuyết và
thực hành. Chính vì vậy, đội ngũ giảng viên chuyên ngành trong đào tạo
NNLĐD có vai trò rất quan trọng. Họ là người hướng dẫn cho người học hình
thành được năng lực chuyên môn nghề nghiệp trên nguyên tắc từng bước tích
58
lũy và kết hợp hài hòa giữa kiến chức, kỹ năng và thái độ trong suốt quá trình
đào tạo. Chính vì vậy, người giảng viên chuyên ngành phải là những người có
kiến thức, có kỹ năng, có những thái độ và hành vi trong lĩnh vực mình giảng
dạy phải chuyên sâu, chuẩn mực và thành thạo. Với những đặc điểm đó, đội
ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo NNLĐD cần có những tiêu chuẩn, điều
kiện đặc thù nhất định, bao gồm:
(i) Đội ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo NNLĐD phải có kỹ năng
sư phạm nói chung và sư phạm trong dạy và học thực hành lâm sàng để có
thể truyền đạt cho người học nắm bắt và có những kiến thức, kỹ năng và thái
độ nghề nghiệp phù hợp, chuẩn mực.
(ii) Đội ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo NNLĐD phải chính là
những ĐDV chuyên nghiệp thực sự, có trình độ chuyên môn cao, có chứng
chỉ hành nghề và trực tiếp hoạt động nghề nghiệp CSSK tại các cơ sở y tế là
cơ sở thực hành trong quá trình đào tạo NNLĐD.
(iii) Đội ngũ giảng viên chuyên ngành đào tạo NNLĐD không chỉ đến
từ CSĐT mà phải có cả những người đến từ các cơ sở thực hành, cơ sở y tế
đến tham gia giảng dạy.
2.2.3.4. Hỗ trợ và huy động các nguồn lực cho đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng
Các nguồn lực đầu tư cho đào tạo NNLĐD phải phù hợp và đáp ứng
được các yêu cầu để đảm bảo chất lượng đào tạo về chương trình, nội dung
đào tạo, đội ngũ giảng viên và cơ sở, vật chất trang thiết bị dạy và học. Đầu tư
kinh phí để xây dựng và phát triển chương trình, nội dung đào tạo là một
trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo chất lượng hoạt động đào tạo
NNLĐD. Chương trình, nội dung phù hợp, bám sát với yêu cầu, đặc điểm,
mục tiêu đào tạo và chuẩn năng lực nghề nghiệp của ĐDV thì chất lượng của
hoạt động đào tạo NNLĐD mới được đảm bảo và đạt hiệu quả cao. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại sẽ hỗ trợ lớn cho việc nâng cao CSSK người bệnh.
59
Hoạt động đào tạo NNLĐD luôn gắn liền giữa lý thuyết với thực hành kỹ
năng chuyên môn, chính vì vậy các phòng thực hành chuyên môn (trung tâm
mô phỏng và kỹ năng tiền lâm sàng) tại trường và tại cơ sở thực hành là một
yếu tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng đào tạo NNLĐD.
Để hoạt động đào tạo NNLĐD có hiệu quả và đảm bảo chất lượng, việc
nhà nước có cơ chế để hỗ trợ và huy động các nguồn lực đầu tư cho đào tạo
NNLĐD là rất quan trọng. Việc huy động các nguồn lực thông qua nhiều
phương thức khác nhau như: các nguồn lực đầu tư cho bộ máy và nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, chế độ học phí phù hợp, xây dựng và triển
khai các chương trình, dự án và huy động các nguồn lực thông qua hoạt động
xã hội hóa.
Thứ nhất, Nhà nước đầu tư để nâng cao năng lực cho bộ máy quản lý
và đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo NNLĐD thông qua đầu tư cơ sở vật chất
trang thiết bị, cơ sở làm việc để hiện đại hóa nền công vụ; đồng thời có chế độ
đãi ngộ phù hợp cho đội ngũ cán bộ quản lý, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ
quản lý có cơ hội phát triển nâng cao năng lực và trình độ.
Thứ hai, chế độ học phí được xác định trên cơ sở cân đối thu chi, không
vì lợi nhuận nhưng đảm bảo đáp ứng được yêu cầu chi phí cho đào tạo phù
hợp với yêu cầu về mục tiêu đào tạo, học phí thu được phục vụ cho hoạt động
chi thường xuyên cho hoạt động đào tạo và một phần cho tái đầu tư.
Thứ ba, trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, nguồn lực
từ ngân sách nhà nước việc đầu tư cho đào tạo NNLĐD còn khó khăn, hạn
chế, Nhà nước cần có vai trò tìm kiếm, huy động, điều phối việc hỗ trợ triển
khai cho các CSĐT NNLĐD công lập thông qua các chương trình, dự án hỗ
trợ, nhất là các dự án ODA vay vốn ưu đãi của nước ngoài đầu tư, hỗ trợ cho
đào tạo NNLĐD như đầu tư các nguồn lực để nâng cao năng lực đội ngũ
giảng viên, đầu tư các trang thiết bị chuyên môn, tăng cường cơ sở vật chất
60
cho các CSĐT. Việc hỗ trợ và huy động các nguồn lực đầu tư cho đào tạo
NNLĐD cần đảm bảo các yêu cầu sau: (i) Các nguồn lực hỗ trợ đầu tư phải
phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo và phát triển NNLĐD;
(ii) Các chương trình, dự án đầu tư phải đảm bảo đúng đối tượng, trọng tâm,
trọng điểm, tiến độ, kế hoạch đặt ra để đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội.
Thứ tư, thu hút nguồn lực thông qua xã hội hóa. Do nguồn lực từ nhà
nước hạn chế, các chương trình, dự án cũng không thể bao phủ được toàn bộ
hệ thống CSĐT trên toàn quốc, Nhà nước cần có các cơ chế thu hút các nhà
đầu tư có đủ năng lực và tâm huyết đối với đào tạo NNLĐD thông qua các
hình thức khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ cần thiết.
2.2.3.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát và tổng kết, đánh giá về đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
Trong quá trình thực thi pháp luật, có những tổ chức, cá nhân do vô
tình hay cố ý không chấp hành, không thực hiện đúng hoặc đầy đủ theo các
quy định của pháp luật. Chính vì vậy, để kịp thời ngăn ngừa, phát hiện, xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật, công tác thanh tra, kiểm tra là một trong những
nội dung quan trọng của hoạt động QLNN và cần phải được thực hiện thường
xuyên, có trọng tâm trọng điểm.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý, nhằm
mục đích đảm bảo bộ máy quản lý vận hành theo đúng quy định của pháp
luật, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN; tránh xảy ra hiện
tượng lộng quyền, lạm quyền, không đúng thẩm quyền, tiêu cực, buông lỏng,
quan liêu trong công tác quản lý; ngăn ngừa và xử lý kịp thời các sai phạm
góp phần vào công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thanh tra, kiểm tra
hoạt động đào tạo NNLĐD được tiến hành thường xuyên ở các cấp độ khác
nhau, với nhiều hình thức khác nhau.
Đối với Quốc hội, các Ủy ban và các đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện
61
chức năng giám sát định kỳ theo mỗi kỳ họp, hàng năm hoặc theo chuyên đề
ở từng lĩnh vực hoặc địa phương đối với hoạt động GD&ĐT để xem xét việc
thực thi pháp luật của bộ máy quản lý hành chính nhà nước.
Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện thanh
tra, kiểm tra định kỳ hàng năm hoặc theo chuyên đề ở các CSĐT, ngành hoặc
địa phương để xem xét việc thực thi pháp luật của các CSĐT, ngành hoặc địa
phương đối với hoạt động đào tạo NNLĐD thuộc phạm vi quản lý.
Bộ Nội vụ thực hiện thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề ở các ngành
hoặc địa phương để xem xét việc thực thi pháp luật đối với việc thực hiện các
quy định, chính sách về chế độ đãi ngộ và sử dụng NNLĐD.
Bộ Y tế thực hiện thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề ở các ngành hoặc
địa phương để xem xét việc thực thi pháp luật của các ngành hoặc địa phương
đối với việc thực hiện các quy định, chính sách về hoạt động nghề nghiệp và
quy chế chuyên môn trong lĩnh vực y tế, trong đó có ngành điều dưỡng.
Cơ quan QLNN ở các ngành, địa phương thực hiện thanh tra, kiểm tra
các đơn vị thuộc phạm vi quản lý về hoạt động đào tạo NNLĐD, thực hiện
các quy định, chính sách về chế độ đãi ngộ và sử dụng NNLĐD và thực hiện
các quy định, chính sách về hoạt động nghề nghiệp và quy chế chuyên môn
trong lĩnh vực y tế, trong đó có ngành điều dưỡng.
Đồng thời với hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thì hoạt động
tổng kết, đánh giá về đào tạo NNLĐD cũng là một nội dung rất cần thiết
nhằm cung cấp các thông tin thống kê một cách trung thực, khách quan, chính
xác, đầy đủ, kịp thời trong việc đánh giá, dự báo tình hình, làm cơ sở để rà
soát, điều chỉnh, hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch đào
tạo NNLĐD.
Tổng kết, đánh giá đào tạo NNLĐD được thực hiện hàng năm và từng
giai đoạn, theo từng địa phương, vùng miền và ở phạm vi toàn quốc, theo
từng lĩnh vực và tổng thể các nội dung liên quan đến đào tạo NNLĐD. Tổng
62
kết, đánh giá phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, đồng bộ của toàn bộ
hệ thống đào tạo NNLĐD để rà soát việc thực hiện và điều chỉnh chính sách.
2.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về đào tạo nguồn
nhân lực điều dưỡng
2.3.1. Môi trường chính trị - hành chính và chính sách của nhà nước
Hoạt động công vụ và QLNN nói chung, hoạt động QLNN về đào tạo
NNLĐD nói riêng luôn bị chi phối bởi yếu tố môi trường chính trị - hành
chính. Chính vì vậy, trong quá trình quản lý các chủ thể QLNN cần lưu ý đến
những yếu tố này. Một trong những nguyên tắc của QLNN về đào tạo
NNLĐD là phải đảm bảo tính chính trị - hành chính. QLNN về đào tạo
NNLĐD của Việt Nam phải phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, phù hợp với hệ thống thể chế, chính sách của Nhà nước.
Các chính sách về y tế và GD&ĐT có tác động rất lớn đối với hoạt
động điều dưỡng. Các chính sách liên quan bao gồm các quy định về các hoạt
động chuyên môn, nghiệp vụ và các chế độ đãi ngộ đối với ĐDV, các chính
sách về khung trình độ, nội dung CTĐT. Chính sách về GD&ĐT phù hợp sẽ
giúp cho người học sau khi tốt nghiệp một CTĐT có thể tham gia ngay vào
thị trường lao động.
Chính sách về các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ xác định vị trí, vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của ĐDV trong cơ cấu NNLYT và trong hoạt động
chuyên môn chăm sóc người bệnh; xác định những yêu cầu trong quá trình
chăm sóc người bệnh. Chính sách phù hợp sẽ nâng được vị thế của ĐDV
trong hoạt động chăm sóc người bệnh và giúp cho ĐDV nhận thức được vai
trò, trách nhiệm cũng như sự tự tin trong hoạt động chuyên môn. Chính sách
về chế độ đãi ngộ thông qua việc trả lương tương xứng với vị trí công việc
của ĐDV sẽ động viên cho ĐDV yên tâm làm việc. Chính sách đãi ngộ phù
hợp sẽ thu hút được ĐDV đến làm việc tại các vùng nông thôn, vùng khó
khăn giúp cho người dân có nhiều cơ hội tiếp cận với hoạt động CSSK.
63
Chính sách về tài chính cho GD&ĐT cũng là một yếu tố quan trọng khi
CSĐT phải được tính đúng, tính đủ các chi phí cho quá trình đào tạo. Đối với
đặc thù đào tạo nhân lực điều dưỡng, ngoài những chi phí trong quá trình đào
tạo tại CSĐT thì cần phải tính cả chi phí cho quá trình thực hành chuyên môn
tại cơ sở y tế. Đảm bảo được chi phí cho đào tạo là một trong những yếu tố
quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục.
Chính sách về sử dụng và hoạt động nghề nghiệp là cơ sở để xác định
yêu cầu và nhu cầu đào tạo. Nhà nước cần có các cơ chế để việc quy hoạch
các CSĐT cân đối vùng miền và số lượng dân cư, quy mô đào tạo phải sát với
nhu cầu tuyển dụng và sử dụng, trình độ và chất lượng đào tạo phải đáp ứng
được yêu cầu về năng lực hoạt động chuyên môn, chất lượng NNLĐD phải
được kiểm soát một cách khách quan, công bằng. Chính sách về sử dụng và
hoạt động nghề nghiệp sẽ là động lực để các CSĐT khẳng định thương hiệu
thông qua chất lượng đào tạo, đồng thời cơ chế kiểm soát cân đối cung - cầu
sẽ hạn chế việc mở trường và tuyển sinh vượt quá nhu cầu, gây lãng phí xã hội.
Nhà nước cần có chính sách phù hợp để thúc đẩy các CSĐT phải
thường xuyên duy trì và đổi mới để đảm bảo chất lượng đào tạo, chính sách
sử dụng đãi ngộ hợp lý để khuyến khích, thu hút ĐDV khi tham gia thị trường
lao động, mở trường mở ngành phù hợp với nhu cầu về quy mô, cơ cấu, chất
lượng NNLĐD. Bên cạnh đó cần có cơ chế để có được nguồn kinh phí đảm
bảo nguyên tắc tính đúng, tính đủ theo các yếu tố chi phí phục vụ cho đào tạo
và sử dụng để đảm bảo chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu phục vụ hệ thống y
tế. Các CSĐT, các nhà nghiên cứu, các ĐDV và tổ chức điều dưỡng chuyên
nghiệp phải đóng góp tích cực hơn nữa vào sự phát triển của các chính sách
liên quan đến đào tạo NNLĐD.
2.3.2. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
Quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và xã hội đã mang lại sự giao thoa và
thậm chí không còn ranh giới giữa các quốc gia ở nhiều góc độ, đặc biệt là
64
vấn đề phát triển kinh tế, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin
và truyền thông, du lịch quốc tế và thương mại, sự tăng trưởng của các tập
đoàn đa quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế và xã hội đã tạo ra xu hướng giao lưu
mạnh mẽ và sự di chuyển dân cư giữa các nước, tác động mạnh mẽ và làm
mất đi ranh giới và khoảng cách khi lây lan dịch bệnh và việc cung cấp các
dịch vụ CSSK. Sự phá vỡ đó ẩn chứa cả những lợi ích và rủi ro trong cung
cấp và hoạt động CSSK. Toàn cầu hóa tạo cơ hội chuyển giao, chia sẻ kiến
thức, kỹ thuật và công nghệ giữa các quốc gia, khu vực, giữa các hệ thống
CSSK khác nhau. Toàn cầu hóa cũng là nguyên nhân tạo ra khả năng lây
truyền bệnh dịch nhanh chóng giữa các quốc gia, khu vực. Chính vì vậy, hoạt
động chuyên môn cũng như các nghiên cứu trong lĩnh vực điều dưỡng cần
phải giải quyết các vấn đề CSSK do toàn cầu hóa mang lại [64], [90].
Các nước Cộng đồng chung châu Âu đã có bản thỏa thuận chung công
nhận lẫn nhau làm cơ sở lao động của các nước gia nhập tham chiếu [74]. Ở
khu vực Đông Nam Á, Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã được thành lập từ ngày
31/12/2015 trong đó có việc hình thành thị trường lao động tự do đối với điều
dưỡng. Để chuẩn bị cho việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN, ngay từ
năm 2006, các nước trong khối đã ký thỏa thuận công nhận lẫn nhau về dịch
vụ điều dưỡng (MRA) với một trong những mục tiêu là tạo điều kiện di
chuyển cho các chuyên gia điều dưỡng trong khối ASEAN [63]. Điều này đặt
ra thách thức cho mỗi nước thành viên là làm thế nào để NNLĐD vừa đảm
bảo đạt chuẩn khu vực để có thể tự tin giữ vững thị trường lao động trong
nước cũng như có cơ hội tham gia thị trường lao động của nước khác trong
khu vực. Để giải quyết vấn đề này, nhà nước có vị trí đặc biệt với vai trò vừa
là tổ chức tạo ra thách thức khi thay mặt nhân dân ký kết thỏa thuận với một
nước khác hoặc một nhóm các nước, vừa là tổ chức xác định được những yếu
tố thuận lợi và đồng thời phải lường được các khó khăn của xu hướng toàn
cầu hóa, trên cơ sở đó tạo ra các chính sách, thể chế phù hợp để NNLĐD của
65
nước mình có thể sẵn sàng và chủ động tham gia vào quá trình hội nhập. Đối
với Việt Nam, mục tiêu cụ thể nhất là NNLĐD của Việt Nam phải được các
đối tác công nhận và sẵn sàng, chủ động tham gia thị trường lao động trong
khu vực và quốc tế.
2.3.3. Sự phát triển của khoa học, công nghệ và kỹ thuật
Trong xu thế phát triển và bùng nổ về ứng dụng những kỹ thuật cao và
công nghệ trong lĩnh vực y tế như công nghệ nano, công nghệ gen và tế bào
gốc, ghép tủy, ghép tạng, phẫu thuật nội soi robot, telemedicine cùng với sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã tác động và làm thay đổi
mạnh mẽ đến hoạt động CSSK cũng như GD&ĐT điều dưỡng.
Sự ứng dụng những kỹ thuật và công nghệ mới trong chẩn đoán và điều
trị đã làm thay đổi cách tiếp cận CSSK truyền thống. Đồng thời, với sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và viễn thông đã có tác động mạnh mẽ
đến hoạt động CSSK và giáo dục của điều dưỡng. Những tiến bộ trong khả
năng và tốc độ xử lý, tương tác với người dùng, lưu trữ hình ảnh và truyền tải
dữ liệu, chuyển giao công nghệ, thay đổi trong công nghệ viễn thông, và gia
tăng khả năng thích ứng của máy tính cá nhân đã góp phần vào sự bùng nổ
của các ứng dụng công nghệ thông tin. Những tiến bộ trong công nghệ kỹ
thuật số đã phát triển các ứng dụng của y tế và y học từ xa, xóa đi khoảng
cách giữa bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ làm thay đổi rất lớn trong chẩn
đoán, điều trị và CSSK.
Thông qua internet, người sử dụng dịch vụ y tế sẽ ngày càng được trang
bị các thông tin mà trước đây chỉ các bác sỹ, điều dưỡng hoặc nhân viên y tế
mới có. Chính vì vậy, người sử dụng dịch vụ y tế đang ngày càng trở nên chủ
động nhiều hơn và am hiểu hơn về nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật,
tăng khả năng chấp nhận và nhu cầu cho các quyền lựa chọn dịch vụ y tế.
Việc tăng cường sức mạnh của người sử dụng dịch vụ y tế trong việc chuyển
66
đổi từ mối quan hệ “bệnh nhân - thầy thuốc” sang “người sử dụng - nhà cung
cấp” tạo ra yêu cầu ngày càng cao về mức độ tham gia của bệnh nhân trong
các quyết định lâm sàng.
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và kỹ thuật, hoạt động
nghiên cứu về CSSK là một phần không thể thiếu của các tổ chức khoa học và
CSĐT trong việc cải thiện sức khỏe của mỗi quốc gia. Các cơ chế khuyến
khích phát triển hoạt động nghiên cứu điều dưỡng đã được áp dụng và triển
khai ở nhiều nước.
Nhà nước có vai trò quan trọng khi định hướng về nhu cầu sử dụng
nhân lực thông qua việc thể chế hóa công bố xác định những năng lực cần có
của ĐDV đối với hệ thống y tế. Những năng lực này cũng phải thường xuyên
cập nhật cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ. Đồng thời
Nhà nước cần phải có cơ chế rất cụ thể để khuyến khích việc tham gia nghiên
cứu và ứng dụng về khoa học điều dưỡng để hoạt động GD&ĐT điều dưỡng
cũng như các hoạt động chuyên môn về điều dưỡng phải dựa trên các bằng
chứng cụ thể thông qua các kết quả nghiên cứu về điều dưỡng.
2.3.4. Sự biến động về dân số, thay đổi mô hình bệnh tật và yêu cầu
chăm sóc sức khỏe
Các nước có tốc độ phát triển về kinh tế - xã hội và khoa học, kỹ thuật
công nghệ cao giúp cho tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng cao.
Theo báo cáo của Bộ Y tế, tuổi thọ trung bình của Việt Nam đạt khoảng 73
tuổi vào năm 2015 và Việt Nam đang ở giai đoạn dân số vàng nhưng đã bước
vào xu hướng già hóa dân số. Tuổi thọ trung bình tăng làm cho tỷ lệ những
người mắc các bệnh mãn tính ngày càng tăng lên. Xu hướng già hóa dân số
đặt ra vấn đề CSSK người cao tuổi phải được chú trọng và ở quy mô rộng
hơn. Những yếu tố đó đã và đang tạo áp lực lên hệ thống y tế với yêu cầu
cung cấp dịch vụ CSSK phải đảm bảo tính toàn diện, liên tục và hiệu quả. Sự
phát triển kinh tế - xã hội cùng với quy luật tự nhiên làm cho quy mô dân số
67
có xu hướng tăng lên ở những nước đang phát triển. Sự phát triển kinh tế - xã
hội cũng làm cho xu hướng khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân số
tăng lên dẫn đến sự chênh lệch ngày càng tăng về tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong và
cơ hội tiếp cận với dịch vụ y tế và CSSK giữa các thành phần dân số.
Sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình phát triển công nghiệp đã làm
cho mô hình bệnh tật thay đổi. Sự phát triển kinh tế - xã hội giúp cho đời sống
người dân được nâng cao, chính vì vậy trong xu hướng phát triển thì tỷ lệ
những người mắc bệnh không lây nhiễm như tim mạch, nội tiết, chuyển hóa,
béo phì có tỷ lệ ngày càng cao. Sự phát triển kinh tế - xã hội tạo áp lực lớn
hơn về cường độ, thời gian làm việc cũng là nguy cơ mắc bệnh về tâm lý xã
hội, tâm thần. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế - xã hội làm cho đời sống
người dân tăng lên nên nhu cầu về CSSK cũng tăng lên. Quá trình công
nghiệp hóa có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, dẫn đến khả năng mắc các
bệnh liên quan đến nghề nghiệp, ô nhiễm môi trường tăng cao. Với những
thay đổi như vậy, GD&ĐT điều dưỡng cũng phải thường xuyên cập nhật để
đổi mới nội dung, chương trình giúp cho người học được tiếp cận với những
vấn đề CSSK mới.
Với sự thay đổi mô hình bệnh tật và xu hướng già hóa dân số, vai trò
của nhà nước là cần xác định mô hình tổ chức của hệ thống y tế, mô hình
CSSK như thế nào trong hệ thống y tế, các cơ sở CSSK người cao tuổi có vị
trí như thế nào trong hệ thống y tế, xác định rõ cơ cấu nhân lực về từng lĩnh
vực chuyên ngành và trình độ đào tạo đối với NNLYT nói chung và NNLĐD
nói riêng, trên cơ sở đó các CSĐT mới có thể xác định được nhu cầu của xã
hội và yêu cầu của hệ thống đối với đào tạo NNLĐD.
2.3.5. Sự thiếu hụt và mất cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực điều dưỡng
Tùy từng điều kiện khác nhau, thực tế hiện nay nhiều nước đang thiếu
NNLĐD rất lớn. Bên cạnh đó, ngay trong mỗi quốc gia cũng đang trong tình
trạng mất cân đối về cơ cấu NNLĐD cả về trình độ đào tạo cũng như mất cân
đối do việc phân bố giữa các vùng miền. Thực trạng đó cũng đã và đang tồn
68
tại ở Việt Nam. Tình trạng thiếu điều dưỡng không chỉ đơn thuần về số lượng
mà cả chất lượng. Theo báo cáo của Cục Quản lý KB, CB, hiện nay điều
dưỡng có trình độ trung cấp chiếm tỷ lệ khoảng 75% tổng số nhân lực điều
dưỡng. Tỷ lệ bác sỹ/điều dưỡng là khoảng 1,9 thấp hơn nhiều so với các
nước[27]. Nguyên nhân đầu tiên là do chính sách sử dụng NNLĐD của Việt
Nam chưa hợp lý, không có cơ chế và chế tài mạnh mẽ bắt buộc dừng hoạt
động chuyên môn nếu cơ sở y tế không đảm bảo về số lượng và cơ cấu. Chính
vì vậy, do áp dụng tự chủ tài chính và sử dụng nhân lực không gắn với cơ chế
đảm bảo chất lượng nên đa số các cơ sở y tế chỉ tuyển dụng điều dưỡng trình
độ trung cấp với tỷ lệ tối thiểu. Bên cạnh đó, do chế độ đãi ngộ và lương thấp
không thu hút được người làm. Việc thiếu nhân lực như vậy làm cho việc thực
hiện các hoạt động chuyên môn và quy trình kỹ thuật điều dưỡng gặp nhiều
khó khăn làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động chăm sóc người bệnh.
GD&ĐT NNLĐD phải hợp tác với các đơn vị sử dụng nhân lực và có những
tiếng nói mạnh mẽ để có các giải pháp giải quyết tình trạng thiếu ĐDV, đảm
bảo quyền lợi cho cả người bệnh và người lao động.
Với những vấn đề nêu trên, Nhà nước cần phải có chính sách điều tiết
hợp lý để cơ cấu nhân lực điều dưỡng trong cơ sở y tế được đảm bảo, có như
vậy mới có thể duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Đồng thời, Nhà
nước phải có những quy hoạch và điều tiết để đảm bảo số lượng các CSĐT và
quy mô đào tạo hợp lý, có như vậy mới có thể tránh được những lãng phí xã
hội và người học mới có cơ hội việc làm sau tốt nghiệp.
2.3.6. Tính phức tạp và khó khăn trong tiếp cận thực tiễn nghề nghiệp
và giáo dục đa ngành
Sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với sự thay đổi về mô hình
bệnh tật trong điều kiện NNLĐD thiếu cả về số lượng, nhu cầu chăm sóc tăng
cao, kiến thức, kỹ thuật chuyên môn được bổ sung nhiều hơn, phức tạp hơn,
số lượng bệnh nhân phải chăm sóc nhiều hơn, các bệnh mới nổi, diễn biến
69
bệnh lý phức tạp hơn làm gia tăng tính phức tạp và khó khăn trong các quy
trình chuyên môn. Những yếu tố đó tác động làm cho ĐDV cần phải có cả
những kiến thức, thái độ và kỹ năng phù hợp mới có thể đáp ứng được yêu
cầu chuyên môn. GD&ĐT điều dưỡng cần phải xem xét, phân tích để có
phương pháp hợp lý, giúp cho ĐDV được nâng cao năng lực, tự tin khi thực
hiện hoạt động chuyên môn vừa phức tạp vừa khó khăn.
Sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như vấn đề quyền lợi người bệnh dẫn
đến việc người học các CTĐT điều dưỡng ngày càng khó khăn hơn trong việc
tiếp cận thực tế lâm sàng. Đồng thời, trong thực tế hoạt động của hệ thống
CSSK, các vị trí việc làm trong hệ thống chăm sóc bao gồm bác sỹ, dược sỹ,
điều dưỡng, kỹ thuật viên, nhân viên xã hội và các nhân viên khác luôn có sự
phối hợp và làm việc cùng nhau.
Đây là vấn đề mà cơ quan QLNN cần đặt ra các giải pháp phù hợp để
đáp ứng yêu cầu chăm sóc toàn diện ngày càng được chú trọng. Trong khi
thực tế hiện nay, ở Việt Nam cũng như nhiều nước, việc thực hành trong quá
trình GD&ĐT vẫn chủ yếu thực hiện mang tính đơn ngành, chưa có CTĐT
giúp cho người học tiếp cận môi trường làm việc theo ê kíp chuyên môn, làm
việc nhóm. Sinh viên trong môi trường đào tạo chưa tiếp cận được khi hành
nghề mình sẽ tiếp xúc với những đối tượng nhân viên y tế nào, tổ chức của
bệnh viện ra sao, ngoài vấn đề chuyên môn có những vấn đề gì tác động đến
quá trình hành nghề. Các CSĐT điều dưỡng cần áp dụng phương pháp tiếp
cận liên ngành theo nhóm sẽ có hiệu quả cao trong việc cải thiện kết quả thực
hành lâm sàng và giảm chi phí đào tạo. Phương pháp giảng dạy kết hợp các
cơ hội giáo dục liên ngành và hợp tác thực hành sẽ trang bị cho điều dưỡng
cách làm việc chuyên nghiệp hơn và hiểu được các chuẩn mực khác trong
việc chăm sóc bệnh nhân.
Các cơ quan QLNN, ngoài việc công bố các chuẩn năng lực cần đạt
được sau khi tốt nghiệp của ĐDV thì cần có những quy định cụ thể hơn về
70
kiểm định chương trình giáo dục, quy định và điều tiết về cơ sở thực hành lâm
sàng để tránh tình trạng có những cơ sở y tế có quá nhiều sinh viên của các
trường đến học dẫn đến sự quá tải sinh viên thực tập. Có như vậy mới đảm
bảo được chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế mà vẫn tạo cơ hội cho sinh viên
điều dưỡng được tiếp cận với thực tiễn lâm sàng và thực tế nghề nghiệp.
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều
dưỡng của một số nước và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
2.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng của một số nước trên thế giới
2.4.1.1. Nhật Bản
Nghề điều dưỡng và đào tạo điều dưỡng tại Nhật Bản hình thành ngay
từ những năm cuối của thế kỷ XIX. Trải qua những biến động của lịch sử, với
vị thế là nước thất bại trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản đã xác
định định hướng phát triển kinh tế trên cơ sở phát triển NNL. Ngay từ năm
1948, Nhật Bản đã ban hành Đạo luật về điều dưỡng, điều dưỡng cộng đồng
và điều dưỡng sản phụ khoa (Act on Public Health Nurses, Midwives and
Nurses). Các nội dung cơ bản của Đạo luật bao gồm: (i) Thống nhất lĩnh vực
hộ sinh là một chuyên ngành trong điều dưỡng; (ii) Cấp giấy phép hành nghề:
các yêu cầu về giấy phép, căn cứ để truất quyền dự thi, đăng ký, và cấp giấy
phép về điều dưỡng y tế công cộng, hộ sinh, điều dưỡng, hoặc trợ lý điều
dưỡng, cấp giấy phép và các vấn đề liên quan khác; (iii) Kỳ thi quốc gia: mục
đích, các cơ quan quản lý, trình độ dự thi, lắng nghe ý kiến của Hội đồng Y đức
và Hội đồng kiểm tra cho các kì thi quốc gia; (iv) Thực hành: giới hạn, báo cáo
thực hành, sắp xếp quản lý, đào tạo lại; và (v) Các quy định về xử lý vi phạm.
Đối với đào tạo điều dưỡng, Luật đã có những quy định để tạo điều kiện tối
đa và cơ hội cho người có nhu cầu để học và có thể hành nghề ngành điều
dưỡng. Nhật Bản đề ra chương trình và mô hình đào tạo ở nhiều cấp độ khác
nhau, kể cả qua hành nghề trợ lý điều dưỡng/nhân viên chăm sóc [32], [84].
71
Năm 1951, Nhật Bản đã ban hành quy định về CSĐT điều dưỡng. Quy
định này được ban hành bởi Bộ Giáo dục, Khoa học và Văn hoá và Bộ Y tế
và Phúc lợi và đã qua nhiều lần chỉnh sửa, cập nhật, bổ sung. Nội dung chính
của quy định này là việc chuẩn hóa các lĩnh vực đối với đào tạo điều dưỡng:
điều kiện tuyển sinh, thời gian đào tạo, nội dung đào tạo, tiêu chuẩn giảng
viên, quy mô đào tạo, cơ sở vật chất (phòng học, phòng thực hành, thư viện).
Sơ đồ 2.1. Quy định về đào tạo và hành nghề điều dưỡng Nhật Bản
Nguồn: Sugita Shio, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản (2016)
Năm 1992, Nhật Bản đã ban hành Đạo luật về Đảm bảo NNL về điều
dưỡng và các cán bộ y tế khác (Act on Assurance of Work Forces of Nurses
and other Medical Personnel). Mục đích của Đạo luật này nhằm đảm bảo điều
dưỡng và các chuyên gia y tế có chuyên môn và kỹ năng cao được làm việc
tại môi trường cung cấp dịch vụ điều dưỡng, bằng cách chỉ ra các hướng dẫn
72
căn bản có liên quan đến phương thức thúc đẩy sự đảm bảo điều dưỡng và các
chuyên gia y tế. Đồng thời áp dụng các biện pháp tạo điều kiện đào tạo, cải
thiện điều kiện lao động, nâng cao chất lượng và cơ hội việc làm cho điều
dưỡng, nâng cao nhận thức và hiểu biết chung về điều dưỡng, từ đó góp phần
cải thiện CSSK nhân dân.
Ngoài các CTĐT chính quy, Hội Điều dưỡng Nhật Bản có vai trò quan
trọng trong việc quy định các CTĐT ngắn hạn, người học phải có giấy chứng
nhận để phục vụ cho các lĩnh vực khác nhau như: điều dưỡng phẫu thuật, điều
dưỡng trẻ em, điều dưỡng ung thư, điều dưỡng tâm thần, chăm sóc giảm đau.
Để được cấp giấy phép hành nghề, ĐDV phải học qua CTĐT 3 năm
nếu hành nghề điều dưỡng hoặc CTĐT 4 năm nếu hành nghề điều dưỡng,
điều dưỡng cộng đồng hoặc hộ sinh. Kỳ thi quốc gia được tổ chức định kỳ
một năm hai lần (thường vào tháng Hai và tháng Mười), do Bộ Y tế phối hợp
với Hội Điều dưỡng tổ chức (Sơ đồ 2.1).
2.4.1.2. Hàn Quốc
Cùng với những quy định chung về giáo dục, ngay từ năm 1951 Hàn
Quốc đã ban hành Đạo luật về Dịch vụ y tế nhân dân (People’s Medical
Service Act) và Nghị định thi hành Đạo luật này (Enforcement decree of
People’s Medical Service Act). Luật Dịch vụ y tế của Hàn Quốc mới được
chỉnh sửa và bổ sung năm 2015 quy định chỉ những người tốt nghiệp và được
cấp bằng cử nhân mới được thi và cấp giấy phép hành nghề. Để được tham
gia khóa học đại học, người học phải tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
CTĐT điều dưỡng 3 năm và đã được cấp giấy phép hành nghề điều dưỡng
(ADN+RN). Trong quá trình hành nghề, ĐDV phải thực hiện các quy định
của Hội Điều dưỡng Hàn Quốc như việc báo cáo thực trạng việc làm, học tập
chuyên môn liên tục để duy trì giấy phép hành nghề, thực hiện các quy định
về vấn đề đạo đức nghề nghiệp.
73
Ngoài các quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí của các cơ sở y tế, hệ thống
y tế, Đạo luật này quy định một số nội dung về sử dụng NNLĐD bao gồm:
điều kiện để được cấp phép hoạt động chuyên môn, phạm vi hoạt động
chuyên môn, kỳ thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề, hoạt động chuyên
môn của giảng viên và sinh viên chuyên ngành tại cơ sở y tế, vai trò của hội
nghề nghiệp. Đạo luật này đã được cập nhật và chỉnh sửa nhiều lần với tên gọi
mới là Medical Service Act (1962) và mới được cập nhật vào năm 2015.
Sơ đồ 2.2. Quy định về đào tạo và hành nghề điều dưỡng Hàn Quốc
Nguồn: Medical Service Act of Korea (MSA)-2015
Về kiểm định chất lượng giáo dục điều dưỡng, theo quy định của Luật
năm 2015, một điểm quan trọng là việc quy định về kiểm định chất lượng
giáo dục và hành nghề điều dưỡng thuộc thẩm quyền của Hội đồng kiểm định
giáo dục điều dưỡng trực thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội Hàn Quốc. Tất cả
các CTĐT điều dưỡng phải được kiểm định. Về thi CCHN, Bộ Y tế phối hợp
với Hội đồng thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề để tổ chức kỳ thi quốc
gia cấp giấy phép hành nghề. ĐDV phải trải qua kỳ thi quốc gia mới được cấp
74
giấy phép hành nghề. Trong quá trình hành nghề còn phải chấp hành các quy
định do Bộ Y tế và phúc lợi xã hội phối hợp với Hội Điều dưỡng Hàn Quốc
ban hành hoặc các quy định về đạo đức nghề nghiệp do Hội điều dưỡng Hàn
Quốc ban hành (Sơ đồ 2.2) [76].
2.4.1.3. Philippines
Năm 1915, Đạo luật số 2493 (Act No. 2493) đã được ban hành sửa đổi
Luật Y tế (Medical Law) để quản lý hành nghề điều dưỡng tại Philippines.
Luật này quy định việc đăng ký của các điều dưỡng tốt nghiệp. Giai đoạn này
chưa quy định việc phải thi mới được hành nghề mà chỉ đơn thuần là việc
ĐDV muốn hành nghề phải đủ 20 tuổi, có sức khỏe, đạo đức và thể chất tốt và
phải đăng ký với cơ quan quản lý là Cục Y tế các địa phương. Vào tháng 4
năm 1919, một đạo luật để điều chỉnh thực hành điều dưỡng ở Philippines đã
được ban hành - Đạo luật 2808 (Act 2808), được xác định là Luật chuyên
ngành điều dưỡng đầu tiên của Philippines. Luật này quy định việc thành lập
Hội đồng thi cho điều dưỡng. Năm 1920, lần đầu tiên Hội đồng thi cho điều
dưỡng của Philippines được thành lập. Năm 1922, Đạo luật 3025 sửa một
phần đạo luật 2808 quy định về thực hành điều dưỡng chuyên nghiệp tại
Philippines đã được ban hành (Act 3025 - An Act Regulating the Practice of
Nursing Profession in the Philippine Islands) trong đó quy định điều dưỡng
hành nghề phải được đăng ký hàng năm [93].
Đạo luật về hành nghề điều dưỡng (An Act Regulating The Practice Of
Nursing in the Philippines) tiếp tục được sửa đổi vào các năm 1953, 1991 và
mới đây nhất là năm 2002. Theo quy định, cơ quan quản lý nhân lực điều
dưỡng là Hội đồng Điều dưỡng Philippines (the Nursing Board of
Philippines). Ngoài các quy định về điều kiện hành nghề điều dưỡng tại
Philippines, văn bản này còn quy định về các tiêu chuẩn về giáo dục nhân lực
75
điều dưỡng như chương trình, giảng viên, hoạt động của Khoa điều dưỡng
trong cơ sở giáo dục, kiểm định chất lượng [81],[82],[93].
Để được thi và cấp giấy phép hành nghề điều dưỡng phải tốt nghiệp tối
thiểu trình độ đại học điều dưỡng ở một CSĐT đã được công nhận đạt chuẩn
theo quy định của chính phủ. Đào tạo điều dưỡng ở Philippines có 3 trình độ
là cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ. CTĐT cử nhân có 2 loại, chương trình dành cho
người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc chương trình dành cho người đã
tốt nghiệp một chương trình đại học khác. Để hành nghề chuyên khoa, còn có
các khóa đào tạo về một số lĩnh vực như: điều dưỡng tim mạch, điều dưỡng
thận - tiết niệu, điều dưỡng nhi khoa, điều dưỡng phổi, điều dưỡng sức khỏe
tâm thần, điều dưỡng bà mẹ và trẻ em, điều dưỡng bệnh truyền nhiễm, điều
dưỡng chỉnh hình và phục hồi chức năng, điều dưỡng cấp cứu và chấn
thương, điều dưỡng phòng mổ. Các khóa này là cơ sở để xác định phạm vi
hoạt động chuyên môn và điều kiện để cấp và gia hạn giấy phép hành nghề
điều dưỡng tại Philippines (kể cả đối với người nước ngoài).
2.4.1.4. Thái Lan
Lịch sử ngành điều dưỡng và đào tạo điều dưỡng Thái Lan có từ rất
sớm, trường đào tạo điều dưỡng đầu tiên được thành lập từ năm 1896. Tuy
nhiên, phải đến năm 1975, lần đầu tiên, Luật Hành nghề điều dưỡng của Thái
Lan mới được ban hành. Đồng thời, cũng trong năm 1975 Hội đồng Điều
dưỡng Thái Lan được thành lập.
Luật Hành nghề điều dưỡng Thái Lan được chỉnh sửa năm 1997 và bổ
sung về việc thi và cấp giấy phép hành nghề. Năm 1998, lần đầu tiên kỳ thi
quốc gia để cấp giấy phép hành nghề do Hội đồng Điều dưỡng, Hộ sinh Thái
Lan tổ chức. Bên cạnh việc tổ chức thi để cấp giấy phép hành nghề, Hội đồng
Điều dưỡng, Hộ sinh Thái Lan còn có chức năng kiểm định chất lượng giáo
dục điều dưỡng ở các CSĐT nhân lực điều dưỡng của Thái Lan và đào tạo
76
liên tục để duy trì giấy phép hành nghề. Giấy phép hành nghề điều dưỡng tại
Thái Lan được cấp thông qua kỳ thi quốc gia (National License Examination
of Nurse) bởi Hội đồng Điều dưỡng, Hộ sinh Thái Lan. Chỉ những người tốt
nghiệp trình độ đại học trở lên mới được dự thi kỳ thi quốc gia để được cấp
giấy phép hành nghề điều dưỡng. Hàng năm có 3 kỳ thi được tổ chức ở 6 địa
điểm trên toàn quốc. Giấy phép hành nghề chỉ trong phạm vi điều dưỡng, hộ
sinh hoặc cả hai, có giá trị trong 5 năm và được tái cấp với điều kiện phải trải
qua khóa đào tạo chuyên môn liên tục tối thiểu 50 giờ [77].
Hiện nay, điều dưỡng của Thái Lan có trình độ tối thiểu là đại học với
các loại văn bằng cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ. Chỉ những người tốt nghiệp và
được cấp bằng cử nhân mới đủ điều kiện để thi và cấp giấy phép hành nghề.
CTĐT cử nhân gồm 4 năm. Sau tốt nghiệp được cấp bằng với chức danh cử
nhân khoa học điều dưỡng (Bacherlor of Nursing Science). Để được học cử
nhân, người học phải vượt qua kỳ thi chung, nếu đủ điều kiện sẽ được học
thẳng cử nhân 4 năm, nếu không đủ điều kiện người học phải qua CTĐT kỹ
thuật điều dưỡng (Technical Nurse) trong 2 năm, sau đó muốn có bằng cử
nhân phải học thêm 2 năm. CTĐT thạc sĩ điều dưỡng gồm 2 năm. Sau tốt
nghiệp được cấp bằng thạc sỹ khoa học điều dưỡng (Master of Nursing
Science). CTĐT thạc sỹ được đào tạo có các chủ đề khác nhau: Điều dưỡng
cộng đồng (Community Nurse Practitioner), Điều dưỡng gia đình (Family
Nurse Practitioner), Chăm sóc bà mẹ và trẻ em (Maternal and Child
Nursing/Midwifery), Điều dưỡng người lớn (Adult Nursing), Điều dưỡng lão
khoa (Gerontological Nursing), Sức khỏe tâm thần và điều dưỡng tâm thần
(Mental Health and Psychiatric Nursing), Quản lý điều dưỡng (Nursing
Administration), CSSK nghề nghiệp (Occupational Health Nursing) và Điều
dưỡng nhi khoa (Pediatric Nursing). CTĐT tiến sỹ được thực hiện trong 3
77
năm. Có 2 loại CTĐT để được cấp 2 loại bằng khác nhau: tiến sỹ nghiên cứu
(Doctor of Philosophy) hoặc tiến sỹ thực hành (Doctor of Nursing Practice -
DNP) (Sơ đồ 2.3).
Sơ đồ 2.3. Quy định về đào tạo và hành nghề điều dưỡng Thái Lan
Nguồn: Nujjaree Chaimongkol và Hội đồng Điều dưỡng Thái Lan
Ngoài ra, Thái Lan còn có các CTĐT chuyên khoa và được cấp chứng
chỉ với thời gian từ vài tháng đến một năm về các lĩnh vực: Điều dưỡng cộng
đồng (Community Nursing), Điều dưỡng người cao tuổi (Elderly Nursing),
Điều dưỡng nhi khoa (Pediatric Nursing), Điều dưỡng người lớn (Adult
Nursing), Điều dưỡng tâm, thần kinh (Mental and Psychiatric Nursing), Điều
dưỡng sản phụ khoa/hộ sinh (Maternal and Infant Nursing, and Midwifery),
và Nghiên cứu, đánh giá và quản lý điều dưỡng (Research Evaluation &
Nursing Administration).
2.4.2. Những giá trị tham khảo đối với Việt Nam
Từ những kinh nghiệm phong phú, đa đạng QLNN về đào tạo NNLĐD
ở các nước, mặc dù các nước với các điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử phát
triển khác nhau nhưng trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay đều có những
điểm chung rất có giá trị để Việt Nam có thể tham khảo và triển khai áp dụng.
78
Một là, nghề điều dưỡng là một nghề độc lập có những đặc thù rất riêng
biệt, quá trình hoạt động chuyên môn thường xuyên tiếp xúc với con người
mà trong đó đại đa số là những người có vấn đề về sức khỏe, cần được quan
tâm chăm sóc. Chính vì vậy, với tính đặc thù cao trong đào tạo NNLĐD đòi
hỏi cần phải có những quy định, tiêu chuẩn, tiêu chí rất khắt khe, chặt chẽ,
quá trình đào tạo phải gắn liền với quá trình thực hành nghề nghiệp và là một
quá trình liên tục, bao gồm từ đào tạo cơ bản đến đào tạo chuyên sâu.
Hai là, cần phải có hệ thống thể chế riêng cho hoạt động điều dưỡng
và đào tạo NNLĐD. Hệ thống thể chế xác định rõ các yêu cầu về NNLĐD
bao gồm: cơ cấu nhân lực và các trình độ đào tạo, tiêu chuẩn năng lực chuyên
môn nghề nghiệp của ĐDV; các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, tiêu
chuẩn, tiêu chí kiểm định chất lượng đào tạo dựa trên nguyên tắc hướng tới
đánh giá kết quả đầu ra; quy định về kỳ thi quốc gia và cấp giấy phép hành
nghề, các điều kiện về hành nghề và các chế độ, chính sách sử dụng NNLĐD.
Ba là, hệ thống bộ máy quản lý được thiết kế đồng bộ, xác định rõ vai
trò của từng cơ quan QLNN đối với đào tạo NNLĐD, trong đó việc ban hành
các quy định và tổ chức đánh giá, kiểm định chất lượng, tổ chức kỳ thi quốc
gia để cấp chứng chỉ hành nghề do một tổ chức độc lập thực hiện.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Đội ngũ ĐDV chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu NNLYT. Chính vì vậy,
QLNN về đào tạo NNLĐD là một nội dung rất quan trọng góp phần nâng cao
chất lượng NNLYT. Chất lượng NNLYT đảm bảo sẽ góp phần đáp ứng được
yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Chương 2 của luận án đã nghiên
cứu những vấn đề cơ bản cả về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn QLNN về
79
đào tạo NNLĐD để đưa ra khung lý thuyết QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt
Nam, làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo của luận án, cụ thể:
- Đưa ra những khái niệm liên quan đến đào tạo NNLĐD trong đó có
các khái niệm điều dưỡng, đào tạo NNLĐD và QLNN về đào tạo NNLLĐD
để thống nhất cách tiếp cận giữa Việt Nam và các nước trong xu hướng hội
nhập quốc tế;
- Nghiên cứu và xác định về nội dung QLNN đào tạo NNLĐD bao gồm
các hoạt động: xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây
dựng và thực hiện thể chế, chính sách; tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ quản
lý và đội ngũ giảng viên; thanh tra, kiểm tra và tổng kết, đánh giá về đào tạo
NNLĐD;
- Nghiên cứu và xác định các yếu tố tác động đến QLNN về đào tạo
NNLĐD trong xu hướng hội nhập quốc tế và trong những điều kiện cụ thể
của Việt Nam và xác định vai trò của cơ quan QLNN để có những chính sách
phù hợp đối với những yếu tố tác động đó;
- Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đào tạo điều dưỡng ở một số nước
trên thế giới bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái Lan là những
nước có những đặc điểm gần với điều kiện của Việt Nam hoặc có nhiều quan
hệ hợp tác về đào tạo NNLĐD với Việt Nam, thông qua đó rút ra những nội
dung có thể tham khảo và áp dụng ở Việt Nam.
80
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát quá trình phát triển ngành điều dưỡng ở Việt Nam
Ngành điều dưỡng Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với lịch
sử phát triển của đất nước. Từ thời xưa, các bà mẹ Việt Nam đã chăm sóc
nuôi dưỡng con cái trong gia đình mình. Hai danh y nổi tiếng của Việt Nam là
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và Tuệ Tĩnh đã sử dụng phép dưỡng sinh
để trị bệnh rất có hiệu quả. Thời kỳ Pháp thuộc, năm 1901 người Pháp đã mở
lớp nam y tá đầu tiên tại Bệnh viện Chợ Quán nơi điều trị bệnh tâm thần và
bệnh phong. Ngày 20/12/1906 toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định
thành lập ngạch nhân viên điều dưỡng bản xứ. Ngày 18/6/1923 Công xứ Nam
Kỳ có Nghị định mở trường điều dưỡng bản xứ [55].
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngành Y tế non trẻ vừa mới ra
đời với vài chục bác sĩ và vài trăm y tá được đào tạo dưới thời Pháp thuộc, lớp
y tá đầu tiên với thời gian đào tạo 6 tháng do GS. Đỗ Xuân Hợp làm Hiệu
trưởng đã được tổ chức tại chiến khu Việt Bắc. Trong cuộc kháng chiến, với
điều kiện rất khó khăn về dược phẩm và trang thiết bị y tế, việc điều trị cho
bệnh nhân chủ yếu dựa vào chăm sóc và chính nhờ hoạt động điều dưỡng mà
nhiều thương bệnh binh bị chấn thương, sốt rét ác tính đã được hồi phục. Tại
miền Bắc, năm 1954 Bộ Y tế đã xây dựng CTĐT y tá sơ cấp hoàn chỉnh để bổ
túc cho số y tá đào tạo cấp tốc trong chiến tranh. Ở miền Nam, năm 1970 Hội
Điều dưỡng Việt Nam được thành lập. Năm 1985 một số bệnh viện đã xây
dựng Phòng Điều dưỡng/tổ Điều dưỡng tách ra khỏi Phòng Y vụ [55].
Về đào tạo, năm 1985 Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp đã đồng
ý cho Bộ Y tế mở khoá đào tạo đại học điều dưỡng đầu tiên tại Trường Đại
học Y Hà Nội và Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh nhưng mới chỉ là
81
hệ tại chức. WHO đánh giá rất cao chủ trương này vì đây là dấu mốc Việt
Nam đã xác định được hướng đi của ngành điều dưỡng, coi đây là một ngành
nghề riêng biệt. Chính vì vậy, sau một thời gian nghiên cứu và thống nhất,
năm 1995, khóa đào tạo trình độ đại học hệ chính quy điều dưỡng đầu tiên đã
được chính thức tuyển sinh tại Trường Đại học Y Hà Nội và Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh [55].
Ngày 26/10/1990 Hội Y tá - Điều dưỡng Việt Nam (nay là Hội Điều
dưỡng Việt Nam) được thành lập với người Chủ tịch Hội đầu tiên là Bà Vi
Thị Nguyệt Hồ. Trải qua hơn 25 năm xây dựng và phát triển, Hô ̣i Điều dưỡng
Việt Nam luôn gắn bó và đồ ng hành vớ i sự phát triển củ a chuyên ngành điều dưỡng, đã trở thành một tổ chức đại diện cho tiếng nói của hội viên là đông đảo ĐDV trên cả nướ c và đang vững bước trên con đường thực hiện sứ mệnh: vì nghề nghiệp, vì hội viên và vì sức khỏe cô ̣ng đồ ng.
Hiện nay, Hội Điều dưỡng Việt Nam đã có 60/63 hội cấp tỉnh, thành
phố do UBND tỉnh cho phép thành lập, với trên 800 chi hô ̣i và hơn 80.000 hô ̣i viên. Sự phát triển của Hội Điều dưỡng Việt Nam đã tạo tư duy mới về tổ
chức hội nghề nghiệp, đồng thời khẳng định Hội có thể tồn tại và phát triển bền vững theo nguyên tắc: tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm và tự trang trải kinh phí hoạt động. Hô ̣i Điều dưỡng Việt Nam cũng đã tạo dấu ấn bởi những nỗ lực tiên phong trong vận động chính sách nghề nghiệp, bảo vệ
quyền lợi hội viên, thực hiện vai trò xú c tác cho quá trình đổi mới nghề điều dưỡng ở Việt Nam thông qua việc vận động thành lâ ̣p phò ng y tá bê ̣nh viê ̣n, thành lâ ̣p phò ng y tá tại Vu ̣ Quản lý sứ c khỏ e Bộ Y tế, đổi tên Hội Y tá thành Hội Điều dưỡng Việt Nam, hình thành vị trí Điều dưỡng trưởng Sở Y tế; đổi
chức danh ngạch y tá thành chức danh điều dưỡng, bổ sung thang lương cho
điều dưỡng; bổ sung đối tượng ĐDV vào danh hiệu "Thầy thuốc" và được xét
tặng danh hiệu "Thầy thuốc Ưu tú", "Thầy thuốc Nhân dân"; tham gia xây
dựng và đề nghị Bộ Y tế ban hành chuẩn năng lực cơ bản của ĐDV; xây dựng
và ban hành chuẩn đa ̣o đứ c nghề nghiê ̣p điều dưỡng.
82
3.2. Khái quát thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng ở Việt Nam
3.2.1. Thực trạng xây dựng và triển khai chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
3.2.1.1. Thực trạng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
Trong thời gian qua, nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được
xây dựng, ban hành để hướng dẫn và triển khai thực hiện về GD&ĐT và y tế
nói chung, về đào tạo NNLĐD nói riêng.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 [30] đã được
Đại hội Toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua trong đó xác định một trong
ba khâu đột phá là: phát triển nhanh NNL, nhất là NNL chất lượng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ
phát triển NNL với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Chiến lược phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 [48] đã xác định
mục tiêu tổng quát phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 là đưa
nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển
bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực
cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong
khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế
giới.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 [50] đã xác định mục tiêu: đổi
mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách
toàn diện. Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp và đại học; điều
chỉnh cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo,
đáp ứng nhu cầu nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu
nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
83
Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030 [51] cũng đã nêu rõ: phát triển
nguồn nhân lực y tế cả về số lượng và chất lượng; tăng cường nhân lực y tế
cho khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và
một số chuyên khoa; chú trọng phát triển nhân lực y tế có trình độ cao; mở
rộng đào tạo điều dưỡng trình độ đại học, cao đẳng, tiến tới đạt cơ cấu hợp lý
giữa bác sỹ và điều dưỡng, kỹ thuật viên bảo đảm cân đối giữa đào tạo và sử
dụng nhân lực y tế.
Khung cơ cấu giáo dục quốc dân đã được Thủ tướng Chính phủ ban
hành theo Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 [53], theo đó Bộ Y
tế có vai trò chủ trì, phối hợp với Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội triển khai Khung cơ cấu giáo dục quốc dân trong lĩnh vực y tế trong
đó cần xác định mô hình đào tạo và khung cơ cấu nhân lực điều dưỡng.
Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-
2020 [52] đã nêu rõ: phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng phải
phù hợp với chiến lược phát triển và điều kiện kinh tế - xã hội, tiềm lực khoa
học công nghệ của đất nước, gắn với từng vùng, từng địa phương; xây dựng
cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo, bố trí theo vùng miền hợp lý.
Quy hoạch phát triển NNL Việt Nam [49] đã xác định: chỉ ra được nhu
cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ nhân lực, đảm bảo yêu cầu nhân lực thực
hiện thành công đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn 2012-2020 [19, tr. 1] đã
nêu: phát triển nhân lực y tế đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng, cơ cấu, phân
bố hợp lý theo tuyến, ngành/lĩnh vực, vùng miền. Phát triển nhân lực y tế gắn
với phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Quyết định số 1215/QĐ-BYT ngày 12/5/2013 về việc phê duyệt
Chương trình hành động quốc gia về tăng cường công tác Điều dưỡng - Hộ
84
sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020 [54] đã xác định rõ chức năng, vai trò
của ĐDV trong cơ cấu NLYT: ĐDV là lực lượng trực tiếp CSSK cho người
dân ở cộng đồng và trong các cơ sở y tế. Để thực hiện được vai trò này, ĐDV
cần phải được đào tạo với một chương trình phù hợp theo chuẩn năng lực
nghề nghiệp do Bộ Y tế ban hành. Đây cũng là một nội dung đã được xác
định trong Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Khung trình độ quốc gia.
Như vậy có thể thấy, xuyên suốt trong tất cả các chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch đã ban hành, vai trò của đào tạo và phát triển NNL đối với phát
triển kinh tế - xã hội là rất quan trọng. Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
đều xác định mục tiêu của đào tạo NNL nói chung và NNLĐD nói riêng là
sản phẩm sau đào tạo phải có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu của xã hội là
nâng cao chất lượng bảo vệ, CSSK nhân dân và hội nhập quốc tế, thông qua
đó góp phần nâng cao chất lượng NNL xã hội.
3.2.1.2. Thực trạng triển khai chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
Thứ nhất, về cơ cấu nhân lực và mô hình đào tạo điều dưỡng ở Việt
Nam hiện nay
Đào tạo điều dưỡng Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, với
nhiều trình độ và loại hình đào tạo khác nhau. Chính vì vậy, cơ cấu nhân lực
điều dưỡng của Việt Nam hiện nay có 6 trình độ: sơ cấp, trung cấp, cao đẳng,
đại học, thạc sỹ hoặc chuyên khoa 1 và tiến sỹ. Tuy nhiên, hiện nay có 4 trình
độ đào tạo: trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sỹ hoặc chuyên khoa 1. Để
được học sơ cấp hoặc trung cấp (2 năm) phải tốt nghiệp trung học cơ sở trở
lên. Thông qua kỳ thi và xét tuyển theo quy chế tuyển sinh hàng năm, người
học có thể học các CTĐT khác nhau: (i) Học chương trình cao đẳng 3 năm
cho những người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tương đương; hoặc
chương trình 1,5-2 năm nếu tốt nghiệp trung cấp điều dưỡng; (ii) Học chương
trình đại học 4 năm cho những người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
85
tương đương; hoặc chương trình 1,5-2 năm nếu tốt nghiệp cao đẳng điều
dưỡng; hoặc chương trình 2,5-4 năm nếu tốt nghiệp trung cấp điều dưỡng;
(iii) Học chương trình cao đẳng hoặc đại học với những thời gian khác nhau
do CSĐT xác định sau khi so sánh chương trình tùy từng trường hợp tốt
nghiệp trung cấp hoặc cao đẳng một trong các ngành khác thuộc khối ngành
khoa học sức khỏe. CTĐT thạc sỹ hoặc chuyên khoa 1 với thời gian 2 năm
dành cho những người có bằng tốt nghiệp đại học. Hiện nay Việt Nam chưa
đào tạo tiến sỹ điều dưỡng. CTĐT thạc sỹ hoặc chuyên khoa 1 đều được cấp
bằng và chỉ có 1 mã số chung là điều dưỡng, chưa có chương trình riêng theo
từng chuyên ngành/chuyên khoa (Sơ đồ 3.1).
Sơ đồ 3.1. Mô hình đào tạo và hành nghề điều dưỡng Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
So sánh với mô hình đào tạo của một số nước ở mục 2.4.1 nói trên, mô
hình đào tạo của Việt Nam có sự khác biệt với các nước. Nếu như các nước
chỉ xác định đào tạo và công nhận chức danh ĐDV sau khi tốt nghiệp CTĐT
từ 3-4 năm, chức danh đào tạo trợ lý điều dưỡng/nhân viên chăm sóc từ 1-2
năm thì Việt Nam đào tạo và được công nhận chức danh ĐDV với CTĐT tối
thiểu là 2 năm, Việt Nam không có CTĐT trợ lý điều dưỡng/nhân viên chăm
86
sóc. Hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hiện nay chưa xác định rõ yêu
cầu về cơ cấu NLĐD trong hệ thống y tế; mô hình đào tạo hiện nay của Việt
Nam chưa phân biệt được sự cần thiết và khác biệt giữa các trình độ, loại hình
đào tạo khi chỉ có một mã số chức danh chung là “điều dưỡng viên” cho tất cả
các chương trình và trình độ đào tạo.
Đồng thời, trong quá trình hội nhập quốc tế, thực hiện thỏa thuận khung
công nhận lẫn nhau về điều dưỡng các nước trong khu vực ASEAN và để có
cơ sở cho các CSĐT xác định chuẩn đầu ra, Bộ Y tế đã ban hành chuẩn năng
lực cơ bản ĐDV Việt Nam theo Quyết định số 1352/QĐ-BYT ngày
21/4/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Tuy nhiên, hiện nay chưa có bộ tiêu chí
đánh giá chuẩn năng lực điều dưỡng.
Thứ hai, về quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo điều dưỡng ở Việt Nam
Như trên đã nêu, quy hoạch đào tạo và phát triển NNLĐD đã được xác
định trong nhiều văn bản của Chính phủ, Bộ GD&ĐT, Bộ Y tế và các cơ quan
liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chưa có sự thống nhất về quan
điểm và cách tiếp cận giữa cơ quan QLNN về GD&ĐT với cơ quan QLNN
chuyên ngành dẫn đến thực trạng mất cân đối rất lớn cả về phát triển mạng
lưới các CSĐT và quy mô đào tạo điều dưỡng theo trình độ, vùng miền,
không phù hợp với nhu cầu sử dụng NNLĐD của ngành (Bảng 3.1).
Bảng 3.1. Tổng số CSĐT điều dưỡng theo vùng miền qua các năm (2005-2015)
Đơn vị: Trường
Năm
TT
Khu vực
1
2005 18
2006 19
2007 2008 2009 2010 20
21
20
25
2011 29
2012 31
2013 33
2014 37
2015 38
2
13
13
12
12
11
11
13
14
15
17
19
3
14
14
14
15
16
21
24
26
25
27
32
4 5 6
ĐB sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐB sông Cửu Long Tổng
5 7 13 70
5 7 13 71
6 8 13 73
6 11 9 74
6 14 13 80
6 25 14 102
6 28 15 115
7 26 16 120
8 30 21 132
8 33 20 142
8 32 22 151
Ghi chú: 01 CSĐT có thể đào tạo nhiều trình độ; Nguồn: Những điều cần biết về tuyển sinh qua các năm - Bộ GD&ĐT
87
Thống kê theo trình độ, tính đến 31/12/2016 cả nước có 119 cơ sở tham
gia đào tạo điều dưỡng trình độ trung cấp, sự gia tăng chỉ tập trung vào các
CSĐT ngoài công lập với 57 CSĐT; có 62 cơ sở tham gia đào tạo trình độ cao
đẳng với 22 CSĐT ngoài công lập; có 24 cơ sở tham gia đào tạo trình độ đại
học với 10 CSĐT ngoài công lập. Sự phát triển nhanh của các CSĐT ngoài
công lập là kết quả của việc thực hiện chủ trương xã hội hóa trong GD&ĐT.
Chính vì vậy, các trường ngoài công lập đào tạo điều dưỡng tập trung chủ yếu
ở các khu vực có các đô thị lớn là Đồng bằng sông Hồng (có thành phố Hà
Nội) với 21 CSĐT, miền Trung (có thành phố Đà Nẵng) với 19 CSĐT và
Đông Nam Bộ (có thành phố Hồ Chí Minh) với 32 CSĐT.
Tính đến 31/12/2016, mới chỉ có 3 CSĐT điều dưỡng trình độ sau đại
học là Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định (đào tạo Thạc sỹ và Chuyên
khoa 1), Trường Đại học Y Dược Huế (đào tạo Chuyên khoa 1) và Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh (đào tạo thạc sỹ điều dưỡng theo mô hình liên
kết đào tạo với Hoa Kỳ).
Thứ ba, về quy mô đào tạo điều dưỡng ở Việt Nam
Quy mô đào tạo NNLĐD có sự gia tăng nhanh chóng tương ứng với sự
phát triển của các CSĐT. Quy mô đào tạo NNLĐD có sự mất cân đối giữa các
trình độ, trong đó trình độ trung cấp vẫn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 50%) (Bảng
3.2).
Bảng 3.2. Tổng chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo điều dưỡng các trình độ 2010-2015
Đơn vị: Người
TT
Trình độ
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Tổng
Trung cấp
22.207
23.605
23.265 23.711 22.608
17.910 133.306
1
Cao đẳng
7.800
8.600
11.890 11.525 12.365
13.040
65.220
2
Đại học
1.800
2.360
2.850
3.310
3.820
4.615
18.755
3
Tổng
31.807
34.565
38.005 38.546 38.793
35.565 217.281
Nguồn: Những điều cần biết về tuyển sinh qua các năm - Bộ GD&ĐT
88
Để thực hiện lộ trình hội nhập ASEAN, theo Thông tư liên tịch số
26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 07/10/2015 giữa Bộ Y tế và Bộ Nội vụ từ
01/01/2021 sẽ không tuyển mới ĐDV trình độ trung cấp, từ 01/01/2025 sẽ
không còn chức danh ĐDV trình độ trung cấp. Theo Quy hoạch hệ thống
khám bệnh, chữa bệnh, đến năm 2020 Việt Nam dự kiến cần khoảng 225.000
ĐDV, cần tuyển mới khoảng 100.000 ĐDV. Nếu theo quy định tại Thông tư
liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 07/10/2015, trường hợp số điều
dưỡng tốt nghiệp trình độ đại học và cao đẳng được tuyển hết (khoảng
84.000), thì số điều dưỡng tốt nghiệp trình độ trung cấp có cơ hội việc làm là
khoảng 16.000. Trong khi đó, tổng chỉ tiêu tuyển sinh điều dưỡng trình độ
trung cấp giai đoạn 2010-2015 là trên 133.000. Như vậy, nếu tạm dừng tuyển
sinh điều dưỡng từ năm 2016 sẽ vẫn thừa khoảng 117.000 chỉ tiêu điều dưỡng
trình độ trung cấp.
3.2.1.3. Thực trạng nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, Quy mô và phân bố nguồn nhân lực điều dưỡng theo vùng miền
Bảng 3.3. Tỷ lệ điều dưỡng/ đầu dân theo vùng kinh tế
Đơn vị: người
Vùng kinh tế
Dân số (2014)
Số lượng điều dưỡng
Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Chung cả nước
20.705.200 11.667.500 19.522.500 5.525.800 15.790.400 17.517.600 90.729.000
33.958 14.870 27.467 5.738 24.612 17.948 124.593
Tỷ lệ điều dưỡng/ đầu dân 1/610 1/785 1/711 1/963 1/642 1/976 1/728
Nguồn: Kết quả điều tra nhân lực điều dưỡng 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu
Kết quả điều tra năm 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu cho thấy có
sự khác nhau về quy mô điều dưỡng và tỷ lệ điều dưỡng/đầu dân giữa các
89
vùng kinh tế trên cả nước. Trong đó tỷ lệ điều dưỡng/đầu dân của cả nước là
1/728; vùng kinh tế có tỷ lệ điều dưỡng/dân số cao nhất là Đồng bằng Sông
Hồng (1/610) và Đông Nam Bộ (1/642), thấp nhất là Tây Nguyên (1/963) và
Đồng bằng sông Cửu Long (1/976). Số liệu trên cho thấy quy mô và phân bố
NNLĐD ở các vùng kinh tế - xã hội khó khăn thấp hơn các vùng kinh tế - xã
hội phát triển (Bảng 3.3).
Cũng theo kết quả điều tra năm 2015, tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ trên cả
nước theo là 2. Tỷ lệ này lần lượt tại các vùng là: Trung du và miền núi Bắc
Bộ: 1,6; Tây Nguyên: 1,7; Đông Nam bộ: 2,2; Đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung bộ và Duyên hải miền Trung đều là 2,3. Tuy nhiên, khu vực Bắc Trung
bộ và Duyên hải miền Trung cũng là khu vực tương đối khó khăn nhưng vẫn
có tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ cao nhất. Điều này cho thấy, việc tuyển dụng
không hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội (Bảng 3.4).
Bảng 3.4. Tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ của theo vùng kinh tế
Đơn vị: người
Vùng kinh tế
Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Chung
Số lượng điều dưỡng 28.597 14.493 26.121 5.738 22.064 17.137 114.150
Số lượng bác sĩ 12.409 9.053 11.324 3.344 10.009 9.684 55.823
Tỷ lệ điều dưỡng/BS 2,3 1,6 2,3 1,7 2,2 1,8 2
Nguồn: Kết quả điều tra nhân lực điều dưỡng 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu
Về tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ của các bệnh viện, viện tuyến Trung ương là
2,1. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ tại các bệnh viện, viện tuyến
Trung ương ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc còn thấp khi chỉ đạt 1,6
do điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, thì tỷ lệ điều dưỡng/bác sỹ tại
vùng Đông Nam bộ là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển cao nhất cả
nước vẫn chỉ đạt 1,8 lại là một vấn đề cần quan tâm của QLNN. Với chức
90
năng là bệnh viện, viện tuyến cuối, tỷ lệ này cho thấy các bệnh viện, viện
trung ương chưa thực sự chú trọng nâng cao trình độ cho ĐDV (Bảng 3.5).
Bảng 3.5. Tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ tuyến TW theo vùng kinh tế Đơn vị: người
Vùng kinh tế
Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung Tây Nguyên Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long Cả nước
Số lượng điều dưỡng 5.361 377 1.346 0 2.548 811 10.443
Số lượng bác sĩ 2.497 239 625 0 1.381 334 5.076
Tỷ lệ điều dưỡng/BS 2,1 1,6 2,2 0 1,8 2,4 2,1
Nguồn: Kết quả điều tra nhân lực điều dưỡng 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu
Thứ hai, Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực điều dưỡng
Kết quả khảo sát năm 2015 cho thấy, ĐDV tại các địa phương có trình
độ trung cấp chiếm tỷ lệ cao nhất 76,3% trong đó 8,8% làm việc ở khu vực
ngoài công lập, đứng sau là tỷ lệ cao đẳng 10,2% và đại học 9,2%. Ở các bệnh
viện tuyến trung ương tỷ lệ trình độ trung cấp là 71,58%, cao đẳng là 10,96%
và đại học là 15,71%. Tính chung cả nước, tỷ lệ điều dưỡng trình độ trung cấp
vẫn chiếm đa số với 75,91% (Bảng 3.6).
Trình độ đào tạo
Chung cả nước SL (người) % SL (người) % 0,01 0,24 9,74 10,26 75,91 3,83 100
Tiến sỹ Thạc sỹ/ chuyên khoa 1 Cử nhân đại học Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp Tổng số
7 216 10.501 11.644 87.102 4.680 114.150
8 301 12.141 12.790 94.577 4.776 124.593
1 85 1.640 1.146 7.475 96 10.443
0,01 0,19 9,2 10,2 76,3 4,1 100
Bảng 3.6. Phân loại điều dưỡng viên theo trình độ Tuyến trung ương Các địa phương SL (người) % 0,01 0,81 15,71 10,97 71,58 0,92 100 Nguồn: Kết quả điều tra nhân lực điều dưỡng 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu
3.2.2. Thực trạng xây dựng, ban hành và thực hiện thể chế đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
3.2.2.1. Thể chế về hoạt động và tổ chức đào tạo
91
Ngày 02/12/1998, tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa X đã thông qua Luật
Giáo dục [37]. Đây có thể xác định là một bước tiến bộ rất lớn để hoàn thiện
hệ thống thể chế về GD&ĐT. Luật đã quy định về các trình độ đào tạo trong
hệ thống giáo dục quốc dân, thời gian đào tạo cho từng trình độ và đặc biệt là
xác định những nội dung QLNN về giáo dục. Luật Giáo dục đã được chỉnh
sửa, bổ sung vào các năm 2005 và 2009. Theo quy định của Luật, thời gian
đào tạo trình độ trung cấp là 2 năm nếu tốt nghiệp trung học phổ thông, tốt
nghiệp trung học cơ sở có thể được học trung cấp điều dưỡng. Thời gian đào
tạo rút ngắn (trước khi có Luật Giáo dục thời gian đào tạo trung cấp điều
dưỡng là 2,5 năm) là một thách thức rất lớn để đảm bảo chất lượng đào tạo
khi thời gian đào tạo giảm, chương trình lại giảm bớt nội dung chuyên môn để
bổ sung thêm một số môn học bổ trợ khác.
Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009 và Luật Giáo dục đại học ban hành
năm 2012 đã đề cập mạnh mẽ hơn đến vấn đề tiêu chuẩn và kiểm định chất
lượng giáo dục, đề cập đến vai trò của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đối với đào tạo
một số ngành chuyên môn đặc biệt. Vai trò tự chủ của các CSĐT đã được quy
định khi Luật Giáo dục đại học xác định chương trình giáo dục do thủ trưởng
cơ sở giáo dục chịu trách nhiệm trên nguyên tắc đảm bảo chuẩn đầu ra. Điều
lệ trường đại học, Điều lệ trường cao đẳng đã quy định việc thành lập, vai trò
và hoạt động của Hội đồng trường. Luật Giáo dục lần đầu tiên được ban hành
năm 1998, chỉnh sửa bổ sung năm 2005 và năm 2009, Luật Giáo dục đại học
ban hành năm 2012 và Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 đã đánh dấu một
bước tiến lớn trong việc xây dựng thể chế về GD&ĐT. Tuy nhiên, việc thể
chế hóa các quy định này về đào tạo điều dưỡng vẫn còn nhiều hạn chế.
Thể chế về mở ngành đào tạo
Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT ngày 17/02/2011 của Bộ GD&ĐT
quy định về điều kiện, hồ sơ, quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển sinh,
92
thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học, trình độ cao đẳng và
Thông tư số 52/2011/TT-BGDT ngày 11/11/2011 quy định về điều kiện, hồ
sơ, quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp chỉ quy định chung cho tất cả
các ngành đào tạo, chưa phù hợp với đặc thù đào tạo NNLĐD:
- Quy định chung về điều kiện giảng viên là “ít nhất 1 tiến sỹ và 3 thạc
sỹ đúng ngành đăng ký” đối với đào tạo trình độ đại học hoặc “ít nhất 4 thạc
sỹ đúng ngành đăng ký” đối với đào tạo trình độ cao đẳng. Quy định này là
không phù hợp với ngành điều dưỡng khi thực tế Việt Nam chưa có cơ sở nào
đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ điều dưỡng. Để khắc phục thực trạng này, trong quá
trình xem xét hồ sơ đăng ký mở ngành của các cơ sở đào tạo, Bộ GD&ĐT và
Bộ Y tế đã thống nhất vận dụng khi chấp nhận những giảng viên ngành y
trình độ thạc sỹ trở lên và có thâm niên giảng dạy điều dưỡng tối thiểu 5 năm
thì được công nhận là giảng viên đúng ngành đào tạo.
- Về quản lý giảng viên, do việc xác định năng lực của các trường chỉ
dựa trên hồ sơ đăng ký mà chưa có phần mềm quản lý chung trong cả hệ
thống đã dẫn đến thực trạng là một giảng viên có thể đăng ký tên ở nhiều cơ
sở giáo dục. Điều này dẫn đến thực trạng là trên thực tế cơ sở giáo dục chưa
đủ năng lực nhưng vẫn được cấp phép mở ngành đào tạo.
- Về tiêu chuẩn của giảng viên chuyên ngành và tiêu chuẩn cơ sở thực
hành: theo như thông lệ chung của các nước, giảng viên chuyên ngành phải có
chứng chỉ hành nghề và làm việc thường xuyên tại cơ sở thực hành, cơ sở
thực hành phải có đủ điều kiện thực hành thì việc đào tạo thực hành mới có
thể đảm bảo chất lượng. Đây là nội dung rất quan trọng và là một trong các
tiêu chí bắt buộc phải có để mở ngành đào tạo, thể hiện tính đặc thù trong đào
tạo ngành điều dưỡng. Tuy nhiên, do là quy định chung cho tất cả các ngành
nên không có quy định cụ thể riêng cho ngành điều dưỡng về tiêu chuẩn của
giảng viên chuyên ngành và tiêu chuẩn của cơ sở thực hành khi đăng ký mở
93
ngành đào tạo. Đồng thời, theo quy định của Luật Viên chức, mỗi đơn vị đều
phải xây dựng đề án vị trí việc làm. Do đó khi đã xác định là giảng viên cơ
hữu của CSĐT thì việc đăng ký và làm việc tại cơ sở thực hành là không phù
hợp, đây là một bất cập rất lớn.
Thể chế về xác định chỉ tiêu đào tạo
Thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT ngày 02/12/2011 của Bộ GD&ĐT
quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sỹ, thạc sỹ, đại học, cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp. Theo đó, việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh
dựa trên tỷ lệ giảng viên/sinh viên. Tuy nhiên, việc xác định chỉ tiêu không
quy định xác định theo từng ngành đào tạo. Do đó tại các trường đa ngành
không chuyên y, dược, sau khi xác định tổng chỉ tiêu tuyển sinh, các CSĐT sẽ
dồn chỉ tiêu ở các ngành khó tuyển sang cho các ngành thuộc lĩnh vực y, dược
trong đó có điều dưỡng. Điều này dẫn đến thực trạng là nhiều cơ sở giáo dục
quy mô đào tạo ngành điều dưỡng vượt quá năng lực thực tế hiện có.
Ngày 16/12/2015, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư số
32/2015/TT-BGDĐT quy định về xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ
sở giáo dục đại học trong đó quy định việc xác định chỉ tiêu dựa vào năng lực
theo khối ngành đào tạo. Thông tư này chỉ khắc phục được một phần nhỏ thực
trạng nêu trên do hiện nay đa số các CSĐT NNLĐD vẫn là các trường cao
đẳng và trung cấp. Mặt khác, về tổng chỉ tiêu đào tạo, mặc dù Bộ Y tế đã ban
hành Quyết định số 816/QĐ-BYT ngày 16/3/2012 phê duyệt quy hoạch phát
triển NNLYT đến năm 2020 trong đó có xác định nhu cầu về số lượng theo
từng lĩnh vực trong cơ cấu NLYT đến năm 2020 nhưng không được áp dụng
làm căn cứ để xác định chỉ tiêu, quy mô đào tạo.
Thể chế về đảm bảo chất lượng đào tạo
Để cụ thể hóa quy định của Luật Giáo dục về kiểm định chất lượng
giáo dục, Bộ GD&ĐT đã có những quy định khung về đảm bảo và kiểm định
94
chất lượng giáo dục nhưng chưa có các bộ tiêu chí đánh giá cụ thể cho từng
ngành trong đó có ngành điều dưỡng. Việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở
giáo dục trong khi các chế tài, tiêu chuẩn, tiêu chí và vận hành cơ chế kiểm
định chất lượng giáo dục chưa cụ thể và không đồng độ sẽ dẫn đến nguy cơ
không đảm bảo chất lượng giáo dục. Đào tạo nhân lực điều dưỡng nói riêng
và NLYT nói chung chưa có hệ thống thể chế độc lập dẫn đến thực trạng các
cơ sở giáo dục cũng như cơ quan quản lý áp dụng các điều kiện, tiêu chuẩn
chung tạo nên sự khập khiễng không phù hợp với đặc thù đào tạo của ngành
điều dưỡng. Năm 2012, Bộ Y tế đã ban hành chuẩn năng lực cơ bản của
ĐDV, nội dung này cũng đã được Bộ GD&ĐT quy định trong Thông tư số
33/2014/TT-BGDĐT ngày 02/10/2014 quy định tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng CTĐT điều dưỡng trình độ đại học, cao đẳng nhưng không có những
hướng dẫn, chế tài xử lý cụ thể nên nhiều CSĐT vẫn chưa triển khai áp dụng.
Luật Giáo dục nghề nghiệp ra đời năm 2014 trong đó xác định trình độ
cao đẳng trở xuống thuộc giáo dục nghề nghiệp. Từ ngày 01/01/2017, tất cả
các CSĐT điều dưỡng trình độ cao đẳng và trung cấp đã chuyển sang do Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý. Thực trạng này tạo ra sự chồng
chéo trong vấn đề chỉ đạo khi đào tạo nhân lực điều dưỡng thuộc phạm vi
điều chỉnh của cả Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp. Việc
hướng dẫn từng Luật lại do từng cơ quan chủ quản khác nhau nên chưa có sự
thống nhất trong việc triển khai thực hiện. Với thực trạng chưa đồng bộ về thể
chế trong đào tạo nhân lực điều dưỡng như nêu trên, việc kiểm soát cả về chất
lượng và số lượng đào tạo NNLĐD là một thách thức rất lớn đối với cơ quan
quản lý.
3.2.2.2. Thể chế về hoạt động nghề nghiệp, sử dụng và đãi ngộ
Ngày 23/11/2009 Luật KB, CB [38] chính thức được thông qua và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Luật KB, CB ra đời đánh dấu một bước tiến rất
95
lớn trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến lĩnh vực y tế nói
chung và đào tạo NLYT nói riêng. Một trong những điểm đặc biệt quan trọng
trong quy định của Luật là vấn đề quy định về cấp chứng chỉ hành nghề đối
với nhân lực hệ KB, CB trong đó có điều dưỡng (Điều 17), văn bằng để cấp
chứng chỉ hành nghề (Điều 18). Như vậy, theo quy định của Luật và các văn
bản hướng dẫn liên quan, điều dưỡng là một trong những đối tượng phải có
chứng chỉ hành nghề thì mới được hành nghề, phạm vi hành nghề phải phù
hợp với văn bằng được đào tạo, muốn được cấp chứng chỉ hành nghề phải đáp
ứng đủ các điều kiện theo quy định. Một trong những điều kiện quan trọng là
sau khi tốt nghiệp ở một trình độ đào tạo và được cấp bằng, người ĐDV muốn
được cấp chứng chỉ hành nghề phải trải qua thời gian 9 tháng thực hành tại cơ
sở y tế (có đủ điều kiện theo quy định) và được xác nhận của thủ trưởng cơ sở
y tế (Điều 24).
Thông tư số 07/2011/TT- BYT ngày 26/01/2011 [15] đã quy định rõ 12
nhiệm vụ của điều dưỡng trong công tác chăm sóc người bệnh tại bệnh viện
(Chương II). Đây là những nội dung cốt lõi của hoạt động điều dưỡng trong
cơ sở y tế, làm cơ sở xác định những năng lực cần có của ĐDV. Chính vì vậy,
nội dung của Thông tư là cơ sở để các CSĐT xác định xem sản phẩm đào tạo
đã đáp ứng được yêu cầu của hệ thống y tế hay chưa. Thông tư cũng quy định
rõ cơ sở KB, CB phải xác định rõ nhu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ đối
với ĐDV: bê ̣nh viê ̣n phải bảo đảm đủ nhân lực ĐDV, hô ̣ sinh viên theo quy
định tại Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của
Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế
sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước để bảo đảm chăm sóc người bệnh liên
tục; Bê ̣nh viê ̣n xây dựng cơ cấu trình đô ̣ củ a ĐDV phù hợp với tính chất chuyên môn và phân hạng bệnh viện. Bảo đảm tỷ lệ ĐDV có trình độ cao đẳng
và đại học đáp ứng yêu cầu Thỏa thuận công nhận dịch vụ chăm sóc đã được
Chính phủ ký kết với các nước ASEAN ngày 08/12/2006 (Điều 17 và Điều 18).
96
Thông tư liên tịch Bộ Y tế - Bộ Nội vụ số 08/2007/TTLT-BYT-BNV
ngày 05/6/2007 của liên tịch Bộ Y tế - Bộ Nội vụ hướng dẫn định mức biên
chế trong các đơn vị sự nghiệp y tế công lập đã quy định cơ cấu chuyên môn
khu vực KB, CB, trong đó xác định tỷ lệ bác sỹ/(ĐDV, hộ sinh, kỹ thuật viên)
là từ 1/3,0 đến 1/3,5. Quy định này đã xác định cơ cấu chuyên môn tiếp cận
với xu hướng chung của thế giới, khi đạt được tỷ lệ này sẽ làm giảm áp lực
công việc cho ĐDV, từ đó giúp cho chất lượng chăm sóc người bệnh sẽ được
nâng cao, tiến tới thực hiện chăm sóc toàn diện đối với người bệnh nằm điều
trị nội trú.
Ngày 15/11/2010 Luật Viên chức ra đời [39]. Một trong những quy
định của Luật Viên chức là các tổ chức sử dụng viên chức phải mô tả và xác
định vị trí việc làm (Điều 7). Điều này giúp cho nhà quản lý xác định được
nhu cầu nhân lực theo từng vị trí việc làm để tránh lãng phí nguồn lực. Đây là
một nội dung rất mới mà cho đến nay, nhiều cơ sở vẫn chưa xây dựng xong
đề án vị trí việc làm của đơn vị mình. Cùng với quy định về đề án vị trí việc
làm, Luật Viên chức còn quy định về hạng viên chức và tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp của hạng viên chức (Điều 9).
Ngày 07/10/2015, Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch
số 26/2015/TTLT-BYT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y. Theo đó, đối với lĩnh vực điều dưỡng,
hiện nay đang có 5 trình độ đào tạo là trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc
sỹ/chuyên khoa I và tiến sỹ; trong khi đó chỉ có 3 hạng viên chức là hạng II,
hạng III và hạng IV. Thông tư đã quy định từ ngày 01/01/2021 sẽ không
tuyển mới ĐDV có trình độ trung cấp và từ ngày 01/01/2025 sẽ chuẩn hóa tối
thiểu là trình độ cao đẳng đối với ĐDV.
3.2.3. Thực trạng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên
đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
3.2.3.1. Về tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý
97
Cùng với việc xây dựng, ban hành hệ thống thể chế về đào tạo
NNLĐD, tổ chức bộ máy quản lý cũng có những giai đoạn phát triển khác
nhau để đáp ứng yêu cầu đào tạo NNLĐD. Tổ chức bộ máy quản lý đào tạo
NNLĐD bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương và các sở liên quan tương ứng, bộ máy quản lý tại các
CSĐT. Liên quan đến đào tạo NNLĐD, các cơ quan có những chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối
với hoạt động của Nhà nước. Liên quan trực tiếp đến đào tạo NNLĐD, Quốc
hội quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương;
Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước; ban hành và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước trong việc thực hiện các luật: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học,
Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Viên chức và Luật KB, CB.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, chịu trách nhiệm quản lý mọi hoạt động của đời sống kinh
tế - xã hội của đất nước, trong đó có nội dung quản lý NNL xã hội. Liên quan
đến QLNN về đào tạo NNLĐD, Chính phủ thống nhất QLNN và phát triển sự
nghiệp về GD&ĐT và về y tế. Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ. Chính phủ hướng dẫn thi hành các Luật và ban hành các quy định
về: QLNN về GD&ĐT, quy hoạch mạng lưới các trường đại học, điều lệ
trường đại học, thành lập trường đại học.
98
Bộ GD&ĐT là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN về
giáo dục đại học về các lĩnh vực: mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch,
chất lượng GD&ĐT; tiêu chuẩn nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; quy chế
thi, tuyển sinh; hệ thống văn bằng, chứng chỉ; cơ sở vật chất và thiết bị trường
học; QLNN đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực QLNN của Bộ theo quy
định của pháp luật.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ, thực
hiện chức năng QLNN về giáo dục nghề nghiệp (trừ các trường sư phạm) bao
gồm: chủ trì, phối hợp với bộ, ngành liên quan hướng dẫn và tổ chức thực
hiện các quy định của pháp luật về giáo dục nghề nghiệp; ban hành điều lệ các
trường cao đẳng, trung cấp và trung tâm giáo dục nghề nghiệp; quy chế tuyển
sinh và đào tạo; quy chế thi và công nhận tốt nghiệp; quy định mẫu bằng và
chứng chỉ đào tạo; quy định khối lượng kiến thức tối thiểu đối với từng trình
độ đào tạo; quản lý và tổ chức thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục nghề
nghiệp; ...
Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN về
các ngành, lĩnh vực: tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nước; chính quyền địa
phương, địa giới hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và
QLNN đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định
của pháp luật.
Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng QLNN về y tế.
Về đào tạo NNLYT, Bộ Y tế có nhiệm vụ: Xây dựng, ban hành theo thẩm
quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
quy hoạch, kế hoạch đào tạo nhân lực ngành y tế và cơ chế, chính sách đặc
thù trong đào tạo nhân lực ngành y tế và hướng dẫn tổ chức thực hiện; Xây
dựng và ban hành tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp y tế làm cơ sở xây dựng
và phát triển chuẩn đầu ra của các trình độ đào tạo nhân lực y tế; phối hợp với
Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện xây dựng
99
chuẩn đầu ra của từng ngành, từng trình độ đào tạo nhân lực y tế; Xây dựng
và ban hành các điều kiện đảm bảo chất lượng và chuẩn đầu ra đối với đào tạo
chuyên khoa đặc thù ngành y tế và đào tạo liên tục nguồn nhân lực y tế; Quản
lý đào tạo chuyên khoa đặc thù và đào tạo liên tục nguồn nhân lực y tế theo
quy định của pháp luật; Quản lý các cơ sở đào tạo nhân lực y tế theo quy định
của pháp luật; Hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá theo thẩm quyền việc thực hiện
các quy định của pháp luật trong đào tạo nguồn nhân lực y tế; Quy định,
hướng dẫn tổ chức thực hiện việc thi để xét cấp chứng chỉ hành nghề trong
lĩnh vực y tế theo quy định của pháp luật. Trong cơ cấu tổ chức, Bộ Y tế có
một đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Y tế thực hiện chức năng QLNN về
đào tạo NNLYT nói chung và NNLĐD nói riêng đó là Cục Khoa học công
nghệ và Đào tạo. Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo có 2 phòng chức năng
liên quan đến quản lý đào tạo là Phòng Quản lý đào tạo Sau đại học và đào
tạo liên tục và Phòng Quản lý đào tạo Đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy
nghề.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình cấp có thẩm quyền quyết
định quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, chính sách phát triển giáo dục
trên địa bàn; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, dự án, chính sách phát triển giáo dục sau khi đã được
cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành các chính sách của địa
phương để phát triển giáo dục trên địa bàn.
Sở GD&ĐT là cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có
trách nhiệm tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng
QLNN về GD&ĐT trên địa bàn.
Sở Y tế là cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có
trách nhiệm tham mưu, giúp uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trên địa bàn. Về
đào tạo NNLYT nói chung và NNLĐD nói riêng, Sở Y tế có trách nhiệm tổ
100
chức thực hiện kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo NNLYT và chính sách phát triển
NNLYT trên địa bàn tỉnh; quản lý các CSĐT NNLYT theo sự phân công của
uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Các CSĐT NNLĐD có trách nhiệm hình thành và trình cấp có thẩm
quyền phê duyệt tổ chức bộ máy quản lý để triển khai thực hiện chức năng
đào tạo NNLĐD tại CSĐT.
Như vậy, tổ chức bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD đã được thiết kế
đồng bộ từ các cơ quan QLNN đến các CSĐT, từ trung ương đến địa phương.
Cho đến nay, các cơ quan QLNN về đào tạo cơ bản đã thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của mình về quản lý đào tạo NNLĐD. Tuy nhiên, trong thực
tiễn quản lý cho thấy vẫn còn một số những vấn đề bất cập:
- Việc ban hành và tồn tại cùng một lúc cả ba luật về GD&ĐT đó là
Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp cho thấy có
những vấn đề còn đan xen, chồng chéo cả nội dung và cơ quan QLNN mà đặc
biệt là cơ quan QLNN về giáo dục nghề nghiệp ở cấp trung ương. Đối với đào
tạo NNLĐD, do đặc điểm có nhiều trình độ khác nhau nên chịu sự tác động
về chỉ đạo điều hành trong hoạt động đào tạo của cả Bộ GD&ĐT và Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội.
- Thẩm quyền quản lý về đào tạo NNLĐD của Bộ Y tế và ủy ban nhân
dân cấp tỉnh còn hạn chế, chưa có sự đồng thuận giữa cơ quan QLNN chuyên
ngành với cơ quan QLNN về GD&ĐT nên nhiều nội dung để đảm bảo chất
lượng đào tạo NNLĐD do Bộ Y tế đưa ra để đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân
lực của ngành vẫn chưa được áp dụng. Bộ Y tế cũng như ủy ban nhân dân cấp
tỉnh cũng chưa xác định được quy hoạch tổng thể và nhu cầu NNLĐD theo
từng giai đoạn, từng khu vực, vùng miền và địa phương để làm cơ sở xác định
nhu cầu đào tạo về số lượng theo từng trình độ. Bộ Y tế chưa có vai trò cụ thể
trong hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động đào tạo, kể cả việc ban hành một
số quy định chuyên môn liên quan đến hoạt động đào tạo.
101
- Đội ngũ cán bộ quản lý tại các cơ quan QLNN ở trung ương chưa
được quan tâm, phát triển. Mặc dù số lượng các CSĐT NNLYT cũng như
CSĐT NLĐD trên cả nước rất nhiều nhưng tại Vụ Giáo dục đại học của Bộ
GD&ĐT chỉ có 3 người quản lý chuyên trách, tại Vụ Giáo dục chuyên nghiệp
của Bộ GD&ĐT với trên 20 biên chế và phân công lồng ghép với các ngành
đào tạo khác (và đã kết thúc nhiệm vụ từ 31/12/2016 để làm thủ tục bàn giao
sang Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội),
tại Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế chỉ có 6 người và tại Tổng
cục Giáo dục nghề nghiệp do mới tiếp quản nội dung QLNN về giáo dục nghề
nghiệp từ 01/01/2017 nên hiện nay đang rà soát và hoàn thiện tổ chức bộ máy.
Tại các cơ quan này đều không có cán bộ nào được đào tạo về chuyên ngành
điều dưỡng, trong khi đó cơ chế thành lập Hội đồng Điều dưỡng quốc gia như
các nước hoặc tham vấn hội đồng chuyên môn/hội nghề nghiệp lại chưa được
thể chế hóa nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình quản lý.
- Tổ chức bộ máy quản lý tại các CSĐT vẫn chưa hoàn thiện theo điều
lệ trường đã ban hành, hầu hết các CSĐT công lập chưa thành lập hội đồng
trường, các cán bộ quản lý tại các CSĐT chưa được đào tạo và tập huấn về
quản lý đào tạo để đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình theo xu hướng đào
tạo dựa theo năng lực.
3.2.3.2. Về đội ngũ giảng viên giảng dạy điều dưỡng
Qua điều tra thông qua hình thức khảo sát có văn bản chính thức của
Bộ Y tế tới tất cả 151 cơ sở đang đào tạo nhân lực điều dưỡng, kết quả chỉ có
81 CSĐT gửi phiếu trả lời (59 trường công lập và 22 trường ngoài công lập).
Kết quả này phản ánh thực trạng cơ chế báo cáo hiện nay chưa thể hiện được
vai trò của Bộ Y tế đối với các CSĐT. Theo kết quả thống kê tại 81 CSĐT đã
gửi phiếu trả lời, cơ cấu giảng viên theo chuyên ngành và độ tuổi có sự khác
biệt giữa các trường công lập và các trường ngoài công lập (Bảng 3.7).
102
Bảng 3.7. Cơ cấu giảng viên điều dưỡng trong các CSĐT theo ngành Chung
Ngoài công lập
Công lập
Phân loại giáo viên theo ngành
%
%
%
Số lượng (người)
Số lượng (người)
Bác sĩ ĐD Khác Tổng
3.473 1.191 1.165 5.829
59,58 20,43 19,99 100
499 492 796 1.787
27,92 27,53 44,54 100
Số lượng (người) 3.972 1.683 1.961 7.616
52,15 22,10 25,75 100
Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu
Giảng viên điều dưỡng là bác sỹ vẫn chiếm tỷ lệ cao tới 52,15%, trong
đó ở nhóm các trường công lập chiếm tỷ lệ cao hơn các trường ngoài công
lập. Tuy nhiên, ở nhóm các giảng viên chuyên ngành khác, các trường ngoài
công lập có tỷ lệ rất cao với 44,54%. So sánh về tỷ lệ khối kiến thức chung
chỉ chiếm khoảng 22 - 25% thì tỷ lệ giảng viên thuộc nhóm khác ở các CSĐT
ngoài công lập như vậy là quá cao (Bảng 3.7). Nhìn chung có thể thấy vấn đề
đào tạo và chuẩn hóa đội ngũ giảng viên điều dưỡng của các CSĐT cần được
tiếp tục quan tâm hơn nữa trong thời gian tới.
Kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ giảng viên có độ tuổi ≤ 30 tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất, trong đó các trường công lập (45,93%) cao hơn các trường ngoài
công lập (34,76%); tỷ lệ độ tuổi >51 ở các trường công lập (6,89%) thấp hơn
các trường ngoài công lập (16,87%). Các số liệu trên cho thấy, các CSĐT đã
chú trọng tuyển mới giảng viên để đảm bảo tính kế thừa. Tuy nhiên, do chính
sách sử dụng nhân lực hiện nay, các trường ngoài công lập tuyển dụng giảng
viên có độ tuổi trên 51 chiếm 16,87%, thậm chí là những người đã nghỉ chế
độ ở các cơ sở công lập sang làm việc. Thực tế này là cơ hội để những giảng
viên có kinh nghiệm đã qua độ tuổi làm việc ở các trường công lập vẫn có thể
tham gia giảng dạy tại các trường ngoài công lập. Tuy nhiên, cũng cần có
chính sách hợp lý để đảm bảo chính sách thu hút giảng viên công bằng giữa
công lập và ngoài công lập trong đó cần có cơ chế để những người giảng viên
103
của CSĐT công lập mặc dù đã đến tuổi nghỉ chế độ nhưng còn sức khỏe và có
nguyện vọng tiếp tục được tham gia giảng dạy (Bảng 3.8).
Bảng 3.8. Cơ cấu giảng viên điều dưỡng trong các CSĐT theo độ tuổi
Công lập
Ngoài công lập
Chung
Độ tuổi
%
%
%
Số lượng (người) 547 299 109 96 58 82 1.191
≤ 30 31 - 35 36 - 40 41 -45 45 - 50 ≥ 51 Tổng
34,76 17,68 11,99 8,13 10,57 16,87 100,0
Số lượng (người) 171 87 59 40 52 83 492
Số lượng (người) 718 386 168 136 110 165 1.683
42,66 22,94 9,98 8,08 6,54 9,80 100,0
45,93 25,10 9,15 8,06 4,87 6,89 100,0 Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015 của tác giả và nhóm nghiên cứu
3.2.4. Thực trạng hỗ trợ và huy động các nguồn lực cho đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
Trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, các nguồn lực đầu
tư từ nguồn ngân sách nhà nước còn nhiều hạn chế, Chính phủ đã có nhiều
chính sách hỗ trợ và huy động nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư cho đào
tạo NNLĐD.
Đối với các CSĐT công lập, Chính phủ đã có sự phân cấp quản lý và
đầu tư để huy động cả kinh phí trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương,
Chính phủ đã ký kết các chương trình, dự án cho đào tạo NNLĐD. Một số
chương trình, dự án đã triển khai và phát huy hiệu quả đó là:
- Dự án Nâng cao năng lực giảng dạy đại học điều dưỡng giai đoạn
2006-2010 từ nguồn kinh phí của tổ chức Nuffic, Hà Lan với tổng kinh phí
hơn 2 triệu đô la Mỹ cho 6 CSĐT. Dự án này đã hỗ trợ cho các CSĐT đào tạo
nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên và đầu tư nâng cấp trung tâm huấn
luyện kỹ năng điều dưỡng.
- Chương trình nâng cao năng lực NNLYT giai đoạn 2006 - 2010 do Hà
Lan tài trợ có hai hợp phần hỗ trợ cho đào tạo NNLĐD. Hợp phần 1 là Nâng
104
cao năng lực quản lý của Vụ Khoa học và Đào tạo, Bộ Y tế đã giúp cho đội
ngũ cán bộ quản lý của Vụ tiếp cận với xu hướng mới trong đào tạo NNLĐD.
Hợp phần 2 là Dự án Nâng cao năng lực giảng dạy cho các trường cao đẳng,
trung cấp y tế. Dự án cho tổng kinh phí gần 4 triệu Euro đã hỗ trợ cho 12
trường cao đẳng, trung cấp y tế. Dự án này đã hỗ trợ cho các CSĐT đào tạo
nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên và đầu tư nâng cấp trung tâm huấn
luyện kỹ năng điều dưỡng.
- Dự án hỗ trợ đào tạo NNLĐD dựa theo năng lực do tổ chức Atlantic
Philantropies tài trợ thông qua Đại học công nghệ Queensland, Australia. Dự
án gồm hai giai đoạn, giai đoạn 1 gồm hai hợp phần. Hợp phần 1 đã hỗ trợ Bộ
Y tế và Hội điều dưỡng Việt Nam xây dựng và ban hành Chuẩn năng lực cơ
bản của điều dưỡng Việt Nam; hợp phần 2 hỗ trợ cho 6 trường đào tạo giảng
viên và phát triển chương trình dựa trên năng lực trình độ đại học và cao
đẳng. Giai đoạn 2 tiếp tục hỗ trợ cho 4 trường phát triển chương trình dựa trên
năng lực trình độ đại học.
- Chương trình phát triển NNLYT do ADB tài trợ đã hỗ trợ cho 17
trường đại học y, dược Việt Nam đầu tư nâng cấp phát triển các phòng thực
hành khối khoa học cơ sở. Trong số các CSĐT này có 15 đơn vị có đào tạo
mã ngành điều dưỡng, việc đầu tư đó cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho đào tạo
NNLĐD.
- Dự án Giáo dục đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế
đang thực hiện cũng có một hợp phần hỗ trợ cho các CSĐT đổi mới chương
trình đào tạo NNLĐD trình độ đại học, cao đẳng dựa trên năng lực.
Ở góc độ các địa phương, nhiều địa phương cũng đã chủ động huy
động các nguồn lực để hỗ trợ các CSĐT phát triển. Trong giai đoạn 2005 -
2015, có 35 CSĐT được các địa phương phê duyệt dự án để mở rộng khuôn
viên, đầu tư phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo, củng cố đội
ngũ giáo viên để có đủ điều kiện nâng cấp từ trường trung cấp thành trường
cao đẳng. Từ năm 2014 - 2016, để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào
105
tạo NNLĐD, thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư cho Khoa Điều dưỡng, Kỹ
thuật y học của Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch xây dựng bệnh
viện mô phỏng và trung tâm huấn luyện kỹ năng lâm sàng theo chuẩn khu vực
với vốn đầu tư trên 100 tỷ đồng.
Bên cạnh việc đầu tư cho các cơ sở đào tạo NNLĐD công lập, Nhà
nước đã có nhiều chính sách để thu hút đầu tư từ các nguồn lực của xã hội.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa theo tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-
CP ngày 18/04/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao, từ năm 2005 đến nay, nhiều CSĐT
ngoài công lập chuyên ngành và đa ngành đã tham gia đào tạo, góp phần cung
cấp NNLĐD cho hệ thống y tế.
Về chế độ đãi ngộ cho ĐDV và đầu tư cho hoạt động chuyên môn điều
dưỡng, kết quả điều tra thông qua phỏng vấn trực tiếp một số điều dưỡng cho
thấy chế độ đãi ngộ cho ĐDV vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập:
- Những điều khiến ĐDV hài lòng nhất tại đơn vị được xếp theo thứ tự
sau đây: (i) Tập thể đoàn kết, thân thiện và giúp đỡ lẫn nhau, chiếm 59,2%,
n=522; (ii) Tinh thần làm việc tích cực, phục vụ bệnh nhân tốt, chiếm 10,4%,
n=71; (iii) ĐDV được lãnh đạo khoa và bệnh viện quan tâm, chiếm 5,7%,
n=39.
Những điều khiến ĐDV kém hài lòng nhất tại đơn vị được xếp theo thứ
tự sau: (i) Tình trạng quá tải bệnh viện, thiếu nhân lực, chiếm 13,7%, n=121;
(ii) Cơ sở hạ tầng không đảm bảo, thiếu trang thiết bị - được xếp ngang bằng
tình trạng quá tải bệnh viện., chiếm 13,7%, n=121; (iii) Chế độ đãi ngộ chưa
phù hợp, chiếm 11,6%, n=102.
Chỉ có khoảng 50% ĐDV khi được hỏi lạc quan về nghề điều dưỡng
trong tương lai và hầu hết không có ý định cho con theo nghề điều dưỡng:
“Lương thấp, trực vất vả, áp lực an toàn cho người bệnh, áp lực từ người nhà
người bệnh nên không cho con theo nghề” (ĐDV); “Không, để em xem đã vì
106
xã hội chưa tôn trọng, mức lương chưa đủ sống, Nếu có thay đổi thì chúng em
cho con theo nghề, nếu không thay đổi thì chắc chắn là không” (ĐDV).
Kết quả điều tra 882 ĐDV tại 7 tỉnh cho thấy, trung bình thu nhập và
phụ cấp chuyên môn tại đơn vị hàng tháng của ĐDV là 4.490.000VNĐ, trong
đó có 548 người (chiếm 62,1%) có thu nhập dưới 4,5 triệu/ tháng, 235 người
(chiếm 26,6%) có thu nhập từ 4,5 - 6 triệu/ tháng và 99 người (chiếm 11,2%)
có thu nhập trên 6 triệu/ tháng (n=99), và thu nhập của ĐDV chiếm trung bình
54,33% thu nhập của cả gia đình họ.
Qua các cuộc thảo luận nhóm, hầu hết các ĐDV đều cho rằng chưa hài
lòng với mức thu nhập hiện nay: “Em không hài lòng, lương em 3 triệu đồng,
chồng em 5 triệu, cả nhà 8 triệu, thêm một con nhỏ, không đủ sống, em đang
ở nhờ nhà mẹ đẻ, ngoài giờ phải tăng gia và chăn nuôi” (ĐDV); “Em là đàn
ông, phải lo thu nhập nuôi sống gia đình, với mức lương như thế này là rất
khó khăn” (ĐDV nam). Trong đó đa số ĐDV cho rằng thu nhập chưa tương
xứng với trách nhiệm và sức lao động của mình: “ĐDV hy sinh rất nhiều
nhưng chưa được đền bù xứng đáng về mọi thứ, cả về tâm tư, tình cảm và
kinh tế” (ĐDV).
Một số ít ĐDV hài lòng về mức thu nhập chủ yếu làm việc ở các trạm
Y tế xã, gia đình làm thêm nghề nông và ĐDV có thâm niên công tác cao:
“Em chưa lập gia đình, em ở nhà mẹ, lương em thấp, hơn 2 triệu một tháng,
em hài lòng vì ngoài giờ em làm thêm chăn nuôi” (ĐDV mới vào nghề);
“Mình ở nông thôn nên mình mới nghĩ lại, mình công tác 25 năm, lương
5triệu 6, cộng các khoản khác được khoảng 6 triệu, so với nông dân, họ thu
nhập rất ít, không may dịch bệnh, gà chết, heo chết còn không có gì, mình có
6 triệu một tháng là tốt rồi" (ĐDV có thâm niên 25 năm); “Em hài lòng, so
với nghề khác thì không bằng nhưng so với người nông dân thì hơn, em làm
nghề nông, cấy, gặt, chăn nuôi trồng trọt để sinh sống, còn tiền lương để cho
con ăn học” (ĐDV) hoặc “Một đêm trực được gần 19 nghìn đồng, quá thấp"
(ĐDV tuyến xã).
107
3.2.5. Thực trạng hoạt động tự chủ, thanh tra, kiểm tra và tổng kết,
đánh giá về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
Về tự chủ, ngày 24/10/2014 Chính phủ đã có Nghị quyết số 77/NQ-CP
về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công
lập. Chính phủ cũng đã có Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015
quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo tinh thần của các
văn bản này, khi các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện thí điểm tự chủ
sẽ chủ động hơn trong hoạt động quản trị cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, chưa có
một cơ sở đào tạo điều dưỡng công lập nào thực hiện tự chủ theo tinh thần
của hai văn bản nêu trên.
Công tác thanh tra, kiểm tra về đào tạo NNLĐD mặc dù đã được triển
khai nhưng vẫn còn những khó khăn, hạn chế và bất cập. Theo quy định hiện
hành, việc thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động đào tạo thuộc chức năng của
Bộ GD&ĐT, đối với hoạt động nghề nghiệp thuộc Bộ Y tế và đối với chính
sách sử dụng, đãi ngộ thuộc Bộ Nội vụ. Đối với Bộ GD&ĐT, do số lượng các
CSĐT quá nhiều nên việc thanh tra, kiểm tra chỉ thực hiện lồng ghép theo kế
hoạch hoặc chuyên đề tại các CSĐT theo các hoạt động chung mà không có
chuyên đề về đào tạo NNLĐD. Đối với Bộ Y tế, do không có chức năng
thanh tra chuyên ngành và việc triển khai thanh tra, kiểm tra về hoạt động
chuyên môn quá nhiều, nguồn nhân lực có hạn nên việc tổ chức thanh tra,
kiểm tra liên quan đến đào tạo NNLĐD cũng còn hạn chế, kể cả về hoạt động
nghề nghiệp điều dưỡng. Bộ Nội vụ cũng chỉ triển khai các kế hoạch thanh
tra, kiểm tra tổng thể chung về tổ chức biên chế, công vụ, công chức mà
không có chuyên đề đối với chế độ, chính sách đối với NNLĐD. Bên cạnh đó,
một nguyên nhân khiến cho việc thanh tra, kiểm tra còn hạn chế là khó khăn
về nguồn kinh phí chi cho hoạt động này.
Hoạt động tổng kết, đánh giá về đào tạo NNLĐD vẫn còn nhiều khó
khăn, bất cập, chưa được quan tâm thường xuyên. Trong giai đoạn từ năm
108
2010 đến nay mới tổ chức được một Hội nghị chuyên đề về đào tạo NNLĐD
ở quy mô toàn quốc, một đợt kiểm tra chéo giữa các cơ sở đào tạo trình độ
cao đẳng, trung cấp cả nước do Bộ Y tế tổ chức vào năm 2014. Bên cạnh đó,
có một số tổng kết, đánh giá về đào tạo NNLĐD được triển khai lồng ghép
với các hoạt động hoặc trong các đợt đánh giá chung khác của các cơ quan
quản lý.
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng ở Việt Nam
3.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
3.3.1.1. Kết quả đạt được trong quản lý nhà nước về đào tạo nguồn
nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
Thứ nhất, hệ thống chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về đào tạo
NNLĐD đã được xây dựng thống nhất và đồng bộ từ các văn kiện của Đảng,
Chính phủ đến các chương trình, kế hoạch của Bộ Y tế và Bộ GD&ĐT.
Thông qua các văn bản đó, đào tạo và phát triển NNLĐD đã được xác định và
đề cập ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều khẳng định vai trò của ĐDV
trong hệ thống y tế. Thông qua các quan điểm, chủ trương của Đảng và nhà
nước, sự đồng thuận của các bộ, ngành mà trực tiếp là sự phối hợp giữa Bộ
GD&ĐT và Bộ Y tế, mạng lưới các CSĐT điều dưỡng đã có sự phát triển
mạnh mẽ, quy mô đào tạo có bước tăng trưởng vượt bậc, đáp ứng yêu cầu
từng bước nâng cao trình độ và chất lượng NNLĐD. Trong điều kiện xây
dựng và kinh tế - xã hội, quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà nước và
theo xu hướng hội nhập quốc tế, việc nâng cấp và thành lập mới các CSĐT,
xã hội hóa đào tạo NLYT, huy động các nguồn lực tạo cơ hội cho các nhà đầu
tư tham gia hoạt động GD&ĐT NNLĐD đã giúp hệ thống mạng lưới các
CSĐT có sự phát triển nhanh chóng. Tính đến nay, trong 63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chỉ còn duy nhất tỉnh Đắk Nông là không có CSĐT
nhân lực điều dưỡng.
109
Mô hình đào tạo hiện hành áp dụng từ nhiều năm nay, với một thời gian
dài đa số các CSĐT ở trình độ trung cấp. Mô hình này đã thể hiện được các
ưu điểm: (i) Xác định đào tạo điều dưỡng có 4 bậc, có tính liên thông giữa các
trình độ, tạo cơ hội học tập suốt đời và phát triển nghề nghiệp; (ii) Nếu chỉ
học trình độ trung cấp, người học được tiếp cận thị trường lao động sớm, đáp
ứng nhanh nhu cầu cung cấp nhân lực cho hệ thống y tế.
Thứ hai, hệ thống thể chế về GD&ĐT đã được ban hành với số lượng
rất lớn, qua nhiều thời kỳ luôn được chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật để phù hợp
với sự phát triển của đất nước. Hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD đã được đề
cập đầy đủ ở các phạm vi liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đào
tạo, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn khách quan. Hệ thống thể chế này
được xây dựng dựa trên nguyên tắc, định hướng cơ bản về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp là
các văn bản cao nhất tác động trực tiếp đến hoạt động GD&ĐT nói chung và
đào tạo nhân lực điều dưỡng nói riêng. Lần đầu tiên được ban hành năm 1998,
trải qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung và cập nhật và cùng với sự ra đời của
Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp, các luật này là cơ sở
pháp lý quan trọng để vận hành hệ thống GD&ĐT theo đúng mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, chất lượng NNL sau đào
tạo là nền tảng cơ bản để xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba, cùng với hệ thống các văn bản tác động trực tiếp đến hoạt động
đào tạo điều dưỡng, Luật KB, CB và Luật Viên chức có vai trò tác động gián
tiếp nhưng lại là mục tiêu, định hướng của hoạt động đào tạo. Sản phẩm của
đào tạo nhân lực điều dưỡng nếu đáp ứng được yêu cầu của hệ thống y tế, phù
hợp với từng vị trí việc làm trong hệ thống sẽ góp phần củng cố và gia tăng
sức mạnh của hệ thống y tế. Hệ thống y tế xác định đúng và đủ các yêu cầu
cần có của NNL sẽ giúp cho hoạt động đào tạo có được mục tiêu, định hướng
110
rõ ràng. Chính vì vậy, hệ thống thể chế tác động trực tiếp và tác động gián
tiếp có sự tương hỗ, bổ trợ cho nhau tạo thành hệ thống thể chế thống nhất,
giúp cho công tác đào tạo sẽ ngày càng đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu
sử dụng và mục tiêu cuối cùng là người dân được hưởng một hệ thống y tế có
đội ngũ NNL có chất lượng, qua đó sức khỏe người dân được đảm bảo, góp
phần xây dựng và phát triển đất nước. Có thể xác định rằng: hệ thống thể chế
đào tạo NNLĐD đã được ban hành là hệ thống khá đồng bộ, tương đối thống
nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy QLNN, từng bước đáp ứng
những đòi hỏi của thực tiễn khách quan phát sinh trong quá trình QLNN về
đào tạo NNLĐD.
Thứ tư, để đảm bảo cơ cấu NNL, việc đầu tư phát triển cho các CSĐT
để có đủ năng lực và mở rộng quy mô đào tạo điều dưỡng trình độ cao đẳng,
đại học đã góp phần nâng cao chất lượng NNLĐD, từ đó đã góp phần nâng
cao chất lượng CSSK nhân dân. Quy mô đào tạo mở rộng đã góp phần đáp
ứng yêu cầu cung cấp về số lượng, giải quyết tình trạng thiếu nhân lực điều
dưỡng trong xu hướng gia tăng và già hóa dân số, kinh tế - xã hội, khoa học
kỹ thuật ngày càng phát triển. Các CTĐT điều dưỡng đã được cập nhật, xây
dựng và phát triển với sự hỗ trợ của các chuyên gia quốc tế đã bắt đầu tiếp
cận với xu hướng đào tạo dựa trên yêu cầu năng lực nghề nghiệp sau tốt
nghiệp.
Thứ năm, nhân lực điều dưỡng đã được xác định rõ chức năng, vai trò
và nhiệm vụ trong hoạt động CSSK, vị trí việc làm ở tất cả các tuyến chuyên
môn y tế. Mặc dù cuộc sống còn khó khăn, thu nhập không cao nhưng đa số
người được hỏi có nhận thức rõ ràng về nghề nghiệp, khẳng định hài lòng với
công việc, gắn bó và làm việc lâu dài trong lĩnh vực chuyên môn phụ trách.
Tiêu chuẩn chức danh viên chức nghề nghiệp điều dưỡng đã được xác
định, tạo động lực cho ĐDV có động cơ làm việc và phấn đấu vươn lên. Cơ
111
cấu nhân lực điều dưỡng đã có những chuyển biến, một số địa phương trong
phạm vi khảo sát đã có sự quan tâm, chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng cho ĐDV.
3.3.1.2. Nguyên nhân đạt được các kết quả
Để có được những kết quả đó trước hết là do những quan điểm đúng
đắn và sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT, các
bộ, ngành liên quan cũng như sự đồng thuận của các CSĐT đã triển khai thực
hiện những quy định về quản lý NNLĐD cũng như ban hành những chính
sách về đào tạo NNLĐD.
Xuất phát từ vai trò, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng NNLYT nói
chung và NNLĐD nói riêng, các nguồn ngân sách đầu tư cho đào tạo và phát
triển NNLĐD từng bước được tăng lên, đa dạng hoá các nguồn đầu tư, từ đó
tạo điều kiện cho các CSĐT được tăng cường về cơ sở vật chất và trang thiết
bị hiện đại, tiên tiến đã góp phần vào nâng cao chất lượng đào tạo NNLĐD.
Với những chính sách, chương trình, dự án để định hướng về đào tạo
NNLĐD theo hướng hội nhập quốc tế đã định hướng để đào tạo NNLĐD của
Việt Nam tiếp cận được với những xu hướng, mô hình đào tạo mới, đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng NNL, phục vụ công tác bảo vệ, CSSK nhân dân.
3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chế của quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng
Thứ nhất, việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch vẫn
còn thiếu tính kịp thời và có sự chưa đồng bộ. Khung cơ cấu nhân lực điều
dưỡng chưa được xây dựng và ban hành, chưa xác định rõ nhu cầu nhân lực
điều dưỡng theo từng trình độ và chuyên ngành đào tạo: (i) Cơ cấu nhân lực
điều dưỡng trong hệ thống y tế chưa được xác định cụ thể: cơ cấu về chức
danh, cơ cấu về trình độ, cơ cấu chuyên khoa như thế nào để đảm bảo hoạt
động chuyên môn. Phạm vi hoạt động chuyên môn cho từng trình độ đào tạo
112
chưa được xác định, tiêu chuẩn năng lực cơ bản chưa thực sự rõ ràng theo
trình độ; (ii) Việc tuyển dụng để đảm bảo tỷ lệ điều dưỡng vẫn chưa được
thực hiện đúng dẫn đến số lượng điều dưỡng không đảm bảo, mất cân đối về
trình độ khi đa số vẫn là trình độ trung cấp trong các cơ sở y tế; (iii) Việc dự
báo nhu cầu nhân lực điều dưỡng chưa được rõ ràng, thường xuyên, thông tin
về nhu cầu nhân lực điều dưỡng chưa đầy đủ, chính xác làm cho cơ quan
QLNN về GD&ĐT cũng như các CSĐT chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ làm căn
cứ xác định chỉ tiêu đào tạo hàng năm.
Mô hình đào tạo chưa đảm bảo tính hội nhập và đã bộc lộ một số vấn
đề tồn tại: (i) Chưa gắn với danh hiệu và vị trí việc làm tương ứng với từng
trình độ đào tạo; (ii) Chưa thực sự hội nhập quốc tế: người học sau khi tốt
nghiệp mặc dù chưa được cấp chứng chỉ hành nghề nhưng đã được công nhận
danh hiệu “Điều dưỡng viên”; trình độ trung cấp vẫn được công nhận là
“Điều dưỡng viên”; (iii) Chưa xác định được mô hình và phân luồng đào tạo
chuyên khoa, chưa phân định rõ sự khác nhau giữa đào tạo hệ chuyên khoa và
hệ nghiên cứu; (iv) Chưa có sự phân biệt và xác định được nội dung, chương
trình và đánh giá kết quả thực hành để cấp chứng chỉ hành nghề theo từng
trình độ đào tạo.
Việc triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo và quy
mô đào tạo vẫn còn một số bất cập: (i) Thành lập các trường đại học, cao
đẳng chủ yếu dựa trên quan điểm và nội dung quy hoạch mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng mà chưa tham chiếu đến quy hoạch phát triển của hệ
thống y tế. Điều này cũng thể hiện sự không thống nhất trong quan điểm và
nội dung giữa hai bản quy hoạch, mặc dù hai bản quy hoạch này đều là các
văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cụ thể là:
quy hoạch phát triển ngành y tế được xác định tại các Quyết định số
243/2005/QĐ-TTg ngày 05/10/2005 phê duyệt kế hoạch hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về
113
công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và Quyết định số
153/2006/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể hệ thống y tế Việt Nam giai
đoạn 2006-2010 tầm nhìn 2020 đều xác định quan điểm nâng cấp các trường
trung cấp y tế thành các trường cao đẳng; trong khi đó các Quyết định số
121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 phê duyệt quy hoạch mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 và Quyết định số
37/2013/QĐ-TTg ngày 26/6/2013 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch lại khống
chế số lượng các trường đại học, cao đẳng; (ii) Việc xác định chỉ tiêu và quy
mô đào tạo chỉ thuần túy dựa yếu tố tự xác định năng lực của CSĐT mà
không dựa vào dự báo nhu cầu sử dụng nhân lực, đồng thời lại không có sự
kiểm soát về năng lực thực tế của CSĐT, đã dẫn đến quy mô tuyển sinh quá
lớn, vượt quá nhu cầu sử dụng của ngành Y tế làm ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng đào tạo và dư thừa một lượng lớn người được đào tạo mà không có
việc làm; (iii) Việc mở rộng mạng lưới và quy mô đào tạo chưa tương ứng với
hoạt động thanh tra, kiểm tra dẫn đến nguy cơ không kiểm soát được chất
lượng đào tạo.
Thứ hai, hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD chưa thể hiện được đầy đủ
và triệt để quan điểm, đường lối phát triển và hội nhập của Đảng và Nhà
nước. Đảng ta đã có nhiều văn bản khẳng định quan điểm giáo dục là quốc
sách hàng đầu và sức khỏe là vốn quý nhất của con người và xã hội. Do đó,
việc giáo dục để tạo ra nguồn lực để bảo vệ sức khỏe rõ ràng phải là một
trong những ưu tiên hàng đầu và cần phải có một cơ chế “đặc biệt”. Chủ
trương hội nhập quốc tế đã được khẳng định từ rất lâu. Trong quá trình xây
dựng và ban hành văn bản đều có nghiên cứu, tham khảo các mô hình quốc tế
nhưng hệ thống thể chế đào tạo điều dưỡng của Việt Nam vẫn chưa đảm bảo
yêu cầu hội nhập là một tồn tại cần được giải quyết.
Hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD chưa đảm bảo đầy đủ tính toàn diện,
thống nhất và kịp thời trong hệ thống pháp luật. Mặc dù hệ thống thể chế đã
114
tiếp cận ở cả góc độ hoạt động đào tạo và chính sách sử dụng nhân lực điều
dưỡng. Việc giao cho quyền tự chủ cho các CSĐT nhưng chưa hoàn thiện hệ
thống các tiêu chuẩn, tiêu chí đặc thù về kiểm định chất lượng giáo dục trong
đào tạo điều dưỡng và chưa gắn với hoạt động thanh tra, kiểm tra dẫn đến
chất lượng đào tạo NNLĐD chưa được kiểm soát đầy đủ. Việc không tổ chức
kỳ thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề dẫn đến nhận thức của xã hội là
việc cấp chứng chỉ hành nghề trở thành một thủ tục hành chính mà không đạt
được mục tiêu kiểm soát chất lượng, không tạo động lực để các CSĐT phải
đảm bảo chất lượng đào tạo. Quy định về xây dựng đề án vị trí việc làm chưa
tính đến đặc thù đào tạo NNLYT là đào tạo phải gắn với thực hành, cơ sở
thực hành là yếu tố bắt buộc trong hoạt động của CSĐT, người giảng viên
chuyên ngành phải được xác định vị trí việc làm và tham gia làm việc chuyên
môn tại cơ sở thực hành và ngược lại. Việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở y
tế dẫn đến yêu cầu phải đảm bảo đời sống cho nhân viên nên hầu hết các bệnh
viện đều không tuyển đủ số lượng điều dưỡng theo yêu cầu. Thực tế đó dẫn
đến sự dư thừa nhân lực sau đào tạo và quá tải công việc của ĐDV trong khi
chế độ đãi ngộ chưa hoàn toàn xứng đáng.
Đào tạo NNLĐD từ trung cấp đến thạc sĩ, tiến sĩ đều được hành nghề
với chức danh điều dưỡng, trong khi đó đào tạo trình độ cao đẳng, trung cấp
do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý, đào tạo trình độ đại học,
thạc sĩ, tiến sĩ do Bộ GD&ĐT quản lý và đào tạo chuyên khoa 1 do Bộ Y tế
quản lý. Thực trạng này dẫn đến hệ thống thể chế về đào tạo thiếu sự đồng bộ
và thống nhất.
Hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD chưa đảm bảo đúng vai trò trong nội
dung QLNN. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, để đảm bảo hiệu
lực, hiệu quả QLNN thì vấn đề đầu tiên chính là hệ thống pháp luật phải được
hoàn thiện. Đó chính là công cụ quan trọng nhất trong chỉ đạo điều hành, là
115
cơ sở để thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi các nội dung QLNN về
GD&ĐT. Chính việc chưa hoàn thiện và đảm bảo tính tổng thể, vĩ mô sẽ làm
giảm hiệu lực, hiệu quả QLNN.
Hoạt động đảm bảo chất lượng chưa được quan tâm, kiểm định chất
lượng hiện mới chỉ ở đánh giá trong, đang bắt đầu triển khai đánh giá ngoài,
chưa áp dụng kiểm định CTĐT mặc dù đã có thông tư hướng dẫn của Bộ
GD&ĐT.
Thứ ba, chức năng, vai trò của các chủ thể QLNN chưa rõ ràng, chưa
có sự thống nhất trong tiếp cận và chỉ đạo điều hành. Bộ GD&ĐT và Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội là cơ quan QLNN về GD&ĐT ở trung ương
nhưng cơ chế tham vấn về chuyên môn không được thể chế hóa, Bộ Y tế là cơ
quan QLNN chuyên ngành, sử dụng sản phẩm sau đào tạo nhưng chưa có vai
trò đối với các hoạt động quản lý đào tạo. Việc xác định quy hoạch mạng
lưới, mở trường, mở ngành vẫn chưa có cơ chế kiểm soát đồng bộ giữa Bộ
GD&ĐT, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế dẫn đến thực trạng
đào tạo nặng về thương mại mà chưa xác định xem đã phù hợp và đáp ứng
yêu cầu và nhu cầu sử dụng hay không. Việc xác định tiêu chuẩn và phát triển
đội ngũ giảng viên chuyên ngành vẫn còn chậm, đa số giảng viên vẫn là các
bác sỹ tham gia giảng dạy. Việc thể chế hóa để xác định năng lực đào tạo
NNLĐD gồm cả cơ sở thực hành của CSĐT, trong đó xác định vai trò của
người giảng viên của cơ sở thực hành tham gia dạy và học và được công nhận
là giảng viên cơ hữu vẫn còn khó khăn.
Thứ tư, đầu tư của Nhà nước cho đào tạo NNLĐD chưa phù hợp với
yêu cầu đào tạo NNLĐD, chế độ học phí chưa phù hợp giữa trong và ngoài
công lập. Chế độ đãi ngộ đối với ĐDV thấp nên chưa thực sự khuyến khích,
thu hút người lao động.
Thứ năm, hoạt động tự chủ vẫn còn hạn chế; hoạt động thanh tra, kiểm
tra, tổng kết đánh giá vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và thường xuyên,
116
chưa có sự quan tâm đúng mức của cơ quan QLNN về GD&ĐT, chưa có sự
phối hợp giữa cơ quan QLNN về GD&ĐT với cơ quan QLNN chuyên ngành.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế của QLNN về đào tạo NNLĐD có thể xác định vừa là
kết quả vừa là nguyên nhân mang tính nội tại từ chính trong các hoạt động
quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có thể xác định do một số nguyên nhân
mang tính khách quan.
Về vấn đề nhận thức
Một là, do hoạt động QLNN về đào tạo NNLĐD của nước ta mới được
hình thành và từng bước hoàn thiện trong khoảng hơn chục năm trở lại đây.
Nhiều nội dung vẫn còn rất mới mà chúng ta chưa có kinh nghiệm thực tiễn
để thực hiện như vấn đề cơ cấu nhân lực, vị trí việc làm, tiêu chuẩn, tiêu chí
kiểm định chất lượng giáo dục, vấn đề tổ chức kỳ thi quốc gia để cấp chứng
chỉ hành nghề.
Hai là, do cơ chế xây dựng pháp luật hiện nay dẫn đến sự thiếu đồng
bộ, thống nhất, bình đẳng trong hệ thống các văn bản pháp luật. Hầu hết luật
và các văn bản hướng dẫn liên quan đến lĩnh vực nào thì do bộ, ngành phụ
trách lĩnh vực đó chủ trì xây dựng và soạn thảo. Thực tế đó dẫn đến việc ở
một mức độ nào đó, bộ, ngành khi xây dựng văn bản sẽ bị ảnh hưởng tư
tưởng "cát cứ" nên đưa vào những nội dung, điều khoản có lợi nhất cho bộ,
ngành mình mà không xác định mục tiêu chính là vì chất lượng NNL mà đối
với lĩnh vực điều dưỡng thì NNL đó phải đáp ứng được yêu cầu sử dụng của
hệ thống y tế. Khi xây dựng hệ thống thể chế về hoạt động nghề nghiệp và sử
dụng NNLĐD thì chưa tiếp cận đến việc tổ chức đào tạo đã phù hợp với đặc
điểm đào tạo của ngành hay chưa, cần phải điều chỉnh những nội dung nào?
Khi xây dựng hệ thống thể chế về hoạt động đào tạo điều dưỡng chưa xem xét
xem đã phù hợp với yêu cầu hoạt động nghề nghiệp hay chưa, cần điều chỉnh
nội dung nào? Khi xây dựng thể chế hoạt động nghề nghiệp và đào tạo điều
117
dưỡng chưa xác định được là những quy định đó có phù hợp với thông lệ
quốc tế hay không khi mà chúng ta đã tham gia thỏa thuận về công nhận lẫn
nhau với nhiều nước và nhiều khu vực khác nhau. Sự phân công và xác định
vai trò QLNN giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục (Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) chưa phù hợp, dẫn đến vai trò
gần như “độc quyền” của cơ quan QLNN về giáo dục mà chưa xác định rõ vai
trò của cơ quan QLNN chuyên ngành (Bộ Y tế) và chưa có cơ quan kiểm soát
chất lượng độc lập dẫn đến hoạt động đào tạo chưa phù hợp với yêu cầu và
nhu cầu sử dụng nhân lực theo đúng quy luật cung cầu.
Ba là, do sự trì trệ của nền hành chính và cách tiếp cận của những
người xây dựng và thực thi pháp luật. Ở một mức độ nào đó, do ảnh hưởng
của tư duy bao cấp nên khi xây dựng thể chế vẫn đặt nặng về cơ chế xin - cho,
vai trò “độc quyền” của một cơ quan quản lý mà chưa lấy mục tiêu chất lượng
NNL và chất lượng CSSK của người dân làm yếu tố cơ bản để xác định xem
cần có hệ thống thể chế, bộ máy quản lý như thế nào cho phù hợp để đạt mục
tiêu ấy.
Bốn là, do thiếu nguồn lực - tài chính công hạn hẹp. Để có được hệ
thống văn bản có nội dung phù hợp với tình hình thực tiễn và xu thế phát triển
thì trước khi ban hành cần có những nghiên cứu, khảo sát, điều tra và thăm
quan học tập, trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài nước. Để thực hiện được
những hoạt động đó thì đòi hỏi cần phải có nguồn kinh phí hỗ trợ. Với quy
định như hiện nay, các bước để xây dựng văn bản đã được xác định rất rõ
nhưng kinh phí hỗ trợ quá hạn hẹp dẫn đến thực trạng có những bước thực
hiện vẫn còn mang tính hình thức mà chưa thực sự đi vào thực chất. Để có thể
xây dựng và vận hành hệ thống thể chế phù hợp và hiệu quả thì bộ máy quản
lý cũng như đội ngũ những người làm việc trong bộ máy đó cũng phải đảm
bảo về cơ cấu và số lượng. Trong điều kiện hiện nay, việc rà soát và xác định
118
bộ máy quản lý hợp lý cả về tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý là một vấn đề
cần được ưu tiên.
Năm là, do yếu tố lịch sử với một thời gian dài nước ta trong giai đoạn
chiến tranh, chính vì vậy nhiều mô hình và quan điểm đào tạo vẫn duy trì mà
chưa được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế.
Về cơ chế quản lý
Một là, cơ chế phối hợp liên ngành chưa rõ ràng do tư tưởng "cát cứ"
của cơ quan quản lý;
Hai là, việc nở rộ các CSĐT và quy mô đào tạo do thực hiện quy hoạch
chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan quản lý trong quy hoạch về lĩnh vực
giáo dục nói chung với quy hoạch hệ thống y tế nói riêng;
Ba là, kinh phí dành cho giáo dục và y tế thấp, xu hướng giao quyền tự
chủ, việc xác định quy mô đào tạo do CSĐT tự xác định nên CSĐT luôn có
xu hướng tăng chỉ tiêu đào tạo để tăng nguồn thu, cơ sở y tế hạn chế tuyển
dụng về số lượng và trình độ cao để hạn chế số chi dẫn đến thực tế là trong cơ
sở y tế thì thiếu điều dưỡng mà ngoài xã hội vẫn còn nhiều người được đào
tạo nhưng chưa có việc làm.
Bốn là, chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát và việc xử lý vi phạm
chưa nghiêm.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Qua nghiên cứu thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD thông qua việc
phân tích tài liệu thứ cấp, điều tra khảo sát, thực trạng NNLĐD cho thấy
QLNN về đào tạo NNLĐD thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả rất tích
cực: hệ thống thể chế, chính sách được hệ thống hóa và đề cập đồng bộ ở cả 3
nội dung là hoạt động đào tạo, hoạt động nghề nghiệp và chế độ sử dụng nhân
119
lực điều dưỡng từng bước đáp ứng yêu cầu của QLNN về đào tạo NNLĐD.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được cũng bộc lộ một số điểm hạn chế
cần phải giải quyết đó là: (i) việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch vẫn còn thiếu tính kịp thời và có sự chưa đồng bộ; (ii) hệ
thống thể chế đào tạo NNLĐD chưa thể hiện được đầy đủ và triệt để quan
điểm, đường lối phát triển và hội nhập của Đảng và Nhà nước về giáo dục và
đào tạo và về y tế; (iii) chức năng, vai trò của các chủ thể QLNN chưa rõ
ràng, chưa có sự thống nhất trong tiếp cận và chỉ đạo điều hành; (iv) đầu tư
của Nhà nước, các nguồn lực và học phí cho đào tạo NNLĐD chưa phù hợp
với yêu cầu đào tạo NNLĐD; (v) hoạt động tự chủ và hoạt động thanh tra,
kiểm tra, tổng kết, đánh giá còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và thường
xuyên, thống nhất.
Chương 3 của luận án phân tích những kết quả đạt được và nguyên
nhân, những hạn chế và chỉ rõ những nguyên nhân của những hạn chế trong
QLNN về đào tạo NNLĐD. Các phân tích nói trên là những căn cứ thực tiễn
quan trọng để tác giả luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về đào
tạo NNLĐD ở Việt Nam trong thời gian tới.
120
Chương 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG Ở VIỆT NAM
4.1. Dự báo nhu cầu và xu hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
của Việt Nam
4.1.1. Dự báo nhu cầu nhân lực điều dưỡng của Việt Nam
Quyết định số 2992/QĐ-BYT ngày 17/7/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế
phê duyệt kế hoạch phát triển nhân lực trong hệ thống KB, CB giai đoạn
2015-2020, theo đó Bộ Y tế dự báo nhu cầu NNLĐD đạt chỉ tiêu 20 điều
dưỡng cho 10.000 dân; đạt 30% tổng số điều dưỡng có trình độ cao đẳng và
đại học.
Bảng 4.1. Dự báo nhu cầu nhân lực điều dưỡng tới năm 2020
Đơn vị: Người
Loại nhân lực (người)
Năm 2015 (*)
Số cần bổ sung
Dự báo đến năm 2020 (**)
Đồng bằng sông Hồng
33.958
45.392
11.434
Trung du và miền núi phía Bắc
14.870
37.604
22.734
48.878
21.411
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
27.467
Tây Nguyên
5.738
13.429
7.691
Đông Nam Bộ
24.612
36.363
11.751
Đồng bằng sông Cửu Long
17.948
43.679
25.731
Tổng số
124.593
225.345
100.752
Nguồn: Kết quả điều tra thực trạng nhân lực điều dưỡng 2015 và Quyết định
số 2992/QĐ-BYT ngày 17/ 7/2015
Ghi chú: (*) Số liệu theo kết quả khảo sát năm 2015. (**): Dự báo dựa vào dân số đến năm 2020 là 97,5 triệu, mỗi năm NLYT bị tiêu hao 5% do nghỉ hưu, chuyển công tác - số liệu theo Quyết định 2992/QĐ-BYT ngày 17/7/2015.
121
Qua tính toán dựa trên kết quả khảo sát năm 2015, số lượng điều dưỡng
cần bổ sung đến năm 2020 là khoảng 100.752 người cao hơn dự báo của Bộ Y
tế theo Quyết định 2992/QĐ-BYT nói trên (Bảng 4.1).
Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát năm 2015, có sự khác biệt giữa các
cách xác định nhu cầu nhân lực khác như: quy hoạch phát triển nhân lực y tế,
ước tính theo tỷ lệ nghỉ hưu, theo ước tính của lãnh đạo địa phương/đơn vị và
theo chuẩn khu vực ASEAN (Bảng 4.2).
Bảng 4.2. So sánh nhu cầu điều dưỡng Việt Nam đến năm 2020
theo các phương án
Đơn vị: Người
Phương án xác định
Dự báo đến năm 2020
Số cần bổ sung
225.345
100.752
Quyết định số 2992/QĐ-BYT ngày 17/7/2015 phê duyệt kế hoạch phát triển nhân lực trong hệ thống KB, CB giai đoạn 2015-2020 Dự báo theo Quy hoạch phát triển nhân lực y tế Dự báo theo tốc độ tuyển dụng và nghỉ hưu hàng năm Dự báo theo ước tính của lãnh đạo địa phương Dự báo nếu đạt chuẩn khu vực (Thái Lan năm 2010)
219.019 151.673 144.515 150.000
151.382 27.080 18.519 25.407
Với những cách tiếp cận về nhu cầu như trên, cơ quan quản lý cần thận
trọng khi công bố chính sách phát triển và đào tạo nhân lực điều dưỡng trong
tương lai để tránh việc tăng quy mô đào tạo dẫn đến dư thừa nhân lực và gây
lãng phí xã hội.
4.1.2. Xu hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng trên thế giới
4.1.2.1. Xu hướng hội nhập và công nhận lẫn nhau
Xu hướng toàn cầu hóa làm cho việc di cư dân số cũng như di chuyển
lao động có tay nghề giữa các nước trong một khu vực hay từ khu vực này
sang khu vực khác. Bên cạnh đó, trong điều kiện thiếu nhân lực điều dưỡng
trong nước, nhiều nước có nhu cầu nhập khẩu lao động điều dưỡng đã qua
đào tạo từ các nước khác. Để tiết kiệm chi phí đào tạo thì sẽ là lý tưởng nếu
điều dưỡng đã được đào tạo của nước xuất khẩu lao động điều dưỡng đáp ứng
122
được các điều kiện, tiêu chuẩn, tiêu chí của nước tiếp nhận lao động điều
dưỡng. Để giải quyết điều này thì các nước sử dụng nhân lực cần đưa ra các
tiêu chuẩn, tiêu chí, điều kiện để làm việc, hành nghề điều dưỡng tại nước chủ
nhà và công bố các yêu cầu theo từng tiêu chuẩn, tiêu chí để tuyển dụng.
Ở phạm vi các tổ chức quốc tế, nhiều khu vực đã thống nhất chung
những thỏa thuận về giáo dục điều dưỡng, cụ thể là:
- Năm 2001, Liên minh châu Âu đã ban hành và công bố “Các tiêu
chuẩn liên minh châu Âu cho điều dưỡng và hộ sinh: thông tin cho các nước
gia nhập” [74];
- Năm 2006, Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ký “Thỏa thuận khung
công nhận lẫn nhau về điều dưỡng (MRA)” [63];
- Năm 2009, WHO đã ban hành “Tiêu chuẩn toàn cầu về đào tạo cơ bản
cho điều dưỡng và hộ sinh chuyên nghiệp” [88].
Như vậy, với xu hướng này, qua mô hình quản lý và đào tạo điều
dưỡng ở các nước đã nghiên cứu ở trên, chúng ta thấy rằng mỗi quốc gia cần
phải có chiến lược để NNLĐD sau đào tạo của nước mình phải đáp ứng được
những tiêu chuẩn, tiêu chí của khu vực và các nước đã có thỏa thuận trao đổi
điều dưỡng. Để đạt được mục tiêu này, khi thiết kế và phát triển CTĐT cơ sở
giáo dục cần phải nghiên cứu tiếp cận với xu hướng đào tạo, chuẩn nghề
nghiệp, các khái niệm cũng như CTĐT của các nước cũng như các tiêu chuẩn,
quy định của các tổ chức quốc tế mà quốc gia mình tham gia. Bên cạnh việc
đổi mới phát triển chương trình, một nội dung quan trọng trong xu hướng tiếp
cận này là vấn đề khung trình độ và văn bằng của người hành nghề để có thể
công nhận lẫn nhau. Nhiều nước trong khu vực châu Âu đã nhóm họp và
thống nhất nguyên tắc theo tiến trình Bologna (Bologna process). Tổ chức
UNESO cũng đã công bố Bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế về giáo dục
(International Standard Classification of Education) làm cơ sở để cho các
quốc gia tham khảo.
123
Với xu hướng này, với vai trò của mình, Việt Nam cần phải có những
chính sách và khung thể chế phù hợp như:
- Xác định mô hình đào tạo phù hợp với mô hình đào tạo của các nước
trong khu vực hoặc liên minh mà Việt Nam tham gia. Trước hết, trong khuôn
khổ ASEAN, Việt Nam cần có mô hình đào tạo và hệ thống văn bằng tương
ứng với các nước trong khu vực để đảm bảo tương thích và công bằng khi
công nhận lẫn nhau. Có như vậy thì mới đảm bảo tính công bằng, ĐDV Việt
Nam mới có thể chủ động tham gia thị trường lao động trong nước cũng như
có cơ hội làm việc ở nước ngoài.
- Xây dựng và ban hành các quy định về việc tổ chức kỳ thi quốc gia để
cấp giấy phép hành nghề. Theo xu hướng quốc tế, kỳ thi quốc gia là hàng rào
chuyên môn để xác định mặt bằng chất lượng tối thiểu của ĐDV khi tham gia
tham gia thị trường lao động và hệ thống y tế. Thông qua đó để xác định được
năng lực cần thiết của ĐDV, dù ĐDV được đào tạo ở nước sử dụng hay nước
ngoài có nhu cầu đến làm việc chuyên môn điều dưỡng ở nước sử dụng đều
phải đạt được. Có như vậy các CSĐT tại nước sử dụng nhân lực mới xác định
được sản phẩm đào tạo của mình đã đáp ứng được yêu cầu sử dụng hay chưa,
sẽ là cơ sở để phân tầng và xếp hạng cơ sở giáo dục.
4.1.2.2. Xu hướng tiếp cận theo hệ thống, đào tạo dựa trên năng lực
Năm 2010, các tác giả Julio Frenk, Lincoln Chen và cộng sự đã công
bố kết quả nghiên cứu ở phạm vi nhiều nước trên thế giới với chủ đề Cán bộ
chuyên môn y tế của thế kỷ mới: Cải cách giáo dục nhằm tăng cường hệ
thống y tế trong một thế giới tương hỗ lẫn nhau [71, tr.19-24]. Nghiên cứu đã
chỉ ra những vấn đề bất cập trong GD&ĐT chuyên môn y tế ở ba lĩnh vực là y
khoa, điều dưỡng và y tế công cộng. Các tác giả cũng đã chỉ ra sự bất cập
trong cách tiếp cận giáo dục dựa trên vấn đề và đề xuất cần phải đổi mới giáo
dục theo hướng tiếp cận hệ thống, giáo dục phải dựa trên năng lực đạt được
của người học, đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm trong hệ thống y tế.
124
Tiếp cận đào tạo dựa trên năng lực xuất hiện trong khoảng hơn mười
năm trở lại đây. Thông qua các kỳ thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề,
nhiều quốc gia đã đánh giá được năng lực của mỗi người sau quá trình đào
tạo. Để tiếp cận theo hướng này, các quốc gia hay vùng lãnh thổ cần phải
công bố chuẩn năng lực cơ bản cho điều dưỡng. Trong tiến trình hình thành
Cộng đồng kinh tế ASEAN, các nước trong khu vực đã công bố chuẩn năng
lực cơ bản của điều dưỡng. Để thực hiện theo hướng tiếp cận này, các cơ sở
giáo dục phải đổi mới chương trình, chuẩn bị các nguồn lực bao gồm cả năng
lực giảng viên, trang thiết bị dạy và học, tài liệu giáo trình, phương pháp đánh
giá, công cụ lượng giá.
Xu hướng tiếp cận hệ thống còn phải được xác định là quy hoạch đào
tạo NNLĐD phải phù hợp và đáp ứng yêu cầu sử dụng. Việc mở trường, mở
ngành phải đảm bảo cơ cấu hợp lý vùng miền, mật độ dân số, đào tạo phải
gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng của hệ
thống y tế.
Vai trò của Nhà nước đối với xu hướng này, ngoài việc quy định về tổ
chức kỳ thi quốc gia để cấp giấy phép hành nghề để kiểm soát chất lượng
NNL đầu vào cho hệ thống y tế (gián tiếp kiểm soát đầu ra của quá trình đào
tạo), Nhà nước cần có một số biện pháp cũng như chính sách phù hợp đó là:
(i) Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp cơ bản, xác định
chuẩn đầu ra cho từng trình độ đào tạo theo đúng yêu cầu sử dụng nhân lực
trong hệ thống y tế, làm cơ sở để các cơ sở đào tạo xác định chuẩn đầu ra của
từng chương trình đào tạo; (ii) Xây dựng bộ công cụ phù hợp để đánh giá
ĐDV đã đạt chuẩn hay chưa; (iii) Có chính sách đầu tư cho giáo dục để các
cơ sở giáo dục có đủ các điều kiện cần thiết để xây dựng, phát triển và thực
hiện CTĐT; Có hệ thống thể chế, chính sách phù hợp để đảm bảo kiểm soát
việc mở trường, mở ngành phù hợp với nhu cầu sử dụng của hệ thống y tế.
125
4.1.2.3. Xu hướng tiếp cận dựa trên bằng chứng và thực tiễn chuyên ngành
Xu hướng này dựa trên nguyên lý mục tiêu cuối cùng là ĐDV có thể chủ
động khi tiếp cận với thực tiễn hoạt động chuyên môn nghề nghiệp và việc làm
sau tốt nghiệp. Chính vì vậy, xu hướng này xác định là cần phải cho sinh viên
điều dưỡng tiếp cận sớm nhất với thực tiễn môi trường làm việc chuyên
ngành, các trường sẽ cho sinh viên đến bệnh viện hoặc các cơ sở y tế ngay từ
năm đầu tiên. Đồng thời, sau khi tốt nghiệp, người học sẽ phải trải qua một
giai đoạn thực hành chuyên môn tại các cơ sở y tế theo mô hình đào tạo nội
trú bệnh viện (internship/residency) như đã áp dụng cho đào tạo y khoa [72].
Trong điều kiện môi trường chuyên môn y tế ngày càng phức tạp, việc
giáo dục theo hướng tiếp cận dựa vào bằng chứng và thực tiễn chuyên ngành
còn xác định ở góc độ trong thực tiễn làm việc là môi trường làm việc đa
ngành và làm việc nhóm là một yêu cầu tất yếu. Nhóm làm việc đa ngành bao
gồm bác sỹ, dược sỹ, điều dưỡng là chủ yếu với mối quan hệ trực tiếp tương
tác trong quá trình điều trị và chăm sóc người bệnh. Bên cạnh đó là các nhân
viên chuyên môn khác như kỹ thuật viên, công tác xã hội, bảo hiểm y tế. Việc
hiểu được hoạt động chuyên môn của các đối tác nhân viên y tế trong nhóm
làm việc và sự chia sẻ lẫn nhau trong nhóm là rất quan trọng để thực hiện
cách tiếp cận này.
Chính vì vậy, với cách tiếp cận này, cơ sở giáo dục phải đảm bảo trong
quá trình giáo dục, người sinh viên điều dưỡng ngoài việc hiểu được vai trò,
chức năng và các hoạt động chuyên môn của ngành mình cần phải được tiếp
cận về vai trò, chức năng và các hoạt động chuyên môn của một bác sỹ, dược
sỹ, kỹ thuật viên, nhân viên công tác xã hội, nhân viên bảo hiểm y tế. Trong
quá trình học tập, người sinh viên cần được học cách giao tiếp, chia sẻ với các
đối tác thông qua học tập mô phỏng và thực tế lâm sàng tại các cơ sở y tế.
Trong cách tiếp cận này, vai trò của Nhà nước là cần có những chính
sách phù hợp đối với đào tạo nhân lực điều dưỡng để quá trình đào tạo phải
126
gắn liền với các cơ sở y tế. Để thực hiện được yêu cầu này, cần có những
chính sách để đảm bảo ĐDV có được cơ hội tiếp cận và thực hành chuyên
môn sớm nhất trên nguyên tắc phải đảm bảo tuôn thủ các quy chế chuyên
môn, đảm bảo an toàn người bệnh và chất lượng dịch vụ y tế. Như vậy, trong
các điều kiện, tiêu chuẩn, tiêu chí để đào tạo NNLĐD, thì tiêu chuẩn, tiêu chí
về cơ sở thực hành phải là một nội dung bắt buộc.
Một đặc điểm rất quan trọng và thể hiện tính đặc thù trong đào tạo
NNLĐD là để có thể giảng dạy được kiến thức, kỹ năng chuyên môn, người
giảng viên chuyên ngành vừa tham gia giảng dạy tại nhà trường thì cũng phải
thường xuyên làm việc chuyên môn hàng ngày tại cơ sở y tế. Như vậy, cùng
với những tiêu chuẩn, tiêu chí chung để trở thành giảng viên chuyên ngành,
người giảng viên chuyên ngành vừa phải được đào tạo về kỹ năng giảng dạy
lâm sàng vừa phải có đủ năng lực để được cấp giấy phép hành nghề và hành
nghề thực tế tại cơ sở y tế. Bên cạnh đó, những người làm việc tại các cơ sở y
tế là cơ sở thực hành nếu có đủ năng lực và trình độ thì cần được tập huấn về
phương pháp giảng dạy lâm sàng để tham gia hướng dẫn cho sinh viên. Để
thực hiện được yêu cầu này, chính sách về giảng viên của cả cơ sở giáo dục
và cơ sở y tế phải được xây dựng phù hợp với đặc điểm đào tạo thực hành
nghề nghiệp điều dưỡng bao gồm về: hoạt động giảng dạy, hoạt động chuyên
môn, cơ chế xác định vị trí việc làm.
4.2. Định hướng đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã xác định nhiệm vụ:
kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Sắp xếp
lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán
bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung tâm
đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Nghiên cứu
và bổ sung luật pháp để bảo vệ sinh mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của người
127
bệnh và của cán bộ y tế trong lúc làm nhiệm vụ; thực hiện bảo hiểm rủi ro
nghề nghiệp đối với cán bộ y tế [6]. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế cũng chỉ rõ: phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật
khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng [5].
Trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của Đảng về GD&ĐT nói chung và
đào tạo NNLYT nói riêng, nghiên cứu những yếu tố tác động đến QLNN,
những xu hướng đào tạo và thực trạng QLNN về đào tạo NNLĐD, để đảm
bảo mục tiêu cuối cùng của đào tạo là có một đội ngũ NNLĐD có chất lượng,
năng lực chuyên môn vững vàng, phù hợp với hệ thống y tế Việt Nam, công
tác QLNN về đào tạo NNLĐD cần được định hướng cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ yêu cầu về chất lượng và nhu cầu về cơ cấu
nhân lực điều dưỡng trong hệ thống y tế đối với từng loại hình, trình độ, số
lượng. Trên cơ sở đó xác định mô hình đào tạo điều dưỡng phù hợp với yêu
cầu nhân lực điều dưỡng trong hệ thống y tế Việt Nam, phù hợp với xu hướng
chung của các nước trong khu vực và thế giới. Đây cũng là nội dung để triển
khai các quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 18/10/2016:
Quyết định số 1981/QĐ-TTg phê duyệt Khung cơ cấu giáo dục quốc dân và
Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống chính sách về đào tạo NNLĐD phải đảm
bảo đồng bộ từ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và các chế độ đãi ngộ đối với
128
NNLĐD. Các chính sách này cần được thể chế hoá kịp thời thành các văn bản
quy phạm pháp luật để bảo đảm tính tuân thủ, đồng thời cần thường xuyên rà
soát, điều chỉnh cho phù hợp tình hình kinh tế - xã hội thay đổi, nhằm tạo môi
trường pháp lý rõ ràng, minh bạch và hợp lý cho việc phát triển NNLĐD đáp
ứng nhu cầu của xã hội, cung cấp các dịch vụ y tế ngày càng cao cả về số
lượng, chất lượng, phù hợp với xu hướng chung của các nước trong khu vực
và thế giới. Tăng cường hiệu lực của hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát
đối với việc thực hiện các chính sách về đào tạo NNLĐD để kịp thời tham
mưu điều chỉnh sửa đổi những bất cập trong chính sách hiện hành.
Thứ ba, tiếp tục kiện toàn, củng cố và phát triển hệ thống y tế ở tất cả
các tuyến từ trung ương đến địa phương, công lập và ngoài công lập. Rà soát,
củng cố và tiếp tục đầu tư cho hệ thống các CSĐT nhân lực điều dưỡng, xác
định quy mô đào tạo phù hợp theo từng loại hình và trình độ đào tạo, đáp ứng
nhu cầu đa dạng và đảo đảm cung cấp đủ NNLĐD có chất lượng cho hệ thống
y tế ở các lĩnh vực phòng bệnh, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, CSSK
cộng đồng.
Thứ tư, thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng một cách thỏa đáng,
phù hợp theo vùng, miền, lĩnh vực để thu hút, khuyến khích, động viên đội
ngũ ĐDV yên tâm công tác, phát huy tối đa năng lực của họ trong hoạt động
nghề nghiệp, nâng cao chất lượng bảo vệ và CSSK nhân dân. Từng bước thực
hiện mục tiêu NNLĐD đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, cơ cấu
và phân bố hợp lý, để góp phần nâng cao chất lượng bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe của nhân dân hướng tới mục tiêu công bằng, hiệu quả và
phát triển. Thực hiện quản lý hiệu quả NNLĐD thông qua việc xây dựng quy
trình hoạt động chuẩn, căn cứ vào các bản mô tả chức năng, nhiệm vụ, vị trí
việc làm, theo dõi, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động của NNLYT, thực
hiện chế độ đãi ngộ gắn với mức độ hoàn thành công việc.
129
Thứ năm, hoàn thiện các chế độ đãi ngộ đối với ĐDV phù hợp với tính
chất công việc và khuyến khích họ thực sự dành tâm huyết cho hoạt động
nghề nghiệp, bảo đảm thu nhập của điều dưỡng đạt mức tối thiểu mà không
có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực kinh tế - xã hội, giữa khu vực công lập
và ngoài công lập. Có các chính sách để đảm bảo an toàn, bảo vệ quyền lợi và
rủi ro nghề nghiệp cho ĐDV. Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho
ĐDV, đặc biệt là ở y tế cơ sở, các lĩnh vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
4.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực
điều dưỡng ở Việt Nam
4.3.1. Giải pháp thống nhất quy hoạch, kế hoạch, cơ cấu nhân lực,
mô hình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực điều dưỡng
Trên cơ sở định hướng, chiến lược phát triển NNLYT và phát triển
ngành, cần làm rõ nhu cầu cơ cấu nhân lực điều dưỡng trong hệ thống y tế
bao gồm: tổng quy mô nhân lực, cơ cấu theo trình độ và chuyên ngành. Đồng
thời, Nhà nước cần có quy hoạch đào tạo và phát triển NNLĐD trong tương
lai theo chu kỳ từng năm, từng giai đoạn. Trên cơ sở đó, xác định mạng lưới
cơ sở đào tạo và quy mô đào tạo hợp lý.
4.3.1.1. Đổi mới mô hình đào tạo nhân lực điều dưỡng và quy hoạch cơ
cấu nguồn nhân lực điều dưỡng
Đây là nội dung làm tiền đề cho việc xây dựng các chính sách liên
quan. Việc nghiên cứu mô hình đào tạo phù hợp theo xu hướng chung và phù
hợp với khung trình độ của ASEAN, điều này sẽ giúp cho điều dưỡng Việt
Nam sẽ được công nhận trong khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, các cơ quan
QLNN mà trực tiếp là Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
phối hợp với Bộ Y tế cần khẩn trương nghiên cứu để sớm phê duyệt Khung
cơ cấu giáo dục quốc dân đối với NNLĐD theo đúng tinh thần Quyết định số
1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
130
Trong điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Cộng đồng Kinh
tế ASEAN đã được thành lập từ 31/12/2015 hình thành thị trường tự do lưu
chuyển lao động đã qua đào tạo, trong đó có điều dưỡng. Công tác đào tạo nói
chung và đào tạo NNLĐD nói riêng cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện
trên nguyên tắc phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam và phù hợp với xu
hướng chung của khu vực và thế giới. Để khắc phục những vấn đề bất cập,
chưa thực sự hội nhập với xu hướng quốc tế trong đào tạo NNLĐD, tác giả đề
xuất đổi mới mô hình đào tạo điều dưỡng của Việt Nam (Sơ đồ 4.1). Mô hình
đào tạo vừa tạo cơ hội thuận lợi cho người học, vừa có tính liên thông giữa
các trình độ đào tạo và đảm bảo tương ứng với mô hình đào tạo của các nước
cả về hình thức đào tạo và chức danh/tên gọi theo trình độ đào tạo và vị trí
việc làm, trong đó lấy nòng cốt chủ yếu là đào tạo 3 năm.
Sơ đồ 4.1. Đề xuất mô hình đào tạo điều dưỡng Việt Nam
Trong xu hướng già hóa dân số, cần nghiên cứu loại hình đào tạo nhân
viên chăm sóc (hoặc trợ lý điều dưỡng) trên cơ sở điều chỉnh CTĐT điều
131
dưỡng 2 năm (trình độ trung cấp hiện nay). Mô hình này cũng phù hợp với xu
hướng của nhiều nước đã triển khai như Thái Lan, Nhật Bản. Đây cũng là
hướng đi giúp cho sự tồn tại và phát triển cho các CSĐT điều dưỡng trình độ
trung cấp khi không có điều kiện nâng cấp thành trường cao đẳng trong quá
trình thực hiện Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày
07/10/2015 của Liên tịch Bộ Y tế - Bộ Nội vụ.
Mô hình mới được xây dựng trên một số nguyên tắc chủ yếu: (i) Phù
hợp và hài hòa chung trong hệ thống giáo dục Việt Nam; (ii) Đảm bảo tính
đặc thù trong đào tạo điều dưỡng là có 2 hướng đào tạo: hướng nghiên cứu và
hướng hành nghề KB, CB; (iii) Có sự kế thừa mô hình đào tạo đang áp dụng,
không gây xáo trộn về cơ cấu nhân lực trong hệ thống y tế; đảm bảo công
bằng, tạo điều kiện thuận lợi và quyền lợi tối đa cho người học khi tham gia
thị trường lao động; đảm bảo tính hội nhập quốc tế, dễ dàng tham chiếu khi
công nhận lẫn nhau về văn bằng và trình độ đào tạo và thi quốc gia để cấp
chứng chỉ hành nghề; đảm bảo tính khả thi và phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Một số điểm mới trong mô hình: (i) Xác định có chức danh “Trợ lý
điều dưỡng” trong cơ cấu NLYT; (ii) Thời gian đào tạo điều dưỡng tối thiểu:
3 năm; (iii) Đào tạo chuyên khoa là đào tạo ngắn hạn để cấp chứng chỉ, không
phải là một trình độ đào tạo. Đào tạo chuyên khoa chỉ áp dụng cho người tốt
nghiệp đại học trở lên. Cử nhân, Thạc sỹ hay Tiến sỹ điều dưỡng muốn hành
nghề chuyên khoa phải trải qua chương trình đào tạo chuyên khoa. Thời gian
đào tạo chuyên khoa tùy thuộc vào từng lĩnh vực chuyên môn, theo yêu cầu
sử dụng của hệ thống y tế.
4.3.1.2. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực điều dưỡng
Trên cơ sở nhu cầu nhân lực, cần xác định số lượng CSĐT phù hợp
theo từng trình độ, trên cơ sở đó có kế hoạch rà soát để sắp xếp lại mạng lưới
CSĐT điều dưỡng, mạnh dạn sáp nhập hoặc chuyển đổi chức năng hoặc giải
132
thể các CSĐT không đủ điều kiện để duy trì hoạt động đào tạo cũng như các
CSĐT không đảm bảo chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, cần có cơ chế, chính
sách để khuyến khích đầu tư, hoặc Nhà nước phải chủ động đầu tư phát triển
các CSĐT điều dưỡng ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Đồng thời, tiếp
tục rà soát, nâng cấp các trường trung cấp chuyên ngành có điều kiện thành
trường cao đẳng, xem xét thành lập một số trường đại học chuyên ngành điều
dưỡng ở một số vùng kinh tế - xã hội.
4.3.1.3. Phát triển nguồn nhân lực điều dưỡng
Để từng bước thực hiện Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-
BNV ngày 07/10/2015 giữa Bộ Y tế và Bộ Nội vụ và hướng tới hội nhập quốc
tế, tránh sự lãng phí xã hội, đảm bảo tỷ lệ người học có việc làm, các cơ quan
QLNN cần nghiên cứu một số giải pháp về phát triển NNLĐD, bao gồm:
Một là, xác định cơ cấu NNLĐD chủ yếu cần có trong hệ thống y tế, số
lượng cần tuyển dụng hàng năm và công bố công khai để có quy mô đào tạo
phù hợp, giảm dần tỷ lệ người được đào tạo nhưng không có việc làm để
tránh lãng phí các nguồn lực của xã hội.
Hai là, xác định lộ trình giảm dần quy mô đào tạo NNLĐD trình độ
trung cấp và xác định quy mô đào tạo trình độ cao đẳng, đại học hợp lý để đáp
ứng yêu cầu cung cấp nhân lực nhưng tránh tình trạng dư thừa gây lãng phí xã
hội, tiến tới dừng đào tạo trình độ trung cấp điều dưỡng vào năm 2018.
Ba là, có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ ĐDV có trình
độ trung cấp đang làm việc trong hệ thống y tế để đáp ứng yêu cầu theo lộ
trình đã đặt ra trong Thông tư liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày
07/10/2015 của liên tịch Bộ Y tế - Bộ Nội vụ.
4.3.2. Giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách về đào tạo nguồn
nhân lực điều dưỡng
4.3.2.1. Chỉnh sửa Nghị định số 115/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của
Chính phủ quy định trách nhiệm QLNN về GD&ĐT.
133
Trong điều kiện chưa có một hệ thống thể chế riêng cho đào tạo
NNLĐD, việc sửa đổi Nghị định số 115/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính
phủ quy định trách nhiệm QLNN về GD&ĐT là cần thiết.
Nội dung cần được chỉnh sửa trong Nghị định 115 là vai trò của Bộ Y
tế đối với việc xác định các tiêu chuẩn, tiêu chí, điều kiện chuyên môn trong
hoạt động đào tạo. Theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 5 của Nghị định
115 thì Bộ Y tế chỉ có vai trò đối với các CSĐT trực thuộc Bộ. Điều này sẽ
không đảm bảo tính hệ thống trong quản lý, dẫn đến việc khó kiểm soát chất
lượng đối với các CSĐT không trực thuộc Bộ Y tế. Chính vì vậy, cần chỉnh
sửa theo hướng nâng cao vai trò của Bộ Y tế trong QLNN về đào tạo NNLYT
trong đó có NNLĐD ở phạm vi cả nước trên nguyên tắc chỉ đề cập đến nội
dung chuyên môn, không trái và không thấp hơn so với những quy định của
Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Những nội dung cần có
vai trò quản lý của Bộ Y tế đó là vai trò trong việc xây dựng và ban hành
những điều kiện, tiêu chuẩn, tiêu chí chuyên môn liên quan đến đào tạo, vai
trò trong việc xác định nhu cầu về sử dụng NNL sau đào tạo bao gồm nhu cầu
về số lượng (quy mô đào tạo) và nhu cầu về những năng lực chuyên môn cần
có của người cán bộ y tế ở từng lĩnh vực trong đó có ĐDV, vai trò phối hợp
trong việc thanh tra, kiểm tra. Quy định chức năng này của Bộ Y tế cũng
tương tự như quy định của các nước đã nghiên cứu về kinh nghiệm QLNN đã
trình bày trong Chương 1 của luận án.
4.3.2.2. Chỉnh sửa, bổ sung các nội dung đặc thù đào tạo ngành điều
dưỡng trong các quy định về tiêu chí mở ngành, mở trường, tuyển sinh, đào
tạo và kiểm định chất lượng giáo dục.
Thông tư số 33/2014/TT-BGDĐT ngày 02/10/2015 của Bộ GD&ĐT đã
đưa ra tiêu chuẩn đánh giá chất lượng CTĐT điều dưỡng trình độ đại học, cao
đẳng. Thông tư đã xác định chuẩn đầu ra của CSĐT phải đáp ứng được chuẩn
năng lực cơ bản cho ĐDV do Bộ Y tế ban hành và chuẩn đạo đức nghề
134
nghiệp do Hội Điều dưỡng ban hành. Để Thông tư thực sự đi vào cuộc sống,
cần xây dựng các bộ công cụ cụ thể với những tiêu chí, chỉ số cụ thể để đánh
giá CTĐT của các trường, tiến tới kiểm định chất lượng CTĐT.
Các tiêu chí phải thể hiện được về nội dung: điều kiện tuyển sinh đầu
vào, tiêu chuẩn giảng viên, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị, chương
trình, nội dung, sách giáo khoa và tài liệu dạy và học, kế hoạch đào tạo,
phương pháp đánh giá sinh viên, các tiêu chí đầu ra.
Việc kiểm định chất lượng giáo dục và xếp hạng các cơ sở giáo dục là
việc làm thường xuyên cần sớm được triển khai theo hướng kiểm định
chương trình. Kết quả kiểm định và xếp hạng được thông báo công khai để xã
hội cũng như người học được tiếp cận thông tin đầy đủ.
4.3.2.3. Ban hành và triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về
tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe
Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Y tế chủ trì xây dựng Nghị định của
Chính phủ về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe.
Dự thảo của Nghị định đã trình Chính phủ từ tháng 10 năm 2016. Chính phủ
và các bộ, ngành liên quan cần sớm ban hành và triển khai thực hiện nghị
định này để từng bước góp phần nâng cao chất lượng đào tạo NNLYT trong
đó có NNLĐD.
4.3.2.4. Xây dựng Nghị định của Chính phủ về đào tạo nguồn nhân lực y tế
Trong điều kiện hiện nay, việc thay đổi các văn bản luật đòi hỏi cần
phải có thời gian, khó có thể triển khai đồng bộ trước năm 2020. Việc nghiên
cứu để xây dựng một Nghị định của Chính phủ quy định chung về đào tạo
NNLYT trong đó có NNLĐD là rất cần thiết. Thông qua Nghị định, Chính
phủ sẽ điều phối vai trò của các cơ quan quản lý, khắc phục được phần lớn
các bất cập đã nêu trên. Nghị định được ban hành sẽ nâng tầm thể chế về đào
tạo NNLĐD nói riêng và đào tạo NNLYT nói chung, đây cũng là tiền đề để tiến
tới hội nhập với hệ thống thể chế của các nước trong khu vực và trên thế giới.
135
4.3.2.5. Tổ chức đánh giá kết quả thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành và đề xuất mô hình quản lý theo hướng hội nhập quốc tế
Thực trạng hệ thống thể chế đào tạo NNLĐD đã bộc lộ những vấn đề
bất cập trước yêu cầu của trong nội tại hệ thống thể chế và cả yêu cầu trong
quá trình hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, các cơ quan QLNN mà trực tiếp
nhất là Chính phủ phải chủ trì lập kế hoạch tổ chức đánh giá kết quả thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mà cao nhất là hệ thống các luật
liên quan đến đào tạo NNLĐD là Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật
Giáo dục nghề nghiệp, Luật Viên chức, Luật KB, CB và các văn bản liên
quan khác. Nội dung này cũng đã được đề cập trong Quyết định số 1981/QĐ-
TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung cơ cấu giáo
dục quốc dân của Việt Nam. Việc tổ chức đánh giá phải đảm bảo yêu cầu
đồng bộ, khách quan, cơ quan đánh giá phải có đủ năng lực thực hiện, đặc
biệt là nhà nước phải đầu tư kinh phí tương ứng để việc triển khai đánh giá
đạt được mục tiêu đề ra.
Tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về đào tạo NNLĐD ở một số
nước, trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay việc hình thành thị trường lao
động tự do trong khu vực ASEAN cũng như các chương trình hợp tác với
nhiều nước khác nhau, để có NNLĐD có trình độ và chất lượng tương đồng
với các nước, việc thể chế hóa cũng cần nghiên cứu để có những chính sách
phù hợp, cần nghiên cứu giải pháp để có thể xây dựng Luật Điều dưỡng của
Việt Nam trong đó có quy định về kỳ thi quốc gia và thành lập Hội đồng Điều
dưỡng Việt Nam trong thời gian sớm nhất.
4.3.2.6. Hoàn thiện chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với nguồn nhân lực
điều dưỡng
Chính sách sử dụng nhân lực điều dưỡng cần được xác định trên nguyên
tắc đảm bảo cho ĐDV có vai trò độc lập và chủ động trong cơ cấu NLYT.
136
Để có thể sử dụng NNLĐD có hiệu quả, cần xác định rõ yêu cầu về
trình độ văn bằng đào tạo, năng lực chuyên môn theo từng vị trí việc làm ở
từng cơ sở y tế. Trên cơ sở đó, khái quát về yêu cầu nhân lực điều dưỡng
trong toàn bộ hệ thống y tế.
Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam được xây dựng từ
năm 2008 và được phê duyệt, ban hành vào ngày 24/4/2012 theo Quyết định
số 1352/QĐ-BYT của Bộ Y tế. Mặc dù chuẩn này đã được xây dựng trên cơ
sở tham khảo Chuẩn năng lực chung của cử nhân điều dưỡng do WHO khu
vực Tây Thái Bình Dương ban hành và một số chuẩn điều dưỡng của khu vực
và quốc tế nhưng cũng cần nghiên cứu rà soát, chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp
với tình hình mới, trong đó cần xác định rõ năng lực cơ bản cho từng trình độ
đào tạo.
Song song với việc rà soát, đánh giá để chỉnh sửa chuẩn năng lực cơ
bản, cần triển khai việc xây dựng bộ tiêu chí đánh giá đạt chuẩn năng lực.
Đây là một nội dung rất quan trọng để xác định xem ĐDV sau đào tạo đã đạt
chuẩn hay chưa. Kết quả này là cơ sở để các cơ sở y tế xem xét việc tuyển
dụng và sử dụng nhân lực điều dưỡng. Đây cũng là tiền đề của việc tổ chức
thi và cấp chứng chỉ hành nghề khi Luật KB, CB thay đổi có bổ sung quy
định về thi và cấp chứng chỉ hành nghề.
Việc tuyển dụng NNLĐD phải dựa trên yêu cầu hoạt động chuyên môn
nghề nghiệp của ĐDV. Chính vì vậy, cần phải xác định rõ vị trí việc làm của
ĐDV trong cơ cấu NLYT ở từng lĩnh vực chuyên môn. Việc xác định số
lượng cũng phải được xác định độc lập, không thuần túy dựa vào tỷ lệ điều
dưỡng/bác sỹ. Ở phạm vi vĩ mô, cần xác định dự báo theo yêu cầu về tiêu chí
số lượng điều dưỡng/vạn dân, ở góc độ cụ thể, ở mỗi lĩnh vực chuyên ngành
cần xác định được yêu cầu về tiêu chí số lượng điều dưỡng/bệnh nhân. Các
tiêu chí này phải là yêu cầu bắt buộc cần đạt được, là tiêu chí để đánh giá chất
137
lượng hoạt động điều dưỡng tại địa phương, tại cơ sở y tế. Có như vậy, người
dân mới có cơ hội được tiếp cận dịch vụ chăm sóc một cách đầy đủ, đảm bảo
chất lượng.
Để đảm bảo quyền lợi cho ĐDV, cần xây dựng cơ chế, chính sách đãi
ngộ phù hợp với hoạt động chuyên môn của ĐDV. Gắn việc đào tạo với sử
dụng để đảm bảo việc đào tạo phải đáp ứng được yêu cầu sử dụng của ngành
Y tế. Chính sách đãi ngộ cũng cần được tác động đến các đối tượng là giảng
viên của CSĐT, giảng viên của bệnh viện thực hành và chế độ cho ĐDV khi
hành nghề.
Những chế độ, chính sách ưu đãi phù hợp để giảng viên có thể yên tâm
để vừa tham gia công tác đào tạo điều dưỡng vừa tham gia nhiệm vụ CSSK
nhân dân một cách tự giác, tích cực.
Chế độ, chính sách sử dụng NNLĐD cần được đề cập cả ở nội dung là
tạo một môi trường an toàn trong quá trình làm việc của ĐDV. Đồng thời phải
có cơ chế bảo vệ quyền lợi của ĐDV trong quá trình hoạt động chuyên môn
khi có những sự cố xảy ra.
4.3.2.7. Chỉnh sửa Luật KB, CB, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học,
Luật Giáo dục nghề nghiệp và Luật Viên chức theo hướng đồng bộ, phù hợp
với đặc thù đào tạo NNLĐD và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Một là, Luật KB, CB cần được nghiên cứu chỉnh sửa theo hướng đổi
tên thành Luật Dịch vụ y tế, bổ sung quy định về kỳ thi quốc gia để cấp giấy
phép hành nghề như các nước đã làm. Đồng thời cần phải rà soát, bổ sung,
hoàn thiện các điều kiện để được cấp giấy phép hành nghề. Việc quy định như
vậy sẽ giúp cho NNLĐD khi tham gia hệ thống y tế sẽ được sàng lọc và đảm
bảo đạt được các năng lực theo mặt bằng chung của quốc gia dựa trên chuẩn
năng lực cơ bản của ĐDV. Kỳ thi quốc gia cũng giúp cho việc sàng lọc và lựa
chọn được ĐDV của các nước đến đăng ký để được cấp giấy phép hành nghề
138
tại Việt Nam cũng đạt được các năng lực như điều dưỡng Việt Nam, đó cũng
là thể hiện sự công bằng trong thị trường lao động tự do của khu vực ASEAN.
Tuy nhiên, trong quá trình chỉnh sửa Luật cần nghiên cứu mô hình, phương
thức tổ chức thi để tránh phiền hà cho người dự thi mà vẫn đảm bảo được
mục tiêu cuối cùng của kỳ thi là người dân sẽ được hưởng dịch vụ chăm sóc y
tế có chất lượng từ đội ngũ ĐDV.
Bên cạnh quy định về kỳ thi quốc gia, cần có quy định cụ thể lộ trình
thành lập Hội đồng Điều dưỡng quốc gia - là cơ quan dân sự do nhà nước
thành lập, có sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Y tế,
Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), cơ quan sử dụng nhân
lực, cơ quan đào tạo, hội nghề nghiệp, cựu sinh viên, đại diện nhân dân. Cơ
quan này sẽ chịu trách nhiệm về việc đưa ra các tiêu chuẩn, tiêu chí, tổ chức
kiểm định chất lượng giáo dục, tổ chức kỳ thi quốc gia như nhiều nước đã
thực hiện.
Hai là, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề
nghiệp cần được nghiên cứu, chỉnh sửa để xác định rõ đối tượng đào tạo nào
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật nào và nội dung nào do cơ quan nào quản lý.
Các luật này cũng cần chỉnh sửa, bổ sung những quy định đảm bảo tính
đặc thù trong đào tạo NNLYT nói chung và NNLĐD nói riêng. Luật cũng cần
xác định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền lợi của những người làm
việc tại các cơ sở y tế tham gia giảng dạy tại các cơ sở giáo dục để phù hợp
với đặc điểm của GD&ĐT NNLYT nói chung và đào tạo NNLĐD nói riêng
là cơ sở giáo dục luôn gắn với các cơ sở thực hành là các cơ sở y tế.
Luật Giáo dục cũng cần quy định rõ vai trò của cơ quan quản lý ngành
là Bộ Y tế và tiến tới là vai trò của Hội đồng Điều dưỡng Việt Nam trong việc
kiểm soát chất lượng đào tạo NNLĐD, kiểm soát về quy hoạch mạng lưới,
quy mô đào tạo để đảm bảo đào tạo phải gắn với sử dụng, phù hợp với quy
luật cung - cầu.
139
Ba là, Luật Viên chức cần được nghiên cứu, chỉnh sửa để quy định rõ
về từng tiêu chuẩn chức danh hạng viên chức, nguyên tắc xác định vị trí việc
làm phù hợp với đặc điểm của GD&ĐT NNLYT là cơ sở giáo dục luôn gắn
với các cơ sở thực hành là các cơ sở y tế. Chính vì vậy, việc xác định vị trí
việc làm tại cơ sở giáo dục của nhân viên y tế của các cơ sở y tế tham gia hoạt
động giảng dạy tại các cơ sở giáo dục và ngược lại xác định vị trí việc làm tại
các cơ sở y tế của giảng viên của các cơ sở giáo dục tham gia hoạt động
chuyên môn tại các cơ sở y tế là bộ phận không thể thiếu, phải được thể chế
hóa rất cụ thể.
Bốn là, xây dựng và ban hành Luật Điều dưỡng
Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xây dựng và ban hành Luật Điều
dưỡng của Việt Nam như nhiều nước đã triển khai, trong đó quy định tổng thể
các nội dung cả về hoạt động nghề nghiệp, hoạt động đào tạo và các chính
sách liên quan khác.
4.3.3. Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy, kiện toàn đội ngũ cán bộ
quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
4.3.3.1. Đề xuất mô hình tổ chức bộ máy quản lý đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng
Việc nghiên cứu mô hình quản lý và kiểm soát chất lượng đào tạo
NNLĐD phù hợp theo xu hướng chung và phù hợp với khung trình độ của
ASEAN, điều này sẽ giúp cho điều dưỡng Việt Nam sẽ được công nhận trong
khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, các cơ quan QLNN mà trực tiếp là Bộ
GD&ĐT và Bộ Y tế cần nghiên cứu để sớm trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét phê duyệt trong thời gian sớm nhất.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về đào tạo NNLĐD ở một số nước
đã được trình bày trong Chương 1 của luận án và căn cứ điều kiện cụ thể của
Việt Nam, trong giai đoạn trước mắt chúng tôi đề xuất mô hình tổ chức quản
140
lý đào tạo NNLĐD theo cách tiếp cận kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn
Quốc (Sơ đồ 4.2).
Sơ đồ 4.2. Đề xuất mô hình tổ chức quản lý đào tạo điều dưỡng Việt Nam
Nguyên tắc hoạt động của bộ máy quản lý đào tạo NNLĐD cần đảm
bảo một số nội dung chủ yếu:
Một là, Nhà nước thống nhất quản lý về đào tạo NNLĐD, tất cả các bộ
phận cấu thành của bộ máy quản lý theo từng cấp, từng đơn vị phải có cùng
quan điểm, mục tiêu là chất lượng CSSK nhân dân phải được củng cố và nâng
cao, chính vì vậy chất lượng NNL phải là mục tiêu hàng đầu.
Thống nhất về chủ trương, chính sách; thống nhất các quy định để đảm
bảo tính nhất quán, tránh chồng chéo, mâu thuẫn trong ban hành; thống nhất
về các biện pháp, hình thức và cả về thời gian thực hiện. Với mô hình này,
tính thống nhất được thể hiện Chính phủ là cơ quan quản lý cao nhất trong bộ
máy, các bộ, ngành và đơn vị liên quan phải thực hiện theo định hướng và chỉ
đạo của Chính phủ. Thống nhất không có nghĩa là tất cả quyền lực và hoạt
động tập trung về trung ương mà tập trung quyền lập quy trên cơ sở đó phân
cấp cho cấp dưới thực hiện các hoạt động phù hợp với chức năng và phạm vi
quản lý. Ngay trong từng cấp và từng cơ quan cũng phải thực hiện nguyên tắc
tập trung, thống nhất.
141
Hai là, phải đảm bảo tính độc lập, khách quan giữa hoạt động đào tạo
với việc kiểm soát chất lượng NNL. Chính vì vậy, cơ quan QLNN về
GD&ĐT chịu trách nhiệm quản lý về các hoạt động đào tạo, việc kiểm định
chất lượng phải do một cơ quan độc lập chịu trách nhiệm.
Với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, mô hình thành lập Hội
đồng Điều dưỡng như Thái Lan hoặc Philippines là chưa phù hợp, chính vì
vậy Bộ Y tế sẽ chịu trách nhiệm về kiểm định và tổ chức kỳ thi quốc gia để
cấp chứng chỉ hành nghề. Trong quá trình triển khai có phối hợp với cơ quan
QLNN về GD&ĐT ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định chất lượng và
phối hợp với Hội Điều dưỡng Việt Nam để thống nhất và triển khai các hoạt
động theo đặc thù nghề nghiệp tương tự như mô hình Nhật Bản, Hàn Quốc.
4.3.3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý
đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng
Một là, thành lập Hội đồng kiểm định chất lượng giáo dục và Hội đồng
thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề tiến tới thành lập Hội đồng Điều
dưỡng Việt Nam
Việc thành lập Hội đồng kiểm định chất lượng giáo dục điều dưỡng và
Hội đồng thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề để đảm bảo các Hội đồng
này hoạt động độc lập và trực thuộc trực tiếp Bộ trưởng Bộ Y tế. Mỗi Hội
đồng sẽ chịu trách nhiệm riêng về từng lĩnh vực kiểm định hoặc thi quốc gia
đối với NNLYT trong đó có điều dưỡng để đảm bảo tính thống nhất chung
trong cơ cấu NLYT và tinh gọn bộ máy. Cơ cấu tổ chức của các Hội đồng cần
phải tinh gọn, hiệu quả nhưng vẫn phải đảm bảo có bộ phận khác nhau theo
từng nội dung, chuyên đề và cần được bố trí theo các cụm kinh tế - xã hội để
đảm bảo việc triển khai có tính khả thi, thuận lợi. Hội đồng kiểm định chất
lượng giáo dục điều dưỡng và Hội đồng thi quốc gia là tiền đề để chuẩn bị
cho việc thành lập Hội đồng Điều dưỡng Việt Nam.
142
Hai là, trong giai đoạn trước mắt, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện bộ
máy QLNN về đào tạo NNLĐD, trong đó cần xác định rõ cơ quan QLNN về
giáo dục cần thống nhất là Bộ GD&ĐT. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và
vai trò của Bộ Y tế trên nguyên tắc Bộ Y tế là cơ quan đưa ra các điều kiện,
tiêu chuẩn, tiêu chí chuyên môn về đào tạo và yêu cầu năng lực cần có của
ĐDV. Về bộ máy quản lý có thể nghiên cứu theo 3 hướng: (i) Chuyển bộ
phận quản lý đào tạo tại Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo của Bộ Y tế
sang Bộ GD&ĐT và thành lập Vụ GD&ĐT NLYT; hoặc (ii) Bổ sung thêm
chức năng, nhiệm vụ của Bộ Y tế và hình thành Vụ hoặc Cục Đào tạo
NNLYT trên cơ sở tách bộ phận quản lý đào tạo từ Cục Khoa học công nghệ
và Đào tạo, Bộ Y tế; hoặc (iii) Bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ của Bộ Y
tế và bổ sung thêm nhân lực cho bộ phận quản lý đào tạo của Cục Khoa học
công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Ba là, Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng
Tăng cường năng lực đội ngũ quản lý đào tạo NNLĐD phải được triển
khai đồng bộ cả ở cơ quan QLNN ở các cấp và cả trong mỗi CSĐT.
Tăng cường năng lực đội ngũ quản lý đào tạo NNLĐD bao gồm tuyển
chọn những người có đủ các điều kiện và kinh nghiệm bổ sung vào đội ngũ
cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn cho
những người đang tham gia quản lý đào tạo NNLĐD. Mặc dù không phải là
người làm trực tiếp về đổi mới, xây dựng, phát triển chương trình, về xây
dựng tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục, về xây dựng đề thi quốc gia
nhưng những người quản lý cũng cần phải hiểu được nguyên lý của đào tạo
dựa theo năng lực, phương pháp và cách tổ chức kỳ thi quốc gia, xu hướng
phát triển nghề nghiệp của ngành điều dưỡng và phát triển NNLĐD. Khi đội
ngũ quản lý đào tạo NNLĐD trong toàn bộ hệ thống từ cơ quan QLNN cấp
143
trung ương đến các CSĐT đều hiểu và thống nhất một mục tiêu và nguyên lý
chung thì nguyên tắc thống nhất trong quản lý đào tạo NNLĐD mới được
đảm bảo, các chủ trương, chính sách và quy định mới có thể được thực thi
một cách đồng bộ, thống nhất.
4.3.3.3. Đào tạo và phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành điều dưỡng
Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng dạy chuyên ngành là một yêu cầu rất
quan trọng trong đào tạo NNLĐD. Người giảng viên chuyên ngành phải đảm
bảo trình độ đào tạo phù hợp và đặc biệt là phải có chứng chỉ hành nghề và
đang hoạt động chuyên môn tại cơ sở thực hành. Như vậy có thể xác định đội
ngũ giảng viên chuyên ngành bao gồm giảng viên của CSĐT và những ĐDV
giỏi, có kỹ năng và tay nghề của bệnh viện thực hành.
Việc chuẩn hóa và đào tạo giảng viên phải được thực hiện thường
xuyên và có tính kế thừa để hệ thống đào tạo điều dưỡng có một lực lượng
giảng viên đáp ứng đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và vững vàng về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có như vậy mới có thể đào tạo được đội ngũ
ĐDV đáp ứng được yêu cầu CSSK nhân dân trong tình hình mới.
4.3.4. Giải pháp đổi mới cơ chế tài chính, tiếp tục huy động các
nguồn lực và triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án về đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
Chất lượng đào tạo tương ứng kinh phí đầu tư cho đào tạo. Chính vì
vậy, cần nghiên cứu đổi mới cơ chế tài chính theo hướng tính đúng - tính đủ
và huy động tối đa các nguồn lực xã hội. Trên cơ sở tính đúng - tính đủ, nhà
nước sẽ đầu tư từ kinh phí của Nhà nước cho những đối tượng đào tạo theo
đơn đặt hàng để phục vụ theo nhu cầu của Nhà nước, những đối tượng được
đào tạo từ nguồn kinh phí này phải chịu sự điều động, phân công của Nhà
nước trong việc sử dụng NNL để tham gia hệ thống y tế trong một thời gian
nhất định. Các nguồn lực của xã hội (các tổ chức, cá nhân) sẽ đầu tư theo kinh
phí tính đúng - tính đủ để đào tạo và phục vụ nhu cầu của xã hội. Cơ chế tài
144
chính thay đổi, CSĐT phải đảm bảo và chịu trách nhiệm đầy đủ về chất lượng
sản phẩm đào tạo của cơ sở mình.
Trong điều kiện các nguồn lực và kinh phí của Nhà nước còn khó khăn,
hạn hẹp, việc triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án là rất quan trọng.
Hiện nay, Chính phủ đã giao Bộ Y tế tiếp nhận một số dự án từ vốn vay ưu
đãi ODA của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới
(World Bank) hỗ trợ cho hệ thống y tế, trong đó có đào tạo NNLĐD. Bộ Y tế
cần có cơ chế và chỉ đạo để các dự án này triển khai đảm bảo đúng mục tiêu,
tiến độ để giúp cho các CSĐT được nâng cao năng lực, qua đó nâng cao chất
lượng đào tạo NNLĐD.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo, việc tổ chức thực hành cho sinh viên là
một nội dung rất quan trọng. Trong xu hướng phát triển, việc tiếp xúc trực
tiếp với người bệnh trong quá trình đào tạo là rất khó khăn khi quyền con
người ngày càng được đề cao và phải được thực hiện theo các quy định của
pháp luật. Luật KB, CB của Việt Nam đã quy định chỉ những người có chứng
chỉ hành nghề mới được thực hiện các thủ thuật chuyên môn trực tiếp lên
người bệnh. Điều dưỡng là một lĩnh vực yêu cầu phải có chứng chỉ hành
nghề. Chính vì vậy, trong đầu tư cho hoạt động đào tạo, nhất thiết các nhà
trường phải xây dựng các phòng thực hành tiền lâm sàng và trung tâm đào tạo
thực hành điều dưỡng mô phỏng.
Trung tâm đào tạo thực hành điều dưỡng mô phỏng phải được thiết kế
để sinh viên được tiếp cận và thực hành các kỹ thuật chuyên môn điều dưỡng
phù hợp với CTĐT và yêu cầu nghề nghiệp. Việc tổ chức sắp xếp, bố trí các
phòng thực hành phải đảm bảo tính mẫu mực và như thực tế tại các bệnh viện.
Cần phải xác định đây là nội dung bắt buộc trong quá trình đào tạo. Tất
cả sinh viên phải được thực hành thành thạo các kỹ năng, hiểu và nắm được
đầy đủ các nội quy, quy chế chuyên môn và thực hành kỹ năng giao tiếp
thành thạo mới được cho đến bệnh viện thực hành để tiếp xúc với môi trường
145
chăm sóc người bệnh thực sự. Đây là yếu tố quan trọng, quyết định chất
lượng cán bộ y tế giúp cho việc thực hành lâm sàng thao tác trên bệnh nhân
thật tại bệnh viện được tốt nhất.
4.3.5. Giải pháp tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn
liền với tăng cường thanh tra, kiểm tra, tổng kết đánh giá trong đào tạo
nguồn nhân lực điều dưỡng
Trong xu hướng cải cách nền hành chính công và cải cách kinh tế,
Chính phủ chủ trương quản lý theo hướng tăng cường tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cho các đối tượng quản lý gắn liền với cơ chế thanh tra, kiểm tra
trong hoạt động đào tạo NNLĐD.
Thể chế tự chủ giúp cho các CSĐT chủ động trong việc xác định
chương trình đào tạo phù hợp với triết lý giáo dục của mình, tự chủ xác định
phương án tuyển sinh để phù hợp với định hướng chương trình, phù hợp với
năng lực về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên, tự chủ xác định mức kinh
phí đào tạo để phù hợp với yêu cầu đảm bảo chất lượng.
Thể chế tự chủ sẽ giúp cho các CSĐT hoàn toàn chủ động trong hoạt
động đào tạo của mình, giảm bớt gánh nặng trong việc phải hoàn thiện các thủ
tục hành chính và giúp cho Nhà nước giảm bớt những gánh nặng về đầu tư.
Để thể chế tự chủ chỉ thực sự phát huy hiệu quả, Nhà nước phải có cơ
chế thanh tra, kiểm tra phù hợp. Việc thanh tra, kiểm tra phải dựa trên các tiêu
chuẩn, tiêu chí rõ ràng, công khai, trong đó cao nhất chính là các tiêu chuẩn,
tiêu chí đảm bảo chất lượng. Chính vì vậy, trước khi giao quyền tự chủ, Nhà
nước cần phải xây dựng và ban hành các các tiêu chuẩn, tiêu chí đảm bảo chất
lượng đào tạo NNLĐD.
Để tránh gây phiền hà cho các CSĐT, việc thanh tra, kiểm tra cần tổ
chức phối hợp liên ngành. Việc phối hợp liên ngành trong việc duy trì việc
thanh tra, kiểm tra sẽ góp phần thúc đẩy các cơ sở giáo dục phải thường
xuyên quan tâm đến các điều kiện đảm bảo chất lượng bao gồm cả về đội ngũ
146
giảng viên, cơ sở vật chất trang thiết bị, quy mô đào tạo hợp lý. Đây cũng là
một trong những nội dung cần phải thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan QLNN.
Việc thanh tra, kiểm tra cần được lập kế hoạch cụ thể, công bằng, công
khai và phải được duy trì thường xuyên. Thanh tra, kiểm tra cần được tiếp cận
theo hướng là thực hiện hướng dẫn, hỗ trợ, đôn đốc, nhắc nhở để các cơ sở
giáo dục phải thường xuyên rà soát, bổ sung, duy trì các điều kiện để hoạt
động đào tạo của cơ sở đó thường xuyên triển khai thực hiện đầy đủ các quy
định của cơ quan QLNN.
Bên cạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, cần có cơ chế để xã hội tham
gia giám sát và có tiếng nói đối với hoạt động đào tạo của các cơ sở giáo dục.
Đồng thời, phải thường xuyên tổ chức tổng kết, đánh giá các hoạt động
QLNN về đào tạo NNLĐD để có các biện pháp điều chỉnh những khó khăn,
bất cập trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, tạo động lực cho sự phát triển
đào tạo NNLĐD, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và
hội nhập quốc tế.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Để đảm bảo chất lượng đào tạo NNLĐD, trên cơ sở nghiên cứu về lý
luận và thực tiễn, thực trạng và những vấn đề bất cập trong hoạt động QLNN
về đào tạo NNLĐD Việt Nam luận án đã xác định những định hướng và đề ra
5 nhóm giải pháp để hoàn thiện QLNN về đào tạo NNLĐD trong thời gian
tới. Các giải pháp này tập trung vào các vấn đề về quy hoạch, cơ cấu nhân
lực, xác định mô hình đào tạo điều dưỡng để đảm bảo phù hợp thực tiễn Việt
Nam và xu hướng hội nhập quốc tế; hoàn thiện hệ thống thể chế đào tạo
NNLĐD; giải pháp về tổ chức bộ máy, kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý và
phát triển đội ngũ giảng viên; giải pháp về đổi mới tài chính và huy động
147
nguồn lực; giải pháp tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm gắn với tăng
cường kiểm tra, thanh tra, tổng kết, đánh giá trong QLNN về đào tạo
NNLĐD.
Các giải pháp đưa ra nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại, bất cập
đang đặt ra trong QLNN về đào tạo NNLĐD ở Việt Nam hiện nay với mục
tiêu phát triển NNLĐD về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng cho hệ
thống y tế trước những yêu cầu ngày càng cao trong công tác bảo vệ, CSSK
nhân dân từng bước hội nhập quốc tế. Các giải pháp này đã thể hiện được
toàn bộ những vấn đề cần giải quyết trong công tác đào tạo NNLĐD của Việt
Nam trong thời gian tới.
148
KẾT LUẬN
Trong cơ cấu nhân lực và hoạt động chuyên môn về y tế, đội ngũ ĐDV
chiếm một vị trí rất quan trọng khi chiếm một tỷ lệ cao về số lượng, trong quá
trình hoạt động chuyên môn là người thường xuyên và có thời gian tiếp xúc
nhiều nhất với người bệnh. Nhân lực điều dưỡng có ý nghĩa quyết định đến
các hoạt động chăm sóc người bệnh, giúp cho việc khám, chữa bệnh có hiệu
quả, góp phần to lớn vào công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân.
Để đào tạo và phát triển NNLĐD đảm bảo yêu cầu cả về số lượng và
chất lượng, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng CSSK nhân dân và hội nhập
quốc tế, hoạt động quản lý của Nhà nước đối với đào tạo NNLĐD cần quan
tâm quản lý về đào tạo bao gồm cả về hoạt động đào tạo, hoạt động nghề
nghiệp và chế độ, chính sách đối với điều dưỡng. Xuất phát từ ý nghĩa đó,
luận án đã tập trung vào các nội dung sau:
- Luận chứng cơ sở khoa học và thực tiễn của QLNN về đào tạo
NNLĐD, trong đó đã làm rõ các khái niệm về điều dưỡng, QLNN về đào tạo
NNLĐD, nội dung QLNN về đào tạo NNLĐD và các yếu tố tác động đến
QLNN về đào tạo NNLĐD;
- Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về đào tạo NNLĐD ở một số nước
trong khu vực và thế giới;
- Phân tích và đánh giá thực trạng, những vấn đề tồn tại và nguyên nhân
tồn tại trong công tác QLNN về đào tạo NNLĐD làm cơ sở đề xuất các giải
pháp hoàn thiện;
- Luận án đã xác định rõ những xu hướng đào tạo điều dưỡng, đưa ra
các định hướng và đề xuất giải pháp đồng bộ để hoàn thiện QLNN về đào tạo
NNLĐD bao gồm thống nhất về quy hoạch mạng lưới, kế hoạch, cơ cấu nhân
149
lực, đề xuất mô hình đào tạo; hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy, kiện toàn
đội ngũ cán bộ quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên; đổi mới cơ chế tài
chính và đầu tư cho đào tạo NNLĐD gắn liền với tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và hướng tới hội nhập quốc
tế. Các giải pháp này đã thể hiện được toàn bộ những vấn đề cần giải quyết
trong công tác đào tạo NNLĐD của Việt Nam trong thời gian tới.
Thông qua nghiên cứu này, tác giả luận án hy vọng sẽ góp phần bổ
sung cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác QLNN về đào tạo NNLĐD, đồng
thời đóng góp một phần vào việc hoàn thiện QLNN đối với NNLĐD ở Việt
Nam bằng các giải pháp có ý nghĩa thực tiễn và hội nhập với quốc tế.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Minh Lợi (2003), Nâng cao quản lý chương trình, nội dung
đào tạo tại Trường Đại học Y Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính
công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Minh Lợi (2012), Một số giải pháp về chính sách đào tạo
nhân lực y tế trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 199,
tr.25-28,34.
3. Nguyễn Minh Lợi (2016), Hoàn thiện thể chế đào tạo nguồn nhân
lực điều dưỡng ở Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế, Tạp chí Quản lý
Nhà nước, số 246, tr. 43-47.
4. Nguyễn Minh Lợi (2016), Thực trạng đào tạo nhân lực điều dưỡng ở
Việt Nam, Tạp chí Y học thực hành, tr. 7-10.
5. Nguyễn Minh Lợi (2017), Đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề điều
dưỡng của một số nước trên thế giới và đề xuất áp dụng đối với Việt Nam, số
3 (1037), tr. 324-329.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Lê Vũ Anh và cộng sự (2013), Đánh giá hiện trạng đào tạo nhân lực y tế
Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Y tế.
2. Lê Thanh Bình (2009), Một số vấn đề về Quản lý nhà nước kinh tế, văn
hoá, giáo dục trên thế giới và Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia.
3. Lê Thị Bình (2008), Đánh giá thực trạng năng lực chăm sóc người bệnh
của điều dưỡng viên bệnh viện và đề xuất giải pháp can thiệp, Luận án
tiến sỹ, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, tr. 3-37.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị
quyết số 04 -NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về những vấn đề cấp bách của
sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị
quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ tám (khóa XI) về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
6. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(2005), Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 về công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Báo cáo tổng kết 03 năm thực hiện Chỉ
thị số 296/CT-TTg ngày 27/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về đổi
mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
152
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Báo cáo Hội nghị Hiệu trưởng các
trường đại học, cao đẳng năm 2014.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Tài liệu Hội nghị tổng kết năm học
2015-2016 và triển khai nhiệm vụ năm học 2016 - 2017.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (OIF) (2012), Hội
thảo quốc gia “Vai trò điều tiết của Nhà nước trong việc đảm bảo chất
lượng và công bằng giáo dục”.
12. Bộ Y tế (2004), Điều dưỡng học và các nguyên lý cơ bản về điều dưỡng,
Tài liệu Quản lý điều dưỡng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
13. Bộ Y tế (2005), Tài liệu Hội nghị đào tạo điều dưỡng Việt Nam.
14. Bộ Y tế (2008), Tài liệu Hội nghị tăng cường chất lượng đào tạo nhân
lực y tế.
15. Bộ Y tế (2011), Thông tư số 07/2011/TT-BYT ngày 26/01/2011 Hướng
dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong bệnh viện.
16. Bộ Y tế (2012), Tài liệu đào tạo tăng cường năng lực quản lý Điều
dưỡng.
17. Bộ Y tế (2012), Tài liệu Hội nghị đào tạo nhân lực điều dưỡng Việt
Nam.
18. Bộ Y tế (2013), Quyết định số 1215/QĐ-BYT ngày 12 tháng 5 năm 2013
về việc phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về tăng cường công
tác điều dưỡng - Hộ sinh, giai đoạn từ nay đến năm 2020.
19. Bộ Y tế (2012), Quyết định số 816/QĐ-BYT ngày 16/3/2012 phê duyệt
“Quy hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn 2012-2020”.
20. Bộ Y tế (2012), Quyết định số 1352/QĐ-BYT ngày 21/4/2012 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt tài liệu “Chuẩn năng lực cơ bản của
điều dưỡng Việt Nam”.
21. Bộ Y tế (2013), Niên giám thống kê y tế.
153
22. Bộ Y tế (2014), Báo cáo kết quả 3 năm thực hiện Nghị định số
115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
23. Bộ Y tế (2014), Báo cáo phát triển nhân lực y tế: thành tựu, khó khăn và
giải pháp.
24. Bộ Y tế và nhóm đối tác y tế (2011), Báo cáo chung tổng quan ngành y
tế năm 2011: Nâng cao năng lực quản lý, đổi mới tài chính y tế để thực
hiện kế hoạch 5 năm ngành y tế 2011-2015.
25. Bộ Y tế (2015), Một số nội dung quản lý nhà nước trong đào tạo nguồn
nhân lực y tế.
26. Chính phủ (2010), Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/10/2010 của
Chính phủ Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục.
27. Cục Quản lý Khám bệnh, chữa bệnh, Bộ Y tế (2015), Báo cáo tổng hợp số
liệu nguồn nhân lực lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh năm 2015.
28. Lê Quang Cường (2011), Nghiên cứu thực trạng sử dụng bác sĩ, cử nhân
điều dưỡng sau tốt nghiệp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Y tế.
29. Lê Thị Kim Dung (2012), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020.
31. Học viện Hành chính Quốc gia (2013), Quản lý nhà nước đối với ngành,
lĩnh vực, Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý nhà nước (Chương trình chuyên
viên cao cấp), Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
32. Iwasawa Kazuko (2017), Cơ chế kỳ thi quốc gia về điều dưỡng và cấp
bằng tại Nhật Bản, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản.
33. Khoa Quản lý nhà nước về xã hội, Học viện Hành chính (2012), Giáo
trình Quản lý nhà nước về xã hội.
154
34. Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Kinh tế quốc dân (1999),
Chính sách Kinh tế-Xã hội, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
35. Trần Thị Bích Liễu (2002), Vấn đề kinh tế thị trường, quản lý nhà nước
và quyền tự chủ của các trường học, Tạp chí Giáo dục.
36. Ngân hàng Thế giới (2008), Việt Nam: Giáo dục đại học và kỹ năng cho
tăng trưởng.
37. Quốc hội khóa X (2005), Luật Giáo dục.
38. Quốc hội khóa XI (2009), Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
39. Quốc hội khóa XII (2010), Luật Viên chức.
40. Quốc hội khóa XII (2012), Luật Giáo dục đại học.
41. Quốc hội khóa XIII (2015), Luật Giáo dục nghề nghiệp.
42. Nguyễn Trường Sơn, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Kim Hà và cộng sự
(2012), Đánh giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên đại học điều
dưỡng chính quy được đào tạo tại trường đại học điều dưỡng Nam Định,
Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường đại học–cao đẳng y
dược Việt Nam.
43. Phạm Văn Tác (2014), Quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa
sau đại học trong lĩnh vực y tế, Luận án tiến sĩ Quản lý Hành chính
công.
44. Nguyễn Văn Thanh (2006), Nghề điều dưỡng ở các nước đang phát
triển, Tạp chí thông tin điều dưỡng.
45. Phạm Thị Kim Thanh (2014), Thực trạng đào tạo thực hành cử nhân
điều dưỡng đại học tại 5 cơ sở đào tạo năm 2014, Luận văn Thạc sĩ Y tế
công cộng.
46. Phí Thị Nguyệt Thanh (2010), Nghiên cứu về thái độ đối với nghề
nghiệp của học sinh, sinh viên điều dưỡng, đề xuất các giải pháp can
thiệp, Luận án tiến sĩ Y tế công cộng.
155
47. Phí Thị Nguyệt Thanh, Joy Notter, Đỗ Đình Xuân (2009), Vấn đề đào
tạo điều dưỡng tại 7 tỉnh - Làm thế nào để nâng cao chất lượng, Tạp chí
Y học thực hành.
48. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày
19/4/2011 phê duyệt "Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ
2011 - 2020".
49. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày
22/7/2011 phê duyệt "Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020".
50. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày
13/6/2012 phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020".
51. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày
10/01/2013 phê duyệt "Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030".
52. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày
26/6/2013 về việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng giai đoạn 2006-2020.
53. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày
18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung cơ cấu giáo dục
quốc dân Việt Nam.
54. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày
18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung trình độ quốc gia
Việt Nam.
55. Trường Đại học Y dược- Đại học Thái Nguyên (2010), Lịch sử phát
triển ngành điều dưỡng trên thế giới và ở Việt Nam.
56. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Nxb Trung tâm biên soạn từ điển
Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
156
57. Viện Nghiên cứu hành chính – Học viện Hành chính Quốc gia (2000),
Một số thuật ngữ hành chính, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
58. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
59. Vụ Khoa học và Đào tạo - Bộ Y tế (2008), Tài liệu Hội nghị tăng cường
chất lượng đào tạo nhân lực y tế.
60. Phạm Viết Vượng (2015), Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước và
quản lý ngành giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
61. Đỗ Đình Xuân và cộng sự (2005), Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực
giáo viên của các trường, các khoa đào tạo điều dưỡng và công tác đào
tạo điều dưỡng ở nước ta.
62. Nguyễn Như Ý chủ biên, Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
TIẾNG ANH
63. ASEAN Mutual Recognition Arrangement on Nursing Services (2006).
64. Barbara R. Heller, Marla T. Oros, and Jane Durney-Crowley (2011), The
Future of Nursing Education: Ten Trends to Watch.
65. Barzansky, B., Abraham Flexner (2010), The Era of Medical Education
Reform, Academic Medicine.
66. Brubacher, J.S, On the philosophy of higher education, San Francisco
Jossey-Bass.
67. Churnrurtai Kanchanachitra, et al. (2011), Human resources for health in
southeast Asia: shortages, distributional challenges, and international
trade in health services. The Lancet, Vol 377.
68. Fleming Fallon Jr., Charles R. McConnell (2013), Human Resource
Management in Health Care: Principles and Practices, Jones and
Bartlett Publishers.
157
69. Harden R. M. (2006), Trends and the future of postgraduate medical
education, Emergency Medicine Journal.
70. International Council of Nurses (2007), The Definition of Nursing.
Geneva.
71. Julio Frenk, Lincoln Chen, Zulfiqar A. Bhutta, Jordan Cohen, Nigel
Crisp, Timothy Evans, Harvey Fineberg,et al (2010), Health
professionals for a new century: transforming education to strengthen
health systems in an interdependent world. The Lancet Vol 376, 1923-
1955.
72. Laura A. Stokowski (2013), Trends in Nursing Education for the
21st Century.
73. Lyn N. Henderson, Jim Tulloch (2008), Incentives for retainin g and
motivating health workers in Pacific and Asian countries, Human
Resources for Health.
74. Maggy Wallace (2001), The European Union Standards for Nursing and
Midwifery: Information for Accession Countries.
75. Ministry of Health of Vietnam and Health Partnership Group (2016),
Joint annual health review 2015 strengthening primary health care at
the grassroots towards universal health coverage.
76. Ministry of Health and Welfare of Korea (2015), Medical Service Act of
Korea.
77. Nujjaree Chaimongkol (2015), Nursing in Thailand, Faculty of Nursing,
Burapha University.
78. NACNEP, USA (2010), Addressing New Challenges Facing Nursing
Education: Solutions for a Transforming Healthcare Environment.
79. NACNEP, USA. (2011), The National Advisory Council on Nurse
Education and Practice.
158
80. Nila K Elison, Andre R Verani, Carey McCarthy (2015), National
nursing and midwifery legislation in countries of South-East Asia with
high HIV burdens, WHO South-East Asia Journal of Public Health,
January-June 2015, 4 (1).
81. Republic of the Philippines (1991), An Act Regulating the practice of
nursing in the Philippines, Republic Act No. 7164.
82. Republic of the Philippines (2002), An Act Providing for a more
responsive nursing profession, repealing for the purpose republic act no.
7164, otherwise known as "the Philippine nursing act of 1991" and for
other purposes. Republic Act No. 9173.
83. Robert L. Anders, Wipada Kunaviktikul (1999), Nursing in Thailand,
Nursing and Health Sciences (1999), 1, 235–239.
84. Sugita Shio, Ministry of Health, Labour and Welfare Government of
Japan (2016), Japan’s Nursing Administration.
85. Sun-Joo Kang and In-Sook Kim, Development of the Korean Nursing
Profession with Changes in its Legal Basis, Int J Nurs Clin Pract IJNCP,
an open access journal ISSN: 2394-4978. Volume 3. 2016. 165.
86. Sung Rae Shin, Kyung Rim Shin, Chun Yu Li (2002), Nursing
Education Systems in Korea, China and the United States of America
and its Future Directions, Journal of Korean Academy of Nursing
(2002) Vol. 32, No. 7.
87. World Health Organization (2002), Strategic Directions for
Strengthening Nursing and Midwifery Services 2002-2008. Geneva,
WHO.
88. World Health Organization (2009), Global standards for the initial
education of professional nurses and midwives.
89. World Health Organization (2009), Resolution on WHA62.12 "Primary
Health Care, Including Health Systems Strengthening".
159
90. World Health Organization (2010), Strategic Directions for
Strengthening Nursing and Midwifery Services 2011-2015. Geneva,
WHO.
91. World Health Organization (2011), Nursing Midwifery services-Strategic
Directions 2011-2015.
92. World Health Organization (2011), Strengthening nursing and midwifery,
the sixty-fourth World Health Assembly.
93. World Health Organization (2013), Western Pacific Region
Nursing/Midwifery Databank.
94. Y. Xu, Davis. DC, and Zhaomin Xu. (2002), Assessment of AACN
Baccalaureate Nursing Education Curriculum: Model in the People's of
China, Journal of Professional Nursing, Vol 18, Issue 3.
95. Y. Xu, Z. Xu, J. Zhang. ICN (2000), The nursing education system in the
People's Republic of China: evolution, structure and reform,
International Nursing Review, Vol 47, Issue 4.
160
PHỤ LỤC
CÁC MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
MẪU PHIẾU 1
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
HIỆN TRẠNG VÀ NHU CẦU NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG VIÊN
PHIẾU SỐ
Sở y tế Tỉnh/Tp:................................................................................................................
Địa chỉ:..............................................................................................................................
Họ tên người cung cấp thông tin:....………………………Chức vụ:……………...........
Số điện thoại liên hệ………………………………Số Fax..............................................
Email:...............................................................................................................................
Ngày nhận phiếu:.............................................................................................................
Ngày gửi trả phiếu:..........................................................................................................
Cán bộ thu thập thông tin
TẠI CÁC SỞ Y TẾ
Lãnh đạo đơn vị
(ký và ghi rõ họ tên)
(ký tên, đóng dấu)
161
PHẦN I: THÔNG TIN VỀ NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG CỦA TỈNH
1. Các đơn vị y tế có sử dụng điều dưỡng trực thuộc quản lý của SYT (gồm khu vực
công lập và ngoài công lập tính đến cuối năm 2014)
STT
Đơn vị trực thuộc
Số lượng
Tổng số giường bệnh
1. Các cơ sở y tế công lập
1.1
Tổng số bệnh viện tuyến tỉnh Trong đó: - Bệnh viện hạng I - Bệnh viện hạng II - Bệnh viện hạng III và chưa phân hạng
………………… ………………… ………………… ………………… …………………
1.2 Trung tâm y tế dự phòng tuyến tỉnh 1.3 Bệnh viện tuyến huyện 1.4 Trung tâm Y tế huyện 1.5 Trạm y tế xã
1.6
Đơn vị khác (Ghi rõ): …………………………………………….. ……………………………………………..
………………… ………………… ………………… ………………… ………………… ………………… ………………… …………………
………………… ………………… …………………
2. Các cơ sở y tế ngoài công lập
2.1 Bệnh viện 2.2 Phòng khám đa khoa, chuyên khoa
2.3
Đơn vị khác (Ghi rõ): …………………………………………….. ……………………………………………..
………………… ………………… …………………
Tổng số
………………… ………………… …………………
2. Số lượng điều dưỡng viên toàn tỉnh phân loại theo công lập và ngoài công lập tính
đến cuối năm 2014
Phân loại theo khu vực
Số lượng Điều dưỡng viên
1. Công lập 2. Ngoài công lập Tổng số
3. Số lượng điều dưỡng viên toàn tỉnh phân loại theo tuyến (bao gồm tất cả các đơn vị
công lập và ngoài công lập tính đến cuối năm 2014)
Phân loại theo tuyến
Số lượng Điều dưỡng viên
1. Tuyến tỉnh 2. Tuyến huyện 3. Tuyến xã 4. Ngoài công lập
Tổng số
162
4. Số lượng điều dưỡng viên toàn tỉnh phân loại theo trình độ (bao gồm tất cả các đơn
vị công lập và ngoài công lập tính đến cuối năm 2014)
Số lượng Điều dưỡng
Phân loại theo trình độ
Các cơ sở y tế ngoài công lập (không tính cán bộ viên chức hành nghề ngoài giờ hành chính)
1. Tiến sĩ 2. Thạc sĩ, CK I 3. Đại học 4. Cao đẳng 5. Trung cấp 6. Sơ cấp
Các cơ sở y tế công lập
5. Số lượng Điều dưỡng viên toàn tỉnh phân loại theo hệ (bao gồm tất cả các đơn vị
công lập và ngoài công lập)
Khám chữa bệnh
Dự phòng tuyến tỉnh
Trình độ
Số lượng % Số lượng %
1. Tiến sĩ 2. Thạc sĩ, CK I 3. Đại học 4. Cao đẳng 5. Trung cấp 6. Sơ cấp Tổng
Dự phòng tuyến huyện Số lượng %
Trạm Y tế Số lượng
%
PHẦN II: DỰ BÁO NHU CẦU NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG CỦA TỈNH
1. Dự báo nhu cầu nhân lực điều dưỡng của tỉnh 1.1. Số lượng điều dưỡng nghỉ hưu và tuyển mớ i trong 3 năm gần đây
2014
2012
Phân loa ̣i
Sau đa ̣i ho ̣c Đa ̣i ho ̣c Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp TỔNG
2013 Nghỉ hưu Tuyển mới Nghỉ hưu Tuyển mới Nghỉ hưu Tuyển mới
1.2. Dự báo số lượng điều dưỡng cần tuyển các năm tới theo trình độ
Phân loa ̣i
2015 ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
2016 ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
2020 ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
- Sau đa ̣i ho ̣c - Đa ̣i ho ̣c - Cao đẳng - Trung cấp - Sơ cấp TỔNG
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN !
163
MẪU PHIẾU 2
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
HIỆN TRẠNG VÀ NHU CẦU NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
TẠI CÁC BỆNH VIỆN CÔNG LẬP, NGOÀI CÔNG LẬP
PHIẾU SỐ
Tên đơn vị:……………………………………..……………………………………….
Địa chỉ:..............................................................................................................................
Họ tên người cung cấp thông tin:....………………………Chức vụ:……………...........
Số điện thoại liên hệ………………………………Số Fax..............................................
Email:...............................................................................................................................
Ngày nhận phiếu:.............................................................................................................
Ngày gửi trả phiếu:..........................................................................................................
Cán bộ thu thập thông tin
VÀ VIỆN NGHIÊN CỨU CÓ GIƯỜNG BỆNH
Lãnh đạo đơn vị
(ký và ghi rõ họ tên)
(ký tên, đóng dấu)
164
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Đơn vị thuộc vùng (Khoanh tròn vào một trong các vùng được liệt kê dưới
đây):
1. Vùng đồng bằng sông Hồng
5. Vùng duyên hải miền Trung
2. Vùng Tây Bắc
6. Tây nguyên
3. Vùng Đông Bắc
7. Đông Nam bộ
4. Vùng Bắc Trung bộ
8. Đồng bằng sông Cửu long
2. Tuyến cơ sở y tế (Chọn 1 trong 5):
1. Trực thuộc Bộ Y tế
2. Tuyến tỉnh
3. Tuyến huyện
4. Tuyến xã/phườ ng
5. Ngoài công lập
6. Khác
3. Số giường bệnh:
Số giường bệnh kế hoạch
Số giường bệnh thực hiện
Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
II. NHÂN LỰC CHUNG CỦ A ĐƠN VI ̣ HIỆN NAY
Chức danh của CBVC
Tổng số ……………… ………………
Biên chế ……………… ………………
Hợp đồng ……………… a) Tổng số Bác sĩ:………………... b) Y sĩ làm công tác điều trị :.… ……………… c) Tổng số Dược:……………….. ……………… ……………… ……………… ……………… d) Tổng số Điều dưỡng:……….. ……………… - Tiến sĩ:…………………………. ……………… - Thạc sĩ/CK1:................................. ……………… - Cử nhân đại học:............................ ……………… - Cao đẳng:....................................... ……………… - Trung học:..................................... ……………… - Sơ học:........................................... ……………… e) Tổng số Nữ hộ sinh:………..… ……………… - Thạc sĩ/CK1:................................. ……………… - Cử nhân đại học:........................... ……………… - Cao đẳng:...................................... ……………… - Trung học......................................
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
165
- Sơ học........................................... ……………… ……………… ……………… ……………… f) Tổng số Kỹ thuật viên:…….… ……………… - Thạc sĩ:.......................................... ……………… - Cử nhân đại học:........................... ……………… - Cao đẳng:...................................... ……………… - Trung học:..................................... ……………… - Sơ học:...........................................
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
g) Tổng số Hộ lý/ Y công
……………… ……………… ………………
h) Tổng số các cán bộ Khác
- Tiến sĩ:…………………….……. - Thạc sĩ……........................./........
- Cử nhân đại học:...........................
- Cao đẳng.......................................
......................... ......................... ......................... ......................... ........................ ………………. .........................
........................ ........................ ........................ ........................ ........................ ........................ ........................
........................ ........................ ........................ ........................ ........................ ........................ ........................
- Trung học..................................…
- Sơ học...........................................
........................
........................
........................
CỘNG
Số lươ ̣ng
Tỷ lê ̣
III: ĐẶC ĐIỂM NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG Cá c đă ̣c điểm nhân lư ̣c điều dưỡng
……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
1. Giớ i - Nam - Nữ 2. Dân tộc - Kinh - Thiểu số 3. Tuổ i - ≤30 tuổi - 31 – 35 tuổi - 36 – 40 tuổi - 41 – 45 tuổi - 46 – 50 tuổi - ≥51 tuổi trở 4. Li ̃nh vư ̣c hoa ̣t đô ̣ng - Hệ điều trị - Hệ Dự phò ng 5. Vi ̣ trí công viê ̣c - Giáo viên - Điều dưỡng trưở ng - Điều dưỡng viên - Công viê ̣c khác nghề đươ ̣c đào ta ̣o
166
IV: NHU CẦU NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG
1. Số lươ ̣ng điều dưỡng nghỉ hưu và tuyển mớ i trong 3 năm gần đây
2012
2013
2014
Phân loa ̣i
Nghỉ hưu Tuyển mới Nghỉ hưu Tuyển mới Nghỉ hưu
Tu yển mới
Sau đa ̣i ho ̣c Đa ̣i ho ̣c Cao đẳng Trung cấp Sơ cấp TỔNG
2. Dự báo số lượng điều dưỡng cần tuyển trong 3 năm tới
Phân loa ̣i Số lươ ̣ng điều dưỡng cần tuyển trong 3 năm
2015 ……………. ……………. ……………. ……………. ……………. …………….
2016 ……………. ……………. ……………. ……………. ……………. …………….
2020 ……………. ……………. ……………. ……………. ……………. …………….
- Sau đa ̣i ho ̣c - Đa ̣i ho ̣c - Cao đẳng - Trung cấp - Sơ cấp
3. Dự báo nhu cầu tuyển điều dưỡng theo trình đô ̣ từ nay tớ i năm 2020 (Đá nh dấ u
X vào ô thích hơ ̣p)
Thấp Cao
- Nhu cầu tuyển Điều dưỡng sau đa ̣i ho ̣c - Nhu cầu tuyển ĐD đa ̣i ho ̣c - Nhu cầu tuyển ĐD cao đẳng - Nhu cầu tuyển ĐD trung ho ̣c
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN !
167
PHIẾU SỐ
Tên đơn vị:………………………………………………………………………. Địa chỉ (Đường phố/ xã/ Phường/Thị trấn): ………….………………………… Quận/ Huyện/Thị xã....................................................Mã số: -- Tỉnh/Thành phố............................................................Mã số: -- Điện thoại: …….………..…..Email:..........………………..Số Fax……...……... Mã số của đơn vị (Do Bộ Y tế ghi): --
MẪU PHIẾU 3 PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN HIỆN TRẠNG VÀ NHU CẦU NHÂN LỰC ĐIỀU DƯỠNG TẠI MỘT SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO ĐIỀU DƯỠNG
Cán bộ thu thập thông tin
Ngày: tháng: năm: Thủ trưởng đơn vị (Ký tên và đóng dấu)
(ký và ghi rõ họ tên)
168
I. THÔNG TIN CHUNG 1. Họ và tên thủ trưởng đơn vị:................................................................................... Số điện thoại:......................……………..Di động:...........................……………….. 2. Họ tên người cung cấp thông tin:......................................................…………… Số điện thoại:...............................Di động:.............................Email ......……….…… 3. Thuộc Vùng (Khoanh tròn vào một trong các vùng được liệt kê dưới đây).
3.1. Vùng đồng bằng sông Hồng 3.2. Vùng Tây Bắc 3.3. Vùng Đông Bắc 3.4. Vùng Bắc Trung bộ
3.5. Vùng duyên hải miền Trung 3.6. Tây nguyên 3.7. Đông Nam bộ 3.8. Đồng bằng sông Cửu long 4. Hệ đào tạo điều dưỡng mà trường đào tạo (Có thể chọn nhiều hơn một hệ):
4.1. Trên đại học (Thạc sĩ/ CKI điều dưỡng) 4.2. Đại học điều dưỡng 4.3. Cao đẳng điều dưỡng 4.4. Trung cấp điều dưỡng 4.5. Sơ cấp điều dưỡng
5. Thuộc khu vực (chọn một khu vực):
5.1. Công lập
5.2. Ngoài công lập
6. Cơ sở đào tạo có bệnh viện riêng không?
6.1. Có
6.2. Không
7.2. Tỉnh
7. Cơ sở đào tạo thuộc tuyến: 7.1. Trung ương II. NHÂN LỰC CHUNG CỦ A ĐƠN VI ̣ HIỆN NAY
Tổng số
Biên chế
Hợp đồng
Chức danh của Giảng viên
……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ………………
a) Tổng số giảng viên là Bác sĩ:…… - Tiến sĩ:…………………………. - Thạc sĩ/CK1/CK2:........................ - Bác sĩ nội trú:………………….. b) Tổng số giảng viên là Dược sĩ:… - Tiến sĩ:…………………………. - Thạc sĩ/CK1:................................. - Dược sĩ đại học:............................ c) Tổng số Giảng viên là Điều dưỡng: - Tiến sĩ:…………………………. - Thạc sĩ/CK1:................................. - Cử nhân đại học:............................ - Cao đẳng ĐD:……………………. d) Tổng số giảng viên là hộ sinh: - Thạc sĩ/CK1:................................. - Cử nhân đại học:...........................
e) Tổng số giảng viên là kỹ thuật viên - Thạc sĩ:..........................................
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
169
- Cử nhân đại học:...........................
g) Tổng số các cán bộ Khác
- Tiến sĩ:…………………….……. - Thạc sĩ……........................./........
- Cử nhân đại học:...........................
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
- Cao đẳng…....................................
……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ……………… ………………
………………
………………
- Trung học…...............................…
- Sơ học…........................................
….................... ….................... …....................
CỘNG
III: ĐẶC ĐIỂM NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN LÀ ĐIỀU DƯỠNG
Tỷ lê ̣
Cá c đă ̣c điểm nhân lực điều dưỡng
Số lươ ̣ng ……………... ……………...
……………... ……………...
……………... ……………...
……………... ……………...
……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
……………... ……………... ……………... ……………... ……………... ……………...
……………... ……………...
1. Giớ i - Nam - Nữ 2. Dân tộc - Kinh - Thiểu số 3. Tuổ i - ≤30 tuổi - 31 – 35 tuổi - 36 – 40 tuổi - 41 – 45 tuổi - 46 – 50 tuổi - ≥51 tuổi trở 4. Vị trí công việc - Lãnh đạo trường - Trưởng/ phó khoa/ phòng - Trưởng/ phó bộ môn - Giáo viên - Điều dưỡng trưởng (nếu có bệnh viện trong trường) - Khác 5. Giảng viên kiêm nhiệm tại các bệnh viện
IV: NHU CẦU GIẢNG VIÊN ĐIỀU DƯỠNG
2014
2012
1. Số lươ ̣ng giảng viên là điều dưỡng nghỉ hưu và tuyển mớ i trong 3 năm gần đây Trình độ
2013 Nghỉ hưu Tuyển mới Nghỉ hưu Tuyển mới Nghỉ hưu Tuyển mới
Sau đa ̣i ho ̣c Đại học Cao đẳng
2. Dự báo số lượng giảng viên là điều dưỡng cần tuyển các năm tới
2015
2016
2020
Phân loa ̣i
170
……………... ……………... ……………... ……………...
……………... ……………... ……………... ……………...
- - - -
Tổng số Sau đa ̣i ho ̣c Đa ̣i ho ̣c Cao đẳng
……………... ……………... ……………... ……………... 3. Dự báo nhu cầu tuyển giảng viên là điều dưỡng theo trình đô ̣ từ nay tớ i năm 2020 (Đá nh dấ u X vào ô thích hơ ̣p: mức 1 không có nhu cầu đến mức 5 rất có nhu cầu)
Thấp Cao
- Nhu cầu tuyển GV là điều dưỡng sau đa ̣i ho ̣c - Nhu cầu tuyển GV là điều dưỡng đa ̣i ho ̣c
V: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO ĐIỀU DƯỠNG ĐIỀU DƯỠNG
1. Số lươ ̣ng điều dưỡng dự kiến sẽ tốt nghiệp trong các năm
Dự kiến sẽ tốt nghiệp
Phân loa ̣i
2016
2018
2020
Số lươ ̣ng Điều dưỡng tốt nghiệp
- Ths/CK1 - Đa ̣i ho ̣c - Cao đẳng - Trung cấp
Tốt nghiệp năm 2015 ………… ………… ………… ………… …………
………… ………… ………… ………… …………
………… ………… ………… ………… …………
………… ………… ………… ………… …………
2. Dự báo số lượng điều dưỡng tuyển sinh các năm tới
Dự kiến sẽ tuyển sinh
Phân loa ̣i
Tuyển sinh năm 2015
Số lươ ̣ng Điều dưỡng tuyển sinh
- Sau đa ̣i ho ̣c - Đa ̣i ho ̣c - Cao đẳng - Trung cấp
………… ………… ………… ………… …………
2016 ………… ………… ………… ………… …………
2018 ………… ………… ………… ………… …………
2020 ………… ………… ………… ………… …………
3. Dự báo nhu cầu tuyển sinh điều dưỡng theo trình đô ̣ từ nay tớ i năm 2020 (Đá nh dấ u X vào ô thích hơ ̣p: mức 1 không có nhu cầu đến mức 5 rất có nhu cầu) Thấp Cao
- Nhu cầu tuyển sinh Điều dưỡng sau đa ̣i ho ̣c - Nhu cầu tuyển sinh ĐD đa ̣i ho ̣c - Nhu cầu tuyển sinh ĐD cao đẳng - Nhu cầu tuyển sinh ĐD trung ho ̣c
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN !
171
MẪU PHIẾU SỐ 4 Mã số phiếu:
Để đánh giá thực trạng nguồn nhân lực điều dưỡng và dự báo nhu cầu nhân lực trong các năm tới, chúng tôi tiến hành xin ý kiến của các anh/chị về hiện trạng công việc điều dưỡng của các anh chị, cũng như mức độ hài lòng, kỳ vọng của các anh chị liên quan đến công việc điều dưỡng hiện tại.
Chúng tôi xin khẳng định rằng các thông tin thu được chỉ nhằm mục đích nghiên cứu. Việc tham gia của anh/chị là hoàn toàn tự nguyện và chúng tôi đánh giá cao ý kiến của anh/chị.
-----------------------------------
Ngày điều tra: ……./……./2015
PHIẾU PHÁT VẤN ĐỐI VỚI ĐIỀU DƯỠNG VIÊN
THÔNG TIN CÁ NHÂN
Cơ quan/đơn vị: …………………………………………………………………..….
Vị trí công tác: ……………………………………………………………………… Trình độ chuyên môn:………………………………………………………...………
1. Giới tính của bạn Nam
Nữ
Khác
3.1. Kinh
3.2. Thiểu số (ghi rõ): ..........................
2. Năm sinh của bạn: …........ 3. Bạn thuộc dân tộc: 4. Trình độ chuyên môn cao nhất của bạn hiện nay
Sơ cấp
Trung cấp Cao đẳng Đại học Sau đại học
5. Trường học cấp văn bằng chuyên môn cao nhất của bạn thuộc (khoanh tròn 1 đáp án):
5.1. Công lập
5.2. Ngoài công lập
6. Tên trường cấp văn bằng chuyên môn cao nhất của bạn:
……………………………………………………………………
7. Ngoại ngữ sử dụng chính của bạn là:
7.1. Tiếng Anh
7. 2. Tiếng Pháp
7.3. Khác (ghi rõ…………….)
8. Trình độ ngoại ngữ của bạn:
8.1. Bằng A 8.2. Bằng B 8.3. Bằng C 8.4. Không có văn bằng
9. Trình độ tin học của bạn:
9.1. Bằng A 9.2. Bằng B 9.3. Bằng C 9.4. Không có văn bằng
10. Thâm niên của bạn trong nghề điều dưỡng:.......... năm 11. Từ sau khi ra trường, bạn có được đào tạo/ tập huấn/ tham dự hội nghị, hội thảo không?
11.1. Có
11.2. Không 12. Nếu có, khóa đào tạo/tập huấn/hội nghị/hội thảo gần nhất bạn tham dự vào thời gian
nào?
Tháng…………năm………..
13. Tình trạng hôn nhân hiện tại của bạn Độc thân Có vợ/chồng
Ly hôn
Ly thân
14. Số con của bạn:............con 15. Lương và các phụ cấp chuyên môn tại đơn vị hàng tháng là :……………………đồng 16. Lương và các khoản thu nhập của bạn chiếm bao nhiêu % thu nhập của gia đình bạn ?
……….......%.
172
Từ câu 17-32, mỗi câu khoanh tròn một số thích hợp nhất:
(1 : Rất không đồng ý ; 2 : Không đồng ý ; 3 : Bình thường ; 4 : Đồng ý ; 5 : Rất đồng ý)
17. Các khoản thu nhập tương xứng với trách nhiệm và sức lao động của bạn.
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý 18. Bạn thấy mình có đủ trình độ để đảm đương công việc hiện tại Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
19. Bạn thấy trình độ của bạn hiện tại cao hơn so với 2 năm trước đây
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
20. Bạn sẽ tiếp tục công việc của ĐDV cho tới khi nghỉ hưu
Rất không đồng ý
1 2 3 4 5 Rất đồng ý
21. Bạn yêu thích công việc của ĐDV bạn đang đảm nhận
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
22. Bạn có ý định sẽ tìm nghề khác trong vòng 5 năm tới.
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý 23. Khoa bạn có đủ nhân lực điều dưỡng để chăm sóc người bệnh Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
24. Các bác sĩ trong khoa hiểu và đánh giá đúng mức nghề nghiệp của bạn
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
25. Bạn được người bệnh và người nhà người bệnh tôn trọng
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
26. Bạn được người thân của bạn tôn trọng nghề nghiệp của bạn
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
27. Bạn tự hào với nghề nghiệp là ĐDV
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý 28. Bạn thấy nghề nghiệp của bạn được bảo vệ an toàn Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý 29. Bạn thấy nghề điều dưỡng ngày càng được đánh giá đúng mức Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
30. Bạn lạc quan với tương lai của nghề điều dưỡng
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
31. Bạn hài lòng với nghề nghiệp hiện tại
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý
32. Bạn dự kiến cho con bạn theo nghề điều dưỡng
Rất không đồng ý 1 2 3 4 5 Rất đồng ý 33. Một điều làm bạn hài lòng nhất ở khoa/phòng/đơn vị bạn là gì?
34. Một điều làm bạn kém hài lòng nhất ở khoa/phòng/đơn vị bạn là gì?
TRÂN TRỌNG CẢM ƠN !
173
MẪU SỐ 5
Đối tượng: Nhà quản lý
BỘ CÂU HỎI HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN SÂU
Câu hỏi:
1. Anh/ chị đánh giá chất lượng dịch vụ chăm sóc người bệnh của điều dưỡng viên
hiện nay như thế nào? (Rất tốt/ tốt/ Tạm được/ Yếu/ Rất yếu).
2. Anh/ chị có nhận xét gì về chất lượng nhân lực điều dưỡng mới được tuyển dụng trong 05 năm gần đây? (kiến thức, kỹ năng thực hành, đạo đức, thái độ, hành vi, giao tiếp, ứng xử,…)
3. Anh/chị đánh giá về chất lượng của nguồn nhân lực điều dưỡng của đơn vị hiện nay
như thế nào? (Rất tốt/ tốt/ Tạm được/ Kém/ Rất kém).
4. Nhiệm vụ các điều dưỡng viên thực hiện tốt nhất hiện nay là gì? Và nhiệm vụ thực
hiện chưa tốt hiện nay là gì? Vì sao?
5. Những khó khăn, thách thức nhất trong công điều dưỡng chăm sóc người bệnh của đơn vị hiện nay là gì? Tại sao tồn tại những điểm yếu đó? (Gợi ý: Về số lượng, chất lượng, trình độ, kinh nghiệm, y đức, giao tiếp ứng xử...)
6. Hiện nay đơn vị có đủ nhân lực cho điều dưỡng không? Để thực hiện chăm sóc người bệnh toàn diện theo anh chị phải tăng số lượng điều dưỡng viên lên bao nhiêu % so với hiện nay?
7. Đơn vị có nhu cầu tuyển thêm điều dưỡng ở trình độ nào (Thạc sĩ, chuyên khoa, đại
học, cao đẳng, trung cấp)? Chuyên khoa nào?
8. Anh chị có nhận xét gì về chất lượng đào tạo điều dưỡng của các cơ sở đào tạo công lập và tư nhân hiện nay có liên quan đến nguồn nhân lực điều dưỡng mới tuyển dụng tại đơn vị?
9. Anh/chị kỳ vọng điều dưỡng viên trong tương lai thực hiện tốt những kỹ năng gì? (Gợi ý: cấp cứu ban đầu/ kỹ thuật điều dưỡng/ an toàn người bệnh/ kiểm soát nhiễm khuẩn/ nghiên cứu khoa học/ kỹ năng giao tiếp/ đạo đức điều dưỡng/ phương pháp giảng dạy lâm sàng/ quản lý điều dưỡng/ thủ tục hành chính/ tin học)
10. Những khó khăn trong việc phát triển nguồn nhân lực điều dưỡng tại đơn vị? (Khó
khăn trong tuyển dụng, khó khăn trong triển khai đào tạo/ bồi dưỡng)
11. Anh chị cho biết giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng dịch vụ chăm
sóc người bệnh của điều dưỡng viên hiện nay là gì
12. Các ý kiến khác (nếu có)
174
MẪU PHIẾU 6
Đối tượng: Điều dưỡng viên
BỘ CÂU HỎI HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN NHÓM
Câu hỏi:
1. Anh/ chị đã chăm sóc cho bao nhiêu người bệnh trong ca trực gần đây nhất? Anh/ chị đánh giá chất lượng dịch vụ chăm sóc người bệnh của đơn vị hiện nay như thế nào?
2. Hiện nay anh chị trực đêm theo chế độ 2 ca 3 kíp, 3 ca 4 kíp hay 24/24 giờ? Theo anh chị chế độ trực nào là phù hợp nhất để đảm bảo cho yêu cầu chăm sóc người bệnh?
3. Anh/ chị có thấy công việc của mình có quá tải không? Và có cảm thấy stress/ kiệt sức với công việc hiện tại không? Mức độ thường xuyên như thế nào (hàng ngày/ hàng tuần/ hàng tháng)?
4. Để thực hiện chăm sóc người bệnh toàn diện theo anh chị phải tăng số lượng điều
dưỡng viên lên bao nhiêu % so với hiện nay?
5. Những khó khăn, thách thức nhất trong công việc chăm sóc người bệnh của anh chị
hiện nay là gì?
6. Anh chị có cảm nhận nghề điều dưỡng và ĐDV được trong ngành y tế và xã hội đánh
giá đúng mức không? Nêu cụ thể?
7. Anh/chị có hài lòng với công việc của ĐDV viên hiện nay không? Tại sao?
8. Anh chị có dự định cho con theo nghề điều dưỡng không? Tại sao?
9. Anh chị có hài lòng với mức thu nhập của ĐDV hiện nay không? Vì sao?
10. Anh chị có hài lòng về điều kiện làm việc, cơ sở vật chất, phương tiện, y dụng cụ phục
vụ chăm sóc NB hiện nay? Tại sao?
11. Anh/ chị có ý định chuyển nghề từ bỏ công việc điều dưỡng hiện tại không? Tại sao?
12. Anh/ chị có dự định học nâng cao văn bằng chuyên môn hiện tại không?.
13. Từ đầu năm 2015 đến thời điểm này, anh chị có dự khóa đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ, hội nghị, hội thảo nào không?
14. Theo anh chị một giải pháp quan trọng nhất để nâng cao chất lượng CSNB hiện nay là
gì?
15. Các ý kiến khác của anh chị (nếu có).
---------------------