BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG MINH LƯỜNG

QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN

CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC

MÃ SỐ 5.04.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS KH BÙI VĂN BA (PHƢƠNG LỰU)

HÀ NỘI - 2001

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG MINH LƯỜNG

QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN

CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC

MÃ SỐ 5.04.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS KH BÙI VĂN BA (PHƢƠNG LỰU)

HÀ NỘI - 2001

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, Các số liệu, kết quả nêu

trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Hoàng Minh Lƣờng

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ. ................ 18

1.1. Những tiền đề có tính chất mỹ học của nghệ thuật . ................................................. 18

1.2 .Về chủ thể nghệ thuật . ............................................................................................. 32

1.3. Về tác dụng nghệ thuật . ........................................................................................... 42

CHƢƠNG 2: SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN GIỮA DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI DÂN TỘC KINH ..................... 64

2.1 Những tƣơng đồng. .................................................................................................... 64

2.2 Những khác biệt . ....................................................................................................... 90

CHƢƠNG 3: ĐỐI SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT GIỮA VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN VỚI VĂN HỌC HIỆN ĐẠI CỦA CHÍNH CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ. ..................................................................................................................................... 112

3.1. Đổi mới quan niệm về nghệ thuật ở các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại . .......... 115

3.2. Sự kế thừa quan niệm về nghệ thuật dân gian cổ truyền của các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại . ........................................................................................................... 125

KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 153

NHỮNG CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .............................................................................................................................. 159

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 160

MỞ ĐẦU

1. Giải thích và giới thuyết đề tài:

Hegel có nói rằng, nhiệm vụ đầu tiên của nghiên cứu khoa học là phải giới thuyết đối

tƣợng nghiên cứu. Nói rộng ra về luận án khoa học là phải giới thuyết và giải thích đề tài thật

rõ ràng, nhất là đối với đề tài : Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền

của các dân tộc thiểu số Việt Nam với tƣ cách là một đề tài thuộc chuyên ngành Lý thuyết

và lịch sử văn học ít nhiều còn có phần khác lạ, lại càng cần phải giải thích cận kẽ trƣớc về

một số điểm cần thiết :

Nói Quan niệm về nghệ thuật ... chứ không phải chỉ riêng cho quan niệm về văn học,

bởi vì văn học và nghệ thuật vốn phần nào có những đặc điểm và những nguyên lý chung,

hơn nữa trong văn học dân gian cổ truyền vốn tồn tại trong dạng phôn cờlo mang tính chất

tổng hợp quả thực có nói nhiều đến những hoạt động nghệ thuật cụ thể, cho dù ở đó chƣa có

khái niệm nghệ thuật chung.

Nói đến ... Văn học dân gian... , nhƣng đây không phải là đề tài thuộc chuyên ngành

Văn học dân gian, cho nên chúng tôi xin đƣợc phép chƣa vận dụng những phƣơng pháp của

chuyên ngành này nhƣ : khảo dị văn bản, kiểm đính lời dịch, đặc biệt là phƣơng pháp điền dã,

sƣu tầm thêm v.v... Để khảo sát, thống kê và nghiên cứu khái quát các quan niệm về nghệ

thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số, chúng tôi chỉ dựa vào những văn

bản mà các Nhà xuất bản có trách nhiệm đã công bố mặc dù chƣa hầu khắp nhƣng cũng đã là

những văn bản của tuyệt đại bộ phận các dân tộc thiểu số mà chúng tôi sẽ liệt kê ở các phần

sau .

1

Nói... các dân tộc thiểu số... là chỉ các dân tộc anh em ít ngƣời ở cả trong Nam và

ngoài Bắc trên Tổ quốc Việt Nam ta, mà do trình độ phát triển xã hội và hoàn cảnh môi sinh

v.v... giữa các dân tộc thiểu số vốn đã có những đặc điểm chung nhất định nào đó có thể tự

phân biệt với dân tộc đa số (Kinh) ở ngay trong những sinh hoạt văn hosa và xã hội khác . về

mặt văn nghệ, trong đos có các quan niệm về nghệ thuật cũng vậy. Tất nhiên ngay trong quan

niệm về nghệ thuật giữa các dân tộc thiểu số anh em chắc chắn chí ít cũng đã có những sắc

thái khác nhau, cho nên có thể đặt vấn đề nghiên cứu quan niệm về nghệ thuật trong văn học

dân gian cổ truyền của từng dân tộc, song đó chỉ có thể là công việc nghiên cứu ở một cấp độ

khác, càng cụ thể hơn tiếp tục theo hƣớng nghiên cứu này trong tƣơng lai.

Điều quan trọng then chốt nhất là, thay vì cho việc bắt đầu giải thích, xin tạm hình

dung một dạng phụ đề bổ sung ngay sau tiêu đề chính thức của luận án : Quan niệm về nghệ

thuật trong văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam (qua những hình

tượng, những lời ca v.v... có liên quan đến nghệ thuật trong sáng tác). Vì sao vậy ?

Cũng nhƣ dân tộc Kinh, văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số chƣa thể

có lý luận phê bình để bộc lộ trực tiếp ý thức nghệ thuật của mình . Song một khi đã có một

thực tiễn sáng tác đa dạng, phong phú thì ắt phải tiềm ẩn những quan niệm nhất định nào đó

về nghệ thuật . Có thể từ những phẩm chất. của thực tiễn sáng tác đó, dùng con mắt của ngƣời

ngày nay để khái quát nên những quan niệm nghệ thuật của cổ nhân, nhƣ qua Truyện Kiều để

khái quát lên chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du ... Cách làm này cố nhiên cũng bổ ích và lý

thú, song dù sao vẫn là gián tiếp. ở đây chúng tôi căn cứ trực tiếp vào những hình tƣợng,

những lời ca v.v... với tƣ cách là những thành phần hữu cơ ngay trong sáng tác dân gian miễn

là chúng có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nghệ thuật (giống nhƣ : Văn

2

hay chẳng luận dài dòng hoặc tiếng đàn Thạch Sanh trong văn học dân gian của dân tộc

Kinh) để khái quát lên những quan niệm nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc anh em chắc

chắn sẽ có phần sát hợp hơn. Tất nhiên từ những cứ liệu nhƣ vậy, việc khái quát lên những

quan niệm nghệ thuật dân gian sẽ khó có thể tránh khỏi những sắc màu cảm quan tự phát,

chƣa có đƣợc hệ thống chặt chẽ của lý luận hoàn bi. Cho nên chúng tôi xem đây chỉ là một

mũi tiếp cận vào ý thức nghệ thuật của dân gian, nó hoàn toàn không thể thay thế cho những

con đƣờng tiếp cận khác đối với di sản phôncờlo vô cùng phong phú và đặc sắc của các dân

tộc anh em. Tuy nhiên đây cũng là một hƣớng tiếp cận có ý nghĩa và không phải là không có

đủ độ tin cậy. Cũng nhƣ chỉ qua hai câu thơ "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm" và

"Nay ở trong thơ nên có thép"..., chúng ta cũng có thể thấy đƣợc một phƣơng diện quan trọng

trong tƣ tƣởng văn nghệ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Chí Minh. Cho nên cũng xin

đƣợc tin rằng hƣớng tiếp cận của luận án này sẽ bƣớc đầu mở đƣợc một cánh cửa thoáng rộng

để nhìn sâu vào các quan niệm về nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc thiểu số anh em.

Trong khoa học, quý hồ góp thêm đƣợc một tiếng nói tƣơng đối mới mẻ, miễn là tiếng nói đó

đƣợc xây dựng dựa trên những căn cứ xác đáng.

Trở lên là một số điểm cần thiết phải giải thích một cách tập trung liền mạch từ trƣớc,

mặc dù sẽ còn phải chứng giải cụ thể thêm trong những mục tƣơng ứng nhƣ đối tượng,

phương pháp nghiên cứu, ... riêng lẻ ở sau.

2. Mục đích nghiên cứu.

Trong di sản văn học nghệ thuật của nƣớc Việt Nam đa dân tộc, văn học dân gian các

dân tộc thiểu số có vị trí đặc biệt quan trọng. Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu mảng văn học này

đủ ở phƣơng diện nào cũng đều đáng khích lệ và cổ vũ. Các chuyên gia văn học dân gian

nƣớc ta đã có nhiều nỗ lực trong cuộc hành trình tìm tòi, thu nhập và nghiên cứu văn học

3

dân gian các dân tộc thiểu số về nhiêu khía cạnh khác nhau. Song hƣớng nghiên cứu chuyên

chú vào các quan niệm nghệ thuật của bộ phận văn học này trong, các mối quan hệ đồng đại

và lịch đại của nó thì chƣa có công trình nào để cập đến một cách có hệ thống. Cũng nhƣ dân

tộc Kinh, văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số quả thực có tiềm chứa khá nhiều

quan niệm nghệ thuật lý thú. Nó đƣợc chắt lọc nên từ quá trình trải nghiệm nghệ thuật của

các thế hệ nghệ nhân dân gian dân tộc ít ngƣời từ bao thế hệ nay. Hiện thực chất các quan

niệm nghệ thuật tiềm chứa trong các sáng tác dân gian bao giờ cũng cần thiết và bổ ích, bởi lẽ

đó là những nỗi niềm tình cảm, thị hiên. sở nguyện... về nghệ thuật của quần chúng nhân dân

lao động qua quá trình lịch sử dài lâu. Đi sâu tìm hiểu thấu đáo, toàn diện các quan niệm nghệ

thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc anh em vừa giúp ta hiểu thêm phím nào

đặc điểm và giá trị của mảng văn học này vừa góp phần thiết thực vào việc xây dựng nền lý

luận văn nghệ Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc truyền thống, Việt Nam là một

quốc gia đa dân tộc. Sức mạnh văn hoá Việt Nam là sự hợp lƣu mạnh mẽ từ nhiều nguồn văn

hóa nghệ thuật độc đáo của các dân tộc anh em khác nhau cùng cộng cƣ gắn bó toàn diện trên

một lãnh thổ. Vì vậy, chỉ có thể có đƣợc ý niệm toàn vẹn về nền lý luận văn nghệ Việt Nam

đa dân tộc chừng nào trong nền lý luận văn nghệ ấy có sự tổng hòa, dung nạp đƣợc những

bản sắc quan niệm thẩm mỹ, nghệ thuật của các dân tộc anh em. Lâu nay nói đến các giá trị

lý luận nghệ thuật "từ trong di sản" của cha ông, hiển nhiên ngƣời ta chỉ biết đến di sản lý

luận văn nghệ của ngƣời Việt - dân tộc đa số đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát

triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hiện nay di sản quan niệm thẩm mỹ, nghệ thuật của

các dân tộc thiểu số anh em còn ít đƣợc biết đến thấu đáo. Đề tài không có tham vọng lấp

bằng những khoảng khuyết vắng cho bức tranh lý luận văn nghệ rời rạc của các dân tộc thiểu

số

4

nhƣng chắc chắn sẽ là một gắng gỏi nhỏ nhoi nhằm từng bƣớc góp phần đƣa vị thế của bộ

phận lý luận văn nghệ đặc biệt này lên một tầm độ mới ngang tầm với vị trí quan trọng của

nó trong đời sống văn nghệ của cộng đồng dân tộc thống nhất. Mục đích trƣớc hết của đề tài,

vì vậy vẫn là nhằm thực hiện phƣơng châm học xưa là vì nay, học cũ là để làm mới mà

Đảng ta đã từng chủ trƣơng quán triệt

Đến với các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc

thiểu số, ngoài mục đích hiểu sâu hơn những vấn đề của sáng tác truyền thống, từ đó cũng có

tác dụng gợi ý mang tính định hƣớng tích cực đối với các sáng tác hiện đại về mảng đề tài

dân tộc và miền núi. Phải thừa nhận rằng, trên thực tiễn sáng tác của các nhà văn dân tộc

thiểu số hiện đại, bên cạnh số đông các nhà văn chẳng mấy khi ly thoát hoàn toàn khỏi.

những phẩm chất dân tộc truyền thống bền vững tựa nhƣ đã hằn sâu tự nhiên vào máu thịt

của họ thì vẫn còn đây đó nhà văn đổi mới thái quá đến nỗi làm mờ nhạt bản sắc dân tộc

truyền thống. Vì thế, việc thấu hiểu sâu sắc hơn các quan niệm nghệ thuật truyền thống rõ

ràng sẽ có tác dụng mách bảo cho các nhà văn hiện đại những phƣơng thức sáng tạo mang

đậm bản sắc dân tộc truyền thống của cha ông mình để từ đó quán triệt một cách tự giác hơn

vào thực tiễn sáng tạo tác phẩm. Quả vậy, việc thấu hiểu bản chất đích thực của các quan

niệm nghệ thuật dân gian cổ truyền các dân tộc trong các mối quan hệ đồng đại và lịch đại

của nó là một yêu cầu quan trọng đối với việc học tập và chiếm lĩnh nguồn tri thức về nghệ

thuật của dân tộc để từ đó có ý thức và thái độ đúng đắn đối với quá trình kế thừa và đổi mới

trong thực tiễn sáng tạo của các nhà văn hiện đại theo tinh thần tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc.

Việc lý giải thấu đáo các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các

dân tộc thiểu số còn tạo ra những cơ sở và điều kiện

5

thuận lợi cho việc giáng dạy và học tập các tác phẩm văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời

trong các nhà trƣờng thuộc mọi cấp học của chúng ta hôm nay. Và ngay trong việc học tập và

giảng dạy Lý luận văn học. các kiểu giải về nghệ thuật của dân gian các dân tộc anh em cũng

sẽ góp phần hiện thực hóa những tri thức lý thuyết khái quát bởi các cứ liệu sinh động và độc

đáo. Nhà đó những nguyên lý phổ quát về các vấn đề thẩm mỹ và nghệ thuật sẽ không chỉ

đóng khung khép kín trong giới hạn chủ yếu của văn học việt mà còn tỏa rộng sức thuyết

phục của nó tới mọi chiều kích sâu xa của lịch sử văn hóa nghệ thuật cha ông trong đó có các

di sản quan niệm nghệ thuật. của các dân tộc anh em. Nhƣ thế mục đích nghiên cứu đề tài

Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam ngoài ý

nghĩa về lý luận văn học là chủ yếu, thì còn có tác dụng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đối

với việc sáng tác, nghiên cứu, giảng dạy và học tập văn học nữa.

3. Lịch sử vấn đề.

Tìm hiểu, nghiên cứu các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian Việt Nam

nói chung, văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số nói riêng là một hƣớng nghiên cứu

còn rất mới mẻ. Chƣa có những công trình nghiên cứu đầy đặn, có hệ thống về quan niệm

nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số, song đây đó cũng đã có những nhận

xét khái quát bƣớc đầu về phạm vi nghiên cứu này.

Cuối năm 1986, luận văn tốt nghiệp sau đại học, chuyên ngành lý luận văn học của

học viên Nguyễn Thị Tây Phƣơng: Quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật trong văn học

dân gian Việt Nam đã trực tiếp đặt vấn đề nghiên cứu các quan niệm về cái đẹp và nghệ

thuật trong văn học dân gian Việt Nam nói chung. Tuy luận văn chƣa có điểu kiện khảo sát

toàn diện vấn đề trên nguồn phạm vi tƣ liệu rộng rãi, đặc biệt còn để khuyết vắng nhiều tƣ

6

liệu văn học dân gian đặc sắc của các dân tộc anh em, song bƣớc đầu cũng đã có những liên

hệ thoảng qua mà bổ ích về các quan niệm nghệ thuật của các dân tộc anh em. Tất nhiên

những khái quát, liên hệ này hoàn toàn đƣợc kết nhập chung vào khung luận điểm về quan

niệm cái đẹp và nghệ thuật của dân tộc Kinh. Ý thức về cái riêng đặc sắc trong quan niệm

nghệ thuật của các dân tộc anh em vì vậy vẫn chƣa đƣợc khắc họa trọn vẹn.

Năm 1990, với bài viết Quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật trong văn học dân

gian (Nghiên cứu Nghệ thuật số 4/1990), tác giả Phƣơng Lựu, bên cạnh việc chủ yếu nhằm

vào phân tích, khai quát các quan niệm về nghệ thuật, về cái đẹp trong văn học dân gian dân

tộc Kinh cũng đã dành cho văn học dân gian các dân tộc anh em những phân tích cụ thể dựa

trên các cứ liệu sinh động, đặc biệt là những cứ liệu nhằm làm nổi rõ quan niệm "nghệ thuật

giữ vai trò to lớn trong việc chinh phục thiên nhiên, tố cáo áp bức, bất công, góp phần chống

giặc ngoại xâm cứu nƣớc" [94, 143].Những nhận xét, khái quát bƣớc đầu này có liên qnan

đến quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số đã có tác dụng gợi ý

cho chúng tôi không những về phƣơng hƣớng nội dung mà còn cả về cách thức khai thác của

đề tài.

Ngoài ra cũng cần kể đến một số công trình khác có liên quan gián tiếp tới đề tài nhƣ

Về đặc điểm thẩm mỹ của truyện cổ tích thần kỳ ở Việt Nam (Văn học số 5/1972) và bài Về

quan niệm thẩm mỹ dân gian Việt Nam (Văn học số 1/1984) của tác giả Hà Châu. Tác giả

Nguyễn Xuân Kính có bài "Qua những tư liệu văn nghệ dân gian, tìm hiểu quan niệm của

ông cha ta về người nghệ sĩ" (Văn hóa dân gian số 3/1987). Tác giả Nguyễn Thị Huế có

một số công trình lý thú xoay quanh vấn đề Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích

các dân tộc Việt Nam (Văn học số 4/1985) hoặc Mô típ tiếng hát trong truyện kể dân gian

Việt Nam (Văn học số 5/1991). Điều đáng nói, những công trình trên chỉ chủ yếu phân tích,

đánh giá sáng tác nghệ thuật dân gian song vẫn gián tiếp gợi ý cho chúng tôi trong việc khái

7

quát quan niệm về nghệ thuật dân gian, cụ thể là dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt

Nam.

Về phần mình, hơn 10 năm qua chúng tôi đã có ý thức chủ động đến với đối tƣợng

quan tâm của mình qua những tìm tòi, gạn lọc các cứ liệu có liên quan đến quan niệm về

nghệ thuật (và cái đẹp) trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Từ những số liệu khảo sát

đƣợc, bƣớc đầu chúng tôi cũng đã có đƣợc một số kết quả nghiên cứu đã từng đƣợc công bố.

Chẳng hạn các bài viết: Bước đầu tìm hiểu quan niệm về vẻ đẹp lý tưởng của con người

trong văn học dân gian một số dân tộc ít người ở Việt Bắc (Thông báo khoa học của Trƣờng

Đại học Sƣ phạm Việt Bắc số [11/1980); Những nét tương đồng trên bình diện quan niệm

về cái đẹp trong văn học dân gian các dân tộc Việt Nam (Thông báo khoa học của Trƣờng

Đại học Sƣ phạm Việt Bắc số 11/l990); Quan niệm về cái đẹp trong văn học dân gian các

dân tộc thiểu số Việt Nam (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng -Trƣờng Đại học Sƣ

phạm Việt Bắc năm 1992) v.v...

Tóm lại, từ trƣớc tới nay, vấn đề quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ

truyền các dân tộc thiểu số việt Nam ít nhiều đã đƣợc đề cập tới. Nhƣng kể cả bản thân chúng

tôi cũng mới chỉ chú ý đến những khía cạnh lẻ tẻ của vấn đề. Nhìn chung là chƣa có công

trình nào triển khai, đi sâu vào vấn đề một cách chuyên biệt và có hệ thống.

4. Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu.

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Nhƣ đề tài đã xác định, nhiệm vụ căn bản của luận án là khai thác, nghiên cứu khái

quát các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt

Nam khổng những về nội dung mà cả về đặc điểm, sức sống lâu bền cùng những hạn chế lịch

sử của nó. Những đặc điểm và hạn chế...này cố nhiên có thể đƣợc nhận xét sơ bộ sau khi rút

ra

8

đƣợc những nội dung cơ bản, song bản đƣợc nhìn nhận một cách khái quát hơn quạ sự so

sánh với quan niệm về nghệ thuật của các nền văn học hữu quan. Trƣớc hết là so sánh với

quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ huyền của dân tộc Kinh để thấy rõ hơn

những đặc điểm từ riêng đến chung của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ

truyền của các dân tộc thiểu số. Tiếp theo là phải đối sánh với quan niệm về nghệ thuật trong

văn học hiện đại của các dân tộc thiểu số sau Cách mạng Tháng Tám để thấy rõ hơn sức sống

lâu bền cũng nhƣ những hạn chế lịch sử của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian

cổ truyền của các dân tộc anh em.

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án thật ra phải đƣợc cụ thể hóa thành những mặt gắn

bó với nhau nhƣ vậy.

4.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài nhƣ đã giới thuyết ở trên là các khái quát dƣới dạng

trực tiếp hoặc gián tiếp có ẩn chứa các quan niệm về nghệ thuật dƣới dạng văn bản đã đƣợc in

ấn, phát hành trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số anh em. Tính đến thời

điểm hiện nay đã có khoảng 30 dân tộc thiểu số có tác phẩm văn học dân gian đƣợc sƣu tầm

và công bố dƣới dạng văn bản in ấn nhƣ các tập truyện cổ, truyện thơ, sử thi hoặc ca dao dân

ca, tục ngữ v.v...

Những cảm nhận, khái quát về nghệ thuật dƣới dạng phát biểu trực tiếp thƣờng gặp

trong các thể loại văn vần dân gian nhƣ ca dao dân ca tục ngữ, thành ngữ... Ở đây các phát

biểu, cảm nhận của dân gian về nghệ thuật hiện lên trực tiếp nhƣ những lời lẽ tự nghiệm,

tuyên ngôn bộc trực về nghệ thuật (nhƣ: "Thiếu tiếng đàn, tiếng hát nhƣ ăn cơm không canh

ăn rau không muối" (dân ca Thái); "Hát lên cảnh mới đẹp, hát lên nhà mới vui" (dân ca Lô

Lố) v.v...). Những cảm nhận trực tiếp về nghệ thuật nhƣ vậy chủ

9

yếu đƣợc khai thác từ các nguồn tƣ liệu đan ca, tục ngữ dân gian của các dân tộc đã đƣợc ấn

hành dƣới dạng văn bản nhƣ: Dân ca đám cưới Tày Nùng (1973); Dân ca Lò Lô (1975);

Dân ca Tây nguyên (1976); Tục ngữ Thái (1978); Dân ca Cao Lan (1981); Dân ca

H'mông (1984); Ca dao Tày Nùng(1994) v.v...

Cũng là để bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật, nhiều khi những cảm nhận của dân

gian lại đƣợc triển khai gián tiếp thông qua hệ thống các hình tƣơng tự sự sinh động có liên

quan trực tiếp đến nghệ thuật thƣờng gặp trong các truyện cổ, truyện thơ, sử thi... ở đây, các

quan niệm về nghệ thuật đƣợc hiện hữu ra thông qua sự biên hóa của các hình tƣợng, ý nghĩa

quan niệm thâm ngấm vào giữn các chi tiết, tình tiết của câu truyện (nhƣ tiếng đàn, lời ca vô

hiệu hóa hành động tàn bạo của lũ giặc cƣớp qua truyện cổ Tiếng hát của người đá của dân

tộc Raglai hoặc tiếng đàn lời ca đánh tan ý chí xâm lăng của quân chƣ hầu 18 nƣớc trong

truyện cổ Chàng Sính của dân lộc H'mông v.v...). Các cảm nhận gián tiếp về nghệ thuật

thƣờng đƣợc gạn lọc từ các tuyển tập truyện cổ các dân tộc hoặc các tập truyện thơ, trƣờng

ca, truyện cổ riêng biệt của từng dân tộc nhƣ: Truyện thơ Tày Nùng (1964 - 1965); Truyện

cổ các dân tộc thiểu số Miền Nam - 2 tập (1975, 1976); Truyện cổ Việt Bắc (1976); Truyện

cổ Ề đê (1978); Truyện cổ Cơtu (1982); Truyện cổ CơHo (1984); Truyện cổ các dân tộc

Trường Sơn Tây Nguyên (1985) Truyện cổ Mảng (1985); Trường ca Tây Nguyên (1985);

Truyện cổ các dân tộc ít người ở Việt Nam - 4 tập (1987 - 1994); v.v...

Có thể nhận thấy đối tƣợng nghiên cứu của đề tài - các quan niệm về nghệ thuật, căn

bản đều khá xác định cả về sắc thái nội dung những suy nghĩ, chiêm nghiệm về nghệ thuật)

và diện mạo hình thức (ngắn gọn, bộc trực trong thơ ca, tục ngữ hoặc diễn biến sinh động qua

các chi tiết, tình tiết

10

của câu chuyện có liên quan trực tiếp đến nghệ thuật trong tác phẩm tự sự...)

Cũng cần lƣu ý thêm rằng, việc phân tích, lý giải giá trị các quan niệm nghệ thuật

cũng chỉ nhằm chú mục vào các câu thơ đoạn văn hoặc các chi tiết, tình tiết tự sự có tiềm

chứa các quan niệm cụ thể về nghệ thuật, chứ không phân tích nghiên cứu toàn bộ nội dung

tác phẩm nói chung. Chẳng hạn khi nói đến quan niệm của dân gian về nghệ thuật góp phần

đánh giặc cứu nƣớc qua Truyện Thạch Sanh, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích, bình giá ý nghĩa

của hình tƣợng ở các trang đoạn có liên quan đến ý tƣởng dùng nghệ thuật làm vũ khí đánh

giặc cứu nƣớc mà thôi, chứ không phân tích toàn diện các vấn đề nội dung tƣ tƣởng của tác

phẩm nhƣ về tình bạn, tình yêu, kết cấu sự kiện, đối chiếu dị bản v.v...

Cuối cùng xin đƣợc lƣu ý thêm rằng, do thực hiện nhiệm vụ so sánh, đối chiếu nhƣ đã

nói rõ trong phần nhiệm vụ nghiên cứu, cho nên luận án còn mở rộng phạm vi khảo sát sang

cả phần văn học dân gian dân tộc Kinh và văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau Cách

mạng Tháng Tám.

5. Phương pháp nghiên cứu.

Ngoài việc vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của Triết học mác-xít. cũng

nhƣ những phƣơng pháp nghiên cứu thông dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung (nhƣ

phân tích, tổng hợp, diễn dịch, qui nạp...) đề tài này chủ yếu vận dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu cơ bản dƣới đây:

Đề tài hƣớng tới khai thác các quan niệm có giá trị lý luận về nghệ thuật trong văn

học dân gian cổ truyền dƣới dạng văn bản đã ấn hành cho nên phương pháp thống kê, phân

loại tƣ liệu có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng trong toàn bộ các thao tác nghiên cứu

của đề tài. Thống kê tƣ liệu chính là thao tác kiếm tìm, lƣợm lặt các khía cạnh quan niệm

tiềm chứa

11

rải rác trong các tác phẩm thuộc mọi thể loại khác nhau của văn học dân gian. Nguyên tắc tối

đa khi thống kê, phân loại là phải dựa vào các cứ liệu quan niệm tổn tại thực trên văn bản tác

phẩm đã đƣợc in ấn để trên cơ sở đó mà tổng hợp, khái quát thành các vấn đề lý luận văn

nghệ chứ không phải là ngƣợc lại. Điều này vô hình trung cũng dự báo trƣớc rằng: Phải dựa

vào những cứ liệu tử những "văn bản" đích thực nhƣ đã nói ở trên để khái quát lên một số

quan niệm nghệ thuật nhất định, tất yếu sẽ không thể và cũng không cần thiết minh chứng

cho toàn bộ những vấn đề, những khái niệm đã có trong hệ thống lý luận văn nghệ hiện nay.

Mặc dù phải hết sức tránh bỏ sót trong khi lƣợm lặt, thống kê khát quát nhƣng nếu cuối cùng

vẫn thiếu vắng vấn đề này, khái niệm kia thì đó là do hạn chế lịch sử tất yếu chính các quan

niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc tộc thiểu số anh em.

Với tính chất, nhiêm vụ của luận án, khó có thể qui hoạch phạm vi khảo sát, thống kê

vào một số thể loại cụ thể hay tác phẩm văn học dân gian của một hay một số dân tộc xác

định nào nhƣ đã từng nói ở trên. Bởi lẽ, không phải ở đâu, lúc nào các khía cạnh quan niệm

về nghệ thuật cũng hiện diện nhƣ một điều kiện tất yếu, thƣờng xuyên trong các tác phẩm.

Quả thực có chuyện có những dân tộc có tác phẩm văn học dân gian đã ấn hành) song không

hề có một phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp nào về nghệ thuật cả Ngay trong phim vi văn học

viết cũng vậy, có những tác gia nổi tiếng xứng tầm đại thụ cua làng văn chƣơng dân tộc song

chắc gì họ đã có ý thức bày tỏ những quan niệm của mình về văn chƣơng nghệ thuật? Vì thế

cho nên hiện trạng xuất hiện các quan niệm nghệ thuật một cách rải rác, lẻ tẻ và thất thƣờng

trong phạm vi các thể loại văn học dân gian âu cũng là chuyện thƣờng tình. Mặt khác, tỷ lệ

xuất hiện quan niệm nghệ thuật giữa các dân tộc cũng không giống nhau. Có dân tộc thì bày

tỏ quan niệm nghệ thuật khá

12

thƣờng xuyên, lại cũng có dân tộc tuyệt nhiên không đề xuất quan niệm nghệ thuật nào cả.

Do vây để có thể thu trữ, tập hợp đƣợc một số lƣợng đáng kể các quan niệm nghệ thuật khả dĩ

tạo điều kiện thuận lợi cho việc khái quát, tất yếu phải "đãi cát tìm vàng" trên diện rộng. Chỉ

có lọc tìm, thống kê các quan niệm trên diện rộng các dân tộc và các thể loại khác nhau mới

hy vọng tổng hợp đƣợc những cứ liệu quan niệm nghệ thuật phong phú để nhờ đó mà chúng

sẽ bổ sung và làm đầy cho nhau tạo thành một mảng tƣ liệu dồi dào, giúp cho việc khái quát

có cơ sở tin chắc hơn. Điều này quả thực đã góp phần giải thích thêm tại sao không thể tiến

hành nghiên cứu các quan niệm nghệ thuật trong phạm vi văn học dân gian cổ truyền của

từng dân tộc một cách độc lập nhƣ đã từng nói ở trên.

Điều đặc biệt quan trọng là việc sử dụng phương pháp so sánh trên cả hai chiều

đồng đại và lịch đại giữa các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân

tộc thiểu số với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền của dân tộc Kinh và

quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại của các dân tộc thiểu số sau Cách mạng Tháng

Tám. Từ chỗ khác nhau với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian của dân tộc Kinh sẽ

làm nổi rõ đặc điểm riêng biệt của quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các

dân tộc thiểu số. Ngƣợc lại, từ chỗ giống nhau giữa hai phía cũng sẽ góp phần xác lập tính

chất chung của quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian của cộng đồng các dân tộc Việt

Nam. Mặt khác về mặt lịch đại, từ sự giống nhau với quan niệm nghệ thuật, trong văn học

hiện đại các dân tộc thiểu số (ở bình diện kế thừa truyền thống quan niệm) sẽ nói lên sức sống

bền lâu của quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Ngƣợc lại, từ

chỗ khác nhau (ở bình diện cách tân quan niệm) cũng gián tiếp nói lên hạn chế lịch sử của

các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam.

13

Tóm tại qua việc so sánh, đối chiếu các bình diện nói trên, gƣơng mặt của quan niệm nghệ

thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số càng có dịp hiện lên sắc nét trên

các phƣơng diện đặc điểm riêng cũng nhƣ tính chất chung, hạn chế lịch sử tất yếu cũng nhƣ

sức sống trƣờng kỳ của nó quá trình phát triển dài lâu của văn học nghệ thuật các dân tộc anh

em . So sánh nhƣ thế là so sánh lịch sử, cho nên những vấn đề hữu quan từ phƣơng pháp lịch

sử nhƣ lý thuyết về mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và cách tân... vốn đã đƣợc vận

dụng kết hợp ở đây.

Trong quá trình phân tích, lý giải quan niệm nghệ thuật dân gian, khi có điêu kiện

chúng tôi cũng đặc biệt coi trọng yêu cầu liên hệ với thực tiễn đời sống văn hóa vật chất và

văn hóa tinh thần đa diện của các dân tộc. Văn học dân gian mà trong đó có tiềm ẩn các quan

niệm nghệ thuật là bức tranh văn hóa tổng thể về mọi mặt tri thức da dạng của con ngƣời

đƣợc hun đúc và tích lũy qua quá trình lịch sử dài lâu. Vì vậy việc đặt nội dung các quan

niệm nghệ thuật dân gian trong ý thức liên hệ với thực tiễn sinh hoạt vật chất và tinh thần

phần nào mang tính chất tôn giáo và dân tộc học của các dân tộc thiểu số anh em sẽ giúp

chúng ta lý giải giá trị và ý nghĩa của các quan niệm đƣợc rõ ràng và sinh động hơn. Chẳng

hạn, những thông tin lý thú về lễ hội Lồng tồng của ngƣời Tày - Nùng; lễ hội Bỏ mả của một

số dân tộc Tây Nguyên... do các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cung cấp đã đƣợc đề tài

khai thác có lựa chọn để làm tƣ liệu liên hệ mở rộng trong quá trình phân tích, bình giá các

quan niệm nghệ thuật của dân gian. Các cứ liệu để liên hệ mở rộng ở đây, ngoài việc khai

thác từ các nguồn tài liệu hữu quan còn bao gồm cả những kiến văn cần thiết mà chúng tôi

với tƣ cách là đứa con của dân tộc và miền núi đã có dịp tiếp xúc và trải nghiệm thấm thía từ

thủa ấu thơ giữa cuộc sống muôn mặt của cộng đồng các dân tộc thiểu số anh em.

14

6. Những kết luận mới và cấu trúc luận án.

Nghiên cứu một cách toàn diện các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian

cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam trong sự đối sánh theo các chiều đồng đại và lịch đại

của nó, bƣớc đầu chúng tôi đã có đƣợc những kết quả nghiên cứu tƣơng đối mới mẻ nhƣ sau:

Trải qua một quá trình lịch sử dài lâu, qua văn học dân gian cổ truyền, các dân tộc

thiểu số anh em đã có ý thức cảm nhận, suy ngâm khá phong phú và sâu sắc về các vấn đề cơ

bản của nghệ thuật nhƣ: về chủ thể nghệ thuật, về vai trò tác dụng của nghệ thuật đối với

cuộc sống đa diện của con ngƣời... Về chủ thể nghệ thuật, những khía cạnh quan niệm có liên

quan đến vấn đề nguồn gốc của tài năng nghệ thuật, mối quan hệ giữa sáng tác đời sau với di

sản nghệ thuật truyền thống, giữa ý thức trách nhiệm và tấm lòng giao cảm của chủ thể nghệ

thuật đối với hoạt động văn nghệ của chính họ v.v... đã đƣợc dân gian cảm nhận khá thấm

thía. Mặt khác, nghệ thuật là sợi đây thắt chặt tình hữu ái đồng loại, là phƣơng tiện phụng sự

hữu hiệu đối với công cuộc lao động dựng xây và đánh giặc cứu nƣớc, khích lệ niềm tin và

khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên vì cuộc sống lao động hữu ích của con ngƣời. Những

quan niệm nghệ thuật này đều đã có những tiền đề có tính chất mỹ học là những quan niệm

về cái đẹp của con ngƣời qua quá trình lịch sử dài lâu của các dân tộc anh em làm nền tảng

cho nó.

Các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số

có những điểm tƣơng đồng và khác biệt với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ

truyền của dân tộc Kinh. Trên bình diện cộng đồng dân tộc, các dân tộc thiểu số và dân tộc

Kinh gặp gỡ nhau ở ý thức đề cao cái đẹp của con ngƣời bao gồm cả cái đẹp bên ngoài lẫn

phẩm chất cao đẹp bên trong. Các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều rất

15

trân trọng và yêu quí nghệ thuật, coi nghệ thuật (và cái đẹp) là phƣơng tiện góp phần phụng

sự công cuộc lao động dựng xây, đánh giặc cứu nƣớc, khích lệ niềm tin và khát vọng sống

của con ngƣời, đặc biệt là con ngƣời lao động. mặt khác do giữa các dân tộc thiểu số và dân

tộc Kinh vốn có những điều kiện môi sinh, văn hoá, xã hội, thói quen tƣ duy... khác biệt nhau

cho nên quan niệm về nghệ thuật của họ cũng khác nhau ở ngay trong ý thức về loại hình

nghệ thuật đƣợc cảm nhận, về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật, đặc biệt về

sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật . Về loại hình nghệ thuật được

cảm nhận, các dân tộc thiểu số chủ yếu bộc lộ các quan niệm nghệ thuật về ca múa nhạc.

Loại trừ một số ít dân tộc thiểu số, còn đại bộ phận là không bày tỏ quan niệm nghệ thuật về

thơ văn. Trong khi đó dân tộc Kinh, bên cạnh các quan niệm về ca múa nhạc, đã phần nào

có nói đến thơ văn khá lý thú. Về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật, các

dân tộc thiểu số căn bản bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật qua các thể loại tự sự, rất ít triển

khai quan niệm trên các thể thơ ca, tục ngữ, thành ngữ.... Còn dân tộc Kinh, bên cạnh các thể

loại tự sự dân gian, lại chủ yếu bày tỏ quan niệm nghệ thuật qua các loại thể thơ ca, tục ngữ,

thành ngữ... Về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật, các dân tộc

thiểu số thiên về lối biểu đạt dung dị, mộc mạc, bộc trực thẳng thắn, giàu hình ảnh sinh động,

khác với dân tộc Kinh đã có thiên hƣớng bày tỏ quan niệm một cách khái quát, hàm súc...

Đối sánh với quan niệm nghệ thuật trong văn học các dân lộc thiểu số hiện đại, bên

cạnh những cách tân đổi mới toàn diện và tất yếu trên các bình diện dân tộc thống nhất, cách

mạng và khoa học, các quan niệm nghệ thuật dân gian truyền thống vẫn tỏ rõ sức sống trƣờng

tồn của nó đối với nền văn học hiện đại. Các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại vẫn kế thừa

rộng rãi các quan niệm nghệ thuật truyền thống nhƣ về chủ thể nghệ thuật và vai trò tác

16

dụng của nghệ thuật... vốn có từ trong văn học dân gian. Không chỉ biểu đạt quan niệm nghệ

thuật dƣới "dạng sáng tác", mà ở phạm vi nghị luận hiện đại của các nhà văn dân tộc anh em

vẫn thấm đƣợm cách cảm, cách nghĩ của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ

truyền.

Để thể hiện những kết quả nghiên cứu nói trên, ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh

mục Tài liệu tham khảo.................. luận án đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng chính nhƣ sau:

Chƣơng 1: Những nội dung cơ bản của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân

gian cổ Truyền các dân tộc thiểu số.

Chƣơng 2: So sánh về quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền giữa

các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh.

Chƣơng 3: Đối sánh về quan niệm nghệ thuật giữa văn học dân gian cổ truyền với văn

học hiện đại của chính các dân tộc thiểu số.

17

CHƢƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ NGHỆ

THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC

THIỂU SỐ.

1.1. Những tiền đề có tính chất mỹ học của nghệ thuật .

Quan niệm mỹ học mà then chốt là quan niệm về cái đẹp bao giờ cũng là cơ sở cho

quan niệm nghệ thuật, bởi lẽ cái đẹp tồn tại trong thiên nhiên, xã hội... nhƣng tập trung biểu

hiện sâu sắc ở nghệ thuật. Cho nên muôn tìm hiểu quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân

gian các dân tộc ít ngƣời Việt Nam trên một cơ sở vững chắc, trƣớc hết phải tìm hiểu quan

niệm về cái đẹp tiềm ẩn trong mảng văn học này. Cũng nhƣ nhiều nền văn học dân gian khác,

trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, các quan niệm về cái đẹp nói chung cơ

bản đều đƣợc truyền đạt qua việc mô tả về vẻ đẹp của con ngƣời. Từ những lý giải về vẻ đẹp

của con ngƣời, có thể hiểu đƣợc ý thức của dân gian về cái đẹp nói chung, bởi lẽ nhƣ nhà lý

luận văn học Nga nổi tiếng Gulaiep đã nói: "Bản chất. của cái đẹp bao giờ cũng bao hàm một

nội dung Ngƣời nhất định. Đối tƣợng nào cũng chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ khi nó có giá trị đối

với con ngƣời. Không thể hiểu cái đẹp tách rời tính chất Ngƣời". [50 ,115]. Đặc biệt, F. w.

Nitzsche - nhà mỹ học nổi tiếng cuối thế kỷ XIX ở Đức cũng đã nói: "Không có cái đẹp nào

khác cả, chỉ có con ngƣời mới đẹp. Phải xây dựng toàn bộ mỹ học trên cái nền chân lý giản

đơn này, đó là chân lý đầu tiên của Mỹ học". (Sự ra đời của bi kịch). Một ý kiến hiển nhiên

là phiến diện vì đã bỏ qua những cái đẹp trong thiên nhiên và xã hội... nhƣng lại nhấn mạnh

đúng đắn vai trò then chốt của quan niệm về con ngƣời cao đẹp đối với mỹ học nói chung.

Tất nhiên trong văn học dân gian không có những khái niệm lý luận trừu tƣợng về cái đẹp và

nghệ thuật mà chỉ có sự mô tả, cảm nhận về cái đẹp của con ngƣời

18

nhƣng qua đó cũng có thể thấy những quan niệm của họ về cái đẹp nói chung. Có thể khái

quát quan niệm về cái đẹp trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số trên các bình diện sau:

1.1.1. Về bản chất của cái đẹp qua cách miêu tả con ngƣời.

1.1.1.1 Vẻ đẹp bên ngoài phải gắn bó với phẩm chất cao đẹp bên trong.

Trong các biểu hiện đa dạng của vẻ dẹp con ngƣời, dân gian các dân tộc ít ngƣời rất

có ý thức quan tâm, đề cao cái đẹp bên ngoài của đối tƣợng. Trong kho tàng tục ngữ một số

dân tộc thiểu số, ý thức về cái đẹp hình thức của con ngƣời đã đƣợc đúc kết sắc gọn thành

những tuyên ngôn bất hủ:

- Tiền bạc nhƣ đất cỏ

Mặt mũi đáng ngàn vàng

(Tục ngữ Tày) [21 ,48]

- Chim đẹp nhờ bộ lông

Ngƣời đẹp nhờ bộ cánh v.v....

(Tục ngữ Thái) [21, 60]

Trong các tác phẩm tự sự dân gian, khi nói về vẻ đẹp bình thể của con ngƣời, dân gian

các dân tộc anh em thƣờng ƣu tiên nói nhiều về - phụ nữ phái đẹp. Các nhân vật nữ xuất hiện

trong tƣ cách là nhân vật chính diện - trung tâm ở các sử thi, truyện thơ, truyện cổ... dù ở Tây

Bắc, Việt Bắc hay Tây Nguyên... đều là hiện thân của cái đẹp bên ngoài đầy quyến rũ. Nàng

Mứn trong truyện thơ Khăm Panh của dân tộc Thái có một vẻ đẹp hình thể thật hoàn hảo:

Nàng đẹp nhƣ nai lƣợn

Nàng nói vui hơn suối reo

Tóc nàng dài, bƣớc mỗi bƣớc tóc leo lên gót

Tóc nhảy theo chân váy phập phồng

Khuôn mặt hình lá trầu không

19

Lá trầu không còn thua mềm mỏng... [153,18].

Vẻ đẹp ấy có thể khuynh đảo, làm sững sờ thế giới muôn loài xung quanh:

Nàng đến bên,suối, suối bỏ đƣờng đi

Nàng ở bên lửa, lửa quên reo cháy

Nàng vào rừng, nai quên chạy tìm đàn

Hoẳng thôi chạy lang thang... [153 18]

Nét đẹp lộng lẫy, kiều diễm của nàng Hơ lung trong trƣờng ca Đăm Đơ Roăn tựa bổ

nhƣ làm xao xuyến cả cỏ cây, ánh sáng: "Tâm thần của nàng mềm dẻo nhƣ tàn lá đung đƣa

trƣớc gió. Mắt nàng làm chớp buổi ban mai. Bƣớc chân nàng bƣớc đi nhƣ ru trên cỏ..." [111,

186].

Trong trƣờng ca Đam San, vẻ đẹp của Hơ Nhí đƣợc đặc tả sinh động tới mức tƣởng

nhƣ vẻ đẹp ấy đƣợc chắt lọc ra từ cỏ cây hon lá của núi rừng Tây Nguyên "Nàng đi đủng

đỉnh, thân hình uyển chuyển nhƣ cành cây blo sai quả mềm dẻo nhƣ những cành trên đỉnh

cây gió đƣa đi đƣa lại. Nàng đi nhƣ: chim phƣơng bay, nhƣ chim điều lƣợn trên không, nhƣ

nƣớc chảy dƣới suối. Lúc nàng đứng lại hay ngồi xuống thì chẳng có ai duyên dáng đƣợc đến

thế ..." [99, 55]. Song hành với vẻ đẹp hình thức của các nhân vật trên là nét đẹp kỳ diệu cun

các nhân vật trong các sử thi, truyện thơ, truyện kể... của các dân tộc anh em nhƣ: nàng Út

Lót, nàng Thơm, nàng Tiên, Ả Sao, Ả Sáng... trong các truyện thơ Mƣờng, nàng Bơ ra E tang

trong trƣờng ca Đăm Di của dân tộc Êđê, nàng Ka Mách, Ka Mài trong truyện cổ cùng lên

của dân tộc CơHo, nàng Nóng Bua trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Thái v.v ... Hình thể

của nhân vật nào cũng dƣợc dân gian đam mê ca ngợi nhằm đẩy cái đẹp bên ngoài của đối

tƣợng lên tới mức tột cùng. Song có điều đó không phải là cái đẹp bên ngoài thuần tuý, tự

thân. Khi lý giải về cái đẹp của đối tƣợng, dân gian thƣờng xuyên có ý thức đòi hỏi cái đẹp

bên ngoài

20

cần phải song hành với cái đẹp bên trong. Với dân gian, có thêm nét đẹp bên trong tƣơng

khớp, cái đẹp bên ngoài của đối tƣợng mới có giá trị đích thực. Nếu không có sự hài hòa

này,mọi cái đẹp bên ngoài chẳng qua chỉ là sự ngụy trá giả tạo vì vậy sẽ bị ngƣời đời dè bỉu

ra mặt:

- Vẻ thanh tao mà lòng lại hẹp

Mặt xinh xắn mà lòng lại gian

hoặc :

- Đẹp ngƣời mà xấu tính

Lành ngoài mà mục trong v.v...

(Tục ngữ Thái) [102 ,120]

Dân tộc Dao có khá nhiều những câu ca khuyên dạy con cái về chuyện chọn vợ kén

chồng mà ở đó ý thức về vẻ đẹp bên ngoài của đối tƣợng bao giờ cũng, đƣợc đặt trong sự đòi

hỏi kèm theo cái đẹp bên trong tƣơng xứng:

- Xƣa nay hoa đẹp thƣờng đáng ngại

Đẹp sắc sợ gặp lòng không đẹp

Cố ý lấy không yên nhà yên cửa.... [21 , 372].

- Làm gái nết na biết nghĩ suy,

Chỉ biết điểm trang cho đẹp đẽ

Việc làm lƣời biếng hay chi mà v.v... [21 , 372]

Tóm lại, với dân gian, vẻ đẹp bên ngoài là rất đáng quý trọng song nó phải đƣợc gắn

liền với giá trị bên trong tƣơng xứng thì mới có giá trị đích thực.

1.1.1.2.Phẩm chất cao đẹp bên trong đòi hỏi phải có vẻ đẹp bên ngoài tƣơng xứng.

Các dân tộc thiểu số có cả một kho tàng truyện cổ theo môtíp "Ngƣời mang lốt xấu xí

mà tài ba lỗi lạc". Dân tộc H'Rê có truyện cổ Vu chư

21

KaLong,... Dân tộc Phù lá có truyện Rùa giúp bạn. Dân tộc Ê đê có truyện Chàng Cóc,

Chàng rể khỉ, Y Đăm tai to... Dân tộc Gia rai có truyện Chàng rắn, Chàng Cóc, Chàng

Lợn, Chàng Chồn và nàng H'Lúi... Dân tộc Tày có truyện Nàng Kháy, Lệnh Trừ... Dân tộc

Nùng có truyện Hoàng tử và cô vợ xấu xí, Dân tộc H'mông có truyện Chàng Rùa v.v...

Các nhân vật chính diện trung tâm trong các truyện kể trên đều trải qua hai giai đoạn

phát triển. Giai đoạn đầu họ đểu phải kiên tâm mang trên mình một hình hài xấu xí, thô

nhám, hoàn toàn đối lập với những phẩm chất tài ba lỗi lạc, nhân đức cao đẹp của mình. Đến

giai đoạn sau, khi đã trút đi Cái lốt xấu xí của mình, họ đều là những chàng trai, cô gái rất

mực hoàn hảo về hình hài thể chất. Cái hình thức dị dạng, méo mó đã đƣợc thay thế bời"

chính những đƣờng nét hình thể trang trọng rất phù hợp với nhân tính trác tuyệt của mỗi con

ngƣời. Bằng cách để cho các nhân vật tài ba lỗi lạc phải tạm khoác trên mình cái vỏ ngoài

xấu xí, dân gian dƣờng nhƣ vừa muốn mang lại cho ngƣời tiếp nhận trạng thái nhận thức về

cái đẹp một cách bất ngờ, thú vị, vừa muốn khẳng định chắc chắn ý thức hoàn bồi cái đẹp bên

ngoài tƣơng xứng cho những con ngƣời vốn dĩ đã cổ những giá trị nhân tính cao thƣợng bên

Mong. Cái đẹp bên trong đích thực trong ý thức của dân gian. nhất định phải đƣợc "hình thức

hóa" tƣơng xứng; cái đẹp bên trong không thể bị cƣơng tỏa, cầm tù trong một vẻ ngoài dị

nghịch, trái khoáy... Quả vậy, Nàng Khay trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Tày

[185,200], sau khi đã thoát mình ra khỏi cái vỏ trứng từ túng tội nghiệp, liền hiện nguyên

hình là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, tài năng mƣu trí sắc sảo. biết vẽ ra những bức tranh mê

hoặc lòng ngƣời. Chàng Rùa khi không còn là con rùa xấu xí nữa liền trở thành một chàng

trai "mạnh khỏe, đẹp trai, giỏi khèn, hát hay. múa dẻo" [189,40]. Cũng nhƣ vậy các chàng

trai, cô gái trong các truyện Chàng Cóc, Chàng rể khỉ, Y Đăm tai to... của dân tộc Êdê,

Chàng

22

Rắn, Chàng Cóc, Chàng Lợn, Chàng Chồn của dân tộc Gia rai, Chàng Rùa của dân tộc

H'mông, Người lấy vợ đá của dân tộc Tà ôi, Lệnh Trừ của dân tộc Tày v.v... sau khi đã trút

đi những lốt cóc, khỉ, rắn, lợn, chồn, hòn đá v.v... đều có một hình thể viên mãn rất tƣơng

xứng với tài năng, nhân phẩm của mình. Ở đây cũng cần nói thêm về Lệnh Trừ - một trƣờng

hợp có phần đặc biệt. Lệnh Trừ là chàng trai vốn là "ngƣời trời" đƣợc thác sinh xuống trần

nhƣng chƣa đƣợc mang hình ngƣời ngay mà phải mang lốt cóc xấu xí. Tài năng và mƣu trí

tuyệt vời của chàng đã chiếm đƣợc cảm tình của công chúa ba con gái nhà vua. Khi đã biết

ngƣời thân yêu của mình chẳng qua chỉ tạm mang trên mình lốt cóc, công chúa ƣớm hỏi tại

sao chàng không bỏ hẳn cái lốt cóc đi, Lệnh Trừ đã thành thật trả lời : "Ta trở thành ngƣời để

ngƣời khác lại hoá cóc thay ta... thực lòng ta không muốn..." . Chi tiết này càng tô đậm thêm

phẩm chất cao đẹp bên trong của nhân vật Lệnh Trừ. Và điều đáng nói là cuối cùng Lệnh Trừ

vẫn trở về với hình thể của một chàng trai tuyệt hảo. Nhƣ thế là không có trƣờng hợp ngoại lệ

ở đây. Điều này chứng tỏ việc phân cốt truyện ra làm hai giai đoạn (giai đoạn đầu là ngƣời tốt

nhƣng xấu xí, giai đoạn hai là ngƣời tốt nhất định phải đƣợc mang một hình hài toàn vẹn) là

một phƣơng diện thi pháp về nhân vật của truyện cổ dân gian, nó bộc lộ quan niệm của các

dân tộc thiểu số rằng : phẩm chất cao đẹp bên trong là quan trọng nhất nhƣng còn phải đƣợc

hình thức hóa bằng một vẻ đẹp bên ngoài tƣơng xứng.

1.1.1.3. Lý tƣởng "đẹp ngƣời, đẹp nết"

Trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số, các tác phẩm tự sự trực tiếp nói đến

những con ngƣời mang vẻ đẹp hoàn hảo theo tinh thân "đẹp ngƣời, đẹp nết" chiếm một tỷ lệ

khá dồi dào. Dân tộc Cơ Ho có các truyện cổ đặc sắc nhƣ: K'Chơi và Malênh, Cô gái trong

rừng và chàng trai K'Khà, Chàng KDùng và nàng Kalàng, Con quạ gian ác... Dân tộc Ê đê

có các

23

truyện: Nói khoác gặp thời, Chàng Bun lô và nàng Tác Ty... Dân tộc Gia rai có huyện Đăm

Ktía Truol; Dân tộc Thái có huyện Nàng Ăm Ca và chàng Tòng Đón..., đặc biệt cổ truyện

thơ Khăm Panh với hình tƣợng nàng Mứn tài sắc vẹn toàn đã từng đƣợc nhà nghiên cứu văn

học dân gian Vũ Ngọc Khánh mệnh danh là "một cô gái Việt Nam toàn diện: có hình độ lãnh

dạo. có tài tổ chức kinh tê, có khả năng quân sự và có lòng thủy chung" [153,8]. Trong các

tác phẩm trên, các nhân vật chính diệu bảo giờ cũng hiện lên với tất cả sự vẹn toàn, hoàn hảo

cả về nhân hình lẫn nhân tính. Trong ý thức dân gian Cơ Ho, nàng Malênh "là một cô gái

xinh đẹp nhất vùng, cổ tay trăng nhƣ ngà voi và có tiếng hát vang xa nhƣ có làn gió thổi

[163,72]. Nàng Ka giờng trong truyện cổ cùng tên thì "đẹp nhƣ một bông" hoa rừng mới nở.

Lƣng Ka giờng thắt nhƣ co lƣng con kiến vàng... mái tóc mềm mại và đen nhƣ màn đêm"...

Đặc biệt nàng cũng là ngƣời thực sự khéo hay làm: "nấu cơm biết chụm củi đƣợm, biết múc

những vò nƣớc trong ở đầu nguồn, biết rót đầy những ché rƣợu cần cho làng uống say ngây

ngất..." [163,107] v.v... Trong các truyện kể của dân gian Ê đê cũng có biết bao những con

ngƣời đẹp người, tốt nết nhƣ vậy. Nàng Tác Ty trong truyện cổ Chàng Bun lô và nàng Tac

Ty là "một cô gái xinh đẹp và khéo tay nhất vùng... không những tài sắc, nàng còn là một

ngƣời con rất mực hiếu thảo với cha mẹ" [193,64]. Nàng Hơ Bia trong truyện Nói khoác gặp

thời chẳng những đẹp tới mức "không có cô gái nào đẹp bằng" mà còn có đôi bàn tay khéo

léo "biết dệt chăn, thêu khố lộng lẫy nhƣ sắc cầu vồng. Nàng chăm heo gà, heo gà mau lớn và

nhiều con." [193, 103] v.v...

Mảng truyện cổ mang môtíp kén chọn dâu rể cũng trực tiếp liên quan đến ý thức

khẳng định cái đẹp lý tƣởng "đẹp ngƣời, đẹp nết" trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số

anh em. Xung quanh mô típ này, dân tộc Tày có các truyện cổ So đũa chọn rể, Sự tích cánh

đồng Tổng Chúp, dân tộc

24

Cơ Ho có các truyện Hai chị em Đrun và Đroi, truyện Nàng Ra giờng... ở đây ý thức của

dân gian về cái đẹp lý tƣởng gắn liền vói ý niệm về cái cân xứng. Trên thực tế, con ngƣời đẹp

không mấy khi tồn tại tự thân mà thƣờng đặt trong nhu cầu giao tiếp quan hệ. Cái đẹp sẽ thực

sự thăng hoa trọn vẹn nếu có đƣợc đối tƣợng quan hệ cân xứng với nó. Kén rể là kén ngƣời

xứng đáng về tài sắc, trí tuệ, đạo đức... sao cho cân xứng với chủ thể kén chọn, cho nên qua

đây có thể phần nào thấy đƣợc ý thức về giá trị con ngƣời cao đẹp của dân gian.

Ở Việt Bắc, đồng bào Tày Nùng còn lƣu truyền rộng rãi truyện cổ dân gian So đũa

chọn rể đặc sắc. Trong truyện, cô gái tài sắc hoàn hảo đã có một phƣơng pháp kén chọn

chồng thật độc đáo qua mội bữa ăn... Chàng trai thứ hai, ngƣời vƣợt lên trên hai mƣơi chàng

trai trẻ đẹp khác cùng tham gia vào vòng kén chọn, ngƣời lọt vào đôi "mắt xanh" của nàng

quả là một con ngƣời xứng đáng. Ngoài cái đẹp hình thể chàng còn là ngƣời "vừa từ tốn, tao

nhã thận trọng trong mọi công việc, kể cả những công việc nhỏ nhặt nhất lại vừa là ngƣời

thức giả, giỏi giang chữ nghĩa và thấu hiểu đạo lý". Còn cô gái xinh đẹp trong truyện cổ Sự

tích cánh đồng Tổng Chúp mới thật khe khắt làm sao trong việc chọn chồng của mình. Biết

bao chàng trai trẻ đẹp có tài nghệ cao cƣờng đều không lọt vào "vòng ngắm" của nàng, bởi vì

theo nàng họ chỉ là những kẻ "võ biền" thuần túy. "Ngƣời thì có tài mà ứng xử thô lỗ. Kẻ thì

tài nghệ cao siêu mà thiếu bền bỉ trong công việc" [159 , 164]. Rốt cuộc chẳng có chàng trai

nào là người xứng đáng đƣợc chọn làm phò mã cá. Nhƣ vậy, có nghĩa là chẳng có đối tƣợng

kén chọn nào có giá trị cân xứng với tài sắc vẹn toàn của cô gái. Trong huyện cổ Hai chi em

Đrun và Đroi của dân tộc Cơ Ho, hai cô gái Đrun và Đroi hoàn toàn xứng đáng đƣợc Thần

Núi kén chọn làm con dâu cho hai con trai tài nghệ của mình bời lẽ họ đều là những cô gái

"không những xinh đẹp tuyệt trần mà còn tài hoa rất

25

mực các cô có tài nội trợ thật đáng khâm phục, không những thế mà lại có tài hát hay múa

dẻo" [163, 83]. Vẻ đẹp hoàn hảo của các cô gái thật cân xứng với tài sắc hai con trai Thân

Núi. Ý thức về cái đẹp là cái cân xứng còn tiếp tục đƣợc thể hiện sinh động qua mảng thơ ca

và huyện kể mang nội dung thân thân trách phận của những con ngƣời đẹp không may gặp

phải những cảnh huống bất hạnh mà chúng tôi sẽ có dịp phân tích ở những phần sau.

Khát vọng hƣớng tới cái đẹp hoàn hảo còn tiềm chứa khá phong phú trong các bài hát

giao duyên hoặc dân ca đám cƣới của một số dân tộc thiển số. Chẳng hạn trong hát giao

duyên dân tộc H'mông, trai gái thƣờng, hẹn hò, giao ƣớc với nhau về một tƣơng lai đầy kỳ

vọng:

Sau này mình đẻ con gái đặt tên là Xinh

Ta sinh con trai đặt tên là Tài.... [ 157,120]

Còn trong dân ca đám cƣới Tày - Nùng, lời ca cầu nguyện cho cô dâu chú rể:

Cầu cho: Sinh con đẹp nhƣ hoa, mạnh khỏe

Khôn giỏi cả binh mã, văn chƣơng... [17,40]

đã trở thành lời điệp khúc khắc khoải, tha thiết trong thiện tâm của cả cộng đồng khi đến dự

đám cƣới. Sức nặng thẩm mỹ chính yếu của những câu ca lời hát trên chính là khát vọng

hƣớng tới cái đẹp lý tƣởng toàn vẹn: đã "Xinh" lại phải "Tài" , đã "đẹp" lại phải "khôn giỏi cả

binh mã, văn chƣơng...". Vì vậy quan niệm về cái đẹp lý tƣởng chính là quan niệm hƣớng tới

cái đẹp hài hòa giữa vẻ dẹp bên ngoài và phẩm chất cao đẹp bên trong -một khía cạnh quan

niệm thẩm mỹ đặc sắc, từng đƣợc triển khai một cách khá phổ biến trên nhiều loại hình, loại

thể khác nhau trong kho tàng văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số anh em.

26

1.1.2. Về Ý nghĩa của cái đẹp qua việc triển khai vai trò của con ngƣời cao đẹp.

1.1.2.1. Cái đẹp khích lệ mềm tin và khát vọng sống của con ngƣời.

Với các dân tộc anh em, cái đẹp giúp cho con ngƣời cảm thấy tự tin hơn vào chính

mình trong các mối quan hệ giao tiếp. Nàng Hơ bia Sun trong trƣờng ca Đăm Di là một cô

gái rất đẹp đầy vẻ kiêu sa. Lần đầu thấy Xinh Mơ Nga (một chàng trai trẻ đẹp, tài ba) đƣờng

đột dám đến cầu thân với mình, Hơ bia Sun ƣớm hỏi đầy thách thức: "Ơ! làm sao anh dám to

gan lớn mật đạp lên chiếu chăn của em lúc này sao?" Chàng trai Xing Mơ Nga đã thản nhiên

trả lời một cách đầy tự tiu: "Vì bắp vế anh to, anh mới dám đạp lên cây xà dọc, vì bắp đùi anh

lớn anh mới dám đạp lên chiếc xà ngang, vì bụng anh vững anh mới dám đặt chân lên chăn,

lên chiếu của em !" Vậy là chàng trai dám đƣờng đột, bất ngờ đến với cô gái là do chàng

hoàn toàn có niềm tin vào uy lực của cái đẹp ở chính mình. Chàng tin rằng cái đẹp của mình

(bao gồm cả cái đẹp bên ngoài : "bắp vế, bắp đùi to" và cái đẹp tinh thần bên trong : "bụng dạ

vững") sẽ chinh phục đƣợc cô gái Hơ bia Sun kiều diễm. Quả vậy, chỉ sau vài lời đối thoại,

đôi trai tài gái sắc ấy đã nhanh chóng hòa nhập và chia sẻ với nhau. Họ bƣớc đi bên nhau

"nhƣ cặp cá Kơ doa (một loài cá đẹp) bơi trong vực nƣớc. Họ ngồi bên nhau nhƣ đôi chim Kơ

buôn (một loài chim đẹp) ăn quả đa trên ngọn cây'' [192,95].

Dân tộc Ê đê qua truyện cổ Truyện Krông Búc - con sông tóc đã dụng công khắc họa

vẻ đẹp tuyệt diệu của hai chị em H'Ring và H'Rao. "Thân thể của H'Rinh nhƣ khuôn đúc

vàng, thân thể của H'Rao nhƣ khuôn đúc bạc. Nhìn đằng trƣớc khổng ai nhắm đƣợc mắt, nhìn

đằng sau ai nhìn mãi cũng không chán... Gặp năm này, năm sau chƣa quên. Thấy năm trƣớc

năm sau vẫn chƣa hết nhớ. Từ buôn làng phía tây, ai ai cũng muốn đƣợc nhìn ngắm hai nàng,

muốn đƣợc H'Rinh, H'Rao ở chung nhà. Ai ai cũng

27

thích đƣợc H'Rinh, H'Rao ăn chung nồi, lên chung rẫy..." [183,19]. Những khi có hai nàng ở

bên, trai gái dân làng "ai cũng vui vẻ" hân hoan... Cái đẹp ở đây tựa nhƣ chất men say đặc

biệt giữ cho tình buôn làng luôn luôn đầm ấm. Mọi ngƣời muốn ngƣời đẹp luôn ở bên mình,

cùng, "ăn chung nồi. lên chung rẫy", là muốn cái đẹp mãi mãi thƣờng trực trong cuộc sống

hàng mày của chính mình. Cái đẹp ở đây chẳng khác nào những giá trị tinh thần vô giá có thể

thoa mãn cho con ngƣời những nhu cầu cần đƣợc cộng cảm, giao lƣu trong tình thân ái đồng

loại đích thực.

Trong trƣờng ca Đam San, vẻ đẹp của Đam San - ngƣời tù trƣởng oai phong lẫm liệt

"đầu đội khăn xếp, vai mang túi da, ... miệng đỏ nhƣ dƣa hấu, môi mỏng nhƣ lá tỏi... cổ trơn

tru nhƣ quả cà chua chín đã khiến cho cả cộng đồng, nhìn trộm anh không chán" [99, 31]. Đó

cũng là một phần căn nguyên giải thích tại sao Đam San đi đến đâu, liền có "trăm ngƣời đi

trƣớc, nghìn ngƣời đi theo sau". Sức mạnh thu phục và cảm hóa của ngƣời thủ lĩnh đối với

cộng đồng mình quả thực có nhờ một phần vào vẻ đẹp đầy uy linh của chàng.

Dân tộc Tà ôi trong truyện cổ Người lấy vợ đá đặc biệt đề cao vẻ đẹp của một cô gái

con trời. Một lần đi dạo chơi không may sảy chân rơi xuống trần gian, nàng hóa thành đá. Cô

gái mang lốt đá không chỉ "đẹp hơn tất cả các loài hoa trong rừng, đẹp hơn tất cả các cô gái

trong bản" [57 , 49] mà còn tài hoa, mƣu trí kỳ lạ. Nhờ tài sắc, mƣu trí của nàng mà chồng

nàng (chàng Paltiri) đã lần lƣợt đánh bại mọi âm mƣu chiếm đoạt nàng của tên Conpranha

giàu có, độc ác. Đối với Paltƣi ngƣời vợ xinh đẹp, tài hoa của mình thực sự là nguồn cổ vũ,

tạo niềm tin cho chàng vào hạnh phúc của chính mình.

Văn học dân gian là tiếng nói tâm hồn của nhân dân lao động. Nó gắn liền với mọi nỗi

niềm buồn vui, đau khổ của con ngƣời lao động. Nó thể

28

hiện khát vọng hân hoan hƣớng tới cái đẹp đồng thời cũng bày tỏ cà nỗi đau trƣớc cái đẹp bị

xâm hại. Mảng dân ca và truyện kể than thân trách phận của các cô gái đẹp chẳng may lỡ gặp

phải số phận hẩm hiu (lấy phải chồng già, chồng xấu, chồng ngốc.) vừa giúp ta thấu hiểu sâu

hơn ý tƣởng về cái đẹp cân xứng nhƣ đã nói ở trên vừa gợi nỗi niềm thấm thía về khát vọng

sống vì cái đẹp của dân gian. Các cô gái Ê đê than thở:

- Bạn bè duyên đã xứng duyên

Riêng em lấy phải ngƣời chồng nhỏ

Khác chi sao đọ cùng trăng [21 . 142]

- Thân em còn trẻ bao nhiêu

Cớ sao em lại đi yêu chồng già ? v.v... [119, 50]

Còn đây là nỗi xót xa của các cô gái Giáy:

- Cha em tài kén chọn

Cớ sao chọn vợt, khung

Vợt xinh khung chẳng đẹp

Nên đời em đang dở? [ 21 , 325]

Dân tộc Giáy còn lƣu truyền truyện cổ Chàng ngốc học khôn bày tỏ niềm cảm thông

cho số phận của một cô gái xinh đẹp, khéo léo trong mọi đƣờng ăn nết ở mà phải chung sống

với một ngƣời chồng ngu ngốc, đần độn. Có gái lúc nào cũng cảm thấy "ngao ngán, buồn

phiền nhƣ ngủ phải giƣờng có tệp" [185,311]. Tƣơng tự với truyện này, còn có truyện cổ

Chàng ngốc Cây nhi arơ của dân tộc Tà ôi [57 , 81]...Ở đó, các cô gái bất hạnh càng ý thức

về cái đẹp càng cảm thấy buồn tủi da diết. Tiếc nuối cho cái đẹp đang bị phôi phai (vì đặt

không đúng chỗ) cũng chính là tha thiết với khát vọng về cái đẹp nồng nàn.

1.1. 2.2 Cái đẹp góp phần giúp dân, cứu nƣớc.

Trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số, có một bộ phận tác

29

phẩm đặc sắc trực tiếp bày tỏ quan niệm cái đẹp góp phần giúp dân cứu nƣớc. Với các dân

tộc anh em, cái đẹp không phải chỉ để thƣởng ngoạn chiêm ngƣỡng mà tán thƣởng trầm trồ

sao cho thỏa nguyện nhu cầu tinh thần. cái đẹp đích thực phải góp phần đem lại những giá trị

hữu ích vì quyền lợi sống, còn của cộng đồng dân tộc, quốc gia, làng bản.

Cô gái Trần Châu trong truyện thơ cùng tên của dân tộc Tày, Nàng Mứn trong truyện

thơ Khăm Panh và nàng Han trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Thái, chàng trai trong

truyện cổ Rùa giúp bạn của dân tộc Phù lá. A Hờ trong huyện cổ A Hờ giết quỷ xanh của

dân tộc Hà nhì, Út lót trong truyện thơ Cun Đủ Lang Dà của dân tộc Mƣờng, cô bé chân vịt

trong, truyện thơ cùng tên của dân tộc Nùng v.v... đều là những nhân vật tài sắc hoàn hảo và

điều quan trọng là họ đã biết sử dụng tài sắc, mƣu lƣợc của mình vào công cuộc giúp dân,

cứu nƣớc khi thời cơ đến. Trần Châu là một cô gái xinh đẹp, trọng nghĩa khinh tiền tài, giầu

mƣu trí quả cảm đã biết dùng tài sắc của mình cùng quan quân triều đình đánh đuổi quân Tần

xâm lăng, cứu kinh thành và nhà vua thoát khỏi bàn tay tàn sát của lũ giặc cƣớp nƣớc. [16 ,

157]. Nàng Mứn, cô gái Thái tài sắc vẹn toàn, là linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân

Hán xâm lăng do tên bán nƣớc Khun Hạ cầu viện. Cùng với quan quân của mình, cô gái tuyệt

đẹp đã tả xung hữu đột giữa trận tiền khiến cho quân thù khiếp đảm. Ngay trong lúc "bị

thƣơng mà tay vẫn giơ gƣơm chém giặc tơi bời" [153, 45]. Nàng Han - cô gái Thái trong

truyện cổ cùng tên là một cô gái "rất đẹp, linh thông võ nghệ, có giọng hát tuyệt bay". Khi

quân giặc đến xâm lăng, nàng đã tập hợp quân sĩ và bằng mƣu trí sắc sảo của mình đã "đánh

tan lũ giặc cƣớp nƣớc, giữ vững biên thùy, đem lại niềm vui hạnh phúc cho muôn dân khắp

các bản mƣờng..." [185 , 301]. Chàng trai vô danh trong truyện cổ Rùa giúp bạn của dân tộc

Phù lá là một chàng trai khỏe mạnh, cao lớn, đẹp trai nhƣng

30

phải náu mình trong cái lốt rùa xấu xí trƣớc sự dè bỉu của mọi ngƣời. ''Năm ấy nƣớc láng

giềng kéo quân sang đánh. Nhà vua ra lệnh cho trai tráng khắp nƣớc đi đẹp giặc. Rùa cũng ra

trận. Đúng lúc quân giặc đang vây chặt quân nhà vua, Rùa bỏ lốt hiện nguyên hình là một

chàng trai đẹp đẽ khỏe mạnh mang kiếm xông vào giết hết lũ giặc cƣớp nƣớc. Chàng đƣợc

phong làm tƣớng giúp Vua trông coi việc nƣớc, giặc ngoại xâm không dám bén mảng đến

xâm phạm bờ cõi nữa". [156, 34]....

Triệt để sử dụng tài sắc vào công cuộc đánh giặc cứu nƣớc khi Tổ quốc bị xâm lăng -

đây là một khía cạnh quan niệm rất đáng trân trọng trong toàn bộ quan niệm về cái đẹp của

các dân tộc anh em qua văn học dân gian. Ngay cả khi không có nạn xâm lăng, các dân tộc

thiểu số anh em vẫn thƣờng trực với ý thức lấy cái đẹp phụng sự cho cuộc sống bình yên của

bản làng. Nàng Út Lót trong truyện thơ Cun Đủ Lang Dà của dân tộc Mƣờng là một cô gái

đẹp ngƣời tốt nết, thông minh sắc sảo đã can đảm giả trai đi chầu vua. Bằng trí tuệ và mƣu

lƣợc sáng suốt, nàng đã vƣợt qua bao cuộc thử thách nghiệt ngã của nhà vua, hoàn thành cuộc

chầu trở về suôn sẻ. [3 38]. Cô bé chăn vịt xinh dẹp, hiền thảo trong truyện cổ cùng tên của

dân tộc Nùng. Sau khi thành vợ Hoàng tử Ba đã biết dùng tài trí của mình tiêu diệt lũ Giả

Chan (một loại yêu ma) cứu muôn dân và cả triều đình, giữ vững cuộc sống bình yên [185,

274]. Chàng trai Kpút trong truyện cổ Kpút con thần mặt trời của dân tộc Cơ Ho (vốn đƣợc

đầu thai từ thần Mặt Trời) là một chàng trai trẻ đẹp, có sức khoẻ phi thƣờng. Có một lần,

"bọn cƣớp từ miền biển kéo đến cƣớp phá. Mọi ngƣời đều hoảng sợ, Kpút tài giỏi một mình

đối đầu với lũ cƣớp. Chàng đã đánh tan bọn cƣớp, giành lại sự bình yên cho dân làng" [163 ,

154].

Tóm lại, quan niệm về con ngƣời cao đẹp trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số

Việt Nam bao gồm nhiều khía cạnh đặc sắc, đƣợc triển khai

31

trên hầu hết các thể loại cơ bản của văn học dân gian các dân tộc thiểu số anh em Những

quan niệm đặc sắc này vừa là bức tranh phản ánh sinh động đời sống tâm hồn và hiện thực đa

diện của các dân tộc anh em vào những thời điểm lịch sử xa xƣa, vừa có ý nghĩn là nền tảng

cho những lý giải về nghệ thuật của dân gian các dân tộc. Hãy lấy thí dụ về một quan niệm cụ

thể là "phẩm chất cao đẹp bên trong đòi hỏi phải có một vẻ đẹp bên ngoài tƣơng xứng". Nếu

trừu tƣợng hóa lên một cấp độ cao hơn thì sẽ bắt gặp chân lý "cái đẹp nội dung phải đƣợc

hình thức hóa trọn vẹn" vốn đã trở thành một nguyên lý trong sáng tạo nghệ thuật và đƣợc

minh chứng ngay trong văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc anh em. Truyện cổ dân

gian Hai đời nổi tiếng của dân tộc Tà Ôi đã kể về nghị lực sáng tạo của một bà già (nghệ

nhân) lạc nặn hình ngƣời để "cải tử hoàn sinh" cho một chàng trai tài sắc tuyệt vời bị chết bởi

Thần Gió. Để có một chàng trai có những vẻ đẹp hoàn hảo nhƣ trƣớc, bà lão đã kỳ công tạc

nặn, tu sửa, hoàn chỉnh từng bộ phận cơ thể chàng trai. Khi đã có một chàng trai khá hoàn

hảo theo ý của mọi ngƣời) bà lão vẫn chƣa thấy ƣng vì "Cái mũi của chàng còn hơi méo, cái

bụng còn hơi to". Khát vọng tạo ra cái đẹp đã khiến bà không ngại khó, tiếp tục gọt rũa cho

đến khi chàng trai có đƣợc "một cái mũi thật đẹp và vòng bụng thật thon thả" bà lão mới

dừng tay sáng tạo của mình [57 , 35]. Xoay quanh nội dung của câu truyện có liên quan đến

nghệ thuật điêu khắc này, ý nghĩa gắn kết bền chắc giữa cái đẹp và nghề thuật có dịp đƣợc

dân gian triển khai sâu sắc. Và qua những vấn đề cụ thể về quan niệm nghệ thuật (nhƣ về chủ

thể nghệ thuật, và nhất là về vai trò tác dụng của nghệ thuật) sẽ đƣợc trình bày tiếp theo, ta

càng có dịp thấy rõ hơn mối quan hệ gắn bó giữa quan niệm nghẹ thuật với các quan niệm về

con ngƣời cao đẹp đã nói ở trên.

1.2 .Về chủ thể nghệ thuật .

Sáng tác dân gian có tính chất tập thể nhƣng không phải là một tập

32

thể trừu tƣợng mà bao gồm những con ngƣời cụ thể, và ở đây theo một quy ƣớc nhất định

thƣờng đƣợc gọi chung là những chủ thể của nghệ thuật.

1.2.1 Về nguồn gốc tài năng nghệ thuật.

Trong kho tàng văn học dân gian của mình, các dân tộc thiểu số anh em đã sớm có ý

thức lý giải về nguồn gốc của tài năng nghệ thuật. Có không ít các tác phẩm truyện kể dân

gian mang ý thức truy nguyên về nguồn gốc của tài năng nghệ thuật đã đƣợc lƣu truyền khá

rộng rãi trong một số dân tộc nhƣ : Tày, Cao Lan, Nùng... Do đâu con ngƣời biết ca hát và có

đƣợc giọng hát thật say mê? Dƣờng nhƣ câu hỏi này đã sớm bật phát lên từ trong ý thức tìm

tòi của các thế hệ nghệ nhân dân gian. Trong truyện cổ Những loài vật bị sửa chữa [59, 88],

các nghệ nhân dân gian Tày cho rằng: tiếng hát mê ly của con ngƣời là do Pựt (có nơi phiên

âm là Bụt, Pụt...) cử cô con gái út của mình - một nàng tiên có giọng hát tuyệt hay, xuống

trần gian dạy cho loài ngƣời biết hát để cuộc sống ở cõi trần thêm vui tƣơi nhộn nhịp... Dân

tộc Cao Lan, trong truyện cổ Tiếng hát nàng Slam [84 , 26] lại hƣớng tới lý giải nguồn gốc

tài năng ca hát tuyệt diệu của cô gái Làu Slam - ngƣời nghệ sĩ huyền thoại bất tử, từ xƣa tới

nay đã đƣợc ngƣời Cao Lan mệnh danh là Chúa thơ ca hoặc; "Thánh thơ ca, đƣợc tôn thờ

ngang với các vị thần linh khác trong tín ngƣỡng của dân tộc". [135 , 19]. Họ cho rằng "Sở dĩ

cô gái biết hát và có giọng hát tuyệt hay là do cô đã học và bắt chƣớc đƣợc những lời ca hay,

những giọng hát ngọt cua các loài chim đang vui thú giữa chốn rừng xanh khi đi kiếm cui, hái

rau" [184, 261]. Những truyện kể trên của dân tộc tày và dân tộc Cao Lan (có nhiều dị bản

khác nhau) đều tìm đến nguồn gốc nghệ thuật nói chung, tài năng nghệ thuật nói riêng bằng

một cảm quan nhuốm đậm sắc thái ly kỳ huyền ảo. Nghệ thuật bao giờ cũng ra đời do đòi hỏi

của nhu cầu đời sống con ngƣời. Con ngƣời luôn có nhu cầu

33

hƣớng tới nghệ thuật - lãnh địa biểu hiện tập trung các giá trị của phạm trù cái đẹp. Con

ngƣời cổ xƣa có thể thụ cảm đƣợc cái hay, cái đẹp qua nghệ thuật song họ khó có thể lý giải

đƣợc thực chất của nghệ thuật và tài năng nghệ thuật trong các mối quan hệ phức tạp của nó.

Vì thế, dƣới con mắt của ngƣời xƣa, tài năng nghệ thuật nói riêng, nghệ thuật nói chung đều

là những hiện tƣợng thẩm mỹ kỳ bí, có liên quan với những đấng bậc siêu nhân nằm ngoài

giới hạn khả năng của con ngƣời. Dân gian đã ký thác vào trong các lý giải của mình về chủ

thể nghệ thuật bằng tất cả thái độ trân trọng rất đỗi trang nghiêm, huyền diệu mà vẫn ấm áp

dƣ vị đời thƣờng của ngƣời lao động. Với dân gian, nghệ thuật và tài năng nghệ thuật là sản

phẩm tinh thần linh diệu, vừa do đấng tối cao (Tiên, Bụt..) ban tặng cho loài ngƣời, vừa do

chính loài ngƣời tự chung đúc, chắt lọc nên từ thế giới môi sinh đầy thơ mộng trong quá trình

hoạt động sinh nhai của mình.

Bên cạnh những quan niệm nhuốm vẻ ly kỳ nhằm bày tỏ tinh thần trân trọng và linh

thiêng hóa nguồn gốc tài năng nghệ thuật, rải rác đó đây từ trong ý thức dân gian ở buổi hồng

hoang ấy cũng đã thai nghén và hình thành một số khía cạnh quan niệm nghệ thuật mang màu

sắc duy vật sơ khai rất đáng chú ý về chủ thể nghệ thuật. Chẳng hạn, dân tộc Nùng, qua

truyện cổ Ngày hội Sính Mình [18 40] đã trực tiếp đề cập đến nguồn gốc tài năng nghệ thuật

đầy thuyết phục. Với họ, tài năng nghệ thuật vừa dựa trên cơ sở năng khiếu bẩm sinh, vừa là

kết quả của quá trình tu luyện miệt mài, say mê. Truyện kể về đôi trẻ Sính, Mình cùng sống

với nhau rất thân ái ở một bản xƣa của ngƣời Nùng. Cả hai đều rất yêu ca hát và đều có giọng

hát tuyệt hay. Ngƣời con trai lên là Mình đến lúc 12 tuổi thì đƣợc các nàng tiên trên Mƣờng

Trời xuống đón lên để học hát. Vốn đã có giọng hát hay, lại say mê học hát nên chẳng bao lâu

chàng đã học thuộc tất cả mọi khúc ca của các nàng tiên trên Mƣờng Trời. Thành tài, chàng

trở về trần gian để hát cho

34

dân bản nghe. Cho Mình vế trần, các nàng tiên lại xuống đón Sính (cô gái lúc ấy vừa tròn 12

tuổi) lên Mƣờng Trời học hát. Vốn có giọng hát tuyệt mỹ, lại cần mẫn, chăm chỉ nên chỉ sau

một tháng, nàng đã thuộc làu mọi bài hát của các nàng tiên. Thành tài, Sính lại trở về trần

cùng Mình hát cho dân bản nghe... Từ đó Sính, Mình trở thành trụ cột trong các cuộc vui chơi

ca hát: "Tiếng hát của chàng thánh thót trầm bổng nhƣ nƣớc suối róc. rách chảy, giọng hát

của nàng êm ái dịu dàng nhƣ gió ngàn nhẹ thổi vi vu qua bãi cỏ non xanh..." Qua những lần

vui chung ca hát, đôi trai gái trẻ yêu nhau và kết thành đôi lứa vợ chồng. Ganh tị với tài sắc

của Sính Mình, bọn chúa làng nham hiểm đã tìm cách chia rẽ, hãm hại Mình đề chiếm đoạt

Sính. Nhƣng nhờ sự che chở, bảo vệ của dân làng, mọi âm mƣu đen tối của lũ chúa làng độc

ác đều bị thất bại. Tiếng hát Sính, Mình vẫn cất cao mê say giữa bản mƣờng. Câu chuyện về

Sính, Mình chứa đựng những ý nghĩn sâu sắc về chủ thể nghệ thuật. Dân gian đã cảm nhận

khá thấu đáo các mối quan hệ chủ quan và khách quan dẫn đến việc hình thành tài năng nghệ

sĩ. Cả Sính, Mình đều có những điều kiện chủ quan thuận lợi: họ đều vốn đã có giọng hát rất

hay (bẩm sinh), lại yêu say mê và miệt mài học hát (cảm hứng và tinh thần rèn luyện). Đã vậy

họ cũng có những điều kiện khách quan rất phù hợp và thuận lợi cho tài năng của họ có cơ

hội phát sáng. Cả hai đều nhận đƣợc sự chỉ bảo ân cần của các nàng tiên trên Mƣờng Trời và

sự che chở khích lệ của dân làng... Rõ làng, ở đây tài năng nghệ thuật là do sự tác thành biện

chứng giữa các yếu tố chủ quan và khách quan. Trong tác phẩm còn tiềm chứa một khía cạnh

quan niệm khác đầy tinh thần nhân văn của dân gian xung quanh mối quan hệ giữa nghệ sĩ

với cuộc sống của nhân dân lao động. Để cho Sính, Mình trở về trần hát cho dân bản nghe

sâu khi đã tu luyện thành tài, dân gian muốn nhắn gửi mội ý tƣởng nhân đạo: nghệ thuật nói

chung tài năng nghệ thuật nói riêng chỉ có thể phát huy giá trị của nó khi nó gắn bó

35

với sinh mệnh của quần chúng nhân dân. Sự chống phá điên cuồng của bọn chúa làng gian ác

là hành vi tất yếu của giai cấp thống trị vô nhân và tàn bạo đối với các giá trị nghệ thuật đầy

tinh thần nhân văn. dân chủ của nhân dân. Nhƣng một khi nghệ sĩ đã thuộc về nhân dân, vì

nhân dân thì tất yêu sẽ đƣợc nhân dân chia sẻ, cộng cảm và bảo vệ. Sức mạnh của nhân dân

sẽ vô hiệu hóa mọi hành vi chống phá thù địch của các thế lực đen tối trong xã hội đối với

các giá trị văn nghệ chân chính. Đặt những chi tiết huyền bí, thần kỳ (chuyện Sính Mình lên

Mƣờng Trời học hát) sang một bên, từ tác phẩm chúng ta có cả một bài học nghệ thuật vô

giá, mãi mãi có giá trị thời sự về bản chất, vai trò, vị thế ngƣời nghệ sĩ trong cuộc sống. xã

hội.

1.2.2. Về mối quan hệ giữa chủ thể nghệ thuật với vốn văn nghệ cổ truyền của dân

tộc.

Trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian, không thể phủ định vai trò rất quan trọng của

truyền thống văn nghệ đối với thực tiễn ứng tác của các cá nhân. Tác giả Chu Xuân Diên đã

từng nói: "Truyền thống giúp cho ứng tác của cá nhân đƣợc dễ dàng hơn, đồng thời quy định

cả khuôn khổ cho sự ứng tác đó nữa" [75, 39]. Với các dân tộc anh em, vốn hiểu biết về văn

hóa nghệ thuật cổ truyền có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động nghệ thuật của các

nghệ nhân. Hãy xem cuộc đối đáp giữa đôi trai gái H'mông về một cuộc hát không thành

công của họ:

-Chàng trai hỏi:

Bạn bè, mọi ngƣời đều mở bài ca vui vẻ khắp nơi

Bài ca rộn ràng thấm tận từng thớ gan

Nàng hỡi, ta bảo nàng hát sao nàng không hát. [21, 216]

-Cô gái trả lời:

Bài gì, câu gì chàng cũng học đƣợc đủ

Bài gì, can gì chàng cũng học đƣợc đều

Còn em đây nhƣ con gà sống của cha, của mẹ mới tập gáy.

36

Bài gì, câu gì em cũng không học đƣợc đủ

Bài gì, cồn gì em cũng không học đƣợc đều... [21 , 222].

Vậy là cô gái im hơi lặng tiếng suốt cuộc hát, khƣớc từ mọi lời mời mọc đon đả của

chàng trai ấy hoàn toàn là do vốn tiếng nghệ thuật dân ca của mình học đƣợc còn quá ít ỏi.

"Bài gì, câu gì cũng không học đƣợc đủ, đƣợc đều..." thì làm sao có đủ can đảm bƣớc ra ứng

tác với đối tƣợng giao tiếp nghệ thuật của mình vốn đã thuần thục mọi câu, mọi bài trong kho

tàng dân ca truyền thống của dân tộc... Các dân tộc anh em đã đúc kết một quan niệm tƣởng

nhƣ giản đơn mà có ý nghĩa thiết thực đối với mọi thế hệ nghệ sĩ khác nhau: Nghê sĩ cần phải

trau dồi vốn hiểu biết toàn diện về văn nghệ cổ truyền của dân tộc thì hoạt động nghệ thuật

mới có thể có đƣợc kết quả viên mãn.

Giá trị văn học nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc đƣợc lƣu truyền lại cho các thế

hệ sau chắc chắn chủ yếu bằng con đƣờng Truyền khẩu (điều hiển nhiên trong bối cảnh văn

học dân gian cổ xƣa chƣa có chữ viết), song đây đó có một số dân tộc anh em đã sáng tạo ra

những truyện kể độc đáo mang khát vọng lƣu truyền các giá trị văn hóa nghệ thuật cổ truyền

bằng văn tự, chữ viết của mình. Truyện cổ Người Phù lá mất chữ của dân tộc Phù lá kể về

một chàng trai đi học chữ. Để nhớ cho kỹ, chàng bèn nuốt hết chữ vào bụng. "Từ đó dân tộc

Phù lá không có chữ nữa. Nhƣng vì chữ đã đƣợc nuốt vào trong bụng rồi cho nên họ vẫn nhớ

nguyên tất cả những bài thơ, bài hát truyện cổ từ thời xƣa đã đƣợc ông cha truyền lại bằng

chữ viết." [156 , 14]. Ở đây vô hình trung dân gian đã xem chữ là ký hiệu lƣu giữ lại cái giá

trị văn nghệ dân gian cổ truyền của dân tộc. Tuy không còn chữ nhƣng các giá trị văn hóa cổ

xƣa của dân tộc đã đƣợc cất giữ ở chốn sâu thẳm của thể phách con ngƣời, cho nên nó sẽ tồn

tại vĩnh cửu chừng nào còn sự tồn tại của con ngƣời. Biết đặt niềm tin vào sự trƣờng sinh của

các giá trị

37

nghệ thuật truyền thống cũng có nghĩa là các nghệ nhân dân gian đã biết tự xây đắp cho mình

bản lĩnh sống vững vàng trong thực lại vốn còn nhiều những nhọc nhằn, lo loan, trong đó có

nỗi lo toan về sự mai một của các giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc.

Bổ sung cho những ý tƣởng đầy nhân văn của dân tộc Phù lá, dân tộc Mảng qua

truyện cổ Vì sao người Mảng không có chữ lại trực tiếp giãi bày nỗi lo mất dần đi các giá trị

nghệ thuật rực rỡ của cha ông. Ý tƣởng này đƣợc thể hiện xoay quanh lời thoại của một

ngƣời kể chuyện. Họ cho rằng ngƣời Mảng vốn có chữ nhƣng do không biết cách lƣu giữ

đƣợc nên chữ đã bị mai một, mất mát đi. Khi không có chữ nữa những lời hát, những câu từ

ngữ ông bà răn dạy con cháu qua ngàn đời cứ mất dần đi vì không có chữ để lƣu lại đƣợc

"[183,32]. Nỗi lo ấy tựa nhƣ nỗi ám ảnh kinh hoàng qua lời kể của các thế hệ nghệ nhân dân

gian dân tộc Mảng vốn thiết tha yêu chuộng các giá trị nghệ thuật cổ truyền của cha ông.

Nhƣng thật diễm phúc cho cả một dân tộc khi họ còn biết lo toan cho viễn cảnh văn hóa nghệ

thuật của dân tộc mình. Những giá trị văn hóa nghệ thuật quá khứ sẽ không bao giờ bị thất

tán, mai một chừng nào trong cộng đồng dân tộc ấy còn sống dậy nhũng lo âu gìn giữ đầy

trách nhiệm nhƣ thế... Rõ ràng, với các dân tộc anh em, còn sự tồn tại của giá trị văn hóa

nghệ thuật cổ truyền của dân tộc cũng có nghĩa là còn sự tồn sinh đầy kiêu hãnh của dân tộc

đó. Hơn bao giờ hết, họ hiểu sâu sắc vai trò to lớn của các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền

thống đối với quá trình sáng tạo và hoạt động nghệ thuật của các nghệ sĩ trong thực tại.

Không phải ngẫu nhiên, trong phong tục của một số dân tộc anh em vẫn còn bảo lƣu những

mỹ tục rất đáng trân trọng. Các cụ ông, cụ bà ngƣời Tày, Nùng thƣờng truyền dạy cho con

cháu của mình các bài dân ca đối đáp tình yêu, các câu tục ngữ, truyện cổ vào các dịp Tết

nguyên đán, lễ hội mùa xuân...'''Những gia đình nghệ nhân, thầy Mo, thầy Xƣơng... của ngƣời

38

Mƣờng thƣờng đem thơ Nàng Nga - Hai Mối luyện cho con cháu mình từ lúc lên bốn, lên

năm tuổi" [56, 81]. Ngƣời Thái, ngƣời H'mông, ngƣời Mƣờng... và một số dân tộc ở Tây

Nguyên có tục "nhập cữ" cho đứa trẻ để xác nhận nó đã trở thành một thành viên chính thức

của cộng đồng. Trong lễ "nhập cữ", ngƣời ta trao "vật làm tin" cho đứa trẻ (vòng bạc đeo cổ,

vòng chỉ buộc tay hay rìu, rựa...) trong tiếng hát ru ngọt ngào hay trong tiếng chiêng đánh

theo nhịp chiến đấu hào hùng... và "cứ mỗi lần có một đứa trẻ nhập cữ là một dịp để toàn bộ

cộng đồng tuyên thệ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc". [196, 112]. Thƣờng xuyên có ý thức để

cho thế hệ cháu con đƣợc hòa mình vào giữa dòng chảy văn hóa cổ truyền của dân tộc ngay

từ thuở ấu thơ nhƣ vậy quả là một nếp sống văn hóa quý báu cần đƣợc duy trì và gìn giữ cho

muôn đời sau.

1.2.3.Về tinh thần giao cảm và ý thức trách nhiệm của chủ thể nghệ thuật.

Trong không khí diễn xƣớng dân gian tổng hợp, sức cuốn hút của nghệ thuật thật kỳ

diệu. Ở đó không ai có thể thờ ơ hoặc bàng quan. Cuộc vui đã mở mà "không hát không cƣời

là bụng xấu" (Dâu ca Giáy). Chủ thể nghệ thuật cần có niềm hứng khởi chân thành nồng

nhiệt mới có thể hội nhập một cách tự nhiên vào các hoạt động nghệ thuật của cộng đồng:

Ngƣời ta có đôi, có lứa chân nhảy, tay múa

Ta đây không đôi, không lứa chí ngồi than và khóc! [21, 132]

Cô gái H'mông cô đơn, mặc cảm chỉ biết ngồi "than và khóc", chứ không thể miễn

cƣỡng hòa nhập vào cuộc vui bằng một trạng thái tinh thần giả tạo, hời hợt. Rõ ràng, nghệ

thuật chỉ dung nạp những trạng thái tinh thần chân cảm và đam mê tột bậc của mỗi thành viên

tham gia hoạt động nghệ thuật. Còn đây là tình cảnh của một cô gái Tày. Cô gái trầm tƣ, bất

động suốt cuộc sli, lượn, đối đáp vui chung. Cô không hát không phải vì thiếu đôi, thiếu lứa

hay vơi thiếu bài bản dân ca Truyền thống, mà vì dự cảm thấy ở ngƣời yêu trong lúc gặp gỡ

để ca hát có một điều bất thƣờng, không vui. Cô gái buông lời trách móc ngƣời yêu và tự

thanh minh cho mình:

39

Gặp chàng ở gốc xâu

Làm cao giá ý không thấy nhau

Làm cao giả ý không chào hỏi

Đàn ông lắm bụng thật rõ quá

Đêm nay đâu dám cất lời ca... [21, 132].

Quan niệm về chủ thể nghệ thuật ở phƣơng diện giao tiếp nghệ thuật của dân gian quả

thật rất sòng phẳng, rõ ràng. Họ đòi hỏi ở cả hai phía đều phải hết sức cởi mở, thành thật với

nhau. Nếu một trong, hai phía không có đƣợc nhƣng tình cảm đó, sẽ không thể có đƣợc sự

giao cảm tƣơng xứng từ đối tác ở phía bên kia.

Với các dân tộc anh em, trong hoạt động nghệ thuật, ngoài vốn liếng nghệ thuật

truyền thống và nỗi niềm giao cảm chân thành, các nghệ sĩ còn cần có ý thức trách nhiệm

cao. Trong hoạt động nghệ thuật dân gian, không phải lúc nào, ở đâu, ngƣời ta cũng có thể

kiếm tìm đƣợc những cơ hội diễn xƣớng thuận lợi. Hoàn cảnh khách quan tạo nghịch cảnh

gây ảnh hƣởng không tốt đến tâm thế của ngƣời biểu diễn nghệ thuật dân gian luôn là chuyện

muôn thuở trong điều kiện đời sống vật chất - tinh thần thời ấy vốn đầy những thiếu thốn,

khó khăn... Trong các cuộc vui chung của Ngƣời Lô lô, đồng bào rất coi trọng kiếm tìm một.

không gian thật "tức cảnh sinh tình" để hát cho say hơn, trọn vẹn hơn. Nếu bất trắc không tìm

đƣợc một không gian hoạt động nghệ thuật nhƣ ý, họ biết động viên nhau:

Tuy xóm này lẻ nhạt

Không sánh đƣợc xóm trên

Nhƣng cứ hát, cứ hát... [21, 15]"

Lời động viên nhắc nhở ân cần ấy thực chất là lời nhắc nhở ý thức trách nhiệm đối với

các thành viên tham gia hoạt động nghệ thuật. Hơn bao giờ hết, trong hoạt động nghệ thuật,

mọi thành viên cần có niềm vui say, hứng khởi chân thành và ý thức trách nhiệm sâu sắc. Có

nhƣ vậy họ mới có đủ đảm lực tinh thần vƣợt qua mọi sự ngáng cản của hoàn cảnh để

40

đạt đƣợc mục đích của hoạt động nghệ thuật. Họ cần vui say và có tinh thần trách nhiệm với

bất kỳ giá nào bởi vì:

Đêm nay là đêm hội

Tối nay là tối vui

Đừng tiếc giọng tiếc lời

Không nên ngừng giữa buổi

Không nên nghỉ nửa vời... [21, 251].

Chỉ khi nào đến với hoạt động nghệ thuật bằng tinh thần trách nhiệm sâu sắc nhƣ vậy,

ngƣời nghệ sĩ mới có thể loại trừ đƣợc trong mình những ngẫu hứng cá nhân tùy tiện để thủy

chung trọn vẹn với cuộc vui của cộng đồng. Với các dân tộc anh em, ý thức trách nhiệm là

một trong nhũng tác nhân quan trọng giúp nghệ sĩ đến với nghệ thuật bằng tất cả khả năng, trí

tuệ đích thực của mình. Ngƣời H'mông thƣờng nhắc nhở nhau khi vào cuộc hát rằng:

Đôi ta không biết hát thì thôi

Biết hát ta hát nhƣ cây tre, cây bƣơng thi nhau trỗi

Đôi ta không biết hát thì thôi

Biết hát ta hát nhƣ cây tre, "cây bƣơng thi nhau mọc [157, 39]

Ngƣời Dao trong ca hát vui Tết mừng Xuân cũng lấy ý thức trách nhiệm phục vụ

cộng đồng làm trọng mà coi thƣờng mọi chuyện thắng thua, hơn kém trong hoạt động nghệ

thuật của mình:

Năm mới, Xuân tƣơi cùng vui hát

Còn ngại không hát, bao giờ hát?

Thua đƣợc cần gì ta cứ say ? [21, 243]

Đây không chỉ thuần túy là quan niệm về vai trò trách nhiệm của chủ thể nghệ thuật

mà còn là một ý thức rất đáng trân trọng về phẩm chất nhân cách cần thiết đối với các nghệ sĩ

trong mối tƣơng quan mật thiết với tổ chức cộng đồng dân tộc.

41

1.3. Về tác dụng nghệ thuật .

Phải nói ngay rằng trong các cảm nhận về nghệ thuật, dân gian các dân tộc thiểu số

chủ yêu bày tỏ các quan niệm của mình về vai trò tác dụng của nghệ thuật. Nhìn trên tổng

thể, đây là những quan niệm nghệ thuật ít nhiều mang màu sắc huyền diệu, phong phú về

nhiều mặt. Căn cứ vào tần số xuất hiện mang tính phổ hiên của các luận cứ, bƣớc đầu có thể

khái quát những cảm nhận về vai trò tác dụng của nghệ thuật trong văn học dân gian các dân

tộc thiểu số theo một số phƣơng diện cơ bản sau đây:

1.3.1 Nghệ thuật thắt chặt tình hữu ái đồng loại.

Cuộc sống hàng ngày của các dân tộc chẳng mấy khi thiếu vắng lời ca, tiếng hát. điệu

đàn... Họ có thể sli lượn, phuối pác... (Tày - Nùng), thường, rang, boj mẹng... (Mƣờng), khắp

(Thái) ... ở mọi nơi khi cần thiết. Nghệ thuật thực sự gắn chặt với cuộc sống tinh thần các dân

tộc trong mọi niềm vui nỗi buồn, trong từng nét sinh hoạt: và theo suốt cuộc đời của mỗi con

ngƣời. Gắn bó sâu nặng với nghệ thuật trong từng thời khắc của cuộc đời, các dân tộc anh em

đã thực tâm coi nghệ thuật tựa nhƣ nguồn vật chất cần thiết nuôi sống con ngƣời. Thiếu nó,

cuộc sống sẽ trở nên tẻ nhạt, vô vị biết bao: "Thiếu tiếng hát nhƣ ăn cơm không canh, ăn rau

không muối" (Dân ca Thái). Với đồng bào Ê đe, Mơ nông, sự thiếu vắng nghệ thuật còn có

thể sánh ngang với hiểm họa thiếu vắng những điều kiện sinh tồn tối thiểu của con ngƣời:

Cuộc sống thiếu tiếng đàn, tiếng hát

nhƣ thiếu muối, thiếu cơm... [75, 708].

Trong cảm quan của nguôi Lô lô, nghệ thuật chính là chất men say dặc biệt góp phần

làm cho cuộc sống COM ngƣời thêm khỏi sắc hƣơng hoa:

Hái lên cảnh mới đẹp

Hái lên nhà mới vui... v.v [ 188, 251]

Tồn tại trong nhƣng điều kiện sống thật khắc nghiệt, vất vả, họ đã tìm đến nghệ thuật

với thiện ý nhờ nghệ thuật mà có thể làm vơi bớt đi những nhọc nhằn, buồn tẻ của đời

thƣờng; nhờ nghệ thuật mà có thể góp thêm vào

42

cuộc sống những nét tƣơi tắn, lành mạnh để cuộc sống này trở nên thi vị, đáng yêu và đáng

sống hơn. Vì thế, không phải vô cớ mà trong dân ca Giáy, ngƣời ta quan niệm "không hát,

không cƣời là bụng xấu" [171 , 16]. Với họ, trong hoạt động nghệ thuật ngƣời ta chỉ có thể

đến với cuộc vui chung trong niềm hứng khởi tràn đầy, trong nụ cƣời cởi mở, thành thật.

Đồng bào các dân tộc bao giờ cũng, đòi hỏi sự vui say thành thật đến tột cùng: Vì vậy, nghệ

thuật có sức mạnh hơn hẳn mọi hình thái ý thức khác trong việc gắn kết tình hữu ái giữa con

ngƣời với con ngƣời. Dân tộc Mƣờng quan niệm tiếng hát, lời ca có tác dụng góp phần đắp

xây hạnh phúc và tình yêu đôi lứa của con ngƣời:

Cùng cất cao lời thƣờng, rang

Cho trai anh gái em nhà ta nên cửa

Cho trai anh gái em nhà ta nên nhà [42 ,28]

Ngƣời H'mông coi nghệ thuật nhƣ một phần giá trị vô giá của con ngƣời, thiếu nó con

ngƣời ta sẽ khó có cơ hội giao kết với cộng, đồng; thậm chí còn có thể chuốc lấy bất hạnh:

Con trai không biết thổi sáo thì khó lấy vợ

Con gái không biết gảy đàn môi thì khó lấy chồng. [ 186 , 54]

Cảm nhận về tác dụng của nghệ thuật dƣờng nhƣ đã đƣợc các dân tộc đẩy tới mức tột

bậc. Họ kỳ vọng vào nghệ thuật bằng tất cả nỗi niềm sủng ái hiếm cỏ, Trong truyện cổ

Chàng Sính [189,35] của dân tộc Mèo, cô gái con vị Thần nọ bỗng nhiên bị câm sau khi

đƣợc chàng Sính cứu thoát từ nanh vuốt của loài ác điểu. Song thật kỳ lạ, hễ cứ nghe tiếng

đàn lời ca của chàng Sính từ ngục tối vọng về là nàng lại cƣời nói vui vẻ nhƣ xƣa. Bặt im

tiếng đàn, lời ca của chàng Sính cô gái lại trở về với trạng thái tuyệt giao câm lặng với tất cả.

Rõ ràng, ở đây tiếng đàn ca là thứ ma lực duy nhất có khả năng lay gọi tới nỗi niềm ẩn ức sâu

xa của cô gái con vị thần nọ chứ

43

không phải là những thú vui của kẻ hầu, ngƣời hạ nơi lầu son gác tía của vua cha... Ở đó nghệ

thuật quả là tiếng lòng tri âm, tri kỷ, có khả năng kết nối tình ngƣời thân thiết... Tiếng hát của

nàng Slao trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Thái cũng thật kỳ diệu. Tiếng hát mê ly, vang

xa của nàng "làm cho mọi nguôi trong bản mƣờng thấy yêu thƣơng quý mến nhau hơn..."

[185 293]. Nàng H'Bia Pang kiều diễm trong truyện cổ Chàng Cóc của dân tộc Gia nai thật

ngất ngây hạnh phúc khi nghe "tiếng đàn ngân nga, bay bổng 'theo làn gió của chàng Cóc..."

[10 ,322]. Vì sức cuốn hút mê say của tiếng đàn, nàng đã tình nguyện kết duyên tình đôi lứa

với chàng Cóc - con ngƣời có hình hài kỳ dị.

Cũng dân tộc Gia rai, trong truyện cổ Chuyện cây đàn đã kể rằng: Chàng Sét có một

cây đàn tuyệt diệu. Tiếng đàn của chàng làm vui lòng cả buôn làng. Nhƣng từ ngày không

còn cây đàn nữa thì "cả bản buồn bã, vợ của Sét cũng âu sầu héo hắt rồi chết..." [10 , 372]. Ở

đây uy lực của nghệ thuật mới thật kỳ diệu. Có nó cuộc sống sẽ tràn đầy niềm vui hạnh phúc.

Mất nó sự sống, niềm vui cũng trở nên héo hắt, tàn tạ. Nghệ thuật cần cho con ngƣời nhƣ

cơm ăn. nƣớc uống, không khí để thở vậy... Nàng Ba La trong truyện cổ Chàng bali và nàng

Bala của dân tộc Tà ôi có giọng hát "hay còn hơn cả con chim hót hay nhất. Mỗi khi nàng hát

trai gái trong bản kéo đến chật cả sân nhà" [57,19] để đƣợc nghe hát và tình tự vui vẻ với

nhau...

Nàng Xe Đắc trong truyện cổ Gió Đói của dân tộc Ba Na có vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy,

thƣờng ngày vẫn coi thƣờng, ghét bỏ và xa lánh Giơ ngƣời đầy tớ nam. Thế mà khi nghe

tiếng đàn Tinh ninh của chàng Gió gẩy, Xe Đắc "bỗng sinh lòng yêu chàng tha thiết, mong

mỏi đƣợc thấy mặt chàng. Suối đêm không ngủ, chỉ mong trời sáng để lên núi gặp chàng"

[10, 121]. Biết rằng tình yêu là không có giới hạn, nhƣng cái ma lực diệu kỳ thiết

44

lập nên "mối tình sét đánh" giữa nàng Xe Đắc kiêu sa với chàng Giớ đầy tớ hèn hạ lại chính

là tiếng nói của nghệ thuật chứ đâu phải nhờ vào những phƣơng tiện và uy lực nào khác.

Nghệ Thuật là tiếng nói duy nhất khiến nàng Xe Đắc cuồng mê mà vƣợt qua giới hạn đẳng

cấp của mình để đến với những con ngƣời dƣới đáy cùng của cuộc sống xã hội...

Đồng bào Mƣờng khi đến chia vui với đám cƣới, họ dồn mọi thiện ý thành thật của

mình vào trong lời "thƣờng, rang" (tên các làn điệu dân ca Mƣờng). Lời hát là niềm vui, là

ƣớc nguyện, là tất cả..., nó hơn mọi lời lẽ mời chào ngọt ngào, chúc tụng cao sang:

Tôi không biết nói sao cho phải

Không biết nói lại sao cho nên

Chỉ xin cất lời thƣờng, rang vào áng hội

Để đôi bên chú bác họ hàng đều vui

Để cô dâu chú rể trăm tuổi bạc đầu [21, 496].

Đến với đám cƣới của một số dân tộc ít ngƣời mới thấy rõ vai trò tác dụng to lớn của

nghệ thuật. Ở đó, lời ca tiếng hát dƣờng nhƣ đóng vai trò chủ âm. Trong đám cƣới của ngƣời

Tày, Nùng những cuộc hát đối đáp giữa hai làng này với gái ban nọ (hoặc ngƣợc lại) cứ diễn

ra thâu đêm trọn ngày.

Nổi niềm trân trọng nghệ thuật thƣờng đƣợc mọi ngƣời ký thác vào ngay trong câu

hát đầy thiện tâm giành cho cô dâu chú rể:

Cầu cho sinh con đẹp nhƣ hoa mạnh khỏe

Khôn giỏi cả binh mã văn chƣơng. [17 , 40]

Ở đó niềm kỳ vọng chân thành của cộng đồng dành cho đôi uyên ƣơng trong ngày

cƣới vẫn là nỗi niềm kỳ vọng vào năng lực nghệ thuật của con ngƣời... Trong đám cƣới của

ngƣời Giẻ Triêng, sau khi lễ trao vòng cầu hôn vừa chấm dứt cũng là lúc chiêng trống nổi lên

rộn ràng, mọi ngƣời vừa nâng rƣợu vừa chúc tụng nhau bằng những bài hát dân ca... Trong

phong tục

45

của ngƣời Chăm, Êđê... chiêng, trống đƣợc coi nhƣ những bảo vật linh thiêng. Ngoài những

dịp lễ hội, ngƣời ta còn dùng chiêng trống vào dịp đón tiếp bạn bè, khách quý. Theo các nhà

nghiên cứu văn hóa nghệ thuật Tây Nguyên nhƣ: Phạm Tu. Phạm Phúc Minh, Kpa Ylăng,

Ronandel... thì: "ngƣời ta đánh chiêng", đánh trống là để nói chuyện với nhau một cách chân

thành, sâu lắng nhất. Khi hai ngƣời song tấu, có một ngƣời luôn luôn nêu câu hỏi. còn ngƣời

kia trả lời. Họ tiu rằng : Hai ngƣời bạn ở xa nhau, khi gặp nhau, chẳng cần nói gì, chỉ cần

cùng nhau đánh trống đôi vài giờ là hiểu nhau một cách cặn kẽ nhất về đời sống gia đình, con

cái, sức khỏe, tình cảm của nhau trong thời gian họ sống xa nhau." [103 , 149]. Rõ ràng ngôn

ngữ của nghệ thuật thật quá đỗi kỳ diệu. Nó không chỉ làm cho con ngƣời gần gũi và hiểu

biết nhau hơn mà còn khơi dậy ở con ngƣời những tình cảm sâu kín nhất mà chỉ có trực giác

tinh nhạy của con ngƣời mới có thể thẩm thấu đƣợc trọn vẹn.

Nghệ thuật thật quý hóa cho nên trong cảm quan của ngƣời Dao nghệ thuật còn có thể

đền bù cho con ngƣời mọi nỗi bất hạnh trong cuộc đời thực tại. Có lẽ cũng nhƣ ngƣời Phù lá

đã nói ở trên, trong cảm quan của ngƣời Dao, "chữ nghĩa" là phƣơng tiện lƣu giữ các làn điệu

dân ca, truyện cổ... cho nên nó có ý nghĩa kết tinh những giá trị văn nghệ cổ truyền của dân

tộc. Với họ, ngƣời thông hiểu "chữ nghĩa" là ngƣời thực sự hạnh phúc, vì thế họ mới có câu

ca rằng:

Giỏi giang chữ nghĩa không con cũng chẳng lo. [21 , 373]

(Thật ra trên thực tế dân tộc Dao là một trong những dân tộc (bên cạnh ngƣời Tày,

ngƣời Nùng, ngƣời Thái..) có chữ Nôm Dao khá sớm. Rất có thể câu ca trên ra đời vào thời

kỳ ngƣời Dao đã biết sử dụng chữ viết vào thực tiễn sáng tạo và huyền bá các giá trị văn nghệ

của mình. Đáng tiếc là cho tới nay, vẫn chƣa có ai đặt vấn đề sƣu tầm và khảo cứu tích cực

những di

46

sản văn nghệ quý báu của ngƣời Dao đang còn ở dạng "dã sinh". Trong câu ca trên, khái niệm

"chữ nghĩa" ở đây không phải là chữ nghĩa văn chƣơng thuần túy mà là một thành tố gắn kết

trong tổng thể diễn xƣớng nghệ thuật nguyên hợp dân gian của họ. Thơ ca của ngƣời Dao đến

tận thời kỳ Bàn Tài Đoàn căn bản vẫn là thơ hát - thơ đặt trong sự diễn xƣớng tổng hợp rất

gần với lối diễn xƣớng thơ ca dân gian truyền thống. Họ viết thơ ra là để ca hát cho nên ngƣời

giỏi giang chữ nghĩa ở đây cũng chính là ngƣời giỏi ca hát, diễn xƣớng).

Nếu biết rằng: có một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Tây Bắc nƣớc ta rất có ý thức

lƣu truyền câu tục ngữ: "Không có mèo chuột gặm khung cửi, không có con ngƣời ta khinh

thƣờng" thì mới thấy tâm sự da diết của ngƣời Dao về giá trị của văn nghệ đối với cuộc sống

hàng ngày của con ngƣời. Môi trƣờng sống khắc nghiệt, mức sống thấp kém, mê tín dị đoan...

là những căn nguyên dẫn đêu hiện trạng đau lòng "hữu sinh vô dƣỡng". Tuyệt sinh với các

dân tộc ít ngƣời lại càng là một bất. hạnh lớn lao. Niềm vui "con đàn cháu lũ" là niềm vui

chung của mọi tộc ngƣời. Với các dân tộc thiểu số những tộc ngƣời vốn thƣờng sống trong

hoàn cảnh môi sinh "đất rộng ngƣời thƣa", nỗi niềm ấy càng trở thành khát vọng thƣờng trực

day dứt. Từ đó mới hay rằng tấm lòng yêu quý, trân trọng đối với nghệ thuật của các dân tộc

anh em tha thiết biết nhƣờng nào một khi họ dám chấp nhận nổi bất hạnh không con để thay

vì có đƣợc sự thông hiểu chữ nghĩa (văn chƣơng nghệ thuật) bù lại.

Càng ý thức về tác dụng cố kết nhân tâm của nghệ thuật, dân gian các dân tộc thiểu số

lại càng đòi hỏi cao về yêu cầu hƣớng thiện của nghệ thuật chân chính. Với họ, nghệ thuật

cần phải góp phần xƣa đi mọi thù địch bắc ám, nghệ thuật không thể kích động oán thù, ly tán

nhân tâm. Ngƣời H'mông thƣờng hát:

47

Hát không hát lời nặng

Hát không hát chửi ngƣời

Hát chẳng, hát tiếng đau

Bài hát không nguyền rủa anh chị

Hát không để ngƣời già ghét

... Hát theo đƣờng vui, không hát chửi ngƣời ... [157 , 39]

Nghệ thuật không chỉ cố kết lòng ngƣời trong cùng một cộng đồng mội địa phƣơng cụ

thể. với các dân tộc anh em, nghệ thuật chân chính còn lan tỏa tác dụng lôi cuốn của nó tới

những vùng quê, miền quê, tới các dân tộc anh em khác. Nàng, Slam trong truyện cổ cùng lên

của ngƣời Cao lan (đã từng nói ở (trên) có giọng hát tuyệt hay, lời ca của nàng không chỉ đem

lại niềm vui cho đồng-bào mình ở bản Cao Lan mà còn véo von cất cao ở cả bản ngƣời Tày,

ngƣời Thái, ngƣời Dao, ngƣời Lô Lô... Ở đâu tiếng hát của nàng "cũng trong trẻo sâu lắng,

tận tình hết mực" [I85 , 293]. Vào những ngày "ăn năm, uống tháng" ở Tây Nguyên, cả thế

giới tƣởng nhƣ cùng ngất ngây với con ngƣời trong những điệu cồng, chiêng say đắm. Họ ký

thác vào điệu nhạc cồng chiêng niềm vui bất tận của con ngƣời. Niềm vui ấy không chỉ đƣợc

giãi bày, cộng cảm trong giới hạn cộng đồng dân tộc mình mà đƣợc trao gửi tới khắp tận

cùng vũ trụ, trong đó có các dân tộc láng giềng thân thiết. Hãy nghe Đam San ra lệnh cho tôi

tớ "Ở các con! Hãy đánh lên cho tiếng chiêng bay tới chín tầng trời; lọi xuống sàn nhà tới tận

bảy tầng đất, cho lan qua phía tây tới ngƣời Lào buôn voi, vọng sang phía đông lọt tai ngƣời

Kinh buôn muối" [40 , 67]. Dân tộc Thái ở Tây Bắc rất tự hào về kho làng nghệ thuật dân

gian đặc sắc của mình. ở đó không chỉ có những sử thi, truyện thơ, truyện cổ dân gian... bất

hủ, ở đó còn là nơi ghi lại chứng tích về mối tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em chống lại

chế độ phong kiến suy tàn. Tại đây, ngƣời ta còn lƣu truyền với ý thức trân trọng những bài

ca tuyệt

48

đẹp về cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỷ XVIII do Hoàng Công Chất lãnh đạo:

Nghe chăng tiếng hát của quân Keo Chất trong phủ

Ngân vang khắp cánh đồng Mƣờng Thanh bao la

Ngƣời Kinh cùng ngƣời Thái, với ngƣời Mèo, ngƣời Xá...

Vui vẻ cùng nhau tay làm miệng hát. [111,234]

Đó là bản hợp ca cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chiến đấu và dựng

xây qua quá trình lịch sử. ơ đó nghệ thuật, thực sự là sợi dây thắt chặt tình hữu ái đồng bào và

tình cảm giữa các dân tộc. Ý thức về sức mạnh đoàn kết giữa các dân tộc qua tiếng hát ngân

vang của quân Keo Chân (quân lính ngƣời Kinh của Hoàng Công Chất) cũng chính là ý thức

về thiên chức cao cả của nghệ thuật trong việc làm cho các dân tộc xích lại gắn nhau hơn để

sát Cánh bên nhau thành một khối hòa hợp thống nhất trong công cuộc đánh giặc cứu nƣớc

cũng nhƣ trong sự nghiệp lao động hòa bình.

Một số dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc H'mông, Lô Lô, La chí...), trong cảm

quan của mình về vai trò tác dụng của nghệ thuật đôi khi còn đƣợc "đẩy tới mức kỳ ảo. Với

họ, nghệ thuật không chỉ cần cho con ngƣời đang sống mà còn cần thiết cho cả ngƣời đã

khuất. Dân tộc H'mông có cả một hệ thống các "bài hát chỉ đƣờng" cho linh hồn ngƣời chết

đến nơi an nghỉ. Trong đám ma của ngƣời H'mông rất ít tiếng khóc, lời than thê thảm mà

ngƣợc lại ở đó chẳng mấy khi bặt im tiếng khèn, tiếng trống và những lời ca ai oán đƣợc biểu

đạt bằng lời hoặc tiếng khèn. Họ quan niệm "hát để chỉ đƣờng, chỉ lối cho ngƣời (ngƣời chết)

biết đƣờng đi cùng tiên tổ" [21,477] Ngƣời Lô Lô cũng có cả một hệ thống những bài "hát

dẫn" vừa có tác dụng báo tin buồn và mời họ hàng gần xa đến dự đám ma, vừa để "đƣa hồn

ngƣời qua đời lên trời" [21 485] . Với ý thức lấy lời ca tiếng hát làm phƣơng tiện "chỉ đƣờng

dẫn lối" cho linh hồn ngƣời chết đến nơi an nghỉ

49

mãn nguyện, trên thực tế các dân tộc anh em đã phó thác cho văn nghệ một thiên chức đặc

biệt: nghệ thuật không chỉ phụng sự cho cuộc sống tinh thần hàng ngày của con ngƣời mà còn

đi theo con ngƣời cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Cả khi còn sống và khi đã chết, con ngƣời

không thể thiếu vắng nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Hoàng Thao đã thật có lý khi cho rằng:

"Đời sóng của ngƣời H'mông không thể thiếu lời ca tiếng hát, khi vui cũng nhƣ khi đau buồn"

[157 7]. Thực ra không chỉ có dân tộc H'mông, các dân tộc khác cũng đều gắn bó số phận cả

cuộc đời mình với nghệ thuật nhƣ thế. Dân tộc Gia rai, Ba na, Ê đê..., thƣờng ngày đã không

thể sống thiếu vắng nghệ thuật, khi đã khuất cũng cần có nghệ thuật tiễn đƣa thật long trọng.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Nguyên Ngô Văn Doanh viết: "Cuộc tiễn đƣa ngƣời

chết của ngƣời Gia rai, Ba na ... là cả một màn trình diễn nghệ thuật tổng hợp và đại chúng vô

cùng độc đáo... Các loại hình nghệ thuật đƣợc đem trình diễn ở đây là tất cả những gì mà

cộng đồng biết và có... Lễ tiễn đƣa ngƣời chết hôm bỏ mả là cuộc trình diễn nghệ thuật lớn

nhất, phong phú nhất. Trong cuộc trình diễn này, gần nhƣ có mặt tất cả các loại hình nghệ

thuật biểu diễn truyền thống của ngƣời Gia rai, Ba na: có âm nhạc cồng chiêng, có múa, có

trình diễn rối và có cả biểu diễn mặt nạ..." [40, 62]. Nghệ sĩ nhân dân Phạm Thị Thành cho

rằng: "Với một số dân tộc thiểu số anh em, chỉ cần có âm nhạc là có thể thay cho tất cả" [158

, 16]. Qua đó đủ thấy nghệ thuật ảnh hƣởng sâu nặng và cần thiết chừng nào đối với đời sống

muôn mặt của nhân dân các dân tộc thiểu số anh em.

1.3.2 Nghệ thuật góp phần dựng xây cuộc sống và tăng cƣờng khát vọng chinh phục

thiên nhiên.

Trong ý thức của dân gian các dân tộc anh em, nghệ thuật không chỉ góp phần tăng

thêm niềm vui sống và thắt chặt tình cảm hữu ái giữa con ngƣời với con ngƣời, nghệ thuật

còn gắn liền với các hoạt động hữu ích,

50

giúp cho con ngƣời hăng say lao động sản xuất, tăng cƣờng khát vọng chinh phục thế giới tự

nhiên. Các dân tộc anh em có một số lƣợng khá lớn các truyện cổ nói về vai trò tác dụng tích

cực "của nghệ thuật đối với cuộc sống lao động hàng ngày và khát vọng chinh phục thế giới

tự nhiên, cỏ bé Pen trong truyện kể: Câu chuyện về tiếng hát của dân tộc Xá có tiếng hát kỳ

diệu có thể "làm dịu đi nỗi mệt nhọc của công việc chồng chất ngày đêm trên vai cô. Tiếng

hát làm cho cối xay ngô quay nhanh hơn, làm bếp lửa nhà sàn phải bập bùng lắng nghe, làm

con cọp rình mò quanh xóm quên cả bắt trộm trâu bò..." Mỗi khi cô lên nƣơng thì tiếng hát

làm cho "cỏ cây nhƣ vƣơn dậy để lắng nghe, lúa ngô lên nhanh nhƣ gió thổi, cỏ dại thì vƣơn

mình ra cho cô hái bỏ vào hố rồi lấp kín đất. Muông thú bảo nhau đừng phá phách ruộng

nƣơng..."[67,33].

Nàng Ni trong Truyện kể Tiếng sáo nàng Ni của dân tộc Thái có biệt tài thổi sáo "khi

du dƣơng, khi trầm bổng, lúc véo von thánh thót làm cho cái mệt trong ngƣời tan biến đâu

mất. Và cứ mỗi lần nhƣ thế, từng đàn dã thú. chim muông bay đến hát ca, nhảy múa làm cho

nàng Ni đỡ cô đơn buồn sấu". Khi bị lâm nạn dƣới hang sâu "nàng Ni cất tiếng sáo véo von,

một đàn vƣợn chạy đến níu tay nhau xuống tận đáy vực kéo nàng lên..." [67 , 30]. Ở Việt

Bắc, dân tộc Tày truyền tụng câu chuyên Cây đàn then. Tiếng đàn then không chỉ làm đắm

say quyến rũ lòng ngƣời mà còn giúp cho con ngƣời đạt đƣợc mọi ƣớc muốn phi thƣờng. Từ

bàn tay tài hoa của Xiêm Cân khi cây đàn ấy cất lên "dây trầm sẽ cho cây lúa, cay ngô, dây

trung sẽ có sức mạnh có sự sáng, có sự che chở, dây bổng sẽ có tình yêu hạnh phúc" [67, 33].

Đồng điệu với ý thức về nghệ thuật trong vai trò đối với cuộc sống lao động dựng xây

của các dân tộc ít ngƣời ở Việt nắc. Tây Bắc, các dân tộc Tây Nguyên cũng có nhiều tác

phẩm truyện kể đặc sắc; Truyện cổ Tiếng

51

hát của người đá dân tộc Raglai ngợi ca tiếng hát tuyệt diệu "nhƣ hoa thơm quyến rũ ong

vàng" của chú bé biến hình trên đỉnh núi Chƣ bô đa. Tiếng hát ấy khi cần có thể vô hiệu hóa

mọi hành vi cƣớp phá của lũ giặc, có thể giúp dân đẹp nạn "động rừng"... Song tiếng hát của

chú bé ngƣời đá chủ yếu vẫn là để phục vụ cho cuộc sống lao động bình yên của dân làng.

Chính tiếng hát thiết tha của em đã "làm cho mọi ngƣời làm việc không biết mệt mỏi, khiến

cho nƣơng đầy lúa, đầy bông, núi rừng nở đầy hoa" [166, 52]. Đặc biệt dân tộc Gia rai, với

câu chuyện Tiếng sáo thần kỳ đã đặt vai trò tác dụng của nghệ thuật vào vị trí trang trọng

thiêng liêng. Truyện kể về chàng trai Hơ rít mồ côi từ nhỏ. Hơ rít nghèo khó, nhƣng thật thà

tốt bụng nên đƣợc một vị thần đƣa cho một chiếc sáo thần. Tiếng sáo của chàng trai không

chỉ làm cho công chúa con vua dƣới lòng đất mê mẩn đến nỗi đêm đêm lại trốn sự quản thúc

của vua cha lên trần gian nghe tiếng sáo, mà còn có ích thực sự với cuộc sống lao động bình

yên của dân làng. Sau khi đã truyền dạy cho mọi ngƣời trong làng cùng biết thổi sáo, tiếng

sáo của chàng trai mồ côi và những ngƣời biết thổi sao khác đã góp phần tạo nên sự sống đầy

thi vị cho một ngày lao động bình yên, ấm cúng: "Sáng sáng cứ nghe tiếng sáo, mọi nhà lại

dậy nấu cơm, giã gạo, ra suối hái rau, múc nƣớc..." [183 , 128]. Tiếng sáo theo sát bƣớc chân

của mỗi ngƣời trong mọi hoạt động sinh nhai từ ngày này qua ngày khác nhƣ một nhịp sống

không thể đứt đọan. Cùng với truyện cổ Chuyện cây đàn, câu chuyện Tiếng sáo thần kỳ ở

đây đã góp phần minh chứng cho tấm lòng trân trọng và đam mê nghệ thuật đến độ nồng nàn

của đồng bào Gia rai. Họ không thể sống thiếu nghệ thuật trong giao tiếp tình cảm cũng nhƣ

trong lao động dựng xây cuộc sống. Dƣờng nhƣ trong cuộc sống hiện tại hôm nay, ý thức về

sự gắn kết giữa nghệ thuật với cuộc sống lao động dựng xây của ngƣời Gia rai vẫn đƣợc bảo

lƣu nguyên vẹn nếu ta có dịp đến với những tập tục kỳ diệu của họ. Ngày

52

nay ngƣời Gia rai vẫn duy trì tục làm đàn Tinh ninh (một loại đàn làm bằng các ống nứa có

liên kết bằng những sợi dây nhờ sức nƣớc va đập vào nhau mà phát ra những âm thanh kỳ

thú) ở gần các nƣơng rẫy của mình. Họ quan niệm: tiếng đàn vừa làm vui lòng ngƣời, vừa

xua đuổi muông thú, và rẫy nào có tiếng đàn kêu to vang xa, rẫy ấy nhất định sẽ đƣợc mùa.

Cũng nhƣ các dân tộc khác ở Tây Nguyên, dân tộc Cơ Ho quan niệm nghệ thuật

không chỉ có khả năng cảm hóa nhân tâm mà còn có thể chinh phục đƣợc muôn loài cỏ cây,

hoa lá, chim muông vì mục đích cuộc sống tốt đẹp của con ngƣời. Liên quan đến ý tƣởng

này, đồng bào Cơ Ho có nhiều truyện kể thú vị nhƣ: Mòn Miên, Chàng K'đời và nàng

KaBla; Cô gái trong rừng và chàng trai K'khàn; Chàng K'Dùng và nàng Ka làng v.v....

Tiếng tù và của chàng trai Mòn Miên trong truyện cổ cùng tên mới thật đầy uy lực, ''nó khiến

con chim đang bay trên trời phải lắng tai nghe, đàn trâu đàn dê đang ăn cỏ phải quây quần

bên cậu bé". Đặc biệt, "khi tiếng tù và của Mòn Miên véo von trên rẫy, các loài thú rừng đi

qua, đứng lại lắng nghe thích thú không có con nào dám vào phá rẫy" [163, 19]. Khi bị mất tù

và, "các loài thú buồn bã vì chúng không đƣợc nghe Mòn Miên thổi tù và nữa. " Cũng nhƣ

vậy, tiếng sáo trúc của K'Đời trong truyện Chàng K'đời và nàng Kbla (K' là cách ghi âm

tiếng của một số dân tộc Tây Nguyên) đã làm "cho con suối đang chảy róc rách phải ngừng

lại lắng nghe". Tiếng hát của cô gái trong truyện Cô gái trong rừng và chàng trai K'khàr đã

"làm cho bầy chim Brạ phải nhảy múa, theo" [163 ,77]. Còn nàng Ka Làng xinh đẹp trong

truyện Chàng K'Dùng và Nàng Ka Làng, "mỗi khi cất tiếng hát, những ngọn gió từ nơi xa

xôi lại vội tìm tiến để đem những lời hát của nàng lên những đỉnh núi cao cho vang xa hơn"

[163, 95]... Ý thức về sức mạnh của nghệ thuật có thể chinh phục các loài muông thú còn

đƣợc đồng bào Gia rai dày công thể hiện trong truyện cổ Anh em Tang, Pút. Hai anh em

Tang

53

và Pút tổ chức lễ bỏ mả (Bơ thi) cho bà trong tiếng nhạc cồng chiêng tƣng bừng. Tiếng nhạc

rộn ràng khiến cho cả vợ chồng cọp quỷ (ông Rạ, bà Rạ) cũng vui lây mà đến dự hội Bơ thi

với ngƣời. "Ông Rạ, bà Rạ vui lắm... cũng đánh chiêng, cũng nhảy" [40,305]. Với dân gian,

sức mạnh nghệ thuật ở đây có thể cải biến đƣợc bản chất dữ dằn, đáng sợ các loài quỷ cọp thú

dữ, có thể gíup cho con ngƣời loại trừ bớt những lo toan, sợ hãi giữa một cuộc sống đầy

những thách thức khốc liệt.

Ngƣời Ba na ký thác vào nghệ thuật những khát vọng kỳ thú qua truyện Hai chàng

trai lành nghề. Truyện kể về hai anh em trai con của một cụ già góa vợ. Cả hai ngƣời đều rất

khéo tay. Ngƣời anh có tài gọt đẽo những hinh chim Xem treng, Xem dông để treo lên hai

đầu hồi nhà trông nhƣ những con chim thật đang bay lƣợn. Còn ngƣời em có tài tạc tƣợng gỗ

hình ngƣời rất nhanh, rất đẹp... Năm ấy ngƣời bố đi rẫy chẳng may bị cọp vồ chết. Hai anh

em dành thì giờ làm cho cha một nhà mồ thật đẹp. Trời ghen ghét sai Thần sét xuống đánh

hai anh em nhƣng không đƣợc. Điều kỳ diệu, sau khi ông Trời hạ lệnh thu quân, "những con

chim treo ở nhà mồ bỗng biết bay. biết hót gọi đàn đến hay lƣợn xung quanh. Còn những

tƣợng ngƣời thì biết khóc thân, biết nâng rƣợu, biết đứng canh và hầu hạ những ngƣời chủ đã

sinh ra nó" [10 , 281]. Đây là một trong những câu chuyện có liên quan đến ý thức quan niệm

về nghệ thuật tạo hình điêu khắc và kiến trúc. Cũng nhƣ quan niệm về nghệ thuật âm nhạc, ở

đây dân gian khát vọng nghệ thuật điêu khắc cần có đƣợc sức mạnh xác thực, góp phần phục

vụ cuộc sống hàng ngày của con ngƣời... Quan niệm nghệ thuật này của ngƣời Ba na rất gần

với ý thức về nghệ thuật qua nhiều truyện cổ, dân ca của các dân tộc khác. Trong truyện Bà

chúa thơ ca của dân tộc Cao Lan, tiếng hát của nàng Slam có thể "thôi miên" đƣợc tất cả:

"lúa ngô đang rì rào phải im lặng lắng nghe...

54

Chiều chiều xuống suối xúc tôm, cá thì lời hát của Làu Slam làm cho tôm cá chẳng muốn bơi

nhảy..." [67,33].

Trong kho tàng thơ ca dân gian đồ sộ của mình, các dân tộc đã có không ít những

quan niệm trực tiếp giãi bày khát vọng nghệ thuật góp phần chinh phục thế giới tự nhiên,

phụng sự cuộc sống của con ngƣời. Đồng bào Tày - Nùng có tục tổ chức các ngày hội Lồng

Tồng (Hội xuống đồng) vào những ngày xuân ấm áp để cúng Thần Nông và những ngƣời có

công khai phá ruộng nƣơng. Trong những ngày hội ấy, đồng bào tổ chức các trò chơi dân

gian dân tộc nhƣ múa sƣ tử, đánh vật, kéo co, tung còn... và đặc biệt không thể thiếu ca hát,

Sli, lƣợn... Ở đó họ nung nấu ý nguyện lời ca tiếng hát của mình sẽ tới đƣợc cung trăng để

tiếng hát "nhờ trăng cho nƣớc giao mạ, cho nƣớc cấy lúa... Cho vụ này tốt hơn vụ xƣa, mùa

này tốt hơn mùa trƣớc..." [111 , 112]. Đồng bào Thái ở tây Bắc coi lời hát nhƣ một sức mạnh

vô biên có thể giúp cho con ngƣời đạt đƣợc những ƣớc vọng phi thƣờng trong cuộc sống:

Tiếng hát vào núi đá phải thành vôi

Em hát cùng anh gấp nên tấm áo

Hát cùng rau sẽ mọc thành sen

Hát cùng trăng rơi xuống thành đá

Hát cùng suối ruộng cá chạy về đầy

Hát cùng ruộng đồng vàng ƣơm thóc lúa

Hát cùng trời tháng chín tháng mƣời quên mƣa. [21, 147]

Nghệ thuật có phép biến hóa thần kỳ hơn cả ma thuật kỳ bí:

Hát vào suối cạn dâng thành sông Đà

Hát cùng đầu bạc, xanh lại thành gái. [75 ,719]

Dân tộc Giáy cũng gửi vào lời ca những khát vọng tha thiết, đầy lãng mạn nhƣ thế:

55

Em hát bên bờ sống

Con cá to cũng nổi

Em hát vang giữa thành

Ngƣời trong thành reo vui

Em lên hát giữa rừng

Lá vui theo cũng rụng

Em vào hát thung sâu

Đàn khỉ quên ăn giả

Em xuống hát dƣới nhà

Gà mái bỏ lìa con

Em ra hát bên sàn

Mẹ bảy con nhảy qua cửa sổ. [ 143 , 31 ]

Ở Tây Nguyên, dân tộc Sê Đăng có nhiều bài hát với những lời lẽ nồng nhiệt. trong

ngày lễ hội Đâm trâu với ý nghĩa tạ ơn thần linh đã cho đƣợc mùa màng. Sau mỗi vụ thu

hoạch, khắp các buôn làng của ngƣời Sê đăng rộn ràng lời ca tiếng hát, tiếng chiêng, tiếng

trống.... Ở đó nghệ thuật đóng vai trò là nhịp cầu nối liền giữa khát vọng hạnh phúc ấm no

của con ngƣời với thiện ý của các đấng bậc thần thánh linh hiển đầy quyền uy trong thế giới

tâm linh của ngƣời xƣa:

Ơi chiêng, ơi trống

Hãy vang lên đến chín tầng mây biếc

Hãy rền xa đến tận chân trời xanh

Cho ông Trăng xuống nhanh cùng dân làng uống rƣợu

Cho bà Biển lới mau cùng tề tựu ăn trâu

Cho dân làng sống lâu mạnh khỏe

... cho đầy chòi ngô lúa... [21 , 455].

56

Trong công cuộc chinh phục Thế giới tự nhiên của con ngƣời, nghệ thuật chỉ có thể. là

một phƣơng liệu phụ trợ, chứ không thể là phƣơng tiện duy nhất để con ngƣời thu phục tự

nhiên. Nhân dân muốn nghệ thuật có sức mạnh cảm hóa kỳ diệu đối với thế giới tự nhiên nhƣ

thế chính là mội cách để thi vị hoá tác dụng to lớn của nghệ thuật. Nhân dân phố thác cho

nghệ thuật nhƣng sứ mệnh tƣởng chừng nhƣ vƣợt quá sức mạnh vốn có của con ngƣời hoàn

toàn không phải xuất phát từ những khát vọng viển vông, xa rời thực liễn mà chính là nhằm

ký thác cho nghệ thuật những yêu cầu rất cao về khả năng biểu cảm và sức mạnh tác động

của nghệ thuật. Trong công cuộc chinh phục thế giới tự nhiên vì cuộc sống hữu ích của con

ngƣời, các dân tộc anh em mong muốn nghệ thuật phải thực sự là một loại vũ khí hữu hiệu

góp phần cùng sức mạnh ý chí của con ngƣời thắng đoạt tự nhiên. Rõ ràng nghệ thuật đã chắp

cách cho những ƣớc muốn cháy bỏng của con ngƣời bay cao, bay xa trên dặm hành trình cải

tạo thế giới tự nhiên phục vụ cuộc sống con ngƣời.

1.3.3 Nghệ thuật góp phần đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc.

Nghệ thuật không chỉ gắn liền với những nỗi niềm mừng vui trăn trở trong cuộc sống

thƣờng nhật của con ngƣời, trong cảm quan của các dân tộc anh em, nghệ thuật còn gắn liền

với thiên chức cao cả là góp phần đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc. Trên chặng đƣờng

lịch sử chiến đấu bên cạnh dân tộc Việt anh em, các dân tộc thiểu số đã sớm có ý thức về sức

mạnh. lợi hại của nghệ thuật Không phải ngẫu nhiên, trong các cuộc ra quân chống lại kẻ thù,

các tù trƣởng trong các trƣờng ca Tây Nguyên nhƣ Đam San Sing Nhã, Đam Di...) thƣờng hạ

lệnh cho các tôi tớ của mình đem những bộ chiêng, trống tốt nhất, vang nhất ra đánh. Tiếng

chiêng trống rền vang uy nghi là toàn bộ uy thế và sức mạnh tinh thần của họ, giúp họ có

thêm ý chí và đảm lực tấn công quân thù. Thông qua loạt âm thanh bay bổng hào

57

hùng, nghệ thuật tạo không khí hứng khởi, thức dậy ở con ngƣời những sức mạnh phi thƣờng.

Khi Gia Rơ Bú lấy bộ chiêng vừa cƣớp đƣợc của cha Sing Nhƣ ra đánh, nghe rõ âm thanh

quen thuộc của "tiếng chiêng rung mặt đất, vang" khắp chín tầng mây" [192, 55], Sing Nhã

bỗng nhớ lại quá khứ bi thẩm của đình mình. Chẳng phải cái gì khác, chính giai điệu tiếng

chiêng thân thuộc đã gợi dậy trong Sinh Nhã lòng tự trọng; và đất cháy lên ở chàng sức mạnh

căm thù sục sôi: "Nghe tiếng chiêng nhƣ rống vào tận màng tai trong, của chàng,... mặt Sing

Nhã đỏ rực nhƣ có ngọn lửa nào đang đốt cháy trong tim gan" [192,55] Bƣớc vào chiến đấu

cho tình mẹ, nghĩa cha, tiếng chiêng uy nghi ấy lại nhƣ giục giã, tiếp thêm cho chàng sức

mạnh lòng quả cảm tiến thẳng vào tận sào huyệt của kẻ thù: "Sing" Nhã đi trên sàn nhà Gia

Rơ Bú làm cho xà dọc, xà ngang rung rinh chao đảo" [192,125]. Quả là nghệ thuật đã tiếp

thêm sức mạnh cho con ngƣời đến tận từng đƣờng gân thớ thịt, bất chấp mọi thách thức hiểm

nguy... Theo nhà văn Vƣơng Trung (dân tộc Thái) thì: "Ngày xƣa quân Thái ra trận, họ

thƣờng mang theo chiếc cồng lớn và các loại chiêng, trống, sáo, kèn chũm chọe... Khi dàn

trận thì nổi các thức đó lên vừa để áp đảo tinh thần quân địch, vừa động viên quân mình thêm

khí phách..." [25,615].

Cũng là ý thức về sức mạnh lợi hại của nghệ thuật, dân tộc Dao có câu ca nổi tiếng:

Khổ công mài sắt mới thành kiếm

Chém ngƣời ngòi bút cũng thành dao.[21 , 373]

Vậy là trƣớc khi biết đến tƣ tƣởng nghệ thuật bất hủ của nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình

Chiểu: "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà", từ trong ký ức dân gian xa xƣa của một bộ phận

cộng đổng dân tộc Việt Nam cũng đã từng xuất hiện quan niệm đề cao sức mạnh chiến đấu

của nghệ thuật.

Do biết ý thức vế sức mạnh vô hình của nghệ thuật, xƣa nay nhân dân

58

các dân tộc Việt Nam, trong đó có các dân tộc thiểu số, khi ra trận đánh giặc không phải chỉ

có thanh gƣơm, ngọn mác, khẩu súng... mà còn bằng cả lời ca tiếng hát, cây nhị, cây đàn, ống

sáo trúc mảnh mai và cây bút lông mềm mại thần kỳ... Cùng song hành với Truyện Thạch

Sanh trong dân gian ngƣời Việt, các dân tộc thiểu số cũng đã sáng tạo ra những Thạch Sanh

của riêng mình. Chẳng hạn, dân tộc H'mông có truyện Chàng Sính, dân tộc Khơ me có

truyện: Thạnh Sanh chém chằn, đặc biệt dân tộc Tày -Nùng có: Truyện Thạch Sanh mẫu

mực đã từng đƣợc một số nhà nghiên cứu cho là cội nguồn ảnh hƣởng sang các dân lộc khác.

Cùng mang ý thức dùng lời ca, tiếng hát, điệu đàn làm vũ khí diệt ác, trừ tà, đánh giặc. cứu

nƣớc, trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số còn có các truyện cổ: Tiếng hát của người

đá của dân tộc Raglai, Tiếng đàn kỳ diệu của dân tộc Chăm, Sông Rằng êm sóng của dân tộc

Thái v.v...

Trong truyện cổ Chàng Sính của dân tộc H'mông, tiếng đàn lời ca không chỉ giúp

chàng kết duyên tình đôi lứa với con gái của vị thần nọ, mà còn là vũ khí đánh giăc thật lợi

hại. Nghe tin Thần gả con gái cho một kẻ hèn mọn xuất thân từ dân nghèo, các nƣớc chƣ hầu

bèn kéo quân tới vây đánh triều đình, đê dọa xã tắc của Thần. Tình thế lâm nguy, chàng Sính

xin vua cha cho phép ra tay đánh giặc cứu nứơc bằng chính vũ khí duy nhất là cây đàn và lời

ca của mình. Từ trên tòa thành đang bị quân giặc vây hãm chàng trai lấy đàn ra vừa gẩy vừa

hát cho quân giặc nghe. "Đêm đêm tiếng, đàn lời hát của chàng làm cho quân giặc không làm

sao chợp mắt đƣợc". Tiếng đàn gợi cho chúng nhớ về cảnh yên ấm quen thuộc ở quê nhà

"tiếng" đàn lời hát nhƣ lời nói thân quen của ngƣời vợ hằng nhớ hằng thƣơng" [189, 45].

Quân giặc rã rời tâm linh, mất hết nhuệ khí vây thành, bèn xin Thần hoãn binh và rút quân về

nƣớc...

Tiếng hát tuyệt diệu của chú bé biến hình trên đỉnh núi Chƣ Bô Đa

59

trong truyện cổ: Tiếng hát của người đá của dân tộc Raglai có sức mạnh cảm hóa quân thù

kỳ diệu. "Tiếng hát của em đã làm cho lũ giặc phải dừng tay kiếm, đứng sững sờ nhƣ những

pho tƣơng. Chúng đờ ngƣời ra nhƣ nuốt lấy những lời ca, vũ khí tuột khỏi tay rơi xuống đất

lúc nào không biết. Rồi từ từ, chúng ngã xuống ngủ say nhƣ chết dƣới chân những đàn voi,

đàn ngựa..." [166,45].

Truyện cổ Tiếng dàn ký hiệu của dân tộc Chăm kể về một cô gái em của vun Chăm

nhờ thợ ngƣời Việt truyền dạy đã dệt đƣợc những tấm vải thật đẹp. Vua nƣớc láng giềng nghe

tiu em gái vua Chăm có tài dệt vải đẹp muốn lấy làm vợ nhƣng vua Chăm không ƣng. Tên

vua láng giềng bèn cất quân sang đánh. Cô gái thấy cảnh đất nƣớc bị tàn phá, nàng đâm ra

buồn bã ngày đêm. Đêm nằm, nàng mở thấy tiên tóc trắng cho một cây đàn và dặn phải làm

đàn bằng tim và tóc của ngƣời yêu nàng (một viên tƣớng giỏi của triều đình đang trấn giữ nơi

biên ải) thì mới mong đánh thắng đƣợc giặc. Vua thƣơng vị tƣớng tài, không muốn để chàng

chết. Nhƣng chàng đã tình nguyện mổ ngực móc tim trao cho công chúa làm đàn và chàng

chết đứng sững. Đàn làm xong, công chúa mang ra gẩy, quả nhiên giặc bỏ chạy tan tành.

[75,644]

Truyện cổ Sông Bằng êm sóng của dân tộc Thái kể về một cô gái nghèo khổ, bị áp

bức, quyết chí lấy đá bắc cầu qua sông Bằng để chống lại lũ giặc Châu Ún độc ác. Tiếng hát

là nguồn sức mạnh duy nhất trực tiếp giúp cô gái có đủ nghị lực và ý chí chiến đấu. Tuy vác

nặng nhƣng "giọng hát của cô mỗi lúc một thiết tha nhƣ gọi các vẩy bạc nổi lên trắng xóa mặt

sông, nhƣ rung cành thông cho rụng quả xuống cát trắng, nhƣ xé những đám mây cho mặt

trời chiếu vào da cây vầu xanh biếc"... Khi đối mặt với quân thù, tiếng hát diệu kỳ của cô gái

"làm cho quân lính của Châu Ún cứ đờ đẫn, nửa tỉnh nửa mê, đứa cấm nỏ xuống gốc cây, đứa

kề đinh ba làm gối... tên

60

Châu Ún bị nhấn chìm xuống dòng sông Bằng êm sóng..." Khi vƣợt qua sông để chạy trốn kẻ

thù, chính tiếng hát của cô là sức mạnh cổ vũ đồng đội cùng căng tấm vải qua sông: "Cô hát

khe khẽ, tấm vải nổi dần; Cô hát thành tiếng, tấm vải nổi lên chấm mặt nƣớc... Giọng hát nhƣ

ru con buổi chiều hè, nhƣ lửa cháy lúc đốt nƣơng, nhƣ tiếng reo lúc ném còn, làm cho mặt

sông ấm lên, mặt sông lấp lánh hàng vạn ông trăng. Tấm vải sợi căng lên, mềm nhƣ nhung,

chắc nhƣ một bè mây dài vô tận..." [ 184, 38].

Kỳ lạ thay, từ Chàng Sính, Thạch Sanh đến chú bé ngƣời đá biến hình trên đỉnh núi

Chu Bô Đa, từ cô gái Chăm đến cô gái Thái... khi xuất trận chỉ mang theo duy nhất cây đàn

bé nhỏ hoặc lời ca ân tình tha thiết mà khiến cho lũ giặc cƣớp phải rã rời tâm trạng, hoang

mang tuyệt vọng tới mức buông thõng đôi tay cầm gƣơm, cầm giáo toan làm điều ác. Nhân

dân các dân tộc anh em đã ký thác cho nghệ thuật những sức mạnh thần kỳ. Với các dân tộc

anh em, sức mạnh của nghệ thuật còn hơn cả mũi tên, hòn đạn. Tiếng đàn lời ca trong những

cảnh huống phải đối mặt với quân thù đã đƣợc sự là tiếng nói chính nghĩa của nhân dân, là lời

phán xử của công lý. Chẳng phải vì những binh hùng , tƣớng giỏi hay vì những vũ khí lợi hại

mà theo tác giả Phƣơng Lựu: "Chính những âm thanh tha thiết bay bổng diệu kỳ ấy (âm thanh

của tiếng đàn lời ca - HML) đã làm lan rã ý chỉ của quân thù, khiến chúng phải quy hàng".

[96, 274]. Nghệ thuật chân chính với nhân dân các dân tộc anh em là nghệ thuật góp phần

đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc, bằng cách đánh riêng biệt của nó: nghệ thuật đánh vào

lòng ngƣời, đánh vào nơi hiểm yếu nhất của ý chí con ngƣời nhằm thức tỉnh và thu phục nhân

tâm. Thử hỏi, trong trăm ngàn phƣơng kế đánh giặc, còn có cách chính nào thông minh, nhân

đạo và độc đáo hơu thế nữa? Quan niệm nghệ thuật góp phần đánh giặc, bảo vệ quê hƣơng

đất nƣớc trong văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời đã thực sự góp phần làm phong phú

thêm bản sắc nghệ

61

thuật chân chính của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất qua quá trình lịch sử vẻ vang

của mình

*

* *

Tóm lại, xung quanh những quan nệm về cái đẹp, những lý giải của dân gian chủ yếu

nhằm vào các khía cạnh thuộc bản chất và tác dụng của cái đẹp. Trong ý thức của dân giân,

tính chất của cái đẹp đƣợc xác định trƣớc hết ở vẻ đẹp bên ngoài của đối tƣợng. Cái đẹp bên

ngoài sẽ tạo nên cái đẹp trực quan cụ thể cho con ngƣời cho nên nhân dân các dân tộc anh em

đều đặc biệt đề cao vẻ đẹp bên ngoài. Có điều, cái đẹp bên ngoài đó chỉ thực sự có giá trị khi

nó gắn liền với cái đẹp bên trong. Khi lý giải về cái đẹp bên trong cũng vậy, dân gian các dân

tộc luôn có ý thức đòi hỏi cái đẹp bên trong cũng phải đƣợc kết hợp hài hòa với cái đẹp bên

ngoài mới tạo ra giá trị hoàn hảo cho đối tƣợng, Về ý nghĩa của cái đẹp qua việc triển khai

vai trò của con ngƣời cao đẹp, các dân tộc anh em đã đặc biệt để cao vị trí trang trọng của cái

đẹp đối với đời sống giao tiếp tình cảm và cuộc đấu tranh vì những quyền lợi thiết thực của

con ngƣời. Với các dân tộc anh em, cái đẹp không chỉ góp phần tạo niềm tiu, khích lệ khát

vọng sống mà còn góp phần đánh giặc cứu nƣớc, giữ gìn cuộc sống bình yên cho muôn dân.

Rõ ràng quan niệm về cái đẹp của nhân dân các dân tộc thiểu số trong văn học dân gian cổ

truyền đã thấm đƣợm những tinh thần thẩm mỹ nhân văn cao cả, góp phần tạo tiền đề cho

những nhận thức đúng đắn về nghệ thuật chân chính của các dân tộc thiểu số anh em.

Về nghệ thuật, những lý giải của các dân tộc anh em chủ yếu xoáy sâu vào các khía

cạnh có liên quan đến chủ thể nghệ thuật và về vai trò tác dụng của nghệ thuật nói chung. Ở

phƣơng diện quan niệm về chủ thể nghệ thuật, bƣớc đầu các dân tộc đã có những lý giải khá

thấm thía về nguồn gốc của tài

62

năng nghệ thuật, về vai trò của văn nghệ cổ truyền dân tộc, về ý thức trách nhiệm và tấm lòng

giao cảm của nghệ nhân trong hoạt động nghệ thuật... Những kiến giải về vai trò tác dụng của

nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc anh em quả thực khá phong phú. Với dân gian,

nghệ thuật là phƣơng tiện gắn bó tình ngƣời, thu phục nhân tâm và tất cả muôn loài. Nghệ

thuật khích lệ khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên, thu phục sức mạnh của các lực lƣợng

hữu hình và siêu hình vì mục đích tối đẹp của cuộc sống con ngƣời. Nghệ thuật còn góp phần

dựng xây cuộc sống, khích lệ niềm tin, đặc biệt là góp phần đánh giặc cứu nƣớc, cứu dân

trong những hoàn cảnh đặc biệt. Từ những quan niệm về nghệ thuật đầy tính nhân văn nhƣ

vậy, các dân tộc thiểu số anh em đã góp phân tạo nên cội nguồn tích cực cho những dòng

chảy quan niệm nghệ thuật về sau của các thế hệ văn nhân các dân tộc thiểu số, đặc biệt là

các thế hệ nhà văn dân tộc sau Cách mạng Tháng Tám 1945.

63

CHƢƠNG 2: SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN

HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN GIỮA DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI DÂN TỘC

KINH

Sau khi đã khái quát đƣợc những quan niệm nghệ thuật cơ bản trong văn học dân gian

các dân tộc thiểu số, cần thiết phải đặt vấn đề so sánh giữa bộ phận quan niệm nghệ thuật này

với các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian dân tộc Kinh. So sánh nhằm tìm ra

những điểm giống nhau và khác nhau, từ đó khắc sâu thêm ấn tƣợng về đặc tính riêng và tính

chất chung của chính hệ thống quan niệm nghệ thuật này là rất cần thiết. Không những cái

riêng, mà cả cái chung dù ở những góc độ khác nhau, cũng đều sữ có tác dụng trong văn học

dân gian các dân tộc thiểu số anh em. Bởi lẽ cái chung có thể chuyển hóa thành cái riêng trên

một cấp độ khác. Sự giống nhau về quan niệm nghệ thuật giữa các dân tộc ít ngƣời với dân

tộc Kinh qua văn học dân gian Việt Nam khi đặt trong quan hệ đối sánh để phân biệt với

quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian của các quốc gia dân tộc khác nhƣ Trung Hoa,

Ấn Độ, Nhật Bản v.v...

2.1 Những tương đồng.

Trong so sánh, sự khác nhau là điểu hiển nhiên, còn về sự tƣơng đồng, theo lý thuyết

văn học so sánh hiện nay thì: sở dĩ có sự giống nhau giữa các nền văn học dân tộc là do có

quá trình giao lƣu hoặc do giữa các dân tộc có chung những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể

nào đó. Có khi sự tƣơng đồng có chung những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể nào đó. Có khi

sự tƣơng đồng có đƣợc là do cả hai nguyên nhân cùng tạo nên. Áp dụng cụ thể

64

vào thực tế so sánh ở đây chúng tôi cho rằng: phần lớn những điểm giống nhau về quan niệm

nghệ thuật giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh đều do cả hai nguyên nhân. Các dân tộc

thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh cùng cộng cƣ trên một cƣơng vực địa lý lãnh thổ, lại có quá

trình giao lƣu tích cực từ ngàn xƣa nhằm thống nhất dần dần những điều kiện kinh tế, văn

hóa, xã hội, tiến tới hình thành cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất... Rõ ràng những điều

kiện khách quan và chủ quan nhƣ vậy hiển nhiên sẽ đem lại cho các dân tộc trong cộng đồng

dân tộc Việt Nam những nét tƣơng đồng tất yếu.

Văn học dân gian là một quá trình phát triển trong sự giao tiếp tích cực giữa cac dân

tộc. Vì thế nó càng có điều kiện bồi bổ những sắc thái chung qua quá trình giao lƣu quan hệ.

Các quan niêm nghệ thuật - bộ phận ý thức tiềm chứa trong văn học dân gian cũng không

nằm ngoài thông lệ đó. Hãy lấy môtíp Truyện Thạch Sanh và những biến thể của nó ở các

dân tộc thiểu số khác nhau vốn tiềm chứa quan niệm nghệ thuật làm vũ khí đánh giặc cứu

nƣớc làm thí dụ, ta sẽ thấy trong bức tranh quan niệm nghệ thuật chung này của các dân tộc

Việt Nam có sự phản chiếu sâu xa những điều kiện lịch sử, xã hội và đặc biệt là tâm thức về

nghệ thuật yêu nƣớc của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Sự gặp gỡ giữa các dân tộc thiểu số

với dân tộc Kinh xung quanh quan niệm nghệ thuật đánh giặc cứu nƣớc qua kiểu mô típ

Truyện Thạch Sanh chắc chắn còn là kết quả giao lƣu, quan hệ mật thiết giữa các dân tộc

với nhau. Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật đã từng nhận định xác đáng: "Cùng với việc ảnh

hƣởng từ miền xuôi lên miền núi (có lẽ đây là xu thế ảnh hƣởng chủ yếu và tất yếu xƣa nay -

HML) - còn mối liên hệ ngƣợc lại từ văn học dân gian miền núi đến truyện Nôm Việt. Tiêu

biểu cho trƣờng hợp này là Thạch Sanh". [111, 236]. Xác định xuất xứ của Thạch Sanh là cần

thiết. Nhƣng trong điều kiện tác phẩm đƣợc lƣu truyền

65

rộng rãi trên phạm vi nhiều dân tộc nhƣ hiện nay thì đó lại là điều rất phức tạp. Vì thế, trong

khi chờ đợi kết quả của hƣớng nghiên cứu do tác giả Vi Hồng dự cảm: "Thạch Sanh là do

ngƣời Tày (Cao Bằng) sáng tác" [186 , 28], chúng tôi tán đồng với quan niệm của tác giả

Phan Đăng Nhật cho rằng "Các vùng từ Cao bằng đến miền tây Nam bộ đều góp phần xây

dựng nên truyện Thạch sanh" [111, 237]. Hiện tƣợng "quốc gia hóa" các giá trị văn hóa dân

gian đặc sắc nhƣ thế này không phải là điều cá biệt trong điều kiện "các dân tộc Việt Nam

vốn đã từng tồn tại ổn định bên cạnh nhau trong suốt trƣờng kỳ lịch sử có nhiều mối quan hệ

tiếp xúc về văn hóa và cả mối quan hệ tiếp xúc về cội nguồn" (Lê Chí Quế) [133 , 34]. Nhà

nghiên cứu âm nhạc Tô Ngọc Thanh cũng đã từng có những nhận xét rất đáng lƣu ý về quá

trình "quốc gia hóa" những giá trị văn nghệ dân gian của các dân tộc anh em trong cộng đồng

dân tộc Việt Nam: "Cuộc giao lƣu lịch sử cũng bắt đầu một quá trình "quốc gia hóa" ca múa

nhạc cổ truyền cùn các dân tộc Việt Nam. Quá trình ấy thể hiện trƣớc hết ở sự lan truyền

nhành chóng vốn ca múa nhạc của dân tộc này đến các dân tộc khác theo cả hai chiều xuôi

ngƣợc và ngƣợc xuôi" [196 , 132]. Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nông Quốc

Chấn cũng đã nhận xét khái quái về hiện trạng giao lƣu ảnh hƣởng mạnh mẽ giữa các dân tộc

trong cộng đồng dân tộc Việt Nam: "Sự xích lại gần nhau và hoà hợp với nhau giữa các dân

tộc đang diễn ra liên tiếp ở nhiều vùng trên đất nƣớc ta" [20,294]. Thông qua giao lƣu và quá

trình cộng cƣ trên một lãnh thổ, sự hòa đồng giữa các dân tộc đang diễn ra sâu sắc: trên nhiều

phạm vi khác nhau trong đời sống dân tộc. Chẳng hạn trong tín ngƣỡng dân gian ở một số nơi

thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn... "Tín ngƣỡng thờ Phạt, thờ Đức Thánh Trần Hƣng Đạo, thờ

tƣớng quân Phạm Ngũ Lão... đã trở thành tín ngƣỡng chung của cả ngƣời Kinh, ngƣời Tày,

ngƣời Nùng..." [195, 8]. Ở Hà Tây, "Thái Bạch Kim Tinh tên một vị thần trong Đạo Giáo)

66

đã trở thành vị thần chung của các dân tộc Kinh, Mƣờng, Dao..." [30, 90]. Khó có thể liệt kê

hết những biểu hiện của quá trình giao lƣu toàn diện giữa các dân tộc Việt Nam trong điều

kiên cộng cƣ thân thiết xƣa nay.

Mặt khác văn học dân gian là thành quả sáng tạo chủ yếu của nhân dân lao động. Mà

nhân dân lao động xƣa nay dù ở phƣơng trồi nào họ vẫn thƣờng có những nỗi niềm, sở

nguyện tƣơng đồng với nhau. Họ có thể khác nhau về thành phần dân tộc nhƣng lại có chung

cảnh ngộ. Vì vậy dù có giao lƣu hay không, phàm dã là tiếng nói nghệ thuật chủ yếu của nhân

dân lao động thì giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh tất yếu vẫn phải có những điểm

giống nhau nào đó. Để xác lập những khía cạnh tƣơng đồng cụ thể giữa các dân tộc thiểu số

với dân tộc Kinh về quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian, nội dung nghiên cứu ở đây

đƣợc triển khai trên hai bình điện chính : bình diện cộng đồng dân tộc và bình diện nhân dân

lao động.

2.1,1. Trên bình diện cộng đồng dân tộc.

2.1.1.2. Về cái đẹp

Ở phƣơng diện quan niệm về cái đẹp, giữa cộng đồng các dân tộc thiểu số với dân tộc

Kinh có khá nhiều nét tƣơng đồng cơ bản. Trƣớc hết, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc

Kinh đều có chung cảm quan trân trọng và đề cao vẻ đẹp bên ngoài đối tƣợng. Vẻ đẹp bên

ngoài bao giờ cũng mang lại cho chủ thể cảm nhận sắc thái trực quan xác thực về cái đẹp của

đối tƣợng. Cho nên nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đã để tâm luận giải

trực tiếp với một tỷ lệ khá lớn về cái đẹp bên ngoài.

Không thể phủ đinh tinh thần đề cao vẻ đẹp bên ngoài của các nhân vật tuyệt sắc

trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số nhƣ nàng Mứn (dân tộc Thái), út Lót (dân tộc

Mƣờng), Hơ nhí, Hơ Blý (dân tộc Ê đê), nàng Ka Bla (dân tộc Cơ ho) v.v... Dân tộc Kinh

cũng dành sự tán tụng

67

đặc biệt cho cái đẹp bên ngoài. Cái đẹp bên ngoài quả thực có sức mạnh. thu hút đặc biệt đối

với chủ thể tiếp nhận :

- Nhƣng ngƣời con mắt lá dăm

Lông mày lá liễu dáng trăm quan tiền.

- Cổ tay em trắng nhƣ ngà

Đôi mắt em tiếc nhƣ là dao cau

Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu

Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen [72 , 97]

- Chân lông vòng nguyệt có duyên

Tóc mây gọn sóng đẹp duyên tơ hồng v.v... [72, 290]

Các yếu tố hình thức phụ trợ có tác dụng tôn cao thêm vẻ đẹp bên ngoài của đối tƣợng

cũng đều đƣợc nhân dân ta trân trọng đề cao. Song hành với ý thức của đồng bào Tày : "Gà

đẹp vì mã vì lông, ngƣời dễ trông vì của", hoặc ý thức của đồng bào Thái "Chim đẹp nhờ bộ

lông, ngƣời đẹp nhờ bộ cánh..." là cảm quan đồng điệu của đồng bào Kinh :

Ngƣời đẹp vì lụa

Lúa tối vì phân

Hoặc:

Hơn nhau tấm áo manh quần

Thả ra ai cũng mình trần nhƣ ai... [75 , 252]

Nhân dân các dân tộc Việt Nam đều rất đề cao vị thế của con ngƣời. Phần lớn các lý

giải về cái đẹp của nhân dân ta đều đƣợc biểu đạt qua đối tƣợng trung tâm là con ngƣời. Bản

chất của cái đẹp khởi phát từ con ngƣời khác xa với cái đẹp thuần túy vốn có trong thế giới tự

nhiên. Cái đẹp gắn liền với con ngƣời là cái đẹp thấm thía tinh thẩn nhân văn, nhân ái. Vì thế

khi lý giải về cái đẹp của con ngƣời, nhân dân các dân tộc Việt Nam đểu cùng chung ý thức

đề cao cái đẹp bên trong - hạt nhân của cái đẹp ở con ngƣời.

68

Với nhân dân ta chỉ có những phẩm chất cao đẹp bên trong mới quyết định đến cái đẹp bản

thể của đối tƣợng. Góp thêm vào kho tàng ca dao tục ngữ luận giải về vẻ đẹp bên trong của

con ngƣời trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số là những câu dân ca , tục ngữ đề cao

vẻ đẹp nhân tính bên trong của đồng hào Kinh. Với họ, cái còn lại cuối cùng với con ngƣời

để trở thành giá trị bất tử chính là những phẩm chất tốt đẹp bên trong của mỗi ngƣời:

- Tốt gỗ hơn tốt nƣớc sơn

- Cái nết đánh chết cái đẹp

- Ngƣời chết, nết còn

- Tốt danh hơn lành áo . [75 ,252] v.v...

Với nhân dân các dân tộc Việt Nam, những cái đẹp hào nhoáng bề ngoài sẽ vô nghĩa

lý nếu không liềm chứa những phẩm chất đẹp tƣơng ứng ở bên trong. Đồng điệu với ý thức

của đồng bào Dao :" Xƣa nay hoa đẹp thƣờng đáng ngại; đẹp sắc sợ gặp lòng không đẹp" là

nỗi niềm thành thật của đồng bào Kinh :

- Có đỏ mà chẳng có thơm

Nhƣ hoa dâm bụt nên cơm cháo gì. [122,96]

- Ngƣời đẹp mà chẳng khôn ngoan

Cũng nhƣ một cánh hoa lan vùi bùn. [117,201 ]

- Hay quần, hay áo, hay hơi

Mà chẳng hay ngƣời là của bỏ đi. [72 , 1.63]

Cái đẹp bên trong là cái đẹp của sức mạnh nhân tâm, có thể thắng đoạt đƣợc tất cả.

Qua mảng truyện thuộc mô típ ngƣời xấu xí mà tài ba lỗi lạc trong văn học dân gian Việt

Nam, nhân dân là đã hàm ý đề cao sức mạnh quyết định của những phẩm chất cao đẹp bên

trong. Bên cạnh những Lệnh Trừ, Nàng Kháy... của dân tộc Tày; Chàng Cóc, Chàng Rùa...

của dân tộc Mèo, Chàng Rắn, Chàng Lợn, Chàng Cóc...của dân tộc Gia rai , Chàng rể

69

Khỉ, Y Đăm tai to, Chàng Cóc.... của dân tộc tà ôi v.v... là những Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Lấy

chồng Dê, Hai cô gái và cục bướu v.v... của dân tộc Kinh. Tất cả họ đều mang một hình

nhân xâu xí nhƣng tiềm chứa những phẩm chất kỳ diệu. Nhờ tài năng đặc biệt, Sọ Dừa cảm

phục đƣợc phú ông và lấy đƣợc cô ba xinh đẹp làm vợ. Nhờ khôn ngoan, khéo léo nấu ăn, lại

có tài may vá tuyệt đẹp mà cô gái trong truyện Lấy vợ Cóc đã cảm đƣợc lòng mến mộ của

chàng trai học trò và trở thành cô gái tuyệt đẹp sau khi trút bỏ cái lốt cóc xấu xí của mình [32

, 42]. Cũng nhờ tài năng và sự khéo léo, cô gái có cục bƣớu xấu xí trong truyện Hai cô gái và

cụ bướu đã cảm hóa đƣợc một bầy khỉ để sau đó trút bỏ đƣợc cục bƣớu tệ hại, trở thành một

cô gái xinh đẹp [32,159].

Đặt các tác phẩm về các nhân vật xấu ngƣời - đẹp nết trong dân gian ngƣời Kinh với

các tác phẩm cùng loại của dân gian các dân tộc thiểu số, ta càng có dịp thấy rõ hơn sự tƣơng

đồng thân thiết giữa các dân tộc Việt Nam xung quanh quan niệm về cái đẹp. Các nhân vật

mang lột xấu xí trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số cũng nhƣ văn học dân gian dân

tộc Kinh đều là những con ngƣời có nhân đức giầu tài năng bất ngờ. Nhờ tài năng và phép lạ

phi thƣờng, họ có thể làm nên những kỳ công khiến ngƣời đời không thể ngờ tới đƣợc.

Không ai có thể tin rằng Lệnh Trừ trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Tày thực tế là một

con cóc nhỏ bé mà có thể một mình một ngựa đánh tan quân xâm lƣợc... Chàng Cóc trong

truyện cổ cùng tên của dân tộc H’mông có thể làm xong một ngôi nhà tuyệt đẹp trong một

đêm. Và một lần khác, cũng chỉ trong một đêm, Cóc lại lo đủ mấy trăm đồ dẫn cƣới sang

trọng do nhà vua thách thức bày đặt ra... Còn Cục thịt kỳ dị vốn đã hình hài của Sọ Dừa trong

truyện cổ cùng tên của dân tộc Kinh cũng chỉ trong một đêm là biến cả ngôi nhà rách nát của

mẹ con mình thành một ngôi nhà sang trọng có đủ các sản vật quý hiếm. Và chính Sọ Dừa

cũng chỉ trong một

70

đêm đã lo đủ biết bao đồ dẫn cƣới sang trọng do lão phú ông thách đặt.... Chẳng có thách

thức nghiệt ngã nào, chẳng có hoàn cảnh đặc biệt nào có thể ngáng cản nổi ý chí và nghị lực

của những con ngƣời kỳ tài ấy... Dân tộc Kinh cũng nhƣ các dân tộc thiểu số bao giờ cũng

dành trọn niềm cảm phục chân thành cho những con ngƣời xấn xí mà tài ba lỗi lạc, cho nên

cuối cùng họ đều để cho những nhân vật xấu xí ấy hiện hình ra bằng một hình thể viên mãn

tuyệt đẹp, rất tƣơng xứng với tài năng, trí tuệ và nhân cách phi thƣờng của họ.

Triệt để khai thác hình thức kết cấu cốt truyện phát triển qua hai giai đoạn, nhân dân

ta vừa đặc biệt đề cao cái đẹp nhăn cách bên trong, đồng thời vừa bày tỏ quan niệm cái đẹp

hoàn hảo phải là cái đẹp hƣớng tới sự hài hòa, thống nhất cao độ giữa vẻ đẹp bên trong và nét

đẹp bên ngoài. Khát vọng hƣớng tới cái đẹp hoàn hảo đã từng đƣợc dân gian các dân tộc

thiểu số dày công thể hiện, đến lƣợt mình, các thế hệ dân gian ngƣời Kinh cũng ý thức về nó

bằng tất cả thái độ trân trọng tột bậc. Họ đã phác vẽ ra một mô hình lý tƣởng về vẻ đẹp của

con ngƣời thật thấu đáo qua cách nói hàm xúc của thơ ca:

Một thƣơng tóc bỏ đuôi gà

Mai thƣơng ăn nói mặn mà có duyên

Ba thƣơng má lúm đồng tiền

Bốn thƣơng răng nhánh hạt huyền kém thua.

Năm thƣơng cổ áo đeo bùa

Sáu thƣơng nón thƣợng quai tua dịu dàng

Bảy thƣơng nết ở khôn ngoan

Tám thƣơng ăn nói lại càng thêm xinh

Chín thƣơng cô ở một mình

Mƣời thƣơng con mắt có tình với ai. [122,275]

Lý giải về cái đẹp hoàn hảo thông qua hình tƣợng những con ngƣời

71

đẹp ngƣời - đẹp nết, dân gian các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân gian ngƣời Kinh dƣờng nhƣ

đều tập trung thiện ý lý giải của mình vào hình tƣợng những ngƣời phụ nữ - phái đẹp. Nối

thêm vào danh sách các cô gái xinh đẹp, thùy mị, nết na. mƣu trí, dũng cảm trong văn học các

gian các dân tộc thiểu số (Nàng Kháy của dân tộc Tày; Nàng Ka giờng; Hai chị em Đrun và

Đroi của dân tộc Cơ Ho, Út Lót, Nàng Rồng, Nàng Tiên của dân tộc Mƣờng, Nàng Han,

Nàng Mứn của dân tộc Thái v.v...) là những cô gái "mƣời phân vẹn mƣời" trong dân gian

ngƣời Việt. Tấm trong truyện cổ Tấm Cám xinh đẹp, hiền hậu, cần cù chịu khó đã trở thành

biểu tƣợng tuyệt đẹp trong tâm thức của ngƣời Việt Nam nói chung. Tấm hóa thân vào truyện

Gió Liu, Gió Lát của dân tộc Xrê, K'Ho; vào truyện Nàng Khao nàng Đăm của dân tộc Thái,

Tua Nhi, Tua Gia của dân tộc Tày, Ú và Cao của dân tộc Hơ Rê.... nên phẩm giá tuyệt đẹp

của cô càng trở nên bất tử trong cuộc sống cộng đồng dân tộc thống nhất. Nàng Xuân

Hương trong truyện cổ cùng tên xinh đẹp, ham học, Cần cù chịu khó lại rất mực thủy chung

[32 , 105]. Người đàn bà bị vu oan trong Truyện cổ cùng tên cũng thật xinh đẹp, nết na, đoan

chính, Bằng sự thông minh, khéo léo, nàng đã bảo vệ đƣợc hạnh phúc đích thực của mình,

thủy chung son sắt với chồng [31,206]... Dù có khác nhau về cốt truyện, nhân vật ngƣời phụ

nữ mang vỏ đẹp lý tƣởng trong các truyện kể dân gian của các dân tộc Việt Nam đều gặp gỡ

nhau ở sự vẹn toàn tài - sắc, nết na, chung thủy, cân cù, giầu mƣu trí sáng tạo. Có thể coi câu

thành ngữ "đẹp ngƣời tối nết" của dân tộc Kinh là mô hình lý tƣởng cho quan niệm về cái đẹp

toàn vẹn của các dân tộc Việt Nam.

Cũng do đặc thù lịch sử của mình, nhân dân các dân tộc Việt Nam cùng đều chung ý

thức gắn cái đẹp với nhiệm vụ đánh giặc cứu nƣớc, diệt ác trừ tà. Bên cạnh các truyện kể về

Cô bé chăn vịt của dân tộc Nùng, Nàng Han, Nàng Mứu của dân tộc Thái; Chàng Kpút và

con thần mặt trời của

72

dân tộc CơHo, Út Lót, Hồ Liêu của dân tộc Mƣờng, Trần Châu của dân tộc Tày... dân tộc

Kinh cũng có cả một mảng truyện đặc sắc về tấm gƣơng những ngƣời con ƣu tú của dân tộc

biết dùng tài sắc của mình vào công cuộc đánh giặc cứu nƣớc.

Truyện Hai nàng công chúa nhà Trần kể về hai nàng công chúa xinh đẹp, mƣu trí tài

ba, một ngƣời tên là Bảo Nƣơng, một ngƣời tên là Ngọc Nƣơng. Sinh thành trong buổi loạn

ly, hai nàng không nghĩ đến hạnh phúc riêng tƣ của mình mà từ chối mọi cuộc cầu duyên của

bao ngƣời. Khi giặc xâm phạm bờ cõi, hai nàng xin phép vua cha ra trận để một phen liều

mình giết giặc. Bằng tài sắc, mƣu mẹo khôn ngoan, hai nàng đã lừa giết đƣợc hai tên tƣớng

tiện phong của giặc, làm nội ứng cho quân ta tiêu diệt cả cánh quân tiên phong của giặc đang

tiến vào Kẻ Chợ [160,147].

Truyện Người Ả đào với giặc Minh kể về một cô gai Ả đào vừa đẹp vừa hát hay.

Nàng hát hay múa dẻo nhất vùng Đào Đặng (Hƣng Yên). Quân Minh bắt đƣợc nàng, song

nhờ tài hát hay múa dẻo, lại xinh đẹp nên nàng đã nhanh chóng chiếm đƣợc lòng tin của

chúng. Sống giữa lòng địch, nắm đƣợc nội tình của chúng nên nàng đã tìm cách liên hệ với

trai tráng trong làng tìm cách giết giặc. Đêm đêm đợi cho quân giặc ngủ say trong những cái

túi (để tránh muỗi đốt), nàng Ả đào cùng với trai làng đến khiêng từng cái túi có quân giặc

rúc vào để ngủ mà vứt xuống sông. Thấy quân mình ngày càng hao hụt quân số, tƣởng đất

này có quỷ thần ám hại, lũ giặc hoang mang rời bỏ đi nơi khác [160, 166].

Truyện Nàng trăm sắc đầy vẻ huyền hoặc, kể về một cô gái tuyệt đẹp sinh thành từ

một con trai rất lớn ở cánh đồng Cửa Miếu. Nàng ra xem hội vật của làng, cả hội bàng hoàng,

ngơ ngác trƣớc sắc đẹp của nàng. Ít lâu sau, giặc ngoại xâm tràn tới. Chúng bắt đƣợc nàng.

Bằng mƣu mẹo thánh thần từ con ngƣời đã bị quân giặc chém làm trăm mảnh, nàng biến

thành hàng ngàn

73

thiếu nữ mang gƣơm tuốt trần, giáo cầm tay lao vào quân giặc mà chém giết. Quân giặc khiếp

đảm kinh hồn, dày xéo lên nhau mà chạy [160,132].

Còn biết bao truyện kể cảm động khác về những con ngƣời tài sắc tuyệt vời. công

xuất sắc trong công cuộc đánh giặc cứu nƣớc nhƣ: Truyện chàng trai họ Đoàn, truyện

Nguyễn Thị Bích Châu truyện Vợ Ba Cai Vàng; truyện Hổ giải yếm v.v... Đặc biệt, ở đồng

bằng sông Cửu Long, trong dân gian ngƣời Kinh còn lƣu truyền rộng rãi Truyện Tam

Nương. Tam Nƣơng là con gái thứ ba của một gia đình, nàng rất xinh đẹp, giỏi võ nghệ, giầu

nghĩa khí... Quân giặc đến xâm lăng, vua ra lệnh cho quan quân đi đánh nhƣng đi bao nhiêu

lại tổn thất bấy nhiêu. Nhờ cứu đƣợc hoàng tử từ trƣớc, nàng đƣợc vua cƣới cho hoàng tử...

Tình thế nguy ngập, nàng xuất trận, giết hàng ngàn tên giặc, đuổi chúng ra khỏi biên cƣơng,

lại còn chặt đầu tƣớng giặc mang về dâng lên vua cha.... [117, 90].

Cần lƣu ý thêm rằng, dân gian có nói đến vai trò của con ngƣời cao đẹp trong việc

góp phẩn đánh giặc cứu nƣớc (trong đó có khía cạnh tác dụng của nhan sắc phụ nữ) nhung

trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số (và kể cả dân tộc Kinh) không hề triển khai

những tình tiết mang tính chất "mỹ nhân kế" theo lối viết sau này thƣờng đi vào mô tả những

thân phận bị dày vò, biến thành những trò chơi... Nhan sắc (tức cái đẹp) quả là có khích lệ sĩ

khí và quyến rũ quân thù (điều hiển nhiên), song có điều các nhân vật nữ trong các truyện kể

trên không chỉ có vẻ đẹp hình thức mà còn là những con ngƣời có những phẩm chất bên trong

cao đẹp tuyệt vời, hơn thế nữa với một lý lệ khá lớn, họ là những con ngƣời có võ công và

mƣu lƣợc sắc sảo, trực tiếp đọ sức với quân thù vì lợi ích quốc gia, dân tộc.

Tóm lại, sự tƣơng đồng giữa các dân tộc Việt Nam ở khía cạnh quan niệm cái đẹp gắn

liền với công cuộc đánh giặc cứu nƣớc là sự gặp gỡ thân thiết giữa những con ngƣời giàu

lòng yêu nƣớc. Với dân tộc ta, cái đẹp chân

74

chính không chỉ gắn bó máu thịt với cuộc sống đời thƣờng muôn mặt của con ngƣời mà còn

có quan hệ với những công việc đại nghĩa của quốc gia dân tộc. Giá trị của cái đẹp vì vậy

càng thấm đƣợm tinh thần nhân đạo, nhân văn săn sắc.

2.1.1.2. Về nghệ thuật.

Nhũng tƣơng đồng giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh trên bình diện quan niệm

về nghệ thuật bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Trƣớc hết là do đòi hỏi bức xúc của hiện

thực. lịch sử dựng nƣơc và giữ nƣớc, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều thƣờng

xuyên có ý thức đem nghệ thuật góp phần phụng sự cho sự nghiệp đánh giặc cứu nƣớc, bảo

vệ chủ quyền quốc gia dân tộc. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói chung đã có

sự hiện diện khá phong phú mảng truyện kể mang ý thức lấy tiếng đàn, lời ca làm vũ khí

đánh giặc cứu nƣớc. Trong đó Truyện Thạch Sanh vốn quen thuộc với nhiều dân tộc trong

cộng đồng Việt Nam đƣợc xem nhƣ minh chứng tiêu biểu cho quan niệm nghê thuật đánh

giặc cứu nƣớc độc đáo. Sức mạnh lan tỏa của truyện cổ nổi tiếng này qua thực đã trùm phủ

lên phạm vi cả nƣớc. Ở đâu nó cũng đƣợc nhânn dân các dân tộc trân trọng lƣu truyền.

Dƣờng nhƣ Truyện Thạch Sanh đã không còn là "đặc sản" của riêng ai, nó đã trở thành di

sản tinh thần chung của cả cộng đồng Việt Nam.

Từ Truyện Thạch Sanh của ngƣời Kinh, ngƣời Tày, ngƣời Khơ me... đến Tiếng hát

người đá của ngƣời Raglai, Sông Bằng êm sóng của dân tộc Thái, Chàng Sính của dân tộc

H'mông... dù có khác nhau chút ít tên nhân vật và một. số tình tiết phụ trợ song tất cả đều gặp

gỡ nhau ở ý thức lấy nghệ thuật làm phƣơng tiện đánh giặc cứu nƣớc, trừ ác diệt tà. Dƣờng

nhƣ bản chất nhân đạo cao cả đã hun đúc nên ở nhân dân ta một ý thức phi thƣờng trong cuộc

đấu trí, đấu lực với quân thù, súng gƣơm - bạo lực không phải là

75

phƣơng tiện đánh giặc duy nhất một khi ta còn có thể kiếm tìm đƣợc những diệu kế đánh giặc

tối ƣu mà hiệu quả, ít hy sinh đổ máu hơn. Và trong cuộc nghĩ suy tìm tòi chiến thuật ấy, cha

ông ta đã tìm đến nghệ thuật, đã phó thác cho nghệ thuật sứ mệnh cao cả góp phần đánh giặc

cứu nƣớc, cứu dân. bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc.

Sự tƣơng đồng quý báu này bắt nguồn từ thực tế nóng bỏng của một đất nƣớc thƣờng

xuyên phải đối mặt với các cuộc lấn chiếm, xâm lăng của các thế lực thù địch ngoại bang.

Với một quốc gia bé nhỏ, đất không rộng, ngƣời không đông, lại phải chống chọi với những

kẻ thù có sức mạnh vật chất áp đảo, muốn chiến thắng nhân dân ta cần thiết phải sáng tạo và

huy động nhiều sức mạnh tổng hợp khác nhau - trong đó có sức mạnh vô hình mà tuyệt diệu

của nghệ thuật. Nghệ thuật cùng với súng gƣơm, giáo mác theo con ngƣời ra trận đánh giặc,

đó là sự thật lịch sử sống động, hào hùng của các dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử vẻ vang

của dân tộc, ngƣời Việt Nam nào lại không cảm kích hình ảnh ngƣời anh hùng dân tộc

Nguyễn Trãi, bằng ngòi bút mang sức mạnh "hơn cả mƣời vạn quân" đã đánh cho giặc Minh

những đòn tinh thần khiếp đảm.

Nhân dân các dân tộc thiếu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đã từng gặp gỡ nhau ở ý thức đề

cao thiên chức cao cả của nghệ thuật đánh giặc cứu nƣớc thì hiển nhiên cũng đồng điệu với

nhau ở ý thức ghi nhận tác dụng của nghệ thuật trong đời sống bình dị của mình. Nhân dân ta

dù là thiểu số hay đa số đều rất trân trọng nghệ thuật cho nên đã dành những tình cảm trang

trọng nhất cho ý thức về chủ thể nghệ thuật.

Giỏi giang chữ nghĩa không con cũng chẳng lo.

Ý thức ấy của đồng bào Dao cũng đã từng đƣợc đồng bào Kinh thành thật chia sẻ:

Lấy chồng hay chữ nhƣ soi gƣơng vàng [117 ) 197]

76

Trong truyện So đũa chọn rể của dân tộc Tày, cô gái đẹp ngƣời đẹp nết nọ khi ao ƣớc

về hình mẫu ngƣời chồng lý tƣởng, cô đã đòi hỏi thật khắt Khe: ngƣời đó không chỉ giỏi

giang công việc, thận trọng chu đáo trong tính cách mà còn phải giỏi giang chữ nghĩa văn

chƣơng nữa. Dân tộc Kinh trong truyện Sự tích tháp Báo Ân cũng đã dành cho ngƣời am

hiểu văn chƣơng chữ nghĩa một vị trí trang trọng nhƣ thế. Truyện kể rằng: ngày xƣa ở Bình

Quân, huyện cẩm Giàng có vợ chồng một phú ông sinh đƣợc một cô con gái Kinh đẹp nhất

làng, tính nết lại dịu dàng hiền hậu. Cô gái học hành cũng rất thông minh, học đâu biết đấy,

chẳng bao lâu đã thông thạo kinh sách. Nghe tin cô gái đẹp ngƣời tốt nết lại hay chữ nghĩa

văn chƣơng, con trai khắp nơi rắp ranh muốn ngả lời làm bạn cùng cô gái... Nhƣng thật ngặt

nghèo, điều kiện chọn rể của phú ông (thân sinh cô gái) thật khó với tới. Ông chủ trƣơng:

"ngƣời xứng đáng sánh duyên với con gái ta phải là ngƣời hiểu biết văn chƣơng lỗi lạc..."

[159, 184].

Trong ý thức chung của các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật là vô giá. Nghệ thuật góp

phần nuôi sống con ngƣời, thậm chí là chất "xúc tác" kỳ diệu có thể cải biến môi trƣờng và

hoàn cảnh trở nên thi vị và đáng yêu hơn. Tƣơng đồng với ý thức "hát lên cảnh mới đẹp, hát

lên nhà mới vui" của đồng bào Lô Lô, đồng bào Kinh cũng ủy thác cho nghệ thuật những uy

lực kỳ diệu có thể "cải tử hoàn sinh" thế giới:

Đi qua nghe tiếng em đàn

Lá vàng xanh lại sen tàn nở hoa. [72 ,117]

Nghệ thuật có thể thao túng, điều khiển thế giới muôn loài bằng sức mạnh của nó:

Đi qua nghe tiếng em đàn

Cá mƣời khe đứng lại, chim trên ngàn đậu im [72, 117]

77

Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, chúng ta bắt gặp khá nhiều những

truyện kể mang mô típ lời ca tiếng hát có sức cuốn hút đặc biệt đối với con ngƣời, thậm chí

có khả năng mê hoặc, điều khiển đối với muôn loài chim thú, cỏ cây nhƣ thế. Song hành với

những truyện: Tiếng hát nàng San củn dân tộc Thái, Tiếng hát nàng Slam của dân tộc Cao

Lan, Mòn Miên của dân tộc Cơ Ho, Hai đời của dân tộc Tà ôi, Gió Đói của dân tộc Ba na,

Tiếng sáo thần kỳ, Chàng Cóc, Chuyện cây đàn của dân tộc Gia rai... dân tộc Kinh cũng có

những, truyện kể đặc sắc về sức mạnh thu phục của lời ca tiếng hát. Tiếng hát ngọt ngào, tha

thiết của Trƣơng Chi đã làm cho cô con gái viên quan Thừa tƣớng cao sang mê ly ngƣỡng

vọng. Tiếng hát ấy xƣa nay đã trở thành tình tiết cổ điển mẫn mực trong nỗi niềm đam mê

nghệ thuật của mọi ngƣời dân Việt Nam. Truyện Cô gái con Thần Nước và chànq đánh cá

[96, 271] cũng là những nỗi niềm đầy cảm động của dân gian ngƣời Kinh dành cho nghệ

thuật. Truyện kể về một chàng trai làm nghề đánh cá có giọng hát trong trẻo du dƣơng, làm

cho nàng công chúa ở thủy cung phải mê mẩu sầu tƣ. Nƣơng mình trong lốt cá, nàng cứ quẩn

quanh bên cạnh ngƣ thuyền của chàng để đƣợc nghe hát. Trải qua bao thăng trầm, tiếng hát

mê ly của chàng trƣớc sau vẫn là sợi dây tình duy nhất níu kéo cô gái xinh đẹp đến với mình,

nối kết thành đôi lứa... Cũng nhƣ vậy, tiếng sáo trầm bổng du dƣơng của chàng trai nghèo

khó nọ trong truyện cổ tích Sọ Dừa đã làm cho cô con gái lão phú ông thổn thức, bồn chồn,

dám vƣợt qua tƣờng rào ngăn cách đẳng cấp để tình nguyện kết duyên với Sọ Dừa xấu xí,

nghèo hèn. Đặc biệt thật kỳ thú, cô gái nghèo khổ trong truyện cổ Hai cô gái và cục bướu

[32 , 159] nhờ tiếng hát trong trẻo, thánh thót của mình mà mê hoặc đƣợc cả một đàn khỉ. Lại

cũng nhờ lòi ca của mình cô đã trút bỏ đƣợc cục bƣớu xấu xí trên cổ của mình sang cho lũ khỉ

để rồi sau này lũ khỉ lại đem đến cho cô gái con nhà phú ông ti tiện, hám sắc.

78

Ý thức về nghệ thuật với tất cả nỗi niềm trân trọng nhƣ thế, cho nên nhân dân các dân

tộc Việt Nam đã đến với hoạt động nghệ thuật bằng tất cả tấm lòng đam mê đầy trách nhiệm.

Bên cạnh ý thức phải "hát nhƣ cây tre, cây bƣơng thi nhau mọc" của đồng bào H'mông; bên

cạnh ý thức không "tiếc giọng, tiếc lời, không nên dừng giữa buổi, không nên nghỉ nửa vời"

của đồng bào Lô Lố.... là tinh thần đam mê tuyệt đích của đồng bào Kinh khi đến với cuộc

vui chung:

- Đã đi đến đám thì chơi

Đã đi đến đám tiếc lời làm chi

- Hát cho đổ quán xiêu đình

Cho long lanh nƣớc cho rung rinh trời

- Hát cho lở đất long trời

Cho đời biết mặt, cho ngƣời biết tên

- Hát sao cho cạn dòng sông

Cho non phải lở cho lòng phải say. [72 , 118] v.v...

Các dân tộc Việt Nam sống trong điều kiện thiên nhiên đầy thơ mộng, kỳ thú nên tâm

hồn giàu chất thơ, chất nhạc. Từ thủa xa xƣa, nhân dân các dân tộc Việt Nam đã tìm đến nghệ

thuật nhƣ tìm đến một chốn linh thiêng để tăng cƣờng niềm tin và nghị lực sống lành mạnh.

Nghệ thuật gắn kết với cuộc sống hàng ngày cua các dân tộc thiểu số nhƣ cơm ăn, nƣớc

uống..., nghệ thuật cũng hành trình thủy chung với đồng bào Kinh trong mọi bƣớc ngoặt của

cuộc đời:

Còn ngƣời còn nƣớc còn non

Còn câu quan họ em còn say sƣa. [72 , 114]

Nghệ thuật đơm hoa trong lòng ngƣời từ thủa ấu thơ qua lời ru của mẹ và câu chuyện

cổ của bà vì thế nó sẽ trở thành kỷ niệm máu thịt da diết khi con ngƣời phải sống xa quê:

79

- Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ ngƣời

Nhớ câu quan họ, nhớ lời ca hay... [72 , 114]

- Đi đâu cũng nhớ về quê

Nhớ câu hát ghẹo. nốc (thuyền) kề bên nhau.... [72,114]

Với các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật không chỉ có sức mạnh gắn kết tình đồng loại,

nghệ thuật còn góp phần xây đắp hạnh phúc lứa đôi. Trong truyện kể dân gian ngƣời việt

cũng nhƣ ngƣời thiểu số, có biết bao đôi lứa kết thành tình nghĩa vợ chồng chỉ thuần tuý nhờ

vào uy lực hút hồn của nghệ thuật. Chuỗi âm thanh mê ly ngọt ngào của điệu đàn, lời ca đã

khiến cho biết bao cô gái con nhà quyền quý cao sang sẵn sàng khƣớc từ cuộc sống nơi lầu

son gác tía với kẻ hầu ngƣời hạ chỉ để đƣợc sống an vui thuần tuý trong vƣơng quốc tình yêu

nghệ thuật (Công chúa trong truyện Thạch Sanh của dân tộc Kinh và dân tộc Tày; trong

truyện Chàng Sính của dân tộc H'mông Cô gái con thủy Thần trong truyện cổ Cô gái con

Thủy Thần và chàng đánh cá và cô Ba con gái Phú ông trong truyện cổ Sọ Dừa của dân tộc

Kinh; Cô gái con vua dƣới lòng đất trong truyện cổ Tiếng hát thần kỳ của dân tộc Gia rai

v.v....) Các cô gái dù là ngƣời Kinh hay ngƣời Tày, ngƣời H'mông hay ngƣời Gia rai... đều có

chung nỗi niềm đam mê tuyệt đích với nghệ thuật. Với họ, tình yêu đích thực là tình yêu gắn

liền với nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên dân tộc Mƣờng đã phó thác cho lời hát dân gian

Thƣờng, Rang của họ có tác dụng làm "cho trai anh, gái em nhà ta nên cửa., nên nhà". Ngƣời

Kinh cũng phó thác cho lời hát đối ân tình của họ sức mạnh gắn kết tình đôi lứa thiêng liêng:

Hát cho con gái có chồng

Con trai có vợ, mẹ dòng có con [72, 116]

Các dân tộc thiếu số gắn bó với nghệ thuật cả khi sống và khi đã khuất. Các dân tộc

Tây Nguyên, trong lễ hội bỏ mả, họ đã tổ chức "biểu

80

diễn cả một màn nghệ thuật tổng hợp độc đáo" (Ngô Văn Doanh). Ngƣời Lô Lô, ngƣời

H'mông trong đám tang nhất thiết phải có khèn, trống, lời ca để "tiễn đƣa hồn" ngƣời đã

khuất "lên trời"... Cũng nhƣ vậy trong ý thức ngƣời Kinh "sống dầu đèn, chết kèn trống" [41 ,

557] là hàm chỉ ý nghĩa và giá trị tối cần thiết của ánh sáng và nghệ thuật trong cuộc sống

hàng ngày của con ngƣời.

Tóm lại, trong đời sống muôn mặt của nhân dân các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật là

nguồn giá trị tinh thần không thể thiếu vắng. Cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng, ngƣời am hiểu

sâu sắc những giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc đã từng khái quát thật thấm thía: "Dân tộc

Việt Nam ta từ xa xƣa rõ ràng là một dân tộc rất yêu chuộng văn học nghệ thuật". [96, 284].

Thiết nghĩ đó là một tổng kết xác đáng về tinh thần trân trọng, yêu quý, đam mê đối với nghệ

thuật của nhân dân các dân tộc Việt Nam chúng ta.

2.1.2. Trên hình diện nhân dân lao động

Văn học dân gian là di sản văn nghệ quý báu đƣợc sáng tạo và hoàn chỉnh chủ yếu

nhờ tình cảm và trí tuệ của quần chúng nhân dân lao động qua các thế hệ nối tiếp nhau. Chính

nhân dân lao động cũng là lực lƣợng chủ yếu tiếp nhận và lƣu Truyền các giá trị văn nghệ đặc

sắc do mình sáng tạo ra. Ngƣời sáng tạo, ngƣời thƣởng thức đồng nhất làm một, cho nên

những ý thức quan niệm về nghệ thuật của dân gian đều gắn liền với cảm quan thẩm mỹ -

nghệ thuật về con ngƣời và cuộc sống của nhân dân lao động. Lênin đã từng nói: "Nghệ thuật

là thuộc về nhân dân". Câu nói càng chuẩn xác nếu" đặt nó trong sự soi chiếu vào thực tiễn

văn học dân gian vốn chủ yếu gắn liền với cảm quan của quần chúng nhân dân lao động - lực

lƣợng chủ công tạo nên sức sống cho nó.

Trên bình diện nhân dân lao động, giữa các dân tộc thiểu số anh em và dân tộc Kinh

có nhiều nét đồng điệu sâu sắc xung quanh các quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật.

81

2.1.2.1. Về cái đẹp

Trong quan niệm về cái đẹp, cảm quan của nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhƣ

dân tộc- Kinh đều thấm đƣợm tính chất nhân dân sâu sắc. Đề cao cái đẹp, trƣớc hết họ đề cao

vẻ đẹp của ngƣời lao động. Truyện cổ Hơ Kung và YDu của dân tộc Ê đê kể về một con quạ

mân cán nhận lời làm mối cho chàng Rít lấy nàng Ngo (cô gái đẹp tuyệt trần ở một hòn đảo

xa). Con quạ tự hào háo với nàng Ngo sau khi đã tìm đƣợc chàng trai nhƣ ý: "Tôi mang tin

vui đến cho chị đây. Tôi đã tìm đƣợc cho chị một ngƣời giỏi đốn cây to, phát cây nhỏ làm

rẫy, một ngƣời giỏi xén bờ ruộng lại có tài săn thú đuổi chim..." [193, 17]. Rõ ràng con ngƣời

mà nàng Ngo kiêu sa chờ đợi chọn làm đấng lang quân lý tƣởng là một ngƣời đàn ông giỏi

những thao tác lao động sản xuất. Truyện Sự tích cầu vồng của dân tộc Hà Nhì kế về cô gái

Xì Pứ có hình thể tuyệt đẹp, nàng càng đẹp hơn vì "có đôi tay chăm làm. đôi chân chăm lên

rẫy để ai ai cũng mến, cũng thƣơng" [191, 18]. Vẻ đẹp của nàng dƣờng nhƣ chỉ thực sự phát

sáng khi đặt mình trong tƣ thế lao động: "Mỗi lần Xì Pứ cầm dao đi phát rẫy xa, dƣới chân

nàng hoa rừng nở rộ, trên đầu nàng, chim chóc hát ca" v.v...

Nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh của dân tộc Thái, cô gái từng đƣợc nhà

nghiên cứu văn học dân gian Vũ Ngọc Khánh mệnh danh là "cô gái Việt Nam toàn diện" ấy

đã đẹp ngƣời tốt nết lại càng giầu sức cuốn hút mọi ngƣời hơn qua những thao tác lao động

sản xuất thuần thục:

Nàng Mứn chít khăn lá trẩu

Tay cấy nhanh nhƣ gõ mõ

Nàng uốn chân đi dƣới bùn lƣng cứ đẹp

Búi tóc cứ rung nhƣ buồng quả trên đầu

Nàng hay làm biết nghĩ... [153 , 50].

Cô gái Mơ rum Mơ hút trong truyện Đăm Ktía Truol của dân tộc Gia

82

rai càng lớn càng xinh đẹp và ngoan nết. Nàng có "đôi cánh tay cứng cáp để cuốc rẫy giã gạo

nhƣng mƣời ngón tay lại khéo léo dệt thêu rất đẹp" [183 -250]...

Nù Câu trong tác phẩm dân ca trƣờng thiên A Thào - Nù Câu của dân tộc H'mông,

chàng Chồn trong truyện cổ Truyện Chồn và nàng H' Lúi của dân tộc Gia rai và Lê Nhƣ Hổ

trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Kinh... đều là những chàng trai tuyệt đẹp - hiện thân lý

tƣởng của con ngƣời lao động nông nghiệp. Nù Câu chẳng những hiền lành, đẹp ngƣời đẹp

nết mà còn có năng lực lao động sản xuất phi thƣờng:

Nù Câu lớn thành thân con trai

Giỏi săn bắn, tài nghệ nƣơng rẫy

Phát ba nhát đã sạch quang đồi cỏ lau

Cày ba đƣờng đã sạch lề nƣơng cỏ dại [75, 251]

Chàng Chồn trƣớc khi trút bỏ lốt Chồn thành chàng trai trẻ đẹp, tự thân đã là một

ngƣời đặc biệt giỏi giang trong lao động: "H' Lúi vừa phát đƣợc vạt nhỏ, Chồn đã phát đƣợc

một vạt rất lớn... Chồn có một đám nƣơng bát ngát lúa, ngô, khoai, sắn, đu đủ, bầu bí tốt rợp"

[10, 362]. Còn Lê Nhƣ Hổ "chỉ trong một buổi, chàng" đã phát xong luôn cả ba mẫu cỏ. Hổ

phát nhanh đến nỗi cá không kịp chạy... Hổ chỉ gặt trong nửa ngày là xong hai mẫu lúa rồi bó

tất cả lại thành bốn, năm gánh lớn lần lƣợt quảy về và chỉ đến chập tối là xong" [160 , 110].

Cùng tôn thờ ý thức quan niệm "dĩ nông vi bản", cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã từng

sáng tạo nên biết bao những truyện cổ, câu ca khảng định vẻ đẹp danh giá của ngƣời lao động

gắn liền với những thao tác lao động thuần thục, đạt hiệu quả phi thƣờng nhƣ thế. Nhãn quan

thẩm mỹ của dân gian dƣờng nhƣ đều gắn liền yêu cầu về cái đẹp của con ngƣời phải song

hành với năng lực lao động sản xuất. Dân gian Kinh coi lao động nhƣ một điều kiện góp phần

gia tăng vẻ đẹp hình thể

83

của con ngƣời, tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho con ngƣời:

Hay lam hay làm đầu quang mặt sạch

Chẳng hay làm hay làm đầu rách mặt dơ. [122 , 251]

Các dân tộc thiểu số anh em tảy chay quyết liệt những cái đẹp ly thoát lao động:

Làm gái nết na biết nghĩ suy

Chỉ biết điểm trang cho đẹp đẽ

Việc làm lƣời nhác hay chỉ mà. [21 ,372]

hoặc:

Sinh ra cô gái lƣời

Đời con gái chẳng siêng

Không xứng thật chẳng đáng. [111 ,49]

Dân tộc Kinh cũng vây. Họ càng ý thức sâu sắc và thấm thía vẻ đẹp đằm thắm dạn

dày mƣa nắng của ngƣời dân lao dộng bao nhiêu, lại càng coi thƣờng vẻ đẹp yếu đuối, xa rời

lao động của các cô gái nhà giàu bấy nhiêu:

- Trắng chi trắng bủng trắng xanh

Thà rằng đen nhẵng cho anh phải lòng...

hoặc:

- Ngăm ngăm da nâu mƣời trâu anh cũng cƣới

Trắng nhƣ nõn chuối tiền rƣỡi anh cũng không mua v.v...

Lƣời biếng và xa lánh lao động cũng đồng nghĩa với sự xâu xa, đáng dè bỉu. Với bản

chất của ngƣời lao động chân chính, nhân dân các dân. tộc Việt Nam chỉ thừa nhận cái đẹp

của ngƣời lao động. Vẻ đẹp hào nhoáng bề ngoài của các tầng lớp quý tộc, thống trị đều bị

phủ định triệt để. Đồng bào Vân Kiều quả quyết rằng:

Con nhà lang đen hai lớp mắt cũng không đẹp

Da trắng hai lớp nhìn cũng không bằng lòng. [151 , 15]

84

Đồng bào Thái nhất mực coi lao động nhƣ là điều kiện tiên quyết tạo ra giá trị đích

thực của con ngƣời:

Quý kẻ xốc vác

Chuộng kẻ hay làm

... Chăm làm ngƣời mới chuộng

Xốc vóc ngƣời mới quý. [21 - 51 ,52]

Những ý thức đề cao giá trị của lao động đối với phẩm hạnh của con ngƣời nhƣ vậy

cũng đƣợc đồng bào Kinh chia sẻ sau sắc qua truyện Lê Như Hổ nổi tiếng. Buổi đầu tiên đến

nhà bố mẹ vợ, Nhƣ Hổ chẳng có gì tỏ ra tài cán cho bố mẹ vợ yên lòng. Chỉ sau đôi lần ra

đồng làm lụng, Nhƣ Hổ mới thực sự chiếm đƣợc lòng ái mộ của bố mẹ vợ bởi tài phát cỏ, gặt

lúa kỳ tài của mình... [160, 110]. Không phải ngẫu nhiên đồng bào Kinh đã lƣu truyền một

câu tục ngữ nổi tiếng: "Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn" [75 ,251]. Trong văn học dân

gian ngƣời Kinh cũng nhƣ các dân tộc thiểu số, mô típ truyện kén chọn dâu, rể có gắn với yêu

cầu thực thi năng lực lao động sản xuất quả là không ít.. Biết trân trọng cái đẹp của ngƣời lao

động, xem lao động nhƣ một phần giá trị đích thực trong bảng thang, giá trị con ngƣời là

quan niệm thẩm mỹ độc đáo của nhân dân các dân tộc Việt Nam... Trong các trò chơi dân

gian nhân những dịp lễ hội của đồng bào Tày, Nùng, đáng lƣu ý có "Trò sĩ nông" khá phổ

biến ở một số nơi thuộc Lạng Sơn, Tuyên Quang... Nội dung trò chơi là nhằm đề cao ngƣời

làm nghề nông giỏi qua việc kén chọn chồng của một Tiên nữ. "Có rất nhiều ngƣời ở các

ngành nghề khác nhau đến cầu hôn Tiên nữ nhƣng cô chỉ chọn anh làm nghề nông Giỏi làm

chồng". [191 , 10]. Nhân dân lao động là ngƣời sáng tạo nên mọi giá trị văn hóa, lịch sử bằng

những cống hiến trí tuệ và sức lực gân cốt của mình. Vì vậy chỉ có nhân dân lao động mới có

thể đánh giá những giá trị của cái đẹp một cách thấm thía nhƣ thế.

85

Cần nói thêm rằng, các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh đã gặp gỡ nhau ở những quan

niệm về cái đẹp đầy tính nhân văn nhân ái, song cũng do xuất phát từ thế giới quan dân gian

còn mâu thuẫn cho nên họ cũng, có sự giống nhau ở những cảm quan thiếu nhất quán khi

đánh giá về cái đẹp của con ngƣời . Họ đã từng thành tâm trân trọng vẻ đẹp của con ngƣời lao

động là thế, Vậy mà chính họ lại có thể bột phát những câu ca, lời hát mang nhãn quan thẩm

mỹ méo mó khi đánh giá về vẻ đẹp của con ngƣời lao động giữa chốn thôn quê mộc mạc.

Dân ca Tày, Nùng có câu ca quen thuộc :

Trông ngƣời thật có duyên đủ sắc

Ngƣời này phải sinh đúng nhà quan

Sinh thành ngƣời trong làng là phí [17 , 11]

Có lúc ngƣời H'mông coi vẻ đẹp của giai cấp thống trị có ý nghĩa nhƣ là chuẩn mực

cho cái đẹp của con ngƣời :

Càng ngắm cô mình càng thấy xinh

Xinh nhƣ cô gái nhà quan.... [157 , 105] v.v...

Cũng nhƣ vậy, dân gian dân tộc Kinh có lúc đã hoài nghi, phủ định vẻ đẹp của những

ngƣời lao động nghèo hèn :

- Một mảnh chồng quan hơn đàn chồng dân

Khen ai khéo đặt nên nghèo

Kém ăn, kém mặc, kém điều khôn ngoan

Nhà giàu nói một hay mƣời

Nhà nghèo nói chẳng đƣợc lời nào khôn [72 , 127] v.v....

Chỉ có điều những câu ca nhƣ vậy không có nhiều. Đặc biệt trong văn học dân gian cổ

truyền các dân tộc thiểu số - những cộng đồng dân tộc ít chịu ảnh hƣởng của chế độ đẳng cấp

phong kiến hơn so với dân tộc Kinh (thậm chí có dân tộc còn chƣa hề kinh qua quan hệ sản

xuất phong kiến trƣớc Cách mạng Tháng Tám) , những câu ca nhƣ thế lại càng hiếm hoi hoặc

86

không bề xuất hiện ở nhiều dân tộc thiểu số anh em.

2.1.2.2 Về nghệ thuật

Ở phạm vi quan niệm về nghệ thuật, nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc

Kinh dù ở miền xuôi hay miền ngƣợc, miền Nam hay miền Bắc... đều rất khuyến dƣơng nghệ

thuật phục vụ cuộc sống lao động bình yên của nhân dân lao động. Từ tiếng đàn của chàng

Sính, tiếng hát của Sính Mình, lời ca của chú bé ngƣời đá biến bình trên đỉnh núi Chƣ Bô

Đa... đến tiếng đàn của Thạch Sanh, tiếng hát Trƣơng Chi, tiếng sáo Sọ Dừa... đều vì cuộc

sống lao động bình yên của nhân dân lao động. Khi đất nƣớc lâm nguy, tiếng đàn lời ca của

Thạch Sanh, Chàng Sính, chú bé ngƣời đá... đều gắn liền với ý nguyện đem lại sự bình yên

cho muôn dân. Tiếng đàn lời ca của họ trong những cảnh huống có giặc xâm lăng thực sự là

vũ khí lợi hại nhờ biết khơi sâu vào góc hồn nhân bản củn con ngƣời. Nhờ tiếng đàn lời ca

mách bảo, khát vọng hƣớng tới một cuộc sống bình yên trong đáy sâu nhân bản của kẻ địch

đã đƣợc đánh thức và trở thành sức mạnh đối trọng với dã tâm gây chiến tranh đổ máu. Khát

vọng hòa bình đã thắng đoạt thiển tâm gây điều ác. Vì sự tồn sinh của muôn vạn sinh linh

ham sống hòa bình, tiếng đàn ấy há chẳng phải tiếng lòng nhân ái bao dung đích thực của

nhân dân đó sao? Nó hoàn toàn xa, lạ với những toan tính ích kỷ, đam mê quyền lực của các

tập đoàn thống trị hiếu chiến. Nhân dân lao dộng bao giờ cũng lấy tình yêu thƣơng, nhân ái,

khát vọng hòa bình làm trọng. Lấy nghệ thuật phụng sự khát vọng hòa bình cho muôn dân, ý

thức nghệ thuật ấy chỉ có thể thuộc về nhân dân lao động chân chính. không phải ngẫu nhiên,

sau khi cứu thoát con vua Thủy Tề, Thạch Sanh đã từ chối mọi vàng bạc, châu báu, quà tặng

của nhà vua mà chỉ nhận lấy duy nhất một cây đàn. Với họ, cây đàn là biểu tƣợng vô giá của

tình yêu thƣơng và lòng nhân ái - những giá trị tinh thần mà nhân dân lao động thƣờng trực

trân trọng. Ngay cả khi hƣớng tiếng đàn

87

vào mục đích giải oan cho mình, tiếng đàn chàng Sính, Thạch Sanh cũng vì công lý của nhân

dân. Ý thức của nhân dân lao động bao giờ cũng thù địch với mọi mƣu mô cầu lợi bất chính

đến táng tận lƣơng tâm nhƣ kiểu Lý Thông. Chính tƣ tƣởng nhân nghĩa của nhân dân đã hòa

nhập vào điệu đàn Thạch Sanh, chàng Sính để lên án những phẩm cách đê tiện của hạng

ngƣời ích kỷ, xấu xa trong hội.

Những tƣ tƣởng nghệ thuật chân chính bao giờ cũng vì cuộc sống của nhân dân cho

nên nó chỉ có thể sinh thành phát triển lành mạnh trong môi trƣờng cuộc sống lao động của

nhân dân. Tiếng hát của Sính Mình cất cao giữa cuộc sống lao động yên vui của dân bản nên

nó đƣợc nhân dân bảo vệ trƣớc mọi hành vi phá hoại thù địch của bọn chúa làng độc ác.

Tiếng hát nàng Slam của dân tộc Cao Lan thực sự quyến rũ khi đi bắt cá xúc tôm dƣới suối,

hái củi kiếm rau trên rừng.... Cũng nhƣ vậy, tiếng sáo ngân nga trầm bổng của Sọ Dừa cất lên

từ môi trƣờng lao động dân dã. Sọ Dừa thổi khúc sáo du dƣơng khi di chăn dắt đàn dê của

nhà phú ông ở trên núi. Tiếng hát mê hồn của Trƣơng Chi và anh chàng đánh cá trong truyện

Cô gái con Thần Nước và chàng đánh cá... đều cất lên trên khoảng sông nƣớc bao la nơi họ

kiếm kế sinh nhai đầy nhọc nhằn mà thơ mộng.. Môi trƣờng lao động là mảnh đất màu mỡ

cho nghệ thuật đơm hoa kết trái:

Rao giờ cho đến tháng hai

Con gái làm cỏ, con trai be bờ

Gái thì kể phú ngâm thơ

Trai thì be bờ kể chuyện bài bây. [72, 115]

Chỉ có gắn với môi trƣờng lao động đích thực, văn nghệ mới có dịp đƣợc trào phát

một cách tự nhiên và cũng chỉ trong lao động ngƣời ta mới thực sự cần đến nghệ thuật hơn

bao giờ hết. Lao động sẽ bớt di những nhọc nhằn vất vả nếu có đƣợc nghê thuật. - một loại

"thần dƣợc" vô giá tham dự

88

vào cuộc. Quả vậy, tiếng hát của chú bé ngƣời đá trong ý thức của ngƣời dân Raglai có khả

năng "làm cho mọi ngƣời làm việc không biết mệt mỏi" [166, 52], Tiếng sáo của nàng Ni có

thể "làm cho cái mệt trong ngƣời tan biến đâu hêt" [167 ,33]... Và tiếng sáo kỳ diệu của Sọ

Dừa chỉ chờ dịp cất lên khi đi lên núi chăn dắt đàn dê... Chỉ có nhân dân lao động mới có

điền kiện cảm nhận thấm thìa giá trị nghệ thuật đối với cuộc sống lao động của mình nhƣ thế.

Nhân dân lao động là chủ thể đích thực sáng tạo nên các giá trị văn hóa nghệ thuật

đặc sắc, vì thế những nhân vật tài ba lỗi lạc trong hoạt động nghệ thuật vì mục đích lao động

dựng xây cuộc sống và đánh giặc giữ nƣớc phần lớn đều là những con ngƣời lao động. Họ là

con em đích thực của nhân dân lao động nghèo hèn. Cha mẹ mất sớm, "Thạch Sanh sống côi

cút trong một túp lều dƣới gốc đa, chỉ có một cái khố che thân và một cái búa đốn củi" [31

,4]. Sọ Dừa mồ côi cha, hai mẹ con Sọ Dừa sống trong nhà phú ông với tƣ cách ngƣời ở hèn

mọn. Trƣơng Chi là chàng trai nghèo khó, không có tấc đất cắm dùi, ngày ngày quăng chài

thả lƣới trên sông kiếm miếng cơm ăn... Loại trừ những chi tiết hoang đƣờng trong thuộc tính

tƣ duy nghệ thuật dân gian, những trang "tiểu sử" của Mòn Miên, Sính, Mình hay Hơ Rít

trong truyện Tiếng sáo thần kỳ của dân tộc Gia rai... chẳng có mấy sự khác biệt so với Sọ

Dừa, Trƣơng Chi, Thạch Sanh... Phần lớn họ đều là những nghệ sĩ mồ côi, nghèo hèn, lấy

tình làng nghĩa bản làm nơi chốn nƣơng thân... Trong văn học dân gian ngƣời Việt cũng nhƣ

các dân tộc thiểu số, khó có thể tìm thấy những chủ thể hoạt động nghệ thuật tài ba xuất

chúng lại sinh thành từ tầng lớp thống trị giàu sang phú quý. Dƣờng nhƣ lịch sử nghệ thuật

chân chính của các dân tộc Việt Nam phần lớn đều do những chủ nhân đích thực của nó là

nhân dân lao động tự tay gây dựng và phát triển. Đúng vậy, thủy tổ của điệu hát Quan họ mê

hồn vùng Kinh Bắc "là

89

một thôn nữ xinh đẹp, hay lam hay làm quen với việc cắt cỏ, hái củi trên núi..." [89,20]. Làu

Slam ''Thánh thơ ca'' đƣợc cả dân tộc Cao Lan tôn thờ cũng vốn là một cô gái bình dân học

đƣợc tiếng hát nhờ bắt chƣớc từ các loài chim khi đi hái rau, kiếm củi trong rừng...

Tính chất nhân dân trong các quan niệm về nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng

nhƣ dân tộc Kinh đƣờng nhƣ đã trực tiếp đem đến cho truyền thống quan niệm nghệ thuật

dân tộc một chất lƣợng đặc biệt. Từ ngàn xƣa nghệ thuật chân chính đã có chỗ đứng trong

cuộc sống muôn mặt của nhân dân lao động. Nhờ cuộc sống của ngƣời lao dộng mà nghệ

thuật chân chính ngày càng có sức sống mãnh liệt, bất hủ trong nỗi niềm tâm linh của mọi

ngƣời, mọi nhà, mọi vùng quê khác nhau trên dải đất Việt Nam thân yêu của chúng ta.

2.2 Những khác biệt .

Nếu nhƣ giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh vốn có những tƣơng đồng tất yếu

về quan niệm nghệ thuật thì sự khác biệt ở đây cũng hiện diện nhƣ những thuộc tính hiển

nhiên. Trong điều kiện môi sinh văn hóa, xã hội, kinh tế... khác biệt nhau, hơn nữa quá trình

phát triển các mặt đó của các dân tộc không giống với dân tộc Kinh cho nên không thể có sự

đồng nhất trọn vẹn giữa các dân tộc với ngƣời Kinh. Chỉ xin đƣợc đơn cử mội khía cạnh khác

biệt về hình thái kinh tế xã hội giữa ngƣời Kinh với các dân tộc thiểu số để có ý thức rõ hơn

về vấn đề này qua ý kiến của tác giả Nguyễn Hùng Vĩ: "Trong khi ngƣời Việt nằm ở chế độ

phong kiến đã phát triển cao thì một số dân tộc khác nhƣ Tày, Thái, Mƣờng, Chăm, H'Rê,

Khơ me... còn đang nằm ở chế độ phong kiến sơ kỳ. Một số dân tộc khác nữa thì vẫn nằm ở

chế độ xã hội cộng đồng cuối thời kỳ cộng sản nguyên thủy (Các dân tộc thuộc nhóm Môn

Khơme ở Tây Bắc dọc Trƣờng Sơn, một số dân tộc thuộc nhóm Mã lai - đa đảo...)" [133 ,

34]. Thực tiễn sự khác biệt nhau về

90

nhiều mặt giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh là căn nguyên dẫn đến sự khấc biệt về

sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm về nghệ thuật (và cái đẹp). Tuy nhiên nói

đến sự khác biệt ở đây không có nghĩa là nói đến phía này có còn phía bên kia hoàn toàn

không có mà là cả hai phía cùng có nhƣng với những tỷ lệ và mức độ nhiều hay ít mà thôi.

Chẳng hạn nét nổi bật trong cách cảm nhận và lý giải về cái đẹp, về nghệ thuật của các dân

tộc thiểu số là thiên về những so sánh, ví von giàu hình ảnh cụ thể. Điểm này với dân tộc

Kinh cũng có, chỉ khác là ít khai thác thƣờng xuyên hơn và với tần số hạn chế hơn, hởi vì

trong cách thức biểu đạt của ngƣời Kinh, phần nào họ đã vƣơn tới ý thức khái quát hàm xúc

về đối tƣợng.

Sự khác biệt giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh xung quanh các quan niệm về

nghệ thuật chủ yếu đƣợc biểu hiện ở các điểm sau đây.

2.2.1. Sự khác nhau về loại hình nghệ thuật đƣợc cảm nhận.

Nói đến "sự khác nhau về loại hình nghệ thuật đƣợc cảm nhận" ở đây chính là đặt vấn

đề xem xét : văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh thƣờng hay

tập trung ý thức bày tỏ quan niệm về nghệ thuật vào những loại hình nghệ thuật khác nhau

nhƣ thế nào ?

Văn nghệ dân gian tồn tại dƣới hình thức diễn xƣớng nguyên hợp với sự đồng hiện

của nhiều loại hình nghệ thuật. Song quan niệm về nghệ thuật của dân gian dƣờng nhƣ chỉ

xoáy vào một số ít loại hình nghệ thuật cụ thể vốn gần gũi, quen thuộc với chủ thể nghệ thuật,

ít khi dàn đều, dành đủ các lý giải cho mọi loại hình khác nhau. Điều này là hợp lý trong bối

cảnh sinh hoạt văn hóa dân gian. Tƣơng ứng, với mội sinh, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa của

mỗi dân tộc là sự hiện diện có phần trội hơn của mỗi loại hình nghệ thuật so với các loại hình

khác cùng đồng hiện.

Đặt trong tƣơng quan đối sánh cụ thể, ƣu thế các lý giải về ca múa nhạc thuộc về các

dân tộc thiểu số anh em. Dân tộc Kinh cũng có lý giải về

91

loại hình nghệ thuật này nhƣng tỷ lệ quan niệm cổ phần ít hơn so với các dân tộc thiểu số.

Những quan niệm về ca múa nhạc dƣờng nhƣ bao trùm lên mọi thể loại khác nhau của văn

học dân gian các dân tộc thiểu số. Đó là những tán tụng, ngợi ca về giá trị, tác dụng của lời

hát, giọng ca. tiếng đàn, khúc sáo, điệu khèn... trong tác phẩm. Chẳng hạn, trong truyện cổ

Hai đời của dân tộc Tà ôi, dân gian nói về tài thổi sáo của A Chích: "tiếng sáo anh cất lên cả

khu rừng rộn ràng hòa theo tiếng sáo, bầy chim trên cây tung cánh múa và cất tiếng hót vang.

Sáo vui chúng hót rộn ràng, sáo buồn chúng hót nghe ai oán..."[57,55] Dân tộc H'mông kể về

tài múa khèn tuyệt diệu của chàng Rùa trong truyện có cung tên "Chàng vừa khèn vừa múa

những đƣờng tròn tuyệt đẹp. Tiếng khèn ấm áp du dƣơng bay lƣợn cùng với gió xuân lan hết

núi thấp đến đồi cao. Con ngƣời đẹp cùng với những nhịp múa đẹp nhƣ bƣớm lƣợn khiến các

cô gái không thể rời mắt đƣợc ..." [189,40]v.v. Những ví dụ tƣơng tự trong các tác phẩm tự

sự cùng vói những chiêm nghiệm có phần khái quát trong các thể loại văn vần dân gian đã

hợp thành một bộ phận các lý giải khá lớn về ca múa nhạc trong văn học dân gian các dân tộc

thiểu số. Phải nói rằng các dân tộc đã giành cho ca múa nhạc rất nhiều ƣu ái và thiện cảm.

Hành trình của các nhân vật đáng trân trọng trong các tác phẩm thƣờng rất hay gắn với nhƣng

hoạt động ca múa nhạc.... Nghệ thuật ca múa nhạc vì thế dễ có cơ hội đƣợc sử dụng thƣờng

xuyên. Đi đánh giặc, trong tang lễ, tỏ tình khi yêu đƣơng, những dịp lễ hội v.v... Ở cảnh

huống nào cũng cần đến sự hiện diện của nghệ thuật ca múa nhạc. Nói về hình tƣợng những

cô gái, chàng trai lý tƣởng dƣờng nhƣ dân gian các dân tộc thiểu số thƣờng hay có ý thức trao

thêm cho họ khả năng biết ca hát. thổi khèn, thổi sáo... Nghệ thuật âm nhạc trở thành một tiêu

chí xác định phẩm giá của con ngƣời. Không biết âm nhạc là mất đi một phần niềm tin của

cộng đồng về giá trị của bản thân. Theo Chế Lan Viên: "Phần đông ngƣời

92

H'mông đều biết một trong ba nhạc cụ: sáo, khèn, kèn môi". [157 , 36]. Chàng trai K'Đời

trong truyện Chàng K'Đời và nàng Ka Bla của dân tộc Cơ Ho đƣợc mọi ngƣời xem nhƣ đã

trở thành một chàng trai đích thực khi "bàn tay khéo léo của anh đã biết làm những con

thuyền độc mộc, biết giƣơng ná bắn con chim đang bay... Tiếng sáo của anh đã biết làm cho

con suối đang chảy phải đừng lại, những cô gái đi rẫy thấy ngẩn ngơ mà dừng chân lại". [163

- 43]. Còn các cô gái trong ý thức dân gian đƣợc coi là đẹp ngƣời tốt nết thì chẳng có mấy

ngƣời lại không biết hát hay, múa dẻo. Cô gái trong truyện Cô gái trong rừng và chàng trai

K'Khàr của dân tộc Cơ Ho; nàng Bala trong truyện cổ Chàng Bali và nàng Bala của dân tộc

Tà ôi; nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh và cô gái trong truyện cổ Sông Bằng êm sóng

của dân tộc Thái, Làu Slam trong truyện cổ Tiếng hát của Làu Slam của dân tộc Cao Lan

v.v... đều là những cô gái có tài ca hát tuyệt diệu... Trong các bản trƣờng ca, sử thi Tây

Nguyên chẳng mấy khi bặt tiếng trống, tiếng cồng, chiêng... Vào những cảnh huống lễ hội

hoặc ra quân chống lại kẻ thù, cả Tây Nguyên nhƣ ngất ngây trong thế giới âm thanh huyền

diệu của cồng, chiêng, đàn nhạc... Những âm thanh kỳ diệu của âm nhạc đã đi vào tâm linh

con ngƣời nhƣ một nỗi ám ảnh thƣờng trực. Ngƣời Tây Nguyên thƣờng dùng âm thanh cồng

chiêng để làm bản vị nhận thức các đối tƣợng trong thế giới.Chẳng hạn nói về ngôi nhà rông

dài rộng, họ thƣờng nói "nhà rông dài bằng tiếng chiêng" hoặc tiếng cƣời trong trẻo của cô

gái thì đƣợc ví "tựa tiếng chuông Kua ngân dài" [119 ,10]. Gắn bó sâu nặng với ca vũ nhạc,

trao cho ca nhạc tất cả nỗi niềm đam mê của mình nhƣ thế, các dân tộc anh em không thể

không có ý thức về ca nhạc. Có lẽ đứng trƣớc dàn hợp xƣớng tổng hợp của cuộc biểu diễn,

các nghệ sĩ dân gian dân tộc thiểu số đã chú mục nhiều nhất vào ca vũ nhạc - cái phần nổi trội

hơn cả trong tổng thể nghệ thuật nói chung. Vì thế đến với văn học dân gian của

93

họ, chúng ta bắt gặp những khía cạnh quan niệm nghệ thuật ca múa nhạc là chính... Điền kiện

môi sinh của các dân tộc thiểu số có nhiều yếu tố thuận lợi cho các loại hình nghệ thuật biểu

diễn - trong đó có ca mún nhạc phát triển mạnh mẽ. Đời sống sản xuất, tập quán sinh hoạt, tín

ngƣỡng thờ cúng... của các dân tộc thiểu số đều cần đến sự hiện diện của ca múa nhạc. Âm

nhạc là phƣơng tiện hữu hiệu giúp họ thỏa nguyện những ƣớc muốn sinh tồn giữa một thế

giới môi sinh nghiệt ngã. Nông Quốc Chấn quả quyết rằng: "Nghệ thuật nhảy múa là sở

trƣờng ở các vùng dân tộc thiểu số" [196 , 55]. Sau khi phân tích các giai điệu vũ đạo của

ngƣời Kinh, nghệ sĩ Đỗ Doãn Phƣơng kêt luận: "Nhìn về múa nhạc, các dân tộc ít ngƣời rực

rỡ hơn nhiều" [129, 27]. Nhà nghiên cứu âm nhạc Tô Ngọc Thanh cũng từng nhận định:

'"Hầu nhƣ tất cả các điệu múa nhạc cổ truyền của các dân tộc thiểu số mà chúng tôi đƣợc biết

và tham gia sƣu tầm có một chất lƣợng nghệ thuật rực rỡ và đẹp đến thế....Nhiều điệu múa

của đồng bào chỉ cần đƣợc gia giảm đôi chút là đã chiếm giải khôi nguyên trong các cuộc thi

trong và ngoài nƣớc". [196,123]. Nhũng điệu múa vẫn thƣờng đƣợc triển khai trên nền ca

nhạc. Vì vậy ƣu thế về múa tất yếu cũng sẽ kéo theo ƣu thế về ca nhạc phát. triển. Đời sống

thƣờng nhật của nhân dân các dân tộc anh em chẳng mấy khi thiếu vắng nghệ thuật ca múa

nhạc. Ca nhạc là thứ ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt của họ cả khi buồn cũng nhƣ khi vui. Nhà

thơ Lò Ngân Sủn phát hiện: "Trai gái H'mông chỉ tỏ tình với nhau bằng tiếng ugica (đàn

môi), tiếng sáo, tiếng gầuplềnh (hát tình yêu). Chả thế mà trai gái H'mông ai cũng có chiếc

ugica cất trong túi áo" [143,16].Tƣ tƣởng của C.Mác về "phƣơng thức sản xuất đời sống vật

chất quyết định các quy trình sinh hoạt xã hội, chính trị, tinh thần" sẽ giúp ta hiểu rõ hơn thực

chất căn nguyên phát triển mạnh mẽ của các loại hình nghệ thuật biểu diễn trong đời sống

dân gian các dân tộc thiểu số anh em.

94

Dân tộc. Kinh tuy cũng có nói đến ca múa nhạc nhƣng không có độ dày các lý giải về

loại hình nghệ thuật này (đặc biệt là những lý giải về các loại nhạc cụ) nhƣ các dân tộc anh

em. Song bù lại họ có khá nhiều những kiến giải về văn chƣơng và ngôn từ nghệ thuật. Nhiều

vấn đề về bản chất của văn học, chất lƣợng thơ văn, tiếp nhận văn học, mối quan hệ giữa nội

dung và hình thức của tác phẩm v.v... mà các thế hệ nghệ nhân dân gian các dân tộc thiểu số

không hề nhắc đến thì đã đƣợc dân gian ngƣời Kinh sớm có ý thức tiếp cận và lý giải khá

thấu đáo.

Trong ý thức dân gian ngƣời Kinh, văn thơ là những giá trị tinh túy, cao siêu, không

phải ai cũng có thể bƣớc vào lãnh địa văn chƣơng một cách dễ dàng. Bằng những truyện cƣời

hóm hỉnh, thông minh, dân gian dân tộc Kinh đã trực tiếp dè bỉu những loại thơ văn quá kém

cỏi, nhếch nhác. Truyện cƣời Ngửi văn kể chuyện một ngƣời mù có tài "ngửi văn" rất độc

đáo: có thể biết đây là Tây Sương ký vì ngửi thấy mùi son phấn, kia là Tam quốc chí. vì ngửi

thấy có mùi binh đao. Đến khi thầy tú nọ đƣa văn của mình ra thì ngƣời mù liền hỏi: "Văn

của anh chứ gì?" Thày tú vặn: "Sao biết?" Ngƣời mù liền đáp "Nghe có mùi thum thủm".

[178 , 109]. Truyện cƣời Lấy đâu ra mà rặn trực tiếp chế diễu anh đồ dốt làm câu đối. Thấy

anh đồ loay hoay mãi không thành, chị vợ anh ta hỏi: "Có khó bằng rặn đẻ không anh?" Anh

ta trả lời: "Đẻ thì còn có con trong bụng, rặn mãi phải ra, chứ làm câu đối, chữ không có lấy

đâu ra mà rặn" [178, I74]. Cƣời cợt nhạo báng những loại văn rởm, đồng thời dân gian cũng

đề ra yêu cầu rất cao đối với giá trị nghệ thuật của thơ văn. Chẳng hạn dân tộc Kinh đã chế

diễu loại Thơ con cóc: "Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra..., con cóc

nhảy đi..." hay loại thơ mô phỏng nhạt nhẽo theo lối sao chép trần trụi hiện thực qua việc mô

tả cái chuông:

Chùa này có cái chuông

95

Đánh nó kêu boong boong

Treo lên nhƣ cái vai

Ấy nó vốn bằng đồng. [96 , 268].

Làm sao có thể đến với thơ văn khi tiềm năng thơ văn của con ngƣời trống rỗng,giản

đơn nhƣ anh thầy đồ nọ? hay nhƣ tác giả của những bài Thơ con cóc, Thơ cái chuông kia?

Đặc biệt, chất lƣợng sáng Tác văn học cũng đƣợc dân gian dân tộc Kinh trực tiếp

hoặc gián tiếp nói đến khá độc đáo:

Văn hay chẳng lọ dài dòng.

hoặc:

Văn hay chẳng luận đọc dài

Vừa mở đầu bài đã biết văn hay v.v...

Văn chƣơng thƣờng thấm đƣợm ý thức chủ quan của chủ thể sáng tạo. Không có một

bản lĩnh tiếp nhận tinh táo dễ sinh ra chủ quan phiến diện khi lĩnh hội. Sự thực ấy cũng đã

đƣợc đồng bào Kinh khái quát:

Xƣa nay thế thái nhân tình

Văn mình thì đẹp, vợ mình thì hay.... [72 - 119]

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, nhờ ngôn từ mà xây cất nên. Trong dân gian dân

tộc Kinh tuy không có mấy những lời bàn trực tiếp về văn học nhƣng một khi đã có ý thức

nói về lời hay, câu đẹp... là dân gian đã nói đến ngôn từ có tính chất nghệ thuật,- Nói khá

nhiều về ngôn từ thẩm mỹ nghệ thuật cũng có nghĩa là họ đã bƣớc đầu tiếp cận đến văn học ở

một khâu then chốt. Quả vậy, lọc tìm trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Kinh, số lƣợng

những câu nói có ý nghĩa bộc lộ quan niệm về ngôn từ nghệ thuật là phƣơng tiện quan trọng

bạc nhất của văn học đã đƣợc đông bào Kinh luận bàn đến với một số lƣợng khá dồi dào. Họ

đã sớrn có ý thức suy tƣ, nắm bắt đƣợc những sắc thái da dạng của ngôn từ. Với ngƣời trung

thực thì "nói nhƣ

96

đinh đống cột". Những kẻ ba hoa khoác lác thì "nói trơn nhƣ nƣớc chảy". Với kẻ lật lọng, lèo

lá thì "Nói xuôi cũng đƣợc, nói ngƣợc cũng hay". [122, 75] v.v...

Ngƣời Kinh ý thức về việc sử dụng ngôn từ bằng tất cả nỗi niềm nhân ái, nhân văn:

- Lời nói không mất tiền mua;

Chọn lời mà nói cho vừa lòng nhau.

- Hoa thơni ai nỡ bỏ rơi

Ngƣời khôn ai nỡ nặng lời với ai? v.v... [178 , 165].

Quả thật dân tộc Kinh đã có một bộ phận quan niệm khá đặc sắc về nghệ thuật thơ

văn và ngôn từ thẩm mỹ.

So với các dân tộc thiểu số anh em, văn chƣơng với ngƣời Kinh đã sớm trở thành một

nghệ thuật hoạt động khá độc lập. Nó sớm tách khỏi cơ cấu nghệ thuật nguyên hợp nhờ sự

hiện diện của chữ viết từ khá sớm. Theo nhà nghiên cứu văn học Bùi Văn Nguyên: "Văn học

Việt Nam (tức văn học của ngƣời Kinh - HML) phôi thai vào khoảng thời kỳ Bắc thuộc và

hình thành từ khi nền tự chủ đƣợc xác lập... Nhƣ vậy, chúng ta (tức ngƣời Kinh -HML) đã có

hẳn một nền văn học viết từ thế kỷ X trở về sau.'' [105 , 46]. Tất nhiên nền văn học viết ở

buổi sơ kỳ này chủ yếu là nền văn học viết bằng chữ Hán. Còn nền văn học viết bằng chữ

Nôm phiên âm dân tộc, theo tác giả Đinh Gia Khánh thì "hình thành vào đời Trần", tuy nhiên

tác giả cũng đã lƣu ý đến một số ý kiến cho rằng "chữ Nôm xuất hiện từ thời kỳ Bắc thuộc"

[77, 139]. Trong khi đó nền văn học viết của một số ít dân tộc thiểu số hình thành rất muộn

mằn. Dân tộc Tày - một trong những dân tộc có nền văn học viết sớm nhất và phát triển nhất

trong số các dân tộc thiểu số.. "đã từng có những tác phẩm đạt tới tầm cao của cả nƣớc" (Lâm

Tiến) [154,18]. thì cũng phải đến thế kỷ XVII mới xuất hiện những tác gia, tác

97

phẩm viết bằng chữ Nôm Tày. Văn học viết của dân tộc Thái còn xuất hiện muộn hơn nữa

(vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX). Nhƣ vậy theo thƣ tịch hiện có thì chỉ có hai

dân tộc Tày, Thái là cổ văn học viết từ trƣớc cách mạng tháng Tám Các dân tộc thiểu số nói ít

về văn học vì họ không có những điều kiện khách quan và truyền thống phát triển văn học.

Loại trừ một số ít dân tộc thiểu số có điền kiện giao lƣu thuận lợi với các dân tộc láng, giềng

giàu truyền thống thơ văn nên có xuất hiện rải rác vài cảm nhận thoảng qua về văn học.

Chẳng hạn dân tộc Tày, Dao, Nùng là những dân tộc có địa bàn trú nằm trên những trục giao

lƣu trực tiếp với ngƣời Việt, ngƣời Hoa... từ rất sơm. Cho nên mới có đƣợc vài lý giải đáng

lƣu ý về văn học. Còn tuyệt đại bộ phận các dân tộc thiểu số khác hầu nhƣ không hề nhắc đến

thơ văn trong các lý giải của mình về nghệ thuật.

Dân tộc Dao bên cạnh một vài câu ca đề cao vị thế của ngƣời giỏi giang chữ nghĩa

văn chƣơng nhƣ đã nói ở trên cũng đã có ý thức coi thơ văn là phƣơng tiện rèn dạy con ngƣời

sống đúng, sống đẹp:

Thanh nhàn suy nghĩ đặt bài thơ

Dạy cho cháu con mai sau thấu hiểu

Gây dựng gia đình phải suy nghĩ. [21 , 370].

Đồng bào Tày coi việc am hiểu thơ văn sâu sắc cũng đồng nghĩa với sự am hiểu con

ngƣời và cuộc đời tƣờng tận, nhờ đó việc ứng nhân xử thế của con ngƣời sẽ đúng mực và lịch

lãm hơn:

Tôi đến đây nộp lễ cho ngƣời

Có điều chi sai trời đừng trách

Bởi tôi không giỏi sách, giỏi văn

Sai lòng xin bản thôn đừng quở. [21 , 499]..v.v..

Mới chỉ có một hai dân tộc có chút ít di sản quan niệm về thơ văn. Những ý kiến rời

rạc, lẻ tẻ về thơ văn nhƣ vậy chƣa đủ làm nên diên mạo

98

bức tranh quan niệm về văn học của các dân tộc. Ở đây cán cân quan niệm nghệ thuật quả đã

quá thiên lệch về phía thế giới những âm thanh kỳ diệu của điêu đàn, khúc sáo, lời ca... Nếu

đã biết rằng ca nhạc là một phần đời sống tinh thần không thể thiếu vắng của các dân tộc anh

em thì tất phải thừa nhận sự thật hiển nhiên ấy. Còn đối với dân tộc Kinh, nền văn học viết

xuất hiện từ khá sớm lại cùng tồn tại và phát triển song hành với văn học dân gian. Sự cộng

hƣởng trí lực từ hai nguồn văn học ấy chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực cho

quá trình sáng tạo cũng nhƣ phê bình luận giải về văn học trên cả hai lĩnh vực văn học bác

học và văn học dân gian của dân tộc Kinh. Mặt khác, địa bàn cƣ trú của dân tộc Kinh chủ yếu

ở những khu vực là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả cộng đồng dân tộc, dễ có điều

kiện tập trung trí lực văn nghệ của cả dân tộc quốc gia. Hơn nữa trong tƣ cách dân tộc chủ

thể, dân tộc Kinh cũng là ngƣời đứng ở nơi đầu mối tiếp nhận các giá trị và tinh hoa văn hóa

văn nghệ từ các dân tộc, các quốc gia khác. Đó là những căn nguyên tạo cơ hội thuận lợi cho

việc trau dồi, hun đúc các quan niệm văn học đa dạng và khá thấu triệt trong văn học viết và

từ đó sẽ lan tỏa đáng kể sang văn học dân gian của họ.

2.2.2. Sự khác nhau về thể loại trong việc bộc lộ quan niềm về nghệ thuật.

Ở đây đặt vấn đề xem xét các thể loại hiện diện dƣới dạng các "văn bản" trong sáng

tác dân gian cổ truyền mà ở đó có những ngôn từ hoặc những tình tiết, sự kiện... liên quan

đến nghệ thuật sẽ tập trung vào những loại thể khác nhau nhƣ thế nào giữa các dân tộc thiểu

số và dân tộc Kinh?

Nhìn chung phần lớn các quan niệm về nghệ thuật (về cái đẹp) trong văn học dân gian

các dân tộc thiểu số chủ yếu đƣợc triển khai trên các thể loại tự sự dân gian nhƣ truyện cổ,

truyện thơ, sử thi v.v... Mức độ xuất hiện các quan niệm trên các thể loại thơ ca, tục ngữ

thành ngữ... rất ít. Trong khi

99

đó. các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian dân tộc Kinh chủ yếu xuất hiện qua

các thể loại văn vần dân gian nhƣ thơ ca, tục ngữ. thành ngữ v.v...

Trong văn học dân gian Việt Nam nói chung, các tác phẩm tự có tầm cỡ lớn nhƣ

truyện thơ, trƣờng ca, sử thi... đều thuộc về văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Họ là chủ

nhân sáng tạo và làm cho vị thế các thể loại này có đƣợc một diện mạo đáng nể trọng trong

lịch sử văn học dân tộc. Những tác phẩm Vượt biển, Kim Quế, Trần Châu, Quảng Lâm

Ngọc Lương... của ngƣời Tày. Tiễn dặn người yêu, Chàng Lú nàng Uá, Khăm Panh,

Chương Han... của ngƣời Thái, Nàng Nga Hai Mối, Nàng Ờm chang Bông Hương, Vườn

hoa núi Cối, Tráng Đồng, Đẻ đất đẻ nước... của ngƣời Mƣờng, Đam San, Sing Nhã, Khinh

Dú, Đăm Di... của người Ê đê, Dông tư, Rốc Xét... của ngƣời Ba na, Riêm kê, Si Thạch...

của ngƣời Khơ me v.v.. đều là những tác phẩm tự sự trƣờng thiên bất hủ, góp phần tạo dƣ âm

vang vọng cho nền văn học dân gian Việt Nam đa dân tộc.

Các dân tộc thiểu số anh em có một kho tàng tác phẩm tự sự dân gian đổ sộ và cũng

nƣơng theo các tác phẩm tự sự, họ có thói quen bộc lộc các ý tƣởng về cái đẹp, về nghệ thuật

của mình một cách thuận tiện so với các thể loại khác. Căn nguyên của vấn đề, có lẽ một

phần quan trọng bắt đầu từ tạng thức tƣ duy quen thuộc của họ. Các dân tộc thiểu số anh em

ƣa nhận thức thế giới đối tƣợng trong tính tuần tự, có ngọn ngành đầu cuối. Đồng bào Thái đã

từng đề ra những nguyên tắc nghiêm ngặt trong quá trình kể chuyện nhƣ sau:

Phải kể từ đầu đến cuối

Hết đoạn trƣớc, kể dòng sau

Hết dòng sau, kể đoạn mới. [111, 170]

(Ẳm Ệt luông)

100

Quả thật, loại hình văn học kể (tức tự sự) có ƣu thế giúp họ giãi bày các ý tƣởng sâu

xa qua những chi tiết, tình tiết sinh động. Thơ ca, tục ngữ, thành ngữ... thiên về khái quát hiện

thực trong những cách nói hàm súc, cô đọng, dồn nén các ý tƣởng trong những đơn vị ngôn

từ đặc biệt hạn chế... xem ra dễ đối nghịch với những cách nói ƣa sự diễn thuyết, kể lể dài

dòng về những đối tƣợng nhận thức sinh động của các dân tộc anh em. Không có gì khó hiểu

khi ta thấy trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc có rất ít tục ngữ, thành ngữ, châm

ngôn... và số lƣợng ít ỏi ấy lại cũng thuộc về vài ba dân tộc "đa số" trong các dân tộc thiểu số

có trình độ phát triển cao hơn nhƣ: Tày, Nùng, Thái, Mƣờng. Tự sự là thao tác cơ bản phù

hợp với đặc trƣng nhận thức cụ tƣợng của các dân tộc anh em từ ngàn đời nay. Vì thế ngay cả

khi nhận thức đối tƣợng dƣới dạng thức thơ ca thì hồn cốt thơ ca của họ vẫn là thơ thiên về tự

sự, mô tả là chính. Đó là loại thơ rất gần với lối nói khẩu ngữ mộc mạc tự nhiên mà chúng tôi

sẽ có dịp nói kỹ hơn ở các chƣơng mục sau.

Nhƣ đã nói, các quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật trong văn học dân gian dân tộc

Kinh về cơ bản dàn đều trên các loại thể khác nhau, song ở đó các lý giải chí thú, sâu sắc nhất

lại thiên về các thể loại văn vần trữ tình nhƣ ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ... Dân tộc

Kinh có những câu ca, tục ngữ nói về nghệ thuật thật sinh động mà giàu sức khái quát

Khen ai khéo gẩy bài đờn

Làm cho con sáo nó chập chờn tỉnh mê. [117 ,412]

Đàn bầu mà gẩy tai trâu

Đạn đâu bắn sẻ, gƣơm đâu bắn ruồi. [72 , 169]

Đất nghèo chạy bữa ăn đong

Mà câu hát ghẹo thì không mô bằng v.v.. [72 ,115]

Quan niệm về cái đẹp cũng thật thấm thía qua những câu ca tục ngữ hàm xúc:

101

- Ngƣời ta là hoa của đất

- Lạ thay nết nói nết cƣời

Nết sao lại khiến cho ngƣời muốn thƣơng. [72 ,60]

- Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo

Nghèo tiểu nghèo bạc chẳng cho là nghèo. [72 , 157]

Thói đời hay chuộng bề ngoài

Nào ai ai đã biết ai hơn nào v.v.... [72,163]

Ƣu thế, sở trƣờng biểu đạt các ý tƣởng về nghệ thuật, về cái đẹp trong văn học dân

gian dân tộc Kinh chắc chắn có liên quan đến tiềm lực phát triển thơ ca rực rỡ từ rất sớm của

họ. Biểu đạt trong khuôn khổ ngôn từ thơ ca thật không đơn giản. Dân gian ngƣời Kinh đã

từng bài xích mỉa mai những loại Thơ con cóc giản đơn, mô phỏng dễ dãi hiện thực, thì cũng

có nghĩa họ đã đề ra yêu cầu rất cao đối với giá trị đích thực của văn học - nghệ thuật ngôn

từ. Những ý tƣởng về nhân sinh nhân thế một khi đã đƣợc chiêm nghiệm đến độ chín thì dù

đƣợc biểu đạt ra bằng cách nào cũng đều thú vị. Nhƣng chắc chắn sẽ thú vị hơn nếu nhƣng ý

tƣởng đó lại đƣợc diễn đạt bằng tiếng nói thơ ca đầy ám ảnh. Cái khiếu thơ ca dƣờng nhƣ vừa

tự phát sáng trong trái tim nóng hổi tình ngƣời của mỗi chủ thể, lại vừa cần có cái nền tảng

nâng đỡ, khích lệ của truyền thống cộng đồng. Truyền thống trọng dụng thơ ca của ngƣời

Kinh thật đáng quý. Các các dân tộc thiểu số có thế tỏ tình với nhau bằng tiếng sáo, tiếng

khèn, kèn môi... Ngƣời Kinh thƣờng tỏ tình ƣớm hỏi nhau bằng hình thức thơ ca:

- Gặp dây mận mới hỏi đào

Vƣờn hồng tƣơi tốt ai vào hay chƣa?

- Gặp đây anh nắm cổ tay,

Anh hỏi câu này có lấy anh không?

- Qua đình ngả nón trông đình

102

Đình bao nhiêu ngói thƣơng mình bấy nhiêu v.v... Bất luận ở đâu, làm việc gì, có dịp

bắt gặp những câu nói vần vè, nhịp điệu là liền đƣợc cộng đồng tán thƣởng, trầm trồ... Nhà

nƣớc phong kiến thiết lập chế độ thi cử để chọn ngƣời hiền tài giúp nƣớc lại cũng chủ yếu lấy

văn chƣơng cử tử làm trọng. Các thế hệ ngƣời Kinh háo hức lập danh khoa cử cũng đều gắng

gỏi cật lực với chuyện "tầm chƣơng trích cú" văn chƣơng Cổ Kim, Nam Bắc. Có thể nói

ngƣời Kinh hòa nhập vào quỹ đạo thơ ca từ rất sớm. Thơ ca dƣờng nhƣ đã là khía cạnh giá trị

góp phần tôn cao phẩm giá đích thực của con ngƣời. Không thể phủ định những thành tựu rực

rỡ của thơ ca qua lịch sử phát triển văn học của ngƣời Kinh. Tự hào về bề dày huyền thống

văn chƣơng dân tộc, Ngô Thì Nhậm đã từng viết trong lời tựa cuốn Tỉnh sà kỷ hành của

Phan Huy Ích: "Nƣớc Việt ta lấy văn hiến giữ nƣớc, thi ca thai nghén từ đời Lý, thịnh vƣợng

ở đời Trần, dấy lên rầm rộ ở đời Hồng Đức, đời Lê. Một bộ "Toàn Việt thi lục", về cổ thể, thì

không nhƣờng thi ca các đời Đƣờng, Tống, Nguyên, Minh; nhả ngọc phun châu, thật đáng

gọi là một nƣớc thơ." [96, 65]. Bên cạnh văn học viết, nhiều truyện cổ, truyện thơ dân gian

ngƣời Kinh đã dành cho những ngƣời giầu ý chí phấn đấu trên con đƣờng hƣớng nghiệp văn

chƣơng "những tình cảm trân trọng nhƣ Sự tích tháp Báo Ân ; Truyện thơ Lương Sơn Bá -

Chúc Anh Đài; Phạm Tải - Ngọc Hoa v.v...

Rõ ràng ý thức ƣa biểu đạt các quan niệm về nghệ thuật; về cái đẹp dƣới hình thức

văn vần của dân tộc Kinh là có căn nguyên sâu xa từ trong chiều sâu tiềm thức luôn hƣớng

tới ý nguyện giao tiếp ngôn từ lịch lãm hài hòa của họ.

2.2.3 . Sự khác nhau về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật.

Các dân tộc anh em thƣờng biểu đạt những ý tƣởng về cái đẹp về nghệ

103

thuật bằng những hình thức bộc trực, giầu hình ảnh so sánh dung dị mộc mạc, rất gần với

khẩu ngƣ. Cho dù đã đƣợc bọc lót dƣới hình thức thơ song lời biện minh của cô gái H'mông

này chẳng khác mấy với lời thoại thông thƣờng trong khẩu ngữ hồn nhiên hàng ngày của họ:

Bài gì câu gì cũng học đƣợc đủ

Bài gì câu gì chàng cũng học đƣợc đều

Còn em nhƣ con gà sống của cha của mẹ mới tập gáy

Bài gì câu gì em cũng không học đƣợc đủ

Bài gì câu gì em cũng không học đƣợc đều...

Khi miêu tả nhận xét, lời lẽ biểu đạt của họ cũng giầu tính chất cụ tƣợng nên rất gợi

hình. Chẳng hạn nói về tiếng hát tuyệt diệu của nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh, dân

gian Thái bày tỏ đối tƣợng sinh động tới mức có thể trực cảm đƣợc:

Nàng mở miệng hát bên núi

Voi đội ngà đi đến nghe

Nàng hát bên dá con đó mẹ

Cá Khếnh quên bơi

Cá Trôi bỏ dàn vơ vẩn

Nàng đến hát bên rừng

Để chim quên ăn trái chín, trái xanh... [153,60]

Tính chất cụ thể rõ ràng trong sự lý giải về cái đẹp nhiều khi còn đƣợc các dân tộc

thiểu số đẩy tới mức cảm nhận xác thực tựa nhƣ có thể đong đếm đƣợc: Đam San đánh giá

"Hơ Blý đẹp hơn nàng Hơ ây chừng ba ngón tay". Hơ Blý khen Hơ nhí: "Chị đẹp lắm, chị

đẹp bằng hai vƣờn hoa qủa rồi đấy..." [173, 54]. Vẻ đẹp của một cô gái đƣợc dân gian vân

Kiều cảm nhận: "thân thể em mịn màng nhƣ hạt gạo trắng đầu mùa. Da đẻ em mát mẻ nhƣ

nƣớc suối đầu nguồn" [151,7].v.v...

104

Có cảm giác đã miêu tả đối tƣợng là họ nhấn thật sâu, xoáy thật kỹ vào các thuộc tính

của đối tƣợng để nói đến thấu triệt mới thôi. Xem ra họ không ƣa khái quát,, vì nhƣ vậy đối

tƣợng hiện lên sẽ chung chung, trừu tƣợng, thiếu xác thực mạnh mẽ. Đồng bào Ê đê miêu tả

vẻ đẹp hình thể của một cô gái trong sự hình dung cụ thể với các loại sắc màu rực rỡ trong tự

nhiên:

Mắt em xinh tựa quả cà

Má em nhƣ quả mơ-kia chín hồng

Môi em tựa chiếc câu vồng ban trƣa. [119, 10]

Cũng nhƣ vậy dân gian Mƣờng cảm nhận về vẻ đẹp hình thể của Út Lót trong truyện

thơ Tráng Đồng:

Đẹp tốt nhƣ tiên nhƣ ngọc

Bắp tay trắng bóng nhƣ ngần

Bắp chân trắng bóng nhƣ ngà

Nƣớc da mềm trơn nhƣ nõn chuối...

Mắt nàng tƣơi, trong nhƣ sao sáng... [3, 38]

Sự hồn nhiên, dung dị mộc mạc theo lối khẩu ngữ vốn đã chất chứa, dồi dào ở thơ ca,

lại càng có dịp đi đƣợc phát huy hơn nữa ở phạm vị tác phẩm tự sự. Những thuộc tính phẩm

chất vốn có ở đối tƣợng đã đƣợc dân gian miêu tả theo thủ pháp đặc tả thấu triệt. Chẳng hạn,

về uy lực của nghệ thuật cồng chiêng, ngƣời Ê đê trong một trƣờng ca đã kể lại bằng những

hình ảnh liên tƣởng thật thơ mộng và kỳ thú hiếm có khi nói về tác dụng to lớn của nghệ

thuật:

Đánh chiêng tiếng trầm

Chiêng ngân khe khẽ

Đánh nhẹ cho gió lùa xuống đất

Đánh cho vang khắp vùng

105

Rung cho tiếng lùa qua đầm

Làm cho bầy ma quên hại con ngƣời

Cho loài chuột sóc quên đào hang luôn

Cho rắn lùa ra khỏi tổ

Cho hƣơu nai dừng mà ngó

Cho thỏ lắng tai nghe

Quên cả nhai cỏ non... [103, 203]

Rõ ràng các dân tộc anh em nghĩ suy về sức mạnh của nghệ thuật bằng tất cả niềm tin

hồn nhiên, chân cảm của mình. Họ cho rằng: sức mạnh của nghệ thuật có thể giúp cho con

ngƣời cầu đƣợc ƣớc thấy cả. Ý thức về sức mạnh của nghệ thuật cơ hồ nhƣ một xác tíu kỳ

diệu nhƣ vậy chỉ có thể tìm thấy trong ý thức dân gian các dân tộc thiểu số. Vẻ đẹp của nàng

Hơ bia trong truyện cổ Nói khoác gặp thời đã đƣợc các nghệ nhân dân gian Ê đê tán tụng

thật chi tiết: "Hơ bia càng lớn càng đẹp. Mọi miền từ ven sông to suối nhỏ tới chân núi rừng

thƣa không có một cô gái nào đẹp bằng nàng. Đến tuổi lấy chồng, bàn tay nàng càng thêm

khéo léo. Nàng chăn heo gà, heo gà mau lớn và nhiều con. Nàng dệt khăn khố màu sắc khăn

khố lộng lẫy nhƣ sắc cầu vồng... Nàng bƣớc tới đâu, ở đó sáng lòa nhƣ ánh chớp..." [193 ,

103] v.v... Thả dòng ý thức theo sự tự do không hạn định của chuỗi ngôn từ tự sự, các nghệ

nhân dân gian dân tộc thiểu số thƣờng thỏa thuê ngắm nhìn, tán tụng vẻ đẹp của các nhân vật

một cách tƣờng tận, chi ly. Trong khi đó ý thức về cái đẹp và về nghệ thuật trong văn học dân

gian dân tộc Kinh thƣờng đƣợc biểu đạt theo lối khái quát. Những phẩm chất giá trị của đối

tƣợng thẩm mỹ sẽ đƣợc gợi ra nhờ những khái quát hàm xúc. Chẳng hạn về vẻ đẹp của công

chúa trong truyện cổ: Sự tích đầm Nhất dạ , dân tộc Kinh phác vẽ "vua Hùng vƣơng thứ ba

có nàng công chúa rất xinh đẹp" [160, 5] hay trong Huyện cổ Hà ô lôi: "Vào đời nhà Trần, ở

làng Ma la gần thành

106

Thăng Long có Đặng Sĩ Dinh tuổi còn trẻ mà đã làm quan to, ông ta có một ngƣời vợ rất đẹp"

[160 42] v.v... Thay vì cho cách miêu tả, kể lể chi li về cái đẹp của vóc dáng, làn da, khuôn

mặt., mái tóc, tay, chân... mà các dân tộc vẫn thƣờng hay làm, dân tộc Kinh thƣờng chỉ giới

hạn về cái đẹp của nhân vật một cách khái quát : "rất xinh đẹp", "rất đẹp", "đã đẹp ngƣời lại

tốt nết".... Nói về cái đẹp của con ngƣời, các dân tộc thiểu số rất thƣờng đặt vẻ đẹp của đối

tƣợng trong sự đối sánh với các thuộc tính đẹp của thế giới vật chất xung quanh. Dân tộc

Kinh không phải không có ý thức ấy song cơ bản ít mải mê hơn. Có thể tìm ra rất nhiều

những câu ca, lời hát của đồng bào Kinh phác họa vẻ đẹp của con ngƣời mà không nhất thiết

phải đặt nhân vật trong sự ứng chiếu với đối tƣợng tự nhiên nào cả; chẳng hạn:

- Chẳng tham nhà ngói rung rinh

Chỉ tham một nỗi anh xinh miệng cƣời

Miệng cƣời anh đáng mấy mƣơi

Chân đi đáng nén, miệng cƣời đáng trăm. [122, 70]

- Lạ sao nết nói nết cƣời

Nết sao lại khiến cho ngƣời muốn thƣơng. [72, 60]

Khi nói về nghê thuật , dân tộc Kinh cũng ít khi lý giải tỉ mỉ những diễn biến của quá

trình tác động nghệ thuật từ chủ thể đến đối tƣợng mà thƣờng khái quát qua những chi tiết cô

đọng. Chẳng hạn trong Truyện Thạch Sanh dân gian nói về hiệu quả của tiếng đàn đối với

nỗi niêm tâm sự của công chúa: "Công chúa ngồi trên lầu, nghe tiếng đàn bỗng reo mừng.,

cƣời nói, xin vua cha cho gọi ngƣời gẩy đàn đến..." [31, 50]. Hoặc trong truyện Sự tích Sọ

Dừa , dân gian nói về tâm trạng của cô ba con gái phú ông khi nghe tiếng sáo của Sọ Dừa:

"Tiếng sáo lúc trầm, lúc bổng, lúc mau lúc khoan, thấm thía cõi lòng, làm cho cô gái tự nhiên

thấy bồn chồn thổn thức." [31, 9]. Cũng nói về hiệu quả của tiếng đàn, tiếng sáo, dân gian

các

107

dân tộc thiểu số thƣờng mô phỏng rất chi ly, tạo cảm giác trực cảm rõ rệt. chẳng hạn tiếng

sáo của Hơ Rít - chàng trai trong truyện cổ Tiếng sáo thần kỳ của dân tộc Gia rai khi gặp

ngƣời yêu Gặp lại ngƣời yêu, Hơ rít mừng quá, Cầm sáo ra thổi không biết mệt. Càng thổi,

mắt Hơ rít càng sáng ra, tóc càng đen mƣợt nhƣ lƣng con rắn than, da dẻ chàng trở nên tƣơi

tắn tựa nhƣ màu khâu đồng. Hơ rít không còn đen đủi, xấu xí nữa. Lúc đầu ngồi nghe Hơ rít

thổi sáo, cô gái còn e thẹn. Về sau, theo tiếng sáo thánh thót, trầm bổng nàng bắt đầu nhảy

múa say sƣa, đến khi mệt quá, cô gái gục đầu vào lƣng Hơ rít ngủ....''[10,367]. Cách biểu đạt

về tác dụng của nghệ thuật quá đỗi cụ thể, hồn nhiên và thành thật nhƣ vậy chỉ có thể bắt gặp

trong ý thức của dân gian các dân tộc thiểu số anh em (đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở Tây

Nguyên), Cách thức biểu đạt này có một phần căn nguyên từ nhịp điệu sinh hoạt tinh thần và

chu trình sản xuất quen thuộc của các dân tộc anh em từ ngàn xua. Cuộc sống muôn mặt của

họ dƣờng nhƣ đã đƣợc hoạch định vào trong từng khung quĩ thời gian ổn định theo từng năm

tháng. Trong một năm, tháng nào phát dẫy, dọn nƣơng, tháng nào gieo hạt, làm cỏ, thu hoạch;

tháng nào lễ hội, cƣới xin.... tất cả đều diễn ra theo một nhịp điệu nhất quán từ năm này qua

năm khác. Thêm vào đó là lối sống du cƣ, du canh luôn di chuyển môi trƣờng cƣ trú... Những

nguyên do này quả có đem đến cho con ngƣời thói quen ƣa những gì cụ thể, thiết thực, xa lạ

với những gì viển vông, phi thực. Môi trƣờng sống sẽ tạo ra lối sống, lối nghĩ quen thuộc để

rồi từ đó hiển thị vào trong cảm quan nghệ thuật của họ qua văn học dân gian.

Ở trên đã có dịp nói đến những điều kiện khách quan thuận lợi đối với thực tiễn phát

triển văn học: của ngƣời Kinh. Một dân tộc một khi đã biết ý thức thật sâu sắc thấm thía về

bản chất, đặc trƣng và yêu cầu tiếp nhận văn học cũng nhƣ các hình thức ngôn từ thẩm mỹ

chắc chắn cũng sẽ có khả năng tự ý thức đƣợc ngƣỡng độ biểu đạt về đối tƣợng một cách

108

chừng mực; thâm thúy... Phải chăng ý thức biểu đạt các quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật

trong văn học dân gian ngƣời Kinh có thiên hƣớng nhằm vào những lối nói khái quát, cô

đọng là có cội nguồn sâu xa từ những ý thức của họ về chất lƣợng văn học cũng nhƣ về hiệu

quả sử dụng ngôn từ :

- Văn hay chẳng luận dài dòng

- Rƣợu lạt uống lắm cũng say

Ngƣời khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm [72 ,164] v.v...

Các thế hệ văn nhân ngƣời Kinh đã từng rong ruổi nghiệp văn chƣơng đèn sách chắc

hẳn đều tâm niệm sâu sắc quan niệm "ý lại ngôn ngoại" trong sáng tạo và tiếp nhận giá trị văn

chƣơng. Họ lấy hồn cốt nội dung tƣ tƣởng thâm trầm bên trong những hàm súc, ngắn gọn làm

trọng, chứ đâu phải lấy việc lý giải tận tuy, chi ly, chân xác đến ngọn nguồn đối tƣợng làm

điều hay. Rõ ràng những cách thức biểu đạt vốn có trong văn học dân gian ngƣời Kinh về

nghệ thuật, về cái đẹp đã có cả một mặt bằng ý thức về văn học và ngôn từ thẩm mỹ - nghệ

thuật làm điểm tựa cho nó trong quá trình lịch sử văn hóa nghệ thuật dài lâu của chính họ.

*

* *

Tóm lại, trải qua lịch sử từ mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, giữa các dân tộc

thiểu số và dân tộc Kinh có nhiều nét đồng điệu khi bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật (và

về cái đẹp) trong văn học dân gian cổ truyền.

Trên bình diện cộng đồng dân tộc, khi quan niệm về cái đẹp, các dân tộc thiểu số và

dân tộc Kinh đã gặp gỡ nhau thân thiết ở thái độ đề cao cái đẹp bên ngoài, rất trân trọng phẩm

chất cao đẹp bên trong, và thực sự chia sẻ với nhau ở khát vọng hƣớng tới cái đẹp lý tƣởng

"đẹp ngƣời, đẹp nết". Cuối cùng, ý thức hƣớng cái đẹp tới những giá trị hữu ích, góp phần

đấu tranh đánh giặc cứu nƣớc, giúp dân là sự tƣơng

109

đồng ký diệu giữa nhân dân các dân tộc Việt Nam đƣợc hun đúc qua quá trình lịch sử chung

lƣng đấu cật dựng nƣớc và giữ nƣớc đầy hy sinh, gian khổ nhƣng vô cùng anh dũng vẻ vang.

Ở phạm vi quan niệm nghệ thuật, sự tƣơng đồng cơ bản giữa các dân tộc thiểu số và

dân tộc Kinh đƣợc biểu hiện rõ nhất ở ý thức đem nghệ thuật phụng sự cho công cuộc dựng

xây và bảo vệ tổ quốc, trong đó sự lƣu truyền rộng rãi các truyện cổ theo mô típ dùng lời ca,

tiếng đàn làm vũ khí đánh giặc cứu nƣớc là những minh chứng tiêu biểu. Ngoài ra, giữa các

dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh cùng đều đặc biệt đề cao giá trị của nghệ thuật, đều đam mê

tuyệt đích với nghệ thuật trong mọi cảnh huống cuộc đời.

Trên bình diện nhân dân khi lý giải về cái đẹp, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân lộc

Kinh đều đặc biệt đề cao cái đẹp của ngƣời lao động trong môi trƣờng cuộc sống lao động

khoẻ khoắn, lành mạnh. Với dân gian, cái đẹp có ý nghĩa, cái đẹp đáng trân trọng là cái đẹp

Thuộc về nhân dân lao động. Họ công khai dè bỉu, bài xích những cái đẹp giả tạo, phù phiếm,

thoát ly lao động hữu ích.

Cùng đứng trên lập trƣờng của nhân dân lao động, khi quan niệm về nghệ thuật, các

dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều đặc biệt đề cao nghệ thuật phụng sự cuộc sống

bình yên của nhân dân lao động. Với họ, nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo nên các giá trị

nghệ thuật đặc sắc và chủ động sử dụng tiếng nói nghệ thuật của mình vào mục đích yên dân,

cứu nƣớc.

Bên cạnh những tƣơng đồng, giũa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh cung có những

điểm khác biệt xung quanh các quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật trong văn học dân gian.

Về loại hình nghệ thuật được cảm nhận, xét trên tƣơng quan cụ thể về tỷ lệ và mức độ bộc lộ

quan niệm, các dân tộc thiểu số quan tâm nhiều hơn đến nghệ thuật ca múa nhạc còn dân

110

tộc Kinh tuy cũng có luận bàn về ca múa nhạc nhƣng tỷ lệ ít hơn. Dân tộc Kinh phần nào đã

có ý thức thấu đáo hơn khi bày tỏ quan niệm về thơ văn -phạm vi mà các dân tộc thiểu số nói

đến rất ít. Về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật , các dân tộc thiểu số thƣờng

tìm đến các thể loại tự sự dân gian để giãi bày quan niệm, khác với dân tộc Kinh thƣờng tìm

đến các loại thể loại văn vần dân gian để bộc lộ các cảm nhận về nghệ thuật (và cái đẹp) của

mình. Về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm, các dân tộc thiểu số thƣờng bộc

lộ các quan niệm một cách cụ thể, sinh động trên tinh thần chân cảm mộc mạc, còn dân tộc

Kinh phần nào đã hƣớng tới ý thức bộc lộ các quan niệm về nghệ thuật (cũng nhƣ về cái đẹp)

một cách khái quát, hàm súc. Những khác biệt trên bắt nguồn từ thế giới môi sinh và truyền

thống văn hóa nghệ thuật vốn có những nét khác nhau căn bản giữa các dân tộc thiểu số và

dân tộc Kinh qua quá trình lịch sử của dân tộc.

111

CHƢƠNG 3: ĐỐI SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT GIỮA VĂN HỌC

DÂN GIAN CỔ TRUYỀN VỚI VĂN HỌC HIỆN ĐẠI CỦA CHÍNH CÁC

DÂN TỘC THIỂU SỐ.

Ở chƣơng 2 chúng tôi đã tiến hành so sánh các quan niệm nghệ thuật trong văn học

dân gian các dân tộc thiểu số với các quan niệm nghệ thuật. trong văn học dân gian dân tộc

Kinh. Đó là so sánh đồng đại - hiểu theo nghĩa rộng của tƣ duy. Đến chƣơng này cần thiết

phải tiến tới so sánh lịch dại - cụ thể là so sánh giữa các quan niệm nghệ thuật trong văn học

dân gian các dân tộc thiểu số với các quan niệm nghệ thuật văn học hiện đại của chính các

dân tộc thiểu số anh em nhằm chỉ rõ mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa truyền thống và cách

tân của nền văn học này. Từ sự kế thừa truyền thống sẽ cho ta thấy đƣợc sức sống trƣờng tồn

và từ sự cách tân đối với truyền thống cũng gián tiếp cho ta thấy những hạn chế lịch sử của hệ

thống quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số anh em,

Ở đây cũng cần phải nói rõ thêm tại sao không đối sánh (về quan niệm nghệ thuật)

giữa văn học dân gian cổ truyền với văn học dân gian hiện đại của các dân tộc thiểu số? Thật

ra cũng nhƣ dân tộc Kinh, văn học dân gian hiện đại các dân tộc thiểu số là một hiện tƣợng

phức tạp lại chƣa có độ dầy về thời gian và chƣa chắc đã kết tinh đƣợc những tình tiết hoặc

hình tƣợng liên quan đến nghệ thuật. Vả chăng cũng chƣa có nhà xuất bản nào từ trung ƣơng

đến địa phƣơng công bố các "văn bản" văn học dân gian hiện đại đích thực cả . Do đó nó nằm

ngoài phạm vi khảo sái nhƣ đã từng đƣợc xác định ở mục đối tượng nghiên cứu thuộc phần

Mở đầu. Trong khi đó việc đối sánh với nền văn học viết hiện đại lại cũng rất lô gíc bởi vì

khác với dân tộc

112

Kinh, chỉ trừ một số trƣờng hợp cá biệt, còn nói chung nền văn học hiện đại các dân tộc thiểu

số về cơ bản là nối tiếp trực diện từ văn học dân gian. Sự kế thừa truyền Thống quan niệm về

nghệ thuật ở đây rất rõ nét. Hiển nhiên sự cách tân trong quan niệm văn học hiện đại các dân

tộc thiểu số rất lớn, song chính vì thế mà qua đối sánh càng làm nổi rõ hơn những hạn chế

lịch sử của các quan niệm về nghệ thuật. Mong văn học dân gian cổ truyền. Điều quan trọng

hơn là sự cách tân to lớn, sâu sắc mà vẫn thấm đƣợm tính chất truyền thống thì lại càng

chứng minh rõ hơn cho sức sống lâu bền của các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân

gian cổ truyền nhƣ đã từng nói ở trên. Nói cách khác là có đối sánh với quan niệm nghệ thuật,

trong văn học hiện đại thì sẽ đồng thời cùng làm nổi rõ cả hai mặt : hạn chế lịch sử và sức

sống lâu bền của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu

số. Thử gia đình chỉ đối sánh với văn học dân gian hiện đại mà thôi thì tính chất truyền thống

có thể sẽ lõ nét hơn nhƣng lại khó có thể thấy rõ đƣợc những hạn chế lịch sử của các quan

niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc anh em.

Nói đến nền văn học hiện đại các dân tộc - thiểu số ở đây là nói đến nền văn học viết

xuất hiện trên qui mô rộng đối với các dân tộc sau Cách mạng Tháng Tám. Các nhà văn trong

quá trình sáng tác chủ yếu dùng chữ quốc ngữ và một số dƣới dạng song ngữ (lấy chữ ngữ

phiên âm tiếng dân tộc để sáng tác rồi các tác giả tự tay dịch ra tiếng Việt. ngay trong tác

phẩm đó. Nền văn học hiện đại các dân tộc thiểu số là một thành phần hữu cơ của nền văn

học Việt Nam hiện đại nói chung nhƣng nó cũng có những sắc thái tƣơng đối độc lập mang

bản sắc của các dân tộc thiểu số anh em. Nền văn học này thực sự phát triển mạnh mẽ cả về

số lƣợng và chất lƣợng kể từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Từ chỗ trƣớc cách mạng chỉ

có 2. nay đã "có 16 dân tộc thiểu số có tác giả thơ và văn xuôi hiện đại" [154 - 81]

113

trong đó có nhiều nhà văn nhà thơ đã từng giành đƣợc những giải thƣởng văn học trong và

ngoài nƣơc... Các tổ chức hiệp hội văn học nghệ thuật từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Các nhà

xuất bản chuyên tâm về văn hóa văn nghệ dân tộc và miền núi lần lƣợt ra đời; điều kiện giao

lƣu học tập và trao đổi nghiệp vụ đƣợc mở ra... Văn học hiện đại các: dân tộc anh em đã có

đƣợc vận hội mới để phái triển toàn diện. Ngoài các thể loại vốn có, nay đã có thêm những

thể loại mới đầy ƣu thế nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn. kịch ký... trong đó sự ra đời của lý luận,

phê bình, nghiên cứu văn học là một thành tựu nổi bật mà lực lƣợng chủ công là các nhà văn

nhà thơ nhƣ Nông Quốc chấn, Vi Hồng, Lò Ngân Sủn, Lâm Tiến, Hoàng Quảng Uyên... Có

thể nói, sự xuất hiện của lý luận phê bình trong văn học hiện đại của các dân tộc có ý nghĩa

nhƣ một cuộc cách tân nổi bật về hình thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật của các nhà văn

dân tộc hiện đại. Mấy chục năm qua, các công trình tiểu luận nghiên cứu phê bình văn nghệ

của các nhà văn dân tộc đã lần lƣợt xuất hiện trên văn đàn. Dù chƣa có một đội ngũ các nhà

lý luận phê bình chuyên nghiệp song đã có một đội ngũ nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số

thƣờng xuyên có ý thức tham gia hoạt động lý luận phê bình đầy tinh thần trách nhiệm. Nông

Quốc Chấn là ngƣời đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền lý luận phê bình văn

nghệ hiện đại các dân tộc. Đến nay ông đã có khá nhiều tập tiểu luận nghiên cứu phê bình

văn nghệ dầy dặn nhƣ: Đường chúng ta đi (1972); Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977);

Chặng đường mới (1985); Một ngôi nhà sàn Hà Nội (1999)... Nhà văn Vi Hồng tuy dồn

công sức chủ yếu cho sáng tác song cũng đã để tâm nghiên cứu khá công phu về văn hóa văn

nghệ dân gian các dân tộc qua cuốn: Si, lượn dân ca trữ tình (1978) và nhiên công trình

nghiên cứu lẻ lẻ khác mà cho đến nay vẫn chƣa có điều kiện tạp hợp lại. Lò Ngân Sủn cũng

đã khẳng định đƣợc phong cách chính luận rất riêng của mình qua Hoa văn thổ cẩm I (1998)

114

Hoa văn thổ cẩm II (1999). Lâm Tiến, cây bút lý luận phê bình mới xuất hiện từ vài năm gần

đây, tuy chƣa thật định hình một phong cách cụ thể song cũng đã cho ra mắt bạn đọc liên tiếp

2 tập tiểu luận nghiên cứu khá công phu về những vấn đề cập nhật trong đời sống văn hóa

văn học hiện đại các dân tộc (Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995) và về

một mảng văn học dân tộc (1999)). Nếu so với lịch sử trải nghiệm ngót một thế kỷ của nền

lý luận phê bình văn học bác học dân tộc Kinh thì nền lý luận phê bình của các nhà văn dân

tộc anh em dƣờng nhƣ mới bắt đầu ở chặng đƣờng xuất phát. Song điều đáng nói là, với sự

hiện diện của bộ phận văn học đặc biệt này, các nhà văn dân tộc anh em đã có thêm một công

cụ biểu đạt mới đầy ƣu thế, góp phần làm giàu thêm cho năng lực phân tích, lý giải của các

nhà văn vào nhiều phạm vi vấn đề khác nhau của cuộc sống văn học nghệ thuật hiện đại.

Cần chú ý thêm rằng, các nhà lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học đã nói ở trên chủ

yếu là các nhà văn, nhà thơ (kể cả những nhà văn, nhà thơ không kiêm tƣ cách nhà lý luận

phê bình), cho nên các quan niệm về nghệ thuật của họ cũng có một phần không nhỏ đƣợc

bộc lộ dƣới "dạng sáng tác".

Dù sao mới nhìn qua vê hình thức cũng đã thấy có sự thay đổi. Sự thay đổi trƣớc hết

là ở việc bộc lộ các quan niệm dƣới dạng nghị luận bằng ngôn ngữ phổ thông (tiếng Kinh), và

vì các chủ thể phát ngôn ở đây là các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp , họ có thể và cần thiết

quan tâm đến những vấn đề về nghệ thuật nói chung nhƣng văn học vẫn là địa hạt chủ yếu

thu hút mối bận tâm giãi bày các quan niệm nghệ thuật của họ (khác với các thế hệ nghệ nhân

dân gian vốn cơ bản chỉ bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật ca múa nhạc).

3.1. Đổi mới quan niệm về nghệ thuật ở các nhà văn dân tộc thiểu số hiện

đại .

Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số

115

là một di sản văn nghệ quý báu nhƣng tất yếu có những hạn chế lịch sử của nó. Vì vây khi

chuyến sang thời kỳ văn học hiện đại, với tƣ cách là một bộ phận hữu cơ của nền văn học

cách mạng Việt Nam , những hạn chế đó đã đƣợc khắc phục bằng những cách tân mới mẻ.

Có thể xét những đổi mới cách tân đó trên ba binh diện: dân tộc thống nhất, cách mạng và

khoa học. Tất nhiên việc phân định nhƣ vậy chỉ có ý nghĩa tƣơng đối vì trên thực tế giữa các

bình diện luôn luôn có quan hệ mật thiết với nhau.

3.1.1 Trên bình diện dân tộc thống nhất.

Văn học hiện đại các dân tộc sinh thành và phát triển gắn liền với một giai đoạn lịch

sử đầy thách thức nghiệt ngã với cả quốc gia dân tộc. Nền văn học đó ngay từ khi mới xác lập

đã liên tục phải song hành với hiện thực kháng chiến kiến quốc đầy hy sinh vất vả của cả

cộng đồng dân tộc Việt Nam. Kết thức 30 năm chiến tranh chống Pháp, kháng Mỹ (1975),

văn học các dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục nếm trải cảm hứng bi hùng của các cuộc chiến tranh

biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc ngay trên mảnh đất quê hƣơng mình. Số phận của nền

văn học gắn liền với sinh mệnh của cả cộng đồng dân tộc nhƣ thế cho nên ý thức về nghệ

thuật của các nhà văn dân tộc anh em đã thực sự chuyển hóa và giao thoa vào ý thức quan

niệm nghệ thuật chung của cả cộng đồng dân tộc thống nhất. Những phát ngôn, luận giải

xung quanh các vấn để cụ thể về nghệ thuật của các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại cơ bản

đều nhân danh cộng đồng dân tộc mà phát biểu. Vì thế các quan niệm nghệ thuật của họ đều

cơ bản mang những giá trị phổ quát chung. Nông Quốc Chấn viết: "Thơ của dân tộc nào cũng

phải là một binh chủng thật xông xáo, linh hoạt cơ động trên mọi chiến trƣờng tƣ tƣởng văn

hóa... Thơ của dân tộc nào cũng cần đƣợc tăng chất yêu: yêu tổ quốc, yêu chế độ xã hội chủ

nghĩa... Thơ của dân tộc nào cũng cần đƣợc tăng chất thiếp: thiếp chủ nghĩa anh hùng cách

mạng tôi luyện trong chiến đấu và lao

116

động sản xuất..." [168 ,402]. Đó cũng là đòi hỏi tất yếu về nghệ thuật của cả một thế hệ nghệ

sĩ cách mạng Việt Nam một khi họ đã tình nguyện nhập cuộc vào sự nghiệp cách mạng chung

của cả cộng đồng và tự nguyện lấy tƣ tƣởng "Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải

biết xung phong" của Hồ Chủ Tịch làm phƣơng châm chỉ đạo cho các hoạt động sáng tác của

mình. Dƣờng nhƣ các cảm nhận về chức năng của nghệ thuật đƣợc các nhà văn trao gửi tới

một địa chỉ phụng sụ tối cao là nghệ thuật vì quốc gia dân tộc thống nhất: "Trái tim của mỗi

nghệ sĩ lúc nào và ở đâu cũng thuộc về sự nghiệp chủ nghĩa xã hội và thống nhât tổ quốc..."

[26, 333]. Ngày xƣa, tiếng hát của chú bé biến hình ngƣời đá, tiếng tù và của Mòn Miên,

tiếng sáo của nàng Ni, tiếng hát của nàng Slao... cơ bản chỉ chú mục thiện tâm cống hiến của

mình vào một buôn làng, hay xóm mạc của một tộc ngƣời cụ thể Ngày nay ý thức về chức

năng phụng sự của nghệ thuật đã đƣợc các nhà văn mở rộng tới những chiều kích tối đa của

cả dân tộc. Chỉ có các nhà văn nhà thơ đã hòa mình vào công cuộc cách mạng lớn lao của cả

dân tộc, tràn đầy niềm tin yêu, mến mộ đối với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới có thể

có đƣợc cơ hội hòa nhập ý thức về nghệ thuật của mình vào những nỗi niềm phổ biến của cả

cộng đồng dân tộc nhƣ thế. Nhờ cách mạng, nhờ Đảng, các dân tộc anh em có đƣợc cuộc

sống mới xã hội chủ nghĩa trên quê hƣơng mình, đồng thời cũng nhờ đó mà nâng tầm ý thức

về nghệ thuật của mình lên những tầm cao mới chƣa từng có. Giá trị của nghệ thuật, trong ý

thức các nhà văn hiện đại, phải đạt đƣợc yêu cầu kết hợp hài hòa giữa những bản sắc riêng

với những giá trị phổ quát chung của cả cộng đồng. Nghệ thuật không chỉ tự khoanh mình lại

trong một giới hạn chật hẹp của dân tộc mình nhƣ trƣớc nữa mà phải hòa nhập vào các giá trị

nghệ thuật tiên tiến của các dân tộc khác trong cùng một cộng đồng quốc gia: "Chúng ta

trƣớc hết cần rút lấy những cái gì lành mạnh, tốt đẹp trong vốn cũ của dân

117

tộc mình, đồng thời phải học tập, tiếp thu lấy trong thơ ca của các dân tộc khác để không

ngừng bổ sung cho dân tộc mình." [19,34]. Tầm nhìn mới thực sự khoáng đạt còn giúp các

nhà thơ, nhà văn dân tộc anh em có ý thức làm giàu di sản nghệ thuật của đất nƣớc mình bằng

việc khai thác những giá trị nghệ thuật tiên tiến của các nƣớc trên thế giới: "Chúng ta cần quý

trọng nên văn nghệ tiên tiến của thế giới... Học vốn cũ, học nƣớc ngoài và tạo ra cái mới, ba

cái đó tạo thành ba bộ phận để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghìn ở nƣớc ta" [20,19]...

Tóm lại, môi trƣờng giao tiếp mới trong cộng đồng dân tộc thống nhất đã các nhà văn dân tộc

thiểu số bứt phá ra khơi khuôn khổ các quan niệm nghệ thuật mang tính chất cục bộ địa

phƣơng hạn hẹp của các thế hệ nghệ nhân dân gian để vƣơn tới tầm nhìn mới cao hơn ở tầm

quốc gia dân tộc. Cuộc sống rộng mở của cả cộng đồng dân tộc thực sự là nhịp cầu lớn cho

các nhà văn bƣớc tới những bến bờ tri thức mang tính phổ cập mà có đƣợc những ý thức về

nghệ thuật thực sự khoáng đạt, đa diện, hòa đồng vào với cộng đồng dân tộc thống nhất.

3.1.2 Trên bình diện cách mạng

Nền văn học hiện đại các dân tộc ít ngƣời đƣợc xác lập khi xu thế cách mạng trong

nƣớc cũng nhƣ ngoài nƣớc đá giành ƣu thế áp đảo đối với các lực lƣợng chính trị phản cách

mạng. Sức mạnh thắng đoạt của cách mạng vô sản, lý tƣởng xã hội chủ nghĩa... là cội nguồn

ý thức đúc kết nên những quan niệm nghệ thuật mới mẻ xoay quanh các vấn đề tính Đảng,

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, con ngƣời mới trong văn học v.v... Trong ý thức của

các nhà văn dân tộc anh em, sự nghiệp văn học của các nghệ sĩ cách mạng là một bộ phận

không thể tách rời sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo: "Ngƣời làm thơ không thể tách

rời sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có đi với Đảng ngƣời làm thơ mới tìm thấy hƣớng đi vào quần

chúng của mình để tìm nguồn thơ một cách toàn diện." [26 7 256]. Văn nghệ sĩ cân phải có

118

lập trƣờng nhìn nhận đúng đắn khi phản ánh cuộc sống: "Chúng ta biểu dƣơng ngƣời tốt, việc

tốt, chúng ta phê phán ngƣời xấu, việc xấu một cách có xây dựng. Nhìn thấy cái xấu ta phải

nhìn thấy cái tốt. Khi ta viết ra một tác phẩm đừng để cho bạn đọc từ một việc cụ thể mà thấy

xấu toàn chế độ... Ngƣời viết cần phân tích cho mọi ngƣời thấy mặt sai để sủa chữa. Cách

nhìn đời sống ngày nay nên nhƣ thế." [20 , 202]. Các nhà văn cần có ý thức hƣớng tới phản

ánh, miêu tả những hiện thực tích cực, sống động của cuộc sống cách mạng: "Sứ mệnh của

văn nghệ hiện nay là phản ánh hiện thực cách mạng phong phú của dân tộc. Hiện thực đó là

những đổi mới ở miền núi... những con ngƣời mới gồm nhiều dân tộc xuất hiện trong các

phong trào thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới." [20 316]. Lý

giải về phƣơng pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, Nông Quốc Chấn có không ít

những tâm niệm thấm thía chẳng hạn: "Sáng tác theo chiều hƣớng cách mạng tiến lên tức là

việc diễn biến có hậu, không gây thất vọng. Anh muốn tả ngƣời vào, việc gì cuối cùng anh

pháỉ phát. triển ngƣời đó, việc đó theo đà cách mạng tiến lên. Từ trong vui mừng, trong đau

thƣơng, văn nghệ phải gây cho ngƣời đọc, ngƣời xem dẫn đến hành động cách mạng..." v.v...

[20, 202]. Nhà thơ Lò Ngân Sủn ý thức về thiên chức của văn học là phải góp phần đấu tranh

vì chân lý cách mạng: "Văn học: không chỉ ngồi tâm tình với ngƣời yêu ở trong, công viên.

Mà vănhọc đã nhân danh công lý, nhân danh pháp luật, nhân danh lẽ phải và công bằng...

phải đánh thẳng vào dinh lũy của chủ nghĩa tiêu cực..." [143, 70].

Tóm lại quan niệm nghệ thuật của các nhà văn dân tộc hiện đại cơ bản đều thấm

nhuần tƣ tƣởng cách mạng, tràn đầy nhiệt tâm đối với lý tƣởng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là

điều hiển nhiên khi ta biết rằng sự nghiệp văn chƣơng của các nhà văn dân tộc hiện đại là

những bộ phận không, thể tách rời khỏi sự nghiệp văn học cách mạng chung cua cả cộng

đồng dân tộc Việt

119

Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng.

3.1.3 Trên bình diện khoa học.

Vƣợt qua những cái nhìn tản mạn. rời và giản đơn về nghệ thuật trong văn học dân

gian, các nhà văn hiện đại đã có đƣợc cách nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống, về các

vấn đề khác nhau văn học nghệ thuật. Thói quen tƣ duy trực cảm, cụ thể khó có thể tạo ra cơ

hội thuận lợi cho các nghệ nhân dân gian đi sâu vào phân tích, nghiền ngẫm thấu triệt về các

vấn đề cụ thể của nghệ thuật. Điều đáng nói là các nhà văn dân tộc ít ngƣời từng có dịp biểu

đạt các quan niệm nghệ thuật, ngoài tƣ cách nghệ sĩ sáng tác, họ còn là các nhà nghiên cứu

văn hóa, Văn học với ý thức học thuật nghiêm túc nhƣ Nông Quôc Chân, Vi Hồng, Lò Ngân

Sủn, Lâm Tiên... Đến với văn học nghệ thuật trong ý thức truy tìm, nghiên cứu một đích

nghiêm cẩn, chắc chắn dù ít hay nhiều, ho dễ có có hội đổ tiếp cận đối tƣợng cần quan tâm

một cách thấu đáo. Quả vậy các nhà văn hiện đại đã trực tiếp đề cập đến nhiều vấn đề khá đa

dạng của văn học nghệ thuật, đã tạo đƣợc những độ sâu mới cho các lý giải về nghệ thuật so

với các thế hệ nghệ nhân dân gian của mình.

Vấn đề chủ thể nghệ thuật là một trong những bình diện đƣợc các nhà văn dân tộc

hiện đại để tâm khá nhiều và có những lý giỏi khá thấm thía. Nhiên khía cạnh khác nhau của

chủ thể nghệ thuật đã đƣợc các nhà văn đề cập đến khá sâu sắc nhƣ: mối quan hệ giữa nghệ sĩ

với thể chế chính trị, ngƣời sáng tác và vấn đề nhân cách, lề lối làm việc của nhà văn , ý thức

trau đối vốn sống, nghiệp vụ, các kiểu nhà văn v.v... Để có tác phẩm tốt, vốn sống của nhà

văn là một khâu đóng vai trò quan trọng. Theo Lò Ngân Sủn: "...ngoài năng khiếu, nhà văn

cần có vốn sống: và vốn hiểu biết. Vốn sống càng nhiều và vốn hiểu biết càng sâu rộng thì

nguồn sáng tác càng dồi dào, tác phẩm càng trƣờng hơi và trƣờng tồn..." [143 83]. Nông

Quốc Chấn coi

120

vốn sống: "là một trong những cái gốc của nghệ sĩ. Nhờ vốn sống, anh có thể chọn lấy 100

ngƣời thật để dựng lên một ngƣời ở trong tác phẩm. Nhƣ thế nó sẽ phong phú. Nhƣng vốn

của anh chƣa hiểu đủ một ngƣời, anh đã muốn xây dựng trong tác phẩm của anh 50 ngƣời thì

nhất định là một sự bôi bác. Việc xây dựng tính cách làm sao bịa ra 50 tính cách đƣợc khi cái

vốn của anh rất ít." [20 , 195]. Đặc biệt cách phân loại các kiểu ngƣời sáng tác của Lò Ngân

Sủn là nhũng suy nghĩ đầy can đảm và chí thú: "Càng ngày tôi càng thấy lồ lộ ra mấy loại

ngƣời sáng tác sau đây:

- Loại ngƣời sáng tác thật sự đồng nghĩa với cái đích thực.

- Loại ngƣời sáng tác cho vui đồng nghĩa với "bầy đàn".

- Loại ngƣời sáng tác cơ hội đồng nghĩa với "phá hoại".

Trong đó, đối với ngƣời sáng tác thực sự thì quá trình sáng tác của họ là quá trình tự

phát triển và tự khẳng định. Còn đối với các loại ngƣời sáng tác khác thì quá trình sáng tác

của họ là quá trình tự phủ định, tự tiệu vong mà thôi. Nhƣng tiếc thay loại ngƣời sáng tác thật

sự vốn đã ít và hiếm hoi, lại thƣờng hay bị rầy rà từ nhiều phía, có khi luôn bị dằn vặt, đau

khổ, oan trái - thậm chí chết rồi cũng phải tiến hàng mấy chục năm sau lịch sử mới có cơ hội

minh oan cho họ đƣợc..." [143 , 841] Trong tƣ cách một nhà thơ trữ tình, Lò Ngân Sủn cắt

nghĩa bản chất nhận thức của thi sĩ thật độc đáo: "Nhà thơ là ngƣời nhìn bằng tim, biết bằng

cảm... Nhà thơ là sứ giả của tình yêu". [143, 59]. Vì vậy, "cách học để trở thành nhà thơ, nhà

văn rất khác với cách học để trở thành bác sĩ, kỹ sƣ." [143,24]v.v...

Đặc trƣng thẩm mỹ của thơ ca cũng đƣợc các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại lƣu

tâm lý giải khá sâu sắc, đó là sự độc đáo mới lạ, gợi rung động cho ngƣời đọc. Nông Quốc

Chấn viết: "Thơ cũng nhƣ các môn nghệ thuật khác thƣờng là nói tên một cái ý gì để ngợi ca

hay phê bình con ngƣời và cuộc sống. Nhƣng ý ấy phải đƣợc diễn đạt một cách trong sáng,

sâu sắc tế

121

nhị và độc đáo... Muốn thế ngƣời việt cần tìm ra, gây đƣợc tình và tạo ra hình... Bài thơ viết

chung chung làm sao có thể gây đƣợc sƣ rung động, lòng căm ghét. trí dũng cảm cho ngƣời

đọc..." [120 - 174. 175]. Với họ thơ không thể chảy theo vệt mòn cố hữu: "Một số câu thơ

ngô nghĩnh nếu dùng một lần thì có thể coi là độc đáo, nhƣng bài nào cũng nhắc tới thì trở

nên nhạt nhẽo... Một bài thơ hay không phải ở chỗ nói đúng nói đủ mà cần có ngôn ngữ trong

sáng, hình ảnh sinh động, tình cảm sâu sắc, có phong cách riêng biệt của từng ngƣời... Những

bài thơ hay không phải ở chỗ dùng những hình ảnh địa phƣơng quá nhiều. ví dụ tên chim, tên

hoa, tên ngƣời... vào những chỗ không cần thiết, kể lể rƣờm rà, ý ít lời nhiều, mà cần chọn

hình ảnh để nói lên đƣợc cái ý, cần súc tích gọn gàn, ít chữ mà nhiều ý tứ sâu sắc càng tốt."

[26 - 255, 313]. Lò Ngân Sủn có khá nhiều những lý giải chí thú về đặc trƣng thẩm mỹ của

thơ, theo ông: "Thơ là một thứ sản phẩm, hơn thế là thứ sản phẩm cao cấp. Nhƣng trong thơ

còn có phần hồn, ý thơ càng rộng lớn bao là thì hồn thơ càng sâu xa bay bổng. Thơ càng hiện

thực, càng đời, càng ngƣời bao nhiêu thì càng hay bấy nhiêu. Hiện thực, cuộc đời, con ngƣời

là cái "mỏ thơ" khai thác mãi mà chẳng bao giờ cạn..." [144 - 52, 53]. Vì rất đề cao yêu tố

xúc cảm cho nên ông tâm niệm: "chỗ đến của thơ là lòng ngƣời... Cối lõi của thơ là sự rung

động, là tình cảm của con ngƣời trƣớc cuộc sống... Thơ là cảm xúc đến độ nồng nàn, phát

cháy và thăng hoa. Thơ là con làn vũ trụ đƣợc phóng lên bằng cảm xúc..." [125, 568]. Khát

vọng nồng cháy của ông là: "muốn có thơ hay dù đó là thơ văn xuôi, thơ tự do, thơ lục bát,

thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ...". Nhƣng cái hay của thơ, theo Lò Ngân Sủn không phải nhờ vào bộ

Cánh mƣợt mà của câu chữ mà bằng độ lắng đọng sâu xa ở bên trong: "Tôi nghĩ thơ đến với

ngƣời đọc không phải bằng chữ mà bằng những gì có ở trong câu chữ. Còn nếu nhƣ thơ

không có gì ở trong câu chữ thì coi nhƣ không có thơ." [143 61]. Sau này ông mới có dịp

122

nói rõ cái ma lực tạo nên sức hút kỳ diệu "ở trong câu chữ" của thơ: "Tôi nghĩ rằng thơ có

bản sắc, giàu bản sắc là thơ có một kiểu tƣ duy, một lối tƣ duy độc đáo. Là thơ có ý, có tứ lạ

và hay, gây đƣợc xúc cảm cho ngƣời đọc, ngƣời nghe. Là thơ đƣợc viết lên bằng một mối

tình nồng nhiệt, cháy bỏng, đắm say. Là thơ đƣợc vẽ lên bằng những hình ảnh lung linh,

huyền ảo đầy sức quyến rũ mà xem ra tại rất đời thƣờng, hợp lòng muôn ngƣời. Đó là những

bài thơ, khổ thơ, câu thơ hay đến bất ngờ, bất ngờ với ngay chính tác giả đã làm ra nó..."

[143,55]. Những tác phẩm đƣợc gọi là hay, Lò Ngân Sủn cũng phân biệt ra làm nhiều loại

khác nhau: "Có tác phẩm hay từng thời, có tác phẩm hay vĩnh viễn, có tác phẩm hay theo

khuynh hƣớng đánh giá, thẩm định... Và ai đạt tới tác phẩm hay đỉnh cao, hay vĩnh viễn -

nghĩa là tác phẩm đó không những đã hay mà ngày càng bay, ngày càng đƣợc nhiều ngƣời

khám phá, phát hiện ra những điều mới lạ trong và ngoài tác phẩm. Đó là những tác phẩm vĩ

đại, tác phẩm tuyệt vời, tác phẩm luôn luôn tràn đầy sự sống và tình yêu..." [143, 103] v.v...

Về phê bình văn học, các nhà văn cũng có một số lý giải đáng lƣu ý. Trƣớc hết họ

quan niệm phê bình văn học phải gắn với nguyên tắc tính Đảng. Nông Quốc Chấn cho rằng:

"... khen, bảo vệ, nâng đỡ bài của tác giả này, chê rồi đi đến vùi dập thành kiến đối với bài

của tác giả khác không phải là việc làm tuỳ tiện theo cảm tính mà phải theo nguyên tắc tính

Đảng..." [20,173]. Họ chỉ rõ nhiêm vụ phê bình văn học là: "khẳng định chỗ đúng, chỗ hay,

phê phán những chỗ sai, chỗ dở. Qua đó giúp bạn đọc biết nên tiếp thu mặt nào, biết tránh

mặt nào" [20 , 282]. Hay dở thƣờng, đi liền với khen chê đó là chuyện thƣờng tình trong nghề

văn chƣơng chữ nghĩa!, song khen chê thế nào cho thấu tình đạt lý là cả một vấn đề hệ trọng.

Trong đời sống văn học đƣơng đại chúng ta vẫn có những biểu hiện phê bình trao đổi thái

quá. Lò Ngân Sủn đã bày tỏ quan niệm phê phán nghiêm khắc

123

đối với những biểu hiện bất thƣờng trong phê bình văn học rằng: "Đem cả bằng cấp. học vấn

ra mà mạt sát nhau thi lại bị rơi xuống một tầng văn hóa rất thấp nếu không muốn nói là vô

văn hóa." [143,71]. Vốn chuộng sự hiền hòa. nhân ái. Nông Quốc Chấn thƣờng khuyên các

nhà văn bằng một quan niệm phê bình chí tình, chí nghĩa "Tiếp nhận, phê bình một bài thơ có

tinh thần xây dựng nghiêm túc thì sẽ không khen quá lời, không chê vùi dập mà ôn tồn chỉ

bảo..."[20, 172] v.v...

Các khía cạnh khác của văn học nhƣ: vấn đề chức năng van nghệ, truyền thống và

cách tân nghệ thuật v.v... tuy không có những độ dày các kiến giải chung các quan niệm cụ

thể của các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại đã tiếp cận đƣợc những tri thức văn nghệ mang

tính phổ quát, chứng tỏ tầm đọc, sức học của các nhà văn đã vƣơn tới những tầm cao mới

xứng tầm với thời đại mới mà ở đó sự giao lƣu văn hóa, khoa học đã trở thành quy luật tồn tại

của mỗi dân tộc.

Tóm lại, sự cách tân bƣớc đầu về quan niệm nghệ thuật trong nền văn học hiện đại

các dân tộc thiểu số là vô cùng to lớn. Chính từ nhũng cách tân vƣợt bậc của các nhà văn hiện

đại so với các thế hệ cha ông trong văn học dân gian cổ huyền (về phƣơng diện quan niệm

nghệ thuật) mà qua đối sánh, những hạn chế lịch sử của quan niệm nghệ thuật trong văn học

dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số càng bộc lộ rõ ràng hơn. Quan niệm về nghệ thuật

trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc chƣa có đƣợc tầm vóc của cộng đồng dân tộc và

mang tính chất cách mạng là điều hiển nhiên. Nó chỉ là những quan niệm mang tính chất địa

phƣơng hoặc khu vực, là sản phẩm tinh thần tự cƣờng tỏa kéo dài trong một tình trạng xã hội

ít có điều kiện giao lƣu. Thậm chí có nơi, có dân tộc còn chƣa hề kinh qua phƣơng thức sản

xuất phong kiến nhƣ đã nói ở trên. Do đó khó có thể có đƣợc khả năng hoàn bị trong các

quan niệm về nghệ thuật từ một nền văn học dân

124

gian cổ truyền nhƣ vậy.

Tính chất thiếu hệ thống khoa học của các quan niệm về nghệ thuật ở đó lại càng là

điều hiển nhiên. Nó chỉ là những cảm nhận tự phát xoay quanh một sổ vấn đề then chốt về

chủ thể nghệ thuật và về vai trò tác dụng của nghệ thuật, mà thôi. Những sắc thái giản đơn, tự

phát... này đã đƣợc tiên báo ngay từ phần mở đầu, lại đƣợc chứng giải rõ hơn ở chƣơng 1,

nay lại có dịp đƣợc xác nhận sâu hơn qua việc đối sánh.... Tuy nhiên lẽ biện chứng là sức

sống lâu bền của nó lại đƣợc phát huy đối với ngay những quan niệm về nghệ thuật trong nền

văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nhƣ sẽ đƣợc lý gỉai ở phần tiếp theo dƣới đây.

3.2. Sự kế thừa quan niệm về nghệ thuật dân gian cổ truyền của các nhà

văn dân tộc thiểu số hiện đại .

Nhƣ trên đã nói, quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại các dân tộc ít ngƣời chủ

yếu đƣợc thể hiện dƣới dạng nghị luận, song vẫn có hiện trạng không ít các quan niệm nghệ

thuật đƣợc bộc lộ trong "dạng sáng tác".

Cả hai đều bộc lộ sự kế thừa tính chất truyền thống nhƣng mang những sắc thái khác

nhau. Có thể căn cứ vào mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức để phân biệt

nhƣng sắc thái này.

Quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại các dân tộc có những đổi mới, cách tân

nhƣng vẫn bảo lƣu, tiềm chứa những sắc thái quan niệm nghệ thuật truyền thống khi các nhà

văn có dịp bày tỏ các quan niệm nghệ thuật , đặc biệt là về chủ thể nghệ thuật và chức năng

văn nghệ... Ở những phần này, các nhà văn thƣờng bộc lộ quan niệm nghệ thuật dƣới "dạng

sáng tác", mang tính chất thống nhất cao giữa nội dung và hình thức. Những phần nội dung

thiên vé cách tân , các nhà văn chủ yếu bộc lộ quan niệm dƣới dạng nghị luận mới mẻ nghĩa

là cũng có sự tƣơng hợp giữa nội dung và hình thức, tuy nhiên ở dạng nghị luận này vẫn chan

chứa những sắc thái

125

truyền thống ở cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt... Dƣới đây sẽ triển khai vấn đề tính chất

truyền thống của các quan niệm nghệ thuật qua hai phạm vi: trong "dạng sáng tác" và dưới

dạng nghị luận.

3.2.1. Trong "dạng sáng tác".

Cầu nói ngay rằng: Các quan niệm về nghệ thuật của các nhà văn dân tộc ít ngƣời bộc

lộ dƣới "dạng sáng tác" chủ yếu đƣợc triển khai qua văn xuôi tự sự (truyện ngắn, tiểu

thuyết...) và qua thơ ca. Điều này cũng rất tƣơng đồng với các thế hệ nghệ nhân dân gian xƣa

vốn chủ yếu chỉ bộc lộ các quan niệm về nghệ thuật của mình qua các tác phẩm tự sự và một

phần là qua thơ ca tục ngữ..... Hơn ở đâu hết, nhờ hiện hữu dƣới "dạng sáng tác", các quan

niệm nghệ thuật cổ xƣa dƣờng nhƣ có dịp phục sinh trọn vẹn cả về nội dung và hình thức vốn

có của nó.

Trong văn học hiện đại các dân tộc thiểu số, so với thơ ca vốn phát triển từ khá sớm,

văn xuôi tự sự của họ mới đƣợc bạn đọc biết đến từ khoảng giữa những năm 50, đầu những

năm 60 trở lại đây. So với các bậc tiền bối của chính mình trong văn học dân gian, các nhà

văn chuyên viết văn xuôi nghệ thuật hiện đại chƣa có đƣợc những tác phẩm dày đặc, hoành

tráng, song ngay từ những bƣớc đi ban đầu này, các nhà văn đã có ý thức bộc lộ các quan

niệm nghệ thuật của mình trong những cảnh huống tự sự phù hợp... Nếu nhƣ qua thơ, các nhà

thơ ngoài ý thức bộc lộ các quan niệm nghệ thuật về ca múa nhạc, họ còn phần nào để lâm

đến nghệ thuận ca thơ, thì ở văn xuôi tự sự, các nhà văn dân tộc hiện đại chỉ chủ yếu bày tở

quan niệm nghệ thuật của mình về uy linh của các loại nhạc khí, lời ca... Vì vậy, bên cạnh thơ

ca, văn xuôi tự sự là thể loại có điều kiện thuận lợi cho những cảm nhận của các nhà văn dân

tộc đối với thế giới âm thanh huyền diệu của ca vũ nhạc mà xƣa kia các thế hệ nghệ nhân dân

gian đã cảm nhận bằng tất cả nỗi niềm đam mê của mình. Nhiều trang đoạn văn xuôi tự sự

hiện đại có tiềm chứa

126

những quan niệm về nghệ thuật dƣờng nhƣ đã có sự hòa duyên sâu đậm với những sắc thái

đặc trƣng của dân gian khi bộc lộ các quan niệm về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Lời sli ân tình, Hoàng Trung Thu đã dành những trang văn cảm

động kể về cuộc đời cô Mảy - một đoàn viên thanh niên tích cực của hợp tác xã, có giọng hát

tuyệt hay. Trong một buổi đắp đập làm thủy lợi, cô cất cao tiếng hát của mình phục vụ mọi

ngƣời trên công trƣờng: "Những lời sli của cô làm vui lòng ngƣời, những lời sli biết nâng cái

chân, cái tay nhẹ lâng lâng làm công quên mỏi..." [168, 228], khiến cho "Ngày hội thủy lợi

đông vui nhƣ mùn xuân chim vui hội ngộ". Cũng chính lời sli của cô đã góp phần gắn chặt

tình yên đôi lứa giữa cô với Tâm ngay trên công trƣờng lao động... Ý thức về vai trò khích lệ

niềm vui lao động dựng xây và kết duyên tình đôi lứa của nghệ thuật qua truyện ngắn này của

Hoàng Trung Thu qua thật rất gần gũi với nỗi niềm và cách nói của các nghệ nhân xƣa qua

các truyện cổ dân gian có tiềm chƣa quan niệm về tác dụng của nghệ thuật.

Triều Ân trong truyện ngắn Câu chuyện cuộc đời đã tập trung đặc tả tiếng hát dân ca

say sƣa của một cô gái H'mông khi mới gia nhập hợp tác xã: "Tiếng hái của cô khi vút cao,

khi hạ thấp, vui tƣơi nhƣ nắng mùa xuân, khi tha thiết tựa lá reo trong gió "... Và thật kỳ diệu,

"chính tiếng hát của cô đã làm cho mọi ngƣời hiểu đƣợc nỗi lòng của ngƣời xã viên mới ấy."

[168 ; 101]. Trong truyện ngắn Mây tan, Triều Ân còn có dịp miêu tả sức mạnh lời hát mê ly

của Chẹ Tàn (một cô gái ngƣời Dao). Tiếng hát của cô khiến bao ngƣời, trong đó có Piao rạo

rực ngất ngay: "Piao xao xuyến quá... Piao nhƣ thấy có cái gì nhảy nhót ở trong lòng... mà

Thấy lòng mình vui phơi phới..." [168,104] . Triều Ân còn có những trang miêu tả lý thú về

giá trị của lời ca tiếng hát qua các truyện ngắn Truyện tiếng khèn A Pá và truyện

127

Người con trai Mèo [5 - 102, 103]. Ông là ngƣời đặc biệt có duyên trong cách bộc lộ các ý

tƣởng về nghệ thuật dƣới dạng sáng tác văn xuôi nghệ thuật.

H' Linh Nie (nhà văn nữ ngƣời Ê đê), ngòi bút giầu bản lĩnh, rất mới mẻ hiện đại mà

cũng rất dân gian khi có dịp bày tỏ cảm quan về nghệ thuật. Hành văn và ý thức nghệ thuật

của chị lắng đọng sâu xa chất sử thi dân gian cổ xƣa của ngƣời Ê đê qua những so sánh sinh

động, giầu chất thơ: "Tắt, tắt, tắt!Chiêng mừng vang lên mỗi lúc một dồn dập. Sar ơi! Hãy

đem nỗi đau này của ĐAn San tới tận vực Sê rê pốc sâu thẳm. Cho cả bầy cá sấu ở dƣới sông

Krong no kia thôi hững hờ, nổi lên cùng chia sẻ. Liang ơi! Hãy đem tình yêu của H'bia rải

khắp chín tầng trời, tầng đất, cho con chim có đôi, ngƣời có bạn, cả những nàng tiên thanh

thản suốt đời trên bầu trời bao la kia cảm nỗi đau đớn của tình yêu bị cắt rời..." [82, 81]. (Sar,

Liang: các loại chiêng của ngƣời Ê đê - HML). Qua ý thức về sức mạnh của nhạc khí (tiếng

chiêng Sar và Liang), nhà văn đã ký thác cho nghệ thuật những sức mạnh kỳ vĩ. Tiếng chiêng

Sar nhƣ đã làm sống dậy nỗi bi tráng thủa nào của Đam San mà khiến cho muôn loài trong đó

có cả loài ác thú cá sấu) cũng phải động lòng chia sẻ. Còn tiếng chiêng Liang có thể đem đến

cho muôn ngƣời và muôn loài trên "khắp chín tầng trời, tầng đất" khát vọng tình yêu nồng

nàn cũng nhƣ nỗi đau tình ái của nàng Hơ bia trong trƣờng ca Đam San thủa trƣớc. Ở đây nhà

văn đã thực sự thả hồn mình nƣơng theo đôi cánh bay huyền diệu của nhạc khí linh thiêng mà

sống trọn vẹn với mọi nỗi niềm của ngƣời xƣa. Ngoài ý nghĩa bày tỏ nỗi niềm ngƣỡng mộ,

cảm phục đối với sức mạnh chinh phục tuyệt diệu của nghệ thuật, ý thức của H'Linh Nie còn

giúp bạn đọc hình dung thêm sức mạnh siêu phàm của nghệ thuật ở việc kết nối những không

gian xa cách xƣa và nay, lịch sử và hiện tại nữa. Ý thức về sức mạnh vô biên của nghệ thuật

nhƣ vậy chỉ có thể chắp cánh từ ý thức về nghệ

128

thuật của dân gian dân tộc đã từng đƣợc mô tả sinh động qua các trang sử thi, trƣờng ca,

truyện cổ Tây Nguyên rực rỡ.

Cũng nhƣ vậy, nhà văn Vƣơng Trung đã đƣa vào tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh

của mình cả không khí và hơi thở hào hùng của dân gian Thái trong một đoạn viết về một

cuộc vui liên hoan văn nghệ. Ở đó lời thúc giục của ông già bản Lò Kầm Khốn là lời của

ngƣời xƣa nói về nghệ thuật đích thực: "Hãy nổi chiêng lớn, Hãy nổi cong lên... Cong lớn

hãy nổi lên nhƣ sấm rền! Vang rền giũ điều xấu khỏi mƣờng. Vang động thức mệnh mƣờng

đứng vững! Vang vọng tận muôn phƣơng, ngƣời muôn phƣơng vui đến hầu! Vang vọng đến

tận muôn rừng, chim muông rừng bay đến hợp! Vang vọng đến tận muôn núi sông, cá muôn

núi sông bơi về tụ." [25, 616] v.v... Ở đây ý thức về nghệ thuật của nhà văn hiện đại Vƣơng

Trung quả thực đã giao thoa bền chắc vào trong ý thức về nghệ thuật của dân gian xƣa một

cách trọn vẹn.

Rõ ràng, từ ý thức về vai trò tác dụng của nghệ thuật đến cách thức biểu đạt dung dị,

thành thật của các nhà văn hiện đại đều rất thấm đậm màu sắc dân gian cổ điển của cha ông.

Hơi thở của dân gian truyền thống đã hòa vào nhịp thở của các nhà văn hiện đại khi họ có dịp

bày tỏ các cảm nhận của mình về giá trị của nghệ thuật (đặc biệt là nghệ thuật ca vũ nhạc).

Trong tâm thức của các nhà văn hiện đại, nghệ thuật xƣa cũng nhƣ nay chẳng bao giờ suy

giảm sức mạnh phi thƣờng của nó. Trải qua bao đời nay, họ vẫn rất mực trung thành với

những tâm niệm bất biến về súc mạnh nghệ thuật chân chính của mình. Trân trọng và đề cao

nghệ thuật nhƣ một báu vật vô giá, dành cho nghệ thuật tất cả mọi đam mê bằng những nỗi

niềm thành thật, dung dị của mình... đó là tinh thần căn bản tạo thành mẫu số chúng cho mọi

thế hệ nhà văn xƣa và nay của các dân tộc anh em. Tinh thần nghệ thuật này không chỉ thấm

thía qua các trang viết tự sự - tiếng nói sở trƣờng của các thế hệ nhà

129

văn dân tộc thiểu số mà còn thâm ngấm vào giữa các câu thơ, bài thơ của các nhà thơ hiện

đại khi họ có dịp bày tỏ các cảm nhận của mình và nghệ thuật. Các lý giải về nghệ thuật qua

thơ Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Lò Ngân Sủn, Lâm Quý, Lò Văn Cậy, Đinh Lƣợng

v.v... căn bản có sự "diệu ngộ" sâu sắc với các quan niệm về nghệ thuật của dân gian cả về

nội dung lẫn hình thức. Nông Quốc Chấn là một trong những nhà thơ rất tích cực triển khai

các ý tƣởng về nghệ thuật của mình qua thơ. Có lẽ ông là ngƣời có nhiều nhất những câu thơ

mang những ý tƣởng độc đáo về nghệ thuật. Vốn có ý thức suy ngẫm về văn học nghệ thuật

một cách khá hệ thống, lại có khả năng biểu đạt tự nhiên, cởi mở theo lối dân gian, cho nên

những câu thơ thơ có liên quan đến việc bày tỏ quan niệm nghệ thuật của ông bao giờ cũng

thật độc đáo bất ngờ'. Nói về tình cảm thân ái giữa các nƣớc Đông Dƣơng qua cuộc liên hoan

nghệ thuật tại Viên Chăn (Lào) ngày 27/11/ 1983. nhà thơ đã tìm đến hình thức biểu đạt bằng

thơ để bày tỏ quan niệm về vài trò gắn kết tình ngƣời của nghệ thuật một cách ý vị:

... Sáng đèn hay sóng mắt nhìn nhau

Điệu múa nhạc ca thay tiếng nói... [ 22, 127]

Thành công hơn cả trong số các câu thơ, bài thơ nói về nghệ thuật của Nông Quốc

Chấn có lẽ là bài thơ về Chiếc đàn tính dân tộc rất độc đáo. Tứ thơ dƣợc mở ra nhƣ một câu

chuyện cổ dân gian huyền ảo:

Chiếc đàn tính vốn có mƣời ba dây

Vì tiếng nó vang to, vang xa

Nên vua ra lệnh cắt đi gần hết

Nhƣng chẳng vua nào cắt đƣợc âm thanh dân tộc,

Đàn ba dây vẫn thánh thót cuộc đời. [154, 137]

Ông là ngƣời rất tích cực đổi mới về mọi mặt cho thơ mình, vậy mà chất dân gian

miền núi hồn nhiên, mộc mạc vẫn dung chứa tiềm tàng trong

130

mỗi câu thơ, đoạn thơ của ông khi có dịp lý giải về nghệ thuật. Ý thức đề cao sức mạnh tác

động diệu kỳ của nghệ thuật trong dân gian đã có dịp đƣợc ông "tạo dáng" lại rất tƣơng khớp

qua những câu thơ quá đỗi hồn nhiên, sinh động, giàu hình ảnh xác thực:

Tiếng đàn tính lọt vào tai và ruột

Tiếng vang lên ngọn cây, đỉnh núi cao cao vút

Vƣợn trố mắt nhìn trƣợt chân ngã quên con

Chim trong tổ bay ra ngơ ngác bồn chồn

Ve đậu trên cành hoa im tiếng. [22 , 40]

Quan niệm nghệ thuật đánh giặc cứu nuớc và phụng sự công cuộc lao động dựng xây

cuộc sống trong văn học dân gian cũng đƣợc ông kế thừa trọn vẹn cả về nội dung tƣ tƣởng

lẫn hình thức biểu đạt dung dị, chân phác:

Ngƣời nghệ sĩ là ngƣời chiến sĩ

Khi quân thù đặt súng giơ bom

Mỗi màu mỗi nét nhƣ chân lý

Cuộc sống hòa bình hát áo cơm. [22,141] v.v...

Lò Ngân Sủn chủ yếu viết thơ tình. Thơ tình yêu của ông mang âm hƣởng nồng nàn

mà sâu lắng của chất dân ca Giáy. Chính ông đã từng tâm sự: "Các bài thơ tình của tôi hầu

hết đều từ trong cổ tích, ca dao mà ra... nhiều khi tôi bê nguyên xi cả cái ý, cái tứ cũng nhƣ

một số câu trong cổ tích, dân ca vào trong thơ của mình... phải thừa nhận rằng: tôi đã học tập

rất nhiều ở trong cổ tích, dân ca, ở trong các bài thơ tình mà tôi đã đƣợc đọc, cũng, có khi là ở

trong bài hát mà tôi đƣợc nghe, ở trong bức họa mà tôi đƣợc xem..."[143,60]. Vì thế những

câu thơ mà Lò Ngân Sủn hƣớng tới biểu đạt các quan niệm về nghệ thuật không khác xa mấy

so với ý thức tƣ tƣởng và cách nói của dân gian xƣa. Bài Đêm hát đối của ông có những khổ

thơ căn bản tƣơng đồng với dân ca Giáy ở khát vọng nghệ thuật, phụng sự cuộc sống

131

và vun đáp hạnh phúc lứa đôi:

Hát nữa đi em cho bản làng đông vui

Cho hạt lúa từ tay ta nảy mầm

Cho hạt ngô từ tay ta thành bắp

Cho anh và em kết nên bạn trăm năm ... [146,34]

Xuyên suốt bài thơ, ý tƣởng về nghệ thuật của nhà thơ cƣ chao liệng qua lại giữa hai

miền hiện đạt và quá khứ nhƣ một nỗi niềm nghệ thuật không thể phân xuất làm đôi:

Xƣa cha mẹ gặp nhau

Câu hát nổi giông bão

Nay anh và em gặp nhau

Câu hát ngân nga đến cháy lòng

Câu hát ấm lòng ngƣời muôn thủa.

Cảm nhận về câu hát (cũng là lời thơ, câu thơ) của Lò Ngân Sủn chẳng khác mấy so

với cách cảm nhận về uy lực phi thƣờng của nghệ thuật trong ý thức dân gian:

Câu hát bay vào thăm thẳm

Tỏa lên trời, lƣợn xuống đất

Con trai nghe lòng bâng khuâng nỗi nhớ

Con gái nghe ngực căng phồng bối rối.

Tiếng hát có sắc nắng

Giọng hát có mật ngọt. [146 , 24]

Giá trị của nghệ thuật cũng đi đƣợc Lò Ngân Sủn chiêm nghiệm qua sự hòa đồng giữa

truyền thống văn hóa và sức sáng tạo kỳ diệu trong thực tại:

Câu hát từ hạt gạo sinh ra

Lời hát do cha ông truyền lại.. [146,58]

Cũng nhƣ các thế hệ cha ông mình, nhiều khi Lò Ngân Sủn đã phó

132

thác cho nghệ thuật những sức mạnh siêu phàm hiếm thấy:

Tiếng hát mẹ ngày xƣa

Hát bên sông cá nổi

Tiếng hát em bây giờ

Lúa xanh đồng bát ngát

... Ở câu hát, câu hát

Trong nhƣ dòng suối mát

Vẫn cung bậc ngày xƣa... [ 146; 9]

Với ông, nghệ thuật xƣa cũng nhƣ nay, dƣờng nhƣ đều có những sức mạnh thần kỳ

giúp con ngƣời thoả nguyện những ƣớc mơ về cuộc sống no ấm hạnh phúc:

Hãy hát những lời hát hay

Tỏa xuống nƣơng bắp ruộng đồng;

Gọi những mùa vàng năm tấn. [168, 74]

Ý thức về vai trò kết duyên tình đôi lứa của nghệ thuật trong văn học dân gian cũng

đƣợc Lò Ngân Sủn kế thừa một cách tự nhiên, thành thật:

Chúng tôi biết yêu

Từ trong cuộc hát đối...[28 , 142]

Trong ý thức của Lò Ngân Sủn, đời ngƣời thì có những biến thiên, có sinh, có tử, còn

nghệ thuật thì mãi mãi trẻ trung, đam mê, bất diệt;

Cha mẹ sinh ra nàng,

Gọi nàng là con gái

Nghệ thuật sinh ra nàng,

Gọi nàng là thần vệ nữ

Nàng sinh ra lần thứ nhất để chết

Nàng sinh ra lần thứ hai để sống mãi. [146 ,72]v.v...

Bên cạnh Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Định Lƣợng v.v... Lâm

133

Qúy - (nhà thơ Cao Lan) cũng từng có những tâm niệm thật độc đáo về nghệ thuật. Trong

những câu thơ của ông nói về sức mạnh của nghệ thuật dƣờng nhƣ có kết tinh cả sức cuốn hút

của Tiếng hát Làu Slam đã từng làm ngất ngây các bản ngƣời Tày, ngƣời Thái, ngƣời Cao

Lan xƣa kia:

Ở tiếng khèn ai trên nguồn

Chảy lặn xuôi dòng

Ngoi lên đầu mƣơng

Làm con cá rách vây

Con nai xƣớc móng

Con gái trải đầu rơi lƣợc xuống thang [142, 184]

Viết về uy lực của tiếng chiêng đối với đời sống tinh thần của ngƣời H'Rê, Lâm Quý

đã thấu hiểu thấm thía ý thức tôn thờ nghệ thuật của dân gian Tây Nguyên nhƣ tôn thờ những

giá trị không thể thay thế. Nghệ thuật vẫn cần cho họ trong từng, thời khắc:

Con trai H'rê xa vợ đƣợc nhiều năm

Con gái xa chồng đƣợc nhiều mùn vẫn hát

Nhƣng không xa đƣợc tiếng chiêng. [168,70]

Niềm tự hào của ngƣời H'Rê về những giá trị nghệ thuật vô giá của mình cũng đƣợc

Lâm Quý biểu đạt bằng tất cả nỗi niềm thành thật, dung dị nhƣ chính nỗi niềm dân gian một

thủa:

Ngƣời H'Rê nghèo thâm nhƣ đất..

... Nhƣng ngƣời H'Rê không nghèo tiếng chiêng

Tiếng chiêng giầu nhƣ màu xanh của núi

Nhiêu nhƣ nƣớc sông H'Rê.. [168 , 69]

Tháng ba, trong ý thức ngƣời Tây Nguyên luôn gắn liền với sự thăng hoa của nghệ

thuật. Tháng ba, cả Tây Nguyên rộn ràng trong những âm hƣởng hào hùng lãng mạng của các

loại nhạc cụ dân tộc. Nhà thơ Êđê Kpa -

134

Ylăng đã trao gửi cho nghệ thuật sứ mệnh dãi bày khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, thịnh

vƣợng;

Tháng bà Tây nguyên

Trống, chiêng, cồng ngày đêm vang dội.

Báo ngày mùa gạo lúa bội thu. [28, 173]

Là nhà thơ của một dân tộc giầu truyền thống thơ ca, Bàn Tài Đoàn đã khảng định giá

trị vô giá của thơ ca qua chính cách nói dung dị của dân tộc mình:

Một lời ca hay đáng vạn tiền. [46,11]

Nhìn chung cách thức biểu đạt và ý thức về tác dụng của nghệ thuật trong thơ Bàn Tài

Đoàn rất gần với lời ăn tiếng nói nôm na dung dị, giàu tính chất khẩu ngữ tự nhiên của dân ca

Dao:

Tuổi đã sáu mƣơi tôi về hƣu

Trở về bản vác củi chăn trâu

Đồng bào đi chợ tìm trò chuyện

Hát mấy câu thơ quên cả sầu... [29 , 85]

Trong bài thơ Con mừng dâng mẹ, nhà thơ Bàn Tài Đoàn tự hào nói với hƣơng hồn

ngƣời mẹ đã khuất về vị thế thơ ca của mình đối với cách mạng và dân tộc bằng một cách nói

thật dung dị mà vẫn thấm thía nỗi niềm đề cao sức mạnh góp phần lập công cứu nƣớc của

nghệ thuật chân chính:

Con nhập Việt Minh, con nhập Đảng

Làm thơ phục vụ đến ngày nay

Lời thơ truyền cảm lòng yêu nƣớc

Dân tộc ta cùng lập chiến công... [168, 49]. v .v..

Kế thừa truyền thống nghệ thuật gắn kết tình ngƣời của dân gian, nhà thơ Bế Dôn đã

ký thác vào cho lời Sli quê hƣơng một sức mạnh đặc biệt:

Tiếng Sli vọng đi tám hƣớng

135

Và ngận tới bốn phƣơng

Bè cao vẫy trăm bản

Bè thấp gọi ngàn mƣờng ...

Sức mạnh truyền cảm sâu xa của tiếng Sli đã trực tiếp là nguồn cổ vũ cho những

ngƣời con ƣu tú lên đƣờng ra trận lập công cứu nƣớc:

Và tiếng Sli hôm nay

Từ núi cao thung thẳm

Theo những chàng trai khỏe mạnh

Lên đƣờng đến tiền phƣơng

...Và ngân dài, ngân dài theo bƣớc hành quân

Và quyện vào bài "Giải phóng miền Nam" [168, 37| .v.v...

Trong các bản trƣờng ca, sử thi Tây Nguyên, ở đâu tiếng chiêng cũng là hiện thân của

sức mạnh tình cảm và niềm vui hoan lạc, chiến thắng. Niềm vui thắng Mỹ đƣợc mô tả qua ý

thức về tiếng chiêng trong bài thơ Ngày hội mừng chiến thắng của nhà thơ ngƣời Châu Ro:

Prêkimala thật đồng điệu Với ý thức về tiếng chiêng của dân gian xƣa, có khác chăng chỉ là ở

nội dung thông báo hiện đại mà thôi:

Hãy đánh chiêng lên

Những tiếng chiêng hay nhất

Đánh cho tiếng chiêng lan khắp xứ, đi khắp nơi

Báo cho loài ngƣời biết

Tổ quốc ta đang thắng Mỹ [168,56]

Nhà thơ dân tộc Thái: Lò Văn Cậy có bài thơ: Chung một dải núi khá độc đáo. Bài

thơ viết ra để nhớ lại những ngày dự trại sáng tác văn học các tỉnh phía Bắc tại cao nguyên

Mộc Châu, Sơn La (tháng 11/1968). Ngợi ca giá trị thanh cao của văn chƣơng nghệ thuật,

nhà thơ đã có những câu thơ mang đậm phong vị dân ca Thái vốn rất giàu hình ảnh sinh

động:

136

Mỗi câu thơ đoạn văn là một nhánh hoa thơm

Hƣơng bay dăng khắp nẻo đƣờng đất nƣớc...[ 25, 33]

Ngoài những nhà thơ có tên tuổi đã nói ở trên, những câu thơ, bài thơ có ý thức biểu

đạt quan niệm về văn chƣơng, nghệ thuật của Lƣơng Quy Nhân, Đinh Đăng Lƣợng, Ma Đình

Thu, Vị Văn Thứa, Triệu Lam Châu, Lâm Thị Ngân v.v... đã góp phần hợp thành một mảng ý

thức về nghệ thuật đặc sắc.

Cảm nhận về tác dụng gợi cảm của lời Sli - một hình thức thơ ca dân gian độc đáo của

ngƣời Tày, nhà thơ Triệu Lam Châu có những kiến giải bằng thơ thật thấm thía:

Lời Sli lạnh lùng mà có lửa

Nhƣ ngƣời dƣng mà chẳng thể cầm lòng. [29 , 22] v.v...

Phải sống với di sản văn nghệ dân tộc bằng tấc cả niềm đam mê, trân trọng lột bậc

mới có thể chắt chiu đƣợc những câu thơ sắc lẹm mà vẫn thấm thía hồn cốt của cha ông đến

thế:

Nhƣ vậy, loại trừ thể nghị luận đóng vai trò chủ công mà chúng tôi sẽ nói ở sau, các

nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại đã có không ít các quan niệm về văn chƣơng nghệ

thuật dƣới "dạng sáng tác". Nói nghị luận là đánh thức chủ công trong việc bộc lộ các quan

niệm văn học nghệ thuật là dựa trên tiêu chí số lƣợng các lý giải về nghệ thuật. Nếu dựa trên

tiêu chí số lƣợng các chủ thể nghệ thuật tham gia lý giải thì ƣu thế lại thuộc về thơ. Chỉ có

một số lƣợng rất ít các nhà thơ, nhà văn tham gia hoạt động lý luận phê bình, trong khi đó lại

có cả một số lƣợng áp đảo các chủ thể quan niệm nghệ thuật là các nhà thơ rất có ý thức lý

giải về nghệ thuật qua thơ. Mặt khác, nghị luận xem ra không phải là tiếng nói ƣa dùng quen

thuộc của các nhà Văn dân tộc anh em, bởi lẽ nó mới đƣợc xác lập, chƣa đƣợc các nhà văn

làm quen qua quá trình trải nghiệm dài lâu. Thậm chí nghị luận dƣờng nhƣ còn

137

có vế đối nghịch với thói quen biểu đạt cụ thể, thiên về hình ảnh trực giác của các dân tộc anh

em. Vì vậy ở thể nghị luận tuy có hiện diện nhiều quan niệm nghệ thuật so với các thể loại

khác song dù sao nó cũng chỉ đƣợc phát huy với một sô nhà văn có điều kiện nghiên cứu, phê

bình văn nghệ. chứ không phải là cánh cửa rộng mở cho mọi nhà văn bƣớc vào luận giải về

nghệ thuật. Thói quen bộc lộ các quan niệm Nghệ thuật của các nhà văn dân tộc anh em chủ

yếu vẫn nhằm vào lãnh địa sáng tác. Trong số các thể loại để sáng tác, văn xuôi tự sự rất có

ƣu thế để các nhà văn dân tộc giãi bày các quan niệm nghệ thuật nhƣng đó lại là một thể loại

mới đƣợc hình thành từ cuối những năm 50 trở lại đây chƣa có mấy cây bút tham gia sáng

tạo. Kịch, ký... lại càng non trẻ và có số lƣợng ngƣời viết thƣa thớt hơn nhiều. Vì vậy chỉ có

thơ ca là con đƣờng rộng mở với mọi nhà văn trong việc giãi bày trực tiếp những suy tƣ, cảm

nhận đã dồn nén đến độ chín về nghệ thuật. Thơ có đƣợc ƣu thế này so với các thể loại sáng

tác khác là bởi vì nó đã có cả một bề dày lịch sử phát triển từ ngàn năm. Văn học viết của dân

tộc Tày và Thái trƣớc cách mạng cũng chỉ có đơn nhất thể loại thơ ca. Tƣ duy hình tƣợng,

trực giác rãi giàu chất thơ của các dân tộc đã chắp cánh cho thơ phát triển mạnh mẽ từ ngàn

xƣa, nay có thêm luồng sinh khí mới từ cuộc hồi sinh của cả quốc gia dân tộc Việt Nam sau

Cách mạng Tháng Tám phả vào, càng khiên cho thơ có dịp thăng hoa, nở rộ. Tính đến thời

điểm 1995 "trong số 23 nhà văn dân tộc thiểu số (là hội viên Hội nhà văn Việt Nam) thì đã có

16 nhà thơ." [154,94] . Một con số có ý nghĩa áp đảo của thơ so với các thể loại sáng tác

khác. Con số này cũng phần nào có giá trị thuyết minh về hiện trạng xuất hiện với số lƣợng

đáng kể các quan niệm về nghệ thuật dƣới hình thức thơ ca (chỉ đứng sau hình thức nghị

luận). Để các quan niệm đƣợc biểu đạt dƣới hình thức thơ ca quả là các nhà văn dân tộc thiểu

số đã lập thêm một kỳ tích cách tân đáng kể trong cuộc hành trình ý thức về văn chƣơng

138

nghệ thuật so với các thế hệ cha ông của họ trong văn học dân gian thƣờng chủ yếu tìm đến

các thể loại tự sự để giãi bày quan niệm nghệ thuật,. Nhƣng nói cách tân ở đây chỉ nên hiểu là

sự chuyển đổi vị thế từ tác phẩm tự sự sang tác phẩm thơ ca trong quá trình kiếm tìm cách nói

mà thôi. Xét vào chiều sâu nội dung và hình thức các quan niệm nghệ thuật đƣợc biểu đạt

dƣới dạng thơ, các nhà thơ hiện đại vẫn thƣờng xuyên có sự hóa thân vào trong những nỗi

niềm về nghệ thuật, của các thế hệ nghệ nhân dân gian xƣa rất sâu sắc. Thiết nghĩ, những câu

thơ có hàm chứa các quan niệm về nghệ thuật của các thi nhân hiện đại, nếu không ghi rõ họ

tên ngƣời sáng tác, bạn đọc rất dễ đánh đồng nó vào trong khuôn thƣớc ý thức sáng tạo của

dân gian truyền thống. Điều đó chẳng có gì lạ, bởi vì nền văn học viết hiện đại các dân tộc

thiểu số vừa mới thoát thai từ văn học dân gian chƣa đầy nửa thế kỷ. Nhiều dấu ấn đặc trƣng

của văn học dân gian vẫn còn lƣu đọng đậm nét trên gƣơng mặt nền văn học non trẻ này.

Trong bƣớc sơ khởi còn mò mẫm của mình, các nhà văn hiện đại hiển nhiên phải khai thác

sức mạnh của văn học dân gian và nƣơng theo mực thƣớc biểu đạt cổ điển của truyền thống

cha ông.

Phẩm chất dân gian không chỉ thể hiện sâu đậm qua việc bộc lộ quan niệm nghệ thuật

trên các thể loại sáng tác mà còn dễ dàng tìm thấy ở phạm vi nghị luận nữa.

3.2.2. Trong dạng nghị luận

Nhƣ đã nói, lý luận phê bình của các nhà văn dân tộc anh em còn rất non trẻ. Nó vừa

nằm trên mặt bằng của một nền văn học còn tiềm tàng các mối quan hệ giăng mắc bền chắc

với truyền thống dân gian, lại vừa do chính các nhà văn, nhà thơ vỗn cũng rất giàu phong vị

dân gian thực hiện. Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Lò Ngân Sủn... là những nhà văn thƣờng

xuyên nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian, rất có ý thức khai thác tối đa những

139

tƣ tƣởng và phƣơng thức biểu đạt của dân gian trong các sáng tác của mình. Vì vậy bản sắc

truyền thống dân tộc nổi bật của nền lý luận phê bình ấy không thể là cái gì khác ngoài sắc

diện dân gian truyền thống cổ điển mẫu mực của họ.

3.2.2.1 Văn nghị luận phê bình, lý luận là loại hình biểu đạt thiên về những biện luận

mang tính khái quát, lôgic, vậy mà khi lý giải về các vấn đề vốn rất trừu tƣợng của nghệ

thuật, các nhà văn dân tộc anh em lại vẫn thƣờng ƣa khai thác những lối nói giàu hình ảnh

sinh động, xác thực. Nhà thơ Nông Quốc Chấn thƣờng bày tỏ các quan niệm về đặc trƣng

thẩm mỹ của thơ ca thông qua những hình ảnh so sánh - liên tƣởng kỳ thú: "Một bài thơ chỉ

có ý thôi chẳng khác nào một cây đứng trần, không cành nhánh, không lá hoa. không dây

leo... Nhƣ vậy ngƣời này muốn kể cho ngƣời khác biết về cây đó thì chỉ có thể nói một khái

niệm: cây đó là một khúc gỗ thẳng đứng." [20 174]. Chủ đề tƣ tƣởng là những khái niệm lý

luận trừu tƣợng, vậy mà lý giải về nó, Nông Quốc Chấn vẫn tìm cách giải mã bằng một hình

thức sinh động đến bất ngờ: "Trong mỗi bài thơ, những chi tiết có chọn lọc bao giờ cũng cần

thiết cho chủ đề tƣ tƣởng. Chi tiết nhƣ cành, nhƣ lá, nhƣ hoa, nhƣ dây leo... Chủ đề tƣ tƣởng

nhƣ cả thân cây." [20, 237] v.v...

Dƣờng nhƣ khi cần gợi sự liên tƣởng trực tiếp về các vấn đề cụ thể của đời sống văn

nghệ, Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn - thƣờng hay khai thác các sự vật, hiện tƣợng thuộc thế

giới môi sinh miền núi (suối, lá hoa, dây leo, đồi , núi.... ) để làm chất liệu đối chiếu phổ biến.

Nông Quốc Chấn suy nghĩ về vốn văn nghệ dân gian các dân tộc nhƣ sau: "Vốn văn nghệ dân

gian miền núi có thể ví nhƣ những dòng suối trên núi rừng. Những nguồn nƣớc này chảy mãi

không bao giờ cạn..." [26 , 347] hoặc: "Một khi những dòng suối văn nghệ các dân tộc đƣợc

khơi nguồn, nó sẽ làm cho con sông văn nghệ chung thêm tràn trề..." [26 ,316]. Phê bình một

đoạn thơ nghèo

140

xúc cảm, thiên về lối khái quát chung chung của. Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn nhận xét:

"Những câu thơ này nhƣ những quả núi trọc, lại bị xói mòn." [116, 415]. Môi sinh miền núi

cũng đi vào những trang nghị luận của Lò Ngân Sủn khá thƣờng xuyên, chẳng hạn: "Mỗi bài

thơ là một kỷ niệm, ở đâu có hơi thở cuộc sống thì ở đó có thơ - cũng nhƣ ở đâu có rừng thì ở

đó có chim hót, có hoa nở, có màu xanh. Ở đâu có sông, có suối thì ở đó có cá bơi, cá lƣợn...

Thơ là tiếng chim hót, là tiếng suối chảy, là Cây, là lá, là hoa, là gió, là mây, là lũ cuốn ầm

ầm. Thơ là ánh trăng, là tiếng khèn môi thủ thỉ bên tai ngƣời yêu" [143,36]... Hoặc: "Thơ ca

trống có vẻ mỏng manh yếu ớt nhƣ hoa lá trong rừng nhƣng lại ẩn chứa một tiềm lực rất

lớn..." [143 , 86]. Sau khi kể những tác phẩm nổi bật của các nhà văn dân tộc ít ngƣời sau

cách mạng, Lò Ngân Sun nhận xét: "Đấy là cái hay, cái nở rộ, cái sặc sỡ của các dân tộc miền

núi chúng ta từ khi có Đảng, có Cách mạng, có Bác Hồ. Nó thô sơ mà trong trắng tự nhiên

nhƣ tiếng lá rừng cây, nhƣ tiếng suối chảy, lấp lánh nhƣ sao trời."v.v... [143,117]. Những ý

tƣởng về văn nghệ đƣợc nhận thức trong sự ứng chiếu rộng rãi với các thuộc tính của thiên

nhiên và cuộc sống miền núi nhƣ thế, thiết tƣởng chỉ có thể bắt gặp trong các trang lý luận

phê bình của các cây bút miền núi. Không phải ngẫu nhiên, Nông Quốc Chấn suy nghĩ về

điều kiện thành công của các bài thơ miền núi rằng: "Những bài thơ miền núi chỉ có thể thành

công khi nào ngƣời làm thơ biết vận dụng khéo léo những hình ảnh gần gũi của miền núi để

miêu tả tâm tình của ngƣời dân tộc thiểu số." [26 , 237]. Phải chăng vì thế mà ngay ở phạm vi

chính luận họ vẫn mang theo quán tính vận dụng nhƣng liên tƣởng, so sánh sinh động vào

giữa các trang viết của mình. Có cảm giác, tƣởng nhƣ họ thƣờng xuyên bƣớc đi giữa những

so sánh - liên tƣởng kỳ thú nên đặc biệt viết là tràn chảy những so sánh liên hệ rất đỗi nên

thơ: "Văn học các dân tộc thiểu số có thể ví nhƣ một vƣờn hoa muôn màu, nghìn vẻ.

141

Cũng có thể ví nhƣ một sân khấu lớn có nhiều tiếng hát, tiếng nhạc mang âm điệu, tiết tấu,

hơi thở của nhiều dân tộc." [26, 287]. Trong lý luận phê bình văn nghệ, các nhà văn dân tộc

anh em thƣờng xuyên có ý thức cụ thể hơn mọi vấn đề lý luận văn nghệ khái quát bằng

những lối nói sinh động triệt để. Nông Quốc Chấn bày tỏ tâm sự: "Dùng hình tƣợng để diễn

đạt, tôi thấy dễ dàng hơn nhiều so với dùng những thuật ngữ mang tính khái niệm quá ƣ khái

quát" [196, 58]. Vì vậy, khi động chạm đến những vấn đề lý luận nghệ thuật hữu trừu tƣợng,

ông luôn tìm cách hiện thực hóa chúng bằng những hình ảnh ví von, so sánh gần gũi nhất:

"Thiếu những nét đẹp của truyền thống văn nghệ các dân tộc chỉ là những bông hoa bằng

giấy thiếu những nét mới khoa học, trí tuệ văn nghệ các dân tộc sẽ giống nhƣ có nhiều ngô

khoai chỉ biết nƣớng, luộc mà không chế biến thành nhiều thứ kẹo bánh." [168, 401]. Trong

số các nhà văn dân tộc ít ngƣời có ý thức hoạt động lý luận phê bình, Vi Hồng là một cây bút

khá đặc sắc ở khả năng kết hợp hài hòa giữa những lối nói giầu hình tƣợng với lối nói khái

quát sắc sảo về những vấn đề cụ thể của nghệ thuật. Song trƣớc sau, ông vẫn là nhà sáng tác

viết lý luận phê bình, cho nên điểm mạnh cua ông qua các trang viết nghị luận vẫn là những

trang đoạn ông biết hình tƣợng hóa các vấn đề lý luận nghệ thuật một cách sinh động. Cảm

động về vai trò của văn chƣơng đối với nhịp sống tinh thần của mình (cũng là của con ngƣời

nói chung) ông viết thật cảm động: "Văn chƣơng với tôi bao giờ cũng là một chiếc phao trong

những ngày tháng tôi ngoi ngóp giữa biển cả khổ đau. Văn chƣơng bao giờ cũng là một cánh

qụat trong chuỗi ngày dằng dặc oi bức..." [63 ,7]. Ông suy nghĩ về những điều kiện có liên

quan đến khả năng sáng tạo của nghệ sĩ bằng những liên tƣởng giầu hình ảnh sinh động:

"Tình yêu và hạnh phúc gia đình bao giờ cũng là đôi cánh rất khỏe cho tâm hồn thi sĩ. Nếu

thiếu nó thì sáng tác của họ dễ chết yểu, dễ nhiễm bênh tật, có khi tắc tị."

142

63, 9]. Có thể nói rằng đến với những trang viết nghị luận của các nhà văn dân tộc ít ngƣời,

bạn đọc hiếm khi bắt gặp những khái quát chung chung, trừu tƣợng, mang sắc màu kinh viện.

Văn nghị luận của họ ít khi ly thoát những chứng cớ và hình ảnh sinh động nên giàu chất thơ,

dễ gợi những liên tƣởng kỳ thú, giảm thiểu những suy xét, phán đoán nhọc nhằn cho ngƣời

tiếp nhận.

3.2.2.2. Văn nghị luận trong phê bình lý luận đòi hỏi sự khúc triết, lạch lạc, dồn nén

các ý tƣởng trong những đơn vị ngôn từ giàu sắc thái igic. Các nhà văn dân tộc anh em - nhất

là lớp trẻ - cơ bản đã làm vậy, song ly đó giữa các trang viết của mình, họ vẫn dành chỗ đứng

khá rộng rãi cho những lối nói hồn nhiên, chân tình tựa nhƣ lời đối thoại khẩu ngữ mộc mạc,

nhiên trên bàn trà., cuộc rƣợu không chút khách khí, màu mè: "Bản lĩnh, đạo đức của ngƣời

viết là cổ chí, cần cù, khiêm tốn. Khi thành công phải nghĩ ngay đến khi thất bại. Chỉ luôn

nghĩ đến thành công đến khi bị ngƣời ta phê bình thì nhụt ý chí rồi đâm ra bất mãn, nói lung

tung..." [20,211]. Sắc ái khẩu ngữ thƣờng xuyên chiếm ƣu thế tối đa trong các luận bàn, trao

đổi nghệ thuật của họ. Chẳng hạn: "Cần tạn ra cái mới. Nếu chỉ toàn nhặt lấy cũ ra để dùng

thì ta chỉ sống về quá khứ thôi. Ngƣời ta sẽ bảo: dân tộc quá khứ thì hay nhƣng hiện tại thì tôi

chƣa thay, thế là không đƣợc." [20 192]. Nông Quốc Chấn thƣờng bộc lộ các ý tƣởng về văn

nghệ bằng một giọng điệu chân tình, cởi mở nhƣ bày tỏ nỗi lòng mình với bè bạn, ngƣời thân:

"Bệnh lƣời là rất tai hại đối với ngƣời việt. Lƣời đáng kỵ lắm. Ngày anh cũng phải ghi một

tý, luyện cho quen cái óc của mình." [20 , 212]. trƣng bày tỏ quan niệm về tính thời điểm của

sáng tác: "Việc sáng tác về bộ , thƣơng binh lúc này, chúng ta nên viết về mặt tốt, mặt tích

cực là chính. Trong lúc đang tuyển quân hô hào thanh niên lên đƣờng chống Mỹ cứu nƣớc,

chúng ta lại viết những vở kịch nói cái băn khoăn, mất mát thì ngƣời

143

đọc không chịu đƣợc." [20 , 201] v.v...

Bên cạnh chất giọng trầm cảm, khách quan trong phân tích, đây đó trong các trang

viết lý luận phê bình của Vi Hồng, bạn đọc vẫn có thể tìm thấy ở ông giọng điệu trao đổi

chân tình, mộc mạc nhƣ rút từ gan ruột của mình: "Ngƣời viết văn cần có lối sống riêng, có

bản lĩnh riêng rất vững. Nhƣng nêu không có đƣợc đức tính đó thì không nên cố tạo ra nó.

Bởi chẳng bao giờ ngƣời ta về lớn. về già lại còn tạo ra đƣợc một bản tính mới nào cả. Nếu

có biểu hiện này nọ thì đó cũng là của gỉa. Mà văn chƣơng thì không thể giả." [63,7]. Nói về

cảm xúc bi ai trong sáng tác Vi Hồng không bày tỏ vấn đề bằng lối nói nghị luận khái quát

thuần túy có cả sắc thái trao đổi, tâm tình rấi thành thật: "Nguời viết văn phải có nỗi đau, nỗi

đau khổ càng nhiều càng tốt... Khổ đau giúp cho ngƣời ta mở rộng các giác quan cảm xúc

nghệ thuật Nhƣng nếu đau khổ quá độ, buồn khổ quá độ thì sẽ hạn chế rất nhiều đến sô lƣợng

cũng nhƣ chất lƣợng các sáng tác." [63 , 7].v.v...

Thành thật, ân cần, cởi mở là vậy mà khi cần bày tỏ thái độ phủ định hoặc: trao đổi

nghiêm túc về những vấn đề cụ thể của văn học nghệ thuật, sắc thái nghị luận của họ cũng

thật thâm thúy, sắc sảo đến không ngờ. Cái thâm thúy, sắc sảo không phải bật phát ra từ thái

độ tranh luận gay gắt, viện dẫn những tri thức liên đới từ cổ kim đông tây... mà chủ yếu vẫn

đƣợc kết tinh từ những hình ảnh liên tƣởng rất đỗi chân phƣơng, giàu xúc cảm thành thật. Họ

muốn lấy cái tâm thành thật, nụ cƣời bằng hữu để trao đổi với ngƣời ngay cả khi tình thế có

thể đòi hỏi phải gay gắt, quyết liệt. Phản bác lại những ngộ nhận về sƣ sáng tạo thơ ca, Lò

Ngân Sủn đã viết: "Có ngƣời nghĩ: làm thơ dễ, ai cũng làm đƣợc. Nhƣng đã có mấy ai thấu

hiểu cốt lõi của thơ là sự rung động, là tình cảm của con ngƣời trƣớc cuộc sống. Sức nóng

của lòng mình còn chƣa đủ sƣởi ấm lòng mình thì làm sao sƣởi ấm cho muôn ngƣời.... Ngƣời

Thái nói: hát tình yêu là hát làm ngƣời. Ngƣời Giáy nói:

144

Ngồi thì co, đứng thì thẳng, làm ngƣời thật khó. Làm thơ khó vậy chăng?" [125, 568] v.v...

Có thể nói, cách thức biểu đạt nghị luận mộc mạc, hồn nhiên, vốn thiên về những lối

nói hình ảnh cụ thể tạo khả năng liên tƣởng xác thực, độc đáo là một thế mạnh đặc biệt đƣợc

các nhà văn dân tộc anh em chắt lọc từ bề dày văn hóa, văn học dân gian của họ . Nó đƣợc

kết nối, hun đúc và dung dƣỡng nhờ nguồn sữa bất tận của dân gian truyền thống. Tiếng nói

truyền thống ấy đã hằn sâu trên từng nếp gấp tƣ duy để trào thoát ra trên mỗi trang viết của

nhà văn - nhất là các nhà văn thuộc thế hệ đầu của nền văn học cách mạng có điều kiện sống

giữa môi trƣờng văn học dân gian thuần khiết từ trƣớc 1945.

Cách viết nghị luận trực cảm giàu so sánh liên tƣởng sinh động của các nhà văn dân

tộc là hệ quả nối tiếp từ truyền thống văn học dân gian của họ. Tiếng nói nghệ thuật truyền

thống của dân gian các dân tộc về đại thể đều là những tiếng nói nghệ thuật đặc biệt sinh

động, cụ thể, tƣởng nhƣ có thể đông đếm, trực cảm bằng các giác quan. Xuyên suốt cả mội

thời kỳ dài lâu trong., lịch sử phát triển văn hóa văn nghệ của mình trƣớc cách mạng, các dân

tộc thiểu số anh em chỉ biết đến sáng tác nhờ con đƣờng sáng tác mà ký thác các suy ngẫm và

tâm sự của mình về nghệ thuật. Thói quen tƣ duy trực cảm, sinh động càng có dịp đƣợc phát

huy trong bối cảnh sáng tác dân gian phi văn tự. Bởi vì khi truyền khẩu, ngƣời ta chỉ có thể

tìm đến những lối nói giàu hình ảnh sinh động và cụ thể để tạo hiệu quả ám ảnh, khắc sâu, dễ

nhớ đối với ngƣời tiếp nhận... Mặt khác sống trong điều kiện sinh hoạt kinh tế tự cung, tự cấp

khép kín, các dân tộc anh em khó có những cơ hội và điều kiện để giao lƣu, quan hệ với

những không gian văn hoá khác. Đội ngũ trí thức dân tộc bản địa vì thế rất khó có thể tìm

đƣợc những phƣơng thức biểu đạt mới mẻ mang tính đột phá so với những thông lệ truyền

đời của cộng

145

đồng. Cách nói hình ảnh, mộc mạc, chân xác và cụ thể dƣờng nhƣ đã thấm nhuần trong họ

nhƣ một quán tính tự nhiên... Trong khi đó, dân tộc Kinh do sớm đƣợc thừa hƣởng một

truyền thống văn học phong phú, những cách nói có phần khái quát ham súc về văn nghệ đã

xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử với những tên tuổi đặc biệt nhƣ Lê Quý Đôn, Hoàng Đức

Lƣơng, Nguyễn Hanh, Bùi Huy Bích, Ngô Thì Nhậm v.v... Có lẽ, các dân tộc thiểu số nếu

không có cách mạng Tháng Tám mở ra con đƣờng cho cuộc hòa lƣu cách tân văn nghệ, rất

khó có thể nói đến sự hiện diện của những tên tuổi phê bình lý luận nghiên cứu văn nghệ nhƣ

Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Lò Ngân Sủn, Lâm Tiên... Đến tận đầu những năm 70 của thế

kỷ này mà Nông Quốc Chấn vần đành phải ghi nhận một cách xót xa: "Có thể nói, trong lĩnh

vực nghiên cứu lý luận, các dân tộc thiểu số không có gì." [154 , 13]. Vì vậy khi đã có rồi thì

nên phê bình lý luận ấy đƣơng nhiên trở thành một bộ phận văn học đặc biệt. Tính chất đặc

biệt này không phải chỉ là do những cách tân đổi mới trong cách lý giải về các vấn đề của

nghệ thuật hay do độ dày dặn của các trang sách, tập sách tiểu luận của các nhà văn vẫn

thƣờng xuyên ra mắt bạn đọc, mà chính là ở sự thấm nhuần sâu đậm các sắc thái dân gian

truyền thống, tạo cho các trang viết của họ một sắc điệu rất riêng, khó xóa nhòa, không thể

trộn lẫn. Có thể nói, sự gắn kết bền chặt với truyền thống cha ông cũng là nét phẩm chất

chung thủy thật đáng yêu của các cây bút lý luận phê bình văn học dân tộc thiểu số - những

con ngƣời sống giữa dông tố của thời đại giao lƣu, hòa nhập mà vẫn giữ trọn trong góc sâu

trái tim mình cái phần hồn nhân bản của cha ông để trƣớc sau mình vẫn là mình...

Tóm lại, bên cạnh những cách tân đổi mới, các nhà văn dân tộc thiểu số vẫn thƣờng

xuyên khai thác tối đa những phẩm chất nghệ thuật của dân gian truyền thống trên các trang

viết của mình. Dù là sáng tác hay nghị luận, khi có dịp biểu đạt các quan niệm về nghệ thuật,

các nhà văn đều tự nguyện

146

trung thành với truyền thống dân gian nhƣ tìm đến với một mô típ cổ điển mẫu mực. Ở đâu

phẩm chất dân gian truyền thống cũng nổi bật lên nhƣ một gam màu bất biến, nó hòa quyện

vào các lý giải về nghệ thuật của các nhà văn hiện đại nhƣ hòa quyện vào nỗi niềm tình cảm

và máu thịt của họ. Các nhà văn dân tộc anh em văn thƣờng tâm niệm, chỉ khi nào khai thác

những phẩm chất dân tộc có hiệu quả mới hy vọng có cơ may đƣợc đồng bào mình chia sẻ và

đón nhận. Sinh thời nhà văn Vi Hồng thƣờng khuyên các nhà văn, nhà thơ nên tăng cƣờng

trau dồi vốn từ ngữ dân gian. Ông nói: "Nếu nghe và ghi nhớ đƣợc những từ ở cửa miệng dân

gian thì tốt hơn nhiều." [62, 64]. Nhà thơ Nông Quốc Chấn cũng thƣờng tâm sự và khuyên

răn các đồng nghiệp của mình: "Những đoạn nói lý khô khan, những lời nói xa rời các cảm,

cách nghĩ của dân tộc mình là những thứ bệnh cần đƣợc mau mau sửa chữa." [19,90]. Rõ

ràng một khi đã lấy phƣơng châm viết cho đồng bào mình làm chính thì bất luận ở thể loại

nào - kể cả thể loại nghị luận vốn thiên về khái quát, các nhà văn dân tộc anh em cũng tất yếu

phải tìm cách khai thác tối đa những sắc thái tƣ tƣởng và mô thức ngôn từ quen thuộc, phù

hợp với truyền thống sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật của dân tộc mình.

*

* *

Hiểu bản chất đặc trƣng các quan niệm nghệ thuật của các thế hệ nghệ sĩ dân tộc thiểu

số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà văn Việt Nam hôm nay , đặc biệt đối với

các nhà văn dân tộc thiểu số anh em.

Vừa giàu hình ảnh sinh động, vừa nôm na dung dị mộc mạc - đó là những sắc thái nổi

bật trong quan niệm về nghệ thuật của các thế hệ nghệ sĩ dân tộc thiểu số từ văn học dân gian

đến văn học hiện đại. Sắc thái quan niệm nghệ thuật độc đáo này dƣờng nhƣ không có sự

gián đoạn, phân hóa qua những biến thiên thăng trầm của lịch sử. Nó đã từng trƣờng diễn qua

147

lịch sử để trở thành nghiệm số chung cho lời giải bài toán về nghệ thuật của các thế hệ nghệ

sĩ dân tộc thiểu số xƣa nay. Do vậy để hiểu thấu đáo những sắc thái quan niệm nghệ thuật của

các nhà văn hiện đại, vẫn nhất thiết phải truy nguyên sự hiểu biết vào chiều sâu quan niệm

nghệ thuật của dân gian. Bởi lẽ giữa hiện tại và quá khứ trong ý thức của các nhà văn dân tộc

thiểu số chẳng có mấy khoảng cách chia xa. Các thế hệ văn nhân xƣa nay vẫn thƣờng xuyên

hành trình qua lại trong sự giao thoa kết nối bền chắc giữa hai chiều quá khứ và hiện tại. Chỉ

hiểu biết các quan niệm nghệ thuật ấy ở một phía đơn nhất chắc chắn sẽ không tránh khỏi cái

nhìn phiến diện, giản đơn, sẽ khó có thể đi đến tận cùng sự hiểu biết thấu triệt về bản chất đặc

trƣng quan niệm nghệ thuật của các dân tộc anh em... Trong bối cảnh giao lƣu và hội nhập

toàn diện hôm nay, để phát triển, các nhà văn dân tộc anh em cần học tập, tiếp thu những tinh

hoa, kinh nghiệm tiên tiến của văn học các nƣớc, các dân tộc khác. Song để nền văn học của

các dân tộc luôn luôn mang đậm bản sắc dân tộc, các nhà văn lại cần phải thƣờng xuyên gìn

giữ và phát huy những sắc thái dân tộc đặc sắc vốn trƣờng tồn từ trong di sản văn học dân

gian cổ điển của các dân tộc anh em. Quá thiên về đổi mới cách tân để đến nỗi mờ nhạt bản

sắc dân tộc "khiến ngƣời đọc khó phân biệt đƣợc đâu là tác phẩm của ngƣời Tày, đâu là tác

phẩm của ngƣời Kinh viết về miền núi" [154, 146] (Lâm Tiến) thì thật là không ổn. Cần khai

thác, kế thừa những sắc thái quan niệm nghệ thuật dung dị, mộc mạc, giầu hình ảnh sinh động

và hồn nhiên của dân gian các dân tộc thiểu số để sao cho những trang viết của các nhà văn

hiện đại luôn thấm nhuần bản sắc dân tộc chân chính.

Do vậy việc tiếp thu, kế thừa truyền thống - trong đó có truyền thống quan niệm nghệ

thuật là một yêu cầu thiết thực và bức xúc đối với các nhà văn dân tộc anh em. Có nhƣ vạy

sáng tác của họ mới ngày càng thấm đƣợm phẩm chất dân tộc chân chính, tạo sự giao cảm

rộng rãi, gần gũi với đồng

148

bào mình. Nhà thơ Lò Ngân Sủn đã từng cảnh báo: "Điều đáng buồn hơn là ngay trong đội

ngũ sáng tác là ngƣời thiểu số (trong đó có bản thân tôi) cũng lại thiếu am hiểu về chính dân

tộc mình, thậm chí có tác giả còn có nguy cơ thoát ly truyền thống văn học dân tộc mình."

Thiết nghĩ, sức mạnh của mỗi nhà văn trƣớc hết là sức mạnh đƣợc kết tinh từ sự am tƣờng

thấu đáo các giá trị nội sinh của dân tộc. Thoát ly những sắc thái đặc trƣng của dân tộc mình,

nhà văn chỉ có thể là kẻ ký sinh "thƣơng vay, khóc mƣớn" hời hợt qua mỗi trang viết. Do vây

việc hiểu truyền thống nghệ thuật trong đó có truyền thống quan niệm nghệ thuật của cha ông

bao giờ cũng là bài học mãi mãi có ý nghĩa thời sự cập nhật đối với các thế hệ nhà văn dân

tộc thiểu số anh em.

Đối với các nhà văn ngƣời Kinh, việc am hiểu bản chất các quan niệm văn học nghệ

thuật từ trong truyền thống của các dân tộc anh em cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc loại

trừ những khả năng bắt chƣớc hời hợi, mô phỏng dễ dãi, tùy tiện những lối nói dân tộc thuần

tuý, ngẫu nhiên. Nhà thơ Lò Ngân Sủn sau khi biểu dƣơng những tác giả ngƣời Kinh đã "đầu

tƣ công sức và trí tuệ để viết về ngƣời thiểu số" nhƣ Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn

Kháng... cũng đã nhận xét về những hiện trạng không bình thƣờng của một số ngƣời viết

rằng: "Có một số ngƣời viết có lẽ còn thiếu am hiểu một cách thấu đáo về ngƣời thiểu số, cho

nên trong sáng tác của họ còn bộc lộ sự tùy tiện, gán ghép, thậm chí có những sai sót thật

đáng trách. Phổ biến là hiện tƣợng bắt chƣớc cách nói tiếng phổ thông còn chƣa thông thạo,

còn ngọng nghịu, ngô nghê, vụng về của ngƣời thiểu số hoặc do cứ cố ra vẻ độc đáo ra vẻ có

bản sắc dân tộc một cách máy móc, thô thiển theo giọng điệu lố, né, vớ, cái mày, cái tao mà

không hiểu đƣợc bản chất ngôn ngữ tiếng nói cũng nhƣ phong tục tập quán của ngƣời thiểu

số... Đáng tiếc là những hiện tƣợng đó cho đến nay vẫn còn tái diễn đi, tái diễn lại trên các

trang

149

sách, báo trong các buôit phát thanh văn nghệ, nhất là trong các câu chuyện truyền thanh trên

sóng đài..." [143 ,15] Có thể đó là kết quả của những trang viết vừa chủ quan phiến diện vừa

vơi thiếu tri thức về bản chất đặc trƣng các quan niệm thẩm mỹ và nghệ thuật của các dân tộc

anh em. Một khi đã thấu hiểu bản sắc quan niệm nghệ thuật của các dân tộc anh em, ngƣời

cầm bút chắc chắn cần có thái độ tiếp cận đối tƣợng miêu tả một cách nghiêm cấn và trung

thực hơn. Có nhƣ vậy mới kỳ vọng có những tác phẩm vừa trung thực sinh động vừa độc đáo

về dân tộc và miền núi một mảng đề tài hơn đầy sức cuốn hút đối với các thế hệ nhà văn

Việt Nam xƣa nay

*

* *

Tóm lại ở chƣơng này sau khi đặt các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian

trong sự đối sánh với quan niệm văn học hiện đại các dân tộc thiểu số anh em sau cách mạng

Tháng Tám, chúng tôi nhận thấy rằng: Khi hội nhập vào đại gia đình văn học cách mạng Việt

Nam giữa bối cảnh lịch sử dân tộc đang trải qua những thách thức gay cấn, quan niệm văn

học hiện đại các dân tộc ít ngƣời đã thực sự có những đổi mới, cách tân đáng kể bên cạnh

những sắc thái dân tộc ổn định bền vững thƣờng xuyên đƣợc các nhà văn hiện đại kế thừa,

phát huy.

Những đổi mới, cách tân về quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại các dân tộc

ít ngƣời đƣợc thể hiện sinh động trên ba bình diện chinh: Trên bình diện dân tộc thống nhất,

các quan niệm nghệ thuật của các nhà văn hiện đại đã hòa chung giao thoa mật thiết vào ý

thức nghệ thuật chung của cả cộng đồng dân tộc thống nhất, nghĩa là quan niệm nghệ thuật

của họ đã vƣợt qua giới hạn chật hẹp của các quan niệm nghệ thuật dân gian xƣa chỉ đặt các

quan niệm nghệ thuật trong sự ứng chiếu và phụng sự cho một dân tộc đơn nhất. Trên bình

diện cách mạng, các quan niệm nghệ thuật

150

hiện đại của các nhà văn đã đƣợc chung đúc nên trên cơ sở lý tƣởng cách mạng của Đảng,

của giai cấp công nhân. Nó phục vụ thiết thực cho công cuộc xây dựng và chiến đấu vì lý

tƣởng tiến bộ của cả dân tộc. Trên bình diện khoa học, các quan niệm nghệ thuật của các

nhà văn hiện đại đã vƣợt lên trên cách nhìn về nghệ thuật lẻ tẻ, rời rạc của cha ông để có

đƣợc lối nhìn nhận đánh giá mới trên tinh thần khoa học và tƣơng đối có hệ thống. Nhiều

bình diện căn bản của đời sống văn học đã đƣợc các nhà văn bàn luận khá thấu đáo, sâu sắc,

có sức thuyết phục nhƣ về chỉnh thể nhà văn, về thuộc tính thẩm mỹ thơ ca, về tính Đảng, về

phê bình văn nghệ v.v...

Phương diện truyền thống của các quan niệm nghệ trong văn học hiện đại các dân

tộc là bộ phận trƣờng diễn qua lịch sử , nó thực sự đóng vai trò quyết định bản sắc văn nghệ

đích thực của các dân tộc anh em từ ngàn xƣa tới nay. Dù là hiện hữu dƣới "dạng sáng tác"

hay nghị luận, các quan niệm nghệ thuật của các nhà văn đều chịu sự chi phối, ảnh hƣởng sâu

đậm cả về ý thức tƣ tƣởng lẫn phƣơng thức biểu đạt của dân gian. Biểu đạt các quan niệm

dƣới "dạng sáng tác", các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại vẫn tiếp tục kế thừa các thể loại

quen thuộc vốn có từ trong văn học dân gian nhƣ văn xuôi tự sự hoặc thơ ca để bày tỏ các

quan niệm về nghệ thuật một cách cụ thể, sinh động... Đặc biệt, chất dân gian truyền thống

vẫn tiếp tục chi phối ý thức biểu đạt quan niệm về nghệ thuật của các nhà văn qua hình thức

nghị luận. Sắc thái nghị luận mộc mạc, hồn nhiên, giàu hình ảnh xác thực... là phẩm chất dân

tộc sắc nét của các nhà văn dân tộc anh em khi bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật. Bằng

cách tìm đến các mô típ cổ điển mẫn mực của truyền thống dân gian khi bày tỏ quan niệm về

nghệ thuật, các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại đã giữ vững đƣợc bản sắc quan niệm nghệ

thuật của dân tộc mình, đồng thời tạo cơ hội giao thoa cộng cảm với đồng bào mình sâu sắc

trong quá trình sáng tạo văn học.

151

Thấu hiểu bản chất đặc trƣng các quan niệm nghệ thuật của các dân tộc thiểu số từ

truyền thống đến hiện đại không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà văn dân tộc anh em ở giá trị

khắc sâu phẩm chất dân tộc tiềm tàng trong sáng tác mà còn có tác dụng định hƣớng tích cực

đối với các nhà văn ngƣời Kinh vốn quan tâm đến mảng đề tài dân tộc và miền núi. Đây là

một bài học nghệ thuật có ý nghĩa cập nhật đối với các thế hệ nhà văn Việt Nam Chúng ta

hôm nay.

152

KẾT LUẬN

Đi sau tìm hiểu nghiên cứu một cách toàn diện các quan niệm về nghệ thuật trong văn

học dân gian cổ truyền các dân tộc anh em với những mục đích, ý nghĩa, đối tƣợng và

phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc xác định ở trên đã dẫn đến những kết quả có thể tóm lại nhƣ

sau:

1. Các dân tộc thiểu số anh em qua văn học dân gian cổ truyền đã bày tỏ khá nhiều

quan niệm về nghệ thuật trên các khía cạnh khác nhau. Trƣớc hết dân gian các dân tộc đã có

những cảm nhận khá độc đáo về vẻ đẹp của con ngƣời. Các dân tộc anh em rất đề cao cái đẹp

bên ngoài song có điều cái đẹp bên ngoài chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó gắn liền với vẻ đẹp

bên trong. Khi đề cao cái đẹp bên trong nhƣ một điều kiện sống còn trong giá trị của đối

tƣợng, dân gian cũng có ý thức đòi hỏi cái đẹp bên trong đó phải đƣợc "hình thức hóa" tƣơng

khớp để hƣớng tới khát vọng cái đẹp hoàn hảo. Cái đẹp lý tƣởng là sự hài hòa cao độ giữa vẻ

đẹp bên trong và cái đẹp bên ngoài theo tinh thần "đẹp ngƣời đẹp nết'', đồng thời cũng phải

đảm bảo yêu cầu cân xứng hài hoa khi đặt cái đẹp trong quan hệ cụ thể. Dân gian các dân tộc

anh em cũng ký thác cho cái đẹp những thiên chức cao cả trong việc khích lệ niềm tin và khát

vọng sống, góp phần đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc...

Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số chủ

yếu tập trung vào các bình diện chủ thể nghệ thuật, vai trò tác dụng của nghệ thuật... Về chủ

thể nghệ thuật, các dân tộc anh em đã có những quan niệm khá độc đáo về nguồn gốc tài

năng nghệ thuật, về mối quan hệ giữa chủ thể nghệ thuật với vốn văn nghệ cổ truyền dân tộc,

về tinh thần giao cảm và ý thức trách nhiệm của chủ thể nghệ thuật...Với dân gian tài năng

nghệ thuật có đƣợc là vừa do những đấng tối cao (Tiên, Bụt...) Ban

153

tặng cho, vừa do con ngƣời chung đúc, chắt lọc nên qua quá trình tu luyện miệt mài say mê.

Vì vậy nghệ thuật nói chung, tài năng nghệ thuật nói riêng là sản phẩm tinh thần vô giá. Các

dân tộc anh em cũng rất đề cao vai trò của nghệ thuật cổ truyền dân tộc, ý thức trách nhiệm

và tấm lòng giao cảm - những yếu tố góp phần quyết định đến hiệu quả hoạt động nghệ thuật

của dân gian.

Về tác dụng của nghệ thuật, dân gian các dân tộc quan niệm nghệ thuật có tác dụng

cố kết nhân tâm, thắt chặt tình ngƣời, kết duyên tình đôi lứa. Nghệ thuật xa lạ với sự kích

động oán thù, ly tán nhân tâm... Nghệ thuật chân chính còn góp phần chinh phục thế giới

muôn loài, khích lệ niềm tin và khát vọng chinh phục tự nhiên vì cuộc sống hữu ích của con

ngƣời. Đặc biệt dân gian còn phó thác cho nghệ thuật sứ mệnh cao cả trong việc phụng sự

công cuộc lao động dựng xây cuộc sống, góp phần đánh giặc cứu nƣớc, cứu dân... Những

quan niệm nghệ thuật đầy nhân văn, nhân ái trên có sức mạnh lan tỏa sâu rộng không chỉ với

cộng đồng dân tộc mình, thời đại mình mà còn đối với các dân tộc khác, thời đại khác.

2. Các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số

có mối quan hệ đồng đại với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền của dân

tộc Kinh. Ở đây có những tƣơng đồng và khác biệt rất đáng chú ý nhƣ sau :

Sự tƣơng đồng trên bình diện cộng đồng dân tộc trƣớc hết thể hiện ở phạm vi quan

niệm về cái đẹp . Các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh gặp gỡ nhau ở ý thức đề cao cái đẹp

bên ngoài, trân trọng cái đẹp bên trong và cùng chia sẻ với nhau ở khát vọng hƣớng tới cái

đẹp lý tƣởng "đẹp ngƣời, đẹp nết". Các dân tộc anh em và dân tộc Kinh còn gặp gỡ nhau ở ý

thức sử dụng cái đẹp vào công cuộc đánh giặc cứu nƣớc, giúp dân... Ở phạm vi quan

154

niệm nghệ thuật cũng vậy, dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều có ý thức sử dụng

nghệ thuật làm phƣơng tiện đánh giặc cứu nƣớc. Những truyện cổ mang ý thức dùng lời ca

tiếng đàn đánh giặc đã xuất hiện khá phong phú ở cả dân gian cổ truyền các dân tộc anh em

và dân gian cổ truyền của dân tộc Kinh. Các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh còn gặp gỡ

nhau ở tinh thần đề cao, trân trọng và đam mê nghệ thuật. Họ cùng đều ký thác cho nghệ

thuật những sức mạnh cảm hóa vô biên, thắt chặt tình yêu thƣơng đồng loại, đôi lứa, thu phục

thế giới tự nhiên và muôn loài...

Trên bình diện nhân dân lao động, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều

rất đề cao vẻ đẹp của ngƣời lao động. Họ luôn tỏ thái độ phủ định, bài xích những cái đẹp

phù phiếm, giả tạo, thoát ly lao động. Đề cao cái đẹp của ngƣời lao động nên khi quan niệm

về nghệ thuật cũng vậy, dân tộc Kinh cũng nhƣ các dân tộc thiểu số đều đặc biệt khuyến

dƣơng nghệ thuật phụng sự cuộc sống bình yên cua nhân dân lao động. Các dân tộc thiểu số

và dân tộc Kinh còn gặp gỡ nhau ở những cảm nhận mang tính chất mâu thuẫn khi đánh giá

về vẻ đẹp của ngƣời lao động . Nghệ thuật, với họ là biểu tƣợng của tình yêu thƣơng, lòng

nhân ái, là khát vọng hòa bình của muôn dân Vì vậy lời ca tiếng hát của họ chỉ để hƣớng tới

phụng sự cuộc sống lao động và con ngƣời lao động. Về chủ thể nghệ thuật, họ tiều là những

thân phận nghèo hèn mà tài ba lỗi lạc, gắn bó với nhân dân, mọi hứng thú phụng sự nghệ

thuật của họ đều khởi phát từ cuộc sống lao động của nhân dân.

Các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh cũng có những dị biệt khi lý giải về nghệ thuật

(và cái đẹp). Trƣớc hết,ở sự khác nhau Về loại hình nghệ thuật được cảm nhận, các dân tộc

thiểu số tập trung các lý giải vào nghệ thuật ca múa nhạc. Đại bộ phận các dân tộc không có

các lý giải về thơ văn. Trong khi đó dân tộc Kinh bên cạnh các lý giải về ca múa nhạc cũng

đã phần nào có để tâm cảm nhận về thơ văn, về ngôn từ nghệ thuật. Các dân tộc

155

"thiểu số những điều kiện khách quan thuận lợi để phát triển loại hình nghệ thuật ca vũ nhạc:

hơn so với thơ văn. Trong khi đó dân tộc Kinh , bên cạnh sự phát triển của loại hình nghệ

thuật ca múa nhạc, lại hơn hẳn các dân tộc anh em về điều kiện khách quan để phát triển nghệ

thuật thơ văn. Ở sự khác nhau về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật , trong

khi các dân tộc anh em có sở trƣờng bộc lộ quan niệm về nghệ thuật chủ yếu qua các thể loại

tác phẩm tự sự dân gian, thì dân tộc Kinh lại thƣờng, có ý thức bộc lộ các quan niệm về nghệ

thuật chủ yếu qua các thể loại văn vần dân gian. Các thể loại tự sự có ƣu thế đặc biệt trong

việc bộc lộ các ý tƣởng về nghệ thuật qua những chi tiết, những tình tiết cụ thể - sinh động rất

hợp với tạng thức tƣ duy cụ tƣợng của các dân tộc anh em. Còn dân tộc Kinh ƣu thế, sở

trƣờng bộc lộ các quan niệm nghệ thuật một cách ý vị qua các thể loại văn vần là cũng nhờ có

sự kế thừa trực tiếp từ nhũng thành tựu phát triển thơ ca của họ qua truyền thống văn nghệ

dài lâu. Về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật, đối lập với cách

biểu đạt vốn thiên về mô tả sinh động, chi tiết, sắc thái nội dung chân cảm, giàu tính chất

khẩu ngữ của các dân tộc anh em, dân tộc Kinh phần nào đã hƣớng tới ý thức bộc lộ quan

niệm nghệ thuật một cách khái quát, hàm xúc. Sự khác biệt này cũng bắt đầu từ thói quen tƣ

duy, hoàn cảnh môi sinh, truyền thống văn nghệ vốn có sự khác nhau giữa các dân tộc thiểu

số và dân tộc Kinh qua quá trình lịch sử phát triển của mình.

3. Các quan niệm về nghệ thuật của dân gian các dân tộc còn có quan hệ lịch đại với

các quan niệm về nghệ thuật trong văn học hiện đại của chính họ. Ở đây có những đổi mới,

cách tân bên cạnh những tính chất dân tộc truyền thống đƣợc các nhà văn dân tộc thiểu số

hiện đại kế thừa nhƣ sau:

Về sự đổi mới, cách tân trên bình diện cộng đồng dân tộc thống nhất các quan niệm

nghệ thuật hiện đại của các nhà văn đã khắc phục tình

156

trong quan niệm nghệ thuật dân gian xƣa thƣờng chỉ đặt ý thức nghệ thuật ở trong những

phạm vi hữu hạn của dân tộc mình. Nay quan niệm nghệ thuật của các nhà văn hiện đại đã

thực sự là tiếng nói nhân danh cho cả cộng đồng dân tộc thống nhất hƣớng tới phụng sự sự

nghiệp đấu tranh vì những quyền lợi sống còn của cả dân tộc trong công cuộc xây dựng và

bảo vệ tổ quốc Việt Nam . Trên bình diện cách mạng, các quan niệm nghệ thuật hiện tại là

kết quả hợp thành giữa ý thức chủ quan của các nhà văn và tƣ tƣởng cách mạng vô sản dƣới

sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Các nhà văn dân tộc hiện đại đều lấy tôn chỉ phụng

sự lý tƣởng cách mạng xã hội chủ nghĩa làm tiêu đích cho sự luận giỏi của mình về nghệ

thuật. Đặc biệt trên bình diện khoa học, vƣợt qua cách nhìn tản mạn, ngẫu hứng của dân gian

về nghệ thuật, các nhà văn hiện đại đã bộc lộ các quan niệm nghệ thuật của mình trong tính

hệ thống và tƣ tƣởng khoa học nghiêm túc. Nhiều khía cạnh quan trọng của văn học nghệ

thuật đã đƣợc các nhà văn luận giải khá thấu triệt nhƣ về chủ thể nghệ thuật, về đặc trƣng

thẩm mỹ văn chƣơng, về phê bình văn học v.v...

Mặc dù có sự cách tân, đổi mới song các quan niệm nghệ thuật của dân giân vẫn tỏ rõ

sức sống tiềm tàng của nó giữa đời sống văn "học hiện đại. Các nhà văn dân tộc thiểu số hiện

đại khi bày tỏ quan niệm về nghệ thuật đều thƣờng xuyên có ý thức kế thừa cả về nội dung

tƣ tƣởng lẫn cách thức biểu đạt quan niệm của dân gian truyền thống. Sắc thái dân gian

truyền thống trong các quan niệm nghệ thuật hiện đại của các nhà văn biểu hiện rõ nét ở cả

phạm vi dƣới "dạng sáng tác", lẫn trong dạng nghị luận hiện đại. Dƣới "dạng sáng tác", các

quan niệm nghệ thuật xƣa có điều kiện phục sinh trọn ven sức sống của nó cả về nội dung tƣ

tƣởng lẫn hình thức biểu đạt mộc mạc, dung dị, hồn nhiên vốn có từ dân gian. Chất giọng đặc

biệt này thâm ngấm sâu đậm qua các trang văn xuôi tự sự cũng nhƣ các câu thơ, bài thơ

157

của các nhà văn hiện đại khi họ có dịp bộc lộ quan niệm về nghệ thuật. Dưới dạng nghị luận,

Các quan niệm nghệ thuật mặc dù đã đƣợc cách tân song tính chất truyền thống dân gian vẫn

chan chứa qua cách cảm, cách nghĩ, phƣơng thức biểu đạt. Cái hồn nhiên, sinh động chân

cảm mộc mạc vẫn tiếp tục đƣợc các cây bút lý luận phê bình văn học các dân tộc thiểu số

khai thác kế thừa khá thƣờng xuyên

Sự kế thừa tích cực nội dung tƣ tƣởng và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật của

dân gian đã cho thấy sức sống bền vững của các quan niệm về nghệ thuật truyền thống trong

tâm thức sáng tạo của các nhà văn dân tộc hôm nay. Vì vậy sự thấu hiểu bản chất đặc trƣng

các quan niệm về nghệ thuật dân gian truyền thống của các dân tộc anh em sẽ giúp cho sáng

tác của chính các nhà văn dân tộc thấm thía bản sắc dân tộc hơn, tạo sự chia sẻ và cộng cảm

thân thiết hơn đối với đồng bào mình. Các quan niệm nghệ thuật trên còn có ý nghĩa định

hƣớng tích cực đối với các nhà văn dân tộc Kinh quan tâm đến mảng đề tài dân tộc và miền

núi, nó sẽ giúp họ tránh bớt đƣợc những cảm nhận phiến diện, hời hợt khi miêu tả đối tƣợng

của mình. Có thể nói. đây là bài học có ý nghĩa thời sự cập nhật đối với mọi nhà văn Việt

Nam nói chung trƣớc một vùng đề tài lớn đầy sức cuốn hút xƣa nay - đề tài về dân tộc và

miền núi.

158

NHỮNG CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN

ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

1. Hòang Minh Lƣờng (1989), "Bƣớc đầu tìm hiểu quan niệm về vẻ đẹp lý tƣởng của con

ngƣời trong, văn hóa dân gian một số dân tộc thiểu số ở Việt Thông báo khoa học

ĐHSP Việt Bắc 11/1989. tr 17 -23.

2. Hoàng Minh Lƣờng (1990), "Những tương đồng trên bình diện quan niệm cái đẹp trong

văn học dân gian các dân tộc Việt Nam", Thông báo khoa ĐHSP Việt Bắc 11/1990,

tr-21 -29.

3. Hoàng Minh Lƣờng, - (Hoàng Linh Sơn) (1999) ''Quan niệm về vai trò tác của âm nhạc

trong văn học dân gian", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 999, tr 58 -61.

4. Hoàng Minh Lƣờng (Hoàng Linh Sơn) (2000), "Sắc thái riêng biệt trong lý phê bình văn

nghệ của các cây bút dân tộc ít người", Tạp chí Văn học , 2000, tr75 - 82.

5. Hoàng Minh Lƣờng (Hoàng Linh Sơn) (2000), "Quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật

trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam"- Nguồn di lý luận quý giá cần

đƣợc khai thác- Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Một thế sưu tầm, nghiên cứu văn học dân

gian" do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Viện Bảo tàng dân tộc học tổ chức ngày

20.12.2000 tại Hà Nội .

159

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TIẾNG VIỆT.

1. Vƣơng Anh (1996) Lá đắng, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà nội 1

2. Đinh Văn Ân sƣu tầm, dịch, giới thiệu (1973), Đang vần va, Truyện thơ Mường Nxb Văn

hóa, Hà Nội

3. Triều Ân (1974), Bốn mùa hoa , tập thơ, Nxb Việt Bắc.

4. Triều Ân sƣu tầm, giới thiệu (1973), Ca dao Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

5. Triều Ân (1980) Tiếng khèn A pá, Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội .

6. Bản lĩnh, bản sắc, dân tộc (1980), Viện Văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội .

7. Phƣơng Bằng sƣu tầm, biên soạn (1981). Dân ca Cao Lan Nxb Văn hóa, Hà Nội .

8. Diệp Thanh Bình sƣu tầm, biên soạn (1987), Dân ca sán Dìu, NxbVăn hóa dân tộc, Hà

Nội.

9. Ngô Vĩnh Bình sƣu tầm, biên soạn (1981), Truyện cổ Xê Đăng, Nxb Văn hóa, Hà Nội .

10. Vũ Ngọc Bình, Nguyễn Chí Bền, Đào Huy Quyền, Nguyễn Minh San, Rơmandel (1996),

Văn học dân gian Gia Lai, Sở VHTT Gia Lai.

11. Cầm Biêu (1994), Ngọn lửa không tắt (Tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

12. Lò Văn Cậy (1986), Hạt muối, hạt tình (Tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

13. Hà Châu (1972) "Về đặc điểm thẩm mỹ của truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam", Văn học

5/1972.

160

14 . Hà Châu (1984), " Về quan niêm thẩm mỹ dân gian Việt Nam", Văn học 1/1984.

15. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (1964), Truyện thơ Tày Nùng, Tập I, Nxb Văn học,

Hà Nội .

16. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (1965) Truyện thơ Tày Nùng, Tập II, Nxb Văn học,

Hà Nội .

17. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (l973), Dân ro đám cưới Tày Nùng, Nxb Việt Bắc .

18. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (1976)), Truyện cổ Việt Bắc, Tập III, Nxb Việt Bắc.

19. Nông Quốc Chấn (1972), Đường ta đi, (Tiểu luận), Nxb Việt Bắc .

20. Nông Quốc Chấn (1977), Một vườn hoa nhiều hương sắc (Tiểu luận); Nxb Văn hóa dân

tộc .

21. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Hoàng Thao, Mạc Phi, Hà Văn Thƣ (1979), Hợp tuyển thơ

văn Việt Nam (Văn học các dân tộc ít ngƣời), Nxb Văn học, Hà Nội .

22. Nông Quốc Chấn (1984), Suối và biển (Tập thơ), Nxb Văn học, Hà Nội .

23. Nông Quốc Chấn (1985), Chặng đường mới, (Tiểu luận), Nxb Văn hóa, Hà Nội .

24. Nông Quốc Chấn (1988), Tuyển tập Nông Quốc Chấn, Nxb Văn học, Hà Nội .

25. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Mạc Phi, Trần Lê Văn (1995), Văn học Việt Nam sau cách

mạng Tháng Tám -Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số, Nxb Văn học, Hà Nội .

26. Nông Quốc Chấn (1999), Một ngôi nhà sàn Hà Nội, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội .

161

27. Nóng Quốc Chấn (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn, Trần

Đăng Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập 1,

Nxb Giáo dục, Hà Nội .

28 . Nông Quốc Chấn (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn

(1999),... , Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi. Tập II. Nxb Giáo dục, Hà Nội .

29 . Nông Quốc Chấn (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn (1999),

... , Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

30 . Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1973), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập II,

Nxb KHXH, Hà Nội .

31 . Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1973), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập III,

Nxb KHXH, Hà Nội .

32. Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1973), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập IV,

Nxb KHXH, Hà Nội .

33 . Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1982) Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập V,

Nxb KHXH, Hà Nội .

34 . Trƣờng Chinh (1986), Về văn hóa văn nghệ, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội .

35. Cẩm Cƣờng sƣu tầm, biên soạn (1986), Truyện dân gian Thái, Nxb KHXH, Hà Nội .

36. Mạc Đình Di, Châu Hồng Thủy, Lý A Sán (1985)(sƣu tầm, biên soạn), Truyện cổ Mảng,

Nxb Văn hóa, Hà Nội .

37. Chu Xuân Diên (1981), "Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian", Văn học 5/1981.

38. Chu Xuân Diên (1995), Văn hóa dân gian (Phônklo) và phương pháp nghiên cứu liên

ngành, Tủ sách Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

162

39. Nguyễn Xuân Diện (1998), "Giao lƣu và hội nhập văn hóa Việt -Mƣờng - Dao ở vùng núi

Ba Vì, Hà Tây", Văn hóa dân gian 3/1998, tr. 87 - 90.

40. Ngô Văn Doanh "(1995), Lễ hội bỏ mả nắc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

41. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào (1993), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội .

42. Quách Giao sƣu tầm, biên soạn (1965), Dân ca Mường, Nxb Văn học, Hà Nội .

43. Đa-le-lốp , Phônklo như là một nghệ thuật, Tài liệu đánh máy Phòng tƣ liệu ĐHSP I HN.

44. Nguyễn Tấn Đắc (1996), "Mối giao lƣu và tƣơng tác giữa các dân tộc ở Đông Nam Á qua

kiểu truyện kể Tấm Cám", Văn học 6/1996, tr. 38 -50.

45. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, Hà

Nội .

46. Bản Tài Đoàn (1985), Bước đường tôi đi, tập thơ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

47 . Bàn Tài Đoàn (1992), Tuyển tập Bàn Tài Đoàn, Nxb Văn học, Hà Nội

48. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm Thành Long, Nguyễn

Văn Nam, Đoàn Đức Phƣơng, Trần Khánh Thành, Lý Hoài Thu (1996), Lý luận văn

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

49. Goocky. M., (1970) Bàn về văn học, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội .

50 . Gulaiep N. A., Bôgơđanôp N. A., ludơkevictrơ L. G., Lý luận văn học trong mối liên hệ

với những vấn đề mỹ học, Tài liệu dịch từ tiếng Nga của Nguyễn Xuân Mậu, Phùng

Văn Nghệ, Nguyễn Hải Hà hiệu đính Phòng tƣ liệu Thƣ viện ĐHSP I HN.

163

51. Graxx Eren B A., (1984) Mỹ học - khoa học diệu kỳ, Nxb Văn hóa, Hà Nội .

52 . Nguyên Hà (1906) Xem xét việc biến đổi của truyện cổ tích "Trầu cau" Ở Việt Nam, Văn

hóa dân gian tháng 2/1996.

53. Hoàng Đức Hậu (1974), Thơ Hoàng Đức Hậu, Nxb Việt Bắc .

54. Hegel (1999), Mỹ học của Hegel (Phan Ngọc dịch) Nxb Văn học Hà Nội

55. Đinh Đăng Hiền sƣu tầm, biên soạn (1985), Truyện cổ H'Kê. Nxb Văn học, Hà Nội .

56. Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân sƣu tầm, biên soạn (1986), Tuyển tập truyện thơ Mường,

Tập II, Nxb KHXH, Hà Nội .

57. Nguyễn Thị Hòa sƣu tầm, biên soạn (1987), Truyện cổ Tà ôi, Nxb Văn hóa dân tộc. Hà

Nội.

58. Vi Hồng (1978), Sli lượn dân ca trữ tình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

59.Vi Hổng (1978), Tài liệu Nghiên cứu văn học dân gian, Bản đánh máy Thƣ viện ĐHSP

Việt Bắc .

60. Vi Hồng (1980), Đất bằng, tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội

61. Vi Hồng (1984), Núi cỏ yêu thương, tiểu thuyết, Nxb Thanh niên, Hà Nội

62. Vi Hồng (1991), ''Ngƣời dân tộc viết văn'' Văn học 4/1999, TR 64,65

63. Vi Hồng (1994) , "Ngả văn chƣơng'', Văn học 9/1994, tr. 6-8.

64. H'Linh Nie (1997), Con rắn màu xanh da trời,- tập truyện, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội :

65 . Bùi Cống Hũng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật, thơ ca, Nxb KHXH. Hà Nội.

164

66. Lại Phi Hùng (1996), "Về mối tƣơng quan giữa kiểu truyện ngƣời bất hạnh của Lào với

kiểu truyện cùng tên của Việt Nam ", Văn hoá dân gian tháng 1/1996.

67. Nguyễn Thị Huế (1991), "Môtíp tiếng hát trong truyện kể dân gian Việt Nam ", Văn học

5/1991, tr. 32 - 35.

68. Nguyễn Thị Huế (1998), Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam, Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội .

69. Nguyễn Thị Huế (1998), "Những cốt truyện tƣơng đồng của Đông Nam Á và thế giới về

ngƣời mang lốt xấu xí", Văn hóa dân gian 2/1998.

70. Inrasara (1996), Tháp nắng, tập thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội .

71. Nguyễn Xuân Kính (1991), "Thi pháp học và việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian",

Văn hóa dân gian 3/1991, tr. 3-11.

72. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Phan Hồng Sơn sƣu tầm, biên soạn

(1983), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

73. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội .

74. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam

Á, Nxb.KHXH, Hà Nội .

75. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học dân gian

Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

76. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tâm, Mai Cao Chƣơng (2000), Văn học Việt Nam

(Thế kỷ X- nửa đầu Thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội .

77. Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu phônklo Việt Nam, Sở Giáo dục Thanh

Hóa.

165

78. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Van, Trần Đăng

Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi Tập IV, Nxb

Giáo dục, Hà Nội

79. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn. Trần Đăng

Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập V, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

80. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Vân, Trần Đăng

Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập VI, Nxb

Giáo dục, Hà Nội .

81. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn, Trần Đăng

Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập VII, Nxb

Giáo dục, Hà Nội .

82. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn. Trần Đăng

Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, tập VIII, Nxb

Giáo dục, Hà Nội .

83. Kôghinôp (1963), Các loại hình nghệ thuật, Nxb Văn hoá nghệ thuật, I Hà Nội .

84. Cầm Bó Lai (1997), Hoa và nắng, (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc. Hà Nội .

85. Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bƣu (1976) (tuyển chọn và biên soạn), Hát ví đồng bằng

Hà Bắc, Sở VHTT Hà Bắc .

86. Dƣơng Gia Liêm (1994), "Cao Bằng - đất văn chƣơng" Văn học 9/1994.

87. Lƣu Xuân Lý (1988), "Sáng tác văn học các dân tộc cần có bản sắc riêng của mình", Tác

phẩm mới 5/1988.

88. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng,

Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội

166

89. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (1978), Quan họ - nguồn gốc và quá trình

phát triển, Nxb KHXH, Hà Nội.

90. Phƣơng Lựu (1983), Tìm hiểu một nguyên lý văn chương, Nxb KHXH, Hà Nội .

91. Phƣơng Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

92. Phƣơng Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1986), Lý luận văn học, Tập

I, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

93. Phƣơng Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, Tập

II, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

94. Phƣơng Lựu (1994), Trên đà đổi mới văn hoá văn nghệ, Viện Văn hóa - Sở VHTT Quảng

Ngãi.

95. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb Văn học, Hà

Nội.

96. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

97. Mác C,Ăngghen Ph., Lê nin V., (1977), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội .

98. Hoàng Nhƣ Mai, Nông Quốc Chấn, Khái Vinh, Vũ Duy (1976), Mấy suy nghĩ về văn học

các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Nxb Việt Bắc .

99. Lee Mai tuyển chọn, giới thiệu (1983), Trường ca tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng (1972). Về văn hóa văn nghệ,

Nxb Sự thật, Hà Nội .

101. Pờ Sảo Mìn (1987), Quê núi, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

102.Hà Văn Năm, Cầm Thƣơng, Lò Văn Sĩ, Tòng Kim Ân (1978), Tục ngữ Thái, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội .

167

103. Nghệ thuật cồng chiêng (1986) Sở VHTT Gia Lai Công Tum .

104. Nguyên Ngọc (1994) , "Mấy suy nghĩ về tình hình văn học của các dân tộc thiểu số hiện

nay", Văn học 9/1994 tr. 4 - 5

105. Bùi văn Nguyên (1971), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

106. Ma Trƣờng Nguyên (1985), Mát xanh rừng cọ, (Trƣờng ca), Sở VH TT Bắc Thái .

107. Ma Trƣờng Nguyên (1996), Rễ người dài , tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

108. Trần Việt Ngữ, Trƣơng Đình Quang sƣu tầm, biên sọan (1963). Dân ca miền Nam

Trung bộ, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội .

109. Hoàng Anh Nhân, Bùi Thiện, Vƣơng Anh sƣu tầm, biên soạn (1978), Truyện cổ Mường.

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

110. Lƣơng Quy Nhân (1994) , Độ dày của tình yêu (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

111. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, (trước cách mạng

Tháng Tám), Nxb Văn hóa, Hà Nội .

112. Nhiều tác giả (1980), Góp phần tìm hiểu bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội .

113. Nhiều tác giả (1980) (Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh tổ chức bản

thảo), Văn hóa dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

114. Nhiều tác giả (1990) (Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính tổ chức bản thảo), Văn hóa

dân gian- những phương pháp nghiên cứu, Viện Văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội

115. Nhiều tác giả (1990) (Ngô Đức Thịnh chủ biên), Quan niệm về folklore. Viện văn hóa

dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

168

116. Nhiều tác giả (1997) Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà

Nội.

117. Nhiều tác giả (1997) (Hà Thắng, Nguyễn Hoa Bằng, Nguyễn Lâm Điền chủ biên) Văn

học dân gian đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

118.Võ Quang Nhơn (1974), "Văn học dân gian các dân tộc thiểu số dƣới con mắt giới

nghiên cứu thực dân", Văn học 1/1974.

119. Võ Quang Nhơn sƣu tầm, biên soạn (1976), Dân ra Tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

120. Võ Quang Nhơn (1997), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

121. Lò Văn Páo, Hoàng Nam sƣu tầm, biên soạn (1983), Truyện cổ Lô Lô, Nxb Văn hóa, Hà

Nội .

122.Vũ Ngọc Phan sƣu tầm, biên soạn (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb KHXH,

Hà Nội .

123. Mạc Phi sƣu tầm, biên soạn (1973), Tiễn dặn, người yêu, Nxb Văn học. Hà Nội .

124. Mạc Phi sƣu tầm, biên soạn (1979), Dân ca Thái, Nxb văn hóa, Hà Nội .

125. Ngô Văn Phú, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách biên soạn (1999), Nhà văn Việt Nam thế

kỷ XX, Nxb Hội nhà văn .

126. Đỗ Doãn Phƣơng (1999), "Múa dân gian - Vàng mƣời chƣa thấy hết", Báo Văn nghệ

quân đội 2/1999.

127. Pospelov (1985) (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Tập I, II (Trần Đình Sử, Lại

Nguyên Ân, Nguyễn Nghìn Trọng dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

169

128.Prốp. V. Ia., (1969) Hình thái học truyện cổ tích, (tái bản lần hai), Nxb Khoa học,

Matxcơva , (Bản dịch đánh máy Thƣ viện Viện nghiên cứu văn hóa dân gian).

129.Prốp. V. Ia.,(1989) "Nghiên cứu cấu trúc và nghiên cứu lịch sử về truyện cổ tích thần

kỳ", (Chu Xuân Diên dịch), Tạp chí Văn hóa dân gian 3/1989.

130. Putilốp. B. N., Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử so sánh về phônklo (Phan Ngọc

dịch), Bản đánh máy Thƣ viện Viện văn học.

131. Putilôp B. N., Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử so sánh ság tác dân gian (phônklo),

Tài liệu đánh máy của Khoa lịch sử ĐHTH Hà Nội, (Bản dịch của Nguyễn Văn Diện).

132. Lê Chí Quế (1985), "Prôp. V. Ia. (1885 - 1970) và phƣơng pháp nghiên cứu phônklore

theo so sánh loại hình lịch sử", Văn hóa dân gian số 3 và 4/1985.

133. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1996), Văn học dân gian

Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội .

134. Lâm Quý, Phƣơng Bằng sƣu tầm, biên soạn, giới thiệu (1983). Truyện cổ Cao Lan, Nxb

Văn hóa, Hà Nội .

135. Lâm Quý (1997), "Ngƣời Cao Lan có một bà chúa thơ ca", Văn nghệ dân tộc và miền

núi 10/1997.

136. Hoàng Quyết sƣu tầm, biên soạn (1974), Truyện cổ Tày Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội .

137. Thèn Sèn Lù Dín Siếng sƣu tầm, biên soạn (1977), Dân ca Giáy, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội .

138. Lù Dín Siêng sƣu tầm, biên soạn (1982), Truyện cổ Giáy, Nxb Văn hóa, Hà Nội .

170

139. Cao Duy Sơn (1992), Người lang thang, tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội .

140. Lò Ngân Sủn (1995), Chợ tình (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

141. Lò Ngân Sủn (1998), Tôi là một ngọn gió, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

142. Lò Ngân Sủn (1998) , Tuyển chọn thơ các nhà thơ dân tộc thiểu số: Núi mọc trong

nương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

143. Lò Ngân Sủn (1998), Hoa văn thổ cẩm I, (Tiểu luận). Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

144. Lò Ngân Sủn (1999), Hoa văn thổ cẩm II, (Tiểu luận), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

145. Lò Ngân Sủn (1998), Bước đầu nghiên cứu tìm hiểu văn hóa người Giáy, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội .

146. Lò Ngân Sủn (1999), Người đẹp, (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

147. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn. Hà Nội .

148.Trần Đình Sử (1997), "Về bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam", Tác phẩm mới

9/1997, tr . 81 - 84.

149. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội .

150. Mai văn Tấn sƣu tầm, biên soạn (1974). Truyện cổ Vân Kiều. Nxb Văn hóa, Hà Nội .

151. Mai Văn Tấn sƣu tầm , biên soạn (1979), Dân ca Vân Kiều, Nxb Văn hóa, Hà Nội .

171

152. Timôphiep (1962). Nguyên lý lý luận văn học TậpI, Nxb Văn hóa Hà Nội .

153. Bùi Tiến, Hoàng Anh Nhân, Vƣơng Anh sƣu tầm, biên soạn (1077) Khăm Panh -

Truyện thơ dân gian Thái. Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội .

154. Lâm Tiên (1995) .Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội .

155. Lâm Tiến (1999) , Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc. Hà Nội .

156. Doãn Thanh sƣu tầm, biên soạn (1982), Truyện cổ Phù Lá. Nxb Văn hóa, Hà Nội .

157. Doãn Thanh sƣu tầm", dịch, Hoàng Thao tuyển chọn, Chế Lan Viên giới thiệu (1984),

Dân cơ H'mông, Nxb Văn học, Hà Nội .

158. Phạm Thị Thành (1999), "Sắc xuân núi rừng", Báo Văn nghệ số ra 27/2/1999.

159. Hồng Thắng, Hồng Nguyên, Thanh Hƣơng sƣu tầm, biên soạn (1983), Truyện cổ Việt

Nam, tập IA, Nxb KHXH, Hà Nội .

160. Hồng Thắng, Hồng Nguyên, Thanh Hƣơng sƣu tầm, biên soạn (1983), Truyện cổ Việt

Nam, tập IB, Nxb KHXH, Hà Nội .

161 .Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

162. Bùi Thiện, Thƣơng Diễm, Quách Giao sƣu tầm, biên soạn (1976), Đẻ đất đẻ nước, Nxb

Văn học, Hà Nội .

163.Tạ Văn Thông, Võ Quang Nhơn sƣu tầm, biên soạn (1984), Truyện cổ Cơ Ho, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

164. Tạ Văn Thông sƣu tầm, biên soạn (1986), Truyện cổ Mạ, Nxb Văn hóa Hà Nội .

172

165. Dƣơng Thuấn (1991) Cưỡi ngựa đi săn, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc , Hà Nội.

166. Hà Văn Thƣ, Võ Quang Nhơn, Y Điêng sƣu tầm, biên soạn (1975), Truyện cổ các dân

tộc thiểu số miền Nam, Tập I, Nxb Văn hóa Hà Nội.

167. Hà Văn Thƣ, Võ Quang Nhơn, Y Điêng sƣu tầm, biên soạn (1976), Truyện cổ các dân

tộc thiểu số miền Nam, Tập II, NXB Văn hóa Hà Nội .

168. Hà Văn Thƣ, Phúc Tƣớc (Nông Quốc Chấn viết lời tựa) (1981), Hợp tuyển thơ văn các

tác gia dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1980), Nxb Văn hóa, Hà Nội .

169. Hà Văn Thu, Lả Văn Lô (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb Văn hóa Hà Nội.

170. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Liệu, Văn Đình Hy biên soạn (1983), Truyện cổ Khơ me,

Nxb Văn hóa, Hà Nội .

171. Sần Cháng (1997), "Dân ca ngƣời Giáy" Văn hóa dân gian 1/1997, tr. 6-16.

172. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam, Trƣờng

ĐHSP Hà Nội ,

173. Đào Tử Chí, Trúc Cƣơng, Y Ngông (sƣu tầm, dịch) (1977). Bài ca chàng Đam San, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

174. Mai Văn Trí, Bùi Thiện sƣu tầm, biên soạn (1976), Truyện thơ dân gian Mường, Nxb

Văn hóa, Hà Nội .

175. Hoàng Trinh (1986), Đối thoại văn học, Nxb Hà Nội .

176. Truyện cổ các dân tộc Việt Nam, Tập III, (1974), Nxb Văn học, Hà Nội

177. Truyện cổ Chàm, (1978) Nxb Văn hóa, Hà Nội .

173

178.Truyện cười dân gian Việt Nam, (1987) Nxb KHXH, Hà Nội .

179.Vƣơng Trung (1994), Mối tình Mường Sinh, tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .

180. Đồ Nhƣ Túy sƣu tầm, biên soạn (1982), Truyện rổ Cơ Tu, Nxb Văn hóa, Hà Nội .

181. Hoàng Tiến Tựu (1977), "Mấy vấn đề phân loại văn học dân gian và ý nghĩa phƣơng

pháp luận của nó", Văn học 6/1977.

182. Hoàng Tiến Tựu (1982) "Về đối tƣợng và các bộ phận hợp thành của khoa nghiên cứu

văn học dân gian", Văn học 1/1982

183. Dạng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (tuyển chọn, biên soạn) (1985),

Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên, Nxb Văn học, Hà Nội.

184 . Đặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (tuyển chọn, biên soạn) (1987).

Truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam. Tập III, Nxb Văn hóa. Hà Nội .

185. Đặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (tuyển chọn, biên soạn) (1994)

truyện cổ các dân tộc ít người ở Việt Nam, Tập IV , Nxb Văn học Hà Nội .

186. Kim Vĩnh (1997), "Cây sáo H'mông dân gian và hiện đại", Văn hóa dân gian 1/1997, tr.

54 - 55.

187. Lê Trí Viễn (1998) "Đôi nét về thẩm mỹ Việt Nam", Văn học 4/1998, tr. 5-13.

188. Lê Trung Vũ sƣu tầm biên soạn (1975), Dân ca Lô Lô, Nxb Văn hóa Hà Nội .

189. Lê Trung Vũ sƣu tầm, biên soạn (1975); Truyện cổ Mèo, Nxb Văn học Hà Nội

174

190. Lê Trung Vũ, Doãn Thanh sƣu tầm, biên soạn (1978), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa Hà

Nội .

191. Vù Go Xá, Phạm Quang Trung sƣu tầm, biên soạn (1987), Truyện cổ Hà nhì, Nxb Văn

hóa dân tộc, Hà Nội .

192. Y Điêng, Y Ngông sƣu tầm và dịch (1978), Sing Nhã, Đăm Di, Nxb Văn hóa dân tộc,

Hà Nội .

193. Y Điêng, Hoàng Thao sƣu tầm, biên soạn (1978), Truyện cổ Ê đê, Nxb Văn hoá dân tộc,

Hà Nội .

194. Y Phƣơng (1986), Tiếng hát tháng giêng, tập thơ, Sở VHTT cao Bằng.

195. Nguyễn Thị Yên (1998), "Tìm hiểu yếu tố tín ngƣỡng trong lễ hội của ngƣời Tày Nùng",

Văn hóa dân gian 1/1998, tr. 3-10.

196. 40 năm văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-1985 (1985), Nxb Văn

hóa, Hà Nội .

2. TIẾNG NGA.

197. Маркевич Чеииик : Основные проблемы Haупа о литературе,М: Прогресс 1980

198. Мелетипский П. М : Герой Волшебной скажи. Происхождение обрат. М.

1958

175