BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Đặng Đình Giang
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI
KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: Quản lý công
MÃ SỐ: 9 34 04 03
HÀ NỘI, 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Đặng Đình Giang
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI
KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: Quản lý công
MÃ SỐ: 9 34 04 03
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS, TS. Nguyễn Chu Hồi
2. PGS, TS. Ngô Thúy Quỳnh
HÀ NỘI, 2023
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu sinh (NCS) xin chân thành gửi lời tri ân đến toàn thể quý thầy
cô giáo tại Học viện Hành chính Quốc gia, đặc biệt các Thầy Cô Khoa Quản lý Nhà
nước về Xã hội và Ban Quản lý đào tạo, những người đã nhiệt tình hỗ trợ và tạo điều
kiện thuận lợi để NCS hoàn thành luận án này. Và hơn hết, NCS muốn bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến PGS,TS. Nguyễn Chu Hồi, PGS,TS. Ngô Thúy Quỳnh đã tận
tình hướng dẫn và hết lòng ủng hộ NCS hoàn thành luận án.
Nghiên cứu sinh cũng xin trân trọng cảm ơn Viện Lãnh đạo học và Chính
sách công thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và chuyên gia đến từ các
đơn vị thuộc Ủy ban KHCN và Môi trường của Quốc Hội, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn các địa phương và các Viện nghiên cứu đã quan tâm giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho NCS trong quá trình nghiên cứu, thu thập thông tin
và tài liệu phục vụ cho đề tài luận án.
Cuối cùng, NCS muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với bạn bè, đồng nghiệp và
gia đình đã đồng hành, ủng hộ, chia sẻ khó khăn và động viên NCS suốt quá trình
học tập và nghiên cứu, góp phần quan trọng trong việc hoàn thành luận án này.
Xin trân trọng cảm ơn !
LỜI CAM ĐOAN
Nghiên cứu sinh xin khẳng định rằng, luận án này là kết quả của quá trình
nghiên cứu độc lập, dưới sự chỉ dẫn sát sao của tập thể giáo viên hướng dẫn và các
thầy/cô trong Hội đồng. Các thông tin, dữ liệu và số liệu được NCS sử dụng trong
luận án được trích dẫn rõ ràng, minh bạch và đầy đủ từ các nguồn đáng tin cậy.
Các dữ liệu được thu thập và tổng hợp bởi tác giả đảm bảo tính khách quan và trung
thực, chính xác, không sao chép, biến tấu, làm giả và trùng lắp với những công trình
đã được công bố trước đây.
Tác giả
Đặng Đình Giang
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................... 1 DANH MỤC BẢNG ...................................................................................... 4 DANH MỤC HÌNH ....................................................................................... 5 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA NGHIÊN CỨU SINH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................ 6 MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 7 CHƯƠNG 1: ................................................................................................ 17 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ............. 17 1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài ....................................................................... 17 1.1.1. Nghiên cứu về phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp .... 17 1.1.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ............................................................................................ 20 1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam ......................................................................... 23 1.2.1. Nghiên cứu về phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp .... 23 1.2.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ............................................................................................ 27 1.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu có liên quan...................................... 32 1.3.1. Nhận định khái quát về các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài luận án .......................................................................................... 32 1.3.2. Những khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu ........................... 33 1.3.3. Những vấn đề khoa học cần tập trung nghiên cứu, giải quyết ........... 34 Kết luận chương 1 ............................................................................................... 35 CHƯƠNG 2: ................................................................................................ 36 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP .......................... 37 2.1. Phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ...................................... 37 2.1.1. Khái niệm “Khí nhà kính” .................................................................. 37 2.1.2. Tác hại của khí nhà kính ..................................................................... 38 2.1.3. Các nguồn phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp .......... 41 2.1.4. Các yếu tố tác động đến phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ............................................................................................................ 44 2.2. Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp47 2.2.1. Khái niệm “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính” ......... 47 2.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ................................................................................................... 50 2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ................................................................................................... 52
2.2.4. Các công cụ QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp70 2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ................................................................................................... 73
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính và môi trường, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam ................................................... 78 2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế ........................................................................... 79 2.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam ............................................................... 90 Kết luận Chương 2 .............................................................................................. 94 CHƯƠNG 3: .................................................................................................. 96 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ............................................. 96 3.1. Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam ................................................................. 96 3.2. Thực trạng sản xuất nông nghiệp và phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam .............................................................................................. 98 3.2.1. Thực trạng sản xuất nông nghiệp ....................................................... 98 3.2.2. Thực trạng phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ........ 105
3.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ................................................................................... 112 3.3.1. Xây dựng và thực thi chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ................................................................. 112 3.3.2. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ............................................. 119 3.3.3. Thực hiện kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm phát thải khí nhà kính .............................................................................................................. 128 3.3.4. Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ..................... 132 3.3.5. Xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ..................................... 134 3.3.6. Hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp .......................................................................................... 137 3.3.7. Xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ carbon thế giới ...................................................................................... 141 3.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ............................................................................ 146 3.4.1. Những kết quả đạt được .................................................................... 146 3.4.2. Những hạn chế .................................................................................. 146 3.4.3. Nguyên nhân của các hạn chế .......................................................... 150 Kết luận Chương 3 ............................................................................................ 154 CHƯƠNG 4: .............................................................................................. 156
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ........................................................................................................................... 156 4.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ............................... 156 4.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước ........................................................ 156 4.1.2. Dự báo lượng phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp đến năm 2030 ..................................................................................................................... 159
4.2. Quan điểm quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ................................................................................... 161 4.3. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ............................................................................................ 167 4.4. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ........................................................... 170
4.4.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với phát triển bền vững ...... 171 4.4.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm phát thải khí nhà kính hướng tới phát triển bền vững ........................................ 173 4.4.3. Nâng cao chất lượng kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm phát thải khí nhà kính .......................................................................................... 177 4.4.4. Tăng cường, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ................................................................................... 178 4.4.5. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp179 4.4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp ....................................................................................... 181 4.4.7. Tập trung xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ carbon thế giới ..................................................................... 183 4.4.8. Quản lý phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua quản lý sản xuất nông nghiệp ..................................................................... 185 Kết luận Chương 4 ............................................................................................ 193 KẾT LUẬN ................................................................................................ 195 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 198
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BAU Kịch bản phát triển thông thường (Business-as-Usual)
BĐKH Biến đổi khí hậu
CDM Cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism)
Chứng chỉ giảm phát thải KNK được chứng nhận (Certified Emission CER Reduction)
CMCN Cách mạng công nghiệp 4.0
Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên hiệp
COP 21 quốc về Biến đổi khí hậu (Conférence de Paris sur les changements
climatiques)
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ETS Hệ thống giao dịch phát thải (Emission Trading Scheme)
EXACT Công cụ xác định cân bằng carbon
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (Food and FAO Agriculture Organization of the United Nations)
Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (Good Agricultural Practices) GAP
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) GDP
Tiêu chuẩn vàng (Gold Standard) GS
GWPs Tiềm năng nóng lên toàn cầu (Global Warming Potential)
Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (International Atomic Energy IAEA Agency)
Đóng góp do quốc gia tự quyết định (Nationally Determined NDC Contributions)
1
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel IPCC Climate Change)
Quy trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm (Instrumentation IPPU Position Pickoff Unit)
JCM Cơ chế tín chỉ chung (Joint Credit Mechanism)
Nhật bản Trung tâm nghiên cứu quốc tế khoa học nông nghiệp (Japan JIRCAS International Research Center for Agricultural Sciences)
KNK Khí nhà kính
KP Nghị định thư Kyoto (Kyoto Protocol)
KSH Khí sinh học
LULUCF Sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (Land Use, Land
Use Change and Forestry)
MRV Hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (Measurement, Reporting and
Verification)
NAMA Hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện
quốc gia (Nationally Appropriate Mitigation Actions)
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ODA Hỗ trợ Phát triển Chính thức (Official Development Assistance)
PoA Chương trình hoạt động (Annual Operating Plan)
QLNN Quản lý nhà nước
R&D Nghiên cứu và phát triển (research and development)
REDD+ Giảm phát thải khí nhà kính từ mất rừng và suy thoái (rừng Reducing
Emission from Deforestation and Forest Degradation)
SRI Quy trình thâm canh lúa cải tiến (System of Rice Intensification -
SRI)
TN&MT Tài nguyên và Môi trường
Uỷ ban nhân dân UBND
UNDP Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (United Nations
2
Development Programme)
UNFCCC Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (United
Nations Framework Convention on Climate Change)
VCS Tiêu chuẩn carbon tự nguyện (Verified Carbon Standard)
VietGAP Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam (Vietnamese Good
Agricultural Practices)
VNPMR Dự án Chuẩn bị sẵn sàng cho xây dựng thị trường carbon tại Việt
3
Nam (Viet Nam Partnership for Market Readiness)
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Trang
4
160 Bảng 4.1: Lượng giảm phát thải KNK và tỉ lệ giảm theo từng năm giai đoạn 2021-2030
DANH MỤC HÌNH
Tên hình Trang
Hình 3.1: Sản lượng lương thực có hạt và một số loại cây các năm 99
Hình 3.2: Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt và một số loại cây
100 các năm
Hình 3.3: Năng suất lương thực có hạt và một số loại cây các năm 101
Hình 3.4: Khối lượng phụ phẩm các loại cây qua các năm 102
Hình 3.5: Số lượng gia súc, gia cầm qua các năm 103
Hình 3.6: Khối lượng phân gia súc, gia cầm 104
Hình 3.7: Phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam đã được
105 công bố chính thức đến năm 2016 và kịch bản cho 2020, 2025, 2030
Hình 3.8: Phát thải KNK trong nông nghiệp theo nguồn phát thải ở
106 Việt Nam đã được công bố chính thức
Hình 3.9: Tóm tắt các chính sách hiện hành về giảm nhẹ phát thải
145 KNK ở Việt Nam
Hình 4.1: Phát thải KNK theo BAU giai đoạn 2020 - 2030 và kịch
5
161 bản giảm phát thải giai đoạn 2021-2030.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA NGHIÊN CỨU SINH
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
STT Tên bài báo, công trình Tạp chí/NXB Chỉ số ISSN/ISBN Thời gian
1 2017 Tạp chí: Nhịp cầu tri thức ISSN: 1859 - 2457
2 2019 ISSN: 2354-1474 Tạp chí: Thông tin Khoa học Chính trị
3 2021 Tạp chí: Sinh hoạt lý luận ISSN: 0868-3247
4 2022 ISSN: 1859 - 0187 Tạp chí: Khoa học chính trị
5 2022 Nhà xuất bản: Lý luận Chính trị ISBN: 978-604- 962-931-0
6
Nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm phát thải khí nhà kính, chống biến đổi khí hậu Phát triển nhanh và bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay Giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp vì sự phát triển bền vững Quản lý nhà nước về phát thải khí nhà kính vì sự phát triển bền vững ở Việt Nam Bài viết: “Green house gases in agriculture with climate crisis in Vietnam” Trong sách: Governing the development sustainable the context of in process Covid-19 pandemic
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kinh tế - xã hội thải ra lượng phát thải khí nhà kính (KNK) quá
lớn là nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn thế giới. Có thể
nói, BĐKH đã gây ra những thảm họa vô cùng to lớn cho nhân loại và một trong
các nguyên nhân chính gây ra BĐKH là các hoạt động phát thải quá mức KNK
của con người. KNK được tạo ra do cả tự nhiên và cả từ hoạt động của con người.
Sự tàn phá khốc liệt của BĐKH toàn cầu mang tính hủy diệt, đe dọa cuộc sống
của hàng triệu người trên thế giới đang diễn ra ngày càng tồi tệ trên diện rộng.
Thế giới phát triển, thông qua những hoạt động, con người càng làm tăng
lượng KNK vào khí quyển. Trong đó, ngành nông nghiệp đóng góp một phần
không nhỏ về lượng phát thải KNK toàn cầu. Điều đó góp phần dẫn đến gia tăng
hiệu ứng nhà kính, làm nhiệt độ bề mặt Trái đất và khí quyển tăng nhanh, làm
cường hóa các tác động cực đoan của BĐKH, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường sinh thái tự nhiên và mọi sự sống trên Trái đất. KNK với hiệu ứng tăng
nền nhiệt của bề mặt Trái đất đã trở thành 1 trong 9 “giới hạn hành tinh” có thể
vượt ngưỡng, đe dọa đến đời sống Trái đất [73]. Tại Hội nghị COP27, tất cả các
thành viên tham gia Công ước khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu đã
nhấn mạnh một lần nữa rằng BĐKH toàn cầu đang diễn ra với mức độ ngày càng
nghiêm trọng hơn. Mặc dù, những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đã tạm thời
khiến lượng khí thải carbon có phần sụt giảm, nhưng điều đó không thể làm chậm
lại đà tăng của nhiệt độ toàn cầu. Một báo cáo mới của Liên hiệp quốc mang tên
“Thống nhất trong khoa học 2021” (United in Science 2021) về tình trạng BĐKH
được công bố ngày 16/9/2021 cho thấy mục tiêu kìm hãm mức tăng của nhiệt độ
toàn cầu ở ngưỡng 1,5 độ C sẽ là bất khả thi, nếu thế giới không lập tức cắt giảm
7
lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên quy mô lớn. [65]
BĐKH là vấn đề chung của toàn thế giới, thách thức lớn nhất đối với toàn
nhân loại. Tất cả các quốc gia đều phải có trách nhiệm và nỗ lực giảm phát thải
KNK, trong đó có Việt Nam.
Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ kèm theo sự gia tăng của dân số đã dẫn đến
tăng lượng phát thải khí nhà kính một cách nhanh chóng ở nước ta Do nhu cầu
phát triển kinh tế, trong những năm tới, nếu chúng ta không kịp thời thực hiện
hiệu quả các giải pháp giảm thiểu phát thải KNK và quản lý chặt chẽ phát thải
KNK thì lượng KNK phát thải vào bầu khí quyển sẽ tăng đáng kể, gây ra những
thảm họa BĐKH khôn lường.
Việt Nam được biết đến là một trong số ít quốc gia chịu tác động nặng nề
nhất của BĐKH do có bờ biển dài với nhiều vùng đất thấp ven biển và hai đồng
bằng châu thổ rộng lớn. Trong thời gian gần đây, BĐKH đã gây ra sự biến đổi
không thường xuyên trong thời tiết, dẫn đến các hiện tượng thiên tai cực đoan
diễn ra với tần suất lớn hơn và đặc biệt có cường độ mạnh hơn. Dù đã thực hiện
nhiều nỗ lực trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng trong suốt vài thập
kỷ qua, Việt Nam vẫn phải gánh chịu những tổn thất nghiêm trọng do thiên tai
gây ra.
Với tư cách là một quốc gia với nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, nền
nông nghiệp của Việt Nam không chỉ chịu tác động mạnh mẽ từ BĐKH mà còn
là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể. Các nguồn phát thải khí nhà kính quan
trọng từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm việc canh tác lúa, quá trình
tiêu hóa thức ăn trong chăn nuôi, xử lý chất thải từ chăn nuôi, và xử lý phế phẩm
nông nghiệp. Việc sử dụng đất không hợp lý, thiếu hiệu quả cũng làm giảm khả
năng cô lập carbon, tăng phát thải KNK rất lớn vì đất có khả năng chứa carbon
gấp 6 lần không khí [50]. Khả năng dự trữ, hấp thụ carbon (thành phần chủ yếu,
có khả năng gây tác hại lớn nhất trong các loại KNK) trong các bể chứa hệ sinh
thái nông, lâm nghiệp giảm đáng kể khi rừng bị suy thoái, tăng phát thải KNK rất
lớn khi rừng bị cháy. Như vậy, đây cũng là lĩnh vực có tiềm năng giảm phát thải
thông qua khả năng hấp thụ và lưu trữ CO2 từ rừng và đất. Rõ ràng, nông nghiệp, 8
vừa là ngành gây phát thải KNK lớn, vừa là ngành bị chịu tác động mạnh bởi
BĐKH, đồng thời lại là ngành có tiềm năng giảm phát thải KNK nhiều. Do đó,
công tác quản lý nhà nước (QLNN) đối với phát thải KNK tốt sẽ hạn chế tối đa
được lượng KNK thải ra trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Quản lý nhà nước đối với phát thải KNK trong nông nghiệp theo hướng
hiệu quả và bền vững, nghĩa là phải quản lý tốt các hoạt động sản xuất nông nghiệp
để giảm phát thải KNK. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, công tác QLNN đối
với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu và làm rõ, như: Việt Nam đã có chiến lược, kế
hoạch quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp chưa và đã được hoàn
thiện đến mức nào? Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay ra sao? Vấn đề quản lý giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp đã được đề cập đầy đủ, cụ thể và rõ ràng trong các văn
bản pháp lý chưa? Vấn đề thực hiện kiểm kê KNK ở Việt Nam ra sao? Công tác
giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
đã tốt chưa? Việt Nam đã có bộ máy riêng làm công tác QLNN phát thải KNK
chưa? Trình độ cán bộ làm công tác quản lý giảm phát thải KNK thế nào? Vấn đề
phát triển thị trường carbon của Việt Nam triển khai đến đâu? Việt Nam có tích
cực hợp tác với quốc tế trong quản lý giảm phát thải KNK không?
Trước những vấn đề đặt ra như trên đòi hỏi phải nắm vững cơ sở lý luận
và thực tiễn về QLNN đối với phát thải KNK, cũng như đánh giá đầy đủ tình hình
quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam để từ đó đưa ra
các giải pháp quản lý hữu hiệu phát thải KNK trong lĩnh vực này. Xuất phát từ
yêu cầu nói trên, NCS đã chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý nhà nước đối với phát
thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam” cho luận án tiến sĩ
chuyên ngành Quản lý công là hết sức cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
9
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở khoa học (cơ sở lý luận và thực tiễn) về QLNN đối với phát
thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, xây dựng và đề xuất giải
pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
ở Việt Nam; góp phần thực hiện cam kết của Chính phủ về phát thải ròng bằng
“0” (Net zero - không thêm vào tổng lượng KNK thải ra khí quyển) vào năm 2050,
đáp ứng yêu cầu mới trong công cuộc phát triển bền vững đất nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như vậy, luận án cần tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Tổng quan những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về phát thải
KNK, về quản lý nhà nước đối với phát thải KNK nói chung và trong lĩnh vực
nông nghiệp nói riêng, từ đó chỉ ra những vấn đề khoa học cần tiếp tục nghiên
cứu, giải quyết.
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN đối với phát thải KNK trong
nông nghiệp ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp ở Việt Nam.
- Phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến công tác QLNN
đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường QLNN đối với phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là QLNN đối với phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam1.
1 Hiện nay, công tác QLNN nói chung về nông nghiệp và phát triển nông thôn, bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp, thủy lợi,...Trong khuôn khổ luận án này, NCS chỉ giới hạn nghiên cứu ở một số lĩnh vực đại diện trong nông nghiệp theo đúng nghĩa của nó.
10
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận án được nghiên cứu trên phạm vi lãnh thổ
Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu được thực hiện trong thời gian từ khi Việt
Nam ký Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu, ngày 11 tháng
6 năm 1992.
- Phạm vi vấn đề: Luận án tập trung nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn, cả
hiện tại và xu thế (thực trạng) QLNN đối với phát thải KNK trong phạm vi ngành
nông nghiệp ở Việt Nam.
Ngành nông nghiệp rất rộng, gồm nhiều lĩnh vực như nói trên, trong khi
thời gian thực hiện và dung lượng luận án bị hạn chế. Cho nên, NCS chỉ lựa chọn
và tập trung nghiên cứu QLNN đối với phát thải KNK trong trồng trọt cây lương
thực và chăn nuôi gia súc, gia cầm - đại diện cho ngành nông nghiệp ở Việt Nam.
Trồng trọt và chăn nuôi là hai lĩnh vực chính của nông nghiệp, còn trong trồng
trọt thì trồng cây lương thực và trong chăn nuôi thì chăn nuôi gia súc, gia cầm
chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng, cả về giá trị, cũng như khả năng phát thải
KNK. Vì thế, có thể nói, nghiên cứu các vấn đề/khía cạnh nói trên cũng chính là
“QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp”.
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu hoàn thiện và nâng cao hiệu lực QLNN đối với phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, những câu hỏi nghiên cứu đã được
đặt ra, cần giải quyết trong luận án là:
- Tại sao phải nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà
kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam”? Cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn)
để tiến hành QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp là gì?
- Kinh nghiệm quốc tế về quản lý môi trường và bài học nào cho Việt
Nam?
- Thực trạng QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở
11
Việt Nam hiện nay ra sao? những mặt được và chưa được?
- Để hoàn thiện QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
ở Việt Nam thời gian tới cần các giải pháp gì?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đưa ra cơ sở khoa học cả về mặt lý luận và thực tiễn
của QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp, căn cứ vào thực trạng
QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay
với những mặt được và chưa được, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về quản lý
môi trường và rút ra bài học nào cho Việt Nam, NCS đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
thời gian tới. Nếu các giải pháp mà luận án đưa ra được thực hiện tốt thì công tác
QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam sẽ giúp xây
dựng nền nông nghiệp phát triển thân thiện với môi trường ở tầm vĩ mô và vi mô,
góp phần hiện thực hoá Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam, Chiến lược
quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc
gia về bảo vệ môi trường và cam kết quốc tế của Việt Nam về phát thải ròng bằng
“0” vào năm 2050 hướng tới phát triển nhanh và bền vững đất nước.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về QLNN nói chung
và đối với phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam nói riêng.
Các nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
vận dụng trong nghiên cứu QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp ở Việt Nam cơ bản là: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện,
nguyên tắc phát triển và nguyên tắc lịch sử - cụ thể.
5.2. Cách tiếp cận
12
- Tiếp cận hệ thống trong giảm nhẹ tác động của BĐKH:
KNK hiện được coi là một trong các nguyên nhân chủ yếu tạo “hiệu ứng
nhà kính”, làm tăng nhiệt độ toàn cầu, gây cường hóa tác động của BĐKH. Vì vậy,
NCS thực hiện nghiên cứu đề tài từ việc tiếp cận ứng phó BĐKH, vì BĐKH là vấn
đề toàn cầu, có tác động bao trùm ở các cấp độ, các đối tượng và các vùng lãnh thổ,
trực tiếp đến từng con người. Cho nên, nó đòi hỏi phải "hành động tập thể" và phối
hợp giữa các bên liên quan để ứng phó (Respond) với BĐKH, bao gồm giảm nhẹ
(Mitigation) và thích ứng (Adaptation). Điều này cũng phải được thể hiện trong thể
chế, cơ chế, chính sách trong quá trình thực hiện QLNN đối với phát thải KNK, …
- Tiếp cận thực tiễn:
BĐKH đã gây ra những thảm họa thiên nhiên trên toàn thế giới và nhân
loại đang phải gồng mình ứng phó, trong đó có các quốc gia. Vấn đề đặt ra là phải
giảm thiểu tối đa phát thải KNK - một trong các nguyên nhân chính gây ra BĐKH,
nhưng diễn ra rất khác nhau ở các quốc gia và các vùng lãnh thổ, phụ thuộc vào
sức chống chịu và năng lực ứng phó thực tiễn. Muốn vậy, Nhà nước phải quản lý
chặt chẽ phát thải KNK nói chung, phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp nói
riêng dựa trên không chỉ căn cứ lý luận, mà còn cả căn cứ thực tiễn, kể cả các bài
học thực tiễn (thành công và thất bại) của Việt Nam cũng như thế giới.
- Tiếp cận kế thừa:
Một trong những cách tiếp cận quan trọng của đề tài luận án là tổng quan
các nghiên cứu đã có trong nước và trên thế giới nhằm đánh giá thực trạng và có
cái nhìn khái quát nhất về các vấn đề liên quan. Trên cơ sở đó nhận diện các “lỗ
hổng”, cần tiếp tục nghiên cứu hoặc làm rõ hơn, cũng như lựa chọn vấn đề liên
quan đến nội dụng nhiệm vụ để vận dụng vào đề tài luận án.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận án, NCS đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và cách tiếp cận của khoa học hành
chính hiện đại và khoa học quản lý công. Cụ thể như sau:
13
5.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
NCS đã thu thập nhiều số liệu nguồn thứ cấp có liên quan đến nội dung,
nhiệm vụ của đề tài luận án, chủ yếu là của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn (Bộ NN&PTNT), Tổng cục Thống kê và Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ
TN&MT), các tài liệu khác có liên quan đã được công bố ở trong và ngoài nước.
Căn cứ vào các thông tin, dữ liệu thu được, NCS đã phân tích, đánh gía khoảng
trống thông tin cần thiết so với nhu cầu của đề tài luận án và lựa chọn các thông
tin ưu tiên bổ sung trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích - so sánh:
NCS đã phân tích tình hình phát thải KNK từ các hoạt động sản xuất của
ngành nông nghiệp trong một số năm gần đây. Trên cơ sở đó tiến hành so sánh
theo thời gian và không gian, và nhận thấy rằng, áp lực tăng dân số và sản xuất
phát triển kéo theo không ngừng tăng lượng phát thải KNK trong nông nghiệp với
tốc độ tương đối cao. Phương pháp này góp phần làm rõ xu thế phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta trong thời gian qua.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Căn cứ vào số liệu sản lượng, diện tích, năng suất,… cây trồng và vật nuôi
mà Tổng cục Thống kê công bố, NCS đã tiến hành phân tích, tổng hợp và đánh
giá tình hình sản xuất nông nghiệp Việt Nam liên quan tới đề tài luận án. Tương
tự, căn cứ vào lượng phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đã được Bộ
TN&MT công bố chính thức và Kịch bản phát triển thông thường (BAU) trong
“Báo cáo kỹ thuật của Việt Nam về Đóng góp do quốc gia tự quyết định”, NCS
đã phân tích, đánh giá và tổng hợp tình hình phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp.
- Phương pháp trực quan hoá:
Căn cứ vào các thông tin, tư liệu và số liệu thu thập, phân tích và đánh giá,
nhất là các công bố chính thức của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tổng
cục Thống kê và Bộ Tài nguyên và Môi trường, NCS đã tự xây dựng các biểu,
14
bảng, sơ đồ để kháí quát hóa, hình tượng hoá. Trên cơ sở đó tạo thuận lợi trong việc
trực quan hóa dưới dạng biểu, bảng, sơ đồ về mối quan hệ của các vấn đề, các thông
số cần tìm hiểu, nghiên cứu.
5.3.2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu sơ cấp
Trong quá trình nghiên cứu, bên cạnh việc sử dụng các số liệu, thông tin có
được từ nguồn tài liệu thứ cấp, NCS đã thu thập thêm thông tin sơ cấp thông qua
phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia.
Với phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia, NCS đặt các câu hỏi chuyên
sâu, trao đổi, hỏi ý kiến chuyên gia về công tác QLNN đối với phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam ở cả tầm vĩ mô và cả tầm vi mô. Các chuyên gia
được mời phỏng vấn có cả chuyên gia ở cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý nhà
nước, cơ quan nghiên cứu và cả lãnh đạo quản lý ở các địa phương, gồm: 01 chuyên
gia của Quốc hội; 02 chuyên gia của Bộ Tài nguyên và Môi trường; 02 chuyên gia
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 05 chuyên gia của Cục Biến đổi Khí
hậu; 01 chuyên gia của Viện Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu; 05 chuyên
gia là lãnh đạo các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và Môi
trường các tỉnh Bắc Giang, Tiền Giang, Phú Yên. Tổng số chuyên gia NCS đã
phỏng vấn là 16 người. Luận án chủ yếu sử dụng kết quả phỏng vấn này để làm rõ
những hạn chế, nguyên nhân của những bất cập trong công tác QLNN đối với phát
thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, từ đó tìm ra những giải pháp
phù hợp để hoàn thiện công tác QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp ở Việt Nam.
6. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở tiếp cận từ góc độ quản lý công, luận án xây dựng cơ sở khoa
học QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp. Đó là gồm: xây
dựng được khái niệm QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp,
làm rõ sự cần thiết QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp, xây dựng
được nội dung QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, phân
15
tích các công cụ QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ ra
các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp.
Luận án đã làm rõ thực trạng QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp ở Việt Nam thời gian qua và đưa ra các giải pháp tăng cường QLNN
phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam nhằm góp phần hiện thực
hoá Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam, Chiến lược quốc gia về biến đổi
khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia về bảo vệ
môi trường để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển nhanh và bền vững.
Kết quả nghiên cứu và các giải pháp đề xuất của luận án sẽ là tài liệu tham
khảo cho các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách, các giảng viên, học viên,
sinh viên và những người quan tâm vấn đề này vì nền nông nghiệp phát triển thân
thiện với môi trường ở tầm vĩ mô và vi mô. Đồng thời, các nhà lập pháp, các nhà
quản lý cũng có thể sử dụng những kết quả nghiên cứu của luận án làm gợi ý để
tham khảo trong xây dựng các chính sách quản lý và quản trị môi trường.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan
Chương 2: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà
kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính
trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với phát thải khí
16
nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Về cơ bản, NCS tập trung thu thập và tìm hiểu một số các công trình
nghiên cứu hiện có và đã công bố trong và ngoài nước có liên quan đến hai nhóm
vấn đề của đề tài luận án: 1) Nghiên cứu đối với phát thải KNK trong nông nghiệp
trên thế giới và ở Việt Nam; 2) Nghiên cứu QLNN đối với phát thải KNK trong
nông nghiệp trên các khía cạnh: hoạch định chiến lược, hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, xây dựng chính sách, công tác thanh tra giám sát,…
NCS phân tích, đánh giá các “lỗ hổng” thông tin, tổng quan lại nội dung
căn bản của các tài liệu đã tìm hiểu, trên cơ sở đó, NCS tìm hiểu các bài học kinh
nghiệm thực tế có thể lựa chọn, áp dụng trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
Dưới đây, NCS giới thiệu một số kết quả nghiên cứu tiêu biểu ở nước ngoài và
trong nước theo từng nhóm vấn đề nói trên.
1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Nghiên cứu về phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
- Nghiên cứu “Cơ sở dữ liệu của FAOSTAT đối với phát thải KNK từ nông
nghiệp” (2013) của Tubiello, F. N., Salvatore, M., Rossi, S., Ferrara, A., Fitton,
N., và Smith [82] đã chỉ ra rằng, phát thải KNK từ nông nghiệp, bao gồm sản xuất
cây trồng, chăn nuôi, lâm nghiệp và các thay đổi sử dụng đất liên quan lên tới
30% theo số liệu của Ủy ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC). Tuy nhiên, trong
khi lượng phát thải từ nhiên liệu hóa thạch được cập nhật hàng năm và từ nhiều
nguồn khác nhau, thì các số liệu đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
lại không được cập nhật thường xuyên. Do đó, trong nghiên cứu này, các tác giả
đã trình bày kết quả từ cơ sở dữ liệu phát thải KNK được phân tích tại FAOSTAT
thuộc Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO). Các tác
giả đã cung cấp một chuỗi thống kê phát thải đầy đủ và thống nhất trong khoảng
thời gian tham chiếu 1961 - 2010, ở cấp quốc gia, dựa trên dữ liệu hoạt động
17
FAOSTAT và phương pháp IPCC bậc 1. Sau đó, các tác giả đã phân tích các kết
quả ở cấp độ toàn cầu và khu vực, tập trung vào các xu hướng trong lĩnh vực nông
nghiệp và phá rừng. Kết quả của nghiên cứu này bổ sung cho những kết quả có
sẵn từ IPCC, mở rộng phân tích xu hướng cho một giai đoạn lịch sử lâu hơn, vượt
ra ngoài số liệu sẵn có vào thời điểm năm 2005.
- Nghiên cứu “So sánh quốc tế về hành vi tiêu thụ gạo và phát thải KNK
từ sản xuất gạo” của nhóm tác giả Tek Narayan Maraseni và cộng sự (2017) [81].
Nhóm nghiên cứu này đến từ Australia, Trung Quốc, Nepal và Đức. Kết quả
nghiên cứu của họ chỉ ra rằng, gạo là lương thực chính của hơn một nửa dân số
toàn cầu và hầu hết được sản xuất bởi các hộ sản xuất nhỏ. Trồng lúa ở cấp độ
toàn cầu là nguyên nhân gây ra hơn 10% lượng phát thải KNK trong nông nghiệp
toàn cầu và khoảng 1,3% - 1,8% lượng phát thải KNK do con người gây ra.
Nghiên cứu này so sánh các xu hướng và tầm quan trọng của năng suất lúa, tiêu
thụ gạo bình quân đầu người và các mối quan hệ của nó với thu nhập bình quân
đầu người và tuổi thọ, cũng như lượng phát thải CH4 và N2O từ canh tác lúa giữa
8 quốc gia khác nhau (Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Philippines,
Myanmar, Bangladesh và Indonesia), chiếm khoảng 82,05% tổng sản lượng gạo
và 78,23% lượng gạo tiêu thụ toàn cầu. Hơn nữa, các hoạt động nông nghiệp nói
chung ở 8 quốc gia này là nguyên nhân gây ra 35% lượng khí thải nông nghiệp
toàn cầu. Sự khác biệt giữa các quốc gia khác nhau và các thực nghiệm nhằm tăng
sản lượng, giảm tiêu thụ nước, năng lượng và đất đai cũng được thảo luận trong
nghiên cứu này. Nghiên cứu này giúp NCS có cái nhìn tổng quan về tình hình sản
xuất và phát thải KNK từ lúa gạo của Việt Nam so với các nước có cùng định
hướng phát triển nông nghiệp.
- Nghiên cứu “Ảnh hưởng của phân gia súc, loại cây trồng, vùng khí hậu
và các thuộc tính của đất đến phát thải KNK - Một phân tích tổng hợp toàn cầu”
(2020) của nhóm tác giả Awais Shakoor và cộng sự đến từ Tây Ban Nha, Trung
Quốc, Pakistan [73] đã chỉ ra rằng, đất nông nghiệp là nguồn phát thải KNK, đặc
biệt là carbon dioxide (CO2), mêtan (CH4) và nitơ ôxit (N2O) rất lớn. Việc bón
phân động vật vào đất nông nghiệp như một loại phân hữu cơ không chỉ cải thiện 18
sức khỏe của đất và sản xuất nông nghiệp mà còn có tác động đáng kể đến phát
thải KNK. Nhưng mức độ phát thải KNK do bón các loại phân bón khác nhau
trong các điều kiện môi trường khác nhau vẫn chưa từng được nghiên cứu cụ thể.
Ví dụ: Trong nghiên cứu này, các kết quả phân tích tổng hợp cho thấy, phân gia
cầm làm tăng đáng kể lượng khí thải CO2, CH4 và N2O so với phân lợn và gia súc.
Bên cạnh đó, kết cấu đất, vùng khí hậu và loại cây trồng cũng được phát hiện là
các yếu tố quan trọng gây mức độ phát thải KNK khác nhau. Do đó, nghiên cứu
này đã chỉ ra một lỗ hổng kiến thức liên quan đến hậu quả của việc bón và tỷ lệ
phân động vật, vùng khí hậu và các đặc tính hóa lý của đất đối với phát thải KNK
từ đất nông nghiệp. Kết quả của nghiên cứu này hoàn toàn mang tính kỹ thuật
nhằm làm rõ nguồn phát thải từ đất nông nghiệp, chưa có những giải pháp vĩ mô
để quản lý.
- Nghiên cứu “Sự gia tăng cường độ phát thải KNK trên các vùng đất
trồng trọt chính ở Trung Quốc: Hệ lụy đối với an ninh lương thực và sự giảm
thiểu BĐKH” (2020) của nhóm tác giả Jingting Zhang và cộng sự đến từ Trung
Quốc và Hoa Kỳ, [78], Nghiên cứu này chỉ ra rằng, để cân bằng giữa sản xuất cây
trồng và phát thải KNK từ đất nông nghiệp, đòi hỏi phải có sự hiểu biết về định
lượng cường độ phát thải KNK của cây trồng - thước đo lượng phát thải KNK
trên một đơn vị sản xuất cây trồng. Kết quả nghiên cứu mô phỏng của nghiên cứu
này cho thấy, việc giảm khoảng 1/3 lượng phân bón nitơ đã bón ở các vùng “bón
quá nhiều” sẽ không ảnh hưởng đáng kể đến năng suất cây trồng nhưng làm giảm
lượng phát thải KNK trong đất. Mức giảm này lần lượt là khoảng 29% và 5% tổng
lượng phát thải KNK trong đất nông nghiệp. Nghiên cứu này cho thấy rằng, việc
nâng cao hiệu quả sử dụng nitơ sẽ là một chiến lược hiệu quả để giảm thiểu phát
thải KNK và duy trì an ninh lương thực của Trung Quốc. Kết quả từ nghiên cứu
này giúp cho các nhà hoạch định chính sách có những căn cứ về mặt khoa học để
đưa ra những nhận định và chiến lược vĩ mô thích hợp nhằm giảm phát thải KNK
19
từ việc sử dụng phân bón trong trồng trọt nông nghiệp.
1.1.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp
- Nghiên cứu “Những hạn chế về chính sách và công nghệ để thực hiện
các lựa chọn giảm thiểu KNK trong nông nghiệp” (2007) của Pete Smith và cộng
sự [80]. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã tìm hiểu những hạn chế và rào cản
chính đối với việc thực hiện giảm thiểu KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, xem
xét các chính sách khí hậu và phi khí hậu ở các khu vực khác nhau trên thế giới
đã tác động như thế nào đến sự phát thải KNK trong nông nghiệp thời gian gần
đây, và cách mà những chính sách đó có thể thực hiện giảm thiểu phát thải trong
tương lai. Các tác giả đánh giá dựa trên sự liên kết giữa giảm thiểu, thích ứng,
thúc đẩy phát triển bền vững và tiềm năng giảm thiểu phát thải KNK từ sản xuất
nông nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, các tác giả còn mô tả cách một số quốc
gia đã thực hiện các chính sách khí hậu và phi khí hậu được cho là có tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc giảm thiểu phát thải KNK từ nông nghiệp. Các
công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên đất và hóa chất nông nghiệp
để xóa đói giảm nghèo và suy dinh dưỡng sẽ giảm thiểu đáng kể lượng phát thải
KNK từ sản xuất nông nghiệp. Các tác giả cho rằng, để thực hiện thành công các
chính sách giảm thiểu phát thải KNK từ sản xuất nông nghiệp, cần phải cân bằng
các rào cản về lợi ích kinh tế. Việc xác định các chính sách mang lại lợi ích cho
khí hậu, cũng như các khía cạnh bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường, sẽ rất
quan trọng để đảm bảo rằng, các lựa chọn giảm thiểu phát thải KNK từ sản xuất
nông nghiệp hiệu quả sẽ được triển khai rộng rãi trong tương lai.
- Nghiên cứu “Giảm khí thải nhà kính từ nông nghiệp: Tránh các giải
pháp tầm thường cho một vấn đề toàn cầu” (2012) của tác giả Jeremy R. Franks
và Ben Hadingham [75]. Nghiên cứu này nhấn mạnh đến những vấn đề mà ngành
nông nghiệp phải đối mặt trong việc đáp ứng các mục tiêu phát thải KNK. Các
nghiên cứu trước đây cho rằng, cần có ba bước để giảm thiểu thành công và hiệu
quả phát thải KNK từ sản xuất nông nghiệp: 1) Xác định các trang trại phát thải
KNK nhiều nhất, 2) Xác định các giải pháp giảm thiểu phát thải KNK thích hợp 20
cho các trang trại này, và 3) Chọn các giải pháp giảm thiểu phát thải KNK dựa
trên cơ sở hiệu quả chi phí của họ. Tuy nhiên, một cuộc khảo sát nhỏ ở các trang
trại đã làm nổi bật những khó khăn liên quan đến bước 1. Sau đó, nghiên cứu đã
giải thích cách mà bước 2 và bước 3 có thể làm trầm trọng hơn vấn đề dựa trên
phương pháp kiểm kê KNK của Nghị định thư Kyoto. Kết quả là, mặc dù những
giải pháp này có thể giảm thiểu phát thải KNK từ nông nghiệp ở Vương quốc
Anh, nhưng sẽ làm tăng lượng khí thải toàn cầu. Các giải pháp như vậy không
giải quyết được vấn đề toàn cầu đối với phát thải KNK, và do đó, cần phải được
loại bỏ khỏi danh sách các lựa chọn giảm thiểu khả thi.
- Nghiên cứu “28 quốc gia thành viên Liên minh Châu Âu đối mặt như thế
nào với việc phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp? Điều đó phụ thuộc vào
những gì chúng ta xem xét: Ứng dụng của phân tích đa tiêu chí” (2016) của tác
giả Elina Dace và Dagnija Blumberga đến từ Viện Nghiên cứu Hệ thống Năng
lượng và Môi trường, Đại học Kỹ thuật Riga, Lavia [74]. Nghiên cứu này chỉ ra
rằng, các nước thành viên Liên minh Châu Âu (EU) đã đồng ý hạn chế phát thải
KNK từ các lĩnh vực không nằm trong Chương trình mua - bán khí thải của EU,
bao gồm cả phát thải từ lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ phát thải KNK tổng hợp (tức
là tCO2eq từ ngành nông nghiệp trên mỗi quốc gia) thường được sử dụng để đo
lường quy mô tổng thể ảnh hưởng của nông nghiệp đối với khí hậu. Và trên thực
tế, kể từ năm 2005, EU đã giảm được 3,1% tổng lượng phát thải KNK của mình.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, điều đó có nghĩa là nông nghiệp của EU đã trở nên ít
phát thải KNK hơn không? Nghiên cứu này trả lời câu hỏi trên bằng cách đưa ra
một góc nhìn khác để đánh giá và so sánh mức phát thải KNK trong nông nghiệp
ở 28 quốc gia thành viên EU. Nó được thực hiện bằng cách áp dụng ba cách tiếp
cận khác nhau, bao gồm việc tạo ra các chỉ số dẫn xuất và áp dụng phân tích đa
tiêu chí (TOPSIS). Đây là cách tiếp cận mới để so sánh hiệu quả giảm nhẹ phát
thải KNK trong nông nghiệp. Kết quả cho thấy, cường độ phát thải rất khác nhau
ở mỗi quốc gia thành viên EU. Thậm chí, các kết quả về cường độ phát thải KNK
cho thấy, xu hướng gia tăng đáng báo động ở hầu hết các quốc gia thành viên EU. 21
Cách tiếp cận này cho thấy, những chỉ số phát thải KNK tổng hợp trong nông
nghiệp là sai lệch. Nghiên cứu này đã chỉ ra công tác kiểm kê KNK trong từng
lĩnh vực, từng hoạt động nông nghiệp cụ thể là hết sức khó khăn. Nếu sử dụng số
liệu sai lệch thì dẫn đến các nhà hoạch định chính sách sẽ đưa ra những quyết định
sai.
- Nghiên cứu “Đánh giá xu hướng phát thải khí nhà kính và các biện pháp
giảm thiểu trong ngành nông nghiệp Australia” (2021) của các tác giả Heena
Panchasara, Nahidul Hoque Samrat và Nahina Islam thuộc Viện Đại học Miền
Trung Queensland, Australia (Central Queensland University, Australia) [76].
Nghiên cứu này cũng khẳng định nông nghiệp là một nguồn phát thải KNK quan
trọng. Đây là một trong những ngành kinh tế tác động trực tiếp và gián tiếp đến
BĐKH, góp phần phát thải KNK. Nghiên cứu này khám phá các nguồn phát thải
carbon chính trong ngành nông nghiệp và xem xét các cách hiệu quả để giảm phát
thải KNK thông qua các công nghệ nông nghiệp thông minh. Bên cạnh đó, một
phương pháp quản lý đặc thù dành cho Australia cũng được thảo luận để hoạch
định chiến lược giảm phát thải KNK dựa trên công nghệ nhằm giúp nông dân và
các bên liên quan khác đưa ra các quyết định nông nghiệp thân thiện với môi
trường. Đây là một nghiên cứu hay, có tính tham khảo cao. Tuy nhiên, kết quả
thống kê nguồn phát thải KNK từ nghiên cứu này cho thấy sự khác biệt về cơ cấu
nông nghiệp của Australia và Việt Nam. Từ đó, các giải pháp nhằm giảm phát thải
KNK được nêu ra trong nghiên cứu được áp dụng đặc thù cho tình hình phát triển
nông nghiệp của quốc gia sở tại.
- Nghiên cứu “Phát thải khí nhà kính từ nông nghiệp Canada: Các chính
sách và biện pháp giảm thiểu” (2022) của nhóm tác giả Ymène Fouli, Margot
Hurlbert và Roland Kröbel đến từ Trường Chính sách công, Đại học Calgary,
Canada [84]. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, mặc dù có nhiều hội nghị, cuộc họp và
hội thảo quốc gia và quốc tế về khí hậu dẫn đến các mục tiêu và thỏa thuận phát
thải KNK khác nhau kể từ những năm 1970, tổng lượng phát thải KNK ở Canada
vẫn tiếp tục tăng. Các vùng khác nhau của quốc gia này đóng góp ở mức độ khác 22
nhau, đối mặt với những thách thức khác nhau và có năng lực khác nhau để giải
quyết phát thải KNK của họ. Việc thiết kế các hướng dẫn, chương trình, chính
sách về khí hậu và áp dụng các thực hành quản lý tốt nhất (BMP) nhằm thúc đẩy
các nỗ lực thích ứng và giảm nhẹ của địa phương và khu vực là rất quan trọng.
Các cơ chế như định giá carbon, hệ thống định mức và thương mại, và các chính
sách dựa trên thuế góp phần giảm phát thải KNK. Phát thải KNK ở Canada được
quy định ở cấp liên bang thông qua chính sách định giá carbon quốc gia và các
tỉnh đã đặt ra các giới hạn đối với phát thải KNK thông qua định giá hoặc đánh
thuế. Nông nghiệp có tiềm năng giảm thiểu phát thải KNK bằng cách áp dụng
BMP để giảm phát thải và tăng lưu trữ carbon trong đất. Trong khi đó, áp lực ngày
càng gia tăng đối với ngành nông nghiệp trong việc gia tăng sản xuất, đối với cả
hàng hóa địa phương và hàng xuất khẩu, để đáp ứng nhu cầu dân số ngày càng
tăng. Nghiên cứu này cũng tập trung vào các chính sách và biện pháp nông nghiệp
khuyến khích nông dân và nhà sản xuất trên khắp Canada giảm phát thải KNK.
Cụ thể, các biện pháp và hành động cấp quốc gia và cấp tỉnh được trình bày và so
sánh với các biện pháp và hành động của quốc tế. Cuối cùng, các khuyến nghị
được đưa ra để nghiên cứu và áp dụng chính sách khí hậu trong tương lai.
1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
- Nghiên cứu “Tiềm năng giảm thiểu phát thải KNK của ngành sản xuất
lúa nước Việt Nam” (2013) của Mai Văn Trịnh, Trần Văn Thể, Bùi Thị Phương
Loan [49]. Nghiên cứu chỉ ra rằng, hoạt động trồng lúa nước là ngành gây phát
thải KNK nhiều nhất trong sản xuất nông nghiệp, song thông qua các biện pháp
canh tác lúa nước cũng có khả năng giảm lượng phát thải KNK lớn nhất. Bên cạnh
đó, chuyển dịch hệ thống canh tác lúa sang các cây trồng ngoài lúa được đánh giá
là giải pháp hiệu quả để giảm phát thải KNK. Các tác giả đã phân tích rất kỹ tiềm
năng giảm phát thải KNK của từng giải pháp và đưa ra một số kịch bản khi thay
23
đổi công thức luân canh.
Trong nghiên cứu này, nhiều biện pháp giảm thiểu BĐKH cũng được giới
thiệu, như: thay đổi công thức luân canh; quản lý và ủ compost rơm rạ; áp dụng
kỹ thuật than sinh học; chuyển dịch hệ thống canh tác lúa sang các cây trồng ngoài
lúa; chuyển đổi 3 vụ lúa bấp bênh sang 2 vụ lúa chắc ăn và nuôi trồng thủy sản,
kết hợp lúa - đậu tương và ngô;...
- Nghiên cứu “Hiện trạng và giải pháp giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
chăn nuôi ở Việt Nam” (2015) của Trần Thu Trang [69]. Trong nghiên cứu này,
tác giả đã cung cấp số liệu hiện trạng và tỷ lệ áp dụng biện pháp xử lý chất thải
của ngành chăn nuôi, tình hình phát thải KNK trong lĩnh vực chăn nuôi của Việt
Nam. Trong chăn nuôi, các nguồn phát thải gồm: phát thải qua hệ tiêu hóa của
động vật nhai lại và phát thải từ phân gia súc. Việc quản lý phân bón cũng ảnh
hưởng đến việc chuyển đổi nitrat (N) thành N2O. Lượng khí phát thải tùy thuộc
vào lượng nitrat của phân cũng như biện pháp bảo quản và xử lý. Trái lại, khi
phân hữu cơ được cung cấp, phân hóa học chứa nitrat (N) có thể góp phần gây ra
sự phát thải N2O trong đất cả trực tiếp và gián tiếp. Nguyên do là do quá trình này
kích thích sự phát triển của các vi sinh vật tham gia vào quá trình nitrat hóa và
khử nitrat trong đất, dẫn đến việc tạo ra khí N2O được thải ra môi trường. Để giảm
lượng phát thải khí N2O từ hoạt động chăn nuôi, trong những năm gần đây, đã có
nhiều chương trình và dự án được thực hiện nhằm hạn chế việc phát thải khí N2O
này. Đặc biệt, Chương trình dự án khí sinh học (KSH) cho ngành chăn nuôi Việt
Nam bằng nguồn vốn ODA không hoàn lại của Chính phủ Hà Lan, bắt đầu từ năm
2003 đến năm 2014, đã giúp Việt Nam giảm phát thải trong chăn nuôi. Nghiên
cứu chỉ ra, việc áp dụng các công trình KSH giảm phát thải từ phân chuồng và
việc thay thế phân tổng hợp bằng bùn sinh học có khả năng giảm thiểu khí phát
thải sẽ tăng lên trong tương lai và rất có ý nghĩa trong việc tận dụng nguồn năng
lượng tái tạo. Một mặt, nó đóng góp vào việc làm dịu bớt nhiệt độ gia tăng đang
diễn ra trên toàn cầu; mặt khác, nó hỗ trợ Việt Nam trong việc tiến tới theo hướng
phát triển kinh tế thấp carbon và bền vững. Tuy vậy, vấn đề phát triển KSH tại
Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Đó là, mức đầu tư đòi hỏi cao so với khả năng 24
tài chính của người nông dân, trong khi sự hỗ trợ từ phía Nhà nước lại hạn chế và
dựa nhiều vào quy mô cũng như sự ổn định của ngành chăn nuôi.
- Nghiên cứu “Tính toán và xác định mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK
trong nông nghiệp” (2017) của FAO [66].
Đây là tài liệu cung cấp kiến thức cơ bản về phương pháp tính toán và
cách sử dụng công cụ xác định cân bằng carbon (EXACT). FAO áp dụng công cụ
xác định cân bằng carbon như một hệ thống đánh giá, nhằm cung cấp phương
pháp tính toán tác động của các chính sách, chương trình và dự án liên quan đến
lĩnh vực nông nghiệp đối với cân bằng carbon. Cân bằng thực về tổng lượng khí
gây hiệu ứng nhà kính được chuyển đổi và biểu thị dưới dạng CO2 tương đương,
được gọi là cân bằng carbon.
Công cụ xác định cân bằng carbon (EXACT) hỗ trợ những người thiết kế
dự án trong việc tính toán và xác định ưu tiên cho các hoạt động mang lại lợi
nhuận cao, đồng thời có khả năng giảm thiểu phát thải KNK. Mức độ giảm phát
thải KNK được sử dụng trong việc phân tích khả năng phát triển kinh tế cũng như
để bổ sung kinh phí cho dự án. Công cụ này có thể ứng dụng trên phạm vi rộng
trong phát triển các dự án ở tất cả các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Mức độ
giảm phát thải KNK được sử dụng để đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế và
cung cấp nguồn tài chính bổ sung cho các dự án. Công cụ này có thể áp dụng rộng
rãi trong các dự án phát triển thuộc mọi lĩnh vực của ngành nông nghiệp. Đặc biệt,
phương pháp tính toán dựa trên công cụ này sẽ tiết kiệm chi phí thu thập dữ liệu,
bởi nó dựa trên các số liệu và tài liệu đã được tính toán trong FAOSTAT.
- Nghiên cứu "Đánh giá phát thải KNK từ chăn nuôi lợn tập trung tại Lâm
Đồng" (2017) của Nguyễn Thị Thanh Thuận và các đồng nghiệp [59]. Nghiên cứu
này chỉ ra rằng, hoạt động chăn nuôi lợn tập trung là một trong những thế mạnh
của tỉnh Lâm Đồng, tuy nhiên hoạt động này cũng gây một lượng phát thải KNK
lớn. Kết quả số liệu tổng hợp cho thấy, 1 con lợn trung bình một tháng thải ra
khoảng 0,0076 tCO2. Biện pháp quản lý chất thải chăn nuôi lợn nhằm giảm phát
thải lượng KNK vào môi trường là sử dụng biogas và thu hồi khí sinh học để phục 25
vụ sản xuất và sinh hoạt. Cụ thể, khi xử lý thải trực tiếp vào môi trường, khả năng
giảm lượng KNK có thể lên đến 87%, so với hệ thống quản lý hiện tại chỉ đạt
31%, và với việc sử dụng hệ thống hiện tại kết hợp thu hồi khí từ biogas, khả năng
giảm lượng KNK là 24%.
Kết quả nghiên cứu và khảo sát cho thấy rằng, cần hỗ trợ kỹ thuật toàn
diện hơn trong việc xử lý khí mà hầm biogas tạo ra, nhằm khuyến khích cộng
đồng tham gia tích cực vào việc sử dụng khí sinh học. Các dạng hỗ trợ cụ thể bao
gồm: tư vấn về vận hành và cài đặt các hệ thống xử lý khí, hệ thống sản xuất điện
từ khí và nhiều hỗ trợ khác. Tuy nhiên, để xây dựng hệ số phát thải chung cho cả
hình thức chăn nuôi tập trung và chăn nuôi nông hộ nhỏ thì cần có thêm các nghiên
cứu chi tiết và sâu rộng hơn.
- Luận án Tiến sĩ “Biện pháp kỹ thuật giảm lượng axit hữu cơ và giảm
phát thải KNK trong canh tác lúa trên đất phèn và đất phù sa tại tỉnh Hậu Giang”
(2012) của NCS Nguyễn Thị Kiều, thuộc Đại học Cần Thơ [58]. Sau khi tiến hành
nghiên cứu về biến đổi của nồng độ axit hữu cơ trong dung dịch đất, lượng phát
thải KNK và năng suất lúa; phân tích tác động của các biện pháp giảm phát thải
KNK; thực hiện thử nghiệm các phương pháp xử lý độc tố hữu cơ tại khu vực
trồng lúa tỉnh Hậu Giang, luận án đã đề xuất một loạt biện pháp kỹ thuật nhằm
giảm nồng độ axit hữu cơ và giảm phát thải KNK trong quá trình canh tác lúa trên
đất phèn và đất phù sa tại khu vực trồng lúa tỉnh Hậu Giang.
- Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và tưới nước đến
năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa Thiên Huế”
(2017) của NCS Nguyễn Đức Thành, thuộc Đại học Nông Lâm - Đại học Huế
[52]. Qua khảo sát, phân tích, tổng hợp, luận án đã xác định được liều lượng và
loại phân đạm bó phù hợp cho cây lúa để đạt năng xuất cao và giảm lượng phát
thải KNK; đồng thời, xác định được chế độ tưới nước xen kẽ ướt - khô là hiệu quả
nhất cho cây lúa với lượng KNK phát thải ở mức độ thấp nhất.
- Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu mô phỏng sự phát thải khí nhà kính (CH4,
N2O) trong môi trường đất lúa lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam” 26
(2017) của NCS Ngô Đức Minh thuộc Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc
gia Hà Nội [51]. Qua khảo sát, phân tích, tổng hợp lượng phát thải KNK khi áp
dụng các cách quản lý khác nhau như quản lý nước hay sử dụng phân bón tại lưu
vực sông Vu Gia - Thu Bồn (tỉnh Quảng Nam), số liệu thu thập được từ phương
thức canh tác ở địa phương, các đặc trưng về tự nhiên, các kết quả định lượng về
phát thải KNK được tính toán bằng mô hình sinh địa hóa đã được hiệu chỉnh và
kiểm định phù hợp các hiện trạng của địa phương,… luận án đã xây dựng được
bản đồ phân bố không gian các vùng với các mức độ phát thải CH4 và N2O khác
nhau, dựa trên các chế độ tưới khác nhau; đồng thời, luận án cũng chỉ ra rằng,
hiệu quả và tiềm năng giảm phát thải CH4 và N2O của các biện pháp quản lý tưới
tiêu trong canh tác lúa nước tại vùng này là rất lớn.
- Luận án Tiến sĩ “Đánh giá phát thải khí nhà kính (N2O và CH4) trên hai
mô hình canh tác lúa” (2019) của NCS Nguyễn Kim Thu thuộc Đại học Cần Thơ
[54]. Bằng việc tiến hành khảo sát, phân tích và tổng hợp các mô hình canh tác
bao gồm 2 vụ lúa/năm với quản lý nước từ 0 - 5 cm, cũng như mô hình canh tác
3 vụ lúa luân canh lúa - mè - lúa, luận án đã chứng minh rằng, mô hình canh tác
2 vụ lúa/năm với quản lý nước từ 0 - 5 cm có khả năng giảm phát thải KNK nhiều
hơn so với cách quản lý nước theo phương thức canh tác lúa truyền thống, mô
hình canh tác 3 vụ lúa luân canh lúa - mè - lúa đã dẫn đến kết quả phát thải khí
KNK thấp hơn so với mô hình canh tác độc canh lúa.Từ đó, luận án chỉ ra rằng,
nên áp dụng mô hình canh tác 2 vụ lúa/năm với việc quản lý nước và mô hình
luân canh lúa - mè - lúa trên hệ thống canh tác lúa 3 vụ vì đây là các phương pháp
giảm phát thải KNK thích hợp để thích ứng với BĐKH vùng Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL).
- Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu phát thải khí CH4 và N2O trong lĩnh vực
trồng trọt vùng đồng bằng sông Hồng” (2021) của NCS Bùi Thị Thu Trang thuộc
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu [39]. Qua khảo sát, phân
tích và tổng hợp, luận án đã xác định được lượng KNK được phát thải từ quá trình
canh tác lúa và trồng các cây trồng cạn tại vùng đồng bằng sông Hồng; xác định 27
bản đồ về phát thải KNK cho các vùng trồng lúa và các loại cây trồng cạn dưới
các điều kiện tự nhiên khác nhau trong khu vực đồng bằng sông Hồng; xây dựng
được phương pháp tính toán lượng khí CH4 và N2O trong đất trồng lúa và cây
trồng cạn; đồng thời, cung cấp bộ số liệu cần thiết để thực hiện tính toán về phát
thải KNK.
1.2.2. Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp
- Báo cáo “Đánh giá phát thải KNK từ nông nghiệp và lâm nghiệp ở Việt
Nam, đề xuất biện pháp giảm thiểu và kiểm soát” thuộc Hợp phần Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) trong khuôn khổ dự án “Tăng cường
năng lực quốc gia ứng phó BĐKH ở Việt Nam nhằm giảm nhẹ tác động và kiểm
soát phát thải KNK” (2011) do UNDP tài trợ [1]. Mục tiêu của nghiên cứu này là
1) Tổng hợp nguồn thông tin kỹ thuật và nhận biết được các phương pháp tính
toán, ước lượng phát thải KNK trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp theo yêu cầu của
Ban liên Chính phủ về BĐKH; 2) Xác định và chọn lựa được phương pháp kiểm
kê phát thải KNK trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp cho những năm tới và ước
lượng phát thải theo kịch bản phát triển kinh tế - xã hội và dân số vào những năm
2010, 2020 và 2030; 3) Nâng cao được khả năng quản lý của Bộ NN&PTNT về
các biện pháp giảm thiểu và kiểm soát phát thải KNK trong lĩnh vực nông, lâm
nghiệp; 4) Đề xuất được mục tiêu, nội dung triển khai các thực nghiệm ngoài đồng
ruộng để minh chứng cho phương pháp luận hay xây dựng mô hình mẫu làm giảm
phát thải KNK trong nông, lâm nghiệp. Đây là một nghiên cứu rất công phu và
phong phú về nội dung. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, các biện pháp QLNN
về kiểm soát phát thải KNK mới chỉ dừng lại ở mức độ nâng cao năng lực cho
ngành nông nghiệp, chưa đưa ra được các giải pháp mang tính tổng thể, liên
ngành.
- Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu đề xuất cơ chế chi trả cho dịch vụ giảm
phát thải KNK thông qua việc hạn chế mất rừng và suy thoái rừng ở tỉnh Lâm
Đồng” (2012) của NCS Phạm Minh Thoa thuộc Viện Kinh tế - Học viện Chính 28
trị quốc gia Hồ Chí Minh [64]. Nghiên cứu chỉ ra rằng, giảm phát thải KNK thông
qua việc hạn chế mất rừng và suy thoái rừng (REDD và REDD+) là bộ phận quan
trọng và không thể tách rời của một hệ thống mới trong bảo vệ và phát triển rừng.
Việc xây dựng và thực hiện tốt cơ chế chi trả REDD ở Việt Nam quyết định sự
thành công trong việc áp dụng REDD với tư cách là một sáng kiến trong việc huy
động các nguồn tài chính mới cho mục đích bảo vệ và phát triển rừng và công cụ
hiệu quả cho việc giảm nhẹ tác động của BĐKH. Nội dung chủ yếu của cơ chế
chi trả cho dịch vụ REDD ở Lâm Đồng là thiết lập và vận hành một Quỹ REDD
ủy thác với đủ cơ sở pháp lý và năng lực để tiếp nhận nguồn tài chính mới, tổ chức
và giám sát chi trả cho các đối tượng cung cấp dịch vụ REDD. Nghiên cứu khẳng
định, việc xây dựng và thực hiện cơ chế này cần có các giải pháp mang tính hệ
thống và cụ thể. Đó là hoàn thiện khung pháp lý, đảm bảo quyền sử dụng đất đai,
tăng cường năng lực kỹ thuật và tổ chức thực hiện.
- Báo cáo kỹ thuật “Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC)
của Việt Nam” (2020) do Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) xây dựng
[16]. INDC của Việt Nam gồm 2 hợp phần là giảm nhẹ phát thải KNK và thích
ứng với BĐKH; đồng thời, xác định lộ trình giảm nhẹ phát thải KNK trong giai
đoạn 2021 - 2030. Báo cáo khẳng định rằng, bằng nguồn lực trong nước, đến năm
2030, Việt Nam sẽ đạt được mức giảm 8% lượng phát thải KNK so với kịch bản
phát triển thông thường (BAU), tuy nhiên, nếu nhận được sự hỗ trợ quốc tế, mức
giảm này có thể tăng lên đến 25%. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiều biện pháp
giảm lượng phát thải KNK đã được cập nhật. Những biện pháp này bao gồm: giảm
phát thải KNK thông qua việc phát triển nông nghiệp bền vững; quản lý và bảo
vệ rừng theo hướng bền vững; quản lý chất thải hiệu quả. Việt Nam đã tích cực
thực hiện các hành động giảm phát thải KNK phù hợp với NAMA (Nationally
Appropriate Mitigation Actions); triển khai các dự án chứng nhận carbon theo các
tiêu chuẩn tự nguyện như Tiêu chuẩn Carbon Tự nguyện (VCS) và Tiêu chuẩn
Vàng (GS). Nhiều hoạt động giảm phát thải KNK đã được triển khai, bao gồm:
chuyển đổi sang giống lúa ngắn ngày để rút ngắn thời gian phát thải KNK; sử 29
dụng phương pháp tưới xen kẽ khô - ướt; chuyển đổi từ mô hình trồng lúa kém
hiệu quả sang trồng cây trồng cạn hiệu quả hơn; giảm tỷ lệ đốt rơm từ 90% xuống
dưới 30%; cải thiện chế độ ăn cho trâu bò; thu gom và xử lý chất thải hữu cơ trong
ngành chăn nuôi.
- Đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp nhà nước của
Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường “Nghiên cứu xây dựng định
hướng và các phương án giảm phát thải KNK trên cơ sở đảm bảo các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” (2014) do Tiến sĩ Nguyễn Văn Tài,
nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ
Tài nguyên và Môi trường chủ trì [62]. Kết quả của đề tài là: 1) Xác định rõ các
nguồn phát thải KNK và các yếu tố tác động đến phát thải KNK từ các lĩnh vực;
phân tích thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, đánh giá tổng quan về phát thải
KNK ở Việt Nam từ đó chỉ ra tiềm năng, cơ hội và các thách thức giảm phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020. 2) Làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn giảm phát thải KNK trên sở đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về tiếp cận carbon thấp,
lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên và đề xuất các giải pháp giảm phát thải KNK.3) Thử
nghiệm các mô hình tính toán giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
phù hợp điều kiện Việt Nam; phân tích đặc điểm, thực trạng cũng như xu hướng
phát thải, cơ hội và thách thức đối với giảm phát thải KNK ở Việt Nam. 4) Tổng
hợp những định hướng lớn về giảm phát thải KNK phát triển bền vững; dự báo
thực hiện giảm phát thải KNK tác động như thế nào tới phát triển kinh tế - xã hội;
đề xuất các giải pháp kỹ thuật - công nghệ và khung chính sách thúc đẩy giảm
phát thải KNK phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Các giải pháp được đề xuất
trong đề tài này khá đầy đủ, phong phú, bao gồm các giải pháp kỹ thuật, các giải
pháp QLNN, tuyên truyền, nâng cao năng lực, xúc tiến thị trường, thương
mại,…Tuy nhiên, các giải pháp được tác giả đưa ra mới chỉ dừng ở mức nêu ý
30
tưởng, chưa đi sâu vào chi tiết, cách thức tổ chức thực hiện.
- Cuốn “Sổ tay hướng dẫn đo phát thải KNK trong canh tác lúa” (2016)
của Viện Môi trường nông nghiệp do PGS.TS. Mai Văn Trịnh chủ biên [71], trình
bày kết quả việc chuẩn hóa phương pháp lấy mẫu, dụng cụ lấy mẫu, phân tích và
tính toán lượng phát thải KNK. Cuốn sách có thể được coi như một cẩm nang về
việc đo đạc, tính toán và kiểm kê lượng phát thải KNK trong quá trình canh tác
lúa. Từ đó, nó sẽ đóng góp vào việc hỗ trợ việc thực hiện kiểm kê quốc gia và xây
dựng các hoạt động giảm phát thải phù hợp với NAMA; đồng thời hoàn thiện Hệ
thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) tại Việt Nam.
- Báo cáo “Đề xuất các chính sách công nghệ giảm phát thải KNK từ
ruộng lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long” (2019) do Nhật bản Trung tâm nghiên
cứu quốc tế khoa học nông nghiệp (JIRCAS) phối hợp với Đại học Cần Thơ và
Sở NN&PTNT tỉnh An Giang thực hiện trong khuôn khổ Dự án Biến đổi khí hậu
[70]. Báo cáo này phân tích, so sánh lượng KNK thải ra và năng suất lúa khi thực
hiện quản lý nước khác nhau; trình bày kết quả nghiên cứu về lượng phát thải CH4
và năng suất lúa được thực hiện trong 5 năm tại tỉnh An Giang; đồng thời, phân
tích tác dụng của việc triển khai công nghệ tưới tiêu ướt - khô xen kẽ mang lại.
- Luận án Tiến sĩ “Đánh giá chi phí giảm phát thải KNK phục vụ xây dựng
kế hoạch hành động tăng trưởng xanh tại tỉnh Quảng Ninh” (2019) của NCS
Nguyễn Thị Diệu Trinh, thuộc Đại học Kinh tế quốc dân [57]. Đây là một nghiên
cứu tích hợp, sử dụng phương pháp luận kiểm kê phát thải KNK, hệ số phát thải
của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), cùng với các hệ số phát
thải KNK cụ thể của Việt Nam. Bằng việc áp dụng phương pháp đánh giá chi phí
giảm phát thải theo lý thuyết chi phí giảm thải cận biên, luận án đề xuất quy trình
đánh giá chi phí giảm phát thải KNK gồm 6 bước, cùng với việc xây dựng quy
trình lập kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cấp tỉnh bao gồm 3 bước. Hơn
nữa, nghiên cứu còn tích hợp việc đánh giá chi phí giảm phát thải KNK vào quy
trình sắp xếp và lựa chọn các giải pháp giảm phát thải KNK mang lại hiệu quả về
chi phí tại cấp địa phương. Kết quả nghiên cứu này được áp dụng để đánh giá
lượng phát thải KNK và cơ hội giảm phát thải KNK, từ đó chọn lựa những giải 31
pháp hiệu quả nhất để đáp ứng mục tiêu của kế hoạch hành động tăng trưởng xanh
tại tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời, nghiên cứu cũng thực hiện tính toán tiềm năng
giảm phát thải KNK cùng với nhu cầu vốn cho từng giải pháp được lựa chọn.
- Luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu sự phát thải khí nhà kính trong canh tác
lúa nước tại Nam Định và đề xuất các giải pháp giảm thiểu” (2020) của NCS
Nguyễn Lê Trang thuộc Trường Đại học khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia
Hà Nội [55]. Luận án đã tiến hành nghiên cứu, phân tích và đánh giá tình hình sản
xuất lúa và sử dụng phân bón cho lúa tại tỉnh Nam Định. Luận án đã xác định
những yếu tố tự nhiên (bao gồm đất, khí hậu và nước tưới) cùng với các phương
pháp canh tác lúa có tác động đến việc phát thải KNK trong quá trình sản xuất lúa
tại tỉnh Nam Định. Ngoài ra, luận án cũng đã đánh giá tiềm năng giảm phát thải
KNK từ những biện pháp canh tác cải tiến, và dựa trên kết quả này, đưa ra một số
giải pháp tiềm năng để giảm thiểu phát thải KNK. Các kết quả nghiên cứu của
luận án có khả năng ứng dụng thực tiễn nhiều vì canh tác lúa Nam Định đang
chuyển dịch theo hướng thâm canh cao, phân vô cơ vẫn được sử dụng trong trồng
lúa với khôi lượng lớn, trong khi phân hữu cơ được sử dụng rất ít. Hiện nay, người
dân đã bắt đầu hiểu được, KNK là một trong các nguyên nhân gây nên BĐKH và
tác hại khôn lường của BĐKH, nên hầu hết người dân đã có ý thức sử dụng các
biện pháp khoa học - kỹ thuật mới để thích ứng và giảm thiểu BĐKH.
1.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu có liên quan
1.3.1. Nhận định khái quát về các công trình nghiên cứu đã công bố
liên quan đến đề tài luận án
Nghiên cứu các công trình đã được công bố liên quan đến đề tài của luận
án, NCS nhận thấy rằng, những công trình này chủ yếu đã giải quyết được những
vấn đề chính sau:
- Hệ thống hóa được khung lý thuyết đối với phát thải KNK trong nông
nghiệp bao gồm: khái niệm, nguồn gốc, các yếu tố tác động,… Các nghiên cứu
đều khẳng định vai trò rất quan trọng của việc giảm phát thải KNK nói chung và
32
trong nông nghiệp nói riêng.
- Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nước cho thấy, bức tranh
tổng quát định hướng ưu tiên trong giảm phát thải KNK nói chung và trong nông
nghiệp nói riêng; thực trạng quản lý nông nghiệp, chính sách và các giải pháp
quản lý nông nghiệp hướng đến giảm phát thải KNK ở nước ta; đánh giá về công
tác quản lý trong nông nghiệp từ góc độ giảm phát thải KNK.
- Một số công trình nghiên cứu đã trình bày một vài khía cạnh liên quan
QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp, như: văn bản pháp lý; chính
sách về đất đai, tín dụng; chính sách về thuế, phí; chính sách xúc tiến thương mại,
tiếp cận thị trường carbon;…Các công trình khoa học này đã phác họa được bức
tranh đơn giản về thực trạng QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp ở
Việt Nam cũng như một số quốc gia khác.
1.3.2. Những khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến một số khía cạnh
QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy vậy, cùng với
những kết quả đáng ghi nhận, vẫn còn những vấn đề chưa được đề cập đến hoặc
chưa đi sâu làm rõ, cập nhật với tình hình mới, vì vậy cần phải được tiếp tục
nghiên cứu, trao đổi và làm sáng tỏ.
Một là, có công trình chỉ nghiên cứu về KNK trong phạm vi chuyên ngành
hẹp, mang tính chuyên sâu, kỹ thuật, nhưng cũng có những công trình lại nghiên
cứu về KNK quá chung chung, còn nhiều vấn đề lý luận cũng như thực tiễn chưa
được làm rõ. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về
QLNN đối với phát thải KNK để xây dựng được đầy đủ cơ sở khoa học (lý luận
và thực tiễn) cho QLNN đối với phát thải KNK nói chung và trong lĩnh vực nông
nghiệp nói riêng. Và có thể nói, chưa có công trình nghiên cứu nào xây dựng được
khái niệm “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính”.
Hai là, có công trình đã đề cập đến việc quản lý phát thải KNK ở Việt
Nam trong thực tiễn, tuy vậy những phân tích đó chưa từ góc độ quản lý công và
33
các thông tin cũng chưa được cập nhật.
Ba là, các công trình đã nghiên cứu về KNK chưa xây dựng được hệ thống
giải pháp quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam từ góc
độ quản lý công. Phần lớn các công trình đã nghiên cứu liên quan đến phát thải
KNK trong nông nghiệp được tiếp cận dưới góc độ phát thải KNK qua kỹ thuật
sản xuất nông nghiệp, tuy vậy chưa công trình nào xây dựng được giải pháp quản
lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua quản lý sản xuất nông
nghiệp từ góc độ quản lý công.
1.3.3. Những vấn đề khoa học cần tập trung nghiên cứu, giải quyết
Với ý thức cầu thị, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu về phát thải KNK và quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp từ
những công trình đã được công bố trong và ngoài nước nêu trên, luận án “Quản
lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt
Nam” tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
Về lý luận:
NCS tập trung nghiên cứu sâu để làm rõ những vấn đề lý luận QLNN đối
với phát thải KNK nói chung, trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng tại Việt Nam,
mà đại diện là trồng trọt cây lương thực và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Tập trung
nghiên cứu, xây dựng khái niệm “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà
kính”; làm rõ sự cần thiết, nội dung, các công cụ, các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN
đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam. Đề tài luận án
cũng xác định và chỉ rõ chủ thể, khách thể QLNN đối với phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam; đồng thời, làm rõ những quan điểm và mục
tiêu của Việt Nam về quản lý giảm phát thải KNK. Trên cơ sở đó, tiếp tục xây
dựng và góp phần hoàn thiện lý thuyết về QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp tại Việt Nam.
Đề tài luận án nghiên cứu, làm sáng tỏ hệ thống các quy định pháp luật
làm cơ sở pháp lý trong QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
34
Ngoài ra, NCS còn nghiên cứu những kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới
về QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó khái quát hóa
và xác định những giá trị tham khảo cụ thể cho Việt Nam.
Về thực tiễn:
Đề tài luận án tập trung nghiên cứu thực tiễn công tác quản lý giảm phát
thải KNK nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng tại Việt Nam đứng
từ góc độ quản lý công. Trên cơ sở đó, NCS đưa ra đánh giá về những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân, từ đó xây dựng và luận giải các định hướng,
giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp tại Việt Nam, đăc biệt tập trung nghiên cứu, xây dựng giải pháp
quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua quản lý sản
xuất nông nghiệp.
Như vậy, có thể thấy, đề tài luận án không trùng lặp với các công trình
nghiên cứu trước đó kể cả ở trong và ngoài nước. Với những cố gắng như vậy,
NCS hy vọng rằng, luận án sẽ có những đóng góp nhất định cả về lý luận và thực
tiễn vì thể hiện được một số điểm mới trong việc xây dựng, bổ sung một cách
tương đối hoàn chỉnh hệ thống lý luận QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp tại Việt Nam; đánh giá thực trạng QLNN đối với phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam một cách tương đối toàn diện, khách
quan và cập nhật; đề xuất hệ thống các giải pháp có căn cứ khoa học nhằm góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là giải pháp thứ tám (Quản lý phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua quản lý sản xuất nông nghiệp).
Kết luận chương 1
Thu thập, tìm hiểu và phân tích các công trình, tài liệu có liên quan đến luận
án, trong Chương 1, NCS đã nghiên cứu được như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu các tài liệu trong nước và cả ngoài nước liên quan
đến phát thải KNK và quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, nghiên
cứu sinh khái quát những vấn đề chính mà các công trình, tài liệu này đã giải quyết
được. Kết quả nghiên cứu các công trình có liên quan đến luận án cho thấy, đã có 35
nhiều công trình nghiên cứu phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp; một vài
công trình nghiên cứu có đề cập đến quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp nhưng tản mạn (như: văn bản pháp lý; chính sách về đất đai, tín dụng;
chính sách về thuế, phí; chính sách xúc tiến thương mại tiếp cận thị trường
carbon;…), tuy nhiên, nghiên cứu phát thải KNK dưới góc độ quản lý công thì
gần như chưa có, chưa hệ thống. Tài liệu chủ yếu là kỹ thuật về KNK, nghiên cứu
KNK trong các ngành chuyên môn.
Thứ hai, bằng việc phân tích, nghiên cứu, tổng hợp và đánh giá tổng quan
các tài liệu liên quan đến phát thải KNK và quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp, nghiên cứu sinh đã trình bày một số nhận xét tổng quát về cả khía
cạnh lý thuyết và thực tiễn mà các nhà nghiên cứu trước đó đã thể hiện; đồng thời,
chỉ ra những hạn chế cùng với những khía cạnh và khoảng trống vẫn chưa nghiên
cứu sâu hoặc chưa được nghiên cứu, từ đó xác định những nội dung trọng tâm mà
luận án "Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông
36
nghiệp ở Việt Nam" cần tập trung nghiên cứu và giải quyết.
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI
KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
2.1. Phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Hoạt động sản xuất nông nghiệp không chỉ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí
hậu mà còn đóng góp đáng kể vào việc tạo ra lượng khí nhà kính lớn, làm gia tăng
hiện tượng nóng lên toàn cầu. Các hoạt động như canh tác lúa, quá trình lên men
thức ăn cho gia súc, sử dụng đất nông nghiệp và việc quản lý chất thải từ chăn
nuôi, cùng việc đốt cháy phế phẩm nông nghiệp, đều góp phần tạo ra các nguồn
khí nhà kính lớn.
2.1.1. Khái niệm “Khí nhà kính”
Theo Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC): “Khí nhà kính”
được hiểu “là những thành phần của khí quyển, được tạo ra do tự nhiên và các
hoạt động của con người. Chúng có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (hồng
ngoại) được phản xạ từ bề mặt Trái Đất khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt
trời, sau đó phân tán nhiệt lại cho Trái Đất, gây nên hiệu ứng nhà kính” [77].
Luật Bảo vệ môi trường (2014) của Việt Nam định nghĩa: “KNK là các khí trong
khí quyển gây ra sự nóng lên toàn cầu và BĐKH” [32].
Theo từ điển Anh ngữ Collins, “Phát thải Khí nhà kính” được định nghĩa
là “sự phát thải vào bầu khí quyển của trái đất các loại khí khác nhau, trong đó,
đặc biệt là carbon dioxide, góp phần vào hiệu ứng nhà kính” [83].
Như vậy, liên quan đến KNK là hiệu ứng nhà kính và BĐKH.
- Hiệu ứng nhà kính (Greenhouse Effect) là hiện tượng làm cho nhiệt độ
của không khí trên Trái Đất tăng lên do tác động của các khí như CO2. Quá trình
này diễn ra khi ánh sáng mặt trời chứa sóng ngắn xuyên qua tầng khí quyển và
chiếu xuống bề mặt Trái Đất. Sau đó, bề mặt đất hấp thu nhiệt và phát ra bức xạ
sóng dài trở lại vào khí quyển. Khí CO2 trong khí quyển hấp thu một phần của
37
bức xạ này, gây ra tăng nhiệt độ cho không khí xung quanh. Một cách giải thích
đơn giản, hiệu ứng nhà kính tương tự như việc năng lượng từ ánh sáng mặt trời
xuyên qua cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính trong ngôi nhà của chúng ta. Ánh sáng
bị hấp thụ bởi các vật thể bên trong nhà và phát ra dưới dạng nhiệt. Một phần nhiệt
lượng này bị giữ lại trong không gian bên trong, gây nên sự ấm áp của ngôi nhà
thay vì chỉ ở những nơi trực tiếp tiếp xúc với ánh sáng.
- BĐKH là thuật ngữ được áp dụng khi các mô hình khí hậu (các giá trị
trung bình của thời tiết qua nhiều năm) của một khu vực cụ thể hoặc thậm chí toàn
bộ hành tinh Trái Đất bắt đầu biến đổi một cách không bình thường. BĐKH đại
diện cho một thách thức môi trường nghiêm trọng, có khả năng tác động tiêu cực,
nghiêm trọng lên sự tồn tại của các sinh vật sống trên Trái đất, bao gồm cả con
người và toàn bộ hệ thống sinh thái. [40].
- Các KNK cơ bản bao gồm: hơi nước (H2O), carbon điôxit (CO2), nitơ
ôxit (N2O), mêtan (CH4) và ôzôn (O3). Các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của
con người đang tạo ra ngày càng nhiều KNK. Trong “Bộ tài liệu hướng dẫn kiểm
kê KNK” của IPCC (1996), các KNK được đưa vào xem xét, tính toán bao gồm:
CO2, CH4, N2O, O3, hydrofluorocarbons (HFCs), perfluorocarbons (PFCs),
sulphur hexafluoride (SF6), nitrogen trifluoride (NF3), trifluoromethyl sulphur
pentafluoride halogenated ethers (SF5CF3), (C4F9OC2H5,
CHF2OCF2OC2F4OCHF2, CHF2OCF2OCHF2). IPCC đã chứng minh rằng, các khí
này góp phần tạo tiềm năng nóng lên toàn cầu (GWPs). Từ thực tiễn áp dụng,
IPCC đã đưa ra Bộ tài liệu hướng dẫn kiểm kê KNK năm 2006 cùng với bổ sung
một số KNK khác, như: C3F7C(O)C2F5, C7F16, C4F6, C5F8 và một số tiền chất khác
là: NOx, NH3, các hợp chất hữu cơ không mêtan NMVOC, CO và SO2. Tuy vậy,
tiềm năng gây nóng lên của chúng vẫn chưa xác định được.
2.1.2. Tác hại của khí nhà kính
KNK hiện đang được xem là một trong các nguyên nhân chính gây ra hiệu
ứng nhà kính, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu và góp phần tạo ra biến đổi
38
khí hậu. Như đã nói trên, KNK có nguồn gốc tự nhiên và từ các hoạt động của
con người. Phát thải KNK đã đóng góp không nhỏ làm thay đổi khí hậu toàn cầu,
gây tác động tiêu cực ngược trở lại đến tự nhiên và con người.
Việc sử dụng lãng phí, phung phí và thiếu khoa học nguồn tài nguyên thiên
nhiên của con người làm tăng lượng phát thải KNK vào bầu khí quyển. Đặc biệt,
việc sử dụng rộng rãi các nguồn năng lượng từ hóa thạch như than, dầu và khí đốt
trong quá trình phát triển đã dẫn đến việc thải ra khí quyển một lượng lớn các chất
khí tạo nên hiệu ứng nhà kính. Quá trình này góp phần kích hoạt sự gia tăng nhiệt
độ trong khí quyển và trên bề mặt Trái Đất. Cho nên, nói đến tác hại của KNK thì
có thể nhận biết trực tiếp từ các tác động của BĐKH mà KNK là nguyên nhân
trực tiếp gây ra.
Như chúng ta đều biết, BĐKH là những thay đổi lớn làm ảnh hưởng đến
môi trường sống, bầu khí quyển và khí hậu nói chung, gây ra những biến đổi mạnh
mẽ thông qua các hiện tượng thời tiết cực đoan, dị thường. Điển hình của kiểu
thời tiết dị thường là bão mạnh, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng cao,...
tác động mạnh đến các hệ sinh thái và cuộc sống của con người trên Trái đất, đặc
biệt vùng đất thấp ven biển.
Nhân loại đang phải đối mặt với nhiều rủi ro từ những hệ quả toàn cầu của
BĐKH, và BĐKH đang diễn ra ngày càng trầm trọng, mang tính chất hủy diệt và
đe dọa cuộc sống của hàng triệu người trên toàn cầu. Theo các chuyên gia, nếu
BĐKH vẫn tiếp tục diễn ra với tốc độ nhanh như hiện nay, thì nó sẽ gây ra những
tác động khôn lường đối với toàn cầu. Điều này đòi hỏi toàn thế giới phải hành
động tập thể, đồng hành và chung tay giải quyết các thách thức không của riêng
ai. Trong đó, các quốc gia có trách nhiệm chủ động giảm phát thải KNK thông
qua quản trị tốt các hoạt động phát thải và triển khai thực hiện rộng rãi, đến cấp
cộng đồng, các giải pháp thích ứng với BĐKH.
Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống do lợi thế của sự phân
hóa lãnh thổ: vừa có núi đồi, đồng bằng châu thổ rộng lớn, vừa có biển, đảo với
đường bờ biển kéo dài qua hơn 3260 km theo hướng bắc nam. Kéo theo các yếu
tố thời tiết, khí hậu ở Việt Nam biến tính theo mùa và theo vùng địa lý dọc ven 39
biển và theo các bậc địa hình. Đặc trưng này cùng với diện tích các vùng đất thấp
(Low-land) ven biển lớn đã chi phối hoạt động sản xuất nông nghiệp, tạo ra tính
đa dạng theo vùng miền của sản vật nông nghiêp và nông nghiệp trở thành ngành
nhạy cảm và dễ bị tổn thương trước BĐKH và nước biển dâng. Do đó, mặc dù
Việt Nam hiện nay đang đứng thứ hai trong danh sách xuất khẩu gạo toàn cầu,
nhưng lĩnh vực này đang phải đối mặt với tác động mạnh mẽ từ BĐKH.
Trong thời gian gần đây, do tác động của BĐKH, thời tiết có nhiều diễn
biến bất thường với các biểu hiện cực đoan, thiên tai dồn dập với cường độ ngày
càng cao. Số lượng đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm rõ rệt. Số
lượng cơn bão trên Biển Đông ảnh hưởng đến Việt Nam giảm, song số lượng cơn
bão mạnh có chiều hướng gia tăng, mùa bão kết thúc cũng muộn hơn, quỹ đạo
của các cơn bão diễn ra dị thường và số lượng các cơn bão di chuyển và tác động
đến khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ ngày càng gia tăng. Nhiều trận bão tàn
phá khốc liệt, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của. Bên cạnh đó, số ngày
mưa phùn ở miền Bắc giảm nhiều. Lượng mưa thay đổi đáng kể giữa các vùng,
với sự gia tăng của tình trạng hạn hán gây ra hiện tượng hoang mạc hóa mở rộng,
đặc biệt là tại khu vực Nam Trung Bộ. Hầu hết các tuyến bờ biển của Việt Nam
đang bị xâm thực và xói lở mạnh mẽ, nhiều khu vực đang chứng kiến tốc độ sạt
lở và xói lở lớn, có cường độ từ vài mét đến hàng chục mét mỗi năm, và có dấu
hiệu gia tăng mạnh.
Dù đã rất nỗ lực khắc phục những hậu quả của BĐKH, nhưng trong những
thập kỷ qua, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia phải chịu thiệt hại nặng
nề nhất do tác động của thiên tai và BĐKH gây ra. Có những năm, bão lụt đã gây
thương vong về người, phá hoại nhà cửa, làm mùa màng và hoa màu nhiều nơi bị
mất trắng; nuôi trồng thủy sản bị tổn thất nặng nề; tàu, thuyền đánh cá bị chìm,
hỏng; nhiều công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp bị sạt lở, bồi lấp; hàng nghìn
kilômet đê sông, đê biển, đường bờ biển,…bị phá hủy nghiêm trọng.
Tuy nhiên, trên bình diện toàn cầu, ở những mức độ nhất định và trong
một số khu vực cụ thể, BĐKH lại mang đến những tác động tích cực, như: tạo cơ 40
hội thúc đẩy sự đổi mới công nghệ cho các quốc gia, khuyến khích phát triển các
công nghệ sạch và thân thiện với môi trường, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và
phát triển (R&D) liên quan; cũng như tạo điều kiện cho việc phát triển trồng rừng
nhằm hấp thụ CO2 và giảm phát thải KNK. Ở một số quốc gia thuộc vùng ôn đới,
việc tăng nhiệt độ có thể mang lại điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của
nông nghiệp, đồng thời cũng giúp tiết kiệm năng lượng sưởi ấm. Ở Việt Nam,
những thay đổi chế độ hạn mặn liên quan đến BĐKH và nước biển dâng ở các
tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) những năm gần đây đã thúc
đẩy các mô hình chuyển đổi lúa sang tôm, mô hình luân/xen canh tôm –
lúa,... Nguyên tắc "môi trường nào, sinh vật nấy" đã được thể hiện theo
quan điểm thuận theo thiên nhiên của Chính phủ và ưu tiên các giải pháp thích
ứng trong việc ứng phó với BĐKH ở ĐBSCL được thể hiện rõ trong Nghị quyết
số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 về phát triển bền vững của ĐBSCL
trong bối cảnh BĐKH.
2.1.3. Các nguồn phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã và đang phát thải một lượng lớn
KNK vào bầu khí quyển. Trong đó có các hoạt động chăn nuôi (tiêu hóa thức ăn
và quản lý phân bón), trồng lúa nước, xử lý phụ phẩm nông nghiệp. Xác định
chính xác các nguồn phát thải hoặc hấp thụ KNK từ các hoạt động sản xuất nông
nghiệp mới có thể đưa ra được các giải pháp hữu hiệu để quản lý phát thải KNK
trong lĩnh vực này.
Các KNK phát thải chính trong nông nghiệp bao gồm CO2, N2O và CH4.
Sự cân bằng CO2 giữa khí quyển và hệ sinh thái chủ yếu được duy trì thông qua
quá trình hấp thu trong quá trình quang hợp và thải ra trong quá trình hô hấp, phân
hủy, và đốt cháy các hợp chất hữu cơ. N2O thường được phát thải từ các hệ sinh
thái như một sản phẩm phụ của quá trình nitrat hóa và khử nitrat. Còn CH4 xuất
phát từ quá trình tạo khí methan ở điều kiện kỵ khí trong đất và lưu trữ phân bón,
thông qua quá trình tiêu hóa thức ăn và đốt cháy không hoàn toàn của các hợp
chất hữu cơ. Một số khí thải khác từ quá trình đốt cháy và đất cũng đáng chú ý, 41
bao gồm NOx, NH3, NMVOCs và CO, vì chúng đóng vai trò là tiền thân của các
khí nhà kính trong khí quyển. Quá trình hình thành KNK từ các tiền chất này được
coi là phát thải gián tiếp. Phát thải gián tiếp cũng liên quan đến quá trình lọc và
rửa trôi của các hợp chất nitơ, đặc biệt là NO3 có thể thất thoát từ đất, khi đó một
phần NO3 này sẽ chuyển thành N2O dưới quá trình khử nitơ.
2.1.3.1. Phát thải CH4 và N2O từ chăn nuôi
Phát thải CH4 trong chăn nuôi là loại khí sinh ra từ quá trình tiêu hóa thức
ăn và quản lý phân gia súc, bao gồm:
Một là, CH4 xuất phát từ quá trình lên men thức ăn trong hệ tiêu hóa của
động vật, đặc biệt là ở động vật ăn cỏ, trong đó các carbohydrate bị vi khuẩn phân
hủy thành các phân tử đơn giản được hấp thu vào máu. Khối lượng CH4 phát thải
phụ thuộc vào loại động vật, tuổi tác và trọng lượng, cũng như chất lượng và lượng
thức ăn tiêu thụ và mức độ tiêu hao năng lượng của động vật. Đặc biệt, động vật
nhai lại (như bò thịt, bò sữa, dê, cừu) góp phần quan trọng vào việc tạo ra CH4, vì
chúng có dạ dày gồm 4 túi, trong đó túi chứa cỏ có dung tích lớn (khoảng 200 lít),
tạo điều kiện cho quá trình lên men vi sinh vật. Các khí tạo thành tập trung ở phần
trên của túi chứa cỏ, với CO2 và CH4 chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Hai là, CH4 xuất phát từ quá trình phân hủy phân gia súc trong môi trường
thiếu ôxy. Các điều kiện này thường xuất hiện khi có sự chăn nuôi động vật trong
một khu vực có giới hạn không gian, nơi phân gia súc thường được tập trung thành
những đống lớn hoặc được xử lý trong hồ ao.
Tiêu hóa của các loài động vật nhai lại và lượng phân gia súc lớn gây phát
thải khí N2O, việc quản lý phân bón cũng ảnh hưởng đến việc chuyển đổi nitrat
(N) thành N2O, tùy thuộc vào lượng nitrat của phân cũng như biện pháp bảo quản
và xử lý. Nguồn phát thải N2O từ việc quản lý phân gia súc xuất hiện trong khoảng
thời gian lưu trữ phân và nước tiểu của gia súc, một số thành phần đạm chuyển
hóa thành N2O. Phát thải N2O liên quan đến quá trình xử lý phân trước khi phân
được bón vào đất.
42
2.1.3.2. Phát thải CH4 từ trồng lúa nước
Canh tác lúa nước có nguồn phát thải KNK lớn, đặc biệt đóng góp phần
lớn sự gia tăng của khí CH4 trong khí quyển. Quá trình phân hủy các chất hữu cơ
trong ruộng lúa ngập nước tạo ra khí CH4. Trong đất trồng lúa, CH4 là sản phẩm
cuối cùng của quá trình phân hủy vật chất hữu cơ bởi vi sinh vật trong điều kiện
yếm khí. Khí CH4 được phát thải vào khí quyển từ cánh đồng lúa thông qua ba
con đường: 1) khuyếch tán trên bề mặt nước; 2) thoát ra từ các khe hở trên mặt
đất (phụ thuộc vào kết cấu đất và giai đoạn trồng lúa), phát thải sẽ ít hơn đối với
đất sét và tăng thêm trong giai đoạn chuẩn bị đất và tang trưởng ban đầu của cây
lúa; 3) khuếch tán thông qua hệ thống mô khí (Aerenchyma) của cây lúa trong quá
trình sinh trưởng và phát triển - đây là con đường phát thải chính, góp phần lớn
vào tổng lượng khí CH4 phát thải từ canh tác lúa nước.
Phát thải CH4 từ đất lúa phụ thuộc vào các yếu tố như tính chất hóa, lý,
sinh học của đất, cách thức canh tác (như làm đất, bón phân, tưới nước, gieo trồng)
và thời tiết mùa trồng. Việc xác định mức độ phát thải CH4 trên cánh đồng lúa
nước trong các điều kiện canh tác, mùa vụ và với các loại đất khác nhau rất quan
trọng để cung cấp cơ sở khoa học cho việc đánh giá chính xác lượng phát thải
KNK, từ đó có biện pháp canh tác hiệu quả để đảm bảo an toàn lương thực đồng
thời giảm lượng phát thải KNK.
2.1.3.3. Phát thải N2O từ đất canh tác nông nghiệp
Phát thải khí N2O từ đất nông nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động
của các vi sinh vật trong quá trình nitrat hóa và khử nitrat trong đất. Cụ thể, khí
N2O là sản phẩm trung gian trong chuỗi phản ứng của hai quá trình này và có thể
rò rỉ từ các tế bào vi khuẩn vào đất. Nhiệt độ, pH và độ ẩm đất là những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến quá trình này. Đất nông nghiệp có ba dạng phát thải
N2O chính được xác định: 1) phát thải trực tiếp từ đất nông nghiệp; 2) phát thải
trực tiếp từ đất có nguồn gốc từ chất thải vật nuôi (phát thải hàng ngày từ chuồng
trại và phân tán chất thải vật nuôi trong khu vực chăn thả); 3) phát thải gián tiếp
43
do các hoạt động nông nghiệp gây ra.
Phát thải khí N2O trực tiếp từ đất nông nghiệp xuất phát từ một số nguồn
khác nhau: phân bón tổng hợp và nitơ từ chất thải động vật được sử dụng làm
phân bón; việc cố định đạm sinh học và sự phân hủy nitơ từ phụ phẩm cây trồng,
trồng trọt trong đất có hàm lượng hữu cơ cao. Khi phân tổng hợp và phân hữu cơ
được bón vào đất, có thể tạo ra sự gia tăng gián tiếp lượng khí N2O thông qua hai
cơ chế sau: bay hơi và lắng đọng trong khí quyển của NH2 và NOx, những chất
này thường có nguồn gốc từ ứng dụng phân bón; lọc nitơ và dòng chảy. Lạm dụng
việc sử dụng phân hóa học có thể dẫn đến tỷ lệ phân thất thoát cao, gây ô nhiễm
đất và dẫn đến phát thải khí N2O. Ngoài ra, cả đất trực tiếp và gián tiếp đều có
khả năng phát thải N2O khi bị cung cấp phân hữu cơ hoặc phân hóa học chứa
nitrat (N), bởi vì chúng kích thích các quá trình vi sinh vật liên quan đến nitrat
hóa và khử nitrat trong đất, tạo ra khí N2O.
2.1.3.4. Phát thải CH4, N2O, CO2 từ hoạt động đốt đồng cỏ và đốt các phụ
phẩm nông nghiệp
Một lượng đáng kể các phụ phẩm cây trồng được tạo ra từ các hệ thống
canh tác trên toàn cầu trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc đốt sinh khối trong quá
trình sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả việc đốt đồng cỏ và các phụ phẩm nông
nghiệp, đã tạo ra một lượng đáng kể khí thải CO2. Tuy nhiên, vì sinh khối đốt
thường được tái phát triển trong các mùa vụ sau, điều này đồng nghĩa với việc
lượng CO2 được thải vào khí quyển sẽ được hấp thụ lại trong giai đoạn tăng trưởng
của thực vật. Do đó, lượng khí thải ròng CO2 được coi như không đáng kể. Tuy
nhiên, các hoạt động đốt cháy trong nông nghiệp vẫn tạo ra các khí CH4 và N2O
là sản phẩm phụ của quá trình đốt cháy không hoàn toàn.
2.1.4. Các yếu tố tác động đến phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực
nông nghiệp
2.1.4.1. Các yếu tố tác động đến phát thải CH4 từ tiêu hóa thức ăn và quản
lý phân gia súc
Có hai khía cạnh cần lưu ý:
44
- Số lượng vật nuôi tỷ lệ thuận với lượng phát thải CH4.
- Hệ số phát thải bao gồm hai phần: hệ số phát thải liên quan đến tiêu hóa
thức ăn và hệ số phát thải liên quan đến quản lý phân gia súc. Hệ số phát thải CH4
phụ thuộc bởi nhiều yếu tố như loại động vật, tuổi, trọng lượng của động vật, chất
lượng và số lượng thức ăn, mức độ tiêu hao năng lượng của động vật, cách con
người lưu trữ và xử lý phân gia súc trước khi sử dụng làm phân bón. Khi phân gia
súc được lưu trữ và xử lý dưới dạng lỏng (trong ao, hố, bể chứa), lượng khí metan
tạo ra là đáng kể hơn so với trường hợp lưu trữ và xử lý dưới dạng rắn (loại bỏ
lượng nước tối đa).
2.1.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát thải N2O từ quản lý phân gia súc
- Lượng phát thải N2O tăng tỷ lệ với số lượng vật nuôi.
- Sự bài tiết nitơ của vật nuôi phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại vật
nuôi.
- Tỷ lệ bài tiết nitơ được quản lý thay đổi tùy theo hệ thống quản lý chất
thải vật nuôi.
- Tỷ lệ nitơ bị bay hơi, rửa trôi và thẩm thấu phụ thuộc vào yếu tố khí hậu,
thời tiết, loại hình chăn nuôi và phương pháp lưu trữ phân gia súc.
- Hệ số phát thải N2O gồm: hệ số phát thải N2O trực tiếp, hệ số phát thải
N2O từ nitơ bị bay hơi; hệ số phát thải N2O từ nitơ bị rửa trôi và thẩm thấu. Các
hệ số phát thải N2O trực tiếp và gián tiếp biến đổi theo loại hình chăn nuôi và
phương pháp xử lý phân gia súc của hệ thống quản lý, cùng với yếu tố khí hậu và
thời tiết tại từng vùng.
2.1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát thải CH4 từ trồng lúa
- Trong sản xuất lúa có 3 yếu tố chính làm phát thải CH4. Đó là: bón quá
nhiều phân đạm, đốt rơm rạ và vùi rơm rạ vào trong đất. Như vậy, muốn làm giảm
phát thải CH4 trong sản xuất lúa thì phải hạn chế tối đa 3 yếu tố này.
- Diện tích đồng ruộng càng lớn, thì tiềm năng phát thải CH4 càng nhiều.
45
- Thời gian canh tác lúa càng dài, thì lượng phát thải CH4 càng lớn.
- Hệ số phát thải phụ thuộc vào chế độ tưới nước, tính chất và lượng chất
hữu cơ trong đất, điều kiện khí hậu, loại cây lúa,… Hệ số phát thải càng cao, thì
tiềm năng phát thải CH4 càng lớn, và ngược lại.
2.1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát thải N2O từ đất canh tác nông
nghiệp
- Lượng nitơ vào đất phụ thuộc vào việc sử dụng phân bón nitơ tổng hợp,
phân chuồng, phân hữu cơ, bùn thải, phụ phẩm cây trồng và hệ số phát thải N2O.
- Mất nitơ trên đất hữu cơ phụ thuộc bởi diện tích đất hữu cơ và hệ số phát
thải N2O từ quá trình rửa trôi nitơ trên đất hữu cơ được quản lý.
- Lượng nước tiểu và phân gia súc trên đất chăn thả phụ thuộc vào số lượng
nước tiểu, phân gia súc được thải ra do gia súc được chăn thả trên đồng cỏ, thảo
nguyên và hệ số phát thải N2O từ nước tiểu, phân gia súc đọng trên mặt đất chăn
thả.
- Tỷ lệ nitơ bị bay hơi, rửa trôi và thẩm thấu phụ thuộc vào điều kiện khí
hậu, thời tiết và cách thức bón phân vào đất.
- Hệ số phát thải N2O bao gồm: hệ số phát thải N2O trực tiếp từ đất, hệ số
phát thải N2O từ nitơ bị bay hơi; hệ số phát thải N2O từ nitơ bị rửa trôi và thẩm
thấu. Các hệ số phát thải N2O trực tiếp và gián tiếp phụ thuộc vào đặc điểm loại
phân (tổng hợp, hữu cơ, bùn thải,…), phương pháp bón phân vào đất, và điều kiện
khí hậu, thời tiết của từng khu vực.
2.1.4.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát thải CO2 từ đốt cháy sinh khối
- Khối lượng sinh khối từ phế phẩm nông nghiệp là rơm, rạ, vỏ trấu, thân
các loại cây nông nghiệp; từ phụ phẩm sản sinh trong quá trình xử lý các sản phẩm
nông nghiệp như bã mía, chất thải trong ngành chế biến thực phẩm bị đốt cháy tỷ
lệ thuận với phát thải khí CO2.
- Hệ số cháy phụ thuộc vào loại phế phẩm và phụ phẩm.
- Hệ số phát thải phụ thuộc vào đặc điểm từng loại phế phẩm và phụ phẩm
46
bị đốt cháy.
2.1.4.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát thải CO2 do thay đổi trữ lượng
carbon (C) trong bể chứa hệ sinh thái
- Lượng vật chất khô trên mỗi đơn vị diện tích trong các bể chứa C bao
gồm: trữ lượng sinh khối trên bề mặt đất; tốc độ tăng trưởng của sinh khối; lượng
gỗ và củi bị khai thác; lượng sinh khối chuyển vào; lượng gỗ chết và rác bị phân
hủy và đốt cháy; trữ lượng gỗ chết và rác còn tồn tại.
Trữ lượng sinh khối, gỗ chết/rác phụ thuộc vào đặc điểm từng loại đất sử
dụng. Đất lâm nghiệp và đất đồng cỏ là hai loại đất có trữ lượng sinh khối, gỗ
chết/rác lớn nhất so với các loại đất khác.
- Diện tích đất bao gồm: diện tích một loại đất cụ thể, diện tích đất chuyển
đổi mục đích sử dụng, diện tích đất bị cháy, diện tích đất hữu cơ bị rửa trôi. Diện
tích đất tỷ lệ thuận với lượng C tăng thêm hoặc lượng C giảm đi, gắn liền với yếu
tố trữ lượng sinh khối, gỗ chết/rác ở trên.
- Hàm lượng C trong vật chất khô tỷ lệ thuận với tiềm năng phát thải khí
CO2.
2.2. Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực
nông nghiệp
Mục tiêu chung của QLNN đối với phát thải KNK đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt ngày 21-11-2012 trong “Đề án quản lý phát thải khí gây
hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường
thế giới" là nhằm thực hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí
hậu (UNFCCC) và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; đồng thời, tận
dụng các cơ hội để phát triển nền kinh tế carbon thấp, thúc đẩy tăng trưởng xanh,
và cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. [23].
2.2.1. Khái niệm “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính”
2.2.1.1. Khái niệm “Quản lý nhà nước”
Nghiên cứu khái niệm “Quản lý nhà nước” (QLNN), trước hết cần làm rõ
47
khái niệm “Quản lý”.
a- Khái niệm “Quản lý”:
Theo Giáo trình kỹ năng lãnh đạo, quản lý của Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh: “Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý bằng việc xác lập mối quan hệ hài hòa, nhịp nhàng và cân đối giữa
các yếu tố khác nhau tham gia vào công việc chung đang tiến hành, làm cho chúng
vận hành một cách nhanh chóng, hiệu quả trong một chỉnh thể để đạt được các
mục tiêu đặt ra” [45].
Điều đó có nghĩa là, quản lý chính là sự tác động của chủ thể quản lý
(những người nắm quyền lực và sử dụng quyền lực) lên đối tượng quản lý (những
người thực hiện quyết định quản lý) thông qua việc áp dụng các công cụ quản lý
để đạt được mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, tác động theo cách nào còn tùy thuộc
vào các khoa học khác nhau, các lĩnh vực khác nhau, cũng như cách tiếp cận và
mục đích của người nghiên cứu. Dựa trên cách lập luận này, quản lý là tổ chức,
chỉ đạo các hoạt động của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu của người quản lý.
Thông qua cách tiếp cận này, quản lý đã chỉ rõ cách thức quản lý và mục tiêu mà
nó đề ra.
b. Khái niệm “Quản lý nhà nước”:
Giáo trình Những vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước đưa ra
khái niệm: “QLNN là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà
nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước có tính chất cưỡng
chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng, duy trì
ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng thống
nhất của Nhà nước” [44].
Khái niệm trên cho thấy, hoạt động QLNN là hoạt động mang tính quyền
lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
QLNN là chức năng của Nhà nước trong quản lý xã hội. QLNN gồm toàn bộ hoạt
động của bộ máy nhà nước: hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, hoạt động
tư pháp. Tuy nhiên, trong luận án này, học viên chỉ tập trung nghiên cứu hoạt 48
động lập pháp và hoạt động hành pháp. Nghĩa là, QLNN trong hoạt động xây
dựng và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến việc chỉ đạo quản lý hoạt
động của đối tượng bị quản lý và các yếu tố tác động đến đối tượng quản lý.
Qua nghiên cứu khái niệm “quản lý nhà nước” nêu trên, có thể rút ra đặc
điểm của QLNN như sau:
- QLNN mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh
đơn phương từ Nhà nước. QLNN được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền
uy” và “sự phục tùng”.
- QLNN mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức là thiết lập những mối
quan hệ giữa con người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội.
Điều chỉnh là Nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản
lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt sự cân bằng trong xã
hội.
- QLNN mang tính khoa học, tính kế hoạch. Tức là các hoạt động quản lý
phải mang tính nhất quán và có kế hoạch, theo một trình tự nhất định, cụ thể, được
vạch từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
- QLNN là những tác động mang tính liên tục, ổn định. Có nghĩa là, các
hoạt động QLNN phải diễn ra thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn; các
quyết định của Nhà nước phải mang tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh.
Như vậy, liên quan đến quản lý nhà nước là hiệu quả quản lý hành chính
nhà nước. Theo cuốn Thuật ngữ hành chính do Viện nghiên cứu khoa học hành
chính - Học viện hành chính biên soạn: “Hiệu quả quản lý hành chính nhà nước
là kết quả thực hiện một chủ trương, chính sách được xác định qua việc so sánh
các kết quả đạt được với toàn bộ các nguồn lực đã sử dụng. Hiệu quả thể hiện ở
kết quả đạt được là tối đa, chi phí thì tối thiểu”. [43]
2.2.1.2. Khái niệm “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính”
Từ các khái niệm “Khí nhà kính” và “Quản lý nhà nước” đã được đề cập
ở trên, NCS đề xuất khái niệm: “QLNN đối với phát thải KNK là Nhà nước sử
dụng các biện pháp và công cụ pháp luật, chính sách, kế hoạch để ngăn chặn 49
hoặc giảm thiểu phát thải KNK và hạn chế những tổn thất do phát thải KNK gây
ra, nhằm phát triển nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh, góp phần thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước”.
Như vậy, QLNN đối với phát thải KNK một cách cụ thể là quá trình phòng
ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế
và xử lý các nguồn/ tiền chất gây ra phát thải KNK với mục đích chính là phát
triển nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh, góp phần thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững.
Ở Việt Nam, chủ thể QLNN đối với phát thải KNK là các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được giao chức năng, nhiệm vụ quản lý đối với phát thải
KNK. Đối tượng QLNN đối với phát thải KNK là các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân gây ra phát thải KNK trong hoạt động sản xuất của mình. Ngày 18/1/2022,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg quy định danh
mục các lĩnh vực và cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK. Quyết
định này quy định cụ thể các đối tượng phải thực hiện kiểm kê KNK và thực hiện
việc giảm nhẹ phát thải KNK theo Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 và Nghị
định số 06/2022/NĐ-CP ngày 7/1/2022 của Chính phủ. Theo đó, có 6 lĩnh vực
phải thực hiện kiểm kê KNK, bao gồm: năng lượng; giao thông vận tải; xây dựng;
quá trình công nghiệp; nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất; chất thải. Văn
bản cũng quy định các Bộ quản lý 6 lĩnh vực nêu trên về phát thải KNK, bao gồm:
Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ NN&PTNT, Bộ
TN&MT. Những Bộ này có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và thực hiện việc
giảm nhẹ phát thải KNK; thực hiện kiểm kê KNK; thực hiện đo đạc, báo cáo và
thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK; phân bổ hạn ngạch phát thải KNK cho các
lĩnh vực trong phạm vi quản lý theo quy định tại các Điều 5, 7, 8, 10, 11, 12, 13
và 15 của Nghị định 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ.
2.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với phát thải KNK trong lĩnh
50
vực nông nghiệp
QLNN đối với phát thải KNK nhằm quản lý, giám sát phát thải khí tại các
nguồn thải và bể hấp thụ khí nhằm giảm thiểu phát thải KNK, góp phần thực hiện
phát triển nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh ghi trong Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh [22]. Đồng thời, cùng cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực
giảm phát thải KNK, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của đất
nước và thực hiện các cam kết trong Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến
đổi Khí hậu (UNFCCC) và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam tham gia.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang nỗ lực tìm mô hình và phương
thức phát triển mới, ít phát thải KNK và có tính bền vững cao. Trong quá trình
phát triển kinh tế nước ta, ngành nông nghiệp phát thải ra nhiều KNK tác động có
hại đến môi trường sống của người dân. Do đó, Nhà nước phải có chiến lược quản
lý phát thải KNK và với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải ban hành
và tổ chức thực thi hiệu quả những quy định pháp luật, những cơ chế, chính sách
đủ mạnh để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Nỗ lực giảm phát thải KNK trong nông nghiệp có vai trò, trách nhiệm của
Nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp và người nông dân,…Tuy nhiên, chúng ta
có thể nhận thấy rằng, vai trò và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với phát
thải KNK và xử lý chất thải, xét về bản chất, khác với các chủ thể khác. Nhà nước
tạo hành lang pháp lý, các quy định chuẩn mực và tạo điều kiện cần thiết để doanh
nghiệp, nông dân và các cá nhân liên quan hoạt động phát triển kinh tế gắn giảm
phát thải KNK với hoạt động bảo vệ môi trường,.
Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực, thực hiện kiểm tra, giám sát
việc bảo vệ môi trường và giảm phát thải KNK. Mọi hành vi vi phạm sẽ bị xử lý
theo pháp luật.
Nhà nước còn có vai trò, trách nhiệm thống nhất ý chí, quan điểm, định
hướng, tổ chức, điều hòa, phối hợp và hướng dẫn các hoạt động cũng như tạo
động lực cho nông dân, doanh nghiệp, các tổ chức và các cá nhân có liên quan
51
trong việc bảo vệ môi trường và giảm phát thải KNK một cách có hiệu quả.
2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp
Nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với
BĐKH, cũng như thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị Liên hiệp quốc về
BĐKH 26 (COP26) về việc giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050; thực hiện
vai trò, chức năng QLNN trong việc nỗ lực giảm phát thải KNK thì nội dung quản
lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp phải phù hợp với chiến lược quốc gia,
bối cảnh trong nước và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam tham gia và
cam kết thực hiện.
2.2.3.1. Xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải khí nhà kính
trong lĩnh vực nông nghiệp
Xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải KNK là nội dung đầu
tiên đảm bảo hiệu quả QLNN đối với phát thải KNK. Xác định chiến lược cắt
giảm phát thải KNK đúng đắn là yếu tố then chốt quyết định thành công giảm
phát thải KNK.
Trên cơ sở các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, căn
cứ vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của đất nước, Nhà nước xây dựng chiến lược
cắt giảm phát thải KNK vì sự phát triển bền vững. Từ chiến lược đã được vạch ra,
Nhà nước ban hành kế hoạch khung giảm phát thải KNK trên tất cả các lĩnh vực,
phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng ngành. Chiến lược đúng đắn, phù hợp
có ý nghĩa quan trọng mở đường, định hướng cho các hoạt động QLNN theo đúng
mục tiêu đề ra và đạt kết quả mong muốn trong lộ trình cắt giảm phát thải KNK.
Vấn đề QLNN đối với phát thải KNK đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Tuy vậy, Việt Nam vẫn chưa có chiến lược cắt giảm phát thải KNK độc lập,
tách biệt mà được lồng ghép trong các chiến lược tổng thể khác, như: Chiến lược
quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Hai chiến lược
này hình thành bộ khung và đã được cụ thể hóa trong các Kế hoạch hành động
quốc gia về BĐKH và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh. Trên
cơ sở đó, các bộ, ngành và địa phương tự xây dựng kế hoạch hành động cắt giảm 52
phát thải KNK cho ngành và địa phương mình. Ngoài ra, các Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam, Chiến lược quốc gia
về bảo vệ môi trường,…cũng là cơ sở để xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm
phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc không ban hành một chiến lược
cắt giảm phát thải KNK riêng cũng là hợp lý. Bởi vì, KNK là một trong các nguyên
nhân chủ yếu gây BĐKH, nên Chiến lược quốc gia về BĐKH cũng bao hàm trong
nó chiến lược cắt giảm phát thải KNK; KNK là sản phẩm thải ra của các quá trình
sản xuất vì vậy giảm phát thải KNK cũng là nội dung trong các chiến lược khác.
Trên cơ sở các chiến lược, kế hoạch đã được Nhà nước ban hành, Bộ
NN&PTNT xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp. Trong đó, xác định các mục tiêu cơ bản, các định hướng, nhiệm vụ
và giải pháp đột phá, cùng kế hoạch chi tiết và lộ trình cắt giảm rõ ràng để quản
lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp hiệu quả.
Chiến lược cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được xây
dựng cần phải có các nội dung sau:
- Định hướng:
+ Đặt sản xuất nông nghiệp bền vững, ít phát thải KNK lên làm vấn đề ưu
tiên.
+ Xây dựng cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng địa bàn.
+ Thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, giảm cường độ phát thải
KNK trên GDP.
- Mục tiêu:
+ Thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, hướng đến giảm phát
thải KNK một cách hiệu quả, đảm bảo sự phát triển bền vững, với mục tiêu cứ
sau 10 năm giảm phát thải KNK 20% [19].
+ Đến năm 2030, mục tiêu là đảm bảo tổng lượng phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp giảm 43,0%, không vượt quá 64 triệu tấn CO2 tương đương;
đến năm 2050, tiếp tục tổng lượng phát thải KNK lĩnh vực nông nghiệp giảm
53
63,1%, không vượt quá 56 triệu tấn CO2 tương đương. [26]
- Nhiệm vụ:
+ Điều chỉnh quy hoạch, thực hiện chuyển dịch cơ cấu vật nuôi và cây
trồng, cùng với việc tối ưu hóa mùa vụ trong trồng trọt và chăn nuôi.
+ Áp dụng các quy trình và công nghệ sử dụng tiết kiệm, hiệu quả trong
thức ăn, giống, tài nguyên đất và nước, cũng như vật tư nông nghiệp.
+ Áp dụng rộng rãi các công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế thải
trong quá trình sản xuất nông nghiệp để chế biến thức ăn cho chăn nuôi, phân bón
hữu cơ, nguyên liệu công nghiệp, và cả biogas,... nhằm mục tiêu giảm phát thải
KNK.
- Giải pháp cơ bản:
+ Thay đổi phương thức canh tác nông nghiệp nhằm giảm tối đa phát thải
KNK.
+ Tối ưu hóa việc sử dụng nước, phân bón và thức ăn chăn nuôi để giảm
thiểu phát thải KNK.
+ Tăng cường quản lý và xử lý chất thải, phụ phẩm và phế thải trong quá
trình sản xuất nông nghiệp.
+ Hạn chế tối đa việc sử dụng phân bón hóa học và các hóa chất bảo vệ
thực vật.
Dựa trên chiến lược cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp,
Bộ NN&PTNTđã ban hành: Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh của ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn, Kế hoạch thực hiện thỏa thuận Paris về
BĐKH của Bộ NN&PTNT nhằm cụ thể hóa kế hoach cắt giảm phát thải KNK
quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp.
2.2.3.2. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm
phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Hiện nay, lượng phát thải KNK tăng cao chưa từng thấy, kích hoạt sự nóng
lên toàn cầu gây BĐKH nặng nề và Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh
hưởng lớn nhất của BĐKH. Việc cắt giảm phát thải KNK trở thành vấn đề cấp 54
bách trên phạm vi toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Công tác xây dựng, thực
thi hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm phát thải KNK là nội dung quan
trọng nhất đảm bảo hiệu quả QLNN đối với phát thải KNK.
Nông nghiệp không chỉ là ngành chịu tác động của BĐKH mà còn là
ngành phát thải KNK lớn, để QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp một cách có hiệu quả, từ hệ thống chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải
KNK nêu trên, Nhà nước xây dựng các chính sách nhằm thực hiện các chiến lược
đó; Quốc hội xây dựng và ban hành các luật, theo đó, Nhà nước ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động sản xuất nông nghiệp nhằm
thực hiện các mục tiêu cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp mà
chiến lược đã đề ra.
a) Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách quản lý giảm phát thải khí
nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Nhà nước nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách quản lý giảm phát
thải KNK nói chung, phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng khoa
học và hợp lý, bám sát chiến lược quốc gia về vấn đề này, đảm bảo chính sách đi
vào cuộc sống và được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho từng giai
đoạn, tránh dàn trải. Bộ NN&PTNT từng bước ban hành các chính sách quản lý
giảm phát thải KNK trong các lĩnh vực nông nghiệp nhằm thúc đẩy phát triển
nông nghiệp bền vững.
Chính sách quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp liên
quan chặt chẽ với chính sách thích ứng và ứng phó với BĐKH, chính sách phát
triển bền vững, chính sách tăng trưởng xanh, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
vào nông nghiệp...Tất cả đều nhằm tạo động lực cho việc áp dụng các mô hình
nông nghiệp bền vững, hạn chế tối đa phát thải KNK, thích ứng với BĐKH.
Nhà nước dùng chính sách quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp làm một trong các công cụ quan trọng để đưa chiến lược, kế hoạch
cắt giảm phát thải KNK đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực và đạt được mục
tiêu chiến lược đề ra là phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, ứng phó với biến 55
đổi khí hậu. Vì vậy, nếu chính sách đúng đắn và được thực thi một cách nghiêm
túc thì đạt được kết quả, hiệu quả cao, và ngược lại, sẽ gây ra những thiệt hại khác
cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Các chính sách quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
được xây dựng nhất thiết phải gắn với các nội dung sau:
- Quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp phải gắn với
giảm nhẹ phát thải KNK và thích ứng với BĐKH.
+ Tiến đến mục tiêu ngăn ngừa, giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH các yêu
cầu ngày càng nghiêm ngặt hơn về sản xuất nông nghiệp ít phát thải KNK.
+ Thực hiện rà soát, cập nhật và điều chỉnh mức đóng góp trong việc giảm
phát thải KNK và thích ứng với BĐKH phù hợp với tình hình và dự báo phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia. Điều này đảm bảo rằng, mục tiêu thực hiện Đóng
góp quốc gia tự quyết định (NDC) được thực hiện phù hợp với các mục tiêu của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược quốc gia về BĐKH.
- Quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với tăng
trưởng xanh.
+ Tăng trưởng GDP, song phải đặt mục tiêu giảm cường độ phát thải KNK
lên hàng đầu.
+ Áp dụng mô hình ít phát thải KNK, ưu tiên chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng xanh hóa.
- Quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với phát
triển bền vững.
- Hỗ trợ và ưu tiên áp dụng các giải pháp giảm phát thải KNK; đầu tư vào
nông nghiệp sạch, ít phát thải KNK. Huy động và đa dạng hóa nguồn tài chính
trong triển khai các giải pháp giảm phát thải KNK trong nông nghiệp bao gồm:
+ Nhà nước và các địa phương hỗ trợ quy hoạch vùng sản xuất, đào tạo
nông dân, nghiên cứu cơ sở khoa học để phát triển các quy trình kỹ thuật, các
công nghệ liên quan đến các hoạt động giảm phát thải KNK và thông tin, tuyên
56
truyền để nhân rộng các giải pháp.
+ Các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế hỗ trợ tài chính để xây
dựng mô hình thực hiện sản xuất nông nghiệp ít phát thải KNK, đào tạo cán bộ
kỹ thuật, thực hiện nghiên cứu khoa học.
+ Các đơn vị sản xuất có mức phát thải KNK cao chia sẻ một phần kinh
phí để hỗ trợ thực hiện các hoạt động giảm phát thải KNK.
- Chính sách tài chính và đầu tư giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp.
+ Phân bổ nguồn lực ngân sách nhà nước để thực hiện các cam kết về giảm
phát thải KNK.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư
cho sản xuất nông nghiệp xanh, ít thải KNK.
+ Huy động nguồn lực quốc tế để đầu tư thực hiện các biện pháp giảm
phát thải KNK).
- Kiểm kê KNK và kinh doanh tín chỉ carbon nhằm quản lý giảm phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Các chính sách QLNN đối với phát thải KNK phải vì mục tiêu vừa giảm
được phát thải KNK vừa vì lợi ích của dân, hướng vào dân, nhất là doanh nghiệp,
vì các đối tượng này gây ra lượng phát thải KNK lớn.
b) Xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải khí nhà
kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Quốc hội xây dựng và ban hành luật quản lý giảm phát thải KNK, trên cơ
sở đó, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản hướng
dẫn thi hành phù hợp với các cam kết và điều ước quốc tế về cắt giảm phát thải
KNK mà Viêt Nam tham gia. Một hệ thống luật và văn bản dưới luật liên quan
tới giảm phát thải KNK được ban hành hình thành hệ thống khung pháp lý để
QLNN về các hoạt động phát thải KNK.
Hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông
57
nghiệp là công cụ quản lý cơ bản và có tính chất bắt buộc của Nhà nước. Mục
đích chung là điều chỉnh, định hướng các hành vi, hoạt động của những đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu giảm phát thải KNK mà Nhà nước đặt ra.
Xây dựng được hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải KNK trong nông
nghiệp một cách đồng bộ, nhất quán, đồng thời bảo đảm thực thi nghiêm túc pháp
luật đó sẽ góp phần tạo ra môi trường pháp lý cho các hoạt động sản xuất nông
nghiệp đi đúng hướng chiến lược phát triển bền vững của Viêt Nam.
Để quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, cần phải có
hệ thống pháp luật rộng, bao gồm: Luật về bảo vệ môi trường; Luật chăn nuôi;
Luật trồng trọt; Luật Bảo vệ và phát triển rừng; Luật đất đai;... và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thi hành.
Nội dung hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp, gồm:
- Quy định về giảm nhẹ phát thải KNK.
- Xác định bộ máy QLNN đối với phát thải KNK; xác định chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn các Bộ, ngành liên quan và địa phương trong
bộ máy.
- Xác định thị trường carbon là công cụ để thúc đẩy giảm phát thải KNK.
- Quy định đối tượng thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK. Ban hành Danh
mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK.
- Xác định mục tiêu, lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải, tăng
cường hấp thụ KNK.
- Quy định về hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải
KNK.
- Quy định về hoạt động kiểm kê KNK cấp quốc gia, cấp lĩnh vực và cấp
cơ sở; yêu cầu đối với các đơn vị thẩm định kiểm kê KNK.
- Phân bổ hạn ngạch phát thải KNK.
- Quy định về kế hoạch và kết quả giảm nhẹ phát thải KNK.
- Quy định trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động giảm nhẹ phát thải
58
KNK.
- Quy định về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về giảm nhẹ phát thải
KNK.
- Quy định về điều kiện cơ sở chăn nuôi, giảm phát thải KNK.
- Quy định canh tác thích ứng với BĐKH, giảm phát thải KNK.
2.2.3.3. Thực hiện kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm phát thải
khí nhà kính
Kiểm KNK được thải ra trong lĩnh vực nông nghiệp là quá trình tính toán
tổng lượng KNK được sản xuất trong một năm cụ thể, dựa trên dữ liệu về các
nguồn phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đã được thu thập và thống kê,
kèm theo các hệ số phát thải tương ứng.
Kiểm kê KNK là nội dung đảm bảo về mặt điều kiện kỹ thuật cho công tác
QLNN đối với phát thải KNK đạt hiệu quả. Kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp giúp định lượng cụ thể các nguồn gây phát thải KNK trong lĩnh vực này.
Kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp cung cấp số liệu thống kê và
đánh giá mức độ phát thải KNK của lĩnh vực này để theo dõi, kiểm soát và xây
dựng các kế hoạch, giải pháp quản lý giảm phát thải KNK phù hợp. Nếu không
có quy trình kiểm kê KNK, các nhà quản lý không thể biết chính xác lượng khí
thải phải giảm thiểu để đạt được các mục tiêu giảm phát thải KNK.
Công tác kiểm kê KNK phải đảm bảo chính xác, khách quan, đầy đủ và
nhất quán, vì vậy, Nhà nước quy định về kiểm kê KNK. Đồng thời, để đáp ứng
yêu cầu chính xác, đúng quy trình và phương pháp kiểm kê KNK, cũng như đảm
bảo minh bạch hóa các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK, kiểm soát chất lượng
kiểm kê KNK, Hệ thống kiểm kê quốc gia KNK và Hệ thống đo đạc, báo cáo và
thẩm định (MRV) giảm nhẹ phát thải KNK quốc gia phải được thiết lập. Đây là
hai yếu tố kỹ thuật phục vụ công tác kiểm kê KNK. Hệ thống kiểm kê quốc gia
KNK và Hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định giảm phát thải KNK đủ năng lực
là điều kiện cần để đảm bảo công tác quản lý giảm phát thải KNK hiệu quả; quản
59
lý các hoạt động giảm phát thải KNK; giám sát các nguồn phát thải, quá trình hấp
thụ KNK, và đánh giá hiệu quả của các biện pháp giảm phát thải; đo đạc, báo cáo,
và thẩm định các hoạt động liên quan đến giảm phát thải KNK.
Quy trình kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp có 9 bước:
Bước 1: Xác định phương pháp kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phương pháp kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện
theo Hướng dẫn kiểm kê quốc gia KNK phiên bản năm 2006 (gọi tắt là hướng dẫn
IPCC 2006) và Hướng dẫn kiểm kê quốc gia KNK năm 2019 hoàn thiện cho IPCC
2006 (gọi tắt là hướng dẫn IPCC 2019).
Bước 2: Lựa chọn hệ số phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hệ số phát thải được sử dụng để kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
được áp dụng theo danh mục hệ số phát thải do Bộ TN&MT công bố.
Bước 3: Thu thập số liệu hoạt động kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp.
Thu thập số liệu hoạt động kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được
thực hiện theo hướng dẫn IPCC 2006, IPCC 2019. Nguồn số liệu hoạt động được
thu thập từ Tổng cục thống kê, các cơ quan có liên quan ở cả trung ương và địa
phương.
Bước 4: Tính toán phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Việc tính toán phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện
theo các phương pháp kiểm kê KNK được quy định tại bước 1.
Bước 5: Kiểm soát chất lượng kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Quy trình kiểm soát chất lượng kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
được thực hiện theo hướng dẫn của IPCC 2006 và hướng dẫn của IPCC 2019. Các
hoạt động trong quy trình bao gồm: 1) Kiểm tra các số liệu thật đầy đủ và chính
xác (số liệu hoạt động, hệ số phát thải, hệ số chuyển đổi; số liệu nhập, tài liệu
tham khảo; tổng hợp số liệu; …). 2) Xác định và điều chỉnh các lỗi và thiếu sót.
3) Kiểm tra đầy đủ tài liệu kiểm kê và các văn bản lưu trữ.
60
Bước 6: Đảm bảo chất lượng kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Quy trình đảm bảo chất lượng kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp
được thực hiện theo hướng dẫn của IPCC 2006 và IPCC 2019. Các hoạt động
trong quy trình này được thực hiện bởi các cơ quan không tham gia vào quá trình
kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bước 7: Đánh giá độ không chắc chắn của kiểm kê KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp.
Việc đánh giá độ không chắc chắn của kết quả kiểm kê KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp được căn cứ theo hướng dẫn của IPCC 2006 và IPCC 2019. Các
căn cứ đó là: 1) Xác định độ không chắc chắn của số liệu hoạt động, hệ số phát
thải, kết quả tính toán trong quá trình kiểm kê. 2) Xây dựng bảng tổng hợp độ
không chắc chắn của kiểm kê.
Bước 8: Tính toán lại kết quả kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Việc tính toán lại kết quả kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được
thực hiện trong các trường hợp sau: 1) Phát hiện ra sai sót trong kết quả tính toán
lượng phát thải KNK. 2) Có thay đổi về các phương pháp định lượng KNK, số
liệu hoạt động và hệ số phát thải.
Bước 9: Xây dựng báo cáo kết quả kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp.
Báo cáo kết quả kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được xây dựng
theo Mẫu số 04, Phụ lục II Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát
thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn.
2.2.3.4. Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm
kê và giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Dựa trên chủ trương, chính sách, kế hoạch và luật pháp liên quan đến giảm
phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, các cơ quan QLNN đối với phát thải
KNK trong nông nghiệp giám sát, kiểm tra và thực hiện thanh tra việc tuân thủ
các quy định về kiểm kê và giảm thiểu phát thải KNK nhằm phát hiện ra các sai
sót, lệch lạc về kiểm kê và giảm phát thải KNK trong các hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Đây là nội dung quan trọng không thể thiếu trong công tác QLNN đối với 61
phát thải KNK. Nhờ những hoạt động này, Nhà nước có thể đánh giá tình hình
phát thải KNK, mức độ giảm phát thải KNK, và ý thức tuân thủ các quy định về
kiểm kê KNK của các cơ sở thuộc danh sách bắt buộc kiểm kê KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp. Điều này cung cấp căn cứ cho việc đưa ra các biện pháp cụ thể,
giải pháp hướng đến mục tiêu cắt giảm phát thải KNK đã được đề ra.
Công tác giám sát, kiểm tra và thanh tra việc tuân thủ các quy định liên
quan đến kiểm kê và giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm
các bước sau:
- Lập danh sách các cơ sở sản xuất gây phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp phải thực hiện kiểm kê KNK theo Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày
18/1/2022.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí để đánh giá, giám sát, kiểm tra và thanh tra
phù hợp với tình hình thực tế của ngành nông nghiệp, cũng như tăng cường công
tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hành động để ứng phó với BĐKH trong lĩnh
vực nông nghiệp.
- Xây dựng chi tiết phương án theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra việc
tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải KNK của các cơ sở đó
(phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian), nếu phát hiện sai phạm thì phải kịp thời
xử lý theo quy định của pháp luật về phát thải KNK.
- Tiến hành giám sát, kiểm tra việc kiểm kê và thực hiện kế hoạch giảm
nhẹ phát thải KNK của các cơ sở phát thải KNK phải kiểm kê trong lĩnh vực nông
nghiệp xem đã thực hiện đúng quy định chưa.
- Tổng hợp kết quả giám sát, kiểm tra, thanh tra và đưa ra kết luận. Công
tác giám sát, kiểm tra, thanh tra phải bám sát địa bàn, trở thành công cụ sắc bén,
thực sự có hiệu quả trong việc đảm bảo tuân thủ, giải quyết, xử lý các vấn đề bức
xúc, vi phạm pháp luật đối với phát thải KNK.
Nội dung giám sát:
- Quy mô thực hiện gồm: diện tích trồng trọt áp dụng các biện pháp giảm
phát thải KNK; khối lượng phụ phẩm cây trồng; số đơn vị vật nuôi áp dụng các 62
công nghệ giảm phát thải KNK; số đơn vị vật nuôi áp dụng các công nghệ xử lý
chất thải chăn nuôi; tổng số kinh phí đầu tư cho các biện pháp giảm phát thải
KNK.
- Các chỉ số về hiệu quả: hiệu quả chi phí và hiệu quả tạo ra việc làm của
các biện pháp giảm nhẹ KNK gồm các chỉ số % tăng thu nhập, giá trị thu nhập
tăng thêm (triệu đồng/ha); hiệu quả chi phí (triệu đồng/tấn CO2tđ).
- Việc thực hiện quy định pháp luật về giảm phát thải KNK.
Nông nghiệp là lĩnh vực thải ra lượng KNK lớn, vì vậy phải thường xuyên
giám sát, kiểm tra, thanh tra chặt chẽ việc thải KNK của các cơ sở chăn nuôi và
trồng trọt. Hơn nữa, việc thực hiện kiểm tra và thanh tra đột xuất, cùng việc kiểm
tra và thanh tra theo loại hình cụ thể, vùng với cách thức cuốn chiếu cũng cần chú
ý để đảm bảo đánh giá được đầy đủ và toàn diện, nhằm phát hiện sớm và xử lý
kịp thời những vi phạm một cách nghiêm minh.
2.2.3.5. Xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối
với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Việt Nam đã ký Công ước khung về BĐKH (UNFCCC) ngày 11/6/1992,
ký Nghị định thư Kyoto ngày 03/12/1998, ký Thỏa thuận Paris về khí hậu tháng
04/2016. Do đó, Việt Nam có một số nghĩa vụ như sau: xây dựng Thông báo quốc
gia về BĐKH; thực hiện kiểm kê quốc gia các nguồn KNK do con người gây ra
và lượng KNK được hấp thụ bởi các bể hấp thụ; đánh giá tác động của BĐKH lên
các lĩnh vực kinh tế - xã hội và xác định các vùng, lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng bởi
BĐKH và nước biển dâng; xây dựng và triển khai các biện pháp thích ứng với
BĐKH; xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch giảm phát thải KNK
khi có sự hỗ trợ đầy đủ về nguồn vốn và chuyển giao công nghệ từ các nước phát
triển và tổ chức quốc tế; tiến hành các hoạt động nghiên cứu và quan trắc về những
vấn đề/yếu tố liên quan đến khí hậu và BĐKH; cập nhật và phổ biến các thông tin
để tăng cường nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và công chúng về
BĐKH và cơ chế phát triển sạch (CDM). Để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình,
dựa trên các chiến lược quản lý giảm phát thải KNK, Việt Nam phải xây dựng bộ 63
máy tổ chức đủ năng lực QLNN đối với phát thải KNK thống nhất từ Chính phủ
xuống tận các cơ sở gây phát thải KNK. Đây là nội dung cơ bản, then chốt, có ý
nghĩa quyết định trong công tác QLNN đối với phát thải KNK.
Bộ máy tổ chức QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp,
phải gồm:
- Chính phủ quyết định đối tượng (quy định cụ thể định mức KNK cơ sở
thải ra phải thực hiện kiểm kê; ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK
phải thực hiện kiểm kê KNK) phải QLNN đối với phát thải KNK, trong đó có lĩnh
vực nông nghiệp.
- Bộ TN&MT là bộ chủ trì QLNN đối với phát thải KNK (xây dựng danh
mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê, trong đó có lĩnh vực
nông nghiệp; ban hành hệ thống quốc gia kiểm kê KNK và hệ thống đo đạc, báo
cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK; xây dựng báo cáo kiểm kê KNK cấp
quốc gia; hướng dẫn, tổ chức thực hiện thẩm định kết quả kiểm kê KNK và kế
hoạch giảm nhẹ phát thải KNK đối với lĩnh vực, cơ sở phải thực hiện kiểm kê
KNK).
- Bộ NN&PTNT là bộ quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp (tổ chức thực hiện kiểm kê KNK và gửi kết quả kiểm kê KNK các cơ sở
phải thực hiện kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đến Bộ TN&MT; xây
dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp; hướng dẫn quy trình, quy định kỹ thuật về đo đạc, báo cáo, thẩm định
giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp; tổng hợp, báo cáo kết quả
thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đến Bộ TN&MT;
hướng dẫn việc lựa chọn, áp dụng biện pháp công nghệ và quản lý để giảm nhẹ
phát thải KNK phù hợp với quy mô và ngành, nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp).
- UBND cấp tỉnh là cơ quan quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp tại địa phương. Các Sở NN&PTNT tham mưu cho UBND tỉnh phối
hợp với Bộ NN&PTNT thực hiện kế hoạch quản lý giảm phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn tỉnh phù hợp với điều kiện của địa phương; phối 64
hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành của Bộ NN&PTNT hướng dẫn và kiểm
tra việc tuân thủ các quy định về đo đạc, báo cáo và thẩm định giảm phát thải
KNK đối với các cơ sở phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh; cung cấp kết quả thực hiện giảm phát thải KNK từ sản xuất nông nghiệp của
tỉnh.
- Các doanh nghiệp, cá nhân và cộng đồng tham gia áp dụng các biện
pháp giảm phát thải KNK trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp; tham gia các
khóa tập huấn, đào tạo nâng cao nhận thức, năng lực thực hiện các biện pháp giảm
phát thải KNK trong sản xuất nông nghiệp; cung cấp thông tin số liệu hoạt động,
các biện pháp giảm phát thải KNK liên quan đến sản xuất nông nghiệp; giám sát
và phản biện xã hội đối với các hoạt động giảm phát thải KNK.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý giảm phát thải KNK phải phân
cấp, phân công rõ ràng đối với từng cơ quan, từng bộ phận về chức năng, nhiệm
vụ thì mới tránh được chồng chéo; đồng thời, nâng cao ý thức, trách nhiệm của
từng đơn vị, đảm bảo mọi hoạt động của bộ máy được trôi chảy, thuận lợi và đạt
hiệu quả cao.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN đối với phát thải KNK,
cần xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lương, vững về chuyên môn, đủ sức đảm
đương nhiệm vụ yêu cầu trình độ cao, làm việc với các tổ chức quốc tế. Bởi vì,
Việt Nam đã tham gia Công ước khung về BĐKH (UNFCCC), nên 02 năm một
lần phải đệ trình báo cáo Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên Ban thư ký
UNFCCC. Các NDC cập nhật là cam kết của Việt Nam bằng nỗ lực cao nhất với
cộng đồng quốc tế trong ứng phó với BĐKH toàn cầu; được điều chỉnh theo các
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mới nhất của đất nước, đồng thời
cập nhật các yêu cầu quốc tế. Nguồn nhân lực làm công tác QLNN đối với phát
thải KNK vừa là mục tiêu, vừa là động lực, đồng thời là nhân tố quyết định sự
thành công của nỗ lực đẩy mạnh giảm phát thải KNK đạt mức phát thải ròng về
65
“0” (Net Zero) vào năm 2050. [46]
2.2.3.6. Hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính trong
nông nghiệp
BĐKH là một vấn đề mang tính toàn cầu, yêu cầu phải hợp tác hành động
của tất cả các quốc gia, do đó, quản lý giảm phát thải KNK cần có sự điều phối
và tương hỗ quốc tế. Hợp tác quốc tế trong nỗ lực quản lý giảm phát thải KNK là
việc các quốc gia trên khắp thế giới cùng nhau hợp tác nhằm kiểm soát lượng
KNK trong khí quyển ở mức có thể, từ đó ngăn chặn sự tác động nguy hiểm của
con người lên hệ thống khí hậu. Đây là nội dung cấp thiết và lâu dài trong công
tác QLNN đối với phát thải KNK.
Nội dung hợp tác quốc tế về quản lý giảm phát thải KNK, cụ thể là:
- Tích cực và sẵn sàng tham gia chia sẻ, đồng hành trong việc chịu trách
nhiệm và quyền lợi cùng cộng đồng quốc tế trong cuộc cuộc chiến giảm phát thải
KNK.
- Thúc đẩy đầu tư cả về tài lực và nhân lực cho hợp tác quốc tế liên quan
đến quản lý giảm phát thải KNK.
- Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế về quản lý giảm phát thải KNK,
cùng với việc xây dựng và liên tục cập nhật NDC.
- Xây dựng kế hoạch hợp tác chiến lược về quản lý giảm phát thải KNK
trong nước và trên quy mô toàn cầu.
- Hợp tác học tập kinh nghiệm; đào tạo nâng cao nhận thức, kiến thức,
năng lực cho các cán bộ làm công tác quản lý giảm phát thải KNK; trợ giúp kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tài chính trong trong việc quản lý giảm phát
thải KNK.
- Xây dựng và vận hành hệ thống đo lường, kiểm tra và xác nhận khung
tiêu chuẩn quốc tế đối với giảm phát thải KNK.
- Tích cực đóng góp ý kiến có trách nhiệm trong các diễn đàn quốc tế về
giảm phát thải KNK: rà soát lại các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; tổ
chức hoặc tham dự một cách đầy đủ các diễn đàn quốc tế liên quan đến BBĐKH,
66
giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Chia sẻ thông tin một cách tích cực, xử lý các vấn đề và nâng cao năng
lực đàm phán quốc tế về giảm phát thải KNK.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đưa
ra về lĩnh vực nông nghiệp.
- Tổ chức các hội thảo quốc tế, thăm quan học tập, chia sẻ thông tin, kinh
nghiệm và kiến thức về các hoạt động ứng phó với BĐKH, giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Các hình thức hợp tác gồm:
Một là, thực hiện các hoạt động quản lý giảm phát thải KNK thông qua
hợp tác song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời tham gia và
xây dựng mối quan hệ hợp tác trong bối cảnh hợp tác đa phương với các tổ chức
khu vực và quốc tế.
Hai là, tham gia các công ước, điều ước quốc tế, ký kết các thỏa thuận hợp
tác song phương và đa phương với các tổ chức phi chính phủ và các quốc gia trên
thế giới trong nỗ lực giảm phát thải KNK.
Ba là, huy động nguồn vốn thông qua các dự án viện trợ phát triển chính
thức cho các chương trình, dự án sử dụng vốn nước ngoài (hỗ trợ tài chính, chuyển
giao công nghệ và xây dựng năng lực đang có nhu cầu).
2.2.3.7. Xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị
trường tín chỉ carbon thế giới
Khí carbon là thành phần chủ yếu của các loại KNK thải ra. Vì thế, khi đề
cập đến việc mua - bán phát thải KNK, người ta chỉ nói đến mua - bán carbon.
Thị trường tín chỉ carbon là một trong những công cụ hữu hiệu cắt giảm phát thải
KNK đang được các nước trên thế giới đặc biệt quan tâm. Hoạt động của thị
trường tín chỉ carbon là trao đổi các hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon
thu được từ cơ chế trao đổi, cũng như bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế.
Được hình thành từ việc các tổ chức hoặc cơ chế tài chính thực hiện việc
trao đổi hạn ngạch tín chỉ carbon. Thị trường tín chỉ carbon hỗ trợ các quốc gia và
67
doanh nghiệp trong việc giảm lượng phát thải KNK của họ.
Các quốc gia trong nhóm phải cắt giảm phát thải KNK có thể chọn thị
trường tín chỉ carbon như một cơ chế linh hoạt để thực hiện cam kết của họ. Thị
trường tín chỉ carbon có thể coi là một trong những cách tiếp cận hướng tới giảm
tổng lượng phát thải KNK trên toàn cầu với mức chi phí thấp nhất. Thực tế, thị
trường tín chỉ carbon là một mô hình thị trường trao đổi hạn ngạch phát thải để
kiểm soát lượng phát thải KNK ở quy mô toàn cầu hoặc trong một khu vực địa lý
cụ thể. Giá trị của việc giảm phát thải KNK được xác định thông qua các công cụ
tài chính như thuế carbon, hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon.
Giới hạn tối đa cho phép về lượng phát thải KNK của các cơ sở sản xuất
là căn cứ quyết định việc mua - bán phát thải carbon. Mỗi quốc gia được phép xả
một lượng khí thải nhất định. Quốc gia nào có lượng khí thải xả ra dưới mức cho
phép sẽ có quyền bán hạn mức khí thải còn thừa của mình cho những quốc gia mà
lượng khí thải vượt quá giới hạn cho phép. Đối với các cơ sở sản xuất cũng vậy,
chỉ được phép xả ra một lượng khí thải nhất định, những cơ sở xả lượng khí thải
vượt mức cho phép thì phải mua quyền xả khí thải để duy trì hoạt động. Và những
cơ sở sản xuất xả khí thải thấp hơn mức tối đa cho phép, có thể bán hạn mức khí
thải còn thừa cho những cơ sở cần mua. Với quy định như vậy, buộc các cơ sở
sản xuất phải tìm cách giảm bớt lượng khí thải để đỡ tốn chi phí mua quyền được
xả khí. Và như vậy, cũng giúp những quốc gia, những cơ sở sản xuất ít xả càng
có động lực tham gia vào thị trường mua – bán tín chỉ carbon.
Nội dung xây dựng và hình thành thị trường tín chỉ carbon:
- Thể chế hóa các nguyên tắc, yêu cầu cụ thể cho việc chuyển quyền giảm
phát thải KNK nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường tín chỉ carbon.
- Xây dựng khung chính sách và pháp lý cho cơ chế quản lý, vận hành và
các quy định về giao dịch mua - bán tín chỉ carbon một cách chi tiết, hướng dẫn
cho các bên liên quan thực hiện một cách đầy đủ và minh bạch.
- Giám sát hoạt động giao dịch mua - bán tín chỉ carbon để đảm bảo tính
68
minh bạch và hiệu quả; xây dựng và vận hành thật tốt hệ thống đo đạc, báo cáo
và thẩm tra kết quả giảm phát thải KNK cho các đối tượng tham gia thị trường ở
cấp độ cao nhất.
- Đào tạo nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý vận hành thị trường
tín chỉ carbon từ Trung ương đến địa phương, các bên tham gia vào quá trình mua
- bán tín chỉ carbon trên thị trường như các doanh nghiệp, các đơn vị tư vấn, các
đơn vị thẩm định, hệ thống các ngân hàng, …
Việt Nam phải chịu nhiều ảnh hưởng của BĐKH, nên Việt Nam đã sớm
có các chính sách hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền vững [19], thích ứng
và giảm nhẹ BĐKH [20]. Việc tham gia vào thị trường tín chỉ carbon không chỉ
đồng nghĩa với việc, Việt Nam chung tay cùng cả thế giới trong nỗ lực giảm phát
thải KNK, mà còn mở ra cơ hội để tạo nguồn thu tài chính và thúc đẩy phát triển
bền vững. Vì vậy, việc phát triển thị trường tín chỉ carbon là con đường phù hợp
với định hướng phát triển của Việt Nam.
Tham gia thị trường tín chỉ carbon với tư cách là “nhà cung cấp” có thị
phần tương đối nhỏ, song Việt Nam lại có tiềm năng rất lớn. Đó chính là các lợi
thế của Việt Nam khi tham gia thị trường carbon toàn cầu: một là, nếu xét về
lượng phát thải KNK bình quân trên đầu người thì Việt Nam đang nằm trong số
các nước có mức phát thải thấp, còn có khoảng cách xa so với mức phát thải bình
quân trên đầu người của thế giới hiện nay; hai là, Việt Nam là nước có tốc độ gia
tăng phát thải KNK lớn nhất trên thế giới nên tổng lượng KNK có thể cắt giảm
trong thời gian tới là tương đối lớn; ba là, Việt Nam đang sử dụng chủ yếu năng
lượng hóa thạch với trình độ công nghệ tương đối lạc hậu nên khả năng cải tiến
công nghệ để giảm thiểu phát thải KNK cũng rất lớn, bên cạnh đó, Chính phủ
đang có chủ trương chuyển đổi cơ cấu kính tế theo hướng bền vững, chuyển từ
“nâu” sang “xanh”, chú trọng phát triển các ngành kinh tế ít carbon cũng là yếu
tố có lợi cho việc tham gia thị trường tín chỉ carbon; bốn là, Việt Nam có nhiều
hệ sinh thái nhiệt đới có khả năng hấp thụ carbon, đóng góp tích cực cho việc
69
giảm KNK. Với 4 lợi thế trên, nếu Việt Nam chú trọng tăng cường năng lực, tạo
điều kiện thuận lợi, có các chính sách ưu tiên phù hợp, lường trước những mặt
tiêu cực thì lợi ích thu được từ việc tham gia thị trường carbon toàn cầu là rất lớn.
Điều kiện để vận hành đầy đủ thị trường tín chỉ carbon và quản lý thị
trường đó một cách chặt chẽ ở Việt Nam:
- Phải có khung pháp lý rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, cần xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật quản lý giảm phát thải KNK phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia và thông lệ quốc tế.
- Xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon để minh bạch hoá những giao dịch
tín chỉ, có bên mua - bên bán; đồng thời, tạo môi trường để các doanh nghiệp có
thể cùng đồng hành với Nhà nước nỗ lực thực hiện các cam kết của Việt Nam với
thế giới về nỗ lực ứng phó với BĐKH và cắt giảm phát thải KNK. Sàn giao dịch
tín chỉ carbon là công cụ hỗ trợ quản lý các giao dịch tín chỉ của Việt Nam. Thông
qua sàn giao dịch tín chỉ carbon, các cơ quan QLNN có thể đánh giá thị trường
tín chỉ carbon của Việt Nam một cách đầy đủ, khách quan.
- Xây dựng và ban hành hệ thống kiểm kê KNK, hệ thống giám sát phát
thải KNK, cùng với hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) ở cấp quốc gia,
ngành, tiểu ngành và cơ sở sản xuất một cách minh bạch và chính xác theo các
tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời, xác định lộ trình giảm phát thải KNK cho từng
ngành và tiểu ngành tương ứng.
2.2.4. Các công cụ QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp
Công cụ QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp là các
biện pháp thực hiện công tác quản lý phát thải KNK của nhà nước. QLNN đối với
phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp thường sử dụng các công cụ chủ yếu
sau:
- Công cụ pháp lý quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Công cụ pháp lý quản lý giảm phát thải KNK, bao gồm: các điều ước quốc
tế về giảm phát thải KNK mà Việt Nam tham gia, các luật quốc gia điều chỉnh các
hoạt động giảm phát thải KNK, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi 70
hành, các kế hoạch và chính sách giảm phát thải KNK quốc gia, các ngành và các
địa phương.
Công cụ pháp lý là các phương tiện trực tiếp trong việc quản lý (còn được
gọi là công cụ mệnh lệnh và kiểm soát). Đây là những công cụ hữu hiệu, mang lại
kết quả nhanh chóng, và là một trong những công cụ không thể thiếu trong quá
trình quản lý giảm phát thải KNK, được áp dụng rộng rãi. Hai yếu tố quan trọng
của công cụ này là giám sát và cưỡng chế. Ưu điểm nổi bật của công cụ này là:
bình đẳng đối với tất cả các cơ sở sản xuất gây phát thải KNK; có khả năng quản
lý giảm phát thải KNK chặt chẽ thông qua các quy định mang tính cưỡng chế cao.
Tuy vậy, để bảo đảm hiệu quả quản lý, công cụ này đòi hỏi hệ thống pháp luật
quản lý giảm phát thải KNK đầy đủ và có hiệu lực thực tế.
- Công cụ kinh tế quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Công cụ kinh tế trong QLNN đối với quản lý giảm phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp là cách thức tác động gián tiếp lên các đối tượng bị quản lý
thông qua lợi ích kinh tế, nhằm khuyến khích và thúc đẩy sự tự lựa chọn của các
đối tượng này đối với phương án hoạt động giảm phát thải KNK hiệu quả nhất.
Trong QLNN đối với quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp,
công cụ kinh tế là một phương pháp linh hoạt, do đó nó ngày càng trở nên phổ
biến và được đánh giá cao.
Ưu điểm của công cụ này nằm ở chỗ, nó tác động trực tiếp vào lợi ích của
những đối tượng bị quản lý, khiến họ phải suy tính và đánh giá các phương án
hoạt động sản xuất để giảm phát thải KNK một cách hiệu quả nhằm đảm bảo lợi
ích cá nhân cũng như lợi ích chung của cả xã hội. Có thể nói, sử dụng công cụ này
mang lại nhiều lợi ích: vừa tiết kiệm được chi phí quản lý, vừa giáo dục được ý
71
thức giảm phát thải KNK vì sự phát triển bền vững.
Các công cụ kinh tế quản lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp gồm
các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của các cơ sở sản xuất gây phát thải
KNK.
- Công cụ hành chính được thực hiện bởi bộ máy nhà nước quản lý giảm
phát thải KNK trong nông nghiệp.
Công cụ hành chính QLNN đối với phát thải KNK là công cụ tác động
trực tiếp dựa trên mối quan hệ tổ chức của bộ máy quản lý, mà thực chất là mối
quan hệ giữa quyền uy và sự phục tùng. Công cụ hành chính QLNN đối với phát
thải KNK trong nông nghiệp của Nhà nước là cách thức tác động trực tiếp của chủ
thể quản lý đến các đối tượng sản xuất gây phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp, bao gồm: chủ thể là các cơ quan quản lý giảm phát thải KNK của Nhà
nước và đối tượng là các cơ sở sản xuất nông nghiệp gây phát thải KNK nằm
trong danh mục phải kiểm kê theo Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18-01-
2022 của Thủ tướng Chính phủ. Với công cụ này, nếu người hoạt động sản xuất
nông nghiệp không chấp hành nghiêm chỉnh, vi phạm các quy định về quản lý
giảm phát thải KNK thì sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Công cụ hành chính có vai trò to lớn trong việc xác lập kỷ cương trật tự
trong sản xuất nông nghiệp ít phát thải KNK. Sử dụng công cụ này phải gắn kết
chặt chẽ quyền hạn và trách nhiệm của các cấp quản lý, đồng thời phải cụ thể hoá
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước và từng cơ
sở sản xuất nông nghiệp gây phát thải KNK nằm trong danh mục phải kiểm kê.
- Công cụ tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức trong quản lý giảm
phát thải KNK là biện pháp tác động của Nhà nước đến nhận thức và tình cảm của
con người, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức và tính tự giác của họ trong quá trình
quản lý giảm phát thải KNK. Công cụ này bao gồm hoạt động tuyên truyền và
giáo dục.
- Các công cụ kỹ thuật quản lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp
thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát giảm phát thải KNK, định lượng cụ thể
các nguồn gây phát thải KNK trong lĩnh vực này. Các công cụ kỹ thuật quản lý 72
giảm phát thải KNK gồm: Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK và Hệ thống đo
đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) giảm nhẹ phát thải KNK.
2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp
Có nhiều yếu tố tác động đến QLNN đối với phát thải KNK trong nông
nghiệp cần xem xét, đánh giá để có thể nâng cao hiệu quả công tác quản lý.
Một là, quan điểm của Đảng về giảm nhẹ phát thải KNK.
Trong nhiều văn kiện của Đảng và các Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, Đảng ta đã thể hiện quyết tâm giảm nhẹ phát thải KNK.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với
BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường khẳng định: “Giảm
nhẹ phát thải KNK; bảo vệ, phát triển các hệ sinh thái tự nhiên, tăng cường khả
năng hấp thụ KNK. Điều tra, kiểm kê, xây dựng lộ trình, kế hoạch thực hiện giảm
nhẹ phát thải KNK phù hợp với từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Thúc đẩy các
hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với điều kiện nước ta trên cơ sở hỗ
trợ tài chính và công nghệ của các nước và tổ chức quốc tế. Phát triển thị trường
trao đổi tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị trường carbon toàn cầu. Ưu tiên
thực hiện chương trình giảm phát thải KNK thông qua nỗ lực chống mất rừng, suy
thoái rừng và tạo sinh kế cho cộng đồng.” [29].
Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng chỉ rõ phải sử dụng năng lượng tiết
kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải KNK [30]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2021-2030 một lần nữa khẳng định: Chủ động giám sát, ứng phó có
hiệu quả với BĐKH; phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải KNK,
carbon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng
hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất [31].
Hai là, hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp là yếu tố xác định tính hợp pháp, hợp lý của hoạt động
quản lý về vấn đề này. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quản lý phải xác lập
các căn cứ pháp lý, bảo đảm cho hoạt động QLNN đối với phát thải KNK đi vào 73
nề nếp và thực sự có hiệu quả. Các quy định về thẩm quyền, đối tượng, nội dung,
nguyên tắc, phương pháp QLNN đối với phát thải KNK phải bảo đảm tính đồng
bộ, toàn diện từ xây dựng chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp
dụng hướng dẫn nghiệp vụ, chương trình, kế hoạch cho đến tổ chức triển khai
thực hiện và kiểm soát việc thực hiện các công việc cụ thể đó trên thực tế.
Để thực hiện quá trình quản lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp,
các cơ quan QLNN phải ban hành các văn bản, quy định hướng dẫn đối với phát
thải KNK. Đây là căn cứ để tổ chức thực hiện QLNN đối với phát thải KNK. Thực
tiễn đã chứng minh, hệ thống khung khổ pháp luật bao gồm các luật, nghị định,
thông tư và các quyết định không phải bao giờ cũng bao quát được tất cả các vấn
đề phát sinh trong cuộc sống. Việc giải quyết các vấn đề, tùy thuộc vào từng tình
huống cụ thể để áp dụng luật và các văn bản có liên quan. Tuy vậy, cũng có những
tình huống nằm ngoài phạm vi điều chỉnh, hoặc chưa được quy định, hoặc quy
định chưa chặt chẽ, hoặc các quy định không còn phù hợp, vì vậy cần phải ban
hành bổ sung các văn bản hướng dẫn mới, hoặc ban hành các văn bản thay thế.
Do vậy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và quy định hướng dẫn thi hành
đối với giảm phát thải KNK là một trong những yếu tố quyết đinh chất lượng công
tác QLNN đối với phát thải KNK. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và quy
định hướng dẫn thi hành đầy đủ, chính xác, nghiêm minh, được ban hành kịp thời
sẽ có tác động tích cực và mang lại hiệu quả cho công tác quản lý và ngược lại.
Ba là, sự phân công công việc giữa các cơ quan trong bộ máy QLNN đối
với phát thải KNK.
Một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả công
tác quản lý giảm phát thải KNK là sự phân công công việc giữa các cơ quan trong
bộ máy QLNN đối với phát thải KNK. Các quyết định quản lý giảm phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện thông qua các cơ quan trong bộ
máy QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực này. Nếu các cơ quan đó được
xác định vị trí, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể, rõ ràng; được phân công
công việc hợp lý và khoa học thì sẽ tránh được sự chồng chéo, vướng mắc, đồng 74
thời dễ dàng phối hợp, điều chỉnh công việc trong thực hiện nhiệm vụ, tiết kiệm
thời gian, đảm bảo hoàn thành công việc đúng kế hoạch đặt ra; ngược lại, nếu
phân công bất hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả quản lý.
Ở cấp Trung ương, Bộ TN&MT (trực tiếp là Cục Biến đổi khí hậu) là cơ
quan đầu mối, chuyên trách thực hiện QLNN đối với phát thải KNK. Ngày
25/10/2022, Bộ TN&MT ban hành Quyết định số 2828/QĐ-BTNMT quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Cục Biến đổi khí hậu. Theo
đó, một trong các nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Biến đổi khí hậu là tham mưu,
giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về giảm nhẹ phát thải KNK. Cụ thể là: Tổ chức
giám sát và thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải, tăng cường hấp thụ KNK;
tổ chức thực hiện các hoạt động kiểm kê KNK theo quy định; xây dựng và tổ chức
triển khai hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) giảm nhẹ phát thải và tăng
cường hấp thụ KNK; tổ chức xây dựng, cập nhật danh mục lĩnh vực, cơ sở phát
thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK; tổ chức quản lý và phân bổ hạn ngạch
phát thải KNK theo quy định; xây dựng cơ chế và chính sách định giá carbon, tổ
chức vận hành thị trường tín chỉ carbon trong nước và kết nối với thị trường tín
chỉ carbon thế giới; xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế trao đổi và bù trừ tín
chỉ carbon, cấp chứng thư xác nhận các dự án theo các cơ chế trong khuôn khổ
Thỏa thuận Paris về BĐKH; tổ chức xác nhận hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ
carbon được giao dịch trên thị trường tín chỉ carbon; theo dõi, kiểm tra hoạt động
trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon theo quy định của pháp luật
và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Bộ NN&PTNT là bộ quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp,
có nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện kiểm kê KNK và gửi kết quả kiểm kê KNK các
cơ sở phải thực hiện kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đến Bộ TN&MT;
xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp; hướng dẫn quy trình, quy định kỹ thuật về đo đạc, báo cáo, thẩm
định giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp; tổng hợp, báo cáo kết
quả thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đến Bộ 75
TN&MT; hướng dẫn việc lựa chọn, áp dụng biện pháp công nghệ và quản lý để
giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với quy mô và ngành, nghề thuộc lĩnh vực nông
nghiệp.
Ở cấp địa phương, Sở TN&MT là cơ quan quản lý và thực hiện QLNN
đối với các cơ sở phát thải KNK tại địa phương.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở các cấp và các ngành trong quá
trình QLNN đối với phát thải KNK có vai trò quan trọng, quyết định hiệu quả của
quản lý và có ảnh hưởng trực tiếp đến các đối tượng tham gia hoạt động sản xuất.
Họ vừa là đối tượng quản lý và vừa là mục tiêu của công tác quản lý. Việc phối
hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý diễn ra liên tục trong quá trình quản lý,
bao gồm từ việc xây dựng chính sách, thể chế, cho đến tổ chức thực hiện cơ chế,
chính sách và pháp luật liên quan đến giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp. Vì vậy, để quản lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp một cách có
hiệu quả, năm 2012 Bộ NN&PTNT đã ban hành “Quy hoạch tổng thể phát triển
sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030” [3] và năm
2013 ban hành “Đề án giảm phát thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn đến
năm 2020” [4].
Bốn là, trình độ đội ngũ làm công tác QLNN đối với phát thải KNK.
Sự thành công và hiệu quả của QLNN phụ thuộc vào chất lượng nguồn
nhân lực. Đội ngũ cán bộ và công chức tham gia vào công tác quản lý giảm phát
thải KNK đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật về QLNN đối với giảm phát thải KNK vì năng lực, trình độ và kỹ năng
của họ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của các văn bản này. Để đảm bảo hiệu
quả, đội ngũ cán bộ và công chức thực hiện công tác QLNN về giảm phát thải
KNK cần có tư duy khoa học, khả năng nghiên cứu và kiến thức sâu về chính sách
và pháp luật liên quan đến quản lý giảm phát thải KNK. Đồng thời, họ cũng cần
tích lũy kinh nghiệm từ thực tiễn để áp dụng trong công việc của mình.
Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác QLNN đối với phát thải KNK cần
phải đủ về số lương, vững về chuyên môn, có như vậy mới đủ năng lực đảm đương 76
nhiệm vụ yêu cầu trình độ cao, làm việc với các tổ chức quốc tế trong điều kiện
Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế về BĐKH.
Năm là, yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý giảm phát thải KNK.
BĐKH diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu đã và đang tác động tiêu cực đến
mọi mặt đời sống xã hội và phát triển bền vững của hành tinh. Ứng phó với BĐKH
đã trở thành yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ ưu tiên của nhiều quốc gia, tổ chức
trên thế giới.
Theo Thỏa thuận Paris về BĐKH, từ năm 2021 trở đi, tất cả các quốc gia
phải có trách nhiệm pháp lý trong giảm phát thải KNK, thực hiện Báo cáo Đóng
góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
Tháng 12/2021, tại COP26, Việt Nam đã cùng gần 150 quốc gia cam kết
đưa mức phát thải ròng về “0” vào đến năm 2050.
Tình hình trên đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục chủ động hợp tác quốc tế
quản lý giảm phát thải KNK theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn. Tăng cường
các hoạt động giảm phát thải KNK phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam,
vận dụng sự hỗ trợ về cả tài chính và công nghệ từ cộng đồng quốc tế. Đẩy mạnh
quá trình xây dựng, triển khai và phát triển thị trường giao dịch tín chỉ carbon
trong nước, đồng thời tham gia vào thị trường tín chỉ carbon toàn cầu.
Sáu là, trang thiết bị, công nghệ và công nghệ thông tin phục vụ công tác
quản lý phát thải KNK.
Trang thiết bị, công nghệ và công nghệ thông tin là một trong những yếu
tố tác động đến công tác quản lý giảm phát thải KNK. Nếu có trang thiết bị và
công nghệ hiện đại đủ năng lực thực hiện kiểm kê KNK, chúng ta sẽ có công cụ
kiểm soát nguồn phát thải KNK một cách liên tục, chính xác, tổng hợp, mang tính
chủ động và hiệu quả cao. Từ đó có thể nắm bắt được hiện trạng, diễn biến và
mức độ giảm phát thải KNK. Trang thiết bị và công nghệ tác động mạnh đến hiệu
quả quản lý giảm phát thải KNK.
Cuộc chiến ứng phó với BĐKH đòi hỏi việc trao đổi thông tin diễn ra một
cách nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, công nghệ thông tin là phương 77
tiện chủ lực góp phần cập nhật tình hình thải và giảm phát thải KNK trên toàn thế
giới, thực hiện tốt công tác quản lý giảm phát thải KNK.
Bảy là, nhận thức về tác dụng giảm phát thải KNK của người dân.
Nhận thức về tác dụng giảm phát thải KNK, từ đó ủng hộ và tham gia việc
quản lý giảm phát thải KNK của người dân, của các cơ sở gây phát thải KNK -
đây là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả QLNN về vấn đề này.
Thực tiễn cho thấy, nhận thức về tác dụng giảm phát thải KNK của nông
dân càng tốt thì tự họ sẽ tìm cách thay đổi phương thức sản xuất trong nông nghiệp
để giảm phát thải KNK; đồng thời tích cực tham gia, ủng hộ các cơ quan nhà nước
trong việc quản lý giảm phát thải KNK, do đó hoạt động quản lý của bộ máy nhà
nước càng đạt được mục tiêu. Tham gia công tác quản lý phát thải KNK, người
dân và các cơ sở sản xuất gây phát thải KNK hiện thực hóa địa vị pháp lý cũng
như thể hiện nguyện vọng chính đáng mong muốn có một môi trường sống trong
sạch, hạn chế tối đa BĐKH; phát huy vai trò làm chủ của mình trong công tác
QLNN.
Cộng đồng dân cư cũng có thể gián tiếp thực hiện QLNN đối với phát thải
KNK thông qua việc tham gia vào hoạt động giám sát của các tổ chức xã hội (Mặt
trận, Tổ dân phố, Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên), các hoạt động tự quản ở cơ
sở với nguyên tắc: Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra, Dân giám sát và
Dân thụ hưởng.
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nước đối với phát thải khí
nhà kính và môi trường, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam
Để đạt được mục tiêu chung của Công ước khung của Liên hiệp quốc về
BĐKB về giảm nhẹ phát thải KNK toàn cầu, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm
của một số quốc gia trong quản lý giảm nhẹ phát thải KNK. Đồng thời, phát thải
KNK còn là một phần của phát thải khí vào môi trường nói chung, vì vậy, chúng
ta còn có thể nghiên cứu kinh nghiệm quản lý về môi trường của các nước để chắt
lọc, vận dụng cho việc quản lý giảm phát thải KNK. Từ đó, rút ra bài học quản lý
78
giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam.
2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế
2.3.1.1. Sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
Hiện nay, nhiều nước phát triển đã áp dụng công cụ kinh tế trong việc
quản lý môi trường. Trong khi đó, các nước đang phát triển, công cụ quản lý môi
trường chủ yếu lại dựa vào pháp lý “mệnh lệnh - kiểm soát”. Tuy nhiên, công cụ
này có hiệu quả chưa cao, chưa linh hoạt, hiệu lực thực thi kém, nên những năm
gần đây, bên cạnh việc sử dụng công cụ “mệnh lệnh - kiểm soát”, các nước đang
phát triển đã áp dụng thêm công cụ kinh tế trong quản lý môi trường.
- Kinh nghiệm của Hàn Quốc:
Áp dụng phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm chất thải khí và nước thải là
một biện pháp đã được Hàn Quốc thực hiện từ lâu.Tuy vậy, quy định này có một
số nhược điểm: một là, mức phí thấp vì vậy không có tác dụng khuyến khích giảm
ô nhiễm; hai là, còn kẽ hở trong quy định tính phí nên các đối tượng cố tình lẩn
tránh. Để khắc phục tình trạng này, Hàn Quốc đã áp dụng quy định tính phí chặt
chẽ hơn, đồng thời tăng mức phí thật cao để khuyến khích các cơ sở giảm thiểu ô
nhiễm. [68]
- Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Các hành vi vi phạm tiêu chuẩn môi trường ở Trung Quốc đều bị phạt.
Trung Quốc đã thiết lập một hệ thống phí phạt đối với vi phạm tiêu chuẩn môi
trường, với hơn 100 mức phạt khác nhau. Các mức phạt về ô nhiễm được xác
định dựa trên loại chất thải, khối lượng và nồng độ của các chất thải được xả ra
môi trường. Song, do mức phí phạt thấp, đủ răn đe những người có hành vi gây
ô nhiễm. Hiện nay, hệ thống phí này đã được nâng lên. Nguồn thu này được sử
dụng như sau: 20% được dành để duy trì hệ thống kiểm soát ô nhiễm môi trường,
trong khi 80% được đưa vào quỹ môi trường của địa phương để hỗ trợ việc cho
các doanh nghiệp vay vốn với mục tiêu bảo vệ môi trường. [68].
- Kinh nghiệm của Singapore:
Ở Singapore, áp dụng một loại phí môi trường đồng nhất cho tất cả cơ sở
sản xuất, với mức phí được xác định dựa trên khối lượng chất thải và nồng độ các 79
chất gây ô nhiễm. Khi lượng chất thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép, mức phí
cũng tăng lên tương ứng. Ví dụ, nồng độ chất rắn lơ lửng (TSS) và lượng ôxy hóa
sinh học (BOD) được phép thải ra là 400mg/lít, tuy nhiên, nếu nồng độ tăng từ
401 - 600mg/lít, sẽ phải trả một khoản phí cố định cho mỗi mét khối, nếu nồng độ
nằm trong khoảng từ 601 - 1600mg/lít, mức phí sẽ tăng theo một bước nhất định
cho mỗi 200mg/lít, nếu nồng độ từ 1601 - 1800mg/lít, mức phí sẽ tăng lên 6% cho
mỗi mét khối. [68].
- Kinh nghiệm của Malaixia:
Malaixia đã áp dụng hệ thống thu phí cấp giấy phép cho các cơ sở sản xuất
dầu cọ từ những năm 1970. Tuy nhiên, do mức phí thấp nên không có hiệu quả
trong việc khuyến khích các cơ sở giảm chất thải. Vì vậy, Chính phủ đã điều chỉnh
hệ thống này bằng cách chia phí cấp phép thành hai phần: phí hành chính và phí ô
nhiễm. Biện pháp này đã góp phần đáng kể vào việc giảm lượng chất thải gây ô
nhiễm từ các cơ sở sản xuất dầu cọ. Sau đó, để tăng cường hiệu quả, Chính phủ còn
áp dụng biện pháp tịch thu giấy phép cho các cơ sở vi phạm tiêu chuẩn môi trường.
Malaixia đã tổng hợp cả biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính, tạo áp lực để
các cơ sở sản xuất phải chú ý đến việc tuân thủ quy định bảo vệ môi trường. [68]
- Kinh nghiệm của Philipin:
Ở Philippines, hệ thống thu phí môi trường được áp dụng với mục tiêu chính
là gia tăng nguồn thu và mức phí được xác định dựa trên lượng chất thải và nồng
độ các chất gây ô nhiễm. Để bảo vệ môi trường, Chính phủ Philippines đã thực hiện
những điều chỉnh cơ bản về chính sách trong các công cụ kinh tế như: điều chỉnh
giá tài nguyên, tạo ra thị trường cho phế thải, điều chỉnh giá các yếu tố liên quan
đến môi trường. [68]
2.3.1.2. Sử dụng chế tài xử phạt vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
Nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ, hành vi của các cá nhân, tổ chức
trong các hoạt động có liên quan đến môi trường là chế tài xử phạt vi phạm pháp
luật.
80
- Kinh nghiệm của Hoa Kỳ:
Trong hệ thống cưỡng chế môi trường của Hoa Kỳ có ba cấp: Liên bang,
bang và chính quyền địa phương (hạt). Ở mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn rất rõ ràng. [60, tr.55]
Ở Hoa Kỳ, cơ quan quản lý môi trường cấp liên bang là Cục Bảo vệ Môi
trường Liên bang (EPA) - một tổ chức chính phủ chịu trách nhiệm tổng quát về
quản lý môi trường, đặc biệt là giải quyết các vụ việc lớn, nghiêm trọng xảy ra trên
diện rộng hơn một bang. EPA có ba văn phòng chức năng: Văn phòng Tuân thủ,
Văn phòng Cưỡng chế hình sự và Văn phòng Cưỡng chế dân sự.
Cấp bang có Cục Bảo vệ Môi trường tương tự như EPA, với trách nhiệm
giải quyết các vấn đề môi trường tại cấp bang. Các cơ quan này cũng có các phòng
chức năng như: Phòng Điều tra hình sự và Phòng Cưỡng chế.
Tại cấp hạt, có lực lượng thanh tra, cảnh sát môi trường, luật sư và công tố
viên, đảm nhận việc quản lý, giám sát và xử lý các vấn đề môi trường tại cấp địa
phương.
Ngoài Cục Bảo vệ Môi trường Liên bang, nhiều bộ, ngành khác tham gia
vào công tác quản lý và xử lý các vi phạm môi trường, như Bộ Tư pháp, Cảnh sát
bảo vệ bờ biển và Bộ Nội vụ. Các cơ quan này trong lĩnh vực phụ trách đều có lực
lượng thanh tra, cảnh sát và công tố viên để thực hiện điều tra và xử lý các hành vi
vi phạm môi trường.
Hệ thống xử phạt vi phạm môi trường ở Hoa Kỳ được thiết lập tùy thuộc
vào mức độ nghiêm trọng và phạm vi của vi phạm.. Xử phạt vi phạm môi trường
được chia thành ba hình thức:
Một là, xử lý hành chính. Cá nhân hoặc tổ chức vi phạm tiêu chuẩn môi
trường sẽ bị Cục Bảo vệ Môi trường Liên bang (EPA) thông báo và yêu cầu tuân
thủ các quy định về môi trường cùng với việc bồi thường thiệt hại gây ra. Hình
thức xử phạt này được xem là nhẹ nhất và áp dụng cho các trường hợp vi phạm
nhỏ, khi người vi phạm không cố ý mà do vô tình hoặc thiếu hiểu biết gây ra.
Hai là, xử lý dân sự. Trong trường hợp vi phạm trở nên nghiêm trọng hơn
hoặc khi các bên không tuân thủ quy trình xử lý hành chính như đã nêu, EPA sẽ 81
tiến hành điều tra bổ sung và đưa ra vụ kiện tại tòa án, đồng thời áp dụng hình
thức xử phạt này. Quyết định xử lý dân sự sẽ được Tòa án thực hiện. Người vi
phạm, ngoài việc bị áp dụng phạt tiền hoặc tù, còn phải đền bù thiệt hại do hành
vi vi phạm gây ra.
Ba là, xử lý hình sự. Đối với các vụ án nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến
con người và môi trường, vi phạm cố ý, lặp đi lặp lại thì EPA sẽ phối hợp với Bộ
Tư pháp và các cơ quan có liên quan tiến hành điều tra, lập hồ sơ vụ việc và đưa
ra Tòa án để xử lý hình sự. Có 3 hình phạt là bồi thường thiệt hại, phạt tiền và
phạt tù. Lực lượng cảnh sát, thanh tra và công tố viên đóng vai trò quan trọng
trong quá trình điều tra các vụ vi phạm môi trường. Các chuyên viên kỹ thuật
thuộc các phòng chuyên môn phối hợp cùng với ba lực lượng này tìm ra các bằng
chứng vi phạm môi trường và đưa ra các biện pháp xử lý đúng người, đúng tội
theo 3 hình thức xét xử là hành chính, dân sự hoặc hình sự.
- Kinh nghiệm của Malaixia:
Các vi phạm trong lĩnh vực môi trường tại Malaixia chủ yếu được quy
định trong các luật chuyên biệt về bảo vệ môi trường, và mức độ phạt đối với
những vi phạm này là rất nghiêm ngặt. Theo Điều 22 của Luật Chất lượng môi
trường năm 2001, nếu vi phạm liên quan đến việc xả thải vượt quá mức cho phép,
người vi phạm có thể bị phạt tù lên đến 5 năm và còn phải chịu thêm mức phạt
tiền. Đồng thời, Điều 23 của luật này quy định rằng, người nào gây ra tiếng ồn
vượt quá mức cho phép có thể bị phạt tiền lên đến 100.000 ringgit, hoặc bị phạt
tù 5 năm, hoặc cả hai hình phạt trên có thể được áp dụng. [60, tr.56].
- Kinh nghiệm của Singapore:
Tại Singapore, các vi phạm trong lĩnh vực môi trường được quy định trong
các luật chuyên biệt về bảo vệ môi trường và mức hình phạt đối với những hành
vi vi phạm pháp luật môi trường rất nghiêm ngặt, không chỉ bao gồm phạt tiền mà
còn có khả năng bị phạt tù. Ví dụ, những hành vi như vứt rác, khạc nhổ trong nơi
công cộng, việc để bụi bẩn nguy hại cho cộng đồng trong quá trình xây dựng, hay
việc xả chất thải từ phương tiện cơ giới trong nơi công cộng có thể bị áp dụng 82
mức phạt tiền lên đến 50.000 đôla Singapore, hoặc bị phạt tù không vượt quá 1
năm, hoặc cả hai hình thức phạt trên có thể được áp dụng (Điều 21 của Luật Y tế
môi trường được sửa đổi, bổ sung vào năm 2008).[60, tr.57]
- Kinh nghiệm của Inđônêxia:
Ở Inđônêxia, hình phạt cho các tội phạm môi trường nặng hơn đáng kể so
với các hình phạt ở Malaixia và Singapore, bao gồm cả mức tiền phạt và thời gian
tù. Ví dụ, người nào vi phạm bằng cách thả bất kỳ chất gì vào giếng, hệ thống
bơm, suối hoặc các nơi chứa nước công cộng và biết rõ hành vi đó sẽ gây hại cho
sức khỏe và tính mạng của người khác có thể bị phạt tù 15 năm; nếu hành vi vi
phạm dẫn đến tử vong, người phạm tội có thể bị phạt tù 20 năm hoặc thậm chí tử
hình (theo Điều 202 Luật Hình sự Inđônêxia) [60, tr.58].
Tóm lại, các hình thức xử phạt cho các tội phạm môi trường mà các nước
trên đã áp dụng đều rất nghiêm khắc và nặng, mang tính răn đe mạnh mẽ, buộc
các tổ chức và cá nhân phải tuân thủ thay vì phải chịu những hình phạt nặng nề.
2.3.1.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về môi trường
- Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Cơ quan bảo vệ môi trường ở Trung Quốc là cơ quan ngang bộ, và được
tổ chức thành hai khối chính: khối Vụ bao gồm các vụ chức năng và khối Viện
bao gồm 15 đơn vị trực thuộc. Mô hình tổ chức này thể hiện chức năng rõ ràng:
một khối là quản lý nhà nước về môi trường và một khối kỹ thuật. Cấu trúc tổ
chức như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao nhiệm vụ và thực hiện các
chức năng một cách hiệu quả, tránh sự chồng chéo giữa các bộ phận. Tuy nhiên,
hạn chế của mô hình quản lý này là thiếu đơn vị thanh tra độc lập để giám sát
các hoạt động bảo vệ môi trường. Điều này đôi khi có thể gây thiếu khách quan
trong quá trình đánh giá và kiểm tra. [27]
- Kinh nghiệm của Singapore:
Bộ Môi trường Singapore là cơ quan chịu trách nhiệm bảo vệ môi trường.
Tổ chức của Bộ Môi trường được gồm 4 vụ, trong mỗi vụ có các phòng và bộ
83
phận chức năng riêng biệt.
Chức năng và nhiệm vụ của Bộ Môi trường cùng các cơ quan thuộc Bộ
Môi trường được quy định một cách rõ ràng và chi tiết. Nhiệm vụ chung của Bộ
Môi trường là xây dựng và thực hiện các chương trình tổng thể về bảo vệ môi
trường, nâng cao chất lượng môi trường. Hệ thống quản lý môi trường tại
Singapore được thiết kế gọn nhẹ, các cơ quan được phân công nhiệm vụ một cách
rõ ràng. Nhờ đó, hoạt động quản lý môi trường tại Singapore đã đạt được hiệu lực
và hiệu quả cao. [27]
- Kinh nghiệm của Philípin:
Bộ Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên Philippines là cơ quan chịu trách
nhiệm bảo vệ môi trường. Mô hình tổ chức của Bộ này được thể hiện như sau:
cấp trung ương bao gồm 5 văn phòng và 5 vụ tham mưu chuyên ngành; cấp địa
phương bao gồm cấp khu vực, cấp tỉnh và cấp huyện.
Chức năng và nhiệm vụ của Bộ Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên
Philippines là cơ quan chính phủ đầu ngành, chịu trách nhiệm bảo tồn, quản lý,
phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Mô hình tổ chức này có ưu điểm là dễ dàng tích hợp các yếu tố môi trường vào
các kế hoạch hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, mô hình này
cũng có một số hạn chế, bởi vì cả việc bảo vệ môi trường và khai thác tài nguyên
thiên nhiên đều do cùng một cơ quan quản lý, dẫn đến khả năng “vừa đá bóng,
vừa thổi còi” và thiếu cơ quan thanh tra, giám sát để đảm bảo tính khách quan
trong việc thực hiện công việc của Bộ. [27]
2.3.1.4. Sử dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và
huy động cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường
Hiệu lực QLNN về môi trường chịu tác động rất lớn bởi công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về môi trường và bảo vệ môi trường trong
cộng đồng. Ba bộ phận cấu thành mô hình cộng đồng tham gia quản lý môi
trường là: nhà nước, thị trường và cộng đồng. Ba bộ phận này có tác động khác
nhau đến hiệu lực QLNN về môi trường, song chúng đều có chung một kết quả 84
là làm cho hiệu lực và hiệu quả QLNN về môi trường được thực thi tốt hơn. Mô
hình quản lý môi trường này chỉ vận hành có hiệu quả khi thông tin về môi
trường được chia sẻ thường xuyên cho ba bộ phận nói trên [60, tr.64]. Đó là:
Thứ nhất, trách nhiệm xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý, các
tiêu chuẩn môi trường nhằm điều tiết và quản lý bảo vệ môi trường thuộc các cơ
quan nhà nước. Vì vậy, các cơ quan này sẽ đưa ra các quyết định quản lý dựa
trên việc áp dụng các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả hệ thống các văn bản
pháp luật về bảo vệ môi trường khi cần thiết.
Thứ hai, tác động của thị trường tạo ra những ảnh hưởng tích cực nhằm
thay đổi hành vi của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh theo
hướng thân thiện với môi trường thiên nhiên.
Thứ ba, cùng tham gia quản lý môi trường, cộng đồng có vai trò tích cực
trong việc giám sát thực thi pháp luật môi trường của tổ chức, cá nhân.
- Kinh nghiệm của Nhật Bản:
Vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường được Nhật Bản coi
trọng. Mặc dù Nhật Bản đã đạt được tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc trong
những năm sau Thế chiến II, nhưng môi trường đã bị ô nhiễm nghiêm trọng do sự
phát triển công nghiệp. Trước thực trạng này, cộng đồng đã phản ứng mạnh mẽ.
Để khắc phục tình hình ô nhiễm và phản ứng từ cộng đồng, năm 1958, Nhật Bản
đã thông qua một đạo luật mới về bảo vệ môi trường. Kể từ đó, tình trạng ô nhiễm
môi trường do các doanh nghiệp gây ra ở các khu vực ảnh hưởng cộng đồng đã
giảm sút đáng kể. Với áp lực từ cộng đồng, các doanh nghiệp đã phải thay đổi
hành vi của mình để hướng đến sự thân thiện với môi trường. Chính quyền địa
phương được ủy quyền từ chính quyền Trung ương để áp dụng các tiêu chuẩn môi
trường nghiêm ngặt hơn so với tiêu chuẩn quốc gia. Như vậy, tại Nhật Bản, đã có
47 quận và thành phố đưa ra các tiêu chuẩn môi trường nghiêm ngặt hơn cả tiêu
chuẩn quốc gia, từ đó làm giảm đáng kể lượng phát thải ở những địa phương này.
[60, tr.65]
85
- Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Vào cuối những năm 1990, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống thông
tin công nghiệp tại các thành phố lớn để cung cấp thông tin về môi trường cho
cộng đồng. Hệ thống này được thiết kế gồm hai phần và đã hoạt động rất hiệu
quả. Phần thứ nhất tập trung vào việc cung cấp thông tin để quản lý cơ sở, phân
tích mức độ ô nhiễm tại các cơ sở, dự đoán các tình huống ô nhiễm có thể xảy ra
tại cơ sở và thực hiện đánh giá tổng thể về môi trường tại cơ sở. Phần thứ hai bao
gồm các chỉ số để đánh giá hành vi và thái độ của cơ sở về môi trường, bao gồm:
nhóm chỉ tiêu đánh giá tổng quát về cơ sở, nhóm chỉ tiêu liên quan đến hành vi
gây ô nhiễm, nhóm chỉ tiêu về tác động tích cực lên môi trường, nhóm chỉ tiêu về
quản lý môi trường, nhóm chỉ tiêu phân loại cơ sở và nhóm chỉ tiêu về sản xuất
sạch. [60,tr.66]
Hệ thống thông tin này vẫn được duy trì và áp dụng cho đến ngày nay, đã
tác động đáng kể trong thay đổi hành vi của các doanh nghiệp và giảm thiểu hiện
tượng ô nhiễm môi trường một cách hiệu quả. Các doanh nghiệp đã tăng cường
nhận thức và tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường một cách đáng kể.
- Kinh nghiệm của Inđônêxia:
Vào những năm 1980, Chính phủ Inđônêxia đã thực hiện các biện pháp
cưỡng chế đối với các doanh nghiệp nhằm yêu cầu tuân thủ bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, kết quả của các biện pháp này không như mong đợi do hạn chế về nguồn kinh
phí cho quản lý môi trường và sự gian lận gây trở ngại cho tòa án trong việc thực thi
pháp luật. Điều này đã gây bất bình trong dư luận. Đến đầu năm 1995, Chính phủ
Inđônêxia đã thử nghiệm một chương trình xếp hạng và công khai kết quả hoạt động
môi trường của các nhà máy và cơ sở sản xuất. Hệ thống này chia thành các mức độ
màu sắc để thể hiện mức độ tuân thủ bảo vệ môi trường của các nhà máy: màu đen
cho nhà máy không thực hiện biện pháp kiểm soát ô nhiễm, màu đỏ cho nhà máy
thực hiện một phần biện pháp giảm thiểu nhưng không tuân thủ pháp luật, màu xanh
da trời cho nhà máy tuân thủ tiêu chuẩn quốc gia và có quy trình quản lý chất thải,
màu xanh lá cây cho nhà máy tuân thủ quy định quốc gia vượt xa. Sau khi kiểm tra
và đánh giá 187 nhà máy, kết quả cho thấy 2/3 số nhà máy không tuân thủ quy định 86
bảo vệ môi trường, hầu hết các nhà máy khác chỉ đối phó tạm thời với vấn đề này và
chỉ một số ít nhà máy thực hiện tốt các quy định. Chính phủ đã tiến hành công khai
tuyên dương các nhà máy tuân thủ tốt và trao thưởng, còn những nhà máy không
tuân thủ được cho thời hạn 6 tháng để cải thiện. Việc công khai thông tin này đã thúc
đẩy sự cạnh tranh tích cực giữa các nhà máy và tạo ra ý thức bảo vệ môi trường gia
tăng. Tình hình đã thay đổi rõ rệt, đến cuối năm 1995, số lượng nhà máy tuân thủ
quy định bảo vệ môi trường đã tăng thêm 18%. [60, tr.67]. Như vậy, việc tuyên
truyền, công khai hóa các thông tin đã mang lại hiệu quả đáng kể, người dân có trách
nhiệm hơn với môi trường. Hiệu lực QLNN về môi trường tăng lên rõ rệt.
2.3.1.5. Kinh nghiệm hoàn thiện khung pháp lý về giảm phát thải KNK của
Hungary
Chống BĐKH và tạo cơ chế pháp lý cho vấn đề giảm phát thải KNK, luôn
được chính phủ Hungary hết sức coi trọng. Trong chiến lược phát triển quốc gia cũng
như trong quy định pháp luật của mình, Hungary thể hiện sự quyết tâm rõ ràng trong
việc bảo vệ môi trường và khí hậu. Chính phủ của Hungary chủ trương độc lập, tự
chủ, không trái ngược với các mục tiêu toàn cầu và lợi ích của cộng đồng quốc tế,
với tôn chỉ hướng đến lợi ích cả nhân loại. Chính phủ Hungary đã xây dựng chính
sách bảo vệ môi trường và khí hậu phù hợp với yêu cầu của Liên minh châu Âu (EU),
nhưng không bỏ qua các đặc điểm và lợi ích riêng của dân tộc.
Tháng 6 năm 2020, Quốc hội Hungary đã thông qua Luật về Bảo vệ Môi
trường và Chống Biến đổi khí hậu. Luật này đã đặt ra mục tiêu giảm 40% lượng khí
thải và hiệu ứng nhà kính so với năm 1990 tại cấp quốc gia, và cam kết đạt được mục
tiêu trung hoà khí hậu đến năm 2050. Là một trong những quốc gia tiên phong đưa
ra cơ chế pháp lý để thực hiện, Hungary tự hào về việc là người tiên phong trong lĩnh
vực này. Đặt mục tiêu trung hoà carbon nhưng các cơ chế hoạt động mà Luật Bảo vệ
môi trường và chống BĐKH năm 2020 đã đặt ra không đẩy chi phí tăng làm chậm
tiến trình phát triển của đất nước theo kế hoach đề ra. [72]
2.3.1.6. Kinh nghiệm thông qua sử dụng công cụ kỹ thuật sản xuất trong
87
nông nghiệp để quản lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp
Trong nông nghiêp, nông dân ngày càng sử dụng nhiều phương pháp canh
tác nông nghiệp bền vững để tăng năng suất đồng thời giảm phát thải KNK.
- Kinh nghiệm sử dụng công nghệ canh tác tiết kiệm tài nguyên nước, ít
thải KNK của Israel:
Là một quốc gia nhỏ bé, Israel có địa hình phức tạp và khí hậu khắc nghiệt.
Diện tích đất nước chủ yếu là hoang mạc và bán hoang mạc, chỉ khoảng 20% diện
tích là có thể trồng trọt, tuy vậy Israel lại được cả thế giới biết đến là đất nước rất
phát triển về nông nghiệp tiết kiệm năng lượng.
Với hơn một nửa diện tích đất nước là địa hình sa mạc và bán sa mạc,
nước được coi là tài nguyên quý giá và khan hiếm tại Israel và là nguồn tài nguyên
quốc gia quan trọng. Vì thế, việc sử dụng nguồn nước một cách hiệu quả trở thành
vấn đề cực kỳ quan trọng đối với nền nông nghiệp của đất nước này. Để tối ưu
hóa việc sử dụng nguồn nước, các nhà khoa học Israel đã tiến hành nghiên cứu và
phát triển hệ thống tưới tiêu hiện đại. Hệ thống này sử dụng các van tự động, hệ
thống lọc đa tầng, kỹ thuật vòi phun áp lực thấp và phun mưa nhỏ giọt để đảm
bảo sự tiết kiệm nguồn nước trong việc tưới cây trồng. Với các phương pháp này,
nông dân Israel tiết kiệm được 60% lượng nước, mà vẫn đạt hiệu quả sản xuất
trồng trọt cao.
Việc phát minh và phát triển các công nghệ để tối ưu hóa sử dụng nguồn
nước có hạn và giảm nguy cơ nhiễm mặn nặng là một thành tựu quan trọng mà
Israel đã đạt được. Nhờ những phát minh này, nước có thể được sử dụng hiệu quả
hơn trong nông nghiệp; đồng thời, giảm khả năng gây ra tình trạng ô nhiễm môi
trường do phát thải KNK. Điều này đã giúp tăng tối đa sản lượng cây trồng nông
nghiệp và đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ môi trường ở Israel. Israel thực
sự là một kỳ tích của ngành nông nghiệp công nghệ cao. Nhờ sự trợ giúp của công
nghệ, con người có thể vượt qua các yếu tố bất lợi của thiên nhiên [67].
- Kinh nghiệm của Brazil sử dụng phân bón hữu cơ giúp giảm chi phí và
88
giảm thiểu phát thải KNK:
Sản xuất nông nghiệp thương mại quy mô lớn với đặc thù là độc canh
khiến cho độ phì nhiêu của đất bị giảm đáng kể. Trước áp lực tăng năng suất cây
trồng, nông dân phải bón nhiều phân hóa học, từ đó làm tăng phát thải KNK.
Brazil đã áp dụng các phương pháp sản xuất nông nghiệp bền vững, sử dụng phân
hữu cơ xanh vào các hoạt động sản xuất tăng năng suất cây trồng và chống BĐKH.
Họ trồng nhiều loại cây họ đậu khác nhau, vì vi khuẩn trong rễ của đậu chuyển
hóa nitơ trong không khí thành dạng hữu cơ, thích hợp để các loại cây khác tiêu
thụ. Sau khi các loại đậu được thu hoạch và để lại phế thải trên đồng ruộng, các
loại cây trồng như lúa mì và ngũ cốc được trồng trên chính cánh đồng này và được
hưởng lợi từ nitơ hiện có trong đất, lúc này chỉ cần bổ sung thêm một lượng nhỏ
phân bón hóa học. Việc bón phân xanh cũng giúp nông dân tiết kiệm chi phí. Bằng
cách ứng dụng việc bón phân xanh, Brazil đang tiến gần hơn đến mục tiêu giảm
43% phát thải KNK vào năm 2030 so với mức năm 2005 [61].
- Kinh nghiệm sử dụng hệ thống canh tác tích hợp ít phát thải KNK và
tăng năng suất cây trồng:
Hệ thống trồng trọt - chăn nuôi tích hợp là một phương thức sản xuất nông
nghiệp bền vững được hỗ trợ bởi kỹ thuật hạt nhân trong khuôn khổ một dự án
nghiên cứu phối hợp của Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA) có sự
tham gia của Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Kenya, Uganda và Uruguay.
Phương pháp này dựa trên một quan niệm đơn giản là tối đa hóa năng suất cây
trồng bằng các chất dinh dưỡng tái chế có trong phân động vật và phế thải của cây
trồng. Điều này giúp giảm nhu cầu phân bón hóa học - một nguồn phát thải KNK.
Trong hệ thống trồng trọt - chăn nuôi tích hợp, vật nuôi có thể được nuôi
ngay tại đồng ruộng đang trồng trọt hoặc có thể được chăn thả trên đồng ruộng
sau vụ thu hoạch. Nông dân sau đó thu thập phân gia súc và sử dụng làm phân
bón, từ đó trả lại nhiều chất dinh dưỡng cho đất.
Nông dân Brazil đang áp dụng các phương pháp trồng trọt - chăn nuôi tích
hợp để sử dụng đất đai hiệu quả hơn. Kết quả là, phát thải KNK từ nước tiểu và
89
phân động vật đã giảm 89% [61].
- Kinh nghiệm của New Zealand thay đổi khẩu phần thức ăn giúp động
vật thải ít khí methan hơn:
Là nước phát triển, nhưng New Zealand lại phụ thuộc nhiều vào nông
nghiệp, đặc biệt là bò và cừu. Hơn 85% tổng lượng khí thải methane của New
Zealand đến từ hai nguồn nông nghiệp gồm dạ dày động vật và phân động vật,
chiếm tới 97%. Ở bò, hầu hết (95%) khí methane được thở ra, trong khi 5% được
thải ra do đầy hơi [36]. Vì vậy, trong khi những nước khác tập trung vào việc cắt
giảm carbon dioxide, thì New Zealand lại gặp vấn đề lớn hơn nhiều với các loại
khí sinh ra trong dạ dày động vật. Chính phủ New Zealand khuyến khích nông
dân giảm lượng khí thải thông qua các chất phụ gia trong thức ăn chăn nuôi. Bằng
việc thay đổi phần trăm chất tannin (một chất hóa học tìm thấy trong nhiều loại
cây cỏ), các nhà khoa học New Zealand đã tạo ra thực phẩm mới cho bò và cừu.
Với dự án thay đổi thức ăn động vật này, New Zealand mong muốn giữ cam kết
về việc giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định thư Kyoto về
khí hậu.
2.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam
Là một nước đang phát triển, pháp luật, chính sách, thể chế chưa hoàn
thiện... nên việc sử dụng các công cụ vào quản lý giảm phát thải KNK ở Việt Nam
phải được thực hiện từng bước, cẩn trọng, sao cho phù hợp, tránh nóng vội. Cần
kết hợp sử dụng các công cụ một cách hợp lý trong quản lý giảm phát thải KNK.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp, có thể rút ra những bài học cho Việt Nam như sau:
2.3.2.1. Sử dụng các công cụ kinh tế, góp phần nâng cao tính chấp hành,
phục tùng pháp luật đối với giảm phát thải KNK của các cơ sở sản xuất gây phát
thải KNK
- Áp dụng các quy định tính phí và thuế phát thải KNK chặt chẽ, đồng thời
áp mức phí và thuế đánh vào nguồn gây phát thải KNK thật cao để khuyến khích
các cơ sở sản xuất cố gắng áp dụng các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi sạch,
90
ít phát thải KNK.
Mức phí và thuế căn cứ vào khối lượng và nồng độ phát thải KNK ra môi
trường. Nếu khối lượng và nồng độ phát thải KNK vượt quá tiêu chuẩn cho phép
càng cao thì mức phí và thuế càng lớn.
- Thực hiện thu phí cấp giấy phép đối với các cơ sở sản xuất gây phát thải
KNK ảnh hưởng đến môi trường. Quy định phí cấp phép nên kết hợp biện pháp
kinh tế với biện pháp hành chính, gồm hai phần là: phí hành chính và phí phát thải
KNK. Theo đó, cơ sở sản xuất nào vi phạm quy định về mức phát thải KNK cho
phép thì sẽ bị tịch thu giấy phép.
Áp dụng các biện pháp cứng rắn này buộc các cơ sở sản xuất phải quan
tâm tới việc tuân thủ các quy định về giảm phát thải KNK, bảo vệ môi trường.
2.3.2.2. Sử dụng chế tài xử phạt nhằm nâng cao tính nghiêm minh của
pháp luật và răn đe, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật quản lý giảm phát
thải KNK
- Phải xây dựng hệ thống cưỡng chế đủ mạnh. Hệ thống này gồm các bộ
phận cấu thành có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Nếu các thành phần
trong hệ thống này không được phân cấp rõ ràng, chắc chắn sẽ gặp phải tình trạng
chồng chéo, đùn đẩy lẫn nhau, gây cản trở cho công việc và gây trì trệ trong quá
trình thực hiện.
Việc thực thi pháp luật và quản lý giảm phát thải KNK sẽ có hiệu quả tích
cực nếu việc áp dụng các biện pháp trừng phạt đủ mạnh, đảm bảo tính răn đe. Các
đối tượng vi phạm sẽ coi thường pháp luật nếu mức phạt quy định thấp. Kinh
nghiệm của các nước là cần phải tăng mức xử phạt, thậm chí mức phạt rất cao.
Không chỉ phạt tiền, mà còn bị phạt tù. Những kinh nghiệm này thực sự là bài học
quý giá cho Việt Nam trong quá trình xây dựng các mức phạt cho vi phạm pháp
luật quản lý giảm phát thải KNK, vì chỉ thông qua điều này mới đảm bảo sự răn
đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật.
- Cách mà Hoa Kỳ áp dụng ba hình thức xử phạt cho vi phạm pháp luật
bảo vệ môi trường, bao gồm xử lý hành chính, xử lý dân sự và xử lý hình sự, là
rất rõ ràng và cụ thể. Việt Nam có thể tham khảo, nghiên cứu các hình thức xử 91
phạt này.
2.3.2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy QLNN đối với phát thải KNK
- Cơ quan bảo vệ môi trường Trung Quốc đã thiết lập một mô hình tổ chức
được chia thành hai khối: khối Vụ bao gồm các vụ chức năng và khối Viện gồm
các đơn vị trực thuộc. Mô hình tổ chức này có sự phân biệt: một khối về QLNN
và một khối về kỹ thuật. Mô hình tổ chức này giúp đảm bảo việc phân công và
thực hiện các chức năng một cách hiệu quả, tránh tình trạng chồng chéo. Tuy
nhiên, trong cấu trúc quản lý này, thiếu đơn vị thanh tra hoạt động độc lập để giám
sát các hoạt động của các đơn vị trong hệ thống.
Việt Nam có thể tham khảo áp dụng mô hình này vào tổ chức bộ máy
QLNN đối với phát thải KNK. Chẳng hạn, bộ máy QLNN đối với phát thải KNK
gồm hai khối tách biệt: một khối về QLNN đối với phát thải KNK; một khối về
Hệ thống kiểm kê quốc gia KNK và Hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định giảm
nhẹ phát thải KNK phục vụ công tác quản lý giảm phát thải KNK.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường thiên nhiên Philippines là cơ quan chịu
trách nhiệm bảo vệ môi trường, quản lý cả lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Ưu
điểm của cấu trúc tổ chức này là khả năng tích hợp dễ dàng các yếu tố môi trường
vào hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, hạn chế của mô hình
này nằm ở việc cả các hoạt động bảo vệ môi trường và khai thác tài nguyên thiên
nhiên đều dưới sự quản lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường thiên nhiên, không
có cơ quan giám sát và kiểm tra, dẫn đến nguy cơ thiếu khách quan trong việc
thực hiện nhiệm vụ.
Cũng giống Philípin, Bộ TN&MT của Việt Nam cũng quản lý cả mảng
môi trường và cả mảng tài nguyên, vì vậy chúng ta cần rút kinh nghiệm của
Philípin, thực hiện mô hình tích hợp, song nghiên cứu thành lập các cơ quan thanh
tra, giám sát công tác của Bộ.
Như vậy, qua nghiên cứu mô hình tổ chức của cơ quan bảo vệ môi trường
Trung Quốc và Philípin, bài học rút ra cho Việt Nam là cần có đơn vị thanh tra
hoạt động độc lập để giám sát công tác quản lý giảm phát thải KNK. Đây là bộ 92
phận cần thiết để đảm bảo cho việc thực thi các quy định pháp luật giảm phát thải
KNK. Nếu hoạt động này bị buông lỏng hoặc không được giao cho một đơn vị
phụ trách thì chắc chắn không thể kiểm soát được các vấn đề đối với phát thải
KNK, nhất là vấn đề vi phạm pháp luật quản lý giảm phát thải KNK.
2.3.2.4. Sử dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và
huy động cộng đồng tham gia quản lý giảm phát thải KNK
- Mô hình quản lý giảm phát thải KNK có sự tham gia của cộng đồng bao
gồm ba bộ phận: nhà nước, thị trường và cộng đồng. Sự kết hợp của ba yếu tố này
tận dụng tối đa sức mạnh, đồng thời thúc đẩy tương hỗ giữa chúng, vì vậy việc
xây dựng mô hình này đang được quan tâm.
- Một trong những khía cạnh quan trọng là công khai hóa thông tin về phát
thải KNK từ các cơ sở sản xuất. Việc công bố chỉ số phát thải KNK của các cơ sở
sản xuất trên các phương tiện truyền thông công cộng đóng một vai trò quan trọng,
giúp người dân và cộng đồng hiểu rõ tình hình. Điều này không chỉ đặt áp lực để
các cơ sở sản xuất thay đổi hành vi theo hướng thân thiện với môi trường và giảm
phát thải KNK, mà còn tạo động lực để họ tuân thủ luật pháp và tôn trọng quy
định. Những bước này đóng góp không ít vào việc thực hiện luật quản lý giảm
phát thải KNK, nâng cao tác động của chính sách quản lý giảm phát thải KNK.
- Thiết lập hệ thống thông tin trên toàn quốc để cung cấp thông tin giảm
phát thải KNK cho cộng đồng.
- Xây dựng chương trình xếp hạng và công khai hóa các kết quả kiểm kê
quốc gia KNK của các cơ sở sản xuất gây phát thải KNK.
2.3.2.5. Thông qua sử dụng công cụ kỹ thuật sản xuất trong nông nghiệp
để quản lý giảm phát thải KNK trong nông nghiệp của một số quốc gia
- Áp dụng hệ thống tưới tiêu thông minh, tiết kiệm nước đến mức tối đa
như: tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa tự động giúp sử dụng nguồn nước hiệu quả,
giảm đáng kể phát thải KNK mà vẫn tăng tối đa sản lượng cho cây trồng nông
nghiệp.
93
- Áp dụng phương pháp sản xuất nông nghiệp bền vững, sử dụng phân
hữu cơ xanh.
- Sử dụng hệ thống trồng trọt - chăn nuôi tích hợp để tối đa hóa năng suất
cây trồng bằng các chất dinh dưỡng tái chế có trong phân động vật và phế thải của
cây trồng, giúp giảm nhu cầu phân bón hóa học (một nguồn phát thải KNK). Vật
nuôi được nuôi ngay tại đồng ruộng đang trồng trọt hoặc có thể được chăn thả trên
đồng ruộng sau vụ thu hoạch.
- Áp dụng khẩu phần ăn giàu chất tannin cho gia súc, gia cầm để chúng
thải ít khí KNK hơn.
Kết luận Chương 2
Chương này xây dựng cơ sở khoa học QLNN đối với phát thải KNK trong
nông nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Phát thải KNK trong nông nghiệp, QLNN đối
với phát thải KNK trong nông nghiệp; Kinh nghiệm quốc tế về quản lý phát thải
khí nhà kính trong nông nghiệp và bài học cho Việt Nam.
Tác giả đã hệ thống hóa lý luận liên quan quản lý nhà nước đối với phát
thải KNK như: khái niệm “khí nhà kính”, khái niệm “hiệu ứng nhà kính”, khái
niệm “biến đổi khí hậu”, khái niệm “quản lý nhà nước”, khái niệm “hiệu quả quản
lý nhà nước”, từ đó xây dựng khái niệm “quản lý nhà nước đối với phát thải
KNK”. Tác giả xác định rõ: chủ thể, đối tượng, đặc điểm quản lý; tác hại của
KNK; các nguồn phát thải, hấp thụ KNK trong nông nghiệp. Sau đó phân tích làm
rõ: Sự cần thiết QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp; Nội dung QLNN
đối với phát thải KNK trong nông nghiệp; Các công cụ QLNN đối với phát thải
KNK trong nông nghiệp; Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với phát thải KNK
trong nông nghiệp.
Kinh nghiệm quốc tế về quản lý phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp
và bài học cho Việt Nam gồm có: Kinh nghiệm và bài học về sử dụng các công
cụ kinh tế, góp phần nâng cao tính chấp hành, phục tùng pháp luật đối với phát
thải KNK của các tổ chức, cá nhân; kinh nghiệm và bài học về sử dụng chế tài xử
phạt nhằm nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật và răn đe, phòng ngừa các
hành vi vi phạm pháp luật phát thải KNK; kinh nghiệm và bài học về xây dựng 94
hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về quản lý phát thải KNK; kinh nghiệm và bài
học về sử dụng biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và huy động
cộng đồng tham gia quản lý phát thải KNK; kinh nghiệm và bài học thông qua sử
dụng công cụ kỹ thuật sản xuất trong nông nghiệp để quản lý giảm phát thải KNK
trong nông nghiệp của một số quốc gia.
Kết quả nghiên cứu những vấn đề về lý luận ở Chương 2 là cơ sở, nền tảng
để NCS phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về quản lý phát thải KNK trong
95
Chương 3.
CHƯƠNG 3:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng phát triển nông nghiệp và ngành nông
nghiệp có những đóng góp quan trọng2 cho nền kinh tế đất nước, chiếm 14.85%
cơ cấu kinh tế quốc dân năm 2020 [35]. Dù có lợi thế phát triển nông nghiệp và
tương đối giàu tài nguyên nước, nhưng Việt Nam lại khan hiếm đất nông nghiệp.
Trong nền nông nghiệp Việt Nam, diện tích trung bình đất nông nghiệp sở hữu
cho mỗi người là 0,12 hecta, chỉ bằng 1/6 so với mức trung bình toàn cầu. Tổng
diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam đã tăng đáng kể vào giai đoạn giữa những
năm 90 của thế kỷ XX (tăng lên đến 61%) và từ đó đến nay đã duy trì ổn định
tương đối. [42].
Gần 35 năm đổi mới, nông nghiệp tại Việt Nam liên tục duy trì mức tăng
trưởng trung bình hàng năm khoảng 3,5%. Sau thời kỳ kéo dài thiếu lương thực,
bắt đầu từ năm 1989, Việt Nam đã dần trở thành một trong những quốc gia dẫn
đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2017, tốc độ tăng
trưởng GDP toàn ngành nông nghiệp tại Việt Nam đã đạt trung bình 2,66% mỗi
năm. Năm 2018, tốc độ tăng trưởng này đã đạt 3,76%, và ngay cả trong năm 2019,
trong bối cảnh đối mặt với nhiều khó khăn, ngành nông nghiệp vẫn duy trì mức
tăng trưởng 2,2%. [8]
Tuy vậy, lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với một loạt
thách thức nghiêm trọng: gia tăng dân số, nhu cầu về lương thực, thực phẩm không
ngừng tăng, đặt ra thách thức lớn cho sản xuất nông nghiệp; diện tích đất nông
nghiệp bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa, bắt buộc phải tăng cường năng suất
2 Như đã nói ở phần đầu, trong ngành nông nghiệp, NCS chỉ chọn các lĩnh vực trồng trọt cây lương thực và chăn nuôi gia súc, gia cầm để nghiên cứu sâu trong quá trình thực hiện đề tài luận án này.
96
trong nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực và nguồn cung thực phẩm;
BĐKH ngày càng diễn ra mạnh mẽ, tạo áp lực lớn cho ngành nông nghiệp; quá
trình hội nhập quốc tế đòi hỏi chất lượng nông sản càng phải được nâng cao.
Trong nông nghiệp, ngành trồng trọt đóng một vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm an ninh lương thực của quốc gia, đồng thời giúp giảm nghèo và tạo
cơ hội sinh kế cho người dân địa phương. Ngoài ra, lĩnh vực này còn góp phần
quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Lĩnh vực chăn nuôi cũng đóng
vai trò quan trọng và là một trong những phân ngành nông nghiệp tăng trưởng nhanh
nhất. Trong sản xuất nông nghiệp thì trồng trọt chiếm tỷ lệ lớn hơn gấp 3 lần so với
chăn nuôi. Trong trồng trọt, diện tích cây lương thực chiếm tỷ lệ lớn. [46]
Sản xuất nông nghiệp liên quan chặt chẽ đến các điều kiện tự nhiên như:
địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khí hậu và tài nguyên nước; đồng thời, diễn ra trên
diện tích rộng lớn, phức tạp và phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên. Thời
tiết và khí hậu, bao gồm lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và các yếu tố tương
tự, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và sử dụng đất. Sự khác biệt về
điều kiện đất đai và khí hậu giữa các vùng làm cho nông nghiệp mang tính khu
vực rất rõ nét.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các "cơ thể" sống như cây trồng và
vật nuôi. Chúng phát triển dựa trên quy luật sinh học như sinh trưởng, phát triển
và diệt vong. Các loài này có khả năng thích nghi và tồn tại trong môi trường sống
có khác nhau (môi sinh). Do đó, chúng rất nhạy cảm với các yếu tố môi trường
bên ngoài, và bất kỳ biến đổi nào về thời tiết và khí hậu đều ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của cây trồng và vật nuôi, đồng thời tác động tới kết quả thu
hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng và vật nuôi cũng là nguồn nguyên liệu sản
xuất, để nâng cao chất lượng của chúng, việc lựa chọn, cải tiến và lai tạo các loài
đang tồn tại và nhập khẩu các loại tốt hơn là cần thiết. Điều này sẽ tạo ra những
loại mới có năng suất cao và chất lượng tốt, phù hợp với từng vùng và địa phương.
Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao - đó điều này là đặc điểm quan
trọng nhất của nó. Thời gian hoạt động và thời gian sản xuất thường xen kẽ nhau,
tạo nên tính thời vụ đặc trưng. Tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu và 97
không thể loại bỏ hoàn toàn, do đó trong quá trình sản xuất, cần tìm cách giảm
bớt sự ảnh hưởng của nó. Ngoài ra, do sự biến đổi của thời tiết và khí hậu, mỗi
loại cây trồng sẽ có sự thích nghi khác nhau với điều kiện đó, dẫn đến mùa vụ
khác nhau.
Ngoài các đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp đã được nêu, nông
nghiệp tại Việt Nam còn có những đặc điểm riêng cần chú ý: có điểm xuất phát
thấp, cơ sở vật chất còn kém, hạ tầng nông thôn yếu, lao động nông nghiệp chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội, năng suất đất và lao động còn thấp, và
đặc biệt, nông nghiệp Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới nhưng lại có yếu tố
ôn đới, đặc biệt ở miền Bắc, phân bố trải rộng trên 4 vùng lớn là trung du, miền
núi, đồng bằng và ven biển. Điều này tạo nên nhiều cơ hội nhưng cũng đồng thời
gây ra nhiều khó khăn trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, so với các ngành kinh tế khác, nông nghiệp là ngành phụ thuộc
rất lớn vào điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu,...Ngược lại, các hoạt động trong
nông nghiệp cũng gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường - sinh thái, trong
đó đáng kể là hoạt động phát thải các loại KNK vào bầu khí quyển. Tuy nhiên,
đây cũng là lĩnh vực có tiềm năng giảm phát thải, đặc biệt KNK lớn.
3.2. Thực trạng sản xuất nông nghiệp và phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
3.2.1. Thực trạng sản xuất nông nghiệp
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nông nghiệp giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp tỷ trọng lớn vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
3.2.1.1. Trồng trọt
Trong nông nghiệp Việt Nam, hoạt động trồng trọt đóng một vai trò quan
trọng, cung cấp nguồn lương thực và thực phẩm để đáp ứng nhu cầu của con
người; đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia, cung cấp thức ăn cho ngành
chăn nuôi và cung cấp nguyên liệu sản xuất cho các ngành khác.
98
Sản lượng lương thực có hạt và các cây ngắn ngày ở Việt Nam nói chung
tăng lên qua các năm, nhưng có một vài loại cây giảm và có loại cây còn trồng rất ít,
cây lúa là cây lương thực chủ đạo (Hình 3.1). Sản lượng lúa năm 2021 đạt trên 43,85
triệu tấn, tăng hơn 1,86 lần so với năm 1994 và khoảng gần 1,1 lần so với năm 2010.
Nhiều năm nay, sản lượng lúa sản xuất ra đạt năng suất cao, không những đáp ứng
nhu cầu trong nước, mà còn xuất khẩu được trung bình hơn 4 triệu tấn gạo/năm. Sản
lượng ngô, đậu tương, lạc và khoai lang từ 2016 trở đi giảm, không đáp ứng được
nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi. Sản lượng mía cũng sụt giảm
45.000,0
nhiều. Sản lượng sắn tương đối ổn định. Bông thì còn trồng rất ít.
SẢN LƯỢNG LƯƠNG THỰC CÓ HẠT VÀ MỘT SỐ LOẠI CÂY CÁC NĂM
40.000,0
35.000,0
30.000,0
n ấ t n
ì
25.000,0
h g N
: ị v n ơ Đ
20.000,0
15.000,0
10.000,0
5.000,0
-
1994
2000
2010
2013
2014
2016
2019
2020
Lúa
23.528,2
32.529,5
40.005,6
44.039,1
44.974,6
43.109,0
43.495,4
42.764,8
Sơ bộ 2021 43.852,6
Ngô
1.143,9
2.005,9
4.625,7
5.191,2
5.202,3
5.246,5
4.731,9
4.558,2
4.446,4
Mía
15.044,3
16.161,7
20.128,5
19.821,6
17.211,2
15.685,6
11.534,6
10.740,9
Bông
18,8
12,5
3,2
2,9
0,6
0,1
0,1
Lạc
355,3
487,2
491,9
453,3
427,2
442,6
425,5
430,4
Đậu tương
149,3
298,6
168,2
156,5
160,7
77,3
65,4
59,1
Sắn
1.986,3
8.595,6
9.757,3
10.209,9
10.909,9
10.174,9
10.504,2
10.565,6
Khoai lang
1.611,3
1.318,5
1.358,1
1.401,3
1.269,3
1.431,0
1.377,8
1.231,5
Hình 3.1: Sản lượng lương thực có hạt và một số loại cây các năm
(Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê) 99
DIỆN TÍCH GIEO TRỒNG CÂY LƯƠNG THỰC CÓ HẠT VÀ MỘT SỐ LOẠI CÂY CÁC NĂM
8.000,0
7.000,0
6.000,0
5.000,0
a h n
ì
h g N
4.000,0
: ị v n ơ Đ
3.000,0
2.000,0
1.000,0
-
1994
2000
2010
2013
2014
2016
2019
2020
6.598,6 534,6
Sơ bộ 2021 7.238,9 902,8 165,9
Lúa Ngô Mía Bông
7.666,3 730,2 302,3 18,6
7.489,4 1.125,7 269,1 9,1
7.902,5 1.170,4 310,4 3,0
7.816,2 1.179,4 305,0 2,8
7.737,1 1.152,7 267,6 0,5
7.469,9 986,7 237,9 0,2
7.278,9 942,5 185,5 0,1
Lạc
244,9
231,4
216,4
208,7
184,8
176,8
169,7
165,2
Đậu tương
124,1
197,8
117,2
109,4
99,6
49,4
41,6
36,8
237,6
498,0
543,9
552,8
569,0
519,0
524,7
524,5
Sắn Khoai lang
254,3
150,8
135,0
130,1
120,3
116,9
108,9
98,3
Hình 3.2: Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt và một số loại cây các năm
(Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê) 100
NĂNG SUẤT CÂY LƯƠNG THỰC CÓ HẠT VÀ MỘT SỐ LOẠI CÂY CÁC NĂM
650,0
600,0
550,0
500,0
450,0
400,0
350,0
a h / ạ t : ị v n ơ Đ
300,0
250,0
200,0
150,0
100,0
50,0
-
1994
2000
2010
2013
2014
2016
2019
2020
35,7 21,4
Sơ bộ 2021 60,6 49,3 647,4
Lúa Ngô Mía Bông
42,4 27,5 497,7 10,1
53,4 41,1 600,6 13,7
55,7 44,4 648,5 10,7
57,5 44,1 649,9 10,4
55,8 45,5 643,2 12,0
58,2 48,0 659,3 5,0
58,8 48,4 622,0 10,0
Lạc
14,5
21,1
22,7
21,7
23,1
25,0
25,1
26,0
Đậu tương
12,0
15,1
14,4
14,3
16,1
15,6
15,7
16,0
83,6
172,6
179,4
184,7
191,7
196,0
200,2
201,4
Sắn Khoai lang
63,4
87,4
100,6
107,7
105,5
120,4
126,5
125,3
Hình 3.3: Năng suất lương thực có hạt và một số loại cây các năm
(Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê) 101
Các hình 3.1, 3.2 và 3.3 cho thấy, sản lượng cây trồng có mối quan hệ tỷ
lệ thuận với diện tích gieo trồng và năng suất cây trồng. Trong khi đó, diện tích
gieo trồng lại phụ thuộc vào diện tích canh tác và hệ số sử dụng đất. Đối với các
loại cây trồng sản lượng tăng cũng đến từ việc thâm canh tăng năng suất cây trồng.
KHỐI LƯỢNG PHỤ PHẨM CÁC LOẠI CÂY QUA CÁC NĂM
65.000,0
60.000,0
55.000,0
50.000,0
45.000,0
40.000,0
ì
35.000,0
n ấ t n h g N
30.000,0
: ị v n ơ Đ
25.000,0
20.000,0
15.000,0
10.000,0
5.000,0
-
1994
2000
2010
2013
2014
2016
2019
2020
32.939,7 1.143,9
Lúa Ngô Mía
45.540,3 2.005,9 3.008,9
56.008,3 4.625,7 3.232,3
61.655,2 5.191,2 4.025,7
62.964,9 5.202,3 3.964,3
60.431,6 5.246,5 3.442,2
60.894,0 4.731,9 3.137,1
59.871,1 4.558,2 2.306,9
Sơ bộ 2021 61.394,1 4.446,4 2.148,2
Lạc
355,3
487,2
491,9
453,3
427,2
442,6
425,5
430,4
Đậu tương
313,7
627,3
354,0
328,4
337,6
162,4
137,4
124,1
794,5
3.438,2
3.902,9
4.084,0
4.364,0
4.070,0
4.201,7
4.226,2
Sắn Khoai lang
644,5
527,4
532,2
560,5
507,7
572,4
551,1
492,6
Hình 3.4: Khối lượng phụ phẩm các loại cây qua các năm
(Nguồn: Phụ phẩm cây trồng được tính tỷ lệ với sản lượng theo hướng dẫn của
IPCC năm 1996)
Hình 3.4 cho thấy phụ phẩm từ cây lúa và các loại cây (chưa tính vỏ trấu,
lõi ngô) chiếm khối lượng khá lớn. Đối chiếu với Hình 3.1, ta thấy khối lượng phụ
102
phẩm tỷ lệ thuận theo sản lượng cây trồng. Đây là nguồn gây phát thải KNK nếu
chúng không được sử dụng hợp lý, ngược lại nếu biết tận dụng những phụ phẩm
này để tái sử dụng cho các mục đích khác nhau bằng các biện pháp chế biến khoa
học thì không những không gây phát thải mà còn là những nguồn nguyên liệu hữu
ích trong chế biến thức ăn chăn nuôi, phân hữu cơ, than sinh học, biogas, vật liệu
xây dựng,…
3.2.1.2. Chăn nuôi
Trong nông nghiệp của Việt Nam, ngành chăn nuôi cũng đóng vai trò quan
trọng, chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất nông nghiệp vào năm 2019. Dự kiến đạt
khoảng 38% vào năm 2025 và trên 40% vào năm 2030 [28] và là một trong những
phân ngành nông nghiệp tăng trưởng nhanh nhất.
SỐ LƯỢNG GIA SÚC, GIA CẦM QUA CÁC NĂM
30.000,0
27.500,0
25.000,0
22.500,0
20.000,0
) n o c u ệ i r T
:
17.500,0
m ầ c a i G
15.000,0
( n o c n
12.500,0
ì
h g N
10.000,0
: ị v n ơ Đ
7.500,0
5.000,0
2.500,0
-
1994
2000
2010
2013
2014
2016
2019
2020
Trâu
2.977,3
2.897,2
2.917,7
2.565,3
2.586,9
2.638,6
2.388,8
2.332,8
Sơ bộ 2021 2.264,7
Bò
3.466,8
4.127,9
5.904,7
5.170,6
5.383,9
6.219,1
6.278,0
6.325,5
6.365,3
Ngựa
131,1
126,5
93,1
Dê, cừu
427,9
543,9
1.288,4
1.466,3
1.668,9
Lợn
15.587,7
20.193,8
27.347,5
27.267,8
27.807,4
30.863,9
20.208,3
22.028,1
23.533,4
Gia cầm (Triệu con)
137,8
196,1
301,9
345,8
353,9
395,5
480,3
512,7
526,3
Hình 3.5: Số lượng gia súc, gia cầm qua các năm
(Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê) 103
Hình 3.5 cho thấy, lợn là loại gia súc được nuôi nhiều nhất, số lựơng tăng
liên tục qua các năm với tốc độ cao, tuy vậy, năm 2019 do dịch tả lợn châu Phi
nên số lượng lợn giảm hẳn, sau đó dần hồi phục. Đàn bò tăng đều qua các năm.
Gia cầm là các loại động vật tăng nhiều trong những năm gần đây. Số lượng trâu
không tăng, thậm trí giảm dần theo từng năm. Số lượng dê, cừu có tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm (1994 - 2016) gần 18,6%/năm, tuy vậy số lượng hai
loài này từ năm 2016 đến nay chưa thấy Tổng cục Thống kê công bố. Ngựa giảm
mạnh và từ năm 2013 đến nay chưa thấy Tổng cục Thống kê công bố.
KHỐI LƯỢNG PHÂN GIA SÚC, GIA CẦM QUA CÁC NĂM
40.000,0
37.500,0
35.000,0
32.500,0
30.000,0
27.500,0
25.000,0
n ấ t n
ì
22.500,0
h g N
20.000,0
17.500,0
: ị v n ơ Đ
15.000,0
12.500,0
10.000,0
7.500,0
5.000,0
2.500,0
-
1994
2000
2010
2013
2014
2016
2019
2020
14.048 18.877
14.166 19.656
14.450 22.705
13.082 22.920
12.775 23.093
Sơ bộ 2021 12.402 23.239
15.866 15.070 186,2 422,00 18.441 14.316
15.978 21.557 137,1 999,65 24.974 22.040
1.137, 24.901 25.244
1.294, 25.394 25.836
28.185 28.873
18.454 35.064
20.116 37.429
21.491 38.422
Trâu 16.304 Bò 12.657 193,0 Ngựa 332,00 Dê, cừu 14.235 Lợn Gia cầm 10.060
Hình 3.6: Khối lượng phân gia súc, gia cầm
(Nguồn: Tính theo lượng phân thải bình quân trên đầu vật nuôi/ngày đối với
từng loại gia súc, gia cầm - Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT) 104
Hình 3.6 cho thấy khối lượng chất thải vật nuôi tỷ lệ thuận với số lượng
vật nuôi. Để bảo đảm mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu thực phẩm (thịt) cho tiêu
dùng của nhân dân trong tương lai mà vẫn giảm thiểu được lượng phát thải KNK
trong lĩnh vực chăn nuôi thì việc đưa ra các giải pháp về cơ cấu vật nuôi, kỹ thuật
trong chăn nuôi là hướng đi hợp lý và cần thiết.
3.2.2. Thực trạng phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam,
đóng góp lớn vào GDP. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển của ngành này là vấn
đề nghiêm trọng về phát thải KNK. Hiện tượng này đang gây ra những tác động
tiêu cực đến môi trường và ảnh hưởng đến sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Như đã
nói trên, sản xuất nông nghiệp ở nước ta không chỉ là ngành chịu tác động của
BĐKH mà còn là ngành gây phát thải KNK lớn, góp phần làm gia tăng sự nóng
lên toàn cầu. Canh tác lúa, sử dụng đất nông nghiệp, quản lý chất thải chăn nuôi,
Hình 3.7: Phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam đã được công bố chính
đốt phế phụ phẩm nông nghiệp là những nguồn phát thải KNK lớn.
thức đến năm 2016 và kịch bản cho 2020, 2025, 2030
(Nguồn: Số liệu tổng hợp từ nhiều báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường)
[10,11,12,14,15,16,17] 105
100
90
80
70
g n ơ ư đ
60
g n ơ ư t
50
2 O C n ấ t
40
n ì h g n
: ị v
30
n ơ Đ
20
10
0
1994
2000
2010
2013
2014
2016
1,46
1,67
1,9
2,39
2,44
1,62
Đốt phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng
0,4 8,06 32,75 2,71 7,07
0,59 14,2 37,43 3,45 7,73
1,7 23,81 44,61 8,56 9,47
1,1 24,04 44,74 7,9 10,33
1 23,96 44,29 8,86 10,2
1,38 18,42 49,69 6,09 12,42
Đất đồng cỏ (savana) Đất nông nghiệp Canh tác lúa Quản lý chất thải Tiêu hóa thức ăn
Hình 3.8: Phát thải KNK trong nông nghiệp theo nguồn phát thải ở Việt Nam
CÁC NGUỒN PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
đã được công bố chính thức
(Nguồn: Số liệu tổng hợp từ nhiều báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường)
[10,11,12,14,15,16,17]
Hình 3.7 và hình 3.8 cho thấy lượng phát thải KNK trong nông nghiệp
tăng lên từng năm và dự kiến sẽ tăng mạnh trong tương lai theo Kịch bản phát
triển thông thường (BAU). Trong đó, phát thải KNK trong canh tác lúa là lớn
106
nhất, sau đó đến đất nông nghiệp. Vì vậy, để giảm lượng phát thải KNK trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp, việc quản lý chặt chẽ và thực hiện các biện pháp
trồng trọt và chăn nuôi ít tạo ra phát thải KNK là phương pháp tốt nhất. Các biện
pháp bao gồm: chuyển đổi sử dụng đất lúa không hiệu quả; sử dụng phương pháp
canh tác và tưới nước tiên tiến, hiện đại, đồng bộ và tiết kiệm nước phù hợp với
điều kiện địa phương; cải thiện dinh dưỡng cho gia súc; áp dụng các công nghệ
xử lý chất thải chăn nuôi bằng khí sinh học; thu gom và sản xuất phân bón hữu
cơ;...
Theo kết quả đánh giá KNK năm 1994 của Bộ Tài nguyên và Môi trường,
lượng phát thải KNK từ ngành nông nghiệp đạt 52,5 triệu tấn CO2 tương đương
(CO2e), chiếm 50,5% tổng lượng phát thải KNK của cả nước. Đến năm 2013,
lượng phát thải KNK từ ngành nông nghiệp tăng lên 89,4 triệu tấn CO2e, tương
đương 34,5% tổng lượng phát thải KNK của cả nước. [42]. Như vậy, lượng KNK
phát thải trong nông nghiệp chiếm một phần không nhỏ trong tổng lượng phát thải
KNK của cả nước.
Theo kết quả kiểm kê KNK năm 2014 trong “Thông báo quốc gia Lần thứ
ba của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu”
do Bộ TN&MT thực hiện vào năm 2019, lượng KNK phát thải trong nông nghiệp
là 89,8 triệu tấn CO2e - chiếm 27,9% tổng lượng KNK phát thải của cả nước (321,5
triệu tấn CO2e) [17]. Trong “Báo cáo cập nhật hai năm một lần Lần thứ ba của
Việt Nam cho Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu” do Bộ
TN&MT thực hiện vào năm 2020, kết quả kiểm kê KNK trong năm 2016 là số
liệu mới nhất đã được công bố cho thấy, lượng KNK phát thải trong nông nghiệp
là 89,7 triệu tấn CO2e - chiếm 28,3% tổng lượng KNK phát thải của cả nước (316,7
triệu tấn CO2e) [15]. Trong đó, lĩnh vực canh tác lúa và đất nông nghiệp phát thải
nhiều nhất, chiếm tương ứng 44,74% và 24,07% tổng lượng phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp năm 2013. (Hình 3.8)
Trong nông nghiệp, các yếu tố tác động đến phát thải KNK gồm: số lượng
vật nuôi (tỷ lệ thuận với lượng phát thải CH4, N2O); đặc điểm loại vật nuôi (ảnh
hưởng đến lượng nitơ bài tiết); mức độ sử dụng phân bón N tổng hợp, phân 107
chuồng, phân hữu cơ, bùn thải, phụ phẩm cây trồng và hệ số phát thải N2O; diện
tích thu hoạch lúa và thời gian canh tác lúa (ảnh hưởng đến tiềm năng phát thải
CH4); diện tích bị đốt cháy; khối lượng sinh khối bị đốt cháy; …
Loại KNK chủ yếu phát thải từ các hoạt động nông nghiệp là khí CH4 và
N2O. Các lĩnh vực nông nghiệp được đưa vào tính toán kiểm kê phát thải KNK bao
gồm: tiêu hóa thức ăn, quản lý phân gia súc, trồng lúa nước, đất canh tác nông
nghiệp, đất đồng cỏ và đốt các phụ phẩm nông nghiệp.
Nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu ngày càng lớn, vì vậy đàn gia súc của Việt
Nam tăng trưởng mạnh, lượng phát thải KNK trong chăn nuôi gia súc cũng vì thế tăng
nhanh. Theo “Báo cáo cập nhật hai năm một lần Lần thứ ba của Việt Nam cho
Công ước khung của Liên hiệp quốc về BĐKH” do Bộ TN&MT thực hiện vào
năm 2020 thì lượng phát thải KNK của chăn nuôi là 18,5 triệu tấn CO2e, chiếm tỷ
trọng 20,6% lượng phát thải khu vực nông nghiệp vào năm 2016 [15], và dự kiến sẽ
tăng lên 34,1 triệu tấn CO2e vào năm 2025 và 36,3 triệu tấn CO2e vào năm 2030, chiếm
tỷ trọng 32,4% lượng phát thải KNK khu vực nông nghiệp [16].
Nông nghiệp nước ta ngày càng phát tiển mạnh, đòi hỏi chất lượng công
tác kiểm kê KNK phải được nâng lên, trở thành vấn đề cấp bách và thiết yếu. Theo
số liệu kiểm kê KNK năm 2016, đối với lĩnh vực nông nghiệp, kết quả ước tính
phát thải đã được thực hiện cho 6 hạng mục, bao gồm:
- Canh tác lúa (CH4): Trong ruộng lúa ngập nước, phân hủy yếm khí các chất
hữu cơ sinh ra CH4, và thoát vào khí quyển chủ yếu là do khuếch tán thông qua cây lúa
trong suốt mùa sinh trưởng. Khí CH4 tích hợp phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào là
carbon hữu cơ, chế độ tưới nước, thời gian và thời hạn tháo nước, loại đất, v.v.. Trên
toàn cầu, hệ thống lúa chiếm 11% phát thải KNK nông nghiệp; khu vực Đông
Nam Á chiếm 82% tổng lượng phát thải CH4 từ gạo. Những cánh đồng lúa bị ngập
nước liên tục sẽ sản sinh ra nhiều CH4.
Như vậy, canh tác lúa nước là một nguồn gây phát thải KNK (CH4) lớn
nhất trong sản xuất nông nghiệp và có xu hướng gia tăng nếu không có những giải
pháp hữu hiệu. Lượng phát thải CH4 từ trồng lúa phụ thuộc tỷ lệ thuận với diện tích 108
gieo trồng, thời gian canh tác và hệ số phát thải. Do đó, để giảm lượng phát thải KNK
từ trồng lúa, có thể tác động vào ba yếu tố: giảm diện tích gieo trồng, giảm thời gian
canh tác bằng cách sử dụng các giống lúa ngắn ngày, giảm hệ số phát thải bằng các
biện pháp kỹ thuật như kiểm soát chế độ tưới tiêu, đặc tính lý hoá của đất thông qua
cách thức bón phân, tạo ra môi trường tiểu khí hậu, tạo giống lúa có đặc tính phát thải
thấp. Một số nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam cho thấy tốc độ phát thải khí mêtan
khác nhau ở các thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây lúa, lượng phát thải khí mêtan
có sự khác biệt lớn trên các loại đất khác nhau và mùa vụ khác nhau. Đây là cơ sở thực
tiễn để đề xuất các giải pháp kỹ thuật nhằm hạn chế phát thải CH4 từ canh tác lúa nước
trong khi vẫn phải duy trì diện tích đất trồng lúa nước nhất định để bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia.
Theo Đóng góp quốc gia tự quyết định - Cập nhật năm 2022 (NDC 2022),
trong lĩnh vực nông nghiệp, một số biện pháp giảm phát thải KNK đã được áp dụng
như: rút nước giữa vụ giảm phát thải khí mê tan; cải thiện khẩu phần ăn cho gia súc
nhai lại; xử lý chất thải chăn nuôi và phụ phẩm trồng trọt; chuyển đổi đất lúa kém hiệu
quả; canh tác tổng hợp và hiện đại hoá hệ thống canh tác. Năm 2020 đã giảm được 1,5
triệu tấn CO2tđ, trong các tiểu lĩnh vực canh tác lúa, tiêu hoá thức ăn chăn nuôi và
quản lý chất thải nông nghiệp. [18]
- Đất nông nghiệp (N2O): Phát thải ôxít nitơ (N2O) từ đất nông nghiệp là
nguồn gây phát thải KNK đứng thứ hai sau trồng lúa. N2O được tạo ra trong đất
thông qua quá trình nitơrát hóa và khử nitơ (N) bằng sự tác động của vi khuẩn. Sự
phát thải N2O là kết quả của việc thêm lượng nitơ (N) vào môi trường từ các hoạt
động canh tác của con người thông qua hai phương diện. Một là, N2O được phát
thải trực tiếp từ đất nông nghiệp do việc sử dụng nitơ (N) và các hoạt động canh
tác của con người, bao gồm việc bón phân tổng hợp và xử lý chất thải động vật.
Hai là, phát thải N2O do sử dụng nitơ đầu vào xảy ra một cách trực tiếp và thông
qua một số cách gián tiếp.
Lượng phát thải N2O trực tiếp và gián tiếp từ đất canh tác phụ thuộc chủ
yếu vào lượng phân bón cho đất, loại phân và cách thức phân được bón vào đất. 109
Qua thời gian sử dụng đất, đất đai ngày càng có xu hướng suy giảm độ phì tự nhiên,
ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Do đó, một trong những cách dễ dàng nhất để
thâm canh là bổ sung chất dinh dưỡng cho đất thông qua việc bón phân (hữu cơ và
vô cơ). Tuy nhiên, tác dụng của phân bón để tăng năng suất cây trồng, cải thiện độ
phì nhiêu đất còn phụ thuộc nhiều yếu tố như nhiệt độ, lượng mưa, nhu cầu của
cây, khả năng giữ của đất và các quá trình khác như: sự di chuyển của chất dinh
dưỡng, quá trình biến đổi của phân bón; quá trình bay hơi, bốc hơi, rửa trôi, thấm
sâu hoặc sự giữ chặt của đất liên quan đến mất dinh dưỡng, cân bằng dinh dưỡng
và hiệu quả sử dụng phân bón.
Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy hiệu suất phân bón là thấp, trên một
số loại đất ở đồng bằng sông Hồng với lượng đạm bón 80 - 240 kg N/ha thì hiệu
suất sử dụng phân bón đối với các vụ lúa trong năm chỉ đạt 12 - 50% [49]. Như
vậy, ngoài lượng nitơ được hấp thụ bởi cây trồng, một phần không nhỏ nitơ dư thừa
là nguồn tiềm năng gây phát thải N2O. Thói quen bón phân theo kinh nghiệm và
bón lượng quá nhiều so với khả năng hấp thụ của cây trồng nhằm tăng nhanh năng
suất cây trồng của nông dân Việt Nam, cộng với việc không ít các nhà sản xuất
phân bón do chạy theo lợi nhuận đã khuyến cáo người dân bón lượng phân nhiều
hơn mức cần thiết để bán được nhiều hàng đã dẫn đến nhiều hệ luỵ xấu làm chai
kiệt đất đai, ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là tăng khả năng phát thải N2O. Do đó,
một trong những giải pháp quan trọng là có những biện pháp để quản lý chặt chẽ
số lượng, chất lượng phân bón cũng như cách thức bón phân, kết hợp với các biện
pháp canh tác khác để nâng cao hiệu suất sử dụng phân bón, nhằm tiết kiệm chi phí
và giảm thiểu khả năng phát thải KNK.
- Tiêu hóa thức ăn (CH4): Lên men đường ruột trong quá trình tiêu hóa là
quá trình carbon hydrat phân hủy bởi vi sinh vật thành các phân tử đơn giản để
hấp thu vào máu. Các động vật nhai lại chủ yếu là gia súc trâu, bò, dê, cừu và lạc
đà. Động vật ăn cỏ nhai lại giả (ngựa, la và lừa) và động vật đơn dạ dầy (lợn) có
lượng phát thải khí mêtan (CH4) tương đối thấp hơn vì rất ít lượng mêtan được
sản sinh trong quá trình lên men diễn ra trong hệ tiêu hóa của những động vật này. 110
Quá trình lên men đường ruột của gia súc (đặc biệt là động vật nhai lại) đã làm
phát sinh lượng khí mêtan nhất định, đó là sản phẩm phụ của quá trình phân huỷ
thức ăn trong hệ tiêu hoá của động vật.
- Quản lý chất thải (CH4, N2O): Phân gia súc cũng là một nguồn gây phát thải
CH4 và N2O thông qua sự phân huỷ yếm khí và bay hơi nitơ trong quá trình lưu trữ
phân gia súc, gia cầm. Mêtan được sinh ra từ sự phân hủy của chất thải trong điều
kiện yếm khí. Những điều kiện này thường xảy ra khi một số lượng lớn động vật
được nuôi tập trung (trang trại bò sữa, trại chăn nuôi bò thịt, lợn và các trang trại gia
cầm), nơi chất thải vật nuôi thường được lưu trữ thành các bãi lớn hoặc chôn trong
các hố không có ôxy hoặc có ôxy ở nồng độ rất thấp.
Một phần chất thải bị phân hủy yếm khí phụ thuộc vào cách chúng được
xử lý như thế nào. Chất thải khi được lưu giữ hoặc xử lý ở dạng lỏng (trong hồ,
ao, bể chứa hoặc hố) có xu hướng phân hủy yếm khí và tạo ra một lượng khí mêtan
đáng kể. Khi chất thải được xử lý ở dạng rắn (chất thành đống hoặc tích trữ trong
hố) hoặc khi được thải ra trên đồng cỏ và bãi chăn thả thì có xu hướng bị phân
hủy hiếu khí nên ít hoặc không tạo ra mêtan.
Lượng phát thải CH4 và N2O phụ thuộc vào số lượng vật nuôi, chất lượng
thức ăn, đặc điểm vật nuôi, loại hình chăn nuôi, cách thức lưu trữ và xử lý phân gia
súc, gia cầm trước khi đem bón vào đất. Để bảo đảm mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu
thực phẩm (thịt) cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong tương lai mà vẫn giảm
thiểu được lượng phát thải KNK trong lĩnh vực chăn nuôi thì việc đưa ra các giải
pháp về cơ cấu vật nuôi, kỹ thuật trong chăn nuôi là hướng đi hợp lý và cần thiết.
- Đốt phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng (CH4, N2O): Đối với các loại cây
trồng, ngoài phần sản phẩm chính thu hoạch phục vụ cho mục đích sử dụng chính
trong đời sống, còn có một khối lượng không nhỏ những phần dư thừa như rơm,
rạ, thân, cành, lá,…gọi chung là phụ phẩm cây trồng. Khi đốt cháy các phụ phẩm
có liên quan đến hoạt động nông nghiệp, KNK được thải ra từ quá trình đốt cháy
chất hữu cơ. Phần này đề cập tới phát thải KNK từ đốt phụ phẩm nông nghiệp để
111
xử lý và giảm khối lượng phụ phẩm nông nghiệp.
- Hiện tại, mỗi năm Việt Nam, có khoảng hơn 80 triệu tấn phụ phẩm từ các hoạt
động nông nghiệp, những tài nguyên này vẫn chưa được sử dụng một cách hiệu quả.
Trước đây, các phụ phẩm sau thu hoạch thường được người nông dân sử dụng để chế
biến thức ăn cho gia súc, làm phân bón cho cây trồng hoặc làm chất đốt. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, do sự phát triển của kinh tế và đời sống được nâng cao, những
chất thải từ nông nghiệp ít được tận dụng và thường bị nông dân đốt cháy, gây ra ô
nhiễm môi trường và phát thải lượng KNK lớn.
- Đốt savanna (CH4, N2O, NOx, CO, NMVOC): Các savanna là các bãi đất
có các thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới với cỏ bao phủ, thỉnh thoảng bị xen lẫn
bởi một số cây bụi, cây thân nhỏ. Các savanna bị đốt cháy trong suốt mùa khô,
chủ yếu cho các mục đích nông nghiệp như diệt cỏ dại và sâu bệnh, thúc đẩy quá
trình sinh dưỡng và kích thích sự phát triển của cỏ mới để chăn thả gia súc. Việc
đốt savanna sinh ra các khí mêtan (CH4), carbon ôxít (CO), nitơ ôxít (N2O), các
ôxít nitơ (NOx) và hợp chất hữu cơ bay hơi phi mêtan (NMVOCs).
- Trong năm 2016, tổng khối lượng phát thải KNK từ ngành nông nghiệp
là 89,62 triệu tấn CO2e. Nguồn gây phát thải lớn nhất đến từ canh tác lúa, tạo ra
khoảng 49,69 triệu tấn CO2e. Nguồn gây phát thải lớn thứ hai là phát thải N2O từ
đất nông nghiệp, tạo ra khoảng 18,42 triệu tấn CO2e.(Hình 3.8).
3.3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
3.3.1. Xây dựng và thực thi chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải khí
nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Như phần nội dung về xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp đã trình bày, Việt Nam chưa có chiến lược cắt
giảm phát thải KNK độc lập, tách biệt mà các nội dung này được lồng ghép trong
các Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Để
thực thi hai chiến lược này, các Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH và Kế
112
hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh được ban hành. Dựa trên các chiến
lược và kế hoạch đó, Bộ NN&PTNT xây dựng kế hoạch cắt giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chiến lược quốc gia về BĐKH (2011) xác định mục tiêu giảm phát thải
KNK trong nông nghiệp là thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, ít phát
thải, đảm bảo phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và góp phần xóa
đói giảm nghèo; cứ sau 10 năm giảm phát thải 20% KNK, đồng thời đảm bảo tăng
trưởng ngành 20% và giảm tỷ lệ đói nghèo 20% [19]. Để đạt được mục tiêu đó,
Chiến lược đề ra một số nhiệm vụ như: thay đổi phương thức canh tác nông
nghiệp; sử dụng nước, phân bón, thức ăn chăn nuôi một cách hợp lý; quản lý và
xử lý chất thải trong chăn nuôi; phát triển sử dụng khí sinh học làm nhiên liệu;
giới hạn và từ từ loại bỏ các máy nông nghiệp cũ lạc hậu tiêu thụ năng lượng.
Ngày 26/7/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
896/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050.
Chiến lược này nêu rõ mục tiêu chung là giảm phát thải KNK đạt mức "0" vào
năm 2050, tức là tổng lượng phát thải KNK từ các nguồn chủ yếu như năng lượng,
nông nghiệp, chất thải và quy trình công nghiệp chỉ còn khoảng 185 triệu tấn CO2
tương đương, cân bằng với khả năng hấp thụ KNK từ lĩnh vực lâm nghiệp, sử
dụng đất và các nguồn khác. Mục tiêu cụ thể là: đến năm 2030, cam kết tổng
lượng phát thải khí nhà kính từ ngành nông nghiệp giảm đi 43,0%, tức là lượng
phát thải không vượt quá 64 triệu tấn CO2 tương đương; đến năm 2050, cam kết
tổng lượng phát thải khí nhà kính từ ngành nông nghiệp giảm đi 63,1%, tức là
lượng phát thải không vượt quá 56 triệu tấn CO2 tương đương. [26]
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (2012) xác định: phát triển nông
nghiệp hữu cơ bền vững; nghiên cứu và điều chỉnh quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu
vật nuôi, cây trồng, mùa vụ trong trồng trọt và chăn nuôi; áp dụng các quy trình
và công nghệ sử dụng tiết kiệm và hiệu quả giống, thức ăn, vật tư nông nghiệp,
tài nguyên đất và nước; lan tỏa công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế thải
trong sản xuất nông nghiệp để tạo thức ăn chăn nuôi, trồng nấm, sản xuất nguyên
liệu công nghiệp, biogas và phân bón hữu cơ... nhằm giảm phát thải khí nhà kính 113
trong sản xuất nông nghiệp [22]. Như vậy, đối chiếu với Chiến lược Phát triển
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng xanh đóng một vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, cũng
như góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH.
Ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-
2030, với tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu chung của Chiến lược là thúc đẩy cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời
đảm bảo bền vững về môi trường và công bằng xã hội. Trong đó có mục tiêu cụ
thể là giảm cường độ phát thải KNK trên GDP; phát triển nông nghiệp hiện đại,
nông nghiệp sạch, hữu cơ bền vững, ít phát thải KNK. Cụ thể là, giảm cường độ
phát thải KNK trên GDP; phấn đấu đến năm 2030, cường độ phát thải KNK trên
GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014; đến năm 2050, cường độ phát thải KNK
trên GDP giảm ít nhất 30% so với năm 2014. [25]
Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH giai đoạn 2012 - 2020 đã xác
định giảm nhẹ phát thải KNK, phát triển nền kinh tế theo hướng carbon thấp là
một trong những mục tiêu, nhiệm vụ phải thực hiện; đồng thời khẳng định, quản
lý các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK là 1 trong 10 chương trình, đề án trọng
tâm cần được ưu tiên. Kế hoạch vạch ra là, trong các năm 2012 - 2015, Bộ
NN&PTNT phải hoàn việc nghiên cứu tái cơ cấu cây trồng và vật nuôi sao cho
phù hợp với điều kiện BĐKH, cùng với các đặc điểm sinh thái của từng vùng và
địa phương. Đồng thời, phát triển ứng dụng công nghệ sinh học và áp dụng các
quy trình sản xuất tiên tiến để thúc đẩy sự hiện đại hóa trong nông nghiệp.
Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020
đã xác định một trong bốn chủ đề chính là giảm cường độ phát thải KNK và thúc
đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Trong lĩnh vực nông nghiệp,
cần thực hiện sự đổi mới kỹ thuật canh tác nhằm giảm cường độ phát thải KNK.
Theo đó, phải áp dụng kỹ thuật canh tác nông nghiệp hữu cơ; sử dụng và tái chế
phụ phẩm, phế thải nông nghiệp; sử dụng chủ yếu thức ăn giàu dinh dưỡng trong 114
chăn nuôi; … Rà soát, kiến nghị điều chỉnh các quy hoạch chăn nuôi, trồng trọt
từ quan điểm phát triển bền vững, ít phát thải KNK.
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống tương đối đầy
đủ các văn bản gián tiếp hoặc trực tiếp định hướng chiến lược, kế hoạch QLNN
đối với phát thải KNK. Đó là:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 (Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng) (2011).
- Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (Quyết
định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ) đưa ra các định
hướng nhằm phát triển bền vững trong giai đoạn 2011 - 2020. Trong đó, vấn đề
sản xuất nông nghiệp bền vững, ít phát thải KNK được đặt lên ưu tiên hàng đầu;
đồng thời, xây dựng cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng địa bàn ưu tiên;
bảo đảm sử dụng bền vững tài nguyên đất, bảo vệ và phát triển rừng.
- Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 (Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 của Thủ tướng Chính
phủ) khuyến khích áp dụng các biện pháp canh tác, sử dụng đất bền vững, hạn chế
sử dụng hóa chất, phân bón vô cơ nhằm giảm tối đa phát thải KNK trong sản xuất
nông nghiệp. Một trong bốn định hướng mà chiến lược này đưa ra là xây dựng
năng lực ứng phó với BĐKH, giảm nhẹ phát thải KNK [21].
- Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2050 (Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ) xác
định mục tiêu cụ thể là góp phần nâng cao năng lực thích ứng với BĐKH và đẩy
mạnh giảm nhẹ phát thải KNK [21].
- Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa
XI về chủ động ứng phó với BĐKH, giảm phát thải KNK, tăng cường quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
Các bộ, ngành và địa phương đã có những chuyển biến tích cực trong nhận
thức và hành động quản lý phát thải KNK, chủ động lồng ghép mục tiêu giảm
phát thải KNK vào các chiến lược, kế hoạch phát triển ngành, chính sách phát 115
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Điều này cho thấy, quyết tâm giảm phát thải
KNK của Việt Nam. Trên cơ sở các văn bản định hướng chiến lược chung, Bộ
NN&PTNT đã xây dựng và ban hành các văn bản định hướng giảm phát thải KNK
và quản lý phát thải KNK trong nông nghiệp:
- Ngày 14/03/2016, Bộ NN&PTNT ban hành Quyết định số 819/QĐ-
BNN-KHCN, phê duyệt Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050 chỉ
ra các nhiệm vụ giảm phát thải KNK trong nông nghiệp.
- Căn cứ nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số
403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng
trưởng xanh giai đoạn 2014-2020, Bộ NN&PTNT ban hành Quyết định số
923/QĐ-BNN-KH, ngày 24/3/2017 phê duyệt Kế hoạch hành động tăng trưởng
xanh của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020. Theo đó đã
xác định nhiệm vụ phải nâng cao trình độ quản lý phát thải KNK nhằm phát triển
nền nông nghiệp xanh hướng đến nền kinh tế carbon thấp, giảm phát thải và tăng
cường khả năng hấp thụ KNK phù hợp với nguồn lực và tình hình thực tế, góp
phần thích ứng và ứng phó với BĐKH. Thực hiện mục tiêu đó, ngành nông nghiệp
tăng cường đổi mới kỹ thuật canh tác và hoàn thiện cơ chế quản lý, quyết tâm
giảm cường độ phát thải KNK trong sản xuất để đến năm 2020 giảm phát thải
20% KNK trong toàn ngành so với mức phát thải của năm 2010 [7].
+ Quyết định số 2053/2016/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH. Theo đó,
một trong bốn nhóm nhiệm vụ được đặt ra là giảm nhẹ phát thải KNK cho 02 giai
đoạn 2016-2020 và 2021-2030.
+ Quyết định QĐ 819/QĐ-BNN-KHCN ngày 17-3-2020 của Bộ
NN&PTNT phê duyệt Kế hoạch thực hiện thỏa thuận Paris về BĐKH của Bộ
NN&PTNT giai đoạn 2021-2030. Theo đó, để giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp, cần thực hiện quản lý nước và kỹ thuật canh tác lúa nước
(chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng cạn có hiệu quả kinh tế cao, quản 116
lý cây trồng tổng hợp trong canh tác lúa, rút nước giữa vụ, chuyển 2 vụ lúa sang
1 vụ lúa và 1 vụ tôm, tưới khô ẩm xen kẽ); quản lý nước và kỹ thuật canh tác cây
trồng cạn; quản lý chất thải chăn nuôi; cân đối khẩu phần thức ăn chăn nuôi và
kiểm soát lên men dạ cỏ cho gia súc nhai; quản lý, tái chế, sử dụng phụ phẩm cây
trồng để sản xuất phân bón hữu cơ và các sản phẩm hàng hóa có giá trị khác.
Những năm qua, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện nhiều hoạt động giảm nhẹ
phát KNK trong lĩnh vực nông nghiệp và đã đạt được một số kết quả nhất định,
được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Các biện pháp, hoạt động giảm
nhẹ phát thải KNK được thực hiện ở các quy mô khác nhau từ cấp quốc gia đến
cấp dự án thông qua thực hiện các chương trình, kế hoạch, hoạt động cụ thể, như
Hành động giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA),
hoạt động theo Cơ chế phát triển sạch (CDM), Cơ chế tín chỉ chung (JCM) của
các dự án liên quan tới giảm phát thải KNK, v.v…
Đến thời điểm này, kết quả kiểm kê KNK năm 2016 trong “Báo cáo cập
nhật hai năm một lần Lần thứ ba của Việt Nam cho Công ước khung của Liên
hiệp quốc về biến đổi khí hậu” do Bộ TN&MT thực hiện vào năm 2020 là số liệu
mới nhất được công bố. Tổng hợp lượng phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp phần trên (hình 3.7 và hình 3.8) cho thấy: Năm 1994, lượng KNK phát thải
trong nông nghiệp là 52,5 triệu tấn CO2 tương đương (CO2e), chiếm 50,5% tổng
lượng KNK phát thải của cả nước; Năm 2013, lượng KNK phát thải trong nông
nghiệp là 89,4 triệu tấn CO2e, chiếm 34,5% tổng lượng KNK phát thải của cả
nước; Năm 2014, lượng KNK phát thải trong nông nghiệp là 89,8 triệu tấn CO2e
- chiếm 27,9% tổng lượng KNK phát thải của cả nước; Năm 2016, lượng KNK
phát thải trong nông nghiệp là 89,7 triệu tấn CO2e - chiếm 28,3% tổng lượng
KNK phát thải của cả nước. Như vậy, lượng KNK phát thải trong nông nghiệp từ
năm 2013 đến năm 2016, tức là từ khi vấn đề QLNN đối với phát thải KNK được
Đảng và Nhà nước quan tâm, chiến lược cắt giảm phát thải KNK được lồng ghép
trong Chiến lược quốc gia về BĐKH (2011), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh (2012), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Chiến 117
lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Chiến lược quốc gia về
bảo vệ môi trường đến năm 2020, cùng với việc ban hành các kế hoạch và chỉ đạo
quyết liệt thực hiện các chiến lược của Chính phủ, lượng KNK phát thải trong
nông nghiệp gần như giữ nguyên, chúng ta bước đầu kìm chế được lượng phát
thải KNK mà trước đó tăng lên từng năm.
Hướng tới mục tiêu đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050 theo đúng
những gì Việt Nam đã cam kết tại COP26, Chính phủ cũng như các bộ, ngành,
địa phương đã vào cuộc với quyết tâm cao, đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật,
giải pháp nhằm cắt giảm phát thải KNK theo đúng lộ trình đề ra. Theo Chiến lược
quốc gia về BĐKH (2011), mục tiêu giảm phát thải KNK trong nông nghiệp là cứ
sau 10 năm giảm phát thải KNK 20% KNK [19], theo đó, mục tiêu cụ thể là: đến
năm 2030, bảo đảm tổng lượng phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp giảm
43,0%, lượng phát thải không vượt quá 64 triệu tấn CO2tđ; đến năm 2050, bảo
đảm tổng lượng phát thải KNK lĩnh vực nông nghiệp giảm 63,1%, lượng phát thải
không vượt quá 56 triệu tấn CO2tđ [26]. Để đạt được các mục tiêu đó, nhiều biện
pháp sản xuất nông nghiệp giảm phát thải KNK đã được áp dụng có hiệu quả.
Năm 2020 đã giảm được 1,5 triệu tấn CO2tđ, trong các tiểu lĩnh vực canh tác lúa,
tiêu hoá thức ăn chăn nuôi và quản lý chất thải nông nghiệp. [18]
Tuy vậy, khi được hỏi về việc tuyên truyền ứng dụng các giải pháp tiên
tiến, thành tựu khoa học - kỹ thuật mới trong sản xuất, xử lý các phụ phẩm nông
nghiệp nhằm giảm nhẹ phát thải KNK hiện nay, các chuyên gia đều cho rằng,
chưa được thực hiện tốt. Một chuyên gia cho biết: “Việc ứng dụng các giải pháp
kỹ thuật trong sản xuất, xử lý các phụ phẩm trong nông nghiệp hiện nay của nước
ta mới chỉ áp dụng với quy mô nhỏ hẹp, quy trình xử lý vẫn còn thủ công, dây
truyền xử lý đơn giản, chưa được triển khai nhân rộng do phong tục tập quán của
người nông dân vẫn coi phế phụ phẩm trong nông nghiệp là những cái cần phải
loại bỏ đi không sử dụng được nữa, chứ chưa nghĩ được phế phụ phẩm trong nông
nghiệp là một tài nguyên chưa được khai thác đúng mức”. Một chuyên gia khác
đến từ địa phương nêu lên thực trạng: “Các giải pháp khoa học - kỹ thuật chỉ mới 118
được thực hiện trình diễn, chưa nhân rộng trong sản xuất. Nhiều người dân cho
rằng, các biện pháp đó phức tạp, tốn kém, chưa ý thức được tầm quan trọng của
việc giảm nhẹ phát thải KNK”.
3.3.2. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm
phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Để thực hiện các chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải KNK, một loạt
các chính sách cụ thể cho từng giai đoạn, cùng hệ thống pháp luật điều chỉnh các
hoạt động sản xuất nông nghiệp được ban hành nhằm hướng chúng vào thực hiện
các mục tiêu cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp mà chiến lược
đã đề ra.
3.3.2.1. Xây dựng và thực thi hệ thống chính sách giảm phát thải khí nhà
kính trong lĩnh vực nông nghiệp
- Chính sách thích ứng và giảm nhẹ BĐKH gắn với giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp, gồm có:
Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH nhằm đánh
giá tác động của BĐKH, đề ra các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH thông
qua việc giảm phát thải KNK. Theo đó, các giải pháp nhằm giảm nhẹ phát thải
KNK trong nông nghiệp là: áp dụng công nghệ trong trồng trọt như tưới khô ướt
xen kẽ; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xác định thời vụ hợp lý; chuyển đổi đất lúa
kém hiệu quả thành đất cây trồng cạn; phát triển chăn nuôi, cải thiện khẩu phần
ăn cho gia súc nhai lại; xử lý chất thải chăn nuôi và phụ phẩm trồng trọt;…..
- Chính sách tăng trưởng xanh gắn với giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp, gồm có:
+ Quyết định số 419/2017/QĐ-TTg ngày 5/4/2017 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về giảm phát thải KNK thông qua hạn chế
mất và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững
tài nguyên rừng đến năm 2030. Theo đó, quyết định đã xác định mục tiêu là: góp
phần bảo vệ và nâng cao chất lượng rừng tự nhiên, mở rộng diện tích và nâng cao 119
chất lượng rừng trồng; gắn và lồng ghép với việc thực hiện mục tiêu quốc gia về
giảm phát thải KNK, bảo vệ và phát triển rừng, tăng trưởng xanh; thu hút sự hỗ
trợ của quốc tế, tiến tới tiếp cận thị trường tín chỉ carbon; nâng cao đời sống của
người dân và phát triển bền vững đất nước.
+ Quyết định số 1044/QĐ-TTg ngày 5/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về tăng trưởng xanh. Ban Chỉ đạo có
nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất phương hướng, giải pháp để giải quyết những vấn
đề quan trọng, liên ngành về tăng trưởng xanh; đồng thời giúp Chính phủ giải
quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành về tăng trưởng xanh.
- Chính sách phát triển bền vững gắn với giảm phát thải KNK trong lĩnh
vực nông nghiệp.
+ Quyết định số: 3119/QĐ-BNN-KHCN, ngày 16/12/2011 của Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Phê duyệt Đề án giảm phát thải KNK trong nông
nghiệp, nông thôn đến năm 2020. Theo đó, để phát triển nông nghiệp bền vững,
ưu tiên hang đầu là giảm pháp thải KNK, thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp
xanh theo hướng an toàn, ít phát thải KNK.
+ Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ban hành
danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK. Theo đó,
nông nghiệp là 1 trong 6 lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê KNK.
+ Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07/01/2022 của Chính phủ ban hành
Quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn. Mục tiêu giảm nhẹ phát
thải KNK quy định tại Nghị định là sự cụ thể hóa mục tiêu cam kết của Việt Nam
trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), trong đó có mục tiêu cho lĩnh
vực nông nghiệp theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Nghị định xác định
lộ trình thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK đến năm 2030 chia làm hai giai đoạn
là 2021-2025 và 2026-2030. Giai đoạn 2021-2025, các cơ sở chưa bắt buộc phải
giảm phát thải KNK; giai đoạn 2026-2030, các cơ sở phát thải KNK phải thực
hiện kiểm kê KNK, xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK theo
120
hạn ngạch được phân bổ, được tham gia thị trường carbon trong nước.
- Chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư vào nông nghiệp sạch, ít phát thải
KNK.
+ Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị và phát
triển bền vững. Đề án vạch ra một trong các mục tiêu là giảm phát thải KNK, nâng
tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc, góp phần thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh
của quốc gia.
+ Nghị định số 57/NĐ-CP, ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính
sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Theo đó,
ngân sách địa phương sẽ hỗ trợ lãi suất vay cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn; các công trình xây dựng trên đất của doanh nghiệp
đầu tư được tính là tài sản để thế chấp vay vốn tại các ngân hàng thương mại (Điều
8). Ngoài ra, nghị định còn quy định nhiều ưu đãi khác nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp vì sự phát triển bền vững, ít phát thải và
KNK.
+ Nghị định số 55/2015/NĐ-CP, ngày 9/6/2015 của Chính phủ về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị định này quy định
về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, góp phần xây
dựng nền nông nghiệp bền vững, giảm phát thải KNK.
- Chính sách kiểm kê KNK và kinh doanh tín chỉ carbon nhằm quản lý
giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Quyết định số 2359/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK. Nghị định xác định mục tiêu
chung là xây dựng Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK; đồng thời, thiết lập cơ sở
pháp lý cho công tác kiểm kê KNK.
+ Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21/11/2012 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án quản lý phát thải KNK; quản lý các hoạt động kinh doanh
tín chỉ carbon ra thị trường thế giới. Đề án đề ra mục tiêu đến năm 2020 nông
nghiệp nước ta giảm phát thải KNK được khoảng 20% so với năm 2005 (trong 121
đó, ngành trồng trọt giảm 9,46 triệu tCO2e, ngành chăn nuôi giảm 6,3 triệu tCO2e).
Các giải pháp quản lý kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp được đưa ra là: áp dụng
các biện pháp canh tác lúa tiên tiến, tiết kiệm nước và giảm chi phí đầu vào; áp
dụng các biện pháp kỹ thuật nâng cao hiệu quả sử dụng phân đạm, giảm phát thải
N2O trong canh tác lúa và các cây trồng; áp dụng các biện pháp canh tác tối thiểu
nhằm giảm phát thải KNK; tái chế, tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp; áp dụng
công nghệ xử lý chất thải hữu cơ trong canh tác; thay đổi khẩu phần thức ăn trong
chăn nuôi; áp dụng quy trình Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam
(VietGAP); ….
+ Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07/01/2022 của Chính phủ ban hành
Quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn. Theo đó, Giai đoạn từ
nay đến hết năm 2027: Tập trung xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt
động trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon, quy chế vận hành sàn
giao dịch tín chỉ carbon; triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon
trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín
chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên; thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn
giao dịch tín chỉ carbon; triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao
nhận thức về phát triển thị trường carbon. Giai đoạn từ năm 2028: Tổ chức vận
hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức; quy định các hoạt động kết nối, trao
đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.
Triển khai các chính sách đầu tư cho nông nghiệp sạch, ít phát thải KNK,
tại các địa phương, UBND tỉnh giao Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Sở
NN&PTNT tham mưu UBND tỉnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp
về chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư sản xuất nông nghiệp giảm phát thải
KNK; tham mưu bố trí vốn từ nguồn vốn đầu tư công để hỗ trợ đầu tư cho các
chương trình, dự án hướng đến giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Sở Tài chính phối hợp với Sở TN&MT và Sở NN&PTNT tham mưu UBND tỉnh
triển khai thực hiện các hoạt động liên quan đến giảm phát thải KNK trong lĩnh 122
vực nông nghiệp. Sở Khoa học và Công nghệ triển khai các hoạt động nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng chuyển giao công nghệ về giảm phát
thải KNK.
3.3.2.2. Xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải
khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Việt Nam ngày càng chú ý xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật quản
lý giảm phát thải KNK. Một hệ thống luật và văn bản dưới luật liên quan tới quản
lý giảm phát thải KNK được ban hành đã hình thành hệ thống khung pháp lý để
quản lý vấn đề này.
Để quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, cần phải áp
dụng nhiều luật liên quan, bao gồm: Luật về bảo vệ môi trường, Luật chăn nuôi.
Luật trồng trọt, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật đất đai,... và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thi hành.
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, Luật Bảo vệ
Môi trường được coi là đạo luật quan trọng trong việc quản lý giảm phát thải
KNK. Luật Bảo vệ Môi trường (2020) đã điều chỉnh và bổ sung các quy định liên
quan đến giảm phát thải KNK, trong đó tập trung vào xác định nội dung cũng như
trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành liên quan và chính quyền địa phương
trong việc giảm phát thải KNK. Luật cũng đã quy định về việc tổ chức và phát
triển thị trường carbon trong nước - đây được xem như một công cụ quan trọng
để thúc đẩy quá trình giảm phát thải KNK. Khoản 5 của Điều 91 trong Luật này
cũng đề ra trách nhiệm của Bộ TN&MT trong việc quản lý lĩnh vực thuộc đối
tượng cần thực hiện kiểm kê phát thải KNK. Như vậy, Bộ NN&PTNT phải tổ
chức kiểm kê phát thải KNK trong phạm vi ngành mình 2 năm một lần và gửi báo
cáo về Bộ TN&MT trước ngày 30 tháng 01 của kỳ báo cáo tiếp theo [34].
- Để hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường 2020 về quản lý giảm phát thải
KNK, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật sau:
+ Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ về Quy
định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn. Nghị định quy định chi tiết 123
một số điều của Luật Bảo vệ môi trường - đó là Điều 91 về giảm nhẹ phát thải
KNK, Điều 92 về bảo vệ tầng ô-dôn, Điều 139 về tổ chức và phát triển thị trường
carbon. Nghị định này còn quy định đối tượng thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK;
mục tiêu, lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải, tăng cường hấp thụ KNK;
hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK; hoạt động kiểm kê
KNK cấp quốc gia, cấp lĩnh vực và cấp cơ sở; phân bổ hạn ngạch phát thải KNK;
kế hoạch và kết quả giảm nhẹ phát thải KNK; yêu cầu đối với các đơn vị thẩm
định; trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK. Cụ thể,
đối tượng thực hiện việc giảm nhẹ phát thải KNK là các cơ sở thuộc danh mục
lĩnh vực và cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK theo quy định được
ban hành. Phương thức giảm nhẹ phát thải KNK bao gồm việc thực hiện các biện
pháp và chính sách quản lý để hạn chế phát thải KNK. Kế hoạch giảm nhẹ phát
thải KNK được phân chia thành cấp lĩnh vực và cấp cơ sở, với mục tiêu xác định
và thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu lượng phát thải KNK. Chính
phủ giao mục tiêu cho Bộ NN&PTNT đến năm 2030, lĩnh vực nông nghiệp giảm
tối thiểu 129,8 triệu tấn CO2tđ phát thải KNK, trong tổng số 563,8 triệu tấn CO2tđ
của cả nước.
+ Nghị định số 45/2022/NĐ-CP ngày 07-7-2022 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Theo đó, các
hành vi vi phạm quy định về giảm nhẹ phát thải KNK sẽ bị xử phạt vi phạm hành
chính.
+ Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18-01-2022 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê
KNK. Theo đó, có 6 lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê KNK, trong đó có nông
nghiệp.
* Để cụ thể hóa, hiện thực hóa chính sách, pháp luật liên quan đến QLNN
đối với phát thải KNK còn có một số văn bản riêng cho ngành nông nghiệp:
- Quyết định số: 3119/QĐ-BNN-KHCN ngày 16/12/2011 của Bộ
NN&PTNT phê duyệt Đề án giảm phát thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn 124
đến năm 2020. Đề án xác định mục tiêu thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp
xanh theo hướng an toàn, ít phát thải, và bền vững, nhằm đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia và góp phần hiệu quả trong việc giảm nghèo và ứng phó với BĐKH.
Đến năm 2020, mục tiêu giảm phát thải KNK trong nông nghiệp và nông thôn là
20% (tương đương khoảng 18,87 triệu tấn CO2e) [2]. Các giải pháp giảm phát thải
KNK trong nông nghiệp được đề án đề xuất gồm: chuyển đổi một phần diện tích
đất trồng lúa không hiệu quả sang việc trồng cây công nghiệp ngắn ngày có mức
độ phát thải thấp và hiệu quả kinh tế cao; thay đổi một vụ lúa trên diện tích đất
trồng 2 - 3 vụ lúa không hiệu quả ở các vùng ven sông, ven biển sang hoạt động
nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế cao; tiến hành thay thế dần thức ăn thô bằng
thức ăn tinh; áp dụng công nghệ ủ yếm khí từ chất thải chăn nuôi; sử dụng công
nghệ biogas để xử lý phế thải từ chăn nuôi và sản xuất nhiên liệu sạch.
Như vậy, theo đề án này, cần phải quy hoạch, phân bố không gian các
vùng trồng trọt và chăn nuôi hợp lý nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của
từng vùng, hình thành vùng chuyên môn hóa nông nghiệp, đảm bảo phát triển bền
vững, ít phát thải KNK.
Mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng
hiện đại và bền vững, tập trung sản xuất hàng hóa quy mô lớn dựa trên việc tận
dụng các lợi thế so sánh, chỉ có thể thực hiện thành công khi thực hiện quy hoạch
vùng cây trồng và vật nuôi phù hợp với các yếu tố như đất đai, khí hậu, điều kiện
xã hội, bảo vệ môi trường và giảm phát thải KNK. Đồng thời, việc áp dụng khoa
học và công nghệ vào sản xuất sẽ giúp tăng năng suất, cải thiện chất lượng, tăng
hiệu quả, đảm bảo sự vững chắc của an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu
cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu. Từ đó, còn nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
tài nguyên nước, lao động và nguồn vốn. Như vậy, quy hoạch vùng nông nghiệp
còn là công cụ quản lý nói chung, trong đó có quản lý phát thải KNK của cơ quan
chức năng.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành trồng trọt, chuyển mạnh phát triển
chăn nuôi theo hình thức công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, gắn với 125
bảo vệ môi trường, ít phát thải KNK. Ngày nay, nhu cầu về chất lượng và số lượng
sản phẩm ngày càng cao, yêu cầu về môi trường phải bảo đảm, thì phương thức
canh tác manh mún, chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán không còn phù hợp. Trước tình
hình đó, nhiều địa phương đã tiến hành phát triển nông nghiệp theo hướng hình
thành các khu vực trồng trọt chuyên canh, các vùng chăn nuôi quy mô lớn, và các
khu nông nghiệp áp dụng công nghệ cao. Nhận thức sớm về điều này, nhiều địa
phương đã thực hiện quy hoạch kỹ càng cho các khu vực chăn nuôi và trồng trọt,
tập trung vào việc đạt được hiệu suất kinh tế, bảo vệ môi trường và cải thiện đời
sống xã hội. Điều này đã giúp nhiều gia đình vượt qua tình trạng nghèo khó và
vươn lên làm giàu.
- Quyết định số 7208/QĐ-BNN ngày 25/8/2016 của Bộ NN&PTNT ban
hành Kế hoạch thực hiện NDC trong ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2030.
Bản kế hoạch được ban hành đã xác định các biện pháp cụ thể về thích ứng với
BĐKH và giảm nhẹ phát thải KNK trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và
nuôi trồng thủy hải sản.
- Luật Chăn nuôi (2018) ban hành đã tạo khung pháp lý và các công cụ
QLNN đối với lĩnh vực chăn nuôi nhằm giảm thiểu chất thải khí gây ô nhiễm môi
trường và tạo hiệu ứng KNK toàn cầu. Chương IV của Luật gồm 12 điều quy định
về điều kiện cơ sở chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi với nhiều quan điểm
mới. Nhiều chính sách, quy định liên quan đến xử lý chất thải chăn nuôi trên quan
điểm không đánh đổi môi trường lấy lợi ích kinh tế đã được thể hiện trong Luật.
Việc quản lý chất thải chăn nuôi góp phần giảm phát thải KNK có tuổi thọ ngắn
(CH4 và N2O), giúp giảm khí thải nhà kính nói chung. Tuy nhiên, để thực thi Luật
Chăn nuôi một cách hiệu quả, Bộ NN&PTNT phải ban hành các Thông tư hướng
dẫn và một số Quy chuẩn kỹ thuật (QCVN) kèm theo.
Điều 70 Luật Trồng trọt (2018) quy định canh tác thích ứng với BĐKH
như sau: Một là, áp dụng giải pháp phù hợp trong canh tác để thích ứng với BĐKH
và giảm phát thải KNK. Hai là, Bộ NN&PTNT có trách nhiệm xác định giải pháp
phù hợp để thích ứng với BĐKH và giảm phát thải KNK trong canh tác; lồng ghép 126
các giải pháp thích ứng với BĐKH và giảm phát thải KNK khi xây dựng và thực
hiện chiến lược, chương trình, đề án, dự án phát triển trồng trọt. Ba là, UBND cấp
tỉnh (trực tiếp là Sở TN&MT và Sở NN&PTNT) tổ chức đánh giá tác động của
BĐKH, hướng dẫn tổ chức, cá nhân áp dụng biện pháp thích ứng với BĐKH và
giảm phát thải KNK trong trồng trọt tại địa bàn. Bốn là, khuyến khích tổ chức, cá
nhân canh tác áp dụng các biện pháp thích ứng với BĐKH và giảm phát thải KNK
[33].
- Nghị định số 62/2019/NĐ-CP ngày 11/7/2019, sửa đổi, bổ sung một số
điều Nghị định số 35/2015/NĐ-CP ngày 13/4/2015 của Chính phủ về quản lý, sử
dụng đất trồng lúa hiệu quả, giảm phát thải KNK.
Có thể nói, hơn một thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong
ban hành các văn bản pháp luật liên quan tới quản lý giảm phát thải KNK. Việc
quản lý giảm phát thải KNK được thực hiện bằng nhiều biện pháp, được điều
chỉnh lồng ghép trong nhiều đạo luật và văn bản pháp luật. Các văn bản trên đã
đề cập đến mục tiêu quản lý nông nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững nhìn
từ góc độ giảm phát thải KNK. Tuy nhiên, trong các văn bản này, có những văn
bản đề cập rõ và cụ thể các nhiệm vụ, giải pháp nhằm giảm thiểu lượng phát thải
KNK trong nông nghiệp, nhưng có những văn bản đề cập chung cho tất cả các
ngành.
Để triển khai các quy định pháp luật quản lý giảm phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp, UBND các tỉnh giao Sở TN&MT và Sở NN&PTNT làm
cơ quan đầu mối, theo dõi, hướng dẫn các cơ sở trồng trọt và chăn nuôi trên địa
bàn triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày
07/01/2022 của Chính phủ Quy định về giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng
ô-dôn; Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính
phủ Ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê
khí nhà kính; Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT ngày 07/01/2022 của Bộ trưởng
Bộ TN&MT Quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường về ứng phó với
biến đổi khí hậu. Các Sở TN&MT là cơ quan thường trực tham mưu giúp các 127
UBND tỉnh tổ chức thẩm định kết quả kiểm kê KNK cấp cơ sở theo đúng quy
trình, quy định của pháp luật và Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT của Bộ
TN&MT. Sở NN&PTNT phối hợp với Sở TN&MT rà soát, cập nhật, điều chỉnh
danh mục cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 06/2022/NĐ-CP đảm bảo
tính chính xác, thống nhất và minh bạch; hướng dẫn, đôn đốc các cơ sở trên địa
bàn thuộc danh mục các cơ sở phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp phải
thực hiện kiểm kê KNK tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg cập nhật, cung cấp
thông tin, dữ liệu theo biểu mẫu kèm theo tại Văn bản số 1295/BTNMT-BĐKH.
3.3.3. Thực hiện kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm phát thải
khí nhà kính
Việt Nam đã phê chuẩn Công ước khung của Liên hiệp quốc về BĐKH từ
năm 1994. Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm xây dựng các báo
cáo quốc gia về BĐKH, trong đó bao gồm việc kiểm kê quốc gia về phát thải
KNK để gửi tới Ban Thư ký Công ước. Nhằm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình, từ năm 2010 đến nay, Việt Nam đã triển khai 5 kỳ kiểm kê quốc
gia về phát thải KNK cho các năm cơ sở 2000, 2010, 2013, 2014 và 2016. Trong
quá trình thực hiện kiểm kê quốc gia về phát thải KNK, Việt Nam tuân thủ hướng
dẫn kiểm kê của Ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC). Kết quả kiểm kê quốc gia
KNK qua 5 kỳ kiểm kê như sau: năm 2000 có lượng phát thải tương đương 150,9
triệu tấn CO2; năm 2010 là 264,2 triệu tấn CO2; năm 2013 là 259,0 triệu tấn CO2;
năm 2014 là 278,7 triệu tấn CO2; năm 2016 là 316,7 triệu tấn CO2.
Những nỗ lực giảm phát thải KNK tại Việt Nam trong những năm qua đã
được tập hợp và ghi lại trong các Báo cáo cập nhật hàng năm gửi tới Ban Thư ký
Công ước, bao gồm cả lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Tuy nhiên, do chưa có yêu
cầu cụ thể về việc đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) kết quả giảm phát thải
KNK, nên các số liệu thống kê về lượng giảm phát thải từ các hoạt động vẫn chưa
128
được cung cấp chi tiết, cụ thể và đầy đủ.
Từ năm 2021 trở đi, Việt Nam đã cam kết giảm phát thải KNK so với mức
theo kịch bản phát triển thông thường (BAU) đến năm 2030, bao gồm cả việc xác
định chỉ tiêu giảm phát thải cụ thể cho từng lĩnh vực. Do đó, từ năm 2021, các chỉ
tiêu giảm phát thải KNK sẽ được thực hiện việc đo đạc, báo cáo và thẩm định theo
quy định quốc tế, đồng thời được công khai công chúng.
Để thống nhất quy trình, phương pháp kiểm kê KNK, cũng như đảm bảo
minh bạch hóa các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK, đồng thời kiểm soát chất
lượng kiểm kê KNK theo ngành, lĩnh vực và quốc gia, Hệ thống kiểm kê KNK và
Hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) giảm nhẹ phát thải KNK quốc gia
đã được phê duyệt. Ngày 22/12/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 2359/QĐ-TTg phê duyệt việc thành lập Hệ thống quốc gia về kiểm kê
KNK. Theo quyết định này, mục tiêu chính của việc xây dựng Hệ thống quốc gia
về kiểm kê KNK là thiết lập cơ sở pháp lý cho công tác kiểm kê KNK, đồng thời
xây dựng một hệ thống có khả năng thực hiện kiểm kê KNK và xây dựng Báo cáo
quốc gia về BĐKH định kỳ hai năm một lần để phục vụ công tác quản lý giảm
phát thải KNK trong nước. Hệ thống cũng có nhiệm vụ giám sát các nguồn phát
thải KNK; góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nền kinh tế ít phát thải KNK và
tăng trưởng xanh; đo đạc, báo cáo và thẩm định các hoạt động giảm phát thải
KNK phù hợp với điều kiện quốc gia và các mục tiêu giảm nhẹ KNK của Việt
Nam. Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK bao gồm: Cơ quan đầu mối (Bộ Tài
nguyên và Môi trường) và các cơ quan phối hợp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, UBND các
tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương). Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, tại Điều
9 quy định chi tiết về công tác đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải
KNK; đồng thời, quy định trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương và các tổ
chức, cá nhân trong theo dõi, giám sát, kiểm tra các hoạt động giảm nhẹ phát thải
KNK để thực hiện mục tiêu của Chính phủ và cam kết của Việt Nam với cộng
đồng quốc tế. Quy định chi tiết về yêu cầu về đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm
129
nhẹ phát thải KNK được thể hiện tại Điều 10.
Pháp luật và văn bản hướng dẫn thực hiện kiểm kê KNK phục vụ QLNN
đối với phát thải KNK đã được ban hành, gồm có:
- Luật Bảo vệ môi trường 2020 (mục 7 Điều 91) quy định trách nhiệm của
cơ sở phát thải KNK thuộc danh mục phải thực hiện kiểm kê KNK như sau: a) Tổ
chức thực hiện kiểm kê KNK, xây dựng và duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu phát thải
KNK và gửi kết quả kiểm kê KNK định kỳ 02 năm một lần đến Bộ TN&MT trước
ngày 01 tháng 12 của kỳ báo cáo để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ; b)
Xây dựng, thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK hằng năm; thực hiện lồng ghép
hoạt động giảm phát thải KNK với chương trình quản lý chất lượng, chương trình
sản xuất sạch, chương trình bảo vệ môi trường của cơ sở; c) Hằng năm lập báo
cáo mức giảm phát thải KNK để thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK của cơ
sở theo hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định gửi Bộ TN&MT và các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, UBND cấp tỉnh (trực tiếp là Sở TN&MT và Sở NN&PTNT) có liên
quan trước ngày 31 tháng 12 của kỳ báo cáo.
- Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 07/1/2022 của Chính phủ quy định đối
tượng phải thực hiện kiểm kê KNK gồm: các cơ sở phát thải KNK phải thực hiện
kiểm kê KNK là cơ sở có mức phát thải KNK hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương
đương trở lên thuộc 6 lĩnh vực, trong đó có nông nghiệp.
- Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày 18/1/2022 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê
KNK. Theo đó, có 6 lĩnh vực phải thực hiện kiểm kê KNK trong đó có nông
nghiệp; các cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK là cơ sở có mức
phát thải KNK hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên.
- Ngày 15/11/2022, Bộ TN&MT ban hành Thông tư số 17/2022/TT-
BTNMT Quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK
và kiểm kê KNK lĩnh vực quản lý chất thải. Theo thông tư: công tác kiểm kê KNK
được thực hiện ở cấp lĩnh vực và cấp cơ sở; tương ứng, công tác đo đạc, báo cáo
130
kết quả giảm nhẹ phát thải KNK cũng chia theo cấp lĩnh vực và cấp cơ sở. Quy
trình thực hiện kiểm kê KNK cấp lĩnh vực quản lý chất thải được thực hiện qua
09 bước, được quy định từ Điều 6 đến Điều 13.
- Ngày 07/01/2022, Bộ TN&MT ban hành Thông tư số 01/2022/TT-
BTNMT quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường về ứng phó với BĐKH.
Một trong ba nội dung chính của thông tư là: Hướng dẫn thẩm định kết quả kiểm
kê KNK và thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK đối với cơ sở phải thực hiện kiểm
kê KNK. Theo đó, quy trình thẩm định kết quả kiểm kê KNK và giảm nhẹ phát
thải KNK trong nông nghiệp do Bộ NN&PTNN thực hiện thông qua Hội đồng
thẩm định với sự tham gia của đại diện Bộ NN&PTNN, Bộ TN&MT, các Bộ có
liên quan và các chuyên gia có chuyên môn phù hợp. Bộ NN&PTNN đảm nhiệm
vai trò tổ chức hiệu chỉnh kết quả kiểm kê KNK và lập báo cáo thẩm định về giảm
nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp dựa trên những kết luận từ Hội
đồng thẩm định; làm cơ sở xây dựng báo cáo của Bộ NN&PTNN phục vụ kiểm
kê KNK cấp quốc gia và báo cáo tổng hợp giảm nhẹ phát thải KNK.
Trong những năm gần đây, công tác kiểm kê KNK hai năm một lần ở cả
cấp quốc gia và cấp lĩnh vực đã được thực hiện đúng quy định do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành và được tiến hành kiểm tra chéo - điều đó cho thấy
nỗ lực của Việt Nam trong việc giảm nhẹ phát thải KNK. Tuy nhiên, theo một
chuyên gia được phỏng vấn từ địa phương cho biết: “Hiện chỉ kiểm kê theo danh
mục được quy định tại Quyết định 01/2022/QĐ-TTg ban hành danh mục lĩnh vực,
cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK, chưa có hướng dẫn chuyên
ngành, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện kiểm kê phát thải
KNK trong nông nghiệp tại địa phương. Bộ NN& PTNT cần nghiên cứu, xây dựng
văn bản hướng dẫn thực hiện và tổ chức tập huấn kiến thức chuyên sâu về kiểm
kê KNK lĩnh vực nông nghiệp”. Một chuyên gia ở một địa phương khác có đồng
quan điểm: “Hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể chuyên ngành nông nghiệp
cho địa phương về việc thực hiện kiểm kê phát thải KNK mà thực hiện theo quy
định hiện hành của pháp luật về môi trường; Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định
giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn; Thông tư 01/2022/TT-BTNMT quy 131
định chi tiết luật bảo vệ môi trường về ứng phó BĐKH và Quyết định 01/2022/QĐ-
TTg ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê
KNK”. Một chuyên gia khác cũng cho biết: “Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 Quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ
tầng ô- dôn, Tuy nhiên, Bộ NN&PTNT chưa ban hành Văn bản quy định kỹ thuật
đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK và kiểm kê KNK, cũng như
Kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK thuộc lĩnh vực được giao”.
Có thể nói, Việt Nam đã chủ động, nỗ lực thích ứng với các tác động của
BĐKH và từng bước thực hiện lộ trình giảm nhẹ phát thải KNK. Tuy nhiên, hiện
nay, việc đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện thực trạng phát thải KNK tại Việt
Nam vẫn đang đối mặt với nhiều khó khan, thực hiện quy trình và phương pháp
kiểm kê KNK cũng vẫn là một thách thức.
3.3.4. Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm
kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Mặc dù khoản d điểm 1 Điều 41 Luật Bảo vệ Môi trường (2014) trong nội
dung quản lý giảm phát thải KNK đã quy định: Kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ
các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải KNK. Song, công tác này trước
đây thực hiện chưa tốt vì chưa có quy định cụ thể đối tượng phải thực hiện kiểm
kê KNK; chưa có quy định trách nhiệm rõ ràng đối với các cơ quan QLNN về
phát thải KNK; chưa có quy định chi tiết yêu cầu về đo đạc, báo cáo, thẩm định
giảm nhẹ phát thải KNK.
Từ ngày 1/1/2021, Việt Nam bắt buộc phải thực hiện giảm phát thải KNK
theo cam kết tại Thỏa thuận Paris về BĐKH. Vả lại, việc giám sát tuân thủ các
quy định về kiểm kê KNK đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường 2020. Do đó,
công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động giảm phát thải KNK ở Việt Nam
bắt buộc phải thực hiện nghiêm túc. Điều 91 Luật Bảo vệ môi trường mới quy
định: Theo dõi, giám sát việc tuân thủ các quy định về kiểm kê KNK, giảm nhẹ
phát thải KNK; việc thực hiện cơ chế, phương thức hợp tác về giảm nhẹ phát thải
KNK. Theo đó, 1) Bộ TN&MT có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ các quy định 132
về thực hiện hoạt động kiểm kê KNK, giảm phát thải KNK, thực hiện cơ chế,
phương thức hợp tác về giảm nhẹ phát thải KNK; xây dựng và triển khai các cơ
chế, phương thức hợp tác về giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với quy định của
pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tổ chức và phát triển
thị trường carbon trong nước; 2) UBND cấp tỉnh (trực tiếp là Sở TN&MT và Sở
NN&PTNT) có trách nhiệm kiểm tra thực hiện hoạt động kiểm kê KNK, giảm
phát thải KNK và thực hiện cơ chế, phương thức hợp tác về giảm nhẹ phát thải
KNK trong phạm vi quản lý; 3) Cơ sở phát thải KNK thuộc danh mục phải báo
cáo thực hiện hoạt động kiểm kê KNK, giảm phát thải KNK và thực hiện cơ chế,
phương thức hợp tác về giảm nhẹ phát thải KNK gửi Bộ TN&MT và các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh (mà trực tiếp là Sở TN&MT và Sở NN&PTNT)
có liên quan trước ngày 31 tháng 12 của kỳ báo cáo để tổng hợp, báo cáo Thủ
tướng Chính phủ.
Mặc dù, công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp đã được quan tâm và có nhiều chuyển biến. Tuy nhiên,
các hoạt động này chưa được các cơ quan QLNN đối với phát thải KNK thực hiện
thường xuyên, các đối tượng bắt buộc phải thực hiện kiểm kê KNK chưa nhận
thức đầy đủ trách nhiệm phải giảm phát thải KNK, vì vậy hành vi vi phạm pháp
luật phát thải KNK vẫn diễn ra, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, góp phần gây
hiệu ứng nhà kính. Trước thực trạng này, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo nhằm tăng cường
công tác QLNN đối với phát thải KNK. Theo đó, Chính phủ đã quy định cụ thể
đối tượng phải thực hiện kiểm kê KNK tại Nghị định 06/2022/NĐ-CP, ngày
07/1/2022; Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải
KNK phải thực hiện kiểm kê KNK tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày
18/1/2022.
Cùng với công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động phát thải KNK,
công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng về cắt giảm phát
thải KNK đã được triển khai, tuy nhiên chưa đi sâu được đến người dân, còn hình 133
thức, chưa thực tế. Một chuyên gia từ địa phương cho biết: “Công tác tuyên truyền
giảm nhẹ phát thải KNK từ các hoạt động nông nghiệp chưa được thực hiện
thường xuyên, chủ yếu tuyên truyền lồng ghép thông qua các cuộc hội thảo, tập
huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật”. Một chuyên gia khác cũng đồng quan điểm:
“Các hoạt động tuyên truyền về giảm nhẹ phát thải KNK trong nông nghiệp hiện
nay chưa đi đến được tới những người nông dân là nguồn gây ra phát thải chính.
Cách thức tuyên truyền hiện nay là thông qua các hội thảo, tọa đàm, do đó độ lan
tỏa đến xã hội chưa cao. Ngoài ra, cách thức tuyên truyền cần phải cải tiến để
phù hợp với trình độ của nhiều đối tượng”.
3.3.5. Xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối
với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Trong quản lý giảm phát thải KNK, Nhà nước đóng vai trò chính trong
xây dựng, thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách đối với
phát thải KNK. Các Bộ, ngành và UBND (trực tiếp là Sở TN&MT và Sở
NN&PTNT) các tỉnh phối hợp thực hiện và quản lý các hoạt động giảm nhẹ phát
thải KNK thuộc lĩnh vực và địa phương mình quản lý. Bộ TN&MT được giao
chức năng QLNN tổng hợp và thống nhất về KNK.
Điều 91 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức trong bộ máy QLNN đối với phát thải KNK. Theo đó, trách nhiệm,
mối quan hệ của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy QLNN đối với phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp theo thẩm quyền là:
- Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK
phải thực hiện kiểm kê KNK (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp).
- Bộ TN&MT (trực tiếp là Cục Biến đổi khí hậu) là cơ quan chủ trì công
tác QLNN đối với phát thải KNK có các trách nhiệm sau đây:
+ Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục lĩnh vực, cơ
sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp);
ban hành hệ thống quốc gia kiểm kê KNK; hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định
134
giảm nhẹ phát thải KNK.
+ Định kỳ xây dựng báo cáo kiểm kê KNK cấp quốc gia 02 năm một lần
(trong đó có lĩnh vực nông nghiệp).
+ Hướng dẫn, tổ chức thực hiện thẩm định kết quả kiểm kê KNK và kế
hoạch giảm nhẹ phát thải KNK đối với lĩnh vực, cơ sở phải thực hiện kiểm kê
KNK (trong đó có lĩnh vực nông nghiệp).
- Bộ NN&PTNT (trực tiếp là Vụ Khoa học, công nghệ và môi trường) là
bộ quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp có trách nhiệm sau đây:
+ Tổ chức thực hiện kiểm kê KNK và gửi kết quả kiểm kê KNK định kỳ
02 năm một lần đến Bộ TN&MT trước ngày 31 tháng 01 của kỳ báo cáo tiếp theo
để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
+ Xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK hằng
năm trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Hướng dẫn quy trình, quy định kỹ thuật về đo đạc, báo cáo, thẩm định
giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK hằng năm
trong lĩnh vực nông nghiệp đến Bộ TN&MT trước ngày 15 tháng 01 của kỳ báo
cáo tiếp theo để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
+ Hướng dẫn lựa chọn, áp dụng biện pháp công nghệ và quản lý để giảm
nhẹ phát thải KNK phù hợp với quy mô và ngành, nghề thuộc lĩnh vực nông
nghiệp.
- UBND cấp tỉnh (trực tiếp là Sở TN&MT và Sở NN&PTNT) là cơ quan
quản lý phát thải KNK tại địa phương có trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu
phục vụ kiểm kê KNK cấp quốc gia, cấp ngành gửi Bộ TN&MT và Bộ
NN&PTNT; kiểm tra việc thực hiện hoạt động có liên quan đến giảm nhẹ phát
thải KNK trong phạm vi quản lý.
- Cơ sở phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp thuộc danh mục phải
thực hiện kiểm kê KNK có trách nhiệm sau đây:
+ Tổ chức thực hiện kiểm kê KNK, xây dựng và duy trì hệ thống cơ sở dữ
liệu phát thải KNK và gửi kết quả kiểm kê KNK định kỳ 02 năm một lần đến Bộ 135
TN&MT trước ngày 01 tháng 12 của kỳ báo cáo để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
+ Xây dựng, thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK hằng năm; thực hiện
lồng ghép hoạt động giảm phát thải KNK với chương trình quản lý chất lượng,
chương trình sản xuất sạch, chương trình bảo vệ môi trường của cơ sở.
+ Hằng năm, lập báo cáo mức giảm phát thải KNK để thực hiện kế hoạch
giảm nhẹ phát thải KNK của cơ sở theo hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định gửi
Bộ TN&MT và Bộ NN&PTNT, UBND cấp tỉnh (mà trực tiếp là Sở TN&MT và
Sở NN&PTNT) có liên quan trước ngày 31 tháng 12 của kỳ báo cáo.
Ngày 10/8/2017, tại Quyết định số 1169/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về bảo vệ môi trường và
tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường từ trung ương đến
địa phương giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mục tiêu cụ thể của
đề án là tối ưu hóa chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan QLNN về bảo vệ môi
trường ở cả cấp trung ương và địa phương thông qua việc thực hiện quản lý tập
trung, thống nhất một đầu mối, có phân công và phân cấp hợp lý, cụ thể và rõ
rang; phù hợp với chức năng và nhiệm vụ; theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng
tốt nhiệm vụ đã được giao; đồng thời bảo đảm có đội ngũ cán bộ và công chức
trong các cơ quan quản lý môi trường phù hợp về cơ cấu và trình độ chuyên môn.
Đặc biệt, đề án cũng nhấn mạnh việc đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn
cho đội ngũ cán bộ quản lý phát thải KNK từ cấp trung ương đến địa phương,
nhằm đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ công tác. [24]
Có 14/16 chuyên gia được phỏng vấn cho rằng, đội ngũ cán bộ làm công
tác QLNN đối với phát thải KNK chưa đủ về cả số lượng và chất lượng để đáp
ứng nhu cầu của nhiệm vụ, đặc biệt là tại các địa phương. Về công tác kiểm kê
KNK, một chuyên gia cho biết: “Hiện nay đội ngũ cán bộ kỹ thuật thực hiện
nhiệm vụ kiểm kê KNK trong nông nghiệp chưa có cán bộ chuyên trách, các cán
bộ kiểm kê chủ yếu là kiêm nhiệm với số lượng ít; do phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm 136
vụ nên chất lượng cán bộ kiểm kê KNK trong nông nghiệp chưa đảm bảo cả về số
lượng và chất lượng. Cần tập huấn kiến thức chuyên sâu; phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, nhất là cần bố trí nguồn lực con người để thực
hiện”. Về công tác QLNN, một chuyên gia cho biết: “Không có công chức chuyên
trách thực hiện QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp; công chức kiêm
nhiệm chưa được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, cơ sở vật chất để thực hiện
nhiệm vụ. Cần bố trí công việc phù hợp cho công chức thực hiện QLNN đối với
phát thải KNK trong nông nghiệp để có thời gian thực hiện nhiệm vụ kiểm kê; cần
đào tạo, tập huấn kiến thức, kỹ năng ở lĩnh vực này”. Bên cạnh việc thiếu thốn về
nhân lực, năng lực, thì việc thiếu thốn về cơ sở vật chất phục vụ cho chuyên môn
cũng là một vấn đề mà các địa phương đang phải đối mặt. Một chuyên gia chia
sẻ: “Hiện nay đội ngũ cán bộ thực hiện QLNN đối với phát thải KNK trong nông
nghiệp chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo một cách chính quy và bài bản;
cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công việc không được đầu tư, nâng cấp
và thiếu thốn nên đã ảnh hưởng đến quá trình thực thi công vụ của đội ngũ cán
bộ làm công tác QLNN về lĩnh vực này. Cần phải thường xuyên đào tạo, tập huấn
nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN đối với
phát thải KNK trong nông nghiệp; phải đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết
bị để phục vụ tốt cho đội ngũ cán bộ quản lý thực thi công vụ một cách có hiệu
quả”.
Công tác quản lý phát thải KNK tại các địa phương vẫn là nhiệm vụ mới,
ở giai đoạn đầu tiếp cận; hiểu biết của cán bộ công chức về KNK còn hạn chế,
vừa làm vừa học tập, vừa rút kinh nghiệm.
3.3.6. Hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp
Việt Nam hiện là một thành viên tham gia nhiều hiệp định và công ước
quốc tế về BĐKH, bao gồm Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí
137
hậu, Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris về BĐKH và Nghị định thư Montreal.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã hoạt động tích cực và thực hiện trách nhiệm
như một thành viên của các tổ chức này.
Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ cùng cộng đồng quốc tế trong việc ứng
phó với BĐKH. Một phần quan trọng của cam kết này là Đóng góp do quốc gia
tự quyết định (Nationally Determined Contribution - NDC), bao gồm nỗ lực giảm
phát thải KNK và thích ứng với BĐKH. NDC gồm hai loại đóng góp: 1) Đóng
góp không điều kiện (Unconditional Contribution). Đây là nỗ lực giảm phát thải
KNK của quốc gia được thực hiện bằng các nguồn lực như ngân sách nhà nước,
vốn vay, đầu tư từ doanh nghiệp trong và ngoài nước, đóng góp của người dân. 2)
Đóng góp có điều kiện (Conditional Contribution). Đây là nỗ lực giảm phát thải
KNK của quốc gia khi được hỗ trợ tài chính từ cộng đồng quốc tế thông qua các
nguồn viện trợ không hoàn lại, ưu đãi về vốn vay, tài chính và công nghệ. Điều
này thường được thực hiện qua cơ chế hợp tác quốc tế đa phương và song phương.
Thời gian qua, chấp hành quy định của quốc tế và nhiệm vụ Thủ tướng
Chính phủ giao, định kỳ, Bộ TN&MT đã phối hợp với các Bộ, ngành và cơ quan
liên quan thực hiện việc rà soát và cập nhật NDC dựa trên điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. NDC 2020 của Việt Nam đã thể hiện quyết tâm nâng
mức đóng góp giảm phát thải khí nhà kính từ nội địa lên 9% tổng phát thải so với
kịch bản phát triển thông thường (BAU) đến năm 2030. Nếu có sự hỗ trợ quốc tế
thông qua các cơ chế hợp tác đa phương và song phương theo Thỏa thuận Paris,
mức đóng góp này có thể tăng lên đến 27%.
NDC 2020 cho biết, năm cơ sở 2014 tổng lượng phát thải KNK quốc gia
là 284 triệu tấn CO2e, trong đó phát thải KNK trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
là 89,8 triệu tấn CO2e (chiếm 31,6%); với 75 biện pháp kỹ thuật giảm nhẹ phát
thải KNK, trong đó có 15 biện pháp thuộc các lĩnh vực nông nghiệp (trồng trọt,
chăn nuôi). Những biện pháp này bao gồm cải tiến quản lý và công nghệ trong
trồng trọt, chăn nuôi; cải thiện chất lượng thức ăn cho vật nuôi; chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp; tối ưu hóa việc sử dụng đất; áp dụng công nghệ xử lý và tái
sử dụng phụ phẩm, chất thải trong sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi; đẩy mạnh 138
chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật; thúc đẩy phát triển nông
nghiệp hữu cơ và nhiều biện pháp khác.
Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã cam kết phấn đấu đạt phát thải ròng
bằng ‘0’ vào năm 2050, trong đó có 2 nội dung liên quan chặt chẽ đến ngành nông
nghiệp là cam kết tham gia sáng kiến “Giảm phát thải khí methan toàn cầu” và
cam kết thực hiện “Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất”. Theo đó, tập trung
thực hiện chuyển đổi sản xuất nông nghiệp; thúc đẩy đầu tư, phát triển và ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ theo hướng “xanh”, ít phát thải và bền vững.
Tại Hội nghị COP27, Việt Nam đã nộp NDC cập nhật 2022 tới Ban thư
ký Công ước khung của Liên hiệp quốc về BĐKH. So với NDC 2020, NDC 2022
đã tăng mức đóng góp giảm phát thải không điều kiện đến năm 2030 từ 9% lên
15,8%; và đóng góp có điều kiện từ 27% lên 43,5% (so với kịch bản phát triển
thông thường BAU). Lĩnh vực nông nghiệp sẽ ứng dụng các giải pháp ít phát thải
KNK như: áp dụng công nghệ tưới khô ướt xen kẽ, hiện đại hoá tưới nước và bón
phân cho cây, rút nước giữa vụ trong canh tác lúa, chuyển đổi đất lúa kém hiệu
quả thành đất cây trồng cạn, bón phân nông nghiệp hữu cơ, cải thiện khẩu phần
ăn gia súc nhai lại, tuần hoàn chất thải nông nghiệp làm phân hữu cơ, quản lý chất
thải trong nông nghiệp.
Các hình thức hợp tác giữa Việt Nam và quốc tế trong lĩnh vực này đa
dạng: hợp tác với các tổ chức quốc tế, hợp tác đa phương và song phương trong
phạm vi khu vực và quốc tế; hợp tác với các tổ chức phi chính phủ và các quốc
gia trên thế giới trong nỗ lực cắt giảm phát thải KNK;… Sau Hội nghị COP26,
Việt Nam đã ký kết được nhiều thỏa thuận hợp tác; đã nhận được sự hỗ trợ mạnh
mẽ từ các đối tác phát triển, cả về chuyên gia kỹ thuật, nguồn lực tài chính; đồng
thời, kêu gọi được nhiều nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực tăng trưởng xanh, ứng
phó BĐKH, giảm phát thải KNK.
UNDP đã giúp các nhà khoa học Việt Nam có khả năng phân tích dữ liệu
về KNK và nâng cao kiến thức về KNK. Liên hiệp quốc tiếp tục hỗ trợ các nghiên
cứu về những khía cạnh khác nhau của BĐKH ở Việt Nam với mục tiêu cung cấp 139
thông tin cần thiết để xây dựng các chính sách và hành động thích ứng, đồng thời
góp phần giảm phát thải KNK.
Ngân hàng Thế giới hỗ trợ Việt Nam ứng phó với những thách thức do
BĐKH và phát triển bền vững ít phát thải KNK thông qua các chương trình, dự
án, như: Chương trình SP-RCC, Dự án hỗ trợ kỹ thuật sẵn sàng tham gia thị trường
carbon (Dự án Partnership for Market Readiness - PMR),…
Nhiều thỏa thuận, dự án thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK theo các
cơ chế hợp tác quốc tế song phương và đa phương được ký kết và triển khai.
Chẳng hạn: 1) Chương trình Quan hệ Đối tác về Chuyển dịch Năng lượng Công
bằng (JETP) mạnh mẽ giữa Việt Nam và Nhóm Đối tác Quốc tế (bao gồm Vương
quốc Anh, Liên minh châu Âu, Pháp, Đức, Mỹ, Italia, Canada, Nhật Bản, Na Uy
và Đan Mạch). 2) Dự án Hỗ trợ lên kế hoạch và thực hiện các hành động giảm
nhẹ phát thải KNK phù hợp với điều kiện quốc gia (SPI-NAMA) do Cơ quan Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ. Dự án này được triển khai để hỗ trợ Bộ
TN&MT tăng cường chức năng QLNN nhằm thúc đẩy chính sách giảm nhẹ phát
thải KNK, đồng thời hỗ trợ các bộ ngành, các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương, trong xây dựng năng lực lên kế hoạch và thực hiện các hành động giảm nhẹ
trung/dài hạn theo Thỏa thuận Paris. 3) Thỏa thuận Đối tác chuyển dịch năng
lượng bình đẳng (JETP). Thỏa thuận này giúp Việt Nam hiện thực mục tiêu cân
bằng phát thải vào năm 2050. 4) Dự án Sản xuất lúa bền vững và giảm phát thải
KNK AgResults do Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) quản lý, có sự đồng tài trợ
của chính phủ các nước: Australia, Canada, Anh, Mỹ và Quỹ Bill & Melinda
Gates. 5) Dự án chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo ứng phó với BĐKH và hướng tới
sự phát triển bền vững do Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia tài trợ. 6) Dự
án Hỗ trợ Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH (VN-SIPA) do Tổ chức
Hợp tác phát triển Đức (GIZ). Theo đó, VN-SIPA đã tư vấn và hỗ trợ quá trình
xây dựng khung chính sách và pháp luật về phát thải KNK, xây dựng và cập nhật
140
NDC, tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý phát thải KNK….
Viêt Nam tích cực tham gia hợp tác trong các khuôn khổ đa phương ở
phạm vi khu vực và quốc tế, như: Cộng đồng phát thảo bằng 0 châu Á (AZEC),…
3.3.7. Xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị
trường tín chỉ carbon thế giới
Năm 2012, Việt Nam trở thành thành viên của Chương trình sẵn sàng tham
gia thị trường tín chỉ carbon quốc tế. Nhằm từng bước xây dựng thị trường tín chỉ
carbon ở Việt Nam, ngày 21/11/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 1775/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà
kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường thế giới”. Tuy
nhiên, để tham gia có hiệu quả vào thị trường tín chỉ carbon, trước hết Việt Nam
cần có chiến lược rõ ràng. Theo Quyết định này:
1) Quan điểm quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường
thế giới của Việt Nam là:
- Tăng cường công tác quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon
trên cơ sở thực hiện đúng các quy định trong nước và thế giới.
- Hình thành thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị trường
tín chỉ carbon thế giới.
2) Mục tiêu quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường
thế giới của Việt Nam là:
- Mục tiêu chung: Quản lý, giám sát hiệu quả các hoạt động mua - bán,
chuyển giao tín chỉ carbon ra thị trường thế giới.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý đối với hoạt động
kinh doanh tín chỉ carbon; xây dựng, ban hành các quy định, cơ chế, chính sách
có liên quan.
+ Góp phần phát triển bền vững đất nước từ các lợi ích thu được thông
qua hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường thế giới.
3) Nội dung quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường
141
thế giới của Việt Nam
- Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon.
- Rà soát, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho tổ
chức và hoạt động của thị trường tín chỉ carbon tự nguyện.
- Xây dựng chính sách nhằm tạo điều kiện cho các địa phương, cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào dự án kinh doanh tín chỉ carbon.
- Xây dựng các quy định và hướng dẫn về quản lý, giám sát các hoạt động
kinh doanh tín chỉ carbon.
- Thông tin, tuyên truyền: Tổ chức hoạt động phổ biến, tuyên truyền nâng
cao nhận thức, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng và
cá nhân tích cực tham gia vào hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon phù hợp với
các quy định trong nước và quốc tế.
Năm 2013, Nghị quyết 24-NQ/TW của Đảng về chủ động ứng phó với
BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã đặt ra nhiệm vụ
thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK phù hợp với điều kiện nước ta
trên cơ sở hỗ trợ tài chính, công nghệ của các nước và tổ chức quốc tế; phát triển
thị trường trao đổi tín chỉ carbon trong nước, tham gia thị trường tín chỉ carbon
toàn cầu.
Nhằm tăng cường năng lực xây dựng thị trường, tạo điều kiện cho việc
hình thành thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam, năm 2015, Dự án Chuẩn bị sẵn
sàng cho xây dựng thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam (VNPMR) được triển
khai. Nhiều chính sách, công cụ QLNN về thị trường tín chỉ carbon được đề xuất,
bao gồm cơ chế tạo tín chỉ, hệ thống giao dịch phát thải (ETS), phí/thuế và cơ chế
chứng chỉ xanh. Đây là bước chuẩn bị quan trọng để Việt Nam tiến tới hình thành
và phát triển thị trường tín chỉ carbon trong nước cũng như tham gia thị trường
tín chỉ carbon thế giới.
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, tại Điều 139, đã quy định việc tổ chức
và thực hiện thị trường chứng chỉ carbon. Luật này xác định rằng, thị trường chứng
chỉ carbon trong nước bao gồm: hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và 142
chứng chỉ carbon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ chứng chỉ carbon trong nước
và quốc tế; tuân theo quy định của pháp luật và các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia. Hơn nữa, Luật còn quy định rằng, các cơ sở phát thải KNK phải thực
hiện kiểm kê KNK theo danh mục quy định, được cấp phát hạn ngạch phát thải
KNK và có quyền tham gia trao đổi, mua - bán trên thị trường chứng chỉ carbon
trong nước. Cơ sở phát thải KNK chỉ được phát thải lượng KNK trong hạn ngạch
đã được cấp; trong trường hợp có nhu cầu phát thải vượt quy định, cơ sở phải mua
hạn ngạch từ các đối tượng khác thông qua thị trường chứng chỉ carbon trong
nước. Nếu các cơ sở phải thực hiện giảm phát thải KNK nhưng không sử dụng
hết hạn ngạch đã được cấp, họ được phép bán lại cho các đối tượng khác có nhu
cầu thông qua thị trường chứng chỉ carbon trong nước. Kể từ năm 2021, Việt Nam
buộc phải thực hiện giảm phát thải KNK theo cam kết tại Thỏa thuận Paris về
BĐKH. Theo đó, giảm phát thải KNK không còn là hoạt động tự nguyện mà
chuyển thành bắt buộc. Nghĩa là, chúng ta không thể chần chừ thực hiện thị trường
tín chỉ carbon. Phát triển thị trường tín chỉ carbon trong nước là một trong những
công cụ kinh tế hữu hiệu để giảm nhẹ phát thải KNK - đây được xem là bước tiến
quan trọng trong việc hình thành thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam. Luật quy
định, Bộ Tài chính có vai trò chủ trì thành lập thị trường carbon; Bộ TN&MT tổ
chức phân bổ hạn ngạch KNK, vận hành thị trường tín chỉ carbon trong nước,
tham gia thị trường tín chỉ carbon thế giới.
Tại sự kiện Công nghệ quốc gia Techfest 2020, một sàn giao dịch khí thải
carbon được tiến hành thử nghiệm giữa một bên là nhà máy/doanh nghiệp (bên
phát thải) và một bên là chủ đầu tư xanh/lao động sạch (bên giảm thải) dựa trên
công nghệ Blockchain 4.0 dành cho các loại hàng hóa đặc biệt như: tín chỉ carbon,
chứng chỉ xanh, trái phiếu xanh. Nếu các nhà máy/doanh nghiệp không thể giảm
phát thải hoặc không tuân thủ cơ chế giảm và bù đắp carbon, họ có thể sẽ phải
143
mua những tín chỉ carbon này để bù đắp lượng phát thải của mình.
Năm 2021, Nghị quyết 50-NQ/CP của Chính phủ đã xác định thực hiện
Đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam là một trong các nhiệm vụ
nhằm ứng phó với BĐKH và bảo vệ môi trường.
Ngày 26/5/2021, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Công văn số
3479/VPCP-NN gửi Bộ NN&PTNT và UBND tỉnh Quảng Nam về việc xây dựng
Đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ carbon rừng. Theo đó, Chính phủ đã đồng ý chủ
trương cho phép UBND tỉnh Quảng Nam tiến hành nghiên cứu và lập Đề án thí
điểm kinh doanh tín chỉ carbon rừng, nhằm giảm phát thải KNK thông qua các
biện pháp như ngăn chặn mất rừng, ngăn chặn suy thoái rừng; quản lý tài nguyên
rừng một cách bền vững; bảo tồn và tăng cường lượng carbon lưu giữ trong các
khu rừng tại tỉnh Quảng Nam.Để đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ carbon rừng
tại Quảng Nam được hiệu quả, Chính phủ giao Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ
TN&MT tổ chức thẩm định, báo cáo Thủ tướng xem xét, quyết định. Theo tính
toán, mỗi năm Quảng Nam có thể thu về khoảng 5 triệu USD từ việc bán tín chỉ
carbon rừng. Có 5 công ty nước ngoài đăng ký mua lại giấy phép/tín chỉ carbon
rừng.
Tại Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022, Chính phủ đã quy
định nội dung tổ chức và phát triển thị trường tín chỉ carbon. Lộ trình phát triển
thị trường tín chỉ carbon trong nước được đề xuất trên cơ sở lộ trình giảm nhẹ phát
thải KNK và chia ra hai giai đoạn. Theo đó, đến hết năm 2027, Việt Nam tập trung
xây dựng các quy định quản lý liên quan đến tín chỉ carbon, cụ thể là việc quản lý
hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế
vận hành cho sàn giao dịch tín chỉ carbon và triển khai thí điểm cơ chế trao đổi và
bù trừ tín chỉ carbon. Tất cả những hoạt động này sẽ tuân thủ quy định của pháp
luật Việt Nam cũng như các hiệp ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Từ năm
2028, Việt Nam sẽ tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức. Đồng
thời, sẽ thiết lập quy định về việc kết nối và trao đổi tín chỉ carbon trong nước với
các thị trường tín chỉ carbon trong khu vực và trên toàn cầu. Nghị định cũng quy
định rõ việc trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon trên thị trường 144
tín chỉ carbon trong nước. Các hoạt động trao đổi này sẽ diễn ra qua sàn giao dịch
tín chỉ carbon, tuân theo các quy định cụ thể của thị trường tín chỉ carbon trong
nước.
Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù cơ chế chính sách chưa hoàn thiện, Việt
Nam chưa có nghĩa vụ bắt buộc phải cắt giảm phát thải KNK, song Việt Nam đã
có một số giao dịch tín chỉ quốc tế. Với sự hỗ trợ của các đối tác quốc tế, có khá
nhiều chương trình, dự án theo cơ chế bù trừ carbon được thực hiện. Đó là các dự
án thuộc Cơ chế phát triển sạch (CDM), các dự án theo Tiêu chuẩn carbon tự
nguyện (VCS) và các dự án thuộc Cơ chế tín chỉ chung (JCM). Đã có gần 300
chương trình, dự án CDM được Liên hiệp quốc cho đăng ký và triển khai tại Việt
Nam, có 14 dự án theo cơ chế JCM hợp tác với Nhật Bản. Tuy nhiên, việc công
nhận và phát hành tín chỉ carbon vẫn phụ thuộc vào bên thứ 3 là các tổ chức hoặc
các cơ chế tín chỉ quốc tế. Vai trò của bên bán là Việt Nam mờ nhạt và những
giao dịch này chỉ mang tính đơn lẻ, chưa được quan tâm.
Hình 3.9: Tóm tắt các chính sách hiện hành về giảm nhẹ phát thải KNK ở Việt Nam
145
(Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT, 2017)
3.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà
kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
3.4.1. Những kết quả đạt được
- Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường,
ứng phó với BĐKH, phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, nên đã ban hành được
các chiến lược, chính sách liên quan đến QLNN đối với phát thải KNK từ Trung
ương đến các bộ, ngành và địa phương.
- Hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải KNK ngày càng được hoàn
thiện, quy định cụ thể và chi tiết hơn. Về cơ bản, hệ thống khung pháp luật đã
được xây dựng, cho phép Nhà nước quản lý các hoạt động liên quan đến phát thải
KNK. Công tác quản lý giảm phát thải KNK được tăng cường.
- Trách nhiệm của các chủ thể có hoạt động gây phát thải KNK đã đươc quy
định rõ ràng làm cơ sở pháp lý để thực hiện.
- Công tác kiểm kê KNK ngày càng được quan tâm. Quyết định số
01/2022/QĐ-TTg, ngày 18-01-2022 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành danh mục
lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK. Theo đó, có 6 lĩnh
vực phải thực hiện kiểm kê KNK, trong đó có nông nghiệp.
- Hoạt động giáo dục, đào tạo, tuyên truyền về quản lý giảm nhẹ phát thải
KNK cho các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cơ sở sản xuất và công dân ngày
càng được quan tâm. Nhiều hội thảo về giải pháp giảm nhẹ phát thải KNK, nhiều
khoá tập huấn về kiểm kê KNK được tổ chức triển khai trên toàn quốc.
- Việc xây dựng thị trường carbon đã nhận được sự quan tâm và chuẩn bị
đầy đủ. Vấn đề tổ chức và phát triển thị trường carbon trong nước đã được đề cập
và quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020.
- Việt Nam đã tham gia tích cực và thực hiện đầy đủ trách nhiệm của một
thành viên trong Công ước khung, Nghị định thư Kyoto, cũng như tham gia tích
cực trong quá trình đàm phán và xây dựng Thỏa thuận Paris.
146
3.4.2. Những hạn chế
- Hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải KNK, mặc dù đã được hình
thành về cơ bản, nhưng vẫn còn thiếu các quy định đặc thù, không đồng bộ và
chưa đầy đủ. Một số văn bản hướng dẫn thực thi hiệu quả thấp, nhiều quy định
vẫn còn mức độ chung chung, chưa mang tính cụ thể. Ví dụ: điểm a, khoản 1,
Điều 41 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chỉ quy định Xây dựng hệ thống quốc
gia về kiểm kê KNK, nhưng không nói rõ là hệ thống đó phải thực hiện các công
việc gì; điểm d, khoản 1 Điều này chỉ quy định Kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ
các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải KNK, nhưng không chỉ rõ tuân thủ
quy định về kiểm kê KNK trong những việc gì. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020
đã cụ thể hóa các hoạt động kiểm kê KNK bằng cách xác định rõ nhiệm vụ đo
đạc, báo cáo, và thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK ở các cấp: quốc gia, ngành,
lĩnh vực và cơ sở. Luật cũng đưa ra hướng dẫn cụ thể về việc kiểm tra sự tuân thủ
quy định về kiểm kê KNK, giảm nhẹ phát thải KNK, cũng như thực hiện cơ chế
và phương thức hợp tác để giảm nhẹ phát thải KNK.
Ví dụ khác là Khoản 2 của Điều 41 trong Luật Bảo vệ môi trường năm
2014, đã chỉ rõ trách nhiệm của Bộ TN&MT cùng với các Bộ và ngành có liên
quan trong việc tổ chức kiểm kê KNK, xây dựng báo cáo quốc gia về quản lý
giảm phát thải KNK. Các khoản 4,5,6,7 Điều 91 Luật Bảo vệ môi trường năm
2020 xác định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành liên quan, UBND cấp
tỉnh và doanh nghiệp về giảm nhẹ phát thải KNK một cách rất cụ thể trên mọi
phương diện liên quan đến kiểm kê KNK.
Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 07/1/2022 của Chính phủ quy định đối
tượng phải thực hiện kiểm kê KNK gồm: các cơ sở phát thải KNK phải thực hiện
kiểm kê KNK là cơ sở có mức phát thải KNK hằng năm từ 3.000 tấn CO2 tương
đương trở lên thuộc 6 lĩnh vực, trong đó có nông nghiệp. Theo đó, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg, ngày 18/1/2022 ban hành danh
mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK. Đây là cơ sở
147
pháp lý quan trọng để quản lý phát thải KNK. Tuy vậy, KNK phát thải đến mức
nào thì được coi là vi phạm pháp luật về quản lý giảm phát thải KNK và các hình
thức xử lý các vi phạm đó thì chưa có quy định.
Hệ thống văn bản còn nhiều lỗ hổng và thiếu cụ thể nên khó triển khai
thực hiện trên thực tế; công tác xử lý vi phạm chưa thực sự nghiêm túc dẫn đến
việc một số cơ sở sản xuất “lách luật”. Ví dụ, Luật Hình sự năm 2009 đã quy định
về tội gây ô nhiễm không khí, tuy nhiên, tội này chỉ được xem là có hậu quả
nghiêm trọng khi đã xảy ra thiệt hại mất mát lớn, điều này đã tạo khó khăn cho
công tác đấu tranh chống tội phạm. Vì trong thực tế, việc xác định thiệt hại do ô
nhiễm không khí gây ra không dễ dàng. Nhưng với Luật Hình sự năm 2015 sau
khi được sửa đổi, tội này chỉ cần có hành vi nguy hiểm đối với xã hội đã đủ để bị
xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự (điểm đ, khoản 1, Điều 235).
Cũng có một số nội dung chồng chéo trong các luật, ví dụ như nội dung
liên quan đến bảo vệ môi trường được quy định trong nhiều luật như Luật Bảo vệ
môi trường, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Tài nguyên
nước, Luật Khoáng sản, Luật Quy hoạch, Luật Thủy lợi, và nhiều luật khác. Tuy
nhiên, trong các luật này, có nhiều điểm giao nhau chưa được thống nhất hoặc
quy định cụ thể, đồng thời còn một số khoản trống chưa được điền đầy đủ, điều
này gây ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, vẫn còn nhiều vấn đề mới liên quan đến ô nhiễm môi trường
chưa có hành lang pháp lý để điều chỉnh. Thực tế cho thấy, nhiều sự cố môi trường
lớn gây ra do xả thải, xảy ra thường xuyên và lan rộng (như sự cố môi trường tại
Formosa, sự cố ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt do đổ bùn thải trái phép tại Hòa
Bình), tuy nhiên vẫn chưa có khung pháp lý về cơ chế, tiêu chí sàng lọc, phân loại,
phân luồng các dự án đầu tư dựa trên mức độ rủi ro về môi trường. Cũng chưa có
cơ chế kiểm soát đặc thù đối với các đối tượng có khả năng cao gây ô nhiễm và
gây ra sự cố môi trường.
Thêm vào đó, còn một số văn bản pháp luật quy định về chế tài xử phạt
chưa đủ mạnh và hướng dẫn còn quá chung chung. Ví dụ, trách nhiệm hành chính
quy định trong Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm 148
hành chính trong lĩnh vực môi trường vẫn được quy định tương đối nhẹ, chưa đảm
bảo tính răn đe.
- Vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy QLNN đối với phát thải
KNK đã có bước tăng cường từ trung ương đến địa phương, tuy vậy vẫn chưa
ngang tầm với yêu cầu cắt giảm phát thải KNK, phát triển bền vững (chẳng hạn:
Hiện nay, bộ máy QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp mới
chỉ đến cấp UBND tỉnh (trực tiếp là Sở TN&MT và Sở NN&PTNT), còn tới cấp
huyện chỉ phân công kiêm nhiệm thôi, cấp xã thì chưa có). Việc phân công nhiệm
vụ QLNN đối với phát thải KNK còn phân tán, chưa hợp lý và chưa thống nhất ở
các địa phương (chẳng hạn: đơn vị quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp ở tỉnh Tiền Giang của Sở NN&PTNT tỉnh Tiền Giang là Phòng Kế
hoạch - tài chính, nhưng ở tỉnh Hòa Bình đơn vị quản lý giảm phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp của Sở NN&PTNT tỉnh Hòa Bình là Phòng Biến đổi khí
hậu).
- Đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN đối với phát thải KNK các cấp hiện
nay ở nước ta quá mỏng, chưa được đào tạo chuyên môn bài bản. Công tác quản
lý phát thải KNK tại các địa phương vẫn là nhiệm vụ mới, ở giai đoạn đầu tiếp
cận; hiểu biết của cán bộ công chức về KNK còn hạn chế, vừa làm vừa học tập,
vừa rút kinh nghiệm; ở các địa phương, từ cấp huyện trở xuống, phần lớn không
có cán bộ làm công tác quản lý giảm phát thải KNK chuyên trách mà chỉ kiêm
nhiệm.
- Nỗ lực cắt giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp mới chỉ tập
trung ở cấp vĩ mô thông qua việc xây dựng, ban hành chính sách của các Bộ TN&MT
và Bộ NN&PTNT. Vai trò của chính quyền địa phương trong việc quản lý, thúc đẩy
các biện pháp, hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK trên địa bàn còn mờ nhạt, chưa rõ,
thiếu chủ động. Các Sở TN&MT và Sở NN&PTNT chưa có kế hoạch cụ thể cho
riêng nội dung quản lý giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, chỉ lồng
ghép nhiệm vụ giảm phát thải KNK vào những nội dung phải thực hiện trong chăn
nuôi và trồng trọt thôi; còn hạn chế trong việc chỉ đạo các cơ sở thực hiện các biện 149
pháp giảm nhẹ và kiểm kê KNK, cũng như giám sát việc thực hiện giảm nhẹ phát
thải KNK của các cơ sở chăn nuôi và trồng trọt.
- Chưa xây dựng đầy đủ tiêu chí đánh giá giảm phát thải KNK trong chiến
lược phát triển nông nghiệp. Một số lượng nhỏ cơ sở sản xuất nông nghiệp đã xây
dựng các đánh giá về tác động phát thải KNK, nhưng việc này vẫn chưa được thực
hiện một cách đồng bộ và nghiêm túc. Quá trình thực hiện kiểm kê KNK vẫn chưa
được thống nhất và còn thiếu tính kế thừa, hầu hết các hệ số phát thải đang được
sử dụng trong quá trình kiểm kê là các hệ số mặc định của IPCC. Trong ngành
nông nghiệp, các chuyên gia về kiểm kê KNK còn thiếu. Tham gia và trách nhiệm
của các Bộ, ngành, cũng như các bên liên quan trong quá trình kiểm kê KNK vẫn
còn hạn chế. Các báo cáo kiểm kê KNK chất lượng còn hạn chế do thông tin số
liệu thiếu, chưa đồng bộ và độ tin cậy chưa cao; việc quản lý phát thải KNK còn
chưa thống nhất về quy trình, tiêu chí đánh giá, phương thức,...
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát phát thải KNK chưa được các cơ
quan QLNN đối với phát thải KNK thực hiện thường xuyên. Các đối tượng bắt
buộc phải thực hiện kiểm kê KNK chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm phải giảm
phát thải KNK, vì vậy hành vi vi phạm pháp luật phát thải KNK vẫn diễn ra, gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường, góp phần gây hiệu ứng nhà kính.
Công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra phát thải KNK chưa thật sự trở thành
công cụ sắc bén, có hiệu quả trong công tác quản lý giảm phát thải KNK, vì chưa
có các văn bản quy định cụ thể, thống nhất về quy trình, tiêu chí đánh giá.
Việc lồng ghép công tác giảm phát thải KNK trong sản xuất nông nghiệp
với các hoạt động chỉ đạo sản xuất, quản lý, thanh kiểm tra chưa cao.
3.4.3. Nguyên nhân của các hạn chế
Hạn chế trong công tác QLNN đối với phát thải KNK có nhiều nguyên
nhân. Có cả nguyên nhân khách quan và cả nguyên nhân chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan là chính.
3.4.3.1. Nguyên nhân khách quan
150
- Quá trình phát triển đất nước làm gia tăng các hoạt động sản xuất nói
chung, các hoạt động sản xuất nông nghiệp nói riêng gây nguy cơ tăng lượng phát
phát thải KNK.
- Nhiều vùng quy hoạch trồng trọt, chăn nuôi chưa hợp lý, còn phân tán,
không tập trung nên chưa khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của từng vùng, phát triển
không bền vững, phát thải KNK nhiều và công tác quản lý giảm phát thải KNK
cũng gặp nhiều khó khăn.
Một trong những thách thức chính ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN đối với
phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp là sự phân tán trong quy hoạch trồng
trọt, chăn nuôi. Với hệ thống sản xuất manh mún, người nông dân không liên kết
với nhau để tạo thành các nhóm sản xuất, hợp tác xã hoặc liên kết với các doanh
nghiệp dẫn đến không thể phát triển sản xuất theo hướng tập trung, hình thành
vùng sản suất nông nghiệp lớn chuyên canh, quy mô lớn, cơ giới hóa và cung cấp
các dịch vụ đầu vào khác (ví dụ: phun thuốc, gieo hạt, thu hoạch), ứng dụng công
nghệ cao, ít phát thải KNK. Cùng với sản xuất manh mún, phương thức sản xuất
của nông dân không có tính bền vững (ví dụ như việc lạm dụng đầu vào như phân
bón, thuốc trừ sâu và nước để duy trì năng suất cao), thải ra lượng phát thải KNK
rất cao.
- Hạn chế trong việc sử dụng kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thông minh ít
chịu tác động của thiên nhiên; phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, khoa học
vì một nền sản xuất xanh, sạch và bảo vệ môi trường…dẫn đến nỗ lực giảm phát
thải KNK trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Việc chậm chuyển sang sản xuất nông nghiệp thông minh sẽ làm tăng chi
phí sản xuất, giảm năng suất lao động, tăng ô nhiễm môi trường và phát thải KNK.
Nông dân ít cơ hội trong việc sử dụng các công nghệ chính xác và tự động hóa
trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Điều này làm cho khả năng tối ưu hóa từng
phần trong quá trình sản xuất bị giới hạn, gây ảnh hưởng đến việc đảm bảo an
toàn thực phẩm, giảm ô nhiễm môi trường và giảm phát thải KNK. Tình trạng sử
dụng chất cấm, lạm dụng kháng sinh, hóa chất không rõ nguồn gốc trong trồng
trọt và chăn nuôi vẫn diễn ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn thực phẩm, làm 151
tăng ô nhiễm môi trường và thải ra nhiều phát thải KNK.
- Việc chậm chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý ảnh hưởng
đến mục tiêu hạn chế và tiến tới loại bỏ các loại hình sản xuất nông nghiệp có
nguy cơ gây phát thải KNK. Ngành trồng trọt chậm chuyển dịch theo hướng giảm
diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả và rau màu các loại để
hình thành các vùng chuyên canh có diện tích khá lớn; đồng thời, chuyển đổi cơ
cấu giống, thì khả năng giảm phát thải KNK là rất ít vì trồng lúa nước là nguồn
phát thải KNK lớn nhất trong nông nghiệp. Ngành chăn nuôi nếu không chuyển
đổi cơ cấu khẩu phần thức ăn gia súc thì không thể giảm lượng phát thải KNK do
gia súc thải ra được.
- Công tác quản lý kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp không tốt cũng
ảnh hưởng đến nỗ lực giảm phát thải KNK. Các kỹ thuật sản xuất ảnh hưởng lớn
đến việc giảm phát thải KNK là: công nghệ tưới khô ướt xen kẽ; các biện pháp kỹ
thuật canh tác và quản lý cây trồng tổng hợp cho lúa, cho cây trồng cạn (bón phân,
quản lý sâu, bệnh hại, tưới nước tiết kiệm); thay thế phân đạm urê bằng phân bón
chậm tan, phân bón tan có điều khiển, phân bón phức hợp chất lượng cao; cải
thiện khẩu phần thức ăn cho chăn nuôi; sử dụng thức ăn thô xanh ủ chua trong
khẩu phần nhằm giảm thiểu phát thải khí mê-tan; sử dụng các chế phẩm ức chế
tổng hợp hoặc hấp thụ mê-tan; cải tiến công nghệ tái sử dụng chất thải chăn nuôi
làm phân bón hữu cơ. Các kỹ thuật này thực hiện không tốt thì mục tiêu cắt giảm
phát thải KNK đề ra là không khả thi.
3.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Thiếu văn bản quy định pháp luật đặc thù cho quản lý phát thải KNK là
một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến những bất cập của hệ thống quy
định pháp luật như đã nêu ở trên. Như phần thực trạng QLNN đối với phát thải
KNK đã phân tích, chúng ta chưa có chiến lược riêng về giảm phát thải KNK mà
chiến lược giảm phát thải KNK được lồng ghép trong Chiến lược quốc gia về
BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, Chiến lược Phát triển bền vững, Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường; 152
chưa có luật riêng về giảm phát thải KNK mà các quy định về giảm phát thải KNK
nằm trong Luật Bảo vệ môi trường và được điều chỉnh bằng Luật Bảo vệ môi
trường. Tuy vậy, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã sửa đổi và bổ sung nhiều
quy định cụ thể về quản lý giảm phát thải KNK; năm 2022, Chính phủ đã ban
hành một số văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi
trường năm 2020 về quản lý giảm phát thải KNK. Vì vây, chắc chắn công tác
QLNN đối với phát thải KNK sẽ hiệu quả hơn.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN đối với phát thải KNK thiếu về số
lượng, yếu về chất lượng, chưa theo kịp các yêu cầu mới đặt ra, nhất là ở cán bộ
cấp xã, cấp huyện. Công tác quản lý phát thải KNK tại các địa phương là nhiệm
vụ mới, vì vậy chưa kịp đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành, bài bản. Để có cán
bộ quản lý phát thải KNK, các địa phương cử cán bộ đi học các lớp đào tạo ngắn
hạn, rồi vừa làm vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Trong khi đó, từ ngày 1/1/2021,
Việt Nam bắt buộc phải thực hiện giảm phát thải KNK theo cam kết tại Thỏa
thuận Paris về BĐKH. Vì vậy, đội ngũ cán bộ quản lý phát thải KNK hiện tại chưa
có đủ khả năng để thực hiện kiểm kê KNK và xây dựng các Báo cáo quốc gia về
BĐKH định kỳ hai năm một lần.
- Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối
với công tác quản lý giảm phát thải KNK, dẫn đến buông lỏng trong công tác quản
lý. Tại cấp xã, công tác quản lý giảm phát thải KNK gần như bị bỏ trống. Trong
quá trình lập quy hoạch phát triển chăn nuôi và trồng trọt, các địa phương thường
chỉ tập trung vào các chỉ tiêu và giải pháp kinh tế, mà chưa có các quy định và
giải pháp cụ thể về giảm phát thải KNK. Hoạt động sản xuất nông nghiệp chưa
được liên kết chặt chẽ với việc giảm phát thải KNK. Với mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, nhiều chi phí liên quan đến việc giảm phát thải KNK bị giảm bớt hoặc loại
bỏ.
- Đầu tư cho quản lý giảm phát thải KNK còn ở mức thấp. Nguồn vốn
ngân sách đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng hệ thống quốc gia về kiểm
kê KNK cùng hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) quốc gia phục vụ 153
quản lý phát thải KNK. Hai yếu tố kỹ thuật quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng
quản lý phát thải KNK là hệ thống kiểm kê quốc gia KNK và hệ thống đo đạc,
báo cáo và thẩm định (MRV) quốc gia.
- Trong khi đó, hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và
ý thức trách nhiệm về giảm phát thải KNK nói chung, cũng như trong lĩnh vực
nông nghiệp nói riêng, vẫn còn nhiều hạn chế. Chưa có sự phối hợp kịp thời và
gắn kết giữa các cơ quan thông tin, báo chí, tổ chức khuyến nông và chính quyền
địa phương. Công tác triển khai các hoạt động tuyên truyền pháp luật quản lý giảm
phát thải KNK chưa thường xuyên, việc vận động nông dân nâng cao ý thức giảm
phát thải KNK trong sản xuất nông nghiệp chưa được coi trọng.
Kết luận Chương 3
Chương này phân tích đặc điểm nông nghiệp Việt Nam; thực trạng sản
xuất nông nghiệp và phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam; thực trạng
QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam.
Qua việc chỉ ra các đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam, cho thấy Việt
Nam là quốc gia có tiềm năng phát triển nông nghiệp. Trong thực tế, ngành nông
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của quốc gia. So với các
ngành kinh tế khác, ngành nông nghiệp có sự phụ thuộc đáng kể vào các yếu tố
tự nhiên như đất đai, khí hậu và môi trường tự nhiên. Ngược lại, các hoạt động
sản xuất nông nghiệp cũng gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường sinh
thái, trong đó đáng kể là hoạt động phát thải các loại KNK vào bầu khí quyển.
Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực có tiềm năng giảm phát thải KNK lớn.
Thực trạng QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp được
phân tích trên các mặt: Xây dựng và thực thi chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát
thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp; Xây dựng và thực thi hệ thống chính
sách, pháp luật quản lý giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp;
Thực hiện kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm phát thải khí nhà kính;
154
Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ
phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp; Xây dựng bộ máy tổ chức và
đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực
nông nghiệp; Hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp; Xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia
thị trường tín chỉ carbon thế giới.
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng QLNN đối với phát thải KNK, NCS
cũng đưa ra đánh giá những mặt đạt được, cũng như những mặt hạn chế trong hệ
thống pháp luật phát thải KNK, trong việc thực hiện kiểm kê KNK, trong bộ máy
QLNN đối với phát thải KNK…. Đồng thời, lý giải nguyên nhân của các hạn chế.
Trong đó, có các nguyên nhân khách quan và cả các nguyên nhân chủ quan. Đây
là cơ sở khoa học quan trọng để có thể đưa ra những giải pháp hoàn thiện QLNN
155
đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
CHƯƠNG 4:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT THẢI
KHÍ NHÀ KÍNH TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
4.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến quản lý nhà nước
đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
4.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Liên quan đến quản lý phát thải KNK trong nông nghiệp, bối cảnh quốc tế
và trong nước có một số đặc điểm nổi bật sau:
- BĐKH đang trở thành thách thức lớn nhất và lâu dài của loài người.
Như trên đã nói, loài người đang xả một lượng KNK cao hơn bất kỳ thời
điểm nào trong lịch sử vào khí quyển của Trái đất. Cho nên, ngày 23/9/2019, Liên
hiệp quốc đã thông báo 66 quốc gia cam kết giảm lượng khí thải carbon về bằng
0 (zero) vào năm 2050 - một mục tiêu then chốt nhằm ngăn chặn tình trạng BĐKH
trong dài hạn. Tại Hội nghị lần thứ 21 của các bên tham gia Công ước khung của
Liên hợp quốc về BĐKH (COP 21) vào tháng 12 năm 2015, Hiệp định Paris về
BĐKH đã được thông qua. Hiệp định vạch mục tiêu giảm lượng khí thải nhằm
hạn chế tăng nhiệt độ Trái Đất, cụ thể là dưới 2°C hoặc lý tưởng nhất là 1,5°C so
với thời kỳ tiền công nghiệp. Mục tiêu giữ cho nhiệt độ toàn cầu chỉ tăng lên ở mức
giới hạn 2°C - đây không phải thách thức mang tính lý thuyết bởi nếu vượt qua giới
hạn này thì không ai biết tương lai của chúng ta sẽ ra sao và khả năng thích ứng của
chúng ta sẽ như thế nào [48]. Tại Hội nghị đó, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Antonio
Guterres đã cảnh báo rằng, một cuộc khủng hoảng khí hậu toàn cầu đang tiến gần tới
"điểm không thể cứu vãn", và loài người đang đối mặt với những tình huống khó
lường.
- Phát triển bền vững là xu hướng của nông nghiệp thế giới.
Nông nghiệp bền vững là sự duy trì và duy trì sự ổn định về cả năng suất
và chất lượng của cây trồng và vật nuôi trên cùng một diện tích sản xuất. Nó nhằm
156
mục tiêu tăng cường hiệu quả kinh tế và cải thiện thu nhập mà không gây hại cho
môi trường tự nhiên và cộng đồng. Nông nghiệp bền vững cùng với đảm bảo an
ninh lương thực đang trở thành những thách thức quan trọng mà toàn nhân loại
đang đối mặt.
- Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng phát thải KNK tăng nhanh
nhất do tốc độ phát triển kinh tế nhanh.
Là một nước đang phát triển, Việt Nam có lượng phát thải KNK liên tục
tăng [63]. Hơn nữa, là nước nông nghiệp, nên Việt Nam có lượng KNK chủ yếu
xuất phát từ lĩnh vực này. Đồng thời là quốc gia dễ bị tổn thương bởi BĐKH với
những hiện tượng thời tiết cực đoan, nên Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực thực
hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm phát thải KNK cũng như các biện pháp thích
ứng với BĐKH. Đối với quốc tế, Việt Nam hiện là Bên tham gia Công ước khung
của Liên hiệp quốc về BĐKH, Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris về BĐKH,
Nghị định thư Montreal về bảo vệ tầng ôzôn.
- Việt Nam đã đệ trình tới Liên hiệp quốc bản Báo cáo Đóng góp do quốc
gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022
NDC cập nhật của Việt Nam đã thể hiện những nỗ lực tối đa và xác định
sự đóng góp quyết định trong việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và thích ứng
với biến đổi khí hậu mà Việt Nam đã cam kết. Việc thực hiện NDC năm 2022 phù
hợp với mục tiêu đưa phát thải KNK về mức "0" trong Chiến lược quốc gia về
BĐKH giai đoạn đến năm 2050. So với NDC năm 2020, NDC cập nhật năm 2022
đã tăng mức đóng góp giảm phát thải không điều kiện đến năm 2030 từ 9% lên
15,8%; và đóng góp có điều kiện từ 27% tăng lên 43,5% (so với kịch bản phát
triển thông thường BAU). Như vậy, NDC 2022 một lần nữa khẳng định quyết tâm
thực hiện những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam với thế giới tại COP26 là đạt
phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; giảm 30% phát thải khí mê-tan so với năm
2020, tăng cường các nỗ lực thích ứng với BĐKH.
NDC cập nhật năm 2022 của Việt Nam đã xác định một loạt biện pháp
nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp. Các biện pháp này
bao gồm: quản lý cây trồng tổng hợp; áp dụng công nghệ tưới khô ướt xen kẽ; 157
hiện đại hóa tưới nước và bón phân cho cây trồng dài ngày; rút nước giữa vụ trong
canh tác lúa; chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả thành đất cây trồng cạn; bón phân
hữu cơ; thay thế phân đạm bằng phân chậm tan và phân hóa chậm; cải thiện khẩu
phần ăn cho gia súc nhai lại; tuần hoàn chất thải nông nghiệp để sản xuất phân
hữu cơ; phát triển sử dụng khí sinh học.
Ngoài ra, để thực hiện cam kết tại COP26, Việt Nam đã đề ra mục tiêu
giảm phát thải khí mêtan trong các tiểu lĩnh vực, đặc biệt là canh tác lúa nước và
quản lý chất thải vật nuôi, phế phẩm nông nghiệp. Mục tiêu này nhằm giảm phát
thải khí mêtan 30% vào năm 2030 so với mức phát thải của năm 2020.
- Xu hướng sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam và thế giới.
Trên toàn thế giới, sản xuất nông nghiệp đang có các xu hướng: một là, tái
cơ cấu và cách mạng hóa theo hướng bền vững, thích ứng BĐKH; hai là, ứng dụng
các phương pháp thông minh vào sản xuất nông nghiệp (nông nghiệp thông minh)
nhằm tăng năng suất trong khi vẫn đảm bảo yếu tố an toàn; ba là, thanh niên, các
nhà đầu tư, những trí thức trẻ tìm cơ hội trong cuộc cách mạng nông nghiệp mới
(khởi nghiệp nông nghiệp); bốn là, hợp tác sản xuất nông nghiệp (hợp tác xã), thông
qua tổ chức của mình, người nông dân liên hệ với chính phủ, ngân hàng, các nghiệp
đoàn lớn nhằm tạo ra sự phối hợp hiệu quả trong sản xuất, tiêu thụ và kiểm soát
chất lượng; năm là, sáng tạo trong nông nghiệp, tạo ra cuộc cách mạng mới trong
nông nghiệp (nông nghiệp công nghệ cao).
Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay cũng phản ánh xu hướng sản
xuất nông nghiệp của thế giới. Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 29/1/2010, của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao đến năm 2020; rồi Quyết định số 1895/QĐ-TTg, ngày 17/12/2012 phê duyệt
Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình
Quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, đã chỉ rõ, chuyển đổi số là xu
hướng tất yếu cho ngành nông nghiệp Viêt Nam vì nó giúp các hộ sản xuất nông
nghiệp, trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp tổ chức sản xuất, quản lý sản xuất và
kinh doanh nông nghiệp dựa trên nền tảng công nghệ số và ứng dụng công nghệ 158
mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), Điện toán đám mây (Cloud),
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… làm giảm đáng kể chi phí sản xuất
nông nghiệp, nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh. Đồng thời, Việt Nam tập
trung hướng tới nền nông nghiệp công nghệ cao. Các công nghệ tiên tiến như công
nghệ sinh học, công nghệ nhà kính, công nghệ tưới nhỏ giọt, công nghệ cảm biến,
tự động hóa, internet vạn vật... đã được triển khai rộng rãi trong lĩnh vực nông
nghiệp, mang lại nhiều lợi ích quan trọng. Nhờ sự áp dụng của những công nghệ
này, sản xuất nông nghiệp đã giảm chi phí, tăng năng suất, giảm giá thành và cải
thiện chất lượng nông sản, đồng thời bảo vệ môi trường. Văn kiện Hội nghị lần thứ
4 Ban Chấp hành trung ương khóa XII đã khẳng định: Hiện đại hóa, thương mại
hóa nông nghiệp, chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, sản
xuất lớn, dựa vào khoa học - công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh
và giá trị gia tăng cao; chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất lương thực là chủ yếu
sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với lợi thế của từng vùng…Ngoài
ra, định hướng này cũng ghi nhận sự chuyển đổi từ sản xuất lương thực truyền
thống sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng, phù hợp với đặc thù từng vùng.
Chính sách và quan điểm này không chỉ được thể hiện trong văn kiện mà còn được
thể hiện qua việc ứng dụng sâu rộng của khoa học và công nghệ cao vào sản xuất
nông nghiệp trong những năm gần đây. Kết quả của việc này là tăng cường chất
lượng và số lượng sản phẩm nông nghiệp, cải thiện hiệu suất kinh tế và góp phần
quan trọng vào việc giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội.
4.1.2. Dự báo lượng phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp đến năm 2030
Trong những năm qua, lượng phát thải KNK không những không có xu
hướng giảm, mà dự báo còn tiếp tục tăng. Nếu tình trạng này không được cải
thiện, thì BĐKH toàn cầu sẽ trầm trọng thêm và làm gia tăng những tác động tiêu
cực đối với cả môi trường tự nhiên và cuộc sống của con người.
Ngày 06/10/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số:
1520/QĐ-TTg để phê duyệt Chiến lược Phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 -
2030, với tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược đề ra mục tiêu rõ ràng là: Trong 159
giai đoạn 2021 - 2025, giá trị sản xuất từ ngành chăn nuôi tăng trưởng trung bình
từ 4 đến 5% mỗi năm. Trong giai đoạn 2026 - 2030, tăng trưởng trung bình dự
kiến từ 3 đến 4% mỗi năm. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT)
cũng đã xây dựng dự thảo Chiến lược Phát triển ngành trồng trọt đến năm 2030.
Mục tiêu của dự thảo này là đạt được tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trung bình
từ 2,2% đến 2,3% mỗi năm cho ngành trồng trọt. Như vậy, Việt Nam định hướng
ngành nông nghiệp tăng trưởng và phát triển theo từng năm với tốc độ tương đối cao.
Do vậy, lượng phát thải KNK trong nông nghiệp cũng sẽ tăng hàng năm, song Việt
Nam quyết tâm thực hiện đúng cam kết với quốc tế trong NDC cập nhật.
Để thực hiện được mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK do quốc gia tự thực
hiện giai đoạn 2021-2030 và đạt được mục tiêu “đến năm 2030 sẽ giảm 9% tổng
lượng phát thải KNK so với BAU”, thì lộ trình triển khai được ước tính cho từng
năm của các lĩnh vực trong giai đoạn 2021-2030 được thể hiện tại Bảng 4.1 và
Hình 4.1 dưới đây:
Đơn vị: triệu tấn CO2eq
Bảng 4.1: Lượng giảm phát thải KNK và tỷ lệ giảm theo từng năm (2021 - 2030)
2021
2022
2023
2024
2025
2026
2027
2028
2029 2030
Năm
568,0
607,5 647,1 686,7 726,2 766,6
806,9
847,2 887,6 927,9
BAU
Tổng lượng
giảm phát
32,2
36,7
41,6
47,1
52,9
58,6
64,0
69,8
76,9
83,9
thải
Năng lượng
22,4
24,8
27,1
29,8
32,3
35,7
38,6
42,3
46,7
51,5
1,4
1,6
2,3
3,2
4,6
5,1
5,5
5,8
6,5
6,8
Nông nghiệp
6,1
6,6
7,1
7,5
7,9
8,2
8,5
8,8
9,1
9,3
LULUCF
1,7
2,5
3,3
4,1
5,0
5,7
6,6
7,4
8,3
9,1
Chất thải
0,6
1,2
1,8
2,5
3,1
3,9
4,7
5,6
6,4
7,2
IP
Tỉ lệ giảm
phát thải so
5,7
6,0
6,4
6,9
7,3
7,6
7,9
8,2
8,7
9,0
với BAU (%)
(Nguồn: Báo cáo kỹ thuật: Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định của Việt Nam, 2020)
160
Hình 4.1: Phát thải KNK theo BAU giai đoạn 2020 - 2030 và kịch bản giảm
phát thải giai đoạn 2021 - 2030.
(Nguồn: Báo cáo Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định của Việt Nam, 2020)
Trong lĩnh vực nông nghiệp, BAU được tính toán dựa trên cơ sở "Quy
hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn
đến 2030", đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Biểu đồ phát thải KNK dự
kiến của ngành nông nghiệp đến năm 2030 được trình bày trong Hình 3.7.
4.2. Quan điểm quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
Để nâng cao hiệu lực QLNN với phát thải KNK, cần phải quán triệt một
số quan điểm có tính nguyên tắc sau:
Một là: Quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt
Nam phải tuân thủ đường lối, chiến lược, chính sách và bối cảnh trong nước cùng
với các cam kết quốc tế về giảm phát thải KNK. Mục tiêu là hướng tới xây dựng
một nền kinh tế carbon thấp, thúc đẩy tăng trưởng xanh và đảm bảo phát triển bền
vững.
Trong quá trình phát triển của nhân loại, phát triển bền vững đã trở thành
161
một yêu cầu cấp bách và cũng là một xu hướng tất yếu. Phát triển bền vững đòi
hỏi sự cân đối và kết hợp hợp lý giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường. Đây là một quá trình toàn diện trong hiện tại và đồng thời cũng
bảo đảm tiếp tục phát triển trong tương lai. Cơ bản, phát triển bền vững là sự kết
hợp hài hòa, cân đối và công bằng giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo
vệ môi trường. Mục tiêu này được áp dụng và thúc đẩy bởi tất cả các quốc gia trên
toàn cầu. Mỗi quốc gia sẽ dựa vào tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý và
văn hóa riêng để xây dựng chiến lược phát triển phù hợp nhất và khả thi nhất,
đồng thời kết hợp với các cam kết quốc tế và xu hướng thời đại.
Tại Việt Nam, quan điểm phát triển bền vững đã được Đảng ta thể hiện
lần đầu trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về bảo vệ
môi trường trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Quan điểm này đã
được tái khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng. Các đại hội đại biểu toàn
quốc đã đề ra mục tiêu phát triển bền vững là một phần không thể tách rời trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Điều này đã thể hiện rõ qua các
văn kiện như Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội các giai đoạn. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII một lần nữa tái khẳng định quan điểm phát triển là: “Phát
triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo
và chuyển đổi số”[31,tr.214]. Như vậy, phát triển bền vững đã trở thành đường
lối, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước ta khẳng
định, chúng ta phát triển nhanh nhưng phải phát triển bền vững, quyết không đánh
đổi môi trường cho phát triển bằng mọi giá. Phát triển bền vững là con đường tất
yếu.
Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
chỉ rõ: “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hoà với thiên nhiên để bảo đảm
môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải
để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi
trường”. Quan điểm này có vị trí quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao hiệu
lực QLNN đối với phát thải KNK ở nước ta hiện nay, vì: (1) Chỉ có thực hiện 162
quan điểm này, mới có thể đảm bảo cho các chính sách kinh tế, xã hội, môi trường,
được xây dựng, ban hành không chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu nhau, và do đó,
làm cho hiệu lực thực thi các chính sách này được bảo đảm. (2) Việc thực hiện
quan điểm này sẽ buộc các cấp chính quyền phải quan tâm đến việc tổ chức và
giám sát quá trình thực thi chính sách giảm phát thải KNK tại ngành, địa phương
mình tốt hơn.
Bên cạnh việc chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phải quan tâm đến
mục tiêu thải ra ít phát thải KNK. Các cấp, các ngành, từ trung ương đến địa
phương phải quán triệt quan điểm phát triển bền vững trong việc xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội do ngành, địa
phương mình phụ trách. Nếu không quán triệt quan điểm phát triển bền vững,
chạy theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần, không quan tâm đến giảm phát
thải KNK thì sẽ dẫn đến lượng phát thải KNK tăng lên hằng năm, pháp luật đối
với phát thải KNK không được thực thi nghiêm túc. Do đó, để nâng cao hiệu lực
QLNN đối với phát thải KNK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, cần phải quán
triệt quan điểm phát triển bền vững, coi đó là nguyên tắc buộc các cấp, các ngành
phải thực hiện.
Tăng trưởng xanh là mục tiêu ưu tiên đối với Việt Nam nhằm đảm bảo
phát triển bền vững. Một thực tế là, kinh tế càng tăng trưởng thì các nguồn tài
nguyên, đặc biệt là những tài nguyên không tái tạo được, ngày càng cạn kiệt, khan
hiếm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn
tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc. Đó là sự
tăng trưởng kinh tế không gắn liền với bảo vệ môi trường và là sự phát triển không
bền vững. Những năm qua, kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng phụ thuộc
nhiều vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, môi trường tự nhiên bị tàn phá,
hệ sinh thái bị phá vỡ và gia tăng ô nhiễm. Việc khôi phục môi trường bị phá hủy
sẽ mất nhiều thời gian và tiền của, vì thế cần coi tăng trưởng xanh là trọng tâm ưu
tiên để phát triển bền vững và phát triển bền vững không thể thiếu tăng trưởng
xanh, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và góp phần ứng phó với BĐKH. 163
Với bản chất là sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh vừa là tiền đề, vừa là mục tiêu và
cũng vừa là động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế toàn cầu, thực hiện phát triển bền
vững.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt ngày 25/09/2012, đề ra 3 nhiệm vụ quan trọng, đó là: Giảm cường độ phát
thải KNK; thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; xanh hóa sản
xuất. Phát triển bền vững đồng thời tập trung vào hướng tăng trưởng xanh và tiến
tới nền kinh tế carbon thấp, giúp tăng cường sự giàu có từ nguồn tài nguyên tự
nhiên, giảm phát thải KNK và nâng cao khả năng hấp thụ KNK. Đến lượt nó,
giảm phát thải KNK góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường sinh thái,
qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế. Và giảm phát thải KNK dần trở thành chỉ
tiêu bắt buộc trong quá trình phát triển. Ở Việt Nam hiện nay, các hoạt động giảm
nhẹ phát thải KNK có tiềm năng và điều kiện trở thành một cơ hội lớn tạo ra động
lực thay đổi công nghệ, tăng cường hiệu quả kinh tế trong sản xuất, triển khai các
công nghệ carbon thấp nhằm tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
Hai là: Đầu tư hệ thống quản lý phát thải KNK đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm và ưu tiên cho từng giai đoạn cụ thể, tránh dàn trải, kém hiệu quả.
Quản lý phát thải KNK trong nông nghiệp cần tập trung vào các hoạt động
như canh tác lúa, tiêu hóa thức ăn, sử dụng đất nông nghiệp, quản lý chất thải chăn
nuôi và xử lý phụ phẩm nông nghiệp vì đó là những nguồn phát thải KNK chủ
yếu.
Đối với các vùng trọng điểm nông nghiệp như Đồng bằng sông Cửu Long
hay vùng Đồng bằng Sông Hồng, việc quản lý phát thải KNK trong các hoạt động
canh tác lúa và chăn nuôi càng cần phải được quan tâm, đầu tư thích đáng nhằm
hạn chế tối đa lượng phát thải KNK.
Quản lý phát thải KNK là quản lý toàn bộ vòng đời của KNK, từ khi phát
164
sinh cho đến khi xử lý cuối cùng - bao gồm phòng ngừa, giảm thiểu và hấp thụ
nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài
nguyên, hạn chế BĐKH, và hướng tới phát triển bền vững đất nước.
Ba là: Tăng cường thể chế, pháp luật phải đi đôi với nâng cao nhận thức,
trách nhiệm giảm phát thải KNK của mọi người dân và cộng đồng.
Hiệu lực QLNN về môi trường chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong
đó có nhân tố thể chế, pháp luật đối với phát thải KNK và nhận thức, trách nhiệm
về giảm phát thải KNK của người dân và cộng đồng. Tuy nhiên, hai yếu tố này
phải luôn song hành với nhau thì mới thực hiện được hiệu lực QLNN đối với phát
thải KNK. Nếu chỉ quan tâm đến nâng cao năng lực thể chế, xây dựng luật pháp,
chính sách đối với phát thải KNK, mà không chú trọng đến việc tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao nhận thức đối với phát thải KNK và trách nhiệm giảm phát
thải KNK cho mọi người dân, cộng đồng xã hội thì việc vi phạm pháp luật đối với
phát thải KNK vẫn cứ diễn ra. Vì mọi quy định QLNN đối với phát thải KNK dù
hay, dù tốt đến mấy nhưng nó vẫn chỉ tồn tại trên văn bản, người dân không hay
biết, và do đó, họ không tuân thủ. Để đạt được thành công trong lĩnh vực giảm
phát thải KNK, việc nâng cao nhận thức của người dân là rất quan trọng. Thông
qua việc tăng cường nhận thức, người dân sẽ hiểu rõ hơn về tác động của phát thải
KNK đối với môi trường và khí hậu toàn cầu. Sự hiểu biết và ý thức này sẽ thúc
đẩy các hành động tích cực từ cả cá nhân và cộng đồng, góp phần quan trọng vào
việc xây dựng môi trường và xã hội bền vững. Một mặt, phải làm cho mỗi công
dân thấm nhuần quan điểm giảm phát thải KNK là nghĩa vụ của mình, là lợi ích
của toàn xã hội và cũng là lợi ích của chính bản thân mình. Mặt khác, phải trang
bị cho công dân những tri thức cần thiết để thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải
KNK một cách tích cực và có hiệu quả. Việc nhận thức đúng đắn nghĩa vụ giảm
phát thải KNK và có đầy đủ năng lực để thực hiện nghĩa vụ đó của mỗi công dân
là tiền đề cơ bản để hình thành ý thức tự giác giảm phát thải KNK trong toàn xã
hội.
Bốn là: Kết hợp hài hòa giữa vai trò của Nhà nước, thị trường và cộng
đồng trong quản lý giảm phát thải KNK. 165
Đây là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo hiệu lực QLNN đối với phát
thải KNK trong nền kinh tế thị trường. Bởi vì: (1) Nếu Nhà nước chỉ quản lý phát
thải KNK bằng các công cụ luật pháp, chính sách, hay nói cách khác là những
công cụ áp đặt, mệnh lệnh hành chính, sử dụng đơn thuần quyền lực của Nhà nước
thì hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với phát thải KNK sẽ không cao, thậm chí là
không đạt được mục tiêu đề ra; (2) Để hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK
trong điều kiện nền kinh tế thị trường được thực hiện thì bên cạnh việc sử dụng
các công cụ mệnh lệnh hành chính, Nhà nước cần thiết và tất yếu phải sử dụng
các công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ thị trường để QLNN đối với phát thải
KNK. Việc sử dụng các công cụ thị trường sẽ có tác động gián tiếp và mềm dẻo
hơn rất nhiều so với các công cụ mệnh lệnh và hiệu lực, hiệu quả của nó cũng rất
cao; (3) Nếu Nhà nước chỉ sử dụng hệ thống tổ chức bộ máy QLNN đối với phát
thải KNK ở các cấp để thực hiện mục tiêu giảm phát thải KNK, mà không huy
động được sức dân, không dựa vào vai trò giám sát to lớn của cộng đồng dân cư
tại các địa bàn thì Nhà nước cũng không thể thực hiện được mục tiêu giảm phát
thải KNK. Kinh nghiệm cho thấy: ở nơi nào, địa bàn nào cộng đồng dân cư quan
tâm đến vấn đề phát thải KNK, giám sát các hoạt động sản xuất có liên quan đến
phát thải KNK thì ở nơi đó tình hình thực hiện pháp luật đối với phát thải KNK
sẽ tốt hơn, tức là hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK được thực hiện tốt hơn.
Trong thời gian qua, trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta chưa kết hợp
hài hòa giữa vai trò của Nhà nước, của thị trường và cộng đồng trong công tác
giảm phát thải KNK. Chúng ta mới chỉ thiên về vai trò của Nhà nước, còn vai trò
của thị trường và của cộng đồng trong công tác này còn rất mờ nhạt. Chúng ta
mới chỉ bắt đầu sử dụng một số công cụ kinh tế như phí, lệ phí, còn nhiều công
cụ kinh tế khác chưa được sử dụng. Người nông dân cũng ít quan tâm, thậm chí
chưa được tham gia vào giám sát giảm phát thải KNK. Vì thế, áp lực buộc phải
thay đổi các hành vi vi phạm pháp luật phát thải KNK cũng rất ít. Hiệu lực thực
166
thi pháp luật phát thải KNK thấp.
Quản lý phát thải KNK là trách nhiệm chung của toàn xã hội, trong đó
Nhà nước có vai trò chủ đạo, được thực hiện trên cơ sở tăng cường đầu tư, đẩy
mạnh xã hội hóa, huy động tối đa mọi nguồn lực.
Từ những phân tích trên cho thấy một nguyên tắc tiên quyết để đảm bảo
hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK, đó là phải kết hợp hài hòa giữa Nhà nước,
thị trường và cộng đồng trong việc giảm phát thải KNK.
4.3. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
Mục tiêu QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp là:
Mục tiêu chung:
Quản lý phát thải KNK trong nông nghiệp là hướng đến giảm thiểu tối đa
phát thải KNK trong nông nghiệp, góp phần phát triển nền nông nghiệp xanh cũng
như phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam; chống BĐKH trên phạm vi toàn
cầu; cải thiện môi trường sống trong lành cho người dân.
Mục tiêu cụ thể:
- QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp nhằm tăng cường năng lực
kiểm kê KNK quốc gia; thiết lập, vận hành hệ thống quốc gia kiểm kê KNK trong
nông nghiệp và thực hiện kiểm kê định kỳ theo quy trình.
Tăng cường năng lực và sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan
trong việc thực hiện kiểm kê quốc gia KNK, hình thành hệ thống kiểm kê quốc
gia KNK tại Việt Nam nhằm phục vụ xây dựng Báo cáo gửi Ban Thư ký Công
ước khí hậu. Với tư cách là một bên tham gia UNFCCC và Nghị định thư Kyoto,
Việt Nam có trách nhiệm xây dựng các Thông báo quốc gia và Báo cáo cập nhật
hai năm một lần, trong đó có kiểm kê quốc gia KNK gửi Ban Thư ký UNFCCC.
Tăng cường hiệu quả của hệ thống kiểm kê KNK quốc gia trong lĩnh vực
nông nghiệp nhằm thực hiện việc giám sát các chỉ tiêu giảm nhẹ phát thải KNK một
cách rõ ràng, minh bạch, phù hợp với điều kiện Việt Nam và quy định quốc tế. Nâng
167
cao năng lực kỹ thuật cho hoạt động kiểm kê KNK quốc gia, đào tạo chuyên gia
kiểm kê KNK theo phương pháp kiểm kê của Ban liên chính phủ về BĐKH; xây
dựng báo cáo kiểm kê và cơ sở dữ liệu rõ ràng.
Quyết định số 2359/QĐ-TTg ngày 22/12/2015 Thủ tướng Chính phủ Phê
duyệt Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK cũng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ
của các đơn vị liên quan trong việc xây dựng các báo cáo quốc gia, trong đó, có
nội dung kiểm kê KNK. Tuy vậy, những yêu cầu mới sau Hội nghị BĐKH của
Liên hiệp quốc lần thứ 24 (COP24) đòi hỏi Việt Nam phải cải thiện chất lượng
kiểm kê KNK tốt hơn để đáp ứng yêu cầu minh bạch và phải tăng cường năng lực
cho các hoạt động liên quan tới vấn đề này.
Bộ NN&PTNT cần nghiên cứu, thu thập dữ liệu nhằm tính toán phát thải
KNK trong ngành này để đưa ra những kết quả khoa học chính xác phù hợp với
thực tiễn và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
- QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp góp phần phổ biến, áp
dụng và tổ chức thực hiện các công nghệ giảm phát thải KNK trong nông nghiệp.
- QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp đòi hỏi phải tập trung
nghiên cứu, áp dụng các giải pháp công nghệ, đổi mới công nghệ để giảm phát
thải KNK; tăng khả năng tích trữ, hấp thụ KNK trong nông nghiệp và phát triển
nông thôn; đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ thân thiện môi trường;
khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng sạch trong nông
nghiệp.
- QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp góp phần xây dựng nền
kinh tế carbon thấp mà vẫn thúc đẩy phát triển bền vững. Đó là, xây dựng khung
chương trình tổng thể để triển khai các biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK, đồng
thời cập nhật các hoạt động liên quan đến việc giảm nhẹ phát thải KNK. Với tư
cách là một quốc gia có nền kinh tế dựa vào nông nghiệp, Việt Nam đã thể hiện
sự quyết tâm trong việc thực hiện các chính sách và chiến lược quốc gia hướng
tới phát triển bền vững, đồng thời giảm phát thải KNK và tận dụng cơ hội để thúc
168
đẩy tăng trưởng xanh.
- Quản lý phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp cũng góp phần quan
trọng trong việc hình thành và triển khai hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm tra
(MRV) cấp quốc gia đối với phát thải KNK. Như trên đã nói, MRV là một hệ
thống kiểm soát, theo dõi, giám sát thông tin, số liệu được cung cấp hoặc theo dõi
trong một quá trình hoạt động cụ thể của đối tượng được quản lý. Các thông tin,
số liệu quản lý trong hệ thống MRV cần gắn liền với quyền hạn và trách nhiệm
của cơ quan quản lý.
Hiện nay, một trong những yêu cầu đặt ra là Việt Nam cần sớm hoàn thiện
khung pháp lý về hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm tra đối với phát thải KNK.
Đây là yếu tố chính để bảo đảm tính minh bạch, chính xác trong quá trình triển
khai thực hiện và thẩm tra, giám sát phát thải KNK.
“Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, quản lý các hoạt
động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường thế giới” xác định phải thiết lập hệ
thống MRV cấp quốc gia và cấp ngành phục vụ các yêu cầu liên quan tới kiểm kê
quốc gia KNK và quản lý phát thải KNK; đồng thời, phục vụ việc giám sát các
nguồn phát thải KNK và đáp ứng các yêu cầu cung cấp số liệu cho kiểm kê KNK.
Bộ NN&PTNT xây dựng các khung MRV dựa trên các hướng dẫn quốc
tế về MRV cho các NAMA do quốc gia tự tài trợ, quản lý thông tin về các nỗ lực
giảm nhẹ KNK phù hợp với điều kiện quốc gia và các tác động của chúng trong
nông nghiệp. MRV quốc gia góp phần quản lý các hoạt động giảm phát thải KNK;
đánh giá được tiềm năng giảm phát thải KNK trên cơ sở các số liệu kiểm kê KNK
quốc gia trong nông nghiệp.
- QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp góp phần nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các địa phương, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành
này và cộng đồng về hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK.
Chính các hoạt động QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp là
một hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và
169
trách nhiệm về giảm nhẹ phát thải KNK đối với nông dân và các đối tượng hoạt
động trong ngành này. Qua đó, vận động họ chấp hành nghiêm chỉnh các quy định
của pháp luật về hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK.
Truyền thông các nội dung về giảm phát thải KNK, đồng thời giáo dục và
vận động các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, hộ gia đình, cá nhân thực hiện
hoạt động giảm phát thải KNK là trách nhiệm và nhiệm vụ thường xuyên của các
cơ quan QLNN về môi trường.
- Quản lý phát thải KNK trong ngành nông nghiệp cần tập trung vào việc
tăng cường hợp tác quốc tế để tận dụng sự hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ
từ cộng đồng quốc tế. Điều này đóng góp quan trọng trong việc thực hiện các biện
pháp giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Quản lý phát thải KNK trong ngành nông nghiệp thông qua một số biện
pháp như: canh tác lúa tiết kiệm nước và giảm chi phí đầu vào; thúc đẩy việc thu
gom, tái chế và tái sử dụng các sản phẩm phụ nông nghiệp; phát triển và áp dụng các
công nghệ xử lý chất thải hữu cơ trong quá trình canh tác.
4.4. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với phát thải
khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
Theo kịch bản phát thải trong điều kiện phát triển thông thường (BAU)
của Việt Nam, dự kiến đến năm 2050, tổng khối lượng phát thải KNK của Việt
Nam sẽ đạt khoảng 1495,4 triệu tấn CO2e, trong đó, ngành nông nghiệp chiếm
10%. Tuy nhiên, tại Hội nghị Thượng đỉnh về BĐKH COP26 (tháng 11 năm
2021), Việt Nam đã cam kết: Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp
giảm phát thải KNK mạnh mẽ bằng nguồn lực trong nước, đồng thời hợp tác và
nhận sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, đặc biệt là từ các nước đang phát triển, bao
gồm cả hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ. Trong đó, việc thực hiện các
cơ chế theo Thỏa thuận Paris để đạt được mục tiêu Net-Zero vào năm 2050 cũng
sẽ được thực hiện.
Thời gian qua, lượng phát thải KNK ở nước ta vẫn ở mức cao, ảnh hưởng
đến sức khỏe con người và tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của đất
nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên làm giảm hiệu lực, hiệu quả 170
của công tác QLNN đối với phát thải KNK. Để khắc phục những hạn chế và bất
cập, quyết tâm đạt mục tiêu Net - Zero phát thải KNK vào năm 2050, Việt Nam
cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý phát thải KNK nhằm giảm
lượng phát thải KNK nói chung, lượng phát thải KNK trong nông nghiệp nói riêng
chủ yếu sau:
4.4.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chiến lược, kế hoạch cắt giảm
phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với phát triển bền vững
Xây dựng và hoàn thiện chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải KNK là
giải pháp tiên quyết để nâng cao hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK. Các chiến
lược, kế hoạch cắt giảm phát thải KNK trong nông nghiệp phải phù hợp với hoàn
cảnh quốc gia và gắn với phát triển bền vững.
Việc xây dựng chiến lược giảm phát thải KNK ở Việt Nam nói chung,
trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng cần phải được đặt ở vị trí đúng tầm quan
trọng của nó. Bởi vì, hệ lụy mà phát thải KNK đưa đến là khôn lường, nó là một
trong các nguyên nhân chủ yếu gây BĐKH.
Các Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh, Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH, Kế hoạch hành động quốc gia về
tăng trưởng xanh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược Phát triển bền
vững, Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường, Kế hoạch hành động ứng phó
với BĐKH ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Kế hoạch hành động tăng
trưởng xanh của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Kế hoạch thực hiện
thỏa thuận Paris về BĐKH của Bộ NN&PTNT giai đoạn 2021-2030,… đã xác
định các mục tiêu cơ bản, các định hướng, nhiệm vụ và giải pháp đột phá cần đạt
được trong nỗ lực giảm phát thải KNK ở Việt Nam nói chung, trong lĩnh vực nông
nghiệp nói riêng.
Tuy vậy, chiến lược quốc gia về giảm phát thải KNK phải được hoàn thiện
thêm theo hướng:
- Hoàn thiện các chiến lược giảm phát thải KNK ngành nông nghiệp liên
171
quan đến Thỏa thuận Paris về BĐKH.
- Chiến lược phải xác định rõ ràng mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể;
giảm phát thải KNK với các giải pháp thực hiện; cùng với đó là nội dung cụ thể
về giảm nhẹ phát thải KNK hướng tới mục tiêu Net Zero của Việt Nam vào năm
2050 chứ không phải chỉ tập trung vào hiệu quả giảm nhẹ phát thải KNK; tiêu chí
xác định các biện pháp giảm nhẹ phải dựa trên xu thế phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia, có xem xét các rủi ro, thách thức tiềm năng và ưu tiên tận dụng công
nghệ có sẵn.
- Phòng ngừa, kiểm soát và hạn chế mức độ gia tăng của phát thải KNK,
tối ưu hóa giảm thiểu ô nhiễm môi trường gây ra bởi phát thải KNK, đồng thời
đóng góp vào bảo vệ sức khỏe của con người và môi trường, hạn chế BĐKH,
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
- Nhiệm vụ đặt ra trong chiến lược cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp để đạt được mục tiêu giảm phát thải ròng xuống mức 0 (Net-Zero)
vào năm 2050 phải cụ thể, bám sát mục tiêu đã xây dựng và phê duyệt trong Báo
cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định NDC của Việt Nam. coi giảm phát thải
KNK trong nông nghiệp là một thước đo trong đánh giá phát triển nền nông nghiệp
sạch và bền vững.
Kế hoạch cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp cần được
hoàn thiện thêm theo hướng:
- Rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch cắt giảm phát thải KNK nói
chung gắn với kế hoạch cắt giảm phát thải KNK của ngành nông nghiệp và các
địa phương nói riêng.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về QLNN đối với
phát thải KNK trong ngành nông nghiệp phù hợp với điều kiện thực tế.
- Rà soát, xây dựng, hoàn thiện và lồng ghép nội dung các kế hoạch cắt
giảm phát thải KNK trong nông nghiệp vào kế hoạch cắt giảm phát thải KNK
quốc gia. Xây dựng kế hoạch cắt giảm phát thải KNK một cách căn bản, chi tiết
theo từng giai đoạn (theo lộ trình) là vô cùng cần thiết. Để tăng cường công tác
quản lý giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, kế hoạch cần phải xác 172
định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân trong việc cắt giảm
phát thải KNK trong lĩnh vực này.
4.4.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm
phát thải khí nhà kính hướng tới phát triển bền vững
Hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp quản lý giảm phát thải KNK
nói chung, trong nông nghiệp nói riêng, hướng tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng
bằng “0” vào năm 2050, phát triển bền vững đất nước là giải pháp quan trọng
nhất để nâng cao hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK. Chính sách, pháp luật
quản lý giảm phát thải KNK phải xuất phát và nằm trong tổng thể các chính sách,
định hướng mang tính quốc gia về BVMT, phát triển bền vững, ứng phó với
BĐKH và tăng trưởng xanh. Việc thực hiện giải pháp này sẽ tạo cơ sở cho việc
triển khai thực hiện các giải pháp khác.
4.4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý giảm phát thải
khí nhà kính hướng tới phát triển bền vững
Qua nghiên cứu chính sách quản lý giảm phát thải KNK của Việt Nam
thời gian qua, có thể thấy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý
giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp như sau:
- Tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý giảm
phát thải KNK theo tinh thần đầu tư cho phát triển bền vững, ưu tiên nguồn lực
phù hợp cho công tác này trên tinh thần bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, xuất
phát từ thực tiễn. Nếu chính sách nào chưa hợp lý, chưa sát thực tế thì phải điều
chỉnh, bổ sung, thậm chí ban hành chính sách mới cho phù hợp.
- Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các chính sách hỗ
trợ tài chính và quản lý đất đai nhằm khuyến khích các nguồn đầu tư vào sản xuất
nông nghiệp ít phát thải KNK.
Quá trình thực hiện bao gồm việc đánh giá và phân tích những hạn chế
173
trong cơ chế tài chính, chính sách đất đai và các cơ chế hỗ trợ hiện có làm cơ sở
cho việc xây dựng, sửa đổi và bổ sung các chính sách, văn bản quản lý và giám
sát phù hợp với mục tiêu giảm phát thải KNK.
Cần chú trọng vấn đề huy động nguồn lực tài chính, đưa ra các cơ chế đổi
mới để khuyến khích nguồn lực giảm phát thải KNK, như: thuế carbon, thị trường
carbon, hoặc các ưu đãi về đất đai, sử dụng tài nguyên cho các nhà đầu tư, ...
- Tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý giảm
phát thải KNK theo hướng tập chung cho sản xuất nông nghiệp ít phát thải KNK
(chẳng hạn các chính sách về chuyển đổi cơ cấu vật nuôi và cây trồng, chính sách
về tích tụ và tập chung ruông đất, chính sách sản xuất công nghệ cao…).
- Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách nhằm hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, tổ chức và cá nhân áp dụng các giải pháp giảm phát thải KNK và thích
ứng với BĐKH; các chính sách khuyến nông, khuyến công gắn kết với mục tiêu
giảm phát thải KNK và thích ứng với BĐKH; các chính sách về đánh giá, kiểm
kê và giám sát phát thải KNK; các chính sách thu hút nguồn lực trong và ngoài
nước, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư cho các hoạt động giảm phát thải
KNK.
- Tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển
thị trường tín chỉ carbon; xác định các nguyên tắc, cơ chế vận hành thị trường tín
chỉ carbon.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách thu ngân sách từ phát thải KNK. Áp
dụng các nguyên tắc của kinh tế thị trường vào lĩnh vực phát thải KNK như: người
gây phát thải KNK quá mức cho phép phải trả phí.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các hoạt động giảm
thiểu phát thải KNK trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
- Tổ chức các diễn đàn đối thoại chính sách, hợp tác công - tư trong phát
triển nông nghiệp bền vững carbon thấp, kinh tế tuần hoàn để nâng cao hiệu quả
thực thi, triển khai các chính sách, kế hoạch giảm phát thải KNK nói riêng.
4.4.2.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý giảm phát thải khí
174
nhà kính hướng tới phát triển bền vững
Để khắc phục tình trạng chưa đầy đủ, thiếu các quy định đặc thù, không
đồng bộ, thiếu kịp thời, một số văn bản só tính thực thi thấp, nhiều quy định còn
chung chung, mới mang tính nguyên tắc, hệ thống pháp luật quản lý giảm phát
thải KNK cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo các hướng sau:
Một là: Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các văn bản
pháp luật hiện có liên quan đến quản lý giảm phát thải KNK, cũng như các văn
bản quy phạm pháp luật về việc quản lý giảm phát thải KNK. Tăng cường khả
năng thực thi để đảm bảo tính phù hợp và thống nhất với tình hình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước; đồng thời tránh tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn với
các quy định pháp luật khác có liên quan.
Hai là: Sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật giảm phát thải
KNK còn thiếu nhằm tạo môi trường pháp lý đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc
thực hiện công tác quản lý giảm phát thải KNK. Các văn bản dưới luật quy định
các chế tài xử phạt phải đủ mạnh, mang tính dăn đe, hướng dẫn thi hành cụ thể
mang tính thực thi.
Ba là: Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật quản lý giảm phát thải
KNK:
- Hoàn thiện các quy định về kiểm soát phát thải KNK được xem là nhiệm
vụ cấp bách và phải được ưu tiên hàng đầu. Các văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý giảm phát thải KNK cần tập trung giải quyết những vấn đề chính như
thống nhất quan điểm về kiểm soát phát thải KNK, đặc biệt tập trung vào việc
kiểm soát tổng thể phát thải KNK. Những văn bản này phải đảm bảo tính cụ thể,
rõ ràng, dễ hiểu và tránh gây hiểu nhầm thành nhiều nghĩa khác nhau; đồng thời
phải tuân thủ Luật Bảo vệ môi trường và các luật liên quan khác.
+ Rà soát, đánh giá lại hệ thống các quy chuẩn Việt Nam đối với phát thải
KNK, có so sánh với quy chuẩn quốc tế và thực tế Việt Nam, từ đó đề xuất sửa
đổi, điều chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế -
kỹ thuật liên quan đến hoạt động quản lý giảm phát thải KNK không còn phù hợp
175
và ban hành mới các quy chuẩn đang còn thiếu.
+ Rà soát lại các Luật, nghị định, thông tư, so sánh Kế hoạch với thực hiện
NDC để chỉ ra công cụ pháp lý còn thiếu, làm cơ sở hoàn thiện khung khổ pháp
lý quản lý giảm phát thải KNK.
+ Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động của phát thải KNK; quy
định về tổ chức dịch vụ thẩm định và quy định về việc công khai thông tin các
quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động của phát thải KNK, nhằm đảm
bảo tính minh bạch và sự tham gia của cộng đồng dân cư vào quá trình giám sát
và thực hiện các cam kết cắt giảm phát thải KNK của các cơ sở sản xuất.
- Hoàn thiện các quy định về áp dụng các công cụ kinh tế thông qua xây
dựng, ban hành một số cơ chế, chính sách môi trường, ứng phó BĐKH, trong đó
có giảm phát thải KNK. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần triển khai các công việc:
+ Bộ TN&MT phối hợp xây dựng và sớm trình Quốc hội thông qua Luật
Thuế môi trường, trong đó có thuế phát thải KNK. Khi Luât đã được thông qua
và đi vào thực hiện, các cơ chế này sẽ buộc các cơ sở sản xuất phải quan tâm hơn
đến cắt giảm phát thải KNK. Đây chính là công cụ đắc lực để nâng cao hiệu lực
QLNN đối với phát thải KNK nói chung, trong nông nghiệp nói riêng. Sau khi
Luật được thông qua, Bộ TN&MT phối hợp với Bộ Tài chính sớm ban hành
Thông tư hướng dẫn quản lý, sử dụng nguồn thu tiền xử phạt vi phạm pháp luật
quản lý giảm phát thải KNK. Đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế trong QLNN
đối với phát thải KNK.
+ Xây dựng và ban hành quy định việc thực hiện hạch toán phát thải KNK.
Quy định trách nhiệm của cơ sở sản xuất trong việc báo cáo các hoạt động tuân
thủ quy phạm pháp luật quản lý giảm phát thải KNK, minh bạch hóa thông tin về
phát thải KNK của từng cơ sở, thể chế hóa các quy định về trách nhiệm xã hội của
các cơ sở sản xuất gây phát thải KNK.
- Việc thực hiện QLNN đối với phát thải KNK phải được các bộ, ngành
thực hiện độc lập. Từ đó xác định cơ chế ra quyết định liên bộ, ngành để cùng
quản lý cắt giảm phát thải KNK một cách thống nhất, tổng thể, đồng bộ nhằm
triển khai thực hiện đạt hiệu quả, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. 176
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường QLNN đi đôi với nâng cao ý
thức và trách nhiệm của người dân, của toàn xã hội đối với giảm phát thải KNK.
Thực hiện nguyên tắc cá nhân, đơn vị nào gây ra lượng phát thải KNK quá mức
cho phép thì đều phải bị xử lý.
4.4.3. Nâng cao chất lượng kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm
phát thải khí nhà kính
Kết quả kiểm kê KNK là cơ sở để xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm
và đề xuất các chính sách giảm phát thải KNK phù hợp; đồng thời, đảm bảo phát
triển bền vững kinh tế - xã hội và đóng góp vào việc bảo vệ hệ thống khí hậu toàn
cầu.
Vì vậy, chất lượng kiểm kê KNK là nhân tố đầu vào quyết định sự đúng
đắn của chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát thải KNK. Đây là giải pháp điều kiện
kỹ thuật để nâng cao hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK, vì vậy phải đầu tư
nâng cao chất lượng hoạt động kiểm kê KNK theo các hướng:
- Công tác kiểm kê KNK phải được phối hợp chặt chẽ hơn giữa các bộ,
ngành, địa phương, tổ chức, cơ sở sản xuất có liên quan.
- Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách và văn bản
quy phạm pháp luật quy định đối với kiểm kê KNK phù hợp với hướng dẫn của
IPCC.
- Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện các hướng dẫn kỹ thuật, tiêu
chuẩn, quy chuẩn và định mức kỹ thuật về kiểm kê KNK.
- Hoàn thiện Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK và Hệ thống đo lường,
báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK đủ năng lực thực hiện kiểm kê KNK
trong từng lĩnh vực, từng ngành, từng cơ sở sản xuất gây phát thải KNK để có
được các số liệu tổng hợp chính xác, đầy đủ phục vụ các nhà hoạch định chính
sách và xây dựng các Báo cáo quốc gia về BĐKH định kỳ phục vụ công tác quản
lý và giám sát phát thải KNK, xây dựng các kịch bản phát thải thông thường.
- Các quy định của Hệ thống quốc gia về kiểm kê KNK và Hệ thống đo
đạc, báo cáo, thẩm định cho các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK trong từng 177
ngành, lĩnh vực phải có tính nhất quán, tính kết nối, liên thông, đồng bộ về mục
tiêu, giải pháp giảm nhẹ phát thải KNK trên toàn quốc, đảm bảo tính chính xác,
minh bạch trong trách nhiệm và lợi ích tổng thể của quốc gia.
- Các số liệu kiểm kê phát thải KNK phải được thống kê chi tiết, đầy đủ.
Việt Nam cam kết từ năm 2021 trở đi, sẽ giảm phát thải KNK so với mức phát
thải theo kịch bản phát triển thông thường (BAU) đến năm 2030, theo các chỉ tiêu
giảm phát thải KNK cụ thể cho từng lĩnh vực, vì vậy các số liệu và thông số kỹ
thuật về giảm phát thải KNK sẽ được đo đạc, báo cáo, thẩm định theo quy định
của quốc tế và được công bố công khai. Trong bối cảnh các yêu cầu của quốc tế
và triển khai thực hiện các mục tiêu cam kết của Việt Nam, nếu không có số liệu
kiểm kê đầy đủ, chính xác sẽ rất khó khăn trong minh bạch, giám sát, quản lý hiệu
quả giảm phát thải KNK.
- Đội ngũ cán bộ chuyên trách về kiểm kê KNK; đo đạc, báo cáo, thẩm
định giảm nhẹ phát thải KNK cho các cơ sở, ngành và địa phương phải được đào
tạo chính quy, bài bản.
4.4.4. Tăng cường, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát, kiểm tra,
thanh tra việc tuân thủ quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính
trong lĩnh vực nông nghiệp
Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về
kiểm kê, giảm nhẹ phát thải KNK để nắm bắt và xử lý kịp thời các vi phạm pháp
luật về vấn đề này là giải pháp quan trọng không thể thiếu đảm bảo cho công tác
QLNN đối với phát thải KNK đạt hiệu quả cao.
Để nâng cao hiệu quả kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm; tăng cường giám
sát việc tuân thủ các quy định về kiểm kê, giảm nhẹ phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp, cần phải:
- Hoàn thiện cơ chế giám sát, thẩm định và kiểm tra các hoạt động phát
thải KNK. Một số việc cần triển khai như: Nghiên cứu phát triển khung theo dõi,
178
giám sát việc tuân thủ các quy định đối với phát thải KNK, làm cơ sở đánh giá
chính xác hiệu quả của các chính sách giảm phát thải KNK và là tiền đề để xây
dựng các hành động giảm thiểu phát thải KNK phù hợp với ngành nông nghiệp.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý cho công tác kiểm kê KNK,
ban hành các quy trình thủ tục, văn bản hướng dẫn quá trình giám sát, kiểm tra,
thẩm định và kiểm kê KNK.
- Hoàn thiện và thực hiện các quy định về đo đạc, báo cáo, thẩm định bao
gồm cấp quốc gia và cấp ngành, nhằm theo dõi và giám sát các hoạt động phát
thải KNK; phục vụ các yêu cầu liên quan tới kiểm kê quốc gia KNK, quản lý phát
thải KNK, đảm bảo tính minh bạch về kết quả thực hiện kế hoạch cắt giảm phát
thải KNK toàn cầu.
- Bên cạnh kế hoạch kiểm tra định kỳ, cần duy trì kiểm tra đột xuất đối
với các cơ sở chăn nuôi, trồng trọt lớn, có nguy cơ gây phát thải KNK cao.
- Lập kế hoạch giám sát, kiểm tra và thanh tra định kỳ có trọng tâm, trọng
điểm công tác quản lý giảm phát thải KNK; đồng thời, cần xác định rõ phạm vi,
đối tượng, nội dung và tính khả thi của kế hoạch này.
- Xây dựng và thực hiện một cách nghiêm túc và hiệu quả cơ chế phối hợp
giữa các cấp, các ngành, các địa phương và các lực lượng chức năng trong việc
điều tra và xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến quản lý giảm phát thải KNK.
- Huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng thông qua các tổ chức chính
trị - xã hội trong việc giám sát các hoạt động phát thải KNK và thực hiện các biện
pháp giảm phát thải KNK.
- Cung cấp thông tin về quản lý giảm phát thải KNK một cách công khai
và minh bạch nhằm tạo điều kiện cho công tác giám sát của cộng đồng và phản
biện xã hội. Thực hiện nghiêm túc việc kết nối trực tiếp truyền số liệu quan trắc
phát thải KNK của các cơ sở gây phát thải KNK lớn về các Sở TN&MT và Sở
NN&PTNT để theo dõi, giám sát.
- Tiếp tục duy trì và tận dụng tối đa hiệu quả của các đường dây nóng; sử
dụng các nền tảng thông tin và mạng xã hội để phát hiện và xử lý kịp thời các vi
179
phạm pháp luật liên quan đến quản lý giảm phát thải KNK.
4.4.5. Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Đây là một trong những giải pháp cơ bản, then chốt, có ý nghĩa quyết định
đến việc nâng cao hiệu lực QLNN đối với phát thải KNK ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Giải pháp này phải được tiến hành đồng thời, song song với giải
pháp hoàn thiện hệ thống chính sách, luật pháp quản lý giảm phát thải KNK.
Về kiện toàn bộ máy QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp:
- Tiếp tục kiện toàn bộ máy QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực
nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương theo hướng chuyên môn, chuyên sâu,
đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả. Cần có cán bộ chuyên trách làm công tác
quản lý giảm phát thải KNK đến cấp huyện.
- Khắc phục tình trạng chồng chéo; hình thành cơ chế phối hợp chặt chẽ
giữa các bộ, ngành và địa phương trong hoạt động quản lý giảm phát thải KNK
trong nông nghiệp. Bộ TN&MT là Bộ chủ trì QLNN đối với phát thải KNK cần
phân công trách nhiệm cho các đơn vị trực thuộc chủ động, phối hợp với Bộ
NN&PTNT, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (mà trực tiếp là
Sở TN&MT và Sở NN&PTNT) triển khai thực hiện đảm bảo chất lượng và tiến
độ của kế hoạch cắt giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Rà soát, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị liên quan thuộc Bộ
TN&MT và Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh (mà trực tiếp là Sở TN&MT và Sở
NN&PTNT) và tăng cường năng lực tổ chức, quản lý các vấn đề liên quan đến
ứng phó với BĐKH, giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp.
Về đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ QLNN đối với phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp:
- Tăng cường cán bộ QLNN đối với phát thải KNK các cấp vì hiện nay
đội ngũ này ở nước ta quá mỏng.
- Bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại nhàm nâng cao trình độ chuyên môn,
kiến thức pháp luật, đặc biệt là kiến thức nghiệp vụ quản lý cho đội ngũ cán bộ 180
QLNN đối với phát thải KNK là việc làm cấp bách hiện nay. Thường xuyên tổ
chức tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, kiến thức pháp
luật, cũng như cập nhật thông tin trong nước và quốc tế liên quan đến phát thải
KNK cho đội ngũ cán bộ QLNN đối với phát thải KNK, bởi họ là những người
trực tiếp tổ chức, triển khai các quyết định quản lý của Nhà nước về giảm phát
thải KNK trong thực tiễn.
- Có chiến lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN
về phát thải KNK có đủ trình độ và kỹ năng, cũng như phẩm chất, đạo đức đáp
ứng được yêu cầu công việc.
- Đối với đội ngũ cán bộ QLNN về phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp, các chủ trang trại và mọi nông dân đều cần bồi dưỡng thêm kiến thức về
kinh tế nông nghiệp gắn với giảm phát thải KNK, lồng ghép với đào tạo kỹ thuật
và phương pháp đánh giá mức độ phát thải KNK.
4.4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí
nhà kính trong nông nghiệp
Tăng cường hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải KNK là giải
pháp tất yếu, cấp thiết và lâu dài quyết định sự thành công đạt được mục tiêu Net
Zero trên toàn cầu. Là thành viên Công ước khung của Liên hiệp quốc về BĐKH,
Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris về BĐKH, Nghị định thư Montreal, những
năm qua, Việt Nam đã nỗ lực và có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế chung
tay ứng phó với BĐKH, giảm phát thải KNK.
Việt Nam là quốc gia trồng lúa nước, tổng lượng phát thải KNK từ nông
nghiệp lớn. Để giải quyết thách thức này, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nỗ lực
giảm phát thải KNK cần thiết thực và hiệu quả hơn nữa trong lĩnh vực nông
nghiệp:
- Sẵn sàng, chủ động đăng cai các hội nghị quốc tế về giảm phát thải KNK,
tích cực tham gia có những ý kiến đóng góp trách nhiệm tại các tổ chức quốc tế
181
để nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, vận động tài trợ các nguồn lực về công
nghệ, nâng cao năng lực trong xây dựng chính sách và thực hiện các biện pháp
giảm nhẹ phát thải KNK, tạo cơ hội để tiếp cận và tham gia thị trường carbon.
- Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế với các quốc gia, tổ chức
quốc tế theo hình thức đa phương, song phương và tích cực tham gia các liên
minh, mạng lưới khu vực và thế giới nhằm chia sẻ kinh nghiệm, đào tạo, nghiên
cứu về xây dựng, ban hành các quy định, hướng dẫn kỹ thuật và thực hiện giảm
phát thải KNK lĩnh vực nông nghiệp.
- Tập trung triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về chuyển giao công
nghệ chăn nuôi và trồng trọt, đầu tư tài chính và tăng cường năng lực phục vụ
giảm phát thải KNK; tạo nền tảng để thử nghiệm và nhân rộng mô hình công nghệ
sản xuất nông nghiệp thông minh giảm phát thải KNK gắn với đào tạo tập huấn,
nâng cao năng lực cho cán bộ, doanh nghiệp và người sản xuất.
- Thúc đẩy các chương trình, dự án hỗ trợ của quốc tế, sử dụng hiệu quả
nguồn tài trợ quốc tế bằng cách: 1) Cải tiến cách thức thực hiện dự án theo hướng
nâng cao giá trị đồng vốn - đó là không hỗ trợ kinh phí trước cho các tổ chức, cá
nhân mà tiến hành lựa chọn, thẩm định các giải pháp, đề tài sáng tạo, đáp ứng tiêu
chí giảm phát thải KNK và nâng cao sinh kế cho người dân chăn nuôi, trồng trọt.
2) Sử dụng viện trợ quốc tế để khơi thông nguồn tài chính tư nhân. Sự hỗ trợ của
các các chương trình, dự án hợp tác quốc tế cả về kiến thức và vốn là cơ sở để các
doanh nghiệp Việt Nam tự tin đầu tư sản xuất nông nghiệp ít phát thải KNK, tăng
trưởng bền vững. 3) Đổi mới cơ chế tài chính, thực hiện cơ chế minh bạch.
- Phối hợp chặt chẽ đội ngũ chuyên gia trong nước và quốc tế để trang bị
cho nông dân, doanh nghiệp những công cụ, kiến thức và các mối liên kết nhằm
mục tiêu giảm phát thải KNK.
- Bộ TN&MT phối hợp với Bộ NN&PTNT rà soát sự giao thoa giữa các
dự án khác nhau liên quan đến giảm phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp,
182
kiểm kê KNK nhằm thực hiện chức năng điều phối giữa các dự án, nhà tài trợ để
các hoạt động không bị trùng lặp mà hỗ trợ lẫn nhau, hướng đến mục tiêu là công
tác QLNN đối với phát thải KNK càng ngày càng bài bản.
4.4.7. Tập trung xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham
gia thị trường tín chỉ carbon thế giới
Xây dựng thị trường tín chỉ carbon là giải pháp hữu hiệu giảm phát thải
KNK trên phạm vi toàn cầu. Thị trường tín chỉ carbon cho phép các doanh nghiệp
linh hoạt và chủ động trong việc tuân thủ hạn ngạch phát thải, tạo điều kiện cho
họ lựa chọn các biện pháp hiệu quả về chi phí để giảm thiểu phát thải KNK. Để
thúc đẩy tiến trình hình thành thị trường tín chỉ carbon ở Việt Nam, chuẩn bị tổ
chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức, chúng ta cần tập trung:
- Xây dựng khung pháp lý, hoàn thiện thể chế cho thị trường tín chỉ carbon.
Từ sau COP 26 và COP 27 có rất nhiều tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài tìm đến
Việt Nam với mong muốn đầu tư vào thị trường tín chỉ carbon, tuy vậy, một trong
những vấn đề mà họ lo ngại là việc chưa có hành lang pháp lý đầy đủ cho thị
trường này. Ngoài ra, Chính phủ cần cử cơ quan điều phối để hướng dẫn thị trường
và có hệ thống đăng ký về quyền carbon để các doanh nghiệp đăng ký. Để phát
triển thị trường tín chỉ carbon, cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
Theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP ban hành ngày 7/1/2022 về lộ trình phát triển thị
trường tín chỉ carbon, Việt Nam cần hoàn thành việc quy định quản lý tín chỉ
carbon và các hoạt động trao đổi hạn ngạch và tín chỉ carbon vào cuối năm 2027.
Đồng thời, cần xây dựng và hoàn thiện quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ
carbon.
- Cần phải có sự phối hợp và vào cuộc đồng bộ, kịp thời của nhiều bên.
Cụ thể: Bộ Tài Chính cần sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyêt Đề án thành
lập thị trường tín chỉ carbon để chuẩn bị đến năm 2025 sàn giao dịch tín chỉ carbon
tiến hành vận hành thí điểm; Bộ TN&MT cần sớm tiến hành triển khai kiểm kê
KNK các doanh nghiệp đã được xác định tại Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg,
ngày 18/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát
thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK. 183
- Thúc đẩy việc áp dụng công cụ đánh giá carbon ở Việt Nam trong giai
đoạn mới. Để làm được việc đó cần ưu tiên: 1) Thực hiện việc phân bổ hạn ngạch
và xác định mức giá trần theo lĩnh vực cho các cơ sở thuộc danh mục cơ sở phải
thực hiện kiểm kê phát thải KNK; nghiên cứu, đánh giá tác động đến khía cạnh
chuyển đổi công nghệ, xã hội và tính cạnh tranh khi áp dụng hệ thống trao đổi hạn
ngạch phát thải đổi với các cơ sở phát thải lớn. 2) Có lộ trình áp dụng và điều
chỉnh mức giá carbon cho phù hợp; nghiên cứu, xác định thuế suất carbon hợp lý
nhằm đạt được mục tiêu tạo động lực cho việc đầu tư hiệu quả vào các phương án
carbon thấp.
- Các cấp chính quyền quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chuẩn bị tham gia
thị trường tín chỉ carbon - đó là động lực, là bệ đỡ thúc đẩy doanh nghiệp tham
gia thị trường tín chỉ carbon.
- Thị trường tín chỉ carbon là vấn đề mới đối với Việt Nam. Mua - bán
những hàng hóa không nhìn thấy được, chỉ qua giấy tờ chứng nhận thông qua tín
chỉ, vì vậy xã hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng gần như chưa hiểu biết về
thị trường này, do đó công tác truyền thông có vai trò hết sức quan trọng. Chất
lượng của công tác truyền thông có ý nghĩa quyết đinh đến nhận thức của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp có hiểu biết đầy đủ về thị trường tín chỉ carbon, việc
thực hiện giao dịch mua - bán tín chỉ carbon sẽ diễn ra thuận lợi. Ngược lại, nếu
nhận thức của doanh nghiệp về thị trường này còn hạn chế, việc triển khai và thực
hiện giao dịch có thể gặp nhiều khó khăn. Thời gian từ nay đến năm 2025 không
còn nhiều cho tổ chức xây dựng thị trường tín chỉ carbon, do đó công tác truyền
thông càng hết sức quan trọng.
- Các doanh nghiệp cần hiểu rõ nguyên tắc hoạt động và cơ chế vận hành
của thị trường tín chỉ carbon, cùng với các quy định liên quan trong pháp luật.
Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp cần tự chuẩn bị năng lực tài chính và kiến thức
để có khả năng tham gia linh hoạt trong thị trường tín chỉ carbon, đặc biệt là việc
184
đăng ký và tham gia giao dịch trên sàn giao dịch tín chỉ carbon.
- Tăng khả năng liên kết và thích ứng khi tham gia thị trường tín chỉ carbon
thế giới.
- Xây dựng hệ thống kiểm kê KNK; hệ thống giám sát phát thải KNK; hệ
thống đo đạc, báo cáo và thẩm định cấp quốc gia, ngành, tiểu ngành, cơ sở sản
xuất theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Xác định lộ trình cắt giảm phát thải KNK cho từng ngành/tiểu ngành….
- Cần ban hành các quy định rõ ràng về điều tra, đánh giá trữ lượng
carbon; phân vùng theo lượng carbon và xác định bản đồ carbon toàn quốc, bao
gồm việc xác định các vùng giảm phát thải carbon nhằm đóng góp cho các cam
kết tự nguyện của các quốc gia và khu vực kinh doanh tín chỉ carbon.
- Cần có những quy định chi tiết về việc chuyển nhượng tín chỉ carbon
nhằm thúc đẩy các quá trình đàm phán thương mại liên quan đến tín chỉ carbon.
Muốn vậy, trước tiên cần quy định tín chỉ carbon là một loại sản phẩm hàng hóa
đặc biệt và gắn với quyền sở hữu, trên cơ sở đó định hình thị trường tín chỉ carbon
tại Việt Nam. Về quy định QLNN đối với carbon, cần bổ sung quy định carbon là
một trong các chỉ tiêu điều tra, kiểm kê, theo dõi theo giai đoạn và hằng năm.
- Xây dựng Đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam nhằm
cụ thể hóa các nội dung, hoạt động cần triển khai để thiết lập và vận hành thị
trường tín chỉ carbon.
4.4.8. Quản lý phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp thông
qua quản lý sản xuất nông nghiệp
Trên cơ sở xác định các nguồn phát thải KNK trong quá trình chăn nuôi
và trồng trọt cùng các yếu tố tác động đến lương phát thải KNK trong lĩnh vực
này, NCS mạnh dạn đề xuất giải pháp quản lý phát thải KNK trong nông nghiệp
thông qua quản lý sản xuất nông nghiệp. Vì phát thải KNK là đầu ra của quá trình
sản xuất nông nghiệp, nên một trong các giải pháp quản lý là: quản lý ngay từ đầu,
từ khâu quy hoạch phát triển sản xuất đến khâu cuối cùng. Đây là giải pháp tác
động đến khả năng hấp thụ và giảm phát thải KNK trong nông nghiệp. Như vậy,
sẽ chủ động kiểm soát và quản lý được lượng phát thải KNK trong nông nghiệp 185
thông qua kiểm soát và xây dựng quy hoạch sản xuất, kế hoạch sản xuất và kỹ
thuật sản xuất theo hướng ít phát thải KNK đến mức tối đa. Xác định lượng phát
thải KNK và cơ cấu phát thải KNK từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp có vai
trò quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp giảm phát thải KNK. Khi chúng
ta xây dựng được quy hoạch vùng trồng trọt, chăn nuôi hợp lý, tập trung; có kế
hoạch sản xuất phù hợp; có kỹ thuật sản xuất thông minh, khoa học vì một nền
sản xuất xanh, sạch và bảo vệ môi trường…thì việc quản lý giảm phát thải KNK
trong nông nghiệp sẽ chủ động, thuận lợi, hiệu quả và chặt chẽ.
Giải pháp này bao gồm các khâu:
Một là, quản lý quy hoạch, phân bố không gian các vùng trồng trọt và chăn
nuôi hợp lý nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng vùng, đảm bảo
phát triển bền vững, ít phát thải KNK.
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch và quản lý quy hoạch, xây dựng bản đồ
phân bố các vùng trồng trọt những loại cây phổ biến như cây lúa, cây ăn quả, cây
công nghiệp tập trung, phù hợp với điều kiện tự nhiên để thuận lợi cho áp dụng
các biện pháp canh tác cơ giới, các công nghệ giảm phát thải KNK cũng như nâng
cao hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Cách thức thực hiện là đánh giá hiện trạng công tác quy hoạch sử dụng đất
nông nghiệp; đánh giá hiện trạng quản lý đất nông nghiệp; đánh giá điều kiện thổ
nhưỡng và khí hậu đề xuất các nội dung quy hoạch và sử dụng hiệu quả, hợp lý
đất nông nghiệp.
- Rà soát, quy hoạch lại để hình thành các vùng chăn nuôi tập trung xa khu
dân cư; các vùng chăn nuôi trọng điểm gắn với bảo vệ môi trường, ít phát thải
KNK và an toàn sinh học ở những vùng đất chưa sử dụng, đất đồi núi, đất bạc
màu.
- Kết hợp chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý; khai thác tốt
nhất tiềm năng, lợi thế của từng vùng với phát triển nông nghiệp hiện đại, hữu cơ
bền vững. Áp dụng mô hình canh tác thông minh, tập trung sản xuất nông sản
sạch, an toàn, ít thải KNK, ưu tiên phát triển các loại hình sản xuất hấp thụ KNK, 186
cùng với đó hoàn thiện hệ thống quy hoạch vùng sản xuất trồng trọt và chăn nuôi
hợp lý.
- Hầu hết các giải pháp giảm phát thải KNK tiềm năng trong nông nghiệp
đều liên quan đến canh tác lúa, vì canh tác lúa có lượng phát thải cao nhất. Nguyên
nhân phát thải KNK trong sản xuất lúa Việt Nam là do khí CH4 từ cánh đồng lúa
ngập nước thường xuyên, sử dụng phân đạm không đúng cách gây phát thải khí
N2O và thói quen đốt rơm rạ gây phát thải khí CO2, vì vậy nếu ta chuyển đổi từ
canh tác lúa nhỏ lẻ sang sản xuất quy mô lớn sẽ thuận lợi cho việc áp dụng quy
trình thâm canh lúa cải tiến (SRI). SRI là cách tiếp cận nông nghiệp sinh thái hiệu
quả, tạo môi trường bền vững, góp phần cải thiện an sinh xã hội, thay đổi tư duy
của người nông dân nhờ các ưu điểm như tiết kiệm thóc giống, tiết kiệm nước,
giảm sâu bệnh, năng suất tăng và bảo vệ môi trường, giảm phát thải KNK hiệu
quả. Với SRI, tỉ lệ giảm phát thải KNK đạt từ 25 - 30%, trong đó khí CH4 giảm
từ 14 - 21%, NO2 giảm từ 15 - 22%, CO2 giảm từ 22 - 27% [37]. Do đó, cần áp
dụng giải pháp chuyển đổi các diện tích canh tác lúa không hiệu quả sang các cây
trồng cạn và cây lâu năm, để tăng thu nhập và giảm phát thải KNK. Từng bước
chuyển đổi từ canh tác lúa nhỏ lẻ theo nông hộ sang sản xuất theo hình thức trang
trại, doanh nghiệp nông nghiệp với quy mô lớn về diện tích và mức độ đầu tư, tạo
thuận lợi cho việc áp dụng các biện pháp cơ giới hoá và kỹ thuật canh tác tiên tiến
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm phát thải KNK, bảo vệ môi trường.
Hai là, quản lý kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp làm giảm phát thải
KNK.
Trong trồng trọt:
Theo số liệu báo cáo của Cục Trồng trọt, Bộ NN&PTNT, hiện tỷ trọng
lĩnh vực trồng trọt chiếm 73% GDP cơ cấu trong nông nghiệp [41]. Một số biện
pháp quản lý kỹ thuật trong trồng trọt nhằm giảm phát thải KNK là:
- Áp dụng các công nghệ trong trồng trọt như tưới khô ướt xen kẽ hệ thống
canh tác tiên tiến theo hướng tiết kiệm nước, giảm sự phụ thuộc vào phân bón,
thuốc trừ sâu và các chi phí đầu vào khác, như: sử dụng luân phiên các loại cây 187
họ đậu, sử dụng phụ phẩm cây trồng làm phân bón; hiện đại hoá tưới nước và bón
phân cho cây dài ngày; rút nước giữa vụ trong canh tác lúa.
- Quản lý chặt chẽ việc sử dụng phân bón, kỹ thuật sản xuất phân bón.
Nâng cao hiệu quả sử dụng phân đạm, giảm phát thải N2O trong canh tác phù hợp
với nhu cầu cây trồng cũng như áp dụng các hình thức bón phân hợp lý.
- Quản lý chặt chẽ quy trình Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP-
Good Agricultural Practices) trong trồng trọt. Ứng dụng quy trình Thực hành sản
xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam (VIETGAP) trong trồng trọt. Ứng dụng các giải
pháp công nghệ tưới tiết kiệm nước, nhiên liệu trong làm đất; canh tác tiết kiệm
phân bón, thuốc trừ sâu; canh tác tối thiểu nhằm giảm phát thải KNK; điều chỉnh
cơ cấu cây trồng theo hướng ít phát thải KNK, tăng cây trồng năng lượng sinh
học.
- Sử dụng giống lúa có tỷ lệ tiết dịch thấp nhằm giảm thiểu CH4.
- Sử dụng giống lúa ngắn ngày nhằm giảm thời gian phát thải KNK.
- Quản lý chặt chẽ nguồn nước, sử dụng kỹ thuật tưới tiêu hiệu quả, giữ
cho đất khô ráo, giảm phát thải KNK.
- Ứng dụng các giải pháp kỹ thuật tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu trong
làm đất, tưới nước nhằm giảm phát thải CH4 trên ruộng lúa, nâng cao năng suất
cây trồng, đồng thời sẽ ngăn ngừa được sự thoái hóa đất.
Trong chăn nuôi:
- Ứng dụng quy trình GAP trong chăn nuôi để nâng cao sản lượng, chất
lượng vật nuôi và giảm phát thải KNK, bảo vệ môi trường. Nâng cao chất lượng
thức ăn, thay đổi khẩu phần thức ăn bằng việc thay thế thức ăn thô bằng thức ăn
tinh giàu năng lượng để giảm phát thải KNK. Cung cấp bánh dinh dưỡng MUB
cho bò sữa. Thay đổi cách cho ăn và chất lượng thức ăn để giảm phát thải N2O từ
phân gia súc.
- Tăng năng suất vật nuôi thông qua công tác quản lý và thực hành chăn
nuôi tốt để giảm số lượng vật, từ đó giảm lượng phát thải KNK từ lên men đường
188
ruột và phân gia súc.
- Rút ngắn thời gian nuôi thông qua sử dụng các giống gia súc, gia cầm
tăng trưởng nhanh, chất lượng tốt kết hợp với phương thức quản lý và thực hành
chăn nuôi tiên tiến, khoa học để giảm lượng phát thải KNK.
- Nghiên cứu, điều chỉnh, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi hợp lý sao cho vẫn
bảo đảm mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển ngành chăn nuôi, đồng thời
góp phần vào việc giảm lượng phát thải KNK.
Ba là, quản lý đất trồng trọt bằng các biện pháp tác động vào các yếu tố
làm giảm phát thải KNK.
- Tiến hành rà soát, quy hoạch đất đai và xây dựng bản đồ phân bố hiện
trạng sử dụng đất, quản lý canh tác.
Nâng cao chất lượng thực hành nông học làm tăng năng suất và tạo ra đầu
vào cao hơn dư lượng carbon nhằm tăng khả năng lưu giữ carbon trong đất bằng
cách sử dụng các giống cây trồng phù hợp và mở rộng luân canh. Áp dụng hệ
thống canh tác giảm sự phụ thuộc vào phân bón, thuốc trừ sâu và các đầu vào khác
(như sử dụng luân phiên các loại cây họ đậu, sử dụng phụ phẩm cây trồng làm
phân bón...) sẽ giảm được lượng khí thải trên một đơn vị diện tích đất.
Xáo trộn đất sẽ kích thích tổn thất carbon trong đất, vì vậy sử dụng phương
pháp kiểm soát cỏ dại và máy móc nông nghiệp để áp dụng canh tác tối thiểu,
giảm làm đất hoặc không cày.
Giữ lại phụ phẩm cây trồng làm tăng carbon đất thông qua bổ sung chất
hữu cơ cho đất. Không đốt phụ phẩm nông nghiệp cũng tránh phát thải KNK tạo
ra trong quá trình đốt cháy.
- Thay đổi độ che phủ đất cũng như chuyển đổi đất.
Một trong những phương pháp hiệu quả nhất để giảm lượng phát thải KNK
là nâng cao độ che phủ đất vì đó là thảm thực vật bảo vệ trái đất. Mật độ che phủ
đất càng cao thì càng tăng dự trữ carbon. Chuyển đổi đất trồng trọt sang đất đồng
cỏ sẽ làm tăng khả năng tích luỹ carbon do đất không bị xáo trộn và loại bỏ được
phụ phẩm cây trồng. Mặt khác, so với các vùng đất canh tác, đồng cỏ cũng giảm
lượng khí thải N2O từ nitơ đầu vào thấp, và tỷ lệ cao hơn của quá trình ôxy hóa 189
CH4. Song, nâng cao độ che phủ cũng như chuyển đổi đất nông nghiệp đi kèm với
sự mất đi nguồn lợi từ sản xuất nông nghiệp, nên việc chuyển đổi thường áp dụng
trên đất canh tác kém hiệu quả.
- Quản lý đất hữu cơ.
Đất hữu cơ chứa mật độ carbon cao, song lại tạo điều kiện cho phát thải
CH4. Phát thải CH4 từ đất hữu cơ có thể được giảm bằng cách tránh cày sâu, và
duy trì mực nước nông.
Bốn là, quản lý nước và trồng lúa nước đảm bảo thải ra lượng KNK ít
nhất.
- Lựa chọn các mô hình canh tác lúa hiệu quả, ít phát thải KNK, tiết kiệm
chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả kinh tế.
- Sử dụng giống lúa ngắn ngày nhằm giảm thiểu số lượng, thời gian phát
thải CH4.
- Xây dựng hệ thống tưới tiêu hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thực hiện giải
pháp tưới ướt - khô xen kẽ, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước và giảm
phát thải KNK. Phát triển hệ thống thủy lợi, hệ thống canh tác theo hướng tiết
kiệm năng lượng. Quản lý nước, giữ cho đất khô ráo và tránh ngập úng trong thời
gian ngoài vụ lúa.
- Xây dựng chương trình khuyến nông giảm thiểu phát thải KNK và đẩy
mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức về môi trường, ý thức trách nhiệm
xã hội cho nông dân sản xuất lúa gạo.
Năm là, quản lý việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ
nhằm hạn chế phát thải KNK.
- Sử dụng lượng phân bón nitơ (N) phù hợp với nhu cầu cây trồng, áp dụng
các hình thức bón phân hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng phân đạm sẽ giảm phát
thải N2O trong canh tác cây trồng. Đạm trong phân tổng hợp, phân gia súc, chất
rắn sinh học và các nguồn nitơ khác nếu không sử dụng hợp lý sẽ tiềm ẩn phát
thải N2O. Sử dụng các hình thức phân bón chậm và kiểm soát các chất ức chế quá
190
trình nitrat hóa cũng góp phần giảm lượng khí thải N2O.
- Áp dụng các hình thức canh tác hữu cơ, hạn chế tối đa việc sử dụng phân
bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật...tăng cường sử dụng phân hữu
cơ vi sinh, than sinh học làm đất tơi xốp, tăng khả năng giữ ẩm nhằm giảm thiểu
phát thải KNK, bảo vệ môi trường.
Sáu là, quản lý và sử dụng chất thải vật nuôi và phụ phẩm cây trồng nhằm
hạn chế phát thải KNK.
- Cải tiến công tác quản lý chất thải trồng trọt thông qua các biện pháp ủ
phân hữu cơ để tăng hiệu quả sử dụng chất thải, tái sử dụng carbon, giảm phát
thải KNK.
- Phát triển và ứng dụng công nghệ tổng hợp, công nghệ sinh học để xử lý
chất thải hữu cơ trong canh tác giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả kinh
tế và giảm phát thải KNK từ phân huỷ xác thực vật.
- Thay thế biện pháp đốt phụ phẩm cây trồng sau thu hoạch như rơm rạ,
thân cây ngô, đậu tương, lạc, các loại cây ăn quả, cây công nghiệp gây phát thải
KNK và ô nhiễm môi trường bằng cách thu gom, tái sử dụng chúng để làm thức
ăn chăn nuôi, trồng nấm, sản xuất than sinh học, khí sinh học, sản xuất đồ thủ
công mỹ nghệ, sản xuất phân bón hữu cơ sinh học phù hợp với điều kiện từng địa
phương, vùng, miền.
- Quản lý chặt chẽ công tác xử lý phân gia súc. Áp dụng công nghệ sinh
học trong lưu giữ, xử lý phân chuồng gia súc, gia cầm. Ứng dụng rộng rãi công
nghệ biogas và ủ yếm khí để xử lý phế thải chăn nuôi phù hợp với từng điều kiện
sản xuất nhằm tận dụng phế thải tạo nguồn năng lượng, làm phân bón hữu cơ sinh
học. Đồng thời giảm thiểu phát thải KNK từ phân gia súc, gia cầm. Cần có sự đầu
tư xây dựng hệ thống biogas hoàn chỉnh từ hầm ủ chất thải đến các hồ sinh học
lắng lọc nước thải, ...
- Thúc đẩy, khuyến khích sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, chế biến theo
hướng tập trung, quy mô trang trại, doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức sản xuất khí sinh học theo quy mô công nghiệp. Chuyển đổi từ phương thức
chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phương thức chăn nuôi công nghiệp, tập trung. 191
Hạn chế, tiến tới không cho phép hộ gia đình chăn nuôi trong khu dân cư, nhằm
giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát thải KNK.
- Phổ biến, hướng dẫn các biện pháp sản xuất chăn nuôi carbon thấp để
hạn chế bài xuất nitơ và phốtpho ra môi trường.
- Xây dựng các mô hình chăn nuôi sạch, hiệu quả kinh tế cao, ít phát thải
KNK, từ đó nhân rộng trên toàn quốc.
Bảy là, quản lý chặt chẽ các hoạt động đốt sinh khối nhằm hạn chế phát
thải KNK.
- Cấm đốt phụ phẩm nông nghiệp. Thay thế hình thức đốt nương làm rẫy
của bà con dân tộc thiểu số bằng các hình thức canh tác khác có hiệu quả hơn mà
lại giảm phát thải KNK. Cần có các chế tài phạt mạnh đối với các hành vi đốt phụ
phẩm nông nghiệp gây ô nhiễm môi trường.
- Quản lý chất thải trồng trọt thông qua các biện pháp ủ composst để tăng
hiệu quả sử dụng chất thải, tái sử dụng carbon, giảm phát thải KNK.
Tám là, tăng cường khả năng dự trữ, hấp thụ carbon trong các bể chứa hệ
sinh thái nông nghiệp nhằm hạn chế phát thải KNK.
- Áp dụng hệ thống canh tác giữ lại phụ phẩm cây trồng giúp tăng trữ
lượng carbon đất thông qua bổ sung chất hữu cơ cho đất.
- Tăng cường quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất nông nghiệp theo hướng
nâng cao tỷ lệ che phủ và khả năng lưu trữ carbon trong đất (kết hợp bón phân
hữu cơ với than sinh học cho đất…). Trồng các loại cây có năng suất cao, có rễ
sâu cũng làm tăng khả năng hấp thụ carbon trong đất hoặc thúc đẩy đất lưu giữ
carbon.
- Áp dụng các biện pháp canh tác giảm làm đất hoặc không cày giúp hạn
chế tổn thất carbon trong đất; tăng trữ lượng carbon đất thông qua bổ sung chất
hữu cơ cho đất từ phụ phẩm cây trồng.
- Sử dụng các biện pháp tưới tiêu hiệu quả làm tăng trữ lượng carbon trong
192
đất thông qua tăng sản lượng và phụ phẩm cây trồng.
- Tăng cường bể chứa carbon trong các hệ thống canh tác trên đất dốc và
mô hình nông - lâm kết hợp; kết hợp trồng trọt, chăn nuôi trên đất lâm nghiệp phát
triển cây lấy gỗ, củi, hoặc các sản phẩm cây khác.
- Hạn chế mức độ chăn thả gia súc quá mức so với tốc độ tăng trưởng đồng
cỏ để tránh việc suy giảm nhanh chóng sinh khối trên mặt đất.
Kết luận Chương 4
Để có thêm cơ sở khoa học cho việc xây dựng những giải pháp, NCS đã
phân tích bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến QLNN đối với phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam và dự báo lượng phát thải KNK
trong lĩnh vực nông nghiệp đến năm 2030, đồng thời hệ thống hóa quan điểm và
mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong QLNN đối với phát thải KNK. Từ đó,
NCS đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện QLNN đối với phát thải
KNK trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới. Các giải pháp
gồm:
Một là: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chiến lược, kế hoạch cắt giảm
phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp gắn với phát triển bền vững
Hai là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giảm
phát thải khí nhà kính hướng tới phát triển bền vững
Ba là: Nâng cao chất lượng kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm
phát thải khí nhà kính
Bốn là: Tăng cường, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát, kiểm tra,
thanh tra việc tuân thủ quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính
trong lĩnh vực nông nghiệp
Năm là: Hoàn thiện bộ máy tổ chức, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp
Sáu là: Tăng cường hợp tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí
nhà kính trong nông nghiệp
Bảy là: Tập trung xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham
193
gia thị trường tín chỉ carbon thế giới
Tám là: Quản lý phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp thông
qua quản lý sản xuất nông nghiệp
Trong đó, 6 giải pháp (từ giải pháp 1 đến giải pháp 6) thì khoa học QLNN
về lĩnh vực nào cũng cần đến, 1 giải pháp (giải pháp 7) áp dụng cho QLNN đối
với phát thải KNK nói chung, 1 giải pháp (giải pháp 8) là giải pháp NCS suy nghĩ,
trăn trở và tự đề xuất để áp dụng riêng cho QLNN đối với phát thải KNK lĩnh vực
194
nông nghiệp ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu luận án “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính
trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam” có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, thông qua những
hoạt động, con người đã và đang làm tăng nồng độ các KNK trong khí quyển.
Trong đó, hoạt động sản xuất nông nghiệp đóng góp một phần không nhỏ về lượng
phát thải KNK toàn cầu. KNK được coi là một trong các nguyên nhân chủ yếu tạo
hiệu ứng nhà kinh, làm tăng nhiệt độ toàn cầu, gây nên BĐKH. BĐKH đang diễn
ra ngày càng tồi tệ, mang tính hủy diệt, đe dọa và tàn phá cuộc sống của hàng triệu
người trên thế giới. Vì vậy, quản lý giảm phát thải KNK nói chung, trong lĩnh vực
nông nghiệp nói riêng là một yêu cầu tất yếu, khách quan mà tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới phải quan tâm, cùng chung tay, hợp tác.
2. Qua nghiên cứu các công trình có liên quan đến phát thải KNK trong
lĩnh vực nông nghiệp cũng như QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông
nghiệp cho thấy, việc nghiên cứu phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp dưới
góc độ QLNN gần như chưa có, chưa hệ thống, tài liệu nghiên cứu ít, phần nhiều
chỉ nghiên cứu dưới góc độ kỹ thuật, chuyên môn. Luận án đã đưa ra một số nhận
xét khái quát về những kết quả nội dung, khía cạnh mà các nhà nghiên cứu trước
đó đã xây dựng được; chỉ ra những khía cạnh, khoảng trống mà các học giả chưa
nghiên cứu sâu, chưa được nghiên cứu, từ đó xác định được những nội dung đặt
ra với đề tài luận án trong quá trình nghiên cứu.
3. Trên cơ sở tiếp cận từ góc độ quản lý công, NCS đã xây dựng cơ sở
khoa học (cả lý luận và thực tiễn) QLNN đối với phát thải KNK bao gồm: Khái
niệm; Sự cần thiết QLNN đối với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp; Nội
dung QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp; Các công cụ QLNN đối
với phát thải KNK trong nông nghiệp; Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với
phát thải KNK trong nông nghiệp; đồng thời, phân tích kinh nghiệm của một số
195
quốc gia về quản lý phát thải KNK trong nông nghiệp và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Đây là cơ sở, nền tảng cho việc phân tích, đánh giá thực
trạng QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam.
4. Từ việc làm rõ thực trạng QLNN đối với phát thải KNK trong nông
nghiệp ở Việt Nam trên các mặt: Xây dựng chiến lược, kế hoạch cắt giảm phát
thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp; Xây dựng và thực thi hệ thống chính
sách, pháp luật giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp; Thực hiện
kiểm kê khí nhà kính phục vụ quản lý giảm phát thải khí nhà kính; Giám sát, kiểm
tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà
kính trong lĩnh vực nông nghiệp; Xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ
quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp; Hợp
tác quốc tế trong nỗ lực cắt giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp; Xây
dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ carbon
thế giới, luận án đưa ra những đánh giá về các mặt đạt được, các hạn chế trong
QLNN đối với phát thải KNK trong nông nghiệp ở Việt Nam và lý giải nguyên
nhân của các hạn chế đó.
5. Từ những kết quả nghiên cứu trên, NCS đưa ra và luận giải 8 giải pháp
cơ bản nhằm góp phần hoàn thiện QLNN đối với phát thải KNK trong nông
nghiệp ở nước ta trong thời gian tới. Trong đó, giải pháp thứ 8 “Quản lý phát thải
KNK trong nông nghiệp thông qua quản lý sản xuất nông nghiệp” là giải pháp
NCS tự đề xuất để áp dụng riêng cho việc quản lý phát thải KNK trong ngành
nông nghiệp Việt Nam.
6. Với những kết quả nêu trên, đối chiếu với mục đích nghiên cứu và câu
hỏi nghiên cứu đặt ra, NCS nhận thấy luận án đáp ứng đầy đủ các nội dung đó.
Tuy vậy, do năng lực của NCS có hạn; đề tài nghiên cứu về vấn đề hẹp (quản lý
nhà nước KNK trong nông nghiệp); công tác QLNN đối với phát thải KNK ở Việt
Nam nói chung, trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng, là công việc còn mới, vừa
làm vừa học, vừa đào tạo vừa bồi dưỡng; việc kiểm kê KNK, đo đạc, báo cáo và
thẩm định các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK do Hệ thống quốc gia về kiểm
kê KNK thực hiện chậm được cập nhật (số liệu mới nhất được công bố mà “Báo 196
cáo cập nhật hai năm một lần Lần thứ ba của Việt Nam cho Công ước khung của
Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu” do Bộ TN&MT thực hiện vào năm 2020 mới
chỉ là kết quả kiểm kê KNK đến năm 2016); các công trình nghiên cứu QLNN đối
với phát thải KNK trong lĩnh vực nông nghiệp cả trong nước lẫn nước ngoài hầu
như không có, do đó, NCS gặp nhiều khó khăn trong nghiên cứu (chẳng hạn, kinh
nghiệm quốc tế quản lý KNK trong lĩnh vực nông nghiệp, NCS phải nghiên cứu
qua kinh nghiệm QLNN về môi trường của các quốc gia đó). Vì vậy, có thể nghiên
cứu của NCS có phần giải quyết chưa thật sự được như mong muốn. NCS sẽ tiếp
197
tục nghiên cứu khi có điều kiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các văn bản, báo cáo của Đảng và Nhà nước
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Đánh giá sự phát thải
KNK từ nông nghiệp và lâm nghiệp ở Việt Nam, đề xuất biện pháp giảm thiểu và
kiểm soát. “Dự án Tăng cường năng lực quốc gia ứng phó BĐKH ở Việt Nam nhằm
giảm nhẹ tác động và kiểm soát phát thải KNK”, UNDP, Hà Nội.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Đề án giảm phát
thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Quy hoạch tổng thể
phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Đề án giảm phát
thải KNK trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Kế hoạch hành động
ứng phó với BĐKH ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2016 -
2020, tầm nhìn đến năm 2050.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Kế hoạch thực hiện
NDC trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2021-2030.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2017), Kế hoạch hành động
tăng trưởng xanh của ngành nông nghiệp đến năm 2020.
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2019, triển khai kế hoạch công tác năm 2020 ngành Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020), Kế hoạch thực hiện
thỏa thuận Paris về BĐKH của Bộ NN&PTNT giai đoạn 2021-2030.
10. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Thông báo quốc gia Lần thứ
nhất của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu.
198
Hà Nội.
11. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2010), Thông báo quốc gia Lần thứ
hai của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. Hà
Nội.
12. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo cập nhật hai năm một lần
Lần thứ nhất của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH.
13. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Dự án Tăng cường năng lực
kiểm kê quốc gia khí nhà kính tại Việt Nam.
14. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2017), Báo cáo cập nhật hai năm một lần
Lần thứ hai của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH.
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), Báo cáo cập nhật hai năm một lần
Lần thứ ba của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH.
16. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), Báo cáo kỹ thuật: Đóng góp
dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC) của Việt Nam.
17. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2020), Thông báo quốc gia Lần thứ ba
của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. NXB.
Tài nguyên - môi trường và bản đồ, Hà Nội.
18. Chính phủ (2011), Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu.
19. Chính phủ (2011), Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững Việt
Nam giai đoạn 2011-2020.
20. Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
21. Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.
22. Chính phủ (2012), Đề án quản lý phát thải KNK gây hiệu ứng nhà
kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ cacbon ra thị trường thế giới.
23. Chính phủ (2017), Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về bảo vệ
môi trường và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường từ
Trung ương đến địa phương giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
24. Chính phủ (2021), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai
199
đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.
25. Chính phủ (2022), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn
đến năm 2050.
26. Chính phủ (2022). NDC Đóng góp do quốc gia tự quyết định – Cập
nhật 2022.
27. Cục Bảo vệ môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Báo
cáo chuyên đề kinh nghiệm quốc tế trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, hệ thống tổ chức quản lý về bảo vệ môi trường. Hà Nội.
28. Cục Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2019),
Báo cáo tại Hội nghị chiến lược phát triển chăn nuôi toàn quốc giai đoạn 2020 -
2030, tầm nhìn 2040. Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày
03/6/2013 tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại biểu đại biểu toàn
quốc lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.145.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2021-2030.
32. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.
33. Quốc hội (2018), Luật Trồng trọt năm 2018.
34. Quốc hội (2020). Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
35. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội quý IV
và năm 2020.
Các công trình, tài liệu nghiên cứu tiếng Việt
36. Báo điện tử Đài truyền hình Việt Nam (2022), New Zealand đánh
thuế ợ hơi từ bò và cừu nhằm cắt giảm khí methane gây hiệu ứng nhà kính.
https://vtv.vn/the-gioi/new-zealand-danh-thue-o-hoi-tu-bo-va-cuu-nham-cat-
giam-khi-methane-gay-hieu-ung-nha-kinh-20220611192625727.htm
37. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Diễn đàn đối thoại
chính sách “Nông nghiệp phát thải khí nhà kính”.
giảm 200
https://www.mard.gov.vn/Pages/dien-dan-doi-thoai-chinh-sach--nong-nghiep-
giam-phat-thai-khi-nha-kinh--31517.aspx
38. Bùi Kim Thanh, Tạ Đức Thanh (2021), Phát triển nông nghiệp Việt
Nam - thành tựu và những yêu cầu đặt ra trong thời kỳ mới. Tạp chí Quản lý nhà
nước số 301, tháng 2/2021.
39. Bùi Thị Thu Trang (2021), Nghiên cứu phát thải khí CH4 và N2O
trong lĩnh vực trồng trọt vùng đồng bằng sông Hồng. Luận án Tiến sĩ chuyên
ngành Quản lý Tài nguyên và Môi trường, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn
và Biến đổi khí hậu.
40. Cơ quan Hợp tác Đức và Australian Aid (2011), Giáo dục môi
trường, biến đổi khí hậu - Sổ tay hướng dẫn cho giáo viên trung học cơ sở và
trung học phổ thông.
41. Diệu Hoa (2016), Trồng trọt chiếm 73% GDP cơ cấu trong nông
nghiệp. Thời báo Tài chính Việt Nam - Bộ Tài chính.
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/kinh-doanh/2016-01-08/trong-trot-
chiem-73-gdp-co-cau-trong-nong-nghiep-27729.aspx
42. Hà Linh (2019), Thực trạng phát thải khí nhà kính ở Việt Nam. Trung
tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế-xã hội Quốc gia - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
http://ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21377
43. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ chí Minh (2012), Đo
lường và đánh giá hiệu quả quản lý hành chính nhà nước - những thành tựu trên
thế giới và ứng dụng ở Việt Nam. NXB. Lao động, Hà Nội, tr.19.
44. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Những vấn đề cơ
bản về quản lý hành chính nhà nước, Giáo trình trung cấp lý luận chính - hành
chính, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.8.
45. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình trung
cấp lý luận chính trị - Kỹ năng lãnh đạo, quản lý. NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội,
201
2021, tr.13.
46. Học viện Hành chính (2013), Hỏi đáp quản lý hành chính nhà nước.
NXB. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.179.
47. Học viện Hành chính (2013), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý nhà
nước.Phần II:Quản lý hành chính nhà nước. Quyển II: Quản lý nhà nước đối với
ngành, lĩnh vực. NXB. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
48. Hội đồng lý luận Trung ương (2016), Hội nhập quốc tế và phát triển
bền vững - Kinh nghiệm của ĐCSVN, ĐCS Pháp và Đảng Dân chủ xã hội Đức.
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.174.
49. Mai Văn Trịnh, Trần Văn Thể, Bùi Thị Phương Loan (2013), Tiềm
năng giảm thiểu phát thải KNK của ngành sản xuất lúa nước Việt Nam. Tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
tháng 3/2013.
50. N. Ánh (2016), Dùng đất để giảm phát thải khí nhà kính. Sở Tài
nguyên và Môi trường Vĩnh Phúc. Sở Tài nguyên và Môi trường Vĩnh Phúc.
http://tnmtvinhphuc.gov.vn/index.php/vi/news/Tai-nguyen-dat/Dung-dat-de-
giam-phat-thai-khi-nha-kinh-4632/
51. Ngô Đức Minh (2018), Nghiên cứu mô phỏng sự phát thải khí nhà
kính (CH4, N2O) trong môi trường đất lúa lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, tỉnh
Quảng Nam. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Môi trường đất và nước, Đại học
Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
52. Nguyễn Đức Thành (2017), Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và
tưới nước đến năng suất lúa và phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính tại tỉnh Thừa
Thiên Huế. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Khoa học cây trồng, Đại học Nông
Lâm, Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.
53. Nguyễn Hoàng Lan (2017), Mô hình tính toán giảm phát thải KNK
trong ngành năng lượng và lâm nghiệp theo hướng xã hội các bon thấp. Luận án
202
Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý công nghiệp, Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội.
54. Nguyễn Kim Thu (2019), Đánh giá phát thải khí nhà kính (N2O và
CH4) trên hai mô hình canh tác lúa. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Khoa học đất,
Đại học Cần Thơ.
55. Nguyễn Lê Trang (2020), Nghiên cứu sự phát thải khí nhà kính trong
canh tác lúa nước tại Nam Định và đề xuất các giải pháp giảm thiểu. Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành Khoa học môi trường, Trường Đại học khoa học tự nhiên -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
56. Nguyễn Song Tùng (2014), Giải pháp giảm phát thải KNK trong lĩnh
vực trồng trọt ở Việt Nam. Số Chuyên đề Tăng trưởng xanh, Tạp chí Môi trường.
57. Nguyễn Thị Diệu Trinh (2019), Đánh giá chi phí giảm phát thải KNK
phục vụ xây dựng kế hoạch hành động tăng trưởng xanh tại tỉnh Quảng Ninh. Luận
án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Kiều (2012), Biện pháp kỹ thuật giảm lượng axit hữu cơ
và giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa trên đất phèn và đất phù sa tại
tỉnh Hậu Giang. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Khoa học đất, Đại học Cần Thơ.
59. Nguyễn Thị Thanh Thuận (2017), Đánh giá phát thải KNK từ chăn
nuôi lợn tập trung tại Lâm Đồng. Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Thị Thơm, An Như Hải (2011), Nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước về môi trường, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.54-57.
61. Nguyễn Thu Giang (2018), Nghiên cứu, phát triển, ứng dụng Giảm
phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp với sự trợ giúp của kỹ thuật hạt nhân.
Cục Năng lượng nguyên tử - Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Tài (2014), Nghiên cứu xây dựng định hướng và các
phương án giảm phát thải KNK trên cơ sở đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của Việt Nam. Viện Chiến lược chính sách tài nguyên và môi trường -
Bộ Tài nguyên và môi trường, Hà Nội.
63. Ninh Anh (2018), Nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính. Báo Nhân Dân
203
điện tử, ngày 5-11-2018.
64. Phạm Minh Thoa (2012), Nghiên cứu đề xuất cơ chế chi trả cho dịch
vụ "Giảm phát thải KNK thông qua việc hạn chế mất rừng và suy thoái rừng" ở
tỉnh Lâm Đồng. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế, Viện Kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. Thanh Phương (2021), Liên hiệp quốc: Mục tiêu kìm hãm đà tăng
của nhiệt độ toàn cầu là bất khả thi. TTXVN ngày 17/09/2021.
https://www.vietnamplus.vn/lhq-muc-tieu-kim-ham-da-tang-cua-nhiet-do-toan-
cau-la-bat-kha-thi/741313.vnp
66. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO)
(2017), Tính toán và xác định mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK trong nông
nghiệp.
67. Tô Đức Hạnh, Hà Thị Thuý (2018), Sản xuất nông nghiệp bền vững
ở Israel và hàm ý chính sách cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
số 3 - 2018.
68. Trần Thanh Lâm, 2006, Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế -
Kinh nghiệm quốc tế. Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, số 6.2009.
69. Trần Thu Trang (2015), Hiện trạng và giải pháp giảm phát thải KNK
trong lĩnh vực chăn nuôi ở Việt Nam. Tạp chí môi trường, Tổng cục Môi trường,
Bộ Tài nguyên và môi trường.
70. Trung tâm nghiên cứu quốc tế khoa học nông nghiệp Nhật bản
(JIRCAS), Đại học Cần Thơ, Sở NN&PTNT tỉnh An Giang (2019), Đề xuất các
chính sách công nghệ giảm phát thải KNK từ ruộng lúa ở Đồng bằng sông Cửu
Long.
71. Viện Môi trường nông nghiệp - PGS.TS. Mai Văn Trịnh (Chủ biên)
(2016), Sổ tay hướng dẫn đo phát thải KNK trong canh tác lúa. NXB. Nông
nghiệp, Hà Nội.
72. Việt Hà (2022), Hoàn thiện khung pháp lý về giảm phát thải khí nhà
kính, năng lượng tái tạo và kinh tế xanh. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương
204
(MOIT).
Các công trình, tài liệu nghiên cứu tiếng Anh
73. Awais Shakoor và cộng sự (2020), Effect of animal manure, crop
type, climate zone, and soil attributes on greenhouse gas emissions from
agricultural soils-A global meta-analysis. Cleaner Production. Volume 278,
124019.
74. Elina Dace và Dagnija Blumberga (2016), How do 28 European
Union Member States perform in agricultural greenhouse gas emissions? It
depends on what we look at: Application of the multi-criteria analysis. Ecological
Indicators, Volume 71, Pages 352-358.
75. Franks, J. R., & Hadingham, B. (2012), Reducing greenhouse gas
emissions from agriculture: Avoiding trivial solutions to a global problem. Land
Use Policy. Volume 29, Issue 4, Pages 727-736.
76. Heena Panchasara, Nahidul Hoque Samrat và Nahina Islam (2021),
Greenhouse Gas Emissions Trends and Mitigation Measures in Australian
Agriculture Sector - A Review. Agriculture, 11(2), 85.
77. IPCC (2006), IPCC Guidelines for National Greenhouse Gas
Inventory.
78. Jingting Zhang và cộng sự (2020), Increased greenhouse gas
emissions intensity of major croplands in China: Implications for food security
and climate change mitigation. Global Change Biology. Volume 26, Issue 11,
Pages 6116-6133.
79. Johan R., Mattias K. (2015), Big World in Small Planet: Abundance
within Planetary Boundaries. Max Strom Publishing with edition of Peter Miller,
Stockholm and Italy.
80. Smith, P., Martino, D., Cai, Z., Gwary, D., Janzen, H., Kumar, P.,
Rice, C., (2007), Policy and technological constraints to implementation of
greenhouse gas mitigation options in agriculture. Agriculture, Ecosystems &
205
Environment. Volume 118, Issues 1–4, Pages 6-28.
81. Tek Narayan Maraseni và cộng sự (2017), An international
comparison of rice consumption behaviours and greenhouse gas emissions from
rice production. Cleaner Production. Volume 172, Pages 2288-2300.
82. Tubiello, F. N., Salvatore, M., Rossi, S., Ferrara, A., Fitton, N., &
Smith, P, (2013), The FAOSTAT database of greenhouse gas emissions from
agriculture. Environmental Research Letters. Volume 8, Number 1.
83. William Collins, (2022), Collins English Dictionary. Nhà xuất bản
HarperCollins Publishers Ltd, Anh Quốc.
84. Ymène Fouli, Margot Hurlbert và Roland Kröbel (2022),
Greenhouse Gas Emissions from Canadian Agriculture: Policies and Reduction
Measures. The School of Public Policy Publications, University of Calgary, Vol.
206
15 No. 1 (2022).
PHỤ LỤC 1
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU CHUYÊN GIA
Thưa ông/bà, tôi là Nghiên cứu sinh Đặng Đình Giang của Học viện Hành chính quốc gia. Tôi đang thực hiện đề tài luận án: “Quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam”.
Để có cơ sở thực tiễn đánh giá, tôi rất mong nhận được phản hồi của ông/bà thông qua phỏng vấn sâu này. Kết quả của phỏng vấn sâu này chỉ nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, phục vụ cho kết quả của Luận án, không vì bất kỳ mục đích nào khác.
Xin ông/bà vui lòng trả lời các nội dung phỏng vấn sau đây: Họ và tên: Đơn vị công tác: Chức vụ:
NỘI DUNG I. Thanh tra, kiểm tra, giám sát Câu 1: Công tác kiểm kê và giám sát phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực
nông nghiệp đã được thực hiện tốt chưa? Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 2: Công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về giảm
phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp đã được thực hiện tốt chưa? Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
II. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật Câu 1: Hệ văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn hiện hành về việc thực
hiện kiểm kê phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp đã đầy đủ, chi tiết? Không
Có Nếu “Không”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 2: Hệ văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn hiện hành về việc thực
207
hiện giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp đã đầy đủ, chi tiết? Không Có
Nếu “Không”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 3: Có xảy ra tình trạng các văn bản, hướng dẫn chồng chéo và thiếu
rõ ràng trong phân công nhiệm vụ giữa các Bộ, ngành không?
Không
Có Nếu “Có”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải thiện
III. Xây dựng đội ngũ và tổ chức thực hiện Câu 1: Đội ngũ cán bộ kỹ thuật thực hiện nhiệm vụ kiểm kê khí nhà kính
trong nông nghiệp đã đáp ứng được tốt về số lượng và chất lượng chưa?
Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 2: Đội ngũ cán bộ thực hiện quản lý nhà nước đối với phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp đã trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ tốt chưa?
Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 3: Nguồn lực công đầu tư cho nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với
phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp đã tốt chưa? Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 4: Các chương trình, dự án nhằm quản lý, giảm nhẹ phát thải KNK trong nông nghiệp đã được triển khai tại cơ quan/tổ chức/địa phương của ông/bà có đạt được mục tiêu đề ra không?
Không
Có Nếu “Không”, xin ông/bà cho biết những thuận lợi, khó khăn trong quá
trình thực hiện? Xin cho biết giải pháp để cải thiện
IV. Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức Câu 1: Hiện nay, theo ông/bà, ngành nông nghiệp các cấp đã nhận thức rõ và quan tâm đúng mức đến công tác quản lý, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ các hoạt động nông nghiệp chưa? Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
208
thiện
Câu 2: Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ các hoạt động nông nghiệp đã được thực hiện tốt chưa?
Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
Câu 3: Việc ứng dụng các giải pháp tiên tiến, thành tựu khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất, xử lý các phụ phẩm nông nghiệp nhằm giảm nhẹ phát thải KNK hiện nay ở Việt Nam đã được áp dụng và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng tốt chưa?
Chưa tốt
Tốt Nếu “Chưa tốt”, xin ông/bà cho biết vì sao? Xin cho biết giải pháp để cải
thiện
209
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ của ông/bà!
PHỤ LỤC 2
Danh sách chuyên gia thực hiện phỏng vấn sâu
TT Tên Chức vụ, đơn vị công tác
Nguyên Phó Chủ nhiệm - Ủy ban Khoa học, 1 Ông Nguyễn Vinh Hà Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
Nguyên Phó Tổng cục trưởng – Tổng cục Môi 2 TS. Nguyễn Thế Đồng trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Phó Vụ trưởng – Vụ Tổ chức-Cán bộ, Bộ Tài 3 TS. Chu Ngọc Kiên nguyên và Môi trường
Phó Giám đốc – Sở Nông nghiệp và Phát triển 4 Ông Trịnh Công Minh nông thôn tỉnh Tiền Giang
Giám đốc – Sở Nông nghiệp và Phát triển 5 Ông Dương Thanh Tùng nông thôn tỉnh Bắc Giang
Phó Chi cục trưởng - Chi cục Bảo vệ môi
6 Ông Ngô Quang Trường trường – Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Bắc Giang
Giám đốc – Sở Nông nghiệp và Phát triển 7 Ông Nguyễn Trọng Tùng nông thôn tỉnh Phú Yên
Giám đốc – Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh 8 Ông Đặng Ngọc Anh Phú Yên
Trưởng phòng – Phòng Giám sát phát thải khí
9 TS. Lương Quang Huy nhà kính, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài
nguyên và Môi trường
Phòng Giám sát phát thải khí nhà kính, Cục
10 TS. Trần Đỗ Bảo Trung Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi
210
trường
Trưởng phòng – Phòng Kinh tế và Thông tin
11 Ông Nguyễn Văn Minh Biến đổi khí hậu, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài
nguyên và Môi trường
Phòng Thích ứng Biến đổi khí hậu, Cục Biến 12 TS. Đào Minh Khuê đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và 13 Bà Nghiêm Phương Thúy Phát triển nông thôn
Trưởng phòng – Phòng KHCN&HTQT, Cục
14 TS. Đoàn Tuyết Nga Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Giám đốc – Trung tâm Ứng phó Biến đổi khí
15 TS. Nguyễn Hùng Minh hậu, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và
Môi trường
Trung tâm Tư vấn Khí tượng thủy văn và Biến
16 TS. Nguyễn Bùi Phong đổi khí hậu, Viện Khí tượng thủy văn và Biến
211
đổi khí hậu