BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
AN ĐÌNH DOANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÌNH NGUYỆN CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Quản lý hành chính công
Mã số : 62 34 82 01
TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Hà Nội - 2020
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Nguyễn Đăng Thành
TS. Hoàng Xuân Lương
Phản biện 1:................................................................................................................
Phản biện 2:................................................................................................................
Phản biện 3:................................................................................................................
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện
Địa điểm: Phòng bảo vệ luận án tiến sĩ - Phòng họp….. Nhà ……,
Học viện Hành chính Quốc gia. Số: 77 - đường Nguyễn Chí Thanh - quận Đống Đa - thành phố Hà Nội.
Thời gian: Vào hồi ……… giờ ….. ngày … tháng …. Năm 2020
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
- Thư viện Quốc gia
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Trong tiến trình lịch sử dân tộc, trước đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống giặc xâm lăng, bằng sức lao động cần cù, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm đã hun đúc nên con người Việt Nam sống nghĩa tình, thủy chung, với tinh thần thiện nguyện, đạo lý sâu sắc về sự sẻ chia. Ngày nay, những đức tính quý báu đó được các thế hệ trẻ Việt Nam tiếp nối và được biểu hiện sinh động thông qua hoạt động tình nguyện của thanh niên.
Thanh niên Việt Nam (TNVN) có mặt trong hầu hết các lĩnh vực KT-XH; là những người có sức khỏe, kiến thức, sáng tạo, nhiệt huyết, xung kích tình nguyện vì cộng đồng, là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò, vị thế của thanh niên; nếu được tạo điều kiện, môi trường thuận lợi sẽ tập hợp đông đảo thanh niên tham gia các hoạt động tình nguyện, góp phần giải quyết các việc khó, việc cấp bách của cộng đồng, xã hội, mang lại hiệu quả ngày càng tích cực. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định đóng góp của hoạt động tình nguyện trong phát triển KT-XH thời gian qua là rất to lớn, góp phần vào thành công của công cuộc xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững, thực hiện hiệu quả các Mục tiêu Thiên niên kỷ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách, pháp luật đối với hoạt động tình nguyện của TNVN còn những bất cập, vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ, dẫn đến không ít hoạt động tình nguyện còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, câu lạc bộ, đội, nhóm và cá nhân… khi tổ chức hoạt động tình nguyện thường mang tính tự phát, chưa có sự QLNN, nên dễ trở thành công cụ lợi dụng của một số tổ chức, cá nhân; có khi bị các thế lực thù địch lợi dụng để khuếch trương thanh thế nhằm “lôi kéo, giành giật” thanh niên, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN đến nay nhiều nội dung còn bỏ ngỏ. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách cần sớm hoàn thiện chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của TNVN, giúp tăng cường QLNN và phát huy cao nhất hiệu quả của hoạt động tình nguyện.
Với những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam” làm công trình nghiên cứu, phù hợp với yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích: Xác định căn cứ lý luận và thực tiễn của QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
2.2. Nhiệm vụ: - Tổng quan tình hình nghiên cứu của các học giả, tác giả trong và ngoài nước
về những vấn đề liên quan đến đề tài luận án;
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận QLNN đối với hoạt động tình
nguyện của TNVN;
2
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động tình nguyện của
TNVN từ năm 2000 đến nay;
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình
nguyện của TNVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của Luận án là QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN; trong đó, có xem xét, nghiên cứu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động tình nguyện.
3.2. Phạm vi: - Về nội dung: Nghiên cứu QLNN đối với các chương trình, dự án tình nguyện; QLNN hoạt động tình nguyện do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh làm nòng cốt tổ chức và hoạt động tình nguyện của TNVN do các tổ chức, các nhân khác tổ chức.
- Về không gian, thời gian: Nghiên cứu QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên trên địa bàn cả nước, thời gian từ năm 2000 đến nay (là thời điểm Đoàn TN chính thức phát động phong trào thanh niên tình nguyện trên toàn quốc).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời tiếp cận vấn đề nghiên cứu từ giác độ của khoa học quản lý công để luận giải vấn đề về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN theo tư duy logic biện chứng, mang tính khách quan. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp được sử dụng, như: phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết; phương pháp giả thuyết; phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp quan sát khoa học; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm; phương pháp chuyên gia… để chọn lọc tri thức khoa học nghiên cứu về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN. Ngoài ra, NCS đã trực tiếp trao đổi, tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ khoa học, các nhà quản lý trong lĩnh vực xã hội.
Đối với phương pháp điều tra xã hội học, đã xác định tiêu chí lựa chọn địa bàn điều tra, gồm: (i) là địa phương có số đông thanh niên tham gia các hoạt động tình nguyện; (ii) địa phương đại diện cho các vùng miền trong cả nước; (iii) địa phương có sự khác biệt về trình độ dân trí và kinh tế - xã hội; (iv) địa phương đại diện cho khu vực nông thôn hoặc khu vực đô thị. Trên cơ sở đó đã lựa chọn địa bàn và tiến hành điều tra, khảo sát với 400 phiếu đối với tình nguyện viên và 100 phiếu đối với cán bộ quản lý tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Cần Thơ, Thái Nguyên, Quảng Trị và Đồng Nai. Kết quả phiếu hỏi được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 22.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học 5.1. Câu hỏi nghiên cứu - Cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của
TNVN gồm những gì?.
3
- QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên bao gồm những nội dung
nào? Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN?.
- Thực trạng QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN hiện nay như
thế nào? Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết?.
- Định hướng QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN trong thời gian
tới như thế nào? cần những giải pháp nào để hoàn thiện?.
5.2. Giả thuyết khoa học Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều tiết, hỗ trợ hoạt động tình nguyện của TNVN thông qua hệ thống chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, chính sách, pháp luật đối với hoạt động tình nguyện còn những hạn chế, bất cập; chưa có căn cứ pháp lý đủ mạnh như luật hoặc pháp lệnh về lĩnh vực này; tổ chức bộ máy chưa đáp ứng được yêu cầu; đội ngũ cán bộ, công chức QLNN còn thiếu về số lượng và chất lượng chưa cao; chưa có cơ quan điều phối hoạt động tình nguyện của TNVN. Do vậy cần hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
6. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu Từ đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động tình nguyện, luận án làm rõ vai trò của các chủ thể, mối quan hệ giữa các chủ thể khi tham gia quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tình nguyện của TNVN; xác định rõ các yếu tố chủ quan, khách quan tác động đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện, từ đó, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN từ giác độ QLNN.
Luận án sau khi hoàn thành là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu về chính sách công và thực thi chính sách công; đồng thời, có giá trị nhất định trong nghiên cứu thực tiễn đối với các học giả quan tâm xây dựng chính sách, pháp luật đặc thù đối với thanh niên và công tác quản lý đối với các nhà hoạch định chính sách.
7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 04 chương, như sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Chương 2: Cơ sở khoa học về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của
thanh niên Việt Nam.
- Chương 3: Thực trạng QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên
Việt Nam.
- Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động
tình nguyện của thanh niên Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về hoạt động tình nguyện của thanh
niên Việt Nam
1.1.1. Các công trình trong nước NCS đã đi sâu nghiên cứu 14 công trình, đề tài của các tác giả là nhà quản lý, nhà khoa học, các viện nghiên cứu… Nhìn chung, một số công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những khái niệm chủ yếu và cơ sở để Đoàn thanh niên phát động phong trào thanh niên tình nguyện trong cả nước; nhiều công trình mang tính tổng kết thực tiễn các hoạt động tình nguyện của TNVN, tập trung làm rõ mô hình tổ chức, kết quả, ý nghĩa của hoạt động tình nguyện trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước NCS đã tìm hiểu 06 công trình của các tác giả nước ngoài liên quan đến hoạt động tình nguyện nói chung. Các công trình đã đề cập đến những vấn đề chung của tình nguyện cũng như những đóng góp của tình nguyện đối với sự phát triển cộng đồng; qua đó các tác giả đề cập đến lợi ích cũng như những thách thức mới đặt ra đối với hoạt động tình nguyện trong quá trình phát triển. Một số nghiên cứu đã đưa ra những kiến thức cơ bản về hoạt động tình nguyện, như về khái niệm, mô hình tổ chức, các yếu tố ảnh hưởng, xu thế phát triển và vai trò của tình nguyện trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển cá nhân người tình nguyện. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu của các nước và tổ chức quốc tế tập trung vào hoạt động tình nguyện của công dân, mà chưa có nghiên cứu cụ thể về hoạt động tình nguyện của thanh niên.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu QLNN về hoạt động tình nguyện của
TNVN
1.2.1. Các công trình trong nước Về tình hình nghiên cứu QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN có số lượng rất hạn chế, chủ yếu là đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, luận án, sách và bài viết chuyên sâu. Các tài liệu đã cung cấp những kiến thức cơ bản, giúp nhận diện một cách khái quát đối với hoạt động QLNN về công tác thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên. Trong đó, có một số nghiên cứu đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thanh niên 2005; kiến nghị đưa vào Luật thanh niên một số chính sách đối với TNXP, TNTN; một số tác giả bàn luận về cơ cấu tổ chức, bộ máy QLNN về thanh niên và hoạt động tình nguyện của TNVN.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước Đối với các công trình ngiên cứu ngoài nước về QLNN đối với hoạt động tình nguyện còn hạn chế. NCS đã lựa chọn 04 tài liệu, trong đó, nghiên cứu đi sâu vào các quy định của pháp luật nước sở tại trong quản lý hoạt động tình nguyện. Một số nước đã ban hành Luật tình nguyện (như Philippiness) hoặc Nghị định về Dịch vụ tình nguyện (như Trung Quốc); có nước ban hành chính sách tình nguyện trong chính sách chung về thanh niên (như Bulgaria).
5
1.3. Nhận xét về tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án 1.3.1. Những kết quả nghiên cứu trước đã đạt được Thứ nhất, về một số nội dung mang tính lý luận, như: khái niệm, nguyên tắc, mô hình tổ chức…về hoạt động tình nguyện đã được các tác giả đề cập đến, tuy nghiên cứu chưa thấu đáo nhưng đó là những gợi mở, làm tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo của luận án.
Thứ hai, những tư liệu quan trọng nghiên cứu về vai trò, thực trạng, tác động của hoạt động tình nguyện đối với phát triển kinh tế - xã hội sẽ là căn cứ đề xuất các chính sách thúc đẩy hoạt động tình nguyện của TNVN.
Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật và các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tình nguyện của Việt Nam được ban hành trong thời gian qua, cùng với các chính sách tình về nguyện của một số quốc gia ban hành là tư liệu quý để luận án nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
1.3.2. Những nội dung luận án sẽ triển khai Thứ nhất, về luận cứ khoa học, luận án tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về nội hàm của những khái niệm liên quan đến thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên, QLNN về hoạt động tình nguyện của TNVN.
Thứ hai, làm rõ các nội dung QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN;
các yếu tố tác động đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
Thứ ba, đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN hiện nay để làm rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp để hoàn thiện.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu cho thấy, vấn đề thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến, nhưng mới chỉ thực hiện ở những khía cạnh, phạm vi, góc độ nhất định. Hầu hết các nghiên cứu đã đưa ra những vấn đề lý luận, thực tiễn về hoạt động tình nguyện của TNVN và quản lý hoạt động tình nguyện nói chung; nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện, trực tiếp đến lĩnh vực QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
Việc tổng quan những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, giúp NCS nhìn nhận một cách tổng thể cả lý luận và thực tiễn về thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên và những kết quả bước đầu trong QLNN về thanh niên. Từ đó làm cơ sở để nhận diện, xác định đúng vấn đề nghiên cứu và những căn cứ khoa học để kế thừa, phát triển trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài luận án. Trước yêu cầu của thực tiễn và những đòi hỏi của công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước, cần tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN, bao gồm: nội dung, thực trạng QLNN, làm rõ những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân; trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN trong thời gian tới.
6
Vì vậy, có thể khẳng định, đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt QLNN về hoạt động tình nguyện, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế dưới góc độ của luận án tiến sỹ quản lý hành chính công.
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
2.1. Những khái niệm chính yếu 2.1.1. Khái niệm thanh niên Thanh niên là một phạm trù chỉ một nhóm nhân khẩu, xã hội đặc thù, ở độ tuổi nhất định (thường từ 16 đến 30 tuổi), có mặt trong tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, có những đặc điểm chung đặc trưng về tâm lý, sinh lý, nhận thức xã hội, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc trong hiện tại và tương lai.
2.1.2. Khái niệm hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam 2.1.2.1. Hoạt động tình nguyện: Hoạt động tình nguyện là hoạt động tự nguyện, phi lợi nhuận của các tổ chức, cá nhân; bằng công sức, kỹ năng và nguồn lực để tổ chức các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ người, nhóm, tổ chức khác, vì sự phát triển của cộng đồng, xã hội, không đòi hỏi phải trả công.
2.1.2.2. Hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam: Hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam là hoạt động tự nguyện, phi lợi nhuận của tình nguyện viên là thanh niên; bằng công sức, kỹ năng và nguồn lực để hỗ trợ, giúp đỡ mang lại lợi ích cho người khác, hoặc nhóm, tổ chức khác, vì sự phát triển của con người và cộng đồng, xã hội mà không đòi hỏi trả công. 2.1.2.3. Đặc điểm hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam - Đặc điểm chung của hoạt động tình nguyện Luận án đã đưa ra 07 đặc điểm của hoạt động tình nguyện, gồm: có 02 hình thức tình nguyện mang tính chính thức và không chính thức; tình nguyện mang lại lợi ích về vật chất hoặc tinh thần cho cộng đồng và trong đó có lợi ích của bản thân tình nguyện viên; về cơ bản là “cho tặng”, cống hiến thời gian, sức lực, kinh nghiệm và kỹ năng mà không đòi hỏi lợi ích vật chất cho cá nhân; tình nguyện không phải là hoạt động bắt buộc phải làm, không thay thế cho những người làm công ăn lương; là công cụ để các cá nhân hay nhóm cộng đồng giải quyết các nhu cầu xã hội, môi trường hay nhân đạo; luôn tôn trọng quyền, nhân phẩm của người khác và truyền thống văn hóa của cộng đồng; vì quyền con người và sự bình đẳng xã hội.
- Đặc điểm hoạt động tình nguyện của thanh niên Hoạt động tình nguyện của thanh niên có 03 đặc điểm khác biệt như sau: (i) Thanh niên có thể chất dồi dào, khát khao được cống hiến sức trẻ làm những công việc có ích cho cộng đồng, xã hội; (ii) với đặc điểm về tâm lý, sinh lý lứa tuổi, đang
7
trong giai đoạn hoàn thiện bản thân nên nếu được động viên, tập hợp vào tổ chức tình nguyện chính thức, hợp pháp sẽ phát huy tốt vai trò, vị thế của thanh niên; (iii) bản chất là những người trong sáng vô tư, nhưng cũng dễ bị lợi dụng, do đó trong hoạt động tình nguyện cần có sự quản lý và định hướng để khơi dậy tinh thần tình nguyện của thanh niên phục vụ cho phát triển cộng đồng xã hội và đất nước.
- Đặc điểm hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam Hoạt động tình nguyện của TNVN có 03 đặc điểm chính: (i) TNVN có truyền thống lịch sử cách mạng rất vẻ vang, là những hạt nhân tiên phong trong tất cả các hoạt động vì cộng đồng, xã hội. Gần một thế kỷ qua, tinh thần tình nguyện được phát huy cao độ trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; (ii) Thanh niên có mặt trong tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội, trong tất cả 54 dân tộc Việt Nam; có vị trí và vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Nếu tinh thần tình nguyện của thanh niên được phát huy sẽ mang lại hiệu quả to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội; (iii) TNVN được tập hợp và tổ chức trong hệ thống tổ chức của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, có vị trí quan trọng, luôn hướng vào những mục tiêu lớn của đất nước, của dân tộc, đây là đặc điểm đặc thù của TNVN, rất thuận lợi để tổ chức các hoạt động tình nguyện.
- Vai trò hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam Hoạt động tình nguyện của thanh niên có vai trò rất to lớn: góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; xoá đói giảm nghèo, an sinh xã hội; chăm sóc sức khoẻ; giáo dục; công tác bình đẳng giới; phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường.
2.1.3. Những khái niệm liên quan đến hoạt động tình nguyện của TNVN 2.1.3.1. Hoạt động từ thiện: là hành động trợ giúp người yếu kém thông qua hình thức quyên góp, hiến tặng bằng tiền, vật phẩm, thời gian hay là cứu trợ nhân đạo, chăm sóc sức khỏe hay là những hành động trợ giúp tinh thần. Hoạt động từ thiện có điểm chung với hoạt động tình nguyện đó là việc mang những điều tốt đẹp đến cho mọi người và đều xuất phát từ sự tự nguyện của bản thân. Tuy nhiên, điểm khác là hoạt động tình nguyện có mục đích rõ ràng, hướng tới mục tiêu cụ thể, mang lại một sự thay đổi tích cực nào đó, thường được một tổ chức tình nguyện thực hiện theo kế hoạch xác định. Từ thiện thường do cá nhân thực hiện, mong muốn tâm được an lành, tạo phước.
2.1.3.2.Tình nguyện viên là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, tự nguyện tham gia các tổ chức tình nguyện hoặc các chương trình, dự án tình nguyện vì sự phát triển của con người và cộng đồng, xã hội.
2.1.3.3. Tổ chức tình nguyện là tổ chức tập hợp các tình nguyện viên được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, hướng tới sự phát triển của con người và cộng đồng, xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận. 2.1.3.4. Các hình thức hoạt động tình nguyện - Căn cứ Quyết định số 57/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có 02 hình thức, đó là: (i) Tình nguyện thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; (ii) Tình nguyện tham gia phong trào hoặc chiến dịch tình nguyện hướng tới mục tiêu: bảo đảm an sinh xã
8
hội, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội thường do Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tổ chức.
- Căn cứ vào thời gian diễn ra hoạt động tình nguyện, có 04 hình thức, đó là: Hoạt động tình nguyện thường xuyên; hoạt động tình nguyện ngắn hạn; hoạt động tình nguyện trung hạn; hoạt động tình nguyện dài hạn.
- Căn cứ vào địa bàn hoạt động tình nguyện, có 02 hình thức, đó là: Hoạt
động tình nguyện quốc tế; hoạt động tình nguyện tại khu vực biên giới, hải đảo.
- Căn cứ vào đặc điểm của tổ chức tình nguyện, có 02 hình thức, đó là: Tình nguyện chính thức (được thực hiện bởi các cơ quan, tổ chức thuộc chính phủ; các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội…) và Tình nguyện phi chính thức (được thực hiện bởi các doanh nghiệp, câu lạc bộ, đội nhóm... và các hội không chính danh, như: Hội đồng hương, Hội đồng môn, Hội của các dòng họ, các nhóm thiện nguyện…).
2.1.4. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tình nguyện của TNVN 2.1.4.1. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
2.1.4.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tình nguyện của TNVN - Khái niệm QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN là việc sử dụng quyền lực nhà nước để tác động, điều chỉnh mối quan hệ và hành vi của các tình nguyện viên, các tổ chức tình nguyện và các thành viên cộng đồng, xã hội liên quan đến hoạt động tình nguyện của thanh niên, nhằm bảo đảm tính đúng đắn về mục tiêu và hiệu quả hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam.
- Đặc điểm của QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên: QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên là một dạng quản lý xã hội đặc thù, đa diện và phức tạp. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý chung đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên; bên cạnh đó, có sự tham gia của các chủ thể xã hội khác, nhất là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; có sự kết hợp hài hòa giữa phương pháp mệnh lệnh hành chính với phương pháp vận động, thuyết phục. - Vai trò QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên: QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên có vai trò định hướng, quản lý để phát triển đúng đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua đó, giáo dục, bồi dưỡng, phát triển thanh niên, tạo môi trường để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành. Xác lập cơ chế phối hợp, cộng đồng trách nhiệm đối với công tác thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên.
2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động tình nguyện của TNVN 2.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược,
chương trình, dự án quốc gia về tình nguyện
Đây là hoạt động quan trọng nhằm tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ, thuận lợi bảo đảm cho hoạt động tình nguyện phát triển đúng hướng và mang lại hiệu quả như mong muốn. Trên cơ sở chính sách, pháp luật để xây dựng, ban hành chiến lược,
9
chương trình, dự án quốc gia về tình nguyện; đồng thời, làm căn cứ để các bộ, ngành, địa phương xây dựng các chương trình, dự án tình nguyện cụ thể thu hút thanh niên, sinh viên, trí thức trẻ tham gia phát triển các khu vực khó khăn, nông thôn, miền núi.
2.2.2. Tổ chức bộ máy QLNN đối với hoạt động tình nguyện Trên cơ sở các nguyên tắc chung, bộ máy QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN cần được tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương, tạo thành một chỉnh thể đồng bộ để thực hiện chức năng QLNN. Thực tế, Chính phủ thống nhất QLNN về tổ chức bộ máy hành chính; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; quy định về các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Chính phủ có thể thành lập tổ chức bộ máy giúp Chính phủ QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN. Tuy nhiên, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của BCH Trung ương thì bộ máy thành lập phải tinh gọn, khoa học, hoạt động hiệu lực hiệu quả.
2.2.3. Tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện Thông qua tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tình nguyện của thanh niên, tạo sự lan tỏa, lôi cuốn các lực lượng xã hội khác cùng tham gia tình nguyện; đồng thời, tạo sự quan tâm, ủng hộ của các cấp lãnh đạo, quản lý, sự hỗ trợ của nhân dân và cộng đồng xã hội. Phát huy vai trò tích cực của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác tuyên tuyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tình nguyện đến người dân và thanh niên, qua đó, huy động đông đảo các tổ chức hội, đoàn thể và thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện.
2.2.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức QLNN đối với hoạt
động tình nguyện của TNVN
Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tập huấn kỹ năng cho cán bộ, công chức và cộng tác viên làm công tác QLNN về hoạt động tình nguyện được thực hiện thông qua các khóa đào tạo để đạt các tiêu chuẩn theo yêu cầu của từng cấp quản lý. Cần xây dựng được đội ngũ giảng viên, báo cáo viên có trình độ chuyên môn và thống nhất nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cũng như phương pháp giảng dạy; đồng thời, có cơ chế, chính sách để triển khai, thực hiện.
2.2.5. Huy động nguồn lực cho hoạt động tình nguyện Để QLNN đối với hoạt động tình nguyện đạt hiệu quả, cần bảo đảm nguồn lực cho bộ máy QLNN; đồng thời, có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực xã hội hỗ trợ cho hoạt động tình nguyện. Có 02 nguồn lực chủ yếu gồm: (i) ngân sách nhà nước thông qua các chương trình, dự án tình nguyện; (ii) Hỗ trợ, tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Để đạt được mục tiêu tình nguyện, các tổ chức tình nguyện phải huy động được nguồn lực tài chính từ xã hội, thông qua thành lập quỹ tình nguyện hoặc các phương thức linh hoạt khác.
2.2.6. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thực hiện chính
sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện
Thanh tra, kiểm tra một mặt giúp cho cơ quan QLNN phát hiện kịp thời những sai phạm trong tổ chức và hoạt động tình nguyện của thanh niên; mặt khác, đây cũng
10
chính là một kênh để cơ quan QLNN đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật, có được những thông tin xác thực để hoàn thiện khung thể chế, chính sách về hoạt động tình nguyện của TNVN. Nội dung cụ thể của công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thao quy định của pháp luật.
2.3. Các yếu tố tác động đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện 2.3.1. Các yếu tố khách quan: Luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá các yếu tố khách quan tác động đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN bao gồm: (i) tác động mặt trái của kinh tế thị trường và sự phân tầng xã hội ở Việt Nam; (ii) tác động của quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa; (iii) tác động từ sự khác biệt về điều kiện kinh tế, văn hóa, tôn giáo giữa các vùng miền đến QLNN về hoạt động tình nguyện.
2.3.2. Các yếu tố chủ quan: Đối với các yếu tố chủ quan tác động đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN, bao gồm: (i) tác động từ nhận thức của các cấp lãnh đạo, quản lý và người dân; (ii) tác động của phương thức, cách thức QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên; (iii) tác động từ sự đa dạng của chủ thể tổ chức và lĩnh vực hoạt động tình nguyện của thanh niên.
2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong QLNN đối với hoạt động tình
nguyện
Để nghiên cứu kinh nghiệm quản lý hoạt động tình nguyện của một số quốc gia, NCS đã đưa ra tiêu chí để lựa chọn khu vực nghiên cứu, gồm có: Australia và Nhật Bản - đại diện cho các nước phát triển; Philippines và Nepal - đại diện cho các nước đang phát triển và Trung Quốc là quốc gia có cùng thể chế chính trị và có nền văn hóa khá tương đồng với Việt Nam. Hoạt động tình nguyện của các quốc gia trên có đặc điểm khác biệt so với Việt Nam, nhất là về mức độ chuyên nghiệp trong tuyển dụng, đào tạo tình nguyện viên và tham gia tình nguyện quốc tế. Về chính sách ưu đãi tình nguyện viên, những người tình nguyện cũng nhận được những điểm có lợi cho bản thân thông qua việc tham gia tình nguyện, góp phần tạo nên một xã hội nhân ái giữa con người với con người.
Từ những nghiên cứu về trên có thể rút ra những kinh nghiệm tham chiếu cho Việt Nam, như sau: (i) cần xây dựng và ban hành hệ thống chính sách, pháp luật đồng bộ về tình nguyện, đồng thời kiện toàn cơ quan QLNN, cơ quan điều phối hoạt động tình nguyện; (ii) khuyến khích mọi công dân tham gia hoạt động tình nguyện, nhất là những người trẻ tuổi. Tình nguyện không mang tính "độc quyền" của bất cứ tổ chức, cá nhân hoặc đoàn thể nào; (iii) đối với các nước đang phát triển thường định hướng tình nguyện vào các hoạt động cứu hộ thiên tai, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực còn nhiều khó khăn; (iv) khuyến khích các cơ quan trực thuộc chính phủ, các trường học, các trung tâm cộng đồng, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, các đội, nhóm, câu lạc bộ… triển khai các hoạt động tình nguyện như một nội dung không thể thiếu trong kế hoạch hoạt động của mình; (v) huy động nguồn lực xã hội và có quy định quản lý nguồn lực một cách chặt chẽ, công khai, minh bạch, hiệu quả là rất quan trọng. Khuyến khích và hỗ trợ công dân
11
tham gia hoạt động tình nguyện quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 của luận án đã tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN; đã đi sâu phân tích làm rõ các khái niệm và vấn đề liên quan với tư cách là công cụ lý luận cơ bản, trung tâm của khung lý thuyết về QLNN đối với hoạt động tình nguyện; phân biệt, làm rõ đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa hoạt động tình nguyện và hoạt động từ thiện.
Từ khái niệm về hoạt động tình nguyện của thanh niên và những kiến thức của khoa học quản lý công, luận án đã đưa ra khái niệm QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN, đồng thời xác định những nội dung cơ bản và các yếu tố tác động đến QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
Kết quả nghiên cứu đã xác lập được các vấn đề then chốt, làm phong phú thêm, hệ thống hóa được tổng thể những vấn đề về chủ thể, đối tượng, phương pháp, phương tiện thực hiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện thanh niên. Đây là nền tảng quan trọng để đề xuất kiến nghị hoàn thiện tổ chức bộ máy QLNN và cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan, đặc biệt là Bộ Nội vụ và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong tổ chức và quản lý hoạt động tình nguyện của TNVN.
Mặt khác, Chương 2 đã đề cập, phân tích và đánh giá những đặc điểm và kinh nghiệm quản lý hoạt động tình nguyện của một số quốc gia tiêu biểu cho các khu vực trên thế giới. Từ đó xác định được những điểm chung và những đặc điểm riêng biệt của hoạt động tình nguyện của TNVN so với hoạt động tình nguyện của các nước khác. Khẳng định sự phong phú, đa dạng về lĩnh vực tình nguyện và các chủ thể tổ chức tình nguyện là đòi hỏi khách quan của công tác QLNN đối với hoạt động này. Với những đặc điểm tương đồng trong tổ chức và quản lý hoạt động tình nguyện của các nước có giá trị tham chiếu đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về tình nguyện cho thanh niên; đồng thời giúp nghiên cứu sinh tìm kiếm những giải pháp cho mục đích nghiên cứu mà luận án hướng đến.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
3.1. Những vấn đề chung về hoạt động tình nguyện của TNVN
12
Tinh thần tình nguyện là phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam, được kết tinh trong suốt chiều dài của lịch sử của dân tộc, đã được các thế hệ TNVN trân trọng, giữ gìn và phát huy. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thu hút lớp lớp thanh niên, sinh viên tình nguyện lên đường chiến đấu theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, giành độc lập, tự do cho đất nước. Tiếp nối phong trào tình nguyện của các thế hệ, năm 2000, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh chính thức phát động phong trào “Thanh niên tình nguyện”. Năm 2001, Liên hợp quốc chọn là Năm quốc tế của những người tình nguyện. Lần đầu tiên Việt Nam chính thức tham gia vào Chương trình người tình nguyện Liên hợp quốc và nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật của tổ chức tình nguyện quốc tế. Kể từ đó đến nay, phong trào thanh niên tình nguyện có điều kiện phát triển mạnh mẽ thông qua Chiến dịch hè thanh niên, sinh viên tình nguyện. Nội dung hoạt động tình nguyện theo hướng cụ thể, rõ việc, sát với nhu cầu, thực tiễn của địa phương. Các đội hình thanh niên tình nguyện chuyên sâu gắn với chuyên môn, nghiệp vụ của thanh niên, sinh viên ngày càng phát triển, góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc về kinh tế - xã hội, chăm sóc sức khỏe ban đầu của cộng đồng, nhất là các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Qua gần 20 năm, hoạt động tình nguyện của thanh niên đã phát triển không ngừng cả về quy mô và chất lượng, được triển khai phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng địa phương, mang lại hiệu quả thiết thực. Kết quả, từ gần 01 triệu lượt thanh niên tham gia (năm 2000), đến năm 2019, đã có gần 70 triệu lượt thanh niên tình nguyện tham gia, góp phần tích cực giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc về kinh tế - xã hội, nhất là các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Hoạt động tình nguyện đã huy động đông đảo thanh niên tham gia, là môi trường để thanh niên rèn luyện, vừa là trường học thực tiễn mang lại những kiến thức, vốn sống phong phú cho thanh niên.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số cơ chế, chính sách thu hút thanh niên, trí thức trẻ ưu tú, tình nguyện về công tác tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, tham gia phát triển nông thôn, miền núi nhằm giúp cấp ủy, chính quyền và người dân địa phương phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; đồng thời tạo cơ hội, môi trường thực tiễn để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành, tạo nguồn cán bộ cho các địa phương, đơn vị.
Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ, song nhiều hoạt động tình nguyện của thanh niên vẫn thiếu bền vững, tính chuyên nghiệp chưa cao, hiệu quả thấp, chưa lôi cuốn được đông đảo thanh niên tham gia. Phần lớn hoạt động tình nguyện của thanh niên do Đoàn Thanh niên các cấp tổ chức, thực hiện. Đa số thanh niên hiện nay xác định tham gia hoạt động tình nguyện với mong muốn có môi trưởng để rèn luyện, cống hiến, phát triển kỹ năng cần thiết cho bản thân, nhưng cũng có những thanh niên tham gia tình nguyện với mục đích để được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của các chương trình, dự án tình nguyện, chưa chú trọng đến việc phấn đấu, rèn luyện để lập thân, lập nghiệp.
13
3.2. Thực trạng QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN 3.2.1. Ban hành các chính sách về hoạt động tình nguyện của TNVN Trên cơ sở Luật Thanh niên năm 2005, một số chính sách về tình nguyện được Nhà nước ban hành đã tạo cơ sở pháp lý và môi trường thuận lợi để thanh niên tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện. Tuy nhiên, hầu như các chính sách mới tập trung vào hoạt động tình nguyện theo chương trình, dự án mà chưa có những quy định cụ thể về hoạt động tình nguyện của thanh niên trong các lĩnh vực khác, nhất là chính sách tạo điều kiện cho những thanh niên ưu tú, trưởng thành từ hoạt động tình nguyện có cơ hội tiếp tục cống hiến, trưởng thành.
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về hoạt động tình
nguyện của TNVN
Bộ Nội vụ và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là 02 cơ quan chủ trì thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tình nguyện. Ngoài ra, có các cơ quan phối hợp như: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, UBND các tỉnh, Sở Nội vụ các tỉnh/thành phố, các báo, tạp chí.... Trong đó, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng.
3.2.3. Tổ chức bộ máy QLNN về thanh niên và hoạt động tình nguyện của TNVN Hiện nay ở Việt Nam chưa có một tổ chức riêng biệt thực hiện chức năng QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên. Gần đây, cơ chế quản lý hoạt động tình nguyện chủ yếu được giao cho Bộ Nội vụ chủ trì (cơ quan QLNN về công tác thanh niên), phối hợp với các bộ, cơ quan ở Trung ương và địa phương, có sự tham gia của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Trong thực té, hầu hết các hoạt động tình nguyện của thanh niên do Đoàn thanh niên tổ chức và quản lý theo hệ thống tổ chức Đoàn, Hội các cấp. Tuy nhiên, còn một số lượng thanh niên rất lớn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, các cá nhân, các tổ chức tình nguyện tự phát, đến nay chưa có cơ quan quản lý, điều phối, dẫn đến lãng phí nguồn lực tình nguyện.
3.2.4.Đội ngũ cán bộ, công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý về hoạt động tình nguyện của TN
Hiện nay, cán bộ, công chức làm công tác QLNN về hoạt động tình nguyện của TNVN cơ bản có trình độ từ đại học trở lên; định kỳ hàng năm được tham gia các lớp đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực về QLNN về thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu so với định biên, năng lực, kinh nghiệm còn hạn chế, cán bộ cơ sở phải kiêm nhiệm nhiều việc, nên còn lúng túng trong tham mưu, đề xuất, hướng dẫn tổ chức các hoạt động tình nguyện ở cơ sở.
3.2.5. Nguồn lực hỗ trợ hoạt động tình nguyện của TN Hiện nay ngân sách cho các hoạt động tình nguyện của thanh niên chưa được quy định, chủ yếu được xét cấp theo từng hoạt động cụ thể. Đối với các chương trình, dự án tình nguyện được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì ngân sách nhà nước cấp kinh phí. Đối với hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, xã hội do Đoàn Thanh niên tổ chức thì
14
chủ yếu do cơ quan, tổ chức cá nhân tự trang trải hoặc huy động các nguồn hỗ trợ, tài trợ hợp pháp khác; có một số hoạt động tình nguyện, các tình nguyện viên tự nguyện đóng góp kinh phí để tổ chức mà không nhận bất kỳ sự hỗ trợ nàocủa Nhà nước .
3.2.6. Thực hiện chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của TN Đối với những hoạt động tình nguyện do các cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức thì căn cứ chức năng, quyền hạn để giao trách nhiệm cho bộ chủ trì; đồng thời, có trách nhiệm phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan triển khai thực hiện. Đối với các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng và xã hội do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hoặc các tổ chức khác của thanh niên tổ chức thì Trung ương Đoàn là đơn vị chủ trì.
3.2.7. Thanh tra, kiểm tra giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về việc kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về hoạt động tình nguyện và cũng chưa có cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm về lĩnh vực này. Đối với hoạt động tình nguyện do Trung ương Đoàn tổ chức thì do Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đoàn chịu trách nhiệm. Đối với những hoạt động tình nguyện do các cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức thì bộ, cơ quan chủ trì hoặc UBND cấp tỉnh, cấp huyện đảm nhận công việc này. Đối với hoạt động tình nguyện tự phát thì chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát.
3.3. Đánh giá chung về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN 3.3.1. Về kết quả đạt được Thứ nhất, Luật thanh niên được ban hành năm 2005 làm căn cứ cho việc ban hành chính sách, pháp luật về thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên. Ngày 16/11/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 57/2015/QĐ-TTg về chính sách đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên, trực tiếp quy định chính sách đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
Thứ hai, đã thành lập được tổ chức bộ máy QLNN về thanh niên, trong đó có nhiệm vụ quản lý hoạt động tình nguyện của thanh niên theo hệ thống từ Trung ương xuống đến cấp huyện. Từ đó, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan QLNN về hoạt động tình nguyện của TNVN bước đầu được xác định.
Thứ ba, bước đầu xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có chuyên môn, nghiệp vụ QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN; hàng năm, đội ngũ này được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nên trình độ từng bước được nâng cao.
Thứ tư, công tác tuyên truyền về chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của thanh niên được quan tâm hơn trước, huy động được sự tham gia của nhiều cơ quan thông tin, truyền thông và đặc biệt là sự tham gia tích cực của Đoàn Thanh niên và các tổ chức thanh niên ở các cấp.
Thứ năm, đã xác định được nguồn lực và cách thức huy động nguồn lực cho hoạt động tình nguyện của thanh niên, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực nguồn lực xã hội hóa, được huy động từ cộng đồng, xã hội.
3.3.2. Về hạn chế, yếu kém và nguyên nhân 3.3.2.1. Những hạn chế, yếu kém
15
Thứ nhất, Nhà nước chậm thể chế hóa và triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Ðảng về công tác thanh niên; chưa đề cập đến các quy định, chính sách đối với hoạt động tình nguyện của TNVN trong Luật thanh niên. Các văn bản khác quy định về hoạt động tình nguyện của TNVN có giá trị pháp lý tương đối thấp. Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ QLNN về thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên từ Trung ương đến cơ sở được kiện toàn chậm, chưa ổn định, hiệu quả hoạt động chưa cao. Đội ngũ công chức QLNN hiện nay còn thiếu về số lượng, hạn chế về kinh nghiệm tổ chức, quản lý, chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp.
Thứ ba, nhận thức về vị trí, vai trò hoạt động tình nguyện của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nhiều cấp, ngành còn hạn chế nên chưa có sự quan tâm, hỗ trợ cần thiết trong việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án tình nguyện của TNVN.
Thứ tư, hiện nay, việc điều phối hoạt động tình nguyện, tổng hợp thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu, tìm kiếm nguồn lực để nâng cao hiệu quả tình nguyện ở Việt Nam chưa được quan tâm, chưa thành lập được tổ chức làm nhiệm vụ này.
Thứ năm, ngân sách nhà nước bố trí để thực hiện chính sách tình nguyện còn khó khăn nên chưa chủ động xây dựng và triển khai được các chương trình, dự án tình nguyện cáp quốc gia và ở địa phương.
Thứ sáu, một số quy định của pháp luật và chính sách đối với thanh niên tình nguyện đã được ban hành nhưng do thiếu các điều kiện cần và đủ để triển khai thực hiện và vận dụng (như nhận thức, cơ chế, nhân lực, cơ sở vật chất...) nên việc tổ chức thực hiện chưa được quan tâm hoặc hiệu quả thấp.
Thứ bảy, tính chuyên nghiệp trong tổ chức hoạt động tình nguyện của TNVN còn hạn chế. Một số địa bàn hoạt động tình nguyện còn mang tính hình thức. Thanh niên nhìn chung nhiệt tình tham gia tình nguyện nhưng khả năng, kỹ năng, kinh nghiệm còn hạn chế hoặc không phù hợp với công việc, nên chất lượng, hiệu quả hoạt động tình nguyện của TNVN chưa cao.
Thứ tám, công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra trong quá trình thực thi pháp luật, chính sách về hoạt động tình nguyện của TNVN chưa thường xuyên, liên tục và thiếu sự chỉ đạo thống nhất.
Thứ chín, ngoài mặt tích cực đóng góp cho cộng đồng, xã hội, thì hoạt động tình nguyện của thanh niên vẫn còn có những khoảng tối, có khi dùng để đánh bóng tên tuổi, hoặc bị lợi dụng để chiếm đoạt nguồn lực tài chính; lấy danh nghĩa tình nguyện để lừa đảo, kêu gọi cộng đồng xã hội tài trợ, hỗ trợ bất hợp pháp.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế Về nguyên nhân khách quan: Một là, trong quá trình đổi mới đất nước, các nghiên cứu QLNN đối với lĩnh vực xã hội của nước ta còn bất cập, nhất là QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên còn những khoảng trống. Trình độ nhân lực và kinh nghiệm quản lý các hoạt động từ thiện, tình nguyện còn nhiều bất cập đối với các cơ quan QLNN.
16
Hai là, một số quy định của pháp luật về hoạt động tình nguyện của thanh niên còn thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, chưa theo kịp sự phát triển của thanh niên; một số chính sách còn mang tính quyết tâm chính trị, trong khi ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn.
Ba là, địa bàn hoạt động tình nguyện thường là các vùng sâu, vùng KT-XH khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, không thuận lợi cho các tổ chức tình nguyện tuyển chọn, thu hút tình nguyện viên, nhất là các trí thức trẻ tham gia tình nguyện.
Bốn là, hoạt động tình nguyện bị một số tổ chức phản động lợi dụng để lôi kéo thanh niên, khuếch trương thanh thế (nhất là thông qua các câu lạc bộ, đội, nhóm tôn giáo…) nhằm mục đích chính trị, gây khó khăn trong QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên.
Về nguyên nhân chủ quan: Một là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương và các bộ, ngành Trung ương về công tác thanh niên và hoạt động tình nguyện chưa được quan tâm đúng mức; việc lồng ghép hoạt động tình nguyện với các mục tiêu các chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH của ngành, lĩnh vực, địa phương chưa hiệu quả.
Hai là, công tác phối hợp của các cơ quan trong tổ chức và quản lý hoạt động tình nguyện của thanh niên chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ; nhiều cơ quan, đơn vị còn “khoán trắng” cho tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nên công tác quản lý, điều phối hoạt động tình nguyện chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra....
Ba là, công tác thông tin, phổ biến chính sách, pháp luật về tình nguyện nhìn chung hiệu quả chưa cao, nhất là còn thiếu tài liệu tuyên truyền, phổ biến về chính sách, pháp luật về thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa...
Bốn là, cơ chế giám sát, phản biện chính sách về tình nguyện chưa hiệu quả, chưa phát huy tích cực vai trò và sự tham gia của các tổ chức xã hội. Công tác tổng kết, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của TNVN chưa được quan tâm thường xuyên.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động tình nguyện và kết quả QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN cho thấy hoạt động tình nguyện ở Việt Nam rất phong phú, đa dạng, được tổ chức thực hiện bởi nhiều chủ thể xã hội; trong đó, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ chức thanh niên có vai trò rất quan trọng. Từ đó, đặt ra yêu cầu QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước mà cần có sự tham gia tích cực của các đoàn thể nhân dân, nhất là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Để phát huy hiệu quả hoạt động tình nguyện của TNVN, Nhà nước đã ban hành một số chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện. Nhìn chung, các chính sách được triển khai thực hiện có hiệu quả, nhất là các chương trình, dự án tình nguyện đã tạo ra cách làm mới thiết thực hơn đối với hoạt động tình nguyện của TNVN. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước và kết quả tích cực của các chương
17
trình, dự án tình nguyện, bước đầu đã huy động được nguồn lực xã hội để hỗ trợ cho hoạt động tình nguyện; phát huy vai trò tích cực của thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội, tạo môi trường để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành.
Tuy nhiên, công tác QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN còn những khó khăn, bất cập, như hệ thống các chính sách, pháp luật về tình nguyện chưa đồng bộ, việc tổ chức thực hiện chính sách hiệu quả chưa cao; tổ chức bộ máy QLNN về tình nguyện chưa được hoàn thiện, chưa có cơ quan kết nối, điều phối hoạt động tình nguyện...; chưa ban hành được cơ chế, chính sách cụ thể để huy động được nhiều nguồn lực xã hội cho hoạt động tình nguyện của thanh niên, nên chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó đặt ra yêu cầu cần thiết sớm hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN.
CHƯƠNG 4 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QLNN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÌNH NGUYỆN CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
4.1. Phương hướng hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN 4.1.1. Bối cảnh hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, truyền thông, mạng Internet đã cho phép nhiều người hơn tham gia tình nguyện lần đầu. Những người trẻ tuổi tham gia các hoạt động tình nguyện sẽ ngày càng tăng lên với các hình thức tình nguyện phong phú, đa dạng, không bị hạn chế bởi số lần tham gia, không phụ thuộc vào không gian, thời gian, rất linh hoạt và chủ động. Khi tham gia tình nguyện họ nhận ra được những giá trị của mình, trong đó bao gồm tri thức, kỹ năng, kết nối xã hội, vì lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng.
Thứ hai, trong những năm tới, kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng; hội nhập quốc tế sẽ ngày càng sâu rộng và thực chất; khoa học công nghệ có những bước phát triển mạnh mẽ. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về thanh niên tiếp tục được hoàn chỉnh, bổ sung và được tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn, mở ra cho thanh niên những cơ hội để phát huy tiềm năng, cống hiến và trưởng thành.
Thứ ba, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, giao lưu và hợp tác quốc tế thanh niên sẽ được mở rộng, thu hút nhiều hơn thanh niên các nước trên thế giới đến Việt Nam tình nguyện và ngược lại, TNVN sẽ có nhiều cơ hội tham gia tình nguyện quốc tế, trên cơ sở đó đúc kết kinh nghiệm cho hoạt động tình nguyện ở Việt Nam.
Thứ tư, để hoàn thành các Mục tiêu Toàn cầu Phát triển bền vững giai đoạn 2015 - 2030 (SDG), từ kinh nghiệm thực hiện thành công mục tiêu MDGs giai đoạn trước, một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả đó là phát huy vai trò tích cực của thanh niên tình nguyện trong các hoạt động xóa đói, giảm nghèo; bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, dịch bệnh; chăm sóc sức khỏe cộng đồng; bảo đảm an sinh xã hội; phát triển bền vững.
18
4.1.2. Quan điểm chỉ đạo về hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình
nguyện của TNVN
- Bảo đảm tuân thủ Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác thanh niên.
- Phát huy vai trò, vị thế của các tổ chức thanh niên do Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh làm nòng cốt trong các hoạt động tình nguyện.
- Bảo đảm phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và thích ứng với điều kiện
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
4.1.3. Mục tiêu hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tình nguyện
của TNVN
Mục tiêu chiến lược: - Góp phần tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ
tiếp cận, hiệu lực, hiệu quả.
- Góp phần quản lý xã hội có hiệu quả trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Thúc đẩy hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam phát triển hướng
tới chuyên nghiệp.
- Khắc phục những tồn tại, hạn chế của hoạt động tình nguyện trong thời
gian qua.
Mục tiêu cụ thể: - Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, ban hành các quy định pháp luật về hoạt động tình nguyện của TNVN theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tổ chức hoạt động tình nguyện để họ tự giác chấp hành; đồng thời cần có chế tài để xử phạt hoặc cưỡng chế những hành vi vi phạm pháp luật về tình nguyện.
- Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN, tập trung thống nhất Bộ Nội vụ là cơ quan tham mưu cho Chính phủ về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên; đồng thời, cần thành lập cơ quan điều phối tình nguyện ở Trung ương và ở một số địa phương trọng điểm về hoạt động tình nguyện.
- Nghiên cứu xây dựng, ban hành chiến lược quốc gia, chương trình, đề án, dự án cụ thể về tình nguyện và thực hiện có hiệu quả hướng tới mục tiêu phát triển chung của đất nước.
4.2. Giải pháp hoàn thiện QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN 4.2.1. Xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện Từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam, cần sớm hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về hoạt động tình nguyện, tiến tới xây dựng Luật Tình nguyện. Trên cơ sở đó, Nhà nước ban hành chính sách đối với thanh niên tình nguyện, tập trung vào các nội dung: (i) Tạo lập các kênh thông tin để thanh niên được tiếp cận và tham gia hoạt động tình nguyện; thành lập cơ quan điều phối hoạt động tình nguyện; (ii) Xây dựng chương trình, dự án đưa thanh niên tình nguyện về làm việc tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; (iii) Khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ thanh niên tham gia hoạt động tình nguyện vì lợi ích của cộng đồng, xã hội. Các chính sách cụ thể như sau:
19
Thứ nhất, ban hành một số chính sách đối với thanh niên tình nguyện trong
quá trình hoạt động tình nguyện.
Thứ hai, ban hành một số chính sách đối với thanh niên tình nguyện sau khi
kết thúc hoạt động tình nguyện:
Thứ ba, ban hành một số chính sách đối với cơ quan, đơn vị tổ chức hoạt động
tình nguyện vì cộng đồng, xã hội:
Thứ tư, xây dựng chiến lược quốc gia về tình nguyện, trong đó, thiết lập các chương trình, dự án tình nguyện cho thanh niên; ưu tiên triển khai thực hiện ở những vùng và khu vực kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số…
Thứ năm, mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xây dựng và thực hiện các chính sách đối với hoạt động tình nguyện. Đúc kết kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách tình nguyện trong nước, của một số nước trong khu vực và trên thế giới nhằm bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện ở Việt Nam.
4.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN đối với hoạt động tình nguyện của
thanh niên
Trước yêu cầu sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XII, nên tại thời điểm này sẽ không thành lập mới bộ máy QLNN riêng đối với hoạt động tình nguyện, mà tập trung kiện toàn, củng cố, hoàn thiện bộ máy QLNN về thanh niên hiện có. Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ QLNN về tình nguyện của thanh niên. Đồng thời, ở Trung ương, thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hoạt động tình nguyện của thanh niên; ở cấp tỉnh, sẽ thành lập Trung tâm điều phối hoạt động tình nguyện của thanh niên để tăng cường quản lý, điều phối, nâng cao hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về tình nguyện và tổ chức hoạt động tình nguyện của các chủ thể xã hội. Luận án đã phân tích, làm rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên như: Chính phủ, Bộ Nội vụ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Đối với thực trạng về bộ máy cán bộ, công chức QLNN về thanh niên cấp tỉnh và cấp huyện đang đặt ra những vấn đề cần được nghiên cứu, giải quyết. Việc sáp nhập Phòng Công tác thanh niên của Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại Thông tư số 15/2014/TT-BNV ngày 31/10/2014 của Bộ Nội vụ đã tiến hành được trên 5 năm, cần được đánh giá làm rõ hiệu quả QLNN sau khi các phòng được sáp nhập. Trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu để đưa ra mô hình phù hợp đối với QLNN về thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên ở cấp tỉnh và cấp huyện, sao cho vừa đáp ứng được mục tiêu tinh giản biên chế trong bộ máy cơ quan hành chính Nhà nước, vừa bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên.
- Đối với việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về tình nguyện của thanh niên ở Trung ương được thực hiện theo Quyết định số 34/2007/QĐ-TTg ngày 12/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập và hoạt động của tổ chức phối hợp liên
20
ngành; Ban Chỉ đạo quốc gia không có văn phòng độc lập, không có biên chế chuyên trách mà sử dụng bộ máy và biên chế kiêm nhiệm. Văn phòng Ban Chỉ đạo đặt tại trụ sở Bộ Nội vụ, chủ yếu sử dụng công chức của Vụ Công tác thanh niên, Bộ Nội vụ làm việc kiêm nhiệm.
- Đối với việc thành lập Trung tâm điều phối tình nguyện của thanh niên ở cấp tỉnh, trước mắt thành lập ở các địa bàn các tỉnh trọng điểm về tình nguyện để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút tình nguyện viên và nguồn lực để triển khai hoạt động tình nguyện. Trung tâm điều phối tình nguyện là tổ chức phối hợp liên ngành, được thành lập và hoạt động theo Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức phối hợp liên ngành do Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành; không có văn phòng độc lập với biên chế chuyên trách mà sử dụng bộ máy và biên chế kiêm nhiệm. Trung tâm có chức năng, nhiệm vụ và cơ chế vận hành tương tự như Ban Chỉ đạo quốc gia về tình nguyện ở Trung ương.
- Về cơ chế điều phối hoạt động tình nguyện của Ban Chỉ đạo quốc gia và Trung tâm điều phối tình nguyện: Các địa phương và các tổ chức tình nguyện có trách nhiệm tổng hợp và cung cấp thông tin về nhu cầu tình nguyện, địa bàn tình nguyện, danh sách tình nguyện viên để Ban Chỉ đạo thực hiện điều phối chung. Theo đó, các tổ chức tình nguyện phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền; đồng thời các cơ quan QLNN về tình nguyện thường xuyên tổng hợp tình hình liên quan đến hoạt động tình nguyện của thanh niên để báo cáo Ban Chỉ đạo quốc gia, kể cả các chương trình, kế hoạch tình nguyện để bảo đảm các hoạt động tình nguyện được thực hiện đều hướng đến mục tiêu phát triển KT-XH. Ban Chỉ đạo quốc gia sẽ điều phối các hoạt động tình nguyện thanh niên cấp quốc gia và hoạt động tình nguyện quốc tế. Trung tâm điều phối tình nguyện cấp tỉnh điều phối hoạt động tình nguyện trên địa bàn hoặc điều phối hoạt động tình nguyện ở một vùng/khu vực của hai hoặc một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khi được Ban Chỉ đạo quốc gia phân công. 4.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN đối với hoạt động tình nguyện; thành lập Tổ chức tình nguyện và nâng cao chất lượng tình nguyện viên
Một trong những điều kiện không thể thiếu để triển khai thực hiện thành công chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của thanh niên, đó chính là phát triển nguồn nhân lực, bao gồm đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN về hoạt động tình nguyện và thành lập Tổ chức tình nguyện là đơn vị trực tiếp quản lý tình nguyện viên khi tham gia hoạt động tình nguyện. Trong đó, cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực QLNN về thanh niên nói chung và hoạt động tình nguyện của thanh niên nói riêng, đồng thời quy định cụ thể tiêu chuẩn tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động tình nguyện; quy định về thành lập Tổ chức tình nguyện và tiêu chuẩn của tình nguyện viên thanh niên. Để thực hiện nội dung nêu trên, cần những giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, lồng ghép nội dung chiến lược, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực QLNN về thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên trong Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2020 - 2030; đồng thời, trong kế hoạch đào tạo
21
nghề công tác xã hội theo Đề án 32 của Chính phủ.
Thứ hai, xây dựng tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ, công chức quản lý, gồm có tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, công chức QLNN về hoạt động tình nguyện, bên cạnh đó cần có một số tiêu chuẩn riêng.
Thứ ba, thành lập Tổ chức tình nguyện: - Ban hành quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự thành lập và cấp phép hoạt động cho các Tổ chức tình nguyện (Tổ chức tình nguyện chính thức và Tổ chức tình nguyện không chính thức). Đối với các hoạt động tình nguyện theo chương trình, dự án do cơ quan nhà nước chủ trì không phải đăng ký thành lập Tổ chức tình nguyện. Trường hợp đối với cá nhân khi thực hiện một chương trình, dự án tình nguyện sẽ phải bảo đảm quy định về tiêu chuẩn tình nguyện viên và các quy định tương tự như đối với Tổ chức tình nguyện không chính thức.
Thứ tư, nâng cao chất lượng tình nguyện viên: Để nâng cao chất lượng tình
nguyện viên thanh niên, cần:
- Quy định về tiêu chuẩn tình nguyện viên để khi tuyển chọn có căn cứ tuyển chọn, như: có sức khỏe, tinh thần tình nguyện; trung thực, không ngại gian khổ; có kiến thức, kinh nghiệm tham gia hoạt động tình nguyện; có một hoặc một số kỹ năng tốt cho hoạt động tình nguyện.
- Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cần thiết cho tình nguyện viên, đồng thời đánh giá chất lượng hoạt động của tình nguyện viên thanh niên thông qua các tiêu chí đánh giá.
4.2.4. Tăng cường huy động nguồn lực cho hoạt động tình nguyện Cùng với sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước thì việc huy động nguồn lực xã hội để triển khai thực hiện hoạt động tình nguyện là rất cần thiết. Giải pháp để huy động nguồn lực cho hoạt động tình nguyện như sau:
- Huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước thông qua các chương trình, dự án tình nguyện. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội cần thường xuyên nghiên cứu, đề xuất các chương trình, dự án tình nguyện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và các khu vực, địa bàn để trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. - Huy động nguồn lực từ các chương trình, dự án tình nguyện tư nhân, nguồn lực từ các quỹ xã hội, quỹ từ thiện... Cần có quy định để các Tổ chức tình nguyện được nhận quyên góp, tài trợ của các tổ chức, cá nhân khác; quy định về hoạt động gây quỹ; quy định về hoạt động liên kết với các tổ chức tình nguyện trong và ngoài nước… áp dụng các hình thức ưu đãi về thị thực cho tình nguyện viên quốc tế; miễn trừ thuế, phí nhập khẩu... đối với các thiết bị, hàng hóa của nước ngoài nhằm mục đích phục vụ hoạt động tình nguyện tại Việt Nam.
- Huy động nguồn lực thông qua thành lập Quỹ Tình nguyện (hoặc Quỹ Thiện nguyện). Quỹ bao gồm các khoản đóng góp bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo đúng mục đích của Quỹ và quy định của pháp luật để bảo tồn và tăng trưởng tài sản Quỹ.
- Huy động nguồn lực từ người giàu, người nổi tiếng. Một đặc điểm mới trong hoạt động tình nguyện ở Việt Nam, đó là sự tham gia tích cực của người giàu, người
22
nổi tiếng đã giúp cho hoạt động từ thiện nói chung và hoạt động tình nguyện nói riêng ngày càng phong phú và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tư nhân có xu thế tự tổ chức cho nhân viên tham gia hoạt động tình nguyện hoặc có sự hợp tác giữa doanh nghiệp với tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội hoặc tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam trong tổ chức các chương trình, dự án tình nguyện, giúp tăng cường nguồn lực cho hoạt động thiện nguyện ở Việt Nam.
Thực tế, ở Việt Nam hiện nay, nếu phát huy nguồn lực tài trợ của các doanh nghiệp, doanh nhân, người giàu, người nổi tiếng thông qua hoạt động tình nguyện của thanh niên thì hiệu quả và tính bền vững sẽ được nâng cao, đồng thời sẽ tiết kiệm được nguồn lực, mang lại lợi ích nhiều hơn vì sự phát triển bền vững của cộng đồng, xã hội.
4.2.5. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và người dân về chính
sách, pháp luật đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên
- Xây dựng Website chính thức về hoạt động tình nguyện của thanh niên do Bộ Nội vụ quản lý, trong đó có chuyên mục dữ liệu liên quan đến chính sách, pháp luật đối với hoạt động tình nguyện; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Website riêng về tình nguyện do Sở Nội vụ quản lý.
- Tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách và hoạt động tình nguyện của thanh niên thông qua Website về hoạt động tình nguyện, phát huy vai trò các mạng xã hội (Facebook, Zalo, Viber…); ghi nhận, cổ vũ các tấm gương điển hình tiên tiến trong hoạt động tình nguyện và ghi nhận ý kiến nhận xét, đánh giá, phản ánh của người dân liên quan đến hoạt động tình nguyện của thanh niên.
- Tăng cường sự phối hợp, tương tác giữa các cơ quan QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên với các cơ quan báo chí, truyền thông, các tổ chức đoàn thể, nhất là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Đẩy mạnh hình thức tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông ở cấp xã, phường, các trường học, doanh nghiệp.... Có thể sử dụng các xe tuyên truyền lưu động khi thực hiện các đề án, dự án, chương trình tình nguyện.
- Đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ làm
công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động tình nguyện của thanh niên.
4.2.6. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế
hoạch về hoạt động tình nguyện của thanh niên
Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch (gọi chung là chính sách, pháp luật) về hoạt động tình nguyện của thanh niên là giai đoạn hiện thực hóa mục tiêu chính sách công. Cụ thể cần thực hiện các giải pháp như sau:
- Có cơ chế khuyến khích sự tham gia của nhiều cơ quan trong hệ thống các cơ
quan hành pháp.
- Quyết tâm triển khai, thực hiện chính sách về tình nguyện khi chính sách đó mang lại lợi ích lớn cho cộng đồng; khi đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân tạo đồng thuận để triển khai, thực hiện.
- Chú trọng đào tạo, nâng cao năng lực, bồi dưỡng đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức thực thi chính sách, pháp luật về tình nguyện. Bố trí cán bộ tâm huyết,
23
trách nhiệm, có kinh nghiệm QLNN về thanh niên về làm việc tại Sở Nội vụ (cấp tỉnh), Phòng Nội vụ (cấp huyện).
- Quy định tiêu chí tuyển dụng công chức QLNN về thanh niên cần có kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn, nhằm thu hút, tạo điều kiện cho TNXP, TNTN đã hoàn thành nhiệm vụ có cơ hội được làm việc trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát và lấy ý kiến nhân dân về hoạt động thực thi chính sách, pháp luật tình nguyện ở địa phương, cơ sở. Có quy định về khen thưởng và xử phạt kịp thời đối với cán bộ, công chức trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật về tình nguyện của thanh niên.
4.2.7. Hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về
việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên
- Ban hành các quy định pháp luật về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tình nguyện của thanh niên; chú trọng kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn tài chính huy động từ cộng đồng, nguồn viện trợ và hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế cho hoạt động tình nguyện.
- Tăng cường số lượng và nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ của công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra công tác QLNN về thanh niên, hoạt động tình nguyện của thanh niên thuộc Bộ Nội vụ, các Bộ, cơ quan liên quan và các địa phương (Sở Nội vụ).
- Phát huy cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương, bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả trong quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên. Kịp thời phát hiện những bất cập của hệ thống chính sách, pháp luật để đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
- Phát huy vai trò của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp và các đoàn thể chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát thực hiện chính sách, pháp luật đối với TNTN, TNXP; tiếp nhận đơn thư kiến nghị, chuyển các cơ quan có thẩm quyền xử lý và giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên.
- Hằng năm, cơ quan QLNN về thanh niên cần dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của thanh niên và có sự chỉ đạo phối hợp thống nhất từ Trung ương xuống địa phương. Ban hành quy định về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Qua nghiên cứu về xu thế hoạt động tình nguyện ở Việt Nam trong bối cảnh khoa học công nghệ trên thế giới phát triển nhanh chóng, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới và xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực chất đã tác động sâu sắc đến thanh niên và tinh thần, thái độ đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên. Mặt khác, thời gian qua, hoạt động tình nguyện của TNVN có sự tham
24
gia đồng hành ngày càng tích cực của khối doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, những người giàu, người nổi tiếng, các tổ chức tôn giáo... sẽ giúp hoạt động thiện nguyện nói chung và hoạt động tình nguyện của thanh niên nói riêng ngày càng phong phú, đa dạng và quy mô rộng lớn hơn. Từ đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường QLNN để hoạt động tình nguyện của thanh niên phát triển đúng hướng, đúng mục đích và đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Chương 4 của luận án đã đưa ra phương hướng và đề xuất 07 nhóm giải pháp hoàn thiện QLNN về hoạt động tình nguyện của TNVN; trên cơ sở đó, khơi dậy, phát huy mạnh mẽ tinh thần xung phong, tình nguyện của thanh niên và huy động được nhiều nguồn lực xã hội đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
KẾT LUẬN
Luận án đã tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn công tác QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên trong 20 năm qua. Với hệ thống số liệu sơ cấp và thứ cấp về kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về tình nguyện, những khảo cứu, đánh giá từ thực tiễn và kinh nghiệm từ các chuyên gia, nhà quản lý, luận án đã đưa ra phương hướng, giải pháp để hoàn thiện QLNN đối với họat động tình nguyện của TNVN. Một số nội dung trọng tâm mà luận án đã hướng đến nghiên cứu và đạt được như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở khoa học quản lý công, luận án đã hệ thống và tổng hợp các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan trực tiếp đến QLNN về thanh niên, quản lý hoạt động tình nguyện của thanh niên, từ đó có cái nhìn bao quát về những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với QLNN về hoạt động tình nguyện của TNVN. Đó là những căn cứ khoa học để phát hiện, kế thừa, phát triển các nội dung liên quan trong quá trình triển khai thực hiện luận án.
Thứ hai, những vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên và kinh nghiệm quản lý tình nguyện của một số quốc gia đã được tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa một cách cơ bản. Các khái niệm công cụ và vấn đề với tư cách là công cụ lý luận cơ bản, trung tâm của khung lý thuyết về QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên, là căn cứ khoa học cho việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên.
Thứ ba, có thể khẳng định, chính sách, pháp luật về hoạt động tình nguyện của thanh niên được ban hành trong thời gian qua đã và đang được triển khai phát huy hiệu quả bước đầu; tuy nhiên, còn những hạn chế, bất cập cần nhanh chóng hoàn thiện, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Thứ tư, để tăng cường QLNN đối với hoạt động tình nguyện của TNVN, luận án đề xuất 07 nhóm giải pháp; trong đó, giải pháp về xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tình nguyện; hoàn thiện tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên, thành lập các cơ quan điều phối về hoạt động tình nguyện là những giải pháp cơ bản, quan trọng; đồng thời tăng cường quản lý và phát triển các Tổ chức tình nguyện sẽ góp phần nâng cao hiệu
25
lực, hiệu quả QLNN đối với hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ năm, QLNN về công tác thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên là sự nghiệp lâu dài và nhất quán, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên và sự QLNN, trong đó cần tăng cường sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của các bộ, ngành, cơ quan, đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương và các địa phương trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên Việt Nam.
Thứ sáu, kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với các cơ quan nhà nước trong QLNN về thanh niên và hoạt động tình nguyện của thanh niên; làm cơ sở đề xuất ban hành chính sách, pháp luật để thúc đẩy hoạt động tình nguyện của TNVN; đồng thời, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN về thanh niên nói chung, QLNN về hoạt động tình nguyện của thanh niên nói riêng.
Qua các nội dung trên, NCS đã hoàn thành mục tiêu nghiên cứu mà luận án hướng đến, cũng như đã trả lời và làm sáng tỏ các nội dung mà câu hỏi nghiên cứu đặt ra ngay từ phần mở đầu của luận án./.