BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM NGỌC QUỲNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA
BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Hà Nội – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM NGỌC QUỲNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 09.34.04.03
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS Đinh Văn Tiến
2. PGS.TS Trang Thị Tuyết
Hà Nội – 2018
LỜI CẢM ƠN
Tác giả trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo ở Học viện Hành chính Quốc gia, đặc biệt là các cán bộ, giảng viên của Khoa Quản lý nhà nước về Kinh tế, Ban quản lý đào tạo sau Đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành luận án này. Đặc biệt tác giả trân trọng cảm ơn tập thể giáo viên hướng dẫn: GS.TS Đinh Văn Tiến; PGS.TS Trang Thị Tuyết đã hết lòng ủng hộ và hướng dẫn tác giả hoàn thành luận án.
Tác giả trân trọng cảm ơn Vụ Kế hoạch, Cục chăn nuôi, Cục trồng trọt, Tổng cục Thủy sản... thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, UBND và các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định.., Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn... đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong công tác thu thập thông tin, số liệu và tài liệu phục vụ cho nghiên cứu luận án này.
Tác giả trân trọng cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của bản thân với
sự giúp đỡ của các giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, dữ liệu, số liệu đưa
ra trong luận án được trích dẫn rõ ràng, đầy đủ về nguồn gốc. Những số liệu
thu thập và tổng hợp của cá nhân đảm bảo tính khách quan và trung thực.
Tác giả
Phạm Ngọc Quỳnh
MỤC LỤC Nội dung Trang
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục hình vẽ
1 PHẦN MỞ ĐẦU
8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
8 1.1.
Tổng hợp các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến QLNN về kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp và 9
các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông nghiệp
19
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối 22
với kinh tế nông nghiệp
32 1.2. Những khoảng trống trong các công trình nghiên cứu đã công bố và hướng nghiên cứu chính của luận án
35 Chương 2 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CNH-HĐH
35 2.1. Tổng quan về kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH- HĐH
2.1.1. Khái niệm kinh tế nông nghiệp 35
2.1.2. Vai trò của kinh tế nông nghiệp đối với tăng trưởng và phát 36 triển kinh tế
2.1.3. Những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp 38
2.1.4. Khái niệm CNH-HĐH nông nghiệp 42
2.1.5. Đặc trưng của phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng 43
CNH-HĐH
44 2.2.
Lý luận về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH
2.2.1. Khái niệm QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng 44
CNH-HĐH
2.2.2. Sự cần thiết QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng 51
CNH-HĐH
2.2.3. Chức năng QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng 57 CNH-HĐH
2.2.4. Nội dung QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng 59 CNH-HĐH
2.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với kinh tế nông 70 nghiệp theo hướng CNH-HĐH
74 2.3.
Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH và bài học có thể vận dụng cho VDHBB
2.3.1. Kinh nghiệm về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo 74
hướng CNH, HĐH
2.3.2. Bài học kinh nghiệm về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp 83
theo hướng CNH, HĐH có thể vận dụng cho VDHBB
Tiểu kết chương 2 86
87 Chương 3 THỰC TRẠNG QLNN ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DHBB
87 3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông nghiệp VDHBB
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 87
3.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội 89
90 3.2.
Tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn VDHBB
3.2.1. Tình hình sản xuất nông nghiệp VDHBB 90
3.2.2. Năng suất trong nông nghiệp VDHBB 101
3.2.3. Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp 104
VDHBB
3.2.4. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp VDHBB 109
111 3.3. Thực trạng công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn VDHBB
3.3.1. Thực trạng về tổ chức bộ máy QLNN đối với kinh tế nông 111 nghiệp VDHBB
3.3.2. Thực trạng hệ thống pháp luật có liên quan đến phát triển 115
kinh tế nông nghiệp tại VDHBB
3.3.3. Thực trạng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án về 121
phát triển nông nghiệp theo hướng CNH-HĐN ở VDHBB
130
3.3.4. Thực trạng ban hành và thực thi hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH ở VDHBB
3.3.5. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động 144 sản xuất nông nghiệp trên địa bàn VDHBB
148 3.4.
Đánh giá thực trạng QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn VDHBB
3.4.1. Những kết quả đạt được trong công tác QLNN đối với kinh 148
tế nông nghiệp VDHBB
3.4.2. Những hạn chế còn tồn tại trong QLNN đối với kinh tế 151
nông nghiệp VDHBB
3.4.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế 155
Tiểu kết chương 3 158
159
Chương 4 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QLNN ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CNH-HĐH TRÊN ĐỊA BÀN VDHBB
159 4.1. Phương hướng hoàn thiện QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn VDHBB
4.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và những tác động tới kinh tế 159
nông nghiệp VDHBB
4.1.2. Định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn 161
VDHBB theo hướng CNH-HĐH đến 2025
164
4.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH tại VDHBB
167 4.2.
Giải pháp tiếp tục hoàn thiện QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn VDHBB
4.2.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức và nguồn nhân lực cho phát 167 triển kinh tế nông nghiệp ở VDHBB
4.2.2. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát 170 triển kinh tế nông nghiệp VDHBB
4.2.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông 172
nghiệp VDHBB theo hướng CNH-HĐH
4.2.4. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp VDHBB theo hướng 180
nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch
4.2.5. Thúc đẩy nông nghiệp VDHBB phát triển sản xuất quy mô 182
lớn
4.2.6. Hoàn thiện công tác thanh, kiểm tra, giám sát hoạt động 183
kinh tế nông nghiệp VDHBB
4.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 186
186
4.3.1. Đổi mới quan điểm về vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế nông nghiệp, đồng thời nâng cao vai trò của các tổ chức hiệp hội ngành
4.3.2. Nâng cao nhận thức, năng lực cho người nông dân về 187 CNH, HĐH nông nghiệp
4.3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn vùng DHBB. 188
190 4.4. Một số kiến nghị đối với Quốc hội
4.4.1. Khắc phục những bất cập trong Luật Đất đai 2013 190
4.4.2. Ban hành Luật Nông nghiệp thống nhất điều chỉnh các 192
chuyên ngành trong lĩnh vực nông nghiệp
194 Tiểu kết chương 4
KẾT LUẬN 195
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 197
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 204
PHỤ LỤC 1 + 2 205
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm
CNH-HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
Đồng bằng Sông Cửu Long ĐBSCL
HTX Hợp tác xã
KH-CN Khoa học công nghệ
KH-KT Khoa học kỹ thuật
KTNN Kinh tế nông nghiệp
KT-XH Kinh tế xã hội
NCS Nghiên cứu sinh
NGO Tổ chức phi chính phủ
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NSLĐ Năng suất lao động
NSNN Ngân sách nhà nước
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
ODA Viện trợ phát triển chính thức
PPP Hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân
QLNN Quản lý nhà nước
VAC Vườn – Ao – Chuồng
VDHBB Vùng Duyên hải Bắc bộ
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng Trang
Bảng 3.1 Tình hình sản xuất cây lương thực có hạt VDHBB 91
Bảng 3.2 Tình hình sản xuất lúa VDHBB 93
Bảng 3.3 Tình hình sản xuất ngô VDHBB 94
Bảng 3.4 Tình hình chăn nuôi trâu bò VDHBB 95
Bảng 3.5 Tình hình chăn nuôi lợn VDHBB 96
Bảng 3.6 Tình hình chăn nuôi gia cầm VDHBB 98
Bảng 3.7 Tổng hợp tình hình sản xuất thủy sản VDHBB 99
Bảng 3.8 Sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng VDHBB 101
Bảng 3.9 102
So sánh năng suất lúa, ngô VDHBB với các vùng khác trong cả nước
Bảng 3.10 Năng suất lao động xã hội trong ngành nông nghiệp so 103 với toàn nền kinh tế
Bảng 3.11 Giá trị và tỷ trọng sản xuất nông nghiệp VDHBB 109
Bảng 3.12 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 131
Bảng 3.13 Các sản phẩm liên quan nông nghiệp thực hiện bình ổn giá 133
Bảng 3.14 Hệ thống khuyến nông theo vùng 134
Bảng 3.15 Số lượng trang trại VDHBB 149
Bảng 3.16 Cánh đồng mẫu lớn tại VDHBB 150
Bảng 3.17 Hệ thống hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn 150
VDHBB
DANH MỤC CÁC HÌNH
Tên hình Trang
Bản đồ vùng VDHBB trong tổng thể Miền Bắc Hình 3.1 88
Hình 3.2 92 So sánh sản lượng lương thực bình quân đầu người giữa các vùng
Phân bổ đàn lợn theo vùng trong cả nước Hình 3.3 97
Hình 3.4 100
Tỷ trọng nuôi trồng và khai thác thủy sản giữa các vùng trong cả nước
Giá trị gia tăng/ lao động theo ngành kinh tế ở Việt Nam Hình 3.5 103
Hình 3.6 104
Năng suất lao động ngành nông nghiệp Việt Nam so với một số nước Châu Á
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp VDHBB Hình 3.7 110
Hình 3.8 112 Sơ đồ bộ máy QLNN đối với kinh tế nông nghiệp VDHBB
Hình 3.9 114
Mô hình phối hợp Bộ NN&PTNT với các bộ quản lý ngành khác trong QLNN về kinh tế nông nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, cung cấp nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu. Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong suốt thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi.
Ở Việt Nam, trong hệ thống ngành kinh tế quốc dân, nông nghiệp là ngành có sức lan tỏa lớn nhất, có tính kết nối rất cao với nhiều ngành kinh tế. Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa chất, máy móc cơ khí, năng lượng, tín dụng, bảo hiểm...Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan mật thiết đến sức mua của dân cư và sự phát triển thị trường trong nước. Với 50% lực lượng lao động cả nước đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và 70% dân số sống ở nông thôn, mức thu nhập trong nông nghiệp sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sức cầu của thị trường nội địa và tiềm năng đầu tư dài hạn. Nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, tình hình kinh tế gặp khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, nông nghiệp Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng.
Tuy vậy, tăng trưởng nông nghiệp thời gian qua ở nước ta chủ yếu theo chiều rộng thông qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên mức độ thâm dụng
1
các yếu tố vật chất đầu vào cho sản xuất (lao động, vốn, vật tư) và đất đai. Sản xuất nông nghiệp đã và đang gây tác động tiêu cực đến môi trường như: mất đa dạng sinh học, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, đất đai bị bạc màu, chi phí sản xuất tăng… đe dọa tính bền vững của tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp sẽ không còn được dồi dào do đất trong nông nghiệp bị thu hẹp dần trong quá trình đô thị hóa, nông nghiệp sẽ phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Chí phí sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam với vị thế là nước sản xuất có chi phí thấp so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Vùng duyên hải Bắc Bộ (VDHBB) là một vùng kinh tế quan trọng của Việt Nam, nằm ven vịnh Bắc Bộ. VDHBB bao gồm 5 tỉnh ven biển phía Bắc Việt Nam là Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Theo Quyết định số 865/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2008, Vùng Duyên hải Bắc Bộ được định hướng sẽ trở thành vùng kinh tế quan trọng tầm quốc gia và quốc tế. Vùng duyên hải Bắc Bộ có tiềm năng rất lớn về phát triển kinh tế nông nghiệp với vị trí là trung tâm của vùng Đồng bằng Sông Hồng – vựa lúa phía bắc, với tiềm năng về thủy hải sản và khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi.
Không nằm ngoài tình hình chung của cả nước, kinh tế nông nghiệp VDHBB hiện nay có nhiều hạn chế. Thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, chế biến nông sản được đưa vào ứng dụng sản xuất chưa nhiều nên năng suất, chất lượng hiệu quả trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác hải sản còn thấp. Công nghiệp chế biến nông sản vẫn còn kém phát triển. Rõ ràng, CNH-HĐH nông nghiệp chính là hướng đi duy nhất để nâng cao giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, khi mà các động lực khác cho phát triển như đất đai, lao động đều bị giới hạn. Giải pháp quan trọng cho phát triển nông nghiệp vùng là đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ trong nông nghiệp; tích cực chuyển giao công nghệ, đào tạo và dạy nghề cho nông dân nhằm phát huy tài nguyên con người và áp dụng khoa học - công nghệ có hiệu quả.
Những hạn chế, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất là công tác QLNN đối với kinh tế
2
nông nghiệp VDHBB còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Chưa có một cơ quan làm nhiệm vụ điều phối phát triển nông nghiệp trong vùng; không có quy hoạch phát triển nông nghiệp toàn vùng theo hướng dựa trên tiềm năng, lợi thế của từng địa phương mà quy hoạch được xây dựng theo từng tỉnh, thành mang tính cạnh tranh nhau nhiều hơn là hợp tác; chưa xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp theo chuỗi giá trị, liên kết 5 nhà; việc thực thi một số chính sách trong nông nghiệp như tín dụng, đầu tư còn chưa mang lại hiệu quả cao; công tác thanh kiểm tra trong lĩnh vực nông nghiệp của vùng còn hạn chế đặc biệt trong lĩnh vực ATVSTP; tình trạng sử dụng thuốc BVTV trong trồng trọt tràn lan ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người tiêu dùng cũng như uy tín, thương hiệu của sản phẩm vùng…
Với những lý do phân tích trên đã và đang đặt ra sự cần thiết phải nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện QLNN đối với kinh tế nông nghiệp kết hợp với quá trình CNH-HĐH ngành nông nghiệp. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn hướng nghiên cứu “Quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Vùng Duyên Hải Bắc Bộ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài Luận án Tiến sĩ, với mong muốn có những đóng góp thiết thực cho quá trình đổi mới QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn VDHBB trong đó có thành phố Hải Phòng – là quê hương của tác giả.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng tới mục đích xây dựng một khung khổ thuyết về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp, từ đó làm nền tảng cho phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của một vùng lãnh thổ. Trên cơ sở đó, mục đích nghiên cứu cuối cùng của luận án là nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn VDHBB theo hướng CNH-HĐH.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận án đặt ra
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận về QLNN đối với kinh tế nông
nghiệp trong thời kỳ CNH-HĐH.
3
- Khảo cứu kinh nghiệm QLNN đối với kinh tế nông nghiệp ở một số vùng trong cả nước và một số quốc gia khác trên thế giới và rút ra những bài học có thể vận dụng vào VDHBB.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn các tỉnh VDHBB, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong công tác QLNN và xác định những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về kinh tế nông nghiệp có giá trị thực tiễn nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn các tỉnh VDHBB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên phạm vi một vùng lãnh thổ, gắn với quá trình CNH-HĐH nông nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
3.2.1. Phạm vi về nội dung:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu và đánh giá thực trạng QLNN theo các nội dung của quá trình quản lý bao gồm: tổ chức bộ máy; xây dựng hệ thống pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch; ban hành chính sách; thanh kiểm tra giám sát…
Thứ hai, kinh tế nông nghiệp nghiên cứu trong luận án này bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản. Luận án không nghiên cứu tiểu ngành lâm nghiệp. Sở dĩ như vậy vì lâm nghiệp không phải là thế mạnh của các địa phương trong VDHBB, trừ tỉnh Quảng Ninh; tuy vậy, lâm nghiệp của Quảng Ninh nếu so với các vùng khác trong cả nước cũng không đáng kể.
Thứ ba, chủ thể của QLNN về kinh tế nông nghiệp được đề cập trong luận án bao gồm Chính phủ Trung ương và chính quyền địa phương, trong đó tập trung vào cấp tỉnh. Do vậy, các nội dung của QLNN được phân tích trong luận án được chia thành 2 cấp: ở cấp Trung ương và cấp địa phương.
Thứ tư, do trên thực tế không có bộ máy quản lý cấp vùng ở VDHBB, vì vậy, trong quá trình triển khai nghiên cứu luận án, tác giả thu thập số liệu
4
và tư liệu của từng địa phương sau đó tổng hợp và đưa ra những đánh giá chung cho toàn vùng.
3.2.2. Phạm vi về không gian:
Không gian nghiên cứu của luận án là VDHBB bao gồm toàn bộ địa giới hành chính của 5 tỉnh: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình.
3.2.3. Phạm vi về thời gian:
Luận án thu thập số liệu và phân tích các tư liệu nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2016. Sở dĩ tác giả lựa chọn mốc thời gian bắt đầu từ 2008 bởi vì đây là thời điểm đánh dấu sự hình thành vùng kinh tế duyên hải Bắc Bộ sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 865/QĐ-TTg ngày 10/7/2008 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng duyên hải Bắc Bộ đến 2025, tầm nhìn đến 2050.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các lý thuyết về quản lý nhà nước, tác giả luận án đã kết hợp sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau đây:
+ Phương pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để thu thập và phân tích các số liệu về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp cũng như các số liệu mô tả thực trạng QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của VDHBB trong chương 3 của luận án. Nguồn số liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý dựa vào kết quả các cuộc tổng điều tra nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Tổng cục Thống kê, các số liệu từ Cục thống kê của 5 địa phương nằm trong vùng Duyên hải Bắc Bộ.
+ Phương pháp so sánh, tổng hợp
Phương pháp này được vận dụng trong luận án khi tổng hợp kinh nghiệm trong QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của một số vùng, địa phương và một số quốc gia khác, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của VDHBB. Đồng thời, phương pháp so sánh cũng được sử dụng để chỉ ra sự thay đổi về số lượng và giá trị của các mặt hàng chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản qua các năm; giữa các địa phương trong vùng. Từ đó, luận án rút ra xu hướng phát
5
triển cũng như tiềm năng phát triển của hoạt động kinh tế nông nghiệp VDHBB.
+ Phương pháp chuyên gia:
Để có thêm tư liệu và ý kiến về các vấn đề trong QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của VDHBB, luận án đã tiến hành phỏng vấn 5 chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, trong đó có 3 nhà quản lý cấp cao trong các vụ, cục và trung tâm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1 nghiên cứu viên chính đến từ Viện Nghiên cứu chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp; và 1 người là cán bộ làm công tác giảng dạy ở Viện trên. Danh sách những người tham gia phỏng vấn cũng như thông tin cơ bản và nội dung các câu hỏi và trả lời phỏng vấn được mô tả cụ thể trong Phụ lục 1 của luận án. Các quan điểm, nhận định của các chuyên gia về chính sách, quản lý đối với kinh tế nông nghiệp nói chung và VDHBB đều rất hữu ích và đã được NCS bổ sung vào một số nội dung của luận án.
+ Nhóm phương pháp kỹ thuật khác
Xử lý số liệu thu thập được bằng một số công cụ thống kê, chương trình
Word, Excel trong phần mềm Microsoft Office.
5. Giải thuyết khoa học và câu hỏi nghiên cứu
* Giả thuyết khoa học:
Nếu công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc Bộ được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn, kinh tế nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc Bộ sẽ đạt được những kết quả khả quan hơn, xứng đáng với tiềm năng và vị trí của vùng trong tổng thể nền nông nghiệp của cả nước.
* Câu hỏi nghiên cứu:
Câu hỏi 1: CNH-HĐH nông nghiệp là gì? Tại sao phải tiến hành CNH-
HĐH trong nông nghiệp?
Câu hỏi 2: Thế nào là QLNN đối với KTNN theo hướng CNH-HĐH?
Mục tiêu, chủ thể và nội dung quản lý là gì?
Câu hỏi 3: Hiện trạng sản xuất nông nghiệp của VDHBB trong giai
đoạn 2008-2015 diễn ra như thế nào?
Câu hỏi 4: Kết quả và những hạn chế trong công tác QLNN đối với KTNN VDHBB như thế nào? Những nguyên nhân nào dẫn đến những bất cập, hạn chế đó?
6
Câu hỏi 5: Cần có những giải pháp nào để hoàn thiện tốt hơn công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trong VDHBB nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất của vùng này theo hướng nâng cao giá trị và năng suất, hướng tới phát triển bền vững.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã xây dựng và hoàn thiện khung lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH bao gồm: khái niệm, sự cần thiết, chức năng và nội dung của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH.
- Luận án xác định được hai nhóm nhân tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp nói chung và ở các tỉnh, thành phố VDHBB nói riêng.
- Luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với kinh tế nông nghiệp ở VDHBB theo các nội dung của QLNN. Từ đó, luận án đã chỉ ra được những hạn chế, yếu kém trong công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp; xác định các nguyên nhân dẫn tới những hạn chế còn tồn tại trong QLNN đã cản trở sự phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH ở VDHBB.
- Luận án đã đề xuất một hệ thống giải pháp về QLNN mang tính khả thi nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông nghiệp ở các địa phương thuộc VDHBB theo hướng CNH-HĐH.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án có
kết cấu 4 chương như sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận án
- Chương 2:Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với kinh tế nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp
trên địa bàn Vùng Duyên Hải Bắc Bộ
- Chương 4: Phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Vùng Duyên Hải Bắc Bộ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
7
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
Kinh tế nông nghiệp và QLNN đối với kinh tế nông nghiệp không phải là một chủ đề mới; nội dung này đã được các học giả, các nhà nghiên cứu và các học viên sau đại học lựa chọn làm đề tài nghiên cứu tương đối phổ biến. Sở dĩ như vậy bởi từ trước đến nay nông nghiệp vẫn luôn giữ vai trò chủ chốt trong phát triển kinh tế ở nước ta, kể cả trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình nghiên cứu luận án này, NCS đã thu thập được gần 100 đầu tài liệu có liên quan đến luận án, bao gồm cả những tài liệu trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau: bài tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học, đề án, văn bản QLNN, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, giáo trình, các sách tham khảo và chuyên khảo.... Các tư liệu này tập trung vào 3 hướng nghiên cứu chính sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp và phát triển kinh tế nông nghiệp bao gồm 3 tiểu ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản…, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp...
Thứ hai, nghiên cứu về CNH-HĐH nông nghiệp và phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững
Thứ ba, nghiên cứu về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo các nội dung của quản lý như các chính sách phát triển, quy hoạch và kế hoạch phát triển, công tác thanh kiểm tra và giám sát, đội ngũ cán bộ quản lý nông nghiệp…
Phần dưới đây, luận án tổng hợp lại các tài liệu có liên quan đã thu thập được theo 3 nội dung đã đề cập ở trên, tuy nhiên việc phân loại này chỉ mang tính chất tương đối bởi vì đa phần các công trình nghiên cứu đi xuyên suốt từ thực trạng đến chính sách, quản lý của Nhà nước. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những nội dung phục vụ cho việc nghiên cứu luận án này cũng như những
8
điểm khác biệt của các công trình khoa học đã công bố trước đó so với luận án của tác giả.
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông nghiệp
Công trình nghiên cứu “Effects of Trade Liberalisation on Agriculture in Vietnam: Institutional and Structural Aspects” (Ảnh hưởng của Tự do hóa thương mại đến nông nghiệp ở Việt Nam: xem xét khía cạnh thể chế và cơ cấu kinh tế)được thực hiện bởi tác giả Nguyen Trung Que 12/2008 – Trung tâm Điều phối vùng về Nghiên cứu và Phát triển khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc (CGPRT). Nghiên cứu này đã chỉ ra vai trò rất quan trọng của nền nông nghiệp đối với kinh tế của Việt Nam cũng như những biến chuyển trong nước và quốc tế tác động đến nông nghiệp Việt Nam. Theo tác giả Nguyễn Trung Quế, trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức một cách rõ ràng vấn đề này, từ đó, rất nhiều định hướng, giải pháp cũng như chiến lược đã được thực thi, khuyến khích nông dân và đại lý nông sản tăng cường sản xuất nông nghiệp, tạo khả năng cho việc mở rộng thị trường. Nghiên cứu này cũng khẳng định rằng, những thành tựu mà Việt Nam có được trong nông nghiệp chủ yếu và quan trọng nhất là do Việt Nam đã định hướng sự phát triển của nông nghiệp theo kinh tế thị trường. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích hộ gia đình và doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, tự do lưu thông hàng hóa trong nước và xuất khẩu sang khu vực cũng như thị trường thế giới. Các chính sách về thuế, đầu tư, vốn, cơ sở hạ tầng v.v… đã dần từng bước vững chắc bắt kịp với tình hình phát triển kinh tế... Mặc dù, nghiên cứu này cho biết bức tranh tương đối toàn diện về tình hình sản xuất nông nghiệp cũng như xuất khẩu nông sản ở nước ta cùng với những hạn chế cốt lõi trong ngành này, tuy vậy, phần nội dung đề cập đến chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp còn tương đối ít và tính cập nhật không cao, chủ yếu chỉ phân tích về thực trạng của ngành nông nghiệp trong khoảng thời gian cách đây khoảng 20 năm về trước. [79]
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Đánh giá những đóng góp của kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp đến tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam” (2009) – Chủ nhiệm đề tài TS Nguyễn Thị Tuệ Anh – Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương CIEM. Mục tiêu cuối cùng của đề tài là đánh giá đóng góp của các ngành kinh tế và
9
chuyển dịch cơ cấu ngành vào tăng trưởng NSLĐ ở Việt Nam. Trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng CNH. Ưu điểm nổi bật của đề tài là đã sử dụng phương pháp định lượng SSA tổng quát, chạy mô hình kinh tế lượng để đánh giá đóng góp của các ngành kinh tế, trong đó bao gồm cả ngành nông nghiệp cũng như chuyển dịch cơ cấu ngành vào tăng trưởng NSLĐ. Kết quả của nghiên cứu đã đưa ra những nhận định khá bất ngờ về đóng góp của ngành nông nghiệp đến gia tăng NSLĐ ở nước ta. Ngành nông nghiệp đóng góp cao vào nhịp tăng NSLĐ nội bộ các ngành mà nếu không qua nghiên cứu này có thể nhận định rằng nông nghiệp làm giảm tốc độ tăng trưởng NSLĐ tổng thể là do vấn đề năng suất của ngành. Kết quả phân tích định lượng đã chứng tỏ đó là do tác động của chuyển dịch cơ cấu. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp là rất cần thiết không chỉ mang lại giá trị gia tăng cao cho ngành mà còn có đóng góp lớn vào việc gia tăng NSLĐ của cả nước.[2]
Kết quả nghiên cứu dự án mang tên: “Srategic Choices for Agricultural and Rural Development in Vietnam” (Lựa chọn chiến lược cho phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020) của các tác giả Ian Coxhead, Kim N.B Ninh, Vu Thi Thao, Nguyen Thi Phuong Hoa thuộc Quỹ Châu Á (The Asia Foundation) tháng 1/2010. Đây là công trình nghiên cứu nằm trong khuôn khổ thực hiện “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 2011-2020”. Cũng như những nghiên cứu khác, tài liệu này trước hết cũng trình bày tổng quan về phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam như nông nghiệp với tăng trưởng kinh tế, gia tăng thu nhập cho nông thôn. Có một điểm khác biệt trong nghiên cứu này là có đề cập đến việc phát triển nông nghiệp ở một số nền kinh tế Châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Phillippines… và đồng thời có sự so sánh với nông nghiệp Việt Nam trên các mặt: GDP trong nông nghiệp, lao động nông nghiệp, đất nông nghiệp bình quân đầu người… Phần nội dung này rất hữu ích cho tác giả trong việc nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế trong QLNN đối với kinh tế nông nghiệp để rút ra các bài học có thể vận dụng vào luận án. Phần cuối của nghiên cứu, các tác giả đã dành 6 trang để phân tích lựa chọn chính sách phát triển nông nghiệp mang tính gợi mở cho Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020. [78]
10
Báo cáo nghiên cứu Vietnam country Programming Framework 2012- 2016 (Chương trình Quốc gia Việt Nam) của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp quốc (FAO) (6/2013). Trong báo cáo này, phần đầu đề cập đến hiện trạng phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giai đoạn 2012-2016. Báo cáo nhấn mạnh đến những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong suốt 25 năm đổi mới trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản như tốc độ tăng trưởng 5,22% mỗi năm, cơ cấu nông nghiệp đã và đang thay đổi mạnh mẽ theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng trưởng hướng ra thị trường, đáp ứng nhu cầu… Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế trong khu vực nông nghiệp ở nước ta. Cụ thể là, tăng trưởng nông nghiệp bị chững lại do các yếu tố như đất đai, phân bón, thuốc trừ sâu cũng như hệ thống tưới tiêu đã đạt ngưỡng giới hạn. Việc chia cắt đất đai, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất thấp và chất lượng sản phẩm kém, vệ sinh thực phẩm yếu, dây chuyền cung cấp manh mún và quản lý, kiểm soát yếu kém đã và đang là những nguyên nhân chính dẫn đến năng lực cạnh tranh thấp của sản xuất nông nghiệp.Báo cáo cũng đã đề cập mang tính liệt kê các chính sách và chương trình của Chính phủ trong nông nghiệp, nông thôn như: (1) Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ; (2) Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020; (3) Nghị quyết 26/NQ-TU về Tam nông (Nông nghiệp, nông dân và nông thôn); (4) Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tái cơ cấu khu vực nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững; (5) Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn đến 2020; (6) Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; (7) Chương trình cắt giảm khí thải nhà kính trong phát triển nông nghiệp và nông thôn 2010-2020… Nhìn chung, báo cáo này đã cho NCS có một cái nhìn khách quan về hiện trạng nông nghiệp của Việt Nam, những thành công, những hạn chế cũng như hệ thống các chính sách và chương trình của Nhà nước đối với lĩnh vực này. Tuy nhiên, do mục đích của báo cáo là làm căn cứ cho việc thiết lập các chương trình hỗ trợ của FAO cho Việt Nam nên phần nội dung có liên quan đến QLNN mới chỉ dừng lại ở mức hệ thống hóa chứ chưa đề cập đến việc thực thi và đánh giá. [76]
Công trình nghiên cứu: “Moving out of agriculture: structural change in Vietnam”(Những bước tiến trong nông nghiệp: thay đổi cơ cấu ở Việt Nam) (2013) của các tác giả Brian McCaig và Nina Pavenick. Tài liệu này tập
11
trung nghiên cứu vai trò của sự thay đổi cấu trúc trong phát triển kinh tế ở Việt Nam từ 1990 đến 2010.Các tác giả đã thảo luận về vai trò của cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp, doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự dịch chuyển mạnh mẽ lực lượng lao động từ nông nghiệp sang các ngành dịch vụ và gia công sản xuất, nghiên cứu cũng đã chỉ ra sự di chuyển nhân công từ các hộ gia đình sang các hãng trong khu vực doanh nghiệp, và sự phân phối lại công nhân từ doanh nghiệp Nhà nước sang khu vực tư nhân trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Những thay đổi trong chính sách thương mại, gia tăng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và giảm vai trò của DNNN đã đóng góp mạnh mẽ vào thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế ở Việt Nam. Như vậy, nghiên cứu này chủ yếu giải thích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam nói chung và trong nông nghiệp nói riêng, trong đó đi kèm với sự di chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác. Tuy nhiên, phần về chính sách và giải pháp của nhà nước trong nghiên cứu này chưa có nhiều và cũng chưa tập trung vào khu vực nông nghiệp – là nội dung nghiên cứu chính của luận án.[74]
Kết quả nghiên cứu đề tài khoa học “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững trong bối cảnh mới” (2014) – Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. Báo cáo nghiên cứu này tập trung nghiên cứu về vấn đề tái cơ cấu nông nghiệp, thực hiện theo Đề án Tái cơ cấu nông nghiệp năm 2013 của Thủ tướng Chinh phủ. Cũng như các nghiên cứu khác, báo cáo này cũng cũng phân tích những cơ hội và thách thức đối với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, theo đó báo cáo đã chỉ ra những khó khăn trong nông nghiệp bao gồm: Quy mô sản xuất của hộ nông dân quá nhỏ, manh mún, kết cấu hạ tầng nghèo nàn, trình độ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật thấp, các hình thức tổ chức dựa trên hợp tác, liên kết như: tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp, hiệp hội…chưa phát triển tương xứng với đòi hỏi của nông dân;Trình độ, kỹ năng của người lao động nông nghiệp Việt Nam thấp, cùng với quy mô sản xuất nhỏ, kỹ thuật canh tác truyền thống, lạc hậu đã dẫn tới năng suất lao động thấp hơn nhiều so với năng suất lao động nông nghiệp ở các nước trong khu vực. Tình trạng nông dân bỏ hoang ruộng hoặc sản xuất cầm chừng (không đầu tư lớn vào sản xuất) đã diễn ra trong những năm gần đây ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và miền Trung; Ngoài ra, ngành nông nghiệp còn phải đối mặt với những thách thức lớn khác từ: việc cắt giảm
12
thuế quan nhập khẩu hàng hóa nông sản từ nước ngoài vào Việt Nam; các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) và hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT) và siết chặt các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, rào cản kỹ thuật, tăng cường minh bạch hóa về nguồn gốc sản phẩm làm ra… Trước những khó khăn đó, nghiên cứu đã đề xuất một số phương hướng và 3 nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở nước ta: (1) Nâng cao chất lượng quy hoạch, định hướng tái cơ cấu; (2) Thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào tái cơ cấu nông nghiệp; (3) Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ngân sách cho tái cơ cấu nông nghiệp. Nghiên cứu này đã cho thấy một hướng đi mới trong nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay, là tái cơ cấu nông nghiệp – đây là xu hướng tất yếu đối với nền nông nghiệp Việt Nam.Qua đó, NCS thấy được vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp là thúc đẩy quá trình tái cơ cấu này nhằm nâng cao giá trị cho nông phẩm và phát triển bền vững. Tuy nhiên, hạn chế trong nghiên cứu này là không đưa ra các số liệu chứng minh và phân tích diễn biến quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đồng thời chủ yếu đưa ra các giải pháp mang tính định hướng.[51]
Đề tài nghiên cứu “Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm vừa qua” – Viện Quản lý kinh tế Trung ương (2014). Đề tài đã cung cấp những số liệu cho thấy các quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp theo giá trị sản xuất diễn ra trong giai đoạn 2005- 2013 bao gồm: chuyển dịch giữa 3 nhóm chuyên ngành nông nghiệp thuần – lâm nghiệp và thủy sản; chuyển dịch cơ cấu nội bộ chuyên ngành nông nghiệp thuần (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ) và chuyển dịch cơ cấu nội bộ chuyên ngành thủy sản. Theo đó, đề tài đã cho thấy xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành nông nghiệp theo hướng tỷ trọng nông nghiệp vẫn duy trì ở mức cao, lâm nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm, thủy sản chiếm tỷ trọng cũng tương đối thấp và có xu hướng giảm. Trong tiểu ngành nông nghiệp thuần, tỷ trọng trồng trọt vẫn ở mức cao (71-73%), chăn nuôi từ 24- 26% và dịch vụ rất thấp từ 1,3 đến 2,2%. Trong chuyên ngành thủy sản, tỷ trọng nuôi trồng chiếm cao hơn khai thác khoảng 67% giá trị chuyên ngành, tuy vậy có xu hướng giảm; tiểu ngành khai thác chiếm tỷ trọng thấp hơn song lại có xu hướng tăng. Từ các số liệu phân tích đó, đề tài đã khẳng định rằng nền nông nghiệp Việt Nam vẫn nặng về sản xuất lúa gạo, cây công nghiệp và một số cây ăn quả khác, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, mức
13
độ áp dụng KHCN và các phương pháp tiên tiến còn ít nên chưa khai thác đầy đủ tiềm năng đất đai, nguồn nước, khí hậu và các điều kiện tự nhiên tại các vùng sản xuất. Tư liệu này đã giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quan về quá trình chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp của Việt Nam cũng như những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. Căn cứ vào đó, tác giả nhận thấy rằng tình hình sản xuất nông nghiệp của VDHBB cũng đang trong tình trạng chung của cả nước. Tuy nhiên, có điều đáng tiếc, đề tài đã không đề cập đến các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp từ phía Nhà nước để khắc phục các hạn chế này nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hợp lý hơn.[52]
Nghiên cứu phân tích “Vietnam drought and saltwater intrusion: Transitioning from Emergency to Recovery”(Hạn hán và xâm nhập mặn ở Việt Nam: quá trình chuyển đổi từ Khẩn cấp sang Phục hồi) của UNDP – Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (2016). Khác với các nghiên cứu trước, nghiên cứu này tập trung vào một yếu tố bất lợi về tự nhiên đối với phát triển nông nghiệp ở Việt Nam: đó là vấn đề hạn hán và xâm nhập mặn. Kể từ cuối năm 2015, Việt Nam đã trải qua đợt hạn hán và xâm nhập mặn dài nhất và mạnh nhất trong lịch sử do hiện tượng El Nino gây ra, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hơn 18 tỉnh thuộc 3 vùng sản xuất nông nghiệp chính và đảm bảo an ninh lương thực, bao gồm cả Đồng bằng sông Mekong, Trung Nam Bộ và Tây Nguyên… Báo cáo này đã tập trung đưa ra các hàm ý chính sách để phục hồi, cũng như huy động các nguồn lực cho quá trình phục hồi nền kinh tế những năm tiếp theo. Tình trạng hạn hán hiện nay là cơ hội duy nhất cho không chỉ việc khôi phục lại tốt hơn mà còn rút ra những bài học cho việc xây dựng khả năng chống đỡ trong tương lai. Điều đó đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nguy cơ biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Nghiên cứu này đã đưa ra một cái nhìn mới cho tác giả luận án trong việc tiếp cận đến chức năng và vai trò của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp. Trong bối cảnh khí hậu, thiên nhiên biến đổi không ngừng và khó dự báo như vậy, hơn nữa, nông nghiệp lại là ngành sản xuất phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, vì thế vai trò của nhà nước trong việc hạn chế những tác động xấu của thiên nhiên đến nông nghiệp sẽ ngày càng quan trọng, đồng thời Nhà nước cần có những giải pháp bảo vệ tự nhiên. [80]
14
Báo cáo phát triển Việt Nam “Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: Tăng giá trị, giảm đầu vào” của Ngân hàng thế giới WB (2016). Báo cáo này là kết quả hợp tác giữa Nhóm Ngân hàng Thế giới và Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD). Mối quan tâm ở đây là so sánh nông nghiệp Việt Nam với các nước khác nhằm xây dựng tầm nhìn phát triển nông nghiệp của Việt Nam trong 1-2 thập kỷ tới và đưa ra những biện pháp cải cách chính sách và thể chế ngắn hạn nhằm đưa nông nghiệp vào đúng quỹ đạo phát triển. Báo cáo phân tích cho thấy trong vài thập kỷ gần đây, những người nông dân Việt Nam đã thực hiện thành công việc cung cấp đầy đủ lương thực cho đất nước, mở rộng thương mại, cung cấp nguồn lao động và nguyên liệu ổn định cho sản xuất công nghiệp. Ngành nông nghiệp đã giữ vai trò cơ bản trong công cuộc giảm nghèo và đảm bảo ổn định xã hội. Nhưng các thay đổi về nhân khẩu học, kinh tế, thời tiết và các thay đổi khác đã làm cho sân chơi nông nghiệp cũng thay đổi theo. Vì vậy ngành nông nghiệp cũng phải điều chỉnh để đối mặt với thách thức và nắm bắt cơ hội mới. Báo cáo cũng đã phân tích và chỉ ra rằng nông nghiệp Việt Nam hiện đang đứng trước ngã ba đường. Ngành nông nghiệp đang bị cạnh tranh về nhân công, tài nguyên đất và nước bởi quá trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp và dịch vụ. Chi phí lao động tăng làm ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh vốn dựa trên lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nông sản thô. Sử dụng quá mức vật tư đầu vào và tài nguyên thiên nhiên đang trở thành vấn đề nóng bỏng. Một số vấn đề môi trường đang cản trở tăng năng suất lao động và vị thế cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Về vai trò của Nhà nước, báo cáo đánh giá Đề án Tái cơ cấu Nông nghiệp ban hành năm 2013 của Chính phủ và cho rằng đã nêu rõ cần thực hiện chuyển hướng chiến lược ngành, tăng cường thể chế cơ bản, và điều chỉnh vai trò và công cụ hỗ trợ của chính phủ. Báo cáo Phát triển Việt Nam đi sâu phân tích các chủ điểm này và ủng hộ một chiến lược nhằm “tăng giá trị, giảm đầu vào” (tức là tăng phúc lợi cho nông dân, người tiêu dùng, và xã hội đồng thời sử dụng ít nguồn lực hơn và giảm bớt tác động tới môi trường). Có thể thực hiện mục tiêu đó bằng cách thay đổi cơ cấu mà trong đó chính phủ “giảm chỉ đạo, tăng kiến tạo”, nhất là trong mối liên hệ với nông dân, đầu tư tư nhân, tăng năng suất lao động và phát triển thị trường. Về các giải pháp cụ thể, báo cáo đề xuất những hàm ý chính sách bao gồm: (1) Tạo điều kiện cho các
15
nông hộ nhỏ đạt lợi thế quy mô; (2) Tiếp tục khuyến khích đa dạng hóa nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu mới về thực phẩm; (3) Hỗ trợ, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong toàn ngành kinh doanh nông nghiệp; (4) Hỗ trợ bảo vệ môi trường để cạnh tranh về chất lượng; (5) Quản lý rủi ro khí hậu theo hướng thích ứng; (6) Tăng cường năng lực cả khu vực công và khu vực tư nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm; (7) Xác định lại vi thế và xây dựng lại hình ảnh về nông nghiệp Việt Nam nhằm thúc đẩy thương mại trong ngành thực phẩm và các ngành nông nghiệp khác…. Đây là một tài liệu tham khảo rất có giá trị cho NCS trong nghiên cứu luận án này, giúp cho NCS thấy được toàn bộ hiện trạng của toàn nền nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua. Đồng thời, hệ thống các hàm ý chính sách mà báo cáo đưa ra có thể giúp ích rất nhiều cho NCS trong việc đề xuất các giải pháp cho phát triển kinh tế nông nghiệp ở VDHBB. Báo cáo nghiên cứu trên phạm vi nông nghiệp của cả nước, trong khi đó luận án này chỉ giới hạn trong VDHBB với những nét đặc trưng, đặc thù riêng trong nông nghiệp, do vậy mà không có sự trùng lặp.[56]
Báo cáo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản (2014, 2015, 2016) – Ban chỉ đạo Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Trung ương. Kết quả sơ bộ Tổng điều tra qua các năm đã phác họa bức tranh toàn cảnh về nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam qua một số chỉ tiêu cơ bản về hạ tầng nông thôn (điện, giao thông, giáo dục, thông tin, văn hóa, thể thao, y tế, môi trường); về cư dân nông thôn (số lượng và cơ cấu hộ, ngành hoạt động, thu nhập) và về hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp (cơ cấu hộ sản xuất, kinh tế trang trại). Ngoài ra, báo cáo cũng phản ánh kết quả sản xuất trên những cánh đồng mẫu lớn tại các tỉnh, thành phố của cả nước trong một số năm qua, đã thể hiện quy mô hoạt động sản xuất lớn trong nông nghiệp. Bên cạnh đó, báo cáo cũng so sánh các chỉ tiêu qua các thời kỳ, các vùng miền cho thấy một số vấn đề về dịch chuyển cơ cấu hộ, thay đổi quy mô hộ, sự chậm phát triển và phát triển không đồng đều giữa các vùng miền… Như vậy, mặc dù số liệu thu thập từ Tổng điều tra này không cung cấp số liệu riêng cho VDHBB song cũng cho thấy một hiện trạng chung về nông nghiệp, nông thôn mà VDHBB cũng không phải là ngoại lệ. Kết quả điều tra này cũng cho NCS nhận thức được những khó khăn và thách thức đối với công tác QLNN trong việc xây dựng quy
16
hoạch, chính sách định hướng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn nông thôn giai đoạn tiếp theo.[3]
Luận án tiến sĩ kinh tế “Huy động vốn đầu tư phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp ở Việt Nam” (2015) – Phạm Văn Hiệp, Học viện Tài chính. Nội dung chính của luận án là đánh giá một cách khách quan thực trạng huy động các nguồn vốn cho phát triển KHCN trong nông nghiệp ở nước ta trong khoảng thời gian 5 năm 2008-2013. Luận án đã chỉ ra những bất cập trong trong phát triển KHCN trong nông nghiệp như tình trạng sử dụng công nghiệp lạc hậu còn khá phổ biến; việc nghiên cứu chuyển giao các tiến bộ KHCN vào sản xuất nông nghiệp bộc lộ những yếu kém không theo kịp sự phát triển của KHCN trên thế giới; nhiều sản phẩm KHCN chất lượng thấp, gây ô nhiễm môi trường vẫn được đưa vào sản xuất trong các nông trại và các hộ gia đình; nhiều sản phẩm KHCN trên thị trường không được kiểm soát dẫn đến tình trạng nông dân bị thất bại khi ứng dụng các sản phẩm KHCN đó vào sản xuất. Luận án cũng đã xác định nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó là do nước ta chưa có một hệ thống giải pháp đồng bộ cho phát triển KHCN trong nông nghiệp, đặc biệt là việc huy động vốn đầu tư thúc đẩy nghiên cứu triển khai áp dụng KHCN mới vào trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp còn hạn chế. Bằng phương pháp điều tra khảo sát, tác giả Phạm Văn Hiệp đã đưa ra một con số: trong 208 đơn vị liên quan đến nghiên cứu, triển khai ứng dụng KHCN trong nông nghiệp thì chỉ có 6 đơn vị có đủ vốn (2,88%), còn lại 158 đơn vị thiếu vốn (76%), số còn lại rất thiếu vốn đầu tư cho phát triển KHCN. Để giải quyết tình trạng thiếu vốn này, tác giả đã đề xuất các nhóm giải pháp huy động vốn từ NSNN, vốn ODA, vốn ngoài ngân sách…[17]
Luận án tiến sĩ kinh tế “Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế” (2015) – Trần Viết Nguyên, Đại học Huế. Kết quả nghiên cứu thực trạng vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp đã chỉ ra rằng giá trị, quy mô và tốc độ tăng trưởng, thu hút vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp còn đạt thấp, cơ cấu vốn, nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp của tỉnh thiếu hợp lý, hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp của Thừa Thiên Huế rất thấp, thấp hơn nhiều nền kinh tế chung và công nghiệp, dịch vụ. Kết quả kiểm định cũng cho thấy, có sự tương quan chặt chẽ giữa GDP, vốn đầu tư phát triển, lao động và tổng năng suất các
17
nhân tố tổng hợp ở tỉnh Thừa Thiên Huế, lĩnh vực nông nghiệp, nhóm ngành nông lâm nghiệp, riêng ngành thủy sản không tương quan chặt chẽ cho thấy vốn đầu tư cho phát triển thủy sản chưa đúng mức vốn có nhu cầu. Những yếu kém trong quy mô, tốc độ tăng trưởng và bất hợp lý về cơ cấu nguồn vốn dẫn đến hiệu quả đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế về mặt kinh tế chưa cao, tăng trưởng GDP nông nghiệp đạt mức thấp và giảm mạnh giai đoạn 2006-2013. Tác giả luận án cũng phân tích chính sách vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp của địa phương và khẳng định rằng chưa có chính sách chung mà chỉ ban hành rải rác ở nhiều văn bản, chưa có kế hoạch vốn đầu tư trung hạn, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp không khả thi do chưa tương thích với cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ trong nông nghiệp… thực hiện các dự án đầu tư cho phát triển nông nghiệp là một quá trình dài, hồ sơ thủ tục đầu tư phức tạp. Từ những phân tích trên, luận án đưa ra những định hướng, mục tiêu và đề xuất 3 nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế. Như vậy, tư liệu này đã cho thấy bức tranh chung về đầu tư cũng như chính sách đầu tư trong nông nghiệp không chỉ ở Thừa Thiên Huế mà còn đúng với các địa phương khác, các vùng khác trong đó có vùng Duyên hải Bắc Bộ.[24]
Luận án tiến sĩ kinh tế “Phát triển nông nghiệp các tỉnh trung du miền núi phía bắc Việt nam theo hướng bền vững” (2015) – Nguyễn Thanh Hải, Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Vùng trung du miền núi phía Bắc là một trong những vùng kinh tế dựa vào nông nghiệp. Tuy có những lợi thế nhất định trong phát triển nông nghiệp song nhiều năm qua, do điểm xuất phát thấp, điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa có những khó khăn, công tác quản lý hành chính, quảng bá và tạo điều kiện thu hút đầu tư ở một số địa phương còn hạn chế, cho nên nhiều tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được tập trung khai thác mạnh mẽ. Để giúp sản xuất nông nghiệp của vùng trung du miền núi phía Bắc phát triển nhanh theo hướng bền vững, luận án đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững trên cả 3 phương diện: bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội, và bền vững về môi trường. Qua phân tích, đánh giá, luận án đã nêu bật được những kết quả bước đầu đáng khích lệ của các địa phương trong vùng trong việc phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững cũng như đã chỉ rõ
18
những mặt hạn chế chủ yếu, những yếu kém cần khắc phục và các nhân tố ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đến phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của vùng trong giai đoạn này. Trên cơ sở đó, luận án đã nêu quan điểm, định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của vùng đến năm 2020 và một số giải pháp nhằm thực hiện thành công định hướng đó.[16]
Luận án tiến sĩ kinh tế “Phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng kinh tế xanh” (2016) – Nguyễn Hồng Nhung, Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã đưa ra một quan điểm phát triển nông nghiệp theo một định hướng mới – nông nghiệp xanh. Tác giả luận án cho rằng, phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế xanh là quá trình phát triển nông nghiệp chuyển từ một nền nông nghiệp nâu (nền nông nghiệp tiêu tốn nhiều tài nguyên, phát sinh nhiều khí thải nhà kính, ảnh hưởng xấu đến môi trường, sức khỏe con người) sang một nền nông nghiệp xanh theo hướng giảm sử dụng các loai phân hóa học, thuốc trừ sâu và tăng sử dụng nhiều chất có nguồn gốc sinh học nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế, hướng tới phục hồi và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, giảm lượng phát thải khí nhà kính, không gây tổn hại đến môi trường và sức khỏe của con người. Luận án đã đánh giá được thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế xanh và các nhân tố ảnh hưởng ở Việt Nam, theo đó luận án nhận định rằng Việt Nam là nước có nền nông nghiệp phát thải carbon cao, cao hơn rất nhiều các nước khác như Trung quốc, Thái lan…; chất thải rắn nông nghiệp là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và chưa có các biện pháp xử lý thích hợp; môi trường đất, nước bị ô nhiễm, đất canh tác dần bị thoái hóa do tình trạng sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan…Tác giả luận án đã đề xuất 6 nhóm giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp Việt Nam theo hướng kinh tế xanh: (1) Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức; (2) Tổ chức lại sản xuất; (3) Giải pháp về thị trường; (4) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp; (5) Giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp; (6) Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng kinh tế xanh.[25]
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Báo cáo đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước (mã số KC 07.17):
19
Nghiên cứu luận cứ khoa học để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (2006) - Chủ nhiệm đề tài: TS Lê Quốc Doanh. Nhóm tác giả đưa ra khái niệm theo tinh thần Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV đã định hướng “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cho rằng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn bao gồm 2 quá trình là chuyển biến về kinh tế - kỹ thuật và những chuyển biến về kinh tế - xã hội. Về chiến lược và chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn: thực hiện các chiến lược để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó đầu tư rộng rãi vào lĩnh vực hạ tầng, công nghiệp nông thôn và công nghiệp chế biến, phát triển chiến lược; xây dựng hệ thống nông nghiệp linh hoạt bằng cách làm cho nông dân thích ứng với thị trường thay đổi và công nghệ mới. Các chính sách thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn như Chính phủ hỗ trợ việc hình thành các tổ chức nông dân hay hợp tác xã mua bán, lưu thông, bảo quản và chế biến nông sản. Tác giả cho rằng để xây dựng chính sách hiệu quả cao, cần có một chiến lược phát triển nền kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn, trong đó nhấn mạnh: muốn thúc đẩy việc phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn cần có một động lực thúc đẩy, đó là sự hình thành một tầng lớp doanh nhân nông thôn, do đó nhà nước cần phải có chính sách để thúc đẩy việc phát triển óc kinh doanh. Môi trường của việc phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn là thị trường nông thôn thì cần có chính sách phát triển thị trường và xây dựng các thể chế phát triển thị trường.[13]
Nông nghiệp công nghệ cao - Nền tảng cho phát triển nông nghiệp - Bản tin phục vụ lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - năm 2010. Tài liệu đã đưa ra khái niệm về nông nghiệp công nghệ cao đó là nền nông nghiệp mà ở đó các loại hình công nghệ cao (cơ giới hoá, tự động hoá, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ quản lý) được ứng dụng tổng hợp theo một chu trình khép kín, hoàn chỉnh
20
nhằm khai thác hiệu quả nhất tài nguyên tự nhiên và tiềm năng đã đạt năng suất và chất lượng sản phẩm cao nhất một cách bền vững. Đưa ra tiêu chí để xác định nền công nghệ cao. Nêu những thách thức khó khăn, thách thức trong ứng dụng và triển khai công nghệ cao như bất cập về đất đai, về tín dụng, về đầu tư ngân sách nhà nước, về thị trường, về hệ thống văn bản pháp luật thiếu đồng bộ. Về định hướng đã cung cấp những định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2020. Tuy nhiên tài liệu chưa đề cập đến chiến lược, quy hoạch, kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Và cũng đánh giá ở phạm vi cả nước nên tài liệu chưa đề cập, đi sâu phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở VDHBB.
Công trình nghiên cứu “Những chủ trương, biện pháp mới trong giai đoạn 2006-2011 về CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn” (2011) của Viện Quản lý kinh tế Trung ương. Trước hết, đề tài đã chỉ ra nhận thức mới về nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong quá trình CNH-HĐH cả trên thế giới và ở Việt Nam. Theo đó, quá trình CNH-HĐH nông nghiệp thế giới trong thế kỷ XX có 3 đặc điểm cơ bản: (1) hiện đại hoá công cụ sản xuất nông nghiệp, có nghĩa là sử dụng một cách rộng rãi thiết bị cơ giới để thay thế sức người, gia súc và công cụ sản xuất truyền thống; (2) hiện đại hoá kỹ thuật sản xuất, có nghĩa là ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; và (3) hiện đại hoá phương thức sản xuất, có nghĩa là chuyển nông nghiệp từ sản xuất cá thể tự cung tự cấp sang sản xuất xã hội quy mô lớn, có tính chuyên nghiệp hoá cao. Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 1980, cùng với sự hình thành và tiến triển nhanh chóng của nhiều xu thế mới trên thế giới, nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những thay đổi. Thứ nhất, sự ra đời và phát triển của quan điểm “Phát triển bền vững” đã làm nổi rõ vai trò của môi trường sinh thái trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, hình thành nên quan niệm “Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững”. Thứ hai, cách mạng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đã có tác động sâu rộng đến nông nghiệp. Công nghệ sinh học ngày nay có một nội dung rất quan trọng là sử dụng các kiến thức truyền thống và công nghệ hiện đại nhằm làm thay đổi vật chất gien trong thực vật, động vật, vi sinh vật và tạo ra các sản phẩm mới. Thứ ba, sự đa dạng hoá các ngành, nghề của kinh tế nông thôn như nêu trên đây đã dẫn tới sự đa dạng hoá nghề nghiệp của những
21
người dân nông thôn. Nghiên cứu cũng khẳng định về tầm quan trọng và ý nghĩa của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết 5 Trung ương khoá IX đã vạch ra rằng một nhận thức về vai trò, vị trí của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chưa đầy đủ và chưa sâu sắc. Đây là nguyên nhân chủ quan, có ảnh hưởng lớn đến các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong nhiều năm kể từ sau khi đổi mới. Khắc phục khiếm khuyết về nhận thức này, Nghị quyết Trung ương 5 đã khẳng định quan điểm: “Coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”. Đây là nhận thức làm cơ sở quan trọng cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn trong thời gian tới.[53]
1.1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp
Theo sự tìm hiểu của NCS, từ trước đến nay, có rất ít các công trình nghiên cứu có tên gọi đầy đủ là QLNN đối với kinh tế nông nghiệp. Hầu hết các nghiên cứu trước đều chỉ đề cập đến một hoặc một vài khía cạnh của QLNN như vấn đề chính sách đối với nông nghiệp hay quy hoạch, lập kế hoạch trong nông nghiệp… Một số công trình tiêu biểu được tác giả liệt kê dưới đây:
Luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”- Nguyễn Tiến Dĩnh - 2003. Tác giả đã hệ thống hoá lý luận cơ bản về chính sách kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá như đã làm rõ vai trò của nông nghiệp đối với kinh tế -xã hội, vai trò của chính sách đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những yêu cầu phải hoàn thiện chính sách kinh tế. Tuy nhiên, tác giả chưa xác định khái niệm về kinh tế nhà nước, công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp; mặt khác về sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách kinh tế nhằm phát triển nông nghiệp thì chưa đưa ra những yếu tố như điều kiện hội nhập quốc tế, những hạn chế vốn có của chính sách kinh tế ở Việt Nam. Về đánh giá thực trạng kinh tế nông nghiệp trên cơ sở đánh giá theo từng loại chính sách như chính sách về đất đai, chính sách về cơ
22
cấu kinh tế và tác động đến sản xuất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ khắc phục thiên tai, chính sách ... chuyển giao khoa học công nghệ, chính sách đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp. Như vậy với lý luận chung mà tác giả đã hệ thống là chưa thống nhất, chưa toàn diện và đồng bộ với hệ thống chính sách, cũng như chưa đưa ra được các tiêu chí cụ thể để đánh giá. Về các giải pháp, tác giả đã đề cập đến hoàn thiện các chính sách kinh tế như chính sách đất đai, chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách phát triển thị trường nông sản. Tuy nhiên một số chính sách mà tác giải đề xuất trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế đến nay không thật sự còn phù hợp.[12]
Luận án tiến sĩ: “Quản lý nhà nước nhằm phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá ở vùng Đồng bằng sông Hồng” - Trần Lâm Bình (2005). Tác giả đã đề cập vai trò và đặc điểm của chăn nuôi đối với sản xuất hàng hoá, chức năng và nội dung quản lý nhà nước đối với chăn nuôi sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên về nội dung QLNN, tác giả mới đề cập đến định hướng chiến lược phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, vai trò điều tiết của nhà nước trong cơ chế thị trường, đến kinh tế, kiểm soát mà chưa đề cập đến các nội dung khác của QLNN; tác giả cũng chưa đề cập đến phát triển chăn nuôi theo hướng CNH, HĐH hay theo yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm môi trường. Về đánh giá thực trạng, tác giả tập trung đánh giá chăn nuôi ở vùng đồng bằng sông hồng, trong đó nhấn mạnh đến thị trường tiêu thụ cũng như đánh giá thực trạng QLNN đối với chăn nuôi, trong đó về thực trạng bộ máy QLNN tác giả đã đề cập tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ từ cấp bộ đến xã; tuy nhiên việc đánh giá đội ngũ cán bộ còn chung chung, mới dừng lại ở việc thống kê mà chưa khái quát được cũng như chưa chỉ ra nguyên nhân sâu xa những hạn chế về tổ chức bộ máy cán bộ QLNN đối với lĩnh vực chăn nuôi về phương hướng này. Tác giả đã dự báo tình hình tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường QLNN đối với chăn nuôi như kiện toàn tổ chức bộ máy, nhưng chưa đề cập đến tinh giản bộ máy, cải cách thủ tục hành chính cũng như các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ QLNN đối với chăn nuôi.[4]
Luận án tiến sĩ: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế”- Hoàng Sỹ Kim (2007). Tác giả đã hệ thống hoá lý luận về quản lý nhà nước, quản lý nhà nước đối với nông nghiệp;
23
chức năng và nội dung quản lý nhà nước đối với nông nghiệp và những yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên tác giả chưa đề cập đến quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp, đối với nông nghiệp trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về thực trạng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp trong những năm đổi mới, tác giả đã đánh giá khái quát tình hình phát triển nông nghiệp và thực trạng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, trong đó tập trung vào đánh giá chính sách gắn với các cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Điều này cho thấy là chưa hoàn toàn logic với hệ thống lý luận mà tác giả đã hệ thống hoá. Mặt khác tác giả chỉ ra những hạn chế tròng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp nhưng chưa đầy đủ nội dung quản lý nhà nước, nhất là tác giả chưa xác định và làm rõ được nguyên nhân cơ bản của những hạ chế, yếu kém đó. Về đề xuất các giải pháp, tác giả đã dự báo xu hướng chủ yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam, cũng như mục tiêu đối với quản lý nhà nước. Tác giả đề xuất hệ thống giải pháp quản lý nhà nước, những thuận lợi khó khăn thách thức phát triển nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới nhưng không đề cập đến những thuận lợi, khó khăn bất cập về quản lý nhà nước trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như hội nhập quốc tế ngày càng sâu; lại chú trọng quá nhiều vào thực hiện các cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới trong đó lại chưa đề cập đến nhiều nội dung như: thực thi pháp luật, xây dựng và thực thi chính sách đối với phát triển kinh tế công nghiệp.[20]
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn “Hệ thống giám sát và đánh giá thực hiện kế hoạch 5 năm ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn 2006-2010” (12/2009). Đây là một tài liệu nghiên cứu nhằm đề xuất xây dựng một hệ thống giám sát và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Mục đích của hệ thống giám sát kế hoạch 5 năm là để đổi mới công tác quản lý, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch, chính sách phát triển ngành, nâng cao chất lượng và hiệu quả của thông tin ra quyết định của cán bộ lãnh đạo, cán bộ hoạch định chính sách, của bộ lập kế hoạch và các đối tượng khác có nhu cầu thông tin. Lợi ích của hệ thống giám sát và đánh giá là: (1) cung cấp thông tin phản hồi cho việc điều chỉnh quá trình thực hiện kế hoạch hiện tại, cung cấp thông tin để xác định những vấn đề cần xem xét liên quan đến định hướng, chính sách ưu tiên và phân bổ nguồn
24
lực cho kỳ kế hoạch tiếp theo; (2) cung cấp thông tin cho các nhà quản lý, các thể chế về các yếu tố can thiệp trong kế hoạch tác động đến thực trạng ngành nông nghiệp. Tài liệu đã gợi ý cho NCS ý tưởng về việc xây dựng những giải pháp liên quan đến chức năng giám sát, đánh giá trong công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp VDHBB.[8]
Báo cáo “Tác động của chính quyền địa phương đối với sự phát triển nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng” (2010) của PGS.TS Ngô Quang Minh với đã làm nổi bật vai trò của chính quyền địa phương đối với phát triển nông nghiệp như: các địa phương đã thực hiện tốt việc quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng, các loại nông sản hàng hoá tập trung phù hợp với điều kiện cụ thể ở mỗi địa phương; thực hiện tốt chính sách đất đai thông qua việc giao quyền tự chủ cho nông, lâm...Đây là tập tài liệu do nhiều nhà khoa học tham gia và rất bổ ích cho quá trình nghiên cứu luận án; tuy nhiên ngoài việc hệ thống một số cơ sở lý luận, kết quả thực hiện phát triển nông nghiệp ở vùng đồng bằng Sông Hồng, có lẽ do phạm vi của đề tài nên hầu hết các tác giả đều không đánh giá những hạn chế của nhà nước đối với việc quản lý kinh tế nông nghiệp, nguyên nhân của những hạn chế về thực hiện các chính sách. Do vậy không đề cập, nếu có thì chưa thật cụ thể về các giải pháp về chính sách để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.[23]
Báo cáo khoa học đề tài: “Xây dựng chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Đà Nẵng đến năm 2020” của Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng do PGS.TS Bùi Quang Bình làm chủ nhiệm đề tài năm 2012. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển của ngành nông nghiệp (gồm các phân ngành nông – lâm – ngư nghiệp) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, dưới sự tác động của các chính sách, cơ chế khuyến khích phát triển từ Trung ương đến địa phương, nhằm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu hướng đến nâng cao hiệu quả hoạt động, phát triển ngành nông nghiệp đô thị. Các chính sách khuyến khích được phân tích trên các mặt tác động về kinh tế và xã hội, những thành tựu đạt được, cũng như các hạn chế, vướng mắc còn gặp phải. Từ kết quả phân tích, đề tài hướng đến bổ sung, hoàn thiện hoặc xây dựng mới các chính sách trọng tâm nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng theo định hướng đề ra. Đề tài đã đánh giá thực trạng
25
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và những vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của thành phố như: trình độ nhận thức còn thấp của người nông dân, nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp còn hạn chế, công tác quy hoạch và sử dụng đất nông nghiệp chưa hiệu quả, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nông nghiệp, hạn chế khả năng mở rộng tiếp cận thị trường, mối liên kết yếu giữa nông dân và các chủ thể khác, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp chưa hiệu quả... Một điểm mới trong đề tài nghiên cứu là thực trạng về chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của thành phố Đà Nẵng và tác động của chính sách này đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.Tuy vậy, hạn chế nhất định của đề tài là với mục tiêu phân tích tác động của chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, dựa trên cơ sở các số liệu thống kê, báo cáo quản lý và dữ liệu khảo sát được, kết quả phân tích được phần lớn dừng lại ở mức độ định tính chưa thể định lượng được kết quả tạo ra được từ các chính sách được thực hiện. Lý do cơ bản là do đối tượng khảo sát để phân tích phần lớn là hộ nông dân, có sự hạn chế về trình độ cùng với độ trễ của chính sách nông nghiệp gây nhiều khó khăn trong việc lượng hóa được kết quả của những chính sách khuyến khích tác động đối với chính họ và ngành kinh tế nông nghiệp thành phố.[10]
Báo cáo nghiên cứu “Nghiên cứu đề xuất chính sách thúc đẩy đối tác công tư trong nông nghiệp” (2015) – Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn do Phùng Giang Hải là chủ nhiệm đề tài. Đề tài đi sâu nghiên cứu một nội dung mới trong nhóm các đề tài liên quan đến kinh tế nông nghiệp, đó là thúc đẩy hợp tác công-tư trong sản xuất nông nghiệp. Báo cáo đã nêu lên được thực trạng PPP trong nông nghiệp: Trên thực tế hiện chưa có dự án PPP thực sự (có đối tác công và đối tác tư nhân cùng phối hợp bình đẳng đầu tư, cung cấp hàng hóa/dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án được pháp luật bảo hộ) mà chủ yếu là các dự án hợp tác công tư (có sự phối hợp giữa Nhà nước và tư nhân nhưng chưa có cơ quan nhà nước có thẩm quyền được chỉ định chính thức và cũng chưa có hợp đồng được chứng thực). Đồng thời báo cáo cũng tiến hành phân tích và đánh giá hệ thống chính sách thúc đẩy PPP trong nông nghiệp. Báo cáo khẳng định rằng hàng loạt các chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư tư nhân vào nông nghiệp và chính sách thúc
26
đẩy áp dụng PPP đã rất được Nhà nước quan tâm. Các chính sách có liên quan trong thời gian qua chia thành 2 mảng với 2 mục tiêu cụ thể i) thu hút đầu tư tư nhân cho các lĩnh vực nông nghiệp (Nghị định 210/2013/NĐ-CP, 55/2015/NĐ-CP, Quyết định 62/2013/QĐ-TTg) và ii) thu hút đầu tư tư nhân cho sản xuất nông nghiệp theo hình thức PPP (Nghị định 15/2015/NĐ-CP). Mặc dù còn một số hạn chế nhất định nhưng các chủ trương, chính sách này thời gian qua đã phát huy được khá nhiều tác dụng, thúc đẩy sự tham gia hoặc chí ít là thu hút sự quan tâm của khối các nhà đầu tư tư nhân đối với nông nghiệp Việt Nam. Với các văn bản pháp lí tiếp tục được hoàn thiện, các chính sách khuyến khích tiếp tục được ban hành, mục tiêu thúc đẩy thực hiện đầu tư theo phương thức PPP trong nông nghiệp là tương đối có triển vọng. Mặc dù hiện có nhiều điểm tích cực, tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra rằng, các chính sách thúc đẩy PPP trong nông nghiệp vẫn cần lưu ý một số vấn đề có liên quan để tối đa hóa được tác dụng của chính sách. Cụ thể, i) chính sách ban hành cần gắn liền với việc chuẩn bị ngân sách để thực hiện; ii) chính sách lớn cần đi kèm với các văn bản hướng dẫn chi tiết để dễ dàng thực hiện trên thực tế; và iii) công tác truyền thông, phổ biến kiến thức pháp luật luôn cần được quan tâm hơn để chuyển tải được thông tin một cách hiệu quả, kịp thời. Tư liệu này gợi ý cho tác giả một hướng nghiên cứu bổ sung cho luận án cũng như những căn cứ nhằm tăng tính khả thi cho các giải pháp.[15]
Cuốn sách “Chính sách nông nghiệp Việt Nam” – Báo cáo rà soát nông nghiệp và lương thực của OECD (Diễn đàn Hợp tác và phát triển kinh tế) năm 2015. Báo cáo rà soát các chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn kể từ khi thống nhất đất nước 1975 đến 2013. Báo cáo đánh giá bối cảnh chính sách và xu hướng chính của nông nghiệp Việt Nam, đồng thời phân loại và xác định các hỗ trợ cho nông nghiệp bằng cách áp dụng cùng một phương pháp mà OECD dùng để giám sát các chính sách nông nghiệp của các nước OECD và một số nước không phải là thành viên của OECD. Ngoài ra, báo cáo bao gồm một chương đặc biệt về môi trường chính sách đầu tư cho nông nghiệp, lấy từ khung chính sách OECD cho đầu tư trong nông nghiệp. Báo cáo khẳng định rằng nông nghiệp là một trong những ngành chiến lược chủ chốt của Chính phủ Việt Nam. Đây là điểm quan trọng trong xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Hơn nữa, kể từ khi thực hiện phân cấp về tài chính năm
27
2002, các chính quyền địa phương được giao vai trò lớn hơn trong việc lập kế hoạch và thực hiện các chính sách nông nghiệp. Những yếu tố này tạo ra những thách thức về phối hợp trong phát triển chính sách nông nghiệp ở cấp Trung ương và vùng. Từ năm 2008 đến nay, có hai nghị quyết chính hiện đang định hướng phát triển chính sách nông nghiệp là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 và Nghị quyết số 63/2009/NQ- CP. Nghị quyết thứ nhất nhấn mạnh về vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết thứ hai nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bằng cách đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực, đặc biệt là gạo. Để đạt được cả hai mục tiêu cùng một lúc, có khả năng sẽ có những nguy cơ xung đột. Hai nghị quyết đã được thực hiện thông qua một số tài liệu, bao gồm cả Kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững. Báo cáo cũng nêu ra các công cụ của chính sách nông nghiệp vận dụng ở Việt Nam bao gồm: các biện pháp trợ giá, miễn thủy lợi phí, trợ cấp hạt giống và giống vật nuôi, cơ chế tín dụng, hỗ trợ thu nhập, các chương trình khuyến nông. Hiện, mức hỗ trợ cho nông nghiệp là tương đối thấp trong khi trợ cấp đầu vào và hỗ trợ giá là phổ biến. Báo cáo đã đưa ra 2 nhóm đề xuất lớn nhằm hỗ trợ tăng năng suất, tăng năng lực cạnh tranh và tính bền vững của ngành nông nghiệp. Nhóm thứ nhất: Cải thiện môi trường thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp bao gồm: tạo điều kiện tái phân bổ các yêu tố sản xuất giữa các ngành; giảm các trở ngại đối với đầu tư; cải thiện thể chế nông nghiệp và hệ thống quản lý. Nhóm thứ hai: Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách nông nghiệp bao gồm các giải pháp: Tăng cường chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực để giảm thiểu tác hại đối với môi trường; đẩy mạnh các hệ thống đổi mới trong nông nghiệp; tiếp tục hội nhập sâu hơn vào thị trường nông sản thực phẩm thế giới. Tóm lại, đây là tài liệu rất có giá trị tham khảo cho luận án của tác giả bởi cung cấp một tư liệu tổng quan về chính sách nông nghiệp của Việt Nam – một trong 5 nội dung nghiên cứu về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp được đề cập đến trong luận án. Mặc dù phạm vi không gian nghiên cứu khác nhau giữa Việt nam với vùng Duyên hải Bắc Bộ, song NCS cho rằng các chính sách nêu ra trong tài liệu này không loại trừ và được vận dụng với bất kỳ vùng nông nghiệp nào trong cả nước.[38]
28
Ngoài sách, đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp cơ sở, luận văn, luận án có liên quan đến nội dung của luận án, tác giả cũng thu thập được một số bài báo, bài tạp chí… cũng có giá trị tham khảo trong quá trình tiếp tục triển khai luận án. Chẳng hạn như:
Bài tạp chí Tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển nông nghiệp - Tạp chí quản lý nhà nước số 129/2006 của thạc sĩ Hoàng Sỹ Kim – Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả đã đưa ra khái niệm về quy hoạch phát triển nông nghiệp, đó là việc sắp xếp, bố trí các hoạt động liên quan đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn lãnh thổ nhất định, trong một khoảng thời gian dài hạn (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm) nhằm cụ thể hóa chiến lược phát triển ngành nông nghiệp và là cơ sở để xây dựng và chỉ đạo kế hoạch hàng năm, kế hoạch thực hiện cho từng tiểu ngành thuộc ngành nông nghiệp. Tác giả đã phân tích và chỉ ra những hạn chế hoạt động quy hoạch và quản lý nhà nước đối với nông nghiệp như công tác quy hoạch chậm, xây dựng và thực hiện quy hoạch thiếu cơ sở pháp lý; chất lượng quy hoạch thấp do thiếu tầm nhìn; chưa cụ thể hóa thực hiện quy hoạch thông qua kế hoạch và cơ cấu đầu tư. Đồng thời tác giả đã đề cập một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với nông nghiệp đối với quy hoạch như nhà nước cần thu thể hóa quy hoạch phát triển nông nghiệp cho từng loại sản phẩm nông nghiệp cho từng địa phương; điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp. Tuy nhiên, để tăng cường quản lý nhà nước đối với quy hoạch phát triển nông nghiệp, tác giả chưa đề cập đến một số vấn đề như về hạn chế của QLNN đối với quy hoạch phát triển nông nghiệp đó là tính thiếu khả thi; khi xây dựng quy hoạch; công tác quản lý quy hoạch khá thiếu tính thực tiễn. Sự tùy tiện của các cơ quan QLNN, các chế tài xử phạt khi vi phạm quy hoạch, thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ,.. mặt khác trong tình hình hiện nay đang thực hiện xây dựng nông thôn mới lại càng đặt ra những yêu cầu mới tiếp tục nghiên cứu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý quy hoạch xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. [21]
Bài tạp chí: Quản lý nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở nước ta hiện nay- Một số vấn đề đặt ra. TS Nguyễn Hữu Đễ - Viện triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (đăng trên tạp chí Khoa học xã hội nhân văn, số 03 năm 2009). Tác giả đã nêu vấn đề
29
Nhà nước tác động đến nông nghiệp, nông thôn như thế nào và theo cách nào để thúc đẩy khu vực này phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá? Làm thế nào và theo cách nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Theo đó, tác giả đã phân tích quá trình tác động của Nhà nước vào nông nghiệp từ quản lý vi mô sang quản lý ở tầm vĩ mô thông qua định hướng phát triển và phê duyệt quy hoạch tổng thể, những dự án đến nay mang tính liên ngành, liên vùng và ở tầm quốc gia. Tuy nhiên đặc thù nông nghiệp của Việt Nam, Nhà nước can thiệp vào nông nghiệp vừa mang tính kinh tế (Nhà nước giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm của mình theo quy luật cung cầu); đồng thời Nhà nước cũng can thiệp vào nông nghiệp mang tính xã hội (chính sách xóa đói giảm nghèo, trợ giúp khi thiệt hại do thiên tai…từ đó tác giả đã khái quát 3 nhóm nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước đó là: (1) Nhà nước hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn; (2) Nhà nước đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó tác giả cho rằng phải đầu tư trọng điểm cho giáo dục và đào tạo người nông dân về học vấn của ngành nghề; (3) về thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước phải xây dựng và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo cơ chế thị trường, trong đó nhấn mạnh, phân tích làm rõ việc hoàn thiện bộ QLNN theo hướng sắp xếp, điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức và hệ thống các cơ quan quản lý nông nghiệp, đồng thời nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ.Tuy nhiên với 3 nhóm nhiệm vụ mà Nhà nước đang thực hiện được phân tích trong bài viết, khái quát cho thấy tác giả chưa làm rõ căn cứ lý luận cũng như trả lời thỏa đáng vấn đề tác giả đặt ra là nhà nước cần phải làm gì? Làm như thế nào? để nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng CNH-HĐH.[14]
Bài tạp chí: Nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý về phát triển công nghiệp nông thôn ở các tỉnh duyên hải nam Trung Bộ- Th.s Nguyễn Cao Chương-Viện Đại học Mở- Tạp chí quản lý nhà nước – số 157 (2/2009). Tác giả đã đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý về phát triển kinh tế công nghiệp nông thôn ở các tỉnh duyên hải nam trung Bộ về phương pháp lãnh đạo; về trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ; về công tác thanh tra, kiểm tra đối với cán bộ vi phạm; về hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó
30
chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế yếu kém, đó là: chưa xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo từ tỉnh đến xã, trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế; chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ chưa tương xứng; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn hạn chế. Từ đó tác giả đã đề xuất hệ thống hóa 5 nhóm nhiệm vụ chủ yếu, cần tiến hàn kiện toàn lại tổ chức bộ máy cán bộ quản lý nhà nước về phát triển công nghiệp nông thôn; xây dựng quy hoạch đào tạo cán bộ; thự hiện tốt chế độ chính sách đối với cán bộ. Tuy nhiên, các giải pháp mà tác giả đề xuất không phải là những vấn đề mới, thực tế các cấp chính quyền vẫn đang triển khai thực hiện nhưng hiệu quả ở mỗi nơi một khác. Đây là vấn đề lớn cần có thời gian nghiên cứu để đề xuất hệ thống các giải pháp đồng bộ, có tính khả thi cao.[11]
Bài tạp chí: Chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp của Việt Nam- những vấn đề đặt ra của Thạc sĩ: Lê Phương Hòa, Viện nghiên cứu Đông Nam Á- Đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á – 9/2009. Tác giả đã phân tích một số chính sách mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện trong thời gian vừa qua, chính sách đối với các loại vật tư đầu vào trong công nghiệp, trong đó nhấn mạnh hệ thống cung cấp giống; chính sách về đất đai; chính sách đầu tư hạ tầng; chính sách hỗ trợ khuyến nông; chính sách tín dụng; chính sách hỗ trợ qua giá; chính sách về thị trường. Trong đó đáng chú ý là tác giả đã đi sâu phân tích: chính sách đất đai còn những bất cập dẫn đến quy mô canh tác còn rất nhỏ lẻ, đang là cản trở lớn và hạn chế lớn nhất đối với sản xuất hàng hóa; Dịch vụ khuyến nông chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, do thiếu nguồn tài chính mà năng lực còn hạn chế; hệ thống tín dụng nông thôn gây ra sự thiếu hiệu quả trong phân bố tín dụng, nêu ra vấn đề hiện nay của tín dụng nông thôn Việt Nam là gần như không có mối liên hệ giữa thị trường tín dụng nông thôn và chính sách tiền tệ của chinh phủ. Việc chính phủ trợ giá cho nông sản còn nhiều bất cập về danh mục mặt hàng, quy định về mức trợ giá và trợ cước đối với các doanh nghiệp chưa đủ để khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh nông nghiệp; chính sách hỗ trợ phát triển thị trường đã góp phần hình thành được thị trường nông sản, hình thành các kênh thị trường xuất khẩu nông sản được mở rộng nhưng kinh doanh thương mại trong nông thôn còn nhỏ bé và chưa đủ sức tạo ra thị trường hàng hóa năng động [18]. Tác giả Lê Phương Hoa đã phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp của Việt Nam
31
trong thời gia qua một cách có hệ thống. Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá cụ thể nhưng chưa thực sự khái quát; hơn nữa tác giả không đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém trong việc xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp ở Việt Nam.
1.2. NHỮNG KHOẢNG TRỐNG TRONG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHÍNH CỦA LUẬN ÁN
Như vậy, các tài liệu trong nước và nước ngoài có liên quan đến QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH mà tác giả thu thập được cho thấy hầu hết các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều nội dung về phát triển kinh tế nông nghiệp, hay ít nhiều về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên cả phương diện về lý luận và thực tiễn; trong đó, các tác giả đã đề xuất những định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH ở một số tỉnh, thành và một số vùng kinh tế của Việt Nam. Có thể nói, đây là hệ thống công trình khoa học rất có giá trị và có ý nghĩa tham khảo thiết thực trong quá trình nghiên cứu của NCS. Tuy nhiên, hệ thống tư liệu phong phú này vẫn còn một số những khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu như:
(1) Chưa xây dựng được một khung lý thuyết toàn diện về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH. Hầu hết các nghiên cứu chỉ đề cập đến chỉ một hoặc một vài khía cạnh của QLNN như chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển hay hệ thống giám sát kiểm tra…
(2) Tổng quan các công trình đã nghiên cứu cũng cho thấy chưa có tài liệu nào tập trung nghiên cứu QLNN đối với kinh tế nông nghiệp dựa trên lý thuyết vùng. Trong khi đó, phát triển kinh tế nông nghiệp đòi hỏi liên kết vùng mạnh mẽ bởi các lợi thế so sánh của vùng sẽ hình thành nên hệ thống phân công lao động và chuyên môn hóa, từ đó có lợi thế về quy mô; các địa phương trong vùng sử dụng nguyên liệu đầu vào và kiến thức, lao động có kỹ năng của nhau; đồng thời với quy mô thị trường và chi phí giao thông giảm sẽ hình thành nên các cụm, vùng chuyên canh nông nghiệp gắn liền với nó là công nghiệp chế biến và cơ khí, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp của vùng chuyên canh đó.
(3) Đã có một vài công trình đề cập đến QLNN đối với kinh tế nông nghiệp, song được nghiên cứu từ khá lâu khi Việt Nam chưa tham gia một
32
cách mạnh mẽ vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như chưa xuất hiện nhiều yếu tố bất định tác động đến tình hình sản xuất nông nghiệp như hiện nay. Chẳng hạn vấn đề về biến đổi khí hậu, tác động của suy thoái kinh tế, sự thay đổi trong nhu cầu, thị hiếu về thực phẩm của người tiêu dùng…
(4) Hầu hết các công trình nghiên cứu đặt phạm vi nghiên cứu trên cả nước hoặc vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, vùng trung du miền núi phía Bắc hay giới hạn trong phạm vi một tỉnh như Đà Nẵng, Hà Nội, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ… Trong khi đó, VDHBB có nhiều đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.. do đó công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của vùng cũng có những khác biệt với các vùng và địa phương khác trên cả nước.
(5) Gần đây, rất nhiều chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước được ban hành (như Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn đến 2020…) có tác động rất lớn đến phát triển nông nghiệp và QLNN đối với kinh tế nông nghiệp khiến cho việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này là cần thiết.
(6) Hiện nay chưa có bất cứ một đề tài, công trình nào nghiên cứu về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp tập trung cho địa bàn VDHBB theo hướng CNH-HĐH. Mặc dù có một số tài liệu nghiên cứu nông nghiệp trên phạm vi vùng Đồng bằng sông Hồng song 2 vùng lãnh thổ này giao thoa bởi 4 tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Riêng tỉnh Quảng Ninh thuộc VDHBB song lại không nằm trong vùng Đồng bằng Sông Hồng.
Dựa trên những nhận định đó, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu “QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn vùng Duyên hải Bắc Bộ theo hướng CNH-HĐH”, trong đó xác định hướng nghiên cứu trong Luận án của mình tập trung vào những nội dung sau:
- Trên cơ sở hệ thống hoá các lý thuyết về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp, NCS đưa ra khái niệm về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên quan điểm cá nhân của tác giả; xây dựng khuôn khổ khung lý thuyết về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH- HĐH bao gồm: chức năng, nguyên tắc, các nội dung của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH và các nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến hoạt động này.
33
- Đánh giá thực trạng QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn VDHBB trên 5 nội dung: (1) tổ chức bộ máy quản lý kinh tế nông nghiệp của vùng; (2) hệ thống pháp lý về kinh tế nông nghiệp, (3) quy hoạch – kế hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp, (4) hệ thống chính sách cho nông nghiệp và (5) thanh kiểm tra giám sát hoạt động kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, luận án phân tích để thấy rõ những thành công và hạn chế còn tồn tại trong công tác QLNN về kinh tế nông nghiệp trong vùng.
- Phân tích các nhân tố khách quan và chủ quan trên cơ sở hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đã đưa ra trong phần lý luận để chỉ ra sự tác động của các nhân tố này đến hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn VDHBB;
- Xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH trên địa bàn VDHBB cũng như các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả các giải pháp.
34
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1.1. Khái niệm kinh tế nông nghiệp
Để đi đến khái niệm về kinh tế nông nghiệp, luận án nghiên cứu và tìm
hiểu hai khái niệm có liên quan sau đây:
* Khái niệm nông nghiệp:
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản. [9]
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển. Nông nghiệp là khu vực duy nhất sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp phát triển. Cho dù trình độ phát triển của KH&CN phát triển ở mức độ nào thì sản phẩm của nông nghiệp vẫn chưa có một ngành sản xuất nào có thể thay thế được. Nếu thiếu sản phẩm của nông nghiệp, con người không thể tồn tại và phát triển, và do đó không thể đảm bảo cho các ngành khác phát triển.
Ngày nay, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được chuyên môn hóa và cơ giới hóa trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, gồm cả việc sử dụng máy móc trong trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp chuyên sâu có nguồn đầu vào sản xuất lớn, bao gồm cả việc sử dụng hóa chất diệt sâu, diệt cỏ, phân bón, chọn lọc, lai tạo giống, nghiên cứu các giống mới và mức độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm đầu ra chủ
35
yếu dùng vào mục đích thương mại, làm hàng hóa bán ra trên thị trường hay xuất khẩu.
* Khái niệm kinh tế
Theo Adam Smith, người được coi là cha đẻ của kinh tế học, trong cuốn sách nổi tiếng “Sự giàu có của các quốc gia” (Wealth of Nations), ông đã đưa ra định nghĩa “kinh tế học” là khoa học nghiên cứu những quy luật về sản xuất, phân phối và trao đổi. Adam Smith cho rằng “sự giàu có” chỉ xuất hiện khi con người có thể sản xuất nhiều hơn với nguồn lực lượng lao động và tài nguyên sẵn có. Như vậy, xét theo bản chất, kinh tế là hoạt động của con người khi thực hiện những công việc để sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có của mình như: tiền, sức lao động, tài nguyên, công cụ lao động… để tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu xã hội, từ đó tạo ra của cải vật chất cho chính mình. Nói cách khác, kinh tế có nghĩa là: “Dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và hạn hẹp, con người và xã hội loài người tìm cách trả lời 3 câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?”. Một cách hiểu đơn giản nhất, hoạt động kinh tế là bất kì hoạt động của con người sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có của mình để tạo ra những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đem trao đổi và thu được một giá trị lớn hơn cái mà mình đã bỏ ra.
* Khái niệm kinh tế nông nghiệp
Từ khái niệm về nông nghiệp và kinh tế như đã trình bày ở trên, luận án
quan niệm về kinh tế nông nghiệp như sau:
Kinh tế nông nghiệp bao gồm các hoạt động kinh tế trong sản xuất nông nghiệp như vấn đề về sản lượng, giá cả, giá trị gia tăng, năng suất, thu nhập, phân phối, trao đổi… trong ngành nông nghiệp như chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản v.v... Xuất phát từ mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, do vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án này chỉ tập trung vào khía cạnh kinh tế trong nông nghiệp, không đề cập đến các phương pháp sản xuất hay kỹ thuật biện pháp về trồng trọt chăn nuôi như giống, phân bón, các phương pháp canh tác, nuôi trồng v.v… trong lĩnh vực nông nghiệp.
2.1.2. Vai trò của kinh tế nông nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
36
Trong nền kinh tế quốc dân, vai trò của các hoạt động kinh tế nông nghiệp vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốc gia. Nếu như nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu xã hội, thì hoạt động kinh tế nông nghiệp thể hiện ở việc phân phối, trao đổi, tiêu thụ… các sản phẩm trong nông nghiệp góp phần tạo ra giá trị tăng thêm, tạo thị trường đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tạo việc làm cho người lao động… thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thứ nhất, kinh tế nông nghiệp thông qua các hoạt động phân phối, trao đổi, tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp, thể hiện qua sự thay đổi về số lượng, giá trị, giá cả… của sản phẩm cây trồng, vật nuôi, cũng như các dịch vụ nông nghiệp, đã tạo ra thị trường tiêu thụ cho sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc cung cấp lương thực và thực phẩm cho xã hội, mà điều quan trọng hơn là thông qua việc tiêu thụ các sản phẩm của nông nghiệp sẽ tạo cho người nông dân có thu nhập, giảm bớt tình trạng đói nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống của người nông dân ở khu vực nông thôn. Từ đó, tạo tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tăng phúc lợi xã hội, hướng tới giàu có, thịnh vượng cho quốc gia.
Thứ hai, thông qua các hoạt động kinh tế nông nghiệp tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận người lao động ở nông thôn, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực này. Các học thuyết về mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của trường phái Tân cổ điển hay của Harry Oshima đều cho rằng, một khi lao động dư thừa trong khu vực sản xuất nông nghiệp được giải quyết sẽ có tác động lan tỏa đến khu vực công nghiệp, dịch vụ; từ đó thúc đẩy tăng trưởng của toàn nền kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia có một bộ phận lao động chủ yếu hoạt động trong khu vực này.
Thứ ba, kinh tế nông nghiệp tạo ra thị trường tiêu thụ cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Sản xuất nông nghiệp và khu vực nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của các ngành công nghiệp. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất, sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ các hoạt động kinh tế nông nghiệp, nâng cao thu nhập dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc
37
đẩy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm của nông nghiệp và có thể cạnh tranh với thị trường thế giới.
Thứ tư, kinh tế nông nghiệp thông qua các hoạt động xuất khẩu được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Đối với các quốc gia đang phát triển đi lên từ sản xuất nông nghiệp như Việt Nam, các loại hàng hóa nông, lâm thủy sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm, thủy sản. Tuy nhiên xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản thường bất lợi do giá cả trên thị trường thế giới có xu hướng giảm xuống, trong lúc đó giá cả sản phẩm công nghiệp tăng lên, tỷ giá kéo khoảng cách giữa hàng nông nghiệp và hàng công nghệ ngày càng mở rộng làm cho nông nghiệp, nông thôn bị thua thiệt so với công nghiệp và đô thị. Gần đây một số nước đã đa dạng hoá sản xuất và xuất khẩu nhiều loại nông lâm thuỷ sản, nhằm đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
2.1.3. Những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp
Do kinh tế nông nghiệp được hiểu là các hoạt động kinh tế (sản xuất, mua bán, trao đổi, tiêu thụ, phân phối…) diễn ra trong lĩnh vực nông nghiệp, chính vì vậy, những nhân tố tác động đến các hoạt động kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật… cũng đồng thời ảnh hưởng kinh tế nông nghiệp. Bên cạnh đó, xuất phát từ những đặc thù của sản xuất nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác, do vậy điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh tế trong nông nghiệp. Vì vậy, có thể chia những nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế nông nghiệp thành 3 nhóm sau đây:
2.1.3.1. Điều kiện tự nhiên tác động đến sản xuất nông nghiệp
Nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất tác động đến sản xuất trong nông nghiệp, đây chính là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong nông nghiệp. Đất đai ảnh hưởng quyết định đến qui mô, cơ cấu và phân bố sản xuất trong nông nghiệp (đặc biệt là với ngành trồng trọt). Mỗi loại đất lại thích hợp với một loại cây trồng, con giống khác nhau, và do đó tác động đến việc lựa chọn sản phẩm nông nghiệp để sản xuất và cung ứng cho thị trường.Ví dụ, đất miền đồi núi, đất ba dan thích hợp với cây công nghiệp như chè, thuốc lá, cao su, cà phê. Đất xám phù sa thích hợp với cây lương thực và cây ăn quả. Đất ở đồng bằng, quan trọng nhất là đất phù sa rất thích hợp cho trồng lúa. Ngoài ra, có
38
các loại đất chua mặn, đất mặn, ven biển, đất cát, đất lầy thụt than bùn, ít có giá trị đối với sản xuất nông nghiệp và việc cải tạo đòi hỏi nhiều vốn đầu tư.
Tương tự như vậy, khí hậu cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp.Mỗi vùng khí hậu lại có sự tác động khác nhau đến sản xuất nông nghiệp.Ví dụ, khí hậu nhiệt - ẩm nếu được tăng cường thêm bởi các khối khí lạnh-khô vào mùa đông thích hợp với các cây ngắn ngày và cây ngày ngắn; đối với cây dài ngày và cây lâu năm lại thích hợp với biên độ sinh thái rộng của vùng cận nhiệt để cho năng suất cao.Ở những vùng có nền sinh thái ổn định hơn về thời tiết, về nhịp điệu mùa cũng như nền nhiệt ẩm, điều này cho phép sản xuất nông nghiệp có tính chất ổn định hơn. Ở vùng một mùa khô sâu sắc tương phản với một mùa mưa cường độ cao là điều cần quan tâm đối với một số loại cây trồng đặc trưng như cây lấy mủ (cao su…).
Bên cạnh đất đai và khí hậu, đối với sản xuất nông nghiệp, nước cũng là nhân tố tối quan trọng. Ở nước ta, mỗi năm cần tới một lượng nước khoảng 60 tỉ m3cho sản xuất nông nghiệp. Với một mạng lưới sông ngòi phân bố rộng khắp và khá dày đặc, ngoài việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, sông ngòi còn cung cấp lượng phù sa lớn để bồi đắp đất đai. Tuy nhiên, tài nguyên nước ở nước ta lại phân bố không đều cả về thời gian và không gian. Vào mùa lũ, lượng nước chiếm tới 70 - 80%, mùa khô kiệt chỉ 20 - 30% tổng lượng nước. Đây là một khó khăn rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp.Ngoài ra, chất lượng nước ở một số sông, hồ nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng.Ở các khu vực ven biển, nước mặn có chiều hướng lấn sâu vào đất liền.
2.1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội tác động đến kinh tế nông nghiệp
a. Nguồn lao động
Trong nông nghiệp, lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế nông nghiệp cả theo chiều rộng và theo chiều sâu. Ở nước ta, nguồn lao động đông là một khó khăn cho kinh tế nông nghiệp bởi lao động tăng với nhịp độ nhanh, phần lớn lại là lao động phổ thông, kĩ thuật thấp sẽ gây khó khăn cho tình hình giải quyết việc làm trong khu vực này. Mặt khác, việc phân bố nguồn lao động cũng không đều giữa các ngành và các vùng, hơn nữa, điều quan trọng là trình độ tiếp thu kĩ thuật của lao động trong nông nghiệp, có đủ sức đón nhận các chương trình khuyến nông, có kinh nghiệm thâm canh trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy, nguồn lao động với tính chất
39
2 mặt của nó đã tạo ra cả những thuận lợi và khó khăn đối với sản xuất nông nghiệp.
b. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất, vốn đầu tư cho nông nghiệp
Một trong nhiệm vụ quan trọng hàng đầu về cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp là thuỷ lợi hoá. Vấn đề tưới, hệ thống đồng ruộng phải được cải tạo đảm bảo cho việc thâm canh, cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp.Hệ thống giao thông vận tải, điện, thông tin liên lạc, chợ đầu mối, cơ sở chế biến… cũng có tác động quan trọng đến các hoạt động cung ứng, phân phối và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nông sản hàng hóa sản xuất ra phải được bảo quản, vận chuyển kịp thời đến nơi tiêu dùng, chế biến đòi hỏi những điều kiện về giao thông, vận tải phải thuận lợi.
Vấn đề về khả năng tích lũy và vốn đầu tư cũng có tác động không nhỏ đến kinh tế nông nghiệp. Trong kinh tế nông nghiệp, khi tiến hành trồng trọt hoặc chăn nuôi giống cây trồng, vật nuôi nào đó, kể cả việc khai thác đất đai, nguồn nước, áp dụng KHKT … đều đòi hỏi phải có vốn và năng lực tiết kiệm. Năng lực tiết kiệm vốn phản ánh hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất, việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả có ảnh hưởng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp để hướng tới sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Bởi vì tốc độ và quy mô sản xuất nông sản tùy thuộc vào mức thu nhập và khả năng tích lũy vốn đầu tư của chủ thể sản xuất, khi mà nền nông nghiệp ngày càng hướng tới sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn.
c. Đường lối chính sách
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp được coi là một nhân tố rất quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Việt Nam là một nước nông nghiệp, vì thế từ lâu nông nghiệp được Đảng và Nhà nước coi là mặt trận hàng đầu.Từ Đại hội VI (12/1986) với đường lối đổi mới toàn diện đã khắc phục những sai lầm của công cuộc cải tạo XHCN trong nông nghiệp trước đó và đưa ngành này lên một bước phát triển mới (khoán 10). Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ; được giao quyền sử dụng đất lâu dài; được tự do trao đổi hàng hoá, mua bán vật tư, sản phẩm theo cơ chế thị trường. Kết quả là sức sản xuất được giải phóng, đã khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, ở nông thôn lại có thêm kinh tế hộ nông dân; nhiều hình thức hợp tác mới tự nguyện, sinh
40
động đã tạo nên nền kinh tế đa dạng về sở hữu, đan xen liên kết với nhau, đồng thời cạnh tranh lẫn nhau để cùng phát triển theo qui luật khách quan của kinh tế thị trường. Sản xuất nông nghiệp tăng lên rõ rệt; đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm của người dân, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Chương trình 327 của Hội đồng Bộ trường về sử dụng đất trống, đất đồ núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước; chương trình 773 của Thủ tướng Chính phủ năm 1994 về khai thác sử dụng đất hoang hóa, bãi bồi ven sông, ven biển va mặt nước … là những minh chứng rõ nét về vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, đã thu hút 48 vạn lao động nông nghiệp, khoảng 80% việc làm mới được tạo ra từ nông lâm ngư nghiệp.
2.1.3.3. Nhóm nhân tố liên quan đến khoa học kỹ thuật
Trong thời đại ngày nay, khi sản xuất nông nghiệp hướng tới nền sản xuất hàng hóa, các nhân tố thuộc về điều kiện kỹ thuật có vai trò ngày càng quan trọng. Điều đó được thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, đó là những tiến bộ trong khâu sản xuất và cung ứng giống cây trồng, vật nuôi mới. Các loại giống cây, con có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt cho phép tăng quy mô sản lượng hàng hóa mà không cần mở rộng diện tích sản xuất. Các loại giống mới có sức kháng chịu dịch bệnh cao giúp ổn định năng suất cây trồng, vật nuôi, ổn định sản lượng sản phẩm. Bên cạnh những tiến bộ về công tác giống, còn phải kể đến xu hướng lai tạo, bình tuyển các giống cây trồng cho sản phẩm phù hợp với kinh tế thị trường, chịu được va đập trong quá trình vận chuyển. Có thể nói xu hướng tuyển tạo các loại giống phù hợp với yêu cầu của CNH-HĐH không thể không lưu ý đến khả năng chịu được những tác động của sự vận chuyển sản phẩm đi xa, trong thời gian ngày càng dài hơn.
Thứ hai, bên cạnh tiến bộ công nghệ trong sản xuất cây con mới, hệ thống qui trình kỹ thuật tiên tiến cũng được hoàn thiện và phổ biến nhanh đến người sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, nhờ sự phối hợp ngày càng hiệu quả giữa các cơ quan khuyến nông với các tổ chức truyền thông, nên đã rút ngắn được thời gian chuyển tải kỹ thuật mới từ nơi nghiên cứu đến người nông dân.
Thứ ba, đó là sự phát triển của qui trình công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm đang tạo ra những điều kiện có tính cách mạng để vận chuyển
41
sản phẩm đi tiêu thụ tại những thị trường xa xôi. Điều đó cũng có ý nghĩa to lớn để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của từng vùng chuyên cạnh. Thay vì nông sản được tiêu thụ tại chỗ, hoặc ở vùng lân cận quanh vùng sản xuất, thì nay sản phẩm được đưa đi tiêu thụ tại những thị trường cách vùng sản xuất hàng ngàn kilomet nhờ công nghệ bảo quản và chế biến nông sản tiên tiến. Đồng thời, cách mạng trong lĩnh vực này cũng tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thị sản phẩm của vùng sản xuất xét về mặt thời gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu dùng trong một khoảng thời gian ngắn vào thời vụ thu hoạch, thì nay, ngày càng có điều kiện để tiêu thụ nông sản ngày càng dài hơn, thậm chí là quanh năm.
2.1.4. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo định hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới giàu có, công bằng, dân chủ, văn minh. [53]
Thực chất của CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng tiến bộ kinh tế - xã hội của một nước công nghiệp. Điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển công nghiệp chính trong ngành nông nghiệp mà còn bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ phù hợp với nền sản xuất công nghiệp ở nông thôn và cả nước nói chung.
Nghị quyết 5 Trung ương khoá IX về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, được Ban Chấp hành Trung ương thông qua ngày 18/3/2002 đã khẳng định quan điểm: “Coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”. Đây là nhận thức làm cơ sở quan trọng cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn trong thời gian tới.
42
CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Từ một nước nông nghiệp với 80% dân cư sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm trên 70% lao động xã hội, CNH, HĐH là chủ trương tất yếu đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng đã ngày càng hoàn thiện các quan điểm về CNH, HĐH đất nước, trong đó chủ đạo là CNH, HĐH lĩnh vực nông nghiệp sao cho phù hợp với điều kiện thực tế và xu thế vận động của thời đại.
2.1.5. Đặc trưng của phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu tổng quát của CNH, HĐH nông nghiệp là xây dựng một nền nông nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, từ đó nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh, hiện đại.
Những đặc trưng cơ bản của một nền nông nghiệp phát triển theo
hướng CNH, HĐH bao gồm:
- Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất trên quy mô lớn và từng bước hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn như: công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản; công nghiệp dệt may, giày dép, thủy tinh, sành sứ, cơ khí sửa chữa; các ngành nghề truyền thống tại các địa phương.
- Phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn như: dịch vụ thủy nông, dịch vụ thú y, dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm.
- Thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp bao gồm thủy lợi hóa, cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa, hóa học hóa trong các ngành nghề nông, lâm, thủy sản.
- Coi trọng việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ sinh hóa vào nông nghiệp. Khoa học công nghệ là một khâu quan trọng trong quá trình cải tiến và nâng cao các giá trị sản phẩm nông nghiệp.
43
- Tiến hành đồng thời với từng bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải từng bước chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp. Phải dựa vào thế mạnh từng vùng để từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế vừa đáp ứng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa khai thác tốt tiềm năng để tăng trưởng kinh tế nhanh.
- Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là hệ thống giao thông, thông tin liên lạc. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay.
- Ưu tiên đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế
nông thôn, miền núi.
- Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và trình độ dân trí trong dân cư nông thôn, đặc biệt là lực lượng lao động nông nghiệp. Phát triển hệ thống truyền thanh, truyền hình, thư viện, nhà văn hóa nông thôn... CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đòi hỏi đội ngũ lao động nông nghiệp và nông dân phải có trình độ dân trí, kiến thức khoa học, kỹ thuật cao mới có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới về sản xuất nông nghiệp.
2.2. LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.1.1. Khái niệm quản lý và quản lý nhà nước
a. Khái niệm quản lý
Từ rất lâu, đã có nhiều học giả, tác giả trong nước và nước ngoài nghiên cứu vấn đề quản lý. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ quản lý. Qua nghiên cứu, một số nhóm tác giả cho rằng quản lý là việc đạt được mục tiêu đề ra thông qua hoạt động của một hay một nhóm người. Một số học giả khác lại quan niệm về quản lý như là hoạt động thiết yếu nhằm gắn kết, phối hợp những nỗ lực cá nhân đảm bảo việc thực hiện thành công mục tiêu của cả nhóm.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, có thể thấy rằng các nhà nghiên cứu đều thống nhất quan điểm cho rằng quản lý xuất hiện cùng với nhu cầu của con người, là hoạt động tất yếu bắt nguồn từ sự phân công lao
44
động của xã hội loài người, là hoạt động liên kết nhiều người để thực hiện mục tiêu đề ra.
Theo quan điểm của C.Mác: “Quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao động” [C.Mác, Tư bản, quyển I, tập 2, Nxb Sự thật, H.1960, tr.29-30] và “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên một quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [Ăng ghen toàn tập, tr.480].
Theo ngành điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được mục đích đã định trước [Giáo trình luật hành chính Việt Nam, tr.8-9]
Từ các quan điểm trên, có thể thấy: hoạt động quản lý chỉ được hình thành khi có sự tham gia của nhiều người trong một tổ chức nhất định, trong đó có người điều hành và người chấp hành, người điều hành và người bị điều hành, tạo thành một trật tự thống nhất từ trên xuống dưới nhằm đảm bảo việc thực hiện mục tiêu định trước. Nói theo một cách khác, hoạt động quản lý chỉ được tạo ra khi hội tụ đủ các yếu tố: đó là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý và môi trường quản lý. Do quản lý xuất phát từ nhu cầu của con người nên chủ thể của quản lý phải là con người hay tổ chức của con người với đầy đủ quyền uy, quyền hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân. Qua đó, có thể tóm lược các nội dung của quản lý như sau:
- Quản lý là sự tác động của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý một cách có mục đích và định hướng để đạt được mục tiêu nhất định;
- Quản lý xuất hiện ở nơi có hoạt động chung của con người và có tổ
chức;
- Mục đích và nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, tập hợp hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ theo ý chí
45
của người chỉ huy, lãnh đạo trong tổ chức theo phương thức nhất định nhằm đạt được mục tiêu định trước.
b. Quản lý nhà nước
QLNN xuất hiện và tồn tại gắn với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Khi nhà nước xuất hiện thì các công việc của xã hội do nhà nước quản lý. Chế độ chính trị lịch sử, đặc điểm văn hoá, trình độ phát triển KT-XH của mỗi quốc gia là các yếu tố tác động đến nội hàm của QLNN.
Xét về mặt chức năng, QLNN bao gồm ba chức năng: Thứ nhất, chức năng lập pháp do các cơ quan lập pháp thực hiện; Thứ hai, chức năng hành pháp (hay chấp hành và điều hành) do hệ thống hành chính nhà nước đảm nhiệm; và Thứ ba, chức năng tư pháp do các cơ quan tư pháp thực hiện [Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, tr.2]
QLNN được xem là một dạng quản lý xã hội đặc biệt. So với hoạt động quản lý của các tổ chức khác (như tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội…) QLNN có những điểm khác biệt. Xuất phát từ chức năng của QLNN, chủ thể QLNN là các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nước, đó là các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là các cơ quan thực thi quyền lực của nhà nước. Đối tượng của QLNN là tất cả các cá nhân và tổ chức trong xã hội. Phạm vi của QLNN bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại giao. Trong hoạt động QLNN, pháp luật được sử dụng như là một phương tiện chủ yếu. Thông qua sức mạnh của pháp luật, Nhà nước trao quyền cho các tổ chức, cá nhân trong bộ máy QLNN để tiến hành các hoạt động QLNN.
Điểm nổi bật trong hoạt động QLNN là hoạt động này mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động QLNN gắn với hoạt động của các cơ quan nhà nước thực thi quyền lực của nhà nước, sử dụng quyền lực mang tính cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. QLNN hướng tới mục tiêu là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định, trật tự và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Hiện nay, QLNN được tiếp cận theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp: QLNN chỉ đề cập đến lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính
46
tổ chức. Theo nghĩa này, QLNN là hoạt động của nhà nước được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan trong bộ máy hành pháp, đó là Chính phủ, Bộ, các cơ quan ngang bộ và UBND các cấp, với nhiệm vụ đảm bảo sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm chỉ đạo và tổ chức thực hiện công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá - xã hội và hành chính - chính trị mà nhà nước đề ra. Theo nghĩa rộng: QLNN diễn ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước yêu cầu thực tiễn đặt ra, Nhà nước phải ban hành các văn bản luật, dưới luật để điều chính các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý. Theo nghĩa này, QLNN là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hành pháp đến hoạt động tư pháp để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Theo Giáo trình Đại học Lý luận hành chính nhà nước của Học viện hành chính Quốc gia đã đưa ra khái niệm QLNN như sau: “QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội”.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu QLNN là toàn bộ hoạt động của các cơ quan thực thi quyền lực của nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật để tiến hành hoạt động quản lý của nhà nước nhằm giữ vững an ninh trật tự xã hội, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
2.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp
Từ việc nghiên cứu các khái niệm về kinh tế nông nghiệp, về quản lý và QLNN, luận án đưa ra khái niệm về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp như sau:
QLNN về kinh tế trong nông nghiệp là sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế nông nghiệp thông qua các công cụ kế hoạch, pháp luật và các chính sách để tạo điều kiện và tiền đề, môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hướng tới mục tiêu chung của toàn nền nông nghiệp; điều tiết các lợi ích giữa các vùng, các ngành, giữa nông nghiệp với toàn bộ nền kinh tế; thực hiện sự kiểm soát đối với mọi hoạt động trong nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
47
QLNN về kinh tế nông nghiệp có sự khác biệt với quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị hay tổ chức kinh tế trong nông nghiệp. Nếu như QLNN là hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước với mục tiêu vĩ mô thì quản lý sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp là việc các tổ chức kinh tế trong nông nghiệp thực hiện việc tự điều hành, quản lý sản xuất – kinh doanh của mình gồm: xây dựng kế hoạch sản xuất, tổ chức quản lý sản xuất, thực hiện hạch toán kinh tế... tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu xã hội. Hoạt động sản xuất - kinh doanh của các đơn vị, các tổ chức kinh tế trong nông nghiệp phải tuân thủ pháp luật và chính sách của Nhà nước.
QLNN về kinh tế nông nghiệp và quản lý sản xuất - kinh doanh của các đơn vị, các tổ chức kinh tế trong nông nghiệp là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ biện chứng với nhau. QLNN về kinh tế nông nghiệp thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện, tiền đề cho quản lý sản xuất - kinh doanh của đơn vị tiến hành thuận lợi, có hiệu quả. Ngược lại việc quản lý sản xuất kinh doanh tốt vừa thể hiện hiệu lực của QLNN, vừa tạo điều kiện phát huy vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đầy đủ hơn và có hiệu quả hơn, đảm bảo sự phát triển ổn định của toàn bộ nông nghiệp và nông thôn. QLNN về kinh tế nông nghiệp thừa nhận và tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị, các tổ chức kinh tế, nhưng không buông trôi mà thực hiện việc kiểm soát về mặt Nhà nước, nghĩa là thực hiện việc QLNN đối với các đơn vị và tổ chức kinh tế.
2.2.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo sự tìm hiểu và nghiên cứu của NCS, cho đến nay chưa có một quan niệm chính thống cho khái niệm “QLNN về kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH”. Trong các nghị quyết của Đảng, Quyết định của Chính phủ mới chỉ thống nhất về thuật ngữ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mà không đề cập đến QLNN về kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH.
Nguyễn Hữu Đễ (2008) đã từng đưa ra trong nghiên cứu của mình khái niệm QLNN về nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Đây là lần đầu tiên một tác giả đã đưa ra khái niệm này, theo đó, tác giả Nguyễn Hữu Đễ cho rằng: QLNN về nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là sự tác động của Nhà nước nhằm thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển theo hướng CNH, HĐH.[14] Tuy vậy, có điểm khác biệt là khái niệm của Nguyễn Hữu Đễ chỉ đề cập đến
48
QLNN về nông nghiệp, không phải QLNN đối với kinh tế nông nghiệp như trong luận án của tác giả.
Trên thực tế, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và đối với kinh tế nông nghiệp nói riêng đã được đề cập đến rất nhiều trong các nghiên cứu trước đây và các học thuyết về kinh tế. Tựu chung lại, cho đến nay, có ba quan điểm về vai trò của Nhà nước đối với kinh tế:
Quan điểm thứ nhất, theo học thuyết cổ điển của Adam Smith, các trường phái kinh tế trọng cung, trọng nông hay lý thuyết kinh tế Tân cổ điển, hoặc sau này là trường phái trọng tiền… đều không đề cao vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế. Theo các học thuyết này, nền kinh tế thị trường là một hệ thống mang tính ổn định, mà sự ổn định bên trong là thuộc tính vốn có chứ không phải là kết quả sự sắp đặt của nhà nước. Khả năng đó được quyết định bởi một cơ chế đặc biệt - “cơ chế cạnh tranh tự do”. Cạnh tranh tự do thường xuyên bảo đảm sự cân bằng chung của nền kinh tế. Chính cơ chế này cho phép phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, tận dụng triệt để mọi nguồn lực và dẫn đến quan hệ phân phối mang tính công bằng giữa các bộ phận xã hội. Đó là lý do các học thuyết này cho rằng một nền kinh tế thị trường không cần sự can thiệp hay điều chỉnh nào của Nhà nước. Bên cạnh đó, một số học giả có quan điểm tích cực hơn khi cho rằng Nhà nước không nên điều tiết trực tiếp mà chỉ dừng lại ở chức năng tạo lập môi trường.
Quan điểm thứ hai, theo tư tưởng của trường phái Keynes đề cao vai trò quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần phải trực tiếp điều tiết nền kinh tế. Chính phủ có thể can thiệp vào nền kinh tế thông qua công cụ chính sách tài khóa, bao gồm thuế và chi tiêu ngân sách. Keynes nhấn mạnh vấn đề chi ngân sách và cho rằng chính phủ nên cung ứng những kích thích ban đầu bằng những chương trình kinh tế công cộng. Những chương trình kinh tế công cộng đó, một mặt tạo ra việc làm, mặt khác dẫn đến tăng cầu về tư liệu sản xuất. Cách thức can thiệp của chính phủ như vậy sẽ dẫn đến hiệu ứng số nhân cho nền kinh tế. Theo một hướng khác, nhà nước có thể kích thích cầu đầu tư bằng cách tăng số cung về tiền tệ, hay là chấp nhận lạm phát “có kiểm soát”. Để làm tăng cung tiền tệ, chính phủ có thể tăng nguồn vốn cho vay, giảm lãi suất và do đó kích thích sự gia tăng của đầu tư. Sự gia tăng này cũng nhân bội sản lượng và thu nhập của nền kinh tế quốc dân.
49
Quan điểm thứ ba, theo trường phái kinh tế thị trường hỗn hợp với đại diện là Paul Samuelson, có sự dung hòa giữa hai khuynh hướng: không tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước mà xem nhẹ vai trò của cơ chế tự điều chỉnh của trường phái Keynes; đồng thời không phủ nhận hoàn toàn vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước. Samuelson cho rằng, “điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay.”(Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, 2002). Để đảm bảo được ba tiêu chí cơ bản của nền kinh tế: hiệu quả, công bằng và ổn định, cách tốt nhất là phải áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp trong đó cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng, còn chính phủ điều tiết thị trường bằng những chương trình thuế, các hoạt động chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên chính phủ và thị trường đều có tính thiết yếu, nhưng phải xác định rõ ràng ranh giới, ở đâu, lĩnh vực nào thì để thị trường điều tiết còn ở đâu, lĩnh vực nào thì chính phủ cần điều tiết.
Xuất phát từ các lý thuyết về vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế, xuất phát từ thực tiễn về đặc trưng và vai trò của kinh tế nông nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, tác giả luận án cho rằng tư tưởng về nền kinh tế hỗn hợp với sự điều tiết của hai bàn tay: vô hình của thị trường và hữu hình của chính phủ là phù hợp với QLNN đối với kinh tế nói chung và kinh tế trong nông nghiệp nói riêng trong bối cảnh hiện nay. Chính vì vậy, luận án nghiên cứu và phát triển quan điểm QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo trường phái nền kinh tế hỗn hợp. Theo quan điểm đó, Nhà nước có các chức năng cơ bản như sau: (i) tạo ra môi trường ổn định để cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình tiến hành sản xuất và trao đổi trên thị trường một cách thuận lợi; (ii) đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế và những hướng ưu tiên cần thiết cho từng thời kỳ; (iii) sử dụng công cụ chính sách như thuế quan, tín dụng, trợ giá… để hướng dẫn các ngành, các doanh nghiệp hoạt động.
Từ những quan điểm như vậy, luận án đưa ra khái niệm về QLNN đối kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH như sau: QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh liên tục bằng quyền lực của Nhà nước dựa trên cơ sở nền tảng của thể chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động sản xuất, phân phối trong nông nghiệp nhằm đạt được mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp. Theo
50
khái niệm này, chủ thể của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là các cơ quan trong bộ máy Nhà nước bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi của luận án, QLNN được nghiên cứu dưới góc độ hành pháp, đó là các cơ quan hành chính Nhà nước (các bộ quản lý ngành, lĩnh vực; chính quyền địa phương…) sử dụng công cụ pháp luật, chính sách điều chỉnh hoạt động kinh tế nông nghiệp. Đối tượng của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là các hoạt động kinh tế diễn ra trong khu vực nông nghiệp như: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm của nông nghiệp. Mục tiêu của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH là nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, đồng thời tăng cường ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhằm gia tăng giá trị.
2.2.2. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.2.1. Xuất phát từ vai trò của sản xuất nông nghiệp đối với nền kinh tế
Nông nghiệp là ngành kinh tế khác biệt so với các ngành kinh tế khác do những đặc thù sau: (i) hàm sản xuất nông nghiệp bị giới hạn bởi đất đai; (ii) tầm quan trọng của nông sản trong tiêu dùng của hộ gia đình; và (iii) vai trò của ngành nông nghiệp là một nguồn tài nguyên dự trữ. Những tính năng này được thể hiện rõ hơn trong các xã hội truyền thống, và bị bào mòn trong quá trình hiện đại hóa nền kinh tế.
Cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước tư bản vào thế kỷ 18 đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thế giới đương đại. Tuy nhiên, mọi người đều biết rằng cuộc cách mạng công nghiệp sẽ không có được nếu không có cuộc cách mạng nông nghiệp xảy ra trước đó. Bởi cách mạng trong nông nghiệp đã làm thay đổi luân canh cây trồng mà không đòi hỏi nhiều vốn, nhưng mang lại một sự tăng trưởng mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, nhiều đầu ra nhiều hơn có thể được tạo ra với ít nhân lực đầu vào hơn. Và nguồn nhân lực được giải phóng khỏi nông nghiệp đã tham gia vào các lĩnh vực kinh tế khác. Sự phát triển của ngành công nghiệp sẽ không có được nếu không có sự cải tiến trong nông nghiệp.
51
Hiện nay, ở các nước trên thế giới vẫn có mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển nông nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Trong số những nước có tỷ trọng nông nghiệp trong GDP lớn hơn 20 phần trăm trong năm 1970, tăng trưởng nông nghiệp trong những năm 1970 vượt quá 3 phần trăm một năm tại 17 trong số 23 quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP trên 5 phần trăm một năm. Trong cùng thời gian này, 11 trong số 17 các quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP dưới 3 phần trăm một năm thì nông nghiệp tăng trưởng chỉ 1 phần trăm hoặc dưới một phần trăm một năm. Những điểm tương đồng giữa tăng trưởng nông nghiệp và tăng trưởng GDP cho thấy các yếu tố làm ảnh hưởng đến hiệu suất nông nghiệp có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn xã hội.
Ở các nước đang và chậm phát triển, kinh tế nông nghiệp thường đóng góp hơn 50% vào GDP và hơn 80% lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế nông nghiệp. Ngay cả ở các nước phát triển thì đóng góp của kinh tế nông nghiệp và những ngành liên quan đến đầu vào và đầu ra của nông nghiệp cũng không dưới 20% GDP. Do đó, xuất phát từ vai trò quan trọng như vậy của kinh tế nông nghiệp, phải có QLNN đối với kinh tế nông nghiệp nhằm thúc đẩy ngành phát triển, từ đó tạo đà cho các ngành kinh tế khác.
2.2.2.2. Xuất phát từ sự phụ thuộc của kinh tế nông nghiệp vào điều kiện tự nhiên
Một trong những đặc thù của ngành nông nghiệp so với các ngành kinh tế khác là phụ thuộc nặng nề vào điều kiện tự nhiên. Thời tiết và giá cả là hai biến số chính ảnh hưởng tới thành quả lao động của nông dân. Hạn hán, lũ lụt, hoặc một trận bão lớn có thể phá hủy toàn bộ các cây trồng. Một vụ mùa bội thu có thể gây ra những tổn thất lớn nếu giá giảm quá thấp. Không có ngành công nghiệp nào, thậm chí các ngành như: xây dựng, du lịch..lại phụ thuộc vào biến đổi của thiên nhiên như vậy. Thực tế thời tiết là nguyên nhân làm cho nông dân khó khăn trong việc ra quyết định về sản xuất nông nghiệp. Vì tính bất thường của thời tiết, nông dân thường lựa chọn loại cây trồng có sức đề kháng tốt với thời tiết khắc nghiệt, nhưng những cây này lại thường không cho năng suất cao. Mưa nhiều có thể tốt cho lúa nhưng lại làm mất mùa khoai, nhiệt độ và độ ẩm cao có thể phát sinh nhiều sâu bệnh hại và buộc người nông dân thay đổi luân canh. Mỗi điều chỉnh quyết định sản xuất của người nông dân có thể ảnh hưởng đến thị trường lao động nông thôn. Người nông dân
52
thiếu việc làm có thể di chuyển đến thành phố tìm việc hoặc có thể bị thất nghiệp.
Giảm sự phụ thuộc vào thời tiết là một trong những mục tiêu quan trọng của chính phủ khi can thiệp vào kinh tế nông nghiệp. Đập và mương thoát nước có thể làm giảm tác động của mưa, bảo hiểm thiên tai có thể làm gia tăng đầu tư vào nông nghiệp, và nghiên cứu về khả năng thích nghi với môi trường hơn của động vật, thực vật có thể làm giảm rủi ro của việc áp dụng công nghệ mới. Tương tự như vậy, giảm thiểu biến động giá cả chắc chắn là một trong những mục tiêu lớn của QLNN về kinh tế nông nghiệp. Chính phủ có thể cung cấp các dịch vụ như: thông tin dự báo giá, việc sử dụng chính sách nhập khẩu và xuất khẩu để điều tiết giá, hoặc quy định về giá trần, giá sàn với nông sản. Tất nhiên, những nỗ lực của chính phủ trong việc ổn định giá cả cần phải xét ở cả góc độ chi phí – lợi ích.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào tính thời vụ. Không có khu vực nông nghiệp nào trên thế giới mà khí hậu hoàn toàn không thay đổi trong năm. Mùa đông và mùa hè, mùa mưa và mùa khô tạo ra điều kiện gieo trồng, chăm sóc cây cối khác nhau. Tính mùa vụ là rất quan trọng cho nông dân bởi vì đó là khoảng thời gian nguồn cung rẻ nhất từ thiên nhiên cung cấp các nguồn lực đầu vào cần thiết cho nông nghiệp: năng lượng mặt trời, nước, carbon dioxide, kiểm soát nhiệt độ, và chất dinh dưỡng cần thiết từ đất tự nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên điều khiển hoạt động sản xuất nông nghiệp không phải khi nào cũng tốt. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chính sách nhà nước là đầu tư, can thiệp có lợi cho xã hội vào các hoạt động như tưới tiêu, thoát nước, kiểm soát sự gia tăng các loại cây trồng có thể được trồng trong khu vực và khoảng thời gian nhất định. Tính mùa vụ cũng có xu hướng tạo ra chi phí cao để thực hiện kịp thời các nhiệm vụ nông nghiệp thiết yếu như cày, trồng trọt, nuôi trồng và thu hoạch. Mặc dù lực lượng lao động sẵn có thể đáp ứng đầy đủ số lượng nhân công cho nông nghiệp công việc được phân bố hợp lý trong toàn bộ thời gian của năm. Nhưng nếu công việc nhất định phải được thực hiện rất nhanh chóng vào những thời điểm cụ thể để đảm bảo sản lượng tối đa thì có thể gây ra thiếu hụt lao động. Chính vì vậy, để giải quyết nút thắt trên, cần có có sự can thiệp của nhà nước.
2.2.2.3. Xuất phát từ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hơn
53
Ngày nay, xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong kinh tế nông nghiệp là ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Thay đổi kỹ thuật là nguồn gốc của tăng trưởng nhanh nhất về năng suất trong dài hạn. Tuy nhiên, rất ít nông dân ngay cả ở các nước phát triển có các nguồn lực để thực hiện các nghiên cứu nông nghiệp có ý nghĩa và hầu hết các nghiên cứu đó được tiến hành bởi các trung tâm tài trợ cho nghiên cứu nông nghiệp và một số ít các đơn vị kinh doanh nông nghiệp lớn, tham gia chủ yếu vào việc phát triển công nghệ hạt giống lai, công nghệ hóa học (thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu), và máy móc nông nghiệp. Chính vì vậy, ứng dụng, khuếch tán của các công nghệ mới cũng là một vấn đề quan tâm của QLNN, đặc biệt là bởi vì không phải tất cả các hộ gia đình được tiếp cận bình đẳng, hoặc sử dụng công nghệ mới và các nguồn tài chính cần thiết để sản xuất.
Tiếp nữa, vai trò của QLNN trong nghiên cứu và ứng dụng những thay đổi công nghệ. Nhiều quốc gia thất bại trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là do chính sách quá phức tạp. Việc ra quyết định trong sản xuất nông nghiệp thường do khu vực tư nhân, nhưng lại phụ thuộc rất nhiều vào sự can thiệp của chính phủ vào nghiên cứu nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn, và các mối quan hệ thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính phủ can thiệp vào kinh tế nông nghiệp mang tính rủi ro cao vì có thể dễ dàng làm cho nông dân thoái lui đầu tư và giảm sản xuất hàng hóa và kéo theo giảm tăng trưởng kinh tế. Nhưng đa số các chuyên gia đều cho rằng chính phủ cần can thiệp vào kinh tế nông nghiệp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa. Và đó chính là một dạng hàng hóa công cộng mà chính phủ phải cung cấp cho xã hội.
Chính phủ không chỉ cần quan tâm tới việc hỗ trợ đầu vào và đầu ra cho kinh tế nông nghiệp mà còn phải tăng các khoản đầu tư vào nghiên cứu và cơ sở hạ tầng cần thiết để tạo ra một nền nông nghiệp lành mạnh và môi trường giá cả khuyến khích nông dân tạo ra năng suất cao hơn.
2.2.2.4. Xuất phát từ vấn đề an ninh lương thực quốc gia và an toàn vệ sinh thực phẩm
An ninh lương thực hay an ninh lương thực quốc gia được hiểu là sự đảm bảo của mỗi quốc gia về nguồn cung cấp lương thực cho người dân để hạn chế và đẩy lùi tình trạng thiếu lương thực, nạn đói và tình trạng phụ thuộc
54
vào nguồn lương thực nhập khẩu.An ninh lương thực quốc gia nghĩa là đảm bảo mọi người dân trong quốc gia đó có quyền tiếp cận lương thực một cách an toàn, bổ dưỡng, đầy đủ mọi lúc mọi nơi để duy trì cuộc sống khỏe mạnh và năng động. Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) khuyến cáo trong tương lai sản xuất lương thực sẽ cần phải tăng 75% mới có thể đủ cung cấp lương thực cho 9 tỷ người vào năm 2050. Theo báo cáo mới nhất của FAO, trong giai đoạn 2011-2013 trên thế giới có khoảng 842 triệu người đang thiếu lương thực, chiếm 12% dân số toàn cầu. Những năm gần đây, an ninh lương thực ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng của nhiều quốc gia. Trước hết, những tác động đến đời sống xã hội do giá lương thực thế giới tăng cao có nguy cơ gây ra một cuộc khủng hoảng lương thực mới ở Châu Á, và Châu Phi, những nơi mà bị ảnh hưởng nhiều nhất. Khủng hoảng lương thực có thể gây ra những gây ra những khó khăn về kinh tế trên toàn cầu, là nguồn gốc xảy ra xung đột giữa các nước và tranh chấp lãnh thổ. Các hộ dân thiếu lương thực phải sống trong cuộc sống nghèo khổ, chính là nguyên nhân làm xuất hiện các mầm bệnh lây nhiễm do virus bùng phát các cuộc đại dịch trên toàn cầu. Vì vậy, chính phủ các nước đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tăng cường đầu tư xây dựng chiến lược đảm bảo an ninh lương thực có tính bền vững cao. Các nước cũng cần thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, nâng cao sản lượng các loại cây lương thực. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm an ninh lương thực bền vững cho đất nước.
Ngoài ra, vấn đề không đảm bảo an ninh lương thực còn do nguyên nhân là do nhiều nước chưa có chính sách phát triển nông nghiệp hợp lý, không bảo đảm được an toàn thực phẩm. An toàn thực phẩm ngày càng trở nên quan trọng không chỉ để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng mà còn nhằm mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành kinh doanh nông nghiệp trong nước. Khi mức độ tiêu thụ sản phẩm giá trị cao và mau hỏng tăng lên thì rủi ro liên quan đến nhiễm bẩn thực phẩm, dư lượng hóa chất, kháng sinh và khả năng nhiễm bệnh từ vật nuôi cũng tăng lên. Vai trò của Nhà nước trong vấn đề này là kiểm soát tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm thật tốt để hạn chế tối đa các vụ ngộ độc thực phẩm gây hại đến sức khỏe của người tiêu dùng.
2.2.2.5. Xuất phát từ vấn đề ô nhiễm môi trường trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay
55
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Theo Cục Chăn nuôi của Việt Nam, chất thải chăn nuôi là một trong những nguồn gây ô nhiễm lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp. Chưa kể ở nước ta hiện nay, phương thức chăn nuôi nông hộ vẫn chiếm tỷ lệ lớn, vì vậy việc xử lý và quản lý chất thải chăn nuôi ngày càng khó khăn. Tình trạng sử dụng thuốc thú y, vắc-xin, phòng chống dịch bệnh không đúng kỹ thuật cũng đang gây tác hại lớn đến môi trường. Hiện tượng lạm dụng thuốc bảo vệ trong phòng trừ dịch hại, tùy tiện không tuân thủ quy trình kỹ thuật, không đảm bảo thời gian cách ly dẫn đến hậu quả là ngộ độc thực phẩm, mất an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong nuôi trồng thủy sản, ô nhiễm môi trường nước hiện nay chính là từ các vùng nuôi tôm và cá da trơn tập trung. Để có 1kg cá tra thành phẩm, nông dân phải sử dụng 3-5kg thức ăn, nhưng chỉ khoảng 17% lượng thức ăn được cá hấp thụ, phần còn lại hòa lẫn vào môi trường nước, trở thành các chất hữu cơ phân hủy làm ô nhiễm môi trường. Chất thải trong nuôi trồng thủy sản là bùn thải chứa phân của các loài thủy sản, nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của vật tư sử dụng như hóa chất, vôi, khoáng chất, lưu huỳnh lắng đọng… Ô nhiễm môi trường ngày càng tăng là một trong những nguyên nhân khiến dịch bệnh phát sinh trên diện rộng ở các loại cá, tôm nuôi.
Rõ ràng khi nông nghiệp ngày càng phát triển thì mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường ngày càng lớn. Tình trạng tự phát trong sản xuất thể hiện rõ ở nhiều lĩnh vực hoạt động của ngành, đặc biệt là vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng thiếu quy hoạch, chuyển đổi đất giữa trồng lúa và nuôi tôm, phá rừng ngập mặn để nuôi tôm, khai thác hải sản quá mức… dẫn đến dịch bệnh lây lan và phát tán nhanh, hiệu quả kinh tế giảm. Công tác quy hoạch khó cân đối việc sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thường ưu tiên cho khai thác tài nguyên và canh tác cao độ, ít cân nhắc đến mặt môi trường và phát triển bền vững. Do vậy, các nguồn tài nguyên bị chia cắt cục bộ, phá vỡ tính thống nhất của hệ sinh thái, dễ phát sinh sự cố môi trường. Quá trình phát triển kinh tế không hợp lý sẽ dẫn đến môi trường ngày càng bị ô nhiễm, làm thu hẹp dần các vùng sản xuất.
Chính vì sự phát triển nông nghiệp đe dọa đến sự trong sạch của môi
56
trường không khí, môi trường nước và môi trường đất, do đó QLNN đối với kinh tế nông nghiệp là cần thiết để hướng phát triển nông nghiệp đến nền kinh tế xanh, giữ gìn và bảo vệ môi trường.
2.2.3. Chức năng của quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
QLNN về kinh tế nông nghiệp đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển nền nông nghiệp. Đến lượt nó việc quản lý, điều chỉnh và hướng dẫn nền nông nghiệp đi theo hướng nào, tốc độ phát triển ra sao lại tuỳ thuộc hướng phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Trong bất kỳ điều kiện nào thì vai trò to lớn của QLNN về kinh tế nông nghiệp cũng chỉ được thể hiện khi nó thực hiện được các chức năng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Định hướng chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp
phù hợp với từng giai đoạn phát kinh tế triển đất nước.
Nông nghiệp là một ngành quan trọng của nền kinh tế. Việc đảm bảo sự phát triển hài hoà cân đối của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân đòi hỏi phải xác định chiến lược phát triển của ngành phù hợp với chiến lược phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở xác định chiến lược phát triển, Nhà nước cụ thể hoá thành các chương trình, các kế hoạch định hướng phát triển trung hạn và ngắn hạn hàng năm để hướng dẫn sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Các chiến lược và kế hoạch phát triển nói trên được xây dựng cụ cho toàn bộ nền nông, lâm, ngư, nghiệp ở từng cấp trong bộ máy quản lý Nhà nước.
Thứ hai, Điều chỉnh các mối quan hệ trong ngành kinh tế nông nghiệp, và giữa ngành kinh tế nông nghiệp với phần còn lại trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá dựa trên trình độ xã hội hoá sản xuất hàng hoá ngày càng cao, các mối quan hệ kinh tế trong nội bộ nông nghiệp cũng như giữa nông nghiệp với phần còn lại của nền kinh tế, thậm chí với nền kinh tế khu vực và quốc tế, ngày càng phát triển rộng rãi và đa dạng. Sự hình thành và phát triển các mối quan hệ kinh tế đó có thể là phù hợp với mục tiêu của sự phát triển, lại cũng có thể không phù hợp mục tiêu
57
phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện như vậy Nhà nước phải thực hiện chức năng điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế đó phát triển phù hợp với mục tiêu đặt ra. Các mối quan hệ kinh tế mà Nhà nước cần điều chỉnh bao gồm: (i) quyền sở hữu và sử dụng các tài nguyên và nguồn lực, (ii) quan hệ sản xuất trong nông nghiệp (iii) phân phối của cải xã hội.
Nói tóm lại, việc QLNN đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện chức năng điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế nhằm lành mạnh hoá toàn bộ các mối quan hệ kinh tế xã hội nông thôn. Chỉ có trên cơ sở hệ thống các mối quan hệ kinh tế lành mạnh được duy trì ổn định sẽ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển ổn định của của nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba, Hỗ trợ, giúp đỡ kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác xã dịch vụ và các loại hình tổ chức sản xuất khác trong nông nghiệp, nông thôn phát triển
Đối với các hộ, các trang trại hoặc các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp khác, để bước vào thương trường thành công họ cần phải chuẩn bị, hỗ trợ hay giúp đỡ về nhiều mặt. Nhưng sự chuẩn bị, hỗ trợ hay giúp đỡ ấy liên quan đến việc tạo ra các phẩm chất hay điều kiện cần có của một doanh nhân. Trong điều kiện đó, Nhà nước cần chuẩn bị, hỗ trợ giúp đỡ các hộ, trang trại hay các loại hình doanh nghiệp khác về một số mặt chủ yếu như:
Một là, Hỗ trợ để tạo dựng ý chí làm giàu chính đáng bằng các hoạt đọng nông nghiệp và kinh tế nông thôn, muốn vậy về mặt QLNN, vấn đề cấp bách hiện nay là tháo vỡ những vướng mắc làm cho chủ trang trại chưa thực sự yên tâm; cân nhắc và gạt bỏ hết những vướng mắc mới có thể nảy sinh khi ban hành văn bản chính sách mới, sử dụng khéo léo các quy phạm đạo đức như tôn vinh những điển hình tiên tiến trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, Giúp đỡ hỗ trợ cho việc chuẩn bị những tri thức cần thiết cả về kỹ thuật và kinh tế để đảm bảo cho việc cạnh tranh thành công trong cơ chế thị trường của các doanh nghiệp nông thôn. Có thể nói hiện nay các chủ hộ, chủ trang trại nước ta kinh doanh trong cơ chế thị trường với vốn kiền thức kỹ thuật truyền thống là chủ yếu, kiến thức kinh tế và kinh doanh hầu như chưa được học.
58
Ba là, Giúp đỡ về các phương diện vật chất hoặc điều kiện để tạo ra phương diện vật chất để tạo dựng sự nghiệp kinh doanh (kinh doanh trang trại hoặc kinh doanh phi nông nghiệp khác ở nông thôn). Với người nông dân, liên quan đến các phương tiện vật chất này thì quan trọng nhất là vốn và các điều kiện về thuê mướn lao động.
Bốn là, giúp đỡ tạo dựng môi trường thuận lợi và lành mạnh cho kinh tế hộ, trang trại và các doanh nhân khác ở nông thôn phát triển. Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển bằng cách xác lập và vận hành có hiệu quả một hệ thống thị trường đồng bộ ở nông thôn, bao gồm cả thị trường đầu vào và đầu ra. ở đây vấn đề quan trọng nhất là lựa chọn và áp dụng được những hình thức hợp tác sản xuất thực sự có hiệu quả đối với từng hoạt động kinh tế cụ thể ở nông thôn được người dân chấp nhận, chứ không phải chỉ là những hợp tác xã theo mô hình đồng nhất được áp dụng ở mọi vùng, mọi địa phương.
2.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.4.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp
Bộ máy QLNN về kinh tế nông nghiệp là một hệ thống cơ quan quyền lực các cấp từ Trung ương đến địa phương, chịu trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý nền nông nghiệp ở tầm vĩ mô. Vai trò của bộ máy QLNN về kinh tế nông nghiệp thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, với tính chất là chủ thể quản lý ngành nông nghiệp, một bộ máy quản lý không thể thiếu. Bộ máy quản lý tinh gọn và có hiệu lực quản lý cao sẽ là nhân tố thúc đẩy nền nông nghiệp nói chung và các hoạt động kinh tế nông nghiệp phát triển. Thứ hai, thông qua bộ máy QLNN về kinh tế nông nghiệp, Nhà nước thực hiện vai trò điều khiển nền nông nghiệp phát triển hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội, cũng như thực hiện được định hướng CNH, HĐH trong sự phát triển nông nghiệp. Thứ ba,các công cụ quản lý, kể cả bộ máy quản lý đều do con người tạo ra. Bộ máy QLNN về kinh tế trong nông nghiệp với đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất năng lực quản lý sẽ phát huy sức mạnh của các công cụ quản lý khác.
Nhìn chung, bộ máy QLNN đối với kinh tế nông nghiệp ở các quốc gia nói chung và cũng như ở Việt Nam bao gồm một hệ thống các cơ quan từ cấp trung ương đến địa phương như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ quản lý ngành
59
nông nghiệp, các Bộ khác có chức năng liên quan và các Sở, phòng nông nghiệp ở các vùng, địa phương.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất có nhiệm vụ quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; ban hành các đạo luật; thông qua kế hoạch phát triển kinh tế... và những vấn đề lớn khác có liên quan đến nông nghiệp.
Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất chịu trách nhiệm trước Quốc hội về tình trạng phát triển kinh tế -xã hội trong nông nghiệp. Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nền kinh tế quốc dân, trong đó có nông nghiệp, theo quy hoạch và kế hoạch thông qua việc xây dựng chế độ, chính sách và ban hành chúng dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Chính phủ là cơ quan quản lý có thẩm quyền chung.
Bộ quản lý ngành nông nghiệp là cơ quan quản lý có thẩm quyền riêng, được giao trách nhiệm quản lý sự phát triển và chịu trách nhiệm về tình hình phát triển toàn ngành nông nghiệp và nông thôn. Chức năng của bộ là thảo ra các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, những chương trình, những dự án lớn (như chương trình lương thực thực phẩm, chương trình đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, dự án phát triển kinh tế vùng đồi v.v...); tổ chức hướng dẫn thực hiện các chính sách, các chương trình và các dự án phát triển đó. Bộ cũng có chức năng thể chế hoá các nghị định của Chính phủ, tổ chức hướng dẫn và thực hiện các Nghị định này trong nông nghiệp. Bộ có chức năng theo dõi, giám sát, kiểm tra về các mặt Nhà nước các hoạt động của các đơn vị kinh tế trên cơ sở pháp luật, pháp lệnh, nghị định, chế độ đã ban hành.
Trong bộ máy QLNN về kinh tế nông nghiệp, Bộ quản lý ngành nông nghiệp đóng vai trò trung tâm. Mỗi quốc gia có cách gọi Bộ quản lý nông nghiệp khác nhau; chẳng hạn ở Thái Lan là Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan; ở Pháp có Bộ Nông nghiệp, thực phẩm và lâm nghiệp; ở Ấn Độ có Bộ Nông nghiệp và bộ PTNT; ở Nhật Bản có Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp… hay như Bộ Nông nghiệp của Trung Quốc… Cho dù tên gọi như thế nào song Bộ phụ trách ngành nông nghiệp ở các nước đều có trách nhiệm chính cho việc xây dựng, thực hiện các chính sách nông nghiệp, đồng thời chịu trách nhiệm thực hiện chức năng QLNN đối ngành lâm nghiệp, thủy sản… của quốc gia.
60
Tại Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được thành lập vào năm 1995 với sự hợp nhất của ba Bộ: Lâm nghiệp, Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, với mục đích là giảm sự chồng chéo về công tác QLNN trên các lĩnh vực liên quan.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã trải qua những thay đổi lớn từ khi thành lập với các nhiệm vụ mới, chẳng hạn như Bộ Thuỷ sản được sáp nhập vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn năm 2008 và quá trình phân quyền được thực hiện.
Nhiệm vụ chính trong công tác QLNN đối với ngành nông nghiệp của
Bộ quản lý ngành bao gồm:
(1) Đệ trình chính phủ các dự án pháp luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị quyết, nghị định dựa trên các chương trình đã được phê duyệt, kế hoạch pháp luật hàng năm của Bộ và các dự án được giao bởi Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
(2) Đệ trình Thủ tướng Chính phủ các kế hoạch và chiến lược phát triển tổng thể; các kế hoạch hàng năm, năm năm và dài hạn cũng như các chương trình và dự án trọng điểm thuộc chức năng của ngành.
(3) Ra quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc chức năng của ngành nông
nghiệp; hướng dẫn thực hiện các văn bản và kiểm tra quá trình thực hiện.
(4) Hướng dẫn, giám sát và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, chiến lược, kế hoạch tổng thể, chương trình, dự án, tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật có liên quan đến nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, dịch vụ thủy lợi và phát triển nông thôn. Phổ biến thông tin và nâng cao nhận thức cộng đồng về các quy định trong lĩnh vực thuộc chức năng của ngành nông nghiệp.
Cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được sắp xếp để thực hiện các trách nhiệm này, bao gồm 26 đơn vị, gồm 11 vụ chuyên môn/văn phòng quản lý nhà nước, 9 cục chức năng và 6 đơn vị sự nghiệp. Ngoài ra, chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn còn có các cơ quan như các viện nghiên cứu, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp, các tổ chức truyền thông, v.v...
61
Ở địa phương, cấp quản lý ngành nông nghiệp có 63 Sở Nông nghiệp và PTNT, đặt ở 58 tinh và 5 thành phố. Các Sở Nông nghiệp và PTNT hoạt động như các chi nhánh địa phương của Bộ Nông nghiệp và PTNT, kết hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tương ứng. Sở NN&PTNT hỗ trợ tư vấn, quản lý hành chính và hướng dẫn ở cấp tỉnh và cấp huyện để lập kế hoạch và thực hiện các chính sách của chính quyền trung ương bao gồm đăng ký đất nông nghiệp, giao đất, khuyến nông, thuỷ lợi, quy hoạch và phát triển nông thôn. Cùng lúc đó, các Sở Nông nghiệp và PTNT cũng thực thi các kế hoạch phát triển KT-XH của UBND tỉnh, thành phố.
2.2.4.2. Xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật về phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Pháp luật kinh tế là một bộ phận nằm trong hệ thống pháp luật kinh tế nói chung. Pháp luật kinh tế bao gồm tổng thể những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến sự tồn tại, vận hành của nền kinh tế nói chung cũng như của nông nghiệp nói riêng. Trong những văn bản pháp luật đó quy định cụ thể các quy tắc xử sự bắt buộc do Nhà nước đặt ra hay thừa nhận mà mỗi cá nhân hay tổ chức kinh tế buộc phải tuân theo để hành vi ứng xử của họ phù hợp với những quan hệ kinh tế khách quan và với lợi ích chung của xã hội. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật kinh tế là các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sản xuất, phân phối lưu thông và tiêu dùng và trong quá trình vận hành quản lý kinh tế. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia những quan hệ đó được Nhà nước quy định và được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật và việc xác định quyền và nghĩa vụ cũng như việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ ấy của các bên tham gia vào các hoạt động nông nghiệp, nông thôn. Bằng cách đó, pháp luật tác động chi phối hành vi kinh tế của đối tượng quản lý cũng như của chủ thể quản lý. Do vậy pháp luật tồn tại với tính cách là một công cụ quản lý đối với nông nghiệp, nông thôn và vai trò quan trọng thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, xác lập cơ sở pháp lý, bảo vệ và hỗ trợ hình thành phát triển cơ chế thị trường trong kinh tế nông nghiệp. Dựa trên nhận thức đúng đắn, khách quan và khoa học các quy luật vận động của nền nông nghiệp theo cơ chế thị trường, Nhà nước ban hành các văn bản pháp quy nhằm tổ chức có tính chất Nhà nước các quan hệ kinh tế khách quan đó phù hợp với quy chế mới. Mặt khác, nhờ sự hỗ trợ và bảo vệ của pháp luật mà ý thức tôn trọng, tuân thủ các
62
quan hệ kinh tế khách quan của các bên tham gia sẽ điều chỉnh hành vi kinh tế của họ, tạo điều kiện để phát triển các mối quan hệ được luật pháp xác định ở trên. Như vậy pháp luật giữ vai trò là yếu tố tạo dựng, hỗ trợ và bảo vệ cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế theo mục tiêu định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, xác lập trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho nông nghiệp.Bằng việc tổ chức có tính chất Nhà nước của các quan hệ kinh tế khách quan dưới hình thức quyền và nghĩa vụ cơ bản, về thực chất pháp luật đã xác định trật tự và môi trường kinh doanh lành mạnh cho mọi hoạt động kinh tế trong nông nghiệp. Bởi vì những quyền và nghĩa vụ thể hiện ở sự phân cấp và thẩm quyền, điều kiện thực hiện, phạm vi và trình tự thực hiện, những điều được làm và không được làm... mà pháp luật xác định luôn hàm chứa những yếu tố củ một trật tự. Ví dụ, trật tự và môi trường kinh doanh có thể bị phá vỡ bởi cạnh tranh không lành mạnh do thiếu luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, luật quảng cáo... hoặc một thị trường thống nhất có thể bị phá vỡ nếu thẩm quyền của cấp, các ngành các địa phương không được pháp luật quy định rõ ràng.
Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế tham gia vào các quan hệ kinh tế trong nông nghiệp nông thôn. Việc bảo vệ lợi ích nói trên của các chủ thể kinh tế chỉ có thể thực hiện bằng cách ghi nhận, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên, ghi nhận hình thức và các thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh... vào luật pháp. Nhờ vậy lợi ích của các chủ thể kinh tế được tôn trọng và được giải quyết thoả đáng. Nếu thiếu luật pháp thì việc giải quyết, xử lý các quan hệ lợi ích sẽ thiếu trật tự, gây lộn xộn không cần thiết có ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế.
Quản lý bằng pháp luật kinh tế là sự tác động điều chỉnh mang tính chất gián tiếp. Tính chất gián tiếp nói trên thể hiện ở chỗ luật chỉ đưa ra các điều kiện giả định để quy định quyền và nghĩa vụ cho các hoạt động kinh tế; đưa ra các quy phạm được phép hay không được phép trong các hoạt đọng kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, còn các chủ thể kinh tế lựa chọn, tự quyết định hành động trong khuân khổ của những điều kiện và phạm vi đã xác định của luật.
63
2.2.4.3. Xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Để quản lý hoạt động kinh tế, chủ thể quản lý các cấp phải sử dụng công cụ kế hoạch hóa bao gồm xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và thiết kế các chương trình, đề án mục tiêu... Xét về thực chất, công tác kế hoạch hóa là các quyết định của chủ thể quản lý về mục tiêu cần phải đạt, các biện pháp, cách thức để thực hiện mục tiêu và xác định các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu đó trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, công tác kế hoạch hóa trong kinh tế nông nghiệp có chức năng định hướng, tổ chức và điều khiển các hoạt động kinh tế nông nghiệp trong một địa phương hay toàn bộ nền nông nghiệp, nông thôn. Vai trò của công cụ kế hoạch hóa trong quản lý Nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là, cho phép chủ thể quản lý cũng như mọi bộ phận trong hệ thống quản lý nhận thức thống nhất về hướng đi, cách đi thích hợp để nhanh chóng đạt tới mục tiêu. Trên cơ sở thống nhất nhận thức mà hoạt động của mọi cấp, mọi bộ phận, mọi tổ chức tự giác, chủ động và thống nhất trong hàng động thực tiễn.
Hai là, kế hoạch hóa giúp cho các nhà quản lý chủ động thích ứng với những thay đổi trong quá trình phát triển của thực tiễn do có những dự đoán trước; chủ động tạo ra những biến đổi có lợi cho quá trình phát triển; hướng các nhà quản lý tập trung vào những nhiệm vụ trọng yếu...
Ba là, kế hoạch hóa còn là một căn cứ để tổ chức bộ máy quản lý, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của các hoạt động quản lý ở các cấp, các địa phương và toàn ngành.
Muốn phát huy hết những vai trò to lớn của công cụ kế hoạch hóa, nhất là kế hoạch hóa trong cơ chế thị trường thì bản thân kế hoạch hóa phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định. Trong cơ chế thị trường, kế hoạch hoá kinh tế quốc dân đối với nông nghiệp vẫn là một công cụ quan trọng của quản lý Nhà nước, có tính chất pháp lệnh, nhưng không có tính chất chỉ đạo theo phương thức giao nhận và chấp hành kế hoạch một cách cứng nhắc mà chỉ là những định hướng cho sự phát triển ở tầm vĩ mô. Những kế hoạch định hướng bao gồm các chiến lược, các kế hoạch dài hạn, các dự án phát triển nông nghiệp
64
được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng những quy luật khách quan và tính toán chính xác những điều kiện về nguồn lực của nông nghiệp. Căn cứ quan trọng để vạch ra các kế hoạch định hướng phát triển nông nghiệp là nhu cầu của thị trường, bao gồm cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Trên cơ sở đó mà bố trí, huy động các yếu tố nguồn lực của xã hội vào sản xuất nông nghiệp một cách hợp lý nhất để khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền nông nghiệp.
Yêu cầu của công tác lập kế hoạch trong phát triển nông nghiệp:
Thứ nhất, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học. Hiệu quả quản lý của công cụ kế hoạch phụ thuộc rất lớn vào tính sát thực tính hợp lý và khoa học của nó. Do vậy khi xây dựng kế hoạch phải chú trọng việc nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý về kế hoạch hoá và điều kiện cụ thể của nông nghiệp nông thôn; phân tích rõ thực trạng cũng như tiềm năng về tài nguyên đất đai, cũng như lao động, tiền vốn, công nghệ và kỹ thuật có thể huy động; tham khảo kinh nghiệm của địa phương khác hoặc nước khác. Nghĩa là phải gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch hóa.
Thứ hai, gắn kế hoạch hóa với thị trường. Yêu cầu này đòi hỏi phải được đáp ứng cả trong xây dựng và thực hiện kế hoạch. Trong xây dựng kế hoạch phát triển cần coi nhu cầu thị trường là điểm xuất phát của kế hoạch, các chủ thể quản lý không nên tuyệt đối hoá kế hoạch trong suy nghĩ và hành động dẫn đến hạn chế tính sáng tạo, linh hoạt và mền dẻo trong hoạt động quản lý và điều hành. Tuyệt đối hoá kế hoạch, thậm chí đặt đối lập kế hoạch với thị trường mà không gắn kế hoạch với thị trường là xa lạ với cơ chế quản lý mới trong nông nghiệp nước ta hiện nay.
Thứ ba, chuyển từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch hướng dẫn là chủ yếu. Các công cụ của công tác kế hoạch hóa khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt đều có dấu ấn quyền lực của nhà nước, do vậy chứa đựng tính chất khống chế. Tính chất khống chế này thể hiện bằng các chỉ tiêu mục tiêu, quy mô, tốc độ, định mức... Trong quá trình phát triển thực tế, nền nông nghiệp luôn chịu chi phối bởi nhiều yếu tố thường xuyên biến động. Tình hình trên phải đòi hỏi giảm tính pháp lệnh, tăng cường tính hướng dẫn của các kế hoạch phát triển nông nghiệp. Muốn vậy, các kế hoạch hóa chỉ cần bao gồm những
65
chỉ tiêu cần thiết đủ định hướng cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn.ngoài ra các công cụ kế hoạch cần bao gồm những yếu tố mở để khuyến khích tính năng hoạt động của người thực hiện.
Thứ tư, tăng cường chất lượng các hoạt động tiền kế hoạch. Để đảm bảo tính sát thực của các công cụ kế hoạch, chủ thể quản lý phải coi trọng và tăng cường chất lượng các hoạt động tiền kế hoạch như điều tra khảo sát, nghiên cứu thăm dò để đưa ra các dự báo có căn cứ khoa học về nguồn lực, thị trường ngoài và trong nước, sự phát triển tiến bộ khoa học công nghệ v.v... Những hoạt động tiền kế hoạch càng được coi trọng và có chất lượng cao là căn cứ cho việc xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển nông nghiệp có kết quả.
2.2.4.4. Ban hành và thực thi chính sách điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chính sách kinh tế là công cụ giúp Nhà nước điều khiển hoạt động của các chủ thể kinh tế (doanh nghiệp, hợp tác xã, nông hộ...). Nhờ các chính sách kinh tế dẫn dắt hoạt động mà các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp hành động phù hợp với lợi ích chung của xã hội; các nguồn tài nguyên được huy động vào sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả để đạt đến mục tiêu và các kế hoạch định hướng.
Để thực hiện được các mục tiêu phát triển vạch ra trong các chiến lược, các kế hoạch, các dự án phát triển nông nghiệp, Nhà nước sử dụng một hệ thống các chính sách kinh tế làm công cụ tác động vào cơ chế vận động của nền nông nghiệp. Tuỳ cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể phân loại các chính sách kinh tế trong nông nghiệp theo những tiêu thức khác nhau:
- Theo nội dung, có thể phân loại các chính sách theo cách gọi tên cụ
thể như: chính sách đầu tư vốn, chính sách tín dụng, chính sách ruộng đất...
- Theo lĩnh vực, có thể phân loại thành các nhóm chính sách nông nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính (thuế, đầu tư, trợ cấp sản xuất...); lĩnh vực tiền tệ (giá cả. lãi suất v.v...); lĩnh vực xuất, nhập khẩu (chính sách thuế, hạn ngạch, tỷ giá hối đoái...).
- Theo quan hệ của chính sách đối với quá trình sản xuất, có thể phân thành các chính sách đầu vào (đầu tư, vật tư, trợ giá khuyến nông...); các
66
chính sách đầu ra (thị trường và giá cả, chính sách xuất khẩu...); các chính sách về tổ chức quá trình sản xuất (chính sách đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chính sách đổi mới cơ cấu quản lý...).
Trong điều kiện kinh tế thị trường, mỗi chính sách mà Nhà nước sử dụng đều nhằm tác động vào phía cung hay phía cầu thị trường nông sản, nhưng cũng có chính sách có thể tác động lên cả hai phía. Một chính sách được sử dụng để tác động lên phía cung thì phải có các biện pháp hạn chế phản ứng phụ lên phía cầu. Chính vì vậy mà một chính sách được ban hành cần xác định rõ đó là chính sách gì để có thể tạo ra cơ chế phối hợp giữa các chính sách.
Hiện nay, Nhà nước ta đang sử dụng một hệ thống các chính sách tác động trực tiếp tới sự phát triển của nông nghiệp, có thể kể đến một số chính sách chủ yếu sau đây:
+ Chính sách ruộng đất
+ Chính sách đầu tư
+ Chính sách tín dụng
+ Chính sách giá cả thị trường
+ Chính sách xuất khẩu nông sản
+ Chính sách khuyến nông
+ Chính sách đổi mới cơ cấu nông nghiệp, nông thôn
Chính sách ruộng đất có vai trò quan trọng đặc biệt vì có nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nông nghiệp và nông thôn gắn liền với vấn đề ruộng đất. Mục tiêu trực tiếp của chính sách ruộng đất là quản lý, sử dụng có hiệu quả, đồng thời bảo vệ độ phì nhiêu của đất đai, vì đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt của nông nghiệp.
Chính sách giá cũng là một chính sách quan trọng trong QLNN về kinh tế nông nghiệp. Mục tiêu của chính sách giá cả trong nông nghiệp là ổn định giá cả, ổn định thị trường một cách tương đối để bảo vệ sản xuất nông nghiệp, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất và người tiêu dùng. Vì giá của nông sản phẩm có tính không ổn định do sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên, thêm nữa, hiệu quả của đổi mới công
67
nghệ trong sản xuất nông nghiệp (đặc biệt nông nghiệp của các nước phát triển) có tác động mạnh lên phía cung nông sản. Kết quả tất yếu của mối quan hệ giữa áp lực cung tăng với cầu ít co dãn làm giá nông sản có xu hướng hạ thấp.
2.2.4.5. Thanh kiểm tra, giám sát đối với hoạt động kinh tế trong nông nghiệp
Thanh tra, kiểm tra và giám sát là chức năng quan trọng không thể thiếu của QLNN. Thanh tra là hoạt động thường xuyên hoặc đột xuất của các cơ quan QLNN nhằm mục đích phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Ở Việt Nam, thanh tra trong lĩnh vực nông nghiệp và Phát triển nông thôn được tổ chức theo cấp hành chính. Ở Trung ương có Thanh tra Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Thanh tra các Cục. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và thanh tra chuyên ngành thú y, thanh tra chuyên ngành bảo vệ và kiểm dịch thực vật; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi QLNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản, hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm các nội dung trong từng lĩnh vực như sau:
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực trồng trọt: Thanh tra, kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về sản xuất trồng trọt, giống cây trồng nông nghiệp, sử dụng đất nông nghiệp, phân bón hữu cơ và phân bón khác...
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật: Thanh tra, kiểm tra và giám sát việc chấp hành
68
pháp luật chuyên ngành về bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật, thuốc bảo vệ thực vật…
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực chăn nuôi: Thanh tra , kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về sản xuất chăn nuôi, giống vật nuôi nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, bảo vệ môi trường trong chăn nuôi, chế phẩm xử lý cải tạo môi trường chăn nuôi…
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực thủy sản: Thanh tra , kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản, khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy sản, giống thủy sản, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường nuôi trồng thủy sản…
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực thú y: Thanh tra , kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về phòng, chống dịch bệnh động vật trên cạn, động vật thủy sản, kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ động vật, vệ sinh thú y, thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hóa chất dùng trong thú y …
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực quản lý chất lượng nông, lâm sản và thủy sản: Thanh tra , kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về chất lượng, an toàn thực phẩm nông, lâm sản và thủy sản trong suốt quá trình sản xuất, thu gom, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, kinh doanh...
- Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chuyên ngành về lĩnh vực chế biến nông, lâm, thủy sản: Thanh tra , kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật chuyên ngành về chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản, cơ điện nông nghiệp, phát triển làng nghề nông thôn...
Nếu trong quá trình thanh tra, cơ quan thanh tra, kiểm tra phát hiện những sai phạm, có thể kiến nghị cơ quan có thẩm quyền đình chỉ hành vi vi phạm pháp luật về nông nghiệp và phát triển nông thôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có đủ căn cứ xác định hành vi vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc huỷ bỏ những quy định trái với pháp luật về nông nghiệp và phát triển nông thôn.
69
2.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.5.1. Nhóm nhân tố khách quan
a. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
Xã hội càng văn minh hiện đại, nhận thức của con người càng tiến bộ, trình độ dân trí càng cao thì càng thuận lợi cho việc thực hiện công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp, bởi suy cho cùng đối tượng của QLNN chính là tác động đến nông dân. Các yếu tố về phát triển kinh tế - xã hội như ngân sách nhà nước, vốn đầu tư, thu nhập, thị trường… cũng là các yếu tố đầu vào, là điều kiện, môi trường của hoạt động kinh tế nông nghiệp, nên có ảnh hưởng quan trọng và cần nghiên cứu, xem xét trong quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp.
Ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp sẽ khó khăn trong thực thi các chính sách QLNN hơn nhiều so với vùng đồng bằng, vùng ven đô. Vùng có kinh tế tăng trưởng cao, kết cấu hạ tầng phát triển, chính quyền địa phương sẽ bớt khó khăn hơn trong việc xây dựng, thực thi chính sách QLNN nhằm khuyến khích ứng dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp, chính sách khuyến nông, chính sách giáo dục, là các chính sách khuyến khích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
b. Bối cảnh chính trị trong nước
Bối cảnh chính trị là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến việc thực thi vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp.Những vùng nông thôn có chính trị không ổn định dễ bị các thế lực xúi giục gây bạo loạn chống đối chế độ, cán bộ tham nhũng tài chính thì tất yếu sẽ dẫn đến khó khăn trong thực thi quy hoạch, chính sách. Chẳng hạn các chính sách về nông nghiệp, nông thôn được ban hành như chính sách giao đất cho nông dân, chính sách đấu thầu ruộng công, chính sách kết hợp nhà nước và nhân dân cùng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, động viên sức đóng góp của dân để xây dựng các công trình công cộng… Nếu chính trị không ổn định, người dân mất niềm tin vào chính quyền, người dân không ủng hộ cán bộ, tất yếu sẽ gặp nhiều bất lợi trong việc thực thi chính sách của Nhà nước nói chung và đặc biệt trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn.
70
c. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Bối cảnh quốc tế cũng có tác động đến khả năng thực thi chính sách kinh tế nông nghiệp của Nhà nước. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, các biến động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực cũng như trên toàn thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ có tác động đến thị trường tiêu thụ nông sản như gạo, cà phê, chè, thủy hải sản… những biến động đó sẽ tác động đến xây dựng chính sách trong nông nghiệp ở nước ta trên hai phương diện tiêu thụ, xuất khẩu nông sản và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế tác động lên các mối quan hệ kinh tế, xã hội và văn hóa giữa các quốc gia. Trong thập kỷ qua, toàn cầu hóa đã trở thành một vấn đề lớn đối với QLNN nói chung. Một trong những thể chế kinh tế quốc tế tác động mạnh mẽ tới nông nghiệp là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). WTO có quyền lớn hơn nhiều đối với thương mại nông sản. Mục đích của việc thành lập WTO là giảm và cuối cùng là loại bỏ tất cả các hàng rào hương mại, để đạt được một "thị trường tự do toàn cầu". Chính vì vậy, các chính sách bảo hộ nông nghiệp của các quốc gia phải phù hợp với các cam kết trong WTO.
Hơn nữa, trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế lợi thế cạnh tranh tương đối về sản phẩm nông nghiệp giữa các quốc gia có thể dễ dàng thay đổi khi nền kinh tế phát triển. Ví dụ, công nghệ có thể gây ảnh hưởng mạnh mẽ về phía cung của thị trường, và những sự khác biệt có thể tồn tại trong thời gian dài nếu chính phủ đầu tư nhiều vào nghiên cứu và triển khai (R&D) trong sản xuất nông nghiệp; ngược lại nếu Chính phủ không có chính sách đầu tư thì lợi thế đó sẽ dễ dàng biến mất.
d. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường nông sản ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Bên cạnh các quốc gia xuất khẩu nông sản truyền thống, một số các nước bắt đầu nổi lên trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản như Campuchia, Philippines, Bangladesh, Pakistan… Trên thị trường nội địa, các mặt hàng nông sản trong nước bị đe dọa bởi sự có mặt của rất nhiều hàng hóa nông sản nhập khẩu, điều đó dẫn tới sự sụt giảm về lượng tiêu thụ của nhiều mặt hàng nông sản trong nước, ảnh hưởng đáng lo ngại đến cân đối cung – cầu trên thị trường này. Trên thị
71
trường quốc tế, một số thị trường xuất khẩu ngày càng gia tăng các tiêu chuẩn đối với hàng nông sản xuất khẩu như thủy sản, gạo, rau quả… Chẳng hạn, Hàn Quốc yêu cầu tôm nhập khẩu phải thực hiện kiểm dịch, Úc áp dụng lệnh tạm ngừng nhập khẩu tôm và thịt tôm chưa nấu chín… đã ảnh hưởng đến xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Khủng hoảng thừa trên thị trường thịt lợn, dưa hấu, thanh long… ở nước ta trong thời gian qua là một minh chứng rất rõ ràng cho vấn đề này. Điều này đòi hỏi các cơ quan quản lý phải có tầm nhìn, định hướng đúng đắn phù hợp với quy luật của thị trường cho các mặt hàng nông sản; đồng thời hoạch định và thực thi chính sách hợp lý, kịp thời trong giải quyết các vấn đề phát sinh trong sản xuất và kinh doanh nông sản.
2.2.5.2. Nhóm nhân tố chủ quan
a. Quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế
nông nghiệp
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc hình thành và phát triển hệ thống kinh tế nông nghiệp có vai trò quyết định đến hiệu quả và hiệu lực của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp. Trong nhiều thập kỷ trước thời kỳ đổi mới, quan điểm cơ bản về phát triển nông nghiệp ở nước ta là quá đề cao vai trò của sở hữu Nhà nước, dẫn tới thiết lập hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh trong mọi lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, với sự bao cấp rất lớn của ngân sách Nhà nước. Khu vực sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước kể cả sở hữu hợp tác xã cũng chỉ được coi là hình thức sở hữu quá độ. Các hình thức sở hữu tư nhân chưa được thừa nhận sự tồn tại và phát triển về mặt pháp lý. Cùng với việc áp dụng cơ chế quản lý kế hoạch hoá, tập trung bao cấp, sự vận động phát triển của hệ thống kinh tế nông nghiệp nước ta theo mô hình nêu trên tỏ ra kém hiệu quả; các tiềm năng đất đai và lao động không được khai thác triệt để; vật tư, tiền vốn bị sử dụng lãng phí và thất thoát nhiều; đời sống nông dân và bộ mặt của nông thôn chậm được cải thiện.
Từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp đã đổi mới toàn diện. Theo đó, tất cả mọi loại hình sở hữu, mọi kiểu sở hữu đa dạng trong nông nghiệp làm cơ sở cho các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo pháp luật đều được coi là một bộ phận cấu thành của nền nông nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta. Trong quá trình phát triển các loại hình sở
72
hữu vừa có vai trò độc lập tương đối, vừa có sự tác động qua lại với nhau, nương tựa vào nhau và liên kết với nhau, tạo thành nền tảng kinh tế – một hệ thống kinh tế thống nhất biện chứng của nông nghiệp. Tính thống nhất biện chứng của toàn bộ hệ thống kinh tế nông nghiệp phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, là điều kiện cho sự phát triển với tốc độ cao của nông nghiệp trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
b. Phương thức, cách thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế nông
nghiệp trong bối cảnh CNH, HĐH
Phương thức, cách thức quản lý, mối quan hệ giữa các cơ quan, các cấp trong bộ quản lí là nhân tố tác động đến kết quả của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp. Việc nhà nước lựa chọn phương thức, cách thức quản lí sẽ quyết định đến tổ chức bộ máy, khung thể chế quản lý nhà nước trong lĩnh vực đó. Các quốc gia trên thế giới, Nhà nước về cơ bản đều can thiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, mức độ can thiệp giữa các quốc gia là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào chủ trương, đường lối và định hướng của chính phủ mỗi quốc gia. Nếu các chủ thể ban hành chính sách có đủ năng lực, có nhận thức đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường thì nông nghiệp của quốc gia đó sẽ phát triển. Ngược lại, nếu thể chế quản lí quá thiên về các biện pháp hành chính như: hỗ trợ hoặc hạn chế, cấm đoán kinh doanh nông nghiệp thì sẽ không huy động được sức sáng tạo của các chủ thể nông nghiệp và khó có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
c. Năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
Vừa là chủ thể xây dựng, ban hành, đồng thời cũng là chủ thể tổ chức thực hiện hoạt động QLNN, đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng đối với công tác QLNN về nông nghiệp. Năng lực của họ được thể hiện trên nhiều khía cạnh, bao gồm: (i) năng lực nhận thức, tư duy về lĩnh vực quản lý, (ii) năng lực xây dựng và ban hành các quyết định quản lý, và (iii) năng lực chuyên môn trong thực thi các hoạt động nghiệp vụ.
Kết quả hoạt động QLNN về nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ công chức nói chung và đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý nói riêng. Chất lượng đội ngũ công chức được hình thành dựa trên cơ sở tiêu chuẩn công chức và chịu ảnh hưởng của các nội dung quy định trong tiêu chuẩn công chức. Trong hoạt động thực tiễn, các cơ quan quản lý công chức
73
đều căn cứ vào tiêu chuẩn công chức để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và quản lý công chức.
d. Nguồn lực vật chất cho hoạt động quản lý
Kinh phí là điều kiện cần thiết để xây dựng và tổ chức triển khai công tác QLNN, và càng có vai trò quan trọng hơn nữa đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Nguồn này thường lấy từ ngân sách các cấp, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, hoặc huy động từ nguồn vốn do nhân dân đóng góp. Nếu không đủ kinh phí thì QLNN khó có thể hoàn thiện và được triển khai đồng bộ nhằm đạt được mục tiêu, hoặc không tạo ra được tác động như mong muốn. Vậy ngay từ khi xây dựng và thông qua chính sách phải dự toán được nguồn kinh phí về mặt số lượng và nguồn đầu tư, tài trợ cho chính sách.
2.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA VÀ BÀI HỌC CÓ THỂ VẬN DỤNG VÀO VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
2.3.1. Kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.3.1.1. Kinh nghiệm về công tác định hướng cho hoạt động nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH của vùng đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có diện tích tự nhiên toàn vùng là 39.747 km2, tương đương 12,25% so với diện tích của cả nước; theo tổng cục thống kê năm 2013, diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm 64,2%, đất lâm nghiệp là 7,5%, đất ở 6,4%, đất chuyên dùng 3,0%. Với hơn 400 km biên giới trên bộ với Campuchia, có bờ biển dài hơn 700 km, với khoảng 360.000 km2 vùng kinh tế đặc quyền, giáp biển Đông và vịnh Thái Lan. Nguồn nước dồi dào, tổng trữ lượng tiềm năng nước của vùng ĐBSCL trên 84 triệu m3/ngày. Hiện nay, tổng lượng nước đang khai thác sử dụng là 854 ngàn m3/ngày, trong đó lượng nước ngầm chiếm hơn 12% (106 ngàn m3/ngày đêm). Ở nông thôn, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện đang có hơn 500.000 giếng các loại với tổng lưu lượng khai thác 300.000m3/ngày.
Qua chuỗi số liệu từ năm 1995 đến nay, vùng ĐBSCL luôn đứng đầu cả nước về diện tích đất nông nghiệp, sản lượng lúa cũng như giá trị sản xuất về
74
nông nghiệp so với các vùng trong cả nước. Hiện nay, vùng ĐBSCL có diện tích đất sản xuất nông nghiệp đứng đầu cả nước 2.606,5 ngàn ha (tương đương 25,53% so với diện tích đất sản xuất nông nghiệp của cả nước). Giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng chiếm 33,3% (năm 2015) so với giá trị nông nghiệp của cả nước, gấp 1,91 lần so với giá trị sản xuất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng và gấp 2,28 lần vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; gấp 3,24 lần so với vùng trung du và miền núi phía Bắc, 2,29 lần giá trị sản xuất của vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và hơn khu vực Đông Nam Bộ 3,19 lần. Từ thực tế này cho thấy vị trí đứng đầu về sản xuất nông nghiệp của khu vực này đối với cả nước bao gồm cả về diện tích, sản lượng và giá trị.
Một trong những nguyên nhân tạo nên thành tựu trong sản xuất nông nghiệp của ĐBSCL là công tác định hướng đối với kinh tế nông nghiệp trong vùng được chú trọng và phát huy hiệu quả.
Thứ nhất, các địa phương trong vùng đều chủ trương liên kết “4 nhà” trong sản xuất nông nghiệp, điển hình là sự thành công của mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” bắt đầu từ vùng này rồi lan rộng ra cả nước. Với thực tế sản xuất nông nghiệp còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ, thiếu sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nông dân thì mô hình “Cánh đồng lớn” được xem là một trong những mô hình liên kết đạt hiệu quả cao trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Theo tính toán, mỗi hec-ta lúa tham gia trong “Cánh đồng lớn” người nông dân có thể giảm được chi phí sản xuất 10%-5%, giá trị sản lượng tăng lên 20%-25%, thu lợi nhuận thêm 2,2-7,5 triệu đồng.
Thứ hai, chính quyền địa phương trong vùng cũng định hướng xây dựng các mô hình tổ chức liên kết chăn nuôi và nuôi trồng chế biến thủy sản. Cụ thể như mô hình liên kết chăn nuôi lợn và gia cầm tại Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam; mô hình tổ chức vùng nguyên liệu sản xuất chế biến cá tra thuộc Công ty cổ phần thủy sản Hùng Vương và Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang… Điểm nổi bật của những mô hình này là doanh nghiệp đóng vai trò là nhà đầu tư cho nông dân, là người tổ chức sản xuất, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và bảo đảm thị trường tiêu thụ. Nông dân là người trực tiếp sản xuất, nhận khoán theo định mức chi phí, được hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ bản ban đầu, chi phí lao động và sản xuất trên đất của họ. Những mô hình liên kết sản xuất trong nông nghiệp kể
75
trên đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long.
Ba là, quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung - cầu thị trường, gắn với mục tiêu nâng cao hiệu quả, chất lượng, giá trị nông sản. Các địa phương đã tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người dân, giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết giữa sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn.
Bốn là, có sự định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong sản xuất lúa, cá tra, tôm…, theo hướng phân bổ lại nguồn lực đầu tư phù hợp; gắn kết chặt chẽ từ khâu sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đem lại hiệu quả cao hơn cho người sản xuất và kinh doanh. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ và các ngành, địa phương trong vùng đã tăng cường phối hợp để hỗ trợ, tạo điều kiện quảng bá các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của đồng bằng sông Cửu Long hướng đến người tiêu dùng trong và ngoài nước.
2.3.1.2. Kinh nghiệm về thực hiện chính sách ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại, tin học hóa… nhằm cải tiến phương pháp canh tác, tăng năng suất và sản xuất bền vững
Thái Lan rất chú trọng đến đẩy mạnh ứng dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại đồng thời kết hợp kinh nghiệm truyền thống. Hữu cơ hóa đất nông nghiệp thông qua sử dụng các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh và thuốc trừ sâu sinh học đã giúp nước này cải tạo đất thoái hóa và nâng cao độ màu mỡ, nhờ đó sử dụng quỹ đất hiệu quả, giảm nhập khẩu phân bón và tăng xuất khẩu nông sản hữu cơ sạch. Bí quyết thành công của Thái Lan là xây dựng chuẩn các phương thức canh tác với công nghệ và kỹ thuật canh tác đặc thù cho từng vùng sản xuất có điều kiện tự nhiên khác nhau, nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của sản xuất nông sản theo vùng.
Cơ giới hóa đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nông nghiệp Thái Lan. Nước này đã từng bước chủ động sản xuất máy móc nông nghiệp và thiết bị nông nghiệp cho phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của người sử dụng. Hiện nay, hầu hết các thiết bị nông nghiệp được sử dụng ở Thái Lan được sản xuất trong nước như máy kéo, máy cày, máy bừa, máy
76
bơm nước, phun, máy đập lúa, máy gặt, máy gặt đập, làm sạch thiết bị, máy sấy, máy xay xát lúa gạo, và thiết bị chế biến. Mỗi năm nước này sản xuất khoảng 40.000 máy kéo 4 bánh và 3.000 máy gặt đập liên hoàn.
Từ năm 2008 chính phủ Thái Lan đã thành lập mô hình trang trại thông minh, có áp dụng công nghệ thông tin và công nghệ điện tử để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp mà cuối cùng sẽ nâng cao chất lượng sống của người nông dân trong khu vực nông thôn. Mô hình trang trại thông minh tập trung vào 4 sản phẩm nông nghiệp chính là lúa, sắn, cao su và mía đường.
Chính phủ Thái Lan cũng đưa ra chương trình Trung tâm dịch vụ cơ giới hóa ở cấp làng. Mục tiêu là thiết lập khoảng 886 trung tâm dịch vụ cơ giới hóa làng và dự kiến sẽ nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của nông sản; phát triển thị trường. Trung tâm sẽ cung cấp dịch vụ máy kéo, đào tạo hoạt động máy, sửa chữa, bảo trì. Phát triển trong tương lai cần tập trung vào chất lượng và tính bền vững của việc áp dụng khoa học, công nghệ, đổi mới và sáng tạo.
Đối với Trung Quốc, nhờ ưu tiên phát triển mạnh công nghệ sinh học, tạo ra nhiều loại giống lúa lai như tạp giao “thế hệ 1”, “thế hệ 2”, “thế hệ 3”, dẫn đến bước nhảy vọt về năng suất lúa, sản lượng lương thực và năng suất lao động nông nghiệp. Hiện nay, sản lượng lương thực của Trung Quốc và mức bình quân lương thực đầu người đứng vào loại cao nhất châu Á. Ngoài ra, do nhận thức được vai trò của tiến bộ khoa học – kỹ thuật đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (ước tính trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20 tiến bộ khoa học – công nghệ đóng góp tới 30% tổng số giá trị gia tăng của nông nghiệp Trung Quốc) nên Nhà nước Trung Quốc đã xem trọng chính sách khoa học - kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, tập trung vào những vấn đề như giống, đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao, tổ chức tốt các mô hình triển khai công nghệ sản xuất nông nghiệp và gửi nhiều người đi du học ở những nước có nền nông nghiệp công nghiệp hoá cao nhằm tiếp thu tinh hoa khoa học – công nghệ hiện đại.
2.3.1.3. Kinh nghiệm về chính sách đầu tư xây dựng hệ thống kho tàng bảo quản, tăng cường chế biến phế, phụ phẩm
77
Thái Lan đã sớm phát triển hệ thống sau thu hoạch, trong đó có hệ thống kho tàng, vận chuyển nông sản. Thậm chí để phục vụ xuất khẩu mạnh sang các nước phương Tây, Chính phủ Thái Lan còn khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây kho ở quốc gia có vị trí địa lý trung tâm, thuận tiện xuất khẩu đi các nước lân cận hoặc có thể xuất ngay tại nước đó, ví dụ kho và nhà máy đánh bóng gạo tại Pháp để xuất khẩu sang Hà Lan, Đức. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước này thu mua trong nước xong vận chuyển sang các kho ngoại quốc, khi thấy thị trường Pháp hoặc các nước châu Âu khác có nhu cầu thì lấy ra bán ngay, đáp ứng kịp thời hơn so với đối thủ. Sắp tới, Thái Lan dự kiến xây thêm kho chứa trái cây xuất khẩu ở các thị trường tiêu thụ chính. Thái Lan còn đầu tư rất mạnh cho công nghệ phơi sấy và bảo quản.
Hiện ở một số nước như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đã phát triển rất mạnh công nghệ và các ngành công nghiệp ăn theo công nghệ chế biến phế, phụ phẩm nông sản. Ví dụ sản phẩm cám gạo có giá trị tăng cao hơn từ 100 - 300% khi được chế biến thành thức ăn chăn nuôi, xà phòng, mỹ phẩm hoặc dược phẩm, rơm được chế biến thành viên làm thức ăn gia súc, làm chất độn chuồng trong chăn nuôi hay xuất khẩu. Tại các nước này, rơm còn được chế biến Ethanol hay nhiên liệu sinh học (Bio diesel), chế biến plastic sinh học để sản xuất các loại bao bì, cốc chứa đựng sinh học thân thiện với môi trường, làm chất đốt, chế biến xà phòng, dầu ăn, mỹ phẩm,…
2.3.1.4. Kinh nghiệm về các chính sách hỗ trợ cho tiêu thụ nông sản
* Thiết lập hệ thống chợ trung tâm/trung tâm giao dịch
Một hệ thống phân phối hiện đại đảm bảo sự kiểm soát tốt hơn cả về giá và chất lượng nông sản. Tại nhiều nước, hệ thống đấu giá nông sản tại các chợ trung tâm đã sớm hình thành và giữ vai trò quan trọng trong việc thiết lập các mặt bằng giá, phân loại, quy cách hóa nông sản và phục vụ đắc lực cho việc truy xuất nguồn gốc nông sản. Các chợ trung tâm có thể được thiết lập bởi cơ quan chính phủ hoặc các nhà kinh doanh, nhưng thường nằm trong khu vực sản xuất chính. Tại Thái Lan, chợ trung tâm của chính phủ được thành lập bởi các cơ quan nhà nước như Ngân hàng Nông nghiệp và Hợp tác xã Nông nghiệp (BAAC) và Cơ quan Khuyến nông của Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã. Bộ Thương mại Thái Lan hỗ trợ sắp xếp và quản lý các chợ trung tâm của Nhà nước và chợ trung tâm của tư nhân.
78
* Tiêu thụ nông sản thông qua các hợp tác xã năng động
Tại Hàn Quốc, Liên đoàn quốc gia Hợp tác xã Nông nghiệp Hàn Quốc (NACF) đã thiết lập mạng lưới hợp tác xã từ trung ương đến cơ sở. Hệ thống hợp tác xã ở Hàn Quốc đã phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng lên của nông dân về hỗ trợ dịch vụ. NACF nắm giữ 40% thị phần nông sản trong nước. Nhằm mở rộng thị trường nông sản, NACF quản lý một mạng lưới dịch vụ vận chuyển nông sản từ cửa nông trại đến người tiêu dùng, giúp người nông dân sản xuất theo đúng yêu cầu của thị trường, giảm tối thiểu chi phí lưu thông, hao hụt, thất thoát. NACF cũng điều hành một hệ thống doanh nghiệp kinh doanh nông sản lớn nhất và cạnh tranh mạnh nhất. NACF chịu trách nhiệm cung cấp các vật tư nông nghiệp bảo đảm cho nông dân có đủ vật tư thiết yếu đúng thời gian, giá rẻ, chất lượng. Trong khâu chế biến, NACF sở hữu một hệ thống hạ tầng và thiết bị hùng hậu giúp tăng thêm giá trị cho hàng nông sản. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, NACF đáp ứng nhiều loại dịch vụ: giao dịch ngân hàng, dịch vụ thẻ tín dụng, tín dụng cho vay, đầu tư, bảo hiểm, giao dịch quốc tế… Hệ thống bảo hiểm của NACF chiếm lĩnh toàn bộ thị trường nông thôn.
Tại Nhật Bản, hợp tác xã nông nghiệp là kênh tiêu thụ nông sản chính: 90% lúa gạo; trên 50% rau, hoa quả, sữa tươi… Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản là hợp tác trong phân phối chứ không chỉ hợp tác trong sản xuất. Hợp tác xã nông nghiệp thực hiện hai nhiệm vụ chính: một là, cung cấp cho nông dân các yếu tố “đầu vào” phục vụ sản xuất nông nghiệp, như phân bón, hóa chất nông nghiệp, trang thiết bị, kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi gia súc; hai là, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm bằng cách thu gom, bảo quản, dự trữ, bán các nông sản, vật tư dựa vào mạng lưới tiêu thụ sản phẩm quốc gia và quốc tế. Để giúp các tổ chức hợp tác xã hoạt động, Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường xây dựng hệ thống phục vụ xã hội hóa nông nghiệp, coi hợp tác xã nông nghiệp là một trong những hình thức phục vụ xã hội hóa tốt nhất và yêu cầu các cấp, các ngành phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức này.
2.3.1.5. Kinh nghiệm về hệ thống khuyến nông ở Thái Lan và một số nước ASEAN
* Hệ thống Khuyến nông Thái Lan
79
Ở Thái Lan, góp phần vào việc thúc đẩy nền công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, có vai trò của hệ thống Khuyến nông Thái Lan. Cục Khuyến nông Thái Lan đã được thành lập 45 năm (từ năm 1967) trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan.
Về cơ cấu tổ chức, Cục Khuyến nông Thái Lan được chia là 2 cấp: Quản lý Nhà nước cấp Trung ương, có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo, điều phối và hỗ trợ cho các đơn vị địa phương thực hiện các chương trình, dự án khuyến nông. Cấp quản lý hành chính cấp địa phương có nhiệm vụ xúc tiến, phát triển nông dân, tổ chức nông dân, doanh nghiệp cộng đồng trên địa bàn tỉnh quản lý, điều phối các hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về nông nghiệp.
Cấp Khuyến nông Trung ương (16 phòng ban và 6 trung tâm khu vực vùng) có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo, điều phối và hỗ trợ cho các đơn vị địa phương thực hiện các chương trình, dự án khuyến nông.
Cấp Khuyến nông địa phương gồm cấp tỉnh và cấp huyện:Cấp tỉnh: Văn phòng Khuyến nông tỉnh có 77 Văn phòng, với nhiệm vụ xúc tiến, phát triển nông dân, tổ chức nông dân, doanh nghiệp cộng đồng trên địa bàn tỉnh quản lý, điều phối các hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về nông nghiệp, thủy sản, chăn nuôi.Cấp huyện: Văn phòng Khuyến nông huyện với 882 văn phòng khuyến nông huyện có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch, xúc tiến và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở huyện, khuyến khích và phát triển nông dân, tổ chức nông dân, doanh nghiệp cộng đồng ở mỗi huyện và tiến hành các hoạt động hỗ trợ sản xuất nông nghiệp khác. Cán bộ khuyến nông đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động khuyến nông và là người gần với dân nhất. Hiện tại, mỗi xã có 1-2 cán bộ khuyến nông và được Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan bổ nhiệm như những cán bộ đại diện cho Bộ điều phối và hoạt động ở địa phương với các nhiệm vụ về tư vấn; cung cấp kiến thức; cung cấp dịch vụ; quản lý kiến thức và điều phối. Ngoài ra, mỗi xã đều có 1 hội đồng tư vấn khuyến nông, thành viên là các lãnh đạo chủ chốt của xã, có nhiệm vụ định hướng và xây dựng kế hoạch phát triển nông nghiệp cho xã.
Các hoạt động khuyến nông của Thái Lan chủ yếu tập trung vào hoạt động đào tạo huấn luyện và thông tin tuyên truyền, tư vấn dịch vụ. Những hoạt động này hoàn toàn miễn phí đối với người nông dân. Hoạt động xây
80
dựng mô hình trình diễn chỉ xây dựng trong phạm vi các Viện nghiên cứu, các Trung tâm phát triển xúc tiến nghề nông và Văn phòng Khuyến nông huyện để nông dân, những người quan tâm đến học tập, trao đổi kinh nghiệm về phương pháp sản xuất, kỹ năng phương pháp khuyến nông. Kinh phí hỗ trợ của nhà nước dành cho hoạt động khuyến nông lớn, nên thuận lợi trong triển khai nhiều hoạt động. Người nông dân không phải lo đóng góp kinh phí đối ứng nên việc triển khai nhân rộng các mô hình ở nhiều địa bàn khác nhau rất thuận lợi.
* Hệ thống khuyến nông của một số nước ASEAN
Cục Khuyến nông Indonesia trực thuộc Bộ Nông nghiệp Indonesia, được chia làm 5 cấp quản lý khuyến nông: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp quận, cấp xã với các cán bộ khuyến nông chuyên trách, và bán chuyên trách, cán bộ khuyến nông làm việc theo hợp đồng và nhóm cộng tác viên khuyến nông. Định hướng phát triển khuyến nông của Indonesia nhằm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đào tạo kỹ thuật cho nông dân, hướng dẫn nông dân đăng ký và làm theo GAP. Cục Khuyến nông Indonesia có mối liên hệ chặt chẽ với Cục Trồng trọt và các Cục khác thuộc sự quản lý chung của Bộ Nông nghiệp Indonesia.
Cục Khuyến nông Malaysia thuộc Bộ Nông nghiệp và ngành nghề nông thôn Malaysia, với định hướng hoạt động chuyển giao công nghệ nông nghiệp và hướng dẫn nông dân thực hiện tiêu chuẩn hóa theo ISO 9001:2008. Hệ thống Khuyến nông Malaysia cũng có 5 cấp như Indonesia và còn trực tiếp tổ chức thực hiện các khóa đào tạo khuyến nông của ASEAN về khuyến nông, môi trường và công nghệ sau thu hoạch. Cùng với Cục Khuyến nông, Cục Trồng trọt và Cục Quản lý chất lượng nông sản hoạt động dưới sự quản lý chung của Bộ Nông nghiệp và ngành nghề nông thôn Malaysia.
Cục Khuyến nông Myanmar thuộc Bộ Nông nghiệp & Thủy lợi Myanmar, phối hợp với các Cục Quản lý nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp & Thủy lợi Myanmar để thực hiện công tác chuyển giao công nghệ về sản xuất nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch. Cục Khuyến nông Myanmar tập trung định hướng xây dựng các mô hình trình diễn quy mô lớn, kỹ thuật về công nghệ hạt giống và đào tạo lớp học hiện trường và hướng dẫn nông dân thực hiện, đăng ký nông sản theo các tiêu chuẩn của ASEAN GAP.
81
2.3.1.6. Kinh nghiệm về chính sách chuyển đổi cơ cấu ngành và đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp
Chính sách đa dạng hóa sản phẩm được chính phủ Thái Lan thực hiện nhằm giảm bớt rủi ro thị trường về giá, ổn định thị trường tiêu dùng trong nước, và khai thác hết nội lực về vốn và lao động trong nước. Quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Thái Lan đã phản ảnh rõ nét định hướng phát triển thương mại đa dạng hóa và phát huy lợi thế so sánh. Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp của Thái Lan có sự thay đổi gia tăng mạnh các sản phẩm chăn nuôi, cao su, cây ăn quả, và giảm đáng kể các sản phẩm lúa gạo, ngô, sắn, đậu tương. Khối lượng xuất khẩu ngô của Thái Lan giảm hơn 80% trong vòng 10 năm qua, từ hơn 1 triệu tấn xuống còn hơn 100 ngàn tấn/năm. Nhập khẩu đậu tương tăng hơn gấp 10 lần từ 57 ngàn tấn lên 750 ngàn tấn để đáp ứng nhu cấu sản xuất thức ăn gia súc tăng nhanh trong nước. Những năm gần đây, khối lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan có xu hướng giảm. Trong khi đó, một số mặt hàng xuất khẩu khác tăng mạnh như thủy sản, hạt tiêu, rau quả, hoa. Hiện nay, Thái Lan đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, đứng đầu về sản xuất và xuất khẩu cao su, tôm sú, và đứng thứ ba về xuất khẩu đường.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến trên thị trường quốc tế, Thái Lan nhắm đến mục tiêu gia tăng chất lượng nông sản xuất khẩu thông qua thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào chế biến, nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn sản phẩm nông sản phù hợp với yêu cầu thị trường quốc tế. Chính phủ Thái Lan yêu cầu các nhà đầu tư phải thực hiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và quản lý môi trường ISO 14000 trong các nhà máy chế biến, tạo ra những sản phẩm nông sản chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế, vượt qua các rào cản kỹ thuật thâm nhập các thị trường khắt khe.
Chính phủ khuyến khích đầu tư tư nhân và liên doanh với nước ngoài tập trung vào công nghiệp chế biến cao su và thủy sản, làm gia tăng khối lượng sản phẩm xuất khẩu qua chế biến. Các nhà máy chế biến của các gia đình được khuyến khích đầu tư công nghệ hiện đại, càng tạo ra khối lượng lớn hơn sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến, đạt tiêu chuẩn chất lượng tốt. Hiệp hội cao su Thái Lan ký hợp đồng đảm bảo cung cấp sản phẩm có chất lượng cao cho Nhật Bản, Thái Lan cũng chuyển từ xuất khẩu thịt gà sang xuất khẩu thịt gà đã qua chế biến sang các nước châu Âu và Nhật Bản.
82
Chính phủ Thái Lan còn cung cấp các ưu đãi đầu tư qua chính sách thuế và tín dụng ưu đãi, hỗ trợ các nhà đầu tư xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới như Ai Cập, Nam Phi. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chính sách thu thuế thấp, giảm hoặc miễn thuế cho nông dân và coi đó là khoản đầu tư cho nông nghiệp. Chủ trương này nhằm tạo điều kiện nâng cao mức sống của nông dân, tăng tích lũy từ trong nông nghiệp, đẩy mạnh quá trình đưa sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa tạo nhiều việc làm tăng thu nhập, hạn chế thất nghiệp nông thôn và dòng người rời bỏ nông thôn ra thành thị.
2.3.2. Một số bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH Vùng duyên hải Bắc bộ
Nghiên cứu công tác định hướng, tổ chức bộ máy và thực thi chính sách đối với kinh tế nông nghiệp của một số quốc gia trong khu vực và vùng trong nước, có thể thấy việc lựa chọn bước đi và giải pháp cho tăng trưởng và phát triển ở mỗi quốc gia/địa phương rất phong phú, đa dạng. Thành công của các quốc gia, địa phương này trong quá trình thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho VDHBB:
- Trong quá trình phát triển, vốn đầu tư là vấn đề then chốt. Chính phủ các nước có nhiều biện pháp hỗ trợ đầu tư cho nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Ngoài ra, các quốc gia còn áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ nông dân như miễn giảm thuế nông nghiệp, trợ giá nông sản cho nông dân. Khi nông sản ế thừa, Nhà nước dùng quỹ hỗ trợ sản xuất và cả ngân sách để thu mua cho nông dân. Không chỉ vậy, Chính phủ các nước còn can thiệp vào các thị trường bằng hệ thống công cụ quản lý vĩ mô. Hỗ trợ, đầu tư và can thiệp của các Chính phủ tạo ra những điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế trên địa bàn nông thôn. Các nước đều ưu tiên vốn đầu tư phục vụ nông nghiệp, xây dựng các công trình công cộng phục vụ sản xuất. Tập trung vốn phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
- Chính phủ các nước đều quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn, trong đó huyết mạch là các công trình thuỷ lợi, giao thông và điện. Phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn trước tiên
83
là nhằm vào mục tiêu sản xuất nông sản hàng hoá, sau đó là bảo đảm tính cân đối trong nền kinh tế quốc dân. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng làm cho chi phí vận chuyển hàng hoá giảm, mở rộng thị trường nông sản cho nông dân, hoạt động dịch vụ ở nông thôn phát triển hơn, giao lưu hàng hoá nông thôn được thuận lợi. Đồng thời còn là động lực thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, gia công, chế biến… hình thành và phát triển.
- Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đều kết hợp với từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh nông nghiệp. Các nước tập trung phát triển các ngành nghề truyền thống, tạo điều kiện để phát triển dịch vụ nông thôn. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước, các nước thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp với các chương trình cơ khí hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá và ứng dụng tiến bộ công nghệ sinh học vào sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản. Thành công trong bước đi này làm cho năng suất cây trồng, vật nuôi và năng suất lao động tăng lên.
- Kinh tế nông nghiệp, nông thôn chỉ có thể phát triển khi mọi thành phần kinh tế trong khu vực hướng vào sản xuất hàng hoá, trong đó nông dân là lực lượng chủ yếu tham gia sản xuất nông nghiệp. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước cho thấy, điều kiện cơ bản đầu tiên để nông dân sản xuất nông sản hàng hoá là được quyền sở hữu tư liệu sản xuất (trong đó có ruộng đất) và tổ chức sản xuất bằng hình thức tập trung hoá ruộng đất dưới nhiều hình thức khác nhau như chuyển nhượng, thuê thầu… Do tập trung chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp nên các hộ gia đình nông dân có điều kiện thâm canh tăng năng suất, tập trung sản xuất một khối lượng nông sản hàng hoá lớn đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp đã kéo theo các ngành công nghiệp cơ khí, hoá chất, điện, chế biến… có được thị trường nội địa và các ngành dịch vụ tiêu thụ hàng hoá, cung ứng vật tư – kỹ thuật, dịch vụ tài chính… trong khu vực nông thôn hình thành và phát triển. Kết quả của các hoạt động trên đã tạo động lực thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch theo hướng nông – công nghiệp, dịch vụ và làm cho bộ mặt kinh tế xã hội nông thôn chuyển dần theo hướng đô thị hoá.
- Một số kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản cũng cho thấy, để đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, trước hết cần đổi mới cơ chế, chính sách quản lý đối với khoa học, kỹ thuật và
84
công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân theo hướng: Tổ chức, huy động lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ về nông thôn, cùng với bà con nông dân, các doanh nghiệp, các tổ chức khuyến nông, các tổ chức chính trị, xã hội giải quyết các vấn đề về giống, công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch, phát triển công nghiệp và dịch vụ, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như các cơ quan chuyển giao, ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ ở nông thôn được bảo đảm thỏa đáng về lợi ích, được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Khuyến khích việc ký kết hợp đồng giữa các cơ quan khoa học, kỹ thuật và công nghệ với các chủ thể trong nông nghiệp. Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa khoa học, kỹ thuật và công nghệ với sản xuất, kinh doanh bằng các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
- Cần đầu tư dài hạn cho hệ thống kho chứa, bảo quản, thậm chí cần tính đến việc hợp tác xây kho nông sản ở nước ngoài, như vậy doanh nghiệp sẽ theo dõi được thị trường nào đang có nhu cầu để đáp ứng kịp thời hoặc chờ bán vào thời điểm giá đã tăng trở lại. Đồng thời, phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ phế, phụ phẩm. Việc sử dụng các phụ phẩm thành những sản phẩm có giá trị cao thường khá phức tạp, đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu và đầu tư lớn. Cần tiếp tục ứng dụng những công nghệ và thiết bị mới vào chế biến phụ phẩm; tổ chức và quản lý tốt các công đoạn sau thu hoạch đảm bảo nguồn phụ phẩm có chất lượng. Đặc biệt, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn vay để nông dân tiếp cận máy móc hiện đại vào tái chế những phụ phẩm có hiệu quả.
- Củng cố và nâng cao hiệu quả liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Từ kinh nghiệm của các nước có thể thấy các mối liên kết ngang dọc cần được xây dựng trên cơ chế thị trường nhưng phải cùng hướng tới sự phát triển chung của ngành, theo một chiến lược cụ thể. Theo đó các tác nhân gắn kết với nhau cả về lợi ích và trách nhiệm đối với sự phát triển của chuỗi cung ứng và toàn ngành. Vai trò của các hợp tác xã nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng nông nghiệp là đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của chuỗi cung ứng. Các hợp tác xã kiểu mới cần được nâng cao năng lực và huy động các nguồn lực chính từ các hoạt động liên kết, để có thể cung cấp các dịch vụ nông nghiệp, chế biến, cung cấp vật tư và hàng tiêu dùng,...
85
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương 1, luận án đã nêu khái quát những khái niệm cơ bản về kinh tế nông nghiệp và CNH-HĐH nông nghiệp. Trên cơ sở đó luận án đã xác định vai trò to lớn của kinh tế nông nghiệp cũng như lý giải sự cần thiết phải tiến hành CNH-HĐH đối với kinh tế nông nghiệp, đối với tăng trưởng và phát triển của quốc gia.
Trọng tâm của chương 2, luận án đã xây dựng một khung lý thuyết về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH với các nội dung khái niệm, sự cần thiết, chức năng, nội dung QLNN, đồng thời đã chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng khách quan và chủ quan đến công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp.
Đồng thời, trong chương này, tác giả đã đề cập đến kinh nghiệm của một số quốc gia và một số vùng trên cả nước là những nơi có điều kiện khá tương đồng với VDHBB của Việt Nam. Về cơ bản, mặc dù các những địa phương có điều kiện khí hậu, tự nhiên khó khăn hơn so với VDHBB song vẫn phát triển kinh tế nông thôn gắn với kinh tế nông nghiệp, nông dân một cách hài hòa theo hướng CNH, HĐN nông nghiệp, điều đó cho thấy vai trò to lớn của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp.
86
CHƯƠNG 3:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
3.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên
3.1.1.1. Về vị trí địa lý
VDHBB là vùng lãnh thổ Việt Nam ven vịnh Bắc Bộ bao gồm 5 tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Phía Bắc Đông Bắc giáp với Trung Quốc, các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn, Hải Dương; phía tây, tây nam giáp với Hưng Yên, Thanh Hoá, Hà Nam; phía Đông, Đông Nam tiếp giáp với Biển Đông, nơi có nguồn hải sản phong phú, có tiềm năng rất lớn về khai thác và đánh bắt hải sản.
Với vị trí thuận lợi, VDHBB là cửa ngõ giao lưu ra biển Đông, có cửa khẩu Móng Cái và là trung tâm giao lưu, kinh tế, chính trị, văn hoá, du lịch với các vùng khác, các tỉnh miền Trung và Miền Bắc nước ta.
Theo Quyết định số 865/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2008, VDHBB được định hướng sẽ trở thành vùng kinh tế quan trọng tầm quốc gia và quốc tế. Mục tiêu là phát huy mọi tiềm năng lợi thế để phát triển vùng duyên hải Bắc Bộ thành vùng kinh tế tổng hợp có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
3.1.1.2. Về đất đai
VDHBB có diện tích tự nhiên hơn 12.000km2, trong đó diện tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 60%. Nằm trong vùng đồng bằng tam giác châu thổ được bồi đắp phù sa mầu mỡ của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình nên đất đai rất màu mỡ, tương đối bằng phẳng chạy dài theo Vịnh Bắc Bộ ước trên 530 km bờ biển (Vịnh Bắc Bộ với diện tích khoảng 126.250km2, trong đó Việt Nam có 763km2, bờ vịnh tương đối nông, rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ hải sản).
87
Xét về địa hình đất tự nhiên thì được phân chia thành hai phần cơ bản, đó là: Vùng đất đồng bằng, đất thấp ven biển (bao gồm các tỉnh Thái Bình, Nam Định, một phần của thành phố Hải Phòng), đây chính là phần lãnh thổ được bồi đắp phù sa bởi hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng; đất đai rất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp như trồng lúa, cây ăn quả và rau màu, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Vùng đất đồng bằng ven biển thuận lợi trong phát triển hệ sinh thái biển; vùng đất đồng bằng cao có xen đồi núi, rất thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp (bao gồm các tỉnh Quảng Ninh, Ninh Bình và một phần của thành phố Hải Phòng).
Tuy nhiên về đất đai chủ yếu là đất mặn và đất phèn nên khả năng cải tạo chậm và thấp, giảm năng suất đối với các loại cây trồng cạn, nhất là cấy rau màu, cây ăn quả.
Hình 3.1: Bản đồ Vùng Duyên hải Bắc Bộ trong tổng thể miền Bắc
Nguồn: Cục đo đạc và bản đồ Việt Nam
88
3.1.1.3. Về khí hậu, thuỷ văn
VDHBB có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, ấm đặc trưng, khá ôn hoà, nhiệt độ bình quân hàng năm vào khoảng 23,5oC, độ ẩm bình quân là 87%. Có 2 mùa khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam gắn nhiệt độ cao, từ tháng 4 đến tháng 6; mùa mưa tập trung vào tháng 7, 8, 9 kèm theo là các cơn bão từ biển Đông vào. Mùa khô, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc thổi từ Trung Quốc về và gió Đông Nam thổi từ biển vào, không khí hanh khô, có thời điểm ẩm ướt do mưa phùn kéo dài.
Tuy nhiên, do tiếp giáp với biển nên hằng năm thường chịu ảnh hưởng và ảnh hưởng trực tiếp của nhiều cơn bão nên rất bất lợi cho sản xuất, nhất là nuôi trồng thủy sản.
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
VDHBB là vùng trọng điểm kinh tế của miền Bắc; là cửa ngõ giao lưu quốc tế kể cả về đường biển, đường bộ và đường hàng không, trong đó Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội tạo thành tam giác kinh tế có vai trò đầu tàu của miền Bắc; Hải Phòng và Quảng Ninh là hai tỉnh, thành phố trong tốp 10 tỉnh, thành phố đóng góp vào GDP của cả nước nhiều năm qua. Mặt khác đây cũng là vùng chính trị, văn hoá, du lịch phát triển khá mạnh mẽ.
Về phát triển dân số 5 tỉnh, thành phố có số dân đến năm 2015 là 8,65 triệu người; dự kiến đến năm 2030 là 14,5 triệu người. Diện tích canh tác bình quân là 0,26ha/hộ. Dân cư ở nông thôn chiếm gần 60% (thấp hơn mức bình quân của cả nước). Lực lượng lao động ở nông thôn qua đào tạo đạt gần 65%; một bộ phận đang dịch chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ, nhất là việc di dân từ nông thôn vào thành thị.
Về hạ tầng nông thôn, trong những năm qua, nhất là triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới đã được quan tâm đầu tư đường giao thông nông thôn, đường khuyến nông, khuyến ngư. Nhiều khu vực công nghiệp được hình thành và đi vào hoạt động là điều kiện thuận lợi và thúc đẩy phát triển nông nghiệp với công nghiệp. VDHBB là nơi có trình độ kinh tế - xã hội ở mức cao; các tỉnh, thành phố đều hoàn thành phổ cập bậc trung học và nghề (2 tiêu chí); giáo dục thường xuyên, giáo dục dạy nghề ở bậc trung học và giáo dục chuyên nghiệp khá phát triển.
89
Về hệ thống giao thông, trong những năm qua, giao thông trong vùng đã được chú trọng đầu tư, xây dựng nhằm kết nối một cách đồng bộ, thuận lợi giữa các địa phương và các tỉnh phía Nam Trung Quốc, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh trong vùng. Tại VDHBB, đã xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh (đoạn Hải Phòng - Hạ Long). Đồng thời, cải tạo lại một số đường quốc lộ hiện có, như quốc lộ 18 và quốc lộ 18A, quốc lộ 10, quốc lộ 21B, quốc lộ 38B, quốc lộ 12B. Hệ thống đường sắt cũng được xây mới theo tiêu chuẩn quốc gia như tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam, Hà Nội - Hải Phòng, Quảng Ninh - Lạng Sơn. Tuyến đường ven biển Việt Nam là tuyến đường bộ ven biển chạy qua các tỉnh có điểm đầu là cảng Núi Đỏ, Mũi Ngọc, thuộc địa phận xã Bình Ngọc, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đến điểm cuối trong vùng thuộc thị trấn Bình Minh tỉnh Ninh Bình.
Các đô thị trong vùng, Vùng kinh tế duyên hải Bắc Bộ có 9 thành phố trọng tâm gồm: Hải Phòng, Hạ Long, Móng Cái, Uông Bí, Cẩm Phả, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Tam Điệp. Theo quy hoạch vùng, sẽ có các đô thị trung tâm sau: (1) Hải Phòng, Hạ Long là 2 đô thị trung tâm cấp vùng. Riêng Hải Phòng là thành phố trực thuộc trung ương. (2) Ngoài ra, thành phố Nam Định được xác định là trung tâm giáo dục, y tế, thể thao của vùng;Thành phố Ninh Bình là trung tâm du lịch - dịch vụ của toàn vùng.
3.2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
3.2.1. Tình hình sản xuất nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Như phần trên đã đề cập, xét về điều kiện tự nhiên, VDHBB rất có lợi thế và tiềm năng cho phát triển nông nghiệp. VDHBB với 2 tỉnh Thái Bình và Nam Định là một bộ phận rất quan trọng trong vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng, được xem như vựa lúa của quốc gia, là vùng đất phì nhiêu được bồi đắp bởi phù sa các con sông lớn bao quanh. Bên cạnh đó, Hải Phòng và Quảng Ninh lại có thế mạnh về đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản do có đường bờ biển dài với hàng nghìn loài tôm, cá có giá trị kinh tế cao. Phần tiếp theo, luận án phân tích các số liệu về nông nghiệp hàng năm để đánh giá về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp trong vùng.
3.2.1.1. Tình hình trồng trọt vùng Duyên hải Bắc Bộ
90
Bảng 3.1: Tình hình cây lương thực có hạt vùng duyên hải Bắc Bộ
2008
2011
2013
2016
(1)
(2)
(3)
(1)
(2)
(3)
(1)
(2)
(3)
(1)
(2)
(3)
52,5
228,1
201,0
51,4
232,8
201,6
48,9
239,2
203,1
48,4
233,8
193,0
Quảng Ninh
85,0
485,5
266,2
83,5
499,2
268,7
81,0
498,1
262,1
76,9
484,1
246,6
Hải Phòng
177,6
1154,2
647,4
175,6
1153,7
646,4
172,1 1110,1 621,1 171,7 1126,6 629,7
Thái Bình
161,3
948,1
519,2
163,9
972,5
531,4
162,0
953,7
519,7 158,8
954,9
516,0
Nam Định
87,3
492,0
564,4
88,2
508,6
564,4
87,3
509,2
554,2
86,1
498,9
526,1
Ninh Bình
563,7
3307,9
439.6
562,6
3366,8
442,5
551,3 3310,3 432,0 541,9 3298,3 422,2
Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục thống kê
Chú thích: (1) Diện tích cây lương thực có hạt (ĐVT: nghìn ha)
(2) Sản lượng lương thực có hạt (ĐVT: nghìn tấn)
(3) Sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người (ĐVT: kg)
Bảng trên cho thấy bức tranh tổng quát về tình hình trồng trọt các loại cây lương thực có hạt trong vùng duyên hải Bắc Bộ. Về diện tích đất cho nông nghiệp, Thái Bình là tỉnh có quỹ đất nông nghiệp lớn nhất trong vùng với 177,6 ha chiếm 31,5% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả vùng, tiếp theo là Nam Định với tỷ trọng 28,6%, ít đất cho trồng trọt nhất là Quảng Ninh chỉ khoảng xấp xỉ 10% tổng diện tích đất nông nghiệp toàn vùng. Quỹ đất nông nghiệp là yếu tố quyết định sản lượng của cây lương thực có hạt. Thực tế cho thấy Thái Bình là địa phương có sản lượng lương thực lớn nhất khoảng 1,1 triệu tấn, trong khi đó Quảng Ninh là tỉnh có sản lượng thấp nhất, chỉ khoảng 230 nghìn tấn/năm.
Trong cả giai đoạn 8 năm từ 2008-2016, có thể thấy diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm từ 563,7 nghìn ha năm 2008 xuống còn 541,9 nghìn ha năm 2016, tương đương với mức giảm là 21,8 ha (tương đương với ½ quỹ đất nông nghiệp của tỉnh Quảng Ninh). Đây là tình trạng đáng lo ngại không chỉ trong vùng Duyên hải Bắc Bộ mà còn là tình trạng chung của cả nước. Nguyên nhân chính của sự thu hẹp quỹ đất nông nghiệp
91
trong vùng là do đất nông nghiệp đang từng ngày bị chuyển đổi mục đích sử dụng một cách thiếu quy hoạch và tùy tiện nên ngày càng bị thu hẹp một cách báo động.
So với các vùng khác, sản lượng lương thực bình quân đầu người của VDHBB tương đối thấp (422,2 kg/người), chỉ cao hơn vùng đồng bằng Sông Hồng (342 kg/người), vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (396,1 kg/người), chỉ bằng 1/4 so với vùng đồng bằng sông Cửu Long (1473,8 kg/người). Điều đó thể hiện sự yếu kém trong phát triển nông nghiệp của vùng bởi vùng từ trước đến nay được xem như thiên nhiên ưu đãi có tiềm năng rất lớn về đất đai và khí hậu để phát triển ngành trồng trọt.
Hình 3.2: So sánh sản lượng lương thực bình quân đầu người giữa
các vùng
Đơn vị: kg/người
Nguồn:Niên giám thống kê 2016.
Tình hình sản xuất các loại cây lương thực cụ thể trong VDHBB được thể hiện trong các bảng phía dưới đây. Có thể nói, thế mạnh lớn nhất của VDHBB trong sản xuất cây lương thực là trồng lúa. Trồng lúa ở đây đã có từ lâu đời và được thâm canh với trình độ cao nhất trong cả nước. Do vậy, từ trước đến nay, những thương hiệu gạo ngon nổi tiếng được người dân ưa chuộng là đến từ vùng này, chẳng hạn gạo tám Hải Hậu Nam Định, gạo Bắc thơm Thái Bình, gạo Nếp cái hoa vàng… Trong vùng, sản lượng lúa lớn nhất
92
tập trung vào 2 tỉnh là Thái Bình và Nam Định với khoảng hơn 1 triệu tấn lúa hàng năm. Cùng với Hà Nội, Thái Bình và Nam Định là hai trong 3 tỉnh có sản lượng lúa thu hoạch hàng năm lớn nhất miền Bắc.
Bảng 3.2: Tình hình sản xuất lúa Vùng duyên hải Bắc Bộ
2008
2010
2012
2014
2015
2016
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
45,0
204,1
44,7
208,6
43,6
216,5
43,0
210,4
43,1
211,3
42,5
210,6
Quảng Ninh
82,4
475,9
80,9
485,5
79,2
490,1
78,2
490,2
77,1
484,7
75,8
478,3
Hải Phòng
167,1 1105,2
166,4
1104,4 162,8 1059,5
161,8
1053,2
161,8
1061,9
160,6
1065,2
Thái Bình
158,6
929,0
159,0
952,0
157,3
933,8
155,4
914,6
154,9
937,7
154.4
935,2
Nam Định
81,2
467,9
81,1
485,5
81,2
490,4
80,9
460.9
80,4
484.3
79,3
475,4
Ninh Bình
534,3 3182,1
532,1
3236
524,1 3190,3
519,3
3129,3
517,3
3179,9
512,6
3164,7
Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục thống kê
Chú thích: (1) Diện tích trồng lúa (ĐVT: Nghìn ha)
(2) Sản lượng lúa (ĐVT: Nghìn tấn)
Nếu tính cho toàn vùng, trong 8 năm từ 2008-2016, diện tích trồng lúa đã giảm đáng kể (22 ha), điều đó khiến cho sản lượng lúa thu hoạch hầu như không tăng trong khi năng suất lúa đã gần như chạm trần, thậm chí có những năm còn sụt giảm. Điều đó cũng cho thấy, khả năng gia tăng sản lượng lúa trong VDHBB trong thời gian tới rất khó khăn. Trong tương lai, con đường đi ra, đi lên trong ngành sản xuất lúa của vùng chỉ có thể là con đường thâm canh lúa chất lượng hàng hóa gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm.
Ngô là loại cây nông nghiệp có diện tích thu hoạch lớn thứ hai trong VDHBB sau lúa gạo. Ngô là một trong những cây trồng chính cho ngành công nghiệp thức ăn chăn nuôi phát triển. Tuy nhiên, ngô lại chỉ được trồng ở những khu vực không có lợi cho việc trồng cây công nghiệp, ví dụ như các khu vực miền núi đất đai cằn cỗi, nghèo dinh dưỡng hay những vùng đất khô hạn, thiếu nước tưới tiêu hoặc trồng xen canh với những cây trồng giá trị cao khác. Do ngô chủ yếu được gieo trồng trong điều kiện không thuận lợi nên
93
sản lượng mặt hàng này của Việt Nam nói chung và trong vùng Duyên hải Bắc bộ nói riêng đang rất thấp. Hơn nữa, côn trùng và các loài gây hại cho cây ngô cũng là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sản lượng.
Bảng 3.3: Tình hình sản xuất ngô Vùng duyên hải Bắc Bộ
2008
2010
2012
2014
2015
2016
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
6,8
23,8
6,6
24,0
6,0
22,5
5,8
22,3
5,9
22,5
5,9
23,0
Quảng Ninh
1,9
9,6
2,6
13,7
1,8
9,0
1,6
7,9
1,3
6,3
1,1
5,8
Hải Phòng
9,3
49,0
9,2
49,3
9,3
50,6
9,3
44,8
10,1
54,6
11,1
61,4
Thái Bình
4,6
19,1
4,9
20,5
4,7
19,9
4,2
17,8
4,3
18,6
4,4
19,6
Nam Định
6,9
24,1
7,1
23,1
6,1
18,8
6,1
21,5
6,3
21,6
6,8
21,5
Ninh Bình
29,5 125,6 30,4 130,6 27,9 120,8 27,0
114,3 27,9 123,6 29,3 131,3
Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục thống kê
Chú thích: (1) Diện tích trồng ngô (ĐVT: Nghìn ha)
(2) Sản lượng ngô (ĐVT: Nghìn tấn)
Trong VDHBB, địa phương có diện tích trồng ngô lớn nhất là Thái Bình và Thái Bình cũng là địa phương có sản lượng ngô thu hoạch cao nhất trong vùng, chiếm xấp xỉ ½ sản lượng ngô toàn vùng. Các số liệu thống kê trong bảng cho thấy, diện tích trồng ngô trong 8 năm qua gần như không bị giảm sút như diện tích trồng lúa; tuy vậy sản lượng cũng gần như không thay đổi trong thời gian qua. So sánh với các vùng khác, sản lượng ngô ở VDHBB gần như thấp nhất. Từ đó, cho thấy chính sách của các địa phương trong vùng tập trung phát triển trồng lúa hơn là các loại lương thực có hạt khác.
Về tình hình trồng và thu hoạch khoai lang trong vùng, hiện tại Quảng Ninh dẫn đầu toàn vùng về diện tích trồng khoai lang (3,9 ha năm 2016), tuy nhiên, về sản lượng khoai lang thu hoạch của Quảng Ninh chỉ bằng ½ so với sản lượng của Thái Bình. Điều đó cho thấy, năng suất trồng khoai lang ở Thái Bình cao nhất trong toàn vùng. Trong vùng, cây khoai lang thường được trồng
94
2 vụ, vụ đông và vụ xuân. Vụ đông trồng vào khoảng giữa tháng 9 đến đầu tháng 10, thu hoạch trong tháng 12; vụ xuân trồng từ đầu tháng 3, thu hoạch trong tháng 5 và tháng 6, sau 100 ngày, có thể thu hoạch. Trong khoảng thời gian 8 năm qua, diện tích trồng khoai lang trong vùng đã bị thu hẹp đáng kể, giảm 4,5 ha diện tích, kéo theo sản lượng toàn vùng cũng sụt giảm mất 1/3, khoảng 40 nghìn tấn/năm. Nhìn chung, so với các vùng khác, kể cả diện tích trồng cũng như sản lượng khoai lang thu hoạch được ở vùng duyên hải Bắc Bộ đều không đáng kể. Tuy vậy, về chất lượng khoai lang trong vùng này được đánh giá tốt, loại khoai củ to, vỏ màu nâu, lòng vàng sẫm, khi luộc chín có mùi thơm đặc biệt, ăn có vị ngon, ngọt, vừa bở vừa bùi.
3.2.1.2. Tình hình chăn nuôi vùng Duyên hải Bắc Bộ
Bên cạnh trồng cây lương thực là hoạt động nông nghiệp quan trọng nhất của vùng Duyên hải Bắc Bộ, chăn nuôi cũng là tiểu ngành khá phát triển và có đóng góp lớn vào GDP toàn vùng. Dưới đây là các bảng số liệu phản ánh tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm của 5 địa phương và tổng hợp toàn vùng. So với các vùng ở trong khu vực phía Nam, chăn nuôi gia súc ở vùng Duyên hải Bắc Bộ phát triển mạnh hơn khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, tuy vậy thấp hơn so với khu vực Trung du và miền núi phía Bắc cũng như Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung.
Bảng 3.4: Tình hình chăn nuôi trâu, bò Vùng duyên hải Bắc Bộ
2008
2010
2012
2014
2015
2016
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
64,1
27,4
63,8 24,9 53,4 19,2 46,5 17,5 45,5 17,6
18,1
43, 9
Quảng Ninh
9,0
16,5
8,9
17,1
8,0
15,9
7,6
14,0
7,0
13,7 6,8
13,7
Hải Phòng
5,6
64,2
6,6
64,4
4,3
49,9
4,4
44,1
4,4
41,6 4,3
40,0
Thái Bình
6,8
41,4
5,5
37,4
6,5
35,6
6,3
34,5
6,2
33,3 6,1
30,6
Nam Định
15,8
50,0
14,8 34,6 14,7 30,8 14,5 28,6 14,4 28,6
29,4
14, 3
Ninh Bình
101,3 199,5 99,6
86,9
79,3
77,5
131,8
178, 4
138, 7
134, 8
151, 4
75, 4
Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục thống kê
95
Chú thích: (1) Số lượng trâu (ĐVT: Nghìn con)
(2) Số lượng bò (ĐVT: Nghìn con)
Hiện nay, trâu bò chủ yếu được nuôi để lấy thịt, nuôi trâu bò để tận dụng sức kéo đã không còn được đề cao do thực tế cơ khí hóa nông nghiệp diễn ra nhanh chóng. Tính trong toàn vùng, Quảng Ninh là tỉnh có số lượng trâu lớn hơn cả, chiếm gần 60% số lượng trâu của cả vùng (43,9 ngàn con so với 75 ngàn con năm 2016). Đối với chăn nuôi bò, Thái Bình lại chiếm ưu thế với đàn bò 40 ngàn con năm 2015, bằng khoảng 1/3 số lượng bò của cả vùng. Tuy nhiên, xét trong khoảng thời gian từ 2008-2016, số lượng đàn trâu và đàn bò của vùng đã có sự giảm sút rõ rệt, từ 101 ngàn con trâu xuống còn 75 ngàn con trâu; từ 199 ngàn con bò xuống còn 131 ngàn con. Trung bình mức giảm của đàn trâu là khoảng xấp xỉ 5 ngàn con mỗi năm và của bò là khoảng 9 ngàn con mỗi năm. Đây là tình trạng chung của cả các vùng chứ không riêng vùng Duyên hải Bắc bộ. Có một số nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong chăn nuôi trâu bò, đó là: (1) Nhu cầu về thịt trâu bò thấp, chỉ chiếm từ 5 - 9 % tổng nhu cầu tiêu thụ thực phẩm của vùng; (2) Quá trình đô thị hóa đã thu hẹp diện tích các đồng cỏ, các bãi chăn thả tự nhiên; (3) Diễn biến dịch bệnh cũng như thời tiết phức tạp làm ảnh hưởng đến việc chăn nuôi của bà con trong vùng.
Bảng 3.5: Tình hình chăn nuôi lợn Vùng duyên hải Bắc Bộ
Đơn vị tính: Nghìn con
2008 2010 2012 2014 2015 2016
Quảng Ninh 362,4 354,5 330,5 332,0 340,7 356,9
Hải Phòng 531,9 526,0 526,9 515,1 487,3 484,7
Thái Bình 1023,1 1131,2 1099,1 1061,5 1030,0 1041,3
Nam Định 798,0 742,7 743,5 734,4 773,5 802,3
Ninh Bình 372,3 399,3 385,8 352,1 362,1 360,0
3087,7 3153,7 3085,8 2995,1 2993,6 3045,2 Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê 2012, 2013, 2014, 2015, 2016; Tổng cục thống kê
96
Chăn nuôi lợn trong vùng phát triển mạnh nhất là tập trung ở Thái Bình và Nam Định với tổng đàn lợn lớn nhất, xấp xỉ 1 triệu con/năm ở mỗi tỉnh. Về căn bản, chăn nuôi lợn của vùng Duyên hải Bắc Bộ phát triển tương đối ổn định với quy mô số lượng đầu con gần như không thay đổi trong giai đoạn 2008-2016, tuy vậy sản lượng thịt hơi xuất chuồng đều tăng qua các năm với tốc độ tăng cường bình quân là 2,12%/ năm. Trong cả nước, vùng Đồng bằng Sông Hồng dẫn đầu cả nước về chăn nuôi lợn lấy thịt, chiếm tỷ trọng 25,91% đàn lợn của cả nước (năm 2016), trong đó, riêng đàn lợn của vùng Duyên hải Bắc bộ chiếm tới 43,12% của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Hình 3.3: Phân bổ đàn lợn theo vùng trong cả nước (ĐVT: Ngàn con)
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục thống kê.
Về chất lượng thịt lợn của vùng đã không ngừng tăng lên đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong nước. Hiện nay, năng suất và công nghệ chăn nuôi lợn trang trại ở trong vùng đã ngang bằng với các nước trong khu vực; hiệu quả chăn nuôi lợn luôn ổn định, mang lại thu nhập ổn định cho người chăn nuôi và giải quyết việc làm tại chỗ cho khu vực nông thôn; ứng dụng khoa học trong chăn nuôi lợn về chuồng trại, xử lý chất thải chăn nuôi, đảm bảo vệ sinh môi trường ngày càng được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn ở vùng vẫn còn những hạn chế cơ bản là: tỷ trọng từ hình thức chăn
97
nuôi nông hộ vẫn chiếm 65-70% về đầu con và 56-60% về sản lượng; tỷ lệ đàn nái trên tổng đàn chiếm 14,9% (năm 2015) trong khi trung của thế giới là 8-10%; chất lượng đan giống tuy đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu cảu sản xuất (nhất là khu vực chăn nuôi nông hộ); nhiều giống lợn địa phương chưa được chú ý lưu giữ và bảo tồn; tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi lợn chưa được khắc phục.
Bảng 3.6: Tình hình chăn nuôi gia cầm Vùng duyên hải Bắc Bộ
Đơn vị tính: Nghìn con
2008 2010 2012 2014 2015 2016
2113 2363 2419 2525 2578 2741 Quảng Ninh
Hải Phòng 5532 6028 6607 7083 7390 7579
Thái Bình 7962 8899 8711 9344 10159 10469
Nam Định 5533 6394 6560 6893 7103 7279
Ninh Bình 3394 3620 3650 3765 3805 3966
24534 27304 27947 29610 31035 32034 Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm, Tổng cục thống kê
Trong tiểu ngành chăn nuôi vùng Duyên hải Bắc bộ, chăn nuôi gia cầm (chủ yếu là gà) là phát triển mạnh mẽ nhất, có sự tăng trưởng khá tốt trong thời gian từ 2008-2016. Số lượng gia cầm hàng năm đã không ngừng tăng lên với mức tăng trung bình là khoảng 10%/năm. Tính cho cả giai đoạn, đàn gia cầm trong vùng Duyên hải Bắc Bộ đã tăng 7,5 ngàn con. So sánh giữa các địa phương trong vùng, Thái Bình vẫn là tỉnh có đàn gia cầm đông nhất, năm 2015 lần đầu tiên vượt 10 triệu con/năm. Tiếp theo là đến Hải Phòng và Ninh Bình với số lượng khoảng hơn 5 triệu ngàn con/năm. Cũng tương tự như chăn nuôi lợn, vùng Đồng bằng Sông Hồng với trọng tâm là các tỉnh trong vùng duyên hải Bắc bộ cũng dẫn đầu cả nước về chăn nuôi gia cầm (chiếm khoảng xấp xỉ 30% đàn gia cầm của cả nước). Trong những năm gần đây, chăn nuôi gia cầm được quan tâm và đầu tư khá đồng bộ cả về giống, kỹ thuật và chuyển đổi phương thức chăn nuôi, nên sản lượng thịt và trứng gia cầm luôn năm sau cao hơn năm trước với tỷ lệ tăng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những
98
thành tựu đạt được, ngành chăn nuôi gia cầm ở vùng Duyên hải Bắc Bộ cũng như ở Việt Nam nói chung còn bộc lộ một số tồn tại. Mặc dù năng suất được cải thiện, nhưng so với các nước trong khu vực và thế giới thì năng suất chăn nuôi vẫn còn thấp; giá thành sản phẩm vẫn còn cao, khả năng cạnh tranh thấp, làm cho chăn nuôi nhiều khi không có lãi. Tình hình dịch bệnh trong chăn nuôi gia cầm còn xảy ra rất phức tạp, chưa kiểm soát được hoàn toàn dịch bệnh, nên chi phí cho thuốc thú y còn cao, làm cho hiệu quả chăn nuôi chưa cao.
3.2.1.3. Tình hình khai thác và nuôi trồng thủy sản vùng Duyên hải Bắc Bộ
Vùng duyên hải Bắc Bộ gồm 5 tỉnh, thành phố nằm dọc bờ biển của vịnh Bắc Bộ, hơn nữa vùng này lại được bao bọc bởi hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng, do vậy, Duyên hải Bắc Bộ là vùng có tiềm năng lớn về sản xuất thủy hải sản.
bảng 3.7: Tổng hợp tình hình sản xuất thủy sản Vùng duyên hải Bắc Bộ
2008
2010
2012
2014
2015
2016
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
19,0 72407 19,1 82154 22,8 85735 19,1 87898
18,5 94157 19,1 94578
Quảng Ninh
13,9 81879 13,5 85379 13,5 97716 12,3 100772 12,6 106913 12,0 114814
Hải Phòng
13,0 88899 13,4 113204 17,5 116345 14,4 168533 15,0 166292 14,7 183238
Thái Bình
15,3 76195 15,6 88827 16,2 94211 15,9 100505 15,8 110598 16,0 121552
Nam Định
9,5
21658
9,4
21133 10,7 35679 10,3 38393
10,8 39767 11,0 41705
Ninh Bình
70,7 341038
71
390697 80,7 429686
72
496101 72,7 517727 72,8 555887
Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm, Tổng cục thống kê
Chú thích: (1) Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản (ĐVT: Nghìn ha)
(2) Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản (ĐVT: Tấn)
Vùng duyên hải Bắc Bộ nằm trong tổng thể vùng Đồng bằng sông Hồng là vùng có diện tích nuôi trồng thủy sản lớn thứ hai trong cả nước, sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng thủy sản khai thác và đánh bắt
99
trong vùng tăng liên tục qua các năm từ 341 ngàn tấn năm 2008 tăng lên 555 ngàn tấn năm 2016, với tốc độ tăng trưởng khá ngoạn mục trong cả giai đoạn là 160% trong khi diện tích nuôi trồng gần như không gia tăng. So với cả nước, Duyên hải Bắc Bộ đứng thứ 2 về sản lượng thủy sản chỉ sau vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chiếm 22,68% tổng sản lượng của cả nước.
Hình 3.4: Tỷ trọng nuôi trồng và khai thác thủy sản giữa các vùng
trong cả nước
Đơn vị tính: Nghìn tấn
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục Thống kê.
Thái Bình vẫn là tỉnh dẫn đầu trong toàn vùng về sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản với hơn 183 ngàn tấn năm 2016. Nam Định và Hải Phòng đứng ở vị trí thứ 2 về sản lượng và thấp nhất là Ninh Bình chỉ 41 ngàn tấn/năm (7,5 % sản lượng toàn vùng). Sở dĩ như vậy bởi vì trong toàn vùng, Ninh Bình là tỉnh có đường bờ biển ngắn nhất, chỉ có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh và Kim Sơn.
100
Bảng 3.8: Sản lượng thủy sản khai thác và nuôi trồng VDHBB
Đơn vị tính: Tấn
2008
2010
2012
2014
2015
2016
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
(1)
(2)
47199
25208
53429
28725
56790
28945
54756
33142
55892
38266
48772
45806
Quảng Ninh
39692
42187
45204
40175
47853
49863
49932
50840
55211
51703
67845
46969
Hải Phòng
36327
52572
44798
68406
49602
66743
54169
114364
58683
107609
64740
118498
Thái Bình
36513
39682
39890
48937
40174
54037
41216
59289
44208
66390
44579
76973
Nam Định
4636
17022
4883
16300
4410
31270
5673
32720
5855
33912
6159
35547
Ninh Bình
164367 176671 188204 202543 198829 230858 205746 290355 219849 297880 232095 323793
Vùng DHBB
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm, Tổng cục thống kê
Chú thích: (1) Sản lượng thủy sản khai thác
(2) Sản lượng thủy sản nuôi trồng
Nhìn chung, trong toàn vùng, sản lượng thủy sản nuôi trồng cao hơn khai thác với khoảng cách ngày càng gia tăng. Năm 2016, sản lượng thủy sản nuôi trồng của vùng vượt gần 100 ngàn tấn so với sản lượng khai thác. Đây là xu hướng phát triển không chỉ của vùng Duyên hải Bắc bộ mà của cả trong nước và thế giới. Lý do chủ yếu bởi vì nguồn lợi thủy sản tự nhiên đang ngày càng giảm đi nhiều, thậm chí cạn kiệt trước sự khai thác, đánh bắt quá mức của con người. Điều này đặt ra nhu cầu cần phải nuôi trồng thủy sản để đáp ứng kịp thời nhu cầu thực phẩm của con người.
3.2.2. Năng suất trong nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc bộ
101
Bảng 3.9: So sánh năng suất lúa và ngô vùng Duyên hải Bắc Bộ với các vùng khác và so với cả nước
Đơn vị tính: Tạ/ha
Lúa
Ngô
2008
2012
2016
2008
2012
2016
Quảng Ninh
44,8
49,7
49,0
35,0
37,5
39,0
Hải Phòng
57,3
61,9
62,9
50,5
50,0
52,7
Thái Bình
65,7
65,1
65,6
52,7
54,4
55,3
Nam Định
59,3
59,4
60,5
42,5
42,3
44,5
Ninh Bình
58,2
60,4
60,2
34,9
30,8
31,6
59,3
Vùng DHBB
57,06
59,64
43,12
43
44,62
Vùng ĐBSH
58,9
60,4
60,6
43,6
46,7
48,0
Vùng ĐBSCL
53,6
58,1
59,5
56,4
54,0
59,1
Cả nước
52,3
56,4
57,7
40,1
43,0
44,8
Nguồn: Niên giám thống kê các năm, Tổng cục Thống kê
Nếu xét về trồng lúa, năng suất lúa ở vùng Đồng bằng Sông Hồng trong đó có 4 tỉnh thành của vùng Duyên hải Bắc bộ (trừ Quảng Ninh) là cao nhất trong cả nước với trung bình 5,8 tấn/ha/vụ. Với con số này, năng suất lúa của Việt Nam thuộc vào loại cao nhất vùng Đông Nam Á. Điều này thể hiện trình độ sản xuất, thâm canh câu lúa của bà con nông dân trong vùng vào loại cao cũng như chính sách của các địa phương trong vùng thúc đẩy sản xuất lúa gạo.Đối với trồng ngô, năng suất thu hoạch của vùng chỉ ngang bằng với mức bình quân của cả nước 4,4 tấn/ha, thấp hơn vùng Đồng bằng Sông Hồng và đặc biệt là Đồng bằng Sông Cửu Long.
Về năng suất lao động trong nông nghiệp
Năng suất lao động được hiểu là giá trị tăng thêm do một lao động tạo ra trong một năm Năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của vùng Duyên hải Bắc Bộ cũng nói riêng và ở Việt Nam nói chung luôn ở mức thấp và đang có xu hướng chững lại. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bảng 3.10 dưới đây.
102
Bảng 3.10: Năng suất lao động xã hội trong ngành nông nghiệp so với toàn nền kinh tế
Đơn vị tính: Triệu đồng/người
2010 2012 2014 2015 2016
N-L-TS 16,3 25,6 26,4 28,6 30,6
Nền kinh tế 44,0 63,1 68,7 74,4 79,4
Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục thống kê.
Số liệu bảng 3.10 cho thấy, năng suất lao động nông nghiệp năm 2010 chỉ bằng 1/3 năng suất lao động của cả nước và khoảng cách giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp đang ngày càng rộng ra (Hình 3.5).
Hình 3.5: Giá trị gia tăng/lao động theo ngành kinh tế ở Việt Nam (USD/người/năm, giá năm 2000)
2000
1000 500
2000 2005 2010 2015
Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2016, Ngân hàng Thế giới
Năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam thấp nhất so với năng suất của lao động chung của toàn nền kinh tế và thấp nhất trong số lao động lao động làm việc trong các ngành của nền kinh tế. Không chỉ duy trì ở mức thấp mà tốc độ tăng của năng suất lao động nông nghiệp cũng rất thấp làm cho lao động nông nghiệp bị tụt lại phía sau.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới năng suất lao động nông nghiệp của Vùng Duyên hải Bắc Bộ nói riêng và của cả nước nói chung thấp hơn so với năng suất lao động trong các ngành kinh tế khác và thấp hơn so với năng suất lao động nông nghiệp của các nước trong khu vực. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là lực lượng lao động trong nông nghiệp còn đông (chiếm 47% tổng lao động của toàn xã hội). Thống kê cho thấy, những nước có tỷ trọng
103
nông nghiệp cao thường có năng suất lao động thấp bởi vì năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp thường thấp hơn năng suất lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh đó, chất lượng lao động nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Theo Báo cáo Điều tra lao động việc làm năm 2015 thì tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo năm 2015 ở khu vực nông thôn chỉ đạt 11,2% so với 33,7% ở khu vực độ thị. Hầu hết lao động nông thôn không có trình độ chuyên môn kỹ thuật (chiếm 88,5%) so với 66,1% ở khu vực đô thị.
Hình 3.6: NSLĐ ngành nông nghiệp của Việt Nam so với một số
nước Châu Á (giả định NSLĐ ngành của Việt Nam = 1)
Nguồn: Báo cáo năng suất Việt Nam 2015, Viện Năng suất Việt Nam
Nhìn vào hình 3.6, có thể thấy, trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất lao động của Malaixia cao gấp 12,9 lần của Việt Nam hoặc như Hàn Quốc, năng suất lao động của ngành này cao gấp 6,7 lần của Việt Nam. Năng suất lao động của ngành nông nghiệp của Thái lan, In-đô-nê-xia, Phillippines đều cao hơn Việt Nam từ 1,7 đến 2 lần.
3.2.3. Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc Bộ
KH-KT là chìa khóa để tăng năng suất, chất lượng và giá trị nông sản trong kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, việc ứng dụng KH-KT vào sản xuất nông nghiệp cũng là một nội dung thể hiện định hướng CNH, HĐH nông
104
nghiệp. Trong thời gian qua, nét nổi bật của sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung và ở VDHBB nói riêng là hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến, làm cho các sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế ngày càng cao, không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn mở rộng xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Phần lớn các địa phương trong VDHBB đã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Không chỉ công nghệ sinh học mà cơ giới hóa cũng được áp dụng rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ sử dụng máy móc vào các công việc như làm đất, tưới tiêu, tuốt lúa ngày càng tăng; công nghệ sau thu hoạch, công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp cũng được phát triển mạnh. Nhiều đơn vị chế biến nông sản phẩm đã sử dụng công nghệ và trang thiết bị hiện đại trong sản xuất; đồng thời, liên kết với nông dân thực hiện sản xuất "trọn gói", theo quy trình từ nuôi trồng đến chế biến và xuất khẩu. Do đó, đã góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH ngành nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, tạo thêm nhiều việc làm và cải thiện đời sống của người lao động ở nông thôn.
Ở Thái Bình:
Trong VDHBB, Thái Bình là một trong những tỉnh có tiềm năng phát triển vùng chuyên canh nông sản lớn khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Thời gian qua, nhiều mô hình ứng dụng tiến bộ KHCN phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã được xây dựng và nhân rộng ở Thái Bình như: Mô hình sản xuất khép kín từ giống đến gạo thương phẩm giống lúa ĐS1 chất lượng cao; mô hình sản xuất nấm mỡ chịu nhiệt, nấm rơm chính vụ và trái vụ; mô hình nhân giống cây hòe, chiết tách rutin đạt chất lượng cao phục vụ nhu cầu sản xuất thuốc trong nước và xuất khẩu… Bà con nông dân trong vùng đã mạnh dạn đưa các giống lúa mới năng suất, chất lượng cao, kháng sâu bệnh vào sản xuất. Nổi bật là các giống: Bắc thơm số 7; Nếp DT 22; NB-01... có năng suất lúa cả năm lên tới 1,2 tấn/ha. Việc nghiên cứu cải tiến, khảo nghiệm giống lúa, ngô, cây con mới cho năng suất cao và chống chịu sâu bệnh cũng được chú trọng.
Ở Nam Định:
Từ năm 2008 đến nay, nhiều kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào thực tế sản xuất ở cả 3 lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Chẳng
105
hạn như, xây dựng mô hình ứng dụng đồng bộ một số tiến bộ KHCN để nâng cao khả năng chống chịu sâu, bệnh của cây lúa nhằm tăng năng suất và chất lượng, ngăn chặn nguy cơ thiệt hại do sâu bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại huyện Vụ Bản; nghiên cứu tuyển chọn một số giống lúa thơm, lúa đặc sản có giá trị kinh tế cao; nghiên cứu tuyển chọn một số giống thủy sản chất lượng cao, thích nghi với điều kiện thời tiết khắc nghiệt... Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, các cơ sở sản xuất giống thủy sản đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống nhân tạo nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, gồm: ngao, tôm chân trắng, cua biển, cá trình, tu hài, hàu, cá lăng, cá song, cá vược, cá song chấm nâu. Trong đó năng lực sản xuất giống ngao, hàu và tôm chân trắng đã đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và các tỉnh trong khu vực. Cùng với sản xuất giống, việc cải tiến quy trình kỹ thuật các loại con nuôi cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh cũng được nghiên cứu hoàn thiện và hợp lý hóa, tạo được hiệu quả kinh tế cao. Nhiều đề tài nghiên cứu được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất như “Cải tiến quy trình nuôi tôm thâm canh bền vững bằng phương pháp chuyển giai đoạn”; “Cải tiến kỹ thuật nuôi cá bống bớp qua đông tại Nam Định”; “Nuôi cá trắm đen sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế thức ăn tươi sống"...
Đặc biệt, những năm gần đây việc ứng dụng công nghệ sinh học vi sinh đã giúp làm chủ công nghệ sản xuất giống khoai tây sạch bệnh, nhân giống hoa lan thương phẩm bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật và ứng dụng các chế phẩm sinh học trong sản xuất rau quả an toàn và bảo vệ môi trường. Hiện nay, Nam Định cũng đang tập trung nghiên cứu và áp dụng các thành tựu tiến bộ KHCN để phát triển nghề trồng hoa, trồng rau theo hướng áp dụng công nghệ cao về giống và kỹ thuật canh tác nhằm tăng năng suất, chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao giá trị sản phẩm. Nông dân các địa phương trong tỉnh đã dần tiếp cận các tiến bộ KHKT, áp dụng trong sản xuất, nuôi trồng và hình thành các vùng chuyên canh có tỷ trọng hàng hóa lớn, sản xuất nông nghiệp của tỉnh phát triển ổn định và có sự tăng trưởng khá; cơ cấu sản xuất chuyển dịch tích cực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi.
106
Ở Hải Phòng:
Trong những năm qua, Thành phố đã triển khai thực nghiệm thành công 20 tổ hợp lúa lai, tuyển chọn được trên 20 giống mới để đưa vào sản xuất; cơ bản thay thế giống lúa cũ bằng các giống lúa có năng suất, chất lượng tốt. Thay thế giống chất lượng cao vào sản xuất, 100% diện tích trồng khoai tây, 100% diện tích trồng ngô, 70% diện tích trồng cà chua, 35% diện tích trồng hoa, cây cảnh, rau đậu. Chuyển giao công nghệ sử dụng thuốc kích thích sinh trưởng, dùng ánh sáng đèn điện, trồng hoa trong nhà lưới, sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu. Đổi mới công thức luân canh, thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất... Góp phần đảm bảo an ninh lương thực, cung cấp rau đậu phục vụ dân sinh. Giá trị thu nhập trung bình đạt 75 triệu đồng/ha canh tác, nhiều diện tích đạt trên 100 triệu đồng/ha. Nghiên cứu, đưa vào sản xuất một số tổ hợp lợn lai (3/4, 7/8) máu ngoại, có tỷ lệ nạc cao, phù hợp với điều kiện chăn nuôi ở Hải Phòng; áp dụng công nghệ truyền tinh nhân tạo cho đàn bò bằng tinh đông viên và tinh cộng rạ, bảo quản bằng nitơ lỏng; khảo nghiệm lựa chọn được các giống gia cầm siêu trứng, siêu thịt... Xây dựng được phác đồ điều trị bệnh hợp lý, đề xuất biện pháp phát hiện nhanh các ổ dịch. Các doanh nghiệp ở điạ phương đã sản xuất thành công nhiều loại giống thuỷ sản có giá trị kinh tế cao như: tôm Sú, tôm Rảo, cá Song, cá Giò cá Vược, cua biển, Tu hài, Hầu Vẹm xanh Điệp". Triển khai xây dựng nhiều cơ sở sản xuất giống đáp ứng yêu cầu nuôi trồng thuỷ sản của thành phố và cung cấp một số lượng lớn giống thủy sản cho các tỉnh bạn. Hải Phòng đang là một trung tâm về sản xuất giông thủy sản của các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc.
Các mô hình khuyến nông khuyến ngư được triển khai phù hợp với thực tiễn sản xuất của từng địa phương, xứ đồng; dựa trên lợi thế từng tiểu vùng sinh thái, trình độ sản xuất, sản phẩm đặc trưng mỗi địa phương; phù hợp với mùa vụ và thị trường tiêu thụ sản phẩm… Nhiều mô hình trọng điểm được nghiệm thu đánh giá đạt kết quả tốt, thu nhập tăng từ 20-25% so với sản xuất đại trà, có những tác động lớn đối với sản xuất. Mô hình cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa (diện tích 30ha/1 mô hình); năng suất cao hơn từ 8-15,22% so với sản xuất đại trà; chi phí giảm từ 2,5-5% (giảm giống, thuốc bảo vệ thực vật, công lao động…); tổng thu cao hơn 21,29-26,68%; lãi thuần tăng từ 8,8-11 triệu đồng/ha. Chương trình cơ giới hoá đồng bộ giúp đẩy nhanh tiến độ sản
107
xuất; tiết kiệm 8-10% chi phí công sản xuất, 15-20% chi phí giống; rút ngắn thời gian và giảm thất thoát sau thu hoạch 15-20%, cho hiệu quả cao hơn 15- 20% so với đại trà.
Ở Quảng Ninh:
Trong thời gian qua, ngành nông nghiệp của Quảng Ninh có những bước phát triển nhất định, kết quả trực tiếp chính là năng suất, hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp của bà con được tăng lên. Để đạt được kết quả này, yếu tố chuyển giao công nghệ, KHKT tiến bộ là một trong những điều kiện quan trọng giúp nông dân sản xuất nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay, phương thức chuyển giao KHKT trong tỉnh được triển khai dưới nhiều hình thức như: Nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả tại các địa phương; mở các lớp tập huấn; xây dựng mô hình trình diễn để phổ biến cho người dân học hỏi, làm theo. Không chỉ nhân rộng những mô hình hiệu quả, việc ứng dụng KHKT còn được triển khai đồng bộ trong các khâu sản xuất như: chọn giống; dinh dưỡng; kỹ thuật canh tác; bảo vệ cây trồng, vật nuôi… đã giúp bà con nông dân thay đổi tập quán sản xuất cũ, giảm lượng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật, chăn nuôi an toàn, sản xuất theo hướng bền vững, ổn định và khoa học, qua đó năng suất cây trồng, vật nuôi tăng bình quân từ 20-40%. Bên cạnh đó tại mỗi địa phương trong tỉnh các dự án ứng dụng KHKT, cũng được triển khai phù hợp với đặc điểm, điều kiện sản xuất của từng địa phương như: Xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm ghẹ xanh tại TP Móng Cái; sản xuất và sử dụng phân viên nén hữu cơ, khoáng hữu cơ ở quy mô cộng đồng thôn, xã phục vụ sản xuất nông nghiệp tại TX Quảng Yên; sản xuất rau an toàn tại Cẩm Phả…
Trong vụ sản xuất vừa qua, huyện Tiên Yên đã triển khai nhiều mô hình đưa giống mới như: Nấm linh chi; các giống ngô MX6, SSC586, SSC131; giống lúa thuần BC15… vào sản xuất, qua đó nhiều mô hình đã thành công và mang lại hiệu quả cao, như dự án trồng thử nghiệm giống ngô nếp lai MX6 trên địa bàn xã Đông Ngũ. Giống ngô nếp lai MX6 được Sở KH&CN phối hợp với Phòng NN&PTNT huyện Tiên Yên hỗ trợ giống cho 60 hộ dân đưa vào trồng trên diện tích 10ha, sau khi trồng từ 65 đến 70 ngày, cây ngô không kén đất nên sức sống rất tốt, tỷ lệ bắp loại 1 đạt trên 95%, năng suất đạt trên 12 tấn/1ha.
108
Nhiều vùng sản xuất ứng dụng khoa học công nghệ cao được hình thành như: Vùng hoa chất lượng cao Hoành Bồ; vùng rau an toàn Quảng Yên; vùng trồng và chế biến nghệ dược liệu tại Đông Triều trên đất trồng vải giá trị thấp; sản xuất giống và nuôi thương phẩm gà Tiên Yên; trồng và chế biến dong riềng tại Bình Liêu; sản xuất giống và nuôi thương phẩm cua biển Quảng Yên; ứng dụng công nghệ sản xuất, chế biến cây dược liệu; sản xuất giống nhuyễn thể chất lượng cao...
3.2.4. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc Bộ
Xét về mặt giá trị, sản xuất nông nghiệp VDHBB có sự gia tăng mạnh mẽ trong khoảng thời gian 2008-2015, từ 5354 tỷ đồng lên đến 18196 tỷ đồng, tương đương tăng gấp 3,3 lần trong vòng 8 năm. Sự gia tăng về giá trị tuyệt đối được duy trì ở tất cả các tiểu ngành kể cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản. Tuy nhiên, về mặt tỷ trọng, có sự thay đổi về vai trò đóng góp của từng tiểu ngành vào GDP ngành nông nghiệp của vùng. Cụ thể là giảm tỷ trọng của trồng trọt từ 39,05% năm 2008 xuống còn 32,28% năm 2016, mặc dù giảm xuống song tỷ trọng này vẫn tương đối cao. Trong khi đó, tỷ trọng của ngành chăn nuôi tăng từ 21,65% lên 30,39%; đồng thời tỷ trọng của ngành thủy sản cũng giảm từ 37,3% xuống còn 33,65%. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ trong nông nghiệp có sự tăng trưởng vượt bậc về giá trị và khiến cho tỷ trọng đóng góp trong GDP ngành cũng gia tăng từ 1,35% lên 3.39%. Tỷ trọng của lâm nghiệp ngày càng giảm, hầu như đóng góp không đáng kể vào GDP của ngành.
Bảng 3.11: Giá trị và tỷ trọng sản xuất nông nghiệp Vùng Duyên
hải Bắc bộ
2008
2012
2016
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
Giá trị (Tỷ đồng)
Giá trị (Tỷ đồng)
Giá trị (Tỷ đồng)
2091,3
39,07
4891,2
40,69
5875
32,28
Trồng trọt
1159,5
21,65
3919,0
32,6
5531,4
30,39
Chăn nuôi
72,3
1,35
220,9
1,81
617,6
3,39
Dịch vụ NN
33,6
0,63
49,1
0,4
49,1
0,27
Lâm nghiệp
1998
37.3
2938.3
24.45
6123.6
33.65
Thủy sản
100
Tổng
5354,7
12018,5
100
18196,7
100
Nguồn: Niên giám thống kê các tỉnh, thành phố vùng Duyên hải Bắc Bộ qua các năm.
109
Hình 3.7: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp VDHBB
2008
2016
32.28%
33.65%
37.31%
39.05%
21.65%
30.39%
Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác ngành NN&PTNT các tỉnh, thành phố vùng Duyên hải Bắc Bộ qua các năm.
Kết quả trên cho thấy, ngành nông nghiệp trong VDHBB vẫn nặng về nông nghiệp thuần, tập trung vào trồng trọt, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện khí hậu, thời tiết và sâu bệnh, sản xuất bấp bênh với giá trị thấp mà chưa khai thác được các lợi thế tự nhiên về mặt nước sông hồ, biển để phát triển mạnh chuyên ngành thủy sản, đưa chuyên ngành này trở thành sản xuất chính của nông nghiệp để tạo ra cơ cấu toàn ngành nông nghiệp của vùng một cách hợp lý. Cơ cấu dịch vụ nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp phản ánh tính chất sản xuất truyền thống, thủ công, chưa phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ cần thiết như: giống mới, khoa học kỹ thuật, khuyến nông, bảo vệ cây trồng… để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi và giá trị gia tăng của sản phẩm làm ra. Thực tế cho thấy, nông nghiệp của vùng vẫn nặng về sản xuất lúa gạo và một số cây ăn quả khác, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, mức độ áp dụng KHKT và các phương pháp sản xuất tiên tiến còn ít nên chưa khai thác đầy đủ tiềm năng đất đai, nguồn nước, khí hậu và các điều kiện tự nhiên tại các vùng sản xuất.
Tóm lại, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được trong phát triển kinh tế nông nghiệp của VDHBB, tuy vậy, nông nghiệp trong vùng vẫn còn không ít bất cập, vướng mắc. Năng suất, chất lượng một số loại nông sản vẫn còn thấp, cộng với chi phí sản xuất cao, việc đảm bảo vệ sinh ATTP còn nhiều bất cập là những tác nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của nông sản
110
trong vùng thấp. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi diễn ra không đồng đều tại các địa phương. Chăn nuôi vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, xen kẽ khu dân cư, nuôi trồng thủy sản phát triển chưa thật sự bền vững… Các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp thiếu đa dạng, chậm đổi mới. Phần lớn các sản phẩm nông nghiệp trong vùng là sản phẩm thô, chưa qua chế biến, nhất là chế biến sâu, nên giá trị hàng hóa không cao. Chưa có nhiều mô hình liên kết giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ nông sản. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng tốt các yêu cầu của sản xuất hàng hóa và phòng chống thiên tai.
3.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
3.3.1. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Thực tế hiện nay, chưa có bộ máy quản lý kinh tế nông nghiệp cho toàn bộ Vùng Duyên hải Bắc Bộ mà chỉ có bộ máy QLNN về nông nghiệp của từng tỉnh, thành phố trong vùng. Về cơ bản, sản xuất nông nghiệp của toàn vùng chịu sự quản lý từ cấp trung ương (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) và ở cấp địa phương (Sở Nông nghiệp và Phòng Nông nghiệp). Sơ đồ bộ máy QLNN đối với kinh tế nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ được mô tả trong hình 3.8.
Ở cấp địa phương, các Sở NN và PTNT phụ trách toàn bộ hoạt động QLNN về nông nghiệp tại các địa phương trong vùng. Chức năng quản lý cụ thể trong nông nghiệp và thủy sản như sau:(1) Thực hiện phương án sử dụng đất dành cho trồng trọt và chăn nuôi và biện pháp chống thoái hóa đất nông nghiệp trên địa bàn; (2) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định QLNN về: giống cây trồng, giống vật nuôi, phân bón,…; (3) Chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm nông nghiệp; thực hiện cơ cấu giống, thời vụ, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng; (4) Tổ chức công tác bảo vệ thực vật, thú y, phòng, chống và khắc phục hậu quả dịch bệnh động vật, thực vật; hướng dẫn và tổ chức thực hiện kiểm dịch nội địa về động vật, thực vật trên địa bàn tỉnh theo quy định; (5)Tổ chức phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, sâu bệnh, dịch bệnh đối với sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực thủy sản, chính quyền cấp tỉnh còn thực hiện các nhiệm vụ như: Hướng dẫn, kiểm tra việc lập quy hoạch chi tiết các vùng nuôi trồng thuỷ sản….
111
Hình 3.8: Sơ đồ bộ máy QLNN đối với kinh tế nông nghiệp
ở Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Bộ Nông nghiệp và PTNT
Cơ quan chức năng
Cấp trung ương
Đơn vị sự nghiệp - Trung tâm khuyến nông quốc gia …………… …….
- Vụ Kế hoạch - Vụ Tài chính - Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Vụ Quản lý DN - Thanh tra Bộ ………………
Tổng cục và Cục chuyên ngành - Tổng cục lâm nghiệp - Tổng cục thủy sản - Cục trồng trọt - Cục Bảo vệ thực vật - Cục Chăn nuôi - Cục Thú y - Cục Chế biến NLTS - Cục quản lý chất lượng NLTS
Sở Nông nghiệp và PTNT (5 tỉnh thuộc VDHBB)
Trung tâm khuyến ngư, khuyến nông
Cấp tỉnh
Chi cục - Chăn nuôivà thú y - Trồng trọt và bảo vệ thực vật - Thủy sản - Lâm nghiệp - Quản lý chất lượng NLTS
Thanh tra Sở
Cấp huyện
Phòng Nông nghiệp
Trạm khuyến nông
Trạm - Thủy sản - Bảo vệ thực vật - Thú y - Lâm nghiệp
Cấp xã
Cấp xã
Chú thích
- Thú y viên, bảo vệ thực vật - Kiểm lâm
-Khuyến nông viên -Khuyến lâm viên
Sản xuất nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Theo ngành dọc Theo ngành ngang
Nguồn: Tác giả xây dựng và tông hợp
112
Bên cạnh đó, các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn còn có các
chức năng chuyên môn cho ngành nông nghiệp như sau:
- Tổ chức thực hiện công tác khuyến nông, ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản và hoạt động phát triển nông thôn tại địa phương.
- Tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về đăng kiểm, đăng ký, cấp và
thu hồi giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong nông nghiệp.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các dự án và xây dựng mô hình phát triển về nông nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh; chịu trách nhiệm thực hiện các chương trình, dự án được giao.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản
xuất của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi và phát triển nông thôn trong phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật.
Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN đối với kinh tế nông
nghiệp trong Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Là đơn vị trực tiếp QLNN về kinh tế nông nghiệp, nhưng để đạt được mục tiêu của mình, Bộ, Sở NN và PTNT cần phải phối hợp với các cơ quan QLNN khác. Chức năng phối hợp và phân cấp quản lý giữa các ngành được thực hiện như sau:
Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông qua Vụ Kinh tế Nông nghiệp có trách nhiệm phân bổ vốn đầu tư Nhà nước trong nông nghiệp và Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương có vai trò trực tiếp báo cáo về chính sách kinh tế, bao gồm giá lương thực và các chính sách nông nghiệp.
Phối hợp với Bộ Công thương thông qua Cục Xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm phát hành các chứng nhận về xuất nhập khẩu, miễn thuế và hạn ngạch và quản lý hạn ngạch thuế quan. Vụ Thị trường trong nước quản lý việc buôn bán gạo ở thị trường nội địa. Vụ Khoa học và Công nghệ chịu trách
113
nhiệm về an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm thuộc thẩm quyền của Bộ Công thương.
Phối hợp với Bộ Tài chính thông qua Cục Quản lý giá chịu trách nhiệm giám sát và thực hiện các chính sách phù hợp để ổn định giá trong nước cho một số hàng nông sản. Vụ Chính sách thuế chịu trách nhiệm về thuế sử dụng đất và thuế xuất nhập khẩu nông sản phẩm. Tổng cục Dự trữ Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý dự trữ Nhà nước đối với các sản phẩm đặc biệt, bao gồm gạo, hạt giống, thuốc thú y và hóa chất bảo vệ thực vật.
Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ thông qua Cục Sở hữu trí tuệ quản lý việc đăng ký nhãn hiệu, nguồn gốc thương hiệu (như chỉ dẫn địa lý) và việc xây dựng thương hiệu tập thể cho các sản phẩm nông nghiệp.
Phối hợp với Bộ Y tế thông qua Cục An toàn thực phẩm Việt Nam chịu
trách nhiệm về an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm thuộc thẩm quyền.
Hình 3.9: Mô hình phối hợp quản lý giữa Bộ NN&PTNT với một số
bộ quản lý ngành khác
Bộ Kế hoạch và Đâu tư
Phân bổ vốn đầu tư cho nông nghiệp
Bộ Công thương
An toàn vệ sinh thực phẩm
Bộ Y tế
Cấp GCN XX cho nông sản Thủ tục XNK Quản lý thị trường nông sản
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
Đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu
Ổn định giá nông sản Thuế trong n.nghiệp, nông sản
Bộ Tài chính
Bộ Khoa học và công nghệ
Nguồn: NCS tự tổng hợp
114
3.3.2. Thực trạng về hệ thống pháp luật liên quan đến phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Do kinh tế nông nghiệp gồm nhiều chuyên ngành khác nhau, mỗi chuyên ngành lại có chức năng sản xuất khác nhau, do vậy, hệ thống pháp lý liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp rất phong phú và đa dạng. Hiện nay, khung khổ pháp lý cho sản xuất nông nghiệp ở nước ta bao gồm nhiều luật khác nhau. Do đã giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ đề cập đến các luật có liên quan đến lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản.
3.3.2.1. Luật Đất đai
Hoạt động QLNN về kinh tế nông nghiệp nói chung và trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc bộ nói riêng trước tiên bị chi phối bởi Luật Đất đai của Việt Nam. Trước Đổi mới (1986) đất nông nghiệp ở Việt Nam chủ yếu được giao cho các hợp tác xã nông nghiệp quản lý và sử dụng. Tuy nhiên, sau Đổi mới, Bộ chính trị ban hành Nghị quyết 10 (1988) (còn gọi là khoán 10) về giao quyền tự chủ cho hộ nông dân - Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) tháng 11-1988 về giao đất cho hộ nông dân. Sau đó, Nhà nước đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp lý xác định chế độ, chính sách đối với đất nông nghiệp, trong đó nổi bật là Luật Đất đai ban hành năm 1993 và tiếp theo là Luật Đất đai 2003. Hiện nay Luật đất đai được sửa đổi năm 2013 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/7/2014, thay thế Luật Đất đai năm 2003. Luật sửa đổi ra đời đã thể chế hoá đúng và đầy đủ những quan điểm, định hướng của Nghị quyết số 19/NQ-TƯ tại Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2012) về đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, đồng thời khắc phục, giải quyết những tồn tại, hạn chế phát sinh trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003. Một số những quy định mới nổi bật trong Luật Đất đai 2013 có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp bao gồm:
- Luật Đất đai 2013 đã cụ thể hóa các quyền của Nhà nước đối với đất đai như: quyền của đại diện chủ sở hữu; quyền quyết định mục đích sử dụng đất; quy định hạn mức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất; quyền quyết định thu hồi, trưng dụng đất đai; quyền quyết định giá đất; quyết định chính sách tài chính về đất đai…Đồng thời, Luật cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với đất đai như: trách nhiệm cụ thể của Nhà nước về quản lý đất đai;
115
những bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất; trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp.
- Luật cũng quy định cụ thể, rõ ràng từ nguyên tắc đến nội dung và mở rộng dân chủ, công khai trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định về đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong vùng quy hoạch như: Việc lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở cấp quốc gia và cấp tỉnh và cấp huyện được thực hiện thông qua hình thức công khai thông tin về nội dung của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên trang thông tin điện tử theo quy định.
- Luật quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư đảm bảo một cách công khai, minh bạch và quyền lợi của người có đất thu hồi nhằm khắc phục, loại bỏ những trường hợp thu hồi đất làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất đồng thời khắc phục một cách có hiệu quả những trường hợp thu hồi đất mà không đưa vào sử dụng, gây lãng phí, tạo nên các dư luận xấu trong xã hội.
- Luật mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp; mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đáp ứng yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể: Nâng thời hạn giao đất nông nghiệp trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân từ 20 năm lên 50 năm, thống nhất cho các loại đất nông nghiệp (đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp); cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ với diện tích lớn hơn (không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp).
3.3.2.2. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
Bên cạnh Luật đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (1993) và Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (1999) mặc dù được ban hành từ lâu song hiện vẫn đang điều chỉnh lĩnh vực nông nghiệp có sử dụng đất nông nghiệp. Tuy vậy, để khuyến khích phát triển nông nghiệp, Nhà nước từ lâu ban hành các chính sách miễn, giảm hầu hết các loại thuế sử dụng đất nông nghiệp, phần này sẽ được tác giả đề cập trong mục tiếp theo khi nói về thực trạng chính sách kinh tế đối với sản xuất nông nghiệp.
116
3.3.2.3. Luật Thủy sản
Luật Thủy sản năm 2003, sửa đổi bổ sung năm 2017, đã quy định rõ hơn các nguyên tắc về khai thác và nuôi trồng thủy sản nhằm mục tiêu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, đồng thời luật cũng quy định về những hành vi bị cấm trong hoạt động thủy sản, điều kiện và trình tự thủ tục cấp giấy phép khai thác thủy sản; quy định về quyền và nghĩa vụ tổ chức, cá nhân trong khai thác và nuôi trồng thủy sản. Điểm nổi bật của Luật là đưa nội dung chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực thủy sản. Theo đó, Nhà nước đầu tư hệ thống thông tin, giám sát, quan trắc, dự báo, cảnh báo môi trường trong hoạt động thủy sản. Nhà nước có chính sách phát huy sức mạnh của ngư dân trong khai thác nguồn lợi thủy sản và tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và phát triển kinh tế biển. Bên cạnh đó, khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân trên các vùng biển, bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam khi hoạt động thủy sản ở ngoài. Nhà nước đầu tư, nâng cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động thủy sản trên biển, đảm bảo hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát hoạt động thủy sản trên biển. Nhà nước có chính sách chuyển đổi nghề cho ngư dân nhằm giảm cường lực khai thác ven bờ. Nhà nước khuyến khích các hoạt động: Đầu tư nuôi, trồng thủy sản tại vùng nuôi, trồng tập trung; đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, áp dụng hệ thống thực hành tốt, hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trong lĩnh vực thủy sản; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong lĩnh vực thủy sản; tổ chức sản xuất theo chuỗi nâng cao giá trị gia tăng đảm bảo khả năng truy xuất nguồn gốc xuất xứ…
3.3.2.4. Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật
Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2013 lần đầu tiên được ban hành để điều chỉnh các hoạt động trong kiểm dịch thực vật, thay thế cho Pháp lệnh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật. Luật này quy định về hoạt động phòng, chống sinh vật gây hại thực vật; kiểm dịch thực vật; quản lý thuốc bảo vệ thực vật.
Khi vấn đề về biến đổi khí hậu ngày càng đe dọa sản xuất nông nghiệp, khi dịch bệnh ngày càng dễ bùng nổ và khó có thể kiểm soát, công tác kiểm dịch cho cây trồng là một đòi hỏi cấp bách, vừa duy trì sản lượng và giá trị cho ngành trồng trọt, vừa bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe tiêu dùng.
117
Đặc biệt, ở nước ta hiện nay, tình trạng bán và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đảm bảo, không rõ nguồn gốc rất tràn lan, thiếu kiểm soát. Do đó, Luật ra đời với hy vọng công tác quản lý thuốc bảo vệ thực vật sẽ được đưa vào khuôn khổ.
Một số điểm nổi bật quan trọng của Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật
có tác động không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp:
+ Luật đã đưa một số nguyên tắc mới trong hoạt động bảo vệ và kiểm dịch thực vật, đó là nguyên tắc về phòng chống sinh vật gây hại phải theo phương châm phòng là chính, sử dụng đồng bộ các biện pháp phòng chống sinh vật gây hại trong đó ưu tiên các biện pháp sinh học; đề cao trách nhiệm của chủ thực vật trong việc chủ động phòng chống sinh vật gây hại và nguyên tắc hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, từng bước loại bỏ thuốc bảo vệ thực vật độc hại cao cho người và môi trường; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng quy định bảo đảm an toàn cho người, động vật, thực vật và môi trường.
+ Luật cũng đã quy định một số chính sách của Nhà nước để nhằm thực hiện được các nguyên tắc trên như bổ sung các chính sách để đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại để chọn tạo, sử dụng giống cây trồng có sức chống chịu cao đối với sinh vật gây hại, trong sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học ít độc hại và các biện pháp phòng trừ khác thân thiện với môi trường và đảm bảo an toàn thực phẩm; xây dựng các vùng không nhiễm sinh vật gây hại; xây dựng hệ thống thu gom, xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng; khuyến khích sử dụng bao gói thuốc bảo vệ được làm từ vật liệu dễ tái chế để bảo vệ môi trường.
+ Luật bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm, trong đó nhấn mạnh các hành vi nghiêm cấm nhập khẩu và nhân nuôi sinh vật gây hại; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trái quy định; bỏ lại bao bì thuốc, thuốc bảo vệ thực vật thừa sau khi sử dụng không đúng nơi quy định.
+ Luật đã thể hiện rõ quan điểm xã hội hóa trong công tác bảo vệ và kiểm dịch thực vật: (1) Khuyến khích các hoạt động dịch vụ bảo vệ thực vật, hành nghề xử lý kiểm dịch thực vật; hỗ trợ tập huấn kỹ thuật cho ng??i sản xuất, khảo nghiệm thuốc bảo vệ thực vật và quy định các nội dung, điều kiện và quyền nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân hoạt động dịch vụ bảo vệ và kiểm
118
dịch thực vật. (2) Khuyến khích các hoạt động của tổ chức xã hội nghề nghiệp về bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
3.3.2.5 Luật an toàn thực phẩm
Luật An toàn thực phẩm được ban hành năm 2010 thay thế cho Pháp lệnh về Vệ sinh an toàn thực phẩm. Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm; thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm; trách nhiệm QLNN về an toàn thực phẩm. Luật An toàn vệ sinh thực phẩm có nhiều điểm mới như quy định các nguyên tắc quản lý an toàn thực phẩm, trách nhiệm đầu tiên của người sản xuất kinh doanh, quản lý an toàn thực phẩm theo quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý an toàn thực phẩm phải đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành.Bên cạnh đó, Luật cũng quy định rõ các chính sách của Nhà nước về an toàn thực phẩm trong đó phải xây dựng chiến lược bảo đảm an toàn thực phẩm, quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm...
Có thể nói, việc ra đời Luật An toàn thực phẩm là một sự tất yếu khi tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm ở nước ta ngày càng đáng báo động, các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể xảy ra ngày càng nhiều, tình trạng sử dụng tràn lan những hóa chất cấm trong chế biến thực phẩm trở nên phổ biến. Tuy vậy, mặc dù Luật đã được ban hành cách đây 7 năm, song tình hình vệ sinh thực phẩm trong nước vẫn chưa có nhiều cải thiện, thậm chí với số lượng ngày càng tăng lên và thường xuyên hơn. Điều đó cho thấy rằng tính thực thi của Luật An toàn thực phẩm nói riêng và của cả hệ thống luật Việt Nam còn thấp.
3.3.2.6. Luật thú y
Luật thú y 2015, có hiệu lực từ 1/7/2016 được ban hành thay thế Pháp lệnh Thú y năm 2004. Luật quy định về phòng bệnh, chữa bệnh, chống dịch bệnh động vật; kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; kiểm soát giết mổ động vật, sơ chế, chế biến động vật, sản phẩm động vật; kiểm tra vệ sinh thú y; quản lý thuốc thú y; hành nghề thú y.
119
Luật Thú y có một số điểm nổi bật so với Pháp lệnh thú y năm 2004 như sau: Một là, Luật quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân có liên quan trong việc phòng, chống dịch bệnh động vật như: Khai báo, chẩn đoán bệnh, điều tra dịch bệnh; xử lý ổ dịch nhỏ lẻ, công bố dịch, tổ chức chống dịch trong vùng có dịch, vùng bị dịch uy hiếp, vùng đệm. Hai là, Luật phân cấp thẩm quyền công bố dịch cho Chủ tịch UBND cấp huyện, tạo điều kiện để địa phương chủ động phòng, chống dịch bệnh được hiệu quả, thuận tiện và nhanh chóng bảo đảo khống chế được dịch ngay khi mới phát sinh trên địa bàn, giảm thiệt hại cho người chăn nuôi. Ba là, Luật quy định việc giết mổ động vật phải được thực hiện tại cơ sở giết mổ tập trung và phải có sự kiểm soát của cơ quan thú y; trừ trường hợp tại các vùng nông thôn, miền núi, hải, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn mà chưa có cơ sở giết mổ tập trung mới cho phép được thực hiện tại cơ sở giết mổ nhỏ lẻ. Cơ sở giết mổ nhỏ lẻ phải đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y và do UBND cấp xã quản lý. Bốn là, Luật quy định thuốc thú y phải được quản lý và bảo đảm chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật mới được Cục Thú y cấp Giấy chứng nhận lưu hành trên thị trường.
Nhận xét chung về khung khổ pháp luật hiện hành đối với kinh tế
nông nghiệp trên cả nước nói chung và VDHBB nói riêng:
Nhìn chung, về cơ bản khung khổ pháp luật hiện nay đã bao trùm toàn bộ các lĩnh vực chủ yếu trong nông nghiệp: từ các quy định về đất đai, thuế sử dụng đất nông nghiệp, cho đến các luật chuyên ngành như luật thủy sản, luật thú y, luật kiểm dịch thực vật, luật an toàn thực phẩm v.v…Việc thực hiện các luật đã góp phần tạo hành lang pháp lý tương đối thuận lợi cho các hoạt động nông nghiệp, nâng cao nhận thức của nông dân trong việc tuân thủ quy định của pháp luật về nông nghiệp, góp phần khai thác tiềm năng trong hoạt động lĩnh vực nông nghiệp và đưa ngành này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn trong giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với Luật Đất đai 2013 điểm nổi bật quan trọng tác động đến sản xuất nông nghiệp đó là đã nâng thời hạn giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân từ 20 năm lên 50 năm áp dụng thống nhất với mọi loại đất nông nghiệp. Quy định mới này đã khắc phục được tình trạng người nông dân chưa có tâm lý ổn định đầu tư vào đất để nâng cao năng suất sử dụng đất, đồng thời
120
khuyến khích và tạo được động lực để người nông dân gắn bó hơn với đất đai, an tâm trong sản xuất hơn.
Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2013 cũng đã quy định một số chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực này như các chính sách đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại trong chọn tạo, sử dụng giống cây trồng có sức chống chịu cao đối với sinh vật gây hại, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học ít độc hại, thân thiện với môi trường; xây dựng hệ thống thu gom, xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng; đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ và kiểm dịch thực vật …
Đối với Luật an toàn vệ sinh thực phẩm 2010 có nhiều ưu điểm như quy định các nguyên tắc quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, trách nhiệm của người sản xuất kinh doanh, quy định rõ các chính sách của Nhà nước về an toàn thực phẩm trong đó cần phải xây dựng chiến lược bảo đảm an toàn thực phẩm, quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm...
Như vậy, nhìn chung, các luật có liên quan đến sản xuất nông nghiệp đều được sửa đổi và ban hành mới theo hướng điều chỉnh tốt hơn, ngày càng hoàn thiện hơn về nội dung nhằm mở rộng cơ hội và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh trong nông nghiệp, đồng thời công khai và minh bạch hóa các chính sách của Nhà nước khuyến khích phát triển các hoạt động nông nghiệp đặc biệt là chính sách thúc đẩy ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất; bên cạnh đó cũng quy định chặt chẽ hơn về công tác kiểm dịch và an toàn thực phẩm nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, gìn giữ môi trường tự nhiên và phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững.
3.3.3. Thực trạng về quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án về phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ
QLNN về kinh tế nông nghiệp ở VDHBB không những thể hiện ở hệ thống luật pháp liên quan tới kinh tế nông nghiệp của Việt Nam mà còn thể hiện ở công tác kế hoạch hóa, nghĩa là ban hành và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH ở các tỉnh thành trong Vùng. Việc ban hành quy hoạch, kế hoạch liên quan đến phát
121
triển nông nghiệp trong vùng được phân định rõ ở 2 cấp: cấp Trung ương và cấp địa phương phụ thuộc vào cấp ban hành. Kế hoạch do cấp Trung ương ban hành sẽ áp dụng cho cả nước hoặc cho toàn vùng; trong khi kế hoạch do địa phương ban hành sẽ chỉ áp dụng nội bộ trong phạm vi lãnh thổ của địa phương đó.
3.3.3.1. Công tác kế hoạch hóa ở cấp Trung ương
- Quyết định số 865/QĐ-TTg ngày 10/7/2008 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ đến 2025, tầm nhìn 2050. Đây là văn bản quyết định thành lập một vùng kinh tế với 5 tỉnh, thành phố miền Bắc dọc theo vịnh Bắc bộ, khai sinh ra Vùng Duyên hải Bắc Bộ. Mục tiêu của việc thành lập vùng là phát huy mọi tiềm năng lợi thế để phát triển VDHBB thành vùng kinh tế tổng hợp (công nghiệp, du lịch và dịch vụ …) có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH của cả nước, đặc biệt là chiến lược kinh tế biển Việt Nam, đồng thời phát huy vai trò vùng cửa ngõ hướng biển của miền Bắc Việt Nam trên cơ sở xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật diện rộng cấp vùng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh, bảo đảm phát triển bền vững cho toàn Vùng.
Quy hoạch đã đưa ra định hướng về phát triển nông nghiệp của vùng như sau: (1) Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái sạch; (2) Hình thành các vùng sản xuất lúa rau, hoa, cây cảnh, chăn nuôi lợn, bò sữa, gia cầm … có quy mô thích hợp chất lượng cao phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa nhằm nâng cao giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích; (3) Đầu tư củng cố nâng cấp hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi và khuyến nông; (4) Phát triển nuôi trồng thủy, hải sản từ các vùng có lợi thế và điều kiện cho phép đánh bắt xa bờ. Hình thành các trung tâm chế biến thủy, hải sản; (5) Phát triển lâm nghiệp toàn diện với 3 loại rừng: rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Củng cố phát triển hệ thống rừng phòng hộ ven biển.
- Chiến lược Phát triển Nông nghiệp – nông thôn giai đoạn 2011-2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Trong đó, Chiến lược đã đưa ra mục tiêu và định hướng phát triển các chuyên ngành nông nghiệp: (1) Đối với
122
trồng trọt: duy trì tốc độ tăng trưởng của ngành trồng trọt khoảng từ 2,5 - 3%/năm; (2) Đối với chăn nuôi: mức tăng trưởng của ngành chăn nuôi đạt khoảng 6 - 7%; (3) Đối với thủy sản: Tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt khoảng 10,5%/năm trong giai đoạn 2011 - 2015 và 11-12%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Riêng vùng Đồng bằng Sông Hồng trong đó có các tỉnh thuộc vùng Duyên hải Bắc bộ, chiến lược đặt ra phương hướng là đẩy mạnh sản xuất lúa gạo, chăn nuôi lợn và gia cầm, tăng cường nuôi trồng thủy sản.
- Kế hoạch 5 năm 2016-2020 ngành nông nghiệp và phát triển nông
thôn là một bước cụ thể hóa chiến lược phát triển 10 năm.
- Chiến lược phát triển thủy sản đến 2020 với mục tiêu đặt ra cho ngành thủy sản: (1) Ngành thủy sản cơ bản được CNH-HĐH và tiếp tục phát triển toàn diện theo hướng bền vững, thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ cấu và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, có thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập vững chắc vào kinh tế thế giới; (2) Kinh tế thủy sản đóng góp 30 - 35% GDP trong khối nông - lâm - ngư nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 - 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 - 9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5 - 7 triệu tấn, trong đó nuôi trồng chiếm 65 - 70% tổng sản lượng; (3) Tạo việc làm cho 5,0 triệu lao động nghề cá có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 3 lần so với hiện nay; trên 40% tổng số lao động nghề cá qua đào tạo.
- Chiến lược phát triển chăn nuôi đến 2020. Mục tiêu phát triển chiến lược đặt ra bao gồm: a) Đến năm 2020 ngành chăn nuôi cơ bản chuyển sang sản xuất phương thức trang trại, công nghiệp, đáp ứng phần lớn nhu cầu thực phẩm đảm bảo chất lượng cho tiêu dùng và xuất khẩu; b) Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đến năm 2020 đạt trên 42%, trong đó năm 2010 đạt khoảng 32% và năm 2015 đạt 38%; c) Đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm, khống chế có hiệu quả các bệnh nguy hiểm trong chăn nuôi; d) Các cơ sở chăn nuôi, nhất là chăn nuôi theo phương thức trang trại, công nghiệp và cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm phải có hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ và giảm ô nhiễm môi trường.
Ngoài ra, ở cấp trung ương còn có các chương trình, đề án trong lĩnh
vực nông nghiệp như:
123
- Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đề án đưa ra định hướng chung trên ba khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Đề án xác định: (1) Trồng trọt: Tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, miền; Cơ cấu lại hệ thống tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích doanh nghiệp liên kết, ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản với nông dân; phát triển các nhóm nông dân hợp tác tự nguyện, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; Hỗ trợ tập huấn, khuyến nông và các dịch vụ tư vấn nhằm nâng cao kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch cho nông dân v.v... (2) Chăn nuôi: Phát triển chăn nuôi tập trung, trang trại, gia trại; hình thành các vùng chăn nuôi xa thành phố, khu dân cư; khuyến khích áp dụng công nghệ cao, tổ chức sản xuất khép kín hoặc liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất giống, thức ăn, đến chế biến để nâng cao năng suất, cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia tăng; v.v... (3) Thủy sản: Tập trung sản xuất thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực (tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra, rô phi, nhuyễn thể); tiếp tục đa dạng hóa đối tượng và phương pháp nuôi để khai thác cơ hội thị trường; khuyến khích nuôi công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, quy trình thực hành nuôi tốt (GAP) phù hợp quy chuẩn quốc tế; Đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại trong chế biến nâng cao giá trị sản phẩm; cơ cấu lại sản phẩm chế biến đông lạnh theo hướng giảm tỷ trọng các sản phẩm sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm ăn liền, giá trị gia tăng cao; mở rộng áp dụng hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm (theo ISO, HACCP, GMP, SSOP); nghiên cứu và đầu tư ứng dụng công nghệ bảo quản trong và sau thu hoạch để giảm tỉ lệ thất thoát và xuất khẩu thủy sản sống có giá trị cao.
- Đề án phát triển ngành trồng trọt đến 2020, tầm nhìn 2030 với các mục tiêu cụ thể cho phát triển ngành trồng trọt: (1) Cơ cấu ngành trồng trọt đến năm 2020: cây lương thực 50,7%, cây rau đậu 9,7%, cây công nghiệp 24,0%, cây ăn quả 14,4%. (2) Tốc độ tăng trưởng GTSX Trồng trọt bình quân đạt 2,0-2,5%/năm. (3) Sản lượng lương thực có hạt đạt 49,5 triệu tấn, trong đó lúa 42 triệu tấn, ngô 7,5 triệu tấn. (4) Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính đạt 22 tỷ USD. (5) Giá trị sản lượng trên 1 ha đất trồng trọt bình quân 70 triệu đồng.
124
-Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phê duyệt kèm theo Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu của chương trình là thúc đẩy phát triển và ứng dụng có hiệu quả công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng HĐH, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng hàng năm trên 3,5%; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Chương trình đặt ra 3 nhiệm vụ chủ yếu: (1) Tạo và phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp; (2) Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp; (3) Xây dựng và phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
3.3.3.2. Công tác kế hoạch hóa ở cấp địa phương trong vùng Duyên hải Bắc Bộ
Ngoài việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình quốc gia về phát triển nông nghiệp theo hướng CNH – HĐH, các tỉnh thành trong VDHBB còn ban hành và thực thi những quy hoạch, kế hoạch và chương trình phát triển nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH của địa phương mình. Từ năm 2008-2016, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố VDHBB đã chỉ đạo xây dựng khoảng gần 30 quy hoạch về nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức thực hiện. Các quy hoạch hoàn thành là cơ sở quan trọng để ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và các địa phương làm căn cứ xây dựng kế hoạch sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng các vùng sản xuất tập trung, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và phát triển bền vững.
a. Tỉnh Quảng Ninh
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2011-2015) của tỉnh Quảng Ninh.
- Quy hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy lợi tỉnh Quảng Ninh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020”. Bằng Quyết định này, Quảng Ninh đã quy hoạch đất nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp của tỉnh, đồng thời đặt ra các chỉ tiêu phát triển cho từng lĩnh vực đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
125
- Quy hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy lợi tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”. Theo đó, đến năm 2020 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp từ 4,0-5,5%/năm, trong đó trồng trọt tăng 1,5%/năm, chăn nuôi tăng 8,2-8,5%/năm, dịch vụ nông nghiệp tăng 3,0%/năm, lâm nghiệp tăng 8,0%/năm; 85% diện tích gieo trồng được tưới, tiêu nước chủ động, cơ bản hoàn thành kiên cố hoá kênh mương nội đồng. Đến năm 2030 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp từ 5,5- 6,5%/năm, trong đó trồng trọt tăng 2,0%/năm, chăn nuôi tăng 8,5-9,0%/năm, dịch vụ nông nghiệp tăng 5,0%/năm; lâm nghiệp tăng 10%/năm; độ che phủ rừng đạt ổn định 55% và tập trung làm giàu rừng; phấn đấu đạt 100% diện tích gieo trồng được tưới, tiêu chủ động.
- Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu phát triển cụ thể: Tổng sản lượng thủy sản đạt khoảng 135.000 tấn, trong đó sản lượng thủy sản khai thác đạt 65.000 tấn; sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 70.000 tấn. Kinh tế thủy sản phấn đấu chiếm trên 3% GRDP của tỉnh, đóng góp 60-65% GRDP trong khối nông, lâm, ngư nghiệp; giá trị sản xuất thủy sản đạt 6200 tỷ đồng; giá trị xuất khẩu thủy sản đạt trên 100 triệu USD. Hình thành 3 trung tâm nghề cá và 01 trung tâm thương mại nghề cá gắn với hệ thống hạ tầng sản xuất, hậu cần nghề cá đồng bộ, chủ động sản xuất được giống các đối tượng nuôi chủ lực.
- Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến 2030”. Mục tiêu của đề án này là thực hiện Đề án quốc gia về Tái cơ cấu nông nghiệp. Thực hiện tái cơ cấu để phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Quảng Ninh một cách bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm: (1) Nâng cao giá trị, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp của tỉnh; (2) Cải thiện đời sống của nông dân các vùng nông thôn và giảm nghèo bền vững; (3) Bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả với chất lượng sản phẩm cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và hướng tới xuất khẩu.
b. Thành phố Hải Phòng
Trong những năm qua, thành phố Hải Phòng đã xây dựng một số Quy
hoạch, đề án nhằm định hướng hoạt động nông nghiệp của thành phố:
126
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2011-2015) của Thành phố Hải Phòng.
- Quy hoạch vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn
Thành phố Hải phòng đến 2020.
- Quy hoạch phát triển kinh tế thủy sản tỉnh Thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030. Mục tiêu phát triển cụ thể đến năm 2020: (1) Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 80 triệu USD, tốc độ tăng bình quân 5 - 6%/năm; (2) Tổng sản lượng thủy sản đạt 130 - 140 nghìn tấn; trong đó, sản lượng khai thác thủy sản chiếm 41%, nuôi trồng thủy sản chiếm 59%; (3) Tổng giá trị sản xuất thủy sản đạt 4.940 tỷ đồng, bình quân tăng trưởng 5,0 - 5,2%/năm (2014 - 2020); trong đó nuôi trồng thủy sản tăng 5 - 6%/năm; khai thác thủy sản tăng 4,5 - 5,0%/năm; (4) Thu nhập bình quân lao động thủy sản tăng gấp 2 lần so với hiện nay; (5) Trên 70% số lao động nghề cá được đào tạo, tập huấn; (6) Hoàn thành quy hoạch xây dựng Trung tâm nghề cá lớn của cả nước tại thành phố Hải Phòng; (7) Giảm 10% tiêu hao năng lượng trong sản xuất thủy sản so với năm 2015; 70% các hộ nuôi trồng thủy sản có hệ thống thu gom và xử lý rác thải.
- Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp Thành phố Hải Phòng theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 và định hướng đến 2030”. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020: (1) Tốc độ tăng trưởng GDP nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2016-2020 bình quân đạt 2,7%/năm. Tỷ trọng GDP nhóm ngành nông - lâm - thủy sản chiếm 5,3%/năm; (2) Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 2016-2020 bình quân đạt 2,92%/năm, trong đó: Nông nghiệp 1,55%/năm (trồng trọt 0,45%/năm, chăn nuôi 2,0%/năm, dịch vụ 8,85%/năm); thủy sản 6,05%/năm (nuôi trồng và dịch vụ 5,15%/năm, khai thác 7,15%/năm); lâm nghiệp 2,51%/năm; (3) Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản tương ứng là 57,75% - 0,25% - 42%. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp: trồng trọt 46%, chăn nuôi 46,85%, dịch vụ 7,15%; thủy sản: nuôi trồng và dịch vụ 59%, khai thác 41%, (4) Giá trị gia tăng trên 1 đơn vị diện tích đất nông nghiệp tăng gấp 1,4 lần so với năm 2014, ước đạt 106,2 triệu đồng/ha (giá so sánh năm 2010); (5) Xác định các ngành hàng chủ lực: Trồng trọt: lúa chất lượng đặc sản; rau, củ, quả thực phẩm chất lượng; hoa - cây cảnh; Sản xuất chăn nuôi: Lợn thịt và gia cầm; Sản xuất thủy sản: khai thác thủy sản
127
gồm nhóm nhuyễn thể (mực), nhóm cá đáy (cá đồng, cá dưa, cá phèn...); nuôi thủy sản tôm nước lợ, cá rô phi; chế biến thủy sản gồm tôm đông lạnh, mực khô, nước mắm.
c. Tỉnh Thái Bình
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2011-2015) của tỉnh Thái Bình.
- Quy hoạch tổng thể phát triển nuôi ngao vùng ven biển tỉnh Thái Bình
giai đoạn 2011-2015, và tầm nhìn đến 2020.
- Quy hoạch phát triển nuôi cá lồng trên sông giai đoạn 2016-2020.
- Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp Thái Bình đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Theo đó, tốc độ tăng trưởng toàn ngành trung bình giai đoạn 2016-2020 đạt 2,5%/năm, trong đó trồng trọt 0,4%; chăn nuôi 3,5% và thủy sản 6%. Tỷ trọng các ngành trong tổng cơ cấu nông – lâm – thủy sản: Trồng trọt 32%; Chăn nuôi 31%; Dịch vụ 6,9%; Lâm nghiệp 0,1% và Thủy sản 30%.
d. Tỉnh Nam Định
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2011-2015) của tỉnh Nam Định.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, thủy sản và muối tỉnh Nam Định giai đoạn 2010-2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu cụ thể: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi lên trên 41,2% năm 2015; ngành trồng trọt 55,2%; ngành dịch vụ 3,6% vào năm 2015. Đến năm 2020: ngành chăn nuôi 46,6%, ngành trồng trọt khoảng 49,7% và dịch vụ 3,7%. Tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, thủy sản và muối thời kỳ 2011-2020 đạt 3,7%; trong đó nông nghiệp đạt 3,0% (trồng trọt 1,3%, chăn nuôi 5,2%; dịch vụ 4,0%); ngành thủy sản đạt 6,5%, muối giảm 0,5%/năm. Định hướng giai đoạn 2011-2030 đạt tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành khoảng 3%.
- Đề án “Tái cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Nam Định giai đoạn 2014-
2020 theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”
128
f. Tỉnh Ninh Bình
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015). Theo đó, dự kiến đến năm 2020, diện tích đất nông nghiệp là 92.560 ha cùng với sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khuyến khích đầu tư sản xuất nâng cao hệ số sử dụng đất để đảm bảo mục tiêu phát triển nông nghiệp của tỉnh.
- Quy hoạch cánh đồng lớn tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến 2025. Theo đó, đến năm 2020, toàn tỉnh quy hoạch 82 cánh đồng lớn đối với cây lúa với tổng diện tích là 4.715ha. Đối với cây ngô: 18 cánh đồng lớn với tổng diện tích 380ha. Đối với cây lạc: 13 cánh đồng lớn với tổng diện tích 260ha.
- Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Ninh Bình đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu phát triển ngành giai đoạn 2016-2020 như sau: Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản bình quân hàng năm khoảng 3,0%-4,0%/năm. Cơ cấu kinh tế nông, lâm, thủy sản: 7%. Cơ cấu giá tri sản xuất: nông nghiệp (75%) trong đó trồng trọt 51% và chăn nuôi 41,4%, dịch vụ nông nghiệp 7,6%; lâm nghiệp 4% và thủy sản 21%. Giá trị sản lượng trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp bình quân đạt trên 140 triệu đồng.
- Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản tỉnh Ninh Bình đến 2015, định
hướng đến 2020.
- Quy hoạch tổng thể phát triển chăn nuôi tỉnh Ninh Bình đến 2015,
định hướng đến 2020.
- Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2015- 2020.Mục đích của đề án: (i) Phát triển sản xuất theo hướng quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, địa phương; (ii) Đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, xây dựng và hình thành các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh, ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông sản, hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích đất nông nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; (iii)Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, đặc biệt là chế biến sâu và bảo quản sau thu hoạch theo hướng hiện đại, nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm.
129
Nhận xét chung về công tác kế hoạch hóa cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp tại VDHBB:
Về cơ bản, các địa phương trong vùng đã ban hành tương đối đầy đủ các Quy hoạch, kế hoạch hay đề án nhằm định hướng cho phát triển nông nghiệp của địa phương mình. Có một số tỉnh thành ban hành cả Quy hoạch chung của ngành nông nghiệp và quy hoạch riêng cho từng chuyên ngành (Ninh Bình, Quảng Ninh); song có tỉnh chỉ ban hành 1 Quy hoạch chung cho ngành nông nghiệp gộp cả nông nghiệp, thủy sản và muối (Nam Định); hoặc chẳng hạn như Thái Bình không ban hành quy hoạch chung cho ngành nông nghiệp hoặc cho từng chuyên ngành mà quy hoạch cho một vài loại thủy sản cụ thể. Về cơ bản, các địa phương đều có quy hoạch sử dụng đất đến 2020 trong đó có quy định đất cho sản xuất nông nghiệp. Một đặc điểm chung trong công tác lập kế hoạch của 5 tỉnh thành trong VDHBB là đều phê duyệt đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững, mặc dù mỗi đề án đặt mục tiêu khác nhau tùy thuộc vào tiềm năng phát triển của mỗi vùng. Duy nhất tỉnh Ninh Bình đã có quy hoạch về xây dựng cánh đồng mẫu lớn, cho thấy quyết tâm của chính quyền tỉnh này trong việc phát triển nông nghiệp trên quy mô lớn, tăng năng suất nhờ tính kinh tế theo quy mô.
3.3.4. Thực trạng về chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Về cơ bản khung chính sách trong nông nghiệp được thiết kế và ban hành bởi Chính phủ, các địa phương có trách nhiệm thực thi, vận dụng hệ thống chính sách đó trong phạm vi tỉnh mình. Chính quyền địa phương có thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật về hướng dẫn thực hiện chính sách đó hoặc có thể không cần thiết mà triển khai trực tiếp luôn. Trong phần này, luận án trình bày một số chính sách về nông nghiệp đã và đang được triển khai và tương đối có hiệu quả thời gian qua.
3.3.4.1. Hệ thống chính sách nông nghiệp do Trung ương ban hành
a. Chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp
Thuế sử dụng đất nông nghiệp được ban hành từ tháng 7/1993 thay thế thuế đầu ra nông nghiệp năm 1983. Cách tính thuế đánh trên mỗi ha và dao động tùy theo loại đất (dựa trên độ phì nhiêu của đất, địa điểm, địa hình, điều
130
kiện khí hậu, thủy lợi) và loại hình sản xuất (hàng năm hay lâu năm). Mức thuế được xác định dựa trên lượng gạo cố định cho 1 ha và được thu bằng tiền mặt với mức giá do chính quyền quyết định dựa trên mức giá thị trường ở địa phương.
Bảng 3.12: Thuế sử dụng đất nông nghiệp
Đơn vị tính: kg gạo/ha
Nhóm loại đất Đất cho sản xuất lâu năm
Đất cho sản xuất hàng năm và nuôi trồng thủy sản
1 550 650
2 460 550
3 370 400
4 280 200
5 180 80
6 50 (không áp dụng)
Nguồn: Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993
Để khuyến khích sản xuất nông nghiệp và hỗ trợ người nông dân, miễn và giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp được đưa vào sử dụng từ năm 2003. Sự miễn giảm thuế ban đầu được thực hiện trong thời kỳ 7 năm, tuy nhiên khi kết thúc vào năm 2010 thì Quốc hội ban hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 tiếp tục qui định về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp tới năm 2020. Theo đó, hầu hết các đối tượng sử dụng đất nông nghiệp đều được miễn hoặc giảm 50% số thuế phải nộp.
Theo báo cáo của Ủy ban Tài chính Ngân sách số tiền thu thuế đất nông nghiệp hàng năm chỉ khoảng 34,3 tỷ đồng. Do vậy, chính sách miễn giảm thuế tác động không lớn tới thu ngân sách. Việc thực hiện chính sách này là hợp lý vì tạo ra đòn bẩy để khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
b. Chính sách tín dụng cho nông dân
Chính sách tín dụng cho nông dân được bắt đầu triển khai từ năm 1993 thông qua hình thức tín dung thương mại có tài sản thế chấp bằng quyền sử
131
dụng đất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đến năm 1999, lần đầu tiên khái niệm “tín chấp” được đưa ra, cho phép hộ nông dân vay tối đa 10 triệu đồng mà không cần thế chấp tài sản. Đến năm 2000, mức vay tín chấp tăng lên gấp 2 là 20 triệu đồng. Việc thành lập Ngân hàng chính sách xã hội năm 2003 đánh dấu một bước ngoặt trong hoạt động tín dụng cho nông nghiệp. Theo đó, Ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi (0-0,8%/tháng) với mức vay trung bình là 30 triệu đồng/năm.
Năm 2009, với mục tiêu kích cầu nền kinh tế khắc phục suy thoái, Chính phủ đã đưa ra chính sách cấp tín dụng ngắn hạn (tối đa 12 tháng) cho người sản xuất nông nghiệp với lãi suất ưu đãi 4% để mua máy móc, thiết bị công nghệ, tiện nghi và nguyên vật liệu. Đối với máy móc, phân bón và thuốc trừ sâu, các khoản vay có thể bằng 100% giá trị hàng hoá, nhưng không vượt quá 7 triệu đồng mỗi hecta. Tỷ lệ lãi suất cho các khoản vay này là thấp hơn 4% các khoản vay thương mại. Kết quả là hơn 1 triệu nông dân đã vay 776 tỷ đồng từ chương trình này trong 2 năm 2009 và 2010.
Tiếp tục thực hiện chính sách trên, năm 2010 chính phủ đã tăng giới hạn vay không cần tài sản thế chấp tới 50 triệu đồng cho cá nhân và gia đình có các hoạt động nông nghiệp; tới 200 triệu đồng cho các hộ kinh doanh hoặc sản xuất, hoặc cung cấp các dịch vụ cho khu vực nông nghiệp và nông thôn; và 500 triệu đồng cho hợp tác xã và các chủ nông trại. Các khoản vay này có thể được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và nghề muối, phát triển chuỗi sản xuất và kinh doanh nông thôn, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; chế biến và tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, sản phẩm muối, và buôn bán các sản phẩm, dịch vụ cho nông, lâm, ngư nghiệp.
Chính sách tiếp cận nguồn tín dụng trợ cấp với mục đích giảm nhẹ tổn thất trong sản xuất nông nghiệp bắt đầu thực hiện từ 2010. Những khoản vay ưu đãi có thể được sử dụng để mua máy móc và các thiết bị để giảm tổn thất sau thu hoạch bao gồm máy sấy, máy sử dụng cho gieo trồng và thu hoạch lúa, cà phê, chè, mía; và máy sử dụng cho sản xuất thuỷ sản và kho đông lạnh. Các khoản vay có thể lên tới 100% chi phí. Nhà nước trợ cấp 100% lãi suất đối với các khoản vay trong 2 năm đầu và 50% từ năm thứ 3.
132
c. Chính sách hỗ trợ giá nông sản
Trên thực tế, giá nông sản thường xuyên biến động do nông nghiệp là ngành chịu nhiều tác động bởi các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh… Đặc biệt trong thời gian gần đây tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn do ảnh hưởng của El Nino có cường độ mạnh nhất trong vài thập kỷ qua, khiến cho nông nghiệp Việt Nam thường xuyên gặp khó khăn cả về giá cả và sản lượng.
Khắc phục tình trạng này, bên cạnh những chính sách khuyến khích tăng cung, triển khai đề án tái canh cây cà phê, giám sát chất lượng hồ tiêu, khơi thông thị trường xuất khẩu rau quả chất lượng cao… Chính phủ cũng ban hành nhiều chính sách tài chính hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để giảm bớt khó khăn cho người nông dân, nâng cao giá trị nông sản, trong đó có chính sách hỗ trợ giá.
Theo đó, Chính phủ áp dụng biện pháp bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu khi giá của các mặt hàng này biến động. Trong đó, các sản phẩm nông sản thuộc diện được bình ổn giá là đường ăn, thóc, gạo tẻ thường, muối ăn, sữa dành cho trẻ em dưới 06 tuổi, phân đạm, phân NPK, thuốc bảo vệ thực vật.Các biện pháp bình ổn giá bao gồm: điều hòa cung cầu hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa xuất nhập khẩu, điều hòa hàng hóa giữa các vùng miền, địa phương; mua vào hoặc bán ra hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ lưu thông; lập quỹ bình ổn giá; Định giá cụ thể, giá tối đa, tối thiểu hoặc khung giá phù hợp với tính chất từng loại hàng hóa.
Bảng 3.13: Các sản phẩm liên quan nông nghiệp được thực hiện bình ổn giá
2008 – 2014 2014 đến nay
Hóa chất phân bón
Phân bón Ni-tơ, phân Ure, phân NPK
Hóa chất bảo vệ thực vật
Hóa chất bảo vệ thực vật
Một số sản phẩm thú y
Văcxin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm
Một số thức ăn chăn nuôi
Lúa
Lúa
Gạo, đường ăn
Gạo, đường ăn, sản phẩm sữa
Sữa công thức cho trẻ em dưới 6 tuổi
Nguồn: Nghị định số 75/2008/NĐ-Chính phủ ngày 9/6/2008; Nghị định số 177/2013/NĐ-Chính phủ ngày 14/11/2013
133
d. Chính sách khuyến nông
Hệ thống khuyến nông chính thức được thành lập vào năm 1993. Mục đích chính của hệ thống này là: nâng cao sự hiểu biết của người sản xuất nông nghiệp thông qua đào tạo về kiến thức và kỹ năng sản xuất và kinh doanh, cung cấp các dịch vụ để giúp người nông dân triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả phù hợp với sinh thái, khí hậu, thị trường.
Hệ thống khuyến nông được tổ chức thành 4 cấp (như đã trình bày trong hình 3.7 ở phần trước): Trung tâm khuyến nông quốc gia ở cấp trung ương thuộc Bộ NN&PTNT; các trung tâm khuyến nông tỉnh thuộc các Sở NN&PTNT; các trạm khuyến nông cấp huyện dưới sự quản lý của trung tâm khuyến nông tỉnh hoặc UBND huyện; và các khuyến nông viên cấp xã (1 người/1 xã). Ở tất cả các tỉnh, thành đều có trung tâm khuyến nông. Tuy nhiên, ở cấp huyện không phải huyện nào cũng có trạm khuyến nông, huyện không có trạm khuyến nông là những huyện đã bị đô thị hóa. Chi phí cho các dịch vụ khuyến nông đến 80% từ chính quyền địa phương.
Các dự án khuyến nông có trọng tâm sản xuất mạnh mẽ, thường kết hợp với việc giới thiệu các giống mới hoặc các kỹ thuật sản xuất đặc biệt. Các dự án khuyến nông cũng có thể tập trung vào việc cung cấp cho nông dân những thông tin liên quan đến các chính sách mới và giá cả thị trường. Từ năm 2001, cách thức tuyển chọn các dự án khuyến nông thông qua đấu thầu mở, nhằm đảm bảo hoạt động khuyến nông có hiệu quả, tránh lãng phí ngân sách nhà nước.
ĐNB ĐBSCL
ĐBSH (bao gồm VDHBB)
TD&MN PB
BTB&DH MT
Tây nguyên
107
1596
1882
2000
1355
2607
Các trạm khuyến nông cấp huyện
220058
113537
99849
38197
81360
153506
Vốn đầu tư (triệu VND)
5,97
3,01
2,14
2,44
7,19
3,97
Đầu tư/hộ gia đình (USD)
Nhân lực (người)
2828
14624
4635
5269
511
2141
Bảng 3.14: Hệ thống khuyến nông theo vùng
Nguồn: Bộ NN&PTNT (2016) và Niên giám thống kê (20156)
134
e. Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
Chính sách này được ban hành kèm theo Nghị định số 213/2013/NĐ- CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Trên cơ sở chính sách chung của Chính phủ, các tỉnh thành trong VDHBB đều thực hiện chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của địa phương. Theo đó,các lĩnh vực nông nghiệp khuyến khích đầu tư của VDHBB bao gồm: xây dựng cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm; xây dựng cơ sở sản xuất giống ngao sinh sản; đóng mới tàu, nâng cấp tàu phục vụ hoạt động khai thác hải sản; mua một số loại máy, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp; xây dựng cơ sở chế biến sản phẩm nông nghiệp, thủy sản; hỗ trợ phát triển sản xuất cây vụ đông.
Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư bao gồm:(i) ưu đãi về đất đai: được thuê đất với mức giá thấp nhất của loại đất tương ứng trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định. Tùy từng tỉnh, thành, doanh nghiệp có dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp khuyến khích đầu tư của tỉnh được: Miễn tiền thuê đất từ 11 năm đến 15 năm đầu thực hiện dự án, (ii) Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm: hỗ trợ 30-50% kinh phí giải phóng mặt bằng cho doanh nghiệp có dự án đầu tư xây dựng cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Ngoài ra, ngân sách tỉnh, thành hỗ trợ 30-50% lãi suất tiền vay các ngân hàng thương mại để đầu tư tài sản cố định trực tiếp cho sản xuất trong 02 năm đầu kể từ ngày vay vốn; (iii) Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất giống hải sản; (iv) Hỗ trợ đóng mới tàu, nâng cấp tàu phục vụ hoạt động khai thác hải sản.
Ngày 17/04/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2018/NĐ- CP thay thế Nghị định 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 tiếp tục xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách hiệu quả hơn nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ được hưởng nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích của Nhà nước. Những doanh nghiệp được nhận ưu đãi và hỗ trợ là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư; dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư và dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư.
135
Các doanh nghiệp trên sẽ được Nhà nước ưu đãi và hỗ trợ thông qua miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ tập trung đất đai; tiếp cận, hỗ trợ tín dụng; hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường; hỗ trợ đầu tư cơ sở; cung cấp dịch vụ công và đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài ra, các doanh nghiệp trên còn được tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng. Theo quy định, doanh nghiệp có dự án nông nghiệp (đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư) được Nhà nước giao đất hoặc được chuyển mục đích đất để làm nhà ở cho người lao động theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai được miễn tiền chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất được chuyển mục đích để xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc tại dự án; được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đó sau khi được chuyển đổi. Doanh nghiệp có dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư thì dự án đó được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 15 năm đầu kể từ ngày Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 7 năm tiếp theo. Doanh nghiệp có dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư thì dự án đó được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 11 năm đầu kể từ ngày Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 5 năm tiếp theo.
Các doanh nghiệp còn được trợ giúp về tiếp cận nguồn vốn. Để giúp các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tiếp cận được nguồn vốn, ngân sách địa phương sẽ hỗ trợ lãi suất vay thương mại sau khi dự án hoàn thành với mức hỗ trợ bằng chênh lệch lãi suất vay thương mại so với lãi suất tín dụng Nhà nước ưu đãi đầu tư tính trên số dư nợ thực tế tại thời điểm xem xét hồ sơ hỗ trợ. Thời gian hỗ trợ lãi suất tính từ ngày bắt đầu giải ngân theo hợp đồng tín dụng với ngân hàng thương mại: Tối đa 8 năm đối với dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư; tối đa 6 năm đối với dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư; tối đa 5 năm đối với dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư. Trường hợp dự án của doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập thì thời gian hỗ trợ lãi suất là 8 năm; dự án mà doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi giá trị thì được áp dụng hỗ trợ lãi suất theo chu kỳ sản xuất của sản phẩm.
136
Cũng theo Nghị định 57/2018 NĐ-CP, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp – nông thôn còn được hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao. Nhà nước cũng hỗ trợ 80% kinh phí thực hiện, nhưng không quá 300 triệu đồng cho một đề tài, bản quyền hay công nghệ đối với các doanh nghiệp thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, mua bản quyền công nghệ, mua công nghệ hoặc mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm mới, cải tiến công nghệ, công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường, công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, tiết kiệm năng lượng. Để hưởng chính sách trên, doanh nghiệp phải có doanh thu năm trước tối thiểu bằng 10 lần mức hỗ trợ; các bản quyền, công nghệ doanh nghiệp đề xuất mua phải phù hợp với định hướng phát triển sản xuất của doanh nghiệp đã đăng ký. Nghị định cũng quy định rõ, trường hợp đề tài nghiên cứu khoa học được ứng dụng trong thực tế thì được thanh toán bằng mức hỗ trợ; trường hợp không được áp dụng trong thực tế thì được thanh toán bằng 50% mức hỗ trợ.
Nghị định cũng nêu rõ, doanh nghiệp có dự án đầu tư cơ sở chăn nuôi bò sữa, bò thịt được ngân sách Nhà nước hỗ trợ 5 tỷ đồng/dự án để xây dựng cơ sở hạ tầng về xử lý chất thải, giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua thiết bị. Ngoài hỗ trợ hạ tầng trên, nếu doanh nghiệp nhập, bò giống cao sản để nuôi trực tiếp hoặc liên kết nuôi với hộ gia đình thì được hỗ trợ bổ sung là 10 triệu đồng/con.
Do mới ban hành và thực hiện, chưa thể khẳng định ngay về kết quả và hiệu quả của chính sách mới này. Song với nhiều điểm mới nổi bật hơn, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP được kỳ vọng sẽ gỡ được những khó khăn, bất cập trong tập trung đất đai như hiện nay để sản xuất ở quy mô lớn. Các quy định của Nghị định được cho là sẽ tạo cơ chế để nông dân và doanh nghiệp thấy cùng có lợi, cùng hợp tác để tạo ra quỹ đất lớn hơn cho việc sản xuất nông nghiệp và ứng dụng công nghệ mới chứ không hẳn là Nhà nước hỗ trợ bằng tiền để doanh nghiệp đi mua đất của bà con nông dân.
f. Chính sách ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp
Chính sách này được ban hành kèm theo Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Theo đó, danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển, bao gồm:
137
(a) Công nghệ trong chọn tạo, nhân giống cây trồng, giống vật nuôi và
giống thuỷ sản cho năng suất, chất lượng cao;
(b) Tập trung nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sử dụng ưu thế lai, công nghệ đột biến thực nghiệm và công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây trồng mới có các đặc tính nông học ưu việt (năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện bất thuận), phù hợp với yêu cầu của thị trường; công nghệ nhân giống để đáp ứng nhu cầu cây giống có chất lượng cao, sạch bệnh;
(c) Về giống vật nuôi: Nghiên cứu cải tiến công nghệ sinh sản, đặc biệt là công nghệ tế bào động vật trong đông lạnh tinh, phôi và cấy chuyển hợp tử, phân biệt giới tính, thụ tinh ống nghiệm, tập trung vào bò sữa, bò thịt; áp dụng phương pháp truyền thống kết hợp với công nghệ sinh học trong chọn tạo và nhân nhanh các giống vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao;
(d) Về thủy sản: Tập trung nghiên cứu kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ di truyền để chọn tạo một số giống loài thuỷ sản sạch bệnh, có tốc độ sinh trưởng nhanh và sức chống chịu cao; phát triển công nghệ tiên tiến sản xuất con giống có chất lượng cao đối với các đối tượng nuôi chủ lực.
(e) Về hoạt động ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp: Triển khai các đề án, dự án ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp trên cơ sở kết quả nghiên cứu hoặc chuyển giao công nghệ, bao gồm các đề án, dự án có hoạt động triển khai thực nghiệm nhằm tạo ra sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; sản xuất thử nghiệm nhằm hoàn thiện công nghệ cao, sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở quy mô sản xuất nhỏ; xây dựng mô hình và đầu tư sản xuất sản phẩm để tạo ra các sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, có thể thay thế sản phẩm nhập khẩu.
Cơ chế, chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong nông
nghiệp bao gồm:
a) Tổ chức, cá nhân nghiên cứu tạo ra công nghệ cao, phát triển và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng mức ưu đãi, hỗ trợ cao nhất theo quy định
138
của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
b) Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với hoạt động đầu tư trang thiết bị cho phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu phục vụ hoạt động phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp theo các dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt; nhập khẩu một số công nghệ cao, máy móc, thiết bị công nghệ cao trong nông nghiệp trong nước chưa tạo ra được để thực hiện một số dự án ứng dụng và trình diễn công nghệ cao được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
c) Doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng chính sách hỗ trợ phát triển theo quy định của Nhà nước và các ưu đãi khác do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định theo thẩm quyền.
d) Doanh nghiệp hoạt động trong khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng các chính sách ưu đãi như đối với các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
e) Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng mức ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đất đai đối với đất sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và xây dựng các cơ sở dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong vùng;
f) Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được cấp có thẩm quyền công nhận, được hỗ trợ tối đa đến 70% kinh phí ngân sách nhà nước để xây dựng hạ tầng kỹ thuật (hệ thống giao thông, hệ thống thủy lợi tưới tiêu và xử lý chất thải) trong vùng theo các dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt và hưởng các ưu đãi khác do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định theo thẩm quyền.
3.3.4.2. Hệ thống chính sách cho nông nghiệp của các địa phương trong Vùng Duyên hải Bắc bộ nhằm thực thi chính sách Trung ương
a. Tỉnh Quảng Ninh
- Chính sách hỗ trợ dự án phát triển sản xuất Chương trình 135 (Quyết định 1678/QĐ-UBND ngày 08/5/2014 của UBND tỉnh).Đồng thời, nhằm thực
139
hiện đề án phát triển thương mại nông sản, Quảng Ninh thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp (Quyết định số 2009/QĐ-UBND ngày 13/8/2012; Quyết định số 4204/2015/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 của UBND tỉnh). Việc ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp đã khuyến khích nông hộ, doanh nghiệp, HTX vay vốn đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập. Việc hỗ trợ lãi suất giúp người sản xuất tiếp cận được với nguồn vốn lãi suất thấp, giảm bớt khó khăn trong sản xuất kinh doanh với đặc thù sản xuất nông nghiệp chịu nhiều rủi ro và lợi nhuận thấp.
- Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung (Quyết định 2901/QĐ-UBND ngày 05/12/2014). Việc ban hành và thực hiện chính sách đã góp phần hình thành các vùng sản xuất tập trung theo quy hoạch của tỉnh, trong đó một số vùng sản xuất như: Vùng sản xuất lúa chất lượng cao tại Đông Triều, Quảng Yên, vùng na Đông Triều, vùng vải chín sớm Phương Nam, vùng rau an toàn Quảng Yên, vùng trồng hoa ở Hoành Bồ… đang ngày càng được mở rộng và phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa đem lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân; một số sản phẩm đã tạo được thương hiệu như: Nếp cái hoa vàng, Vải chín sớm Phương Nam, Na dai Đông Triều, Rau an toàn Quảng Yên, Mía tím Hải Hà,… đặc biệt với các chính sách khuyến khích ưu đãi phát triển nông nghiệp, đã quy hoạch và phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Hồng Thái Tây - Thị xã Đông Triều đây là nơi triển khai nghiên cứu, ứng dụng nhằm hoàn thiện công nghệ, nhân giống cây, con (rau, hoa, cây cảnh), cung cấp các giống cây, sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao cho thị trường.
Quyết định số 1066/2015/QĐ-UBND ngày 21/4/2015 của UBND tỉnh Quảng Ninh về chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh năm 2017.
Các văn bản, quyết định trên được ban hành đã buộc các cơ quan quản lý nông nghiệp của tỉnh tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch, lựa chọn một số sản phẩm chính là lợi thế của tỉnh để khuyến khích sản xuất, khuyến khích, thu hút nguồn lực đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, các chính sách trên làm đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; bao gồm hỗ trợ từ ngân sách nhà nước tạo điều kiện thúc
140
đẩy, huy động các nguồn lực đầu tư xã hội, phát huy nội lực từ chính người nông dân và sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức; đẩy mạnh các hình thức đầu tư có sự tham gia giữa nhà nước và tư nhân để huy động nguồn lực xã hội và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
b. Thành phố Hải Phòng
Trong hoạt động phát triển nông nghiệp địa phương theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Hải Phòng rất chú trọng tới việc cơ giới hóa nông nghiệp. Là một trong những địa phương của cả nước sớm ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp.
Trong giai đoạn 2008 – 2016 Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 1819/QĐ-UBND ngày 27/10/2008 về việc phê duyệt cơ chế hỗ trợ nông dân vay vốn mua máy cơ khí phục vụ sản xuất, chế biến trong nông nghiệp, thuỷ sản giai đoạn 2008 – 2010, hỗ trợ 100% lãi suất, 36 tháng, mức vay đến 100 triệu đồng/máy.
Đến năm 2012 đề án này được bổ sung bằng Đề án đẩy mạnh cơ giới hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 thông qua Quyết định số 1596/QĐ-UBND ngày 21/8/2013 của Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt Kế hoạch hỗ trợ kinh phí thực hiện mô hình cơ giới hóa đồng bộ sản xuất lúa năm 2013; Quyết định số 994/QĐ- UBND ngày 16/5/2014 về việc phê duyệt Kế hoạch hỗ trợ kinh phí thực hiện mô hình cơ giới hoá sản xuất lúa năm 2014;
Đồng thời, để phát huy thế mạnh tự nhiên về biển, Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 14/2010/NQ-HĐND, ngày 9-12-2010 về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủy sản thành phố Hải Phòng giai đoạn 2011 – 2015. Nội dung chính của Nghị quyết nhằm: (i) Hỗ trợ phát triển trang trại chăn nuôi, vùng nuôi trồng thủy sản tập trung; (ii) Hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xây dựng vùng sản xuất tập trung; (iii) Hỗ trợ nông dân sản xuất muối và xây mới các công trình xử lí chất thải trong chăn nuôi. Quyết định trên đã được bổ sung bằng Quyết định số 2242/QĐ-UBND ngày 21/12/2012 về việc Phê duyệt Hỗ trợ phát triển trang trại chăn nuôi, vùng nuôi trồng thủy sản tập trung.
141
c. Tỉnh Thái Bình
Ngày 24 tháng 09 năm 2014, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình đã có Quyết định số 16/2014/QĐ-UBND ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình, giai đoạn đến năm 2020. Theo đó, kể từ ngày 24/9/2014, các tổ chức, cá nhân thực hiện dự án đầu tư mới; dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng thuộc các lĩnh vực nông nghiệp khuyến khích đầu tư của tỉnh và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh Thái Bình được hưởng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
Các lĩnh vực nông nghiệp khuyến khích đầu tư của tỉnh bao gồm: xây dựng cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm; xây dựng cơ sở sản xuất giống ngao sinh sản; đóng mới tàu, nâng cấp tàu phục vụ hoạt động khai thác hải sản; mua một số loại máy, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp; xây dựng cơ sở chế biến sản phẩm nông nghiệp, thủy sản; hỗ trợ phát triển sản xuất cây vụ đông.
Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư bao gồm:
(1) Ưu đãi về đất đai: được thuê đất với mức giá thấp nhất của loại đất tương ứng trong bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định. Tùy địa bàn, doanh nghiệp có dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp khuyến khích đầu tư của tỉnh được: Miễn tiền thuê đất từ 11 năm đến 15 năm đầu thực hiện dự án.
(2) Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm: hỗ trợ 50% kinh phí giải phóng mặt bằng cho doanh nghiệp có dự án đầu tư xây dựng cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư và có quy mô như khoản điểm a khoản Điều 5 của Quyết định. Ngoài ra, ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay các ngân hàng thương mại để đầu tư tài sản cố định trực tiếp cho sản xuất trong 02 năm đầu kể từ ngày vay vốn.
(3) Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất giống ngao sinh sản: Doanh nghiệp có dự án xây dựng cơ sở sản xuất giống ngao sinh sản đã được Ủy ban nhân dân tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư, được ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí giải phóng mặt bằng; 50% lãi suất tiền vay các ngân hàng thương mại để đầu tư tài sản cố định trực tiếp sản xuất giống ngao sinh sản trong 03 năm đầu kể từ ngày vay vốn.
142
d. Tỉnh Nam Định
Để tăng năng suất nông nghiệp, Trong giai đoạn 2008-2016 Nam Định ưu tiên các đề án, chương trình khuyến khích đầu tư vào khu công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn.
- Quyết định số 08/2012/QĐ-UBND ngày 07/5/2012 của UBND tỉnh Nam Định về việc ban hành “Quy định cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư vào các điểm công nghiệp trên địa bàn nông thôn tỉnh Nam Định”
Bằng 2 quyết định trên, Nam Định khuyến khích: Đầu tư xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản ứng dụng công nghệ cao; Đầu tư xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung kết hợp chế biến nông, thuỷ sản; Đầu tư phát triển sản xuất giống cây trồng, vật nuôi quy mô công nghiệp với công nghệ tiên tiến; Đầu tư phát triển các sản phẩm làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề với du lịch.
Trong giai đoạn 2008-2016 Nam Định còn có nhiều chính sách phát triển lực lượng lao động nhất là lao động có trình độ tay nghề cao, thông qua nhiều hình thức đào tạo (đào tạo tại chỗ, gửi đến các cơ sở đào tạo, đào tạo bằng truyền nghề…). Quyết định số 10/2008/QĐ-UB ngày 27/6/2008 ban hành quy định quản lí và sử dụng kinh phí sự nghiệp đối với hoạt động phát triển NNNT; chỉ thị số 16/CT/TU ngày 24/6/2010 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn và Quyết định số 1220/QĐ-UB ngày 24/6/2010 về phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Nam Định đến năm 2020” do Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội chủ trì….Vì vậy, công tác khuyến nông ở Nam Định đã phát huy được những hiệu quả rất đáng ghi nhận. Số lao động nông thôn được đào tạo nghề miễn phí ngày càng nhiều và tập trung ở những địa bàn có những ngành thế mạnh của tỉnh như thủ công, cơ khí, dệt may.
e. Tỉnh Ninh Bình
Trong giai đoạn 2008-2016, ngoài việc triển khai những chính sách của trung ương về kinh tế nông nghiệp, Ninh Bình đã triển khai nhiều chương trình, dự án, cơ chế, chính sách CNH – HĐH nông nghiệp địa phương và có tác dụng tốt tới nông nghiệp, nông dân và nông thôn như: Quyết định số 28 /2012/QĐ-UBND ngày 23/11/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Nghị quyết số:
143
13/2015/NQ-HĐND ban hành ngày 22 tháng 7 năm 2015 về việc ban hành quy định chính sách đặc thù hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016-2020 và Đề án “Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”.
Đồng thời, Ninh Bình hỗ trợ hình thành chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất tới bao tiêu sản phẩm, chuyển dịch theo hướng hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường. Trong giai đoạn 2008-2016 tỉnh đã có chính sách đầu tư khuyến nông, hỗ trợ lúa giống, hỗ trợ mua máy nông nghiệp cho các hợp tác xã nông nghiệp, hộ nông dân và xây dựng giao thông thủy lợi nội đồng với tổng kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Nhờ đó sản xuất nông nghiệp có bước tăng trưởng đáng kể. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” và đưa cơ giới vào sản xuất được tích cực triển khai, tăng cường các hình thức liên kết, hợp tác giữa các nhà khoa học, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người nông dân trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
QLNN về kinh tế nông nghiệp của Ninh Bình còn hướng tới nền nông nghiệp sạch để phục vụ nhu cầu phát triển du lịch của tỉnh. Du lịch muốn phát triển thì trước tiên phải mở rộng nền sản xuất nông nghiệp sạch để bảo đảm sức khỏe cho du khách khi đến Ninh Bình, đồng thời bảo vệ sức khỏe cho gần một triệu người dân địa phương.
3.3.5. Thực trạng thanh kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Hàng năm, hệ thống thanh tra chuyên ngành của Bộ và các sở NN&PTNT trong VDHBB đều tiến hành nhiều đợt thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ sở sản xuất, thu gom, buôn bán lương thực, thực phẩm…, các cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp, thanh tra về vấn đề an toàn thực phẩm từ cơ sở sản xuất, chế biến đến kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Công tác này diễn ra cụ thể như sau:
- Đối với chất lượng vật tư nông nghiệp: nội dung thanh, kiểm tra bao
gồm:
+ Kiểm tra giống cây trồng, phân bón.
144
+ Kiểm tra giống vật nuôi trên cạn, nguyên liệu, thức ăn cho động vật
trên cạn.
+ Thanh tra, kiểm tra lĩnh vực thuốc bảo vệ thực vật.
+ Thanh tra, kiểm tra lĩnh vực thuốc thú y, chế phẩm sinh học, vi sinh vật, hoá chất dùng trong thú y (bao gồm cả thuỷ sản trừ chất xử lý cải tạo môi trường dùng trong nuôi trồng thuỷ sản).
+ Thanh tra, kiểm tra giống thuỷ sản, nguyên liệu, thức ăn nuôi trồng
thuỷ sản và chất xử lý cải tạo môi trường dùng trong nuôi trồng thuỷ sản.
Kết quả thanh tra trong vùng những năm qua cho thấy đã phát hiện
nhiều hành vi vi phạm về thuốc bảo vệ thực vật. Điển hình như, sản xuất, kinh
doanh thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục, sản xuất, kinh doanh thuốc bảo
vệ thực vật kém chất lượng; các sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật có sai phạm
về nhãn mác, hợp chuẩn, hợp quy. Một số các công ty chưa có giấy phép đủ
điều kiện sản xuất vẫn tiến hành sản xuất thuốc bảo vệ thực vật. Riêng năm
2016, đã xác định được 37 công ty trên địa bàn VDHBB có hành vi vi phạm,
ban hành 37 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền phạt là
990 triệu đồng, đình chỉ hoạt động sản xuất đối với 3 công ty không có giấy
phép sản xuất; buộc tiêu hủy sản phẩm vi phạm với số lượng lớn: 28 thùng
thuốc trừ sâu SUDOKU (672 chai 480ml); 70 thùng sản phẩm thuốc trừ ốc
(2.100 chai dạng 480ml); 1.318 chai thuốc trừ nhện [43-47].
Bên cạnh đó, kết quả thanh tra phân bón hữu cơ và phân bón khác cho
thấy, tình trạng phân bón hữu cơ và phân bón khác kém chất lượng diễn biến phức tạp ở một số địa phương, một số doanh nghiệp, có những cơ sở nhỏ lẻ
chưa đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết vẫn tồn tại và tham gia sản xuất, kinh
doanh phân bón. Đối với hoạt động chứng nhận chất lượng phân bón, thử
nghiệm chất lượng phân bón, phát hiện nhiều sai phạm: chứng nhận ngoài
phạm vi được chỉ định; không thực hiện giám sát khi cấp dấu hợp quy cho
doanh nghiệp; không đảm bảo điều kiện chứng nhận chất lượng phân bón;
chưa có giấy phép hoạt động trong lĩnh vực phân bón. Tổng số tiền xử lý các
vi phạm trong lĩnh vực phân bón là 1,79 tỷ đồng.
- Đối với vệ sinh an toàn thực phẩm: Các Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và thuỷ sản chủ trì, phối hợp với các chi cục: Bảo vệ thực vật,
145
Thú y, Thuỷ sản để thống nhất lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra cụ thể về phạm vi, đối tượng, nội dung và thời gian tại các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh, tiêu thụ thực phẩm nông lâm thuỷ sản. Đặc biệt tập trung vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm có nguy cơ cao ảnh hưởng đến sức khoẻ con người như: rau, củ, quả chứa tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản; thịt gia súc gia cầm, thuỷ sản không rõ nguồn gốc, chứa tồn dư hoá chất, kháng sinh vượt ngưỡng cho phép hoặc chất cấm, chú trọng các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm là nguyên nhân quan trọng làm ô nhiễm thịt, mất vệ sinh ATTP...
- Thanh, kiểm tra điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh hàng thủy sản tươi sống và cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông sản, thủy sản và muối; hoàn thiện mô hình sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị.
Trên lĩnh vực thanh tra chuyên ngành nông nghiệp về chế biến, an toàn
thực phẩm, công tác thanh tra VDHBB trong những năm qua đã tổ chức hơn
340 cuộc với hơn 400 cơ sở được thanh tra, kiểm tra. Trong đó, phát hiện gần 500 trường hợp vi phạm. Tổng số tiền xử phạt hành chính là 2,5 tỷ đồng. Các
hành vi vi phạm phát hiện và xử lý chủ yếu liên quan đến việc không duy trì
kiểm soát chất lượng, kiểm nghiệm sản phẩm định kỳ; sử dụng nguyên liệu
không rõ nguồn gốc để chế biến thực phẩm. Sửa chữa, tẩy xóa sai nội dung
giấy chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm với lô hàng thực phẩm xuất khẩu; chưa tuân thủ quy trình kiểm soát chất lượng an toàn thực phẩm theo
quy định. Đồng thời không đảm bảo an toàn thực phẩm trong kinh doanh thực
phẩm, sản phẩm có dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép.
Riêng năm 2016, công tác ngăn chặn chất cấm Salbutamol sử dụng
trong chăn nuôi được triển khai quyết liệt. Trong năm, có 11 vụ việc nghiêm
trọng phát hiện chất cấm trong chăn nuôi diễn ra ở một số tỉnh trong vùng.
Thanh tra các Sở NN&PTNT đã trực tiếp tiến hành xử lý, xử phạt và tiêu hủy.
Thái Bình tiêu hủy 2 lô heo với 83 con, tỉnh Quảng Ninh tiêu hủy lô heo 14
con; TP. Hải Phòng tiêu hủy 5 lô heo có chứa chất cấm đưa vào giết mổ; Ninh
Bình tiêu hủy 7 lô heo có chất cấm đưa vào giết mổ.
Tới thời điểm hiện tại, việc sử dụng chất cấm kích thích tăng trưởng
Salbutamol cơ bản đã được chấm dứt và đẩy lùi trên phạm cả vùng. Năm
146
2017 vừa qua, đã có 1.059 mẫu được lấy thử nghiệm từ các trại chăn nuôi
trong vùng và đều không phát hiện mẫu dương tính. Những tháng trở lại đây,
không phát hiện trường hợp mới vi phạm về sử dụng chất cấm kích thích tăng trưởng Salbutamol.
Cùng với đó, tăng cường phát hiện và xử lý những sai phạm nhãn mác (hiện tượng thuốc bảo vệ thực vật ghi thêm đối tượng mà chưa được khảo,
kiểm nghiệm; chất xử lý, cải tạo môi trường ghi nhãn phòng, trị bệnh để đánh
lừa người tiêu dùng). Kiểm tra điều kiện sản xuất, điều kiện kinh doanh, danh
mục lưu hành đối với các nhà máy, đại lý kinh doanh. Trong lĩnh vực an toàn
thực phẩm, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi sử dụng hóa chất công nghiệp để nhuộm màu thực phẩm; sử dụng Salbutamol, Cysteamine, hóa chất
công nghiệp đưa vào thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tổ chức thanh
tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về tiêm chích,
bơm tạp chất vào tôm, bơm nước vào gia súc trước khi giết mổ.
- Về công tác thanh tra, kiểm tra tình hình sử dụng đất nông nghiệp: Cũng tương tự như tình hình chung của cả nước, việc sử dụng quỹ đất nông
nghiệp ở các tỉnh VDHBB còn tồn tại nhiều bất cập. Qua kết quả kiểm tra tại
các địa phương trong VDHBB đã cho thấy nhiều sai trái trong quản lý và sử
dụng quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích. Đó là việc giao
khoán, cho thuê đất không thực hiện đấu thầu, đấu giá đất; không có bản đồ,
hồ sơ, sổ sách quản lý theo quy định. Đáng chú ý, nhiều nơi cho thuê đất
không đúng đối tượng, thời gian thuê đất quá hạn theo quy định; sử dụng đất
công ích trên 10% tổng quỹ đất nông nghiệp... Một số diện tích tự ý chuyển
đổi mục đích kéo dài nhiều năm nhưng chưa được chính quyền địa phương xử
lý kiên quyết, triệt để; một số diện tích khác để hoang hóa, không sử dụng, bị lấn chiếm, gây lãng phí, vi phạm Luật Đất đai.
Ngoài ra, vấn đề thu, chi tiền từ việc cho thuê đất nông nghiệp công ích có biểu hiện sai phạm, không thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Tình
trạng thất lạc hồ sơ hoặc không bàn giao đầy đủ tài liệu dẫn đến buông lỏng
quản lý, gây bức xúc trong nhân dân. Một số diện tích đất công ích mặc dù đã
có chủ trương để xây dựng các công trình công cộng như trường tiểu học,
147
mầm non, nhà văn hoá, sân thể thao..., nhưng nhiều năm chưa được cấp có
thẩm quyền thu hồi đất và giao đất.
3.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
3.4.1. Những kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Hoạt động QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH
tại VDHBB trong giai đoạn vừa qua đã đạt được những kết quả nổi bật sau:
Thứ nhất, đã xây dựng được một khung khổ pháp lý trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp ngày càng hoàn thiện với mức độ ban hành kịp thời và cập nhật. Điều đó thể hiện rất rõ nét qua hệ thống luật hiện hành của Việt Nam có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp bao gồm: Luật Đất đai 2013; Luật Thủy sản 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2013; Luật An toàn thực phẩm 2014 và Luật Thú y 2015. Trong đó, 3 luật sau đều được nâng cấp từ Pháp lệnh trước đây. Điều đó cho thấy, trong nông nghiệp hiện nay, vấn về kiểm dịch thực vật, thuốc bảo vệ thực vật hay an toàn thực phẩm là vấn đề mà người dân quan tâm hàng đầu. Các luật về cơ bản đều quy định đúng vào những vấn đề mà xã hội đang bức xúc cũng như khắc phục rất nhiều các nhược điểm của luật/pháp lệnh trước đó.
Thứ hai, các công cụ của công tác lập kế hoạch như chiến lược, quy hoạch, kế hoạch… đã được sử dụng khá linh hoạt và thường xuyên trong QLNN của VDHBB. Điều đó thể hiện qua việc rất nhiều quy hoạch có liên quan đến nông nghiệp đã được các địa phương trong vùng ban hành như Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp, quy hoạch cho từng chuyên ngành trong nông nghiệp, quy hoạch cho sản phẩm, quy hoạch vùng, quy hoạch đất đai…Các quy hoạch hầu hết được lập ở 2 cấp Trung ương và địa phương mang tính hệ thống, xuyên suốt. Đây là một tín hiệu đáng mừng bởi công cụ kế hoạch hóa đã dần thay thế cho các công cụ hành chính mang tính mệnh lệnh trong QLNN trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, Các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp thông qua cấp tín dụng nông nghiệp, bình ổn giá nông sản, miễn giảm thuế sử dụng đất…đã thúc đẩy nông nghiệp trong VDHBB theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung
148
với quy mô lớn, đã được nông dân đồng tình ủng hộ, và lấy doanh nghiệp là trung tâm cho phát triển sản xuất.
Kết quả của việc áp dụng các chính sách đó là đã hình thành các vùng sản xuất tập trung bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực cho sản xuất, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của vùng. Điều đó được thể hiện qua mô hình kinh tế trang trại trong VDHBB phát triển nhanh. Số lượng trang trại trong vùng đã tăng gần gấp đôi chỉ tính từ thời điểm 2011 cho đến năm 2016. Về cơ cấu ngành nghề, phát triển của các trang trại theo hướng tăng số lượng trang trại chăn nuôi và giảm số lượng trang trại nuôi trồng thủy sản. Sự phát triển của các trang trại đã thu hút được nhiều lao động trong vùng, tạo ra nhiều giá trị sản phẩm hàng hóa nông, lâm và thủy sản, tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập cho các hộ gia đình trong vùng.
Bảng 3.15: Số lượng trang trại tại VDHBB
Quảng Ninh Hải Phòng Thái Bình Nam Định Ninh Bình VDHBB 2011 79 398 524 306 15 1322 2016 319 648 969 426 152 2514
Nguồn:Báo cáo điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2016
Cùng với sự phát triển mô hình trang trại là sự hình thành và phát triển của cánh đồng mẫu lớn. Đây chính là kết quả của các chính sách nhằm CNH- HĐH nông nghiệp để khắc phục tình trạng sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tính bền vững. Cánh đồng lớn là hình thức sản xuất tập trung với quy mô lớn, phát huy mối liên kết 4 nhà, tăng hiệu quả sản xuất, tạo đầu ra ổn định, giúp nông dân yên tâm sản xuất. Tính đến thời điểm 31/12/2016, trên toàn bộ VDHBB đã có 399 cánh đồng mẫu lớn (trên tổng số cả nước là 2262) với 127.058 hộ gia đình tham gia. Các cánh đồng được xây dựng theo mô hình cánh đồng lớn là cơ sở hình thành những vùng sản xuất tập trung, từ đó ứng dụng đồng bộ các tiến bộ KHKT để sản xuất ra nông sản với khối lượng lớn và chất lượng đảm bảo, nhằm thu hút doanh nghiệp tham gia vào tiêu thụ sản phẩm. Đây cũng là một trong những giải pháp để góp
149
phần thực hiện Đề án của Chính phủ về Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững; đồng thời hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Số lượng cánh đồng (cánh đồng)
Số hộ tham gia (hộ)
Diện tích gieo trồng (ha)
Diện tích hợp đồng bao tiêu trước khi sản xuất (ha)
Quảng Ninh
6
3656
1663
1011
Hải Phòng
23
6460
670
30
Thái Bình
142
42657
11134
8207
Nam Định
188
58337
15060
369
Ninh Bình
40
15948
5554
1152
Bảng 3.16: Cánh đồng mẫu lớn tại VDHBB tính đến 31/12/2016
VDHBB
399
127058
34081
10769
Nguồn: Báo cáo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2016
Thứ tư, tại các tỉnh thành VDHBB đã hình thành các hệ thống thông tin và khuyến nông và dịch vụ tài chính nông thôn phục vụ cho nông nghiệp. Các hệ thống khuyến nông không chỉ cung cấp thông tin hữu ích và tư vấn cho nông dân về công nghệ nông nghiệp mà còn về nhiều vấn đề khác như thị trường và tiếp thị, tín dụng, quản lý tài nguyên thiên nhiên và các sinh kế khác. Các dịch vụ khuyến nông hiện đại giúp giải quyết các nhu cầu đa dạng của sống nhằm vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên cơ sở quản lý tốt tài nguyên thiên thiên.
Xã có cửa hàng cung cấp giống, vật tư, nguyên liệu cho sản xuất nông nghiệp (%)
Xã có ngân hàng, chi nhánh ngân hàng/ quỹ tín dụng nhân dân (%)
Quảng Ninh
73,87
10,81
Hải Phòng
88,81
20,98
Thái Bình
93,26
58,80
Nam Định
100,00
30,93
Ninh Bình
93,39
28,1
Bảng 3.17: Hệ thống hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở VDHBB (2016)
VDHBB
89,87
29,92
Nguồn: Báo cáo điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2016
150
Thứ năm, Công tác đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật được chính quyền địa phương trong vùng quan tâm, chú trọng; công tác tuyên truyền về an toàn thực phẩm được tăng cường; việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản được đẩy mạnh dần từng bước hướng tới nền nông nghiệp xanh.
3.4.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Bên cạnh những ưu điểm trong công tác QLNN về kinh tế nông nghiệp, việc triển khai thực hiện QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH –HĐH tại VDHBB đã không tránh khỏi một số hạn chế nhất định.
Thứ nhất, chưa có Ban chỉ đạo với chức năng điều phối VDHBB dẫn
đến khả năng liên kết vùng yếu kém
Quy hoạch VDHBB được TTCP phê duyệt năm 2008, trong đó qui định rõ việc thành lập Ban Chỉ đạo liên tỉnh để chỉ đạo các chương trình dự án cấp vùng tạo điều kiện huy động các nguồn vốn đầu tư theo đúng quy hoạch được duyệt. Tuy nhiên, 10 năm sau khi có quy hoạch, đến nay vẫn chưa có 1 Ban chỉ đạo để thực hiện chức năng điều phối VHDBB. Chính vì vậy, tính liên kết vùng giữa các 5 tỉnh, thành trong vùng gần như chỉ mang tính hình thức. Dường như vẫn mạnh tỉnh nào, tỉnh đó phát triển; mạnh tỉnh nào thu hút vốn đầu tư; quy hoạch ngành của địa phương chỉ căn cứ vào quy hoạch phát triển KTXH của địa phương đó mà không dựa trên cơ sở quy hoạch vùng. Các tỉnh cạnh tranh với nhau nhiều hơn là liên kết. Chính vì liên kết vùng yếu kém, hơn nữa lại thiếu 1 ban chỉ đạo để điều phối các vấn đề chung nên nguồn lực đang bị phân tán, làm hạn chế sự phát triển của các địa phương.
Thứ hai, bộ máy QLNN về kinh tế nông nghiệp VDHBB còn chồng
chéo, thiếu nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan quản lý.
Đây là một hạn chế cố hữu trong bộ máy QLNN của nước ta, không chỉ riêng trong 1 ngành và cũng không chỉ riêng trong 1 vùng. Bộ máy QLNN rất cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều cấp bậc song chức năng quản lý lại chồng chéo, trùng lắp. Có thể lấy 2 ví dụ trong QLNN về kinh tế nông nghiệp để dẫn chứng cho điều này:
151
+ Quản lý về an toàn thực phẩm: Hiện nay, có tới 3 bộ là Bộ Nông nghiệp, Bộ Công thương và Bộ Y tế cùng tham gia quản lý an toàn thực phẩm. Mặc dù đã chuyển từ hình thức quản lý liên ngành sang phân chia mảng phụ trách độc lập nhưng hiệu quả quản lý an toàn thực phẩm chưa có nhiều cải thiện do sự vận hành của các cơ quan trong từng bộ cũng như sự phối hợp giữa các bộ liên quan còn thiếu nhịp nhàng. Ví dụ, trách nhiệm của Bộ Công thương là phải quản lý tốt ATTP ở hệ thống bán lẻ nhưng hiện nay bộ này làm chưa tốt, từ đó không khuyến khích sản xuất an toàn phát triển. Trong khi đó nhiều năm qua, Bộ NN&PTNT đã đầu tư tiền bạc, công sức đào tạo nông dân sản xuất đảm bảo ATTP. Song do quản lý ở khâu bán lẻ yếu kém không phân biệt được hàng hóa an toàn và không an toàn, làm mất lòng tin của người tiêu dùng, cho nên sau khi kết thúc dự án, người nông dân lại trở về cách làm cũ không đảm bảo ATTP nhưng chi phí thấp hơn. Một trong những bất cập nữa hiện nay là quản lý ATTP tại các chợ thực phẩm tươi sống rất yếu kém. Hiện, chợ bán lẻ do Bộ Công Thương quản lý nhưng làm chưa đạt yêu cầu. Bộ NN&PTNT được phân công quản lý chợ đầu mối, thiếu kinh nghiệm nên cũng còn lúng túng. Mỗi bộ quản lý một loại chợ, không thống nhất, khập khiễng khiến tình trạng quản lý ATTP tại các chợ gần như bị “bỏ ngỏ” và như vậy việc quản lý theo chuỗi dường như không hoạt động.
+ Quản lý phân bón: Theo qui định hiện nay, Bộ Công Thương quản lý phân bón vô cơ, Bộ NN&PTNT quản lý phân bón hữu cơ từ các khâu sản xuất đến công bố hợp quy.Điều này đã tạo ra kẻ hở khi hầu hết các doanh nghiệp đều sản xuất cả phân vô cơ lẫn hữu cơ.Theo Nghị định 202/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý phân bón, đối với cơ sở sản xuất cả hai loại, Bộ Công thương chủ trì quản lý, phối hợp với Bộ NN&PTNT. Thực tiễn cho thấy sự phối hợp giữa 2 bộ không tốt đã dẫn tới thị trường phân bón tràn ngập hàng giả và hàng kém chất lượng.
Thứ ba, Luật Đất đai 2013 mặc dù vừa mới ban hành song đã bộc lộ một số bất cập khi thực thi; các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm còn mâu thuẫn
Luật Đất đai ngay từ khi có hiệu lực thi hành đã phát huy tác dụng tốt, giải quyết được nhiều điểm vướng mắc hạn chế của Luật đất đai 2003. Tuy nhiên, sau vài năm thực hiện, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã bộc lộ nhiều bất cập cần được tháo gỡ. Chẳng hạn như: vướng mắc
152
trong Quy hoạch phát triển kinh tế vùng, thời gian xác định giá kéo dài do nhiều khâu ảnh hưởng đến đền bù, văn bản không thống nhất, chồng chéo về đền bù đất đai và chi phí đầu tư vào đất, giá đền bù khác nhau giữa nhà nước thu hồi và dự án do các doanh nghiệp thu hồi, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phức tạp, vướng mắc do chưa công bố bộ thủ tục hành chính về đất đai, bất cập do khác nhau về thời gian thực hiện các thủ tục hành chính giữa các văn bản...
Ngoài ra, trong QLNN về kinh tế nông nghiệp, mặc dù luật, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành rất nhiều và đồ sộ, song vẫn còn tình trạng trái ngược, “đá” nhau trong quy định của các văn bản. Chẳng hạn, Thông tư 03 của Bộ NN&PTNT cấm sử dụng hoạt chất Methamidophos trong trồng trọt, nhưng Quyết định 46 năm 2007 của Bộ Y tế vẫn cho phép sử dụng trong dưa chuột và rau bắp cải. Ngoài ra, quy định về chất cấm giữa các ngành cũng khác nhau...
Thứ tư, công tác lập quy hoạch ở các tỉnh, thành quá ồ ạt, các quy
hoạch có nội dung chồng chéo, quy hoạch thiếu tính khả thi
Hiện nay, công tác kế hoạch hóa nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng chứa nhiều bất cập. Quy hoạch được lập quá nhiều nhưng chất lượng thấp, không gắn với nhu cầu thị trường nên thiếu tính khả thi, gây lãng phí nguồn lực, không phù hợp với xu hướng phát triển.Trong nông nghiệp, hàng loạt quy hoạch như quy hoạch nuôi, chế biến cá tra, tôm hùm, quy hoạch cà phê, cao su.... các cơ quan nhà nước không điều hành được, thường xuyên bị phá vỡ. Nhiều quy hoạch khác còn khó thực hiện hơn, vì mâu thuẫn, mục tiêu khác nhau. Ngay như trong VDHBB, cùng một chuyên ngành nông nghiệp mà chịu sự điều chỉnh của rất nhiều quy hoạch khác nhau mang tính chồng chéo. Ví dụ, ngành thủy sản có Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản của quốc gia, quy hoạch phát triển nông nghiệp của tỉnh trong đó đã nhắc đến mục tiêu phát triển của ngành thủy sản; và có Quy hoạch phát triển của riêng ngành thủy sản ở địa phương. Điều đáng nói, mỗi quy hoạch lại đưa ra các mục tiêu khác nhau với những con số tăng trưởng khác nhau. Điều đó khiến cho ngành rơi vào tình trạng lưỡng nan.
153
Thứ năm, chính sách tín dụng cho nông nghiệp VDHBB chưa thực
sự phát huy hiệu quả
Hiện nay, tại VDHBB số vốn đầu tư vào nông nghiệp chỉ chiếm 6% tổng vốn đầu tư toàn vùng. Điều này xuất phát từ việc những rào cản đầu tư vào nông nghiệp trong vùng vẫn còn tồn tại . Hầu hết doanh nghiệp khó tiếp cận vốn tín dụng do quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai. Các tổ chức tín dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài sản, phổ biến nhất là đất hay nhà có kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất do huyện cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh của chính quyền địa phương. Tuy hầu hết các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể đem đất thế chấp cho ngân hàng để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ” hoặc để xin được một giấy chứng nhận thì mất rất nhiều thời gian. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối với người dân có trình độ văn hóa thấp, và làm nảy sinh những tệ nạn như cò vay vốn, phát triển hình thức tín dụng nặng lãi, và không đáp ứng kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu, công tác quản lý sử dụng thuốc bảo vệ thực vật còn lỏng lẻo dẫn đến việc sử dụng tràn lan, gây ô nhiễm môi trường và nguy hiểm cho sức khỏe của cả người sản xuất và người tiêu dùng.
Ví dụ về thực trạng quản lý thuốc BVTV ở tỉnh Quảng Ninh. Tại Quảng Ninh, mỗi năm, số thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp là trên 200 tấn. Con số này khá thấp so với các địa phương khác trong VDHBB vì Quảng Ninh không phải là vùng trọng điểm trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc quản lý kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh vẫn có nhiều bất cập cần được khắc phục.Theo thống kê của Sở NN&PTNT của tỉnh Quảng Ninh, hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 201 cơ sở buôn bán thuốc BVTV nhưng chỉ có 158 cơ sở được cơ quan QLNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện bán, 43 cơ sở còn lại chưa được cấp. Chưa kể, thuốc BVTV còn được bán tràn lan tại nhà riêng hoặc tại các chợ, nhất là các phiên chợ ở khu vực miền Đông giáp biên giới như: Bình Liêu, Móng Cái, Hải Hà… Như vậy, con số cơ sở đang bán thuốc BVTV nhưng không có giấy chứng nhận đủ điều kiện bán trên toàn tỉnh ước lên đến hàng trăm, trong khi đó đây là loại hình kinh doanh có điều kiện. Điều đáng nói là những cơ sở này bán hàng công
154
khai và có rất nhiều sai phạm trong kinh doanh thuốc BVTV. Một số cơ sở bán thức ăn chăn nuôi gia súc bán kèm thuốc BVTV mà không có nhà kho kín để riêng, không có danh mục thuốc, không có niêm yết giá, người bán không có chứng chỉ chuyên môn về lĩnh vực trồng trọt và BVTV. Việc tồn tại các cơ sở, tiểu thương bán thuốc BVTV trái phép như trên sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy. Bởi khi những người trực tiếp bán thuốc nhưng không có trình độ chuyên môn sẽ dễ xảy ra tình trạng tư vấn không chính xác loại thuốc, thời điểm phun thuốc, liều lượng và kỹ thuật phun thuốc cho người mua. Việc lạm dụng thuốc BVTV không những gây ô nhiễm môi trường, làm tăng chi phí sản xuất của người dân mà còn tiềm ẩn nhiều nguy hại đến sức khoẻ người sử dụng.
Việc quản lý yếu kém trong sử dụng thuốc BVTV của tỉnh Quảng Ninh cũng tương tự như tình trạng của các tỉnh khác trong VDHBB. Nguyên nhân của hiện tượng này chủ yếu là do trình độ hiểu biết của nhiều nông dân còn hạn chế, nhưng quan trọng hơn cả là do công tác QLNN trong sử dụng thuốc BVTV còn lỏng lẻo, các chế tài chưa đủ mạnh, thiếu tính nghiêm minh dẫn đến chưa đủ sức răn đe.
Thứ bảy, công tác thanh kiểm tra chưa nghiêm minh, hiệu quả kém
và còn chồng chéo
Một số hoạt động thanh tra ngành, lĩnh vực còn mâu thuẫn, chồng chéo với thanh tra theo cấp hành chính và giữa các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực với nhau. Đặc biệt, còn có sự chồng chéo, trùng lặp giữa hoạt động thanh tra và hoạt động của các tổ chức giám sát. Chẳng hạn, trong thanh tra về an toàn thực phẩm, do không có cán bộ chuyên trách, cán bộ thanh tra thiếu chuyên môn nên còn tình trạng tâm lý sợ sai, ngại va chạm khi thi hành nhiệm vụ của cán bộ cấp quận, cấp phường… Thậm chí, ở tỉnh Thái Bình, 100% các cuộc thanh tra không ban hành kết luận, đi ngược lại nguyên tắc phải công khai trong hoạt động thanh tra.
3.4.3. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế
3.4.3.1. Nhóm nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, Do điểm xuất phát của nền kinh tế trong VDHBB còn thấp; tốc độ đô thị hoá và tăng trưởng kinh tế cao, thu hút đầu tư lớn đã nảy sinh những mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Nhu cầu đầu
155
tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn lớn, song khả năng đáp ứng của các nguồn lực còn thấp.
Thứ hai, Do tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, gây thiệt hại lớn cho sản xuất và đời sống của người dân; giá vật tư đầu vào sản xuất nông nghiệp liên tục tăng, giá đầu ra giảm; Tập quán sản xuất của nông dân còn lạc hậu; vốn tích lũy đầu tư mở rộng quy mô sản xuất không đáp ứng được nhu cầu; lúng túng và gặp khó khăn định hướng sản xuất hàng hóa.
Thứ ba, Quy mô đất sản xuất nông nghiệp giảm, ruộng đất phân tán, manh mún, tích tụ ruộng đất chậm, chưa lớn trong khi ban hành chính sách quản lý đất đai còn nhiều bất cập, tạo rào cản cho phát triển nông nghiệp sản xuất quy mô lớn và khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất.
Thứ tư, Hạ tầng nông thôn VDHBB chưa phát triển. Kết cấu hạ tầng và dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp mặc dù đã được đầu tư nhưng vẫn thiếu, chưa đồng bộ, nhất là phục vụ bảo quản, chế biến. Hạ tầng giao thông nông thôn VDHBB vẫn còn rất hạn chế, giao thông ở khu vực nông thôn không thuận tiện làm giảm sức hấp dẫn thu hút đầu tư và tăng chi phí sản xuất nông nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu do thiếu vốn đầu tư, thiếu quy hoạch tổng thể. Việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng của chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước triển khai chậm, dẫn đến cạnh tranh giữa các địa phương, cản trở sự phát triển toàn diện về cơ sở hạ tầng và kết quả là các dự án cơ sở hạ tâng bị phân tán, không được sử dụng tối ưu với tỷ lệ sử dụng thấp.
Thứ năm, Quy định về mức hỗ trợ đầu tư từ ngân sách Trung ương cho các chương trình chưa phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Cụ thể như quy định tỷ lệ hỗ trợ đầu tư cho chương trình đê biển; chương trình xây dựng khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá… Theo Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định về nguyên tắc, định mức phân bổ vốn hỗ trợ có mục tiêu đối với các địa phương có tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung ương. Hiện mức đầu tư ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn rất thấp, khoảng 1,5% GDP, trong khi đóng
156
góp của nông nghiệp vào GDP khoảng 20%. Sự đầu tư không đúng mức này chưa tạo động lực giúp cho nông thôn phát triển.
3.4.3.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Tư duy và nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa đầy đủ, chưa đổi mới theo kịp đòi hỏi của thực tiễn thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong điều kiện mới. Còn quá tập trung vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế chủ yếu thông qua phát triển công nghiệp, dịch vụ, mở rộng đô thị và coi đó là nội dung chính của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà xem nhẹ việc phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết các vấn đề bức xúc của nông dân, nên chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và huy động nguồn lực tương xứng đầu tư cho lĩnh vực này. Việc lãnh đạo phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở một số địa phương còn lúng túng cả về nội dung và phương pháp, do đó chưa xây dựng được chương trình hành động cụ thể, thiếu giải pháp đồng bộ về tìm kiếm thị trường tiêu thụ nông sản phẩm và tính thực tế khi triển khai các chương trình, dự án. Có tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ từ ngân sách.
Thứ hai, Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của một bộ phận cán bộ, nhất là ở cơ sở nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng tham mưu, đề xuất, cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước để áp dụng còn yếu. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, đội ngũ doanh nhân nông thôn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; thiếu đội ngũ cán bộ giỏi, tâm huyết về xây dựng nông thôn mới làm nòng cốt chỉ đạo thực hiện ở cơ sở. Bên cạnh đó công tác phổ biến, tuyên truyền, cung cấp thông tin về luật pháp, cơ chế, chính sách, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, huấn luyện nghề cho nông dân còn hạn chế.
Thứ ba, NSNN cấp cho hoạt động QLNN trong nông nghiệp rất hạn chế. Đơn cử, trong quản lý an toàn thực phẩm, Sở Công Thương các tỉnh không được cấp công tác phí lại phải “tự lo” kinh phí cho các hoạt động liên quan đến công tác đảm bảo ATVSTP. Đối với Bộ NN&PTNT, Kinh phí cho công tác đảm bảo ATVSTP rất hạn chế, đặc biệt kinh phí cho các Chương trình mục tiêu bị cắt giảm nhiều trong thời gian qua.
157
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương 3 của luận án, tác giả đã phân tích tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn 2008-2016 của VDHBB dựa trên việc xem xét các số liệu của từng tỉnh và tổng hợp số liệu chung của vùng. Qua các số liệu thu thập được, luận án đã nhận định rằng, trong những năm qua, nền nông nghiệp của VDHBB đã có một sự chuyển biến rõ nét. Sản lượng lương thực, sản lượng gia súc, gia cầm và thủy sản có sự tăng, giảm không đều nhau, trong đó thủy sản và chăn nuôi gia cầm tăng khá mạnh, còn trồng cây lương thực và chăn nuôi gia súc giảm nhẹ hoặc gần như không thay đổi. Một thực tế chung đáng lo ngại ở VDHBB là diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch, tuy vậy do năng suất nông nghiệp của VDHBB thuộc loại cao nhất trong cả nước, vì thế thực trạng này không ảnh hưởng nhiều đến kết quả sản xuất.
Phần nội dung trọng tâm của chương 3, luận án đã đi sâu phân tích một cách chi tiết thực trạng về QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trong VDHBB trên các mặt: (1) Bộ máy QLNN; (2) Hệ thống luật; (3) Công tác kế hoạch hóa; (4) Hệ thống chính sách phát triển và (5) Hoạt động thanh, kiểm tra, giám sát. Từ đó, luận án đã chỉ ra 6 hạn chế còn tồn tại trong công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của Vùng, đó là: Chưa có Ban chỉ đạo với chức năng điều phối VDHBB dẫn đến khả năng liên kết vùng yếu kém; Bộ máy QLNN về kinh tế nông nghiệp VDHBB còn chồng chéo, thiếu nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan quản lý; Luật Đất đai 2013 mặc dù vừa mới ban hành song đã bộc lộ một số bất cập khi thực thi; Công tác lập quy hoạch quá ồ ạt, các quy hoạch có nội dung chồng chéo, quy hoạch thiếu tính khả thi. Chính sách tín dụng cho nông nghiệp chưa thực sự phát huy hiệu quả; Và công tác thanh kiểm tra chưa nghiêm minh, hiệu quả kém và còn chồng chéo. Luận án cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới những hạn chế đó trong công tác QLNN về kinh tế nông nghiệp ở VDHBB.
Những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN về kinh tế nông nghiệp VDHBB được phân tích kỹ lưỡng trong chương 3 là cơ sở thực tiễn để tác giả đề xuất các giải pháp mang tính khả thi và thiết thực nhằm hoàn thiện công tác QLNN.
158
CHƯƠNG 4:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ THEO HƯỚNG
CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC DỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
4.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và tác động tới kinh tế nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Thế giới hiện nay đang diễn ra những thay đổi sâu sắc cả về chính trị và kinh tế. Thật vậy, trung tâm kinh tế thế giới đang chuyển hướng về phía đông và phía nam. Tăng trưởng kinh tế và dân số tập trung ở các thị trường mới nổi và các nước đang phát triển. Các quốc gia này đang đứng đầu thế giới về dân số, về tốc độ tăng trưởng GDP và thương mại. Trong khi đó, một số nước phát triển vẫn còn đang phải vật lộn với cuộc khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng chậm hoặc không tăng trưởng, mức thất nghiệp và nợ công cao chưa từng có.
Tác động của những thay đổi này rất rõ ràng, đặc biệt là ở các thị trường hàng hóa. Trong những năm gần đây, giá khoáng sản, kim loại và hàng nông sản đã tăng mạnh và có khả năng sẽ ở mức cao. Theo mô hình Triển vọng Nông nghiệp của OECD/FAO giá ngũ cốc sẽ lên đến 20% và đối với các loại thịt tăng cao hơn 30% trong thập kỷ tới. Điều này rất quan trọng vì giá thực phẩm là một trong những vấn đề sống còn đối với con người. Đặc biệt, đối với những người nghèo, họ đã dành 80% hoặc 90% thu nhập của mình để chi tiêu cho thực phẩm. Hiện nay trên thế giới có gần 1 tỷ người đang thiếu dinh dưỡng. Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực là một trong những ưu tiên của các quốc gia trên thế giới. Theo dự đoán của các chuyên gia, chỉ trong hơn 40 năm nữa, dân số thế giới sẽ lên tới 9 tỉ người, để nuôi dưỡng được số dân trên đến năm 2050, thế giới phải tăng 70-100% lương thực sẵn có. Vì vậy, để đạt được mục tiêu trên, xu hướng nông nghiệp thế giới hiện nay là:
159
Tăng năng suất nông nghiệp
Mặc dù năng suất nông nghiệp thế giới không bị giảm nhưng đang bị chậm lại, chậm lại ở những nơi năng suất đã cao trên thế giới. Nhưng ở các khu vực lớn của châu Phi, Mỹ Latinh, vùng Baltic và các khu vực của châu Á có khoảng cách lớn giữa năng suất hiện tại và năng suất tiềm năng. Điều này thúc đẩy các quốc gia cải thiện thể chế, cung cấp đầy đủ các dịch vụ để nâng cao năng suất nông nghiệp. Ngoài ra, để phát huy hết tiềm năng tăng năng suất, các quốc gia tăng cường đầu tư vào nghiên cứu. Điều này bao gồm những nghiên cứu về thích ứng với biến đổi khí hậu bằng cách phát triển các giống mới chống lại hạn hán và nhiệt độ thay đổi và tạo ra một nền nông nghiệp bền vững hơn.
Gia tăng đầu tư vào nông nghiệp
Xu hướng thứ hai là các nước gia tăng đầu tư vào nông nghiệp với nguồn vốn đến từ cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân. Các chính phủ tạo điều kiện để các nhà đầu tư cá nhân, nông dân và các bên liên quan sẵn sàng và có khả năng đầu tư. Các quốc gia đang cố gắng cung cấp môi trường ổn định và minh bạch bao gồm cải thiện quản trị, nâng cao hiệu quả thị trường và đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
Tăng trưởng xanh cho nông nghiệp
Hơn nữa, giảm trợ cấp về mặt kinh tế và gây hại cho môi trường sẽ cải thiện hoạt động tốt của thị trường để có thể cung cấp các tín hiệu đúng cho môi trường - giá phản ánh giá trị khan hiếm tài nguyên thiên nhiên và tác động môi trường của nông nghiệp.
Thế giới hiện nay cho rằng tăng trưởng xanh cho ngành lương thực và nông nghiệp là cần thiết. Tăng trưởng xanh có nghĩa là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời giảm thiểu ô nhiễm và phát thải khí nhà kính. Điều này có nghĩa là giảm thiểu lãng phí và sử dụng không hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và duy trì đa dạng sinh học. Tăng trưởng xanh làm cho năng suất nông nghiệp tăng trưởng bền vững.
Hợp tác phát triển nông nghiệp
Mặc dù trong thời gian gần đây một số quốc gia đã thực hiện các biện pháp hạn chế xuất khẩu nông nghiệp. Những biện pháp này và các biện pháp
160
chính sách khác như áp thuế nhập khẩu, kiểm soát giá cả, chính sách hỗ trợ mua xăng dầu và nhiên liệu sinh học đã làm mất ổn định thị trường quốc tế một cách đáng kể, trong khi thị trường nội địa lại kém hiệu quả. Tuy nhiên, đối thoại quốc tế và phối hợp chính sách vẫn là xu thế chủ đạo giữa các quốc gia trong phát triển nông nghiệp. Các nước phát triển đã thành lập Hệ thống Thông tin Thị trường Nông nghiệp (AMIS) và Diễn đàn Đáp ứng Nhanh, nhằm phối hợp chính sách và cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và minh bạch hơn trên thị trường lương thực toàn cầu.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trong nông nghiệp
Sự phát triển của ngành nông nghiệp trên thế giới trong những năm gần đây còn bị chi phối bởi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây, tập trung chủ yếu vào sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano. Cuộc cách mạng này sẽ có ảnh hưởng to lớn đến sản xuất nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam. Chẳng hạn, nếu chúng ta muốn nuôi trồng một số "cây và con" để tham gia thị trường quốc tế, thì rất cần biết ở những nơi khác ai cũng nuôi trồng những cây và con này, sản lượng các nơi đó có thể là bao nhiêu, nhu cầu thị trường ra sao. Cần thu thập dữ liệu về những điều này và từ đó tính toán để có những dự báo và quyết định xác đáng.
Cách mạng 4.0 cũng có thể giúp xây dựng ngành nông nghiệp thông minh cho Việt Nam. Điều này có thể thể hiện ở việc chuyển dịch một phần diện tích lúa sang các cây trồng, vật nuôi khác có giá trị cao hơn lúa. Việc dịch chuyển ở đâu, chuyển bao nhiêu, giá trị cao hơn bao nhiêu… đều cần và có thể tính toán được nhờ khoa học dữ liệu. Chẳng hạn trong việc nuôi tôm, tạo ra các giống tôm không thoái hoá cũng như thức ăn thích hợp cho chúng cần được nghiên cứu với việc sử dụng công nghệ số. Từ đây từng bước ta có thể tiến đến nông nghiệp chính xác cho nhiều "cây và con".
4.1.2. Định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Vùng Duyên Hải Bắc Bộ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030
Từ các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ thực trạng phát triển
161
kinh tế nông nghiệp ở Vùng Duyên Hải Bắc Bộ giai đoạn 2008-2016; định hướng chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030 bao gồm:
Thứ nhất là, chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá để góp phần giúp nông dân thoát nghèo bền vững. Kinh tế hộ thời gian qua ở Vùng Duyên Hải Bắc Bộ có bước phát triển khá mạnh mẽ, tuy nhiên tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp vẫn diễn ra khá phổ biến. Do vậy chiến lược cần được ưu tiên trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Vùng Duyên Hải Bắc Bộ là ghép một bộ phận lớn nông dân chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá để thoát nghèo bền vững. Theo đó, phải thành lập các tổ chức nông dân chất lượng, HTX nông nghiệp như nhóm chăn nuôi, tổ sản xuất, câu lạc bộ khuyến nông, khuyến ngư, mô hình hợp tác tín dụng… đó chính là mẫu thể chế phi thị trường giúp nông dân tiếp xúc với thị trường.
Thứ hai là, đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp để tạo thêm việc là mới và tăng thu nhập cho người nông dân. Từ thực trạng trong quá trình CNH, HĐH, đô thị hoá, nhất là du lịch đang phát triển khá mạnh ở Vùng Duyên Hải Bắc Bộ nên nhu cầu về nông sản đang tăng nhanh và khá đa dạng. Mặt khác thị trường nông sản giá cả thường biến động, được mùa thì mất giá vẫn diễn ra khá phổ biến. Do vậy, hướng quy hoạch chiến lược là thay thế quy hoạch các vùng chuyên canh có lợi thế cạnh tranh cao của từng địa phương, bằng đa dạng hoá nông sản để giảm rủi ro, thậm chí là tự triệt tiêu lẫn nhau. Nếu chỉ coi trọng một vài mặt hàng nông sản để xuất khẩu, chưa coi trọng phát triển thị trường trong nước cũng trái với chiến lược đa dạng hoá. Kết hợp đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp theo cấp địa phương với đa dạng hoá ở cấp hộ dựa trên một số sản phẩm chính, tạo sự ổn định và liên kết tốt hơn giữa các hộ, phối hợp hài hoà giữa chuyên môn hoá và đa dạng hoá cũng như kết hợp hài hoà giữa sản xuất nông nghiệp để xuất khẩu và tiêu thụ trong nước sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội có lợi thế của từng tỉnh, thành phố ở Vùng Duyên Hải Bắc Bộ.
Thứ ba là, xây dựng chiến lược các thể chế thị trường đa dạng, hoàn thiện thể chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể khẳng định thể chế thị trường một mặt với nội dung quan trọng cần phải nâng tầm
162
chiến lược trong việc phát triển các ngành hàng nông sản. Do mặt phát triển các ngành hàng nông sản là cơ sở quan trọng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo các tiêu chí CNH, HĐH. Vì vậy, xây dựng và phát triển các thể chế thị trường vừa là định hướng chiến lược, vừa là giải pháp đột phá cho phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Thực tế là ở Vùng Duyên Hải Bắc Bộ chưa có một thị trường nông thôn phát triển hoàn chỉnh. Do vậy để phát triển thị trường một cách hoàn chỉnh cần phải xây dựng một hệ thống thể chế thị trường đa dạng và hiệu quả, đa dạng thể thế thị trường để nông dân và doanh nghiệp có nhiều cơ hội lựa chọn cho hiệu quả nhất. Ngoài các thể chế đã hình thành như hợp đồng giữa doanh nghiệp và nông dân từ khâu sản xuất đến bao tiêu sản phẩm cần sớm hình thành một số thể chế mới để nông dân trực tiếp tham gia như hợp tác xã, hiệp hội quản lí chất lượng nông sản; khẳng định chất lượng nông sản…
Do vậy phát triển các thể chế thị trường cần đẩy mạnh việc hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật làm môi trường hoạt động cho trao đổi của thị trường; hình thành các hệ thống tư vấn pháp luật miễn phí cho doanh nghiệp và nông dân.
Thứ tư là, xây dựng chiến lược CNH-HĐH nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp, từ đó đẩy mạnh phát triển công nghiệp phát triển đa dạng các ngành nghề nông thôn, nhất là các ngành nghề phục vụ cho phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH như cơ khí, luyện kim chế tạo ra các nông cụ; sơ chế nông sản; cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp,… Do vậy, định hướng chiến lược của Chính phủ và các cấp chính quyền là sớm bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá nông thôn. Theo đó, cần xây dựng chiến lược thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động song song với cơ cấu ngành.
Và cuối cùng là, đẩy mạnh quá trình đô thị hoá phải đảm bảo tăng sự liên kết giữa công nghiệp và nông nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay, việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển khu vực đô thị và khu vực nông thôn là khá mạnh mẽ nhưng lại thiếu tính gắn kết dẫn đến hệ luỵ là sự hỗ trợ giữa công nghiệp và nông nghiệp để cùng phát triển là không cao, hiệu quả thấp.
163
Trong khi xu hướng của một số quốc gia phát triển là tiến hành CNH và đô thị hoá phi tập trung theo mô hình phát triển các đô thị, trong đó chỉ có các đô thị trung bình và các thị trấn nhỏ là trung tâm cho việc phát triển vùng nông thôn xung quanh. Do vậy chiến lược CNH đi theo hướng phi tập trung, tạo ra nhiều đô thị nhỏ ở các huyện khu vực nông thôn trên địa bàn các tỉnh, thành phố Vùng Duyên Hải Bắc Bộ để phân bổ đều trên các lãnh thổ (không chỉ tập trung hoá đô thị) và sẽ tạo ra được nhiều việc làm ở khu vực nông thôn, từ đó đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.
4.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa tại Vùng Duyên Hải Bắc Bộ
Quyết định số 865/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/7/2008: Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 đã chỉ ra định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp VDHBB là: Về phát triển nông nghiệp - nông thôn: (i) Tập trung phát triển ngành với các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, có năng suất cao, có giá trị lớn và có khả năng xuất khẩu; đồng thời ổn định quỹ đất phục vụ cho mục tiêu an ninh lương thực quốc gia; (ii) Tập trung sản xuất thâm canh lúa đặc sản, rau, hoa và cây trồng vụ đông; phát triển nuôi lợn, gia cầm với quy mô công nghiệp; nuôi thủy sản nước lợ, nước ngọt và nuôi hải sản trên biển. Nâng giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha đạt trên 100 triệu đồng vào năm 2020; (iii) Đầu tư, bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ. Trồng cây phân tán, bảo vệ môi trường ở các đô thị lớn, rừng ngập mặn ven biển nhằm kết hợp phát triển du lịch, nghỉ dưỡng; (iv) Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình xây dựng nông thôn mới, chú trọng phát triển làng nghề truyền thống và phát triển du lịch sinh thái với các sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ hướng xuất khẩu đặc trưng của địa phương. Nhiệm vụ mục tiêu chung phát triển nông nghiệp đô thị trên địa bàn VDHBB từ nay đến năm 2020 là tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết chủ trương, chính sách của Trung ương và thành phố về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nông nghiệp VDHBB sẽ chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng kỹ thuật sản xuất công nghệ cao, sử dụng giống mới để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, ổn định và bền vững, góp phần giải quyết nhu cầu lương thực, thực phẩm an toàn của vùng. Để thực hiện
164
được mục tiêu phát triển nông nghiệp theo đề án quy hoạch sản xuất nông nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn 2025, ngành nông nghiệp và PTNT trên đại bàn VDHBB cần chủ động, phối hợp với các quận huyện, các sở ngành, liên quan nghiên cứu để thực hiện các định hướng như sau:
Trước hết là đẩy mạnh việc cung cấp thông tin quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025; tiến hành quy hoạch và khoanh vùng xác định ngay diện tích sản xuất các loại giống, đồng thời triển khai kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thiết bị, công nghệ để định hình trung tâm giống, sản xuất và cung cấp giống cho thành phố, các tỉnh và khu vực; nghiên cứu và thực hiện các giải pháp khắc phục các tồn tại, yếu kém trong thời gian qua để phát triển ổn định, bền vững. Đó là nông dân, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng, khả năng và nguồn lực để phát triển sản xuất; chậm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và phương thức tổ chức sản xuất; chưa hình thành các vùng sản xuất tập trung có khối lượng hàng hoá nông sản lớn; chậm phát triển cơ giới hoá, công nghệ sau thu hoạch, hệ thống quản lý chất lượng, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, …
Để giải quyết cơ bản các vấn đề trên, ngành nông nghiệp và PTNT cần chủ động nghiên cứu phát triển công nghiệp dịch vụ phục vụ đầu vào, giải quyết đầu ra, mở rộng và nâng cấp việc chế biến và bảo quản vận chuyển sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Tổ chức các dịch vụ cung cấp máy móc, trang thiết bị, dụng cụ chuyên dùng, các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, các loại phân bón, chế phẩm sinh học, thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản là nhu cầu cần thiết đòi hỏi các ngành công nghiệp phát triển nhanh và gắn bó với nông nghiệp một cách lâu dài, bền vững. Công nghiệp sơ chế, bảo quản, vận chuyển sau khi thu hoạch nhằm nâng cao giá trị sản phẩm. Việc phát triển nhanh công nghiệp gắn bó với nông nghiệp đòi hỏi phải chú trọng việc xử lý chất thải, phát triển mảng xanh, bảo vệ môi trường đô thị bền vững, khai thác tối đa tiềm năng đất đai, mặt nước và khoảng không gian, khoa học công nghệ. Huy động các nguồn lực của trong vùng, các thành phần kinh tế để tổ chức sản xuất các loại nông sản phẩm ổn định lâu dài và có giá trị cao. Nông nghiệp VDHBB phải kết hợp với du lịch sinh thái góp phần cải thiện cảnh quan và môi trường theo hướng xanh, sạch, đẹp, an toàn, hài hoà giữa con người và thiên nhiên, để cải thiện, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn, đồng thời tạo môi trường cảnh quan, vui
165
chơi, nghỉ ngơi, giải trí lành mạnh. Để thực hiện chức năng phát triển nông nghiệp đô thị xanh, sạch đẹp, ngoài nguồn vốn Nhà nước đầu tư kết cấu hạn tầng thiết yếu (điện, đường, cấp thoát nước), chính sách kích cầu trong đầu tư và tiêu dùng, cơ chế huy động và quản lý các nguồn vốn chương trình xây dựng thí điểm mô hình xã nông thôn mới, thành phố cần nghiên cứu thực hiện một số chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia phát triển nông nghiệp đô thị theo các dự án (được phê duyệt) trong lĩnh vực phát triển cảnh quan, phòng hộ, cải thiện và bảo vệ môi trường; thành phố cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước để bảo vệ nghiêm ngặt khu dự trữ sinh quyển thế giới, các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; tiếp tục trồng cây phân tán tại các khu công nghiệp, khu đô thị và các khu dân cư, ven đường giao thông, công trình công cộng, tăng tỷ lệ che phủ của rừng và cây xanh trên địa bàn thành phố.
Nguồn nhân lực là yếu tố cần thiết để phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Công tác đào tạo, huấn luyện, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cần được quan tâm đầu tư hỗ trợ tích cực. Các đơn vị như Trung tâm Công nghệ sinh học, Khu Nông nghiệp công nghệ cao, Trung tâm Tư vấn-Hỗ trợ nông nghiệp, Trung tâm Quản lý Kiểm định giống cây trồng vật nuôi, Trung tâm Khuyến nông, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức dạy nghề và các doanh nghiệp phải chủ động, phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học và dạy nghề, tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật từ kết quả nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng các thành tựu khoa học khuyến nông về sử dụng giống mới trong kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản cho nông dân, nhà vườn ở thành phố và các tỉnh, khu vực. Tổ chức các điểm trình diễn, tập huấn, hoạt động tham quan, học tập những điển hình tiên tiến trong và ngoài nước.
Phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa tại VDHBB là yêu cầu khách quan, cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Các sở ngành, các cấp chính quyền địa phương, nhất là ngành nông nghiệp và PTNT cần tập trung mọi nguồn lực để thực hiện.
166
4.2. GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ
4.2.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
4.2.1.1. Xây dựng cơ chế quản lý về kinh tế nông nghiệp chung của Vùng Duyên Hải Bắc Bộ
Mặc dù Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 865/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng VDHBB đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa thành lập cơ quan quản lý chung cho cả Vùng, và do đó, hiện nay chưa hình thành cơ chế quản lý về kinh tế nông nghiệp chung cho toàn VDHBB. Việc xây dựng một cơ chế quản lý về kinh tế nông nghiệp của VDHBB sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh CNH –HĐH nông nghiệp địa phương.
Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển trên thế giới, có 3 mô
hình thông dụng trong quản lý vùng là:
Thứ nhất, quản lý vùng không gian lãnh thổ bằng cách hình thành thêm một cấp hành chính mới là chính quyền vùng. Ưu điểm của hình thức quản lý vùng này là tính hợp hiến, chức năng và quyền hạn rõ ràng, hoạt động chuyên nghiệp. Song nhược điểm của hình thức quản lý này là cồng kềnh vì thêm một cấp quản lý hành chính, dễ va chạm với chức năng và quyền tự chủ của chính quyền các tỉnh trong vùng.
Thứ hai, quản lý vùng không gian lãnh thổ bằng cơ quan của Chính phủ Trung ương. Ưu điểm của hình thức quản lý vùng này là gọn nhẹ, triển khai nhanh các chương trình và dự án quốc gia. Nhược điểm là chưa chú ý đến quyền lợi của mỗi địa phương và điều hoà quyền lợi của các địa phương trong vùng.
Thứ ba, quản lý vùng không gian lãnh thổ bằng một cơ quan hay tổ chức do các chính quyền tỉnh thành trong vùng liên kết với nhau cùng thoả thuận lập ra và quy định các chức năng hoạt động. Mô hình quản lý phát triển vùng này khá phổ biến ở các nước mà địa phương được phân quyền và tự quản ở mức độ lớn. Ưu điểm của hình thức này là gọn nhẹ, dễ dàng thành lập
167
hay giải thể, tập trung giải quyết một số vấn đề liên địa phương nhất định. Nhược điểm là trọng lượng tiếng nói của cơ quan quản lý vùng không cao.
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, khi 3 Ban chỉ đạo ở các vùng: Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ đã kết thúc hoạt động do còn nhiều hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn hoạt động của mô hình này, dẫn tới trùng lắp chức năng, nhiệm vụ của chính các cơ quan lãnh đạo và các bộ, ban, ngành ở địa phương và Trung ương. Chính vì thế, để hình thành một cấp hành chính vùng của VDHBB như mô hình Ban chỉ đạo 3 tây như trước đây là không thể thực hiện. Theo quan điểm của NCS, mô hình thứ ba sẽ là thích hợp với liên kết vùng hơn trong điều kiện hiện nay.
Luận án kiến nghị thành lập Ban chỉ đạo vùng song không phải là một cấp quản lý hành chính của vùng mà chỉ là một tổ chức mang tính liên kết để chỉ đạo phối hợp hoạt động về nông nghiệp trong toàn vùng. Trong cơ cấu bộ máy quản lý đối với kinh tế nông nghiệp của Vùng, Ban chỉ đạo vùng có thể giao cho giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT của các tỉnh, hoặc các phó chủ tịch tỉnh nhiệm vụ xây dựng và thực hiện quy chế hành động của Vùng. Hoặc có thể thực hiện dưới hình thức như tổ chức hội nghị liên vùng định kì hàng năm giữa các chủ tịch/phó chủ tịch tỉnh; giám đốc Sở NNPTNT của các tỉnh, trong đó thảo luận trao đổi về các biện pháp và nội dung phối hợp vùng; hoặc thành lập đơn vị điều phối phát triển KTNN vùng gồm các thành viên kiêm nhiệm, nhóm họp theo quí hoặc nửa năm….
Một cơ quan quản lý thống nhất có thể tạo ra một vùng liên kết sản xuất nông nghiệp dựa trên lợi thế nông nghiệp của từng tỉnh thành, có thể tạo ra các cụm liên kết nông nghiệp. Cơ quan quản lý thống nhất có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển cụm liên kết ngành nông nghiệp. Đó là một giải pháp phù hợp với điều kiện của VDHBB và qua đó có thể đạt được những kết quả quan trọng nhờ tăng cường các mối liên kết (cả hợp tác và cạnh tranh) giữa nông dân và các tác nhân thương mại và cơ sở hạ tầng liên quan. Hơn nữa, cơ quan quản lý kinh tế nông nghiệp của Vùng cũng có thể đóng vai trò điều tiết, đồng bộ hóa phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng điện và hạ tầng thủy lợi của Vùng. Một cơ quan quản lý vùng dưới hình thức ban chỉ đạo sẽ giải quyết tốt hơn việc kiểm soát dịch bệnh, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm.
168
Bên cạnh việc thành lập cơ quan quản lý kinh tế nông nghiệp cho VDHBB, có thể tạo ra các tổ chức nghề, tổ chức quần chúng của vùng, đó là Hội phụ nữ, Hội nông dân và Đoàn thanh niên. Các tổ chức này sẽ tạo ra lưới xã hội quan trọng trong vùng và liên kết chặt chẽ với các hệ thống chính quyền địa phương và đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nông dân, đặc biệt là người nghèo trong việc nâng cao mức sống và nhận thức của họ về CNH, HĐH nông nghiệp. Ngoài ra, các tổ chức này còn hoạt động tích cực với vai trò trung gian giữa người sản xuất và các nhóm kinh doanh khác trong dây chuyền sản xuất. Lĩnh vực hoạt động của các Hiệp hội nghề thường rất rộng từ việc cung cấp các dịch vụ kỹ thuật, đào tạo và tăng cường năng lực đến việc thực hiện các dự án tài trợ nhằm giúp người dân địa phương nâng cao mức sống và các điều kiện y tế, giáo dục, tạo thu nhập và bảo vệ môi trường. Với những đặc điểm như vậy, các tổ chức này chủ yếu hoạt động trong các chương trình và phong trào xã hội do chính quyền địa phương khởi xướng. Nếu như cơ quan QLNN vùng được thành lập thì sẽ đóng vai trò là tổ chức thống nhất điều tiết, chỉ đạo hoạt động của các hiệp hội trên và qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động.
4.2.1.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp
Trong hoạt động QLNN, cũng như trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thành công và thất bại của tổ chức. Để tiếp tục thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức, viên chức, lao động, ngành NN và PTNT trong VDHBB xác định một số giải pháp trọng tâm sau đây:
Một là, rà soát, đánh giá đúng trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động và công tác đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian qua, từ đó xác định nhu cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức hàng năm và cả giai đoạn phù hợp với từng chức danh, ngạch, bậc, trên cơ sở quy hoạch cán bộ và nhu cầu thực tiễn của từng đơn vị, của ngành.
Hai là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Đặc biệt là quan tâm lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu cán bộ chuyên môn giỏi
169
trên từng lĩnh vực của ngành. Làm tốt công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp nhằm phát huy và khai thác mọi tiềm năng, năng lực, sở trường của từng cá nhân trong thực thi nhiệm vụ được giao.
Ba là, có cơ chế khuyến khích, động viên cán bộ, công chức, viên chức tự nâng cao trình độ về mọi mặt. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, cần chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạnh, bồi dưỡng lý luận phải đi đôi với kiến thức thực tiễn.
Bốn là, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ. Thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với việc bố trí, sử dụng cán bộ sau đào tạo và theo quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý ngắn hạn và dài hạn. Đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
4.2.2. Nâng cao chất lượng quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa vùng Duyên hải Bắc Bộ
VDHBB cần thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn để có chiến lược bảo tồn và sử dụng đất nông nghiệp trước khi thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp và đô thị. Thực hiện quy hoạch nông nghiệp theo hướng dựa vào thị trường mở, không nên cố định diện tích lúa, nên bảo tồn diện tích đất nông nghiệp. Cần thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp cả trong mục tiêu trung hạn và dài hạn (50 hay 100 năm), để có chiến lược bảo tồn và sử dụng đất nông nghiệp trước khi thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp và đô thị. Đối với loại đất nông nghiệp, cần tạo điều kiện cho người sử dụng đất quyết định phương thức sử dụng từng loại đất phù hợp theo tín hiệu thị trường hơn là cố định phương thức sử dụng cho từng loại đất. Nông dân có thể chuyển sang trồng hoa, cây cảnh, rau màu, các nông sản khác có giá trị hơn theo tín hiệu thị trường.
Sớm đổi mới quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp theo hướng: Đối với diện tích đất sử dụng vào xây dựng cơ sở hạ tầng của sản xuất (thủy lợi, đường giao thông, công trình khác...) và phần diện tích đất bố trí để phát triển công nghiệp, dịch vụ và các công trình văn hóa, phúc lợi xã hội ở nông thôn, cần có các nghiên cứu về đô thị hoá nhằm có các quy hoạch sử dụng đất khoa học, rõ ràng và mang tính chiến lược dài hạn để tránh tình trạng đầu cơ ruộng
170
đất làm giảm sút việc phát triển nông nghiệp khi mà công nghiệp chưa thực sự có nhu cầu cụ thể. Cần ưu tiên sử dụng các vùng đất kém màu mỡ. Triển khai quy hoạch mềm trên diện tích đất, mặt nước được sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp lâu dài. Quy hoạch mềm thể hiện các phương án về bố trí cây trồng, vật nuôi cụ thể cho từng loại đất, mặt nước theo lợi thế từng vùng và tiểu vùng, có thể thay đổi linh hoạt theo tín hiệu thị trường. Cụ thể:
Đối với chuyên ngành nông nghiệp
Rà soát, điều chỉnh quy hoạch sản xuất lúa gạo theo hướng giảm mạnh diện tích trồng lúa trên quy mô cả nước và cụ thể hóa vào từng tỉnh, thành phố đang trồng lúa hiện nay. Tiêu chí rà soát có thể là: những diện tích cho năng suất lúa đạt mức tối thiểu trên 4 tấn/ha/01vụ và chủ động được nguồn nước tưới thì tiếp tục đưa vào quy hoạch sản xuất lúa lâu dài, những diện tích cho năng suất thấp hơn 4 tấn/ha/vụ hoặc không chủ động được được tưới cho cả hai vụ trong năm thì loại khỏi quy hoạch để chuyển đổi sang cây trồng khác có hiệu quả hơn.
Rà soát lại quy hoạch phát triển các cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả theo từng tỉnh, thành phố đã trồng và đang trồng. Đối với những tỉnh, thành phố mà các cây trồng này không cho hiệu quả mong muốn (năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm thấp) thì đưa vào kế hoạch thay thế bằng cây trồng khác phù hợp hơn. Trên cơ sở đó xác định cơ cấu ổn định cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả sẽ phát triển đến năm 2030 trên từng tỉnh, thành phố VDHBB.
Rà soát lại diện tích các loại cây ngắn ngày như: ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ tương, rau xanh các loại để xác định tiếp tục phát triển lâu dài ở từng tỉnh, thành phố; Rà soát lại địa bàn phát triển chăn nuôi đại gia súc, lợn, gia cầm, thủy cầm ở từng tỉnh, thành phố để xác định mức độ phù hợp với yêu cầu của sản xuất chăn nuôi hàng hóa tập trung. Đối với chăn nuôi nhỏ lẻ, không bền vững, gây ô nhiễm môi trường cần kiên quyết loại khỏi quy hoạch. Hình thành chăn nuôi hàng hóa tập trung với quy mô trung bình và lớn.
Đối với ngành thủy sản
Đối với nuôi trồng thủy sản: Rà soát lại quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn ven biển. Trong đó bổ sung về phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là đường giao thông vận chuyển trong vùng, hệ
171
thống dẫn và tiêu nước vào nơi nuôi thả, các mặt bằng tập kết vật tư và sản phẩm và các biện pháp quản lý vùng nuôi đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn môi trường và sản phẩm thuỷ sản.
Đối với đánh bắt thủy hải sản: Triển khai điều tra lại các ngư trường, các vùng khai thác thủy nước ngọt, vùng đánh bắt hải sản biển ven bờ và xa bờ để xác định đúng trữ lượng thủy hải sản có thể khai thác trong những năm tới; Ban hành các quy định về: đánh bắt không dùng dụng cụ hủy diệt, không đánh bắt các loài thủy hải sản còn nhỏ; giám sát mức độ đánh bắt và xử phạt các hành vi vi phạm bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường nước; quy định quản lý các vùng cấm khai thác, hoặc khai thác có giới hạn để bảo tồn thủy sản tại các vùng nước nội địa; quy định về hỗ trợ cư dân sống bằng đánh bắt ven bờ sang đánh bắt xa bờ, hoặc sang nuôi trồng, chế biến thủy sản hoặc sang ngành nghề khác.
4.2.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp trong Vùng Duyên hải Bắc bộ theo hướng Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
4.2.3.1. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ về đất đai cho phát triển nông nghiệp trong vùng Duyên hải Bắc bộ
Như trong chương 2 đã phân tích, các giải pháp về hỗ trợ nông nghiệp hiện nay chủ yếu tập trung vào hỗ trợ vốn, lãi suất, sử dụng đất… mà thiếu hỗ trợ về xây dựng cơ chế thị trường. Tức là cơ chế hỗ trợ hiện nay chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp các nguồn lực đầu vào cho doanh nghiệp, mà chưa quan tâm nhiều đến nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy, cần phải đổi mới hình thức hỗ trợ thông qua việc hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp về nghiên cứu thị trường, phát triển hệ thống phân phối hàng hóa nông sản, tạo điều kiện cho việc kết nối giữa các doanh nghiệp phân phối với các đơn vị sản xuất, chế biến tiêu thụ nông sản. Đồng thời, tổ chức các hội chợ hàng nông sản cấp vùng để tuyên truyền, quảng bá sản phẩm, đặc biệt trên các phương tiện truyền thông. Cùng với đó là việc cung cấp thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước về những mặt hàng nông, lâm, thủy sản chủ lực; các thông tin về thị hiếu, chính sách thuế; các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa của khách hàng… để định hướng sản xuất những sản phẩm cho phù hợp và có sức cạnh tranh cao.
172
Các tỉnh thành trong VDHBB cần phải có các chính sách đột phá để tạo hành lang pháp lý và môi trường cạnh tranh thuận lợi hơn, tạo đòn bẩy và bệ đỡ cho ngành nông nghiệp phát triển. Theo nhận định của chuyên gia Nguyễn Anh Phong – Giám đốc Trung tâm Thông tin Phát triển Nông nghiệp – Nông thôn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện nay so với các nước trong khu vực, Việt Nam có điểm số thấp về điều kiện quản lý, kinh doanh nông nghiệp. Môi trường kinh doanh giống cây trồng của Việt Nam ở mức 62,5/100 điểm, thấp hơn cả Campuchia, Bangladesh và Philippines. Thời gian đăng ký cấp giấy phép kinh doanh giống nông nghiệp mới ở Việt Nam lên tới 901 ngày so với Philippines (571 ngày) và Myanmar (306 ngày). Môi trường kinh doanh máy móc nông nghiệp chỉ đạt 24,4/100 điểm (hơn Lào và Myanmar). Thủ tục và quy định cho phép hưởng ưu đãi về thuế, phí còn nhiều bất cập. Vì vậy, để xây dựng môi trường kinh doanh nông nghiệp có tính hấp dẫn và thuận lợi cho nhà đầu tư, cần có chính sách hợp lý và hiệu quả, toàn diện cho nông nghiệp phát triển.
Các địa phương trong Vùng cần đẩy mạnh cơ chế và thực hiện kịp thời, có hiệu quả các chính sách ưu đãi về thuê đất, sử dụng đất cho doanh nghiệp khi thực hiện các dự án như thuê đất, tạo cơ sở pháp lý vững chức cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp trong khuôn khổ Nghị định của Chính phủ đã ban hành.
Tạo cơ chế cho phép nông dân liên kết với doanh nghiệp thông qua các hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất, cho thuê lại đất, liên kết giữa các hộ nông dân để tổ chức sản xuất với doanh nghiệp để hướng tới một hệ thống kinh doanh nông nghiệp hiện đại, thích ứng với thị trường cần tạo ra nền tảng tin cậy hơn vào các quy trình thị trường. Nhà nước có thể can thiệp vào các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp thông lựa chọn doanh nghiệp thành công để hỗ trợ, tìm đối tác, hoặc xây dựng quan hệ thị trường.
Trong từng loại đất nông nghiệp (thủy sản, cây hằng năm, cây lâu năm), tạo điều kiện cho người sử dụng đất quyết định phương thức sử dụng từng loại phù hợp theo tín hiệu thị trường hơn là cố định phương thức sử dụng cho từng loại đất. Khi giá nông nông sản giảm, nông dân có thể chuyển sang làm hoa, cây cảnh, ra màu, các nông sản khác có giá trị cao hơn theo tín hiệu thị trường. Làm như thế sẽ vừa đảm bảo an ninh lương thực-thực phẩm, vừa tăng cao khả năng thích ứng với thị trường của nông nghiệp. Tập trung phát
173
triển nông nghiệp đảm bảo nhu cầu tiêu dùng tại chỗ ở những vùng sâu, vùng xa, những nơi thị trường chưa phát triển.
4.2.3.2. Đẩy mạnh chính sách hợp tác công tư trong nông nghiệp trong vùng Duyên hải Bắc bộ nhằm đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp
Thực tế hiện nay ở VDHBB tỷ lệ đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thì đầu tư từ ngân sách chiếm một tỷ trọng khá lớn. Để tránh phụ thuộc vào ngân sách các tỉnh đang ngày càng khó khăn, chính quyền các địa phương trong vùng cần sớm có cơ chế và chính sách rõ hơn về đất đai, thu thuế, và đảm bảo đầu tư để kêu gọi, thu hút vốn của doanh nghiệp Việt Nam, vốn của doanh nghiệp nước ngoài vào sản xuất nông nghiệp, nhất là kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành có nhiều lợi thế và năng lực cạnh tranh cao. Quan điểm thu hút vốn đầu tư cần đặt trọng tâm vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đây vừa là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, vừa có vai trò tạo công nghệ mới, năng cao năng lực cạnh tranh cho sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Phát triển hình thức đầu tư theo cơ chế hợp tác công tư là giải pháp quan trọng và cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư, huy động tối đa nguồn lực trong xã hội và vai trò quản lý của nhà nước góp phần thúc đẩy CNH-HĐH nông nghiệp trong vùng.
Trong khi ở các cấp địa phương, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước là phối hợp và giám sát các dịch vụ khuyến nông, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới, phổ cập thông tin và tăng cường năng lực các tổ chức của người sản xuất thì vai trò của khu vực tư nhân là phối hợp và cộng tác với khu vực nhà nước. Nhà nước cũng có thể phối hợp với khu vực tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ tập huấn cho nông dân về phân tích các cơ hội đa dạng hóa và phát triển kinh doanh nông sản. Khu vực tư nhân cũng có thể trực tiếp tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết, tham gia các hoạt động nghiên cứu và khuyến nông nhằm hỗ trợ cho việc thiết lập một môi trường và các hệ thống thị trường hiệu quả.
4.2.3.3. Hoàn thiện chính sách tài chính cho người nông dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp
Một trong những giải pháp về đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta, Hội nghị TW (khóa IX) đã chỉ rõ: “Về tài chính,
174
tín dụng, Nhà nước cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư thích đáng cho phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; Các tổ chức tín dụng hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng ở nông thôn với lãi suất thỏa thuận, tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục cho vay đối với người sản xuất và các tổ chức kinh tế ở nông thôn; Thực hiện chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng các hình thức bán trả góp vật tư, máy móc, thiết bị nông nghiệp cho nông dân, ứng vốn cho dân vay sản xuất nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn”. Như vậy, việc đầu tư vốn cho phát triển kinh tế rõ ràng là một yêu cầu thiết yếu, bắt buộc, việc tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho người nông dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp là hết sức quan trọng.
Tại VDHBB thị trường tài chính trong khu vực nông thôn vẫn tập trung ở một số tổ chức cung cấp tài chính như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (VBARD) và Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP) có vị trí hàng đầu, đại diện cho 66% của nguồn tín dụng nông thôn trong năm 2015 [38]. Mặc dù các ngân hàng hợp tác xã – trước đây là các Quỹ tín dụng nhân dân (PCFs) - và các tổ chức tài chính tư nhân khác đã được thành lập, đến nay các tổ chức này không chiếm được vai trò đáng kể về tài chính nông thôn. Thực tế này hạn chế tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng chính thức ở khu vực nông thôn và lãi suất cao. Thiếu tài sản thế chấp cũng hạn chế tiếp cận tín dụng của các hộ nông dân quy mô nhỏ. Kết quả là, một nửa số hộ gia đình nông thôn trong vùng vẫn không thể tiếp cận các dịch vụ ngân hàng trong năm 2016 và tín dụng phi chính thức vẫn là nguồn tín dụng quan trọng nhất ở nông thôn. Như vậy, vấn đề thực hiện giải pháp vốn đầu tư của các tỉnh thành trong VDHBB trong các thời kỳ kế hoạch tới, trước hết phải căn cứ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong từng thời kỳ kế hoạch; trên cơ sở đó xác định mức độ vốn đầu tư cho từng hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế trong tỉnh nhiều hay ít, bảo đảm thỏa mãn điều kiện tối đa và cân đối giữa thu và chi hợp lý. Trong đó, dành phần ưu tiên đầu tư vốn cho các ngành kinh tế chủ yếu, mũi nhọn của tỉnh, những ngành có triển vọng phát triển, hoặc mới được khôi phục, mở rộng như kinh tế trang trại,kinh tế biển, nghề và làng nghề…
175
Cần có chính sách ưu tiên các doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm cho nông dân được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi và kỳ hạn trả nợ phù hợp; tăng cường các khung chính sách và pháp lý để thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân qua đó nâng cao tính cạnh tranh; phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ để giảm bớt các chi phí sản xuất, giao dịch và tiếp thị; áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn (lựa chọn, đóng gói, phân loại, nhãn mác) đồng thời giám sát chất lượng các dây chuyền sản xuất cung cấp; tăng cường nghiên cứu và khuyến nông theo hướng tạo thêm giá trị cho các sản phẩm và đa dạng hóa; phát triển và duy trì hệ thống thông tin tin cậy và dễ tiếp cận về cung và cầu, thương mại, giá cả và công nghệ để cung cấp các thông tin nôn nghiệp và thị trường chính xác đến tất cả những đối tượng tham gia thị trường; và trao thêm quyền cho các hiệp hội người sản xuất để hỗ trợ nông dân trong tất cả các khâu từ sản xuất đến tiếp thị. Các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách hoặc vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi cần được định hướng vào một số ngành mũi nhọn, có mức lợi nhuận cao, có khả năng hoàn vốn nhanh. Các chương trình đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn cần được huy động vốn trong dân, sử dụng hợp lý nguồn vốn ngân sách chi cho mục tiêu phát triển, cần phát huy tốt vai trò của các trung gian tài chính ở nông thôn, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của ngân hàng thương mại trong việc tiếp vốn cho kinh tế hộ và các loại hình kinh tế hợp tác khác hoạt động ở nông thôn. Hiện nay phần lớn các cơ sở sản xuất ở trong vùng đều thiếu vốn, do đó cần có cơ chế để thu hút được vốn đầu tư của các tổ chức và cá nhân trong cũng như ngoài vùng. Đẩy mạnh, mở rộng liên doanh, liên kết để đầu tư vào việc phát triển sản xuất.
Tiếp tục phát huy vai trò của các quỹ tín dụng nhân dân, của các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các hiệp hội khác hỗ trợ phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo việc làm. Tạo điều kiện và môi trường pháp lý để tận dụng, khai thác có hiệu quả nguồn vốn vay từ nước ngoài, nguồn vốn của các tổ chức nhân đạo, từ thiện, nguồn vốn Chính phủ và phi Chính phủ...
Mở rộng mạng lưới hoạt động ngân hàng tới các cụm xã, gắn liền với
các tổ chức tín dụng tại các địa điểm thị trấn, thị tứ và các trung tâm xã.
176
4.2.3.4. Hoàn thiện chính sách khuyến nông theo hướng nâng cao hiệu quả, khuyến khích khu vực tư tham gia
Trong giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển ngành nông nghiệp, việc cải cách các hệ thống khuyến nông là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất. Thực tế cho thấy, để xây dựng một cơ sở hạ tầng lớn làm thay đổi cảnh quan của một vùng chỉ mất vài năm song, phải mất vài thập kỷ để thay đổi nhận thức của người nông dân và tập quán canh tác của họ. Do không có mô hình chung nào có thế áp dụng cho tất cả các tỉnh trong toàn quốc nên việc cải cách các hệ thống khuyến nông phải dựa trên các điều kiện của từng vùng và các cơ cấu thể chế hiện có. Về trước mắt, các chương trình khuyến nông cần được tiếp tục tài trợ bằng nguồn vốn nhà nước nhưng việc cung cấp các dịch vụ này nên được mở rộng và hợp đồng với các đối tác khác (các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quần chúng, trường đại học, công ty tư nhân) trên cơ sở lựa chọn cạnh tranh để nâng cao chất lượng dịch vụ. Khu vực nhà nước nên tập trung vào các vấn đề chính sách chung, phối hợp, hỗ trợ, quản lý chất lượng, theo dõi, đánh giá và giám sát. Việc phân cấp cho các cấp địa phương và tăng cường năng lực ở tất cả các cấp sẽ là một bước quan trọng trong quá trình cải cách các hệ thống khuyến nông nhằm tăng cường khả năng đáp ứng đối với nhu cầu của địa phương và tăng cường sự tham gia của nông dân.
Một nguyên tắc cơ bản đó là các dịch vụ khuyến nông phải định hướng theo nhu cầu, nhằm vào tất cả đối tượng và theo hướng tiếp cận từ dưới lên trong lập kế hoạch và cung cấp dịch vụ. Các chủ đề khuyến nông phải rộng và đa dạng nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau ở cấp hộ. Về lâu dài, chính quyền trung ương và địa phương có thể xem xét thiết lập và vận hành một Quỹ phát triển theo định hướng cộng đồng để tài trợ cho các dịch vụ khuyến nông nhằm tăng cường tính sở hữu và các cơ hội cho cộng đồng đồng thời thúc đẫy các dịch vụ định hướng theo nhu cầu. Cần có sự cân bằng giữa định hướng theo thị trường và xóa đói giảm nghèo trong các chương trình khuyến nông nhằm đảm bảo các dịch vụ phù hợp và đem lại lợi ích cho người nghèo. Cần có nhiều nỗ lực để giúp nông dân tự tổ chức thành các nhóm hội của người sản xuất để nhân rộng tác động của các dịch vụ khuyến không, làm cho công nghệ thông tin để thu thập và phổ biến thông tin cần được nghiên các dịch vụ khuyến nông dễ tiếp cận hơn với các hộ dân sản xuất nhỏ đặc biệt là
177
những hộ vùng sâu, vùng xa. Cùng với nhu cầu cấp bách về cải cách các hệ thống khuyến nông đã đề cập ở trên, Nhà nước cần xem xét và đánh giá toàn diện các hệ thống thông tin hiện nay để cải tiến. Cần chú trọng đến mảng phân tích dữ liệu, duy trì cơ sở dữ liệu và phổ biến thông tin cho nông dân chứ không nên chỉ chú trọng đến thu thập dữ liệu như hiện nay. Để tăng cường hiệu quả trong việc truyền thông thông tin, nông dân và những người sử dụng cũng cần được đào tạo các kỹ năng diễn dịch các thông tin sẵn có. Đây là một hoạt động quan trọng bởi vì nông dân thường có trình độ thấp và hầu như chưa quen với các thông tin thị trường.
4.2.3.5. Hoàn thiện chính sách chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp
Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển sản xuất và kinh tế nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Trong những năm đổi mới, trên mặt trận sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung, VDHBB nói riêng, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã có bước tiến đáng kể, gặt hái thành công về năng suất, sản lượng cây trồng và vật nuôi đạt mức tăng trưởng cao.
Rà soát, sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu khoa học như trạm, trại phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn sao cho có đủ khả năng và điều kiện giải quyết những vấn đề thực tiễn do sản xuất nông nghiệp đặt ra, đặc biệt là vấn đề nghiên cứu giống và cây con.
Tăng mức đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất. Ngoài vốn ngân sách, cần động viên khai thác sự đóng góp của các thành phần kinh tế. Khuyến khích cá nhân và tập thể mở rộng, trao đổi hợp tác khoa học và công nghệ với bên ngoài. Khảo nghiệm, tuyển chọn các giống cây trồng con nuôi mới có năng suất, chất lượng vào sản xuất nhằm nâng cao giá trị.
Triển khai thực hiện tốt các đề tài, dự án KHCN lĩnh vực nông nghiệp cấp tỉnh, cấp Bộ. Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng các mô hình điểm về chuyển đổi cây trồng, con nuôi trên đất trồng lúa kém hiệu quả.
178
Hỗ trợ nông dân tiếp cận với các dịch vụ nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng tiến bộ kỹ thuật; mở rộng các hình thức đào tạo nghề gắn với chuyển giao tiến bộ ý thuật và công nghệ mới; nhân rộng các mô hình tốt trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Đổi mới cơ chế quản lý nhằm phát triển thị trường công nghệ. Coi sản phẩm nghiên cứu về khoa học và công nghệ là loại hàng hóa đặc biệt; coi trọng nhập khẩu và ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới tạo động lực về lợi ích để thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ gắn bó với sản xuất, kinh doanh hướng vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh từng sản phẩm. Thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.
Điều chỉnh lại tổ chức nghiên cứu và chuyển giao theo hướng gắn kết chặt chẽ hơn với sản xuất, tạo động lực cho người nghiên cứu và chuyển giao KHCN, tạo điều kiện áp dụng cho người sản xuất, thu hút sự tham gia của doanh nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao.
Xác định khoa học công nghệ phải là khâu then chốt để tạo đột phá trong tái cơ cấu; tập trung nguồn lực đầu tư nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quan trọng bức thiết của ngành; thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp; nghiên cứu, chọn tạo và tổ chức sản xuất ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và giá trị thương phẩm cao; ưu tiên nguồn lực cho các sản phẩm chủ lực, có khả năng cạnh tranh.
Tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nhân lực phục vụ nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tài chính phục vụ nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao hơn sự tham gia của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để KH&CN thực sự là đòn bẩy, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, rất cần sự vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa từ các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn thể xã hội; tập trung thực hiện nhiệm vụ quản lý, đầu tư nghiên cứu KH&CN hướng vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, gắn KH&CN với chương trình xây dựng nông thôn mới. KH&CN phải trực tiếp góp phần vào phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân - nhất là ở khu vực nông thôn.
179
Bên cạnh đó, cần tập trung ứng dụng các tiến bộ KH&CN tiên tiến - nhất là công nghệ sinh học - để khảo nghiệm, tuyển chọn và sản xuất nhanh các giống cây, con mới có năng suất, chất lượng cao bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh; tập trung xác định, xây dựng danh mục các đề tài dự án nghiên cứu KH&CN. Riêng đối với các doanh nghiệp, cần chủ động đầu tư nghiên cứu khoa học, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
4.2.4. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc bộ theo xu hướng nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch
Nông nghiệp hữu cơ là một phương pháp sản xuất mà quản lý trang trại và môi trường trong trang trại như một hệ thống đơn lẻ. Trang trại hữu cơ chú trọng vào việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng và việc quản lý hệ sinh thái hơn là những đầu tư từ bên ngoài như phân khoáng và các hoá chất nông nghiệp. Nông nghiệp hữu cơ không sử dụng các hoá chất tổng hợp và cây trồng biến đổi gen. Có thể hiểu rộng rãi nông nghiệp hữu cơ là canh tác không sử dụng hóa chất diệt cỏ và diệt côn trùng như những hóa chất vẫn được sử dụng trong nông nghiệp truyền thống. Canh tác hữu cơ sử dụng vòng tuần hoàn của mùa vụ. Điều này có nghĩa là hàng năm người nông dân trồng những giống cây khác nhau vào những thời điểm khác nhau sao cho phù hợp. Cây trồng sẽ được sống trong một môi trường sống tự nhiên tức là có cả có dại, những sinh vật gây hại và những bệnh phá hoại mùa màng. Những người nông dân sử dụng phương pháp hữu cơ đều xử lí những vấn đề phát sinh trong tự nhiên bằng cách thay đổi các giống cây trồng trên đồng ruộng từ năm này sang năm khác. Năng suất của mùa vụ cũng từ đó mà tăng lên nhờ hiệu quả của chu trình này.
Ngày nay, việc phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch là xu hướng tất yếu không thể tránh khỏi. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ nhất là trong nghiên cứu, triển khai các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến nông sản thực phẩm. Tuy nhiên, sản phẩm nông sản Việt Nam kém cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, nhiều loại sản phẩm chưa đạt vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay trên thị trường nội địa, người tiêu dùng không thể phân biệt được sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm và sản phẩm không an toàn, sự không minh bạch của sản phẩm không an toàn gây ảnh
180
hưởng nghiêm trọng đến sự sống của mọi người. Việc lạm dụng phân bón và hóa chất BVTV đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường và làm suy giảm chất lượng nông sản. Do vậy, phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững là một xu thế tất yếu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm thiểu tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng cũng như môi trường sống. Với Việt Nam nói chung và VDHBB nói riêng, để chuyển thành công nền sản xuất tự cấp tự túc sang một nền sản xuất hàng hóa, định hướng xuất khẩu thì vấn đề an toàn thực phẩm cũng như nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế sẽ ngày càng cấp thiết. Cơ hội cho phát triển nông nghiệp hữu cơ còn phải kể đến nhu cầu trong nước và quốc tế tăng cao đối với những sản phẩm an toàn. Chính vì vậy, một số sản phẩm hữu cơ đã có chỗ đứng vững trên thị trường như rau sạch, chè hữu cơ, thịt sạch... Tuy nhiên, có thể nói nông nghiệp hữu cơ vẫn còn chiếm một tỉ trọng rất nhỏ/không đáng kể trong tổng sản lượng nông nghiệp. Với điều kiện tự nhiên và xã hội của VDHBB, nông nghiệp hữu cơ có cơ hội cho ngành hàng rau, quả, chè núi cao, cây gia vị, cây làm thuốc, thủy sản theo phương thức nuôi sinh thái.
Một yếu tố rất quan trọng là sự quan tâm của Nhà nước và người dân đã được nâng lên đối với nông nghiệp hữu cơ. Ngày 22/5/2013, Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đã chính thức được thành lập. Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Tiêu chuẩn ngành 10 TCVN 6022006 về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và chế biến ngày 29/12/2006, tiếp theo đó là bộ Tiêu chuẩn TCVN 11041: 2015 hướng dẫn sản xuất, chế biến, ghi nhãn và tiếp thị thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ; và gần đây nhất Bộ Khoa học và công nghệ đã chính thức ban hành bộ tiêu chuẩn Việt Nam đầu tiên dành riêng cho sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và ghi nhãn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ có hiệu lực từ 29/12/2017. Việc ban hành bộ TCVN về nông nghiệp hữu cơ, hài hòa với quốc tế là rất cần thiết cho mọi thành phần tham gia. Bộ tiêu chuẩn đóng góp một vai trò quan trọng cho nền sản xuất và kinh doanh nông nghiệp hữu cơ ổn định, bền vững. Các tiêu chuẩn này đều nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất hữu cơ nói riêng, góp phần tăng giá trị sản phẩm, tăng chất lượng sản phẩm, hàng lưu thông trong nước và xuất khẩu. Với hành lang pháp lý hoàn thiện này, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.
181
Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam hiện tại vẫn chỉ là những bước đầu với quy mô và phạm vi chưa lớn. Hiện tại, mặc dù, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành bộ tiêu chuẩn đầu tiên cho các sản phẩm hữu cơ, nhưng tiêu chuẩn này còn rất chung chung, đồng thời vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc cấp chứng nhận hữu cơ, để làm cơ sở cho các đơn vị sản xuất, chế biến và các đối tượng quan tâm khác thực hiện. Hiện cả nước có 13 tổ chức là các nhóm nông dân sản xuất và các doanh nghiệp được các tổ chức quốc tế chứng nhận đạt chuẩn để xuất khẩu sản phẩm hữu cơ sang các nước châu Âu, Mỹ... Vì vậy, điều quan trọng nhất là Bộ Nông nghiệp và PTNT cần khẩn trương có hướng dẫn qui chuẩn mới cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được sản xuất tại Việt Nam, dựa theo tiêu chuẩn quốc tế IFOAM. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và PTNT cũng cần có kế hoạch thiết lập một hệ thống giám sát và cấp chứng chỉ chất lượng cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đạt chuẩn, Về chính sách, vẫn còn thiếu các chính sách cụ thể về định hướng chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia, để thực sự thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ phát triển. Hiện nay ở nước ta vẫn chưa có tổ chức nào cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm hữu cơ. Các sản phẩm xuất khẩu được chứng nhận hữu cơ lại dựa vào tổ chức của nước ngoài như: IMO, JAS, Control Union, liên hiệp kiểm soát (SKAL), ICEA, ACT… Ngoài ra, cũng cần có những chính sách hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ, mặc dù tháng 1/ 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 01/2012/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ việc áp dụng các thực hành nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản bao gồm hữu cơ, nhưng hầu hết chỉ hỗ trợ cho an toàn/GAP. Đồng thời, hỗ trợ người nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm hữu cơ ở các địa phương, phổ biến và truyền thông các tiêu chuẩn cơ bản cho sản xuất và chế biến hữu cơ đến từng hộ nông dân và trang trại.
4.2.5. Thúc đẩy nông nghiệp vùng Duyên hải Bắc bộ phát triển theo hướng sản xuất quy mô lớn
Một trong những nguyên nhân làm cho năng suất nông nghiệp tại VDHBB thấp là do ruộng đất manh mún, phân tán. Trong các tỉnh thành của Vùng, hiện ruộng đất được chia đều cho các hộ gia đình căn cứ vào số người của mỗi hộ. Kết quả là các hộ có từ 3 - 4 mảnh ruộng, thậm chí nhiều hơn, song các mảnh ruộng đó lại cách xa nhau. Thực tế đó ảnh hưởng đến năng
182
suất lao động và hiệu quả quản lý. Mặc dù tất cả các tỉnh thành trong vùng đều đã và đang tiến hành chương trình dồn điền đổi thửa, khuyến khích các hộ nông dân đổi ruộng cho nhau để có các mảnh liền thửa và gia nhập hợp tác xã. Tại một số nơi, nông dân cho doanh nghiệp thuê đất và một số thành viên gia đình tiếp tục làm việc trong các trang trại được quản lý chuyên nghiệp hơn. Những chương trình này đã mang lại một số hiệu quả nhất định. Tuy vậy, tình trạng manh mún đất đai vẫn là cản trở đáng kể đối với quá trình hiện đại hóa nông nghiệp. Tại tất cả các địa phương trong vùng, thị trường cho thuê đất vẫn chưa phát triển do hạn chế về quy mô thửa ruộng, chi phí giao dịch cao và công tác định giá đất của chính quyền địa phương còn nhiều bất cập. Muốn thế, cần phải hình thành một nền sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Cần sớm có chính sách tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện cho các hộ, doanh nghiệp có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng trang trại, sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn và tổ chức sản xuất theo hợp đồng kinh tế, chuỗi giá trị, gắn sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Theo đó, hạn mức, hạn điền được điều chỉnh quy định cụ thể để nhà đầu tư yên tâm sản xuất. Tập trung ruộng đất bằng nhiều hình thức khác nhau để nâng cấp sản xuất, nâng cao chất lượng, giảm chi phí trong chuỗi giá trị, giúp các hộ nông dân đảm bảo một mức sống trung bình từ sản xuất nông nghiệp.
Tập trung ruộng đất cũng tạo điều kiện cơ giới hóa sản xuất khi giá nhân công tăng. Thực tế cho thấy sự phát triển của thị trường cho thuê đất nông nghiệp là phương pháp tập trung ruộng đất quan trọng mà không cần thay đổi quyền sở hữu ruộng đất tại Việt Nam. Để hỗ trợ hoạt động này, cần tăng cường các dịch vụ liên quan, như dịch vụ thông tin, đăng ký, giải quyết tranh chấp đất đai và các biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường cho thuê đất nông nghiệp. Cần khuyến khích nông dân tham gia các hình thức hợp tác hoặc hỗ trợ doanh nghiệp liên kết kinh doanh để dựa trên việc tận dụng được lợi thế theo quy mô nhờ tập trung được nguồn lực.
4.2.6. Giải pháp về hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động nông nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ
Công tác QLNN về kinh tế nông nghiệp có đạt được mục tiêu đề ra hay không phụ thuộc rất nhiều vào thanh tra, kiểm tra và giám sát của Nhà nước.
183
Như phần trên đã phân tích, một trong những khâu yếu nhất trong QLNN ở VDHBB nằm ở công tác thanh kiểm tra vừa yếu, vừa thiếu lại vừa chồng chéo. Để giúp phần nào khắc phục tình trạng này, luận án đề xuất một số định hướng giải pháp sau đây:
- Tăng cường kiểm tra, giám sát hiệu quả của các dự án, chính sách hỗ
trợ nông nghiệp
Trong quá trình triển khai các dự án, chương trình trong lĩnh vực nông nghiệp ở VDHBB, vai trò giám sát của cơ quan nhà nước rất quan trọng để đảm bảo dự án đi đúng hướng. Chất lượng thực hiện chương trình có thể ảnh hưởng đáng kể đến kết quả vì ngay cả khi chương trình được thiết kế một cách hiệu quả nhất cũng có thể tạo ra kết quả kém khi nó vận hành kém. Để đảm bảo việc thực hiện đúng, các cơ quan nhà nước cần thiết lập hệ thống giám sát mạnh, đánh giá tất cả các chương trình, bao gồm cả các chương trình khuyến nông, chương trình hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ thuê đất. Việc giám sát này phải đảm bảo rằng các chương trình được thực hiện đúng với thiết kế ban đầu và kết hợp các yếu tố quan trọng làm cho chương trình hiệu quả. Đồng thời, nó phải bao gồm quá trình nâng cao chất lượng bằng cách sử dụng các thông tin thu thập được thông qua giám sát để điều chỉnh kịp thời và nâng cao hiệu quả.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra vật tư nông nghiệp, vệ sinh
an toàn thực phẩm
Một trong những trở ngại chính để hàng nông sản VDHBB xâm nhập vào các siêu thị trong nước và quốc tế là không đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp VDHBB có thành công hay không còn tùy thuộc vào khả năng của nông dân và doanh nghiệp VDHBB trong việc cung cấp sản phẩm một cách đáng tin cậy, chất lượng ổn định, bảo đảm an toàn thực phẩm, có bằng chứng rõ ràng về việc áp dụng các quy trình canh tác bền vững. Tuy nhiên, hiện nay người nông dân và doanh nghiệp VDHBB vẫn chưa đánh giá hết được tầm quan trọng của vấn đề này và các sản phẩm nông sản của Vùng vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì vậy, công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, đảm bảo an toàn thực phẩm cần phải được xác định là nhiệm
184
vụ trọng tâm của các cơ quan quản lý nông nghiệp. Để thực hiện tốt việc đảm bảo an toàn thực phẩm cần phải thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, cần có một cơ quan thống nhất ban hành về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thay vì ba cơ quan như hiện nay là: Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và Bộ Công Thương.
Thứ hai, việc xử phạt các doanh nghiệp, người dân vi phạm an toàn
thực phẩm cần phải được thực hiện công khai, minh bạch và nghiêm khắc.
Cuối cùng, các cơ quan quản lý cần đẩy mạnh công tác thông tin giáo dục, tuyên truyền về an toàn thực phẩm cho người dân thông qua nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng và xã hội.
- Tăng cường công tác thanh tra việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
UBND các tỉnh, thành phố trong VDHBB cần chỉ đạo tổ chức rà soát lại toàn bộ quỹ đất nông nghiệp trên địa bàn, phân loại các trường hợp sử dụng đất nông nghiệp vi phạm pháp luật về đất đai và có biện pháp chấn chỉnh, xử lý trường hợp vi phạm theo quy định.Bên cạnh đó, các địa phương đánh giá những mặt được, bất cập trong việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp hiện nay; nguyên nhân vi phạm để đề xuất giải pháp cụ thể khắc phục, hạn chế vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp; xây dựng kế hoạch triển khai rà soát, chấn chỉnh, thực hiện thu hồi đất nông nghiệp do vi phạm pháp luật theo đúng quy định của pháp luật về đất đai.
Mặt khác, Thanh tra tỉnh tăng cường công tác thanh tra việc chấp hành quy định liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, bảo đảm đất nông nghiệp được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả.
UBND tỉnh yêu cầu các sở, ngành liên quan hướng dẫn các địa phương xây dựng kế hoạch và nội dung triển khai, rà soát, chấn chỉnh, thực hiện thu hồi đất nông nghiệp do vi phạm pháp luật về đất đai theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội; tổ chức kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện và đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương.
185
4.3. Điều kiện thực hiện giải pháp
Để thực hiện tốt các nhóm giải pháp đã đề xuất ở trên, cần phải có những giải pháp hỗ trợ như là điều kiện cần để có thể thực hiện thành công. Những điều kiện đó là:
4.3.1. Đổi mới quan điểm về vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế nông nghiệp đồng thời nâng cao vai trò của các tổ chức, hiệp hội ngành
Sản xuất nông nghiệp là sản xuất cho thị trường, do vậy đòi hỏi cách tổ chức hệ thống và cách tiếp cận quản lý phù hợp. Xuất phát từ quan điểm thị trường, cần phân biệt rạch ròi những việc cơ quan quản lý cần làm, những việc thuộc về thị trường mà cơ quan nhà nước không có năng lực hoặc nếu giữ lấy sẽ vi phạm các nguyên tắc thị trường, cần giao cho các tổ chức độc lập, các bên thứ ba, các tổ chức cộng đồng. Ví dụ, các hoạt động chứng nhận, thử nghiệm, xét nghiệm, đào tạo, xây dựng thương hiệu cho chuỗi sản phẩm nông nghiệp, các hoạt động nghiên cứu, phát triển thị trường. Thị trường sẽ định hướng cho các hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới kỹ thuật, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Có những việc của thị trường như hoạt động xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, nghiên cứu thị trường, quảng bá phát triển thị trường cho sản phẩm nông nghiệp, từng doanh nghiệp không đủ năng lực thực hiện thì rất cần đến vai trò của tổ chức hội đoàn. Nhiệm vụ của chính quyền là giúp xây dựng, nâng cao năng lực các hình thức tổ chức cộng đồng như các hội sản xuất tổ chức theo chuỗi, vì họ chính là những đơn vị sửa chữa các khuyết tật của nông nghiệp nói chung và thị trường nông sản nói riêng. Một khi được phát huy năng lực, các tổ chức cộng đồng trong nông nghiệp sẽ tác động tổ chức lại ngành sản xuất, chuyển đổi dần lên sản xuất lớn, đúng theo yêu cầu của thị trường mục tiêu, sản xuất có địa chỉ tiêu thụ.
Các cơ quan dịch vụ công cho nông nghiệp chỉ nên cung ứng dịch vụ công ở những nơi và các phạm vi, lĩnh vực mà thị trường không đáp ứng được, những lĩnh vực mang tính chất chủ đạo. Các phạm vi còn lại nên để tư nhân và tổ chức nghề nghiệp cung ứng. Ngân sách dịch vụ công, cần thiết và có thể đấu thầu tự do, công khai.
186
4.3.2. Nâng cao nhận thức, năng lực cho nông dân về công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp
Do mục tiêu của QLNN đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH trong VDHBB là nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, đồng thời tăng cường ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhằm gia tăng giá trị. Do vậy, để thực hiện mục tiêu này, chính quyền 5 tỉnh trong vùng đã thực thi các chính sách như khuyến khích đầu tư đổi mới kỹ thuật, quy trình sản xuất; chính sách về ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Điều kiện để thực hiện thành công hệ thống chính sách này là cần nâng cao nhận thức và năng lực cho người nông dân về KHKT, người nông dân nhận thức được tầm quan trọng, lợi ích dài hạn của CNH-HĐH sản xuất nông nghiệp thông qua các giải pháp như: tập huấn, đào tạo kiến thức và kỹ năng; cung cấp dịch vụ cho người nông dân để ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp…
Bên cạnh việc tập trung hỗ trợ cho doanh nghiệp nông nghiệp và hộ nông dân như hiện nay, cần có các biện pháp nâng cao nhận thức, năng lực cho họ để thích ứng với quá trình CNH-HĐH. Tăng cường năng lực kỹ thuật (quản lý tài chính, kế toán, các dịch vụ kỹ thuật, hệ thống thông tin và năng lực quản lý nội bộ) cho các tổ chức của người sản xuất thông qua các chương trình tập huấn và phát triển nguồn nhân lực.
Trao thêm quyền cho các tổ chức của người sản xuất thông qua việc tiếp cận bình đẳng sự hỗ trợ của nhà nước và khu vực công và được pháp luật công nhận. Ở VDHBB các tổ chức quần chúng, chủ yếu là Hội phụ nữ, Hội nông dân và Đoàn thanh niên, các tổ chức này có mạng lưới xã hội quan trọng từ cấp tỉnh đến xã. Các tổ chức này thường liên kết chặt chẽ với các hệ thống chính quyền địa phương. Với những đặc điểm như vậy, các tổ chức này chủ yếu hoạt động trong các chương trình và phong trào xã hội do chính quyền địa phương khởi xướng. Trong những năm gần đây, sự tham gia của họ trong các dự án tài trợ đã tăng lên và đáp ứng được nhiều hơn các yêu cầu của cộng đồng địa phương như hỗ trợ và tổ chức tập huấn cho nông dân về tín dụng nhỏ, chăn nuôi quy mô nhỏ và phát triển các mô hình VAC (vườn, ao, chuồng).
187
Cần nâng cao năng lực sản xuất nông nghiệp xanh, bao gồm số liệu, tri thức, kỹ năng, hệ thống quản lý, cơ sở vật chất, quan hệ thể chế: Những yếu tố trên phải hiện diện trong toàn bộ các tác nhân trong chuỗi cung ứng, các cơ quan trung ương và địa phương, các viện nghiên cứu/cơ sở đào tạo và cả các tổ chức xã hội. Để đối phó hiệu quả với các rủi ro môi trường trong nông nghiệp, cần đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng cứng (như các phòng xét nghiệm), năng lực ‘cứng’ (trình độ chuyên môn) và năng lực ‘mềm’ (kỹ năng vận động).
4.3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn vùng Duyên hải Bắc Bộ
Hạ tầng nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện năng suất nông nghiệp. Các chính sách kinh tế vĩ mô về phát triển kinh tế nông nghiệp không thể được thực thi một cách hiệu quả khi cơ sở hạ tầng nông thôn chưa phát triển. Cơ sở hạ tầng nông thôn là một dạng hàng hóa công cộng mà chính quyền cần phải cung cấp cho người dân. Thực tế cho thấy, hạ tầng giao thông, hạ tầng điện, và hạ tầng thủy lợi ở VDHBB đều chưa đáp ứng được yêu cầu CNH-HĐH nông nghiệp.Chính vì vậy, phát triển hạ tầng nông thôn cần phải là một trong những giải pháp hoàn thiện QLNN về kinh tế nông nghiệp tại VDHBB.
Hạ tầng giao thông: VDHBB đã có những tiến bộ ấn tượng trong phát triển cơ sở hạ tầng, hiện có hơn 90% dân số nông thôn được tiếp cận với điện và hơn 98,5% tiếp cận các tuyến đường. Tuy nhiên, thực tế hiện tại hệ thống đường nông thôn tại VDHBB chưa theo kịp với tốc độ phát triển và tiềm lực của các vùng kinh tế sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Hệ thống đường giao thông nông thôn chưa được phủ kín và chưa có sự kết nối liên hoàn từ hệ thống đường tỉnh, đường huyện xuống nông thôn nhất là đối với vùng sâu, vùng xa. Hơn nữa, hầu hết các huyện trong các tỉnh thành trong Vùng đều chưa có quy hoạch đồng bộ mạng lưới giao thông.
Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn tốt sẽ giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên quan trực tiếp đến Đối với quy hoạch kết cấu hạ tầng nông thôn thì hầu hết các huyện trong các tỉnh thành trong cả nước đều chưa có quy hoạch đồng bộ mạng lưới giao thông nên chưa xây dựng được kế hoạch lâu dài để phát triển, điều này làm cho việc đầu tư còn tự phát, chưa có
188
tính định hướng, gây ảnh hưởng đến việc nâng cấp, cải tạo và phát triển sau này.nông nghiệp - khu vực phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn tốt sẽ tăng khả năng giao lưu hàng hoá, thị trường nông thôn được mở rộng, kích thích kinh tế hộ nông dân tăng gia sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thu nhập của các hộ nông dân tăng, đời sống nông dân được nâng lên, thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Cơ sở hạ tầng giao thông trong vùng phát triển sẽ tạo điều kiện tổ chức đời sống xã hội trên điạ bàn, tạo một cuộc sống tốt hơn cho nông dân, nhờ đó mà giảm được dòng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, giảm bớt gánh nặng cho thành thị…
Tóm lại, phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vùng là nhân tố đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp. Vì vậy, trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, cấu trúc nền kinh tế thế giới thay đổi đã đặt ra nhu cầu: cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để tạo điều kiện thuận lợi chi các ngành, các vùng phát triển.
Hạ tầng điện: Để thúc đẩy nhanh phát triển điện nông thôn trong giai đoạn tới cần mở rộng các hình thức khai thác điện quy mô nhỏ bên cạnh điện lưới Quốc gia. Một số cơ chế cần được triển khai: Đối với những vùng nông thôn đã có hệ thống hạ tầng của điện lưới quốc gia thì tiếp tục xã hội hóa công tác quản lý hệ thống điện hạ thế, trên cơ sở nâng cao năng lực cộng đồng, HTX nông nghiệp trong quản lý sử dụng ở từng hộ gia đình (các tỉnh, thành phố, ngành điện không nên cố gắng thu hệ thống tải điện về quản lý, mà nên có kế hoạch hợp tác với các HTX nông nghiệp -nếu HTX đang quản lý hệ thống điện hạ thế, hoặc giúp hình thành các tổ quản lý, sử dụng điện sinh hoạt nông thôn).
Ngành điện cần triển khai nghiên cứu nhu cầu sử dụng điện vào sản xuất ở các cộng đồng nông thôn, trên cơ sở đó đầu tư hệ thông cung ứng điện riêng cho sản xuất theo cơ chế kinh doanh. Đối với các vùng nông thôn đã có điện lưới nhưng không thể mở rộng để đủ cung cấp cho nhu cầu địa phương thì tuyên truyền nhân dân sử dụng các hình thức sản xuất điện nhỏ như: thủy lợi nhỏ, máy phát điện nhỏ và các loại thiết bị phát điện bằng năng lượng mặt trời, năng lượng gió tự nhiên. Nhà nước khuyến khích cho vay vốn để đầu tư phát triển các hình thức cung ứng điện kiểu này.
189
Hạ tầng thủy lợi: Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển các công trình thuỷ lợi, vì đây là cơ sở hạ tầng rất quan trọng đối với sản xuất hàng hóa trong điều kiện hội nhập, nhưng cần phải điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Dành một tỷ trọng đáng kể vốn đầu tư vào xây dựng các công trình hồ chứa nhỏ có mục tiêu giữ nước ở các tỉnh, thành phố thường bị lũ quét mạnh vào mùa mưa và hạn hán nặng vào mùa khô. Dành một phần vốn đầu tư vào mục tiêu thủy lợi hóa các vùng cây công nghiệp, cây xuất khẩu, thủy lợi phục vụ chăn nuôi để khai thác các vùng đất mới. Dành một phần vốn đầu tư vào việc cải tạo các công trình thủy lợi đã có ở các vùng sản xuất tập trung, nâng cao hiệu suất sử dụng công trình.Cần tổ chức rà soát, đánh giá lại mức độ sử dụng của các công trình thủy lợi hiện nay và lập kế hoạch dài hạn cho công tác duy tu bảo dưỡng và kiểm định từng công trình.Đầu tư xây dựng và củng cố hệ thống đê biển và cứng hóa các công trình ngăn mặn ven biển.Đầu tư phát triển thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản ở những vùng có lợi thế (như nuôi thả thâm canh kết hợp xử lý tốt nước thải); tiếp tục thực hiện chương trình luật cố hoá kênh mương nội đồng.
4.4. Một số kiến nghị đối với Quốc hội
4.4.1. Khắc phục những bất cập trong Luật Đất đai 2013
Dù đã giải quyết được nhiều điểm vướng mắc hạn chế của Luật Đất đai 2003, song sau một thời gian triển khai, Luật Đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho các địa phương trong quá trình tổ chức thi hành.
Về căn bản, có năm nhóm vấn đề lớn mà các địa phương có thể gặp khó khăn khi thi hành Luật Đất đai 2013. Bao gồm nhóm các vấn đề liên quan đến việc giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án đầu tư; cấp giấy chứng nhận, đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; vướng mắc trong công tác xác định giá; về bồi thường hỗ trợ tái định cư và xử lý vi phạm trong lĩnh vực đất đai.
Một trong những khó khăn nhất là giải quyết vướng mắc trong trường hợp chủ đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, nhiều trường hợp diện tích đất chưa thỏa thuận được nằm
190
xen kẽ trong khu đã thỏa thuận cho nên dự án cũng không thể triển khai đành "đắp chiếu" nằm chờ gây thiệt hại cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, quy hoạch kiến trúc được phê duyệt. Trong khi đó, Luật Đất đai 2013 lại thiếu các chế tài xử lý các trường hợp nêu trên.
Hiện có khoảng 80% các dự án do chủ đầu tư chịu trách nhiệm thu hồi đất, phải tự thương lượng với người dân, gây phát sinh nhiều khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng. Nếu không có những quy định cụ thể tháo gỡ cho những trường hợp không đạt thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiến độ của hàng loạt dự án trên địa bàn.
Liên quan đến nhóm các vấn đề trong việc xử lý vi phạm đất đai, các địa phương đang gặp nhiều khó khăn vì đối tượng bị thu hồi đất không hợp tác thực hiện. Lý do là Điều 71 Luật Đất đai 2013 chỉ quy định cưỡng chế thực hiện đối với trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư mà không quy định việc cưỡng chế thu hồi đất vi phạm pháp luật đất đai. Tương tự, về xử lý thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án, thành phố đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm có hướng dẫn thực hiện việc xử lý khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án. Đó là chưa kể đến những bất cập giữa thi hành Luật Đất đai 2013 với Luật Đầu tư đã gây khó khăn cho các địa phương trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất, lập danh mục dự án thu hồi đất, thiếu căn cứ khi làm thủ tục giao đất, cho thuê đất theo kết quả lựa chọn chủ đầu tư dự án có sử dụng đất.
Việc các địa phương gặp khó khăn khi thi hành Luật Đất đai 2013 cho thấy công tác xây dựng luật còn bất cập, thiếu tính dự báo. Luật Đất đai là một đạo luật quan trọng, có tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, ảnh hưởng trực tiếp tới người dân, các chủ đầu tư và doanh nghiệp. Vì vậy sửa đổi Luật là việc làm cần thiết, góp phần tháo gỡ khó khăn cho chính quyền cơ sở khi thực thi và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai - một lĩnh vực luôn "nóng".
Ngoài ra, để nâng cao năng suất lao động và tiêu thụ sản phẩm chính phủ cần tạo cơ chế cho người dân tích tụ ruộng đất, mở rộng hạn điền. Hiện nay mỗi hộ mỗi hộ trung bình có 0,8 ha, thường phân thành 4 mảnh không
191
liền kề. Trong khi quá trình tích tụ ruộng đất phát triển chăn nuôi đã bắt đầu, quá trình này đối với ngành trồng trọt đang ở giai đoạn sơ khai. Rất ít các thửa ruộng đã phát triển đến “quy mô lớn” từ 2 ha trở lên.
Luật Đất đai sửa đổi năm 1998, 2003 và 2013 quy định một số hạn chế về sử dụng đất, nêu rõ những thay đổi trong sử dụng đất của các nông dân chỉ được phép trong khuôn khổ khung quy hoạch do chính quyền Trung ương và địa phương phê duyệt. Các luật này chủ yếu buộc người nông dân trồng lúa trên đất lúa và không sử dụng cho các muc đich khác như trồng các loại cây khác (hoặc nuôi thủy sản) mặc dù có thể đạt được lợi nhuận cao hơn trên cùng một mảnh đất. Nông dân có thể xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại cấp huyện, nhưng trên thực tế thay đổi hoặc bỏ những hạn chế này hiếm khi được phép.
Chỉ khi người dân tích tụ được ruộng đất mới có thể sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, dễ dàng áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, kiểm soát được toàn bộ quá trình sản xuất, hạ chi phí sản xuất thì sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao và dễ dàng tiêu thụ trên thị trường.
4.4.2. Ban hành Luật Nông nghiệp thống nhất điều chỉnh các chuyên ngành trong lĩnh vực nông nghiệp
Việt Nam nói chung và VDHBB nói riêng có gần 2/3 dân số lấy nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) làm hoạt động kinh tế chính, xuất khẩu nông sản đóng góp trên 10% vào tổng kim ngạch xuất khẩu và nông nghiệp đóng góp khoảng 14,6% vào tổng GDP (2015) của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, cho tới nay, các hoạt động liên quan tới nông nghiệp vẫn được điều chỉnh bởi nhiều văn bản, chính sách khác nhau và chưa có văn bản, chính sách ở cấp độ Luật.
Nông nghiệp Việt Nam đang trải qua một quá trình chuyển đổi từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, kinh doanh theo định hướng thị trường, hội nhập vào nền kinh tế và nông nghiệp thế giới. Quá trình chuyển đổi này được chính thức bắt đầu bằng những chính sách có tính chất đổi mới, đột phá trong nông nghiệp, nông thôn từ cuối những năm 80, tuy nhiên nguồn gốc của những chính sách này có ít nhất là từ những năm 60. Trong những năm tiếp theo, những điều chỉnh chính sách trong các lĩnh vực cơ bản như đất
192
đai, thương mại, tổ chức sản xuất, v.v… tiếp tục tạo động lực cho những bước phát triển mới trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam.
Hiện nay, chức năng QLNN của Bộ NN&PTNT có 03 ngành: nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và thủy sản. Trong khi các lĩnh vực lâm nghiệp và thủy sản cũng đều đã có các chính sách ở cấp độ luật (Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật thủy sản) thì duy nhất chỉ có lĩnh vực nông nghiệp là chưa có luật điều chỉnh.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, các quốc gia với trình độ phát triển khác nhau đều có Luật riêng để điều chỉnh các hoạt động sản xuất nông nghiệp như Trung Quốc (Luật nông nghiệp 1993 và 2003), EU (Chính sách nông nghiệp chung – CAP), Hoa Kỳ (Chương 7-Nông nghiệp trong bộ luật Hoa Kỳ), Nhật Bản (Luật cơ bản nông nghiệp 1961 và 1999), v.v…
Một trong những đặc điểm chính trong hoạt động lập pháp của nước ta hiện nay là xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật riêng lẻ để điều chỉnh về những vấn đề cụ thể. Theo hướng này, thay vì xây dựng và ban hành các bộ luật, đạo luật để điều chỉnh bao quát về một lĩnh vực nào đó thì tiến hành soạn thảo, ban hành những văn bản chi tiết, sao cho luật sau khi ban hành là có thể thi hành ngay được mà không phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành (nghị định, thông tư). Vì thế, việc ban hành Luật nông nghiệp chung, điều chỉnh về toàn bộ các vấn đề nông nghiệp chỉ đạt kết quả và có tính khả thi cao khi có sự rà soát, phân tích một cách đầy đủ để bãi bỏ những quy định trùng lặp, chồng chéo. Việc ban hành một luật nông nghiệp khung đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu thấu đáo để có thể hệ thống hóa toàn bộ các quy định hiện hành có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp. Việc ban hành Luật Nông nghiệp không phải để bổ sung thêm một văn bản luật mới nhằm tăng tính đồng bộ cho hệ thống pháp luật của ngành nông nghiệp, cũng không phải là học hỏi kinh nghiệm thuần túy của nước ngoài. Luật Nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề căn bản là tạo ra thêm những cơ chế phù hợp nhằm kích thích hơn nữa “động lực” mà các chính sách đột phá trong phát triển kinh tế nông nghiệp đã ban hành và đang thực hiện trong thời gian qua.
193
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Chương 4 của luận án, tác giả đã đưa ra mục tiêu chung, phương hướng và quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp cũng như QLNN đối với kinh tế nông nghiệp ở VDHBB.
Từ những hạn chế trong công tác QLNN, nguyên nhân của hạn chế và căn cứ vào phương hướng, mục tiêu của Đảng và Nhà nước, luận án đã đề xuất một hệ thống các giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện công tác QLNN về kinh tế nông nghiệp ở VDHBB theo hướng:
(1) Hoàn thiện bộ máy QLNN đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn VDHBB theo hướng thành lập Ban chỉ đạo điều phối vùng, quy định lại chức năng nhiệm vụ cho các cơ quan quản lý liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp để tránh chồng chéo đồng thời nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn cho đội ngũ CBCC trong ngành nông nghiệp.
(2) Hoàn thiện hệ thống luật pháp về nông nghiệp theo hướng Ban hành Luật Nông nghiệp chung thay cho các luật chuyên ngành nông nghiệp như hiện nay (trồng trọt và chăn nuôi) nhằm thống nhất quản lý hoạt động trong nông nghiệp cũng như định hướng phát triển chung cho ngành; khẩn trương khắc phục những bất cập trong Luật Đất đai; rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm thống nhất các quy định trong sản xuất nông nghiệp.
(3) Hoàn thiện công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch;
(4) Hoàn thiện hệ thống chính sách cho phát triển nông nghiệp như nâng cao hiệu quả chính sách tín dụng cho nông dân, chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp, chính sách đầu tư và phát triển hạ tầng nông thôn; chính sách quản lý thị trường thuốc BVTV, chính sách về ứng dụng KH&CN trong nông nghiệp …
(5)Tăng cường hiệu quả công tác thanh, kiểm tra giám sát các hoạt
động kinh tế nông nghiệp trong VDHBB.
194
KẾT LUẬN
Kinh tế nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam. Đây là khu vực sản xuất chủ yếu, đảm bảo đời sống và việc làm cho xã hội, là thị trường rộng lớn của nền kinh tế, cung cấp nguồn nhân lực và nguồn tích lũy cho quá trình phát triển đất nước. Để kinh tế nông nghiệp phát triển theo đúng định hướng và đạt được các mục tiêu đặt ra thì QLNN đối với kinh tế nông nghiệp có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng.
QLNN đối với kinh tế nông nghiệp là quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nông nghiệp thông qua các công cụ quy hoạch, kế hoạch, pháp luật và các chính sách để tạo điều kiện và tiền đề, môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp hướng tới mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế. QLNN về kinh tế nông nghiệp bao gồm cả việc xử lý những việc ngoài khả năng tự giải quyết của đơn vị kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp; điều tiết các lợi ích giữa các vùng, các ngành, sản phẩm nông nghiệp, giữa nông nghiệp với toàn bộ nền kinh tế; thực hiện sự kiểm soát đối với tất cả các hoạt động trong nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn làm ổn định và lành mạnh hóa mọi quan hệ kinh tế và xã hội.
Qua phân tích các đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội của VDHBB, luận án khẳng định VDHBB với lãnh thổ của 5 tỉnh, thành Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình có thế mạnh trong phát triển cây lương thực, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc gia cầm, khai thác và nuôi trồng thủy sản… gắn với công nghiệp chế biến và hiện đại hóa nền nông nghiệp. Đồng thời, luận án xác định những khó khăn thách thức trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp: sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng, phát triển thiếu tính bền vững…. chưa được chú trọng đúng mực đến việc ứng dụng KHKT vào sản xuất hàng hóa và tăng giá trị thu nhập trên đơn vị đất canh tác.
Luận án đã chỉ ra rằng nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong phát triển nông nghiệp của vùng là công tác QLNN đối với kinh tế nông nghiệp VDHBB còn nhiều bất cập: công tác quy hoạch còn nhiều hạn chế
195
chưa sát thực, chưa gắn liền với chế biến,tiêu thụ, thị trường và đầu tư kết cấu hạ tầng; hệ thống chính sách kém hiệu quả, việc triển khai cụ thể hóa chính sách còn chậm, thiếu nguồn nhân lực thực thi; công tác kiểm tra, giám sát chưa được quan tâm thường xuyên nên chưa giải quyết kịp thời, thấu đáo các vướng mắc nảy sinh.
Để kinh tế nông nghiệp VDHBB phát triển theo hướng CNH-HĐH, luận án khẳng định rằng định hướng quan trọng nhất hiện nay là phải nâng cao vai trò QLNN đối với kinh tế nông nghiệp của vùng bằng các giải pháp như: Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, tăng cường hỗ trợ đầu vào về vốn cho nông dân, đẩy mạnh ứng dụng KHCN vào sản xuất; rà soát và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, phát triển nông nghiệp gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm kết hợp quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; phát triển các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp… Thông qua những giải pháp đề xuất, luận án hy vọng rằng có thể góp phần nâng cao hiệu quả vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế nông nghiệp VDHBB phát triển nhanh theo hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa và quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn trong những năm tới./
196
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
Sách, tạp chí, báo cáo khoa học
1. Đào Thế Anh, GS.VS. Đào Thế Tuấn, TS. Lê Quốc Doanh, Nghiên cứu luận cứ khoa học của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2009), Đánh giá những đóng góp của kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp đến tăng trưởng năng suất lao động ở Việt Nam”.
3. Ban chỉ đạo Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Trung ương (2014, 2015, 2016), Báo cáo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp, thủy sản.
4. Trần Lâm Bình (2005), Quản lý nhà nước nhằm phát triển chăn nuôi
theo hướng sản xuất hàng hoá ở vùng Đồng bằng sông Hồng”.
5. Vũ Trọng Bình (2007), Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất chính sách phát triển nông thôn Việt Nam, Đề tài khoa học, Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2010), Nông nghiệp công nghệ cao-Nền tảng cho phát triển nông nghiệp- Bản tin phục vụ lãnh đạo.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Báo cáo tổng kết 5
năm (2006-2010) phát triển tổ hợp tác khai thác hải sản.
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn “Hệ thống giám sát và đánh giá thực hiện kế hoạch 5 năm ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn 2006-2010”.
9. Bùi Quang Bình (2010), Giáo trình kinh tế phát triển, Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
10. Bùi Quang Bình (2012), “Xây dựng chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”.
197
11. Nguyễn Cao Chương, Nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo, quản lý về phát triển công nghiệp nông thôn ở các tỉnh duyên hải nam Trung Bộ- Tạp chí quản lý nhà nước – số 157 (2/2009).
12. Nguyễn Tiến Dĩnh (2003), “Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”-
13. Lê Quốc Doanh (2006), Nghiên cứu luận cứ khoa học để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước.
14. Nguyễn Hữu Đễ, Quản lý nhà nước trong phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH ở nước ta hiện nay- Một số vấn đề đặt ra.Viện triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (đăng trên tạp chí Khoa học xã hội nhân văn, số 03 năm 2009.
15. Phùng Giang Hải (2015), “Nghiên cứu đề xuất chính sách thúc đẩy đối
tác công tư trong nông nghiệp”.
16. Nguyễn Thanh Hải (2015), “Phát triển nông nghiệp các tỉnh trung du
miền núi phía bắc Việt nam theo hướng bền vững”.
17. Phạm Văn Hiệp (2015), Luận án tiến sĩ kinh tế “Huy động vốn đầu tư
phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp ở Việt Nam”.
18. Lê Phương Hòa, Chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp của Việt Nam-những vấn đề đặt ra,Đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á – 9/2009.
19. Đỗ Thị Thu Hoài (2015), Luận văn thạc sĩ Quản lý công: “Quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam”.
20. Hoàng Sỹ Kim (2007),Luận án tiến sĩ: “Đổi mới quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế”.
21. Hoàng Sỹ Kim – Học viện Hành chính Quốc gia,Tăng cường quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển nông nghiệp- Tạp chí quản lý nhà nước số 129/2006.
198
22. Dương Bạch Long (2007), Quy trình xây dựng ban hành và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
23. PGS.TS Ngô Quang Minh (2010), Tác động của chính quyền địa phương đối với sự phát triển nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng”.
24. Trần Viết Nguyên (2015), Luận án tiến sĩ kinh tế “Nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế”.
25. Nguyễn Hồng Nhung (2016), Luận án tiến sĩ kinh tế “Phát triển nông
nghiệp Việt Nam theo hướng kinh tế xanh”.
26. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp nông dân nông thôn Việt Nam –
Hôm nay và mai sau, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
27. Đinh Thị Nga (2011), Chính sách kinh tế và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
28. Hồ Kỳ Minh (2012), “Phát triển một số vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn huyện Hòa Vang”, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, Đà Nẵng.
29. Lưu Đức Khải (2004), Các cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội
30. Nguyễn Điền (1996), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Đài Loan trong quá trình công nghiệp hóa”, Nghiên cứu kinh tế, số 213
31. Nguyễn Đình Liêm (2006), Công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn ở Đài Loan, NXB Khoa họa Xã hội, Hà Nội
32. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi.
33. Nguyễn Thị Bích Hồng (2005), Nghiên cứu mô hình thu nhập 50 triệu đồng/ha/năm trong sản xuất nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài khoa học, Viện Kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh
199
34. Phạm Đức Nghiệm, Quách Ngọc Ân, Vũ Ngọa Hiếu (2011), Đổi mới phương thức chuyển giao công nghệ phát triển nông, lâm nghiệp vùng tây nguyên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
35. Phạm Quang Diệu (2006), Nghiên cứu quá trình hình thành một số chính sách đổi mới đột phá trong nông nghiệp nông thôn, Đề tài khoa học, Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Hà Nội
36. Phạm Văn Khôi (2007), Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp,
nông thôn, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội
37. Phan Thanh Khôi (2006), Hoạt động khuyến nông Việt Nam Ý nghĩa
chính trị xã hội, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
38. OECD – Tổ chức Hợp tác và Phát triển Liên Hợp Quốc (2015), Chính
sách nông nghiệp của Việt Nam.
39. Tổng cục môi trường (2015), Hiện trạng ô nhiễm môi trường do hóa
chất bảo vệ thực vật tại Việt Nam.
40. Trần Danh Thìn và Nguyễn Hữu Trí (2011), Hệ thống trong phát triển
nông nghiệp bền vững, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
41. Trần Hồng Minh (2010), Giải pháp phát triển bền vững nghề khai thác hải sản tỉnh Khánh Hòa, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Nha Trang, Nha Trang
42. Trần Thị Minh Châu (2007), Về chính sách đất nông nghiệp của nước
ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2008, 2009, 2020, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác ngành NN&PTNT và triển khai nhiệm vụ kế hoạch.
44. Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng, (2008, 2009, 2020, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác ngành NN&PTNT và triển khai nhiệm vụ kế hoạch.
45. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2008, 2009, 2020, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác ngành NN&PTNT và triển khai nhiệm vụ kế hoạch.
200
46. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2008, 2009, 2020, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác ngành NN&PTNT và triển khai nhiệm vụ kế hoạch.
47. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2008, 2009, 2020, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác ngành NN&PTNT và triển khai nhiệm vụ kế hoạch.
48. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế (2005), Đề tài khoa học cấp thành phố Một số giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành TP. Hồ Chí Minh trên cơ sở khoa học – công nghệ cao và phù hợp sinh thái.
49. Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2006), Nghiên cứu quá trình hình thành của một số chính sách đổi mới đột phá trong nông nghiệp nông thôn, Đề tài khoa học
50. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2006), Ảnh hưởng của việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tới thu nhập của hộ nông dân, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
51. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2014), “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững trong bối cảnh mới”.
52. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2014), “Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm vừa qua”.
53. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2011), Những chủ trương, biện pháp mới trong giai đoạn 2006-2011 về CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn.
54. Viện quy hoạch xây dựng Đà Nẵng (2012), “Báo cáo tổng hợp quy
hoạch sản xuất rau an toàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”.
55. Vũ Đình Thắng (2004), Giáo trình kinh tế nông nghiệp, Nhà xuất bản
Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội
56. WB (2016), Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam: Tăng giá trị, giảm đầu
vào”.
201
Văn bản chính sách
57. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Đất đai 2013.
58. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp 1993.
59. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Thủy sản 2003, 2017.
60. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Thú y 2014.
61. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực
vật, 2013.
62. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật An toàn thực phẩm, 2010.
63. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT ngày 13/04/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về“Quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại”.
64. Chính phủ Việt Nam (2008), Quyết định 61/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/5/2008 về “Phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng Duyên hải Bắc bộ đến năm 2025, tầm nhìn đến 2050”.
65. Chính phủ Việt Nam (2009), Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 16/09/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020”.
66. Chính phủ Việt Nam (2010), Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29/01/2010 của Thủ tướng chính phủ về “Phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”.
67. Chính phủ Việt Nam (2010), Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/3/2010 của Thủ tướng chính phủ về “Chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản”.
68. Chính phủ Việt Nam (2010), Quyết định 48/2010/QĐ-TTg ngày 13/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ về “Một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa”.
202
69. Chính phủ Việt Nam (2010), Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về“Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn”.
70. Chính phủ Việt Nam (2010), Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 của Chính phủ về “Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”.
71. Chính phủ Việt Nam (2012), Quyết định số 01/2012/QĐ-TTgngày 9/1/2012 cuả Thủ tướng Chính phủ về “Một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước”.
72. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng (2010), Quy hoạch ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020, Đà Nẵng.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
73. Bo Q.Lin (1994). Rural reforms, structural change and agricultural growth in the People’s Republic of China. The economics and Development Resource Center. Asian Development Bank at www.adb.org.
74. Brian McCaig và Nina Pavenick (2013), “Moving out of agriculture:
structural change in Vietnam”.
75. Chernery H. (1998).“Structural transformation, Handbook of
development Economics”. Volume 1. North-Holland (197-202).
76. FAO (2013), Vietnam country Programming Framework 2012-2016.
77. Fisher, R.A. (1971). The Design of Experiments. 9th Edition.
Macmillan.
78. Ian Coxhead, Kim N.B Ninh, Vu Thi Thao, Nguyen Thi Phuong Hoa (2010), “Srategic Choices for Agricultural and Rural Development in Vietnam”.
79. Nguyen Trung Que (2008), “Effects of Trade Liberalisation on
Agriculture in Vietnam: Institutional and Structural Aspects”.
80. UNDP (2016), Việt Nam drought and saltwater intrusion:
Transitioning from Emergency to Recovery.
203
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ
1. Chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa; Tạp chí Ánh sáng và cuộc sống, cơ quan của Hội chiếu sáng Việt Nam; số 89 + 90, tháng 9 và tháng 10 năm 2016; Tr. 57-61.
2. Căn cứ khoa học và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiện nay; Tạp chí Ánh sáng và cuộc sống, cơ quan của Hội chiếu sáng Việt Nam; số 91, tháng 11 năm 2016; Tr. 52-55.
3. Một số kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia; số 271, tháng 8 năm 2018; Tr. 106-109.
4. Quản lý Nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ; Tạp chí Kinh tế và quản lý; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Số 27, tháng 9 năm 2018; Tr. 71-73.
204
PHỤ LỤC 1 MÔ TẢ PHƯƠNG PHÁP CHUYÊN GIA SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN A. Danh sách các chuyên gia thực hiện phỏng vấn
TT Họ và tên chuyên Chức vụ Đơn vị công tác Số điện thoại
gia
Lê Đức Thịnh cục 0904.121.053 1 Phó trưởng
Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn
0945.659.636 2 Nguyễn Anh Phong Giám đốc
Trung tâm Thông tin triển Nông Phát nghiệp – Nông thôn
0912.304.587 3 Nguyễn Ngọc Luân Phó. GĐ
Trung tâm Tư vấn nông sách chính nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Phan Thị Thu Hà 0916.260.759 4 Nghiên cứu viên chính
Phòng Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Viện Nghiên cứu chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn
Lê Trọng Hải 0904.194.507 5 Phó trưởng bộ môn
Bộ môn Nghiên cứu Kinh tế tài nguyên và môi trường, Viện Nghiên cứu chính sách và chiến lược phát nông triển nghiệp, nông thôn
B. Nội dung phỏng vấn
1. Xin ông/bà cho biết những cơ hội và thách thức đối với các hoạt động kinh tế nông nghiệp ở nước ta trong bối cảnh hiện nay? Những giải pháp để thúc đẩy phát triển?
205
Về cơ hội:
Thứ nhất, các cam kết trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)… cùng với những cơ chế đã và đang tiếp tục được ký kết sẽ giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành Nông nghiệp hiện nay còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục như: Quy mô sản xuất của hộ nông dân nhỏ; kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật thấp; chuỗi liên kết, chuỗi cung ứng nông nghiệp chưa hình thành; chất lượng nguồn nhân lực thấp và dưới áp lực do hội nhập tạo ra... tất cả những vấn đề trên bắt buộc quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp sẽ phải diễn ra nhanh và quyết liệt hơn.
Thứ hai, vị thế của ngành Nông nghiệp gia tăng thông qua cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản thế giới. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang các đối tác trong AEC, TPP, EVFTA, các cơ chế khác, rộng hơn là WTO... nên tác động của những cơ chế liên kết này lên kim ngạch xuất khẩu sẽ là không nhiều. Tuy nhiên, với việc mở rộng thị trường nội địa gấp nhiều lần, nông sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều phân khúc thị trường hơn, sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc của nhiều mặt hàng nông sản vì vậy cũng sẽ giảm thiểu. Quan trọng hơn, thông qua các thị trường trung gian, nông sản Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.
Thứ ba, thu hút đầu tư vào ngành Nông nghiệp. Trong bối cảnh nhà đầu tư thời ơ với ngành Nông nghiệp, những cơ hội mới từ hội nhập, nông nghiệp sẽ đón những dòng đầu tư mới, nhất là đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ ngành Nông nghiệp - những lĩnh vực hiện nay còn bỏ ngỏ do thiếu nguồn lực. Các tác động lan tỏa từ gia tăng đầu tư vào nông nghiệp sẽ thực sự quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, khi gánh nặng của ngành Nông nghiệp nội địa được san sẻ.
Thứ tư, thúc đẩy cải cách thể chế, môi trường kinh doanh trong nước. Đây là tác động mà các doanh nghiệp, người sản xuất thực sự mong đợi trên cơ sở hệ thống chính sách sẽ được điều chỉnh phù hợp với thông lệ quốc tế. Những đổi mới này một mặt tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, mặt khác đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải tự đổi mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho phù hợp với bối cảnh.
Những thách thức:
Bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
cũng đối diện với không ít thách thức trong bối cảnh hội nhập, cụ thể:
206
Một là, gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa. Năng lực sản xuất của ngành Nông nghiệp Việt Nam là vô cùng lớn nhưng giá thành của nhiều sản phẩm còn cao, do công nghiệp hỗ trợ ngành Nông nghiệp yếu, năng suất lao động thấp, trong khi thị trường nông sản nội địa đang có sự cạnh tranh quyết liệt ở tất cả các phân khúc. Các sản phẩm nông nghiệp sẽ gặp khó khăn thực sự nếu năng lực cạnh tranh không được cải thiện.
Hai là, tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Điều này gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài nguyên nước ngầm ở Tây Nguyên, nguồn lợi hải sản ven bờ, đa dạng sinh học...). Môi trường ở nông thôn cũng chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở các khu công nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền vững của người dân và làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Khi lợi thế thiên nhiên mất dần, sản lượng và chất lượng nông sản của Việt Nam sẽ giảm, năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế theo đó cũng suy yếu.
Ba là, biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra, ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp nước ta. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m mà Việt Nam không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập lụt không còn khả năng canh tác. Mặt khác, số lượng các cơn bão, sự tàn phá của từng trận bão, thời tiết lạnh và nóng đã xuất hiện một cách bất thường. Dự báo, các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung sẽ bị hạn nhiều hơn; số đợt không khí lạnh, rét đậm, rét hại sẽ xuất hiện nhiều hơn ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Bốn là, khoa học công nghệ trong nông nghiệp vừa thiếu, vừa lạc hậu. Mức độ đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp thấp, mặc dù một số doanh nghiệp lớn đã bắt đầu chuyển sang đầu tư vào nông nghiệp nhưng nhìn chung vẫn còn rất ít, chỉ khoảng vài phần trăm; đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp không đáng kể. Việc xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao chậm chuyển biến, chưa tạo đột phá để nâng cao giá trị gia tăng và tạo cơ sở vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả bền vững. Thiết bị và công nghệ chế biến sau thu hoạch còn lạc hậu, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến còn chưa phát triển, quy mô nhỏ, tỷ lệ hao hụt, thất thoát cao. Phần lớn vật tư, thiết bị nông nghiệp dựa vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài. Trong đó, hơn 90% số máy kéo bốn bánh và máy công tác kèm theo, máy gặt đập liên hợp phải nhập khẩu.
207
Năm là, đội ngũ khoa học nông nghiệp tuy đông nhưng không mạnh. Cán bộ có đủ năng lực chủ trì đề tài nghiên cứu đưa lại kết quả cao chiếm tỷ lệ thấp, còn thiếu cán bộ đầu ngành giỏi; nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ như: Công nghệ sinh học thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo còn lạc hậu, không đồng bộ, dẫn đến tình trạng đào tạo nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu trên một đơn vị sản phẩm.
Giải pháp thúc đẩy phát triển nông nghiệp
Để phát triển bền vững nền nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập, cần thiết có những giải pháp đồng bộ từ Chính phủ và cơ quan hữu quan, trong đó cần chú trọng một số mục tiêu sau:
Thứ nhất, đổi mới mô hình tăng trưởng, tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Việc tái cơ cấu nền nông nghiệp cần tập trung mạnh vào tái cơ cấu đầu tư công và dịch vụ công trong nông nghiệp, tạo ra môi trường thuận lợi cho hình thành có hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản dựa trên lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương; tiếp tục tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng; nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sản xuất và chế biến nông sản, tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh và thị trường tiêu thụ; đa dạng hóa thị trường, cả trong nước lẫn xuất khẩu; đầu tư phát triển nhân lực trong nông nghiệp.
Thứ hai, thực hiện quy hoạch nông nghiệp theo hướng dựa vào thị trường mở, không nên cố định diện tích lúa, nên bảo tồn diện tích đất nông nghiệp. Cần thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp cả trong mục tiêu trung hạn và dài hạn (50 hay 100 năm), để có chiến lược bảo tồn và sử dụng đất nông nghiệp trước khi thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp và đô thị. Đối với loại đất nông nghiệp, cần tạo điều kiện cho người sử dụng đất quyết định phương thức sử dụng từng loại đất phù hợp theo tín hiệu thị trường hơn là cố định phương thức sử dụng cho từng loại đất. Nông dân có thể chuyển sang trồng hoa, cây cảnh, rau màu, các nông sản khác có giá trị hơn theo tín hiệu thị trường.
Thứ ba, cơ chế, chính sách đổi mới toàn diện hệ thống quản lý, dịch vụ công cho nông nghiệp. Hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước trong nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở phân công, phân cấp phù hợp và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm người đứng đầu. Đảm bảo minh bạch hóa, kiểm soát chặt chẽ chất lượng và giá cả các vật tư nông
208
nghiệp đầu vào, quản trị dịch hại và vệ sinh an toàn thực phẩm. Các cơ quan dịch vụ công cho nông nghiệp chỉ nên cung ứng dịch vụ công ở những nơi và các phạm vi, lĩnh vực mà thị trường không đáp ứng được, những lĩnh vực mang tính chất chủ đạo. Các phạm vi còn lại nên để tư nhân và tổ chức nghề nghiệp cung ứng. Ngân sách dịch vụ công, cần thiết và có thể đấu thầu tự do, công khai. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp bằng các hình thức hợp tác, tổ chức liên kết, hình thành các hiệp hội, phát triển tổ hợp tác, hợp tác xã, có sự tham gia sâu rộng của các doanh nghiệp. Đây sẽ là động lực mới để nông nghiệp nước ta nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
Thứ tư, để chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, cần tập trung nâng cao năng lực quản lý và ứng phó rủi ro liên quan đến thời tiết và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cũng như các rủi ro về thị trường; Cải thiện hệ thống dự báo, cảnh báo sớm và gắn kết hệ thống này với dịch vụ tư vấn nông nghiệp; Thay đổi phương pháp canh tác và lựa chọn giống phù hợp với các vùng đất có những biến đổi khác nhau về khí hậu; Xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển để có thể giải quyết được những thách thức mới nảy sinh của quá trình biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Thúc đẩy thị trường bảo hiểm nông nghiệp, tăng cường khả năng ứng phó của nông dân đối với rủi ro, bảo đảm nông nghiệp ít có sự tác động xấu của biến đổi khí hậu; Các địa phương, nhất là các tỉnh ở vùng thấp cần có kế hoạch ứng phó kịp thời, bố trí sản xuất nông nghiệp phù hợp.
Thứ năm, thực hiện các biện pháp như tăng cường đầu tư công vào các công trình phòng, chống thiên tai, giảm tác động bất lợi về môi trường, tăng cường quản lý nước thải nông nghiệp, tăng cường áp dụng các biện pháp giảm khí thải nhà kính; Quán triệt tư duy nền kinh tế xanh trong phát triển nông nghiệp.
2. Xin ông/bà cho biết những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam nói chung và nói riêng ở vùng Duyên hải Bắc Bộ?
Nền nông nghiệp ở nước ta thời gian qua được ghi nhận có sự tiến bộ vượt bậc. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu hàng đầu các mặt hàng nông sản, lương thực và nằm trong nhóm 5 nước xuất khẩu lớn nhất, trong đó Vùng Duyên hải Bắc Bộ đóng góp không nhỏ vào thành tựu này, là khu vực phát triển nông nghiệp đứng thứ 2 của cả nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp vẫn còn bộc lộ rõ những hạn chế, chủ yếu xuất phát từ những bất cập trong công tác quản lý nhà nước như sau:
Một là, cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp chưa rõ ràng, thiếu tính đột phá. Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn cần làm rõ vai trò trung tâm trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp để áp dụng các phương
209
thức cho vay và cung ứng sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp. Cho vay nông nghiệp không nhất thiết ngân hàng phải đưa vốn trực tiếp cho nông dân mà có thể thông qua doanh nghiệp ứng trước vật tư hàng hóa đầu vào, sau đó sẽ khấu trừ khi thu mua sản phẩm. Cần có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đối với diện tích đất cho xây dựng kết cấu hạ tầng chế biến nông nghiệp như đất cho phơi sấy, đất xây dựng cơ sở chế biển, đất kho chứa... Xây dựng và hoàn thiện các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu, áp dụng khoa học công nghệ trong chọn tạo giống, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp chọn tạo giống.
Hai là, môi trường kinh doanh nông nghiệp không hấp dẫn. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có điểm số thấp về điều kiện quản lý, kinh doanh nông nghiệp. Môi trường kinh doanh giống cây trồng của Việt Nam ở mức 62,5/100 điểm, thấp hơn cả Campuchia, Bangladesh và Philippines. Thời gian đăng ký cấp giấy phép kinh doanh giống nông nghiệp mới ở Việt Nam lên tới 901 ngày so với Philippines (571 ngày) và Myanmar (306 ngày). Môi trường kinh doanh máy móc nông nghiệp chỉ đạt 24,4/100 điểm (hơn Lào và Myanmar). Thủ tục và quy định cho phép hưởng ưu đãi về thuế, phí còn nhiều bất cập. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn chủ yếu dưới dạng thô. Vì vậy, cần xây dựng mô hình mẫu, đầu tư vào khu vực, sản phẩm cụ thể để tạo nên sản phẩm, giá trị của Việt Nam.
Ba là, đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Để thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn, điều kiện tiên quyết là tạo vốn cho nông nghiệp và khơi thông dòng tín dụng nông nghiệp. Mặc dù, dòng tín dụng nông nghiệp tăng trong thời gian qua, nhưng do năng lực sản xuất của lĩnh vực này vẫn còn rất lớn nên chính sách tín dụng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Để tín dụng nông nghiệp, nông thôn được khơi thông cần có điều kiện cần và điều kiện đủ. Điều kiện cần, đó là: Đơn giản hóa thủ tục vay vốn để nông dân không mất nhiều thời gian làm thủ tục tín dụng. Điều chỉnh linh hoạt điều kiện cho vay phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp, cải thiện điều kiện tiếp cận vốn (bao gồm cả điều kiện về tài sản thế chấp). Mở rộng gói tín dụng cho vay theo vụ cây trồng, cho vay tiêu dùng đối với hộ nông dân. Điều kiện đủ, bao gồm nghiên cứu cơ chế bảo lãnh tín dụng cho nông dân một cách đơn giản, rõ ràng thay vì phải cầm cố hay giao nộp sổ đỏ. Hỗ trợ mua bảo hiểm rủi ro trong nông nghiệp cho nông dân, bảo hiểm lãi suất cho vay đối với một số sản phẩm… Nhờ vậy, rủi ro trong hoạt động đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ giảm, thúc đẩy các ngân hàng mạnh dạn hơn trong đầu tư vốn vào lĩnh vực nông nghiệp.
Bốn là, công tác quy hoạch kết cấu hạ tầng cho các vùng sản xuất nông nghiệp chưa đầy đủ. Quy hoạch kết cấu hạ tầng nông thôn chưa bảo đảm cho nhu cầu phát triển, cơ giới hóa, hiện đại hóa (quy mô đồng ruộng, giao thông nội đồng); Kết cấu hạ tầng nông thôn còn nhiều yếu kém, chưa tạo điều kiện
210
ứng dụng máy móc trong sản xuất. Bên cạnh đó, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp, vốn tích lũy bình quân một hộ nông thôn 17,8 triệu đồng (2015) và rất bấp bênh. Vì vậy, khả năng tích lũy để đầu tư, mua sắm máy móc, trang thiết bị sản xuất của nông dân gặp nhiều khó khăn; công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện và quản lý nông nghiệp của nhà nước còn chưa hiệu quả; triển khai thực hiện các chính sách còn hạn chế. 3. Xin ông/bà cho biết chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hiện nay như thế nào?
Theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sẽ được hưởng nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích của Nhà nước. Các doanh nghiệp được nhận ưu đãi và hỗ trợ là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và có Dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư; Dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư và Dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư. Các doanh nghiệp trên sẽ được Nhà nước ưu đãi và hỗ trợ thông qua miễn, giảm tiền sử dụng đất; miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước; hỗ trợ tập trung đất đai; tiếp cận, hỗ trợ tín dụng; hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường; hỗ trợ đầu tư cơ sở; cung cấp dịch vụ công và đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.
Theo quy định, doanh nghiệp có dự án nông nghiệp (đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư) được Nhà nước giao đất hoặc được chuyển mục đích đất để làm nhà ở cho người lao động theo quy định tại Điều 55 Luật Đất đai được miễn tiền chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất được chuyển mục đích để xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc tại dự án; được miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất đó sau khi được chuyển đổi. Doanh nghiệp có dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư thì dự án đó được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 15 năm đầu kể từ ngày Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 7 năm tiếp theo. Doanh nghiệp có dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư thì dự án đó được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 11 năm đầu kể từ ngày Nhà nước cho thuê đất, thuê mặt nước và giảm 50% tiền thuê đất, thuê mặt nước trong 5 năm tiếp theo.
Để giúp các doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tiếp cận được nguồn vốn, ngân sách địa phương sẽ hỗ trợ lãi suất vay thương mại sau khi dự án hoàn thành với mức hỗ trợ bằng chênh lệch lãi suất vay thương mại so với lãi suất tín dụng, Nhà nước ưu đãi đầu tư tính trên số dư nợ thực tế tại thời điểm xem xét hồ sơ hỗ trợ. Thời gian hỗ trợ lãi suất tính từ ngày bắt đầu giải ngân theo hợp đồng tín dụng với ngân hàng thương mại: Tối đa 8 năm đối với dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư; tối đa 6 năm đối với dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư; tối đa 5 năm đối với dự án nông nghiệp khuyến khích đầu tư. Trường hợp dự án của doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập thì thời gian hỗ trợ lãi suất là 8 năm; dự án mà doanh
211
nghiệp tham gia liên kết chuỗi giá trị thì được áp dụng hỗ trợ lãi suất theo chu kỳ sản xuất của sản phẩm.
Nhà nước cũng hỗ trợ 80% kinh phí thực hiện, nhưng không quá 300 triệu đồng đối với các doanh nghiệp thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, mua bản quyền công nghệ, mua công nghệ hoặc mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm mới, cải tiến công nghệ, công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường, công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, tiết kiệm năng lượng. Để hưởng chính sách trên, doanh nghiệp phải có doanh thu năm trước tối thiểu bằng 10 lần mức hỗ trợ; các bản quyền, công nghệ doanh nghiệp đề xuất mua phải phù hợp với định hướng phát triển sản xuất của doanh nghiệp đã đăng ký. Trường hợp đề tài nghiên cứu khoa học được ứng dụng trong thực tế thì được thanh toán bằng mức hỗ trợ; trường hợp không được áp dụng trong thực tế thì được thanh toán bằng 50% mức hỗ trợ. Nghị định cũng nêu rõ, doanh nghiệp có dự án đầu tư cơ sở chăn nuôi bò sữa, bò thịt được ngân sách Nhà nước hỗ trợ 5 tỷ đồng/dự án để xây dựng cơ sở hạ tầng về xử lý chất thải, giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua thiết bị. Ngoài hỗ trợ hạ tầng trên, nếu doanh nghiệp nhập, bò giống cao sản để nuôi trực tiếp hoặc liên kết nuôi với hộ gia đình thì được hỗ trợ bổ sung là 10 triệu đồng/con./. 4. Theo quan điểm của ông/bà, phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp có phải là xu hướng chủ đạo nhằm thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp? Khả năng thực hiện và một số giải pháp thúc đẩy?
Thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và trình độ tổ chức, quản lý là một hướng đi đúng nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế cao và phát triển bền vững ngành nông nghiệp. Những năm gần đây có nhiều chính sách liên quan tới vấn đề này được ban hành đã nhận được sự quan tâm chú ý của nhiều đối tượng, ngành nghề, tổ chức trong và ngoài nước. Những thành quả bước đầu cũng đáng được ghi nhận và khích lệ với sự tham gia của một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn. Nhưng vì nhiều lí do mà số doanh nghiệp tham gia còn ít cho thấy vẫn còn những hạn chế cần khắc phục và cần có một cú “huých” đủ mạnh để tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Thời gian qua, nhằm góp phần thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, thu hút các thành phần kinh tế trong xã hội tham gia, tạo cơ sở chuyển nhanh nền nông nghiệp của Việt Nam theo hướng CNH-HĐH, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1895/QĐ-TTg ngày 17/12/2012 phê duyệt Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020. Trên cơ sở đó, ngành nông nghiệp đã xác định phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao là xu hướng chủ đạo và tất yếu trong xu thế hội nhập, là giải pháp mạnh, hiệu quả trong cơ cấu lại nông nghiệp.
Mục tiêu của chương trình là thúc đẩy phát triển và ứng dụng có hiệu quả công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp, góp phần xây dựng nền nông
212
nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng hàng năm trên 3,5%; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia cả trước mắt và lâu dài.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các Hiệp định mậu dịch tự do đã ký đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, nông nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện để tăng trưởng thương mại, đa dạng hóa thị trường, sản phẩm xuất khẩu, tạo cơ hội việc làm, phát triển sản xuất và tăng thu nhập cho nông dân.
Trong thời gian gần đây, đã xuất hiện xu hướng nhiều doanh nghiệp tìm hiểu và đầu tư sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đang khẳng định thế mạnh và khả năng cạnh tranh vượt trội về năng suất, chất lượng sản phẩm; đồng thời trở thành điểm sáng và là động lực tăng trưởng của nhiều vùng/địa phương. Nhiều doanh nghiệp, kể cả những công ty lớn, các định chế tài chính, không chỉ ngân hàng mà cả các quỹ đầu tư đã và đang chuyển dịch vốn, đầu tư, kinh doanh sang khu vực nông nghiệp. Đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cấp giấy chứng nhận cho 35 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong các lĩnh vực như sản xuất trồng trọt (rau, hoa); chăn nuôi (bò sữa, lợn, gà) và nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp nhưng chưa làm thủ tục thẩm định, công nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xây dựng dự thảo quyết định sửa đổi, thay thế Quyết định số 69/2010/QĐ-TTg quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục công nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng làm rõ các tiêu chí và giao UBND tỉnh thẩm quyền công nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định trong phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhưng cũng cần thừa nhận vẫn còn những hạn chế như tổ chức sản xuất trong nông nghiệp không đồng bộ, giá trị sản xuất nông nghiệp chưa cao, khoa học công nghệ chưa phát huy vai trò là động lực, là đòn bẩy trong sản xuất; các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp còn nhỏ lẻ, phân bố không đồng đều, chưa đảm bảo giảm thiểu được ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu bất thuận đến sản xuất nông nghiệp… Một trong những lý do khiến ngành nông nghiệp chưa tạo nên đột phá trong việc nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp là chưa có nhiều mô hình công nghệ cao trong nông nghiệp có thể áp dụng có hiệu quả cao tại Việt Nam. Số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp cũng còn thấp, đến tháng 9/2017 chỉ có 4.424 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, chiếm dưới 1% tổng số doanh nghiệp cả nước. Khả năng ứng dụng khoa học công nghệ của doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp còn thấp, 75% doanh nghiệp đang sử dụng máy móc hết khấu hao.
213
Việt Nam đang tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất theo chuỗi, sản xuất hàng hóa tập trung. Trong tái cơ cấu, thành tố tổ chức sản xuất mà trụ cột là doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức của nông dân là hạt nhân trong chuỗi liên kết. Hội nhập chỉ thành công khi có những doanh nghiệp đầu tàu, có hệ thống tổ chức doanh nghiệp, hợp tác xã.
Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao trước hết phải dựa trên tín hiệu thị trường, phản ánh cả nhu cầu và đòi hỏi mới. Sức hấp dẫn với nhà đầu tư, doanh nghiệp chính là ở đây. Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao là nền tảng đáp ứng đòi hỏi mới của người tiêu dùng: sản phẩm phải “xanh”, đảm bảo tiêu chuẩn và hữu ích. Không chỉ sản phẩm mà cả quá trình sản xuất cũng phải “xanh” và thỏa mãn những tiêu chí chất lượng và chuẩn mực được thừa nhận, cam kết.
Để thay đổi được thực trạng sản xuất nông nghiệp hiện nay, đem lại lợi ích, giá trị gia tăng cao hơn đối với sản phẩm nông nghiệp thì vẫn cần một cú “huých” mạnh. Ở đây, một trong những điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa cú “huých” đó là lấy doanh nghiệp cùng người nông dân giữ vai trò trung tâm và đi vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Chỉ có như vậy, sản xuất nông nghiệp mới có thể mang tính liên kết cao giữa các bên liên quan, giữa tất cả các khâu trong chuỗi giá trị, giữa lợi thế so sánh và lợi thế nhờ quy mô và thị trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm, qua đó tạo giá trị gia tăng cao./. 5. Ông/bà nhận định như thế nào về xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay và đặc biệt là ở vùng Duyên hải Bắc Bộ?
Chúng ta biết rằng sản xuất nông nghiệp hữu cơ là phương thức sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường, góp phần quan trọng để phục hồi, duy trì hệ sinh thái tự nhiên và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ cũng là một sản phẩm bổ dưỡng, tươi ngon để phục vụ ngay đời sống người tiêu dùng. Phát triển nông nghiệp hữu cơ đang là phong trào của thế giới với 43 triệu ha diện tích phát triển nông nghiệp hữu cơ, thị trường vào khoảng 80 tỷ USD với tốc độ phát triển những năm gần đây rất nhanh. Việt Nam là đất nước nông nghiệp, chúng ta không chỉ tập trung phát triển nhanh sản xuất nông nghiệp theo hướng xuất khẩu, theo hướng phục vụ tiêu dùng mà còn phải chú ý đến một hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ này.
Để phát triển hướng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, chúng ta thấy có nhiều tiềm năng cũng như thách thức. Đòi hỏi phải có sự đồng hành đồng bộ của các cấp như: Chính phủ, các thành phần kinh tế và người dân. Có như vậy, chúng ta mới tận dụng được lợi thế về mặt thị trường, về mặt tài nguyên đa dạng sinh học, các mặt khác, đồng thời khắc phục được những điểm tồn tại hiện nay của nền nông nghiệp Việt Nam để làm sao đưa lại hiệu quả cao nhất trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ thời gian tới, cùng với đó, sẽ phát triển nền nông nghiệp Việt Nam hàng hóa, hội nhập, thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu.
214
Trong các biện pháp để thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ, biện pháp hàng đầu phải hoàn thiện thể chế, các cơ chế, chính sách. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã được giao nhiệm vụ phối hợp cùng các đơn vị liên quan hoàn thiện Nghị định về sản xuất nông nghiệp hữu cơ để trình Thủ tướng Chính phủ và dự kiến có thể ban hành trong thời gian sớm nhất. Cùng với đó, Bộ cũng được giao nhiệm vụ xây dựng “Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ Việt Nam” trong thời gian tới. Ngoài 2 nội dung về văn bản pháp luật này, tới đây Chính phủ giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành cùng tập trung xây dựng hành lang pháp lý, các chế tài quản lý. Trên cơ sở đó huy động các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân tham gia tập trung vào phát triển nông nghiệp hữu cơ.
Và có những chính sách cụ thể để thu hút được đầu tư, hỗ trợ của nước ngoài, kể cả trong việc đầu tư trực tiếp cho đến kinh nghiệm quản lý, các tiến bộ khoa học kỹ thuật; phối hợp cùng các thành phần kinh tế trong nước chúng ta có thể đẩy nhanh hơn phát triển nhánh nông nghiệp hữu cơ. 6. Lâu nay, điều lặp đi lặp lại với nhiều sản phẩm nông nghiệp ở nước ta là “được mùa - mất giá, mất mùa - được giá”. Người sản xuất cứ sản xuất và mờ mịt về thị trường, hầu hết không biết sẽ bán cho ai, thị trường thế nào... Vậy, xin ông/bà cho biết có cần thay đổi cách tiếp cận về quản lý, về chính sách và quan điểm phát triển nông nghiệp không?
Sản xuất nông nghiệp là sản xuất cho thị trường, đòi hỏi cách tổ chức hệ thống và cách tiếp cận quản lý phù hợp. Từ quan điểm thị trường, cần phân biệt rạch ròi những việc cơ quan quản lý cần làm, những việc thuộc về thị trường mà cơ quan nhà nước không có năng lực hoặc nếu ôm lấy thì vi phạm các nguyên tắc thị trường, cần giao cho các tổ chức độc lập, các bên thứ ba, các tổ chức cộng đồng. Ví dụ, các hoạt động chứng nhận, thử nghiệm, xét nghiệm, đào tạo, xây dựng thương hiệu cho chuỗi sản phẩm nông nghiệp, các hoạt động nghiên cứu, phát triển thị trường. Thị trường sẽ định hướng cho các hoạt động nghiên cứu phát triển, đổi mới kỹ thuật, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm cho thị trường thì tối thiểu phải đáp ứng tiêu chuẩn/chuẩn mực/quy định của chính quyền, cả ở thị trường nội địa lẫn thị trường nhập khẩu. Đó là chưa nói đến những tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn của cơ quan nhà nước, là tiêu chuẩn của các tổ chức độc lập mà các chuỗi bán lẻ toàn cầu bắt buộc sản phẩm phải đạt. Để có động lực phát triển, sản phẩm đạt chuẩn cần có thị trường. Sản phẩm đạt chuẩn trên thực tế mới đi được một nửa con đường, phần còn lại là việc xây dựng thương hiệu, thông tin cho thị trường, tức các hoạt động PR, marketing, bán hàng. Có sản phẩm đạt chuẩn rồi, còn phải có nhận diện sản phẩm, làm cho thị trường nhận biết về sản phẩm, tạo cầu cho sản phẩm.
Có những việc của thị trường như hoạt động xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, nghiên cứu thị trường, quảng bá phát triển thị trường cho sản phẩm nông nghiệp, từng doanh nghiệp không đủ năng lực thực hiện thì rất cần đến
215
vai trò của tổ chức hội đoàn. Nhiệm vụ của chính quyền là giúp xây dựng, nâng cao năng lực các hình thức tổ chức cộng đồng như các hội sản xuất tổ chức theo chuỗi, vì họ chính là những đơn vị sửa chữa các khuyết tật của nông nghiệp nói chung và thị trường nông sản nói riêng. Một khi được phát huy năng lực, các tổ chức cộng đồng trong nông nghiệp sẽ tác động tổ chức lại ngành sản xuất, chuyển đổi dần lên sản xuất lớn, đúng theo yêu cầu của thị trường mục tiêu, sản xuất có địa chỉ tiêu thụ. 7. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay đang là một câu chuyện nhức nhối với người tiêu dùng và ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiêu thụ nông sản. Theo ông/bà, vì sao các công cụ hiện tại không ngăn được?
Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm nếu không dựa vào tổ chức sản xuất theo chuỗi, gắn với lợi ích mang lại từ thị trường sẽ không thể bền vững, Các doanh nghiệp, các nhà sản xuất sẽ trở nên đối phó, họ có trăm phương ngàn kế lách sự kiểm soát của chính quyền.
Các quy định quản lý an toàn thực phẩm hiện nay không theo cách tiếp cận hệ thống và không bắt buộc nên việc quản lý không hiệu quả. Tiếp cận hệ thống nói nôm na là việc bắt buộc các nhà sản xuất phải đáp ứng, được chứng nhận thực hiện các hệ tiêu chuẩn nhất định như GAP, HACCP..., thường xuyên báo cáo việc thực hiện cho cơ quan thẩm quyền hoặc cho các thanh tra an toàn vệ sinh thực phẩm như ở một số nước. Nhà sản xuất, doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện các hệ thống tiêu chuẩn thường xuyên, hằng ngày. Cơ quan thẩm quyền có trách nhiệm giám sát, theo dõi và yêu cầu nhà sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu của các hệ tiêu chuẩn mà doanh nghiệp đã được chứng nhận đạt chuẩn, như vậy vấn đề quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm mới được bảo đảm xuyên suốt. Thay vì tập trung vào kiểm tra dựa trên lấy mẫu, phân tích mẫu sản phẩm hoặc kiểm tra theo đợt, theo “tháng hành động”, quản lý theo tiếp cận hệ thống sẽ đảm bảo quá trình sản xuất thực phẩm tuân thủ các tiêu chuẩn, chuẩn mực.
Các doanh nghiệp cũng thường than phiền việc cấp chứng nhận hiện nay chỉ là hình thức, các loại giấy chứng nhận chỉ cần có tiền là được cấp... Đúng là thực tế, tôi đã nghe rất nhiều tiếng kêu từ doanh nghiệp về vấn đề này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực, ở nhiều trung tâm, kể cả một số phòng kiểm nghiệm và một số đơn vị chứng nhận đạt chuẩn. Để không hình thức thì đòi hỏi có sự kiểm tra và công nhận các cơ quan cấp chứng nhận một cách nghiêm túc và trách nhiệm từ phía cơ quan nhà nước. Và thay đổi cơ chế kiểm tra, kiểm tra việc thực hiện hệ thống quản lý thay vì kiểm tra kết quả và theo đợt như hiện nay. 8. Xin ông/bà cho biết định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH ở Việt Nam nói chung và ở vùng Duyên hải Bắc Bộ trong thời gian tới như thế nào?
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu chiến lược về CNH-HĐH đất nước là: từ nay (1996) đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
216
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất… Trong cơ cấu kinh tế, tuy nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội. Đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản… Hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực cho xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá…
Nước ta là một nước đang phát triển, nông nghiệp mới bắt đầu có sự chuyển dịch từ sản xuất tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hóa. Là nước đi sau, chúng ta có thuận lợi là có điều kiện tham khảo kinh nghiệm của những nước đi trước trong khu vực và trên thế giới về con đường phát triển nông nghiệp trong thời đại hiện nay, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm tốt, tránh được những sai lầm của các nước đi trước trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp.
Qua đúc kết kinh nghiệm trong nửa sau của thế kỷ 20 và tham khảo kinh nghiệm một số nước trong khu vực và thế giới, chúng ta có thể khẳng định con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam từ thế kỷ 20 bước vào thế kỷ 21 là: nông nghiệp sản xuất hàng hoá trên cơ sở CNH-HĐH với mức độ phù hợp yêu cầu của nông nghiệp bền vững.
Về sản xuất lương thực: lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh. Mức sản lúa ổn định khoảng 33 triệu tấn/năm, trong đó lúa gạo để ăn và dự trữ khoảng 25 triệu tấn/năm. Giữ ổn định khoảng 4 triệu ha đất có điều kiện tưới tiêu chủ động để sản xuất lúa. Cây màu lương thực chủ yếu là ngô, cần phát triển đạt mức 5-6 triệu tấn/năm đủ nguyên liệu để làm thức ăn chăn nuôi.
Về cây công nghiệp ngắn ngày: Không xây dựng thêm các nhà máy đường mới, phát triển mạnh các loại cây có dầu như lạc (đậu phụng), đậu tương (đậu nành), vừng (mè), hướng dương…để cung cấp dầu ăn, các loại cây có sợi như bông, dâu tằm gắn với ngành ươm tơ, dệt lụa phát triển thuốc lá nguyên liệu để giảm lượng thuốc lá nhập khẩu.
Về cây công nghiệp lâu năm truyền thống có giá trị kinh tế cao là: cà phê với mức 400.000 ha cà phê với hiện có, tập trung phát triển cà phê chè, sản lượng cà phê trong tương lai giữ mức khoảng 600.000 tấn/năm. Phát triển mạnh cây điều ở miền Trung, tăng diện tích lên 500.000 ha, sản lượng khoảng 100.000 tấn nhân điều/năm. Hồ tiêu là cây lâu năm có hiệu quả kinh tế cao, cần nâng diện tích lên 50.000 ha, sản lượng 100.000 tấn/năm. Tập trung thâm
Ngày 15/06/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về một số chủ trương chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Theo đó, trong 10 năm tới, những ngành sản xuất hàng hoá quan trọng của nông nghiệp nước ta cần phát triển theo định hướng sau:
217
Về rau, hoa quả và cây cảnh, ngoài các loại rau truyền thống, phát triển các loại rau cao cấp mới như: các loại đậu rau, ngô rau, măng, nấm ăn, nấm dược liệu…là những loại rau có giá trị dinh dưỡng cao, có thị trường tiêu thụ, tiếp tục phát triển các loại cây ăn quả có khả năng xuất khẩu: vải, nhãn, dứa, thanh long…
Về lâm nghiệp: ngoài việc bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh, trồng rừng phòng hộ, cần phát triển rừng sản xuất. Cụ thể: phát triển các loại tre, trúc, keo, thông, các loại bạch đàn…làm nguyên liệu phát triển ngành giấy. Tiếp tục phát triển các ngành sản xuất ván gỗ nhân tạo gồm ván ghép thành, ván dăm, ván sợi, công nghiệp chế biến và xuất khẩu đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ…Phát triển các loại quế, hồi…,các loại cây gỗ quý hiếm như giáng hương, sao, lim, lát, pơmu, tếch…các loại cây đặc sản, cây lấy gỗ làm nguyên liệu để chế biến sản phẩm thủ công, mỹ nghệ.
Về chăn nuôi: phát triển đàn lợn phù hợp nhu cầu thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu, phát triển đàn bò thịt theo hướng bò Zêbu có năng suất cao, phấn đấu trong 10 năm tới có 200.000 con bò sữa, trong đó có 100.000 con bò cái vắt sữa với sản lượng 300.000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt.
Về thuỷ sản: Cùng với việc phát triển đánh bắt xa bờ, tập trung đầu tư phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản. Tôm là ngành chủ lực trong ngành nuôi trồng thuỷ sản gồm tôm nước lợ (tôm sú, tôm he) và tôm nước ngọt (tôm càng xanh). Diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh là 100.000 ha, sản lượng 300.000 tấn/năm. Đồng thời phát triển mạnh nuôi trồng các loại cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn và các loại đặc sản khác.
canh 400.000 ha cao su hiện có, mở rộng vườn cây cao su để đạt 600.000 tấn cao su mủ khô/năm. Bên cạnh đó phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ mủ cao su, gỗ cao su. Chè là cây dài ngày chủ lực ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Cần mở rộng 100.000 ha với công nghệ thâm canh để đạt sản lượng 100.000 tấn chè các loại/năm.
Theo định hướng trên, nền nông nghiệp Việt Nam đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, đủ nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 8-9 tỷ USD/năm. Bên cạnh đó, Chính phủ đã có chủ trương, chính sách để tăng khả năng tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản. Cụ thể, nhanh chóng ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Khoa học công nghệ phải phục vụ mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững, nâng cao năng xuất, chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng mới, quý hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh.
Trong thập kỷ tới, phải đưa trình độ khoa học công nghệ của nhiều ngành trong nông nghiệp nước ta đuổi kịp các nước trong khu vực, nâng mức đóng góp của khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp từ
218
30% hiện nay lên trên 50%. Về giống, đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học trong chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Về tưới tiêu nước và cơ giới hoá, đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tưới phun, tưới nhỏ giọt, tưới thấm… cơ giới hoá khâu làm đất trên 70% khâu gieo hạt cây ngắn ngày./.
219
PHỤ LỤC 2
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ________ Số: 865/QĐ-TTg CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc _________ Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2008
QUYẾT ĐỊNH Về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 _________ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Nghị quyết số 54/NQ-TW ngày 14 tháng 9 năm 2005 của Bộ Chính trị: “Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020”; Căn cứ Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược biển Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020; Căn cứ Nghị định số 08/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 01 năm 2005 của Chính phủ về quy hoạch xây dựng; Xét đề nghị của Bộ Xây dựng tại Tờ trình số 32/TTr-BXD ngày 29 tháng 4 năm 2008 về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ,
QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Phê duyệt Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 với những nội dung chính như sau: 1. Mục tiêu phát triển Phát huy mọi tiềm năng lợi thế để phát triển Vùng Duyên hải Bắc Bộ thành vùng kinh tế tổng hợp (công nghiệp, du lịch và dịch vụ …) có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, đặc biệt là chiến lược kinh tế biển Việt Nam. Phát huy vai trò vùng cửa ngõ hướng biển của miền Bắc Việt Nam trên cơ sở xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật diện rộng cấp vùng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh, bảo đảm phát triển bền vững cho toàn Vùng. 2. Tầm nhìn đến năm 2050 Đến năm 2050 Vùng Duyên hải Bắc Bộ là vùng kinh tế quan trọng tầm quốc gia và quốc tế, có vị thế ảnh hưởng đặc biệt với Vùng Thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế Nam Trung Quốc và vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ, là một vùng trọng điểm của chiến lược biển Việt Nam. Là khu vực phát triển năng động, có môi trường đầu tư thuận lợi, chất lượng sống đô thị nông thôn cao. Đồng thời là
220
trung tâm văn hóa – lịch sử, đào tạo nguồn nhân lực và là trung tâm du lịch lớn của cả nước. 3. Phạm vi lập quy hoạch Phạm vi lập quy hoạch của Vùng Duyên hải Bắc Bộ bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính thành phố Hải Phòng và 4 tỉnh: Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình với diện tích tự nhiên khoảng 12.005,93 km2. Phạm vi nghiên cứu bao gồm Vùng đồng bằng sông Hồng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các khu vực liên quan đến phát triển không gian kinh tế - xã hội của Vùng trong Tầm nhìn hướng tới 2050. 4. Dự báo dân số a) Dân số toàn vùng: - Hiện trạng dân số toàn vùng năm 2005: khoảng 7,6 triệu người; - Dự kiến đến năm 2015: 8,3 – 8,65 triệu người. - Dự kiến đến năm 2025: 8,7 - 9,0 triệu người. b) Dân số đô thị: - Dân số đô thị toàn vùng năm 2005: khoảng 1,86 triệu người; - Dự kiến đến năm 2015: khoảng 2,5 – 2,8 triệu người; - Dự kiến đến năm 2025: khoảng 4,5 - 5,0 triệu người; c) Tỷ lệ đô thị hóa: - Năm 2005: 24,54% (toàn quốc 27,12%); - Dự kiến năm 2015 đạt 38 – 42%; - Dự kiến năm 2025 đạt khoảng 55 – 60,0%. 5. Quy hoạch sử dụng đất - Hiện trạng diện tích đất tự nhiên toàn Vùng Duyên hải Bắc Bộ là 12.005,93 km2 (1.200.593 ha); - Dự kiến năm 2015 đất xây dựng đô thị khoảng 40.280 – 45.100 ha chiếm 3,75% diện tích tự nhiên, bình quân 135 – 160 m2/người; đất công nghiệp khoảng 20.500 – 27.500 ha chiếm 2,29% diện tích đất tự nhiên; đất xây dựng các điểm dân cư nông thôn khoảng 57.000 – 65.000 ha; - Dự kiến năm 2025 đất xây dựng đô thị khoảng 72.500 – 78.500 ha, chiếm 6,54% diện tích tự nhiên, bình quân 130 – 150m2/người; đất xây dựng công nghiệp khoảng 44.000 – 53.000 ha, chiếm 4,42% diện tích tự nhiên; đất xây dựng các điểm dân cư nông thôn khoảng 34.700 – 35.000 ha. 6. Định hướng phát triển không gian vùng a) Các định hướng chính phát triển Vùng Duyên hải Bắc Bộ: - Vùng Duyên hải Bắc Bộ phát triển theo hướng vùng đô thị đa cực, phân bố theo tuyến liên kết giữa không gian thành phố Hải Phòng – Hạ Long là đô thị hạt nhân trung tâm vùng với các đô thị trung tâm tỉnh lỵ trên cơ sở các trục không gian chủ đạo: trục không gian quốc lộ 18, trục không gian quốc lộ 10,
221
trục không gian tuyến cao tốc ven biển Vùng Duyên hải Bắc Bộ, trục không gian Đông Tây nối vùng châu thổ sông Hồng với Vùng Thủ đô Hà Nội, hành lang đường Hồ Chí Minh; - Vùng đô thị hóa mạnh bao gồm không gian các đô thị công nghiệp dịch vụ phát triển nối kết theo trục: quốc lộ 5; không gian các đô thị du lịch, kinh tế; hình thành trục không gian ven biển; - Vùng động lực phát triển kinh tế, công nghiệp, dịch vụ tập trung trên trục kinh tế Hải Phòng – Hạ Long – Móng Cái. Trong đó Hải Phòng – Hạ Long là đô thị trung tâm vùng phát triển công nghiệp, cảng biển, dịch vụ, du lịch; - Các đô thị trung tâm tỉnh lỵ được phát triển các quy mô và chất lượng đô thị với việc đầu tư hạ tầng xã hội – kỹ thuật gắn với phát triển công nghiệp – dịch vụ để phát triển cân đối, hài hòa với các đô thị trung tâm. Trong đó Nam Định, Móng Cái là đô thị trung tâm cấp vùng; - Các đô thị trung bình, nhỏ, cấp huyện được phát triển gắn với các vùng nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp thu hút lao động tại chỗ; - Bảo vệ những vùng tự nhiên bao gồm các khu vực thấp kèm theo lưu vực sông, vùng thoát lũ, vùng các tuyến đê biển các vùng cảnh quan rừng quốc gia, các khu vực dự trữ sinh quyển, di tích lịch sử văn hóa và các vùng nông nghiệp. b) Tổ chức phát triển không gian Vùng Duyên hải Bắc Bộ: Không gian Vùng Duyên hải Bắc Bộ được tổ chức thành 2 vùng: vùng đô thị hạt nhân và vùng phát triển đối trọng. - Vùng đô thị hạt nhân: thành phố Hải Phòng – Hạ Long nối kết phát triển thành vùng đô thị hạt nhân là động lực để phát triển Vùng Duyên hải Bắc Bộ và khẳng định vai trò cấp độ quốc gia quốc tế với các dịch vụ: thương mại, du lịch, cảng biển, công nghiệp trong mối liên kết với Vùng Thủ đô Hà Nội và các trung tâm phân vùng; - Vùng phát triển đối trọng: gồm 2 phân vùng. Trong đó các đô thị tỉnh lỵ đóng vai trò hạt nhân phát triển. + Phân vùng phía Bắc: không gian liên kết phát triển theo quốc lộ 18 và đường cao tốc Hà Nội – Hạ Long – Móng Cái gồm các đô thị phân bố theo dải: Đông Triều – Mạo Khê – Uông Bí – Cẩm Phả - Tiên Yên – Đầm Hà – Quảng Hà – Móng Cái và khu kinh tế Vân Đồn. Là trung tâm công nghiệp: luyện kim, năng lượng, đóng tàu, dịch vụ, cảng biển, khai thác mỏ và trung tâm dịch vụ du lịch quốc gia, quốc tế với di sản vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long; + Phân vùng phía Nam: gồm 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Không gian vùng theo dải ven biển kết hợp cùng nông nghiệp châu thổ sông Hồng. Không gian được liên kết theo trục quốc lộ 10 và đường cao tốc ven biển. Trung tâm phân vùng là thành phố Nam Định (phát triển thành trung tâm
222
vùng Nam sông Hồng) và đô thị trung tâm tỉnh Thái Bình, Ninh Bình. Phát triển các đô thị ven biển: Diêm Điền, Tiền Hải, Hải Thịnh, Phát Diệm; phát triển các đô thị mới ở khu vực có tiềm năng phát triển: Hùng Thắng, Ngô Đồng, Quất Lâm, Cồn, Rạng Đông gắn với các khu bảo tồn thiên nhiên và rừng quốc gia Cúc Phương, khu Tràng An. Phân vùng bảo đảm yêu cầu an ninh lương thực, phát triển công nghiệp đóng tàu, chế biến thủy, hải sản, nông sản, trung tâm văn hóa – giáo dục đào tạo dịch vụ đô thị và trung tâm du lịch quốc gia. c) Phát triển hệ thống dân cư, đô thị và dịch vụ hạ tầng xã hội: Bảo đảm sự phát triển theo hướng bền vững với nguyên tắc tầng bậc, tập trung tại các trung tâm đô thị và vùng xung quanh, tiết kiệm đất đai, đầu tư các dịch vụ hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ tạo sức hút về dịch vụ hạ tầng, nhà ở và việc làm cho các đô thị trong vùng. - Hệ thống đô thị được phân như sau: + Các thành phố cấp vùng và phân vùng: với sự liên kết 2 đô thị lớn trong vùng (Hải Phòng và Hạ Long) là trung tâm tổng hợp dịch vụ hoạt động kinh tế biển của Bắc Bộ, đồng thời là cửa ngõ chính ra biển của 2 hành lang kinh tế với phía Nam Trung Quốc, là đô thị hướng biển gắn với công nghiệp – dịch vụ cảng biển, dịch vụ thương mại, tài chính ngân hàng, dịch vụ du lịch, trung tâm y tế, giáo dục và đào tạo; + Đô thị cấp phân vùng và vùng tỉnh gồm các thành phố: Móng Cái (Trung tâm phân vùng phía Bắc), Nam Định (trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng); Thái Bình, Ninh Bình là trung tâm hành chính chính trị của tỉnh, là hạt nhân phát triển của các tỉnh, phát triển theo hướng thúc đẩy các chức năng chuyên ngành, đầu tư xây dựng hạ tầng xã hội – kỹ thuật gắn các vùng công nghiệp và dịch vụ đô thị, thu hút lao động và phát triển các công trình lớn của vùng; + Các đô thị chuyên ngành chủ yếu gắn liền các khu du lịch, khu kinh tế, khu công nghiệp cao như Vân Đồn, Cát Bà, Đồ Sơn, Cát Hải, Tràng An v.v…. + Các đô thị, thị trấn, huyện lỵ là trung tâm hành chính chính trị cấp huyện, trung tâm công nghiệp vừa và nhỏ, dịch vụ dân cư nông nghiệp, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, phát triển các nghề thủ công, dịch vụ thương mại, dịch vụ nông nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng và hệ thống hạ tầng nông thôn. d) Tổ chức không gian công nghiệp Vùng Duyên hải Bắc Bộ: Hình thành các khu vực công nghiệp chính trong vùng theo hướng bố trí không gian phát triển toàn vùng trên cơ sở tận dụng các lợi thế của vùng và của từng địa phương, bao gồm: - Vùng đô thị hạt nhân:
223
+ Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo; phát triển công nghiệp công nghệ cao: đóng tàu, sản xuất vật liệu, xây dựng, luyện kim, điện năng, cơ khí điện tử, chế biến thủy, hải sản .v.v…. + Các khu công nghiệp nằm trong trung tâm nội đô của thành phố cần được rà soát để đưa ra khỏi trung tâm đô thị. - Các vùng đối trọng: + Vùng công nghiệp đường 18: phát triển công nghiệp năng lượng, vật liệu xây dựng, khai thác và chế biến khoáng sản, cơ khí. Phát triển trục không gian công nghiệp – đô thị theo hành lang kinh tế Côn Minh – Hạ Long và phát triển theo hướng Hạ Long – Móng Cái; + Khu công nghiệp đô thị gắn với đường cao tốc ven biển: công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ sản xuất nông nghiệp; + Vùng công nghiệp gắn với đô thị Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình: phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp điện tử, cơ khí nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến lương thực thực phẩm. Vùng công nghiệp vật liệu xây dựng Ninh Bình cần được kiểm soát bảo đảm phát triển theo quy hoạch. - Vùng trọng điểm công nghiệp: Vùng trọng điểm công nghiệp của Vùng Duyên hải Bắc Bộ tập trung chủ yếu khu vực Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành hành lang kinh tế chủ đạo của vùng kết nối với quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10 với Vùng Thủ đô Hà Nội thành hành lang đô thị mạnh với các đô thị trung tâm phát triển lớn và cụm công nghiệp – đô thị dịch vụ xen kẽ trên toàn trục hình thành một vùng phát triển động lực cho Vùng Duyên hải Bắc Bộ. Đối với các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp công nghệ cao đẩy nhanh tiến độ xây dựng theo quy hoạch để đưa vào hoạt động. Trước mắt cần tập trung tạo mặt bằng thuận lợi, chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước để lấp đầy các khu công nghiệp hiện có. Rà soát quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp toàn vùng nhằm bảo đảm phát triển bền vững, cân đối đảm bảo môi trường. Quy hoạch đồng bộ khu dân cư và các công trình hạ tầng kỹ thuật xã hội phục vụ khu công nghiệp. đ) Tổ chức không gian du lịch vùng: - Tiềm năng du lịch vùng: Vùng Duyên hải Bắc Bộ có tiềm năng du lịch rất lớn, đặc biệt tập trung ở các tỉnh thành phố Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, đây là vùng có cảnh quan thiên nhiên lớn, các vùng sinh thái biển đảo, ven biển di tích văn hóa lịch sử, làng nghề truyền thống. Trong vùng có các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia: vườn quốc gia Cát Bà, Cúc Phương, khu bảo tồn Ba Mùn – Bái Tử Long, khu bảo tồn thiên nhiên vịnh Hạ Long, Kỳ Thượng, Xuân Thủy, Yên Tử, Vân Long; 9 vùng đất ngập mặn, 2 khu bảo tồn biển: đảo Bạch Long Vĩ, đảo Cát Bà. Tiềm năng về du lịch, văn hóa, lịch sử, là khu vực tập trung nhiều
224
di tích văn hóa, lịch sử, trong đó có nhiều di tích văn hóa, lịch sử được xếp hạng. + Du lịch sinh thái biển, đảo gắn với du lịch văn hóa lịch sử lễ hội, du lịch các làng nghề nông nghiệp châu thổ sông Hồng và là các điểm du lịch vệ tinh của Vùng Thủ đô Hà Nội. + Hệ thống tuyến du lịch là sự liên kết giữa các trung tâm du lịch biển đảo, các điểm di tích văn hóa lịch sử, lễ hội có giá trị của Vùng Duyên hải Bắc Bộ tạo ra tuyến du lịch tuyến khép kín, đa dạng, liên tục. + Lựa chọn để đầu tư xây dựng một số trung tâm du lịch cấp quốc gia, quốc tế. Cấp quốc gia gồm: Trà Cổ, Cô Tô, Yên Tử, đền Trần (Nam Định) và các điểm du lịch cấp vùng. Cấp quốc tế gồm: Hạ Long, Hải Phòng, Cát Bà, khu Tràng An, Hoa Lư, Ninh Bình. - Tổ chức không gian du lịch Vùng Duyên hải Bắc Bộ: + Không gian trung tâm du lịch: thành phố Hải Phòng, thành phố Hạ Long, thành phố Thái Bình, thành phố Ninh Bình là nơi hội tụ các di tích lịch sử, văn hóa lễ hội truyền thống; vùng biển đảo thiên nhiên kỳ vĩ Hạ Long, Cát Bà, vùng thiên nhiên hang động; + Không gian du lịch vệ tinh: phát triển gắn với các đô thị trong vùng như thành phố Nam Định, thành phố Móng Cái, thành phố Thái Bình, vùng du lịch nghỉ mát Cồn Vành – Xuân Thủy: - Các vùng du lịch lớn: + Vùng du lịch sinh thái biển đảo: Hạ Long – Cát Bà – Đồ Sơn; + Vùng du lịch sinh thái hang động, lịch sử văn hóa lễ hội; Tràng An, rừng quốc gia Cúc Phương, khu vực phụ cận suối nước nóng Canh Gà, khu ngập nước Vân Long. Vùng có các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, các hang động thiên nhiên gắn liền với vùng rừng quốc gia Cúc Phương. Do vậy việc phát triển đô thị và công nghiệp vùng này cần phải được kiểm soát chặt chẽ bảo đảm phát triển bền vững không phá vỡ cảnh quan thiên nhiên và hệ sinh thái vốn có; + Vùng du lịch văn hóa lễ hội Yên Tử, đền Nguyễn Bỉnh Khiêm, đền Trần và các di tích lịch sử văn hóa rải rác trong vùng; vùng du lịch tham quan thắng cảnh tạo sự kết nối với du lịch Vùng Thủ đô Hà Nội. e) Tổ chức định hướng phát triển hệ thống dịch vụ xã hội: - Tổ chức hệ thống dịch vụ thương mại, y tế, thể dục thể thao: + Xây dựng các trung tâm thương mại đầu mối, với vai trò phát luồng điều hòa phân phối hàng hóa trong Vùng tại các thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình; + Xây dựng trung tâm y tế chất lượng cao cấp Vùng tại thành phố Hải Phòng, thành phố Nam Định, chống quá tải cho các bệnh viện đầu ngành tại Thủ đô Hà Nội;
225
+ Xây dựng các trung tâm thể dục, thể thao cấp Vùng tại thành phố Hải Phòng, Nam Định. - Tổ chức hệ thống đào tạo: + Tổ chức 3 trung tâm đào tạo của Vùng là: Hải Phòng, Nam Định, Hạ Long. Trong đó thành phố Hải Phòng đảm nhiệm chức năng trung tâm, nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho quốc gia và vùng đồng bằng sông Hồng. Hiện tại toàn vùng có 20 trường đại học và cao đẳng các loại. Dự kiến phát triển thêm 15 trường đại học, cao đẳng để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho vùng; + Quy mô các trường công lập từ 10.000 đến 12.000 sinh viên, trường dân lập từ 6.000 đến 10.000 sinh viên, cao đẳng công nghệ 3.000 đến 5.000 sinh viên; + Việc phân bố hệ thống đào tạo các trường trong vùng tạo thêm động lực cho các đô thị phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi kinh tế trong Vùng. Các trường đào tạo cần đầu tư phát triển lên cơ sở đào tạo, khu ở sinh viên, gắn mô hình liên kết với dịch vụ đô thị, công nghiệp hiện đại. 7. Định hướng phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật a) Giao thông: Phát triển hệ thống giao thông vùng: đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh, nhằm kết nối một cách đồng bộ, thuận lợi giữa các địa phương, giữa vùng với các vùng lân cận và các tỉnh phía Nam Trung Quốc, làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh trong vùng - Đường ôtô + Xây dựng mới các tuyến đường cao tốc quan trọng, nối trung tâm Vùng Duyên hải Bắc Bộ với Vùng Thủ đô Hà Nội: . Đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng; . Đường cao tốc Nội Bài – Hạ Long – Móng Cái; . Đường cao tốc Bắc – Nam; . Đường cao tốc ven biển (theo Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược biển Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020). + Cải tạo, nâng cấp quốc lộ, tỉnh lộ: . Hoàn thiện việc xây dựng đường gom dọc tuyến quốc lộ 5, nhằm bảo đảm an toàn giao thông, đạt tiêu chuẩn cấp I đồng bằng; . Cải tạo, nâng cấp các quốc lộ thuộc hệ thống vành đai phía Bắc: quốc lộ 4B thuộc vành đai I, quốc lộ 279 thuộc vành đai II, quốc lộ 37 thuộc vành đai III; . Cải tạo nâng cấp quốc lộ 10 đoạn từ Quảng Ninh đến Nga Sơn (Thanh Hóa). Xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống đường gom dọc quốc lộ 10; . Cải tạo nâng cấp các quốc lộ 12B, 39, 21B, 37, 18C;
226
. Nâng cấp một số tỉnh lộ quan trọng lên quốc lộ, đưa một số tuyến huyện lộ lên tỉnh lộ, cải tuyến hoặc mở một số tuyến mới ở những khu vực cần thiết nhằm đạt tiêu chuẩn cấp III, IV, … + Xây mới quốc lộ, tỉnh lộ: . Xây dựng mới quốc lộ 21A theo tiêu chuẩn cấp I đồng bằng; . Xây dựng mới tuyến đường nối Nam Định – Hà Nam – Hưng Yên (tuyến từ thành phố Nam Định đi Hòa Mạc nối với quốc lộ 39), Nam Định – Lâm – Thiên Tôn nối với đường Hồ Chí Minh và tuyến đường nút giao Liên Tuyền (Phủ Lý – Hà Nam) vượt sông Hồng đến tỉnh lộ 217 của tỉnh Thái Bình và nối với quốc lộ 10; . Hoàn chỉnh tuyến đường vành đai biên giới, đường tuần tra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh theo dự án đường biên giới do Bộ Quốc phòng đang triển khai; . Xây dựng một số tuyến mới nhằm kết nối thuận tiện hơn giữa các tỉnh Thái Bình và Nam Định với Vùng Thủ đô. - Đường sắt + Đường sắt quốc gia: . Xây dựng mới các tuyến đường sắt quốc gia (theo tiêu chuẩn đường 1,435 m) đáp ứng nhu cầu vận tải của các hướng; . Tuyến đường sắt cao tốc Bắc – Nam; . Đường sắt cao tốc Hà Nội – Hải Phòng đến cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng; . Đường sắt chạy song song với quốc lộ 4B từ Lạng Sơn đến Quảng Ninh tới cảng Mũi Chùa theo tiêu chuẩn đường 1,435 m (theo Quyết định số 1151/QĐ- TTg ngày 30 tháng 8 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung xây dựng vùng biên giới Việt - Trung đến năm 2020). + Đường sắt nội vùng: . Xây dựng mới tuyến đường sắt Hạ Long – Móng Cái; . Tuyến đường sắt Duyên hải nối Nam Định – Thái Bình – Hải Phòng – Quảng Ninh; . Nâng cấp các tuyến đường hiện có vào cấp kỹ thuật quy định như đường sắt Bắc – Nam, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, đường sắt Kép – Bãi Cháy; xây dựng mới tuyến Yên Viên – Phả Lại – Bãi Cháy và xây dựng một số đoạn tuyến, các đường nhánh nối với cảng, khu công nghiệp, khu kinh tế và kết nối với các tuyến hiện tại. + Hệ thống các công trình phục vụ đường sắt: . Nâng cấp, cải tạo hệ thống nhà ga trong vùng nhằm đáp ứng nhu cầu lâu dài; . Nâng cấp các nút giao giữa đường sắt và các tuyến quốc lộ thành nút giao khác cốt. Các tuyến đường sắt đi qua đô thị lớn được xây dựng trên cao tránh xung đột giao thông trong khu vực đô thị. - Đường thủy
227
+ Đường biển: . Xây dựng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng để có thể tiếp nhận tàu từ 30.000 DWT – 80.000 DWT; . Xây dựng mới cảng chuyên dùng Hải Hà phục vụ cho công nghiệp nặng và năng lượng; . Cải tạo nâng cấp cảng than Cẩm Phả, cảng Hòn Nét phục vụ cho ngành công nghiệp khai khoáng; . Xây dựng các bến còn lại của cảng Cái Lân, Đình Vũ; . Xây dựng mới cảng hành khách quốc tế Hòn Gai; . Nghiên cứu di dời cảng xăng dầu B12 đến khu vực hạ lưu sông Chanh; . Cảng Hải Phòng: duy trì luồng vào cảng Hải Phòng để cho tàu 10.000 DWT đến 20.000 DWT ra vào; . Di chuyển cảng Hoàng Diệu để xây dựng đô thị và cảng hành khách quốc tế; . Luồng tàu vào khu vực Hải Phòng: đầu tư nạo vét luồng Nam Triệu vào cảng Hải Phòng, luồng chính vào cảng là luồng Lạch Huyện qua kênh Hà Nam. . Xây dựng cảng và Trung tâm hậu cần tìm kiếm cứu nạn. + Các cảng địa phương . Nâng cấp cải tạo các cảng hiện có như cảng Mũi Chùa, Vạn Hoa, Vạn Gia, Cái Rồng, Dân Tiến, Điền Công (Quảng Ninh), cảng Diêm Điền (Thái Bình), cảng Hải Thịnh (Nam Định) phục vụ phát triển kinh tế địa phương, có thể tiếp nhận tàu từ 1.000 DWT – 2000 DWT. Ngoài ra nếu điều kiện cho phép có thể đầu tư cảng mới tại khu vực Rạng Đông (Nam Định) tiếp nhận tàu trọng tải lớn phục vụ cho khu công nghiệp VINASHIN. + Đường sông: . Cải tạo, hoàn thiện các tuyến vận tải thủy chính: sông Đá Bạc, sông Bạch Đằng, sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Văn Úc, sông Thái Bình, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Hồng, sông Ninh Cơ, sông Đáy …; . Cải tạo, nạo vét hệ thống các cửa sông như Cửa Cấm, Cửa Nam Triệu, Cửa Lạch Giang, Cửa Văn Úc, Cửa Đáy; . Xây dựng mới cảng Nam Định, cảng Tân Đệ trên sông Hồng; . Cải tạo xây dựng hệ thống cảng sông quốc gia bao gồm: các cảng thuộc địa phận Hải Phòng, cảng Nam Định và cảng Ninh Phúc …; . Cải tạo xây dựng hệ thống cảng, bến bãi địa phương và các cảng chuyên dùng khác; . Nghiên cứu và quy hoạch chính trị các đoạn sông tạo luồng phục vụ cho giao thông thủy đối với các tuyến sông nội địa. + Các cảng tiềm năng và cảng cửa ngõ của khu vực phía Bắc (giai đoạn 2010 – 2025):
228
. Quy hoạch cảng tiềm năng Cẩm Phả: là cảng chuyên dùng phục vụ cho công nghiệp khai khoáng, công nghiệp vật liệu xây dựng cho tàu trọng tải 30.000 DWT hoặc lớn hơn. - Đường hàng không + Nâng cấp cảng hàng không Cát Bi trở thành cảng hàng không quốc tế dự bị cho sân bay quốc tế Nội Bài; + Duy trì, nâng cấp sân bay quân sự Kiến An; + Xây dựng mới sân bay Vân Đồn (Quảng Ninh); + Xây dựng các sân bay taxi tại các địa điểm thích hợp để phục vụ du lịch, cứu hộ, cứu nạn, kinh tế đối ngoại … (tại đảo Bạch Long Vĩ, đảo Cô Tô, đảo Cát Bà, Đồ Sơn, Tiền Hải, Nghĩa Hưng, Giao Thủy, Tràng An …). Giao thông đô thị và nông thôn - Giao thông đô thị + Các chỉ tiêu: . Quỹ đất dành cho giao thông đô thị phải đạt 20 – 25% tổng diện tích đất xây dựng thành phố; . Mật độ bình quân đường giao thông tại khu vực trung tâm 6 – 8 km/km2, các khu vực khác 3 – 5 km/km2. + Tổ chức hệ thống giao thông đô thị: . Xây dựng các tuyến cửa ngõ ra vào thành phố trung tâm Vùng, các nút giao cắt lập thể tại các giao lộ lớn; . Xây dựng các tuyến tránh đô thị, hình thành đường vành đai tại một số thành phố có các trục lộ quan trọng đi qua. Xây dựng các bến xe khách phục vụ đi lại, du lịch; . Nâng cấp hệ thống giao thông nội đô các đô thị trong vùng. Lựa chọn phương thức vận tải công cộng phù hợp với từng đô thị (tàu điện bánh hơi, tàu điện bánh sắt, metro, xe bus …); . Nghiên cứu đầu tư xây dựng các công trình ngầm giao thông đô thị một cách hợp lý và hiệu quả cho từng khu vực. - Giao thông nông thôn + Nâng cấp mạng lưới đường giao thông nông thôn nối liền với mạng lưới giao thông quốc gia. Cải tạo các nút giao thông, xây dựng điểm giao cắt khác mức với các trục quốc lộ để bảo đảm an toàn cho người tham gia giao thông; + Tiếp tục xây dựng hệ thống đường liên thôn, xã tạo thành mạng lưới giao thông nông thôn liên hoàn đến các thôn, xã, bảo đảm 100% các đường giao thông theo tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn, đáp ứng yêu cầu cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp nông thôn; + Kiên cố hóa hệ thống các cầu, cống đạt tiêu chuẩn kỹ thuật. b) Chuẩn bị kỹ thuật:
229
- Công tác nền: + Tôn trọng địa hình tự nhiên, san nền giật cấp đối với các khu vực có độ dốc lớn (khu vực Quảng Ninh, Ninh Bình); + Tìm các giải pháp tiêu thoát nước thủy lợi kết hợp bảo vệ các nguồn tài nguyên nước đáp ứng nhu cầu cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, đô thị nhằm bảo đảm thúc đẩy phát triển bền vững; + Lựa chọn cao độ nền phù hợp cho từng đô thị, điểm dân cư nông thôn, các khu vực đồng bằng, ven biển, đáp ứng yêu cầu giao thông, thoát nước bảo đảm không ngập úng, ngập lũ do thủy triều; + Tăng cường quan trắc hiện tượng nước biển dâng cao do nhiệt độ của trái đất tăng lên. - Thoát nước mưa: + Chỉ tiêu mạng lưới cống tại các thành phố, thị xã đạt 100 – 140 m cống/ha xây dựng; + Chỉ tiêu tại các thị trấn đạt 80 – 100 m cống/ha xây dựng; + Về nguyên tắc, nên xây dựng hệ thống thoát nước mưa và hệ thống thoát nước thải riêng biệt; + Các đô thị cải tạo, nâng cấp hoặc xây mới, tùy theo điều kiện cụ thể có thể sử dụng hệ thống thoát nước chung hoặc riêng. Mạng lưới phân bố đều trên diện tích xây dựng đô thị, thoát nước nhanh, tránh lụt cục bộ, bảo đảm vệ sinh môi trường. - Các công trình thủy lợi: + Xây dựng hệ thống phân lũ, chậm lũ từ đầu nguồn, xây dựng hồ chứa, hệ thống đập tràn nhằm ngăn mặn và trữ nước ở các khu vực hạ lưu; + Tăng cường công tác trồng và quản lý rừng đầu nguồn để chống xói lở, tăng độ che phủ rừng phòng hộ. - Các công trình phòng, chống bão lũ: + Củng cố và nâng cấp hệ thống đê biển, bảo đảm an toàn phòng, chống gió bão từ cấp 9 đến cấp 12, triều trung bình tần suất 5%; + Tăng cường trồng rừng ngập mặn, rừng bảo hộ ven biển, bảo đảm phòng, chống bão lũ, chống xói mòn do xâm thực của biển. c) Định hướng cấp điện: - Phụ tải điện: Phụ tải điện Vùng Duyên hải Bắc Bộ ở các giai đoạn là: + Đợt đầu: 11.400 MW (giai đoạn 2008 – 2015); + Đợt hai: 13.400 MW (giai đoạn 2015 – 2025). - Định hướng cấp điện:
230
+ Nguồn điện hiện có: các nhà máy nhiệt điện Uông Bí công suất 105 MW, Phả Lại công suất 1.200 MW, Ninh Bình công suất 100 MW; nhà máy thủy điện Hòa Bình công suất 1.920 MW; + Nguồn điện dự kiến: nhà máy nhiệt điện Hải Hà công suất 2.400 MW, Mông Dương công suất 1.200 MW, Cẩm Phả công suất 600 MW, Cái Bang công suất 1.200 MW, Mạo Khê công suất 1.200 MW, nhiệt điện Hải Phòng 1 và 2 công suất 1.200 MW, nhiệt điện Hải Phòng 3 công suất 2.400 MW, nhiệt điện Thái Bình công suất 1.800 MW, nhiệt điện Nam Định công suất 1.200 MW. + Đường dây truyền tải: phát triển lưới điện đấu nối với hệ thống điện quốc gia để khai thác có hiệu quả các công trình thủy điện và nhiệt điện. Xây dựng lưới điện 500 KV Sóc Sơn đi Quảng Ninh, nhánh rẽ đi trạm 500 KV Hải Phòng và các lưới 220 KV cùng các trạm 500 KV, 220 KV trên địa bàn các tỉnh trong vùng; + Sử dụng các nguồn năng lượng khác: nghiên cứu phát triển nguồn năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các nguồn năng lượng khác nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân các vùng sâu, vùng xa, các vùng hải đảo; + Định hướng cấp điện: đến năm 2015, 100% dân cư đô thị được cấp điện sinh hoạt; 100% số xã, thôn, bản được sử dụng lưới điện quốc gia, ngoại trừ đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ … sử dụng điện bằng các cụm máy phát diezel, năng lượng gió và năng lượng mặt trời. - Cấp nước: Bảo vệ nguồn nước, duy trì cải thiện nguồn nước hiện có, mở rộng và tăng cường dung lượng các hồ chứa nước trong vùng, tìm kiếm và phát hiện các nguồn nước mới nhằm bảo đảm có nguồn nước dự trữ an toàn và bền vững. - Nguồn nước mặt: Nguồn nước mặt được lấy từ hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình thông qua sông Đào, sông Trà Lý, sông Đa Độ, sông Rế, sông Giá. Khu vực phía Bắc (Quảng Ninh) nguồn nước được lấy từ sông Ka Long, sông Tiên Yên và hồ Yên Lập, hồ Cao Vân … - Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm trong vùng bị hạn chế và nhiễm mặn. Chỉ khai thác nước ngầm đối với khu vực nằm xa nguồn nước mặt (khu vực nông thôn, hải đảo). - Định hướng cấp nước: + Đến năm 2015: 95% dân tại các thành phố, thị xã và 85% số dân tại các thị trấn được cấp nước sạch sinh hoạt; + Đến năm 2025: 100% dân tại các thành phố, thị xã và 95% số dân tại các thị trấn được cấp nước sạch sinh hoạt; + Các điểm dân cư nông thôn, tỷ lệ cấp nước sạch 85 – 95%. d) Thoát nước bẩn và vệ sinh môi trường:
231
- Thoát nước thải sinh hoạt: + Nước thải sinh hoạt tại các thành phố và thị xã, thị trấn phải được xử lý trước khi xả ra môi trường. Giai đoạn đầu kết hợp với các hệ thống sông hồ sẵn có để xử lý vi sinh. Giai đoạn lâu dài, xây dựng các nhà máy xử lý nước thải cho thị xã, thị trấn đạt tiêu chuẩn loại B (TCVN 5942 – 1995). Tại các thị tứ và các cụm dân cư nông thôn, nước thải được xử lý bằng phương pháp tự làm sạch. - Nước thải công nghiệp: + Nước thải công nghiệp của các nhà máy xí nghiệp xây dựng phân tán được xử lý cục bộ đạt tiêu chuẩn B (TCVN 5945 – 1995). Nước thải của các khu công nghiệp tập trung phải được xử lý tại trạm xử lý nước thải công nghiệp đạt tiêu chuẩn B trước khi xả ra môi trường. - Thu gom và xử lý chất thải rắn: + Chất thải rắn sinh hoạt: xây dựng khu xử lý chất thải rắn cấp vùng tỉnh có nhà máy chế biến phân hữu cơ tại các đô thị lớn hoặc vùng liên đô thị. Tại các thị xã, thị trấn sử dụng bãi chôn lấp hợp vệ sinh; + Chất thải rắn công nghiệp: được phân loại tại nguồn để xử lý và tái chế. Chất thải công nghiệp nguy hại được đưa về xử lý tại khu xử lý cấp vùng liên tỉnh. - Nghĩa trang: + Xây dựng nghĩa trang cấp vùng tỉnh ở khu vực gần đô thị hạt nhân của tỉnh. Các thị tứ, cụm dân cư tập trung, khu vực nông thôn, xây dựng các nghĩa trang riêng phù hợp với quy mô dân số, bố trí xa dân cư, nguồn nước, quy mô nghĩa trang đô thị khoảng 2,5 – 15 ha, các xã khoảng 0,5 – 1 ha. đ) Định hướng bảo vệ môi trường: - Xây dựng hệ thống quản lý môi trường vùng, gắn với việc quản lý, phòng tránh ô nhiễm nguồn nước ở các lưu vực sông trong vùng và các vùng khác; - Bảo vệ môi trường biển: các giải quyết chống suy thoái môi trường do xói lở, bồi tụ, bảo vệ hệ sinh thái, rừng ngập mặn ở cửa sông ven biển. Bảo vệ đa dạng sinh học: hệ sinh thái biển, sinh thái rừng và sinh thái vùng đồng bằng ven biển; - Có kế hoạch và biện pháp đối phó với tai biến, thảm họa và rủi ro môi trường. 8. Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn. - Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái sạch; - Hình thành các vùng sản xuất lúa rau, hoa, cây cảnh, chăn nuôi lợn, bò sữa, gia cầm … có quy mô thích hợp chất lượng cao phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa nhằm nâng cao giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích;
232
- Phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp, các cụm công nghiệp làng nghề nâng cao độ tinh xảo, mẫu mã của sản phẩm để bảo đảm yêu cầu xuất khẩu và phục vụ cho du lịch. - Đầu tư củng cố nâng cấp hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi và khuyến nông; - Phát triển nuôi trồng thủy, hải sản từ các vùng có lợi thế và điều kiện cho phép đánh bắt xa bờ. Hình thành các trung tâm chế biến thủy, hải sản; - Phát triển lâm nghiệp toàn diện với 3 loại rừng: rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Củng cố phát triển hệ thống rừng phòng hộ ven biển; - Xây dựng mô hình nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa làng xóm Việt Nam. 9. Quốc phòng, an ninh Ổn định các cơ sở quốc phòng, an ninh trên toàn vùng. Quy hoạch tổng thể hệ thống quốc phòng, an ninh bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là vùng biên giới đất liền và hải đảo. 10. Các chương trình dự án ưu tiên Để từng bước thực hiện Quy hoạch xây dựng Vùng Duyên hải Bắc Bộ có hiệu quả, giai đoạn đầu cần tập trung vào các chương trình, dự án sau: a) Hạ tầng xã hội: - Xây dựng trung tâm hội nghị hội thảo quốc tế của Vùng tại Hải Phòng; - Xây dựng các cơ sở giáo dục, đại học, trung học công nghiệp, dạy nghề tại các tỉnh trong vùng; - Xây dựng các bệnh viện cấp Vùng tại Hải Phòng và cấp khu vực tại các tỉnh trong vùng; - Xây dựng hệ thống các công trình thương mại đầu mối tại các tỉnh trong vùng; - Rà soát, điều chỉnh các quy hoạch đô thị, công nghiệp không phù hợp với quy hoạch vùng tại các tỉnh trong vùng; - Khu du lịch hang động Tràng An tại tỉnh Ninh Bình; - Xây dựng các trung tâm thể thao cấp Vùng tại Hải Phòng, cấp khu vực tại Nam Định, Ninh Bình; - Đầu tư xây dựng các khu du lịch Trà Cổ, Vân Đồn, Cát Bà, Đồ Sơn, Đồng Châu, Chùa Keo, Cổ Lễ, Cồn Lu – Cồn Vành, Cồn Thủ, Quất Lâm, Cúc Phương, Vân Long, Yên Tử, Đền Trần, Cố đô Hoa Lư … tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. b) Hạ tầng kỹ thuật: - Giao thông: + Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và cầu Đình Vũ – Cát Hải;
233
+ Đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hạ Long – Móng Cái; + Xây dựng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng; + Khảo sát và lập dự án tuyến đường cao tốc ven biển qua các tỉnh trong vùng; + Nâng cấp quốc lộ 39 từ Diêm Điền đi Hưng Yên tại Thái Bình; + Nâng cấp tuyến đường 21 từ Nam Định đi Phủ Lý và đoạn Nam Định – Thịnh Long tại Nam Định; + Làm mới tuyến đường từ Nam Định – Lâm – Nho Quan tại Nam Định, Ninh Bình; + Hoàn thiện đường cao tốc quốc lộ I tại Ninh Bình; + Nâng cấp quốc lộ 10 đoạn Ninh Bình – Phát Diệm tại Ninh Bình; + Nâng cấp sân bay Cát Bi, Hải Phòng; + Xây mới sân bay Vân Đồn tại Quảng Ninh; + Xây dựng tuyến đường sắt Hải Phòng – cảng quốc tế Hải Phòng; + Nâng cấp cảng Diêm Điền tại Thái Bình; + Nâng cấp đường 12B nối Phát Diệm – đường Hồ Chí Minh. + Hoàn thiện cảng và Trung tâm dịch vụ hậu cần tìm kiếm cứu nạn. - Cấp nước: + Xây dựng nhà máy nước liên vùng tại Yên Hưng – Quảng Ninh; + Xây dựng mới và nâng cấp các nhà máy nước vùng tỉnh. - Cấp điện: + Hoàn thiện và xây dựng các nhà máy nhiệt điện tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. - Thoát nước thải và vệ sinh môi trường: + Xây dựng các khu xử lý rác thải tập trung của các tỉnh; + Xây dựng khu xử lý rác thải độc hại liên vùng tại Quảng Ninh; + Nghĩa trang sinh thái; + Nghĩa trang nhân dân cấp vùng tỉnh. - Bảo vệ môi trường: + Xử lý môi trường các khu khai thác mỏ; + Xây dựng chương trình giám sát môi trường đối với các vùng đô thị và các khu công nghiệp lớn. c) Hạ tầng kinh tế: + Hoàn thiện các khu công nghiệp tại các trung tâm vùng tỉnh tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; + Xây dựng khu công nghiệp cảng Hải Hà tại Quảng Ninh; + Xây dựng khu kinh tế Vân Đồn tại Quảng Ninh;
234
+ Xây dựng khu kinh tế liên tỉnh Quảng Ninh – Hải Phòng; + Xây dựng khu công nghiệp cảng sông Văn Úc, cầu Kiền tại Hải Phòng; + Xây dựng khu công nghệ cao Bắc sông Cấm tại Hải Phòng; + Hoàn thiện trung tâm hậu cần nghề cá Cát Bà, Bạch Long Vĩ tại Hải Phòng; + Hoàn thiện và xây dựng khu công nghiệp cảng Thịnh Long tại Nam Định; + Hoàn thiện hệ thống các nhà máy xi măng tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình. 11. Mô hình tổ chức thực hiện Thành lập Ban Chỉ đạo liên tỉnh để chỉ đạo các chương trình dự án cấp vùng tạo điều kiện huy động các nguồn vốn đầu tư theo đúng quy hoạch được duyệt. Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Bộ trưởng các Bộ: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Công thương, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Quốc phòng; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, Ủy ban nhân dân các tỉnh: Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và các tổ chức liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
THỦ TƯỚNG (Đã ký) Nguyễn Tấn Dũng
Nơi nhận: - Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các PTT Chính phủ; - Các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Công thương, Quốc phòng, Giáo dục và Đào tạo, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Xây dựng; - UBND thành phố Hải phòng, UBND các tỉnh: Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; -Sở QHKT thành phố Hải Phòng và Sở Xây dựng 05 tỉnh trong Vùng Duyên hải Bắc Bộ; - VPCP: BTCN, các PCN; các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu Văn thư, KTN (5b).
235