BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------
NGUYỄN NGỌC ĐIỆP
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ĐÀO TẠO TỚI SỰ
HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
HÀ NỘI – 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------------------------
NGUYỄN NGỌC ĐIỆP
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ĐÀO TẠO TỚI SỰ
HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh (Khoa QTKD)
Mã số: 9340101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai
HÀ NỘI – 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam
kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm
yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Nghiên cứu sinh
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, NCS xin trân trọng gửi tới gia đình và những người thân yêu đã luôn
động viên, giúp đỡ và khuyến khích NCS hoàn thành luận án. Với tấm lòng biết ơn của
mình, NCS xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến sự hướng dẫn tận tình, tâm huyết và trách
nhiệm PGS.TS.NGUT Nguyễn Thị Tuyết Mai. NCS cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy
cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên, chia sẻ tài liệu, hỗ trợ tìm
kiếm thông tin và tạo điều kiện cho NCS thực hiện nghiên cứu.
Nghiên cứu sinh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC .................................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................................vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................................ vii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ ................................................................................ viii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ĐÀO
TẠO VÀ SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN .............................................................. 8
1.1 Dịch vụ và dịch vụ đào tạo đại học ..................................................................... 8
1.1.1 Dịch vụ ............................................................................................................. 8
1.1.2 Dịch vụ đào tạo đại học ................................................................................... 9
1.2 Chất lượng dịch vụ và chất lượng dịch vụ đào tạo đại học ............................ 11
1.2.1 Chất lượng dịch vụ ........................................................................................ 11
1.2.2 Chất lượng dịch vụ đào tạo đại học ............................................................... 13
1.3 Sự hài lòng của khách hàng ............................................................................... 15
1.4 Tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ đào tạo và sự
hài lòng của sinh viên ............................................................................................... 17
1.4.1 Các yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo ........................................... 17
1.4.2 Ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên ... 20
1.5 Đánh giá chung và khoảng trống nghiên cứu .................................................. 26
CHƯƠNG 2: MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ĐÀO TẠO TỚI SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN .. 28
2.1 Các mô hình nghiên cứu về chất lượng dịch vụ .............................................. 28
2.1.1 Mô hình đánh giá chất lượng kỹ thuật/chức năng của Groonros (1984) ....... 28
2.1.2 Mô hình khoảng cách chất lượng dịch vụ (SERVQUAL) của Parasuraman và
cộng sự (1985) ........................................................................................................ 29
2.1.3 Mô hình đánh giá dựa trên kết quả thực hiện (SERVPERF) của Cronin và
Taylor (1992) .......................................................................................................... 31
2.1.4 Mô hình HEdPERF của Firdaus (2005) ........................................................ 32
2.1.5 Mô hình của Gamage và cộng sự (2008) ....................................................... 33
2.1.6 Mô hình của Jain và cộng sự (2013) .............................................................. 34
2.2 Các mô hình nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng..................................... 34
iv
2.2.1 Mô hình ACSI của Fornell và cộng sự (1996) .............................................. 35
2.2.2 Mô hình chỉ số hài lòng của Châu Âu (ECSI) ............................................... 35
2.2.3 Mô hình của Zeithaml và Bitner (2000) ........................................................ 35
2.3 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu .......................................... 36
2.3.1 Mô hình nghiên cứu ....................................................................................... 36
2.3.2 Các giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 42
CHƯƠNG 3: BỐI CẢNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 50
3.1 Bối cảnh nghiên cứu ........................................................................................... 50
3.1.1 Lịch sử giáo dục đại học Việt Nam ............................................................... 50
3.1.2 So sánh mô hình trường đại học công lập và trường đại học tư thục ............ 53
3.1.3 Quan điểm chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam qua các giai đoạn ..... 54
3.1.4 Hệ thống và cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục tại Việt Nam hiện nay .... 56
3.2 Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................ 58
3.2.1 Quy trình nghiên cứu ..................................................................................... 59
3.2.2 Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu .......................................................... 60
3.3 Nghiên cứu định tính .......................................................................................... 61
3.3.1 Mục tiêu ......................................................................................................... 61
3.3.2 Phương pháp phỏng vấn sâu .......................................................................... 61
3.3.3 Phương pháp phỏng vấn nhóm tập trung ....................................................... 66
3.4 Nghiên cứu định lượng ....................................................................................... 69
3.4.1 Mục tiêu ......................................................................................................... 69
3.4.2 Quy trình xây dựng bảng hỏi ......................................................................... 69
3.4.3 Chọn mẫu và thu thập dữ liệu ........................................................................ 77
3.4.4 Phương pháp phân tích dữ liệu ...................................................................... 78
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 81
4.1 Mô tả mẫu nghiên cứu ....................................................................................... 81
4.2 Kết quả thống kê mô tả sự hài lòng của sinh viên ........................................... 82
4.3 Kết quả đánh giá thang đo ................................................................................ 84
4.3.1 Kết quả đánh giá độ tin cậy của các thang đo ............................................... 84
4.3.2 Đánh giá thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) .. 85
4.3.3 Kiểm định thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (CFA) ..... 89
4.4 Kết quả kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu ............................. 90
4.4.1 Kết quả kiểm định mô hình nghiên cứu......................................................... 90
4.4.2 Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu ............................................... 93
4.5 Kiểm định sự khác biệt giữa trường công lập và trường tư thục .................. 95
4.5.1 Kết quả thống kê mô tả .................................................................................. 95
v
4.5.2 Phân tích đa nhóm ......................................................................................... 97
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 100
5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu ......................................................................... 100
5.2 Một số đề xuất từ kết quả nghiên cứu ............................................................ 108
5.3 Hạn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai .............................................. 112
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 114
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 117
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 126
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Phần mềm phân tích cấu trúc AMOS Analysis of Moment Structures tuyến tính
CFA Confirmatory Factor Analysis Phân tích nhân tố khẳng định
Comparative Fit Index Chỉ số thích hợp so sánh CFI
Chất lượng dịch vụ CLDV
CMIN/df Chi-Square/df Tỷ số Chi-Square điều chỉnh
theo bậc tự do
Exploratory Factor Analysis Phân tích nhân tố khám phá EFA
Factor Loading Trọng số nhân tố FL
Giáo dục và đào tạo GD&DT
Goodness of Fit Index Chỉ số phù hợp mô hình GFI
Higher Education Tổ chức giáo dục đại học HE
KMO Kaiser-Meyer-Olkin Measure of
Sampling Adequacy index Chỉ số xem xét sự thích hợp của
EFA
Root Mean Square Error Khai căn trung bình số gần đúng RMSEA Approximation bình phương
SEM Structural Equation Modeling Mô hình cấu trúc tuyến tính
SPSS Statistical Package for the Social
Sciences Phần mềm thống kê dùng trong
nghiên cứu khoa học xã hội
Sinh viên SV
Tucker & Lewis Index Chỉ số Tucker & Lewis TLI
vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Định nghĩa các biến ...................................................................................... 41
Bảng 2.2: Các giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 48
Bảng 3.1: Số liệu chung về các trường đại học ............................................................. 51
Bảng 3.2: Kết quả tổng hợp phỏng vấn sâu các yếu tố đánh giá chất lượng dịch vụ đào
tạo đại học ...................................................................................................................... 65
Bảng 3.3: Kết quả tóm tắt phỏng vấn nhóm tập trung các yếu tố đánh giá chất lượng
dịch vụ đào tạo đại học .................................................................................................. 67
Bảng 3.4: Thang đo chất lượng giảng viên ................................................................... 70
Bảng 3.5: Thang đo chất lượng chương trình đào tạo ................................................... 70
Bảng 3.6: Thang đo chất lượng nhân viên hành chính .................................................. 71
Bảng 3.7: Thang đo các dịch vụ hỗ trợ.......................................................................... 72
Bảng 3.8: Thang đo Công bằng ..................................................................................... 73
Bảng 3.9: Thang đo Cơ sở vật chất ............................................................................... 73
Bảng 3.10: Thang đo Hoạt động ngoại khóa ................................................................. 74
Bảng 3.11: Thang đo Danh tiếng trường đại học .......................................................... 74
Bảng 3.12: Thang đo Sự phù hợp về chi phí đào tạo .................................................... 75
Bảng 3.13: Thang đo Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập ..................................... 75
Bảng 3.14: Thang đo Sự hài lòng của sinh viên ............................................................ 76
Bảng 4.1: Mô tả mẫu nghiên cứu .................................................................................. 81
Bảng 4.2: Thống kê mô tả về sự hài lòng của sinh viên ................................................ 82
Bảng 4.3: Cronbach’s Alpha của các thang đo trong nghiên cứu ................................. 84
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo ................................................... 86
Bảng 4.5: Độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích ....................................................... 90
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình (chưa chuẩn
hóa) ................................................................................................................................ 91
Bảng 4.7: Kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình (chuẩn hóa) ...... 92
Bảng 4.8: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thuyết .................................................. 94
Bảng 4.9: So sánh giữa trường công lập và trường tư thục ........................................... 96
Bảng 4.11: Bảng trọng số mối quan hệ (chưa chuẩn hóa)............................................. 97
viii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình 2.1: Mô hình đánh giá chất lượng kỹ thuật/chức năng ......................................... 29
Hình 2.2. Mô hình khoảng cách chất lượng dịch vụ ..................................................... 30
Hình 2.6: Mô hình nghiên cứu đề xuất .......................................................................... 40
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu của luận án ................................................................. 59
Hình 4.1: Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập ........................................................ 83
Hình 4.2: Sự hài lòng của sinh viên .............................................................................. 84
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trên thế giới, chất lượng sản phẩm, dịch vụ từ lâu được xem là yếu tố then chốt
đảm bảo sự thành công và là một công cụ cạnh tranh hiệu quả của các doanh nghiệp.
Một tổ chức nếu có sự chú ý đặc biệt đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ sẽ có thể tạo ra
sự khác biệt so với các tổ chức khác, và điều tất yếu tổ chức này có được những lợi thế
cạnh tranh lâu dài (Moore, 1987). Hiện nay, các tổ chức giáo dục đại học (HE) được
công nhận là một phần của ngành dịch vụ (Galeeva, 2016) và đang trở thành một ngành
phát triển nhanh, đầy cạnh tranh để phục vụ cho nhu cầu ngày càng tăng của xã hội
(Latif và cộng sự, 2017). Sự phát triển năng động của quốc gia, khu vực và toàn cầu đã
buộc các HE phải chuyển đổi nhanh chóng và những thay đổi này đã nhận được sự chú
ý ngày càng tăng trong hai thập kỷ qua (de Jager và Gbadamosi, 2013). Vì sinh viên sẽ
chi trả cho các khoản chi phí giáo dục của họ nên các HE phải chuyển từ việc dựa vào
sản phẩm để bán sang hướng tiếp cận với khách hàng (Angell và cộng sự, 2008) và trong
một thị trường cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ là điều cần thiết cho sự tồn tại
của các HE (Vieira và cộng sự, 2008).
Sinh viên được coi là khách hàng sơ cấp của giáo dục đại học (Crawford, 1991)
trong khi người sử dụng lao động, nhà tuyển dụng, chính phủ và gia đình được coi là
khách hàng thứ cấp (Madu và cộng sự, 1994; Sirvanci, 1996). Trải nghiệm dịch vụ của
sinh viên rất phức tạp và khác với trải nghiệm của người tiêu dùng ở bất kỳ ngành dịch
vụ nào (Latif và cộng sự, 2017), do vậy phải có phương pháp riêng để đánh giá mức độ
chất lượng dịch vụ trong ngành này (Ushantha & Kumara, 2016). Các nghiên cứu đã cố
gắng phát triển thang đo lường chất lượng dịch vụ trong HE (LeBlanc & Nguyen, 1997;
Ford và cộng sự, 1999; Hill và cộng sự, 2003; Lagrosen và cộng sự, 2004; Firdaus, 2006;
Senthilkumar và Arulraj, 2011; Asif và cộng sự, 2013; Teeroovengadum và cộng sự,
2016) nhưng đến nay vẫn chưa có sự đồng thuận về các yếu tố chính cấu thành nên chất
lượng dịch vụ đào tạo, đặc biệt là với các HE ở các nước đang phát triển (Asif và cộng
sự, 2013).
Quốc tế hóa giáo dục đại học (Harvey và Williams, 2010; Sultan và Wong, 2010)
cùng với sự gia tăng số lượng các trường đại học tư thục (Halai, 2013) và giảm ngân
sách nhà nước cho các trường đại học công lập (Quinn và cộng sự, 2009) khiến cho thị
trường giáo dục đại học ngày càng cạnh tranh gay gắt. Do đó, giống như các tổ chức
kinh doanh có nghĩa vụ phải liên tục làm hài lòng khách hàng của họ để phát triển mạnh
2
(Calvo-Porral và cộng sự, 2013), các trường đại học cần phải làm hài lòng sinh viên của
họ (Lagrosen và cộng sự, 2004; Srikanthan và Dalrymple, 2007) bằng cách cung cấp
các dịch vụ giáo dục chất lượng cao. Một chiến lược đang thu hút sự quan tâm của cộng
đồng để nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục đại học là phương pháp lấy sinh viên làm
trung tâm (Stodnick & Rogers, 2008). Ý tưởng cốt lõi của chiến lược này là coi sinh
viên là khách hàng và trường đại học phải cố gắng hết sức để cung cấp dịch vụ giáo dục
tốt nhất cho sinh viên (Stodnick & Rogers, 2008), điều này sẽ khiến sinh viên hài lòng
và trung thành với trường đại học của họ (Martinez-Arguelles & Batalla-Busquets,
2016). Phương pháp tiếp cận sự hài lòng của sinh viên có thể là một công cụ nhằm tạo
ra một cầu nối giữa các quan điểm học thuật và các quan điểm định hướng thị trường về
cách cải thiện chất lượng giáo dục đại học (Wiers-Jenssen và cộng sự, 2002).
Tại Việt Nam, giáo dục đại học gắn liền với lịch sử giáo dục đại học phương
Đông, trong đó mục tiêu của giáo dục là đào tạo tầng lớp tinh hoa với hệ thống cấp bậc,
khoa cử rất chặt chẽ. Trong hệ thống đó, giảng viên đóng vai trò là trung tâm nên có sự
bất cân xứng về thông tin, nghĩa là nhà trường và giảng viên luôn có nhiều thông tin hơn
so với sinh viên và có quyền quyết định lớn (ví dụ, về kết quả học tập) đối với sinh viên.
Hiện nay, xuất phát từ nhu cầu đi học và nhu cầu lao động cần được đào tạo của sự phát
triển kinh tế xã hội, giáo dục đại học Việt Nam đã có sự chuyển dịch từ giáo dục đại học
"tinh hoa" sang giáo dục đại học “đại chúng”, từ đại học dành cho số ít sang số đông,
dành cho số đông. Tuy nhiên, nhiều tư duy của giáo dục theo kiểu tinh hoa vẫn còn tồn
tại. Ngoài ra, với sự xuất hiện của nhiều trường đại học, để cạnh tranh và giữ chân sinh
viên, nhiều giảng viên có xu hướng thỏa mãn sự hài lòng ngắn hạn của sinh viên (cho
điểm số cao, tích cực khen thưởng…) nhưng chưa chắc đã mang lại sự hài lòng tổng thể
về chất lượng dịch vụ đào tạo của sinh viên. Rõ ràng, hiện đang có sự mâu thuẫn trong
giữa sự hài lòng trước mắt của sinh viên với việc cung cấp dịch vụ đào tạo có chất lượng
trong tương lai dài hạn.
Từ khi trở thành thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam
đã chính thức hòa chung vào xu thế hội nhập toàn cầu. Trong xu thế đó, Việt Nam là
nước được nhiều doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn làm điểm đầu tư hấp dẫn. Điều đó
cũng có nghĩa là việc tìm kiếm nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được các tiêu
chuẩn “quốc tế” cũng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Đón bắt được nhu cầu này của
xã hội, hàng loạt trường đại học công lập, tư thục, trường đại học do nước ngoài đầu tư,
liên kết trên khắp mọi miền đất nước, (đặc biệt là ở hai thành phố lớn Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh) đã ra đời. Tính đến nay, có 65 trường đại học tư thục trên cả nước,
chiếm khoảng 27.5% tổng số các trường Đại học (Thùy Linh, 2018), trong đó Hà Nội
3
có 14 trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giữa hai loại hình giáo dục này còn có nhiều
sự khác biệt. Trong Hội nghị tổng kết 20 năm giáo dục đại học, cao đẳng tư thục diễn ra
tại Hà Nội ngày 14/3/2014, bên cạnh một số ý kiến tỏ ra rất lạc quan, đáng mừng về sự
phát triển của loại hình tư thục thì phần lớn là những lời “kêu ca phàn nàn” về nhiều vấn
đề. Một số trường tư thục ngày càng thành công như Đại học FPT, Đại học Hoa Sen, thì
có rất nhiều trường gặp rất nhiều khó khăn thách thức ngay từ khâu đầu vào đến đầu ra
mà chủ yếu là do chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu, do chưa khẳng định được vị
thế của trường, do định kiến nên sinh viên tốt nghiệp đại học tư thục thường khó xin
việc hơn sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học công lập ra. Rõ ràng, việc Chính phủ
cho phép thành lập nhiều trường đại học trong một thời gian ngắn dẫn đến việc các
trường đại học đứng trước những thách thức trong việc cải tiến chất lượng dịch vụ đào
tạo nhằm đem tới sự hài lòng cho các sinh viên theo học tại trường. Ngoài ra, mô hình
quản trị và mô hình quản lý đào tạo của các trường đại học công lập và đại học tư thục
rất khác nhau, nguồn lực được khai thác và sử dụng tại hai loại hình trường đại học này
cũng rất khác nhau, do vậy chất lượng dịch vụ ở các trường tư thục cũng có sự khác biệt
và từ đó tác động tới sự hài lòng của sinh viên cũng có thể không như ở các trường đại
học công lập. Đây cũng là vấn đề cần nghiên cứu rõ hơn.
Bên cạnh đó, đào tạo đại học trên thế giới đang biến đổi rất nhanh và đa dạng
trên mọi phương diện, đòi hỏi Việt Nam phải kịp thời nhận thức lại nhiều khái niệm
truyền thống về dịch vụ đào tạo đại học mà hiện đã không còn phản ánh đúng thực tại
nữa. Có thể nhận thấy, đào tạo đại học ở Việt Nam đang ở giao điểm giữa chất lượng và
thương mại (Nguyễn Kim Dung, 2012) trong đó chất lượng là một trong những thách
thức lớn của hệ thống giáo dục Việt Nam nói chung và đào tạo đại học Việt Nam nói
riêng. Trong bối cảnh đó, đề tài “Nghiên cứu tác động của chất lượng dịch vụ đào
tạo tới sự hài lòng của sinh viên các trường Đại học tại Hà Nội” nhằm phân tích các
yếu tố cấu thành nên chất lượng dịch vụ đào tạo, tác động của chất lượng dịch vụ đào
tạo tới sự hài lòng của sinh viên tại các trường đại học tại Hà Nội có tính đến sự khác
biệt giữa đại học công lập và đại học tư thục. Đây được xem là một điểm mới trong
nghiên cứu về chất lượng dịch vụ đào tạo do còn rất ít nghiên cứu đi sâu phân tích sự
khác biệt giữa hệ thống trường công lập và tư thục trong việc đáp ứng sự hài lòng của
sinh viên. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện, nâng cao chất
lượng dịch vụ đào tạo của hai loại hình đại học này, qua đó làm tăng sự hài lòng của
sinh viên.
4
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là xác định những yếu tố cấu thành nên chất
lượng dịch vụ đào tạo đại học và tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài
lòng của sinh viên đang theo học ở các trường đại học công lập và tư thục ở Hà Nội, so
sánh ảnh hưởng của các yếu tố chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên,
so sánh chất lượng dịch vụ đào tạo giữa các trường đại học công lập và tư thục từ đó đề
xuất các phương án nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo, qua đó nâng cao sự hài lòng
của sinh viên. Nhiệm vụ cụ thể:
- Tổng quan cơ sở lý thuyết về chất lượng dịch vụ, chất lượng dịch vụ đào tạo đại học
và sự hài lòng của sinh viên.
- Xây dựng mô hình lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu về tác động của chất lượng
dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên. Việc xây dựng mô hình lý thuyết dựa
trên tổng quan nghiên cứu và nghiên cứu định tính, trong đó các yếu tố của mô hình
bao quát được các khía cạnh quan trọng nhất của chất lượng dịch vụ đào tạo của một
trường đại học. Mô hình có bổ sung thêm biến công bằng tác động đến sự hài lòng
của sinh viên và biến sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập là biến trung gian dẫn
tới sự hài lòng của sinh viên.
- Kiểm định mô hình lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu về tác động của chất
lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên. Trong quá trình phân tích, luận
án tập trung so sánh, đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo, sự hài lòng của sinh viên
và tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên giữa các
trường đại học công lập và tư thục tại Hà Nội.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
dịch vụ đào tạo đại học ở cả trường công lập và tư thục, qua đó tăng cường sự hài
lòng của sinh viên.
2.2 Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận án phải trả lời các câu hỏi nghiên
cứu sau:
- Những yếu tố nào cấu thành nên chất lượng dịch vụ đào tạo tại các trường Đại học?
- Chiều hướng và mức độ tác động của các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ đào
tạo đến sự hài lòng của sinh viên đại học công lập và tư thục trên địa bàn Hà Nội?
- Có sự khác biệt về chất lượng dịch vụ đào tạo và tác động của chất lượng dịch vụ
đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên giữa các trường đại học công lập và tư thục
trên địa bàn Hà Nội không?
5
- Những khuyến nghị nào được đưa ra để nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo nhằm
tăng cường sự hài lòng của sinh viên?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ đào
tạo và tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên các trường
đại học.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Các sinh viên hệ chính quy bậc đại học tại các lớp học
truyền thống (không nghiên cứu tại các lớp học online). Hiện nay, trong Danh mục giáo
dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân có chia thành 7 khối ngành đào tạo và tại
Hà Nội cũng tập trung đầy đủ cả 7 khối ngành. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn lực có
hạn, nghiên cứu tập trung vào đối tượng sinh viên khối ngành kinh tế và quản trị kinh
doanh do đây là hai ngành phổ biến trong cả trường công và trường tư. Ngoài ra, nhóm
sinh viên từ năm thứ 2 trở lên được chọn để khảo sát do sinh viên năm nhất mới vào
trường còn bỡ ngỡ, chưa có nhiều trải nghiệm nên khó đánh giá chính xác về chất lượng
dịch vụ đào tạo của trường.
Nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố
của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên. Mặc dù đây không phải là
chủ đề nghiên cứu mới nhưng những nghiên cứu về chất lượng từ quan điểm của khách
hàng nhằm nâng cao sự hài lòng của khách hàng là luôn cần thiết. Đặc biệt, trong bối
cảnh các trường đại học hướng tới tự chủ, coi sinh viên thực sự là khách hàng, lấy sinh
viên là trung tâm thì chủ đề này lại càng cần được phân tích sâu hơn. Nghiên cứu của
NCS cũng đưa ra một mô hình bao quát gần như đầy đủ các khía cạnh chất lượng dịch
vụ đào tạo của trường đại học, có bổ sung 2 biến mới là Công bằng và Sự hài lòng về
đánh giá kết quả học tập. Do vậy, những đóng góp của nghiên cứu này thực sự có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu trọng tâm vào các yếu tố cấu thành chất
lượng dịch vụ đào tạo và tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của
sinh viên các trường đại học công lập và tư thục trên địa bàn Hà Nội. Lý do chọn Hà
Nội vì Hà Nội là thủ đô của đất nước, là nơi tập trung nhiều trường đại học, bao gồm cả
trường đại học công lập (43 trường, chiếm 25% tổng số trường công lập trong cả nước)
và trường đại học tư thục (14 trường, chiếm 23.3% tổng số trường tư thục trong cả nước).
Hà Nội cũng tập trung 6/14 (chiếm tỷ lệ 42.8%) trường đại học được Bộ Giáo dục – Đào
6
tạo trao quyền tự chủ. Sinh viên các trường đại học ở Hà Nội đến từ nhiều tỉnh thành
trên cả nước.
Thời gian nghiên cứu: Các dữ liệu thứ cấp được thu thập chủ yếu trong giai đoạn
2015-2018. Các dữ liệu sơ cấp thu thập từ phỏng vấn sâu chuyên gia và điều tra khảo
sát được thực hiện trong giai đoạn 2018-2019.
4. Những đóng góp mới của luận án
Những đóng góp về lý luận
- Trên cơ sở kết hợp ba mô hình lý thuyết HEdPERF của Firdaus (2005), Gamage
và cộng sự (2008), Jain và cộng sự (2013), tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu bao quát
gần như đầy đủ các khía cạnh chất lượng dịch vụ dịch vụ đào tạo tác động đến sự hài
lòng của sinh viên và có sự so sánh giữa nhóm trường đại học công lập và đại học tư
thục trên địa bàn Hà Nội;
- Luận án bổ sung biến công bằng là biến nằm trong nhóm biến về khía cạnh phi
học thuật và kiểm định tác động của biến này đến sự hài lòng về đánh giá kết quả học
tập của sinh viên;
- Luận án mở rộng mô hình lý thuyết bằng việc bổ sung biến sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập và kiểm định tác động của các yếu tố về chất lượng giảng viên, chất
lượng chương trình đào tạo và công bằng đến sự hài lòng của sinh viên gián tiếp thông
qua biến sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập.
Những đóng góp về thực tiễn
- Đối với các trường đại học (đặc biệt ở khu vực Hà Nội), kết quả nghiên cứu sẽ
giúp cho các trường đại học đánh giá được mức độ tác động của các yếu tố về chất lượng
dịch vụ đào tạo đại học tới sự hài lòng của sinh viên, từ đó có hướng đầu tư, quản lý phù
hợp để tăng cường hiệu quả quản trị trường đại học;
- Trên góc độ quản lý nhà nước, kết quả nghiên cứu có thể giúp cho các nhà quản
lý giáo dục đại học có cái nhìn đúng đắn về sự khác biệt về chất lượng dịch vụ đào tạo
đại học giữa hai hệ thống công lập và tư thục và tác động của nó đến sự hài lòng của
sinh viên. Từ đó có những chính sách điều chỉnh phù hợp để dần xoá đi khoảng cách
giữa hai hệ thống đào tạo đại học này.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
của luận án được trình bày trong 5 chương:
7
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về chất lượng dịch vụ đào tạo và sự hài lòng
của sinh viên
Chương 2: Mô hình và giả thuyết nghiên cứu về tác động của chất lượng dịch vụ
đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên
Chương 3: Bối cảnh và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và khuyến nghị
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ĐÀO TẠO
VÀ SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN
1.1 Dịch vụ và dịch vụ đào tạo đại học
1.1.1 Dịch vụ
Dịch vụ là một khái niệm khó nắm bắt nên việc đo lường dịch vụ rất khó khăn
(Latif và cộng sự, 2017). Điều này là do thuật ngữ “dịch vụ” có sự phong phú và đa dạng
về ý nghĩa (Firdaus, 2006). Khái niệm về dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những
thứ tương tự như hàng hoá nhưng phi vật chất và có các đặc tính cơ bản như: tính đồng
thời, tính không thể tách rời, tính không đồng nhất, tính vô hình và tính không thể lưu
trữ. Theo quan điểm này, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng nhu cầu như:
dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ... và mang lại lợi nhuận. Theo TCVN ISO
8402:1999, dịch vụ là kết quả tạo ra do các hoạt động tiếp xúc giữa người cung ứng và
khách hàng và do các hoạt động nội bộ của người cung ứng để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Đây là khái niệm giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có căn cứ xây dựng
hệ thống các chỉ tiêu chất lượng cụ thể cho từng khâu, từng hoạt động trong quá trình
tạo ra dịch vụ giúp cho việc quản trị chất lượng đạt được hiệu quả cao hơn. Dưới góc
nhìn của marketing, Kotler và cộng sự (1996) định nghĩa, dịch vụ là một hoạt động hay
lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển
quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm
vật chất. Query và cộng sự (2007) cho rằng dịch vụ là một quá trình điều khiển quan
trọng trong việc giữ chân khách hàng và tăng trưởng lợi nhuận.
Có thể thấy, dưới những góc độ khác nhau, với những mục đích khác nhau thì sẽ
có những khái niệm về dịch vụ được đưa ra khác nhau. Tuy nhiên, các khái niệm có
chung một điểm là cùng chỉ ra rằng, dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu
cầu nào đó của con người. Hầu hết, các khái niệm đều nhấn mạnh đến những đặc điểm
có tính then chốt của dịch vụ, đó là: tính vô hình, tính không thể tách rời (sản xuất và
tiêu thụ cùng lúc), tính không đồng nhất, và tính không thể tồn trữ. Những thuộc tính
này khá trừu tượng, chính là nguyên nhân khiến cho việc đánh giá, đo lường chất lượng
dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Trong nghiên cứu này, tác giả tiếp cận khái niệm dịch vụ
theo khía cạnh cảm nhận, đánh giá của khách hàng với dịch vụ đó.
9
1.1.2 Dịch vụ đào tạo đại học
Giáo dục và đào tạo là một khái niệm bao hàm nhiều hoạt động chính thức và
không chính thức khác nhau nhằm bồi dưỡng đức, trí, thể, mỹ cho người học dựa trên
các hệ thống các giá trị văn hóa nhân bản của con người. Nếu trước đây, giáo dục được
xem đơn thuần như một hoạt động sự nghiệp đào tạo con người mang tính phi thương
mại, phi lợi nhuận thì ngày nay, dưới tác động của các yếu tố bên ngoài và đặc biệt là
sự tác động của nền kinh tế thị trường, giáo dục đã được coi như một “dịch vụ giáo dục”
mà ở đó khách hàng (sinh viên, phụ huynh) có thể đầu tư và lựa chọn một nhà cung cấp
dịch vụ (các trường học) mà họ cho là phù hợp nhất (Phạm Thị Liên, 2016).
Theo Cerri (2012), bản chất của các dịch vụ trong đào tạo đại học là khá phức
tạp do đào tạo là cả một quá trình và có sự đa dạng của các biến số ảnh hưởng. Oldfield
và Baron (2000) cho rằng đào tạo đại học có thể được xem như một dịch vụ “thuần túy”
vì nó có đủ đặc tính của dịch vụ. Với Hennig-Thurau và cộng sự (2001), dịch vụ đào tạo
đại học thuộc lĩnh vực tiếp thị dịch vụ (services marketing). Tuy nhiên, những tác giả
này cũng chỉ ra rằng dịch vụ đào tạo đại học cũng có sự khác biệt so với những dịch vụ
chuyên nghiệp khác ở vài điểm: dịch vụ đào tạo đóng một vai trò trung tâm trong đời
sống của sinh viên và sinh viên yêu cầu một nguồn động lực lớn và kĩ năng tư duy để
đạt được mục đích của mình. Hơn thế nữa, dịch vụ đào tạo đại học ngoài việc có một
vài đặc tính của dịch vụ nói chung như vô hình, không lưu trữ được, không đồng nhất
thì những nỗ lực dạy học của các giảng viên cùng một lúc được “sản xuất” và “tiêu
dùng” bởi cả giảng viên và sinh viên như một phần của kinh nghiệm giảng dạy (Shank
và cộng sự, 1995).
Theo Zhiqin và cộng sự (2012), dịch vụ đào tạo đại học đề cập đến các dịch vụ
được cung cấp bởi hệ thống giáo dục đại học để đáp ứng nhu cầu giáo dục cụ thể hoặc
nhu cầu tiềm năng của một bộ phận nhất định. Bản chất năng động và tương tác của giáo
dục đại học có thể được xem là một hệ thống của môi trường bên trong và bên ngoài;
đầu vào, quy trình và đầu ra/sản phẩm (Sahney, 2002). Eriksen (1995) cho rằng đầu vào
chính là sinh viên, chính là đối tượng trải qua một quá trình biến đổi, từ đó tạo ra đầu
ra. Trong khi đó, theo Jaraiedi và Ritz (1994) đầu vào hệ thống giáo dục là sinh viên,
giảng viên và nhân viên, quỹ tài trợ, cơ sở vật chất và mục tiêu của đơn vị đào tạo, và
các quy trình bao gồm đào tạo, giảng dạy, học tập, cố vấn, tư vấn, phụ đạo và đánh giá.
Gupta (1993) định nghĩa sinh viên, giảng viên, quản trị viên, hỗ trợ tài chính và cơ sở
vật chất là đầu vào của hệ thống giáo dục; và các hoạt động được thực hiện để phổ biến
kiến thức, tiến hành nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ cộng đồng là các quá trình của
hệ thống giáo dục. Về đầu ra của đào tạo đại học, hiện có rất ít sự đồng thuận giữa các
10
tác giả về sản phẩm của giáo dục (Shutler và Crawford, 1998). Freeman (1993) và Ellis
(1993) cho rằng sản phẩm của đào tạo đại học là sự cung cấp các cơ hội học tập. Đại
học Sandwell định nghĩa sản phẩm của đào tạo đại học là việc học thực tế đạt được của
sinh viên (MacRobert, 1994). Gupta (1993) cho rằng người có giáo dục, kết quả nghiên
cứu và dịch vụ cho cộng đồng là đầu ra/sản phẩm của hệ thống giáo dục.
Tại Việt Nam, dịch vụ đào tạo được hiểu theo cả nghĩa rộng (bao quát chung) và
nghĩa hẹp (các dịch vụ cụ thể) (Phùng Hữu Phú và cộng sự, 2016). Nghĩa rộng là coi
toàn bộ hoạt động giáo dục và đào tạo thuộc khu vực dịch vụ (trong tương quan với hai
khu vực khác là công nghiệp và nông nghiệp). Nghĩa hẹp của khái niệm này gắn với các
hoạt động giáo dục, đào tạo cụ thể. Quá trình giáo dục và đào tạo được thực hiện với sự
tham gia của rất nhiều các yếu tố, quá trình khác nhau, có thể là vật chất (như cơ sở vật
chất, trang thiết bị,...), có thể là phi vật chất (như quá trình truyền thụ tri thức, giảng dạy
trực tiếp,...), có thể là chứa đựng cả hai yếu tố vật chất và phi vật chất (như nội dung
chương trình, sách giáo khoa cho giáo dục và đào tạo,...). Các yếu tố, quá trình giáo dục
và đào tạo phi vật thể được gọi là dịch vụ thuần; các sản phẩm là hàng hóa vật thể gọi
là hàng hóa thuần; còn các sản phẩm chứa đựng cả yếu tố vật chất và yếu tố phi vật chất
được gọi chung là hàng hóa dịch vụ không thuần. Vì vậy, trong giáo dục và đào tạo có
rất nhiều các loại dịch vụ cụ thể phục vụ cho nhà trường, phục vụ cho người dạy, phục
vụ cho người học, phục vụ cho quá trình giáo dục và đào tạo. Từ quan điểm này, nhiều
người cho rằng, để đảm bảo chất lượng, dịch vụ giáo dục và đào tạo nên là một trong
những dịch vụ của Chính phủ. Đặc biệt, sản phẩm của đào tạo đại học là cung cấp cho
xã hội nguồn nhân lực có chất lượng làm việc trong các cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp, các tổ chức,... do đó, mặc dù hầu hết các trường đại học tại Việt Nam đã được
giao tự chủ, thì trong chừng mực nào đó, đào tạo đại học vẫn cần sự quản lý của nhà
nước về mặt định hướng, chương trình, chỉ tiêu,... Có thể nói đó là một loại dịch vụ vừa
có tính công ích (do nhà nước và công chúng quyết định) vừa có tính thị trường (do thị
trường quyết định).
Như vậy, có thể cho rằng dịch vụ đào tạo đại học là một loại hình dịch vụ đặc
biệt trong đó sinh viên nhận và tiêu dùng các khóa đào tạo do trường đại học cung cấp
và trở thành khách hàng ưu tiên của các hoạt động giáo dục. Sinh viên có thể đóng nhiều
vai trò, vừa là khách hàng, vừa là nhà sản xuất và vừa là sản phẩm. Theo đó, các cơ sở
đào tạo đại học sử dụng đầu vào là sinh viên, giảng viên và nhân viên, và các nguồn tài
trợ từ môi trường bên ngoài truyền các quá trình giảng dạy, học tập, quản trị và nghiên
cứu vào môi trường bên trong của nó. Đầu ra là những sinh viên tốt nghiệp với năng lực
nâng cao và kiến thức mới được tạo ra bởi nghiên cứu, sẽ được đưa ra môi trường bên
11
ngoài. Chất lượng của sinh viên đầu vào được đánh giá thông qua quá trình kiểm tra và
lựa chọn với các tiêu chí được đưa ra bởi các cán bộ giảng viên của trường. Chất lượng
của sinh viên tốt nghiệp được kiểm soát bởi các kỳ thi và các đánh giá, bình duyệt của
các bộ phận trong cơ sở giáo dục.
1.2 Chất lượng dịch vụ và chất lượng dịch vụ đào tạo đại học
1.2.1 Chất lượng dịch vụ
Cũng như khái niệm về dịch vụ, có nhiều khái niệm về chất lượng dịch vụ tùy
theo quan điểm, đối tượng nghiên cứu và môi trường nghiên cứu. Trong một thời gian
dài, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng định nghĩa và đo lường chất lượng dịch vụ.
Lehtinen và Lehtinen (1982) cho rằng chất lượng dịch vụ phải được đánh giá trên hai
khía cạnh: (i) quá trình cung cấp dịch vụ và (ii) kết quả của dịch vụ. Lehtinen và Lehtinen
(1982) cũng khái quát hóa chất lượng dịch vụ bao gồm ba chiều: chất lượng vật lý; chất
lượng tương tác, và chất lượng doanh nghiệp. Khía cạnh chất lượng vật lý đề cập đến
chất lượng của các yếu tố vật lý của dịch vụ, bao gồm các yếu tố sản phẩm hữu hình đi
kèm với ưu đãi dịch vụ, thiết bị hỗ trợ và môi trường vật lý nơi dịch vụ diễn ra. Khía
cạnh chất lượng tương tác đề cập đến chất lượng tương tác giữa khách hàng và các yếu
tố khác của trải nghiệm dịch vụ, tức là nhân viên dịch vụ, khách hàng khác và máy móc,
thiết bị. Chất lượng doanh nghiệp là khía cạnh chất lượng được phát triển qua nhiều năm
tồn tại của một doanh nghiệp dịch vụ. Nó có tính chất biểu tượng và đề cập đến cách
khách hàng tiềm năng xem xét pháp nhân, hình ảnh hoặc hồ sơ của doanh nghiệp.
Gronroos (1984) đề nghị hai thành phần của chất lượng dịch vụ: (i) chất lượng kỹ thuật,
đó là những gì mà khách hàng nhận được và (ii) chất lượng chức năng, diễn giải dịch vụ
được cung cấp như thế nào. Parasuraman và cộng sự (1988) định nghĩa chất lượng dịch
vụ là mức độ khác nhau giữa sự mong đợi của người tiêu dùng về dịch vụ và nhận thức
của họ về kết quả của dịch vụ. Crosby (1982) cho rằng chất lượng dịch vụ là sự phù hợp
với nhu cầu. Theo Feigenbaum (1991), chất lượng dịch vụ là quyết định của khách hàng
dựa trên trải nghiệm thực tế đối với sản phẩm hoặc dịch vụ, được đo lường dựa trên
những yêu cầu của khách hàng, những yêu cầu này có thể được hoặc không được nêu
ra, được ý thức hoặc đơn giản chỉ là cảm nhận, hoàn toàn chủ quan hoặc mang tính
chuyên môn và luôn đại diện cho mục tiêu động cho một thi trường cạnh tranh. Các tác
giả Lewis và Mitchell (1990), ASubonteng (1996), Wisniewski và Donnelly (1996),
Kasper và cộng sự (1999) đều định nghĩa chất lượng dịch vụ là mức độ mà các dịch vụ,
quá trình dịch vụ và cách tổ chức dịch vụ có thể đáp ứng sự mong đợi của người sử
dụng. Theo Zeithaml (1987), chất lượng dịch vụ là sự đánh giá của khách hàng về mức
độ hoàn hảo của một thực thể. Nó là một dạng của thái độ và các hệ quả từ sự so sánh
giữa những gì được mong đợi và nhận thức về những thứ mà khách hàng nhận được.
12
Do các đặc điểm độc đáo của dịch vụ, cụ thể là tính vô hình, không đồng nhất,
không thể tách rời và dễ hỏng (Parasuraman và cộng sự, 1988), chất lượng dịch vụ không
thể được đo lường một cách khách quan (Patterson và Johnson, 1993). Trong các nghiên
cứu, chất lượng dịch vụ thường được hiểu là chất lượng cảm nhận, là kết quả từ việc so
sánh kỳ vọng dịch vụ của khách hàng với nhận thức của họ về hiệu suất thực tế (Zeithaml
và cộng sự, 1990). Zeithaml và cộng sự (1993) phân chia thành ba loại dịch vụ kỳ vọng
giúp người tiêu dùng có được chuẩn mực so sánh trong quá trình đánh giá chất lượng
dịch vụ: dịch vụ mong đợi; dịch vụ đầy đủ; và dịch vụ dự đoán. Theo đó, khách hàng có
một mức độ dịch vụ mong đợi là mức độ dịch vụ mà khách hàng hy vọng nhận được.
Nó bao gồm những gì khách hàng tin rằng có thể và nên được cung cấp. Khách hàng
cũng có một mức độ dịch vụ tối thiểu mà họ sẽ chấp nhận vì họ nhận ra rằng mức độ
mong muốn không thể luôn đạt được. Cấp độ này được gọi là cấp độ dịch vụ đầy đủ.
Giữa hai cấp độ dịch vụ này là một vùng dung sai mà khách hàng sẵn sàng chấp nhận.
Cuối cùng, khách hàng có một mức độ dịch vụ dự đoán, đó là mức độ dịch vụ mà họ tin
rằng công ty sẽ thực hiện. Sasser và cộng sự (1978), liệt kê bảy đặc tính của chất lượng
dịch vụ bao gồm: (i) An toàn - sự tin cậy cũng như an toàn về thể chất; (ii) Tính nhất
quán - tiếp nhận cách đối xử tương tự cho mỗi cuộc giao dịch; (iii) Thái độ - lịch sự;
(iv) Sự đầy đủ - luôn sẵn có các dịch vụ phụ trợ; (v) Điều kiện cơ sở vật chất; (vi) Sự
sẵn sàng đáp ứng cả không gian và thời gian với các dịch vụ; (vii) Sự huấn luyện - cung
cấp dịch vụ.
Như vậy, tầm quan trọng của chất lượng dịch vụ đã được thừa nhận rộng rãi.
Phần lớn các định nghĩa về chất lượng dịch vụ xoay quanh ý tưởng rằng chất lượng phải
được đánh giá dựa trên cảm nhận của người tiêu dùng dịch vụ, được gọi là chất lượng
cảm nhận. Chất lượng cảm nhận được định nghĩa là sự đánh giá của người tiêu dùng về
một trải nghiệm hay tính ưu việt của một thực thể (Zeithaml, 1987; Zammuto và cộng
sự, 1996). Tương tự, Parasuraman và cộng sự (1990) cũng kết luận rằng nhận thức của
người tiêu dùng về chất lượng dịch vụ là do so sánh các kỳ vọng trước khi nhận dịch vụ
và trải nghiệm thực tế của họ về dịch vụ. Chất lượng cảm nhận cũng được coi là một
dạng thái độ, có liên quan nhưng không phải là sự hài lòng, và là kết quả từ sự so sánh
kỳ vọng với nhận thức về hiệu suất (Rowley, 1996). Chất lượng dịch vụ dẫn đến sự hài
lòng của khách hàng (Spreng và Mackoy, 1996; Bigne và cọng sự, 2003; Gummerus và
cộng sự, 2004; Ribbink và cộng sự, 2004;) từ đó tạo dựng niềm tin, truyền miệng và
lòng trung thành của khách hàng (Kassim và Firdaus, 2010). Trong nghiên cứu này, tác
giả sử dụng khái niệm chất lượng dịch vụ chính là chất lượng cảm nhận theo quan điểm
của Parasuaraman và cộng sự (1990).
13
1.2.2 Chất lượng dịch vụ đào tạo đại học
Theo Phạm Thị Liên (2016), về bản chất, chất lượng dịch vụ giáo dục - đào tạo
là một khái niệm mang tính tương đối và được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy theo
từng cách tiếp cận vấn đề. Ở mỗi vị trí, người ta nhìn nhận về chất lượng ở những khía
cạnh khác nhau.
Theo Latif và cộng sự (2017), chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục khác
với lĩnh vực sản xuất sản phẩm hữu hình, đồng thời cũng khác với các dịch vụ thông
thường chỉ cần tương tác một lần là có thể quyết định giá trị của dịch vụ nhận được.
Theo Tsinidou và cộng sự (2010), các dịch vụ đào tạo thường vô hình và khó đo lường
vì kết quả được phản ánh trong việc chuyển đổi của các cá nhân về kiến thức, đặc điểm
và hành vi của họ. Do những đặc tính riêng có của dịch vụ đào tạo (Zejthaml và cộng
sự, 1985), chất lượng dịch vụ đào tạo đại học khó có thể được đo lường một cách khách
quan (Patterson và Johnson, 1993) và các định nghĩa thông thường về chất lượng không
được áp dụng cho ngành giáo dục đại học (Michael, 1998). Theo Cheng và Tam (1997),
chất lượng dịch vụ đào tạo là một khái niệm khá mơ hồ và gây tranh cãi. Họ lập luận
rằng những người khác nhau có thể có những quan niệm khác nhau; một số người nhấn
mạnh chất lượng đầu vào cho các hệ thống giáo dục; những người khác ưu tiên chất
lượng quá trình hoặc chất lượng đầu ra... Hiện chưa có sự đồng thuận chung về khái
niệm chất lượng dịch vụ đào tạo mặc dù tầm quan trọng của nó đã được nhấn mạnh
(Cheng và Tam, 1997; Becket và Brookes, 2006).
Có rất nhiều cách để định nghĩa chất lượng trong đào tạo đại học phụ thuộc vào
các bên liên quan như sinh viên, phụ huynh, cộng đồng địa phương, xã hội, và chính
phủ (Harvey và Green, 1993). Crosby (1979) cho rằng chất lượng là sự phù hợp của đầu
ra giáo dục với các mục tiêu, thông số kỹ thuật và yêu cầu theo kế hoạch. Parasuraman
và cộng sự (1985) thì cho rằng chất lượng là sự đáp ứng hoặc vượt quá mong đợi của
khách hàng về giáo dục. Harvey và Green (1993) chỉ ra chất lượng đào tạo đại học có
thể tập hợp thành 5 nhóm quan điểm về chất lượng như sau: (1) chất lượng là sự vượt
trội, (2) chất lượng là sự hoàn hảo, (3) chất lượng là phù hợp với mục tiêu, (4) chất lượng
là giá trị đồng tiền và (5) chất lượng là sự chuyển đổi. Parri (2006) cho rằng chất lượng
đào tạo đại học, có thể tập hợp thành các quan điểm chất lượng như sau: (1) Chất lượng
là sự vượt trội, xuất sắc; (2) Chất lượng là không có lỗi; (3) Chất lượng là phù hợp với
mục tiêu; (4) Chất lượng là sự chuyển đổi, định hình lại; (5) Chất lượng là ngưỡng tiêu
chuẩn; (6) Chất lượng là sự nâng cao hay cải tiến; (7) Chất lượng là giá trị đồng tiền.
Chất lượng dịch vụ đào tạo là sự độc quyền của những trải nghiệm mà sinh viên tham
gia vào như một phần của toàn bộ sự phát triển con người của họ (Roland, 2008). Chen
14
và cộng sự (2007) dựa vào định nghĩa của UNESCO (1998), trên cơ sở đó các tác giả
đưa ra định nghĩa chất lượng đào tạo đại học như sau: chất lượng đào tạo đại học là một
khái niệm đa hướng bao gồm các chức năng và hoạt động như chương trình đào tạo,
chất lượng giảng viên giảng dạy, chính phủ, cơ sở vật chất, đặc điểm sinh viên, quản lý
và hành chính và hệ thống tương tác. Cheng và Tam (1997) định nghĩa chất lượng đào
tạo là một chứng thực của tập hợp các yếu tố bao gồm đầu vào, quá trình và đầu ra của
hệ thống giáo dục cung cấp các dịch vụ thỏa mãn đầy đủ các bên hữu quan bằng cách
đáp ứng những kỳ vọng rõ ràng và tiềm ẩn của họ. Allen và Davis (1991) và Holdford
và Patkar (2003) đã xác định chất lượng dịch vụ đào tạo là đánh giá tổng thể của sinh
viên về các dịch vụ nhận được như một phần của trải nghiệm giáo dục của họ. Chất
lượng dịch vụ đào tạo được coi là sự phân loại mang tính cạnh tranh giữa các tổ chức
HE về sự thống trị của họ trong việc tạo ra trải nghiệm học tập độc đáo (Yeo, 2008).
Những trải nghiệm này có thể là kết quả của nhiều phương tiện cụ thể: giảng dạy trong
lớp, các hoạt động ngoại khóa, giám sát, hỗ trợ hành chính hoặc lãnh đạo. Vì thế, chất
lượng của một tổ chức giáo dục có thể phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, tương tác giữa tổ
chức giáo dục và ngành, hoạt động nghiên cứu,… (Mallesham, 2005). Nó liên quan đến
việc đáp ứng các mục tiêu được xác định trước (Vroeijenstijn, 1992), mang lại giá trị
đồng tiền (Harvey và Green, 1993) bao gồm đầu vào, quá trình và đầu ra (Sahney và
cộng sự, 2004b). Ở đây, đầu vào bao gồm sinh viên, giảng viên, cơ sở hạ tầng và nhân
viên; quá trình là trong các hình thức giảng dạy và học tập trong khi việc làm, kết quả
thi, sự hài lòng tạo thành đầu ra.
Như vậy, chất lượng dịch vụ đào tạo đại học là một khái niệm phức tạp và đa
hướng và một định nghĩa phù hợp duy nhất về chất lượng đào tạo đại học vẫn còn thiếu
(Harvey và Green, 1993). Theo O’Neill và Palmer (2004), chất lượng là sự đáp ứng nhu
cầu của khách hàng hay còn gọi là chất lượng cảm nhận của khách hàng, trong đó chất
lượng chỉ có thể được xác định bởi khách hàng và xảy ra khi một tổ chức cung cấp hàng
hóa hoặc dịch vụ cho một đặc điểm thỏa mãn nhu cầu của họ. Trong lĩnh vực giáo dục
đại học, sinh viên là những người chủ yếu đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo; đối tượng
của đánh giá là hiệu quả và quy trình của dịch vụ giáo dục; phương pháp đánh giá khác
nhau tùy theo mục đích đánh giá; và sự hài lòng của sinh viên là chỉ số chính để đánh
giá chất lượng dịch vụ đào tạo đại học (Latif và cộng sự, 2017). Do đó, một cách phù
hợp để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo đại học là bằng cách đánh giá cảm nhận của
sinh viên.
Như vậy, chất lượng dịch vụ đào tạo đại học là cảm nhận của sinh viên về chất
lượng dịch vụ mà nhà trường cung cấp có liên quan đến tất cả các khía cạnh như giảng
15
viên, nhân viên hành chính, cơ sở hạ tầng, các dịch vụ hỗ trợ, các hoạt động ngoại khóa,
danh tiếng nhà trường, sự phù hợp về chi phí đào tạo, công bằng.
Sự hài lòng của khách hàng 1.3
Theo Munteanu và cộng sự (2010), trong một thị trường cạnh tranh, nơi các tổ
chức tranh giành khách hàng, sự hài lòng của khách hàng trở thành một điểm khác biệt
quan trọng của chiến lược tiếp thị. Sự hài lòng của khách hàng phần lớn phụ thuộc vào
mức độ mà một sản phẩm được cung cấp bởi một tổ chức đáp ứng hoặc vượt qua sự
mong đợi của khách hàng. Việc thoả mãn khách hàng trở thành một tài sản quan trọng
đối với các doanh nghiệp và tổ chức trong nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, giữ vững
sự trung thành, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Định nghĩa về sự hài lòng, Hunt (1977) cho rằng sự hài lòng là đánh giá của
khách hàng sau khi sử dụng dịch vụ. Nó là một thuộc tính hiệu quả thuộc phản ứng cảm
xúc, qua đó khách hàng biết được các nhu cầu, mong muốn, kỳ vọng trong quá trình sử
dụng dịch vụ đã được đáp ứng. Oliver (1981) chỉ ra sự hài lòng là một chuỗi chọn lọc,
đánh giá, phán đoán nhằm dẫn tới một quyết định đặc biệt, nó được thể hiện bằng đẳng
thức: sự hài lòng = hiệu quả thực tế - kỳ vọng và là một sự thỏa mãn thú vị mà có nghĩa
người tiêu dùng nhận thức rằng sự tiêu dùng đáp ứng một vài nhu cầu, sự khao khát,
mục tiêu hoặc những cái đại loại như vậy và sự thỏa mãn này là một điều thú vị. Dù vậy,
sự hài lòng là cảm giác của người tiêu dùng mà sự tiêu dùng cung cấp kết quả ngược lại
với tiêu chuẩn về sự thú vị. Kotler và Clarke (1987) định nghĩa sự hài lòng là trạng thái
được cảm nhận bởi kết quả trải nghiệm của một cá nhân hoặc kết quả đáp ứng mong đợi
của anh ta hoặc cô ta. Trong khi đó, theo Zeithaml (2000), sự hài lòng của khách hàng
là sự cân nhắc xem liệu một dịch vụ hoặc sản phẩm có thỏa mãn nhu cầu và mong đợi
của họ hay không. Jamal và Kamal (2002) mô tả sự hài lòng của khách hàng như một
cảm giác hay thái độ của khách hàng đối với một sản phẩm hay dịch vụ sau khi sử dụng
chúng. Trong quá trình nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng đối với chất lượng dịch
vụ, Parasuraman và cộng sự (1988) cho rằng sự hài lòng của khách hàng đối với chất
lượng dịch vụ được đo lường bằng hiệu số giữa chất lượng mong đợi và chất lượng đạt
được. Còn theo Kotler (2006) sự hài lòng của khách hàng là mức độ của trạng thái cảm
giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ sản phẩm/sản lượng
với những kỳ vọng của người đó. Có thể thấy, sự hài lòng đề cập đến sự so sánh giữa
nhận thức và kỳ vọng (Alves và Raposo, 2009). Khách hàng sẽ đánh giá xem thứ hàng
nào mang lại giá trị cao nhất trong phạm vi túi tiền cho phép với trình độ hiểu biết, khả
năng, động cơ và thu nhập của họ. Do vậy, chính mức độ cung ứng giá trị của một tổ
chức/doanh nghiệp cho khách hàng sẽ ảnh hưởng quan trọng đến mức độ thỏa mãn và sự
16
hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm hoặc dịch vụ của tổ chức/doanh nghiệp đó.
Khái niệm về sự hài lòng cũng được mở rộng gần đây đối với ngữ cảnh của đào
tạo đại học. Phân tích tài liệu cho thấy sự thiếu đồng thuận về khái niệm và cách đo
lường sự hài lòng với các dịch vụ nói chung (Radomir và cộng sự, 2012; Souca, 2011;
Tăchiciu và cộng sự, 2011) và với các dịch vụ đào tạo nói riêng (Navarro và cộng sự,
2005; Yildiz và Kara, 2009). Số lượng nghiên cứu vẫn còn giới hạn cho thấy sự hài lòng
của sinh viên là một khái niệm phức tạp, bao gồm nhiều thước đo (Marzo-Navarro và
cộng sự, 2005; Richardson, 2005). Sự hài lòng của sinh viên là một chỉ số ngày càng
quan trọng về chất lượng thực hiện giảng dạy và cũng có thể được coi là thước đo kết
quả của quá trình giáo dục (Ramsden, 1991). Một số nghiên cứu tin rằng sự hài lòng của
sinh viên liên quan đến nhận thức và trải nghiệm của họ với việc học ở trường (Alves
và Raposo, 2009; Gruber và cộng sự, 2010; Zineldin và cộng sự, 2011; Nell và Cant,
2014). Elliott và Shin (2002) miêu tả sự hài lòng của sinh viên như là sự ủng hộ của một
sự đánh giá mang tính chủ quan của sinh viên với những kết quả và trải nghiệm đa dạng
liên quan đến đào tạo. Sự hài lòng của sinh viên đang tiếp tục được hình thành bởi những
kinh nghiệm được nhắc lại trong cuộc sống sinh viên. Carey và cộng sự (2002) tin rằng
sự hài lòng thực sự bao gồm các vấn đề thuộc về nhận thức và trải nghiệm của sinh viên
trong suốt những năm đại học. Elliot và Healy (2001) cho rằng sự hài lòng của sinh viên
là thái độ lâu dài được thể hiện sau khi đánh giá các trải nghiệm giáo dục.
Đo lường sự hài lòng của sinh viên không phải là một nhiệm vụ dễ dàng (Muteanu
và cộng sự, 2010) do đó nhiều tác giả đề xuất các tiêu chí khác nhau. Ví dụ, Browne và
cộng sự (1998) nhận thấy rằng sự hài lòng trong một trường đại học được thúc đẩy bởi
đánh giá của sinh viên về chất lượng khóa học và các yếu tố liên quan đến chương trình
giảng dạy. Borden (1995) nhận thấy rằng sự hài lòng của sinh viên có liên quan đến sự
phù hợp giữa các ưu tiên của sinh viên và môi trường đại học. Năm 2010, Gruber và
cộng sự đo lường 15 khía cạnh của sự hài lòng của sinh viên từ quan điểm của sinh viên
như cách quản trị, bầu không khí, khóa học, bài giảng, thư viện, cơ sở hạ tầng….
Zineldin và cộng sự (2011) chỉ ra năm yếu tố chính để đánh giá nhận thức của sinh viên
về sự hài lòng: khía cạnh kỹ thuật, chức năng, cơ sở hạ tầng, tương tác và bầu không khí
của các tổ chức giáo dục đại học. Xiao và Wilkins (2015) đã xem xét ảnh hưởng của
cam kết của giảng viên đối với nhận thức của sinh viên về chất lượng giảng dạy và sự
hài lòng.
Sự hài lòng của sinh viên có thể được xem là sự đánh giá toàn diện về hoạt động
đào tạo mà nhà trường cung cấp, đáp ứng mong đợi của sinh viên. Với quan điểm này,
các nhà quản lý giáo dục nên hiểu rằng đảm bảo mức độ hài lòng cao bằng cách cung
17
cấp dịch vụ giáo dục chất lượng là điều bắt buộc để giữ chân sinh viên (Li-Wei, 2005)
bởi vì nhiều nghiên cứu cho thấy sự hài lòng của sinh viên là yếu tố ảnh hưởng đến lòng
trung thành của sinh viên nhất (Helgesen và Nesset, 2007; Brown và Mazzarol, 2009),
ảnh hưởng đến sự tích cực tham gia của sinh viên vào quá trình đào tạo (Finney và
Finney, 2010), việc tiếp tục theo đuổi các chương trình đào tạo và việc giới thiệu tổ chức
giáo dục cho người khác (DeShields và cộng sự, 2005).
Tóm lại, sự hài lòng của sinh viên sử dụng trong luận án là mức độ hài lòng của
sinh viên với quyết định theo học tại trường, những trải nghiệm tại trường và sự hài lòng
nói chung với trường đại học đó.
1.4 Tổng quan nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ đào tạo và sự
hài lòng của sinh viên
Mặc dù nhiều nhà kinh doanh thường đồng nhất chất lượng dịch vụ với sự hài
lòng khách hàng, tuy nhiên chất lượng dịch vụ và sự hài lòng khách hàng là hai khái
niệm riêng biệt (Cronin và cộng sự, 2000; Cronin và Taylor, 1992, 1994; Eskildsen và
cộng sự, 2004; Guolla, 1999). Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng tuy là hai khái niệm
khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau trong nghiên cứu về dịch vụ
(Parasuraman và cộng sự, 1988). Sự hài lòng được xem như một khái niệm tổng thể
(Zeithaml & Bitner, 2000) trong khi chất lượng dịch vụ là một khái niệm gồm nhiều
thành phần (Parasuraman và cộng sự, 1985; 1988). Chất lượng được xem là một thái độ
chung còn sự hài lòng được liên kết với các giao dịch cụ thể (Robinson, 1999; Aldridge
và Rowley, 1998; Rowley, 1997; Patterson và Johnson, 1993). Trong phần này, tác giả
sẽ tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về mối quan hệ giữa chất lượng dịch
vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên trên hai khía cạnh: (i) Các yếu tố đo lường chất
lượng dịch vụ đào tạo; và (ii) Ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng
của sinh viên.
1.4.1 Các yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo
Có rất nhiều nghiên cứu về các yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo. Joseph
và Joseph (1997) đã thực hiện một khảo sát đối với sinh viên ngành kinh doanh tại New
Zealand về nhận thức về chất lượng dịch vụ giáo dục. Kết quả nghiên cứu đã xác định
bảy yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ: (1) Phương tiện hữu hình; (2) Chi phí/thời
gian; (3) Danh tiếng trường đại học; (4) Chương trình đào tạo; (5) Cơ hội nghề nghiệp;
(6) Địa điểm; (7) Khác: truyền miệng, gia đình và đồng nghiệp/bạn bè.Trên cơ sở đó,
nghiên cứu đã đưa ra ý nghĩa cho các nhà quản lý giáo dục và đưa ra một số gợi ý cho
nghiên cứu trong tương lai.
18
LeBlanc và Nguyen (1997) đo lường chất lượng dịch vụ trong giáo dục với dữ
liệu được thu thập từ 388 sinh viên. Nghiên cứu đã xác định bảy yếu tố mà sinh viên
đánh giá về chất lượng dịch vụ theo thứ tự quan trọng giảm dần là: (1) Danh tiếng; (2)
Nhân viên hành chính; (3) Giảng viên; (4) Chương trình giảng dạy; (5) Khả năng đáp
ứng; (6) Phương tiện hữu hình và (7) Tiếp cận cơ sở vật chất. Nghiên cứu cũng đưa ra
hàm ý nhằm kiểm soát chất lượng và để đạt được hiệu quả cao trong lĩnh vực kinh doanh
giáo dục.
Nghiên cứu của Hill và cộng sự (2003) nhằm xác định nhận thức của sinh viên
về trải nghiệm chất lượng trong giáo dục đại học. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra bốn yếu
tố cấu thành chất lượng giáo dục đại học: (1) Chất lượng của giảng viên; (2) Sinh viên
tham gia học tập; (3) Hệ thống hỗ trợ xã hội/tình cảm; và (4) Nguồn lực thư viện và
công nghệ thông tin; trong đó chất lượng của giảng viên và hệ thống hỗ trợ sinh viên là
những yếu tố có ảnh hưởng nhất trong việc cung cấp chất lượng giáo dục.
Firdaus (2005), trong nghiên cứu về chất lượng dịch vụ đào tạo đại học đã phát
triển mô hình đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo HEdPERF. Mô hình này được xây
dựng bằng phương pháp so sánh với mô hình SERVPERF – là mô hình được Cronin và
Taylor (1992) phát triển từ SERVQUAL (Parasuraman và cộng sự, 1985) nhằm đánh
giá các điểm mạnh và các hạn chế của mỗi mô hình. Qua điều tra khảo sát sáu trường
công lập và tư thục ở Malaysia, Firdaus (2005) cho thấy có năm nhóm yếu tố quyết định
chất lượng dịch vụ đào tạo gồm: (1) Giảng dạy (Acadamic aspects), (2) Hành chính
(Non – academic aspects), (3) Danh tiếng (Reputation), (4) Tiếp cận tổ chức (Access)
và (5) Chương trình đào tạo (Program issues).
Chen và cộng sự (2007) nghiên cứu chất lượng giáo dục đại học ở Campuchia và
khám phá các yếu tố tiềm năng dẫn đến chất lượng giáo dục đại học đã chỉ ra năm yếu
tố chính được coi là có liên quan trong việc cung cấp chất lượng trong giáo dục đại học:
(1) Chương trình đào tạo và các hoạt động ngoại khóa; (2) Giảng viên giảng dạy; (3)
Ngân sách; (4) Cơ sở vật chất; và (5) Hệ thống tương tác.
Gamage và cộng sự (2008) xác định nhận thức của sinh viên về chất lượng dịch
vụ được cung cấp bởi các trường đại học tư ở Thái Lan và Nhật Bản và cách các yếu tố
này ảnh hưởng đến việc chọn trường đại học. Kết quả cho thấy 3 yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định chọn trường của sinh viên gồm (1) Khía cạnh học thuật: thể hiện qua chất
lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo, danh tiếng trường đại học;
(2) Khía cạnh phi học thuật: liên quan đến hỗ trợ tài chính và học phí, tư vấn và dịch vụ
hỗ trợ, dịch vụ việc làm, thủ tục khiếu nại; và (3) Khía cạnh cơ sở vật chất: liên quan
đến cơ sở vật chất trường đại học, thư viện và thiết bị máy tính, tổ chức sinh viên và
phương tiện giải trí.
19
Cũng trong một nghiên cứu đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo đại học, Sultan
và Wong (2010a) đã phát triển một thang đo khác có tên là Giáo dục đại học dựa trên
hiệu suất (PHEd) bao gồm 67 mục với tám khía cạnh: (1) Độ tin cậy; (2) Hiệu quả; (3)
Khả năng; (4) Hiệu suất; (5) Năng lực; (6) Đảm bảo; (7) Quản lý tình huống bất thường
và (8) Giáo trình.
Jain và cộng sự (2011) nghiên cứu về việc mô hình hóa chất lượng dịch vụ trong
đào tạo đại học đã xây dựng mô hình chất lượng dịch vụ dựa trên các khái niệm về chất
lượng dịch vụ. Nghiên cứu cho thấy chất lượng dịch vụ gồm hai nhóm yếu tố chính là:
chất lượng chương trình gồm: (1) chất lượng giảng dạy, chất lượng đầu vào, khả năng
tương tác, phương tiện học tập; (2) khía cạnh quản lý hành chính và hậu cần gồm: chất
lượng đầu vào (chất lượng người học, đội ngũ giảng viên, nhân viên hành chính, cơ sở
vật chất), quá trình đào tạo (giảng dạy, học tập và công tác hành chính), chất lượng đầu
ra (kết quả thi, công việc và mức thu nhập).
Trong nghiên cứu với đối tượng nghiên cứu hẹp hơn của Charles và cộng sự
(2013) về chất lượng dịch vụ đào tạo chương trình MBA cho rằng phần lớn các nghiên
cứu đánh giá chất lượng của chương trình MBA nói riêng và chất lượng đào tạo nói
chung đều sử dụng mô hình SERVQUAL, SERVPERF và HEdPERF và khẳng định các
yếu tố tạo nên chất lượng của chương trình MBA bao gồm nội dung chương trình học,
chất lượng giảng dạy, mức độ tin cậy của chương trình, phương tiện học tập và kết quả
đầu ra, nhưng có hai tiêu chí chất lượng dịch vụ MBA là quản lý chương trình và hình
ảnh tổ chức chưa được mô hình hóa để đo lường.
Latif và cộng sự (2017) dựa trên phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích
nhân tố khẳng định (CFA) đã tìm thấy sáu yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ trong
HE, đặt tên là mô hình HiEduQual bao gồm: (1) Chất lượng giáo viên; (2) Dịch vụ hành
chính; (3) Dịch vụ tri thức; (4) Các hoạt động; (5) Cải tiến liên tục và (6) Chất lượng
lãnh đạo.
Ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu sử dụng mô hình SERVQUAL (Parasuraman
và cộng sự, 1985) hoặc SERVPERF (Cronin & Taylor, 1992) để đánh giá chất lượng
dịch vụ. Đề cập đến mô hình và thang đo chất lượng dịch vụ đào tạo các trường đại học
ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013) trong nghiên cứu của mình đã dựa
trên thang đo của hai mô hình SERVQUAL và SERVPERF đưa ra một thang đo khác
biệt đôi chút so với SERVQUAL, đồng thời chỉ ra rằng các yếu tố hữu hình phục vụ
việc đào tạo đại học, khả năng đáp ứng, mức độ đảm bảo dường như là 3 yếu tố riêng
có của chất lượng dịch vụ đào tạo đại học mà trường đại học Việt Nam cung cấp.
20
Nghiên cứu “Giá trị cảm nhận về đào tạo từ góc nhìn sinh viên” của Chu Nguyễn
Mộng Ngọc (2010) cho thấy giá trị cảm nhận về dịch vụ đào tạo đại học được thể hiện
qua 6 nhân tố giá trị gồm: giá trị hình ảnh; giá trị hiểu biết; giá trị cảm xúc; giá trị chức
năng – tính thiết thực; giá trị chức năng - học phí/chất lượng; giá trị xã hội. Sáu nhân tố
này có sự khác biệt theo cảm nhận của các sinh viên khác nhau về ngành học và thời
gian vào trường.
Võ Thị Quý và cộng sự (2015) dựa vào kết quả nghiên cứu định tính thông qua
3 cuộc thảo luận nhóm cho thấy thang đo chất lượng dịch vụ đào tạo đại học trên góc độ
sinh viên bao gồm 25 biến quan sát để đo lường 6 thành phần của chất lượng đào tạo đại
học, đó là: (1) chương trình đào tạo, (2) giảng viên, (3) cơ sở vật chất, (4) tương tác giữa
nhà trường và doanh nghiệp, (5) hoạt động ngoại khóa, và (6) chất lượng dịch vụ hỗ trợ
sinh viên.
1.4.2 Ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên
Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng về cơ bản là khái niệm khác
nhau. Trong khi chất lượng dịch vụ là một thái độ chung, sự hài lòng lại được kết nối
bởi nhiều sự giao dịch cụ thể (Patterson và Johnson, 1993; Rowley, 1997; Aldridge và
Rowley,1998; Robinson,1999). Parasuraman và cộng sự (1993) cho rằng chất lượng
dịch vụ và sự hài lòng có những điểm khác biệt, mà khác biệt cơ bản nhất là vấn đề
“nhân quả”. Nghiên cứu được thực hiện bởi Parasuraman và cộng sự (1985, 1988) cung
cấp một nền tảng cơ bản để đo lường mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài
lòng của khách hàng. Họ cho rằng nhận thức về chất lượng dịch vụ dẫn đến sự hài lòng
của khách hàng và do đó, các tác giả này sử dụng khoảng cách giữa kỳ vọng của khách
hàng về hiệu suất của nhà cung cấp và trải nghiệm cảm nhận thực tế về hiệu suất đó.
Điều này có nghĩa là, nếu khách hàng nhận thấy dịch vụ có chất lượng cao, thì khách
hàng sẽ hài lòng. Cronin và Taylor (1992) cũng đồng ý với quan điểm này và thông qua
thang đo SERVPERF đã kết luận rằng chất lượng dịch vụ cảm nhận có thể dự đoán sự
hài lòng của khách hàng và sự hài lòng của khách hàng đóng vai trò mạnh mẽ hơn trong
ý định mua hàng trong tương lai so với chất lượng dịch vụ. Nhiều nghiên cứu sau đó
cho thấy chất lượng dịch vụ là nguyên nhân của sự hài lòng khách hàng và có quan hệ
mật thiết với sự hài lòng khách hàng (Spreng và Mackoy, 1996; Oliver, 1993; Kim và
cộng sự, 2004; Seth và cộng sự, 2008; Hanzaee & Nasimi, 2012). Bên cạnh đó, một số
tác giả khác (Bitner, 1990; Bolton và Drew, 1991a, b) nhìn mối quan hệ này theo hướng
ngược lại và đề nghị rằng, nếu khách hàng hài lòng với dịch vụ được cung cấp cho họ,
họ sẽ nhận thấy nó có giá trị cao nhất. Tuy nhiên, quan điểm này không nhận được nhiều
sự ủng hộ của các tác giả. Nói chung, chất lượng dịch vụ cảm nhận là tiền đề cho sự hài
lòng (Spreng và Mckoy, 1996).
21
Trong bối cảnh giáo dục đại học, nhiều học giả đã nghiên cứu tác động của các
khía cạnh khác nhau của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên.
Browne và cộng sự (1998) và Guolla (1999) chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ đào tạo là
tiền đề của sự hài lòng của sinh viên. Nhận thức tích cực về chất lượng dịch vụ đào tạo
có thể dẫn đến sự hài lòng của sinh viên và sau đó sinh viên hài lòng có thể thu hút sinh
viên mới thông qua truyền miệng tích cực để thông báo cho người quen và bạn bè, và
họ có thể quay lại trường đại học để tham gia các khóa học khác (Marzo-Navarro và
cộng sự, 2005; Wiers-Jenssen và cộng sự, 2002; Mavondo và cộng sự, 2004; Schertzer
và Schertzer, 2004).
Winsted (2000); Zeithaml và cộng sự (1990) xác nhận rằng các nhà cung cấp dịch
vụ sẽ chỉ có thể tham gia các cuộc cạnh tranh về dịch vụ để làm hài lòng khách hàng
nếu họ biết khách hàng của họ muốn gì. Nếu các trường đại học biết sinh viên của họ
nhận thức như thế nào về các dịch vụ được đưa ra, họ có lẽ có thể đáp ứng được dịch vụ
của họ tới một mức độ cụ thể nào đó. Điều này có một sự tác động tích cực về chất lượng
dịch vụ đối với nhận thức của sinh viên và mức độ hài lòng của họ. Nói cách khác, nhà
cung cấp là người định hướng xu hướng tiêu dùng của khách hàng. Xã hội ngày càng
phát triển, các nhà cung cấp thường đưa ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao hơn
nhận thức, hiểu biết thông thường của khách hàng. Với dịch vụ đào tạo Đại học cũng
tương tự như vậy.
Oldfield và Baron (2000) cũng cho rằng có xu hướng nhìn nhận chất lượng dịch
vụ đào tạo đại học từ nhận thức của một tổ chức. Họ gợi ý rằng các trường đại học chú
ý nhiều hơn vào những gì sinh viên muốn, thay vì đi thu thập các dữ liệu dựa trên những
gì mà trường nhận thấy sinh viên của trường nhận thấy quan trọng. Tương tự như vậy,
Joseph và cộng sự (2005) chỉ ra rằng nghiên cứu về chất lượng dịch vụ ở trường đại học
đã dựa hoàn toàn vào đầu vào từ các thành viên trong trường trong khi loại trừ đầu vào
từ chính bản thân sinh viên. Họ tin rằng các phương pháp truyền thống quyết định về
điều gì tạo nên chất lượng dịch vụ (ví dụ việc quyết định điều gì là quan trọng nhất với
sinh viên) nằm hoàn toàn trong tay các nhân viên hành chính và các giảng viên (Joseph
và cộng sự, 2005). Vì thế, các tác giả gợi ý rằng những người làm quản lý đào tạo nên
tập trung vào việc hiểu nhu cầu của sinh viên, những người là những khách hàng mục
tiêu đầu tiên và cụ thể. Tương tự, Douglas và cộng sự (2006) gợi ý rằng kinh nghiệm
của sinh viên và sự cải thiện của họ nên đi đầu trong bất kỳ cuộc giám sát nào về chất
lượng đào tạo đại học.
Ham và Hayduk (2003) đã xác nhận rằng có mối tương quan tích cực giữa nhận
thức về chất lượng dịch vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên. Sự hài lòng của sinh
22
viên đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của một trường đại học và có thể
đóng vai trò là một công cụ thiết yếu trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ nhận thức
của nó (Firdaus, 2006a). Browne và cộng sự (1998) và Guolla (1999) cho thấy nhận
thức của sinh viên về chất lượng dịch vụ đào tạo là tiền đề cho sự hài lòng của sinh viên.
Nhận thức tích cực về chất lượng dịch vụ đào tạo có thể dẫn đến sự hài lòng của sinh
viên và sau đó sinh viên hài lòng có thể thu hút sinh viên mới bằng cách tham gia giao
tiếp truyền miệng tích cực để thông báo cho người quen và bạn bè, và họ có thể quay lại
trường đại học để tham gia các khóa học khác (Marzo-Navarro và cộng sự, 2005; Wiers-
Jenssen và cộng sự, 2002; Mavondo và cộng sự, 2004; Schertzer và Schertzer, 2004).
Trong một nghiên cứu được thực hiện bởi Firdaus (2005), người ta nhận thấy
rằng trong bối cảnh giáo dục đại học, các yếu tố chính quyết định sự hài lòng của sinh
viên bao gồm các khía cạnh học thuật và phi học thuật, các vấn đề liên quan đến chương
trình, tiếp cận và danh tiếng. Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi Afzal và cộng sự
(2010) giải thích rằng có tám khía cạnh của chất lượng dịch vụ giáo dục đại học bao
gồm thiết kế, phân phối và đánh giá, cơ sở học tập, cơ sở phi học thuật, công nhận,
hướng dẫn, đại diện sinh viên, cơ hội học tập và quy mô nhóm. Các kỹ năng giảng dạy
của giảng viên và sự tương tác của họ với sinh viên cũng có thể dẫn đến đến sự hài lòng
của sinh viên (Bitner và Zeithaml, 1996). Điều này được hỗ trợ bởi Kuh và Hu (2001),
người cho rằng sự hài lòng của sinh viên bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự tương tác hiệu
quả giữa sinh viên và giảng viên. Tương tự, Kara và De Shields (2004) tuyên bố rằng
các yếu tố quyết định sự hài lòng của sinh viên bao gồm các khía cạnh chất lượng dịch
vụ như hiệu suất giảng viên, hiệu suất nhân viên tư vấn và các lớp học. Ngoài ra,
Brochado (2009) đã so sánh HEdPERF với các mô hình chất lượng dịch vụ giáo dục đại
học thay thế khác và khẳng định rằng năm chiều của HEdPERF có mối tương quan cao
hơn với sự hài lòng của sinh viên và ý định hành vi trong tương lai. Nghiên cứu của Ali
và cộng sự (2017) tiếp tục khẳng định năm khía cạnh của HEdPERF có ảnh hưởng đến
sự hài lòng của sinh viên.
Hishamuddin và cộng sự (2008) cũng nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng
dịch vụ với sự hài lòng của sinh viên. Nghiên cứu thực hiện điều tra 200 sinh viên đại
học từ hai trường tư thục ở Malaysia với bảng câu hỏi đã soạn sẵn. Tuy nhiên nghiên
cứu này chỉ đề cập đến đối tượng là sinh viên các trường tư thục. Trong nghiên cứu về
mức độ hài lòng của người học trong giáo dục đại học, Babar và Kashif (2010) tập trung
vào các yếu tố như kiến thức chuyên môn của giảng viên, các khóa học, môi trường học
tập và các thiết bị trong phòng học. 350 sinh viên đã phản hồi thông qua bảng hỏi với
các câu hỏi tương ứng với thang đo Likert 5 điểm. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy
23
tất cả các yếu tố tác động có tác động quan trọng và tích cực vào sự hài lòng của sinh
viên với mức độ khác nhau, trong đó, yếu tố kiến thức chuyên môn của giảng viên có
ảnh hưởng nhất.
Price và cộng sự (2003) đã thực hiện một báo cáo về tác động của các nhân tố
đối với sự lựa chọn của sinh viên đại học. Họ đã khảo sát một số trường đại học trong
hai năm để xác định lý do sinh viên về việc chọn một trường đại học cụ thể. Kết quả
trung bình trong hai năm tương đối giống nhau - tám lý do hàng đầu là: khóa học phù
hợp; có sẵn máy tính; chất lượng thư viện; danh tiếng giảng dạy; sự sẵn có của khu vực
yên tĩnh; khu vực tự học; chất lượng giao thông công cộng trong thị trấn/thành phố và
thái độ thân thiện với sinh viên. Rõ ràng, nhận thức của sinh viên về các điều kiện của
trường đại học là một trong những ảnh hưởng chính đến quyết định nhập học của họ.
Coles (2002) nhận thấy rằng sự hài lòng của sinh viên bị giảm khi quy mô lớp
học lớn hơn trong các đoàn hệ trước đó và khi sinh viên đang sử dụng các mô-đun bắt
buộc thay vì các mô-đun tùy chọn.
Liên quan đến sự hài lòng của sinh viên ngành quản trị kinh doanh, DeShields và
cộng sự (2005) cho thấy tám yếu tố nổi bật cấu thành nên sự hài lòng của sinh viên gồm:
Sự tự tin; Sự hài lòng với các hướng dẫn; Chương trình giảng dạy và lớp học; Sự hài lòng
với chất lượng giảng dạy; Sự hài lòng với các hoạt động ngoại khóa và cơ hội nghề nghiệp;
Sự hài lòng với việc tư vấn; chất lượng giảng dạy và hướng dẫn phản hồi; Sự hài lòng với
các thiết bị phòng máy tính; Sự hài lòng với chất lượng của sinh viên.
Douglas và cộng sự (2006) đã thiết kế và sử dụng bảng câu hỏi để đo lường sự
hài lòng của sinh viên tại Khoa Kinh doanh và Luật của Đại học Liverpool John Moores.
Kết quả cho thấy có 10 nhân tố xếp theo thứ tự quan trọng giảm dần có ảnh hưởng đến
sự hài lòng của sinh viên gồm: khả năng giảng dạy của giảng viên, trình độ chuyên môn
của giảng viên, hạ tầng công nghệ thông tin, bài giảng, trợ giảng, tài liệu hướng dẫn
giảng dạy, tính đồng nhất về chất lượng giảng dạy, trung tâm học liệu, tài liệu hướng
dẫn học tập và môi trường học tập ảo.
Marcel và cộng sự (2014) cho rằng sự hài lòng của sinh viên bị ảnh hưởng bởi
mức độ mà các tổ chức giáo dục đại học đáp ứng hoặc vượt quá mong đợi của họ. Nghiên
cứu đã chỉ ra một số yếu tố đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên gồm: quy trình giáo
dục (giáo trình, đào tạo cán bộ giảng dạy, chính sách kiểm tra), nhân viên hành chính,
quy trình tuyển sinh (thông tin, nhân viên), quản lý giảng viên, hình ảnh của khoa, thư
viện, thông tin chung, nhà ăn, môi trường giáo dục, gia sư, hợp tác giữa giảng viên và
môi trường kinh doanh, hợp tác quốc tế, hoạt động giải trí được hỗ trợ bởi giảng viên.
24
Martirosyan (2014) đã sử dụng một phương pháp tiếp cận thực tế, không thử
nghiệm để điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên trong môi trường
đại học trong AHEIs. Dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi tự báo cáo từ các
sinh viên ở chín tổ chức công cộng và ba tổ chức tư nhân ở các khu vực nông thôn và
thành thị khác nhau của Armenia. Mẫu bao gồm 372 người trả lời từ 12 tổ chức có địa
lý bao phủ cả nước để có một bức tranh tương đối hoàn chỉnh. Các yếu tố được điều tra
liên quan đến sự hài lòng của sinh viên bao gồm: nhân khẩu học, giảng viên, trải nghiệm
học tập, cơ sở hỗ trợ sinh viên, cuộc sống trong khuôn viên trường và hội nhập xã hội.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thành Long (2006) tại Trường Đại học
An Giang sử dụng thang đo biến thể của thang đo SERVQUAL là SERVPERF đánh giá
chất lượng đào tạo qua đánh giá của sinh viên tại trường đại học này. Trong đó, hoạt
động đào tạo được xem như một dịch vụ dưới đánh giá của khách hàng là sinh viên. Kết
quả nghiên cứu cho thấy: các yếu tố giảng viên, cơ sở vật chất và sự tin cậy vào nhà
trường là ba yếu tố quan trọng nhất của chất lượng đào tạo. Nghiên cứu đã chỉ ra, giảng
viên là thành phần quan trọng nhất tác động đến sự hài lòng của sinh viên. Hai thành
phần có tác động đáng kể tiếp theo là cơ sở vật chất và sự tin cậy vào nhà trường.
Tác giả Trần Xuân Kiên (2006) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến sự hài
lòng của 260 sinh viên tại Trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên.
Kết quả kiểm định mô hình lý thuyết cho thấy 5 thành phần tác động đến sự hài lòng
của sinh viên. Trong đó, thành phần tác động mạnh nhất đến sự hài lòng của sinh viên
là sự nhiệt tình của đội ngũ cán bộ và giảng viên, thứ hai là khả năng thực hiện cam kết,
thứ ba là cơ sở vật chất, thứ tư là đội ngũ giảng viên và cuối cùng là sự quan tâm của
nhà trường tới sinh viên.
Nguyễn Thị Thắm (2010) khảo sát sự hài lòng của sinh viên đối với hoạt động
đào tạo tại Trường đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy sự hài lòng của sinh viên phụ thuộc các nhân
tố theo mức độ ảnh hưởng giảm dần như sau: trước tiên là sự phù hợp và mức độ đáp
ứng của chương trình đào tạo, tiếp đến là trình độ và sự tận tâm của giảng viên, kỹ năng
chung mà sinh viên đạt được sau khóa học, mức độ đáp ứng từ phía nhà trường, cuối
cùng là trang thiết bị phục vụ học tập và điều kiện học tập.
Nghiên cứu của Phạm Thị Liên (2016) nếu trước đây, giáo dục được xem đơn
thuần như một hoạt động sự nghiệp đào tạo con người mang tính phi thương mại, phi
lợi nhuận thì ngày nay, dưới tác động của các yếu tố bên ngoài và đặc biệt là sự tác động
của nền kinh tế thị trường, giáo dục đã được coi như một “dịch vụ giáo dục” mà ở đó
khách hàng (sinh viên, phụ huynh) có thể đầu tư và lựa chọn một nhà cung cấp dịch vụ
25
(các trường học) mà họ cho là phù hợp nhất. Để tồn tại và phát triển, các trường học cần
chú trọng vào chất lượng dịch vụ nhằm nâng cao sự hài lòng của người học. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra các thành phần của chất lượng đào tạo có mối quan hệ cùng chiều với
sự hài lòng của người học trong đó, các yếu tố có ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh
viên theo thứ tự giảm lần lượt là: chương trình đào tạo; khả năng phục vụ của cán bộ,
nhân viên trong trường; và cuối cùng là cơ sở vật chất.
Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2012) trong nghiên cứu của mình đã xác định
các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của sinh viên đối với chất lượng đào tạo
ngành du lịch của các trường đại học ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Mẫu được
xác định là sinh viên ngành du lịch năm cuối tại các trường đại học ở ĐBSCL với quy
mô 294 sinh viên. Sau khi sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, kiểm định
Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy tuyến tính,
nghiên cứu cho kết quả là các nhân tố điều kiện thực tập, kiến thức xã hội, mức độ tương
tác của giảng viên và nâng cao kỹ năng ngoại ngữ là những nhân tố có ảnh hưởng đến
mức độ hài lòng của sinh viên ngành quản trị du lịch. Trong đó, mức độ tương tác của
giảng viên là nhân tố có ảnh hưởng mạnh nhất.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân Hương và cộng sự (2016) dựa trên số liệu điều
tra 423 sinh viên để tìm hiểu mức độ hài lòng và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài
lòng của sinh viên về điều kiện cơ sở vật chất và phục vụ của trường đại học Lâm nghiệp
cho thấy có 5 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến đến sự hài lòng của sinh viên với các dịch
vụ nhà trường cung cấp gồm: cơ sở vật chất, năng lực phục vụ, khả năng đáp ứng, sự
quan tâm và sự tin cậy, trong đó quan trọng hơn cả là điều kiện cơ sở vật chất và mức
độ tin cậy với cam kết của nhà trường.
Lai và Nguyen (2017) cho rằng với môi trường cạnh tranh ngày càng phát triển
trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, điều quan trọng là các trường đại học
phải liên tục nhận ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên để hiểu rõ hơn
về ý kiến của họ, cải thiện chất lượng chương trình và đảm bảo sự phát triển bền vững.
Các tác giả đã thực hiện một khảo sát nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài
lòng của sinh viên một trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy tất
cả năm yếu tố: chương trình giáo dục, chất lượng giảng viên, năng lực phục vụ, chính
sách đại học và cơ sở hạ tầng đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự hài lòng của sinh viên.
Trong số các yếu tố này, chất lượng giảng viên và chương trình giáo dục là hai yếu tố
chính làm hài lòng sinh viên.
26
1.5 Đánh giá chung và khoảng trống nghiên cứu
Như vậy, có thể nhận thấy chất lượng dịch vụ và sự hài lòng là chủ đề nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng chất lượng
dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng về cơ bản là khác nhau. Họ tin rằng sự hài lòng
của khách hàng bị ảnh hưởng không chỉ bởi cảm nhận về chất lượng dịch vụ mà còn bởi
các yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá cả, nhân tố cá nhân và các nhân tố bối cảnh
(Zeithaml và cộng sự, 2008).
Để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo, các nghiên cứu đã sử dụng các bộ tiêu
chí rất đa dạng. Một số nghiên cứu sử dụng bộ thang đo SERVQUAL của Parasuaraman
và cộng sự (1985) hoặc SERVPERF của Cronin và Taylor (1992); một số nghiên cứu
sử dụng bộ thang đo HEdPERF của Firdaus (2005) được phát triển riêng cho lĩnh vực
đào tạo đại học; ngoài ra nhiều nghiên cứu tự phát triển bộ thang đo riêng trên cơ sở kết
hợp nhiều loại thang đo khác nhau. Các bộ thang đo đều được phát triển dựa trên bối
cảnh nghiên cứu cụ thể nên rất khó có thể đưa ra một bộ thang đo chuẩn để đo lường
chất lượng dịch vụ đào tạo đại học tại tất cả các quốc gia. Tại Việt Nam, hiện đã có khá
nhiều nghiên cứu về chủ đề chất lượng và sự hài lòng trong lĩnh vực giáo dục đại học
và các nghiên cứu cũng vận dụng các thang đo đã có trên thế giới. Tuy nhiên, bối cảnh
giáo dục đại học của từng quốc gia có thể là một gợi ý tốt để tiếp tục tìm kiếm, nghiên
cứu và phát triển thêm những nhân tố/thang đo mới. Tại Việt Nam, kết quả học tập (thể
hiện trên bảng điểm) là một trong những nhân tố quan trọng đánh giá sự hài lòng của
sinh viên. Khi sinh viên đạt kết quả cao, nghĩa là sinh viên hài lòng về đánh giá kết quả
học tập, họ sẽ có những đánh giá tích cực về khía cạnh dịch vụ đào tạo của các trường
đại học. Một điểm quan trọng nữa trong dịch vụ giáo dục là thông tin bất cân xứng –
nghĩa là nhà trường và giảng viên (người cung ứng) có thể biết nhiều hơn so với sinh
viên. Một trong những lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro từ thông tin bất cân xứng là điểm số của
sinh viên, trong đó giảng viên có thể cho điểm cao (tùy hứng) để đổi lấy sự hài lòng
trước mắt về kết quả học tập, song chưa chắc điều này đã mang lại chất lượng giáo dục
tổng thể và dài hạn. Ngoài ra, sự công bằng bao gồm các quy định rõ ràng trong quá
trình đào tạo và sự cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ cho sinh viên cũng là nhân tố cần
quan tâm. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi cá nhân cảm thấy tin tưởng vào công
bằng, họ sẽ cảm thấy hài lòng hơn với các kết quả nhận được, cho dù kết quả đó có một
số bất lợi cho họ (Lind and Tyler, 1988). Như vậy, những nhân tố trên hầu như chưa
được tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây, lý do có thể vì những nhân tố này chỉ xảy
ra trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam. Do vậy, đây được xem là khoảng trống
nghiên cứu để tác giả tiếp tục khai thác.
27
Giáo dục đại học Việt Nam hiện đang dần cởi mở hơn với sự xuất hiện của ngày
càng nhiều trường đại học tư thục. Mặc dù có những so sánh về chất lượng đào tạo của
các trường đại học công lập và tư thục nhưng hầu như chưa có nghiên cứu chính thức
nào so sánh chất lượng dịch vụ đào tạo tại hai loại hình trường này. Do vậy, nghiên cứu
này sẽ có những so sánh, đánh giá và phân tích về chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của
sinh viên ở hai loại hình giáo dục này.
28
CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ĐÀO TẠO TỚI SỰ HÀI LÒNG
CỦA SINH VIÊN
2.1 Các mô hình nghiên cứu về chất lượng dịch vụ
Trong bối cảnh nghiên cứu hiện nay, đánh giá chất lượng dịch vụ là vấn đề thu
hút rất nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu cũng như doanh nghiệp. Kể từ thập niên
1980, các nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu cơ sở lý thuyết và đề xuất một số mô hình
thực chứng (empirical model) về đánh giá chất lượng dịch vụ. Điển hình là các đề xuất
của Gronroos (1984), Parasuraman và cộng sự (1985). Từ sau năm 1990 và trong thập
kỷ đầu của thế kỷ XXI, nhiều tác giả đã phát triển các khung lý thuyết đánh giá chất
lượng dịch vụ với nhiều yếu tố cấu thành khác nhau, ứng dụng trong các lĩnh vực chất
lượng dịch vụ khác nhau. Trong phần này, tác giả sẽ trình bày một số mô hình đánh giá
chất lượng dịch vụ tiêu biểu.
2.1.1 Mô hình đánh giá chất lượng kỹ thuật/chức năng của Groonros (1984)
Theo mô hình này, chất lượng dịch vụ được đánh giá bằng cách so sánh giữa giá
trị mà khách hàng mong đợi trước khi sử dụng dịch vụ và giá trị mà khách hàng nhận
được khi sử dụng dịch vụ. Vấn đề nghiên cứu tập trung vào chất lượng kỹ thuật và chất
lượng chức năng ảnh hưởng thế nào tới dịch vụ cung cấp và khách hàng cảm nhận về
những yếu tố đó ra sao? Để đo lường chất lượng dịch vụ, Gronroos (1984) đưa ra ba tiêu
chí: (i) chất lượng kỹ thuật, (ii) chất lượng chức năng và (iii) hình ảnh trong đó:
(i) Chất lượng kỹ thuật mô tả dịch vụ được cung cấp là gì và chất lượng mà khách
hàng nhận được từ dịch vụ.
(ii) Chất lượng chức năng mô tả dịch vụ được cung cấp thế nào hay làm thế nào
khách hàng nhận được kết quả chất lượng kỹ thuật.
(iii) Hình ảnh là yếu tố rất quan trọng, được xây dựng chủ yếu dựa trên chất lượng
kỹ thuật và chất lượng chức năng của dịch vụ, ngoài ra còn một số yếu tố khác như
truyền thống, truyền miệng, chính sách giá, PR).
Dịch vụ kì
Dịch vụ
CLDV cảm
vọng
cảm nhận
nhận
Các hoạt động tiếp thị
Hình ảnh
( quảng cáo, PR, giá cả)
29
và các ảnh hưởng bên
ngoài (tập quán và ý
thức tuyền miệng
Chất lượng chức năng
truyền thống
Chất lượng kỹ thuật
Hình 2.1: Mô hình đánh giá chất lượng kỹ thuật/chức năng
Nguồn: Groonros (1984)
2.1.2 Mô hình khoảng cách chất lượng dịch vụ (SERVQUAL) của Parasuraman và
cộng sự (1985)
Parasuraman và cộng sự (1985) được xem là những người đầu tiên nghiên cứu
chất lượng dịch vụ một cách cụ thể và chi tiết trong lĩnh vực tiếp thị với việc đưa ra mô
hình 5 khoảng cách trong chất lượng dịch vụ (Nguyễn Đình Thọ và cộng sự, 2003).
30
Dịch vụ kỳ vọng
Khoảng cách [5]
G
N
À
H
C
Á
H
K
Dịch vụ cảm nhận
)
Khoảng cách [4]
Dịch vụ cảm nhận
Dịch vụ chuyển giao
Thông tin đến khách hàng
]
1
[
h
c
á
c
g
n
ả
o
h
K
Khoảng cách [3]
Ụ
V
H
C
Ị
D
G
N
Ứ
G
N
U
C
Chuyển đổi cảm nhận
thành tiêu chí chất lượng
(
Ị
Khoảng cách [2]
Nhận thức về kì vọng của
H
T
P
Ế
I
T
À
H
N
khách hàng
Hình 2.2. Mô hình khoảng cách chất lượng dịch vụ
Nguồn: Parasuraman và cộng sự (1985)
Khoảng cách [1]: Là sai biệt giữa kỳ vọng của khách hàng và cảm nhận của nhà
cung cấp dịch vụ về kỳ vọng đó; khoảng cách [2]: Được tạo ra khi nhà cung cấp gặp các
khó khăn, trở ngại khách quan lẫn chủ quan; khoảng cách [3]: Được hình thành khi nhân
viên chuyển giao dịch vụ cho khách hàng không đúng các tiêu chí đã định; khoảng cách
[4]: Là sai biệt giữa dịch vụ chuyển giao và thông tin mà khách hàng nhận được; khoảng
cách [5]: Được hình thành từ sự khác biệt giữa chất lượng cảm nhận và chất lượng kỳ
vọng khi khách hàng tiêu thụ dịch vụ.
Parasuraman và cộng sự (1985) cho rằng chất lượng dịch vụ chính là khoảng cách
thứ năm. Khoảng cách này lại phụ thuộc vào 4 khoảng cách trước (Nguyễn Đình Thọ
và cộng sự, 2003). Đến năm 1988, mô hình này được đặt tên là mô hình SERVQUAL,
31
dùng để đánh giá cảm nhận của khách hàng về chất lượng dịch vụ và rút bớt 10 đặc tính
chất lượng dịch vụ thành 5 đặc tính chất lượng dịch vụ:
(1) Phương tiện hữu hình (Tangibles): bao gồm tài sản vật chất, trang thiết bị và
ngoại hình, trang phục của nhân viên phục vụ.
(2) Độ tin cậy (Reliability): được thể hiện qua khả năng thực hiện dịch vụ phù
hợp, chính xác, và đúng thời hạn ngay từ lần đầu tiên.
(3) Sự đáp ứng (Responsiveness): nói lên sự mong muốn và sẵn sàng của nhân
viên cung cấp dịch vụ kịp thời cho khách hàng.
(4) Năng lực phục vụ (Assurance): thể hiện qua trình độ chuyên môn và cung
cách phục vụ lịch sự, niềm nở với khách hàng.
(5) Sự đồng cảm (Empathy): thể hiện sự quan tâm chăm sóc đến từng khách
hàng.
Sau nhiều nghiên cứu kiểm định cũng như ứng dụng, dù còn có nhiều tranh cãi
và phê phán (Cronin và Taylor, 1992, 1994; Carman, 1990; Schneider và White, 2004),
xong SERVQUAL được thừa nhận là mô hình có giá trị về mặt lý thuyết cũng như thực
tiễn, được nhiều nghiên cứu vận dụng trong các lĩnh vực dịch vụ khác nhau như ngân
hàng, bán lẻ, bán buôn, y tế, giáo dục ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển
(Babakus và Mangold, 1992; Dabholkar và cộng sư, 1996; Chua, 2004; Tan và Kek,
2004; Mahapatra và Khan, 2007; Aghamolaei và Zare, 2008). Trong lĩnh vực đào tạo
đại học, công cụ SERVQUAL đã được sử dụng để đo lường chất lượng cảm nhận
(D'Uggento và cộng sự, 2006; Gibbs, 2004; Oldfield & Baron 2000; O'Neill, 2003;
Pariseau & McDaniel, 1997; Shekarchizadeh, 2011; Zafiropoulos & Vrana 2008). Tuy
nhiên, De Oliveira và Ferreira (2009) cho rằng các dịch vụ giáo dục có những đặc điểm
rất đặc biệt mà thang đo SERVQUAL không đáp ứng được. Latif và cộng sự (2017)
cũng đồng ý rằng việc sử dụng SERVQUAL trong lĩnh vực giáo dục có thể không phải
là lựa chọn tốt nhất vì giáo dục là một dịch vụ độc đáo và có những đặc điểm khác biệt
so với các dịch vụ khác. Clewes (2003) lưu ý rằng các nghiên cứu áp dụng SERVQUAL
cần phải được sửa đổi và hiện tại không có sự đồng thuận nào về các khía cạnh của chất
lượng dịch vụ hoặc tầm quan trọng của từng khía cạnh trong bối cảnh HE.
2.1.3 Mô hình đánh giá dựa trên kết quả thực hiện (SERVPERF) của Cronin và
Taylor (1992)
Cronin và Taylor (1992) đã nghiên cứu các khái niệm, phương pháp đo lường
chất lượng dịch vụ và mối quan hệ với sự hài lòng cũng như thiện chí mua hàng của
32
khách hàng, từ đó đưa ra kết luận rằng yếu tố nhận thức là công cụ dự báo tốt hơn về
chất lượng dịch vụ. Việc đo lường chất lượng dịch vụ theo mô hình SERVPERF của
Cronin và Taylor (1992) được xem là một phương pháp thuận tiện và rõ ràng trong việc
đo lường chất lượng dịch vụ dựa trên đo lường thông qua kết quả thể hiện của chất lượng
dịch vụ. Cronin và Taylor (1992) lập luận rằng khung phân tích theo mô hình
SERVQUAL của Parasuraman và cộng sự (1985) dễ gây nhầm lẫn giữa sự hài lòng và
thái độ của khách hàng. Các tác giả này cho rằng chất lượng dịch vụ có thể được định
nghĩa “tương tự như một thái độ”, và thay vì “kết quả thực hiện theo như mong đợi” thì
“kết quả thực hiện thực tế” sẽ xác định chất lượng dịch vụ tốt hơn. Cronin và Taylor
(1992) kết luận rằng mức độ cảm nhận của khách hàng đối với việc thực hiện dịch vụ
của một doanh nghiệp nào đó sẽ phản ánh tốt nhất về chất lượng dịch vụ.
Chất lượng dịch vụ = Mức độ cảm nhận
Nghiên cứu này đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nghiên cứu sau đó. Thang đo
SERVPERF cũng có 22 biến quan sát với 5 thành phần cơ bản tương tự như phần hỏi
về cảm nhận của khách hàng trong mô hình SERVQUAL, tuy nhiên bỏ qua phần hỏi về
kỳ vọng. Giống như thang đo SERVQUAL, SERVPERF cũng được áp dụng trong lĩnh
vực giáo dục và trong một số lĩnh vực khác, để đo lường chất lượng dịch vụ cảm nhận
(Firdaus, 2005, 2006a,b; Brochado, 2009; Fortes và cộng sự, 2011; Law, 2013).
2.1.4 Mô hình HEdPERF của Firdaus (2005)
Theo Firdaus (2005), mặc dù SERVQUAL, SERVPERF được thiết kế như là các
công cụ chung dùng để đo lường chất lượng dịch vụ trong đa số ngành công nghiệp,
nhưng điều quan trọng là khi áp dụng, từ khung đo lường cơ bản phải sửa đổi thang đo
để phù hợp với tình hình cụ thể và thường có những yếu tố bổ sung. Việc đo lường chất
lượng dịch vụ giáo dục có những điểm khác biệt do vậy Firdaus (2005) đã đề xuất thang
đo HEdPERF (Higher Education Performance), một thang đo mới và toàn diện hơn
nhằm đo lường chất lượng dịch vụ trong giáo dục đại học. Thang đo này gồm 41 tiêu
chí, trong đó 13 tiêu chí được trích xuất từ SERVPERF, 28 tiêu chí được phát triển thông
qua tổng quan tài liệu và các nghiên cứu định tính (thảo luận nhóm, kiểm tra thử nghiệm
và làm việc với chuyên gia). Sau đó, Firdaus (2006a) đã so sánh hiệu quả tương đối của
ba công cụ đo HEdPERF, SERVPERF và thang đo kiểm duyệt của HEdPERF-
SERVPERF để xác định công cụ nào có khả năng đo lường vượt trội. Các phát hiện đã
chứng minh rằng HEdPERF là công cụ ưu việt trong việc đo lường chất lượng dịch vụ
trong giáo dục đại học. Năm yếu tố của chất lượng dịch vụ trong giáo dục đại học là:
(1) Yếu tố phi học thuật (hay hành chính): liên quan đến việc thực thi nhiệm
vụ của các nhân viên hành chính.
33
(2) Yếu tố học thuật: liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ của giảng viên.
(3) Yếu tố danh tiếng: liên quan đến hình ảnh của cơ sở giáo dục đại học.
(4) Yếu tố tiếp cận: liên quan đến các vấn đề như khả năng tiếp cận, liên lạc
giữa người học với giảng viên và nhân viên hành chính.
(5) Yếu tố chương trình đào tạo: bao gồm những vấn đề liên quan đến tính đa
dạng, linh hoạt của chương trình đào tạo và chất lượng chương trình đào tạo.
Brochado (2009) tiếp tục kiểm tra tính hiệu quả của năm công cụ đo lường chất
lượng dịch vụ: SERVQUAL, SERVQUAL có trọng số, SERVPERF, SERVPERF có
trọng số và HEdPERF, đã thu thập dữ liệu từ một mẫu 360 sinh viên của Đại học Bồ
Đào Nha ở Lisbon. Theo kết quả nghiên cứu, SERVPERF và HEdPERF thể hiện khả
năng đo lường tốt nhất, nhưng không thể xác định được cái nào là tốt nhất. Sau đó,
Sultan và Wong (2010) đã thực hiện một nghiên cứu so sánh giữa HEdPERF và
SERVPERF và kết quả là HEdPERF phù hợp hơn trong việc đo lường chất lượng dịch
vụ giáo dục đại học và cho rằng các cơ sở giáo dục đại học có thể sử dụng HEdPERF
để cải thiện chất lượng dịch vụ.
2.1.5 Mô hình của Gamage và cộng sự (2008)
Nghiên cứu của Gamage và cộng sự (2008) tập trung vào đánh giá và so sánh
nhận thức của sinh viên về chất lượng dịch vụ đào tạo được cung cấp bởi các trường đại
học tư thục ở Thái Lan và Nhật Bản đồng thời xác định ảnh hưởng của các yếu tố này
đến cách ra quyết định chọn trường đại học của sinh viên. 1.900 sinh viên Thái Lan từ
chín trường đại học tư nhân và 703 sinh viên Nhật Bản từ hai trường cao đẳng tư nhân
đã được mời tham gia các cuộc khảo sát thực nghiệm trong năm 2006 và 2002 với các
câu trả lời lần lượt là 660 (94%) và 1532 (81%). Dựa trên nghiên cứu của Harvey (1995),
Hill (1995), và Gatfield (2000), Gamage và cộng sự (2008) đã xác định được tổng cộng
10 yếu tố chất lượng dịch vụ chia thành 3 nhóm: (1) khía cạnh học thuật; (2) khía cạnh
phi học thuật; và (3) khía cạnh cơ sở vật chất:
(1) Về khía cạnh học thuật: chất lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng chương
trình đào tạo và danh tiếng của trường đại học là những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến nhận thức của họ về chất lượng dịch vụ.
(2) Về khía cạnh phi học thuật: hỗ trợ tài chính và học phí, dịch vụ tư vấn và hỗ
trợ, dịch vụ giới thiệu việc làm và thủ tục khiếu nại đã góp phần giúp sinh
viên nhận thức về chất lượng dịch vụ.
(3) Về khía cạnh cơ sở vật chất: cơ sở vật chất của trường đại học, thư viện và
thiết bị máy tính, và các tổ chức sinh viên là những yếu tố quan trọng trong
nhận thức của họ về chất lượng dịch vụ.
34
Kết quả của nghiên cứu này đóng góp vào cơ sở dữ liệu chung về mô hình và
công cụ đánh giá chất lượng dịch vụ trong đào tạo đại học theo ý kiến của sinh viên.
2.1.6 Mô hình của Jain và cộng sự (2013)
Jain và cộng sự (2013) nhận thấy những thay đổi trong khuôn khổ văn hóa xã hội
và trật tự kinh tế đã đẩy hệ thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng vào
một môi trường mới, trong đó chất lượng đóng vai trò quan trọng. Do đó, Jain và cộng
sự (2013) đã phát triển thang đo đa chiều để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo đại
học trong bối cảnh Ấn Độ dựa trên việc sửa đổi và/hoặc phát triển các thang đo đã có
của rất nhiều tác giả như Harvey (1995); Hill (1995); Shank và cộng sự (1995); Joseph
và Joseph (19970; Owlia và Aspinwall (1998); Chou (2004); Lagrosen và cộng sự
(2004)… (Jain và cộng sự, 2013). Cuối cùng, một bảng câu hỏi bao gồm 26 mục (items)
được rút ra để đo lường cấu trúc và các khía cạnh của chất lượng dịch vụ đào tạo. Kết
quả cho thấy chất lượng dịch vụ đào tạo đại học bao gồm bảy khía cạnh:
(1) Chất lượng đầu vào
(2) Chương trình giảng dạy
(3) Cơ sở vật chất học tập
(4) Tương tác doanh nghiệp
(5) Chất lượng tương tác
(6) Cơ sở vật chất hỗ trợ học tập
(7) Quy trình phi học thuật
Thang đo được phát triển trong nghiên cứu này đã cung cấp một công cụ phân
tích đáng tin cậy và hợp lệ để đo lường nhận thức về chất lượng dịch vụ đào đạo đại học
của sinh viên. Đó là một công cụ giúp các tổ chức giáo dục xác định và giải quyết các
vấn đề xảy ra trong quá trình cung cấp dịch vụ dựa trên phản hồi từ các sinh viên. Những
nỗ lực cải thiện chất lượng dịch vụ của các tổ chức giáo dục có thể làm tăng sự hài lòng
của sinh viên và tạo cơ hội cho các đơn vị này duy trì khả năng cạnh tranh trong môi
trường giáo dục hiện tại.
2.2 Các mô hình nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng
Chỉ số hài lòng của khách hàng (Customer Satisfaction Index – CSI) được ứng
dụng nhằm đo lường sự hài lòng của khách hàng đối với các ngành, các doanh nghiệp ở
nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Năm 1989, chỉ số đo mức độ hài lòng đầu tiên
được ra đời tại Thụy Điển (Swedish Customer Satisfaction Barometer - SCSB) nhằm
thiết lập chỉ số hài lòng của khách hàng đối với việc mua và tiêu dùng sản phẩm - dịch
vụ nội địa. Trong những năm sau đó, chỉ số này được phát triển và ứng dụng rộng rãi tại
35
các nước phát triển như Mỹ - ACSI, Na Uy – NCSI, Đan Mạch - DCSI và các quốc gia
EU – ECSI (1998). Chỉ số này có thể thực hiện trên phương diện quốc gia hoặc ở góc
độ nội bộ ngành và so sánh giữa các thời điểm khác nhau, từ đó các doanh nghiệp có thể
biết được vị thế, sự đánh giá của khách hàng đối với doanh nghiệp để hoạch định các
mục tiêu và chiến lược kinh doanh.
2.2.1 Mô hình ACSI của Fornell và cộng sự (1996)
Fornell và cộng sự (1996) đã phát triển mô hình chỉ số hài lòng của khách hàng
Mỹ (ACSI), một loại thước đo mới về hiệu suất dựa trên thị trường cho các công ty,
ngành công nghiệp, ngành kinh tế và nền kinh tế quốc gia. Sự hài lòng khách hàng được
định nghĩa là một sự đánh giá toàn diện về sự sử dụng một dịch vụ hoặc hoạt động sau
bán của doanh nghiệp. Trong mô hình chỉ số hài lòng của Mỹ (ACSI), giá trị cảm nhận
tác động bởi chất lượng cảm nhận và sự mong đợi của khách hàng. Khi đó, sự mong đợi
của khách hàng có tác động trực tiếp đến chất lượng cảm nhận. Trên thực tế, khi mong
đợi càng cao, có thể tiêu chuẩn về chất lượng cảm nhận của khách hàng đối với sản
phẩm càng cao hoặc ngược lại. Do vậy, yêu cầu về chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung
cấp cho khách hàng cần phải đảm bảo và được thoả mãn trên cơ sở sự hài lòng của họ.
Sự hài lòng của khách hàng được tạo thành trên sơ sở chất lượng cảm nhận, sự mong
đợi và giá trị cảm nhận. Nếu chất lượng và giá trị cảm nhận cao hơn sự mong đợi, sẽ tạo
nên lòng trung thành đối với khách hàng. Trường hợp ngược lại, đó là sự phàn nàn hay
sự than phiền về sản phẩm mà họ tiêu dùng.
2.2.2 Mô hình chỉ số hài lòng của Châu Âu (ECSI)
Được phát triển từ mô hình chỉ số hài lòng của khách hàng Mỹ (ACSI), mô hình
chỉ số hài lòng châu Âu (ECSI) có một số khác biệt nhất định. So với mô hình ACSI,
trong mô hình ECSI xuất hiện thêm nhân tố hình ảnh của sản phẩm, thương hiệu tác
động trực tiếp đến sự mong đợi của khách hàng. Hình ảnh là một nhân tố tùy biến liên
quan đến tên tuổi, thương hiệu, loại hình tổ chức mà khách hàng nắm được. Khi đó, sự
hài lòng của khách hàng là sự tác động tổng hòa của 4 nhân tố hình ảnh, sự mong đợi,
giá trị cảm nhận, chất lượng cảm nhận về thủ tục hành chính được cung cấp. Thông
thường, mô hình này ứng dụng để đo lường sự hài lòng của khách hàng đối với từng sản
phẩm, lĩnh vực nhất định.
2.2.3 Mô hình của Zeithaml và Bitner (2000)
Zeithaml và Bitner (2000) cho rằng, sự hài lòng của khách hàng là sự đánh giá
của khách hàng thông qua một sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng được mong muốn và yêu
cầu của họ. Nghiên cứu của Zeithaml và Bitner (2000) về mối quan hệ giữa chất lượng
36
dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng cũng cho thấy, mối quan hệ tổng quát về sự hài
lòng bao gồm chất lượng dịch vụ, chất lượng sản phẩm và giá cả. Ngoài ra, sự hài lòng
còn bị tác động bởi yếu tố tình huống và yếu tố cá nhân.
Có thể nhận thấy, đến thời điểm hiện tại có rất nhiều mô hình đã được phát triển
để đo lường chất lượng dịch vụ và sự hài lòng, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo đại học.
Mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm riêng, được xây dựng phù hợp với bối cảnh
giáo dục đại học tại mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, giáo dục đang trong giai đoạn phát
triển với nhiều đặc điểm khác biệt. Ngành giáo dục đại học Việt Nam chưa cạnh tranh
và các trường đại học Việt Nam chưa phải là công ty dịch vụ thực sự (Nguyễn Thị Hoàng
Yến, 2013). Do vậy, cần phải có công cụ riêng để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo
đại học. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng kết hợp 3 mô hình để đo lường chất
lượng dịch vụ đào tạo tại Việt Nam: (1) mô hình HedPERF của Firdaus (2005); mô hình
của Gamage và cộng sự (2008) và (3) mô hình của Jain và cộng sự (2013).
2.3 Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu
2.3.1 Mô hình nghiên cứu
Như phần tổng quan đã phân tích, có rất nhiều cách tiếp cận, khái niệm về “chất
lượng dịch vụ đào tạo” và “sự hài lòng của sinh viên”. Cách tiếp cận của Parasuraman
và các cộng sự (1988) hay Cronin và Taylor (1992) là cách tiếp cận được thừa nhận và
được các nghiên cứu vận dụng khá phổ biến để đo lường chất lượng dịch vụ trong đa số
ngành công nghiệp nhưng theo Firdaus (2005), khi áp dụng, từ khung đo lường cơ bản,
chúng ta thường phải yêu cầu sửa đổi thang đo để phù hợp với tình hình cụ thể và thường
có những yếu tố bổ sung. Firdaus (2005) đã đề xuất mô hình HEdPERF để đo lường
chất lượng trong giáo dục đại học và một số nghiên cứu sau đó đã chỉ ra mô hình
HEdPERF là một công cụ hiệu quả đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo đại học
(Brochado, 2009; Sultan và Wong, 2010). Tuy nhiên, để có được cái nhìn tổng quát hơn
trong việc sử dụng thang đo HEdPERF nhằm đo lường chất lượng dịch vụ nhận thức từ
quan điểm của sinh viên đại học trên toàn thế giới, Silva và cộng sự (2017) đã rà soát
toàn bộ các nghiên cứu sử dụng thang đo này và nhận thấy HEdPERF không thực sự
được phổ biến rộng rãi, vì chỉ có mười một bài báo được xuất bản từ năm 2005 đến
2016. Do vậy, nghiên cứu chất lượng dịch vụ trong bối cảnh đào tạo đại học cần được
tiếp tục quan tâm nhiều hơn.
Trong bối cảnh môi trường đào tạo đại học Việt Nam, cùng với tổng quan về các
mô hình đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên, trong nghiên
cứu này tác giả sử dụng kết hợp 3 mô hình để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo tại
37
Việt Nam: (1) mô hình HedPERF của Firdaus (2005); mô hình của Gamage và cộng sự
(2008) và (3) mô hình của Jain và cộng sự (2013). Các mô hình nghiên cứu này đều
được thực hiện trong lĩnh vực đào tạo đại học và tại các quốc gia đang phát triển ở châu
Á, có bối cảnh kinh tế - xã hội tương tự Việt Nam như Malaysia (Firdaus, 2005), Thái
Lan (Gamage và cộng sự, 2008), Ấn Độ (Jain và cộng sự, 2013). Trong các nghiên cứu
này, các biến số phổ biến để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo có ảnh hưởng đến sự
hài lòng của sinh viên là chất lượng giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo, cơ sở
vật chất, chất lượng đội ngũ nhân viên hành chính, các hoạt động ngoại khóa và chất
lượng các dịch vụ hỗ trợ (Joseph và Joseph, 1997; LeBanc và Nguyen, 1997; Abdullah,
2006; Gamage và cộng sự, 2008; Jain và cộng sự, 2013).
Trước hết, chất lượng giảng viên là yếu tố được đề cập đến trong rất nhiều nghiên
cứu về chất lượng dịch vụ đào tạo và trong nghiên cứu của Firdaus (2005); Gamage và
cộng sự (2008), yếu tố này thuộc khía cạnh học thuật. Trong nghiên cứu của mình, tác
giả đề xuất chất lượng giảng viên là yếu tố đầu tiên tác động đến sự hài lòng của sinh
viên. Tiếp đó, chất lượng chương trình đào tạo được nhắc đến trong cả 3 nghiên cứu
trên, trong đó Gamage và cộng sự (2008) gộp chung yếu tố này vào khía cạnh học thuật
còn Firdaus (2005) và Jain và cộng sự (2013) tách thành một yếu tố độc lập. Cơ sở vật
chất cũng là yếu tố được nhắc đến trong rất nhiều nghiên cứu, trong đó Gamage và cộng
sự (2008) đề xuất yếu tố này là tổng hợp của cơ sở vật chất, thư viện, thiết bị máy tính;
Firdaus (2005) gộp trong thành phần danh tiếng và Jain và cộng sự (2013) tách thành cơ
sở vật chất học tập và cơ sở vật chất hỗ trợ học tập. Trong nghiên cứu này, tác giả đề
xuất yếu tố cơ sở vật chất bao gồm các trang thiết bị cho học tập như phòng học, thư
viện, phòng máy tính… Đối với khía cạnh phi học thuật, nhiều yếu tố được nhắc đến
như đội ngũ nhân viên hành chính (Firdaus, 2005), hỗ trợ tài chính và học phí, các dịch
vụ tư vấn và hỗ trợ việc làm (Gamage và cộng sự, 2008) hay các quy trình phi học thuật
(Jain và cộng sự, 2013). Đây cũng là một khía cạnh được tác giả chú trọng trong nghiên
cứu này. Thêm vào đó, danh tiếng trường đại học được quan tâm đặc biệt trong nghiên
cứu của Firdaus (2005) và Gamage và cộng sự (2008) thể hiện sự đánh giá của xã hội
đối với trường đại học và cũng đóng góp vào bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ
đào tạo của sinh viên.
Bên cạnh đó, mặc dù không phải là phổ biến nhưng chi phí đào tạo cũng được
đề cập đến trong một số nghiên cứu như Josehp và Joseph (1997), Chen và cộng sự
(2007). Nhìn từ quan điểm kinh doanh, nếu coi giáo dục đào tạo là thị trường thì tương
quan giữa giá cả và chất lượng của sản phẩm, dịch vụ nhận được sự quan tâm rất nhiều
từ phía người tiêu dùng. Quan điểm giá cao – chất lượng cao đã tồn tại từ rất lâu, tuy
38
nhiên, bối cảnh giáo dục đại học, mối tương quan này chưa chắc đã thuận chiều như
vậy. Tại các trường đại học tư thục, chi phí đào tạo cao hơn rất nhiều so với các trường
đại học công lập nhưng chi phí đó chủ yếu để đầu tư vào cơ sở vật chất, môi trường học
tập chứ không phải để nâng cao chất lượng giảng viên. Do vậy, chất lượng dịch vụ đào
tạo chung của các trường đại học tư thục vẫn được xã hội đánh giá không bằng với các
trường đại học công lập. Từ góc độ sinh viên, sinh viên mong muốn nhận được chất
lượng dịch vụ đào tạo tốt với một mức học phí phù hợp. Do vậy, trong nghiên cứu này,
tác giả đề xuất giả thuyết về mối quan hệ giữa sự phù hợp về chi phí với sự hài lòng của
sinh viên.
Một khía cạnh nữa cũng nhận được sự lưu tâm của sinh viên khi đánh giá về chất
lượng dịch vụ đào tạo là sự công bằng. Yếu tố này cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề
xuất như Kwan và Ng (1999), Peng và Samah (2006) nhưng thường được đặt tên là đánh
giá khóa học. Usami và Jamal (2013) nhận thấy một yếu tố đặc biệt ảnh hưởng đến sự
hài lòng trong công việc của nhân viên được gọi là công bằng tổ chức, có liên quan đến
việc đối xử công bằng với nhân viên. Colquitt và cộng sự (2001) tổng hợp 183 nghiên
cứu có liên quan đến chủ đề công bằng và phân loại ra 3 thành phần chính: Công bằng
phân phối (Distributive justice), Công bằng thủ tục (Procedural justice) và Công bằng
tương tác (Interactional justice) trong đó Công bằng thủ tục là khái niệm đề cập đến sự
nhận thức về công bằng đối với các chính sách, tiêu chuẩn (Voorhees and Brady, 2005).
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi cá nhân cảm thấy tin tưởng vào công bằng, họ sẽ
cảm thấy hài lòng hơn với các kết quả nhận được, cho dù kết quả đó có một số bất lợi
cho họ (Lind and Tyler, 1988). Đối với sinh viên, sự hài lòng của họ được dựa trên cảm
nhận về cách đối xử công bằng của giáo viên và các bộ phận có liên quan trong quá trình
truyền đạt thông tin, sự lắng nghe của giảng viên/nhân viên đối với các yêu cầu của sinh
viên và sự nhất quán trong đánh giá chung. Do vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét tác động
của công bằng đối với sự hài lòng của sinh viên.
Sự hài lòng của sinh viên là một thước đo tổng hợp dựa trên sự hài lòng về chất
lượng giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, danh tiếng trường đại
học… Tuy nhiên, đối với sinh viên, một trong những khía cạnh được quan tâm nhất là
kết quả học tập có được đánh giá công bằng và chính xác hay không. Thực tế, có thể
nhận thấy đây là một trong những khía cạnh quan trọng để đo lường sự hài lòng của sinh
viên. Nếu sự hài lòng được xem là sự cảm nhận hay nhận thức của sinh viên về những
giá trị do dịch vụ giáo dục của nhà trường cung cấp thì cảm nhận về kết quả học tập
được đánh giá như thế nào là yếu tố trực tiếp tạo nên sự hài lòng của sinh viên. Ở một
khía cạnh nhất định, sinh viên cho rằng điểm số thể hiện sự ghi nhận cũng như sự đánh
39
giá công bằng của nhà trường đối với quá trình học tập, rèn luyện và từ đó sẽ tăng sự
hài lòng chung với chất lượng dịch vụ đào tạo của nhà trường. Kết quả nghiên cứu định
tính cũng chỉ ra rằng, sinh viên rất coi trọng sự đánh giá công bằng của giảng viên thông
qua điểm số. Do vậy, trong nghiên cứu này, tác giả tách riêng biến sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập ra khỏi biến sự hài lòng của sinh viên và đưa giả thuyết biến này là
biến trung gian giữa chất lượng giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo và tính công
bằng với sự hài lòng của sinh viên.
Như vậy, việc sử dụng tổng hợp các mô hình nghiên cứu có thể giúp bao quát
toàn bộ các khía cạnh đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo có tác động đến sự hài lòng
của sinh viên Việt Nam. Dưới đây là mô hình đề xuất của tác giả.
Chất lượng giảng viên
Sự hài lòng về
đánh giá kết
quả học tập
Chất lượng chương trình
đào tạo
Công bằng
Chất lượng dịch vụ hỗ trợ
Sự hài lòng của sinh
viên
Cơ sở vật chất
Các hoạt động ngoại khóa
Danh tiếng của trường
Sự phù hợp về chi phí đào
tạo
Chất lượng nhân viên hành
chính
40
Hình 2.3: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Trên cơ sở các yếu tố được kế thừa từ các nghiên cứu trước đó, tác giả diễn giải
các biến cho phù hợp với đối tượng nghiên cứu và đảm bảo tính khái quát cho từng biến
trong phạm vi nghiên cứu.
41
Bảng 2.1: Định nghĩa các biến
Biến Diễn giải Nguồn
Chất lượng Thể hiện thông qua kiến thức, trình độ, kỹ năng, Firdaus (2005)
giảng viên
phương pháp, tương tác giữa giảng viên và sinh
viên.
Chất lượng
chương trình Bao gồm sự phù hợp và tính cập nhật của nội
dung chương trình đào tạo và tính thực tiễn của Gamage và cộng
sự (2008)
đào tạo chương trình đào tạo.
Firdaus (2005)
Thái độ phục vụ và kỹ năng làm việc của nhân
viên hành chính.
Chất lượng
nhân viên
hành chính
Các dịch vụ Bao gồm sự đa dạng và tính hiệu quả của hỗ trợ Gamage và cộng
hỗ trợ sự (2008)
tài chính, cố vấn học tập, dịch vụ việc làm và tư
vấn nghề nghiệp.
Công bằng
Sự phù hợp, không thiên vị, cung cấp thông tin
chính xác khi ra quyết định. Usmani và Jamal
(2013)
Cơ sở vật chất Sự đầy đủ của phòng học và trang thiết bị; sự
phong phú và dễ truy cập các tài liệu trong thư Jain và cộng sự
(2013)
viện, phòng máy tính.
Hoạt động
ngoại khóa Sự đa dạng và tính hiệu quả của các câu lạc bộ và
hoạt động sự kiện xã hội. Gamage và cộng
sự (2008)
Hình ảnh, uy tín của nhà trường với xã hội.
Gamage và cộng
sự (2008) Danh tiếng
trường Đại
học
Sự phù hợp về
chi phí đào tạo Tương quan giữa học phí và chất lượng dịch vụ
của trường. LeBlanc và
Nguyen (1999)
Sự hài lòng về
đánh giá kết Sự hài lòng về việc thầy cô đánh giá kết quả học
tập chính xác và công bằng. Tác giả tự phát
triển
quả học tập
Sự hài lòng
của sinh viên Sự hài lòng về việc lựa chọn trường đại học và
những trải nghiệm ở trường. Ali và cộng sự
(2016)
42
2.3.2 Các giả thuyết nghiên cứu
Sự hài lòng của sinh viên: Hunt (1977) cho rằng sự hài lòng là sự đánh giá của
người tiêu dùng về trải nghiệm dịch vụ tổng thể (quá trình và kết quả). Đó là một trạng
thái cảm xúc mà người tiêu dùng cần, mong muốn và mong đợi trong quá trình trải
nghiệm dịch vụ đã được đáp ứng hoặc vượt quá. Trên cơ sở đó, sự hài lòng của sinh
viên là mức độ thỏa mãn với các dịch vụ nhà trường cung cấp và chất lượng đào tạo của
trường (Ali và cộng sự, 2016).
Ảnh hưởng của sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
Kết quả học tập là một trong những thước đo quan trọng đánh giá quá trình học
tập của sinh viên tại các trường đại học. Kết quả học tập được đánh giá công bằng và
chính xác cho thấy những nỗ lực của sinh viên được ghi nhận và sinh viên sẽ cảm thấy
thỏa mãn, hào hứng cho quá trình học tập tiếp theo. Hiện nay, việc đánh giá kết quả học
tập của sinh viên thường được chia làm 2 phần: kết quả các bài thi, bài kiểm tra và kết
quả rèn luyện trong đó các bài thi thường do giảng viên chuyên môn đánh giá còn kết
quả rèn luyện được tổng hợp từ nhiều khía cạnh khác nhau như ý thức học tập, nghiên
cứu khoa học, thực hiện nội quy, quy chế học tập; ý thức chấp hành nội quy, quy chế
trong nhà trường; ý thức tham gia các hoạt động chính trị xã hội, văn hóa, văn nghệ, thể
thao; đánh giá về phẩm chất công dân và quan hệ cộng đồng… Các kết quả nghiên cứu
định tính cho thấy, sinh viên rất coi trọng kết quả học tập và khi họ hài lòng với việc
đánh giá kết quả học tập, họ sẽ hài lòng về chất lượng dịch vụ đào tạo mà nhà trường
cung cấp. Đây chính là một điểm rất khác biệt của hệ thống giáo dục đại học “tinh hoa”
theo văn hóa phương Đông tại Việt Nam, coi trọng điểm số, lấy điểm số là thước đo
chính để đánh giá năng lực một sinh viên. Do vậy, trong nghiên cứu này, tác giả đề xuất
sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập sẽ có tác động tích cực đến sự hài lòng của sinh
viên. Giả thuyết nghiên cứu được trình bày như sau:
H1: Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập có mối quan hệ thuận chiều với sự
hài lòng của sinh viên.
Ảnh hưởng của chất lượng giảng viên
Trong nghiên cứu của Firdaus (2005) có yếu tố khía cạnh học thuật (academic
aspects), thể hiện trách nhiệm của những người làm công tác học thuật tại các trường
đại học với những đặc điểm như có thái độ tích cực, kỹ năng giao tiếp tốt, cho phép
tham khảo ý kiến đầy đủ và có thể cung cấp phản hồi thường xuyên cho sinh viên. Silva
(2017) cho rằng khía cạnh học thuật đề cập chính đến đội ngũ giảng viên chịu trách
nhiệm về công tác giảng dạy. Giảng viên là người trực tiếp cung cấp dịch vụ đào tạo cho
43
sinh viên, do vậy năng lực, trình độ của giảng viên là một trong những yếu tố tạo nên
chất lượng dịch vụ mà giảng viên đó cung cấp. John Holt (1964) cho rằng, giảng viên
có năng lực, trình độ sẽ tạo ra một môi trường học tập hiệu quả, giúp sinh viên tìm hiểu
và khai thác tốt những kiến thức mà giảng viên cung cấp. Thông qua các phương pháp
giảng dạy hiện đại, giảng viên sẽ cung cấp cơ hội và sự trải nghiệm cho sinh viên, tạo
các hoạt động tương tác trong lớp học, cho phép sinh viên khám phá và thử nghiệm khả
năng học tập của mình (Stipek, 1996). Cheng và Tam (1997) đã chứng minh rằng
phương pháp giảng dạy của giảng viên thường được xem là các chỉ số đo lường chất
lượng giáo dục đại học và là một trong những tiền đề tạo nên sự hài lòng của sinh viên
(Harvey, 1995; Hill, 1995). Khi giảng viên có chuyên môn tốt, có phương pháp truyền
đạt hiệu quả sẽ giúp sinh viên thu nhận được đầy đủ kiến thức nên khi sinh viên thi vào
cuối kỳ, họ có thể hài lòng với kết quả đạt được của mình. Ngoài ra, giảng viên là người
thường xuyên và trực tiếp tương tác với sinh viên, chia sẻ, thấu hiểu và động viên sinh
viên trong nhiều trường hợp nên sinh viên thường cho rằng hình ảnh của giảng viên là
hình ảnh chất lượng dịch vụ mà trường đại học cung cấp. Sinh viên đánh giá cao về chất
lượng giảng viên thì sẽ hài lòng về đánh giá kết quả học tập và dẫn đến sự hài lòng nói
chung. Quá trình nghiên cứu định tính cũng cho thấy vai trò quan trọng của đội ngũ
giảng viên trong việc đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo. Do vậy, giả thuyết nghiên
cứu được đề xuất như sau:
H2a: Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập của sinh viên.
H2b: Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh
viên.
Ảnh hưởng của chất lượng nhân viên hành chính
Theo định nghĩa của Firdaus (2006), khía cạnh phi học thuật (non-academic
aspects) bao gồm các yếu tố đảm bảo cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ học tập của mình
và nó liên quan đến nhiệm vụ và trách nhiệm được thực hiện bởi các nhân viên phi học
thuật. Nhân viên hành chính trong các trường đại học thường bao gồm nhân viên các
phòng ban như phòng hành chính, phòng đào tạo, phòng quản lý sinh viên, phòng tài
vụ… hay đội ngũ văn thư, trợ lý khoa. Các nhân viên này không trực tiếp tham gia quá
trình giảng dạy nhưng là bộ phận đảm nhiệm các công việc liên quan đến thủ tục hành
chính, hồ sơ, giấy tờ… Theo Masoud Karami & Omid Olfati (2011), sự hỗ trợ của nhân
viên hành chính nhà trường là một trong những yếu tố quan trọng để sinh viên đánh giá
chất lượng giáo dục, bởi sự hỗ trợ này tạo điều kiện thuận tiện cho họ trong quá trình
học tập. Sự nhiệt tình và hỗ trợ bất cứ lúc nào của đội ngũ nhân viên hành chính tạo nên
44
sự tin cậy trong học tập và tin tưởng vào chương trình đào tạo, khuyến khích, động viên
sinh viên học tập khi cần thiết (Mood, 1995). Nghiên cứu định tính cũng chỉ ra tầm quan
trọng của đội ngũ nhân viên phi học thuật tại các phòng, ban và đội ngũ trợ lý, văn thư
khoa trong việc hỗ trợ quá trình học tập của sinh viên. Khi sinh viên hài lòng với chất
lượng đội ngũ nhân viên hành chính sẽ dẫn đến sự hài lòng chung. Do vậy, giả thuyết
đặt ra:
H3: Chất lượng nhân viên hành chính có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng
của sinh viên.
Ảnh hưởng của chất lượng chương trình đào tạo
Silva (2017) cho rằng chất lượng chương trình đào tạo nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc cung cấp một loạt chương trình có uy tín và có kế hoạch học tập và cấu trúc
linh hoạt. Gamage và cộng sự (2008) cho rằng sinh viên nhận thức của họ về chương
trình đào tạo thể hiện ở nội dung môn học của chương trình giảng dạy để chuẩn bị cho
nơi làm việc và khả năng áp dụng kiến thức vào thực tiễn cũng như tính hiệu quả trong
việc tìm kiếm việc làm sau tốt nghiệp. Chất lượng chương trình đào tạo đã được xem
xét trong nhiều nghiên cứu về chất lượng dịch vụ đào tạo và là một trong những yếu tố
quan trọng để đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo (Sohail và Shaikh, 2004). Chương
trình học tập bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời
gian giữa các môn khoa học cơ bản, cơ sở và chuyên ngành, giữa lý thuyết và thực hành,
thực tập nhằm giúp học viên nắm vững các kiến thức giáo dục đại cương và các kiến
thức, kỹ năng cơ sở của ngành và liên ngành. Một chương trình đào tạo có chất lượng
tốt sẽ đáp ứng được các mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể và chuẩn đầu ra của chương
trình đào tạo ở một trình độ cụ thể, giúp sinh viên thu nhận được các kiến thức và kỹ
năng quan trọng cho công việc cụ thể trong tương lai. Chương trình đào tạo tốt cũng sẽ
giúp kết nối giữa các môn học khiến sinh viên có thể dễ dàng thu nạp kiến thức, bổ sung
và hỗ trợ giữa các môn học để đạt được kết quả cao trong các kỳ thi. Kết quả nghiên cứu
của Kwek và cộng sự (2010) cho thấy rằng “chương trình đào tạo” là tiền đề quan trọng
nhất ảnh hưởng đến cảm nhận chất lượng đào tạo của sinh viên của đại học tư thục tại
Malaysia. Do vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:
H4a: Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự hài
lòng về đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
H4b: Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự hài
lòng của sinh viên.
45
Ảnh hưởng của các dịch vụ hỗ trợ
Các dịch vụ hỗ trợ là khía cạnh phi học thuật trong nghiên cứu của Gamage và
cộng sự (2008) được xem là yếu tố quan trọng tác động đến sự hài lòng chung của sinh
viên trong môi trường đại học. Nghiên cứu của Gamage và cộng sự (2008) đưa ra 4 khía
cạnh phi học thuật bao gồm các yếu tố liên quan đến vị trí việc làm, hỗ trợ tài chính và
học phí, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ, và thủ tục khiếu nại. Trong bối cảnh đại học tại Việt
Nam, các thủ tục về khiếu nại chưa được xem là các hoạt động chính thống (mặc dù sinh
viên được phép khiếu nại về điểm thi). Các kênh hỗ trợ tài chính là một công cụ giúp
cho các bạn sinh viên nghèo có cơ hội được học tập với những khoản vay lãi suất thấp
trong thời gian dài. Trong bối cảnh học tập theo học chế tín chỉ, cố vấn học tập có vai
trò rất quan trọng để định hướng quá trình học tập cho sinh viên, tư vấn, giải đáp thắc
mắc và là cầu nối giữa sinh viên với các bộ phận trong nhà trường. Ngoài ra, các dịch
vụ việc làm và tư vấn nghề nghiệp dành cho sinh viên cuối khóa cũng là một yếu tố giúp
sinh viên đánh giá cao hơn chất lượng đào tạo của trường từ đó dẫn tới sự hài lòng của
sinh viên. Nghiên cứu định tính cũng chỉ ra tầm quan trọng của các hoạt động này nhưng
mức độ quan tâm còn chưa lớn, đồng thời các chuyên gia cũng đề nghị gộp chung các
yếu tố thành một biến là các dịch vụ hỗ trợ bao gồm ba khía cạnh: hỗ trợ tài chính, cố
vấn học tập, dịch vụ việc làm và tư vấn nghề nghiệp. Do vậy, giả thuyết nghiên cứu
được đặt ra:
H5: Các dịch vụ hỗ trợ có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh viên.
Ảnh hưởng của cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất và thiết bị là tất cả các phương tiện vật chất được huy động vào
việc giảng dạy, học tập và các hoạt động mang tính giáo dục khác để đạt được mục đích
giáo dục. Môi trường vật lý có thể ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng và tạo ra
một hình ảnh đặc biệt quan trọng đối với các ngành dịch vụ như khách sạn, nhà hàng,
ngân hàng, cửa hàng bán lẻ, bệnh viện, cũng như trường học và cao đẳng (Bitner, 1992;
Hutton và Richardson, 1995; Tanner, 2000). Jain và cộng sự (2013) đã tổng kết các
nghiên cứu trước và đề xuất biến cơ sở vật chất bao gồm sự đầy đủ của phòng học và
trang thiết bị; sự phong phú và dễ truy cập các tài liệu trong thư viện, phòng máy tính.
Theo Schneider (2002), các yếu tố môi trường (ánh sáng, không khí, khả năng thông
gió, nhiệt độ) và cơ sở vật chất (độ tuổi và chất lượng công trình, kích thước trường học,
kích thước lớp học, phương tiện giảng dạy) có ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Các
yếu tố này tạo ra một môi trường học tập yên tĩnh, thoải mái và an toàn, từ đó ảnh hưởng
cụ thể đến chất lượng dạy và học của giảng viên, sinh viên. Một chương trình đào tạo
tốt, giáo viên giỏi nhưng thiếu các trang thiết bị phục vụ học tập, thiếu các phòng thí
46
nghiệm để thực hành thì những kiến thức mà sinh viên tiếp thu được chỉ nằm trong lý
thuyết, không mang tính thực tế hoặc nhà trường không có đủ phòng ốc để sinh viên học
tập, nghiên cứu thì cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc học của sinh viên, điều này tác
động tiêu cực đến cảm nhận của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ đào tạo của nhà
trường. Như vậy, khi sinh viên đánh giá cao về hệ thống cơ sở vật chất của nhà trường,
mức độ hài lòng của họ sẽ tăng lên. Do vậy, giả thuyết nghiên cứu là:
H6: Cơ sở vật chất có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh viên.
Ảnh hưởng của các hoạt động ngoại khóa
Môi trường giáo dục là tập hợp không gian với các hoạt động xã hội của cá nhân,
các phương tiện và giao lưu được phối hợp với nhau tạo điều kiện thuận lợi để giáo dục
đạt kết quả cao nhất. Gamage và cộng sự (2008) cho rằng các trường đại học có thể cung
cấp và hỗ trợ một loạt các tổ chức sinh viên để đáp ứng nhu cầu và sở thích đa dạng của
sinh viên như các câu lạc bộ, tổ, đội, nhóm. Việc khuyến khích và hỗ trợ sinh viên tham
gia vào các tổ chức ngay từ những ngày đầu tiên ở trường giúp họ có sự gắn kết với bạn
bè và nhà trường, tăng cường các hoạt động giao lưu đồng thời giúp sinh viên có thêm
kỹ năng sống. Sự đa dạng của các hoạt động ngoại khóa như các câu lạc bộ, các sự kiện
xã hội được tổ chức tại trường giúp phát hiện tài năng sinh viên đồng thời giúp sinh viên
có một sân chơi lành mạnh sau những giờ học căng thẳng. Khi sinh viên được cung cấp
đầy đủ các hoạt động ngoại khóa, họ sẽ đánh giá cao chất lượng dịch vụ đào tạo mà nhà
trường cung cấp và dẫn tới sự hài lòng. Do vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:
H7: Các hoạt động ngoại khóa có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của
sinh viên.
Ảnh hưởng của danh tiếng của trường
Đối với môi trường đại học, danh tiếng của trường ngày càng trở nên quan trọng
và các trường đại học đã phát triển những hình ảnh riêng biệt để duy trì khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Nghiên cứu của Firdaus (2005) cũng đề cập đến danh tiếng trường
đại học như là một phần của khía cạnh học thuật và cho rằng đây là một thành tố quan
trọng. Đó là khả năng đưa ra các chương trình đào tạo có phạm vi rộng và uy tín với cấu
trúc linh hoạt; các trình độ mang tính địa phương hóa và quốc tế hóa và có đội ngũ giảng
viên có trình độ và kinh nghiệm cao. Silva (2017) chỉ ra rằng danh tiếng trường đại học
đề cập đến hình ảnh chuyên nghiệp của các trường đại học. Gamage và cộng sự (2008)
cũng mô tả danh tiếng của trường đại học thông qua hình ảnh, uy tín của nhà trường
được xã hội (gia đình, bạn bè, truyền thông) đề cập đến. Tầm quan trọng của danh tiếng
của trường đại học đã được xác định bởi Nguyen và LeBlanc (2001), Kazoleas và cộng
47
sự (2001), và Hoyt và Brown (2003). Firdaus (2005) cũng cho rằng danh tiếng của nhà
trường ảnh hưởng rất lớn đến sự nhận thức về chất lượng dịch vụ của sinh viên. Yếu tố
này thể hiện hình ảnh chuyên nghiệp của nhà trường về cơ sở vật chất, về giảng viên và
mức độ ảnh hưởng của nó đến khả năng tìm việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Khi sinh viên đánh giá cao về danh tiếng của nhà trường, họ cũng đánh giá cao về chất
lượng dịch vụ đào tạo của nhà trường và dẫn tới sự hài lòng. Do vậy, giả thuyết được đề
xuất:
H8: Danh tiếng của trường có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh
viên
Ảnh hưởng của sự phù hợp về chi phí đào tạo
Học phí là một trong những yếu tố nhận được sự quan tâm của cả phụ huynh và
sinh viên. Đối với các trường đại học công lập và tư thục, có một sự khác biệt khá lớn
về mức học phí dẫn tới mức độ hài lòng của sinh viên với kết quả học tập và chất lượng
dịch vụ đào tạo cũng khác nhau. Thông thường, trên thị trường hàng hóa và dịch vụ,
chất lượng càng cao thì giá càng cao và tất nhiên sự hài lòng của người sử dụng sản
phẩm và dịch vụ sẽ cao, tuy nhiên môi trường giáo dục có những điểm khác biệt khiến
mối quan hệ này đôi khi không cùng chiều. Khách hàng trong lĩnh vực giáo dục là tất cả
người dân có nhu cầu được học tập có mức thu nhập của họ cũng khác nhau nhưng vẫn
muốn được hưởng chất lượng dịch vụ cao. LeBlanc và Nguyen (1999) đưa ra một yếu
tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên là Giá trị chức năng: giá/chất lượng, bao gồm
các khía cạnh liên quan đến chức năng thực dụng của giáo dục kinh doanh dưới dạng
những gì sinh viên tin rằng họ đang nhận được cho những gì họ phải trả; nó liên quan
đến lý thuyết con người kinh tế và mối quan hệ tồn tại giữa giá cả và chất lượng khi họ
xem xét giá trị. Trong nghiên cứn này, tác giả sử dụng khái niệm Sự phù hợp về chi phí
đào tạo, đề cập đến tương quan giữa học phí và chất lượng dịch vụ của trường. Do vậy,
nghiên cứu này đề xuất giả thuyết:
H9: Sự phù hợp về chi phí đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng
của sinh viên.
Ảnh hưởng của công bằng
Công bằng là khái niệm đề cập đến sự nhận thức về công bằng đối với các chính
sách, tiêu chuẩn (Voorhees và Brady, 2005). Leventhal (1980) lần đầu đề cập đến khái
niệm công bằng trong một nghiên cứu về chính sách công ty và xác định sáu tiêu chí
đánh giá gồm: (i) phù hợp: áp dụng thủ tục nhất quán giữa các cá nhân; (ii) không thiên
vị: bỏ qua lợi ích cá nhân của người ra quyết định; (iii) chính xác: đảm bảo thông tin
48
chính xác trong quá trình thu thập và sử dụng để đưa ra các quyết định; (iv) có thể khắc
phục: có cơ chế sửa chữa những quyết định sai lầm; (v) đại diện: đảm bảo ý kiến của tất
cả các bên bị ảnh hưởng bởi quyết định đã được ghi nhận và xem xét; (vi) đạo đức: đáp
ứng các giá trị đạo đức xã hội. Công bằng tập trung vào các quy trình được sử dụng để
xác định kết quả. Theo Thibaut and Walker (1975), nếu nhân viên được trao cơ hội tham
gia vào quá trình được sử dụng để đạt được kết quả thì họ có thể coi kết quả là công
bằng. Leventhal (1980) đã chứng minh rằng công bằng được thể hiện khi nhân viên cảm
thấy quy trình đánh giá có đạo đức, tính nhất quán, chính xác và sự không phân biệt đối
xử. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khi cá nhân cảm thấy tin tưởng vào công bằng, họ
sẽ cảm thấy hài lòng hơn với các kết quả nhận được, cho dù kết quả đó có một số bất lợi
cho họ (Lind and Tyler, 1988). Vận dụng vào lĩnh vực giáo dục đại học, sinh viên sẽ
cảm thấy công bằng với hoạt động của nhà trường khi họ nhận thấy sự phù hợp, không
thiên vị, cung cấp thông tin chính xác khi ra quyết định. Afzal (2010) cho rằng cách thức
và sự công bằng trong đánh giá và phân loại sinh viên là một phần không thể tách rời
của sự cải tiến chất lượng liên tục của nhà trường. Do vậy, nghiên cứu này đề xuất giả
thuyết:
H10a: Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng về đánh giá kết
quả học tập.
H10b: Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh viên.
Bảng 2.2: Các giả thuyết nghiên cứu
Nội dung Giả thuyết
H1
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập có mối quan hệ thuận chiều
với sự hài lòng của sinh viên
H2a
Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng
về đánh giá kết quả học tập
H2b Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng
của sinh viên
H3
Chất lượng nhân viên hành chính có mối quan hệ thuận chiều với sự
hài lòng của sinh viên
H4a
Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự
hài lòng về đánh giá kết quả học tập
49
Nội dung Giả thuyết
H4b
Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự
hài lòng của sinh viên
H5 Các dịch vụ hỗ trợ có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của
sinh viên
H6
Cơ sở vật chất có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh
viên
H7
Các hoạt động ngoại khóa có mối quan hệ thuận chiều với sự hài
lòng của sinh viên
H8 Danh tiếng của trường có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng
của sinh viên
H9
Sự phù hợp về chi phí đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự hài
lòng của sinh viên
H10a
Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng về đánh giá
kết quả học tập
H10b Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh viên
Nguồn: Tác giả tổng hợp
50
CHƯƠNG 3
BỐI CẢNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Bối cảnh nghiên cứu
3.1.1 Lịch sử giáo dục đại học Việt Nam
Trường đại học (tiếng Anh: University) là một cơ sở giáo dục bậc cao tiếp theo
bậc trung học dành cho những học sinh có khả năng và nguyện vọng học tập tiếp lên
trên. Trường đại học cung cấp cho sinh viên học vấn cao và cấp các bằng cấp khoa học
trong nhiều các lĩnh vực ngành nghề. Giáo dục và giáo dục đại học ở phương Đông xưa
thường nhắc tới các trường Nho giáo cho giới quý tộc Trung Hoa hoặc các trường thuộc
các đạo và giáo phái của Ấn độ. Theo quan điểm này, Quốc Tử Giám được coi là trường
Đại học đầu tiên của Việt Nam.
Hệ thống giáo dục đại học hiện đại của Việt Nam bắt đầu vào đầu thế kỷ 20 với
mô hình hiện đại đầu tiên được thành lập là Đại học Đông Dương, tiền thân của Đại học
Quốc Gia Hà Nội. Đại học Đông Dương ra đời chấm dứt thời kỳ của nền giáo dục theo
Nho giáo đã thống trị trên một nghìn năm ở Việt Nam, mở ra nền giáo dục đại học mới
được tổ chức theo mô hình trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực. Cách mạng tháng Tám
thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đề nghị mở cửa lại các trường đại học
hiện có và lễ khai giảng trường đại học Quốc Gia Việt Nam - Trường đại học đầu tiên
của nền giáo dục đại học cách mạng Việt Nam đã đánh dấu sự mở đầu của một kỷ
nguyên giáo dục đại học dân tộc, hiện đại của nước Việt Nam độc lập. Sau năm 1975,
một hệ thống giáo dục đại học đồng nhất được xây dựng trên cả nước. Cùng với sự phát
triển và hội nhập của nền kinh tế xã hội, các trường đại học Việt Nam trong thời gian
gần đây phát triển mạnh về số lượng, quy mô, phương thức hoạt động và đóng góp một
phần rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Giáo dục đại học Việt Nam áp dụng hai hình thức học chế là theo niên chế và
theo tín chỉ với 2 loại trường: trường công lập và trường tư thục. Học chế niên chế được
áp dụng chủ yếu ở miền Bắc trước 1975 và ở cả nước sau 1975 với các đặc điểm: (1)
Các lớp học được xếp theo khóa tuyển sinh, chương trình học được thiết kế chung cho
mọi sinh viên cùng một khóa; (2) Đơn vị học vụ được tính theo năm học, cuối mỗi năm
học những sinh viên nào đạt kết quả học tập theo quy định thì được lên lớp, sinh viên
không đạt thì bị ở lại lớp (lưu ban) học cùng sinh viên khóa sau, tức là phải học lại thêm
một năm học. Trong giai đoạn này, chỉ tồn tại duy nhất các trường đại học công lập do
nhà nước thành lập, phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh, phân bổ ngân sách và phân công công
51
việc sau khi học. Sau công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội (năm 1986), với sự xuất hiện
của các thành phần kinh tế mới, các loại hình đào tạo đa dạng, phong phú hơn nên học
chế học chế tín chỉ ra đời, được áp dụng thí điểm ở một số trường và sau năm 2010 được
áp dụng phổ biến trong các trường đại học. Học chế tín chỉ có đặc điểm ưu việt là tích
lũy dần kiến thức; kiến thức được mô đun hóa thành các học phần; có những loại học
phần bắt buộc phải học, học phần lựa chọn theo hướng dẫn của nhà trường và học phần
lựa chọn tùy ý… Trong giai đoạn này, Việt Nam chấp nhận mô hình kinh tế thị trường
“theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được công
nhận, là cơ sở để phát triển hệ thống giáo dục đại học tư thục. Mô hình trường đại học tư
thục và đại học bán công ra đời, dựa trên nền tảng sở hữu tập thể và có nhiều yếu tố phi lợi
nhuận. Sau khi có Luật Giáo dục (2005), hai loại hình trường đại học bán công và tư thục
bị xóa bỏ, chỉ còn loại hình duy nhất là trường đại học tư thục. Quy chế tổ chức và hoạt
động của trường đại học tư thục được ban hành, trong đó các khái niệm “góp vốn”, “vốn
điều lệ”, “thành viên sáng lập’’, “hội đồng quản trị” - những khái niệm gắn liền với doanh
nghiệp - lần đầu tiên được sử dụng cho lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Điều này thể hiện rất
rõ quan điểm xem trường tư thục là một doanh nghiệp vì lợi nhuận, toàn bộ tài sản của
trường thuộc sở hữu của các nhà đầu tư; thu nhập còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ và
trích lập quỹ được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỉ lệ vốn góp; cổ đông có
quyền chuyển nhượng và rút vốn.
Bảng 3.1: Số liệu chung về các trường đại học
2015-2016 2016-2017 2017-2018
TT
Số lượng Số lượng Số lượng Tỷ lệ
(%) Tỷ lệ
(%) Tỷ lệ
(%)
223 235 235 1 Tổng số trường
Công lập 163 73.1 170 72.3 170 72.3
Tư thục 60 26.9 65 27.7 65 27.7
Tuyển mới 2 470.044 418.991 437.156 (sinh viên)
Công lập 391.722 83.3 348.832 83.2 352.982 80.7
52
Tư thục 78.322 16.7 70.159 16.8 84.174 19.3
3 Quy mô sinh viên 1.753.174 1.767.879 1.707.025
Công lập 1.520.807 86.7 1.523.904 86.2 1.439.495 84.3
Tư thục 232.367 13.3 243.975 76.1 267.530 15.7
352.789 306.179 320.578 4 Tốt nghiệp
Công lập 307.760 87.2 268.947 87.8 281.965 87.9
Tư thục 45.029 12.8 37.232 12.2 38.613 12.1
69.591 72.792 74.991 5 Giảng viên cơ hữu
Công lập 55.401 79.6 57.634 79.2 59.232 78.9
Ghi chú: Số liệu không bao gồm các trường ĐH, học viện thuộc khối An ninh, Quốc phòng
Tư thục 14.190 20.3 15.158 20.8 15.759 21.1
Nguồn: Số liệu thống kê giáo dục đại học các năm - Bộ Giáo dục và Đào tạo
Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương Đảng về
đổi mới căn bản toàn diện giáo dục (2013-2018) của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có đánh
giá kết quả đổi mới giáo dục đại học và sau đại học. Theo đó, về quy mô, mạng lưới, cơ
cấu ngành nghề: đã xây dựng được mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học gồm 235 trường
đại học, học viện (không tính các trường thuộc khối quốc phòng - an ninh) trong đó bao
gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và tư thục, 5 trường có 100% vốn nước
ngoài). Như vậy, từ nay đến năm 2020, Việt Nam không thành lập, nâng cấp trường đại
học nào nữa thì vẫn vượt mục tiêu Quyết định 37 đề ra 12 trường đại học. Tính đến năm
học 2017-2018, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ riêng quy mô đào tạo sinh
viên đại học đã đạt trên 1,7 triệu sinh viên (cụ thể 1.707.025 sinh viên, trong đó
1.439.495 sinh viên công lập, 267.530 sinh viên tư thục), chưa kể quy mô đào tạo hệ
cao đẳng thuộc Tổng cục dạy nghề. Từ quy mô như trên chúng ta có thể khẳng định,
công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu tư
cho giáo dục được huy động ngày càng nhiều. Sự phân bố các cơ sở giáo dục đại học đã
53
dần rộng khắp trên phạm vi cả nước. Điều này là hết sức quan trọng trong việc đào tạo
nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của từng địa phương và cả nước.
3.1.2 So sánh mô hình trường đại học công lập và trường đại học tư thục
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) sự khác biệt giữa trường công
và trường tư là chủ thể quản lý và cơ chế quản lý khác nhau từ đó, dẫn đến cơ chế hình
thành đội ngũ quản lý khác nhau. Ở Việt Nam, quan niệm về trường công và trường tư
được thể hiện trong Luật Giáo dục Đại học năm 2012 trong đó cơ sở giáo dục đại học
công lập thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất; Cơ sở
giáo dục đại học tư thục thuộc sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất. Như vậy, với Việt
Nam, sự khác biệt giữa trường công và trường tư là chủ sở hữu; từ đó định hướng chính
sách của Việt Nam là phân biệt rõ trường tư vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận. Đây
là khác biệt khá lớn của nền giáo dục Việt Nam so với thế giới.
Trong quá trình tư vấn lựa chọn các trường đại học cho học sinh phổ thông, nhiều
trang web về tư vấn giáo dục đã đưa ra những so sánh về sự khác biệt giữa trường Đại
học công lập và Đại học tư thục. Có thể tóm tắt sự khác biệt đó ở một số điểm sau:
Về cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất trường đại học tư thục thường khang trang và hiện
đại hơn so với trường đại học công lập. Lý do do tự đầu tư nên trường tư thục hoàn toàn có
quyền quyết định trong việc thay mới, sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng bổ sung các tòa
nhà mới phục vụ học tập trong khi các trường đại học công lập phần lớn phụ thuộc vốn của
nhà nước nên việc xin cấp vốn phải thông qua nhiều bước và khá phức tạp.
Về học phí: Do tự chủ về kinh phí, không được nhà nước hỗ trợ nên học phí của các
trường đại học tư thục thường có xu hướng lớn hơn nhiều so với các trường công lập.
Về chương trình học: Để tăng sức cạnh tranh với các trường đại học công lập,
các trường đại học tư thục ngoài trang thiết bị hiện đại, còn nỗ lực để thay đổi chương
trình học theo hướng thực tế hơn. Nhiều trường tư thục còn tạo hệ đào tạo liên kết với
các trường đại học, cao đẳng nước ngoài, để giúp sinh viên có được tấm bằng quốc tế
ngay khi ra trường.
Về xét/thi tuyển: Thông thường, các trường đại học công lập sử dụng các kết
quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia làm cơ sở để xét tuyển trong khi các trường
đại học tư thục có thể xét tuyển dựa vào học bạ do vậy cơ hội vào các trường đại học tư
có thể dễ dàng hơn.
54
3.1.3 Quan điểm chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam qua các giai đoạn
3.1.3.1 Giai đoạn từ 1985 trở về trước: Chất lượng = Tuyển chọn khắt khe
Giáo dục đại học Việt Nam cho đến giữa thập niên 1980 vẫn cơ bản là giáo dục
tinh hoa. Vì vậy, trong giai đoạn này vấn đề chất lượng giáo dục đại học hầu như không
được đặt ra, khi nhân vật then chốt của quá trình đào tạo là sinh viên vốn đã được xem
là thuộc hàng ưu tú, được chọn lọc cẩn thận ngay từ đầu vào với tỷ lệ sàng lọc khắt khe.
Có thể nói, trong một thời gian dài, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã quan niệm
quản lý chất lượng giáo dục đồng nghĩa với việc kiểm soát đầu vào thông qua các kỳ thi
tuyển mang tính cạnh tranh cao độ. Trong thời gian này, đảm bảo chất lượng được thực
hiện bằng phương pháp kiểm soát chất lượng (quality control). Ngoài việc kiểm soát
đầu vào như đã nêu trên, chất lượng đầu ra cũng được kiểm soát thông qua hoạt động
thi cử, công nhận tốt nghiệp, và cấp phát văn bằng theo những quy định được áp đặt từ
trên xuống. Bên cạnh đó, việc kiểm soát chất lượng hoạt động được thực hiện thông qua
hệ thống thanh-kiểm tra nhằm giám sát những hoạt động cốt lõi. Tuy nhiên, tác động và
hiệu quả của hệ thống thanh-kiểm tra không cao, vì chỉ nhấn mạnh việc phát hiện và xử
phạt những hoạt động cố tình làm sai lệch những quy định và chuẩn mực sẵn có, mà
không đặt ra mục tiêu tìm hiểu để cải thiện liên tục và toàn diện nhằm đáp ứng ngày
càng cao những yêu cầu thay đổi của cuộc sống. Một hệ thống khép kín và có tính hướng
nội cao độ như đã nêu, cho dù có dựa trên những con người thực sự lỗi lạc, cũng không
thể đáp ứng được đầy đủ mọi yêu cầu của thực tế. Tuy nhiên, trong tình hình chính trị
xã hội ít biến động do đóng cửa của giai đoạn trước 1985, việc thay đổi phương pháp
quản lý trong giáo dục đại học không phải là một nhu cầu cấp bách. Mọi việc chỉ khởi
động theo chiều hướng cách tân từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện,
trong đó gồm cả đổi mới giáo dục đại học, từ giữa thập niên 1980.
3.1.3.2 Giai đoạn 1986-2003: Chất lượng = Nguồn lực đầy đủ
Năm 1986 đánh dấu sự bắt đầu của công cuộc đổi mới giáo dục đại học tại Việt
Nam, trong đó một trong những mục tiêu quan trọng của việc đổi mới giáo dục đại học
tại Việt Nam là tăng cường “khả năng cung ứng” của các cơ sở giáo dục, mở rộng tối đa
cơ hội tiếp cận cho người học. Để đạt mục tiêu này, trong vòng gần hai thập niên kể từ
khi giáo dục đại học Việt Nam bắt đầu đổi mới, rất nhiều biện pháp đã được thực hiện
để đạt được mục tiêu nói trên, mà kết quả là số lượng người học cũng như các cơ sở giáo
dục đại học của Việt Nam đã tăng lên một cách đột biến. Sự gia tăng về quy mô và số
lượng đòi hỏi phải có hai điều kiện cơ bản là sự gia tăng tương ứng về nguồn lực (nhân
lực, vật lực, tài lực), và một cơ chế quản lý mới đi kèm với năng lực lãnh đạo và quản
lý phù hợp với quy mô mới để có thể duy trì – chứ chưa nói đến việc cải thiện – chất
55
lượng của giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong vòng gần hai thập niên đổi mới vừa qua,
giáo dục đại học của Việt Nam đã chỉ chú trọng đến việc tăng cường nguồn lực (chủ yếu
thông qua học phí do người học đóng góp và kinh phí cấp từ ngân sách nhà nước), mà
chưa quan tâm đúng mức đến vai trò quan trọng của cơ chế và năng lực lãnh đạo và
quản lý của toàn hệ thống.
Quan điểm chất lượng đồng nghĩa với nguồn lực đầy đủ của giai đoạn này thể
hiện rất rõ qua việc tăng cường cấp kinh phí từ ngân sách cho các đại học quốc gia và
các trường được chọn vào danh sách “trọng điểm đầu tư”, trong khi chưa hề có các cơ
chế hoàn chỉnh để giám sát và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực để đạt được
mục tiêu mong muốn. Chính vì quan điểm phiến diện này mà sau gần hai thập niên đổi
mới với tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục tăng lên đều đặn, chất lượng giáo dục đã
không những không tăng lên mà còn giảm sút. Tình trạng này cho thấy việc áp dụng
những phương pháp quản lý mới để đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục đại học
đã trở thành một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.
3.1.3.3 Giai đoạn từ 2004 đến nay: Chất lượng = Đáp ứng tiêu chuẩn
Nếu cần chọn một mốc thời gian nhằm đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển
trong quản lý chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam thì đó chính là năm 2004. Vào
năm này, một loạt các văn bản quản lý nhà nước ở tầm quốc gia đã khẳng định rõ chủ
trương đổi mới quản lý bằng cách áp dụng kiểm định chất lượng, một cách làm xuất
phát từ nền giáo dục đại học Hoa Kỳ và đang trở thành một phương thức quản lý chất
lượng được áp dụng rộng rãi trên thế giới từ thập niên 1990. Quy định tạm thời về kiểm
định chất lượng trường đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo được ban hành sau gần 2
năm dự thảo và lấy ý kiến góp ý của các trường đại học và các chuyên gia trong và ngoài
nước. Với quy định này, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục của đất nước, Việt Nam đã
có được một bộ tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch, cơ bản xác định được các yêu cầu về
chất lượng liên quan đến sứ mạng, mục tiêu, cơ cấu, điều kiện nguồn lực, và các mặt
hoạt động của một trường đại học của Việt Nam.
Tiếp theo sự ra đời của quy định nêu trên, trong vòng gần 3 năm từ năm 2005
đến giữa năm 2007, 20 trường đại học Việt Nam, gồm 18 trường công lập cùng 2 trường
tư thục được xem là thuộc tốp đầu trong hệ thống đại diện cho các khu vực địa lý trên
toàn quốc, đã được chọn để thí điểm đánh giá theo bộ tiêu chuẩn đã ban hành. Sau khi
áp dụng với 20 trường, bộ tiêu chuẩn tạm thời đã được điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa để
trở thành bộ tiêu chuẩn chính thức được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành vào tháng
11/2007.
56
Năm 2012, Quốc hội ban hành Luật giáo dục đại học trong đó chỉ rõ mục tiêu cụ
thể của giáo dục đại học là “Đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên
môn toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành
cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành
được đào tạo”. Trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế, Luật giáo dục đề xuất mục tiêu hợp
tác quốc tế nhằm “Nâng cao chất lượng giáo dục đại học theo hướng hiện đại, tiếp cận
nền giáo dục đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; Tạo điều kiện để cơ sở giáo
dục đại học phát triển bền vững, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.” Để đạt được các mục tiêu
đó, Luật cũng quy định rõ các nội dung liên quan đến bảo đảm chất lượng và kiểm định
chất lượng giáo dục đại học. Những năm gần đây, việc kiểm định chất lượng các chương
trình đào tạo bậc đại học, sau đại học và mới đây là kiểm định cấp cơ sở đào tạo theo
Bộ tiêu chuẩn AUN-QA đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như hầu hết các trường
đại học trong cả nước quan tâm. Hệ thống đảm bảo chất lượng các trường đại học Đông
Nam Á (AUN-QA- ASEAN University Network Quality Assurance) được thành lập vào
năm 1998 và đã ban hành nhiều tài liệu quan trọng liên quan đến các hướng dẫn về đảm
bảo chất lượng từ năm 2004 đến nay, đặc biệt là Tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng
cấp chương trình đào tạo theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA (phiên bản 3.0) vào năm 2015 với
11 tiêu chuẩn và 50 tiêu chí (trước đây là 15 tiêu chuẩn với 68 tiêu chí vào năm 2011 và 18
tiêu chuẩn với 72 tiêu chí vào năm 2004) thuộc các nhóm yếu tố đầu vào (input), quá trình
(process), đầu ra (output) nhằm liên tục cải tiến, nâng cao dần chất lượng đào tạo).
Trong lúc giáo dục đại học Việt Nam còn đang loay hoay tìm kiếm, xây dựng và
hoàn thiện một mô hình và bộ tiêu chuẩn phù hợp để đánh giá chất lượng cơ sở đào tạo
cũng như chương trình đào tạo ở bậc đại học - cao đẳng, một số trường đại học hàng
đầu của Đông Nam Á đã phối hợp với các chuyên gia của châu Âu cho ra đời các tài
liệu phù hợp nhằm hỗ trợ các trường đại học trong khu vực nâng cao chất lượng đào tạo.
Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã mạnh dạn xin phép AUN và chủ trương kiểm định
chất lượng giáo dục đại học theo Bộ tiêu chuẩn AUN-QA cấp chương trình đào tạo, cấp
cơ sở đào tạo và triển khai áp dụng bắt đầu từ năm 2017 dưới sự cho phép và đồng ý của
Hội đồng Tín thác Mạng lưới các trường đại học ASEAN (AUN Board of Trustees), với
nhiều văn bản mới được ban hành; từ đó có cơ sở đổi mới mạnh mẽ giáo dục đại học.
3.1.4 Hệ thống và cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục tại Việt Nam hiện nay
3.1.4.1 Hệ thống đảm bảo chất lượng: Đảm bảo chất lượng bên trong và đảm bảo chất
lượng bên ngoài
Sự ra đời của bộ tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học và kế hoạch kiểm định
chất lượng dựa trên các tiêu chuẩn tất yếu phải đi kèm một hệ thống tổ chức và cơ chế
quản lý để đưa bộ tiêu chuẩn này trở thành hiện thực. Hiện nay, một hệ thống đảm bảo
57
chất lượng giáo dục đại học tương đối hoàn chỉnh đang được hình thành tại Việt Nam,
với cơ quan quản lý nhà nước đối với các hoạt động đảm bảo chất lượng giáo dục cấp
quốc gia là Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào
tạo, và các bộ phận đảm bảo chất lượng bên trong đã và đang được thiết lập tại các
trường.
Việc thành lập cơ quan đảm bảo chất lượng giáo dục cấp quốc gia có thể nói là
một sự thay đổi mang tính cách mạng trong cơ cấu tổ chức và quản lý của ngành giáo
dục Việt Nam. Sự ra đời của cơ quan này là kết quả của một quá trình tách dần công tác
đánh giá chất lượng ra khỏi công tác quản lý đào tạo. Hiện nay, Cục Khảo thí và Kiểm
định chất lượng giáo dục là cơ quan tham mưu ở cấp cao nhất được quyền tham gia quá
trình ra quyết định trong những vấn đề ở tầm chính sách như xây dựng các tiêu chuẩn
chất lượng và quy định cơ chế vận hành đối với quá trình đảm bảo chất lượng của hệ
thống giáo dục quốc gia.
Về phía các trường đại học, hai đại học quốc gia với quyền tự chủ được trao
tương đối cao hơn các trường đại học khác để phấn đấu theo mô hình quản lý hiện đại
là hai đơn vị đi đầu trong hệ thống giáo dục cả nước trong việc thành lập cơ quan đảm
bảo chất lượng cho riêng mình ngay sau khi thành lập. Một số trường đại học khác, chủ
yếu là các đại học vùng với mô hình tổ chức tương tự như các đại học quốc gia (tức bao
gồm 2 cấp: cấp quản lý chính sách vĩ mô và cấp trường), được vốn vay của Dự án Giáo
dục đại học của Ngân hàng Thế giới, cũng đã thành lập bộ phận đảm bảo chất lượng của
mình vào những năm đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, ngoài hai trung tâm đảm bảo chất
lượng của hai đại học quốc gia đã hoạt động thường xuyên ngay từ khi mới thành lập,
với nguồn nhân lực đã ít nhiều qua đào tạo, hầu hết các bộ phận đảm bảo chất lượng
khác đều chỉ thực sự hoạt động vào đầu năm 2005, cùng lúc với sự khởi động của kế
hoạch kiểm định thí điểm 20 trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Điều đáng ghi nhận là hiện nay việc có bộ phận đảm bảo chất lượng trong cơ cấu
tổ chức của một trường đại học đã là một yêu cầu bắt buộc được nêu trong Bộ Tiêu
chuẩn chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành vào cuối năm 2007 (Bộ Tiêu
chuẩn đầu tiên năm 2004 không có yêu cầu này). Với quy định này, cho đến nay hệ
thống ĐBCL giáo dục đại học tại Việt Nam đã tương đối hoàn chỉnh (ít ra là trên nguyên
tắc nếu chưa phải là trên thực tế), với bộ phận ĐBCL bên trong ở tất cả các trường, và
cơ quan ĐBCL bên ngoài là Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Đây cũng là mô hình đã được hai đại học quốc gia sử dụng từ
trước đó với các trường thành viên của mình, vì điều này chính là yêu cầu đầu tiên trong
bộ tiêu chuẩn chất lượng của mạng đại học Đông Nam Á mà hai đại học quốc gia là hai
đại học duy nhất đại diện cho.
58
3.1.4.2 Cơ chế đảm bảo chất lượng: mối quan hệ giữa hệ thống đảm bảo chất lượng với
cơ quan quản lý nhà nước
Khi nói đến cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục, một trong những điều quan
trọng nhất là xác định mối quan hệ giữa đảm bảo chất lượng bên trong (công việc nội bộ
của các trường), đảm bảo chất lượng bên ngoài (công việc của một tổ chức bên ngoài nhà
trường), và cơ quan quản lý nhà nước đối với các tổ chức giáo dục. Tùy theo hoàn cảnh
và mục tiêu riêng của mình, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn một cơ chế đảm bảo chất lượng phù
hợp. Một cách lý tưởng, hai thành tố của hệ thống ĐBCL phải hoàn toàn độc lập với nhau,
đồng thời cũng độc lập với cơ quan quản lý nhà nước (tức Bộ Giáo dục) nhằm tách rời 3
khâu tự đánh giá – đánh giá ngoài – và công nhận kết quả đánh giá. Tuy nhiên, trong khá
nhiều trường hợp ở các nước đang phát triển, cơ quan quản lý nhà nước đối với giáo dục
đại học cũng đồng thời là cơ quan thực hiện ĐBCL bên ngoài, như trường hợp của Việt
Nam và một số nước khác trong khu vực.
Theo Lenn (2004), những khác biệt trong cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục
giữa các quốc gia có thể tóm tắt trong 4 yếu tố sau: (1) cơ quan thành lập và điều hành
tổ chức việc đảm bảo chất lượng ở cấp quốc gia (chính phủ hoặc phi chính phủ); (2) loại
hình hoặc phương thức hoạt động đảm bảo chất lượng bên ngoài (kiểm định, kiểm toán
hoặc đánh giá); (3) nguồn cấp kinh phí (nhà nước hoặc trường đại học); và (4) sự tham
gia của quốc tế (có hoặc không có sự tham gia của quốc tế).
Nếu xét theo 4 yếu tố trên, có thể thấy cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục đại
học của Việt Nam hiện nay là thiếu đa dạng và hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nước, mà
cụ thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo: cơ quan đảm bảo chất lượng cấp quốc gia là do Bộ
Giáo dục và Đào tạo thành lập, không có tư cách độc lập đối với Bộ vì là một cơ quan
thuộc Bộ; nguồn kinh phí hoạt động được cấp từ nhà nước thông qua Bộ Giáo dục và
Đào tạo; và không có sự tham gia của các chuyên gia quốc tế trong cả hai khâu ra quyết
định lẫn khâu đánh giá ngoài. Sự thiếu đa dạng này cho thấy hệ thống đảm bảo chất
lượng giáo dục đại học của Việt Nam chưa thực sự hoàn chỉnh, và còn cần phải được
tiếp tục xây dựng để có thể tạo ra những tác động tích cực đối với chất lượng giáo dục
như mục tiêu của việc cải cách giáo dục đại học đã đề ra.
3.2 Thiết kế nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp
và sơ cấp đồng thời kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp
nghiên cứu định lượng. Cùng với thực hiện các nghiên cứu lý thuyết, luận án đặc biệt
coi trọng tiếp cận thực chứng, nghiên cứu từ thực tế thông qua việc điều tra, khảo sát
các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng và đặc
biệt khảo sát sinh viên nhằm bổ sung, kiểm nghiệm các vấn đề lý thuyết trong bối cảnh
thị trường giáo dục đại học đang bùng nổ, từ đó gợi mở những định hướng về phát triển
59
giáo dục đại học trong dài hạn.
3.2.1 Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu được thực hiện qua các bước: xây dựng mô hình, kiểm tra
mô hình và thang đo, thu thập dữ liệu sơ bộ để đánh giá sơ bộ độ tin cậy và giá trị của
thang đo, thu thập dữ liệu chính thức để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu.
Cơ sở lý thuyết
Mô hình và Thang đo
Kiểm tra mô hình và
Nghiên cứu định tính
Thang đo
Nghiên cứu định lượng sơ bộ
Chuẩn hóa bảng hỏi
(N= 100)
Nghiên cứu định lượng chính thức
Thu thập dữ liệu chính
(N = 1000)
thức
Phân tích hệ số tin cậy
Kiểm định độ tin cậy và
Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố
khám phá EFA, phân tích nhân tố
khẳng định CFA
giá trị của thang đo chính
thức
Phân tích mô hình cấu trúc tuyến
Kiểm định mô hình và
tính SEM
giả thuyết nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu được thực hiện theo hình 3.1 dưới đây:
Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu của luận án
60
3.2.2 Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu
Trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về chất lượng dịch vụ
đào tạo đại học và sự hài lòng của sinh viên; sự khác biệt giữa các trường đại học công
lập và tư thục; và bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, luận án đã tổng hợp các
yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ đào tạo đại học có ảnh hưởng đến sự hài lòng của
sinh viên. Luận án cũng khai thác tối đa những kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước
đã được công bố trước đây về chất lượng giáo dục đại học, mối quan hệ giữa chất lượng
dịch vụ giáo dục đại học và sự hài lòng của sinh viên, xác định rõ những nội dung có
thể kế thừa và phát triển, những “khoảng trống” cần phải nghiên cứu với những đóng
góp khoa học thiết thực, trong đó đặc biệt nhấn mạnh sự khác biệt của mối quan hệ này
trong môi trường đại học tư thục và công lập.
Với mục tiêu chính của luận án và kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên
cứu, tác giả đã sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp qua phương pháp nghiên cứu định tính và
phương pháp nghiên cứu định lượng.
- Phương pháp nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu và phỏng vấn nhóm tập
trung): Phương pháp này nhằm kiểm tra mức độ phù hợp của các thang đo liên quan đến
các biến tiềm ẩn và tìm hiểu sâu về các yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo đại
học. Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng cách tham vấn ý kiến của các chuyên gia
bao gồm các nhà quản lý giáo dục và các giảng viên đại học cũng như phỏng vấn nhóm
tập trung sinh viên trường đại học công lập và tư thục nhằm gợi mở, bình luận, phản biện
về chủ đề của luận án. Kết quả nghiên cứu định tính dùng để điều chỉnh thang đo và mô
hình lý thuyết làm cơ sở thiết kế bảng câu hỏi trong nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng (điều tra sinh viên): với mục tiêu thu thập
những dữ liệu sơ cấp, luận án thực hiện điều tra, phỏng vấn sinh viên ở các trường đại
học công lập và tư thục từ đó kiểm định tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự
hài lòng của sinh viên. Luận án xây dựng bảng hỏi để thực hiện điều tra và sử dụng các
kỹ thuật thống kê để phân tích dưới sự trợ giúp của phần mềm SPSS.23 và Amos.22.
Trước hết, luận án phân tích Cronbach’s Alpha nhằm đánh giá độ tin cậy của thang đo.
Hệ số Cronbach’s Alpha tối thiểu lớn hơn 0.6 đối với các nhân tố (Hair và cộng sự,
1998) thì được chấp nhận. Tiếp đó, tác giả tiến hành phân tích nhân tố khám phá (EFA)
nhằm đánh giá giá trị (sự phù hợp) của thang đo. Tiếp theo, các thang đo được đánh giá
qua phân tích nhân tố khẳng định (CFA). Để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên
cứu, luận án sử dụng phương pháp phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM). Cuối cùng, phân
tích đa nhóm được sử dụng để so sánh mô hình nghiên cứu theo các nhóm trường (trường
công lập và trường tư thục).
61
Nội dung chi tiết về phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên
cứu định lượng sử dụng trong luận án được trình bày trong phần tiếp sau đây.
3.3 Nghiên cứu định tính
3.3.1 Mục tiêu
Mục tiêu nghiên cứu định tính là nhằm kiểm tra, sàng lọc và xác định mối quan
hệ giữa các biến trong mô hình lý thuyết ban đầu (đã được hình thành dựa trên nghiên
cứu tổng quan lý thuyết) từ đó có thể điều chỉnh, bổ sung các biến quan sát và gợi ý các
hướng điều chỉnh khung nghiên cứu sao cho phù hợp với mục đích và bối cảnh nghiên
cứu của tác giả. Ngoài ra, do có sự khác nhau về văn hóa, ngôn ngữ, trình độ phát triển,
các thang đo sử dụng trong nghiên cứu có thể cần hiệu chỉnh từ ngữ, văn phong cho phù
hợp điều kiện Việt Nam. Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phỏng vấn
chuyên gia và phỏng vấn nhóm tập trung.
Bên cạnh đó, cụm từ “đại học công lập” và “đại học tư thục” đang còn nhiều hiểu
lầm. Trên góc độ một chuyên gia, một nhà quản lý giáo dục lâu năm, trưởng phòng quản
lý đào tạo một trường đại học đã nhận định: “Với kinh nghiệm nhiều năm làm quản lý
giáo dục và thực hiện công tác tuyển sinh, tôi thấy “khoảng cách” giữa trường đại học
công lập và đại học tư thục gần như ăn sâu vào suy nghĩ của không ít phụ huynh và học
sinh với nhiều lý do. Nhiều phụ huynh dù chỉ nghe đến cụm từ ‘trường tư hay trường tư
thục’… đã vội chê chứ bản thân chưa tự mình chứng thực!”. Do vậy, nghiên cứu định
tính sẽ làm rõ hơn những vấn đề xung quanh sự phân biệt này để làm cơ sở so sánh về
chất lượng dịch vụ đào tạo đại học với sự hài lòng của sinh viên trong trường công và
trường tư.
3.3.2 Phương pháp phỏng vấn sâu
3.3.2.1 Đối tượng và nội dung phỏng vấn
Tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 10 người trong đó có 03 chuyên gia giáo dục
và 07 giảng viên đại học. Trong số 07 giảng viên có 04 giảng viên đại học công lập và
03 giảng viên đại học tư thục ở Hà Nội. Để đảm bảo chất lượng cuộc phỏng vấn, tác giả
đã xây dựng bản hướng dẫn câu hỏi phỏng vấn (phụ lục 1). Các câu hỏi phỏng vấn tập
trung vào các vấn đề sau:
- Mục tiêu nghiên cứu: tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng
của sinh viên;
- Phân biệt giữa trường đại học công lập và tư thục;
- Tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo tại trường đại học công lập và
trường đại học tư thục;
62
- Ý kiến đóng góp về bộ công cụ đo lường và tính khả thi của khảo sát;
- Ý kiến về tính phù hợp của mô hình nghiên cứu và các nhân tố trong mô hình.
Nội dung các cuộc phỏng vấn được ghi âm, được lưu trữ và mã hóa trong máy
tính. Nội dung này được gỡ băng và phân tích để đưa ra kết luận. Kết luận được đưa ra
dựa trên sự tổng hợp quan điểm chung của các đối tượng phỏng vấn có cách nhìn tương
tự nhau. Kết quả tìm được sẽ được so sánh với mô hình lý thuyết ban đầu để xác định
mô hình chính thức cho nghiên cứu.
3.2.1.1 Kết quả phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu đã thu được những kết quả hữu ích cho việc xây dựng và hoàn
thiện thang đo.
- 10/10 đối tượng phỏng vấn đều đồng ý sự cần thiết của việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa chất lượng dịch vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên. Nếu coi giáo dục đại
học mở cửa theo hướng thị trường, sinh viên là khách hàng thì doanh nghiệp là các
trường đại học phải tìm mọi cách để cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp để làm hài
lòng sinh viên. Hơn thế nữa, trong bối cảnh cạnh tranh giáo dục ngày nay, việc không
nâng cao chất lượng dịch vụ sẽ không giữ được khách hàng trung thành và đẩy các
trường vào tình trạng “đói” sinh viên.
- 10/10 đối tượng phỏng vấn đều cho rằng cần phải có cách hiểu đúng về trường
đại học “công lập” và “tư thục”. Chuyên gia giáo dục 1 phát biểu: “Khi đặt câu hỏi là
Anh/chị muốn con mình sẽ thi vào trường Đại học công lập hay tư thục?, đa số câu trả
lời là “Tất nhiên là công lập”, hoặc “Tư thục thì không”, “nếu không đỗ công lập thì
mới học tư thục”… điều này cho thấy sự “hài lòng” của phụ huynh khi con đỗ trường
công lập và trường tư thục rất khác nhau”. Giảng viên của trường tư thục thì có ý kiến:
“Khi được hỏi, tại sao anh/chị lại thích con học đại học công lập hơn đại học tư thục?
thì câu trả lời phổ biến là vì “chất lượng hơn”, “tốt hơn”, “dễ xin việc hơn”. Có thể
thấy, dù cách trả lời khác nhau nhưng đều cho thấy quan niệm của phụ huynh khi định
hướng chọn trường đại học cho con có xu hướng cho rằng chất lượng dịch vụ đào tạo
của các trường công lập tốt hơn các trường tư thục. Liệu quan niệm này là do định kiến
hay có xuất phát từ sự phản hồi của những sinh viên đã, đang học ở các trường đại học
hay không?”. Những vấn đề này cho thấy cần phải có định nghĩa rõ ràng giữa “công
lập” và “tư thục” để tránh những định kiến và phân biệt khi đánh giá về các trường này.
- Về điểm khác biệt lớn nhất giữa trường đại học công lập và tư thục, 8/10 ý kiến
đều cho rằng đó là uy tín, danh tiếng của trường. “Phần lớn các trường công đã có lịch
sử lâu đời như trường đại học Kinh tế Quốc dân, trường đại học Bách Khoa hay trường
63
đại học Nông nghiệp, được khẳng định về danh tiếng qua thời gian với nhiều người
thành đạt, thậm chí là lãnh đạo của nhiều đơn vị trưởng thành từ các trường này. Ngày
xưa, nếu nói học trường Kinh tế là oai lắm” (Giảng viên công lập). “Trường tư thì mới
xuất hiện thôi, ngày xưa hay bị nói là giỏi thì vào trường công còn dốt, không thi đỗ
trường công nên mới phải học trường tư. Học trường tư là tốn tiền hơn nhiều lắm so với
trường công” (Giảng viên tư thục). Tuy nhiên, 10/10 ý kiến đều cho rằng sở dĩ trường
công được đánh giá là có uy tín hơn chủ yếu do sở hữu đội ngũ giảng viên có chất lượng,
được đào tạo bài bản. “Trường tư chỉ được đánh giá cao về cơ sở vật chất thôi. Ví dụ,
báo chí hay đưa hình ảnh của trường đại học dân lập Thăng Long đấy, khuôn viên rất
đẹp, như ở nước ngoài. Còn đội ngũ giảng viên thì không thấy đề cập đến nhiều” (Giảng
viên trường tư). “Nhưng hiện nay thì không so sánh thế được đâu nhé. Nhiều trường tư
xịn lắm. Trong bảng xếp hạng các trường đại học do các cơ quan độc lập công bố, nhiều
trường tư còn xếp trên trường công” (Chuyên gia giáo dục). Các chuyên gia đều cho
rằng mô hình giáo dục ở trường công và trường tư là khác nhau, nhiều trường công vẫn
phụ thuộc vào nhà nước còn trường tư giống doanh nghiệp nên cách thức quản lý, điều
hành của họ cũng khác. Phần lớn tại các trường tư, giảng viên cũng giống như nhân viên
doanh nghiệp, phải tìm cách để thu hút và giữ sinh viên, coi sinh viên là trung tâm. Các
trường tư cũng được đầu tư mạnh về cơ sở vật chất hay các hoạt động ngoại khóa để gia
tăng sự khác biệt với trường công.
- Về tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo đại học, 10/10 ý kiến đều cho
rằng phải dựa trên: chất lượng giảng viên, chất lượng cơ sở vật chất, chất lượng bộ phận
hành chính, chương trình đào tạo. Một giảng viên công lập đánh giá chất lượng bộ phận
hành chính rất quan trọng, đặc biệt tại các trường đại học công lập, “bộ phận hành chính
hay bị kêu lắm, họ chưa thể hiện được trách nhiệm “phục vụ” mà rất hách dịch, sinh
viên hỏi không trả lời hoặc trả lời nhấm nhẳng. Sinh viên toàn phải nhờ giảng viên hỗ
trợ” (Giảng viên công lập). 04/10 ý kiến cho rằng các hoạt động ngoại khóa cũng là một
yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ đại học. “Ngày xưa đi học trường công ít có hoạt
động ngoại khóa lắm, chỉ có những ngày lễ lớn như kỷ niệm thành lập trường hay một
vài hoạt động khi mới nhập trường thôi. Các câu lạc bộ cũng ít. Nhìn sang bạn bè ở
trường tư thấy họ có nhiều câu lạc bộ mà thèm” (Chuyên gia giáo dục). Một chuyên gia
giáo dục khác cho rằng “Phải có các hoạt động ngoại khóa chứ, sinh viên giờ đâu chỉ
vùi đầu vào sách vở. Sinh viên bây giờ năng động lắm, họ thích tham gia nhiều hoạt
động. Điều đó cũng có ích cho sinh viên sau khi ra trường. Ở khía cạnh này thì nhiều
trường tư đã quan tâm, giống như các trường đại học nước ngoài”.
- 05/10 ý kiến cho rằng danh tiếng các trường đại học là một yếu tố rất quan trọng
vì “xã hội thường nhìn nhận các trường đại học công lập lâu đời, có uy tín. Sinh viên
64
nói là đang học trường này (công lập có danh tiếng – tác giả) là thấy oai lắm, vinh dự
lắm nên khi tuyển sinh, các trường đó dễ thu hút sinh viên” (Giảng viên tư thục).
- Ngoài ra, 5/10 ý kiến cũng lưu ý về khía cạnh chi phí, cho rằng không giống thị
trường hàng hóa, bỏ chi phí cao thì sự hài lòng sẽ cao, mức chi phí phù hợp với chất
lượng sẽ khiến sinh viên hài lòng hơn. “Trước đây, mọi người đều quan niệm học trường
công sẽ rẻ hơn, còn trường tư thì đắt nhưng hiện nay nhiều trường công đã chuyển sang
tự chủ, tự quyết định thu và chi nên nhiều trường công học phí cũng đắt lắm” (Chuyên
gia giáo dục). “Nhiều người Việt vẫn có quan niệm thích chất lượng ngoại, giá nội nên
chi phí đào tạo phải rẻ mà vẫn cung cấp dịch vụ có chất lương đấy. Lương của giảng
viên đại học công bèo bọt lắm, nhiều khi nhìn sang đồng nghiệp ở trường tư mà thèm”
(Giảng viên trường công).
- Đặc biệt, có 2/10 ý kiến cho rằng sự công bằng, minh bạch thông tin và đánh giá
của nhà trường với sinh viên cũng là yếu tố để sinh viên đo lường chất lượng dịch vụ
đào tạo. “Nhiều sinh viên cho rằng chúng em khó tiếp cận thông tin lắm. Nhiều khi hỏi
còn bị mắng, đặc biệt là khi hỏi ở các phòng ban” (Giảng viên công lập). Sự bất cân
xứng về thông tin có lẽ là một điểm cần được tiếp tục khai thác.
- Bên cạnh đó, để đánh giá về sự hài lòng của sinh viên, 8/10 ý kiến chỉ ra đôi khi
sinh viên không hẳn đã biết họ hài lòng về cái gì mà phải thông qua một tiêu chí cụ thể
hơn, ví dụ điểm số. Nếu sinh viên thấy kết quả cao (hài lòng về điểm số/kết quả học tập
và rèn luyện) thì họ cũng dễ có sự hài lòng chung. Tuy nhiên, giảng viên trường tư cũng
cho rằng đôi khi điểm số không phản ánh thực tế quá trình học tập của sinh viên “Sinh
viên thích điểm cao, nhiều khi cũng phải nhắm mắt để cho. Nếu cho điểm thấp quá, sinh
viên sẽ chán nản, không muốn học. Chị biết đấy, ở trường tư nhiều bạn đi học vì bố mẹ
chứ có cần kiến thức đâu”. Thậm chí ngay cả ở trường công, các khoa khác nhau cũng
có cách cho điểm khác nhau “Nhiều khoa cho điểm cao lắm, toàn 9, 10. Mình cho điểm
thấp thì thấy tội sinh viên của mình nên cũng phải liệu cơm gắp mắm” (Giảng viên
trường công). Ngoài ra, có 1 giảng viên cho rằng “nhiều thầy cô cứ coi điểm là “nhà
trồng được”, cho điểm cao để sinh viên khỏi kiện cáo, mất thời gian nên điểm cao chưa
chắc phản ánh đúng thực tế đâu”. Các chuyên gia cũng cho rằng việc cho điểm cao có
tính hai mặt, vừa là để khích lệ sinh viên, nhưng cũng lại khiến sinh viên tưởng mình
giỏi “nhiều doanh nghiệp bảo sinh viên của anh kiêu lắm, cầm bằng giỏi đi xin việc cứ
hoạch họe, đòi lương phải cao” (Giảng viên trường công). Khi được hỏi về mối quan
hệ giữa sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập và sự hài lòng của sinh viên, 9/10 ý kiến
cho rằng hai yếu tố này có mối quan hệ thuận chiều với nhau, nghĩa là nếu sinh viên hài
lòng với việc đánh giá kết quả học tập (đánh giá công bằng và chính xác) thì cũng “dễ
bỏ qua những điểm chưa được của nhà trường” và cảm thấy hài lòng hơn với ngôi
65
trường họ lựa chọn cũng như những trải nghiệm tại trường.
Dưới đây là bảng tổng hợp các nhân tố đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo sau khi
phỏng vấn:
Bảng 3.2: Kết quả tổng hợp phỏng vấn sâu các yếu tố đánh giá chất lượng dịch vụ
đào tạo đại học
ĐTPV1 ĐTPV2 ĐTPV3 ĐTPV4 ĐTPV5 ĐTPV6 ĐTPV7 ĐTPV8 ĐTPV9 ĐTPV10
Các yếu tố
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Chất lượng
giảng viên
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Chất lượng
nhân
viên
hành chính
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Chất lượng
chương
trình đào tạo
x
x
x
x
Các dịch vụ
hỗ trợ
x
x
x
x
Hoạt động
ngoại khóa
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
Cơ sở vật
chất
x
x
x
x
x
Danh tiếng
nhà trường
x
x
x
x
x
Sự phù hợp
về chi phí
đào tạo
x
x
Công bằng
x
x
x
x
x
x
x
x
Sự hài lòng
về đánh giá
kết quả học
tập
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Ghi chú: ĐTPV: đối tượng phỏng vấn
Về việc đóng góp ý kiến cho bảng hỏi, các chuyên gia được phỏng vấn đều có những
góp ý rất chi tiết về câu chữ dùng trong bảng hỏi để đảm bảo sinh viên có thể hiểu và trả
lời được. Ví dụ, ban đầu tác giả đặt tên biến “Chất lượng nhân viên hành chính” là “Chất
lượng cán bộ các phòng ban”, nhưng các chuyên gia cho rằng cán bộ các phòng ban thì
66
chưa đủ bao quát vì phải bao gồm cả đội ngũ trợ lý, văn thư khoa. Nên dùng một thuật
ngữ là “nhân viên hành chính” thì sẽ bao quát hơn.
3.3.3 Phương pháp phỏng vấn nhóm tập trung
3.3.3.1 Đối tượng và nội dung phỏng vấn
Bên cạnh việc phỏng vấn các chuyên gia trong ngành, tác giả cũng tiến hành
phỏng vấn nhóm tập trung nhằm thăm dò các yêu cầu của sinh viên về chất lượng dịch
vụ đào tạo; những yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ đào tạo; sự hài lòng của sinh
viên; đánh giá quan điểm của sinh viên trường đại học công lập và trường đại học tư
thục về chất lượng dịch vụ đào tạo đồng thời kiểm tra những phát biểu được sử dụng
trong thang đo nháp 1 (tham khảo từ tài liệu nước ngoài, được hiệu chỉnh sau khi phỏng
vấn các chuyên gia) có được hiểu cặn kẽ và gần gũi với các đáp viên được chọn lọc hay
không, đồng thời chỉnh sửa ngôn từ của thang đo nháp 1 để hoàn thiện thang đo nháp 2
trước khi tiến hành nghiên cứu định lượng sơ bộ để đánh giá thang đo. Đối tượng tham
gia phỏng vấn là 10 sinh viên chia làm hai nhóm, mỗi nhóm 5 sinh viên, trong đó 1
nhóm sinh viên chính quy của trường Đại học Kinh tế Quốc dân và 1 nhóm sinh viên
chính quy của trường Đại học phương Đông.
3.3.3.2 Kết quả phỏng vấn nhóm tập trung
Kết quả phỏng vấn nhóm tập trung cho thấy một số điểm khác biệt trong đánh
giá về chất lượng dịch vụ đào tạo cũng như sự hài lòng của sinh viên trường công lập và
trường tư thục. Dựa trên những yếu tố đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo sau khi tổng
quan nghiên cứu và phỏng vấn sâu, tác giả đã thực hiện phỏng vấn nhóm tập trung đối
với hai nhóm sinh viên công lập và tư thục.
- Về câu hỏi hài lòng với điều gì ở trường mình, nhóm sinh viên công lập đến từ
trường đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng danh tiếng của trường là điều các em thấy hài
lòng nhất “Khi đi ra ngoài, bọn em giới thiệu là sinh viên của Kinh tế Quốc dân, mọi
người ngưỡng mộ lắm. Các anh chị khóa trên cũng bảo với bọn em rằng, đi xin việc mà
chìa cái bằng Kinh tế ra là thường được tuyển dụng ngay”. Đội ngũ giảng viên của
trường cũng được nhóm đánh giá rất cao “Trường em có đội ngũ các giáo sư, tiến sĩ
hoành tráng lắm. Thầy Chủ tịch hội đồng trường của em còn nằm trong Ban tư vấn của
Thủ tướng Chính phủ đấy”. “Kỳ này em học 6 môn thì có tới 5 môn được các thầy cô
phó giáo sư giảng dạy”. Nhóm cũng thể hiện sự tự hào khi được học trong giảng đường
rất “xịn xò”: “Tòa nhà thế kỷ của chúng em đẹp lắm, check-in lung linh luôn. Các phòng
học đều có wifi, máy chiếu, điều hòa mát lạnh. Nhiều bạn bè của em ở các trường khác
đều ghen tỵ với em đấy”. Nhóm cũng cho rằng trường có nhiều hoạt động ngoại khóa
67
với nhiều câu lạc bộ, nhiều chương trình hội thảo cho sinh viên tham gia “Nhiều khi bọn
em bắt buộc phải tham gia để lấy điểm đoàn”. Tuy nhiên, nhóm cũng cho rằng học phí
của trường là khá cao “Một kỳ phải nộp hơn chục triệu, bố mẹ em ở quê cứ đến kỳ đóng
học phí là sốt hết cả lên”. Đối với nhóm sinh viên tư thục đến từ trường đại học phương
Đông, các em hài lòng nhất về các hoạt động ngoại khóa của trường “Chúng em thường
xuyên có các hoạt động ngoại khóa, có nhiều sân chơi cho sinh viên lắm ạ”. Các em
cũng đánh giá cao chương trình đào tạo của nhiều ngành học đang “hot” như công nghệ
sinh học, công nghệ kỹ thuật điện tử - viễn thông, công nghệ kỹ thuật môi trường…
Ngoài ra, đội ngũ nhân viên hành chính rất tận tình, hướng dẫn chi tiết cho sinh viên.
- Về sự khác biệt giữa trường công lập và trường tư thục: cả hai nhóm sinh viên
đều cho rằng có những sự khác biệt cơ bản về giảng viên, cơ sở vật chất, danh tiếng, chi
phí đào tạo. Nhóm sinh viên trường đại học Kinh tế quốc dân cho rằng trường công
thường được đánh giá cao hơn về danh tiếng, truyền thống “trường em có tuổi đời hơn
60 năm rồi đấy”, “nhiều lãnh đạo của các doanh nghiệp lớn, cơ quan ban ngành cũng
học từ trường của em ra”; trường công cũng thường tọa lạc với các vị trí đắc địa, rộng
rãi tuy nhiên cơ sở vật chất thì thường không hiện đại bằng các trường tư thục; Mức học
phí của trường công cũng thường thấp hơn so với các trường tư (trừ các chương trình
đào tạo liên kết với nước ngoài). Trong khi đó, nhóm sinh viên trường đại học phương
Đông thì cho rằng trường tư thường bị cho là kém hơn về nhiều mặt “danh tiếng trường
chúng em không thể nổi bằng các trường công được”; “nhiều người cứ nghĩ học dốt mới
phải vào tư thục vì mất nhiều tiền hơn”; “thực ra các thầy cô dạy chúng em cũng đều là
những người có uy tín trong ngành giáo dục, cũng có học hàm, học vị và tâm huyết với
nghề nhưng mọi người thường đánh giá trường chúng em không bằng các trường công”.
- Về các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên, kết quả phỏng vấn
được tổng hợp theo bảng dưới đây:
Bảng 3.3: Kết quả tóm tắt phỏng vấn nhóm tập trung các yếu tố đánh giá chất
lượng dịch vụ đào tạo đại học
Nhóm công lập Nhóm tư thục Các yếu tố
Là yếu tố quan trọng. Chất lượng giảng viên Là yếu tố cực kỳ quan trọng. Thầy giỏi mới có trò giỏi.
Rất quan trọng. Các bộ
phận phục vụ rất tận tâm. Chất lượng nhân viên
hành chính Quan trọng nhưng thường bị
ức chế với các nhân viên
hành chính.
Chất lượng chương Có ảnh hưởng, nhưng vẫn Quan trọng, có nhiều môn
68
trình đào tạo
còn nhiều nội dung lý thuyết
hoặc còn nhiều môn học về học hay, phù hợp với xu
hướng của thế giới.
chính trị như các môn Mác-
Lê Nin khiến sinh viên ít
hứng thú.
Ít quan tâm. Bình thường.
Rất phong phú. Rất hứng
thú với các hoạt động này.
Các dịch vụ hỗ trợ
Hoạt động ngoại khóa Có nhiều tổ, đội và cũng
thường xuyên tổ chức các
hoạt động ngoại khóa.
Cơ sở vật chất Quan trọng. Cơ sở vật chất
hiện đã có nhiều cải thiện.
Rất quan trọng. Cơ sở vật
chất hiện đại thì mới có
cảm hứng học tập.
Bình thường. Các trường tư
thục vốn không được đánh
giá cao.
Danh tiếng nhà trường Rất quan trọng. Sau này ra
trường, nhiều doanh nghiệp
thường nhìn vào tên trường
cấp bằng để tuyển nhân viên.
Rẻ nhưng vẫn phải đảm bảo Chi phí cao thì tất yếu chất
chất lượng. lượng dịch vụ phải cao. Sự phù hợp về chi phí
đào tạo
Không quan tâm lắm. Công bằng
trọng nhưng
Quan
thông
thường sinh viên khó đòi hỏi
sự công bằng lắm.
Rất quan trọng. Sinh viên rất Quan trọng. Kết quả học
Sự hài lòng về đánh giá
kết quả học tập tập phản ánh quá trình học
tập của sinh viên.
quan tâm đến việc đánh giá
kết quả học tập công bằng và
chính xác để đảm bảo các
quyền lợi khác cho sinh viên
(ví dụ: học bổng)
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Nhóm đối tượng tham gia phỏng vấn nhóm tập trung cũng giúp tác giả hiệu chỉnh
ngôn ngữ trong các biến quan sát sao cho phù hợp và dễ hiểu nhất cho các đáp viên. Cụ
thể, ở thang đo “Chất lượng giảng viên”, biến quan sát LQ1 được dịch sang tiếng Việt
là “Giảng viên có trình độ cao, sâu rộng về chuyên môn giảng dạy”, những người tham
gia phỏng vấn nhóm tập trung cho rằng nên sửa thành “Thầy/cô có trình độ cao và kiến
thức sâu rộng về chuyên môn giảng dạy” thì sẽ gần gũi và dễ hiểu hơn. Hay ở thang đo
69
“Cơ sở vật chất”, biến quan sát AF2 được dịch sang tiếng Việt là “Trường cung cấp
trang thiết bị đầy đủ”, các đáp viên cho rằng nên ghi rõ hơn là “Trường cung cấp trang
thiết bị đầy đủ (máy chiếu, míc...) để hỗ trợ cho các hoạt động giảng dạy và học tập”.
Quá trình hiệu chỉnh về ngôn từ cứ tiếp tục như vậy, phương pháp phỏng vấn nhóm tập
trung đã góp phần hoàn thiện thang đo nháp 1.
3.4 Nghiên cứu định lượng
3.4.1 Mục tiêu
Sau khi tổng quan nghiên cứu, tác giả xây dựng mô hình và đề xuất các giả thuyết
nghiên cứu. Để kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu đề xuất, tác giả thực
hiện nghiên cứu định lượng, cụ thể là tiến hành điều tra khảo sát qua bảng hỏi đối với
sinh viên các trường công lập và tư thục. Nghiên cứu định lượng được thực hiện qua hai
bước: nghiên cứu định lượng sơ bộ nhằm thực hiện những điều chỉnh cần thiết đối với
bảng hỏi trước khi tiến hành khảo sát chính thức; nghiên cứu định lượng chính thức
nhằm kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.
3.4.2 Quy trình xây dựng bảng hỏi
3.4.2.1 Thang đo và xây dựng bảng hỏi
Các thang đo được rút ra từ tổng quan nghiên cứu nhưng có sự điều chỉnh phù
hợp với bối cảnh nghiên cứu để đảm bảo tính thực tế. Trong quá trình phát triển các
công cụ khảo sát và điều chỉnh các thang đo cho phù hợp với ngữ cảnh, các hướng dẫn
được giám sát chặt chẽ (Craig và Douglas, 2000). Đầu tiên, các thang đo này được dịch
từ tiếng Anh sang tiếng Việt và sau đó dịch ngược lại từ tiếng Việt sang tiếng Anh bởi
hai người khác nhau để đảm bảo việc chuyển đổi ngôn ngữ là chính xác, rõ ràng, mạch
lạc và không làm thay đổi đáng kể ý nghĩa của các thang đo. Tiếp đó, tác giả đưa các
thang đo này trao đổi với các chuyên gia (nghiên cứu định tính) để đảm bảo các thang
đo này được dịch sát nghĩa. Bước cuối cùng, bảng câu hỏi được đưa cho hai nhóm sinh
viên (10 người) điền thử để điều chỉnh những sai sót nhỏ nhất có thể.
Các biến trong mô hình được đo bằng thang đo Likert với thang điểm đánh giá
từ 1 “Hoàn toàn không đồng ý” đến 5 “Hoàn toàn đồng ý”. 11 thang đo cho 11 biến
trong mô hình được đưa vào phiếu điều tra với các biến quan sát (items).
Thang đo Chất lượng giảng viên
Thang đo chất lượng giảng viên được thể hiện trên hai khía cạnh: kiến thức và
trình độ của giảng viên; thái độ của giảng viên với sinh viên. Thang đo này được kế thừa
có điều chỉnh từ thang đo của Firdaus (2005) gồm 9 biến quan sát được đo bằng thang
đo Likert 5 mức độ.
70
Bảng 3.4: Thang đo chất lượng giảng viên
Ký hiệu Nội dung Nguồn
LQ1 Thầy/cô có trình độ cao và kiến thức sâu rộng về chuyên
môn giảng dạy
LQ2
Kiến thức chuyên môn của thầy/cô đáp ứng nhu cầu hiểu
biết của tôi Firdaus
Thầy/cô giúp đỡ tôi một cách cẩn thận và lịch sự LQ3 (2005)
Thầy/cô không bao giờ quá bận rộn để từ chối hỗ trợ tôi LQ4
LQ5
Khi tôi gặp vấn đề, thầy/cô quan tâm chân thành để giải
quyết vấn đề đó
Thầy/cô có thái độ gần gũi và thân thiện với tôi LQ6
Thầy/cô giao tiếp tốt với sinh viên trong lớp học LQ7
LQ8
Thời gian dành cho việc tư vấn của thầy/cô là đầy đủ và
thuận tiện
LQ9
Thầy/cô cung cấp phản hồi về sự tiến bộ trong cả quá trình
của tôi
Thang đo Chất lượng chương trình đào tạo
Thang đo chất lượng chương trình đào tạo được kế thừa có điều chỉnh từ nghiên
cứu của tác giả Gamage và cộng sự (2008) gồm 6 biến quan sát được đo bằng thang
Likert 5 mức độ.
Bảng 3.5: Thang đo chất lượng chương trình đào tạo
Nội dung Nguồn Ký hiệu
EP1
Nội dung khóa học phù hợp và giúp tôi phát triển các
kỹ năng có thể được sử dụng trong thế giới thực
EP2
Kiến thức và kỹ năng đạt được trong các khóa học
của tôi sẽ giúp tôi thực hiện công việc tốt
EP3 Nội dung chương trình học có liên quan và cập nhật
Gamage và cộng EP4 Chương trình giảng dạy chuẩn bị cho tôi để đáp ứng
sự (2008) những thách thức của thế kỷ 21
EP5
Tôi được phép phản hồi về các chương trình đào tạo
hiện có
EP6
Tôi đang được đào tạo phù hợp cho sự nghiệp tương
lai của mình
71
Thang đo Chất lượng nhân viên hành chính
Thang đo chất lượng nhân viên hành chính được lấy từ nghiên cứu của Firdaus
(2005) bao gồm 7 biến quan sát trong đó 3 biến quan sát đo lường thái độ của nhân viên
hành chính và 4 biến quan sát đo lường kỹ năng làm việc của nhân viên hành chính.
Nhân viên hành chính trong nghiên cứu này là những người làm việc tại các phòng ban,
trợ lý, văn thư của các khoa và nhân viên thư viện.
Bảng 3.6: Thang đo chất lượng nhân viên hành chính
Nội dung Nguồn Ký hiệu
SQ1
Nhân viên hành chính có thái độ phục vụ tốt và tôn
trọng tôi
SQ2 Các nhân viên hành chính giao tiếp tốt với tôi
SQ3 Khi tôi gặp vấn đề, nhân viên hành chính rất quan tâm
giải quyết
SQ4
Nhân viên hành chính có kiến thức tốt về hệ thống
và/hoặc các thủ tục
Firdaus
(2005) SQ5
Các nhân viên hành chính không bao giờ tỏ ra quá bận
rộn để phản hồi những yêu cầu của tôi
SQ6 Các yêu cầu và khiếu nại của tôi được nhân viên hành
chính giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả
SQ7
Các nhân viên hành chính giữ hồ sơ chính xác và có thể
truy xuất
Thang đo Các dịch vụ hỗ trợ
Để đo lường các dịch vụ hỗ trợ, tác giả sử dụng thang đo của Gamage và cộng
sự (2008). Thang đo này bao gồm 8 biến quan sát, đo lường 3 khía cạnh: hỗ trợ tài chính,
cố vấn học tập và dịch vụ việc làm và tư vấn nghề nghiệp.
72
Bảng 3.7: Thang đo các dịch vụ hỗ trợ
Nội dung Ký hiệu Nguồn
SS1 Nhà trường có nhiều loại học bổng dành cho sinh
viên xứng đáng
SS2
Nhà trường hỗ trợ sinh viên đủ tiêu chuẩn để vay vốn
tín dụng
SS3
Nhà trường đưa ra các kế hoạch linh hoạt để sinh viên
nộp học phí và trả các khoản vay sinh viên
SS4 Các cố vấn học tập rất quan tâm lắng nghe và trợ Gamage và cộng giúp tôi sự (2008)
SS5
Tôi có thể nhận được các tư vấn của cố vấn học tập
về các vấn đề cá nhân
SS6
Nhà trường cung cấp hướng dẫn cho sinh viên về
việc làm sau khi tốt nghiệp
SS7 Nhà trường có kết nối với các ngành công nghiệp
quan trọng để tạo cơ hội tuyển dụng nghề nghiệp
cho sinh viên
SS8
Nhà trường có một mạng lưới truyền thông để thông
tin về việc làm cho sinh viên
Thang đo Công bằng
Công bằng là khái niệm bắt nguồn từ lý thuyết công bằng của J. Adams (1963)
và được đề cập nhiều trong các giao dịch xã hội (Wu, 2013). Công bằng đề cập đến nhận
thức về công bằng đối với các chính sách, tiêu chuẩn (Voorhees và Brady, 2005). Trong
luận án, tác giả đề cập đến đánh giá về sự phù hợp, nhất quán, chính xác và có khả năng
phản hồi của sinh viên với quá trình cung cấp thông tin và ra quyết định. Thang đo này
được lấy từ thang đo của Usmani và Jamal (2013) gồm 5 biến quan sát.
73
Bảng 3.8: Thang đo Công bằng
Ký hiệu Nội dung Nguồn
PJ1 Thầy/cô giải thích rõ các quyết định và cung cấp thêm
thông tin khi sinh viên yêu cầu
PJ2
Khi đưa ra quyết định, thầy/cô thu thập thông tin
chính xác và đầy đủ
PJ3 Usmani và Jamal
(2013) Thầy/cô đảm bảo rằng tất cả các quan tâm của sinh
viên đều được lắng nghe trước khi quyết định
PJ4 Tất cả các quyết định về học tập đều được áp dụng
nhất quán cho mọi sinh viên
PJ5
Sinh viên được phép kháng nghị các quyết định của
thầy/cô
Thang đo Cơ sở vật chất
Thang đo Cơ sở vật chất đo lường trên các khía cạnh: phòng học và trang thiết
bị; thư viện; phòng máy tính. Thang đo này được dẫn từ thang đo của Jain và cộng sự
(2013) bao gồm 5 biến quan sát được đo bằng thang Likert 5 mức độ.
Bảng 3.9: Thang đo Cơ sở vật chất
Nội dung Ký hiệu Nguồn
AF1
Trường có phòng học sạch sẽ, rộng rãi và được trang
bị tốt
AF2
Trường cung cấp trang thiết bị đầy đủ (máy chiếu,
míc...) để hỗ trợ cho các hoạt động giảng dạy và học
tập Jain và cộng sự
(2013)
AF3 Thư viện trường có nguồn tài liệu phong phú, đa dạng
AF4
Tôi có thể dễ dàng truy cập vào các nguồn thông tin:
sách báo, tạp chí, phần mềm, mạng thông tin…
AF5 Phòng máy tính được trang bị đầy đủ và cập nhật
74
Thang đo Hoạt động ngoại khóa
Các hoạt động ngoại khóa bao gồm các câu lạc bộ và các sự kiện xã hội là một
phần hoạt động của nhà trường được sinh viên đánh giá cao. Để đo lường các hoạt động
ngoại khóa, nghiên cứu này sử dụng thang đo của Gamage và cộng sự (2008).
Bảng 3.10: Thang đo Hoạt động ngoại khóa
Ký hiệu Nội dung Nguồn
EA1 Tôi có cơ hội tham gia các hoạt động ngoại khóa
EA2
Các chương trình kỹ năng sống của nhà trường rất
bổ ích
Gamage và cộng
sự (2008) EA3
Tôi có được những kỹ năng sống hữu ích từ hoạt
động ngoại khóa
EA4 Hoạt động ngoại khóa làm cho việc học của tôi trở
nên thú vị hơn
Thang đo Danh tiếng trường đại học
Thang đo Danh tiếng trường đại học thể hiện đánh giá của sinh viên về danh tiếng
và uy tín của trường trong cộng đồng. Nghiên cứu này sử dụng thang đo của Gamage
và cộng sự (2008) bao gồm 4 tiêu chí được đo bằng thang Likert 5 mức độ.
Bảng 3.11: Thang đo Danh tiếng trường đại học
Nội dung Nguồn Ký hiệu
UR1
Trường tôi được bạn bè và gia đình tôi yêu thích và
tôn trọng
UR2
Các phương tiện truyền thông thường có những tin
bài khen ngợi trường tôi Gamage và cộng
sự (2008)
UR3 Trường tôi có các chương trình học thuật danh tiếng
so với các trường đại học khác
UR4
Trường tôi có đội ngũ giảng viên có uy tín trong
nước và quốc tế
75
Thang đo Sự phù hợp về chi phí đào tạo
Chi phí đào tạo chính là học phí mà sinh viên phải nộp cho nhà trường để sử dụng
dịch vụ đào tạo của nhà trường. Trên thị trường hàng hóa, người tiêu dùng thường sẵn lòng
bỏ ra chi phí cao để nhận được sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao nhưng trong môi trường
giáo dục, điều này không hoàn toàn đúng. Đa phần người học muốn bỏ mức chi phí thấp
nhưng mong muốn thu về sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao. Trong nghiên cứu này, tác
giả sử dụng thang đo của LeBlanc và Nguyen (1999).
Bảng 3.12: Thang đo Sự phù hợp về chi phí đào tạo
Nội dung Ký hiệu Nguồn
TF1 Khi xem xét mức học phí, tôi tin rằng trường tôi cung
cấp dịch vụ đầy đủ
và TF2
Khi xem xét mức học phí, tôi tin rằng tỷ lệ giá cả/
chất lượng của trường tôi là phù hợp LeBlanc
Nguyen (1999) TF3
Với mức học phí này, tôi tin rằng trường tôi cung cấp
các dịch vụ có chất lượng
Thang đo Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
Kết quả học tập là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của sinh viên. Vì
vậy, việc đánh giá kết quả học tập của giảng viên có công bằng và chính xác hay không
có vai trò quan trọng trong việc dẫn tới sự hài lòng của sinh viên đối với các trải nghiệm
trong học tập tại trường. Dựa trên kết quả nghiên cứu định tính, tác giả đã phát triển
thang đo sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập. Thang đo này bao gồm 4 tiêu chí, đo
lường bằng thang Likert 5 mức độ.
Bảng 3.13: Thang đo Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
Ký hiệu Nội dung Nguồn
OS1 Thầy/cô đánh giá kết quả học tập của tôi chính xác
và công bằng
OS2
Tôi hài lòng với kết quả học tập được đánh giá tại
trường
OS3
Phát triển dựa
trên kết quả
nghiên cứu định
tính Điểm số của tôi phản ánh đúng nỗ lực của tôi trong
quá trình học tập
OS4 Tôi nghĩ rằng việc đánh giá kết quả học tập của
sinh viên là khách quan và khoa học
76
Thang đo Sự hài lòng của sinh viên
Thang đo sự hài lòng của sinh viên bao gồm 5 tiêu chí được dẫn từ thang đo của
Ali và cộng sự (2016). Thang đo này đo lường mức độ hài lòng với quyết định theo học
tại trường, những trải nghiệm thú vị tại trường và đánh giá chung về sự hài lòng với
trường đại học đó.
Bảng 3.14: Thang đo Sự hài lòng của sinh viên
Nội dung Nguồn Ký hiệu
STS1
Tôi hài lòng với quyết định đăng ký học tại trường
này
STS2
Tôi nghĩ rằng sự lựa chọn của tôi khi học ở trường
này là một sự khôn ngoan
Ali và cộng sự
(2016) STS3 Tôi nghĩ rằng tôi đã làm đúng khi tôi chọn học tại
trường đại học này
STS4
Tôi cảm thấy rằng những trải nghiệm của tôi với
trường này rất thú vị
STS5 Nhìn chung, tôi hài lòng với trường đại học của tôi
3.4.2.2 Điều tra thử và hoàn thiện bảng hỏi
Sau khi có bộ thang đo sơ bộ, tác giả tiến hành khảo sát thử nghiệm với một mẫu
nghiên cứu nhỏ tại trường đại học Kinh tế Quốc dân có kích thước mẫu là N = 100. Số
phiếu hợp lệ thu về là N = 92 phiếu, tỷ lệ phản hồi đạt 92%; 15 phiếu không sử dụng
được do thiếu thông tin. Mục đích của nghiên cứu định lượng sơ bộ là nhằm chuẩn hóa
các thuật ngữ và chỉnh sửa các câu hỏi trong phiếu điều tra để đảm bảo người được hỏi
không hiểu sai ý nghĩa của các câu hỏi trước khi tiến hành khảo sát chính thức. Về cơ
bản, phiếu điều tra được chấp nhận, chỉ phải sửa một số vấn đề liên quan đến ngữ nghĩa
để tránh người trả lời hiểu sai và thay đổi trật tự một số câu hỏi để thuận tiện hơn cho
người trả lời.
Nội dung của bảng hỏi bao gồm:
Phần giới thiệu: giới thiệu mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu, đảm bảo tính bí mật
và lời mời các đối tượng tham gia trả lời phiếu khảo sát.
77
Phần nội dung chính: gồm 4 phần chính được sắp xếp một cách khoa học liên
quan đến các vấn đề lớn: đánh giá chất lượng giảng viên và chương trình đào tạo; đánh
giá chất lượng nhân viên hành chính và các dịch vụ hỗ trợ; đánh giá cơ sở vật chất; và
sự hài lòng với đánh giá kết quả học tập và sự hài lòng của sinh viên. Các yếu tố trong
mô hình được đưa vào phù hợp với nội dung của 4 phần trên.
Phần thông tin cá nhân: bao gồm các câu hỏi về nhân khẩu học của đối tượng
khảo sát.
3.4.3 Chọn mẫu và thu thập dữ liệu
3.4.3.1 Phương pháp chọn mẫu
Kích thước mẫu tối ưu phụ thuộc vào kỳ vọng về độ tin cậy, phương pháp phân
tích dữ liệu, phương pháp ước lượng được sử dụng trong nghiên cứu, các tham số cần
ước lượng. Để tiến hành phân tích hồi quy tốt nhất, theo Tabachnick và Fidell (1996),
kích thước mẫu n ≥ 8m + 50 (m là số biến độc lập trong mô hình); còn theo Aprimer thì
n ≥ 104 + m. Để phục vụ cho kiểm định thang đo, các nhà nghiên cứu không đưa ra con
số cụ thể về kích thước mẫu cần thiết mà đưa ra tỷ lệ giữa kích thước mẫu cần thiết và
số tham số cần ước lượng. Đối với phân tích nhân tố (EFA), kích thước mẫu sẽ phụ
thuộc vào số lượng biến được đưa ra trong phân tích nhân tố. Hair và cộng sự (1998)
cho rằng kích thước mẫu cần gấp 5 lần số lượng biến. Trong nghiên cứu này có tất cả
60 biến quan sát cần tiến hành phân tích nhân tố, vì vậy cỡ mẫu tối thiểu cần là: 60 x
5 = 300 quan sát. Để đảm bảo độ tin cậy của điều tra, mặc dù yêu cầu của kích cỡ mẫu
chỉ là 300 quan sát, tác giả quyết định xây dựng mẫu ban đầu là 1.000 quan sát.
Tổng thể nghiên cứu là toàn bộ sinh viên hệ chính quy của các trường đại học hệ
công lập và hệ tư thục trên địa bàn Hà Nội. Đây cũng là nơi tập trung một số lượng lớn
các trường đại học. Mặc dù thu hẹp phạm vi là địa bàn Hà Nội, số lượng các trường đại
học vẫn quá lớn (theo Wikipedia, Hà Nội có 43 trường đại học công lập, 30 học viện
công lập và 14 trường đại học tư thục). Với mong muốn so sánh tác động của chất lượng
dịch vụ đào tạo đại học tới sự hài lòng của sinh viên nhóm trường công và trường tư, tác
giả sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tổ với tiêu chí phân tổ là loại trường (công,
tư), trong mỗi tổ sẽ chọn đối tượng theo cách chọn mẫu thuận tiện. Tác giả cũng tập
trung vào đối tượng sinh viên ngành kinh tế và quản trị kinh doanh do đây là hai ngành
phổ biến trong cả trường công và trường tư. Nhóm sinh viên từ năm thứ 2 trở lên được
lựa chọn để khảo sát do sinh viên năm nhất mới vào trường còn bỡ ngỡ, chưa có nhiều
trải nghiệm nên khó đánh giá chính xác về chất lượng dịch vụ đào tạo của trường.
78
3.4.3.2 Thu thập dữ liệu
Do chia đối tượng khảo sát theo loại trường và ngành học, tác giả đến các lớp
vào thời gian nghỉ giữa các tiết, xin phép giảng viên và tiến hành phát bảng hỏi giấy cho
sinh viên 10 trường đại học trong đó có 5 trường đại học công lập và 5 trường đại học
tư thục. Khi phát bảng hỏi, tác giả đều có hướng dẫn chi tiết để người thực hiện khảo sát
có thể hiểu và trả lời đầy đủ các câu hỏi trong bảng hỏi, tránh hiểu lầm hoặc bỏ sót các
câu hỏi.
Sau bốn tháng khảo sát (từ tháng 01/2019 đến tháng 04/2019), tổng số phiếu thu
về là 712 phiếu. Sau khi loại những phiếu không đạt yêu cầu (do có nhiều câu hỏi bỏ trống),
số phiếu còn lại là 594 phiếu.
3.4.4 Phương pháp phân tích dữ liệu
3.4.4.1 Đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha
Trước hết, độ tin cậy của thang đo được đánh giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha.
Sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước khi phân tích nhân tố EFA để
loại các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể tạo ra các yếu tố giả. Hệ số tin cậy
Cronbach’s Alpha chỉ cho biết các đo lường có liên kết với nhau hay không; nhưng không
cho biết biến quan sát nào cần bỏ đi và biến quan sát nào cần giữ lại. Khi đó, việc tính toán
hệ số tương quan giữa biến-tổng sẽ giúp loại ra những biến quan sát nào không đóng góp
nhiều cho sự mô tả của khái niệm cần đo (Hoàng và Chu, 2005). Trong nghiên cứu này, tác
giả chọn thang đo có độ tin cậy Cronbach’s Alpha lớn hơn 0.6 (các khái niệm trong
nghiên cứu này là tương đối mới đối với đối tượng nghiên cứu khi tham gia trả lời).
3.4.4.2 Đánh giá giá trị thang đo bằng phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Phương pháp phân tích nhân tố EFA thuộc nhóm phân tích đa biến phụ thuộc lẫn
nhau (interdependence techniques), nghĩa là không có biến phụ thuộc và biến độc lập
mà nó dựa vào mối tương quan giữa các biến với nhau (interrelationships). EFA dùng
để rút gọn một tập k biến quan sát thành một tập F (F
Cơ sở của việc rút gọn này dựa vào mối quan hệ tuyến tính của các nhân tố với các biến
nguyên thủy (biến quan sát). Các tác giả Mayers và cộng sự (2000) đề cập rằng trong
phân tích nhân tố, phương pháp trích Pricipal Components Analysis đi cùng với phép
xoay Varimax là cách thức được sử dụng phổ biến nhất.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp trích Pricipal Components
Analysis với phép xoay Varimax; hệ số tải nhân tố (Factor loading ) > 0.4.
79
3.4.4.3 Phân tích nhân tố khẳng định CFA
Trong kiểm định thang đo, phương pháp CFA trong phân tích mô hình cấu trúc
tuyến tính (SEM) có nhiều ưu điểm hơn so với các phương pháp truyền thống. Để đo
lường mức độ phù hợp của mô hình với thông tin thị trường, người ta thường sử dụng
Chi-square (CMIN); Chi-square điều chỉnh theo bậc tự do (CMIN/df); chỉ số thích hợp
so sánh (CFI: Comparative Fit Index). Chỉ số Tucker & Lewis (TLI: Tucker & Lewis
Index); chỉ số RMSEA (Root Mean Square Error Approximation). Mô hình được xem
là thích hợp với dữ liệu thị trường khi kiểm định Chi-square có P_value > 0.05. Trong
nghiên cứu này, với mẫu nghiên cứu là N = 594 > 200, tác giả sẽ sử dụng tiêu chuẩn
CMIN/df <5. Ngoài ra, một mô hình nhận được các giá trị GFI, TLI, CFI ≥ 0.9 (Bentler
và Bonett, 1980); RMSEA ≤ 0.08, RMSEA ≤ 0.05 được coi là rất tốt (Steiger, 1990) thì
mô hình được xem là phù hợp với dữ liệu thị trường, hay tương thích với dữ liệu thị
trường.
Ngoài ra, khi CFA cần đánh giá các giá trị khác:
- Độ tin cậy của thang đo: thông qua Hệ số tin cậy tổng hợp và Tổng phương sai
trích được.
- Tính đơn hướng/ đơn nguyên
- Giá trị hội tụ
- Giá trị phân biệt.
3.4.4.4 Kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu bằng phân tích cấu trúc tuyến tính
(SEM)
Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử dụng để kiểm định mô hình và các
giả thuyết nghiên cứu. Mô hình SEM đã được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nghiên
cứu như tâm lý học (Anderson và Gerbing, 1988; Hansell và White, 1991), xã hội học
(Lavee, 1988; Lorence và Mortimer, 1985), nghiên cứu sự phát triển của trẻ em
(Anderson, 1987; Biddle và Marlin, 1987) và trong lĩnh vực quản lý (Tharenou và cộng
sự, 1994). Mô hình SEM là sự mở rộng của mô hình tuyến tính tổng quát (GLM) cho
phép nhà nghiên cứu kiểm định một tập hợp phương trình hồi quy cùng một lúc. SEM có
thể cho một mô hình phức hợp phù hợp với dữ liệu như các bộ dữ liệu khảo sát trong
dài hạn (longitudinal), phân tích nhân tố khẳng định (CFA), các mô hình không chuẩn
hoá, cơ sở dữ liệu có cấu trúc sai số tự tương quan, dữ liệu với các biến số không chuẩn
(Non-Normality), hay dữ liệu bị thiếu (missing data). Đặc biệt, SEM sử dụng để ước
lượng các mô hình đo lường (Mesurement Model) và mô hình cấu trúc (Structure Model)
của bài toán lý thuyết đa biến. Mô hình đo lường chỉ rõ quan hệ giữa các biến tiềm ẩn
(Latent Variables) và các biến quan sát (observed variables). Nó cung cấp thông tin về
80
thuộc tính đo lường của biến quan sát (độ tin cậy, độ giá trị). Mô hình cấu trúc chỉ rõ
mối quan hệ giữa các biến tiềm ẩn với nhau. Các mối quan hệ này có thể mô tả những
dự báo mang tính lý thuyết mà các nhà nghiên cứu quan tâm.
3.4.4.5 Phân tích cấu trúc đa nhóm
Phân tích cấu trúc đa nhóm được sử dụng để so sánh mô hình nghiên cứu theo
nhóm của các biến định tính (ví dụ, nhóm nam và nhóm nữ trong biến giới tính; nhóm
trường công và trường tư trong biến loại trường...).
Đầu tiên, tác giả làm 2 mô hình: mô hình khả biến và mô hình bất biến (từng
phần). Trong mô hình khả biến, các tham số ước lượng trong từng mô hình của các nhóm
không bị ràng buộc. Trong mô hình bất biến, thành phần đo lường không bị ràng buộc
nhưng các mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình nghiên cứu được ràng buộc
có giá trị như nhau cho tất cả các nhóm.
Kiểm định Chi-square được sử dụng để so sánh giữa hai mô hình. Nếu kiểm định
Chi-square cho thấy giữa mô hình bất biến và mô hình khả biến không có sự khác biệt
(P_value >0.05) thì mô hình bất biến sẽ được chọn (có bậc tự do cao hơn). Ngược lại, nếu
sự khác biệt Chi-square là có ý nghĩa giữa hai mô hình (P_value <0.05) thì chọn mô hình
khả biến (có độ tương thích cao hơn) (Nguyễn và Nguyễn, 2008).
81
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Mô tả mẫu nghiên cứu
Tác giả đã tiến hành phát phiếu khảo sát tại 10 trường đại học trong đó có 5
trường công lập và 5 trường tư thục. Các trường công lập gồm: trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Ngoại
thương, trường Đại học Thương mại và trường Đại học Công đoàn. Các trường tư thục
gồm: trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ, trường Đại học Phương Đông, trường
Đại học Thăng Long, trường Đại học Quốc tế Bắc Hà và trường Đại học Đông Đô. Số
lượng phiếu điều tra phát ra là 1.000 phiếu, thu về 712 phiếu (đạt 71,2%), tuy nhiên sau
khi sàng lọc và loại bỏ các phiếu không hợp lệ (do có nhiều câu hỏi bị bỏ trống), tác giả
chỉ sử dụng 594 phiếu hợp lệ để dùng trong phân tích chính thức.
Kết quả mô tả mẫu nghiên cứu định lượng chính thức được trình bày trong bảng
dưới đây:
Bảng 4.1: Mô tả mẫu nghiên cứu
Tiêu chí Chi tiết Số lượng Tỷ lệ (%)
276 46.5 Trường công
+ Đại học Kinh tế quốc dân 150 25.3
+ Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 45 7.6
+ Đại học Ngoại thương 30 5.1
+ Đại học Thương mại 25 4.2
+ Đại học Công đoàn 26 4.4 Loại
trường
318 53.5 Trường tư
+ Đại học Kinh doanh và Công nghệ 120 20.2
+ Đại học Phương Đông 83 14
+ Đại học Thăng Long 60 10.1
82
Tiêu chí Chi tiết Số lượng Tỷ lệ (%)
+ Đại học Quốc tế Bắc Hà 42 7.1
+ Đại học Đông Đô 13 2.2
229 38.5 Giới tính Nam
365 61.4 Nữ
90 15.1 Thứ 2
Năm học 474 79.8 Thứ 3
30 5.1 Thứ 4
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Kết quả mô tả mẫu cho thấy, trong tổng số 594 phiếu khảo sát, xét theo loại
trường thì trường công có 276 phiếu, chiếm tỷ lệ 46.5%, trường tư có 318 phiếu, chiếm
tỷ lệ 53.5%. Tính cụ thể theo trường thì trường đại học Kinh tế quốc dân có số phiếu
nhiều nhất: 150 phiếu, chiếm 25.3%, trường đại học Đông Đô có số phiếu ít nhất: 13
phiếu, chiếm tỷ lệ 2.2%.
Về giới tính, số lượng nam sinh viên trả lời là 229 phiếu, chiếm tỷ lệ 38.5%, số
lượng nữ sinh viên trả lời là 365 phiếu, chiếm tỷ lệ 61.4%.
Về năm học, phần lớn sinh viên trả lời đang học năm thứ 3 (474 phiếu, chiếm
79.8%), tiếp theo là sinh viên năm thứ 2 (15.1%) và sinh viên năm thứ 4 (5.1%).
4.2 Kết quả thống kê mô tả sự hài lòng của sinh viên
Bảng 4.2: Thống kê mô tả về sự hài lòng của sinh viên
Điểm
trung bình Điểm tối
thiểu Điểm tối
đa Độ lệch
chuẩn
2.00 5.00 4.0236 0.70835 Sự hài lòng về đánh giá kết quả
học tập (OS)
Sự hài lòng của sinh viên (STS) 1.40 5.00 4.1327 0.66015
Nguồn: Tác giả tổng hợp
83
Bảng kết quả 4.2 cho thấy mức độ hài lòng của sinh viên về đánh giá kết quả học
tập và mức độ hài lòng chung đều trên mức 4 điểm (trên thang đo Likert 5 mức độ),
trong đó sự hài lòng của sinh viên đạt điểm rất cao 4.13/5 điểm. Điều đó cho thấy sinh
viên rất hài lòng khi chọn được đúng trường của mình.
Phân tích sâu hơn các tiêu chí trong thang đo sự hài lòng về đánh giá kết quả học
tập, sinh viên cho rằng thầy cô đánh giá chính xác và công bằng kết quả học tập của bản
thân (điểm: 4.07/5). Tuy nhiên, tiêu chí mức độ hài lòng về đánh giá kết quả học tập ở
mức điểm thấp nhất trong 4 tiêu chí với độ lệch chuẩn cao nhất (0.861). Điều đó cho thấy
4.07
0.88
4.08
4.06
0.861
0.86
4.04
0.84
4.02
4.02
4.02
0.82
4
0.81
0.81
3.98
0.8
3.98
0.789
0.78
3.96
0.76
3.94
0.74
3.92
Tôi hài lòng với kết quả
học tập tại trường
Thầy/cô đánh giá kết
quả học tập của tôi
chính xác và công bằng
Điểm số của tôi phản
ánh đúng nỗ lực của tôi
trong quá trình học tập
Tôi nghĩ rằng việc đánh
giá kết quả học tập của
sinh viên là khách quan
và khoa học
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
khoảng cách trong đánh giá của sinh viên về sự hài lòng với đánh giá kết quả học tập.
Hình 4.1: Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Trong biểu đồ sự hài lòng của sinh viên, đánh giá chung về mức độ hài lòng với
trường đại học của mình đạt mức điểm cao nhất (điểm: 4.24/5) cho thấy nhìn chung sinh
viên hài lòng khi học ở trường. Mặc dù tất cả các tiêu chí trong thang đo này đều được
đánh giá trên 4 điểm nhưng tiêu chí “nghĩ rằng sự lựa chọn khi học trường này là một
sự khôn ngoan” đang có mức điểm thấp nhất (điểm 4.08/5). Điều đó có thể lý giải là sự
lựa chọn trường đại học đôi khi không đến từ phía sinh viên mà do cha mẹ, người thân
lựa chọn. Ngoài ra, độ lệch chuẩn của tiêu chí “hài lòng với quyết định đăng ký học tại
trường này” cũng ở mức cao nhất (0.803 điểm) cũng bổ sung cho sự lý giải ở trên về
việc chọn trường đại học.
4.3
0.82
4.24
0.803
0.8
4.25
0.782
0.78
4.2
0.77
0.76
0.758
4.15
4.12
4.11
4.11
0.74
0.732
4.08
4.1
0.72
4.05
0.7
4
0.68
Tôi hài lòng với
quyết định đăng
ký học tại trường
này
Nhìn chung, tôi
hài lòng với
trường đại học
của tôi
Tôi nghĩ rằng sự
lựa chọn của tôi
khi học ở trường
này là một sự
khôn ngoan
Tôi nghĩ rằng tôi
đã làm đúng khi
tôi chọn học tại
trường đại học
này
Tôi cảm thấy
rằng những trải
nghiệm của tôi
với trường này
rất thú vị
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn
84
Hình 4.2: Sự hài lòng của sinh viên
Nguồn: Tác giả tổng hợp
4.3 Kết quả đánh giá thang đo
4.3.1 Kết quả đánh giá độ tin cậy của các thang đo
Tác giả tiến hành đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng kiểm định Cronbach’s
Alpha.
Bảng 4.3: Cronbach’s Alpha của các thang đo trong nghiên cứu
TT Biến quan sát Hệ số Cronbach’s
Alpha
1 Chất lượng giảng viên (LQ) 0.883
2 Chất lượng chương trình đào tạo (EP) 0.869
3 Chất lượng của nhân viên hành chính (SQ) 0.924
4 Các dịch vụ hỗ trợ (SS) 0.891
5 Cơ sở vật chất (AF) 0.846
6 Các hoạt động ngoại khóa (EA) 0.841
7 Danh tiếng trường ĐH (UR) 0.835
8 Công bằng (PJ) 0.863
9 Sự phù hợp về chi phí đào tạo (TF) 0.815
10 Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập (OS) 0.889
11 Sự hài lòng của sinh viên (STS) 0.910
Nguồn: Tác giả tổng hợp
85
Bảng kết quả 4.3 cho thấy hệ số độ tin cậy Cronbach’s Alpha của các thang đo
đều lớn hơn 0.6 (thấp nhất là thang đo sự phù hợp về chi phí đào tạo: 0.815 và cao nhất
là thang đo chất lượng của nhân viên hành chính: 0.924) và hệ số tương quan biến –
tổng đều lớn hơn 0.4, do vậy các thang đo này đều có độ tin cậy cao và là những thang
đo lường tốt.
4.3.2 Đánh giá thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Tiếp theo, để đánh giá độ tin cậy và giá trị của thang đo, phân tích nhân tố
khám phá (EFA) được thực hiện. Thang đo các biến độc lập và phụ thuộc được tách
riêng để đánh giá.
Tác giả đưa 9 thang đo các biến độc lập đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo (chất
lượng giảng viên, chất lượng nhân viên hành chính, chất lượng chương trình đào tạo, các
dịch vụ hỗ trợ, cơ sở vật chất, các hoạt động ngoại khóa, danh tiếng của trường, sự phù hợp
về chi phí đào tạo và công bằng) vào phân tích nhân tố khám phá với phương pháp Principal
Component Analysis, sử dụng phép xoay Varimax, phương pháp kiểm định KMO và
Bartlett để đo lường sự tương thích của mẫu khảo sát. Hệ số tải nhân tố đạt mức ít nhất bằng
0.4. Sau nhiều lần loại biến theo nguyên tắc: biến quan sát không đảm bảo hệ số tải tiêu
chuẩn là 0.4; biến quan sát tải không rõ ràng hoặc cao đều hay thấp đều ở từ hai nhân tố trở
lên, kết quả phân tích giúp loại bỏ 8 chỉ báo có hệ số tải không đạt yêu cầu (SS1, LQ6, UR3,
UR4, AF5, EP4, EP5, EP6). 08 nhân tố được rút ra với tổng phương sai trích là 66.03%.
Trong các nhân tố này, 2 chỉ báo thuộc danh tiếng hội tụ với 4 chỉ báo hoạt động ngoại
khóa. Về ý nghĩa, sẽ không hợp lý khi gộp các chỉ báo của thang đo danh tiếng trường đại
học và các hoạt động ngoại khóa. Tuy nhiên, do thang đo danh tiếng trường đại học trong
nghiên cứu này được kế thừa từ Gamage và cộng sự (2008) và thang đo này cũng được sử
dụng và đánh giá là tốt trong nghiên cứu khác, vì vậy tác giả quyết định đưa thang đo danh
tiếng trường đại học vào chạy CFA để tiếp tục đánh giá thang đo này.
Tác giả tiếp tục chạy Cronbach’s Alpha đối với các thang đo sau khi đã loại biến.
Kết quả cho thấy các thang đo đều đạt yêu cầu. Tiếp đó, tác giả lần lượt tiến hành phân
tích nhân tố khám phá EFA biến sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập và sự hài lòng
của sinh viên. Kết quả cho thấy nhân tố sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập gồm 4
biến quan sát được rút ra với tổng phương sai trích là 75.11% và sự hài lòng của sinh
viên gồm 5 biến quan sát với tổng phương sai trích là 73.86%. Kết quả kiểm định độ tin
cậy của thang đo sau khi loại biến được thể hiện trong bảng 4.4 dưới đây.
86
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo
Chỉ tiêu (Items)
Hệ số tải
(FL)
Cronbach’s
alpha
Chất lượng của nhân viên hành chính (SQ)
0.924
Các nhân viên hành chính giao tiếp tốt với tôi
0.825
Nhân viên hành chính có thái độ phục vụ tốt và tôn trọng tôi
0.820
Khi tôi gặp vấn đề, nhân viên hành chính rất quan tâm giải quyết
0.785
0.705
Các nhân viên hành chính không bao giờ tỏ ra quá bận rộn để phản
hồi những yêu cầu của tôi
0.682
Nhân viên hành chính có kiến thức tốt về hệ thống và/hoặc các thủ
tục
0.657
Các yêu cầu và khiếu nại của tôi được nhân viên hành chính giải
quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả
Các nhân viên hành chính giữ hồ sơ chính xác và có thể truy xuất
0.573
0.886
Chất lượng của các dịch vụ hỗ trợ (SS)
Các cố vấn học tập rất quan tâm lắng nghe và trợ giúp tôi
0.715
0.697
Tôi có thể nhận được các tư vấn của cố vấn học tập về các vấn đề cá
nhân
0.676
Nhà trường cung cấp hướng dẫn cho sinh viên về việc làm sau khi
tốt nghiệp
0.674
Nhà trường có một mạng lưới truyền thông để thông tin về việc
làm cho sinh viên
0.640
Nhà trường có kết nối với các ngành công nghiệp quan trọng để
tạo cơ hội tuyển dụng nghề nghiệp cho sinh viên
0.612
Nhà trường đưa ra các kế hoạch linh hoạt để sinh viên nộp học phí
và trả các khoản vay sinh viên
Nhà trường hỗ trợ sinh viên đủ tiêu chuẩn để vay vốn tín dụng
0.546
87
0.871
Chất lượng giảng viên (LQ)
0.796
Kiến thức chuyên môn của thầy/cô đáp ứng nhu cầu hiểu biết của
tôi
0.758
Thầy/cô có trình độ cao và kiến thức sâu rộng về chuyên môn
giảng dạy
Thầy/cô giúp đỡ tôi một cách cẩn thận và lịch sự
0.674
Thầy/cô không bao giờ quá bận rộn để từ chối hỗ trợ tôi
0.673
Thời gian dành cho việc tư vấn của thầy/cô là đầy đủ và thuận tiện
0.619
Thầy/cô giao tiếp tốt với sinh viên trong lớp học
0.605
Thầy/cô cung cấp phản hồi về sự tiến bộ trong cả quá trình của tôi
0.538
0.503
Khi tôi gặp vấn đề, thầy/cô quan tâm chân thành để giải quyết vấn
đề đó
0.841
Các hoạt động ngoại khóa (EA)
Tôi có cơ hội tham gia các hoạt động ngoại khóa
0.706
Các chương trình kỹ năng sống của nhà trường rất bổ ích
0.672
Tôi có được những kỹ năng sống hữu ích từ hoạt động ngoại khóa
0.671
Hoạt động ngoại khóa làm cho việc học của tôi trở nên thú vị hơn
0.550
0.806
Danh tiếng (UR)
Trường tôi được bạn bè và gia đình tôi yêu thích và tôn trọng
0.523
0.514
Các phương tiện truyền thông thường có những tin bài khen ngợi
trường tôi
0.863
Công bằng (PJ)
0.744
Thầy/cô đảm bảo rằng tất cả các quan tâm của sinh viên đều được
lắng nghe trước khi quyết định
0.697
Khi đưa ra quyết định, thầy/cô thu thập thông tin chính xác và đầy
đủ
0.649
Tất cả các quyết định về học tập đều được áp dụng nhất quán cho
mọi sinh viên
0.616
Thầy/cô giải thích rõ các quyết định và cung cấp thêm thông tin
khi sinh viên yêu cầu
Sinh viên được phép kháng nghị các quyết định của thầy/cô
0.487
88
0.830
Cơ sở vật chất (AF)
Trường có phòng học sạch sẽ, rộng rãi và được trang bị tốt
0.800
0.770
Trường cung cấp trang thiết bị đầy đủ (máy chiếu, míc...) để hỗ trợ
cho các hoạt động giảng dạy và học tập
Thư viện trường có nguồn tài liệu phong phú, đa dạng
0.574
0.573
Tôi có thể dễ dàng truy cập vào các nguồn thông tin: sách báo, tạp
chí, phần mềm, mạng thông tin…
0.815
Sự phù hợp về chi phí (TF)
0.747
Với mức học phí này, tôi tin rằng trường tôi cung cấp các dịch vụ
có chất lượng
0.662
Khi xem xét mức học phí, tôi tin rằng tỷ lệ giá cả/ chất lượng của
trường tôi là phù hợp
0.490
Khi xem xét mức học phí, tôi tin rằng trường tôi cung cấp dịch vụ
đầy đủ
0.833
Chất lượng chương trình đào tạo (EP)
Nội dung chương trình học có liên quan và cập nhật
0.697
0.628
Kiến thức và kỹ năng đạt được trong các khóa học của tôi sẽ giúp
tôi thực hiện công việc tốt
0.491
Nội dung khóa học phù hợp và giúp tôi phát triển các kỹ năng có
thể được sử dụng trong thế giới thực
89
0.889
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập (OS)
Thầy/cô đánh giá kết quả học tập của tôi chính xác và công bằng
0.874
0.880
Tôi hài lòng với kết quả học tập được đánh giá tại trường
0.861
Điểm số của tôi phản ánh đúng nỗ lực của tôi trong quá trình học
tập
0.851
Tôi nghĩ rằng việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên là khách
quan và khoa học
0.910
Sự hài lòng của sinh viên (STS)
0.809
Tôi hài lòng với quyết định đăng ký học tại trường này
0.869
Tôi nghĩ rằng sự lựa chọn của tôi khi học ở trường này là một sự khôn
ngoan
Tôi nghĩ rằng tôi đã làm đúng khi tôi chọn học tại trường đại học này
0.866
0.866
Tôi cảm thấy rằng những trải nghiệm của tôi với trường này rất thú
vị
0.885
Nhìn chung, tôi hài lòng với trường đại học của tôi
Nguồn: Tác giả thống kê
4.3.3 Kiểm định thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (CFA)
Tiếp theo, luận án sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (CFA) để
xác định sự phù hợp của số liệu nghiên cứu với mô hình lý thuyết (về độ tin cậy tổng
hợp, phương sai trích, tính đơn hướng, tính hội tụ và giá trị phân biệt). Mô hình tới hạn
là mô hình mà trong đó các khái niệm nghiên cứu được tự do quan hệ với nhau. Kết quả
kiểm định mô hình tới hạn của luận án như sau:
Về mức độ phù hợp chung: chi-square/df = 2.533; GFI = 0.846; CFI = 0.916; TLI
= 0.907; RMSEA = 0.051 chứng tỏ mô hình thang đo lý thuyết tới hạn phù hợp với dữ
liệu thị trường.
Về giá trị hội tụ: Các trọng số (chuẩn hoá) đều > 0.5 và các trọng số (chưa chuẩn
hoá) đều có ý nghĩa thống kê (p < 0.05) nên các khái niệm đạt được giá trị hội tụ.
Về tính đơn hướng: Mô hình này đo lường này phù hợp với dữ liệu thị trường, và
không có tương quan giữa các sai số đo lường nên nó đạt được tính đơn nguyên.
90
Về độ tin cậy: Độ tin cậy tổng hợp của các thang đo đều lớn hơn 0.6 và phương
sai trích lớn hơn 0.5, do đó các thang đo đạt độ tin cậy.
Bảng 4.5: Độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích
Biến quan sát TT Phương sai
trích (AVE) Độ tin cậy tổng
hợp (CR)
Chất lượng giảng viên (LQ)
0.461 1 0.856
Chương trình đào tạo (EP)
0.630 2 0.836
Chất lượng nhân viên hành chính (SQ)
0.818 3 0.895
Chất lượng dịch vụ hỗ trợ (SS)
0.514 4 0.881
Tính công bằng (PJ)
0.566 5 0.867
Hoạt động ngoại khóa (EA)
0.600 6 0.857
Cơ sở vật chất (AF)
0.522 7 0.812
Chi phí (TF)
0.642 8 0.781
Danh tiếng (UR)
0.676 9 0.806
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học
tập (OS)
0.669 10 0.896
Sự hài lòng của sinh viên (STS)
0.675 11 0.912
Nguồn: Tác giả thống kê
Như vậy, sau khi tiến hành kiểm định thang đo, luận án đã thu được một bộ thang
đo chuẩn, làm cơ sở để tiến hành kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.
4.4 Kết quả kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
4.4.1 Kết quả kiểm định mô hình nghiên cứu
Sau khi thực hiện phân tích EFA và CFA, mô hình nghiên cứu có 9 biến độc lập gồm:
(1) Chất lượng giảng viên; (2) Chất lượng chương trình đào tạo; (3) Công bằng; (4) Chất
lượng nhân viên hành chính; (5) Các dịch vụ hỗ trợ; (6) Các hoạt động ngoại khóa; (7) Cơ sở
vật chất, (8) Sự phù hợp về chi phí đào tạo và (9) Danh tiếng trường đại học. Biến trung gian
là Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập và biến phụ thuộc là Sự hài lòng của sinh viên. Tác
91
giả tiến hành phân tích cấu trúc tuyến tính (SEM) được kết quả như sau: chi-square/df =
2.492; GFI = 0.854; CFI = 0.920; TLI = 0.911; RMSEA = 0.050. Kết quả trên chứng tỏ
mô hình nghiên cứu phù hợp với dữ liệu thị trường.
Phân tích SEM mô hình cấu trúc tuyến tính ta có kết quả kiểm định dưới đây:
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình
(chưa chuẩn hóa)
Estimate
S.E
C.R
P
<---
0.113
2.007
0.045
0.227
Chất lượng giảng
viên
<--- Công bằng
0.583
0.055
10.627
0.000
<---
0.146
0.075
1.961
0.050
Chất lượng chương
trình đào tạo
Sự hài lòng về
đánh giá kết quả
học tập
Sự hài lòng về
đánh giá kết quả
học tập
Sự hài lòng về
đánh giá kết quả
học tập
0.052
7.046
0.000
<---
0.367
<---
-0.118
0.071
-1.667
0.095
Sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập
Chất lượng nhân viên
hành chính
<--- Dịch vụ hỗ trợ
0.201
0.086
2.344
0.019
<---
0.112
-1.618
0.106
-0.181
<---
0.130
0.078
1.670
0.095
Chất lượng giảng
viên
Các hoạt động ngoại
khóa
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng của
sinh viên
<--- Công bằng
0.020
0.104
.189
0.850
<--- Cơ sở vật chất
-0.124
0.085
-1.460
0.144
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng của
sinh viên
<---
0.348
0.069
5.069
0.000
<---
-0.047
0.081
-.576
0.564
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự phù hợp về chi
phí
Chất lượng chương
trình đào tạo
<--- Danh tiếng
0.120
0.087
1.373
0.170
Sự hài lòng của
sinh viên
Nguồn: Tác giả tổng hợp
92
Kết quả trên cho thấy 6/13 mối quan hệ có ý nghĩa thống kê ở mức p<0.05.
Kết quả các trọng số thống kê mang dấu (+) và có ý nghĩa thống kê cho thấy các yếu
tố: Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập (H1), các dịch vụ hỗ trợ (H5), sự phù hợp
về chi phí (H9) có tác động thuận chiều đến sự hài lòng của sinh viên; Chất lượng
giảng viên (H2a), chất lượng chương trình đào tạo (H4a), công bằng (H10a) có tác
động thuận chiều đến Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập.
Tuy nhiên, có 7/13 mối quan hệ không có ý nghĩa thống kê. Đó là mối quan hệ
giữa chất lượng giảng viên với sự hài lòng của sinh viên (p=0.106>0.05); chất lượng
chương trình đào tạo và Sự hài lòng của sinh viên (p=0.564>0.05); công bằng và Sự
hài lòng của sinh viên (p=0.850>0.05); cơ sở vật chất và sự hài lòng của sinh viên
(p=0.144>0.05); danh tiếng trường đại học và sự hài lòng của sinh viên
(p=0.170>0.05); các hoạt động ngoại khóa và sự hài lòng của sinh viên
(p=0.095>0.05). Điều đó cho thấy, mặc dù cả ba nhân tố chất lượng giảng viên, chất
lượng chương trình đào tạo và công bằng không tác động trực tiếp lên sự hài lòng
của sinh viên nhưng lại có tác động trực tiếp lên sự hài lòng về đánh giá kết quả học
tập, do vậy có thể cho rằng ba nhân tố này tác động gián tiếp lên sự hài lòng của sinh
viên thông qua biến trung gian là sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập.
Bảng 4.7: Kiểm định mối quan hệ giữa các khái niệm trong mô hình (chuẩn hóa)
Estimate
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
<---
Chất lượng giảng viên
.145
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
<---
Công bằng
.549
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
<---
.151
Chất lượng chương
trình đào tạo
Sự hài lòng của sinh viên
<---
.397
Sự hài lòng về đánh giá
kết quả học tập
Sự hài lòng của sinh viên
<---
-.150
Chất lượng nhân viên
hành chính
.195
Sự hài lòng của sinh viên
<---
Dịch vụ hỗ trợ
Sự hài lòng của sinh viên
<---
Chất lượng giảng viên
-.125
93
Estimate
Sự hài lòng của sinh viên
.132
<---
Các hoạt động ngoại
khóa
.020
Sự hài lòng của sinh viên
<---
Công bằng
-.116
Sự hài lòng của sinh viên
<---
Cơ sở vật chất
Sự hài lòng của sinh viên
<---
Sự phù hợp về chi phí
.437
Sự hài lòng của sinh viên
-.052
<---
Chất lượng chương
trình đào tạo
.131
Sự hài lòng của sinh viên
<---
Danh tiếng
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Kết quả ước lượng chuẩn hóa các tham số chính thức cho thấy những trọng số
chuẩn hóa mang dấu dương như: Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập (H1), giảng
viên (H2a), chương trình đào tạo (H4a), dịch vụ hỗ trợ (H5), chi phí (H9) và công bằng
(H10a). Ngoài ra, từ kết quả ước lượng theo các trị số tuyệt đối của trọng số chuẩn hóa
cho thấy các yếu tố có tác động đến sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập từ mạnh đến
yếu là: công bằng (0.549); chất lượng chương trình đào tạo (0.151) và chất lượng giảng
viên (0.145). Các yếu tố tác động đến sự hài lòng của sinh viên từ mạnh đến yếu là: chi
phí (0.437); sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập (0.397); dịch vụ hỗ trợ (0.195).
4.4.2 Kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu
Sau khi kiểm định các giả thuyết nghiên cứu bằng mô hình cấu trúc tuyến tính
(SEM), có thể nhận thấy:
- Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập có mối quan hệ thuận chiều với sự hài
lòng của sinh viên (β = 0.367; p <0.001), chấp nhận giả thuyết H1.
- Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng về đánh giá
kết quả học tập (β = 0.227; p=0.045 <0.05), chấp nhận giả thuyết H2a.
- Chất lượng giảng viên không có mối quan hệ với sự hài lòng của sinh viên
(p=0.106>0.05), bác bỏ giả thuyết H2b.
- Chất lượng nhân viên hành chính không có mối quan hệ với sự hài lòng của
sinh viên (p=0.095 >0.05), bác bỏ giả thuyết H3.
- Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng về
94
đánh giá kết quả học tập (β = 0.146; p=0.05), chấp nhận giả thuyết H4a.
- Chất lượng chương trình đào tạo không có mối quan hệ với sự hài lòng của sinh
viên (p=0.564>0.05), bác bỏ giả thuyết H4b.
- Dịch vụ hỗ trợ có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của sinh viên (β =
0.201; p=0.019 <0.05), chấp nhận giả thuyết H5.
- Cơ sở vật chất không có mối quan hệ với sự hài lòng của sinh viên (p=0.144
>0.05), bác bỏ giả thuyết H6.
- Các hoạt động ngoại khóa không có mối quan hệ với sự hài lòng của sinh viên
(p=0.095 >0.05), bác bỏ giả thuyết H7.
- Danh tiếng của trường đại học không có mối quan hệ với sự hài lòng của sinh
viên (p=0.170>0.05), bác bỏ giả thuyết H8.
- Sự phù hợp về chi phí đào tạo có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng của
sinh viên (β = 0.348; p<0.001), chấp nhận giả thuyết H9.
- Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng về đánh giá kết quả học
tập (β = 0.583; p= <0.001), chấp nhận giả thuyết H10a.
- Công bằng không có mối quan hệ với sự hài lòng của sinh viên (p=0.850>0.05),
bác bỏ giả thuyết H10b.
Từ các kết quả kiểm định giả thuyết trên sẽ là cơ sở để đưa ra các nhận xét, kết luận,
định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo để tăng sự hài lòng của sinh viên.
Bảng 4.8: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thuyết
Nội dung Kết quả Giả thuyết
H1 Chấp nhận Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập có mối quan hệ
thuận chiều với sự hài lòng của sinh viên
H2a Chấp nhận Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với
sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
H2b Chất lượng giảng viên có mối quan hệ thuận chiều với Bác bỏ sự hài lòng của sinh viên
H3 Bác bỏ Chất lượng nhân viên hành chính có mối quan hệ thuận
chiều với sự hài lòng của sinh viên
H4a Chấp nhận Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận
chiều với sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
95
H4b Bác bỏ Chất lượng chương trình đào tạo có mối quan hệ thuận
chiều với sự hài lòng của sinh viên
H5 Dịch vụ hỗ trợ có mối quan hệ thuận chiều về sự hài Chấp nhận lòng của sinh viên
H6 Bác bỏ Cơ sở vật chất có mối quan hệ thuận chiều với sự hài
lòng của sinh viên
H7 Bác bỏ Các hoạt động ngoại khóa có mối quan hệ thuận chiều
với sự hài lòng của sinh viên
H8 Danh tiếng trường đại học có mối quan hệ thuận chiều Bác bỏ với sự hài lòng của sinh viên
H9 Chấp nhận Sự phù hợp về chi phí đào tạo có mối quan hệ thuận
chiều với sự hài lòng của sinh viên
H10a Chấp nhận Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng
về đánh giá kết quả học tập
H10b Công bằng có mối quan hệ thuận chiều với sự hài lòng Bác bỏ của sinh viên
Nguồn: Tác giả tổng hợp
4.5 Kiểm định sự khác biệt giữa trường công lập và trường tư thục
4.5.1 Kết quả thống kê mô tả
Tác giả sử dụng thống kê mô tả để so sánh về sự khác biệt trong đánh giá của
sinh viên trường công lập và trường tư thục về từng yếu tố của chất lượng dịch vụ đào
tạo và sự hài lòng. Kết quả cho thấy trong bảng 4.9 dưới đây:
96
Bảng 4.9: So sánh giữa trường công lập và trường tư thục
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
Tiêu chí
Trường
công lập Trường
tư thục Trường
công lập Trường
tư thục
Chất lượng giảng viên 3.88 4.22 0.57 0.46
Chất lượng chương trình đào tạo 3.63 4.09 0.67 0.56
Chất lượng nhân viên hành chính 3.59 4.07 0.84 0.59
Dịch vụ hỗ trợ 3.83 4.14 0.59 0.59
Cơ sở vật chất 3.98 4.07 0.68 0.68
Hoạt động ngoại khóa 3.98 4.19 0.75 0.63
Danh tiếng của trường 4.02 4.07 0.66 0.63
Công bằng 3.85 4.19 0.62 0.57
Sự phù hợp về chi phí 3.75 4.09 0.83 0.70
Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập 3.85 4.17 0.76 0.61
Sự hài lòng của sinh viên 3.99 4.25 0.71 0.58
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Kết quả thống kê mô tả cho thấy điểm trung bình theo các tiêu chí theo đánh giá
của sinh viên trường công lập và trường tư thục có nhiều điểm khá thú vị. Điểm đánh
giá các tiêu chí về chất lượng dịch vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên trường tư thục
đều cao trên 4 (trên thang điểm 5) và trong khi mức điểm này của trường công lập hầu
hết dưới 4 điểm. Sinh viên của trường công lập và trường tư thục đánh giá tương đối
giống nhau về cơ sở vật chất (tương ứng 3.98 và 4.07), danh tiếng trường đại học (4.02
và 4.07) và các hoạt động ngoại khóa (3.98 và 4.19). Sinh viên trường tư thục đánh giá
rất cao chất lượng giảng viên (4.27) và họ cũng có mức độ hài lòng chung rất cao (4.25).
Sinh viên trường công lập cũng đánh giá thấp chất lượng nhân viên hành chính (3.59)
97
so với sinh viên trường tư (4.07). Mức độ hài lòng về đánh giá kết quả học tập của trường
công lập (3.85) cũng thấp hơn so với trường tư thục (4.17).
4.5.2 Phân tích đa nhóm
Biến loại trường được chia thành hai nhóm: trường công lập và trường tư thục.
Tác giả lần lượt chạy SEM của mô hình khả biến và mô hình bất biến từng phần. Kết
quả trên chứng tỏ cả hai mô hình khả biến và bất biến từng phần của hai nhóm trường
công lập và trường tư thục đều phù hợp với dữ liệu thị trường.
Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa các chỉ tiêu tương thích giữa mô hình khả
biến và bất biến từng phần theo loại trường cho thấy sự khác biệt giữa hai mô hình có ý
nghĩa thống kê (p= 0.042<0.05), vì thế mô hình khả biến được chọn và cho phép kết
luận có sự khác nhau giữa trường công lập và trường tư thục trong việc đánh giá tác
động của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên.
Phân tích sâu hơn sự khác biệt giữa trường công lập và trường tư thục:
Bảng 4.11: Bảng trọng số mối quan hệ (chưa chuẩn hóa)
Chung
Trường
công lập
Trường
tư thục
0.458*
<---
Chất lượng giảng viên
0.227* 0.103
Sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập
<---
Công bằng
0.583*** 0.584***
0.541***
Sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập
<---
0.146* 0.162
0.340
Sự hài lòng về đánh
giá kết quả học tập
Chất lượng chương trình
đào tạo
0.297***
<---
0.367*** 0.399***
Sự hài lòng của
sinh viên
Sự hài lòng về đánh giá
kết quả học tập
<---
-0.118 -0.276**
0.053
Sự hài lòng của
sinh viên
Chất lượng nhân viên
hành chính
<---
Dịch vụ hỗ trợ
0.201* 0.395*
0.174
Sự hài lòng của
sinh viên
<---
Chất lượng giảng viên
-0.181 -0.133
-0.107
Sự hài lòng của
sinh viên
<---
0.130 0.266**
-0.059
Sự hài lòng của
sinh viên
Các hoạt động ngoại
khóa
<---
Công bằng
0.020 -0.195
0.034
Sự hài lòng của
sinh viên
<---
Cơ sở vật chất
-0.124 -0.089
-0.080
Sự hài lòng của
sinh viên
<---
Sự phù hợp về chi phí
0.348*** 0.587***
0.011*
Sự hài lòng của
sinh viên
<---
0.084
-0.047 -0.140
Sự hài lòng của
sinh viên
Chất lượng chương trình
đào tạo
<---
Danh tiếng
0.120 -0.003
0.285
Sự hài lòng của
sinh viên
98
P: mức ý nghĩa; ***= p<0.001; ** = p<0.01; *=p<0.05
Nguồn: Tác giả thống kê
Kết quả so sánh trên cho thấy có sự khác biệt trong mối quan hệ giữa chất lượng
dịch vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên ở trường công lập và trường tư thục. Đối
với cả trường công lập và trường tư thục, không tìm thấy mối quan hệ giữa chất lượng
giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo và công bằng với sự hài lòng của sinh viên;
giữa danh tiếng trường đại học với sự hài lòng của sinh viên; giữa cơ sở vật chất với sự
hài lòng của sinh viên và điều này cũng trùng lắp với kết quả đánh giá chung của cả 2
trường.
Tại cả trường công lập và tư thục, kết quả nghiên cứu đều cho thấy mối quan hệ
giữa công bằng và sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập; sự phù hợp về chi phí đào
tạo và sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập; sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
với sự hài lòng của sinh viên.
Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác biệt tại trường công lập và trường tư thục.
Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ hỗ trợ, nhân viên hành chính, các hoạt động ngoại
khóa và sự hài lòng của sinh viên không được tìm thấy tại trường tư thục nhưng được
tìm thấy tại trường công lập. Trong khi đó mối quan hệ giữa giảng viên và sự hài lòng
99
về đánh giá kết quả học tập không tìm thấy ở trường công lập mà chỉ tìm thấy ở trường
tư thục.
Tại trường công lập, mối quan hệ giữa sự phù hợp về chi phí với sự hài lòng của
sinh viên là chặt chẽ nhất (0.587) trong khi ở trường tư thục, mối quan hệ giữa tính công
bằng và Sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập là chặt chẽ nhất (0.541). Rõ ràng, đã có
sự khác biệt trong đánh giá của sinh viên trường công và trường tư.
100
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu này của dựa trên sự tổng hợp của 3 mô hình: HEdPERF của Firdaus
(2005); Gamage và cộng sự (2008); và Jain và cộng sự (2013). Trên cơ sở tổng quan
nghiên cứu, luận án đã đưa ra 9 yếu tố để đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo có ảnh
hưởng đến sự hài lòng của sinh viên bao gồm: chất lượng giảng viên, chất lượng chương
trình đào tạo, chất lượng nhân viên hành chính, dịch vụ hỗ trợ, cơ sở vật chất, danh tiếng
trường đại học, các hoạt động ngoại khóa, sự phù hợp về chi phí đào tạo và công bằng.
Trong các nhân tố này, chất lượng giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo và công
bằng vừa có tác động trực tiếp đến sự hài lòng của sinh viên, vừa có tác động gián tiếp
thông qua sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập. Điều này được lý giải là phần lớn sinh
viên đều coi trọng kết quả học tập và nếu sinh viên hài lòng về đánh giá kết quả học tập
(công bằng và chính xác) thì sẽ có hài lòng chung với trường. Tuy nhiên, chỉ có chất lượng
giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo và công bằng có mối quan hệ trực tiếp với việc
đánh giá kết quả học tập nên sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập chỉ là biến trung gian
của giảng viên và chương trình đào tạo, tính công bằng với sự hài lòng của sinh viên. Công
bằng được rút ra từ lý thuyết công bằng quy trình trở thành một biến độc lập tác động
đến sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập và sự hài lòng của sinh viên. Nghiên cứu
cũng so sánh tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên
trường đại học công lập và tư thục trên địa bàn Hà Nội.
Sau khi thực hiện phân tích nhân tố khám phá (EFA), 8 nhân tố được rút trích so
với 9 nhân tố được đề xuất ban đầu, trong đó danh tiếng trường đại học hội tụ với các hoạt
động ngoại khóa. Tuy nhiên, do thang đo danh tiếng được kế thừa từ thang đo của Gamage
và cộng sự (2008) và đã được kiểm định về độ tin cậy nên tác giả tiếp tục đưa thang đo danh
tiếng vào chạy CFA. Phân tích nhân tố khẳng định CFA được thực hiện sau đó cho thấy mô
hình lý thuyết phù hợp với dữ liệu thị trường. Sau đó, nghiên cứu thực hiện phân tích cấu
trúc tuyến tính (SEM) nhằm kiểm định các mối quan hệ trong mô hình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên các trường đại học đều đánh giá rất cao
các khía cạnh chất lượng dịch vụ đào tạo với mức điểm từ 3.84 trở lên (trên thang điểm
5) đồng thời sự hài lòng của sinh viên với việc lựa chọn trường và những trải nghiệm
giáo dục tại trường cũng cao. Trong các khía cạnh chất lượng dịch vụ đào tạo, chất lượng
giảng viên được đánh giá cao nhất (điểm: 4.12/5) và chất lượng nhân viên hành chính
101
được đánh giá thấp nhất (điểm: 3.84/5). Kết quả cho thấy sinh viên các trường đại học
trên địa bàn Hà Nội đánh giá khá cao chất lượng dịch vụ đào tạo của trường mình. Chất
lượng giảng viên, cơ sở vật chất, danh tiếng trường đại học, các hoạt động ngoại khóa
và công bằng đều được đánh giá trên 4 điểm (số liệu lần lượt là 4.12; 4.05; 4.05; 4.04
và 4.03). Trong khi đó, dịch vụ hỗ trợ, sự phù hợp về chi phí đào tạo, chất lượng chương
trình đào tạo và chất lượng nhân viên hành chính cũng được đánh giá xấp xỉ mức 4 điểm
(số liệu lần lượt là 3.99; 3.93; 3.87 và 3.84). Trong các yếu tố này, độ lệch chuẩn của sự
phù hợp về chi phí đào tạo là cao nhất (0.78), tiếp đó là chất lượng nhân viên hành chính
(0.75). Điều đó cho thấy các trường đại học không phân biệt trường công lập hay trường
tư thục đều rất nỗ lực cung cấp dịch vụ đào tạo chất lượng cao cho sinh viên. Do đó,
mức độ hài lòng của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ đào tạo cũng rất cao.
Đi sâu vào phân tích từng khía cạnh của chất lượng dịch vụ đào tạo có ảnh hưởng
đến sự hài lòng của sinh viên, kết quả chỉ ra như sau:
Về chất lượng giảng viên: Kết quả thống kê mô tả cho thấy sinh viên đánh giá
khía cạnh giảng viên về trình độ, kiến thức, kỹ năng và thái độ của giảng viên với sinh
viên là tốt nhất với điểm trung bình là 4.12/5. Thực tế, hiện nay ở các trường đại học
trình độ của giảng viên hầu hết từ thạc sĩ trở lên, không còn tình trạng “cơm chấm cơm”.
Ngay từ nguồn giảng viên đầu vào, các trường đều chủ động lựa chọn giảng viên có chất
lượng đáp ứng theo chuẩn quốc tế. Ngoài ra, trong quá trình làm việc, giảng viên đều
được tạo điều kiện tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước. Các thầy
cô cũng được đánh giá có thái độ gần gũi và thân thiện với sinh viên (điểm 4.17/5), chủ
động tương tác với sinh viên, hỗ trợ, giúp đỡ sinh viên trong mọi trường hợp với phương
châm “sinh viên là trung tâm của quá trình đào tạo”.
Tuy nhiên kết quả phân tích SEM chỉ ra rằng chất lượng giảng viên không có mối
quan hệ với sự hài lòng của sinh viên. Điều đó cho thấy một yếu tố quan trọng của khía
cạnh học thuật không ảnh hưởng gì đến sự hài lòng của sinh viên. Đây là một kết quả
gây bất ngờ do không giống như các kết quả nghiên cứu của nước ngoài như LeBlanc
và Nguyen (1997), Hill và cộng sự (2003), Firdaus (2006), Douglas và cộng sự (2006),
Chen và cộng sự (2007), Gamage và cộng sự (2008), Hishamuddin và cộng sự (2008),
Tsinidou và cộng sự (2010), Latif và cộng sự (2017)… hay của Việt Nam như Lai và
Nguyen (2017), Nguyễn Thành Long (2006), Trần Xuân Kiên (2006)… Tuy nhiên,
chất lượng giảng viên lại có tác động gián tiếp đến sự hài lòng của sinh viên thông qua
sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập. Điều này có thể lý giải, sinh viên thường dựa
vào kết quả học tập để đánh giá về giảng viên và chất lượng dịch vụ đào tạo, trong khi
giảng viên là người trực tiếp tham gia quá trình đánh giá sinh viên do vậy khi sinh viên
102
hài lòng về đánh giá kết quả học tập, nghĩa là họ đánh giá cao trình độ, khả năng truyền
đạt hay thái độ tích cực của giảng viên.
Về chất lượng chương trình đào tạo: chương trình đào tạo được đo lường trên
2 khía cạnh: nội dung chương trình đào tạo và tính thực tiễn của chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo thường được sinh viên đánh giá cao khi được xây dựng trên nền
tảng nghiên cứu kỹ càng và nội dung các môn học phản ánh được nhu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, sinh viên cho rằng những góp ý của sinh viên về chương trình đào tạo chưa
được nhà trường ghi nhận và điều chỉnh. Thực tế, việc góp ý của sinh viên là cần thiết
nhưng đôi khi sinh viên không nắm được một cách hệ thống chương trình đào tạo nên
nhà trường không dễ dàng thay đổi theo yêu cầu của sinh viên được. Ngoài ra, các môn
học trong một chuyên ngành phải có liên quan mật thiết đến nhau tạo thành một tổ hợp
nhằm cung cấp cho sinh viên một hệ kiến thức đa dạng nhưng hiệu quả trong khi đôi khi
sự lựa chọn của sinh viên đối với các môn học chỉ dựa trên tên của môn học. Ngoài ra,
tính thực tế của chương trình đào tạo cũng chưa được sinh viên đánh giá cao.
Kết quả kiểm định mô hình chỉ ra rằng chất lượng chương trình đào tạo không
mối quan hệ với sự hài lòng của sinh viên. Kết quả này cũng không đồng nhất với các
kết quả nghiên cứu trước đó của Lai và Nguyen (2017), Firdaus (2006), Gamage và cộng
sự (2008), Brochado (2009), Jain và cộng sự (2013), Ali và cộng sự (2017), Nguyễn Thị
Thắm (2010), Phạm Thị Liên (2016). Tuy nhiên, chất lượng chương trình đào tạo cũng
có tác động gián tiếp đến sự hài lòng của sinh viên thông qua biến trung gian là sự hài
lòng về đánh giá kết quả học tập. Điều này cũng có thể lý giải tương tự như với khía
cạnh giảng viên, nghĩa là sinh viên hài lòng với đánh giá kết quả học tập khi họ đánh
giá cao khía cạnh chất lượng chương trình đào tạo và từ đó hài lòng với chất lượng dịch
vụ đào tạo mà nhà trường cung cấp.
Về chất lượng nhân viên hành chính: nhân viên hành chính chủ yếu được đánh
giá trên góc độ thái độ và kỹ năng làm việc. Kết quả cho thấy sinh viên chưa đánh giá
cao các khía cạnh này của nhân viên hành chính. Nhân viên hành chính được đánh giá
tốt nhất ở kiến thức về hệ thống và/hoặc các thủ tục (điểm 3.98/5) cho thấy năng lực của
nhân viên hành chính là tương đối tốt. Tuy nhiên, các yêu cầu và khiếu nại không được
giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả (điểm 3.75/5) cho thấy kỹ năng giải quyết
vấn đề của nhân viên hành chính còn chưa tốt. Thái độ của nhân viên hành chính cũng
được đánh giá là tích cực (điểm 3.82/5). Tuy nhiên, kết quả kiểm định SEM cho thấy
không có mối quan hệ giữa chất lượng nhân viên hành chính và sự hài lòng của sinh
viên. Kết quả này không trùng với các nghiên cứu trước đây của LeBlanc và Nguyen
(1997), Firdaus (20206), Brochado (2009), Ali và cộng sự (2017), Tsinidou và cộng sự
103
(2010), Latif và cộng sự (2017), Marcel và cộng sự (2014), Lai và Nguyen (2017), Phạm
Thị Liên (2016). Do đó, trong tương lai cần tiếp tục có những nghiên cứu tiếp theo về
khía cạnh này.
Về dịch vụ hỗ trợ: các dịch vụ hỗ trợ bao gồm các hỗ trợ tài chính, cố vấn học
tập, dịch vụ việc làm và tư vấn nghề nghiệp. Nếu như trước đây, những vấn đề tài chính
hay tư vấn việc làm sau khi ra trường hoàn toàn do bản thân sinh viên và gia đình tự
quyết thì hiện nay trường đại học cung cấp một kênh hỗ trợ những vấn đề này cho sinh
viên. Sinh viên có thể được cung cấp các gói hỗ trợ tài chính với mức lãi suất thấp trong
khoảng thời gian dài, được đội ngũ cố vấn học tập tư vấn về lựa chọn các môn học và
xử lý các vấn đề xảy ra trong quá trình học tập hay được cung cấp và tư vấn về nghề
nghiệp vào năm cuối khi chuẩn bị ra trường. Đây có thể là một điểm cộng khi sinh viên
đánh giá về chất lượng dịch vụ đào tạo của trường đại học. Kết quả cho thấy sinh viên
đánh giá rất cao các gói học bổng mà nhà trường cung cấp nhằm hỗ trợ tài chính cho
sinh viên trong quá trình học (điểm 4.19/5). Hiện nay, ngoài học bổng do nhà trường
trao tặng những sinh viên có kết quả học tập và rèn luyện tốt, các trường đại học còn
liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức bên ngoài trao những suất học bổng có giá trị cho
các đối tượng sinh viên khác nhau như sinh viên nghèo, sinh viên vượt khó… Về dịch
vụ việc làm và tư vấn nghề nghiệp khi chuẩn bị ra trường cũng được sinh viên đánh giá
tích cực (điểm: 4.03 trở lên trên thang điểm 5). Những hỗ trợ của cố vấn học tập mặc dù
được đánh giá thấp hơn so với những dịch vụ hỗ trợ khác nhưng nhìn chung vẫn được
đánh giá cao tại các trường đại học.
Kết quả kiểm định SEM ủng hộ giả thuyết nghiên cứu về mối quan hệ thuận chiều
của dịch vụ hỗ trợ đến sự hài lòng của sinh viên. Kết quả này cũng tương đồng với các
nghiên cứu của Hoàng Trọng và Hoàng Thị Phương Thảo (2007), Gamage và cộng sự
(2008). Các dịch vụ hỗ trợ này sẽ giúp sinh viên yên tâm và tự tin hơn trong quá trình
học tập và rèn luyện.
Về cơ sở vật chất: bao gồm phòng học và trang thiết bị, phòng máy tính, thư viện,
sân thể thao, hội trường… Kết quả cho thấy sinh viên đánh giá cao nhất về các trang
thiết bị (máy chiếu, míc…) hỗ trợ giảng dạy và học tập (điểm 4.26/5). Hiện nay, các
giảng viên đều sử dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại nên việc có đầy đủ các trang
thiết bị là cần thiết để hỗ trợ quá trình giảng dạy tốt nhất. Các trường đại học bao gồm
cả các trường công lập đều được sinh viên đánh giá có cơ sở vật chất tốt với hệ thống
phòng học hiện đại, sạch sẽ, đầy đủ trang thiết bị. Đây chính là một điểm sáng của các
trường công lập khi các trường cũng nỗ lực cải thiện môi trường học tập giúp sinh viên
có những trải nghiệm tích cực hơn. Ngoài ra, hệ thống thư viện điện tử cũng được xây
104
dựng giúp sinh viên có nguồn tài liệu phong phú, đa dạng phục vụ quá trình học tập.
Tuy nhiên, kết quả kiểm định SEM lại cho thấy không có mối quan hệ giữa cơ
sở vật chất và sự hài lòng của sinh viên. Về lý, sinh viên luôn mong muốn có một môi
trường học tập và sinh hoạt đầy đủ, thoải mái và thuận tiện nên họ sẽ hài lòng với chất
lượng dịch vụ đào tạo khi điều kiện cơ sở vật chất đáp ứng những yêu cầu của họ nhưng
kết quả nghiên cứu lại không chỉ ra mối quan hệ thuận chiều đó. Điều này cũng không
phù hợp với các kết quả nghiên cứu của LaBlanc và Nguyen (1997), Kwan và Ng (1999),
Firdaus (2006), Chen và cộng sự (2007), Gamage và cộng sự (2008), Jain và cộng sự
(2013), Douglas và cộng sự (2006), Marcel và cộng sự (2014), Lai và Nguyen (2017),
Nguyễn Thành Long (2006), Nguyễn Thị Thắm (2010), Phạm Thị Liên (2016). Điều đó
chỉ có thể lý giải là sinh viên đánh giá rất cao khía cạnh cơ sở vật chất của trường đại
học nên việc cải thiện điều kiện cơ sở vật chất không ảnh hưởng nhiều đến sự hài lòng
của sinh viên.
Về các hoạt động ngoại khóa: Hiện nay, sinh viên hiện nay được tiếp xúc nhiều
với các hoạt động ngoại khóa như tham gia các tổ chức đoàn, hội, các câu lạc bộ sinh
viên hay các sự kiện xã hội do trường và các đơn vị phối hợp tổ chức. Qua các hoạt động
xã hội, họ được hòa nhập nhanh hơn với thế giới bên ngoài chứ không đơn giản gói gọn
các hoạt động trong khuôn viên lớp học. Họ cũng được tích lũy các kỹ năng sống hữu
ích để phục vụ cho công việc sau này. Ngoài ra, họ cũng có thêm năng lượng và thấy
việc học ở trường đại học không còn nhàm chán như hồi phổ thông nữa. Do vậy, sinh
viên đánh giá rất cao các hoạt động ngoại khóa của trường. Tuy nhiên, kết quả kiểm
định SEM không cho thấy mối quan hệ giữa các hoạt động ngoại khóa với sự hài lòng
của sinh viên. Kết quả này không phù hợp với các kết quả nghiên cứu của Kwan và Ng
(1999), Peng và Samah (2006), Chen và cộng sự (2007), Gamage và cộng sự (2008).
Nguyên nhân có thể là do sinh viên vẫn coi các hoạt động ngoại khóa là các dịch vụ
được cung cấp thêm bên ngoài chương trình đào tạo nên họ không gộp chung đánh giá
tích cực về các hoạt động ngoại khóa với đánh giá về chất lượng dịch vụ đào tạo mà
trường cung cấp. Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy, không phải tất cả sinh
viên đều được hưởng lợi từ các hoạt động ngoại khóa mà chỉ có một số sinh viên có tính
cách hướng ngoại, thích các hội nhóm nên các hoạt động này chưa được phổ biến trong
toàn trường. Do vậy, các hoạt động ngoại khóa không ảnh hưởng đến sự hài lòng chung
của sinh viên.
Về danh tiếng trường đại học: trên thế giới, danh tiếng của các trường đại học
thường do các tổ chức uy tín đánh giá và xếp hạng tuy nhiên ở Việt Nam, danh tiếng
này có thể do xã hội đánh giá bằng những cảm xúc tích cực hoặc có nhiều bài viết khen
105
ngợi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặc dù khá cảm tính nhưng đây vẫn là
một yếu tố có thể đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo đại học. Kết quả thống kê mô tả
cho thấy sinh viên đánh giá rất cao danh tiếng của trường mình theo học, dù là trường
công hay trường tư và cho rằng trường mình rất được bạn bè và gia đình yêu thích và
tôn trọng (điểm 4.10/5). Họ cũng cho rằng các phương tiện thông tin đại chúng thường
có những tin bài khen ngợi trường (điểm 4.08/5). Như vậy, có thể thấy sinh viên rất tự
hào với danh tiếng của trường đại học. Tuy nhiên, kết quả SEM cho thấy không có mối
quan hệ giữa danh tiếng trường đại học và sự hài lòng của sinh viên. Như vậy, việc sinh
viên đánh giá cao về danh tiếng trường đại học, tự hào khi học tại trường nhưng không
liên quan đến việc sinh viên đánh giá cao về chất lượng dịch vụ đào tạo và từ đó ảnh
hưởng đến sự hài lòng của sinh viên.
Về sự phù hợp về chi phí đào tạo: Chi phí là giá mà sinh viên phải chi trả cho
việc sử dụng dịch vụ đào tạo, tuy nhiên khác với giá cả của sản phẩm, tương quan giá-
chất lượng của dịch vụ đào tạo không đơn thuần có mối quan hệ thuận chiều theo kiểu
giá cao thì chất lượng cao. Mức chi phí/giá được coi là tốt khi ở một mức chi phí phù
hợp, chất lượng dịch vụ vẫn cao. Dựa trên quan điểm đó, kết quả nghiên cứu cho thấy
sinh viên các trường đại học đánh giá tương quan giữa chi phí/giá với chất lượng dịch
vụ đào tạo khá cao. Điều đó cho thấy sinh viên hài lòng với mức chất lượng dịch vụ đào
tạo được cung cấp ở mức chi phí đó. Kết quả kiểm định SEM cũng chỉ ra mối quan hệ
thuận chiều giữa sự phù hợp về chi phí đào tạo với sự hài lòng của sinh viên của sinh
viên. Điều này cũng đã được chỉ ra trong nghiên cứu của Joseph và Joseph (1997),
Vanniarajan và cộng sự (2011), LeBlanc và Nguyen (1999) với mối quan hệ đáng kể
giữa đánh giá chung của sinh viên về giá trị dịch vụ và nhận thức về giá cả dưới dạng
mối quan hệ giá/chất lượng tồn tại tại trường kinh doanh. Một kết quả rõ ràng của phát
hiện này là quản lý phải liên tục cố gắng cung cấp dịch vụ chất lượng cho sinh viên và
đảm bảo rằng học phí nằm trong một phạm vi giá chấp nhận được. Thật vậy, giá phải
thấp hơn hoặc có thể so sánh với các trường kinh doanh khác vì khi giá giữa các lựa
chọn thay thế được coi là tương tự nhau, thì giá cả ít có khả năng ảnh hưởng đến việc ra
quyết định (Monroe và Petroshuis, 1981). Ngược lại, trong trường hợp học phí cao hơn,
ban quản lý nên đầu tư vào các hoạt động quảng cáo nhằm quảng bá hình ảnh của mình
tới sinh viên và các nhóm liên quan khác nhau mà nó tương tác, vì hình ảnh đã được
thừa nhận là yếu tố chính trong việc định vị tổ chức trong tổ chức môi trường cạnh tranh
(LeBlanc và Nguyễn, 1996).
Về công bằng: Công bằng là một khía cạnh của giảng viên và/hoặc nhân viên
hành chính thể hiện sự nhận thức về công bằng đối với các chính sách, tiêu chuẩn. Tuy
106
nhiên, phần lớn các nghiên cứu về công bằng sử dụng lý thuyết công bằng về quy trình
được thực hiện trong các lĩnh vực dịch vụ khác, ít nghiên cứu thực hiện trong lĩnh vực
dịch vụ đào tạo. Afzal (2010) cho rằng cách thức và sự công bằng trong đánh giá và
phân loại sinh viên là một phần không thể tách rời của sự cải tiến chất lượng liên tục của
nhà trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên đánh giá khá cao khía cạnh công
bằng của trường đại học và có mối quan hệ thuận chiều giữa công bằng và Sự hài lòng
về đánh giá kết quả học tập. Tuy nhiên, công bằng không có mối quan hệ với Sự hài
lòng của sinh viên. Điều đó cho thấy công bằng không tác động trực tiếp mà tác động
gián tiếp đến Sự hài lòng của sinh viên thông qua Sự hài lòng về đánh giá kết quả học
tập. Nói cách khác, khi sinh viên cảm thấy được đối xử công bằng về thủ tục, họ sẽ hài
lòng về đánh giá kết quả học tập từ đó hài lòng về chất lượng dịch vụ đào tạo. Kết quả
này cũng khá tương đồng với nghiên cứu của Lind và Taylor (1988) với quan điểm khi
cá nhân cảm thấy tin tưởng vào công bằng, họ sẽ cảm thấy hài lòng hơn với kết quả nhận
được.
Về sự hài lòng với đánh giá kết quả học tập: Đây là một biến mới được phát triển
từ kết quả nghiên cứu định tính. Kết quả kiểm định SEM cho thấy mối quan hệ thuận
chiều giữa sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập với sự hài lòng của sinh viên. Do kết
quả học tập là một trong những tiêu chí cứng để đánh giá năng lực, trình độ của sinh
viên. Tất cả các dịch vụ đào tạo mà nhà trường cung cấp cũng nhằm mục đích để nâng
cao trình độ của sinh viên do vậy nếu sinh viên hài lòng với việc đánh giá kết quả học
tập công bằng và chính xác, họ cũng tự cảm nhận những dịch vụ mà nhà trường cung
cấp cho họ là tốt và từ đó hài lòng với việc lựa chọn trường và những trải nghiệm tại
nhà trường.
Để so sánh giữa các trường đại học công lập và trường đại học tư thục ở Hà Nội
trong việc đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên,
luận án đã thực hiện thống kê mô tả và phân tích đa nhóm. Kết quả thống kê mô tả cho
thấy điểm trung bình theo các tiêu chí về chất lượng dịch vụ đào tạo của trường công
lập và trường tư thục có nhiều điểm khác biệt. Điểm đánh giá các tiêu chí về chất lượng
dịch vụ đào tạo đối với trường tư thục đều cao trên 4 (trên thang điểm 5) và trong khi
mức điểm này của trường công lập hầu hết dưới 4 điểm (ngoại trừ tiêu chí danh tiếng
trường đại học đạt 4.02 điểm). Sinh viên trường tư thục đánh giá rất cao chất lượng
giảng viên (4.22) và các hoạt động ngoại khóa (4.19). Nguyên nhân là giống như các
doanh nghiệp, các trường tư thục hoàn toàn có quyền tuyển giảng viên có chất lượng
cao theo tiêu chí của nhà trường với những đãi ngộ rất cao. Ngoài ra, có một bộ phận
các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đã về hưu ở các trường công lập cũng được mời đến
107
giảng dạy ở các trường tư thục, do vậy chất lượng giảng viên của các trường tư thục
được sinh viên đánh giá rất cao. Các hoạt động ngoại khóa cũng là một điểm nhấn khác
biệt của các trường tư thục, giống như mô hình đào tạo của các trường đại học nước
ngoài, nhằm giúp sinh viên có một môi trường học tập năng động hơn, được giao lưu và
được phát triển các năng lực cá nhân khác trong khi các trường công lập vẫn chú trọng
đào tạo kiến thức chuyên môn. Sinh viên trường tư thục cũng đánh giá rất cao chất lượng
các dịch vụ hỗ trợ (bao gồm hỗ trợ tài chính, cố vấn học tập, tư vấn nghề nghiệp) với
mức điểm là 4.14.
Đối với sinh viên trường công lập, họ đánh giá cao nhất về danh tiếng của trường
đại học (điểm: 4.02). Điều này cũng khá dễ hiểu vì các trường công lập trong mẫu khảo
sát bao gồm: trường đại học Kinh tế Quốc dân, trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội, trường đại học Ngoại thương, trường đại học Thương mại và trường đại học
Công đoàn. Đây đều là các trường có truyền thống lâu đời với danh tiếng, uy tín đã được
khẳng định trong xã hội. Sinh viên trường công lập cũng đánh giá cao khía cạnh cơ sở
vật chất và các hoạt động ngoại khóa (điểm: 3.98). Rõ ràng, các trường đại học công lập
cũng rất nỗ lực cải thiện điều kiện cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu của sinh viên, điển
hình như năm 2018, trường đại học Kinh tế Quốc dân đưa vào sử dụng khu giảng đường
mới được sinh viên đánh giá là “hiện đại nhất Việt Nam” hay có “101 góc sống ảo”.
Ngoài ra, các trường công lập cũng tiệm cận dần với xu hướng của thế giới khi cho phép
sinh viên chủ động và thường xuyên tham gia các hoạt động ngoại khóa ngay tại trường.
Tuy nhiên, sinh viên trường công lập đánh giá rất thấp chất lượng nhân viên hành chính
(điểm: 3.59) và chương trình đào tạo (điểm: 3.63). Điều này có thể lý giải, các trường
công lập có yếu tố lịch sử là ra đời trong thời kỳ bao cấp, trải qua một giai đoạn dài các
hoạt động đào tạo có tính độc quyền nên có một bộ phận cán bộ nhân viên hành chính
vẫn còn thói cửa quyền, hạch sách hoặc vô cảm với sinh viên nên sinh viên đánh giá
không cao chất lượng của bộ phận này. Ngoài ra, cũng trong bối cảnh lịch sử là trong
một thời gian dài các trường công có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nên chương trình đào tạo đôi khi nặng về lý
thuyết, lý luận, gây cảm giác nhàm chán cho sinh viên.
So sánh giữa trường công lập và trường tư thục, khoảng cách về chất lượng nhân
viên hành chính và chương trình đào tạo trong đánh giá của sinh viên là lớn nhất (lần
lượt là 0.48 và 0.46), tiếp đó là chất lượng giảng viên (0.34) và các dịch vụ hỗ trợ (0.31).
Tuy nhiên, cả sinh viên trường công và trường tư thục đánh giá tương đối giống nhau
về cơ sở vật chất (tương ứng 3.98 và 4.07), danh tiếng trường đại học (4.02 và 4.07) và
các hoạt động ngoại khóa (3.98 và 4.19).
108
Kết quả phân tích đa nhóm cho thấy các mối quan hệ được ủng hộ cả ở trường
công lập và trường tư thục: sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập với sự hài lòng của
sinh viên; công bằng với sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập; sự phù hợp về chi phí
đào tạo với sự hài lòng của sinh viên. Tuy nhiên, có một số mối quan hệ được ủng hộ
tại trường công lập nhưng không được ủng hộ tại trường tư thục: dịch vụ hỗ trợ và sự
hài lòng của sinh viên; các ngoại động ngoại khóa và sự hài lòng của sinh viên. Điều
này có thể lý giải là tại trường công lập, sinh viên rất quan tâm đến các dịch vụ hỗ trợ
và các hoạt động ngoại khóa nên khi các yếu tố này tốt hơn thì sự hài lòng của sinh viên
tăng lên. Tuy nhiên, tại các trường tư thục, những yếu tố này hiển nhiên được cung cấp
ở mức rất tốt do các trường tư thục ra đời sau, được tự chủ nhiều hơn và được học hỏi,
rút kinh nghiệm từ các trường khác do vậy sinh viên trường tư thục không quan tâm
nhiều đến mối quan hệ của những yếu tố này với Sự hài lòng của sinh viên. Trong khi
đó, một số mối quan hệ được ủng hộ ở trường tư thục nhưng không có mối quan hệ ở
trường công lập: chất lượng giảng viên và sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập. Rõ
ràng, sinh viên trường công lập mặc định rằng giảng viên của họ rất tốt, có trình độ, kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm cao nên không có mối quan hệ giữa hai yếu tố này. Còn tại
trường tư thục, mối quan hệ này được nhìn nhận theo hướng thuận chiều, nghĩa là chất
lượng giảng viên càng tốt thì sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập càng cao.
5.2 Một số đề xuất từ kết quả nghiên cứu
Trong nhiều thập kỷ qua, hệ thống giáo dục nước ta đang chứa đựng nhiều yếu
tố bất cập, chất lượng giáo dục đại học còn thấp, chưa đáp ứng được kỳ vọng “giáo dục
là quốc sách hàng đầu”. Vẫn biết “nhân tài là nguyên khí quốc gia”, nhưng những điều
kiện vật chất nghèo nàn, cơ chế quản lý lạc hậu, đội ngũ giảng viên vừa thiếu, vừa yếu,…
không tương ứng với tốc độ phát triển của quy mô đào tạo chính là những nguyên nhân
căn bản dẫn tới sự yếu kém của giáo dục đại học. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia
trong và ngoài nước, các trường đại học Việt Nam chưa đào tạo được lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn cao tương ứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế và hội
nhập quốc tế. Nhiều cuộc điều tra, thăm dò gần đây cho thấy, có khoảng 50% sinh
viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, bằng
chứng đó phản ánh sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa đào tạo và nhu cầu của thị
trường. Chương trình đại học của nước ta còn nặng về lý thuyết. Có thể nêu một dẫn
chứng như việc Intel tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở thành phố Hồ Chí Minh.
Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh
viên Công nghệ thông tin Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua
cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu
109
cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những
nước mà họ đầu tư.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, một số khuyến nghị được đưa ra như sau:
Phát triển đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn hóa
về trình độ.
Đội ngũ giảng viên đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo chất lượng đào tạo
của trường đại học. Vì thế, các trường đại học phải xem phát triển đội ngũ giảng viên
đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chuẩn hóa về trình độ là nhiệm vụ trung tâm của
mình. Nâng cao ý thức, lòng say mê nghề nghiệp và tính gương mẫu, mô phạm của
người giảng viên; Tạo cơ hội cho giảng viên được nâng cao bằng cấp (thạc sĩ hoặc tiến
sĩ); Chuẩn bị cho giảng viên trong các lĩnh vực như phương pháp sư phạm, thiết kế và
phát triển giảng dạy, phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao bằng cấp về tâm lý sư
phạm, đo lường và thống kê; Giúp giảng viên phát triển và sử dụng phương pháp dạy
học tương tác và các phương pháp dạy học tích cực; Tạo điều kiện để giảng viên tiếp
cận với các nguồn tri thức mới, chương trình dạy học hiện hành, các tài liệu dạy học liên
quan trên mạng; Hình thành ở người giảng viên những khả năng cần thiết, đáp ứng với
một môi trường đang thay đổi, đó là: Biết và hiểu cách học khác nhau của sinh viên; có
kiến thức, kỹ năng và quan điểm liên quan đến việc kiểm tra, đánh giá sinh viên nhằm
giúp đỡ họ học tập; Nhạy cảm trước những dấu hiệu của thị trường bên ngoài và coi
trọng nhu cầu của nhà tuyển dụng; Hiểu biết về khách hàng, coi trọng quan điểm và
niềm say mê của những người có liên quan, bao gồm cả sinh viên; hiểu biết ảnh hưởng
của nhân tố văn hóa quốc tế và đa văn hóa đối với chương trình học…
Nhà trường cần có quy định cụ thể về việc giảng viên phải dành một khoảng thời
gian nhất định ngoài giờ lên lớp để tư vấn hỗ trợ sinh viên trong học tập. Hầu hết giảng
viên đều được đánh giá cao về kiến thức và phương pháp giảng dạy, tuy nhiên nhà
trường cần tổ chức tập huấn cho giảng viên cách thức để gắn kiến thức môn học riêng
lẻ với nghề nghiệp định hướng của SV.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức,
năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc nhóm của sinh viên
Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là một yêu cầu cấp thiết đối với các
trường đại học, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Phương pháp dạy học là một yếu tố của quá trình đào tạo đại học, có
mối quan hệ với các yếu tố khác. Do đó muốn đổi mới phương pháp dạy học, không thể
không đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, xây dựng và phát triển đội ngũ
110
giảng viên; cơ sở vật chất thiết bị phục vụ đào tạo; kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo.
Điều rõ ràng là việc đổi mới phương pháp dạy học của trường đại học chỉ thực hiện được
khi mục tiêu của trường đại học hướng vào việc đào tạo nhân lực tư duy nhân lực tạo
nghiệp; Các học phần có đủ tài liệu, giáo trình được biên soạn dưới dạng vấn đề, tình
huống có vấn đề; Nhà trường có thiết bị dạy học mới như overhead, projector,
multimedia; Việc kiểm tra, đánh giá nhằm vào lĩnh vực nhận thức bậc cao của sinh viên
(áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá)…
Khi đổi mới phương pháp dạy học, phải hướng vào việc phát huy tính tích cực,
chủ động của sinh viên, tránh lối truyền thụ một chiều, nhồi nhét kiến thức, tiến tới dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề. Đây là định hướng cơ bản nhất đối với việc đổi mới
phương pháp dạy học ở trường đại học, nhằm tạo ra khâu đột phá, từ bỏ thói quen thụ
động, chuyển sang cách học có nghiên cứu, tích cực, chủ động.
Chuẩn hóa chương trình đào tạo về kiến thức và kỹ năng, đáp ứng linh hoạt
nhu cầu nhân lực của thị trường lao động
Chương trình đào tạo cần cập nhật bổ sung định kì để các kiến thức cung cấp cho
SV đáp nhu cầu của thị trường lao động. Bên cạnh đó, nhà trường cần có nhiều giải pháp
thiết thực để phổ biến cho SV biết về mục tiêu đào tạo, chuẩn kĩ năng, kiến thức, điều
kiện tốt nghiệp… của chương trình đào tạo.
Chương trình đào tạo bao gồm khung chương trình và chương trình chi tiết các
học phần.
- Đối với khung chương trình: Khi xây dựng, cần thống nhất chung về số tín chỉ,
số học phần đối với các ngành đào tạo; về cấu trúc học phần theo hướng giảm thời lượng
lý thuyết, tăng thời lượng thực hành, thí nghiệm, thực nghiệm, thực tập, thảo luận, tự
học, tự nghiên cứu của sinh viên (SV); về tính liên thông các học phần thuộc khối ngành,
nhóm ngành; về số lượng các học phần tự chọn…
- Đối với chương trình chi tiết các học phần: Khi xây dựng, cần dựa trên các nội
dung: thông tin về giảng viên, môn học, mục tiêu môn học; tóm tắt nội dung môn học;
nội dung chi tiết môn học; học liệu; hình thức tổ chức dạy học; các quy định đối với
môn học và các yêu cầu khác của giảng viên; phương pháp kiểm tra, đánh giá học phần.
Thực tiễn đào tạo ở nhiều trường đại học hiện nay cho thấy, chương trình đào
tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, dẫn tới chất lượng đào tạo chưa thật sự đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn. Sinh viên tốt nghiệp ra trường còn thiếu nhiều kỹ năng nghề
nghiệp và kỹ năng “mềm” (như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp…) và khả
năng ngoại ngữ. Vì thế, phải mất một thời gian (có khi 2-3 năm) sinh viên mới thích ứng
111
được với công việc mà mình đảm nhận. Thậm chí có những sinh viên còn phải đào tạo
lại mới sử dụng được.
Vì vậy, để nâng cao sự hài lòng của sinh viên, trường đại học cần đặc biệt chú ý
đến việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo. Chương trình đào tạo phải phù hợp
với yêu cầu người học, đáp ứng thị trường lao động và yêu cầu của xã hội. Ngoài ra,
trường cần xây dựng các mối liên hệ với các công ty bên ngoài, tạo điều kiện cho sinh
viên được tham quan, thực tập, tiếp xúc với môi trường thực tế; đồng thời mối liên hệ
này cũng giúp trường nắm được các nhu cầu sử dụng lao động để từ đó thiết kế chương
trình học sát với yêu cầu thực tế và thường xuyên cập nhật, đổi mới chương trình đào
tạo cho phù hợp với nhu cầu nhân lực của xã hội và đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên
cứu của sinh viên.
Đảm bảo các điều kiện về học liệu, trang thiết bị học tập, cơ sở vật chất đáp
ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và sinh viên
Các điều kiện về học liệu, trang thiết bị học tập, cơ sở vật chất đóng một vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo của trường đại học. Vì thế, các điều
kiện này phải đáp ứng những yêu cầu sau đây: Thư viện của trường được nối mạng, có
đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt và tiếng nước ngoài; Có đủ số
phòng học, giảng đường lớn, phòng thực hành, thí nghiệm phục vụ cho giảng dạy, học
tập và nghiên cứu khoa của từng ngành đào tạo; Có đủ trang thiết bị giảng dạy và học
tập để hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, được đảm bảo về chất
lượng và sử dụng có hiệu quả; Cung cấp đầy đủ thiết bị tin học để hỗ trợ hiệu quả các
hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và quản lý; Có đủ diện tích lớp học
theo quy định cho việc giảng dạy và học tập; có ký túc xá cho người học, đảm bảo đủ
diện tích nhà ở và sinh hoạt cho sinh viên nội trú; có trang thiết bị và sân bãi cho các
hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao theo quy định; Có quy hoạch tổng thể
về sử dụng và phát triển cơ sở vật chất trong kế hoạch chiến lược của trường…
Đẩy mạnh đổi mới quản lý đào tạo theo hướng phân cấp cho các phòng ban,
trung tâm, khoa
Phân cấp cho các phòng ban, trung tâm, khoa trong quản lý đào tạo là một yêu
cầu cấp thiết, nhất là khi các trường đại học đã chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín
chỉ. Việc phân cấp này vừa huy động được sự tham gia, vừa phát huy được vai trò của
các phòng ban, trung tâm, khoa trong quản lý đào tạo. Tuy nhiên, để có thể phân cấp,
cần xác định rõ trách nhiệm của Ban Giám hiệu nhà trường, các phòng ban, trung tâm,
các khoa đào tạo, giảng viên trong quản lý đào tạo. Đồng thời phải xây dựng hệ thống
112
văn bản chặt chẽ, chi tiết về chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, trung tâm, khoa
trong công tác quản lý đào tạo; xây dựng phần mềm quản lý đào tạo tiện ích và thân
thiện đối với người sử dụng…
Cải thiện các dịch vụ hỗ trợ và tăng cường các hoạt động ngoại khóa
Các trường đại học cần đầu tư xây dựng đầy đủ các phòng học, phòng thực hành,
phòng thí nghiệm và trang bị đầy đủ các thiết bị cần thiết để sinh viên thực hành, thực
tập. Cần đầu tư bổ sung, cập nhật sách báo, tài liệu tham khảo, tạp chí chuyên ngành
theo yêu cầu của chương trình đào tạo để sinh viên học tập, nghiên cứu. Đồng thời quan
tâm đến công tác tổ chức phục vụ của thư viện, cải thiện thái độ, tin thần phục vụ của
nhân viên các phòng ban để giải quyết kịp thời những yêu cầu của sinh viên.
Nhà trường cần tạo điều kiện, sân chơi, khuyến khích SV tham gia các hoạt động
ngoại khóa nhằm giải tỏa sự căng thẳng trong học tập và trang bị các kĩ năng cần thiết
để dễ dàng gia nhập vào thị trường lao động.
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên hành chính
Khả năng phục vụ của cán bộ nhân viên là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch
vụ đào tạo từ đó ảnh hưởng đến sự hài lòng chung của sinh viên. Vì vậy, nâng cao khả
năng, thái độ phục vụ của cán bộ, nhân viên trong trường là điều cần thiết để nâng cao
sự hài lòng của sinh viên. Đồng thời trường đại học cần có biện pháp nhằm nâng cao,
cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị như phòng học, trang thiết bị học tập, thư viện đủ
học liệu, tài liệu tham khảo và đa dạng về lĩnh vực chuyên ngành thỏa mãn được nhu
cầu tham khảo, học tập và tra cứu của sinh viên…
Tạo lập và duy trì tính công bằng
Công bằng cũng là yếu tố quan trọng tác động đến sự hài lòng của sinh viên. Điều
này có nghĩa là nhà trường cần chú trọng đến các nội quy, quy định, chính sách cần được
xác định rõ ràng. Các quy trình thủ tục nên được lập trình vào hệ thống và vận hành
thông suốt nhằm giúp sinh viên có thể dễ dàng nắm bắt các chính sách từ đó làm tăng
sự hài lòng với chất lượng dịch vụ nhà trường cung cấp và giảm ý định phàn nàn.
5.3 Hạn chế và hướng nghiên cứu trong tương lai
Nghiên cứu này có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, nghiên cứu này xem xét tác động của tám thành phần chất lượng dịch
vụ đào tạo tới sự hài lòng của người học. Tuy nhiên các yếu tố này mới giải thích được
66.03% sự biến thiên về sự hài lòng của người học. Như vậy, có thể còn nhiều yếu tố
khác có thể tác động đến sự hài lòng của người học chưa được nghiên cứu.
113
Thứ hai, nghiên cứu chỉ thực hiện với người học của các trường đại học trên địa
bàn Hà Nội và cũng chỉ tập trung vào khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh. Trong
tương lai, nghiên cứu có thể mở rộng phạm vi khảo sát các trường đại học trên cả nước
và mở rộng cho các khối ngành khác.
Thứ ba, cách lấy mẫu phi xác xuất với phương pháp chọn mẫu thuận tiện có thể
khó mang tính đại diện cao (dù đã được kiểm soát bằng thuộc tính loại trường).
Thứ tư, do nghiên cứu đã được thực hiện từ nhiều năm trước và việc khảo sát
được thực hiện vào năm 2019 khi hình thức học trực tuyến chưa phổ biến nên nghiên
cứu chỉ tập trung vào người học tại các lớp học truyền thống, không nghiên cứu hình
thức học online. Kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0 và đặc biệt là đại dịch Covid 19
đã tạo ra một sự thay đổi đáng kể trong cách dạy – học và cách quản lý giáo dục, hình
thức học online trở nên phổ biến hơn. Do vậy, nghiên cứu trong tương lai có thể tập
trung khảo sát các đối tượng sinh viên học theo hình thức online này.
114
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự phát triển
xã hội là nhiệm vụ quan trọng quyết định sự tồn tại, thành công, sức cạnh tranh của các
trường đại học hiện nay trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, sự thành công
của một cơ sở giáo dục đại học hiện nay ít nhiều tuân thủ theo các quy luật thị trường.
Để tồn tại trong một thế giới không ngừng thay đổi, các trường đại học phải nắm bắt thị
trường, phải hướng đến và đáp ứng nhu cầu khách hàng – sinh viên.
Có thể nói chất lượng dịch vụ đào tạo là điều kiện tồn tại và phát triển của bất kì
một đơn vị nào trong lĩnh vực giáo dục. Chất lượng dịch vụ phải được đánh giá bởi
chính những khách hàng đang sử dụng chứ không phải chỉ theo các tiêu chuẩn kĩ thuật,
số lượng hay các quy định. Khi giáo dục đào tạo là một loại hình dịch vụ điều này đồng
nghĩa với các cơ sở giáo dục trở thành các đơn vị cung cấp dịch vụ. Đối tượng khách
hàng chủ yếu là sinh viên vì họ là đối tượng trực tiếp của quá trình đào tạo và cũng là
“sản phẩm” chính nên ý kiến phản hồi của sinh viên về sự hài lòng đối với giảng viên,
cơ sở vật chất, cũng như quy trình và nội dung giảng dạy có một ý nghĩa nhất định, giúp
cho khoa và trường có những điều chỉnh hợp lý nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sinh
viên và nhu cầu xã hội.
Nghiên cứu này dựa trên sự tổng hợp của ba mô hình đo lường chất lượng giáo
dục đại học là HEdPERF của Firdaus (2005), mô hình của Gamage và cộng sự (2008)
và mô hình của Jain và cộng sự (2013) có điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh Việt
Nam với mục tiêu xác định những yếu tố cấu thành nên chất lượng dịch vụ đào tạo đại
học và tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo đến sự hài lòng của sinh viên đang theo
học ở các trường đại học công lập và tư thục ở Hà Nội từ đó đề xuất các phương án nâng
cao chất lượng dịch vụ đào tạo, qua đó nâng cao sự hài lòng của sinh viên. Để thực hiện
mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
có liên quan, xây dựng mô hình nghiên cứu và phát triển thang đo, thực hiện phỏng vấn
các chuyên gia và khảo sát sinh viên các trường đại học công lập và tư thục trên địa bàn
Hà Nội. Luận án đã đạt được các kết quả nghiên cứu sau:
i/ Tổng quan được các nghiên cứu về chất lượng dịch vụ, chất lượng dịch vụ đào
tạo và sự hài lòng của sinh viên. Làm rõ các khái niệm có liên quan đến chất lượng dịch
vụ đào tạo và sự hài lòng của sinh viên trên cơ sở các khái niệm về chất lượng dịch vụ
và sự hài lòng của khách hàng;
ii/ Đề xuất và kiểm định mô hình lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu về tác
động của chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên. So sánh được mối
quan hệ này giữa các trường đại học công lập và đại học tư thục trên địa bàn Hà Nội;
115
iii/ Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để kiểm định mô hình nghiên cứu
gồm hai bước chính: nghiên cứu sơ bộ (nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
sơ bộ) và nghiên cứu định lượng chính thức trên mẫu điều tra 594 sinh viên các trường
đại học công lập và tư thục trên địa bàn Hà Nội. Luận án sử dụng mô hình cấu trúc tuyến
tính (SEM) để kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu, kiểm tra độ phù hợp của
mô hình với thị trường, đánh giá độ tin cậy, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các
thang đo;
iv/ Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên cả hai loại trường đều đánh giá cao các
khía cạnh về chất lượng dịch vụ đào tạo như danh tiếng của trường đại học, cơ sở vật
chất, chất lượng giảng viên, chất lượng dịch vụ hỗ trợ, chất lượng nhân viên hành chính,
các hoạt động ngoại khóa và cơ sở vật chất với mức điểm từ 3.84 trở lên trên thang
Likert 5 mức độ. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính cho thấy 6/13 giả thuyết
được ủng hộ, trong đó sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập, các dịch vụ hỗ trợ, sự
phù hợp về chi phí có tác động thuận chiều đến sự hài lòng của sinh viên; chất lượng
giảng viên, chất lượng chương trình đào tạo, công bằng có tác động thuận chiều đến
sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập. Trong khi đó, 7/13 giả thuyết không có ý
nghĩa thống kê. Ngoài ra, sinh viên trường tư thục đánh giá về tất cả các khía cạnh của
chất lượng dịch vụ đào tạo cao hơn so với sinh viên trường công lập. Ngoài ra, sinh viên
trường tư thục đánh giá rất cao chất lượng giảng viên và các hoạt động ngoại khóa, trong
khi sinh viên trường tư thục đánh giá rất thấp chất lượng nhân viên hành chính và chương
trình đào tạo.
v/ Với kết quả nghiên cứu này, luận án đưa ra những đề xuất để tăng cường chất
lượng dịch vụ đào tạo nhằm nâng cao sự hài lòng của sinh viên. Đó là, các trường đại
học cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên theo hướng hiện đại, hội nhập
quốc tế; các chương trình đào tạo cần được cập nhật, đổi mới, giảm bớt tính lý thuyết,
tăng thời lượng thực hành; đội ngũ nhân viên hành chính cần được cải thiện về thái độ,
phong cách phục vụ; các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn nghề nghiệp và việc làm, cố vấn học
tập hay hỗ trợ tài chính cần tiếp tục cải thiện và phát huy. Ngoài ra, các khía cạnh đang
được sinh viên đánh giá cao như cơ sở vật chất, các hoạt động ngoại khóa hay danh tiếng
trường đại học cần được tiếp tục duy trì và phát triển đáp ứng và làm hài lòng nhu cầu
ngày càng cao của sinh viên.
Tuy nhiên, do chủ đề của đề tài có phạm vi rộng và nội dung phức tạp, kết quả
nghiên cứu không tránh khỏi những hạn chế nhất định về mẫu nghiên cứu; cách lấy mẫu;
số lượng các yếu tố đo lường chất lượng dịch vụ đào tạo; bối cảnh nghiên cứu. Đó sẽ là
những gợi ý cho những hướng nghiên cứu trong tương lai.
116
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Ngọc Điệp và Đặng Thị Kim Thoa (2019), “Chất lượng dịch vụ đào tạo
đại học – Góc nhìn của sinh viên từ trường công và trường tư”, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, Số 21 (703), 7/2019.
2. Nguyễn Ngọc Điệp (2019), “Vận dụng thang đo HEdPERF đo lường chất lượng
dịch vụ đào tạo”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 24 (706), tháng 8/2019.
3. Nguyễn Ngọc Điệp và Đặng Thị Kim Thoa (2019), “Các yếu tố tác động đến sự
hài lòng của sinh viên về chất lượng dịch vụ đào tạo”, Hội thảo khoa học cấp
trường “Nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng hội nhập khu vực ASEAN và thế
giới của thị trường lao động Việt Nam”, trường Đại học Ngoại thương cơ sở II
tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12/2019.
4. Đặng Thị Kim Thoa và Nguyễn Ngọc Điệp (2019), “Chất lượng đào tạo khởi
nghiệp trong trường đại học”, Hội thảo khoa học quốc gia “Khởi nghiệp sáng
tạo ở Việt Nam: Cơ hội phát triển bền vững”, trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
tháng 10/2019.
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali, F.; Zhou, Y.; Hussain, K.; Nair, P.K.; Ragavan, N.A. (2016), “Does higher
education service quality effect student satisfaction, image and loyalty?: A
study of international students in Malaysian public universities”, Quality
Assurance in Education, Vol. 24, Iss 1, pp. 70-94.
2. Anderson, P.F. and Gerbing, D.W. (1998). “Structual equation modelling in
practice: a review and recommended two-step approach”. Psychological
Bulletin, 103(3), pp.411-23.
3. Angell, R.J., Heffernan, T.W. and Megicks, P. (2008), “Service quality in
postgraduate education”, Quality Assurance in Education, Vol. 16 No. 3, pp.
236-254.
4. Appleton-Knapp, S.L. and Krentler, K.A. (2006), “Measuring student
expectations and their effects on satisfaction: the importance of managing
student expectations”, Journal of Marketing Education, Vol. 28 No. 1, pp.
254-264.
5. Arif, S. and Ilyas, M. (2013), “Quality of work-life model for teachers of
private universities in Pakistan”, Quality Assurance in Education, Vol. 21 No.
3, pp. 282-298.
7.
8.
9.
6. Athiyaman, A. (1997), “Linking student satisfaction and service quality
perceptions: the case of university education”, European Journal of
Marketing, Vol. 31 No. 7, pp. 528-40.
Becket, N. and Brookes, M. (2006), “Evaluating quality management in
university departments”, Quality Assurance in Education, Vol. 14 No. 2, pp. 123-
142.
Bitner, M.J. and Zeithaml, V.A. (1996), Services Marketing, McGraw-Hill,
New York, NY.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2007). Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT - Quyết
định Ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường
đại học. Hà Nội.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2009). Báo cáo số 760/BC-BGDĐT - Báo cáo sự
phát triển của hệ thống giáo dục đại học, các giải pháp đảm bảo và nâng cao
chất lượng đào tạo. Hà Nội.
118
11. Brochado, A. (2009). “Comparing Alternative Instruments for Measuring
Service Quality in Higher Education”. Quality Assurance in Education, 17,
174-190.
12. Brokaw, A.J., Kennedy, W.A. and Merz, T.E. (2004), “Explaining student
satisfaction”, Journal of Business Education, Vol. 5 No. 1, pp. 10-20.
13. Çerri, S (2012), “Assessing the quality of higher education services using a
modified servqual scale”, Annales Universitatis Apulensis Series Oeconomica,
14(2).
14. Chen, C.Y., Sok, P. and Sok, K. (2007). “Benchmarking potential factors
leading to education quality: A study of Cambodian higher education”. Quality
Assurance in Education, 15(2), pp.128-48.
15. Cheng, Y.C., & Tam, W.M. (1997). “Multi-models of quality in education”.
Quality Assurance in Education, 5 (1), 22-34.
16. Chou, S. (2004), “Evaluating the service quality of undergraduate nursing
education in Taiwan – using quality function deployment”, Nurse Education
Today, Vol. 24 No. 4, pp. 310-18.
17. Churchill, J.G.A. (1979). “A paradigm for developing better measures of
marketing constructs”. Journal of Marketing Research, 26(1), pp.64-73.
18. Clewes, D. (2003), “A student-centered conceptual model of service quality in
higher education”, Quality in Higher Education, Vol. 9 No. 1, pp. 69-85.
19. Cronin J. J., Taylor S. A., (1992). “Measuring service quality: A reexamination
and extension”, Journal of Marketing, Vol. 56, No. 3, pp. 55-68.
20. Dana, S.W., Brown, F.W. and Dodd, N.G. (2001), “Student perception of
teaching effectiveness: a preliminary study of the effects of professors’
transformational and contingent reward leadership behaviors”, Journal of
Business Education, Vol. 2 No. 1, pp. 53-70.
21. Day, R. (1984), “Modelling choices among alternative responses to
dissatisfaction”, in Kinnear, T.C. (Ed.), NA - Advances in Consumer
Research, Association for Consumer Research Provo, UT, pp. 496-499.
22. De Jager & Gbadamosi (2013), “Predicting students' satisfaction through
in higher education”, The International Journal of
service quality
Management Education, 11(3):107–118
23. De Oliveira, O. J., & Ferreira, E. C. (2009, May). “Adaptation and application
of the SERVQUAL scale in higher education”. Proceedings of POMS 20th
annual conference, Orlando, FL.
119
24. Douglas, J., McClelland, R. and Davies, J. (2008), “The development of a
conceptual model of student satisfaction with their experience in higher
education”, Quality Assurance in Education, Vol. 16 No. 1, pp. 19-35.
25. Elliot, K.M. & Healy, M.A. (2001). “Key factors influencing student
satisfaction related to recruitment and retention”. Journal of Marketing for
Higher Education, 10 (4), 1-11.
26. Elliott, K.M. and Shin, D. (2002), “Student satisfaction; an alternative
approach to assessing this important concept”, Journal of Higher Education
Policy and Management, Vol. 24, pp. 197-209.
27. Feigenbaum, A.V. (1991), Quality Control. 3rd Edition, McGraw-Hill, New
York.
28. Firdaus, F. (2005), “HEdPERF versus SERVPERF: The quest for ideal
measuring instrument of service quality in higher education sector”, Quality
Assurance in Education, Vol. 13, No. 4, pp. 305-328.
29. Firdaus, F. (2006a), “Measuring service quality in higher education: three
instruments compared”, International Journal of Research and Method in
Education, Vol. 29, No, 1, pp. 71-89.
30. Firdaus, F. (2006b), “Measuring service quality in higher education:
HEdPERF versus SERVPERF”, Marketing Intelligence & Planning, Vol. 24,
pp. 31-47.
31. Firdaus, F. (2006c), “The development of HEdPERF: a new measuring
instrument of service quality for the higher education sector”, International
Journal of Consumer Studies, Vol. 30, pp. 569-581.
32. Galeeva, R (2016), “SERVQUAL application and adaptation for educational
service quality assessments in Russian higher education”, Quality Assurance
in Education, 24(3), 329-348
33. Gamage, D.T., Suwanabroma, J., Ueyama, T., Hada, S., Sekikawa, E. (2008),
“The impact of quality assurance measures on student services at the Japanese
and Thai private universities”. Quality Assurance in Education, 16(2), 181-
198.
34. Gronroos C. (1989). “Defining marketing: a market-oriented approach”.
European Journal of Marketing, 23 (1), 52-6.
"From Scientific Management 35. Grönroos, C. (1994),
to Service
Management", International Journal of Service Industry Management, Vol. 5
No. 1, pp. 5-20.
120
36. Hair J. F., Black W. C., Babin B.J., Anderson R. E., (2009). Multivariate data
analysis, 7th edition, Prentice Hall.
37. Harvey, L., & Green, D. (1993). “Defining Quality”. Assessment and
Evaluation in Higher Education, 18, 9-34.
38. Helgesen, O., & Nesset, E. (2007). “What Accounts for Students’ Loyalty?
Some Field Study Evidence”. International Journal of Educational
Management, 21, 126-143.
39. Hennig-Thurau, Markus Langer, and Ursula Hansen (2001), “Modeling and
Managing Student Loyalty: An Approach Based on the Concept of
Relationship Quality”, Journal of Service Research, 3 (4), 331-344.
40. Hill, Y., Lomas, L. and MacGregor, J. (2003). “Students' perceptions of quality
in higher education”. Quality Assurace in Education, 14(1/2), pp.15-20.
41. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005). Phân tích dữ liệu nghiên
cứu với SPSS. Nhà xuất bản Thống kê.
42. Hoàng Trọng và Hoàng Thị Phương Thảo (2007). “Giá trị và chất lượng dịch
vụ trong giáo dục đại học nhìn từ góc độ sinh viên”. Tạp chí Phát Triển Kinh
Tế, 199, pp.38-43.
43. Hu, H.H., Kandampully, J. and Juwaheer, T.D. (2009), “Relationships and
impacts of service quality, perceived value, satisfaction, and image: an
empirical study”, The Service Industries Journal, Vol. 29 No. 2, pp. 111-125.
44. Huang, Q. (2009), The relationship between service quality and student
satisfaction in higher education sector: a case study on the undergraduate
sector of Xiamen University of China, Masters Thesis, Assumption University,
Bangkok.
45. Hunt, K.H (1977). “Conceptualization and Measurement of consumer
sastifaction and disastifaction”, Marketing Science Institue.
46.
Jain, R., Sahney, S. and Sinha, G., (2013). “Developing a scale to measure
students' perception of service quality in the Indian context”. The TQM
Journal, 25(3), pp.276-94.
47.
Joseph, M. and Joseph, B. (1997). “Service quality in education: a student
perspective”. Quality Assurance in Education, 5(1), pp.15-21.
Juran, J. M., (1988). Quality Control Handbook, 4th edition. McGraw-Hill;
48.
49. Kaldenberg, D., Browne, W. and Brown, D. (1998), “Student customer factors
affecting satisfaction and assessments of institutional quality”, Journal of
Marketing Management, Vol. 8 No. 3, pp. 1-14.
121
50. Kotler, P. and Keller, K. (2006), Marketing Management. 12th Edition,
Prentice Hall, Upper Saddle River.
51. Kwan, P.Y.K. and Ng, P.W.K. (1999). “Quality indicators in higher education
- comparing Hong kong and China's students”. Managerial Auditing Journal,
14(1/2), pp.20-27.
52. Lagrosen, S., Seyyed-Hashemi, R., & Leitner, M. (2004). “Examination of the
dimensions of quality in higher education”. Quality Assurance in Education,
12(2), 61–69.
53. Latif, K., Latif, I., Sahibzada, U., & Ullah, M. (2017), “In search of quality:
measuring Higher Education Service Quality (HiEduQual)”, Total Quality
Management & Business Excellence.
54. Leblanc, G. and Nguyen, N. (1999). “Listening to the customer’s voice:
Examining perceived service value among business college students”. The
International Journal of Educational Management, 13(4), 187-198.
55. LeBlanc, G., & Nguyen, N. (1997). “Searching for excellence in business
education: An exploratory study of customer impressions of service quality”.
International Journal of Educational Management, 11(2), 72–79.
56. Mahapatra, S.S. and Khan, M.S. (2007), “Assessment of quality in technical
education: an exploratory study”, Journal of Services Research, Vol. 7 No. 1.
57. Moore, C.D. (1987), “Outclass the competition with service distinction”,
Mortgage Banking, Vol. 47 No. 11.
58. Narang, R. (2012), “How do management students perceive the quality of
education in public institutions?”, Quality Assurance in Education, Vol. 20
No. 4, pp. 357-371.
59. Narteh, B. (2013), “Service quality in automated teller machines: an empirical
investigation”, Managing Service Quality, Vol. 23 No. 1, pp. 62-89.
60. Nguyễn Đình Thọ (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh
doanh. TP. Hồ Chí Minh: NXB Lao Động Xã Hội.
61. Nguyễn Kim Dung. (2012). “Xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng học
sinh trung học phổ thông tại Tp. HCM”. Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP Tp.
Hồ Chí Minh. 51 (21)144-151.
62. Nguyễn Thành Long (2006), “Sử dụng thang đo SERVPERF để đánh giá chất
lượng đào tạo đại học tại trường Đại học An Giang”, Báo cáo nghiên cứu khoa
học, Trường Đại học An Giang.
122
63. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013), “Measuring service quality in the context of
higher education in Vietnam”, Journal of Economics and Development, Vol
15, No3, pp 77 – 90.
64. Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyễn Đình Thọ và Mai Lê Thúy Vân (2008). Các
yếu tố chính tác động vào kiến thức thu nhận của sinh viên khối ngành kinh tế
tại TPHCM. TP Hồ Chí Minh: Đại học Quốc Gia TPHCM.
65. Nguyễn Thị Thắm (2010), Khảo sát sự hài lòng của sinh viên với chương trình
đào tạo Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
66. Nguyễn Văn Tuấn (2011). Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội
nhập. TP. Hồ Chí Minh: NXB Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh và Thời Báo Kinh
Tế Sài Gòn.
67. Nguyen, N. and Leblanc, G. (2002), “Contact personnel, physical environment
and the perceived corporate image of intangible services by new clients”,
International Journal of Service Industry Management, Vol. 13 No. 3, pp. 242-
262.
68. O’Neill, M. and Palmer, A. (2004), “Importance‐performance analysis: a
in higher tool for directing continuous quality improvement
useful
education”, Quality Assurance in Education, Vol. 12 No. 1, pp. 39-52.
69. Oldfield, B.M. and Baron, S. (2000), “Student Perceptions of Service Quality
in a UK University Business and Management Faculty”. Quality Assurance in
Education: An International Perspective, 8, 85-95.
70. Oliver, R.L. (1981), “Measurement and evaluation of satisfaction process in
retail setting”, Journal of Retailing, Vol. 57, pp. 25-48
71. Owlia, M. and Aspinwall, E. (1996), "A framework for the dimensions of
quality in higher education", Quality Assurance in Education, Vol. 4 No. 2,
pp. 12-20.
72. Parasuraman, A., Berry, L. L. & Zeithalm, V. A., (1988). “SERVQUAL A
Multipe- Item Scale for Measuring Consumer Perception of Service Quality”.
Journal of Retail, pp. 12-40.
73. Parasuraman, A., V.A Zeithaml, & L. L., Berry (1985). “A conceptual model
of service quality and its implications for future research”. Journal of
Marketing, Vol. 49: 41-50.
74. Parasuraman, A., V.A Zeithaml, & L. L., Berry, (1991). “Refinement and
Reassessment of the SERVQUAL Scale”. Journal of Retailing. 67 (4): 420-
450.
123
75. Parri, J. (2006). “Quality in higher education”. Journal Vadyba/Management,
2(11), pp.107-11.
76. Patterson, P.G. and Johnson, L.W. (1993), “Disconfirmation of expectations
and the gap model of service quality: an integrated paradigm”, Journal of
Consumer Satisfaction, Dissatisfaction and Complaining Behavior, Vol. 6, pp.
90-9.
77. Peng, P.J. and Samah, A.J.A., (2006). “Measuring students' satisfaction for
quality education in a e-learning university”. Unitar E-Journal, 21(3), pp.11-
21.
78. Quinn, A; Lemay, G; Larsen, P and Johnson, D. M, (2009), “Service quality
in higher education”, Total Quality Management & Business Excellence, Vol.
20, Issue 2, pp. 139-152.
79. Quốc Hội (2012). Luật Giáo dục Đại học.
80. Richard A., Robert D. (1996), “An Empirical Examination of a Model of
Perceived Service Quality and Satisfaction”, Journal of Retailing, Vol. 72,
No.2, pp. 201-214.
81. Sapri, M., Kaka, A. and Finch, E. (2009), “Factors that influence student’s
level of satisfaction with regards to higher educational facilities services”,
Malaysian Journal of Real Estate, Vol. 4 No. 1, pp. 34-51.
82. Sasser, W.E., Olsen, R.P., & Wyckoff, D.D. (1978). Management of Service
Operations. Allyn & Bacon, Boston. MA.
83. Seth, N., Deshmukh, S.G. and Vrat, P. (2005), “Service quality models: a
review”, International Journal of Quality and Reliability Management, Vol.
22 No. 9, pp. 913-949.
84. Seymour, D.T. (1992). “On Q: Causing Quality in Higher Education”.
Macmillan, New York, NY.
85. Shank, M. D., Walker, M., & Hayes, T. (1995). “Understanding Professional
Service Expectations: Do We Know What Our Students Expect in a Quality
Education?”, Journal of Professional Services Marketing, 13, 71-89.
86. Sharabi, M. (2013), “Managing and improving service quality in higher
education”, International Journal of Quality and Service Sciences, Vol. 5 No.
3, pp. 309-320.
87. Sharif, K. and Kassim, N.M. (2012), “Non-academic service quality:
comparative analysis of students and faculty as users”, Journal of Marketing
for Higher Education, Vol. 22 No. 1, pp. 35-54.
124
88. Silva, D., Moraes, G., Makiya, I. and Cesar, F. (2017), "Measurement of
perceived service quality in higher education institutions", Quality Assurance
in Education, Vol. 25 No. 4, pp. 415-439.
89. Spreng, R.A. and Mackoy, R.D. (1996), “An Empirical Examination of a
Model of Perceived Service Quality and Satisfaction”, Journal of Retailing,
72 (2): 201-214.
90. Sultan, P. and Wong, H.Y. (2010b), “Service quality in a higher education
context: antecedents and dimensions“, paper presented at 4th Asian Business
Research Conference, BIAM Foundation, Dhaka, 23-24 December.
91. Sultan, P. and Wong, H.Y. (2011), “Service quality in a higher education
context: antecedents and dimensions”, International Review of Business
Research Papers, Vol. 7 No. 2, pp. 11-20.
92. Sultan, P. and Wong, H.Y. (2013), “Antecedents and consequences of service
quality in a higher education context: a qualitative research approach”, Quality
Assurance in Education, Vol. 21 No. 1, pp. 70-95.
93. Sultan, P. and Yin Wong, H. (2010), “Service quality in higher education – a
review and research agenda”, International Journal of Quality and Service
Sciences, Vol. 2 No. 2, pp. 259-272.
94. Sureshchandar, G.S., Rajendran, C. and Anantharaman, R.N. (2003),
“Customer perceptions of service quality in the banking sector of a developing
economy: a critical analysis”, International Journal of Bank Marketing, Vol.
21 No. 5, pp. 233-242.
95. Tahar, E.B.M. (2008), Expectation and perception of postgraduate students
for service quality in UTM, Thesis, Universiti Teknologi Malaysia, Kuala
Lumpur.
96. Teas, K.R. (1994), “Expectations as a comparison standard in measuring
service quality”, Journal of Marketing, Vol. 58 No. 1, pp. 132-139.
97. Teas, R.K. (1993), “Expectations, performance evaluation, and consumers’
perceptions of quality”. Journal of Marketing, Vol. 57, pp. 18–34.
98. Trần Xuân Kiên (2006), Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào
tạo tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên. Luận
văn thạc sĩ trường Đại học Thái Nguyên.
99. Tsinidou, M., Gerogiannis, V. and Fitsilis, P. (2010). “Evaluation of the factors
that determine quality in higher education: an empirical study”. Quality
Assurance in Education, 18(3), pp.227-44.
125
100. UNESCO, (1998). “Higher education in the twenty-first century: Vision and
Action”. In World Conference on Higher Education. Paris.
101. Ushantha, R.A.C & Kumara, P.A.P.S (2016), “A Quest forService Quality in
Higher Education: Empirical Evidence from Sri Lanka”, Services Marketing
Quarterly, 37:2, 98-108.
102. Usmani, S and Jama, S (2013), “Impact of Distributive Justice, Procedural
Justice, Interactional Justice, Temporal Justice, Spatial Justice on Job
Satisfaction of Banking Employees”, Review of Integrative Bussiness and
Economics Research, Vol 2(1).
103. Vandamme R. and Leunis J. (1993), “Development of a Multiple-item Scale
for Measuring Hospital Service Quality”, International Journal of Service
Industry Management, Vol. 4, pp.30-49.
104. Vanniarajan, T., Meharajan, T. and Arun, B. (2011). “Service Quality in
Education: Students’ Perspective”. European Journal of Social Sciences,
26(2), pp.297-309.
105. Vieira, Armando Luís; Winklhofer, Heidi; Ennew, Christine T (2008)
“Relationship Quality: A literature review and research agenda”, Journal
of Customer Behaviour, vol 7 (4), pp269-291
106. Waugh, R. (2002), "Academic staff perceptions of administrative quality at
universities", Journal of Educational Administration, Vol. 40 No. 2, pp. 172-
188.
107. Webster, C, (1989), “Can Consumers Be Segmented On The Basis Of Their
Service Quality Expectations”, Journal of Services Marketing, Vol. 3 Issue 2,
pp.35-53.
108. Woodside, A.G.; Frey, L.L. and Daly, R.T, (1989), “Linking Service Quality,
Customer Satisfaction, and Behavioral Intention”, Journal of Health Care
Marketing, Vol. 9, Issue 4, pp.5-17.
109. Yeo, R. (2008), "Servicing service quality in higher education: quest for
excellence", On the Horizon, Vol. 16 No. 3, pp. 152-161.
110. Zeithaml, V. (1987), “Defining and Relating Price, Perceived Quality and
Perceived Value”, Marketing Services Institute Report No. 87-101, Marketing
Services Institute, Cambridge, MA.
111. Zeithaml, V. A. & M. J. Bitner, (2000). Services Marketing: Integrating
Customer Focus Across the Firm. Irwin McGraw- Hill.
112. Zeithaml, Valerie A., Parasuraman, A. & Berry, Leonard L. (1990), Delivering
Quality Service, The Free Press, New York, N.Y.
126
PHỤ LỤC 1
BẢNG HƯỚNG DẪN PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA
VÀ PHỎNG VẤN NHÓM
Phần 1: GIỚI THIỆU
Xin chào Anh (Chị).
Tôi là Nguyễn Ngọc Điệp, hiện là Nghiên cứu sinh chuyên ngành Quản trị kinh
doanh đang thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tác động của chất lượng dịch vụ đào tạo
tới sự hài lòng của sinh viên các trường Đại học tại Hà nội”.
Trước tiên tôi xin cảm ơn và mong muốn Anh (Chị) dành chút thời gian và trí tuệ
của mình để tham vấn giúp tôi về những phát biểu được nêu dưới đây để tôi có thể hoàn
thiện, bổ sung và đưa ra thang đo phục vụ cho nghiên cứu.
Tôi cũng xin lưu ý với Anh (Chị), mọi ý kiến tham vấn trung thực và trí tuệ của
Anh (Chị) không đánh giá đúng hay sai và tất cả đều có ý nghĩa thiết thực cho nghiên
cứu khoa học.
Phần 2: NỘI DUNG PHỎNG VẤN
2.1 Phỏng vấn chuyên gia
2.2.1 Mục đích
- Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về chất lượng dịch vụ đào tạo, đo lường chất
lượng dịch vụ đào tạo và mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ đào tạo với sự hài lòng
của sinh viên;
- Ý kiến chuyên gia về mục tiêu nghiên cứu: tác động của chất lượng dịch vụ đào
tạo tới sự hài lòng của sinh viên;
- Phân biệt giữa trường đại học công lập và tư thục;
- Ý kiến về đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo tại trường đại học công lập và
trường đại học tư thục;
- Ý kiến đóng góp về bộ công cụ đo lường và tính khả thi của khảo sát;
- Ý kiến về tính phù hợp của mô hình nghiên cứu và các nhân tố trong mô hình
127
2.2.2 Câu hỏi phỏng vấn chuyên gia
Câu hỏi 1: Theo các anh (chị), sự cần thiết phải nghiên cứu về tác động của chất lượng
dịch vụ tới sự hài lòng của sinh viên là gì?
Câu hỏi 2: Theo các anh (chị), lý do để các phụ huynh/học sinh chọn trường đại học
công lập hay trường đại học tư thục là gì? Điểm khác biệt lớn nhất của trường
đại học công lập và tư thục?
Câu hỏi 3: Theo các anh (chị), có thể sử dụng những nhân tố nào để đo lường chất lượng
dịch vụ đào tạo đại học? Từ góc độ sinh viên, các anh (chị) cho rằng nhân tố
nào là quan trọng nhất? (Gợi ý một số nhân tố cần cho ý kiến sâu hơn: hoạt động
ngoại khóa, dịch vụ hỗ trợ, chi phí đào tạo, công bằng)
Câu hỏi 4: Các anh (chị) có cho rằng điểm số là một thành tố rất quan trọng trong quá
trình học của sinh viên không? Liệu có phải sinh viên hài lòng về đánh giá kết
quả học tập (thông qua điểm số) thì sẽ đánh giá cao và dẫn tới sự hài lòng không?
Câu hỏi 5: Các anh (chị) có thể đóng góp ý kiến cho bảng hỏi khảo sát sinh viên về tác
động của chất lượng dịch vụ đào tạo tới sự hài lòng của sinh viên?
2.2 Phỏng vấn nhóm là sinh viên
2.2.1 Mục đích
- Thăm dò yêu cầu của sinh viên về chất lượng dịch vụ đào tạo;
- Những yếu tố cấu thành nên sự hài lòng của sinh viên với dịch vụ đào tạo;
- Đánh giá quan điểm của sinh viên trường đại học công lập và trường đại học tư
thục về chất lượng dịch vụ đào tạo.
2.2.2 Câu hỏi phỏng vấn
Câu hỏi 1: Các bạn hài lòng về những điều gì ở trường của mình?
Câu hỏi 2: Các bạn thấy trường đại học công lập và trường đại học tư thục ở Việt Nam
khác nhau nhiều không? Những điểm khác biệt đó là gì?
Câu hỏi 3: Theo các bạn, các nhân tố này ảnh hưởng như thế nào đến sự hài lòng của
các bạn (chất lượng giảng viên, nhân viên hành chính, cơ sở vật chất, chương
128
trình đào tạo, các hoạt động ngoại khóa, chi phí đào tạo, danh tiếng của trường,
dịch vụ hỗ trợ, công bằng, sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập).
Câu hỏi 4: Các bạn có góp ý gì cho bảng hỏi này không? Các câu hỏi có dễ trả lời không?
PHẦN 3: KẾT THÚC PHỎNG VẤN
Xin trân trọng cảm ơn và ghi nhận những đóng góp rất thiết thực của các anh (chị)
và các bạn đã dành cho nghiên cứu của tôi.
129
PHỤ LỤC 2
PHIẾU THU THẬP Ý KIẾN
130
PHỤ LỤC 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Kết quả đánh giá độ tin cậy bằng Cronbach’s Alpha
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo chất lượng giảng viên
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.883
9
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
32.88
19.624
.573
.875
LQ1
32.92
19.253
.630
.870
LQ2
33.05
18.944
.653
.868
LQ3
33.03
18.757
.688
.865
LQ4
33.09
18.956
.586
.875
LQ5
33.05
19.016
.626
.871
LQ6
32.94
19.306
.662
.868
LQ7
32.96
19.098
.676
.867
LQ8
32.96
19.223
.594
.874
LQ9
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo chất lượng chương trình đào tạo
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.869
6
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
.668
.846
19.30
11.226
EP1
.661
.848
19.20
11.582
EP2
.639
.851
19.20
11.354
EP3
.678
.845
19.73
10.945
EP4
.726
.836
19.50
10.834
EP5
.634
.853
19.42
11.098
EP6
131
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo của thang đo chất lượng nhân viên hành chính
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.924
7
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
.809
23.12
20.363
.907
SQ1
.817
23.12
20.547
.906
SQ2
.788
23.05
20.981
.909
SQ3
.732
22.96
22.128
.915
SQ4
.769
23.09
21.182
.911
SQ5
.754
23.20
20.671
.913
SQ6
.666
23.13
21.498
.922
SQ7
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo dịch vụ hỗ trợ
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.891
8
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
.578
27.84
19.534
.886
SS1
.635
28.04
18.757
.881
SS2
.655
28.07
18.423
.879
SS3
.690
28.07
18.447
.875
SS4
.712
28.08
17.906
.873
SS5
.698
27.95
18.704
.875
SS6
.688
27.92
18.752
.876
SS7
.683
27.89
18.776
.876
SS8
132
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo cơ sở vật chất
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.846
5
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
AF1
16.22
7.865
.628
.821
AF2
16.03
8.249
.658
.815
AF3
16.26
7.678
.675
.809
AF4
16.31
7.500
.716
.797
AF5
16.33
7.776
.601
.830
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo các hoạt động ngoại khóa
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.841
4
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
EA1
12.01
4.953
.686
.795
EA2
12.10
4.731
.747
.768
EA3
12.08
4.984
.668
.802
EA4
12.29
4.371
.626
.831
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo danh tiếng trường đại học
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.835
4
133
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
UR1
12.10
4.042
.670
.790
UR2
12.12
3.970
.684
.784
UR3
12.24
3.810
.679
.786
UR4
12.15
4.139
.631
.807
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo công bằng
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.863
5
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
PJ1
16.06
6.673
.654
.841
PJ2
16.11
6.469
.683
.834
PJ3
16.20
6.114
.772
.811
PJ4
16.18
6.300
.676
.836
PJ5
16.21
6.334
.633
.848
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo sự phù hợp về chi phí
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.815
3
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
TF1
7.81
2.874
.635
.777
TF2
7.91
2.659
.717
.694
TF3
7.88
2.573
.651
.764
134
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo sự hài lòng về đánh giá kết quả học tập
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.889
4
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
OS1
12.02
4.762
.768
.853
OS2
12.12
4.462
.777
.850
OS3
12.07
4.732
.750
.860
OS4
12.07
4.776
.734
.866
- Đánh giá độ tin cậy của thang đo sự hài lòng của sinh viên
Reliability Statistics
Cronbach's
Alpha
N of Items
.910
5
Item-Total Statistics
Corrected Item-
Cronbach's
Scale Mean if
Scale Variance
Total
Alpha if Item
Item Deleted
if Item Deleted
Correlation
Deleted
STS1
16.54
7.197
.708
.905
STS2
16.59
7.015
.789
.887
STS3
16.55
7.148
.783
.889
STS4
16.55
7.105
.779
.889
STS5
16.43
7.179
.811
.883
135
3.2 Kết quả thống kê mô tả các biến
Descriptive Statistics
N
Minimum Maximum
Mean
Std. Deviation
GVIEN
2.00
5.00 4.1231
594
.54278
CTRINHĐT
1.50
5.00 3.8782
594
.65992
NVHANHCHINH
1.29
5.00 3.8492
594
.75991
DVHOTRO
2.00
5.00 3.9975
594
.61241
COSOVC
1.00
5.00 4.0572
594
.68574
NGOAIKHOA
1.75
5.00 4.0404
594
.70863
DANHTIENG
1.50
5.00 4.0505
594
.64830
CONGBANG
1.40
5.00 4.0370
594
.62081
CHIPHI
1.00
5.00 3.9349
594
.78626
594
Valid N (listwise)
Descriptive Statistics
Minim
Maxim
Std.
N
um
um
Mean
Deviation
594
2.00
5.00 4.0236
.70835
HAILONGKQ
594
1.40
5.00 4.1327
.66015
HAILONGSV
Valid N
594
(listwise)
3.3 Kết quả đánh giá thang đo bằng EFA
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.
.947
Bartlett's Test of Sphericity
Approx. Chi-Square
16657.532
903
df
.000
Sig.
136
Total Variance Explained
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared
Loadings
% of
Variance
38.311
7.428
5.982
4.303
3.063
2.441
2.335
2.165
Cumulative
%
38.311
45.739
51.721
56.025
59.088
61.528
63.863
66.028
Total
16.474
3.194
2.572
1.850
1.317
1.049
1.004
.931
Rotation Sums of Squared
Loadings
% of
Variance
12.873
10.483
10.388
8.346
7.521
6.731
5.176
4.511
Cumulative
%
12.873
23.356
33.744
42.089
49.611
56.342
61.517
66.028
Total
5.536
4.508
4.467
3.589
3.234
2.894
2.225
1.940
Component
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Total
16.474
3.194
2.572
1.850
1.317
1.049
1.004
.931
.865
% of
Variance
38.311
7.428
5.982
4.303
3.063
2.441
2.335
2.165
2.012
10
.814
1.894
11
.756
1.758
12
.737
1.713
13
.709
1.649
14
.657
1.528
15
.644
1.498
16
.570
1.325
17
.568
1.320
18
.537
1.249
19
.495
1.152
20
.480
1.116
21
.446
1.037
22
1.008
.434
23
.972
.418
24
.946
.407
25
.881
.379
26
.853
.367
27
.817
.351
28
.785
.337
29
.771
.331
30
.736
.316
31
.728
.313
32
.694
.299
33
.660
.284
34
.634
.272
35
.596
.256
36
.551
.237
37
.541
.233
38
.525
.226
39
.481
.207
40
.458
.197
41
.418
.180
42
.383
.165
43
.284
.122
Cumulative
%
38.311
45.739
51.721
56.025
59.088
61.528
63.863
66.028
68.040
69.934
71.692
73.405
75.054
76.582
78.080
79.406
80.726
81.974
83.126
84.242
85.279
86.288
87.260
88.206
89.087
89.940
90.758
91.542
92.313
93.049
93.777
94.471
95.131
95.764
96.360
96.911
97.452
97.976
98.457
98.916
99.334
99.716
100.000
Extraction Method: Principal Component Analysis.
137
Rotated Component Matrixa
1
2
3
6
7
8
Component
5
4
SQ2
SQ1
SQ3
SQ5
SQ4
SQ6
SQ7
.825
.820
.785
.705
.682
.657
.573
SS4
SS5
SS6
SS8
SS7
SS3
SS2
.715
.697
.676
.674
.640
.612
.546
LQ2
LQ1
LQ3
LQ4
LQ8
LQ7
LQ9
LQ5
.796
.758
.674
.673
.619
.605
.538
.503
EA1
EA2
EA3
EA4
UR1
UR2
.706
.672
.671
.550
.523
.514
PJ3
PJ2
PJ4
PJ1
PJ5
.744
.697
.649
.616
.487
AF1
AF2
AF3
AF4
.800
.770
.574
.573
TF3
TF2
TF1
.747
.662
.490
EP3
.697
EP2
.628
EP1
.491
.420
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Rotation Method: Varimax with Kaiser Normalization.a
a. Rotation converged in 8 iterations.
138
Total Variance Explained
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Component
Total
% of Variance
Cumulative %
Total
% of Variance
Cumulative %
3.004
75.108
75.108
3.004
75.108
1
2
.401
10.016
3
.351
8.776
4
.244
6.100
75.108
85.124
93.900
100.000
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Component Matrixa
Component
1
OS1
OS2
OS3
OS4
.874
.880
.861
.851
Extraction Method:
Principal Component
Analysis.
a. 1 components
extracted.
Total Variance Explained
Initial Eigenvalues
Extraction Sums of Squared Loadings
Component
Total
% of Variance
Cumulative %
Total
% of Variance
Cumulative %
3.693
73.862
3.693
73.862
73.862
1
2
.456
9.115
3
.394
7.871
4
.257
5.144
5
.200
4.008
73.862
82.977
90.847
95.992
100.000
Extraction Method: Principal Component Analysis.
Component Matrixa
Component
1
STS1
STS2
STS3
STS4
STS5
.809
.869
.866
.866
.885
Extraction Method:
Principal Component
Analysis.
a. 1 components
extracted.
139
3.3 Kết quả kiểm định thang đo bằng CFA
140
Model Fit Summary
CMIN
Model
NPAR
CMIN
DF
P
CMIN/DF
Default model
159
2575.936
1017
.000
2.533
Saturated model
1176
.000
0
Independence model
48
19688.035
1128
.000
17.454
RMR, GFI
Model
RMR
GFI
AGFI
PGFI
Default model
.028
.846
.822
.732
Saturated model
.000
1.000
.251
.130
.093
.125
Independence model
Baseline Comparisons
Model
CFI
NFI
Delta1
RFI
rho1
IFI
Delta2
TLI
rho2
Default model
.869
.855
.917
.907
.916
Saturated model
1.000
1.000
1.000
Independence model
.000
.000
.000
.000
.000
Parsimony-Adjusted Measures
Model
PRATIO
PNFI
PCFI
Default model
.902
.784
.826
Saturated model
.000
.000
.000
Independence model
1.000
.000
.000
NCP
Model
NCP
LO 90
HI 90
Default model
1558.936
1413.122
1712.372
Saturated model
.000
.000
.000
Model
NCP
LO 90
HI 90
Independence model
18560.035
18108.311
19018.164
141
FMIN
Model
FMIN
F0
LO 90
HI 90
Default model
4.344
2.629
2.383
2.888
Saturated model
.000
.000
.000
.000
Independence model
33.201
31.299
30.537
32.071
RMSEA
Model
RMSEA
LO 90
HI 90
PCLOSE
Default model
.048
.053
.051
.282
Independence model
.165
.169
.167
.000
Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Estimate
SQ1
<---
NVHCHINH
.759
SQ3
<---
NVHCHINH
.768
SQ5
<---
NVHCHINH
.838
SQ4
<---
NVHCHINH
.781
SQ6
<---
NVHCHINH
.819
SS4
<---
DVHTRO
.694
SS5
<---
DVHTRO
.741
SS6
<---
DVHTRO
.769
SS8
<---
DVHTRO
.733
SS7
<---
DVHTRO
.760
Estimate
SS3
<---
DVHTRO
.680
SS2
<---
DVHTRO
.629
LQ2
<---
GVIEN
.634
LQ3
<---
GVIEN
.729
LQ4
<---
GVIEN
.748
LQ8
<---
GVIEN
.680
LQ7
<---
GVIEN
.701
LQ9
<---
GVIEN
.631
LQ5
<---
GVIEN
.616
EA1
<---
NKHOA
.749
EA2
<---
NKHOA
.808
EA3
<---
NKHOA
.791
EA4
<---
NKHOA
.749
PJ3
<---
CBANG
.826
PJ2
<---
CBANG
.753
PJ4
<---
CBANG
.736
PJ1
<---
CBANG
.725
PJ5
<---
CBANG
.715
AF1
<---
COSOVC
.622
AF2
<---
COSOVC
.650
AF3
<---
COSOVC
.788
142
Estimate
AF4
COSOVC
<---
.810
TF3
CPHI
<---
.757
TF2
CPHI
<---
.841
EP3
CHUONGTRINH
<---
.780
EP2
CHUONGTRINH
<---
.817
EP1
CHUONGTRINH
<---
.782
UR1
DTIENG
<---
.835
UR2
DTIENG
<---
.809
OS1
HAILONGHT
<---
.827
OS2
HAILONGHT
<---
.840
OS3
HAILONGHT
<---
.799
OS4
HAILONGHT
<---
.805
STS1
HLONGSV
<---
.761
STS2
HLONGSV
<---
.860
STS3
HLONGSV
<---
.836
STS4
HLONGSV
<---
.796
STS5
HLONGSV
<---
.809
143
144
Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
S.E.
C.R.
P
Label
Estimate
SQ1 <---
NVHCHINH
1.000
NVHCHINH
.949
.038
24.682
***
SQ3 <---
NVHCHINH
1.027
.049
20.900
***
SQ5 <---
NVHCHINH
.860
.044
19.318
***
SQ4 <---
NVHCHINH
1.095
.054
20.378
***
SQ6 <---
DVHTRO
1.000
SS4 <---
DVHTRO
1.145
.050
22.826
***
SS5 <---
DVHTRO
1.046
.062
16.978
***
SS6 <---
DVHTRO
1.001
.062
16.263
***
SS8 <---
DVHTRO
1.036
.062
16.794
***
SS7 <---
DVHTRO
1.024
.068
15.139
***
SS3 <---
DVHTRO
.913
.065
14.063
***
SS2 <---
GVIEN
1.000
LQ2 <---
GVIEN
1.191
.082
14.524
***
LQ3 <---
GVIEN
1.218
.082
14.799
***
LQ4 <---
GVIEN
1.045
.076
13.699
***
LQ8 <---
GVIEN
1.049
.075
14.077
***
LQ7 <---
GVIEN
1.049
.081
12.967
***
LQ9 <---
GVIEN
1.092
.086
12.728
***
LQ5 <---
NKHOA
1.000
EA1 <---
NKHOA
1.097
.056
19.678
***
EA2 <---
NKHOA
1.065
.057
18.759
***
EA3 <---
NKHOA
1.262
.072
17.625
***
EA4 <---
CBANG
1.000
PJ3 <---
CBANG
.890
.044
20.205
***
PJ2 <---
CBANG
.924
.047
19.611
***
PJ4 <---
CBANG
.825
.043
19.211
***
PJ1 <---
CBANG
.927
.049
18.877
***
PJ5 <---
S.E.
C.R.
P
Label
Estimate
COSOVC
1.000
AF1 <---
COSOVC
.913
.052
17.578
***
AF2 <---
COSOVC
1.266
.086
14.732
***
AF3 <---
COSOVC
1.306
.087
14.970
***
AF4 <---
CPHI
1.000
TF3 <---
1.022
.053
19.265
***
CPHI
TF2 <---
CHUONGTRINH
1.000
EP3 <---
CHUONGTRINH
.969
.048
20.245
***
EP2 <---
CHUONGTRINH
1.001
.052
19.332
***
EP1 <---
DTIENG
1.000
UR1 <---
.983
.048
20.414
***
DTIENG
UR2 <---
HAILONGHT
1.000
OS1 <---
HAILONGHT
1.108
.046
23.950
***
OS2 <---
HAILONGHT
.992
.044
22.334
***
OS3 <---
HAILONGHT
.998
.044
22.549
***
OS4 <---
HLONGSV
1.000
STS1 <---
HLONGSV
1.101
.050
21.846
***
STS2 <---
HLONGSV
1.037
.049
21.170
***
STS3 <---
HLONGSV
1.003
.050
19.911
***
STS4 <---
<--- HLONGSV
.968
.048
20.291
**
STS5
145
146
3.4 Kết quả phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM
147
Model Fit Summary
CMIN
Model
NPAR
CMIN
DF
P
CMIN/DF
Default model
152
2315.536
929
.000
2.493
Saturated model
1081
.000
0
Independence model
46
18345.254
1035
.000
17.725
RMR, GFI
Model
RMR
GFI
AGFI
PGFI
Default model
.029
.854
.830
.734
Saturated model
.000
1.000
.245
.137
.099
.131
Independence model
Baseline Comparisons
NFI
RFI
IFI
TLI
Model
CFI
Delta1
rho1
Delta2
rho2
Default model
.874
.859
.920
.911
.920
Saturated model
1.000
1.000
1.000
Independence model
.000
.000
.000
.000
.000
Parsimony-Adjusted Measures
Model
PRATIO
PNFI
PCFI
Default model
.898
.784
.826
Saturated model
.000
.000
.000
Independence model
1.000
.000
.000
NCP
Model
NCP
LO 90
HI 90
Default model
1386.536
1248.778
1531.932
Model
NCP
LO 90
HI 90
Saturated model
.000
.000
.000
Independence model
17310.254
16874.218
17752.692
148
FMIN
F0
Model
FMIN
LO 90
HI 90
Default model
3.905
2.338
2.106
2.583
Saturated model
.000
.000
.000
.000
Independence model
30.936
29.191
28.456
29.937
RMSEA
Model
RMSEA
LO 90
HI 90
PCLOSE
Default model
.050
.048
.053
.453
Independence model
.168
.166
.170
.000
<--- GVIEN
<--- CONGBANG
<--- CHUONGTRINH
P Label
HAILONGHT
HAILONGHT
HAILONGHT
HAILONGCLDV <--- HAILONGHT
HAILONGCLDV <--- NVHANHCHINH
HAILONGCLDV <--- DVHOTRO
HAILONGCLDV <--- GVIEN
HAILONGCLDV <--- NGOAIKHOA
HAILONGCLDV <--- CONGBANG
HAILONGCLDV <--- COSOVC
HAILONGCLDV <--- CHIPHI
HAILONGCLDV <--- CHUONGTRINH
HAILONGCLDV <--- DANHTIENG
Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Estimate S.E.
C.R.
.113
.227
2.007
.055 10.627
.583
1.961
.075
.146
7.046
.052
.367
-1.667
.071
-.118
2.344
.086
.201
-1.618
.112
-.181
1.670
.078
.130
.189
.104
.020
-1.460
.085
-.124
5.069
.069
.348
-.576
.081
-.047
1.373
.087
.120
.045
***
.050
***
.095
.019
.106
.095
.850
.144
***
.564
.170
149
Standardized Regression Weights: (Group number 1 - Default model)
Estimate
GVIEN
<---
HAILONGHT
.145
CBANG
<---
HAILONGHT
.549
CHUONGTRINH
<---
HAILONGHT
.151
HAILONGHT
<---
HLONGSV
.397
NVHCHINH
<---
HLONGSV
-.150
DVHTRO
<---
HLONGSV
.195
GVIEN
<---
HLONGSV
-.125
NKHOA
<---
HLONGSV
.132
CBANG
<---
HLONGSV
.020
COSOVC
<---
HLONGSV
-.116
CPHI
<---
HLONGSV
.437
CHUONGTRINH
<---
HLONGSV
-.052
DTIENG
<---
HLONGSV
.131
NVHCHINH
<---
SQ1
.776
NVHCHINH
<---
SQ3
.768
NVHCHINH
<---
SQ5
.812
DVHTRO
<---
SS4
.695
DVHTRO
<---
SS5
.740
DVHTRO
<---
SS6
.772
DVHTRO
<---
SS8
.736
DVHTRO
<---
SS7
.759
Estimate
SS3
DVHTRO
<---
.679
SS2
DVHTRO
<---
.622
LQ1
GVIEN
<---
.557
LQ3
GVIEN
<---
.715
LQ4
GVIEN
<---
.751
LQ8
GVIEN
<---
.688
LQ7
GVIEN
<---
.693
LQ9
GVIEN
<---
.631
LQ5
GVIEN
<---
.628
EA1
NKHOA
<---
.749
EA2
NKHOA
<---
.811
EA3
NKHOA
<---
.790
EA4
NKHOA
<---
.747
PJ3
CBANG
<---
.779
PJ2
CBANG
<---
.702
PJ4
CBANG
<---
.730
PJ1
CBANG
<---
.716
PJ5
CBANG
<---
.734
AF1
COSOVC
<---
.622
AF2
COSOVC
<---
.651
AF3
COSOVC
<---
.786
150
Estimate
AF4
COSOVC
<---
.811
TF3
CPHI
<---
.757
TF2
CPHI
<---
.842
EP3
CHUONGTRINH
<---
.780
EP2
CHUONGTRINH
<---
.817
EP1
CHUONGTRINH
<---
.780
UR1
DTIENG
<---
.836
UR2
DTIENG
<---
.808
OS1
HAILONGHT
<---
.807
OS2
HAILONGHT
<---
.874
OS3
HAILONGHT
<---
.785
OS4
HAILONGHT
<---
.854
STS1
HLONGSV
<---
.738
STS2
HLONGSV
<---
.862
STS3
HLONGSV
<---
.839
STS4
HLONGSV
<---
.790
STS5
HLONGSV
<---
.781
151
152
3.5 Kết quả phân tích đa nhóm
Mô hình khả biến
153
154
Mô hình bất biến
155