BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
HOÀNG MINH LƯỜNG
QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
MÃ SỐ 5.04.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS KH BÙI VĂN BA (PHƢƠNG LỰU)
HÀ NỘI - 2001
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
HOÀNG MINH LƯỜNG
QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
MÃ SỐ 5.04.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS KH BÙI VĂN BA (PHƢƠNG LỰU)
HÀ NỘI - 2001
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Hoàng Minh Lƣờng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ. ................ 18
1.1. Những tiền đề có tính chất mỹ học của nghệ thuật . ................................................. 18
1.2 .Về chủ thể nghệ thuật . ............................................................................................. 32
1.3. Về tác dụng nghệ thuật . ........................................................................................... 42
CHƢƠNG 2: SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN GIỮA DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI DÂN TỘC KINH ..................... 64
2.1 Những tƣơng đồng. .................................................................................................... 64
2.2 Những khác biệt . ....................................................................................................... 90
CHƢƠNG 3: ĐỐI SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT GIỮA VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN VỚI VĂN HỌC HIỆN ĐẠI CỦA CHÍNH CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ. ..................................................................................................................................... 112
3.1. Đổi mới quan niệm về nghệ thuật ở các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại . .......... 115
3.2. Sự kế thừa quan niệm về nghệ thuật dân gian cổ truyền của các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại . ........................................................................................................... 125
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 153
NHỮNG CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .............................................................................................................................. 159
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 160
MỞ ĐẦU
1. Giải thích và giới thuyết đề tài:
Hegel có nói rằng, nhiệm vụ đầu tiên của nghiên cứu khoa học là phải giới thuyết đối
tƣợng nghiên cứu. Nói rộng ra về luận án khoa học là phải giới thuyết và giải thích đề tài thật
rõ ràng, nhất là đối với đề tài : Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền
của các dân tộc thiểu số Việt Nam với tƣ cách là một đề tài thuộc chuyên ngành Lý thuyết
và lịch sử văn học ít nhiều còn có phần khác lạ, lại càng cần phải giải thích cận kẽ trƣớc về
một số điểm cần thiết :
Nói Quan niệm về nghệ thuật ... chứ không phải chỉ riêng cho quan niệm về văn học,
bởi vì văn học và nghệ thuật vốn phần nào có những đặc điểm và những nguyên lý chung,
hơn nữa trong văn học dân gian cổ truyền vốn tồn tại trong dạng phôn cờlo mang tính chất
tổng hợp quả thực có nói nhiều đến những hoạt động nghệ thuật cụ thể, cho dù ở đó chƣa có
khái niệm nghệ thuật chung.
Nói đến ... Văn học dân gian... , nhƣng đây không phải là đề tài thuộc chuyên ngành
Văn học dân gian, cho nên chúng tôi xin đƣợc phép chƣa vận dụng những phƣơng pháp của
chuyên ngành này nhƣ : khảo dị văn bản, kiểm đính lời dịch, đặc biệt là phƣơng pháp điền dã,
sƣu tầm thêm v.v... Để khảo sát, thống kê và nghiên cứu khái quát các quan niệm về nghệ
thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số, chúng tôi chỉ dựa vào những văn
bản mà các Nhà xuất bản có trách nhiệm đã công bố mặc dù chƣa hầu khắp nhƣng cũng đã là
những văn bản của tuyệt đại bộ phận các dân tộc thiểu số mà chúng tôi sẽ liệt kê ở các phần
sau .
1
Nói... các dân tộc thiểu số... là chỉ các dân tộc anh em ít ngƣời ở cả trong Nam và
ngoài Bắc trên Tổ quốc Việt Nam ta, mà do trình độ phát triển xã hội và hoàn cảnh môi sinh
v.v... giữa các dân tộc thiểu số vốn đã có những đặc điểm chung nhất định nào đó có thể tự
phân biệt với dân tộc đa số (Kinh) ở ngay trong những sinh hoạt văn hosa và xã hội khác . về
mặt văn nghệ, trong đos có các quan niệm về nghệ thuật cũng vậy. Tất nhiên ngay trong quan
niệm về nghệ thuật giữa các dân tộc thiểu số anh em chắc chắn chí ít cũng đã có những sắc
thái khác nhau, cho nên có thể đặt vấn đề nghiên cứu quan niệm về nghệ thuật trong văn học
dân gian cổ truyền của từng dân tộc, song đó chỉ có thể là công việc nghiên cứu ở một cấp độ
khác, càng cụ thể hơn tiếp tục theo hƣớng nghiên cứu này trong tƣơng lai.
Điều quan trọng then chốt nhất là, thay vì cho việc bắt đầu giải thích, xin tạm hình
dung một dạng phụ đề bổ sung ngay sau tiêu đề chính thức của luận án : Quan niệm về nghệ
thuật trong văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam (qua những hình
tượng, những lời ca v.v... có liên quan đến nghệ thuật trong sáng tác). Vì sao vậy ?
Cũng nhƣ dân tộc Kinh, văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số chƣa thể
có lý luận phê bình để bộc lộ trực tiếp ý thức nghệ thuật của mình . Song một khi đã có một
thực tiễn sáng tác đa dạng, phong phú thì ắt phải tiềm ẩn những quan niệm nhất định nào đó
về nghệ thuật . Có thể từ những phẩm chất. của thực tiễn sáng tác đó, dùng con mắt của ngƣời
ngày nay để khái quát nên những quan niệm nghệ thuật của cổ nhân, nhƣ qua Truyện Kiều để
khái quát lên chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du ... Cách làm này cố nhiên cũng bổ ích và lý
thú, song dù sao vẫn là gián tiếp. ở đây chúng tôi căn cứ trực tiếp vào những hình tƣợng,
những lời ca v.v... với tƣ cách là những thành phần hữu cơ ngay trong sáng tác dân gian miễn
là chúng có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nghệ thuật (giống nhƣ : Văn
2
hay chẳng luận dài dòng hoặc tiếng đàn Thạch Sanh trong văn học dân gian của dân tộc
Kinh) để khái quát lên những quan niệm nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc anh em chắc
chắn sẽ có phần sát hợp hơn. Tất nhiên từ những cứ liệu nhƣ vậy, việc khái quát lên những
quan niệm nghệ thuật dân gian sẽ khó có thể tránh khỏi những sắc màu cảm quan tự phát,
chƣa có đƣợc hệ thống chặt chẽ của lý luận hoàn bi. Cho nên chúng tôi xem đây chỉ là một
mũi tiếp cận vào ý thức nghệ thuật của dân gian, nó hoàn toàn không thể thay thế cho những
con đƣờng tiếp cận khác đối với di sản phôncờlo vô cùng phong phú và đặc sắc của các dân
tộc anh em. Tuy nhiên đây cũng là một hƣớng tiếp cận có ý nghĩa và không phải là không có
đủ độ tin cậy. Cũng nhƣ chỉ qua hai câu thơ "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm" và
"Nay ở trong thơ nên có thép"..., chúng ta cũng có thể thấy đƣợc một phƣơng diện quan trọng
trong tƣ tƣởng văn nghệ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và Hồ Chí Minh. Cho nên cũng xin
đƣợc tin rằng hƣớng tiếp cận của luận án này sẽ bƣớc đầu mở đƣợc một cánh cửa thoáng rộng
để nhìn sâu vào các quan niệm về nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc thiểu số anh em.
Trong khoa học, quý hồ góp thêm đƣợc một tiếng nói tƣơng đối mới mẻ, miễn là tiếng nói đó
đƣợc xây dựng dựa trên những căn cứ xác đáng.
Trở lên là một số điểm cần thiết phải giải thích một cách tập trung liền mạch từ trƣớc,
mặc dù sẽ còn phải chứng giải cụ thể thêm trong những mục tƣơng ứng nhƣ đối tượng,
phương pháp nghiên cứu, ... riêng lẻ ở sau.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trong di sản văn học nghệ thuật của nƣớc Việt Nam đa dân tộc, văn học dân gian các
dân tộc thiểu số có vị trí đặc biệt quan trọng. Đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu mảng văn học này
đủ ở phƣơng diện nào cũng đều đáng khích lệ và cổ vũ. Các chuyên gia văn học dân gian
nƣớc ta đã có nhiều nỗ lực trong cuộc hành trình tìm tòi, thu nhập và nghiên cứu văn học
3
dân gian các dân tộc thiểu số về nhiêu khía cạnh khác nhau. Song hƣớng nghiên cứu chuyên
chú vào các quan niệm nghệ thuật của bộ phận văn học này trong, các mối quan hệ đồng đại
và lịch đại của nó thì chƣa có công trình nào để cập đến một cách có hệ thống. Cũng nhƣ dân
tộc Kinh, văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số quả thực có tiềm chứa khá nhiều
quan niệm nghệ thuật lý thú. Nó đƣợc chắt lọc nên từ quá trình trải nghiệm nghệ thuật của
các thế hệ nghệ nhân dân gian dân tộc ít ngƣời từ bao thế hệ nay. Hiện thực chất các quan
niệm nghệ thuật tiềm chứa trong các sáng tác dân gian bao giờ cũng cần thiết và bổ ích, bởi lẽ
đó là những nỗi niềm tình cảm, thị hiên. sở nguyện... về nghệ thuật của quần chúng nhân dân
lao động qua quá trình lịch sử dài lâu. Đi sâu tìm hiểu thấu đáo, toàn diện các quan niệm nghệ
thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc anh em vừa giúp ta hiểu thêm phím nào
đặc điểm và giá trị của mảng văn học này vừa góp phần thiết thực vào việc xây dựng nền lý
luận văn nghệ Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc truyền thống, Việt Nam là một
quốc gia đa dân tộc. Sức mạnh văn hoá Việt Nam là sự hợp lƣu mạnh mẽ từ nhiều nguồn văn
hóa nghệ thuật độc đáo của các dân tộc anh em khác nhau cùng cộng cƣ gắn bó toàn diện trên
một lãnh thổ. Vì vậy, chỉ có thể có đƣợc ý niệm toàn vẹn về nền lý luận văn nghệ Việt Nam
đa dân tộc chừng nào trong nền lý luận văn nghệ ấy có sự tổng hòa, dung nạp đƣợc những
bản sắc quan niệm thẩm mỹ, nghệ thuật của các dân tộc anh em. Lâu nay nói đến các giá trị
lý luận nghệ thuật "từ trong di sản" của cha ông, hiển nhiên ngƣời ta chỉ biết đến di sản lý
luận văn nghệ của ngƣời Việt - dân tộc đa số đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát
triển của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hiện nay di sản quan niệm thẩm mỹ, nghệ thuật của
các dân tộc thiểu số anh em còn ít đƣợc biết đến thấu đáo. Đề tài không có tham vọng lấp
bằng những khoảng khuyết vắng cho bức tranh lý luận văn nghệ rời rạc của các dân tộc thiểu
số
4
nhƣng chắc chắn sẽ là một gắng gỏi nhỏ nhoi nhằm từng bƣớc góp phần đƣa vị thế của bộ
phận lý luận văn nghệ đặc biệt này lên một tầm độ mới ngang tầm với vị trí quan trọng của
nó trong đời sống văn nghệ của cộng đồng dân tộc thống nhất. Mục đích trƣớc hết của đề tài,
vì vậy vẫn là nhằm thực hiện phƣơng châm học xưa là vì nay, học cũ là để làm mới mà
Đảng ta đã từng chủ trƣơng quán triệt
Đến với các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc
thiểu số, ngoài mục đích hiểu sâu hơn những vấn đề của sáng tác truyền thống, từ đó cũng có
tác dụng gợi ý mang tính định hƣớng tích cực đối với các sáng tác hiện đại về mảng đề tài
dân tộc và miền núi. Phải thừa nhận rằng, trên thực tiễn sáng tác của các nhà văn dân tộc
thiểu số hiện đại, bên cạnh số đông các nhà văn chẳng mấy khi ly thoát hoàn toàn khỏi.
những phẩm chất dân tộc truyền thống bền vững tựa nhƣ đã hằn sâu tự nhiên vào máu thịt
của họ thì vẫn còn đây đó nhà văn đổi mới thái quá đến nỗi làm mờ nhạt bản sắc dân tộc
truyền thống. Vì thế, việc thấu hiểu sâu sắc hơn các quan niệm nghệ thuật truyền thống rõ
ràng sẽ có tác dụng mách bảo cho các nhà văn hiện đại những phƣơng thức sáng tạo mang
đậm bản sắc dân tộc truyền thống của cha ông mình để từ đó quán triệt một cách tự giác hơn
vào thực tiễn sáng tạo tác phẩm. Quả vậy, việc thấu hiểu bản chất đích thực của các quan
niệm nghệ thuật dân gian cổ truyền các dân tộc trong các mối quan hệ đồng đại và lịch đại
của nó là một yêu cầu quan trọng đối với việc học tập và chiếm lĩnh nguồn tri thức về nghệ
thuật của dân tộc để từ đó có ý thức và thái độ đúng đắn đối với quá trình kế thừa và đổi mới
trong thực tiễn sáng tạo của các nhà văn hiện đại theo tinh thần tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc.
Việc lý giải thấu đáo các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các
dân tộc thiểu số còn tạo ra những cơ sở và điều kiện
5
thuận lợi cho việc giáng dạy và học tập các tác phẩm văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời
trong các nhà trƣờng thuộc mọi cấp học của chúng ta hôm nay. Và ngay trong việc học tập và
giảng dạy Lý luận văn học. các kiểu giải về nghệ thuật của dân gian các dân tộc anh em cũng
sẽ góp phần hiện thực hóa những tri thức lý thuyết khái quát bởi các cứ liệu sinh động và độc
đáo. Nhà đó những nguyên lý phổ quát về các vấn đề thẩm mỹ và nghệ thuật sẽ không chỉ
đóng khung khép kín trong giới hạn chủ yếu của văn học việt mà còn tỏa rộng sức thuyết
phục của nó tới mọi chiều kích sâu xa của lịch sử văn hóa nghệ thuật cha ông trong đó có các
di sản quan niệm nghệ thuật. của các dân tộc anh em. Nhƣ thế mục đích nghiên cứu đề tài
Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam ngoài ý
nghĩa về lý luận văn học là chủ yếu, thì còn có tác dụng ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp đối
với việc sáng tác, nghiên cứu, giảng dạy và học tập văn học nữa.
3. Lịch sử vấn đề.
Tìm hiểu, nghiên cứu các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian Việt Nam
nói chung, văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số nói riêng là một hƣớng nghiên cứu
còn rất mới mẻ. Chƣa có những công trình nghiên cứu đầy đặn, có hệ thống về quan niệm
nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số, song đây đó cũng đã có những nhận
xét khái quát bƣớc đầu về phạm vi nghiên cứu này.
Cuối năm 1986, luận văn tốt nghiệp sau đại học, chuyên ngành lý luận văn học của
học viên Nguyễn Thị Tây Phƣơng: Quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật trong văn học
dân gian Việt Nam đã trực tiếp đặt vấn đề nghiên cứu các quan niệm về cái đẹp và nghệ
thuật trong văn học dân gian Việt Nam nói chung. Tuy luận văn chƣa có điểu kiện khảo sát
toàn diện vấn đề trên nguồn phạm vi tƣ liệu rộng rãi, đặc biệt còn để khuyết vắng nhiều tƣ
6
liệu văn học dân gian đặc sắc của các dân tộc anh em, song bƣớc đầu cũng đã có những liên
hệ thoảng qua mà bổ ích về các quan niệm nghệ thuật của các dân tộc anh em. Tất nhiên
những khái quát, liên hệ này hoàn toàn đƣợc kết nhập chung vào khung luận điểm về quan
niệm cái đẹp và nghệ thuật của dân tộc Kinh. Ý thức về cái riêng đặc sắc trong quan niệm
nghệ thuật của các dân tộc anh em vì vậy vẫn chƣa đƣợc khắc họa trọn vẹn.
Năm 1990, với bài viết Quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật trong văn học dân
gian (Nghiên cứu Nghệ thuật số 4/1990), tác giả Phƣơng Lựu, bên cạnh việc chủ yếu nhằm
vào phân tích, khai quát các quan niệm về nghệ thuật, về cái đẹp trong văn học dân gian dân
tộc Kinh cũng đã dành cho văn học dân gian các dân tộc anh em những phân tích cụ thể dựa
trên các cứ liệu sinh động, đặc biệt là những cứ liệu nhằm làm nổi rõ quan niệm "nghệ thuật
giữ vai trò to lớn trong việc chinh phục thiên nhiên, tố cáo áp bức, bất công, góp phần chống
giặc ngoại xâm cứu nƣớc" [94, 143].Những nhận xét, khái quát bƣớc đầu này có liên qnan
đến quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số đã có tác dụng gợi ý
cho chúng tôi không những về phƣơng hƣớng nội dung mà còn cả về cách thức khai thác của
đề tài.
Ngoài ra cũng cần kể đến một số công trình khác có liên quan gián tiếp tới đề tài nhƣ
Về đặc điểm thẩm mỹ của truyện cổ tích thần kỳ ở Việt Nam (Văn học số 5/1972) và bài Về
quan niệm thẩm mỹ dân gian Việt Nam (Văn học số 1/1984) của tác giả Hà Châu. Tác giả
Nguyễn Xuân Kính có bài "Qua những tư liệu văn nghệ dân gian, tìm hiểu quan niệm của
ông cha ta về người nghệ sĩ" (Văn hóa dân gian số 3/1987). Tác giả Nguyễn Thị Huế có
một số công trình lý thú xoay quanh vấn đề Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích
các dân tộc Việt Nam (Văn học số 4/1985) hoặc Mô típ tiếng hát trong truyện kể dân gian
Việt Nam (Văn học số 5/1991). Điều đáng nói, những công trình trên chỉ chủ yếu phân tích,
đánh giá sáng tác nghệ thuật dân gian song vẫn gián tiếp gợi ý cho chúng tôi trong việc khái
7
quát quan niệm về nghệ thuật dân gian, cụ thể là dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt
Nam.
Về phần mình, hơn 10 năm qua chúng tôi đã có ý thức chủ động đến với đối tƣợng
quan tâm của mình qua những tìm tòi, gạn lọc các cứ liệu có liên quan đến quan niệm về
nghệ thuật (và cái đẹp) trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Từ những số liệu khảo sát
đƣợc, bƣớc đầu chúng tôi cũng đã có đƣợc một số kết quả nghiên cứu đã từng đƣợc công bố.
Chẳng hạn các bài viết: Bước đầu tìm hiểu quan niệm về vẻ đẹp lý tưởng của con người
trong văn học dân gian một số dân tộc ít người ở Việt Bắc (Thông báo khoa học của Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Việt Bắc số [11/1980); Những nét tương đồng trên bình diện quan niệm
về cái đẹp trong văn học dân gian các dân tộc Việt Nam (Thông báo khoa học của Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Việt Bắc số 11/l990); Quan niệm về cái đẹp trong văn học dân gian các
dân tộc thiểu số Việt Nam (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng -Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Việt Bắc năm 1992) v.v...
Tóm lại, từ trƣớc tới nay, vấn đề quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ
truyền các dân tộc thiểu số việt Nam ít nhiều đã đƣợc đề cập tới. Nhƣng kể cả bản thân chúng
tôi cũng mới chỉ chú ý đến những khía cạnh lẻ tẻ của vấn đề. Nhìn chung là chƣa có công
trình nào triển khai, đi sâu vào vấn đề một cách chuyên biệt và có hệ thống.
4. Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu.
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nhƣ đề tài đã xác định, nhiệm vụ căn bản của luận án là khai thác, nghiên cứu khái
quát các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt
Nam khổng những về nội dung mà cả về đặc điểm, sức sống lâu bền cùng những hạn chế lịch
sử của nó. Những đặc điểm và hạn chế...này cố nhiên có thể đƣợc nhận xét sơ bộ sau khi rút
ra
8
đƣợc những nội dung cơ bản, song bản đƣợc nhìn nhận một cách khái quát hơn quạ sự so
sánh với quan niệm về nghệ thuật của các nền văn học hữu quan. Trƣớc hết là so sánh với
quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ huyền của dân tộc Kinh để thấy rõ hơn
những đặc điểm từ riêng đến chung của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ
truyền của các dân tộc thiểu số. Tiếp theo là phải đối sánh với quan niệm về nghệ thuật trong
văn học hiện đại của các dân tộc thiểu số sau Cách mạng Tháng Tám để thấy rõ hơn sức sống
lâu bền cũng nhƣ những hạn chế lịch sử của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian
cổ truyền của các dân tộc anh em.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án thật ra phải đƣợc cụ thể hóa thành những mặt gắn
bó với nhau nhƣ vậy.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài nhƣ đã giới thuyết ở trên là các khái quát dƣới dạng
trực tiếp hoặc gián tiếp có ẩn chứa các quan niệm về nghệ thuật dƣới dạng văn bản đã đƣợc in
ấn, phát hành trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số anh em. Tính đến thời
điểm hiện nay đã có khoảng 30 dân tộc thiểu số có tác phẩm văn học dân gian đƣợc sƣu tầm
và công bố dƣới dạng văn bản in ấn nhƣ các tập truyện cổ, truyện thơ, sử thi hoặc ca dao dân
ca, tục ngữ v.v...
Những cảm nhận, khái quát về nghệ thuật dƣới dạng phát biểu trực tiếp thƣờng gặp
trong các thể loại văn vần dân gian nhƣ ca dao dân ca tục ngữ, thành ngữ... Ở đây các phát
biểu, cảm nhận của dân gian về nghệ thuật hiện lên trực tiếp nhƣ những lời lẽ tự nghiệm,
tuyên ngôn bộc trực về nghệ thuật (nhƣ: "Thiếu tiếng đàn, tiếng hát nhƣ ăn cơm không canh
ăn rau không muối" (dân ca Thái); "Hát lên cảnh mới đẹp, hát lên nhà mới vui" (dân ca Lô
Lố) v.v...). Những cảm nhận trực tiếp về nghệ thuật nhƣ vậy chủ
9
yếu đƣợc khai thác từ các nguồn tƣ liệu đan ca, tục ngữ dân gian của các dân tộc đã đƣợc ấn
hành dƣới dạng văn bản nhƣ: Dân ca đám cưới Tày Nùng (1973); Dân ca Lò Lô (1975);
Dân ca Tây nguyên (1976); Tục ngữ Thái (1978); Dân ca Cao Lan (1981); Dân ca
H'mông (1984); Ca dao Tày Nùng(1994) v.v...
Cũng là để bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật, nhiều khi những cảm nhận của dân
gian lại đƣợc triển khai gián tiếp thông qua hệ thống các hình tƣơng tự sự sinh động có liên
quan trực tiếp đến nghệ thuật thƣờng gặp trong các truyện cổ, truyện thơ, sử thi... ở đây, các
quan niệm về nghệ thuật đƣợc hiện hữu ra thông qua sự biên hóa của các hình tƣợng, ý nghĩa
quan niệm thâm ngấm vào giữn các chi tiết, tình tiết của câu truyện (nhƣ tiếng đàn, lời ca vô
hiệu hóa hành động tàn bạo của lũ giặc cƣớp qua truyện cổ Tiếng hát của người đá của dân
tộc Raglai hoặc tiếng đàn lời ca đánh tan ý chí xâm lăng của quân chƣ hầu 18 nƣớc trong
truyện cổ Chàng Sính của dân lộc H'mông v.v...). Các cảm nhận gián tiếp về nghệ thuật
thƣờng đƣợc gạn lọc từ các tuyển tập truyện cổ các dân tộc hoặc các tập truyện thơ, trƣờng
ca, truyện cổ riêng biệt của từng dân tộc nhƣ: Truyện thơ Tày Nùng (1964 - 1965); Truyện
cổ các dân tộc thiểu số Miền Nam - 2 tập (1975, 1976); Truyện cổ Việt Bắc (1976); Truyện
cổ Ề đê (1978); Truyện cổ Cơtu (1982); Truyện cổ CơHo (1984); Truyện cổ các dân tộc
Trường Sơn Tây Nguyên (1985) Truyện cổ Mảng (1985); Trường ca Tây Nguyên (1985);
Truyện cổ các dân tộc ít người ở Việt Nam - 4 tập (1987 - 1994); v.v...
Có thể nhận thấy đối tƣợng nghiên cứu của đề tài - các quan niệm về nghệ thuật, căn
bản đều khá xác định cả về sắc thái nội dung những suy nghĩ, chiêm nghiệm về nghệ thuật)
và diện mạo hình thức (ngắn gọn, bộc trực trong thơ ca, tục ngữ hoặc diễn biến sinh động qua
các chi tiết, tình tiết
10
của câu chuyện có liên quan trực tiếp đến nghệ thuật trong tác phẩm tự sự...)
Cũng cần lƣu ý thêm rằng, việc phân tích, lý giải giá trị các quan niệm nghệ thuật
cũng chỉ nhằm chú mục vào các câu thơ đoạn văn hoặc các chi tiết, tình tiết tự sự có tiềm
chứa các quan niệm cụ thể về nghệ thuật, chứ không phân tích nghiên cứu toàn bộ nội dung
tác phẩm nói chung. Chẳng hạn khi nói đến quan niệm của dân gian về nghệ thuật góp phần
đánh giặc cứu nƣớc qua Truyện Thạch Sanh, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích, bình giá ý nghĩa
của hình tƣợng ở các trang đoạn có liên quan đến ý tƣởng dùng nghệ thuật làm vũ khí đánh
giặc cứu nƣớc mà thôi, chứ không phân tích toàn diện các vấn đề nội dung tƣ tƣởng của tác
phẩm nhƣ về tình bạn, tình yêu, kết cấu sự kiện, đối chiếu dị bản v.v...
Cuối cùng xin đƣợc lƣu ý thêm rằng, do thực hiện nhiệm vụ so sánh, đối chiếu nhƣ đã
nói rõ trong phần nhiệm vụ nghiên cứu, cho nên luận án còn mở rộng phạm vi khảo sát sang
cả phần văn học dân gian dân tộc Kinh và văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau Cách
mạng Tháng Tám.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Ngoài việc vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của Triết học mác-xít. cũng
nhƣ những phƣơng pháp nghiên cứu thông dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung (nhƣ
phân tích, tổng hợp, diễn dịch, qui nạp...) đề tài này chủ yếu vận dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu cơ bản dƣới đây:
Đề tài hƣớng tới khai thác các quan niệm có giá trị lý luận về nghệ thuật trong văn
học dân gian cổ truyền dƣới dạng văn bản đã ấn hành cho nên phương pháp thống kê, phân
loại tƣ liệu có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng trong toàn bộ các thao tác nghiên cứu
của đề tài. Thống kê tƣ liệu chính là thao tác kiếm tìm, lƣợm lặt các khía cạnh quan niệm
tiềm chứa
11
rải rác trong các tác phẩm thuộc mọi thể loại khác nhau của văn học dân gian. Nguyên tắc tối
đa khi thống kê, phân loại là phải dựa vào các cứ liệu quan niệm tổn tại thực trên văn bản tác
phẩm đã đƣợc in ấn để trên cơ sở đó mà tổng hợp, khái quát thành các vấn đề lý luận văn
nghệ chứ không phải là ngƣợc lại. Điều này vô hình trung cũng dự báo trƣớc rằng: Phải dựa
vào những cứ liệu tử những "văn bản" đích thực nhƣ đã nói ở trên để khái quát lên một số
quan niệm nghệ thuật nhất định, tất yếu sẽ không thể và cũng không cần thiết minh chứng
cho toàn bộ những vấn đề, những khái niệm đã có trong hệ thống lý luận văn nghệ hiện nay.
Mặc dù phải hết sức tránh bỏ sót trong khi lƣợm lặt, thống kê khát quát nhƣng nếu cuối cùng
vẫn thiếu vắng vấn đề này, khái niệm kia thì đó là do hạn chế lịch sử tất yếu chính các quan
niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc tộc thiểu số anh em.
Với tính chất, nhiêm vụ của luận án, khó có thể qui hoạch phạm vi khảo sát, thống kê
vào một số thể loại cụ thể hay tác phẩm văn học dân gian của một hay một số dân tộc xác
định nào nhƣ đã từng nói ở trên. Bởi lẽ, không phải ở đâu, lúc nào các khía cạnh quan niệm
về nghệ thuật cũng hiện diện nhƣ một điều kiện tất yếu, thƣờng xuyên trong các tác phẩm.
Quả thực có chuyện có những dân tộc có tác phẩm văn học dân gian đã ấn hành) song không
hề có một phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp nào về nghệ thuật cả Ngay trong phim vi văn học
viết cũng vậy, có những tác gia nổi tiếng xứng tầm đại thụ cua làng văn chƣơng dân tộc song
chắc gì họ đã có ý thức bày tỏ những quan niệm của mình về văn chƣơng nghệ thuật? Vì thế
cho nên hiện trạng xuất hiện các quan niệm nghệ thuật một cách rải rác, lẻ tẻ và thất thƣờng
trong phạm vi các thể loại văn học dân gian âu cũng là chuyện thƣờng tình. Mặt khác, tỷ lệ
xuất hiện quan niệm nghệ thuật giữa các dân tộc cũng không giống nhau. Có dân tộc thì bày
tỏ quan niệm nghệ thuật khá
12
thƣờng xuyên, lại cũng có dân tộc tuyệt nhiên không đề xuất quan niệm nghệ thuật nào cả.
Do vây để có thể thu trữ, tập hợp đƣợc một số lƣợng đáng kể các quan niệm nghệ thuật khả dĩ
tạo điều kiện thuận lợi cho việc khái quát, tất yếu phải "đãi cát tìm vàng" trên diện rộng. Chỉ
có lọc tìm, thống kê các quan niệm trên diện rộng các dân tộc và các thể loại khác nhau mới
hy vọng tổng hợp đƣợc những cứ liệu quan niệm nghệ thuật phong phú để nhờ đó mà chúng
sẽ bổ sung và làm đầy cho nhau tạo thành một mảng tƣ liệu dồi dào, giúp cho việc khái quát
có cơ sở tin chắc hơn. Điều này quả thực đã góp phần giải thích thêm tại sao không thể tiến
hành nghiên cứu các quan niệm nghệ thuật trong phạm vi văn học dân gian cổ truyền của
từng dân tộc một cách độc lập nhƣ đã từng nói ở trên.
Điều đặc biệt quan trọng là việc sử dụng phương pháp so sánh trên cả hai chiều
đồng đại và lịch đại giữa các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân
tộc thiểu số với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền của dân tộc Kinh và
quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại của các dân tộc thiểu số sau Cách mạng Tháng
Tám. Từ chỗ khác nhau với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian của dân tộc Kinh sẽ
làm nổi rõ đặc điểm riêng biệt của quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các
dân tộc thiểu số. Ngƣợc lại, từ chỗ giống nhau giữa hai phía cũng sẽ góp phần xác lập tính
chất chung của quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Mặt khác về mặt lịch đại, từ sự giống nhau với quan niệm nghệ thuật, trong văn học
hiện đại các dân tộc thiểu số (ở bình diện kế thừa truyền thống quan niệm) sẽ nói lên sức sống
bền lâu của quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Ngƣợc lại, từ
chỗ khác nhau (ở bình diện cách tân quan niệm) cũng gián tiếp nói lên hạn chế lịch sử của
các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam.
13
Tóm tại qua việc so sánh, đối chiếu các bình diện nói trên, gƣơng mặt của quan niệm nghệ
thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số càng có dịp hiện lên sắc nét trên
các phƣơng diện đặc điểm riêng cũng nhƣ tính chất chung, hạn chế lịch sử tất yếu cũng nhƣ
sức sống trƣờng kỳ của nó quá trình phát triển dài lâu của văn học nghệ thuật các dân tộc anh
em . So sánh nhƣ thế là so sánh lịch sử, cho nên những vấn đề hữu quan từ phƣơng pháp lịch
sử nhƣ lý thuyết về mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và cách tân... vốn đã đƣợc vận
dụng kết hợp ở đây.
Trong quá trình phân tích, lý giải quan niệm nghệ thuật dân gian, khi có điêu kiện
chúng tôi cũng đặc biệt coi trọng yêu cầu liên hệ với thực tiễn đời sống văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần đa diện của các dân tộc. Văn học dân gian mà trong đó có tiềm ẩn các quan
niệm nghệ thuật là bức tranh văn hóa tổng thể về mọi mặt tri thức da dạng của con ngƣời
đƣợc hun đúc và tích lũy qua quá trình lịch sử dài lâu. Vì vậy việc đặt nội dung các quan
niệm nghệ thuật dân gian trong ý thức liên hệ với thực tiễn sinh hoạt vật chất và tinh thần
phần nào mang tính chất tôn giáo và dân tộc học của các dân tộc thiểu số anh em sẽ giúp
chúng ta lý giải giá trị và ý nghĩa của các quan niệm đƣợc rõ ràng và sinh động hơn. Chẳng
hạn, những thông tin lý thú về lễ hội Lồng tồng của ngƣời Tày - Nùng; lễ hội Bỏ mả của một
số dân tộc Tây Nguyên... do các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cung cấp đã đƣợc đề tài
khai thác có lựa chọn để làm tƣ liệu liên hệ mở rộng trong quá trình phân tích, bình giá các
quan niệm nghệ thuật của dân gian. Các cứ liệu để liên hệ mở rộng ở đây, ngoài việc khai
thác từ các nguồn tài liệu hữu quan còn bao gồm cả những kiến văn cần thiết mà chúng tôi
với tƣ cách là đứa con của dân tộc và miền núi đã có dịp tiếp xúc và trải nghiệm thấm thía từ
thủa ấu thơ giữa cuộc sống muôn mặt của cộng đồng các dân tộc thiểu số anh em.
14
6. Những kết luận mới và cấu trúc luận án.
Nghiên cứu một cách toàn diện các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian
cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam trong sự đối sánh theo các chiều đồng đại và lịch đại
của nó, bƣớc đầu chúng tôi đã có đƣợc những kết quả nghiên cứu tƣơng đối mới mẻ nhƣ sau:
Trải qua một quá trình lịch sử dài lâu, qua văn học dân gian cổ truyền, các dân tộc
thiểu số anh em đã có ý thức cảm nhận, suy ngâm khá phong phú và sâu sắc về các vấn đề cơ
bản của nghệ thuật nhƣ: về chủ thể nghệ thuật, về vai trò tác dụng của nghệ thuật đối với
cuộc sống đa diện của con ngƣời... Về chủ thể nghệ thuật, những khía cạnh quan niệm có liên
quan đến vấn đề nguồn gốc của tài năng nghệ thuật, mối quan hệ giữa sáng tác đời sau với di
sản nghệ thuật truyền thống, giữa ý thức trách nhiệm và tấm lòng giao cảm của chủ thể nghệ
thuật đối với hoạt động văn nghệ của chính họ v.v... đã đƣợc dân gian cảm nhận khá thấm
thía. Mặt khác, nghệ thuật là sợi đây thắt chặt tình hữu ái đồng loại, là phƣơng tiện phụng sự
hữu hiệu đối với công cuộc lao động dựng xây và đánh giặc cứu nƣớc, khích lệ niềm tin và
khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên vì cuộc sống lao động hữu ích của con ngƣời. Những
quan niệm nghệ thuật này đều đã có những tiền đề có tính chất mỹ học là những quan niệm
về cái đẹp của con ngƣời qua quá trình lịch sử dài lâu của các dân tộc anh em làm nền tảng
cho nó.
Các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số
có những điểm tƣơng đồng và khác biệt với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ
truyền của dân tộc Kinh. Trên bình diện cộng đồng dân tộc, các dân tộc thiểu số và dân tộc
Kinh gặp gỡ nhau ở ý thức đề cao cái đẹp của con ngƣời bao gồm cả cái đẹp bên ngoài lẫn
phẩm chất cao đẹp bên trong. Các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều rất
15
trân trọng và yêu quí nghệ thuật, coi nghệ thuật (và cái đẹp) là phƣơng tiện góp phần phụng
sự công cuộc lao động dựng xây, đánh giặc cứu nƣớc, khích lệ niềm tin và khát vọng sống
của con ngƣời, đặc biệt là con ngƣời lao động. mặt khác do giữa các dân tộc thiểu số và dân
tộc Kinh vốn có những điều kiện môi sinh, văn hoá, xã hội, thói quen tƣ duy... khác biệt nhau
cho nên quan niệm về nghệ thuật của họ cũng khác nhau ở ngay trong ý thức về loại hình
nghệ thuật đƣợc cảm nhận, về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật, đặc biệt về
sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật . Về loại hình nghệ thuật được
cảm nhận, các dân tộc thiểu số chủ yếu bộc lộ các quan niệm nghệ thuật về ca múa nhạc.
Loại trừ một số ít dân tộc thiểu số, còn đại bộ phận là không bày tỏ quan niệm nghệ thuật về
thơ văn. Trong khi đó dân tộc Kinh, bên cạnh các quan niệm về ca múa nhạc, đã phần nào
có nói đến thơ văn khá lý thú. Về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật, các
dân tộc thiểu số căn bản bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật qua các thể loại tự sự, rất ít triển
khai quan niệm trên các thể thơ ca, tục ngữ, thành ngữ.... Còn dân tộc Kinh, bên cạnh các thể
loại tự sự dân gian, lại chủ yếu bày tỏ quan niệm nghệ thuật qua các loại thể thơ ca, tục ngữ,
thành ngữ... Về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật, các dân tộc
thiểu số thiên về lối biểu đạt dung dị, mộc mạc, bộc trực thẳng thắn, giàu hình ảnh sinh động,
khác với dân tộc Kinh đã có thiên hƣớng bày tỏ quan niệm một cách khái quát, hàm súc...
Đối sánh với quan niệm nghệ thuật trong văn học các dân lộc thiểu số hiện đại, bên
cạnh những cách tân đổi mới toàn diện và tất yếu trên các bình diện dân tộc thống nhất, cách
mạng và khoa học, các quan niệm nghệ thuật dân gian truyền thống vẫn tỏ rõ sức sống trƣờng
tồn của nó đối với nền văn học hiện đại. Các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại vẫn kế thừa
rộng rãi các quan niệm nghệ thuật truyền thống nhƣ về chủ thể nghệ thuật và vai trò tác
16
dụng của nghệ thuật... vốn có từ trong văn học dân gian. Không chỉ biểu đạt quan niệm nghệ
thuật dƣới "dạng sáng tác", mà ở phạm vi nghị luận hiện đại của các nhà văn dân tộc anh em
vẫn thấm đƣợm cách cảm, cách nghĩ của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ
truyền.
Để thể hiện những kết quả nghiên cứu nói trên, ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh
mục Tài liệu tham khảo.................. luận án đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng chính nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những nội dung cơ bản của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân
gian cổ Truyền các dân tộc thiểu số.
Chƣơng 2: So sánh về quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền giữa
các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh.
Chƣơng 3: Đối sánh về quan niệm nghệ thuật giữa văn học dân gian cổ truyền với văn
học hiện đại của chính các dân tộc thiểu số.
17
CHƢƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ NGHỆ
THUẬT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ.
1.1. Những tiền đề có tính chất mỹ học của nghệ thuật .
Quan niệm mỹ học mà then chốt là quan niệm về cái đẹp bao giờ cũng là cơ sở cho
quan niệm nghệ thuật, bởi lẽ cái đẹp tồn tại trong thiên nhiên, xã hội... nhƣng tập trung biểu
hiện sâu sắc ở nghệ thuật. Cho nên muôn tìm hiểu quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân
gian các dân tộc ít ngƣời Việt Nam trên một cơ sở vững chắc, trƣớc hết phải tìm hiểu quan
niệm về cái đẹp tiềm ẩn trong mảng văn học này. Cũng nhƣ nhiều nền văn học dân gian khác,
trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, các quan niệm về cái đẹp nói chung cơ
bản đều đƣợc truyền đạt qua việc mô tả về vẻ đẹp của con ngƣời. Từ những lý giải về vẻ đẹp
của con ngƣời, có thể hiểu đƣợc ý thức của dân gian về cái đẹp nói chung, bởi lẽ nhƣ nhà lý
luận văn học Nga nổi tiếng Gulaiep đã nói: "Bản chất. của cái đẹp bao giờ cũng bao hàm một
nội dung Ngƣời nhất định. Đối tƣợng nào cũng chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ khi nó có giá trị đối
với con ngƣời. Không thể hiểu cái đẹp tách rời tính chất Ngƣời". [50 ,115]. Đặc biệt, F. w.
Nitzsche - nhà mỹ học nổi tiếng cuối thế kỷ XIX ở Đức cũng đã nói: "Không có cái đẹp nào
khác cả, chỉ có con ngƣời mới đẹp. Phải xây dựng toàn bộ mỹ học trên cái nền chân lý giản
đơn này, đó là chân lý đầu tiên của Mỹ học". (Sự ra đời của bi kịch). Một ý kiến hiển nhiên
là phiến diện vì đã bỏ qua những cái đẹp trong thiên nhiên và xã hội... nhƣng lại nhấn mạnh
đúng đắn vai trò then chốt của quan niệm về con ngƣời cao đẹp đối với mỹ học nói chung.
Tất nhiên trong văn học dân gian không có những khái niệm lý luận trừu tƣợng về cái đẹp và
nghệ thuật mà chỉ có sự mô tả, cảm nhận về cái đẹp của con ngƣời
18
nhƣng qua đó cũng có thể thấy những quan niệm của họ về cái đẹp nói chung. Có thể khái
quát quan niệm về cái đẹp trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số trên các bình diện sau:
1.1.1. Về bản chất của cái đẹp qua cách miêu tả con ngƣời.
1.1.1.1 Vẻ đẹp bên ngoài phải gắn bó với phẩm chất cao đẹp bên trong.
Trong các biểu hiện đa dạng của vẻ dẹp con ngƣời, dân gian các dân tộc ít ngƣời rất
có ý thức quan tâm, đề cao cái đẹp bên ngoài của đối tƣợng. Trong kho tàng tục ngữ một số
dân tộc thiểu số, ý thức về cái đẹp hình thức của con ngƣời đã đƣợc đúc kết sắc gọn thành
những tuyên ngôn bất hủ:
- Tiền bạc nhƣ đất cỏ
Mặt mũi đáng ngàn vàng
(Tục ngữ Tày) [21 ,48]
- Chim đẹp nhờ bộ lông
Ngƣời đẹp nhờ bộ cánh v.v....
(Tục ngữ Thái) [21, 60]
Trong các tác phẩm tự sự dân gian, khi nói về vẻ đẹp bình thể của con ngƣời, dân gian
các dân tộc anh em thƣờng ƣu tiên nói nhiều về - phụ nữ phái đẹp. Các nhân vật nữ xuất hiện
trong tƣ cách là nhân vật chính diện - trung tâm ở các sử thi, truyện thơ, truyện cổ... dù ở Tây
Bắc, Việt Bắc hay Tây Nguyên... đều là hiện thân của cái đẹp bên ngoài đầy quyến rũ. Nàng
Mứn trong truyện thơ Khăm Panh của dân tộc Thái có một vẻ đẹp hình thể thật hoàn hảo:
Nàng đẹp nhƣ nai lƣợn
Nàng nói vui hơn suối reo
Tóc nàng dài, bƣớc mỗi bƣớc tóc leo lên gót
Tóc nhảy theo chân váy phập phồng
Khuôn mặt hình lá trầu không
19
Lá trầu không còn thua mềm mỏng... [153,18].
Vẻ đẹp ấy có thể khuynh đảo, làm sững sờ thế giới muôn loài xung quanh:
Nàng đến bên,suối, suối bỏ đƣờng đi
Nàng ở bên lửa, lửa quên reo cháy
Nàng vào rừng, nai quên chạy tìm đàn
Hoẳng thôi chạy lang thang... [153 18]
Nét đẹp lộng lẫy, kiều diễm của nàng Hơ lung trong trƣờng ca Đăm Đơ Roăn tựa bổ
nhƣ làm xao xuyến cả cỏ cây, ánh sáng: "Tâm thần của nàng mềm dẻo nhƣ tàn lá đung đƣa
trƣớc gió. Mắt nàng làm chớp buổi ban mai. Bƣớc chân nàng bƣớc đi nhƣ ru trên cỏ..." [111,
186].
Trong trƣờng ca Đam San, vẻ đẹp của Hơ Nhí đƣợc đặc tả sinh động tới mức tƣởng
nhƣ vẻ đẹp ấy đƣợc chắt lọc ra từ cỏ cây hon lá của núi rừng Tây Nguyên "Nàng đi đủng
đỉnh, thân hình uyển chuyển nhƣ cành cây blo sai quả mềm dẻo nhƣ những cành trên đỉnh
cây gió đƣa đi đƣa lại. Nàng đi nhƣ: chim phƣơng bay, nhƣ chim điều lƣợn trên không, nhƣ
nƣớc chảy dƣới suối. Lúc nàng đứng lại hay ngồi xuống thì chẳng có ai duyên dáng đƣợc đến
thế ..." [99, 55]. Song hành với vẻ đẹp hình thức của các nhân vật trên là nét đẹp kỳ diệu cun
các nhân vật trong các sử thi, truyện thơ, truyện kể... của các dân tộc anh em nhƣ: nàng Út
Lót, nàng Thơm, nàng Tiên, Ả Sao, Ả Sáng... trong các truyện thơ Mƣờng, nàng Bơ ra E tang
trong trƣờng ca Đăm Di của dân tộc Êđê, nàng Ka Mách, Ka Mài trong truyện cổ cùng lên
của dân tộc CơHo, nàng Nóng Bua trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Thái v.v ... Hình thể
của nhân vật nào cũng dƣợc dân gian đam mê ca ngợi nhằm đẩy cái đẹp bên ngoài của đối
tƣợng lên tới mức tột cùng. Song có điều đó không phải là cái đẹp bên ngoài thuần tuý, tự
thân. Khi lý giải về cái đẹp của đối tƣợng, dân gian thƣờng xuyên có ý thức đòi hỏi cái đẹp
bên ngoài
20
cần phải song hành với cái đẹp bên trong. Với dân gian, có thêm nét đẹp bên trong tƣơng
khớp, cái đẹp bên ngoài của đối tƣợng mới có giá trị đích thực. Nếu không có sự hài hòa
này,mọi cái đẹp bên ngoài chẳng qua chỉ là sự ngụy trá giả tạo vì vậy sẽ bị ngƣời đời dè bỉu
ra mặt:
- Vẻ thanh tao mà lòng lại hẹp
Mặt xinh xắn mà lòng lại gian
hoặc :
- Đẹp ngƣời mà xấu tính
Lành ngoài mà mục trong v.v...
(Tục ngữ Thái) [102 ,120]
Dân tộc Dao có khá nhiều những câu ca khuyên dạy con cái về chuyện chọn vợ kén
chồng mà ở đó ý thức về vẻ đẹp bên ngoài của đối tƣợng bao giờ cũng, đƣợc đặt trong sự đòi
hỏi kèm theo cái đẹp bên trong tƣơng xứng:
- Xƣa nay hoa đẹp thƣờng đáng ngại
Đẹp sắc sợ gặp lòng không đẹp
Cố ý lấy không yên nhà yên cửa.... [21 , 372].
- Làm gái nết na biết nghĩ suy,
Chỉ biết điểm trang cho đẹp đẽ
Việc làm lƣời biếng hay chi mà v.v... [21 , 372]
Tóm lại, với dân gian, vẻ đẹp bên ngoài là rất đáng quý trọng song nó phải đƣợc gắn
liền với giá trị bên trong tƣơng xứng thì mới có giá trị đích thực.
1.1.1.2.Phẩm chất cao đẹp bên trong đòi hỏi phải có vẻ đẹp bên ngoài tƣơng xứng.
Các dân tộc thiểu số có cả một kho tàng truyện cổ theo môtíp "Ngƣời mang lốt xấu xí
mà tài ba lỗi lạc". Dân tộc H'Rê có truyện cổ Vu chư
21
KaLong,... Dân tộc Phù lá có truyện Rùa giúp bạn. Dân tộc Ê đê có truyện Chàng Cóc,
Chàng rể khỉ, Y Đăm tai to... Dân tộc Gia rai có truyện Chàng rắn, Chàng Cóc, Chàng
Lợn, Chàng Chồn và nàng H'Lúi... Dân tộc Tày có truyện Nàng Kháy, Lệnh Trừ... Dân tộc
Nùng có truyện Hoàng tử và cô vợ xấu xí, Dân tộc H'mông có truyện Chàng Rùa v.v...
Các nhân vật chính diện trung tâm trong các truyện kể trên đều trải qua hai giai đoạn
phát triển. Giai đoạn đầu họ đểu phải kiên tâm mang trên mình một hình hài xấu xí, thô
nhám, hoàn toàn đối lập với những phẩm chất tài ba lỗi lạc, nhân đức cao đẹp của mình. Đến
giai đoạn sau, khi đã trút đi Cái lốt xấu xí của mình, họ đều là những chàng trai, cô gái rất
mực hoàn hảo về hình hài thể chất. Cái hình thức dị dạng, méo mó đã đƣợc thay thế bời"
chính những đƣờng nét hình thể trang trọng rất phù hợp với nhân tính trác tuyệt của mỗi con
ngƣời. Bằng cách để cho các nhân vật tài ba lỗi lạc phải tạm khoác trên mình cái vỏ ngoài
xấu xí, dân gian dƣờng nhƣ vừa muốn mang lại cho ngƣời tiếp nhận trạng thái nhận thức về
cái đẹp một cách bất ngờ, thú vị, vừa muốn khẳng định chắc chắn ý thức hoàn bồi cái đẹp bên
ngoài tƣơng xứng cho những con ngƣời vốn dĩ đã cổ những giá trị nhân tính cao thƣợng bên
Mong. Cái đẹp bên trong đích thực trong ý thức của dân gian. nhất định phải đƣợc "hình thức
hóa" tƣơng xứng; cái đẹp bên trong không thể bị cƣơng tỏa, cầm tù trong một vẻ ngoài dị
nghịch, trái khoáy... Quả vậy, Nàng Khay trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Tày
[185,200], sau khi đã thoát mình ra khỏi cái vỏ trứng từ túng tội nghiệp, liền hiện nguyên
hình là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, tài năng mƣu trí sắc sảo. biết vẽ ra những bức tranh mê
hoặc lòng ngƣời. Chàng Rùa khi không còn là con rùa xấu xí nữa liền trở thành một chàng
trai "mạnh khỏe, đẹp trai, giỏi khèn, hát hay. múa dẻo" [189,40]. Cũng nhƣ vậy các chàng
trai, cô gái trong các truyện Chàng Cóc, Chàng rể khỉ, Y Đăm tai to... của dân tộc Êdê,
Chàng
22
Rắn, Chàng Cóc, Chàng Lợn, Chàng Chồn của dân tộc Gia rai, Chàng Rùa của dân tộc
H'mông, Người lấy vợ đá của dân tộc Tà ôi, Lệnh Trừ của dân tộc Tày v.v... sau khi đã trút
đi những lốt cóc, khỉ, rắn, lợn, chồn, hòn đá v.v... đều có một hình thể viên mãn rất tƣơng
xứng với tài năng, nhân phẩm của mình. Ở đây cũng cần nói thêm về Lệnh Trừ - một trƣờng
hợp có phần đặc biệt. Lệnh Trừ là chàng trai vốn là "ngƣời trời" đƣợc thác sinh xuống trần
nhƣng chƣa đƣợc mang hình ngƣời ngay mà phải mang lốt cóc xấu xí. Tài năng và mƣu trí
tuyệt vời của chàng đã chiếm đƣợc cảm tình của công chúa ba con gái nhà vua. Khi đã biết
ngƣời thân yêu của mình chẳng qua chỉ tạm mang trên mình lốt cóc, công chúa ƣớm hỏi tại
sao chàng không bỏ hẳn cái lốt cóc đi, Lệnh Trừ đã thành thật trả lời : "Ta trở thành ngƣời để
ngƣời khác lại hoá cóc thay ta... thực lòng ta không muốn..." . Chi tiết này càng tô đậm thêm
phẩm chất cao đẹp bên trong của nhân vật Lệnh Trừ. Và điều đáng nói là cuối cùng Lệnh Trừ
vẫn trở về với hình thể của một chàng trai tuyệt hảo. Nhƣ thế là không có trƣờng hợp ngoại lệ
ở đây. Điều này chứng tỏ việc phân cốt truyện ra làm hai giai đoạn (giai đoạn đầu là ngƣời tốt
nhƣng xấu xí, giai đoạn hai là ngƣời tốt nhất định phải đƣợc mang một hình hài toàn vẹn) là
một phƣơng diện thi pháp về nhân vật của truyện cổ dân gian, nó bộc lộ quan niệm của các
dân tộc thiểu số rằng : phẩm chất cao đẹp bên trong là quan trọng nhất nhƣng còn phải đƣợc
hình thức hóa bằng một vẻ đẹp bên ngoài tƣơng xứng.
1.1.1.3. Lý tƣởng "đẹp ngƣời, đẹp nết"
Trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số, các tác phẩm tự sự trực tiếp nói đến
những con ngƣời mang vẻ đẹp hoàn hảo theo tinh thân "đẹp ngƣời, đẹp nết" chiếm một tỷ lệ
khá dồi dào. Dân tộc Cơ Ho có các truyện cổ đặc sắc nhƣ: K'Chơi và Malênh, Cô gái trong
rừng và chàng trai K'Khà, Chàng KDùng và nàng Kalàng, Con quạ gian ác... Dân tộc Ê đê
có các
23
truyện: Nói khoác gặp thời, Chàng Bun lô và nàng Tác Ty... Dân tộc Gia rai có huyện Đăm
Ktía Truol; Dân tộc Thái có huyện Nàng Ăm Ca và chàng Tòng Đón..., đặc biệt cổ truyện
thơ Khăm Panh với hình tƣợng nàng Mứn tài sắc vẹn toàn đã từng đƣợc nhà nghiên cứu văn
học dân gian Vũ Ngọc Khánh mệnh danh là "một cô gái Việt Nam toàn diện: có hình độ lãnh
dạo. có tài tổ chức kinh tê, có khả năng quân sự và có lòng thủy chung" [153,8]. Trong các
tác phẩm trên, các nhân vật chính diệu bảo giờ cũng hiện lên với tất cả sự vẹn toàn, hoàn hảo
cả về nhân hình lẫn nhân tính. Trong ý thức dân gian Cơ Ho, nàng Malênh "là một cô gái
xinh đẹp nhất vùng, cổ tay trăng nhƣ ngà voi và có tiếng hát vang xa nhƣ có làn gió thổi
[163,72]. Nàng Ka giờng trong truyện cổ cùng tên thì "đẹp nhƣ một bông" hoa rừng mới nở.
Lƣng Ka giờng thắt nhƣ co lƣng con kiến vàng... mái tóc mềm mại và đen nhƣ màn đêm"...
Đặc biệt nàng cũng là ngƣời thực sự khéo hay làm: "nấu cơm biết chụm củi đƣợm, biết múc
những vò nƣớc trong ở đầu nguồn, biết rót đầy những ché rƣợu cần cho làng uống say ngây
ngất..." [163,107] v.v... Trong các truyện kể của dân gian Ê đê cũng có biết bao những con
ngƣời đẹp người, tốt nết nhƣ vậy. Nàng Tác Ty trong truyện cổ Chàng Bun lô và nàng Tac
Ty là "một cô gái xinh đẹp và khéo tay nhất vùng... không những tài sắc, nàng còn là một
ngƣời con rất mực hiếu thảo với cha mẹ" [193,64]. Nàng Hơ Bia trong truyện Nói khoác gặp
thời chẳng những đẹp tới mức "không có cô gái nào đẹp bằng" mà còn có đôi bàn tay khéo
léo "biết dệt chăn, thêu khố lộng lẫy nhƣ sắc cầu vồng. Nàng chăm heo gà, heo gà mau lớn và
nhiều con." [193, 103] v.v...
Mảng truyện cổ mang môtíp kén chọn dâu rể cũng trực tiếp liên quan đến ý thức
khẳng định cái đẹp lý tƣởng "đẹp ngƣời, đẹp nết" trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số
anh em. Xung quanh mô típ này, dân tộc Tày có các truyện cổ So đũa chọn rể, Sự tích cánh
đồng Tổng Chúp, dân tộc
24
Cơ Ho có các truyện Hai chị em Đrun và Đroi, truyện Nàng Ra giờng... ở đây ý thức của
dân gian về cái đẹp lý tƣởng gắn liền vói ý niệm về cái cân xứng. Trên thực tế, con ngƣời đẹp
không mấy khi tồn tại tự thân mà thƣờng đặt trong nhu cầu giao tiếp quan hệ. Cái đẹp sẽ thực
sự thăng hoa trọn vẹn nếu có đƣợc đối tƣợng quan hệ cân xứng với nó. Kén rể là kén ngƣời
xứng đáng về tài sắc, trí tuệ, đạo đức... sao cho cân xứng với chủ thể kén chọn, cho nên qua
đây có thể phần nào thấy đƣợc ý thức về giá trị con ngƣời cao đẹp của dân gian.
Ở Việt Bắc, đồng bào Tày Nùng còn lƣu truyền rộng rãi truyện cổ dân gian So đũa
chọn rể đặc sắc. Trong truyện, cô gái tài sắc hoàn hảo đã có một phƣơng pháp kén chọn
chồng thật độc đáo qua mội bữa ăn... Chàng trai thứ hai, ngƣời vƣợt lên trên hai mƣơi chàng
trai trẻ đẹp khác cùng tham gia vào vòng kén chọn, ngƣời lọt vào đôi "mắt xanh" của nàng
quả là một con ngƣời xứng đáng. Ngoài cái đẹp hình thể chàng còn là ngƣời "vừa từ tốn, tao
nhã thận trọng trong mọi công việc, kể cả những công việc nhỏ nhặt nhất lại vừa là ngƣời
thức giả, giỏi giang chữ nghĩa và thấu hiểu đạo lý". Còn cô gái xinh đẹp trong truyện cổ Sự
tích cánh đồng Tổng Chúp mới thật khe khắt làm sao trong việc chọn chồng của mình. Biết
bao chàng trai trẻ đẹp có tài nghệ cao cƣờng đều không lọt vào "vòng ngắm" của nàng, bởi vì
theo nàng họ chỉ là những kẻ "võ biền" thuần túy. "Ngƣời thì có tài mà ứng xử thô lỗ. Kẻ thì
tài nghệ cao siêu mà thiếu bền bỉ trong công việc" [159 , 164]. Rốt cuộc chẳng có chàng trai
nào là người xứng đáng đƣợc chọn làm phò mã cá. Nhƣ vậy, có nghĩa là chẳng có đối tƣợng
kén chọn nào có giá trị cân xứng với tài sắc vẹn toàn của cô gái. Trong huyện cổ Hai chi em
Đrun và Đroi của dân tộc Cơ Ho, hai cô gái Đrun và Đroi hoàn toàn xứng đáng đƣợc Thần
Núi kén chọn làm con dâu cho hai con trai tài nghệ của mình bời lẽ họ đều là những cô gái
"không những xinh đẹp tuyệt trần mà còn tài hoa rất
25
mực các cô có tài nội trợ thật đáng khâm phục, không những thế mà lại có tài hát hay múa
dẻo" [163, 83]. Vẻ đẹp hoàn hảo của các cô gái thật cân xứng với tài sắc hai con trai Thân
Núi. Ý thức về cái đẹp là cái cân xứng còn tiếp tục đƣợc thể hiện sinh động qua mảng thơ ca
và huyện kể mang nội dung thân thân trách phận của những con ngƣời đẹp không may gặp
phải những cảnh huống bất hạnh mà chúng tôi sẽ có dịp phân tích ở những phần sau.
Khát vọng hƣớng tới cái đẹp hoàn hảo còn tiềm chứa khá phong phú trong các bài hát
giao duyên hoặc dân ca đám cƣới của một số dân tộc thiển số. Chẳng hạn trong hát giao
duyên dân tộc H'mông, trai gái thƣờng, hẹn hò, giao ƣớc với nhau về một tƣơng lai đầy kỳ
vọng:
Sau này mình đẻ con gái đặt tên là Xinh
Ta sinh con trai đặt tên là Tài.... [ 157,120]
Còn trong dân ca đám cƣới Tày - Nùng, lời ca cầu nguyện cho cô dâu chú rể:
Cầu cho: Sinh con đẹp nhƣ hoa, mạnh khỏe
Khôn giỏi cả binh mã, văn chƣơng... [17,40]
đã trở thành lời điệp khúc khắc khoải, tha thiết trong thiện tâm của cả cộng đồng khi đến dự
đám cƣới. Sức nặng thẩm mỹ chính yếu của những câu ca lời hát trên chính là khát vọng
hƣớng tới cái đẹp lý tƣởng toàn vẹn: đã "Xinh" lại phải "Tài" , đã "đẹp" lại phải "khôn giỏi cả
binh mã, văn chƣơng...". Vì vậy quan niệm về cái đẹp lý tƣởng chính là quan niệm hƣớng tới
cái đẹp hài hòa giữa vẻ dẹp bên ngoài và phẩm chất cao đẹp bên trong -một khía cạnh quan
niệm thẩm mỹ đặc sắc, từng đƣợc triển khai một cách khá phổ biến trên nhiều loại hình, loại
thể khác nhau trong kho tàng văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số anh em.
26
1.1.2. Về Ý nghĩa của cái đẹp qua việc triển khai vai trò của con ngƣời cao đẹp.
1.1.2.1. Cái đẹp khích lệ mềm tin và khát vọng sống của con ngƣời.
Với các dân tộc anh em, cái đẹp giúp cho con ngƣời cảm thấy tự tin hơn vào chính
mình trong các mối quan hệ giao tiếp. Nàng Hơ bia Sun trong trƣờng ca Đăm Di là một cô
gái rất đẹp đầy vẻ kiêu sa. Lần đầu thấy Xinh Mơ Nga (một chàng trai trẻ đẹp, tài ba) đƣờng
đột dám đến cầu thân với mình, Hơ bia Sun ƣớm hỏi đầy thách thức: "Ơ! làm sao anh dám to
gan lớn mật đạp lên chiếu chăn của em lúc này sao?" Chàng trai Xing Mơ Nga đã thản nhiên
trả lời một cách đầy tự tiu: "Vì bắp vế anh to, anh mới dám đạp lên cây xà dọc, vì bắp đùi anh
lớn anh mới dám đạp lên chiếc xà ngang, vì bụng anh vững anh mới dám đặt chân lên chăn,
lên chiếu của em !" Vậy là chàng trai dám đƣờng đột, bất ngờ đến với cô gái là do chàng
hoàn toàn có niềm tin vào uy lực của cái đẹp ở chính mình. Chàng tin rằng cái đẹp của mình
(bao gồm cả cái đẹp bên ngoài : "bắp vế, bắp đùi to" và cái đẹp tinh thần bên trong : "bụng dạ
vững") sẽ chinh phục đƣợc cô gái Hơ bia Sun kiều diễm. Quả vậy, chỉ sau vài lời đối thoại,
đôi trai tài gái sắc ấy đã nhanh chóng hòa nhập và chia sẻ với nhau. Họ bƣớc đi bên nhau
"nhƣ cặp cá Kơ doa (một loài cá đẹp) bơi trong vực nƣớc. Họ ngồi bên nhau nhƣ đôi chim Kơ
buôn (một loài chim đẹp) ăn quả đa trên ngọn cây'' [192,95].
Dân tộc Ê đê qua truyện cổ Truyện Krông Búc - con sông tóc đã dụng công khắc họa
vẻ đẹp tuyệt diệu của hai chị em H'Ring và H'Rao. "Thân thể của H'Rinh nhƣ khuôn đúc
vàng, thân thể của H'Rao nhƣ khuôn đúc bạc. Nhìn đằng trƣớc khổng ai nhắm đƣợc mắt, nhìn
đằng sau ai nhìn mãi cũng không chán... Gặp năm này, năm sau chƣa quên. Thấy năm trƣớc
năm sau vẫn chƣa hết nhớ. Từ buôn làng phía tây, ai ai cũng muốn đƣợc nhìn ngắm hai nàng,
muốn đƣợc H'Rinh, H'Rao ở chung nhà. Ai ai cũng
27
thích đƣợc H'Rinh, H'Rao ăn chung nồi, lên chung rẫy..." [183,19]. Những khi có hai nàng ở
bên, trai gái dân làng "ai cũng vui vẻ" hân hoan... Cái đẹp ở đây tựa nhƣ chất men say đặc
biệt giữ cho tình buôn làng luôn luôn đầm ấm. Mọi ngƣời muốn ngƣời đẹp luôn ở bên mình,
cùng, "ăn chung nồi. lên chung rẫy", là muốn cái đẹp mãi mãi thƣờng trực trong cuộc sống
hàng mày của chính mình. Cái đẹp ở đây chẳng khác nào những giá trị tinh thần vô giá có thể
thoa mãn cho con ngƣời những nhu cầu cần đƣợc cộng cảm, giao lƣu trong tình thân ái đồng
loại đích thực.
Trong trƣờng ca Đam San, vẻ đẹp của Đam San - ngƣời tù trƣởng oai phong lẫm liệt
"đầu đội khăn xếp, vai mang túi da, ... miệng đỏ nhƣ dƣa hấu, môi mỏng nhƣ lá tỏi... cổ trơn
tru nhƣ quả cà chua chín đã khiến cho cả cộng đồng, nhìn trộm anh không chán" [99, 31]. Đó
cũng là một phần căn nguyên giải thích tại sao Đam San đi đến đâu, liền có "trăm ngƣời đi
trƣớc, nghìn ngƣời đi theo sau". Sức mạnh thu phục và cảm hóa của ngƣời thủ lĩnh đối với
cộng đồng mình quả thực có nhờ một phần vào vẻ đẹp đầy uy linh của chàng.
Dân tộc Tà ôi trong truyện cổ Người lấy vợ đá đặc biệt đề cao vẻ đẹp của một cô gái
con trời. Một lần đi dạo chơi không may sảy chân rơi xuống trần gian, nàng hóa thành đá. Cô
gái mang lốt đá không chỉ "đẹp hơn tất cả các loài hoa trong rừng, đẹp hơn tất cả các cô gái
trong bản" [57 , 49] mà còn tài hoa, mƣu trí kỳ lạ. Nhờ tài sắc, mƣu trí của nàng mà chồng
nàng (chàng Paltiri) đã lần lƣợt đánh bại mọi âm mƣu chiếm đoạt nàng của tên Conpranha
giàu có, độc ác. Đối với Paltƣi ngƣời vợ xinh đẹp, tài hoa của mình thực sự là nguồn cổ vũ,
tạo niềm tin cho chàng vào hạnh phúc của chính mình.
Văn học dân gian là tiếng nói tâm hồn của nhân dân lao động. Nó gắn liền với mọi nỗi
niềm buồn vui, đau khổ của con ngƣời lao động. Nó thể
28
hiện khát vọng hân hoan hƣớng tới cái đẹp đồng thời cũng bày tỏ cà nỗi đau trƣớc cái đẹp bị
xâm hại. Mảng dân ca và truyện kể than thân trách phận của các cô gái đẹp chẳng may lỡ gặp
phải số phận hẩm hiu (lấy phải chồng già, chồng xấu, chồng ngốc.) vừa giúp ta thấu hiểu sâu
hơn ý tƣởng về cái đẹp cân xứng nhƣ đã nói ở trên vừa gợi nỗi niềm thấm thía về khát vọng
sống vì cái đẹp của dân gian. Các cô gái Ê đê than thở:
- Bạn bè duyên đã xứng duyên
Riêng em lấy phải ngƣời chồng nhỏ
Khác chi sao đọ cùng trăng [21 . 142]
- Thân em còn trẻ bao nhiêu
Cớ sao em lại đi yêu chồng già ? v.v... [119, 50]
Còn đây là nỗi xót xa của các cô gái Giáy:
- Cha em tài kén chọn
Cớ sao chọn vợt, khung
Vợt xinh khung chẳng đẹp
Nên đời em đang dở? [ 21 , 325]
Dân tộc Giáy còn lƣu truyền truyện cổ Chàng ngốc học khôn bày tỏ niềm cảm thông
cho số phận của một cô gái xinh đẹp, khéo léo trong mọi đƣờng ăn nết ở mà phải chung sống
với một ngƣời chồng ngu ngốc, đần độn. Có gái lúc nào cũng cảm thấy "ngao ngán, buồn
phiền nhƣ ngủ phải giƣờng có tệp" [185,311]. Tƣơng tự với truyện này, còn có truyện cổ
Chàng ngốc Cây nhi arơ của dân tộc Tà ôi [57 , 81]...Ở đó, các cô gái bất hạnh càng ý thức
về cái đẹp càng cảm thấy buồn tủi da diết. Tiếc nuối cho cái đẹp đang bị phôi phai (vì đặt
không đúng chỗ) cũng chính là tha thiết với khát vọng về cái đẹp nồng nàn.
1.1. 2.2 Cái đẹp góp phần giúp dân, cứu nƣớc.
Trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số, có một bộ phận tác
29
phẩm đặc sắc trực tiếp bày tỏ quan niệm cái đẹp góp phần giúp dân cứu nƣớc. Với các dân
tộc anh em, cái đẹp không phải chỉ để thƣởng ngoạn chiêm ngƣỡng mà tán thƣởng trầm trồ
sao cho thỏa nguyện nhu cầu tinh thần. cái đẹp đích thực phải góp phần đem lại những giá trị
hữu ích vì quyền lợi sống, còn của cộng đồng dân tộc, quốc gia, làng bản.
Cô gái Trần Châu trong truyện thơ cùng tên của dân tộc Tày, Nàng Mứn trong truyện
thơ Khăm Panh và nàng Han trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Thái, chàng trai trong
truyện cổ Rùa giúp bạn của dân tộc Phù lá. A Hờ trong huyện cổ A Hờ giết quỷ xanh của
dân tộc Hà nhì, Út lót trong truyện thơ Cun Đủ Lang Dà của dân tộc Mƣờng, cô bé chân vịt
trong, truyện thơ cùng tên của dân tộc Nùng v.v... đều là những nhân vật tài sắc hoàn hảo và
điều quan trọng là họ đã biết sử dụng tài sắc, mƣu lƣợc của mình vào công cuộc giúp dân,
cứu nƣớc khi thời cơ đến. Trần Châu là một cô gái xinh đẹp, trọng nghĩa khinh tiền tài, giầu
mƣu trí quả cảm đã biết dùng tài sắc của mình cùng quan quân triều đình đánh đuổi quân Tần
xâm lăng, cứu kinh thành và nhà vua thoát khỏi bàn tay tàn sát của lũ giặc cƣớp nƣớc. [16 ,
157]. Nàng Mứn, cô gái Thái tài sắc vẹn toàn, là linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân
Hán xâm lăng do tên bán nƣớc Khun Hạ cầu viện. Cùng với quan quân của mình, cô gái tuyệt
đẹp đã tả xung hữu đột giữa trận tiền khiến cho quân thù khiếp đảm. Ngay trong lúc "bị
thƣơng mà tay vẫn giơ gƣơm chém giặc tơi bời" [153, 45]. Nàng Han - cô gái Thái trong
truyện cổ cùng tên là một cô gái "rất đẹp, linh thông võ nghệ, có giọng hát tuyệt bay". Khi
quân giặc đến xâm lăng, nàng đã tập hợp quân sĩ và bằng mƣu trí sắc sảo của mình đã "đánh
tan lũ giặc cƣớp nƣớc, giữ vững biên thùy, đem lại niềm vui hạnh phúc cho muôn dân khắp
các bản mƣờng..." [185 , 301]. Chàng trai vô danh trong truyện cổ Rùa giúp bạn của dân tộc
Phù lá là một chàng trai khỏe mạnh, cao lớn, đẹp trai nhƣng
30
phải náu mình trong cái lốt rùa xấu xí trƣớc sự dè bỉu của mọi ngƣời. ''Năm ấy nƣớc láng
giềng kéo quân sang đánh. Nhà vua ra lệnh cho trai tráng khắp nƣớc đi đẹp giặc. Rùa cũng ra
trận. Đúng lúc quân giặc đang vây chặt quân nhà vua, Rùa bỏ lốt hiện nguyên hình là một
chàng trai đẹp đẽ khỏe mạnh mang kiếm xông vào giết hết lũ giặc cƣớp nƣớc. Chàng đƣợc
phong làm tƣớng giúp Vua trông coi việc nƣớc, giặc ngoại xâm không dám bén mảng đến
xâm phạm bờ cõi nữa". [156, 34]....
Triệt để sử dụng tài sắc vào công cuộc đánh giặc cứu nƣớc khi Tổ quốc bị xâm lăng -
đây là một khía cạnh quan niệm rất đáng trân trọng trong toàn bộ quan niệm về cái đẹp của
các dân tộc anh em qua văn học dân gian. Ngay cả khi không có nạn xâm lăng, các dân tộc
thiểu số anh em vẫn thƣờng trực với ý thức lấy cái đẹp phụng sự cho cuộc sống bình yên của
bản làng. Nàng Út Lót trong truyện thơ Cun Đủ Lang Dà của dân tộc Mƣờng là một cô gái
đẹp ngƣời tốt nết, thông minh sắc sảo đã can đảm giả trai đi chầu vua. Bằng trí tuệ và mƣu
lƣợc sáng suốt, nàng đã vƣợt qua bao cuộc thử thách nghiệt ngã của nhà vua, hoàn thành cuộc
chầu trở về suôn sẻ. [3 38]. Cô bé chăn vịt xinh dẹp, hiền thảo trong truyện cổ cùng tên của
dân tộc Nùng. Sau khi thành vợ Hoàng tử Ba đã biết dùng tài trí của mình tiêu diệt lũ Giả
Chan (một loại yêu ma) cứu muôn dân và cả triều đình, giữ vững cuộc sống bình yên [185,
274]. Chàng trai Kpút trong truyện cổ Kpút con thần mặt trời của dân tộc Cơ Ho (vốn đƣợc
đầu thai từ thần Mặt Trời) là một chàng trai trẻ đẹp, có sức khoẻ phi thƣờng. Có một lần,
"bọn cƣớp từ miền biển kéo đến cƣớp phá. Mọi ngƣời đều hoảng sợ, Kpút tài giỏi một mình
đối đầu với lũ cƣớp. Chàng đã đánh tan bọn cƣớp, giành lại sự bình yên cho dân làng" [163 ,
154].
Tóm lại, quan niệm về con ngƣời cao đẹp trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số
Việt Nam bao gồm nhiều khía cạnh đặc sắc, đƣợc triển khai
31
trên hầu hết các thể loại cơ bản của văn học dân gian các dân tộc thiểu số anh em Những
quan niệm đặc sắc này vừa là bức tranh phản ánh sinh động đời sống tâm hồn và hiện thực đa
diện của các dân tộc anh em vào những thời điểm lịch sử xa xƣa, vừa có ý nghĩn là nền tảng
cho những lý giải về nghệ thuật của dân gian các dân tộc. Hãy lấy thí dụ về một quan niệm cụ
thể là "phẩm chất cao đẹp bên trong đòi hỏi phải có một vẻ đẹp bên ngoài tƣơng xứng". Nếu
trừu tƣợng hóa lên một cấp độ cao hơn thì sẽ bắt gặp chân lý "cái đẹp nội dung phải đƣợc
hình thức hóa trọn vẹn" vốn đã trở thành một nguyên lý trong sáng tạo nghệ thuật và đƣợc
minh chứng ngay trong văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc anh em. Truyện cổ dân
gian Hai đời nổi tiếng của dân tộc Tà Ôi đã kể về nghị lực sáng tạo của một bà già (nghệ
nhân) lạc nặn hình ngƣời để "cải tử hoàn sinh" cho một chàng trai tài sắc tuyệt vời bị chết bởi
Thần Gió. Để có một chàng trai có những vẻ đẹp hoàn hảo nhƣ trƣớc, bà lão đã kỳ công tạc
nặn, tu sửa, hoàn chỉnh từng bộ phận cơ thể chàng trai. Khi đã có một chàng trai khá hoàn
hảo theo ý của mọi ngƣời) bà lão vẫn chƣa thấy ƣng vì "Cái mũi của chàng còn hơi méo, cái
bụng còn hơi to". Khát vọng tạo ra cái đẹp đã khiến bà không ngại khó, tiếp tục gọt rũa cho
đến khi chàng trai có đƣợc "một cái mũi thật đẹp và vòng bụng thật thon thả" bà lão mới
dừng tay sáng tạo của mình [57 , 35]. Xoay quanh nội dung của câu truyện có liên quan đến
nghệ thuật điêu khắc này, ý nghĩa gắn kết bền chắc giữa cái đẹp và nghề thuật có dịp đƣợc
dân gian triển khai sâu sắc. Và qua những vấn đề cụ thể về quan niệm nghệ thuật (nhƣ về chủ
thể nghệ thuật, và nhất là về vai trò tác dụng của nghệ thuật) sẽ đƣợc trình bày tiếp theo, ta
càng có dịp thấy rõ hơn mối quan hệ gắn bó giữa quan niệm nghẹ thuật với các quan niệm về
con ngƣời cao đẹp đã nói ở trên.
1.2 .Về chủ thể nghệ thuật .
Sáng tác dân gian có tính chất tập thể nhƣng không phải là một tập
32
thể trừu tƣợng mà bao gồm những con ngƣời cụ thể, và ở đây theo một quy ƣớc nhất định
thƣờng đƣợc gọi chung là những chủ thể của nghệ thuật.
1.2.1 Về nguồn gốc tài năng nghệ thuật.
Trong kho tàng văn học dân gian của mình, các dân tộc thiểu số anh em đã sớm có ý
thức lý giải về nguồn gốc của tài năng nghệ thuật. Có không ít các tác phẩm truyện kể dân
gian mang ý thức truy nguyên về nguồn gốc của tài năng nghệ thuật đã đƣợc lƣu truyền khá
rộng rãi trong một số dân tộc nhƣ : Tày, Cao Lan, Nùng... Do đâu con ngƣời biết ca hát và có
đƣợc giọng hát thật say mê? Dƣờng nhƣ câu hỏi này đã sớm bật phát lên từ trong ý thức tìm
tòi của các thế hệ nghệ nhân dân gian. Trong truyện cổ Những loài vật bị sửa chữa [59, 88],
các nghệ nhân dân gian Tày cho rằng: tiếng hát mê ly của con ngƣời là do Pựt (có nơi phiên
âm là Bụt, Pụt...) cử cô con gái út của mình - một nàng tiên có giọng hát tuyệt hay, xuống
trần gian dạy cho loài ngƣời biết hát để cuộc sống ở cõi trần thêm vui tƣơi nhộn nhịp... Dân
tộc Cao Lan, trong truyện cổ Tiếng hát nàng Slam [84 , 26] lại hƣớng tới lý giải nguồn gốc
tài năng ca hát tuyệt diệu của cô gái Làu Slam - ngƣời nghệ sĩ huyền thoại bất tử, từ xƣa tới
nay đã đƣợc ngƣời Cao Lan mệnh danh là Chúa thơ ca hoặc; "Thánh thơ ca, đƣợc tôn thờ
ngang với các vị thần linh khác trong tín ngƣỡng của dân tộc". [135 , 19]. Họ cho rằng "Sở dĩ
cô gái biết hát và có giọng hát tuyệt hay là do cô đã học và bắt chƣớc đƣợc những lời ca hay,
những giọng hát ngọt cua các loài chim đang vui thú giữa chốn rừng xanh khi đi kiếm cui, hái
rau" [184, 261]. Những truyện kể trên của dân tộc tày và dân tộc Cao Lan (có nhiều dị bản
khác nhau) đều tìm đến nguồn gốc nghệ thuật nói chung, tài năng nghệ thuật nói riêng bằng
một cảm quan nhuốm đậm sắc thái ly kỳ huyền ảo. Nghệ thuật bao giờ cũng ra đời do đòi hỏi
của nhu cầu đời sống con ngƣời. Con ngƣời luôn có nhu cầu
33
hƣớng tới nghệ thuật - lãnh địa biểu hiện tập trung các giá trị của phạm trù cái đẹp. Con
ngƣời cổ xƣa có thể thụ cảm đƣợc cái hay, cái đẹp qua nghệ thuật song họ khó có thể lý giải
đƣợc thực chất của nghệ thuật và tài năng nghệ thuật trong các mối quan hệ phức tạp của nó.
Vì thế, dƣới con mắt của ngƣời xƣa, tài năng nghệ thuật nói riêng, nghệ thuật nói chung đều
là những hiện tƣợng thẩm mỹ kỳ bí, có liên quan với những đấng bậc siêu nhân nằm ngoài
giới hạn khả năng của con ngƣời. Dân gian đã ký thác vào trong các lý giải của mình về chủ
thể nghệ thuật bằng tất cả thái độ trân trọng rất đỗi trang nghiêm, huyền diệu mà vẫn ấm áp
dƣ vị đời thƣờng của ngƣời lao động. Với dân gian, nghệ thuật và tài năng nghệ thuật là sản
phẩm tinh thần linh diệu, vừa do đấng tối cao (Tiên, Bụt..) ban tặng cho loài ngƣời, vừa do
chính loài ngƣời tự chung đúc, chắt lọc nên từ thế giới môi sinh đầy thơ mộng trong quá trình
hoạt động sinh nhai của mình.
Bên cạnh những quan niệm nhuốm vẻ ly kỳ nhằm bày tỏ tinh thần trân trọng và linh
thiêng hóa nguồn gốc tài năng nghệ thuật, rải rác đó đây từ trong ý thức dân gian ở buổi hồng
hoang ấy cũng đã thai nghén và hình thành một số khía cạnh quan niệm nghệ thuật mang màu
sắc duy vật sơ khai rất đáng chú ý về chủ thể nghệ thuật. Chẳng hạn, dân tộc Nùng, qua
truyện cổ Ngày hội Sính Mình [18 40] đã trực tiếp đề cập đến nguồn gốc tài năng nghệ thuật
đầy thuyết phục. Với họ, tài năng nghệ thuật vừa dựa trên cơ sở năng khiếu bẩm sinh, vừa là
kết quả của quá trình tu luyện miệt mài, say mê. Truyện kể về đôi trẻ Sính, Mình cùng sống
với nhau rất thân ái ở một bản xƣa của ngƣời Nùng. Cả hai đều rất yêu ca hát và đều có giọng
hát tuyệt hay. Ngƣời con trai lên là Mình đến lúc 12 tuổi thì đƣợc các nàng tiên trên Mƣờng
Trời xuống đón lên để học hát. Vốn đã có giọng hát hay, lại say mê học hát nên chẳng bao lâu
chàng đã học thuộc tất cả mọi khúc ca của các nàng tiên trên Mƣờng Trời. Thành tài, chàng
trở về trần gian để hát cho
34
dân bản nghe. Cho Mình vế trần, các nàng tiên lại xuống đón Sính (cô gái lúc ấy vừa tròn 12
tuổi) lên Mƣờng Trời học hát. Vốn có giọng hát tuyệt mỹ, lại cần mẫn, chăm chỉ nên chỉ sau
một tháng, nàng đã thuộc làu mọi bài hát của các nàng tiên. Thành tài, Sính lại trở về trần
cùng Mình hát cho dân bản nghe... Từ đó Sính, Mình trở thành trụ cột trong các cuộc vui chơi
ca hát: "Tiếng hát của chàng thánh thót trầm bổng nhƣ nƣớc suối róc. rách chảy, giọng hát
của nàng êm ái dịu dàng nhƣ gió ngàn nhẹ thổi vi vu qua bãi cỏ non xanh..." Qua những lần
vui chung ca hát, đôi trai gái trẻ yêu nhau và kết thành đôi lứa vợ chồng. Ganh tị với tài sắc
của Sính Mình, bọn chúa làng nham hiểm đã tìm cách chia rẽ, hãm hại Mình đề chiếm đoạt
Sính. Nhƣng nhờ sự che chở, bảo vệ của dân làng, mọi âm mƣu đen tối của lũ chúa làng độc
ác đều bị thất bại. Tiếng hát Sính, Mình vẫn cất cao mê say giữa bản mƣờng. Câu chuyện về
Sính, Mình chứa đựng những ý nghĩn sâu sắc về chủ thể nghệ thuật. Dân gian đã cảm nhận
khá thấu đáo các mối quan hệ chủ quan và khách quan dẫn đến việc hình thành tài năng nghệ
sĩ. Cả Sính, Mình đều có những điều kiện chủ quan thuận lợi: họ đều vốn đã có giọng hát rất
hay (bẩm sinh), lại yêu say mê và miệt mài học hát (cảm hứng và tinh thần rèn luyện). Đã vậy
họ cũng có những điều kiện khách quan rất phù hợp và thuận lợi cho tài năng của họ có cơ
hội phát sáng. Cả hai đều nhận đƣợc sự chỉ bảo ân cần của các nàng tiên trên Mƣờng Trời và
sự che chở khích lệ của dân làng... Rõ làng, ở đây tài năng nghệ thuật là do sự tác thành biện
chứng giữa các yếu tố chủ quan và khách quan. Trong tác phẩm còn tiềm chứa một khía cạnh
quan niệm khác đầy tinh thần nhân văn của dân gian xung quanh mối quan hệ giữa nghệ sĩ
với cuộc sống của nhân dân lao động. Để cho Sính, Mình trở về trần hát cho dân bản nghe
sâu khi đã tu luyện thành tài, dân gian muốn nhắn gửi mội ý tƣởng nhân đạo: nghệ thuật nói
chung tài năng nghệ thuật nói riêng chỉ có thể phát huy giá trị của nó khi nó gắn bó
35
với sinh mệnh của quần chúng nhân dân. Sự chống phá điên cuồng của bọn chúa làng gian ác
là hành vi tất yếu của giai cấp thống trị vô nhân và tàn bạo đối với các giá trị nghệ thuật đầy
tinh thần nhân văn. dân chủ của nhân dân. Nhƣng một khi nghệ sĩ đã thuộc về nhân dân, vì
nhân dân thì tất yêu sẽ đƣợc nhân dân chia sẻ, cộng cảm và bảo vệ. Sức mạnh của nhân dân
sẽ vô hiệu hóa mọi hành vi chống phá thù địch của các thế lực đen tối trong xã hội đối với
các giá trị văn nghệ chân chính. Đặt những chi tiết huyền bí, thần kỳ (chuyện Sính Mình lên
Mƣờng Trời học hát) sang một bên, từ tác phẩm chúng ta có cả một bài học nghệ thuật vô
giá, mãi mãi có giá trị thời sự về bản chất, vai trò, vị thế ngƣời nghệ sĩ trong cuộc sống. xã
hội.
1.2.2. Về mối quan hệ giữa chủ thể nghệ thuật với vốn văn nghệ cổ truyền của dân
tộc.
Trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian, không thể phủ định vai trò rất quan trọng của
truyền thống văn nghệ đối với thực tiễn ứng tác của các cá nhân. Tác giả Chu Xuân Diên đã
từng nói: "Truyền thống giúp cho ứng tác của cá nhân đƣợc dễ dàng hơn, đồng thời quy định
cả khuôn khổ cho sự ứng tác đó nữa" [75, 39]. Với các dân tộc anh em, vốn hiểu biết về văn
hóa nghệ thuật cổ truyền có ý nghĩa quyết định đến kết quả hoạt động nghệ thuật của các
nghệ nhân. Hãy xem cuộc đối đáp giữa đôi trai gái H'mông về một cuộc hát không thành
công của họ:
-Chàng trai hỏi:
Bạn bè, mọi ngƣời đều mở bài ca vui vẻ khắp nơi
Bài ca rộn ràng thấm tận từng thớ gan
Nàng hỡi, ta bảo nàng hát sao nàng không hát. [21, 216]
-Cô gái trả lời:
Bài gì, câu gì chàng cũng học đƣợc đủ
Bài gì, can gì chàng cũng học đƣợc đều
Còn em đây nhƣ con gà sống của cha, của mẹ mới tập gáy.
36
Bài gì, câu gì em cũng không học đƣợc đủ
Bài gì, cồn gì em cũng không học đƣợc đều... [21 , 222].
Vậy là cô gái im hơi lặng tiếng suốt cuộc hát, khƣớc từ mọi lời mời mọc đon đả của
chàng trai ấy hoàn toàn là do vốn tiếng nghệ thuật dân ca của mình học đƣợc còn quá ít ỏi.
"Bài gì, câu gì cũng không học đƣợc đủ, đƣợc đều..." thì làm sao có đủ can đảm bƣớc ra ứng
tác với đối tƣợng giao tiếp nghệ thuật của mình vốn đã thuần thục mọi câu, mọi bài trong kho
tàng dân ca truyền thống của dân tộc... Các dân tộc anh em đã đúc kết một quan niệm tƣởng
nhƣ giản đơn mà có ý nghĩa thiết thực đối với mọi thế hệ nghệ sĩ khác nhau: Nghê sĩ cần phải
trau dồi vốn hiểu biết toàn diện về văn nghệ cổ truyền của dân tộc thì hoạt động nghệ thuật
mới có thể có đƣợc kết quả viên mãn.
Giá trị văn học nghệ thuật cổ truyền của các dân tộc đƣợc lƣu truyền lại cho các thế
hệ sau chắc chắn chủ yếu bằng con đƣờng Truyền khẩu (điều hiển nhiên trong bối cảnh văn
học dân gian cổ xƣa chƣa có chữ viết), song đây đó có một số dân tộc anh em đã sáng tạo ra
những truyện kể độc đáo mang khát vọng lƣu truyền các giá trị văn hóa nghệ thuật cổ truyền
bằng văn tự, chữ viết của mình. Truyện cổ Người Phù lá mất chữ của dân tộc Phù lá kể về
một chàng trai đi học chữ. Để nhớ cho kỹ, chàng bèn nuốt hết chữ vào bụng. "Từ đó dân tộc
Phù lá không có chữ nữa. Nhƣng vì chữ đã đƣợc nuốt vào trong bụng rồi cho nên họ vẫn nhớ
nguyên tất cả những bài thơ, bài hát truyện cổ từ thời xƣa đã đƣợc ông cha truyền lại bằng
chữ viết." [156 , 14]. Ở đây vô hình trung dân gian đã xem chữ là ký hiệu lƣu giữ lại cái giá
trị văn nghệ dân gian cổ truyền của dân tộc. Tuy không còn chữ nhƣng các giá trị văn hóa cổ
xƣa của dân tộc đã đƣợc cất giữ ở chốn sâu thẳm của thể phách con ngƣời, cho nên nó sẽ tồn
tại vĩnh cửu chừng nào còn sự tồn tại của con ngƣời. Biết đặt niềm tin vào sự trƣờng sinh của
các giá trị
37
nghệ thuật truyền thống cũng có nghĩa là các nghệ nhân dân gian đã biết tự xây đắp cho mình
bản lĩnh sống vững vàng trong thực lại vốn còn nhiều những nhọc nhằn, lo loan, trong đó có
nỗi lo toan về sự mai một của các giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc.
Bổ sung cho những ý tƣởng đầy nhân văn của dân tộc Phù lá, dân tộc Mảng qua
truyện cổ Vì sao người Mảng không có chữ lại trực tiếp giãi bày nỗi lo mất dần đi các giá trị
nghệ thuật rực rỡ của cha ông. Ý tƣởng này đƣợc thể hiện xoay quanh lời thoại của một
ngƣời kể chuyện. Họ cho rằng ngƣời Mảng vốn có chữ nhƣng do không biết cách lƣu giữ
đƣợc nên chữ đã bị mai một, mất mát đi. Khi không có chữ nữa những lời hát, những câu từ
ngữ ông bà răn dạy con cháu qua ngàn đời cứ mất dần đi vì không có chữ để lƣu lại đƣợc
"[183,32]. Nỗi lo ấy tựa nhƣ nỗi ám ảnh kinh hoàng qua lời kể của các thế hệ nghệ nhân dân
gian dân tộc Mảng vốn thiết tha yêu chuộng các giá trị nghệ thuật cổ truyền của cha ông.
Nhƣng thật diễm phúc cho cả một dân tộc khi họ còn biết lo toan cho viễn cảnh văn hóa nghệ
thuật của dân tộc mình. Những giá trị văn hóa nghệ thuật quá khứ sẽ không bao giờ bị thất
tán, mai một chừng nào trong cộng đồng dân tộc ấy còn sống dậy nhũng lo âu gìn giữ đầy
trách nhiệm nhƣ thế... Rõ ràng, với các dân tộc anh em, còn sự tồn tại của giá trị văn hóa
nghệ thuật cổ truyền của dân tộc cũng có nghĩa là còn sự tồn sinh đầy kiêu hãnh của dân tộc
đó. Hơn bao giờ hết, họ hiểu sâu sắc vai trò to lớn của các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền
thống đối với quá trình sáng tạo và hoạt động nghệ thuật của các nghệ sĩ trong thực tại.
Không phải ngẫu nhiên, trong phong tục của một số dân tộc anh em vẫn còn bảo lƣu những
mỹ tục rất đáng trân trọng. Các cụ ông, cụ bà ngƣời Tày, Nùng thƣờng truyền dạy cho con
cháu của mình các bài dân ca đối đáp tình yêu, các câu tục ngữ, truyện cổ vào các dịp Tết
nguyên đán, lễ hội mùa xuân...'''Những gia đình nghệ nhân, thầy Mo, thầy Xƣơng... của ngƣời
38
Mƣờng thƣờng đem thơ Nàng Nga - Hai Mối luyện cho con cháu mình từ lúc lên bốn, lên
năm tuổi" [56, 81]. Ngƣời Thái, ngƣời H'mông, ngƣời Mƣờng... và một số dân tộc ở Tây
Nguyên có tục "nhập cữ" cho đứa trẻ để xác nhận nó đã trở thành một thành viên chính thức
của cộng đồng. Trong lễ "nhập cữ", ngƣời ta trao "vật làm tin" cho đứa trẻ (vòng bạc đeo cổ,
vòng chỉ buộc tay hay rìu, rựa...) trong tiếng hát ru ngọt ngào hay trong tiếng chiêng đánh
theo nhịp chiến đấu hào hùng... và "cứ mỗi lần có một đứa trẻ nhập cữ là một dịp để toàn bộ
cộng đồng tuyên thệ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc". [196, 112]. Thƣờng xuyên có ý thức để
cho thế hệ cháu con đƣợc hòa mình vào giữa dòng chảy văn hóa cổ truyền của dân tộc ngay
từ thuở ấu thơ nhƣ vậy quả là một nếp sống văn hóa quý báu cần đƣợc duy trì và gìn giữ cho
muôn đời sau.
1.2.3.Về tinh thần giao cảm và ý thức trách nhiệm của chủ thể nghệ thuật.
Trong không khí diễn xƣớng dân gian tổng hợp, sức cuốn hút của nghệ thuật thật kỳ
diệu. Ở đó không ai có thể thờ ơ hoặc bàng quan. Cuộc vui đã mở mà "không hát không cƣời
là bụng xấu" (Dâu ca Giáy). Chủ thể nghệ thuật cần có niềm hứng khởi chân thành nồng
nhiệt mới có thể hội nhập một cách tự nhiên vào các hoạt động nghệ thuật của cộng đồng:
Ngƣời ta có đôi, có lứa chân nhảy, tay múa
Ta đây không đôi, không lứa chí ngồi than và khóc! [21, 132]
Cô gái H'mông cô đơn, mặc cảm chỉ biết ngồi "than và khóc", chứ không thể miễn
cƣỡng hòa nhập vào cuộc vui bằng một trạng thái tinh thần giả tạo, hời hợt. Rõ ràng, nghệ
thuật chỉ dung nạp những trạng thái tinh thần chân cảm và đam mê tột bậc của mỗi thành viên
tham gia hoạt động nghệ thuật. Còn đây là tình cảnh của một cô gái Tày. Cô gái trầm tƣ, bất
động suốt cuộc sli, lượn, đối đáp vui chung. Cô không hát không phải vì thiếu đôi, thiếu lứa
hay vơi thiếu bài bản dân ca Truyền thống, mà vì dự cảm thấy ở ngƣời yêu trong lúc gặp gỡ
để ca hát có một điều bất thƣờng, không vui. Cô gái buông lời trách móc ngƣời yêu và tự
thanh minh cho mình:
39
Gặp chàng ở gốc xâu
Làm cao giá ý không thấy nhau
Làm cao giả ý không chào hỏi
Đàn ông lắm bụng thật rõ quá
Đêm nay đâu dám cất lời ca... [21, 132].
Quan niệm về chủ thể nghệ thuật ở phƣơng diện giao tiếp nghệ thuật của dân gian quả
thật rất sòng phẳng, rõ ràng. Họ đòi hỏi ở cả hai phía đều phải hết sức cởi mở, thành thật với
nhau. Nếu một trong, hai phía không có đƣợc nhƣng tình cảm đó, sẽ không thể có đƣợc sự
giao cảm tƣơng xứng từ đối tác ở phía bên kia.
Với các dân tộc anh em, trong hoạt động nghệ thuật, ngoài vốn liếng nghệ thuật
truyền thống và nỗi niềm giao cảm chân thành, các nghệ sĩ còn cần có ý thức trách nhiệm
cao. Trong hoạt động nghệ thuật dân gian, không phải lúc nào, ở đâu, ngƣời ta cũng có thể
kiếm tìm đƣợc những cơ hội diễn xƣớng thuận lợi. Hoàn cảnh khách quan tạo nghịch cảnh
gây ảnh hƣởng không tốt đến tâm thế của ngƣời biểu diễn nghệ thuật dân gian luôn là chuyện
muôn thuở trong điều kiện đời sống vật chất - tinh thần thời ấy vốn đầy những thiếu thốn,
khó khăn... Trong các cuộc vui chung của Ngƣời Lô lô, đồng bào rất coi trọng kiếm tìm một.
không gian thật "tức cảnh sinh tình" để hát cho say hơn, trọn vẹn hơn. Nếu bất trắc không tìm
đƣợc một không gian hoạt động nghệ thuật nhƣ ý, họ biết động viên nhau:
Tuy xóm này lẻ nhạt
Không sánh đƣợc xóm trên
Nhƣng cứ hát, cứ hát... [21, 15]"
Lời động viên nhắc nhở ân cần ấy thực chất là lời nhắc nhở ý thức trách nhiệm đối với
các thành viên tham gia hoạt động nghệ thuật. Hơn bao giờ hết, trong hoạt động nghệ thuật,
mọi thành viên cần có niềm vui say, hứng khởi chân thành và ý thức trách nhiệm sâu sắc. Có
nhƣ vậy họ mới có đủ đảm lực tinh thần vƣợt qua mọi sự ngáng cản của hoàn cảnh để
40
đạt đƣợc mục đích của hoạt động nghệ thuật. Họ cần vui say và có tinh thần trách nhiệm với
bất kỳ giá nào bởi vì:
Đêm nay là đêm hội
Tối nay là tối vui
Đừng tiếc giọng tiếc lời
Không nên ngừng giữa buổi
Không nên nghỉ nửa vời... [21, 251].
Chỉ khi nào đến với hoạt động nghệ thuật bằng tinh thần trách nhiệm sâu sắc nhƣ vậy,
ngƣời nghệ sĩ mới có thể loại trừ đƣợc trong mình những ngẫu hứng cá nhân tùy tiện để thủy
chung trọn vẹn với cuộc vui của cộng đồng. Với các dân tộc anh em, ý thức trách nhiệm là
một trong nhũng tác nhân quan trọng giúp nghệ sĩ đến với nghệ thuật bằng tất cả khả năng, trí
tuệ đích thực của mình. Ngƣời H'mông thƣờng nhắc nhở nhau khi vào cuộc hát rằng:
Đôi ta không biết hát thì thôi
Biết hát ta hát nhƣ cây tre, cây bƣơng thi nhau trỗi
Đôi ta không biết hát thì thôi
Biết hát ta hát nhƣ cây tre, "cây bƣơng thi nhau mọc [157, 39]
Ngƣời Dao trong ca hát vui Tết mừng Xuân cũng lấy ý thức trách nhiệm phục vụ
cộng đồng làm trọng mà coi thƣờng mọi chuyện thắng thua, hơn kém trong hoạt động nghệ
thuật của mình:
Năm mới, Xuân tƣơi cùng vui hát
Còn ngại không hát, bao giờ hát?
Thua đƣợc cần gì ta cứ say ? [21, 243]
Đây không chỉ thuần túy là quan niệm về vai trò trách nhiệm của chủ thể nghệ thuật
mà còn là một ý thức rất đáng trân trọng về phẩm chất nhân cách cần thiết đối với các nghệ sĩ
trong mối tƣơng quan mật thiết với tổ chức cộng đồng dân tộc.
41
1.3. Về tác dụng nghệ thuật .
Phải nói ngay rằng trong các cảm nhận về nghệ thuật, dân gian các dân tộc thiểu số
chủ yêu bày tỏ các quan niệm của mình về vai trò tác dụng của nghệ thuật. Nhìn trên tổng
thể, đây là những quan niệm nghệ thuật ít nhiều mang màu sắc huyền diệu, phong phú về
nhiều mặt. Căn cứ vào tần số xuất hiện mang tính phổ hiên của các luận cứ, bƣớc đầu có thể
khái quát những cảm nhận về vai trò tác dụng của nghệ thuật trong văn học dân gian các dân
tộc thiểu số theo một số phƣơng diện cơ bản sau đây:
1.3.1 Nghệ thuật thắt chặt tình hữu ái đồng loại.
Cuộc sống hàng ngày của các dân tộc chẳng mấy khi thiếu vắng lời ca, tiếng hát. điệu
đàn... Họ có thể sli lượn, phuối pác... (Tày - Nùng), thường, rang, boj mẹng... (Mƣờng), khắp
(Thái) ... ở mọi nơi khi cần thiết. Nghệ thuật thực sự gắn chặt với cuộc sống tinh thần các dân
tộc trong mọi niềm vui nỗi buồn, trong từng nét sinh hoạt: và theo suốt cuộc đời của mỗi con
ngƣời. Gắn bó sâu nặng với nghệ thuật trong từng thời khắc của cuộc đời, các dân tộc anh em
đã thực tâm coi nghệ thuật tựa nhƣ nguồn vật chất cần thiết nuôi sống con ngƣời. Thiếu nó,
cuộc sống sẽ trở nên tẻ nhạt, vô vị biết bao: "Thiếu tiếng hát nhƣ ăn cơm không canh, ăn rau
không muối" (Dân ca Thái). Với đồng bào Ê đe, Mơ nông, sự thiếu vắng nghệ thuật còn có
thể sánh ngang với hiểm họa thiếu vắng những điều kiện sinh tồn tối thiểu của con ngƣời:
Cuộc sống thiếu tiếng đàn, tiếng hát
nhƣ thiếu muối, thiếu cơm... [75, 708].
Trong cảm quan của nguôi Lô lô, nghệ thuật chính là chất men say dặc biệt góp phần
làm cho cuộc sống COM ngƣời thêm khỏi sắc hƣơng hoa:
Hái lên cảnh mới đẹp
Hái lên nhà mới vui... v.v [ 188, 251]
Tồn tại trong nhƣng điều kiện sống thật khắc nghiệt, vất vả, họ đã tìm đến nghệ thuật
với thiện ý nhờ nghệ thuật mà có thể làm vơi bớt đi những nhọc nhằn, buồn tẻ của đời
thƣờng; nhờ nghệ thuật mà có thể góp thêm vào
42
cuộc sống những nét tƣơi tắn, lành mạnh để cuộc sống này trở nên thi vị, đáng yêu và đáng
sống hơn. Vì thế, không phải vô cớ mà trong dân ca Giáy, ngƣời ta quan niệm "không hát,
không cƣời là bụng xấu" [171 , 16]. Với họ, trong hoạt động nghệ thuật ngƣời ta chỉ có thể
đến với cuộc vui chung trong niềm hứng khởi tràn đầy, trong nụ cƣời cởi mở, thành thật.
Đồng bào các dân tộc bao giờ cũng, đòi hỏi sự vui say thành thật đến tột cùng: Vì vậy, nghệ
thuật có sức mạnh hơn hẳn mọi hình thái ý thức khác trong việc gắn kết tình hữu ái giữa con
ngƣời với con ngƣời. Dân tộc Mƣờng quan niệm tiếng hát, lời ca có tác dụng góp phần đắp
xây hạnh phúc và tình yêu đôi lứa của con ngƣời:
Cùng cất cao lời thƣờng, rang
Cho trai anh gái em nhà ta nên cửa
Cho trai anh gái em nhà ta nên nhà [42 ,28]
Ngƣời H'mông coi nghệ thuật nhƣ một phần giá trị vô giá của con ngƣời, thiếu nó con
ngƣời ta sẽ khó có cơ hội giao kết với cộng, đồng; thậm chí còn có thể chuốc lấy bất hạnh:
Con trai không biết thổi sáo thì khó lấy vợ
Con gái không biết gảy đàn môi thì khó lấy chồng. [ 186 , 54]
Cảm nhận về tác dụng của nghệ thuật dƣờng nhƣ đã đƣợc các dân tộc đẩy tới mức tột
bậc. Họ kỳ vọng vào nghệ thuật bằng tất cả nỗi niềm sủng ái hiếm cỏ, Trong truyện cổ
Chàng Sính [189,35] của dân tộc Mèo, cô gái con vị Thần nọ bỗng nhiên bị câm sau khi
đƣợc chàng Sính cứu thoát từ nanh vuốt của loài ác điểu. Song thật kỳ lạ, hễ cứ nghe tiếng
đàn lời ca của chàng Sính từ ngục tối vọng về là nàng lại cƣời nói vui vẻ nhƣ xƣa. Bặt im
tiếng đàn, lời ca của chàng Sính cô gái lại trở về với trạng thái tuyệt giao câm lặng với tất cả.
Rõ ràng, ở đây tiếng đàn ca là thứ ma lực duy nhất có khả năng lay gọi tới nỗi niềm ẩn ức sâu
xa của cô gái con vị thần nọ chứ
43
không phải là những thú vui của kẻ hầu, ngƣời hạ nơi lầu son gác tía của vua cha... Ở đó nghệ
thuật quả là tiếng lòng tri âm, tri kỷ, có khả năng kết nối tình ngƣời thân thiết... Tiếng hát của
nàng Slao trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Thái cũng thật kỳ diệu. Tiếng hát mê ly, vang
xa của nàng "làm cho mọi nguôi trong bản mƣờng thấy yêu thƣơng quý mến nhau hơn..."
[185 293]. Nàng H'Bia Pang kiều diễm trong truyện cổ Chàng Cóc của dân tộc Gia nai thật
ngất ngây hạnh phúc khi nghe "tiếng đàn ngân nga, bay bổng 'theo làn gió của chàng Cóc..."
[10 ,322]. Vì sức cuốn hút mê say của tiếng đàn, nàng đã tình nguyện kết duyên tình đôi lứa
với chàng Cóc - con ngƣời có hình hài kỳ dị.
Cũng dân tộc Gia rai, trong truyện cổ Chuyện cây đàn đã kể rằng: Chàng Sét có một
cây đàn tuyệt diệu. Tiếng đàn của chàng làm vui lòng cả buôn làng. Nhƣng từ ngày không
còn cây đàn nữa thì "cả bản buồn bã, vợ của Sét cũng âu sầu héo hắt rồi chết..." [10 , 372]. Ở
đây uy lực của nghệ thuật mới thật kỳ diệu. Có nó cuộc sống sẽ tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Mất nó sự sống, niềm vui cũng trở nên héo hắt, tàn tạ. Nghệ thuật cần cho con ngƣời nhƣ
cơm ăn. nƣớc uống, không khí để thở vậy... Nàng Ba La trong truyện cổ Chàng bali và nàng
Bala của dân tộc Tà ôi có giọng hát "hay còn hơn cả con chim hót hay nhất. Mỗi khi nàng hát
trai gái trong bản kéo đến chật cả sân nhà" [57,19] để đƣợc nghe hát và tình tự vui vẻ với
nhau...
Nàng Xe Đắc trong truyện cổ Gió Đói của dân tộc Ba Na có vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy,
thƣờng ngày vẫn coi thƣờng, ghét bỏ và xa lánh Giơ ngƣời đầy tớ nam. Thế mà khi nghe
tiếng đàn Tinh ninh của chàng Gió gẩy, Xe Đắc "bỗng sinh lòng yêu chàng tha thiết, mong
mỏi đƣợc thấy mặt chàng. Suối đêm không ngủ, chỉ mong trời sáng để lên núi gặp chàng"
[10, 121]. Biết rằng tình yêu là không có giới hạn, nhƣng cái ma lực diệu kỳ thiết
44
lập nên "mối tình sét đánh" giữa nàng Xe Đắc kiêu sa với chàng Giớ đầy tớ hèn hạ lại chính
là tiếng nói của nghệ thuật chứ đâu phải nhờ vào những phƣơng tiện và uy lực nào khác.
Nghệ Thuật là tiếng nói duy nhất khiến nàng Xe Đắc cuồng mê mà vƣợt qua giới hạn đẳng
cấp của mình để đến với những con ngƣời dƣới đáy cùng của cuộc sống xã hội...
Đồng bào Mƣờng khi đến chia vui với đám cƣới, họ dồn mọi thiện ý thành thật của
mình vào trong lời "thƣờng, rang" (tên các làn điệu dân ca Mƣờng). Lời hát là niềm vui, là
ƣớc nguyện, là tất cả..., nó hơn mọi lời lẽ mời chào ngọt ngào, chúc tụng cao sang:
Tôi không biết nói sao cho phải
Không biết nói lại sao cho nên
Chỉ xin cất lời thƣờng, rang vào áng hội
Để đôi bên chú bác họ hàng đều vui
Để cô dâu chú rể trăm tuổi bạc đầu [21, 496].
Đến với đám cƣới của một số dân tộc ít ngƣời mới thấy rõ vai trò tác dụng to lớn của
nghệ thuật. Ở đó, lời ca tiếng hát dƣờng nhƣ đóng vai trò chủ âm. Trong đám cƣới của ngƣời
Tày, Nùng những cuộc hát đối đáp giữa hai làng này với gái ban nọ (hoặc ngƣợc lại) cứ diễn
ra thâu đêm trọn ngày.
Nổi niềm trân trọng nghệ thuật thƣờng đƣợc mọi ngƣời ký thác vào ngay trong câu
hát đầy thiện tâm giành cho cô dâu chú rể:
Cầu cho sinh con đẹp nhƣ hoa mạnh khỏe
Khôn giỏi cả binh mã văn chƣơng. [17 , 40]
Ở đó niềm kỳ vọng chân thành của cộng đồng dành cho đôi uyên ƣơng trong ngày
cƣới vẫn là nỗi niềm kỳ vọng vào năng lực nghệ thuật của con ngƣời... Trong đám cƣới của
ngƣời Giẻ Triêng, sau khi lễ trao vòng cầu hôn vừa chấm dứt cũng là lúc chiêng trống nổi lên
rộn ràng, mọi ngƣời vừa nâng rƣợu vừa chúc tụng nhau bằng những bài hát dân ca... Trong
phong tục
45
của ngƣời Chăm, Êđê... chiêng, trống đƣợc coi nhƣ những bảo vật linh thiêng. Ngoài những
dịp lễ hội, ngƣời ta còn dùng chiêng trống vào dịp đón tiếp bạn bè, khách quý. Theo các nhà
nghiên cứu văn hóa nghệ thuật Tây Nguyên nhƣ: Phạm Tu. Phạm Phúc Minh, Kpa Ylăng,
Ronandel... thì: "ngƣời ta đánh chiêng", đánh trống là để nói chuyện với nhau một cách chân
thành, sâu lắng nhất. Khi hai ngƣời song tấu, có một ngƣời luôn luôn nêu câu hỏi. còn ngƣời
kia trả lời. Họ tiu rằng : Hai ngƣời bạn ở xa nhau, khi gặp nhau, chẳng cần nói gì, chỉ cần
cùng nhau đánh trống đôi vài giờ là hiểu nhau một cách cặn kẽ nhất về đời sống gia đình, con
cái, sức khỏe, tình cảm của nhau trong thời gian họ sống xa nhau." [103 , 149]. Rõ ràng ngôn
ngữ của nghệ thuật thật quá đỗi kỳ diệu. Nó không chỉ làm cho con ngƣời gần gũi và hiểu
biết nhau hơn mà còn khơi dậy ở con ngƣời những tình cảm sâu kín nhất mà chỉ có trực giác
tinh nhạy của con ngƣời mới có thể thẩm thấu đƣợc trọn vẹn.
Nghệ thuật thật quý hóa cho nên trong cảm quan của ngƣời Dao nghệ thuật còn có thể
đền bù cho con ngƣời mọi nỗi bất hạnh trong cuộc đời thực tại. Có lẽ cũng nhƣ ngƣời Phù lá
đã nói ở trên, trong cảm quan của ngƣời Dao, "chữ nghĩa" là phƣơng tiện lƣu giữ các làn điệu
dân ca, truyện cổ... cho nên nó có ý nghĩa kết tinh những giá trị văn nghệ cổ truyền của dân
tộc. Với họ, ngƣời thông hiểu "chữ nghĩa" là ngƣời thực sự hạnh phúc, vì thế họ mới có câu
ca rằng:
Giỏi giang chữ nghĩa không con cũng chẳng lo. [21 , 373]
(Thật ra trên thực tế dân tộc Dao là một trong những dân tộc (bên cạnh ngƣời Tày,
ngƣời Nùng, ngƣời Thái..) có chữ Nôm Dao khá sớm. Rất có thể câu ca trên ra đời vào thời
kỳ ngƣời Dao đã biết sử dụng chữ viết vào thực tiễn sáng tạo và huyền bá các giá trị văn nghệ
của mình. Đáng tiếc là cho tới nay, vẫn chƣa có ai đặt vấn đề sƣu tầm và khảo cứu tích cực
những di
46
sản văn nghệ quý báu của ngƣời Dao đang còn ở dạng "dã sinh". Trong câu ca trên, khái niệm
"chữ nghĩa" ở đây không phải là chữ nghĩa văn chƣơng thuần túy mà là một thành tố gắn kết
trong tổng thể diễn xƣớng nghệ thuật nguyên hợp dân gian của họ. Thơ ca của ngƣời Dao đến
tận thời kỳ Bàn Tài Đoàn căn bản vẫn là thơ hát - thơ đặt trong sự diễn xƣớng tổng hợp rất
gần với lối diễn xƣớng thơ ca dân gian truyền thống. Họ viết thơ ra là để ca hát cho nên ngƣời
giỏi giang chữ nghĩa ở đây cũng chính là ngƣời giỏi ca hát, diễn xƣớng).
Nếu biết rằng: có một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Tây Bắc nƣớc ta rất có ý thức
lƣu truyền câu tục ngữ: "Không có mèo chuột gặm khung cửi, không có con ngƣời ta khinh
thƣờng" thì mới thấy tâm sự da diết của ngƣời Dao về giá trị của văn nghệ đối với cuộc sống
hàng ngày của con ngƣời. Môi trƣờng sống khắc nghiệt, mức sống thấp kém, mê tín dị đoan...
là những căn nguyên dẫn đêu hiện trạng đau lòng "hữu sinh vô dƣỡng". Tuyệt sinh với các
dân tộc ít ngƣời lại càng là một bất. hạnh lớn lao. Niềm vui "con đàn cháu lũ" là niềm vui
chung của mọi tộc ngƣời. Với các dân tộc thiểu số những tộc ngƣời vốn thƣờng sống trong
hoàn cảnh môi sinh "đất rộng ngƣời thƣa", nỗi niềm ấy càng trở thành khát vọng thƣờng trực
day dứt. Từ đó mới hay rằng tấm lòng yêu quý, trân trọng đối với nghệ thuật của các dân tộc
anh em tha thiết biết nhƣờng nào một khi họ dám chấp nhận nổi bất hạnh không con để thay
vì có đƣợc sự thông hiểu chữ nghĩa (văn chƣơng nghệ thuật) bù lại.
Càng ý thức về tác dụng cố kết nhân tâm của nghệ thuật, dân gian các dân tộc thiểu số
lại càng đòi hỏi cao về yêu cầu hƣớng thiện của nghệ thuật chân chính. Với họ, nghệ thuật
cần phải góp phần xƣa đi mọi thù địch bắc ám, nghệ thuật không thể kích động oán thù, ly tán
nhân tâm. Ngƣời H'mông thƣờng hát:
47
Hát không hát lời nặng
Hát không hát chửi ngƣời
Hát chẳng, hát tiếng đau
Bài hát không nguyền rủa anh chị
Hát không để ngƣời già ghét
... Hát theo đƣờng vui, không hát chửi ngƣời ... [157 , 39]
Nghệ thuật không chỉ cố kết lòng ngƣời trong cùng một cộng đồng mội địa phƣơng cụ
thể. với các dân tộc anh em, nghệ thuật chân chính còn lan tỏa tác dụng lôi cuốn của nó tới
những vùng quê, miền quê, tới các dân tộc anh em khác. Nàng, Slam trong truyện cổ cùng lên
của ngƣời Cao lan (đã từng nói ở (trên) có giọng hát tuyệt hay, lời ca của nàng không chỉ đem
lại niềm vui cho đồng-bào mình ở bản Cao Lan mà còn véo von cất cao ở cả bản ngƣời Tày,
ngƣời Thái, ngƣời Dao, ngƣời Lô Lô... Ở đâu tiếng hát của nàng "cũng trong trẻo sâu lắng,
tận tình hết mực" [I85 , 293]. Vào những ngày "ăn năm, uống tháng" ở Tây Nguyên, cả thế
giới tƣởng nhƣ cùng ngất ngây với con ngƣời trong những điệu cồng, chiêng say đắm. Họ ký
thác vào điệu nhạc cồng chiêng niềm vui bất tận của con ngƣời. Niềm vui ấy không chỉ đƣợc
giãi bày, cộng cảm trong giới hạn cộng đồng dân tộc mình mà đƣợc trao gửi tới khắp tận
cùng vũ trụ, trong đó có các dân tộc láng giềng thân thiết. Hãy nghe Đam San ra lệnh cho tôi
tớ "Ở các con! Hãy đánh lên cho tiếng chiêng bay tới chín tầng trời; lọi xuống sàn nhà tới tận
bảy tầng đất, cho lan qua phía tây tới ngƣời Lào buôn voi, vọng sang phía đông lọt tai ngƣời
Kinh buôn muối" [40 , 67]. Dân tộc Thái ở Tây Bắc rất tự hào về kho làng nghệ thuật dân
gian đặc sắc của mình. ở đó không chỉ có những sử thi, truyện thơ, truyện cổ dân gian... bất
hủ, ở đó còn là nơi ghi lại chứng tích về mối tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em chống lại
chế độ phong kiến suy tàn. Tại đây, ngƣời ta còn lƣu truyền với ý thức trân trọng những bài
ca tuyệt
48
đẹp về cuộc khởi nghĩa nông dân thế kỷ XVIII do Hoàng Công Chất lãnh đạo:
Nghe chăng tiếng hát của quân Keo Chất trong phủ
Ngân vang khắp cánh đồng Mƣờng Thanh bao la
Ngƣời Kinh cùng ngƣời Thái, với ngƣời Mèo, ngƣời Xá...
Vui vẻ cùng nhau tay làm miệng hát. [111,234]
Đó là bản hợp ca cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chiến đấu và dựng
xây qua quá trình lịch sử. ơ đó nghệ thuật, thực sự là sợi dây thắt chặt tình hữu ái đồng bào và
tình cảm giữa các dân tộc. Ý thức về sức mạnh đoàn kết giữa các dân tộc qua tiếng hát ngân
vang của quân Keo Chân (quân lính ngƣời Kinh của Hoàng Công Chất) cũng chính là ý thức
về thiên chức cao cả của nghệ thuật trong việc làm cho các dân tộc xích lại gắn nhau hơn để
sát Cánh bên nhau thành một khối hòa hợp thống nhất trong công cuộc đánh giặc cứu nƣớc
cũng nhƣ trong sự nghiệp lao động hòa bình.
Một số dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc H'mông, Lô Lô, La chí...), trong cảm
quan của mình về vai trò tác dụng của nghệ thuật đôi khi còn đƣợc "đẩy tới mức kỳ ảo. Với
họ, nghệ thuật không chỉ cần cho con ngƣời đang sống mà còn cần thiết cho cả ngƣời đã
khuất. Dân tộc H'mông có cả một hệ thống các "bài hát chỉ đƣờng" cho linh hồn ngƣời chết
đến nơi an nghỉ. Trong đám ma của ngƣời H'mông rất ít tiếng khóc, lời than thê thảm mà
ngƣợc lại ở đó chẳng mấy khi bặt im tiếng khèn, tiếng trống và những lời ca ai oán đƣợc biểu
đạt bằng lời hoặc tiếng khèn. Họ quan niệm "hát để chỉ đƣờng, chỉ lối cho ngƣời (ngƣời chết)
biết đƣờng đi cùng tiên tổ" [21,477] Ngƣời Lô Lô cũng có cả một hệ thống những bài "hát
dẫn" vừa có tác dụng báo tin buồn và mời họ hàng gần xa đến dự đám ma, vừa để "đƣa hồn
ngƣời qua đời lên trời" [21 485] . Với ý thức lấy lời ca tiếng hát làm phƣơng tiện "chỉ đƣờng
dẫn lối" cho linh hồn ngƣời chết đến nơi an nghỉ
49
mãn nguyện, trên thực tế các dân tộc anh em đã phó thác cho văn nghệ một thiên chức đặc
biệt: nghệ thuật không chỉ phụng sự cho cuộc sống tinh thần hàng ngày của con ngƣời mà còn
đi theo con ngƣời cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Cả khi còn sống và khi đã chết, con ngƣời
không thể thiếu vắng nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Hoàng Thao đã thật có lý khi cho rằng:
"Đời sóng của ngƣời H'mông không thể thiếu lời ca tiếng hát, khi vui cũng nhƣ khi đau buồn"
[157 7]. Thực ra không chỉ có dân tộc H'mông, các dân tộc khác cũng đều gắn bó số phận cả
cuộc đời mình với nghệ thuật nhƣ thế. Dân tộc Gia rai, Ba na, Ê đê..., thƣờng ngày đã không
thể sống thiếu vắng nghệ thuật, khi đã khuất cũng cần có nghệ thuật tiễn đƣa thật long trọng.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Tây Nguyên Ngô Văn Doanh viết: "Cuộc tiễn đƣa ngƣời
chết của ngƣời Gia rai, Ba na ... là cả một màn trình diễn nghệ thuật tổng hợp và đại chúng vô
cùng độc đáo... Các loại hình nghệ thuật đƣợc đem trình diễn ở đây là tất cả những gì mà
cộng đồng biết và có... Lễ tiễn đƣa ngƣời chết hôm bỏ mả là cuộc trình diễn nghệ thuật lớn
nhất, phong phú nhất. Trong cuộc trình diễn này, gần nhƣ có mặt tất cả các loại hình nghệ
thuật biểu diễn truyền thống của ngƣời Gia rai, Ba na: có âm nhạc cồng chiêng, có múa, có
trình diễn rối và có cả biểu diễn mặt nạ..." [40, 62]. Nghệ sĩ nhân dân Phạm Thị Thành cho
rằng: "Với một số dân tộc thiểu số anh em, chỉ cần có âm nhạc là có thể thay cho tất cả" [158
, 16]. Qua đó đủ thấy nghệ thuật ảnh hƣởng sâu nặng và cần thiết chừng nào đối với đời sống
muôn mặt của nhân dân các dân tộc thiểu số anh em.
1.3.2 Nghệ thuật góp phần dựng xây cuộc sống và tăng cƣờng khát vọng chinh phục
thiên nhiên.
Trong ý thức của dân gian các dân tộc anh em, nghệ thuật không chỉ góp phần tăng
thêm niềm vui sống và thắt chặt tình cảm hữu ái giữa con ngƣời với con ngƣời, nghệ thuật
còn gắn liền với các hoạt động hữu ích,
50
giúp cho con ngƣời hăng say lao động sản xuất, tăng cƣờng khát vọng chinh phục thế giới tự
nhiên. Các dân tộc anh em có một số lƣợng khá lớn các truyện cổ nói về vai trò tác dụng tích
cực "của nghệ thuật đối với cuộc sống lao động hàng ngày và khát vọng chinh phục thế giới
tự nhiên, cỏ bé Pen trong truyện kể: Câu chuyện về tiếng hát của dân tộc Xá có tiếng hát kỳ
diệu có thể "làm dịu đi nỗi mệt nhọc của công việc chồng chất ngày đêm trên vai cô. Tiếng
hát làm cho cối xay ngô quay nhanh hơn, làm bếp lửa nhà sàn phải bập bùng lắng nghe, làm
con cọp rình mò quanh xóm quên cả bắt trộm trâu bò..." Mỗi khi cô lên nƣơng thì tiếng hát
làm cho "cỏ cây nhƣ vƣơn dậy để lắng nghe, lúa ngô lên nhanh nhƣ gió thổi, cỏ dại thì vƣơn
mình ra cho cô hái bỏ vào hố rồi lấp kín đất. Muông thú bảo nhau đừng phá phách ruộng
nƣơng..."[67,33].
Nàng Ni trong Truyện kể Tiếng sáo nàng Ni của dân tộc Thái có biệt tài thổi sáo "khi
du dƣơng, khi trầm bổng, lúc véo von thánh thót làm cho cái mệt trong ngƣời tan biến đâu
mất. Và cứ mỗi lần nhƣ thế, từng đàn dã thú. chim muông bay đến hát ca, nhảy múa làm cho
nàng Ni đỡ cô đơn buồn sấu". Khi bị lâm nạn dƣới hang sâu "nàng Ni cất tiếng sáo véo von,
một đàn vƣợn chạy đến níu tay nhau xuống tận đáy vực kéo nàng lên..." [67 , 30]. Ở Việt
Bắc, dân tộc Tày truyền tụng câu chuyên Cây đàn then. Tiếng đàn then không chỉ làm đắm
say quyến rũ lòng ngƣời mà còn giúp cho con ngƣời đạt đƣợc mọi ƣớc muốn phi thƣờng. Từ
bàn tay tài hoa của Xiêm Cân khi cây đàn ấy cất lên "dây trầm sẽ cho cây lúa, cay ngô, dây
trung sẽ có sức mạnh có sự sáng, có sự che chở, dây bổng sẽ có tình yêu hạnh phúc" [67, 33].
Đồng điệu với ý thức về nghệ thuật trong vai trò đối với cuộc sống lao động dựng xây
của các dân tộc ít ngƣời ở Việt nắc. Tây Bắc, các dân tộc Tây Nguyên cũng có nhiều tác
phẩm truyện kể đặc sắc; Truyện cổ Tiếng
51
hát của người đá dân tộc Raglai ngợi ca tiếng hát tuyệt diệu "nhƣ hoa thơm quyến rũ ong
vàng" của chú bé biến hình trên đỉnh núi Chƣ bô đa. Tiếng hát ấy khi cần có thể vô hiệu hóa
mọi hành vi cƣớp phá của lũ giặc, có thể giúp dân đẹp nạn "động rừng"... Song tiếng hát của
chú bé ngƣời đá chủ yếu vẫn là để phục vụ cho cuộc sống lao động bình yên của dân làng.
Chính tiếng hát thiết tha của em đã "làm cho mọi ngƣời làm việc không biết mệt mỏi, khiến
cho nƣơng đầy lúa, đầy bông, núi rừng nở đầy hoa" [166, 52]. Đặc biệt dân tộc Gia rai, với
câu chuyện Tiếng sáo thần kỳ đã đặt vai trò tác dụng của nghệ thuật vào vị trí trang trọng
thiêng liêng. Truyện kể về chàng trai Hơ rít mồ côi từ nhỏ. Hơ rít nghèo khó, nhƣng thật thà
tốt bụng nên đƣợc một vị thần đƣa cho một chiếc sáo thần. Tiếng sáo của chàng trai không
chỉ làm cho công chúa con vua dƣới lòng đất mê mẩn đến nỗi đêm đêm lại trốn sự quản thúc
của vua cha lên trần gian nghe tiếng sáo, mà còn có ích thực sự với cuộc sống lao động bình
yên của dân làng. Sau khi đã truyền dạy cho mọi ngƣời trong làng cùng biết thổi sáo, tiếng
sáo của chàng trai mồ côi và những ngƣời biết thổi sao khác đã góp phần tạo nên sự sống đầy
thi vị cho một ngày lao động bình yên, ấm cúng: "Sáng sáng cứ nghe tiếng sáo, mọi nhà lại
dậy nấu cơm, giã gạo, ra suối hái rau, múc nƣớc..." [183 , 128]. Tiếng sáo theo sát bƣớc chân
của mỗi ngƣời trong mọi hoạt động sinh nhai từ ngày này qua ngày khác nhƣ một nhịp sống
không thể đứt đọan. Cùng với truyện cổ Chuyện cây đàn, câu chuyện Tiếng sáo thần kỳ ở
đây đã góp phần minh chứng cho tấm lòng trân trọng và đam mê nghệ thuật đến độ nồng nàn
của đồng bào Gia rai. Họ không thể sống thiếu nghệ thuật trong giao tiếp tình cảm cũng nhƣ
trong lao động dựng xây cuộc sống. Dƣờng nhƣ trong cuộc sống hiện tại hôm nay, ý thức về
sự gắn kết giữa nghệ thuật với cuộc sống lao động dựng xây của ngƣời Gia rai vẫn đƣợc bảo
lƣu nguyên vẹn nếu ta có dịp đến với những tập tục kỳ diệu của họ. Ngày
52
nay ngƣời Gia rai vẫn duy trì tục làm đàn Tinh ninh (một loại đàn làm bằng các ống nứa có
liên kết bằng những sợi dây nhờ sức nƣớc va đập vào nhau mà phát ra những âm thanh kỳ
thú) ở gần các nƣơng rẫy của mình. Họ quan niệm: tiếng đàn vừa làm vui lòng ngƣời, vừa
xua đuổi muông thú, và rẫy nào có tiếng đàn kêu to vang xa, rẫy ấy nhất định sẽ đƣợc mùa.
Cũng nhƣ các dân tộc khác ở Tây Nguyên, dân tộc Cơ Ho quan niệm nghệ thuật
không chỉ có khả năng cảm hóa nhân tâm mà còn có thể chinh phục đƣợc muôn loài cỏ cây,
hoa lá, chim muông vì mục đích cuộc sống tốt đẹp của con ngƣời. Liên quan đến ý tƣởng
này, đồng bào Cơ Ho có nhiều truyện kể thú vị nhƣ: Mòn Miên, Chàng K'đời và nàng
KaBla; Cô gái trong rừng và chàng trai K'khàn; Chàng K'Dùng và nàng Ka làng v.v....
Tiếng tù và của chàng trai Mòn Miên trong truyện cổ cùng tên mới thật đầy uy lực, ''nó khiến
con chim đang bay trên trời phải lắng tai nghe, đàn trâu đàn dê đang ăn cỏ phải quây quần
bên cậu bé". Đặc biệt, "khi tiếng tù và của Mòn Miên véo von trên rẫy, các loài thú rừng đi
qua, đứng lại lắng nghe thích thú không có con nào dám vào phá rẫy" [163, 19]. Khi bị mất tù
và, "các loài thú buồn bã vì chúng không đƣợc nghe Mòn Miên thổi tù và nữa. " Cũng nhƣ
vậy, tiếng sáo trúc của K'Đời trong truyện Chàng K'đời và nàng Kbla (K' là cách ghi âm
tiếng của một số dân tộc Tây Nguyên) đã làm "cho con suối đang chảy róc rách phải ngừng
lại lắng nghe". Tiếng hát của cô gái trong truyện Cô gái trong rừng và chàng trai K'khàr đã
"làm cho bầy chim Brạ phải nhảy múa, theo" [163 ,77]. Còn nàng Ka Làng xinh đẹp trong
truyện Chàng K'Dùng và Nàng Ka Làng, "mỗi khi cất tiếng hát, những ngọn gió từ nơi xa
xôi lại vội tìm tiến để đem những lời hát của nàng lên những đỉnh núi cao cho vang xa hơn"
[163, 95]... Ý thức về sức mạnh của nghệ thuật có thể chinh phục các loài muông thú còn
đƣợc đồng bào Gia rai dày công thể hiện trong truyện cổ Anh em Tang, Pút. Hai anh em
Tang
53
và Pút tổ chức lễ bỏ mả (Bơ thi) cho bà trong tiếng nhạc cồng chiêng tƣng bừng. Tiếng nhạc
rộn ràng khiến cho cả vợ chồng cọp quỷ (ông Rạ, bà Rạ) cũng vui lây mà đến dự hội Bơ thi
với ngƣời. "Ông Rạ, bà Rạ vui lắm... cũng đánh chiêng, cũng nhảy" [40,305]. Với dân gian,
sức mạnh nghệ thuật ở đây có thể cải biến đƣợc bản chất dữ dằn, đáng sợ các loài quỷ cọp thú
dữ, có thể gíup cho con ngƣời loại trừ bớt những lo toan, sợ hãi giữa một cuộc sống đầy
những thách thức khốc liệt.
Ngƣời Ba na ký thác vào nghệ thuật những khát vọng kỳ thú qua truyện Hai chàng
trai lành nghề. Truyện kể về hai anh em trai con của một cụ già góa vợ. Cả hai ngƣời đều rất
khéo tay. Ngƣời anh có tài gọt đẽo những hinh chim Xem treng, Xem dông để treo lên hai
đầu hồi nhà trông nhƣ những con chim thật đang bay lƣợn. Còn ngƣời em có tài tạc tƣợng gỗ
hình ngƣời rất nhanh, rất đẹp... Năm ấy ngƣời bố đi rẫy chẳng may bị cọp vồ chết. Hai anh
em dành thì giờ làm cho cha một nhà mồ thật đẹp. Trời ghen ghét sai Thần sét xuống đánh
hai anh em nhƣng không đƣợc. Điều kỳ diệu, sau khi ông Trời hạ lệnh thu quân, "những con
chim treo ở nhà mồ bỗng biết bay. biết hót gọi đàn đến hay lƣợn xung quanh. Còn những
tƣợng ngƣời thì biết khóc thân, biết nâng rƣợu, biết đứng canh và hầu hạ những ngƣời chủ đã
sinh ra nó" [10 , 281]. Đây là một trong những câu chuyện có liên quan đến ý thức quan niệm
về nghệ thuật tạo hình điêu khắc và kiến trúc. Cũng nhƣ quan niệm về nghệ thuật âm nhạc, ở
đây dân gian khát vọng nghệ thuật điêu khắc cần có đƣợc sức mạnh xác thực, góp phần phục
vụ cuộc sống hàng ngày của con ngƣời... Quan niệm nghệ thuật này của ngƣời Ba na rất gần
với ý thức về nghệ thuật qua nhiều truyện cổ, dân ca của các dân tộc khác. Trong truyện Bà
chúa thơ ca của dân tộc Cao Lan, tiếng hát của nàng Slam có thể "thôi miên" đƣợc tất cả:
"lúa ngô đang rì rào phải im lặng lắng nghe...
54
Chiều chiều xuống suối xúc tôm, cá thì lời hát của Làu Slam làm cho tôm cá chẳng muốn bơi
nhảy..." [67,33].
Trong kho tàng thơ ca dân gian đồ sộ của mình, các dân tộc đã có không ít những
quan niệm trực tiếp giãi bày khát vọng nghệ thuật góp phần chinh phục thế giới tự nhiên,
phụng sự cuộc sống của con ngƣời. Đồng bào Tày - Nùng có tục tổ chức các ngày hội Lồng
Tồng (Hội xuống đồng) vào những ngày xuân ấm áp để cúng Thần Nông và những ngƣời có
công khai phá ruộng nƣơng. Trong những ngày hội ấy, đồng bào tổ chức các trò chơi dân
gian dân tộc nhƣ múa sƣ tử, đánh vật, kéo co, tung còn... và đặc biệt không thể thiếu ca hát,
Sli, lƣợn... Ở đó họ nung nấu ý nguyện lời ca tiếng hát của mình sẽ tới đƣợc cung trăng để
tiếng hát "nhờ trăng cho nƣớc giao mạ, cho nƣớc cấy lúa... Cho vụ này tốt hơn vụ xƣa, mùa
này tốt hơn mùa trƣớc..." [111 , 112]. Đồng bào Thái ở tây Bắc coi lời hát nhƣ một sức mạnh
vô biên có thể giúp cho con ngƣời đạt đƣợc những ƣớc vọng phi thƣờng trong cuộc sống:
Tiếng hát vào núi đá phải thành vôi
Em hát cùng anh gấp nên tấm áo
Hát cùng rau sẽ mọc thành sen
Hát cùng trăng rơi xuống thành đá
Hát cùng suối ruộng cá chạy về đầy
Hát cùng ruộng đồng vàng ƣơm thóc lúa
Hát cùng trời tháng chín tháng mƣời quên mƣa. [21, 147]
Nghệ thuật có phép biến hóa thần kỳ hơn cả ma thuật kỳ bí:
Hát vào suối cạn dâng thành sông Đà
Hát cùng đầu bạc, xanh lại thành gái. [75 ,719]
Dân tộc Giáy cũng gửi vào lời ca những khát vọng tha thiết, đầy lãng mạn nhƣ thế:
55
Em hát bên bờ sống
Con cá to cũng nổi
Em hát vang giữa thành
Ngƣời trong thành reo vui
Em lên hát giữa rừng
Lá vui theo cũng rụng
Em vào hát thung sâu
Đàn khỉ quên ăn giả
Em xuống hát dƣới nhà
Gà mái bỏ lìa con
Em ra hát bên sàn
Mẹ bảy con nhảy qua cửa sổ. [ 143 , 31 ]
Ở Tây Nguyên, dân tộc Sê Đăng có nhiều bài hát với những lời lẽ nồng nhiệt. trong
ngày lễ hội Đâm trâu với ý nghĩa tạ ơn thần linh đã cho đƣợc mùa màng. Sau mỗi vụ thu
hoạch, khắp các buôn làng của ngƣời Sê đăng rộn ràng lời ca tiếng hát, tiếng chiêng, tiếng
trống.... Ở đó nghệ thuật đóng vai trò là nhịp cầu nối liền giữa khát vọng hạnh phúc ấm no
của con ngƣời với thiện ý của các đấng bậc thần thánh linh hiển đầy quyền uy trong thế giới
tâm linh của ngƣời xƣa:
Ơi chiêng, ơi trống
Hãy vang lên đến chín tầng mây biếc
Hãy rền xa đến tận chân trời xanh
Cho ông Trăng xuống nhanh cùng dân làng uống rƣợu
Cho bà Biển lới mau cùng tề tựu ăn trâu
Cho dân làng sống lâu mạnh khỏe
... cho đầy chòi ngô lúa... [21 , 455].
56
Trong công cuộc chinh phục Thế giới tự nhiên của con ngƣời, nghệ thuật chỉ có thể. là
một phƣơng liệu phụ trợ, chứ không thể là phƣơng tiện duy nhất để con ngƣời thu phục tự
nhiên. Nhân dân muốn nghệ thuật có sức mạnh cảm hóa kỳ diệu đối với thế giới tự nhiên nhƣ
thế chính là mội cách để thi vị hoá tác dụng to lớn của nghệ thuật. Nhân dân phố thác cho
nghệ thuật nhƣng sứ mệnh tƣởng chừng nhƣ vƣợt quá sức mạnh vốn có của con ngƣời hoàn
toàn không phải xuất phát từ những khát vọng viển vông, xa rời thực liễn mà chính là nhằm
ký thác cho nghệ thuật những yêu cầu rất cao về khả năng biểu cảm và sức mạnh tác động
của nghệ thuật. Trong công cuộc chinh phục thế giới tự nhiên vì cuộc sống hữu ích của con
ngƣời, các dân tộc anh em mong muốn nghệ thuật phải thực sự là một loại vũ khí hữu hiệu
góp phần cùng sức mạnh ý chí của con ngƣời thắng đoạt tự nhiên. Rõ ràng nghệ thuật đã chắp
cách cho những ƣớc muốn cháy bỏng của con ngƣời bay cao, bay xa trên dặm hành trình cải
tạo thế giới tự nhiên phục vụ cuộc sống con ngƣời.
1.3.3 Nghệ thuật góp phần đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc.
Nghệ thuật không chỉ gắn liền với những nỗi niềm mừng vui trăn trở trong cuộc sống
thƣờng nhật của con ngƣời, trong cảm quan của các dân tộc anh em, nghệ thuật còn gắn liền
với thiên chức cao cả là góp phần đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc. Trên chặng đƣờng
lịch sử chiến đấu bên cạnh dân tộc Việt anh em, các dân tộc thiểu số đã sớm có ý thức về sức
mạnh. lợi hại của nghệ thuật Không phải ngẫu nhiên, trong các cuộc ra quân chống lại kẻ thù,
các tù trƣởng trong các trƣờng ca Tây Nguyên nhƣ Đam San Sing Nhã, Đam Di...) thƣờng hạ
lệnh cho các tôi tớ của mình đem những bộ chiêng, trống tốt nhất, vang nhất ra đánh. Tiếng
chiêng trống rền vang uy nghi là toàn bộ uy thế và sức mạnh tinh thần của họ, giúp họ có
thêm ý chí và đảm lực tấn công quân thù. Thông qua loạt âm thanh bay bổng hào
57
hùng, nghệ thuật tạo không khí hứng khởi, thức dậy ở con ngƣời những sức mạnh phi thƣờng.
Khi Gia Rơ Bú lấy bộ chiêng vừa cƣớp đƣợc của cha Sing Nhƣ ra đánh, nghe rõ âm thanh
quen thuộc của "tiếng chiêng rung mặt đất, vang" khắp chín tầng mây" [192, 55], Sing Nhã
bỗng nhớ lại quá khứ bi thẩm của đình mình. Chẳng phải cái gì khác, chính giai điệu tiếng
chiêng thân thuộc đã gợi dậy trong Sinh Nhã lòng tự trọng; và đất cháy lên ở chàng sức mạnh
căm thù sục sôi: "Nghe tiếng chiêng nhƣ rống vào tận màng tai trong, của chàng,... mặt Sing
Nhã đỏ rực nhƣ có ngọn lửa nào đang đốt cháy trong tim gan" [192,55] Bƣớc vào chiến đấu
cho tình mẹ, nghĩa cha, tiếng chiêng uy nghi ấy lại nhƣ giục giã, tiếp thêm cho chàng sức
mạnh lòng quả cảm tiến thẳng vào tận sào huyệt của kẻ thù: "Sing" Nhã đi trên sàn nhà Gia
Rơ Bú làm cho xà dọc, xà ngang rung rinh chao đảo" [192,125]. Quả là nghệ thuật đã tiếp
thêm sức mạnh cho con ngƣời đến tận từng đƣờng gân thớ thịt, bất chấp mọi thách thức hiểm
nguy... Theo nhà văn Vƣơng Trung (dân tộc Thái) thì: "Ngày xƣa quân Thái ra trận, họ
thƣờng mang theo chiếc cồng lớn và các loại chiêng, trống, sáo, kèn chũm chọe... Khi dàn
trận thì nổi các thức đó lên vừa để áp đảo tinh thần quân địch, vừa động viên quân mình thêm
khí phách..." [25,615].
Cũng là ý thức về sức mạnh lợi hại của nghệ thuật, dân tộc Dao có câu ca nổi tiếng:
Khổ công mài sắt mới thành kiếm
Chém ngƣời ngòi bút cũng thành dao.[21 , 373]
Vậy là trƣớc khi biết đến tƣ tƣởng nghệ thuật bất hủ của nhà thơ ái quốc Nguyễn Đình
Chiểu: "Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà", từ trong ký ức dân gian xa xƣa của một bộ phận
cộng đổng dân tộc Việt Nam cũng đã từng xuất hiện quan niệm đề cao sức mạnh chiến đấu
của nghệ thuật.
Do biết ý thức vế sức mạnh vô hình của nghệ thuật, xƣa nay nhân dân
58
các dân tộc Việt Nam, trong đó có các dân tộc thiểu số, khi ra trận đánh giặc không phải chỉ
có thanh gƣơm, ngọn mác, khẩu súng... mà còn bằng cả lời ca tiếng hát, cây nhị, cây đàn, ống
sáo trúc mảnh mai và cây bút lông mềm mại thần kỳ... Cùng song hành với Truyện Thạch
Sanh trong dân gian ngƣời Việt, các dân tộc thiểu số cũng đã sáng tạo ra những Thạch Sanh
của riêng mình. Chẳng hạn, dân tộc H'mông có truyện Chàng Sính, dân tộc Khơ me có
truyện: Thạnh Sanh chém chằn, đặc biệt dân tộc Tày -Nùng có: Truyện Thạch Sanh mẫu
mực đã từng đƣợc một số nhà nghiên cứu cho là cội nguồn ảnh hƣởng sang các dân lộc khác.
Cùng mang ý thức dùng lời ca, tiếng hát, điệu đàn làm vũ khí diệt ác, trừ tà, đánh giặc. cứu
nƣớc, trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số còn có các truyện cổ: Tiếng hát của người
đá của dân tộc Raglai, Tiếng đàn kỳ diệu của dân tộc Chăm, Sông Rằng êm sóng của dân tộc
Thái v.v...
Trong truyện cổ Chàng Sính của dân tộc H'mông, tiếng đàn lời ca không chỉ giúp
chàng kết duyên tình đôi lứa với con gái của vị thần nọ, mà còn là vũ khí đánh giăc thật lợi
hại. Nghe tin Thần gả con gái cho một kẻ hèn mọn xuất thân từ dân nghèo, các nƣớc chƣ hầu
bèn kéo quân tới vây đánh triều đình, đê dọa xã tắc của Thần. Tình thế lâm nguy, chàng Sính
xin vua cha cho phép ra tay đánh giặc cứu nứơc bằng chính vũ khí duy nhất là cây đàn và lời
ca của mình. Từ trên tòa thành đang bị quân giặc vây hãm chàng trai lấy đàn ra vừa gẩy vừa
hát cho quân giặc nghe. "Đêm đêm tiếng, đàn lời hát của chàng làm cho quân giặc không làm
sao chợp mắt đƣợc". Tiếng đàn gợi cho chúng nhớ về cảnh yên ấm quen thuộc ở quê nhà
"tiếng" đàn lời hát nhƣ lời nói thân quen của ngƣời vợ hằng nhớ hằng thƣơng" [189, 45].
Quân giặc rã rời tâm linh, mất hết nhuệ khí vây thành, bèn xin Thần hoãn binh và rút quân về
nƣớc...
Tiếng hát tuyệt diệu của chú bé biến hình trên đỉnh núi Chƣ Bô Đa
59
trong truyện cổ: Tiếng hát của người đá của dân tộc Raglai có sức mạnh cảm hóa quân thù
kỳ diệu. "Tiếng hát của em đã làm cho lũ giặc phải dừng tay kiếm, đứng sững sờ nhƣ những
pho tƣơng. Chúng đờ ngƣời ra nhƣ nuốt lấy những lời ca, vũ khí tuột khỏi tay rơi xuống đất
lúc nào không biết. Rồi từ từ, chúng ngã xuống ngủ say nhƣ chết dƣới chân những đàn voi,
đàn ngựa..." [166,45].
Truyện cổ Tiếng dàn ký hiệu của dân tộc Chăm kể về một cô gái em của vun Chăm
nhờ thợ ngƣời Việt truyền dạy đã dệt đƣợc những tấm vải thật đẹp. Vua nƣớc láng giềng nghe
tiu em gái vua Chăm có tài dệt vải đẹp muốn lấy làm vợ nhƣng vua Chăm không ƣng. Tên
vua láng giềng bèn cất quân sang đánh. Cô gái thấy cảnh đất nƣớc bị tàn phá, nàng đâm ra
buồn bã ngày đêm. Đêm nằm, nàng mở thấy tiên tóc trắng cho một cây đàn và dặn phải làm
đàn bằng tim và tóc của ngƣời yêu nàng (một viên tƣớng giỏi của triều đình đang trấn giữ nơi
biên ải) thì mới mong đánh thắng đƣợc giặc. Vua thƣơng vị tƣớng tài, không muốn để chàng
chết. Nhƣng chàng đã tình nguyện mổ ngực móc tim trao cho công chúa làm đàn và chàng
chết đứng sững. Đàn làm xong, công chúa mang ra gẩy, quả nhiên giặc bỏ chạy tan tành.
[75,644]
Truyện cổ Sông Bằng êm sóng của dân tộc Thái kể về một cô gái nghèo khổ, bị áp
bức, quyết chí lấy đá bắc cầu qua sông Bằng để chống lại lũ giặc Châu Ún độc ác. Tiếng hát
là nguồn sức mạnh duy nhất trực tiếp giúp cô gái có đủ nghị lực và ý chí chiến đấu. Tuy vác
nặng nhƣng "giọng hát của cô mỗi lúc một thiết tha nhƣ gọi các vẩy bạc nổi lên trắng xóa mặt
sông, nhƣ rung cành thông cho rụng quả xuống cát trắng, nhƣ xé những đám mây cho mặt
trời chiếu vào da cây vầu xanh biếc"... Khi đối mặt với quân thù, tiếng hát diệu kỳ của cô gái
"làm cho quân lính của Châu Ún cứ đờ đẫn, nửa tỉnh nửa mê, đứa cấm nỏ xuống gốc cây, đứa
kề đinh ba làm gối... tên
60
Châu Ún bị nhấn chìm xuống dòng sông Bằng êm sóng..." Khi vƣợt qua sông để chạy trốn kẻ
thù, chính tiếng hát của cô là sức mạnh cổ vũ đồng đội cùng căng tấm vải qua sông: "Cô hát
khe khẽ, tấm vải nổi dần; Cô hát thành tiếng, tấm vải nổi lên chấm mặt nƣớc... Giọng hát nhƣ
ru con buổi chiều hè, nhƣ lửa cháy lúc đốt nƣơng, nhƣ tiếng reo lúc ném còn, làm cho mặt
sông ấm lên, mặt sông lấp lánh hàng vạn ông trăng. Tấm vải sợi căng lên, mềm nhƣ nhung,
chắc nhƣ một bè mây dài vô tận..." [ 184, 38].
Kỳ lạ thay, từ Chàng Sính, Thạch Sanh đến chú bé ngƣời đá biến hình trên đỉnh núi
Chu Bô Đa, từ cô gái Chăm đến cô gái Thái... khi xuất trận chỉ mang theo duy nhất cây đàn
bé nhỏ hoặc lời ca ân tình tha thiết mà khiến cho lũ giặc cƣớp phải rã rời tâm trạng, hoang
mang tuyệt vọng tới mức buông thõng đôi tay cầm gƣơm, cầm giáo toan làm điều ác. Nhân
dân các dân tộc anh em đã ký thác cho nghệ thuật những sức mạnh thần kỳ. Với các dân tộc
anh em, sức mạnh của nghệ thuật còn hơn cả mũi tên, hòn đạn. Tiếng đàn lời ca trong những
cảnh huống phải đối mặt với quân thù đã đƣợc sự là tiếng nói chính nghĩa của nhân dân, là lời
phán xử của công lý. Chẳng phải vì những binh hùng , tƣớng giỏi hay vì những vũ khí lợi hại
mà theo tác giả Phƣơng Lựu: "Chính những âm thanh tha thiết bay bổng diệu kỳ ấy (âm thanh
của tiếng đàn lời ca - HML) đã làm lan rã ý chỉ của quân thù, khiến chúng phải quy hàng".
[96, 274]. Nghệ thuật chân chính với nhân dân các dân tộc anh em là nghệ thuật góp phần
đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc, bằng cách đánh riêng biệt của nó: nghệ thuật đánh vào
lòng ngƣời, đánh vào nơi hiểm yếu nhất của ý chí con ngƣời nhằm thức tỉnh và thu phục nhân
tâm. Thử hỏi, trong trăm ngàn phƣơng kế đánh giặc, còn có cách chính nào thông minh, nhân
đạo và độc đáo hơu thế nữa? Quan niệm nghệ thuật góp phần đánh giặc, bảo vệ quê hƣơng
đất nƣớc trong văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời đã thực sự góp phần làm phong phú
thêm bản sắc nghệ
61
thuật chân chính của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất qua quá trình lịch sử vẻ vang
của mình
*
* *
Tóm lại, xung quanh những quan nệm về cái đẹp, những lý giải của dân gian chủ yếu
nhằm vào các khía cạnh thuộc bản chất và tác dụng của cái đẹp. Trong ý thức của dân giân,
tính chất của cái đẹp đƣợc xác định trƣớc hết ở vẻ đẹp bên ngoài của đối tƣợng. Cái đẹp bên
ngoài sẽ tạo nên cái đẹp trực quan cụ thể cho con ngƣời cho nên nhân dân các dân tộc anh em
đều đặc biệt đề cao vẻ đẹp bên ngoài. Có điều, cái đẹp bên ngoài đó chỉ thực sự có giá trị khi
nó gắn liền với cái đẹp bên trong. Khi lý giải về cái đẹp bên trong cũng vậy, dân gian các dân
tộc luôn có ý thức đòi hỏi cái đẹp bên trong cũng phải đƣợc kết hợp hài hòa với cái đẹp bên
ngoài mới tạo ra giá trị hoàn hảo cho đối tƣợng, Về ý nghĩa của cái đẹp qua việc triển khai
vai trò của con ngƣời cao đẹp, các dân tộc anh em đã đặc biệt để cao vị trí trang trọng của cái
đẹp đối với đời sống giao tiếp tình cảm và cuộc đấu tranh vì những quyền lợi thiết thực của
con ngƣời. Với các dân tộc anh em, cái đẹp không chỉ góp phần tạo niềm tiu, khích lệ khát
vọng sống mà còn góp phần đánh giặc cứu nƣớc, giữ gìn cuộc sống bình yên cho muôn dân.
Rõ ràng quan niệm về cái đẹp của nhân dân các dân tộc thiểu số trong văn học dân gian cổ
truyền đã thấm đƣợm những tinh thần thẩm mỹ nhân văn cao cả, góp phần tạo tiền đề cho
những nhận thức đúng đắn về nghệ thuật chân chính của các dân tộc thiểu số anh em.
Về nghệ thuật, những lý giải của các dân tộc anh em chủ yếu xoáy sâu vào các khía
cạnh có liên quan đến chủ thể nghệ thuật và về vai trò tác dụng của nghệ thuật nói chung. Ở
phƣơng diện quan niệm về chủ thể nghệ thuật, bƣớc đầu các dân tộc đã có những lý giải khá
thấm thía về nguồn gốc của tài
62
năng nghệ thuật, về vai trò của văn nghệ cổ truyền dân tộc, về ý thức trách nhiệm và tấm lòng
giao cảm của nghệ nhân trong hoạt động nghệ thuật... Những kiến giải về vai trò tác dụng của
nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc anh em quả thực khá phong phú. Với dân gian,
nghệ thuật là phƣơng tiện gắn bó tình ngƣời, thu phục nhân tâm và tất cả muôn loài. Nghệ
thuật khích lệ khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên, thu phục sức mạnh của các lực lƣợng
hữu hình và siêu hình vì mục đích tối đẹp của cuộc sống con ngƣời. Nghệ thuật còn góp phần
dựng xây cuộc sống, khích lệ niềm tin, đặc biệt là góp phần đánh giặc cứu nƣớc, cứu dân
trong những hoàn cảnh đặc biệt. Từ những quan niệm về nghệ thuật đầy tính nhân văn nhƣ
vậy, các dân tộc thiểu số anh em đã góp phân tạo nên cội nguồn tích cực cho những dòng
chảy quan niệm nghệ thuật về sau của các thế hệ văn nhân các dân tộc thiểu số, đặc biệt là
các thế hệ nhà văn dân tộc sau Cách mạng Tháng Tám 1945.
63
CHƢƠNG 2: SO SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN
HỌC DÂN GIAN CỔ TRUYỀN GIỮA DÂN TỘC THIỂU SỐ VỚI DÂN TỘC
KINH
Sau khi đã khái quát đƣợc những quan niệm nghệ thuật cơ bản trong văn học dân gian
các dân tộc thiểu số, cần thiết phải đặt vấn đề so sánh giữa bộ phận quan niệm nghệ thuật này
với các quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian dân tộc Kinh. So sánh nhằm tìm ra
những điểm giống nhau và khác nhau, từ đó khắc sâu thêm ấn tƣợng về đặc tính riêng và tính
chất chung của chính hệ thống quan niệm nghệ thuật này là rất cần thiết. Không những cái
riêng, mà cả cái chung dù ở những góc độ khác nhau, cũng đều sữ có tác dụng trong văn học
dân gian các dân tộc thiểu số anh em. Bởi lẽ cái chung có thể chuyển hóa thành cái riêng trên
một cấp độ khác. Sự giống nhau về quan niệm nghệ thuật giữa các dân tộc ít ngƣời với dân
tộc Kinh qua văn học dân gian Việt Nam khi đặt trong quan hệ đối sánh để phân biệt với
quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian của các quốc gia dân tộc khác nhƣ Trung Hoa,
Ấn Độ, Nhật Bản v.v...
2.1 Những tương đồng.
Trong so sánh, sự khác nhau là điểu hiển nhiên, còn về sự tƣơng đồng, theo lý thuyết
văn học so sánh hiện nay thì: sở dĩ có sự giống nhau giữa các nền văn học dân tộc là do có
quá trình giao lƣu hoặc do giữa các dân tộc có chung những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể
nào đó. Có khi sự tƣơng đồng có chung những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể nào đó. Có khi
sự tƣơng đồng có đƣợc là do cả hai nguyên nhân cùng tạo nên. Áp dụng cụ thể
64
vào thực tế so sánh ở đây chúng tôi cho rằng: phần lớn những điểm giống nhau về quan niệm
nghệ thuật giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh đều do cả hai nguyên nhân. Các dân tộc
thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh cùng cộng cƣ trên một cƣơng vực địa lý lãnh thổ, lại có quá
trình giao lƣu tích cực từ ngàn xƣa nhằm thống nhất dần dần những điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội, tiến tới hình thành cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất... Rõ ràng những điều
kiện khách quan và chủ quan nhƣ vậy hiển nhiên sẽ đem lại cho các dân tộc trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam những nét tƣơng đồng tất yếu.
Văn học dân gian là một quá trình phát triển trong sự giao tiếp tích cực giữa cac dân
tộc. Vì thế nó càng có điều kiện bồi bổ những sắc thái chung qua quá trình giao lƣu quan hệ.
Các quan niêm nghệ thuật - bộ phận ý thức tiềm chứa trong văn học dân gian cũng không
nằm ngoài thông lệ đó. Hãy lấy môtíp Truyện Thạch Sanh và những biến thể của nó ở các
dân tộc thiểu số khác nhau vốn tiềm chứa quan niệm nghệ thuật làm vũ khí đánh giặc cứu
nƣớc làm thí dụ, ta sẽ thấy trong bức tranh quan niệm nghệ thuật chung này của các dân tộc
Việt Nam có sự phản chiếu sâu xa những điều kiện lịch sử, xã hội và đặc biệt là tâm thức về
nghệ thuật yêu nƣớc của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Sự gặp gỡ giữa các dân tộc thiểu số
với dân tộc Kinh xung quanh quan niệm nghệ thuật đánh giặc cứu nƣớc qua kiểu mô típ
Truyện Thạch Sanh chắc chắn còn là kết quả giao lƣu, quan hệ mật thiết giữa các dân tộc
với nhau. Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật đã từng nhận định xác đáng: "Cùng với việc ảnh
hƣởng từ miền xuôi lên miền núi (có lẽ đây là xu thế ảnh hƣởng chủ yếu và tất yếu xƣa nay -
HML) - còn mối liên hệ ngƣợc lại từ văn học dân gian miền núi đến truyện Nôm Việt. Tiêu
biểu cho trƣờng hợp này là Thạch Sanh". [111, 236]. Xác định xuất xứ của Thạch Sanh là cần
thiết. Nhƣng trong điều kiện tác phẩm đƣợc lƣu truyền
65
rộng rãi trên phạm vi nhiều dân tộc nhƣ hiện nay thì đó lại là điều rất phức tạp. Vì thế, trong
khi chờ đợi kết quả của hƣớng nghiên cứu do tác giả Vi Hồng dự cảm: "Thạch Sanh là do
ngƣời Tày (Cao Bằng) sáng tác" [186 , 28], chúng tôi tán đồng với quan niệm của tác giả
Phan Đăng Nhật cho rằng "Các vùng từ Cao bằng đến miền tây Nam bộ đều góp phần xây
dựng nên truyện Thạch sanh" [111, 237]. Hiện tƣợng "quốc gia hóa" các giá trị văn hóa dân
gian đặc sắc nhƣ thế này không phải là điều cá biệt trong điều kiện "các dân tộc Việt Nam
vốn đã từng tồn tại ổn định bên cạnh nhau trong suốt trƣờng kỳ lịch sử có nhiều mối quan hệ
tiếp xúc về văn hóa và cả mối quan hệ tiếp xúc về cội nguồn" (Lê Chí Quế) [133 , 34]. Nhà
nghiên cứu âm nhạc Tô Ngọc Thanh cũng đã từng có những nhận xét rất đáng lƣu ý về quá
trình "quốc gia hóa" những giá trị văn nghệ dân gian của các dân tộc anh em trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam: "Cuộc giao lƣu lịch sử cũng bắt đầu một quá trình "quốc gia hóa" ca múa
nhạc cổ truyền cùn các dân tộc Việt Nam. Quá trình ấy thể hiện trƣớc hết ở sự lan truyền
nhành chóng vốn ca múa nhạc của dân tộc này đến các dân tộc khác theo cả hai chiều xuôi
ngƣợc và ngƣợc xuôi" [196 , 132]. Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nông Quốc
Chấn cũng đã nhận xét khái quái về hiện trạng giao lƣu ảnh hƣởng mạnh mẽ giữa các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam: "Sự xích lại gần nhau và hoà hợp với nhau giữa các dân
tộc đang diễn ra liên tiếp ở nhiều vùng trên đất nƣớc ta" [20,294]. Thông qua giao lƣu và quá
trình cộng cƣ trên một lãnh thổ, sự hòa đồng giữa các dân tộc đang diễn ra sâu sắc: trên nhiều
phạm vi khác nhau trong đời sống dân tộc. Chẳng hạn trong tín ngƣỡng dân gian ở một số nơi
thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn... "Tín ngƣỡng thờ Phạt, thờ Đức Thánh Trần Hƣng Đạo, thờ
tƣớng quân Phạm Ngũ Lão... đã trở thành tín ngƣỡng chung của cả ngƣời Kinh, ngƣời Tày,
ngƣời Nùng..." [195, 8]. Ở Hà Tây, "Thái Bạch Kim Tinh tên một vị thần trong Đạo Giáo)
66
đã trở thành vị thần chung của các dân tộc Kinh, Mƣờng, Dao..." [30, 90]. Khó có thể liệt kê
hết những biểu hiện của quá trình giao lƣu toàn diện giữa các dân tộc Việt Nam trong điều
kiên cộng cƣ thân thiết xƣa nay.
Mặt khác văn học dân gian là thành quả sáng tạo chủ yếu của nhân dân lao động. Mà
nhân dân lao động xƣa nay dù ở phƣơng trồi nào họ vẫn thƣờng có những nỗi niềm, sở
nguyện tƣơng đồng với nhau. Họ có thể khác nhau về thành phần dân tộc nhƣng lại có chung
cảnh ngộ. Vì vậy dù có giao lƣu hay không, phàm dã là tiếng nói nghệ thuật chủ yếu của nhân
dân lao động thì giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh tất yếu vẫn phải có những điểm
giống nhau nào đó. Để xác lập những khía cạnh tƣơng đồng cụ thể giữa các dân tộc thiểu số
với dân tộc Kinh về quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian, nội dung nghiên cứu ở đây
đƣợc triển khai trên hai bình điện chính : bình diện cộng đồng dân tộc và bình diện nhân dân
lao động.
2.1,1. Trên bình diện cộng đồng dân tộc.
2.1.1.2. Về cái đẹp
Ở phƣơng diện quan niệm về cái đẹp, giữa cộng đồng các dân tộc thiểu số với dân tộc
Kinh có khá nhiều nét tƣơng đồng cơ bản. Trƣớc hết, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc
Kinh đều có chung cảm quan trân trọng và đề cao vẻ đẹp bên ngoài đối tƣợng. Vẻ đẹp bên
ngoài bao giờ cũng mang lại cho chủ thể cảm nhận sắc thái trực quan xác thực về cái đẹp của
đối tƣợng. Cho nên nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đã để tâm luận giải
trực tiếp với một tỷ lệ khá lớn về cái đẹp bên ngoài.
Không thể phủ đinh tinh thần đề cao vẻ đẹp bên ngoài của các nhân vật tuyệt sắc
trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số nhƣ nàng Mứn (dân tộc Thái), út Lót (dân tộc
Mƣờng), Hơ nhí, Hơ Blý (dân tộc Ê đê), nàng Ka Bla (dân tộc Cơ ho) v.v... Dân tộc Kinh
cũng dành sự tán tụng
67
đặc biệt cho cái đẹp bên ngoài. Cái đẹp bên ngoài quả thực có sức mạnh. thu hút đặc biệt đối
với chủ thể tiếp nhận :
- Nhƣng ngƣời con mắt lá dăm
Lông mày lá liễu dáng trăm quan tiền.
- Cổ tay em trắng nhƣ ngà
Đôi mắt em tiếc nhƣ là dao cau
Miệng cƣời nhƣ thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu nhƣ thể hoa sen [72 , 97]
- Chân lông vòng nguyệt có duyên
Tóc mây gọn sóng đẹp duyên tơ hồng v.v... [72, 290]
Các yếu tố hình thức phụ trợ có tác dụng tôn cao thêm vẻ đẹp bên ngoài của đối tƣợng
cũng đều đƣợc nhân dân ta trân trọng đề cao. Song hành với ý thức của đồng bào Tày : "Gà
đẹp vì mã vì lông, ngƣời dễ trông vì của", hoặc ý thức của đồng bào Thái "Chim đẹp nhờ bộ
lông, ngƣời đẹp nhờ bộ cánh..." là cảm quan đồng điệu của đồng bào Kinh :
Ngƣời đẹp vì lụa
Lúa tối vì phân
Hoặc:
Hơn nhau tấm áo manh quần
Thả ra ai cũng mình trần nhƣ ai... [75 , 252]
Nhân dân các dân tộc Việt Nam đều rất đề cao vị thế của con ngƣời. Phần lớn các lý
giải về cái đẹp của nhân dân ta đều đƣợc biểu đạt qua đối tƣợng trung tâm là con ngƣời. Bản
chất của cái đẹp khởi phát từ con ngƣời khác xa với cái đẹp thuần túy vốn có trong thế giới tự
nhiên. Cái đẹp gắn liền với con ngƣời là cái đẹp thấm thía tinh thẩn nhân văn, nhân ái. Vì thế
khi lý giải về cái đẹp của con ngƣời, nhân dân các dân tộc Việt Nam đểu cùng chung ý thức
đề cao cái đẹp bên trong - hạt nhân của cái đẹp ở con ngƣời.
68
Với nhân dân ta chỉ có những phẩm chất cao đẹp bên trong mới quyết định đến cái đẹp bản
thể của đối tƣợng. Góp thêm vào kho tàng ca dao tục ngữ luận giải về vẻ đẹp bên trong của
con ngƣời trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số là những câu dân ca , tục ngữ đề cao
vẻ đẹp nhân tính bên trong của đồng hào Kinh. Với họ, cái còn lại cuối cùng với con ngƣời
để trở thành giá trị bất tử chính là những phẩm chất tốt đẹp bên trong của mỗi ngƣời:
- Tốt gỗ hơn tốt nƣớc sơn
- Cái nết đánh chết cái đẹp
- Ngƣời chết, nết còn
- Tốt danh hơn lành áo . [75 ,252] v.v...
Với nhân dân các dân tộc Việt Nam, những cái đẹp hào nhoáng bề ngoài sẽ vô nghĩa
lý nếu không liềm chứa những phẩm chất đẹp tƣơng ứng ở bên trong. Đồng điệu với ý thức
của đồng bào Dao :" Xƣa nay hoa đẹp thƣờng đáng ngại; đẹp sắc sợ gặp lòng không đẹp" là
nỗi niềm thành thật của đồng bào Kinh :
- Có đỏ mà chẳng có thơm
Nhƣ hoa dâm bụt nên cơm cháo gì. [122,96]
- Ngƣời đẹp mà chẳng khôn ngoan
Cũng nhƣ một cánh hoa lan vùi bùn. [117,201 ]
- Hay quần, hay áo, hay hơi
Mà chẳng hay ngƣời là của bỏ đi. [72 , 1.63]
Cái đẹp bên trong là cái đẹp của sức mạnh nhân tâm, có thể thắng đoạt đƣợc tất cả.
Qua mảng truyện thuộc mô típ ngƣời xấu xí mà tài ba lỗi lạc trong văn học dân gian Việt
Nam, nhân dân là đã hàm ý đề cao sức mạnh quyết định của những phẩm chất cao đẹp bên
trong. Bên cạnh những Lệnh Trừ, Nàng Kháy... của dân tộc Tày; Chàng Cóc, Chàng Rùa...
của dân tộc Mèo, Chàng Rắn, Chàng Lợn, Chàng Cóc...của dân tộc Gia rai , Chàng rể
69
Khỉ, Y Đăm tai to, Chàng Cóc.... của dân tộc tà ôi v.v... là những Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Lấy
chồng Dê, Hai cô gái và cục bướu v.v... của dân tộc Kinh. Tất cả họ đều mang một hình
nhân xâu xí nhƣng tiềm chứa những phẩm chất kỳ diệu. Nhờ tài năng đặc biệt, Sọ Dừa cảm
phục đƣợc phú ông và lấy đƣợc cô ba xinh đẹp làm vợ. Nhờ khôn ngoan, khéo léo nấu ăn, lại
có tài may vá tuyệt đẹp mà cô gái trong truyện Lấy vợ Cóc đã cảm đƣợc lòng mến mộ của
chàng trai học trò và trở thành cô gái tuyệt đẹp sau khi trút bỏ cái lốt cóc xấu xí của mình [32
, 42]. Cũng nhờ tài năng và sự khéo léo, cô gái có cục bƣớu xấu xí trong truyện Hai cô gái và
cụ bướu đã cảm hóa đƣợc một bầy khỉ để sau đó trút bỏ đƣợc cục bƣớu tệ hại, trở thành một
cô gái xinh đẹp [32,159].
Đặt các tác phẩm về các nhân vật xấu ngƣời - đẹp nết trong dân gian ngƣời Kinh với
các tác phẩm cùng loại của dân gian các dân tộc thiểu số, ta càng có dịp thấy rõ hơn sự tƣơng
đồng thân thiết giữa các dân tộc Việt Nam xung quanh quan niệm về cái đẹp. Các nhân vật
mang lột xấu xí trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số cũng nhƣ văn học dân gian dân
tộc Kinh đều là những con ngƣời có nhân đức giầu tài năng bất ngờ. Nhờ tài năng và phép lạ
phi thƣờng, họ có thể làm nên những kỳ công khiến ngƣời đời không thể ngờ tới đƣợc.
Không ai có thể tin rằng Lệnh Trừ trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Tày thực tế là một
con cóc nhỏ bé mà có thể một mình một ngựa đánh tan quân xâm lƣợc... Chàng Cóc trong
truyện cổ cùng tên của dân tộc H’mông có thể làm xong một ngôi nhà tuyệt đẹp trong một
đêm. Và một lần khác, cũng chỉ trong một đêm, Cóc lại lo đủ mấy trăm đồ dẫn cƣới sang
trọng do nhà vua thách thức bày đặt ra... Còn Cục thịt kỳ dị vốn đã hình hài của Sọ Dừa trong
truyện cổ cùng tên của dân tộc Kinh cũng chỉ trong một đêm là biến cả ngôi nhà rách nát của
mẹ con mình thành một ngôi nhà sang trọng có đủ các sản vật quý hiếm. Và chính Sọ Dừa
cũng chỉ trong một
70
đêm đã lo đủ biết bao đồ dẫn cƣới sang trọng do lão phú ông thách đặt.... Chẳng có thách
thức nghiệt ngã nào, chẳng có hoàn cảnh đặc biệt nào có thể ngáng cản nổi ý chí và nghị lực
của những con ngƣời kỳ tài ấy... Dân tộc Kinh cũng nhƣ các dân tộc thiểu số bao giờ cũng
dành trọn niềm cảm phục chân thành cho những con ngƣời xấn xí mà tài ba lỗi lạc, cho nên
cuối cùng họ đều để cho những nhân vật xấu xí ấy hiện hình ra bằng một hình thể viên mãn
tuyệt đẹp, rất tƣơng xứng với tài năng, trí tuệ và nhân cách phi thƣờng của họ.
Triệt để khai thác hình thức kết cấu cốt truyện phát triển qua hai giai đoạn, nhân dân
ta vừa đặc biệt đề cao cái đẹp nhăn cách bên trong, đồng thời vừa bày tỏ quan niệm cái đẹp
hoàn hảo phải là cái đẹp hƣớng tới sự hài hòa, thống nhất cao độ giữa vẻ đẹp bên trong và nét
đẹp bên ngoài. Khát vọng hƣớng tới cái đẹp hoàn hảo đã từng đƣợc dân gian các dân tộc
thiểu số dày công thể hiện, đến lƣợt mình, các thế hệ dân gian ngƣời Kinh cũng ý thức về nó
bằng tất cả thái độ trân trọng tột bậc. Họ đã phác vẽ ra một mô hình lý tƣởng về vẻ đẹp của
con ngƣời thật thấu đáo qua cách nói hàm xúc của thơ ca:
Một thƣơng tóc bỏ đuôi gà
Mai thƣơng ăn nói mặn mà có duyên
Ba thƣơng má lúm đồng tiền
Bốn thƣơng răng nhánh hạt huyền kém thua.
Năm thƣơng cổ áo đeo bùa
Sáu thƣơng nón thƣợng quai tua dịu dàng
Bảy thƣơng nết ở khôn ngoan
Tám thƣơng ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thƣơng cô ở một mình
Mƣời thƣơng con mắt có tình với ai. [122,275]
Lý giải về cái đẹp hoàn hảo thông qua hình tƣợng những con ngƣời
71
đẹp ngƣời - đẹp nết, dân gian các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân gian ngƣời Kinh dƣờng nhƣ
đều tập trung thiện ý lý giải của mình vào hình tƣợng những ngƣời phụ nữ - phái đẹp. Nối
thêm vào danh sách các cô gái xinh đẹp, thùy mị, nết na. mƣu trí, dũng cảm trong văn học các
gian các dân tộc thiểu số (Nàng Kháy của dân tộc Tày; Nàng Ka giờng; Hai chị em Đrun và
Đroi của dân tộc Cơ Ho, Út Lót, Nàng Rồng, Nàng Tiên của dân tộc Mƣờng, Nàng Han,
Nàng Mứn của dân tộc Thái v.v...) là những cô gái "mƣời phân vẹn mƣời" trong dân gian
ngƣời Việt. Tấm trong truyện cổ Tấm Cám xinh đẹp, hiền hậu, cần cù chịu khó đã trở thành
biểu tƣợng tuyệt đẹp trong tâm thức của ngƣời Việt Nam nói chung. Tấm hóa thân vào truyện
Gió Liu, Gió Lát của dân tộc Xrê, K'Ho; vào truyện Nàng Khao nàng Đăm của dân tộc Thái,
Tua Nhi, Tua Gia của dân tộc Tày, Ú và Cao của dân tộc Hơ Rê.... nên phẩm giá tuyệt đẹp
của cô càng trở nên bất tử trong cuộc sống cộng đồng dân tộc thống nhất. Nàng Xuân
Hương trong truyện cổ cùng tên xinh đẹp, ham học, Cần cù chịu khó lại rất mực thủy chung
[32 , 105]. Người đàn bà bị vu oan trong Truyện cổ cùng tên cũng thật xinh đẹp, nết na, đoan
chính, Bằng sự thông minh, khéo léo, nàng đã bảo vệ đƣợc hạnh phúc đích thực của mình,
thủy chung son sắt với chồng [31,206]... Dù có khác nhau về cốt truyện, nhân vật ngƣời phụ
nữ mang vỏ đẹp lý tƣởng trong các truyện kể dân gian của các dân tộc Việt Nam đều gặp gỡ
nhau ở sự vẹn toàn tài - sắc, nết na, chung thủy, cân cù, giầu mƣu trí sáng tạo. Có thể coi câu
thành ngữ "đẹp ngƣời tối nết" của dân tộc Kinh là mô hình lý tƣởng cho quan niệm về cái đẹp
toàn vẹn của các dân tộc Việt Nam.
Cũng do đặc thù lịch sử của mình, nhân dân các dân tộc Việt Nam cùng đều chung ý
thức gắn cái đẹp với nhiệm vụ đánh giặc cứu nƣớc, diệt ác trừ tà. Bên cạnh các truyện kể về
Cô bé chăn vịt của dân tộc Nùng, Nàng Han, Nàng Mứu của dân tộc Thái; Chàng Kpút và
con thần mặt trời của
72
dân tộc CơHo, Út Lót, Hồ Liêu của dân tộc Mƣờng, Trần Châu của dân tộc Tày... dân tộc
Kinh cũng có cả một mảng truyện đặc sắc về tấm gƣơng những ngƣời con ƣu tú của dân tộc
biết dùng tài sắc của mình vào công cuộc đánh giặc cứu nƣớc.
Truyện Hai nàng công chúa nhà Trần kể về hai nàng công chúa xinh đẹp, mƣu trí tài
ba, một ngƣời tên là Bảo Nƣơng, một ngƣời tên là Ngọc Nƣơng. Sinh thành trong buổi loạn
ly, hai nàng không nghĩ đến hạnh phúc riêng tƣ của mình mà từ chối mọi cuộc cầu duyên của
bao ngƣời. Khi giặc xâm phạm bờ cõi, hai nàng xin phép vua cha ra trận để một phen liều
mình giết giặc. Bằng tài sắc, mƣu mẹo khôn ngoan, hai nàng đã lừa giết đƣợc hai tên tƣớng
tiện phong của giặc, làm nội ứng cho quân ta tiêu diệt cả cánh quân tiên phong của giặc đang
tiến vào Kẻ Chợ [160,147].
Truyện Người Ả đào với giặc Minh kể về một cô gai Ả đào vừa đẹp vừa hát hay.
Nàng hát hay múa dẻo nhất vùng Đào Đặng (Hƣng Yên). Quân Minh bắt đƣợc nàng, song
nhờ tài hát hay múa dẻo, lại xinh đẹp nên nàng đã nhanh chóng chiếm đƣợc lòng tin của
chúng. Sống giữa lòng địch, nắm đƣợc nội tình của chúng nên nàng đã tìm cách liên hệ với
trai tráng trong làng tìm cách giết giặc. Đêm đêm đợi cho quân giặc ngủ say trong những cái
túi (để tránh muỗi đốt), nàng Ả đào cùng với trai làng đến khiêng từng cái túi có quân giặc
rúc vào để ngủ mà vứt xuống sông. Thấy quân mình ngày càng hao hụt quân số, tƣởng đất
này có quỷ thần ám hại, lũ giặc hoang mang rời bỏ đi nơi khác [160, 166].
Truyện Nàng trăm sắc đầy vẻ huyền hoặc, kể về một cô gái tuyệt đẹp sinh thành từ
một con trai rất lớn ở cánh đồng Cửa Miếu. Nàng ra xem hội vật của làng, cả hội bàng hoàng,
ngơ ngác trƣớc sắc đẹp của nàng. Ít lâu sau, giặc ngoại xâm tràn tới. Chúng bắt đƣợc nàng.
Bằng mƣu mẹo thánh thần từ con ngƣời đã bị quân giặc chém làm trăm mảnh, nàng biến
thành hàng ngàn
73
thiếu nữ mang gƣơm tuốt trần, giáo cầm tay lao vào quân giặc mà chém giết. Quân giặc khiếp
đảm kinh hồn, dày xéo lên nhau mà chạy [160,132].
Còn biết bao truyện kể cảm động khác về những con ngƣời tài sắc tuyệt vời. công
xuất sắc trong công cuộc đánh giặc cứu nƣớc nhƣ: Truyện chàng trai họ Đoàn, truyện
Nguyễn Thị Bích Châu truyện Vợ Ba Cai Vàng; truyện Hổ giải yếm v.v... Đặc biệt, ở đồng
bằng sông Cửu Long, trong dân gian ngƣời Kinh còn lƣu truyền rộng rãi Truyện Tam
Nương. Tam Nƣơng là con gái thứ ba của một gia đình, nàng rất xinh đẹp, giỏi võ nghệ, giầu
nghĩa khí... Quân giặc đến xâm lăng, vua ra lệnh cho quan quân đi đánh nhƣng đi bao nhiêu
lại tổn thất bấy nhiêu. Nhờ cứu đƣợc hoàng tử từ trƣớc, nàng đƣợc vua cƣới cho hoàng tử...
Tình thế nguy ngập, nàng xuất trận, giết hàng ngàn tên giặc, đuổi chúng ra khỏi biên cƣơng,
lại còn chặt đầu tƣớng giặc mang về dâng lên vua cha.... [117, 90].
Cần lƣu ý thêm rằng, dân gian có nói đến vai trò của con ngƣời cao đẹp trong việc
góp phẩn đánh giặc cứu nƣớc (trong đó có khía cạnh tác dụng của nhan sắc phụ nữ) nhung
trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số (và kể cả dân tộc Kinh) không hề triển khai
những tình tiết mang tính chất "mỹ nhân kế" theo lối viết sau này thƣờng đi vào mô tả những
thân phận bị dày vò, biến thành những trò chơi... Nhan sắc (tức cái đẹp) quả là có khích lệ sĩ
khí và quyến rũ quân thù (điều hiển nhiên), song có điều các nhân vật nữ trong các truyện kể
trên không chỉ có vẻ đẹp hình thức mà còn là những con ngƣời có những phẩm chất bên trong
cao đẹp tuyệt vời, hơn thế nữa với một lý lệ khá lớn, họ là những con ngƣời có võ công và
mƣu lƣợc sắc sảo, trực tiếp đọ sức với quân thù vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tóm lại, sự tƣơng đồng giữa các dân tộc Việt Nam ở khía cạnh quan niệm cái đẹp gắn
liền với công cuộc đánh giặc cứu nƣớc là sự gặp gỡ thân thiết giữa những con ngƣời giàu
lòng yêu nƣớc. Với dân tộc ta, cái đẹp chân
74
chính không chỉ gắn bó máu thịt với cuộc sống đời thƣờng muôn mặt của con ngƣời mà còn
có quan hệ với những công việc đại nghĩa của quốc gia dân tộc. Giá trị của cái đẹp vì vậy
càng thấm đƣợm tinh thần nhân đạo, nhân văn săn sắc.
2.1.1.2. Về nghệ thuật.
Nhũng tƣơng đồng giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh trên bình diện quan niệm
về nghệ thuật bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Trƣớc hết là do đòi hỏi bức xúc của hiện
thực. lịch sử dựng nƣơc và giữ nƣớc, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều thƣờng
xuyên có ý thức đem nghệ thuật góp phần phụng sự cho sự nghiệp đánh giặc cứu nƣớc, bảo
vệ chủ quyền quốc gia dân tộc. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói chung đã có
sự hiện diện khá phong phú mảng truyện kể mang ý thức lấy tiếng đàn, lời ca làm vũ khí
đánh giặc cứu nƣớc. Trong đó Truyện Thạch Sanh vốn quen thuộc với nhiều dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam đƣợc xem nhƣ minh chứng tiêu biểu cho quan niệm nghê thuật đánh
giặc cứu nƣớc độc đáo. Sức mạnh lan tỏa của truyện cổ nổi tiếng này qua thực đã trùm phủ
lên phạm vi cả nƣớc. Ở đâu nó cũng đƣợc nhânn dân các dân tộc trân trọng lƣu truyền.
Dƣờng nhƣ Truyện Thạch Sanh đã không còn là "đặc sản" của riêng ai, nó đã trở thành di
sản tinh thần chung của cả cộng đồng Việt Nam.
Từ Truyện Thạch Sanh của ngƣời Kinh, ngƣời Tày, ngƣời Khơ me... đến Tiếng hát
người đá của ngƣời Raglai, Sông Bằng êm sóng của dân tộc Thái, Chàng Sính của dân tộc
H'mông... dù có khác nhau chút ít tên nhân vật và một. số tình tiết phụ trợ song tất cả đều gặp
gỡ nhau ở ý thức lấy nghệ thuật làm phƣơng tiện đánh giặc cứu nƣớc, trừ ác diệt tà. Dƣờng
nhƣ bản chất nhân đạo cao cả đã hun đúc nên ở nhân dân ta một ý thức phi thƣờng trong cuộc
đấu trí, đấu lực với quân thù, súng gƣơm - bạo lực không phải là
75
phƣơng tiện đánh giặc duy nhất một khi ta còn có thể kiếm tìm đƣợc những diệu kế đánh giặc
tối ƣu mà hiệu quả, ít hy sinh đổ máu hơn. Và trong cuộc nghĩ suy tìm tòi chiến thuật ấy, cha
ông ta đã tìm đến nghệ thuật, đã phó thác cho nghệ thuật sứ mệnh cao cả góp phần đánh giặc
cứu nƣớc, cứu dân. bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc.
Sự tƣơng đồng quý báu này bắt nguồn từ thực tế nóng bỏng của một đất nƣớc thƣờng
xuyên phải đối mặt với các cuộc lấn chiếm, xâm lăng của các thế lực thù địch ngoại bang.
Với một quốc gia bé nhỏ, đất không rộng, ngƣời không đông, lại phải chống chọi với những
kẻ thù có sức mạnh vật chất áp đảo, muốn chiến thắng nhân dân ta cần thiết phải sáng tạo và
huy động nhiều sức mạnh tổng hợp khác nhau - trong đó có sức mạnh vô hình mà tuyệt diệu
của nghệ thuật. Nghệ thuật cùng với súng gƣơm, giáo mác theo con ngƣời ra trận đánh giặc,
đó là sự thật lịch sử sống động, hào hùng của các dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử vẻ vang
của dân tộc, ngƣời Việt Nam nào lại không cảm kích hình ảnh ngƣời anh hùng dân tộc
Nguyễn Trãi, bằng ngòi bút mang sức mạnh "hơn cả mƣời vạn quân" đã đánh cho giặc Minh
những đòn tinh thần khiếp đảm.
Nhân dân các dân tộc thiếu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đã từng gặp gỡ nhau ở ý thức đề
cao thiên chức cao cả của nghệ thuật đánh giặc cứu nƣớc thì hiển nhiên cũng đồng điệu với
nhau ở ý thức ghi nhận tác dụng của nghệ thuật trong đời sống bình dị của mình. Nhân dân ta
dù là thiểu số hay đa số đều rất trân trọng nghệ thuật cho nên đã dành những tình cảm trang
trọng nhất cho ý thức về chủ thể nghệ thuật.
Giỏi giang chữ nghĩa không con cũng chẳng lo.
Ý thức ấy của đồng bào Dao cũng đã từng đƣợc đồng bào Kinh thành thật chia sẻ:
Lấy chồng hay chữ nhƣ soi gƣơng vàng [117 ) 197]
76
Trong truyện So đũa chọn rể của dân tộc Tày, cô gái đẹp ngƣời đẹp nết nọ khi ao ƣớc
về hình mẫu ngƣời chồng lý tƣởng, cô đã đòi hỏi thật khắt Khe: ngƣời đó không chỉ giỏi
giang công việc, thận trọng chu đáo trong tính cách mà còn phải giỏi giang chữ nghĩa văn
chƣơng nữa. Dân tộc Kinh trong truyện Sự tích tháp Báo Ân cũng đã dành cho ngƣời am
hiểu văn chƣơng chữ nghĩa một vị trí trang trọng nhƣ thế. Truyện kể rằng: ngày xƣa ở Bình
Quân, huyện cẩm Giàng có vợ chồng một phú ông sinh đƣợc một cô con gái Kinh đẹp nhất
làng, tính nết lại dịu dàng hiền hậu. Cô gái học hành cũng rất thông minh, học đâu biết đấy,
chẳng bao lâu đã thông thạo kinh sách. Nghe tin cô gái đẹp ngƣời tốt nết lại hay chữ nghĩa
văn chƣơng, con trai khắp nơi rắp ranh muốn ngả lời làm bạn cùng cô gái... Nhƣng thật ngặt
nghèo, điều kiện chọn rể của phú ông (thân sinh cô gái) thật khó với tới. Ông chủ trƣơng:
"ngƣời xứng đáng sánh duyên với con gái ta phải là ngƣời hiểu biết văn chƣơng lỗi lạc..."
[159, 184].
Trong ý thức chung của các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật là vô giá. Nghệ thuật góp
phần nuôi sống con ngƣời, thậm chí là chất "xúc tác" kỳ diệu có thể cải biến môi trƣờng và
hoàn cảnh trở nên thi vị và đáng yêu hơn. Tƣơng đồng với ý thức "hát lên cảnh mới đẹp, hát
lên nhà mới vui" của đồng bào Lô Lô, đồng bào Kinh cũng ủy thác cho nghệ thuật những uy
lực kỳ diệu có thể "cải tử hoàn sinh" thế giới:
Đi qua nghe tiếng em đàn
Lá vàng xanh lại sen tàn nở hoa. [72 ,117]
Nghệ thuật có thể thao túng, điều khiển thế giới muôn loài bằng sức mạnh của nó:
Đi qua nghe tiếng em đàn
Cá mƣời khe đứng lại, chim trên ngàn đậu im [72, 117]
77
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, chúng ta bắt gặp khá nhiều những
truyện kể mang mô típ lời ca tiếng hát có sức cuốn hút đặc biệt đối với con ngƣời, thậm chí
có khả năng mê hoặc, điều khiển đối với muôn loài chim thú, cỏ cây nhƣ thế. Song hành với
những truyện: Tiếng hát nàng San củn dân tộc Thái, Tiếng hát nàng Slam của dân tộc Cao
Lan, Mòn Miên của dân tộc Cơ Ho, Hai đời của dân tộc Tà ôi, Gió Đói của dân tộc Ba na,
Tiếng sáo thần kỳ, Chàng Cóc, Chuyện cây đàn của dân tộc Gia rai... dân tộc Kinh cũng có
những, truyện kể đặc sắc về sức mạnh thu phục của lời ca tiếng hát. Tiếng hát ngọt ngào, tha
thiết của Trƣơng Chi đã làm cho cô con gái viên quan Thừa tƣớng cao sang mê ly ngƣỡng
vọng. Tiếng hát ấy xƣa nay đã trở thành tình tiết cổ điển mẫn mực trong nỗi niềm đam mê
nghệ thuật của mọi ngƣời dân Việt Nam. Truyện Cô gái con Thần Nước và chànq đánh cá
[96, 271] cũng là những nỗi niềm đầy cảm động của dân gian ngƣời Kinh dành cho nghệ
thuật. Truyện kể về một chàng trai làm nghề đánh cá có giọng hát trong trẻo du dƣơng, làm
cho nàng công chúa ở thủy cung phải mê mẩu sầu tƣ. Nƣơng mình trong lốt cá, nàng cứ quẩn
quanh bên cạnh ngƣ thuyền của chàng để đƣợc nghe hát. Trải qua bao thăng trầm, tiếng hát
mê ly của chàng trƣớc sau vẫn là sợi dây tình duy nhất níu kéo cô gái xinh đẹp đến với mình,
nối kết thành đôi lứa... Cũng nhƣ vậy, tiếng sáo trầm bổng du dƣơng của chàng trai nghèo
khó nọ trong truyện cổ tích Sọ Dừa đã làm cho cô con gái lão phú ông thổn thức, bồn chồn,
dám vƣợt qua tƣờng rào ngăn cách đẳng cấp để tình nguyện kết duyên với Sọ Dừa xấu xí,
nghèo hèn. Đặc biệt thật kỳ thú, cô gái nghèo khổ trong truyện cổ Hai cô gái và cục bướu
[32 , 159] nhờ tiếng hát trong trẻo, thánh thót của mình mà mê hoặc đƣợc cả một đàn khỉ. Lại
cũng nhờ lòi ca của mình cô đã trút bỏ đƣợc cục bƣớu xấu xí trên cổ của mình sang cho lũ khỉ
để rồi sau này lũ khỉ lại đem đến cho cô gái con nhà phú ông ti tiện, hám sắc.
78
Ý thức về nghệ thuật với tất cả nỗi niềm trân trọng nhƣ thế, cho nên nhân dân các dân
tộc Việt Nam đã đến với hoạt động nghệ thuật bằng tất cả tấm lòng đam mê đầy trách nhiệm.
Bên cạnh ý thức phải "hát nhƣ cây tre, cây bƣơng thi nhau mọc" của đồng bào H'mông; bên
cạnh ý thức không "tiếc giọng, tiếc lời, không nên dừng giữa buổi, không nên nghỉ nửa vời"
của đồng bào Lô Lố.... là tinh thần đam mê tuyệt đích của đồng bào Kinh khi đến với cuộc
vui chung:
- Đã đi đến đám thì chơi
Đã đi đến đám tiếc lời làm chi
- Hát cho đổ quán xiêu đình
Cho long lanh nƣớc cho rung rinh trời
- Hát cho lở đất long trời
Cho đời biết mặt, cho ngƣời biết tên
- Hát sao cho cạn dòng sông
Cho non phải lở cho lòng phải say. [72 , 118] v.v...
Các dân tộc Việt Nam sống trong điều kiện thiên nhiên đầy thơ mộng, kỳ thú nên tâm
hồn giàu chất thơ, chất nhạc. Từ thủa xa xƣa, nhân dân các dân tộc Việt Nam đã tìm đến nghệ
thuật nhƣ tìm đến một chốn linh thiêng để tăng cƣờng niềm tin và nghị lực sống lành mạnh.
Nghệ thuật gắn kết với cuộc sống hàng ngày cua các dân tộc thiểu số nhƣ cơm ăn, nƣớc
uống..., nghệ thuật cũng hành trình thủy chung với đồng bào Kinh trong mọi bƣớc ngoặt của
cuộc đời:
Còn ngƣời còn nƣớc còn non
Còn câu quan họ em còn say sƣa. [72 , 114]
Nghệ thuật đơm hoa trong lòng ngƣời từ thủa ấu thơ qua lời ru của mẹ và câu chuyện
cổ của bà vì thế nó sẽ trở thành kỷ niệm máu thịt da diết khi con ngƣời phải sống xa quê:
79
- Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ ngƣời
Nhớ câu quan họ, nhớ lời ca hay... [72 , 114]
- Đi đâu cũng nhớ về quê
Nhớ câu hát ghẹo. nốc (thuyền) kề bên nhau.... [72,114]
Với các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật không chỉ có sức mạnh gắn kết tình đồng loại,
nghệ thuật còn góp phần xây đắp hạnh phúc lứa đôi. Trong truyện kể dân gian ngƣời việt
cũng nhƣ ngƣời thiểu số, có biết bao đôi lứa kết thành tình nghĩa vợ chồng chỉ thuần tuý nhờ
vào uy lực hút hồn của nghệ thuật. Chuỗi âm thanh mê ly ngọt ngào của điệu đàn, lời ca đã
khiến cho biết bao cô gái con nhà quyền quý cao sang sẵn sàng khƣớc từ cuộc sống nơi lầu
son gác tía với kẻ hầu ngƣời hạ chỉ để đƣợc sống an vui thuần tuý trong vƣơng quốc tình yêu
nghệ thuật (Công chúa trong truyện Thạch Sanh của dân tộc Kinh và dân tộc Tày; trong
truyện Chàng Sính của dân tộc H'mông Cô gái con thủy Thần trong truyện cổ Cô gái con
Thủy Thần và chàng đánh cá và cô Ba con gái Phú ông trong truyện cổ Sọ Dừa của dân tộc
Kinh; Cô gái con vua dƣới lòng đất trong truyện cổ Tiếng hát thần kỳ của dân tộc Gia rai
v.v....) Các cô gái dù là ngƣời Kinh hay ngƣời Tày, ngƣời H'mông hay ngƣời Gia rai... đều có
chung nỗi niềm đam mê tuyệt đích với nghệ thuật. Với họ, tình yêu đích thực là tình yêu gắn
liền với nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên dân tộc Mƣờng đã phó thác cho lời hát dân gian
Thƣờng, Rang của họ có tác dụng làm "cho trai anh, gái em nhà ta nên cửa., nên nhà". Ngƣời
Kinh cũng phó thác cho lời hát đối ân tình của họ sức mạnh gắn kết tình đôi lứa thiêng liêng:
Hát cho con gái có chồng
Con trai có vợ, mẹ dòng có con [72, 116]
Các dân tộc thiếu số gắn bó với nghệ thuật cả khi sống và khi đã khuất. Các dân tộc
Tây Nguyên, trong lễ hội bỏ mả, họ đã tổ chức "biểu
80
diễn cả một màn nghệ thuật tổng hợp độc đáo" (Ngô Văn Doanh). Ngƣời Lô Lô, ngƣời
H'mông trong đám tang nhất thiết phải có khèn, trống, lời ca để "tiễn đƣa hồn" ngƣời đã
khuất "lên trời"... Cũng nhƣ vậy trong ý thức ngƣời Kinh "sống dầu đèn, chết kèn trống" [41 ,
557] là hàm chỉ ý nghĩa và giá trị tối cần thiết của ánh sáng và nghệ thuật trong cuộc sống
hàng ngày của con ngƣời.
Tóm lại, trong đời sống muôn mặt của nhân dân các dân tộc Việt Nam, nghệ thuật là
nguồn giá trị tinh thần không thể thiếu vắng. Cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng, ngƣời am hiểu
sâu sắc những giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc đã từng khái quát thật thấm thía: "Dân tộc
Việt Nam ta từ xa xƣa rõ ràng là một dân tộc rất yêu chuộng văn học nghệ thuật". [96, 284].
Thiết nghĩ đó là một tổng kết xác đáng về tinh thần trân trọng, yêu quý, đam mê đối với nghệ
thuật của nhân dân các dân tộc Việt Nam chúng ta.
2.1.2. Trên hình diện nhân dân lao động
Văn học dân gian là di sản văn nghệ quý báu đƣợc sáng tạo và hoàn chỉnh chủ yếu
nhờ tình cảm và trí tuệ của quần chúng nhân dân lao động qua các thế hệ nối tiếp nhau. Chính
nhân dân lao động cũng là lực lƣợng chủ yếu tiếp nhận và lƣu Truyền các giá trị văn nghệ đặc
sắc do mình sáng tạo ra. Ngƣời sáng tạo, ngƣời thƣởng thức đồng nhất làm một, cho nên
những ý thức quan niệm về nghệ thuật của dân gian đều gắn liền với cảm quan thẩm mỹ -
nghệ thuật về con ngƣời và cuộc sống của nhân dân lao động. Lênin đã từng nói: "Nghệ thuật
là thuộc về nhân dân". Câu nói càng chuẩn xác nếu" đặt nó trong sự soi chiếu vào thực tiễn
văn học dân gian vốn chủ yếu gắn liền với cảm quan của quần chúng nhân dân lao động - lực
lƣợng chủ công tạo nên sức sống cho nó.
Trên bình diện nhân dân lao động, giữa các dân tộc thiểu số anh em và dân tộc Kinh
có nhiều nét đồng điệu sâu sắc xung quanh các quan niệm về cái đẹp và về nghệ thuật.
81
2.1.2.1. Về cái đẹp
Trong quan niệm về cái đẹp, cảm quan của nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhƣ
dân tộc- Kinh đều thấm đƣợm tính chất nhân dân sâu sắc. Đề cao cái đẹp, trƣớc hết họ đề cao
vẻ đẹp của ngƣời lao động. Truyện cổ Hơ Kung và YDu của dân tộc Ê đê kể về một con quạ
mân cán nhận lời làm mối cho chàng Rít lấy nàng Ngo (cô gái đẹp tuyệt trần ở một hòn đảo
xa). Con quạ tự hào háo với nàng Ngo sau khi đã tìm đƣợc chàng trai nhƣ ý: "Tôi mang tin
vui đến cho chị đây. Tôi đã tìm đƣợc cho chị một ngƣời giỏi đốn cây to, phát cây nhỏ làm
rẫy, một ngƣời giỏi xén bờ ruộng lại có tài săn thú đuổi chim..." [193, 17]. Rõ ràng con ngƣời
mà nàng Ngo kiêu sa chờ đợi chọn làm đấng lang quân lý tƣởng là một ngƣời đàn ông giỏi
những thao tác lao động sản xuất. Truyện Sự tích cầu vồng của dân tộc Hà Nhì kế về cô gái
Xì Pứ có hình thể tuyệt đẹp, nàng càng đẹp hơn vì "có đôi tay chăm làm. đôi chân chăm lên
rẫy để ai ai cũng mến, cũng thƣơng" [191, 18]. Vẻ đẹp của nàng dƣờng nhƣ chỉ thực sự phát
sáng khi đặt mình trong tƣ thế lao động: "Mỗi lần Xì Pứ cầm dao đi phát rẫy xa, dƣới chân
nàng hoa rừng nở rộ, trên đầu nàng, chim chóc hát ca" v.v...
Nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh của dân tộc Thái, cô gái từng đƣợc nhà
nghiên cứu văn học dân gian Vũ Ngọc Khánh mệnh danh là "cô gái Việt Nam toàn diện" ấy
đã đẹp ngƣời tốt nết lại càng giầu sức cuốn hút mọi ngƣời hơn qua những thao tác lao động
sản xuất thuần thục:
Nàng Mứn chít khăn lá trẩu
Tay cấy nhanh nhƣ gõ mõ
Nàng uốn chân đi dƣới bùn lƣng cứ đẹp
Búi tóc cứ rung nhƣ buồng quả trên đầu
Nàng hay làm biết nghĩ... [153 , 50].
Cô gái Mơ rum Mơ hút trong truyện Đăm Ktía Truol của dân tộc Gia
82
rai càng lớn càng xinh đẹp và ngoan nết. Nàng có "đôi cánh tay cứng cáp để cuốc rẫy giã gạo
nhƣng mƣời ngón tay lại khéo léo dệt thêu rất đẹp" [183 -250]...
Nù Câu trong tác phẩm dân ca trƣờng thiên A Thào - Nù Câu của dân tộc H'mông,
chàng Chồn trong truyện cổ Truyện Chồn và nàng H' Lúi của dân tộc Gia rai và Lê Nhƣ Hổ
trong truyện cổ cùng tên của dân tộc Kinh... đều là những chàng trai tuyệt đẹp - hiện thân lý
tƣởng của con ngƣời lao động nông nghiệp. Nù Câu chẳng những hiền lành, đẹp ngƣời đẹp
nết mà còn có năng lực lao động sản xuất phi thƣờng:
Nù Câu lớn thành thân con trai
Giỏi săn bắn, tài nghệ nƣơng rẫy
Phát ba nhát đã sạch quang đồi cỏ lau
Cày ba đƣờng đã sạch lề nƣơng cỏ dại [75, 251]
Chàng Chồn trƣớc khi trút bỏ lốt Chồn thành chàng trai trẻ đẹp, tự thân đã là một
ngƣời đặc biệt giỏi giang trong lao động: "H' Lúi vừa phát đƣợc vạt nhỏ, Chồn đã phát đƣợc
một vạt rất lớn... Chồn có một đám nƣơng bát ngát lúa, ngô, khoai, sắn, đu đủ, bầu bí tốt rợp"
[10, 362]. Còn Lê Nhƣ Hổ "chỉ trong một buổi, chàng" đã phát xong luôn cả ba mẫu cỏ. Hổ
phát nhanh đến nỗi cá không kịp chạy... Hổ chỉ gặt trong nửa ngày là xong hai mẫu lúa rồi bó
tất cả lại thành bốn, năm gánh lớn lần lƣợt quảy về và chỉ đến chập tối là xong" [160 , 110].
Cùng tôn thờ ý thức quan niệm "dĩ nông vi bản", cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã từng
sáng tạo nên biết bao những truyện cổ, câu ca khảng định vẻ đẹp danh giá của ngƣời lao động
gắn liền với những thao tác lao động thuần thục, đạt hiệu quả phi thƣờng nhƣ thế. Nhãn quan
thẩm mỹ của dân gian dƣờng nhƣ đều gắn liền yêu cầu về cái đẹp của con ngƣời phải song
hành với năng lực lao động sản xuất. Dân gian Kinh coi lao động nhƣ một điều kiện góp phần
gia tăng vẻ đẹp hình thể
83
của con ngƣời, tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho con ngƣời:
Hay lam hay làm đầu quang mặt sạch
Chẳng hay làm hay làm đầu rách mặt dơ. [122 , 251]
Các dân tộc thiểu số anh em tảy chay quyết liệt những cái đẹp ly thoát lao động:
Làm gái nết na biết nghĩ suy
Chỉ biết điểm trang cho đẹp đẽ
Việc làm lƣời nhác hay chỉ mà. [21 ,372]
hoặc:
Sinh ra cô gái lƣời
Đời con gái chẳng siêng
Không xứng thật chẳng đáng. [111 ,49]
Dân tộc Kinh cũng vây. Họ càng ý thức sâu sắc và thấm thía vẻ đẹp đằm thắm dạn
dày mƣa nắng của ngƣời dân lao dộng bao nhiêu, lại càng coi thƣờng vẻ đẹp yếu đuối, xa rời
lao động của các cô gái nhà giàu bấy nhiêu:
- Trắng chi trắng bủng trắng xanh
Thà rằng đen nhẵng cho anh phải lòng...
hoặc:
- Ngăm ngăm da nâu mƣời trâu anh cũng cƣới
Trắng nhƣ nõn chuối tiền rƣỡi anh cũng không mua v.v...
Lƣời biếng và xa lánh lao động cũng đồng nghĩa với sự xâu xa, đáng dè bỉu. Với bản
chất của ngƣời lao động chân chính, nhân dân các dân. tộc Việt Nam chỉ thừa nhận cái đẹp
của ngƣời lao động. Vẻ đẹp hào nhoáng bề ngoài của các tầng lớp quý tộc, thống trị đều bị
phủ định triệt để. Đồng bào Vân Kiều quả quyết rằng:
Con nhà lang đen hai lớp mắt cũng không đẹp
Da trắng hai lớp nhìn cũng không bằng lòng. [151 , 15]
84
Đồng bào Thái nhất mực coi lao động nhƣ là điều kiện tiên quyết tạo ra giá trị đích
thực của con ngƣời:
Quý kẻ xốc vác
Chuộng kẻ hay làm
... Chăm làm ngƣời mới chuộng
Xốc vóc ngƣời mới quý. [21 - 51 ,52]
Những ý thức đề cao giá trị của lao động đối với phẩm hạnh của con ngƣời nhƣ vậy
cũng đƣợc đồng bào Kinh chia sẻ sau sắc qua truyện Lê Như Hổ nổi tiếng. Buổi đầu tiên đến
nhà bố mẹ vợ, Nhƣ Hổ chẳng có gì tỏ ra tài cán cho bố mẹ vợ yên lòng. Chỉ sau đôi lần ra
đồng làm lụng, Nhƣ Hổ mới thực sự chiếm đƣợc lòng ái mộ của bố mẹ vợ bởi tài phát cỏ, gặt
lúa kỳ tài của mình... [160, 110]. Không phải ngẫu nhiên đồng bào Kinh đã lƣu truyền một
câu tục ngữ nổi tiếng: "Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn" [75 ,251]. Trong văn học dân
gian ngƣời Kinh cũng nhƣ các dân tộc thiểu số, mô típ truyện kén chọn dâu, rể có gắn với yêu
cầu thực thi năng lực lao động sản xuất quả là không ít.. Biết trân trọng cái đẹp của ngƣời lao
động, xem lao động nhƣ một phần giá trị đích thực trong bảng thang, giá trị con ngƣời là
quan niệm thẩm mỹ độc đáo của nhân dân các dân tộc Việt Nam... Trong các trò chơi dân
gian nhân những dịp lễ hội của đồng bào Tày, Nùng, đáng lƣu ý có "Trò sĩ nông" khá phổ
biến ở một số nơi thuộc Lạng Sơn, Tuyên Quang... Nội dung trò chơi là nhằm đề cao ngƣời
làm nghề nông giỏi qua việc kén chọn chồng của một Tiên nữ. "Có rất nhiều ngƣời ở các
ngành nghề khác nhau đến cầu hôn Tiên nữ nhƣng cô chỉ chọn anh làm nghề nông Giỏi làm
chồng". [191 , 10]. Nhân dân lao động là ngƣời sáng tạo nên mọi giá trị văn hóa, lịch sử bằng
những cống hiến trí tuệ và sức lực gân cốt của mình. Vì vậy chỉ có nhân dân lao động mới có
thể đánh giá những giá trị của cái đẹp một cách thấm thía nhƣ thế.
85
Cần nói thêm rằng, các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh đã gặp gỡ nhau ở những quan
niệm về cái đẹp đầy tính nhân văn nhân ái, song cũng do xuất phát từ thế giới quan dân gian
còn mâu thuẫn cho nên họ cũng, có sự giống nhau ở những cảm quan thiếu nhất quán khi
đánh giá về cái đẹp của con ngƣời . Họ đã từng thành tâm trân trọng vẻ đẹp của con ngƣời lao
động là thế, Vậy mà chính họ lại có thể bột phát những câu ca, lời hát mang nhãn quan thẩm
mỹ méo mó khi đánh giá về vẻ đẹp của con ngƣời lao động giữa chốn thôn quê mộc mạc.
Dân ca Tày, Nùng có câu ca quen thuộc :
Trông ngƣời thật có duyên đủ sắc
Ngƣời này phải sinh đúng nhà quan
Sinh thành ngƣời trong làng là phí [17 , 11]
Có lúc ngƣời H'mông coi vẻ đẹp của giai cấp thống trị có ý nghĩa nhƣ là chuẩn mực
cho cái đẹp của con ngƣời :
Càng ngắm cô mình càng thấy xinh
Xinh nhƣ cô gái nhà quan.... [157 , 105] v.v...
Cũng nhƣ vậy, dân gian dân tộc Kinh có lúc đã hoài nghi, phủ định vẻ đẹp của những
ngƣời lao động nghèo hèn :
- Một mảnh chồng quan hơn đàn chồng dân
Khen ai khéo đặt nên nghèo
Kém ăn, kém mặc, kém điều khôn ngoan
Nhà giàu nói một hay mƣời
Nhà nghèo nói chẳng đƣợc lời nào khôn [72 , 127] v.v....
Chỉ có điều những câu ca nhƣ vậy không có nhiều. Đặc biệt trong văn học dân gian cổ
truyền các dân tộc thiểu số - những cộng đồng dân tộc ít chịu ảnh hƣởng của chế độ đẳng cấp
phong kiến hơn so với dân tộc Kinh (thậm chí có dân tộc còn chƣa hề kinh qua quan hệ sản
xuất phong kiến trƣớc Cách mạng Tháng Tám) , những câu ca nhƣ thế lại càng hiếm hoi hoặc
86
không bề xuất hiện ở nhiều dân tộc thiểu số anh em.
2.1.2.2 Về nghệ thuật
Ở phạm vi quan niệm về nghệ thuật, nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc
Kinh dù ở miền xuôi hay miền ngƣợc, miền Nam hay miền Bắc... đều rất khuyến dƣơng nghệ
thuật phục vụ cuộc sống lao động bình yên của nhân dân lao động. Từ tiếng đàn của chàng
Sính, tiếng hát của Sính Mình, lời ca của chú bé ngƣời đá biến bình trên đỉnh núi Chƣ Bô
Đa... đến tiếng đàn của Thạch Sanh, tiếng hát Trƣơng Chi, tiếng sáo Sọ Dừa... đều vì cuộc
sống lao động bình yên của nhân dân lao động. Khi đất nƣớc lâm nguy, tiếng đàn lời ca của
Thạch Sanh, Chàng Sính, chú bé ngƣời đá... đều gắn liền với ý nguyện đem lại sự bình yên
cho muôn dân. Tiếng đàn lời ca của họ trong những cảnh huống có giặc xâm lăng thực sự là
vũ khí lợi hại nhờ biết khơi sâu vào góc hồn nhân bản củn con ngƣời. Nhờ tiếng đàn lời ca
mách bảo, khát vọng hƣớng tới một cuộc sống bình yên trong đáy sâu nhân bản của kẻ địch
đã đƣợc đánh thức và trở thành sức mạnh đối trọng với dã tâm gây chiến tranh đổ máu. Khát
vọng hòa bình đã thắng đoạt thiển tâm gây điều ác. Vì sự tồn sinh của muôn vạn sinh linh
ham sống hòa bình, tiếng đàn ấy há chẳng phải tiếng lòng nhân ái bao dung đích thực của
nhân dân đó sao? Nó hoàn toàn xa, lạ với những toan tính ích kỷ, đam mê quyền lực của các
tập đoàn thống trị hiếu chiến. Nhân dân lao dộng bao giờ cũng lấy tình yêu thƣơng, nhân ái,
khát vọng hòa bình làm trọng. Lấy nghệ thuật phụng sự khát vọng hòa bình cho muôn dân, ý
thức nghệ thuật ấy chỉ có thể thuộc về nhân dân lao động chân chính. không phải ngẫu nhiên,
sau khi cứu thoát con vua Thủy Tề, Thạch Sanh đã từ chối mọi vàng bạc, châu báu, quà tặng
của nhà vua mà chỉ nhận lấy duy nhất một cây đàn. Với họ, cây đàn là biểu tƣợng vô giá của
tình yêu thƣơng và lòng nhân ái - những giá trị tinh thần mà nhân dân lao động thƣờng trực
trân trọng. Ngay cả khi hƣớng tiếng đàn
87
vào mục đích giải oan cho mình, tiếng đàn chàng Sính, Thạch Sanh cũng vì công lý của nhân
dân. Ý thức của nhân dân lao động bao giờ cũng thù địch với mọi mƣu mô cầu lợi bất chính
đến táng tận lƣơng tâm nhƣ kiểu Lý Thông. Chính tƣ tƣởng nhân nghĩa của nhân dân đã hòa
nhập vào điệu đàn Thạch Sanh, chàng Sính để lên án những phẩm cách đê tiện của hạng
ngƣời ích kỷ, xấu xa trong hội.
Những tƣ tƣởng nghệ thuật chân chính bao giờ cũng vì cuộc sống của nhân dân cho
nên nó chỉ có thể sinh thành phát triển lành mạnh trong môi trƣờng cuộc sống lao động của
nhân dân. Tiếng hát của Sính Mình cất cao giữa cuộc sống lao động yên vui của dân bản nên
nó đƣợc nhân dân bảo vệ trƣớc mọi hành vi phá hoại thù địch của bọn chúa làng độc ác.
Tiếng hát nàng Slam của dân tộc Cao Lan thực sự quyến rũ khi đi bắt cá xúc tôm dƣới suối,
hái củi kiếm rau trên rừng.... Cũng nhƣ vậy, tiếng sáo ngân nga trầm bổng của Sọ Dừa cất lên
từ môi trƣờng lao động dân dã. Sọ Dừa thổi khúc sáo du dƣơng khi di chăn dắt đàn dê của
nhà phú ông ở trên núi. Tiếng hát mê hồn của Trƣơng Chi và anh chàng đánh cá trong truyện
Cô gái con Thần Nước và chàng đánh cá... đều cất lên trên khoảng sông nƣớc bao la nơi họ
kiếm kế sinh nhai đầy nhọc nhằn mà thơ mộng.. Môi trƣờng lao động là mảnh đất màu mỡ
cho nghệ thuật đơm hoa kết trái:
Rao giờ cho đến tháng hai
Con gái làm cỏ, con trai be bờ
Gái thì kể phú ngâm thơ
Trai thì be bờ kể chuyện bài bây. [72, 115]
Chỉ có gắn với môi trƣờng lao động đích thực, văn nghệ mới có dịp đƣợc trào phát
một cách tự nhiên và cũng chỉ trong lao động ngƣời ta mới thực sự cần đến nghệ thuật hơn
bao giờ hết. Lao động sẽ bớt di những nhọc nhằn vất vả nếu có đƣợc nghê thuật. - một loại
"thần dƣợc" vô giá tham dự
88
vào cuộc. Quả vậy, tiếng hát của chú bé ngƣời đá trong ý thức của ngƣời dân Raglai có khả
năng "làm cho mọi ngƣời làm việc không biết mệt mỏi" [166, 52], Tiếng sáo của nàng Ni có
thể "làm cho cái mệt trong ngƣời tan biến đâu hêt" [167 ,33]... Và tiếng sáo kỳ diệu của Sọ
Dừa chỉ chờ dịp cất lên khi đi lên núi chăn dắt đàn dê... Chỉ có nhân dân lao động mới có
điền kiện cảm nhận thấm thìa giá trị nghệ thuật đối với cuộc sống lao động của mình nhƣ thế.
Nhân dân lao động là chủ thể đích thực sáng tạo nên các giá trị văn hóa nghệ thuật
đặc sắc, vì thế những nhân vật tài ba lỗi lạc trong hoạt động nghệ thuật vì mục đích lao động
dựng xây cuộc sống và đánh giặc giữ nƣớc phần lớn đều là những con ngƣời lao động. Họ là
con em đích thực của nhân dân lao động nghèo hèn. Cha mẹ mất sớm, "Thạch Sanh sống côi
cút trong một túp lều dƣới gốc đa, chỉ có một cái khố che thân và một cái búa đốn củi" [31
,4]. Sọ Dừa mồ côi cha, hai mẹ con Sọ Dừa sống trong nhà phú ông với tƣ cách ngƣời ở hèn
mọn. Trƣơng Chi là chàng trai nghèo khó, không có tấc đất cắm dùi, ngày ngày quăng chài
thả lƣới trên sông kiếm miếng cơm ăn... Loại trừ những chi tiết hoang đƣờng trong thuộc tính
tƣ duy nghệ thuật dân gian, những trang "tiểu sử" của Mòn Miên, Sính, Mình hay Hơ Rít
trong truyện Tiếng sáo thần kỳ của dân tộc Gia rai... chẳng có mấy sự khác biệt so với Sọ
Dừa, Trƣơng Chi, Thạch Sanh... Phần lớn họ đều là những nghệ sĩ mồ côi, nghèo hèn, lấy
tình làng nghĩa bản làm nơi chốn nƣơng thân... Trong văn học dân gian ngƣời Việt cũng nhƣ
các dân tộc thiểu số, khó có thể tìm thấy những chủ thể hoạt động nghệ thuật tài ba xuất
chúng lại sinh thành từ tầng lớp thống trị giàu sang phú quý. Dƣờng nhƣ lịch sử nghệ thuật
chân chính của các dân tộc Việt Nam phần lớn đều do những chủ nhân đích thực của nó là
nhân dân lao động tự tay gây dựng và phát triển. Đúng vậy, thủy tổ của điệu hát Quan họ mê
hồn vùng Kinh Bắc "là
89
một thôn nữ xinh đẹp, hay lam hay làm quen với việc cắt cỏ, hái củi trên núi..." [89,20]. Làu
Slam ''Thánh thơ ca'' đƣợc cả dân tộc Cao Lan tôn thờ cũng vốn là một cô gái bình dân học
đƣợc tiếng hát nhờ bắt chƣớc từ các loài chim khi đi hái rau, kiếm củi trong rừng...
Tính chất nhân dân trong các quan niệm về nghệ thuật của các dân tộc thiểu số cũng
nhƣ dân tộc Kinh đƣờng nhƣ đã trực tiếp đem đến cho truyền thống quan niệm nghệ thuật
dân tộc một chất lƣợng đặc biệt. Từ ngàn xƣa nghệ thuật chân chính đã có chỗ đứng trong
cuộc sống muôn mặt của nhân dân lao động. Nhờ cuộc sống của ngƣời lao dộng mà nghệ
thuật chân chính ngày càng có sức sống mãnh liệt, bất hủ trong nỗi niềm tâm linh của mọi
ngƣời, mọi nhà, mọi vùng quê khác nhau trên dải đất Việt Nam thân yêu của chúng ta.
2.2 Những khác biệt .
Nếu nhƣ giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh vốn có những tƣơng đồng tất yếu
về quan niệm nghệ thuật thì sự khác biệt ở đây cũng hiện diện nhƣ những thuộc tính hiển
nhiên. Trong điều kiện môi sinh văn hóa, xã hội, kinh tế... khác biệt nhau, hơn nữa quá trình
phát triển các mặt đó của các dân tộc không giống với dân tộc Kinh cho nên không thể có sự
đồng nhất trọn vẹn giữa các dân tộc với ngƣời Kinh. Chỉ xin đƣợc đơn cử mội khía cạnh khác
biệt về hình thái kinh tế xã hội giữa ngƣời Kinh với các dân tộc thiểu số để có ý thức rõ hơn
về vấn đề này qua ý kiến của tác giả Nguyễn Hùng Vĩ: "Trong khi ngƣời Việt nằm ở chế độ
phong kiến đã phát triển cao thì một số dân tộc khác nhƣ Tày, Thái, Mƣờng, Chăm, H'Rê,
Khơ me... còn đang nằm ở chế độ phong kiến sơ kỳ. Một số dân tộc khác nữa thì vẫn nằm ở
chế độ xã hội cộng đồng cuối thời kỳ cộng sản nguyên thủy (Các dân tộc thuộc nhóm Môn
Khơme ở Tây Bắc dọc Trƣờng Sơn, một số dân tộc thuộc nhóm Mã lai - đa đảo...)" [133 ,
34]. Thực tiễn sự khác biệt nhau về
90
nhiều mặt giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh là căn nguyên dẫn đến sự khấc biệt về
sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm về nghệ thuật (và cái đẹp). Tuy nhiên nói
đến sự khác biệt ở đây không có nghĩa là nói đến phía này có còn phía bên kia hoàn toàn
không có mà là cả hai phía cùng có nhƣng với những tỷ lệ và mức độ nhiều hay ít mà thôi.
Chẳng hạn nét nổi bật trong cách cảm nhận và lý giải về cái đẹp, về nghệ thuật của các dân
tộc thiểu số là thiên về những so sánh, ví von giàu hình ảnh cụ thể. Điểm này với dân tộc
Kinh cũng có, chỉ khác là ít khai thác thƣờng xuyên hơn và với tần số hạn chế hơn, hởi vì
trong cách thức biểu đạt của ngƣời Kinh, phần nào họ đã vƣơn tới ý thức khái quát hàm xúc
về đối tƣợng.
Sự khác biệt giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh xung quanh các quan niệm về
nghệ thuật chủ yếu đƣợc biểu hiện ở các điểm sau đây.
2.2.1. Sự khác nhau về loại hình nghệ thuật đƣợc cảm nhận.
Nói đến "sự khác nhau về loại hình nghệ thuật đƣợc cảm nhận" ở đây chính là đặt vấn
đề xem xét : văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh thƣờng hay
tập trung ý thức bày tỏ quan niệm về nghệ thuật vào những loại hình nghệ thuật khác nhau
nhƣ thế nào ?
Văn nghệ dân gian tồn tại dƣới hình thức diễn xƣớng nguyên hợp với sự đồng hiện
của nhiều loại hình nghệ thuật. Song quan niệm về nghệ thuật của dân gian dƣờng nhƣ chỉ
xoáy vào một số ít loại hình nghệ thuật cụ thể vốn gần gũi, quen thuộc với chủ thể nghệ thuật,
ít khi dàn đều, dành đủ các lý giải cho mọi loại hình khác nhau. Điều này là hợp lý trong bối
cảnh sinh hoạt văn hóa dân gian. Tƣơng ứng, với mội sinh, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa của
mỗi dân tộc là sự hiện diện có phần trội hơn của mỗi loại hình nghệ thuật so với các loại hình
khác cùng đồng hiện.
Đặt trong tƣơng quan đối sánh cụ thể, ƣu thế các lý giải về ca múa nhạc thuộc về các
dân tộc thiểu số anh em. Dân tộc Kinh cũng có lý giải về
91
loại hình nghệ thuật này nhƣng tỷ lệ quan niệm cổ phần ít hơn so với các dân tộc thiểu số.
Những quan niệm về ca múa nhạc dƣờng nhƣ bao trùm lên mọi thể loại khác nhau của văn
học dân gian các dân tộc thiểu số. Đó là những tán tụng, ngợi ca về giá trị, tác dụng của lời
hát, giọng ca. tiếng đàn, khúc sáo, điệu khèn... trong tác phẩm. Chẳng hạn, trong truyện cổ
Hai đời của dân tộc Tà ôi, dân gian nói về tài thổi sáo của A Chích: "tiếng sáo anh cất lên cả
khu rừng rộn ràng hòa theo tiếng sáo, bầy chim trên cây tung cánh múa và cất tiếng hót vang.
Sáo vui chúng hót rộn ràng, sáo buồn chúng hót nghe ai oán..."[57,55] Dân tộc H'mông kể về
tài múa khèn tuyệt diệu của chàng Rùa trong truyện có cung tên "Chàng vừa khèn vừa múa
những đƣờng tròn tuyệt đẹp. Tiếng khèn ấm áp du dƣơng bay lƣợn cùng với gió xuân lan hết
núi thấp đến đồi cao. Con ngƣời đẹp cùng với những nhịp múa đẹp nhƣ bƣớm lƣợn khiến các
cô gái không thể rời mắt đƣợc ..." [189,40]v.v. Những ví dụ tƣơng tự trong các tác phẩm tự
sự cùng vói những chiêm nghiệm có phần khái quát trong các thể loại văn vần dân gian đã
hợp thành một bộ phận các lý giải khá lớn về ca múa nhạc trong văn học dân gian các dân tộc
thiểu số. Phải nói rằng các dân tộc đã giành cho ca múa nhạc rất nhiều ƣu ái và thiện cảm.
Hành trình của các nhân vật đáng trân trọng trong các tác phẩm thƣờng rất hay gắn với nhƣng
hoạt động ca múa nhạc.... Nghệ thuật ca múa nhạc vì thế dễ có cơ hội đƣợc sử dụng thƣờng
xuyên. Đi đánh giặc, trong tang lễ, tỏ tình khi yêu đƣơng, những dịp lễ hội v.v... Ở cảnh
huống nào cũng cần đến sự hiện diện của nghệ thuật ca múa nhạc. Nói về hình tƣợng những
cô gái, chàng trai lý tƣởng dƣờng nhƣ dân gian các dân tộc thiểu số thƣờng hay có ý thức trao
thêm cho họ khả năng biết ca hát. thổi khèn, thổi sáo... Nghệ thuật âm nhạc trở thành một tiêu
chí xác định phẩm giá của con ngƣời. Không biết âm nhạc là mất đi một phần niềm tin của
cộng đồng về giá trị của bản thân. Theo Chế Lan Viên: "Phần đông ngƣời
92
H'mông đều biết một trong ba nhạc cụ: sáo, khèn, kèn môi". [157 , 36]. Chàng trai K'Đời
trong truyện Chàng K'Đời và nàng Ka Bla của dân tộc Cơ Ho đƣợc mọi ngƣời xem nhƣ đã
trở thành một chàng trai đích thực khi "bàn tay khéo léo của anh đã biết làm những con
thuyền độc mộc, biết giƣơng ná bắn con chim đang bay... Tiếng sáo của anh đã biết làm cho
con suối đang chảy phải đừng lại, những cô gái đi rẫy thấy ngẩn ngơ mà dừng chân lại". [163
- 43]. Còn các cô gái trong ý thức dân gian đƣợc coi là đẹp ngƣời tốt nết thì chẳng có mấy
ngƣời lại không biết hát hay, múa dẻo. Cô gái trong truyện Cô gái trong rừng và chàng trai
K'Khàr của dân tộc Cơ Ho; nàng Bala trong truyện cổ Chàng Bali và nàng Bala của dân tộc
Tà ôi; nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh và cô gái trong truyện cổ Sông Bằng êm sóng
của dân tộc Thái, Làu Slam trong truyện cổ Tiếng hát của Làu Slam của dân tộc Cao Lan
v.v... đều là những cô gái có tài ca hát tuyệt diệu... Trong các bản trƣờng ca, sử thi Tây
Nguyên chẳng mấy khi bặt tiếng trống, tiếng cồng, chiêng... Vào những cảnh huống lễ hội
hoặc ra quân chống lại kẻ thù, cả Tây Nguyên nhƣ ngất ngây trong thế giới âm thanh huyền
diệu của cồng, chiêng, đàn nhạc... Những âm thanh kỳ diệu của âm nhạc đã đi vào tâm linh
con ngƣời nhƣ một nỗi ám ảnh thƣờng trực. Ngƣời Tây Nguyên thƣờng dùng âm thanh cồng
chiêng để làm bản vị nhận thức các đối tƣợng trong thế giới.Chẳng hạn nói về ngôi nhà rông
dài rộng, họ thƣờng nói "nhà rông dài bằng tiếng chiêng" hoặc tiếng cƣời trong trẻo của cô
gái thì đƣợc ví "tựa tiếng chuông Kua ngân dài" [119 ,10]. Gắn bó sâu nặng với ca vũ nhạc,
trao cho ca nhạc tất cả nỗi niềm đam mê của mình nhƣ thế, các dân tộc anh em không thể
không có ý thức về ca nhạc. Có lẽ đứng trƣớc dàn hợp xƣớng tổng hợp của cuộc biểu diễn,
các nghệ sĩ dân gian dân tộc thiểu số đã chú mục nhiều nhất vào ca vũ nhạc - cái phần nổi trội
hơn cả trong tổng thể nghệ thuật nói chung. Vì thế đến với văn học dân gian của
93
họ, chúng ta bắt gặp những khía cạnh quan niệm nghệ thuật ca múa nhạc là chính... Điền kiện
môi sinh của các dân tộc thiểu số có nhiều yếu tố thuận lợi cho các loại hình nghệ thuật biểu
diễn - trong đó có ca mún nhạc phát triển mạnh mẽ. Đời sống sản xuất, tập quán sinh hoạt, tín
ngƣỡng thờ cúng... của các dân tộc thiểu số đều cần đến sự hiện diện của ca múa nhạc. Âm
nhạc là phƣơng tiện hữu hiệu giúp họ thỏa nguyện những ƣớc muốn sinh tồn giữa một thế
giới môi sinh nghiệt ngã. Nông Quốc Chấn quả quyết rằng: "Nghệ thuật nhảy múa là sở
trƣờng ở các vùng dân tộc thiểu số" [196 , 55]. Sau khi phân tích các giai điệu vũ đạo của
ngƣời Kinh, nghệ sĩ Đỗ Doãn Phƣơng kêt luận: "Nhìn về múa nhạc, các dân tộc ít ngƣời rực
rỡ hơn nhiều" [129, 27]. Nhà nghiên cứu âm nhạc Tô Ngọc Thanh cũng từng nhận định:
'"Hầu nhƣ tất cả các điệu múa nhạc cổ truyền của các dân tộc thiểu số mà chúng tôi đƣợc biết
và tham gia sƣu tầm có một chất lƣợng nghệ thuật rực rỡ và đẹp đến thế....Nhiều điệu múa
của đồng bào chỉ cần đƣợc gia giảm đôi chút là đã chiếm giải khôi nguyên trong các cuộc thi
trong và ngoài nƣớc". [196,123]. Nhũng điệu múa vẫn thƣờng đƣợc triển khai trên nền ca
nhạc. Vì vậy ƣu thế về múa tất yếu cũng sẽ kéo theo ƣu thế về ca nhạc phát. triển. Đời sống
thƣờng nhật của nhân dân các dân tộc anh em chẳng mấy khi thiếu vắng nghệ thuật ca múa
nhạc. Ca nhạc là thứ ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt của họ cả khi buồn cũng nhƣ khi vui. Nhà
thơ Lò Ngân Sủn phát hiện: "Trai gái H'mông chỉ tỏ tình với nhau bằng tiếng ugica (đàn
môi), tiếng sáo, tiếng gầuplềnh (hát tình yêu). Chả thế mà trai gái H'mông ai cũng có chiếc
ugica cất trong túi áo" [143,16].Tƣ tƣởng của C.Mác về "phƣơng thức sản xuất đời sống vật
chất quyết định các quy trình sinh hoạt xã hội, chính trị, tinh thần" sẽ giúp ta hiểu rõ hơn thực
chất căn nguyên phát triển mạnh mẽ của các loại hình nghệ thuật biểu diễn trong đời sống
dân gian các dân tộc thiểu số anh em.
94
Dân tộc. Kinh tuy cũng có nói đến ca múa nhạc nhƣng không có độ dày các lý giải về
loại hình nghệ thuật này (đặc biệt là những lý giải về các loại nhạc cụ) nhƣ các dân tộc anh
em. Song bù lại họ có khá nhiều những kiến giải về văn chƣơng và ngôn từ nghệ thuật. Nhiều
vấn đề về bản chất của văn học, chất lƣợng thơ văn, tiếp nhận văn học, mối quan hệ giữa nội
dung và hình thức của tác phẩm v.v... mà các thế hệ nghệ nhân dân gian các dân tộc thiểu số
không hề nhắc đến thì đã đƣợc dân gian ngƣời Kinh sớm có ý thức tiếp cận và lý giải khá
thấu đáo.
Trong ý thức dân gian ngƣời Kinh, văn thơ là những giá trị tinh túy, cao siêu, không
phải ai cũng có thể bƣớc vào lãnh địa văn chƣơng một cách dễ dàng. Bằng những truyện cƣời
hóm hỉnh, thông minh, dân gian dân tộc Kinh đã trực tiếp dè bỉu những loại thơ văn quá kém
cỏi, nhếch nhác. Truyện cƣời Ngửi văn kể chuyện một ngƣời mù có tài "ngửi văn" rất độc
đáo: có thể biết đây là Tây Sương ký vì ngửi thấy mùi son phấn, kia là Tam quốc chí. vì ngửi
thấy có mùi binh đao. Đến khi thầy tú nọ đƣa văn của mình ra thì ngƣời mù liền hỏi: "Văn
của anh chứ gì?" Thày tú vặn: "Sao biết?" Ngƣời mù liền đáp "Nghe có mùi thum thủm".
[178 , 109]. Truyện cƣời Lấy đâu ra mà rặn trực tiếp chế diễu anh đồ dốt làm câu đối. Thấy
anh đồ loay hoay mãi không thành, chị vợ anh ta hỏi: "Có khó bằng rặn đẻ không anh?" Anh
ta trả lời: "Đẻ thì còn có con trong bụng, rặn mãi phải ra, chứ làm câu đối, chữ không có lấy
đâu ra mà rặn" [178, I74]. Cƣời cợt nhạo báng những loại văn rởm, đồng thời dân gian cũng
đề ra yêu cầu rất cao đối với giá trị nghệ thuật của thơ văn. Chẳng hạn dân tộc Kinh đã chế
diễu loại Thơ con cóc: "Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra..., con cóc
nhảy đi..." hay loại thơ mô phỏng nhạt nhẽo theo lối sao chép trần trụi hiện thực qua việc mô
tả cái chuông:
Chùa này có cái chuông
95
Đánh nó kêu boong boong
Treo lên nhƣ cái vai
Ấy nó vốn bằng đồng. [96 , 268].
Làm sao có thể đến với thơ văn khi tiềm năng thơ văn của con ngƣời trống rỗng,giản
đơn nhƣ anh thầy đồ nọ? hay nhƣ tác giả của những bài Thơ con cóc, Thơ cái chuông kia?
Đặc biệt, chất lƣợng sáng Tác văn học cũng đƣợc dân gian dân tộc Kinh trực tiếp
hoặc gián tiếp nói đến khá độc đáo:
Văn hay chẳng lọ dài dòng.
hoặc:
Văn hay chẳng luận đọc dài
Vừa mở đầu bài đã biết văn hay v.v...
Văn chƣơng thƣờng thấm đƣợm ý thức chủ quan của chủ thể sáng tạo. Không có một
bản lĩnh tiếp nhận tinh táo dễ sinh ra chủ quan phiến diện khi lĩnh hội. Sự thực ấy cũng đã
đƣợc đồng bào Kinh khái quát:
Xƣa nay thế thái nhân tình
Văn mình thì đẹp, vợ mình thì hay.... [72 - 119]
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, nhờ ngôn từ mà xây cất nên. Trong dân gian dân
tộc Kinh tuy không có mấy những lời bàn trực tiếp về văn học nhƣng một khi đã có ý thức
nói về lời hay, câu đẹp... là dân gian đã nói đến ngôn từ có tính chất nghệ thuật,- Nói khá
nhiều về ngôn từ thẩm mỹ nghệ thuật cũng có nghĩa là họ đã bƣớc đầu tiếp cận đến văn học ở
một khâu then chốt. Quả vậy, lọc tìm trong kho tàng văn học dân gian dân tộc Kinh, số lƣợng
những câu nói có ý nghĩa bộc lộ quan niệm về ngôn từ nghệ thuật là phƣơng tiện quan trọng
bạc nhất của văn học đã đƣợc đông bào Kinh luận bàn đến với một số lƣợng khá dồi dào. Họ
đã sớrn có ý thức suy tƣ, nắm bắt đƣợc những sắc thái da dạng của ngôn từ. Với ngƣời trung
thực thì "nói nhƣ
96
đinh đống cột". Những kẻ ba hoa khoác lác thì "nói trơn nhƣ nƣớc chảy". Với kẻ lật lọng, lèo
lá thì "Nói xuôi cũng đƣợc, nói ngƣợc cũng hay". [122, 75] v.v...
Ngƣời Kinh ý thức về việc sử dụng ngôn từ bằng tất cả nỗi niềm nhân ái, nhân văn:
- Lời nói không mất tiền mua;
Chọn lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Hoa thơni ai nỡ bỏ rơi
Ngƣời khôn ai nỡ nặng lời với ai? v.v... [178 , 165].
Quả thật dân tộc Kinh đã có một bộ phận quan niệm khá đặc sắc về nghệ thuật thơ
văn và ngôn từ thẩm mỹ.
So với các dân tộc thiểu số anh em, văn chƣơng với ngƣời Kinh đã sớm trở thành một
nghệ thuật hoạt động khá độc lập. Nó sớm tách khỏi cơ cấu nghệ thuật nguyên hợp nhờ sự
hiện diện của chữ viết từ khá sớm. Theo nhà nghiên cứu văn học Bùi Văn Nguyên: "Văn học
Việt Nam (tức văn học của ngƣời Kinh - HML) phôi thai vào khoảng thời kỳ Bắc thuộc và
hình thành từ khi nền tự chủ đƣợc xác lập... Nhƣ vậy, chúng ta (tức ngƣời Kinh -HML) đã có
hẳn một nền văn học viết từ thế kỷ X trở về sau.'' [105 , 46]. Tất nhiên nền văn học viết ở
buổi sơ kỳ này chủ yếu là nền văn học viết bằng chữ Hán. Còn nền văn học viết bằng chữ
Nôm phiên âm dân tộc, theo tác giả Đinh Gia Khánh thì "hình thành vào đời Trần", tuy nhiên
tác giả cũng đã lƣu ý đến một số ý kiến cho rằng "chữ Nôm xuất hiện từ thời kỳ Bắc thuộc"
[77, 139]. Trong khi đó nền văn học viết của một số ít dân tộc thiểu số hình thành rất muộn
mằn. Dân tộc Tày - một trong những dân tộc có nền văn học viết sớm nhất và phát triển nhất
trong số các dân tộc thiểu số.. "đã từng có những tác phẩm đạt tới tầm cao của cả nƣớc" (Lâm
Tiến) [154,18]. thì cũng phải đến thế kỷ XVII mới xuất hiện những tác gia, tác
97
phẩm viết bằng chữ Nôm Tày. Văn học viết của dân tộc Thái còn xuất hiện muộn hơn nữa
(vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX). Nhƣ vậy theo thƣ tịch hiện có thì chỉ có hai
dân tộc Tày, Thái là cổ văn học viết từ trƣớc cách mạng tháng Tám Các dân tộc thiểu số nói ít
về văn học vì họ không có những điều kiện khách quan và truyền thống phát triển văn học.
Loại trừ một số ít dân tộc thiểu số có điền kiện giao lƣu thuận lợi với các dân tộc láng, giềng
giàu truyền thống thơ văn nên có xuất hiện rải rác vài cảm nhận thoảng qua về văn học.
Chẳng hạn dân tộc Tày, Dao, Nùng là những dân tộc có địa bàn trú nằm trên những trục giao
lƣu trực tiếp với ngƣời Việt, ngƣời Hoa... từ rất sơm. Cho nên mới có đƣợc vài lý giải đáng
lƣu ý về văn học. Còn tuyệt đại bộ phận các dân tộc thiểu số khác hầu nhƣ không hề nhắc đến
thơ văn trong các lý giải của mình về nghệ thuật.
Dân tộc Dao bên cạnh một vài câu ca đề cao vị thế của ngƣời giỏi giang chữ nghĩa
văn chƣơng nhƣ đã nói ở trên cũng đã có ý thức coi thơ văn là phƣơng tiện rèn dạy con ngƣời
sống đúng, sống đẹp:
Thanh nhàn suy nghĩ đặt bài thơ
Dạy cho cháu con mai sau thấu hiểu
Gây dựng gia đình phải suy nghĩ. [21 , 370].
Đồng bào Tày coi việc am hiểu thơ văn sâu sắc cũng đồng nghĩa với sự am hiểu con
ngƣời và cuộc đời tƣờng tận, nhờ đó việc ứng nhân xử thế của con ngƣời sẽ đúng mực và lịch
lãm hơn:
Tôi đến đây nộp lễ cho ngƣời
Có điều chi sai trời đừng trách
Bởi tôi không giỏi sách, giỏi văn
Sai lòng xin bản thôn đừng quở. [21 , 499]..v.v..
Mới chỉ có một hai dân tộc có chút ít di sản quan niệm về thơ văn. Những ý kiến rời
rạc, lẻ tẻ về thơ văn nhƣ vậy chƣa đủ làm nên diên mạo
98
bức tranh quan niệm về văn học của các dân tộc. Ở đây cán cân quan niệm nghệ thuật quả đã
quá thiên lệch về phía thế giới những âm thanh kỳ diệu của điêu đàn, khúc sáo, lời ca... Nếu
đã biết rằng ca nhạc là một phần đời sống tinh thần không thể thiếu vắng của các dân tộc anh
em thì tất phải thừa nhận sự thật hiển nhiên ấy. Còn đối với dân tộc Kinh, nền văn học viết
xuất hiện từ khá sớm lại cùng tồn tại và phát triển song hành với văn học dân gian. Sự cộng
hƣởng trí lực từ hai nguồn văn học ấy chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực cho
quá trình sáng tạo cũng nhƣ phê bình luận giải về văn học trên cả hai lĩnh vực văn học bác
học và văn học dân gian của dân tộc Kinh. Mặt khác, địa bàn cƣ trú của dân tộc Kinh chủ yếu
ở những khu vực là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả cộng đồng dân tộc, dễ có điều
kiện tập trung trí lực văn nghệ của cả dân tộc quốc gia. Hơn nữa trong tƣ cách dân tộc chủ
thể, dân tộc Kinh cũng là ngƣời đứng ở nơi đầu mối tiếp nhận các giá trị và tinh hoa văn hóa
văn nghệ từ các dân tộc, các quốc gia khác. Đó là những căn nguyên tạo cơ hội thuận lợi cho
việc trau dồi, hun đúc các quan niệm văn học đa dạng và khá thấu triệt trong văn học viết và
từ đó sẽ lan tỏa đáng kể sang văn học dân gian của họ.
2.2.2. Sự khác nhau về thể loại trong việc bộc lộ quan niềm về nghệ thuật.
Ở đây đặt vấn đề xem xét các thể loại hiện diện dƣới dạng các "văn bản" trong sáng
tác dân gian cổ truyền mà ở đó có những ngôn từ hoặc những tình tiết, sự kiện... liên quan
đến nghệ thuật sẽ tập trung vào những loại thể khác nhau nhƣ thế nào giữa các dân tộc thiểu
số và dân tộc Kinh?
Nhìn chung phần lớn các quan niệm về nghệ thuật (về cái đẹp) trong văn học dân gian
các dân tộc thiểu số chủ yếu đƣợc triển khai trên các thể loại tự sự dân gian nhƣ truyện cổ,
truyện thơ, sử thi v.v... Mức độ xuất hiện các quan niệm trên các thể loại thơ ca, tục ngữ
thành ngữ... rất ít. Trong khi
99
đó. các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian dân tộc Kinh chủ yếu xuất hiện qua
các thể loại văn vần dân gian nhƣ thơ ca, tục ngữ. thành ngữ v.v...
Trong văn học dân gian Việt Nam nói chung, các tác phẩm tự có tầm cỡ lớn nhƣ
truyện thơ, trƣờng ca, sử thi... đều thuộc về văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Họ là chủ
nhân sáng tạo và làm cho vị thế các thể loại này có đƣợc một diện mạo đáng nể trọng trong
lịch sử văn học dân tộc. Những tác phẩm Vượt biển, Kim Quế, Trần Châu, Quảng Lâm
Ngọc Lương... của ngƣời Tày. Tiễn dặn người yêu, Chàng Lú nàng Uá, Khăm Panh,
Chương Han... của ngƣời Thái, Nàng Nga Hai Mối, Nàng Ờm chang Bông Hương, Vườn
hoa núi Cối, Tráng Đồng, Đẻ đất đẻ nước... của ngƣời Mƣờng, Đam San, Sing Nhã, Khinh
Dú, Đăm Di... của người Ê đê, Dông tư, Rốc Xét... của ngƣời Ba na, Riêm kê, Si Thạch...
của ngƣời Khơ me v.v.. đều là những tác phẩm tự sự trƣờng thiên bất hủ, góp phần tạo dƣ âm
vang vọng cho nền văn học dân gian Việt Nam đa dân tộc.
Các dân tộc thiểu số anh em có một kho tàng tác phẩm tự sự dân gian đổ sộ và cũng
nƣơng theo các tác phẩm tự sự, họ có thói quen bộc lộc các ý tƣởng về cái đẹp, về nghệ thuật
của mình một cách thuận tiện so với các thể loại khác. Căn nguyên của vấn đề, có lẽ một
phần quan trọng bắt đầu từ tạng thức tƣ duy quen thuộc của họ. Các dân tộc thiểu số anh em
ƣa nhận thức thế giới đối tƣợng trong tính tuần tự, có ngọn ngành đầu cuối. Đồng bào Thái đã
từng đề ra những nguyên tắc nghiêm ngặt trong quá trình kể chuyện nhƣ sau:
Phải kể từ đầu đến cuối
Hết đoạn trƣớc, kể dòng sau
Hết dòng sau, kể đoạn mới. [111, 170]
(Ẳm Ệt luông)
100
Quả thật, loại hình văn học kể (tức tự sự) có ƣu thế giúp họ giãi bày các ý tƣởng sâu
xa qua những chi tiết, tình tiết sinh động. Thơ ca, tục ngữ, thành ngữ... thiên về khái quát hiện
thực trong những cách nói hàm súc, cô đọng, dồn nén các ý tƣởng trong những đơn vị ngôn
từ đặc biệt hạn chế... xem ra dễ đối nghịch với những cách nói ƣa sự diễn thuyết, kể lể dài
dòng về những đối tƣợng nhận thức sinh động của các dân tộc anh em. Không có gì khó hiểu
khi ta thấy trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc có rất ít tục ngữ, thành ngữ, châm
ngôn... và số lƣợng ít ỏi ấy lại cũng thuộc về vài ba dân tộc "đa số" trong các dân tộc thiểu số
có trình độ phát triển cao hơn nhƣ: Tày, Nùng, Thái, Mƣờng. Tự sự là thao tác cơ bản phù
hợp với đặc trƣng nhận thức cụ tƣợng của các dân tộc anh em từ ngàn đời nay. Vì thế ngay cả
khi nhận thức đối tƣợng dƣới dạng thức thơ ca thì hồn cốt thơ ca của họ vẫn là thơ thiên về tự
sự, mô tả là chính. Đó là loại thơ rất gần với lối nói khẩu ngữ mộc mạc tự nhiên mà chúng tôi
sẽ có dịp nói kỹ hơn ở các chƣơng mục sau.
Nhƣ đã nói, các quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật trong văn học dân gian dân tộc
Kinh về cơ bản dàn đều trên các loại thể khác nhau, song ở đó các lý giải chí thú, sâu sắc nhất
lại thiên về các thể loại văn vần trữ tình nhƣ ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ... Dân tộc
Kinh có những câu ca, tục ngữ nói về nghệ thuật thật sinh động mà giàu sức khái quát
Khen ai khéo gẩy bài đờn
Làm cho con sáo nó chập chờn tỉnh mê. [117 ,412]
Đàn bầu mà gẩy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ, gƣơm đâu bắn ruồi. [72 , 169]
Đất nghèo chạy bữa ăn đong
Mà câu hát ghẹo thì không mô bằng v.v.. [72 ,115]
Quan niệm về cái đẹp cũng thật thấm thía qua những câu ca tục ngữ hàm xúc:
101
- Ngƣời ta là hoa của đất
- Lạ thay nết nói nết cƣời
Nết sao lại khiến cho ngƣời muốn thƣơng. [72 ,60]
- Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo
Nghèo tiểu nghèo bạc chẳng cho là nghèo. [72 , 157]
Thói đời hay chuộng bề ngoài
Nào ai ai đã biết ai hơn nào v.v.... [72,163]
Ƣu thế, sở trƣờng biểu đạt các ý tƣởng về nghệ thuật, về cái đẹp trong văn học dân
gian dân tộc Kinh chắc chắn có liên quan đến tiềm lực phát triển thơ ca rực rỡ từ rất sớm của
họ. Biểu đạt trong khuôn khổ ngôn từ thơ ca thật không đơn giản. Dân gian ngƣời Kinh đã
từng bài xích mỉa mai những loại Thơ con cóc giản đơn, mô phỏng dễ dãi hiện thực, thì cũng
có nghĩa họ đã đề ra yêu cầu rất cao đối với giá trị đích thực của văn học - nghệ thuật ngôn
từ. Những ý tƣởng về nhân sinh nhân thế một khi đã đƣợc chiêm nghiệm đến độ chín thì dù
đƣợc biểu đạt ra bằng cách nào cũng đều thú vị. Nhƣng chắc chắn sẽ thú vị hơn nếu nhƣng ý
tƣởng đó lại đƣợc diễn đạt bằng tiếng nói thơ ca đầy ám ảnh. Cái khiếu thơ ca dƣờng nhƣ vừa
tự phát sáng trong trái tim nóng hổi tình ngƣời của mỗi chủ thể, lại vừa cần có cái nền tảng
nâng đỡ, khích lệ của truyền thống cộng đồng. Truyền thống trọng dụng thơ ca của ngƣời
Kinh thật đáng quý. Các các dân tộc thiểu số có thế tỏ tình với nhau bằng tiếng sáo, tiếng
khèn, kèn môi... Ngƣời Kinh thƣờng tỏ tình ƣớm hỏi nhau bằng hình thức thơ ca:
- Gặp dây mận mới hỏi đào
Vƣờn hồng tƣơi tốt ai vào hay chƣa?
- Gặp đây anh nắm cổ tay,
Anh hỏi câu này có lấy anh không?
- Qua đình ngả nón trông đình
102
Đình bao nhiêu ngói thƣơng mình bấy nhiêu v.v... Bất luận ở đâu, làm việc gì, có dịp
bắt gặp những câu nói vần vè, nhịp điệu là liền đƣợc cộng đồng tán thƣởng, trầm trồ... Nhà
nƣớc phong kiến thiết lập chế độ thi cử để chọn ngƣời hiền tài giúp nƣớc lại cũng chủ yếu lấy
văn chƣơng cử tử làm trọng. Các thế hệ ngƣời Kinh háo hức lập danh khoa cử cũng đều gắng
gỏi cật lực với chuyện "tầm chƣơng trích cú" văn chƣơng Cổ Kim, Nam Bắc. Có thể nói
ngƣời Kinh hòa nhập vào quỹ đạo thơ ca từ rất sớm. Thơ ca dƣờng nhƣ đã là khía cạnh giá trị
góp phần tôn cao phẩm giá đích thực của con ngƣời. Không thể phủ định những thành tựu rực
rỡ của thơ ca qua lịch sử phát triển văn học của ngƣời Kinh. Tự hào về bề dày huyền thống
văn chƣơng dân tộc, Ngô Thì Nhậm đã từng viết trong lời tựa cuốn Tỉnh sà kỷ hành của
Phan Huy Ích: "Nƣớc Việt ta lấy văn hiến giữ nƣớc, thi ca thai nghén từ đời Lý, thịnh vƣợng
ở đời Trần, dấy lên rầm rộ ở đời Hồng Đức, đời Lê. Một bộ "Toàn Việt thi lục", về cổ thể, thì
không nhƣờng thi ca các đời Đƣờng, Tống, Nguyên, Minh; nhả ngọc phun châu, thật đáng
gọi là một nƣớc thơ." [96, 65]. Bên cạnh văn học viết, nhiều truyện cổ, truyện thơ dân gian
ngƣời Kinh đã dành cho những ngƣời giầu ý chí phấn đấu trên con đƣờng hƣớng nghiệp văn
chƣơng "những tình cảm trân trọng nhƣ Sự tích tháp Báo Ân ; Truyện thơ Lương Sơn Bá -
Chúc Anh Đài; Phạm Tải - Ngọc Hoa v.v...
Rõ ràng ý thức ƣa biểu đạt các quan niệm về nghệ thuật; về cái đẹp dƣới hình thức
văn vần của dân tộc Kinh là có căn nguyên sâu xa từ trong chiều sâu tiềm thức luôn hƣớng
tới ý nguyện giao tiếp ngôn từ lịch lãm hài hòa của họ.
2.2.3 . Sự khác nhau về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật.
Các dân tộc anh em thƣờng biểu đạt những ý tƣởng về cái đẹp về nghệ
103
thuật bằng những hình thức bộc trực, giầu hình ảnh so sánh dung dị mộc mạc, rất gần với
khẩu ngƣ. Cho dù đã đƣợc bọc lót dƣới hình thức thơ song lời biện minh của cô gái H'mông
này chẳng khác mấy với lời thoại thông thƣờng trong khẩu ngữ hồn nhiên hàng ngày của họ:
Bài gì câu gì cũng học đƣợc đủ
Bài gì câu gì chàng cũng học đƣợc đều
Còn em nhƣ con gà sống của cha của mẹ mới tập gáy
Bài gì câu gì em cũng không học đƣợc đủ
Bài gì câu gì em cũng không học đƣợc đều...
Khi miêu tả nhận xét, lời lẽ biểu đạt của họ cũng giầu tính chất cụ tƣợng nên rất gợi
hình. Chẳng hạn nói về tiếng hát tuyệt diệu của nàng Mứn trong truyện thơ Khăm Panh, dân
gian Thái bày tỏ đối tƣợng sinh động tới mức có thể trực cảm đƣợc:
Nàng mở miệng hát bên núi
Voi đội ngà đi đến nghe
Nàng hát bên dá con đó mẹ
Cá Khếnh quên bơi
Cá Trôi bỏ dàn vơ vẩn
Nàng đến hát bên rừng
Để chim quên ăn trái chín, trái xanh... [153,60]
Tính chất cụ thể rõ ràng trong sự lý giải về cái đẹp nhiều khi còn đƣợc các dân tộc
thiểu số đẩy tới mức cảm nhận xác thực tựa nhƣ có thể đong đếm đƣợc: Đam San đánh giá
"Hơ Blý đẹp hơn nàng Hơ ây chừng ba ngón tay". Hơ Blý khen Hơ nhí: "Chị đẹp lắm, chị
đẹp bằng hai vƣờn hoa qủa rồi đấy..." [173, 54]. Vẻ đẹp của một cô gái đƣợc dân gian vân
Kiều cảm nhận: "thân thể em mịn màng nhƣ hạt gạo trắng đầu mùa. Da đẻ em mát mẻ nhƣ
nƣớc suối đầu nguồn" [151,7].v.v...
104
Có cảm giác đã miêu tả đối tƣợng là họ nhấn thật sâu, xoáy thật kỹ vào các thuộc tính
của đối tƣợng để nói đến thấu triệt mới thôi. Xem ra họ không ƣa khái quát,, vì nhƣ vậy đối
tƣợng hiện lên sẽ chung chung, trừu tƣợng, thiếu xác thực mạnh mẽ. Đồng bào Ê đê miêu tả
vẻ đẹp hình thể của một cô gái trong sự hình dung cụ thể với các loại sắc màu rực rỡ trong tự
nhiên:
Mắt em xinh tựa quả cà
Má em nhƣ quả mơ-kia chín hồng
Môi em tựa chiếc câu vồng ban trƣa. [119, 10]
Cũng nhƣ vậy dân gian Mƣờng cảm nhận về vẻ đẹp hình thể của Út Lót trong truyện
thơ Tráng Đồng:
Đẹp tốt nhƣ tiên nhƣ ngọc
Bắp tay trắng bóng nhƣ ngần
Bắp chân trắng bóng nhƣ ngà
Nƣớc da mềm trơn nhƣ nõn chuối...
Mắt nàng tƣơi, trong nhƣ sao sáng... [3, 38]
Sự hồn nhiên, dung dị mộc mạc theo lối khẩu ngữ vốn đã chất chứa, dồi dào ở thơ ca,
lại càng có dịp đi đƣợc phát huy hơn nữa ở phạm vị tác phẩm tự sự. Những thuộc tính phẩm
chất vốn có ở đối tƣợng đã đƣợc dân gian miêu tả theo thủ pháp đặc tả thấu triệt. Chẳng hạn,
về uy lực của nghệ thuật cồng chiêng, ngƣời Ê đê trong một trƣờng ca đã kể lại bằng những
hình ảnh liên tƣởng thật thơ mộng và kỳ thú hiếm có khi nói về tác dụng to lớn của nghệ
thuật:
Đánh chiêng tiếng trầm
Chiêng ngân khe khẽ
Đánh nhẹ cho gió lùa xuống đất
Đánh cho vang khắp vùng
105
Rung cho tiếng lùa qua đầm
Làm cho bầy ma quên hại con ngƣời
Cho loài chuột sóc quên đào hang luôn
Cho rắn lùa ra khỏi tổ
Cho hƣơu nai dừng mà ngó
Cho thỏ lắng tai nghe
Quên cả nhai cỏ non... [103, 203]
Rõ ràng các dân tộc anh em nghĩ suy về sức mạnh của nghệ thuật bằng tất cả niềm tin
hồn nhiên, chân cảm của mình. Họ cho rằng: sức mạnh của nghệ thuật có thể giúp cho con
ngƣời cầu đƣợc ƣớc thấy cả. Ý thức về sức mạnh của nghệ thuật cơ hồ nhƣ một xác tíu kỳ
diệu nhƣ vậy chỉ có thể tìm thấy trong ý thức dân gian các dân tộc thiểu số. Vẻ đẹp của nàng
Hơ bia trong truyện cổ Nói khoác gặp thời đã đƣợc các nghệ nhân dân gian Ê đê tán tụng
thật chi tiết: "Hơ bia càng lớn càng đẹp. Mọi miền từ ven sông to suối nhỏ tới chân núi rừng
thƣa không có một cô gái nào đẹp bằng nàng. Đến tuổi lấy chồng, bàn tay nàng càng thêm
khéo léo. Nàng chăn heo gà, heo gà mau lớn và nhiều con. Nàng dệt khăn khố màu sắc khăn
khố lộng lẫy nhƣ sắc cầu vồng... Nàng bƣớc tới đâu, ở đó sáng lòa nhƣ ánh chớp..." [193 ,
103] v.v... Thả dòng ý thức theo sự tự do không hạn định của chuỗi ngôn từ tự sự, các nghệ
nhân dân gian dân tộc thiểu số thƣờng thỏa thuê ngắm nhìn, tán tụng vẻ đẹp của các nhân vật
một cách tƣờng tận, chi ly. Trong khi đó ý thức về cái đẹp và về nghệ thuật trong văn học dân
gian dân tộc Kinh thƣờng đƣợc biểu đạt theo lối khái quát. Những phẩm chất giá trị của đối
tƣợng thẩm mỹ sẽ đƣợc gợi ra nhờ những khái quát hàm xúc. Chẳng hạn về vẻ đẹp của công
chúa trong truyện cổ: Sự tích đầm Nhất dạ , dân tộc Kinh phác vẽ "vua Hùng vƣơng thứ ba
có nàng công chúa rất xinh đẹp" [160, 5] hay trong Huyện cổ Hà ô lôi: "Vào đời nhà Trần, ở
làng Ma la gần thành
106
Thăng Long có Đặng Sĩ Dinh tuổi còn trẻ mà đã làm quan to, ông ta có một ngƣời vợ rất đẹp"
[160 42] v.v... Thay vì cho cách miêu tả, kể lể chi li về cái đẹp của vóc dáng, làn da, khuôn
mặt., mái tóc, tay, chân... mà các dân tộc vẫn thƣờng hay làm, dân tộc Kinh thƣờng chỉ giới
hạn về cái đẹp của nhân vật một cách khái quát : "rất xinh đẹp", "rất đẹp", "đã đẹp ngƣời lại
tốt nết".... Nói về cái đẹp của con ngƣời, các dân tộc thiểu số rất thƣờng đặt vẻ đẹp của đối
tƣợng trong sự đối sánh với các thuộc tính đẹp của thế giới vật chất xung quanh. Dân tộc
Kinh không phải không có ý thức ấy song cơ bản ít mải mê hơn. Có thể tìm ra rất nhiều
những câu ca, lời hát của đồng bào Kinh phác họa vẻ đẹp của con ngƣời mà không nhất thiết
phải đặt nhân vật trong sự ứng chiếu với đối tƣợng tự nhiên nào cả; chẳng hạn:
- Chẳng tham nhà ngói rung rinh
Chỉ tham một nỗi anh xinh miệng cƣời
Miệng cƣời anh đáng mấy mƣơi
Chân đi đáng nén, miệng cƣời đáng trăm. [122, 70]
- Lạ sao nết nói nết cƣời
Nết sao lại khiến cho ngƣời muốn thƣơng. [72, 60]
Khi nói về nghê thuật , dân tộc Kinh cũng ít khi lý giải tỉ mỉ những diễn biến của quá
trình tác động nghệ thuật từ chủ thể đến đối tƣợng mà thƣờng khái quát qua những chi tiết cô
đọng. Chẳng hạn trong Truyện Thạch Sanh dân gian nói về hiệu quả của tiếng đàn đối với
nỗi niêm tâm sự của công chúa: "Công chúa ngồi trên lầu, nghe tiếng đàn bỗng reo mừng.,
cƣời nói, xin vua cha cho gọi ngƣời gẩy đàn đến..." [31, 50]. Hoặc trong truyện Sự tích Sọ
Dừa , dân gian nói về tâm trạng của cô ba con gái phú ông khi nghe tiếng sáo của Sọ Dừa:
"Tiếng sáo lúc trầm, lúc bổng, lúc mau lúc khoan, thấm thía cõi lòng, làm cho cô gái tự nhiên
thấy bồn chồn thổn thức." [31, 9]. Cũng nói về hiệu quả của tiếng đàn, tiếng sáo, dân gian
các
107
dân tộc thiểu số thƣờng mô phỏng rất chi ly, tạo cảm giác trực cảm rõ rệt. chẳng hạn tiếng
sáo của Hơ Rít - chàng trai trong truyện cổ Tiếng sáo thần kỳ của dân tộc Gia rai khi gặp
ngƣời yêu Gặp lại ngƣời yêu, Hơ rít mừng quá, Cầm sáo ra thổi không biết mệt. Càng thổi,
mắt Hơ rít càng sáng ra, tóc càng đen mƣợt nhƣ lƣng con rắn than, da dẻ chàng trở nên tƣơi
tắn tựa nhƣ màu khâu đồng. Hơ rít không còn đen đủi, xấu xí nữa. Lúc đầu ngồi nghe Hơ rít
thổi sáo, cô gái còn e thẹn. Về sau, theo tiếng sáo thánh thót, trầm bổng nàng bắt đầu nhảy
múa say sƣa, đến khi mệt quá, cô gái gục đầu vào lƣng Hơ rít ngủ....''[10,367]. Cách biểu đạt
về tác dụng của nghệ thuật quá đỗi cụ thể, hồn nhiên và thành thật nhƣ vậy chỉ có thể bắt gặp
trong ý thức của dân gian các dân tộc thiểu số anh em (đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên), Cách thức biểu đạt này có một phần căn nguyên từ nhịp điệu sinh hoạt tinh thần và
chu trình sản xuất quen thuộc của các dân tộc anh em từ ngàn xua. Cuộc sống muôn mặt của
họ dƣờng nhƣ đã đƣợc hoạch định vào trong từng khung quĩ thời gian ổn định theo từng năm
tháng. Trong một năm, tháng nào phát dẫy, dọn nƣơng, tháng nào gieo hạt, làm cỏ, thu hoạch;
tháng nào lễ hội, cƣới xin.... tất cả đều diễn ra theo một nhịp điệu nhất quán từ năm này qua
năm khác. Thêm vào đó là lối sống du cƣ, du canh luôn di chuyển môi trƣờng cƣ trú... Những
nguyên do này quả có đem đến cho con ngƣời thói quen ƣa những gì cụ thể, thiết thực, xa lạ
với những gì viển vông, phi thực. Môi trƣờng sống sẽ tạo ra lối sống, lối nghĩ quen thuộc để
rồi từ đó hiển thị vào trong cảm quan nghệ thuật của họ qua văn học dân gian.
Ở trên đã có dịp nói đến những điều kiện khách quan thuận lợi đối với thực tiễn phát
triển văn học: của ngƣời Kinh. Một dân tộc một khi đã biết ý thức thật sâu sắc thấm thía về
bản chất, đặc trƣng và yêu cầu tiếp nhận văn học cũng nhƣ các hình thức ngôn từ thẩm mỹ
chắc chắn cũng sẽ có khả năng tự ý thức đƣợc ngƣỡng độ biểu đạt về đối tƣợng một cách
108
chừng mực; thâm thúy... Phải chăng ý thức biểu đạt các quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật
trong văn học dân gian ngƣời Kinh có thiên hƣớng nhằm vào những lối nói khái quát, cô
đọng là có cội nguồn sâu xa từ những ý thức của họ về chất lƣợng văn học cũng nhƣ về hiệu
quả sử dụng ngôn từ :
- Văn hay chẳng luận dài dòng
- Rƣợu lạt uống lắm cũng say
Ngƣời khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm [72 ,164] v.v...
Các thế hệ văn nhân ngƣời Kinh đã từng rong ruổi nghiệp văn chƣơng đèn sách chắc
hẳn đều tâm niệm sâu sắc quan niệm "ý lại ngôn ngoại" trong sáng tạo và tiếp nhận giá trị văn
chƣơng. Họ lấy hồn cốt nội dung tƣ tƣởng thâm trầm bên trong những hàm súc, ngắn gọn làm
trọng, chứ đâu phải lấy việc lý giải tận tuy, chi ly, chân xác đến ngọn nguồn đối tƣợng làm
điều hay. Rõ ràng những cách thức biểu đạt vốn có trong văn học dân gian ngƣời Kinh về
nghệ thuật, về cái đẹp đã có cả một mặt bằng ý thức về văn học và ngôn từ thẩm mỹ - nghệ
thuật làm điểm tựa cho nó trong quá trình lịch sử văn hóa nghệ thuật dài lâu của chính họ.
*
* *
Tóm lại, trải qua lịch sử từ mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, giữa các dân tộc
thiểu số và dân tộc Kinh có nhiều nét đồng điệu khi bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật (và
về cái đẹp) trong văn học dân gian cổ truyền.
Trên bình diện cộng đồng dân tộc, khi quan niệm về cái đẹp, các dân tộc thiểu số và
dân tộc Kinh đã gặp gỡ nhau thân thiết ở thái độ đề cao cái đẹp bên ngoài, rất trân trọng phẩm
chất cao đẹp bên trong, và thực sự chia sẻ với nhau ở khát vọng hƣớng tới cái đẹp lý tƣởng
"đẹp ngƣời, đẹp nết". Cuối cùng, ý thức hƣớng cái đẹp tới những giá trị hữu ích, góp phần
đấu tranh đánh giặc cứu nƣớc, giúp dân là sự tƣơng
109
đồng ký diệu giữa nhân dân các dân tộc Việt Nam đƣợc hun đúc qua quá trình lịch sử chung
lƣng đấu cật dựng nƣớc và giữ nƣớc đầy hy sinh, gian khổ nhƣng vô cùng anh dũng vẻ vang.
Ở phạm vi quan niệm nghệ thuật, sự tƣơng đồng cơ bản giữa các dân tộc thiểu số và
dân tộc Kinh đƣợc biểu hiện rõ nhất ở ý thức đem nghệ thuật phụng sự cho công cuộc dựng
xây và bảo vệ tổ quốc, trong đó sự lƣu truyền rộng rãi các truyện cổ theo mô típ dùng lời ca,
tiếng đàn làm vũ khí đánh giặc cứu nƣớc là những minh chứng tiêu biểu. Ngoài ra, giữa các
dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh cùng đều đặc biệt đề cao giá trị của nghệ thuật, đều đam mê
tuyệt đích với nghệ thuật trong mọi cảnh huống cuộc đời.
Trên bình diện nhân dân khi lý giải về cái đẹp, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân lộc
Kinh đều đặc biệt đề cao cái đẹp của ngƣời lao động trong môi trƣờng cuộc sống lao động
khoẻ khoắn, lành mạnh. Với dân gian, cái đẹp có ý nghĩa, cái đẹp đáng trân trọng là cái đẹp
Thuộc về nhân dân lao động. Họ công khai dè bỉu, bài xích những cái đẹp giả tạo, phù phiếm,
thoát ly lao động hữu ích.
Cùng đứng trên lập trƣờng của nhân dân lao động, khi quan niệm về nghệ thuật, các
dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều đặc biệt đề cao nghệ thuật phụng sự cuộc sống
bình yên của nhân dân lao động. Với họ, nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo nên các giá trị
nghệ thuật đặc sắc và chủ động sử dụng tiếng nói nghệ thuật của mình vào mục đích yên dân,
cứu nƣớc.
Bên cạnh những tƣơng đồng, giũa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh cung có những
điểm khác biệt xung quanh các quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật trong văn học dân gian.
Về loại hình nghệ thuật được cảm nhận, xét trên tƣơng quan cụ thể về tỷ lệ và mức độ bộc lộ
quan niệm, các dân tộc thiểu số quan tâm nhiều hơn đến nghệ thuật ca múa nhạc còn dân
110
tộc Kinh tuy cũng có luận bàn về ca múa nhạc nhƣng tỷ lệ ít hơn. Dân tộc Kinh phần nào đã
có ý thức thấu đáo hơn khi bày tỏ quan niệm về thơ văn -phạm vi mà các dân tộc thiểu số nói
đến rất ít. Về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật , các dân tộc thiểu số thƣờng
tìm đến các thể loại tự sự dân gian để giãi bày quan niệm, khác với dân tộc Kinh thƣờng tìm
đến các loại thể loại văn vần dân gian để bộc lộ các cảm nhận về nghệ thuật (và cái đẹp) của
mình. Về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm, các dân tộc thiểu số thƣờng bộc
lộ các quan niệm một cách cụ thể, sinh động trên tinh thần chân cảm mộc mạc, còn dân tộc
Kinh phần nào đã hƣớng tới ý thức bộc lộ các quan niệm về nghệ thuật (cũng nhƣ về cái đẹp)
một cách khái quát, hàm súc. Những khác biệt trên bắt nguồn từ thế giới môi sinh và truyền
thống văn hóa nghệ thuật vốn có những nét khác nhau căn bản giữa các dân tộc thiểu số và
dân tộc Kinh qua quá trình lịch sử của dân tộc.
111
CHƢƠNG 3: ĐỐI SÁNH QUAN NIỆM VỀ NGHỆ THUẬT GIỮA VĂN HỌC
DÂN GIAN CỔ TRUYỀN VỚI VĂN HỌC HIỆN ĐẠI CỦA CHÍNH CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ.
Ở chƣơng 2 chúng tôi đã tiến hành so sánh các quan niệm nghệ thuật trong văn học
dân gian các dân tộc thiểu số với các quan niệm nghệ thuật. trong văn học dân gian dân tộc
Kinh. Đó là so sánh đồng đại - hiểu theo nghĩa rộng của tƣ duy. Đến chƣơng này cần thiết
phải tiến tới so sánh lịch dại - cụ thể là so sánh giữa các quan niệm nghệ thuật trong văn học
dân gian các dân tộc thiểu số với các quan niệm nghệ thuật văn học hiện đại của chính các
dân tộc thiểu số anh em nhằm chỉ rõ mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa truyền thống và cách
tân của nền văn học này. Từ sự kế thừa truyền thống sẽ cho ta thấy đƣợc sức sống trƣờng tồn
và từ sự cách tân đối với truyền thống cũng gián tiếp cho ta thấy những hạn chế lịch sử của hệ
thống quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số anh em,
Ở đây cũng cần phải nói rõ thêm tại sao không đối sánh (về quan niệm nghệ thuật)
giữa văn học dân gian cổ truyền với văn học dân gian hiện đại của các dân tộc thiểu số? Thật
ra cũng nhƣ dân tộc Kinh, văn học dân gian hiện đại các dân tộc thiểu số là một hiện tƣợng
phức tạp lại chƣa có độ dầy về thời gian và chƣa chắc đã kết tinh đƣợc những tình tiết hoặc
hình tƣợng liên quan đến nghệ thuật. Vả chăng cũng chƣa có nhà xuất bản nào từ trung ƣơng
đến địa phƣơng công bố các "văn bản" văn học dân gian hiện đại đích thực cả . Do đó nó nằm
ngoài phạm vi khảo sái nhƣ đã từng đƣợc xác định ở mục đối tượng nghiên cứu thuộc phần
Mở đầu. Trong khi đó việc đối sánh với nền văn học viết hiện đại lại cũng rất lô gíc bởi vì
khác với dân tộc
112
Kinh, chỉ trừ một số trƣờng hợp cá biệt, còn nói chung nền văn học hiện đại các dân tộc thiểu
số về cơ bản là nối tiếp trực diện từ văn học dân gian. Sự kế thừa truyền Thống quan niệm về
nghệ thuật ở đây rất rõ nét. Hiển nhiên sự cách tân trong quan niệm văn học hiện đại các dân
tộc thiểu số rất lớn, song chính vì thế mà qua đối sánh càng làm nổi rõ hơn những hạn chế
lịch sử của các quan niệm về nghệ thuật. Mong văn học dân gian cổ truyền. Điều quan trọng
hơn là sự cách tân to lớn, sâu sắc mà vẫn thấm đƣợm tính chất truyền thống thì lại càng
chứng minh rõ hơn cho sức sống lâu bền của các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân
gian cổ truyền nhƣ đã từng nói ở trên. Nói cách khác là có đối sánh với quan niệm nghệ thuật,
trong văn học hiện đại thì sẽ đồng thời cùng làm nổi rõ cả hai mặt : hạn chế lịch sử và sức
sống lâu bền của quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu
số. Thử gia đình chỉ đối sánh với văn học dân gian hiện đại mà thôi thì tính chất truyền thống
có thể sẽ lõ nét hơn nhƣng lại khó có thể thấy rõ đƣợc những hạn chế lịch sử của các quan
niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc anh em.
Nói đến nền văn học hiện đại các dân tộc - thiểu số ở đây là nói đến nền văn học viết
xuất hiện trên qui mô rộng đối với các dân tộc sau Cách mạng Tháng Tám. Các nhà văn trong
quá trình sáng tác chủ yếu dùng chữ quốc ngữ và một số dƣới dạng song ngữ (lấy chữ ngữ
phiên âm tiếng dân tộc để sáng tác rồi các tác giả tự tay dịch ra tiếng Việt. ngay trong tác
phẩm đó. Nền văn học hiện đại các dân tộc thiểu số là một thành phần hữu cơ của nền văn
học Việt Nam hiện đại nói chung nhƣng nó cũng có những sắc thái tƣơng đối độc lập mang
bản sắc của các dân tộc thiểu số anh em. Nền văn học này thực sự phát triển mạnh mẽ cả về
số lƣợng và chất lƣợng kể từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Từ chỗ trƣớc cách mạng chỉ
có 2. nay đã "có 16 dân tộc thiểu số có tác giả thơ và văn xuôi hiện đại" [154 - 81]
113
trong đó có nhiều nhà văn nhà thơ đã từng giành đƣợc những giải thƣởng văn học trong và
ngoài nƣơc... Các tổ chức hiệp hội văn học nghệ thuật từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Các nhà
xuất bản chuyên tâm về văn hóa văn nghệ dân tộc và miền núi lần lƣợt ra đời; điều kiện giao
lƣu học tập và trao đổi nghiệp vụ đƣợc mở ra... Văn học hiện đại các: dân tộc anh em đã có
đƣợc vận hội mới để phái triển toàn diện. Ngoài các thể loại vốn có, nay đã có thêm những
thể loại mới đầy ƣu thế nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn. kịch ký... trong đó sự ra đời của lý luận,
phê bình, nghiên cứu văn học là một thành tựu nổi bật mà lực lƣợng chủ công là các nhà văn
nhà thơ nhƣ Nông Quốc chấn, Vi Hồng, Lò Ngân Sủn, Lâm Tiến, Hoàng Quảng Uyên... Có
thể nói, sự xuất hiện của lý luận phê bình trong văn học hiện đại của các dân tộc có ý nghĩa
nhƣ một cuộc cách tân nổi bật về hình thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật của các nhà văn
dân tộc hiện đại. Mấy chục năm qua, các công trình tiểu luận nghiên cứu phê bình văn nghệ
của các nhà văn dân tộc đã lần lƣợt xuất hiện trên văn đàn. Dù chƣa có một đội ngũ các nhà
lý luận phê bình chuyên nghiệp song đã có một đội ngũ nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số
thƣờng xuyên có ý thức tham gia hoạt động lý luận phê bình đầy tinh thần trách nhiệm. Nông
Quốc Chấn là ngƣời đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền lý luận phê bình văn
nghệ hiện đại các dân tộc. Đến nay ông đã có khá nhiều tập tiểu luận nghiên cứu phê bình
văn nghệ dầy dặn nhƣ: Đường chúng ta đi (1972); Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977);
Chặng đường mới (1985); Một ngôi nhà sàn Hà Nội (1999)... Nhà văn Vi Hồng tuy dồn
công sức chủ yếu cho sáng tác song cũng đã để tâm nghiên cứu khá công phu về văn hóa văn
nghệ dân gian các dân tộc qua cuốn: Si, lượn dân ca trữ tình (1978) và nhiên công trình
nghiên cứu lẻ lẻ khác mà cho đến nay vẫn chƣa có điều kiện tạp hợp lại. Lò Ngân Sủn cũng
đã khẳng định đƣợc phong cách chính luận rất riêng của mình qua Hoa văn thổ cẩm I (1998)
và
114
Hoa văn thổ cẩm II (1999). Lâm Tiến, cây bút lý luận phê bình mới xuất hiện từ vài năm gần
đây, tuy chƣa thật định hình một phong cách cụ thể song cũng đã cho ra mắt bạn đọc liên tiếp
2 tập tiểu luận nghiên cứu khá công phu về những vấn đề cập nhật trong đời sống văn hóa
văn học hiện đại các dân tộc (Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995) và về
một mảng văn học dân tộc (1999)). Nếu so với lịch sử trải nghiệm ngót một thế kỷ của nền
lý luận phê bình văn học bác học dân tộc Kinh thì nền lý luận phê bình của các nhà văn dân
tộc anh em dƣờng nhƣ mới bắt đầu ở chặng đƣờng xuất phát. Song điều đáng nói là, với sự
hiện diện của bộ phận văn học đặc biệt này, các nhà văn dân tộc anh em đã có thêm một công
cụ biểu đạt mới đầy ƣu thế, góp phần làm giàu thêm cho năng lực phân tích, lý giải của các
nhà văn vào nhiều phạm vi vấn đề khác nhau của cuộc sống văn học nghệ thuật hiện đại.
Cần chú ý thêm rằng, các nhà lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học đã nói ở trên chủ
yếu là các nhà văn, nhà thơ (kể cả những nhà văn, nhà thơ không kiêm tƣ cách nhà lý luận
phê bình), cho nên các quan niệm về nghệ thuật của họ cũng có một phần không nhỏ đƣợc
bộc lộ dƣới "dạng sáng tác".
Dù sao mới nhìn qua vê hình thức cũng đã thấy có sự thay đổi. Sự thay đổi trƣớc hết
là ở việc bộc lộ các quan niệm dƣới dạng nghị luận bằng ngôn ngữ phổ thông (tiếng Kinh), và
vì các chủ thể phát ngôn ở đây là các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp , họ có thể và cần thiết
quan tâm đến những vấn đề về nghệ thuật nói chung nhƣng văn học vẫn là địa hạt chủ yếu
thu hút mối bận tâm giãi bày các quan niệm nghệ thuật của họ (khác với các thế hệ nghệ nhân
dân gian vốn cơ bản chỉ bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật ca múa nhạc).
3.1. Đổi mới quan niệm về nghệ thuật ở các nhà văn dân tộc thiểu số hiện
đại .
Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số
115
là một di sản văn nghệ quý báu nhƣng tất yếu có những hạn chế lịch sử của nó. Vì vây khi
chuyến sang thời kỳ văn học hiện đại, với tƣ cách là một bộ phận hữu cơ của nền văn học
cách mạng Việt Nam , những hạn chế đó đã đƣợc khắc phục bằng những cách tân mới mẻ.
Có thể xét những đổi mới cách tân đó trên ba binh diện: dân tộc thống nhất, cách mạng và
khoa học. Tất nhiên việc phân định nhƣ vậy chỉ có ý nghĩa tƣơng đối vì trên thực tế giữa các
bình diện luôn luôn có quan hệ mật thiết với nhau.
3.1.1 Trên bình diện dân tộc thống nhất.
Văn học hiện đại các dân tộc sinh thành và phát triển gắn liền với một giai đoạn lịch
sử đầy thách thức nghiệt ngã với cả quốc gia dân tộc. Nền văn học đó ngay từ khi mới xác lập
đã liên tục phải song hành với hiện thực kháng chiến kiến quốc đầy hy sinh vất vả của cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Kết thức 30 năm chiến tranh chống Pháp, kháng Mỹ (1975),
văn học các dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục nếm trải cảm hứng bi hùng của các cuộc chiến tranh
biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc ngay trên mảnh đất quê hƣơng mình. Số phận của nền
văn học gắn liền với sinh mệnh của cả cộng đồng dân tộc nhƣ thế cho nên ý thức về nghệ
thuật của các nhà văn dân tộc anh em đã thực sự chuyển hóa và giao thoa vào ý thức quan
niệm nghệ thuật chung của cả cộng đồng dân tộc thống nhất. Những phát ngôn, luận giải
xung quanh các vấn để cụ thể về nghệ thuật của các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại cơ bản
đều nhân danh cộng đồng dân tộc mà phát biểu. Vì thế các quan niệm nghệ thuật của họ đều
cơ bản mang những giá trị phổ quát chung. Nông Quốc Chấn viết: "Thơ của dân tộc nào cũng
phải là một binh chủng thật xông xáo, linh hoạt cơ động trên mọi chiến trƣờng tƣ tƣởng văn
hóa... Thơ của dân tộc nào cũng cần đƣợc tăng chất yêu: yêu tổ quốc, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa... Thơ của dân tộc nào cũng cần đƣợc tăng chất thiếp: thiếp chủ nghĩa anh hùng cách
mạng tôi luyện trong chiến đấu và lao
116
động sản xuất..." [168 ,402]. Đó cũng là đòi hỏi tất yếu về nghệ thuật của cả một thế hệ nghệ
sĩ cách mạng Việt Nam một khi họ đã tình nguyện nhập cuộc vào sự nghiệp cách mạng chung
của cả cộng đồng và tự nguyện lấy tƣ tƣởng "Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải
biết xung phong" của Hồ Chủ Tịch làm phƣơng châm chỉ đạo cho các hoạt động sáng tác của
mình. Dƣờng nhƣ các cảm nhận về chức năng của nghệ thuật đƣợc các nhà văn trao gửi tới
một địa chỉ phụng sụ tối cao là nghệ thuật vì quốc gia dân tộc thống nhất: "Trái tim của mỗi
nghệ sĩ lúc nào và ở đâu cũng thuộc về sự nghiệp chủ nghĩa xã hội và thống nhât tổ quốc..."
[26, 333]. Ngày xƣa, tiếng hát của chú bé biến hình ngƣời đá, tiếng tù và của Mòn Miên,
tiếng sáo của nàng Ni, tiếng hát của nàng Slao... cơ bản chỉ chú mục thiện tâm cống hiến của
mình vào một buôn làng, hay xóm mạc của một tộc ngƣời cụ thể Ngày nay ý thức về chức
năng phụng sự của nghệ thuật đã đƣợc các nhà văn mở rộng tới những chiều kích tối đa của
cả dân tộc. Chỉ có các nhà văn nhà thơ đã hòa mình vào công cuộc cách mạng lớn lao của cả
dân tộc, tràn đầy niềm tin yêu, mến mộ đối với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới có thể
có đƣợc cơ hội hòa nhập ý thức về nghệ thuật của mình vào những nỗi niềm phổ biến của cả
cộng đồng dân tộc nhƣ thế. Nhờ cách mạng, nhờ Đảng, các dân tộc anh em có đƣợc cuộc
sống mới xã hội chủ nghĩa trên quê hƣơng mình, đồng thời cũng nhờ đó mà nâng tầm ý thức
về nghệ thuật của mình lên những tầm cao mới chƣa từng có. Giá trị của nghệ thuật, trong ý
thức các nhà văn hiện đại, phải đạt đƣợc yêu cầu kết hợp hài hòa giữa những bản sắc riêng
với những giá trị phổ quát chung của cả cộng đồng. Nghệ thuật không chỉ tự khoanh mình lại
trong một giới hạn chật hẹp của dân tộc mình nhƣ trƣớc nữa mà phải hòa nhập vào các giá trị
nghệ thuật tiên tiến của các dân tộc khác trong cùng một cộng đồng quốc gia: "Chúng ta
trƣớc hết cần rút lấy những cái gì lành mạnh, tốt đẹp trong vốn cũ của dân
117
tộc mình, đồng thời phải học tập, tiếp thu lấy trong thơ ca của các dân tộc khác để không
ngừng bổ sung cho dân tộc mình." [19,34]. Tầm nhìn mới thực sự khoáng đạt còn giúp các
nhà thơ, nhà văn dân tộc anh em có ý thức làm giàu di sản nghệ thuật của đất nƣớc mình bằng
việc khai thác những giá trị nghệ thuật tiên tiến của các nƣớc trên thế giới: "Chúng ta cần quý
trọng nên văn nghệ tiên tiến của thế giới... Học vốn cũ, học nƣớc ngoài và tạo ra cái mới, ba
cái đó tạo thành ba bộ phận để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghìn ở nƣớc ta" [20,19]...
Tóm lại, môi trƣờng giao tiếp mới trong cộng đồng dân tộc thống nhất đã các nhà văn dân tộc
thiểu số bứt phá ra khơi khuôn khổ các quan niệm nghệ thuật mang tính chất cục bộ địa
phƣơng hạn hẹp của các thế hệ nghệ nhân dân gian để vƣơn tới tầm nhìn mới cao hơn ở tầm
quốc gia dân tộc. Cuộc sống rộng mở của cả cộng đồng dân tộc thực sự là nhịp cầu lớn cho
các nhà văn bƣớc tới những bến bờ tri thức mang tính phổ cập mà có đƣợc những ý thức về
nghệ thuật thực sự khoáng đạt, đa diện, hòa đồng vào với cộng đồng dân tộc thống nhất.
3.1.2 Trên bình diện cách mạng
Nền văn học hiện đại các dân tộc ít ngƣời đƣợc xác lập khi xu thế cách mạng trong
nƣớc cũng nhƣ ngoài nƣớc đá giành ƣu thế áp đảo đối với các lực lƣợng chính trị phản cách
mạng. Sức mạnh thắng đoạt của cách mạng vô sản, lý tƣởng xã hội chủ nghĩa... là cội nguồn
ý thức đúc kết nên những quan niệm nghệ thuật mới mẻ xoay quanh các vấn đề tính Đảng,
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, con ngƣời mới trong văn học v.v... Trong ý thức của
các nhà văn dân tộc anh em, sự nghiệp văn học của các nghệ sĩ cách mạng là một bộ phận
không thể tách rời sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo: "Ngƣời làm thơ không thể tách
rời sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có đi với Đảng ngƣời làm thơ mới tìm thấy hƣớng đi vào quần
chúng của mình để tìm nguồn thơ một cách toàn diện." [26 7 256]. Văn nghệ sĩ cân phải có
118
lập trƣờng nhìn nhận đúng đắn khi phản ánh cuộc sống: "Chúng ta biểu dƣơng ngƣời tốt, việc
tốt, chúng ta phê phán ngƣời xấu, việc xấu một cách có xây dựng. Nhìn thấy cái xấu ta phải
nhìn thấy cái tốt. Khi ta viết ra một tác phẩm đừng để cho bạn đọc từ một việc cụ thể mà thấy
xấu toàn chế độ... Ngƣời viết cần phân tích cho mọi ngƣời thấy mặt sai để sủa chữa. Cách
nhìn đời sống ngày nay nên nhƣ thế." [20 , 202]. Các nhà văn cần có ý thức hƣớng tới phản
ánh, miêu tả những hiện thực tích cực, sống động của cuộc sống cách mạng: "Sứ mệnh của
văn nghệ hiện nay là phản ánh hiện thực cách mạng phong phú của dân tộc. Hiện thực đó là
những đổi mới ở miền núi... những con ngƣời mới gồm nhiều dân tộc xuất hiện trong các
phong trào thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới." [20 316]. Lý
giải về phƣơng pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, Nông Quốc Chấn có không ít
những tâm niệm thấm thía chẳng hạn: "Sáng tác theo chiều hƣớng cách mạng tiến lên tức là
việc diễn biến có hậu, không gây thất vọng. Anh muốn tả ngƣời vào, việc gì cuối cùng anh
pháỉ phát. triển ngƣời đó, việc đó theo đà cách mạng tiến lên. Từ trong vui mừng, trong đau
thƣơng, văn nghệ phải gây cho ngƣời đọc, ngƣời xem dẫn đến hành động cách mạng..." v.v...
[20, 202]. Nhà thơ Lò Ngân Sủn ý thức về thiên chức của văn học là phải góp phần đấu tranh
vì chân lý cách mạng: "Văn học: không chỉ ngồi tâm tình với ngƣời yêu ở trong, công viên.
Mà vănhọc đã nhân danh công lý, nhân danh pháp luật, nhân danh lẽ phải và công bằng...
phải đánh thẳng vào dinh lũy của chủ nghĩa tiêu cực..." [143, 70].
Tóm lại quan niệm nghệ thuật của các nhà văn dân tộc hiện đại cơ bản đều thấm
nhuần tƣ tƣởng cách mạng, tràn đầy nhiệt tâm đối với lý tƣởng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là
điều hiển nhiên khi ta biết rằng sự nghiệp văn chƣơng của các nhà văn dân tộc hiện đại là
những bộ phận không, thể tách rời khỏi sự nghiệp văn học cách mạng chung cua cả cộng
đồng dân tộc Việt
119
Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
3.1.3 Trên bình diện khoa học.
Vƣợt qua những cái nhìn tản mạn. rời và giản đơn về nghệ thuật trong văn học dân
gian, các nhà văn hiện đại đã có đƣợc cách nhìn nhận vấn đề một cách có hệ thống, về các
vấn đề khác nhau văn học nghệ thuật. Thói quen tƣ duy trực cảm, cụ thể khó có thể tạo ra cơ
hội thuận lợi cho các nghệ nhân dân gian đi sâu vào phân tích, nghiền ngẫm thấu triệt về các
vấn đề cụ thể của nghệ thuật. Điều đáng nói là các nhà văn dân tộc ít ngƣời từng có dịp biểu
đạt các quan niệm nghệ thuật, ngoài tƣ cách nghệ sĩ sáng tác, họ còn là các nhà nghiên cứu
văn hóa, Văn học với ý thức học thuật nghiêm túc nhƣ Nông Quôc Chân, Vi Hồng, Lò Ngân
Sủn, Lâm Tiên... Đến với văn học nghệ thuật trong ý thức truy tìm, nghiên cứu một đích
nghiêm cẩn, chắc chắn dù ít hay nhiều, ho dễ có có hội đổ tiếp cận đối tƣợng cần quan tâm
một cách thấu đáo. Quả vậy các nhà văn hiện đại đã trực tiếp đề cập đến nhiều vấn đề khá đa
dạng của văn học nghệ thuật, đã tạo đƣợc những độ sâu mới cho các lý giải về nghệ thuật so
với các thế hệ nghệ nhân dân gian của mình.
Vấn đề chủ thể nghệ thuật là một trong những bình diện đƣợc các nhà văn dân tộc
hiện đại để tâm khá nhiều và có những lý giỏi khá thấm thía. Nhiên khía cạnh khác nhau của
chủ thể nghệ thuật đã đƣợc các nhà văn đề cập đến khá sâu sắc nhƣ: mối quan hệ giữa nghệ sĩ
với thể chế chính trị, ngƣời sáng tác và vấn đề nhân cách, lề lối làm việc của nhà văn , ý thức
trau đối vốn sống, nghiệp vụ, các kiểu nhà văn v.v... Để có tác phẩm tốt, vốn sống của nhà
văn là một khâu đóng vai trò quan trọng. Theo Lò Ngân Sủn: "...ngoài năng khiếu, nhà văn
cần có vốn sống: và vốn hiểu biết. Vốn sống càng nhiều và vốn hiểu biết càng sâu rộng thì
nguồn sáng tác càng dồi dào, tác phẩm càng trƣờng hơi và trƣờng tồn..." [143 83]. Nông
Quốc Chấn coi
120
vốn sống: "là một trong những cái gốc của nghệ sĩ. Nhờ vốn sống, anh có thể chọn lấy 100
ngƣời thật để dựng lên một ngƣời ở trong tác phẩm. Nhƣ thế nó sẽ phong phú. Nhƣng vốn
của anh chƣa hiểu đủ một ngƣời, anh đã muốn xây dựng trong tác phẩm của anh 50 ngƣời thì
nhất định là một sự bôi bác. Việc xây dựng tính cách làm sao bịa ra 50 tính cách đƣợc khi cái
vốn của anh rất ít." [20 , 195]. Đặc biệt cách phân loại các kiểu ngƣời sáng tác của Lò Ngân
Sủn là nhũng suy nghĩ đầy can đảm và chí thú: "Càng ngày tôi càng thấy lồ lộ ra mấy loại
ngƣời sáng tác sau đây:
- Loại ngƣời sáng tác thật sự đồng nghĩa với cái đích thực.
- Loại ngƣời sáng tác cho vui đồng nghĩa với "bầy đàn".
- Loại ngƣời sáng tác cơ hội đồng nghĩa với "phá hoại".
Trong đó, đối với ngƣời sáng tác thực sự thì quá trình sáng tác của họ là quá trình tự
phát triển và tự khẳng định. Còn đối với các loại ngƣời sáng tác khác thì quá trình sáng tác
của họ là quá trình tự phủ định, tự tiệu vong mà thôi. Nhƣng tiếc thay loại ngƣời sáng tác thật
sự vốn đã ít và hiếm hoi, lại thƣờng hay bị rầy rà từ nhiều phía, có khi luôn bị dằn vặt, đau
khổ, oan trái - thậm chí chết rồi cũng phải tiến hàng mấy chục năm sau lịch sử mới có cơ hội
minh oan cho họ đƣợc..." [143 , 841] Trong tƣ cách một nhà thơ trữ tình, Lò Ngân Sủn cắt
nghĩa bản chất nhận thức của thi sĩ thật độc đáo: "Nhà thơ là ngƣời nhìn bằng tim, biết bằng
cảm... Nhà thơ là sứ giả của tình yêu". [143, 59]. Vì vậy, "cách học để trở thành nhà thơ, nhà
văn rất khác với cách học để trở thành bác sĩ, kỹ sƣ." [143,24]v.v...
Đặc trƣng thẩm mỹ của thơ ca cũng đƣợc các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại lƣu
tâm lý giải khá sâu sắc, đó là sự độc đáo mới lạ, gợi rung động cho ngƣời đọc. Nông Quốc
Chấn viết: "Thơ cũng nhƣ các môn nghệ thuật khác thƣờng là nói tên một cái ý gì để ngợi ca
hay phê bình con ngƣời và cuộc sống. Nhƣng ý ấy phải đƣợc diễn đạt một cách trong sáng,
sâu sắc tế
121
nhị và độc đáo... Muốn thế ngƣời việt cần tìm ra, gây đƣợc tình và tạo ra hình... Bài thơ viết
chung chung làm sao có thể gây đƣợc sƣ rung động, lòng căm ghét. trí dũng cảm cho ngƣời
đọc..." [120 - 174. 175]. Với họ thơ không thể chảy theo vệt mòn cố hữu: "Một số câu thơ
ngô nghĩnh nếu dùng một lần thì có thể coi là độc đáo, nhƣng bài nào cũng nhắc tới thì trở
nên nhạt nhẽo... Một bài thơ hay không phải ở chỗ nói đúng nói đủ mà cần có ngôn ngữ trong
sáng, hình ảnh sinh động, tình cảm sâu sắc, có phong cách riêng biệt của từng ngƣời... Những
bài thơ hay không phải ở chỗ dùng những hình ảnh địa phƣơng quá nhiều. ví dụ tên chim, tên
hoa, tên ngƣời... vào những chỗ không cần thiết, kể lể rƣờm rà, ý ít lời nhiều, mà cần chọn
hình ảnh để nói lên đƣợc cái ý, cần súc tích gọn gàn, ít chữ mà nhiều ý tứ sâu sắc càng tốt."
[26 - 255, 313]. Lò Ngân Sủn có khá nhiều những lý giải chí thú về đặc trƣng thẩm mỹ của
thơ, theo ông: "Thơ là một thứ sản phẩm, hơn thế là thứ sản phẩm cao cấp. Nhƣng trong thơ
còn có phần hồn, ý thơ càng rộng lớn bao là thì hồn thơ càng sâu xa bay bổng. Thơ càng hiện
thực, càng đời, càng ngƣời bao nhiêu thì càng hay bấy nhiêu. Hiện thực, cuộc đời, con ngƣời
là cái "mỏ thơ" khai thác mãi mà chẳng bao giờ cạn..." [144 - 52, 53]. Vì rất đề cao yêu tố
xúc cảm cho nên ông tâm niệm: "chỗ đến của thơ là lòng ngƣời... Cối lõi của thơ là sự rung
động, là tình cảm của con ngƣời trƣớc cuộc sống... Thơ là cảm xúc đến độ nồng nàn, phát
cháy và thăng hoa. Thơ là con làn vũ trụ đƣợc phóng lên bằng cảm xúc..." [125, 568]. Khát
vọng nồng cháy của ông là: "muốn có thơ hay dù đó là thơ văn xuôi, thơ tự do, thơ lục bát,
thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ...". Nhƣng cái hay của thơ, theo Lò Ngân Sủn không phải nhờ vào bộ
Cánh mƣợt mà của câu chữ mà bằng độ lắng đọng sâu xa ở bên trong: "Tôi nghĩ thơ đến với
ngƣời đọc không phải bằng chữ mà bằng những gì có ở trong câu chữ. Còn nếu nhƣ thơ
không có gì ở trong câu chữ thì coi nhƣ không có thơ." [143 61]. Sau này ông mới có dịp
122
nói rõ cái ma lực tạo nên sức hút kỳ diệu "ở trong câu chữ" của thơ: "Tôi nghĩ rằng thơ có
bản sắc, giàu bản sắc là thơ có một kiểu tƣ duy, một lối tƣ duy độc đáo. Là thơ có ý, có tứ lạ
và hay, gây đƣợc xúc cảm cho ngƣời đọc, ngƣời nghe. Là thơ đƣợc viết lên bằng một mối
tình nồng nhiệt, cháy bỏng, đắm say. Là thơ đƣợc vẽ lên bằng những hình ảnh lung linh,
huyền ảo đầy sức quyến rũ mà xem ra tại rất đời thƣờng, hợp lòng muôn ngƣời. Đó là những
bài thơ, khổ thơ, câu thơ hay đến bất ngờ, bất ngờ với ngay chính tác giả đã làm ra nó..."
[143,55]. Những tác phẩm đƣợc gọi là hay, Lò Ngân Sủn cũng phân biệt ra làm nhiều loại
khác nhau: "Có tác phẩm hay từng thời, có tác phẩm hay vĩnh viễn, có tác phẩm hay theo
khuynh hƣớng đánh giá, thẩm định... Và ai đạt tới tác phẩm hay đỉnh cao, hay vĩnh viễn -
nghĩa là tác phẩm đó không những đã hay mà ngày càng bay, ngày càng đƣợc nhiều ngƣời
khám phá, phát hiện ra những điều mới lạ trong và ngoài tác phẩm. Đó là những tác phẩm vĩ
đại, tác phẩm tuyệt vời, tác phẩm luôn luôn tràn đầy sự sống và tình yêu..." [143, 103] v.v...
Về phê bình văn học, các nhà văn cũng có một số lý giải đáng lƣu ý. Trƣớc hết họ
quan niệm phê bình văn học phải gắn với nguyên tắc tính Đảng. Nông Quốc Chấn cho rằng:
"... khen, bảo vệ, nâng đỡ bài của tác giả này, chê rồi đi đến vùi dập thành kiến đối với bài
của tác giả khác không phải là việc làm tuỳ tiện theo cảm tính mà phải theo nguyên tắc tính
Đảng..." [20,173]. Họ chỉ rõ nhiêm vụ phê bình văn học là: "khẳng định chỗ đúng, chỗ hay,
phê phán những chỗ sai, chỗ dở. Qua đó giúp bạn đọc biết nên tiếp thu mặt nào, biết tránh
mặt nào" [20 , 282]. Hay dở thƣờng, đi liền với khen chê đó là chuyện thƣờng tình trong nghề
văn chƣơng chữ nghĩa!, song khen chê thế nào cho thấu tình đạt lý là cả một vấn đề hệ trọng.
Trong đời sống văn học đƣơng đại chúng ta vẫn có những biểu hiện phê bình trao đổi thái
quá. Lò Ngân Sủn đã bày tỏ quan niệm phê phán nghiêm khắc
123
đối với những biểu hiện bất thƣờng trong phê bình văn học rằng: "Đem cả bằng cấp. học vấn
ra mà mạt sát nhau thi lại bị rơi xuống một tầng văn hóa rất thấp nếu không muốn nói là vô
văn hóa." [143,71]. Vốn chuộng sự hiền hòa. nhân ái. Nông Quốc Chấn thƣờng khuyên các
nhà văn bằng một quan niệm phê bình chí tình, chí nghĩa "Tiếp nhận, phê bình một bài thơ có
tinh thần xây dựng nghiêm túc thì sẽ không khen quá lời, không chê vùi dập mà ôn tồn chỉ
bảo..."[20, 172] v.v...
Các khía cạnh khác của văn học nhƣ: vấn đề chức năng van nghệ, truyền thống và
cách tân nghệ thuật v.v... tuy không có những độ dày các kiến giải chung các quan niệm cụ
thể của các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại đã tiếp cận đƣợc những tri thức văn nghệ mang
tính phổ quát, chứng tỏ tầm đọc, sức học của các nhà văn đã vƣơn tới những tầm cao mới
xứng tầm với thời đại mới mà ở đó sự giao lƣu văn hóa, khoa học đã trở thành quy luật tồn tại
của mỗi dân tộc.
Tóm lại, sự cách tân bƣớc đầu về quan niệm nghệ thuật trong nền văn học hiện đại
các dân tộc thiểu số là vô cùng to lớn. Chính từ nhũng cách tân vƣợt bậc của các nhà văn hiện
đại so với các thế hệ cha ông trong văn học dân gian cổ huyền (về phƣơng diện quan niệm
nghệ thuật) mà qua đối sánh, những hạn chế lịch sử của quan niệm nghệ thuật trong văn học
dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số càng bộc lộ rõ ràng hơn. Quan niệm về nghệ thuật
trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc chƣa có đƣợc tầm vóc của cộng đồng dân tộc và
mang tính chất cách mạng là điều hiển nhiên. Nó chỉ là những quan niệm mang tính chất địa
phƣơng hoặc khu vực, là sản phẩm tinh thần tự cƣờng tỏa kéo dài trong một tình trạng xã hội
ít có điều kiện giao lƣu. Thậm chí có nơi, có dân tộc còn chƣa hề kinh qua phƣơng thức sản
xuất phong kiến nhƣ đã nói ở trên. Do đó khó có thể có đƣợc khả năng hoàn bị trong các
quan niệm về nghệ thuật từ một nền văn học dân
124
gian cổ truyền nhƣ vậy.
Tính chất thiếu hệ thống khoa học của các quan niệm về nghệ thuật ở đó lại càng là
điều hiển nhiên. Nó chỉ là những cảm nhận tự phát xoay quanh một sổ vấn đề then chốt về
chủ thể nghệ thuật và về vai trò tác dụng của nghệ thuật, mà thôi. Những sắc thái giản đơn, tự
phát... này đã đƣợc tiên báo ngay từ phần mở đầu, lại đƣợc chứng giải rõ hơn ở chƣơng 1,
nay lại có dịp đƣợc xác nhận sâu hơn qua việc đối sánh.... Tuy nhiên lẽ biện chứng là sức
sống lâu bền của nó lại đƣợc phát huy đối với ngay những quan niệm về nghệ thuật trong nền
văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nhƣ sẽ đƣợc lý gỉai ở phần tiếp theo dƣới đây.
3.2. Sự kế thừa quan niệm về nghệ thuật dân gian cổ truyền của các nhà
văn dân tộc thiểu số hiện đại .
Nhƣ trên đã nói, quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại các dân tộc ít ngƣời chủ
yếu đƣợc thể hiện dƣới dạng nghị luận, song vẫn có hiện trạng không ít các quan niệm nghệ
thuật đƣợc bộc lộ trong "dạng sáng tác".
Cả hai đều bộc lộ sự kế thừa tính chất truyền thống nhƣng mang những sắc thái khác
nhau. Có thể căn cứ vào mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức để phân biệt
nhƣng sắc thái này.
Quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại các dân tộc có những đổi mới, cách tân
nhƣng vẫn bảo lƣu, tiềm chứa những sắc thái quan niệm nghệ thuật truyền thống khi các nhà
văn có dịp bày tỏ các quan niệm nghệ thuật , đặc biệt là về chủ thể nghệ thuật và chức năng
văn nghệ... Ở những phần này, các nhà văn thƣờng bộc lộ quan niệm nghệ thuật dƣới "dạng
sáng tác", mang tính chất thống nhất cao giữa nội dung và hình thức. Những phần nội dung
thiên vé cách tân , các nhà văn chủ yếu bộc lộ quan niệm dƣới dạng nghị luận mới mẻ nghĩa
là cũng có sự tƣơng hợp giữa nội dung và hình thức, tuy nhiên ở dạng nghị luận này vẫn chan
chứa những sắc thái
125
truyền thống ở cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt... Dƣới đây sẽ triển khai vấn đề tính chất
truyền thống của các quan niệm nghệ thuật qua hai phạm vi: trong "dạng sáng tác" và dưới
dạng nghị luận.
3.2.1. Trong "dạng sáng tác".
Cầu nói ngay rằng: Các quan niệm về nghệ thuật của các nhà văn dân tộc ít ngƣời bộc
lộ dƣới "dạng sáng tác" chủ yếu đƣợc triển khai qua văn xuôi tự sự (truyện ngắn, tiểu
thuyết...) và qua thơ ca. Điều này cũng rất tƣơng đồng với các thế hệ nghệ nhân dân gian xƣa
vốn chủ yếu chỉ bộc lộ các quan niệm về nghệ thuật của mình qua các tác phẩm tự sự và một
phần là qua thơ ca tục ngữ..... Hơn ở đâu hết, nhờ hiện hữu dƣới "dạng sáng tác", các quan
niệm nghệ thuật cổ xƣa dƣờng nhƣ có dịp phục sinh trọn vẹn cả về nội dung và hình thức vốn
có của nó.
Trong văn học hiện đại các dân tộc thiểu số, so với thơ ca vốn phát triển từ khá sớm,
văn xuôi tự sự của họ mới đƣợc bạn đọc biết đến từ khoảng giữa những năm 50, đầu những
năm 60 trở lại đây. So với các bậc tiền bối của chính mình trong văn học dân gian, các nhà
văn chuyên viết văn xuôi nghệ thuật hiện đại chƣa có đƣợc những tác phẩm dày đặc, hoành
tráng, song ngay từ những bƣớc đi ban đầu này, các nhà văn đã có ý thức bộc lộ các quan
niệm nghệ thuật của mình trong những cảnh huống tự sự phù hợp... Nếu nhƣ qua thơ, các nhà
thơ ngoài ý thức bộc lộ các quan niệm nghệ thuật về ca múa nhạc, họ còn phần nào để lâm
đến nghệ thuận ca thơ, thì ở văn xuôi tự sự, các nhà văn dân tộc hiện đại chỉ chủ yếu bày tở
quan niệm nghệ thuật của mình về uy linh của các loại nhạc khí, lời ca... Vì vậy, bên cạnh thơ
ca, văn xuôi tự sự là thể loại có điều kiện thuận lợi cho những cảm nhận của các nhà văn dân
tộc đối với thế giới âm thanh huyền diệu của ca vũ nhạc mà xƣa kia các thế hệ nghệ nhân dân
gian đã cảm nhận bằng tất cả nỗi niềm đam mê của mình. Nhiều trang đoạn văn xuôi tự sự
hiện đại có tiềm chứa
126
những quan niệm về nghệ thuật dƣờng nhƣ đã có sự hòa duyên sâu đậm với những sắc thái
đặc trƣng của dân gian khi bộc lộ các quan niệm về nghệ thuật.
Trong truyện ngắn Lời sli ân tình, Hoàng Trung Thu đã dành những trang văn cảm
động kể về cuộc đời cô Mảy - một đoàn viên thanh niên tích cực của hợp tác xã, có giọng hát
tuyệt hay. Trong một buổi đắp đập làm thủy lợi, cô cất cao tiếng hát của mình phục vụ mọi
ngƣời trên công trƣờng: "Những lời sli của cô làm vui lòng ngƣời, những lời sli biết nâng cái
chân, cái tay nhẹ lâng lâng làm công quên mỏi..." [168, 228], khiến cho "Ngày hội thủy lợi
đông vui nhƣ mùn xuân chim vui hội ngộ". Cũng chính lời sli của cô đã góp phần gắn chặt
tình yên đôi lứa giữa cô với Tâm ngay trên công trƣờng lao động... Ý thức về vai trò khích lệ
niềm vui lao động dựng xây và kết duyên tình đôi lứa của nghệ thuật qua truyện ngắn này của
Hoàng Trung Thu qua thật rất gần gũi với nỗi niềm và cách nói của các nghệ nhân xƣa qua
các truyện cổ dân gian có tiềm chƣa quan niệm về tác dụng của nghệ thuật.
Triều Ân trong truyện ngắn Câu chuyện cuộc đời đã tập trung đặc tả tiếng hát dân ca
say sƣa của một cô gái H'mông khi mới gia nhập hợp tác xã: "Tiếng hái của cô khi vút cao,
khi hạ thấp, vui tƣơi nhƣ nắng mùa xuân, khi tha thiết tựa lá reo trong gió "... Và thật kỳ diệu,
"chính tiếng hát của cô đã làm cho mọi ngƣời hiểu đƣợc nỗi lòng của ngƣời xã viên mới ấy."
[168 ; 101]. Trong truyện ngắn Mây tan, Triều Ân còn có dịp miêu tả sức mạnh lời hát mê ly
của Chẹ Tàn (một cô gái ngƣời Dao). Tiếng hát của cô khiến bao ngƣời, trong đó có Piao rạo
rực ngất ngay: "Piao xao xuyến quá... Piao nhƣ thấy có cái gì nhảy nhót ở trong lòng... mà
Thấy lòng mình vui phơi phới..." [168,104] . Triều Ân còn có những trang miêu tả lý thú về
giá trị của lời ca tiếng hát qua các truyện ngắn Truyện tiếng khèn A Pá và truyện
127
Người con trai Mèo [5 - 102, 103]. Ông là ngƣời đặc biệt có duyên trong cách bộc lộ các ý
tƣởng về nghệ thuật dƣới dạng sáng tác văn xuôi nghệ thuật.
H' Linh Nie (nhà văn nữ ngƣời Ê đê), ngòi bút giầu bản lĩnh, rất mới mẻ hiện đại mà
cũng rất dân gian khi có dịp bày tỏ cảm quan về nghệ thuật. Hành văn và ý thức nghệ thuật
của chị lắng đọng sâu xa chất sử thi dân gian cổ xƣa của ngƣời Ê đê qua những so sánh sinh
động, giầu chất thơ: "Tắt, tắt, tắt!Chiêng mừng vang lên mỗi lúc một dồn dập. Sar ơi! Hãy
đem nỗi đau này của ĐAn San tới tận vực Sê rê pốc sâu thẳm. Cho cả bầy cá sấu ở dƣới sông
Krong no kia thôi hững hờ, nổi lên cùng chia sẻ. Liang ơi! Hãy đem tình yêu của H'bia rải
khắp chín tầng trời, tầng đất, cho con chim có đôi, ngƣời có bạn, cả những nàng tiên thanh
thản suốt đời trên bầu trời bao la kia cảm nỗi đau đớn của tình yêu bị cắt rời..." [82, 81]. (Sar,
Liang: các loại chiêng của ngƣời Ê đê - HML). Qua ý thức về sức mạnh của nhạc khí (tiếng
chiêng Sar và Liang), nhà văn đã ký thác cho nghệ thuật những sức mạnh kỳ vĩ. Tiếng chiêng
Sar nhƣ đã làm sống dậy nỗi bi tráng thủa nào của Đam San mà khiến cho muôn loài trong đó
có cả loài ác thú cá sấu) cũng phải động lòng chia sẻ. Còn tiếng chiêng Liang có thể đem đến
cho muôn ngƣời và muôn loài trên "khắp chín tầng trời, tầng đất" khát vọng tình yêu nồng
nàn cũng nhƣ nỗi đau tình ái của nàng Hơ bia trong trƣờng ca Đam San thủa trƣớc. Ở đây nhà
văn đã thực sự thả hồn mình nƣơng theo đôi cánh bay huyền diệu của nhạc khí linh thiêng mà
sống trọn vẹn với mọi nỗi niềm của ngƣời xƣa. Ngoài ý nghĩa bày tỏ nỗi niềm ngƣỡng mộ,
cảm phục đối với sức mạnh chinh phục tuyệt diệu của nghệ thuật, ý thức của H'Linh Nie còn
giúp bạn đọc hình dung thêm sức mạnh siêu phàm của nghệ thuật ở việc kết nối những không
gian xa cách xƣa và nay, lịch sử và hiện tại nữa. Ý thức về sức mạnh vô biên của nghệ thuật
nhƣ vậy chỉ có thể chắp cánh từ ý thức về nghệ
128
thuật của dân gian dân tộc đã từng đƣợc mô tả sinh động qua các trang sử thi, trƣờng ca,
truyện cổ Tây Nguyên rực rỡ.
Cũng nhƣ vậy, nhà văn Vƣơng Trung đã đƣa vào tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh
của mình cả không khí và hơi thở hào hùng của dân gian Thái trong một đoạn viết về một
cuộc vui liên hoan văn nghệ. Ở đó lời thúc giục của ông già bản Lò Kầm Khốn là lời của
ngƣời xƣa nói về nghệ thuật đích thực: "Hãy nổi chiêng lớn, Hãy nổi cong lên... Cong lớn
hãy nổi lên nhƣ sấm rền! Vang rền giũ điều xấu khỏi mƣờng. Vang động thức mệnh mƣờng
đứng vững! Vang vọng tận muôn phƣơng, ngƣời muôn phƣơng vui đến hầu! Vang vọng đến
tận muôn rừng, chim muông rừng bay đến hợp! Vang vọng đến tận muôn núi sông, cá muôn
núi sông bơi về tụ." [25, 616] v.v... Ở đây ý thức về nghệ thuật của nhà văn hiện đại Vƣơng
Trung quả thực đã giao thoa bền chắc vào trong ý thức về nghệ thuật của dân gian xƣa một
cách trọn vẹn.
Rõ ràng, từ ý thức về vai trò tác dụng của nghệ thuật đến cách thức biểu đạt dung dị,
thành thật của các nhà văn hiện đại đều rất thấm đậm màu sắc dân gian cổ điển của cha ông.
Hơi thở của dân gian truyền thống đã hòa vào nhịp thở của các nhà văn hiện đại khi họ có dịp
bày tỏ các cảm nhận của mình về giá trị của nghệ thuật (đặc biệt là nghệ thuật ca vũ nhạc).
Trong tâm thức của các nhà văn hiện đại, nghệ thuật xƣa cũng nhƣ nay chẳng bao giờ suy
giảm sức mạnh phi thƣờng của nó. Trải qua bao đời nay, họ vẫn rất mực trung thành với
những tâm niệm bất biến về súc mạnh nghệ thuật chân chính của mình. Trân trọng và đề cao
nghệ thuật nhƣ một báu vật vô giá, dành cho nghệ thuật tất cả mọi đam mê bằng những nỗi
niềm thành thật, dung dị của mình... đó là tinh thần căn bản tạo thành mẫu số chúng cho mọi
thế hệ nhà văn xƣa và nay của các dân tộc anh em. Tinh thần nghệ thuật này không chỉ thấm
thía qua các trang viết tự sự - tiếng nói sở trƣờng của các thế hệ nhà
129
văn dân tộc thiểu số mà còn thâm ngấm vào giữa các câu thơ, bài thơ của các nhà thơ hiện
đại khi họ có dịp bày tỏ các cảm nhận của mình và nghệ thuật. Các lý giải về nghệ thuật qua
thơ Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Lò Ngân Sủn, Lâm Quý, Lò Văn Cậy, Đinh Lƣợng
v.v... căn bản có sự "diệu ngộ" sâu sắc với các quan niệm về nghệ thuật của dân gian cả về
nội dung lẫn hình thức. Nông Quốc Chấn là một trong những nhà thơ rất tích cực triển khai
các ý tƣởng về nghệ thuật của mình qua thơ. Có lẽ ông là ngƣời có nhiều nhất những câu thơ
mang những ý tƣởng độc đáo về nghệ thuật. Vốn có ý thức suy ngẫm về văn học nghệ thuật
một cách khá hệ thống, lại có khả năng biểu đạt tự nhiên, cởi mở theo lối dân gian, cho nên
những câu thơ thơ có liên quan đến việc bày tỏ quan niệm nghệ thuật của ông bao giờ cũng
thật độc đáo bất ngờ'. Nói về tình cảm thân ái giữa các nƣớc Đông Dƣơng qua cuộc liên hoan
nghệ thuật tại Viên Chăn (Lào) ngày 27/11/ 1983. nhà thơ đã tìm đến hình thức biểu đạt bằng
thơ để bày tỏ quan niệm về vài trò gắn kết tình ngƣời của nghệ thuật một cách ý vị:
... Sáng đèn hay sóng mắt nhìn nhau
Điệu múa nhạc ca thay tiếng nói... [ 22, 127]
Thành công hơn cả trong số các câu thơ, bài thơ nói về nghệ thuật của Nông Quốc
Chấn có lẽ là bài thơ về Chiếc đàn tính dân tộc rất độc đáo. Tứ thơ dƣợc mở ra nhƣ một câu
chuyện cổ dân gian huyền ảo:
Chiếc đàn tính vốn có mƣời ba dây
Vì tiếng nó vang to, vang xa
Nên vua ra lệnh cắt đi gần hết
Nhƣng chẳng vua nào cắt đƣợc âm thanh dân tộc,
Đàn ba dây vẫn thánh thót cuộc đời. [154, 137]
Ông là ngƣời rất tích cực đổi mới về mọi mặt cho thơ mình, vậy mà chất dân gian
miền núi hồn nhiên, mộc mạc vẫn dung chứa tiềm tàng trong
130
mỗi câu thơ, đoạn thơ của ông khi có dịp lý giải về nghệ thuật. Ý thức đề cao sức mạnh tác
động diệu kỳ của nghệ thuật trong dân gian đã có dịp đƣợc ông "tạo dáng" lại rất tƣơng khớp
qua những câu thơ quá đỗi hồn nhiên, sinh động, giàu hình ảnh xác thực:
Tiếng đàn tính lọt vào tai và ruột
Tiếng vang lên ngọn cây, đỉnh núi cao cao vút
Vƣợn trố mắt nhìn trƣợt chân ngã quên con
Chim trong tổ bay ra ngơ ngác bồn chồn
Ve đậu trên cành hoa im tiếng. [22 , 40]
Quan niệm nghệ thuật đánh giặc cứu nuớc và phụng sự công cuộc lao động dựng xây
cuộc sống trong văn học dân gian cũng đƣợc ông kế thừa trọn vẹn cả về nội dung tƣ tƣởng
lẫn hình thức biểu đạt dung dị, chân phác:
Ngƣời nghệ sĩ là ngƣời chiến sĩ
Khi quân thù đặt súng giơ bom
Mỗi màu mỗi nét nhƣ chân lý
Cuộc sống hòa bình hát áo cơm. [22,141] v.v...
Lò Ngân Sủn chủ yếu viết thơ tình. Thơ tình yêu của ông mang âm hƣởng nồng nàn
mà sâu lắng của chất dân ca Giáy. Chính ông đã từng tâm sự: "Các bài thơ tình của tôi hầu
hết đều từ trong cổ tích, ca dao mà ra... nhiều khi tôi bê nguyên xi cả cái ý, cái tứ cũng nhƣ
một số câu trong cổ tích, dân ca vào trong thơ của mình... phải thừa nhận rằng: tôi đã học tập
rất nhiều ở trong cổ tích, dân ca, ở trong các bài thơ tình mà tôi đã đƣợc đọc, cũng, có khi là ở
trong bài hát mà tôi đƣợc nghe, ở trong bức họa mà tôi đƣợc xem..."[143,60]. Vì thế những
câu thơ mà Lò Ngân Sủn hƣớng tới biểu đạt các quan niệm về nghệ thuật không khác xa mấy
so với ý thức tƣ tƣởng và cách nói của dân gian xƣa. Bài Đêm hát đối của ông có những khổ
thơ căn bản tƣơng đồng với dân ca Giáy ở khát vọng nghệ thuật, phụng sự cuộc sống
131
và vun đáp hạnh phúc lứa đôi:
Hát nữa đi em cho bản làng đông vui
Cho hạt lúa từ tay ta nảy mầm
Cho hạt ngô từ tay ta thành bắp
Cho anh và em kết nên bạn trăm năm ... [146,34]
Xuyên suốt bài thơ, ý tƣởng về nghệ thuật của nhà thơ cƣ chao liệng qua lại giữa hai
miền hiện đạt và quá khứ nhƣ một nỗi niềm nghệ thuật không thể phân xuất làm đôi:
Xƣa cha mẹ gặp nhau
Câu hát nổi giông bão
Nay anh và em gặp nhau
Câu hát ngân nga đến cháy lòng
Câu hát ấm lòng ngƣời muôn thủa.
Cảm nhận về câu hát (cũng là lời thơ, câu thơ) của Lò Ngân Sủn chẳng khác mấy so
với cách cảm nhận về uy lực phi thƣờng của nghệ thuật trong ý thức dân gian:
Câu hát bay vào thăm thẳm
Tỏa lên trời, lƣợn xuống đất
Con trai nghe lòng bâng khuâng nỗi nhớ
Con gái nghe ngực căng phồng bối rối.
Tiếng hát có sắc nắng
Giọng hát có mật ngọt. [146 , 24]
Giá trị của nghệ thuật cũng đi đƣợc Lò Ngân Sủn chiêm nghiệm qua sự hòa đồng giữa
truyền thống văn hóa và sức sáng tạo kỳ diệu trong thực tại:
Câu hát từ hạt gạo sinh ra
Lời hát do cha ông truyền lại.. [146,58]
Cũng nhƣ các thế hệ cha ông mình, nhiều khi Lò Ngân Sủn đã phó
132
thác cho nghệ thuật những sức mạnh siêu phàm hiếm thấy:
Tiếng hát mẹ ngày xƣa
Hát bên sông cá nổi
Tiếng hát em bây giờ
Lúa xanh đồng bát ngát
... Ở câu hát, câu hát
Trong nhƣ dòng suối mát
Vẫn cung bậc ngày xƣa... [ 146; 9]
Với ông, nghệ thuật xƣa cũng nhƣ nay, dƣờng nhƣ đều có những sức mạnh thần kỳ
giúp con ngƣời thoả nguyện những ƣớc mơ về cuộc sống no ấm hạnh phúc:
Hãy hát những lời hát hay
Tỏa xuống nƣơng bắp ruộng đồng;
Gọi những mùa vàng năm tấn. [168, 74]
Ý thức về vai trò kết duyên tình đôi lứa của nghệ thuật trong văn học dân gian cũng
đƣợc Lò Ngân Sủn kế thừa một cách tự nhiên, thành thật:
Chúng tôi biết yêu
Từ trong cuộc hát đối...[28 , 142]
Trong ý thức của Lò Ngân Sủn, đời ngƣời thì có những biến thiên, có sinh, có tử, còn
nghệ thuật thì mãi mãi trẻ trung, đam mê, bất diệt;
Cha mẹ sinh ra nàng,
Gọi nàng là con gái
Nghệ thuật sinh ra nàng,
Gọi nàng là thần vệ nữ
Nàng sinh ra lần thứ nhất để chết
Nàng sinh ra lần thứ hai để sống mãi. [146 ,72]v.v...
Bên cạnh Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Định Lƣợng v.v... Lâm
133
Qúy - (nhà thơ Cao Lan) cũng từng có những tâm niệm thật độc đáo về nghệ thuật. Trong
những câu thơ của ông nói về sức mạnh của nghệ thuật dƣờng nhƣ có kết tinh cả sức cuốn hút
của Tiếng hát Làu Slam đã từng làm ngất ngây các bản ngƣời Tày, ngƣời Thái, ngƣời Cao
Lan xƣa kia:
Ở tiếng khèn ai trên nguồn
Chảy lặn xuôi dòng
Ngoi lên đầu mƣơng
Làm con cá rách vây
Con nai xƣớc móng
Con gái trải đầu rơi lƣợc xuống thang [142, 184]
Viết về uy lực của tiếng chiêng đối với đời sống tinh thần của ngƣời H'Rê, Lâm Quý
đã thấu hiểu thấm thía ý thức tôn thờ nghệ thuật của dân gian Tây Nguyên nhƣ tôn thờ những
giá trị không thể thay thế. Nghệ thuật vẫn cần cho họ trong từng, thời khắc:
Con trai H'rê xa vợ đƣợc nhiều năm
Con gái xa chồng đƣợc nhiều mùn vẫn hát
Nhƣng không xa đƣợc tiếng chiêng. [168,70]
Niềm tự hào của ngƣời H'Rê về những giá trị nghệ thuật vô giá của mình cũng đƣợc
Lâm Quý biểu đạt bằng tất cả nỗi niềm thành thật, dung dị nhƣ chính nỗi niềm dân gian một
thủa:
Ngƣời H'Rê nghèo thâm nhƣ đất..
... Nhƣng ngƣời H'Rê không nghèo tiếng chiêng
Tiếng chiêng giầu nhƣ màu xanh của núi
Nhiêu nhƣ nƣớc sông H'Rê.. [168 , 69]
Tháng ba, trong ý thức ngƣời Tây Nguyên luôn gắn liền với sự thăng hoa của nghệ
thuật. Tháng ba, cả Tây Nguyên rộn ràng trong những âm hƣởng hào hùng lãng mạng của các
loại nhạc cụ dân tộc. Nhà thơ Êđê Kpa -
134
Ylăng đã trao gửi cho nghệ thuật sứ mệnh dãi bày khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, thịnh
vƣợng;
Tháng bà Tây nguyên
Trống, chiêng, cồng ngày đêm vang dội.
Báo ngày mùa gạo lúa bội thu. [28, 173]
Là nhà thơ của một dân tộc giầu truyền thống thơ ca, Bàn Tài Đoàn đã khảng định giá
trị vô giá của thơ ca qua chính cách nói dung dị của dân tộc mình:
Một lời ca hay đáng vạn tiền. [46,11]
Nhìn chung cách thức biểu đạt và ý thức về tác dụng của nghệ thuật trong thơ Bàn Tài
Đoàn rất gần với lời ăn tiếng nói nôm na dung dị, giàu tính chất khẩu ngữ tự nhiên của dân ca
Dao:
Tuổi đã sáu mƣơi tôi về hƣu
Trở về bản vác củi chăn trâu
Đồng bào đi chợ tìm trò chuyện
Hát mấy câu thơ quên cả sầu... [29 , 85]
Trong bài thơ Con mừng dâng mẹ, nhà thơ Bàn Tài Đoàn tự hào nói với hƣơng hồn
ngƣời mẹ đã khuất về vị thế thơ ca của mình đối với cách mạng và dân tộc bằng một cách nói
thật dung dị mà vẫn thấm thía nỗi niềm đề cao sức mạnh góp phần lập công cứu nƣớc của
nghệ thuật chân chính:
Con nhập Việt Minh, con nhập Đảng
Làm thơ phục vụ đến ngày nay
Lời thơ truyền cảm lòng yêu nƣớc
Dân tộc ta cùng lập chiến công... [168, 49]. v .v..
Kế thừa truyền thống nghệ thuật gắn kết tình ngƣời của dân gian, nhà thơ Bế Dôn đã
ký thác vào cho lời Sli quê hƣơng một sức mạnh đặc biệt:
Tiếng Sli vọng đi tám hƣớng
135
Và ngận tới bốn phƣơng
Bè cao vẫy trăm bản
Bè thấp gọi ngàn mƣờng ...
Sức mạnh truyền cảm sâu xa của tiếng Sli đã trực tiếp là nguồn cổ vũ cho những
ngƣời con ƣu tú lên đƣờng ra trận lập công cứu nƣớc:
Và tiếng Sli hôm nay
Từ núi cao thung thẳm
Theo những chàng trai khỏe mạnh
Lên đƣờng đến tiền phƣơng
...Và ngân dài, ngân dài theo bƣớc hành quân
Và quyện vào bài "Giải phóng miền Nam" [168, 37| .v.v...
Trong các bản trƣờng ca, sử thi Tây Nguyên, ở đâu tiếng chiêng cũng là hiện thân của
sức mạnh tình cảm và niềm vui hoan lạc, chiến thắng. Niềm vui thắng Mỹ đƣợc mô tả qua ý
thức về tiếng chiêng trong bài thơ Ngày hội mừng chiến thắng của nhà thơ ngƣời Châu Ro:
Prêkimala thật đồng điệu Với ý thức về tiếng chiêng của dân gian xƣa, có khác chăng chỉ là ở
nội dung thông báo hiện đại mà thôi:
Hãy đánh chiêng lên
Những tiếng chiêng hay nhất
Đánh cho tiếng chiêng lan khắp xứ, đi khắp nơi
Báo cho loài ngƣời biết
Tổ quốc ta đang thắng Mỹ [168,56]
Nhà thơ dân tộc Thái: Lò Văn Cậy có bài thơ: Chung một dải núi khá độc đáo. Bài
thơ viết ra để nhớ lại những ngày dự trại sáng tác văn học các tỉnh phía Bắc tại cao nguyên
Mộc Châu, Sơn La (tháng 11/1968). Ngợi ca giá trị thanh cao của văn chƣơng nghệ thuật,
nhà thơ đã có những câu thơ mang đậm phong vị dân ca Thái vốn rất giàu hình ảnh sinh
động:
136
Mỗi câu thơ đoạn văn là một nhánh hoa thơm
Hƣơng bay dăng khắp nẻo đƣờng đất nƣớc...[ 25, 33]
Ngoài những nhà thơ có tên tuổi đã nói ở trên, những câu thơ, bài thơ có ý thức biểu
đạt quan niệm về văn chƣơng, nghệ thuật của Lƣơng Quy Nhân, Đinh Đăng Lƣợng, Ma Đình
Thu, Vị Văn Thứa, Triệu Lam Châu, Lâm Thị Ngân v.v... đã góp phần hợp thành một mảng ý
thức về nghệ thuật đặc sắc.
Cảm nhận về tác dụng gợi cảm của lời Sli - một hình thức thơ ca dân gian độc đáo của
ngƣời Tày, nhà thơ Triệu Lam Châu có những kiến giải bằng thơ thật thấm thía:
Lời Sli lạnh lùng mà có lửa
Nhƣ ngƣời dƣng mà chẳng thể cầm lòng. [29 , 22] v.v...
Phải sống với di sản văn nghệ dân tộc bằng tấc cả niềm đam mê, trân trọng lột bậc
mới có thể chắt chiu đƣợc những câu thơ sắc lẹm mà vẫn thấm thía hồn cốt của cha ông đến
thế:
Nhƣ vậy, loại trừ thể nghị luận đóng vai trò chủ công mà chúng tôi sẽ nói ở sau, các
nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại đã có không ít các quan niệm về văn chƣơng nghệ
thuật dƣới "dạng sáng tác". Nói nghị luận là đánh thức chủ công trong việc bộc lộ các quan
niệm văn học nghệ thuật là dựa trên tiêu chí số lƣợng các lý giải về nghệ thuật. Nếu dựa trên
tiêu chí số lƣợng các chủ thể nghệ thuật tham gia lý giải thì ƣu thế lại thuộc về thơ. Chỉ có
một số lƣợng rất ít các nhà thơ, nhà văn tham gia hoạt động lý luận phê bình, trong khi đó lại
có cả một số lƣợng áp đảo các chủ thể quan niệm nghệ thuật là các nhà thơ rất có ý thức lý
giải về nghệ thuật qua thơ. Mặt khác, nghị luận xem ra không phải là tiếng nói ƣa dùng quen
thuộc của các nhà Văn dân tộc anh em, bởi lẽ nó mới đƣợc xác lập, chƣa đƣợc các nhà văn
làm quen qua quá trình trải nghiệm dài lâu. Thậm chí nghị luận dƣờng nhƣ còn
137
có vế đối nghịch với thói quen biểu đạt cụ thể, thiên về hình ảnh trực giác của các dân tộc anh
em. Vì vậy ở thể nghị luận tuy có hiện diện nhiều quan niệm nghệ thuật so với các thể loại
khác song dù sao nó cũng chỉ đƣợc phát huy với một sô nhà văn có điều kiện nghiên cứu, phê
bình văn nghệ. chứ không phải là cánh cửa rộng mở cho mọi nhà văn bƣớc vào luận giải về
nghệ thuật. Thói quen bộc lộ các quan niệm Nghệ thuật của các nhà văn dân tộc anh em chủ
yếu vẫn nhằm vào lãnh địa sáng tác. Trong số các thể loại để sáng tác, văn xuôi tự sự rất có
ƣu thế để các nhà văn dân tộc giãi bày các quan niệm nghệ thuật nhƣng đó lại là một thể loại
mới đƣợc hình thành từ cuối những năm 50 trở lại đây chƣa có mấy cây bút tham gia sáng
tạo. Kịch, ký... lại càng non trẻ và có số lƣợng ngƣời viết thƣa thớt hơn nhiều. Vì vậy chỉ có
thơ ca là con đƣờng rộng mở với mọi nhà văn trong việc giãi bày trực tiếp những suy tƣ, cảm
nhận đã dồn nén đến độ chín về nghệ thuật. Thơ có đƣợc ƣu thế này so với các thể loại sáng
tác khác là bởi vì nó đã có cả một bề dày lịch sử phát triển từ ngàn năm. Văn học viết của dân
tộc Tày và Thái trƣớc cách mạng cũng chỉ có đơn nhất thể loại thơ ca. Tƣ duy hình tƣợng,
trực giác rãi giàu chất thơ của các dân tộc đã chắp cánh cho thơ phát triển mạnh mẽ từ ngàn
xƣa, nay có thêm luồng sinh khí mới từ cuộc hồi sinh của cả quốc gia dân tộc Việt Nam sau
Cách mạng Tháng Tám phả vào, càng khiên cho thơ có dịp thăng hoa, nở rộ. Tính đến thời
điểm 1995 "trong số 23 nhà văn dân tộc thiểu số (là hội viên Hội nhà văn Việt Nam) thì đã có
16 nhà thơ." [154,94] . Một con số có ý nghĩa áp đảo của thơ so với các thể loại sáng tác
khác. Con số này cũng phần nào có giá trị thuyết minh về hiện trạng xuất hiện với số lƣợng
đáng kể các quan niệm về nghệ thuật dƣới hình thức thơ ca (chỉ đứng sau hình thức nghị
luận). Để các quan niệm đƣợc biểu đạt dƣới hình thức thơ ca quả là các nhà văn dân tộc thiểu
số đã lập thêm một kỳ tích cách tân đáng kể trong cuộc hành trình ý thức về văn chƣơng
138
nghệ thuật so với các thế hệ cha ông của họ trong văn học dân gian thƣờng chủ yếu tìm đến
các thể loại tự sự để giãi bày quan niệm nghệ thuật,. Nhƣng nói cách tân ở đây chỉ nên hiểu là
sự chuyển đổi vị thế từ tác phẩm tự sự sang tác phẩm thơ ca trong quá trình kiếm tìm cách nói
mà thôi. Xét vào chiều sâu nội dung và hình thức các quan niệm nghệ thuật đƣợc biểu đạt
dƣới dạng thơ, các nhà thơ hiện đại vẫn thƣờng xuyên có sự hóa thân vào trong những nỗi
niềm về nghệ thuật, của các thế hệ nghệ nhân dân gian xƣa rất sâu sắc. Thiết nghĩ, những câu
thơ có hàm chứa các quan niệm về nghệ thuật của các thi nhân hiện đại, nếu không ghi rõ họ
tên ngƣời sáng tác, bạn đọc rất dễ đánh đồng nó vào trong khuôn thƣớc ý thức sáng tạo của
dân gian truyền thống. Điều đó chẳng có gì lạ, bởi vì nền văn học viết hiện đại các dân tộc
thiểu số vừa mới thoát thai từ văn học dân gian chƣa đầy nửa thế kỷ. Nhiều dấu ấn đặc trƣng
của văn học dân gian vẫn còn lƣu đọng đậm nét trên gƣơng mặt nền văn học non trẻ này.
Trong bƣớc sơ khởi còn mò mẫm của mình, các nhà văn hiện đại hiển nhiên phải khai thác
sức mạnh của văn học dân gian và nƣơng theo mực thƣớc biểu đạt cổ điển của truyền thống
cha ông.
Phẩm chất dân gian không chỉ thể hiện sâu đậm qua việc bộc lộ quan niệm nghệ thuật
trên các thể loại sáng tác mà còn dễ dàng tìm thấy ở phạm vi nghị luận nữa.
3.2.2. Trong dạng nghị luận
Nhƣ đã nói, lý luận phê bình của các nhà văn dân tộc anh em còn rất non trẻ. Nó vừa
nằm trên mặt bằng của một nền văn học còn tiềm tàng các mối quan hệ giăng mắc bền chắc
với truyền thống dân gian, lại vừa do chính các nhà văn, nhà thơ vỗn cũng rất giàu phong vị
dân gian thực hiện. Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Lò Ngân Sủn... là những nhà văn thƣờng
xuyên nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian, rất có ý thức khai thác tối đa những
139
tƣ tƣởng và phƣơng thức biểu đạt của dân gian trong các sáng tác của mình. Vì vậy bản sắc
truyền thống dân tộc nổi bật của nền lý luận phê bình ấy không thể là cái gì khác ngoài sắc
diện dân gian truyền thống cổ điển mẫu mực của họ.
3.2.2.1 Văn nghị luận phê bình, lý luận là loại hình biểu đạt thiên về những biện luận
mang tính khái quát, lôgic, vậy mà khi lý giải về các vấn đề vốn rất trừu tƣợng của nghệ
thuật, các nhà văn dân tộc anh em lại vẫn thƣờng ƣa khai thác những lối nói giàu hình ảnh
sinh động, xác thực. Nhà thơ Nông Quốc Chấn thƣờng bày tỏ các quan niệm về đặc trƣng
thẩm mỹ của thơ ca thông qua những hình ảnh so sánh - liên tƣởng kỳ thú: "Một bài thơ chỉ
có ý thôi chẳng khác nào một cây đứng trần, không cành nhánh, không lá hoa. không dây
leo... Nhƣ vậy ngƣời này muốn kể cho ngƣời khác biết về cây đó thì chỉ có thể nói một khái
niệm: cây đó là một khúc gỗ thẳng đứng." [20 174]. Chủ đề tƣ tƣởng là những khái niệm lý
luận trừu tƣợng, vậy mà lý giải về nó, Nông Quốc Chấn vẫn tìm cách giải mã bằng một hình
thức sinh động đến bất ngờ: "Trong mỗi bài thơ, những chi tiết có chọn lọc bao giờ cũng cần
thiết cho chủ đề tƣ tƣởng. Chi tiết nhƣ cành, nhƣ lá, nhƣ hoa, nhƣ dây leo... Chủ đề tƣ tƣởng
nhƣ cả thân cây." [20, 237] v.v...
Dƣờng nhƣ khi cần gợi sự liên tƣởng trực tiếp về các vấn đề cụ thể của đời sống văn
nghệ, Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn - thƣờng hay khai thác các sự vật, hiện tƣợng thuộc thế
giới môi sinh miền núi (suối, lá hoa, dây leo, đồi , núi.... ) để làm chất liệu đối chiếu phổ biến.
Nông Quốc Chấn suy nghĩ về vốn văn nghệ dân gian các dân tộc nhƣ sau: "Vốn văn nghệ dân
gian miền núi có thể ví nhƣ những dòng suối trên núi rừng. Những nguồn nƣớc này chảy mãi
không bao giờ cạn..." [26 , 347] hoặc: "Một khi những dòng suối văn nghệ các dân tộc đƣợc
khơi nguồn, nó sẽ làm cho con sông văn nghệ chung thêm tràn trề..." [26 ,316]. Phê bình một
đoạn thơ nghèo
140
xúc cảm, thiên về lối khái quát chung chung của. Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn nhận xét:
"Những câu thơ này nhƣ những quả núi trọc, lại bị xói mòn." [116, 415]. Môi sinh miền núi
cũng đi vào những trang nghị luận của Lò Ngân Sủn khá thƣờng xuyên, chẳng hạn: "Mỗi bài
thơ là một kỷ niệm, ở đâu có hơi thở cuộc sống thì ở đó có thơ - cũng nhƣ ở đâu có rừng thì ở
đó có chim hót, có hoa nở, có màu xanh. Ở đâu có sông, có suối thì ở đó có cá bơi, cá lƣợn...
Thơ là tiếng chim hót, là tiếng suối chảy, là Cây, là lá, là hoa, là gió, là mây, là lũ cuốn ầm
ầm. Thơ là ánh trăng, là tiếng khèn môi thủ thỉ bên tai ngƣời yêu" [143,36]... Hoặc: "Thơ ca
trống có vẻ mỏng manh yếu ớt nhƣ hoa lá trong rừng nhƣng lại ẩn chứa một tiềm lực rất
lớn..." [143 , 86]. Sau khi kể những tác phẩm nổi bật của các nhà văn dân tộc ít ngƣời sau
cách mạng, Lò Ngân Sun nhận xét: "Đấy là cái hay, cái nở rộ, cái sặc sỡ của các dân tộc miền
núi chúng ta từ khi có Đảng, có Cách mạng, có Bác Hồ. Nó thô sơ mà trong trắng tự nhiên
nhƣ tiếng lá rừng cây, nhƣ tiếng suối chảy, lấp lánh nhƣ sao trời."v.v... [143,117]. Những ý
tƣởng về văn nghệ đƣợc nhận thức trong sự ứng chiếu rộng rãi với các thuộc tính của thiên
nhiên và cuộc sống miền núi nhƣ thế, thiết tƣởng chỉ có thể bắt gặp trong các trang lý luận
phê bình của các cây bút miền núi. Không phải ngẫu nhiên, Nông Quốc Chấn suy nghĩ về
điều kiện thành công của các bài thơ miền núi rằng: "Những bài thơ miền núi chỉ có thể thành
công khi nào ngƣời làm thơ biết vận dụng khéo léo những hình ảnh gần gũi của miền núi để
miêu tả tâm tình của ngƣời dân tộc thiểu số." [26 , 237]. Phải chăng vì thế mà ngay ở phạm vi
chính luận họ vẫn mang theo quán tính vận dụng nhƣng liên tƣởng, so sánh sinh động vào
giữa các trang viết của mình. Có cảm giác, tƣởng nhƣ họ thƣờng xuyên bƣớc đi giữa những
so sánh - liên tƣởng kỳ thú nên đặc biệt viết là tràn chảy những so sánh liên hệ rất đỗi nên
thơ: "Văn học các dân tộc thiểu số có thể ví nhƣ một vƣờn hoa muôn màu, nghìn vẻ.
141
Cũng có thể ví nhƣ một sân khấu lớn có nhiều tiếng hát, tiếng nhạc mang âm điệu, tiết tấu,
hơi thở của nhiều dân tộc." [26, 287]. Trong lý luận phê bình văn nghệ, các nhà văn dân tộc
anh em thƣờng xuyên có ý thức cụ thể hơn mọi vấn đề lý luận văn nghệ khái quát bằng
những lối nói sinh động triệt để. Nông Quốc Chấn bày tỏ tâm sự: "Dùng hình tƣợng để diễn
đạt, tôi thấy dễ dàng hơn nhiều so với dùng những thuật ngữ mang tính khái niệm quá ƣ khái
quát" [196, 58]. Vì vậy, khi động chạm đến những vấn đề lý luận nghệ thuật hữu trừu tƣợng,
ông luôn tìm cách hiện thực hóa chúng bằng những hình ảnh ví von, so sánh gần gũi nhất:
"Thiếu những nét đẹp của truyền thống văn nghệ các dân tộc chỉ là những bông hoa bằng
giấy thiếu những nét mới khoa học, trí tuệ văn nghệ các dân tộc sẽ giống nhƣ có nhiều ngô
khoai chỉ biết nƣớng, luộc mà không chế biến thành nhiều thứ kẹo bánh." [168, 401]. Trong
số các nhà văn dân tộc ít ngƣời có ý thức hoạt động lý luận phê bình, Vi Hồng là một cây bút
khá đặc sắc ở khả năng kết hợp hài hòa giữa những lối nói giầu hình tƣợng với lối nói khái
quát sắc sảo về những vấn đề cụ thể của nghệ thuật. Song trƣớc sau, ông vẫn là nhà sáng tác
viết lý luận phê bình, cho nên điểm mạnh cua ông qua các trang viết nghị luận vẫn là những
trang đoạn ông biết hình tƣợng hóa các vấn đề lý luận nghệ thuật một cách sinh động. Cảm
động về vai trò của văn chƣơng đối với nhịp sống tinh thần của mình (cũng là của con ngƣời
nói chung) ông viết thật cảm động: "Văn chƣơng với tôi bao giờ cũng là một chiếc phao trong
những ngày tháng tôi ngoi ngóp giữa biển cả khổ đau. Văn chƣơng bao giờ cũng là một cánh
qụat trong chuỗi ngày dằng dặc oi bức..." [63 ,7]. Ông suy nghĩ về những điều kiện có liên
quan đến khả năng sáng tạo của nghệ sĩ bằng những liên tƣởng giầu hình ảnh sinh động:
"Tình yêu và hạnh phúc gia đình bao giờ cũng là đôi cánh rất khỏe cho tâm hồn thi sĩ. Nếu
thiếu nó thì sáng tác của họ dễ chết yểu, dễ nhiễm bênh tật, có khi tắc tị."
142
63, 9]. Có thể nói rằng đến với những trang viết nghị luận của các nhà văn dân tộc ít ngƣời,
bạn đọc hiếm khi bắt gặp những khái quát chung chung, trừu tƣợng, mang sắc màu kinh viện.
Văn nghị luận của họ ít khi ly thoát những chứng cớ và hình ảnh sinh động nên giàu chất thơ,
dễ gợi những liên tƣởng kỳ thú, giảm thiểu những suy xét, phán đoán nhọc nhằn cho ngƣời
tiếp nhận.
3.2.2.2. Văn nghị luận trong phê bình lý luận đòi hỏi sự khúc triết, lạch lạc, dồn nén
các ý tƣởng trong những đơn vị ngôn từ giàu sắc thái igic. Các nhà văn dân tộc anh em - nhất
là lớp trẻ - cơ bản đã làm vậy, song ly đó giữa các trang viết của mình, họ vẫn dành chỗ đứng
khá rộng rãi cho những lối nói hồn nhiên, chân tình tựa nhƣ lời đối thoại khẩu ngữ mộc mạc,
nhiên trên bàn trà., cuộc rƣợu không chút khách khí, màu mè: "Bản lĩnh, đạo đức của ngƣời
viết là cổ chí, cần cù, khiêm tốn. Khi thành công phải nghĩ ngay đến khi thất bại. Chỉ luôn
nghĩ đến thành công đến khi bị ngƣời ta phê bình thì nhụt ý chí rồi đâm ra bất mãn, nói lung
tung..." [20,211]. Sắc ái khẩu ngữ thƣờng xuyên chiếm ƣu thế tối đa trong các luận bàn, trao
đổi nghệ thuật của họ. Chẳng hạn: "Cần tạn ra cái mới. Nếu chỉ toàn nhặt lấy cũ ra để dùng
thì ta chỉ sống về quá khứ thôi. Ngƣời ta sẽ bảo: dân tộc quá khứ thì hay nhƣng hiện tại thì tôi
chƣa thay, thế là không đƣợc." [20 192]. Nông Quốc Chấn thƣờng bộc lộ các ý tƣởng về văn
nghệ bằng một giọng điệu chân tình, cởi mở nhƣ bày tỏ nỗi lòng mình với bè bạn, ngƣời thân:
"Bệnh lƣời là rất tai hại đối với ngƣời việt. Lƣời đáng kỵ lắm. Ngày anh cũng phải ghi một
tý, luyện cho quen cái óc của mình." [20 , 212]. trƣng bày tỏ quan niệm về tính thời điểm của
sáng tác: "Việc sáng tác về bộ , thƣơng binh lúc này, chúng ta nên viết về mặt tốt, mặt tích
cực là chính. Trong lúc đang tuyển quân hô hào thanh niên lên đƣờng chống Mỹ cứu nƣớc,
chúng ta lại viết những vở kịch nói cái băn khoăn, mất mát thì ngƣời
143
đọc không chịu đƣợc." [20 , 201] v.v...
Bên cạnh chất giọng trầm cảm, khách quan trong phân tích, đây đó trong các trang
viết lý luận phê bình của Vi Hồng, bạn đọc vẫn có thể tìm thấy ở ông giọng điệu trao đổi
chân tình, mộc mạc nhƣ rút từ gan ruột của mình: "Ngƣời viết văn cần có lối sống riêng, có
bản lĩnh riêng rất vững. Nhƣng nêu không có đƣợc đức tính đó thì không nên cố tạo ra nó.
Bởi chẳng bao giờ ngƣời ta về lớn. về già lại còn tạo ra đƣợc một bản tính mới nào cả. Nếu
có biểu hiện này nọ thì đó cũng là của gỉa. Mà văn chƣơng thì không thể giả." [63,7]. Nói về
cảm xúc bi ai trong sáng tác Vi Hồng không bày tỏ vấn đề bằng lối nói nghị luận khái quát
thuần túy có cả sắc thái trao đổi, tâm tình rấi thành thật: "Nguời viết văn phải có nỗi đau, nỗi
đau khổ càng nhiều càng tốt... Khổ đau giúp cho ngƣời ta mở rộng các giác quan cảm xúc
nghệ thuật Nhƣng nếu đau khổ quá độ, buồn khổ quá độ thì sẽ hạn chế rất nhiều đến sô lƣợng
cũng nhƣ chất lƣợng các sáng tác." [63 , 7].v.v...
Thành thật, ân cần, cởi mở là vậy mà khi cần bày tỏ thái độ phủ định hoặc: trao đổi
nghiêm túc về những vấn đề cụ thể của văn học nghệ thuật, sắc thái nghị luận của họ cũng
thật thâm thúy, sắc sảo đến không ngờ. Cái thâm thúy, sắc sảo không phải bật phát ra từ thái
độ tranh luận gay gắt, viện dẫn những tri thức liên đới từ cổ kim đông tây... mà chủ yếu vẫn
đƣợc kết tinh từ những hình ảnh liên tƣởng rất đỗi chân phƣơng, giàu xúc cảm thành thật. Họ
muốn lấy cái tâm thành thật, nụ cƣời bằng hữu để trao đổi với ngƣời ngay cả khi tình thế có
thể đòi hỏi phải gay gắt, quyết liệt. Phản bác lại những ngộ nhận về sƣ sáng tạo thơ ca, Lò
Ngân Sủn đã viết: "Có ngƣời nghĩ: làm thơ dễ, ai cũng làm đƣợc. Nhƣng đã có mấy ai thấu
hiểu cốt lõi của thơ là sự rung động, là tình cảm của con ngƣời trƣớc cuộc sống. Sức nóng
của lòng mình còn chƣa đủ sƣởi ấm lòng mình thì làm sao sƣởi ấm cho muôn ngƣời.... Ngƣời
Thái nói: hát tình yêu là hát làm ngƣời. Ngƣời Giáy nói:
144
Ngồi thì co, đứng thì thẳng, làm ngƣời thật khó. Làm thơ khó vậy chăng?" [125, 568] v.v...
Có thể nói, cách thức biểu đạt nghị luận mộc mạc, hồn nhiên, vốn thiên về những lối
nói hình ảnh cụ thể tạo khả năng liên tƣởng xác thực, độc đáo là một thế mạnh đặc biệt đƣợc
các nhà văn dân tộc anh em chắt lọc từ bề dày văn hóa, văn học dân gian của họ . Nó đƣợc
kết nối, hun đúc và dung dƣỡng nhờ nguồn sữa bất tận của dân gian truyền thống. Tiếng nói
truyền thống ấy đã hằn sâu trên từng nếp gấp tƣ duy để trào thoát ra trên mỗi trang viết của
nhà văn - nhất là các nhà văn thuộc thế hệ đầu của nền văn học cách mạng có điều kiện sống
giữa môi trƣờng văn học dân gian thuần khiết từ trƣớc 1945.
Cách viết nghị luận trực cảm giàu so sánh liên tƣởng sinh động của các nhà văn dân
tộc là hệ quả nối tiếp từ truyền thống văn học dân gian của họ. Tiếng nói nghệ thuật truyền
thống của dân gian các dân tộc về đại thể đều là những tiếng nói nghệ thuật đặc biệt sinh
động, cụ thể, tƣởng nhƣ có thể đông đếm, trực cảm bằng các giác quan. Xuyên suốt cả mội
thời kỳ dài lâu trong., lịch sử phát triển văn hóa văn nghệ của mình trƣớc cách mạng, các dân
tộc thiểu số anh em chỉ biết đến sáng tác nhờ con đƣờng sáng tác mà ký thác các suy ngẫm và
tâm sự của mình về nghệ thuật. Thói quen tƣ duy trực cảm, sinh động càng có dịp đƣợc phát
huy trong bối cảnh sáng tác dân gian phi văn tự. Bởi vì khi truyền khẩu, ngƣời ta chỉ có thể
tìm đến những lối nói giàu hình ảnh sinh động và cụ thể để tạo hiệu quả ám ảnh, khắc sâu, dễ
nhớ đối với ngƣời tiếp nhận... Mặt khác sống trong điều kiện sinh hoạt kinh tế tự cung, tự cấp
khép kín, các dân tộc anh em khó có những cơ hội và điều kiện để giao lƣu, quan hệ với
những không gian văn hoá khác. Đội ngũ trí thức dân tộc bản địa vì thế rất khó có thể tìm
đƣợc những phƣơng thức biểu đạt mới mẻ mang tính đột phá so với những thông lệ truyền
đời của cộng
145
đồng. Cách nói hình ảnh, mộc mạc, chân xác và cụ thể dƣờng nhƣ đã thấm nhuần trong họ
nhƣ một quán tính tự nhiên... Trong khi đó, dân tộc Kinh do sớm đƣợc thừa hƣởng một
truyền thống văn học phong phú, những cách nói có phần khái quát ham súc về văn nghệ đã
xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử với những tên tuổi đặc biệt nhƣ Lê Quý Đôn, Hoàng Đức
Lƣơng, Nguyễn Hanh, Bùi Huy Bích, Ngô Thì Nhậm v.v... Có lẽ, các dân tộc thiểu số nếu
không có cách mạng Tháng Tám mở ra con đƣờng cho cuộc hòa lƣu cách tân văn nghệ, rất
khó có thể nói đến sự hiện diện của những tên tuổi phê bình lý luận nghiên cứu văn nghệ nhƣ
Nông Quốc Chấn, Vi Hồng, Lò Ngân Sủn, Lâm Tiên... Đến tận đầu những năm 70 của thế
kỷ này mà Nông Quốc Chấn vần đành phải ghi nhận một cách xót xa: "Có thể nói, trong lĩnh
vực nghiên cứu lý luận, các dân tộc thiểu số không có gì." [154 , 13]. Vì vậy khi đã có rồi thì
nên phê bình lý luận ấy đƣơng nhiên trở thành một bộ phận văn học đặc biệt. Tính chất đặc
biệt này không phải chỉ là do những cách tân đổi mới trong cách lý giải về các vấn đề của
nghệ thuật hay do độ dày dặn của các trang sách, tập sách tiểu luận của các nhà văn vẫn
thƣờng xuyên ra mắt bạn đọc, mà chính là ở sự thấm nhuần sâu đậm các sắc thái dân gian
truyền thống, tạo cho các trang viết của họ một sắc điệu rất riêng, khó xóa nhòa, không thể
trộn lẫn. Có thể nói, sự gắn kết bền chặt với truyền thống cha ông cũng là nét phẩm chất
chung thủy thật đáng yêu của các cây bút lý luận phê bình văn học dân tộc thiểu số - những
con ngƣời sống giữa dông tố của thời đại giao lƣu, hòa nhập mà vẫn giữ trọn trong góc sâu
trái tim mình cái phần hồn nhân bản của cha ông để trƣớc sau mình vẫn là mình...
Tóm lại, bên cạnh những cách tân đổi mới, các nhà văn dân tộc thiểu số vẫn thƣờng
xuyên khai thác tối đa những phẩm chất nghệ thuật của dân gian truyền thống trên các trang
viết của mình. Dù là sáng tác hay nghị luận, khi có dịp biểu đạt các quan niệm về nghệ thuật,
các nhà văn đều tự nguyện
146
trung thành với truyền thống dân gian nhƣ tìm đến với một mô típ cổ điển mẫu mực. Ở đâu
phẩm chất dân gian truyền thống cũng nổi bật lên nhƣ một gam màu bất biến, nó hòa quyện
vào các lý giải về nghệ thuật của các nhà văn hiện đại nhƣ hòa quyện vào nỗi niềm tình cảm
và máu thịt của họ. Các nhà văn dân tộc anh em văn thƣờng tâm niệm, chỉ khi nào khai thác
những phẩm chất dân tộc có hiệu quả mới hy vọng có cơ may đƣợc đồng bào mình chia sẻ và
đón nhận. Sinh thời nhà văn Vi Hồng thƣờng khuyên các nhà văn, nhà thơ nên tăng cƣờng
trau dồi vốn từ ngữ dân gian. Ông nói: "Nếu nghe và ghi nhớ đƣợc những từ ở cửa miệng dân
gian thì tốt hơn nhiều." [62, 64]. Nhà thơ Nông Quốc Chấn cũng thƣờng tâm sự và khuyên
răn các đồng nghiệp của mình: "Những đoạn nói lý khô khan, những lời nói xa rời các cảm,
cách nghĩ của dân tộc mình là những thứ bệnh cần đƣợc mau mau sửa chữa." [19,90]. Rõ
ràng một khi đã lấy phƣơng châm viết cho đồng bào mình làm chính thì bất luận ở thể loại
nào - kể cả thể loại nghị luận vốn thiên về khái quát, các nhà văn dân tộc anh em cũng tất yếu
phải tìm cách khai thác tối đa những sắc thái tƣ tƣởng và mô thức ngôn từ quen thuộc, phù
hợp với truyền thống sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật của dân tộc mình.
*
* *
Hiểu bản chất đặc trƣng các quan niệm nghệ thuật của các thế hệ nghệ sĩ dân tộc thiểu
số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà văn Việt Nam hôm nay , đặc biệt đối với
các nhà văn dân tộc thiểu số anh em.
Vừa giàu hình ảnh sinh động, vừa nôm na dung dị mộc mạc - đó là những sắc thái nổi
bật trong quan niệm về nghệ thuật của các thế hệ nghệ sĩ dân tộc thiểu số từ văn học dân gian
đến văn học hiện đại. Sắc thái quan niệm nghệ thuật độc đáo này dƣờng nhƣ không có sự
gián đoạn, phân hóa qua những biến thiên thăng trầm của lịch sử. Nó đã từng trƣờng diễn qua
147
lịch sử để trở thành nghiệm số chung cho lời giải bài toán về nghệ thuật của các thế hệ nghệ
sĩ dân tộc thiểu số xƣa nay. Do vậy để hiểu thấu đáo những sắc thái quan niệm nghệ thuật của
các nhà văn hiện đại, vẫn nhất thiết phải truy nguyên sự hiểu biết vào chiều sâu quan niệm
nghệ thuật của dân gian. Bởi lẽ giữa hiện tại và quá khứ trong ý thức của các nhà văn dân tộc
thiểu số chẳng có mấy khoảng cách chia xa. Các thế hệ văn nhân xƣa nay vẫn thƣờng xuyên
hành trình qua lại trong sự giao thoa kết nối bền chắc giữa hai chiều quá khứ và hiện tại. Chỉ
hiểu biết các quan niệm nghệ thuật ấy ở một phía đơn nhất chắc chắn sẽ không tránh khỏi cái
nhìn phiến diện, giản đơn, sẽ khó có thể đi đến tận cùng sự hiểu biết thấu triệt về bản chất đặc
trƣng quan niệm nghệ thuật của các dân tộc anh em... Trong bối cảnh giao lƣu và hội nhập
toàn diện hôm nay, để phát triển, các nhà văn dân tộc anh em cần học tập, tiếp thu những tinh
hoa, kinh nghiệm tiên tiến của văn học các nƣớc, các dân tộc khác. Song để nền văn học của
các dân tộc luôn luôn mang đậm bản sắc dân tộc, các nhà văn lại cần phải thƣờng xuyên gìn
giữ và phát huy những sắc thái dân tộc đặc sắc vốn trƣờng tồn từ trong di sản văn học dân
gian cổ điển của các dân tộc anh em. Quá thiên về đổi mới cách tân để đến nỗi mờ nhạt bản
sắc dân tộc "khiến ngƣời đọc khó phân biệt đƣợc đâu là tác phẩm của ngƣời Tày, đâu là tác
phẩm của ngƣời Kinh viết về miền núi" [154, 146] (Lâm Tiến) thì thật là không ổn. Cần khai
thác, kế thừa những sắc thái quan niệm nghệ thuật dung dị, mộc mạc, giầu hình ảnh sinh động
và hồn nhiên của dân gian các dân tộc thiểu số để sao cho những trang viết của các nhà văn
hiện đại luôn thấm nhuần bản sắc dân tộc chân chính.
Do vậy việc tiếp thu, kế thừa truyền thống - trong đó có truyền thống quan niệm nghệ
thuật là một yêu cầu thiết thực và bức xúc đối với các nhà văn dân tộc anh em. Có nhƣ vạy
sáng tác của họ mới ngày càng thấm đƣợm phẩm chất dân tộc chân chính, tạo sự giao cảm
rộng rãi, gần gũi với đồng
148
bào mình. Nhà thơ Lò Ngân Sủn đã từng cảnh báo: "Điều đáng buồn hơn là ngay trong đội
ngũ sáng tác là ngƣời thiểu số (trong đó có bản thân tôi) cũng lại thiếu am hiểu về chính dân
tộc mình, thậm chí có tác giả còn có nguy cơ thoát ly truyền thống văn học dân tộc mình."
Thiết nghĩ, sức mạnh của mỗi nhà văn trƣớc hết là sức mạnh đƣợc kết tinh từ sự am tƣờng
thấu đáo các giá trị nội sinh của dân tộc. Thoát ly những sắc thái đặc trƣng của dân tộc mình,
nhà văn chỉ có thể là kẻ ký sinh "thƣơng vay, khóc mƣớn" hời hợt qua mỗi trang viết. Do vây
việc hiểu truyền thống nghệ thuật trong đó có truyền thống quan niệm nghệ thuật của cha ông
bao giờ cũng là bài học mãi mãi có ý nghĩa thời sự cập nhật đối với các thế hệ nhà văn dân
tộc thiểu số anh em.
Đối với các nhà văn ngƣời Kinh, việc am hiểu bản chất các quan niệm văn học nghệ
thuật từ trong truyền thống của các dân tộc anh em cũng có ý nghĩa thiết thực trong việc loại
trừ những khả năng bắt chƣớc hời hợi, mô phỏng dễ dãi, tùy tiện những lối nói dân tộc thuần
tuý, ngẫu nhiên. Nhà thơ Lò Ngân Sủn sau khi biểu dƣơng những tác giả ngƣời Kinh đã "đầu
tƣ công sức và trí tuệ để viết về ngƣời thiểu số" nhƣ Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn
Kháng... cũng đã nhận xét về những hiện trạng không bình thƣờng của một số ngƣời viết
rằng: "Có một số ngƣời viết có lẽ còn thiếu am hiểu một cách thấu đáo về ngƣời thiểu số, cho
nên trong sáng tác của họ còn bộc lộ sự tùy tiện, gán ghép, thậm chí có những sai sót thật
đáng trách. Phổ biến là hiện tƣợng bắt chƣớc cách nói tiếng phổ thông còn chƣa thông thạo,
còn ngọng nghịu, ngô nghê, vụng về của ngƣời thiểu số hoặc do cứ cố ra vẻ độc đáo ra vẻ có
bản sắc dân tộc một cách máy móc, thô thiển theo giọng điệu lố, né, vớ, cái mày, cái tao mà
không hiểu đƣợc bản chất ngôn ngữ tiếng nói cũng nhƣ phong tục tập quán của ngƣời thiểu
số... Đáng tiếc là những hiện tƣợng đó cho đến nay vẫn còn tái diễn đi, tái diễn lại trên các
trang
149
sách, báo trong các buôit phát thanh văn nghệ, nhất là trong các câu chuyện truyền thanh trên
sóng đài..." [143 ,15] Có thể đó là kết quả của những trang viết vừa chủ quan phiến diện vừa
vơi thiếu tri thức về bản chất đặc trƣng các quan niệm thẩm mỹ và nghệ thuật của các dân tộc
anh em. Một khi đã thấu hiểu bản sắc quan niệm nghệ thuật của các dân tộc anh em, ngƣời
cầm bút chắc chắn cần có thái độ tiếp cận đối tƣợng miêu tả một cách nghiêm cấn và trung
thực hơn. Có nhƣ vậy mới kỳ vọng có những tác phẩm vừa trung thực sinh động vừa độc đáo
về dân tộc và miền núi một mảng đề tài hơn đầy sức cuốn hút đối với các thế hệ nhà văn
Việt Nam xƣa nay
*
* *
Tóm lại ở chƣơng này sau khi đặt các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian
trong sự đối sánh với quan niệm văn học hiện đại các dân tộc thiểu số anh em sau cách mạng
Tháng Tám, chúng tôi nhận thấy rằng: Khi hội nhập vào đại gia đình văn học cách mạng Việt
Nam giữa bối cảnh lịch sử dân tộc đang trải qua những thách thức gay cấn, quan niệm văn
học hiện đại các dân tộc ít ngƣời đã thực sự có những đổi mới, cách tân đáng kể bên cạnh
những sắc thái dân tộc ổn định bền vững thƣờng xuyên đƣợc các nhà văn hiện đại kế thừa,
phát huy.
Những đổi mới, cách tân về quan niệm nghệ thuật trong văn học hiện đại các dân tộc
ít ngƣời đƣợc thể hiện sinh động trên ba bình diện chinh: Trên bình diện dân tộc thống nhất,
các quan niệm nghệ thuật của các nhà văn hiện đại đã hòa chung giao thoa mật thiết vào ý
thức nghệ thuật chung của cả cộng đồng dân tộc thống nhất, nghĩa là quan niệm nghệ thuật
của họ đã vƣợt qua giới hạn chật hẹp của các quan niệm nghệ thuật dân gian xƣa chỉ đặt các
quan niệm nghệ thuật trong sự ứng chiếu và phụng sự cho một dân tộc đơn nhất. Trên bình
diện cách mạng, các quan niệm nghệ thuật
150
hiện đại của các nhà văn đã đƣợc chung đúc nên trên cơ sở lý tƣởng cách mạng của Đảng,
của giai cấp công nhân. Nó phục vụ thiết thực cho công cuộc xây dựng và chiến đấu vì lý
tƣởng tiến bộ của cả dân tộc. Trên bình diện khoa học, các quan niệm nghệ thuật của các
nhà văn hiện đại đã vƣợt lên trên cách nhìn về nghệ thuật lẻ tẻ, rời rạc của cha ông để có
đƣợc lối nhìn nhận đánh giá mới trên tinh thần khoa học và tƣơng đối có hệ thống. Nhiều
bình diện căn bản của đời sống văn học đã đƣợc các nhà văn bàn luận khá thấu đáo, sâu sắc,
có sức thuyết phục nhƣ về chỉnh thể nhà văn, về thuộc tính thẩm mỹ thơ ca, về tính Đảng, về
phê bình văn nghệ v.v...
Phương diện truyền thống của các quan niệm nghệ trong văn học hiện đại các dân
tộc là bộ phận trƣờng diễn qua lịch sử , nó thực sự đóng vai trò quyết định bản sắc văn nghệ
đích thực của các dân tộc anh em từ ngàn xƣa tới nay. Dù là hiện hữu dƣới "dạng sáng tác"
hay nghị luận, các quan niệm nghệ thuật của các nhà văn đều chịu sự chi phối, ảnh hƣởng sâu
đậm cả về ý thức tƣ tƣởng lẫn phƣơng thức biểu đạt của dân gian. Biểu đạt các quan niệm
dƣới "dạng sáng tác", các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại vẫn tiếp tục kế thừa các thể loại
quen thuộc vốn có từ trong văn học dân gian nhƣ văn xuôi tự sự hoặc thơ ca để bày tỏ các
quan niệm về nghệ thuật một cách cụ thể, sinh động... Đặc biệt, chất dân gian truyền thống
vẫn tiếp tục chi phối ý thức biểu đạt quan niệm về nghệ thuật của các nhà văn qua hình thức
nghị luận. Sắc thái nghị luận mộc mạc, hồn nhiên, giàu hình ảnh xác thực... là phẩm chất dân
tộc sắc nét của các nhà văn dân tộc anh em khi bày tỏ các quan niệm về nghệ thuật. Bằng
cách tìm đến các mô típ cổ điển mẫn mực của truyền thống dân gian khi bày tỏ quan niệm về
nghệ thuật, các nhà văn dân tộc thiểu số hiện đại đã giữ vững đƣợc bản sắc quan niệm nghệ
thuật của dân tộc mình, đồng thời tạo cơ hội giao thoa cộng cảm với đồng bào mình sâu sắc
trong quá trình sáng tạo văn học.
151
Thấu hiểu bản chất đặc trƣng các quan niệm nghệ thuật của các dân tộc thiểu số từ
truyền thống đến hiện đại không chỉ có ý nghĩa đối với các nhà văn dân tộc anh em ở giá trị
khắc sâu phẩm chất dân tộc tiềm tàng trong sáng tác mà còn có tác dụng định hƣớng tích cực
đối với các nhà văn ngƣời Kinh vốn quan tâm đến mảng đề tài dân tộc và miền núi. Đây là
một bài học nghệ thuật có ý nghĩa cập nhật đối với các thế hệ nhà văn Việt Nam Chúng ta
hôm nay.
152
KẾT LUẬN
Đi sau tìm hiểu nghiên cứu một cách toàn diện các quan niệm về nghệ thuật trong văn
học dân gian cổ truyền các dân tộc anh em với những mục đích, ý nghĩa, đối tƣợng và
phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc xác định ở trên đã dẫn đến những kết quả có thể tóm lại nhƣ
sau:
1. Các dân tộc thiểu số anh em qua văn học dân gian cổ truyền đã bày tỏ khá nhiều
quan niệm về nghệ thuật trên các khía cạnh khác nhau. Trƣớc hết dân gian các dân tộc đã có
những cảm nhận khá độc đáo về vẻ đẹp của con ngƣời. Các dân tộc anh em rất đề cao cái đẹp
bên ngoài song có điều cái đẹp bên ngoài chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó gắn liền với vẻ đẹp
bên trong. Khi đề cao cái đẹp bên trong nhƣ một điều kiện sống còn trong giá trị của đối
tƣợng, dân gian cũng có ý thức đòi hỏi cái đẹp bên trong đó phải đƣợc "hình thức hóa" tƣơng
khớp để hƣớng tới khát vọng cái đẹp hoàn hảo. Cái đẹp lý tƣởng là sự hài hòa cao độ giữa vẻ
đẹp bên trong và cái đẹp bên ngoài theo tinh thần "đẹp ngƣời đẹp nết'', đồng thời cũng phải
đảm bảo yêu cầu cân xứng hài hoa khi đặt cái đẹp trong quan hệ cụ thể. Dân gian các dân tộc
anh em cũng ký thác cho cái đẹp những thiên chức cao cả trong việc khích lệ niềm tin và khát
vọng sống, góp phần đánh giặc bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc...
Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số chủ
yếu tập trung vào các bình diện chủ thể nghệ thuật, vai trò tác dụng của nghệ thuật... Về chủ
thể nghệ thuật, các dân tộc anh em đã có những quan niệm khá độc đáo về nguồn gốc tài
năng nghệ thuật, về mối quan hệ giữa chủ thể nghệ thuật với vốn văn nghệ cổ truyền dân tộc,
về tinh thần giao cảm và ý thức trách nhiệm của chủ thể nghệ thuật...Với dân gian tài năng
nghệ thuật có đƣợc là vừa do những đấng tối cao (Tiên, Bụt...) Ban
153
tặng cho, vừa do con ngƣời chung đúc, chắt lọc nên qua quá trình tu luyện miệt mài say mê.
Vì vậy nghệ thuật nói chung, tài năng nghệ thuật nói riêng là sản phẩm tinh thần vô giá. Các
dân tộc anh em cũng rất đề cao vai trò của nghệ thuật cổ truyền dân tộc, ý thức trách nhiệm
và tấm lòng giao cảm - những yếu tố góp phần quyết định đến hiệu quả hoạt động nghệ thuật
của dân gian.
Về tác dụng của nghệ thuật, dân gian các dân tộc quan niệm nghệ thuật có tác dụng
cố kết nhân tâm, thắt chặt tình ngƣời, kết duyên tình đôi lứa. Nghệ thuật xa lạ với sự kích
động oán thù, ly tán nhân tâm... Nghệ thuật chân chính còn góp phần chinh phục thế giới
muôn loài, khích lệ niềm tin và khát vọng chinh phục tự nhiên vì cuộc sống hữu ích của con
ngƣời. Đặc biệt dân gian còn phó thác cho nghệ thuật sứ mệnh cao cả trong việc phụng sự
công cuộc lao động dựng xây cuộc sống, góp phần đánh giặc cứu nƣớc, cứu dân... Những
quan niệm nghệ thuật đầy nhân văn, nhân ái trên có sức mạnh lan tỏa sâu rộng không chỉ với
cộng đồng dân tộc mình, thời đại mình mà còn đối với các dân tộc khác, thời đại khác.
2. Các quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền các dân tộc thiểu số
có mối quan hệ đồng đại với quan niệm nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền của dân
tộc Kinh. Ở đây có những tƣơng đồng và khác biệt rất đáng chú ý nhƣ sau :
Sự tƣơng đồng trên bình diện cộng đồng dân tộc trƣớc hết thể hiện ở phạm vi quan
niệm về cái đẹp . Các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh gặp gỡ nhau ở ý thức đề cao cái đẹp
bên ngoài, trân trọng cái đẹp bên trong và cùng chia sẻ với nhau ở khát vọng hƣớng tới cái
đẹp lý tƣởng "đẹp ngƣời, đẹp nết". Các dân tộc anh em và dân tộc Kinh còn gặp gỡ nhau ở ý
thức sử dụng cái đẹp vào công cuộc đánh giặc cứu nƣớc, giúp dân... Ở phạm vi quan
154
niệm nghệ thuật cũng vậy, dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều có ý thức sử dụng
nghệ thuật làm phƣơng tiện đánh giặc cứu nƣớc. Những truyện cổ mang ý thức dùng lời ca
tiếng đàn đánh giặc đã xuất hiện khá phong phú ở cả dân gian cổ truyền các dân tộc anh em
và dân gian cổ truyền của dân tộc Kinh. Các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh còn gặp gỡ
nhau ở tinh thần đề cao, trân trọng và đam mê nghệ thuật. Họ cùng đều ký thác cho nghệ
thuật những sức mạnh cảm hóa vô biên, thắt chặt tình yêu thƣơng đồng loại, đôi lứa, thu phục
thế giới tự nhiên và muôn loài...
Trên bình diện nhân dân lao động, các dân tộc thiểu số cũng nhƣ dân tộc Kinh đều
rất đề cao vẻ đẹp của ngƣời lao động. Họ luôn tỏ thái độ phủ định, bài xích những cái đẹp
phù phiếm, giả tạo, thoát ly lao động. Đề cao cái đẹp của ngƣời lao động nên khi quan niệm
về nghệ thuật cũng vậy, dân tộc Kinh cũng nhƣ các dân tộc thiểu số đều đặc biệt khuyến
dƣơng nghệ thuật phụng sự cuộc sống bình yên cua nhân dân lao động. Các dân tộc thiểu số
và dân tộc Kinh còn gặp gỡ nhau ở những cảm nhận mang tính chất mâu thuẫn khi đánh giá
về vẻ đẹp của ngƣời lao động . Nghệ thuật, với họ là biểu tƣợng của tình yêu thƣơng, lòng
nhân ái, là khát vọng hòa bình của muôn dân Vì vậy lời ca tiếng hát của họ chỉ để hƣớng tới
phụng sự cuộc sống lao động và con ngƣời lao động. Về chủ thể nghệ thuật, họ tiều là những
thân phận nghèo hèn mà tài ba lỗi lạc, gắn bó với nhân dân, mọi hứng thú phụng sự nghệ
thuật của họ đều khởi phát từ cuộc sống lao động của nhân dân.
Các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh cũng có những dị biệt khi lý giải về nghệ thuật
(và cái đẹp). Trƣớc hết,ở sự khác nhau Về loại hình nghệ thuật được cảm nhận, các dân tộc
thiểu số tập trung các lý giải vào nghệ thuật ca múa nhạc. Đại bộ phận các dân tộc không có
các lý giải về thơ văn. Trong khi đó dân tộc Kinh bên cạnh các lý giải về ca múa nhạc cũng
đã phần nào có để tâm cảm nhận về thơ văn, về ngôn từ nghệ thuật. Các dân tộc
155
"thiểu số những điều kiện khách quan thuận lợi để phát triển loại hình nghệ thuật ca vũ nhạc:
hơn so với thơ văn. Trong khi đó dân tộc Kinh , bên cạnh sự phát triển của loại hình nghệ
thuật ca múa nhạc, lại hơn hẳn các dân tộc anh em về điều kiện khách quan để phát triển nghệ
thuật thơ văn. Ở sự khác nhau về thể loại trong việc bộc lộ quan niệm về nghệ thuật , trong
khi các dân tộc anh em có sở trƣờng bộc lộ quan niệm về nghệ thuật chủ yếu qua các thể loại
tác phẩm tự sự dân gian, thì dân tộc Kinh lại thƣờng, có ý thức bộc lộ các quan niệm về nghệ
thuật chủ yếu qua các thể loại văn vần dân gian. Các thể loại tự sự có ƣu thế đặc biệt trong
việc bộc lộ các ý tƣởng về nghệ thuật qua những chi tiết, những tình tiết cụ thể - sinh động rất
hợp với tạng thức tƣ duy cụ tƣợng của các dân tộc anh em. Còn dân tộc Kinh ƣu thế, sở
trƣờng bộc lộ các quan niệm nghệ thuật một cách ý vị qua các thể loại văn vần là cũng nhờ có
sự kế thừa trực tiếp từ nhũng thành tựu phát triển thơ ca của họ qua truyền thống văn nghệ
dài lâu. Về sắc thái nội dung và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật, đối lập với cách
biểu đạt vốn thiên về mô tả sinh động, chi tiết, sắc thái nội dung chân cảm, giàu tính chất
khẩu ngữ của các dân tộc anh em, dân tộc Kinh phần nào đã hƣớng tới ý thức bộc lộ quan
niệm nghệ thuật một cách khái quát, hàm xúc. Sự khác biệt này cũng bắt đầu từ thói quen tƣ
duy, hoàn cảnh môi sinh, truyền thống văn nghệ vốn có sự khác nhau giữa các dân tộc thiểu
số và dân tộc Kinh qua quá trình lịch sử phát triển của mình.
3. Các quan niệm về nghệ thuật của dân gian các dân tộc còn có quan hệ lịch đại với
các quan niệm về nghệ thuật trong văn học hiện đại của chính họ. Ở đây có những đổi mới,
cách tân bên cạnh những tính chất dân tộc truyền thống đƣợc các nhà văn dân tộc thiểu số
hiện đại kế thừa nhƣ sau:
Về sự đổi mới, cách tân trên bình diện cộng đồng dân tộc thống nhất các quan niệm
nghệ thuật hiện đại của các nhà văn đã khắc phục tình
156
trong quan niệm nghệ thuật dân gian xƣa thƣờng chỉ đặt ý thức nghệ thuật ở trong những
phạm vi hữu hạn của dân tộc mình. Nay quan niệm nghệ thuật của các nhà văn hiện đại đã
thực sự là tiếng nói nhân danh cho cả cộng đồng dân tộc thống nhất hƣớng tới phụng sự sự
nghiệp đấu tranh vì những quyền lợi sống còn của cả dân tộc trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam . Trên bình diện cách mạng, các quan niệm nghệ thuật hiện tại là
kết quả hợp thành giữa ý thức chủ quan của các nhà văn và tƣ tƣởng cách mạng vô sản dƣới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Các nhà văn dân tộc hiện đại đều lấy tôn chỉ phụng
sự lý tƣởng cách mạng xã hội chủ nghĩa làm tiêu đích cho sự luận giỏi của mình về nghệ
thuật. Đặc biệt trên bình diện khoa học, vƣợt qua cách nhìn tản mạn, ngẫu hứng của dân gian
về nghệ thuật, các nhà văn hiện đại đã bộc lộ các quan niệm nghệ thuật của mình trong tính
hệ thống và tƣ tƣởng khoa học nghiêm túc. Nhiều khía cạnh quan trọng của văn học nghệ
thuật đã đƣợc các nhà văn luận giải khá thấu triệt nhƣ về chủ thể nghệ thuật, về đặc trƣng
thẩm mỹ văn chƣơng, về phê bình văn học v.v...
Mặc dù có sự cách tân, đổi mới song các quan niệm nghệ thuật của dân giân vẫn tỏ rõ
sức sống tiềm tàng của nó giữa đời sống văn "học hiện đại. Các nhà văn dân tộc thiểu số hiện
đại khi bày tỏ quan niệm về nghệ thuật đều thƣờng xuyên có ý thức kế thừa cả về nội dung
tƣ tƣởng lẫn cách thức biểu đạt quan niệm của dân gian truyền thống. Sắc thái dân gian
truyền thống trong các quan niệm nghệ thuật hiện đại của các nhà văn biểu hiện rõ nét ở cả
phạm vi dƣới "dạng sáng tác", lẫn trong dạng nghị luận hiện đại. Dƣới "dạng sáng tác", các
quan niệm nghệ thuật xƣa có điều kiện phục sinh trọn ven sức sống của nó cả về nội dung tƣ
tƣởng lẫn hình thức biểu đạt mộc mạc, dung dị, hồn nhiên vốn có từ dân gian. Chất giọng đặc
biệt này thâm ngấm sâu đậm qua các trang văn xuôi tự sự cũng nhƣ các câu thơ, bài thơ
157
của các nhà văn hiện đại khi họ có dịp bộc lộ quan niệm về nghệ thuật. Dưới dạng nghị luận,
Các quan niệm nghệ thuật mặc dù đã đƣợc cách tân song tính chất truyền thống dân gian vẫn
chan chứa qua cách cảm, cách nghĩ, phƣơng thức biểu đạt. Cái hồn nhiên, sinh động chân
cảm mộc mạc vẫn tiếp tục đƣợc các cây bút lý luận phê bình văn học các dân tộc thiểu số
khai thác kế thừa khá thƣờng xuyên
Sự kế thừa tích cực nội dung tƣ tƣởng và cách thức biểu đạt quan niệm nghệ thuật của
dân gian đã cho thấy sức sống bền vững của các quan niệm về nghệ thuật truyền thống trong
tâm thức sáng tạo của các nhà văn dân tộc hôm nay. Vì vậy sự thấu hiểu bản chất đặc trƣng
các quan niệm về nghệ thuật dân gian truyền thống của các dân tộc anh em sẽ giúp cho sáng
tác của chính các nhà văn dân tộc thấm thía bản sắc dân tộc hơn, tạo sự chia sẻ và cộng cảm
thân thiết hơn đối với đồng bào mình. Các quan niệm nghệ thuật trên còn có ý nghĩa định
hƣớng tích cực đối với các nhà văn dân tộc Kinh quan tâm đến mảng đề tài dân tộc và miền
núi, nó sẽ giúp họ tránh bớt đƣợc những cảm nhận phiến diện, hời hợt khi miêu tả đối tƣợng
của mình. Có thể nói. đây là bài học có ý nghĩa thời sự cập nhật đối với mọi nhà văn Việt
Nam nói chung trƣớc một vùng đề tài lớn đầy sức cuốn hút xƣa nay - đề tài về dân tộc và
miền núi.
158
NHỮNG CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN
ÁN CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hòang Minh Lƣờng (1989), "Bƣớc đầu tìm hiểu quan niệm về vẻ đẹp lý tƣởng của con
ngƣời trong, văn hóa dân gian một số dân tộc thiểu số ở Việt Thông báo khoa học
ĐHSP Việt Bắc 11/1989. tr 17 -23.
2. Hoàng Minh Lƣờng (1990), "Những tương đồng trên bình diện quan niệm cái đẹp trong
văn học dân gian các dân tộc Việt Nam", Thông báo khoa ĐHSP Việt Bắc 11/1990,
tr-21 -29.
3. Hoàng Minh Lƣờng, - (Hoàng Linh Sơn) (1999) ''Quan niệm về vai trò tác của âm nhạc
trong văn học dân gian", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 999, tr 58 -61.
4. Hoàng Minh Lƣờng (Hoàng Linh Sơn) (2000), "Sắc thái riêng biệt trong lý phê bình văn
nghệ của các cây bút dân tộc ít người", Tạp chí Văn học , 2000, tr75 - 82.
5. Hoàng Minh Lƣờng (Hoàng Linh Sơn) (2000), "Quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật
trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam"- Nguồn di lý luận quý giá cần
đƣợc khai thác- Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Một thế sưu tầm, nghiên cứu văn học dân
gian" do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và Viện Bảo tàng dân tộc học tổ chức ngày
20.12.2000 tại Hà Nội .
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT.
1. Vƣơng Anh (1996) Lá đắng, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà nội 1
2. Đinh Văn Ân sƣu tầm, dịch, giới thiệu (1973), Đang vần va, Truyện thơ Mường Nxb Văn
hóa, Hà Nội
3. Triều Ân (1974), Bốn mùa hoa , tập thơ, Nxb Việt Bắc.
4. Triều Ân sƣu tầm, giới thiệu (1973), Ca dao Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5. Triều Ân (1980) Tiếng khèn A pá, Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội .
6. Bản lĩnh, bản sắc, dân tộc (1980), Viện Văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội .
7. Phƣơng Bằng sƣu tầm, biên soạn (1981). Dân ca Cao Lan Nxb Văn hóa, Hà Nội .
8. Diệp Thanh Bình sƣu tầm, biên soạn (1987), Dân ca sán Dìu, NxbVăn hóa dân tộc, Hà
Nội.
9. Ngô Vĩnh Bình sƣu tầm, biên soạn (1981), Truyện cổ Xê Đăng, Nxb Văn hóa, Hà Nội .
10. Vũ Ngọc Bình, Nguyễn Chí Bền, Đào Huy Quyền, Nguyễn Minh San, Rơmandel (1996),
Văn học dân gian Gia Lai, Sở VHTT Gia Lai.
11. Cầm Biêu (1994), Ngọn lửa không tắt (Tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
12. Lò Văn Cậy (1986), Hạt muối, hạt tình (Tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
13. Hà Châu (1972) "Về đặc điểm thẩm mỹ của truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam", Văn học
5/1972.
160
14 . Hà Châu (1984), " Về quan niêm thẩm mỹ dân gian Việt Nam", Văn học 1/1984.
15. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (1964), Truyện thơ Tày Nùng, Tập I, Nxb Văn học,
Hà Nội .
16. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (1965) Truyện thơ Tày Nùng, Tập II, Nxb Văn học,
Hà Nội .
17. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (l973), Dân ro đám cưới Tày Nùng, Nxb Việt Bắc .
18. Nông Minh Châu sƣu tầm, biên soạn (1976)), Truyện cổ Việt Bắc, Tập III, Nxb Việt Bắc.
19. Nông Quốc Chấn (1972), Đường ta đi, (Tiểu luận), Nxb Việt Bắc .
20. Nông Quốc Chấn (1977), Một vườn hoa nhiều hương sắc (Tiểu luận); Nxb Văn hóa dân
tộc .
21. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Hoàng Thao, Mạc Phi, Hà Văn Thƣ (1979), Hợp tuyển thơ
văn Việt Nam (Văn học các dân tộc ít ngƣời), Nxb Văn học, Hà Nội .
22. Nông Quốc Chấn (1984), Suối và biển (Tập thơ), Nxb Văn học, Hà Nội .
23. Nông Quốc Chấn (1985), Chặng đường mới, (Tiểu luận), Nxb Văn hóa, Hà Nội .
24. Nông Quốc Chấn (1988), Tuyển tập Nông Quốc Chấn, Nxb Văn học, Hà Nội .
25. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Mạc Phi, Trần Lê Văn (1995), Văn học Việt Nam sau cách
mạng Tháng Tám -Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số, Nxb Văn học, Hà Nội .
26. Nông Quốc Chấn (1999), Một ngôi nhà sàn Hà Nội, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội .
161
27. Nóng Quốc Chấn (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn, Trần
Đăng Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập 1,
Nxb Giáo dục, Hà Nội .
28 . Nông Quốc Chấn (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn
(1999),... , Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi. Tập II. Nxb Giáo dục, Hà Nội .
29 . Nông Quốc Chấn (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn (1999),
... , Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
30 . Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1973), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập II,
Nxb KHXH, Hà Nội .
31 . Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1973), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập III,
Nxb KHXH, Hà Nội .
32. Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1973), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập IV,
Nxb KHXH, Hà Nội .
33 . Nguyễn Đổng Chi sƣu tầm, biên soạn (1982) Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập V,
Nxb KHXH, Hà Nội .
34 . Trƣờng Chinh (1986), Về văn hóa văn nghệ, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội .
35. Cẩm Cƣờng sƣu tầm, biên soạn (1986), Truyện dân gian Thái, Nxb KHXH, Hà Nội .
36. Mạc Đình Di, Châu Hồng Thủy, Lý A Sán (1985)(sƣu tầm, biên soạn), Truyện cổ Mảng,
Nxb Văn hóa, Hà Nội .
37. Chu Xuân Diên (1981), "Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian", Văn học 5/1981.
38. Chu Xuân Diên (1995), Văn hóa dân gian (Phônklo) và phương pháp nghiên cứu liên
ngành, Tủ sách Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
162
39. Nguyễn Xuân Diện (1998), "Giao lƣu và hội nhập văn hóa Việt -Mƣờng - Dao ở vùng núi
Ba Vì, Hà Tây", Văn hóa dân gian 3/1998, tr. 87 - 90.
40. Ngô Văn Doanh "(1995), Lễ hội bỏ mả nắc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
41. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào (1993), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội .
42. Quách Giao sƣu tầm, biên soạn (1965), Dân ca Mường, Nxb Văn học, Hà Nội .
43. Đa-le-lốp , Phônklo như là một nghệ thuật, Tài liệu đánh máy Phòng tƣ liệu ĐHSP I HN.
44. Nguyễn Tấn Đắc (1996), "Mối giao lƣu và tƣơng tác giữa các dân tộc ở Đông Nam Á qua
kiểu truyện kể Tấm Cám", Văn học 6/1996, tr. 38 -50.
45. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, Hà
Nội .
46. Bản Tài Đoàn (1985), Bước đường tôi đi, tập thơ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
47 . Bàn Tài Đoàn (1992), Tuyển tập Bàn Tài Đoàn, Nxb Văn học, Hà Nội
48. Hà Minh Đức (chủ biên), Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Phạm Thành Long, Nguyễn
Văn Nam, Đoàn Đức Phƣơng, Trần Khánh Thành, Lý Hoài Thu (1996), Lý luận văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Goocky. M., (1970) Bàn về văn học, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội .
50 . Gulaiep N. A., Bôgơđanôp N. A., ludơkevictrơ L. G., Lý luận văn học trong mối liên hệ
với những vấn đề mỹ học, Tài liệu dịch từ tiếng Nga của Nguyễn Xuân Mậu, Phùng
Văn Nghệ, Nguyễn Hải Hà hiệu đính Phòng tƣ liệu Thƣ viện ĐHSP I HN.
163
51. Graxx Eren B A., (1984) Mỹ học - khoa học diệu kỳ, Nxb Văn hóa, Hà Nội .
52 . Nguyên Hà (1906) Xem xét việc biến đổi của truyện cổ tích "Trầu cau" Ở Việt Nam, Văn
hóa dân gian tháng 2/1996.
53. Hoàng Đức Hậu (1974), Thơ Hoàng Đức Hậu, Nxb Việt Bắc .
54. Hegel (1999), Mỹ học của Hegel (Phan Ngọc dịch) Nxb Văn học Hà Nội
55. Đinh Đăng Hiền sƣu tầm, biên soạn (1985), Truyện cổ H'Kê. Nxb Văn học, Hà Nội .
56. Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân sƣu tầm, biên soạn (1986), Tuyển tập truyện thơ Mường,
Tập II, Nxb KHXH, Hà Nội .
57. Nguyễn Thị Hòa sƣu tầm, biên soạn (1987), Truyện cổ Tà ôi, Nxb Văn hóa dân tộc. Hà
Nội.
58. Vi Hồng (1978), Sli lượn dân ca trữ tình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
59.Vi Hổng (1978), Tài liệu Nghiên cứu văn học dân gian, Bản đánh máy Thƣ viện ĐHSP
Việt Bắc .
60. Vi Hồng (1980), Đất bằng, tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
61. Vi Hồng (1984), Núi cỏ yêu thương, tiểu thuyết, Nxb Thanh niên, Hà Nội
62. Vi Hồng (1991), ''Ngƣời dân tộc viết văn'' Văn học 4/1999, TR 64,65
63. Vi Hồng (1994) , "Ngả văn chƣơng'', Văn học 9/1994, tr. 6-8.
64. H'Linh Nie (1997), Con rắn màu xanh da trời,- tập truyện, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội :
65 . Bùi Cống Hũng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật, thơ ca, Nxb KHXH. Hà Nội.
164
66. Lại Phi Hùng (1996), "Về mối tƣơng quan giữa kiểu truyện ngƣời bất hạnh của Lào với
kiểu truyện cùng tên của Việt Nam ", Văn hoá dân gian tháng 1/1996.
67. Nguyễn Thị Huế (1991), "Môtíp tiếng hát trong truyện kể dân gian Việt Nam ", Văn học
5/1991, tr. 32 - 35.
68. Nguyễn Thị Huế (1998), Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội .
69. Nguyễn Thị Huế (1998), "Những cốt truyện tƣơng đồng của Đông Nam Á và thế giới về
ngƣời mang lốt xấu xí", Văn hóa dân gian 2/1998.
70. Inrasara (1996), Tháp nắng, tập thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội .
71. Nguyễn Xuân Kính (1991), "Thi pháp học và việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian",
Văn hóa dân gian 3/1991, tr. 3-11.
72. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Phan Hồng Sơn sƣu tầm, biên soạn
(1983), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
73. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, Hà Nội .
74. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam
Á, Nxb.KHXH, Hà Nội .
75. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học dân gian
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
76. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Bùi Duy Tâm, Mai Cao Chƣơng (2000), Văn học Việt Nam
(Thế kỷ X- nửa đầu Thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội .
77. Vũ Ngọc Khánh (1991), Dẫn luận nghiên cứu phônklo Việt Nam, Sở Giáo dục Thanh
Hóa.
165
78. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Van, Trần Đăng
Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi Tập IV, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
79. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn. Trần Đăng
Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập V, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
80. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Vân, Trần Đăng
Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập VI, Nxb
Giáo dục, Hà Nội .
81. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn, Trần Đăng
Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, Tập VII, Nxb
Giáo dục, Hà Nội .
82. Ma Văn Kháng (chủ biên), Nguyễn Khắc Trƣờng, Lò Ngân Sủn, Trần Lê Văn. Trần Đăng
Khoa, Nguyễn Nghiệp (1999), Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, tập VIII, Nxb
Giáo dục, Hà Nội .
83. Kôghinôp (1963), Các loại hình nghệ thuật, Nxb Văn hoá nghệ thuật, I Hà Nội .
84. Cầm Bó Lai (1997), Hoa và nắng, (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc. Hà Nội .
85. Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bƣu (1976) (tuyển chọn và biên soạn), Hát ví đồng bằng
Hà Bắc, Sở VHTT Hà Bắc .
86. Dƣơng Gia Liêm (1994), "Cao Bằng - đất văn chƣơng" Văn học 9/1994.
87. Lƣu Xuân Lý (1988), "Sáng tác văn học các dân tộc cần có bản sắc riêng của mình", Tác
phẩm mới 5/1988.
88. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng,
Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội
166
89. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (1978), Quan họ - nguồn gốc và quá trình
phát triển, Nxb KHXH, Hà Nội.
90. Phƣơng Lựu (1983), Tìm hiểu một nguyên lý văn chương, Nxb KHXH, Hà Nội .
91. Phƣơng Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
92. Phƣơng Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1986), Lý luận văn học, Tập
I, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
93. Phƣơng Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, Tập
II, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
94. Phƣơng Lựu (1994), Trên đà đổi mới văn hoá văn nghệ, Viện Văn hóa - Sở VHTT Quảng
Ngãi.
95. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb Văn học, Hà
Nội.
96. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập quan niệm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
97. Mác C,Ăngghen Ph., Lê nin V., (1977), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội .
98. Hoàng Nhƣ Mai, Nông Quốc Chấn, Khái Vinh, Vũ Duy (1976), Mấy suy nghĩ về văn học
các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Nxb Việt Bắc .
99. Lee Mai tuyển chọn, giới thiệu (1983), Trường ca tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng (1972). Về văn hóa văn nghệ,
Nxb Sự thật, Hà Nội .
101. Pờ Sảo Mìn (1987), Quê núi, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
102.Hà Văn Năm, Cầm Thƣơng, Lò Văn Sĩ, Tòng Kim Ân (1978), Tục ngữ Thái, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội .
167
103. Nghệ thuật cồng chiêng (1986) Sở VHTT Gia Lai Công Tum .
104. Nguyên Ngọc (1994) , "Mấy suy nghĩ về tình hình văn học của các dân tộc thiểu số hiện
nay", Văn học 9/1994 tr. 4 - 5
105. Bùi văn Nguyên (1971), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
106. Ma Trƣờng Nguyên (1985), Mát xanh rừng cọ, (Trƣờng ca), Sở VH TT Bắc Thái .
107. Ma Trƣờng Nguyên (1996), Rễ người dài , tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
108. Trần Việt Ngữ, Trƣơng Đình Quang sƣu tầm, biên sọan (1963). Dân ca miền Nam
Trung bộ, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội .
109. Hoàng Anh Nhân, Bùi Thiện, Vƣơng Anh sƣu tầm, biên soạn (1978), Truyện cổ Mường.
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
110. Lƣơng Quy Nhân (1994) , Độ dày của tình yêu (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
111. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, (trước cách mạng
Tháng Tám), Nxb Văn hóa, Hà Nội .
112. Nhiều tác giả (1980), Góp phần tìm hiểu bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội .
113. Nhiều tác giả (1980) (Nguyễn Xuân Kính, Lê Ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh tổ chức bản
thảo), Văn hóa dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
114. Nhiều tác giả (1990) (Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính tổ chức bản thảo), Văn hóa
dân gian- những phương pháp nghiên cứu, Viện Văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội
115. Nhiều tác giả (1990) (Ngô Đức Thịnh chủ biên), Quan niệm về folklore. Viện văn hóa
dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
168
116. Nhiều tác giả (1997) Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà
Nội.
117. Nhiều tác giả (1997) (Hà Thắng, Nguyễn Hoa Bằng, Nguyễn Lâm Điền chủ biên) Văn
học dân gian đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
118.Võ Quang Nhơn (1974), "Văn học dân gian các dân tộc thiểu số dƣới con mắt giới
nghiên cứu thực dân", Văn học 1/1974.
119. Võ Quang Nhơn sƣu tầm, biên soạn (1976), Dân ra Tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
120. Võ Quang Nhơn (1997), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
121. Lò Văn Páo, Hoàng Nam sƣu tầm, biên soạn (1983), Truyện cổ Lô Lô, Nxb Văn hóa, Hà
Nội .
122.Vũ Ngọc Phan sƣu tầm, biên soạn (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb KHXH,
Hà Nội .
123. Mạc Phi sƣu tầm, biên soạn (1973), Tiễn dặn, người yêu, Nxb Văn học. Hà Nội .
124. Mạc Phi sƣu tầm, biên soạn (1979), Dân ca Thái, Nxb văn hóa, Hà Nội .
125. Ngô Văn Phú, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách biên soạn (1999), Nhà văn Việt Nam thế
kỷ XX, Nxb Hội nhà văn .
126. Đỗ Doãn Phƣơng (1999), "Múa dân gian - Vàng mƣời chƣa thấy hết", Báo Văn nghệ
quân đội 2/1999.
127. Pospelov (1985) (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Tập I, II (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Nguyễn Nghìn Trọng dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
169
128.Prốp. V. Ia., (1969) Hình thái học truyện cổ tích, (tái bản lần hai), Nxb Khoa học,
Matxcơva , (Bản dịch đánh máy Thƣ viện Viện nghiên cứu văn hóa dân gian).
129.Prốp. V. Ia.,(1989) "Nghiên cứu cấu trúc và nghiên cứu lịch sử về truyện cổ tích thần
kỳ", (Chu Xuân Diên dịch), Tạp chí Văn hóa dân gian 3/1989.
130. Putilốp. B. N., Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử so sánh về phônklo (Phan Ngọc
dịch), Bản đánh máy Thƣ viện Viện văn học.
131. Putilôp B. N., Phương pháp luận nghiên cứu lịch sử so sánh ság tác dân gian (phônklo),
Tài liệu đánh máy của Khoa lịch sử ĐHTH Hà Nội, (Bản dịch của Nguyễn Văn Diện).
132. Lê Chí Quế (1985), "Prôp. V. Ia. (1885 - 1970) và phƣơng pháp nghiên cứu phônklore
theo so sánh loại hình lịch sử", Văn hóa dân gian số 3 và 4/1985.
133. Lê Chí Quế (chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (1996), Văn học dân gian
Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội .
134. Lâm Quý, Phƣơng Bằng sƣu tầm, biên soạn, giới thiệu (1983). Truyện cổ Cao Lan, Nxb
Văn hóa, Hà Nội .
135. Lâm Quý (1997), "Ngƣời Cao Lan có một bà chúa thơ ca", Văn nghệ dân tộc và miền
núi 10/1997.
136. Hoàng Quyết sƣu tầm, biên soạn (1974), Truyện cổ Tày Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội .
137. Thèn Sèn Lù Dín Siếng sƣu tầm, biên soạn (1977), Dân ca Giáy, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội .
138. Lù Dín Siêng sƣu tầm, biên soạn (1982), Truyện cổ Giáy, Nxb Văn hóa, Hà Nội .
170
139. Cao Duy Sơn (1992), Người lang thang, tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội .
140. Lò Ngân Sủn (1995), Chợ tình (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
141. Lò Ngân Sủn (1998), Tôi là một ngọn gió, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
142. Lò Ngân Sủn (1998) , Tuyển chọn thơ các nhà thơ dân tộc thiểu số: Núi mọc trong
nương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
143. Lò Ngân Sủn (1998), Hoa văn thổ cẩm I, (Tiểu luận). Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
144. Lò Ngân Sủn (1999), Hoa văn thổ cẩm II, (Tiểu luận), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
145. Lò Ngân Sủn (1998), Bước đầu nghiên cứu tìm hiểu văn hóa người Giáy, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội .
146. Lò Ngân Sủn (1999), Người đẹp, (tập thơ), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
147. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn. Hà Nội .
148.Trần Đình Sử (1997), "Về bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam", Tác phẩm mới
9/1997, tr . 81 - 84.
149. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội .
150. Mai văn Tấn sƣu tầm, biên soạn (1974). Truyện cổ Vân Kiều. Nxb Văn hóa, Hà Nội .
151. Mai Văn Tấn sƣu tầm , biên soạn (1979), Dân ca Vân Kiều, Nxb Văn hóa, Hà Nội .
171
152. Timôphiep (1962). Nguyên lý lý luận văn học TậpI, Nxb Văn hóa Hà Nội .
153. Bùi Tiến, Hoàng Anh Nhân, Vƣơng Anh sƣu tầm, biên soạn (1077) Khăm Panh -
Truyện thơ dân gian Thái. Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội .
154. Lâm Tiên (1995) .Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội .
155. Lâm Tiến (1999) , Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc. Hà Nội .
156. Doãn Thanh sƣu tầm, biên soạn (1982), Truyện cổ Phù Lá. Nxb Văn hóa, Hà Nội .
157. Doãn Thanh sƣu tầm", dịch, Hoàng Thao tuyển chọn, Chế Lan Viên giới thiệu (1984),
Dân cơ H'mông, Nxb Văn học, Hà Nội .
158. Phạm Thị Thành (1999), "Sắc xuân núi rừng", Báo Văn nghệ số ra 27/2/1999.
159. Hồng Thắng, Hồng Nguyên, Thanh Hƣơng sƣu tầm, biên soạn (1983), Truyện cổ Việt
Nam, tập IA, Nxb KHXH, Hà Nội .
160. Hồng Thắng, Hồng Nguyên, Thanh Hƣơng sƣu tầm, biên soạn (1983), Truyện cổ Việt
Nam, tập IB, Nxb KHXH, Hà Nội .
161 .Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
162. Bùi Thiện, Thƣơng Diễm, Quách Giao sƣu tầm, biên soạn (1976), Đẻ đất đẻ nước, Nxb
Văn học, Hà Nội .
163.Tạ Văn Thông, Võ Quang Nhơn sƣu tầm, biên soạn (1984), Truyện cổ Cơ Ho, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
164. Tạ Văn Thông sƣu tầm, biên soạn (1986), Truyện cổ Mạ, Nxb Văn hóa Hà Nội .
172
165. Dƣơng Thuấn (1991) Cưỡi ngựa đi săn, tập thơ, Nxb Văn hóa dân tộc , Hà Nội.
166. Hà Văn Thƣ, Võ Quang Nhơn, Y Điêng sƣu tầm, biên soạn (1975), Truyện cổ các dân
tộc thiểu số miền Nam, Tập I, Nxb Văn hóa Hà Nội.
167. Hà Văn Thƣ, Võ Quang Nhơn, Y Điêng sƣu tầm, biên soạn (1976), Truyện cổ các dân
tộc thiểu số miền Nam, Tập II, NXB Văn hóa Hà Nội .
168. Hà Văn Thƣ, Phúc Tƣớc (Nông Quốc Chấn viết lời tựa) (1981), Hợp tuyển thơ văn các
tác gia dân tộc thiểu số Việt Nam (1945-1980), Nxb Văn hóa, Hà Nội .
169. Hà Văn Thu, Lả Văn Lô (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb Văn hóa Hà Nội.
170. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Liệu, Văn Đình Hy biên soạn (1983), Truyện cổ Khơ me,
Nxb Văn hóa, Hà Nội .
171. Sần Cháng (1997), "Dân ca ngƣời Giáy" Văn hóa dân gian 1/1997, tr. 6-16.
172. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam, Trƣờng
ĐHSP Hà Nội ,
173. Đào Tử Chí, Trúc Cƣơng, Y Ngông (sƣu tầm, dịch) (1977). Bài ca chàng Đam San, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
174. Mai Văn Trí, Bùi Thiện sƣu tầm, biên soạn (1976), Truyện thơ dân gian Mường, Nxb
Văn hóa, Hà Nội .
175. Hoàng Trinh (1986), Đối thoại văn học, Nxb Hà Nội .
176. Truyện cổ các dân tộc Việt Nam, Tập III, (1974), Nxb Văn học, Hà Nội
177. Truyện cổ Chàm, (1978) Nxb Văn hóa, Hà Nội .
173
178.Truyện cười dân gian Việt Nam, (1987) Nxb KHXH, Hà Nội .
179.Vƣơng Trung (1994), Mối tình Mường Sinh, tiểu thuyết, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội .
180. Đồ Nhƣ Túy sƣu tầm, biên soạn (1982), Truyện rổ Cơ Tu, Nxb Văn hóa, Hà Nội .
181. Hoàng Tiến Tựu (1977), "Mấy vấn đề phân loại văn học dân gian và ý nghĩa phƣơng
pháp luận của nó", Văn học 6/1977.
182. Hoàng Tiến Tựu (1982) "Về đối tƣợng và các bộ phận hợp thành của khoa nghiên cứu
văn học dân gian", Văn học 1/1982
183. Dạng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (tuyển chọn, biên soạn) (1985),
Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn Tây Nguyên, Nxb Văn học, Hà Nội.
184 . Đặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (tuyển chọn, biên soạn) (1987).
Truyện cổ các dân tộc ít người Việt Nam. Tập III, Nxb Văn hóa. Hà Nội .
185. Đặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (tuyển chọn, biên soạn) (1994)
truyện cổ các dân tộc ít người ở Việt Nam, Tập IV , Nxb Văn học Hà Nội .
186. Kim Vĩnh (1997), "Cây sáo H'mông dân gian và hiện đại", Văn hóa dân gian 1/1997, tr.
54 - 55.
187. Lê Trí Viễn (1998) "Đôi nét về thẩm mỹ Việt Nam", Văn học 4/1998, tr. 5-13.
188. Lê Trung Vũ sƣu tầm biên soạn (1975), Dân ca Lô Lô, Nxb Văn hóa Hà Nội .
189. Lê Trung Vũ sƣu tầm, biên soạn (1975); Truyện cổ Mèo, Nxb Văn học Hà Nội
174
190. Lê Trung Vũ, Doãn Thanh sƣu tầm, biên soạn (1978), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa Hà
Nội .
191. Vù Go Xá, Phạm Quang Trung sƣu tầm, biên soạn (1987), Truyện cổ Hà nhì, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội .
192. Y Điêng, Y Ngông sƣu tầm và dịch (1978), Sing Nhã, Đăm Di, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội .
193. Y Điêng, Hoàng Thao sƣu tầm, biên soạn (1978), Truyện cổ Ê đê, Nxb Văn hoá dân tộc,
Hà Nội .
194. Y Phƣơng (1986), Tiếng hát tháng giêng, tập thơ, Sở VHTT cao Bằng.
195. Nguyễn Thị Yên (1998), "Tìm hiểu yếu tố tín ngƣỡng trong lễ hội của ngƣời Tày Nùng",
Văn hóa dân gian 1/1998, tr. 3-10.
196. 40 năm văn hóa văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945-1985 (1985), Nxb Văn
hóa, Hà Nội .
2. TIẾNG NGA.
197. Маркевич Чеииик : Основные проблемы Haупа о литературе,М: Прогресс 1980
198. Мелетипский П. М : Герой Волшебной скажи. Происхождение обрат. М.
1958
175